A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 6 – Tập 158 – 164

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 6 – Tập 158 – 164

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 158

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm bốn mươi:

 

(Sao) Tự biến giả, dĩ tâm biến nhất thiết xứ, tức thị nhất nhất thừa sự, vô không quá giả. Cố Duy Ma kinh ngôn: “Vô tiền, vô hậu, nhất thời cúng dường”.

() 自遍者,以心遍一切處,即是一一承事,無空過者,故維摩經言:無前無後,一時供養

(Sao: “Tự trọn khắp”: Do tâm trọn khắp hết thảy mọi nơi, nên thừa sự mỗi một [vị Phật], chẳng bỏ sót. Vì thế, kinh Duy Ma nói: “Chẳng trước, chẳng sau, cúng dường cùng lúc”).

Đây là giải thích câu “tự tánh tự biến” trong lời Sớ. Lý luận này là sự thật. Tự tánh là bổn tánh của chúng ta, mà cũng là chân tánh, nó “biến nhất thiết xứ” (trọn khắp hết thảy mọi nơi), có thể nói hết thảy vạn pháp đều do tự tánh biến hiện. Vì thế, pháp này và pháp nọ nhất định phải dung thông, nhất định là giao hòa, viên dung. Chúng ta động một niệm, người khác có thể biết, Phật, Bồ Tát thảy đều biết. Không chỉ là Phật, Bồ Tát biết, mà người nào tâm thanh tịnh cũng đều biết, nguyên lý là vì “tâm là một”. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã sánh ví tâm tánh của chúng ta như biển cả, sánh ví mỗi chúng sanh như một bọt nước trong biển. Biển là toàn thể, bọt nước sanh từ biển. Bọt nước ví như chúng sanh, phá tan bọt nước bèn thành Phật. Đã vỡ tan, bèn cùng biển cả hòa thành một Thể, mỗi bọt nước trong biển cả đều là Thể của quý vị! Nói cách khác, bọt nước ví như vọng tưởng, chấp trước. Quý vị có vọng tưởng, chấp trước, tức là kết thành một bọt nước trong biển cả, ngỡ bọt nước ấy là chính mình, chẳng biết biển cả là chính mình. Ngày nào quý vị phá tan phân biệt, chấp trước, giống như phá vỡ bọt nước, mới biết toàn thể biển cả là chính mình, nên chẳng có pháp nào quý vị không hiểu rõ, không có tâm niệm của người nào quý vị không biết. Đó là ý nghĩa “tự biến” được nói ở đây.

Do đó, thật sự biết chân tướng sự thật, người ta quyết định chẳng tạo ác! Biết chân tướng sự thật, liền biết trạng huống nhân quả trong mười pháp giới. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do đâu mà có? Đến tột cùng là chuyện như thế nào? Vì sao có mười pháp giới? Vì sao có lục đạo? Vì sao có thiện đạo? Vì sao có ác đạo? Quý vị thảy đều hiểu rõ ràng. Khi ấy, chúng ta khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác, tự nhiên liền tương ứng với Tánh Đức. Tánh Đức là thuần thiện, chẳng ác, thiện ở đây không phải là thiện trong “thiện, ác”. Thiện trong “thiện, ác” vẫn là ác, vẫn chưa phải là thiện thật sự. Thiện thật sự và pháp tánh hoàn toàn khế hợp, đấy mới là thiện thật sự.

Trên thực tế, “thừa sự” (承事) chính là ba nguyện đầu trong mười nguyện của kinh Hoa Nghiêm, tức là lễ kính, khen ngợi, cúng dường, ba chuyện ấy. Ba nguyện ấy đều là “thừa sự” ở nơi đây. Hiểu đạo lý này, mới hiểu vì sao đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát có thể đầy ắp pháp giới, đối tượng [của các nguyện ấy] là hữu tình và vô tình tận hư không khắp pháp giới, chẳng sót một ai. Do vì tự tánh trọn khắp, đạo lý là như vậy. Những lý được nói ở đây, chúng ta là phàm phu, đừng nói là phàm phu, ngay cả Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát đều làm không được. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát nói vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì đại nguyện của Ngài mới viên mãn. Do điều này có thể biết, nếu không vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu có mười đại nguyện ấy, nhưng mười đại nguyện không thể viên mãn. Đạo lý gì vậy? Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, tự tánh mới hoàn toàn hiển lộ, mới có thể tận tánh. Chẳng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng làm được. Vì thế, trong hội Hoa Tạng, Đẳng Giác Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát, còn phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bồ Tát đã nói lý do rất rõ ràng: Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, mười đại nguyện vương mới viên mãn. Chẳng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, ở trong thế giới Hoa Tạng, mười đại nguyện vương vẫn chưa viên mãn. Thật sự là tán thán Tây Phương Cực Lạc thế giới đến tột cùng, chẳng còn gì hơn được nữa! Phổ Hiền Bồ Tát tán thán, chứ chẳng phải ai khác!

“Duy Ma kinh ngôn: – Vô tiền, vô hậu, nhất thời cúng dường” (Kinh Duy Ma nói: “Chẳng có trước, có sau, cúng dường cùng một lúc”). Nói thật ra, mười phương và ba đời đều chẳng có, tận hư không khắp pháp giới là một Thể. Kinh Hoa Nghiêm giảng về Nhất Chân pháp giới, nên quý vị mới có thể cúng dường cùng một lúc. “Nhất thời” thì đương nhiên chẳng có trước hay sau!

 

(Diễn) Duy Ma kinh, Thiện Đức trưởng giả ngôn: “Ức niệm ngã tích, tự ư phụ xá, thiết đại thí hội, cúng dường nhất thiết. Kỳ mãn thất nhật, Duy Ma Cật lai nhập hội trung, vị ngã ngôn: “Trưởng giả tử! Phù đại thí hội, bất đương như nhữ sở thiết, đương vi pháp thí chi hội, hà dụng tài thí hội vi”. Ngã ngôn: “Cư sĩ! Hà vi pháp thí chi hội?” Cật ngôn: “Pháp thí hội giả, vô tiền, vô hậu, nhất thời cúng dường”.

() 維摩經善德長者言,憶念我昔,自於父舍,設大施會,供養一切,期滿七日,維摩詰來入會中,謂我言:長者子,夫大施會,不當如汝所設,當為法施之會,何用財施會為。我言居士,何為法施之會。詰言,法施會者,無前無後,一時供養。

(Diễn: Trong kinh Duy Ma, trưởng giả Thiện Đức nói: – Con nhớ xưa kia, ở nơi nhà cha con, lập hội đại thí, cúng dường hết thảy. Mãn bảy ngày, ngài Duy Ma Cật vào trong hội, bảo con: “Này ông trưởng giả! Phàm là hội đại thí, chớ nên làm như ông, hãy nên làm hội pháp thí, sao lại dùng tiền tài để làm hội đại thí?” Con nói: “Thưa cư sĩ! Pháp thí hội nên làm như thế nào?” Ngài Duy Ma Cật nói: “Pháp thí hội là không có trước, chẳng có sau, cùng lúc cúng dường”).

 Đối với câu này, trích dẫn một câu chuyện xưa [để giải thích], Phật môn gọi là “công án”. Trong kinh Duy Ma có nói trưởng giả Thiện Đức, trưởng giả là tại gia cư sĩ, tuổi cao, đức trọng, có địa vị, của cải, lại có trí huệ, nên được tôn xưng là trưởng giả. Đối với người tại gia tu hành, hai chữ này (trưởng giả) là cách xưng hô cung kính nhất. Ông ta nói: Trong quá khứ, con ở cùng một chỗ với cha – “Phụ xá” là nhà của cha – lập hội đại thí, để bố thí, cúng dường. Bố thí, cúng dường là tài bố thí, cúng dường hết thảy. Nói cách khác, ăn, mặc, đi, ở, hết thảy vật chất cần dùng cho cuộc sống, ông ta đều bố thí. Nếu quý vị thiếu thốn, đến nơi đó, ông ta đều cúng dường quý vị. Hội ấy kéo dài bảy ngày, ông ta tu [bố thí] bảy ngày, suốt bảy ngày cúng dường trọn khắp. Cư sĩ Duy Ma nghe ông ta lập đại hội bố thí ở nơi đó, cũng đến. Cư sĩ Duy Ma đến đó, chẳng phải vì thiếu thốn gì, mà cũng chẳng đòi hỏi ông ta phải thí xả chút gì. Ngài Duy Ma chỉ dạy, nói: “Trưởng giả tử!” Trưởng giả Thiện Đức khi đó ở cùng một chỗ với cha, cha ông ta cũng là trưởng giả, nên gọi ông ta là “trưởng giả tử” (con ông trưởng giả). “Trưởng giả tử” ở đây là trưởng giả Thiện Đức, đó là một ý nghĩa. Ý nghĩa thứ hai là đối với cổ nhân Trung Quốc, chữ Tử là cách xưng hô kính trọng một nam nhân, giống như nay chúng ta nói là “tiên sinh”. Chúng ta gọi Khổng Tử, Mạnh Tử, tức là Khổng tiên sinh, Mạnh tiên sinh, cũng có thể giải thích [chữ “trưởng giả tử”] là “trưởng giả tiên sinh”, đó là lời lẽ tôn kính. Vì vậy, từ ngữ này có hai ý nghĩa, đều có thể nói xuôi tai, đều có thể nói rất viên mãn.

Cư sĩ liền bảo ông ta: “Đại thí hội”, tức đại hội bố thí, “bất đương như nhữ sở thiết” (chớ nên làm như ông đã làm). Ông cúng dường những thứ vật chất như ăn, uống, đi, ở, chẳng có ý nghĩa to lớn cho lắm. Ông đã phát tâm bố thí, hãy nên tu Pháp Bố Thí, “đương vi pháp thí chi hội, hà dụng tài thí hội vi” (hãy nên làm pháp thí hội, sao lại làm hội tài thí). Vì sao ông muốn thực hiện tài bố thí? Vì sao không hành Pháp Bố Thí? Dụng ý rất sâu! Tài bố thí chỉ có thể giải quyết nhu cầu cấp thiết trong một lúc. Nay tôi chẳng có cơm ăn, quý vị cúng dường tôi một bữa ăn. Tôi chẳng có quần áo để mặc, quý vị cúng dường tôi một bộ quần áo. Đó là giải quyết nhất thời, không thể giải quyết vĩnh cửu! Pháp Bố Thí là dạy người ta khai trí huệ, dạy người ta có năng lực mưu sinh. Quý vị cúng dường tiền tài, chẳng bằng truyền dạy họ kỹ thuật. Con người có một kỹ năng sở trường, hơn hẳn có của cải rất nhiều! Người ấy đi đến đâu cũng có năng lực kiếm sống. Nói thực tại, của cải có thể mất đi bất cứ lúc nào, hễ mất đi thì làm thế nào đây? Nguồn sống bị đoạn tuyệt, nên chẳng bằng có trí huệ, có năng lực. Trí huệ và năng lực đều thuộc về Pháp Bố Thí. Do đó, Tài Bố Thí chẳng bằng Pháp Bố Thí. Quý vị thấy kinh Kim Cang so sánh, “bố thí bảy báu khắp tam thiên đại thiên thế giới” chẳng bằng “giải nói bốn câu kệ Đại Thừa Phật pháp cho người khác!” Kinh Kim Cang đã giảng về công đức, lợi ích của Tài Bố Thí và Pháp Bố Thí hết sức thấu triệt. Cư sĩ Duy Ma khuyên ông ta (trưởng giả Thiện Đức) tu Pháp Bố Thí. Đề nghị ấy hay lắm, ông ta cũng biết, nhưng nên thực hiện như thế nào? Ông ta thỉnh giáo cư sĩ Duy Ma: “Ngã ngôn cư sĩ, hà vi pháp thí chi hội” (Con nói: “Thưa cư sĩ! Pháp thí hội làm như thế nào?”), pháp thí hội hãy nên thực hiện ra sao? “Cật ngôn” nghĩa là cư sĩ Duy Ma Cật liền nói: “Pháp thí hội giả, vô tiền vô hậu, nhất thời cúng dường” (Pháp thí hội là không có trước, có sau, cúng dường cùng một lúc). Mấy câu này trong kinh Duy Ma đã được Liên Trì đại sư trích dẫn [trong lời Sao].

 

(Diễn) Thích viết: Phù dĩ phương hội nhân, bất khả dĩ nhất tức kỳ, dĩ tài tế vật, bất khả dĩ nhất thời châu, thị dĩ hội thông vô ngung giả, di luân nhi bất lậu. Pháp trạch minh bị giả, bất dịch thời nhi đồng phú, cố năng tức vô cương vi nhất hội, nhi đạo vô bất nhuận dã.

() 釋曰:夫以方會人,不可以一息期,以財濟物,不可以一時周,是以會通無隅者,彌綸而不漏;法澤冥被者,不易時而同覆,故能即無疆為一會,而道無不潤也。

(Diễn: Giải thích rằng: Phàm dùng phương tiện để giúp đỡ người khác, không thể là một kỳ hạn rồi thôi. Dùng tiền tài giúp muôn vật, chẳng thể chỉ một lúc là trọn vẹn. Do vậy, bèn viên dung vô ngại, bèn trọn khắp chẳng sót, pháp trạch ngầm gia bị, luôn luôn cùng che chở, nên “chẳng có ngằn hạn” là một hội, đạo không gì chẳng nhuần thấm).

 “Dĩ phương hội nhân”: “Phương” (方) là phương tiện, Phật môn thường nói: “Từ bi làm gốc, phương tiện là cửa”. Nói chung, phải tạo phương tiện cho người khác, tạo phương tiện cho người khác bất cứ khi nào, bất cứ chỗ nào, không thể là một kỳ hạn nhất định. Kỳ hạn cố định thì quý vị bố thí cũng chẳng thể nào rộng giúp chúng sanh. Nhằm ngay lúc này, người ấy chẳng thể đến; hoặc ngay trong lúc này, người ấy chẳng thiếu thốn. Khi người ấy thiếu thốn, hội của quý vị đã kết thúc, hoặc là hội bố thí của quý vị còn chưa thực hiện, đều chẳng thể giải quyết vấn đề. Do vậy, nhất định phải hiểu phương tiện, bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, làm như vậy mới viên mãn, mới thật sự có thể lợi ích hết thảy chúng sanh. Nhất là trong tông này, Tiểu Bổn và Đại Bổn chỉ là nói rộng hay lược khác nhau, ý nghĩa hoàn toàn như nhau. Pháp môn này do đức Như Lai “huệ dĩ chúng sanh chân thật chi lợi” (ban cho chúng sanh lợi ích chân thật); nếu chẳng mở cửa phương tiện, nhất định sẽ có lúc chẳng đạt được lợi ích.

Gần đây nhất, có những đồng tu phát tâm, phát thanh bộ kinh này trên đài truyền thanh, các đồng tu hỏi tôi: “Giảng xong bộ kinh này, thầy lại giảng gì?” Vẫn là giảng bộ kinh này. Hy vọng bộ kinh này được phát thanh lặp đi lặp lại không ngừng, có lợi ích rất lớn! Bộ kinh này hay lắm, chỉ giảng một lần, sau khi nghe xong, những người sau này chẳng có duyên này, đáng tiếc lắm! Phải hiểu kinh này là kinh bậc nhất để mười phương ba đời hết thảy chư Phật độ chúng sanh thành Phật đạo, lưu chuyển vĩnh viễn không gián đoạn. Tôi trọn chẳng bảo quý vị đem băng thâu âm lời tôi giảng bộ kinh này phát thanh trên radio, mà là mong [hãy phát thanh băng] đọc kinh, mỗi ngày đều có thể [phát sóng tiếng] tụng kinh Vô Lượng Thọ một lần trên đài phát thanh, khiến cho mỗi người khi mở radio đều có thể nghe kinh Vô Lượng Thọ, công đức ấy to lớn. Nhưng hiện thời giảng kinh cũng được, trước hết, dạy họ hiểu đạo lý, biết đến chỗ tốt đẹp của kinh này. Tôi hy vọng kinh này sau khi được phát thanh hai, ba lượt, chẳng cần phải nghe giảng nữa, hãy niệm kinh cho nhiều!

Nếu mọi người lại phát tâm, có tài lực, hãy thuê thời gian [phát thanh] trên đài truyền thanh để chuyên niệm Phật hiệu, niệm Nam-mô A Di Đà Phật suốt một giờ, chuyên niệm Phật hiệu, không cần phải giảng, là được rồi! Đúng là công đức vô lượng, lợi ích thật sự vô cùng nhiều! Nếu mọi người nghe, niệm kinh theo, nếu họ muốn biết ý nghĩa của kinh, sẽ bảo họ, ở chỗ nào chúng ta có băng thâu âm giảng kinh có thể tặng cho họ, chính họ tìm băng thâu âm để nghe. Chư vị phải hiểu lợi ích chân thật chính là “dĩ phương hội nhân” đang được nói ở đây. “Bất khả dĩ nhất tức kỳ, dĩ tài tế vật, bất khả dĩ nhất thời châu” (không thể là một kỳ hạn rồi thôi. Dùng tiền tài giúp muôn vật, chẳng thể chỉ một lúc là trọn vẹn), “châu” (周) là “châu biến” (周遍: trọn khắp), khiến cho mọi người được lợi ích trọn khắp, chẳng thể nào có chuyện ấy [nếu chỉ làm một lúc].

“Thị dĩ hội thông vô ngung” (Do vậy, bèn viên dung vô ngại), “ngung”“phương ngung” (方隅: bốn phương và bốn góc, nghĩa rộng là “giới hạn”), “hội thông vô ngung” nghĩa là viên dung vô ngại. “Di luân nhi bất lậu, pháp trạch minh bị giả” (Trọn khắp chẳng sót, pháp trạch ngầm gia bị) “pháp trạch” là Phật pháp, “minh” (冥: ngấm ngầm, âm thầm) là được Phật pháp un đúc mà không hay không biết, đó là pháp lực gia trì. “Bất dịch thời nhi đồng phú” (Luôn luôn cùng che rợp), “phú” (覆) là giống như ngày Hè nắng gắt, có một cây to rợp bóng mát rượi, có ý nghĩa “che rợp”, mà cũng là gia trì, gia hộ. “Cố năng tức vô cương vi nhất hội” (Cho nên có thể lấy “không ngằn hạn” làm một hội), “vô cương” (無疆) là tận hư không khắp pháp giới, một hội ấy tương ứng với tâm tánh, như trong phần trước đã nói là “tâm biến nhất thiết xứ” (tâm trọn khắp hết thảy các chỗ). Tâm trọn khắp hết thảy các chỗ, hễ động một thiện niệm, tận hư không khắp pháp giới, hết thảy hữu tình chúng sanh bèn là thiện tương cảm thiện; ác niệm cũng cảm ứng giống như thế. Nghĩ đến chỗ này, rét run, lông tóc dựng cả lên, thật đáng sợ! Nói thật ra, chúng sanh mê hoặc, điên đảo, chẳng hiểu chân tướng sự thật. Chúng tôi thường viện dẫn Đại Kinh có nói những người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới “Thiên Nhãn đỗng thị, Thiên Nhĩ triệt thính, Tha Tâm biến tri” (Thiên Nhãn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thông suốt, Tha Tâm biết trọn khắp), nay chúng ta nhất cử, nhất động, khởi tâm động niệm, chẳng có gì không biết. Đừng nói là Tây Phương Cực Lạc thế giới, phàm là người tâm thanh tịnh, cũng như người đắc Định đều biết, vì sao? Vì tâm Định chẳng có giới hạn. Quý vị có phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng thể đắc Định. Lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, cảnh giới ấy liền hiện tiền, nên quý vị khởi tâm động niệm người ta thảy đều biết hết, không có gì chẳng biết!

Ở đây, đức Phật dạy chúng ta dùng gì để cúng dường? Phải dùng “tự tánh tự nghiêm”, dùng điều này để cúng dường. Mười phương chư Phật, Di Đà, Thích Ca, không vị nào chẳng phải là vô lượng thọ, vô lượng quang, quang thọ gia trì hết thảy chúng sanh trong khắp pháp giới. Chúng ta chẳng thể cảm nhận là vì bản thân chúng ta nghiệp chướng quá nặng, nghiệp của chính mình ngăn trở Phật quang, nên chúng ta chẳng thấy Phật quang. Nhưng tôi phải thưa cùng quý vị, giáo pháp của Phật là quang minh. Kinh điển ở chỗ nào, Phật quang chiếu gội ở nơi ấy. Mỗi lần quý vị niệm kinh này, Phật quang chiếu gội nơi thân tâm của quý vị một lần. Quý vị niệm hai lần, liền chiếu hai lần. Chiếu một hai lần, quý vị vẫn chưa cảm nhận, vì sao? Nghiệp chướng của quý vị quá nặng. Nếu chiếu một ngàn lần, hai ngàn lần, ba ngàn lần, thưa cùng quý vị, quý vị liền cảm nhận được, vì sao? Nghiệp chướng của quý vị tiêu trừ. Nhờ vào quang minh của Phật, dẫn phát quang minh trong tự tánh, khi ấy, quang minh trong tự tánh của quý vị và quang minh của chư Phật chẳng một, chẳng khác, kết hợp thành một Thể, quang minh chiếu lẫn nhau, dung nhập vào nhau viên dung. Phật quang ở trong tâm quang của quý vị, tâm quang của quý vị ở trong Phật quang, tâm quang của quý vị và Phật quang giao hòa, dung hội thành một Thể, quang minh ấy là trí huệ, lẽ nào trí huệ của quý vị chẳng  mở  mang? Lẽ  nào  nghiệp  chướng  không tiêu trừ? Vì sao phải khuyên chư vị đồng tu đọc kinh là do đạo lý này!

Sau khi nghe kinh, hiểu rõ đạo lý này, phải tu! Ta đã hiểu đạo lý, ta đã biết Phật pháp; sau khi đã biết, quý vị phải tu. Nếu quý vị không tu, vô dụng! Dùng phương pháp gì để tu? Trong ba năm, niệm bộ kinh này ba ngàn lượt, đó là tu hành. Trong ba năm, đừng xem bất cứ kinh nào khác, thâu hồi cái tâm lại, trong ba năm, quý vị tu gì? Tu tâm thanh tịnh. Tu Định trong cuộc sống, tuyệt đối chẳng phải là bảo quý vị mỗi ngày ngồi xếp bằng nhìn vào vách, bảo quý vị tĩnh tọa mấy tiếng đồng hồ, làm như vậy vô ích. Phải là trong cuộc sống, trong xử sự, trong đãi người, tiếp vật, tâm thanh tịnh, tâm địa chẳng nhiễm, lục căn tiếp xúc ngũ dục, lục trần mà chẳng nhiễm, đó là nhập Định chân thật. Chẳng phải là không tiếp xúc, [mà là] tiếp xúc nhưng chẳng nhiễm. Kinh Kim Cang nói: “Bất thủ ư tướng, như như bất động” (Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động). “Chẳng giữ lấy tướng” là ta tiếp xúc mà chẳng chấp tướng: “Ngoài chẳng chấp tướng, trong không động tâm”. Trong tâm chẳng khởi tham, sân, si, mạn, trong tâm thanh tịnh, không dấy lên phiền não, ngoài chẳng chấp tướng, tu công phu ấy.

Thực hiện chẳng dễ dàng! Vì thế, tôi khuyên các đồng tu đừng đọc báo, đừng xem TV, những thứ ấy đều nhiễu loạn tâm chúng ta. Thậm chí bảo quý vị chẳng cần đọc kinh, đọc kinh càng nhiều, phân biệt, chấp trước càng nhiều, tâm quý vị vẫn chẳng thanh tịnh. Tâm thật sự thanh tịnh, niệm một quyển kinh, niệm một câu A Di Đà Phật, tối thiểu ba năm; sau ba năm ấy, quý vị lại đọc hết thảy các kinh. Trước hết, quý vị định cái tâm trong ba năm, rồi sau đó mới lại nói [chuyện khác]. Nếu tâm chẳng định, vô dụng! Hôm qua, có một sinh viên từ Phật Học Viện đến gặp tôi, anh ta nói đã học trong Phật Học Viện ba năm, sắp tốt nghiệp. Tôi hỏi anh ta: “Học những gì?” Học kinh này, luận nọ, kể cho tôi nghe một đống lớn. Anh ta hỏi tôi: “Thầy thấy sao?” Tôi nói: “Học quá nhiều! Tục ngữ Trung Hoa có câu ‘tham nhiều, nhai không nát’. Ở Phật Học Viện ba năm, trong ba năm ấy, nếu học một bộ kinh, bèn rất giỏi. Ba năm học mười bộ kinh thì một bộ cũng chẳng học hiểu”. Nếu ba năm học một bộ kinh, sẽ thật sự được thụ dụng. Nói thật ra, Phật pháp chẳng có bí quyết chi khác, chỉ là chuyên nhất. Chỉ cần quý vị chuyên, tâm liền thanh tịnh, tâm thanh tịnh bèn phóng quang!

“Quang minh chiếu khắp” của chư Phật, Bồ Tát là tâm quang. Tâm của chính chúng ta thanh tịnh thì cũng phóng quang, chẳng khác chư Phật, Bồ Tát. Đó là Pháp Cúng Dường. Quang minh từ tâm địa của chúng ta và quang minh từ tâm địa của Phật dung nhập lẫn nhau, đó là chân thật cúng dường. Trong Pháp Cúng Dường, chuyện này là tột đỉnh, mà cũng là “y giáo tu hành cúng dường” như phẩm Hạnh Nguyện đã nói. Ngài chỉ nói “y giáo phụng hành”, còn ở đây là nói “y giáo tu hành đến viên mãn tột bậc”. Cúng dường viên mãn là như vậy đó.

 

(Sao) Tự không giả.

() 自空者。

(Sao: Tự không là…)

Giải thích câu “tự tánh tự không, thị thực thời hoàn nghĩa” (tự tánh tự không là ý nghĩa “trở về trong khoảng bữa ăn”).

 

(Sao) Tâm thể bổn không, không vô lai vãng.

() 心體本空,空無來往。

(Sao: Tâm thể vốn là Không, Không thì chẳng có qua lại).

Trong Không, há có đến đi? Chẳng có đến hay đi! Có đến đi bèn chẳng Không. Trong Không chẳng có đến đi, chính là như Lục Tổ đã nói: “Vốn chẳng có một vật”. “Có đến, có đi” bèn là hai vật, chẳng phải là chân tâm; trong vọng niệm mới có đến, đi. Đến, đi là pháp sanh diệt, tự tánh là bất sanh, bất diệt. Tự tánh chẳng phải là pháp hữu vi; đến, đi là pháp hữu vi. Vì thế, tự tánh vốn là Không. “Bổn Không” chẳng phải là Không trong Không Hữu. Không trong Không Hữu vẫn là hai pháp, trong Phật pháp nó được gọi là Ngoan Không, chẳng phải là Bổn Không, vì đối lập của nó là Có. Nó (Ngoan Không) và Có được kiến lập tương đối, nên chẳng phải là Bổn Không.

 

(Sao) Thị cố dĩ thực thời hoàn, liêu đối thử phương bạt thiệp nhĩ, thật tắc bất việt sát-na, hoàn quốc dĩ cánh.

() 是故以食時還,聊對此方跋涉耳,實則不越剎那,還國已竟。

(Sao: Do vậy, nói “trở về trong bữa ăn” là nói dựa theo cõi này, chứ thật ra là chẳng đầy một sát-na đã trở về nước xong xuôi).

Điều khó nhất đối với chúng ta là trong hiện thời, [chúng ta] đối với thân thể này, đối với hình tướng này chấp trước quá mức; vì thế, chúng ta không có cách nào tiếp nhận các kinh Đại Thừa, nhất là kinh điển Nhất Thừa liễu nghĩa, nghe rồi không hiểu, làm sao có thể “nhất thời châu biến”? Thế nào là “bất việt sát-na” (chưa đầy một sát-na)? Sát-na là thời gian cực ngắn, làm sao có thể chưa đi đã trở về? Đạo lý này chính là: Chẳng có đi, chẳng có đến, không đến, không đi. Vì sao? Đi thì chẳng rời khỏi tâm của quý vị, mà đến cũng chẳng rời khỏi tâm của quý vị. Giống như quý vị nhìn vào màn hình TV, đến hay đi đều ở trong khuôn khổ của cái màn hình; ngoài khuôn khổ ấy ra, há có đến, đi? Đi đã ở nơi đây, mà đến cũng ở nơi đây, ở cùng một chỗ! Thấy dường như có đến, đi; thật ra, chẳng có đến, đi. Thấy có xa, gần; trên thực tế, chẳng có xa hay gần, đều ở trong màn hình. Ngàn dặm, vạn dặm, không gian, quá khứ, hiện tại, tương lai, thời gian, đều chẳng rời khỏi màn hình ấy. Màn hình ấy siêu việt thời gian và không gian, mười phương ba đời đều ở cùng một chỗ, kinh Hoa Nghiêm gọi [cảnh giới ấy] là Nhất Chân pháp giới. Nếu quý vị chẳng hiểu Nhất Chân pháp giới là gì, hãy xem kỹ TV, tưởng tượng màn hình TV là Nhất Chân pháp giới giống như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Nếu quý vị xem TV mà nhờ đó khai ngộ, TV cũng thuyết pháp! Quý vị mới hiểu thời gian và không gian như nhau, vạn pháp có cùng một Thể! Y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới trước mắt chúng ta quả thật giống như những hiện tượng này, do phàm phu chúng ta hư vọng, phân biệt, chấp trước mà sanh ra rất nhiều cảm nhận sai lầm!

 

(Diễn) Tâm thể bổn không giả, dĩ tâm vô hình tướng, thập phương cầu chi, chung bất khả đắc cố.

() 心體本空者,以心無形相,十方求之,終不可得故。

(Diễn: Tâm thể vốn Không, do tâm không có hình tướng, nên mười phương cầu mà trọn chẳng thể đạt được).

 Tâm tuy không có hình tướng, nhưng nó có thể biến hiện hình tướng. Tuy biến hiện hình tướng, nhưng hình tướng ấy chẳng thật, là giả tướng, huyễn tướng, Tâm Kinh gọi [các hình tướng ấy] là Sắc. “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”. Không là tâm thể vô tướng, Sắc là Tướng và Dụng (hiện tướng và tác dụng) của tâm thể. Thể không có hình tướng, vốn là Không; tướng và tác dụng của nó cũng vốn là Không, dẫu có, vẫn là vốn Không. Vì thế, “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc là Không, Không là Sắc”, là một, không hai. Nếu chúng ta thay đổi một chữ, Pháp Tướng Tông nói Tánh và Tướng, thì Tánh được Tâm Kinh gọi là Không, Tâm Kinh gọi Tướng là Sắc. “Tánh chẳng khác Tướng, Tướng chẳng khác tánh. Tánh là Tướng, Tướng là Tánh”, có cùng một ý nghĩa!

Nay chúng ta chấp trước giả tướng quá mức, nên tương phản với chân tướng của vũ trụ và nhân sinh mà không biết, do mê mất, coi Giả là Chân, hoàn toàn mê mất Chân. Đã mê mất chân tướng, bèn chuyên làm chuyện giả. Lục đạo luân hồi là giả, đúng là giả, nhưng nếu quý vị chẳng giác ngộ thì vẫn đau khổ thật sự trong cái giả ấy. Ví như nằm mộng, mộng là giả, mỗi tối gặp ác mộng, mỗi đêm khiếp sợ đến nỗi khắp thân mướt mồ hôi lạnh, cuộc sống ấy cũng chẳng dễ sống! Luân hồi trong lục đạo là gặp ác mộng, quý vị tiếp tục gặp ác mộng, vĩnh viễn chẳng thể tỉnh giấc, cũng là chuyện rất đáng thương xót! Chư Phật, Bồ Tát trông thấy, nói quý vị là “kẻ đáng thương xót”. Nếu là thật, đức Phật chẳng thể nói là “đáng thương xót”; do là giả, mà lại chịu tội ấy trong cái giả ấy, hứng chịu sợ hãi, nên rất đáng thương, là kẻ rất đáng thương xót!

“Thập phương cầu chi, chung bất khả đắc cố” (Mười phương cầu mà trọn chẳng thể được), chúng ta đích thực phải giác ngộ điều này, tâm bất khả đắc. Vừa mở đầu, kinh Lăng Nghiêm liền nói sự thật này. Lại thưa cùng quý vị, tìm tâm chẳng thấy, mà Sắc cũng chẳng tìm thấy, tâm không thể được, Sắc cũng chẳng thể được. Quý vị chớ có nghĩ sắc tướng của hết thảy vật chất là có thể đạt được; giả trất, chẳng thể được! Nay quý vị có của cải, có hết thảy những thứ vàng, bạc, vật báu trong thế gian này, vinh dự, địa vị, quý vị nghĩ chính mình đã đạt được. Giả trất! Chẳng thật! Chẳng phải là sau khi đã chết mới biết là giả, do chẳng thể mang theo thứ gì! Đến khi ấy mới giác ngộ, đã trễ quá rồi! Trên thực tế, mỗi đêm quý vị đều chết một lần. Khi quý vị ngủ, chẳng phải là giống như người đã chết hay sao? Quý vị ngẫm xem, khi quý vị ngủ say, người ta khiêng thân thể quý vị đi, quý vị cũng chẳng biết! Khi ngủ say, thứ gì là quý vị? Quý vị vẫn chẳng giác ngộ ư? Người chết bất quá là ngủ không thể thức dậy đó thôi! Mỗi ngày đều phải chết một lần, rất đáng sợ! Trong Phật pháp có nói khai ngộ, ngộ gì vậy? Ngộ điều này, thật sự hiểu chân tướng, giác ngộ sự thật này. Hết thảy các pháp trong thế gian này, nếu quý vị nói cái này là của ta, cái kia là của ta, đức Phật trông thấy, sẽ quở “kẻ si nói chuyện trong mộng”. Chẳng sai tí nào! Xác thực là nói mớ! Đừng nói vật ngoài thân chẳng phải là của quý vị, thân thể cũng chẳng phải! [Biết như vậy thì] mới thật sự hiểu bốn câu trong Tâm Kinh đôi chút, thân thể là sắc tướng, “Sắc chẳng khác Không”, chẳng khác gì Không! Sắc là Không, chẳng thể được!

Biết chân tướng sự thật này, chư vị phải biết, phải giác ngộ: Ta chẳng dùng giả tướng này để tạo tội nghiệp nữa, làm như vậy chẳng đáng! Quý vị dùng giả tướng để tạo tội nghiệp thì nói cách khác, mỗi ngày quý vị đang làm gì? Tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo. Nay quý vị đang làm gì? Nay đang tạo tác ba ác đạo, nay đang tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo, phàm phu hằng ngày làm chuyện này. Người thật sự giác ngộ, người triệt để giác ngộ, làm gì? Ta hôm nay làm chuyện để sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nay ta đánh điện báo tới A Di Đà Phật, cùng Ngài giao tiếp qua lại. Quý vị niệm một câu Phật hiệu, mỗi tiếng đều có cảm ứng, khác hẳn! Một đằng là quyết định vãng sanh thành Phật, một đằng là quyết định phải luân hồi trong tam đồ lục đạo, làm sao giống nhau cho được? Phải thật sự giác ngộ điều này! Vì thế, không chỉ là tâm thể chẳng thể được, mà Tướng Phần của tâm và tác dụng của tâm thảy đều chẳng thể được!

 

(Diễn) Không vô lai vãng giả, tất cánh không trung, vô hình, vô trụ, vô xứ, vô trước, bất động, bất khởi cố.

() 空無來往者,畢竟空中,無形無住,無處無著,不動不起故。

(Diễn: “Không chẳng có qua lại”: Trong rốt ráo không, chẳng có hình tướng, chẳng có trụ, không có nơi chốn, không chấp trước, chẳng động, chẳng khởi).

Phần “mười phen hiển rõ tánh Thấy” trong kinh Lăng Nghiêm đã nói rõ chân tướng sự thật này. Kinh văn đã nêu ra sự tướng này rất rõ ràng: “Đương xứ xuất sanh, đương xứ diệt tận” (Sanh ra từ nơi đâu, sẽ diệt mất từ nơi đó). Quý vị có thể thấu hiểu ý nghĩa này thì mới hiểu cái thân hiện tiền này bất sanh, bất diệt, chẳng có sanh diệt, mà cũng là chẳng có sanh tử! Quý vị bèn chẳng sợ hãi sanh tử, chẳng sợ hãi tí nào, vì sao? Không có, giả mà! Tâm Kinh có nói: Lìa hết thảy sợ hãi, lìa hết thảy điên đảo!

 

(Sao) Tự trụ giả.

() 自住者。

(Sao: “Tự trụ” là…)

Giải thích câu “tự tánh tự trụ, thị bổn quốc nghĩa” (tự tánh tự trụ là ý nghĩa của “nước mình”).

 

(Sao) Tâm nguyên trạm tịch, thường trụ bất thiên, thị đương nhân cố hương điền địa, an thân lập mạng xứ.

() 心源湛寂,常住不遷,是當人故鄉田地,安身立命處。

(Sao: Nguồn tâm trong lặng, thường trụ, chẳng đổi dời, đó là ruộng đất nơi quê nhà, là chỗ để an thân lập mạng).

Trong kinh Lăng Nghiêm, đoạn này được đức Phật nói là “thường trụ chân tâm”, mà cũng là “nên trụ vào đâu” như trong kinh Kim Cang đã nói. Trong kinh Kim Cang, tôn giả Tu Bồ Đề đã hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật nêu lên hai câu hỏi: “Vân hà hàng phục kỳ tâm? Ưng vân hà trụ?” (Hàng phục cái tâm như thế nào? Nên trụ như thế nào?). Hàng phục cái tâm thì tâm đó là vọng tâm, nay chúng ta nói là “vọng tưởng, tạp niệm quá nhiều”, dùng phương pháp gì để có thể hàng phục nó, đoạn trừ nó? Đây là một vấn đề lớn. Vấn đề thứ hai là ta phải đặt tâm ở nơi đâu thì mới thật sự yên ổn? Phải tìm một trụ xứ. Trong bộ kinh Kim Cang, đức Phật đã giải đáp hai vấn đề này. Quý vị đều niệm kinh Kim Cang rất thuộc, hàng phục vọng tâm như thế nào? Tâm trụ ở chỗ nào? Đều chẳng biết! Như vậy là đã uổng công niệm kinh ấy mất rồi! Nếu thật sự biết niệm kinh ấy, sẽ kiếm được câu trả lời cho hai vấn đề ấy. Ở đây, ngôn từ đơn giản, nhưng ý nghĩa trọn khắp, văn tự chẳng nhiều, nhưng giảng rất rõ ràng, mà cũng giảng rất viên mãn, có thể dùng làm chú giải cho kinh Kim Cang.

“Tâm nguyên trạm tịch, thường trụ bất thiên”, tâm này là chân tâm. Lục Tổ đại triệt đại ngộ, đã hiểu chân tướng sự thật này, lão nhân gia nói: “Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh”, ở đây tự tánh được gọi là “tâm nguyên” (nguồn tâm). Chân tâm là cội nguồn của hết thảy vạn vật, vạn pháp; hết thảy vạn sự vạn vật đều từ tâm này lưu hiện. Vì thế, Ngài nói: “Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”, có thể sanh ra vạn pháp thì chính là nguồn cội của vạn pháp, nên gọi là “tâm nguyên”. Nó như thế nào? Trạm tịch, thường trụ. Hai chữ “trạm tịch” là hình dung từ. Trạm (湛) là thanh tịnh, thanh tịnh đến tột bậc, giống như chúng ta nhìn vào một ao nước trong, chẳng có tí ô nhiễm nào. Tuy ao rất sâu, nhưng nhìn từ trên mặt, chúng ta liền thấy ngay đáy ao, thấy rõ những bùn cát dưới đáy, đó là Trạm. Trạm là chân tâm chẳng có nhiễm ô, quyết định chẳng bị nhiễm ô. “Tịch” (寂) là bất động, không lay động. “Trạm” là thanh tịnh. “Trạm tịch” là thanh tịnh, bất động, chân tâm chưa hề động. Chư Phật, Bồ Tát là như thế, mà chân tâm chúng ta cũng giống như vậy. Trong tâm chúng ta loạn cào cào, đó là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm của quý vị chưa hề động. Phật, Bồ Tát thấy chân tâm của hết thảy chúng sanh, nên các Ngài mới nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”, vì sao? Vì chân tâm của quý vị trạm tịch, thường trụ, chẳng đổi dời, chẳng khác gì các Ngài. Động là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Phật, Bồ Tát cao minh hơn chúng ta vì các Ngài chẳng có vọng tâm, chân tâm hoàn toàn hiển lộ.

Chân tâm của chúng ta có hiển lộ hay không? Hiển lộ giống hệt, chẳng khác gì chư Phật, Bồ Tát. Tuy hiển lộ, nhưng trên ấy lại kèm theo một tầng vọng, kinh Lăng Nghiêm gọi [điều ấy] là “đới vọng chi chân” (chân kèm theo vọng), vì vọng do chân khởi lên; không có chân, vọng do đâu mà có? Giống như chúng ta dùng mắt để thấy, mắt của chúng ta là Chân, tượng trưng cho Chân Như bổn tánh, [hay còn gọi là] chân tâm, hoặc tâm nguyên. Chân tâm dấy lên tác dụng, thấy những thứ bên ngoài rành mạch. Vọng là gì? Ta đeo mắt kiếng màu, đeo kính râm màu đen, thấy bên ngoài đều đen xì, ai khởi tác dụng? Vẫn là chân tâm khởi tác dụng. Chân tâm xuyên qua vọng, thấy sắc tướng bên ngoài khác nhau. Phật, Bồ Tát không đeo mắt kiếng, mỗi kẻ phàm phu chúng ta đều đeo mắt kiếng, do mắt kiếng có màu sắc khác nhau, độ dầy cũng khác nhau, bèn thấy mỗi thứ khác nhau, cho nên mọi người mới tranh cãi! Ta thấy là đen, kẻ khác nhìn: “Ta thấy rõ ràng là đỏ”, hai người sẽ cãi lẫy! Nếu mọi người đều bỏ mắt kiếng ra, chẳng còn cãi lộn nữa, vì sao? Thấy màu sắc như nhau! Mỗi cá nhân có cách nhìn và cách nghĩ đối với vũ trụ và nhân sinh khác nhau do mang mắt kiếng có màu khác nhau, cường độ ánh sáng khác nhau, nên mới tạo thành lắm nỗi phiền phức. Chuyện là như vậy đó.

 

(Diễn) Tâm nguyên trạm tịch thường trụ bất thiên giả, tâm nguyên, vị nhiễm tâm chi nguyên, tức tánh tịnh dã.

() 心源湛寂常住不遷者,心源,謂染心之源,即性淨也。

(Diễn: “Nguồn tâm trong, lặng, thường trụ, chẳng dời”: Nguồn tâm là cội nguồn của cái tâm ô nhiễm, chính là tánh thanh tịnh).

 “Tâm nguyên” chỉ cội nguồn của vọng tâm, cũng là căn nguyên của hết thảy vạn sự, vạn vật, căn nguyên là gì? “Tánh tịnh dã” (Là tánh thanh tịnh), cũng là chân tâm, là Chân Như bổn tánh.

 

(Diễn) Hựu, thô tướng chi nguyên, tức sanh tướng dã.

() 又粗相之源,即生相也。

(Diễn: Lại nữa, cội nguồn của thô tướng chính là sanh tướng).

“Sanh tướng” là nói đến sanh tướng vô minh. Giải thích sanh tướng vô minh như thế nào? Tướng là hình tướng của muôn vật, là y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, sanh ra các tướng ấy. Nói thật ra, “sanh tướng” là nói đến chuyện này, cũng chính là Sanh như Lục Tổ đã nói “có thể sanh ra vạn pháp”. Ở đây, gọi là “sanh tướng”. Ngài nói “sanh ra vạn pháp”. Vạn pháp sanh từ đâu? Sanh từ tự tánh. “Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”. Ở chỗ này gọi nó là “tâm nguyên”, vạn pháp do đâu sanh ra? Tướng sanh từ đâu? Sanh từ tâm nguyên; tâm là căn nguyên, bổn nguyên của hết thảy sanh tướng.

 

(Diễn) Thử tại Phật địa, phương liễu kỳ nguyên.

() 此在佛地,方了其源。

(Diễn: Đạt đến địa vị Phật mới hiểu thấu suốt cái nguồn cội ấy).

Do vậy, thấu triệt nguồn pháp là ai? Phật mới có thể làm được. Đẳng Giác Bồ Tát hãy còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn, nên vẫn chưa thể thấu triệt nguồn pháp. Nói cách khác, Đẳng Giác Bồ Tát còn chưa về nhà, vẫn chưa về đến nhà, còn kém chút ít. Khi một phẩm sanh tướng vô minh đã đoạn, bèn về tới nhà. Ở đây, gọi “nhà”“bổn quốc”. “Hoàn đáo bổn quốc” là trở về tận cội nguồn, câu này và câu “bổn lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra” như Thiền Tông thường nói có cùng một ý nghĩa.

 

(Diễn) Nhược Pháp Thân đại sĩ, giác vị chí nguyên, do hữu sanh tướng.

() 若法身大士,覺未至源,猶有生相。

(Diễn: Nếu là Pháp Thân đại sĩ thì do chưa giác đến tận nguồn, nên hãy còn có sanh tướng).

 “Pháp Thân đại sĩ” ở đây chẳng phải là nói những vị Pháp Thân đại sĩ bình phàm. Kinh Hoa Nghiêm nói Pháp Thân đại sĩ có bốn mươi mốt địa vị. Hoa Nghiêm là Viên Giáo, Sơ Trụ Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, bèn gọi là Pháp Thân đại sĩ, mãi cho đến Đẳng Giác Bồ Tát, Đẳng Giác Bồ Tát đã phá bốn mươi phẩm vô minh, còn sót một phẩm sanh tướng vô minh. Pháp Thân đại sĩ được nói ở đây là Đẳng Giác Bồ Tát, “giác vị chí nguyên, do hữu sanh tướng”: Ngài còn có một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn, nên có sanh tướng.

 

(Diễn) Động bỉ tĩnh tâm, nghiệp thức khởi diệt, cố bất vân thường trụ.

() 動彼靜心,業識起滅,故不云常住。

(Diễn: Do động cái tâm tĩnh lặng ấy, nghiệp thức dấy lên, diệt mất, nên chẳng nói là “thường trụ”).

Ngài có một phẩm sanh tướng vô minh, tâm vẫn chưa thật sự thanh tịnh, vẫn chưa hoàn toàn trạm tịch, hãy còn động hết sức nhẹ nhàng. Do điều này có thể biết, chẳng động tâm là chuyện rất khó khăn, đã thành Phật mới là thật sự bất động. Trong tâm Pháp Thân đại sĩ, lưu động vô cùng vi tế, nhưng Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát về căn bản chẳng có cách nào cảm nhận, chẳng cảm nhận tâm Ngài (Pháp Thân đại sĩ) đang động. Tâm ấy vi tế lắm, chỉ có Phật biết. Người có công phu như vậy vẫn chưa gọi là “thường trụ”.

 

(Diễn) Chí sanh tướng đô tận, vô minh phong chỉ, tánh hải lãng hiết, trạm nhiên, thường trụ dã.

() 至生相都盡,無明風止,性海浪歇,湛然常住也。

(Diễn: Tới khi sanh tướng đã hết, gió vô minh ngừng thổi, biển tánh sóng lặng, lặng trong, thường trụ).

Ý nghĩa “thường trụ” sâu lắm, phải chứng Phật quả trong Viên Giáo mới là ý nghĩa “thường trụ, chẳng dời, thường trụ chân tâm”, mới đạt đến ý nghĩa này. Đó là “hoàn đáo bổn quốc”, là Cực Lạc rốt ráo, mà cũng là mục tiêu tối chung cực trong sự học Phật của chúng ta. Nếu chúng ta muốn đạt tới mà lìa khỏi thế giới Cực Lạc, sẽ chẳng có cách nào thực hiện được! Nếu lìa khỏi thế giới Cực Lạc mà có thể làm được, chư vị ngẫm xem, Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát cần gì phải vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới? Ở trong thế giới Hoa Tạng, lẽ ra các Ngài có thể làm được, vì sao lại phải cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới? Nói theo lý luận, trong thế giới Hoa Tạng có thể làm được, nhưng phải sợ tốn thời gian rất dài, đến thế giới Cực Lạc liền làm rất nhanh, nên các Ngài mới phải đến đó. Không chỉ là hai người các Ngài, mà còn khuyên tất cả Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng đều đi. Quý vị nghĩ xem, các Ngài đến thế giới Cực Lạc để làm gì? Là vì chuyện này, vì phá một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng, đến đó để chứng chân tâm thường trụ trạm tịch, vì những điều ấy mà vãng sanh. Trừ những điều này ra, nói thật thà, chẳng có lý do gì để các Ngài đến Tây Phương Cực Lạc thế giới; lý do duy nhất là như vậy.

 

(Diễn) Nhiên thử thị ước sanh diệt môn thuyết.

() 然此是約生滅門

(Diễn: Nhưng đây là nói theo sanh diệt môn).

Trong đoạn trên đây, nói theo kiểu ấy là nói theo ý nghĩa sanh diệt, đó là gì? Nói theo kiến giải của phàm phu và Nhị Thừa. Nói cách khác, nói theo phía người mê mất tự tánh, đó là chân thật, chẳng dối!

 

(Diễn) Nhược ước Chân Như môn, tắc tùng bổn dĩ lai, ly chư danh tướng, vô hữu biến dị, bất khả phá hoại, trạm nhiên thường trụ dã.

() 若約真如門,則從本以來,離諸名相,無有變異,不可破壞,湛然常住也。

(Diễn: Nếu ước theo Chân Như môn, ắt từ đầu đến nay, lìa các danh tướng, chẳng có đổi khác, không thể phá hoại, lặng trong, thường trụ).

Nói theo Chân Như hoặc chân tánh, trước nay chưa hề động. Nói theo Chân Như Môn là nhìn bằng kiến giải của Phật, bèn thấy tất cả hết thảy chúng sanh vốn sẵn thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm và Viên Giác nói: “Hết thảy chúng sanh vốn thành Phật”, đó là nói theo Chân Như Môn. Nói quý vị nay đang là sanh tử phàm phu, là kẻ đáng thương xót, tức là nói theo Sanh Diệt Môn. Chân Như Môn là Chân Đế, Sanh Diệt Môn là Tục Đế.

 

(Sao) Kim Cang kinh hoàn chí bổn xứ, tức thử kinh hoàn đáo bổn quốc dã, thử chi vị vụ bổn.

(Diễn) Kim Cang bổn xứ, tức thử kinh bổn quốc giả.

() 金剛經還至本處,即此經還到本國也,此之謂務本。

() 金剛本處,即此經本國者。

(Sao: “Về đến chỗ mình” trong kinh Kim Cang chính là “trở về nước mình” trong kinh này, đó là nói “chú trọng cái gốc”.

Diễn: “Chỗ mình” trong kinh Kim Cang chính là “nước mình” trong kinh này).

“Kim Cang bổn xứ”: Mở đầu Tự Phần của kinh Kim Cang, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện đi khất thực trong nước Xá Vệ. Sau khi khất thực xong, trở về chỗ mình[21]. “Kim Cang bổn xứ, tức thử kinh bổn quốc giả”: Thích Ca Mâu Ni Phật đi [khất thực] xong, trở về chỗ Ngài trụ, thể hiện ý nghĩa gì? Trở về chỗ tự tánh trạm nhiên tịch diệt, có ý nghĩa này. Nếu quý vị chẳng hiểu ý nghĩa này, [đọc kinh văn sẽ hiểu] Thích Ca Mâu Ni Phật đi khất thực xong, quay về, quay trở lại nơi đâu? Trở về Kỳ Thụ Cấp Cô Độc viên. Như vậy là quý vị hoàn toàn chẳng hiểu ý nghĩa của Như Lai, hoàn toàn chẳng hiểu ý nghĩa chân thật của Như Lai. Do đó, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế, không chỉ là miệng giảng kinh, thuyết pháp, mà mỗi cử chỉ, mỗi động tác của Ngài đều nhằm giảng kinh, thuyết pháp.

Phật là thân, ngữ, ý ba nghiệp thuyết pháp, toàn thân thuyết pháp, làm sao chúng ta có thể hiểu nghĩa chân thật của Như Lai? Nay chúng ta xem kinh điển, do xem chẳng hiểu, bèn tùy tiện phê bình, chỗ này trật, chỗ kia chẳng hợp lý, phải nên sửa như thế nào, hết cách nói!

Trong các buổi giảng, chúng tôi thường cảnh tỉnh các đồng tu, kinh Phật có ý nghĩa hay không? Chẳng có ý nghĩa! Vì sao? Vì Phật chẳng thuyết pháp! Nếu Phật có thuyết pháp, quý vị có thể phê bình, sửa sai Ngài. Đức Phật chẳng thuyết pháp, một chữ cũng chẳng nói, quý vị phê bình vào đâu? Quý vị sửa đổi từ chỗ nào? Phải hiểu ý nghĩa sâu xa này, phải hiểu mật nghĩa này, Phật là “nói mà không nói, không nói mà nói”, ý nghĩa ấy mới sâu! Phải như thế nào thì chúng ta mới có thể lãnh hội ý nghĩa chân chánh trong kinh điển? Nhất định phải là “nghe mà không nghe, không nghe mà nghe” thì quý vị mới hiểu ý nghĩa của Ngài. Ý nghĩa của Ngài hoàn toàn ở ngoài ngôn ngữ, ngoài sự suy tưởng của quý vị, quý vị không thể nghĩ tưởng. Do đó, chẳng thể nghĩ, chẳng thể nói, chỉ lãnh hội ý nghĩa. Khi quý vị lãnh hội, cũng chẳng thể thốt lên lời, cũng chẳng có cách nào suy tưởng, quý vị thật sự nhờ vào những lời lẽ của Như Lai để dẫn khởi trí huệ và công đức trong tâm tánh của chính mình hiển lộ. Kinh Phật là như vậy mà thôi!

Do đó, Phật có độ chúng sanh hay không? Chẳng độ! Chính quý vị tự độ mình! Kinh Kim Cang nói: “Độ vô lượng vô biên chúng sanh, thật vô chúng sanh đắc độ giả” (Độ vô lượng vô biên chúng sanh, nhưng thật sự chẳng có chúng sanh đắc độ), là đạo lý này! Vì sao thật sự chẳng có chúng sanh? Mỗi người đều là tự độ, tự chứng, Phật bất quá làm Tăng Thượng Duyên cho chúng sanh mà thôi! Phật tánh tỏa quang minh, tâm chúng ta không có quang minh, nhờ vào quang minh của kinh điển để thắp sáng quang minh nơi tâm tánh của chính mình, chẳng khác gì Phật! Do đó, “bổn xứ” được nói trong kinh Kim Cang có ý nghĩa sâu lắm!

 

(Diễn) Như Khởi Tín ngôn Bổn Giác, Lăng Nghiêm ngôn Bổn Tâm, Phạm Võng ngôn Bổn Nguyên, Viên Giác ngôn Bổn Tế, giai chỉ tự tánh nhi ngôn dã. Bổn xứ, bổn quốc, hà độc bất nhiên?

() 如起信言本覺,楞嚴言本心,梵網言本源,圓覺言本際,皆指自性而言也。本處本國,何獨不然。

(Diễn: Như luận Khởi Tín nói Bổn Giác, Lăng Nghiêm nói Bổn Tâm, Phạm Võng nói Bổn Nguyên, Viên Giác nói Bổn Tế, đều là nói về tự tánh. Sao riêng bổn xứ và bổn quốc lại chẳng phải là như vậy?)

Khởi Tín Luận nói Bổn Giác, kinh Lăng Nghiêm nói Bổn Tâm, kinh Phạm Võng nói Bổn Nguyên, kinh Viên Giác nói Bổn Tế, danh từ khác nhau, nhưng đều cùng nói về một chuyện, “giai chỉ tự tánh nhi ngôn” (đều là nói về tự tánh), tự tánh của đương nhân, tức là tự tánh của chính chúng ta. Sau khi quý vị hiểu rõ, Tây Phương Cực Lạc thế giới ở chỗ nào? Thế giới Cực Lạc ở trong tâm tánh của chúng ta, “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, tự và tha như nhau, thân và cõi nước như nhau. Thế giới Cực Lạc là cõi nước Cực Lạc, thân chúng ta và thế giới là một, không hai, thân và cõi nước như một. Kinh Hoa Nghiêm nói “tình và vô tình, đồng viên Chủng Trí”, mang ý nghĩa này. “Bổn xứ, bổn quốc, hà độc bất nhiên?” (Sao riêng chỗ mình và cõi mình lại chẳng phải là như vậy?). Kinh Kim Cang nói bổn xứ, kinh Di Đà nói bổn quốc, đều nhằm ý nghĩa này.

 

(Diễn) Thử chi vị vụ bổn giả, Luận Ngữ vị: “Quân tử vụ bổn”, nhiên bỉ dĩ hiếu đễ vi bổn, vị chân vụ bổn dã.

() 此之謂務本者,論語謂:君子務本。然彼以孝悌為本,未真務本也。

(Diễn: “Đó gọi là chú trọng cái gốc”, Luận Ngữ nói: “Quân tử chú trọng cái gốc”, nhưng họ (Nho gia) coi hiếu đễ là gốc, chưa phải là chú trọng cái gốc chân chánh).

 “Thử chi vị vụ bổn giả”, Khổng lão phu tử có nói với mức độ sâu như thế hay không, chẳng biết! Nhưng qua sự giải thích của Phật pháp, Luận Ngữ của Khổng lão phu tử cũng trở thành giống như kinh Phật. Không chỉ là kinh Phật, mà còn là kinh điển Đại Thừa, kinh điển Nhất Thừa, đúng như trong Phật môn đã nói: “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên” (Người viên mãn thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên). Khổng lão phu tử nói: “Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh” (Quân tử chú trọng cái gốc, gốc đã lập thì đạo sanh), nhưng các học giả Nho gia trải các đời giải thích câu này rất nông cạn, còn trong Phật môn chúng ta, rất tuyệt diệu, giải thích vô cùng sâu xa. Luận Ngữ nói: “Quân tử vụ bổn, bổn lập nhi đạo sanh”, Bổn là gì? Chính là Bổn Xứ trong kinh Kim Cang, là Bổn Quốc trong kinh Di Đà, nói thực tại là Trạm Tịch Tâm Nguyên. Nếu chúng ta hỏi, có phải là Khổng lão phu tử nói ý nghĩa này hay không? Nói thật ra, đúng là ý nghĩa này, bất quá phu tử chẳng nói cặn kẽ, chỉ nhắc đến mà thôi! Vì nếu chúng ta đối chiếu những giáo huấn của Khổng lão phu tử với Đại Thừa Phật pháp thì nói thật sự đúng là như nhau!

Chẳng hạn như Đại Thừa Phật pháp được kiến lập trên cơ sở Bồ Đề tâm. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật giảng Bồ Đề tâm là “chí thành tâm, thâm tâm, phát nguyện hồi hướng tâm”, Khổng lão phu tử giáo học cũng dùng những điều này làm cơ sở. Trong phần Tam Cương Bát Mục của sách Đại Học, Ngài đã nói: “Cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm”, thành ý là chí thành tâm, chánh tâm là thâm tâm, là đại bi tâm. Đức Phật nói ba tâm, Khổng Tử nói hai tâm. Thành ý là chân tâm, là bản thể của chân tâm. Chánh tâm là thành ý khởi tác dụng, thành ý khởi tác dụng bèn là chánh tâm. Đức Phật nói cặn kẽ hơn, chí thành tâm khởi tác dụng, một là đối với chính mình thì là Tự Thụ Dụng, tức thâm tâm. Một là đối đãi với kẻ khác, tức Tha Thụ Dụng, là đại bi tâm, đối đãi kẻ khác bằng đại từ đại bi. Khổng lão phu tử hợp thâm tâm và đại bi tâm thành một, gọi là Chánh Tâm. “Cách vật” là đoạn Phiền Não Chướng, “trí tri” là đoạn Sở Tri Chướng, trừ hai chướng thì ý mới thành! Có Nhị Chướng, ý làm sao có thể thành cho được? Nhà Phật nói quý vị phải đoạn Phiền Não Chướng, phải phá Sở Tri Chướng, Bồ Đề tâm mới hiện hành. Quý vị thấy có khác gì Khổng lão phu tử đã nói? Đúng là như nhau. Nhìn từ chỗ này, “quân tử vụ bổn” được nói trong chương Học Nhi của sách Luận Ngữ xác thực là có cùng một ý nghĩa, Bổn là thành ý, chánh tâm.

“Bổn lập nhi đạo sanh” (Gốc đã lập, đạo bèn sanh), “đạo” là gì? Đạo là quy luật của vạn pháp trong vũ trụ, là quá trình và trình tự diễn biến, nó (vũ trụ) rất có trật tự. Do đó, nếu con người thuận theo trình tự ấy của tự nhiên, sẽ tương ứng với tự tánh, chẳng vi phạm. Nho gia nói Ngũ Luân, Thập Nghĩa, đó là nhân đạo. Từ bi, phương tiện, lục độ, vạn hạnh là Bồ Tát đạo! Khuyên người ta niệm một câu A Di Đà Phật là đạo thành Phật! Câu A Di Đà Phật chẳng phải là Bồ Tát đạo, Bồ Tát đạo là lục độ, vạn hạnh. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối niệm câu A Di Đà Phật là Phật đạo, vô thượng chánh đạo! Chư vị phải hiểu ý nghĩa này. Tam phước trong Quán Kinh, cuối cùng nói về Bồ Tát “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả”. Tin sâu nhân quả là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Vì lẽ đó, niệm một câu A Di Đà Phật này, quý vị tu đạo gì? Tu Phật đạo, tức là đạo thành Phật. Quý vị hãy suy ngẫm, điều này có trọng yếu hay không? Quý vị tu Lục Độ, tức là tu Bồ Tát đạo. Quý vị mỗi ngày tĩnh tọa nhập định là tu Tiểu Thừa đạo. Mỗi ngày làm chuyện tốt, giúp đỡ người khác rất nhiệt tâm, đi khắp nơi bố thí, cúng dường, quý vị tu nhân thiên đạo, thảy đều phải hiểu rõ ràng! Mỗi ngày quý vị đang làm gì, tu đạo gì? Đều phải hiểu rành mạch, rõ ràng.

Quân tử chú trọng cái gốc, “nhiên bỉ dĩ hiếu đễ vi bổn, vị chân vụ bổn dã” (nhưng họ lấy hiếu đễ làm gốc, chưa phải là chú trọng cái gốc chân chánh), đây là Khổng lão phu tử nói nông cạn, lấy hiếu đễ làm gốc. Tuy là nông cạn, vẫn giống như Phật pháp đã giảng. Trong Tam Phước, Tam Phước là căn bản tu hành, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã giảng rất rõ ràng, minh bạch. Câu đầu tiên trong Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”. Hiếu đễ: Tu học Phật pháp cũng kiến lập trên căn bản này. Chư vị hãy suy ngẫm, nếu chúng ta khởi ác niệm, làm chuyện xấu, đó là bất hiếu, có lỗi với cha mẹ, có lỗi với sư trưởng. Vì thế, người thật sự hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, sẽ chẳng khởi một ác niệm, sẽ không làm một chuyện xấu nào, vì sao? Người ấy thường nghĩ: Ta chớ nên làm cho cha mẹ, sư trưởng thất vọng, ta chẳng thể làm những chuyện khiến cho cha mẹ sư trưởng chẳng còn mặt mũi, mất mặt, làm những chuyện ấy thì còn gì là hiếu thuận nữa! Đạo Nho kiến lập trên cơ sở hiếu đạo, Phật đạo cũng kiến lập trên cơ sở này. Do vậy, để bắt đầu tu căn bản, quý vị thật sự chú trọng cái gốc, thì phải bắt đầu thực hiện từ chỗ này. Đó là khởi đầu, khởi sự, chẳng phải là mục tiêu, mục đích. Bổn Quốc hoặc Bổn Xứ được nói ở nơi đây là nói đến chuyện “về đến nhà”, đạt đến mục đích. Nho gia nói “hiếu đễ làm gốc” là bắt đầu tiến hành, tinh tấn hướng đến cội nguồn; một đằng là nói về khởi sự, một đằng là nói đã “về đến nhà”. Sai biệt ở chỗ này, có thể nói cả hai đều là căn bản.

 

(Diễn) Tất dã liễu vạn pháp chi phi chân, đạt bổn nguyên chi nhất trí, đãng sanh diệt chi vọng kế, hội thường trụ chi chân tâm, phản bổn hoàn nguyên, vi chân vụ bổn dã.

() 必也了萬法之非真,達本源之一致,蕩生滅之妄計,會常住之真心,返本還源,為真務本也。

(Diễn: Ắt phải là liễu giải vạn pháp chẳng thật, thấu đạt nguồn cội vốn nhất trí, trừ sạch so đo sanh diệt lầm lạc, thấu hiểu chân tâm thường trụ, quay trở lại cội nguồn, đó là chú trọng cái gốc chân chánh).

 Đây là nói đến căn bản “về đến nhà”, bắt đầu từ nơi đâu? Phải từ hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp, phải tiến hành từ Tam Quy, trì giới, phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến khích hành giả, bắt đầu từ chỗ này. Gốc đã lập, đạo mới sanh! Đó là căn bản, cái gốc đã lập; sau khi đã lập, Bồ Tát đạo và Phật đạo tự nhiên thông đạt, lúc nào, chỗ nào, tâm niệm cũng đều là Nhất Thừa Phật đạo, sẽ chẳng lạc lối! Hôm nay chúng tôi nói đến chỗ này!

 

— o0o —

Tập 159

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm bốn mươi mốt:

 

(Kinh) Phạn thực kinh hành.

() 飯食經行。

(Kinh: Dùng cơm, kinh hành).

Kinh văn chỉ có một câu, chúng ta xem chú giải.

 

(Sớ) Thừa thượng thực thời, cố thứ ngôn thực. Kinh hành giả, tuần hoàn bất đoạn nghĩa. Phản dĩ nhi thực, thực dĩ nhi hành, phảng dương tự thích dã.

() 承上食時,故次言食。經行者,循環不斷義,返已而食,食已而行,彷徉自適也。

(Sớ: Tiếp nối ý “[trở về trong khoảng] bữa ăn” trong phần trước, nên tiếp theo đó, nói đến “ăn”. “Kinh hành” nghĩa là tuần hoàn chẳng ngừng. Trở về bèn ăn, ăn xong đi kinh hành, thảnh thơi, thoải mái).

Trong lời Sao, [tổ Liên Trì] dẫn kinh Vô Lượng Thọ để chứng minh.

 

(Sao) Phạn thực giả, Đại Bổn vân: “Chư vãng sanh giả, kỳ phạn thực thời, ngân bát, kim bát, chủng chủng bảo bát, tùy ý hiện tiền”.

() 飯食者,大本云:諸往生者,其飯食時,銀缽金缽,種種寶缽,隨意現前。

(Sao: “Dùng cơm”, kinh Đại Bổn chép: “Những người đã vãng sanh, khi ăn cơm, bát bạc, bát vàng, các thứ bát báu, tùy ý hiện ra trước mặt”).

Trong thế gian này, cuộc sống của chúng ta vô cùng gian nan, rất vất vả mới có thể no ấm. Nói thật ra, cuộc sống tại Đài Loan khá dễ dàng, kiếm tiền dễ dàng, người ngoại quốc trông thấy rất hâm mộ. Trên thế giới này, có nhiều nơi cuộc sống khá gian nan, đích xác là cuộc sống chẳng dễ dàng. Quay lại nhìn sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, mới biết thế giới ấy tốt đẹp ở chỗ nào! Vì sao mười phương chúng sanh đều mong sanh về nơi đó? Hết thảy chư Phật đều khuyên chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đích xác là do Cực Lạc có những điều tốt đẹp mà các thế giới phương khác chẳng có!

Từ ngữ “chư vãng sanh giả” chỉ hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới có thể tin nhận lời Phật, nghe lời đức Phật khuyến cáo, bèn niệm Phật sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Kỳ phạn thực thời” (Vào giờ ăn), từ Đại Kinh, chúng ta thấy người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân thể là “thanh hư chi thân, vô cực chi thể” (thân thanh hư, thể vô cực), lẽ nào vẫn phải ăn cơm? Quả thật chẳng cần, chẳng cần nhờ vào các thứ lương thực ngũ cốc để duy trì thân thể. Nếu dựa vào các thứ lương thực ngũ cốc để duy trì thân thể, thân thể ấy ô uế, có thể sanh bệnh. Tứ Thiền Thiên trong Sắc Giới dùng Thiền Duyệt làm thức ăn, chẳng cần ăn uống, thế mà cõi ấy vẫn thuộc trong lục đạo, chẳng lẽ Tây Phương Cực Lạc thế giới ngay cả Tứ Thiền Thiên vẫn chẳng bằng hay sao? Chư vị phải hiểu, ở đây đức Phật nói đến ý niệm ăn, đó là tập quán của những kẻ như chúng ta từ thế giới Sa Bà sanh về thế giới Cực Lạc chưa được vài ngày, còn chưa quên mất tập khí ấy, suy tưởng: “Vì sao lâu như vậy mà chẳng ăn?” Có ý niệm ấy. Ý niệm ấy vừa động, cảnh giới liền hiện tiền. Hết thảy sự thụ dụng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thuận theo lòng mong muốn mà biến hóa ra. Đây là nói đến chúng sanh trong Dục Giới như chúng ta, đặc biệt là nói đến phàm phu, trời người trong Dục Giới, sanh về bên đó, khi chúng ta nghĩ đến ăn uống [bèn có những điều như vừa nói trên đây], ở đây, quý vị thấy sự ăn uống bên đó tốt lành như vậy đó!

“Ngân bát, kim bát, chủng chủng bảo bát” (Bát bạc, bát vàng, các thứ bát báu), nói theo cách hiện thời, đó là những vật dụng dùng trong ăn uống, những vật dụng ẩm thực ấy đẹp đẽ, chất liệu tốt đẹp, bằng bảy báu, tùy ý hiện tiền. Trong tâm nghĩ đến gì, bèn hiện ra thứ ấy. Hình dạng, kích thước, màu sắc, kiểu dáng, chất liệu, chẳng có gì không thuận theo lòng mong muốn, chẳng cần phải lo liệu, chẳng cần phải tạo tác, hễ nghĩ đến bèn hiện tiền.

 

(Sao) Bách vị ẩm thực, sung mãn kỳ trung.

() 百味飲食,充滿其中。

(Sao: Thức ăn trăm vị, đầy ắp trong ấy).

Trong các đồ đựng đều chứa đầy ắp, những thứ bình thường thích ăn đều bày ra trước mặt.

 

(Sao) Toan, hàm, cam, đạm, các như sở nguyện.

() 酸鹹甘淡,各如所願。

(Sao: Chua, mặn, ngọt, nhạt, mỗi thứ đúng như ý nguyện).

Hương vị ngon nhất, thích hợp với chính mình nhất, do chính mình biến hóa ra!

 

(Sao) Bất dư, bất khuyết.

() 不餘不缺。

(Sao: Chẳng thừa, chẳng thiếu).

Những thức ăn được biến hiện không nhiều, mà cũng không ít, số lượng phù hợp.

 

(Sao) Bất dĩ mỹ cố, quá lượng nhi thực.

() 不以美故,過量而食。

(Sao: Chẳng vì ngon lành mà ăn quá mức).

Trong thế gian này, chúng ta gặp được thức ăn ngon bèn tham ăn, ăn nhiều hơn một chút. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có hiện tượng này.

 

(Sao) Thực dĩ tự tiêu, nhi vô di chỉ.

() 食已自消,而無遺滓。

(Sao: Ăn xong tự tiêu, chẳng còn sót lại cặn bã).

Thức ăn ấy cũng chẳng phải là thật sự ăn. Sau khi những thứ ấy hiện tiền, mắt trông thấy, mũi ngửi mùi vị, ý bèn nghĩ là đã ăn, đương nhiên chẳng có cặn bã.

 

(Sao) Hoặc kiến sắc, văn hương, ý dĩ vi thực, tự nhiên bão thích, vô sở vị trước.

() 或見色聞香,意以為食,自然飽適,無所味著。

(Sao: Hoặc thấy sắc, ngửi hương, bèn nghĩ là đã ăn, tự nhiên no đủ, thỏa thích, chẳng tham đắm mùi vị).

 Tuyệt đối chẳng chấp tướng. Sống lâu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tập khí ấy chẳng còn, chẳng còn có chuyện ấy nữa. Đây đều là những người vừa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới chưa lâu, nên có những tập khí ấy, thức ăn có thể ứng theo ý niệm mà hiện tiền.

 

(Sao) Thân tâm khinh lợi, thực tất hóa khứ.

() 身心輕利,食畢化去。

(Sao: Thân tâm nhẹ nhàng, nhanh nhẹn, ăn xong, [những thức ăn và đồ đựng] bèn biến mất).

Sau khi ăn xong, tự nhiên no đủ. Chẳng muốn nữa thì những thức ăn và vật dụng để ăn uống đều chẳng còn nữa. Do lẽ đó, chẳng cần dọn dẹp, chẳng cần rửa ráy, hết thảy đều là hóa hiện.

 

(Sao) Thời chí phục hiện.

() 時至復現。

(Sao: Đến lúc lại hiện ra).

 Đến bữa ăn, quý vị lại nghĩ tới, nó lại hiện tiền. Các thế giới khác chẳng có chuyện này. Kinh Hoa Nghiêm nói Sự Sự vô ngại pháp giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ phẩm hạ sanh cũng đều là Sự Sự vô ngại pháp giới chẳng thể nghĩ bàn! Đây là nói đến mặt tốt đẹp trong chuyện ăn uống nơi cõi ấy, chẳng cần phải quan tâm, chẳng cần phải vất vả trù tính, lo toan.

Dưới đây là nói về “kinh hành”. Kinh hành là một phương pháp tu học hết sức hay, kinh hành là tản bộ. Ăn cơm xong bách bộ, hữu ích cho tiêu hóa, có ích rất lớn cho sức khỏe. Trong Phật môn, như khi đả Phật Thất, thọ trai xong bèn nhiễu Phật kinh hành, nhiễu mấy vòng rồi mới kết trai, mọi người mới giải tán, đó là kinh hành. Kinh hành có rất nhiều lợi ích. Vì sao đi mà lại gọi là “kinh hành”? Thời cổ, trong tông Thiên Thai, họ vừa tản bộ vừa học thuộc lòng kinh điển, nên gọi là “kinh hành”. Nay chúng ta quá nửa là vừa đi vừa niệm Phật. Phương thức này, không chỉ có thể giúp ích tiêu hóa, mà còn là một loại vận động hết sức tốt. Loại vận động này không vội vàng, không rề rà, hết sức điều hòa. Kinh hành cũng có thể đối trị hôn trầm, chẳng hạn như ngồi lâu liền hôn trầm, tinh thần chẳng thể phấn chấn, thậm chí ngủ gà ngủ gật. Trong Phật môn, tu học bất luận tông nào, phái nào, kinh hành, lễ bái, ngồi xếp bằng, những phương thức ấy điều hòa thích hợp lẫn nhau, thân thể sẽ chẳng bị mệt mỏi.

Người hôn trầm nặng nề, tốt nhất là nên đi nhiều, nhiễu Phật nhiều. Người tuổi cao dùng phương pháp này càng hay. Năm xưa, tôi đến giảng kinh tại Bình Đông, gặp lão cư sĩ Chung Cảnh Đức, cụ cho biết cụ đã ngoài tám mươi tuổi. Trước kia, cụ học Mật, học Thiền, rất dụng công, học mấy chục năm. Gặp gỡ năm ấy, cụ bảo tôi: “Không được rồi, những thứ công phu ấy chẳng đủ sức, nay tôi thật thà niệm Phật, mỗi ngày niệm ba vạn câu”. Tuổi cao, cụ cũng không xem kinh, mà niệm Phật. Niệm ba vạn tiếng như thế nào? Cụ đi khắp nơi trong làng Bình Đông, cứ một bước niệm một câu, mỗi ngày niệm ba vạn tiếng, đi ba vạn bước. Niệm đến tám mươi mấy tuổi, vẻ mặt hồng hào, tươi tắn, âm thanh sang sảng, đích xác là có lợi cho thân thể. Niệm Phật tâm thanh tịnh; kinh hành, thân thể vận động linh hoạt, hãy nên nỗ lực học tập chuyện này!

 

(Sao) Tuần hoàn giả, như kinh quán vĩ, lạc dịch liên miên, vãng lai vô dĩ dã.

() 循環者,如經貫緯,絡繹連綿,往來無已也。

(Sao: “Tuần hoàn” là như từ đường dọc xuyên suốt đường ngang, liên tiếp nối kết, qua lại không ngừng vậy)[22].

Hình dung cách kinh hành.

 

(Sao) Thực dĩ nhi hành, nhất dĩ điều thân, sử vô ngưng trệ.

() 食已而行,一以調身,使無凝滯。

(Sao: Ăn xong đi kinh hành thì một là điều hòa thân thể, khiến cho chẳng ngưng trệ).

Có ý nghĩa trợ giúp tiêu hóa, sau khi ăn xong bèn đi kinh hành.

 

(Sao) Nhất dĩ điều tâm, sử bất phóng dật dã.

() 一以調心,使不放逸也。

(Sao: Một là để điều tâm, khiến cho chẳng buông lung).

Một tác dụng khác là điều tâm, tâm được thanh tịnh. Vì khi quý vị kinh hành, chẳng niệm kinh thì cũng niệm Phật, trong tâm chẳng có vọng niệm.

 

(Sao) Phảng dương giả, ưu du tự đắc ý.

() 彷徉者,優遊自得意。 

(Sao: “Phảng dương” là thong dong, thích ý).

 Tự đạt được sự ung dung, hình dung niềm vui chân thật, lạc thú thanh tịnh ở trong ấy.

 

(Sao) Thế nhân thực dĩ.

() 世人食已。

(Sao: Người đời ăn xong).

Nói tới những kẻ bình phàm trong thế gian.

 

(Sao) Phi bôn tẩu trần vụ, tắc tăng trưởng thụy miên.

 () 非奔走塵務,則增長睡眠。

(Sao: Nếu chẳng bôn ba việc đời thì cũng ngủ nghê nhiều hơn).

Người thế gian sau khi dùng cơm bèn vội vã làm việc. Người không đi làm, ăn xong bèn đi ngủ. Người học Phật ăn xong đi kinh hành.

 

(Sao) Bỉ quốc phạn thực kinh hành, giải thoát chi phong, tiêu dao chi trạng, khả tưởng kiến dã.

() 彼國飯食經行,解之風,逍遙之狀,可想見也。

 (Sao: Người trong cõi kia ăn xong đi kinh hành, có thể hình dung họ có phong thái giải thoát, tiêu dao).

Miêu tả cuộc sống thông thường của đại chúng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tự tại ung dung dường ấy.

 

(Sớ) Duy ngôn phạn thực, bất cập y đẳng, duy ngôn kinh hành, bất cập tọa đẳng, diệc văn tỉnh cố.

() 唯言飯食,不及衣等,唯言經行,不及坐等,亦文省故。

(Sớ: Chỉ nói ăn cơm, chẳng nói đến quần áo v.v… Chỉ nói kinh hành, chẳng nói đến ngồi v.v… là vì kinh văn nói tỉnh lược).

Kinh Di Đà văn tự rất ít, nên đối với tình hình cuộc sống, chỉ nhắc tới đại lược, chẳng nói cặn kẽ, tỉnh lược rất nhiều. Đối với ăn, mặc, ở, đi lại, chỉ nói chuyện ăn, tỉnh lược chuyện phục sức. Nói đến kinh hành, chẳng nói đến tọa Thiền, tọa Thiền cũng bị tỉnh lược. Những chuyện này được nói tỉ mỉ trong kinh Vô Lượng Thọ.

 

(Sao) Y giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, ngã sát trung nhân, sở dục y phục, tùy niệm tức chí, bất giả tài phùng đảo nhiễm hoán trạc. Hựu phục hữu vô lượng thượng diệu y phục, bảo quan, hoàn, xuyến, nhĩ đang, anh lạc, hoa man, đới tỏa, chư bảo trang nghiêm, bách thiên diệu sắc, tự nhiên tại thân”.

() 衣者,大本法藏願云:我作佛時,我剎中人,所欲衣服,隨念即至,不假裁縫擣染浣濯;又復有無量上妙衣服,寶冠環釧,耳璫瓔珞,華鬘帶鎖,諸寶莊嚴,百千妙色,自然在身。

(Sao: “Y phục”: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, người trong cõi ta, mong muốn y phục, vừa nghĩ bèn hiện tới. Chẳng cần phải cắt, may, đập[23], nhuộm, giặt, giũ. Lại có vô lượng y phục đẹp đẽ, quý giá nhất. Mão báu, vòng, xuyến, bông tai, chuỗi ngọc, tràng hoa, đai áo đeo giắt các thứ vật báu để trang nghiêm, trăm ngàn màu sắc đẹp đẽ tuyệt vời, tự nhiên ở trên thân).

Đây là nguyện văn trong phần bốn mươi tám nguyện của kinh Vô Lượng Thọ. Thích Ca Mâu Ni Phật thuật lại cho chúng ta biết. Phật Thích Ca thuật lại thì cũng giống như A Di Đà Phật đích thân tự tuyên nói, chẳng sai khác, quyết định chân thật. Đây là nói các đại chúng sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, “sở dục y phục, tùy niệm tức chí” (mong mỏi những thứ quần áo, vừa nghĩ liền hiện tới). Đúng là “nghĩ áo được áo, nghĩ ăn được ăn”. Trong phần trước nói về ăn uống, phần này nói về quần áo. Quần áo chẳng cần cắt, may, chẳng bị dơ bẩn, không cần giặt giũ. “Thiên y vô phùng” [nghĩa là áo trời] chẳng cần may cắt, tất cả đều do biến hóa ra. Quý vị thích quần áo bằng chất liệu nào, nó bèn là chất liệu đó. Y phục bên Tây Phương đều là thất bảo. Chất báu trong cõi này thể tánh cứng chắc, không thể làm quần áo. Vàng, bạc, lưu ly, bảy báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều mềm mại, rất mỏng, giống như vải, có thể làm quần áo. Vì vậy, họ “hữu vô lượng thượng diệu y phục” (có vô lượng y phục tốt đẹp bậc nhất). “Bảo quan hoàn xuyến”: [“Bảo quan” là mão bằng chất báu], “hoàn xuyến” (環釧) là một loại vòng đeo tay. “Nhĩ đang” (耳璫) là bông tai; “anh lạc” (瓔珞) là vật trang sức đeo trước ngực. Chúng ta thường thấy tượng đắp hoặc tượng vẽ của Phật, Bồ Tát trước ngực có đeo anh lạc. “Hoa man đới tỏa”: Tràng hoa, hoa báu xâu thành chuỗi đeo trên người. “Đới” (帶) là đai áo, trong đai áo đeo bảy báu, nên gọi là “đới tỏa” (帶鎖).

“Chư bảo trang nghiêm, bách thiên diệu sắc, tự nhiên tại thân” (Các thứ vật báu để trang nghiêm, trăm ngàn màu sắp đẹp đẽ tuyệt vời, tự nhiên ở trên thân), đây là nói tới y phục và trang sức thuận theo lòng muốn, tự nhiên khoác trên thân. Thế giới Tây Phương là một thế giới bình đẳng, nên tướng mạo của mọi người như nhau. Trong cuộc sống, ăn, ở, phục sức tướng mạo như nhau. Đương nhiên, do mức độ đoạn Hoặc chứng Chân khác nhau, nên cũng có chỗ khác biệt, [tức là] quang minh của mỗi người lớn nhỏ khác nhau. Nếu đoạn [phiền não] nhiều, quang minh to lớn. Quang minh chiếu từ một do-tuần, mười do-tuần, cho đến trăm ngàn do-tuần.

 

(Sao) Hựu vân: Phục hữu vô lượng như ý diệu hương, đồ hương, mạt hương.

() 又云:復有無量如意妙香,塗香末香。

(Sao: Lại nói: “Lại có vô lượng hương mầu nhiệm như ý, hương bôi, hương bột).

“Đồ hương” có phạm vi rất  rộng, giống  như  nước  hoa, bôi  trên người bèn gọi là “đồ hương”. “Mạt hương” thuộc loại bột, bột thơm có thể xoa lên người. Bột đàn hương có thể đốt.

 

(Sao) Kỳ hương phổ huân bỉ Phật quốc giới.

() 其香普熏彼佛國界。

(Sao: Hương ấy xông khắp cõi Phật ấy).

Phải chú ý câu này, cõi nước của A Di Đà Phật ở chỗ nào? Thưa cùng chư vị, cõi nước của A Di Đà Phật chẳng có ngằn mé, tận hư không khắp pháp giới là cõi nước của A Di Đà Phật. Điều này rất kỳ diệu, vì sao? Nếu quốc độ này của chúng ta ở ngoài A Di Đà Phật, chúng ta làm sao có thể vãng sanh? Làm sao sự giáo hóa của A Di Đà Phật có thể thấu đến chỗ chúng ta? Ở nơi đây, chúng ta có kinh Vô Lượng Thọ, có kinh A Di Đà, nói cách khác, kinh điển tồn tại ở nơi đâu, nơi đó là chỗ Tây Phương Cực Lạc thế giới đạt đến.

Do vậy, chúng ta chẳng bị coi như ở ngoài quốc giới của A Di Đà Phật, mà là ở trong quốc giới của A Di Đà Phật. Tận hư không khắp pháp giới mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều khen ngợi A Di Đà Phật, đều giảng kinh Vô Lượng Thọ, đều khuyên hết thảy chúng sanh vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, có thể biết: Nói những cõi Phật khác còn có biên giới thì có lẽ còn có thể nói xuôi tai, chứ quốc giới của A Di Đà Phật chẳng có ngằn mé, đích xác là rộng lớn vô biên. Mùi hương ấy xông khắp pháp giới! Quang minh chiếu khắp, hương báu xông khắp. Tiếp theo đây, [tổ Liên Trì] giải thích vì sao kinh Di Đà nói tỉnh lược.

 

(Sao) Cố bất ngôn y, dĩ thực nhiếp y, cập nhất thiết tư sanh chi cụ cố.

() 故不言衣,以食攝衣,及一切資生之具故。

(Sao: Bởi lẽ, chẳng nói đến y phục là vì dùng chuyện ăn để bao gồm y phục và hết thảy các vật dụng cần thiết trong cuộc sống).

Cơm áo, hễ nói một thứ, những thứ khác đều ở trong đó. “Tư” là tư dưỡng (資養: nuôi nấng), “sanh” (生) là sanh mạng. Nói cách khác, hết thảy cuộc sống vật chất thảy đều bao gồm trong ăn uống, nên nói một điều là đủ rồi. Ẩm thực chính là vật cần thiết để nuôi dưỡng sanh mạng, bao gồm tất cả cuộc sống vật chất.

 

(Sao) Bất cập tọa giả.

() 不及坐者。

(Sao: Không nói đến “ngồi”).

 Chỉ nói kinh hành, chẳng nói đến ngồi. Nói thật ra, tu hành vẫn lấy kinh hành làm chủ, đặc biệt là những người tu đã lâu. Người mới học phải ngồi, vì tương đối dễ nhiếp tâm hơn. Người tu lâu chẳng coi trọng ngồi trên hình thức. Lục Tổ đại sư nói “tọa Thiền” thì đó chẳng phải là ngồi xếp bằng nhìn vào vách. Ngài nói Ngồi với ý nghĩa “bất động”. Điều gì bất động? Tâm bất động, chẳng phải là thân bất động. Tâm bất động giữa ngũ dục lục trần, nên gọi là Tọa. Do đó, Ngài nói “ngoài chẳng chấp tướng” là Thiền, “trong chẳng động tâm” là Tọa. Ngài tọa Thiền là “tọa” theo cách như vậy.

Vì lẽ đó, Ngài đi, ở, ngồi, nằm, đều là tọa Thiền, chẳng phải là ngồi xếp bằng nhìn vào vách. Nói thật ra, thuở ấy, Lục Tổ đại sư ở Hoàng Mai tám tháng, trước nay chưa hề bước vào Thiền đường, Ngài ở hậu viện làm lụng cực nhọc, giã gạo, bửa củi. Tọa Thiền như Ngài đã nói chính là “ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm”, thật sự tọa Thiền, chẳng phải là tọa Thiền theo hình thức. Tọa Thiền trong Thiền đường là tọa Thiền theo hình thức, chưa chắc đã có Thiền Định! Nếu tâm vẫn phan duyên, vẫn chấp tướng, sẽ chẳng có Thiền Định! Do đó, điều này hoàn toàn giống như lời trưởng giả Dục Hương đã nói trong kinh Hoa Nghiêm.

 

(Sao) Giáo khai tứ chủng tam-muội.

() 教開四種三昧。

(Sao: Trong Giáo, lập ra bốn loại tam-muội).

 Tam-muội là Thiền Định. Nói tổng quát, Thiền Định có bốn cách tu, loại thứ nhất…

 

(Sao) Nhất viết thường hành.

() 一曰常行。

(Sao: Một là thường hành).

“Thường hành” là kinh hành, đặc biệt thích hợp cho người cao tuổi. Loại thứ hai…

 

(Sao) Nhị viết thường tọa.

() 二曰常坐。

(Sao: Hai là thường ngồi).

“Thường ngồi” phải tu học khi còn trẻ, người tuổi cao chẳng được. Người lớn tuổi thể lực chẳng đủ, ngồi lâu chịu không được! Thường ngồi thì người trẻ cỡ hai mươi, ba mươi tuổi tu được, vì lúc ấy, chân người đó khá mềm dẻo, có thể ngồi đến mức công phu thật sự đắc lực, huyết mạch thông suốt, chẳng đến nỗi tê đau. Từ ba mươi tuổi trở lên, khó khăn hơn. Nhưng người tuổi cao như chúng tôi, khoanh chân ngồi, ngồi chưa lâu đùi đã nhức, chứng minh [tu cách này] không được! Các vị lão hòa thượng có thể ngồi mấy tiếng đồng hồ chẳng dời chỗ, là do các Ngài đã luyện khi còn trẻ. Chúng ta tuổi trung niên trở lên học Phật, [tu cách này] không được, chẳng cần phải miễn cưỡng học. Chúng ta học Thường Hành tam-muội, chẳng học Thường Tọa. Loại thứ ba…

 

(Sao) Tam viết bán hành, bán tọa.

() 三曰半行半坐。

(Sao: Ba là nửa đi, nửa ngồi).

Nửa đi, nửa ngồi: Bản thân tôi niệm Phật là thời gian đi kinh hành dài hơn thời gian ngồi niệm. Đi kinh hành tới khi mệt bèn ngồi xuống niệm. Ngồi một lát, khôi phục, lại đứng lên đi. Loại thứ tư…

 

(Sao) Tứ viết phi hành, phi tọa.

() 四曰非行非坐。

(Sao: Bốn là chẳng đi, chẳng ngồi).

 Nhà Phật thường nói bốn câu này, nêu rõ: Tu học tam-muội chẳng đặt nặng hình thức, mà coi trọng công phu chân thật. Công phu chân thật, nói theo cách đơn giản nhất, sẽ là tâm địa thanh tịnh. Cương lãnh tu học trong Đại Thừa Phật pháp là Giác, Chánh, Tịnh. Giác, Chánh, Tịnh là một mà ba, tuy ba mà một. Đối với ba chữ ấy, quý vị đạt được một, tất nhiên sẽ đồng thời đạt được hai cái kia. Chẳng thể nói tâm ta thanh tịnh, nhưng ta còn mê hoặc, điên đảo, ta còn tà tri tà kiến, chẳng có lẽ ấy! Người thật sự giác ngộ tâm nhất định thanh tịnh, người đại khai viên giải chánh tri chánh kiến, nhất định là giác ngộ, nhất định là thanh tịnh. Vì thế, đích xác là một mà ba, tuy ba mà một. Công phu thực hiện thuận tiện nhất, dễ dàng nhất, không gì hơn cầu Tịnh [trong Giác, Chánh, Tịnh].

Do đó, Tịnh Tông đặc biệt coi trọng tâm thanh tịnh, nhất tâm bất loạn, công phu thành phiến, chú trọng điều này. Tâm thật sự thanh tịnh, phiền não ít, trí huệ liền tăng trưởng. Trí huệ tăng trưởng là Giác, chẳng mê; mê là phiền não, giác là trí huệ, tự nhiên giác chứ không mê, chánh chứ không tà. Vì thế, so với hết thảy các pháp môn để nói, đích thực là pháp này có chỗ đặc biệt thù thắng, học dễ dàng!

 

(Sao) Tựu thử văn trung, tắc duy đệ nhất.

() 就此文中,則唯第一。

(Sao: Vậy thì trong đoạn văn này, chỉ nêu ra cách thứ nhất).

 Trong kinh văn này, chỉ lấy loại thứ nhất trong bốn loại tam-muội là Thường Hành. Có thể thấy người trong Tây Phương Cực Lạc bình thường tu hành, những người dùng phương thức thứ nhất chiếm đa số.

 

(Sao) Nhiên nhị bộ trung, giai ngôn vãng sanh giả, tọa liên hoa trung.

() 然二部中,皆言往生者,坐蓮華中。

(Sao: Nhưng trong hai bộ kinh, đều nói người vãng sanh ngồi trong hoa sen).

“Nhị bộ” là hai bộ Đại Bổn và Tiểu Bổn. Kinh có kích thước lớn là kinh Vô Lượng Thọ, kinh có phân lượng nhỏ là kinh A Di Đà. Trong hai kinh đều nói, khi vãng sanh ngồi trong hoa sen vãng sanh. Điều này quả thật đã nói rõ: Bên kia quả thật có ngồi, chẳng phải là không ngồi, có ngồi!

 

(Sao) Bát Châu tam-muội tắc phục ngôn lập, đương tri dĩ hành nhiếp tọa, cập tứ oai nghi cố.

() 般舟三昧則復言立,當知以行攝坐,及四威儀故。

(Sao: Bát Châu tam-muội lại nói là “đứng”, nên biết [kinh văn chỉ] nói “đi” là đã bao gồm cả ngồi và bốn oai nghi).

Kinh nói đơn giản, chỉ nói một [oai nghi] là Đi, nhưng đi, ở, nằm, ngồi đều thuộc trong ấy. Người bên cõi kia quả thật sống đời thanh nhàn, tự tại!

 

(Diễn) Giáo khai tứ chủng tam-muội, nhất viết Thường Hành giả, xuất Bát Châu Tam Muội Kinh, diệc danh Phật Lập tam-muội. Thành thời, kiến thập phương Phật tại không trung lập, dĩ cửu thập nhật vi nhất kỳ.

() 教開四種三昧,一曰常行者,出般舟三昧經,亦名佛立三昧。成時,見十方佛在空中立,以九十日為一期。

(Diễn: “Trong Giáo, lập ra bốn thứ tam-muội”: Loại thứ nhất là Thường Hành, xuất xứ từ kinh Bát Châu Tam Muội, còn gọi là Phật Lập tam-muội. Khi tu thành, sẽ thấy mười phương Phật đứng trong hư không, [pháp tu này] lấy chín mươi ngày làm một kỳ [tu tập]).

Kinh Bát Châu Tam Muội dạy điều này. Chư vị đồng tu đọc kinh này đừng chấp trước. Chớ nên vừa trông thấy điều này [bèn nghĩ] “ta phải phát tâm tu”. Quý vị tu chẳng thành công! Chớ nên miễn cưỡng, chớ nên học cho dễ coi, chớ nên lừa mình, dối người, căn tánh của mỗi cá nhân khác nhau. Tu học Ban Châu Tam Muội, nói thật thà, thường là mười mấy, hai mươi tuổi [mới dễ tu], ba mươi tuổi trở đi, tu học khá khó khăn. Suốt chín mươi ngày không ngủ nghê. Không chỉ chẳng ngủ nghê, mà còn không được ngồi xuống, có thể đứng, có thể đi, nhưng không được ngồi xuống, đương nhiên càng không thể nằm xuống. Đó là Phật Lập Tam Muội, cũng là chuyên niệm A Di Đà Phật. Không được phép ngồi xuống, không được phép ngủ, ngày đêm [niệm Phật, kinh hành] chẳng gián đoạn suốt chín mươi ngày, gọi là Bát Châu tam-muội. Quý vị ngẫm xem, người nào tu được? Sau khi tu thành, người ấy thấy mười phương chư Phật đứng trên không trung, đó là cảm ứng.

Hiện thời có rất nhiều người nói: “Người nào đó thật sự phát tâm bế quan tu Bát Châu tam-muội”, tôi nghe nói, chắp tay chúc mừng, khó có, vì sao? Tôi làm không được, tôi một ngày một đêm phải ngủ. Suốt chín mươi ngày, tức là ba tháng không ngủ, khó quá! Người bình phàm chẳng thể làm chuyện này! Nếu nói suốt ba mươi ngày ngủ đẫy giấc niệm Phật, tôi tin tưởng, người bình phàm đều có thể làm được. Ba mươi ngày không ngủ nghê, không ngồi xuống, nói cho quý vị biết, thật sự là bán tín bán nghi, đó là nói cho dễ nghe. Chứ nói khó nghe là về căn bản tôi chẳng tin tưởng! Chư vị đồng tu phải biết: Chuyện này xác thực là có, nhưng người nào mới có thể tu? Người tâm địa khá thanh tịnh! Người tâm địa thanh tịnh bèn ngủ ít. Chư thiên Sắc Giới đắc Thiền Định, chẳng ngủ. Do ngũ dục là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê họ đều không có, cho nên chẳng cần ăn gì, cũng chẳng cần phải ngủ, đương nhiên chẳng có vấn đề. Đừng nói là chín mươi ngày, chín trăm ngày, chín ngàn ngày cũng chẳng có vấn đề. Nhưng quý vị chẳng có công phu ấy, sẽ làm không được! Quý vị làm như vậy sẽ phá hỏng thân thể, quyết định chớ nên miễn cưỡng. Do đó, trong Phật môn, chớ nên khuyên kẻ khác làm chuyện giống như chuyện này.

Thầy Lý giảng kinh, thuyết pháp suốt bốn mươi năm tại Đài Trung, lão nhân gia chẳng khuyên người khác ăn chay, mà khuyên quý vị học Phật, khuyên quý vị quy y, chẳng khuyên quý vị thọ giới, có mấy điều Ngài chẳng nói đến, vì sao? Quý vị công phu chẳng đủ. Cũng chẳng khuyên ăn chay, lại càng chẳng khuyên người khác chỉ ăn ngọ. Những việc như vậy chẳng thể miễn cưỡng, phải do người ấy tự động phát tâm. Hơn nữa, đối với chuyện chỉ ăn ngọ, [tức là] buổi trưa ăn một bữa, nếu tâm địa khá thanh tịnh, phiền não ít, sẽ tự nhiên có thể làm được; vì tâm địa thanh tịnh sẽ tiêu hao ít năng lượng. Ăn uống là [bổ sung] nguồn năng lượng, [tức là] nguồn năng lượng tạo ra nhiệt độ thân thể, thức ăn chuyển đến dạ dày [được hấp thụ] liền sanh ra năng lượng bồi đắp sự tiêu hao nơi thân thể. Thân thể là một bộ máy. Nếu quý vị không thêm nhiên liệu, sẽ bị hỏng hóc; nhưng thể chất nơi thân thể mỗi người khác biệt, có người tiêu hao nhiều, có kẻ tiêu hao ít. Tiêu hao nhiều bèn bổ sung nhiều; tiêu hao ít, tự nhiên bổ sung ít đi.

Tiêu hao năng lượng nhiều nhất là gì? Thưa cùng chư vị, là vọng tưởng. Chín mươi lăm phần trăm thức ăn của chúng ta bị tiêu hao nơi vọng tưởng. Nếu quý vị chẳng có vọng tưởng, tự nhiên tiêu hao ít đi. Thật ra, lao tâm, lao lực tiêu hao rất ít, vọng niệm tiêu hao rất nhiều. A La Hán đắc Cửu Thứ Đệ Định, chẳng có vọng niệm, tiêu hao ít, mỗi tuần ăn một lần là đủ rồi. Bích Chi Phật công phu định lực càng sâu hơn A La Hán, tiêu hao càng ít, nửa tháng ăn một bữa là đủ rồi. Một người bình phàm chúng ta ngày ăn ba bữa, còn phải ăn vặt, buổi tối phải ăn thêm bữa khuya, chứng tỏ điều gì? Vọng niệm quá nhiều, chẳng bổ sung không được, không thể nào chẳng bổ sung! Do đó, thầy Lý chẳng khuyên kẻ khác trì ngọ. Vì sao chẳng khuyên người khác ăn chay? Vì có rất nhiều người muốn học Phật, nhưng sợ ăn chay, hễ nghe nói ăn chay, họ sẽ không đến. Thầy Lý nói không cần ăn chay, họ đều tới, lôi kéo nhiều người tới. Thầy có phương pháp riêng, nên chẳng khuyên kẻ khác ăn chay. Học Phật kiểu ấy bèn thuận tiện. Mọi người biết học Phật không nhất định phải ăn chay, nên chẳng sợ hãi.

Chúng ta phải hiểu là có những phương pháp tu hành trong nhà Phật, người bình phàm tuyệt đối chẳng thể tu học. Tu thành môn tam-muội ấy, tâm thật sự thanh tịnh, phiền não nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng, đó là điều tất nhiên. Do đó, người học Phật chúng ta đầu óc phải sáng suốt, chớ nên tùy tiện để kẻ khác gạt gẫm. Kẻ nào đó nói: “Tôi đã từng tu Bát Châu tam-muội vào lúc nào đó”, đương nhiên quý vị bội phục kẻ ấy năm vóc sát đất, nhưng kẻ ấy tu Bát Châu tam-muội trong chín mươi ngày có đúng là chẳng ngồi xuống hay không? Hay là chín mươi ngày ngồi hoặc nằm trên giường tu? Chúng ta chẳng biết! Không biết thì nhìn từ chỗ nào? Nhìn vào tư tưởng, ngôn ngữ, hành trì của người ấy sẽ biết, những thứ ấy chẳng thể lừa người khác. Thật sự trải qua công phu như vậy, người ấy là thánh nhân, chẳng phải là người thường. Vì Bát Châu tam-muội chẳng giống các tam-muội khác, dẫu thoái thất, vẫn chẳng thoái thất rất nhiều. Người ấy tu công phu này quá sâu, nếu tâm chẳng thanh tịnh, nếu tín tâm chẳng kiên cố, chắc chắn chẳng thể chịu đựng chín mươi ngày! Có thể nói là ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh của người ấy đã đạt tới cảnh giới kha khá. Sau chín mươi ngày ấy, có thể nói một câu thật thà là người ấy đã quyết định nắm chắc vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu hãy còn tham luyến, còn mê chấp tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần trong thế gian này, mà kẻ ấy nói đã tu Bát Châu tam-muội, tôi chẳng dám tin tưởng! Vì sao? Chẳng tương xứng với lời nói và việc làm của kẻ ấy, chúng ta phải nên hiểu điều này!

 

(Diễn) Nhị viết thường tọa giả, xuất Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, diệc danh Nhất Hạnh tam-muội, duy chuyên niệm pháp giới cố dã, diệc dĩ cửu thập nhật vi nhất kỳ.

() 二曰常坐者,出文殊師利所摩訶般若波羅蜜經,亦名一行三昧,唯專念法界故也,亦以九十日為一期。

(Diễn: Hai là Thường Tọa, phát xuất từ kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, còn gọi là Nhất Hạnh tam-muội, vì chỉ chuyên niệm pháp giới, cũng lấy chín mươi ngày làm kỳ hạn).

Bát Châu tam-muội là chỉ có thể đi, chỉ có thể đứng, chẳng thể ngồi xuống. Trong kinh Văn Thù Bát Nhã có nói phương pháp tu hành chẳng cần phải đi, chẳng cần phải đứng, mà là ngồi. Nói thật thà, ngồi chín mươi ngày dễ hơn Bát Châu tam-muội, trong chín mươi ngày ấy thật sự nhập Thiền Định. Các vị đọc Hư Vân Lão Hòa Thượng Niên Phổ, sẽ thấy có lúc lão hòa thượng hễ nhập Định bèn nhập Định nửa tháng, hoặc một tháng, hai tháng là chuyện rất thường. Có lần hòa thượng nhập Định nhằm tiết Đông, nhằm lúc giao thừa. Trước giao thừa, hòa thượng luộc một nồi khoai. Sau khi bỏ khoai vào nồi, nhóm lửa xong, lão nhân gia tĩnh tọa bên cạnh bèn nhập Định. Hễ nhập Định, Ngài cũng chẳng hay biết gì, năm cũ đã trôi qua, sau Tết, có mấy người bạn đến chúc Tết Ngài. Khi đến chúc Tết, thấy lão hòa thượng còn đang tĩnh tọa, lại thấy khoai trong nồi đã mọc rêu, bèn dùng dẫn khánh gõ bên tai Ngài, ngay lập tức Ngài xuất Định: “Các ông đến đúng lúc quá, hãy cùng ăn nồi khoai tôi luộc”. “Lão hòa thượng, Ngài luộc khoai lúc nào?” “Ta luộc khoai hôm nọ, vừa mới luộc mà!” Ngày Tết đã qua lâu rồi, Ngài nhập Định hơn nửa tháng, mà cảm thấy chỉ có vài phút. Lão hòa thượng Hư Vân suốt đời chẳng tu Bát Châu tam-muội, nhưng đích xác là Ngài thường tu Thường Tọa tam-muội. Thật sự có công phu định lực thì chuyện này là chuyện có thể, cũng lấy chín mươi ngày làm một kỳ!

 

(Diễn) Tam viết bán hành bán tọa giả, xuất Pháp Hoa, Phương Đẳng nhị kinh, Pháp Hoa tam thất nhật vi nhất kỳ, Phương Đẳng bất hạn thời tiết.

() 三曰半行半坐者,出法華方等二經,法華三七日為一期,方等不限時節。

(Diễn: Ba là “nửa đi, nửa ngồi”, xuất phát từ hai kinh Pháp Hoa và Phương Đẳng. Pháp Hoa lấy hai mươi mốt ngày làm hạn, Phương Đẳng chẳng hạn định thời gian).

Ở đây vừa có ngồi, vừa có đi, giống như nay chúng ta đả Phật Thất, nhiễu Phật và chỉ tịnh là dùng phương pháp này trong kinh Phương Đẳng, chẳng hạn định kỳ hạn; nhưng trong kinh Pháp Hoa là hai mươi mốt ngày, [tức là] lấy hai mươi mốt ngày làm một kỳ.

 

(Diễn) Tứ phi hành phi tọa giả, diệc danh tùy tự ý, ý khởi tức quán cố dã. Phương pháp xuất Thỉnh Quán Âm đẳng chư Đại Thừa kinh, thông ư tứ nghi, cập chư tác vụ.

() 四非行非坐者,亦名隨自意,意起即觀故也。方法出請觀音等諸大乘經,通於四儀,及諸作務。

(Diễn: Bốn là chẳng đi, chẳng ngồi, còn gọi là Tùy Tự Ý, vì ý khởi lên liền quán. Phương pháp này phát xuất từ các kinh Đại Thừa như Thỉnh Quán Âm v.v… áp dụng cho khắp bốn oai nghi và các việc làm lụng).

 Ở Hoàng Mai, Lục Tổ đại sư tu pháp này, giã gạo, bửa củi, chẳng đi, chẳng ngồi, Ngài làm lụng, làm lụng cũng là tam-muội. Đó là đi, đứng, ngồi, nằm đều có, chẳng hạn cuộc! Nói thật ra, chúng ta tu học phương pháp này hết sức thích hợp. Hơn nữa, trong xã hội hiện đại, mọi người công việc vô cùng bận rộn, sức ép rất nặng, chọn phương pháp này để tu hành là thuận tiện nhất.

Trong Phật Thất phổ thông, Hành Sách đại sư là tổ sư đời thứ mười của Tịnh Tông, đã dùng phương pháp “nửa đi, nửa ngồi”. Ngài chia người niệm Phật thành ba ban, mỗi ban có bốn người xuất gia lãnh chúng, dẫn một ban kinh hành, hai ban kia chỉ tĩnh. Người đi kinh hành phải niệm ra tiếng, người chỉ tĩnh không niệm, người chỉ tĩnh nghỉ ngơi, chuyên môn nghe, [tức là] nghe tiếng niệm Phật của người đi kinh hành, trong tâm chuyên nghe, chẳng khởi vọng niệm, nghe Phật hiệu, nhưng không niệm. Làm như vậy thì mỗi ban niệm một ngàn câu, ban thứ nhất niệm một ngàn câu xong bèn chỉ tĩnh, ban thứ hai kinh hành, thay phiên nhau niệm. Ban thứ hai niệm một ngàn câu xong, ban thứ hai chỉ tĩnh, ban thứ ba kinh hành. Ban thứ ba niệm một ngàn câu xong, lại luân lưu tới ban thứ nhất. Ngài dùng phương thức này để niệm Phật quanh năm, ngày lẫn đêm đều dùng phương pháp này, giống như Phật Thất, lấy bảy ngày làm hạn, hoặc là hai thất, hoặc là ba thất, sử dụng phương pháp này. Phương pháp này hay lắm, người ta chẳng mệt mỏi, họ niệm một ngàn câu, có thời gian thích đáng để nghỉ ngơi, khôi phục thể lực, đến phiên lại niệm tiếp. Do vậy, họ có thể phấn chấn tinh thần, có thể kéo dài thời gian; [vì lẽ đó, tổ Hành Sách] chọn lựa phương pháp này. Trong Niệm Phật Đường, thưa cùng chư vị, chỉ có một câu Phật hiệu, chẳng có gì khác. Phật Thất thông thường của chúng ta trong hiện tại, nói thật thà là pháp hội Phật Thất, vì sao? Trong ấy có xướng tán, tụng kinh, hồi hướng, thậm chí còn niệm sớ văn, có quá nhiều thứ! Đối với người niệm Phật mà nói, những thứ ấy là xen tạp, xen tạp rất nhiều thứ trong ấy, chẳng chuyên, chẳng tinh.

Một Niệm Phật Đường thật sự, trong mười hai thời chỉ có một câu Phật hiệu. Tại núi Linh Nham ở Tô Châu, vào thời lão pháp sư Ấn Quang tại thế, Niệm Phật Đường của Ngài là một câu Phật hiệu A Di Đà Phật từ sáng đến tối, từ mùng Một tháng Giêng đến Ba Mươi tháng Chạp, ngày đêm đều chẳng gián đoạn. Cách niệm ngày đêm không gián đoạn là như thế nào? Ban ngày mọi người luân lưu chia ban niệm như vậy, ban đêm luân lưu trực ban. Bốn người một ban, đại khái mỗi ban niệm hai tiếng đồng hồ. Người trực ban chẳng thể nào không đến niệm, người không trực ban có thể tùy hỷ. Quý vị có tinh thần, thích niệm thì cứ đến niệm theo. Nếu không niệm, quý vị trở về liêu phòng nghỉ ngơi. Quy củ trong Niệm Phật Đường là theo kiểu ấy.

Vì thế, bước vào Niệm Phật Đường, kinh cũng không xem. Đại chúng bên ngoài Niệm Phật Đường, chiếu theo khóa tụng sáng tối để tụng niệm. Khóa tụng trong Đại Hùng Bảo Điện hoàn toàn giống như bình thường: Chú Lăng Nghiêm, mười tiểu chú, chú Đại Bi, niệm những thứ ấy. Trong Niệm Phật Đường chẳng có; bước vào Niệm Phật Đường bèn chuyên tu Tịnh Độ, chẳng có những thứ xen tạp ấy. Lấy một thất hay bảy thất làm kỳ hạn, hoàn tất bảy thất bèn có đại hồi hướng, kể ra rất đặc thù, đó là Phật Thất thông thường. Trong Niệm Phật Đường quanh năm chẳng có đại hồi hướng, vì sao? Mục đích của họ là cầu sanh Tịnh Độ, nên pháp môn này được gọi là “pháp môn không hồi hướng”. Thật ra, chẳng hồi hướng chính là vô thượng hồi hướng, niệm niệm hướng tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm niệm mong thấy A Di Đà Phật, nên niệm niệm đều là hồi hướng, chẳng cần phải hồi hướng nữa!

Hiện thời, chúng tôi lập ra ban niệm Phật tại ngoại quốc, phương pháp được chọn để sử dụng là loại thứ tư “không đi, không ngồi”, chọn lựa cách tùy ý, tùy thuộc ý nghĩ của chính quý vị. Ở ngoại quốc, tôi khuyên lơn, khích lệ các đồng tu mỗi tháng tối thiểu niệm Phật suốt một ngày, một ngày là hai mươi bốn tiếng đồng hồ, mỗi tháng niệm một ngày, trong hai mươi bốn giờ Phật hiệu chẳng gián đoạn, nhưng chọn lựa tùy ý. Khi niệm Phật có thể đi kinh hành, nhiễu Phật niệm, có thể ngồi niệm, hoặc vừa lạy vừa niệm. Lúc nào kinh hành, lúc nào ngồi, lúc nào lạy, tùy thuận ý nghĩ của quý vị, chẳng cần cùng làm với đại chúng. Đại chúng cùng nhau làm sẽ bị bó buộc, chẳng tự tại!

Chúng tôi chia Phật đường thành ba khu vực, ở giữa là chỗ đặt tượng Phật, đó là khu vực lạy Phật, quý vị thích lạy Phật, đến lạy nơi đó. Khu vực phía sau chỗ bái Phật là chỗ chỉ tĩnh, ngồi niệm Phật ở đó, bên cạnh là khu nhiễu Phật. Quý vị thích nhiễu Phật, quý vị đi nhiễu Phật bên cạnh. Nhiễu đã mệt, bèn đến ngồi ở phía sau. Ngồi chán rồi, quý vị muốn lạy, bèn đến phía trước lạy. Vì vậy, chia Phật đường thành ba khu vực, hoàn toàn tùy ý; chẳng cần mọi người cùng nhau lạy, cùng nhau ngồi, cùng nhau kinh hành. Cứ làm như vậy, họ liền cảm thấy rất tự tại, rất hoan hỷ, chẳng bị bó buộc! Quý vị đến trễ cũng chẳng sao, quý vị lui ra sớm cũng chẳng sao, chẳng chào hỏi bất cứ ai, tiến vào Niệm Phật Đường là một câu A Di Đà Phật, thấy bất cứ ai đều chẳng chào hỏi, niệm một câu Phật hiệu đến cùng! Quý vị có chuyện quan trọng phải đi sớm thì thích lúc nào bèn đi lúc đó, lúc đi cũng chẳng cần phải chào hỏi ai. Quý vị có chuyện, phải đến trễ một chút cũng chẳng sao. Cửa Niệm Phật Đường mở toang, tự do ra vào, mọi người đều thuận tiện, đều hoan hỷ.

Phương pháp [được Sớ Sao nói] ở đây là loại thứ tư, không đi, không ngồi, “diệc danh tùy tự ý” (còn gọi là Tùy Tự Ý). Phương pháp này “thông ư tứ nghi” (gồm chung bốn oai nghi), “tứ nghi” là đi, ở, ngồi, nằm. Có những kẻ sơ học, thể lực không khá, hai mươi bốn giờ chẳng ngủ sẽ chẳng thể nào làm được. Khi rất mệt mỏi, có thể ngủ gật, nhưng đừng nằm trên giường, chớ nên cởi áo hải thanh. Quý vị ngồi trên sofa ngủ một chút, ngủ nửa tiếng hay một tiếng, hễ giật mình tỉnh giấc lại niệm tiếp, chọn lựa phương pháp này. Niệm lâu ngày, tâm thanh tịnh, đích xác là càng niệm tinh thần càng tốt đẹp, chẳng cần ngủ. Hễ còn phải ngủ, nói cách khác, công phu vẫn chưa thật sự đi vào nề nếp. Người thật sự đi vào nề nếp chẳng cần ngủ, nhưng suốt hai mươi bốn giờ tinh thần sung mãn. Quý vị tối đa nghỉ ngơi một, hai giờ, thể lực liền khôi phục, chẳng cảm thấy rất mệt mỏi, đó là quý vị công phu thật sự đắc lực. Cảm thấy rất mệt mỏi, còn phải đi ngủ, còn phải ngủ suốt tám giờ đồng hồ, đều là chưa đi vào nề nếp, công phu chưa đắc lực!

“Cập chư tác vụ, công tư thông cự” (Và các công việc, công tư bề bộn) chuyện công, chuyện tư, “thông cự” (怱遽) là rất bận rộn, “diệc bất ngại tu” (cũng chẳng trở ngại tu tập), dùng phương thức này chẳng trở ngại. “Phương thức này” là trì danh niệm Phật. Trì danh niệm Phật, đi, ở, ngồi, nằm, chỉ cần là chuyện hoặc việc chẳng cần dùng đến suy nghĩ, đều có thể niệm. Vì thế, đây là loại thuận tiện bậc nhất trong bốn loại tam-muội.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh thường định, thị phạn thực nghĩa. Tự tánh thường huệ, thị kinh hành nghĩa.

() 稱理,則自性常定,是飯食義。自性常慧,是經行義

(Sớ: Xứng Lý, tự tánh thường định là ý nghĩa “ăn cơm”. Tự tánh thường trí huệ là ý nghĩa “kinh hành”).

Điểm đặc sắc lớn nhất của Sớ Sao là toàn bộ câu chữ trong kinh văn đều tiêu quy tự tánh. Xứng Lý là tiêu quy tự tánh, có thể đọc kinh văn tương ứng với Chân Như bổn tánh; chúng ta đọc Sớ Sao nhất định phải hiểu, phải học tập sự thật này. Trong tương lai, chúng ta đọc hết thảy kinh cũng giống như Liên Trì đại sư luôn có thể tiêu quy tự tánh, như vậy thì quý vị sẽ đắc đại thụ dụng. Nhà Phật nói “tiêu quy tự tánh”, Nho gia nói “tâm đắc”. Sau khi quý vị đọc xong, trong tâm thật sự đạt được, tiêu quy tự tánh bèn thật sự đạt được. Chẳng tiêu quy tự tánh, sẽ chẳng đạt được. Vì thế, tâm đắc chẳng dễ dàng! Chúng ta đọc những báo cáo đọc sách tâm đắc của rất nhiều người, [thấy trong ấy toàn là] sao chép điều này, trích lục điều kia. Đó là bút ký, hoặc tạp ký, chẳng thể coi là tâm đắc. Dẫu viết thật hay, bất quá là [tác giả] đọc xong [một tác phẩm] có chút cảm tưởng. Tâm đắc là có điều thấu hiểu, có điều lãnh ngộ; ở đây nói là Xứng Lý, tức là Ngài có chỗ thấu hiểu, có lãnh ngộ. Từ kinh văn này, Tổ ngộ ra “ăn cơm” là “tự tánh thường định”, “thường định” là lấy Thiền duyệt làm thức ăn, kinh hành là “tự tánh thường huệ”.

 

(Diễn) Tự tánh thường định giả, Na Già thường tại Định, vô hữu bất định thời. Hựu vân: “Tâm địa vô tán, tự tánh định”.

() 自性常定者,那伽常在定,無有不定時。又云:心地無散自性定。

(Diễn: “Tự tánh thường định”, Na Già thường tại Định, chẳng có lúc nào chẳng định. Lại nói: “Tâm địa chẳng tán loạn là tự tánh định”).

Na Già là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “long tượng”. Chúng ta chưa hề thấy rồng, nhưng đã từng thấy voi. Voi giống như thường ở trong Định. Nó bước đi, rất bình ổn chậm rãi, tiêu sái, giống như ở trong Định, đi, đứng, nằm, ngồi đều ở trong Định, không lúc nào chẳng Định. Đây là nêu tỷ dụ. Vì thế, chẳng cần khoanh chân ngồi xếp bằng mới là Định. Người ấy đi đường cũng Định, đứng ở chỗ nào cũng là Định, nằm ngủ vẫn là Định. Vì thế, đi, đứng, ngồi, nằm đều ở trong Định, chẳng có lúc nào không Định.

Lại nói “tâm địa vô tán”, “tán” (散) là tán loạn, nói tự tánh vốn định. Chân tâm của chúng ta chưa hề tán loạn, quý vị đọc kinh Lăng Nghiêm liền hiểu rõ. Nói thật ra, cái tâm tán loạn của chúng ta trong hiện thời là tâm ý thức, là tâm tám thức, chẳng phải là chân tâm! Chân tâm chưa hề tán loạn! Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy về chân tâm bổn tánh của hết thảy chúng sanh như sau: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Quan sát từ bản thể chân tâm của quý vị thì quý vị và Phật chẳng hai. Hiện thời quý vị chẳng giống như Phật, là vì quý vị chẳng dùng bổn tánh, mà dùng tám thức, rất tệ hại! Vì lẽ đó, những rắc rối của phàm phu do đây mà có.

Nếu điều này chẳng dễ hiểu cho lắm, chúng tôi lại nói đơn giản hơn; nhưng hễ đơn giản thì chỉ có thể nói mường tượng, rất khó nói phù hợp khít khao. Nay chúng ta thường nói là cảm tình và lý trí. Cảm tình giống như tám thức, lý trí giống như là Chân Như bổn tánh. Quý vị chẳng dùng lý trí, mà thiên lệch dùng cảm tình, phiền phức to tát! Phật, Bồ Tát dùng lý trí, chẳng dùng cảm tình; phàm phu dùng cảm tình, chẳng dùng lý trí. Vì thế, chân tâm là trí huệ, chân tâm bất động! Chỉ có bất động thì mới có trí huệ; hễ tâm động bèn là vô minh, chẳng có trí huệ nữa! Vì thế, phải hiểu: Chân tâm của chúng ta chẳng tán loạn, chân tâm chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đến, chẳng đi. Vì thế, cái được kinh Lăng Nghiêm gọi là “thường trụ chân tâm”, mỗi người chúng ta đều có đủ. Nơi Phật chẳng tăng thêm chút nào, nơi phàm phu chẳng khiếm khuyết chút nào. Đó là chân tâm, là bổn tánh của chúng ta.

Nay chúng ta học Phật là học gì? Không gì chẳng nhằm khôi phục bổn tánh của chúng ta mà thôi! Khiến cho chúng ta từ nay trở đi, trong cuộc sống, trong sinh hoạt thường ngày, dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm, đó gọi là Phật, là Bồ Tát. Phàm phu tuy có chân tâm, nhưng chẳng dùng, mà dùng vọng tâm, dùng vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên khởi Hoặc, tạo nghiệp, chịu báo, đây là chuyện rất oan uổng. Hiểu sự thật này, liền biết chư Phật, Bồ Tát và chúng ta sai biệt ở chỗ nào? Dụng tâm sai biệt, các Ngài dùng chân tâm, chúng ta chẳng dùng chân tâm. Vì thế, đức Phật giáo hóa, dạy chúng ta khôi phục bản năng (năng lực sẵn có), dùng chân tâm giống như Phật, Bồ Tát, chẳng dùng vọng tâm. Đó là sự giáo học của đức Phật.

 

(Diễn) Tự tánh thường huệ giả, nhất thiết chúng sanh giai cụ Như Lai trí huệ đức tướng, hựu vân: “Tâm địa vô si tự tánh huệ”.

() 自性常慧者,一切眾生皆具如來智慧德相,又云:心地無痴自性慧。

(Diễn: “Tự tánh thường huệ”: Hết thảy chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai. Lại nói: “Tâm địa chẳng si là tự tánh huệ”).

Câu trước [trong đoạn Diễn Nghĩa trên đây] trích từ kinh Hoa Nghiêm. Trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn đã nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, nên hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật. Tuy có, thật sự có, nhưng hiện thời chẳng khởi tác dụng, vì sao chẳng khởi tác dụng? Trong câu kinh văn kế tiếp, đức Phật nói: “Chỉ vì vọng tưởng, chấp trước, nên không thể chứng đắc”, đúng là một lời nói toạc gốc bệnh của chúng sanh từ vô thỉ kiếp tới nay. Gốc bệnh của chúng ta là vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể khôi phục tự tánh, chẳng thể hiển lộ trí huệ và đức tướng của chính mình. Do vậy, tu học Phật pháp từ đầu đến cuối là phá chấp trước mà thôi. Nhân Ngã Chấp đã phá, chứng quả A La Hán. Pháp Ngã Chấp đã phá, bèn thành Phật. Nhị Chấp là hai thứ chướng, Nhân Ngã Chấp là Phiền Não Chướng, Pháp Ngã Chấp là Sở Tri Chướng, hai thứ chấp trước này sanh ra hai loại chướng ngại to lớn, chướng ngại trí huệ và đức tướng của Như Lai chẳng thể hiện tiền. Quý vị hiểu rõ chân tướng sự thật này, nay chúng ta niệm một câu Phật hiệu này, có tác dụng gì? Phải niệm cho hết hai loại chướng ngại ấy, phải niệm cho hết hai loại chấp trước ấy, như vậy thì mới có thể vãng sanh.

Vãng sanh phải cậy vào tâm tịnh, tâm tịnh ắt cõi nước tịnh, chẳng phải do quý vị mỗi ngày niệm Phật hiệu bao nhiêu câu, chẳng phải vậy! Mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, nhưng tâm chẳng thanh tịnh, vẫn không thể vãng sanh, cổ đức đã nói: “Rách toạc cổ họng cũng uổng công”. Vì thế, trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Phẩm vị cao hay thấp, do công phu niệm Phật sâu hay cạn”, Ngài chẳng nói nhiều hay ít. Công phu sâu là niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn, hai thứ chấp trước đều phá tan. Công phu cạn hơn là niệm đến mức Sự nhất tâm bất loạn, phá một thứ chấp trước. Do vậy, có thể biết: Nếu chúng ta mong thật sự thành tựu trong một đời này, thật sự vãng sanh, thật sự đạt được lợi ích thù thắng như kinh điển đã nói thì phải nghiêm túc, nhất định phải niệm sao cho hết sạch tập khí phiền não, vọng tưởng, chấp trước! Hễ những thứ ấy hiện hành bèn là nghiệp chướng hiện tiền, nghiệp chướng là gì? Vọng tưởng là nghiệp chướng, phân biệt là nghiệp chướng, chấp trước là nghiệp chướng. Hễ những thứ ấy trồi lên, ngay lập tức [tự nhủ] “nghiệp chướng của ta hiện tiền”. Sám hối nghiệp chướng bằng cách nào? “A Di Đà Phật”, nghiệp chướng liền chẳng còn nữa. Dấy lên một câu A Di Đà Phật là sám trừ nghiệp chướng, thay thế vọng niệm, vọng tưởng, chấp trước bằng một câu A Di Đà Phật. Quý vị thật sự có thể thay thế, nghiệp chướng bèn tiêu trừ. Do đó, sám trừ thực hiện ở nơi đâu? Bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào! Tu sám trừ nghiệp chướng trong khi khởi tâm động niệm, cách tu là như vậy. Tuyệt đối chẳng phải là nói “ta tội nghiệp rất nặng”, tìm mấy vị pháp sư, tìm mấy đồng tu đến lạy Lương Hoàng Sám, vô dụng! Đang bái sám mà vẫn dấy vọng tưởng, nghiệp chướng hiện tiền y như cũ, vô dụng!

Vì thế, quý vị phải hiểu, thật sự tu hành, đừng làm theo hình thức, đừng bày ra dáng vẻ này nọ! Dáng vẻ ấy là giả, chẳng thật, vô dụng. Tu hành thật sự là công phu nơi tâm địa, sao cho quý vị có thể đạt được cái tâm thanh tịnh, gìn giữ nó, đó là công phu chân thật. “Tâm địa vô si”, chẳng có tham, sân, si. Trong chân tâm chẳng có tham, sân, si, trong chân tâm chỉ có trí huệ Bát Nhã. Trong tám thức mới có tham, sân, si, tâm sở tương ứng với tám thức mới có. Sáu căn bản phiền não và hai mươi tùy phiền não là tâm sở hữu pháp, tám thức mới có [những tâm sở ấy], trong Chân Như bổn tánh chẳng có. Do đó, nói theo tự tánh, chẳng có tham, sân, si, chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, phiền não, chỉ có trí huệ. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

— o0o —

Tập 160

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm bốn mươi ba:

 

(Sao) Thiền duyệt vi thực, cố Định hữu thực nghĩa. Trí năng vận chuyển, cố Huệ hữu hành nghĩa. Như Luận Tụng vân: “Ái nhạo Phật pháp vị, Thiền tam-muội vi thực”. Hựu Phật Địa Luận: “Tịnh độ trung chư Phật, Bồ Tát, năng thuyết, năng thọ Đại Thừa pháp vị. Hựu chánh thể trí thọ Chân Như vị, năng trụ trì thân mạng, sử bất đoạn hoại, trưởng dưỡng vạn pháp, cố danh vi Thực”.

() 禪悅為食,故定有食義;智能運轉,故慧有行義。如論頌云:愛樂佛法味,禪三昧為食。又佛地論:淨土中諸佛菩薩,能能受大乘法味,又正體智受真如味, 能住持身命,使不斷壞,長養萬法,故名為食。

(Sao: Lấy Thiền Duyệt làm thức ăn, nên Định có ý nghĩa “ăn”. Trí có thể vận chuyển, nên Huệ có ý nghĩa “đi”. Như [Vãng Sanh] Luận có bài kệ như sau: “Yêu thích pháp vị của Phật, dùng Thiền tam-muội làm thức ăn”. Phật Địa Luận lại nói: “Chư Phật, Bồ Tát trong Tịnh Độ có thể nói, có thể nhận pháp vị Đại Thừa”. Lại nữa, chánh thể trí thọ Chân Như vị, có thể duy trì thân mạng, khiến nó chẳng bị đoạn mất, hư hoại, [lại còn] trưởng dưỡng muôn pháp, nên gọi là Thực”).

“Thiền duyệt vi thực”: Phật pháp nói từ Sơ Thiền trở lên chẳng cần ăn uống, nên [người có thể lấy Thiền Duyệt làm thức ăn] chẳng thuộc trong Dục Giới, mà là đã đạt đến Sắc Giới Thiên. Sắc Giới có Tứ Thiền, bao gồm mười tám tầng trời. Sơ Thiền, Nhị Thiền, và Tam Thiền mỗi cõi đều có ba tầng trời, như Sơ Thiền là Phạm Thiên, gồm Phạm Chúng Thiên (Brahmapāriṣadya), Phạm Phụ Thiên (Brahmapurohita) và Đại Phạm Thiên (Mahābrahmā). Đệ Tứ Thiền rất đặc biệt. Tứ Thiền là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, trừ ba tầng trời bình thường [giống như Sơ Thiền, Nhị Thiền và Tam Thiền], còn có một tầng ngoại đạo thiên (tức là Vô Tưởng Thiên, Asaṃjñāsattvāh). Người tu Vô Tưởng Định thành tựu là ngoại đạo thiên. Ngoài ra, còn có nơi để thánh nhân cư trụ gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiên (Śuddhāvāsa), gồm có năm tầng[24]. Vì thế, cộng thêm một tầng ngoại đạo thiên và kể cả ba tầng thông thường ra, Tứ Thiền gồm có chín tầng trời. Thêm nữa, do Sơ Thiền, Nhị Thiền và Tam Thiền trước đó, mỗi nơi đều có ba tầng, nên Sắc Giới có tất cả mười tám tầng trời. Chư thiên trong các tầng trời ấy đều không cần ăn uống, càng lên cao, công phu Thiền Định càng sâu. Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, là Ngũ Dục. Từ Sơ Thiền trở lên, thảy đều chẳng có [Ngũ Dục], họ chẳng cần ngủ, cũng không cần ăn uống. Trong Ngũ Dục, chúng ta thấy hai điều ấy vô cùng nghiêm trọng. Tài còn có thể không cần, danh cũng có thể chẳng cần, sắc cũng có thể chẳng cần, chứ ăn và ngủ chẳng thể nào không cần! Chúng ta quyết định không thể nào làm được! Do đó, phải hiểu, từ Sắc Giới trở lên, trọn chẳng cần ăn uống, “Thiền duyệt vi thực”.

Chúng ta hãy nghĩ, người hạ hạ phẩm vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng vượt trỗi Tứ Thiền Thiên, bất luận là công phu định lực, trí huệ hay phước báo đều vượt xa lục đạo. Đại Phạm Thiên Vương cũng chẳng thể sánh bằng họ, lẽ nào còn có ăn uống? Trong phần trước, tổ sư đã giải thích cũng rất có lý, nói [cõi Cực Lạc] “có ẩm thực” chỉ là đối với chúng sanh trong Dục Giới như chúng ta. Chúng ta niệm Phật đới nghiệp vãng sanh, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, tập khí ăn uống và ngủ nghê vẫn chưa đoạn, thỉnh thoảng nghĩ tới: “Cớ sao đã lâu rồi mà chưa ăn”, có ý niệm ấy. Tây Phương Cực Lạc thế giới rất kỳ diệu, hết thảy các pháp đều là biến hóa mà thành. Quý vị vừa động một niệm, thức ăn trăm vị liền hiện tiền. Sau khi hiện tiền mới biết: Nay chúng ta đang ở trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng phải ở trong thế giới Sa Bà, chẳng dùng những thứ ấy. Chẳng cần nữa, chúng liền chẳng có, liền biến mất!

Trong Thiền Định sanh ra niềm vui thích có thể bồi đắp tinh thần, khiến cho chúng ta tinh thần phấn chấn, chẳng mệt mỏi, nên [Thiền Định] còn có ý nghĩa “ăn uống”. Trong Dục Giới, tác dụng lớn nhất của ăn uống cũng là vun bồi, nuôi nấng thân mạng, nên [Thiền duyệt] có công năng và ý nghĩa giống hệt như vậy.

 

(Diễn) Thiền duyệt vi thực, Định hữu thực nghĩa giả, Thiền Định tư thần, khinh an, thích duyệt cố.

() 禪悅為食定有食義者,禪定資神,輕安適悅故。

(Diễn: Thiền duyệt làm thức ăn, Định có ý nghĩa là “ăn”: Thiền Định có thể bồi bổ tinh thần, nhẹ nhàng, yên vui, thoải mái).

“Tư” (資) là bồi bổ, “thần” là tinh thần, [“tư thần”] là bồi bổ tinh thần. “Khinh an, thích duyệt”: Không chỉ là tinh thần, ngay cả thân thể cũng được bao gồm trong ấy, thân lẫn tâm đều sung sướng! Vì thế, Thiền Định có ý nghĩa “ẩm thực”. Trong thế gian này, khi chúng ta ăn no, tinh thần thoải mái, thể lực cũng khôi phục.

 

(Diễn) Trí năng vận chuyển, Huệ hữu hành nghĩa giả, trí thể vô trụ, vận hành hoạt bát cố.

() 智能運轉慧有行義者,智體無住,運行活潑故。

(Diễn: Trí có thể vận chuyển, nên huệ có nghĩa là “đi”: Do trí thể chẳng trụ, vận hành hoạt bát).

“Trí năng vận chuyển”, Trí là có thể hiểu rõ, thông đạt hết thảy các pháp, nên nó có ý nghĩa là “đi”. Đều là quy kết tự tánh để nói, tức là tự tánh định, tự tánh huệ. “Trí thể vô trụ, vận hành hoạt bát cố”: Nay chúng ta tuy có thể vận hành, nhưng chẳng hoạt bát. Người tuổi càng cao, hành động càng chẳng thuận tiện, chẳng nhanh nhẹn như kẻ trẻ tuổi! Nói theo y học, nguyên nhân là do cao tuổi, bị lão hóa, hành động chẳng thuận tiện. Định Huệ được nói trong Phật pháp chính là tâm địa thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh, không chỉ tinh thần no đủ, mà thân thể cũng chẳng dễ gì bị lão hóa. Lão hóa là điều không thể tránh được, nhưng người ấy già suy rất chậm, chẳng giống những người thường già suy rất nhanh. Nếu công phu định lực rất sâu, người ấy chẳng già, xác thực là có thể khống chế thân thể.

Trong kinh Phật có nói, vào thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật, đức Phật có hai vị đệ tử cho đến hiện tại vẫn còn ở trong nhân gian. Chiếu theo cách tính toán của người Hoa, đức Phật diệt độ đã hơn ba ngàn năm, nhưng hai vị ấy vẫn còn tại thế. Một vị là tôn giả Ca Diếp, đức Phật phó chúc Ngài phải đợi Phật Di Lặc xuất hiện trong thế gian này, đem y bát của Thích Ca Mâu Ni Phật trao truyền cho Phật Di Lặc rồi mới có thể diệt độ. Do đó, tôn giả Ca Diếp ở trong nhân gian chúng ta, chẳng nhập diệt. Vị thứ hai là tôn giả Tân Đầu Lô, đức Phật không cho phép tôn giả nhập diệt, buộc Ngài làm phước điền cho hết thảy chúng sanh trong thời kỳ Mạt Pháp. Quý vị thành tâm thành ý cúng trai, Ngài sẽ đến ứng cúng. Ngài thị hiện hình dạng gì? Không biết! Không ai nhận biết, Ngài biến hóa. Đây là do Thiền Định rất sâu, có thể khiến cho sắc thân này thường trụ. A La Hán có năng lực ấy, huống hồ Bồ Tát? Huống hồ Phật? Đương nhiên là có năng lực này! Chư Phật, Bồ Tát tuy có năng lực này, nhưng chẳng trụ thế. Chẳng trụ thế là do nguyên nhân nào? Chúng sanh phước mỏng! Nếu các Ngài dùng thân phận Phật, Bồ Tát để trụ thế, chẳng có lợi gì cho chúng sanh, vì chúng sanh chẳng có tâm cung kính đối với các Ngài. Không chỉ chẳng cung kính, mà còn hủy báng Phật, Bồ Tát, tạo tội nghiệp càng nặng. Do đó, các vị Phật, Bồ Tát chẳng dùng thân phận của chính mình xuất hiện trên thế gian. Phật, Bồ Tát rất từ bi, có thể dùng thân biến hóa, biến hóa thành tại gia cư sĩ, biến hóa thành một người xuất gia tầm thường, vì quý vị thấy những người ấy sẽ chẳng hủy báng, chẳng tạo khẩu nghiệp. Vì lẽ đó, các Ngài chẳng dùng thân phận vốn có để xuất hiện trên thế gian.

[Sách Diễn Nghĩa giảng câu]:  “Như luận tụng vân:  Ái nhạo Phật pháp vị, Thiền tam-muội vi thực” [như sau]:

 

(Diễn) “Như luận” chi luận, thị Vãng Sanh Luận. Như luận tụng vân hạ, thị dẫn chứng, thực hữu lục đoạn, hành hữu nhất đoạn.

() 如論之論,是往生論。如論頌云下,是引證,食有六段,行有一段。

(Diễn: Chữ Luận trong “như Luận” chỉ Vãng Sanh Luận. Từ câu “luận tụng rằng” trở đi là dẫn chứng, có sáu đoạn nói về ăn, một đoạn nói về đi).

“Như Luận tụng vân”: Nêu một bài kệ tụng trong Luận để chứng minh, “Luận” [ở đây] là Vãng Sanh Luận. Thông thường, trước chữ Luận có kể thêm tên gọi như Đại Trí Độ Luận, Du Già Sư Địa Luận, Khởi Tín Luận. Đối với kinh điển Tịnh Tông, chỉ nói một chữ Luận, chẳng kể tên, chắc chắn là Vãng Sanh Luận. Trong Vãng Sanh Luận có nói: “Ái nhạo Phật pháp vị, Thiền tam-muội vi thực”. “Dẫn chứng”: Dẫn Vãng Sanh Luận để chứng minh. Vãng Sanh Luận do Thiên Thân Bồ Tát soạn, Đàm Loan đại sư viết chú giải, đặt tên là Vãng Sanh Luận Chú, chú giải hết sức hay! Ngài Đàm Loan là người thuộc thời đại Nam Bắc Triều, có cống hiến hết sức lớn đối với Tịnh Tông. Nhân duyên học pháp của Ngài rất đặc thù. Thuở trẻ, Ngài sợ chết, luôn cảm thấy mạng người vô thường, đi khắp nơi cầu phương pháp bất tử, cho nên học đạo thần tiên. Về sau, Ngài gặp một vị pháp sư từ Tây Vực đến Trung Quốc, bèn thỉnh giáo pháp sư: “Phật môn có phương pháp trường sanh bất tử hay không?” Vị pháp sư ấy liền giới thiệu: “Niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ trường sanh bất tử”. Sư nghe xong, rất hoan hỷ. Do vậy, Sư học Phật, chuyên tu Tịnh Độ, cũng được coi là một vị tổ sư trong thời ấy.

Phật Địa Luận nói: “Tịnh Độ Tông chư Phật, Bồ Tát, năng thuyết, năng thọ Đại Thừa pháp vị” (Chư Phật, Bồ Tát trong Tịnh Độ Tông có thể nói, có thể tiếp nhận pháp vị Đại Thừa). Có thể nói là Phật, có thể tiếp nhận là Bồ Tát.

 

(Diễn) Chư Phật, Bồ Tát năng thuyết, năng thọ giả, phi chư Phật bất năng thuyết, dĩ cụ tứ vô ngại biện, đắc đại vô úy cố. Phi Bồ Tát bất năng thọ, dĩ tối cực lợi căn, kham năng đảm hà cố.

()  諸佛菩薩能能受者,非諸佛不能,以具四無礙辯,得大無畏故。非菩薩不能受,以最極利根,堪能擔荷故。

(Diễn: “Chư Phật, Bồ Tát có thể nói, có thể tiếp nhận”: Chẳng phải là chư Phật sẽ không thể nói, do [chư Phật] trọn đủ Tứ Vô Ngại Biện, đắc đại vô úy. Chẳng phải là Bồ Tát sẽ không thể tiếp nhận, vì Bồ Tát lợi căn tột bậc, có thể gánh vác).

Câu này có ý nghĩa cũng rất sâu. “Có thể nói” (năng thuyết) là A Di Đà Phật, đó là theo nghĩa hẹp. Nói theo nghĩa rộng, sẽ là mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai. Nói lên điều gì? “Đại Thừa pháp vị” được nói ở đây chỉ kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ, chỉ những kinh này. Kinh điển này là pháp khó tin trong hết thảy các pháp môn; chẳng phải là chư Phật Như Lai, sẽ không thể nói! Nếu không phải là Bồ Tát, cũng chẳng thể tiếp nhận! Quý vị giảng cho họ, họ chẳng tin tưởng. Chỉ có Bồ Tát trí huệ gần bằng Phật nên tin tưởng; từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đã thấy điều này. Do đó, trước mắt chúng ta, không thể tiếp nhận pháp môn này, thậm chí bài xích, hủy báng, [chúng ta hãy] dùng cái tâm hết sức bình thường để nhìn họ, chẳng có gì đáng coi là kỳ lạ! Họ tu học pháp môn khác, chúng ta cũng khích lệ họ, khuyên họ hãy nghiêm túc học tập, vì sao? Họ tu học pháp môn khác thành công, bèn tin tưởng. Họ phải đi đường vòng rồi mới tin tưởng, hiện tại họ không tin tưởng. Cuối cùng, bất luận tông nào, bất luận tu hành pháp môn nào, đều quy túc Nhất Chân pháp giới, tức là thế giới Hoa Tạng. Thế giới Hoa Tạng thật sự giống như biển cả, tất cả trăm sông thảy đều chảy vào biển cả, vô lượng vô biên pháp môn đến cuối cùng đều trở vào thế giới Hoa Tạng. Đã đến thế giới Hoa Tạng thì dễ rồi, gặp Văn Thù, Phổ Hiền. Mười đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn người ấy về thế giới Cực Lạc, đi đường vòng thì vẫn phải đi.

Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “Thập Địa Bồ Tát từ đầu tới cuối chẳng lìa niệm Phật”, nên Bồ Tát mới có thể tiếp nhận! Đăng Địa Bồ Tát hoàn toàn liễu giải chân tướng sự thật, sẽ nghiêm túc niệm Phật. Thập Địa Bồ Tát như Hoa Nghiêm đã nói chính là [các vị Bồ Tát] từ Sơ Địa cho đến Đẳng Giác, gồm mười một địa vị, chẳng cần ai khuyên bảo mà biết niệm Phật. Bất luận tu pháp môn nào, chẳng có gì là không tốt đẹp, chúng ta đều khuyên họ hãy nghiêm túc tu. Nếu người ấy có thể tu học pháp môn Tịnh Độ, người ấy tin tưởng, đó là thiện căn, phước đức, và nhân duyên từ vô lượng kiếp đến nay của người ấy đã chín muồi trong một đời này, hết sức hiếm có! Tuyệt đối chẳng phải là phàm nhân, người ấy có đại thiện căn, có trí huệ chân thật, nên mới có thể tin tưởng, ưa thích, tiếp nhận pháp môn này! Có thể thấy người có thể tiếp nhận [pháp môn Tịnh Độ] là Bồ Tát. Đây là một cách nói hoàn toàn xét theo Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Một cách nói khác là Bồ Tát có thể tiếp nhận, mà cũng có thể nói. Các vị Bồ Tát ấy đến các thế giới của chư Phật trong mười phương, cũng thường giúp Phật nhiếp thọ, tiếp dẫn hết thảy chúng sanh. Bồ Tát có thể tiếp nhận, đó là sự thật, còn Ngài có thể nói, đó là do nương vào Phật lực gia trì. Nếu Phật lực chẳng gia trì, Ngài chẳng thể nói pháp môn vi diệu bậc nhất, [giảng nói pháp môn vi diệu bậc nhất này] mới thật sự là độ thoát chúng sanh triệt để viên mãn rốt ráo. Vì thế, thần lực của Tam Bảo gia trì vị ấy. Không chỉ là A Di Đà Phật gia trì, mà mười phương hết thảy chư Phật đều gia trì. Chư vị hãy nghĩ xem, lẽ nào người ấy chẳng thể vãng sanh? Kinh Vô Lượng Thọ đến cuối cùng nói A Di Đà Phật và hết thảy chư Phật thọ ký cho người ấy. Do vậy, đặc biệt khuyên tứ chúng đệ tử trong đời sau hãy phát tâm giảng bộ kinh này. Tôi vừa mới nói, chẳng phải là quý vị có thể giảng, mà là: Quý vị vừa phát tâm giảng, A Di Đà Phật và hết thảy chư Phật Như Lai đều gia trì quý vị. Chẳng được gia trì, quý vị sẽ chẳng thể giảng! Không chỉ chúng ta giảng là do được Phật lực gia trì, mà lúc chư vị đồng tu nghe kinh này cũng là được Phật lực gia trì. A Di Đà Phật gia trì quý vị, mười phương hết thảy chư Phật gia trì quý vị, vì sao? Chẳng được Phật gia trì, quý vị sẽ nghe không hiểu! [Được chư Phật gia trì], pháp khó tin, nhưng quý vị sẽ tin. Chẳng được hết thảy chư Phật gia trì, do pháp khó tin, chúng ta bèn chẳng tin! Quý vị mới biết thiện căn ấy to cỡ nào! Trong đời quá khứ cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, thiện căn ấy hiện tiền trong đời này. Tôi chẳng tùy tiện nói lời này, mà có kinh điển làm căn cứ, trong kinh đã dạy như thế.

Nay chúng ta nhìn toàn thể thế giới này, chúng sanh trong thời đại này đích xác được thần lực của chư Phật Như Lai gia trì, mỗi nơi đều có người tin tưởng pháp môn này, đều có người nghiêm túc tu học pháp môn này, đó là một hiện tượng tốt đẹp. Ở Đài Loan, những chỗ như vậy rất nhiều! Trong đạo tràng này của chúng ta, thường có những đồng tu cùng nhau nghiên cứu, học tập, niệm Phật, chúng ta rất thân thuộc. Không chỉ trong đạo tràng này, tôi thường nghe nói mỗi nơi có chẳng ít người niệm kinh Vô Lượng Thọ, nghe băng thâu âm và cũng niệm Phật, đó là tướng trạng tốt đẹp. Hiện thời, xã hội Đài Loan loạn như vậy, may mắn là còn có nhiều người đang nghiêm túc tu phước ngần ấy. Phước báo ấy là phước báo lớn bậc nhất trong thế gian và xuất thế gian, hy hữu, khó gặp! Vì vậy, chúng ta phải quý trọng!

Một câu này bao hàm rất nhiều nghĩa, không chỉ nói đến chư Phật, Bồ Tát nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói thật ra, những người từ thế giới Tây Phương đến ứng hóa trong các thế giới phương khác chẳng biết là bao nhiêu! Đặc biệt là những xứ sở khổ sở, hoạn nạn, càng bị khổ nạn, bi tâm của Bồ Tát càng sâu nặng, Ngài thị hiện ở nơi ấy, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp đều có. Chúng ta thường đọc tụng kinh điển Đại Thừa, có thể hiểu ý nghĩa này, có thể nói là “có thể tiếp nhận pháp vị Đại Thừa”.

Câu “hựu chánh thể trí thọ Chân Như vị, năng trụ trì thân mạng, sử bất đoạn hoại, trưởng dưỡng vạn pháp, cố danh vi thực” (lại nữa, chánh thể trí tiếp nhập Chân Như vị, có thể duy trì thân mạng khiến cho nó chẳng bị đoạn dứt, hư hoại, trưởng dưỡng vạn pháp, nên gọi là Ăn) [được sách Diễn Nghĩa giảng như sau]:

 

(Diễn) Chánh thể trí, tức Căn Bản Trí, diệc danh Như Lý Trí, thử trí năng chứng Chân Như.

() 正體智,即根本智,亦名如理智,此智能證真如。

(Diễn: Chánh thể trí là Căn Bản Trí, còn gọi là Như Lý Trí, trí này có thể chứng Chân Như).

Do vậy có thể biết, trí huệ này trọng yếu, người niệm Phật cầu loại trí huệ này. Người niệm Phật, người tu Tịnh Độ nhất định phải biết chúng ta cầu gì? Chúng ta cầu Tây Phương Cực Lạc thế giới. Làm thế nào mới có thể cầu được thế giới Cực Lạc? Trong hết thảy các kinh Đại Thừa, đức Phật đã nói rất nhiều: “Tâm tịnh, ắt cõi tịnh”. Trong kinh này có dạy: “Nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo”, kinh Đại Bổn dạy: “Phát Bồ Đề tâm, một bề chuyên niệm”. Nói tóm lại, quy nạp vào Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là gì? Tâm Kinh dạy: “Vô trí, mà cũng vô đắc”. Vô trí là Căn Bản Trí, nhưng chư vị nghe lời này, chớ nên nẩy sanh hiểu lầm “vô trí là Căn Bản Trí, vậy là rất nhiều kẻ ngu ngốc trong thế gian này đều có Căn Bản Trí”, hiểu lầm mất rồi! “Vô trí” là chẳng có tà trí, người ấy có chánh trí, kinh gọi trí ấy là “chánh thể trí”. Người ấy có chánh trí, chẳng có tà trí, có ý nghĩa giống như nhà Thiền đã nói “vô niệm”, chẳng có tà niệm, nhưng có chánh niệm, điều này được gọi là Căn Bản Trí.

Nói thật ra, cái được gọi là Căn Bản Trí chính là tâm thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh chẳng dấy lên các tác dụng khác, khi nó chẳng khởi Tha Thụ Dụng thì gọi là Căn Bản Trí. Vì sao? Chính nó có trí huệ, tuy trí huệ chẳng khởi tác dụng, bản thân trí huệ ấy khi biểu hiện sẽ ở chỗ nào? Biểu hiện ở chỗ “có thể chứng Chân Như”. Tuy có thể chứng Chân Như, nhưng nó chẳng chấp trước Năng và Sở, đó mới là thật. Vì sao? Vì sở chứng Chân Như (Chân Như được chứng bởi Căn Bản Trí) và năng chứng Căn Bản Trí (cái trí để chứng Chân Như) là một, không hai, trong ấy chẳng có giới hạn, chẳng có Năng và Sở (chủ thể và khách thể). Trí là Như, Như là Trí, nên gọi là Như Lý Trí. Vì hễ có năng chứng và sở chứng, trong tâm liền động, dấy động ý niệm, ý niệm bị dấy động ấy gọi là vô minh. Khởi Tín Luận đã nói: Vô minh do đâu mà có? “Một niệm bất giác, bèn có vô minh”. Một niệm bất giác là gì? Là có Năng và Sở, hễ có Năng và Sở, bèn ngay lập tức sanh ra tương đối. Năng và Sở là tương đối, đó là vô minh. Vô minh ấy được gọi là Căn Bản Vô Minh. Do vậy, cái tâm thanh tịnh đến cùng cực, đích xác là trong tâm thanh tịnh chẳng sanh một niệm, chẳng lập một pháp, vạn pháp như như, đó là cảnh giới ấy. Đó là “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại” như kinh Hoa Nghiêm đã nói.

 

(Diễn) Như không hợp không, tự thủy đầu thủy.

() 如空合空,似水投水。

(Diễn: Dường như hư không hòa lẫn vào hư không, như nước gieo vào trong nước).

Tiếp đó là tỷ dụ. “Như không hợp không”: Chân Như là Không, trí huệ có thể chứng Chân Như cũng là không, Không và Không có cùng một Thể, chẳng có giới tuyến. “Như nước gieo vào nước”, chúng ta đổ một chén nước vào trong biển cả, có thể tìm được giới tuyến hay không? Tìm không thấy! Đó là Năng và Sở là một, không hai. Nay phàm phu chúng ta chẳng thể nhập cảnh giới này là do vạch giới tuyến rất rành mạch, chuyện này liền phiền phức to lớn, có Năng và Sở mà!

Chúng ta niệm A Di Đà Phật, ta là năng niệm, A Di Đà Phật là sở niệm (đối tượng được niệm) của ta, Năng và Sở rành mạch, rõ ràng; nhưng niệm Phật thì được, sẽ có thể đới nghiệp vãng sanh, học các pháp môn khác chẳng được! Học các pháp môn khác, chỉ cần quý vị có Năng và Sở tồn tại, chắc chắn chẳng thể kiến tánh, cũng có nghĩa là quý vị tu hành nhiều nhất bèn chứng quả A La Hán hoặc Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát, chứ các địa vị như Sơ Trụ hoặc Sơ Địa trong Biệt Giáo nhất định chẳng thể chứng đắc, vì từ các đẳng cấp này trở lên không có Năng và Sở, các đẳng cấp thấp hơn có Năng và Sở. Quý vị có khái niệm Năng và Sở rất sâu, liền chứng địa vị nông cạn. Quý vị có khái niệm Năng Sở rất mỏng, địa vị liền tăng lên. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, [Năng và Sở] là vọng tưởng, chấp trước. Trong kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung, đức Phật đã dạy: “Khả đắc vi thế gian sự, bất khả đắc vi thế gian ý” (Có thể làm chuyện thế gian, chớ nên khởi ý niệm thế gian). “Thế gian sự” là hết thảy mọi chuyện trong thế gian này, chúng ta không thể bỏ qua, vẫn phải làm đúng như thế. Chớ nên có “thế gian ý”, ý là chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước là “thế gian ý”. Ý niệm chấp trước ấy càng mỏng càng tốt, chuyện chẳng thể không làm nhất định phải nghiêm túc, đầy trách nhiệm thực hiện cho tốt đẹp, đó là “thế gian sự”. Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại! Đừng nói: “Ta làm chuyện này sẽ chướng ngại sự tu hành của ta”. Thật ra, chẳng có chướng ngại. Chỉ cần quý vị tâm địa thanh tịnh, sẽ chẳng có chướng ngại. Tâm địa quý vị chẳng thanh tịnh, bèn có chướng ngại. Vì lẽ đó, có chướng ngại hay không chẳng dính líu gì đến [hoàn cảnh] nhân sự, mà toàn là do quý vị dụng tâm như thế nào. Chướng ngại hay không là do dụng tâm, Phật pháp là tâm pháp. Hai tỷ dụ này đều so sánh rất hay!

 

(Diễn) Lý Trí nhất như.

() 理智一如。

(Diễn: Lý và Trí như một).

Lý là Chân Như, Trí là trí huệ có thể chứng Chân Như, tức là Căn Bản Trí. Tác dụng đối với bản thân là Căn Bản Trí, khởi tác dụng đối với người khác là Hậu Đắc Trí, không gì chẳng biết. Kinh Bát Nhã nói “Bát Nhã vô tri”, đó là Căn Bản Trí. Tâm Kinh đến cuối cùng nói “vô trí cũng vô đắc”, đó là Căn Bản Trí, ở đây nói là Chánh Thể Trí, hoặc Như Lý Trí. Nó khởi tác dụng giáo hóa chúng sanh, giúp cho người khác không gì chẳng biết. Từ trí này khởi lên tác dụng “không gì chẳng biết”. Khi chẳng [khởi tác dụng] đối với ai khác, chính nó là vô tri, chẳng biết gì cả, tâm ấy mới thật sự thanh tịnh.

Chúng ta đọc Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, thấy Ấn Quang đại sư dạy các đồng tu sơ học phải “thâm nhập một môn”, chớ nên học tạp, chớ nên đến các đạo tràng. Lời ấy từ bi đến tột bậc, lợi ích chân thật giống như kinh Vô Lượng Thọ đã nói: “Huệ dĩ chúng sanh chân thật chi lợi” (Ban cho chúng sanh lợi ích chân thật). Nói thật cùng quý vị, chẳng thể đến nhiều đạo tràng, chớ nên thân cận nhiều thiện tri thức, chớ nên xem nhiều kinh sách. Cụ Ấn Quang thâu nhận đệ tử quy y, từ Vĩnh Tư Lục hoặc Văn Sao, chúng ta thấy các đệ tử quy y thường đến chùa gặp thầy, Ngài trông thấy đều quở, hỏi ngay: “Ngươi đến làm gì?” “Con đến gặp sư phụ”. “Đã thấy sư phụ rồi! Còn có gì hay ho để thấy nữa ư?” Ngài quở mắng, đuổi quý vị về: “Ngươi chẳng trở về nhà, thật thà niệm Phật, mà đi tới chùa, lãng phí tinh thần, lãng phí tiền tài”, đó là giáo huấn chân thật!

Ngài dạy quý vị chỗ nào cũng đừng nên đến, cũng đừng nên tiếp xúc, nhằm làm gì? Tu Căn Bản Trí. Kinh gọi điều này là tu nhất tâm bất loạn. Kinh Đại Bổn dạy quý vị “một mực chuyên niệm”, kinh dạy quý vị “chuyên tinh hành đạo”, quý vị đi khắp nơi, tâm liền tán loạn, khi nào mới có thể đắc nhất tâm? Không sai! Chúng ta muốn đi tham phỏng thì tham phỏng chưa phải là lúc này! Theo giáo huấn của Ấn Quang đại sư, nên tham phỏng vào lúc nào? Sau khi đã sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho đến lúc ấy, quý vị hằng ngày đều đến các cõi Phật trong mười phương để lạy Phật, nghe kinh, nghe pháp, đến giúp đỡ hết thảy chúng sanh, khi ấy [sẽ làm những chuyện đó], chẳng phải là lúc này. Hiện thời chẳng có năng lực ấy, mà quý vị còn tham phỏng thêm mấy vị, thôi rồi, đã phá hỏng chuyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Làm tới, làm lui, vẫn là tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo. Chuyện này phiền phức lắm! Vì thế, hiện tại phải buông chuyện tham phỏng xuống, nhất tâm nhất ý chuyên cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, có như vậy thì đời này chúng ta mới chẳng đến nỗi luống uổng!

Người ta nói quý vị tu Tịnh Độ là Tiểu Thừa, là kẻ lo tự giải thoát cho riêng mình, thiếu tâm từ bi, cứ mặc kệ cho họ nói! Chớ vì người khác nói vài câu, tâm chúng ta liền động: “Ta chẳng nên làm kẻ chỉ lo giải thoát cho riêng mình, ta có tâm từ bi”. Có tâm từ bi bèn đi lung tung khắp nơi, đi đến cuối cùng vẫn luân hồi trong lục đạo, từ bi nỗi gì! Thật sự đại từ đại bi là sau khi đã gặp A Di Đà Phật, khi ấy mới phổ độ chúng sanh. Ngay cả chính Phổ Hiền Bồ Tát cũng nói: Sau khi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, mười đại nguyện vương của Ngài mới viên mãn. Do đó, chúng ta mới hiểu: Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì Tứ Hoằng Thệ Nguyện mới có thể viên mãn! Chưa sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, bốn điều ấy đều là giả, hữu danh vô thực. Chẳng có năng lực độ chúng sanh, đoạn phiền não thì chính mình cũng chẳng có năng lực đoạn; học pháp môn, thành Phật đạo thì chẳng có ai trong chúng ta có thể hoàn tất trong một đời này! Cả thảy bốn điều đều chẳng làm được! Nếu quý vị muốn làm được cả bốn điều ấy, làm viên mãn, chỉ có cách vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Vì thế, tổ sư khuyên chúng ta tu học, thật sự buốt lòng rát miệng khuyên bảo, bản thân chúng ta phải phản tỉnh thật sâu [nhận biết] chính mình là căn tánh như thế nào, có năng lực gì, trước hết là chính mình phải nhận biết chính mình. Kinh niệm một quyển là đủ rồi. Bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa này phân lượng quá nhiều, chẳng bằng kinh Vô Lượng Thọ. Đối với người hiện thời mà nói, kinh Vô Lượng Thọ phân lượng vừa đúng, không quá nhiều, cũng không ít. Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa có thể dùng để tham khảo, Di Đà Kinh Yếu Giải và Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ đều là sách tham khảo hết sức hay, thỉnh thoảng nên mở ra đọc. Chánh kinh là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ là định khóa của chúng ta, nhất định phải niệm mỗi ngày. Những sách khác quý vị đọc hay không đọc cũng chẳng sao, vừa lễ bái, vừa lật xem một đoạn, không xem cũng chẳng sao! Nhất định phải phân định rành mạch Chánh Tu và Trợ Tu. Chúng ta lấy kinh Vô Lượng Thọ, hoặc lấy kinh Di Đà, lấy tín nguyện trì danh làm Chánh Tu của chúng ta, quyết định không thể lơi lỏng khóa trình ấy. Nếu quý vị nghiêm túc học theo cách như vậy, càng học, tâm càng thanh tịnh, phiền não thật sự giảm bớt, chính mình có thể cảm nhận được: Vọng tưởng ít đi, chấp trước cũng nhẹ nhàng, đối với chuyện gì cũng coi nhạt nhẽo, tâm được tự tại, có năng lực biện định pháp thế gian và xuất thế gian, đó là trí huệ tăng trưởng. Quý vị đạt được lợi ích này, mới hiểu những lợi ích thù thắng, lợi ích lớn nhất như kinh đã dạy, quý vị hiểu những lời ấy. Quý vị đã hiểu, vì sao? Thật sự đạt được! Trước kia là nghe nói, hiện thời là chính mình thật sự đạt được.

 

(Diễn) Trưởng vô đoạn tuyệt, tùng Thể khởi Dụng, trưởng dưỡng vạn pháp, như thực chi năng trì sắc thân, trưởng dưỡng vạn sự dã.

() 長無斷,從體起用,長養萬法,如食之能持色身,長養萬事也。

(Diễn: “Tăng trưởng chẳng đoạn tuyệt”: Từ Thể khởi Dụng, trưởng dưỡng vạn pháp, như thức ăn có thể duy trì sắc thân, trưởng dưỡng vạn sự).

Chư vị phải khéo niệm Phật! Lợi ích hiện tiền là thân tâm khỏe mạnh, vạn sự như ý, quý vị có muốn đạt được hay không? “Trưởng dưỡng vạn sự” được nói ở đây chính là vạn sự như ý, chuyện nào cũng hợp ý, thân tâm khỏe mạnh. Đó là sự phú quý chân thật trong đời người, chẳng phải là có tiền tài mới là phú quý. Có tiền, có địa vị, mà thân tâm chẳng khỏe mạnh, vô dụng! Hạnh phúc bậc nhất trong đời người là thân tâm khỏe mạnh, cuộc sống vui sướng, chẳng có phiền não, chẳng lo nghĩ, rất vui sướng, đó là hạnh phúc nhất, tuyệt đối chẳng phải là tiếng tăm, lợi dưỡng. Người thế gian coi trọng tiếng tăm, lợi dưỡng, nhìn sai mất rồi, đó là mê hoặc, điên đảo.

 

(Sao) Hựu A Hàm Duy Thức đẳng, thuyết xuất thế ngũ thực.

() 又阿含唯識等,出世五食。

(Sao: Lại nữa, A Hàm, Duy Thức v.v… nói đến năm món ăn xuất thế).

Kinh A Hàm là kinh Tiểu Thừa, Duy Thức là Đại Thừa Thỉ Giáo, là kinh Đại Thừa. Trong những giáo nghĩa ấy, đức Phật đã nói người tu hành có năm thứ thức ăn.

 

(Sao) Nhất, Thiền duyệt; nhị, nguyện; tam, niệm; tứ, giải thoát; ngũ, pháp hỷ. Vị Thiền Định tư thần, khinh an, thích duyệt, tức vi thực nghĩa. Nguyện lực trì pháp, Pháp Thân tăng trưởng, tức vi thực nghĩa.

() 一、禪悅,二、願,三、念,四、解,五、法喜。謂禪定資神,輕安適悅,即為食義。願力持法,法身增長,即為食義。

(Sao: Một là Thiền duyệt; hai là nguyện; ba là niệm; bốn là giải thoát; năm là pháp hỷ. Ý nói: Thiền Định bồi bổ tinh thần, nhẹ nhàng, thoải mái, nên có ý nghĩa Ăn. Nguyện lực gìn giữ pháp, tăng trưởng Pháp Thân, chính là ý nghĩa của Ăn).

Nay chúng ta thấy rất nhiều người học Phật chẳng  có  Thiền Định, nói gì nữa! Tuy họ có phát nguyện, tuy có nguyện, nhưng ta cũng chẳng thấy họ có biểu hiện công đức lợi ích thật sự gì, do duyên cớ nào? Vì nguyện của họ là giả, chẳng thật. Vì sao biết là giả? Được vài năm, nguyện của họ sẽ biến đổi, hoặc gặp cảnh giới hiện tiền, nguyện của người ấy cũng bị chuyển biến, có thể thấy nguyện ấy chẳng thật! Nếu nguyện chân thật, thiết tha, sẽ đích xác là ý nghĩa này. Như nguyện lực của A Di Đà Phật [được chép] trong kinh Vô Lượng Thọ, “túng sử thân nhập đại hỏa trung, như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái” (dẫu cho thân vào trong lửa lớn, nguyện tâm như vậy vĩnh viễn chẳng lui sụt). Đó là chân thật, nguyện của Ngài liền sanh ra hiệu lực. Bất luận cảnh giới nào, nguyện của người ấy kiên cố, chẳng thoái chuyển. Nguyện lực ấy có thể “trì pháp”, “trì” là gìn giữ, “pháp” là phương pháp tu hành của người ấy. Căn cứ lý luận, phương pháp tu hành, do được nguyện lực gìn giữ, nên chẳng bị biến đổi. “Pháp Thân tăng trưởng”, Pháp Thân huệ mạng của người ấy tăng trưởng. Chỉ có tín nguyện kiên cố, Pháp Thân huệ mạng quyết định tăng trưởng.

Vì thế, tôi bảo các đồng học: Quý vị hãy làm, sẽ thấu hiểu, chứng nghiệm. Nếu quý vị thật sự tin tưởng pháp môn này, y theo phương pháp như tôi đã nói để tu hành, tối đa là ba năm, quý vị gặp lại tôi, sẽ nói: “Pháp sư ơi! Tôi thật sự nắm chắc vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, từ nay trở đi chẳng còn bị đọa trong lục đạo luân hồi nữa”. Đó là một đại sự phi phàm! Nếu quý vị thật sự nghiêm túc thực hiện ba năm, sẽ đạt được. Bất quá trong ba năm ấy, quý vị còn xem kinh luận khác, còn muốn nghe giảng cái này, nghe cái kia, còn muốn đến chùa miếu khắp nơi, đi dự pháp hội khắp nơi, vậy thì ba mươi năm, ba trăm năm cũng không được! Chúng ta làm phàm phu đời đời kiếp kiếp từ vô lượng kiếp tới nay sanh tử luân hồi, đời này gặp gỡ duyên phận tốt đẹp như vậy, đã tìm được đường nẻo để vượt thoát tam giới, chẳng dễ dàng! Cũng có thể nói là vô lượng kiếp đến nay đều chẳng phát hiện đường lối này! Đã tìm được, sao chẳng đi cho sớm? Tìm được, quý vị sẽ sớm thành Bồ Tát, thành Phật, chẳng còn làm phàm phu.

Ngay cả giáo học thế gian cũng luôn luôn là “giáo chi đạo, quý dĩ chuyên” (đạo giáo hóa chú trọng chuyên ròng), huống hồ đại pháp liễu sanh tử! Nhất định phải chuyên tu. Vì thế, người tu hành thật sự, trong Phật đường tại nhà, thờ một bức tượng A Di Đà Phật, một quyển kinh Di Đà, một lư hương, tối đa là thêm một cái dẫn khánh, một cái mõ, [ngoài ra], thứ gì cũng đều chẳng có, tâm chuyên nhất! Đầu bàn còn bày một đống sách lớn, không được rồi, chẳng chuyên! Thật sự chuyên thì tối đa là năm kinh Tịnh Độ. Càng tinh ròng, tâm người ấy càng chuyên, thật sự đạt đến chuyên nhất, sự thụ dụng đích xác là chẳng thể nghĩ bàn! Tôi có nói, quý vị cũng chẳng có cách nào hiểu được, vì sao chẳng có cách nào hiểu được? Vì quý vị chẳng chuyên! Chuyện này giống như người uống nước, ấm lạnh tự biết. Tôi uống hết chén nước, tôi bảo quý vị nước này rất nóng, quý vị chưa uống qua, nóng cỡ nào quý vị cũng chẳng thể tưởng tượng được! Quý vị phải nếm thì mới được. Nếu quý vị có thể chuyên ròng trong ba tháng, quý vị sẽ hiểu hương vị ở đây, quý vị liền đạt được lợi ích. Quý vị thật sự làm trong ba tháng, nhật báo, tạp chí, radio, TV đều chẳng xem, những thứ thù tạc chẳng cần thiết đều bỏ sạch. Không chỉ sách vở thế gian đừng xem, mà những kinh Phật khác cũng chớ nên xem. Chuyên niệm một quyển kinh Vô Lượng Thọ, niệm suốt ba tháng. Trừ niệm kinh ra, liền niệm Phật, tận hết khả năng sao cho Phật hiệu chẳng gián đoạn. Điều này đòi hỏi phải có nguyện lực chân thật để duy trì. Nếu quý vị chẳng có nguyện lực chân thật, sẽ thấy lạ, nghĩ khác! Cảnh giới bên ngoài vừa đưa đến, ngay lập tức dao động, ngay lập tức lui sụt. Bạn bè tìm quý vị đánh mạt chược, được lắm, quý vị phải đến thù tạc một chút. Người bạn nọ mời quý vị đi xem phim, quý vị đi một chút, thôi rồi, hết thảy xếp xó cả rồi!

 

(Sao) Niệm lực minh ký, thánh đạo hiện tiền, tức vi thực nghĩa.

() 念力明記,聖道現前,即為食義

(Sao: Niệm lực hiểu rõ ràng, ghi nhớ, thánh đạo hiện tiền, chính là ý nghĩa Ăn).

Trong Lục Thư[25], chữ Niệm thuộc loại Hội Ý. “Niệm” (念) là kim tâm (今心), tức là cái tâm hiện tại, tức một niệm chân tâm hiện tiền. Chẳng phải là tâm quá khứ, chẳng phải là tâm vị lai, tâm hiện tại! “Niệm

lực minh ký”: Minh (明) là hiểu rõ, Ký (記) là không quên, “thánh đạo hiện tiền”. Nhất là vận dụng vào niệm Phật, một câu danh hiệu A Di Đà Phật nhiếp toàn bộ vô lượng công đức của Phật Di Đà. Dùng một niệm tâm tịnh tín để niệm câu Phật hiệu này, biến công đức của A Di Đà Phật đều thành công đức của chính mình. Tâm chính mình và tâm A Di Đà Phật giao hòa, trong ấy chẳng có giới tuyến, nhập vào nhau như ánh sáng dung hòa. Một niệm tâm của chúng ta gieo vào trong Nhất Thừa nguyện hải của A Di Đà Phật. Nhất thừa nguyện hải của A Di Đà Phật nhập vào tâm ta, tự tâm và Phật tâm chẳng hai, chẳng khác, trong ấy chẳng có giới tuyến. Vì thế, “một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Quý vị biết công đức niệm Phật to chừng nào? Trong thế gian, rất nhiều người chẳng biết điều này!

Quý vị niệm một câu danh hiệu Phật này, quý vị là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là quý vị, vì trong ấy chẳng có giới tuyến, “như không hợp không, tự thủy đầu thủy” (như hư không hợp cùng hư không, như nước gieo vào trong nước). Trong ấy chẳng có giới tuyến, mấy ai biết là có loại công đức, lợi ích thù thắng này? Nếu quý vị muốn tiêu tai miễn nạn, tiêu nghiệp chướng, phương pháp nào cao minh bằng phương pháp Niệm Phật? Có phương pháp nào hữu hiệu bằng phương pháp Niệm Phật? Phương pháp Niệm Phật này có công đức bậc nhất, hiệu quả thù thắng bậc nhất. Vì vậy, quý vị niệm Phật, có còn phải bái sám hay không? Chẳng cần thiết! Chúng ta chẳng hiểu đạo lý này, miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm có Năng và Sở, hoài nghi Phật, chẳng tin vào chính mình, niệm kiểu đó sẽ chẳng thể cảm ứng đạo giao. Hoài nghi Phật, “ta niệm thì Phật có nghe hay không? Rốt cuộc Ngài có biết hay là không?” Hoài nghi, chẳng biết A Di Đà Phật có biết ta đang niệm hay không! Hoài nghi chính mình, ta một đời này tội nghiệp sâu nặng, Phật có thể tha thứ cho ta hay không? Có thể rộng dung cho ta hay không? Chẳng tin Phật, lại chẳng tin chính mình, niệm kiểu ấy làm sao có thể cảm ứng đạo giao cho được? Tâm ấy chẳng thanh tịnh! Tâm chẳng thanh tịnh, niệm lực của quý vị chẳng tương ứng.

Vì sao bảo quý vị đến nghe kinh? Vì sao phải giảng giải, phân tích cho quý vị cặn kẽ như vậy? Nhằm phá nghi sanh tín. Nếu quý vị đoạn hết nghi hoặc, tín tâm sanh khởi; khi ấy, một niệm tương ứng một niệm Phật, quý vị niệm Phật lúc đó chẳng giống như niệm Phật trước kia. Trước kia, niệm Phật xác thực là suốt ngày từ sáng đến tối đều chẳng tương ứng, chẳng có một câu nào tương ứng. Sau khi quý vị thật sự hiểu đạo lý này, sẽ có thể phát hiện niệm Phật câu nào cũng tương ứng, câu nào cũng đều là tín tâm thanh tịnh niệm, câu Phật hiệu nào cũng dung hội với A Di Đà Phật thành một Thể. Công đức đã tu từ vô lượng kiếp đến nay của A Di Đà Phật, do tâm chúng ta và tâm Ngài tương ứng, công đức của Ngài liền biến thành công đức của ta. Pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, pháp môn này thù thắng khôn sánh. Vì lẽ đó, hết thảy chư Phật tán thán, hết thảy Bồ Tát đều phải cầu sanh Cực Lạc. Vì thế là “niệm lực minh ký, thánh đạo hiện tiền”.

Quán Kinh giảng lý luận thấu triệt, giảng rất hay: “Tâm này là Phật, tâm này làm Phật”. “Tâm này là Phật” là Lý, đối với câu này, trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát nói là Bổn Giác, Bổn Giác vốn có. Tâm này là Phật, cũng là “hết thảy chúng sanh vốn thành Phật” như trong kinh Hoa Nghiêm và Viên Giác đã giảng. Tâm này là Phật, vốn đã thành Phật, đó là Lý. Trên sự thật, chẳng tương ứng, trên sự thật, chúng ta niệm niệm đều nghĩ tới lục đạo, nghĩ tới mười pháp giới, chẳng phải là Phật! Nay chúng ta niệm câu A Di Đà Phật này thì phải là “tâm này làm Phật”. Quý vị niệm một câu A Di Đà Phật là một niệm làm Phật, niệm hai câu A Di Đà Phật là hai niệm làm Phật. Niệm ấy chẳng gián đoạn, quý vị bèn là niệm niệm làm Phật, như vậy thì sẽ thật sự thành Phật. Chư vị hãy khéo suy nghĩ đạo lý này. Quý vị niệm Bồ Tát bèn thành Bồ Tát, niệm A La Hán bèn thành A La Hán. Quý vị niệm tham, niệm sân, niệm si, đều có quả báo. Niệm là tạo nhân, sau đấy, nhất định có quả báo, nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may! Hiện thời, có rất nhiều người suốt ngày nghĩ đến tiền, quý vị nghĩ xem, quả báo tương lai là gì? Trên tiền giấy, có rất nhiều vi khuẩn, [kẻ chỉ nghĩ đến tiền] tương lai đều biến thành những thứ ấy! Hiểu rõ chân tướng sự thật thì mới biết hết thảy các pháp môn chẳng hay bằng niệm Phật! Niệm Phật thật sự tốt đẹp, thật sự rốt ráo!

 

(Sao) Giải thoát trừ chướng, cư nhiên tư ích, tức vi thực nghĩa.

() 除障,居然資益,即為食義。

(Sao: Giải thoát trừ chướng, nghiễm nhiên tăng trưởng, đó chính là ý nghĩa Ăn).

 Chúng ta đọc chữ Giải với giọng khứ thanh (tức là Xié trong âm Quan Thoại), dùng như động từ, có nghĩa là “giải trừ”. Giải trừ gì? Phiền não. “Thoát” là thoát lìa, thoát lìa gì? Thoát lìa lục đạo luân hồi, thoát lìa sanh tử. Phiền não là căn bản, là nhân của sanh tử! Sanh tử luân hồi là quả báo. Nếu muốn thoát lìa sanh tử luân hồi, phải tiêu diệt nhân tố của sanh tử luân hồi, nhân tố là vô minh phiền não. Nặng nhất trong các phiền não là kiến giải sai lầm và tư tưởng sai lầm, chúng được gọi gộp chung là Kiến Tư phiền não. Kiến giải sai lầm có năm loại lớn: Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, và Tà Kiến. Tư tưởng sai lầm cũng có năm loại lớn: Tham, sân, si, mạn (ngạo mạn), và nghi (hoài nghi thánh giáo). “Giải” là đoạn phiền não, mười điều Kiến Tư phiền não quý vị thảy đều có thể đoạn hết, liền được thoát, thoát khỏi lục đạo luân hồi, liền chứng quả A La Hán, đó là giải thoát. “Giải thoát trừ chướng”, chướng ấy là Phiền Não Chướng, có thể trừ Phiền Não Chướng.

“Cư nhiên tư ích” (Nghiễm nhiên tăng trưởng), nó có thể tăng trưởng Pháp Thân huệ mạng của quý vị. Trong Tiểu Thừa, đức Phật chỉ nói đến Kiến Tư phiền não; trong Đại Thừa, Ngài nói đến trừ chướng thì có ba thứ chướng là Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não, và Vô Minh phiền não. Giảng rất vi tế, rất rộng, [trừ phiền não trong Đại Thừa] không chỉ là trừ Kiến Tư phiền não mà thôi! Nếu chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, phương pháp được chúng ta sử dụng, tức là phương pháp làm thế nào để giải thoát, chính là tín nguyện trì danh. Ta tin tưởng Tịnh Độ rất sâu, tin tưởng trí huệ, nguyện lực, và công đức của A Di Đà Phật, chẳng hoài nghi tí nào. Thứ hai là tin tưởng chính mình, ta dùng tâm thanh tịnh niệm Phật, niệm niệm đều tương ứng với A Di Đà Phật; trong tương lai khi lâm chung, A Di Đà Phật quyết định đến tiếp dẫn ta. Dùng tín tâm thanh tịnh như vậy để niệm Phật, đoạn Kiến Tư phiền não, đoạn Trần Sa phiền não, đoạn Vô Minh phiền não, phương pháp này hay lắm, chẳng cần dùng phương pháp nào khác nữa! Đại Thế Chí Bồ Tát đã dạy chúng ta: “Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai” (Chẳng nhờ vào phương tiện, tâm tự mở mang). “Tâm khai” là giải thoát. Giải thoát và “tâm khai” có cùng một ý nghĩa. “Bất giả” (不假) là không cần nhờ vào phương tiện pháp môn nào khác, một câu Phật hiệu bèn thành công. Quý vị nghĩ xem pháp môn này thù thắng lắm, thuận tiện lắm, đơn giản, dễ dàng, ai nấy đều có thể niệm, mỗi người đều có thể sử dụng cách này, nhưng quý vị chẳng chịu dùng thì chẳng có cách nào cả! Nếu quý vị thật sự biết dùng, quyết định hữu hiệu. Vì thế, tôi nói với quý vị, quý vị hiểu đạo lý này, hiểu phương pháp này, quý vị nghiêm túc thực hiện, ba tháng sẽ thấy hiệu quả, quý vị thấy đó, nhanh chóng lắm! Đó là chánh pháp, thật sự thuần chánh.

 

(Sao) Pháp hỷ nội sung, cực hỷ lạc cố, tức vi thực nghĩa.

() 法喜充,極喜樂故,即為食義。

(Sao: Pháp hỷ sung mãn trong ấy, vui sướng tột bậc, tức là nghĩa Ăn).

 Tục ngữ có câu: “Nhân phùng hỷ sự tinh thần sảng” (Người gặp chuyện vui, tinh thần sảng khoái). Quý vị gặp chuyện vui vẻ, tinh thần sung mãn gấp trăm lần, mệt mỏi gì cũng quên khuấy, hoan hỷ. Sự vui thế gian còn khiến ta quên mất mệt nhọc, tinh thần phấn chấn, huống gì trong Phật pháp, quý vị thật sự có thể cùng chư Phật, Bồ Tát cảm ứng đạo giao, thật sự có thể ngộ nhập nghĩa lý sâu xa tinh hoa, ẩn kín, vi tế trong Phật pháp, quý vị sẽ có thể lãnh hội niềm vui sướng, khoái lạc ấy! Bất luận là đọc kinh hay niệm Phật, tinh thần tăng tấn gấp trăm lần, chẳng mệt mỏi. Nếu niệm mà thấy mệt mỏi, tức là quý vị công phu chẳng đúng pháp, nghiệp chướng của quý vị còn rất nặng, phải dùng phương pháp niệm Phật để tiêu trừ. Công phu đắc lực, nghiệp chướng dần dần tiêu trừ, thưa cùng chư vị, sẽ ngủ ít đi, vì sao? Người ấy có pháp hỷ. Thuở đức Phật tại thế, đệ tử Phật, thông thường là những vị xuất gia với Phật, mỗi ngày ngủ bốn tiếng đồng hồ, [ngủ vào lúc] trung dạ, tức là mười giờ đêm đi ngủ, hai giờ sáng thức dậy. Họ ngủ bốn giờ là đủ, vì sao? Pháp hỷ sung mãn. Mỗi ngày họ ở chung với Phật, với Bồ Tát, nên hoan hỷ! Tâm địa thanh tịnh, ăn uống ít, ngày ăn một bữa là đủ, buổi trưa ăn một bữa, mỗi ngày ngủ bốn tiếng đồng hồ.

Nay chúng ta một ngày ngủ tám, chín tiếng đồng hồ, nghiệp chướng đấy! Ngủ đến nỗi đầu óc mê hoặc, điên đảo. Quý vị nói dùng phương pháp gì ư? Niệm Phật. Niệm Phật ư? Chẳng hữu hiệu! Đúng vậy, há lẽ nào vừa niệm liền thấy hiệu quả ngay! Chẳng thể nào mau chóng như thế được! Nói chung, quý vị phải niệm một thời gian, quý vị bị bệnh này đã quá lâu, vừa uống thuốc vào, chẳng thể nào hữu hiệu mau chóng như vậy được! Thật sự cảm thấy hữu hiệu, ba tháng, đó cũng là rất nhanh! Hiệu quả rõ rệt phải từ ba năm đến năm năm, sẽ có hiệu quả vô cùng rõ rệt. Vì thế, thân tâm thật sự khỏe mạnh, pháp hỷ sung mãn, suốt ngày từ sáng đến tối vui sướng, chẳng còn có phiền não, chẳng còn ưu lự. Bất luận cảnh giới nào, thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều là pháp hỷ sung mãn, có trí huệ.

Năm loại ấy đều có nghĩa Ăn. Ăn [ở đây] có nghĩa là có thể dấy khởi tinh thần, khiến cho chúng ta quên mất mệt nhọc, trừ bỏ mệt nhọc [giống như ăn đồ ăn vào sẽ khiến ta chẳng còn đói nữa].

 

(Sao) Kim chỉ ngôn Định giả, cử nhất kiêm tứ, Thiền Định chi trung, vô bất nhiếp cố.

() 今止言定者,舉一兼四,禪定之中,無不攝故。

(Sao: Nay chỉ nói đến Định, nêu lên một điều bao gồm cả bốn điều, trong Thiền Định, không gì chẳng được bao hàm).

Trong lời giải thích trên đây, đại sư chỉ nói đến Thiền Định. Lời Sao do Ngài viết, nhằm bổ sung ý nghĩa này. Trong Thiền Định, cả bốn ý nghĩa ấy đều được bao gồm. Thật sự có Thiền Định thì “nguyện, niệm, giải thoát, pháp hỷ” tất nhiên xuất hiện trong Định. Vì thế, nói “cử nhất kiêm tứ” (nêu lên một điều bao gồm cả bốn điều).

Đoạn tiếp theo là Diễn Nghĩa, chư vị tự xem là được rồi, chẳng cần phải giảng[26]. Những ý nghĩa tôi đã giảng trong phần trên đều rất rõ rệt. Điều khẩn yếu là dùng phương pháp như thế nào để tu, nhất định phải ghi nhớ điều này. Sử dụng phương pháp Niệm Phật, chư vị đều có thể niệm, nhưng mấu chốt là dụng tâm như thế nào. Nhất định phải dùng tâm thanh tịnh, phải dùng tâm bình đẳng, phải dùng cái tâm tin tưởng chân thật, nguyện thiết tha, quý vị sẽ có cảm ứng rất nhanh. Sự cảm ứng ấy chẳng phải là nói quý vị thấy Phật, thấy Bồ Tát tỏa ánh sáng, rúng động cõi đất, chẳng phải vậy! Chẳng phải là những thứ cảm ứng ấy! Quý vị có thể cảm giác cái tâm của chính mình thanh tịnh, phiền não ít đi, sẽ cảm giác rất vui sướng, thậm chí thân thể quý vị có bệnh, bệnh chẳng còn nữa. Thật đấy! Chẳng cần chữa trị, tự nhiên [bệnh tật] chẳng còn nữa. Thân thể này xác thực là cảnh giới, cảnh chuyển theo tâm, tâm lý khôi phục sự lành mạnh, tâm thanh tịnh, thân thể này bèn trăm bệnh chẳng sanh. Khi thanh tịnh đến cùng cực, thân thể sẽ tỏa mùi thơm. Thân có mùi hôi, có tật bệnh, đều là nghiệp chướng. Hãy nghiêm túc niệm Phật, dùng cái tâm này, dùng phương pháp này, dùng lý luận này để tiêu nghiệp chướng! Thân tâm khỏe mạnh, thân tâm vui sướng, là những điều đạt được trước mắt, Phật pháp gọi những điều đó là hoa báo, quả báo ở Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chín phẩm vãng sanh, sang bên đó làm Bồ Tát, làm Phật, đó là quả báo, công đức quả báo giống hệt từng điều được nói trong kinh Vô Lượng Thọ, trang nghiêm thù thắng khôn sánh. Hôm nay thời gian đã hết rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

— o0o —

Tập 161

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm bốn mươi bốn.

 

(Sao) Duy Ma kinh vân: “Vị phát Đại Thừa ý, thực thử thực giả, chí phát ý nãi tiêu. Dĩ phát ý giả, đắc Vô Sanh Nhẫn dĩ nãi tiêu. Đắc Nhẫn giả, chí Nhất Sanh Bổ Xứ nãi tiêu”. Hoa Nghiêm Cụ Túc ưu-bà-di vân: “Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát, thực ngã thực giả, giai ư Bồ Đề thụ hạ thành Đẳng Chánh Giác”, giai tự tánh Chân Như vô tận chi lý nhi vi thực dã.

() 維摩經云:未發大乘意,食此食者,至發意乃消;已發意者,得無生忍已乃消;得忍者,至一生補處乃消。華嚴具足優婆夷云:一生所繫菩薩,食我食者,皆於菩提樹下成等正覺,皆自性真如無盡之理而為食也。

(Sao: Kinh Duy Ma chép: “Kẻ chưa phát ý Đại Thừa, ăn món ăn này, tới khi phát ý sẽ tiêu. Kẻ đã phát ý, khi đắc Vô Sanh Nhẫn liền tiêu. Kẻ đắc Nhẫn, khi đạt tới Nhất Sanh Bổ Xứ liền tiêu”. Trong kinh Hoa Nghiêm, ưu-bà-di Cụ Túc bảo: “Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát ăn thức ăn của ta, đều thành Đẳng Chánh Giác dưới cội Bồ Đề”, đều là dùng lý vô tận nơi Tự Tánh Chân Như để làm thức ăn vậy).

Đoạn văn này được nói theo cách hội quy “phạn thực kinh hành” về tự tánh. Ở đây, đại sư trích dẫn một đoạn trong kinh Duy Ma nhằm giảng rõ “vị phát Đại Thừa ý” là gì?

 

(Diễn) Vị phát Đại Thừa ý, thị vị nhập Chánh Định Tụ chúng sanh, tu hành tín tâm giả.

() 未發大乘意,是未入正定聚眾生,修行信心者

(Diễn: “Chưa phát Đại Thừa ý” là chúng sanh chưa nhập Chánh Định Tụ, tu hành, có tín tâm).

Trong đoạn này, mỗi tầng một nhập sâu hơn. Nói đến “đồ ăn” đều là nói đến Chân Như tự tánh, Tiêu (消) ở đây có nghĩa là “tiêu quy tự tánh”. “Chưa phát Đại Thừa ý” được nói ở chỗ này là “chưa nhập Chánh Định Tụ”, [tức là] nói tới các vị Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín, tâm hạnh chẳng định. Nói cách khác, có tiến, có lùi. Trong Tam Tụ, Chánh Định Tụ là nói người ấy quyết định chứng quả, quyết định thành tựu. Tà Định Tụ là kẻ bất luận tinh tấn tu hành như thế nào, vẫn chẳng có kết quả, tu mù, luyện đui mà! Người thuộc loại Bất Định Tụ thì chẳng nhất định, tùy thuộc người ấy gặp duyên nào. Người ấy gặp nhân Chánh Định Tụ liền biến thành Chánh Định Tụ; gặp nhân Tà Định Tụ liền biến thành Tà Định Tụ. Tam Tụ bao gồm toàn bộ hết thảy chúng sanh.

Nói nghiêm ngặt, trong thời đại Mạt Pháp hiện tiền, chỉ có tu học pháp môn Tịnh Độ đới nghiệp vãng sanh thì có thể gọi là Chánh Định Tụ, [lý do là] chúng ta biết người ấy quyết định thành tựu trong một đời này. Tu học những pháp môn khác, chẳng nhất định có thể thành tựu trong một đời này. Không thể thành tựu bèn có phiền toái rất lớn. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Hà miễn luân hồi” [nghĩa là] người ấy chẳng tránh khỏi luân hồi trong lục đạo. Hễ luân hồi trong lục đạo, chẳng biết sẽ luân hồi đến tận đâu? Muốn lại được làm thân người, nghe Phật pháp, chẳng biết phải đến kiếp nào? Tục ngữ có câu: “Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục” (Hễ mất thân người, vạn kiếp khó có lại được). Cũng là nói rõ ý nghĩa “được làm thân người [rất] khó khăn”. Sau khi đã mất thân người, muốn được làm thân người lần thứ hai, dẫu vạn kiếp vẫn chưa thấy được làm người lần nữa. Chúng ta nghe những lời này có lẽ sẽ hoài nghi, có phải là nói quá lố hay chăng? Nếu chúng ta rất lắng lòng suy tưởng cặn kẽ, phản tỉnh một phen, mới biết câu này chẳng nói quá lố! Vì sao chẳng nói quá lố? Chúng ta chẳng cần nhìn vào ai khác, hãy nghĩ về chính mình: Suốt một đời này, từ lúc lọt lòng cho đến hiện tại, thân, ngữ, ý tạo những nghiệp gì? Bèn hiểu rõ ngay! Nếu chúng ta tạo ác nghiệp nhiều, nhất định đọa trong tam ác đạo. Thời gian trong tam ác đạo quá ư là dài, chẳng dễ gì thoát lìa! Dẫu tạo thiện nghiệp thì do thiện nghiệp bèn ở trong ba thiện đạo.

Đối với khởi tâm động niệm, nếu chúng ta nghiêm túc kiểm điểm một phen, luôn luôn là ác niệm nhiều hơn thiện niệm. Tham, sân, si, mạn là ác niệm! Đã có mấy niệm là nhân nghĩa, đạo đức? Thật sự ít ỏi! Ý niệm dấy lên, luôn luôn là tham cầu ngũ dục, lục trần trong thế gian này, luôn bán tín bán nghi những giáo huấn của thánh hiền thế gian và xuất thế gian. Bán tín bán nghi là tội nghiệp, nghiệp chướng sâu nặng. Vì thế, đánh mất thân người, [mong] được làm thân người lần nữa, tính toán kỹ càng, vẫn đúng là chẳng dễ dàng! Đọa ác đạo đáng sợ, vì sao? Thời gian trụ trong ác đạo lâu dài, nên sẽ kèm theo các tập khí ác, dẫu trong tương lai được làm thân người, tập khí ấy thường dấy lên hiện hành, vẫn là lại không ngừng tạo nghiệp. Tội nghiệp càng tạo càng nặng, quý vị càng nghĩ, càng thấy đáng sợ! Trong đời này, nếu chẳng thể vãng sanh, đúng là một vấn đề to lớn!

“Thực thử thực giả, chí phát ý nãi tiêu” (Ăn thức ăn ấy, cho tới khi phát ý mới tiêu). Nếu nói theo mặt Sự, người xuất gia thường nói: “Một hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di, kiếp này chẳng liễu đạo, mang lông, đội sừng đền”. Thí chủ cúng dường, chúng ta có năng lực gì để tiêu thụ? Có năng lực gì thì quý vị mới có thể tiêu hóa [vật phẩm cúng dường ấy]? Do vậy, có thể biết, người xuất gia nếu chẳng thể vãng sanh trong một đời này, tương lai đều phải trả nợ những thứ do thí chủ cúng dường cho quý vị trong hiện tại. Vì lẽ đó, người xuất gia quyết định chớ nên tham cầu những thứ cúng dường. Vì sao? Hiện thời, tham cầu càng nhiều, tương lai phải đền trả càng lắm! Nay ta mong muốn ít ỏi, dẫu chẳng thể vãng sanh, sau này gánh nặng trả nợ sẽ nhẹ hơn một chút, điều này cũng được! Đây là nói nhất định phải “phát Đại Thừa ý”.

“Dĩ phát ý giả, đắc Vô Sanh Nhẫn dĩ nãi tiêu” (Đã phát ý thì đã đắc Vô Sanh Nhẫn [những thức ăn ấy] mới tiêu). “Đã phát ý” là các Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền. Bồ Tát đến ứng cúng, Ngài có thể tiêu được không? Nếu Ngài chẳng tinh tấn, chẳng nỗ lực, chẳng cầu tiến lên, Ngài cũng chẳng thể tiêu. Cao hơn Tam Hiền là Thập Thánh, địa vị Tam Hiền là Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng Bồ Tát. Nếu Ngài đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn thì Vô Sanh Pháp Nhẫn là Địa Thượng Bồ Tát (từ Sơ Địa trở lên). Ở đây là nói theo Biệt Giáo, chẳng phải là Viên Giáo. Vô Sanh Nhẫn trong Viên Giáo là nói theo nghĩa rộng, [vì] Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đã đắc [Vô Sanh Nhẫn] chút phần!

“Đắc Nhẫn giả, chí Nhất Sanh Bổ Xứ nãi tiêu” (Người đã đắc Nhẫn thì đạt đến Nhất Sanh Bổ Xứ mới tiêu). Bậc Bồ Tát đã đạt đến Vô Sanh Pháp Nhẫn Bồ Tát, trong Biệt Giáo là từ Sơ Địa trở lên, ắt phải là sau khi đã chứng đắc địa vị thứ mười một, tức Hậu Bổ Phật (Đẳng Giác), Ngài mới có thể tiêu thụ được. Cao hơn Hậu Bổ Phật là Phật quả viên mãn, tức là địa vị Diệu Giác. Có thể thấy: Mong tiêu thụ thức ăn [do tín chúng cúng dường], quả thật chẳng dễ dàng. Như Lai mới là phước điền thật sự của chín pháp giới. Từ chín giới trở xuống, tức là từ Đẳng Giác trở xuống, đều phải thật sự dụng công tu học, nâng cao phẩm vị của chính mình thì mới có thể tiêu thụ được.

 

(Diễn) Thực thử thực giả, giai đoàn Chân Như chi lý dĩ vi thực dã.

() 食此食者,皆摶真如之理以為食也。

(Diễn: “Ăn thức ăn này” đều là dùng lý Chân Như để làm thức ăn vậy).

 Ở đây là nói đến các vị Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới “thanh hư chi thân, vô cực chi thể”, chẳng cần các thứ ngũ cốc, lương thực, mà dùng pháp hỷ làm thức ăn, lấy Thiền Duyệt làm thức ăn, vẫn phải dũng mãnh, tinh tấn thì mới có thể tiêu thụ.

“Hoa Nghiêm Cụ Túc ưu-bà-di vân” (Trong kinh Hoa Nghiêm, ưu-bà-di Cụ Túc nói). Trong năm mươi ba lần tham học, Thiện Tài đồng tử tham phỏng ưu-bà-di Cụ Túc[27]. Đây là một vị nữ cư sĩ tại gia. Vì thế, các đồng tu tại gia cũng đừng xem thường chính mình, vị này là Bồ Tát. Thiện Tài đồng tử đến tham học với bà ta, bà ta là thầy của Thiện Tài; năm mươi ba vị thiện tri thức đều là thầy của Thiện Tài. Năm mươi ba vị thiện tri thức ấy, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp đều có, xuất gia chỉ có sáu vị, tại gia bốn mươi bảy vị. Tại gia nhiều, xuất gia ít! Đây là một vị tại gia nữ cư sĩ ưu-bà-di, bà ta nói: “Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát, thực ngã thực giả, giai ư Bồ Đề thụ hạ thành Đẳng Chánh Giác” (Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát ăn thức ăn của ta đều thành Đẳng Chánh Giác dưới cội Bồ Đề), Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát là ai? Đẳng Giác Bồ Tát. Sau khi Đẳng Giác Bồ Tát nhận thực phẩm do bà ta cúng dường, phải thành Phật thì mới có thể tiêu thụ vật cúng dường của bà ta. Chẳng thành Phật, sẽ không được! Ta cúng dường quý vị, nhằm giúp quý vị thành Phật. “Giai tự tánh Chân Như vô tận chi lý nhi vi thực dã” (Đều dùng lý Chân Như vô tận trong tự tánh làm thức ăn), trọn chẳng phải là những thức ăn giống như các thứ thực phẩm bằng ngũ cốc, lương thực trong nhân gian chúng ta. Đây chính là một trong hai ý nghĩa khất thực của tỳ-kheo: Tỳ-kheo khất thực nhằm bồi đắp thân thể, đó là đi khất thực từng nhà. Ngoài ra là hướng về Phật, khất pháp nhằm vun bồi Pháp Thân huệ mạng. Đó chính là Pháp Thực, dùng Phật pháp làm thức ăn, nhằm nuôi dưỡng Pháp Thân huệ mạng của chúng ta.

 

(Diễn) Vấn: Ký viết Chân Như chi lý vi thực, nhi Chân Như nhất vị bình đẳng, vô tăng, vô giảm, vạn cổ bất ma, nhi văn trung thâm thiển giai vị, lũ thực lũ tiêu giả, hà dã?

() 問:既曰真如之理為食,而真如一味平等,無增無減,萬古不磨,而文中深淺階位,屢食屢消者,何也?

(Diễn: Hỏi: Đã nói là “lý Chân Như làm thức ăn”, nhưng Chân Như một vị bình đẳng, chẳng tăng, chẳng giảm, muôn đời chẳng mòn, thế mà trong lời Sao lại nói đến các địa vị cạn hay sâu, nhiều lượt ăn, nhiều lượt tiêu, là vì lẽ nào?)

 Câu hỏi này rất có đạo lý. Chân Như là một, há có tầng cấp? Trong Chân Như, xác thực là chẳng có tầng cấp, nhưng chúng ta thấy kinh Duy Ma nói có tầng cấp.

 

(Diễn) Đáp, Chân Như tuy viết nhất vị, vạn cổ bất ma, nhi nãi tùy trí thiển thâm, dĩ hạ vị vị chứng thượng vị lý thời, tắc nhất tâm duyên thử lý cảnh, danh thực thử thực. Dĩ chứng thử lý thời, tắc thử lý hóa vi ô hữu, danh viết nãi tiêu.

() 答:真如雖曰一味,萬古不磨,而乃隨智淺深,以下位未證上位理時,則一心緣此理境,名食此食;已證此理時,則此理化為烏有,名曰乃消。

(Diễn: Đáp: Chân Như tuy nói là một vị, muôn đời chẳng mòn, nhưng tùy thuộc vào trí cạn hay sâu, do khi địa vị dưới chưa chứng được lý của địa vị trên, bèn nhất tâm duyên theo lý cảnh ấy, nên gọi là “ăn thức ăn ấy”. Khi đã chứng lý ấy, lý ấy hóa thành chẳng còn gì nữa, nên mới nói là “bèn tiêu”).

Trả lời hết sức khéo! Khi quý vị chưa chứng đắc, dường như có Lý để có thể chứng. Sau khi chứng đắc, Lý ấy chẳng còn nữa. Vì sao chẳng còn? Tâm và cảnh như một, Lý và Trí không hai. Năng chứng (chủ thể để chứng) là Trí, sở chứng (điều được chứng) là Lý. Khi chứng đắc, Lý và Trí vốn là một, chẳng hai. Đã chẳng có Năng Chứng Trí thì cũng chẳng có Sở Chứng Lý, điều này gọi là Tiêu. Khi chưa chứng đắc, bèn có Năng Chứng Trí, mà cũng có Sở Chứng Lý, có Năng và Sở. Địa vị Tam Hiền trong Biệt Giáo đều có Năng và Sở, đã đăng địa (chứng nhập Sơ Địa) thì Năng và Sở đều chẳng có. Do đó, Ngài nói “đắc Vô Sanh Nhẫn; khi ấy, Năng và Sở chẳng còn nữa”. Câu cuối cùng trong Tâm Kinh nói về cảnh giới của bậc Địa Thượng Bồ Tát, “vô trí, diệc vô đắc”, đó là thật sự tiêu mất, Năng Chứng và Sở Chứng đều chẳng thể được.

Nhưng chư vị phải hiểu: Đấy là Lý, chân lý; nay chúng ta là phàm phu, phàm phu lè tè sát đất, nhất định phải tin tưởng, tin tưởng chính mình là một gã phàm phu sanh tử, tin tưởng chính mình nghiệp chướng sâu nặng. Những lý luận ấy có thể nghe, nhưng tuyệt đối chẳng thể học tập. Nếu quý vị học tập, nhất định đọa địa ngục, đó gọi là Ác Thủ Không (chấp Không sai lầm). [Nghe nói] “vô tu, vô chứng” [bèn tưởng lầm] ta cũng chẳng cần phải tu, cũng chẳng cần phải chứng, vậy thì chắc chắn quý vị đọa địa ngục. [Quý vị phản bác]: “Tôi chẳng làm chuyện xấu, cớ sao bị đọa địa ngục?” Quý vị đã báng Phật, báng Pháp, báng Tăng. Quý vị hiểu sai ý nghĩa câu nói này của đức Phật, đó chính là báng Pháp. Tội nghiệp nặng nhất trong hủy báng Tam Bảo là nghiệp báng Pháp. Không chỉ lầm chính mình, mà còn khiến cho người khác bị lầm. Cổ nhân nói: “Ninh khả chấp Hữu như Tu Di sơn” (Thà chấp Có như núi Tu Di). Đó là chấp trước, chấp trước Hữu to như núi Tu Di, còn cứu được! “Bất khả chấp Không như giới tử” (Chớ nên chấp Không chừng bằng hạt cải), chớ nên mảy may chấp trước Lý Không. Hễ chấp trước bèn là Ác Thủ Không, hỏng bét!

Vì thế, Tịnh Độ Tông chẳng nói Không, mà “chỉ phương, lập tướng”, chỉ ra Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ ra phương hướng [của cõi Cực Lạc] là phương Tây, kiến lập một phương hướng xác định, xác thực là có Tây Phương Cực Lạc thế giới, xác thực là có A Di Đà Phật, như vậy thì sẽ chẳng đến nỗi rớt vào Không, chẳng chấp Không! Chúng ta chẳng hiểu nghĩa Không, chẳng sao cả! Chúng ta chấp trước Chân Hữu. Chân Hữu thì quý vị thật sự có thể vãng sanh, thật sự có thể đến đó, thật sự có thể thoát luân hồi, thoát tam giới. Trong giai đoạn hiện tiền, chúng ta nhất định phải hiểu rõ điều này, ngàn muôn phần chớ nên hiểu lầm!

 

(Diễn) Như nhân vị chí Lư Sơn, tắc hữu Lư Sơn khả duyên. Dĩ chí Lư Sơn, tắc Lư Sơn hóa vi ô hữu. Cố viết: “Bất kiến Lư Sơn chân diện mục, chỉ nhân thân tại thử sơn trung” dã.

() 如人未至廬山,則有廬山可緣,已至廬山,則廬山化為烏有,故曰不見廬山真面目,只因身在此山中也。

(Diễn: Như người chưa đến Lư Sơn, ắt có Lư Sơn để có thể duyên vào. Đã đến Lư Sơn thì Lư Sơn hóa thành chẳng còn nữa. Nên nói: “Chẳng thấy Lư Sơn chân diện mục, chỉ thân mình ở tại Lư Sơn”).

Đây là hai câu trong bài thơ do Tô Đông Pha đã làm khi đến chơi Lư Sơn. Chưa đến nơi ấy, bèn muốn đi. Do có mục đích, mục tiêu, nên nỗ lực tinh tấn nơi ấy. Đã đạt tới, tâm liền thôi mong tưởng, [mục đích, mục tiêu] ấy chẳng còn nữa, chẳng có tâm phan duyên. Đây là một tỷ dụ. Tới đây đã giảng xong ý nghĩa “phạn thực”. Tiếp theo đây là giải thích ý nghĩa “kinh hành”:

 

(Sao) Kinh hành giả, Trì Thế kinh vân: “Như Lai hành xứ, thị vô hành xứ”. Vô hành xứ giả, chân huệ dã. Cố tri niêm chủy, phóng trợ, khẩu khẩu bất ly, cử túc, động thân, bộ bộ đạp trước. Hà đắc mai đầu khiết phạn, không quá nhất sanh, ngoạn thủy quán sơn, đồ lao vạn lý.

() 經行者,持世經云:如來行處,是無行處。無行處者,真慧也。故知拈匙放箸,口口不離,舉足動身,步步踏著。何得埋頭喫飯,空過一生,翫水觀山,徒勞萬里。

(Sao: “Kinh hành”: Kinh Trì Thế nói: “Hành xứ của Như Lai là vô hành xứ”. “Vô hành xứ” là chân huệ. Vì thế biết: Cầm thìa, buông đũa, miệng miệng chẳng lìa. Giở chân, động thân, bước bước giẫm đạp. Há nên vùi đầu ăn uống, luống uổng một đời. Dạo chơi sơn thủy, uổng công vạn dặm nhọc nhằn!)

 Trong sách Diễn Nghĩa có chú giải hai câu kinh Trì Thế: “Như Lai hành xứ, thị vô hành xứ”.

 

(Diễn) Hành giả, tâm hành hồ cảnh dã. Phàm phu hành Hữu, Nhị Thừa hành Không, Đại Thừa Bồ Tát hành Trung Đạo. Như Lai tắc Hữu xứ toàn Không, phi hành Hữu dã. Không xứ toàn Hữu, bất hành Không dã. Trung Đạo tức nhị biên, bất hành Trung dã.

(行者,心行乎境也。凡夫行有,二乘行空,大乘

菩薩行中道。如來則有處全空,非行有也;空處全有,不行空也;中道即二邊,不行中也。

(Diễn: “Hành” là tâm duyên nơi cảnh. Phàm phu hành Hữu, Nhị Thừa hành Không, Đại Thừa Bồ Tát hành Trung Đạo. Như Lai ắt Hữu xứ toàn là Không, nên chẳng hành Hữu. Không xứ toàn là Hữu, nên cũng chẳng hành Không. Trung Đạo chính là Nhị Biên, nên chẳng hành Trung).

“Hành” (行) là nói tới khởi tâm động niệm. “Phàm phu hành Hữu”: Phàm phu khởi tâm động niệm đều có cảnh giới, đương nhiên những cảnh giới ấy rất nhiều. Phật pháp quy nạp chúng lại [gọi chung là Hữu], phàm phu chấp Hữu. Quý vị khởi tâm động niệm nói chung là có Hữu, hoặc là nghĩ tới người, hoặc nghĩ tới sự, hoặc nghĩ tới quá khứ, hoặc nghĩ đến vị lai, trong tâm hễ động niệm bèn có tướng. Trong văn tự Trung Quốc, Tưởng (想) là trong tâm (心) có tướng (相); hễ tâm quý vị động niệm bèn có tướng. Trong tâm động niệm gọi là Tưởng, hễ Tưởng bèn có tướng xuất hiện. Người thật sự có công phu, hoặc người có Thiên Nhãn Thông, quý vị nghĩ gì, họ biết ngay. Vì sao biết? Quý vị vừa nghĩ bèn có tướng, họ liền biết quý vị đang làm gì, họ thấy rõ ràng, rành rẽ, họ có thể trông thấy. Ban đêm quý vị ngủ, nằm mộng, họ ở bên cạnh nhìn sẽ thấy quý vị đang làm gì trong mộng, họ đều biết, vì khi quý vị nghĩ tưởng, bèn có tướng.

Trong Thiền Tông có một công án: Thiền sư Kim Bích Phong công phu Thiền Định rất sâu. Khi hết tuổi thọ, Diêm Vương sai tiểu quỷ đến bắt Sư, Sư nhập Định. Sư vừa nhập định, tâm chẳng sanh một niệm. Chẳng có niệm, bèn chẳng có tướng, [tiểu quỷ] chẳng tìm thấy. Tiểu quỷ bó tay, đến đâu bây giờ? Chẳng tìm thấy người ấy! Có thể thấy là khi quỷ đến, hắn chẳng bắt thân thể, mà là bắt thần thức. Thần thức đang nhập Định, chẳng có tướng, nên quỷ chẳng thấy! Quỷ chẳng thấy thân thể này, cái nó trông thấy là tướng khởi tâm động niệm. Vì thế, tìm chẳng thấy! Sau đó, quỷ nghe nói thiền sư Kim Bích Phong có một cái bát là đồ cổ Sư rất ưa thích, trong tâm chẳng thể buông xả cái bát ấy. Con quỷ ấy nói: “Vậy là có cách rồi”, bèn nhè nhẹ gõ bát một chút. Tâm thiền sư nghe tiếng động của cái bát, trong tâm bèn dấy động một niệm. Một niệm vừa động, tiểu quỷ bắt được Sư. Sư hỏi: “Ngươi bắt ta làm gì?” Quỷ đáp: “Thọ mạng của Sư đã hết rồi, Diêm Vương bắt Sư đi”. Sư hỏi: “Sao vừa rồi ngươi chẳng tìm thấy ta?” Quỷ đáp: “Sư nhập Định, ta chẳng thấy Sư. Vì Sư yêu thích cái bát này, ta vừa gõ, Sư động tâm, ta bèn tìm được Sư”. Thiền sư nghe vậy, lại nhập Định. Quỷ lại gõ bát, nhưng Sư đã chẳng cần nữa, buông xả cái bát ấy, nên tiểu quỷ ấy chẳng tìm thấy Sư.

Vì vậy, hễ trong tâm khởi tâm động niệm, quỷ thần hay biết! Chúng ta dấy thiện niệm, hay dấy ác niệm, quỷ thần biết trọn vẹn, chẳng có cách nào dối gạt người khác! Những hành vi rõ rệt của chúng ta, con người có thể biết, có thể nhận ra, nhưng những hành vi ẩn giấu trong tâm, quỷ thần hay biết. Ngay cả quỷ thần còn biết, kinh nói người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là “Thiên Nhãn đỗng thị, Thiên Nhĩ triệt thính, Tha Tâm biến tri” (Thiên Nhãn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thấu suốt, Tha Tâm biết trọn khắp), [đương nhiên biết rõ ràng]. Nay chúng ta dấy vọng tưởng, thậm chí chính mình còn chưa để ý, còn chưa biết, nhưng người ta đã thấy rõ ràng, rành rẽ.

Nói đến hành xứ của phàm phu thì phàm phu chấp Có. “Nhị Thừa hành Không”: Thanh Văn và Duyên Giác chấp trước Không; luôn thiên lệch vào hai bên. “Đại Thừa Bồ Tát hành Trung Đạo”: Nói thật ra, Trung Đạo và Nhị Biên lại là một sự kiến lập, vẫn là một bên. Vì lẽ đó mà phân chia tầng cấp, địa vị. “Như Lai tắc Hữu xứ toàn Không, phi hành Hữu dã; Không xứ toàn Hữu, bất hành Không dã” (Như Lai thì Hữu xứ toàn là Không, nên chẳng hành Hữu; Không xứ toàn là Hữu, nên chẳng hành Không). Trung Đạo chính là hai bên, nên chẳng hành Trung. Vì lẽ đó, Phật là vô hành xứ. Vô hành xứ mới là trí huệ chân chánh.

 

(Diễn) Ly tứ cú hành, tuyệt bách phi hành.

() 離四句行,百非行。

(Diễn: Hành lìa bốn câu, hành dứt bách phi).

 “Tứ cú”“không, có, cũng không cũng có, chẳng phải không chẳng phải có”, đó đều là những phân biệt, chấp trước hư vọng của hết thảy chúng sanh.

 

(Diễn) Oai Âm na bạn hành, Pháp Thân hướng thượng hành, bất khả hành xứ hành.

() 威音那畔行,法身向上行,不可行處行。

(Diễn: Hành nơi phía Oai Âm Phật, hành nơi Pháp Thân hướng thượng, hành nơi chẳng thể hành).

“Oai Âm” là tên một vị cổ Phật, tức là Oai Âm Vương Phật (Bhiśmagarjitasvararājā). Trong Phật pháp, câu nói này được dùng với nghĩa phiếm chỉ rất rộng, nhằm hình dung bao kiếp lâu xa trước, cũng có thể nói là “bất khả thuyết bất khả thuyết vô lượng kiếp trước”, mang ý nghĩa này. Những điều này nhằm hình dung Phật chẳng trụ vào hai bên Có và Không, cũng chẳng trụ vào Bất Trụ. Đó là cảnh giới “vô trí, diệc vô đắc” cuối Tâm Kinh. Thiền Tông nói “hướng thượng nhất trước” (向上一著) là nói đến điều này.

Từ câu “cố tri” (vì thế biết) trở đi là kết lại lời khuyên, khuyến khích chúng ta. “Niêm chủy, phóng trợ” (Cầm thìa, buông đũa) là nói chúng ta trong khi ăn cơm hằng ngày. Chủy (匙) là cái muỗng chan canh, cái thìa; Trợ (箸) là đũa. “Khẩu khẩu bất ly”, chẳng lìa gì vậy? Đức dụng của Chân Như bổn tánh, cũng là hành xứ của Như Lai, chẳng rời khỏi! Chỉ cần quý vị chẳng chấp trước, quý vị có thể tự tại giống như Phật. Hai bên Hữu và Không đều chẳng chấp trước, mà cũng đừng chấp trước “không chấp trước”. Nói cách khác, Phật và phàm phu có gì khác nhau? Thuở tại thế, đức Phật cũng mặc quần áo, ăn cơm, tình hình sinh hoạt chẳng khác gì chúng ta. Điều khác biệt duy nhất là trong tất cả các cảnh giới, đức Phật chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước. Chúng ta khởi tâm động niệm, chúng ta chấp Hữu, trong hết thảy cảnh giới chúng ta đều ngỡ là thật. Người Tiểu Thừa chấp Không, nên đều chẳng đạt được thụ dụng chân thật. Người chấp Hữu tạo nghiệp, phải chịu quả báo. Tuy quả báo chẳng phải là chân thật, nhưng giống như nằm mơ, mỗi ngày đều gặp ác mộng có dễ chịu hay không? Ngày nào chúng ta chẳng còn nằm ác mộng nữa, ác mộng đã nhiều quá rồi, chẳng còn muốn mộng nữa, luân hồi trong lục đạo là ác mộng! Nếu quý vị chẳng thể thật sự tỉnh giấc, cơn ác mộng ấy vĩnh viễn chẳng dứt, phiền phức to lớn, [phiền phức] nhiều lắm! Người Tiểu Thừa chấp Không, cũng là thiên lệch một bên, chẳng đạt được tự tại thật sự. Tiểu Thừa là “có Thể, chẳng có Dụng”, Thể là Không. Có Thể nhưng không có Dụng, nên chẳng khởi tác dụng. Phàm phu là “có Dụng, chẳng có Thể”; tuy có tác dụng, nhưng quên bẵng Thể!

Chư Phật, Bồ Tát “Thể Dụng như như”, đấy mới là đắc đại tự tại! Không chỉ là Thiền Tông hiển lộ chẳng sót ý nghĩa này, mặc quần áo, ăn cơm đều là công phu, mặc quần áo, ăn cơm đều là Phật pháp; chẳng có một pháp nào không phải là Phật pháp. Vì thế, “khẩu khẩu bất ly”, “khẩu khẩu” là ăn cơm. Nếu chư vị đã đọc Lăng Nghiêm, sẽ hiểu ý nghĩa này sâu hơn một chút. Giao Quang đại sư chủ trương: Đối với Lăng Nghiêm, cách tu Thủ Lăng Nghiêm Định là “bỏ Thức, dùng Căn”. Tật xấu của chúng ta trong hiện thời là dùng tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở, đó là phàm phu. Mắt duyên theo Sắc Trần, tai duyên theo Thanh Trần. Khi ăn cơm, Thiệt Thức duyên theo Vị Trần, luôn khởi phân biệt, chấp trước nơi đó! Sự phân biệt, chấp trước ấy là cội nguồn của phiền não nghiệp chướng. Giao Quang đại sư dạy chúng ta “bỏ Thức, dùng Căn”, chúng ta chẳng dùng tám thức, chẳng dùng năm mươi mốt Tâm Sở, chẳng dùng những thứ ấy. Sau khi đã bỏ sạch những thứ ấy, mắt có thể thấy hay không? Có thể thấy, thấy gì vậy? Thấy bằng tánh Thấy, tuyệt diệu thay! Tánh Thấy thấy điều gì? Thấy Sắc Tánh, chẳng phải là Sắc Trần. Sắc Trần bất bình đẳng, Sắc Tánh bình đẳng. Trong hết thảy Sắc, thấy được tánh, minh tâm kiến tánh, quý vị kiến tánh bèn thành Phật. Tai nghe chẳng phải là Thanh Trần, Nhĩ Thức mới đối ứng với Thanh Trần, nay ta dùng tánh Nghe, nghe gì? Thanh Tánh. Quán Thế Âm Bồ Tát dùng phương pháp này. Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Nhĩ Căn, nên “phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” (xoay cái nghe để nghe nơi tự tánh, tánh thành vô thượng đạo), Ngài thành Phật.

Người ta ăn này nọ, “khẩu khẩu bất ly” là dùng Thiệt Tánh, nếm gì? Nếm Vị Tánh, chẳng phải là Vị Trần. Ở đây nói “khẩu khẩu bất ly, bộ bộ đạp trước” theo ý nghĩa này. “Thân” cũng là Căn, là một thứ trong lục căn, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thân đối ứng Xúc Trần. Nay Thân Căn đối ứng với Xúc Tánh, chẳng phải là Xúc Trần, nên mỗi bước đều giẫm đạp [nơi Thật Tế lý địa]. Đó chính là “Như Lai hành xứ”. Ở đây, dạy chúng ta “kinh hành” thì phải đi nơi hành xứ của Như Lai. Bước từng bước, mỗi bước chúng ta đi, chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, chẳng phải là Trần Cảnh, mà là Sắc Tánh, Xúc Tánh.

“Hà đắc mai đầu khiết phạn, không quá nhất sanh” (Sao đành vùi đầu ăn uống, luống uổng một đời): Trong cuộc sống, quý vị chẳng thể thứ gì cũng đều hội quy tự tánh, quý vị đã uổng công ăn cơm mất rồi! Ăn cơm vẫn tạo nghiệp, tạo nghiệp gì vậy? Nếm hương vị này, món này ăn ngon, món kia khó nuốt! Phân biệt, chấp trước. Ngon miệng bèn ăn nhiều một chút. Đối với món nuốt chẳng nổi, bèn sanh tâm sân hận, đó là tạo nghiệp. Do đó, Trần có phân biệt, Tánh vô phân biệt! Trong Trần có chấp trước, có phiền não, trong Tánh chẳng có chấp trước, chẳng có phiền não. Đây là nói đến cuộc sống hằng ngày!

“Ngoạn thủy quan sơn, đồ lao vạn lý”   (Dạo chơi sơn thủy, uổng công nhọc nhằn vạn dặm): Hai câu này nói đến chuyện lên núi lễ Phật, tham học. Lên núi lễ Phật, tham học, mà nếu chẳng thể minh tâm kiến tánh, vậy là quý vị uổng công nhọc nhằn bôn ba vạn dặm, chẳng có ý nghĩa gì! Vì thế, trước kia, người ta lên núi, lễ Phật, tham học, nhằm mục đích tham phỏng thiện tri thức chân chánh, hướng về Ngài cầu chỉ dạy, hoặc là chính mình đã khế nhập cảnh giới nào đó, thỉnh Ngài ấn chứng. Nay chúng ta đi vãn cảnh, du lịch, sai mất rồi! Người biết dụng công, đích xác là thời gian một phút, một giây cũng chẳng lãng phí, niệm niệm đều tương ứng với đạo, chẳng có một pháp nào không tương ứng!

 

Tứ tổng kết

四總結。

(Bốn, tổng kết).

Liên Trì đại sư có viết khoa phán cho kinh này, đồ biểu A Di Đà Kinh Sớ Sao Biệt Giải Văn Nghĩa được in phía sau sách này. Đoạn kinh văn chúng ta đang đọc ở đây thuộc về phần Y Báo, chính là đoạn thứ hai, tức Biệt Thị Trang Nghiêm (nêu bày y báo từng điều riêng biệt) trong phần Y Báo. Tiếp đó là bốn đoạn: Đoạn thứ nhất là Lan Võng Hàng Thụ, đoạn thứ hai là Trì Quốc Liên Hoa, đoạn thứ ba là Thiên Nhạc Vũ Hoa. Đoạn văn hiện tại là phần tổng kết của đoạn Thiên Nhạc Vũ Hoa.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

() 舍利弗。極樂國土。成就如是功德莊嚴。

(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế).

Đây là phần cuối cùng tổng kết đoạn thứ ba của Y Báo.

 

(Sớ) Kết thượng thiên nhạc, thiên hoa đẳng.

() 結上天樂天華等。

(Sớ: Tổng kết những điều như thiên nhạc, thiên hoa v.v… trên đây).

 Tổng kết thiên nhạc, thiên hoa… đã được nói trong phần trước.

 

(Sớ) Chủng chủng trang nghiêm, giai bổn Phật nguyện hạnh công đức sở thành tựu dã.

() 種種莊嚴,皆本佛願行功德所成就也。

(Sớ: Các thứ trang nghiêm vốn đều do nguyện hạnh và công đức của Phật Di Đà thành tựu).

Sự thù thắng của Tây Phương Cực Lạc thế giới rất chẳng thể nghĩ bàn. Thành tựu như thế nào? Được thành tựu bởi đại nguyện và đại hạnh của A Di Đà Phật, mà cũng được thành tựu bởi tịnh nghiệp của các chúng sanh vãng sanh từ mười phương. Có lẽ chư vị sẽ hỏi: Nói do nguyện hạnh của A Di Đà Phật thành tựu thì còn có căn cứ, kinh Vô Lượng Thọ có nói [chuyện này]! Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng giảng rõ ràng! Nói do tịnh nghiệp của hết thảy những người vãng sanh thành tựu, dường như chưa nghe nói! Trong phần trước, tôi đã từng nói với quý vị, một câu A Di Đà Phật của người niệm Phật, chúng ta dùng tâm thanh tịnh, tâm chí thành, tâm cung kính, tâm cầu nguyện vãng sanh để niệm một câu A Di Đà Phật, hoặc là niệm Nam-mô A Di Đà Phật, sáu chữ hoặc bốn chữ đều như nhau, sáu chữ hồng danh ấy không chỉ có âm thanh, mà còn có quang minh. Không chỉ có quang minh, mà còn có mùi thơm, hương quang trang nghiêm mà! Vì sao có quang minh và có mùi thơm? Vì sáu chữ ấy từ trong tự tánh của quý vị niệm ra, vì sao biết là tự tánh? Vì từ trong tâm chân thành của quý vị niệm ra. Tâm chân thành cầu nguyện vãng sanh chính là tự tánh. Cổ đức nói cái tâm năng niệm là Thỉ Giác, Phật hiệu được niệm là Bổn Giác của chính mình. Thỉ Giác và Bổn Giác bất nhị, là Cứu Cánh Giác. Giác là tự tánh.

Do đó, thánh hiệu Di Đà là đức hiệu trong tự tánh của chúng ta, một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật. Niệm một câu Phật hiệu vang rền pháp giới, công đức ấy to lắm! Ánh sáng chiếu xen lẫn nhau với đại hạnh đại nguyện của A Di Đà Phật. Chúng ta đọc Đại Kinh thấy nói: “Tự nhiên quang sắc tham hồi” (Tự nhiên quang minh và màu sắc xen chiếu, hòa nhập lẫn nhau). “Tham” (參) là hòa nhập lẫn nhau, “hồi” (迴) là hồi chuyển (xoay chuyển cuộn tròn vào nhau), trong ấy chẳng có giới hạn. Đó là biến đại nguyện và đại hạnh của A Di Đà Phật thành nguyện hạnh của chính chúng ta. Pháp môn này thực tại chẳng thể nghĩ bàn! Nếu cậy vào sự tu hành của bản thân chúng ta, tu đến mức giống như A Di Đà Phật, rất khó khăn! Nay nhờ vào một câu danh hiệu A Di Đà Phật này, khiến cho tâm hạnh của chúng ta nghiễm nhiên giống như A Di Đà Phật, chẳng khác gì! Điều này chẳng thể nghĩ bàn. Quý vị một niệm là một niệm tương ứng, niệm niệm là niệm niệm tương ứng.

Bởi vậy, chẳng thể không hiểu ý nghĩa trong kinh. Nếu quý vị chẳng hiểu, khi quý vị niệm Phật, sẽ chẳng có cảnh giới ấy. Nếu quý vị chẳng hiểu, cũng muốn đạt đến cảnh giới ấy, nhất định phải niệm đến mức tâm thanh tịnh, phải niệm đến mức nhất tâm bất loạn, cảnh giới ấy mới hiện tiền, mới hòng đạt được! Nếu quý vị thông đạt, hiểu rõ giáo nghĩa; nói cách khác, cảnh giới ấy có thể hiện tiền khá mau, vì sao? Niệm niệm đều như Vãng Sanh Luận đã nói, có quán tưởng. Thiên Thân Bồ Tát nói đến Ngũ Niệm Pháp. Ngũ niệm đều ở trong một câu Phật hiệu A Di Đà Phật; vì thế, một câu Phật hiệu có năm ý nghĩa. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư đã biên soạn bộ Tịnh Tu Tiệp Yếu, cách tu trong Tịnh Tu Tiệp Yếu đã dựa trên Ngũ Niệm Pháp của Vãng Sanh Luận để biên soạn. Trong Ngũ Niệm có Lễ Bái, Tịnh Tu Tiệp Yếu có tất cả ba mươi hai lạy. Mỗi đoạn là một lạy, nên nghi thức ấy có lễ bái. Có Quán Sát, Quán Sát là quán tưởng. Quý vị niệm đoạn văn ấy, trong tâm nghĩ đến cảnh giới ấy, đó là Quán Sát. Có Phát Nguyện, nguyện nào cũng đều tưởng cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Có Xưng Danh, mỗi một lạy bèn niệm Nam-mô A Di Đà Phật ba lần. Có Hồi Hướng; vì thế, năm ý nghĩa đều trọn đủ. Quý vị có thể hiểu rõ, thông đạt nghĩa lý của kinh, đừng thấy nghi thức ấy rất ngắn, chỉ có ba mươi hai lạy. Hãy quan sát cặn kẽ ba mươi hai lạy ấy, gần như phải lạy mất bốn mươi hoặc năm mươi phút. Nếu có thời gian, chớ nên lạy quá nhanh, phải thật sự suy tưởng cảnh giới ấy. Cảnh giới ấy hoàn toàn dung hội với A Di Đà Phật thành một Thể, đích xác là một phương pháp tu hành hết sức tốt đẹp.

Trước kia, chúng ta đọc Vãng Sanh Luận, chẳng biết cách tu của Vãng Sanh Luận là như thế nào! Lão cư sĩ Hạ Liên Cư biên soạn tác phẩm này chính là cách tu Vãng Sanh Luận. Đã thế, nội dung quán tưởng trong tác phẩm ấy hoàn toàn là kinh Vô Lượng Thọ, mà cũng y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, quá hay! Nay chúng tôi in chung kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ và Tịnh Tu Tiệp Yếu, cũng như Bảo Vương Tam Muội Sám [thành một cuốn] để mọi người tu học thuận tiện. Những vị có công phu, đã về hưu, chẳng phải đi làm, ở nhà có thời gian, nếu có thể lạy Bảo Vương Tam Muội Sám thì càng tỉ mỉ. Nếu phải đi làm, bận bịu nhiều việc, dùng Tịnh Tu Tiệp Yếu là được rồi. Ở đây, chúng ta có băng thâu âm Tịnh Tu Tiệp Yếu, hoặc là chính quý vị niệm trước, thâu băng lại, vì sao? Khi quý vị quán tưởng, lễ bái, chẳng cần nhìn vào kinh văn, tâm quý vị càng định. Xem kinh văn thì phải giở sách, là chuyện rất phiền. quý vị chẳng ngại gì mà không mở băng lên, khi nghe bèn dựa vào đó để quán tưởng. Vì thế, nói nguyện hạnh của đức Di Đà cũng như tịnh nghiệp của hết thảy người vãng sanh đã thành tựu sự thù thắng trang nghiêm khôn sánh của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong lời Sao, Tổ đã trích dẫn kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ.

 

(Sao) Nguyện giả, như Đại Bổn, Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, tự địa dĩ thượng, giai vô lượng tạp bảo, bách thiên chủng hương, nhi cộng hợp thành”.

() 願者,如大本法藏願云:我作佛時,自地以上,皆無量雜寶,百千種香,而共合成。

(Sao: Nguyện là như trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng đã nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật, từ mặt đất trở lên, đều dùng vô lượng chất báu khác nhau, trăm ngàn loại hương cùng hợp thành”).

Tây Phương Cực Lạc thế giới hương quang trang nghiêm.

 

(Sao) Hựu nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, thập phương vô ương số thế giới, chư thiên nhân dân, văn ngã danh hiệu, nhiên đăng, tán hoa”.

() 又願云:我作佛時,十方無央數世界,諸天人民,聞我名號,然燈散華。

(Sao: Lại nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật, chư thiên và nhân dân trong vô ương số thế giới, nghe danh hiệu tôi bèn thắp đèn, rải hoa”).

Chúng ta không chỉ đọc bổn nguyện của Ngài, mà từ kinh Vô Lượng Thọ, cũng đã xác thực thấy, tuy chúng ta không chính mắt thấy, nhưng tôn giả A Nan, Di Lặc Bồ Tát, cùng với hai vạn thính chúng nghe đức Phật giảng kinh khi ấy đều cùng trông thấy. Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Ông có muốn thấy A Di Đà Phật hay không? Nếu ông muốn thấy A Di Đà Phật, hãy chí thành, cung kính hướng về phương Tây đảnh lễ”. Ngài A Nan nghe xong, vô cùng hoan hỷ, cung kính hướng về phương Tây đảnh lễ, miệng niệm Nam-mô A Di Đà Phật. Vừa ngẩng đầu lên, A Di Đà Phật đã hiện ở trước mặt. Không chỉ thấy A Di Đà Phật, thấy chư đại Bồ Tát, mà còn thấy mười phương chư Phật thảy đều tán thán A Di Đà Phật, cũng thấy nhiều vị trời rải hoa cúng dường. Khi ấy, hai vạn người dự hội, chúng tỳ-kheo là một vạn hai ngàn vị, tỳ-kheo-ni năm trăm vị, tại gia cư sĩ bảy ngàn người, nữ cư sĩ năm trăm người, thảy đều trông thấy.

 

(Sao) Hựu nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, sát trung Bồ Tát, dĩ hương hoa đẳng chủng chủng cúng cụ, dục vãng tha phương thế giới cúng dường chư Phật, nhất thời chi khoảnh, tức khả biến chí”.

() 又願云:我作佛時,剎中菩薩,以香華等種種供具,欲往他方世界供養諸佛,一時之頃,即可遍至。

(Sao: Lại nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong cõi nước dùng các thứ vật cúng như hương, hoa… muốn sang các thế giới phương khác để cúng dường chư Phật, trong khoảng phút chốc liền có thể đến trọn khắp”).

Trong khi giảng Đại Kinh, chúng tôi cũng đã trình bày cặn kẽ, pháp này mới là pháp chân thật nhất! Ngoại trừ Tây Phương Cực Lạc thế giới, có thể nói nơi nào cũng đều là vô thường, đôi bên tụ hợp rất ngắn ngủi, tạm bợ. Chỉ có vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phật vô lượng thọ, tất cả hết thảy nhân dân ai nấy đều là vô lượng thọ. Thế giới ấy là thế giới bình đẳng kỳ diệu nhất! Trong Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã nói, hiện thời có rất nhiều người vẽ hình Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng đúng! Họ vẽ hình tượng A Di Đà Phật đặc biệt to, Quán Âm, Thế Chí hơi nhỏ hơn một chút, người vãng sanh càng nhỏ hơn nữa, còn có nam, có nữ, có xuất gia, và cũng có tại gia, đều là sai lầm. Tướng của Tây Phương Cực Lạc thế giới là “bình đẳng nhất tướng”, [nghĩa là] tướng mạo, thân thể, cao thấp hoàn toàn giống hệt A Di Đà Phật, quyết định chẳng có phân biệt. Có người nói: Đó là hình tượng trước khi vãng sanh thế giới Cực Lạc, chỉ có thể vẽ một ngôi chùa, vẽ mấy tượng Phật ngồi trong đó, chẳng phải là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ là bình đẳng nhất tướng, bức vẽ ấy chẳng phải là Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đồ, mà là Niệm Phật Đường Đồ của chúng ta ở nơi đây, [nói như vậy thì] được! Niệm Phật Đường tạo tượng Phật rất lớn thì được!

Đến bên kia, năng lực Thần Túc Thông cũng giống như Phật. Vì thế, cổ đức mới nói: “Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là sanh đến thế giới của hết thảy chư Phật”. Thế giới của hết thảy chư Phật trong mười phương, quý vị muốn đến đâu bèn đến đó, muốn tới lúc nào bèn tới lúc đó, chẳng có tí xíu chướng ngại nào! Thấy A Di Đà Phật giống như thấy hết thảy chư Phật, đó là nguyện này được thành tựu! Chúng ta cũng hết sức khẩn thiết mong đạt được lợi ích này. Hiện thời chúng ta đi xa, vẫn rất phiền phức, tuy giao thông nhanh chóng, thuận tiện, há được tự tại dường ấy như trong Tây Phương Cực Lạc thế giới? Chẳng thể sánh bằng!

 

(Sao) Hựu nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, ngã sát trung nhân, dục thực chi thời, bảo bát chi trung, bách vị ẩm thực, hóa hiện tại tiền, thực dĩ tự khứ”. Kim lai thành Phật, nhất nhất sở nguyện, giai tất thành tựu.

() 又願云:我作佛時,我剎中人,欲食之時,寶缽之中,百味飲食,化現在前,食已自去。今來成佛,一一所願,皆悉成就。

(Sao: Lại nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, người trong cõi ta, lúc muốn ăn, thức ăn trăm vị ở trong bát báu, hóa hiện trước mặt. Ăn xong biến mất”. Nay đã thành Phật, mỗi một điều nguyện thảy đều thành tựu).

Câu cuối cùng là tổng kết, phần trước đó là lời nguyện. Cuối cùng, nêu lên lời nguyện “áo cơm tự tại”, chẳng cần lo toan, chẳng cần làm lụng. Nhất là việc nhà rất vụn vặt, làm lâu ngày rất chán ngán. Tây Phương Cực Lạc thế giới vĩnh viễn chẳng cần phải làm những chuyện ấy nữa! Nấu cơm, rửa chén, quét sàn, lau bàn… Tây Phương thảy đều chẳng có.

Thế giới ấy chẳng nhiễm mảy trần, “tư y đắc y, tư thực đắc thực” (nghĩ đến áo bèn được áo, nghĩ đến ăn bèn được ăn). Nơi tốt đẹp như thế nếu chẳng đến đó, đáng gọi là “đồ ngốc”, đáng gọi là ngu si! A Di Đà Phật nay đã thành Phật, bốn mươi tám nguyện của Ngài nguyện nào cũng đều viên mãn, nguyện nào cũng đều được thực hiện. Đây là nêu lên mấy nguyện để nói rõ, đối với chuyện phạn thực kinh hành, đều là [trích dẫn] những điều nguyện có liên quan đến ăn cơm và kinh hành. Dưới đây là giảng về chữ Hành.

 

(Sao) Như Đại Bổn vân: “Pháp Tạng tỳ-kheo ký phát nguyện dĩ, thiên vũ diệu hoa, nhi tán kỳ thượng”. Hựu vân: “Hoặc vi tỳ-kheo, hoặc vi thiên vương, hoặc vi luân vương, hoặc vi đại thần, hằng vãng Phật sở, thừa sự cúng dường”. Hựu vân: “Thủ trung thường xuất y phục ẩm thực, tràng phan, bảo cái, nhất thiết âm nhạc”. Kim lai thành Phật, như thượng thiên nhạc, thiên hoa đẳng báo, tự hợp thành tựu.

() 如大本云:法藏比丘既發願已,天雨妙華,而散其上。又云:或為比丘,或為天王,或為輪王,或為大臣,恆往佛所,承事供養。又云:手中常出衣服飲食,幢旛寶蓋,一切音樂。今來成佛,如上天樂天華等報,自合成就。

(Sao: Như kinh Đại Bổn chép: “Tỳ-kheo Pháp Tạng đã phát nguyện rồi, trời tuôn hoa mầu nhiệm, rải lên thân Ngài”. Lại nói: “Hoặc làm tỳ-kheo, hoặc làm thiên vương, hoặc làm luân vương, hoặc làm quan lớn, thường đến chỗ Phật, hầu hạ, cúng dường”. Lại nói: “Trong tay thường hiện ra y phục, thức ăn, tràng phan, lọng báu, hết thảy âm nhạc”. Nay đã thành Phật, những quả báo như thiên nhạc, thiên hoa v.v… đều tự thành tựu phù hợp).

 Đây là Phật nhân viên quả mãn, [nghĩa là] nhân địa tu hành viên mãn, nên đạt được quả báo thù thắng ấy!

 

Tứ, hóa cầm phong thụ.

四化禽風樹。

(Bốn, chim biến hóa, gió thổi qua cây).

Đây là đoạn thứ tư trong phần Y Báo.

 

(Kinh) Phục thứ Xá Lợi Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu: Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp.

() 復次舍利弗。彼國常有種種奇妙雜色之鳥。白鶴。孔雀。鸚鵡。舍利。迦陵頻伽。共命之鳥。是諸眾鳥。晝夜六時。出和雅音。其音演暢五根。五力。七菩提分。八聖道分。如是等法。

(Kinh: Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các loài chim kỳ diệu, đủ màu: Chim Bạch Hạc, chim Công, Vẹt, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, tiếng hót hòa nhã. Âm thanh ấy diễn nói lưu loát Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như thế).

Chúng ta đọc lời chú giải của Liên Trì đại sư.

 

(Sớ) Thượng ngôn chư thiên hiến thụy.

() 上言諸天獻瑞。

(Sớ: Trong phần trước là chư thiên dâng hiến những thứ tốt lành).

 Xác thật có những vị trời [cúng dường như thế], chúng ta đã thấy cảnh giới ấy từ trong kinh Vô Lượng Thọ.

 

(Sớ) Thử ngôn cầm thụ thành âm. Hựu thượng ngôn cúng dường chi thắng. Kim ngôn văn pháp chi thắng dã. Chủng chủng ngôn phi nhất, kỳ diệu ngôn dị thường. Tạp sắc ngôn mỹ quan. Bạch Hạc đẳng giả, đa chủng trung cử nhất nhị dã. Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, thường kiến khả tri. Xá Lợi giải kiến tiền văn. Ca Lăng Tần Già, thử vân Diệu Âm. Cộng Mạng, nhất vân Mạng Mạng. Như thị chủng chủng, tất giai kỳ diệu, phi phàm điểu tỷ.

() 此言禽樹成音,又上言供養之勝,今言聞法之勝也。種種言非一,奇妙言異常,雜色言美觀。白鶴等者,多種中舉一二也。白鶴、孔雀、鸚鵡,常見可知。舍利解見前文。迦陵頻伽,此云妙音。共命,一云命命。如是種種,悉皆奇妙,非凡鳥比。

(Sớ: Ở đây nói chim và cây phát ra âm thanh. Lại nữa, phần trước nói về sự cúng dường thù thắng. Ở đây, nói đến sự nghe pháp thù thắng. “Chủng chủng” ý nói chẳng phải một loại. “Kỳ diệu” ý nói chẳng phải tầm thường. “Tạp sắc” ý nói đẹp mắt. Các thứ chim như Bạch Hạc v.v… là trong nhiều loại, nêu lên một hai loại. Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, do thường thấy nên có thể tự biết [chẳng cần phải giải thích]. Xem phần giải thích chữ Xá Lợi trong phần trước. Ca Lăng Tần Già cõi này dịch là Diệu Âm. Cộng Mạng còn gọi là Mạng Mạng. Các loài chim như vậy thảy đều kỳ diệu, các loài chim bình phàm chẳng thể sánh bằng).

 Đoạn văn này đã nêu bày đại lược các ý nghĩa. Đoạn văn phía trên nói về sự cúng dường thù thắng, còn trong tiểu mục này, nói về sự nghe pháp thù thắng. Do những loài chim này, trong phần kinh văn ở phía sau đã nói rất rõ ràng: Đều do A Di Đà Phật biến hóa thành, phô bày Tây Phương Cực Lạc thế giới “tình và vô tình, cùng tuyên dương diệu pháp”. Ở trong thế gian này, chúng ta đúng như đức Thế Tôn đã nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”, nhưng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thật sự là sống đời đời, bất sanh, bất diệt. Cơ duyên nghe pháp quá phổ biến, chẳng có thời khắc nào không nghe Phật pháp. Lại còn đều là do A Di Đà Phật tuyên thuyết; nghe những loài chim ấy hoặc tiếng gió lùa qua cây thuyết pháp đều do A Di Đà Phật biến hóa thành. Vì thế, cơ duyên nghe pháp thù thắng, hết thảy các thế giới của chư Phật đều chẳng thể sánh bằng Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Nếu chúng ta chẳng nghe pháp, chắc chắn bị thoái chuyển, chúng ta nhất định phải biết điều này. Nhất là trong thế giới Sa Bà, nay chúng ta thuộc địa vị phàm phu, ba ngày không đọc kinh sẽ giống như cổ nhân đã nói: “Mặt mũi trông đáng ghét”. Ba ngày chẳng niệm kinh, chẳng biết trong tâm đã suy nghĩ loạn xạ những gì? Đọc kinh là tu tâm thanh tịnh. Khi đọc kinh, hy vọng tâm chính mình giống như kinh đã giảng, phải là Phật tri Phật kiến. Kinh do đức Phật nói, nên là Phật tri Phật kiến. Vì thế, muốn biến đổi tri kiến phàm phu của chúng ta thành Phật tri Phật kiến, phương pháp tốt nhất là đọc kinh.

Đối với chuyện đọc kinh, tôi khuyên các đồng tu hãy đọc một thứ. Phải đọc một thứ ấy không ngừng. Tốt nhất là đừng thay đổi. Tuy thay đổi cũng được, chẳng phải là không được; nói chung, vẫn chẳng tốt bằng đọc một thứ! Trong Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã nêu lên rất nhiều tấm gương. Từ xưa tới nay, rất nhiều vị đại đức xuất gia hay tại gia đọc những kinh luận Đại Thừa thông thường, hồi hướng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng có không ít người vãng sanh. Cụ đã trích dẫn điều ấy trong đoạn cuối cùng của phần chú giải đoạn văn Tam Bối Vãng Sanh. Cuối cùng, lão nhân gia nói một câu: Cách này thuộc loại tạp tu, nói chung, tạp tu chẳng hay bằng chuyên tu! Lão nhân gia vẫn tán thành chuyên tu, thâm nhập một môn.

Chuyên tu thì nay chúng ta nói là  [chuyên đọc]  Ngũ  Kinh, ngoài Ngũ Kinh bèn là Tạp. Ngũ Kinh đều tán dương Tịnh Độ, đều khuyên chúng ta cầu sanh Tây Phương thế giới. Vì thế, năm kinh là chuyên, là chuyên tu. [Xem đọc] những kinh luận trong các tông khác bèn thuộc loại tạp tu. Trong năm kinh, tốt nhất là thọ trì một loại. Một loại ấy phải niệm mỗi ngày, coi như công khóa bắt buộc. Trong năm kinh, bốn loại kia hễ có thời gian rảnh rỗi thì có thể đọc, xem như phụ trợ, như thế là tốt đẹp. Ngoài năm kinh ra, [những kinh luận khác] chúng ta hãy nên buông xuống, tu học như vậy sẽ quyết định thành tựu trong một đời này. Vì thế, quý vị đọc kinh là nghe pháp. Kinh Vô Lượng Thọ do hai vị A Di Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật giảng, chẳng giống như kinh này. Kinh này từ đầu tới cuối do một mình Thích Ca Mâu Ni Phật giảng. Trong kinh Vô Lượng Thọ có phần kinh văn do chính A Di Đà Phật tự nói, đức Thế Tôn thuật lại. Thuật lại thì chẳng khác gì A Di Đà Phật đích thân nói, chẳng khác gì, vô cùng thù thắng!

Đoạn văn chú giải này rất dài, vì phải giảng về Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo; trước đó, còn có Tứ Niệm Xứ, Tứ Như Ý Túc, Tứ Chánh Cần. Bảy khoa Đạo Phẩm ấy đều phải nói cặn kẽ, vì rất hữu ích đối với sự tu trì trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây!

 

— o0o —

Tập 162

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm bốn mươi bảy:

 

(Kinh) Phục thứ Xá Lợi Phất, bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu: Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng chi điểu. Thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn sướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp.

(Sớ) Thượng ngôn chư thiên hiến thụy. Thử ngôn cầm thụ thành âm. Hựu thượng ngôn cúng dường chi thắng. Kim ngôn văn pháp chi thắng dã.

() 復次舍利弗。彼國常有種種奇妙雜色之鳥。白鶴。孔雀。鸚鵡。舍利。迦陵頻伽。共命之鳥。是諸眾鳥。晝夜六時。出和雅音。其音演暢五根。五力。七菩提分。八聖道分。如是等法。

() 上言諸天獻瑞。此言禽樹成音,又上言供養之勝,今言聞法之勝也。

(Kinh: Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi ấy thường có các loài chim kỳ diệu, đủ màu: Chim Bạch Hạc, chim Công, Vẹt, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng. Các loài chim ấy, ngày đêm sáu thời, tiếng hót hòa nhã. Âm thanh ấy diễn nói lưu loát Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, các pháp như thế.

Sớ: Trong phần trước là chư thiên dâng hiến những thứ tốt lành. Ở đây, nói chim và cây phát ra âm thanh. Lại nữa, phần trước nói về sự cúng dường thù thắng. Ở đây, nói về sự nghe pháp thù thắng).

“Thượng” là nói về khoa trước. Trong đoạn lớn thuộc phần trước, đã nói về chuyện chư thiên cúng dường A Di Đà Phật và các vị thượng thiện nhân. Đoạn này là khoa thứ tư, đề mục của khoa này là Hóa Cầm Phong Thụ, Hóa (化) là biến hóa. Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ nhất đã nói rất rõ ràng: A Di Đà Phật thành Phật, thế giới của Ngài quyết định chẳng có ba ác đạo. Những thứ chúng ta thấy là súc sanh đạo, kinh này đã nói rất rõ ràng, kinh Vô Lượng Thọ cũng giới thiệu rất minh bạch, [những loài “súc sanh” ấy] do A Di Đà Phật biến hóa ra, tuyệt đối chẳng phải là súc sanh đạo thật sự! Thuyết pháp mà vận dụng phương pháp ấy chính là nghệ thuật hóa sự dạy học! Không chỉ pháp âm của Phật có thể phổ cập trọn khắp, mà đồng thời còn có thể khiến cho người nghe tâm tình thoải mái, vui sướng. Vì nếu chúng ta đối diện A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là thầy, nói chung, chúng ta sẽ cảm thấy gò bó. Gò bó sẽ chẳng tự tại. Nếu là Bạch Hạc, Khổng Tước thuyết pháp cho chúng ta, chúng ta vừa có thể chơi đùa với chúng, vừa có thể nghe pháp, tâm tình hoàn toàn khác hẳn. Quý vị liền biết A Di Đà Phật từ bi dường ấy, nghĩ tưởng quá chu đáo.

Bất luận người phương Đông hay phương Tây đều thích đến thăm, đến ngắm nhìn Sở Thú. Trong Sở Thú nơi thế gian này có rất nhiều động vật quý hiếm. Nhìn thấy chúng sẽ vui mắt sướng lòng, nhưng chúng chẳng thể thuyết pháp. Những con vật nơi Sở Thú tại Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng phải là động vật, mà do A Di Đà Phật biến hóa. Ngài tạo ra một vườn thú, những động vật ấy thảy đều có thể thuyết pháp. A Di Đà Phật trăm ngàn ức hóa thân, đúng là Phổ Môn Thị Hiện như trong phẩm Phổ Môn. Thị hiện viên mãn nhất, thù thắng nhất là trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Xác thực là nên dùng thân gì đắc độ, Ngài bèn dùng thân ấy để thuyết pháp. Nên dùng thân Bạch Hạc để đắc độ, bèn hiện thân Bạch Hạc để thuyết pháp cho quý vị. Nên dùng thân Khổng Tước đắc độ, liền hiện thân Khổng Tước để thuyết pháp cho quý vị. Vô cùng thù thắng trang nghiêm! Vì thế, chương này nhằm giảng cho chúng ta biết sự thù thắng trong việc nghe pháp.

“Bỉ quốc thường hữu” (Cõi ấy thường có), “thường” (常) là chẳng gián đoạn. Tuy thế giới này của chúng ta có, nhưng chẳng thường, vì sao? Động vật đều có thọ mạng, có sanh, lão, bệnh, tử, chẳng thể thường sống trên thế gian. Nhất là trong hiện thời, tức là trong xã hội chúng ta đang sống, nói thật sự là một xã hội hỏng bét. Kể từ sau khi khoa học kỹ thuật phát triển, hoàn cảnh sinh thái trên địa cầu bị phá hoại nghiêm trọng, có rất nhiều động vật chẳng thể thích ứng sinh tồn, dần dần bị tuyệt chủng. Trên thế giới này tuy có những loài cầm thú quý hiếm, nhưng thọ mạng chẳng dài, cũng chẳng tồn tại vĩnh cửu trên thế gian này! Chúng ta biết nhiều loại sinh vật cổ đại nay đã tuyệt tích, chỉ có thể thấy trong các hóa thạch, vô thường mà! Những loài chim quý hiếm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng là vô lượng thọ. A Di Đà Phật vô lượng thọ, tất cả Bồ Tát đại chúng là vô lượng thọ, những loài chim do A Di Đà Phật biến hóa cũng là vô lượng thọ. “Thường” là vô lượng thọ.

“Chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu” (Các thứ chim kỳ diệu, nhiều màu): Chủng loại các loài chim khá nhiều, chúng ta cũng chẳng có cách nào tưởng tượng được. Kinh chỉ nêu ra mấy loại tượng trưng, tuyệt đối chẳng phải là chỉ có mấy loại ấy. Có nhiều chủng loại trong thế giới này chẳng có, hoặc tồn tại trên địa cầu vào thời cổ, nay đã tuyệt chủng, Tây Phương Cực Lạc thế giới có [những loài ấy]. Nơi ấy quả thật là một viện bảo tàng lớn nhất trong vũ trụ, là một thế giới chân thiện mỹ huệ.

“Kỳ diệu ngôn dị thường” (“Kỳ diệu” ý nói dị thường), chẳng phải là những thứ chúng ta thường thấy, mà vô cùng hiếm có, trân quý. “Bạch Hạc” là trong nhiều loại, chỉ nêu một hai loại, [như] Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, do thường trông thấy nên có thể biết. Có người nói Xá Lợi là chim Thu Lộ (秋鷺), người Hoa gọi nó là Lộ Tư (鷺鷥). Có người nói Xá Lợi và Xuân Oanh (春鶯) là cùng một loại, là một loại chim nhỏ hót rất hay, rốt cuộc là loài nào, chúng tôi chẳng khảo cứu! Ca Lăng Tần Già và chim Cộng Mạng: Ca Lăng Tần Già (Kalaviṅka) hót hay, tiếng hót vô cùng du dương, nên gọi là Diệu Âm. Cộng Mạng (Jīvajīvaka) là loài chim hai đầu, tức là một con chim mà có hai cái đầu. Hai loại chim này chỉ có ở núi Hỷ Mã Lạp Nhã, rất trân quý, rất hiếm hoi. Trong đoạn kinh này, điều quan trọng nhất là thuyết pháp. “Trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm” (Ngày đêm sáu thời, thốt ra tiếng hòa nhã), “hòa” (和) là nhu hòa, “nhã” (雅) là chánh chứ chẳng tà. Nhã có nghĩa là Chánh.

Kế đó cũng là trong vô lượng pháp môn, đức Phật chỉ nêu ra cương lãnh. Cương lãnh ấy thường được gọi là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm (Saptatriṃśad bodhipāk-ṣikā dharmāḥ). “Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần” đều thuộc về Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm. Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm chia thành bảy khoa, tức là bảy loại, trước đó còn có ba khoa, “Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc”. Trong kinh [A Di Đà], chẳng có ba khoa này, kinh chỉ nói bắt đầu từ Ngũ Căn và Ngũ Lực. Vì sao đức Phật chẳng nói ba khoa ấy? Nói thật ra, phàm là người đã sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ba khoa ấy đều đầy đủ, đều viên mãn, cũng có nghĩa là “đều đã tốt nghiệp ba khoa ấy”. Dẫu là hạ phẩm hạ sanh, quý vị thấy giống như là “quán thân bất tịnh” trong Tứ Niệm Xứ, Đại Kinh cho biết người hạ phẩm hạ sanh sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, “thanh hư chi thân, vô cực chi thể”, há còn có bất tịnh?

Vì thế, cả ba khoa trước đều đã tốt nghiệp. Tứ Như Ý Túc (Catvāra-ṛddhipādāḥ) là nói tới thần thông, kinh dạy: Đã sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, “Thiên Nhãn đỗng thị, Thiên Nhĩ triệt thính, Tha Tâm biến tri” (Thiên Nhãn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thông suốt, Tha Tâm biết trọn khắp), quý vị có thần thông gần giống như A Di Đà Phật! Vì lẽ đó, ba khoa kia chẳng cần thiết, học bắt đầu từ Ngũ Căn và Ngũ Lực; nhưng ba khoa này đến phần sau vẫn phải nêu ra bổ sung. Vì người Tây Phương Cực Lạc thế giới đã tốt nghiệp, nhưng đối với chúng ta trong hiện tiền, ba khoa ấy vẫn khá trọng yếu. Đoạn này có ý nghĩa rất sâu, đại sư chú giải rất nhiều, rất phong phú.

 

(Sớ) Nhiên thử tam thập thất phẩm, thuộc Tiểu Thừa pháp, thật thông Đại Thừa, tùy kỳ tâm hạnh, như chư kinh luận trung thuyết.

() 然此三十七品,屬小乘法,實通大乘,隨其心行,如諸經論中

(Sớ: Nhưng ba mươi bảy phẩm ấy thuộc về pháp Tiểu Thừa, thật ra là thông với Đại Thừa, tùy thuộc tâm hạnh [mà sẽ là pháp Tiểu Thừa hay Đại Thừa] như trong các kinh luận đã nói).

Thông thường chúng ta hễ nói đến Ba Mươi Bảy Phẩm đều nghĩ đó là pháp Tiểu Thừa, thật ra nó thông với Đại Thừa. Thiên Thai Trí Giả đại sư giảng Tứ Niệm Xứ, liền giảng Tạng, Thông, Biệt, Viên. Ngài trước tác bốn quyển, Tạng Giáo Tứ Niệm Xứ là Tiểu Thừa, Thông Giáo, Biệt Giáo, Viên Giáo Tứ Niệm Xứ là Đại Thừa. Tứ Niệm Xứ có bốn giáo! “Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo”, lẽ nào lại chẳng thông Tứ Giáo? Chính là như đã nói ở đây, tùy thuộc quý vị dùng cái tâm như thế nào, tùy thuộc tâm hạnh ấy. Do vậy, có thể biết, Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm là Đại – Tiểu Thừa cùng tu học, Tam Thừa cùng học, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát đều phải tu học.

 

(Sao) Thông Đại Thừa giả, Du Già tứ thập tứ vân.

() 通大乘者,瑜伽四十四云。

(Sao: “Thông với Đại Thừa” là như luận Du Già quyển bốn mươi bốn nói).

Du Già Sư Địa Luận quyển bốn mươi bốn.

 

(Sao) Đại Thừa Bồ Đề phần, nãi hữu đa chủng, tam thập thất phẩm, thị kỳ trung biệt nghĩa, thông ư Đại Tiểu.

() 大乘菩提分,乃有多種,三十七品,是其中別義,通於大小。

(Sao: Đại Thừa Bồ Đề phần có nhiều loại. Ba mươi bảy phẩm là ý nghĩa riêng biệt trong số ấy, chung cho cả Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa).

Du Già Sư Địa Luận là luận Đại Thừa, chẳng phải là luận Tiểu Thừa. Nó là kinh điển căn bản của Pháp Tướng Duy Thức Tông. Kinh điển y cứ của Pháp Tướng Tông là sáu kinh mười một luận. Trong sáu kinh, bộ kinh trọng yếu nhất là kinh Giải Thâm Mật, bộ luận chủ yếu nhất trong mười một luận là Du Già Sư Địa Luận. Đây là nói rõ Ba Mươi Bảy Phẩm chung cho Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa.

 

(Sao) Trí Luận vân.

() 智論云。

(Sao: Đại Trí Độ Luận nói).

“Trí Luận” là Đại Trí Độ Luận, cũng thuộc loại luận Đại Thừa. Đại Trí Độ Luận là chú giải kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, do Long Thọ Bồ Tát soạn, dịch sang tiếng Hán gồm một trăm cuốn.

 

(Sao) Tam thập thất phẩm, vô sở bất nhiếp, tức vô lượng đạo phẩm, diệc tại kỳ trung.

() 三十七品,無所不攝,即無量道品,亦在其中。

(Sao: Ba mươi bảy phẩm không gì chẳng bao gồm, tức là vô lượng đạo phẩm cũng thuộc trong ấy).

Do vậy, có thể biết, Ba Mươi Bảy Phẩm là tổng cương lãnh của Phật pháp. Nói đúng ra là đã đem vô lượng đạo phẩm quy nạp thành ba mươi bảy loại; vì thế, ba mươi bảy loại ấy không gì chẳng bao gồm!

 

(Sao) Tịnh Danh vân.

() 淨名云。

(Sao: Kinh Tịnh Danh nói).

“Tịnh Danh” là kinh Duy Ma Cật.

 

(Sao) Đạo phẩm thị đạo tràng, hựu vân “đạo phẩm thị Pháp Thân nhân”.

() 道品是道場,又云道品是法身因。

(Sao: “Đạo phẩm là đạo tràng”. Lại nói: “Đạo phẩm là cái nhân của Pháp Thân”).

Nêu lên khá nhiều kinh luận để chứng minh. Đạo tràng là nơi đắc đạo.

 

(Sao) Nhiếp Đại Thừa vân.

() 攝大乘云。

(Sao: Luận Nhiếp Đại Thừa nói).

“Nhiếp Đại Thừa” là Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahāyāna-samgraha-śāstra), cũng là một luận trong mười một luận của Duy Thức.

 

(Sao) “Đạo phẩm thị Bồ Tát Bảo Cự Đà La Ni”. Niết Bàn vân: “Nhược nhân năng quán Bát  Chánh  Đạo, tức  kiến  Phật  tánh, danh đắc đề hồ, giai ước đại thuyết.

(道品是菩薩寶炬陀羅尼。涅槃云:若人能觀八正

道,即見佛性,名得醍醐。皆約大

(Sao: “Đạo phẩm là Bảo Cự Đà La Ni của Bồ Tát”. Kinh Niết Bàn nói: “Nếu người nào có thể quán Bát Chánh Đạo, liền thấy Phật tánh, gọi là được đề-hồ”, [những câu như vậy] đều là nói theo giáo nghĩa Đại Thừa).

Câu này là tổng kết, những kinh luận được trích dẫn trên đây đều nói rõ Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm thông với Đại Thừa. Vì lẽ đó, chẳng thể coi Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm là Tiểu Thừa, [nếu coi là Tiểu Thừa] thì sai mất rồi!

 

(Sao) Tùy tâm hạnh giả, như Niết Bàn vân: “Trí hữu nhị chủng, nhất giả Trung Trí, nhị giả Thượng Trí. Quán chư Ấm khổ, thị danh Trung Trí. Phân biệt chư Ấm hữu vô lượng tướng, phi Thanh Văn, Duyên Giác sở tri, thị danh Thượng Trí”, tắc tri đạo phẩm thị nhất, quán trí đại tiểu, cố vô định dã.

() 隨心行者,如涅槃云:智有二種,一者中智,二者上智。觀諸陰苦,是名中智;分別諸陰有無量相,非聲聞緣覺所知,是名上智。則知道品是一,觀智大小,固無定也。

(Sao: “Tùy thuộc tâm hạnh”: Như kinh Niết Bàn nói: “Trí có hai loại, một là Trung Trí, hai là Thượng Trí. Quán các Ấm là Khổ, bèn gọi là Trung Trí. Phân biệt các Ấm có vô lượng tướng, Thanh Văn và Duyên Giác chẳng thể biết được, bèn gọi là Thượng Trí”, nên biết đạo phẩm là một, nhưng do quán trí mà thành Đại Thừa hay Tiểu Thừa. Vì thế, chẳng nhất định).

Liên Trì đại sư viết đoạn này vô cùng hay. Đúng như tông Hoa Nghiêm đã nói: “Người viên mãn thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên”. Nói thực tại, pháp chẳng có nhất định, tùy mỗi người mỗi khác. Nếu là người Tiểu Thừa, tâm lượng rất nhỏ, quý vị giảng kinh Hoa Nghiêm cho người ấy, kinh Hoa Nghiêm cũng biến thành Tiểu Thừa. Tâm lượng to, dẫu chúng ta giảng kinh A Hàm, kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung là kinh thuộc thời A Hàm, là kinh Tiểu Thừa, chúng ta giảng kinh ấy hoàn toàn biến nó thành Đại Thừa. Không chỉ biến nó thành Đại Thừa, mà còn biến nó thành Nhất Thừa.

Trong quá khứ, khi tôi giảng kinh ấy, đã dùng giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm để nhìn kinh ấy, [bèn thấy] kinh ấy là Viên Giáo Nhất Thừa. Thầy Lý nói: “Giảng kiểu đó, người ta chẳng phục!” Vậy thì làm thế nào? Thầy thêm vào hai chữ, [trở thành] “Nhất Thừa giai thê” (Thềm bậc Nhất Thừa), [nghĩa là] cơ sở của Nhất Thừa. Thầy bảo: “Anh thêm vào như vậy, người khác chẳng nói gì được. Nếu không, nhìn vào Đại Tạng Kinh, A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh thuộc thời A Hàm, anh nói như vậy, chẳng phải là kẻ khác sẽ kiếm chuyện làm phiền ư?” Khiến cho họ biện luận, tranh cãi, phiền lắm! Vì thế, vẫn phải khiêm hư một chút, khách sáo đôi chút! Đích xác là pháp tùy thuộc mỗi người mỗi khác, cho nên phán giáo chẳng thể phán định chết cứng. Phán định chết cứng, sẽ phạm sai lầm! Tất cả hết thảy kinh điển đều là sống động, hoạt bát, quả thật là tùy theo tâm hạnh mà phân biệt, đó là hoàn toàn chánh xác.

Ở đây, Ngài nói có Trung Trí và Thượng Trí. Trung Trí chỉ căn tánh trung hạ, tức là nói từ Thanh Văn, Duyên Giác trở xuống; Thượng Trí là nói đến Bồ Tát. Chỉ có Bồ Tát mới có năng lực phân biệt vô lượng pháp tướng, nhưng chư vị phải hiểu sự phân biệt ấy là Hậu Đắc Trí của Bồ Tát. Nói thật thà, từ Thanh Văn trở xuống, chẳng có trí huệ! Trong kinh luận thường nói ba đức Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát. A La Hán và Bích Chi Phật chỉ có nửa phần giải thoát, chẳng có Bát Nhã, Pháp Thân cũng chẳng có. Chư vị nhất định phải biết, chứng đắc Pháp Thân thì Bát Nhã mới hiện tiền, vì sao? Bát Nhã là năng chứng (chủ thể chứng đắc), Pháp Thân là sở chứng (lý được chứng đắc). Hai điều này chẳng tách rời; hễ có năng chứng, ắt có sở chứng. A La Hán và Bích Chi Phật chưa chứng đắc Pháp Thân, lấy đâu ra Bát Nhã? Nếu họ có Bát Nhã, chẳng phải là đã chứng đắc Pháp Thân ư? Do đó, hai loại người ấy chỉ có Định, chẳng có Huệ. Công phu Thiền Định của họ rất sâu, kinh Lăng Nghiêm nói họ đắc Cửu Thứ Đệ Định. Do chỉ có Định, chẳng có Huệ, nên họ đắc giải thoát đôi chút, có thể vượt thoát lục đạo, sanh tử, luân hồi, nhưng chẳng thể chứng Pháp Thân.

Chỉ có mình Bồ Tát là khác biệt. Bồ Tát được nói ở đây vẫn chẳng phải là Bồ Tát bình phàm, chẳng phải là Quyền Giáo Bồ Tát, mà là Thật Giáo Bồ Tát, thật sự khai trí huệ. Sự giáo học, quan niệm, phương tiện, và phương pháp trong Đại Thừa và Tiểu Thừa cũng khác nhau. Quan niệm và phương tiện của Đại Thừa chú trọng nơi Căn Bản Trí, còn quan niệm và phương tiện của hàng Tiểu Thừa chú trọng Thiền Định, nên cách nghĩ và cách làm khác nhau. Hết sức rõ rệt là các phương pháp được sử dụng bởi những vị lịch đại tổ sư đại đức Trung Quốc từ xưa tới nay chẳng giống phương pháp sử dụng bởi Tiểu Thừa tại Ấn Độ. Hiện thời, phương pháp được truyền qua nhiều đời tại Trung Quốc khác hẳn Nam Truyền Phật Giáo tại Nam Dương. Thái Lan, Tích Lan (Sri Lanka) cũng khác hẳn, quan niệm và phương pháp khác biệt. Sự việc rõ rệt này trước kia thấy rất rõ ràng, nay đã chẳng thấy rõ rệt nữa. Tại Đài Loan, hiện thời giáo học Phật Giáo rất hỗn loạn, loạn đến nỗi đâm ra chẳng bằng Tiểu Thừa. Tiểu Thừa chú trọng Định, còn nay chúng ta nói thật thà là Tiểu Thừa thì cũng chẳng ra Tiểu Thừa, Đại Thừa cũng chẳng ra Đại Thừa, hiện thời là Phật pháp gì vậy? Nói thực tại, hiện thời là Phật pháp điên đảo, cổ đại đức nói là “tu mù, luyện đui”. Hiện thời là phương pháp tu mù luyện đui, chẳng có nguyên tắc để có thể tuân theo, hy vọng các đồng tu phải đặc biệt chú ý điều này.

Giáo học trong Phật pháp nhất định phải thực hiện từ Căn Bản Trí. Vì thế, tôi khuyên các đồng tu, các vị nhất định phải chú trọng tâm thanh tịnh. Để vun bồi cái tâm thanh tịnh, phải tuân thủ đường lối do cổ đức đã dạy, bắt đầu từ chỗ nào? Thực hiện bằng học thuộc lòng, chẳng mong rất hiểu. Vì sao? Vì chúng ta chẳng có trí huệ, những ý nghĩa của kinh mà chúng ta thấy đều là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính chúng ta. Làm sao chúng ta hiểu được ý nghĩa của kinh điển? Bài Kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”. Nói thật thà, ý nghĩa của tôi quý vị còn chẳng hiểu, làm sao quý vị hiểu ý nghĩa của Như Lai? Vì thế, trước hết, chúng ta đọc kinh. Đọc kinh là phương pháp, cũng là một thứ phương pháp trong vô lượng pháp môn. Phương pháp ấy tốt đẹp, vô cùng thù thắng. Dùng phương pháp ấy, chỉ đọc, chẳng cầu hiểu! Đọc kinh nhằm mục đích tu Giới, tu Định, tu Huệ, hoàn thành Giới, Định, Huệ Tam Học một lượt. Đồng thời đọc kinh là Giác chứ không mê, Chánh chứ không tà, Tịnh chứ chẳng nhiễm. Giác, Chánh, Tịnh là cương lãnh tu học của chúng ta, [đọc kinh là] hoàn thành ba cương lãnh ấy cùng một lúc. Nếu quý vị cầu thông hiểu, thưa cùng quý vị, Tam Học bị phá hoại, Tam Bảo cũng bị phá hoại. Giác, Chánh, Tịnh là Tam Bảo! Vì thế, đọc kinh một mực chẳng cầu hiểu rất rõ, chúng ta tu Tam Học, bồi dưỡng Tam Bảo, công đức này to lắm! Giới ở trong ấy, Định ở trong ấy, Huệ ở trong ấy, niệm nhiều sẽ tự nhiên khai ngộ.

Cổ  nhân  thường  nói: “Đọc sách ngàn lần, tự thấy được ý nghĩa”, “tự thấy” là khai ngộ! Quý vị niệm càng nhiều, tâm càng thanh tịnh, không nhất định gặp cơ duyên nào, hễ gặp liền hoát nhiên đại ngộ, khai ngộ. Tâm chẳng thanh tịnh, chẳng thể nào khai ngộ. Vì thế, chuyện chẳng cần phải biết bèn chẳng cần biết đến, người chẳng cần quen biết, chẳng cần xã giao. Tôi bảo mọi người đừng đọc báo, đừng xem TV, hãy buông hết xuống, thân tâm thanh tịnh, đắc tự tại. Nói thực tại, đối với sức khỏe thân thể hay tinh thần đều có ích rất lớn, tâm thanh tịnh, thân liền thanh tịnh, trăm bệnh chẳng sanh! Quý vị bị bệnh là do tâm chẳng trong sạch, thân chẳng trong sạch. Vì lẽ đó, ăn uống phải đơn giản, bao tử sạch sẽ, tâm sạch làu, người ấy chẳng sanh bệnh. Đến khi lâm chung, biết trước lúc mất, tự tại vãng sanh, tốt đẹp lắm! Đấy mới chính là điều người học Phật mong cầu! Những chuyện khác đều chẳng liên quan đến chúng ta, hãy nên bỏ sạch sành sanh, đừng bận tâm tới chúng!

“Thượng trí” là trí huệ của Bồ Tát, chúng ta có thể vun bồi. Từ căn tánh trung hạ, nếu đúng pháp, lý luận và phương pháp có thể tương ứng, người căn tánh trung hạ cũng có thể bồi dưỡng thành thượng thượng trí. Ở Trung Quốc, trải qua các đời, chúng ta có thể thấy rất nhiều gương như vậy trong Tông Môn và Giáo Hạ. Dưới đây là giới thiệu về Ngũ Căn:

 

(Sớ) Ngũ Căn giả, nhất Tín, nhị Tấn, tam Niệm, tứ Định, ngũ Huệ, năng sanh thánh đạo, cố danh vi Căn. Hựu như Câu Xá, cụ tam nghĩa cố.

(Sao) Căn hữu nhị nghĩa: Nhất giả, năng trì nghĩa, trì kỳ sở dĩ đắc, nhi tự phần bất thất dã. Nhị giả, sanh hậu nghĩa, sanh kỳ sở vị đắc, nhi thắng tấn thượng cầu dã.

() 五根者,一信、二進、三念、四定、五慧,能生聖道,故名為根。又如俱舍,具三義故。

() 根有二義:一者能持義,持其所已得,而自分不失也;二者生後義,生其所未得,而勝進上求也。

(Sớ: Ngũ Căn: Một là Tín, hai là Tấn, ba là Niệm, bốn là Định, năm là Huệ, có thể sanh thánh đạo, nên gọi là Căn. Lại như luận Câu Xá nói Căn có ba ý nghĩa.

Sao: Căn có hai ý nghĩa: Một là có thể Trì, Trì cái đã có, nhưng chính mình chẳng để mất. Hai là nghĩa có thể sanh những điều sau đó, sanh những cái chưa đạt được, lại còn tiến lên cầu cao hơn).

Được gọi là Căn (Indriya) vì nó “năng sanh thánh đạo” (có thể sanh ra thánh đạo), thánh đạo là gì? “Thánh” là thánh nhân. Chúng ta gọi những điều được chứng đắc bởi chư Phật và chư đại Bồ Tát là “thánh đạo”. Chư Phật và chư đại Bồ Tát chứng đắc điều gì? Nói đơn giản là Thật Tướng của các pháp, là chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Đây chẳng phải là mê tín, nay chúng ta nói là mê, Phật nói là ngộ, chúng ta mê gì? Chúng ta chẳng liễu giải chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, nên gọi là “mê”. Phật và Bồ Tát đối với chân tướng của vũ trụ, quá khứ, hiện tại, vị lai, cõi này, phương khác, chẳng có điều gì không hiểu rõ, chẳng có gì không thông đạt, nên gọi là Ngộ.

Trí huệ to dường ấy, năng lực to dường ấy, từ đâu mà có? Có phải là do học được hay chăng? Chẳng phải! Không học được! Không học, làm sao có thể thông đạt? Ở đây có một bí mật, người bình phàm chúng ta không biết, nhưng đức Phật biết. Bí mật ấy là gì? Nguyên lai tận hư không khắp pháp giới là do một niệm tâm tánh hiện tiền của chúng ta biến hiện, đó là bí mật. Nếu chúng ta triệt để hiểu rõ một niệm tâm tánh, hết thảy vạn pháp sẽ tự nhiên thông đạt. Cổ nhân nói: “Thức đắc bổn, bất sầu mạt” (Đã biết gốc, chẳng lo ngọn). Tâm tánh là cội gốc, sâm la vạn tượng trong vũ trụ và nhân sinh là cành nhánh; chỉ cần quý vị tìm được cội gốc thì cành nhánh thảy đều đạt được. Do đó nói là Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí, Nhất Thiết Trí, Phổ Biến Trí đều cùng hiện tiền. Danh từ nhiều ngần ấy, gọi chung là Hậu Đắc Trí. Nay tâm tánh chúng ta mong cầu là Căn Bản Trí. Đã đắc Căn Bản Trí, chẳng lo Hậu Đắc Trí nữa! Do đó có thể biết: Cầu căn bản trọng yếu lắm! Trong Thiền Tông, Căn Bản Trí được gọi là “minh tâm kiến tánh”, trong Giáo Hạ là “đại khai viên giải”, trong Tịnh Độ Tông là “nhất tâm bất loạn”, danh từ trong các tông khác nhau, nhưng ý nghĩa và cảnh giới như nhau, chẳng khác biệt. Do vậy, có thể biết, chúng ta từ pháp môn này, dựa trên năm kinh một luận của Tịnh Tông, dùng phương pháp trì danh niệm Phật này, chúng ta cầu nhất tâm bất loạn. Vì thế, chúng ta tu hành phải đặc biệt chú trọng tâm địa thanh tịnh, tịnh đến chỗ tột cùng, đạt được nhất tâm!

Chứng đắc Sự nhất tâm, quý vị bèn đắc Niệm Phật tam-muội. Chứng Lý nhất tâm, bèn gọi là Niệm Phật Bảo Vương tam-muội, tăng thêm hai chữ Bảo Vương. Hơn nữa, Bảo Vương tam-muội cũng là Hoa Nghiêm tam-muội. Cảnh giới Hoa Nghiêm rộng lớn vô biên, quý vị bèn thông đạt hết thảy. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng đều nhằm đạt tới mục tiêu này, nhưng trong hết thảy các pháp môn, tùy thuộc tâm hạnh khác nhau, mà có dễ và khó. Pháp môn này có thể tùy thuận phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, đều có hữu hiệu, trên có thể phù hợp bậc Đẳng Giác Bồ Tát, dưới có thể tùy thuận ác đạo chúng sanh, pháp môn này thù thắng khôn sánh; nên cổ đức gọi là “đạo dễ hành”, đạo lý ở chỗ này! Ngũ Căn (Pañcendriya) có thể sanh ra thánh đạo, nên gọi là Căn.

Tiếp đó là nói cặn kẽ. Căn có hai ý nghĩa:

– Một ý nghĩa là “năng trì nghĩa” (ý nghĩa có thể trì), đây là bản thân có năng lực. “Trì” là bảo trì, [năng trì] là gìn giữ những gì đạt được, chẳng để mất đi.

– Ý nghĩa thứ hai là “sanh hậu nghĩa”, [tức là] không chỉ có thể bảo trì, mà còn có thể sanh trưởng. Ví như một cái cây có rễ, không chỉ có thể giữ vững, mà còn có thể từ từ tăng trưởng.

Căn có năm loại lớn. Loại lớn thứ nhất là Tín (Śraddā).

 

(Sao) Ngôn Tín Căn giả, vị ư Đế Lý thâm nhẫn nhạo dục, thị danh Tín Căn.

() 言信根者,謂於諦理深忍樂欲,是名信根。

(Sao: Nói đến Tín Căn, nghĩa là đối với Đế Lý bèn thâm nhẫn, ưa muốn, nên gọi là Tín Căn).  

Đây là cách giảng theo Pháp Tướng Duy Thức Tông. Nói đơn giản, Đế Lý là Tứ Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo, bốn thứ chân thật. Khổ Tập là nhân quả thế gian, Diệt Đạo là nhân quả xuất thế gian, chúng ta phải nên giác ngộ, phải nên tin sâu chẳng nghi. Đức Phật nói hai tầng nhân quả thế gian và xuất thế gian, nói pháp thế gian thì nói quả trước, nói nhân sau. Vì sao? Quý vị nói “nhân” với hết thảy chúng sanh, do nhân vẫn chưa có kết quả, họ sẽ xem thường, chẳng để ý. Quý vị nói quả báo với họ, quả báo ở ngay trước mắt, họ sợ hãi, sẽ đặc biệt chú ý, nên nói quả trước. Quả là gì? Khổ! Trong Tứ Niệm Xứ đã nói “Quán Thọ là Khổ”. Thọ là gì? Cảm nhận, hoặc có thể nói là hưởng thụ. Sự hưởng thụ của quý vị trong hiện tại là khổ, đó là sự thật. Trong tam giới chẳng có lạc, đức Phật đã nói rõ những nỗi khổ nơi thân tâm chúng ta, quy nạp thành ba khổ, hoặc tám khổ, tổng cương lãnh là ba loại lớn. Ba loại lớn ấy là Tam Giới Khổ (các nỗi khổ trong ba cõi): Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ, chúng sanh trong Dục Giới thảy đều có; đến Sắc Giới Thiên, chẳng còn Dục, nên chẳng có Khổ Khổ, nhưng họ có Hoại Khổ và Hành Khổ. Dẫu đạt đến Vô Sắc Giới Thiên, chư thiên Vô Sắc Giới chẳng cần đến thân thể, rất tự tại, nay chúng ta gọi [Vô Sắc Giới Thiên] là Linh Giới, họ còn có Hành Khổ. Tuy chẳng có Hoại Khổ, nhưng còn có Hành Khổ, vẫn chẳng lìa khỏi khổ. Dục Giới của chúng ta khổ nhất!

Lần này, California của Mỹ bị động đất lớn; ngày hôm qua, tại Trung Hoa Đại Lục lại xảy ra động đất, có những chuyên gia nghiên cứu động đất dự đoán Đài Loan sớm muộn gì cũng bị động đất lớn một lần. Tôi ở ngoại quốc, nghe nói trong vòng mười năm từ 1990 đến 2000, trên địa cầu có rất nhiều tai nạn to lớn, lớp vỏ địa cầu có biến hóa. Họ nói trong tương lai khí hậu vùng Tây Bá Lợi Á (Siberia) của Liên Sô tốt nhất, nước Mỹ biến thành Nam Cực, Trung Quốc biến thành Bắc Cực, chẳng thích hợp cho con người sống sót. Đó là địa cầu di chuyển khác thường trong vũ trụ, rất đáng sợ! Nếu là con người làm nhân tố thì phải là chiến tranh nguyên tử. Nếu trên địa cầu trong một tuần đồng thời ba chục hoặc năm chục quả bom nguyên tử bùng nổ, sự chấn động có thể khiến cho địa cầu biến động. Trong vòng mười năm sẽ có tai nạn to lớn như thế, nếu hiện thời chúng ta chẳng nghiêm túc niệm Phật, ai nấy chẳng trốn thoát được! Vì thế, nói chung, hiện thời mọi người phải nhìn thoáng một chút, xem đạm bạc một chút, đừng so đo, tính toán chi ly những chuyện trước mắt, giả trất mà!

Nay chúng ta nhìn vào lòng người trên toàn thế giới, nhìn vào sự tạo tác của toàn thể nhân loại trên thế giới, đúng là như cổ nhân đã nói “tạo nghiệt”! “Nghiệt” (孽) là trái trời nghịch đất! Lòng trời từ bi hỷ xả, vì sao biết? Trong kinh, đức Phật thường dạy chúng ta, nếu quý vị muốn sanh vào Sắc Giới Thiên, phải tu Tứ Thiền Bát Định, phải tu Tứ Vô Lượng Tâm Từ Bi Hỷ Xả, nên chúng ta biết tâm của chư thiên trong mười tám tầng trời Sắc Giới là từ bi hỷ xả. Chúng ta có từ bi hay không? Chẳng có từ bi hỷ xả, tức là trái nghịch lòng trời!

Địa tâm là gì? Đối với “địa tâm”, quý vị đọc kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, vua Diêm La và các quỷ vương trong địa ngục đã nói họ chẳng mong trừng trị các tội nhân, chẳng mong trừng phạt, mà là mong những kẻ ấy chẳng tạo tội nghiệp nữa, chẳng đọa ác đạo. Những kẻ ấy mê hoặc, điên đảo, chẳng biết tấm lòng của các vị quỷ vương và thần thổ địa. Hằng ngày tạo giết, trộm, dâm, dối, tạo nghiệp! Trái nghịch trời đất, thiên thần, quỷ thần đều chẳng hoan hỷ, nhân gian tự nhiên có tai nạn to lớn xảy đến.

Vì lẽ  đó, khổ  là  quả, quả  báo  từ  đâu  mà  có? Đương  nhiên  có

nguyên nhân, nhân là gì? Nhân là Tập, Tập là mê hoặc tạo nghiệp. Không cần nói sâu, tâm thiên địa chẳng biết, mà đạo thánh nhân cũng chẳng biết, chúng ta coi thường, quên bẵng giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, thậm chí còn ác ý hủy báng, còn gì để nói nữa! Hai trăm năm trước, Trung Hoa được coi là đại quốc văn minh nhất, cường thịnh nhất trên thế giới, từ xưa tới nay đều xưng là Thiên Triều, được các quốc gia dân tộc tôn kính, họ kính trọng điều gì? Người Hoa làm theo giáo huấn của thánh nhân. Từ sau khi Lưu Bang thành lập chánh quyền nhà Hán, đối với chuyện giáo dục của quốc gia bèn chọn tư tưởng Khổng Mạnh, lấy đó làm tông chỉ giáo học của đất nước, mãi cho đến đời Mãn Thanh, chúng ta gọi là Nho gia. Tông chỉ giáo học của Nho gia là Ngũ Luân, Bát Đức, [tông chỉ ấy] được gọi là Thường Đạo (đạo thường hằng).

Ngũ Luân nói về mối quan hệ giữa con người với nhau, vô cùng hòa thuận, hiện thời điều này được gọi là “thân ái tinh thành” (lòng thành chuyên ròng thân ái). Hiện thời, bốn chữ ấy là khẩu hiệu, nhưng Nho gia thật sự làm được bốn chữ ấy. Xã hội Ngũ Luân là một xã hội đoàn kết, toàn thể dân tộc trong quốc gia muôn người như một, quan hệ giữa con người với nhau là như vậy. Từ phạm vi hẹp nhất là vợ chồng, vợ chồng là một nhà, [thường gọi là] “gia thất”, “thất” (室) nghĩa là một căn phòng, cùng chung sống! Căn phòng ấy mở rộng ra thành gia đình, gia đình có cha con, anh em. Lại mở rộng ra thành xã hội, quốc gia, có vua tôi, có bạn bè, thường nói là “tứ hải chi nội giai bằng hữu dã” (trong bốn biển đều là bạn bè). Bạn bè của bạn bè, cả nước đều là bạn bè, hàng xóm của xóm giềng, cả nước là xóm giềng. Giáo học Nho gia đã gần hai ngàn năm, chúng ta lãnh nhận sự giáo dục ấy, nay bài xích, chẳng cần đến nữa. Do Ngũ Luân là nói về quan hệ giữa con người với nhau, thật sự nói về “thân ái tinh thành”. Vì vậy, chúng ta nêu ra câu khẩu hiệu bốn chữ này, nếu chẳng có quan niệm luân lý và giáo học luân lý của Nho gia, bốn chữ ấy rỗng tuếch, chẳng có ý nghĩa gì! Vì thế, giữa người và người với nhau tự nhiên hòa thuận, con người sẽ tự nhiên chiếu cố lẫn nhau, xã hội là một bầu hòa thuận. Quan niệm đạo đức cơ bản cũng là nói tới cuộc sống của chúng ta, là quy tắc chung sống dành cho mọi người, giống như giới điều cơ bản trong Phật pháp, là một công ước để chúng ta chung sống trên địa cầu, ai nấy đều phải tuân thủ. Nho gia đề ra Ngũ Thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

Nhân là nhân từ, phải có lễ phép, phải nói tới nghĩa vụ. Nghĩa vụ ấy là chẳng nói tới chuyện báo đáp. Thấy người khác cần chúng ta giúp đỡ chỗ nào, phải nên giúp họ, phải trọn hết nghĩa vụ, chớ nên nói tới chuyện báo đáp. Từ xưa, tại Trung Quốc, giáo học là nghĩa vụ, chưa hề nghe nói thầy nhất định phải thu học phí của trò, chẳng có. Tiền học trả cho thầy giáo là học trò cúng dường thầy, chắc chắn thầy chẳng ấn định tiêu chuẩn cho sự cúng dường ấy. Mỗi tháng phải nộp học phí bao nhiêu, dạy quý vị một giờ phải trả bao nhiêu tiền, đó là kinh doanh buôn bán! Giáo học là nghĩa vụ, là sư đạo. Nếu ấn định giá cả, người nghèo hèn sẽ chẳng có cơ hội nhận lãnh giáo dục. Vì lẽ đó, sư đạo đáng tôn kính dường ấy! Khổng lão phu tử giáo học là “hữu giáo vô loại” (dạy dỗ chẳng phân biệt), tức là đối với học trò quyết định chẳng phân biệt, học trò tùy ý cúng dường thầy. Nhà quý vị giàu có, cúng dường nhiều một chút, thầy cũng nhận. Nhà quý vị nghèo hèn, một chút cúng dường cũng chẳng có, thầy cũng chẳng trách quý vị. Thầy chẳng thể nói: “Ta dạy ngươi suốt một năm, mà ngươi chẳng cúng dường chút gì, năm sau, ngươi khỏi cần đến nữa!” Chẳng có đạo lý ấy, chẳng có loại thầy ấy. Vì thế, thầy luôn rất thanh bần, cuộc sống rất kham khổ, nhưng địa vị trong xã hội rất cao cả, thanh cao! Thầy được đại chúng trong xã hội tôn kính. Thầy thấy học trò trong tương lai sẽ có thành tựu trong xã hội, rất an ủi, thầy đã chẳng lãng phí tâm huyết!

Vì lẽ đó, phải nhấn mạnh nghĩa vụ, mỗi người đều bằng lòng trọn hết nghĩa vụ đối với xã hội và đại chúng, chẳng nói tới chuyện báo đáp, xã hội mới thật sự có tiến bộ. Trong sự báo đáp, sẽ có chuyện bớt công, giảm vật liệu, có lười nhác, có dối gạt; trong nghĩa vụ chẳng có. Đó là tận hết nghĩa vụ. Do vậy, Nho gia nói Nghĩa, nói Lễ, nói Trí. Trí là lý trí, chẳng dùng cảm tình; xử sự, đãi người, tiếp vật đều phải dùng lý trí. Nói năng giữ chữ tín, bèn gọi là “tín nhiệm”. Con người trên thế gian khác cầm thú, là do con người có năm thứ quan niệm đạo đức ấy. Tông chỉ giáo dục của Nho gia là Ngũ Luân, Ngũ Thường. Ngũ Thường là nhân đạo, tức là đạo lý làm người. Đó là cơ bản nhất. Lại phát triển thành Bát Đức, tức trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa, bình. Hiện thời, những điều này đều chẳng được nhắc đến, thảy đều bị vứt bỏ, hiện thời nói đến điều gì! Hoàn toàn nói đến lợi hại, đáng sợ quá! Con người qua lại với nhau là: Có lợi cho ta, ta hợp tác với quý vị. Có chỗ bất lợi cho ta, hay chẳng có ích gì, quý vị làm sao ta mặc kệ, chẳng màng đến nữa! Xã hội cứ phát triển như vậy, đó là chủ nghĩa Công Lợi (Utilitarianism). Có thể nói là hiện thời chủ nghĩa Công Lợi đã phát triển đến cực đoan, hoàn toàn chẳng có đạo nghĩa, thuần túy là kết hợp vì lợi hại, đáng sợ quá! Vì lợi hại mà biến hóa. Hôm nay chúng ta là hai người bạn tốt; ngày mai, quý vị chẳng đạt được lợi ích từ nơi đây, bèn nhẹ thì đoạn giao, còn nặng là oan gia đối đầu! Kinh hãi quá!

Xã hội đã phát triển đến nông nỗi ấy, chẳng có cách nào cứu vãn. Vì thế, thầy Lý nói: “Chỉ có một con đường dễ đi là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”, nhanh chóng di dân, di dân sang Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trừ biện pháp này ra, chẳng có cách nào, thiên hạ đã loạn, Phật, Bồ Tát, thần tiên đều trị chẳng được. Chúng ta phải nhận thức rõ rệt tình cảnh trước mắt, thế giới này đúng là khổ, chẳng vui gì! Bản thân quý vị hãy suy nghĩ xem, từ sáng đến tối trong tâm quý vị có sung sướng hay không? Quý vị rất sung sướng, thì sự sung sướng ấy có thể giữ được mấy ngày? Có thể giữ được mấy năm? Chẳng thể không nghiêm túc tự vấn, phản tỉnh. Nếu quý vị quả nhiên giác ngộ thấy sự thụ dụng và hưởng thụ của chúng ta chỉ có khổ, chẳng có lạc, quý vị mới nhận biết thế giới này chẳng thể ở được! Tông này (Tịnh Độ Tông) gọi điều này là ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh, “nguyện lìa Sa Bà, nguyện cầu sanh Cực Lạc”, từ chỗ này, tâm nguyện ấy mới có thể dấy khởi. Quý vị chẳng biết thế giới này là khổ, vẫn chẳng nghĩ rời khỏi! Nói cách khác, cái tâm, cái nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới của quý vị sẽ chẳng khẩn thiết. Quý vị thật sự biết thế giới này là khổ, tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới mới khẩn thiết. Vì vậy, trước hết phải là biết Khổ, phải đoạn Tập, phải đoạn mê hoặc, điên đảo, tạo tác, phải đoạn trừ những điều ấy.

Thứ hai là phải tin tưởng sâu xa nhân quả xuất thế gian. Đức Phật cũng là nói quả trước, quả là gì? Quả là Diệt. Chữ Diệt này còn được gọi là Niết Bàn, hoặc còn gọi là Viên Tịch. Diệt là gì? Diệt là diệt phiền não, diệt khổ nhân, diệt khổ quả, tiêu diệt khổ nhân lẫn khổ quả. Hiện thời, rất nhiều người dùng sai ý nghĩa này, ngỡ là gì? Người xuất gia chết bèn gọi là Viên Tịch, nực cười thay! Viên là công đức viên mãn, Tịch là tâm địa thanh tịnh, thanh tịnh tịch diệt, mang ý nghĩa này. Viên Tịch rõ ràng là sự chứng đắc trong khi còn sống. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện dưới cội Bồ Đề, đêm trông thấy sao Mai bèn thành Tối Chánh Giác, Tối Chánh Giác là gì? Là chứng đắc Viên Tịch. Thích Ca Mâu Ni Phật ba mươi tuổi chứng đắc Viên Tịch. Nếu người đã chết bèn gọi là Viên Tịch thì có ai chẳng viên tịch? Ai nấy đều viên tịch, cần gì phải tu nữa? Viên là nói tới chuyện “nhân viên, quả mãn”, tu hành viên mãn!

Thanh tịnh tịch diệt,  quả vị này là quả vị chí cao vô thượng.  Kinh Nhân Vương giảng về quả vị Bồ Tát, đã chia thành năm tầng cấp. Năm tầng cấp đều được gọi là Nhẫn. Tầng cấp cao nhất là Tịch Diệt Nhẫn, có ý nghĩa Viên Tịch. Tịch Diệt Nhẫn cũng có ba phẩm: Hạ phẩm Tịch Diệt Nhẫn là Thập Địa Bồ Tát, đây là Pháp Vân Địa Bồ Tát, trung phẩm là Đẳng Giác Bồ Tát, thượng phẩm là Phật quả. Viên Tịch, nói thật thà, nếu danh phù hợp thực thì mức độ thấp nhất là Thập Địa, tức Pháp Vân Địa Bồ Tát. Từ Cửu Địa trở về trước đều chẳng đủ tư cách gọi là Hạ Phẩm Viên Tịch, vì Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa là Vô Sanh Nhẫn, chẳng phải là Tịch Diệt Nhẫn. Do đó, trước hết Ngài nói về Diệt, cũng là quả, tức là Đại Niết Bàn nơi quả địa Như Lai, dùng phương pháp nào thì mới có thể chứng đắc? Nhất định phải tu Đạo. Do đó, bốn điều Khổ, Tập, Diệt, Đạo đều là thật, là chân lý, nhất định phải tu Đạo. Đạo ấy, nói thông thường là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm. Tiểu Thừa nói Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, trong pháp Đại Thừa có vô lượng đạo phẩm; nhưng ba mươi bảy phẩm có thể gồm trọn vô lượng đạo phẩm.

Ở đây nói “vị ư Đế Lý” (nghĩa là đối với Đế Lý), [Đế Lý là] Tứ Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Chư vị phải biết Tứ Đế có Tạng, Thông, Biệt, Viên. Nay Tứ Đế được nói trong Tịnh Độ Tông là Viên Giáo Tứ Đế. Tịnh Độ Tông là đại pháp viên đốn. Cổ đức đã nói, như trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói: Kinh Di Đà là “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy”. Ông Bành Tế Thanh nói kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm. Vì thế, kinh này là thuần viên, cực viên, là viên nhất trong các pháp viên. Do đó, Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm được nói trong kinh này là Viên Giáo Đạo Phẩm.

Đối với điều này, chúng ta phải “thâm nhẫn”, “nhẫn” (忍) là tin tưởng, chẳng hoài nghi. Nhẫn có nghĩa là “an trụ”, tâm an trụ nơi đạo lý ấy, trọn chẳng hoài nghi, trọn chẳng lay động, đó là “thâm nhẫn”. “Nhạo” (樂) là ưa thích, yêu chuộng. “Dục” (欲) là dục vọng (ham muốn, mong mỏi). Ta muốn nương theo lý luận và phương pháp này để tu học, rất hoan hỷ chiếu theo lý luận và phương pháp ấy để tu học thì gọi là “nhạo dục”. Như thế gọi là Tín Căn, lòng tin của quý vị mới có cội rễ.

Chữ Tín chẳng dễ dàng! Nay chúng ta muốn tu pháp môn Tịnh Độ, nghe người ta giảng Thiền Tông ở bên kia, trong tâm hâm mộ, vẫn mong được học. Nghe nói ở chỗ nọ có quán đảnh Mật Tông, cũng muốn tới tham gia, đó là gì? Tuy có Tín, chẳng có Căn! Tín mà chẳng có cội rễ, bèn giống như bèo trôi trên nước, bị gió thổi giạt, chẳng thể có thành tựu. Vì lẽ đó, Tín có Căn đáng quý, quý vị rất có thể thành tựu. Tín mà chẳng có Căn, chỉ gieo phước đức trong tám thức điền mà thôi, chẳng thể nào thành tựu trong một đời này. Do đó, các đồng tu hãy nên tự mình kiểm điểm đôi chút, cũng có thể quan sát các đồng tu học Phật, người nào có thành tựu, kẻ nào chẳng có thành tựu, trong tâm chúng ta đều nhận biết, cũng có thể nói rất rõ ràng: Phàm là kẻ tâm địa dao động, thấy lạ, nghĩ khác, kẻ ấy chẳng thể có thành tựu trong một đời này. Phàm là người kiên trì tin tưởng, chẳng nghi ngờ, trọn chẳng dao động, người ấy sẽ thành tựu trong một đời này.

Tôi lại nói rõ hơn một chút. Hiện thời, đạo tràng giảng kinh tại thành phố Đài Bắc rất nhiều, đạo tràng làm miếu hội cũng rất nhiều, kẻ thường đến khắp các đạo tràng đều chẳng có Tín Căn, đều là dao động. Thật sự có Tín Căn, thưa cùng chư vị, sẽ theo một thầy, đến một đạo tràng, trọn chẳng đến đạo tràng thứ hai, trọn chẳng nghe người thứ hai giảng, người ấy có Tín Căn, bất luận học pháp môn nào cũng đều có thể thành tựu, thật sự đáng cho chúng ta tôn kính. Đi khắp nơi, nói thật ra là chẳng đáng ca tụng. Chớ nên nói: “Chúng ta giảng kinh ở đây, người từ đạo tràng khác đến chỗ chúng ta, người ở đây đông đảo, chúng ta hoan hỷ”. Tôi chẳng tỏ vẻ hoan hỷ, vì sao? Đạo tràng này của tôi có thêm quý vị thì cũng chẳng nhiều, mà thiếu mặt quý vị thì cũng chẳng ít. Vì sao nói vậy? Vì quý vị chẳng thể thành tựu! Quý vị đến chỗ tôi thì cũng đến chỗ khác, đi lung tung các nơi, có gì là hiếm hoi, lạ lùng? Chẳng có gì hiếm hoi, lạ lùng cả!

Người ta tu học ở một chỗ, theo chắc một vị thầy, tu học tại một đạo tràng, dẫu chẳng tu Tịnh Độ Tông, tu theo các tông phái khác, chúng ta phải tôn kính. Vì sao? Người ấy [tu tập] đúng lý đúng pháp. Nếu chư vị muốn giới thiệu người đến đây nghe kinh, mà thấy hạng người ấy, chớ nên giới thiệu, hãy tôn kính họ, cổ vũ, khích lệ họ, cách làm của họ là đúng. Có thể kéo người nào đến nghe kinh? Những kẻ đi lung tung khắp nơi! Đối với hạng người ấy [lôi kéo đến nghe kinh] thì được, tâm người ấy như bèo nổi, nay bị gió giạt đến nơi này, ngày mai giạt sang chỗ khác. Hạng người ấy thì [lôi kéo] được, quý vị khuyên họ tới đây nghe kinh thì được, chẳng sao cả, tạo thiện căn cho họ mà! Tín phải có Căn!

 

(Sao) Thử nhất vi Tổng, dư tứ thừa thượng.

() 此一為總,餘四承上。

(Sao: Điều này là Tổng, bốn điều kia nhằm tiếp nối điều trên).

Trong Ngũ Căn, Tín Căn quan trọng nhất. Vì chẳng có Tín Căn, những điều tiếp theo là Tinh Tấn, Niệm, Định, Huệ đều chẳng thể có, chẳng thể nào phát sanh. Do vậy, những điều sau như Tấn, Niệm, Định, Huệ đều do Tín mà thành tựu. Do vậy, có thể biết, Tín trọng yếu ngần ấy! Đại Luận có nói: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn đạo, mẹ công đức). Tín là cội nguồn nhập đạo, là mẹ của hết thảy công đức. “Mẫu” mang ý nghĩa tỷ dụ “có thể sanh”, Tín có thể sanh hết thảy công đức, điều này đã nêu rõ tầm quan trọng của Tín.

Mở kinh Phật ra, câu đầu tiên là “như thị ngã văn”. “Như thị” là Tín Thành Tựu. Trong Bách Pháp của Duy Thức, pháp đầu tiên trong mười một thiện pháp là Tín; ngay cả Nho gia cũng coi trọng chữ Tín. Con người nếu chẳng có Tín, chẳng có cách nào tồn tại trong xã hội. Trong xã hội phương Tây hiện thời, quan niệm ấy còn được thừa nhận phổ biến, nhưng xã hội Trung Quốc lại ngược ngạo chẳng nhận biết! Trong xã hội phương Tây, vì họ chẳng cầm tiền mặt theo mình, thường dùng thẻ tín dụng. Sau khi đã mất tín nhiệm, quả thật chẳng có cách nào xoay sở trong xã hội. Do đó, họ nhất định phải tuân thủ sự tín nhiệm. Vì quý vị giữ chữ Tín, trong xã hội thứ gì cũng đều suông sẻ. Quý vị chẳng có tín nhiệm, đích xác là chẳng có cách nào sống sót. Pháp thế gian và xuất thế gian đều được kiến lập trên cơ sở Tín Căn. Hôm nay đã hết thời gian rồi.

 

— o0o —

Tập 163

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm năm mươi mốt:

 

(Sao) Tấn Căn giả, ký tín thử lý, cần cầu bất tức, thị danh vi Tấn.

() 進根者,既信此理,勤求不息,是名為進。

(Sao: Tấn Căn là đã tin lý này, siêng cầu chẳng dứt, bèn gọi là Tấn).

 “Tấn” (進) nghĩa là cầu tiến bộ, chẳng thoái chuyển. Lời chú giải căn cứ trên những điều được nói trong Duy Thức Luận.

 

(Diễn) Tấn giả, ư thiện ác phẩm tu đoạn sự  trung, dũng  hãn  vi tánh, đối trị giải đãi, mãn thiện vi nghiệp.

(進者,於善惡品修斷事中勇悍為性,對治懈怠,滿善為業。

(Diễn: Tấn là trong các sự tu tập nhằm đoạn các thứ thiện ác, dùng sự mạnh mẽ, can đảm làm tánh để đối trị giải đãi, chú trọng viên mãn các điều thiện).

Chúng ta có thể thấy Tấn được định nghĩa rất rõ rệt: Tấn là đối nghịch với giải đãi. Chẳng cầu tiến bộ, sẽ bị thoái chuyển, sẽ giải đãi, biếng nhác. Đối với Tín đã giảng trong phần trước, nếu có thể thật sự tin tưởng chuyện này, người ấy sẽ tự nhiên dũng mãnh, tinh tấn.

Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, nói chung là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm chính là cương lãnh tu học của toàn thể Đại Thừa Phật pháp, đều có thể áp dụng cho bất cứ pháp môn nào. Thí dụ như Ba Mươi Bảy Phẩm được dùng trong nhà Thiền có cách giảng hoàn toàn khác với Tịnh Độ. Giáo Hạ như Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Pháp Tướng, mỗi tông đều có cách giải thích riêng, danh xưng hoàn toàn giống nhau, nhưng giải thích khác nhau. Ba Mươi Bảy Phẩm giống như một công thức được ứng dụng vô cùng sống động. Vận dụng vào Tịnh Độ, Ba Mươi Bảy Phẩm chẳng dùng cách nói ấy, [cách giảng giải được sử dụng] trong lời chú giải là cách nói của tông Pháp Tướng. Áp dụng vào Tịnh Độ Tông, Tín là điều thứ nhất trong ba tư lương, nhất định phải tin sâu chẳng nghi y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Tịnh Độ. Quý vị có thể thật sự tin sâu, tự nhiên sẽ nỗ lực niệm Phật, sẽ có thể tinh tấn.

Tinh tấn sanh từ nơi đâu? Sanh từ Tín Căn. Cư sĩ Châu Quảng Đại ở Washington DC vãng sanh, người ta niệm Phật ba ngày liền thấy Tây Phương Tam Thánh đến tiếp dẫn. Vài hôm trước, còn có một đồng tu kể cho tôi nghe một chuyện, ông ta nói: Có một phạm nhân lãnh án tử hình, tự biết mình đã bị phán tội tử hình, bèn ở trong tù chuyên niệm A Di Đà Phật, cũng chẳng biết đã niệm bao lâu. Trước khi bị đưa đi xử bắn, lão nhân gia bèn tọa hóa, ngồi xếp bằng vãng sanh trong ngục. Đấy là tâm sanh tử thiết tha, chẳng còn có hy vọng nào khác, chẳng hy vọng điều gì khác, chỉ có niềm hy vọng này, khẩn thiết niệm Phật, chẳng có ai không thành công. Chuyện này đích xác là có thể xảy ra. Chúng ta thấy Vãng Sanh Truyện có chép pháp sư Oánh Kha đời Tống niệm Phật ba ngày ba đêm bèn cảm A Di Đà Phật hiện đến. A Di Đà Phật ước hẹn ba ngày sau sẽ đến tiếp dẫn Sư vãng sanh, quả nhiên chẳng sai. Sư ra đi, cũng chẳng ngã bệnh. Vấn đề tùy thuộc bản thân chúng ta có tin tưởng hay không!

Lũ phàm nhân chúng ta niệm Phật hiệu chẳng chuyên cần, nói thật ra là do tham luyến thế gian này, nên chẳng niệm tốt đẹp. Chúng ta thấy những người ấy tự tại vãng sanh dường ấy, thậm chí kẻ lãnh án tử hình cũng tự tại vãng sanh, chẳng có nguyên nhân nào khác: Tâm sanh tử thiết tha, chẳng lưu luyến thế gian này! Cư sĩ Châu Quảng Đại [niệm Phật] ba ngày vãng sanh cũng là như thế, tuy ông ta biết chính mình bệnh rất nặng, cũng chẳng thể cứu chữa, trọn chẳng mong cầu phép lạ xuất hiện, cũng chẳng mong lành bệnh, mà cầu vãng sanh thế giới Cực Lạc. Một niệm ấy thúc đẩy ông ta chuyên ròng niệm Phật, đó là Tín Căn. Không chỉ là Tín Căn, mà lòng tin ấy còn sanh ra sức mạnh rất lớn. Từ Ngũ Căn cho đến Ngũ Lực, ông ta có sức mạnh ấy, nên có thụy tướng tốt đẹp ngần ấy. Niệm Căn là trong tâm niệm niệm chẳng quên chuyện ấy.

 

(Sao) Ký cầu thử lý, niệm tư tại tư, minh ký bất vong, thị danh vi Niệm.

() 既求此理,念茲在玆,明記不忘,是名為念。

(Sao: Đã cầu lý ấy, niệm tại đâu, nghĩ tại đó, nhớ rõ chẳng quên, bèn gọi là Niệm).

 Chúng ta sống trong thế gian này, rốt cuộc vì lẽ gì? Rốt cuộc, cả đời này có ý nghĩa gì? Có giá trị gì? Điều này rất đáng khiến cho chúng ta phản tỉnh. Qua kinh điển, đức Phật dạy chúng ta, nhân sinh là chuyện như thế nào? Kinh Phật nói một câu chẳng dễ nghe là “nhân sanh thù nghiệp” (đời người nhằm đền trả nghiệp), “thù”“báo thù” (報酬: đền đáp, báo đáp). Trong quá khứ, quý vị đã tạo nghiệp, hiện tại đáng nên thọ báo. Nói cách khác, một đời người để làm gì? Đến chịu đựng báo ứng! Trong quá khứ, quý vị tạo thiện nhân, đời này báo ứng tốt đẹp, nên mới hưởng sự báo ứng tốt đẹp. Trong đời quá khứ làm điều bất thiện, bèn hứng chịu quả báo chẳng tốt lành! Con người sanh trong thế gian chẳng có gì khác! Nhằm chịu báo! Mấy ai có thể giác ngộ?

Chẳng gặp Phật pháp, nhất là chẳng gặp pháp môn này, xác thực là đời người nhằm đền trả nghiệp, chẳng có một tí biện pháp nào! Mạng của mỗi người đều đã được định sẵn, ai cũng đều chẳng thể trốn tránh vận mạng. Chư vị xem Liễu Phàm Tứ Huấn, số mạng suốt đời của Viên Liễu Phàm đã được định sẵn, số mạng một đời của mỗi người chúng ta cũng đều đã định sẵn, đó gọi là “một miếng ăn, một hớp uống, không gì chẳng được định trước”, đều đã được định sẵn, chẳng có ai là ngoại lệ. Nếu quý vị gặp một thầy bói thật sự cao minh, ông ta cũng biết rõ ràng. Nếu không hiểu đạo lý Phật pháp, sẽ chẳng có cách nào sửa đổi vận mạng. Được rồi! Ta hiểu đạo lý Phật pháp đôi chút, đoạn ác, tu thiện, sửa đổi vận mạng của chính mình, bất quá là lại tạo một chút nhân lành, khiến cho vận mạng lại chuyển thành tốt hơn một chút, quả báo lại tốt đẹp hơn một chút. Nói cách khác, vẫn chẳng thoát khỏi nhân duyên quả báo! Câu nói “nhân sanh thù nghiệp” của Phật đã định sẵn cho quý vị. Nếu chúng ta thật sự liễu giải ý nghĩa bao hàm trong ấy, đích xác là một sự cảnh tỉnh to lớn: Đời người chẳng có ý nghĩa, chẳng có giá trị! Vì vậy, tổ sư bảo chúng ta phải nhàm lìa Sa Bà, [vì] sanh trong Sa Bà là để đền trả nghiệp! Sau khi quý vị đã giác ngộ, hãy nên nhàm lìa thế giới Sa Bà. Nếu có thể buông bỏ, hãy nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ, đó là người thật sự thông minh, triệt để giác ngộ.

Tạm thời vẫn chưa muốn ra đi, nói thật ra là do hai nguyên nhân. Thứ nhất là do công phu chưa thành tựu, nên chẳng đi được. Đó là chuyện không thể làm gì khác được, phải nỗ lực, phải nghiêm túc tu học. Một loại khác là đã tu thành, có thể đi, nhưng chẳng đi, đây là đại từ đại bi thả chiếc bè Từ. Người ấy có năng lực ra đi, nhưng chẳng đi, vẫn trụ thêm mấy năm, do nguyên nhân nào? Chẳng phải là do tham luyến thế gian này, mà là hy vọng giới thiệu pháp môn này với mấy người nữa, giúp thêm mấy người cùng vãng sanh. Đó là Bồ Tát phát tâm, chẳng cần chờ đến sau khi ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ trở lại độ chúng sanh, không cần! Ta có thể ra đi, nhưng không đi, đó là “thả chiếc bè Từ”, [cuộc sống của người ấy] có giá trị, có ý nghĩa. Trừ những trường hợp ấy ra, tôi thật sự nghĩ đời người chẳng có giá trị hay ý nghĩa gì! Do đó, đối với những đạo lý, những sự thật được nói trong kinh điển, y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới, những vị đại đức thuộc nhiều thế hệ đã nương theo pháp môn này tu học, quý vị thấy đó: Ai nấy đều thành tựu. Chúng ta phải lưu tâm chuyện này; trừ điều này ra, chẳng có gì liên quan đến chúng ta.

Sáng nay có mấy vị pháp sư từ núi Sư Đầu[28] đến thăm, hỏi tôi mấy chuyện ngoài chuyện niệm Phật, họ hỏi: “Thưa pháp sư! Đối với cách nói của những vị pháp sư nào đó, thầy có cách nhìn như thế nào?” Tôi chắp tay: “A Di Đà Phật, tôi chẳng có cách nhìn chi hết!” Vì sao? Chẳng liên quan gì đến tôi! Chúng ta vẫn phải chia trí quan tâm pháp sư này, pháp sư nọ, phương pháp tu hành này, phương pháp tu hành nọ, thì nói thật thà, chúng ta chẳng khéo niệm Phật, trong tâm vẫn còn xen tạp những thứ lộn xộn, tâm chúng ta làm sao có thể thanh tịnh cho được? Điều quan trọng nhất trong pháp môn này là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, há có tâm tư quan tâm tới chuyện của kẻ khác? Những chuyện ấy về căn bản là chẳng dính líu gì đến chúng ta, nên tôi khuyên họ hãy thật thà niệm Phật. Niệm y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới; đó là chánh niệm. Niệm những chuyện khác đều là vọng niệm, đều là tạp niệm, gây chướng ngại rất lớn cho người tu Tịnh nghiệp chúng ta.

 

(Sao) Định Căn giả, ký niệm thử lý, hệ duyên nhất cảnh, tương ứng bất tán, thị danh vi Định.

() 定根者,既念此理,繫緣一境,相應不散,是名為定。

(Sao: Định Căn là đã niệm lý ấy, duyên chắc chắn nơi một cảnh, tương ứng chẳng tán loạn thì gọi là Định).

Chúng ta quy nạp toàn bộ vào Tịnh Độ để nói thì tâm định nơi A Di Đà Phật, định nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới, suốt đời quyết định tu học pháp môn này. Ngoài pháp môn do chính mình chuyên tu ra, đối với hết thảy các pháp môn do đức Phật đã nói, chúng ta cung kính, tán thán; đó là đúng. Đối với hết thảy các pháp môn “bất văn, bất thính”, “bất văn” là ta không nghe. Những kinh điển thuộc các pháp môn khác ta chẳng xem, mà cũng chẳng nghe, cũng chẳng hỏi tới. Ta chẳng có câu hỏi gì. Ta niệm A Di Đà Phật, há còn có thắc mắc gì? Chẳng có thắc mắc gì, thái độ ấy là đúng. Tâm chúng ta thanh tịnh. Đức Phật nói vô lượng vô biên pháp môn, chúng ta thảy đều nên cung kính, ai thích tu pháp môn nào cũng đều được cả! Chẳng có thứ gì không tốt đẹp! Tuyệt đối chớ nên nói: “Quý vị chẳng tu pháp môn Tịnh Độ, chẳng tốt”! Chớ nên dấy lên ý niệm ấy, ai nấy có nhân duyên riêng.

Chúng ta biết pháp môn này tốt đẹp, nhưng còn có rất nhiều kẻ coi thường pháp môn này, đó là chuyện của họ, chẳng liên quan gì đến chúng ta! Chúng ta tu học pháp môn này, đừng nói là trước kia, ngay trong thời cận đại, chúng ta đã thấy bao nhiêu người thật sự nương theo pháp môn này vãng sanh, có thụy tướng rất tốt lành, biết trước lúc mất, có người đứng vãng sanh, có người nằm vãng sanh, chẳng bị bệnh khổ, biết chính mình sẽ vãng sanh lúc nào, những trường hợp như vậy đều là chứng cớ rành rành. Những pháp môn khác tuy hay, hay đến mức độ nào, chúng ta cũng không biết, cũng chẳng hỏi tới, mà cũng chẳng nghiên cứu; nhưng tối thiểu là những gương thành tựu của họ chẳng nhiều, chẳng phổ biến bằng pháp môn này! Chúng ta biết học pháp môn này là thích hợp, tu những pháp môn khác có thể sẽ chẳng thể thành tựu trong một đời này. Cổ đức thường nói các pháp môn khác là “đạo khó hành”, pháp môn này là “đạo dễ hành”.

Ngày hôm qua, tôi có nói với các vị đồng tu, tôi nói về Quán Âm Tam Kinh của Quán Thế Âm Bồ Tát, chẳng đơn giản đâu nhé! Trong kinh Hoa Nghiêm, Quán Thế Âm Bồ Tát đại diện các vị Bồ Tát thuộc địa vị Đệ Thất Hồi Hướng trong Viên Giáo. Căn cơ đối ứng với kinh Hoa Nghiêm, tức đối tượng giáo học [của bộ kinh ấy] là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân Đại Sĩ, chúng ta chẳng có phần! Trong chương Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, quý vị thấy “phản văn, văn tự tánh” (xoay cái nghe để nghe tự tánh), cách xoay lại là như thế nào? Xoay lại từ chỗ nào? Thật vậy! Dẫu kinh ấy giảng rõ ràng cách mấy, tôi thấy vẫn chẳng tìm được cửa để vào, chẳng có cách nào, chẳng dễ dàng! Phẩm Phổ Môn lại càng chẳng cần phải nói nữa! Phẩm Phổ Môn là Quán Âm Bồ Tát đã thành tựu, đại từ đại bi giáo hóa chúng sanh. Quý vị bèn hiểu đối tượng giáo học của những bộ Đại Kinh rất nhỏ hẹp, đích xác là bậc thượng căn lợi trí mới có phần, kẻ bình phàm chẳng có phần!

Chỉ riêng pháp môn này nhiếp thọ căn cơ rộng lớn, đáng gọi là “thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều hoàn toàn thâu nhiếp”. Dẫu tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, chỉ cần quý vị giác ngộ, chịu quay đầu, vẫn được vãng sanh y hệt! Quý vị chớ nên nghĩ “ta tạo nghiệp rất nặng, chắc là phẩm vị vãng sanh rất thấp, chỉ sợ là hạ hạ phẩm hạ sanh”, chưa chắc! Quý vị thấy phạm nhân can án tử hình luôn tạo tội nghiệp, bị phán án tử hình, do niệm Phật bèn có thể ngồi vãng sanh tự tại trong ngục, chẳng ngã bệnh, cũng là biết trước lúc mất. Vãng sanh như vậy thì tuyệt đối chẳng phải là hạ phẩm hạ sanh, từ kinh luận Tịnh Tông, chúng ta có thể thấy điều này!

Vãng sanh là hai thứ công đức:

1) Một là tích công lũy đức vãng sanh, giống như chúng ta nay đang niệm Phật; tu tập, tích lũy công đức mỗi ngày, vãng sanh như thế đó.

2) Loại kia là kẻ có tội, tội nghiệp rất nặng, lâm chung sám hối vãng sanh. Như pháp sư Oánh Kha là sám hối vãng sanh, bản thân Sư biết chính mình tội nghiệp rất nặng. Trong các kinh điển, chúng ta thấy A Xà Thế Vương Kinh, nhà vua cũng là sám hối vãng sanh. Trong chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có đề cập, vua A Xà Thế khi lâm chung mới sám hối, biết chính mình sai trái, tâm sám hối vô cùng dũng mãnh. Nhà vua vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là thượng phẩm trung sanh. Vì vậy, phẩm vị cao hay thấp thường chẳng phải là bọn phàm phu chúng ta có thể tưởng tượng được. Một niệm hồi tâm dũng mãnh đúng là người bậc thượng trong loài người.

Vì thế, tâm nhất định phải định nơi pháp môn này, quyết định chẳng còn thay đổi nữa. Cho dù Thích Ca Mâu Ni Phật đích thân đến bảo chúng ta: “Ta còn có một pháp môn dễ dàng và thỏa đáng hơn pháp này”, quý vị bèn thưa: “Tạ ơn Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, con tu pháp môn này là đủ rồi. Dẫu pháp môn ấy tốt đẹp đến mấy, con cũng không cần, con vẫn khăng khăng quyết chí tu pháp môn này”. Như vậy thì mới được, tâm của quý vị mới thật sự định. Đó là yếu tố thành công, quyết định chớ nên sửa đổi, quyết định chớ nên biến cải!

 

(Sao) Huệ Căn giả, ký định tâm tại đạo, phục chánh quán phân minh, quyết trạch thị phi, thị danh vi Huệ.

() 慧根者,既定心在道,復正觀分明,決擇是非,是名為慧。

(Sao: Huệ Căn là tâm đã định nơi đạo, lại còn chánh quán phân minh, quyết trạch đúng sai, bèn gọi là Huệ).

Huệ do đâu mà có? Huệ do Định mà có. Tâm đã thật sự định, thật sự thanh tịnh, liền sanh trí huệ. Khi ấy, quý vị không chỉ có thể thông đạt, hiểu rõ hết thảy Phật pháp, ngay cả hết thảy các pháp thế gian cũng đều hiểu rõ, cũng đều thông đạt. Đương nhiên lý này rất sâu, nhưng cũng chẳng khó lãnh hội. Người thế gian thường nói: “Đương cục giả mê, bàng quan giả thanh” (Người trong cuộc thì quáng, người ngoài cuộc thì sáng). Tâm thật sự định, sẽ có chủ tể. Nói cách khác, tuy chúng ta vẫn ở trong thế gian này, vẫn chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng chúng ta đã buông xuống hết thảy sự việc thế tục trong thế gian này. Chẳng buông xuống nơi Sự, mà là tâm buông xuống, tâm không dính nhiễm. Nói cách khác, chẳng còn quan tâm những chuyện thế tục của thế gian này, đối với hết thảy Phật pháp Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều không quan tâm. Không quan tâm là vượt thoát, là người ngoài cuộc. Người ngoài cuộc có cái nhìn khác với kẻ trong cuộc! Vì thế, quý vị quay đầu nhìn người thế gian, sẽ thấy họ mỗi ngày từ sáng đến tối bận bịu, mê hoặc, điên đảo, chúng ta không mê hoặc. Quý vị lại nhìn người học Phật dốc hết tánh mạng dùi mài, nghiên cứu nơi Đại Thừa hay Tiểu Thừa, chúng ta ở ngoài cuộc thấy rất rõ ràng. Tôi nghĩ chư vị có thể lãnh hội ý nghĩa này. Chúng ta chẳng phải là kẻ trong cuộc, đã từ trong cuộc thoát ra, nên Huệ ở đây là thật, chẳng giả tí nào! Quý vị càng có thể buông pháp thế gian và xuất thế gian xuống, trí huệ của quý vị càng tăng trưởng, tâm quý vị càng thanh tịnh, trí huệ rộng lớn, nhất định thông đạt, hiểu rõ pháp thế gian và xuất thế gian, nhưng chính mình xử sự đãi người, tiếp vật nhất định là khiêm cung, lễ độ, chẳng sanh tâm ngạo mạn, vì đã thấy rõ ràng chân tướng của hết thảy sự thật.

 

(Sao) Năng sanh thánh đạo giả.

() 能生聖道者。

(Sao: Có thể sanh thánh đạo).

Đây là nói Ngũ Căn có thể sanh ra thánh đạo.

 

(Sao) Dĩ thử ngũ pháp, điều trị kỳ tâm, thí như âm dương hòa thích, nhất thiết chủng tử giai đắc phát sanh cố.

() 以此五法,調治其心,譬如陰陽和適,一切種子皆得發生故。

(Sao: Do năm pháp ấy điều hòa, đối trị cái tâm, ví như Âm và Dương hòa hợp, khiến cho hết thảy hạt giống đều được sanh thành).

Đây  là  dùng  tỷ  dụ. Ngũ  Pháp  là  Tín, Tấn, Niệm, Định, và Huệ.

Tôi vừa mới nói [năm pháp] ấy là một công thức, áp dụng thích hợp cho hết thảy các pháp. Không chỉ là phù hợp Niệm Phật, mà còn phù hợp các pháp thế gian trong cuộc sống hằng ngày của quý vị. Đối với bất cứ chuyện gì thuộc về pháp thế gian, chẳng hạn như chúng ta nấu nướng trong bếp, nếu quý vị có đầy đủ năm điều kiện ấy, thức ăn do quý vị nấu nhất định là sắc, hương, vị đều vô cùng ngon lành, đẹp đẽ, vì sao? Do có Huệ, có Định. Định là toàn bộ tinh thần dốc hết vào đó để làm, nhất định sẽ làm hết sức tốt đẹp. Quý vị liền biết năm pháp ấy chung cho hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Thứ nhất là chính mình có tín tâm, nấu thức ăn ta bèn có tín tâm, ta sẽ nấu rất ngon lành. Có thể thấy phạm vi của năm pháp ấy hết sức rộng lớn.

Nếu áp dụng năm pháp ấy vào tu đạo, đạo nghiệp nhất định thành tựu. Vận dụng năm pháp ấy vào bất cứ chuyện gì, [chuyện ấy] chắc chắn thành tựu. Quý vị dùng năm pháp ấy trong buôn bán, nhất định kiếm lời, nhất định phát tài. Nói thật ra, Phật pháp hết sức thực dụng, đáng tiếc là nhiều kẻ trong thế gian này chẳng biết; đích xác là mấu chốt và bí quyết để thành công trong hết thảy sự nghiệp thế gian và xuất thế gian. Phật pháp là tâm pháp, sở cầu của Phật pháp là minh tâm kiến tánh; đó là tông chỉ của pháp Đại Thừa. bất luận tông nào hay pháp môn nào, đều lấy “minh tâm kiến tánh” làm mục tiêu. Ở đây cũng là nói lên ý nghĩa tổng quát, dùng năm pháp ấy để điều trị cái tâm. Cách nói của tôi như trong phần trước hoàn toàn là nói theo [quan điểm của] Tịnh Tông, nói theo pháp môn Niệm Phật. Tôi vừa mới nói, mỗi tông có cách giảng riêng, có cách tu tập riêng, nhưng danh xưng đều giống như nhau.

Kế đó, dùng một tỷ dụ để nói: “Thí như âm dương hòa thích, nhất thiết chủng tử giai đắc phát sanh cố” (Ví như âm dương hòa hợp, hết thảy các hạt giống đều được sanh thành), tỷ dụ về thực vật. Thực vật sanh trưởng, đối với kiến thức thông thường này, chúng ta đều hiểu kha khá, thực vật cần thổ nhưỡng[29], nước, không khí, ánh sáng mặt trời, phân bón; ở đây, những điều ấy được gọi là “âm dương hòa thích”. Trong các duyên ấy, có âm tánh và dương tánh; chẳng hạn như mặt trời thuộc loại dương tánh, nước thuộc loại âm tánh, sức người vun quén thuộc loại dương tánh. Nói “âm dương” là nói theo ý nghĩa này.

 

(Sao) Câu Xá tam nghĩa giả, Câu Xá Luận minh tối thắng tự tại quang hiển vi Căn. Tối thắng giả, căn thể thắng cố. Tự tại giả, căn dụng thắng cố. Quang hiển giả, Thể Dụng song chương cố. Ư trung khai nhị thập nhị căn, hữu Tín đẳng ngũ căn.

() 俱舍三義者,俱舍論明最勝自在光顯為根。最勝者,根體勝故;自在者,根用勝故;光顯者,體用雙彰故。於中開二十二根,有信等五根。

(Sao: “Câu Xá nêu ra ba nghĩa”: Câu Xá Luận nói Căn có nghĩa là tối thắng, tự tại và quang hiển. Tối thắng là vì Thể của Căn thù thắng. Tự tại là Dụng của Căn thù thắng. Quang hiển là Thể và Dụng cùng phô bày. Luận ấy lập ra hai mươi hai Căn, trong số đó có Ngũ Căn như Tín v.v…)

 “Câu Xá tam nghĩa” là ba ý nghĩa tối thắng, tự tại, và quang hiển. Câu Xá Luận giải thích Căn có ba ý nghĩa: Ý nghĩa thứ nhất là Tối Thắng, tức là thù thắng nhất, vì nó là Thân Nhân Duyên[30] của hết thảy các pháp.

 

(Diễn) Tối thắng giả, tức thượng trì kỳ sở dĩ đắc, nhi tự phần bất thất dã.

() 最勝者,即上持其所已得,而自分不失也。

(Diễn: “Tối thắng” là như trong phần trên (trong lời Sao giải thích về chữ Căn) [đã nói] “giữ gìn những gì đã đắc, chẳng đánh mất chính mình”).

Giống như hạt giống, nó có thể gìn giữ, chẳng để mất công năng. Đó là Tối Thắng.

 

(Diễn) Tự tại giả, tức thượng sanh kỳ sở vị đắc, nhi thắng tấn thượng cầu dã.

 () 自在者,即上生其所未得,而勝進上求也。

(Diễn: “Tự tại” là trong phần trên (trong lời Sao giải thích về chữ Căn) [đã nói] “có thể sanh những điều chưa đạt được, lại còn tiến lên cầu cao hơn”).

Nó có Sở Duyên Duyên[31]. Chỉ cần gặp được duyên, duyên phận đầy đủ, sẽ quyết định sanh trưởng. Ví như một hạt giống, hạt giống là Thân Nhân Duyên, là tối thắng. Tối thắng mà nếu chẳng có duyên, [chẳng hạn như] đặt hạt giống ấy trong chén trà, để đó cả trăm năm, nó vẫn chẳng thể mọc thành cây cối. [Tức là] hạt giống tuy tối thắng, nhưng thiếu Tăng Thượng Duyên. Vì thế, hễ có Tăng Thượng Duyên[32], nó nhất định có thể sanh trưởng, có thể đơm hoa, kết quả. Đó là ý nghĩa Tự Tại. Ý nghĩa thứ ba là “quang hiển”:

 

(Diễn) Quang hiển Thể Dụng song chương giả, tức thượng “tức Thể khởi Dụng, tức Dụng hiển Thể”.

() 光顯體用雙彰者,即上即體起用,即用顯體。

(Diễn: “Quang hiển là Thể và Dụng cùng phô bày” chính là như trong phần trên đã nói: “Từ ngay nơi Thể mà khởi Dụng, từ ngay nơi Dụng mà hiển lộ Thể”).

Trong Câu Xá Luận, đức Phật nói chủng tử có ba ý nghĩa ấy. Phần đầu của hai mươi hai Căn [được nhắc đến trong Câu Xá Luận] chính là Ngũ Căn. Hai mươi hai Căn[33] là Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ, Ưu, Hỷ, Khổ, Lạc, Xả v.v… Dưới đây, chúng ta lại xét đến Ngũ Lực:

 

(Sớ) Ngũ Lực giả, tức tiền Ngũ Căn tăng trưởng, cụ hữu đại lực, cố danh vi Lực.

() 五力者,即前五根增長,具有大力,故名為力。

(Sớ: Ngũ Lực là năm căn trên đây tăng trưởng, có sức mạnh to lớn, nên gọi là Lực).

Điều thù thắng của Căn là nó có thể tăng trưởng, nhưng sức mạnh của nó khá yếu. Giống như một hạt giống, có thể sanh trưởng, nhưng lúc mới mọc chỉ là một cây non mà thôi, chẳng phải là một cội đại thụ. Cây non gặp phải gió to, liền bị thổi trốc rễ, vì nó chẳng có sức. Nó ắt phải tăng trưởng không ngừng, sau khi trưởng thành, nó sẽ có sức, vững bền, chẳng bị bật trốc. Ngũ Lực là Ngũ Căn tăng trưởng; khi ấy, nó thật sự có tác dụng.

 

(Sao) Lực hữu nhị nghĩa: Nhất giả bất vị tha phục, nhị giả hựu năng phục tha.

() 力有二義:一者不為他伏,二者又能伏他。

(Sao: Lực có hai nghĩa: Một là chẳng bị kẻ khác khuất phục, hai là lại có thể khuất phục kẻ khác).

“Phục” (伏) có nghĩa là hàng phục (降伏). Người thật sự có lực, sẽ chẳng bị kẻ khác hàng phục. Nếu sức quý vị càng thù thắng, sẽ còn có thể hàng phục đối phương. Sức mạnh ấy càng lớn hơn nữa.

 

(Sao) Như Du Già Luận, thử Ngũ Lực giả, năng ư hậu hậu sở chứng xuất thế gian pháp, sanh thâm thắng giải, nan chế phục cố. Hựu cụ đại oai thế, tồi phục nhất thiết chư ma quân cố.

() 如瑜伽論,此五力者,能於後後所證出世間法,生深勝解,難制伏故。又具大威勢,摧伏一切諸魔軍故。

(Sao: Như luận Du Già đã nói: Năm lực ấy có thể khiến cho [hành nhân] sanh khởi sự lý giải thù thắng sâu xa, khó thể chế phục đối với các pháp xuất thế gian được chứng sau này (như Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần v.v…). Lại còn [do năm lực ấy mà] trọn đủ oai thế, dẹp tan hết thảy ma quân).

Theo Du Già Sư Địa Luận, đây là một bộ luận Đại Thừa, Câu Xá Luận là luận Tiểu Thừa. Du Già Luận là một bộ đại luận căn bản trọng yếu nhất trong tông Duy Thức. Tông Duy Thức căn cứ trên sáu kinh và mười một luận. Trong sáu kinh, bộ kinh điển quan trọng nhất, thuần túy giảng về lý luận Duy Thức là kinh Giải Thâm Mật. Trong mười một luận, hai bộ Du Già Luận và Thành Duy Thức Luận là luận căn bản của tông Duy Thức. Du Già Sư Địa Luận được gọi là đại luận, có tất cả một trăm cuốn, là căn bản đại luận. Bộ sách này giải thích pháp tướng hết sức cặn kẽ, chi tiết, tỉ mỉ. Bộ luận này do Di Lặc Bồ Tát soạn.

“Năng ư hậu hậu sở chứng xuất thế gian pháp”, “hậu” là phía sau. Sau Ngũ Căn và Ngũ Lực là Thất Bồ Đề Phần và Bát Chánh Đạo Phần. Sách Diễn Nghĩa chú giải: “Hậu chi sở chứng xuất thế pháp, tức Giác Chi chánh đạo (Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo), Trụ, Hạnh, Hướng, Địa đẳng pháp” (Các pháp xuất thế sẽ chứng sau này chính là các pháp Giác Chi chánh đạo (Thất Giác Chi và Bát Chánh Đạo), Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa v.v…). Đó là các pháp do hàng Đại Thừa Bồ Tát tu tập như Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, những pháp ấy đều được giảng rất tỉ mỉ trong kinh Hoa Nghiêm. Do đó, kinh Hoa Nghiêm cũng là một trong sáu kinh của Pháp Tướng Duy Thức Tông. Có thể nói các pháp môn đều hoàn toàn kiến lập trên cơ sở Ngũ Lực. Nói thật ra, Ngũ Căn và Ngũ Lực giống như nền tảng của cao ốc, chúng là cơ sở. Rời khỏi Căn và Lực, pháp môn nào cũng đều chẳng thể thành tựu, vì sao? Quý vị chẳng có Căn. Chẳng có Căn sẽ giống như bèo trôi giạt trên mặt nước, chẳng thể thành công. Pháp thế gian và xuất thế gian đều phải có Căn. Nói thật ra, Căn là ý niệm, là tín niệm của quý vị. Do đó, Tín Căn đứng đầu [trong Ngũ Căn], Tín Lực đứng đầu trong các Lực. Quý vị có tín tâm chân thành, sau đấy Căn và Lực mới có thể sanh khởi. Vì thế, người ấy có năng lực “sanh thâm thắng giải”, “thắng” là thù thắng, “giải” là lý giải. Sự lý giải ấy chẳng nông cạn, mà là “thâm giải” (lý giải sâu xa), chẳng phải là lý giải thông thường, mà là lý giải hết sức thù thắng, cũng là thật sự thấu triệt, là lý giải thâm nhập, lý giải chân thật. Người ấy lý giải chẳng sai lầm, vì có lý giải rất sâu như vậy. Đó chính là cơ sở Tín Căn. Vì sao người ấy có thể tin tưởng? Trong ấy có đạo lý, do thật sự hiểu rõ đạo lý ấy, nên người ấy thật sự tin tưởng.

Vì sao nói Tịnh Độ Tông là pháp khó tin? Đúng là khó tin! Vì sao? Vì chẳng hiểu rõ Sự và Lý trong đó. Chẳng hiểu rõ mà bảo quý vị tin tưởng, chuyện ấy rất khó! Do đó, hết thảy chư Phật đều nói pháp môn này là pháp khó tin. Muốn sanh khởi lý giải thù thắng đối với Tịnh Tông, hãy giống như trước kia tôi theo thầy Lý ở Đài Trung học Di Đà Kinh Yếu Giải, thầy Lý hạn định ba tháng phải đệ trình báo cáo. Đương nhiên, tôi vẫn phải đọc chú giải, tức các bộ Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh và Thân Văn Lục của pháp sư Bảo Tĩnh, thật sự dốc sức đọc tụng, nghiên cứu. Ba tháng sau, tôi nộp báo cáo cho thầy, tôi thưa với thầy: “Con hoàn toàn chẳng hiểu rõ trọn vẹn”. Thầy nghe tôi nói câu ấy, rất vừa lòng, bảo: “Đích xác là chẳng dễ dàng. Nếu anh muốn liễu giải bộ Di Đà Kinh Yếu Giải, tối thiểu phải đọc hơn nửa Đại Tạng Kinh thì anh mới có thể hiểu thấu ý nghĩa”.  Vì vậy,  sanh lý giải thù thắng sâu xa khó lắm!

Để có thể sanh khởi tín tâm đối với Tịnh Tông, Tín Căn và Tín Lực có thể sanh khởi, tôi phải mất ba mươi năm! Trong ba mươi năm ấy, giảng bao nhiêu kinh luận Đại Thừa, đặc biệt đắc lực nơi Hoa Nghiêm. Đổ công sức giảng kinh Hoa Nghiêm mười mấy năm rồi mới tin tưởng, sanh thâm thắng giải. Do đó, quyết định chẳng bị dao động, chẳng dễ dàng! Còn có nhiều người tốn thời gian nhiều hơn tôi, mà vẫn chưa thể thấu hiểu Giáo Hạ, người như vậy nhiều lắm! Nguyên nhân là đâu? Chẳng phải là họ không dụng công, chẳng phải là họ không tinh tấn, nói thật ra là do thiếu một vị cao nhân ở bên cạnh chỉ bảo. Quý vị thấy điều này có quan hệ trọng yếu lắm! Chính mình mò mẫm sai lầm trên con đường ấy, nhưng chính mình chẳng biết. Nói cách khác, đi theo con đường ấy rất oan uổng, uổng phí thời gian.

Vì lẽ đó, tu học pháp thế gian hay xuất thế gian đều giống nhau, then chốt thành hay bại là phải có bậc thầy thật sự cao minh ở bên cạnh giám sát, hễ quý vị hơi đi chệch đường, thầy có thể giúp đỡ uốn nắn quý vị, như vậy thì quý vị mới chẳng bị lạc lối oan uổng. Trong kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung, vừa mở đầu, đức Phật liền dạy, một điều kiện quan trọng nhất trong tu học là phải cầu “minh sư”. [Tôi nói] minh sư, chẳng phải là chữ “danh” trong danh nhân, mà là chữ “minh” trong quang minh[34]. Tiếng tăm lẫy lừng vô dụng! Nay chúng ta nói là “người rất nổi tiếng”, chưa chắc đã là bậc thầy thật sự tốt đẹp, bậc thầy thật sự tốt đẹp chưa chắc đã có người biết đến! [Minh sư là] người thật sự hữu tu hữu học, đương nhiên tốt nhất là người có chứng đắc, quý vị gặp được người như vậy, nghe lời vị ấy, nương theo lời vị ấy dạy bảo, sẽ hết sức ổn thỏa, thích đáng. Chẳng gặp bậc cao minh, chính mình mò mẫm tìm lối sai lầm, rất uổng phí đời này! Vì thế, “sanh thâm thắng giải” rất khó đạt được!

Hiện thời, có các đồng tu muốn tôi dạy họ phương pháp, tôi bèn dạy họ xếp hết thảy kinh luận lại, chuyên niệm một bộ kinh. Niệm bao lâu? Trước đây, cổ nhân lập kỳ hạn năm năm, hiện thời, sợ năm năm quá dài quý vị chịu không nổi, nên tôi rút ngắn kỳ hạn thành ba năm. Nếu cảm thấy ba năm còn quá dài, chẳng có cách nào cả! Không thể ít hơn ba năm. Ít hơn ba năm sẽ vô dụng, cũng có nghĩa là Căn của quý vị quá mỏng yếu! Trước kia, dùng thời gian năm năm để vun bồi Căn. Hơn nữa, thuở ấy, lòng người thuần hậu, phong tục trong xã hội thiện lương, mà vẫn cần tốn thời gian năm năm để vun bồi. Thế giới hiện tại phồn hoa, quá nhiều vọng niệm, nói thật thà, năm năm chẳng đủ! Vẫn phải kéo dài hơn! Hiện nay, [con người cứ than van] thời gian năm năm quá dài, phải rút ngắn, làm thế nào được nữa! Chẳng có cách nào cả! Phải dốc sức ba năm để tu Căn Bản Trí, tu thanh tịnh tâm, chỉ có thân tâm thanh tịnh thì mới có thể tiếp nhận thánh giáo của Như Lai. Vì Phật pháp lưu lộ từ tâm thanh tịnh của Phật, Bồ Tát, tâm quý vị chẳng thanh tịnh, có học một trăm năm cũng chẳng thể tiến nhập. Vì sao? Pháp và quý vị chẳng tương ứng, những gì quý vị đã học là văn tự, là bề ngoài, quyết định chẳng thể tiến nhập. Vì vậy, nhất định phải dốc sức từ tâm thanh tịnh.

Đến khi nào lại học rộng nghe nhiều? Sau khi học rộng nghe nhiều thì mới có thể “sanh thâm thắng giải”. Đó là tu học có từng giai đoạn, chẳng phải là đạt được ngay lập tức. Học rộng nghe nhiều sau khi đã xuất sư, nói theo lối thông tục của người Hoa là “xuất sư”, còn người hiện thời nói là “tốt nghiệp”, rời khỏi trường, rời khỏi thầy. Rời khỏi trường, rời khỏi thầy để làm gì? Khi đó gọi là “tham học”. Tham học là học rộng nghe nhiều, vì sao? Hoàn toàn rời khỏi thầy, chẳng còn bị thầy ràng buộc, cơ sở Định Huệ của chính mình đã được kiến lập. Cơ sở Định Huệ lấy gì làm tiêu chuẩn? Lấy [những điều đang được bàn luận] ở đây để nói, sẽ là Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ của quý vị hữu lực, thầy cho quý vị ra ngoài, có thể đi tham học, có thể học rộng nghe nhiều. Quý vị chẳng có Ngũ Căn, Ngũ Lực, sẽ là phường bèo giạt, có tư cách gì để tham học? Hễ tham học, sẽ nguy to, vì sao? Nghe nói pháp sư này đường lối khá lắm, nghe nói vị kia đường lối cũng hay lắm! Nghe hai vị thầy giảng là hai con đường, ba vị thầy là ngã ba, bốn vị thầy bèn thành ngã tư, chẳng biết chọn đường nào mới nên! Bản thân chẳng có chủ ý, chẳng có Căn, chẳng có Lực, chạy theo kẻ khác, chẳng thể hàng phục người ta, luôn bị người ta hàng phục. Vì thế, người như vậy chẳng thể đi tham học. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Thiện Tài đồng tử là học trò của Văn Thù Bồ Tát. Trong hội Văn Thù Bồ Tát, Ngài đạt được Căn, Lực, Ngũ Căn, Ngũ Lực thành tựu, Văn Thù Bồ Tát mới cho phép Ngài đi ra ngoài, mới tham học năm mươi ba lượt. Tham học năm mươi ba lượt rồi mới sanh sự lý giải thù thắng sâu xa! Chư vị đồng tu nhất định phải biết điều này!

Thứ tự và quá trình tu học trong Phật pháp là như vậy, chớ nên điên đảo, chẳng thể vượt ngoài thứ tự! Con người hiện thời tu học, nói thật ra, chẳng tuân theo phương pháp này! Vừa mở đầu liền học rộng nghe nhiều, vừa xuất gia, thậm chí [có kẻ] chưa xuất gia đã đến học trước tại Phật Học Viện. Khóa trình trong Phật Học Viện là học rộng nghe nhiều; nhiều thầy, sắp xếp nhiều khóa trình, kết quả là tốt nghiệp xong học được những thứ gì? Nói khó nghe một chút là tà tri tà kiến! Tâm quý vị chẳng tương ứng với đạo, tâm chẳng tương ứng với “giác, chánh, tịnh”, hết thảy Đại Thừa Phật pháp do quý vị đã học [sẽ là] “tăng trưởng tà kiến”, Thanh Lương đại sư đã nói như vậy đó! Chư vị hãy suy nghĩ cặn kẽ, rất có lý, đúng là tăng trưởng tà kiến! Vì những ý nghĩa trong kinh điển do quý vị lý giải chẳng phải là ý nghĩa của Phật, mà toàn là do chính quý vị dấy vọng tưởng, đó là ý nghĩa của quý vị. Trong bài kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, quý vị suy tưởng nghĩa chân thật của Như Lai ở chỗ nào? Chính mình phải thật sự đạt tới giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm thì tâm mới có thể thấu hiểu nghĩa chân thật của Như Lai. Chúng ta mê hoặc, điên đảo, tà tri tà kiến, phiền não trùng trùng, làm sao có thể lý giải nghĩa chân thật của Phật cho được? Làm sao có thể tham học cho được?

Nói thật thà, Phật Học Viện trong hiện thời là tham học. Có thể đến học tại Phật Học Viện, nhưng loại người nào đến học thì mới có lợi ích? Phải đã trải qua huấn luyện cơ bản, thành tựu Ngũ Căn, Ngũ Lực rồi mới đến học tại Phật Học Viện thì được. Vì sao? Có thể viên mãn Hậu Đắc Trí. Nhưng quý vị phải có Căn Bản Trí! Chẳng có Căn Bản Trí, lấy đâu ra Hậu Đắc Trí? Vì lẽ đó, Phật Học Viện là năm mươi ba lần tham học, kẻ bình phàm chẳng thể đến học! Thiện Tài đồng tử mới có tư cách đến học. Nếu chẳng có Căn Bản Trí, mà quý vị đi tham học, nói thật ra, không chỉ chẳng đạt được lợi ích, xác thực là hủy diệt tiền đồ của chính mình. Chúng ta phải hiểu đích xác, phải cảnh giác thật sâu chuyện này!

Chúng ta chẳng đến học tại Phật Học Viện, Đại Tạng Kinh nhiều ngần ấy, trong ngoài nước rất nhiều cao tăng đại đức và các vị đại cư sĩ tại gia, chúng ta có nên tham học hay không? Không nên! Nếu là đại thiện tri thức chân chánh, quý vị muốn đến hỏi han, thỉnh giáo Ngài, Ngài sẽ đuổi quý vị đi. Trong Cao Tăng Truyện có chép chuyện ấy, quý vị đến tham học, Ngài bèn đuổi quý vị đi. Đó là thật sự yêu thương quý vị, vì sao? Tu học pháp môn khác nhau, quý vị hãy nên thâm nhập một môn. Ắt phải là sau khi Căn Bản Trí của chính mình đã thành tựu, khi ấy mới có tư cách tham học, nói thông tục là “đã xuất sư”, có thể rời khỏi thầy, vì Căn đã hữu lực. “Hữu lực” là có thể độc lập; khi chưa có Lực, chẳng thể độc lập, cần có thầy nâng đỡ. Hiện thời, trong Phật môn, người hiểu đạo lý này chẳng nhiều, người nương theo phương pháp này để tu học lại càng ít ỏi.

Do đó, [tuy] niệm Phật là đạo dễ hành, nhưng niệm câu Phật hiệu chẳng tốt đẹp, trọn chẳng thể tương ứng, sẽ chẳng thể vãng sanh, học những thứ khác khỏi cần phải nói nữa! Vì vậy, tôi nói rõ cùng quý vị một câu “sanh thâm thắng giải” này chẳng phải là trong một thời gian rất ngắn một sớm một chiều mà hòng đạt được. Mọi người nhất định phải có lòng kiên nhẫn, tâm thường hằng, tâm tu học dài lâu. Hơn nữa, phải đặt trọng điểm tu học nơi tâm thanh tịnh, không cần phải mong ta biết rất nhiều thứ, chẳng cần thiết, mà phải mong cầu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh sanh trí huệ; sau khi trí huệ khai, pháp thế gian và xuất thế gian, quý vị chỉ tiếp xúc bèn thông đạt.

Quán thông hoàn toàn một bộ Đại Tạng Kinh phải mất bao lâu? Thưa cùng quý vị, nửa năm là đủ rồi. Quý vị đã khai trí huệ, thường là chẳng cần xem một bộ kinh đến hết. Như Lục Tổ đại sư đã khai trí huệ, Ngài chưa từng xem kinh Pháp Hoa, mà cũng chưa hề niệm, cũng như chưa hề nghe, bảo sư Pháp Đạt niệm kinh. Sư niệm đến phẩm Phương Tiện, Lục Tổ nói: “Chẳng cần niệm nữa! Kinh này ta đã biết toàn bộ”. Hai mươi tám phẩm Sư chỉ niệm hai phẩm, Tổ liền biết toàn bộ, chẳng cần niệm tiếp, liền khai thị [cho sư Pháp Đạt]. Giảng xong, sư Pháp Đạt liền khai ngộ. Quý vị mới biết cách học các thứ như thế nào! Cứ học từng bộ kinh một, mệt chết luôn! Đó chính là như Thiền Tông nói “tầm chi trích diệp” (tìm cành vặt lá), tu nơi từng cành, từng lá một, rất khổ! Thời gian quá dài, lại còn chắc chắn chẳng thể học thành công.

Biết học, sẽ tu từ căn bản, căn bản là gì? Nói theo Tịnh Tông sẽ là tâm thanh tịnh. Tâm địa thanh tịnh là được rồi. Tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh, đảm bảo vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tâm thanh tịnh lại sanh trí huệ, có thể cầu thắng giải. Khi ấy, quý vị có tư cách đọc Đại Tạng Kinh. Lật Đại Tạng Kinh ra, xem mấy trang đầu đã thông đạt toàn bộ; đã tốt nghiệp khoa mục ấy, lại lật sơ qua kinh khác bèn tốt nghiệp. Vì thế, tối đa là hơn nửa năm, một bộ Đại Tạng Kinh liền tốt nghiệp. Đây là tôi dạy quý vị phương pháp. Nếu không, đừng nói là thông đạt, trong một đời đọc hết Đại Tạng Kinh một lần, quý vị cũng chẳng có cách nào, làm không được! Vì thế, trong Phật pháp có bí quyết. Khi quý vị biết bí quyết ấy, đích xác chẳng phải là chuyện khó. Do đó, phải biết tu học như thế nào, con đường ấy hết sức trọng yếu.

Quý vị triệt để thấu hiểu vấn đề này, triệt để hiểu rõ, đương nhiên sẽ chẳng bị kẻ khác lay động. Vì sao? Vừa nghe, quý vị liền biết người ấy còn chưa hiểu rõ chuyện này, chỉ hiểu biết nửa vời, làm sao người ấy có thể lay động quý vị cho được? Quý vị lại nói cho người ấy nghe, người ấy sẽ nói: “Có lý! Tôi chẳng hiểu biết bằng quý vị”. Người ấy đã bị quý vị hàng phục. “Nan chế phục” là quý vị chẳng bị kẻ khác hàng phục, mà có năng lực hàng phục kẻ khác. “Tồi phục nhất thiết chư ma quân” (Dẹp tan, hàng phục hết thảy các ma quân), “quân” (軍) là quân đội, [từ ngữ này] nhằm tỷ dụ ý nghĩa đông đảo, ma quá đông! Hằng ngày từ sáng đến tối, chúng ta đều gặp các ma quân ấy. Quý vị có gặp kẻ này nói “Niệm Phật làm quái gì! Thiền hay hơn”, kẻ khác “Mật hay hơn!”, kẻ nọ lại nói “Kinh này hay lắm!”, hay không? Toàn là ma quân, vì sao? Họ mong sao quý vị bỏ qua pháp môn Niệm Phật, học theo họ. Thời thời khắc khắc chúng ta gặp phải những kẻ ấy.

 

(Sao) Tín Lực giả.

() 信力者。

(Sao: Tín Lực).

Đây là Tín Căn có sức mạnh.

 

(Sao) Thâm tín Đế Lý, chuyển cánh tăng trưởng.

() 深信諦理,轉更增長。

(Sao: Tin sâu Đế Lý, càng thêm tăng trưởng).

Tín có Căn chính là câu đã nói trong phần trước: “Thâm tín Đế Lý”, nhưng nó vẫn chưa tăng trưởng. Chỉ là tin sâu, vẫn chưa thể phát sanh sức mạnh. Lúc này bèn có sức mạnh, đó [chính là] “chuyển cánh tăng trưởng”.

 

(Sao) Năng giá nghi hoặc, bất vị động dao.

() 能遮疑惑,不為動搖。

(Sao: Có thể ngăn che nghi hoặc, chẳng bị dao động).

Đây là ý nghĩa “nan chế phục”. Tín Lực, có hai loại nguồn gốc:

1) Một là sanh từ thâm giải, [tức là] thật sự lý giải chân tướng sự thật. Lòng tin ấy sanh ra sức mạnh.

2) Sức mạnh thứ hai là thiện căn trong đời quá khứ. Tuy chẳng liễu giải sự thật ấy, nhưng kẻ ấy tin tưởng, tin được! Cũng có không ít người như vậy. Quý vị hỏi họ đạo lý gì, họ cũng không hiểu, nhưng họ tin tưởng, chẳng bị lay động. Đó chính là thiện căn trong đời quá khứ, hết sức khó có! Người thiện căn sâu dầy, sẽ tin tưởng thầy, tin tưởng Phật, Bồ Tát. Đối với chân tướng sự thật và cơ sở lý luận tuy trọn chẳng biết gì, nhưng [những điều đó] do Phật nói, họ chẳng hoài nghi. Trường hợp này thuộc về thiện căn.

Loại thứ hai cần phải được thầy răn dạy, phân tích, giảng rõ ràng những chân tướng sự thật, cảnh giới luân lý, kẻ ấy nghe xong tâm phục, khẩu phục. Tín tâm sanh trưởng từ đó, sẽ sanh ra Tín Lực. Xét theo căn tánh, hết thảy chúng sanh có hai loại lớn như vậy. Vì thế, trong giáo học, đối với căn tánh thuộc loại nào thì phải dùng phương pháp nào để giúp đỡ, khiến cho kẻ ấy “giá nghi hoặc” (ngăn che nghi hoặc). “Giá” (遮) là ngăn chặn, đoạn dứt; chúng ta thường nói “đoạn nghi sanh tín”, người ấy chẳng nghi hoặc, chẳng bị dao động!

Thí dụ như đối với sự tu học trong Tịnh Tông, những năm trước kia, lão cư sĩ Trần Kiện Dân[35] đề xuất “tiêu nghiệp vãng sanh”, bảo đới nghiệp không thể vãng sanh. Chuyện này khiến những người tu học Tịnh Tông trên cả thế giới bị rúng động mạnh mẽ, rất nhiều lão cư sĩ và lão pháp sư đều hoài nghi. Đó là gì? Tín của họ tuy có Căn, nhưng thiếu Lực, nên nghe xong đều hoài nghi, kể cả lão cư sĩ Châu Tuyên Đức. Tôi đến Lạc Sam Cơ (Los Angeles), cụ Châu đến đón tôi ở phi trường, câu đầu tiên là nói: “Thưa pháp sư! Làm thế nào đây? Tôi niệm Phật nhiều năm như thế, đới nghiệp không thể vãng sanh, chẳng phải là công phu hoàn toàn uổng phí ư?” Cụ hỏi câu ấy, chứng tỏ Tín của cụ chưa có Lực. Chẳng có Lực thì điều thứ nhất là thiện căn chưa đủ sâu dầy, chưa thể tin sâu lời Phật, Bồ Tát, chẳng nghi ngờ. Thứ hai, nghiên cứu lý luận Tịnh Tông quá ít, chưa hiểu rõ ràng! [Do đó], mới nêu ra câu hỏi ấy.

Cụ nói: “Cách nói đới nghiệp vãng sanh đích xác là chẳng tìm thấy trong kinh Phật, chẳng có những chữ ấy!” Những thứ chẳng viết ra nhiều lắm. Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, rất nhiều thứ chẳng nói. Tuy ngôn ngữ chẳng nói như thế, nhưng [xét theo] ý nghĩa thì đã nói rồi. Tôi liền hỏi ngược lại cụ: “Trong kinh điển có nói bốn cõi, ba bậc, chín phẩm hay không?” Cụ đáp: “Có!” Tôi nói: “Nếu chẳng đới nghiệp, há có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm? Bốn cõi, ba bậc, chín phẩm vẫn chẳng phải là do quý vị đới nghiệp nhiều hay ít mà phân ra sai khác đó ư? Quý vị mang theo nhiều, phẩm vị thấp hơn một chút. Mang theo ít, phẩm vị cao hơn một chút. Đó chẳng phải là rất hiển nhiên ý nghĩa đới nghiệp đã được bao gồm trong ấy ư?” Cụ suy nghĩ, [cảm thấy] có lý!

Tôi lại thưa với cụ: “Nếu chẳng đới nghiệp, Tây Phương Cực Lạc thế giới trơ trọi, lạnh tanh, vắng vẻ, chỉ có mình A Di Đà Phật”. Cụ hỏi: “Vì sao?” Tôi nói: “Vì Đẳng Giác Bồ Tát hãy còn kèm theo một phẩm sanh tướng vô minh, đó chẳng phải là nghiệp ư?” Cụ suy nghĩ: “Đúng vậy!” Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền đều mang theo một phẩm sanh tướng vô minh, đều là đới nghiệp. Không đới nghiệp thì chỉ còn sót lại một mình A Di Đà Phật trơ trọi, Tịnh Độ thù thắng ở chỗ nào? Tôi nói như vậy, cụ bèn hiểu rõ. Đó là “tồi phục nhất thiết” (dẹp tan, hàng phục hết thảy), tâm cụ đã định. Chẳng hiểu rõ Lý Sự, người ta nói sơ sơ mấy câu, tâm liền dao động, hoảng hốt, hỏng bét! Đó là Tín của người ấy có Căn, nhưng chẳng có Lực. Tín có Lực thì Tín Căn càng tăng trưởng, có sức mạnh, có thể đoạn nghi. “Bất vị động dao” (Chẳng bị lay động), tín tâm tuyệt đối chẳng bị dao động bởi những tri kiến, chẳng thể nào xảy ra!

 

(Sao) Năng cự tà ngoại.

() 能拒邪外。

(Sao: Có thể chống lại tà thuyết, ngoại đạo).

 Người ấy có năng lực chống lại, đả phá những tà thuyết, tri kiến của ngoại đạo.

 

(Sao) Bất vị mê loạn.

() 不為迷亂。

(Sao: Chẳng bị mê loạn).

 Chẳng bị người khác mê hoặc, cũng chẳng bị người ta nói dăm ba câu, tâm chính mình liền bị loạn, chẳng thể nào! Tâm người ấy vĩnh viễn thanh tịnh, vĩnh viễn định, vĩnh viễn quang minh. Căn ấy bèn sanh ra sức mạnh.

 

(Sao) Năng phá phiền não, bất vị xâm hại cố.

() 能破煩惱,不為侵害故。

(Sao: Có thể phá phiền não, chẳng bị xâm hại).

Người có tín tâm, nói thật thà, chẳng sanh phiền não. Hễ còn sanh phiền não, tức là Tín vẫn chưa có Lực. Người có Tín Lực, chẳng sanh phiền não, vì sao? Tâm người ấy có chủ tể, có sự chuyên chú. Chẳng hạn như người niệm Phật, nếu Tín sanh ra sức mạnh, người ấy niệm niệm chỉ có Tây Phương Cực Lạc thế giới, còn có phiền não chi nữa? Bất quá ở tạm trong thế giới này vài ngày mà thôi, [thế giới này là] quán trọ, nghỉ ngơi ở đây một chút, quý vị tốt đẹp cũng thế, mà chẳng tốt đẹp cũng thế, vì sao? Chẳng liên quan gì đến ta. Hai hôm sau ta sẽ đi, ta chẳng so đo với quý vị, phiền não gì cũng đều chẳng có. Vì sao người ta sanh phiền não? Do coi thế gian này như quê nhà, đối với người, đối với sự, thứ gì cũng đều so đo, phiền não chẳng xong! Thật sự sanh tín tâm đối với Tịnh Tông, nhất định là thân, tâm, thế giới hết thảy đều buông xuống, đó là “có thể phá phiền não”. Phương pháp đúng là tuyệt diệu, Phiền Não Chướng chẳng đoạn mà tự nhiên chẳng còn, cao minh lắm! Vì vậy, pháp môn được gọi là “diệu pháp”, rất có lý. Chẳng cần đoạn, mà chính mình chẳng có [phiền não]. “Bất vị xâm hại” (Chẳng bị xâm hại), phiền não quyết định chẳng thể tổn hại quý vị, không thể phá hoại tín tâm của quý vị.

 

(Sao) Nhất tổng dư thừa, như thượng Căn lệ.

() 一總餘承,如上根例。

(Sao: Điều thứ nhất là chung, những điều còn lại do nó sanh ra, giống như trong phần luận định về Căn ở phía trên).

Ngũ Căn lấy Tín Căn làm tổng quát, bốn Căn còn lại đều do Tín Căn sanh ra. Ngũ Lực cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Ngũ Lực vẫn lấy Tín Lực làm tổng quát. Hễ Tín đã có sức mạnh thì những điều sau đó như Tấn, Niệm, Định, và Huệ thảy đều có Lực. Tín chẳng có Lực, bốn điều sau đó cũng chẳng có Lực. Có thể thấy mối quan hệ này hết sức chặt chẽ.

Do vậy có thể biết, vun bồi Tín tâm vô cùng quan trọng, đặc biệt là trong pháp môn Tịnh Tông. Tín là điều kiện thứ nhất trong ba tư lương (ba điều kiện vãng sanh), là điều kiện cơ bản nhất. Chư vị hãy suy ngẫm, chẳng có Tín thì làm sao quý vị có thể phát nguyện cho được? Làm sao quý vị niệm Phật cho được? Vì có chân tín thì mới có thể sanh khởi nguyện, nguyện sanh từ Tín. Đã có nguyện thì mới bằng lòng niệm. Chẳng nghĩ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, người ấy niệm Phật để làm chi? Sẽ chẳng niệm! Do đó có thể biết: Tín là căn bản của căn bản, đích xác là điều kiện cơ bản.

Chúng ta tu học, theo nhất định một vị thầy cũng là [vì cùng một lý do] như thế. Nếu chẳng có tín tâm đối với thầy, dẫu quý vị theo thầy lâu đến mấy, phương pháp của thầy xảo diệu đến mấy, chỉ dạy quý vị, quý vị cũng chẳng đạt được gì cả! Vì sao? Chẳng tin tưởng thầy. Chẳng có tín tâm, tất nhiên khinh mạn thầy! Vì thế, một người tôn kính thầy, vì sao người ấy tôn kính? Người ấy tin tưởng. Càng có tín tâm đối với thầy, càng cung kính thầy, biểu hiện ra ngoài là tôn sư. Thầy thấy quý vị tôn kính dường ấy, biết quý vị rất tin tưởng thầy, lời thầy nói ra quý vị có thể y giáo phụng hành, nên thầy sẽ nghiêm túc dạy. Thầy dạy dỗ, mà quý vị bề ngoài vâng nhận, trong lòng chống trái, chỉ cung kính bề ngoài, chẳng có tác dụng gì hết, giả trất! Thầy chẳng thể dạy quý vị. Vì sao? Dạy quý vị, quý vị cũng học chẳng hiểu, uổng phí tinh thần, uổng phí thời gian, thầy chẳng làm chuyện ngốc nghếch ấy. Thật sự cung kính là y giáo
phụng hành, tuyệt đối không phải là hình thức, chúng ta phải hiểu điều này. Hình thức, quá nửa là làm cho người khác xem, nhằm tạo ảnh hưởng đến đại chúng. Mọi người chẳng biết đến học vấn và đạo đức của vị thầy ấy, cho nên ta dùng phương pháp ấy nhằm khơi gợi người khác, đó là thật sự từ bi. Cung kính thầy khiến cho người khác nhìn vào, [sẽ tự hỏi] vì sao người ấy cung kính vị thầy ấy như vậy, nghe ngóng “vị ấy thật sự có học vấn, đạo đức”, bèn khởi tâm kính ngưỡng, thậm chí theo vị thầy ấy tu học, dụng ý ở chỗ này. Đó là gì? Biểu diễn. Biểu diễn trên sân khấu, một phen khổ tâm như vậy. Tuyệt đối chẳng phải là thầy đòi hỏi học sinh lễ phép bề ngoài hoặc chỉ có hình thức, không phải vậy!

Cung kính nhất là y giáo phụng hành. Thật sự cúng dường cũng là y giáo tu hành để cúng dường, thầy đối với trò có một niềm kỳ vọng như thế mà thôi! “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn đạo, mẹ công đức). Kinh Hoa Nghiêm nói đến cội nguồn nhập đạo, hết thảy công đức đều sanh trưởng từ tín tâm. Trong Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, trong Ngũ Căn, Ngũ Lực, Tín xếp hàng đầu. Trong ba tư lương của Tịnh Tông, Tín cũng được xếp đứng đầu. Trong mười một món thiện pháp, thiện pháp đầu tiên là Tín. Trong kinh điển Đại Thừa và Tiểu Thừa của nhà Phật, sắp theo thứ tự thuận thì đầu tiên là Tín. Chẳng tin, hết thảy sẽ chẳng thể thành tựu. Do đó, mở kinh điển ra, “như thị ngã văn” là Tín Thành Tựu, tức món đầu tiên trong sáu món thành tựu. Do đó, chúng ta phải hết sức coi trọng điều này.

Kiến lập tín tâm có hai nguồn cội: Một là thiện căn trong đời quá khứ, tự nhiên sanh lòng kính tín đối với Tam Bảo và đối với thầy. Loại thứ hai là đối với lý luận Phật pháp sẽ dần dần hiểu rõ, tín tâm tăng trưởng. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây.

 

— o0o —

Tập 164

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm năm mươi ba.

 

(Sao) Tấn Lực giả, Tấn Căn tăng trưởng, năng phá thân tâm chủng chủng giải đãi, thành biện xuất thế chủng chủng sự nghiệp cố.

(Diễn) Tấn Căn tăng trưởng giả, tiền tuy hữu Tấn Căn, nhược vị hữu lực, tắc vô thỉ lai bất tu Tam Học, Lục Độ, chủng chủng giải đãi chủng tử, do năng phát sanh, đọa xuất thế chủng chủng sự nghiệp. Kim đắc Tấn Lực, tắc tinh tấn  mãnh  tướng, năng  phục  giải  đãi  ma

quân, thành biện Tam Học, Lục Độ chư sự nghiệp cố.

() 進力者,進根增長,能破身心種種懈怠,成辦出世種種事業故。

() 進根增長者,前雖有進根,若未有力,則無始來不修三學六度,種種懈怠種子,猶能發生,墮出世種種事業。今得進力,則精進猛將,能伏懈怠魔軍,成辦三學六度諸事業故。

(Sao: Tấn Lực: Tấn Căn tăng trưởng, có thể phá các thứ giải đãi nơi thân tâm, thành tựu các thứ sự nghiệp xuất thế.

Diễn: Tấn Căn tăng trưởng: Trước kia, tuy có Tấn Căn, nhưng nếu chẳng có Lực, ắt các thứ chủng tử giải đãi chẳng tu Tam Học, Lục Độ từ vô thỉ đến nay vẫn có thể phát sanh, [khiến cho] các thứ sự nghiệp xuất thế bị thoái đọa. Nay đắc Tấn Lực, ắt mãnh tướng tinh tấn có thể hàng phục ma quân giải đãi, thành tựu các sự nghiệp Tam Học, Lục Độ).

Tuyệt đại đa số các đồng tu đều đầy đủ Ngũ Căn; tuy có Căn, nhưng chẳng đắc Lực, vì sao? Đôi khi còn có khá nhiều phiền não hiện tiền, chẳng thể nghiêm túc tu học; đó là tuy có Căn, nhưng chẳng có Lực. Thông thường, Phật môn nói là “thiện căn”. “Người nào đó có thiện căn”, “thiện căn” là nói tới Ngũ Căn: Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ. Tuy có thiện căn, nhưng chúng ta thường thấy họ thoái chuyển. Thậm chí, lúc mới học, Phật môn thường nói: “Bất thất sơ phát tâm, thành Phật hữu dư” (Chẳng đánh mất cái tâm đã phát thuở đầu, thành Phật có thừa). Dũng mãnh, tinh tấn, nhưng Tấn chẳng được bao lâu liền giải đãi, thoái chuyển, thậm chí đọa lạc, nguyên nhân là gì? Có Căn, nhưng chẳng có Lực. Do vậy, có thể biết, nếu Căn chẳng đắc Lực, chẳng thể thành tựu. Vì sao Căn chẳng đắc Lực? Có Căn, vì sao không thể tăng trưởng trở thành Ngũ Lực? Có quan hệ rất lớn với duyên: Chẳng gặp thiện tri thức, chẳng gặp thiện duyên. Tuy có Căn, gặp các ác duyên, người ấy liền bị thoái chuyển. Phàm các duyên khiến cho đạo nghiệp bị thoái chuyển, đều gọi là “ác duyên”. Ví như phát đại tâm, dũng mãnh, tinh tấn, thậm chí xuất gia, cũng giảng kinh, thuyết pháp, cuối cùng lui sụt, hoàn tục kết hôn, đó là “ác duyên”. Gặp ác tri thức, nói chẳng dễ nghe là gặp “oan gia đối đầu”, tục ngữ thường nói: “Chẳng phải oan gia, chẳng gặp gỡ”; gặp phải oan gia đối đầu! Chuyện này đã có kể từ thời Thích Ca Mâu Ni Phật, mỗi thời đại, mỗi xứ sở đều rất thường thấy. Chúng ta thấy rõ ràng, tuy người ấy có thiện căn, nhưng Căn ấy rất mỏng manh, chẳng có sức mạnh.

Trong chú giải đã định nghĩa rất rõ ràng, “Tam Học, Lục Độ”, Tam Học là Giới Học, Định Học, Huệ Học, chung cho Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Lục Độ là tiêu chuẩn tu hành của Bồ Tát. Nếu Tam Học, Lục Độ tăng trưởng, chứng tỏ Căn của người ấy có Lực. Tam Học, Lục Độ không thể tăng trưởng, [tức là] Căn ấy chẳng có Lực. Tấn chỉ giảng đến chỗ này, vì trong Ngũ Căn có Tấn, trong Ngũ Lực cũng có Tấn, Thất Bồ Đề Phần và Bát Thánh Đạo đều có Tấn, nhưng ý nghĩa khác nhau. Ở đây, Tấn hiểu theo nghĩa rộng là Tam Học, Lục Độ. Tấn trong Thất Bồ Đề Phần thì phải là Tinh Tấn, vì Thất Bồ Đề Phần có Trạch Pháp, chẳng phải là nói chung chung, mà là có [ý nghĩa] chuyên trì.

 

(Sao) Niệm Lực giả, Niệm Căn tăng trưởng, năng phá tà niệm, thành tựu nhất thiết xuất thế chánh niệm cố.

() 念力者,念根增長,能破邪念,成就一切出世正念故。

(Sao: Niệm Lực là Niệm Căn tăng trưởng, có thể phá tà niệm, thành tựu hết thảy chánh niệm xuất thế).

Niệm đắc lực, nói thật ra, chúng ta thường nói là công phu thật sự đắc lực, vì sao? Vọng niệm ít. Hiện thời, chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối vọng niệm tơi bời, tức là Niệm Căn chẳng đắc lực. Có rất nhiều đồng tu hết sức thẳng thắn, nói: “Tôi thật sự tin tưởng Tịnh Độ, nhưng vọng tưởng quá nhiều, càng niệm Phật, vọng tưởng càng nhiều. Niệm nhiều năm ngần ấy, dường như cũng chẳng giảm bớt”. Đó là Niệm Căn chẳng đắc lực. Nếu Niệm Căn hữu lực, vọng niệm tự nhiên ít đi; chữ “tà niệm” được nói ở đây chỉ vọng niệm. Chuyện này hãy nên tu theo cách nào? Nói thật ra, chúng ta quá vô ý, quá sơ sót đối với xứ cảnh trước mắt; vì thế, công phu chẳng sử dụng được. Ngũ Căn chẳng thể nhanh chóng nâng cao thành Ngũ Lực, chẳng biết sanh tử là chuyện lớn, chẳng biết vô thường nhanh chóng, chẳng biết lục đạo đáng sợ. Nếu con người có thể thường nghĩ đến những chuyện ấy, thưa cùng chư vị, mạng người quả thật hết sức mong manh. Nhất là trong xã hội hiện thời, chẳng biết tai nạn sẽ phát sanh lúc nào? Ai có thể bảo đảm “năm nào cũng như ý, năm nào cũng bình an”? Đó là một câu nói [có ý nghĩa chúc tụng] tốt lành, ai dám bảo đảm sẽ đạt được? Xét thế gian này, quý vị xem báo chí, nhật báo mỗi ngày, trên toàn thế giới, thời thời khắc khắc đều có tai nạn. Thấy những người ngộ nạn, lại nghĩ đến chính mình, một hơi thở ra không hít vào được nữa, sẽ như thế nào? Nhất là tai biến xảy ra liên tiếp như thế, chúng ta có phước báo to cỡ nào mà hòng may mắn thoát khỏi? Nếu có tâm cảnh giác như vậy, Ngũ Căn cũng rất dễ dàng tăng cao, có sức mạnh, Niệm bèn có Lực. Tấn chẳng có Lực, Niệm chẳng có Lực, là do đối với cảnh giới trước mắt coi nhẹ, xem thường. Lời chú giải có nói: “Thế gian ngũ dục lục trần tà niệm do vị tận trừ” (Hãy còn chưa trừ sạch ngũ dục, lục trần thế gian), nên chánh niệm không thể hiện tiền. Niệm Căn ắt phải có sức mạnh, vọng tưởng tạp niệm ít ỏi, công phu tu học của quý vị bèn đắc lực. Vì Ngũ Căn và Ngũ Lực chung cho Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa Phật pháp, chung cho hết thảy các pháp môn; ở đây chỉ nói một nguyên tắc, nguyên tắc ấy dùng chung cho cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa Phật pháp.

 

(Sao) Định Lực giả, Định Căn tăng trưởng, năng phá nhất thiết chư tạp loạn tưởng, phát khởi sự lý chư Thiền Định cố.

() 定力者,定根增長,能破一切諸雜亂想,發起事理諸禪定故。

(Sao: Định Lực: Định Căn tăng trưởng, có thể phá hết thảy các tạp loạn tưởng, phát khởi các thứ Thiền Định Sự và Lý).

Nói thật ra, Niệm Lực là tiền phương tiện của Định Lực, trước hết, nhất định là Niệm đắc lực, sau đó bèn có Định. Định Lực có thể phá hết thảy vọng tưởng tạp loạn, khiến cho tâm quý vị có thể đắc Định. Nói theo Ngũ Thừa Phật pháp là Tứ Thiền, Bát Định, nói theo Nhị Thừa là Cửu Thứ Đệ Định, người ấy có thể đạt được. Câu “Tứ Thiền, Bát Định, Cửu Thứ Đệ Định, mười sáu pháp thù thắng đặc biệt v.v…” là nói về công phu Thiền Định. Thấu hiểu điều này chẳng khó. Trong thế gian hiện thời, phong khí học Thiền rất thịnh; nếu có người đến mời mọc, bản thân chúng ta phải nghiêm túc phản tỉnh một phen, [chính mình] có phải là căn khí học Thiền hay không? Phải là căn khí như thế nào thì mới có thể học Thiền? Tâm địa rất thanh tịnh, vọng tưởng tạp niệm rất ít, người ấy có thể học Thiền. Nếu vọng tưởng tạp niệm rất nhiều, tâm chẳng dễ định được, thường bị ảnh hưởng bởi cảnh giới bên ngoài; nói cách khác, quý vị học Thiền chắc chắn chẳng thể thành công. Có phải là căn khí Thiền hay không? Chẳng cần hỏi người khác, chính mình rất rõ ràng. Do vậy, có thể biết, căn khí được nhiếp thọ bởi Thiền Tông chẳng rộng lớn như Tịnh Tông. [Căn khí] nào chẳng thể nhiếp thọ bởi Thiền Tông, Tịnh Độ Tông sẽ có thể nhiếp thọ. Đây là chỗ đặc biệt thù thắng của Tịnh Độ, mà cũng là lý do khiến cho hết thảy chư Phật tán thán pháp môn này; đạo lý ở ngay chỗ này.

 

(Diễn) Hựu bất minh Đế Lý, đản đắc thế gian Thiền, danh viết Sự Thiền.

() 又不明諦理,但得世間禪,名曰事禪。

(Diễn: Lại chẳng hiểu rõ Đế Lý, chỉ đắc thế gian Thiền, bèn gọi là Sự Thiền).

Người ấy chẳng hiểu nghĩa thú Phật pháp rất sâu, vọng tưởng ít, tạp niệm ít, Định do người ấy học là Thiền Định thế gian, là Sự Thiền. Sự Thiền cao nhất chỉ có thể đạt đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, chẳng thoát khỏi tam giới. Nói cách khác, Định của người ấy chỉ thuộc trong Tứ Thiền Bát Định, chẳng thể tiến cao hơn.

 

(Diễn) Thâm minh Đế Lý, đắc xuất thế gian Thiền, cập xuất thế thượng thượng Thiền, danh viết Lý Thiền.

() 深明諦理,得出世間禪,及出世上上禪,名曰理禪。

(Diễn: Hiểu sâu Đế Lý, đắc xuất thế gian Thiền, và xuất thế thượng thượng Thiền, thì gọi là Lý Thiền).

 “Thâm minh Đế Lý”: “Đế” là Tứ Đế, tức là đạo lý trong pháp Tiểu Thừa. “Lý” là lý luận Đại Thừa. Phật pháp Đại Thừa và Tiểu Thừa đều được bao gồm trong hai chữ Đế Lý. “Đắc xuất thế gian Thiền, cập xuất thế thượng thượng Thiền”. Xuất thế gian Thiền là Cửu Thứ Đệ Định của Thanh Văn, Duyên Giác, xuất thế gian thượng thượng Thiền là vô lượng tam-muội, Hoa Nghiêm tam-muội, Lăng Nghiêm đại định… những thứ ấy. Đó là sở chứng của chư Phật Như Lai, “danh viết Lý Thiền” (gọi là Lý Thiền). Vì thế, chẳng thể không biết Phật pháp. Nếu chẳng thông đạt lý luận, đích xác là có chướng ngại. Nhất định phải hiểu Lý, để hiểu Lý thì phải đọc kinh. Vì thế, đọc kinh vô cùng trọng yếu. Nghiên cứu, thảo luận có thể giúp chúng ta khơi mở Hậu Đắc Trí, đọc kinh nhằm bồi dưỡng Căn Bản Trí. Phải đọc tụng một thời gian dài, đọc đến mức tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, giác chứ không mê.

Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác hay lắm. “Đại Thừa” là giáo, chẳng phải là Tiểu Thừa, “Vô Lượng Thọ” là Lý, là bản thể, tức bản thể của Chân Như bổn tánh. “Trang Nghiêm” là tướng, “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác” là tác dụng. Học Phật là học những điều ấy, học tâm thanh tịnh, tâm địa bình đẳng, giác chứ không mê. Vì thế, bộ kinh ấy là tinh tủy của toàn thể Phật pháp, đạt được bộ kinh này là đạt được toàn thể Phật pháp, nay chúng ta vì sao không thể khăng khăng nhất quyết niệm bộ kinh này, vẫn cứ muốn xem thứ này, xem thứ nọ? Đó là có Căn nhưng chẳng có Lực, vẫn bị dao động bởi cảnh giới bên ngoài. Truy cứu nguyên nhân thì là vì chẳng nhận biết Phật pháp rõ ràng. Nếu thật sự nhận biết rõ ràng, tâm sẽ định. Người ấy có Niệm Lực, có Định Lực, định nơi pháp môn này, chẳng bị ngoại cảnh lay chuyển, như vậy thì chính mình mới có thể thành tựu. Chính mình không thành tựu, mà muốn hóa độ chúng sanh, giúp đỡ người khác, chắc chắn chẳng thể làm được!

“Thác hạ nhất cá tự chuyển ngữ, đọa ngũ bách thế dã hồ thân” (Nói sai một chữ chuyển ngữ, đọa làm thân chồn hoang năm trăm đời). Có một đồng tu hỏi: Hai câu “bất lạc nhân quả, bất muội nhân quả” có nghĩa là gì? Đây là công án Bách Trượng đại sư trong Thiền Tông, nói sai một chữ, đọa làm thân chồn hoang năm trăm đời. Nếu chính mình chẳng khai ngộ, khó tránh nói sai; do vậy, muốn độ người khác, phải độ chính mình trước. Độ người khác cần phải có Hậu Đắc Trí, độ chính mình cần đến Căn Bản Trí, [do đó] mới hiểu tầm trọng yếu của Căn Bản Trí. Tuy có thể đồng thời dốc sức nơi Căn Bản Trí và Hậu Đắc Trí, nhưng có phân biệt chủ và khách, chánh và trợ. Căn Bản Trí là chủ tu, là chánh tu, chúng ta chọn lựa phương pháp đọc tụng. Trong các buổi giảng, tôi thường nhắc nhở các đồng tu, dùng tâm thanh tịnh, dùng tâm bình đẳng, dùng tâm chân thành, dùng tâm cung kính để đọc tụng, chẳng cần cầu hiểu nghĩa, đó là cầu Căn Bản Trí. Đọc tụng như vậy, Tam Học, Lục Độ đều ở trong đó, toàn bộ đều bao gồm, rất trọng yếu! Nghiên cứu chú giải, đồng tham đạo hữu cùng nhau nghiên cứu, thảo luận, đó là Hậu Đắc Trí. Mỗi tuần dành ra một hai lần là đủ rồi, mỗi lần là một hai tiếng đồng hồ.

Huấn luyện Căn Bản Trí mỗi ngày, chớ nên gián đoạn. Các đồng tu tại gia công việc rất bận bịu, mỗi ngày tối thiểu có thời gian một tiếng đồng hồ để nghiêm túc thực hiện. Trong một giờ ấy, dùng tâm chân thành, buông hết thảy sự vụ xuống, khiến cho tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, chân thành, cung kính, dùng một giờ để đọc kinh. Nếu kinh niệm thuần thục, một giờ một bộ đã đủ rồi. Người xuất gia mỗi ngày tối thiểu phải niệm hai, ba tiếng trở lên, vì quý vị xuất gia, phát tâm chuyên tu, chẳng giống như người tại gia công việc bận bịu ngần ấy. Vì thế, mỗi ngày tối thiểu phải niệm từ hai bộ đến ba bộ. Chuyện này chẳng giống cách đọc sách trong thế gian; sử dụng phương pháp này để tu thanh tịnh, bình đẳng, chân thành, cung kính, đó gọi là tu Căn Bản Trí. Khi niệm kinh, chớ nên dấy vọng tưởng. Hễ khởi vọng tưởng, dấy động ý niệm: “Câu kinh này có ý nghĩa gì?” Tức là bốn điều ấy đều chẳng có. Tam Học, Lục Độ, chân thành, cung kính, thanh tịnh, bình đẳng hoàn toàn chẳng có, sai mất rồi, đã biến sự tu hành trong Phật pháp thành cách đọc tụng trong pháp thế gian, biến thành đọc sách thế gian. Do đó, nhà Phật nói đến đọc tụng thì đó là một thứ phương pháp tu hành, hoàn toàn khác với niệm kinh thông thường, công phu mỗi ngày đều chẳng thể gián đoạn. Hành mãi như thế, huấn luyện trong nửa năm hay một năm, tâm bèn thanh tịnh. Tâm thanh tịnh có thể sanh trí huệ, sau đấy, quý vị mới niệm câu Phật hiệu, đó là Lý niệm, chẳng phải là Sự niệm. Lý niệm đắc Niệm Phật tam-muội, đắc nhất tâm bất loạn, so với việc chỉ hành Sự Trì sẽ nhanh chóng hơn rất nhiều!

 

(Diễn) Hựu Tiểu Thừa duyên Không trực nhập, nãi chí viên nhân trực tâm chánh niệm Chân Như, danh viết Lý Thiền. Tiểu Thừa đới sự kiêm tu, nãi chí viên nhân tùng hạnh thác sự phụ pháp, tam chủng quán pháp, giai Sự Lý kiêm tu, danh viết Sự Lý Thiền, chủng chủng bất nhất, cố vân “chư” dã.

() 又小乘緣空直入,乃至圓人直心正念真如,名曰理禪。小乘帶事兼修,乃至圓人從行託事附法,三種觀法,皆事理兼修,名曰事理禪。種種不一,故云諸也。

(Diễn: Lại nữa, Tiểu Thừa duyên theo Không để tiến nhập trực tiếp, cho đến người căn cơ viên mãn dùng trực tâm chánh niệm Chân Như thì gọi là Lý Thiền. Tiểu Thừa tu kèm thêm Sự, cho đến người căn cơ viên đốn, từ hạnh nhờ vào Sự để bổ trợ Phật pháp. Ba thứ quán pháp đều là Lý và Sự cùng tu, nên gọi là Sự Lý Thiền. Các thứ khác nhau, nên nói là “các”).

 Thiền vô lượng vô biên. Ở đây, cũng chỉ có thể dùng phương pháp quy nạp, quy nạp [vô lượng vô biên môn Thiền] thành ba loại: Sự Thiền, Lý Thiền, và Sự Lý Thiền. Trong Thiền có Lý và Sự, ở đây nói cũng khá dễ hiểu. “Tiểu Thừa” chỉ Thanh Văn, bao gồm Duyên Giác. “Nãi chí viên nhân” là nói về Bồ Tát. Bồ Tát có Thông Giáo Bồ Tát, Biệt Giáo Bồ Tát, và Viên Giáo Bồ Tát; Tạng Giáo là thuộc loại Tiểu Thừa. Dùng chữ “nãi chí” nhằm tỉnh lược Thông Giáo và Biệt Giáo. Có thể nói: Căn tánh khác nhau, phương pháp tu hành khác nhau, lý luận để căn cứ cũng khác nhau, nhưng đều gọi là Lý Thiền. Chúng ta có thể hiểu rõ, thông đạt lý luận của Tịnh Tông, có thể đoạn nghi sanh tín thì một câu A Di Đà Phật là Lý Thiền. Tịnh Độ Tông không gọi là Thiền, mà gọi là Lý Trì và Sự Trì, [Trì là] trì danh niệm Phật. Thật sự đắc Thiền Định, chúng ta gọi nó là Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội là Thiền Định, nhất tâm bất loạn là Thiền Định sâu hơn một tầng. Danh từ Niệm Phật tam-muội có hàm nghĩa hết sức rộng rãi. Sự nhất tâm, Lý nhất tâm đều bao gồm trong ấy; từ công phu thành phiến cho đến Lý nhất tâm bất loạn, đều gọi là Niệm Phật tam-muội. Nói công phu thành phiến, Sự nhất tâm, Lý nhất tâm tức là những danh xưng chỉ công phu Niệm Phật tam-muội cạn hay sâu khác nhau. Tiểu Thừa có “đới Sự kiêm tu” (tu kèm thêm Sự), A La Hán và Bích Chi Phật thường hiển thị phương pháp tu hành ấy. Đại Thừa Bồ Tát càng tự tại hơn, tình hình ấy càng nhiều.

“Tùng hạnh thác sự phụ pháp”: Câu này thường được pháp Đại Thừa nói là “lịch sự luyện tâm” (trải qua sự việc để luyện tâm). Họ học Định Huệ ở chỗ nào? Ngay trong cuộc sống hằng ngày, trong xử sự, đãi người, tiếp vật, tu Thiền, tu Định, tu Huệ trong ấy. Cụ thể nhất là năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử. Năm mươi ba vị thiện tri thức, đủ các ngành nghề, nam, nữ, già, trẻ, đều tu Thiền Định rất sâu, nhưng họ chẳng vứt bỏ cuộc sống, cũng chẳng trở ngại sự nghiệp. Không chỉ chẳng trở ngại sự nghiệp và cuộc sống, mà còn sống mỹ mãn, sự nghiệp tăng tấn. Vì thế, Đại Thừa Phật pháp, đặc biệt là Đại Thừa Viên Giáo, Hoa Nghiêm là Đại Thừa Viên Giáo, là phương pháp tu hành cao nhất trong Phật pháp, hoàn toàn dung hợp thành một với cuộc sống. “Sự” là hết thảy các sự nghiệp trong thế gian, “pháp” là Phật pháp. Phật pháp và hết thảy sự trong thế gian dung hợp thành một Thể, đó gọi là “có pháp nào chẳng phải là Phật pháp?”. “Viên nhân sở thuyết, pháp pháp giai như, pháp pháp giai thị” (Người viên mãn nói pháp, pháp nào cũng đều Như, pháp nào cũng đều đúng). Chẳng có một pháp nào không phải là Phật pháp. Nói kiểu này, sợ mọi người hiểu lầm, biến thành Ác Thủ Không, khuyết điểm sẽ trở  thành  quá  lớn. Do  đó, quyết  định  chớ nên hiểu lầm chỗ này!

“Pháp nào cũng đều là Phật pháp”, Phật pháp là gì? Kinh Bát Nhã đã nói một câu trọn hết, Phật pháp là “vô sở đắc”, “vô trí, mà cũng vô đắc”. Trong hết thảy các pháp, Viên Giáo Bồ Tát biết các pháp đều là Không, các pháp đều vô sở đắc, nên trong hết thảy các pháp, chẳng có mảy may phân biệt, chấp trước nào. Trong hết thảy các pháp, các Ngài hiển thị tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, chân thành đến cùng cực. Chẳng như Tiểu Thừa và Biệt Giáo Bồ Tát phải rời khỏi pháp thì tâm mới thanh tịnh, Viên Giáo không cần rời khỏi. Vì sao không cần rời khỏi? “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, cần gì phải lìa? “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, “ngay nơi bản thể chính là Không, ngay nơi tướng chính là Đạo”, đó là “viên nhân”. Viên nhân tu hành đúng là tự tại, vui sướng, vô chướng, vô ngại. Nếu chúng ta chẳng phải là hạng người căn tánh viên đốn, sẽ chẳng học được, vì sao? Người ấy vô ngại trong cảnh giới, chúng ta chẳng phải là căn tánh ấy, quyết định bị chướng ngại trong cảnh giới. Ở đây, chúng ta phải tự mình nghiêm túc phản tỉnh, chúng ta là căn tánh gì? Phải nên học theo tiêu chuẩn nào? Căn tánh viên đốn đương nhiên học theo tiêu chuẩn của năm mươi ba vị thiện tri thức trong kinh Hoa Nghiêm, thành tựu mau chóng! Nếu là căn tánh Biệt Giáo, không thể học theo tiêu chuẩn ấy, mà dùng tiêu chuẩn gì? Tiêu chuẩn của Phạm Võng Bồ Tát Giới. Phạm Võng Bồ Tát Giới là Biệt Giáo, hoặc là kinh luận Duy Thức, đặc biệt là Duy Thức Luận, Thành Duy Thức Luận cũng thuộc loại Biệt Giáo. Vì vậy, nhất định phải nhận rõ căn tánh của chính mình, chọn lựa một phương pháp nào có lợi ích chân thật cho chính mình. Chọn sai, sẽ chẳng được lợi ích. Nếu căn tánh Biệt Giáo mà chọn Viên Giáo, sẽ hết sức tệ, sẽ bị đọa lạc, sẽ tạo rất nhiều tội nghiệp. Nếu căn tánh Viên Giáo mà chọn pháp Biệt Giáo, tuy chẳng bị đọa lạc, nhưng tiến bộ rất chậm. Vì lẽ đó, chọn lựa pháp phải khế cơ; Cơ là căn cơ của chính chúng ta. [Pháp môn] phù hợp căn cơ của chính mình sẽ học nhanh chóng, học rất thuận lợi.

 

(Sao) Huệ Lực giả, Huệ Căn tăng trưởng, năng phá nhất thiết tà ngoại đẳng kiến, năng đoạn nhất thiết thiên tiểu đẳng chấp cố.

() 慧力者,慧根增長,能破一切邪外等見,能斷一 切偏小等執故。

(Sao: Huệ Lực là Huệ Căn tăng trưởng, có thể phá hết thảy các kiến giải tà vạy, ngoại đạo, có thể đoạn hết thảy những chấp trước Thiên, Tiểu v.v…).

Huệ Căn có sức mạnh, hình dạng của nó cũng là tác dụng của nó. Nó có năng lực phân biệt tà, chánh, có năng lực phá trừ chấp trước của chính mình. Nói thật ra, tu học trong Phật pháp từ đầu tới cuối, “đầu” là mới phát tâm, “cuối” là thành Phật đạo, tu gì? Phá chấp trước mà thôi. Do phá Nhân Ngã Chấp, bèn chứng A La Hán; phá Pháp Ngã Chấp, bèn là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đã thành Phật, có thể giống như ba mươi hai ứng thân được nói trong phẩm Phổ Môn hay chương Quán Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, nên dùng thân Phật để độ kẻ khác bèn có thể hiện ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Nhà Thiền nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo đã kiến tánh, phá một phẩm vô minh, thấy một phần bổn tánh. Chỉ cần thấy một phần bổn tánh, bèn có năng lực dùng ba mươi hai tướng, có năng lực Phổ Môn Thị Hiện giống như Quán Âm Bồ Tát. Trong hội Lăng Nghiêm, Quán Âm Bồ Tát thị hiện thân phận Sơ Trụ trong Viên Giáo. Trong kinh Hoa Nghiêm, Quán Âm Bồ Tát thị hiện Đệ Thất Hồi Hướng trong Viên Giáo. Trong kinh Pháp Hoa, Ngài thị hiện Đẳng Giác Bồ Tát của Viên Giáo. Có thể thấy trong mỗi pháp hội, Bồ Tát có thân phận khác nhau. Đó là sức mạnh của Huệ Căn, nó khởi ra tác dụng ấy.

Do vậy, có thể biết: Chúng ta chẳng có năng lực phân biệt hết thảy các pháp tà – chánh, chẳng có năng lực đoạn phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình, đều do Huệ Căn chẳng có sức mạnh. Đọc kinh nhiều, nghe giảng cũng lắm, biết có những điều này, nhưng chính mình chẳng đạt được, là vì chẳng có sức mạnh. Ắt phải có sức, tức là nói bình thường chúng ta công phu đắc lực, khi nào công phu sẽ đắc lực? Ngũ Căn đều có lực, công phu bèn đắc lực. Khi Ngũ Căn chẳng đắc lực, đích xác là công phu của chúng ta hời hợt. Hãy suy nghĩ, chúng ta học Phật đã lâu dường ấy, có thành tựu gì? Có thể đưa một thành tích biểu khả quan hay không? Nếu chẳng đưa thành tích biểu ra được, tức là chẳng đắc lực! Công phu đắc lực, sẽ có thể đưa ra thành tích biểu. Tiếp theo đây là Thất Bồ Đề Phần (Sapta Bodhyanga), đây là khoa thứ sáu trong Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm:

 

(Sớ) Thất Bồ Đề Phần giả, tức Thất Giác Chi.

() 七菩提分者,即七覺支。

(Sớ: Thất Bồ Đề Phần chính là Thất Giác Chi).

 “Bồ Đề” (Bodhi) là tiếng Phạn, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Giác. “Phần” là chia thành nhánh. Bảy điều được nói ở đây đều là trí huệ khởi tác dụng.

 

(Sớ) Diệc diêu tiền Căn, Lực, đắc thử Huệ dụng.

() 亦繇前根力,得此慧用。

(Sớ: Cũng là do Căn và Lực trên đây mà đạt được tác dụng này của Huệ).

 Do vậy, có thể biết: Chẳng có Căn và Lực, Thất Bồ Đề Phần tuyệt đối chẳng thể dùng được. Điều thứ nhất trong Thất Bồ Đề Phần là Trạch Pháp. Chẳng có trí huệ, quý vị làm sao có thể chọn lựa pháp môn cho được? Chọn lựa pháp môn phải cậy vào trí huệ. Trí huệ có lớn, nhỏ, cạn, sâu, thiên, viên khác nhau, quý vị quyết trạch (chọn lựa, quyết định) pháp môn sẽ khác nhau, tùy thuộc quý vị chọn lựa pháp gì trong biển cả Phật pháp?

 

(Sớ) Vị nhất Niệm, nhị Trạch Pháp, tam Tinh Tấn, tứ Hỷ, ngũ Y, lục Định, thất Xả. Nhất vân: Nhất, Trạch Pháp, nhị Tinh Tấn, tam Hỷ, tứ Trừ, ngũ Xả, lục Định, thất Niệm. Kim y hậu thích.

() 謂一念,二擇法,三精進,四喜,五猗,六定,七捨。一云:一擇法,二精進,三喜,四除,五捨,六定,七念。今依後釋。

(Sớ: Nghĩa là: Một là Niệm, hai là Trạch Pháp, ba là Tinh Tấn, bốn là Hỷ, năm là Y, sáu là Định, bảy là Xả. Một thuyết khác nói là: Một là Trạch Pháp, hai là Tinh Tấn, ba là Hỷ, bốn là Trừ, năm là Xả, sáu là Định, bảy là Niệm. Nay dựa theo thuyết sau để giải thích).

Ở đây, Liên Trì đại sư giải thích theo thuyết sau. Hai cách nói ấy đều xuất phát từ kinh điển, thuyết sau dễ hiểu, có thể hiểu rõ dễ dàng!

 

(Diễn) Thất Giác tự thể, tức Trạch Pháp đẳng, thử chi vi Dụng, vị đoạn kiến đạo chư tà kiến cố.

()  七覺自體,即擇法等,此之為用,為斷見道諸邪見故。

(Diễn: Tự thể của Thất Giác chính là Trạch Pháp v.v… những thứ ấy là Dụng, nhằm đoạn các tà kiến [ngăn chướng] kiến đạo).

Địa vị Kiến Đạo của Tiểu Thừa là quả Tu Đà Hoàn, địa vị Kiến Đạo của Đại Thừa là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Cảnh giới trong kinh Kim Cang là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. [Cảnh giới trong] Đại Thừa Khởi Tín Luận cũng là Sơ Trụ trong Viên Giáo. Trong chương Hai Mươi Lăm Pháp Viên Thông của kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm, hai mươi lăm vị Bồ Tát biển diễn đều là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Quý vị biết sử dụng những pháp ấy, sẽ dễ dàng chứng đắc địa vị Kiến Đạo. Dưới đây là giới thiệu từng điều; trước hết là giới thiệu danh tướng Thất Giác Chi:

 

(Sao) Giác Chi giả, Giác tức Bồ Đề, Chi tức thị Phần, vị phần phần tùy nghi nhi dụng dã.

() 覺支者,覺即菩提,支即是分,謂分分隨宜而用也。

(Sao: Giác Chi: Giác tức là Bồ Đề, Chi là Phần, ý nói mỗi phần tùy nghi sử dụng).

Thất Giác Chi còn gọi là Thất Bồ Đề Phần. “Phần phần tùy nghi nhi dụng”, bảy điều ấy có thể dùng riêng lẻ, hoặc có thể hợp hai điều để dùng, cũng có thể gộp ba điều lại để dùng, tùy thuộc chính mình ở trong tình huống nào, cần dùng điều nào bèn dùng điều ấy, nhằm mục đích giúp quý vị kiến đạo. Nói cách khác, giúp quý vị đoạn Hoặc, chứng Chân.

 

(Sao) Diêu tiền giả, Du Già vân: “Chư dĩ chứng nhập chánh vị giả, như thật giác huệ”.

(Diễn) Chư dĩ chứng nhập chánh vị giả, chánh vị tức chánh tánh, dĩ do tiền Căn Lực, năng phá nhất thiết kiến chấp, bất đọa đoạn thường, giác pháp chánh tánh. Chánh tánh giả, tức Tứ Đế như thật tánh.

() 繇前者,瑜伽云:諸已證入正位者,如實覺慧。  

() 諸已證入正位者,正位即正性 ,以由前根力,能破一切見執,不墮斷常,覺法正性。正性者,即四諦如實性。

(Sao: “Do các pháp [Căn và Lực] trên đây”: Luận Du Già chép: “Những người đã chứng nhập chánh vị, giác huệ như thật”.

Diễn: “Những người đã chứng nhập chánh vị”: Chánh vị là chánh tánh. Do các Căn và Lực trên đây có thể phá hết thảy kiến chấp, chẳng đọa trong Đoạn hay Thường, giác pháp chánh tánh. Chánh tánh chính là tánh như thật của Tứ Đế).

“Năng phá nhất thiết kiến chấp” (Có thể phá hết thảy kiến chấp), nó có năng lực phá trừ những chấp trước nơi kiến giải của quý vị. “Bất đọa đoạn thường” (Chẳng đọa đoạn, thường), chẳng chấp trước Thường Kiến và Đoạn Kiến. “Giác pháp chánh tánh” (Giác ngộ chánh tánh của các pháp), chánh tánh là gì? Chánh tánh chính là tánh như thật của Tứ Đế. Đây cũng là lý luận do đức Phật đã giảng, quý vị có thể thật sự thông đạt, hiểu rõ. Pháp Tứ Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, là hai tầng nhân quả thế gian và xuất thế gian. Khổ và Tập là nhân quả thế gian. Diệt và Đạo là nhân quả xuất thế gian. Quý vị thật sự thông đạt, hiểu rõ, sẽ chẳng chấp trước Đoạn Kiến, cũng chẳng chấp trước Thường Kiến. Đoạn Kiến là gì? Nêu tỷ dụ, người có kiến giải như thế này rất nhiều: Người chết thì hết thảy đều hết chuyện, chẳng tin có đời sau, chẳng tin có luân hồi, ngỡ con người chỉ có một đời này. Vì thế, vì cầu sự hưởng thụ cho chính mình trong một đời này, mà chẳng e ngại chọn lựa bất cứ thủ đoạn nào, chẳng tin có đời sau. Đó gọi là Đoạn Kiến. Thường Kiến là gì? Cho rằng người đã chết, hai mươi năm sau lại là một trang hảo hán, cũng có nghĩa là [tin rằng] con người sau khi đã chết [đầu thai vào] đời sau vẫn là người. Chó đã chết, đời sau vẫn làm chó, vĩnh viễn chẳng biến đổi. Đó là Thường Kiến. Hai thứ kiến giải ấy đều là sai lầm.

Đức Phật giảng pháp Tứ Đế, Khổ và Tập là nguyên lý luân hồi trong lục đạo khắp ba đời. Người đã chết có đời sau, đời sau chẳng nhất định làm người; chó đã chết cũng có đời sau, đời sau không nhất định là chó. Nó cũng có thể thành người, cũng có thể sanh lên trời. Người đã chết cũng có thể sanh lên trời, cũng có thể đọa trong ba ác đạo. Luân hồi trong lục đạo, ai làm chúa tể? Luân hồi trong lục đạo, quý vị là chúa tể của chính mình. Không chỉ là lục đạo, mà cát hung họa phước chúng ta gặp gỡ trong đời này đều do chính mình làm chúa tể. Do đó, vận mạng có thể sửa đổi hay không? Có thể sửa, vì là chính mình là chúa tể. Ai sửa? Phải do chính mình sửa. Bất luận kẻ nào cũng không có sức mạnh sửa đổi vận mạng của quý vị, quý vị phải biết điều này! Vì sao? Vận mạng do chính quý vị tạo, vẫn phải do chính quý vị sửa. Vận mạng của quý vị chẳng do kẻ khác tạo. Nếu do kẻ khác tạo, đương nhiên người khác có thể sửa đổi. Nhưng chẳng do ai khác tạo, mà do chính mình tạo; dẫu Phật, Bồ Tát thần thông rộng lớn cỡ nào, trí huệ viên mãn đến mấy đi nữa, vẫn chẳng thể thay đổi cho chúng ta.

Cựu Kim Sơn (San Francisco) động đất, Phật, Bồ Tát cũng chẳng làm sao được! Ngày hôm qua, xảy ra tai nạn phi cơ, Phật, Bồ Tát có thấy hay không? Thấy! Chẳng có lẽ nào không thấy! Có cách nào sửa đổi hay không? Chẳng có cách nào! Chúng sanh có nghiệp lực của chính mình. Sức mạnh gì có thể sửa đổi? Sức mạnh của chính mình có thể sửa. Phật dạy chúng ta lý luận, chân tướng sự thật ấy. Có rất nhiều người nương theo lý luận và phương pháp do đức Phật đã giảng để sửa đổi vận mạng của chính mình. Viên Liễu Phàm đã đem chuyện của chính mình viết thành một cuốn sách nhỏ lưu thông, mọi người đều biết. Còn có rất nhiều người chẳng viết, chẳng tuyên bố với mọi người, rất nhiều! Tôi đích thân trông thấy mười mấy người, những người ấy hãy còn sống, xác thực đã sửa đổi vận mạng của chính mình. Vì lẽ đó, quý vị phải tin tưởng! “Chánh tánh” được nói ở đây chính là “Tứ Đế như thật tánh”. Nói theo cách bây giờ, sẽ là chân lý, sự lý thực tại, quý vị phải tin tưởng.

 

(Diễn) Tức dụng thử như thật giác huệ, dĩ vi Chi Phần, hợp nghi tắc dụng dã.

() 即用此如實覺慧,以為支分,合宜則用也。

(Diễn: Tức là dùng giác huệ như thật ấy làm Chi Phần, hễ thích hợp bèn sử dụng).

Thích hợp bèn có thể dùng, tùy thời có thể dùng nó.

 

(Diễn) Tức Tứ Đế như thật tánh giả, tánh tức Khổ vi bức bách tánh, Tập vi chiêu cảm tánh đẳng.

() 即四諦如實性者,性即苦為逼迫性,集為招感性等。

(Diễn: “Tức là tánh như thật của Tứ Đế”: Tánh chính là Khổ có tánh chất bức bánh, Tập có tánh chất chiêu cảm v.v…).

“Tánh”  là  tánh  chất. “Khổ”  là bức bách, thân tâm đều chẳng tự tại, thân tâm bất an, đó là Khổ. “Tập” là mê hoặc tạo nghiệp, chính mình chiêu cảm khổ báo.

 

(Diễn) Như thật, tức thị Sanh Diệt, Vô Sanh, Vô Lượng, Vô Tác. Thử tứ các xưng đương giáo chi lý, danh viết “như thật”.

() 如實,即是生滅、無生、無量、無作。此四各稱當教之理,名曰如實。

(Diễn: “Như thật” tức là Sanh Diệt, Vô Sanh, Vô Lượng, Vô Tác. Bốn điều này, mỗi điều đều có thể là lý của một giáo tương ứng, nên gọi là “như thật”).

“Sanh Diệt, Vô Sanh, Vô Lượng, Vô Tác”, là nói tới bốn loại Tứ Đế, bao gồm toàn thể Phật pháp. Thiên Thai Trí Giả đại sư giảng khoa Tứ Niệm Xứ trong Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm, “quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã”, bốn câu gồm mười sáu chữ, tác phẩm của Ngài dày như thế, gồm có bốn quyển để giải thích bốn câu ấy. Quyển thứ nhất trong bốn quyển nhằm giảng về Sanh Diệt Tứ Niệm Xứ. Quyển thứ hai giảng về Vô Sanh Tứ Niệm Xứ. Quyển thứ ba giảng về Vô Lượng Tứ Niệm Xứ. Quyển thứ tư giảng về Vô Tác Tứ Niệm Xứ. Bốn câu ấy là Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tạng Giáo giảng Sanh Diệt, Thông Giáo giảng Vô Sanh, Biệt Giáo giảng Vô Lượng, Viên Giáo giảng Vô Tác.

Do đó, Tứ Niệm Xứ thông bốn giáo; Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo thảy đều thông Tứ Giáo, Lục Độ, Vạn Hạnh cũng đều thông Tứ Giáo, pháp nào cũng viên thông. Không chỉ thông tứ giáo, mà còn thông pháp thế gian. Nếu chẳng thông pháp thế gian, người căn cơ viên đốn làm sao có thể “thác sự phụ pháp”? Người căn cơ viên đốn có thể thác sự phụ pháp là do Tứ Giáo Tứ Đế đều thông với pháp thế gian, chẳng có pháp nào không thông, pháp nào cũng viên dung. Điều này mầu nhiệm không thể nghĩ bàn, nên gọi là “đạo diệu”. “Thử tứ các xưng đương giáo chi lý” (Bốn điều này, mỗi điều đều có thể gọi Lý của một giáo tương ứng): Sanh Diệt gọi là Lý của Tạng Giáo. Vô Sanh gọi là Lý của Thông Giáo. Vô Tác gọi là Lý của Viên Giáo, được gọi là “như thật”. Nhìn từ chỗ này, Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm xuyên suốt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, há có thể coi nó là pháp Tiểu Thừa? Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm được nói trong pháp Tiểu Thừa là Ba Mươi Bảy Đạo Phẩm Sanh Diệt.

“Chư dĩ chứng nhập chánh vị giả” (Những người đã chứng nhập chánh vị), các vị Bồ Tát trong bốn giáo, bất luận chứng địa vị nào, các nguyên lý ấy đều sử dụng được. Điều các Ngài ứng dụng và giáo pháp các Ngài đã học, quyết định tương ứng với lý luận. Tiểu Thừa tương ứng với Tạng Giáo. Đại Thừa Thông Giáo Bồ Tát tương ứng với lý luận của Thông Giáo. Biệt Giáo Bồ Tát tương ứng với lý luận của Biệt Giáo. “Như thật giác huệ, dụng thử vi Chi, cố tri Căn Lực ký cố” (Giác huệ như thật, dùng điều này làm Chi, nên biết là Căn và Lực đã kiên cố). “Cố” (固) là kiên cố, Ngũ Căn và Ngũ Lực khá kiên cố, “hậu tu giác Huệ, hợp nghi tắc dụng” (sau đó cần phải có giác huệ, hễ thích hợp bèn sử dụng). Khi ấy, trong vô lượng pháp môn, người ấy có thể chọn lựa chắc chắn một pháp môn, nhất định thành tựu pháp môn đó. Người mới học mờ mịt, pháp môn nhiều ngần ấy, chẳng biết học pháp nào mới nên? Chẳng biết tu pháp nào mới tốt? Vẫn là tu đến già, mà vẫn chưa thể quyết trạch pháp môn, vô cùng khổ! Giống như quý vị ngồi thuyền trong biển cả, chẳng biết phương hướng, chẳng có mục tiêu, lênh đênh trong biển cả, đó là chuyện khổ sở. Căn Lực kiên cố, có thể chọn lựa phương hướng, chọn lựa mục tiêu, có thể tính ra khi nào sẽ đạt tới mục tiêu.

“Y hậu thích giả” (Giải thích theo thuyết sau). Trong lời Sớ về Thất Bồ Đề Phần đã nêu ra hai cách giải thích, Liên Trì đại sư chọn thuyết sau. “Dĩ Thiên Thai sở thích, ý minh hiển cố” (Do cách giải thích của ngài Thiên Thai ý nghĩa rõ ràng). Theo cách nói trước, pháp thứ nhất là Niệm; trong cách giảng sau, pháp thứ nhất là Trạch Pháp, tông Thiên Thai sử dụng cách nói sau, tông Hoa Nghiêm cũng dùng cách nói này. Cách nói này có ý nghĩa hết sức rõ rệt, xác đáng, lý giải dễ dàng. “Hựu Hoa Nghiêm Sớ, diệc dĩ Trạch Pháp vi tự thể, dư phần vi phân cố” (Lại nữa, Hoa Nghiêm Sớ cũng lấy Trạch Pháp làm tự thể, các phần khác phát sinh từ đó): Nói rõ, tổ sư tông Hoa Nghiêm và tổ sư tông Thiên Thai có cách nhìn nhất trí, chọn lựa cách nói theo thuyết sau. Do đó, Liên Trì đại sư cũng tuân theo sự quyết trạch của cổ đức, chọn lấy cách nói sau.

 

(Sao) Nhất Trạch Pháp giả, quán chư pháp thời, thiện năng giác liễu, giản biệt chân ngụy cố.

() 一擇法者,觀諸法時,善能覺了,揀別真偽故。

(Sao: Một là Trạch Pháp, khi quán các pháp, có thể khéo giác liễu, phân biệt chân và ngụy).

Điều này bao hàm ý nghĩa hết sức rộng rãi. Trong nguyên tắc Trạch Pháp (Dharma-vicaya), điều rất trọng yếu là “hợp nghi tắc dụng” (hễ thích hợp bèn sử dụng), tiêu chuẩn của sự thích hợp là phù hợp với pháp môn chính mình đang tu. Do vậy, có thể biết, phạm vi của Trạch Pháp rất rộng. Trong cuộc sống, ăn, mặc, ở, đi, trong xã hội, chúng ta chọn lựa nghề nghiệp. Đã chọn vững nghề nghiệp rồi, chúng ta dùng phương pháp gì để lo liệu? Đều là Trạch Pháp, không phải chỉ là chọn lựa pháp môn nào trong tám vạn bốn ngàn pháp môn để tu hành, đương nhiên đó cũng là Trạch Pháp. Quý vị mới biết sau khi học Phật pháp, đúng là học đến mức hữu dụng thì học xong bèn dùng được ngay. Học mà chẳng thể áp dụng trong cuộc sống, sở học ấy vô dụng, chúng ta học những thứ ấy để làm gì? Chẳng có tác dụng! Học rồi lập tức sử dụng được, điều này có giá trị, có ý nghĩa.

Nêu tỷ dụ để nói, nay chúng ta tu Tịnh Độ Tông. Mục tiêu gần của Tịnh Độ Tông là tâm địa thanh tịnh, mục tiêu xa là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Mục tiêu gần và mục tiêu xa tương ứng. Tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh. Trong cuộc sống, chúng ta từ sáng đến tối, ăn, mặc, ở, đi lại, nếu tương ứng với tâm thanh tịnh của chúng ta, chúng ta liền chọn pháp ấy. Tương ứng với tâm thanh tịnh, tương ứng với tín, nguyện, hạnh, như vậy là chẳng sai. Bất luận trong cuộc sống, trong sự nghiệp, trong xử thế, quý vị liền biết chúng ta phải chọn lựa như thế nào. Đương nhiên quan trọng nhất, căn bản nhất là quyết trạch pháp môn Tịnh Độ trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn Tịnh Độ rất khó được, chúng ta chọn lựa pháp môn Trì Danh Niệm Phật, đó là pháp được chúng ta quyết trạch. Sau đấy, hết thảy trong cuộc sống đều tương ứng với pháp môn ấy, biến tất cả hết thảy các pháp đều thành Tăng Thượng Duyên để tu tịnh nghiệp, đó là “biết trạch pháp”. Tôi lại nói cụ thể một chút, trong hết thảy các pháp, đương nhiên chúng ta đặc biệt nói tới pháp thế gian, kể cả Phật pháp, nhất định phải khuất phục tham, sân, si, mạn, phiền não, vọng tưởng, tri kiến. Trong phương diện cuộc sống, vừa đúng mức bèn thôi, biết đủ thường vui, vì sao? Tâm chúng ta mới có thể giữ gìn thanh tịnh. Nếu không, tham dục tăng trưởng, làm sao tâm quý vị có thể thanh tịnh cho được? Quyết định chớ nên để cho tham, sân, si, mạn tăng trưởng.

Những vị đại đức thời cổ, xuất gia, tại gia đã nêu gương rất nhiều. Cuộc sống của họ rất giàu có, vì sao bỏ sạch? Chính Thích Ca Mâu Ni Phật đã nêu gương cho chúng ta thấy, Ngài là vương tử, từ bỏ phú quý, phú là của cải, quý là địa vị, chẳng cần ngôi vua, chẳng cần của cải, đến chỗ không người lui tới trong Tuyết Sơn để tu khổ hạnh, biết đủ thường vui. Đó là gương mẫu, khuôn phép cho chúng ta. Ở Trung Quốc, hàng xuất gia chẳng cần nói tới, trong hàng cư sĩ tại gia có nhiều vị đem của cải của chính mình quyên tặng hết để làm chuyện từ thiện, chính mình suốt đời sống cuộc đời kham khổ, chẳng có tâm tham. Tham là phiền não căn bản bậc nhất; chẳng tham sẽ không ngu si. Chẳng tham, sẽ chẳng có tâm sân khuể. Do tham không được nên mới sanh tâm sân khuể. Nếu tham được, sẽ không sanh sân khuể. Vì thế, người ta nghiêm túc giữ cho tâm địa thanh tịnh, vứt bỏ những ngoại duyên ấy. Vô tham, vô sân, vô si là ba thiện căn; người ấy tu ba thiện căn, hết thảy thiện pháp thế gian và xuất thế gian đều sanh từ các căn ấy. Phước báo nhường cho chúng sanh hưởng, sung sướng lắm! Phước chẳng phải để riêng mình hưởng, mà dành cho hết thảy chúng sanh cùng chung hưởng. Giác Phần, tức Bồ Đề Phần là trí huệ chân thật. Kẻ chẳng có trí huệ, phước báo để riêng mình hưởng, chẳng chia sẻ với người khác. Chỉ có người thật sự giác ngộ, người thật sự có trí huệ, để cho chúng sanh chung hưởng phước báo, chính mình chẳng hưởng, vì sao? Tự và tha như một, để cho chúng sanh hưởng mới là chính mình thật sự hưởng thụ.

Phàm phu mê, chấp trước, vạch giới hạn giữa chính mình và người khác, chẳng biết tự và tha chẳng hai, chẳng biết vạn pháp như một. Đương nhiên đây là trí huệ cao cấp, trí huệ quá sâu. Trong Tứ Giáo, chỉ có người căn tánh Viên Giáo biết, Biệt Giáo vẫn chưa được! Nói theo công phu đoạn chứng, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Biệt Giáo là Sơ Địa Bồ Tát, Viên Giáo là Sơ Trụ Bồ Tát. Tuy công phu đoạn chứng như nhau, nhưng trí huệ khác nhau. Trí huệ của Biệt Giáo Sơ Địa Bồ Tát kém Viên Giáo Sơ Trụ rất xa, do nguyên nhân nào? Người căn tánh Viên Giáo “đại nhi hóa chi”[36], vạn vật trong trời đất và chính mình là một, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, tâm khai ý giải. Biệt Giáo ít nhiều còn có chút dấu vết, chẳng thể trừ sạch. Chúng ta thường nói là “tập khí chưa đoạn”. Tuy chẳng có giới hạn, nhưng tập khí chưa đoạn. Kinh Kim Cang gọi giới hạn ấy là “tứ tướng”, tức ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng. Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát, tập khí tứ tướng và tứ kiến đều chẳng có; Biệt  Giáo  Sơ  Địa Bồ Tát đã phá tứ tướng, và tứ kiến, nhưng còn có tập khí.

Do vậy, có thể biết, căn tánh viên đốn đáng quý. Đương nhiên điều này có liên quan đến sự tu trì trong nhiều đời nhiều kiếp của chính mình, đó là Nhân. Trong một đời này, có thể thường xuyên tiếp nhận kinh điển Đại Thừa, huân tập kinh điển Viên Giáo, mối quan hệ này cũng rất lớn. Đó là Duyên. Kinh điển Viên Giáo, kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ là viên nhất trong các pháp viên, đốn nhất trong các pháp đốn. Quý vị thấy trong sách Chú Giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, cụ đã trích dẫn sự phán giáo của cổ đại đức đối với kinh này. Cổ đức nói: “Nếu so sánh giữa hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, chỉ có Hoa Nghiêm là chân thật nhất, những kinh khác chẳng chân thật bằng Hoa Nghiêm. So sánh kinh Hoa Nghiêm và kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ chân thật nhất, kinh Hoa Nghiêm kém hơn. Lại so sánh trong kinh Vô Lượng Thọ, bốn mươi tám nguyện là chân thật nhất. Nếu so sánh mỗi điều trong bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ mười tám chân thật nhất”. Cổ nhân đã so đi sánh lại, so sánh đến cuối cùng, nguyện thứ mười tám là chân thật nhất trong các thứ chân thật. Do đó, đây là Viên Giáo trong Viên Giáo, Đại Thừa trong Đại Thừa, Nhất Thừa giữa Nhất Thừa, thật sự chẳng dễ gì gặp gỡ!

Chư vị phải biết: Quý vị niệm một bộ kinh Vô Lượng Thọ này, tức là niệm toàn bộ những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong bốn mươi chín năm, chẳng sót một bộ nào. Không chỉ là các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, mà các kinh do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói, quý vị cũng đều đọc hết. Đúng như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Một tức là hết thảy”. Kinh Vô Lượng Thọ là hết thảy các kinh. “Hết thảy chính là một”, hết thảy các kinh quy nạp đến cuối cùng là bộ kinh này. Lũ chúng sanh chúng ta trong đời này, tuy rất khổ, khổ hơn bất cứ thời đại nào, nhưng chúng sanh càng khổ nạn, Phật, Bồ Tát đại từ đại bi đặc biệt chiếu cố chúng ta, khiến cho chúng ta có thể nghe được vô thượng bảo điển viên mãn rốt ráo này, đó là sự hiển thị thật sự đại từ đại bi của chư Phật, Bồ Tát. Nếu không, làm sao chúng ta có thể gặp gỡ [pháp môn này và kinh điển Tịnh Độ] cho được? Làm sao có thể gặp gỡ viên mãn như vậy được? Cư sĩ Hạ Liên Cư là Phật, Bồ Tát tái lai. Nếu cụ chẳng hội tập lần nữa, tu chỉnh kinh này, biên tập thành bản này, nói thật thà, chúng ta cũng chẳng muốn đọc năm bản dịch gốc, [vì các bản dịch ấy] không trôi chảy, đọc rất trúc trắc, đúng như Mai lão cư sĩ đã nói:  “Bản  dịch  không  hay  lắm”.  Hơn một ngàn năm qua, người ta thường chẳng chuộng đọc kinh này.

Mọi người niệm kinh A Di Đà, đối với kinh A Di Đà còn niệm bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, chẳng niệm bản dịch của ngài Huyền Trang. Đọc bản dịch của ngài Huyền Trang sẽ cảm thấy có chỗ trúc trắc, chẳng lưu loát như bản dịch của ngài La Thập. Điều này được gọi là “khế cơ”, bản dịch của ngài La Thập khế cơ. Bản hội tập do lão cư sĩ Hạ Liên Cư biên soạn cũng khế cơ, khiến cho kinh Vô Lượng Thọ từ nay trở đi có thể lưu thông không trở ngại, chúng sanh khổ nạn trong thời kỳ Mạt Pháp đạt được lợi ích chân thật nơi Phật pháp. Kinh Di Đà được Liên Trì đại sư soạn Sớ Sao, Ngẫu Ích đại sư soạn Yếu Giải, những nghĩa lý rất sâu, cảnh giới viên mãn đã bao hàm trong bộ kinh này đều được nêu rõ trước mắt chúng ta. Nay chúng ta có thể đọc, có thể cùng nhau nghiên cứu tu học, phước báo ấy không chỉ cổ nhân, mà thậm chí mười phương chúng sanh đều hâm mộ, họ cầu còn không được. Pháp hội này thù thắng khôn sánh, hiếm có khôn sánh, chúng ta hãy nên quý trọng. Nghiêm túc tu học pháp môn này, quý vị sẽ có con mắt Trạch Pháp. Quý vị có con mắt Trạch Pháp, thì nói cách khác, Căn và Lực của quý vị tự nhiên thành tựu. Quý vị chẳng có Căn và Lực, làm sao có thể có con mắt Trạch Pháp cho được? Chỉ có Căn và Lực kiên cố thì quý vị mới có con mắt Trạch Pháp.

Chư vị đồng tu, giảng đường thành lập đến năm nay là mười năm. Trong mười năm có rất nhiều vị đồng tu đã lâu vẫn nghe kinh ở đây, vẫn nghe tôi giảng cho tới hiện thời. Quý vị hãy nghĩ xem, khi nào tôi nhấn mạnh Tịnh Tông như vậy? Quý vị liền hiểu rõ, trong quá khứ, khi tôi bắt đầu đến Đài Bắc giảng kinh, có Ngũ Căn, nhưng chẳng có Ngũ Lực, dần dần có Lực, nhưng Lực vẫn chẳng kiên cố! Đến hai năm nay, buông xuống hết thảy các kinh luận Đại Thừa, chuyên giảng Tịnh Độ Ngũ Kinh và Vãng Sanh Luận, đó là Trạch Pháp. Chẳng còn bị dao động bởi những bộ Đại Kinh khác nữa. Quý vị mời tôi, tôi đề cử người khác: “Hãy thỉnh pháp sư khác hoặc đại đức khác giảng cho quý vị, tôi chẳng giảng”. Nhiều năm ngần ấy, tình hình dần dần tiến bộ, các đồng tu hãy nên thể nghiệm. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!