A Tu La Vương

A Tu La dịch là “phi thiên”. Vì chúng có phước trời, mà chẳng có đức trời. Tại sao chẳng có đức trời? Vì trong quá khứ chúng chuyên môn hiềm kỵ người khác, tức là tâm không ngay thẳng, dùng tâm giả dối đi ca ngợi người khác, khiến cho họ hoan hỷ, cho nên chẳng có đức trời. A Tu La còn dịch là “không đoan chánh”. Vì tướng mạo của chúng không đoan chánh. Người nam thì tướng mạo xấu xí, người nữ thì tướng mạo xinh đẹp. A Tu La còn dịch là “vô tửu” (không có rượu) người nam rất thích uống rượu, thích đấu tranh, nếu có rượu thì phát sinh chiến tranh, cho nên chẳng có rượu để uống. A Tu La có bốn thứ đó là:

1. A Tu La ở trên trời. Thường tác chiến với chư thiên. Vì A Tu La Vương muốn làm chủ Trời Ðạo Lợi. Tay của vị này có thể lay động núi Tu Di, làm cho cung điện của trời Ðế Thích, chấn động không được yên. Trời Ðế Thích mới xuất lãnh Tứ Thiên Vương làm tiên phong, giao chiến với nhau, nhưng thường đánh không thắng, mới cầu cứu Ðức Phật. Ðức Phật mới dạy niệm câu: “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật”, do đó mới thắng được A Tu La Vương. Con gái của Vua A Tu La dâng cho trời Ðế Thích làm vợ, hai bên hòa đàm với nhau.

2. A Tu La ở trong loài người. Chúng chuyên đố kỵ, rất cao hứng đối với bất cứ việc gì, đều có tâm tranh cường háo thắng, thắng thì vui, thua thì sân hận, nổi gió làm sóng, thường xảy ra chiến tranh.

3. A Tu La ở trong loài súc sinh. Thích đấu tranh ỷ mạnh hiếp yếu, lấy lớn khinh nhỏ.

4. A Tu La ở trong loài ngạ quỷ. Cũng lại như thế. Bất cứ trong loài nào, cũng đều có tâm đấu tranh, tâm thắng phụ, tức là có tâm tranh cường luận thắng.

Cung điện của A Tu La tại núi Kim Cang, tuy nhiên là ma, nhưng mỗi ngày ba thời, phải chịu khổ hình đao bén từ không trung bay vào trong cung, nếu không tránh thì sẽ bị giết hại, cho nên muốn làm chủ Trời Ðao Lợi.

Vị A Tu La Vương thứ nhất tên là La Hầu. Dịch là “nhiếp não”. Vì vị này có thể dùng hai tay che mặt trời, mặt trăng, làm cho đen tối, khiến cho chư thiên oán nộ, cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ hai tên là Tỳ Ma Chất Ða La. Tỳ Ma dịch là “ti” (sợi tơ). Chất Ða La dịch là “đủ thứ”, vì vị này dùng một sợi tơ, biến ra đủ thứ hình tướng vật thể chẳng giống nhau, cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ ba tên là Xảo Huyễn Thuật. Vì vị này dùng huyễn thuật xảo diệu tự có hóa không, tự không hóa có, lúc thì hiện hòn núi cao, khi thì hiện biển lớn, còn có thể dời núi lấp biển, làm cho mặt trời mặt trăng biến đổi lẫn nhau, thiên biến vạn hóa như vậy, làm cho người sinh ra huyễn giác, cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ tư tên là Ðại Quyến Thuộc. Vì vị này thích nhất là quyến thuộc, càng nhiều càng tốt, cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ năm tên là Ðại Lực. Vì khí lực của vị này lớn vô cùng, một tay có thể nâng núi Tu Di lên, cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ sáu tên là Biến Chiếu. Vì vị này có một loại quang minh, sáng hơn so với ánh sáng mặt trời, chiếu khắp mười phương cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ bảy tên là Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm. Vì hạnh nguyện của vị này kiên cố, mà còn trang nghiêm tốt đẹp, cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ tám tên là Quảng Ðại Nhân Huệ. Vì vị này lúc còn ở tại nhân đîa, thì tu trí huệ rộng lớn, cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ chín tên là Xuất Hiện Thắng Ðức. Vì vị này có đức hạnh đặc biệt thù thắng, luôn luôn hiển hiện, làm cho chúng sanh thấy được, thì biết là vị này có đức hạnh, cho nên được tên này.

Vị A Tu La Vương thứ mười tên là Diệu Hảo Âm Thanh. Vì âm thanh của vị này rất hay, êm tai vô cùng, làm cho người nghe đều sinh tâm vui vẻ, cho nên được tên này.