Kinh Pháp Hoa – Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp

Phật Sở Hộ Niệm

Phụng chiếu dịch: Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập

Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá

— o0o —

Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Dược Vương

Bồ Tát Dược Vương chuyên tu khổ hạnh. Thứ khổ hạnh này, là thứ khổ hạnh khó thực hành nhất, một số người chẳng làm được. Vị Bồ Tát này, thuở xưa danh hiệu là Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến. Theo tên mà suy nghĩa thì, Ngài và tất cả chúng sinh kết duyên lành, cho nên chúng sinh đều hoan hỷ gặp Ngài.

Vị Bồ Tát này từng phát tâm đốt thân cúng dường Phật. Sự cúng dường này chẳng phải một số người làm được. Có người khởi vọng tưởng : ‘’Ngài chẳng biết đau chăng ?

– ‘’Tôi tin rằng Ngài biết đau, nhưng Ngài nhẫn thọ, kiền thành đem thân thể cúng dường Phật. Tôi lại tin rằng Ngài chẳng biết đau. Tại sao ? Vì Ngài đã quên mất thân của mình, tinh thần tập trung quán tưởng, thân thể là do bốn đại năm uẩn giả hòa hợp huyễn thân mà thôi, chẳng có chỗ nào đáng ưa thích cho nên chẳng biết đau.

Tóm lại, bất luận là biết đau hay không biết đau, Ngài xả được thân để cúng Phật, đó là chân cúng dường. Vị Bồ Tát này từ bi nhất, chúng sinh có bệnh tật, thì Ngài nhất định vì họ giải trừ bệnh khổ, cho nên tất cả chúng sinh đều hoan hỷ gặp Ngài.

‘’Bổn sự‘’ là nói rõ sự tích tu hành của kiếp trước. Phẩm này nói về tinh thần của Bồ Tát Dược Vương, vì pháp mà quên mình, cho nên thành tựu viên thông vô ngại phẩm đức và trí huệ. Phẩm này là phẩm thứ hai mươi ba trong Kinh Pháp Hoa.

 

Nhĩ thời Tú Vương hoa Bồ Tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Dược Vương Bồ Tát vân hà du ư Ta Bà thế giới?” Thế Tôn! Thị Dược Vương Bồ Tát hữu nhược can bách Thiên vạn ức na do tha nan hành khổ hạnh? Thiện tai, Thế Tôn! nguyện thiểu giải thuyết.

Bấy giờ, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát Dược Vương đến thế giới Ta Bà như thế nào ? Ðức Thế Tôn ! Bồ Tát Dược Vương đó, có bao nhiêu trăm ngàn vạn ức Na do tha sự khổ hạnh khó làm ? Lành thay đức Thế Tôn ! Xin Ngài hãy nói ra một ít.

Lúc đó, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch Ðức Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con ở trong hội Lăng Nghiêm nghe được Bồ Tát Dược Vương giảng pháp viên thông, song chẳng hiểu Ngài đến thế giới Ta Bà như thế nào, có nhân duyên gì ? Xin Ðức Thế Tôn từ bi vì con giải nói.’’

‘’Ðức Thế Tôn ! Vị Bồ Tát Dược Vương đó, phát nguyện cứu hộ tất cả bệnh tật của tất cả chúng sinh, trong bao nhiêu trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp, nhất định có nhiều sự khổ hạnh khó làm. Xin Ðức Thế Tôn vì đại chúng trong pháp hội, hãy nói việc của Bồ Tát Dược Vương tu khổ hạnh để cho đại chúng biết.’’

 

Chư Thiên, Long, Thần, dạ xoa, Càn thát bà, A Tu La, Ca Lâu La, khẩn na la, Ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng, hựu tha quốc độ chư lai Bồ Tát, cập thử Thanh văn chúng. Văn giai hoan hỉ.

Chư thiên, rồng, thần, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người. Lại có các Bồ Tát từ cõi nước khác đến, và chúng Thanh Văn ở đây nghe được, đều rất hoan hỷ.

Trời rồng tám bộ và quỷ thần. Lại có các vị đại Bồ Tát từ mười phương đến, và chúng Thanh Văn ở trong pháp hội này, nghe được Bồ Tát Tú Vương Hoa thỉnh vấn Phật như thế, đều rất hoan hỷ.

 

Nhĩ thời Phật cáo Tú Vương hoa Bồ Tát: “Nãi vãng quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp, hữu Phật hiệu nhật nguyệt tịnh minh đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn .” Kỳ Phật hữu bát thập ức Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, thất thập nhị Hằng hà sa đại Thanh văn chúng. Phật thọ tứ vạn nhị Thiên kiếp. Bồ Tát thọ mạng diệc đẳng.

Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa : Thuở xưa, trải qua vô lượng số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, có vị Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ðức Phật đó, có tám mươi ức vị đại Bồ Tát, bảy mươi hai Hằng hà sa chúng đại Thanh Văn. Ðức Phật đó, thọ mạng bốn vạn hai nghìn kiếp, Bồ Tát thọ mạng cũng đồng nhau.

Lúc đó, Ðức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng : ‘’Thuở xưa trải qua vô lượng hằng hà sa số kiếp, có một vị Phật ra đời, hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức Như Lai, đầy đủ mười hiệu. Vị Phật đó có tám mươi ức đại Bồ Tát, lại có bảy mươi hai Hằng hà sa số đại Thanh Văn chúng. Vị Phật đó sống lâu đến bốn vạn hai nghìn kiếp, các vị Bồ Tát trong cõi nước đó, cũng sống lâu đến như vậy.’’

 

Bỉ quốc vô hữu nữ nhân, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La đẳng, cập dĩ chư nạn; địa bình như chưởng. lưu ly sở thành, bảo thụ trang nghiêm, bảo trướng phước thượng, thùy bảo hoa phiên. bảo bình hương lô chu biến quốc giới,

Nước đó, chẳng có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, cũng chẳng có các hoạn nạn. Mặt đất bằng lưu ly, bằng phẳng như bàn tay, cây báu trang nghiêm, màn báu che phía trên. Lại có hoa báu, phan báu, thòng rũ xuống, bình báu lư hương khắp trong cõi nước đó.

Trong cõi nước của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, chẳng có người nữ, đều là người nam. Vì sao ? Vì do hoa sen hóa sinh ra, cho nên thân thể của họ thanh tịnh. Chẳng có bốn đường ác, cũng chẳng có tám nạn.

Tám nạn là gì ? Tức là:

1). Nạn khổ não.
2). Nạn lửa lớn.
3). Nạn nước lớn.
4). Nạn thú dữ.
5). Nạn đao binh.
6). Nạn loài quỷ.
7). Nạn gông cùm.
8). Nạn trộm cướp.

Lại có thể nói là :
1). Ðịa ngục.
2). Ngạ quỷ.
3). Súc sinh.
4). Sinh về Bắc Câu Lưu Châu (châu này quá sung sướng, chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, chẳng gặp Tăng).
5). Trời Trường Thọ (trời Vô Tưởng thuộc sắc giới, nơi của ngoại đạo ở).
6). Ðui, điếc, câm ngọng (sáu căn không đủ).
7). Thế trí biện thông (thông minh bị thông minh lừa).
8). Sinh ra trước Phật, hay sau Phật (sinh ra chẳng gặp Phật). Chúng sinh ở trong cõi đó chẳng có những khổ nạn ấy.

Mặt đất cõi nước đó, bằng phẳng như bàn tay, chẳng có gò, đồi, chỗ lồi lõm. Tại sao ? Vì chúng sinh trong cõi đó, đều tâm bình khí hòa, cho nên mặt đất bằng phẳng. Nếu tâm người không bình, thì sẽ hiện ra sơn hà đại địa. Mặt đất cõi đó chẳng những bằng phẳng, mà đất đều bằng chất lưu ly. Lại có cây bằng bảy báu, ngay thẳng thành hàng, trang nghiêm cõi nước, lại có màn báu lọng báu che ở phía trên, còn có hoa báu, phan báu, thòng rũ xuống, và có bình báu, lư hương báu, khắp cõi nước đó, nơi nào cũng có cảnh giới trang nghiêm như thế.

 

Thất bảo vi đài. Nhất thọ nhất đài. Kỳ thụ khứ đài tận nhất tiến đạo. Thử chư bảo thụ, giai hữu Bồ Tát, Thanh văn nhi tọa kỳ hạ. Chư bảo đài thượng, các hữu bách ức chư Thiên tác Thiên kỹ nhạc, Ca thán ư Phật, dĩ vị cúng dường.

Bảy báu làm đài, mỗi cây thì có mỗi đài. Từ cây đến đài cách một đường tên. Dưới các cây báu đó, đều có các vị Bồ Tát và các vị Thanh Văn ngồi. Ở trên các đài báu, mỗi đài đều có trăm ức chư Thiên diễn tấu âm nhạc, ca xướng, khen ngợi Phật để cúng dường.

Dùng bảy báu làm đài, mỗi cây thì có mỗi đài. Cây cách đài một đường mũi tên (một trăm hai mươi bộ). Dưới các cây báu đó, đều có Bồ Tát và hàng Thanh Văn đang ngồi tĩnh tọa ở đó. Trên mỗi đài báu, đều có hàng trăm ức chư thiên diễn tấu âm nhạc, ca xướng, tán thán Phật để dâng lên cúng dường.

 

Nhĩ thời bỉ Phật vi nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát, cập chúng Bồ Tát, chư Thanh văn chúng. Thuyết Pháp Hoa Kinh. Thị nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát, nhạo tập khổ hạnh, ư nhật nguyệt tịnh minh đức Phật Pháp trung, tinh tấn kinh hành, nhất tâm cầu Phật

Bấy giờ, đức Phật đó vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, và các chúng Bồ Tát, các chúng hàng Thanh Văn, diễn nói Kinh Pháp Hoa. Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó, thích tu khổ hạnh, bèn ở trong pháp của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu Phật đạo.

Lúc đó, Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, các vị đại Bồ Tát, và các chúng hàng Thanh Văn, diễn nói Kinh Pháp Hoa. Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó, hoan hỷ tu khổ hạnh. Ngài ở trong pháp của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức tinh tấn kinh hành, chẳng giải đãi, thường ngồi thiền ở dưới gốc cây, chuyên tâm cầu Phật đạo.

 

Mãn vạn nhị Thiên tuế dĩ. đắc Hiện Nhất Thiết sắc thân tam muội. Đắc thử tam muội dĩ. Tâm đại hoan hỉ, tức tác niệm ngôn: “Ngã đắc Hiện Nhất Thiết sắc thân tam muội, giai thị đắc văn Pháp Hoa Kinh lực. Ngã kim đương cúng dường nhật nguyệt tịnh minh đức Phật cập Pháp Hoa Kinh.”

Trọn một vạn hai ngàn năm rồi, thì đắc được tam muội hiện tất cả sắc thân. Ðược tam muội đó rồi, thì tâm rất hoan hỷ, bèn nghĩ như vầy : Ta được tam muội hiện tất cả sắc thân, đều là do nghe Kinh Pháp Hoa. Nay ta nên cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, và Kinh Pháp Hoa.

Ðã trọn một vạn hai nghìn năm rồi, thì đắc được tam muội hiện nhất thiết sắc thân, tức cũng là biến hiện được tất cả sắc thân, giáo hóa tất cả chúng sinh. Tóm lại, thấy người thì biến ra người để giáo hóa họ, thấy chó thì biến ra chó để giáo hóa. Bất cứ chúng sinh gì, cũng đều biến hiện ra được thân đồng loại, để giáo hóa độ thoát, khiến cho tất cả chúng sinh liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui.

Bồ Tát đắc được tam muội hiện nhất thiết sắc thân rồi, thì trong tâm rất hoan hỷ, bèn nghĩ như vầy : ‘’Ta chứng được chánh định này, đều là do nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho nên nay ta nên cúng dường Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức và Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đó là nhờ Phật gia trì, nên khiến cho ta chuyên tâm thọ trì bộ kinh này.’’

 

Tức thời nhập thị tam muội, ư hư không trung, vũ mạn đà la hoa, Ma ha mạn đà la hoa, tế mạt kiên hắc chiên đàn. mãn hư không trung, như vân nhi hạ, hựu vũ hải thử ngạn chiên đàn chi hương thử hương lục thù, giá trực Ta Bà thế giới dĩ cúng dường Phật.

Lập tức, nhập vào tam muội đó, ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, bột hương kiên hắc chiên đàn, đầy khắp ở trong hư không, như mây giăng bủa, lại mưa xuống hương thơm hải thử ngạn chiên đàn. Hương đó lục thù giá trị như một thế giới Ta Bà, dùng để cúng dường đức Phật.

Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, lập tức nhập vào tam muội Hiện nhất thiết sắc thân. Ở trong hư không mưa xuống hoa mạn đà la (hoa tiểu bạch) và hoa ma ha mạn đà la (hoa đại bạch). Lại mưa hương bột kiên hắc chiên đàn, đầy khắp hư không, giống như mây giăng bủa dày đặc. Lại mưa xuống hương thơm hải thử ngạn chiên đàn. Thứ hương này quý giá vô cùng, sản xuất tại bờ biển phía bắc Nam Diêm Phù Ðề này. Thứ hương này, nặng khoảng lục thù (hai mươi bốn thù là một lạng), thì giá trị đồng như giá trị của một thế giới Ta Bà. Tóm lại, dùng một thế giới Ta Bà (ba ngàn đại thiên thế giới) mới đổi lấy sáu thù hương hải thử ngạn chiên đàn, dùng thứ hương này để cúng dường Ðức Phật.

 

Tác thị cúng dường dĩ. Tùng tam muội khởi. Nhi tự niệm ngôn: “Ngã tuy dĩ thần lực cúng dường ư Phật, bất như dĩ thân cúng dường.” Tức phục chư hương chiên đàn, huân lục, đâu lâu bà, tất lực ca, trầm thủy, giao hương. hựu ẩm Chiêm bặc chư hoa hương du.

Cúng dường như thế rồi, từ tam muội dậy, bèn tự nghĩ rằng : Tuy ta dùng thần lực cúng dường đức Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường, bèn thoa các thứ hương thơm chiên đàn, hương huân lục, hương suất lâu bà, hương tất lực ca, trầm thủy giao hương. Lại uống thiềm bặc, các thứ dầu thơm của hoa.

Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến dùng các thứ hoa quý và hương thơm cúng dường Phật rồi, bèn từ tam muội Hiện tất cả sắc thân xuất định, tự nghĩ như vầy : ‘’Hiện tại tuy ta dùng sức thần thông cúng dường Phật, song chẳng bằng dùng thân của mình để cúng dường Phật.’’ Lập tức, uống tất cả các thứ dầu thơm như : Hương chiên đàn, hương huân lục, hương suất lâu bà, hương tất lực ca, hương trầm thủy, giao hương, khiến cho bên trong thân thể ngũ tạng lục phủ, đều được thanh tịnh. Lại uống dầu thơm thiềm bặc, chế tạo từ các thứ hoa, khiến cho thân được thanh tịnh.

 

Mãn Thiên nhị bách tuế dĩ. hương du đồ thân, ư nhật nguyệt tịnh minh đức Phật tiền, dĩ Thiên bảo y nhi tự triền thân, quán chư hương du, dĩ thần thông lực nguyện nhi tự nhiên thân, quang minh biến chiếu bát thập ức Hằng hà sa thế giới.

Trọn một ngàn hai trăm năm rồi, lại dùng dầu thơm thoa thân, ở trước đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, dùng y báu trời mà quấn vào thân mình, lại tưới các thứ dầu thơm, dùng sức thần thông nguyện lực mà tự đốt thân, ánh sáng chiếu soi khắp tám mươi ức Hằng hà sa thế giới.

Uống các thứ dầu hoa thơm như thế, trải qua một ngàn hai trăm năm rồi, lại dùng các thứ dầu thơm thoa lên thân mình, ở trước Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, bèn dùng y báu trời quấn vào thân mình. Lại tưới các thứ dầu thơm lên y trời, sau đó dùng thần thông nguyện lực, dùng lửa tam muội thiêu đốt thân mình, ánh sáng chiếu khắp đến tám mươi ức Hằng hà sa thế giới.

 

Kỳ trung chư Phật đồng thời tán ngôn: “Thiện tai, Thiện tai! Thiện nam tử ! Thị chân tinh tấn, thị danh chân Pháp cúng dường Như Lai.” Nhược dĩ hoa, hương, anh lạc, thiêu hương, mạt hương, đồ hương, Thiên tăng, phan cái cập hải thử ngạn chiên đàn chi hương. Như thị đẳng chủng chủng chư vật cúng dường, sở bất năng cập; giả sử quốc thành, thê tử bố thí, diệc sở bất cập.

Chư Phật ở trong các cõi nước đó, đồng thời khen ngợi rằng : Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ðó mới là chân tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan lọng bằng lụa cõi trời, và hương hải thử ngạn chiên đàn, cúng dường các thứ đồ vật như thế, không thể bằng được, nếu đem đất nước vợ con bố thí, cũng chẳng bằng được.

Các Ðức Phật ở trong tám mươi ức Hằng hà sa thế giới, thấy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đốt thân cúng dường Phật như thế, chư Phật bèn cùng nhau khen ngợi nói : ‘’Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ðó mới là chân chánh tinh tấn, gọi là chân pháp cúng dường Ðức Phật.’’

Vào đời Tùy, Trí Giả đại sư, một ngày nọ, đọc đến hai câu kinh văn này, thì hốt nhiên nhập định, đắc được Nhất toàn Ðà la ni (hết thảy kinh điển ở trong thời gian rất ngắn, hoàn toàn minh bạch hết, thông đạt vô ngại). Lúc đó, Trí Giả đại sư thấy pháp hội Linh Sơn vẫn còn chưa tan. Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn ngồi trên pháp tòa, đang diễn nói Kinh Pháp Hoa.

Hoặc dùng các thứ hương hoa, chuỗi ngọc, và hương đốt, hương bột, hương xoa, hoặc dùng lọng báu, và phan báu trời, cùng với hương hải thử ngạn chiên đàn. Dùng các thứ đồ vật như thế, cúng dường Ðức Phật, công đức chẳng bằng đốt thân cúng dường. Nếu như, dùng đất nước vợ con để bố thí, công đức cũng chẳng bằng đốt thân cúng dường. Do đó, đủ biết công đức đốt thân cúng Phật, không thể nào sánh được.

 

Thiện nam tử ! Thị danh đệ nhất chi thí, ư chư thí trung tối tôn tối thượng, dĩ pháp cúng dường chư Như Lai cố. Tác thị ngữ dĩ nhi các mặc nhiên. Kỳ thân hỏa nhiên Thiên nhị bách tuế. qua thị dĩ hậu, kỳ thân nãi tận.

Thiện nam tử ! Ðó là bố thí bậc nhất, ở trong các sự bố thí, là trên hơn hết, vì dùng pháp cúng dường các đức Như Lai. Nói lời đó rồi, thảy đều yên lặng. Thân Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, đốt cháy trải qua một ngàn hai trăm năm mới cháy hết.

Chư Phật lại đồng thời lại tán thán nói : ‘’Thiện nam tử ! Ông đốt thân bố thí cúng dường Phật, mới là bố thí bậc nhất. Ở trong tất cả sự bố thí, thì sự bố thí này là trên hơn hết.’’ Dùng sắc thân để cúng dường Phật tức là nhân duyên thành tựu pháp thân. Chư Phật khen ngợi Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rồi, thảy đều yên lặng.

Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, dùng lửa thật tam muội thiêu đốt thân mình, trải qua một ngàn hai trăm năm thân mới cháy hết. Tinh thần đốt thân cúng Phật, thật là vĩ đại nhất. Sau này, cũng có nhiều người thực hành, như đốt ngón tay cúng Phật, như Lão Hòa Thượng Hư Vân, từng đốt ngón tay cúng Phật.

 

Nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát tác như thị pháp cúng dường dĩ, mạng chung chi hậu, phục sanh nhật nguyệt tịnh minh đức Phật quốc trung, ư tịnh đức Vương gia kiết già phu tọa, hốt nhiên hóa sanh. Tức vi kỳ phụ nhi thuyết kệ ngôn:

Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến, theo như pháp cúng dường rồi. Sau khi mạng chung, lại sinh vào trong nước của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, sinh ra trong nhà vua Tịnh Ðức, ngồi kiết già, hốt nhiên hóa sinh, bèn vì vua cha mà nói kệ rằng :

Vị Bồ Tát đó, sau khi làm xong chân pháp cúng dường như thế rồi, khi mạng chung, bèn sinh trở lại nước của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, sinh ra trong nhà vua Tịnh Ðức, ngồi kiết già hốt nhiên hóa sinh ra một em bé, gọi ông vua Tịnh Ðức là cha, lập tức vì vua Tịnh Ðức nói bài kệ:

 

Đại Vương kim đương tri,                   Ðại vương nay nên biết!

Ngã kinh hành bỉ xứ,                           Tôi kinh hành chốn kia

Tức thời đắc nhất thiết,                        Tức thời đặng nhứt thiết

Hiện chư thân tam muội.                     Hiện chư thân tam muội

 

Cần hành đại tinh tấn,                          Siêng tu rất tinh thân

Xả sở ái chi thân,                                 Bỏ thân thể đáng yêu

Cúng dường ư Thế Tôn,                      Cúng dường đức Thế Tôn

Vi cầu vô thượng tuệ.                          Ðể cầu huệ vô thượng.

Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến (tên đời trước của Ngài, đời kế tiếp cũng là tên của Ngài), nói với vua Tịnh Ðức rằng : ‘’Ðại vương ! Ngài nên biết, con đã từng tu hành ở chỗ Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, chẳng khi nào giải đãi. Nghe Ðức Phật diễn nói Kinh Pháp Hoa, con y theo đạo lý trong kinh mà tu trì, cho nên lập tức chứng được tam muội hiện tất cả sắc thân.

Con siêng năng tu hành pháp môn này, dũng mãnh tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh tấn. Xả bỏ sự tiếc thương thân mạng, con thành tâm dùng lửa tam muội thiêu đốt thân con, để cúng dường Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức. Tại sao phải làm như thế ? Vì muốn cầu vô thượng đạo, tức cũng là trí huệ của Phật, đại viên cảnh trí.’’

 

Thuyết thị kệ dĩ, nhi bạch phụ ngôn: “Nhật nguyệt tịnh minh đức Phật, kim cố hiện tại. Ngã tiên cúng dường Phật dĩ.”  Đắc giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn Đà La Ni, phục văn thị Pháp Hoa Kinh bát bách Thiên vạn ức na do tha chân ca la, tần Bà la, A Súc Bà đẳng kệ.

Nói bài kệ đó rồi, bèn bạch vua cha rằng : Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, hiện nay vẫn còn, trước hết con cúng dường đức Phật rồi, đắc được Ðà la ni hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh, lại nghe Kinh Pháp Hoa này, gồm có tám trăm ngàn vạn ức Na do tha, chân ca la, tần bà la, a môn bà, bài kệ.

Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói bài kệ ở trên rồi, lại nói với vua Tịnh Ðức rằng : ‘’Phụ vương ! Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức hiện nay, vẫn còn ở trong thế giới này. Trước hết, con cúng dường Ðức Phật đó, bèn đắc được Ðà la ni hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sinh. Tức cũng là pháp môn bất cứ ngôn ngữ nào chẳng học mà tự hiểu, chẳng thấy mà tự biết. Con còn nghe Kinh Pháp Hoa, kinh đó gồm có tám ngàn vạn ức Na do tha (ức số) bài kệ, lại có Chân ca la (số mục thứ mười sáu), Tần bà la (số mục thứ mười tám), A môn bà (số mục thứ mười hai, tức có khoảng năm mươi hai thứ đại số mục) bài kệ.’’

 

Đại Vương! Ngã kim đương hoàn cúng dường thử Phật.” Bạch dĩ, tức tọa thất bảo chi đài, thượng thăng hư không, cao thất Ta la thụ, vãng đáo Phật sở. đầu diện lễ túc hợp thập chỉ trảo, dĩ kệ tán Phật:

Ðại vương ! Nay con sẽ trở lại cúng dường đức Phật đó. Nói rồi bèn ngồi trên đài bảy báu, thăng lên hư không cao bảy cây đa la, đến chỗ đức Phật rồi, cúi đầu đảnh lễ, chắp tay lại dùng kệ để khen ngợi đức Phật.

‘’Ðại vương ! Hiện nay con sẽ trở lại chỗ Ðức Phật, để tiếp tục cúng dường vị Phật đó.’’ Nói xong rồi bèn ngồi lên đài làm bằng bảy báu, từ từ thăng lên hư không, cao khoảng bảy cây đa la (mỗi cây cao hơn 60 thước). Hướng về chỗ Ðức Phật, sau khi đến nơi rồi, lập tức năm thể sát đất đảnh lễ Phật, chắp tay lại dùng kệ để khen ngợi Phật.

 

Dung nhan thậm kì diệu,                     Dung nhan rất đẹp lạ

Quang minh chiếu thập phương,         Ánh sáng soi mười phương

Ngã thích tằng cúng dường,                Con vừa từng cúng dường

Kim phục hoàn thân cận.                     Nay lại về thân thấy.

Dung nhan của Phật rất xinh đẹp lạ thường, có ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp. Quang minh của Phật chiếu sáng khắp mười phương thế giới. Ðời trước con đã từng cúng dường Phật, hiện tại con lại đến gần gũi Phật.

 

Nhĩ thời, nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát thuyết thị kệ dĩ. Nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thế Tôn  do cố tại thế.

Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói kệ đó rồi, bèn bạch đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Ðức Thế Tôn ! Ngài vẫn còn ở đời ư !

Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói bài kệ ở trên xong rồi, lại nói với Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Ðức Thế Tôn ! Ngài vẫn còn ở đời ư ? Kiếp trước con đã gặp Ngài, đời này lại gặp Ngài nữa, con và Ðức Thế Tôn còn nhân duyên.’’

 

Nhĩ thời nhật nguyệt tịnh minh đức Phật, cáo nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ngã Niết Bàn thời đáo, diệt tận thời chí, nhữ khả an thí sàng tọa, ngã ư kim dạ đương Bát Niết Bàn.

Bấy giờ, đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến : Thiện nam tử ! Giờ ta vào Niết Bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến, ông nên xếp đặt giường tòa, trong đêm nay ta sẽ vào Niết Bàn.

Lúc đó, Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng : ‘’Thiện nam tử ! Giờ ta vào Niết Bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến! Bây giờ ông có thể xếp đặt giường tòa, chuẩn bị sẵn sàng, vào nửa đêm nay, ta sẽ vào đại bát Niết Bàn.’’

Khi Phật ra đời thì đều vào ban ngày, biểu thị ánh sáng mặt trời chiếu sáng thế giới. Khi Phật vào Niết Bàn thì đều vào nửa đêm, biểu thị thế giới sẽ phải đen tối. Chẳng phải nói là, sau khi Phật vào Niết Bàn thì thế giới sẽ đen tối, mà là nói vào thời mạt pháp, khi Phật pháp diệt rồi, thì tâm con người bị vô minh che đậy, chẳng có trí huệ quang minh.

 

Hựu sắc nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát: “Thiện nam tử! Ngã dĩ Phật Pháp chúc lũy ư nhữ cập chư Bồ Tát Đại đệ tử, tinh A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Pháp, diệc dĩ tam Thiên Đại Thiên thất bảo thế giới chư bảo thụ, bảo đài cập cấp thị chư Thiên, tất phó ư nhữ. Ngã diệt độ hậu, sở hữu xá lợi diệc phó chúc nhữ, đương lệnh lưu bố, quảng thiết cúng dường, ưng khởi nhược can Thiên tháp. Như thị nhật nguyệt tịnh minh đức Phật sắc nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát dĩ, ư dạ hậu phần nhập ư Niết Bàn.

Lại bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng : Thiện nam tử ! Ta đem Phật pháp phó chúc cho ông, và các Bồ Tát đại đệ tử, cùng với pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cũng đem ba ngàn đại thiên thế giới bảy báu, các cây báu, đài báu, và cung cấp chư Thiên hầu hạ, thảy đều giao phó cho ông. Sau khi ta diệt độ, hết thảy xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên truyền bá, rộng thiết lập cúng dường, nên xây hàng ngàn ngôi tháp. Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như thế rồi, vào khoảng cuối đêm bèn vào Niết Bàn.

Ðức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức lại bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến rằng : ‘’Thiện nam tử ! Hết thảy Phật pháp của ta, đều giao phó chúc cho ông và các vị Bồ Tát đại đệ tử, cùng với pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại đem ba ngàn đại thiên thế giới bằng bảy báu, lại có cây báu và đài báu, lại có chư Thiên cung cấp hầu hạ, đều hoàn toàn phó chúc cho ông. Ông phải hạnh khổ, sau khi ta diệt độ, thiêu hóa được xá lợi, cũng đều phó chúc cho ông, ông vì ta mà xử lý hậu sự. Nên truyền bá Phật pháp, lưu rộng xá lợi xây tháp cúng dường, nên xây hàng ngàn bảo tháp làm nơi cúng dường xá lợi.’’ Phật phó chúc rồi, vào khoảng cuối đêm bèn vào Niết Bàn.

 

Nhĩ thời, nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát kiến Phật diệt độ, bi cảm, áo não, luyến mộ ư Phật, tức dĩ hải thử ngạn chiên đàn vi, cúng dường Phật thân, nhi dĩ thiêu chi. Hỏa diệt dĩ hậu, thu thủ xá lợi, tác bát vạn tứ Thiên bảo bình, dĩ khởi bát vạn tứ Thiên tháp, cao tam thế giới, biểu sát trang nghiêm, thùy chư phan cái, huyền chúng bảo linh.

Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy đức Phật diệt độ, thì rất buồn rầu, thảm não luyến mộ đức Phật, bèn dùng gỗ hải thử ngạn chiên đàn cúng dường thân Phật, để hỏa thiêu thân của Ngài. Sau khi lửa tắt, thu lấy xá lợi, phân chia ra tám vạn bốn ngàn bình báu, xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp, cao ba thế giới, biểu sát trang nghiêm, thòng rũ các phan lọng, và treo các linh báu.

Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức vào Niết Bàn, thì rất buồn thảm áo não nghĩ rằng : ‘’Tại sao mình không giữ Phật ở lại đời ? Nếu thỉnh Phật ở lại đời, thì Phật hứa sẽ không vào Niết Bàn.’’ Ngài luyến mộ nhớ Ðức Phật, không đành lìa khỏi Phật. Sau khi Phật vào Niết Bàn, bèn dùng gỗ hải thử ngạn chiên đàn, loại gỗ quý nhất để làm giàn thiêu hoá di thể của Phật. Sau khi thiêu hóa xong di thể của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức, thu được rất nhiều xá lợi, phân ra đựng trong tám vạn bốn ngàn bình báu, lại xây dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp báu, cúng dường xá lợi ở trong bình báu. Tháp đó cao ba thế giới. Ở trước bảo tháp có biểu sát rất trang nghiêm, treo tất cả phan lọng và các linh báu, vang ra âm thanh vi diệu xa gần đều nghe.

Nói đến đây, tôi nhớ tới chuyện của Ngài Ấn Quang đại sư, Ngài ngồi niệm Phật rồi thị tịch tại núi Linh Nham ở Tô Châu, khi hỏa thiêu thì dùng gỗ chiên đàn để thiêu di thể. Lúc đó, người tham dự chẳng biết là bao nhiêu. Từ trên núi xuống dưới chân núi khoảng ba dặm, mà đầy dẫy mọi người đều đến đưa đám. Sau khi thiêu xong thì lượm được rất nhiều xá lợi năm màu.

Ngài Ấn Quang chẳng những dụng công tu hành, mà còn tinh thông kinh điển. Ngài tu ở trên núi Phổ Ðà mười tám năm. Trong thời gian đó, Ngài chuyên tâm duyệt đọc Ðại Tạng Kinh. Khi duyệt đọc thì ngồi ngay thẳng, cung kính cầm quyển kinh. Khi vào nhà cầu thời cởi y áo giày dép, thay đổi áo khác giày khác để vào. Trở ra thì mặc vào lại. Vì cung kính như thế, cho nên đã khai ngộ. Sau khi khai ngộ thì chuyên môn niệm ‘’Nam Mô A Di Ðà Phật,’’ sáu chữ hồng danh.

Về sau thành lập đạo tràng ở trên núi Linh Nham ở Tô Châu, đề xướng pháp môn niệm Phật, pháp môn này rất dễ tu trì. Ngài Ấn Quang về mặt học vấn và đạo đức đều là thượng thừa, chẳng hổ là một bậc cao Tăng. Ðáng tiếc giọng nói quá nặng (người ở Xiểm Tây Cáp Dương), một số người chẳng hiểu lời của Ngài nói. Cho nên, Ngài rất ít giảng kinh thuyết pháp. Song, Ngài dùng văn tự để tuyên dương Phật pháp. Do đó, có câu :

‘’Lời nói khuyên người một thời,
Sách vở khuyên người trăm đời.’’

Do đó, lưu lại văn sao của Ngài Ấn Quang, người sau được ích lợi không ít. Một năm nọ, Ngài Ấn Quang đến Nam Kinh giảng kinh, cũng có thể người tin Phật rất ít, mấy ngày đầu còn có người nghe kinh, về sau dần dần giảm bớt. Cuối cùng chỉ còn một người ngồi ở đó nghe. Ngài Ấn Quang từ pháp tòa nhìn xuống đạo tràng rộng lớn, mà chỉ có một người nghe kinh, tâm nghĩ, “một người nghe kinh cũng phải giảng kinh”.
Sau khi giảng xong, rời khỏi pháp toà đến trước người đó bèn hỏi : ‘’Cư sĩ! Ông có hiểu tôi giảng kinh chăng ?‘’

– Người đó đáp : ‘’Tôi chẳng hiểu Ngài giảng cái gì ?‘’

– Ngài Ấn Quang trả lời :‘’Nếu ông không hiểu, sao lại đến nghe kinh ?‘’

– Người đó đáp :‘’Tôi là người quản lý ở đây, đợi khi thầy giảng xong, thì tôi thu xếp bàn ghế lại.’’
Từ đó, Ngài Ấn Quang phát nguyện, chẳng giảng kinh ở Nam Kinh nữa. Một năm nọ, Ngài Ấn Quang đến Thượng Hải giảng Kinh A Di Ðà, có đăng tin tức trên báo, khiến cho người có duyên đến nghe kinh gieo trồng căn lành, tích tụ công đức. Lần pháp hội đó, rất long trọng trang nghiêm, rất nhiều người đến nghe kinh đều là tín đồ kiền thành.

Ðương thời, có một nữ cư sĩ (chẳng phải là Phật tử) ở trong mộng thấy có người mặc áo giáp màu vàng, bảo với cô ta rằng :‘’Con hãy đến Thượng Hải để nghe Bồ Tát Ðại Thế Chí giảng Kinh A Di Ðà.’’ Cô ta nhớ rất rõ ràng. Ngày thứ hai sáng sớm xem báo, thì thấy tin tức họ cung thỉnh Ngài Ấn Quang giảng Kinh A Di Ðà. Cô ta vì tâm háo kỳ, mà đến chỗ đó để cầu kiến Ngài Ấn Quang. Khi thấy Ngài Ấn Quang thì tự động đảnh lễ, bèn nói với Ngài Ấn Quang rằng:‘’Con chẳng phải là Phật giáo đồ, vì đêm hôm qua con nằm mộng thấy, có người bảo con đến chỗ này nghe Bồ Tát Ðại Thế Chí giảng Kinh A Di Ðà. Xin hỏi Ngài ! Không chừng Ngài là Bồ Tát Ðại Thế Chí.’’

– Lúc đó, Ngài Ấn Quang dơ tay thị ý :‘’Việc này, con biết, ta biết, đừng nói cho ai biết.’’ Vị nữ cư sĩ đó, bèn quy y Tam Bảo, cuối cùng vẫn giữ tin này bí mật, chẳng thố lộ với bất cứ ai. Ba năm sau, khi Ngài Ấn Quang viên tịch trên núi Linh Nham, thì vị cư sĩ này, mới tuyên bố cảnh giới này ở trước công chúng. Lúc đó, mọi người mới biết Ngài Ấn Quang là hóa thân của Bồ Tát Ðại Thế Chí, Bồ Tát thừa nguyện trở lại. Ðời sau, tôn xưng là Tổ Sư thứ mười ba phái Liên Tông. Tuy nhiên, đệ tử quy y với Ngài khắp thiên hạ, nhưng chẳng có đệ tử truyền pháp. Tại sao ? Vì Ngài thệ nguyện chẳng lập chùa, chẳng thu đệ tử xuất gia.

 

Nhĩ thời nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát phục tự niệm ngôn: “Ngã tuy tác thị cúng dường, tâm do vị túc. Ngã kim đương cánh cúng dường xá lợi.” Tiện ngữ chư Bồ Tát Đại đệ tử cập Thiên, Long, dạ xoa đẳng nhất thiết Đại chúng: “Nhữ đẳng đương nhất tâm niệm. Ngã kim cúng dường nhật nguyệt tịnh minh đức Phật Xá Lợi.”

Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ rằng : Tuy ta cúng dường như thế, tâm vẫn cảm thấy chưa đủ. Nay ta nên cúng dường xá lợi, bèn nói với các Bồ Tát đại đệ tử, và trời rồng Dạ Xoa, hết thảy tất cả đại chúng, các ông nên một lòng nghĩ nhớ, nay ta cúng dường xá lợi của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức.

Lúc đó, vị Bồ Tát đó lại nghĩ rằng :‘’Tuy kiếp trước ta đốt thân cúng dường Phật, mà tâm vẫn cảm thấy chưa đủ chân thành. Hôm nay phải cúng dường xá lợi của Phật.’’ Bèn nói với các vị Bồ Tát đại đệ tử và trời rồng tám bộ chúng rằng :‘’Các ông đại chúng nên một lòng nghĩ nhớ, nay ta phải cúng dường xá lợi của Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Ðức.’’

 

Tác thị ngữ dĩ. Tức ư bát vạn tứ Thiên tháp tiền. Nhiên bách phước trang nghiêm tý thất vạn nhị Thiên tuế nhi dĩ cúng dường, lệnh vô số cầu Thanh văn chúng, vô lượng a tăng kì nhân, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề tâm, giai sử đắc trụ Hiện Nhất Thiết sắc thân tam muội.

Nói lời đó rồi, bèn ở trước tám vạn bốn ngàn bảo tháp, đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, trải qua bảy vạn hai ngàn năm, dùng để cúng dường, khiến cho vô số chúng cầu Thanh Văn, vô lượng A tăng kỳ người phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều khiến cho trụ vào tam muội hiện tất cả sắc thân.

Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói xong lời đó rồi, lập tức ở trước tám vạn bốn ngàn bảo tháp, đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm của mình, trải qua bảy vạn hai ngàn năm để cúng dường.

Có người hỏi : ‘’Kỳ lạ ! Vị Bồ Tát đó, kiếp trước đốt thân cúng dường trải qua một ngàn hai trăm năm. Tại sao lần này đốt tay phải trải qua bảy vạn hai ngàn năm ? Tôi chẳng hiểu đạo lý bên trong, xin Thầy từ bi khai thị.’’

– Nói cho bạn biết ! Vị Bồ Tát đó, kiếp trước dùng sắc thân để cúng Phật, lần này dùng hóa thân để cúng Phật, muốn thiêu bao lâu cũng được, chẳng có hạn chế thời gian, bạn hiểu chứ !

Tại sao vị Bồ Tát đó lại đốt cánh tay, để cúng dường Phật xá lợi ? Vì muốn cảm hóa những chúng sinh chẳng có tâm chân thành, phát khởi tâm chân thành để cúng dường Phật xá lợi, vì muốn khiến cho vô lượng A tăng kỳ người phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, do đó mà đốt cánh tay để làm ảnh hưởng chúng sinh phát tâm bồ đề, đều khiến cho chúng sinh trụ tại cảnh giới tất cả sắc thân tam muội.

 

Nhĩ thời, chư Bồ Tát, Thiên, nhân, A Tu La đẳng, kiến kỳ vô tý. ưu não bi ai nhi tác thị ngôn: “Thử nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát, thị ngã đẳng sư, giáo hóa ngã giả, nhi kim thiêu tý, thân bất cụ túc.”

Bấy giờ, các vị Bồ Tát, trời, người, A tu la thảy, đều thấy vị Bồ Tát đó chẳng còn cánh tay, thì rất buồn rầu bi ai, bèn nói rằng : Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến này, là thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt đi cánh tay, thân chẳng còn đầy đủ.

Lúc đó, các vị đại Bồ Tát, hàng trời người và A tu la, quỷ thần thảy, đều thấy vị Bồ Tát đó chẳng còn hai cánh tay, thì mọi người đều buồn rầu bi ai, khác miệng cùng lời nói :‘’Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, khiến cho chúng ta hiểu Phật pháp, khiến cho chúng ta tu trì Phật pháp, nhưng Ngài phát nguyện đốt cánh tay cúng Phật, hiện nay thân tướng chẳng còn đầy đủ.’’

 

Vu thời nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát, ư Đại chúng trung lập thử thệ ngôn: “Ngã xả lượng tý. Tất đương đắc Phật kim sắc chi thân, nhược thật bất hư, lệnh ngã lượng tý hoàn phục như cố.” Tác thị thệ dĩ. Tự nhiên hoàn phục, do tư Bồ Tát phước đức trí tuệ thuần hậu sở trí.

Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng lập thệ nguyện rằng : Ta xả bỏ cánh tay, tất sẽ được thân sắc vàng của Phật, nếu thật không hư, thì khiến cho cánh tay của ta hoàn lại như cũ, thệ nguyện vừa xong, thì cánh tay tự nhiên hoàn lại. Bởi do Bồ Tát đó phước đức trí huệ sâu dày, nên được như thế.

Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở trong đại chúng lập thệ nguyện rằng :‘’Ta đốt cánh tay cúng Phật, thì tương lai nhất định được thân sắc vàng tía của Phật. Nếu như là chân thật không hư, thì khiến cho cánh tay của tôi đót, lập tức khôi phục lại như cũ. Phát nguyện như thế rồi, thì tự nhiên sinh ra cánh tay mới như ban đầu, chẳng có gì khác biệt. Ðó là nhờ duyên gì ? Vì Bồ Tát đó có phước đức lớn, trí huệ lớn sâu dày, lại thành thật, cho nên mới có cảnh giới cảm ứng không thể nghĩ bàn như thế.’’

 

Đương nhĩ chi thời, tam Thiên đại Thiên thế giới lục chủng chấn động, Thiên vũ bảo hoa, nhất thiết nhân, Thiên đắc vị tằng hữu.

Bấy giờ, ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn động, trời mưa xuống hoa báu, tất cả trời người được chưa từng có.

Lúc đó, ba ngàn đại thiên thế giới đều có sáu thứ chấn động. Trời mưa hoa báu xuống, tất cả trời người đều cho là việc ít có, từ khi sinh ra chưa từng gặp qua cảnh giới này.

 

Phật cáo Tú Vương hoa Bồ Tát: “Ư nhữ ý vân hà ?” Nhất thiết chúng sanh Hỉ Kiến Bồ Tát, khởi dị nhân hồ ? kim Dược Vương Bồ Tát thị dã. Kỳ sở xả thân bố thí, như thị vô lượng bách Thiên vạn ức na do tha số.

Ðức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa : Ý của ông thế nào ? Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đâu phải là ai xa lạ, nay là Bồ Tát Dược Vương này vậy, vị đó xả thân bố thí như thế, vô lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha số lần.

Ðức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng :‘’Ông cảm thấy khổ hạnh đó như thế nào ? Ông có biết vị Bồ Tát đó là ai chăng ? Là Bồ Tát Dược Vương này vậy. Vị Bồ Tát đó xả thân cho Phật, bố thí cho chúng sinh, nhiều vô lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha, số lượng này không thể nói hết được, bất quá, nay ta chỉ nói vị đó đốt thân và đốt cánh tay cúng dường Phật mà thôi.’’

 

Tú Vương hoa! Nhược hữu phát tâm dục đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề giả, năng nhiên thủ chỉ. Nãi chí túc nhất chỉ. Cúng dường Phật tháp, thắng dĩ quốc thành, thê tử, cập tam Thiên Đại Thiên quốc độ sơn lâm hà trì, chư trân bảo vật, nhi cúng dường giả,

Tú Vương Hoa ! Nếu có người phát tâm muốn được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà có thể đốt một ngón tay, cho đến một ngón chân, cúng dường tháp Phật, còn hơn là người dùng đất nước vợ con, và ba ngàn đại thiên thế giới, núi rừng sông ngòi, các châu báu, mà cúng dường.

Ðức Phật lại gọi một tiếng :‘’Tú Vương Hoa ! Nếu như có chúng sinh, phát tâm muốn được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hoặc phát tâm đốt một ngón tay, hoặc phát tâm đốt một ngón chân, để cúng dường Phật, để cúng dường tháp của Phật, thì công đức cúng dường đó, hơn là công đức của người đem đất nước vợ con ra bố thí, cũng hơn công đức dùng ba ngàn đại thiên thế giới, núi rừng sông ngòi, và các châu báu vật quý đem cúng dường Phật.’’

 

Nhược phục hữu nhân. dĩ thất bảo mãn tam Thiên đại Thiên thế giới, cúng dường ư Phật, cập đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, thị nhân sở đắc công đức, bất như thọ trì thử Pháp Hoa Kinh, nãi chí nhất tứ cú kệ, kỳ phước tối đa.

Hoặc lại có người, dùng bảy báu đầy ba ngàn đại thiên thế giới, để cúng dường Phật và đại Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán, công đức của người đó đắc được, chẳng bằng thọ trì Kinh Pháp Hoa này, cho đến một bài kệ bốn câu, thì phước này thắng hơn phước kia.

Ðức Phật lại nói :‘’Nếu như có người dùng bảy báu đầy dẫy ba ngàn đại thiên thế giới, để cúng dường chư Phật, chư Bồ Tát, chư Bích Chi Phật, các vị A La Hán, công đức cúng dường bốn bậc Thánh như thế, chẳng bằng thọ trì một bài kệ bốn câu trong Kinh Pháp Hoa, công đức được thù thắng hơn. Tóm lại, bất cứ cúng dường bốn bậc Thánh như thế nào, cũng chẳng bằng công đức thọ trì Kinh Pháp Hoa, đọc tụng Kinh Pháp Hoa.’’

 

Tú Vương hoa ! Thí như nhất thiết xuyên lưu giang hà. Chư thủy chi trung hải vi đệ nhất; Thử Pháp Hoa Kinh diệc phục như thị, ư chư Như Lai sở thuyết Kinh trung, tối vi thâm Đại.

Tú Vương Hoa ! Ví như nước trong sông ngòi, kinh rạch, thì biển là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong các kinh của Như Lai nói, là sâu rộng lớn nhất.

Phật lại nói :‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Ví như nước ở trong tất cả sông ngòi, kinh rạch, thì biển cả là bậc nhất. Bộ kinh này cũng như thế, trong các kinh điển mười phương chư Phật nói, thì thâm diệu rộng lớn bậc nhất.’’

 

Hựu như độ sơn: hắc sơn, tiểu Thiết vi sơn, đại thiết vi sơn cập thập bảo sơn, chúng sơn chi trung, Tu di sơn vi đệ nhất; Thử Pháp Hoa Kinh diệc phục như thị, ư chư Kinh trung tối vi kỳ thượng. hựu như chúng tinh chi trung, Nguyệt Thiên tử tối vi đệ nhất; Thử Pháp Hoa Kinh diệc phục như thị, ư Thiên vạn ức chủng chư Kinh pháp trung tối vi chiếu minh.

Lại như : Núi đất, núi đen, núi Thiết Vi nhỏ, núi Thiết Vi lớn, và núi mười báu, ở trong các núi, thì núi Tu Di là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong các kinh là trên hết. Lại như ở trong các ngôi sao, thì mặt trăng là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong ngàn vạn ức các kinh pháp, thì kinh này chiếu sáng nhất.

Lại như : Núi đất, núi đen, núi Thiết Vi nhỏ, núi Thiết Vi lớn, và núi mười báu, ở trong các núi, thì núi Tu Di là bậc nhất. Bộ Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong tất cả kinh điển, là trên hơn hết, chẳng có bộ kinh nào cao hơn. Bộ kinh này là kinh thành Phật, chỉ cần y pháp tu hành, thì có hy vọng thành Phật

Lại giống như ở trong các ngôi sao, thì mặt trăng chiếu sáng nhất. Bộ Kinh Pháp Hoa này cũng lại như thế, ở trong ngàn vạn ức các kinh điển, thì kinh này chiếu sáng nhất.

 

Hựu như Nhật Thiên tử năng trừ chư ám; Thử Kinh diệc phục như thị, năng phá nhất thiết bất thiện chi ám.

Lại như mặt trời chiếu phá mọi sự tối tăm, kinh này cũng lại như thế, hay phá trừ tất cả sự tối tăm bất thiện.

Lại giống như mặt trời hay phá trừ tất cả đen tối, Kinh Pháp Hoa cũng như thế, hay phá trừ tất cả sự đen tối bất thiện. Tóm lại, thọ trì Kinh Pháp Hoa sẽ đắc được đại trí huệ, quang minh này hay phá trừ đen tối vô minh.

 

Hựu như chư Tiểu Vương trung, Chuyển luân Thánh Vương tối vi đệ nhất; Thử Kinh diệc phục như thị, ư chúng Kinh trung tối vi kỳ tôn.

Lại như trong các ông vua, thì vua chuyển luân thánh vương là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, ở trong các kinh là tôn quý hơn hết.

Lại giống như trong các ông vua, thì địa vị của vua chuyển luân thánh vương là bậc nhất, chẳng ai có thể sánh. Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, ở trong các kinh điển là tôn quý hơn hết.

 

Hựu như Đế Thích, ư tam thập tam Thiên trung Vương, thử Kinh diệc phục như thị, chư Kinh trung Vương.

Lại như trời Ðế Thích, là vua cõi trời Ba Mươi Ba. Kinh này cũng lại như thế, là vua trong các kinh.

Giống như trời Ðế Thích, là vua cõi trời Ba Mươi Ba, quản hạt ba mươi hai cõi trời, Kinh Pháp Hoa cũng như thế, là vua ở trong tất cả kinh điển.

 

Hựu như Đại phạm Thiên Vương, nhất thiết chúng sanh chi phụ; Thử Kinh diệc phục như thị, nhất thiết hiền thánh, học, vô học, cập phát Bồ Tát tâm giả chi phụ.

Lại như vua Ðại Phạm Thiên, là cha của tất cả chúng sinh. Kinh này cũng lại như thế, là cha của tất cả các bậc hiền Thánh học vô học, và những người phát tâm Bồ Tát.

Lại như vua Ðại Phạm Thiên, là cha của tất cả chúng sinh. Vì sao xưng là cha của tất cả chúng sinh ? Vì thế giới có thành trụ hoại không bốn trung kiếp (mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp). Ðến thời kỳ kiếp không, thì Thiên chúng của cõi Sơ thiền, tự nhiên tỵ nạn đến cõi trời Nhị thiền. Ðến thời kỳ kiếp thành lập, thì Thiên chúng tỵ nạn ở cõi Nhị thiền lại trở về cõi trời Sơ thiền. Người đầu tiên trở lại là vua Ðại Phạm Thiên. Vì người sau này càng ngày càng đến nhiều, cho nên vua Ðại Phạm Thiên đối với đại chúng tuyên bố :‘’Ta là cha của các ngươi, các ngươi phải tôn kính ta, phải nghe lời ta, không thể làm trái ngược ý chỉ của ta.’’

Bà la môn ở Ấn Ðộ cho rằng : Tổ tiên của họ là từ miệng trời Phạm Thiên sinh ra, cho nên có thần Thánh ưu việt không thể xâm phạm, đáng hưởng thọ đặc quyền, cho đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Do đó, ở Ấn Ðộ tạo ra hiện tượng giai cấp chẳng bình đẳng, đến nay vẫn còn như thế, khiến cho kẻ nô lệ vĩnh viễn không được đối đãi bình đẳng.

Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, là cha của tất cả bậc hiền Thánh, bậc hữu học (sơ, nhị, tam quả A La Hán), bậc vô học (tứ quả A La Hán), và những người phát tâm Bồ Tát tu đạo Bồ Tát.

 

Hựu như nhất thiết phàm phu nhân trung, Tu đà Hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A La Hán, Bích Chi Phật vi đệ nhất; Thử Kinh diệc phục như thị, nhất thiết Như Lai sở thuyết, nhược Bồ Tát sở thuyết, nhược Thanh văn sở thuyết, chư Kinh pháp trung, tối vi đệ nhất.

Lại như, trong tất cả những người phàm phu, Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, thì Bích Chi Phật là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, ở trong các kinh của Phật nói, hoặc Bồ Tát nói, hoặc Thanh Văn nói, thì kinh này là bậc nhất.

Lại giống như ở trong tất cả phàm phu, Tu Ðà Hoàn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, thì Bích Chi Phật là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa cũng như thế. Ở trong tất cả kinh pháp của chư Phật nói, hoặc kinh điển của Bồ Tát nói, hoặc kinh điển của hàng Thanh Văn nói, thì kinh này là bậc nhất.

 

Hữu năng thọ trì thị Kinh điển giả, diệc phục như thị, ư nhất thiết chúng sanh trung, diệc vi đệ nhất.

Có người hay thọ trì kinh này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sinh cũng là bậc nhất.

Nếu như có người hay thọ trì Kinh Pháp Hoa cũng như thế, ở trong tất cả chúng sinh là bậc nhất. Bộ kinh này là pháp môn ai ai cũng có thể tu, ai kiền thành tu trì, thì người đó là bậc nhất. Tu hành phải cước đạp thật địa, cung hành thực tiễn, không nên cứ tìm tiện nghi, phải thấu rõ việc thiên hạ, không thể nào không làm mà có thu hoạch. Người xưa nói :

‘’Trồng trọt một phần,
Thì thu hoạch một phần.’’

Dụng công một ngày, thì tiếp cận gần cảnh giới của Phật một dặm đường.

 

Nhất thiết Thanh văn, Bích Chi Phật trung, Bồ Tát vi đệ nhất; Thử Kinh diệc phục như thị, ư nhất thiết chư Kinh pháp trung, tối vi đệ nhất.

Ở trong tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, thì Bồ Tát là bậc nhất. Kinh này cũng lại như thế, là bậc nhất ở trong tất cả kinh pháp.

Ở trong tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, thì Bồ Tát là bậc nhất. Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, ở trong tất cả các kinh pháp, thì kinh này là bậc nhất, cho nên gọi là vua trong các kinh.

 

Như Phật vi chư pháp Vương; Thử Kinh diệc phục như thị, chư Kinh trung Vương.

Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng lại như thế, là vua trong các kinh.

Lại giống như Phật là vua của tất cả các pháp, Kinh Pháp Hoa là vua của tất cả các kinh. Ðức Phật cử ra những ví dụ đó, để nói rõ tính quan trọng của Kinh Pháp Hoa, khiến cho người thọ trì Kinh Pháp Hoa, biết được công đức rộng lớn của Kinh Pháp Hoa, chẳng gì sánh bằng.

 

Tú Vương hoa! Thử Kinh năng Cứu nhất thiết chúng sanh giả, thử Kinh năng lệnh nhất thiết chúng sanh ly chư khổ não, thử Kinh năng Đại nhiêu ích nhất thiết chúng sanh, sung mãn kỳ nguyện.

Tú Vương Hoa ! Kinh này hay cứu hộ tất cả chúng sinh, kinh này hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa các khổ não, kinh này làm lợi ích rất lớn cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều được mãn nguyện.

Phật lại gọi một tiếng : ‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Bộ Kinh Pháp Hoa này dụng đồ rất rộng lớn, hay cứu độ tất cả chúng sinh lìa khỏi phiền não, hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, lại hay lợi ích cho tất cả chúng sinh được mãn nguyện. Tóm lại, phàm là người thọ trì Kinh Pháp Hoa, bất cứ cầu gì cũng được mãn nguyện.’’ Song, phải chánh nguyện chứ chẳng phải tà nguyện, điểm này phải rõ ràng. Dưới đây sẽ cử ra mười hai điều lợi ích.

 

Như thanh lương trì! Năng mãn nhất thiết chư khát phạp giả, như hàn giả đắc hỏa, như lỏa giả đắc y, như thương nhân đắc chủ, như tử đắc mẫu, như độ đắc thuyền, như bệnh đắc y, như ám đắc đăng, như bần đắc bảo, như dân đắc Vương, như cổ khách đắc hải, như cự trừ ám.

Như hồ nước mát mẻ, hay khiến cho tất cả những người khát khao được hết khát, như người lạnh được lửa, như người trần truồng được quần áo, như người buôn bán gặp chủ, như con gặp mẹ, như người qua sông gặp thuyền, như người bệnh gặp được thuốc, như tối gặp được đèn, như người nghèo gặp của báu, như dân gặp được vua, như khách buôn gặp được biển, như đuốc sáng trừ tối tăm.

Công dụng của Kinh Pháp Hoa giống như hồ nước trong sạch mát mẻ, hay khiến cho người khát giải trừ sự khát uy hiếp. Giống như người lạnh lẽo gặp được lửa để sưởi ấm. Giống như người trần truồng gặp được quần áo. Trước khi chưa thọ trì Kinh Pháp Hoa, thì như là trần truồng; sau khi kiền thành thọ trì kinh này, thì đồng như được quần áo. Giống như người buôn bán làm ăn gặp chủ nhân, giống như đứa con mất mẹ đã lâu, bây giờ gặp được mẹ thì vui mừng không thể tả được, tức cũng là gặp được pháp thân người mẹ. Giống như muốn đi qua sông mà gặp được thuyền. Kinh Pháp Hoa là thuyền pháp lớn, đưa chúng sinh qua biển sinh tử, giống như người bệnh tật gặp thầy thuốc, thuốc vào thì hết bệnh. Chúng ta là người mắc bệnh ba độc, Kinh Pháp Hoa là thầy thuốc giỏi, hay cứu bệnh khổ phiền não của chúng ta.

Kinh Pháp Hoa giống như chỗ tối tăm có đèn chiếu sáng, chiếu phá vô minh ở trong tâm, khiến cho trí huệ quang minh hiện tiền. Giống như người nghèo được bảy báu vô giá; giống như dân gặp được ông vua anh minh nhân từ, giống như khách buôn được châu báu ở trong biển, giống như đuốc lớn hay phá trừ tất cả đen tối.

 

Thử Pháp Hoa Kinh diệc phục như thị, năng lệnh chúng sanh ly nhất thiết khổ, nhất thiết bệnh thống, năng giải nhất thiết sanh tử chi phược.

Kinh Pháp Hoa cũng lại như thế, hay khiến cho chúng sinh lìa tất cả sự khổ, tất cả bệnh khổ, giải thoát tất cả sự trói buộc sinh tử.

Bộ Kinh Pháp Hoa này, có mười hai thứ diệu dụng này, hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi tất cả sự khổ não, và tất cả mọi bệnh tật, lại hay giải trừ tất cả sự trói buộc sinh tử của chúng sinh, khiến cho được tự tại.

 

Nhược nhân đắc văn thử Pháp Hoa Kinh, nhược tự thư, nhược sử nhân thư. sở đắc công đức, dĩ Phật trí tuệ trù lượng đa thiểu, bất đắc kỳ biên.

Nếu người nào được nghe Kinh Pháp Hoa này, hoặc tự biên chép, hoặc khiến cho người biên chép, thì công đức đắc được, dùng trí huệ của Phật suy lường, cũng chẳng biết được bờ mé là bao nhiêu.

Nếu như người có căn lành được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa rồi, mà phát tâm biên chép kinh này, hoặc là tự mình biên chép, hoặc nhờ người khác biên chép, thì công đức đắc được đều đồng nhau. Công đức này dù dùng trí huệ của Phật để suy lường là bao nhiêu, cũng chẳng cách chi biết được bờ mé của công đức.

 

Nhược thư thị Kinh quyển, hoa, hương, anh lạc, thiêu hương, mạt hương, đồ hương, phan cái, y phục, chủng chủng chi đăng tô đăng, du đăng, chư hương du đăng, Chiêm bặc du đăng, tu mạn na du đăng, ba la la du đăng, Bà lợi sư ca du đăng, na bà ma lợi du đăng cúng dường, sở đắc công đức, diệc phục vô lượng.

Nếu biên chép quyển kinh này, mà dùng hương hoa, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan lọng, y phục, các thứ đèn, đèn tô, đèn dầu, các đèn dầu thơm, đèn dầu thiềm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu ba ma lợi, để cúng dường, thì công đức đắc được cũng vô lượng.

Nếu như có người khi biên chép bộ kinh điển này, mà dùng đủ thứ hoa tươi, hương quý, chuỗi ngọc, để cúng dường kinh này, hoặc dùng các thứ hương đốt, hương bột, hương xoa, để cúng dường kinh này, hoặc dùng các thứ phan báu, hoa báu, y phục báu, để cúng dường kinh này. Hoặc dùng các thứ đèn để cúng dường, nào là đèn dầu tô, đèn dầu, đèn dầu thơm, đèn dầu thiềm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu na bà ma lợi, công đức đắc được cũng vô lượng vô biên, không thể biết được.

 

Tú Vương hoa! nhược hữu nhân văn thị Dược Vương Bồ Tát bổn sự phẩm giả, diệc đắc vô lượng vô biên công đức.

Tú Vương Hoa ! Nếu có người nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương này, thì cũng đắc được vô lượng vô biên công đức.

Ðức Phật gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Nếu người có căn lành, dù chỉ nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì cũng đắc được vô lượng vô biên công đức.’’

 

Nhược hữu nữ nhân văn thị Dược Vương Bồ Tát bổn sự phẩm. Năng thọ trì giả, tận thị nữ thân, hậu bất phục thọ.

Nếu có người nữ, nghe được phẩm bổn sự của Bồ Tát Dược Vương, mà hay thọ trì, thì khi hết thân nữ này, về sau chẳng thọ lại nữa.

Nếu có người nữ, nghe được Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà hay thọ trì phẩm này, thì đời vị lai chẳng làm thân người nữ. Song, nếu thích làm thân nữ thì chẳng có gì để nói.

 

Nhược như lai diệt hậu hậu ngũ bách tuế trung, nhược hữu nữ nhân văn thị Kinh điển, như thuyết tu hành. Ư thử mạng chung, tức vãng an lạc thế giới, A Di Đà Phật, đại Bồ Tát chúng, vi nhiễu trụ xứ.

Nếu sau khi Như Lai diệt độ, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe được kinh này, theo như trong kinh nói mà tu hành, thì sau khi mạng chung, sẽ được vãng sinh về thế giới An Lạc, cõi của đức Phật A Di Ðà, được chúng đại Bồ Tát vây quanh chỗ ở.

Sau khi Phật vào Niết Bàn, trong năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe được Kinh Pháp Hoa, mà phát tâm y theo đạo lý trong kinh nói để tu hành, tức là tu nhẫn nhục, từ bi, pháp không, ba pháp môn. Sau khi mạng chung, thì sẽ vãng sinh về thế giới An Lạc, tức cũng là thế giới Cực Lạc, được gặp Phật A Di Ðà, ‘’hoa nở thấy Phật‘’ có Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát vây quanh chỗ ở.

 

Sanh liên hoa trung, bảo tọa chi thượng, bất phục vi tham dục sở não. diệc phục bất vi sân khuể ngu si sở não. Diệc phục bất vi kiêu mạn tật đố chư cấu sở não. đắc Bồ Tát thần thông, Vô sanh Pháp nhẫn.

Sinh trên đài báu trong hoa sen, chẳng bị tham dục làm phiền não, cũng chẳng bị sân hận ngu si làm phiền não, cũng chẳng bị sự kiêu mạn, đố kỵ, các cấu, làm phiền não, được thần thông của Bồ Tát, và vô sinh pháp nhẫn.

Người hóa sinh trên đài báu trong hoa sen, chẳng còn bị tham dục làm phiền não, chẳng còn bị sân hận ngu si làm phiền não, chẳng còn bị ngu si làm phiền não. Giải trừ ba độc thanh tịnh, tức là thân tâm khinh an. Ba độc này có mối quan hệ với nhau. Sinh tâm tham dục mà chẳng đắc được, thì bèn khởi nóng giận. Khi nóng giận thì sẽ mất đi lý trí, tức là ngu si. Trí huệ chẳng hiện tiền thì chẳng rõ thị phi, chẳng biết thiện ác. Vô minh hiện tiền thì làm việc điên đảo, tạo thành nghiệp thân khẩu ý chẳng thanh tịnh. Phạm mười điều ác rồi, thì vĩnh viễn đọa vào ba đường ác trong luân hồi, chẳng có kỳ hạn thoát khỏi.

Khống chế tham sân si như thế nào ? Thì phải siêng tu giới định huệ, hay giữ giới luật thì chẳng có tâm tham, hay giữ định lực thì chẳng có tâm sân, hay học trí huệ thì chẳng ngu si. Ví như một bồn nước đục (vô minh) muốn cho nó thanh tịnh lắng trong, thì cho vào một chút phèn trắng (giới pháp), đừng quấy động (định lực), từ từ sẽ lắng xuống và hiện ra thanh tịnh (trí huệ), hay phản chiếu vạn vật.

Nếu minh bạch nghĩa lý Kinh Pháp Hoa, thì cũng chẳng bị kiêu mạn, đố kỵ, các cấu bẩn gây phiền não. Nếu người nào có hai thứ tâm lý biến thái này, thì vĩnh viễn chẳng thể khai ngộ, chẳng thể được trí huệ. Tu đạo trước hết phải đừng có tâm cống cao ngã mạn, chẳng có tâm đố kỵ chướng ngại, học tinh thần từ bi hỷ xả của Bồ Tát.

Trong tâm chẳng có dơ bẩn, thì sẽ đắc được thần thông của Bồ Tát và vô sinh pháp nhẫn. Vô sinh pháp nhẫn là gì ? Nói đơn giản là chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn ở nơi tâm.

Nhẫn tức là nhẫn nại, đối diện với cảnh nghịch mà chẳng sinh tâm sân hận. An trụ trên lý pháp mà chẳng động tâm. An trụ tâm vào chân như thật tướng, thì cảm thấy chẳng có tơ hào tình niệm của phàm phu, có thể xả bỏ, cũng chẳng có kiến giải của Thánh nhân, có thể thủ lấy. Lúc đó, cảm thấy mười pháp giới chẳng có chút pháp sinh, cũng chẳng có chút pháp diệt, chẳng có sinh diệt, song trên pháp lý đều là như như bất động. Vì như như bất động, cho nên chẳng có sinh diệt, từ đó thấy tất cả các pháp đều chẳng có sinh diệt. Thật sự thấy được chân như thật tướng, mới đắc được sự nhẫn đó, mà vĩnh viễn chẳng bị cảnh bên ngoài làm mê hoặc, giao động tâm.

Tóm lại, buông bỏ được tất cả, chẳng có chấp trước tức là vô sinh pháp nhẫn. Chứng được vô sinh pháp nhẫn, tức là pháp thân Bồ Tát. Phàm là người thượng phẩm thượng sinh về thế giới Cực Lạc, một khi đến Tịnh Ðộ thì lập tức hoa nở thấy Phật, lập tức được vô sinh pháp nhẫn, có đại trí huệ, có đại thần thông, trợ giúp Phật giáo hóa chúng sinh, khiến cho sớm được lìa khổ được vui, sinh về Tịnh Ðộ.

 

Đắc thị nhẫn dĩ. Nhãn căn thanh tịnh, dĩ thị thanh Tịnh nhãn căn, kiến thất bách vạn nhị Thiên ức na do tha hằng hà sa đẳng chư Phật Như Lai.

Ðắc được nhẫn đó rồi, thì căn mắt thanh tịnh, nhờ căn mắt thanh tịnh, nên thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức Na do tha, Hằng hà sa các đức Phật Như Lai.

Ðắc được vô sinh pháp nhẫn rồi, thì căn mắt thanh tịnh, tức cũng là đắc được pháp nhẫn. Dùng pháp nhãn thanh tịnh, có thể thấy được bảy trăm vạn hai ngàn ức Na do tha, Hằng hà sa các Ðức Phật.

 

Thị thời chư Phật dao cọng tán ngôn: “Thiện tai, Thiện tai! Thiện nam tử! Nhữ năng ư Thích Ca Mâu Ni Phật Pháp trung, thọ trì đọc tụng tư tánh thị Kinh. Vi tha nhân thuyết, sở đắc phước đức vô lượng vô biên, hỏa bất năng thiêu, thủy bất năng phiêu, nhữ chi công đức, Thiên Phật cọng thuyết bất năng lệnh tận.”

Lúc đó, các đức Phật cùng nhau khen ngợi nói : Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ông ở trong pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay thọ trì đọc tụng suy gẫm kinh này, vì người khác nói, phước đức đắc được vô lượng vô biên, lửa không thể thiêu đặng, nước không thể ngập chết đặng, công đức của ông ngàn đức Phật cùng nói, cũng không hết được.

Lúc đó, chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở trong mười phương cõi nước, đều cùng nhau khen rằng :‘’Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ông ở trong pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni, hay thọ trì kinh này, đọc tụng kinh này, tư duy kinh này. Lại vì người khác giải nói kinh này, công đức đắc được vô lượng vô biên. Lửa lớn không thể thiêu đặng, nước lớn không thể ngập chết. Công đức của ông dù ngàn vị Phật cùng nhau nói, cũng nói không hết được.’’

 

Nhữ kim dĩ năng phá chư ma tặc. hoại sanh tử quân. Chư dư oán địch giai tất tồi diệt.

Ông nay đã phá được các ma tặc, dẹp tan quân sinh tử, các oán địch khác cũng đều tiêu diệt.

Hiện tại ông đã phá trừ được tất cả ma tặc. Ma hay chướng ngại chánh đạo, hay hại huệ mạng, tặc là sáu tên tặc, tức là sáu căn cướp đi pháp tài. Lại phá hoại được quân sinh tử, chẳng còn thọ khổ trong luân hồi, còn các oán địch khác thì thảy đều tiêu diệt, chẳng còn đến nhiễu hại nữa.

 

Thiện nam tử ! bách Thiên chư Phật, dĩ thần thông lực cọng thủ hộ nhữ. ư nhất thiết thế gian Thiên, nhân chi trung vô như nhữ giả, duy trừ Như Lai, kỳ chư Thanh văn, Bích Chi Phật, nãi chí Bồ Tát, trí tuệ Thiền định vô hữu dữ nhữ đẳng giả.

Thiện nam tử ! Trăm ngàn các đức Phật dùng sức thần thông cùng bảo hộ ông. Ở trong tất cả thế gian trời người chẳng có ai bằng ông, ngoài Như Lai ra, các hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến Bồ Tát, trí huệ thiền định, cũng chẳng có ai bằng ông.

‘’Thiện nam tử ! Trăm ngàn các Ðức Phật, cùng dùng sức đại thần thông, cùng bảo hộ ông. Ở trong tất cả thế gian trời người chẳng có ai cao hơn ông. Trừ Như Lai ra, dù tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, cho đến trí huệ và thần thông của Bồ Tát, cũng chẳng bằng ông được.’’ Tóm lại, địa vị của Bồ Tát đó đã gần bậc Diệu Giác.

 

Tú Vương hoa ! Thử Bồ Tát thành tựu như thị công đức trí tuệ chi lực.

Tú Vương Hoa ! Bồ Tát đó thành tựu sức công đức trí huệ như thế.

Phật lại gọi một tiếng :‘’Tú Vương Hoa Bồ Tát ! Vị Bồ Tát nghe kinh tu trì đó, vãng sinh Tịnh Ðộ thành tựu sức công đức trí huệ như thế.’’ Do đó, có thể biết, thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép bộ Kinh Pháp Hoa này, thì có cảnh giới không thể nghĩ bàn.

 

Nhược hữu nhân văn thị Dược Vương Bồ Tát bổn sự phẩm. Năng tùy hỉ tán thiện giả, thị nhân hiện thế khẩu trung thường xuất thanh liên hoa hương. Thân mao khổng trung thường xuất ngưu đầu chiên đàn chi hương. sở đắc công đức, như thượng sở thuyết.

Nếu có người nghe Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà tùy hỷ khen ngợi, thì người đó, hiện đời trong miệng thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh, lỗ lông nơi thân thường tỏa ra hương thơm ngưu đầu chiên đàn, công đức đắc được như trên đã nói.

Nếu có người nghe Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, mà tùy hỷ tán thán :‘’Lành thay !’’ Thì người đó hiện đời trong miệng thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh, lỗ lông nơi thân thường tỏa ra hương thơm ngưu đầu chiên đàn, công đức đắc được như trên đã nói.

 

Thị cố, Tú Vương Hoa! Dĩ thử Dược Vương Bồ Tát bổn sự phẩm chúc lũy ư nhữ. Ngã diệt độ hậu hậu ngũ bách tuế trung, quảng tuyên lưu bố ư Diêm phù đề, vô lệnh đoạn tuyệt, ác ma, ma dân, chư Thiên, Long, dạ xoa, cưu bàn trà đẳng, đắc kỳ tiện dã.

Bởi thế, Tú Vương Hoa ! Ta đem Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương này, phó chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, trong năm trăm năm sau, hãy rộng truyền bá khắp cõi Diêm Phù Ðề, đừng khiến cho đoạn tuyệt, đừng để ác ma, dân ma, chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, hết thảy được phương tiện đó.

Phật nói :‘’Bởi vì thế, Tú Vương Hoa Bồ Tát ! Ta đem phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương này, phó chúc cho ông. Sau khi ta diệt độ, trong năm trăm năm sau, ông phải truyền bá phẩm này, lưu truyền ở cõi Diêm Phù Ðề, đừng khiến cho đoạn tuyệt thất truyền, đừng khiến cho con ma, cháu ma, thần ma, dân ma, trời, rồng, tám bộ chùng, thảy được phương tiện đó.’’

 

Tú Vương hoa! Nhữ đương dĩ thần thông chi lực thủ hộ thị Kinh. Sở dĩ giả hà? thử Kinh tức vi Diêm phù đề nhân. Bệnh chi lương dược. Nhược nhân hữu bệnh. đắc văn thị Kinh. bệnh tức tiêu diệt, bất lão bất tử.

Tú Vương Hoa ! Ông nên dùng sức thần thông giữ gìn kinh này. Vì sao ? Vì kinh này là thuốc hay cho những người bệnh ở cõi Diêm Phù Ðề. Nếu người có bệnh mà được nghe kinh này, thì bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.

Phật lại gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Ông nên dùng sức thần thông để giữ gìn bộ kinh này. Vì sao ? Vì bộ kinh này là thuốc hay, trị được bệnh của con người ở cõi Diêm Phù Ðề. Người có bệnh si ái, thì kinh này trị được bệnh si ái. Nếu như có người mắc bệnh mà nghe được Kinh Pháp Hoa, thì liền tiêu trừ bệnh hoạn, thậm chí không già không chết.’’

 

Tú Vương hoa! Nhữ nhược kiến hữu thọ trì thị Kinh giả, ưng dĩ thanh liên hoa thịnh mãn mạt hương. Cung tán kỳ thượng. Tán dĩ. Tác thị niệm ngôn: “Thử nhân bất cửu tất đương thủ thảo tọa ư đạo tràng, phá chư ma quân, đương xuy pháp loa, kích đại pháp cổ, độ thoát nhất thiết chúng sanh lão bệnh tử hải.” Thị cố cầu Phật đạo giả, kiến hữu thọ trì thị Kinh điển nhân. ứng đương như thị sanh cung kính tâm.

Tú Vương Hoa ! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, thì nên dùng hoa sen xanh, và đựng đầy hương bột cúng dường rải lên trên người đó. Rải lên rồi, bèn nghĩ rằng : Người này chẳng bao lâu sẽ lấy cỏ ngồi ở Ðạo tràng, phá các quân ma, thổi pháp loa, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sinh, lìa khỏi biển sanh già bệnh chết. Bởi thế, người cầu Phật đạo, thấy người thọ trì kinh điển này, thì nên sinh tâm cung kính như thế.

Phật lại gọi một tiếng :‘’Bồ Tát Tú Vương Hoa ! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, thì nên dùng hoa sen xanh và đựng đầy hương bột cúng dường rải lên trên họ. Rải rồi thì nghĩ rằng : ‘’Người này chẳng bao lâu nữa sẽ lấy cỏ làm tòa, ngồi dưới cội bồ đề phá các quân ma, hàng phục ma nữ, thành Chánh Giác, thổi đại pháp loa, đánh trống pháp lớn, vì tất cả chúng sinh mà thuyết pháp, độ thoát tất cả chúng sinh, lìa khỏi biển khổ sanh già bệnh chết. Bởi thế phàm là người cầu Phật đạo, thấy người thọ trì kinh này, thì nên sinh tâm cung kính như thế.

 

Thuyết thị Dược Vương Bồ Tát bổn sự phẩm thời, bát vạn tứ Thiên Bồ Tát đắc giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn Đà La Ni.

Khi đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát, đắc được Ðà la ni tất cả ngôn ngữ của chúng sinh.

Khi Ðức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn bốn ngàn vị Bồ Tát, đắc được Ðà la ni tất cả ngôn ngữ của chúng sinh.

 

Đa Bảo Như Lai ư bảo tháp trung tán Tú Vương hoa Bồ Tát ngôn: “Thiện tai, Thiện tai! Tú Vương hoa! Nhữ thành tựu bất khả tư nghị công đức, nãi năng vấn Thích Ca Mâu Ni Phật như thử chi sự. lợi ích vô lượng nhất thiết chúng sanh.”

Ðức Ða Bảo Như Lai ở trong bảo tháp khen Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng: Lành thay ! Lành thay ! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, mới có thể hỏi đức Thích Ca Mâu Ni việc như thế, lợi ích vô lượng tất cả chúng sinh.

Ðức Ða Bảo Như Lai ở trong bảo tháp, cũng khen ngợi Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng :‘’Lành thay ! Lành thay ! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, mới có thể hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni, về việc khổ hạnh khó hành của Bồ Tát Dược Vương đốt thân, đốt cánh tay, hay lợi ích vô lượng tất cả chúng sinh.’’