A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 3 – Tập 88 – 90

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3 – Tập 88-90

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 88

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang một trăm năm mươi mốt:

 

(Sớ) Án bổn truyện, Sư, Trung Thiên Trúc quốc nhân, phụ danh Cưu Ma La Diễm, gia thế tướng quốc, khí vinh xuất du, Quy Tư vương dĩ muội thê chi, sanh Sư. Sư sanh nhi thần linh, thất tuế tùy mẫu nhập tự, kiến thiết bát, thí thủ gia đảnh, nga niệm thử bát thậm trọng, ngã hà năng cử? Tức bất thắng trọng. Toại ngộ vạn pháp duy tâm, bác học cường ký, nhân năng mạc cập.

()按本傳,師,中天竺國人,父名鳩摩羅琰,家世相國,棄榮出遊,龜茲王以妹妻之,生師,師生而神靈,七歲隨母入寺,見鐵缽,試取加頂,俄念此缽甚重,我何能舉?即不勝重。遂悟萬法唯心,博學強記,人能莫及。

(Sớ: Theo truyện ký của Ngài, Sư là người xứ Trung Thiên Trúc, cha tên là Cưu Ma La Diễm (Kumārāyana), vốn thuộc dòng dõi Tướng Quốc, bỏ vinh hoa, đi du hóa khắp nơi. Vua xứ Quy Tư (Kucha) gả em gái cho, sanh ra Sư. Sư sanh ra thông minh, bảy tuổi theo mẹ vào chùa, thấy bát sắt, thử đội lên đầu, chợt nghĩ bát này rất nặng, ta làm sao có thể giở lên được? Liền [cảm thấy] bát nặng khôn xiết, bèn ngộ “vạn pháp duy tâm”, học rộng, nhớ dai, không ai bằng được).

Giới thiệu người phiên dịch bộ kinh này là Cưu Ma La Thập đại sư. Vị đại sư này là Bồ Tát tái lai, trong đời quá khứ từng là vị sư dịch kinh của bảy đức Phật, từng phiên dịch kinh điển của bảy đức Phật. Vì thế, Ngài dịch hay như thế, do có mối quan hệ nhân duyên với đời trước.

“Bổn truyện”: Đây là trích lục từ truyện ký của Ngài. Truyện ký bản gốc rất dài, trong Đại Tạng Kinh và Cao Tăng Truyện đều có truyện ký của Ngài. Chữ “Sư” [trong lời Sớ] chỉ La Thập đại sư. “Trung Thiên Trúc quốc nhân”: Đây là nói về quê hương của Ngài. Thiên Trúc là Ấn Độ, khi ấy Ấn Độ được chia thành năm khu vực: Đông, Nam, Tây, Bắc, và Trung, Ngài là người Trung Ấn Độ. Cha Ngài là Cưu Ma La Diễm (Kumārāyana), là Tướng Quốc, tức Tể Tướng, giống như Hành Chánh Viện Trưởng (Thủ Tướng)[110] trong chế độ hiện thời, địa vị khá cao. Tuy sanh trong gia đình quý tộc, ông từ bỏ phú quý đi xuất gia, [lời Sớ chép là] “khí vinh xuất du”, tức là sang du lịch nước khác. Sau đấy đến Quy Tư (Kuche, Cưu Ty), chữ này đọc [theo âm Quan Thoại] là Qiu Cí[111] thuộc Thiên Sơn nam lộ của vùng Tân Cương, Trung Quốc; khi ấy, [Cưu Ty] là một quốc gia rất nổi danh tại Tây Vực[112]. Quốc vương Cưu Ty coi trọng Cưu Ma La Diễm, bèn gả em gái cho Ngài. Định cư ở nơi đây, sau đó, sanh ra một trai là Cưu Ma La Thập. Đây là tường thuật gia thế của Ngài.

“Sanh nhi thần linh”: Ngài sanh ra cũng rất không tầm thường, đứa bé này vô cùng thông minh, có trí huệ. “Thất tuế tùy mẫu nhập tự” (bảy tuổi theo mẹ vào chùa), thấy bát sắt trong chùa, đội lên đầu chơi, bỗng nhiên nghĩ: Bát này nặng như thế, ta bé như thế, làm sao đội lên đầu được? Ý niệm này vừa nẩy sanh, liền cảm thấy cái bát ấy quá nặng, nhấc lên không nổi! Ngay lúc ấy, Ngài liền ngộ “vạn pháp duy tâm”. Trong tâm không có phân biệt chấp trước, sẽ chẳng có nặng hay nhẹ; có phân biệt, chấp trước, hết thảy hiện tượng sẽ sanh ra. Đúng là cảnh chuyển theo tâm! Vào thời Hán, tại Trung Quốc, Lý Quảng là một vị đại tướng rất giỏi. Có một lần trong khi hành quân, ông ta thấy một khối đá lớn trong đám cây cỏ, khối đá ấy nhìn xa giống như một con cọp, liền bắn một phát tên. Khi bắn, mũi tên cắm sâu vào tảng đá, Lý Quảng vừa nhìn thấy khối đá, liền cảm thấy chính mình ghê gớm lắm: “Các ngươi xem đó, ta rất mạnh! Bắn một phát lút sâu vào đá”. Bắn phát nữa, chẳng thể xuyên vào đá! Đấy cũng là vạn pháp duy tâm! Khi ông ta bắn tên, chẳng nghĩ đó là tảng đá mà tưởng là con cọp, cho nên mũi tên có thể bắn xuyên qua. Niệm thứ hai, biết nó là tảng đá, nên mũi tên chẳng bắn xuyên thấu được. Vạn pháp duy tâm, tâm chuyển vạn pháp. “Bác học cường ký”: Đại sư có trí nhớ rất tốt, những sách đã đọc chẳng quên, “nhân năng mạc cập”: So ra, người bình thường chẳng bằng Ngài.

 

(Sớ) Dĩ xung niên cao đức, cố vân Đồng Thọ.

() 以沖年高德,故云童壽。

(Sớ: Do [tuổi còn trẻ] mà đức hạnh cao trỗi như người đã lão thành, nên gọi là Đồng Thọ).

Ngài mười hai, mười ba tuổi đã giảng kinh; khi ấy, những vị cao tăng đại đức cùng Ngài biện luận đều chẳng thể thắng Ngài. Tuổi rất trẻ, nhưng học vấn lẫn đức hạnh giống như người trưởng thành, nên mọi người gọi Ngài bằng danh xưng Cưu Ma La, có nghĩa là Đồng Thọ (đứa trẻ già dặn).

 

(Sớ) Ký thông Tam Tạng, đông du Cưu Ty, vương thiết kim sư tử tòa xử chi.

() 既通三藏,東遊龜茲,王設金獅子座處之。

(Sớ: Đã thông suốt Tam Tạng, đi sang phương Đông, [trở về] xứ Cưu Ty, quốc vương bày tòa sư tử bằng vàng thỉnh Ngài ngồi).

Sau khi mẹ Ngài xuất gia, bèn dẫn Ngài sang Ấn Độ. Bà mẹ đã chứng Tam Quả, chính Ngài cũng đại triệt đại ngộ. Từ Ấn Độ du học, trở về Cưu Ty, khi ấy, La Thập đại sư hai mươi mấy tuổi. Quốc vương Cưu Ty vô cùng tôn trọng Ngài, cúng dường Ngài bảo tọa sư tử bằng vàng, thỉnh Ngài ở lại nơi ấy giảng kinh, thuyết pháp, coi Ngài như quốc bảo. Thời cổ, Trung Quốc và ngoại quốc giống nhau, coi nhân tài là quốc bảo. Đế vương, đại thần chẳng ai không tôn trọng hiền nhân, lễ hiền hạ sĩ (lễ kính, khiêm tốn đối với bậc hiền nhân, trí thức), xin họ dạy bảo cách cai trị nước nhà. Nói theo cách bây giờ là “tư chánh” (資政: giúp  đỡ  cai  trị),  làm  cố  vấn  cho quốc vương. Đây là nói rõ địa vị của Ngài tại Cưu Ty.

 

(Sớ) Phù Kiên cứ Tần, tương sự Tây thảo, thích Thái Sử tấu dị tinh hiện ư Tây Vực phân dã, đương hữu đại đức trí nhân, nhập phụ Trung Quốc.

() 苻堅據秦 將事西討 適太史奏異星現於西域分野,當有大德智人,入輔中國。

(Sớ: Phù Kiên chiếm cứ đất Tần, sắp sửa [đem quân] chinh phạt phía Tây, nhằm lúc ấy, quan Thái Sử tâu có ngôi sao lạ mọc trên phần bầu trời[113] ở phía Tây Vực, ắt sẽ có bậc đại đức trí huệ, vào giúp Trung Quốc).

“Phù Kiên cứ Tần”: Vào thời Nam Bắc Triều, Phù Kiên chiếm cứ vùng Quan Trung[114], thành lập một quốc gia gọi là Tần. “Tây thảo”: “Thảo” (討) là “thảo phạt” (討伐). Ông ta rất có dã tâm, vẫn luôn không ngừng mong mở rộng lãnh thổ quốc gia, xâm phạm những thành thị lân cận. Thời cổ coi trọng bói toán, chiêm tinh, nó có ảnh hưởng rất lớn đến quốc gia đại sự. “Thái Sử” là chức quan trông coi việc quan sát hiện tượng thiên văn, ông ta thấy một ngôi sao rất lớn xuất hiện tại phương Tây. Đây là hiện tượng bất thường, bèn tâu lên Tần vương: Phía Tây xuất hiện một ngôi sao lớn. Căn cứ trên sự bói toán, phương Tây có bậc đại đức đại trí huệ đến Trung Quốc, giúp đỡ Trung Quốc.

 

(Sớ) Kiên vân: “Trẫm văn Cưu Ty hữu La Thập giả, đắc phi thử da?

() 堅云:朕聞龜茲有羅什者,得非此耶?

(Sớ: Phù Kiên nói: “Trẫm nghe nói xứ Cưu Ty có ngài La Thập, có phải là người ấy đó chăng?”)

Phù Kiên nói: “Ta nghe nói nước Cưu Ty có một vị tên là Cưu Ma La Thập, có đúng người ấy hay chăng”. Vì sự bói toán này, khi ấy, nhà vua bèn sai người sang Tây Vực nghênh thỉnh ngài Cưu Ma La Thập, thỉnh bậc cao nhân thật sự có trí huệ, có đức hạnh đến phụ trợ quốc gia này; nhưng quốc vương [Cưu Ty] không chịu để cho Ngài đi.

 

(Sớ) Khiển tướng Lữ Quang.

() 遣將呂光。

(Sớ: Phù Kiên sai tướng Lữ Quang).

 Năm Kiến Nguyên mười ba (377) thời Phù Kiên, phái đại tướng Lữ Quang dẫn bảy vạn đại quân Tây chinh.

 

(Sớ) Lâm phát, vị viết.

() 臨發,謂曰。

(Sớ: Lúc sắp xuất hành, vua nói).

Lúc sắp dẫn quân đi, vua dặn riêng Lữ Quang.

 

(Sớ) Trẫm phi tham địa dụng binh.

() 朕非貪地用兵。

(Sớ: Ta chẳng phải do tham chiếm đất mà dụng binh).

 Xuất binh lần này không phải là tham cầu đất đai của người ta, mà cũng chẳng phải là tham cầu vàng, bạc, đồ quý giá.

 

(Sớ) Văn La Thập thâm giải pháp tướng, vi hậu học tông.

() 聞羅什深解法相,為後學宗。

(Sớ: Ta nghe nói La Thập hiểu pháp tướng sâu xa, là bậc tông sư cho hàng hậu học).

 Ta nghe nói La Thập đại sư hết sức thông đạt Đại Thừa Phật pháp, quả thật có sự ngộ nhập rất sâu, là tông sư cho hàng hậu học. “Tông” là tông sư, là tổ sư trong Phật môn, Nho gia gọi vị ấy là tông sư.

 

(Sớ) Nhược khắc Cưu Ty, tức nghi trì dịch tống Thập.

() 若克龜茲,即宜馳驛送什。

(Sớ: Nếu phá tan Cưu Ty, hãy mau đưa ngài La Thập trở về).

 Phá được Cưu Ty, thắng trận, hãy lập tức dùng khoái mã (ngựa chạy rất nhanh), chạy tiếp sức từng trạm chẳng ngừng, ngay lập tức đưa pháp sư La Thập về. Bỏ ra bảy vạn đại quân chẳng tiếc nuối, lao sư động chúng[115] để thỉnh một người. Phù Kiên tôn trọng hiền nhân, đúng là chẳng cần phải tranh cãi nữa! Lữ Quang dẫn đại quân tới nước Cưu Ty. Tuy Cưu Ty là một nước lớn ở Tây Vực, cũng bất quá là một thành mà thôi, không có cách nào chống lại binh Tần. Quân Tần vây kín đô thành nước Cưu Ty, nói rõ nguyên nhân vì sao kéo đến: Do muốn thỉnh người ấy. Vua Cưu Ty rất không vừa lòng, muốn chống lại. La Thập bảo vua Cưu Ty: “Binh lực của chúng ta không bằng người ta, nhất định sẽ thua trận, chẳng biết bao nhiêu người bị tử thương”, khuyên vua Cưu Ty hòa đàm, không nên chiến tranh, Ngài tự theo họ đi. Vua Cưu Ty nghe lời Ngài khuyên. Trong tình hình ấy, Lữ Quang dẫn Cưu Ma La Thập đại sư trở về Trung Quốc, thỉnh đến như thế đó!

 

(Sớ) Cập phá Cưu Ty, tải Thập dĩ quy.

() 及破龜茲,載什以歸。

(Sớ: Đến khi phá được Cưu Ty, chở ngài La Thập về).

Thắng trận, dùng xe chở La Thập đại sư về.

 

(Sớ) Trung đạo, văn Kiên dĩ vi Diêu Trành sở hại, toại chỉ bất phản, Thập sư nhân bất chí Tần.

()中道聞堅已為姚萇所害,遂止不返,什師因不至秦。

(Sớ: Giữa đường, nghe Phù Kiên đã bị Diêu Trành hại, bèn dừng lại, không trở về [kinh đô Trường An] nữa, do vậy, ngài La Thập chưa đến đất Tần).

Lữ Quang về tới Lương Châu, nay thuộc tỉnh Cam Túc, được tin quốc gia có biến cố. Tần vương đánh nhau với Đông Tấn tại Phì Thủy, thua trận. Nói thật ra, ông ta bại trận lần này vì quá kiêu ngạo, đó gọi là “kiêu binh tất bại”. Khi ấy, Phù Kiên dẫn mấy chục vạn quân, phô trương là một trăm vạn, quân đội Đông Tấn tập hợp hết cả lại, tổng cộng chưa đầy mười vạn người. Đấy là “dĩ quả địch chúng” (lấy ít chống đông). Phù Kiên hết sức kiêu ngạo, nghĩ mình ắt chiến thắng, Đông Tấn đâu có lực lượng nào để chống lại ông ta? Không ngờ chính mình bại trận! Sau khi bại trận, quay về, đại tướng dưới quyền là Diêu Trành đảo chánh, giết ông ta để tự mình làm quốc vương. Diêu Trành và Lữ Quang cùng là đại tướng của Phù Kiên, nay Diêu Trành làm quốc vương, Lữ Quang chẳng phục; vì thế, chiếm cứ Lương Châu, lập ra nước Lương tại đó, xưng là Lương Vương. Khi ấy, lực lượng của ông ta khá hùng hậu, Diêu Trành cũng chẳng có cách nào khác. Do vậy, La Thập đại sư không có cách nào đến nước Tần, ở Lương Châu gần ba mươi năm. Lữ Quang biết ngài La Thập là một người lỗi lạc, nhưng chính mình không thể dùng Ngài, lại không dám tha Ngài, vì Ngài là người có trí huệ, sợ Ngài phù tá người khác. Do vậy, giam kín Ngài tại Lương Châu. Mẹ ngài La Thập từng bảo Ngài: “Ngươi và Trung Quốc hữu duyên, nhưng phải chịu tai nạn rất lớn, sẽ gặp cảnh giam cầm”. La Thập thưa cùng mẹ: “Chỉ cần có thể lợi ích chúng sanh, khổ nạn dẫu lớn đến mấy cũng đều ưng chịu”.

 

(Sớ) Hậu Trành diệc văn Sư danh, yếu thỉnh, nhi Quang bất doãn.

() 後萇亦聞師名,要請,而光不允。

(Sớ: Sau này, Diêu Trành cũng nghe danh Sư, muốn thỉnh, nhưng Quang không chấp nhận).

Diêu Trành hướng về Lữ Quang yêu cầu, mong có thể thỉnh La Thập đại sư tới Trường An, Lữ Quang không đáp ứng.

 

(Sớ) Trành vong, tử Hưng phục thỉnh, diệc bất doãn.

() 萇亡,子興復請,亦不允。

(Sớ: Diêu Trành mất, con là Diêu Hưng lại thỉnh, Lữ Quang vẫn không chấp nhận).

Sau khi Diêu Trành chết, con trai là Diêu Hưng kế vị, lại hướng về nước Lương thỉnh cầu hãy để Cưu Ma La Thập đại sư tới Trường An, nhưng vẫn không được đáp ứng.

 

(Sớ) Nhân khiển binh phạt Quang, Quang điệt hàng Tần, phương đắc nghênh Sư nhập quan, phụng vi quốc sư.

()因遣兵伐光,光姪降秦,方得迎師入關,奉為國師。

(Sớ: Do vậy, phái quân chinh phạt Quang. Cháu của Quang bèn đầu hàng nước Tần, mới đón được Sư về Quan Trung, tôn làm quốc sư).

 Khi ấy, Lữ Quang đã chết, cháu trai của Lữ Quang đầu hàng, Diêu Hưng mới có thể nghênh thỉnh La Thập đại sư tới Trường An. Diêu Hưng đối xử với Ngài theo lễ tiết quốc sư, vô cùng tôn kính. Lại còn đem biệt thự của hoàng đế trong vườn Tiêu Dao cúng dường La Thập đại sư, thỉnh Ngài tiến hành công tác dịch kinh. Ngài ở Trường An bảy năm rồi viên tịch. Do vậy, La Thập đại sư tới Trung Quốc hoằng pháp trên thực tế chỉ có bảy năm. Thuở ấy, dịch trường dịch kinh của La Thập đại sư gần như tới tám trăm người, quy mô to lớn, là dịch trường bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Sau này, dịch trường của Huyền Trang đại sư đại khái là sáu trăm người. Vì Ngài trụ tại Lương Châu một thời gian dài, học tiếng Hán đến nơi đến chốn, những kinh điển do Ngài dịch gần như là văn chương do người Hoa viết. Vì thế, tài nghệ về tiếng Hán của tất cả các pháp sư dịch kinh khác đều chẳng bằng ngài La Thập. Đối với Phật giáo Trung Quốc, Ngài có ảnh hưởng sâu xa, có cống hiến không ai lớn bằng!

 

(Sớ) Sư duyệt cựu kinh, nghĩa đa phi tích, bất dữ Phạn bổn tương ứng.

() 閱舊經,義多紕僻,不與梵本相應。

(Sớ: Ngài duyệt những kinh điển đã dịch từ trước, thấy nghĩa lý sai lạc, trúc trắc, chẳng tương ứng với nguyên gốc tiếng Phạn).

La Thập đại sư thấy kinh điển được phiên dịch tại Trung Quốc trước đó, nghĩa lý có rất nhiều thiếu sót, có rất nhiều chỗ chẳng viên mãn.

 

(Sớ) Nãi tập sa-môn Triệu, Duệ đẳng bát bách dư nhân, tân dịch kinh luận tam bách cửu thập dư quyển, tịnh sướng thần nguyên, phát huy u trí.

()乃集沙門肇叡等八百餘人,新譯經論三百九十餘卷,並暢神源,發揮幽致。

(Sớ: Bèn nhóm họp các sa-môn như Tăng Triệu, Tăng Duệ v.v… hơn tám trăm người, dịch lại các bản mới đến hơn ba trăm chín mươi quyển, khiến cho những nguồn cội thần kỳ, mầu nhiệm trở thành thông suốt, nêu tỏ lý thẳm sâu tột cùng).

Thuở ấy là lúc nhân tài trong Phật môn cực thịnh, các đời sau không có cách nào hơn được. Những vị như Tăng Triệu, Tăng Duệ đều là những nhân vật lỗi lạc. Lúc ấy, Tăng Triệu đại sư hai mươi mấy tuổi, Ngài thọ mạng rất ngắn, ba mươi mấy tuổi đã qua đời, nhưng thành tựu chẳng thể nghĩ bàn, lưu lại các trước tác như Duy Ma Kinh Chú Giải, Triệu Luận mãi cho đến nay đều vẫn là những tác phẩm đầy uy tín trong Tánh Tông. Tăng Duệ cũng là một trong tứ đại đệ tử của ngài La Thập. Dịch trường của đại sư có hơn tám trăm người, có thể nói là đã tập hợp tinh anh cả nước để tiến hành công tác phiên dịch. Tổng cộng dịch được hơn ba trăm chín mươi quyển kinh luận, mỗi một bộ đều dịch hết sức hay. Người Trung Quốc thường niệm kinh Di Đà, kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, [những kinh ấy] đều do Ngài phiên dịch. “Phát huy u trí”: “U” (幽) là Lý sâu thẳm qua sự phiên dịch của Ngài đều được hiển lộ rất rõ rệt.

 

(Sớ) Sư vị chung thiểu nhật, tập chúng vị viết: “Nguyện sở tuyên dịch, truyền chi hậu thế, hàm cộng lưu thông, kim ư chúng tiền, phát thành thật thệ, nhược sở truyền vô mậu, đương sử phần thân chi hậu, thiệt bất tiêu lạn.

() 師未終少日 ,集眾謂曰 :願所宣譯 傳之後世,咸共流通,今於眾前,發誠實誓,若所傳無謬,當使焚身之後,舌不焦爛。

(Sớ: Trước khi Sư tịch mấy ngày, nhóm đại chúng, bảo: “Nguyện những kinh điển do tôi tuyên dịch, truyền đến đời sau đều được lưu thông. Nay đối trước đại chúng, phát thệ thành thật, nếu những bản dịch được truyền lại không sai lầm, sẽ khiến cho sau khi hỏa thiêu, lưỡi chẳng cháy tiêu”).

Thuở ấy, La Thập đại sư tới Trung Quốc, Diêu Hưng biết đại sư là người thông minh tuyệt đỉnh, nếu Ngài sanh mấy đứa con, nhất định chúng nó sẽ thông minh tuyệt đỉnh. Ngài là người xuất gia, quốc vương ban cho Ngài mười mỹ nữ, ép Ngài nhất định phải nhận lấy. Truyện ký có chép chuyện ngài La Thập nuốt kim. Ngài dạy học trò trì giới, học trò thấy Ngài như vậy, có kẻ chẳng phục lắm. La Thập đại sư chẳng có cách nào, bất đắc dĩ hiển lộ một chút thần thông, lấy kim thêu bỏ đầy một chén, ăn hết chén kim ấy trước mặt mọi người, nhằm bảo học trò: “Các ông có năng lực giống như ta thì mới có thể bắt chước ta, chưa có năng lực ấy thì hãy ngoan ngoãn trì giới”.

“Vị chung thiểu nhật”: Trước lúc Ngài viên tịch vài bữa, Ngài triệu tập đại chúng, hướng về mọi người tuyên bố, nói rõ những kinh điển do Ngài phiên dịch chẳng có sai lầm, mong muốn những kinh điển ấy có thể lưu thông trong đời sau. “Kim ư chúng tiền”: Đối trước đại chúng phát thệ, nếu kinh điển do Ngài phiên dịch chẳng sai lầm, có thể phù hợp ý Phật, sau khi Ngài đã chết, đem hỏa táng, lưỡi chẳng nát, dùng chuyện này để chứng minh.

 

(Sớ) Dĩ Hoằng Thỉ thập nhất niên bát nguyệt, nhị thập nhật, tuất[116] ư Trường An.

() 以弘始十一年八月二十日卒於長安。

(Sớ: Ngày Hai Mươi tháng Tám năm Hoằng Thỉ thứ mười một (409), Ngài mất tại Trường An).

 Lão nhân gia viên tịch ngày Hai Mươi tháng Tám Âm lịch.

 

(Sớ) Xà-duy tân diệt hình tận.

() 闍維薪滅形盡。

(Sớ: Khi trà tỳ, [tới lúc] củi cháy hết, thân hình đều cháy tan).

Xà-duy (Jhāpeti) là hỏa táng. Sau khi hỏa táng, “tân diệt”: Tân (薪) là củi để thiêu; củi thiêu cháy sạch rồi, “hình tận”: Cả cái thân đều cháy tan, cháy hết sạch.

 

(Sớ) Thiệt căn nghiễm nhiên.

() 舌根儼然。

(Sớ: Lưỡi vẫn còn nguyên).

Quả nhiên chẳng sai! Đúng như Ngài đã tự nói, lưỡi Ngài chẳng nát! Toàn thân cháy tan thành tro, lưỡi chẳng tan, dùng chuyện này để chứng tỏ kinh điển do Ngài đã dịch phù hợp ý Phật.

 

(Sớ) Kim thử kinh giả, dịch ư Thập sư, nhi thiệt căn bất hoại, dữ chư Phật xuất quảng trường thiệt tán thán thử kinh, hợp nhi quán chi, Phật ngữ bất hư, ư thị ích tín.

() 今此經者 ,譯於什師 ,而舌根不壞 與諸佛出廣長舌讚歎此經,合而觀之,佛語不虛,於是益信。

(Sớ: Nay kinh này do ngài La Thập dịch, mà lưỡi Ngài chẳng nát, cùng với chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài tán thán kinh này. Hợp cả hai điều này lại để xem xét, lời Phật chẳng dối; do vậy, càng thêm tin tưởng).

La Thập đại sư phát thệ nguyện giữ cái lưỡi lại để chứng minh. Trong kinh này, mười phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài ca ngợi kinh này, khuyên chúng ta tu học. Chúng ta hợp những điều này lại để xem xét, lòng tin mới có thể tăng trưởng.

 

(Huyền Nghĩa) Nhị, danh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh.

(玄義) 二、名稱讚淨土佛攝受經。

(Huyền Nghĩa: Bản thứ hai tên là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh).

 Kinh này có hai bản dịch, bản trước do La Thập đại sư phiên dịch, nay chúng ta đang dùng bản này. Về sau, Huyền Trang đại sư từ Ấn Độ trở về, mang theo nguyên bản kinh Di Đà bằng tiếng Phạn, cũng dịch sang tiếng Hán, nhưng tựa đề kinh khác nhau, Huyền Trang đại sư ghi tên kinh là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh.

 

(Huyền Nghĩa) Đường Tam Tạng pháp sư Huyền Trang dịch, nhị kinh liên tỷ, tiểu dị đại đồng, thời sở tông thượng, giai hoằng Tần bổn.

(玄義)唐三藏法師玄奘譯,二經聯比,小異大同,時所宗尚,皆弘秦本。

(Huyền Nghĩa:  Do Tam Tạng pháp sư Huyền Trang dịch vào đời

Đường. So sánh giữa hai kinh, sai biệt đôi chút, những điểm chánh yếu đều giống nhau, nhưng các thời đều ưa chuộng, hoằng dương bản dịch đời Tần).

“Liên” (聯) là liên tục, ngài La Thập dịch trước, ngài Huyền Trang dịch sau. “Tỷ” (比) là so sánh. Lấy hai bản này để so sánh, ý nghĩa giống như nhau, nhưng văn tự khác nhau, cho nên là đại đồng tiểu dị; nhưng từ xưa tới nay bản được lưu thông luôn là bản dịch của La Thập đại sư. Tuy Huyền Trang đại sư có phiên dịch, nhưng từ xưa tới nay không có ai niệm bản dịch của Ngài. Huyền Trang đại sư phát tâm tới Ấn Độ vì hoài nghi kinh điển được phiên dịch qua các đời chẳng đáng tin cậy lắm, cho nên tự mình đến Ấn Độ để ấn chứng đôi chút, coi thử bản dịch bằng tiếng Hán và nguyên văn kinh điển có bị sai khác rất lớn hay chăng, có bị dịch sai hay không. Do động cơ (motivation) này, Ngài qua Ấn Độ, ở lại Ấn Độ học tập mười bảy năm.

Thuở ấy, du hành bằng ngựa, tức là cỡi ngựa, giao thông chẳng thuận tiện như hiện tại, kinh điển từ Ấn Độ chuyển về Trung Quốc cũng vô cùng gian khổ. Kinh chép trên lá Bối. Lá cây Bối Đa La (Pattra) dầy như lá chuối, nhưng chất liệu bền bỉ hơn lá chuối rất nhiều. Quý vị hãy nghĩ xem: Lá cây cồng kềnh, một mảnh lá cây như vậy được cắt thành từng miếng, mỗi miếng chép bốn dòng, một thớt ngựa đại khái chỉ chở được một bộ kinh mà thôi! Kinh sách, tượng Phật từ Ấn Độ mang về Trung Quốc, gặp bao nhiêu khổ nạn chẳng thể nào tưởng tượng, đúng là nguy hiểm tánh mạng, chín phần chết, một phần sống.

Sau khi trở về, Huyền Trang đại sư đã công nhận bản dịch kinh Di Đà của Cưu Ma La Thập đại sư không có vấn đề gì. Nếu có vấn đề, Ngài đã sớm tuyên bố nên dùng bản dịch của Ngài. Bản dịch của Ngài chỉ để cho chúng ta tham khảo, vẫn chủ trương mọi người hãy niệm bản dịch của La Thập đại sư y như cũ; do vậy, chúng ta đối với bộ kinh này, càng tăng trưởng lòng tin vô cùng. Truyền nhân của Huyền Trang đại sư là Khuy Cơ, Khuy Cơ đại sư là khai sơn tổ sư của Pháp Tướng Duy Thức Tông. Bộ Di Đà Kinh Thông Tán Sớ của Khuy Cơ đại sư đã dùng bản dịch của Cưu Ma La Thập. Khuy Cơ đại sư chú giải kinh Di Đà chẳng chọn bản dịch của thầy, mà chọn bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư, dụng ý ấy đặc biệt sâu xa. Hai vị đại sư này làm chứng cho chúng ta biết: Bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư chắc chắn là khá lắm, hai Ngài đều tán thán, đều giúp lưu thông, còn tranh cãi gì nữa hay chăng? Hơn nữa, Khuy Cơ đại sư chú giải kinh Di Đà, tán thán pháp môn này, tán thán đến mức không còn gì hơn được nữa: Chí viên chí đốn, từ một ngày đến bảy ngày thành tựu. Nếu câu nói này thốt ra từ miệng một vị Tổ Sư bên Tịnh Độ Tông sẽ là chuyện rất bình thường, nhưng do khai sơn tổ sư của Duy Thức Pháp Tướng Tông thốt ra, chuyện này chẳng đơn giản! Do vậy, cống hiến của hai vị đại sư đối với pháp môn Tịnh Độ quả thật quá to lớn. Chúng ta nên hiểu điều này!

 

(Sớ) Huyền Trang pháp sư giả, Đường Lạc Châu Câu Thị nhân, tánh Trần thị.

() 玄奘法師者,唐洛州緱氏人,姓陳氏。

(Sớ: Pháp sư Huyền Trang pháp sư là người huyện Câu Thị, xứ Lạc Châu, sống vào đời Đường, họ Trần).

“Đường” là đời Đường, Lạc Châu nay là Lạc Dương, Ngài là người huyện Câu Thị. “Tánh Trần thị” (họ Trần) đây là họ ngoài đời[117] của Ngài.

 

(Sớ) Thiếu ly hoạn nạn, tùy huynh Trưởng Kiện pháp sư xuất gia ư Tịnh Trụ Tự.

() 少罹患難,隨兄長腱法師出家於淨住寺。

(Sớ: Thuở nhỏ gặp hoạn nạn, theo anh là pháp sư Trưởng Kiện xuất gia tại chùa Tịnh Trụ).

Lúc còn trẻ, gia cảnh khó khăn, anh Ngài xuất gia, Ngài cũng xuất gia làm tiểu sa-di.

 

(Sớ) Niên thập nhất, tụng Duy Ma, Pháp Hoa, trác nhiên tự lập, bất ngẫu thời lưu.

() 年十一,誦維摩法華,卓然自立,不偶時流。

(Sớ: Năm mười một tuổi, do tụng Duy Ma và Pháp Hoa, nổi bật hơn người, chẳng chơi đùa cùng đồng bạn).

 Mười một tuổi, nếu nói theo chúng ta hiện thời thì gần như là một đứa bé con chẳng hiểu biết nhiều nhặn gì! Khi ấy, gia cảnh kham khổ, có lẽ là một đứa trẻ cha mẹ đã khuất, không nơi nương tựa, thường được đưa đến chùa miếu làm tiểu sa-di. Theo quy chế nhà Phật, bảy tuổi mới có thể là sa-di. Nhìn vào những tiểu sa-di ở chung với nhau, đương nhiên trẻ nhỏ không thể nào chẳng chơi đùa. Ngài mười một tuổi, tuổi chẳng khác mọi người cho mấy, nhưng Ngài quở trách các bạn trẻ khác: “Đã xuất gia thì phải nên nghiêm túc tu học Phật pháp, chẳng thể vẫn giống như lũ trẻ giỡn hớt, đùa nghịch, bỏ phí thời gian quý báu của chính mình”. Ngài có thể nói những câu này, những người lớn nghe được, biết đứa bé này chẳng tầm thường, nên cũng khá coi trọng Ngài. “Trác nhiên tự lập” là nói đến chuyện này. “Bất ngẫu thời lưu” là chẳng chơi đùa cùng với mọi người.

 

(Sớ) Niên nhị thập nhất, giảng Tâm Luận, bất khuy văn tướng, dũng chú bất cùng, thời hiệu “thần nhân”.

() 年二十一 ,講心論 ,不窺文相 ,涌注不窮 ,時號神人。

(Sớ: Năm hai mươi mốt tuổi, giảng Tâm Luận, chẳng nhìn vào văn tự, mà tuyên giảng ào ạt chẳng ngớt, khi ấy, gọi Ngài là “thần nhân”).

 Ngài từ năm mười một tuổi đã chuyên tâm nhất chí, chẳng ham vui đùa, chuyên tâm tu học Phật pháp, tới năm hai mươi mốt tuổi đã có thành tựu kha khá. Ngài giảng kinh có thể không cần nương theo chú giải, lên bục giảng, ý nghĩa tự nhiên nẩy sanh “dũng chú bất cùng” (tuôn ra ào ạt chẳng ngớt), đối với nghĩa lý áo diệu trong kinh, từ cái tâm thanh tịnh giống như nước suối tuôn trào ra ngoài. Đây là trí huệ, mà cũng là cảm ứng; do vậy, Ngài được gọi là “thần nhân”, thật sự là bậc hữu đức hữu học. La Thập đại sư thuở ấy là như vậy, mà ngài Huyền Trang cũng chẳng phải là ngoại lệ.

 

(Sớ) Trinh Quán tam niên, vãng Tây Vực thủ kinh, bị kinh hiểm nạn, lịch bách ngũ thập quốc, toại chí Xá Vệ.

()貞觀三年,往西域取經,備經險難,歷百五十國,遂至舍衛。

(Sớ: Năm Trinh Quán thứ ba (629), sang Tây Vực thỉnh kinh, trải đủ mọi nỗi hiểm nạn, đi khắp một trăm năm mươi nước, dần dần đến Xá Vệ).

Trinh Quán (626-649) là niên hiệu của Đường Thái Tông. Vào thời ấy, ra khỏi nước phải được hoàng đế phê chuẩn. Hoàng đế chẳng phê chuẩn, Ngài lén lút ra đi. Trên đường đi, đúng là nếm trọn hết nỗi khổ, đến Đôn Hoàng[118], đồng bạn đều ngã lòng, quay về, chịu khổ không thấu mà! Ngài một mình, chẳng sợ gian nan, nguy hiểm, lần lượt đi qua hơn một trăm năm mươi quốc gia, những nước này đều là tiểu quốc. Đi như vậy đến thành Xá Vệ của Ấn Độ. Chùa Na Lạn Đà (Nālandā)[119] là nơi Huyền Trang đại sư ở lại để học tập, cũng thuộc thành Xá Vệ.

 

(Sớ) Thủ kinh lục bách dư bộ, Trinh Quán thập cửu niên hoàn kinh.

() 取經六百餘部,貞觀十九年還京。

(Sớ: Thỉnh được hơn sáu trăm bộ kinh, năm Trinh Quán mười chín, trở lại kinh thành).

Ngài ra đi năm Trinh Quán thứ ba (629), năm Trinh Quán mười chín (645) quay về. Từ đầu đến cuối là mười bảy năm. Khi trở về, Đường Thái Tông nghênh tiếp tại trường đình, gặp mặt Ngài bèn hỏi: “Sao Ngài lại lén lút ra đi?” Đây là Ngài hết sức thành công tại ngoại quốc, vô cùng quang vinh trở về. Lúc đó, người Ấn Độ tôn xưng Ngài là Đại Thừa Thiên. Tại Ấn Độ, trong Đại Thừa Phật pháp, không có một ai có thể trội hơn Huyền Trang đại sư. Khi ấy, Ấn Độ có mười tám quốc vương hợp sức tổ chức cử hành một đại hội biện luận. giống như là đấu võ đài vậy, thỉnh Huyền Trang đại sư chủ trì, bất cứ ai trong xứ Ngũ Ấn Độ đều có thể tùy tiện biện luận với Ngài, nhưng không có một ai tranh biện thắng nổi Ngài. Lúc trở về khác hẳn, mỗi lần đến một nước nào, quốc vương, đại thần đích thân nghênh tiếp và đưa tiễn, cho nên Ngài mang nhiều kinh sách như vậy quay về chẳng khó khăn, dọc đường có người hộ tống, có người cung cấp ngựa và lương khô, đúng là “áo gấm vinh quy”. Sau khi Ngài trở lại Trung Quốc, Đường Thái Tông đích thân ra ngoài thành hoan nghênh Ngài.

 

(Sớ) Ư Ngọc Hoa Đài phiên dịch kinh luận, tổng nhất thiên tam bách tam thập quyển.

() 於玉華臺翻譯經論,總一千三百三十卷。

(Sớ: Phiên dịch kinh luận ở Ngọc Hoa Đài, tổng cộng một ngàn ba trăm ba mươi quyển).

Trong lịch sử dịch kinh Trung Quốc, Huyền Trang đại sư phiên dịch kinh điển nhiều nhất, phong phú nhất. Ngài mang về hơn sáu trăm bộ kinh sách, mỗi một bộ nhỏ thì chỉ có một quyển, lớn thì có tới cả ngàn quyển. Nguyên văn Trí Độ Luận là một ngàn quyển, Huyền Trang đại sư phiên dịch, đã rút gọn thành một trăm quyển. Chỉ có Đại Bát Nhã Kinh sáu trăm quyển là phiên dịch giữ đúng nguyên văn. Kinh Kim Cang là một quyển trong bộ kinh Đại Bát Nhã này, quyển này cũng là tinh hoa của toàn bộ kinh Bát Nhã. Huyền Trang đại sư phiên dịch kinh luận tổng cộng một ngàn ba trăm ba mươi quyển, dịch nhiều nhất!

Những kinh do Huyền Trang đại sư dịch là trực dịch. Theo ngữ pháp trong tiếng Ấn Độ có rất nhiều câu viết theo lối đảo ngược, người Trung Quốc đọc bản dịch của Ngài [cảm thấy] không quen thuộc lắm! La Thập đại sư là ý dịch, tức là Ngài vốn đã hiểu rõ ý nghĩa của bản gốc kinh điển, hoàn toàn dùng ngữ pháp và cách nói của người Hoa để phiên dịch, cho nên chúng ta thấy kinh do Ngài dịch giống như văn chương của người Hoa, nên họ đọc rất hoan hỷ, chẳng gặp khó khăn. Bản dịch của La Thập đại sư đặc biệt được người Trung Quốc hoan nghênh là do đạo lý này!

 

(Sớ) Ký ngọa tật.

() 既臥疾。

(Sớ: Đã nằm bệnh).

 Huyền Trang đại sư viên tịch năm sáu mươi mấy tuổi. Tại Trung Quốc, gần như là những pháp sư đại đức nghiên cứu Duy Thức Pháp Tướng thọ mạng cũng chẳng dài, những vị có thể thọ hơn bảy mươi tuổi rất ít. Chúng tôi nghĩ có lẽ là do các Ngài suy nghĩ quá độ! Duy Thức Pháp Tướng rất tốn công suy nghĩ, quả thật là có chút hợp lý. Hiện thời, cũng có không ít người rất có hứng thú đối với tông này, nhưng muốn thật sự thành tựu, chắc chắn là vắt kiệt cân não, vì phải làm công tác phân tích, phân tích vô cùng vi tế. Không giống như Tánh Tông hay Niệm Phật, chẳng cần phải bận tâm gì hết, cầu nhất tâm bất loạn, tâm thanh tịnh là được rồi! Khi Huyền Trang đại sư viên tịch, Ngài ngã bệnh. Có học trò hỏi Ngài: “Công phu tu hành của lão nhân gia tốt đẹp dường ấy, cả đời phiên dịch kinh điển nhiều ngần ấy, có công đức to dường ấy, cớ sao lúc ra đi vẫn ngã bệnh?” Ngài bảo: “Do tội chướng từ vô thỉ kiếp tới nay, tội nặng, báo nhẹ, do đau bệnh lần này, tất cả nghiệp chướng sẽ đều tiêu trừ”.

 

(Sớ) Kiến đại bạch liên hoa cập Phật tướng.

() 見大白蓮華及佛相。

(Sớ: Thấy hoa sen trắng to và hình tướng Phật).

Đây là một tướng lành hết sức tốt đẹp.

 

(Sớ) Hữu hiếp lũy túc nhi thệ, lưỡng nguyệt, sắc mạo như sanh.

() 右脅累足而逝,兩月,色貌如生。

(Sớ: Xếp chân nằm trên hông phải qua đời, đã mất hai tháng mà sắc tướng, diện mạo vẫn như còn sống).

Vì Ngài là người được Đường Thái Tông tôn kính nhất, nên sau khi Ngài đã tịch, vua đã lưu xác Ngài hai tháng rồi mới nhập liệm, diện mạo như còn sống, có thể thấy tướng tốt lành này.

 

(Sớ) Tiên thị Tây hành chi nhật, phủ Linh Nghiêm Tự tùng nhi tác thệ ngôn: “Ngô Tây khứ, nhữ Tây trưởng, ngô Đông quy, nhữ Đông hướng”.

()先是西行之日,撫靈嚴寺松而作誓言:吾西去,汝西長,吾東歸,汝東向。

(Sớ: Trước ngày Ngài sang Tây Trúc, đã vỗ vào cây tùng ở chùa Linh Nghiêm thề rằng: “Ta sang phương Tây, ngươi hãy mọc dài về phương Tây. Ta trở về phương Đông, ngươi hãy hướng về phương Đông”).

Khi Ngài sang Ấn Độ, xuất phát từ Linh Nghiêm Tự. Ở cổng chùa Linh Nghiêm có một gốc tùng, Ngài bèn vỗ vào thân cây tùng, bảo nó: “Ta sang phương Tây thỉnh kinh, ngươi hãy mọc dài về phương Tây. Năm nào ta trở về, ngươi hãy đổi lại, mọc dài sang phương Đông”. Đúng là như vậy, cây này rất linh.

 

(Sớ) Sư khứ, tùng Tây trưởng chí ư sổ trượng.

() 師去,松西長至於數丈。

(Sớ: Sư đi rồi, cây tùng mọc dài về phía Tây đến mấy trượng).

Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ, cây ấy mọc dài về phía Tây, mọc đặc biệt tươi tốt, mọc đến vài trượng.

 

(Sớ) Nhất nhật hốt Đông hồi.

() 一日忽東迴。

(Sớ: Một hôm, cây chợt mọc trở về phương Đông).

 Có một ngày, những pháp sư trong chùa thấy cây ấy xoay trở lại, mọc dài về phương Đông. Mọi người nhớ mười bảy năm trước lúc Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ, đi rồi tin tức mịt mù, chẳng biết Ngài còn sống hay đã chết? Sau mười bảy năm, thấy cây ấy mọc dài về phương Đông, quay trở lại, mọi người trong lòng hoan hỷ, Huyền Trang đại sư sắp quay về!

 

(Sớ) Môn đệ tử hỷ viết: “Sư quy hỹ”. Dĩ nhi quả nhiên, thời hiệu Ma Đảnh Tùng vân.

() 門弟子喜曰 :師歸矣 。已而果然 時號摩頂松云。

(Sớ: Các đệ tử vui mừng nói: “Thầy về rồi đấy!” Quả nhiên là như thế, khi ấy, người ta gọi cây tùng ấy là Cây Tùng Được Xoa Đầu).

Cây tùng ấy sau này được gọi là Ma Đảnh Tùng. Ngay cả cây cỏ đều có linh tánh, con người quyết định chớ nên cô phụ linh tánh của chính mình.

 

(Sớ) Án Sư thệ ngôn tự yếu, bất sảng như thị, chân ngữ, thật ngữ.

() 按師誓言自要,不爽如是,真語實語。

(Sớ: Xét thấy lời Sư tự thề chẳng sai sẩy như thế, [đó là] chân ngữ, thật ngữ).

Điều này cũng có thể là chứng minh: Lời Ngài là lời chân thật. La Thập đại sư dùng cái lưỡi để làm chứng, Huyền Trang đại sư dùng cây tùng ấy cũng có thể làm chứng. Nếu chẳng phải là lời chân thành, chẳng thể cảm động cây cỏ. Chỉ có chân thành mới có thể cảm động.

 

(Sớ) Diệc Thập sư thiệt căn bất hoại, chư Phật thiệt tướng quảng trường ý dã.

() 亦什師舌根不壞,諸佛舌相廣長意也。

(Sớ: Cũng có cùng một ý nghĩa với chuyện cái lưỡi của ngài La Thập chẳng hư nát và tướng lưỡi dài rộng của chư Phật vậy).

Điều này nói chung giống với ý nghĩa đã được nói trong phần trước.

 

(Sớ) Sở dịch thử kinh, yên khả bất tín?

() 所譯此經,焉可不信?

(Sớ: Đối với kinh này do các Ngài dịch, há có thể chẳng tin?)

Đây là nói đến sự phiên dịch kinh Di Đà, chúng ta có thể nào chẳng tin?

 

(Sớ) Liên tỷ giả, tiên hậu trùng dịch dã.

() 聯比者,先後重譯也。

(Sớ: “Ghép lại để so sánh” là [so sánh giữa] hai lần dịch trước và sau).

Ghép liền hai bản dịch, so sánh giữa hai bản dịch để đối chiếu, ý nghĩa như nhau, văn tự không giống nhau, trong ấy cũng có rộng lược sai khác, chẳng hạn như “Lục phương Phật”, La Thập đại sư dịch thành sáu phương, Huyền Trang đại sư dịch thành mười phương.

 

(Sớ) Tiểu dị đại đồng giả, Phạn âm sảo biệt, cập ngữ hữu phồn giản, như Hằng hà, Căng Già.

()小異大同者,梵音稍別,及語有繁簡,如恆河殑伽。

(Sớ: Sai biệt đôi chút, phần lớn giống nhau: Âm tiếng Phạn hơi khác nhau, và từ ngữ có rườm rà hay đơn giản khác biệt, ví dụ như Hằng hà và Căng Già).

La Thập đại sư dịch là “Hằng hà sa số”, dùng chữ “Hằng hà”; Huyền Trang đại sư dịch thành Căng Già, sông Căng Già (Ganges) là Hằng hà, từ âm tiếng Phạn dịch ra.

 

(Sớ) Lục phương thập phương chi loại.

() 六方十方之類。

(Sớ: Sáu phương và mười phương v.v…)

“Lục phương Phật”: La Thập đại sư dịch thành sáu phương, tức Đông, Nam, Tây, Bắc, trên, dưới; Huyền Trang đại sư dịch là mười phương. Bản dịch của La Thập đại sư đã tỉnh lược bốn phương Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam. Tuy văn tỉnh lược, nhưng ý nghĩa viên mãn.

 

(Sớ) Nhi đại ý nhất vô tương quai dã.

() 而大意一無相乖也。

(Sớ: Nhưng đại ý là một, chẳng trái nghịch nhau).

Đại ý hoàn toàn tương đồng.

 

(Sớ) Giai hoằng giả, Pháp Hoa tam dịch, Tần bổn thịnh hành. Thử kinh nhị dịch, diệc phục như thị.

()皆弘者,法華三譯,秦本盛行。此經二譯,亦復如是。

(Sớ: “Đều hoằng dương”: Pháp Hoa có ba bản dịch, bản dịch đời Tần thịnh hành. Kinh này có hai bản dịch, cũng giống như thế).

Kinh Pháp Hoa tại Trung Quốc có ba bản dịch, nhưng hết thảy mọi người thích tụng bản dịch của La Thập đại sư, những bản khác như Chánh Pháp Hoa, Thiêm Phẩm Pháp Hoa Kinh[120] rất ít người niệm, rất ít lưu thông. Kinh Di Đà cũng giống như thế, có hai bản dịch, nhưng bản dịch của La Thập đại sư được hoan nghênh nhất.

Hiện thời, chúng tôi nói Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh được truyền đến Trung Quốc sớm nhất, được phiên dịch vào thời ngài An Thế Cao, chỉ trễ hơn [bản dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương] của Ma Đằng và Trúc Pháp Lan. Đó là vào đời Hán. Hơn nữa, tại Trung Quốc có mười hai bản dịch, được phiên dịch nhiều nhất. Do điều này có thể biết: Từ xưa tới nay, pháp môn Tịnh Độ được coi trọng và phổ biến, các vị cổ đại đức đều đề xướng cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta chớ nên không biết điều này! Nhưng hơn nửa các bản dịch đã bị thất lạc, được thu thập trong Đại Tạng Kinh chỉ năm bản dịch, chỉ còn những bản ấy. Nay chúng ta nghiên cứu kinh Vô Lượng Thọ, phải lấy năm bản dịch ấy làm căn cứ. Bản được chúng tôi dùng để giảng hiện thời là bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư. Cụ đã đem năm bản dịch, biên tập lần nữa thành một bản mới. Nhưng mỗi câu kinh văn, mỗi chữ trong ấy đều xuất phát từ năm bản dịch gốc, tự mình chẳng thêm vào một chữ nào, không hề sửa một chữ nào. Đây là biên tập trung thực, lại còn là biên tập khá hay! Chúng ta đọc bản này, giảng bản này, năm bản dịch gốc có thể dùng để tham khảo. Những chuyện này không gì chẳng nhằm kiến lập lòng tin cho chúng ta, kích phát đại nguyện cầu sanh Tịnh Độ, khiến cho chúng ta trong một đời này thành tựu viên mãn Bồ Đề. Đây là bổn hoài khiến đức Thế Tôn xuất hiện giáo hóa chúng sanh trên thế gian này, mà cũng là kỳ vọng duy nhất của lịch đại tổ sư đại đức đối với chúng ta, mong muốn chúng ta hãy chọn lựa pháp môn này, sẽ thành tựu ngay trong đời này. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây.

 

— o0o —

Tập 89

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm năm mươi ba:

 

Nhị, minh thích.

二、明釋

(Hai, nói về chuyện giải thích kinh).

Đoạn này nhằm giới thiệu sự chú giải, “thích” (釋) là giải thích.

 

(Huyền Nghĩa) Thứ minh thích thử kinh giả, luận tắc hữu Thiên Thân Bồ Tát Vô Lượng Thọ Kinh Luận, giải tắc hữu Từ Ân Thông Tán, Hải Đông Sớ, Cô Sơn Sớ, nãi chí Đại Hựu Lược Giải đẳng.

(玄義)次明釋此經者,論則有天親菩薩無量壽經論,解則有慈恩通贊、海東疏、孤山疏,乃至大佑略解等。

(Huyền Nghĩa: Tiếp theo là nói đến chuyện giải thích kinh này, về luận thì có Vô Lượng Thọ Kinh Luận của Thiên Thân Bồ Tát, về giải thì có Thông Tán của ngài Từ Ân, Hải Đông Sớ, Cô Sơn Sớ, cho đến cuốn Lược Giải của ngài Đại Hựu v.v…)

Những tác phẩm được giới thiệu ở đây đều là các bản chú giải cổ; vì Liên Trì đại sư là người đời Minh, những bản chú giải Ngài được thấy đương nhiên đều là của những vị trước thời Ngài.

 

(Sớ) Thiên Thân Bồ Tát giả, thường nhập Nhật Quang Định, thăng Đâu Suất thiên cung nội viện, thân cận Từ Thị, tạo Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá. Ưu Bà Đề Xá giả, thử vân “phân biệt nghĩa”.

()天親菩薩者,常入日光定,昇兜率天宮內院,親覲慈氏,造無量壽經優婆提舍。優婆提舍者,此云分別義。

(Sớ: Thiên Thân Bồ Tát thường nhập Nhật Quang Định, lên nội viện của cung trời Đâu Suất, thân cận ngài Từ Thị, soạn Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá. Ưu Bà Đề Xá được cõi này dịch là “phân biệt nghĩa”).

Ưu Bà Đề Xá (Upadeśa) được người Hoa dịch là “Luận”. Thiên Thân Bồ Tát (Vasubandhu) không chú giải kinh Di Đà, mà là chú giải kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ và kinh này cùng một bộ, có thể nói là một bộ kinh, không phải là hai bộ kinh; kinh Vô Lượng Thọ văn tự nhiều, giảng cặn kẽ hơn một chút. Kinh Di Đà văn tự ít, nói giản lược hơn một tí. Hai bản kinh này chỉ có chi tiết hay giản lược khác biệt, những điều khác hoàn toàn như nhau. Thiên Thân Bồ Tát có chú giải, gọi là Vô Lượng Thọ Kinh Luận, trong Đại Tạng Kinh có bản này. Chữ Giải (解) chỉ chú giải kinh Di Đà. Chú giải kinh Di Đà bản cổ nhất đương nhiên cũng có, nhưng chẳng truyền lại. Vẫn còn được lưu truyền cho tới hiện thời, chúng ta thấy bản cổ nhất là Thông Tán Sớ của pháp sư Khuy Cơ đời Đường.

Trong Phật môn, Thiên Thân Bồ Tát cũng là một vị rất lỗi lạc, Ngài là em trai Vô Trước Bồ Tát (Asanga). Lúc vị Bồ Tát này tại thế, thường lên thiên cung Đâu Suất. Thiên Thân còn gọi là Thế Thân, thân cận Di Lặc Bồ Tát, Từ Thị là Di Lặc Bồ Tát, Ngài có năng lực ấy. Tại Trung Quốc cận đại, chỉ có mình lão hòa thượng Hư Vân thân cận Di Lặc Bồ Tát. Từ Niên Phổ của Ngài, chúng ta thấy: Ngài từng đến cung trời Đâu Suất một lần trong Định; nhưng đương nhiên lão hòa thượng Hư Vân trình độ kém hơn Thiên Thân Bồ Tát. Thiên Thân Bồ Tát tới lui [Đâu Suất nội viện] tùy ý, thường xuyên đến. Tuy Ngài thường xuyên thân cận Di Lặc Bồ Tát, cũng chẳng cầu sanh Di Lặc nội viện, mà vẫn cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ; vì thế, Ngài viết chú giải cho kinh Vô Lượng Thọ. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện đều có truyện ký của Thiên Thân Bồ Tát.

 

(Sớ) Từ Ân pháp sư giả, húy Khuy Cơ, tánh Uất Trì thị, Kính Đức do tử dã.

() 慈恩法師者,諱窺基,姓尉遲氏,敬德猶子也。

(Sớ: Pháp sư Từ Ân húy là Khuy Cơ, họ Uất Trì, là cháu của Uất Trì Kính Đức).

Từ Ân là tên chùa, tức là Từ Ân Tự; vào thời Đường, Từ Ân Tự ở Trường An. Người đời sau cung kính gọi Ngài là “Từ Ân pháp sư”. Pháp danh của Ngài là Khuy Cơ. “Húy” (諱) cũng là kính xưng, là cấm kỵ, không dám gọi tên trực tiếp. Vì thế, sau này mới dùng chữ “thượng” và “hạ”, tức là [đối với pháp danh của ngài Khuy Cơ sẽ nói là] thượng “Khuy” hạ “Cơ”. Ở ngoài đời, “tánh Uất Trì thị”, tức là Ngài có họ kép là Uất Trì. Uất Trì Kính Đức[121] là đại tướng của Đường Thái Tông, Khai Quốc Uất Trì Công thời Đường Thái Tông chính là ông ta (Uất Trì Kính Đức). “Do tử” (giống như con) là cháu trai. Sư là cháu trai của Uất Trì Kính Đức, không phải là con ruột, mà là con trai của anh em ông Kính Đức. Vị này cũng là vô cùng thông minh. Theo truyện ký cho biết, khi Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ, trên đường gặp một lão hòa thượng, đại khái đã hơn một trăm tuổi đang nhập Định, lão hòa thượng này do đọc kinh mà chứng quả. Sau khi Huyền Trang đại sư gặp vị này, cảm thấy hai người rất có duyên phận, bảo Sư hãy mau sang Trung Quốc đầu thai, Ngài nói: “Ta sang phương Tây thỉnh kinh, trong tương lai, sau khi trở về, sẽ đến độ ông”. Đây là Sơ Địa Bồ Tát, Sư bèn đến đầu thai, đầu thai vào nhà Uất Trì Kính Đức làm vương tôn công tử.

 

(Sớ) Trang sư độ chi xuất gia.

() 奘師度之出家。

(Sớ: Được ngài Huyền Trang độ xuất gia).

 Sau khi Huyền Trang đại sư trở về, đã tìm độ cho Sư xuất gia.

 

(Sớ) Học thông Đại Tiểu.

() 學通大小。

(Sớ: Học thông suốt Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa).

 Đối với pháp thế gian lẫn xuất thế gian, Ngài đều thông đạt, người vô cùng thông minh.

 

(Sớ) Tạo sớ kế khả bách quyển.

() 造疏計可百卷。

(Sớ: Soạn sớ giải tính ra cả trăm quyển).

 “Sớ” (疏) là chú giải. Trong phương diện Duy Thức, Ngài viết chú giải nhiều nhất, chẳng hạn như Thành Duy Thức Luận Thuật Ký. Vì thế, Ngài là khai sơn tổ sư của Duy Thức Pháp Tướng Tông Trung Quốc, là tổ sư đời thứ nhất.

 

(Sớ) Thích Di Lặc Hạ Sanh Kinh, bút phong đắc xá-lợi nhị thất lạp.

() 釋彌勒下生經,筆鋒得舍利二七粒。

(Sớ: Khi ngài chú giải Di Lặc Hạ Sanh Kinh, trên đầu ngọn bút thu được hai mươi bảy[122] hạt xá-lợi).

Khi Ngài chú giải Di Lặc Hạ Sanh Kinh, trên đầu ngọn bút lông có lưu lại hai mươi bảy viên xá-lợi, đây là cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sớ) Phục thị Tây Phương yếu nghĩa.

() 復示西方要義。

(Sớ: Ngài lại chỉ bày ý nghĩa trọng yếu của Tây Phương).

Đối với Di Đà Tịnh Độ, Ngài hết sức tán thán.

 

(Sớ) Hữu Di Đà Kinh Thông Tán nhất quyển.

() 有彌陀經通贊一卷。

(Sớ: Có Di Đà Kinh Thông Tán Sớ một quyển).

 Bản chú giải kinh Di Đà của Khuy Cơ đại sư có tên là Thông Tán Sớ.

 

(Sớ) Hải Đông pháp sư giả, húy Nguyên Hiểu.

() 海東法師者,諱元曉。

(Sớ: Pháp sư Hải Đông, húy là Nguyên Hiểu).

 Pháp sư Nguyên Hiểu (Wonhyo) là người Đại Hàn; khi ấy, Sư lưu học tại Trung Quốc cũng rất có thành tựu. Ngài cũng chú giải kinh Di Đà.

 

(Sớ) Kỳ sớ thử kinh, đại suất y luận vi chủ.

() 其疏此經,大率依論為主。

(Sớ: Sư sớ giải kinh này, nói chung lấy Vãng Sanh Luận làm chủ).

Ngài chú giải kinh Di Đà, chủ yếu dựa theo Vô Lượng Thọ Kinh Luận (Vãng Sanh Luận) của Thiên Thân Bồ Tát.

 

(Sớ) Cô Sơn Viên pháp sư giả.

() 孤山圓法師者。

(Sớ: Pháp sư Cô Sơn Viên).

Cô Sơn là địa danh, Viên pháp sư có pháp hiệu là Trí Viên. Đây là pháp sư Trí Viên.

 

(Sớ) Thập sớ lưu thông, thử sớ cư nhất.

() 十疏流通,此疏居一。

(Sớ: Có mười bản sớ lưu thông, sớ giải kinh này đứng đầu).

Đối với việc nghiên cứu kinh giáo, cổ đại đức quá nửa đều là “chuyên công” (chuyên dốc sức nghiên cứu một bộ kinh hay luận), chuyên công mới có thể thành tựu. Lan man quá nhiều, tâm lực cũng bị phân tán. Thời gian, lẫn tinh lực đều chẳng đạt được. Như pháp sư Trí Viên cũng rất lỗi lạc, trong hết thảy các kinh luận, Sư chọn ra mười bộ, suốt đời chuyên dồn công nơi mười thứ này. Trong mười thứ ấy, có kinh Di Đà. Mười thứ là: Văn Thù Bát Nhã Kinh, Di Giáo Kinh, Tâm Kinh, Thụy Ứng Kinh, Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Bất Tư Nghị Pháp Môn Kinh, Vô Lượng Nghĩa Kinh, Phổ Hiền Quán Kinh, A Di Đà Kinh, và Lăng Nghiêm Kinh. Vị pháp sư này suốt đời chọn lựa mười thứ này, tinh lực cả đời dồn vào mười bộ kinh trên đây, viết chú giải cho cả mười kinh, người đời sau xưng tụng Ngài là Thập Sớ Pháp Sư.

 

(Sớ) Nghĩa Uyên, Tịnh Giác, Việt Khê đẳng lịch đại chư sư chủng chủng giải thích suất đa tán một.

()義淵、淨覺、越溪等歷代諸師種種解釋率多散沒。

(Sớ: Trải qua các đời, các tác phẩm giải thích của những vị sư như Nghĩa Uyên, Tịnh Giác, Việt Khê v.v… phần nhiều bị thất lạc).

Đây là Ngài nghe nói, cổ nhân còn có mấy vị pháp sư ấy chú giải kinh Di Đà, nhưng Liên Trì đại sư chẳng được thấy!

 

(Sớ) Chí Nguyên, Đại Hựu sư giả, nãi hữu Lược Giải.

() 至元大佑師者,乃有略解。

(Sớ: Trong niên hiệu Chí Nguyên, sư Đại Hựu bèn có bộ Lược Giải).

 Đời Nguyên, [trong niên hiệu Chí Nguyên 1335-1340], có pháp sư Đại Hựu soạn bộ A Di Đà Kinh Lược Giải, hiện được đưa vào Vạn Tục Tạng.

 

(Sớ)  Kim duy Hải Đông, Việt Khê,  Đại Hựu sở giải cẩn tồn nhi dĩ, thế viễn nhân vong, kinh tàn giáo thỉ, toại linh như thị quảng đại thâm viễn pháp môn, bất đắc nhân nhân hiểu liễu, ninh bất bi phù?

()今唯海東越溪大佑所解僅存而已,世遠人亡,經殘教弛,遂令如是廣大深遠法門,不得人人曉了,寧不悲夫。

(Sớ: Nay chỉ còn các bản chú giải của Hải Đông, Việt Khê và Đại Hựu còn tồn tại trên cõi đời mà thôi, đời đã xa, người đã khuất, kinh tàn, giáo suy vi, khiến cho pháp môn rộng lớn sâu xa như thế này mà không phải ai nấy cũng đều thấu hiểu, há chẳng đáng buồn ư?)

 Đoạn này cũng là Liên Trì đại sư tự thuật đạo lý vì sao Ngài phải chú giải kinh Di Đà, viết bản Sớ Sao này. Quả thật kinh này quá trọng yếu, nhưng chẳng mấy ai biết đến. Đúng là hiện thời người niệm Phật rất nhiều, nhưng người thật sự hiểu đạo lý niệm Phật chẳng nhiều, kẻ hiểu phương pháp, bí quyết niệm Phật chẳng mấy; đấy đều là do sức tuyên truyền chẳng đủ. Trong quá khứ, biện pháp tuyên truyền duy nhất là lưu thông chú sớ. Đại sư phát đại tâm, soạn một bản chú giải cho kinh này hết sức cặn kẽ. Sau khi chúng ta đọc bộ chú giải này, có thể nói là chẳng cần phải đọc những bản chú giải cổ cũng chẳng sao! Vì lẽ gì? Ngài chú giải quá tường tận, đã bao quát trọn hết toàn bộ.

Nay chúng tôi đem bộ Thông Tán Sớ in ghép vào sau bộ sớ này, mục đích trọng yếu nhất là giúp cho mọi người sanh khởi lòng tin. Huyền Trang đại sư và Khuy Cơ đại sư đã chứng minh cho chúng ta thấy bộ kinh này đã được phiên dịch chẳng sai, chú giải chẳng sai, y theo phương pháp này tu hành chắc chắn chẳng sai lầm. Dụng ý của chúng tôi là như vậy. Vì hiện thời, nói thật ra, là thời kỳ Mạt Pháp, pháp yếu, ma mạnh, thậm chí có nhiều kẻ xuất gia trong thời Mạt Pháp cũng đúng như trong kinh Phật thường nói: “Do như sư tử trùng, hoàn thực sư tử nhục” (giống như loài trùng trong thân sư tử, lại ăn thịt sư tử), có phải là người xuất gia chân chánh hay không? Chẳng phải! Mà là con cháu của Ma Vương Ba Tuần, trong thời kỳ Mạt Pháp thảy đều xuất gia, cũng xuống tóc, thọ giới, khoác áo ca-sa, bọn họ là con cháu ma, chẳng phải là người xuất gia chân chánh. Đây là thủ đoạn diệt Phật duy nhất của ma, trong kinh điển cũng thường ghi chép.

Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ma Vương nói hắn muốn diệt Phật pháp. Đức Phật cười, Ngài nói: “Pháp của ta không ai có thể diệt được”. Ma vương bèn đáp: “Trong thời kỳ Mạt Pháp, con cháu của ta thảy đều xuất gia thọ giới, mặc áo ca-sa để diệt pháp của Ngài”. Đức Phật nghe rồi mắt ứa lệ, hết cách! Diệt pháp như thế nào? Đầu tiên sẽ nói kinh Di Đà là giả, nói A Di Đà Phật là thần mặt trời, thốt lời bịa đặt ấy, làm sao được nữa? May mắn là Huyền Trang đại sư và Khuy Cơ đại sư đã tạo chứng cớ cho chúng ta. Nếu hiện thời không có Thông Tán Sớ bày ra trước mặt, chúng ta sẽ chẳng có cách nào biện bác với họ được! Có cuốn sách này bày ra trước mặt, chúng ta bèn tin tưởng những lời lẽ ấy là bịa đặt đồn thổi, trọn chẳng phải là sự thật, [mà là] ác ý phá hoại pháp môn này.

 

(Huyền Nghĩa) Nhược phù viễn thừa Phật chỉ, hoằng xiển bí tông, vi luận, vi văn, vi tập, vi lục, vi truyện, vi kệ, vi phú, vi thi, giao tán hỗ dương, kỳ lệ bất ức, mạc bất đinh ninh khẩn cáo, cảm khái bi ca, phổ khuyến mê lưu, đồng quy giác lộ, nhất tằng quá mục, khả phất minh tâm.

(玄義)若夫遠承佛旨,弘闡祕宗,為論為文,為集為錄,為傳為偈,為賦為詩,交讚互揚,其麗不億。莫不叮嚀懇告,感慨悲歌,普勸迷流,同歸覺路,一曾過目,可弗銘心。

(Huyền Nghĩa: Như những tác phẩm kính vâng ý chỉ của Phật, hoằng truyền, xiển dương tông chỉ kín nhiệm, viết luận, soạn văn, soạn tập, soạn sách, soạn truyện, viết kệ, viết phú, làm thơ, cùng nhau tán dương, chẳng thể kể xiết! Không gì chẳng đau đáu khẩn thiết bảo ban, cảm khái bi ca, khuyên khắp những kẻ đang mê muội hãy trở về đường giác, hễ chạm qua mắt, há chẳng ghi khắc trong lòng ư?)

 Đoạn trên là nói về sự chú giải, còn đoạn này nói về sự tán thán pháp môn này từ xưa tới nay. Như Ấn Quang Đại Sư Văn Sao trong thời cận đại hoàn toàn là ca ngợi Tịnh Độ. “Nhược phù” là ngữ trợ từ (tiếng đệm). “Viễn thừa Phật chỉ”: Đức Phật diệt độ đến nay đã cách chúng ta ba ngàn năm, thời đại đã xa xôi, chúng ta có thể vâng nhận ý chỉ của Phật tức là [thấu hiểu] ý Phật. Ý Phật nhằm dạy chúng ta hãy hoằng dương và tu học pháp môn này. “Hoằng xiển bí tông”: Chữ “bí tông” chỉ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Từ xưa tới nay, tứ chúng đệ tử khen ngợi pháp môn này, “vi luận, vi văn”, [tức là trong những tác phẩm tán dương Tịnh Độ] có luận, có văn. Cuốn Niệm Phật Luận của pháp sư Đàm Hư thuộc loại văn tự này. Trong Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, có sáu, bảy bài luận và mấy trăm bài văn ca ngợi Tây Phương Tịnh Độ. “Vi tập, vi lục, vi truyện, vi kệ”: Có Tịnh Độ Tập, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện; có kệ tụng, có phú, có thơ như pháp sư Bạch Vân viết bài Tịnh Độ Từ vô cùng hay, lần trước chúng tôi đã in ra ba ngàn trang, đó là chữ viết của Triệu Mạnh Phủ vào cuối đời Tống, khá có giá trị nghệ thuật, lời từ cũng hay, mà chữ cũng đẹp!

“Giao tán hỗ dương”: Tán thán lẫn nhau, tuyên dương pháp môn này. “Kỳ lệ bất ức” (chẳng thể kể xiết): “Ức” [là một trăm ngàn, “kỳ lệ bất ức” có nghĩa là dùng con số lớn như Ức cũng chẳng thể tính đếm được] có nghĩa là “vô tận”. “Mạc bất đinh ninh khẩn cáo”: Khẩn thiết răn dạy người thời ấy, mà cũng là răn dạy kẻ học Phật trong đời sau, khuyên mọi người hãy sốt sắng tu học pháp môn này. “Cảm khái bi ca, phổ khuyến mê lưu, đồng quy giác lộ” (Lời ca bi thương cảm khái, khuyên khắp những kẻ mê muội hãy cùng về đường giác): Một câu A Di Đà Phật là giác lộ thật sự, giác lộ là con đường chánh giác. Tuy các pháp môn khác đều do đức Phật nói, đều hay, nhưng điều đáng tiếc là chẳng khế cơ. Chúng ta nương theo pháp môn khác, vẫn mê, bất giác, vì sao mê? Mê nơi pháp môn. Học Hiền Thủ bèn mê nơi kinh Hoa Nghiêm, học Thiên Thai bèn mê nơi kinh Pháp Hoa, học Duy Thức bèn mê nơi Thành Duy Thức Luận, không gì chẳng mê! Thưa quý vị, chỉ có một câu A Di Đà Phật chẳng mê. Dù quý vị mê nơi một câu A Di Đà Phật, vẫn có thể vãng sanh. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chắc chắn chẳng mê! Do vậy, có sự khác biệt này! Trong các pháp môn khác, hễ mê sẽ vô ích, chẳng thể liễu sanh tử, chẳng thể thoát tam giới; còn pháp môn Niệm Phật tuy mê, vẫn có thể đới nghiệp vãng sanh, hay ở chỗ này! Do vậy, đây thật sự là con đường chánh giác, nói thật thà thì chỉ có một đường này. Hai câu sau cùng là đại sư đặc biệt căn dặn. “Nhất tằng quá mục” (hễ lướt qua mắt): Quý vị từng gặp gỡ pháp môn này, từng trông thấy, đọc qua văn tự này, nghe người khác khuyến cáo, hãy nên khắc cốt minh tâm, chớ nên quên lãng!

 

(Sớ) Thượng văn chuyên chỉ chú thích thử kinh.

() 上文專指註釋此經。

(Sớ: Những câu trong phần trên chuyên nói về việc chú thích kinh này).

Đoạn trước nói về chú giải, nói tới những chú giải từ xưa của bộ kinh này.

 

(Sớ) Kim vị kỳ dư tán vịnh Tịnh Độ.

() 今謂其餘讚詠淨土。

(Sớ: Còn phần này nói đến những tác phẩm khác ca ngợi, ngâm vịnh Tịnh Độ).

Những tác phẩm tán thán, ca vịnh Tịnh Độ khác.

 

(Sớ) Sở hữu ngôn từ bất khả thắng kỷ.

() 所有言辭不可勝紀。

(Sớ: Tất cả ngôn từ chẳng thể nào ghi chép trọn hết được).

 Chẳng có cách nào liệt kê trọn hết, quá nhiều!

 

(Sớ) Vi luận, như Thập Nghi, Bảo Vương đẳng.

() 為論,如十疑寶王等。

(Sớ: Soạn luận thì như Thập Nghi Luận, Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận v.v…)

Thập Nghi Luận do Thiên Thai Trí Giả đại sư viết vào đời Tùy. Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận do pháp sư Phi Tích viết vào đời Đường, hoàn toàn là tán dương Tịnh Độ. Ngẫu Ích đại sư đưa cả hai bản này vào sách Tịnh Độ Thập Yếu. Nói về luận bèn nêu ra hai tác phẩm để làm ví dụ.

 

(Sớ) Vi văn, như Long Thư, Vô Tận đẳng

() 為文,如龍舒無盡等。

(Sớ: Soạn văn thì như Long Thư, Vô Tận v.v…)

“Long Thư”: Cư sĩ Vương Nhật Hưu soạn Long Thư Tịnh Độ Văn, bộ này lưu hành rất rộng tại Đài Loan. Trong bộ Tịnh Độ Thập Yếu được lưu thông hiện thời, người đời sau đã bổ sung không ít tác phẩm, như Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục, Long Thư Tịnh Độ Văn cũng được chép vào đấy. Các đồng tu chuyên tu Tịnh Độ trong quá khứ đã từng có người thỉnh lão pháp sư Ấn Quang biên tập một bộ Tịnh Độ Tùng Thư, lão hòa thượng bảo: “Không cần thiết! Có một bộ Tịnh Độ Thập Yếu là đủ rồi!” Tại Đài Loan cũng có không ít đồng tu phát tâm biên soạn một bộ Tịnh Độ Tùng Thư[123], đâm ra quá nhiều, quá tạp. Thật sự tu hành thì đúng là Thập Yếu cũng đủ rồi. “Vô Tận” là cư sĩ Trương Vô Tận, tức là Trương Thương Anh, là một vị Tể Tướng đời Tống. Ông này cũng soạn Tịnh Độ Văn.

 

(Sớ) Vi tập, như Quyết Nghi, Chỉ Quy đẳng.

() 為集,如決疑指歸等。

(Sớ: Viết thành Tịnh Độ Tập thì như Tịnh Độ Quyết Nghi Tập, Tịnh Độ Chỉ Quy Tập v.v…)

Vương Cổ viết Trực Chỉ Tịnh Độ Quyết Nghi Tập. Tại Ngô Quận có một vị xuất gia là pháp sư Đại Hựu viết Tịnh Độ Chỉ Quy Tập. Cuối đời Thanh, đầu thời Dân Quốc, Thượng Hải Thương Vụ Ấn Thư Quán đã in bộ Tịnh Độ Thập Tam Chủng bao gồm hết thảy các tác phẩm ấy.

 

(Sớ) Vi lục, như Tịnh Độ Tự Tín đẳng.

() 錄,如淨土自信等。

(Sớ: Soạn lục là như Tịnh Độ Tự Tín v.v…)

Vô Công cư sĩ Vương Điền đã viết Tịnh Độ Tự Tín Lục.

 

(Sớ) Vi truyện, như Tịnh Độ Lược Truyện đẳng.

() 為傳,如淨土略傳等。

(Sớ: Viết truyện là như Tịnh Độ Lược Truyện v.v…)

 Đây là truyện ký. Từ Vân Sám Chủ viết Tịnh Độ Lược Truyện. Nêu ra mấy ví dụ, thật ra, trong mỗi triều đại, các vị đại đức xuất gia lẫn tại gia đã chú sớ rất nhiều. Bộ Tịnh Độ Tùng Thư đã sưu tập những bản chú sớ khá hoàn chỉnh.

 

(Sớ) Vi kệ, như Kính Lộ Tu Hành đẳng. Vi phú, như Thần Thê An Dưỡng đẳng. Vi thi, như Chư Gia Hoài Tịnh Độ đẳng.

()為偈,如徑路修行等。為賦,如神棲安養等。為詩,如諸家懷淨土等。

(Sớ: Viết kệ như Kính Lộ Tu Hành v.v… Viết phú như bài phú Thần Thê An Dưỡng v.v… Làm thơ như tập Chư Gia Hoài Tịnh Độ v.v…)

Quá nhiều, nên chỉ nói đại lược. Kệ tụng thì như bài Tịnh Độ Kệ do Thiện Đạo đại sư viết hết sức nổi tiếng! Ngài nhắc nhở người đời: “Tiệm tiệm kê bì hạc phát” (dần dần da gà, tóc hạc), con người sẽ dần dần suy lão, da dẻ nhăn nheo, đầu tóc bạc phơ. Khi ấy, hãy nghĩ sẽ chẳng còn mấy chốc nữa đâu! “Khán khán hành bộ lung chung” (nhìn xem chân bước run run). Lưng gù, eo hông chẳng còn sức nữa, bước đi phải chống gậy! Dáng vẻ già cả, lập cập! “Duy hữu kính lộ tu hành” (chỉ có đường tắt tu hành), “kính lộ” là con đường gần nhất. Lúc ấy, quý vị phải giác ngộ, muốn tu hành phải tìm một con đường gần gũi. Đường gần là gì vậy? Chớ nên lãng phí rất nhiều thời gian. Vì sao? Thời gian của chính mình chẳng đủ dùng, [vô thường] xảy đến [đối phó] chẳng kịp, đâu có thời gian dài như vậy? Phải tìm một con đường gần, phải tìm con đường đáng tin nhất, phải tìm con đường đơn giản nhất, ổn thỏa nhất. Đó chính là “đản niệm A Di Đà Phật” (chỉ niệm A Di Đà Phật), chỉ niệm! “Đản” là chỉ niệm A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, đều buông xuống hết! Thiện Đạo đại sư dạy chúng ta như vậy. Ngài là tổ sư đời thứ hai của Tịnh Độ Tông.

Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư viết Thần Thê An Dưỡng Phú (bài phú gởi lòng nơi Cực Lạc). Còn như Chư Gia Hoài Tịnh Độ Thi (thơ tưởng nhớ tới Tịnh Độ của các tác giả) thì như trong Tịnh Độ Thập Yếu có cuốn Tây Trai Tịnh Độ Thi do thiền sư Sở Thạch sáng tác. Thiền sư Trung Phong cũng viết Hoài Tịnh Độ Thi (thơ mong tưởng Tịnh Độ) hết sức hay. Những tác phẩm ấy đều nhằm khích lệ, khuyên lơn người đời sau hãy nhất tâm tu Tịnh Độ.

 

(Sớ) Cáo nhi viết khẩn, chân thành chi ngữ.

() 告而曰懇,真誠之語。

(Sớ: Bảo ban mà nói là “khẩn thiết”, [ngụ ý] lời lẽ chân thành).

 Chân tâm thành khẩn bảo ban chúng ta.

 

(Sớ) Ký kỳ tín thọ nhi phụng hành dã.

() 冀其信受而奉行也。

(Sớ: Mong mỏi họ tin nhận rồi vâng làm theo).

 “Ký” (冀) là mong muốn, chân thành bảo ban chúng ta, hy vọng chúng ta sẽ tin tưởng, tiếp nhận, y theo phương pháp này mà tu hành.

 

(Sớ) Ca nhi viết bi, thê sở chi từ, hoặc năng cảm phát nhi hưng khởi dã.

() 歌而曰悲,淒楚之辭,或能感發而興起也。

(Sớ: Lời ca được gọi là bi thương, [ngụ ý] lời lẽ thê lương, may ra sẽ cảm động, khơi gọi lòng người, khiến họ hăng hái tu tập).

 Cảm khái bi ca, “bi” (悲) là mong muốn có thể làm cho chúng ta xúc động, giác ngộ, cảnh tỉnh thế sự vô thường, tháng ngày còn lại chẳng nhiều nhõi gì! Khiến cho bản thân hăng hái dấy lên ý niệm niệm Phật.

 

(Sớ) Lệ, sổ dã. Bất ức giả, ức bất túc dĩ tận chi, ngôn đa dã.

() 麗,數也。不億者,億不足以盡之,言多也。

(Sớ: Lệ là tính đếm. “Bất ức”: Ngay cả con số Ức cũng chẳng đếm trọn hết, ý nói nhiều lắm)

 “Ức” là một con số lớn, một vạn vạn là một Ức. Con số này không có cách nào tính trọn hết. Cực lực hình dung số lượng thật nhiều.

 

(Sớ) Thử giai Tịnh Độ thánh hiền thiên ngôn vạn ngữ, bất yếm phiền trùng.

() 此皆淨土聖賢千言萬語,不厭繁重。

(Sớ: Những tác phẩm ấy đều là ngàn vạn lời lẽ của các bậc thánh hiền Tịnh Độ, chẳng ngại rườm lời lặp đi lặp lại).

Tịnh Độ Tùng Thư có tới ba mươi cuốn, quý vị mới hiểu được các tổ sư đại đức trong các đời đã buốt lòng rát miệng khuyên bảo chúng ta.

 

(Sớ) Trực dục sanh tử hải trung, tận khiết chúng sanh ư bỉ ngạn nhi hậu dĩ.

() 直欲生死海中,盡挈眾生於彼岸而後已。

(Sớ: Chỉ vì muốn đưa hết chúng sanh trong biển sanh tử lên bờ kia mới thôi).

Trong lòng các Ngài ôm ấp nguyện vọng này, trực tiếp ở trong biển sanh tử nâng dắt chúng sanh, cho nên nêu lên cương lãnh này nhằm cứu độ chúng sanh lên bờ kia. Ở đây, chữ “bờ kia” chỉ Tây Phương Cực Lạc thế giới, đưa chúng ta đến chỗ A Di Đà Phật, đưa qua Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đây là bi tâm của các vị tổ sư đại đức trong quá khứ.

 

(Sớ) Ngã đẳng ưng đương hàm ân báo đức.

() 我等應當銜恩報德。

(Sớ: Chúng ta hãy nên nhớ ơn, báo đức).

Chúng ta gặp gỡ, trông thấy, nghe nói, hãy nên hàm ân báo đức. “Hàm” (銜) là ôm giữ.

 

(Sớ) Lũ cốt minh tâm.

() 縷骨銘心。

(Sớ: Ghi xương, tạc dạ).

Phải nhớ kỹ đại ân đại đức này, đừng nên quên lãng. Không những chính mình phải tín nguyện phụng hành, mà còn phải:

 

(Sớ) Triển chuyển lưu thông, đệ tương khuyến đạo.

() 展轉流通,遞相勸導。

(Sớ: Xoay vần lưu thông, lần lượt khuyên dạy lẫn nhau).

Hôm trước tôi có nhận được một “lá thư may mắn”, mỗi cá nhân nhận được thư này nếu sao thành mười tám bức gởi cho thân thích bằng hữu, quý vị sẽ hết sức may mắn. Nếu không chép ra, trong tương lai sẽ mắc nạn. Theo tôi thấy, lá thư may mắn thật sự [chính là pháp môn Tịnh Độ]. Tôi khuyên quý vị, mỗi người hãy đem thi từ Tịnh Độ sao ra hai mươi bản tặng thân thích bằng hữu, khuyên khắp hết thảy mọi người niệm A Di Đà Phật. Đấy là vận may thật sự của chúng ta, chứ còn những thứ khác chưa chắc đã may mắn. Biện pháp này rất tốt đẹp, xoay vần lưu thông, lần lượt khuyên dạy lẫn nhau.

 

(Sớ) Như kỳ trí nhi bất lãm, lãm nhi bất tín.

() 如其置而不覽,覽而不信。

(Sớ: Nếu để đó không xem tới, hoặc xem mà chẳng tin).

“Trí” (置) là bỏ tại nơi đó, bỏ xó chẳng xem tới, hoặc có xem, nhưng chẳng tin.

 

(Sớ) Bất viết ngu mông chi huấn, tắc viết ký ngụ chi đàm, độc thả nại chi hà tai.

() 不曰愚蒙之訓,則曰寄寓之談,獨且奈之何哉。

(Sớ: Nếu chẳng chê là lời dạy của kẻ ngu muội, tối tăm, thì cũng phán là chuyện ngụ ngôn, [đối với những kẻ ấy] chỉ đành chẳng biết làm sao được nữa?)

Đây là lời lão nhân gia cảm thán! Chính kẻ ấy chẳng tin, lại còn phê bình, bảo chúng ta ngu si, quở chúng ta mê tín, đấy là kẻ ấy sai lầm. Kinh nói kẻ ấy “ít thiện căn, ít phước đức”, nên chẳng thể tiếp nhận. Mặc dù kẻ ấy, ít thiện căn và phước đức, chẳng thể tiếp nhận, nhưng chúng ta chớ nên không tạo cơ hội cho kẻ ấy, mà vẫn cứ tạo cơ hội cho họ. Kẻ ấy tin tưởng thì rất tốt, sẽ đắc độ trong một đời này. Kẻ ấy không tin, cũng đã gieo một chủng tử, tức là đã gieo một chủng tử vào A Lại Da Thức. Do vậy, lưu thông phổ biến, khuyên người khác tu Tịnh Độ, chuyện này quả thật vô cùng quan trọng!

 

Tam, minh tụng.

三、明誦

(Ba, nói về sự cảm ứng do tụng đọc).

“Tụng” (誦) là đọc tụng. Đoạn thứ ba nói về sự cảm ứng do đọc tụng.

 

(Huyền Nghĩa) Thứ minh tụng thử kinh giả, như thiệt căn bất hoại.

(玄義) 次明誦此經者,如舌根不壞。

(Huyền Nghĩa: Tiếp đó, nói người tụng kinh này lưỡi chẳng hư hoại).

 Đây là nói về sự cảm ứng do niệm kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ.

 

(Huyền Nghĩa) Thiên nhạc Tây nghênh.

(玄義) 天樂西迎。

(Huyền Nghĩa: Nhạc trời đón về Tây).

Đây là nói về tướng lành khi vãng sanh.

 

(Huyền Nghĩa) Phương giải oán nhi vãng sanh.

(玄義) 方解冤而往生。

(Huyền Nghĩa: Giải trừ hờn oán rồi vãng sanh).

Trong phần sau [của lời Sớ] có [kể rõ] câu chuyện này.

 

(Huyền Nghĩa) Vị chung quyển nhi tọa thoát.

(玄義) 未終卷而坐脫。

(Huyền Nghĩa: Tụng kinh chưa hết một quyển đã ngồi qua đời).

 Tụng chưa xong một quyển, người ấy đã ngồi ngay nơi đó, vãng sanh.

 

(Huyền Nghĩa) Quy như nhập Định.

(玄義) 歸如入定。

(Huyền Nghĩa: Trở về [Cực Lạc] như nhập Định)

Lúc vãng sanh chẳng ngã bệnh, giống như tịnh tọa, nhập Định, ra đi như vậy đó!

 

(Huyền Nghĩa) Chung đổ bạch liên.

(玄義) 終睹白蓮。

(Huyền Nghĩa: Khi mất, thấy hoa sen trắng).

Lúc lâm chung thấy hoa sen màu trắng.

 

(Huyền Nghĩa) Ngân đài nhi dịch kim đài, thô nhạc nhi lai tế nhạc.

(玄義) 銀臺而易金臺,粗樂而來細樂。

(Huyền Nghĩa: Đài bạc đổi thành đài vàng, nhạc thô tháp rồi đến nhạc vi diệu).

Những chuyện này đều được chú giải, xin hãy đọc lời chú giải:

 

(Sớ) Thiệt căn bất hoại giả, Trí Luận vân: “Hữu tỳ-kheo tụng Di Đà kinh”.

() 舌根不壞者,智論云:有比丘誦彌陀經。

(Sớ: “Lưỡi chẳng hoại”: Trí Độ Luận chép: Có tỳ-kheo tụng kinh Di Đà).

 Đây là chuyện được nói trong Trí Độ Luận. Tỳ-kheo là người xuất gia, niệm kinh Di Đà.

 

(Sớ) Mạng dục chung thời, ngữ đệ tử ngôn.

() 命欲終時,語弟子言。

(Sớ: Lúc sắp lâm chung, bảo đệ tử).

 Lúc lâm chung, Sư bảo đồ đệ, học trò.

 

(Sớ) A Di Đà Phật dữ chư đại chúng, câu lai nghênh ngã.

() 阿彌陀佛與諸大眾,俱來迎我。

(Sớ: A Di Đà Phật và đại chúng đều đến đón ta).

 Lúc sắp ra đi, tỉnh táo, sáng suốt, chính Sư thấy A Di Đà Phật, thấy thanh tịnh hải hội đại chúng đúng như kinh đã dạy, đều đến đón tiếp Sư.

 

(Sớ) Hậu tùng hỏa táng, thiệt căn bất hôi, sắc tướng tự nhược.

() 後從火化,舌根不灰,色相自若。

(Sớ: Sau đấy, đem hỏa táng, lưỡi chẳng cháy thành tro, sắc tướng vẫn giống hệt như cũ).

Người xuất gia sau khi vãng sanh quá nửa là hỏa táng. Sau khi hỏa táng, lưỡi Ngài chẳng hoại, giống như Cưu Ma La Thập đại sư trong phần trước. Có thể thấy Ngài nói lời thật, chứ chẳng lừa người! Không chỉ lưỡi chẳng hoại, mà màu lưỡi chẳng thay đổi, khắp thân cháy thành tro, không chỉ lưu lại cái lưỡi, mà màu sắc của lưỡi còn chẳng biến đổi. Đây là tạo chứng cớ cho người khác.

 

(Sớ) Thiên nhạc Tây nghênh giả.

() 天樂西迎者。

(Sớ: Nhạc trời đón về Tây).

 Đây cũng là một câu chuyện.

 

(Sớ) Tống Đường Thế Lương.

() 宋唐世良。

(Sớ: Đời Tống, Đường Thế Lương).

Đường Thế Lương là một vị tại gia cư sĩ vào đời Tống.

 

(Sớ) Tụng Di Đà kinh thập vạn quá.

() 誦彌陀經十萬過。

(Sớ: Tụng kinh Di Đà tới mười vạn biến).

Tụng mười vạn lần.

 

(Sớ) Nhất nhật, vị gia nhân viết: “Phật lai nghênh ngã”.

() 一日謂家人曰:佛來迎我。

(Sớ: Một hôm, bảo người nhà: “Phật đến đón ta”).

 Vị này cũng là biết trước lúc mất, chẳng bị ngã bệnh. Có một hôm, bảo người nhà: “A Di Đà Phật đến đón ta”.

 

(Sớ) Ngôn dĩ, tác lễ, tọa thệ.

() 言已,作禮坐逝。

(Sớ: Nói xong, làm lễ, ngồi qua đời).

Sau khi dặn dò người nhà, ông ta lễ Phật. Lúc lạy xong bèn tịnh tọa, ra đi, [tức là] ngồi mất!

 

(Sớ) Kỳ dạ, hữu Lợi hành nhân, tại Đạo Vị sơn thượng, mộng Tây Phương dị quang, phan hoa tân phân, âm nhạc liệu lượng, không trung thanh vân: “Đường Thế Lương dĩ sanh Tịnh Độ”

()其夜有利行人,在道味山上,夢西方異光,旛華繽紛,音樂嘹喨,空中聲云:唐世良已生淨土。

(Sớ: Đêm ấy, có người tu hành tên Lợi ở trên núi Đạo Vị, mộng thấy phương Tây có ánh sáng lạ, tràng phan và hoa phấp phới, âm nhạc vang rền, trong hư không có tiếng nói: “Đường Thế Lương đã sanh về Tịnh Độ”).

Tướng lành chẳng phải tại quê hương ông ta, mà ở một nơi rất xa, tức là núi Đạo Vị. Buổi tối ngày ông Đường vãng sanh, Lợi hành nhân, ông này cũng là một người tu hành, khi tu hành trên núi, đêm ấy mộng thấy phương Tây có dị quang. “Dị quang” là [ánh sáng] khác thường; lại còn thấy phan. Đây là một loại tràng phan trong nhà Phật, giống như cờ xí. Trên trời có hoa, “tân phân” là rất nhiều phan, tràng, hoa trời từ không trung nườm nượp rơi xuống. “Âm nhạc liệu lượng” (âm nhạc vang rền): Nhạc trời. Lại còn nghe trong hư không có âm thanh, có người nói: “Đường Thế Lương vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ”. Đó là “thiên nhạc Tây nghênh”. Thời cổ có một câu chuyện như vậy đó. Những chuyện như vậy trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện ghi chép nhiều lắm.

 

(Sớ) Giải oán vãng sanh giả.

() 解冤往生者。

(Sớ: Giải oán kết, vãng sanh).

Đây là một trường hợp tiêu tai.

 

(Sớ) Tống Thượng Ngu.

() 宋上虞。

(Sớ: Vào đời Tống, tại Thượng Ngu[124]).

Đây là một địa phương.

 

(Sớ) Dân Phùng Mân.

() 民馮珉。

(Sớ: Có một người dân tên là Phùng Mân).

Đây là tên của vị ấy, cũng là tại gia cư sĩ.

 

(Sớ) Thiếu sự du liệp.

() 少事遊獵。

(Sớ: Thuở trẻ thích săn bắn).

 Lúc tuổi trẻ, ưa săn bắn. Săn bắn sẽ kết oán cừu nhiều lắm!

 

(Sớ) Kiến cự xà, trì sáo tương vãng thích chi.

() 見巨蛇,持矟將往刺之。

(Sớ: Thấy một con rắn to, liền vác mâu đến đâm nó).

“Sáo” (矟) là trường mâu, ông ta đâm con rắn ấy.

 

(Sớ) Thời xà tại nham hạ.

() 時蛇在巖下。

(Sớ: Lúc ấy, rắn ở dưới vách núi).

Rắn ở dưới vách núi.

 

(Sớ) Dục phệ hoàng độc.

() 欲噬黃犢。

(Sớ: Toan cắn con bê vàng).

“Độc” (犢) là con bò con. Rắn này rất lớn, toan nuốt con bê.

 

(Sớ) Mân thôi nham thạch áp chi, chí tử.

() 珉推巖石壓之,至死。

(Sớ: Phùng Mân đẩy đá từ vách núi xuống, đè chết rắn).

Ông ta ở phía trên, dùng đá to quăng xuống, đè rắn chết bẹp. Rắn to như vậy thường gọi là “rắn đã thành tinh”.

 

(Sớ) Xà lũ vi túy.

() 蛇屢為祟。

(Sớ: Rắn nhiều lần hiện hồn quấy phá).

Rắn sau khi bị đè chết, thường thường quấy phá, kiếm chuyện, đó là oan gia trái chủ.

 

(Sớ) Mân tu sám niệm Phật kinh niên, xà bất năng hại.

() 珉修懺念佛經年,蛇不能害。

(Sớ: Ông Mân tu sám, niệm Phật nhiều năm, rắn chẳng thể hại được).

“Tu sám” là sám hối, niệm Phật; do có công đức này, rắn không có cách nào báo thù được.

 

(Sớ) Nhất nhật thỉnh đồng xã tịnh lữ, tụng Di Đà kinh, hiệp chưởng nhi hóa.

() 一日請同社淨侶,誦彌陀經,合掌而化。

(Sớ: Một hôm, mời các bạn thanh tịnh cùng liên xã, tụng kinh Di Đà, chắp tay qua đời).

“Đồng xã”: Nhất định là ông ta đã tham gia liên xã. Từ xưa tới nay, liên xã hết sức phổ biến. Từ thời Huệ Viễn đại sư thành lập liên xã đầu tiên, về sau, tại mỗi nơi ở Trung Quốc, hễ lập hội Niệm Phật đều gọi là “liên xã”. Thỉnh các đồng tu trong liên xã đến trợ niệm giúp ông ta, tụng kinh Di Đà, ông ta chắp tay vãng sanh. Đây là nói về chuyện “giải oán vãng sanh”. Nếu ông ta chẳng thường niệm Phật, không cầu vãng sanh, oán gia trái chủ sẽ không tha cho ông ta! Nếu ông ta không ra khỏi lục đạo luân hồi, dù trong một đời này tu tập tốt đẹp đến mấy đi nữa, đời sau oán gia vẫn đến kiếm! Các quý vị đọc Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, thấy Ngộ Đạt quốc sư là cao tăng mười đời; oán gia theo Ngài suốt mười đời, nhưng chưa báo thù được. Tới đời thứ mười, tôn giả Ca Nặc Ca điều giải, hóa giải. Nếu không, oán ấy vẫn chưa hết! Do vậy, quý vị phải ghi nhớ, đừng kết oán cừu với người khác, đừng kết oán cừu với quỷ thần, mà cũng đừng kết oán cừu với súc sanh, nhất là những súc sanh lớn. Quý vị kết oán cừu với chúng sẽ phiền phức lắm! Vì sao? Càng to, linh tánh càng cao, ý niệm báo thù càng mạnh. Kết mối oán cừu rất đáng ngán. Quả thật là đời đời kiếp kiếp chẳng dễ gì giải trừ!

Tục ngữ nói rất hay: “Oan gia nghi giải, bất nghi kết”, [nghĩa là] phải biết giải khai oan gia, đừng nên kết. Hễ kết thì sau này, đời đời kiếp kiếp bị phiền phức. Chỉ có thật sự vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ thì mới tính là tất cả oan gia của quý vị đều được giải trừ. Nếu quý vị chưa thể vãng sanh Tịnh Độ, chắc chắn chẳng thể trốn tránh được! Chẳng cần biết quý vị tu pháp môn gì, hễ tu chưa thành công, oan gia trái chủ đều gọi là “ma chướng”, họ đều đến chướng ngại quý vị. Từ vô thỉ kiếp tới nay, chẳng biết đã kết oán cừu với bao nhiêu người, kết mối thù oán với bao nhiêu quỷ thần và súc sanh. Nay chúng ta cầu thuận buồm xuôi gió trên con đường Bồ Đề sẽ chẳng dễ dàng, đâu có chuyện [dễ dàng như vậy] được! Chỉ có biện pháp duy nhất là học theo Phùng cư sĩ, hằng ngày thật sự niệm Phật, sám hối. Để sám hối, chúng ta niệm bài kệ Sám Hối là đủ rồi. Nương theo kệ Sám Hối, trong tâm thật sự sám hối, như thế là tốt đẹp. Lại nữa, một câu A Di Đà Phật này quả thật tiêu trừ nghiệp chướng, tăng phước huệ. Không chỉ có đại công đức vãng sanh, mà hiện thời, quý vị niệm một tiếng A Di Đà Phật sẽ tiêu tội chướng, tăng phước huệ, quý vị niệm niệm A Di Đà Phật là niệm niệm tiêu nghiệp chướng, niệm niệm tăng phước huệ. Không có pháp môn nào có hiệu quả thù thắng hơn pháp này!

 

(Sớ) Vị chung tọa thoát giả.

() 未終坐脫者。

(Sớ: Nói chưa tụng xong đã ngồi qua đời).

 Đây là người thuộc đời Tấn.

 

(Sớ) Tấn Trí Tiên pháp sư, hiệu Chân Giáo, trụ Bạch Liên Tự, thập tam niên Tây hướng thập niệm, thập nhị thời bất tạm phế.

()晉智仙法師,號真教,住白蓮寺,十三年西向十念,十二時不暫廢。

(Sớ: Đời Tấn, pháp sư Trí Tiên, hiệu là Chân Giáo, trụ tại chùa Bạch Liên, suốt mười ba năm hướng về phương Tây, tu thập niệm, trong suốt mười hai thời chẳng tạm bỏ).

Sư rốt cuộc niệm Phật không nhiều lắm, nhưng người ta công phu tuyệt vời! Sư sử dụng cách Thập Niệm. Ngài niệm suốt mười ba năm chẳng gián đoạn, niệm Phật bằng cách hướng về phương Tây thập niệm. Sư tu thập niệm trong mười hai thời, mỗi thời niệm một lần. Thập niệm thì thời gian [niệm Phật] chẳng lâu, đại khái là năm phút đã niệm xong! Nhưng mười hai thời chẳng đơn giản, mười hai thời bao gồm cả buổi tối. “Thời thần” (時辰) trong thuở ấy dùng “Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi v.v…” để tính toán; một thời thần thuở ấy bằng hai giờ hiện thời. Cứ mỗi hai tiếng đồng hồ, Sư lại niệm một lần, đấy là tu pháp Thập Niệm. Mỗi hai tiếng đồng hồ niệm một lần, suốt mười ba năm chẳng gián đoạn, công phu ở chỗ này! Khó nhất là buổi tối, buổi tối cứ cách hai giờ, Sư lại trở dậy niệm một lần, chuyện này chẳng dễ dàng.

 

(Sớ) Nhất tịch vi tật.

() 一夕微疾。

(Sớ: Một tối, hiện chút bệnh nhẹ).

Hôm Sư vãng sanh, bị mắc chút bệnh vặt.

 

(Sớ) Mạng quán đường hành nhân tụng Di Đà kinh.

() 命觀堂行人誦彌陀經。

(Sớ: Bảo những người đang làm việc trong trai đường hãy tụng kinh Di Đà).

“Quán đường hành nhân”: Quán đường là Ngũ Quán Đường[125], tức trai đường. Sư bảo những người đang làm việc ở đó niệm kinh Di Đà.

 

(Sớ) Vị chung quyển.

() 未終卷。

(Sớ: Tụng chưa hết quyển kinh).

Kinh Di Đà chưa tụng xong.

 

(Sớ) An nhiên tọa thoát.

() 安然坐脫。

(Sớ: Đã ngồi lặng lẽ qua đời).

Sư ngồi ở nơi đó, người ta niệm kinh, Sư cũng niệm theo, lắng nghe, một quyển kinh chưa niệm xong, Sư đã vãng sanh. Đây là nêu gương Thập Niệm.

 

(Sớ) Quy như nhập Định giả, Tống Thích Xử Khiêm.

() 歸如入定者,宋釋處謙。

(Sớ: Về [Cực Lạc] như nhập Định là ngài Thích Xử Khiêm đời Tống).

Đây là một vị xuất gia, pháp sư Xử Khiêm.

 

(Sớ) Tinh tu Tịnh Độ.

() 精修淨土。

(Sớ: Tu ròng Tịnh Độ).

“Tinh tu” là chuyên tu, chẳng xen tạp các pháp môn khác. Chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ mà còn muốn tu thêm pháp khác, vẫn muốn nghiên cứu pháp khác, đấy là chẳng tinh! “Tinh” là trừ pháp môn này ra, trừ kinh điển Tịnh Độ ra, tất thảy đều chẳng xen lạm, đó là “tinh”. Kinh điển chủ yếu trong Tịnh Độ là tam kinh nhất luận, nương theo những kinh luận này để tu hành.

 

(Sớ) Nhất tịch, tụng Di Đà kinh tất.

() 一夕,誦彌陀經畢。

(Sớ: Một tối, Sư tụng kinh Di Đà xong).

 Buổi tối hôm vãng sanh, tụng kinh xong.

 

(Sớ) Xưng tán Tịnh Độ.

() 稱讚淨土。

(Sớ: Khen ngợi Tịnh Độ).

 Nay chúng ta gọi “xưng tán Tịnh Độ” là Tán Phật Kệ .

 

(Sớ) Cáo chúng viết: “Ngô dĩ vô sanh nhi sanh Tịnh Độ”. Như nhập Thiền Định, yểm nhiên nhi hóa.

()告眾曰:吾以無生而生淨土。如入禪定,奄然而化。

(Sớ: Bảo đại chúng: “Ta do vô sanh mà sanh Tịnh Độ”, như nhập Thiền Định, đột nhiên qua đời).

Giã biệt đại chúng. Nói xong, đặc biệt nói Ngài “do vô sanh mà sanh”; đấy là Tịnh Độ sanh vô sanh. Cổ đức dạy chúng ta: “Sanh tắc quyết định sanh, khứ tắc thật bất khứ” (sanh thì quyết định sanh, nhưng đi thật sự chẳng đi). Thiên Thai đại sư có Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận, bộ sách này hiện nay cũng thuộc trong Tịnh Độ Thập Yếu. Hết sức trọng yếu, có thể giải trừ khá nhiều nghi vấn về Tịnh Độ. Cư sĩ Quý Thánh Nhất đã chú giải Sanh Vô Sanh Luận hết sức tỉ mỉ.

 

(Sớ) Chung đổ bạch liên giả, Tống Gia Hòa quận, Chung ẩu.

() 終睹白蓮者,宋嘉禾郡鍾嫗。

(Sớ: Lâm chung thấy hoa sen trắng: Đời Tống, bà lão họ Chung ở quận Gia Hòa).

Bà cụ này họ Chung.

 

(Sớ) Nhật tụng Di Đà kinh thập biến, niệm Phật bất chuyết.

() 日誦彌陀經十遍,念佛不輟。

(Sớ: Hằng ngày tụng kinh Di Đà mười biến, niệm Phật chẳng bỏ sót).

Quý vị thấy bà cụ tu hành, mỗi ngày niệm kinh Di Đà mười biến, Phật hiệu chẳng gián đoạn.

 

(Sớ) Nhất nhật ngữ kỳ tử viết.

() 一日語其子曰。

(Sớ: Một hôm bảo con).

Hôm vãng sanh bảo con.

 

(Sớ) Kiến bạch liên hoa vô số, chúng thánh nghênh ngã.

() 見白蓮華無數,眾聖迎我。

(Sớ: Mẹ thấy hoa sen trắng vô số, các vị thánh đến đón mẹ).

Thấy hoa sen, thấy Phật và đại chúng đến đón tiếp, bà cụ bèn vãng sanh.

 

(Sớ) Toại đoan tọa tủng thân hóa khứ.

() 遂端坐聳身化去。

(Sớ: Bèn ngồi ngay ngắn, thân khẽ động, đã tịch rồi).

 Khẽ động vai đã đi rồi, tự tại ngần ấy! Chẳng sanh bệnh; đây là một bà cụ tại gia. Truyện ký của những vị này được chép tường tận trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục.

 

(Sớ) Ngân đài kim đài giả.

() 銀臺金臺者。

(Sớ: Đài bạc, đài vàng).

Câu chuyện này được lưu truyền rất phổ biến, rất nhiều người biết.

 

(Sớ) Hoài Ngọc thiền sư, Thai Châu nhân, bố y nhất thực, thường tọa, bất ngọa. Tinh tấn niệm Phật, tụng Di Đà kinh tam thập vạn biến.

() 懷玉禪師 ,台州人 ,布衣一食 ,常坐不臥 。精進念佛,誦彌陀經三十萬遍。

(Sớ: Thiền sư Hoài Ngọc, người xứ Thai Châu, mặc áo vải, ngày ăn một bữa, thường ngồi, chẳng nằm, tinh tấn niệm Phật, tụng kinh Di Đà ba mươi vạn biến).

Niệm Phật hiệu chẳng cần phải nói nữa! Kinh Di Đà tụng ba mươi vạn biến. Vị này suốt đời mặc “bố y”, [tức là] y phục bằng vải thô, ăn đúng Ngọ một bữa, “thường tọa bất ngọa”: Đây là tu không ngả lưng xuống đơn (giường Tăng), khi ngủ chẳng nằm xuống, lúc mệt bèn tịnh tọa. Tinh tấn niệm Phật, thật sự tinh tấn. Trong Niệm Phật Đường, nói thật ra, nếu thật sự dụng công niệm Phật, hiệu quả sẽ hết sức rõ ràng. Có một phòng nghỉ, mọi người mệt mỏi bèn tới đó nghỉ ngơi một chốc. Khi nghỉ, chẳng cần cởi áo, mặc cả áo mà ngủ. Ngủ một lát, tinh thần khôi phục, bèn ngay lập tức niệm tiếp, phải như vậy thì mới được. Chúng ta chưa phải là đả Tinh Tấn Phật Thất, đả Tinh Tấn Phật Thất rất nghiêm ngặt. Đấy là hễ mệt mỏi tự mình đi nghỉ, nghỉ khoẻ xong bèn ngay lập tức quay lại niệm Phật. Có thể buông xuống hết thảy, nhất tâm niệm Phật, hiệu quả vô cùng rõ rệt!

 

(Sớ) Nhất nhật kiến Tây Phương thánh chúng, đa nhược Hằng sa.

() 一日見西方聖眾,多若恆沙。

(Sớ: Một hôm, thấy Tây Phương thánh chúng nhiều như cát sông Hằng).

 Nhiều như số cát trong sông Hằng, Ngài thấy thanh tịnh hải chúng theo A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí đều đến đón tiếp.

 

(Sớ) Nhất kình ngân đài, tùng song nhi nhập.

() 一擎銀臺,從窗而入。

(Sớ: Một vị bưng đài bạc, theo cửa sổ mà vào).

Cầm hoa sen, trên hoa có đài, kim đài hay ngân đài là phẩm vị cao hay thấp khác nhau. Người đến đón tiếp Ngài cầm hoa sen, trên hoa có đài bằng bạc, theo cửa sổ tiến vào.

 

(Sớ) Ngọc viết.

() 玉曰。

(Sớ: Hoài Ngọc nói).

Thiền sư Hoài Ngọc bèn nói.

 

(Sớ) Ngô nhất sanh tinh tấn, thệ thủ kim đài, vi hà đắc thử? Ngân đài toại ẩn.

()吾一生精進,誓取金臺,為何得此?銀臺遂隱。

(Sớ: Ta cả đời tinh tấn, thề lấy được đài vàng, vì sao được đài này? Đài bạc liền ẩn).

Ta suốt đời tinh tấn, trong tâm mong đài vàng, nào ngờ nay là đài bạc, trong tâm đương nhiên rất khổ sở, rất hổ thẹn. Ý niệm này vừa dấy lên, chẳng thấy đài bạc nữa, nó bèn ẩn mất!

 

(Sớ) Ngọc cảm kích.

() 玉感激。

(Sớ: Hoài Ngọc cảm kích).

Chẳng thấy đài bạc nữa, tiêu mất rồi! Trong tâm Ngài cũng rất cảm động. Như thế nào đây? Lại tinh tấn và nỗ lực.

 

(Sớ) Bội phục tinh tấn.

() 倍復精進。

(Sớ: Tinh tấn gấp bội).

 Nỗ lực gấp bội.

 

(Sớ) Tam thất nhật hậu.

() 三七日後。

(Sớ: Hai mươi mốt ngày sau).

Hai mươi mốt ngày sau.

 

(Sớ) Kiến Phật mãn không trung.

() 見佛滿空中。

(Sớ: Thấy Phật đầy ắp trên hư không).

 Phật lại đến tiếp đón Sư.

 

(Sớ) Nãi vị đệ tử viết: “Kim đài lai nghênh”.

() 乃謂弟子曰:金臺來迎。

(Sớ: Sư bèn bảo đệ tử: “Đài vàng đến đón”).

Quả nhiên chẳng phụ lòng mong mỏi, đài vàng tới đón.

 

(Sớ) Ngô sanh Tịnh Độ hỹ . Thuyết kệ, hàm tiếu nhi thệ.

() 吾生淨土矣。說偈含笑而逝。

(Sớ: Ta sanh về Tịnh Độ! Nói kệ, mỉm cười, qua đời).

Ngài hoan hỷ, nguyện vọng đã đạt, đúng là kim đài đến đón tiếp Ngài!

 

(Sớ) Quận thủ Đoàn công dị chi.

() 郡守段公異之。

(Sớ: Viên quan họ Đoàn đứng đầu quận ấy lấy làm lạ).

“Quận thủ” là trưởng quan vùng ấy. Khi đó, quận tương đương với tỉnh hiện thời, nhưng nhỏ hơn tỉnh một chút. Quận Thủ là quan Thái Thú, là quan lớn trong vùng, trông thấy tướng lành này cũng hết sức cảm động.

 

(Sớ) Tác thi tán mỹ.

() 作詩讚美。

(Sớ: Làm thơ ca ngợi).

 Có thơ tặng cho Ngài để ca ngợi.

 

(Sớ) Hữu “chi đê chỉ vị quải kim đài” chi cú vân.

() 有枝低只為掛金臺之句云。

(Sớ: Trong ấy có câu “đài vàng treo trĩu nặng cành cây”).

Thơ rằng: “Ngã sư nhất niệm đăng Sơ Địa” (thầy ta một niệm lên Sơ Địa), đài vàng là Lý nhất tâm bất loạn, Lý nhất tâm bất loạn là thượng phẩm thượng sanh. Ngài suốt đời dụng công, thường ngồi chẳng nằm, nhất là trong ba thất tức hai mươi mốt ngày cuối cùng càng thêm tinh tấn gấp bội, đắc Lý nhất tâm bất loạn. Vì thế, tán thán Ngài “nhất niệm đăng Sơ Địa”. “Phật quốc sênh ca lưỡng độ lai” (Cõi Phật đàn ca hai lượt tới), A Di Đà Phật trỗi nhạc trời đến tiếp dẫn Ngài hai lần, “duy hữu môn tiền cổ hòe thụ” (trước song, riêng một cội hòe già). Trước chùa có một cây hòe, cành hòe rủ thấp. “Chi đê chỉ vị quải kim đài” (đài vàng đeo trĩu cả cành cây). Đài vàng quá nặng, cho nên cành hòe bị đè xuống rất thấp. Dùng bài thơ này để tán thán Ngài.

 

(Sớ) Thô nhạc, tế nhạc giả, Nguyên Tử Hoa thiền sư.

() 粗樂細樂者,元子華禪師。

(Sớ: “Nhạc thô tháp, nhạc vi diệu”: Thiền sư Tử Hoa vào đời Nguyên).

 Đây là một vị xuất gia vào thời Nguyên.

 

(Sớ) Đại Lịch cửu niên, ư Nhuận Châu Quán Âm Tự, tụng Di Đà kinh lục nguyệt.

() 歷九年,於潤州觀音寺,誦彌陀經六月。

(Sớ: Vào năm Đại Lịch thứ chín (774), tụng kinh Di Đà sáu tháng tại chùa Quán Âm ở Nhuận Châu).

Mỗi ngày niệm kinh Di Đà suốt nửa năm.

 

(Sớ) Hốt đắc tật.

() 忽得疾。

(Sớ: Chợt mắc bệnh).

Bỗng nhiên Ngài nhiễm bệnh.

 

(Sớ) Dạ văn hương khí nhạc âm.

() 夜聞香氣樂音。

(Sớ: Đêm ngửi thấy mùi hương, nghe tiếng nhạc).

Trong khi bị bệnh, Ngài ngửi thấy mùi hương, nghe tiếng thiên nhạc.

 

(Sớ) Không trung cáo viết: “Thô nhạc dĩ quá, tế nhạc tục lai, quân đương vãng sanh”.

() 空中告曰:粗樂已過,細樂續來,君當往生。

(Sớ: Trong hư không có tiếng bảo: “Nhạc thô vụng đã hết, nhạc tinh tế sẽ tiếp tục trỗi, ông sẽ vãng sanh”).

Nhạc trời cũng là hai lượt, càng về sau càng tinh tế hơn, càng dễ nghe hơn.

 

(Sớ) Lương cửu niệm Phật nhi hóa.

() 良久念佛而化。

(Sớ: Hồi lâu sau, Sư niệm Phật qua đời).

 Ngài niệm Phật vãng sanh.

 

(Sớ) Dị hương liên nhật bất tán.

() 異香連日不散。

(Sớ: Mùi hương lạ đọng lại cả ngày chẳng tan).

Những điều này là tướng lành vãng sanh. Đại sư đã nêu lên rất nhiều ví dụ, đều nhằm giúp chúng ta sanh khởi lòng tin. Mỗi ví dụ đều là chuyện chân thật. Hôm nay đã hết thời gian rồi.

 

— o0o —

Tập 90 

Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm năm mươi bảy:

 

(Huyền Nghĩa) Hựu nhược thư tả tắc hóa bị thương sanh[126], giảng diễn tắc tường phù bạch hạc.

(玄義) 又若書寫則化被蒼生,講演則祥符白鶴。

(Huyền Nghĩa: Lại nữa, như biên chép giáo hóa trọn khắp phàm dân, giảng diễn ắt hiện điềm lành hạc trắng).

Từ xưa tới nay, thọ trì kinh Di Đà có khá nhiều sự cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Đoạn này nói về chuyện chép kinh. Trước đây, kinh sách lưu thông phải dựa vào biên chép. Kỹ thuật ấn loát cho đến sau đời Tống – Nguyên mới dần dần phát triển. Kinh điển in theo lối phương sách, tức là in theo lối khâu gáy đóng thành sách như chúng ta thấy hiện thời, đóng sách như vậy để trở thành một cuốn. Mãi đến cuối đời Minh, mới chọn lựa cách đóng kinh Phật thành sách theo lối như vậy. Vào đời Minh, [cách đóng sách ấy do] Hàn Sơn đại sư đề xướng, gọi là “phương sách bản”. Trước kia, thời Đường [kinh Phật được] gọi là “quyển tử”, giống như những bức vẽ được cuộn lại. Sau đấy là “triếp điệp bản”[127]. Từ triếp bản lại diễn biến thành sách đóng thành tập gọi là phương sách bản.

Thời ấy, thuật ấn loát chưa phát triển, bản in khắc trên gỗ, trước hết, phải chép lại. Chép hoàn chỉnh rồi mới đem bản ấy khắc lên ván gỗ, khắc từng chữ một. Khi in cũng rất bất tiện. Cứ một bức ván gỗ là một trang kinh sách. Thuở đó chưa có mực in, dùng muội gỗ tùng để in; tức là dùng hạt cây tùng đốt lấy bồ hóng. Quý vị thấy những bản sách cổ, in bằng muội gỗ tùng, tay sờ vào sẽ bị đen thui, đối với bản in bằng mực ta sẽ không bị đen tay. In bằng muội gỗ tùng nên giá thành khá cao, chẳng thuận tiện như hiện tại. Người hiện tại tu phước nên [mọi việc] thuận tiện hơn cổ nhân rất nhiều! Cổ nhân muốn lưu thông kinh sách, phải thuê người sao chép, sao một bộ phải trả công chừng đó tiền! Có những người có học, đi thi không đỗ, làm cách nào đây? Thường đến chùa miếu chép kinh. Nhà chùa trả tiền công cho họ, sao một bộ kinh trả công bao nhiêu tiền, cho họ ăn, cho họ ở, để họ chuyên làm việc sao chép kinh điển. Lưu thông kinh điển thuở ấy phải dùng phương thức này. Những trường hợp được đại sư nêu lên trong lời chú giải đều là chuyện thật.

 

(Sớ) Thư tả giả, Đường Thiện Đạo đại sư, phàm đắc sấn thí, dụng tả Di Đà kinh thập vạn quyển.

()書寫者,唐善導大師,凡得襯施,用寫彌陀經十萬卷。

(Sớ: “Biên chép”: Đời Đường, Thiện Đạo đại sư hễ được cúng dường bèn dùng để chép kinh Di Đà số đến mười vạn quyển).

“Sấn thí” (襯施) là tín đồ cúng dường tiền bạc cho Ngài, Ngài dùng tiền này để cậy người khác chép kinh Di Đà. Chẳng dễ dàng! Kinh Di Đà được phổ biến, lưu thông là do Thiện Đạo đại sư đề xướng mà đắc lực. Đương nhiên, kinh này chẳng thể coi là quá dài, cứ một quyển là được một bộ, đấy là một quyển kinh. Ngài nhờ người khác chép kinh Di Đà, số lượng rất đáng kể, mười vạn quyển! Với kỹ thuật ấn loát phát triển như trong hiện thời, người nào phát tâm in kinh Di Đà mười vạn quyển? Hiện thời làm chuyện này dễ hơn thời Thiện Đạo đại sư rất nhiều, mười vạn quyển kinh phải chép trong bao nhiêu năm? Ngày nay, chúng ta in mười vạn cuốn sách chỉ mất một tháng, giá tiền lại còn thấp hơn trước đây rất nhiều. Đây là lưu thông kinh quyển.

 

(Sớ) Khuyến nhân thọ trì, diệc hữu độc tụng chí thập vạn biến giả, ngũ thập vạn biến giả.

() 勸人受持,亦有讀誦至十萬遍者,五十萬遍者。

(Sớ: Khuyên người khác thọ trì, cũng có người đọc tụng tới mười vạn biến, hay năm mươi vạn biến).

Đây là nói về người thọ trì, tụng niệm kinh này. Bởi lẽ, các đồng tu phải chú ý, niệm kinh thì không nên niệm quá nhiều, quá tạp! Nhất định phải hiểu rõ niệm kinh nhằm mục đích gì, chúng ta niệm kinh Di Đà nhằm mục đích gì? Nói thật ra là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đấy là mục đích thật sự của chúng ta. Nếu chúng ta nhất tâm nhất ý muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm thêm những kinh điển khác chính là xen tạp! Pháp môn này đáng quý ở chỗ chuyên tu! Niệm bộ kinh này thuần thục, tâm cũng định rồi, chuyên nhất rồi, bèn có thể đắc nhất tâm bất loạn. Nếu như niệm đủ thứ kinh luận, chẳng dễ gì thành tựu nhất tâm bất loạn! Vì sao? Niệm kinh này, nghĩ đến kinh kia chưa niệm, niệm kinh đó xong, lại còn có những kinh khác ta chưa niệm! Trong tâm quý vị khởi vọng tưởng, tâm chẳng chuyên! Vì thế, thật sự đạt được lợi ích nơi tu hành, nhất định phải chuyên, niệm kinh phải chuyên, pháp môn tu hành cũng phải chuyên, chỉ niệm một câu A Di Đà Phật, những thứ khác đều chẳng cần tới nữa!

Một câu A Di Đà Phật này có công đức chẳng thể nghĩ bàn, Ngẫu Ích đại sư đã nói rất rõ ràng: Một câu A Di Đà Phật “viên nhiếp ngũ tông, cai la bát giáo” (nhiếp trọn năm tông, bao trùm tám giáo). Một câu A Di Đà Phật gồm trọn hết thảy các kinh điển và hết thảy các pháp môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, chẳng sót một pháp nào! Không chỉ bao gồm những điều Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong bốn mươi chín năm, thậm chí những pháp do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói, một câu A Di Đà Phật này cũng đều gồm trọn! Chúng ta chẳng niệm A Di Đà Phật thì niệm gì? Chẳng niệm kinh Di Đà thì niệm kinh gì đây?

Thiện Đạo đại sư rất lỗi lạc, Ngài là người đời Đường. Theo truyện ký ghi chép, Ngài chuyên niệm A Di Đà Phật. Vì thế, Ngài là tổ sư đời thứ hai của Tịnh Độ Tông. Ngài niệm một tiếng Phật hiệu, từ trong miệng phóng ra một tia sáng, trong tia sáng ấy có một vị Hóa Phật, đó là tượng A Di Đà Phật. Mỗi câu đều như vậy. Điều này được truyện chép như sau: “Khẩu phóng quang minh, quang trung hóa Phật”. Theo truyền thuyết lịch sử, Thiện Đạo đại sư là hóa thân của A Di Đà Phật. Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ, hòa thượng Phong Can cũng là hóa thân của A Di Đà Phật.

 

(Sớ) Tăng tục quy ngưỡng, chí hữu cảm cực phần thân cúng dường, đắc Niệm Phật tam-muội giả, bất khả thắng kỷ.

()僧俗歸仰,至有感極焚身供養,得念佛三昧者,不可勝紀。

(Sớ: Tăng, tục quy y ngưỡng mộ, đến nỗi có người cảm mộ cùng cực, đã đốt thân cúng dường. Người đắc Niệm Phật tam-muội chẳng thể ghi xiết).

Đây đều là nói công đức giáo hóa của Thiện Đạo đại sư. Hậu thế tôn Ngài làm tổ sư Tịnh Độ Tông. Cảm động tới cùng cực, “đốt thân cúng dường”, đốt ngón tay hay đốt cánh tay đều là đốt một bộ phận trên thân. Đắc Niệm Phật tam-muội, Niệm Phật tam-muội là Sự nhất tâm bất loạn. Người theo Thiện Đạo đại sư tu học, đắc nhất tâm bất loạn rất ư là nhiều!

 

(Sớ) Giảng diễn giả.

() 講演者。

(Sớ: Giảng diễn).

 Giảng giải bộ kinh này.

 

(Sớ) Tống Trầm Tam Lang.

() 宋沈三郎。

(Sớ: Ông Trầm Tam Lang đời Tống).

Người đời Tống.

(Sớ) Vãn tuế hồi tâm niệm Phật.

() 晚歲回心念佛。

(Sớ: Tuổi già, hồi tâm niệm Phật).

Đây là lúc tuổi già, tuổi tác đã cao lắm rồi. Đến lúc này mới học Phật, tin tưởng pháp môn Tịnh Độ, phát tâm niệm Phật.

 

(Sớ) Nhân bệnh, thỉnh tăng giảng Di Đà kinh, dịch y nhi chung.

() 因病,請僧講彌陀經,易衣而終。

(Sớ: Do bị bệnh, thỉnh Tăng giảng kinh Di Đà, thay áo, qua đời).

Trong khi bị bệnh, thỉnh pháp sư giảng kinh Di Đà cho ông ta nghe. Trong lúc thay đổi y phục, ông ta bèn mạng chung.

 

(Sớ) Súc tất dục khởi, nhị tử cục ư danh giáo, dĩ dịch khám vi nan, duệ kỳ hĩnh trực chi. Tương nhập liệm, hốt cử thủ xuất y bị, cù nhiên nhi tọa, cử gia đại kinh. Nhị tử cấp tiền phù vệ, nãi dĩ trửu tiết trúy chi. Tử viết: “Trợ phụ tọa thoát nhĩ”. Cánh tọa thệ. Trà-tỳ, hữu bạch hạc nhị thập cửu chích, phi minh vân biểu, cửu chi Tây khứ.

() 縮膝欲起 ,二子局於名教 ,以易龕為難 曳其脛直之。將入斂,忽舉首出衣被,瞿然而坐,舉家大驚。二子急前扶衛,乃以肘節捶之。子曰:助父坐脫耳。竟坐逝。荼毗,有白鶴二十九隻,飛鳴雲表,久之西去。

(Sớ: Co chân toan ngồi dậy, hai đứa con trai câu nệ danh giáo, cho là khó thể đổi hòm, bèn kéo chân cha cho thẳng ra. Lúc sắp nhập liệm, ông ta đột nhiên thò đầu ra khỏi vải liệm, đột ngột ngồi dậy, cả nhà kinh hãi. Hai đứa con trai vội tiến lên nâng đỡ, ông ta bèn dùng khuỷu tay huých họ, con bèn nói: “Giúp cha ngồi qua đời mà”, ông ta bèn ngồi qua đời. Lúc hỏa thiêu, có hai mươi chín con hạc trắng bay lượn, hót ríu rít trong mây, hồi lâu, bay về phía Tây).

 Truyện Trầm Tam Lang được chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện. Người này đã chết, trước khi ông mất, đã dặn con là ông ta muốn tọa khám, tức là tọa thoát, ngồi mà mất. “Danh giáo” là Nho gia. Theo quy chế đại liệm[128] của Nho gia, người sau khi đã chết nhất định phải nhập liệm trong quan tài. Vì vậy, con ông ta không nghe lời, tiến hành đại liệm cho ông ta theo cách thức của người bình thường. Kéo chân ông ta cho thẳng lại, dùng quan tài nhập liệm. Lúc ấy, bỗng nhiên ông ta ngồi dậy, đúng là chuyện khiến mọi người rất kinh hãi. Người trong nhà ông ta hiểu rõ, biết ông ta mong tọa thoát, không muốn nằm sõng sượt ra đi. Vì thế, con trai ông ta giúp ông ngồi xếp bằng, để ông ta tọa thoát. Trà-tỳ (Jhāpeta) là hỏa táng, khi hỏa táng có hai mươi chín con hạc trắng, giống như đến tiễn ông ta. Hỏa thiêu xong, những con hạc trắng ấy bay về phương Tây; có tướng lành ấy. “Tường phù bạch hạc” (hạc trắng hiện điềm lành) là do lễ thỉnh pháp sư tới giảng kinh Di Đà, ông ta vãng sanh trong khi đang nghe, nên có sự cảm ứng tốt lành này.

 

(Huyền Nghĩa) Hiện tiền cảm ứng, tắc bảo địa dao quán, khắc thủ vãng sanh, tắc Niết Bàn phi tỷ, như tư cảm ứng, lũ kiến cổ kim.

(玄義)現前感應,則寶地遙觀,剋取往生,則涅槃非比,如斯感應,屢見古今。

(Huyền Nghĩa: Cảm ứng trong hiện tiền thì dõi trông đất báu, ước định kỳ hạn vãng sanh, kinh Niết Bàn chẳng thể sánh bằng. Những sự cảm ứng như vậy, xưa nay thấy rất nhiều).

Đây là nói về sự cảm ứng trong hiện tiền, quả thật cũng hết sức nhiều! Ở đây, nêu đại lược vài người.

 

(Sớ) Bảo địa dao quán giả, Đường Đại Hành thiền sư.

() 寶地遙觀者,唐大行禪師。

(Sớ: “Dõi trông đất báu”: Thiền sư Đại Hành đời Đường).

Thiền sư Đại Hành là người đời Đường.

 

(Sớ) Sơ tu Phổ Hiền Sám.

() 初修普賢懺。

(Sớ: Thoạt đầu tu Phổ Hiền Sám Pháp).

Trước đó, Ngài tu lễ Phổ Hiền Sám Pháp, tức là Phổ Hiền Bồ Tát Sám Nguyện Nghi, y theo phương pháp ấy để tu hành.

 

(Sớ) Hậu nhập Đại Tạng, tùy thủ thủ quyển, đắc Di Đà kinh.

() 後入大藏,隨手取卷,得彌陀經。

(Sớ: Về sau, vào chỗ cất giữ Đại Tạng Kinh, tiện tay rút ra một quyển, bèn rút được kinh Di Đà).

Cổ nhân thường dùng phương pháp này. Kinh điển nhiều dường ấy, ta phải nên học kinh nào? Đối trước Phật hứa nguyện, con rút lấy một bộ từ Đại Tạng Kinh, sẽ học theo kinh ấy, dùng phương pháp này! Đôi khi là rút thăm, như Ngẫu Ích đại sư thường dùng biện pháp này. Đối với những kinh luận, pháp môn ưa thích, Ngài đều viết thành từng tờ, đặt trước bàn Phật, mỗi ngày lễ bái, cúng dường, lễ bái suốt bảy ngày rồi rút lấy một tờ, dùng phương pháp này. Thiền sư Đại Hành rút một quyển từ trong Đại Tạng Kinh, rút được kinh Di Đà.

 

(Sớ) Nhật dạ tụng vịnh.

() 日夜誦詠。

(Sớ: Ngày đêm tụng niệm, tán thán).

 “Tụng” là đọc tụng, “vịnh” là ca xướng (Phạm Bái). Xoang điệu đọc tụng của cổ nhân rất dễ nghe, mà xoang điệu Phạm Bái cũng hết sức êm tai.

 

(Sớ) Chí tam thất nhật.

() 至三七日。

(Sớ: Tới hai mươi mốt ngày).

Sư ngày đêm niệm bộ kinh Di Đà này, niệm suốt hai mươi mốt ngày.

 

(Sớ) Đổ lưu ly địa thượng, Phật cập nhị đại sĩ hiện tiền.

() 睹琉璃地上,佛及二大士現前。

(Sớ: Thấy trên đất lưu ly, đức Phật và hai vị đại sĩ hiện tiền).

 Tướng ấy hiện tiền, thấy trong hiện tiền. Ngài thấy đại địa trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là đất lưu ly. Nay chúng ta gọi ngọc lưu ly là Phỉ Thúy, là một loại ngọc có màu xanh lá cây. Đại địa là ngọc màu xanh lá cây. A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí đều hiện hình cho Ngài thấy.

 

(Sớ) Hy Tông văn kỳ sự.

() 僖宗聞其事。

(Sớ: Vua Hy Tông nghe chuyện này).

 Hoàng đế Hy Tông nhà Đường nghe kể chuyện này.

 

(Sớ) Chiếu nhập nội đình, tứ hiệu Thường Tinh Tấn Bồ Tát.

() 詔入內庭,賜號常精進菩薩。

(Sớ: Hạ chiếu vời vào cung, ban danh hiệu Thường Tinh Tấn Bồ Tát).

Thiền sư Đại Hạnh vốn học Thiền, về sau, từ Thiền trở về Tịnh Độ, Ngài thật sự tinh tấn, chuyên niệm kinh Di Đà, ngày đêm không ngừng niệm. Niệm hai mươi mốt ngày, được cảm ứng như thế. Vì vậy, hoàng đế Hy Tông ban tặng danh hiệu Thường Tinh Tấn Bồ Tát.

 

(Sớ) Hậu lưu ly địa phục kiến, tức nhật mạng chung, dị hương kinh tuần, nhục thân bất hoại.

()後琉璃地復見,即日命終,異香經旬,肉身不壞。

(Sớ: Sau đó lại thấy đất lưu ly, mạng chung ngay trong ngày hôm ấy, mùi hương lạ đọng lại cả mười ngày, nhục thân chẳng hư).

Vị pháp sư này lưu lại nhục thân, khi Ngài vãng sanh, tướng lành ấy lại hiện tiền. Khi tướng ấy hiện tiền, Ngài vãng sanh. “Dị hương kinh tuần”: “Tuần” (旬) là mười ngày, khi Ngài vãng sanh mùi hương suốt mười ngày chẳng tan.

 

(Sớ) Niết Bàn phi tỷ giả.

() 涅槃非比者。

(Sớ: Niết Bàn chẳng thể sánh bằng)

 Kinh Niết Bàn chẳng sánh bằng kinh Di Đà.

 

(Sớ) Lương Đạo Trân pháp sư.

() 梁道珍法師。

(Sớ: Pháp sư Đạo Trân đời Lương).

 Đời Lương thời Ngũ Đại, pháp sư Đạo Trân giảng kinh Niết Bàn.

 

(Sớ) Thiên Giám trung.

() 天監中。

(Sớ: Trong niên hiệu Thiên Giám).

 Thiên Giám (502-519)[129] là niên hiệu.

 

(Sớ) Khế tích Lô Sơn.

() 憩錫盧山。

(Sớ: Trụ tại Lô Sơn).

 “Khế tích” (憩錫) là ở lại. Ngài du phương tham học tới Lô Sơn thuộc tỉnh Giang Tây, bèn trụ lại đó.

 

(Sớ) Mộ Viễn công tịnh nghiệp.

() 慕遠公淨業。

(Sớ: Ngưỡng mộ Tịnh nghiệp của tổ Huệ Viễn).

Đối với Đông Lâm Niệm Phật Đường chuyên tu Tịnh Độ của Huệ Viễn đại sư, Ngài hết sức ngưỡng mộ.

 

(Sớ) Thiền tọa trung, hốt kiến hải thượng sổ bách nhân thừa bảo phảng tiền mại.

() 禪坐中,忽見海上數百人乘寶舫前邁。

(Sớ: Trong khi ngồi Thiền, chợt thấy trên biển mấy trăm người ngồi trên thuyền báu tiến về trước).

 Đây là cảnh giới trong Định, khi Ngài nhập Định, hiện ra cảnh biển cả, trên biển có mấy trăm người ngồi trên một chiếc thuyền lớn. “Bảo phảng”: Lúc ấy, chiếc thuyền đó hết sức quý báu, do bảy báu chế thành. Họ ngồi thuyền báu tiến lên phía trước.

 

(Sớ) Sư vấn: Hà chi?

() 師問何之。

(Sớ: Sư hỏi: “Đi đâu thế?”)

Pháp sư Đạo Trân hỏi họ: “Các vị đi đâu vậy?”

 

(Sớ) Đáp viết: Vãng Cực Lạc quốc.

() 答曰往極樂國。

(Sớ: Họ đáp: “Đến cõi Cực Lạc”).

 Chúng tôi muốn lái thuyền này đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau khi Sư nghe xong:

 

(Sớ) Nhân cầu phụ tải.

() 因求附載。

(Sớ: Do vậy, bèn xin ngồi nhờ thuyền của họ).

Tôi có thể ngồi ké thuyền của quý vị cùng đi hay chăng?

 

(Sớ) Báo vân.

() 報云。

(Sớ: Họ đáp).

Bọn họ trả lời Ngài.

 

(Sớ) Pháp sư tuy thiện giảng Niết Bàn kinh.

() 法師雖善講涅槃經。

(Sớ: Pháp sư tuy khéo giảng kinh Niết Bàn).

Ông giảng kinh Niết Bàn rất khá.

 

(Sớ) Diệc đại bất khả tư nghị.

() 亦大不可思議。

(Sớ: Cũng là rất chẳng thể nghĩ bàn).

Công đức này chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sớ) Nhiên vị tụng Di Đà kinh, khởi đắc đồng vãng?

() 然未誦彌陀經,豈得同往?

(Sớ: Nhưng chưa tụng kinh Di Đà, làm sao cùng đi được?)

Ông chưa hề niệm kinh Di Đà, làm sao có thể cùng đi được? Vị này đúng là suốt đời hoằng dương kinh Niết Bàn, giảng kinh Niết Bàn, nhưng chẳng thể vãng sanh Tây Phương. Ông chưa niệm kinh Đà là không được rồi, [chúng tôi] không muốn dẫn ông đi cùng.

 

(Sớ) Sư toại phế giảng, niệm Phật.

() 師遂廢講念佛。

(Sớ: Sư bèn bỏ giảng, niệm Phật).

Sau khi thấy cảnh giới trong Định như vậy, vị pháp sư này chẳng giảng kinh nữa, mà chuyên niệm Phật.

 

(Sớ) Tụng Di Đà kinh cập nhị vạn biến.

() 誦彌陀經及二萬遍。

(Sớ: Tụng kinh Di Đà đến hai vạn biến).

Nếu trong Định chẳng gặp phải cảnh giới này, tâm ấy sẽ chẳng thể phát khởi. Gặp cảnh giới ấy, tâm ấy thật sự phát khởi!

 

(Sớ) Tương chung tứ thất nhật tiền.

() 將終四七日前。

(Sớ: Hai mươi tám ngày trước khi mất).

 Đây cũng là biết trước lúc mất, bốn thất trước hôm vãng sanh, tức là trước đó hai mươi tám ngày, đại khái là chừng một tháng, trước đó một tháng!

 

(Sớ) Dạ tứ cổ.

() 夜四鼓。

(Sớ: Lúc canh tư ban đêm).

 Vào lúc canh tư ban đêm.

 

(Sớ) Kiến Tây Phương ngân đài lai chí, không trung kiểu như bạch nhật. Thanh vân: “Pháp sư đương thừa thử đài vãng sanh”.

()見西方銀臺來至,空中皎如白日。聲云:法師當乘此臺往生。

(Sớ: Thấy từ Tây Phương có đài bạc đưa tới, trên trời sáng như ban ngày, có tiếng nói: “Pháp sư nên ngồi đài này mà vãng sanh”).

Có tướng lành này hiện tiền.

 

(Sớ) Thời chúng hàm văn thiên nhạc dị hương.

() 時眾咸聞天樂異香。

(Sớ: Khi ấy, đại chúng đều nghe thấy nhạc trời và ngửi thấy mùi hương lạ).

Khi ấy, đại chúng nghe trên không trung trỗi nhạc trời, lại còn ngửi thấy mùi hương lạ.

 

(Sớ) Sổ nhật hương do vị tán.

() 數日香猶未散。

(Sớ: Mùi hương ấy mấy ngày chẳng tan).

Mùi hương mấy ngày vẫn chưa tan.

 

(Sớ) Kỳ dạ phong đảnh tự tăng, dao kiến cốc khẩu hỏa cự sổ thập, minh liệu triệt dạ, thứ nhật nãi tri Sư thệ.

()其夜峰頂寺僧,遙見谷口火炬數十,明燎徹夜,次日乃知師逝。

(Sớ: Đêm hôm ấy, vị Tăng sống trên đỉnh núi, nhìn thấy xa xa ở ngoài cửa hang núi có mấy chục ánh đuốc sáng ngời suốt đêm, hôm sau mới biết Sư đã tịch).

“Phong đảnh tự”: Ngôi chùa này được xây tại nơi rất cao, cho nên có tầm nhìn rộng lớn, có thể thấy rất xa. Thấy tại cửa hang núi có nhiều ánh đuốc. Mãi cho đến lúc trời sáng, vẫn còn thấy ánh đuốc. Đến hôm sau mới biết tướng lành ấy là do pháp sư vãng sanh.

 

(Sớ) Như thượng sở lục.

() 如上所錄。

(Sớ: Những điều được ghi chép như trên đây).

Những điều được ghi chép này.

 

(Sớ) Giai tu nhân chứng quả, thử cảm bỉ ứng.

() 皆修因證果,此感彼應。

(Sớ: Đều do tu nhân chứng quả, ở đây cảm, nơi kia sẽ ứng).

Người tu hành có cảm, Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật bèn có ứng.

 

(Sớ) Điệp kiến tằng xuất, tự cổ cập kim, vị cập mai cử.

() 疊見層出,自古及今,未及枚舉。

(Sớ: [Những chuyện cảm ứng như thế này] thường được thấy nghe, từ xưa đến nay, chẳng thể nêu trọn).

 Những chuyện cảm ứng này quả thật rất nhiều. Những chuyện được Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện ghi chép là ghi một, sót cả vạn. Nhất là vào thời cổ, thông tin chẳng dễ dàng! Bao nhiêu tướng lành vãng sanh, nhưng người biên chép chưa nghe nói, chưa trông thấy, nên bỏ sót. Nói thật ra, tác giả [của những bộ sách ấy] sưu tập tài liệu rất hữu hạn, bỏ sót rất nhiều. Vì thế, tại Trung Quốc, chẳng biết pháp môn này đã độ bao nhiêu người vãng sanh thế giới Tây Phương.

 

Tứ, minh trì

四、明持。

(Bốn là nói [sự cảm ứng] do thọ trì).

 “Trì” là thọ trì, [đoạn này nói về] sự cảm ứng do thọ trì.

 

(Huyền Nghĩa) Nhược trì danh giả, hoặc nhất niệm nhi phi nhất quang, hoặc nhất thanh nhi xuất nhất Phật, hoặc hưởng di lâm cốc, hoặc âm triệt cung vi, hoặc lục thời hệ niệm, nhi y chánh doanh không, hoặc thập tự tiêu tâm, nhi thánh hiền nhập hội, kịp hồ chiêu đại, tục hữu danh lưu.

(玄義)若持名者,或一念而飛一光,或一聲而出一佛,或響彌林谷,或音徹宮闈,或六時繫念,而依正盈空,或十字標心,而聖賢入會,洎乎昭代,續有名流。

(Huyền Nghĩa: Như trì danh thì hoặc là niệm một câu phóng ra một tia sáng, hoặc mỗi tiếng niệm hiện ra một vị Phật, hoặc vang vọng khắp rừng núi, hoặc âm thanh lọt vào tận trong cung, hoặc sáu thời hệ niệm, y báo và chánh báo đầy ắp hư không, hoặc dùng chữ Thập để biểu thị cái tâm, thánh hiền xin dự vào hội, mãi cho đến nay vẫn luôn lưu danh).

Trong đoạn này cũng trích chẳng ít chuyện.

 

(Sớ) Thử chánh minh chấp trì danh hiệu dã.

() 此正明執持名號也。

(Sớ: Đây là nói trực tiếp đến chuyện chấp trì danh hiệu).

 Đây là nói về sự cảm ứng thù thắng do niệm Phật.

 

(Sớ) Tịnh nghiệp chư hiền, đa bất phiền tải.

() 淨業諸賢,多不繁載。

(Sớ: Các bậc hiền nhân trong Tịnh Nghiệp quá nhiều đến nỗi chẳng thể chép hết).

“Tải” (載) là ghi chép. Nhiều quá! Ghi chép chẳng trọn!

 

(Sớ) Cô cử chiêu chước thế nhân nhĩ mục giả nhất nhị, dĩ vi khích khuyến.

() 姑舉昭灼世人耳目者一二,以為激勸。

(Sớ: Đành nêu ra một hai người được người đời nhận biết rõ rệt nhất nhằm khích lệ, khuyên lơn).

 Nêu ra mấy vị nổi danh nhất, ai cũng biết trong các đời để khuyên lơn, khích lệ hàng hậu học.

 

(Sớ) Phi quang giả.

() 飛光者。

(Sớ: Phóng ánh sáng).

Đây là mỗi niệm bèn tỏa quang minh, “phi quang” là trong miệng tỏa ra ánh sáng. Tôi vừa mới nhắc đến vị này với quý vị, đó là Thiện Đạo đại sư.

 

(Sớ) Đường Thiện Đạo đại sư, nhân vấn niệm Phật đắc sanh Tịnh Độ phủ?

() 唐善導大師,人問念佛得生淨土否?

(Sớ: Có người hỏi Thiện Đạo đại sư đời Đường: “Niệm Phật có được sanh về Tịnh Độ hay chăng?”)

Có người hỏi lão nhân gia: “Niệm Phật có thể vãng sanh thế giới Cực Lạc hay không?”

 

(Sớ) Đáp viết: “Như nhữ sở niệm, toại nhữ sở nguyện”.

() 答曰:如汝所念,遂汝所願。

(Sớ: Ngài đáp: “Đúng như lòng ông nghĩ tưởng, ông sẽ được toại nguyện”).

 Thiện Đạo đại sư trả lời: Chỉ cần ông niệm, nhất định sẽ được mãn nguyện. Ông chịu niệm, sẽ nhất định vãng sanh.

 

(Sớ) Ư thị, Đạo nãi tự niệm A Di Đà Phật nhất thanh.

() 於是導乃自念阿彌陀佛一聲。

(Sớ: Ngay khi ấy, ngài Thiện Đạo tự niệm A Di Đà Phật một tiếng).

Chính Ngài tự niệm, niệm Phật một tiếng bèn có một tia sáng.

 

(Sớ) Tắc hữu nhất quang tùng kỳ khẩu xuất, thập thanh chí bách, quang diệc như chi.

() 則有一光從其口出,十聲至百,光亦如之。

(Sớ: Bèn có một tia sáng từ miệng tỏa ra, niệm từ mười tiếng cho đến một trăm tiếng, ánh sáng đều [tỏa ra] như vậy).

Ngài niệm Phật, miệng phóng quang minh.

 

(Sớ) Quang minh mãn thất.

() 光明滿室。

(Sớ: Quang minh ngập thất).

Ngài niệm nhiều lượt, trong phòng toàn là quang minh.

 

(Sớ) Đế văn kỳ sự.

() 帝聞其事。

(Sớ: Vua nghe chuyện này).

 Thuở ấy, hoàng đế nghe có tướng lạ như vậy, cũng triệu kiến Ngài.

 

(Sớ) Sắc sở cư vi Quang Minh Tự, hậu đăng liễu thụ đoan tọa nhi hóa.

() 敕所居為光明寺,後登柳樹端坐而化。

(Sớ: Sắc phong nơi Ngài trụ là Quang Minh Tự. Về sau, Ngài trèo lên cây liễu ngồi ngay ngắn, viên tịch nơi đó).

Chỗ Ngài ở được hoàng đế tặng một bức hoành phi đề Quang Minh Tự. Niệm Phật miệng tỏa quang minh.

 

(Sớ) Xuất Phật giả, Thiếu Khang pháp sư.

() 出佛者,少康法師。

(Sớ: “Niệm ra Phật”: Pháp sư Thiếu Khang).

Đây cũng là một vị tổ sư của Tịnh Độ Tông.

 

(Sớ) Tại Ô Long sơn, kiến Tịnh Độ đạo tràng, khuyến nhân niệm Phật, chúng kiến Sư niệm Phật nhất thanh, khẩu xuất nhất Phật, chí ư thập niệm, thập Phật thứ xuất, do nhược liên châu.

() 在烏龍山 ,建淨土道場 ,勸人念佛 眾見師念佛一聲,口出一佛,至於十念,十佛次出,猶若連珠。

(Sớ: Ngài lập Tịnh Độ đạo tràng tại núi Ô Long, khuyên người khác niệm Phật. Đại chúng thấy Sư niệm Phật một tiếng, từ trong miệng bay ra một vị Phật, cho đến mười niệm là mười vị Phật lần lượt xuất hiện, giống như một xâu chuỗi).

Ngài niệm Phật, từ trong miệng có tượng Phật xuất hiện. Niệm một tiếng là một vị Phật, niệm mười tiếng là mười vị Phật, niệm một trăm tiếng là một trăm vị Phật. Phật liên tiếp xuất hiện, có tướng lành như vậy.

 

(Sớ) Lâm chung chi nhật, khẩu phóng dị quang sổ đạo, yểm nhiên nhi thệ.

() 臨終之日,口放異光數道,奄然而逝。

(Sớ: Ngày lâm chung, miệng tỏa ra mấy tia sáng lạ, đột nhiên qua đời).

Đây cũng là điềm lành chẳng thể nghĩ bàn do niệm Phật trong thuở ấy, đủ để cảm động lòng trời.

 

(Sớ) Hưởng di giả, Đường Đạo Xước thiền sư, bình cư vị chúng giảng Vô Lượng Thọ kinh, tương nhị bách biến.

()響彌者,唐道綽禪師,平居為眾講無量壽經,將二百遍。

(Sớ: “Tiếng vang trọn khắp”: Thiền sư Đạo Xước đời Đường, thường giảng kinh Vô Lượng Thọ cho đại chúng, số lần giảng đến hai trăm lượt).

Vị này cũng là tổ sư Tịnh Độ Tông, suốt đời chuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng đến hai trăm lần.

 

(Sớ) Nhân các kháp châu, khẩu xưng Phật hiệu, hoặc thời tán tịch, thanh bá lâm cốc.

() 人各掐珠,口稱佛號,或時散席,聲播林谷。

(Sớ: Mỗi người [đến nghe] lần chuỗi, miệng niệm Phật hiệu, hoặc lúc giải tán, tiếng vang vọng khắp rừng núi).

Đại chúng đến nghe kinh, lần xâu chuỗi niệm Phật. Chùa chiền đều được xây dựng trong núi sâu. Nếu nói theo hiện thời, đều là nơi có Phong Thủy tốt nhất, đều ở trong núi thẳm. Âm thanh niệm Phật vang vọng rừng núi (lâm cốc). “Cốc” là sơn cốc (hang núi). Đây là sự cảm ứng. Nếu chẳng phải là cảm ứng, sẽ không thể có chuyện này! Nếu dùng Niệm Phật Đường để nói, âm thanh cộng tu của mọi người ở nơi đây, nếu bên ngoài sơn cốc hoặc rừng cây mà có thể nghe tiếng, nếu chẳng do cảm ứng, chắc chắn chẳng thể nào có được! Nhất là sau khi pháp hội giảng kinh đã giải tán, âm thanh vẫn vang vọng trong rừng núi.

Trên thực tế, mỗi vị đồng tu niệm Phật đều phải biết: Sau khi niệm Phật hiệu thuần thục, bất luận ở nơi đâu, hễ tâm tĩnh lặng, sẽ nghe Phật hiệu thoảng bên tai. Nếu có cảnh giới ấy, quý vị nên biết đó là bước đầu trong công phu niệm Phật, chứng tỏ công phu của quý vị vừa mới đắc lực, phải nên tiếp tục nỗ lực, từ công phu này, tiến hơn bước nữa mới là công phu thành phiến, sau đấy là nhất tâm bất loạn. Nếu cảnh giới này hiện tiền, quả thật là trong chốn rừng núi, hễ tâm thanh tịnh, quý vị sẽ nghe tiếng niệm Phật.

 

(Sớ) Âm triệt giả, Đường Pháp Chiếu.

() 音徹者,唐法照。

(Sớ: “Âm thanh thấu triệt”: Ngài Pháp Chiếu đời Đường).

 Thiền sư Pháp Chiếu đề xướng Ngũ Hội Niệm Phật, là tổ sư đời thứ tư của Tịnh Độ Tông.

 

(Sớ) Ư Tinh Châu Ngũ Hội Niệm Phật.

() 於并州五會念佛。

(Sớ: Ngũ Hội Niệm Phật ở Tinh Châu).

Ngài gặp Văn Thù Bồ Tát. Vị này tham Thiền, vốn trụ tại Hành Châu thuộc tỉnh Hồ Nam, nay là huyện Hành Sơn. Có một buổi sáng, ăn cháo buổi sáng (điểm tâm) trong Thiền đường, thuở ấy, người xuất gia đều dùng bát để ăn cháo buổi sáng. Trong bát hiện tướng, cũng là cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn, giống như xem TV vậy. Trong bát hiện ra hình ảnh, chính là hiện cảnh Ngũ Đài Sơn rõ ràng. Sau khi trông thấy, Ngài bèn đem chuyện này hỏi một vị lão đồng tham. Trong quá khứ, vị ấy từng đến Ngũ Đài Sơn, nghe Ngài mô tả, vị ấy bèn bảo: “Đấy là Ngũ Đài Sơn”, khuyên Sư hãy lên núi ấy lễ Phật.

Sau khi đến Ngũ Đài Sơn, quả nhiên cảnh giới giống hệt như cảnh đã hiện trong bát. Ngài nhớ rất rõ ràng, đường đi rất quen thuộc; do vậy, tìm được Đại Thánh Trúc Lâm Tự, ngài Văn Thù đang giảng kinh ở đó, thính chúng đông tới một vạn người. Sau khi nghe xong, Ngài tiến lên đảnh lễ Văn Thù Bồ Tát rồi hỏi Văn Thù Bồ Tát, Ngài thưa: “Thời kỳ Mạt Pháp chúng sanh căn tánh khá kém cỏi, phiền não nặng nề, tu pháp môn gì có thể có thành tựu?” Văn Thù Bồ Tát dạy: “Tu pháp môn Niệm Phật”. Văn Thù Bồ Tát dạy Ngài niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, tự niệm mấy câu cho Ngài nghe. Ngài bèn học lấy, đó là Ngũ Hội Niệm Phật.

Sau khi Ngài rời khỏi Ngũ Đài Sơn, bèn tự mình lập đạo tràng chuyên niệm Phật tại Tinh Châu. Thanh điệu niệm Phật ấy học từ chỗ Văn Thù Bồ Tát ở Ngũ Đài Sơn, hiện thời tại Đài Loan cũng có Ngũ Hội Niệm Phật, chẳng biết có phải điệu do Văn Thù Bồ Tát truyền hay không, chẳng biết! Có thể là thanh điệu do Văn Thù Bồ Tát truyền dạy đã thất truyền! Hiện thời có những người thông minh, nghe nói có Ngũ Hội Niệm Phật, bèn tự mình biên soạn một bản nhạc phổ, dạy mọi người niệm. Ngũ Hội Niệm Phật của họ giống như ca hát, tiếp độ sơ cơ rất tốt, nhưng thật sự niệm Phật thì cách niệm ấy chẳng dễ gì đắc nhất tâm. Tôi nghĩ cách ấy nhất định khác biệt rất lớn so với cách do Văn Thù Bồ Tát truyền dạy. Đây là đạo tràng niệm Phật do thiền sư Pháp Chiếu thành lập.

 

(Sớ) Cảm Đại Tông hoàng đế cung trung văn niệm Phật thanh.

() 感代宗皇帝宮中聞念佛聲。

(Sớ: Cảm hoàng đế Đại Tông ở trong cung nghe tiếng niệm Phật).

Trong cung đình, hoàng đế nghe tiếng niệm Phật.

 

(Sớ) Khiển sứ dao tầm.

() 遣使遙尋。

(Sớ: Sai người đi kiếm mãi tận xa).

Liền phái người đuổi theo thanh âm này, một mực đuổi tới Tinh Châu, đuổi tới chỗ thiền sư Pháp Chiếu.

 

(Sớ) Kiến sư khuyến hóa chi thịnh, toại chiếu nhập cung, cung nhân niệm Phật, diệc cập ngũ hội, hiệu Ngũ Hội pháp sư.

()見師勸化之盛,遂詔入宮,宮人念佛,亦及五會,號五會法師。

(Sớ: Thấy Sư khuyến hóa hết sức đông đảo, bèn hạ chiếu triệu Sư vào cung. Người trong cung niệm Phật cũng là năm hội, nên Sư được gọi là Ngũ Hội pháp sư).

Đây cũng là có duyên với hoàng đế Đại Tông, vua thỉnh pháp sư vào cung. Ở trong cung, Sư dạy mọi người niệm Phật. Đây là nói “âm triệt cung vi” (âm thanh niệm Phật lọt vào tận trong cung).

 

(Sớ) Lục thời giả, Tấn Huệ Viễn pháp sư, cư Lô Sơn, chế liên hoa lậu, lục thời niệm Phật, trừng tâm hệ tưởng.

()六時者,晉慧遠法師,居廬山,製蓮華漏,六時念佛,澄心繫想。

(Sớ: “Sáu thời”: Pháp sư Huệ Viễn đời Tấn, sống ở Lô Sơn, chế đồng hồ hoa sen, sáu thời niệm Phật, lắng lòng hệ niệm Cực Lạc).

Tổ sư đời thứ nhất của Tịnh Độ Tông là Huệ Viễn đại sư, Ngài dựng Niệm Phật Đường tại Lô Sơn, tỉnh Giang Tây. Hiện nay, Niệm Phật Đường này vẫn còn. Lúc tôi giảng kinh tại Hương Cảng, nghe họ nói: Hiện thời, tại Đông Lâm Niệm Phật Đường vẫn còn hơn một trăm người niệm Phật, vô cùng khó có! Ngài chế ra “liên hoa lậu” (đồng hồ nhỏ giọt hình hoa sen). Trước kia, không có đồng hồ, không biết thời gian, cho nên dùng bình đựng nước nhỏ giọt có khắc vạch để tính toán thời gian. Phía trên thùng đựng nước, Ngài chế ra hoa sen, thả trôi trên mặt nước, nước nhỏ từng giọt. Trên thùng khắc độ số, [nhờ đó] biết nước đã chảy bao nhiêu bèn biết thời gian là bao lâu. Thời cổ, dùng phương thức này để tính thời gian. “Lục thời”: Ngày ba thời, đêm ba thời. “Lục thời” là ngày đêm chẳng gián đoạn. Niệm Phật Đường quả thật là như vậy. Hễ mệt mỏi thì làm như thế nào? Mệt mỏi có thể nghỉ ngơi. Do vậy, bên cạnh Niệm Phật Đường có một cái đơn lớn để nghỉ ngơi. Khi nghỉ ngơi, vẫn để nguyên áo mà ngủ, không cởi ra. Sau khi tỉnh lại, ngay lập tức nhanh chóng niệm tiếp. Hễ mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe khoắn rồi bèn lập tức vào Niệm Phật Đường niệm Phật.

 

(Sớ) Hậu thập cửu niên.

() 後十九年。

(Sớ: Mười chín năm sau).

 Mười chín năm sau.

 

(Sớ) Thất nguyệt hối tịch.

() 七月晦夕。

(Sớ: Đêm không trăng tháng Bảy).

“Hối” (晦) là ngày Ba Mươi hay Mồng Một, lúc chẳng có ánh trăng, Vọng (望) là ngày Rằm, ngày trăng tròn gọi là Vọng. Tịch (夕) là buổi tối.

 

(Sớ) Ư Bát Nhã đài, phương tùng Định khởi.

() 於般若臺,方從定起。

(Sớ: Sư ở đài Bát Nhã, vừa mới xuất Định).

Đây là lúc niệm Phật, ngồi ở nơi đó, cũng có thể nhập Định, lúc xuất Định.

 

(Sớ) Kiến A Di Đà Phật, thân biến hư không, viên quang chi trung, vô lượng hóa Phật cập Bồ Tát chúng, thủy lưu quang minh, diễn thuyết diệu pháp.

()見阿彌陀佛,身遍虛空,圓光之中,無量化佛及菩薩眾,水流光明,演說妙法。

(Sớ: Thấy A Di Đà Phật thân đầy chật hư không, trong viên quang có vô lượng hóa Phật và các vị Bồ Tát, quang minh tràn trề, diễn thuyết diệu pháp).

Cảnh giới này hoàn toàn giống như trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã giảng về Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài đã trông thấy. Viễn công đại sư thấy cảnh giới Tây Phương, tổng cộng đã thấy ba lần, nhưng chẳng nói với bất cứ ai. Lúc vãng sanh mới tuyên bố cùng mọi người. Niệm Phật Đường của Ngài có tất cả một trăm hai mươi ba người, họ là những người chí đồng đạo hợp, cùng nhau kết xã niệm Phật, ai nấy đều vãng sanh. Các vị như Lưu Di Dân vãng sanh trước Ngài, khi Viễn công vãng sanh, những người đã vãng sanh trước đều theo A Di Đà Phật đến đón Sư. Đã thế, còn bảo Ngài: “Chúng tôi đều theo gót Ngài, cùng lão nhân gia niệm Phật, sao Ngài về trễ thế?” Trong truyện ký Tịnh Độ có ghi chép truyện này tại rất tỉ mỉ!

 

(Sớ) Phật ngôn: “Ngã dĩ bổn nguyện lực cố, lai an ủy nhữ. Nhữ thất nhật hậu, đương sanh ngã quốc”. Chí kỳ, đoan tọa nhi thệ.

() 佛言 :我以本願力故 ,來安慰汝 ,汝七日後 當生我國。至期,端坐而逝。

(Sớ: Đức Phật dạy: “Ta do bổn nguyện lực nên đến an ủi ngươi. Bảy ngày sau, ông sẽ sanh về nước ta”. Đến kỳ hạn, Sư ngồi ngay ngắn qua đời).

Đây là được thấy lần thứ ba. Bảy ngày trước hôm vãng sanh, hiện tướng lành này.

 

(Sớ) Thập tự giả, Tống Trường Lô Tông Trách thiền sư, Thiền Lý đỗng ngộ, Tông Thuyết kiêm thông.

() 十字者, 宋長蘆宗賾禪師, 禪理洞悟 說兼通。

(Sớ: “Chữ thập”: Thiền sư Trường Lô Tông Trách đời Tống, ngộ rỗng rang lẽ Thiền, Tông lẫn Thuyết đều thông đạt).

Vị pháp sư này cũng rất lỗi lạc. Có rất nhiều vị thông Giáo, chẳng thông Thiền, có vị thông Thiền nhưng không hiểu Giáo. Từ xưa tới nay, Thiền lẫn Giáo đều thông không nhiều lắm! Nói theo lối thông tục, đây là bậc đại thông gia thật sự. Chỉ có thông gia thật sự mới biết cái hay của niệm Phật, mới có thể khăng khăng một mực niệm Phật. Vì sao? Ngài thông đạt hết thảy nên hiểu được Giáo lẫn Thiền chẳng tốt như vãng sanh [trong Tịnh Độ]! Điều này là thật, chẳng giả tí nào! Nương theo Thiền hay Giáo để tu hành, nếu muốn chứng quả, dựa theo pháp Đại Thừa để nói sẽ là chuyện trong vô lượng kiếp, trong giáo pháp Tiểu Thừa là ba đại A-tăng-kỳ kiếp, trong đó còn bị thoái chuyển, còn bị mê khi cách ấm, chẳng thể bảo đảm quý vị thuận buồm xuôi gió. Chỉ có niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là thuận buồm xuôi gió, thành tựu trong một đời! Vì thế, người thật sự Tông lẫn Giáo đều thông, không ai chẳng hồi tâm Tịnh Độ. Ngài cũng là một trong số đó.

 

(Sớ) Nhi viễn tôn Lô phụ chi quy.

() 而遠尊盧阜之規。

(Sớ: Đã tôn kính khuôn mẫu Lô Sơn từ lâu).

 “Lô phụ” là quy củ Niệm Phật Đường tại Lô Sơn của Huệ Viễn đại sư, chiếu theo phương pháp ấy.

 

(Sớ) Kiến liên hoa thắng hội.

() 建蓮華勝會。

(Sớ: Lập hội sen thù thắng).

 Ngài khởi xướng một hội, mời những người chí đồng đạo hợp họp lại để mọi người cùng nhau tu hành.

 

(Sớ) Kỳ pháp nhật niệm A Di Đà Phật, hoặc thiên thanh, vạn thanh, các ư nhật hạ dĩ thập tự ký chi.

()其法日念阿彌陀佛,或千聲萬聲,各於日下以十字記之。

(Sớ: Phương pháp là hằng ngày niệm A Di Đà Phật một ngàn tiếng hoặc một vạn tiếng, mỗi người dùng chữ Thập để ghi nhớ mỗi ngày).

Đây là ký số niệm Phật (niệm Phật ghi nhớ số câu đã niệm). Mọi người cùng nhau cộng tu, nhưng mỗi cá nhân niệm nhiều hay ít do chính họ tự ấn định. Quý vị tự nguyện mỗi ngày niệm một ngàn câu, liền niệm một ngàn câu. Quý vị tự nguyện niệm một vạn tiếng, hãy niệm một vạn tiếng. Do cá nhân tự ấn định, nhưng công khóa mỗi ngày chẳng thể thiếu. Họ dùng nhật lịch, ngày đầu tiên ta phát nguyện niệm một ngàn tiếng, công khóa ngày hôm ấy niệm xong, ta bèn vạch một chữ Thập dưới ngày đó. Đấy là ghi sổ. Giống như Công Quá Cách sau này, mỗi ngày ghi chép công khóa của mình chẳng hề thiếu, quý vị phát tâm niệm một vạn tiếng thì mỗi ngày niệm một vạn tiếng. Cứ niệm đủ một vạn tiếng bèn vạch một chữ Thập, vẽ ký hiệu ấy. Hằng ngày niệm theo cách như vậy. Liên hoa thắng hội được tổ chức như vậy. Chúng tôi tin tưởng người tham gia tổ chức ấy nhất định rất nhiều, vì đến đấy niệm một ngàn tiếng chẳng tốn bao nhiêu thời gian, sau khi niệm xong, trở về nhà vẫn có thể làm công chuyện của họ. Không giống liên xã của Viễn Công, phải ở lại nơi ấy, ở mãi nơi đó mà niệm cho tới khi vãng sanh. Tình hình khác nhau, không phải là người thật sự phát tâm, Ngài sẽ không thâu nhận.

Thuở ấy, văn học gia Tạ Linh Vận đời Tấn, rất thân thiết với Huệ Viễn đại sư. Tạ Linh Vận muốn tham gia liên xã, nhưng Huệ Viễn đại sư không thâu nhận. Đào Uyên Minh giao tình với Ngài cũng tốt đẹp, Ngài cũng rất hoan nghênh Đào Uyên Minh tham gia liên xã, nhưng Đào Uyên Minh không chịu tham gia. Vì lẽ gì chẳng cho Tạ Linh Vận tham gia? Tập khí văn nhân quá nặng, ông ta chuộng viết văn, làm thơ phú, làm những thứ ấy; còn niệm Phật là hạ quyết tâm muốn cầu sanh Tịnh Độ, cho nên ai nấy đều thành tựu. Yêu cầu của liên hoa thắng hội này cũng rất nhẹ nhàng, nếu mỗi ngày phát tâm niệm mấy vạn câu Phật hiệu, sẽ rất có khả năng thành tựu. Mỗi ngày niệm một ngàn tiếng cũng kể như khá lắm, nếu suốt đời chẳng thiếu sót, cũng chắc chắn sẽ vãng sanh.

 

(Sớ) Nhất tịch, mộng nhất nam tử, ô cân, bạch y, phong mạo thanh mỹ, vị Trách viết: Dục nhập công Di Đà hội, khất thư nhất danh.

() 一夕, 夢一男子, 烏巾白衣, 風貌清美, 謂賾曰:欲入公彌陀會,乞書一名。

(Sớ: Một đêm, mộng thấy một người đàn ông, khăn đen, áo trắng, phong thái, diện mạo thanh cao, đẹp đẽ, bảo ngài Tông Trách: “Tôi muốn dự vào hội Di Đà của ông, xin hãy đề một tên”).

Có một tối, Ngài nằm mộng, trong mộng thấy một nam tử; “cân” (巾) là mũ đội, [“ô cân” là] mũ màu đen, mặc áo trắng. Người này phong thái, diện mạo thanh cao, đẹp đẽ, tới nói với pháp sư anh ta muốn tham dự hội Di Đà, tham gia liên hoa thắng hội của Ngài, xin ghi danh.

 

(Sớ) Trách vấn công hà danh? Viết: Phổ Huệ.

() 賾問公何名?曰:普慧。

(Sớ: Ngài Tông Trách hỏi: “Ông tên gì?” Đáp: “Phổ Huệ”).

Pháp sư bèn hỏi anh ta: “Ông tên gì để tôi ghi tên”. Anh ta đáp: “Phổ Huệ”.

 

(Sớ) Hựu vân: “Gia huynh Phổ Hiền, diệc khất đăng danh”.

() 又云:家兄普賢,亦乞登名。

(Sớ: Lại nói: “Anh tôi là Phổ Hiền cũng xin ghi danh”).

 Anh ta ghi danh xong, lại nói: Anh ta còn có một người anh tên là Phổ Hiền, cũng ghi danh. Nói xong, không thấy đâu nữa!

 

(Sớ) Trách giác nhi ngữ chư tôn túc.

() 賾覺而語諸尊宿。

(Sớ: Ngài Tông Trách tỉnh giấc, kể với các tôn túc).

 Hôm sau, pháp sư đem cảnh giới trong mộng kể với những bậc trưởng thượng đức cao, tuổi trọng.

 

(Sớ) Giai vân Hoa Nghiêm Ly Thế Gian phẩm, hữu nhị Bồ Tát danh, nãi tri thánh hiền u tán, dĩ nhị đại sĩ thư ư lục thủ.

()皆云華嚴離世間品,有二菩薩名,乃知聖賢幽贊,以二大士書於首。  

(Sớ: Họ đều nói trong phẩm Ly Thế Gian của kinh Hoa Nghiêm có tên hai vị Bồ Tát ấy, bèn biết là thánh hiền ngầm tán dương, bèn đề tên hai vị đại sĩ ở đầu sổ [công cứ]).

Mọi người suy nghĩ, hai vị này là hai vị Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm, tức Phổ Hiền Bồ Tát và Phổ Huệ Bồ Tát. Bồ Tát cũng tới tham gia hội này, cho nên ghi tên Phổ Hiền và Phổ Huệ vào vị trí thứ nhất và thứ hai. Đó là cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sớ) Chiêu đại giả.

() 昭代者。

(Sớ: Hiện thời…)

“Chiêu đại” là hiện thời. Phía trên là nói về quá khứ, nói trong lúc “hiện tại” tức là nói trong thuở ấy, tức là nói về thời đại của Liên Trì đại sư, những năm cuối dưới đời Minh.

 

(Sớ) Như Tây Trai, Không Cốc, Thiên Kỳ, Độc Phong đẳng, giai cận thế cao tăng, đốc tín tinh tu, thất hưu tiền cổ, tương tục bất tuyệt, sảo tường Vãng Sanh Tập trung. Cái thiên vạn trung, kỷ kỳ nhất nhị nhi dĩ.

() 如西齋 、空谷 、天奇 、毒峰等 ,皆近世高僧,篤信精修,匹休前古,相續不絕,稍詳往生集中。蓋千萬中,紀其一二而已。

(Sớ: Như Tây Trai, Không Cốc, Thiên Kỳ, Độc Phong v.v… đều là những bậc cao tăng trong thời cận đại, lòng tin chuyên dốc, tu hành thuần nhất, tốt lành sánh ngang cổ nhân, nối tiếp chẳng dứt. Những chuyện được kể khá tường tận trong Vãng Sanh Tập chỉ là ghi chép một hai trường hợp trong ngàn vạn trường hợp mà thôi!)

Thiền sư Sở Thạch Kỳ có Tây Trai Tịnh Độ Thi, sách Tịnh Độ Thập Yếu có sưu tập sách này, toàn là thơ ca ngợi Tịnh Độ. Thiền sư Không Cốc Long có một tác phẩm chuyên khuyên tu Tịnh Độ mang tên Không Cốc Tập, trong Vạn Tục Tạng có sưu tập. Thiền sư Thiên Kỳ có Quỳnh Tuyệt Tập, thiền sư Độc Phong Thiện có Ngữ Lục để lại cho người đời sau. Những vị này đều sống vào cuối đời Minh, đều là những vị rất có thành tựu trong Phật môn. Hơn nữa, những vị này trước đó tu Thiền, là những người sau khi đã thành tựu kha khá trong nhà Thiền, quay trở lại niệm Phật, đều là niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Trong Vãng Sanh Truyện có truyện ký của họ. Những chuyện này quả thật nói mãi chẳng hết, quá nhiều! Ở đây chỉ có thể nêu lên vài vị để khuyên lơn, khích lệ mà thôi.

 

(Huyền Nghĩa) Chí ư cảm hộ.

(玄義) 至於感護。

(Huyền Nghĩa: Còn như cảm ứng, hộ trì).

“Cảm” là cảm ứng, “hộ” là hộ trì.

 

(Huyền Nghĩa) Tắc túc oán đắc độ, ác quỷ bất xâm, linh ứng tắc cổ mục trùng minh, phu tù thoát nạn.

(玄義)則宿冤得度,惡鬼不侵,靈應則瞽目重明,俘囚脫難。

(Huyền Nghĩa: Thì oán thù đời trước được độ thoát, ác quỷ chẳng xâm hại, linh ứng thì như mắt mù sáng lại, tù nhân thoát nạn).

Ở đây cũng nêu ra mấy câu chuyện.

 

(Sớ) Oán độ giả.

() 冤度者。

(Sớ: Độ kẻ oán).

Oán quỷ lẩn quẩn bên thân, niệm Phật có thể độ họ. Hiện thời, tình hình này trong thế gian rất nhiều, nhưng người ta không tin, như vậy là chẳng có cách nào hết! Nếu thật sự tin tưởng, nhất tâm niệm Phật, những oán quỷ chắc chắn sẽ rời khỏi.

 

(Sớ) Đường Thiệu Bưu, Trấn Giang nhân.

() 唐邵彪,鎮江人。

(Sớ: Đời Đường, Thiệu Bưu là người xứ Trấn Giang).

 Đây là chuyện của người đời Đường, xảy ra tại Trấn Giang, tỉnh Giang Tô.

 

(Sớ) Vi chư sanh thời.

() 為諸生時。

(Sớ: Lúc còn là chư sanh).

“Chư sanh” là Tú Tài, khi đậu Tú Tài.

 

(Sớ) Mộng chí nhất công phủ.

() 夢至一公府。

(Sớ: Mộng đến một công thự).

Mộng đến một nha môn.

 

(Sớ) Chủ giả vấn: “Nhữ tri sở dĩ bất đệ phủ?”

() 主者問汝知所以不第否。

(Sớ: Viên trưởng quan hỏi: “Ngươi có biết sao thi chẳng đậu hay chăng?”)

Ông ta là Tú Tài, khi Tú Tài đi thi tiếp mà đậu sẽ thành Cử Nhân. Hằng năm cứ rớt mãi, chẳng đậu! Mộng tới nha môn, có người hỏi ông ta: “Ngươi có biết vì lẽ gì thi chẳng đậu hay chăng?”

 

(Sớ) Bưu đối bất tri.

() 彪對不知。

(Sớ: Thiệu Bưu đáp: “Không biết!”)

 Ông ta thưa: “Tôi chẳng biết!” .

 

(Sớ) Nhân sử nhân dẫn Bưu tiền hành.

() 因使人引彪前行。

(Sớ: Do vậy, sai người dẫn ông Bưu tiến lên trước).

Cho ông ta thấy nhân quả báo ứng.

 

(Sớ) Kiến đại hoạch trung.

() 見大鑊中。

(Sớ: Thấy trong chiếc vạc lớn).

“Hoạch” là cái chảo lớn. Thấy trong chảo…

 

(Sớ) Hữu cáp lỵ tác nhân ngữ, hô Bưu danh.

() 有蛤蜊作人語,呼彪名。

(Sớ: Thấy sò nói tiếng người, gọi tên ông Bưu).

Đại khái là ông ta thường ưa ăn đồ biển tươi, ăn quá nhiều! Những con sò ấy đều gọi tên ông ta, chẳng hề quên mất. Quý vị hãy suy nghĩ: Nếu ăn những món còn sống, nó sẽ biết tên quý vị là gì. Hiện tại, chúng nó không có cách nào phản kháng, không có sức báo cừu, đợi có dịp, nó sẽ chẳng tha quý vị. Chuyện này rất phiền! Nếu thấy những chuyện này nhiều hơn, quý vị sẽ chẳng dám ăn nữa!

 

(Sớ) Bưu bố.

() 彪怖。

(Sớ: Thiệu Bưu sợ hãi).

Thấy trước đây mình đã ăn những thứ này, nay mỗi con sò đều nhớ, món nợ này phải trả, Thiệu Bưu kinh hoảng!

 

(Sớ) Toại niệm A Di Đà Phật.

() 遂念阿彌陀佛。

(Sớ: Bèn niệm A Di Đà Phật).

Do vậy bèn lớn tiếng niệm A Di Đà Phật.

 

(Sớ) Cáp lỵ biến hoàng tước phi khứ.

() 蛤蜊變黃雀飛去。

(Sớ: Sò biến thành chim sẻ bay đi mất).

Vừa  niệm  A  Di  Đà  Phật, những  con  sò  ấy  đều  được siêu độ.

Chúng nó nghe Phật hiệu đều được siêu độ, biến thành chim sẻ bay đi. Chắc có người muốn hỏi: Những con sò ấy có đều vãng sanh hay chăng? Chưa chắc, nhưng có thể từ súc sanh vượt thoát lên nhân đạo; nếu công lực lớn hơn, có thể siêu độ chúng tới thiên đạo.

 

(Sớ) Bưu hậu cập đệ, quan chí An Phủ Sứ.

() 彪後及第,官至安撫使。

(Sớ: Về sau, Thiệu Bưu thi đỗ, làm quan tới chức An Phủ Sứ[130]).

Nhân duyên này cũng chẳng thể nghĩ bàn, cũng là do thiện căn trong đời quá khứ; nếu không, làm sao ông ta mộng thấy cảnh giới này mà niệm Phật? Đấy là “túc oán đắc độ”.

 

(Sớ) Quỷ khước giả.

() 鬼卻者。

(Sớ: Quỷ thoái lui).

Đây là giải thích chuyện ác quỷ chẳng xâm phạm.

 

(Sớ) Phật thế.

() 佛世。

(Sớ: Thời đức Phật).

 Đây là một câu chuyện trong kinh điển.

 

(Sớ) Hữu nhất quốc lân ư La Sát.

() 有一國鄰於羅剎。

(Sớ: Có một nước ở gần chỗ quỷ La Sát).

Ở gần xứ quỷ La Sát.

 

(Sớ) La Sát thực nhân vô độ.

() 剎食人無度。

(Sớ: La Sát ăn thịt người không biết bao nhiêu).

La Sát ăn thịt người, lại còn ăn rất nhiều!

 

(Sớ) Vương ước: “Tự kim quốc trung, gia dĩ nhất nhân, thứ đệ tống dữ, vật đắc uổng sát!”

()王約:自今國中,家以一人,次第送與,勿得枉殺。

(Sớ: Vua bèn ước hẹn với quỷ: “Từ nay trở đi, mỗi nhà trong nước sẽ theo thứ tự cống nạp một người cho ngươi, đừng giết chóc bừa bãi!”)

Quốc vương hết cách, đấu với hắn không lại, mong quỷ La Sát đừng giết người bừa bãi. Mỗi nhà dân trong nước này sẽ thay phiên mỗi ngày dâng một người cho La Sát ăn, chớ nên nhiễu loạn khiến mọi người chẳng an ổn! La Sát cũng đồng ý.

 

(Sớ) Hữu phụng Phật gia, chỉ sanh nhất tử, thứ đệ sung hành, phụ mẫu ai hào, chúc linh chí tâm niệm Phật.

()有奉佛家,只生一子,次第充行,父母哀號,囑令至心念佛。

(Sớ: Có một nhà thờ Phật, chỉ sanh được một trai, theo thứ tự phải dâng nạp, cha mẹ đau đớn khóc lóc, dặn dò con hãy chí tâm niệm Phật).

Có một hôm luân phiên tới một nhà nọ chỉ có một con duy nhất, đứa bé ấy chẳng thể không đi. Cả nhà đều niệm Phật, cha mẹ dặn con hãy nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ.

 

(Sớ) Dĩ Phật oai lực, quỷ bất đắc cận.

() 以佛威力,鬼不得近。

(Sớ: Do oai lực của Phật, quỷ chẳng tới gần được).

 Vì đứa bé niệm Phật, niệm suốt đêm đến hừng đông, quỷ La Sát chẳng thể đến gần!

 

(Sớ) Minh thần vãng thị, kiến tử thượng tại.

() 明晨往視,見子尚在。

(Sớ: Sáng hôm sau, cha mẹ ra xem, thấy con vẫn còn sống).

Hôm sau, [cha mẹ thấy] đứa bé vẫn còn sống, quỷ La Sát chẳng bắt được!

 

(Sớ) Tương chi nhi hoàn, tự thị La Sát chi hoạn toại tức.

() 將之而還,自是羅剎之患遂息。

(Sớ: Dẫn con trở về, từ đấy, nạn La Sát bèn chấm dứt).

Từ đấy trở đi, quỷ La Sát chẳng còn tới nhiễu loạn ở nơi ấy nữa. La Sát là quỷ ăn thịt người, hễ niệm Phật, nó sẽ chẳng dám gây hại. Đây là một câu chuyện trong kinh Phật.

Trong bút ký của cư sĩ Đinh Phước Bảo có chép một chuyện vào đầu thời Dân Quốc. Có một người buôn bán, cùng kinh doanh chung với bạn bè. Khi lên thuyền, người bạn không cẩn thận, rớt xuống sông chết đuối. Sau khi trở về, vợ người bạn rất hoài nghi: “Gã này ham tiền hại mạng!” Ông ta chịu oan, không có cách nào biện bạch, cũng không có cách nào chứng minh. Quỷ ấy sau khi chết vẫn thường đến gặp ông ta, bạn bè thân thiết mà! Ông ta cũng chẳng sợ, còn bày rượu và thức ăn đãi quỷ. Ông thường tán chuyện với quỷ, bảo quỷ: “Người nhà ông thường nghi ngờ ta”. Quỷ nói không sao, sau này sẽ từ từ hòa giải với họ. Có một hôm, ông ta niệm Phật, quỷ bảo: “Ông đừng niệm”. Ông ta hỏi: “Vì sao?” Quỷ nói: “Khi ông niệm, tôi chẳng dám tới gần ông”. Ông ta nghe lời ấy, bèn lớn tiếng niệm, niệm nhiều hơn, quỷ chạy mất. Ông ta mới hiểu niệm Phật có lợi ích như thế; về sau, xuất gia, chuyên môn niệm Phật. Niệm Phật có sức mạnh lớn như thế đó! Quỷ chẳng dám tiếp cận. Do vậy, người niệm Phật điều gì cũng chẳng sợ, bất luận cảnh giới nào, chỉ cần định cái tâm, vọng niệm gì cũng chẳng màng, nhất tâm niệm Phật, hết thảy yêu ma quỷ quái đều chẳng đến gần bên thân!

 

(Sớ) Mục minh giả.

() 目明者。

(Sớ: Mắt sáng).

 Đây cũng là cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sớ) Tống Sùng thị nữ, song cổ.

() 宋崇氏女,雙瞽。

(Sớ: Đời Tống, cô gái họ Sùng, hai mắt đều mù).

Hai con mắt đều mù.

 

(Sớ) Niệm Phật tam niên, tinh cần bất thế, song mục trùng minh như cố.

() 念佛三年,精勤不替,雙目重明如故。

(Sớ: Niệm Phật ba năm, chuyên tinh, siêng năng, chẳng thay đổi chí, hai mắt bèn sáng lại như cũ).

 Mù là do nghiệp chướng, niệm Phật có thể tiêu nghiệp chướng, nhất là chí thành niệm Phật, thành tâm thành ý niệm suốt ba năm. Tinh chuyên, siêng năng, chẳng đổi chí, chẳng giải đãi! Nghiệp chướng tiêu trừ, hai mắt khôi phục. Hết thảy bệnh khổ, thành tâm thành ý niệm Phật, sẽ đều có cảm ứng. Vì thế, người thật sự niệm Phật có bệnh, không nên kiếm bác sĩ, mà hãy nhất tâm niệm Phật, nghiệp chướng tiêu trừ sẽ lành bệnh. Nếu nghiệp chướng chẳng tiêu, bèn niệm Phật vãng sanh.

Thế giới này có gì tốt lành để lưu luyến? Khăng khăng một mực, niệm Phật mới có cảm ứng. Niệm Phật chẳng có cảm ứng là do tham cầu thế gian này, vẫn chưa nỡ đi, ngoài miệng bảo ta niệm Phật muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong tâm vương vấn thế gian này, không chịu đi. Tâm chẳng chân thành, niệm Phật cũng chẳng có cảm ứng, niệm Phật hiệu mà tai nạn cũng không tiêu, bệnh cũng chẳng lành. Cứ khăng khăng một mực niệm, sẽ có thể tiêu tai, có thể lành bệnh, có thể vãng sanh, tinh thuần, siêng năng thì sẽ có thể đạt được!

Do vậy, tin Phật không dễ dàng! Thông thường, người ta tin Phật, nhưng bán tín bán nghi, chẳng phải là khăng khăng một mực tin Phật. Khăng khăng một mực tin tưởng sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn! Ngày hôm nay chúng ta giảng tới đây.

 

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Quyển III hết

 

[1] Hiện Lượng: Sự nhận biết các pháp bằng cái tâm chân thật, tức là cảm thọ, thông hiểu các pháp bằng chân tâm, chứ không qua thức. Hiện Lượng là cảnh giới đích thân chứng đắc, chứ không phải là sự nhận biết các pháp bằng vọng tâm.

Tỷ Lượng: Cảm thọ, nhận biết các pháp do so sánh, suy luận.

[2] Kệ ở đây là cách tính độ lớn của một tác phẩm văn học vào thời cổ ở Ấn Độ. Cứ bốn câu (không cần biết dài ngắn, có vần hay không vần) thì gọi là một “kệ”, chứ không phải là kệ tụng như ta thường thấy trong kinh điển.

[3] Bản này thường được gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm do ngài Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra – Giác Hiền – 359-429) dịch. Ngài Phật Đà Bạt Đà La họ Thích Ca, là hậu duệ của Cam Lộ Phạn Vương (chú đức Phật). Xuất gia năm mười bảy tuổi, có trí nhớ siêu phàm. Ngài từng sang nước Kế Tân học pháp, rồi theo học Thiền với pháp sư Phật Đại Tiên. Về sau, nhận lời thỉnh của sư Trí Nghiêm vào Trung Hoa, đến Trường An vào năm Hoằng Thỉ thứ tám (406). Do không thuận thảo với ngài La Thập, Ngài cùng bốn mươi đệ tử dời sang Lô Sơn. Trong thời gian ở Lô Sơn, Ngài dịch bộ Đạt Ma Đa La Thiền Kinh. Năm Nghĩa Hy thứ tám (412) đời Tấn An Đế nhà Đông Tấn, Ngài sang Kinh Châu, rồi đến Kiến Khang (Nam Kinh ngày nay), trụ tích tại Đạo Tràng Tự, cùng với các vị như Pháp Hiển dịch Ma Ha Tăng Kỳ Luật và Đại Bát Nê Hoàn Kinh, rồi dịch kinh Hoa Nghiêm vào khoảng năm 420. Bản dịch này thường được gọi là Cựu Hoa Nghiêm hay Tấn Kinh, còn bản Bát Thập Hoa Nghiêm thường được gọi Tân Hoa Nghiêm hay Đường Kinh.

[4] Trung Quốc chỉ có mười tông phái, trong đó hai tông phái là Tiểu Thừa (Câu Xá và Thành Thật), do vậy ngài Long Thọ là sơ tổ của toàn thể các tông phái Đại Thừa Phật pháp.

[5] Bồ Tát Sanh Địa Kinh do cư sĩ Chi Khiêm người xứ Nhục Chi dịch vào thời Đông Ngô, được đánh số 533, xếp vào tập 14 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Trong kinh ấy, đức Phật ngự tại tinh xá của dòng Thích Ca tại nước Ca Duy La Vệ, ngài Ma Sai Mạt (còn ghi là Sa Ma Kiệt) là một vị trưởng giả trong dòng họ Thích Ca, đến đảnh lễ thưa hỏi Bồ Tát nên hành hạnh nào sẽ mau thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lúc lâm chung chẳng sanh vào chỗ có tám nạn. Đức Phật dạy hành Bồ Tát hạnh phải lấy Nhẫn Nhục làm gốc, và giảng rõ Nhẫn Nhục gồm có bốn loại, cũng như hành bốn sự sẽ nhanh chóng thành Phật.

[6] Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm ở đây chính là Tứ Thập Hoa Nghiêm. Bài kệ phát nguyện của Văn Thù Bồ Tát được chép trong quyển ba mươi chín và bốn mươi.

[7] Thiên Như (1280-1350), húy Duy Tắc, hiệu Thiên Như, họ ngoài đời là Đàm, sống vào đời Nguyên. Ngài là người làng Bình Lý, huyện Liên Hoa, tỉnh Giang Tây, là đệ tử đắc pháp của thiền sư Trung Phong Minh Bổn. Sư còn để lại các tác phẩm như Sư Tử Lâm Biệt Lục, Thiên Như Tập, Cao Tăng Trích Yếu. Tác phẩm quan trọng nhất của Ngài là bộ Lăng Nghiêm Kinh Hội Giải, dung hội những ý kiến chú sớ từ chín tác phẩm của các vị cổ đức thời Đường – Tống. Giao Quang đại sư đã ca ngợi: “Từ cuối đời Nguyên đến nay đã hơn hai trăm năm, những người giảng giải và nghe kinh Lăng Nghiêm chỉ biết bộ Hội Giải, chẳng coi trọng các bộ [chú giải] khác”.

[8] Năm vị tỳ-kheo (Pañca Bhiksavah) là năm vị hoàng tử hoặc trưởng giả thuộc dòng họ Thích Ca, tuân lệnh vua Tịnh Phạn, theo Thái Tử Tất Đạt Đa cùng đi tu, cùng hành khổ hạnh. Khi thấy, thái tử nhận sữa cúng dường của cô gái chăn bò, họ nghĩ Thái Tử đã thoái chuyển nên rời bỏ Ngài, lánh sang Lộc Dã Uyển. Sau khi thành đạo, ngồi nhập Định dưới cội Bồ Đề để giảng kinh Hoa Nghiêm xong, đức Phật sang Lộc Dã Uyển, hóa độ họ, khiến họ trở thành năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật. Tăng đoàn được thành lập từ đấy. Tên của năm vị ấy là Kiều Trần Như (Ajñāta Kaundinya, Liễu Bổn Tế), A Thuyết Thị (Aśvajit, Mã Thắng), Bạt Lê Ca (Bharika, Tiểu Hiền), Ma Ha Nam (Mahānāman, Đại Danh) và Thập Lực Ca Diếp (Daśabala-Kāśyapa, Khởi Khí).

[9] Điều (苕) là hoa lau. Hoa lau kết lại làm chổi để phẩy dọn bụi bặm giống như chổi lông gà hiện thời thì gọi là “điều chửu” (苕帚). Chữ Điều thường đọc thành Thiều. Mạt nhân đoán lão cư sĩ Nguyễn Hữu Kha lấy biệt hiệu Thiều Chửu với ý nghĩa này, cụ tự khiêm hư ví mình như cây chổi để phẩy bụi tầm thường, kém cỏi.

[10] Kinh Hoa Nghiêm gồm bảy xứ chín hội, tức là được thuyết pháp ở bảy nơi và chia thành chín pháp hội:

  1. Hội thứ nhất tại Bồ Đề Đạo Tràng ở phía Tây thành Vương Xá. Pháp hội này do Phổ Hiền Bồ Tát chủ trì.
  2. Hội thứ hai tại điện Phổ Quang Minh bên bờ sông Ni Liên Thiền, do Văn Thù Bồ Tát chủ trì.
  3. Hội thứ ba tại điện Diệu Thắng trên cõi trời Đao Lợi, do Pháp Huệ Bồ Tát chủ trì.
  4. Hội thứ tư tại điện Bảo Trang Nghiêm trên cõi trời Dạ Ma do Công Đức Lâm Bồ Tát chủ trì.
  5. Hội thứ năm tại điện Nhất Thiết Diệu Trang Nghiêm trên trời Đâu Suất, do Kim Cang Tràng Bồ Tát chủ trì.
  6. Hội thứ sáu tại điện Ma Ni Bảo Tạng trên cung trời Tha Hóa Tự Tại do Kim Cang Tạng Bồ Tát chủ trì.
  7. Hội thứ bảy trở về điện Phổ Quang Minh, do Phổ Hiền Bồ Tát chủ trì.
  8. Hội thứ tám cũng ở điện Phổ Quang Minh, cũng do Phổ Hiền Bồ Tát chủ trì.
  9. Hội thứ chín ở rừng Thệ Đa, hội này do chính Thích Ca Mâu Ni Phật chủ trì.

Nói “chủ trì” có nghĩa là trong pháp hội ấy, một vị Bồ Tát thượng thủ sẽ trần thuật cảnh giới, sở chứng của các pháp môn thuộc những địa vị ấy, chứ trong cả chín hội, đức Tỳ Lô Giá Na Phật luôn hiện diện, dùng thần lực vân tập chư Bồ Tát diễn nói cảnh giới giải thoát.

[11] “Bộc tai” có nghĩa là thử thách khó khăn không thể vượt qua được, khiến người bị thử thách thất bại ê chề. Thành ngữ này bắt nguồn từ một câu chú thích trong sách Giao Châu Ký của Lưu Hân: “Hữu đê phòng Long Môn, thủy thâm bách tầm, đại ngư đăng thử môn hóa thành long, bất đắc quá, bộc tai điểm ngạch, huyết lưu thử thủy hằng như đan trì” (Có cái đê ngăn nước ở Long Môn, nước sâu đến một trăm tầm, cá to nhảy vượt được cửa này sẽ hóa thành rồng, chẳng vượt qua được sẽ vỡ mặt, thủng đầu, máu thấm vào nước khiến nơi đó thường [đỏ chót] như cái ao son).

[12] Chín thứ Bất Tịnh Quán: Bất Tịnh Quán nhằm đối trị sự tham ái đối với Ngũ Dục trong thế gian, gồm:

  1. Quán xác chết phình trương.
  2. Quán xác chết xanh bầm.
  3. Quán xác chết hư hoại.
  4. Quán xác chết ứa máu, chảy mủ.
  5. Quán xác chết rữa nát, tuôn máu mủ, giòi bọ lúc nhúc nơi cửu khiếu.
  6. Quán giòi bọ đục khoét xác chết.
  7. Quán xác chết tan lìa.
  8. Quán xác chết rữa hết thịt, chỉ còn xương trắng.
  9. Quán xác chết bị thiêu hết không còn gì.

[13] Vua Thuấn có tên là Trọng Hoa, do sanh ở Diêu Khư nên có họ là Diêu, người xứ Ký Châu, là con ông Cổ Tẩu (Cổ Tẩu là hậu duệ đời thứ tám của Hoàng Đế, mắt mù lòa, tính tình hung bạo). Tuy là con cháu trực hệ của Đế Chuyên Húc (cháu nội của Hoàng Đế), nhưng đến đời Cổ Tẩu gia cảnh đã sa sút. Vua Thuấn mồ côi mẹ từ nhỏ, cha lấy vợ kế, sanh thêm một trai là Tượng. Vua Thuấn còn nhỏ đã phải làm lụng vất vả để duy trì cuộc sống cho gia đình, nhưng bị cha, dì ghẻ và em trai căm ghét, tìm đủ mọi cách hãm hại. Năm ông Thuấn ba mươi tuổi, vua Nghiêu nghe tiếng bèn vời vào hỏi chuyện, rồi gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho ông Thuấn. Về sau, ông Thuấn được vua Nghiêu nhường ngôi, đóng đô ở Bồ Bản (nay là huyện Vĩnh Tế, tỉnh Hà Bắc), đặt quốc hiệu là Hữu Ngu, trở thành thủ lãnh của bốn bộ lạc người Hán tại Trung Nguyên thuở ấy (Sử thường gọi ông ta là Cộng Chủ là vì lẽ này). Cũng do quốc hiệu là Hữu Ngu nên Sử thường gọi Đế Thuấn là Hữu Ngu Thị Đế Thuấn. Vua Thuấn đã chia Trung Nguyên thành mười hai châu là Tinh, Ký, U, Doanh, Duyện, Thanh, Từ, Kinh, Dương, Dự, Lương, và Ung. Ông được xếp vào Ngũ Đế (Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Dự, Nghiêu, Thuấn), và cùng với Tam Hoàng (Phục Hy, Thần Nông, Hiên Viên) và vua Nghiêu được coi là những bậc thánh vương của Cổ Trung Hoa.

[14] Câu này trích lược ý đoạn sau đây trong phần Hệ Từ của kinh Dịch: “Phù, Càn kỳ tĩnh dã chuyên, kỳ động dã trực, thị dĩ đại sanh yên. Phù Khôn, kỳ tịnh dã hấp, kỳ động dã tịch, thị dĩ quảng sanh yên”. Khổng Dĩnh Đạt chú giải: “Càn là thuần Dương, có đức tánh phổ quát trọn khắp, không thiên vị nên là chuyên nhất. Nếu khí chẳng phát động thì nó tĩnh và chuyên nhất, nên nói ‘kỳ tĩnh dã chuyên’. Nếu nó vận chuyển thì bốn mùa chẳng sai, nóng lạnh không sai, đúng mực, nên nói ‘kỳ động dã trực’. Do nó động và tĩnh như thế nên có thể sanh trưởng to lớn (đại sanh). Khôn là Âm, mềm mại, bế tàng thâu liễm, nên nói ‘kỳ tĩnh dã hấp’ (Hấp có nghĩa là thâu liễm), hễ động thì sanh trưởng vạn vật nên nói ‘kỳ động dã tịch’. Do như vậy nên Khôn có thể sanh trưởng rộng rãi vạn vật (quảng sanh)”.

[15] Thập Phổ (gọi đủ là Thập Phổ Môn) là mười pháp môn viên mãn rộng khắp có công năng giúp hành giả thâm nhập Thật Tướng gồm từ bi phổ, hoằng thệ phổ, tu hành phổ, đoạn hoặc phổ, nhập pháp môn phổ, thần thông phổ, phương tiện phổ, thuyết pháp phổ, thành tựu chúng sanh phổ và cúng dường chư Phật phổ.

[16] Đây là một phép tu của Mật Tông có tên gọi là Ph’owa (thuật ngữ Tây Tạng dịch từ tiếng Phạn Samkrānti, thường được gọi là Sáu Phép Yoga của đại hành giả Naropa, tức là những pháp tu thường được coi là do đại thành tựu sư Tilopa của Ấn Độ truyền lại) nhằm chuyển hóa thần thức khi lâm chung. Phép tu này đòi hỏi hành giả phải tập luyện bằng những cách quán tưởng nhằm hướng dẫn thần thức quen với diễn biến của sự chết, để có thể điều khiển thần thức trong lúc lâm chung. Họ tin rằng khi đạt đến thành tựu nhất định, dưới sự hướng dẫn của một vị A-xà-lê, sẽ mở được một huyệt ở đỉnh đầu, và để dễ quán niệm, người ta cắm vào đó một cọng cỏ Kusha (Cát Tường Thảo). Khi lâm chung, thần thức sẽ theo huyệt ấy thoát ra khỏi thân xác. Tuy thế, khi truyền sang các nước khác, nhất là tại Mỹ và các nước phương Tây, có những Thượng Sư ham lợi, đã giở trò làm lễ mở đỉnh đầu cho bất cứ ai đóng đủ lệ phí, cắm vào đó một cọng cỏ, bảo họ đã có thể liễu sanh thoát tử, chẳng hề truyền dạy giáo nghĩa và cách hành trì của phép tu Ph’owa! Có những người như Liên Sanh Hoạt Phật (tên thật là Lư Thắng Ngạn) của Chân Phật Tông (một tà phái đội danh Mật Tông Tây Tạng ở Đài Loan, pha trộn lung tung Mật Tông và các tín ngưỡng dân gian lẫn Đạo Giáo, có rất nhiều tín đồ người Hoa tại hai tiểu bang California và Washington) đi đâu cũng khoe vết thủng trên đỉnh đầu để chứng tỏ mình là Hoạt Phật (Phật sống) thứ thiệt đã khai đảnh!

[17] “Tác pháp” là một thuật ngữ thường dùng trong Mật Tông với ý nghĩa cử hành các nghi lễ như sái tịnh đàn tràng, hộ thân, triệu thỉnh Bổn Tôn, gia trì, quán đỉnh, tiêu tai, cung tống Bổn Tôn v.v…

[18] Đắc Giới Hòa Thượng còn gọi là Đàn Đầu Hòa Thượng hay Truyền Giới Hòa Thượng là một trong Tam Sư chánh yếu (Đàn Đầu, Yết Ma, Giáo Thọ) của giới đàn. Vị này thường là bậc thanh tu thạc đức, giới hạnh tinh nghiêm, được mười phương sơn môn ngưỡng mộ, và đóng vai trò ban giới (thí giới) cho các giới tử trong giới đàn. Theo Tứ Phần Luật, vị tỳ-kheo làm Truyền Giới Hòa Thượng phải có đủ năm phẩm đức: kiên trì tịnh giới, đủ mười tuổi hạ, thông hiểu Luật Tạng, thông đạt thiền tư, và có trí huệ.

[19] Tam Luận là ba bộ luận, tức Trung Luận (Mūlamadhyamakakārikā), Thập Nhị Môn Luận (Dvādashanikāya-Shāstra) và Bách Luận (Śatakaśāstra). Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận do Long Thọ Bồ Tát biên soạn, còn Bách Luận do ngài Thánh Thiên (Āryadeva) biên soạn. Ba bộ luận này thuộc học phái Bát Nhã Trung Quán của Đại Thừa. Những vị tổ sư tiêu biểu góp phần hình thành tông phái này tại Trung Hoa là Cưu Ma La Thập, Tăng Triệu, Tăng Lãng, Pháp Lãng, Đại Minh, Cát Tạng; nhưng người có công hoàn chỉnh luận thuyết của tông này là ngài Cát Tạng. Luận điểm chủ yếu của tông này là: “Các pháp tánh Không, đó là Trung Đạo Thật Tướng”. Sau này, Huệ Quán (Ekan) đã từ Nhật sang Trung Hoa cầu pháp với ngài Cát Tạng vào năm 625 (trong thời đại cai trị của nữ hoàng Thôi Cổ – Suiko) và truyền bá Tam Luận Tông (Sanron Shu) tại Nhật Bản. Ngài Ấn Thuận được coi là học giả lừng danh nhất của tông Tam Luận trong thế kỷ 20.

[20] Đây chính là bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Luận Toản Yếu do pháp sư Đạo Bái biên soạn vào đời Thanh.

[21] Bạch Trạch là con thú thần thoại được chép trong bộ Vân Cấp Thất Thiêm (do đạo sĩ Trương Quân Phòng biên soạn vào đời Bắc Tống). Trong bộ sách này, Trương Quân Phòng đã trích dẫn sách Hiên Viên Bản Kỷ như sau: “Hoàng Đế tuần du, tới Đông Hải, lên núi Hằng, từ bờ biển chợt có con thú Bạch Trạch xuất hiện. Nó có thể nói thông suốt tình trạng của muôn vật, do vậy, Hoàng Đế hỏi nó chuyện quỷ thần, từ những vật do tinh khí [của trời đất] tích tụ biến hóa ra, cho tới những loài thần hồn thơ thẩn (du hồn) gồm một ngàn năm trăm hai mươi thứ, Bạch Trạch đều nói cặn kẽ. Hoàng Đế bèn cho vẽ hình con Bạch Trạch để truyền dạy dân chúng, và ghi chép những điều đó thành Bạch Trạch Đồ”. Hiên Viên Bản Kỷ do Vương Quán soạn vào đời Đường, thường được coi là lưu giữ nguyên văn trong quyển thứ một trăm của bộ Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籖). Thông thường, người ta vẽ Bạch Trạch giống như một con bò trắng, mặt như mặt người có râu quai nón, có ba mắt, sáu sừng (hai sừng trên đầu, hai cặp còn lại ở trên lưng), hai bên hông mỗi bên có ba mắt xếp thành hình tam giác, đuôi xù, vẽ cách điệu như hình đám mây vờn. Do đạo sĩ gọi tráp đựng sách là “vân cấp” (tráp mây) và chia sách vở trong Đạo giáo thành bảy loại (tam động, tứ phụ) nên bộ sách này mới có tên là Vân Cấp Thất Thiêm (bảy cái thẻ trong tráp mây) tuy bộ sách này gồm 122 quyển. Tam Động là Động Chân, Động Huyền, Động Thần, Tứ Phụ (thường bị đọc sai thành Tứ Phủ) gồm Thái Huyền, Thái Bình, Thái Thanh và Chánh Nhất. Chữ Động trong Tam Động không có nghĩa là hang động mà có nghĩa là “rỗng thông”. Tam Động tương ứng với ba hệ thống kinh chánh yếu của Đạo Giáo: Động Chân là những sách vở chú giải hoặc phát xuất từ Thượng Thanh Kinh, Động Huyền là những sách thuộc hệ thống Linh Bảo Kinh, Động Thần là sách vở thuộc hệ thống Tam Hoàng Văn.

[22] Chữ 好 có hai cách đọc: Một là “hảo” có nghĩa là tốt đẹp. Hai là Hiếu (hay háo) là ham chuộng, ưa thích. Như vậy nếu bới chuyện ra để làm thì sẽ “hiếu sự” (ưa bới ra chuyện để làm), không phải là “hảo sự” (chuyện tốt đẹp).

[23] Tiền ở đây là đơn vị đo trọng lượng. Một Tiền là mười Phân. Một Cân bằng mười Lạng, một Lạng gồm mười Tiền. Ở Hoa Lục, một Tiền là 5 gram, nên một Cân tại Hoa Lục là 500 gram, trong khi đó, tại Hương Cảng và Đài Loan, một Tiền chỉ bằng 3,78 gram. Các hiệu thuốc Đông Y phần nhiều sử dụng đơn vị Tiền theo kiểu Hương Cảng.

[24] Phật Tạng Kinh còn có tên là Phụng Nhập Long Hoa Kinh, hoặc Tuyển Trạch Chư Pháp Kinh, do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào năm Hoằng Thỉ thứ bảy (405), gồm ba quyển, mười phẩm. Kinh này chủ yếu nói về luật nghi của Bồ Tát, nhưng khác với bộ luật khác ở chỗ đặc biệt nhấn mạnh: Nếu hành giả không thông đạt Thật Tướng của các pháp là vô sanh vô diệt v.v… dẫu có thọ trì hai trăm năm mươi giới cũng giống như phá giới, hành giả phải xa lìa các món hý luận, phân biệt, thì mới được gọi là trì giới.

[25] Nguyên văn “ma thạch” (đá mài, Terrazzo). Đây là một loại vật liệu xây cất, được chế bằng cách trộn các mảnh vụn cẩm thạch, thạch anh (quartz), đá hoa cương (granite), thủy tinh, hoặc các vụn đá thích hợp, kể cả những chất dẻo tổng hợp (polimer) với xi-măng, rồi đổ khuôn, chủ yếu để làm sàn nhà hoặc ốp vách tường. Khi chất liệu đã cứng, người ta bèn mài bóng.

[26] Để dễ hiểu ý của câu này, xin mạn phép trích một đoạn trong Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ của pháp sư Giao Quang như sau: “Túng diệt nhất thiết kiến văn giác tri, nội thủ u nhàm, do vi pháp trần phân biệt ảnh sự (Dẫu diệt hết thảy thấy, nghe, hay biết, giữ lấy sự u nhàn bên trong, vẫn là chuyện thuộc về bóng dáng phân biệt Pháp Trần). ‘Kiến văn giác tri’ là nói về năm thức trước và ý thức. Dùng bốn chữ này (kiến văn giác tri) để bao gồm cả sáu thức ấy, gộp ngửi và nếm thành một chữ Giác. ‘Diệt’ là dứt trừ sự nhận biết các ngoại duyên của các thức, khiến cho chúng bất động. ‘U nhàn’ là cảnh vắng lặng trong nội tâm [khi đã dứt sự phân biệt ngoại duyên]. Cảnh này chính là cảnh bị giữ lấy bởi phàm phu, ngoại đạo, Quyền Giáo, Tiểu Thừa trong khi nhập Định, mà cũng là cái họ chấp lấy, coi đó là Pháp Tánh cần phải chứng. ‘Pháp trần’ là tên gọi của cảnh này. ‘Phân biệt’ là cái tâm giữ lấy cảnh này. Chữ ‘ảnh sự’ chỉ tâm và cảnh ấy, chứ không phải là bóng dáng do ánh sáng chiếu rọi vật, trọn chẳng có thật. Phàm phu, ngoại đạo, Quyền Giáo, Tiểu Thừa chấp sự u nhàn là Pháp Tánh sâu xa, chẳng biết nó vẫn là Pháp Trần được duyên bởi vọng thức”.

[27] “Thoát thai hoán cốt” vốn là một thuật ngữ Đạo Giáo. Họ tin rằng nếu uống kim đan (thần đan) sẽ đổi thai phàm thành thai thánh, đổi xương phàm thành xương tiên, nên mới gọi là “thoát thai, hoán cốt”, tức là sẽ trở thành Địa Tiên, trường sanh bất lão, có thể bay lên không, tùy ý tự tại. Kim đan là những loại thuốc nung luyện bằng phương cách bí truyền gồm các kim loại quý (hoặc những chất được tin tưởng là mẹ của các kim loại như chì, thủy ngân) và một số dược vật kỳ quái khác. Kim đan phải chọn ngày giờ, phương vị để nung luyện (tương tự như Giả Kim Thuật của châu Âu). Tư tưởng luyện kim đan bắt nguồn từ Cát Hồng đời Tấn như ông ta đã trình bày trong sách Bão Phác Tử, và được các đạo sĩ đời sau hăm hở luyện theo. Nhiều vua chúa Trung Hoa đã mê muội muốn trường sanh bất tử, chẳng hạn các vua Hiến Tông, Mục Tông, Vũ Tông, Tuyên Tông nhà Đường, Gia Tĩnh nhà Minh đã chết tươi hay điên cuồng, vật vã mấy ngày rồi chết sau khi uống kim đan vì trong ấy có những chất kịch độc như thủy ngân, chì! Ở đây, Liên Trì đại sư chỉ mượn từ ngữ này để ca ngợi phép Niệm Phật giúp cho phàm phu có thể từ phàm nhập thánh, vượt thoát tam giới nhanh chóng mà thôi!

[28] Theo Nhiếp Đại Thừa Luận và Thành Duy Thức Luận, Ngũ Chủng Duy Thức Quán là:

  1. Khiển hư tồn thật quán (phép quán nhằm bỏ hư vọng, giữ lấy chân thật).
  2. Xả lạm lưu thuần quán (phép quán nhằm bỏ những gì tràn lan, giữ lấy pháp thuần khiết).
  3. Nhiếp mạt quy bổn quán (phép quán nhằm gom ngọn về gốc).
  4. Ẩn liệt hiển thắng quán (phép quán nhằm giấu điều kém, phô bày điều thù thắng).
  5. Khiển tướng chứng tánh quán (phép quán nhằm bỏ tướng, chứng tánh).

[29] “Nhập lưu” tức là bước vào dòng thánh, để được gọi là “nhập lưu” thì tối thiểu phải chứng Sơ Quả của Tiểu Thừa.

[30] Đây là cách phát âm chữ A theo giọng một số địa phương tại miền Nam Trung Hoa; có vùng đọc thành Ngò Mi Thò Huột.

[31] Năm tầng trời ấy đều thuộc về Tứ Thiền Thiên gồm Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Hiện Thiên, Thiện Kiến Thiên và Sắc Cứu Cánh Thiên. Năm tầng trời này là chỗ ở của bậc thánh nhân nên còn gọi là Ngũ Tịnh Cư Thiên. Do chẳng đọa trong ác đạo nên gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiên.

[32] Cỏ Thi (Yarrow), còn gọi là Âu Thi, Thiên Diệp Thi, Cứ Thi, Du Đình Thi, Cứ Xỉ Thảo, Vũ Y Thảo, hoặc Tây Dương Thi Thảo, là một loại cỏ thuộc họ Cúc (Asteraceae), mọc ở rất nhiều nơi như Nội Mông Cổ, Iran, Âu Châu, Nga, Phi Châu và vùng Đông Bắc Trung Hoa. Cỏ Thi thường mọc ở những vùng đất ẩm ướt, nhưng khí hậu khô hanh. Cỏ này có củ ngầm, bò lan rất mạnh, thân thẳng, có thể mọc cao đến cả thước, thân cỏ có vằn nhỏ, phủ bằng lông tơ màu trắng, lá cỏ có gai, gồm nhiều phiến mọc quanh một thân chính, trông giống như những chiếc lông chim, dài từ năm đến hai mươi centimeter, mép lá có hình răng cưa. Để bói, người Hoa lấy năm mươi nhánh cỏ Thi, rút riêng ra một nhánh, rồi tiếp tục chia nhỏ bốn mươi chín nhánh còn lại theo những quy tắc khá phức tạp, để hình thành sáu con số dựa trên số lượng nhánh cỏ trong mỗi nhóm. Dựa trên sáu con số ấy, họ sẽ ghép thành một quẻ (thường gọi là “xủ quẻ”).

[33] Phạn ngữ (đúng ra phải đọc là Phạm ngữ, nghĩa là ngôn ngữ của Phạm Thiên, nhưng ta quen đọc thành Phạn ngữ) là dịch nghĩa chữ Samkrtam (toàn hảo) hoặc nói đầy đủ là Samskrtā Vāk (ngôn ngữ toàn hảo, thường được viết dưới dạng Latin hóa là Sankrit) thuộc hệ ngôn ngữ Indo-Aryan, đến nay vẫn được dùng như ngôn ngữ chính thức của tiểu bang Uttarakhand của Ấn Độ. Danh xưng Samskrtam đã được dùng trong các kinh điển Veda. Tiếng Sankrit được dùng trong kinh Phật là loại cổ điển Phạn ngữ (nhằm phân biệt với Phệ Đà Phạn ngữ – Vedic Sankrit). So với Phệ Đà Phạn ngữ, tiếng Phạn trong kinh Phật bóng bẩy hơn, quy luật hành văn phức tạp hơn. Khác với quan niệm thông thường cho tiếng Phạn là tử ngữ, nó vẫn được sử dụng trong các trường đại học và nhất là trong các cơ sở tôn giáo. Đôi khi Sankrit còn được gọi là Bắc Phạn để phân biệt với Nam Phạn (Pali).

[34] Phẩm kinh này có tên đầy đủ là Bồ Tát Vấn Minh, tức phẩm thứ mười trong bộ Bát Thập Hoa Nghiêm. Mười vị Bồ Tát có chữ Thủ trong danh hiệu chính là: Giác Thủ Bồ Tát, Tài Thủ Bồ Tát, Bảo Thủ Bồ Tát, Công Đức Thủ Bồ Tát, Mục Thủ Bồ Tát, Tinh Tấn Thủ Bồ Tát, Pháp Thủ Bồ Tát, Trí Thủ Bồ Tát, Hiền Thủ Bồ Tát (thật ra, chỉ có chín vị mang chữ Thủ, do tính luôn Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nên nói là Thập Thủ Bồ Tát). Câu hỏi của Văn Thù Bồ Tát là: “Này Phật tử! Tâm tánh là một, cớ sao thấy có các thứ sai biệt? Như là đi vào đường lành hay đường ác, các căn thiếu hay đủ, thọ sanh giống nhau hay khác nhau, đoan chánh, xấu xí, khổ, vui khác nhau, nghiệp chẳng biết tâm, tâm chẳng biết nghiệp, thọ chẳng biết báo, báo chẳng biết thọ, tâm chẳng biết thọ, thọ chẳng biết tâm, nhân chẳng biết duyên, duyên chẳng biết nhân, trí chẳng biết cảnh, cảnh chẳng biết trí”. Câu này được Giác Thủ Bồ Tát trả lời. Tiếp đó, Văn Thù Bồ Tát nêu ra một loạt câu hỏi khác, mỗi câu đều được một vị Bồ Tát trong số chín vị Bồ Tát trên đây trả lời.

[35] Đạo Gia (còn gọi là Hoàng Lão học phái) là một trong những học phái tư tưởng trong bá gia chư tử, chú trọng nghiên cứu chủ đề chính trong tư tưởng của Lão Tử và Trang Tử: Sự tự do của con người theo triết lý Vô Vi. Vô Vi không có nghĩa là không làm gì mà là thuận theo quy luật tự nhiên, không chấp trước, câu nệ hình thức. Thoạt đầu (thời Tiên Tần), Đạo Gia được gọi là Đạo Đức gia vì chuyên nghiên cứu Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Theo Tư Mã Viêm (cha sử gia Tư Mã Thiên), tư tưởng Đạo Gia có thể tóm tắt như sau: Lấy Đạo làm gốc, tự nhiên vô vi. Đạo là nguồn gốc của vũ trụ, mà cũng là pháp tắc chỉ đạo sự vận hành của toàn vũ trụ. Tư tưởng này được kế thừa và triển khai thêm bởi Trang Tử, dẫn khởi đến hứng thú nghiên cứu của môn Huyền Học thời Ngụy – Tấn.

Trong khi đó, Đạo Giáo là một tôn giáo đa thần, gom góp hầu như tất cả các thần linh cổ đại của người Hán lẫn các dân tộc bị Hán hóa, và số lượng thần thánh được liên tục bổ sung qua những đàn cầu cơ (kể cả những thần thánh do các thanh đồng bịa ra). Họ vay mượn tư tưởng của Đạo Gia (nhưng do tư tưởng Đạo Gia quá huyền áo, các Đạo Sĩ chỉ thường vay mượn những danh từ trong Đạo Gia, gán cho đủ thứ nội dung hỗn tạp do họ bịa đặt), pha trộn với những tín ngưỡng dân gian, kể cả học thuyết Âm Dương, Ngũ Hành, Phong Thủy, Địa Lý, cùng những trò mê tín dị đoan, bùa chú, cầu cơ, lên đồng, trừ tà, tróc quái, luyện đan, phòng trung thuật v.v… Họ cũng vay mượn những quan niệm nhân quả của Phật giáo, cũng như những nghi thức sám hối, siêu độ của Phật giáo để tạo thành nghi thức riêng, thậm chí bịa chuyện Lão Tử đi về phương Tây, hóa thành Phật Thích Ca và ghi chép thành bản kinh Lão Tử Hóa Hồ, suy tôn Lão Tử thành Đạo Đức Chân Quân hoặc Thái Thượng Lão Quân. Đạo Giáo được coi là hậu thân của Ngũ Đấu Mễ Đạo (về sau gọi là Thiên Sư Đạo) do Trương Đạo Lăng sáng lập vào năm 142 thời Tây Hán.

[36] Bình Đông là một huyện ở cực Nam đảo Đài Loan. Huyện lỵ đặt ở thành phố Bình Đông.

[37] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Pháp Diệt Tận Kinh, đã mất tên người dịch. Kinh này được đánh số 396 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh. Đức Phật giảng kinh này tại nước Câu Di Na Kiệt (Kushinagar). Phật cho biết sau khi Ngài diệt độ, sẽ có yêu ma quỷ quái mạo danh Phật pháp, giả làm đệ tử Phật để phá hoại Phật pháp. Tuy có các Bồ Tát, La Hán, Bích Chi Phật tận lực cứu vãn Phật pháp, nhưng vẫn không chế ngự nổi sức phá hoại của ma. Phật huyền ký hai kinh sẽ bị diệt đầu tiên là Thủ Lăng Nghiêm và Ban Châu Tam Muội, màu áo ca-sa của sa-môn sẽ chuyển thành nhạt dần.

[38] Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện nói ở đây chính là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, tức là phẩm Nhập Pháp Giới trong Bát Thập Hoa Nghiêm.

[39] Tác phẩm này gọi đủ là Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Đàm do tổ Thanh Lương Trừng Quán biên soạn, gồm tám quyển. Thật ra, đây chỉ là tác phẩm trích yếu phần Huyền Nghĩa trong hai bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ và Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao. Do tác phẩm này quá cô đọng, uyên áo, về sau lại có hai tác phẩm chú giải bộ sách này là Hoa Nghiêm Huyền Đàm Quyết Trạch do ngài Tiên Diễn biên soạn và Huyền Đàm Hội Huyền Ký do ngài Phổ Thụy biên soạn.

[40] Tam Tạng Pháp Số, gọi đủ là Đại Minh Tam Tạng Pháp Số do ngài Nhất Như biên soạn vào đời Minh. Bộ sách này gồm năm mươi quyển, giải thích những danh từ, thuật ngữ Phật học thường gặp trong Tam Tạng kinh điển, bắt đầu bằng từ ngữ “nhất tâm” và kết thúc bằng từ ngữ “bát vạn tứ thiên pháp môn”, gồm 1.555 mục.

[41] Nhập Lăng Già Kinh (Lankāvatāra-sūtra) có tên gọi đầy đủ là Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh, là một bộ kinh Đại Thừa, chuyên giảng về Như Lai Tạng, chân thường duy tâm. Cùng với kinh Giải Thâm Mật, kinh Lăng Già được coi là kinh điển trọng yếu của Như Lai Tạng Học Phái. Danh xưng của kinh thường được giải thích như sau: Lăng Già có nghĩa là Hồng Bảo Thạch, là tên một ngọn núi báu. Có thuyết giải thích Lăng Già là tên một hòn đảo vốn là thủ đô của xứ Ravana, nơi cư trụ của La Sát Vương. Toàn bộ danh xưng Lăng Già A Bạt Đa La có nghĩa là đức Phật vào núi báu Lăng Già để giảng kinh này. Kinh Lăng Già có năm bản dịch:

  1. Bản dịch thứ nhất của ngài Đàm Vô Sấm dịch tại xứ Cô Tạng nước Bắc Lương đã thất truyền từ đời Đường.
  2. Bản dịch mang tên Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh của ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch vào năm Nguyên Gia 20 (443) đời Lưu Tống, gồm bốn quyển. Theo truyền thuyết, tổ Đạt Ma đã truyền cho ngài Huệ Khả bản kinh này. Sách Truyền Đăng Lục cũng nói Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã vẽ bức Lăng Già Tu Định Đồ trên vách tường trong Thiền thất.
  3. Bản dịch mang tên Nhập Lăng Già Kinh mười quyển do ngài Bồ Đề Lưu Chi dịch vào đời Bắc Ngụy.
  4. Bản dịch mang tên Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh, bảy quyển, do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường.
  5. Bản hội tập mang tên Lăng Già Hội Dịch do pháp sư Viên Kha biên soạn vào đời Minh. Bản này hội tập ba bản Tống dịch, Ngụy dịch và Đường dịch.

Nguyên bản kinh này bằng tiếng Phạn được phát hiện vào năm 1923 tại Kathmandu của Nepal và được Nam Điều Văn Hùng (Nanjō Bunyū) người Nhật kiểm giảo, xuất bản. Đến năm 2005, Đàm Tích Vĩnh dựa theo bản này, tham khảo ba bản Hán dịch trước đó, dịch thành bản mới mang tựa đề Nhập Lăng Già Kinh Phạm Bổn Tân Dịch. Ở đây, Tổ Liên Trì dùng chữ “Lăng Già chư kinh” trong lời Sớ nhằm nói đến các bốn bản dịch gốc và một bản hội tập vào đời Minh.

[42] Chương Thái Viêm (1868-1936), người xứ Dư Hàng, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, vốn có tên là Học Thừa, tự là Mai Thúc. Về sau đổi tên thành Bính Lâm, hiệu Thái Viêm. Cụ còn có các biệt hiệu Cao Lan Thất Chủ Nhân, Lưu Tử Tuấn Tư Thục Đệ Tử. Cụ là một nhà tư tưởng, sử gia, chuyên gia về Quốc Học đồng thời là một trong những nhà cách mạng tiên phong của Quốc Dân Đảng. Năm 23 tuổi, cụ chuyên nghiên cứu Quốc Học dưới sự giảng dạy của Du Việt, rất được giới học thuật kính nể do sự bác lãm của mình. Khi chiến tranh Trung Nhật lần thứ nhất xảy ra, cụ tham gia Cường Học Hội, viết nhiều bài cho Thời Vụ Báo của Lương Khải Siêu, chỉ trích những hủ bại của triều đình nhà Thanh. Bị truy nã, cụ phải trốn sang Đài Loan, rồi sang Nhật Bản, được Lương Khải Siêu tiến cử lên Tôn Văn. Cụ trở lại Thượng Hải làm cộng tác với tờ Á Đông Thời Báo, và xuất bản tác phẩm quan trọng nhất là Cầu Thư nhằm trình bày ý tưởng canh tân đất nước. Cụ bị nhà Thanh hạ ngục từ năm 1901 đến năm 1906 và đã nghiên cứu Phật học trong thời gian ở tù. Sau khi được thả, cụ đã tham gia Đồng Minh Hội và trở thành chủ bút tờ Dân Báo. Trong thời gian này, các học trò đắc ý của cụ là Hoàng Khản, Lỗ Tấn, Châu Tác Nhân (em trai Lỗ Tấn), Tiền Huyền Đồng v.v… Chính cụ đã ấp ủ danh xưng Trung Hoa Dân Quốc trước khi cách mạng Tân Hợi thành công. Trung Hoa Dân Quốc thành lập, Viên Thế Khải đã mời cụ làm cố vấn cao cấp. Khi cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được tiến hành vào năm 1913, Tống Giáo Nhân đắc cử, nhưng chưa nhậm chức đã bị ám sát chết. Cụ Chương kịch liệt phê phán Viên Thế Khải đã ám sát họ Tống. Do vậy, cụ Chương bị hắn giam giữ cho đến khi Viên Thế Khải chết vào năm 1916. Năm 1924, cụ Chương rời Quốc Dân Đảng, tuyên bố chỉ trung thành với Trung Hoa Dân Quốc, phê phán những biện pháp và đường lối độc tài của Tưởng Giới Thạch. Cụ lập ra hội nghiên cứu Quốc Học Giảng Tập Hội tại Tô Châu vào năm 1934, kiêm chủ bút tờ Chế Tín cho đến khi mất. Khi cụ mất, chính quyền Dân Quốc đã làm lễ quốc táng. Một trong những đóng góp quan trọng của cụ là chế ra hệ thống Chú Âm Phù Hiệu để ghi cách đọc chữ Hán rất thuận tiện.

[43] Đông Nhạc Đại Đế chính là thần núi Thái Sơn, còn có danh xưng là Đông Nhạc Đế Quân, hoặc Thái Sơn Phủ Quân. Vị này chưởng quản ngũ nhạc và tất cả danh sơn của Trung Hoa. Theo Đạo Giáo, vị này quản nhiệm cả mười vị Diêm Vương (trong Đạo Giáo còn có một vị thần là Phong Đô Đế Quân cũng cai quản Thập Điện Diêm Vương), chủ trì họa phước của nhân gian. Nguồn gốc của Đông Nhạc Đại Đế cũng có nhiều thuyết:

  1. Cát Hồng đời Tấn cho rằng Đông Nhạc Đại Đế là vua Phục Hy.
  2. Có thuyết cho rằng Đông Nhạc Đại Đế là Kim Hồng Thị, hậu duệ của Bàn Cổ, tu đạo thành tiên tại Thái Sơn.
  3. Theo tiểu thuyết Phong Thần Diễn Nghĩa thì Đông Nhạc Đại Đế chính là đại tướng Hoàng Phi Hổ của Trụ Vương.

Có một số tăng sĩ cho rằng Đông Nhạc Đại Đế là hóa thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát.

[44] Nhà Mãn Thanh thuộc sắc tộc Nữ Chân (Jurchen), còn gọi là Nữ Trực, hoặc Nữ Trinh, sống chủ yếu ở vùng Mãn Châu, vốn là hậu duệ của một bộ tộc thuộc sắc dân Mạt Hạt (Malgal, cư dân chủ yếu của cổ vương quốc Bột Hải) phải lưu tán sau khi nhà Liêu diệt Bột Hải. Do họ thường sống tập trung quanh sông Amur vào thuở đầu nên sử thường gọi là Hắc Thủy Mạt Hạt (Hắc Thủy là dịch nghĩa của chữ Amur). Các bộ tộc Nữ Chân được thống nhất bởi Hoàn Nhan A Cốt Đả (Wanyan Aguda). A Cốt Đả xưng đế, lập ra vương triều Kim. Chữ Kim này chính là đặt theo tên của dòng sông Anchuhu (sông Vàng) ở quê hương người Mạt Hạt. Lãnh thổ nhà Kim bao gồm toàn bộ miền Bắc Trung Hoa, nhưng rồi nhà Kim bị nhà Nguyên của Hốt Tất Liệt diệt quốc vào năm 1234. Vào năm 1586, tù trưởng Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhachi) của bộ tộc Kiến Châu Nữ Chân đã thống nhất các bộ tộc Nữ Chân, lập ra vương triều Hậu Kim. Con trai ông ta là Hoàng Thái Cực đã đổi tên dân tộc thành Mãn Châu vì tin người Nữ Chân là hậu duệ của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, và đổi quốc hiệu thành Đại Thanh.

[45] Chữ Kháng Chiến ở đây chỉ giai đoạn Trung Hoa chống lại sự xâm lăng của quân phiệt Nhật từ năm 1937 đến năm 1945, khởi đầu bằng Lư Câu Kiều sự biến, tức sự kiện quân Nhật viện cớ một lính Nhật mất tích gần đồn lũy của thành Uyển Bình (phụ cận Bắc Kinh) để đòi xét thành. Quân Quốc Dân Đảng chống lại, hai bên đọ súng, và Nhật viện cớ ấy, tấn công chiếm Bắc Kinh và Thiên Tân.

[46] Sử Trung Hoa thường gọi sự kiện này là Nhất Nhị Bát Sự Biến, hoặc Tùng Hỗ Chiến Tranh hoặc Thượng Hải Sự Biến. Sau khi tấn công thành công Mãn Châu, Nhật đã chiếm được Đông Tam Tỉnh của Trung Hoa và lập ra chính quyền bù nhìn Mãn Châu Quốc, với mục đích tiếp tục tiến chiếm Trung Hoa, quân phiệt Nhật thấy cần phải tạo ra một cớ để tấn công Trung Hoa. Vào ngày Mười Tám tháng Giêng năm 1932, họ sai năm tăng nhân người Nhật khiêu khích khiến cho các thanh niên Trung Hoa nổi giận, đánh đập họ ở ngoài xưởng máy Tam Hữu Thực Nghiệp Xã ở Thượng Hải. Kết quả, hai người bị thương nặng, một người chết. Vài tiếng sau, xưởng máy Tam Hữu bị người Nhật đốt trụi với mục đích báo thù. Các hình thức kháng Nhật liền sôi nổi bùng ra. Chính quyền Nhật liền viện cớ bảo vệ kiều dân Nhật tại Trung Hoa để đem quân vào Thượng Hải. Giữa đêm ngày Hai Mươi Tám tháng Giêng, Nhật ném bom Thượng Hải và ba ngàn quân Nhật chính thức tấn công nhiều nơi tại Thượng Hải. Chiến cuộc nổ ra, hai bên thương vong nặng nề, cho đến khi quân Quốc Dân Đảng vì thiếu lương thực phải rút khỏi Thượng Hải, phía Nhật dưới áp lực của liên quân Đồng Minh và chiến phí quá nặng cũng phải nhượng bộ; đôi bên ký kết hiệp ước đình chiến Tùng Hỗ vào ngày Năm tháng Năm năm 1932.

[47] Ý nói: Bốn giáo trước xét theo lý luận đều có đủ cả ba pháp giới Sự vô ngại, Lý vô ngại, Sự Lý vô ngại.

[48] Cam Lộ Hỏa Vương là vị thiện tri thức thứ mười bảy trong số năm mươi ba vị thiện tri thức. Bát Thập Hoa Nghiêm dịch tên vị vua này là Vô Yếm Túc Vương. Để tránh hiểu lầm Phật giáo khuyến khích giết người, xin trích dẫn một đoạn do vua tự giải thích trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, quyển 14, như sau: “Thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Như ông đã thấy quả báo [do ta được thụ hưởng] đáng yêu như thế, sắc tướng như thế, quyến thuộc như thế, vinh hoa, sung sướng như thế, giàu có như thế, tự tại như thế, có phải là do ác nghiệp cảm thành hay chăng? Này thiện nam tử! Ta đắc Bồ Tát Như Huyễn Giải Thoát. Này thiện nam tử! Nay tất cả các chúng sanh trong cõi ta, hành nhiều nghiệp ác như hạng Chiên Đà La. Ta vì các chúng sanh ác chẳng chịu vâng theo sự giáo hóa tốt lành mà tạo các thứ phương tiện, vẫn chưa thể khiến họ bỏ ác nghiệp, quay về thiện đạo. Thiện nam tử! Ta vì điều phục các chúng sanh ấy, khiến cho họ thành thục, nên do lòng Đại Bi hướng dẫn, hóa hiện những kẻ ác, đối trước những kẻ ác ấy, cảnh cáo kẻ ác, và biến hóa ra những kẻ não hại, bức não, trách phạt [những kẻ ác đó], đủ thứ trừng phạt khổ sở, khiến cho những chúng sanh làm ác trong nước thấy chuyện ấy, sanh lòng hoảng sợ, đối với các món dục lạc, sẽ sanh lòng chán lìa, tâm sanh khiếp sợ, liền có thể vĩnh viễn đoạn hết thảy ác nghiệp, phát Bồ Đề tâm, đắc Bất Thoái Chuyển. Do vậy, thiện nam tử nên biết: Những chúng sanh tạo ác chịu đựng các nỗi khổ và những chúng sanh hung bạo [do ta ra lệnh] trừng phạt kẻ ác như ông đã thấy đều là huyễn hóa. Này thiện nam tử! Ta dùng các phương tiện như vậy nhằm làm cho chúng sanh thôi tạo mười nghiệp bất thiện, tu tập trọn mười thiện đạo, lợi lạc rốt ráo, an ổn rốt ráo, vĩnh viễn dứt các khổ, trụ trong Nhất Thiết Trí Địa của Như Lai. Này thiện nam tử! Thân, ngữ, ý của ta chưa hề mong não hại một chúng sanh nào. Lòng ta nghĩ thà đến hết đời vị lai, [chính mình] chịu khổ không gián đoạn, trọn chẳng phát khởi một niệm sân tâm, chưa từng khởi ý tưởng não hại chúng sanh bé bỏng như con muỗi, con kiến, huống là tạo tác các ác nghiệp như thế. Thiện nam tử! Ta tự ức niệm, cho đến trong mộng, chưa từng có một niệm tâm sanh phóng dật, huống là lúc thức mà lại giết người ư?”

[49] Viên Giáo Nhất Thừa chỉ có hai bộ kinh là Pháp Hoa và Hoa Nghiêm, nhưng trong Pháp Hoa không có Sự Sự vô ngại, chỉ riêng kinh Hoa Nghiêm có nên mới gọi Hoa Nghiêm là Biệt Giáo Nhất Thừa nhằm phân định với Nhất Thừa nói chung.

[50] Nghĩa thú: Ý nghĩa và chỉ thú (chỗ hướng đến, tông chỉ, mục đích hướng đến).

[51] Bổng (棒) là dùng gậy đánh, hát (喝) là quát to. Đây là phương cách thường được dùng để chỉ điểm người đến tham học của ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền. Về sau, mọi phương pháp chỉ dạy, cảnh tỉnh đều gọi chung là “bổng hát”.

[52] Bắc Câu Lô Châu còn dịch là Uất Đan Việt, Uất Đát La, Úc Đa La Cưu Lưu, Ốt Đát La Củ Lô v.v… dịch nghĩa là Cao Thắng, Phước Địa. Theo kinh A Hàm, A Tỳ Đàm Luận, và Du Già Sư Địa Luận, châu Uất Đan Việt ở phương Bắc núi Tu Di. Châu này vuông vức, kích thước mỗi bề là mười ngàn do-tuần, bốn phía bằng phẳng, con người thọ ngàn năm, không có các nỗi khổ, thường hưởng khoái lạc, cần dùng vật gì cứ lấy từ cây Như Ý, chẳng cần phải lo ăn uống, nhà cửa. Con cái đẻ ra không cần nuôi, ai đi qua thấy trẻ đói đưa ngón tay gần miệng đứa bé, liền có sữa chảy ra. Châu này thuộc quyền quản trị của Tỳ Sa Môn thiên vương (Vaiśravana).

[53] Bốn đại châu là ngoại trừ Bắc Câu Lô Châu còn có:

  1. Nam Diêm Phù Đề (Jambudvīpa): Nằm ở phía Nam núi Tu Di, có hình tam giác cụt, đáy nhỏ hướng xuống dưới, châu vi mười ngàn do tuần. Châu này được đặt tên theo cây Diêm Phù. Địa cầu của chúng ta thuộc về châu này. Tuổi thọ biến thiên từ mười năm đến tám vạn bốn ngàn năm theo chu kỳ tăng giảm của tiểu kiếp.
  2. Đông Thắng Thần Châu (Pūrvavideha): Nằm ở phía Đông núi Tu Di, có hình bán nguyệt, thọ mạng con người trong châu này là hai trăm năm mươi năm.
  3. Tây Ngưu Hóa Châu (Aparagodānīya): Nằm ở phía Tây núi Tu Di, châu có hình tròn. Con người trong cõi này thọ năm trăm tuổi, không sống trong nhà mà ngủ trên mặt đất.

 

[54] Nguyên văn “thập lý trường đình”: Thời Tần – Hán, cứ mỗi mười dặm đường, chánh quyền sở tại lập một cái đình để người đi đường nghỉ chân hoặc dành cho thân hữu tiễn biệt bạn bè. Đình là một cái nhà nhỏ không vách, chỉ có cột, bên trong thường có kê bàn ghế bằng đá. Theo cổ lễ, tiễn nhau phải theo chân mười dặm đường. Về sau, cứ năm dặm lập một cái đình, gọi đó là “đoản đình”, còn đình ở khoảng cách mười dặm gọi là “trường đình”.

[55] Theo phẩm A Tăng Kỳ trong kinh Hoa Nghiêm, một bất khả thuyết là một trong các con số lớn, tính từ một lạc-xoa là một trăm ngàn, câu-chi là một trăm lạc-xoa, câu-chi lần câu-chi là một a-dữu-đa, a-dữu-đa lần a-dữu-đa là một na-do-tha v.v… Một bất khả thuyết là sau số 1 có: 4.652.297.985.247.205.555.163.324.710.981.206. 016 con số 0.

[56] “Tứ sự cúng dường” là cung cấp bốn nhu cầu sinh hoạt thông thường cho Phật và Tăng đoàn, tức là cung cấp y phục, thức ăn, vật dụng để nằm và thuốc men.

[57] Tịnh Danh Kinh là tên gọi thông thường của kinh Duy Ma Cật (vì Duy Ma Cật dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịnh Danh, hoặc Vô Cấu Xưng). Sở dĩ nói “Tịnh Danh chư kinh” vì kinh này có đến bảy bản dịch, nhưng đã thất lạc bốn bản, chỉ còn ba bản:

  1. Phật Thuyết Duy Ma Cật Kinh do cư sĩ Chi Khiêm dịch vào thời Đông Ngô.
  2. Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần.
  3. Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường.

Bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập có ghi tên kinh Duy Ma Cật là Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát Kinh. Tên gọi này do chính đức Phật nói, vì trong phẩm Chúc Lụy, đức Phật đã dạy ngài A Nan: “Này A Nan! Kinh này tên là Duy Ma Cật Sở Thuyết, còn gọi là Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát Pháp Môn”. Bản của ngài Chi Khiêm ghi gần giống như vậy, bản của ngài Huyền Trang ghi: “Đức Thế Tôn bảo rằng: – Kinh như thế này có tên là Thuyết Vô Cấu Xưng Bất Khả Tư Nghị Tự Tại Thần Biến Giải Thoát Pháp Môn, hãy trì như thế”.

[58] Pháp sư Trí Viên (976-1022) là một danh tăng thuộc Sơn Ngoại Phái của tông Thiên Thai, tự là Vô Ngoại, hiệu Trung Dung Tử, hoặc Tiềm Phu, quê ở huyện Tiền Đường, họ Từ. Sư xuất gia từ nhỏ, về sau thọ giới tại chùa Long Hưng ở Tiền Đường. Về sau, Sư sang chùa Phụng Tiên học giáo nghĩa Thiên Thai với ngài Nguyên Thanh. Sau đấy, Sư ẩn cư tại Mã Não Pha thuộc Cô Sơn, Tây Hồ, Hàng Châu, giao du thân thiết với ngài Từ Vân Tuân Thức. Do nghe ngài Nguyên Thanh nói tác phẩm Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa của Trí Giả đại sư bị người đời sau sửa đổi, nên mới có hai bản gọi là Lược Bổn và Quảng Bổn, Sư bèn viết tác phẩm Pháp Hoa Thập Diệu Bất Nhị Môn Thị Châu Chỉ, chủ trương Chân Tâm Quán. Sau đó, ngài Tứ Minh Tri Lễ viết bộ Thích Nạn Phù Tông Ký đả phá thuyết của ngài Nguyên Thanh và đề cao Quảng Bổn. Nhằm bênh vực thầy và tự biện hộ cho mình, ngài Trí Viên bèn hợp tác với ngài Phạm Thiên Khánh Chiêu soạn bộ Biện Ngoa để công kích ngài Tri Lễ. Lại soạn bộ Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa Biểu Trưng Ký nhằm bắt bẻ bộ Quảng Bổn là văn tự thô lậu, nghĩa lý sơ sài, lý lẽ mâu thuẫn và tường thuật sự việc lầm lẫn. Tông Thiên Thai từ sự kiện này mà chia thành hai phái Sơn Gia và Sơn Ngoại. Đôi bên viết sách công kích nhau, kéo dài mười mấy năm, tạo thành trận bút chiến dằng dai giữa hai phái Sơn Ngoại và Sơn Gia trong tông Thiên Thai. Ngoài các bộ sách nhằm tranh luận về vấn đề Quảng Bổn, Sư còn để lại các bộ sớ giải sau đây: Văn Thù Bát Nhã Kinh Sớ, Di Giáo Kinh Sớ, Bát Nhã Tâm Kinh Sớ, Thụy Ứng Kinh Sớ, Tứ Thập Nhị Chương Kinh Chú, Bất Tư Nghị Pháp Môn Kinh Sớ, Vô Lượng Nghĩa Kinh Sớ, Quán Phổ Hiền Hành Pháp Kinh Sớ, A Di Đà Kinh Sớ, Thủ Lăng Nghiêm Kinh Sớ (do có mười bộ sớ nên mới gọi là Thập Bổn Sớ Chủ), Thỉnh Quán Âm Kinh Sớ Xiển Nghĩa Sao, Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký, Niết Bàn Huyền Nghĩa Phát Nguyên Cơ Yếu, Niết Bàn Kinh Sớ Tam Đức Chỉ Quy, Niết Bàn Kinh Trị Định Sớ Khoa, Kim Cang Phê Hiển Tánh Lục, Bát Nhã Tâm Kinh Di Mưu Sao. Mười bộ Sớ của Sư hiện thời chỉ còn bộ Bát Nhã Tâm Kinh Sớ, chín bộ kia đã bị thất truyền.

[59] Tuy thường nói Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học và Trung Dung là Tứ Thư, nhưng Trung Dung và Đại Học chỉ là hai thiên sách trong sách Lễ Ký. Trung Dung là thiên thứ ba mươi mốt, còn Đại Học là thiên thứ hai mươi bốn. Thiên sách Đại Học nhấn mạnh tầm quan trọng của Thành (lòng thành), Trung Dung cũng nhấn mạnh Thành, nhưng điểm độc đáo của Trung Dung là nói đến ý nghĩa “chấp Trung” tức là cầu “trung hòa”. Theo đó, con người phải sống hợp với Trung, dùng lòng chí thành để đạt đến Trung.

[60] Trung Luận (Mūlamadhyamakakārikā) còn gọi là Trung Quán Luận, Trung Luận Tụng, hoặc Trung Quán Căn Bản Luận do Long Thọ Bồ Tát trước tác, do ngài Cưu Ma La Thập dịch sang tiếng Hán. Tác phẩm này được coi là kinh điển căn bản của học thuyết Trung Quán, nhấn mạnh tầm quan trọng của Trung Đạo cũng như các phương pháp thể nhập Trung Đạo. Do tầm quan trọng của bộ luận này, trong Hán Tạng có đến bảy bộ chú giải như sau: Vô Úy Luận (do ngài Long Thọ tự viết để chú thích Trung Luận), Trung Luận Thích (do ngài Thanh Mục viết), Thuận Trung Luận (do Vô Trước Bồ Tát viết), Đại Thừa Trung Quán Thích Luận (do ngài An Huệ viết), Căn Bản Trung Luận Chú (do ngài Phật Hộ soạn), Bát Nhã Đăng Luận (do ngài Thanh Biện viết), và Tịnh Minh Cú Luận (do ngài Nguyệt Xứng viết).

[61] Do quán các pháp là Giả, tức là nhìn từ Tướng để thể nhập Tánh, tức là phá chấp Hữu. Nhập Không là quán chiếu bổn tánh các pháp là Không, nhưng chẳng phải là trống không, rỗng tuếch. Chỉ vì bổn tánh không có vọng niệm, đối đãi, nên gọi là Không. Quán như vậy chính là phá chấp Không. Do vậy, bước thứ nhất này gọi là “song giá” (ngăn dứt cả hai kiến chấp Có và Không). Sau đó nhập Trung, thấy rõ bản chất của Không và Giả, Giả chính là Không, Không chính là Giả, nên gọi là “song chiếu”, tức là từ Tánh lại khởi ra tác dụng. Do vậy, mới nói là từ Không trở lại Giả.

[62] Thiên Thai Tam Đại Bộ là ba bộ sách do chính ngài Thiên Thai Trí Khải (Trí Giả đại sư) biên soạn, gồm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú và Ma Ha Chỉ Quán. Ba bộ này là căn cứ lý luận cho toàn bộ giáo nghĩa của tông Thiên Thai. Ngoài ra, người học giáo nghĩa tông Thiên Thai còn phải nghiên cứu năm bộ sách nữa gọi là Thiên Thai Ngũ Tiểu Bộ tức Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa, Kim Quang Minh Kinh Văn Cú, Quán Âm Huyền Nghĩa, Quán Âm Nghĩa Sớ và Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ. Năm bộ này là bút ký của ngài Quán Đảnh ghi chép lời dạy của tổ Thiên Thai. Riêng Kim Quang Minh Huyền Nghĩa có hai bản Quảng Bổn và Lược Bổn, là đầu mối gây nên tranh cãi khiến tông Thiên Thai tách thành hai phái Sơn Gia (do Tứ Minh Tri Lễ cầm đầu) và phái Sơn Ngoại (do Từ Vân Tuân Thức và Cô Sơn Trí Viên lãnh đạo).

[63] Đúng ra phải đọc là Pháp Hoa Kinh Văn Cú Ký Soán Yếu, nhưng ta quen đọc chữ Soán (篡: cướp lấy, đoạt lấy) thành Toản cho những tác phẩm thuộc thể loại trích yếu này. Soán Yếu có nghĩa là gạn lọc lấy, đoạt lấy những điều trọng yếu.

[64] Thật ra, ngài Chương An chỉ chỉnh lý tác phẩm Pháp Hoa Văn Cú của tổ Trí Giả, phần Văn Cú do ngài Chương An biên tập, còn Văn Cú Ký chính là tác phẩm chú giải Văn Cú của ngài Kinh Khê Trạm Nhiên. Vì thế, trong các bản in Pháp Hoa Văn Cú Ký hiện thời thường ghi như sau: Tùy Thiên Thai Trí Giả đại sư thuyết, Tùy Chương An Quán Đảnh đại sư văn cú, Đường Kinh Khê Trạm Nhiên đại sư thuật ký (Thiên Thai Trí Giả đại sư đời Tùy giảng, Chương An Quán Đảnh đại sư đời Tùy ghi thành văn cú, Kinh Khê Trạm Nhiên đại sư đời Đường viết bút ký).

[65] Đây là loại mão có thêu thùa rất đẹp, chỉ dành cho vị pháp sư chủ pháp đội trong các pháp hội đặc biệt như Diệm Khẩu hoặc Thủy Lục, mô phỏng hình đóa sen nở, chính giữa có trụ giống như một cái tháp nhỏ, đó là nơi chân thân Tỳ Lô Giá Na Phật ngự nên gọi là mão Tỳ Lô. Thông thường trong pháp hội của Trung Hoa, vị chủ pháp sau khi đã lên pháp tọa, lễ thỉnh, kết ấn, gia trì triệu thỉnh, rồi mới đội mũ lên, cung thỉnh Tam Bảo rồi mới khoác thêm hình Ngũ Phật lên mão, chứ không đội ngay từ đầu như trong các pháp hội Trai Đàn Chẩn Tế của người Việt. Sau khi hoàn tất nghi lễ thi thực, bèn tháo mũ ra, đặt lên án, trước khi bước xuống pháp tòa, hồi hướng, lễ Tam Quy, chứ không đội mão về liêu phòng hay trai đường.

[66] Lục Quần Tỳ Kheo là sáu tỳ-kheo đệ tử Phật thường kéo bè kéo phái làm chuyện phi pháp, trái nghịch oai nghi nên gọi là Lục Quần (sáu người họp thành bầy), nhằm mục đích tạo duyên cho đức Phật chế giới. Các bộ luật cho biết tên họ là Nan Đồ, Bạt Nan Đà, Ca Lưu Đà Di, Xiển Na, Mã Tú và Mãn Túc. Sách Tát Bà Sa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa cho biết: “Trong số Lục Quần tỳ-kheo, hai người đắc Lậu Tận nhập Vô Dư Niết Bàn là Ca Lưu Đà Di và Xiển Na, hai người sanh lên cõi trời là Nan Đồ và Bạt Nan Đà. Hai người đọa làm rồng là Mã Tú và Mãn Túc…. Hai người thông hiểu tinh tú vận hành là Nan Đồ và Bạt Nan Đà, hai người tinh thông nghệ thuật bắn cung là Ca Lưu Đà Di và Xiển Na, hai người thông thạo âm nhạc và kịch nghệ là Mã Tú và Mãn Túc”. Tùy theo cách dịch nghĩa phiên âm mà danh hiệu các vị này có sai khác, chẳng hạn Tăng Kỳ Luật ghi tên họ là Nan Đà, Ca Lưu Đà Di, Tam Văn Đạt Đa, Ma Hê Sa Đạt Đa, Mã Sư, Mãn Túc; Tỳ Nại Da Luật ghi là Xiển Đà, Ô Ba Nan Đà, A Thuyết Tha, Bổ Nại Bà Tố Ca, Xiển Đà, Ô Đà Di (theo cách phiên âm này thì hai vị có tên là Nanda và Chanda cùng được phiên thành Xiển Đà, có lẽ là lỗi chép sai khi sao lục).

[67] Văn Thù Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh có hai bản dịch: Bản thứ nhất của ngài Mạn Đà La Tiên, bản thứ hai của ngài Tăng Già Sa La dịch. Kinh này tương ứng với hội thứ bảy trong bộ Đại Bát Nhã Kinh do ngài Huyền Trang dịch và bản Thánh Bát Nhã Ba La Mật Đa Thất Bách Tụng Đại Thừa Kinh trong Đại Tạng Kinh của Tây Tạng.

[68] Đại Phẩm Bát Nhã Kinh còn gọi là Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, Ma Ha Bát Nhã Kinh hay Đại Phẩm Kinh do ngài Cưu Ma La Thập dịch vào năm Hoằng Thỉ thứ năm (403), gồm hai mươi bảy quyển. Những bản dịch tiếng Hán khác của kinh này là Quang Tán Bát Nhã Ba La Mật Kinh do ngài Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, Phóng Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh do ngài Vô La Xoa dịch vào đời Tây Tấn. Kinh này tương ứng với hội thứ hai trong bộ Đại Bát Nhã sáu trăm cuốn của ngài Huyền Trang. Kinh này được chú giải đặc biệt nhiều, nổi tiếng nhất là Đại Trí Độ Luận của ngài Long Thọ, Đại Phẩm Kinh Nghĩa Sớ của ngài Cát Tạng, và Đại Phẩm Kinh Du Ý (không ghi tên tác giả).

[69] Kinh này có tên gọi đầy đủ Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh do ngài Trúc Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La dịch vào thời Đông Tấn, gồm mười quyển, sáu phẩm, nội dung nói đến những tướng hảo của đức Phật và cách quán tưởng. So với cách quán tưởng của Quán Kinh, kinh này phức tạp hơn rất nhiều, xin trích một đoạn như sau: “Phật bảo phụ vương: – Thế nào là quán tướng quang minh giữa hai mày của Như Lai? Nay đức Như Lai vì các chúng sanh trong đời sau mà hiện chút tướng quang minh nơi bạch hào. Quang minh ấy chia làm tám vạn bốn ngàn nhánh, cũng có tám vạn bốn ngàn màu, chiếu trọn khắp mười phương vô lượng thế giới, mỗi màu hóa ra một quả núi bằng vàng. Mỗi núi vàng có vô lượng hang báu. Trong mỗi hang báu có một hóa Phật ngồi xếp bằng nhập Thiền Định sâu, có Thanh Văn, Bồ Tát trăm ngàn đại chúng làm quyến thuộc. Khi ấy, trong hang Phật đó có các hóa Phật, đều phóng tướng quang minh đại nhân nơi bạch hào, cũng chiếu mười phương vô lượng thế giới [khiến các thế giới ấy] đều như sắc vàng ròng. Trên đất sắc vàng có hoa sen vàng. Trên mỗi hoa sen vàng đều có hóa Phật, cũng có cùng hiệu là Thích Ca Văn (Thích Ca Mâu Ni). Giữa chặng mày của chư Phật cũng phóng quang minh này, chiếu trọn khắp mười phương thế giới, giống như trăm ngàn ức Tu Di Sơn Vương hợp lại một chỗ. Các Tu Di Sơn Vương hiện bóng chư Phật, thân Phật cao rõ, bằng với núi Tu Di. Nơi bạch hào của các vị hóa Phật ấy cũng phóng quang nhiễu khắp chư Phật bảy vòng xong, đều nhập vào giữa hai mày của Thích Ca Mâu Ni Phật. Khi quang minh ấy nhập vào [tướng bạch hào giữa hai mày], nơi mỗi lỗ chân lông trên thân Phật đều có một hóa Phật, trong mỗi lỗ chân lông của mỗi vị hóa Phật ấy đều hóa ra tám vạn bốn ngàn hình tượng nhiệm mầu, đều là những chuyện mà hết thảy chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới hiếm khi được thấy”.

[70] Chữ “trưởng giả tử” thường được dịch là con ông trưởng giả, nhưng theo Hòa Thượng Tịnh Không, chữ Tử ở đây không phải là con mà là cách xưng hô bày tỏ sự kính trọng giống như chữ Tử trong Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử v.v… (xin xem chi tiết trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký).

[71] Đại Bảo Tích Kinh (Mahā-ratnakūta-sūtra) gồm một trăm hai mươi quyển, do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch. Cổ đức giải thích: Do là các pháp Đại Thừa thâm diệu nên gọi là Bảo, do tụ tập vô lượng pháp môn nên gọi là Tích. Kinh được chia thành bốn mươi chín hội, trong ấy hai mươi ba hội (tám mươi quyển) do các vị dịch kinh thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy, Đường dịch được gọi chung là Cựu Dịch; hai mươi sáu hội còn lại do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch được gọi chung là Tân Dịch. Nội dung kinh rất rộng, bao gồm Bát Nhã (chẳng hạn hội Văn Thù Sở Thuyết Bát Nhã), Tịnh Độ (hội Vô Lượng Thọ Như Lai), Luật Tông (hội Ma Ha Ca Diếp, hội Tam Tụ Luật Nghi), Bồ Tát hạnh, Mật giáo v.v…

[72] Ngũ cốc là năm loại hạt chính dùng làm lương thực tại Trung Hoa. Sau này, Ngũ Cốc là từ ngữ phiếm chỉ các loại lương thực. Ngũ Cốc gồm: đạo (gạo tẻ), thử (kê hạt lớn, proso millet), tắc (tiểu mễ, kê hạt nhỏ, foxtail millet), mạch (lúa mì, bao gồm các loại như hắc mạch, tiểu mạch, kiều mạch v.v…), thục (đại đậu, tức đậu nành).

[73] Ngũ suy là năm dấu hiệu báo trước một vị trời sắp hết thọ mạng, chia thành hai loại: Đại ngũ suy và tiểu ngũ suy.

Đại ngũ suy là: 1) Y phục tự nhiên biến thành bẩn thỉu, nặng nề. 2) Hoa cài trên đầu bị héo. 3) Dưới nách toát mồ hôi. 4) Thân thể bẩn thỉu, rít nhớp. 5) Chẳng ưa thích tòa ngồi của chính mình.

Tiểu ngũ suy là: 1) Tiếng nhạc không tự nhiên trỗi lên nữa. 2) Ánh sáng nơi thân mờ yếu. 3) Nước tắm dính vào mình. 4) Tham đắm cảnh chung quanh không bỏ được. 5) Cảm thấy thân trống rỗng, mắt nháy lia lịa.

[74] Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ, chữ Thân có nghĩa là “tụ tập”. Do Văn là từ Cú hợp thành, Cú do Danh hợp thành, nên Cú và Văn được gọi chung là Thân.

[75] Trong phần này, không rõ vì sao hòa thượng Tịnh Không chỉ nói năm môn đầu, không giảng năm môn còn lại. Theo A Di Đà Kinh Sớ Sao Sự Nghĩa, mười môn ấy chính là: 1) Âm thanh ngữ ngôn 2) Danh cú văn thân 3) Thông thủ tứ pháp 4) Chư pháp hiển nghĩa 5) Nhiếp cảnh duy tâm 6) Hội duyên nhập Không (gom các duyên về Không) 7) Lý Sự vô ngại 8) Thông nhiếp sở thuyên (đúc kết những điều đã nói) 9) Sự sự vô ngại 10) Hải ấn bính hiện (Chân như hải ấn hiển hiện rạng ngời).

[76] Hoa Nghiêm Huyền Đàm có tên đầy đủ là Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao Huyền Đàm, còn gọi là Thanh Lương Huyền Đàm. Nội dung bao gồm phần cương yếu và những phần luận định liên quan đến Huyền Nghĩa của kinh Hoa Nghiêm trích từ các tác phẩm Hoa Nghiêm Kinh Sớ và Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao. Tác phẩm này lại còn được chú giải bởi các bộ Hoa Nghiêm Huyền Đàm Quyết Trạch (do Tông Diễn soạn) và Huyền Đàm Hội Huyền Ký (do Phổ Thụy soạn).

[77] Tu từ là biện pháp tăng cường hiệu quả thuyết phục của ngôn ngữ, ngoài mục đích thẩm mỹ, còn tăng cường sức hấp dẫn, tạo ấn tượng trong tâm trí người nghe, cũng như khiến cho những ý tưởng được diễn tả trở nên rõ ràng, mạch lạc. Những biện pháp tu từ thường dùng nhất trong chữ Hán là ngụ ngôn, phú (diễn tả trực tiếp), tỷ (so sánh), hứng (gợi ý liên tưởng), khoa sức (thậm xưng, nói ngoa), phúng thích (bỡn cợt), đảo ngữ… cũng như sử dụng điển tích, thành ngữ v.v… Tác phẩm đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về Tu Từ Học là Văn Tâm Điêu Long của Lưu Hiệp.

[78] Văn Biền Thể còn gọi là Tứ Lục, Biền Lệ, Biền Văn, Biền Phú v.v… Theo sách Thuyết Văn Giải Tự, Biền (駢) có nghĩa là hai con ngựa cưỡi đi song song. Biền Văn đã có từ thời Tiên Tần, hưng thịnh nhất dưới thời Ngụy – Tấn, về sau trở thành thể văn bắt buộc phải dùng trong trường thi vào đời Minh và Thanh. Toàn thể bài văn phải theo kết cấu đối ngẫu, tức là trừ một ít câu, cứ mỗi đoạn đều có thể chia thành hai vế đối, số chữ, vần điệu đều phải giống nhau, mỗi chữ chính yếu phải “ăn vần” với nhau rất phức tạp. Mỗi câu dùng bốn chữ, hay sáu chữ là chính, đôi khi có thể dùng năm hay bảy chữ, có khi dùng đến tám, chín, mười chữ, nhưng rất ít khi dùng đến kiểu này. Lời văn phải hết sức đẹp đẽ, bóng bảy, sử dụng điển tích cầu kỳ, bí hiểm, âm thanh du dương nhằm phô diễn sự học rộng, nhưng nhiều khi nội dung rỗng tuếch! Xin trích một đoạn trong bài Thu Nhật Đăng Hồng Phủ Đằng Vương Các Tiễn Biệt Tự (Lời giãi bày nhân một ngày Thu lên gác Đằng Vương của Hồng Phủ tiễn biệt nhau): “Lạo thủy tận nhi hàn đàm thanh, yên quang ngưng nhi mộ sơn tử. Tằng đài tủng thúy, thượng xuất trùng tiêu, phi các tường đan, hạ lâm vô địa. Hạc đinh phù chử, cùng đảo dự chi oanh hồi, quế điện lan cung, tức cương loan chi thể thế” (tạm dịch: Nước lụt đã hết, đầm lạnh xanh thẫm. Chiều tà, khói quyện ánh sáng, núi tím biếc. Đài cao chập chùng chót vót, vút tận trời xanh, gác son chênh vênh, nhìn không thấy đất. Le, hạc xúm xít bến sông, sóng vờn quanh đảo, cung lan, điện quế, dường thế núi quanh co).

[79] “Thiên vận” là tên gọi gộp chung hai bộ sách Ngọc Thiên và Quảng Vận. Sách Ngọc Thiên là một loại tự điển cổ xưa do Cố Dã Vương biên soạn dưới đời Lương vào thời Nam Bắc Triều, phỏng theo cách biên soạn của bộ Thuyết Văn Giải Tự, nhưng cải tiến, hợp lý hơn, gồm ba mươi quyển, 16.917 chữ, chia thành 542 bộ thủ. Với mỗi chữ có ghi âm đọc theo cách Phiên Thiết (tức dùng hai chữ đã biết ghép lại nhằm giải thích âm đọc. Chẳng hạn, chữ 詮 được chú âm cách đọc là Thả Duyên thiết, nên phải đọc là Thuyên). Sơ Tổ Chân Ngôn Tông của Nhật Bản là ngài Không Hải vào năm 806 đã mang tác phẩm này về Nhật, và dựa theo đó để biên soạn bộ Tenrei Basho Meigi (Triện Lệ Vạn Tượng Danh Nghĩa), tức là bộ tự điển đầu tiên của Nhật. Quảng Vận có tên gọi đầy đủ là Đại Tống Trùng Tu Quảng Vận, do nhóm Trần Bành Niên biên soạn trong niên hiệu Tường Phù đời Tống Chân Tông, là một bộ sách được biên tập từ các vận thư (sách dạy cách gieo vần trong khi làm thơ phú, chữ nào vần với chữ nào) trước đó như Thiết Vận, Đường Vận v.v… Nội dung sách rất rắc rối, chia các chữ Hán thường dùng thời đó (26.194 chữ) thành bốn loại dựa theo dấu giọng (bình, thượng, khứ, nhập) rồi với mỗi giọng lại chia thành các vần, thành hai trăm lẻ sáu hệ thống vần chính. Do vậy, từ ngữ “thiên vận” thường được dùng để chỉ các loại từ điển và sách dạy gieo vần nói chung.

[80] Thập Tam Kinh là mười ba bộ kinh điển chủ yếu của Nho gia mà các sĩ tử Trung Hoa kể từ đời Tống bắt buộc phải học nếu muốn đỗ đạt, gồm kinh Thi, kinh Thư, Lễ Ký, Châu Dịch, Tả Truyện (Tả Thị Xuân Thu là bộ biên niên sử nhằm chú giải kinh Xuân Thu do Tả Khâu Minh biên soạn), Công Dương Truyện (chú giải kinh Xuân Thu do Công Dương Cao người nước Tề biên soạn), Cốc Lương Truyện (chú giải kinh Xuân Thu do Cốc Lương Tử biên soạn), Châu Lễ (tương truyền do Châu Công biên soạn, viết về cách tổ chức quan chế đời Châu), Nghi Lễ (ghi chép các thứ nghi lễ đời Châu), Luận Ngữ (ghi chép lời dạy của Khổng Tử), Hiếu Kinh (ghi chép lời Khổng Tử dạy Tăng Sâm về đạo hiếu), Nhĩ Nhã (bộ từ điển đầu tiên của Trung Hoa, không rõ tác giả) và Mạnh Tử (sách ghi lại tư tưởng, quan điểm của Mạnh Tử, thường được tin là do chính Mạnh Tử biên soạn, và do các học trò của ông như Vạn Chương, Công Tôn Sửu v.v… chỉnh lý).

[81] Theo phẩm Hương Tích Phật trong kinh Duy Ma Cật, ngài Xá Lợi Phất tự nghĩ: “Đã sắp đến giờ thọ trai, các vị Bồ Tát này sẽ ăn bằng gì?” Khi ấy, cư sĩ Duy Ma Cật bèn bảo: “Đức Phật nói tám món giải thoát, nhân giả nên phụng hành, há lẽ chẳng lìa ăn uống để nghe pháp ư? Nếu ngài muốn ăn, hãy đợi giây lát, tôi sẽ cho ngài món ăn chưa từng có”. Thế rồi ngài Duy Ma Cật chẳng rời khỏi tòa, trước mặt đại chúng, hóa ra một vị Bồ Tát tướng hảo quang minh, oai đức thù thắng lấn át chúng hội, bảo vị Bồ Tát ấy hãy đến cõi Chúng Hương ở phương trên cách xa Sa Bà bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật. Trong cõi ấy, Phật hiệu là Hương Tích Như Lai. Hóa Bồ Tát cầu Phật ban cho cơm thơm đem về thế giới Sa Bà để làm Phật sự. Hương Tích Như Lai bèn đem những cái bát thơm ngát đựng cơm thơm trao cho hóa Bồ Tát. Chín trăm vạn Bồ Tát cõi ấy cũng theo hóa Bồ Tát đến thế giới Sa Bà. Khi đó, ngài Duy Ma hóa ra chín trăm vạn tòa sư tử, nghiêm tịnh tốt đẹp cho các vị Bồ Tát ấy ngồi. Hương thơm từ cơm ấy xông khắp thành Tỳ Da Ly và tam thiên đại thiên thế giới. Ngài Duy Ma Cật bảo ngài Xá Lợi Phất và chúng Thanh Văn: “Các vị nhân giả có thể ăn cơm cam lộ vị, do lòng đại từ un đúc của Như Lai, đừng đem lòng suy nghĩ có hạn lượng, sẽ không thể tiêu hóa cơm này”. Hóa Bồ Tát nói: “Đừng dùng tiểu trí, tiểu đức của Thanh Văn để suy lường vô lượng phước huệ của Như Lai. Bốn biển cạn sạch, cơm này vẫn không hết. Dẫu cho hết thảy mọi người bốc cơm vo thành nắm to bằng núi Tu Di [để ăn], ăn suốt một kiếp, cơm vẫn chẳng hết”.

[82] Lục kinh là Hoa Nghiêm, Giải Thâm Mật, Như Lai Xuất Hiện Công Đức Trang Nghiêm, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma, Lăng Già và Đại Thừa Mật Nghiêm. Mười một luận là Du Già Sư Địa Luận, Hiển Dương Thánh Giáo Luận, Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận, Tập Lượng Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận, Thập Địa Kinh Luận, Quán Sở Duyên Duyên Luận, A Tỳ Đạt Ma Tập Luận, Nhị Thập Duy Thức Luận, Biện Trung Biên Luận, Phân Biệt Du Già Luận. Tuy không được kể trong danh sách này, nhưng một bộ luận được nghiên cứu chủ yếu của tông Duy Thức là Thành Duy Thức Luận.

[83] Theo Thành Duy Thức Luận, gọi là Biến Hành (Sarvatraga) vì nó hội đủ bốn điều kiện: 1) Bao gồm hết thảy tánh (thiện, ác, không thiện không ác). 2) Hết thảy nơi. 3) Hết thảy thời (từ vô thủy đến nay). 4) Cùng chung với hết thảy (sanh cùng hết thảy các Tâm Sở). Biến Hành gồm Tác Ý, Xúc, Thọ, Tưởng, Tư. Bất Định (Aniyata) là Hối, Thùy Miên, Tầm, Tư. Gọi là Bất Định vì nó không trọn đủ bốn điều kiện trên đây, mà cũng tùy theo hoàn cảnh mà định là thiện hay ác. Biệt Cảnh (Vibhāvanā) là đối lập với Biến Hành. Chữ Biệt Cảnh chỉ những cảnh giới đặc thù khiến cho tác dụng tâm lý (Tâm Sở) phát sanh. Biệt Cảnh gồm Dục, Thắng Giải, Niệm, Định, và Huệ.

[84] Lục sư ngoại đạo là sáu người sáng lập sáu trường phái triết học và tôn giáo chủ yếu thời ấy, gồm:

1) A Kỳ Đa Xí Xá Khâm Bà La (Ajita Kesakambalin) chủ trương Duy Vật Luận, tức là thế giới và con người do Tứ Đại hợp thành, chủ trương con người chết đi là hết, không thiện, không ác.

2) Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên (còn phiên là Bạt Câu Đà Ca Chiên Diên, Pakudha Kaccāyana) chủ trương mọi hiện tượng do bảy yếu tố là đất, nước, gió, lửa, khổ, lạc, và mạng hợp thành. Thậm chí giết người không có tội vì chỉ là lưỡi gươm cắt đứt sự tổ hợp của bảy yếu tố.

3) Phú Lan Na Ca Diếp (Pūrana Kassapa) chủ trương sổ toẹt mọi quy chuẩn đạo đức trong xã hội đương thời, theo thuyết đoạn diệt.

4) Mạt Già Lê Câu Xá Lê Tử (Makkhali Gosāla) chủ trương trần truồng, chủ trương quyết định luận. Chúng sanh khổ hay vui chẳng do nhân duyên, mà tự nhiên nó là như thế! Con người không có cách nào thay đổi số phận.

5) San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử (Sañjaya Belatthiputta) chủ trương hoài nghi luận, đề xướng con người khi nào chịu hết khổ sẽ sướng, giống như bánh xe hết lên cao sẽ xuống thấp.

6) Ni Càn Đà Nhã Đề Tử (Nigantha Nātaputta), chủ trương tương đối luận, ông này trở thành thỉ tổ đạo Jain (Kỳ Na Giáo) sau này. Tu sĩ phái này cũng thích lõa thể, họ tin rằng trần truồng là giải thoát mọi vướng mắc, chấp trước!

[85] Ấu Học Quỳnh Lâm là sách vỡ lòng cho trẻ học. Tác phẩm này vốn có tên là Ấu Học Tu Tri do Ngô Đăng Cát (tự Doãn Thăng) biên soạn vào cuối đời Minh, sau đó được Trâu Thánh Mạch tu chỉnh, viết lời chú giải, đổi tên thành Ấu Học Cố Sự Quỳnh Lâm, đến thời Dân Quốc, được Phí Hữu Dung, Diệp Phố Tôn và Thái Đông Phiên tu chỉnh lần nữa, gọi gọn là Ấu Học Quỳnh Lâm. Sách được viết theo loại Biền Văn, đăng đối rất hoàn chỉnh, chữ dùng chọn lọc, dễ đọc, dễ nhớ, bao gồm rất nhiều kiến thức cơ bản (theo quan niệm thời ấy), xin trích một đoạn đầu: “Hỗn độn sơ khai, càn khôn thỉ định. Khí chi khinh thanh, thượng phù giải vi thiên, khí chi trọng trược hạ ngưng giả vi địa. Nhật, nguyệt, ngũ tinh, vị chi thất chánh, thiên địa dữ nhân, vị chi tam tài. Nhật vi chúng dương chi tông, nguyệt nãi thái âm chi tượng. Hồng danh đế đông, nãi thiên địa chi dâm khí, nguyệt lý thiềm thừ, thị hạo phách chi tinh hoa” (Hỗn độn sơ khai, trời đất vừa định. Khí trong nhẹ nổi lên là trời, khí nặng đục chìm xuống là đất. Mặt trời, mặt trăng, năm ngôi sao, gọi là Thất Chánh. Trời, đất và con người gọi là Tam Tài. Mặt trời đứng đầu các loại thuộc dương, mặt trăng là hình tượng của thái âm. Mống trời còn gọi là cầu vồng, chính là khí ẩm thấp trong trời đất [kết thành], con cóc trong mặt trăng chính là tinh hoa của hồn phách mênh mông [trong vũ trụ]).

[86] Tự Tại Thiên (Maheśvara) chính là một danh xưng khác của thần Shiva, một trong ba ngôi của Bà La Môn. Kinh Phật thường phiên âm vị này là Ma Hê Thủ La Thiên. Vị thần này thường được coi là thần hủy diệt, được tôn sùng nhất trong ba ngôi (Phạm Thiên, Tỳ Nữu và Thấp Bà). Vị thần này thường được tạc có ba mắt, bốn tay, lần lượt cầm chĩa ba, tù và, bình nước, và trống, thân bôi tro xanh xám, rắn hổ mang quấn quanh cổ, cưỡi trâu trắng. Ấn Độ Giáo thường thờ vị này dưới hình tượng Linga đặt trên Yoni.

[87] Gọi là năm xứ Ấn Độ, tức là dựa theo cách nói của thời Cổ. Sách Vãng Thế Thư (Puranas) đã chia khu vực Ấn Độ hiện thời thành năm vùng, gọi chung bằng danh xưng Ngũ Ấn Độ, Ngũ Thiên Trúc, Ngũ Ấn, Ngũ Thiên, tức là Pracya, Uttarapatha, Aparanta, Dakshinapatha, và Majjhimdesa.

[88] Nguyên văn “thời trung giả dã”. Chữ “thời trung” xuất phát từ sách Trung Dung. Khổng Tử nói: “Quân tử chi Trung Dung dã, quân tử nhi thời trung, tiểu nhân chi phản Trung Dung dã, tiểu nhân nhi vô kỵ đạn dã”, câu này được giải thích theo sách Trung Dung Tinh Hoa Tuyển Túy có nghĩa là: Người quân tử có thể hợp với đạo lý Trung Dung là do có thể bất cứ lúc nào cũng tuân thủ Trung Đạo, chẳng thái quá hay bất cập. Kẻ tiểu nhân sở dĩ trái nghịch Trung Đạo là vì không hiểu rõ lý này, chẳng có chuyện gì phải kiêng dè mà không dám làm.

[89] Giá: Vượt khỏi hai bên, thoát ngoài đối đãi.

Chiếu: Thấy có hai bên, nhưng không vướng mắc vào một bên nào.

[90] Tông này căn cứ trên cách phán định của tông Hoa Nghiêm đối với Thuyết Giả Bộ (một bộ phái Tiểu Thừa tại Ấn Độ), theo đó, không chỉ quá khứ và vị lai đều không có thật thể, mà các pháp hữu vi trong hiện tại cũng có pháp là giả, có pháp là thật. Do pháp hiện tại bao gồm cả giả lẫn thật nên mới gọi Hiện Thông Giả Thật Tông.

[91] Hồ Thích (1891-1962) là một nhà tư tưởng thời cận đại của Trung Hoa. Ông ta quê ở huyện Tích Khê, tỉnh An Huy, tên thật là Hồ Tự Môn, tự Hy Cường, về sau đổi tên thành Hồ Thích, lấy bút hiệu là Thích Chi. Ông ta từng học ngành canh nông tại đại học Cornell ở Hoa Kỳ rồi học Triết tại đại học Columbia, chủ trương cách mạng văn hóa, đề xướng phong trào thay đổi văn hóa, bài xích Khổng Mạnh và các trào lưu tư tưởng cũ, là một người lãnh đạo tích cực trong phong trào Ngũ Tứ Vận Động. Trong nhiệt tình cải cách Trung Hoa, ông ta đã đề xướng cấm tuyệt sử dụng Văn Ngôn trong nhà trường cũng như hô hào “đả đảo Khổng gia điếm” (đả đảo tiệm buôn của nhà họ Khổng).

[92] Học ký vấn, tức là học thuộc, ghi nhớ làu làu, nhuyễn nhừ, hễ ai hỏi đến sẽ nói thao thao, nhưng thật ra chẳng nắm được cốt lõi, chẳng hiểu ý nghĩa chân thật. Những ý nghĩa người ấy nói ra chỉ là do hỏi han hay tìm đọc, tham khảo từ sách vở hay dựa dẫm vào kiến thức của người đi trước, chứ không do tự tánh lưu lộ, nên hoàn toàn chỉ nắm được cái vỏ rỗng của văn tự!

[93] Ngài Chi Lâu Ca Sấm (147-?), người xứ Đại Nhục Chi, đến Trung Hoa vào thời Hán Hoàn Đế. Tính đến niên hiệu Trung Bình đời Hán Linh Đế, Ngài đã dịch các bộ Đạo Hành Bát Nhã Kinh, Ban Châu Tam Muội Kinh, A Xà Thế Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, một phần kinh Bảo Tích. Ngài chính là người đầu tiên truyền học thuyết Bát Nhã vào Trung Quốc. Bộ Ban Châu Tam Muội Kinh được coi như là bộ kinh đầu tiên giới thiệu tư tưởng Tịnh Độ Tông Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu cho rằng Sơ Tổ Huệ Viễn đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hai bộ Ban Châu Tam Muội và Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh khi đề xướng liên xã.

[94] Khang Tăng Khải (Samghavarman), không rõ năm sinh và năm mất, chữ Khang không phải là họ mà do Ngài đến từ xứ Khang Cư (Sogdiana) vùng Trung Á. Ngài đến Lạc Dương vào năm Gia Bình thứ tư (252) nhà Tào Ngụy, ở chùa Bạch Mã. Ngài dịch các bộ Úc Già Trưởng Giả Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh, Tứ Phần Tạp Yết Ma. Trong Tục Tạng có Vô Lượng Thọ Phật Danh Hiệu Lợi Ích Đại Sự Nhân Duyên Kinh cũng đề tên dịch giả là ngài Khang Tăng Khải, nhưng do văn phong khác biệt, nên các học giả không dám đoan quyết bản ấy có phải do Ngài dịch hay không.

Ngài Chi Khiêm là người xứ Đại Nhục Chi, có tên tự là Cung Minh (không rõ năm sinh và năm mất), theo gia đình di cư đến Trung Hoa, sống ở Hà Nam, thông thạo ngôn ngữ sáu quốc gia, theo học với ngài Chi Lượng (đệ tử của ngài Chi Lâu Ca Sấm). Do tỵ nạn, chạy vào Đông Ngô, được Ngô vương Tôn Quyền coi trọng, phong làm quan Bác Sĩ, dạy Thái Tử Tôn Lượng. Ngài chuyên tâm dịch kinh Phật suốt mười ba năm, dịch Duy Ma Cật Kinh, Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh, Đại Minh Độ Kinh v.v… Khi Thái Tử lên ngôi, ngài lánh vào núi Cùng Ải ẩn cư, xin xuất gia với pháp sư Trúc Pháp Lan.

[95] Pháp Hiền (?-1001) là một vị Tăng xuất thân từ tự viện Na Lạn Đà, đến Trung Quốc vào năm Khai Bảo thứ sáu (973), hợp sức ngài Pháp Tấn chùa Khai Nguyên ở phủ Hà Trung dịch Thánh Vô Lượng Thọ Kinh Thất Phật Tán, được vua ban áo bào màu tía. Nhận lời thỉnh của sư Pháp Tấn, ngài dịch bộ Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Kinh, được vua ban hiệu Truyền Giáo đại sư. Sư lại dịch kinh Cát Tường Trì Thế. Khi Sư mất, vua ban thụy hiệu Huyền Giác đại sư, tổng số kinh do Ngài dịch lên đến một trăm hai mươi bộ.

[96] Gọi là Triệu Tống (960-1279) để phân biệt với nhà Lưu Tống (420-479) do Lưu Dụ sáng lập, cũng như tiểu quốc cũng mang tên Tống do tướng cướp Phụ Công Thạch chiếm cứ thời Tùy Mạt. Phụ Công Thạch thuở hàn vi thường đi trộm cắp cùng với Đỗ Phục Uy. Khi Đỗ Phục Uy nhân lúc nhà Tùy suy yếu, chiếm cứ vùng Hoài Nam, đã phong cho Phụ Công Thạch làm Trưởng Sử. Năm 623, Phụ Công Thạch làm phản, chiếm cứ vùng Đơn Dương, tự xưng là Tống Đế đặt niên hiệu là Thiên Minh. Về sau, Phụ Công Thạch bị Lý Tĩnh, Lý Hiếu Cung, Lý Thế Dân cùng vây đánh, bị bắt trên đường bôn tẩu sang Cối Kê rồi bị Đường Cao Tổ (Lý Uyên) hạ lệnh giết chết.

[97] Nguyên Ngụy tức là nhà Bắc Ngụy (386-557). Thác Bạt Khuể (Khuê) là một quý tộc họ Thác Bạt (Tuoba) thuộc sắc dân Tiên Ty (Tiên Ty là một sắc dân Mông Cổ, hậu duệ của tộc Donghu). Đến đời vua thứ bảy là Ngụy Hiếu Văn Đế (Thác Bạt Hoành) trong nỗ lực Hán hóa dân tộc Tiên Ty, đã đổi họ Thác Bạt thành họ Nguyên, nên sử thường gọi nhà Bắc Ngụy là Nguyên Ngụy để phân biệt với những nhà Ngụy khác.

[98] Kinh này có tên gọi đầy đủ là A Di Đà Phật Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni Kinh, một quyển, đã mất tên người dịch, được đánh số 370 trong tập 12 của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh.

[99] Tây Khang là một tên một tỉnh được đặt ra khi chính quyền Dân Quốc còn nắm quyền cai trị Hoa Lục, bao gồm phần lớn vùng Kham của Tây Tạng. Khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thành lập, chính quyền Mao Trạch Đông đã tách một phần Tây Khang nhập vào Tây Tạng Tự Trị Khu và phần còn lại ghép vào tỉnh Tứ Xuyên.

[100] Lã Bích Thành (1833-1943), người huyện Tinh Đức, tỉnh An Huy, là một nhà giáo dục thời cận đại, nhiệt tình hoạt động bảo vệ nữ quyền, đề xướng giáo dục nữ giới. Năm 1903, bà được mời làm biên tập viên cho tờ Đại Công Báo, trở thành nữ biên tập đầu tiên của Trung Hoa. Năm 1904, bà làm Giám Đốc trường công lập Bắc Dương cho nữ giới. Bà từng làm Bí Thư cho Viên Thế Khải năm 1912, nhưng từ chức năm 1915, sang học tại đại học Columbia của Mỹ. Bà văn tài mẫn tiệp, còn để lại bộ Hiểu Châu Từ. Phần lớn các sáng tác của bà nhằm hoằng dương Phật pháp.

[101] “Ủy khuất” có nghĩa gốc là bị đối xử hay bị chỉ trích không công bằng, trong tâm khó chịu, ấm ức. Ở đây, chữ “ủy khuất” được dùng với ý nghĩa ấm ức, băn khoăn vì chưa hiểu rõ.

[102] Thật ra, trong lịch sử Trung Hoa có rất nhiều nhà Tần, ở đây, Hòa Thượng Tịnh Không chỉ kể bốn nhà Tần có ảnh hưởng lớn đến lịch sử Trung Hoa:

  1. Doanh Tần (221-207 trước Công Nguyên) do Tần Thủy Hoàng (Doanh Chính) sáng lập, diệt vong dưới đời Tần Tam Thế (Doanh Tử Anh).
  2. Tiền Tần (350-394), còn gọi là Phù Tần, do Tần Huệ Vũ Đế (Phù Hồng) sáng lập, diệt vong dưới đời Phù Sùng (chưa kịp lập đế hiệu).
  3. Hậu Tần (384-417), còn gọi là Diêu Tần, do Tần Vũ Chiêu Hoàng Đế (Diêu Trành) sáng lập, diệt vong trong đời Diêu Hoằng (chưa kịp xưng đế hiệu).
  4. Tây Tần (385-431), do Tần Tuyên Liệt Vương (Khất Phục Quốc Nhân) sáng lập, diệt vong dưới đời Khất Phục Mộ Mạt.

Do vùng Quan Trung, Cam Túc, Thiểm Tây thuộc lãnh thổ nước Tần thời Chiến Quốc nên những lãnh chúa quân phiệt khi xưng vương tại vùng này thường xưng là Tần. Chẳng hạn, thời Bắc Ngụy, Mạc Chiết Niệm Sanh giết quan thứ sử Tần Châu (nay thuộc Cam Túc), chiếm cứ Tần Châu, xưng vương, lập quốc, cũng lấy quốc hiệu là Tần.

[103] Nước Tần thời Chiến Quốc thuộc địa bàn tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc. Theo truyền thuyết, tổ tiên vua Tần là Phi Tử. Phi Tử vốn là hậu duệ của Nữ Tu (cháu nội vua Chuyên Húc), đến đời cháu của Nữ Tu là Bá Ích giúp vua Đại Vũ trị thủy và lại giúp vua Thuấn chăm sóc, huấn luyện thú nên được ban họ là Doanh. Phi Tử giỏi nuôi ngựa, được Châu Hiếu Vương giao chăm sóc ngựa chiến, có công, nên Châu Hiếu Vương cắt Tần Ấp (nay là huyện Thanh Thủy tỉnh Cam Túc) phong cho, coi đất phong ấy là nước phụ dung (địa vị kém hơn nước chư hầu) của nhà Châu. Năm 770 trước Công Nguyên, Tần Tương Công phò tá Châu Bình Vương thiên đô, nên Châu Bình Vương phong cho Tần Tương Công tước Bá, nước Tần chính thức trở thành nước chư hầu, mở rộng địa bàn khắp cả tỉnh Thiểm Tây và Cam Túc.

[104] Lục quốc là sáu nước chư hầu lớn thời ấy: Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, và Yên. Ngoài sáu nước lớn ấy ra (nếu không kể Tần), thời Xuân Thu còn có các nước Tống, Vệ, Đông Châu, Trung Sơn, Lỗ, Đằng, Trâu, Phí v.v… nhưng thế lực các nước ấy rất yếu (có nước bị diệt vong trước khi Tần Thủy Hoàng diệt Lục Quốc, chẳng hạn Lỗ bị Sở diệt quốc vào năm 256 trước Công Nguyên, Trung Sơn bị nước Triệu diệt vào năm 296 trước Công Nguyên), nên khi Tần diệt Lục Quốc thì các nước ấy mất chỗ dựa, cũng diệt vong theo.

[105] Đây là một trận đánh khá lớn tại Phì Thủy (nay thuộc vùng Đông Nam huyện Thọ, tỉnh An Huy) vào năm Thái Nguyên thứ ba (383) nhà Đông Tần do nhà Tiền Tần khởi xướng, quân Đông Tấn chỉ có tám vạn nhưng đã đánh tan tác mười vạn quân của Phù Kiên. Nguyên nhân là do Phù Kiên sau khi đã giết Tần Lệ Vương (Phù Sanh) đoạt ngôi, xưng là Tiền Tần Thiên Vương, lại được một mưu sĩ là Vương Mãnh giúp sức, quân lực mạnh mẽ, chỉ trong một thời gian ngắn đã diệt Tiền Yên, chiếm đất Lương (Hán Trung), Ích Châu, diệt nước Đại của dòng họ Thác Bạt, diệt Tiền Lương, đánh chiếm nhiều nơi thuộc Tây Vực. Do vậy, với tham vọng mãnh liệt, Phù Kiên bỏ qua lời khuyên của Vương Mãnh, toan làm chủ Trung Nguyên, đã phát binh đánh Tấn vào năm 378. Trải qua nhiều cuộc chiến, phe Tấn luôn thắng. Trong cuộc chiến Phì Thủy, Phù Kiên đã dốc mười vạn quân mong đè bẹp quân Tấn, nhưng thất bại thảm hại.

[106] Thập (什) là chữ kép của Thập (十) dùng trong văn kiện, nhất là các bằng khoán, để tránh bị sửa đổi hay đọc lầm lẫn. Thập có còn nghĩa là những thứ lặt vặt. Một quyển sách cũng gọi là Thập. Do vậy, chữ Thập ở đây có nghĩa xưng tụng Ngài điều gì cũng biết, chẳng sót một điều nhỏ nhặt nào.

[107] Con đường Tơ Lụa là một tuyến đường giao thông, buôn bán nối liền châu Á và châu Âu thời cổ. Nếu kể cả đường biển sẽ bao gồm Hồng Hải, Đông Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á, Bắc Phi và Somalia. Con đường này dài hơn bốn ngàn dặm (6.500km) được hình thành từ thời Hán nhờ sự khám phá và sứ vụ của Trương Khiên. Gọi là con đường Tơ Lụa vì Trung Hoa là nước đầu tiên sản xuất tơ lụa, gấm vóc được khối Hồi Giáo và các vương quốc châu Âu ưa chuộng. Con đường này khởi đầu từ thành phố Nam Dương (tỉnh Hà Nam) cho đến Ngọc Môn Quan, Dương Quan, thông sang Thông Lãnh (Pamir) tới tận Trung Á, Tây Á, kết thúc tại vùng Địa Trung Hải của Âu Châu. Con đường này suy vi khi đế quốc Mông Cổ tan rã, khiến cho tình hình an ninh không đảm bảo, thổ phỉ cướp bóc khiến các thương gia không dám chuyển hàng nữa, cũng như do hàng hải phát triển khiến con đường chuyển vận trên bộ mất dần vai trò. Không chỉ tơ lụa, mà các hàng hóa như gai, xạ hương, hương liệu, gia vị, châu báu, đồ thủy tinh, đồ gốm, đồ sứ, trà, rượu, ngay cả nô lệ cũng được chuyển vận theo con đường này.

[108] Quy (規) vốn là dụng cụ để vẽ hình tròn, Củ (矩) là dụng cụ để vẽ hình vuông, nên “quy củ” được hiểu theo nghĩa rộng là phép tắc, quy định.

[109] Đây là một thành ngữ, dùng hình ảnh ngựa cõi trời có thể sải cánh bay lượn tùy ý trên hư không, chẳng thể đoán trước được. Thành ngữ này thường dùng để hình dung khí thế của thơ văn hay thư pháp tung hoành ngang dọc, ào ạt, hùng vĩ, không thể đoán trước được kết cục, diễn biến.

[110] Hành Chánh Viện Trưởng là danh xưng để gọi Thủ Tướng của Đài Loan, tại Hoa Lục thì gọi là Tổng Lý Quốc Vụ Viện.

[111] Từ cách đọc này trong tiếng Hán, chữ Quy Tư phải đọc đúng âm là Cưu Ty. Xứ này nằm phía Bắc sa mạc Taklamakan trong vùng trũng Tarim, phía Nam sông Muzat. Dân Cưu Ty nói tiếng Toracharian (thuộc hệ ngôn ngữ Ấn Âu), có văn tự riêng. Người Trung Hoa đã biết đến xứ này từ thời Hán. Thời Đường, xứ này rất nổi tiếng về âm nhạc và ca vũ, cung đình triều Đường rất chuộng nhạc Cưu Ty, thể loại Nhã Nhạc của Trung Hoa chịu ảnh hưởng lớn từ nhạc Cưu Ty. Đàn Tỳ Bà cũng do người Trung Hoa vay mượn của dân Cưu Ty và cải tiến. Hiện thời, Cưu Ty chính là thành phố Kuqa (Khố Xa) thuộc địa khu Aksu của Tân Cương Duy Ngô Nhĩ Tự Trị Khu, Trung Quốc.

[112] Tây Vực là danh xưng để gọi chung toàn bộ những vùng đất nằm ở Thiên Sơn nam lộ (tức là tuyến đường Tơ Lụa đi từ Ngọc Môn Quan về phương Tây). Từ Ngọc Môn Quan đi về phương Tây có ba tuyến đường: Bắc, Nam, và Trung. Thoạt đầu vào thời Tùy Đường, Tây Vực bao gồm: Phía Bắc đến Phất Lâm (đế quốc Byzantine), phía Đông đến Ba Tư, phía Nam đến giáp ranh Bà La Môn (Ấn Độ). Thời Nguyên, cả khu vực Âu Châu cũng được gộp vào Tây Vực. Hiểu theo nghĩa hẹp, Tây Vực chỉ bao gồm các quốc gia Trung Á nằm dọc theo con đường Tơ Lụa. Sử Trung Hoa thường ghi các quốc danh nổi tiếng tại Tây Vực như Thiện Thiện (Lâu Lan), Nhược Khương, Ô Tra, Tây Da, Tử Hợp, Quyên Độc, Tiểu Uyên, Tinh Tuyệt, Thả Mạt, Vu Điền, Nhung Lô, Ba Sơn, Sớ Lặc, Kiệt Thạch, Nguy Tu v.v…

[113] “Phân dã” là cách phân chia bầu trời thành mười hai cung (Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Phản Tý, Giáng Lũ, Đại Lương, Thật Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vỹ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc) của thiên văn cổ Trung Hoa, khá giống như cách chia mười hai cung Hoàng Đạo hiện thời, nhưng trong “phân dã” thì mặt đất cũng chia thành mười hai cung tương ứng với bầu trời. Do vậy, để chiêm nghiệm vận mạng một nước, quan Thái Sử thường quan sát tinh tú ứng với phân dã của nước ấy.

[114] Quan Trung là vùng bình nguyên sông Vị, thuộc miền Trung tỉnh Thiểm Tây hiện thời, thuộc vùng thượng lưu sông Hoàng. Vùng này nông nghiệp trù phú, dân cư đông đảo, thường gọi là Bát Bách Lý Tần Xuyên (vùng Tần Xuyên tám trăm dặm). Do chung quanh vùng này có bốn ải là Tán Quan (ở phía Tây), Hàm Cốc Quan (phía Đông), Vũ Quan (phía Nam) và Tiêu Quan (phía Bắc) nên gọi là Quan Trung. Kinh đô Hàm Dương của nước Tần thời Tần Thủy Hoàng cũng thuộc Quan Trung.

[115] Chữ Sư ở đây chỉ quân đội.

[116] Tuất (卒): Thời cổ, quan đại phu chết được gọi là Tuất, nên cổ văn thường dùng chữ Tuất để nói về cái chết của những người đáng tôn trọng.

[117] Ngài Huyền Trang tên thật là Trần Huy, hậu duệ của công thần Trần Thật (104-187) thời Đông Hán. Ngài thuộc gia đình vọng tộc, ông cố là Trần Khâm làm quan Thái Thú vùng Thượng Đảng thời Đông Ngụy, ông nội là Trần Khang làm quan Quốc Tử Bác Sĩ nhà Bắc Tề, cha là Trần Huệ làm huyện lệnh Giang Lăng đời Tùy. Khi Ngài sanh ra, cha đã từ quan, cõi đời loạn lạc, gia cảnh suy sút. Ngài có ba người anh, người anh thứ hai là Trần Tố, đã xuất gia trước đó tại chùa Tịnh Trụ ở Lạc Dương. Vị này có tài giảng kinh nên người đương thời thường gọi là pháp sư Trưởng Kiện.

[118] Đôn Hoàng nay thuộc thành phố Tửu Tuyền, tỉnh Cam Túc. Thời Xuân Thu, do nơi này có một loại dưa ngon nổi tiếng, nên gọi là Qua Châu. Do ở trong vùng sa mạc, nên đôi khi còn gọi là Sa Châu. Tới thời Chiến Quốc, Đôn Hoàng thuộc địa bàn của Đại Nhục Chi. Nơi này từng bị quân Hung Nô chiếm lãnh một thời gian dài, đến khi nhà Hán lấy lại bèn đổi chữ viết từ 燉煌 (đồi núi lửa) thành Đôn Hoàng (敦煌), ngụ ý cầu chúc thịnh vượng dài lâu. Thời ngài Huyền Trang, Đôn Hoàng bị dân Thổ Phồn (Tây Tạng) chiếm đóng, mãi đến đời Đường Tuyên Tông mới chiếm lại Đôn Hoàng.

[119] Na Lạn Đà (那爛陀) là một tu viện nổi tiếng được xây dựng bởi vua Śakrāditya (Thước Ca La A Điệt Đa) của vương triều Ma Kiệt Đề. Na Lạn Đà thường được dịch nghĩa là Thí Vô Yếm (bố thí không chán), một danh hiệu của long vương hồ Amrā gần tu viện. Thuở cực thịnh, Na Lạn Đà có đến mười ngàn vị tăng tu học và hai ngàn giáo sư, là một đại học Phật giáo lớn nhất thời ấy. Riêng thư viện của Na Lạn Đà chiếm hết ba tòa nhà lớn, mỗi tòa nhà gồm chín tầng. Hiện nay, di chỉ Na Lạn Đà thuộc tiểu bang Bihar của Ấn Độ, cách thành phố Patna năm mươi lăm dặm về phía Đông Nam. Năm 1193, Khtiyar Uddin Muhammad Bin Bakhtiyar Khilji, tướng quân của vua Qutb-ud-din Aibak, Sultan xứ Delhi (người sáng lập vương triều Ghuhlam), đã tấn công tu viện Na Lạn Đà, thiêu sống hoặc chặt đầu hàng ngàn vị tăng, đốt cháy kinh sách, đập nát các kiến trúc. Theo sử gia Minhaj-ib-Siraj của Ba Tư, thư viện cháy đến vài tháng mới tắt. Tu viện trưởng Shakya Shribhadra (Thích Thắng Hiền) chạy thoát sang Tây Tạng, truyền thừa giáo nghĩa Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlasarvāstivāda). Tu viện Na Lạn Đà diệt vong.

[120] Chánh Pháp Hoa Kinh do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, chỉ có hai mươi bảy phẩm, hơi khác với bản dịch của ngài La Thập ở chỗ phẩm Chúc Lụy được xếp vào cuối cùng, phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát được xếp thành phẩm hai mươi sáu với danh xưng Lạc Phổ Hiền. Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh do Ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy, gồm hai mươi bảy phẩm, và phẩm Chúc Lụy cũng được xếp vào cuối cùng.

[121] Uất Trì Kính Đức tên thật là Uất Trì Cung (585-658), Kính Đức là tên tự, người xứ Thiện Dương, Sóc Châu (nay thuộc Sóc Thành, Sóc Châu, tỉnh Sơn Tây). Ông này xuất thân là thợ rèn, về sau đăng lính, do vũ dũng được phong tới chức Triêu Tán Đại Phu. Kính Đức theo Lưu Vũ Châu chống lại nhà Tùy, lập nhiều chiến tích. Sau đấy, bị tướng của Lý Thế Dân (Đường Thái Tông) bắt được, dụ hàng, ông ta theo Lý Thế Dân trở thành một đại tướng khai quốc công thần, được ghi tên trong gác Lăng Yên. Cùng với Tần Quỳnh, ông ta được dân Trung Hoa coi là “môn thần” (thần giữ cửa), các đền miếu Trung Hoa thường vẽ hình hai ông này để trấn yểm quỷ mị không cho vào cửa. Do lúc trẻ ông ta từng làm thợ rèn, nên còn được coi là thần bảo hộ nghề rèn ở Trung Hoa. Dòng họ Uất Trì vốn xuất phát từ sắc dân thiểu số Tiên Ty thời Bắc Ngụy. Người thuộc bộ lạc Uất Trì của Tiên Ty đều lấy Uất Trì làm họ. Uất Trì cũng là họ của hoàng tộc xứ Vu Điền.

Ngài Khuy Cơ (632-682), tên tự là Hồng Đạo, là con trai của Uất Trì Tông (giữ chức Tả Kim Ngô Tướng Quân, đô đốc Tùng Châu, tước Khai Quốc Công). Khi ngài Huyền Trang bắt đầu dịch kinh, Sư được phái phục vụ và bảo vệ dịch trường. Ngài Huyền Trang thấy chàng thanh niên này mặt mũi thanh tú, khí độ hào hùng, liền muốn hóa độ thành đệ tử, nên thương lượng với cha ngài Khuy Cơ. Do Khuy Cơ vốn là quý tộc, nên phải tốn qua nhiều thủ tục mới có thể xuất gia nên mãi cho đến năm Trinh Quán 22 (648) mới chính thức xuất gia. Năm Vĩnh Huy thứ năm (654), Sư vâng chiếu học văn tự của năm xứ Ấn Độ, hai năm sau, chính thức tham dự vào hàng ngũ tăng sĩ dịch kinh, đảm nhiệm vai trò Bút Thọ, theo hầu ngài Huyền Trang trải khắp các dịch trường tại Từ Ân, Tây Minh, Ngọc Hoa v.v… Ngài từng tạo tượng Văn Thù Bồ Tát bằng ngọc thạch tại Ngũ Đài Sơn, và đích thân chép kinh Bát Nhã. Những tác phẩm chủ yếu của Ngài là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh U Tán, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, Thuyết Vô Cấu Xưng Kinh Sớ, Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận Sớ, Biện Trung Biên Luận Thuật Ký, Tạp Tập Luận Thuật Ký, Duy Thức Nhị Thập Luận Thuật Ký, Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận Giải, Du Già Sư Địa Luận Lược Toản, Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương, Thành Duy Thức Luận Khu Yếu, Đối Pháp Luận Sớ, Kim Cang Kinh Luận Hội Thích, Di Lặc Hạ Sanh Kinh Sớ.

[122] Thông thường “nhị thất” là mười bốn (2×7), Hòa Thượng Tịnh Không giảng là “hai mươi bảy” nên chúng tôi dịch theo lời giảng của Ngài.

[123] Tịnh Độ Tùng Thư đúng như tên gọi là một bộ tổng tập bao gồm toàn bộ tất cả những tác phẩm viết về Tịnh Độ từ trước đến nay, do các vị Đạo An, Mao Dịch Viên, Trần Tử Bình v.v… biên soạn vào năm 1972, thâu thập ba trăm tác phẩm, chia thành kinh luận, chú sớ, tinh yếu, trước thuật, toản tập (trích lược những phần trọng yếu), thi kệ, hành nghi (nghi thức), sử truyện. Trong mỗi loại, các tác phẩm được sắp xếp theo triều đại và niên đại.

[124] Thành phố Thượng Ngu nằm ở Đông Bắc tỉnh Chiết Giang, thuộc hạ lưu sông Tào Nga. Huyện Thượng Ngu đã được thành lập từ thời Tần Thủy Hoàng. Theo truyền thuyết, đây là đất phong của con cháu vua Ngu Thuấn, cho nên mới gọi là Thượng Ngu.

[125] Nhà ăn (trai đường) được gọi là Ngũ Quán Đường vì khi thọ trai, phải quán tưởng năm điều:

  1. Kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ: Xét công nhiều ít, nghĩ do đâu mà có. Cơm cháo một ngày ba thời đều chẳng dễ có. Phải nghĩ đến các thức ăn do bao người vất vả gieo trồng, chăm bón, gặt hái, phơi sấy, xay giã, nấu nướng, chế biến, toàn bộ đều do đàn na tín thí cúng dường.
  2. Thổn dĩ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng: Tự xét đức hạnh của chính mình có xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường ấy hay chưa, phát khởi tâm trân trọng, dụng công tu hành.
  3. Phòng tâm nan quá, thực đẳng vi tông: Đề phòng cái tâm mắc phải tham, sân, si, chớ tham đồ ăn ngon. Thấy món ngon chẳng khởi tâm tham, luôn quán chiếu, thấy hết thảy đều do các duyên hòa hợp, đều là hư huyễn.
  4. Chánh sự lương dược, vị liệu hình khô: Thức ăn là món thuốc tốt lành để chữa căn bệnh thân thể khô gầy.
  5. Vị thành đạo nghiệp, ưng thọ thử thực: Ăn uống nhằm duy trì sắc thân này để tu tập đạo nghiệp thành công, chớ không phải để cung phụng, chiều chuộng cái thân, thỏa mãn lòng tham.

[126] Chữ “thương sanh” theo nghĩa gốc là nơi cây cỏ sanh trưởng tươi tốt, như trong kinh Thư, thiên Ích Tắc có câu: “Đế quang thiên chi hạ, chí ư hải ngung thương sanh”, Khổng Tử giảng câu này phải hiểu là “quang thiên chi hạ, chí ư hải ngung, thương thương nhiên sanh thảo mộc, ngôn sở cập quảng viễn” (chỗ có ánh sáng mặt trời, cho đến góc biển, cây cối mọc xanh tươi, ý nói: Sự phổ cập rất xa rộng). Về sau, chữ “thương sanh” thường được dùng để chỉ dân chúng.

[127] Quyển tử là in trên một tờ giấy dài, hai đầu gắn trục để cuộn lại. Vì thế, kinh Phật còn được gọi là “xích trục hoàng quyển” (trục đỏ, quyển vàng). Triếp điệp bản là in thành từng trang trên một tờ giấy dài, in xong sẽ xếp thành sách, gắn bìa hai đầu. Những cách in này nhằm mô phỏng lối chép kinh trên lá Bối. Còn “phương sách” là in giống như triếp điệp, nhưng chỉ có một mặt giấy, xếp mặt không có chữ đâu lưng vào nhau, dùng chỉ khâu gáy để đính vào bìa, giống như sách hiện thời.

[128] Đại liệm nhằm phân biệt với tiểu liệm. Tiểu liệm là dùng vải liệm bọc kín thi thể người chết. Đại liệm là đưa thi thể người chết đã tiểu liệm vào quan tài. Nghi lễ Nho gia quy định rất rắc rối, chẳng hạn khi tiểu liệm phải bọc vải liệm theo trình tự nào, buộc dây từ chỗ nào trở đi. Khi đại liệm cũng có quy định đặt theo hướng nào, chất liệu quan tài tùy theo độ tuổi của người chết mà khác biệt, sơn phết quan tài như thế nào. Chẳng hạn người chết từ năm mươi tuổi trở xuống, không được sơn quan tài sắc vàng, chỉ dùng màu đỏ v.v…

[129] Thiên Giám là niên hiệu của Lương Vũ Đế (Tiêu Diễn).

[130] An Phủ Sứ, còn gọi là Kinh Lược Sứ, Tuyên Phủ Sứ, hay Tuyên Úy Sứ, được thiết lập từ đời Tùy, là mệnh quan do triều đình phái đi tuần sát các quan chức tại các địa phương. Về sau, chức vụ này thường là một võ quan cao cấp. Đến đời Tống, do chủ trương trung ương tập quyền, các chức vụ Tiết Độ Sứ, Quán Sát Sứ đều phế bỏ, chức Tri Châu trực thuộc triều đình. Do phạm vi quản trị của Tri Châu quá nhỏ, triều đình phải phái mệnh quan triều đình đi làm An Phủ Sứ coi sóc những khu vực lớn hơn. Đến đời Nam Tống, An Phủ Sứ được gọi là Kinh Lược An Phủ Sứ, có quyền hạn khá lớn. Đến đời Nguyên, chứ An Phủ Sứ quản trị một Lộ, tức tương đương với Tỉnh Trưởng sau này.