A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 7 – Tập 181 – 188

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 7 – Tập 181-188

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 181

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm bảy mươi tám:

 

(Sao) Nhất kích vong sở tri, cánh bất giả tu trì, động dung dương cổ lộ, bất đọa tiễu nhiên cơ.

()一擊忘所知,更不假修持,動容揚古路,不墮悄然機。

(Sao: Vừa đụng bèn quên sạch sở tri, chẳng còn nhọc sức phải tu trì, hành vi, vẻ mặt phô đường cũ, chẳng đọa vào trong nẻo tịch vi).

Đây là bài kệ do Ngài (thiền sư Hương Nham) đã nói khi khai ngộ, trong Thiền Tông gọi là “cơ phong” (機鋒). Khi công phu thành thục, gặp cơ duyên, đó là đại triệt đại ngộ. Từ chỗ này, chúng ta cũng hiểu: Ắt phải phá hai thứ chướng thì mới thật sự triệt ngộ. Nếu Ngài vẫn còn có Sở Tri Chướng, sẽ chẳng có cách nào ngộ. Nói cách khác, trước kia, Ngài chẳng ngộ là vì có Sở Tri Chướng. Hai thứ Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng đều là đại chướng ngại, ắt phải lìa bỏ hai thứ ấy. Phải phá Sở Tri Chướng như thế nào? Bí quyết là một chữ Vong (忘), quý vị có thể quên sạch những gì đã biết, đúng như kinh Bát Nhã đã nói là Vô Tri. Vô Tri bèn phá Sở Tri Chướng; Vô Đắc phá Phiền Não Chướng. Tâm Kinh đến cuối cùng bèn nói “vô trí mà cũng vô đắc”, hai chướng ấy đều phá, nên liền chứng đắc viên mãn Bát Nhã Ba La Mật. Nay chúng ta dụng công cách nào cũng chẳng thể nhập cảnh giới ấy là do chưa phá hai chướng. Không chỉ chẳng phá, mà hai chướng ấy đều tăng thêm theo thời gian. Đây là chuyện phiền phức to lớn, người tu hành hãy nên chú ý điều này. Dù là Tịnh Độ đới nghiệp vãng sanh, hai thứ chướng ấy càng ít càng hay, đến Tây Phương sẽ tăng cao phẩm vị. Sau khi đã phá hai chướng, phương pháp dụng công sẽ hoàn toàn chẳng giống như chúng ta trong hiện thời. Chúng ta dụng công trong hiện tại là hữu tu, hữu chứng. Sau khi đã phá hai thứ chướng, bèn là vô tu, vô chứng. Chẳng chứng mà chứng, chứng mà chẳng chứng, chẳng tu mà tu, tu mà chẳng tu, nên “cánh bất giả tu trì” (chẳng còn nhọc sức phải tu trì).

 

(Diễn) Cánh bất giả tu trì.

()更不假修持。

(Diễn: Chẳng còn nhọc sức phải tu trì).

Không cần phải cậy vào tu trì nữa, tu hay chẳng tu? Vẫn tu y như cũ! Đại Thế Chí Bồ Tát đã đạt tới địa vị Đẳng Giác, cao minh hơn Hương Nham rất nhiều. Cảnh giới của Hương Nham là Sơ Trụ trong Viên Giáo, vừa mới nhập lưu (dự vào địa vị Pháp Thân đại sĩ), được gọi là “phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân”, ngài Hương Nham vừa mới đạt đến cảnh giới này. Đại Thế Chí Bồ Tát là Đẳng Giác Bồ Tát, cao hơn Sư (ngài Hương Nham) bốn mươi cấp bậc, Đại Thế Chí Bồ Tát có tu hay không? Vẫn là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp”. Mỗi ngày, Ngài vẫn niệm một câu A Di Đà Phật, chẳng phải là không niệm. Tuy niệm câu A Di Đà Phật, Ngài niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Vì thế, “chẳng còn nhọc sức phải tu trì”.

 

(Diễn) Sở vị: Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc.

()所謂修證即不無,染污即不得。

(Diễn: Đó gọi là: Chẳng phải là không có tu chứng, nhưng chẳng bị nhiễm ô).

Hai câu này do thiền sư Hoài Nhượng thưa với Lục Tổ. Lục Tổ hỏi Sư: “Ông có còn tu hay không?” Có! “Tu chứng tức bất vô”, [ý nói] con còn có tu. Tuy tu, nhưng “nhiễm ô tức bất đắc”, đó là vô tu, chẳng giữ lại ấn tượng, tâm địa thanh tịnh. Nhìn từ bề ngoài, Sư có tu, nhưng nói theo bên trong, thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đúng là “vốn chẳng có một vật”. Thiền sư Hoài Nhượng nói lời ấy, Lục Tổ liền ấn chứng: “Như thị, như thị” (Đúng như thế đấy), ông tu theo cách ấy, mà ta cũng tu theo cách ấy.

 

(Diễn) Hựu tức sở vị, đoạn trừ vọng tưởng trùng tăng bệnh, thú hướng Chân Như diệc thị tà.

()又即所謂,斷除妄想重增病,趣向真如亦是邪。

(Diễn: Lại chính là như thường nói: “Đoạn trừ vọng tưởng càng thêm bệnh, tiến đến Chân Như cũng vẫn tà”).

Chư vị phải biết: Đã đạt tới cảnh giới ấy thì mới có thể thốt lời này. Nếu chưa đạt đến cảnh giới ấy, quý vị muốn học theo kiểu này, sẽ chẳng được! Khi ấy, Kiến Tư phiền não đều đoạn; nếu vẫn còn phải đoạn phiền não thì chẳng phải là có bệnh rồi sao? Giống như quý vị bị bệnh phải uống thuốc, đó là đúng. Bệnh đã lành mà lại uống thuốc, há chẳng phải là lại sanh bệnh ư? Chẳng có bệnh, uống thuốc vào, sẽ đổ bệnh ra, có ý nghĩa này! Nay chúng ta đang bị bệnh, cần phải uống thuốc; họ đã lành bệnh, nên chẳng cần uống thuốc, cảnh giới chẳng giống chúng ta! Vì thế, họ chẳng đoạn vọng tưởng, mà cũng chẳng cần cầu Chân! Vì sao? Đã thật sự chứng đắc. Đã chứng đắc Chân, mà còn lại cầu Chân, tức là trên cái Chân lại chồng thêm một cái Chân nữa, sai mất rồi! Vì thế, bậc Bồ Tát từ hàng kiến tánh trở lên, nếu thật sự còn có tu, còn có chứng, tức là sai lầm quá đỗi! Cảnh giới của các Ngài là vô trí mà cũng vô đắc, vô tu, vô chứng, đó là thật sự chứng đắc.

 

(Diễn) Hựu tức sở vị, tùng kim dĩ hậu, bất nghi thiên, bất nghi địa dã.

()又即所謂,從今以後不疑天不疑地也。

(Diễn: Lại chính là nói: “Từ nay trở đi, chẳng ngờ trời, chẳng ngờ đất”).

Vạn pháp như nhau, vĩnh viễn đoạn nghi căn,  đối với hết thảy các pháp đều chẳng hoài nghi. Không chỉ chẳng hoài nghi pháp thế gian, mà Phật pháp cũng không hoài nghi. Đối với hết thảy các kinh luận do hết thảy Như Lai đã nói, vô lượng pháp môn, rất nhiều tông phái, đều chẳng hoài nghi, vì sao? Hiểu chúng vốn là một chuyện, thật sự dung thông, đã nhập cảnh giới ấy. Khi chưa nhập cảnh giới ấy, đích xác là có phiền não, có chấp trước, có phân biệt. Đạt đến cảnh giới ấy, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều chẳng có, thật sự đắc đại tự tại.

 

(Diễn) Động dung dương cổ lộ, động dung, tức động dung chu toàn, dương cổ lộ, vị phát huy diệu tánh, tức sở vị “tả hữu phùng nguyên”, bất tri thủ chi, vũ chi, túc chi, đạo chi dã.

()動容揚古路,動容,即動容周旋,揚古路,謂發揮妙性;即所謂左右逢源,不知手之舞之足之蹈之也。

(Diễn: “Động dung dương cổ lộ”. Động dung là hành động lẫn dung mạo đều trọn vẹn. “Dương cổ lộ” ý nói phát huy diệu tánh, tức là “đâu đâu cũng gặp nguồn”, chẳng biết hễ giơ tay lên múa thì chân cũng nhịp bước theo).

Đây là cuộc sống sau khi đã khai ngộ. Trước khi khai ngộ, cuộc sống rất khổ não. Sau khi đã ngộ, cuộc sống khác hẳn. [Xét về] vũ trụ quan và nhân sinh quan, dẫu trong cuộc sống phải thù tiếp rất nhiều, luôn luôn là hết sức vui sướng. “Động” (動) là động tác, “dung” (容) là dung mạo, biểu hiện trong cuộc sống. “Dương” (揚) là triển khai, nói như hiện thời là cởi mở. “Cổ lộ” (古路) là tỷ dụ, thường gọi là “cổ đạo” (古道: đường cũ), “cổ đạo” là gì? Từ quá khứ vô lượng kiếp đến nay, chư Phật, Bồ Tát đi theo con đường này, đó cũng là phương cách sống của chư Phật, Bồ Tát. Sư (ngài Hương Nham) cũng đã đạt được, chẳng khác gì cổ Phật thị hiện trong thế gian này, đó gọi là “du hý thần thông”. Nói kiểu này dễ hiểu, Ngài du hý thần thông trong thế gian này.

Đây cũng là nói, trước khi ngộ, ngài Hương Nham là thân nghiệp báo giống hệt như chúng ta. Bị Quy Sơn đại sư hỏi vặn một câu, từ đầu đến cuối chẳng đáp được; đó là phàm phu. Ngài thiện căn, phước đức sâu dầy, nhân duyên lại tốt đẹp, gặp gỡ thiện tri thức thật sự, Ngài cũng thật sự chịu phát phẫn, thật sự chịu y giáo phụng hành, nên mới có ngày triệt ngộ. Những lý luận và phương pháp này, chẳng ít đồng tu đã biết, nhưng hiện thời khiếm khuyết công phu! Công phu khổ hạnh của ngài Hương Nham là một nhân tố khiến cho Ngài khai ngộ; nay chúng ta còn thiếu sót loại công phu ấy. Công phu ấy chính là thật sự hành, hành đến mức vong ngã, hành đến mức quên cảnh, Tịnh Tông thường nói là “thân, tâm, thế giới, hết thảy buông xuống”. Chẳng phải là bảo quý vị chẳng cần đến thân thể, chẳng cần đến thế giới. Chẳng phải vậy! [Mà là] trong tâm đừng nên vướng mắc thân, tâm, thế giới nữa! Đến khi quý vị chẳng có mảy may vướng mắc, khôi phục “vốn chẳng có một vật” như Lục Tổ đã nói thì đúng, đó là cảnh giới của ngài Hương Nham. Vốn chẳng có một vật thì Phiền Não Chướng chẳng có, Sở Tri Chướng cũng chẳng có. Phiền Não Chướng cũng là một vật, Sở Tri Chướng cũng là một vật. Thị phi, nhân ngã, hết thảy cảnh giới đều ở trong tâm, đều là một vật, thảy đều buông những thứ ấy xuống; sau đấy, quý vị mới xử sự, đãi người, tiếp vật sẽ là pháp hỷ sung mãn, từ nội tâm sanh ra hỷ duyệt.

Ở đây, nhắc tới cách nói của Thiền Tông: “Tả hữu phùng nguyên, đầu đầu thị đạo” (Phải trái đều gặp nguồn, chuyện gì cũng là đạo)[1]. Chân Như bản tánh ở chỗ nào? Những cái được tiếp xúc bởi lục căn không gì chẳng phải là chân tánh, thấy Thể, Tướng, Dụng của chân tánh bày ra trước mặt chúng ta. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, thân thể tiếp xúc, toàn là Chân Như bản tánh, đó gọi là “minh tâm kiến tánh”. Người niệm Phật chúng ta gọi cảnh giới ấy là Lý nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm bất loạn là đắc Định, tức là những vọng tưởng, chấp trước ấy chẳng dấy lên hiện hành, chẳng khởi tác dụng, nhưng hoàn toàn chưa đoạn. Đạt đến Lý nhất tâm bất loạn, xác thực là chẳng có phiền não, vọng tưởng, chấp trước hoàn toàn chẳng có, cũng chính là “nhất kích vong sở tri” (vừa đụng bèn quên sạch sở tri) như đang nói ở đây, chẳng có! Khi ấy, “tay múa, chân giẫm theo nhịp”, hình dung sự sung sướng, pháp hỷ sung mãn.

 

(Diễn) “Bất đọa tiễu nhiên cơ”: “Tiễu nhiên cơ”, vị hư vô tịch diệt, trạm nhập hợp trạm đẳng.

()不墮悄然機,悄然機,謂虛無寂滅,湛入合湛等。

(Diễn: “Bất đọa tiễu nhiên cơ”: “Tiễu nhiên cơ” là hư vô tịch diệt, lặng trong ứng hợp với lặng trong v.v…).

Trong kinh luận Đại Thừa, đức Phật thường nói chuyện này. Chẳng hiểu, sẽ chấp trước các danh tướng do đức Phật đã nói, đọa lạc trong danh tướng. Ví như Tịnh Tông nói Lý nhất tâm bất loạn, quý vị [nghe nói như vậy], hằng ngày niệm Phật, vừa niệm vừa nghĩ mãi đến Lý nhất tâm bất loạn: “Ta phải làm sao hòng chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn?” Đấy chính là quý vị đọa lạc trong danh tướng của Lý nhất tâm bất loạn, có thể đắc nhất tâm hay không? Chẳng thể! Vì quý vị có chướng ngại.

 

(Diễn) Kim ư Niết Bàn thiên, dĩ đại minh ngộ, thập phương thế giới, cập dữ thân tâm như phệ lưu ly, nội ngoại minh triệt, cố bất đọa dã.

()今於涅槃天,已大明悟,十方世界,及與身心,如吠琉璃,外明徹,故不墮也。

(Diễn: Nay đối với Niết Bàn thiên đã hiểu rất rõ ràng, mười phương thế giới và thân tâm như ngọc Phệ Lưu Ly[2], trong ngoài sáng tỏ, thấu suốt, nên chẳng đọa).

Đây là thật sự khế nhập, cũng chính là như Khởi Tín Luận đã nói: “Lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên”. Tâm địa thật sự đạt đến thanh tịnh, hợp thành một với hết thảy vạn pháp. Giống như các dòng nước từ sông ngòi đổ vào biển cả, cùng với nước của trăm sông hợp thành một, đó mới là thật sự khế nhập. Nay chúng ta học Phật, chướng ngại lớn nhất là giới hạn. Vốn chẳng có giới hạn, giới hạn là do chính mình vọng tưởng, chấp trước. Chính mình nhất định phân biệt thị phi trong ấy, phân biệt ta và người, vạch ra lắm thứ giới hạn, tự kéo kén trói buộc mình. Chẳng có ai trói buộc quý vị, mà do chính quý vị tạo tác. Chính quý vị chẳng phá tan giới hạn ấy, bất cứ ai cũng chẳng có cách nào giúp đỡ quý vị. Chư Phật, Bồ Tát không thể giúp chúng ta đoạn phiền não, không thể giúp chúng ta phá chấp trước. Phá hết thảy phân biệt, vọng tưởng, chấp trước là chuyện thuộc về bổn phận của chính mình. Người biết dụng công, sẽ dụng công nơi này; kẻ chẳng biết dụng công, sẽ dụng công nơi danh tướng hoặc dụng công nơi giáo điều, vô ích, chẳng có thành tựu! Thật sự có thành tựu thì phải dụng công nơi tâm địa.

Trong công phu nơi tâm địa, chúng ta là người tu Tịnh Tông, tôi đặc biệt nhắc nhở các đồng tu: Tâm thanh tịnh. Bất luận lúc nào, chỗ nào, thuận cảnh, nghịch cảnh, làm thế nào để có thể giữ cho tâm địa của chính mình thanh tịnh, đó là đúng. Tâm địa mỗi năm một thanh tịnh hơn, mỗi tháng một thanh tịnh hơn, đó là “tiệm tu” (漸修: tu tập dần dần), dần dần đi theo phương hướng minh tâm kiến tánh, đi theo con đường ấy. Nếu tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, chính mình phải nghiêm túc phản tỉnh. Sở dĩ ông Viên Liễu Phàm vô cùng lỗi lạc, đáng cho kẻ khác tôn kính, là vì ông ta thật sự chịu phản tỉnh. Ông ta biết khuyết điểm của bản thân, có thể sửa lỗi đổi mới, nên sửa đổi vận mạng có thành tích rõ rệt như vậy. Bản thân chúng ta có khuyết điểm mà không biết, người khác nói ra, chính mình còn bào chữa, che giấu, rất tệ! Kinh Phật gọi hạng người như vậy là Nhất Xiển Đề. Nhất Xiển Đề là chẳng có thiện căn, tối thiểu là chẳng thể cứu trong một đời này. Vì thế, hổ thẹn là thiện căn chân thật trong Phật môn. Trong lời Sao, đại sư đã dùng lý luận ấy để suy luận.

 

(Sao) Tắc diêm tiền thước táo.

()則簷前鵲噪。

(Sao: Chim khách hót trước mái hiên).

“Diêm” (簷) là mái hiên, “thước” là hỷ thước (喜鵲: chim khách), chim khách kêu trước mái hiên.

 

(Sao) Dã ngoại tùng thanh, nhất văn, nhất dăng, nhất thảo, nhất diệp, mạc bất diễn dương diệu pháp, cổ phát đạo tâm, huống thanh tịnh Phật độ hồ?

()野外松聲,一蚊一蠅,一草一葉,莫不演揚妙法,鼓發道心,況清淨佛土乎。

(Sao: Tiếng tùng ngoài đồng, một con muỗi, một con ruồi, một nhánh cỏ, một phiến lá, không gì chẳng diễn dương diệu pháp, cổ vũ, phát khởi đạo tâm, huống là cõi Phật thanh tịnh ư?)

Bất cứ loại căn tánh rất nhạy bén nào, tu học đúng lý, đúng pháp ở trong thế giới này, cũng [sẽ thấy] lục trần thuyết pháp, huống hồ Tây Phương Cực Lạc thế giới! Trong đoạn dưới đây, đại sư giả lập một đoạn vấn đáp:

 

(Sao) Vấn: Giáo trung thánh thuyết pháp, thánh mặc nhiên, nhị bất thiên phế. Kim thủy, điểu, thụ lâm diễn pháp vô dĩ, tắc hữu động vô tĩnh.

()問:教中聖法,聖默然,二不偏廢,今水鳥樹林演法無已,則有動無靜。

(Sao: Hỏi: Trong giáo, [có khi] thánh nhân (Phật Thích Ca) thuyết pháp, [có lúc] thánh nhân im lặng, đối với cả hai điều ấy (thuyết pháp hoặc im lặng), Ngài chẳng riêng bỏ một điều nào! Nay nước, chim, rừng cây diễn pháp không ngớt, tức là [cõi Cực Lạc] luôn động, chẳng tĩnh).

Giả thiết là có người nêu ra [câu hỏi] như vậy. Thuyết pháp, suốt ngày từ sáng đến tối đều thuyết như vậy, khi nghe cũng cảm thấy phiền. Tây Phương Cực Lạc thế giới thuyết pháp chưa hề gián đoạn, ngày đêm đều thuyết, lục trần đều thuyết, Phật cũng thuyết, Bồ Tát thuyết, hết thảy đều thuyết, đến chỗ ấy có đôi chút chẳng thể chịu đựng! Vì thế, nghĩ đến trong thế giới này, khi Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, có lúc Ngài thuyết pháp, có lúc Ngài im lặng, tức là có lúc chẳng nói, có lúc ngưng nghỉ, Ngài trọn chẳng phế bỏ riêng một điều nào trong hai tình trạng ấy. Nay thế giới Tây Phương thuyết pháp không ngừng nghỉ, chúng ta tới đó mong yên tĩnh một chút cũng chẳng được!

 

(Sao) Đáp: Đại Bổn vân, “kỳ dục văn giả, triếp độc văn chi. Kỳ bất dục văn giả, triếp độc bất văn dã”. Tắc tịch dụng tùy tâm, tức động, tức tĩnh.

()答:大本云,其欲聞者,輒獨聞之;其不欲聞者,輒獨不聞也。則寂用隨心,即動即靜。

(Sao: Đáp: Kinh Đại Bổn nói: “Người muốn nghe liền lập tức nghe thấy. Kẻ chẳng muốn nghe bèn lập tức chẳng nghe”. Tức là tịch tĩnh hay động dụng tùy tâm, [do cái tâm của mỗi người] mà là động hay tĩnh).

Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ ràng. Do vậy có thể biết: Tây Phương Cực Lạc thế giới thuyết pháp giống như đài vô tuyến truyền thanh trong cõi này. Quý vị muốn nghe, bất cứ lúc nào vặn đúng băng tần sẽ nghe thấy. Chẳng muốn nghe, tắt đi là được rồi. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng cần phải mở, tắt, bất cứ lúc nào muốn nghe kinh gì bèn có thể nghe kinh đó. Nghe mệt rồi, chẳng muốn nghe nữa, mong yên tĩnh, âm thanh ấy bèn chẳng có nữa. Khi nào lại muốn nghe, âm thanh lại đưa đến, khéo tiếp tục vừa đúng [chỗ đã ngưng lại] trong lần trước, chẳng sót đoạn nào. Mầu nhiệm thay! Thế giới ấy mới là một thế giới thật sự tốt đẹp.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh lý trí giao dung, thị phong thụ nghĩa.

(Sao) Lý hàm vạn pháp như thụ, Trí châu pháp giới như phong. Trí dữ Lý minh, Lý tùy Trí hiển, nhiên nhi phong thụ các bất tương tri. Lý Trí nguyên vô nhị bổn, bách thiên chủng nhạc, bất thị phong tác, bất thị thụ tác, nhân giả tâm tác.

(Diễn) Lý hàm vạn pháp như thụ giả, thụ hữu hàm tàng nghĩa, năng hàm chi diệp hoa quả cố. Lý hàm hằng sa công đức diệc nhiên, cố vân “đạo thụ” dã.

()稱理,則自性理智交融,是風樹義。

()理含萬法如樹,智周法界如風,智與理冥,理隨智顯,然而風樹各不相知,理智原無二本,百千種樂,不是風作,不是樹作,仁者心作。

()理含萬法如樹者,樹有含藏義,能含枝葉花果故,理含恆沙功德亦然,故云道樹也。

(Sớ: Xứng Lý thì Lý và Trí trong tự tánh dung thông lẫn nhau, là ý nghĩa của gió và cây.

Sao: Lý bao hàm vạn pháp như cây, Trí trọn khắp pháp giới như gió. Trí và Lý ngầm hợp, Lý nhờ Trí mà hiển lộ, nhưng gió và cây trọn chẳng biết nhau. Lý và Trí vốn chẳng có hai gốc, trăm ngàn thứ nhạc, chẳng phải do gió tấu lên, chẳng phải do cây phát ra tiếng, mà là do cái tâm của nhân giả tạo tác!

Diễn: “Lý bao hàm vạn pháp như cây”: Cây có ý nghĩa bao hàm vì có thể bao hàm cành, lá, hoa, quả. Lý bao hàm hằng sa công đức cũng giống như thế, vì vậy nói là “cây đạo”).

Vì cây có cành, nhánh, lá, hoa, quả, nên nói đến “cây” liền bao gồm cành, lá, hoa, quả. Sánh ví cây như Lý Thể, tức Chân Như lý thể. “Lý hàm hằng sa công đức diệc nhiên” (Cũng giống như vậy, Lý bao hàm hằng sa công đức), giống hệt như cây. Trong Chân Như bản tánh, bao hàm vô lượng vô biên Tánh Đức, cây tuyệt đối chẳng thể sánh bằng, ngay cả cây nơi đạo tràng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng chẳng thể sánh ví, chỉ có thể tỷ dụ phảng phất. “Cố vân đạo thụ dã” (Nên nói là đạo thụ).

 

(Diễn) Trí châu pháp giới như phong giả, phong hữu châu biến nghĩa, vô xứ bất đáo, cố vân: “Sắc vô biên cố, Bát Nhã diệc vô biên”.

()智周法界如風者,風有周遍義,無處不到,故云色無邊故般若亦無邊。

(Diễn: Trí trọn khắp pháp giới như gió. Gió có ý nghĩa trọn khắp, không chỗ nào chẳng đến. Vì thế nói: “Do sắc vô biên, nên Bát Nhã cũng vô biên”).

Lỗ hổng dù nhỏ tới đâu đi nữa, gió cũng có thể thổi lọt qua. Ở Đại Lục, kể từ mạn Bắc của Trường Giang trở lên, mùa Đông gió rất mạnh, “châm đại đích nhãn, đấu đại đích phong” (mắt to bằng cái kim, gió to bằng cái đấu). Trong quá khứ, nhà cửa tại Trung Quốc Đại Lục, cửa sổ chỉ dùng giấy để phất, chẳng có thủy tinh. Đâm thủng một lỗ nhỏ nơi giấy phất cửa sổ, gió rất mạnh liền thổi lọt qua. Gió được gọi là “không lỗ nào chẳng lọt”, không chỗ nào nó chẳng đến, nên có ý nghĩa trọn khắp. “Cố vân sắc vô biên, cố Bát Nhã diệc vô biên” (Vì vậy, nói: “Do Sắc vô biên, nên Bát Nhã cũng vô biên”). Sắc là nói đến sắc tướng, sắc tướng vô biên. Vô lượng vô biên cõi nước trong hư không pháp giới, đã có quốc độ, tất nhiên có gió. Gió do đâu mà có? Do tâm động mà có! Nếu tâm tưởng của chư vị chẳng động, sẽ chẳng có gió. Hễ động bèn có gió, nên động bèn gọi là gió.

 

(Diễn) Trí dữ Lý minh giả, Như Trí khế Như Lý, như phong chi xuy thụ nhi vô tích.

()智與理冥者,如智契如理,如風之吹樹而無蹟。

(Diễn: Trí và Lý ngầm hợp, Như Trí khế hợp Như Lý, như gió thổi cây chẳng có dấu vết).

“Trí dữ Lý minh giả”, “minh” (冥) có nghĩa là tương ứng, tương khế (khế hợp). “Như Trí khế Như Lý”: Trí như như khế hợp Lý như như. Lý và Trí là một không hai, giống như nước và sữa hòa lẫn, chẳng thể tách rời đâu là sữa, đâu là nước. Nói thật ra, Lý là nói theo Thể, Trí là tác dụng của Thể. Nếu mê mất bản thể, nó sẽ khởi tác dụng là vọng tưởng, chấp trước, tức là chính mình đã mê mất bản thể. Khi ngộ, nó có tác dụng là Trí như như. Trí như như là trí huệ Bát Nhã. Kế đó là tỷ dụ: “Như phong chi xuy thụ nhi vô tích” (Như gió thổi qua cây chẳng có dấu vết). Chẳng có dấu vết, chẳng tìm thấy dấu vết.

 

(Diễn) Lý tùy Trí hiển giả, như như Lý, nhân như như Trí phương hiển.

()理隨智顯者,如如理,因如如智方顯。

(Diễn: Lý do Trí mà hiển, Lý như như do Trí như như mới hiển lộ).

Lý như như là Chân Như bản tánh. Nếu chẳng có Trí như như thì Lý ấy, tức Chân Như bản tánh ở chỗ nào? Quý vị không biết, tìm không thấy. Có Trí như như, điều gì cũng là đạo, đâu đâu cũng gặp nguồn, chẳng có gì không phải [là đạo]. Chẳng nhập cảnh giới ấy, chắc chắn sẽ không thấy. Đối với người ta, thứ gì cũng là đạo, đối với chúng ta, thứ gì cũng chẳng phải là đạo. Người ta là đâu đâu đều gặp nguồn (thuận lợi), chúng ta là thứ gì cũng bị chướng ngại. Ngộ nhập sẽ là [cảnh giới] Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại của Hoa Nghiêm. Chẳng ngộ nhập, chỗ nào cũng trở thành chướng ngại. Lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, vừa tiếp xúc bèn sanh chướng ngại. Do đã mê bèn có chướng ngại, nẩy sanh phiền não; hễ ngộ, vừa tiếp xúc bèn sanh trí huệ. Trong cuộc sống hằng ngày, trong tâm chúng ta thường sanh phiền não. Lục Tổ thưa với Ngũ Tổ: “Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ”. Chúng ta thấy câu ấy rất hổ thẹn, chúng ta thường sanh phiền não, người ta thường sanh trí huệ, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần bèn sanh trí huệ. Cũng có nghĩa là,  Ngài thật sự đạt đến  “đâu đâu cũng gặp  nguồn, chuyện  gì  cũng  là đạo”. Vì thế, Lý như như nhờ vào Trí như như thì mới có thể hiển lộ.

 

(Diễn) Như thụ chi nhân phong nhi hữu thanh, nhiên nhi phong bất tri thụ, thụ bất tri phong, phong thụ các trụ tự vị, sở vị “các các bất tương đáo, các các bất tương tri”.

()如樹之因風而有聲,然而風不知樹,樹不知風,風樹各住自位,所謂各各不相到,各各不相知。

(Diễn: Như cây do gió mà có tiếng, nhưng gió chẳng biết cây, cây chẳng biết gió. Gió và cây mỗi thứ đều trụ trong vị trí của chính mình, tức là mỗi thứ đều chẳng đến với nhau, đều chẳng biết tới nhau).

 Trong Pháp Hoa và Tam Luận, đức Phật đều nói đến ý nghĩa này.

 

(Diễn) Hoa Nghiêm vân: “Thí như trường phong khởi, ngộ vật hàm cổ phiến, các các bất tương tri, nhất thiết pháp như thị”.

()華嚴云:譬如長風起,遇物咸鼓扇,各各不相知,一切法如是。

(Diễn: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như gió mạnh trỗi, gặp vật đều khua động, mỗi thứ chẳng biết nhau, hết thảy pháp như vậy”).

“Cổ phiến” (鼓扇) là gió thổi đến nó, nó cũng có thể phát ra âm thanh. “Các các bất tương tri, nhất thiết pháp như thị” cũng chính là “chư pháp trụ pháp vị” như kinh Pháp Hoa đã nói, “chư pháp” là hết thảy các pháp, ai nấy đều tự ở đúng vị trí của mình thì gọi là “chư pháp trụ pháp vị”. “Thế gian tướng bất diệt”, [nghĩa là] tướng thế gian chẳng hoại, chẳng diệt. Vì sao? “Các các bất tương đáo, các các bất tương tri” (Các pháp chẳng đến nhau, các pháp chẳng biết nhau), hoàn toàn do trong Chân Như bản tánh biến hiện, tự tánh khởi tác dụng. Nếu chư vị nghe mà không hiểu rõ ý nghĩa này, chúng tôi nêu một tỷ dụ để quý vị hiểu đôi chút chân tướng này. Nay chúng ta xem TV, hình ảnh trên TV do từng đốm rất nhỏ (pixel) hợp thành hình tượng. Trong hình ảnh ấy, mỗi đốm sáng có vị trí riêng của nó, đốm sáng này chẳng lấn sang đốm sáng kia, đốm sáng kia cũng chẳng lấn sang đốm sáng này. “Các các bất tương tri” (Mỗi mỗi đều chẳng biết): Bất luận hình ảnh biến như thế nào, chúng (các đốm sáng) vẫn chẳng biết đến nhau, mỗi đốm đều ở đúng vị trí của chính mình, mà cũng chẳng có biến động tí nào, tình hình từa tựa như thế đó. Tận hư không khắp pháp giới, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, sâm la vạn tượng hoàn toàn giống như nguyên lý này.

Do đó, kinh nói “bất lai, bất khứ” (chẳng đến, chẳng đi) là thật, quý vị nghĩ “ta từ nhà đến giảng đường”, há có chuyện ấy! Quý vị ngỡ chính mình từ nhà đến giảng đường, đó là mê, chẳng giác ngộ. Nếu quý vị giác ngộ, từ trong nhà cũng chẳng ra khỏi cửa, cũng chẳng rời khỏi giảng đường này, mầu nhiệm thay! Chân tướng là gì? Kinh Lăng Nghiêm đã dạy: “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận” (Sanh ra từ nơi đâu, bèn diệt mất ngay nơi đó). Nếu quý vị chẳng thể thấu hiểu, hãy lại nghĩ đến màn hình trong máy TV, những hình ảnh đó “đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận”, “các các bất tương đáo, các các bất tương tri”, chuyện là như vậy đó. Quý vị có trí huệ thì mới có thể thấy chân tướng. Chân tướng là bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhơ, chẳng tịnh, nói toạc chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Toàn thể là diệu dụng của tự tánh, tận hư không khắp pháp giới là diệu dụng của tự tánh; vì thế, mầu nhiệm đến tột bậc! Tạo ra một cái màn hình nho nhỏ, chúng ta đã thấy đẹp đẽ khôn xiết, vô cùng yêu thích. Tạo thành toàn thể vũ trụ to tát, há chẳng phải là càng kỳ diệu hơn ư? Chân tướng sự thật xác thực là như thế.

 

(Diễn) Lý Trí diệc nhiên, Lý ngoại vô Trí, Trí ngoại vô Lý, Lý Trí diệc vô nhị bổn.

()理智亦然,理外無智,智外無理,理智亦無二本。

(Diễn: Lý và Trí cũng thế, ngoài Lý chẳng có Trí, ngoài Trí chẳng có Lý. Lý và Trí cũng chẳng có hai gốc).

“Lý Trí cũng chẳng có hai gốc”, là một, không hai. “Ngoài Lý không có Trí, ngoài Trí chẳng có Lý”, là một, không hai. Một là chân thật, nên gọi là Nhất Chân pháp giới. Khế nhập như thế nào? Khi nào quý vị niệm Phật đến mức Lý nhất tâm bất loạn sẽ nhập cảnh giới này, cảnh giới này là diệu cảnh do quý vị đích thân chứng nhập. Tuy đích thân chứng nhập, diệu cảnh vẫn ở trước mắt, trọn chẳng phải là lìa khỏi trước mắt bèn có một cảnh giới khác xuất hiện, chẳng phải vậy! Vì thế, sau khi khế nhập, thấy núi vẫn là núi, thấy nước vẫn là nước. Nhưng khi ấy, sự thọ dụng trong tâm sai khác rất lớn, trước kia, thấy núi là núi, thấy nước là nước, nhưng có chướng ngại, chẳng tự tại, nay thấy núi là núi, thấy nước là nước, nhưng đắc đại tự tại, chẳng có chướng ngại mảy may.

 

(Diễn) Nhiên các bất tương tri, phi thị ngôn kỳ nhị bổn, nãi ngôn kỳ tự nhiên giao dung dã, hữu bất giả tạo tác, thiên nhiên dung hội ý.

()然各不相知,非是言其二本,乃言其自然交融也,有不假造作,天然融會意。

(Diễn: Nhưng mỗi pháp chẳng biết nhau, chẳng phải là nói chúng có hai gốc [khác biệt], mà là nói chúng tự nhiên dung thông, chẳng cậy vào tạo tác, tức là nói theo ý nghĩa tự nhiên dung hội).

 Tuy mỗi pháp chẳng biết nhau, chẳng phải là nói chúng vốn là hai, vì chúng vốn là một, không hai. “Nãi ngôn kỳ tự nhiên giao dung dã, hữu bất giả tạo tác, thiên nhiên dung hội ý”, câu này rất quan trọng! Hiện thời, rất nhiều người tu hành gượng ép cho chúng dung thông, nhưng chẳng có cách nào, chẳng thể dung thông được! Nhất định phải xuất phát từ tự nhiên. Nay chúng ta nói thành lập một tăng đoàn, từ bốn người trở lên cùng tu Lục Hòa Kính, miễn cưỡng ghép lại, đó là chẳng tự nhiên. Khi nào sẽ tự nhiên? Mọi người đều đạt được tâm thanh tịnh thì sẽ tự nhiên; trong tâm chẳng có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đó là tự nhiên. Còn có chấp trước, còn có phân biệt, sẽ là miễn cưỡng tụ hợp. Dẫu ở chung một chỗ, bản thân mỗi người đều phải kiềm chế chính mình, chẳng tự nhiên. Nếu chư vị hiểu đạo lý này, mới hiểu vì sao một tăng đoàn được chư Phật Như Lai hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ? Bốn người ở chung với nhau [tâm thanh tịnh, cùng tu Lục Hòa Kính], sẽ chẳng phải là phàm phu, mà là thánh nhân! Trong tâm lìa khỏi hết thảy vọng tưởng, chấp trước, sẽ là thánh nhân, chẳng phải là phàm phu. Vì thế, trên là cảm ứng với chư Phật, Bồ Tát, dưới thì cũng khởi cảm ứng với hết thảy rồng, trời, quỷ thần, đạo lý là như vậy đó. Miễn cưỡng học, sẽ học chẳng được!

Phải học như thế nào? Phải học từ trong nội tâm, công phu nơi tâm địa. Ngay cả Liễu Phàm Tứ Huấn nói về chuyện sửa đổi vận mạng đều là cầu từ tâm địa. Cầu từ trong nội tâm, thật sự là trong ngoài đều đắc, chẳng có gì không đạt được. Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng. Cứ một mực hướng ra ngoài rong ruổi cầu tìm, sẽ chẳng tìm được. Dẫu có cầu được, cũng là do trong mạng đã có. Trong mạng chẳng có, cầu cách nào cũng chẳng cầu được. Người hiểu lý, người biết cầu, quyết định sẽ không cầu từ bên ngoài. Ngay cả tiếng tăm, lợi dưỡng, hưởng thụ ngũ dục lục trần trong thế gian, như thường nói “cầu phú quý được phú quý, cầu con cái được con cái”, đều phải cầu từ nội tâm, chẳng phải là cầu từ bên ngoài. Nguyên lý là Thể, Tướng, Dụng tuy ba mà một, là một chuyện, một mà ba, ba mà một, cho nên nó “tự nhiên giao dung, bất giả tạo tác” (tự nhiên dung thông, chẳng cần phải tạo tác).

 

(Diễn) Như thử thuyết, phương dữ hạ cú “nguyên vô nhị bổn” hợp, “bách thiên chủng nhạc” hạ, hội quy nhất tâm.

()如此,方與下句原無二本合。百千種樂下,會歸一心。

(Diễn: Nói như vậy thì mới phù hợp với câu “vốn chẳng có hai gốc” trong đoạn sau. Từ câu “trăm ngàn thứ nhạc” trở đi là gom về nhất tâm).

“Lý Trí nguyên vô nhị bổn, bách thiên chủng nhạc, bất thị phong tác, bất thị thụ tác, nhân giả tâm tác” (Lý và Trí vốn chẳng có hai gốc, trăm ngàn loại nhạc chẳng phải do gió tấu, chẳng phải do cây phát ra, mà do cái tâm của nhân giả tạo tác). Thuở ấy, Lục Tổ đại sư ở chùa Quang Hiếu, gặp lúc ngài Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn, gió thổi động lá phan. Có hai người đang tranh luận tại đó, một người nói là phan động, người kia nói là gió động, Tổ nghe xong liền bảo: “Chẳng phải là gió động, cũng chẳng phải là phan động, mà do tâm nhân giả động”. Do vậy có thể biết: Người khác thấy tướng, Lục Tổ thấy tánh. Theo tướng, sẽ chẳng thể giải quyết vấn đề, chỉ có xét theo tánh thì mới có thể giải quyết vấn đề triệt để.

Hiện thời, cả thế giới động loạn… Ai cũng đều chẳng có cách khống chế cục diện này, ổn định nó. Nói theo Phật pháp thì đó là do “cộng nghiệp” của chúng sanh [cảm vời], Phật pháp có năng lực ổn định cục diện ấy hay không? Có! Tuy có, nhưng người ta chẳng tin tưởng thì chẳng có cách nào cả! Chúng ta sống trong thời đại này, hiểu đạo lý Phật pháp, trước hết hãy ổn định chính mình. Tâm mọi người đều động, tâm ta bất động. Bất động sẽ thấy rành rẽ tất cả các tướng động. Quý vị hiểu trong thời đại này, chính mình phải nên sống như thế nào, tu hành ra sao, đối với cá nhân chúng ta mà nói, quyết định chẳng nẩy sanh chướng ngại. Đó là cái hay của Phật pháp. Nếu quý vị chẳng có năng lực này, toàn thể xã hội biến động sẽ gây trở ngại cho quý vị. Quý vị thật sự có công phu này, sẽ chẳng bị trở ngại.

Lão cư sĩ Vương Thiên Dân từng làm đoàn trưởng của Đài Bắc Liên Hữu Niệm Phật Đoàn. Cụ là trung tướng giải ngũ, là tham mưu trưởng của tư lệnh binh đoàn vào cuối thời kỳ Kháng Chiến, địa vị khá cao. Cụ kể với tôi một câu chuyện: Tại nơi họ đóng quân, có một lão đạo sĩ có thần thông. Có lần, lão đạo sĩ bảo bọn họ là ông ta thấy ở một nơi rất xa, có một cuộc chiến rất lớn, rất đáng sợ. Ông ta chỉ ra phương vị, khoảng cách bao xa, ông ta thấy được mà! Bọn họ là tướng lãnh cao cấp, hiểu khá rõ tình hình chiến tranh trên cả thế giới, nghĩ không ra vì sao nơi ấy có chiến tranh. Chẳng bao lâu sau, người Nhật đánh úp Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), bọn họ mới vỡ lẽ: Trước khi chiến sự bộc phát tại Trân Châu Cảng ba tuần, lão đạo sĩ đã trông thấy, chỉ ra phương vị, chỉ ra khoảng cách, thật sự có thần thông!

Còn có một lần, lão đạo sĩ bảo họ: “Các Ngài hãy ngay lập tức chuyển chỗ, ba ngày sau, chỗ này sẽ bị lụt lớn”. Rất nhiều người không tin, chẳng có dấu hiệu chi hết, tiết trời trong trẻo, chẳng có mưa, làm sao có lụt to cho được? Kết quả là họ liền sai người theo dõi lão đạo sĩ, vì miếu của lão đạo sĩ cách chỗ họ chẳng xa cho mấy. Họ thấy lão đạo sĩ dọn đến chỗ cao hơn, họ cảm thấy cũng có lý đôi chút, bèn chuyển chỗ đóng quân. Tới ngày thứ ba, mưa to, lũ lụt bất ngờ bộc phát, chỗ ấy quả nhiên bị nước nhấn chìm. Đưa ra cảnh cáo trước ba ngày, đích xác là có thần thông.

Khi chánh phủ [Trung Hoa Dân Quốc] dời sang Đài Loan, lão đạo sĩ khuyên họ: “Chỗ này sẽ có động loạn, các vị hãy qua Đài Loan”. Vương tiên sinh hỏi: “Ông có muốn đi theo chúng tôi hay không?” Lão đạo sĩ đáp: “Tôi không cần đi, tôi ở đây không sao cả!” Thần thông, năng lực của vị đạo sĩ ấy từ trong Thiền Định mà có. Định có thể sanh ra thần thông, có phải do tu thành hay không? Chẳng phải do tu, tâm địa thanh tịnh đạt đến một mức độ kha khá, năng lực ấy sẽ tự nhiên khôi phục, sẽ tự nhiên có. Thần thông hiện tiền, đích xác là có thể hướng lành, tránh dữ. Khi tai nạn xảy đến, bèn biết trước để có thể tránh né, tự nhiên người ấy có năng lực đó, phàm phu chúng ta chẳng thể biết.

 

Tam, tổng kết nhị nghiêm.

三總結二嚴。

(Ba là tổng kết hai thứ trang nghiêm).

Y báo và chánh báo, đó là hai thứ trang nghiêm.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ, thành tựu như thị công đức trang nghiêm.

(Sớ) Kết thượng hóa cầm, phong thụ nhị chủng trang nghiêm.

()舍利弗。其佛國土。成就如是功德莊嚴。

()結上化禽風樹二種莊嚴。

(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế.

Sớ: Tổng kết hai thứ trang nghiêm là chim biến hóa và gió thổi qua cây báu được nói trong phần trước).

Câu kinh văn này tổng kết [sự việc] chim biến hóa và gió thổi qua cây được nói trong phần trước. Hữu tình và vô tình thuyết pháp, hai thứ trang nghiêm.

 

(Sớ) Giai bỉ Phật nhân địa nguyện hạnh công đức sở thành tựu dã; hựu biến hóa công đức, Đại Thừa công đức đẳng, tứ chủng thành tựu, như Luận trung thuyết tiền hậu công đức, phồn bất các hệ điều hạ.

()皆彼佛因地願行功德所成就也;又變化功德,大乘功德等,四種成就,如論中前後功德,繁不各係條下。

(Sớ: Đều do công đức nơi nguyện và hạnh của đức Phật khi tu nhân mà thành tựu. Lại do công đức biến hóa, công đức Đại Thừa v.v… bốn thứ [công đức] thành tựu, còn như trong [Vãng Sanh] Luận đã nói các công đức trước và sau [bốn thứ công đức ấy], do rườm rà nên chẳng nêu rõ điều nào tương ứng với đoạn kinh văn nào).

“Luận” là Vãng Sanh Luận. Trước hết phải nói đến đại nguyện và đại hạnh của Phật Di Đà trong khi tu nhân. “Nguyện” là bốn mươi tám nguyện, “hạnh” là tu hành trong năm kiếp, chúng ta đã đọc những điều này từ kinh Vô Lượng Thọ.

 

(Diễn) Tiền hậu công đức, phồn bất các hệ điều hạ giả, Thiên Thân tác Vãng Sanh Luận dĩ thích thử kinh.

()前後功德繁不各係條下者,天親作往生論以釋此經。

(Diễn: “Các công đức trước và sau [bốn thứ công đức ấy], do rườm rà nên chẳng nêu rõ điều nào tương ứng với đoạn kinh văn nào”, ngài Thiên Thân soạn Vãng Sanh Luận để giải thích kinh này).

 Vãng Sanh Luận giải thích kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ, vì hai kinh ấy vốn là cùng một bổn. Ngài chú giải rất đơn giản, lời văn chẳng dài lắm, phần trước là kệ tụng, phần sau là trường hàng, “ngôn giản ý cai” (言簡意賅), [tức là] ngôn ngữ đơn giản, ý nghĩa hết sức viên mãn, nhưng người sơ học đọc Vãng Sanh Luận vẫn thấy khá khó khăn. Dù xem bản Chú Giải của Đàm Loan đại sư, văn tự cũng khá sâu. Hiện thời, đối với kinh luận Tịnh Độ Tông, khế cơ nhất không gì bằng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ của cư sĩ Hạ Liên Cư. Vãng Sanh Luận là báo cáo tâm đắc trong tu học của chính Thiên Thân Bồ Tát.

 

(Diễn) Bỉ luận tụng trung, hữu thập thất chủng công đức thích thử kinh công đức trang nghiêm.

()彼論頌中,有十七種功德釋此經功德莊嚴。

(Diễn: Trong phần kệ tụng của luận tụng ấy, có nêu ra mười bảy thứ công đức để giải thích công đức trang nghiêm của kinh này).

Từ hai kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn, Ngài đã quy nạp vạn đức trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới thành mười bảy loại.

 

(Diễn) Dĩ tụng đối kinh, tiền hậu giai minh hiển khả tri, cố bất phồn dẫn.

()以頌對經,前後皆明顯可知,故不繁引。

(Diễn: Đem bài kệ tụng ấy đối chiếu với kinh thì trước sau đều có thể nhận biết rõ ràng, nên chẳng cần trích dẫn rườm rà).

 Ở đây, Liên Trì đại sư tỉnh lược, chẳng đối chiếu từng điều trong mười bảy thứ công đức được nói trong Vãng Sanh Luận với kinh này. Trong chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã đem toàn bộ mười bảy thứ công đức trong Vãng Sanh Luận đối chiếu với kinh, đối chiếu từng điều một.

 

(Diễn) Độc thử kinh hóa cầm phong thụ nhị chủng trang nghiêm, dẫn đối bỉ tụng, biến hóa Đại Thừa đẳng tứ chủng công đức giả, dĩ bỉ tụng trung, khuyết Phật hóa tác cập vô ác đạo nhị nghĩa, cố kim đặc dẫn dĩ phát minh chi.

()獨此經化禽風樹二種莊嚴,引對彼頌。變化大乘等四種功德者,以彼頌中,缺佛化作及無惡道二義,故今特引以發明之。

(Diễn: Chỉ riêng đối với hai thứ trang nghiêm trong kinh này là chim biến hóa và gió thổi qua cây là dẫn phần kệ tụng trong luận ấy để đối chiếu, [nhằm chỉ ra hai thứ trang nghiêm được nói ở đây] tương ứng với bốn thứ công đức như biến hóa, Đại Thừa v.v…, vì luận ấy thiếu phần luận định về hai ý nghĩa “Phật biến hóa” và “chẳng có ác đạo”, nên nay đặc biệt dẫn ra để nêu rõ).

Chúng ta xem đoạn Sao tiếp theo, sẽ thấy rất rõ ràng.

 

(Sao) Nguyện sở thành giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, ngã sát trung nhân, tùy kỳ chí nguyện sở dục văn giả, tự nhiên đắc văn”, cố điểu thụ giai thành diệu pháp âm dã.

()願所成者,大本法藏願云:我作佛時,我剎中人,隨其志願所欲聞者,自然得聞,故鳥樹皆成妙法音也。

(Sao: “Do nguyện mà thành tựu”: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng đã nguyện: “Khi tôi thành Phật, người trong cõi tôi, tùy theo chí nguyện muốn được nghe, sẽ tự nhiên được nghe”. Vì thế, chim và cây đều phát ra pháp âm mầu nhiệm).

Nói rõ các loài chim, gió và cây trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều diễn pháp, là do công đức từ bổn nguyện của A Di Đà Phật tạo thành, phần kinh văn bốn mươi tám nguyện là căn cứ [cho nhận định này].

 

(Sao) Hạnh sở thành giả, Đại Bổn nguyện hậu tu hành. Như vân: “Thường dĩ hòa nhan ái ngữ, nhiêu ích chúng sanh”.

()行所成者,大本願後修行,如云:常以和顏愛語,饒益眾生。

(Sao: “Do hạnh mà thành tựu”: Theo kinh Đại Bổn, sau khi phát nguyện, [ngài Pháp Tạng] tu hành. Kinh chép: “Thường dùng vẻ mặt hiền hòa, lời nói mềm mỏng để tạo lợi ích cho chúng sanh”).

Cổ nhân hình dung “hòa nhan ái ngữ” như gió Xuân, như được hưởng gió Xuân. Gặp một vị thiện tri thức, hoặc một vị thầy tốt, thân cận họ, nghe họ giảng giải, dạy bảo, sẽ có cảm nhận như đang hưởng gió Xuân, có ý nghĩa ấy, lợi lạc chúng sanh.

 

(Sao) Thị dĩ đắc thành phong xuy lâm thụ, giai xuất diệu âm cố. Như vân: Ư Phật, Pháp, Tăng, tín trọng, cung kính, thị dĩ đắc thành chúng sanh văn giả, hàm niệm Tam Bảo cố.

()是以得成風吹林樹,皆出妙音故。如云:於佛法僧,信重恭敬,是以得成眾生聞者,咸念三寶故。

(Sao: Do vậy, thành ra gió thổi qua rừng cây đều phát ra âm thanh mầu nhiệm. Như nói: “Đối với Phật, Pháp, Tăng, tin tưởng, tôn trọng, cung kính”. Do vậy, được thành: Chúng sanh nghe xong đều niệm Tam Bảo).

 Đoạn này nói về công đức được thành tựu bởi đại hạnh của A Di Đà Phật. Nguyện và hạnh đều dựa trên kinh Vô Lượng Thọ để nói, [kinh ấy nói] tường tận hơn những điều được nêu ra ở đây.

 

(Sao) Biến hóa công đức giả, như Luận tụng vân.

()變化功德者,如論頌云。

(Sao: “Biến hóa công đức” là như bài tụng trong Vãng Sanh Luận đã nói).

Trong Luận đã nêu ra mười bảy loại công đức, trong ấy có câu này (“biến hóa công đức”). Kệ tụng trong Vãng Sanh Luận có nói:

 

(Sao) Chủng chủng tạp sắc điểu, các các xuất nhã âm, văn giả niệm Tam Bảo, vong tướng nhập nhất tâm.

()種種雜色鳥,各各出雅音,聞者念三寶,忘相入一心。

(Sao: Các thứ chim nhiều màu, đều hót tiếng hòa nhã, người nghe niệm Tam Bảo, quên tướng, nhập nhất tâm).

Những loài chim này do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra. Luận nói như vậy là có căn cứ. Kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà đều nói rất rõ ràng: Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có chim thật sự. Chim [bình phàm] thuộc về súc sanh đạo, còn những con chim này là do “A Di Đà Phật muốn cho pháp âm được tuyên lưu, nên biến tạo ra”. Vì thế, các con chim thuyết pháp chính là A Di Đà Phật thuyết pháp.

 

(Sao) Đại Thừa công đức giả, như Luận tụng vân: “Đại Thừa thiện căn giới, đẳng vô cơ hiềm danh, nữ nhân cập căn khuyết, Nhị Thừa chủng bất sanh”, thị dã. Đẳng giả, đẳng hư không cập tánh dã.

()大乘功德者,如論頌云:大乘善根界,等無譏嫌名,女人及根缺,二乘種不生,是也;等者,等虛空及性也。

(Sao: “Công đức Đại Thừa”: Như bài kệ tụng trong Vãng Sanh Luận có nói: “Giới thiện căn Đại Thừa, bình đẳng, không tên xấu, nữ nhân, và căn thiếu, tánh Nhị Thừa chẳng sanh” là ý này. “Đẳng” nghĩa là tánh như hư không).

Vãng Sanh Luận cũng có nói như vậy. “Đại Thừa thiện căn giới”. Chữ “đẳng” [trong câu “đẳng vô cơ hiềm danh”] có nghĩa là bình đẳng. Chẳng có những danh xưng đáng chê bai, ghét bỏ, “cơ hiềm danh” (譏嫌名: danh xưng đáng chê trách, bị ghét bỏ) chính là danh xưng ác đạo. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là những danh xưng ấy. Nghe danh xưng ấy, chúng ta đều chán ghét, không ưa thích. Thế giới Cực Lạc không chỉ chẳng có ba ác đạo, mà danh xưng ba ác đạo cũng chẳng có. “Nữ nhân cập căn khuyết” (Nữ nhân và căn thiếu), “căn khuyết” là tàn tật. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có nữ nhân, chẳng có kẻ tàn tật, cũng chẳng có Nhị Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác). Câu này rất trọng yếu! Nói rõ Tây Phương Cực Lạc thế giới là một pháp giới thuần nhất Bồ Tát. Trừ phi quý vị chẳng vãng sanh, chứ đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều là Bồ Tát. Chúng ta đã thấy kinh Vô Lượng Thọ nhiều lần đề cập, trong bốn mươi tám nguyện cũng nói rõ ràng, thế giới ấy xác thực là Nhất Chân pháp giới. Kinh lại còn nhiều lượt nói rõ, người bên ấy “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (đều cùng tuân hành tu tập đức của Phổ Hiền đại sĩ). Nói cách khác, trong thế giới Cực Lạc, toàn bộ đều là Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát rất đông, có địa vị Sơ Tín, địa vị Nhị Tín, cho đến Đẳng Giác. Từ địa vị Sơ Tín đến địa vị Đẳng Giác có năm mươi mốt cấp bậc, toàn bộ đều là Phổ Hiền Bồ Tát, đều tu đức của Phổ Hiền đại sĩ. Kinh Hoa Nghiêm gọi đức của Phổ Hiền đại sĩ là Thập Đại Nguyện Vương.

Do vậy, các đồng tu cầu sanh Tịnh Độ, chớ nên không biết “Phổ Hiền đại sĩ chi đức”. Tốt nhất là hãy nên tu học, vì tu học [hạnh nguyện Phổ Hiền] thì mới đồng tâm, đồng nguyện, đồng hạnh với các vị thượng thiện nhân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, nguyện tương đồng là điều rất trọng yếu. Vì lẽ đó, cư sĩ Ngụy Nguyên đã ghép phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện vào sau ba kinh, gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh. Tổ Ấn Quang lại thêm Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương của kinh Lăng Nghiêm vào sau bốn kinh Tịnh Độ, biến thành Tịnh Độ Ngũ Kinh, do vậy mà có ngũ kinh. Năm kinh một luận là kinh điển Tịnh Tông đầy đủ nhất, sau này chẳng cần thêm vào nữa, đã viên mãn rồi! Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương gồm hai trăm bốn mươi chữ là Tâm Kinh của Tịnh Độ. Chư vị phải biết: Tịnh Tông là tinh hoa trong giáo pháp suốt một đời đức Phật. Đã là Tâm Kinh của Tịnh Độ Tông thì phải là Tâm Kinh của toàn thể Phật pháp, chẳng biết công đức lớn hơn Bát Nhã Tâm Kinh bao nhiêu lần. Người bình phàm chẳng biết điều này. Nếu thật sự hiểu rõ, vì lợi ích thiết thực trong sự tu học của chúng sanh trong hiện thời, trong khóa tụng hoặc trong pháp hội, hãy nên đổi Tâm Kinh thành Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương thì mới là đúng. Tâm Kinh là tinh hoa của Đại Bát Nhã, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương là tinh hoa của toàn thể Đại Tạng Kinh, [Tâm Kinh] chẳng thể sánh bằng! Nghi thức khóa tụng do cổ nhân định ra nhằm khế hợp căn tánh chúng sanh trong thời đại ấy. Họ tu Bát Nhã, tu Pháp Tướng có thể đạt được một chút thành tựu. Họ định ra công khóa ấy, nay chúng ta tu, chẳng đạt được hiệu quả, nếu chính mình phản tỉnh, kiểm điểm chuyện này, sẽ phát hiện và cũng thừa nhận.

Chúng ta niệm kinh Kim Cang, niệm Tâm Kinh, có mấy ai có thể làm được “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”? Quý vị chẳng Không được, chẳng làm nổi! Kinh Kim Cang nói: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, quý vị có thể làm được hay không? Kinh chẳng sai lầm, chỉ là chẳng khế hợp căn tánh của người hiện thời. Người hiện thời vọng tưởng, chấp trước tăng trưởng hơn người trong quá khứ ngàn vạn lần! Trước kia, xã hội đơn thuần, chẳng suy nghĩ loạn xạ; xã hội hiện tại quá phức tạp, bất cứ chuyện nhỏ nhặt nào xảy ra ở bất cứ đâu trên toàn thể thế giới, TV, báo chí đều loan tải, quý vị biết ngay lập tức. Xưa kia, nơi xa xôi xảy ra chuyện, mấy tháng sau còn chưa biết. Do không biết, tâm thanh tịnh! Khi biết chuyện ít, phiền não sẽ ít. Biết nhiều người, lắm nỗi thị phi! Trước kia, giao thông chẳng thuận tiện, chẳng quen biết nhiều người cho lắm, sống ở nơi này, ở chỗ quanh đây mấy dặm đường thì biết, hễ xa hơn một chút sẽ không biết. Chẳng có phương tiện giao thông, phải đi bộ, rất vất vả, mỗi ngày đi được ba bốn chục dặm [là cùng]! Vì thế, chẳng có chuyện gì cần thiết, họ cũng chẳng đi xa, thôn trang này và thôn trang kia cho đến già chết chẳng qua lại với nhau, tâm họ thanh tịnh lắm! Hiện thời, giao thông thuận tiện, nhanh chóng, đi lung tung khắp nơi trên toàn thế giới, thấy rất nhiều, nghe rất nhiều, thị phi phiền não quá nhiều, quả thật chẳng bằng trước kia!

Đối với thế giới Tây Phương, chúng sanh trong chín pháp giới chỉ cần trọn đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, chẳng có ai không vãng sanh. Thế giới Tây Phương là thế giới bình đẳng, sau khi sanh về nơi ấy, đều là thân sắc vàng, tướng mạo giống hệt như Phật, cư trụ, ăn uống, quần áo, hưởng thụ cũng tương đồng, chẳng có điều gì khác biệt. Trong hết thảy các cõi Phật khắp mười phương, chẳng có chuyện này. Mười phương các cõi Phật gần giống như cõi Sa Bà, sự hưởng thụ vật chất và tinh thần tùy thuộc sự tu trì của quý vị mà đạt được, bất bình đẳng. [Chỗ bất bình đẳng trong] Tây Phương Cực Lạc thế giới là công phu đoạn chứng bất bình đẳng, công phu nội chứng từ địa vị Sơ Tín cho đến địa vị Đẳng Giác là năm mươi mốt cấp bậc, đó là bất bình đẳng, nhưng bên ngoài hoàn toàn bình đẳng, chẳng thể nghĩ bàn, là pháp khó tin! “Đẳng hư không cập tánh” (Tánh bình đẳng, như hư không).

 

(Diễn) Hư không công đức giả. Tụng vân: “Vô lượng bảo giao lạc, la võng hư không trung, chủng chủng linh phát hưởng, tuyên thổ diệu pháp âm”. Tánh công đức giả, chánh đạo đại từ bi, xuất sanh thiện căn cố.

()虛空功德者,頌云:無量寶交絡,羅網虛空中,種種鈴發響,宣吐妙法音。性功德者,正道大慈悲,出生善根故。

(Diễn: “Hư không công đức”:  Bài kệ [trong Vãng Sanh Luận] có đoạn: “Vô lượng báu giăng xen, lưới mành phủ hư không, các thứ linh vang tiếng, tuyên nói diệu pháp âm”. “Tánh công đức” là chánh đạo đại từ bi, xuất sanh các căn lành).

Bài kệ trên đây nói về công đức trên hư không, lưới mành giao xen trên không trung, ở mỗi chỗ mành lưới giao tiếp, buộc một cái linh báu. Gió thổi linh báu phát ra âm thanh cũng là diệu âm thuyết pháp. “Chánh đạo đại từ bi, xuất sanh thiện căn cố” (Chánh đạo đại từ bi, xuất sanh các căn lành), đó là tánh công đức, tức Chân Như bản tánh. Những điều này nhằm bổ sung những chỗ đại sư chưa trích dẫn đầy đủ trong phần trước để chúng ta có thể thấy ý nghĩa hoàn chỉnh. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây!

 

— o0o —

Tập 182

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm tám mươi mốt:

 

(Sao) Tiền hậu như thị công đức trang nghiêm hạ, bất các hệ luận tụng, dĩ kim tụng nhất khuyết hóa tác, nhị khuyết ác đạo, cố đặc minh chi. Ngôn chúng điểu xuất âm, nhược phi Phật tác, yên năng thính giả vong tướng nhất tâm dã.

()前後如是功德莊嚴下,不各係論頌,以今頌一缺化作,二缺惡道,故特明之。言眾鳥出音,若非佛作,焉能聽者忘相一心也。

(Sao: Từ câu “các công đức trước và sau hai thứ trang nghiêm như thế, chẳng đối chiếu với bài tụng trong Vãng Sanh Luận [để trình bày từng điều]” vì bài tụng một là thiếu ý [các loài chim ấy do đức Phật] hóa thành, hai là thiếu ý [chúng không thuộc về] ác đạo, nên đặc biệt giảng rõ. Nói các loài chim phát ra âm thanh, nếu chẳng phải là do Phật biến hóa thì làm sao có thể khiến cho người nghe quên tướng, nhất tâm được?)

Đoạn này nhằm giải thích câu “như luận trung thuyết tiền hậu công đức, phồn bất các hệ” (như đối với các thứ công đức trước và sau bốn thứ công đức (biến hóa, Đại Thừa, hư không, và tánh công đức) [được nói trong luận Vãng Sanh], do rườm rà nên chẳng đối chiếu từng điều [với chánh kinh] để giải thích những sự trang nghiêm). “Chúng điểu xuất âm” (Các loài chim phát ra âm thanh), ở đây bổ sung thêm một câu: Nếu chúng chẳng do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra, sẽ chẳng có năng lực nhiếp thọ rất lớn. Chim thuyết pháp, chúng ta nghe xong, có thể khế nhập chân tánh, tự nhiên nẩy sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, có sức mạnh nhiếp thọ to lớn dường ấy, nhất định chúng là do A Di Đà Phật biến hóa tạo ra. Vì người vãng sanh, địa vị là Đẳng Giác Bồ Tát cao cả, hãy nghĩ xem ai có tư cách thuyết pháp cho Đẳng Giác Bồ Tát? Đương nhiên là A Di Đà Phật! Chúng ta phàm phu vãng sanh chẳng kể vào đâu, nhưng người từ mười phương thế giới vãng sanh, có không ít vị là Đẳng Giác Bồ Tát, số lượng chúng sanh trong chín pháp giới vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là vô lượng vô biên.

 

(Sao) Bất vân ác đạo, dĩ nhân trung thượng vô nữ nhân, thánh trung thượng vô tiểu thánh.

()不云惡道,以人中尚無女人,聖中尚無小聖。

(Sao: Chẳng nói tới ác đạo, vì trong loài người [nơi cõi Cực Lạc] còn không có nữ nhân, trong các vị thánh [bên cõi ấy] còn chẳng có hàng tiểu thánh).

“Tiểu thánh” là nói về Thanh Văn và Duyên Giác. Nữ nhân đau khổ, nhiều nỗi thống khổ hơn nam nhân, nhất là những người sống trong thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện, chẳng phải là thời đại hiện tại. Trong kinh có nhiều cách nói, đức Phật ứng cơ thuyết pháp. Trong thời đại ấy, quyền hạn của nam giới vượt xa nữ quyền, nữ nhân chẳng thể ra khỏi cửa, không như hiện thời nam nữ bình đẳng, nữ nhân cũng làm Tổng Thống, trong quá khứ chẳng thể nào! Trạng huống xã hội khác nhau, đức Phật thuyết pháp cũng khác. Nói tóm lại, xã hội quá khứ đề cao nam quyền, địa vị của nữ nhân khá thấp, chịu nhiều bó buộc, cho thấy đau khổ vô hạn! Vì thế, kinh thường nói người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có nữ nhân, trong các vị thánh, chẳng có hàng tiểu thánh, lấy đâu ra ác đạo? Đương nhiên là sẽ chẳng có ác đạo.

 

(Sao) Tiền hậu minh hiển khả tri, cố bất phồn hệ.

()前後明顯可知,故不繁係。

(Sao: Trước sau đều rõ ràng có thể biết, nên chẳng rườm lời dẫn chứng).

Trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, những chuyện này đều [được nói] rất rõ ràng.

 

(Sao) Hựu chánh báo nhị công đức, tại “như thị trang nghiêm” điều ngoại, cố diệc bất hệ.

(Diễn) Chánh báo nhị công đức, vị thượng thủ công đức, đại chúng công đức.

()又正報二功德,在如是莊嚴條外,故亦不係。

()正報二功德,謂上首功德、大眾功德。

(Sao: Lại nữa, hai thứ công đức nơi chánh báo do nằm ngoài phạm vi của câu “trang nghiêm như thế” ở đây, nên cũng chẳng trích dẫn Vãng Sanh Luận để đối chiếu, trình bày.

Diễn: Hai thứ công đức nơi chánh báo là công đức của bậc thượng thủ và công đức của đại chúng).

Hai thứ công đức này được nói trong phần trước của kinh này.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh Bát Nhã châu biến pháp giới, thị điểu thụ thuyết pháp nghĩa.

()稱理,則自性般若周遍法界,是鳥樹法義。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh Bát Nhã trọn khắp pháp giới là ý nghĩa chim và cây thuyết pháp).

Đoạn kế tiếp là tiêu quy tự tánh, nói xứng tánh.

 

(Sao) Thủ Lăng Nghiêm Sao vân: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai, dĩ tâm ngoại vô vật, vật tức thị tâm, đản tâm ly phân biệt, tức thị chánh trí Bát Nhã, châu biến pháp giới, vô hữu chướng ngại”.

 (Diễn) “Nhược năng chuyển vật” nhị cú, thị Lăng Nghiêm kinh văn. Văn vân: “Nhất thiết chúng sanh, mê kỷ vị vật, vị vật sở chuyển. Thị cố ư trung, quán đại, quán tiểu, nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai”.

()首楞嚴鈔云:若能轉物,即同如來。以心外無物,物即是心,但心離分別,即是正智般若,周遍法界,無有障礙

()若能轉物二句,是楞嚴經文。文云:一切眾生,迷己為物,為物所轉,是故於中,觀大觀小,若能轉物,即同如來。

(Sao: Thủ Lăng Nghiêm Sao[3] giảng: “Nếu có thể chuyển vật, liền giống như Như Lai, là vì ngoài tâm chẳng có vật, vật chính là tâm, nhưng tâm lìa phân biệt, chính là chánh trí Bát Nhã, trọn khắp pháp giới, chẳng có chướng ngại”.

Diễn: Hai câu “nếu có thể chuyển vật…” chính là kinh văn trong Lăng Nghiêm. Kinh văn như sau: “Hết thảy chúng sanh do mê mất chính mình, ngỡ là vật, bị vật xoay chuyển. Do vậy, thấy lớn, thấy nhỏ. Nếu có thể chuyển vật, sẽ giống như Như Lai”).

Các đạo lý và sự tướng này trong các buổi giảng, chúng tôi cũng thường nhắc tới, nhưng người có thể lãnh ngộ rốt cuộc vẫn là thiểu số. Kinh Lăng Nghiêm nói lời chân thật. Cổ đức Trung Hoa rất tán thán kinh Lăng Nghiêm: “Khai huệ Lăng Nghiêm, thành Phật Pháp Hoa”. Vì sao nói kinh Lăng Nghiêm khai trí huệ? Kinh Lăng Nghiêm từ đầu tới cuối đều là các đệ tử cùng Thích Ca Mâu Ni Phật biện luận, chẳng phải là hàng đệ tử nêu ra nghi vấn rồi Thích Ca Mâu Ni Phật giải đáp, mà là Thích Ca Mâu Ni Phật nêu vấn đề hỏi học trò. Chúng ta nghe các Ngài một hỏi, một đáp, sẽ có thể khai trí huệ. Hỏi rất cao minh, đáp càng mầu nhiệm.

Vì sao nói “thành Phật Pháp Hoa”? Vì trong các kinh Đại Thừa thông thường luôn nói “Nhất Xiển Đề không thể thành Phật”. Nhất Xiển Đề là “chẳng có thiện căn”. Cách nói này có nghĩa là thành Phật phải có điều kiện: Nếu là Nhất Xiển Đề, người ấy chẳng có tư cách thành Phật. Đó là trong quá khứ, khi giáo học, đức Phật đã nói quyền biến, nói phương tiện như vậy, cũng nhằm khích lệ đại chúng. Đến hội Pháp Hoa, đức Phật hoàn toàn nói lời thật, chẳng giấu diếm mảy may; vì thế, Ngài nói: “Nhất Xiển Đề cũng có thể thành Phật”, như vậy thì Phật pháp mới viên mãn. Dùng kinh Pháp Hoa để ấn chứng kinh điển Tịnh Độ, ý nghĩa chân thật được triệt để hiển lộ, tín tâm của chúng ta được hoàn toàn kiến lập, chẳng có mảy may hoài nghi nào! Nhất Xiển Đề là hạng người nào? Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung một niệm hay mười niệm đều có thể vãng sanh, hễ vãng sanh vẫn là viên chứng ba món Bất Thoái, thành Phật trong một đời. Chư vị phải hiểu kinh Pháp Hoa nói Nhất Xiển Đề cũng có thể thành Phật, do dựa vào đâu? Dựa vào pháp môn Niệm Phật vãng sanh này, nói đến hạng người thấp nhất. Kinh Hoa Nghiêm nói về hạng người cao nhất, tức là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, ngay cả Văn Thù, Phổ Hiền cũng đều niệm Phật cầu sanh về Tây Phương, đó là hạng tột đỉnh! Kinh Pháp Hoa nói về hạng Nhất Xiển Đề, thấp nhất! Từ cao nhất đến thấp nhất, đúng là thích hợp khắp cả ba căn, lợi căn lẫn độn căn đều được thâu gồm. Cổ nhân nói Hoa Nghiêm và Pháp Hoa dẫn đường cho kinh Vô Lượng Thọ, lời ấy hết sức hữu lý. Lăng Nghiêm là một bộ kinh điển thuần túy truy cầu chân lý vũ trụ và nhân sinh, nên kinh ấy là một bộ sách khai trí huệ của nhà Phật.

Nói theo chân tướng sự thật, hết thảy vạn vật là chính mình, hết thảy vạn vật đều là chính mình. Nói thật ra, đối với cảnh giới trước mắt, chúng ta hoàn toàn chẳng nhìn thấy rất viên mãn. Nếu đã có Thiên Nhãn thì Thiên Nhãn vẫn chia thành các đẳng cấp. Thiên Nhãn của bậc A La Hán trở lên sẽ thấy ngoại cảnh khác với chúng ta. Còn có nhiều cảnh giới chúng ta chẳng nhìn thấy, chẳng phát hiện, phạm vi quan sát bởi Thiên Nhãn của các Ngài lớn hơn chúng ta khá nhiều. Thông thường, một vị A La Hán có thể thấy một tiểu thiên thế giới. Vị Thiên Nhãn bậc nhất trong các A La Hán là ngài A Na Luật, Thiên Nhãn của Ngài có thể thấy tam thiên đại thiên thế giới. Ngài có năng lực như vậy; nhưng vẫn chưa phải là rốt ráo viên mãn. Rốt ráo viên mãn là [trông thấy] tận hư không khắp pháp giới vô lượng vô biên hằng sa cõi nước. Điều này do đâu mà có? Từ trong tâm của chính chúng ta biến hiện, chẳng đến từ bên ngoài. Tâm của chính mình có thể biến, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là cái được biến. Cái có thể biến (năng biến) là chủ nhân, cái được biến (sở biến) là vạn vật. Hiện thời, hết thảy chúng sanh mê hoặc, điên đảo, mê như thế nào? “Mê kỷ vị vật” (Mê mất chính mình, ngỡ là vật), nên bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, chẳng biết hết thảy cảnh giới do chính mình biến hiện. Giống như nằm mộng, trong mộng chẳng biết chính mình đang nằm mơ, không biết cảnh giới trong mộng toàn là do chính mình biến ra, vẫn bị người khác sắp đặt, bị cảnh giới xoay chuyển, rất oan uổng! Đức Phật dạy chúng ta phải nhận rõ chân tướng sự thật, thật sự hiểu rõ chân tướng: Vạn vật vốn là chính mình, chính mình là vạn vật, tận hư không khắp pháp giới và chính mình là một.

Nếu có thể khẳng định những điều trên đây, chẳng hoài nghi, trong Phật pháp gọi là “chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân”. Pháp là vạn pháp, Thân là thân thể. Vạn pháp là cái thân của ta, thân ta là vạn pháp, đó gọi là “chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân”. Hoàn toàn chẳng phải là nói thanh tịnh Pháp Thân Phật vẫn còn có hình tướng, [nếu hiểu Pháp Thân còn có hình tướng] thì sai mất rồi! Hiện thời, chúng ta tạc tượng Tỳ Lô Giá Na Phật là Pháp Thân Phật, cũng là do chẳng có cách nào, đành tạc một bức tượng Phật bày ra đó. Thật ra, Pháp Thân là gì? Pháp Thân là tận hư không khắp pháp giới là một thân, cho nên Pháp Thân vô tướng, mà cũng chẳng phải là không có tướng. Tận hư không khắp pháp giới mới là tướng của Pháp Thân, tướng ấy tạc theo cách nào đây? Chẳng có cách nào tạc; bởi lẽ, Pháp Thân vô tướng. Báo Thân còn có tướng, Báo Thân là chứng đắc. Báo Thân và Ứng Hóa Thân có tướng. Pháp Thân chẳng có tướng, Pháp Thân là hư không pháp giới, là diện mạo vốn có của chính mình. “Nếu có thể chuyển vật, tức giống như Như Lai”, đấy là mê và ngộ. Mê bèn bị vật xoay chuyển; đã ngộ bèn có thể chuyển vật.

 

(Diễn) “Dĩ tâm ngoại vô vật” lục cú, thị Sao trung thích từ.

()以心外無物六句,是鈔中釋辭。

(Diễn: Sáu câu “do ngoài tâm chẳng có vật…” là lời giải thích trong [Lăng Nghiêm Kinh] Sao).

Sáu câu được trích dẫn ấy là lời giải thích trong Lăng Nghiêm Kinh Sao.

 

(Diễn) Tâm ngoại vô vật, vật tức thị tâm, thị minh sắc tâm bất nhị.

()心外無物,物即是心,是明色心不二。

(Diễn: Ngoài tâm chẳng có vật, vật chính là tâm, nói rõ sắc và tâm chẳng hai).

Sắc là Tướng Phần của tâm. Tâm là bản thể của sắc pháp. Đối với Sắc đang được nói ở đây, nay chúng ta nói là vật chất, nhưng vật chất vẫn chưa chắc đã có thể bao hàm [trọn vẹn ý nghĩa] của chữ này, vì hiện thời còn có phi vật chất vẫn được bao gồm trong chữ Sắc của Phật pháp. Ví như lục trần, trong Phật pháp, lục trần đều được gọi là Sắc. Những cái mà mắt có thể thấy được thì gọi là Sắc Trần, những gì tai có thể nghe được thì gọi là âm thanh, âm thanh cũng dùng chữ Sắc này để bao quát. Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp, dùng một chữ Sắc để bao quát lục trần. Đối với chữ Sắc này, dùng từ ngữ “hết thảy vật chất” để nói, vẫn chưa thể bao quát trọn hết. Mũi chúng ta ngửi hương, thân thể đụng chạm, tức là nói tới nhiệt độ biến đổi: Luồng khí lạnh tràn tới, chúng ta cảm thấy lạnh; mùa hè nhiệt độ cao, chúng ta cảm thấy nóng. Lạnh và nóng thuộc về Xúc Trần, những điều này thường là mắt chẳng thấy, tai cũng chẳng nghe đến, thân thể chúng ta có cảm xúc nóng và lạnh, tất cả những điều này đều bao gồm trong một chữ Sắc. Tâm là cái có thể sanh (năng sanh), Sắc là cái được sanh (sở sanh), Sắc và Tâm là một, chẳng hai, là một. Sắc là Tâm, Tâm là Sắc. Cổ nhân dùng vàng và các món vật [bằng vàng] để tỷ dụ, thường nói là “dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng là vàng”. Đồ vật là vàng, vàng là đồ vật. Dùng vàng ròng làm thành rất nhiều vòng đeo tay, vòng đeo cổ, nhẫn, bất luận quý vị làm thứ gì, làm nhiều đến mấy đi nữa, chất liệu của chúng đều là vàng. Tuy lục trần vô lượng vô biên, chúng đều do tâm biến hiện. Do vậy, ngoài tâm chẳng có vật ư? Chẳng có! Ngoài vật cũng chẳng có tâm. Vì tâm là vật, vật là tâm; tận hư không khắp pháp giới và chính mình là một. Ngoài chính mình ra, chẳng tìm được thứ gì khác. Đó là chân tướng sự thật.

 

(Diễn) Đản ly phân biệt, tức thị Bát Nhã.

()但離分別,即是般若。

(Diễn: Chỉ lìa phân biệt, tức là Bát Nhã).

Phải như thế nào thì mới có thể thấy chân tướng? Như thế nào thì mới có thể tìm thấy chính mình thật sự? Nhà Thiền nói là  “phụ mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra) là nói về điều này. Như thế nào thì mới có thể tìm được? Đức Phật dạy: Chỉ cần quý vị lìa phân biệt. Trong phân biệt còn bao gồm vọng tưởng. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói rất rõ ràng: Sở dĩ hết thảy chúng sanh chẳng thể chứng đắc Thật Tướng (chẳng hiểu chân tướng sự thật) là vì bị vọng tưởng, chấp trước chướng ngại. Lìa phân biệt là lìa vọng tưởng, chấp trước. Trừ bỏ vọng tưởng, chấp trước, sẽ khởi tác dụng là trí huệ Bát Nhã. Do vậy có thể biết: Vọng tưởng, chấp trước vẫn còn, chắc chắn quý vị chẳng có trí huệ thật sự. Trí huệ Bát Nhã là trí huệ lưu lộ từ chân tâm. Chẳng xả lìa vọng tưởng, chấp trước, trí huệ của quý vị lưu xuất từ tâm ý thức, chẳng phải là trí huệ thật sự, kinh Phật gọi trí huệ ấy là Thế Trí Biện Thông. Trí huệ chân thật thì nhất định phải là kiến tánh. Chẳng kiến tánh, sẽ chẳng có trí huệ!

Vì lẽ đó, A La Hán chẳng có trí huệ, Bích Chi Phật chẳng có trí huệ, Quyền Giáo Bồ Tát cũng chẳng có trí huệ, vì sao? Chưa kiến tánh. Tuy có Định, công phu định lực vẫn chẳng đủ, chỉ có thể tạm thời khuất phục vọng tưởng, chấp trước. Nếu công phu định lực sâu hơn một tầng, bèn khai trí huệ, khai trí huệ là minh tâm kiến tánh. Thiền gia nói là “minh tâm kiến tánh”, nhưng Giáo Hạ chẳng gọi là minh tâm kiến tánh, mà gọi là “đại khai viên giải”. Đại khai viên giải là khai trí huệ, có cùng một cảnh giới với minh tâm kiến tánh của Thiền gia và Lý nhất tâm bất loạn của Tịnh Độ Tông. Chỉ là cách nói khác nhau, danh từ khác nhau, nhưng thật ra cảnh giới hoàn toàn giống nhau. Sự nhất tâm bất loạn tương đương với A La Hán, Niệm Phật tam-muội là công phu định lực có thể chế phục phiền não, nhưng chẳng khai huệ. Lý nhất tâm liền khai huệ, trí huệ Bát Nhã hiện tiền, hiểu rõ thông đạt chân tướng của vũ trụ và nhân sinh.

 

(Diễn) Vô hữu chướng ngại, thị minh ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới.

()無有障礙,是明離念相者,等虛空界。

(Diễn: Chẳng có chướng ngại, là nói tướng của ly niệm bằng với hư không giới).

Chẳng có chướng ngại, kinh Hoa Nghiêm nói bốn thứ vô ngại: Sự vô ngại, Lý vô ngại, Lý Sự vô ngại, và Sự Sự vô ngại. Đó mới là thật sự giải thoát, chân thật tự tại. Hàng Nhị Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác) chỉ đạt được món thứ nhất trong bốn món vô ngại ấy, tức là Sự vô ngại. A La Hán và Bích Chi Phật vô ngại đối với Sự, nên các Ngài có thể phân thân, có thể biến hóa. Chúng ta xem Tây Du Ký, thấy Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến hóa, nhưng thần thông biến hóa của A La Hán chẳng biết đã vượt trỗi Tôn Ngộ Không bao nhiêu lần! A La Hán có thể biến hóa, có thể phân thân, chẳng bị chướng ngại nơi Sự, nhưng còn bị chướng ngại nơi Lý, vì sao? Các Ngài chưa kiến tánh, chẳng có trí huệ.

Đại Thừa Bồ Tát đối với Lý chẳng bị chướng ngại, nhưng chướng ngại nơi Sự, đó là nói tới hàng Đại Thừa Quyền Giáo Bồ Tát chưa kiến tánh; hễ kiến tánh, đương nhiên sẽ chẳng bị chướng ngại nơi Sự. Ngài A Nan có trí huệ, trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật giảng đến cuốn thứ ba, Ngài liền nói kệ tán thán đức Phật, đã ngộ Lý. Tuy đã hiểu Lý, khai ngộ, nhưng về Sự thì chưa thể đoạn phiền não. Do tham, sân, si, mạn vẫn có, nên vẫn bị chướng ngại về Sự. Tôn giả Phú Lâu Na nghe ngài A Nan thuyết kệ tán Phật, [chứng tỏ ngài A Nan] đã khai ngộ, Ngài cũng rất nghi hoặc: “A Nan là Sơ Quả, ta đã chứng Tứ Quả, mà nghe chẳng hiểu, chẳng khai ngộ, cớ sao thầy ấy khai ngộ?” Đức Phật bảo ngài Phú Lâu Na: A Nan là kẻ Phiền Não Chướng nặng nề, Sở Tri Chướng nhẹ nhàng, vừa nghe đức Phật thuyết pháp bèn khai ngộ. Tuy khai ngộ, nhưng thiếu công phu định lực, nên chẳng thể đoạn phiền não, vẫn là Sơ Quả. Tôn giả Phú Lâu Na thì Phiền Não Chướng nhẹ nhàng, Sở Tri Chướng nặng nề, nên đức Phật dạy cho Ngài một phương pháp. Ngài tu Định có thể đoạn phiền não, nhưng giảng đạo lý Đại Thừa Phật pháp cho Ngài nghe, Ngài không hiểu, chẳng thể khai ngộ. Chúng ta mới hiểu: Hết thảy chúng sanh thuộc các chủng loại mê hoặc khác nhau, cạn sâu khác biệt. Có những người nghe kinh, nghe rất hứng thú, nghe xong liền hiểu ngay, là do Sở Tri Chướng mỏng manh. Có những người tu rất khá, nhưng nghe kinh chẳng hiểu, giống như ngài Phú Lâu Na. Có những người nghe kinh liền hiểu, nghe xong rất hoan hỷ, nhưng bảo họ hãy nghiêm túc tu hành, họ gặp rất nhiều khó khăn, đó là do Phiền Não Chướng nặng nề, Sở Tri Chướng nhẹ nhàng. Nhìn từ chỗ này, có thể thấy chúng ta có tập khí trong đời đời kiếp kiếp khác nhau. Sau khi kiến tánh, sẽ là Lý Sự vô ngại, tức là Đại Thừa Thật Giáo Bồ Tát. Sau khi đăng địa (chứng Sơ Địa) mới là Sự Sự vô ngại, tự tại chẳng khác Phật cho mấy. Bốn thứ vô ngại có tầng cấp, đẳng cấp như vậy, nếu muốn đạt tới cảnh giới ấy, đích xác chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Nhưng pháp môn Niệm Phật rất đặc biệt, niệm Phật cầu sanh Tây Phương, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một đời này, lập tức chứng đắc Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại, lạ lùng thay! Do đó, pháp môn này được gọi là “pháp khó tin”. Khó tin mà dễ hành, nương theo phương pháp này, tu hành vô cùng dễ dàng, dễ hơn bất cứ pháp môn nào khác, thành tựu thù thắng khôn sánh, từ Đại Kinh chúng ta thấy được điều này. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thần thông và đạo lực chẳng khác A Di Đà Phật cho mấy, gần như bằng với A Di Đà Phật, chuyện này chẳng dễ khiến cho người ta tin tưởng. Nói theo phương diện Sự vô ngại, [thông thường là bậc Tu Đà Hoàn] bảy lần sanh tử trong cõi trời và nhân gian mới chứng quả A La Hán, mới chứng Sự vô ngại; quý vị niệm Phật vài ngày, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn là Sự Sự vô ngại, khiến cho người ta nghe chuyện này, chẳng phục cho lắm. Vì thế, người không tin tưởng pháp môn này rất nhiều. Dường như là do đạt được quá dễ dàng, [nên họ chẳng tin tưởng], chẳng biết trong ấy có đạo lý rất sâu. Đối với lý luận của Tịnh Tông, trong kinh đức Phật đã nói: “Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo”, tuyệt đối chẳng phải là chúng sanh trong chín pháp giới cậy vào sức của chính mình mà hòng hiểu được! Chúng ta thấy điều này từ kinh Vô Lượng Thọ. Có thể tin tưởng, có thể tiếp nhận, đó là thiện căn và phước đức khôn sánh. Do đó, kẻ bình phàm không tin, chúng ta chớ nên trách móc họ. Hãy nên biết: Họ không tin tưởng, đó là một hiện tượng rất tự nhiên. Pháp khó tin mà ai nấy đều tin thì làm sao gọi là pháp khó tin cho được? Bản thân chúng ta tin tưởng, [nguyên do là vì] thiện căn, phước đức, nhân duyên của chúng ta và họ khác nhau. Vì thế, kẻ bình phàm chẳng tin, những tông phái khác [chẳng tin pháp môn này], đó là chuyện đáng phải nên như vậy, là hiện tượng tất nhiên, mà cũng trọn chẳng kỳ quái tí nào!

Nhất định phải lìa phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thì Bát Nhã mới có thể hiện tiền, mới chẳng bị chướng ngại. Phương pháp tu hành của Tịnh Tông quả thật đã tương ứng với nguyên tắc ấy, không mưu tính trước mà ngầm hợp. Tu học trong Tịnh Tông là dạy chúng ta “một bề chuyên niệm”, chuyên niệm A Di Đà Phật, chẳng còn phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, tương ứng với nguyên tắc ấy. Niệm thành công, ắt sẽ đạt được quả báo “chẳng có chướng ngại”. Vì thế, sanh về Tây Phương chứng đắc pháp giới bình đẳng, chẳng phải là vô lý mà là có lý.

 

(Diễn) Sao ý vị kinh sở vân “chuyển vật” giả, phi thị hữu vật khả chuyển, cái dĩ tâm ngoại tịnh vô hữu vật, nhất thiết vật giai tức thị tâm, nhi sở dĩ kiến hữu vật giả, dĩ tâm sanh phân biệt cố. Đản nhất niệm bất sanh, toàn thể tức tự hiển hiện. Sở dĩ kinh thuyết: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai” dã.

()鈔意謂經所云轉物者,非是有物可轉,蓋以心外並無有物,一切物皆即是心。而所以見有物者,以心生分別故。但一念不生,全體即自顯現。所以經,若能轉物,即同如來也。

(Diễn: Lời Sao có nghĩa là: Kinh nói “chuyển vật”, chẳng phải là có vật để có thể chuyển; bởi lẽ, ngoài tâm trọn chẳng có vật, hết thảy các vật đều chính là tâm. Sở dĩ thấy có vật là do tâm sanh phân biệt. Nhưng một niệm chẳng sanh, toàn thể bèn tự hiển hiện. Do đó, kinh nói: “Nếu có thể chuyển vật, ắt giống như Như Lai”).

“Chuyển vật giả, phi thị hữu vật khả chuyển” (Chuyển vật: Chẳng phải là có vật để có thể chuyển). Nói rất hay, có vật hay không? Chẳng có vật! Thật ra là chuyển gì? Chuyển đổi quan niệm của chúng ta. Chư vị phải hiểu đạo lý này, chẳng phải là thật sự chuyển vật, mà là chuyển ý niệm của chúng ta. “Tâm ngoại tịnh vô hữu vật” (Ngoài tâm trọn chẳng có vật), người hiện thời rất khó lý giải câu này, mà cũng chẳng có cách nào tiếp nhận. Quý vị nói “ngoài tâm chẳng có vật”, vậy thì những thứ này là gì? Những người này chẳng phải là vật ư? Bày rành rành trước mặt, cớ sao chẳng phải là vật? Lý này rất sâu, kẻ bình phàm chẳng thể hiểu rõ, xác thực là ngoài thân chẳng có vật. Những vật ấy là gì? Tuy kinh Kim Cang nói rất thấu triệt, chúng ta cũng đọc rất quen thuộc, nhưng vẫn như cũ, chẳng thể đích thân chứng cảnh giới ấy! Kinh Kim Cang nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Lại nói: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Chúng ta luôn thấy chúng là thật. Nói chân thật thì hết thảy những tướng biến hiện trước mắt đúng là như mộng, huyễn, bọt, bóng, chẳng thật sự tồn tại. Các nhà khoa học hiện thời đã hiểu rõ, đã chứng thực, tuy vẫn chưa đạt tới cảnh giới như kinh Phật đã nói, nhưng đã dần dần tiếp cận.

Trước đây, các nhà khoa học tưởng là thế gian này có vật chất, tất cả hết thảy tướng hiện ra đều do các vật chất cơ bản hợp thành nguyên tố. Từ nguyên tố hợp thành hết thảy các tướng vật chất. Đó là cách nói trước kia. Những năm gần đây, họ lại tiến một bước lớn, [nhận biết] sự quan sát trước kia vẫn là sai lầm, về căn bản chẳng có vật chất tồn tại. Vật chất là gì? Khoa học gia hiện thời nói đó là quang tử chấn động, dao động. Hiện thời, họ công nhận tất cả những tướng vật chất biến hiện đều là dao động, trên thực tế, chẳng có vật chất tồn tại, điều này rất gần với cách nói trong Phật pháp. Duy Thức nói: “Vô minh bất giác sanh ra ba tế tướng, cảnh giới làm duyên tăng trưởng sáu thô tướng”. Đối với Kiến Phần và Tướng Phần trong A Lại Da Thức, nay chúng ta gọi Kiến Phần là tâm, tức tâm pháp, Tướng Phần là sắc pháp, nay chúng ta nói là vật chất. Tâm pháp là tinh thần, tinh thần và vật chất là một, không hai. Tâm và vật có cùng một nguồn, cùng một Tự Chứng Phần, Tự Chứng Phần chính là chân tâm, bản thể. Vạn hữu trong vũ trụ chỉ có một bản thể, Phật pháp gọi bản thể ấy là Chân Như bản tánh, còn gọi là “chân tâm lý thể”, những thứ này đều là huyễn tướng được hiện ra [bởi bản thể ấy].

Vì sao gọi là huyễn tướng? Vì các tướng ấy chẳng tồn tại vĩnh hằng. Nay chúng ta thấy rõ ràng những tướng ấy dường như tồn tại rất lâu; thật ra, chúng biến hóa trong từng sát-na, chẳng phải là bất biến. Nói thật ra, Tướng Phần do chúng ta trông thấy giống như Tướng Phần trên màn bạc trong điện ảnh. Tướng Phần ấy sanh diệt trong từng sát-na, nhưng chúng ta thấy sai lầm, vì tướng của chúng là tướng liên tục dấy lên, [cho nên chúng ta cảm thấy] tợ hồ chúng tồn tại trong một khoảng thời gian, thật ra chẳng phải vậy. Kinh Lăng Nghiêm đã nêu ra chân tướng sự thật: “Sanh ra từ đâu, bèn diệt mất từ nơi đó”. Nếu đối với hai câu ấy, chúng ta chẳng [cảm thấy] dễ hiểu cho lắm, hãy nhìn các hình ảnh trên màn bạc của điện ảnh: Từng tấm phim được chiếu lên chính là “sanh ra ngay từ nơi đây”, ngay lập tức ống kính [của máy chiếu phim đóng lại], nó liền diệt mất ở ngay đây. Tấm phim thứ hai lại sanh ra [hình ảnh trên màn bạc] ngay tại nơi đây, [ống kính của máy chiếu phim đóng lại, bèn] diệt mất tại nơi đây. Tấm phim thứ ba, thứ tư cũng là sanh ra ngay tại nơi đây, diệt mất tại nơi đây. Chúng ta biết ống kính của máy chiếu phim đóng mở hai mươi bốn lần trong một giây, tức là một giây chiếu hai mươi bốn tấm phim. Hai mươi bốn tấm phim đã có thể khiến cho chúng ta nhìn sai, thấy chúng rất thật, ngỡ là thật.

Tất cả hết thảy các tướng được hiện ra trước mắt chúng ta đều sanh diệt trong từng sát-na, chẳng thật. Lại còn sanh diệt với tốc độ nhanh hơn tốc độ chiếu phim rất nhiều. Trong kinh, đức Phật đã nói: “Một sát-na có chín trăm lần sanh diệt”, một sát-na là thời gian bao lâu? Một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một sát-na là một phần sáu mươi [thời gian] khảy ngón tay. Thời gian ta khảy ngón tay bao lâu, chia thành sáu mươi phần, một phần trong sáu mươi phần ấy được gọi là một sát-na. Trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Trong một giây chúng ta có thể khảy bốn lần, bốn lần sáu mươi nhân với chín trăm, nên một giây có hai cái mười vạn tám ngàn lần sanh diệt[4], chúng ta chẳng cảm thấy tướng cảnh giới bên ngoài là giả tướng sanh diệt trong từng sát-na. Một giây, [ống kính của máy chiếu phim] đóng mở hai mươi bốn lần đã lừa được chúng ta nghĩ nó là thật. Một giây có hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần sanh diệt, làm sao chúng ta biết là giả cho được? Chỉ có Phật và hàng đại Bồ Tát biết, tâm các Ngài vi tế nên thấy rất rõ ràng, tâm chúng ta quá hời hợt, thô tháp, nên chẳng thấy được.

Chân tướng sự thật xác thực là như thế! Nếu quý vị biết chân tướng sự thật này, thưa cùng quý vị, tham, sân, si, mạn gì đi nữa đều chẳng có, vì sao? Chúng là giả, chẳng thật! Trong tâm dấy lên ý niệm cũng là giả, sắc tướng bên ngoài cũng là giả, quý vị nói thử xem: Còn có gì để làm nữa? Tự nhiên buông hết thảy thân tâm thế giới xuống. Buông xuống hết thảy thì trong tâm chẳng còn vướng mắc, chẳng còn ghim những chuyện ấy trong lòng, chẳng còn nữa, tâm thanh tịnh mới thật sự hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền, liền chứng đắc Chân Như bản tánh, chính mình mới thật sự thấy được chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, thật sự chứng đắc.

Do vậy có thể biết, khá nhiều lời đức Phật dạy trong kinh, quý vị nhất định phải hiểu ý nghĩa ngoài từ ngữ. Ở đây, [Liên Trì đại sư] nhắc nhở chúng ta: “Chuyển vật giả, phi thị hữu vật khả chuyển, cái dĩ tâm ngoại tịnh vô hữu vật, nhất thiết vật giai tức thị tâm, nhi sở dĩ kiến hữu vật giả, dĩ tâm sanh phân biệt cố” (Chuyển vật chẳng phải là có vật để có thể chuyển; bởi lẽ, ngoài tâm trọn chẳng có vật, hết thảy mọi vật đều chính là tâm. Nhưng sở dĩ thấy có vật là vì tâm sanh phân biệt), y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do đâu mà có? Do phân biệt mà có. Nếu quý vị chẳng phân biệt, sẽ chẳng có. Do phân biệt mà có, có phải là thật sự có hay không? Chẳng thật sự có! Nói theo kiểu hiện thời, tuyệt đối chẳng phải là thật, mà chính là vì quý vị còn có phân biệt, thật ra là do chính mình tưởng những khái niệm trừu tượng là có, tự cho là đúng, đó là mê, chẳng phải là thật sự có. Hễ ta phân biệt thì chúng thật sự có, đức Phật cũng rất bội phục quý vị. Phân biệt kiểu nào thì cũng chẳng phải là thật sự có, cái Có ấy là giả có, huyễn hữu, chẳng phải là chân thật.

“Đản nhất niệm bất sanh, toàn thể tức tự hiển hiện. Sở dĩ kinh thuyết: Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai” (Chỉ là một niệm chẳng sanh, toàn thể bèn tự hiển hiện. Vì thế, kinh nói: “Nếu có thể chuyển vật, liền giống như Như Lai”). Có thể thấy “chuyển” là chuyển như thế nào? Chuyển phân biệt thành nhất niệm bất sanh, chuyển ở ngay chỗ này. Tuyệt đối chẳng phải là chuyển nơi cảnh bên ngoài, nên sẽ giống như Như Lai. Có thể chuyển từ chỗ này, thưa cùng chư vị, vấn đề gì cũng đều được giải quyết, giải quyết viên mãn. Vì sao? Hễ chuyển thì không chỉ hết thảy vạn pháp chuyển, mà sanh tử chuyển, luân hồi chuyển, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều chuyển. Sau khi đã chuyển, sẽ biến thành gì? Chẳng có cách nào diễn tả, không nói được, bất đắc dĩ gọi nó là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới do đâu mà có? Do một niệm bất sanh. Một niệm bất sanh thì pháp giới ấy được gọi là Nhất Chân pháp giới. Hễ khởi phân biệt, chấp trước, pháp giới ấy sẽ là mười pháp giới, trăm pháp giới, ngàn pháp giới, vô lượng vô biên pháp giới. Nhưng phải thưa cùng chư vị, “một” thì là chân pháp giới; nhưng vô lượng vô biên sẽ chẳng phải là thật. Mười pháp giới chẳng thật! Mười pháp giới là gì? “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”, là “mộng, huyễn, bọt, bóng”, chẳng thật. “Thật” thì chỉ có Nhất Chân pháp giới. Do vậy có thể biết, quý vị sử dụng nhất tâm, nhất niệm, sẽ chứng Nhất Chân pháp giới.

Tịnh Độ Tông dạy chúng ta trực tiếp cầu Nhất Chân pháp giới, vì phương pháp tu hành vô cùng đơn giản, tức là “nhất niệm”, bốn chữ A Di Đà Phật, “bất sanh” là vọng niệm chẳng sanh. “Nhưng một niệm bất sanh” thì một niệm là một niệm, bất sanh là bất sanh, chẳng phải là một niệm chẳng sanh! Phải hiểu rõ điều này! Nếu quý vị đọc sai câu này, nói một niệm chẳng sanh ư? Được thôi! Một niệm chẳng sanh là gì? Vô Tưởng Định! Quả báo của Vô Tưởng Định là trong tương lai sanh về Vô Tưởng Thiên, biến thành ngoại đạo. Nếu thật sự một niệm không sanh, thưa cùng chư vị, cái bàn chẳng sanh một niệm, cục đá chẳng sanh một niệm, khi nào quý vị có thể tu giống hệt như chúng? Thật sự tu thành công, bất quá quý vị cũng biến thành khối gỗ hay cục đá mà thôi! Do lẽ đó, phải hiểu rõ những câu giống như vậy. Chúng ta tu Tịnh Tông, “nhất niệm” là một câu A Di Đà Phật, “bất sanh” là tất cả hết thảy vọng niệm đều chẳng sanh. Không chỉ là đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mới hiển hiện toàn thể, mà chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, ở ngay nơi đây, cũng có bao giờ chẳng phải là toàn thể hiển hiện? Vì thế mới nói cùng quý vị: “Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm Niệm Phật”. Tương ứng là gì? Chẳng sanh vọng niệm là tương ứng. Vừa niệm A Di Đà Phật, mà vẫn vừa khởi vọng tưởng, sẽ không tương ứng, vì sao? Một niệm là sanh, chẳng phải là không sanh, trong một niệm còn có rất nhiều vọng niệm, không được rồi! Nhất định phải là một niệm chẳng sanh ra hết thảy vọng niệm thì toàn thể tự tánh mới hiện tiền. Do lẽ này, kinh nói: “Nếu có thể chuyển vật, tức giống như Như Lai”, then chốt của việc chuyển là ở chỗ này, đấy là cách chuyển.

Trong quá khứ,  khi tôi giảng kinh Lăng Nghiêm,  chẳng giảng hai câu này. Thuở ấy, cảnh giới của chính mình cũng chưa đạt được, rất nhiều chỗ chẳng hiểu thấu triệt ý nghĩa. Vì thế, nghe kinh thì người nghe tôi giảng hiện thời có phước báo, người nghe trước kia chẳng có phước báo, vì sao? Văn lẫn nghĩa đều chẳng thấu triệt. Không chỉ là nói [so sánh] giữa kinh được giảng trong quá khứ và trong hiện tại, nếu quý vị nghe băng thâu âm để so sánh, sẽ nhận thấy: Dù là cùng một bộ kinh, bộ kinh ấy đã được giảng một trăm tám mươi hai lần, một trăm lượt giảng trước kia chẳng giống một trăm lượt giảng về sau. Cảnh giới mỗi năm khác nhau, mỗi tháng khác nhau. Vì thế, cùng một bộ kinh, giảng suốt một đời vẫn hoan hỷ, vì sao? Mỗi lượt đều khác nhau. Giảng lần trước chưa thấu triệt, có nhiều chỗ chẳng giảng, do chính tôi không biết, chưa thấy được! Đến lần sau, mới nhìn thấy chỗ ấy. Vì thế nói là giảng lần nào cũng đều có ngộ xứ. Đọc kinh cũng như vậy, mỗi lần đọc một lượt đều khác nhau, mỗi lượt đều có ngộ xứ. Sự ngộ ấy chẳng phải do nghiên cứu, chẳng cần nghĩ tới ý nghĩa, [hễ nghĩ tưởng] thì sai mất rồi! Quý vị chỉ một mực niệm, tự nhiên ý nghĩa hiện tiền, đó gọi là ngộ xứ. Nếu hữu ý tìm cầu, quyết ý tìm cầu, đó chẳng phải là ngộ xứ. Quyết định chẳng thể cầu, chớ nên cầu hiểu, sẽ tự nhiên có ngộ xứ. Rõ ràng là Phật pháp đúng là chẳng giống với pháp thế gian.

Thật ra, há có Phật pháp hay pháp thế gian? Phật pháp và pháp thế gian đều do chúng sanh hư vọng phân biệt, chấp trước. Trong pháp thế gian, nếu quý vị dùng nguyên tắc và nguyên lý của Phật pháp để tu học, sẽ khai ngộ giống hệt! Do đó, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh và sách giáo khoa của học sinh Tiểu Học chẳng khác gì nhau! Dùng vàng làm đồ vật, tượng Phật là hoàng kim, mà chén trà cũng là hoàng kim, chẳng khác gì nhau! Thế gian và xuất thế gian, đích xác là một, không hai. Quý vị mê bèn gọi là thế gian; đã ngộ, bèn gọi là xuất thế gian. Giới hạn giữa mê và ngộ ở chỗ nào? Chẳng tìm thấy. Vì thế, nói lời chân thật cùng quý vị, mê và ngộ chẳng hai, Tánh và Tướng như nhau.

“Chuyển” là chuyển biến quan niệm, chuyển từ tâm địa, chuyển biến cái tâm dấy vọng tưởng hằng ngày thành tâm thanh tịnh, chuyển từ chỗ này. Hễ chuyển điều này, hết thảy vạn pháp đều chuyển.

 

(Diễn) Dĩ thử quán chi, khả kiến tự tánh Bát Nhã châu biến pháp giới, nhi Tây Phương thủy, điểu, thụ lâm, tự tất giai thuyết pháp dã.

()以此觀之,可見自性般若周遍法界,而西方水鳥樹林,自悉皆法也。

(Diễn: Xét theo điều này, có thể thấy là tự tánh Bát Nhã trọn khắp pháp giới, mà nước, chim, rừng cây trong Tây Phương đều tự nói pháp).

 Đây là cảnh giới “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Nói là A Di Đà Phật biến hóa tạo tác, chẳng bằng nói tự tánh biến hóa tạo tác, vì tự tánh và Di Đà chẳng hai. Cổ đức nói: “Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. Do Tây Phương Cực Lạc thế giới cho đến A Di Đà Phật vẫn là do tự tâm biến hóa tạo ra, là những thứ thuộc trong Chân Như bản tánh của chính mình. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh vốn trọn đủ”. Tây Phương Cực Lạc thế giới là tự tánh vốn trọn đủ, A Di Đà Phật cũng là tự tánh vốn trọn đủ. A Di Đà Phật là ai? Là chính mình, Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn là chính mình. Chính mình biến hiện thế giới Cực Lạc, há lẽ nào chính mình chẳng thể vãng sanh? Chẳng có lẽ ấy! Vãng sanh là như Sanh Vô Sanh Luận[5] đã nói: “Sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi”. Tự tánh biến hiện, quý vị đi bằng cách nào? Xác thực là như thế. Thật giống như chúng ta xem TV, hình ảnh hiện thời là hình ảnh của thành phố Đài Bắc, lát sau, phần tin tức bèn chiếu cảnh Bạch Cung (tòa Bạch Ốc) của Mỹ, có đi hay không? Chẳng đi, rõ ràng là ở cùng một chỗ, nhưng xác thực là hai nơi, chẳng sai. Do vậy có thể biết: Tây Phương Cực Lạc thế giới tuy nói [cách xa Sa Bà] mười vạn ức cõi Phật, trong một niệm liền đạt đến, [giống như xem TV] trong khoảng một niệm, hình ảnh liền chuyển biến. Đừng nghĩ cõi ấy quá xa, chẳng dễ đến, đó đều là chấp trước nơi mặt sự tướng, mê rất sâu, chẳng biết chân tướng sự thật.

 

(Sao) Khởi Tín vân: “Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới”. Thị cố, hư không giới trung, phổ giai thuyết pháp.

()起信云:離念相者,等虛空界。是故虛空界中,普皆法。

(Sao: Luận Khởi Tín nói: “Tướng ly niệm bằng với hư không giới”. Vì thế, trong hư không giới, đều thuyết pháp trọn khắp).

Câu này trích dẫn từ luận Khởi Tín.

 

(Diễn) Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới giả, Luận văn vân: “Sở ngôn giác nghĩa giả, vị tâm thể ly niệm. Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới, vô sở bất biến. Pháp giới nhất tướng, tức thị Như Lai bình đẳng Pháp Thân”.

()離念相者,等空界者,論文云:所言覺義者,謂心體離念。離念相者,等虛空界,無所不遍。法界一相,即是如來平等法身。

(Diễn: “Tướng ly niệm bằng với hư không giới”. Luận [Khởi Tín] có nói: “Nói đến nghĩa Giác là nói tâm thể ly niệm. Tướng ly niệm bằng với hư không giới, không đâu chẳng trọn khắp. Pháp giới một tướng chính là Pháp Thân bình đẳng của Như Lai”).

Khởi Tín Luận do Mã Minh Bồ Tát soạn. Đoạn văn này cũng nhằm bảo chúng ta Pháp Thân là gì. Chứng đắc Pháp Thân, người ấy bèn thành Phật, cũng có nghĩa là thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Tuy chẳng phải là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng người ấy thật sự là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Chánh Đẳng Chánh Giác là Phật, nói theo Viên Giáo sẽ là Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên. Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên là Phần Chứng Phật, có năng lực hiện ra ba mươi hai tướng, tám mươi thứ [tùy hình] hảo, giống như trong phẩm Phổ Môn đã nói: “Nên dùng thân Phật để đắc độ, bèn hiện thân Phật để thuyết pháp”, Ngài có năng lực ấy.

Đoạn văn này rất quan trọng. “Sở ngôn giác nghĩa giả” (Nói đến nghĩa giác), giác là gì? Bất giác là gì? Giác và bất giác có giới hạn ở chỗ nào? Ở đây đã nói rất rõ ràng: “Tâm thể ly niệm” là giác, tâm thể có niệm là bất giác. Chư vị phải biết: Giác tâm bất động, tâm động là bất giác. Hễ tâm chúng ta động là mê, là bất giác, giác tâm và chân tâm bất động. Do nó bất động, nên mới trọn khắp hư không pháp giới. Hễ bất động liền trọn khắp. Bất động bèn chẳng có giới hạn, hễ động thì còn có giới hạn. Chúng ta thấy nước trong ao chuôm, khi nước chẳng động bèn chẳng có giới hạn. Ao chuôm to bao nhiêu, nước to bấy nhiêu. Nếu chúng ta ném một viên đá nhỏ vào đó, liền động, nước ngay lập tức xuất hiện từng vòng xoáy, đã có giới hạn. Vì vậy, hễ động bèn có mười pháp giới; bất động là Nhất Chân pháp giới. Bất động là thật, động là giả. Vì hễ là động, dẫu có giới hạn, nhưng giới hạn ấy thường biến hóa, chẳng phải là bất biến. Tâm động bèn biến hóa trong từng sát-na, tâm chẳng động sẽ vĩnh viễn bất biến.

Khi nào chư vị thật sự chứng đắc cái tâm của chính mình bất động, sẽ chẳng già, dáng vẻ sẽ vĩnh viễn chẳng biến đổi. Mười tám tuổi chứng đắc, quý vị mỗi năm đều là mười tám. Hai mươi tuổi chứng đắc, bèn mỗi năm đều là hai mươi! Bất động sẽ chẳng biến hóa. Quý vị còn bị già nua, nói cách khác, cái tâm của quý vị còn bị động. Hiểu đạo lý này, đích xác là quý vị có thể khống chế vạn vật trong vũ trụ, chẳng bị xoay chuyển bởi vạn vật trong vũ trụ. Đây là như đoạn trước đã nói: Có thể chuyển vật, chẳng bị vật chuyển. Có thể thấy “chuyển vật, không bị vật chuyển” thì mấu chốt là tâm địa. Cái công tắc là nơi tâm địa, chẳng ở bên ngoài, bên ngoài tìm chẳng thấy. Các nhà khoa học, triết gia, tôn giáo gia tìm cách nào cũng tìm chẳng thấy, vì sao? Họ tìm bên ngoài, chẳng biết tìm trong nội tâm. Đức Phật bảo chúng ta: Cái mấu chốt ấy ở trong nội tâm, chẳng ở bên ngoài, bên ngoài thì tìm cách nào cũng chẳng thấy.

Nói ra Lý ấy, tiếp đó là Sự. Trong phần trước là Tánh Đức, kế đó là nói về Tu Đức, Tu Đức từ “ly niệm tướng”. Trong pháp Bồ Tát của Đại Thừa, cương mục tu hành của Bồ Tát rất nhiều, quy nạp lại thì chỉ có sáu điều, gọi là Lục Độ. Nếu lại quy nạp Lục Độ, quy nạp đến cuối cùng, sẽ thành chỉ còn một điều là Bố Thí. Quý vị nghĩ xem: Trì Giới và Nhẫn Nhục là Vô Úy Bố Thí. Ta trì giới, người ta chẳng sợ hãi ta, vì sao? Dẫu để lộ tài vật, “người ấy giữ giới ‘không ăn trộm’, sẽ chẳng tước đoạt của ta. Ta để những thứ ấy ở đây rất an toàn, quyết định sẽ chẳng bị mất đi, cũng chẳng cần phải đề phòng”, tâm người ấy an ổn. “Người ấy trì giới chẳng sát sanh, ta xử tệ với người ấy cỡ nào, người ấy cũng chẳng hại ta”, tâm người ta càng thêm yên ổn, nên gọi là Vô Úy. Vì thế, Trì Giới và Nhẫn Nhục là Vô Úy Bố Thí, còn Tinh Tấn, Thiền Định, và Bát Nhã là Pháp Bố Thí. Trong Bố Thí gồm có Tài Bố Thí, Pháp Bố Thí, và Vô Úy Bố Thí. Toàn thể quy nạp lại, sẽ biến thành một điều là Bố Thí.

Bố Thí là gì? Là xả, là lìa. Phương pháp tu hành của Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, là xả, là lìa mà thôi. Hết thảy các pháp xả lìa sạch sành sanh, thảy đều bỏ đi, sẽ thành Phật. Đẳng Giác Bồ Tát thì những thứ khác đều bỏ sạch, hãy còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa bỏ, cho nên vẫn gọi là Bồ Tát, không gọi là Phật. Chư vị phải biết: Tu hành trong Đại Thừa Phật pháp là xả, chẳng có gì không xả, thứ gì cũng đều phải xả. Bên trong là tư tưởng, kiến giải, các thứ cách nghĩ, cách nhìn đều phải bỏ, tâm bèn thanh tịnh. Bên ngoài là thân, tâm, thế giới, hết thảy đều có thể bỏ, chẳng bị vật chuyển. Vì sao hiện thời quý vị bị vật chuyển? Quý vị chẳng bỏ được, chẳng chịu bỏ, nên quý vị mới bị chúng nó chuyển. Nếu quý vị bỏ được, chúng nó làm sao xoay chuyển, ảnh hưởng quý vị cho được? Chẳng thể có chuyện ấy! Nay quý vị chẳng thể bỏ tài, trong tâm luôn nghĩ ta còn có bao nhiêu tiền, làm thế nào để kiếm tiền, lại sợ tiền bạc mất giá, lại sợ kinh tế chẳng khấm khá, phiền não thảy đều ùa đến! Nếu quý vị có thể bỏ sạch, há có những nỗi ưu lự, phiền não ấy? Thứ gì cũng đều chẳng có, tâm thanh tịnh lắm, tự tại lắm! Hễ có thứ gì mà quý vị chẳng bỏ được, sẽ bị rắc rối ngay, khiến cho quý vị bận lòng! Hễ quý vị bận lòng, sẽ bị phiền phức oan uổng, vì sao? Đến cuối cùng đều rỗng tuếch! Không chỉ là mai sau rỗng tuếch, mà ngay lúc này cũng là rỗng tuếch tuềnh toang!

Nếu dùng phương pháp của Thiền Tông, cái này ta không buông xuống được, cái kia chẳng buông xuống được, bèn quay lại tìm xem không buông xuống được ở chỗ nào. Quý vị đi tìm, tìm xem chỗ nào chẳng buông xuống được, đến cuối cùng, tìm chẳng thấy! Vì lẽ đó, Nhị Tổ Huệ Khả thưa: “Tâm con bất an”, cầu Đạt Ma Tổ Sư an tâm cho Ngài. Đạt Ma Tổ Sư xòe tay ra: “Ông lấy cái tâm ra, ta sẽ an nó cho ông”. Huệ Khả lại quay lại tìm, cuối cùng thưa với Tổ: “Con tìm tâm trọn chẳng thể được”, con không biết tâm ở chỗ nào? Chẳng biết tâm ở chỗ nào, còn gì mà an với chẳng an? Tâm ở chỗ nào, tìm không thấy! Tổ nói: “Dữ nhữ an tâm cánh” (Ta đã an cái tâm cho ông rồi!). Nghe câu ấy, Nhị Tổ bèn khai ngộ.

Nếu quý vị có ưu lự, có phiền não, quý vị cũng dùng phương pháp ấy, quay lại xét xem: “Ta ưu lự ở chỗ nào?”. Hãy đi tìm, ưu lự ở chỗ nào? Phiền não ở chỗ nào? Tìm đến cuối cùng, chẳng thể được. Không thể được, nói cách khác, căn bản là quý vị chẳng có ưu lự, căn bản là chẳng có phiền não, đó là mê! Hễ quý vị quay đầu, quay đầu liền giác ngộ, mới hiểu vốn là rỗng tuếch! Kinh Kim Cang nói chẳng sai: “Phàm những gì có tướng, đều là hư vọng”, bất luận là sắc tướng hay tâm tướng, trong tâm tưởng thứ gì sẽ bèn có tâm tướng (hình tướng của thứ ấy hiện bóng trong tâm). Tâm hễ tưởng, bèn có tướng. Người Hoa tạo văn tự rất cao minh: “Tưởng” (想) là trong Tâm (心) có Tướng (相). “Tư” (思) là trong tâm có giới hạn, chữ Điền (田) là vạch giới hạn [như từng ô ruộng]. Tưởng chỉ là dấy vọng tưởng, còn chưa có phân biệt, chấp trước, còn chưa có giới hạn. Tư nghiêm trọng hơn Tưởng, vì sao? Tưởng chẳng có thiện ác, không tạo nghiệp. Trong Tư có giới hạn, bèn tạo nghiệp. Quý vị hồi quang phản chiếu, sẽ biết quả thật ngay trong lúc này là bất khả đắc, há còn nói gì đến tương lai, rỗng tuếch! [Chờ đến] tương lai [mới cảm nhận nó là] rỗng tuếch tức là đã mê rất sâu rồi. Ngay trong hiện tại đây đã là rỗng không, chẳng cần đợi đến tương lai! Người học Phật hiểu đạo lý này, chẳng có một ai không là thân tâm tự tại, sung sướng, pháp hỷ sung mãn, thật sự đạt được thọ dụng trong Phật pháp. Học Phật mà học đến nỗi mỗi ngày mặt ủ mày chau, chắc chắn là đã trái nghịch Phật pháp, học sai lầm mất rồi! Phật pháp thật sự là phá mê khai ngộ, nhất định là thân tâm khỏe mạnh, sung sướng, tự tại, đó là học Phật bèn ngay lập tức đạt được điều tốt đẹp!

Tâm lượng “đẳng hư không giới” (bằng với hư không giới), vì sao? Hư không pháp giới là vật được biến hiện bởi tâm lượng của chính mình, lẽ đâu chẳng bằng? Đương nhiên là bằng. “Vô sở bất biến” (Không đâu chẳng trọn khắp), trí huệ trọn khắp hết thảy các pháp giới. Đối với năng lực của lục căn, tánh Thấy trọn khắp hết thảy các pháp giới; do đó, hết thảy các pháp giới không đâu chẳng thấy. Tánh Nghe trọn khắp hết thảy các pháp giới, âm thanh trong hết thảy các pháp giới chẳng có gì không nghe, thứ gì cũng đều trọn khắp hết thảy các pháp giới. Vì lẽ đó, lẽ nào thuyết pháp lại chẳng trọn khắp các pháp giới?

“Pháp giới nhất tướng”, đó là Nhất Chân, “tức thị Như Lai bình đẳng Pháp Thân” (chính là Pháp Thân bình đẳng của Như Lai), Như Lai là tự tánh, là danh hiệu của tự tánh. “Như” là hết thảy đều Như, chẳng có pháp nào không Như. “Hậu Phật như đồng cổ Phật chi tái lai” (Vị Phật sau giống như cổ Phật trở lại). Do đó, sau khi chứng nhập, chẳng có trước sau. Có nhiều người hỏi: “Phật nào lớn nhất?” Chẳng có Phật nào lớn nhất. Nói vị Phật nào lớn nhất, sẽ còn có vị Phật nhỏ nhất, đó là sai lầm. Vị Phật nào thành Phật trước, vị Phật nào thành Phật sau? Chẳng có, thành Phật chẳng có trước sau. Ví như các dòng nước đổ vào biển cả, quý vị nói xem: Nước nào là dòng trước, nước nào là của dòng sau? Chẳng có, hòa lẫn một chỗ. Ví như những cái đèn này, khi chúng ta bật đèn thì có trước sau, nhưng khi đã bật hết cả rồi, quý vị nói xem ánh sáng nào là trước, ánh sáng nào là sau, chẳng có. Nói trước sau, hoặc lớn nhỏ, đều là vọng tưởng, chấp trước của kẻ mê! Sự thật là chẳng có, quyết định chẳng có trước hay sau, chẳng có lớn hay nhỏ!

 

Vì thế, Tây Phương Cực Lạc thế giới mới là thật sự bình đẳng, Pháp Thân bình đẳng. Khi mê, nói xưa, nay, lớn, nhỏ với quý vị, đó là lừa quý vị, Phật lừa quý vị, Phật cũng nói lời thật. Đức Phật giảng kinh, thuyết pháp nhằm hướng dẫn quý vị, Ngài có nêu tỷ dụ: “Hoàng diệp chỉ đề” (黃葉止啼: Lá vàng dỗ trẻ thôi khóc). “Hoàng diệp chỉ đề” là lừa quý vị. Trẻ nhỏ khóc nhè, làm cách nào đây? Muốn cho nó thôi khóc, nhặt một chiếc lá vàng rụng xuống trong mùa Thu, bảo đứa bé: “Chiếc lá này là vàng, rất đáng giá, con có thể đem mua kẹo ăn”. Đứa trẻ nghe xong, rất hoan hỷ, thôi khóc, đã đạt được mục đích, chủ yếu là dỗ cho nó khỏi khóc. Còn nó có thể đổi thành tiền hay không là chuyện khác. Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cho quý vị, đó là “hoàng diệp chỉ đề”, quý vị phải thật sự khai ngộ từ chỗ này! Ai độ quý vị? Tự mình độ chính mình, đức Phật chẳng độ chúng sanh. Đức Phật chỉ dùng lá vàng dỗ trẻ thôi khóc mà thôi! Từ chỗ này, chúng ta mới có thể thật sự tiến nhập nghĩa chân thật của Phật. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

— o0o —

Tập 183

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm tám mươi hai.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Đà?

(Sớ) Thượng minh y báo chi thắng, nhi y tùng chánh sanh, cố thứ minh chánh báo.

()舍利弗。於汝意云何。彼佛何故號阿彌陀。

()上明依報之勝,而依從正生,故次明正報。

(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Đức Phật ấy vì sao hiệu là A Di Đà?

Sớ: Những phần trên đã nói về sự thù thắng nơi y báo, nhưng y báo sanh từ chánh báo, nên tiếp theo đây sẽ nói về chánh báo).

 Trong đoạn lớn phía trước, đức Thế Tôn đã giới thiệu hoàn cảnh vật chất của Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Y báo” là hoàn cảnh sống của chúng ta, trong kinh gọi [hoàn cảnh ấy] là “y báo”. “Chánh báo” là thân thể chúng ta, nhưng y báo sanh từ chánh báo, câu này rất khó hiểu, sách Diễn Nghĩa có chú giải như sau:

 

(Diễn) Y tùng chánh sanh giả, nhược cứ ngoại giáo, tắc tùng Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái, thanh trược điện vị, Tam Tài triệu phân, tắc chánh tùng y sanh.

()依從正生者,若據外教,則從太極生兩儀,兩儀生四象,四象生八卦,清濁奠位,三才肇分,則正從依生。

(Diễn: “Y báo sanh từ chánh báo”: Nếu xét theo ngoại giáo, ắt từ Thái Cực sanh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái, thanh và trược đã được đặt vững vị trí, Tam Tài[6] mới tách biệt, [hiểu theo cách như vậy] thì chánh báo sanh từ y báo).

Ngài nêu ra ngoại giáo, tức là cách nói của Nho gia. Những điều được nói trong Nho gia có mấy phần tương ứng với Phật pháp, nhưng chẳng nói cặn kẽ, rõ rệt như Phật pháp. Tuy vậy, xét theo nguyên tắc, đúng là hết sức gần gũi. Nhất là trong phần Hệ Từ Truyện của kinh Dịch, Khổng lão phu tử đã nói: “Tinh khí vi vật, du hồn vi biến” (Tinh và Khí hợp lại thành vật, cái hồn vật vờ biến hóa)[7]. Nói thật ra, cách nhìn này rất gần với Phật pháp. Vật là y báo, Biến là chánh báo, là nói tới sự luân hồi trong lục đạo, “du hồn vi biến” (cái hồn lang thang, phiêu diêu bất định biến hóa). Khổng lão phu tử không nói “linh hồn”, người thế tục nói con người sau khi đã chết bèn có linh hồn, chư vị hãy nghĩ xem: Nếu cái hồn ấy linh, tuyệt đối sẽ chẳng đầu thai trong ba ác đạo, biến thành lợn, biến thành dê. Dẫu đến đầu thai trong loài người, nhất định hồn sẽ chọn gia đình đại phú, đại quý, cả đời làm thiếu gia, hay tiểu thư, chẳng muốn chịu khổ, lẽ đâu sanh vào nhà bần cùng? Do vậy có thể biết, hồn ấy chẳng linh, là mê hồn thì mới đúng! [Gọi nó là] “linh hồn” là sai lầm!

Khổng lão phu tử chẳng nói linh, mà cũng chẳng nói mê, Ngài nói là “du hồn”, cách nói này rất có lý. Trong kinh, đức Phật đã dạy, tốc độ của linh hồn hết sức nhanh chóng. Chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng phải là thân thể đến đó, mà là linh hồn đầu thai đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Kinh nói Tây Phương Cực Lạc thế giới cách chúng ta “mười vạn ức cõi Phật”. Nói thông thường, một cõi Phật (Phật quốc độ) là một hệ Ngân Hà, vậy thì từ địa cầu này tới tinh cầu của Tây Phương Cực Lạc thế giới cách nhau mười vạn ức hệ Ngân Hà, quý vị nghĩ xem: Khoảng cách ấy xa lắm! Nhưng phải mất bao nhiêu thời gian để có thể đến đó? Đức Phật nói [thời gian ấy] bằng một cái khảy ngón tay, trong một sát-na bèn đến đó. Do đó mới biết tốc độ của linh hồn đích xác là vô cùng nhanh chóng. Làn sóng điện hoặc ánh sáng trong thế gian còn chậm hơn tốc độ của linh hồn quá nhiều. Do đó, Khổng lão phu tử nói “du hồn” hết sức chánh xác. “Du hồn vi biến”, biến gì? Biến ra lục đạo, quý vị đến đầu thai trong đường nào bèn biến thành thân tướng trong đường ấy, xác thực là “du hồn vi biến”!

“Tinh khí vi vật”: Ngài nói câu này đúng là chẳng thể nghĩ bàn, vì “du hồn vi biến” (cái hồn trôi nổi biến hóa), nói thật ra, vẫn chưa khó! Ngoại đạo tại Ấn Độ vào thời cổ đều có thần thông, như các tu sĩ Bà La Môn, Số Luận[8] Du Già (Yoga) đều có năng lực sanh lên Tứ Thiền Thiên (Sắc Giới Thiên), nên họ hết sức liễu giải tình huống trong lục đạo, thấy rõ ràng, rành rẽ, nhưng bọn họ vẫn chưa nói “tinh khí vi vật”. Vật chất do đâu mà có? Chỉ có đức Phật đã nói trong kinh luận rằng thế giới vật chất là Tướng Phần của A Lại Da Thức, còn linh hồn là Kiến Phần của A Lại Da Thức. Trong quá trình phát triển, Kiến Phần có trước rồi mới có Tướng Phần, nên y báo sanh từ chánh báo. Nguyên lý thật sự là y báo chuyển theo chánh báo, cũng có nghĩa là thế giới vật chất và hiện tượng tự nhiên chuyển biến theo lòng người. Đó là chánh lý, quyết định là chánh xác. Khổng lão phu tử nói “tinh khí vi vật” hết sức gần với [cách nói trong kinh Phật], vì sao Ngài biết? Do đó, Khổng phu tử tuyệt đối chẳng phải là phàm nhân. Cổ nhân nói Khổng Tử, Lão Tử, và Trang Tử đều là Phật, Bồ Tát ứng hóa tại Trung Hoa, nói theo lý luận thì điều này xuôi tai, nhưng trên sự thật thì chẳng có chứng cớ. Nho gia nói “chánh báo sanh từ y báo” chính là cách nhìn sai lầm.

 

(Diễn) Kim nội giáo tắc y tùng chánh sanh.

()教則依從正生。

(Diễn: Nay xét theo nội giáo thì y báo sanh từ chánh báo).

“Nội giáo” là Phật pháp, ngoài Phật pháp thì là ngoại giáo. Phật pháp: Phật có nghĩa là giác, giác là Phật, mê là ngoại đạo. Một đằng là giác, một đằng là bất giác, nội và ngoại được phân chia như vậy. Vàn muôn phần đừng nghĩ chúng ta học Phật thì chẳng phải là ngoại đạo. Nói không chừng, quý vị chính là ngoại đạo, vì sao? Quý vị vẫn bất giác, vẫn mê hoặc, điên đảo, đó là ngoại đạo. Thuật ngữ trong nhà Phật gọi hạng người này là “môn nội ngoại” (ngoại đạo trong nhà Phật). Quý vị đã học Phật, cũng đã thọ Tam Quy, thậm chí còn thọ giới, còn xuất gia, nhưng vẫn là cầu pháp ngoài tâm, vẫn kể như là ngoại đạo, được gọi là “môn nội ngoại”. Tiêu chuẩn nội ngoại trong kinh Lăng Nghiêm càng nghiêm ngặt hơn! Kiến tánh Bồ Tát mới gọi là nội giáo, chưa kiến tánh đều là ngoại đạo; vì thế, [xét theo tiêu chuẩn ấy], A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát đều là ngoại đạo. Nói cách khác, ắt phải phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân thì mới là Giác. Thông thường, chúng ta coi A La Hán và Bích Chi Phật đều là Chánh Giác, nhưng xét theo tiêu chuẩn trong kinh Lăng Nghiêm, giác ấy vẫn là tà giác, vẫn chẳng phải là chánh. Theo tiêu chuẩn của Lăng Nghiêm, Chánh Đẳng Chánh Giác mới được coi là Chân Giác, vì quý vị giác bằng Phật. Phật là kiến tánh, là kiến tánh viên mãn. Tuy quý vị chưa viên mãn, nói chung là đã thấy một đôi phần, nhưng cái được thấy là chân tánh, nên quý vị bằng Phật, đó mới thật sự gọi là Giác.

A La Hán vẫn chẳng giác bằng Phật, vì sao? Ngài chưa kiến tánh. A La Hán, Bích Chi Phật, và Quyền Giáo Bồ Tát đều chưa kiến tánh, nhưng so với lục đạo, tư tưởng và kiến giải của các Ngài còn thuần chánh hơn nhiều, chúng ta gọi các Ngài là Chánh Giác, không thể gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác. Bản thân chúng ta học Phật thì trong tâm phải hiểu biết và tự tin. Nói như vậy thì khi nào chúng ta mới có thể đạt tới Chánh Đẳng Chánh Giác? Thưa cùng chư vị, chỉ sợ cả một đời này chẳng có hy vọng gì, nói thật đấy! Không chỉ là chẳng mong thành Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chứng quả A La Hán cũng sợ chẳng trông mong được! Không chỉ là chứng quả A La Hán, mà Tiểu Thừa Sơ Quả Tu Đà Hoàn cũng khá khó chứng đắc. Vì sao? Tu Đà Hoàn phải đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, ai có năng lực làm được?

Năm Dân Quốc 52 (1963), sau khi tôi xuất gia, thọ giới chưa được bao lâu, tôi gặp một đồng tu là một Phật tử rất kiền thành, rất khẳng định nói với tôi: Ông ta đã chứng quả A La Hán. Tôi biết ngay là ông ta hiểu lầm, nhưng ông ta chẳng nói dối. Chẳng chứng A La Hán, mà cứ ngỡ chính mình đã chứng quả A La Hán. Thật ra, ông ta trọn chẳng hiểu đạo lý nhà Phật nhiều nhõi gì! Nếu hiểu nhiều, sẽ chẳng hiểu lầm. Do chính mình niệm Phật, tâm địa thanh lương một chút, phiền não ít đi, bèn tự cho là chính mình đã chứng quả! Chúng tôi ngồi nói chuyện trong phòng khách. Tôi nói: “A La Hán có Lục Thông, ngoài tường là đường cái, ông có thể thấy rõ ràng hay không?” Người ấy đáp: “Tôi chẳng nhìn thấy”. Tôi nói: “A La Hán có Tha Tâm Thông, hiện thời trong tâm tôi đang suy nghĩ gì, ông có biết hay chăng?” “Không biết”. “Vậy là chẳng thật!” Như vậy thì ông ta mới chịu phục, mới hiểu chính mình chưa chứng đắc. Không chỉ là chưa chứng đắc A La Hán! Quả Tu Đà Hoàn còn có Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Túc Mạng, ba thứ thần thông. Nhị Quả và Tam Quả có năm món thần thông, chứng đến Đệ Tứ Quả mới có Lậu Tận Thông. Người chưa chứng đắc mà nói với người khác [chính mình đã] chứng đắc, đó là đại vọng ngữ, theo giới luật là tội địa ngục. Nếu chẳng phải là vọng ngữ, mà là hiểu lầm, thì kinh Phật gọi là Tăng Thượng Mạn, cũng là một thứ phiền não. Vì thế, người ấy chẳng phải là vọng ngữ, mà là Tăng Thượng Mạn. Chúng ta phải nhận biết điều này, tận hết sức tránh đừng cho chính mình nẩy sanh sai lầm.

Học các pháp môn khác, chẳng có hy vọng đạt được Chánh Giác và Chánh Đẳng Chánh Giác trong một đời này. Tu pháp môn Tịnh Độ, hễ ra sức tu tập bèn là Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng thể nghĩ bàn! Do đó, trong hết thảy các pháp môn, pháp môn này là pháp môn bậc nhất. Nếu chư vị thật sự chú tâm xem đọc các kinh điển Đại Thừa, như Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Lăng Già, Pháp Hoa, quý vị mới thật sự nhận biết pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn. Hàng Bất Thoái Bồ Tát từ vô lượng vô biên các cõi Phật trong mười phương, là những vị đã chứng đắc quả vị từ Viên Giáo Sơ Trụ trở lên, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có cách nào tính toán số lượng, kinh đã nói rất rõ ràng! Tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới đều thành A La Hán, thần thông đều như ngài Mục Kiền Liên, thọ mạng kể như ngàn ức năm, chung sức cùng nhau tính toán, tính chẳng ra số lượng người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là bao nhiêu; kinh đã nói chuyện này rất rõ ràng. Quý vị biết pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, hàng Đẳng Giác Bồ Tát trong mười phương thế giới đều phải cầu sanh Tịnh Độ.

Vãng sanh như thế nào? Ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh. Nay chúng ta vừa tu tập liền chọn lấy ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, [tức là] chúng ta tu cái nhân giống như mười phương Bất Thoái Bồ Tát, nên đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, quả báo cũng giống như các Ngài. Các Ngài tu vô lượng kiếp mới tu tới đó, chúng ta vừa bắt đầu liền học được ngay. Tôi bảo quý vị: Tôi quyết định chẳng phải là vọng ngữ, quý vị tu pháp môn này là Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong vô lượng vô biên pháp môn, vì sao quý vị chẳng chọn lựa [những pháp môn khác] mà chọn lựa pháp môn này? Pháp môn này được hết thảy các vị Bất Thoái Bồ Tát chọn lựa, vì sao quý vị cũng chọn lựa? Chẳng dễ dàng đâu nhé! Chọn lựa pháp môn này, quý vị chẳng khác Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền! Do đó, điều này đáng để an ủi chúng ta. Quý vị tu những pháp môn khác, chẳng có cách nói “đới nghiệp vãng sanh” như vậy, nhất định là quý vị phải đoạn Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não, Vô Minh phiền não thì mới có thể thành tựu. Pháp môn này thì một phẩm phiền não cũng chẳng phải đoạn, đều mang đến Tây Phương Cực Lạc thế giới; sau khi đã đến bên kia, gặp A Di Đà Phật, sẽ dần dần đoạn. Đối với pháp môn này, chỉ cần quý vị tin tưởng, phát nguyện, sẽ là Chánh Đẳng Chánh Giác, điều này chẳng thể nghĩ bàn!

Pháp môn này tu học dễ dàng, được gọi là “dị hành đạo” (đạo dễ hành), hành rất dễ dàng, tin tưởng rất khó, phát nguyện cũng rất khó, khó tin, khó nguyện! Làm như thế nào để khiến cho bản thân chúng ta thật sự tin tưởng, thật sự phát nguyện, khăng khăng một mực tu học pháp môn này? [Để đạt được điều ấy], chẳng thể không biết lý luận của pháp môn này. Nếu muốn hiểu rõ lý luận, hiểu rõ thấu triệt, thì phải là như thầy Lý đã nói xưa kia: “Nếu không nghiêm túc nghiên cứu, xem đọc nửa bộ Đại Tạng Kinh, quý vị sẽ chẳng thể hiểu”, sẽ gặp khó khăn, chẳng phải là chuyện dễ dàng! Đọc nửa bộ Đại Tạng Kinh là chuyện khổ lắm; nhưng cổ đức đã tạo phương tiện: Các Ngài đã trích lục tinh hoa của nửa bộ Đại Tạng Kinh, không cần chúng ta phải tìm tòi, [thực hiện] chuyện phiền phức ấy. Đó là gì vậy? Chính là bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa đang bày ra trước mặt mọi người trong hiện thời! Nội dung của bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa này, nói thật ra, chính là cô đọng của cả bộ Đại Tạng Kinh. Ngẫu Ích đại sư tán thán [bộ sách này] là “bác đại tinh thâm” (rộng lớn, tinh vi, sâu xa), chẳng sai tí nào! Do vậy, Sớ Sao Diễn Nghĩa hết sức quan trọng. Nhưng Sớ Sao Diễn Nghĩa có phân lượng quá lớn, chúng tôi giảng một lượt, giảng lần thứ nhất chẳng giữ lại băng thâu âm. Giảng lần thứ hai, thâu âm thành ba trăm ba mươi lăm băng, mỗi cuốn băng là chín mươi phút. Giảng lần này là lần thứ ba, phân lượng rất nặng, còn tỉ mỉ hơn [giảng] kinh Vô Lượng Thọ. Yếu Giải là tinh yếu, bao gồm những điểm chủ yếu. Nếu quý vị mong thâm nhập trong một thời gian ngắn, hãy đọc Yếu Giải. Nếu quý vị có thời gian, mong nhận thức, liễu giải nhiều hơn, hãy dốc sức tìm tòi nơi Sớ Sao Diễn Nghĩa. Thật sự nhận biết rõ ràng Tây Phương Cực Lạc thế giới, tín tâm được kiến lập, nguyện mới tha thiết, quyết định chẳng bị dao động, lại còn thật sự nắm chắc vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ai nấy đều nắm chắc. Chúng ta chọn lựa pháp môn này, nương theo pháp môn này để học, đích xác là đã nhập nội giáo, thật sự là đăng đường nhập thất. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, tuy đăng đường, vẫn chưa nhập thất, còn pháp môn này là nhập thất; vì Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đến cuối cùng đều dẫn về Cực Lạc.

Cách nói của nội giáo khác ngoại giáo. Nội giáo nói “y tùng chánh sanh” (y báo sanh từ chánh báo). Chuyển hoàn cảnh vật chất bên ngoài từ chỗ nào? Chuyển từ trong tâm. Đó gọi là “cảnh tùy tâm chuyển”. “Tâm sanh tắc pháp sanh, tâm diệt tắc pháp diệt” (Tâm sanh ắt pháp sanh; tâm diệt ắt pháp diệt). Chúng ta thật sự hiểu rõ, khẳng định đạo lý này, cảnh giới chuyển theo tâm. Thân thể của ta là cảnh giới, nên thân thể này cũng có thể chuyển theo tâm chúng ta. Ví như tướng mạo, tục ngữ thường nói: “Lòng mỗi người khác nhau bày rõ ra mặt”. Vì sao tướng mạo của quý vị trở thành khác nhau? Tâm chẳng giống nhau, cách nhìn và cách nghĩ của quý vị đối với hết thảy sự vật khác nhau, nên diện mạo chẳng giống nhau. Kinh văn nói: Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tướng mạo đều giống hệt nhau, vì sao? Vì tâm mọi người giống nhau, vì mọi người điều gì cũng đều chẳng tưởng. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tất cả những người vãng sanh đều có tướng mạo hoàn toàn giống như A Di Đà Phật. Dẫu là phàm phu vãng sanh còn có tưởng, [thế nhưng họ] tưởng gì vậy? Tưởng A Di Đà Phật! Họ chẳng nghĩ gì khác, tưởng A Di Đà Phật, liền biến thành A Di Đà Phật, tướng mạo giống nhau. Hiểu đạo lý này, chúng ta thường hy vọng tướng mạo của chính mình có thể tốt lành hơn, đẹp đẽ hơn, vậy thì tâm quý vị cũng tốt lành hơn, đẹp đẽ hơn, tướng mạo tự nhiên tốt đẹp. Tâm địa thanh tịnh, tự nhiên khỏe mạnh, sống lâu, đó là đạo lý nhất định. Suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn cào cào, mà mong chính mình khỏe mạnh, sống lâu, xinh đẹp, lầm lẫn quá đỗi, chẳng có lẽ ấy!

Bởi lẽ, hết thảy các pháp sanh từ tâm. Người học Phật, nói thật thà là có thể chẳng sanh bệnh. Quý vị thật sự hiểu đạo lý này, biết bí quyết tu hành, xác thực là chẳng sanh bệnh. Người học Phật còn bị bệnh tật thì chính mình phải giác ngộ, bệnh tật là gì? Nghiệp chướng hiện tiền. Nghiệp chướng hiện tiền thì phải nhanh chóng sám trừ nghiệp chướng. Nghiệp chướng đã sám trừ, chẳng còn, bệnh sẽ lành, chẳng còn có chuyện gì nữa! Người thật sự tin tưởng chẳng mấy, kẻ chẳng tin quá ư là nhiều. Đối với kinh luận Đại Thừa, phải đọc rộng, thâm nhập kha khá thì mới hiểu đạo lý này, mới có thể mở rộng và sáng tạo vận mạng của chính mình, quyết định chẳng còn bị túc mạng bó buộc. Cư sĩ Viên Liễu Phàm hiểu đạo lý này, tuy vẫn chưa hiểu triệt để, nếu thật sự triệt để, cách nghĩ và cách làm của ông ta sẽ khác hẳn, ông ta biết vài phần mà đã có thể có thể sửa đổi vận mạng. Nếu triệt để hiểu rõ, trong kinh giáo Đại Thừa, nhất là trong kinh luận Nhất Thừa viên đốn, Tịnh Độ Ngũ Kinh đều là Nhất Thừa viên đốn, mỗi ngày có thể đọc tụng, có thể xem đọc, mỗi lần [đọc tụng] là đem kinh luận in vào trong A Lại Da Thức của chính mình, chắc chắn sẽ có chỗ lợi lạc. “Kim nội giáo tắc y tùng chánh sanh” (Nay theo nội giáo thì y báo sanh từ chánh báo), hoàn cảnh do tâm chúng ta biến hiện.

 

(Diễn) Nhất niệm vô minh, dẫn sanh tam tế.

() 一念無明,引生三細。

(Diễn: Một niệm vô minh dẫn khởi sanh ra ba tế tướng).

Đây chính là như Duy Thức đã nói: “Một niệm bất giác là vô minh”. Vô minh là mê, bản tánh vốn là minh. Câu này rất có ý nghĩa, mà cũng hết sức sâu xa, uyên áo. Như thế nào là minh? Chẳng có một niệm là minh. Hễ có một niệm, minh bị mất đi, minh chẳng còn nữa. Có thể thấy: Hễ có một niệm là hỏng, một niệm liền mê, một niệm sẽ chẳng giác. Chuyện này rất phiền phức! Được rồi, nay chúng ta thấy đức Phật nói kiểu ấy, từ nay trở đi, chúng ta liền một niệm chẳng sanh, ý niệm gì cũng chẳng nghĩ tới; đó có phải là minh hay không? Chỉ sợ vẫn là vô minh! Cớ sao vẫn là vô minh? Vì quý vị vẫn còn nghĩ tưởng “một niệm chẳng sanh”, vẫn rơi vào một niệm. Chẳng rơi vào hữu niệm, bèn rớt trong vô niệm. Tu kiểu ấy, càng tu càng hỏng bét, biến thành tu Vô Tưởng Định. Thật sự tu thành công Vô Tưởng Định cũng chẳng dễ dàng, quả báo là Vô Tưởng Thiên trong Tứ Thiền Thiên, đó là ngoại đạo.

Phật pháp nói “một niệm chẳng sanh”, ngay cả [ý niệm] “một niệm chẳng sanh” cũng chẳng sanh, chẳng có cách nào nói được! Nói “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt” đều là dây cà, dây muống, vẫn rớt trong dấu tích. Cảnh giới ấy chỉ có tự mình thấu hiểu, chẳng có cách nào nói ra được. Nói thật ra, không chỉ là chẳng thốt nên lời, mà cũng chẳng thể suy tưởng, vì quý vị hễ có tưởng sẽ còn có niệm, dẫu có suy nghĩ cũng chẳng thể được! Vì thế, gọi là chẳng thể nghĩ bàn. “Tư” (思) là suy nghĩ, chẳng thể suy nghĩ được; “nghị” (議) là bàn luận, nói năng, thốt chẳng nên lời, chẳng thể nghĩ bàn. Thật sự chẳng thể nghĩ bàn, đó là giác. Hễ rớt vào trong nghĩ bàn thì là vô minh. Vô minh còn tồn tại trước cả ba tế tướng. Ba tế tướng là Nghiệp Tướng, Kiến Tướng (Chuyển Tướng) và Cảnh Giới Tướng của A Lại Da Thức. Kiến Phần biến hiện Tướng Phần, Tướng Phần là Cảnh Giới Tướng.

 

(Diễn) Cảnh giới vi duyên, dẫn khởi lục thô.

()境界為緣,引起六粗。

(Diễn: Cảnh giới làm duyên, dẫn khởi sáu thô tướng[9]).

Thứ tự phát triển như vậy, rất giống như kinh Dịch đã nói: “Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái, Bát Quái sanh vạn vật”. Vì thế, Phật pháp nói về quá trình phát triển rất gần với cách quan sát và diễn tả của tổ tiên người Hoa.

 

(Diễn) Sơn hà đại địa, nhân vô minh nhi hữu, vọng tưởng nhi thành, y tùng chánh sanh dã.

()山河大地,因無明而有,妄想而成,依從正生也。

(Diễn: Núi, sông, đại địa, do vô minh mà có, do vọng tưởng mà thành, [tức là] y báo sanh từ chánh báo).

Đây là một câu khẳng định. Toàn thể thế giới vật chất xác thực là cảnh giới do tâm chúng ta biến hiện; vì vậy, cảnh giới chẳng chân thật. Kinh Kim Cang nói rất hay: “Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Pháp hữu vi là như trong Duy Thức đã nói về Bách Pháp, Bách Pháp là hết thảy các pháp. Di Lặc Bồ Tát tạo Du Già Sư Địa Luận, đã quy nạp hết thảy các pháp thành sáu trăm sáu mươi pháp. Thiên Thân Bồ Tát sợ kẻ sơ học chẳng dễ tiếp nhận, nên quy nạp sáu trăm sáu mươi pháp thành một trăm pháp. Do đó, Bách Pháp là hết thảy vạn pháp được quy nạp thành một trăm cương lãnh. Trong một trăm pháp ấy, pháp hữu vi là pháp sanh diệt, có biến hóa, có sanh diệt, tổng cộng có chín mươi bốn loại. Trong chín mươi bốn loại ấy, trước hết là Tâm Pháp gồm tám thứ, tức là tám pháp về tâm thức. Chư vị biết tâm là pháp hữu vi, ngay cả A Lại Da Thức cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. A Lại Da Thức cũng là pháp hữu vi. Đã là pháp hữu vi thì [sẽ như] kinh Kim Cang đã nói “như mộng, huyễn, bọt, bóng”, A Lại Da Thức như mộng, huyễn, bọt, bóng, huống hồ những thứ khác! Tâm Sở Hữu Pháp gồm năm mươi mốt loại lớn. Nói thật ra, nay chúng ta gọi Tâm Sở Hữu Pháp là “tác dụng tâm lý”. Tám thức là Thể; có Thể thì đương nhiên sẽ có tác dụng, tác dụng gồm năm mươi mốt loại lớn. Sắc Pháp có mười một loại. [Trong đó], Ngũ Căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là Sắc Pháp, Sắc Pháp là vật chất; Lục Trần bên ngoài, lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, những thứ ấy thuộc loại Sắc Pháp. Ngũ Căn và Lục Trần hợp thành mười một loại lớn [thuộc về Sắc Pháp]. Những thứ này đều là pháp hữu vi. Còn có hai mươi bốn Bất Tương Ứng Hành Pháp. Nói theo cách hiện thời, chúng là khái niệm trừu tượng, chẳng phải là Tâm Pháp, chẳng phải là Tâm Sở Hữu Pháp, mà cũng chẳng phải là Sắc Pháp, nhưng chúng nẩy sanh từ ba loại pháp ấy, sanh ra một loại khái niệm. Khái niệm ấy là trừu tượng, gồm có hai mươi bốn loại. Chẳng hạn như thời gian và không gian là những khái niệm rất trừu tượng, những thứ ấy (Bất Tương Ứng Hành Pháp) chẳng phải là Sắc, mà cũng chẳng phải là Tâm. Tất cả những pháp ấy (Sắc pháp, Tâm Pháp (Tâm Vương), Tâm Sở Hữu Pháp, Bất Tương Ứng Hành Pháp) gộp chung thành chín mươi bốn loại [pháp hữu vi].

Sáu thứ sau cùng gọi là vô vi pháp, vô vi pháp là gì? Chẳng phải là pháp sanh diệt. Trong sáu pháp vô vi, năm pháp trước là tương tự vô vi, vẫn chẳng phải là vô vi thật sự, chỉ có Chân Như vô vi là thật. Chân Như vô vi là gì? Là Chân Như bản tánh, là chân tâm của chính chúng ta. Chín mươi bốn loại pháp hữu vi đều là vật được biến hiện bởi chân tâm. Cái có thể biến là chính mình, đối với cái được biến lại ngược ngạo chẳng nhận biết, coi nó là vật ngoài thân, sai lầm mất rồi! Khi nào thật sự triệt để hiểu rõ, năng biến (có thể biến) là tự tánh, sở biến (cái được biến) cũng đều là chính mình, vậy là tốt rồi, chúc mừng quý vị, quý vị đã chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân. Do đó, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều là vật được biến hiện bởi tự tâm. Tâm là năng biến, hết thảy quả báo nơi y báo và chánh báo đều là sở biến. Năng và Sở chẳng hai, Tánh và Tướng như nhau! Đó là cảnh giới chân thật. Câu này có quan hệ rất lớn đối với sự tu học của chúng ta, mà cũng có quan hệ mật thiết với sự hạnh phúc của bản thân chúng ta. Trong các phần trước đã nói về hoàn cảnh nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới, nay sẽ giới thiệu chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là hết thảy các nhân vật, “cố thứ minh chánh báo” (vì thế, kế tiếp là nói về chánh báo).

 

(Sớ) Ư ý vân hà? Thẩm kỳ giải phủ dã.

()於意云何,審其解否也。

(Sớ: “Ý ông nghĩ sao?” Xét coi ngài Xá Lợi Phất có hiểu hay không?)

 Đức Thế Tôn gọi ngài Xá Lợi Phất, hỏi Ngài: “Ư ý vân hà?”, [nghĩa là] ý ông nghĩ ra sao? Câu này nhằm hỏi Ngài, hỏi ngài Xá Lợi Phất có thể lý giải sự thật ấy hay không? Có biết danh hiệu của đức Phật bên cõi ấy là A Di Đà hay chăng?

 

(Sớ) Dĩ tri bỉ Phật hiệu A Di Đà, vị tri kỳ nghĩa.

()已知彼佛號阿彌陀,未知其義。

(Sớ: Đã biết đức Phật ấy hiệu là A Di Đà, nhưng chưa biết ý nghĩa).

A Di Đà nghĩa là gì? Chúng ta hằng ngày niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật, sáu chữ ấy có nghĩa là gì? Nếu chẳng hiểu rõ ràng, đó là mê. Vì thế, có rất nhiều người niệm Phật, sau khi đã niệm được mấy năm bèn chẳng niệm nữa, càng niệm càng cảm thấy chẳng có ý vị gì! Có người dự mấy Phật Thất, niệm Phật rất vất vả, lần sau chẳng đến dự nữa. Vất vả là thật, mà chẳng đạt được lợi ích, đương nhiên lần sau người ta không đến nữa. Có thể niệm Phật sao cho hễ niệm sẽ sanh tâm hoan hỷ, càng niệm càng hoan hỷ, người ta sẽ chẳng bỏ đi. Chứ càng niệm càng khổ sở, càng niệm càng mê hoặc, đương nhiên người ta sẽ bỏ đi. Do vậy có thể biết, tuy pháp môn này dễ tu, thế nhưng hằng tâm nghị lực cũng chẳng dễ dàng! Hằng tâm nghị lực do đâu mà có? Do hiểu rõ lý mà có. Quý vị thật sự thấu hiểu lý, tâm sẽ kiên cố, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển. Chúng tôi chọn bộ Sớ Sao có phân lượng to lớn để giảng cặn kẽ là do đạo lý này. Nói thật ra, trong thế gian này, hiện thời, Đài Loan thật sự có phước báo. Những nơi khác người ta mời tôi đến giảng bộ này, tôi rất thích giảng, nhưng chẳng có ai nghe, họ chẳng có thời gian dài như thế, cũng chẳng có ai kiên nhẫn như vậy để đến nghe bộ kinh lớn này. Kinh A Di Đà ngắn, nhưng Sớ Sao là một bộ [sách chú giải] kinh to lớn, phân lượng chẳng kém Pháp Hoa, chẳng thua Lăng Nghiêm, xác thực là một bộ đại kinh. Vì thế, chẳng có phước báo, sẽ chẳng có cách nào khai giảng Sớ Sao, huống chi chúng tôi còn [giảng kèm] thêm sách Diễn Nghĩa.

Niệm một câu Phật hiệu, sáu chữ ấy nghĩa là gì, nhất định phải hiểu rõ ràng thì niệm mới tương ứng. Giống như chúng ta đánh điện báo đến Phật, gởi điện báo đi, có hồi đáp thì mới có thú vị. Đánh chán chê, sau khi đã gởi đi, chẳng thấy hồi đáp gì, về sau sẽ bỏ mất tín tâm. Quý vị thật sự hiểu rõ thì từng tiếng [niệm Phật] đều có cảm ứng, có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sớ) Dĩ bỉ Phật nãi nhất kinh chánh chủ, cố tu thẩm vấn.

()以彼佛乃一經正主,故須審問。

(Sớ: Do đức Phật ấy là nhân vật chủ yếu của một bộ kinh, nên cần phải xét hỏi).

A Di Đà Phật là “chánh chủ” của kinh này. “Chủ” là chủ nhân. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới rất nhiều, ai nấy đều là chủ nhân. Mỗi người đều là chủ nhân, chẳng sai! Nhưng A Di Đà Phật là vị chủ nhân chánh yếu bậc nhất vì thế giới ấy do Ngài tạo ra, tất cả hết thảy chúng sanh đều do Ngài tiếp dẫn, do Ngài giáo hóa. Ngài là vị chủ nhân thứ nhất. Chúng ta niệm Ngài, phải nên nhận biết, phải nên liễu giải Ngài.

Vì lẽ đó, ở đây, đức Phật hỏi tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Xá Lợi Phất cũng đại diện cho mọi người chúng ta, hỏi ngài Xá Lợi Phất chẳng khác gì hỏi chúng ta.

 

(Sao) Chánh chủ giả, báo hữu y chánh, Phật cư kỳ chánh cố. Chánh hữu chủ bạn, Phật vi kỳ chủ cố.

()正主者,報有依正,佛居其正故;正有主伴,佛為其主故。

(Sao: “Chánh chủ”: Do báo có y và chánh, Phật thuộc về chánh. Trong chánh báo lại có chủ và bạn, Phật là chủ).

Nói rõ ý nghĩa của hai chữ Chánh và Chủ. Báo là quả báo; có nhân, ắt có quả. Trong lúc tu nhân, A Di Đà Phật đã phát nguyện, tu hành. Chúng ta đã đọc thấy sự phát nguyện của Ngài trong kinh Vô Lượng Thọ. Trong kinh đã trần thuật Ngài năm kiếp tu hành, kết thành đại nguyện, tạo thành Tây Phương Cực Lạc thế giới, nên đó là “có nhân, có quả”. Trong cái quả ấy, còn có y báo và chánh báo, nên “Phật cư kỳ chánh” (Phật thuộc về chánh báo). Phần trước là y báo, hoàn cảnh vật chất đã nói xong, nay giới thiệu A Di Đà Phật, là chánh báo trong quả báo. Chánh báo rất nhiều, phàm những ai sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều thuộc loại chánh báo. Nói theo cách hiện thời, người thế gian bình phàm chúng ta chia hết thảy vạn pháp thành ba loại là động vật, thực vật, và khoáng vật. Trong nhà Phật chỉ chia thành hai loại là chánh báo và y báo. Nay chúng ta gọi chánh báo là động vật, y báo nay được gọi là thực vật và khoáng vật, tức hoàn cảnh vật chất. Chánh báo là hữu tình chúng sanh, y báo là vô tình chúng sanh. Chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng rất nhiều, chẳng có cách nào tính toán. Trong chúng sanh đông đảo ngần ấy, A Di Đà Phật là chủ, Ngài là thầy, Ngài là giáo chủ. Giáo chủ là vị thầy chịu trách nhiệm chánh yếu trong sự giáo học, có ý nghĩa này.

 

(Sao) Nghĩa tu thẩm giả.

()義須審者。

(Sao: Cần phải xét rõ ý nghĩa).

Phải suy xét rõ ràng ý nghĩa này.

 

(Sao) Dĩ Di Đà vạn đức chi hiệu, kỳ nghĩa thâm quảng, ưng vi khai xiển, sử nhân hiểu liễu, sanh hướng mộ cố.

() 以彌陀萬德之號,其義深廣,應為開闡 ,使人曉了,生向慕故。

(Sao: Do danh hiệu Di Đà vạn đức, ý nghĩa sâu rộng, hãy nên khai thị, xiển dương, khiến cho người khác hiểu rõ, sanh lòng ngưỡng mộ, hướng về).

 Danh hiệu Di Đà có ý nghĩa vô cùng sâu rộng, nên phải khai thị, phải nói rõ ràng, minh bạch, khiến cho chúng sanh trong mười phương thế giới nẩy sanh tâm ngưỡng mộ, thì họ mới phát tâm niệm A Di Đà Phật, mong thấy A Di Đà Phật, mong đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Danh hiệu được giải thích trong phần kinh văn phía sau.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh chánh tư duy, thị “ư ý vân hà” nghĩa.

()稱理,則自性正思惟,是於意云何義。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh chánh tư duy là ý nghĩa của câu “ý ông nghĩ sao”).

Đoạn văn kế tiếp là tiêu quy tự tánh, cũng là nói xứng tánh. “Tự tánh chánh tư duy” có ý nghĩa rất sâu. Người bình phàm nói đến tư duy thì đó là thức thứ sáu, tức ý thức khởi tác dụng. Công năng của thức thứ sáu, tức ý thức, hết sức rộng rãi. Hướng ra ngoài, nó có thể phan duyên tận hư không khắp pháp giới; hướng vào trong, nó có thể duyên đến A Lại Da Thức, nhưng chẳng thể duyên bản tánh. Vì vậy, sử dụng thức thứ sáu, tức ý thức, để cầu minh tâm kiến tánh sẽ chẳng thể thực hiện được. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã nói rất rõ ràng, dùng thức thứ sáu, tức tâm ý thức tu hành mà mong thành Phật, khác nào “chưng sa tác phạn”, [nghĩa là] mong nấu cát thành cơm, chẳng thể nào! Nấu hết kiếp cũng chẳng thành cơm. Vì sao? Nhân khác nhau. Tu hành thì tâm tu nhân và sự giác ngộ nơi quả nhất định phải tương ứng.

Do vậy có thể biết, Tiểu Thừa nói có Bát Chánh Đạo, có Chánh Tư Duy. Đại Thừa cũng có Bát Chánh Đạo, có Chánh Tư Duy. Chánh Tư Duy của Đại Thừa khác Tiểu Thừa ở chỗ nào? Chánh Tư Duy của Tiểu Thừa dùng tám thức, nói thật ra, họ vẫn chưa biết dùng tám thức, mà dùng thức thứ sáu, tức ý thức. Đại Thừa nói tám thức, Tiểu Thừa nói sáu thức, họ sử dụng ý thức. Chánh Tư Duy của Đại Thừa dùng Chân Như bản tánh, tự tánh khởi tác dụng; đó là Chánh Tư Duy của Đại Thừa. Vậy thì họ chẳng có Tư hay sao? Nói thật ra, chẳng có Tư. Tư duy là một phù hiệu tượng trưng, tượng trưng cho hết thảy đều hiểu rõ, hết thảy thông đạt. Phàm phu chúng ta đối với mỗi chuyện đều phải suy nghĩ thì mới hiểu rõ; chẳng nghĩ, sẽ không biết. Bồ Tát đã minh tâm kiến tánh có phải tưởng hay không? Ngài chẳng cần tưởng, vì hễ suy tưởng liền rơi vào thức thứ sáu, tức ý thức. Chẳng cần suy nghĩ, mắt vừa thấy liền hiểu rõ, vừa nghe liền hiểu rõ. Các Ngài là trực giác, không thông qua tâm ý thức, nên gọi là Chánh Tư Duy.

Câu “ư ý vân hà” được nói trong kinh có ý nghĩa rất sâu! Chúng ta vốn đọc kinh Di Đà, thấy kinh Di Đà rất cạn, dường như rất dễ hiểu. Liên Trì đại sư giải thích, chú giải, càng giải càng sâu! Thật ra, có phải là Ngài chú giải quá sâu hay không? Chẳng phải vậy! Ý nghĩa trong kinh vốn sâu, đó là chỗ mầu nhiệm của kinh. Người nông cạn thấy rất nông cạn, người sâu xa thấy rất sâu, nên đọc trăm lượt chẳng chán. Người nông cạn niệm kinh, rất hoan hỷ, vì họ niệm bèn hiểu. Người trình độ sâu niệm kinh cũng rất hoan hỷ, vì sao? Họ hiểu thâm ý. Kinh này từ sơ phát tâm mãi cho đến khi thành Phật đều niệm không chán, đạo lý ở ngay chỗ này. Liên Trì đại sư chú giải cho chúng ta, nói thật ra, vẫn là chú giải rất nông cạn, dễ hiểu; chỉ vì nếu chú giải sâu xa, chúng ta sẽ chẳng có cách nào tiếp nhận. Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp giải thích chữ Ý. “Ư ý vân hà” thì Ý là gì?

 

(Sao) Trù lượng danh Ý. Thế nhân khởi ư ý thức, niệm niệm trục ngoại trù lượng, thị tà tư duy dã.

()籌量名意,世人起於意識,念念逐外籌量,是邪思惟也。

(Sao: Trù tính, suy lường gọi là Ý. Người đời khởi ý thức, niệm niệm trù tính, suy lường bên ngoài, đó là tà tư duy).

Đó chẳng phải là Chánh Tư Duy, nói đến người thế gian. Người thế gian sử dụng thức thứ sáu, tức ý thức, cũng chính là “cái tâm” như người bình phàm thường nói. Trong tâm quý vị tưởng gì? Tâm ấy là thức thứ sáu, tức tâm ý thức. Trong tâm quý vị suy nghĩ điều gì thì chính là thức thứ sáu, tức tâm ý thức đang suy nghĩ. Chân tâm chẳng suy nghĩ, chân tâm là thanh tịnh. Chân tâm ly niệm, tức là một niệm chẳng sanh; chỉ trong vọng tâm thì mới có suy nghĩ. Vì thế, suy nghĩ được gọi là vọng tưởng, là suy nghĩ loạn xạ. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối đều suy nghĩ, thảy đều là suy nghĩ loạn xạ. Quý vị suy nghĩ chánh pháp, suy nghĩ Phật pháp, suy nghĩ gì thì cũng đều là suy nghĩ loạn xạ, nghĩ đến Phật cũng được coi là suy nghĩ loạn xạ. Do đó, bảo quý vị niệm kinh, quý vị liền thật thà ngoan ngoãn niệm, nhưng vừa niệm vừa nghĩ ngợi ý nghĩa trong ấy, đó vẫn gọi là suy nghĩ loạn xạ. Vì sao gọi là suy nghĩ loạn xạ? Vì kinh do chân tâm lưu lộ. Chân tâm chẳng có ý niệm, chẳng có ý nghĩa, lưu lộ cũng là vô ý, cũng chẳng có ý nghĩa. Chỉ cần quý vị thật thà niệm, sẽ có thể dẫn xuất tự tánh, có thể minh tâm kiến tánh. Nếu vừa niệm kinh, vừa nghiên cứu nó có ý nghĩa gì, thôi rồi, vì sao? Toàn bộ đều rơi vào trong ý thức, chẳng thể khai ngộ! Dẫu cho quý vị nghiên cứu thấu triệt, giảng đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, nói thật thà thì là tà tri, tà kiến, chẳng chân thật! Quý vị chỉ một mực niệm, một niệm chẳng sanh. Người ta mời quý vị giảng, quý vị thấy người ấy trình độ sâu bèn giảng sâu, thấy trình độ nông cạn bèn giảng nông cạn, lời giảng có thể sâu, cạn, dài, ngắn, hoàn toàn chẳng thông qua ý thức. Đó là tự tánh của quý vị lưu lộ, là trí huệ Bát Nhã. Vì vậy, chớ nên nghiên cứu kinh, cứ thật thà niệm là được rồi.

Bản chú giải này của Liên Trì đại sư cũng từ tự tánh lưu lộ, nên chú giải của Ngài có thể sâu, cạn, dài, ngắn. Chư vị hãy đối chiếu với ba trăm ba mươi lăm băng giảng trong lần thứ hai của tôi với lần này, [sẽ thấy] chẳng giống! Tôi giảng lại từ đầu một lần nữa, ý nghĩa sẽ lại khác với lần này. Bởi lẽ, kinh này càng giảng càng hoan hỷ. Nếu ý nghĩa luôn như nhau, tôi giảng cũng chẳng có hứng thú gì! Giống như thầy giáo dạy học trong nhà trường xưa kia, mỗi năm dạy một lớp, dạy suốt một đời chỉ có một quyển sách, một quyển bút ký, có thể dùng cả đời, càng dạy càng tẻ nhạt, chẳng có ý vị gì! Kinh có ý vị, mỗi lần có ý nghĩa khác nhau! Quý vị thật sự tu học, pháp hỷ sung mãn, đúng là sự hưởng thụ cao nhất trong một đời người. Trước kia, tiên sinh Phương Đông Mỹ đã truyền cho tôi, cụ bảo: “Phật pháp là sự hưởng thụ cao nhất trong đời người”.

 

(Diễn) Trù lượng danh Ý giả, Tướng Tông vân: “Tập khởi danh Tâm, tập chư chủng tử, khởi chư hiện hành cố. Trù lượng danh Ý, trù lự tư lượng, tự phần cảnh giới cố. Liễu biệt danh Thức, chiếu liễu phân biệt tiền cảnh giới cố”.

()籌量名意者,相宗云:集起名心,集諸種子,起諸現行故;籌量名意,籌慮思量,自分境界故;了別名識,照了分別前境界故。

(Diễn: “Trù lượng gọi là Ý”: Tướng Tông nói: “Tập khởi thì gọi là Tâm, vì [tâm] gom góp các chủng tử, khởi lên các hiện hành. Trù tính suy lường gọi là Ý, do nó suy tính, lo toan, cân nhắc, thuộc về cảnh giới của chính mình. Thấu hiểu phân biệt rõ ràng thì gọi là Thức, vì nó soi tỏ, phân biệt rõ ràng cảnh giới bên ngoài”).

 Tâm là gì? Ý là gì? Thức là gì? Tướng Tông đã định nghĩa, Tâm có ý nghĩa “tập khởi”. “Tập” (集) là gì? Tập là gom góp chủng tử. Tập là thâu thập, giống như một cái kho, ta đều thâu thập, đó là ý nghĩa của chữ Tập. “Khởi” (起) là gì? “Khởi” là dấy lên hiện hành. Tiếp đó nói: “Khởi chư hiện hành”. Chủng tử gặp duyên bèn sanh trưởng. Tâm ấy là gì? Tâm ấy là A Lại Da Thức. A Lại Da Thức là cái kho, thu thập hết thảy chủng tử cất trong kho để gìn giữ, giống như “phòng lưu trữ hồ sơ” hiện thời. Tất cả hết thảy tạo tác của chúng ta đều có “hồ sơ”. Chỉ cần quý vị tạo tác, hồ sơ đều được bảo tồn, đó là ý nghĩa của Tập. Do đó, tạo tác không chỉ là thân thể tạo tác, ngôn ngữ tạo tác, [mà còn là] khởi tâm động niệm. Quý vị vừa động một niệm, trong A Lại Da Thức liền lưu ấn tượng. Trong kinh, đức Phật khuyên, dạy chúng ta, chớ nên hối hận chuyện đã qua. Quá khứ đã tạo tác rất nhiều tội nghiệp, thường nghĩ một lần, hừm! Nghĩ một lần là lại tạo nghiệp một lần, nghĩ thêm lần nữa là lại tạo lần nữa. Thôi rồi! Tội nghiệp trong A Lại Da Thức ngày càng nhiều hơn. Đừng nghĩ tới quá khứ, chủng tử đã có, chúng ta chẳng cần tăng thêm lần nữa, hãy giữ nguyên trạng, đừng tăng thêm. Chuyện vị lai còn chưa đến, chớ nên suy nghĩ lung tung. Quý vị nghĩ đến vị lai cũng là tạo nghiệp trong đó, mới biết là đáng sợ! Đầu óc chúng sanh suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, tưởng quá khứ, tưởng hiện tại, tưởng vị lai, tưởng đến nỗi chẳng biết trong A Lại Da Thức có bao nhiêu chủng tử! Trong kinh, đức Phật đã nói, nếu những chủng tử ấy có thể tích, dẫu thể tích nhỏ đến mấy đi nữa, giống như vi trần, đức Phật dạy, từ vô lượng kiếp cho đến hiện thời, chủng tử nghiệp tập của chúng ta tận hư không khắp pháp giới chẳng thể dung nạp được! May là các chủng tử chẳng có hình tướng!

Ý nghĩa thứ hai là “Hiện Hành”, Hiện Hành là gì? Hễ gặp duyên, chủng tử bèn xuất hiện, nó liền khởi tác dụng. Do đó, Hiện Hành cũng là tâm. Chúng tôi nêu một tỷ dụ, từ tỷ dụ này, quý vị sẽ thấu hiểu, liễu giải Hiện Hành là gì? Hiện Hành là chủng tử khởi tác dụng. Chủng tử chẳng gặp duyên, sẽ chẳng khởi tác dụng. Ví như hạt dưa hấu đem cất giữ trong bình, nó vĩnh viễn chẳng mọc thành dưa, vì sao? Chẳng có duyên! Nếu chúng ta muốn nó kết thành trái dưa, chỉ cần thêm duyên là được. Duyên của nó cần phải có đất màu, phân bón, ánh sáng, nước. Nếu nhiều điều kiện như vậy đều rất viên mãn thì hạt giống nhất định sẽ nẩy mầm, sẽ có thể đơm hoa, kết quả, sẽ sanh ra quả dưa rất ngon lành, đó gọi là Hiện Hành. Vì thế, Hiện Hành là nhân của chủng tử, chủng tử lại là cái nhân của Hiện Hành. Dưa là quả, hạt dưa là nhân; dưa là nhân, hạt dưa lại là quả. Vì thế, dưa và hạt dưa đều là tâm. Chư vị hãy chú ý nơi đây sẽ thấu hiểu: Đó là chủng tử và Hiện Hành. Sanh trưởng, trổ hoa, kết thành trái dưa là Hiện Hành; nhưng trong dưa lại sanh ra chủng tử. Những điều này đều gọi là tâm. Quý vị hiểu đạo lý này, [sẽ biết] nhân và quả toàn là tác dụng của tâm. Điều này mở rộng ra, sẽ là tận hư không khắp pháp giới. Trong kinh nhà Phật thường nói y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do đâu mà khởi? Từ trong tâm của chính chúng ta biến hiện.

Hiểu đạo lý này, chúng ta vừa vui, vừa sợ. Sợ là vì lục đạo luân hồi tam ác đạo do chính mình biến hiện, vui là vì Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật cũng do chính mình biến hiện. Chủng tử của mười pháp giới thảy đều có trong A Lại Da Thức của chúng ta, ai nấy đều có, tuyệt đối chẳng có người nào khiếm khuyết. Nay quý vị muốn cho chủng tử nào dấy lên hiện hành là do chính mình nắm quyền thao túng, không do người khác khống chế. Giống như trong cái chén trà này, các loại hạt dưa đều có, đều đựng trong đó. Ta muốn ăn dưa hấu, bèn lấy hạt dưa hấu đem trồng. Ta muốn ăn đậu, lấy hạt đậu đem trồng. Quyền thao túng nơi tay ta, chẳng ở trong tay người khác.

Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, quý vị muốn thành Phật, quyết định có thể thành Phật, toàn là nằm trong tay của chính mình. Chúng ta có chủng tử thành Phật, chỉ cần kết hợp đúng duyên bèn đạt được. Đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta có chủng tử “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, đó là nói theo chủng tử. Chúng ta chỉ cần thêm vào Tín, Nguyện, Hạnh, đó là duyên, giống như dưa cần đất, phân, nước, thêm những thứ ấy vào là được, tự nhiên sẽ kết quả. Vì lẽ đó, muốn thành Phật bèn thành Phật, muốn làm Bồ Tát liền làm Bồ Tát, muốn đời sau được làm thân người bèn làm thân người, muốn làm quỷ, sẽ làm quỷ. Quỷ là duyên gì? Duyên nhiều nhất làm quỷ là do tâm tham nặng nề. Quý vị nghĩ xem chúng ta có tâm tham hay không? Cái này cũng tham, cái kia cũng tham, đó là duyên chủng tử của ngạ quỷ hằng ngày tăng trưởng; mai sau, quả báo tự nhiên liền biến thành ngạ quỷ. Địa ngục là sân khuể, súc sanh là ngu si. Nếu mọi người hiểu duyên của mười pháp giới, chính mình sẽ có thể khống chế. Chẳng hạn như bất luận gặp chuyện gì chẳng thuận tâm, ta tuyệt đối chẳng nổi giận, vì sao? Đối với cái nhân địa ngục, ta chẳng tạo duyên cho nó, ta đoạn trừ nó, chắc chắn chẳng đọa địa ngục. Đối với thuận cảnh như thế nào, ta chẳng có tâm tham, không tham ái, duyên trong ngạ quỷ đạo cũng đoạn mất. Trong hết thảy cảnh giới, ta hiểu rõ, không mơ hồ, duyên súc sanh đạo bị đoạn mất.

Đức Phật giảng những pháp ấy, chúng ta thật sự tâm phục, khẩu phục. Vì vậy, thành Phật, thành Bồ Tát, chẳng phải là do các Ngài giúp đỡ chúng ta, các Ngài chẳng giúp được! Nếu các Ngài giúp được, Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, chúng ta cần gì phải tự mình tu hành? Bản thân chúng ta phải tu hành nhọc nhằn như thế mới thành tựu, Phật, Bồ Tát từ bi ở chỗ nào? Chư vị phải hiểu: “Hết thảy chỉ do tâm tạo”, hết thảy do chính mình tạo, chẳng liên quan gì đến người khác. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đã dạy rất thẳng thừng: “Phật chẳng độ chúng sanh”, chúng sanh độ bằng cách nào? Chính mình độ chính mình. Phật cũng là một Tăng Thượng Duyên cho bản thân chúng ta, là một trong khá nhiều điều kiện. Cũng có nghĩa là Ngài bảo cho chúng ta biết chân tướng sự thật này, chúng ta mới hoảng nhiên đại ngộ, mới biết làm thế nào để khống chế duyên ấy. Vì thêm duyên vào thì mới kết thành quả, chỉ cần cái nhân mà chẳng có duyên thì sẽ không kết thành quả. Nhân chẳng thể thay đổi, không có cách nào khống chế, nhưng duyên do chính chúng ta nắm quyền thao túng; do đó, Phật pháp nói “duyên sanh”. Chúng ta hiểu chân tướng sự thật này, hãy khéo khống chế duyên, duyên của chín pháp giới đều bỏ đi, nhất định chẳng vun bồi chúng, chuyên vun bồi cái duyên thành Phật, như vậy là tốt lắm. Duyên thành Phật thù thắng nhất, dễ dàng nhất, đáng tin cậy nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, không gì hơn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Pháp môn này xác thực là có căn cứ lý luận, chẳng phải là nói tùy tiện. Chẳng có lý luận khá đáng tin cậy, làm sao chúng ta có thể tin sâu cho được?

Do đó, đối với “tập khởi”, hiểu Tập là gì? Khởi là gì? Đó là tâm. Vì thế, tâm quá ư to lớn. Tận hư không khắp pháp giới là một tâm, là một A Lại Da Thức. Nếu quý vị hỏi, tâm ở chỗ nào? Kinh Lăng Nghiêm vừa khởi đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi ngài A Nan, nói thật ra, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng nói rõ ràng, cũng chẳng nói là chân tâm hay vọng tâm, bất luận là chân tâm hay là vọng tâm: Ông nói “có tâm”, vậy tâm ở chỗ nào? Ông hãy nói cho tôi nghe xem. Trước tiên, ngài A Nan nói tâm ở bên trong, đức Phật không đồng ý. Nói ở bên ngoài, cũng không đồng ý, ở giữa cũng chẳng đồng ý. Nói ra bảy chỗ, đức Phật đều chẳng chấp thuận. Rốt cuộc tâm ở chỗ nào? Cuối cùng, ngài A Nan cũng chẳng có cách nào. Thưa cùng chư vị, tận hư không khắp pháp giới là một tâm của chúng ta, điều này rất chẳng dễ hiểu, rất khó hiểu. Tôi dùng chuyện nằm mộng để tỷ dụ để mọi người dễ hiểu. Mỗi ngày, quý vị đều nằm mơ, trong mộng có núi, sông, đại địa, có chính mình, và cũng có rất nhiều nhân vật, chẳng khác gì chúng ta đã thấy lúc ban ngày. Mộng do đâu mà có? Chúng ta biết mộng là do cái tâm của chính mình biến hiện. Khi tâm đang biến hiện mộng cảnh, khi ấy, nếu hỏi quý vị, tâm giống như gì? Toàn thể mộng cảnh là tâm, toàn thể tâm là mộng, toàn thể tâm thành mộng, toàn thể mộng chính là tâm. Ngoài tâm chẳng có mộng, ngoài mộng chẳng có tâm. Từ chỗ này, quý vị lại hiểu thêm một chút, hiện tại, tận hư không khắp pháp giới là một A Lại Da Thức. A Lại Da Thức là hư không pháp giới, pháp giới là A Lại Da Thức.

Trong hội Lăng Nghiêm, ngài A Nan chẳng hiểu điều này, nên bị đức Phật bắt bí. Nếu quý vị thật sự nhận biết, nhà Thiền có một câu: “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ” (Nếu người hiểu biết tâm, đại địa không tấc đất). Cớ sao nói đại địa không có tấc đất? Vì đều là tự tâm, ngoài tự tâm ra, chẳng có một vật nào. Kinh Hoa Nghiêm đã dạy: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh pháp giới, hết thảy do tâm tạo). Tánh là bản thể, Triết Học nói là “bản thể của vạn hữu trong vũ trụ”. Vạn hữu trong vũ trụ có bản thể là gì? Kinh Hoa Nghiêm nói là tâm, tâm ấy còn gọi là A Lại Da Thức. Kinh điển y cứ của Pháp Tướng Tông gồm có sáu bộ kinh và mười một bộ luận. Kinh Hoa Nghiêm là một trong sáu bộ kinh ấy. Đó là tâm. Điều khẩn yếu là quý vị phải hiểu rõ Tập là gì, Khởi là gì, phải hiểu rõ ràng hai chữ này. Nói thật ra, hai chữ ấy rất khó hiểu.

“Trù lượng danh Ý”, Trù (籌) là trù tính, Lượng (量) là so lường, đó là Ý. Ý là gì? Là Tư (suy nghĩ), chúng đang suy xét, dự tính, đó là Ý. “Trù lự tư lượng, tự phần cảnh giới cố” (Vì trù tính, lo toan, cân nhắc, thuộc về cảnh giới của chính mình). “Liễu biệt danh Thức”: Liễu (了) là hiểu rõ, Biệt (別) là phân biệt, do định nghĩa này, chúng ta bèn gọi nó là Thức, “chiếu liễu phân biệt tiền cảnh giới cố” (do soi tỏ, phân biệt cảnh giới bên ngoài). Do vậy có thể biết: Đối tượng của Ý là đối với chính mình, đối nội, chẳng đối ngoại, còn Thức là trong lẫn ngoài đều có. Trong lẫn ngoài đều là đối tượng của nó, đối tượng của nó rộng lớn. Thức thứ tám, thức thứ bảy, thức thứ sáu và năm thức trước, tám thức ấy đều có tác dụng tập khởi, nên đều được gọi là Tâm. Chúng ta gọi chúng là Tám Tâm Vương, tâm thật nhiều! Chẳng phải chỉ có một tâm. Phàm phu có rất nhiều tâm, có tám tâm. Phật, Bồ Tát chỉ có một tâm, chỉ có chân tâm; phàm phu chúng ta có tám tâm, nên tâm rất nhiều! Tám tâm ấy đều có ý nghĩa “tập khởi”, cũng đều có ý nghĩa “trù lượng”. Do đó, tám thứ ấy cũng gọi là Ý. Tám thứ ấy đều có công năng phân biệt, nên cũng gọi là tám thức. Tám thứ ấy, quý vị có thể gọi chúng là tám tâm, mà cũng có thể gọi là tám ý, mà cũng có thể gọi là tám thức. Vì sao? Các ý nghĩa ấy đều có!

Nếu chúng ta lại thâm nhập phân tích, tuy mỗi thức đều có ba loại công năng ấy, nhưng mỗi thức có thiên trọng, có sức mạnh hay yếu. Có sức tập khởi mạnh mẽ nhất là thức thứ tám, là A Lại Da Thức. Do đó, nếu chúng ta tách ra để nói, tâm ý thức, thức thứ tám là A Lại Da Thức [được gọi] là Tâm. Nó có công năng tập khởi lớn nhất, bảy thức kia chẳng thể sánh bằng. Thức thứ bảy là Mạt Na Thức, Mạt Na Thức có công năng trù tính, so lường đặc biệt thù thắng, bảy thức khác đều chẳng sánh bằng, chúng ta thường nói là “chấp trước”. Mạt Na Thức chấp trước nhất, chấp trước kiên cố nhất. Những thức khác cũng có, nhưng rất mỏng, chẳng kiên cố như Mạt Na Thức. Vì thế, Mạt Na Thức là Ý. Trong sáu thức trước, năng lực phân biệt mạnh nhất là thức thứ sáu, tức ý thức, nên thức thứ sáu là Thức. Trong Tướng Tông, nếu tách “tâm ý thức” ra để nói thì Tâm là thức thứ tám A Lại Da, ý là thức thứ bảy Mạt Na, thức là thức thứ sáu, tức ý thức. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

— o0o —

Tập 184

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang thứ ba trăm tám mươi ba, hãy xem đoạn thứ hai trong sách Diễn Nghĩa.

Chúng tôi tiếp tục giải thích tâm ý thức. “Tập khởi danh Tâm, trù lượng danh Ý, liễu biệt danh Thức” (Tập khởi là Tâm, trù tính, suy lường là Ý, hiểu rõ, phân biệt là Thức), Pháp Tướng Tông nói như vậy. Tám thức đều có công năng “tập khởi, trù lượng, liễu biệt”; trong ba thứ công năng ấy, hễ công năng nào đặc biệt mạnh nhất, ta bèn gọi nó là Tâm, hay gọi là Ý, hay gọi nó là Thức. Công năng tập khởi thù thắng nhất là A Lại Da Thức, trù lượng thù thắng nhất là thức thứ bảy.

 

(Diễn) Hựu Ý giả, tức đệ thất thức. Trù lượng giả, tư duy trù lượng, đệ bát Kiến Phần thị Ngã cố dã. Thử chánh thủ đệ thất Tâm Vương tự thể tư lượng danh Ý, diệc kiêm thủ Biến Hành ngũ sở trung Tư dã.

()又意者,即第七識。籌量者,思惟籌量,第八見分是我故也。此正取第七心王自體思量名意,亦兼取遍行五所中思也。

(Diễn: Lại nữa, Ý là thức thứ bảy. Trù lượng là suy nghĩ, toan tính, so lường, Kiến Phần thứ tám là Ngã vậy. Đây là chủ yếu dựa trên [đặc tánh] tự thể suy nghĩ, so lường của Tâm Vương thứ bảy mà gọi là Ý, cũng lấy kèm thêm [ý nghĩa của] Tư [Tâm Sở] trong năm món Tâm Sở thuộc loại Biến Hành).

Đại Thừa Phật pháp thường nói tới Ngã Chấp. Ngã Chấp có hai loại: Một loại là Nhân Ngã Chấp, loại kia là Pháp Ngã Chấp. Hai thứ Ngã Chấp này đều có cội nguồn từ thức thứ bảy. Vì thế, trong tu hành, cổ đức đã nói một nguyên tắc, nguyên tắc này rất trọng yếu: “Thính giáo phải tiêu quy tự tánh”, “thính giáo” là nghe giảng kinh. Nếu có thể tiêu quy tự tánh, đó là thật sự nghe, cũng là như chúng tôi thường nói: Dùng Phật pháp để khải phát trí huệ và quang minh trong tự tánh của chúng ta, đó gọi là “tiêu quy tự tánh”. Trong bộ chú giải này, cuối mỗi đoạn, Liên Trì đại sư đều có phần Xứng Lý. Xứng Lý là tiêu quy tự tánh: “Tu hành phải chuyển Thức thành Trí”. Chuyển thức, mà “thức” có tám thức. Chuyển tám thức thành bốn trí, đó gọi là tu hành. Liễu Phàm Tứ Huấn dạy chúng ta nguyên tắc sửa lỗi tu thiện. Sửa lỗi tối thượng thừa là sửa từ trong tâm, kế đến là sửa từ nơi Lý, thấp nhất là sửa từ nơi Sự. Tu hành mà nói “chuyển Thức thành Trí” thì là tu nơi tâm địa, là cách tu học tối thượng thừa, là chuyển thức thành trí.

Đối với Thức, chúng ta hiểu ý nghĩa thật sự của nó, cách chuyển như thế nào? Đây là một môn học mà người tu hành trong hiện tại phải biết. Trong Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ, Giao Quang đại sư đã đề xướng “bỏ Thức dùng Căn”, bỏ Thức dùng Căn là chuyển Thức thành Trí. Trong tám thức, chỉ có hai thức được chuyển trong khi tu nhân, sáu thức kia chuyển nơi quả địa. Nói cách khác, thật sự dụng công là dụng công nơi thức thứ sáu và thức thứ bảy. Thức thứ sáu và thứ bảy được chuyển trong khi tu nhân. Hễ nhân đã chuyển, quả liền chuyển theo. A Lại Da Thức và năm thức trước tự nhiên liền chuyển. Thức thứ bảy là tư duy, trù tính, suy lường, thức thứ sáu khéo phân biệt, nên chúng tôi thường nói: “Chẳng phân biệt, không chấp trước”, đó là chuyển. Chẳng phân biệt liền chuyển thức thứ sáu, tức ý thức, thành Diệu Quán Sát Trí. Không chấp trước liền chuyển Mạt Na Thức thành Bình Đẳng Tánh Trí. Hiện thời, người thế gian chúng ta bất bình đẳng, vì sao bất bình đẳng? Mỗi người đều có chấp trước, hễ chấp trước, sẽ chẳng bình đẳng. Nếu bỏ sạch tất cả hết thảy chấp trước, sẽ bình đẳng; bỏ hết thảy phân biệt, diệu huệ liền hiện tiền. Biết tu hành là ở nơi dụng công, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng phân biệt, không chấp trước. Trong các buổi giảng, chúng tôi cũng thường nhắc nhở đồng tu hãy tự khích lệ chính mình, vì sao phải làm như vậy? Hiện thời, từ đoạn kinh văn này chúng ta thấy: Đó là chuyển Thức thành Trí. Phân biệt và chấp trước là hư vọng, tuyệt đối chẳng phải là chân thật, nên đức Phật mới bảo chúng ta vứt bỏ. Nếu là chân thật, đức Phật quyết định sẽ chẳng bảo chúng ta vứt bỏ, [vứt bỏ là vì chúng] là giả, chẳng thật!

Hết thảy chúng sanh chấp trước Ngã, Ngã là gì? Thân là Ngã. Đức Phật bảo chúng ta vô ngã, Vô Ngã là dạy chúng ta “thân chẳng phải là Ngã”. Ngã ở chỗ nào? Thân chẳng phải là Ngã, mọi người nghe xong, sợ hãi, học Phật đến cuối cùng Ngã cũng chẳng có, khiếp quá! Nếu Ngã chẳng có, ai thành Phật? Do vậy, thành Phật, ta thành Phật, có thành Phật hay không? Chẳng thành! Vì quý vị có Ngã Chấp, làm sao có thể thành Phật cho được? Đừng nói là chẳng thành Phật được, mà A La Hán cũng chẳng thành, vì A La Hán đã phá Ngã Chấp. Kinh Kim Cang nói Tu Đà Hoàn chẳng có Ngã Chấp, điều này đáng cho chúng ta phản tỉnh rất sâu.

“Tư duy trù lượng, đệ bát Kiến Phần thị Ngã cố dã. Thử chánh thủ đệ thất Tâm Vương tự thể tư lượng danh Ý, diệc kiêm thủ Biến Hành Ngũ Sở trung Tư dã” (Tư duy trù lượng, Kiến Phần thứ tám là Ngã. Đây chính là chủ yếu dựa trên đặc tánh tự thể suy lường của Tâm Vương thứ bảy mà gọi là Ý, cũng như kèm thêm [ý nghĩa của] Tư Tâm Sở trong năm món Tâm Sở thuộc loại Biến Hành). Nếu quý vị chẳng từng đọc Bách Pháp, chẳng có cơ sở Duy Thức, đọc đoạn văn này sẽ chẳng dễ gì hiểu được! Thức thứ tám và Chân Như bản tánh là một Thể, bảy thức trước hoàn toàn là hư vọng. Nói theo cách hiện thời, sẽ là “cảm nhận sai lầm”, [bảy thức trước] sanh từ cảm nhận sai lầm, chẳng chân thật; nhưng A Lại Da Thức là thật. Tuy là thật, nó mê, tuy mê nhưng vẫn là thật, cũng chẳng phải là giả! Các nhà Duy Thức nói A Lại Da Thức là nửa thật, nửa giả, [bởi lẽ], Thể là thật, nhưng tác dụng của nó là mê. Do mê, nên mới khởi lên bảy thức trước. Trong A Lại Da Thức có ba tế tướng. Tướng thứ nhất trong ba tế tướng là Vô Minh Nghiệp Tướng, nghiệp là động. Nói cách khác, tâm động là mê. Kinh luận của tông Duy Thức thường nói: “Một niệm bất giác bèn có vô minh”. Bất giác là tâm đã động, giác tánh mất đi, công năng giác bị mất đi, liền biến thành bất giác. Nghiệp là động tướng, là tướng thứ nhất. Tâm vừa động, bèn khởi tác dụng, khởi tác dụng gì? Có thể thấy tướng. Nay chúng ta gọi “có thể thấy tướng” là tinh thần, hiểu lầm cái “có thể” là chính mình. “Ta có thể”, chấp trước bắt đầu từ chỗ này!

Như vậy thì Thể của ta là gì? [Chính là] Kiến Phần của A Lại Da Thức, Kiến Phần có thể thấy, muốn thấy, [nhưng] trong Chân Như bản tánh chẳng có tướng, thứ gì cũng chẳng có. Chẳng có mà cứ khăng khăng muốn thấy, đã muốn thấy, nó sẽ hiện tướng. Ví như trong hư không thứ gì cũng đều chẳng có, quý vị trừng mắt nhìn lên hư không, nhìn hồi lâu trong không trung sẽ hiện tướng (các đốm sáng chao lượn), vì sao hiện tướng? Do mắt mỏi mệt, liền có thể hiện ra huyễn tướng. Kiến Phần của quý vị muốn thấy, muốn thấy quá mức, nên A Lại Da Thức mệt mỏi, liền hiện Tướng Phần, nay chúng ta gọi Tướng Phần là vật chất.

Hết thảy sâm la vạn tượng từ đâu mà có? Do Kiến Phần biến hiện. Cảnh do tâm biến hiện, [nói cách khác] vật chất do tinh thần biến hiện. Tâm và vật chất đích xác là cùng một cội nguồn. Cội nguồn ấy, nói nông cạn là A Lại Da Thức, nói sâu xa sẽ là Chân Như bản tánh. Ở đây, chỗ khác nhau là: Tướng được thấy bởi các phàm phu chính là Tướng Phần của A Lại Da Thức, còn Tây Phương Cực Lạc thế giới là Tướng Phần của Chân Như bản tánh, nên cõi ấy là Pháp Tánh Độ. Trong Pháp Tánh Độ, Sự Sự vô ngại. Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, hoặc là đọc Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, quý vị thấy chư Phật, Bồ Tát, đích xác là Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, vì sao? Đó là Pháp Tánh Độ, là Tướng Phần của Chân Như bản tánh, cũng có nghĩa là Tướng Phần của A Lại Da Thức khi nó hoàn toàn giác chứ không mê. Nay chúng ta mê mà chẳng giác, tuy hiện Tướng Phần, nhưng chẳng được tự tại trong Tướng Phần ấy, chẳng thể xứng tâm như ý, nguyên nhân là ở chỗ này!

Cớ sao sanh ra Ngã? Vì năng kiến (Kiến Phần của A Lại Da Thức) nhất định muốn thấy, nên trong A Lại Da Thức mới biến hiện Tướng Phần. Vì vậy, Tướng Phần ấy chẳng phải là thật, hư huyễn chẳng thật. Kinh Kim Cang nói rất hay: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”. Tướng Phần có thể duy trì bao lâu tùy thuộc Kiến Phần của quý vị duy trì được bao lâu. Ngày nào Kiến Phần của quý vị chẳng mong thấy nó, tướng sẽ chẳng còn nữa. Thức thứ bảy luôn suy xét, cân nhắc, Ngã Chấp sẽ không gián đoạn. Khi ngủ, Ngã cũng chẳng đoạn; thậm chí đã chết, chấp trước về Ngã vẫn chẳng đoạn. Nếu đã đoạn trừ, sẽ chẳng đầu thai, chẳng luân hồi trong lục đạo. Do Ngã Chấp quá kiên cố, vĩnh viễn không chịu bỏ, nên người ta mới phải luân hồi trong lục đạo.

“Chánh thủ đệ thất Tâm Vương tự thể tư lượng vi Ý” [nghĩa là] Mạt Na Thức có ý nghĩa chánh yếu là luôn suy xét, cân nhắc. “Diệc kiêm thủ Biến Hành ngũ sở trung Tư dã”, [nghĩa là] còn kèm thêm Tư Tâm Sở trong năm thứ Biến Hành. Trong năm mươi mốt Tâm Sở, có năm Tâm Sở [được xếp vào loại] Biến Hành[10]. Năm Biến Hành chính là năm thứ tác dụng tâm lý mà tám thức đều có, nên chúng được gọi là Biến Hành Tâm Sở, có tất cả năm thứ. Trong năm thứ ấy có Tư. Tư lại đặc biệt tương ứng với chuyện luôn suy xét, cân nhắc, cho nên Ý kiêm thêm Tư Tâm Sở trong năm Biến Hành.

 

(Diễn) Ý thức vị ý chi thức, tức đệ lục thức dã.

()意識謂意之識,即第六識也。

(Diễn: Ý thức là nói thức của ý, tức thức thứ sáu).

 “Ý” [được nói trong câu này] là Mạt Na, Mạt Na là Ý Căn (thức thứ bảy). Thức thứ sáu, tức ý thức, là do Mạt Na khởi tác dụng, khởi lên tác dụng phân biệt, chúng ta liền gọi nó (tác dụng ấy) là thức thứ sáu. Có thể thấy thức thứ sáu và thức thứ bảy có mối quan hệ hết sức mật thiết.

 

(Diễn) Luận vân: Ngôn ý thức giả, tức thử Tương Tục Thức, y chư phàm phu thủ trước chuyển thâm, kế ngã, ngã sở, chủng chủng vọng chấp, tùy sự ban duyên, phân biệt lục trần, danh vi Ý Thức, diệc danh Phân Ly Thức, hựu phục thuyết danh Phân Biệt Sự Thức, thị dã.

()論云:言意識者,即此相續識,依諸凡夫取著轉深,計我我所,種種妄執,隨事扳緣,分別六塵,名為意識,亦名分離識,又復名分別事識,是也。

(Diễn: Luận viết: “Nói đến ý thức thì chính là Tương Tục Thức, nương theo sự chấp giữ của phàm phu mà chuyển thành sâu đậm. So đo ngã, ngã sở, các thứ chấp trước hư vọng, nắm níu theo sự, phân biệt sáu trần, nên gọi là Ý Thức. Còn gọi là Phân Ly Thức, lại còn nói là Phân Biệt Sự Thức” chính là nói về điều này).

“Luận vân” là theo như Duy Thức Luận[11] đã nói. Tướng Tông là một môn Tâm Lý Học khá phức tạp. Nếu quý vị đã đọc kinh luận của Tướng Tông, sẽ chẳng còn muốn đọc các tác phẩm về Tâm Lý Học trong ngoài nước nữa! Vì chúng quá ấu trĩ, chẳng đáng xem. Pháp Tướng Tông là Tâm Lý Học Phật pháp, vô cùng cao minh. Bộ sách đơn giản nhất về Pháp Tướng là Tướng Tông Cương Yếu do lão cư sĩ Mai Quang Hy biên soạn, biên soạn hết sức khéo, nội dung hoàn toàn là quy nạp nguyên văn từ kinh luận. Ví như nói đến A Lại Da Thức, cụ sao chép tất cả những điều kinh luận giảng về A Lại Da Thức cùng một chỗ; nói đến Mạt Na, bèn sao chép [những gì kinh điển đã giảng về Mạt Na] vào cùng một chỗ. Quý vị muốn tra cứu kinh luận Pháp Tướng Tông thì kinh luận quá nhiều, chẳng dễ tìm, cụ đã quy nạp các điểm trọng yếu vào một chỗ, nên tra duyệt rất thuận tiện.

Tuy Phật pháp có rất nhiều tông phái, rất nhiều pháp môn, nhưng trong đó, có ba thứ mà mỗi tông, mỗi pháp môn đều phải tu học:

– Thứ nhất là giới luật. Giới luật là khuôn phép sinh hoạt. Các tông phái Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, chẳng có tông phái nào không tuân thủ giới luật.

– Thứ hai là Duy Thức. Duy Thức nói đến lý luận, bất luận các tông, các phái Đại Thừa hay Tiểu Thừa, lý là một, chẳng có lý luận thứ hai.

– Thứ ba là Tịnh Độ, Tịnh Độ là quy túc. Bất luận quý vị học tông nào hay pháp môn nào, cuối cùng đều quy về Tịnh Độ, khác đường nhưng về cùng một chỗ.

Do vậy có thể biết, giới luật, pháp tướng, và Tịnh Độ là khóa trình bắt buộc trong Phật pháp, những thứ khác quý vị có thể chọn lựa để tu tập trong Phật pháp, nhưng ba thứ ấy chẳng thể không tu.

Từ ngữ “ý thức” chỉ thức thứ sáu. Kẻ bình phàm tưởng lầm thức thứ sáu là chân tâm của chính mình, coi thức thứ sáu tức ý thức là tâm. Tác dụng lớn nhất của thức thứ sáu, tức ý thức, là nó có thể nghĩ, có thể dấy vọng tưởng. Thức thứ bảy là Mạt Na có tác dụng lớn nhất là chấp trước, cố chấp. Thức thứ sáu tức ý thức, phân biệt, vọng tưởng, công năng này lớn nhất. Vì thế, đức Phật dạy chúng ta tu hành phải hạ thủ từ hai thức này. Nó muốn phân biệt, ta chẳng phân biệt. Nó muốn chấp trước, ta chẳng chấp trước. Không chấp trước, thiên hạ thái bình, vạn pháp bình đẳng. Hễ có chấp trước, sẽ không bình đẳng.

Trong các chấp trước, chấp trước kiên cố nhất là Ngã Chấp. Có Ngã, làm sao có thể bình đẳng cho được? Ta luôn cao hơn người khác một chút, luôn mạnh hơn kẻ khác một chút, nẩy sanh ngã mạn, đó là phiền não ngạo mạn. Nghèo hèn đến tột cùng như kẻ được gọi là “hoa tử”[12], phải ăn xin, “nghèo” là chẳng có của cải, “hèn” là chẳng có địa vị, kẻ ấy có ngạo mạn hay không? Ngạo mạn y chang! Thấy người có tiền, hoặc người làm quan to đi qua, kẻ ấy vẫn hấm hứ: “Có gì ghê gớm đâu chứ! Chẳng qua là có mấy đồng tiền hôi thối mà thôi!” Vẫn cảm thấy mình chẳng thua ai! Chư vị phải biết: Thức thứ bảy tức Mạt Na Thức là “tứ đại phiền não thường tương tùy” (thường đi kèm theo bốn đại phiền não). Trong bốn đại phiền não còn có ngạo mạn. Hễ có Ngã, nhất định là có Mạn. Lễ Ký có nói: “Ngạo bất khả trưởng”, [cổ nhân] biết ngạo mạn là bẩm sinh, [“ngạo bất khả trưởng” là] đừng nên tăng trưởng [ngạo mạn] là được rồi. Nho gia mong khống chế ngạo mạn, chẳng để cho nó tăng trưởng. Phật pháp biết Mạn là đại phiền não, tham, sân, si, mạn, nhất định phải đoạn. Nếu chẳng đoạn phiền não, Ngã Chấp chắc chắn chẳng đoạn được!

Bắt tay vào tu học Phật pháp, nguyện thứ nhất trong các nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát là “lễ kính chư Phật”, lễ kính là tu gì? Là chiết phục ngạo mạn. Phật pháp như thế, mà pháp thế gian cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Trong sự giáo học xưa kia, ai nấy đều phải đọc Lễ Ký, giống như chúng ta học các sách giáo khoa của các môn Công Dân và Tu Thân trong hiện thời. Câu đầu tiên trong Lễ Ký là: “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ nói: “Không gì chẳng kính”). “Vô bất kính” là cung kính hết thảy. Định nghĩa của Lễ là gì? “Tự ty nhi tôn nhân”, [nghĩa là] phải tự hạ mình, phải tôn trọng người khác. Giáo học Nho gia cũng nhằm chế phục ngã mạn, thánh nhân thế gian và xuất thế gian có cách nhìn giống nhau, phương châm giáo học cũng giống nhau. Kinh Đại Thừa nói “chuyển Thức thành Trí”, bất quá Nho gia chẳng thể chuyển biến thật triệt để, chỉ chế phục mà thôi. Phật pháp kiên quyết chuyển biến nó!

Mạt Na Tương Tục Thức, tức là Mạt Na Thức có tác dụng kéo dài. “Y chư phàm phu thủ trước chuyển thâm” (Do các phàm phu chấp giữ mà càng thêm sâu), “thủ” (取) là giữ lấy tướng, “trước” (著) là chấp trước. “Kế ngã, ngã sở” (So đo ta và cái của ta), “kế” (計) là so lường, phân biệt, tức là trù tính, cân nhắc, phân biệt, phân biệt Ngã, phân biệt Ngã Sở. Ngã Sở là cái ta vốn có. Những vật ngoài thân đều là cái của ta, gia đình ta, tài sản của ta, sự nghiệp của ta, quyến thuộc của ta, thảy đều là những thứ ta có! Ngã rất khó đoạn, đức Phật có pháp phương tiện: Trước hết, trừ bỏ Ngã Sở, sẽ dễ hơn một chút. Từ Ngã Sở, sau đó sẽ phá trừ Ngã Chấp. Chúng ta phải hiểu, phương pháp có rất nhiều loại, thường nói là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, “pháp” là phương pháp, “môn” là cửa nẻo. Nhưng quả thật chẳng dễ bỏ, đừng nói là Ngã khó bỏ, ngay cả Ngã Sở cũng chẳng bỏ được. Nếu chấp trước kiên cố Ngã và Ngã Sở, chẳng thể buông xuống, nói cách khác, sẽ chắc chắn ở trong lục đạo, quyết định chẳng thể nào vượt thoát được!

Lục đạo được hình thành như thế nào? Do Ngã và Ngã Sở biến hiện. Sơ Quả Tu Đà Hoàn đã trừ bỏ Ngã Sở, chứng đắc Vị Bất Thoái. Tuy chẳng vượt thoát luân hồi, đảm bảo chẳng đọa trong ba ác đạo, vì sao? Các Ngài đã trừ bỏ Ngã Sở, nhưng chưa trừ bỏ Ngã, đã bỏ được Ngã Sở, ngã tham, ngã sân, ngã si, ngã mạn đều chẳng có, đã bỏ hết. Do Tu Đà Hoàn chẳng có tham, sân, si, mạn, nên gọi là thánh nhân. Đắc quả A La Hán, Ngã Chấp liền phá trừ, không chỉ chẳng có Ngã Sở, mà Ngã cũng trừ bỏ, bèn vượt thoát tam giới, chẳng còn luân hồi. Tu Đà Hoàn vẫn còn luân hồi, Ngài qua lại trong cõi trời và nhân gian bảy lần, tức là bảy lần luân hồi, sẽ chứng quả A La Hán, bèn vượt thoát.

Nay chúng ta chẳng bỏ Ngã Sở Hữu được! Đáng sợ quá! Người thế gian quả thật khó thể buông xuống, vì sao? Chẳng liễu giải chân tướng sự thật. Ví như hiện thời chúng tôi bảo quý vị bố thí, quý vị đem tất cả tài vật bố thí, sẽ nghĩ: “Ngày mai làm thế nào để có cơm ăn?” Vì nghĩ đến ngày mai ta vẫn phải ăn cơm, ta có bố thí thì cũng phải chừa tiền lại để có cơm ăn ngày mai, vẫn chẳng thể bỏ sạch sành sanh. Nay chúng ta đang tu tập để bỏ Ngã Sở, chỉ có thể bỏ được một hai phần trăm Ngã Sở mà thôi. Có thể bỏ đến mười phần trăm, hoặc hai mươi phần trăm, sẽ rất lỗi lạc! Đó là nguyên nhân vì sao người tu hành suốt cả một đời mà chẳng thể thành tựu, chẳng dứt khoát[13], chẳng trừ sạch sành sanh. Tu hành kiểu đó làm sao có thể thành tựu cho được? Vì thế, muốn có thành tựu, thật sự phải có “đảm thức” (can đảm và hiểu biết). Chữ Thức (識: nhận thức) trong Đảm Thức quan trọng lắm, quý vị phải có nhận thức, sau đó, quý vị mới có lòng can đảm, mới nhanh chóng trừ bỏ. Để kiến lập đảm thức, tôi cảm thấy tốt nhất là đọc Liễu Phàm Tứ Huấn. Liễu Phàm Tứ Huấn đọc một hai lần vô dụng, chẳng thể sanh ra hiệu quả. Trước kia, tôi khuyên lơn khích lệ các đồng tu, đọc Liễu Phàm Tứ Huấn từ đầu đến cuối chẳng ngừng, mỗi ngày tối thiểu niệm hai ba lượt. Quý vị niệm đến ba trăm lượt, sẽ thay đổi quan niệm. Đọc một hai lần thì do tập khí của quý vị quá nặng, ấn tượng rất mỏng manh, yếu ớt, chẳng sanh ra hiệu quả; ba trăm lần, cho đến ba ngàn lần, trong đầu nẩy sanh tác dụng, sau đấy, quý vị mới dám xả. Vì sao dám xả? Biết “một hớp uống, một miếng ăn, không gì chẳng định trước”, ta đều bỏ hết, ngày mai tự nhiên sẽ có cơm ăn, cơm từ đâu ra? Chẳng biết! Ngày mai quý vị vẫn đương nhiên có cơm ăn, rất mầu nhiệm! Nhưng mọi người chẳng dám tin tưởng điều này!

Tôi thưa cùng chư vị đồng tu: Thuở tôi vừa mới học Phật, lão cư sĩ Châu Kính Trụ tặng tôi một quyển Liễu Phàm Tứ Huấn. Tôi đọc xong, rất cảm động, cảm thấy rất có lý, liền bắt đầu bỏ, vẫn chưa phải là bỏ sạch ngay, mà là bỏ từ từ. Chương Gia đại sư dạy tôi tu sáu năm, trong sáu năm, tôi bỏ sạch sành sanh, thứ gì cũng đều chẳng có. Khi đó, các bạn đồng nghiệp hỏi tôi: “Nay anh chẳng có một đồng nào, lại muốn thôi việc, anh sống bằng cách nào?” Bạn bè thân thiết, cấp trên, đồng nghiệp đều lo lắng giùm tôi. Tôi thôi việc, là do tự mình bỏ việc, bỏ việc thì chẳng nhận được đồng nào, [công ty] chỉ phát một tháng tiền lương. Tôi rất vui vẻ nhận lấy, vì chỉ bằng lòng cho tôi thôi việc là được rồi, một đồng tôi cũng chẳng cần! Khi ấy, đồng nghiệp và cấp trên, mọi người đóng góp chút tiền, tặng tôi hai ngàn đồng, tôi đem món tiền ấy đến Ấn Kinh Xứ của Châu lão cư sĩ để in kinh, thay họ làm việc thiện. Vì chính bọn họ chẳng chịu phát tâm in kinh, nên tôi dùng tên bọn họ để in kinh. Sau khi in xong, tặng mỗi người một quyển để làm kỷ niệm, tôi chẳng cần đến đồng nào! Tôi nói với cấp trên và đồng nghiệp: “Nếu tôi có số đáng phải chết đói, nay quý vị trao ngân hàng Đài Loan cho tôi, tôi vẫn bị chết đói. Trong mạng tôi chẳng bị chết đói, thứ gì tôi cũng đều chẳng cần, ngày mai tự nhiên có cơm ăn”. Bọn họ nghe nói đều sững sờ, tôi còn có niềm tin như thế đó! Do số tôi không chết đói, nên mãi cho đến hiện thời, chưa hề bị đói bữa nào, xác thực là như thế đấy! Vì vậy, “đảm thức” hết sức trọng yếu, quý vị thật sự có nhận thức thì mới có đảm lượng (lòng can đảm).

Khi tôi cầu học với thầy Lý ở Đài Trung, từng dẫn hai vị pháp sư đến đó. Vị thứ nhất là pháp sư Huệ Nhẫn, nay ở Hương Cảng. Vị này rất thông minh, tôi dẫn theo thầy ấy. Thầy ấy ở Đài Trung mười tháng, có tiền lắm, vì cho vay nặng lãi, mỗi tháng được hơn ba trăm đồng tiền lời. Vào khoảng năm Dân Quốc 50 (1961), ba trăm mấy chục đồng rất đáng giá. Thầy ấy thân thể không khỏe, thường mua thuốc bổ uống, tôi khuyên thầy ấy: “Thầy dùng tiền để mua thuốc uống hết, chẳng đáng tí nào, chẳng có ý nghĩa gì hết, sao không quyên món tiền ấy cho bệnh viện để cứu tế những người đang bị bệnh khổ?” Thầy ấy đáp: “Sau khi tôi quyên tặng rồi, lỡ chính tôi bị bệnh thì làm sao?” Tôi đáp: “Thầy quyên cúng sạch trơn, sẽ chẳng ngã bệnh. Thầy chuẩn bị sẵn một mớ tiền thuốc, còn chưa bị bệnh mà đã chuẩn bị sanh bệnh, làm sao chẳng ngã bệnh cho được? Cảnh chuyển theo tâm, thầy nhất định sẽ đổ bệnh”. Nếu tôi có sẵn món tiền dành dụm để lo thuốc thang, tôi sẽ ngã bệnh. Tôi chẳng có tiền thuốc men, vì thế, từ trước đến nay tôi chẳng ngã bệnh. Tôi khuyên thầy ấy, nhưng ông ta chẳng tin tưởng. Dẫu cho thân thể chẳng khỏe, hễ có tiền, bèn đem món tiền ấy quyên tặng bệnh viện, chính mình sẽ chẳng đổ bệnh. [Quyên tặng tiền cho bệnh viện thì có nghĩa là] tiền thuốc men vẫn cứ phải chi ra y hệt như vậy, nhưng chính mình chẳng sanh bệnh, tốt lắm, thông minh đấy! Cớ gì cứ phải nắm chặt món tiền ấy, tiền chẳng giữ lâu được, vẫn phải bỏ ra, chính mình lại còn chuốc lấy bệnh khổ, oan uổng quá! Chuyện này cần phải có trí huệ, phải nhận rõ chân tướng sự thật. Chư vị đồng tu nếu muốn chính mình chẳng sanh bệnh, hãy quyên tặng món tiền dành dụm để lo thuốc men. Người trong thế gian bệnh khổ rất nhiều, giúp đỡ họ, chính mình chẳng sanh bệnh. Vì lẽ đó, đối với “đảm thức”, quý vị thật sự có nhận thức thì mới có lòng can đảm, mới dám thật sự làm, làm đến mức sung sướng không ngằn, mới có thể sanh trí huệ.

Thức thứ sáu tức ý thức là mỗi ngày đều phan duyên. “Tùy sự ban duyên, phân biệt lục trần” (Nắm níu theo sự việc, phân biệt lục trần), lục căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, ai phân biệt? Thức thứ sáu tức ý thức phân biệt. Đó là ý thức, cũng gọi là Phân Biệt Sự Thức.

 

(Diễn) Niệm niệm trục ngoại trù lượng giả, niệm niệm tùy trục ngoại trần, tư lượng, trù độ, tằng bất tạm ly, nhật dạ an ư mê loạn, nhi bất giác dã, duy sanh, duy tử, tự nhược ư phân nhiễu chi trung, vô cổ, vô kim, tương vong ư tán loạn chi nội, khả cụ dã.

()念念逐外籌量者,念念隨逐外塵,思量籌度,曾不暫離,日夜安於迷亂,而不覺也,唯生唯死,自若於紛擾之中,無古無今,相忘於散亂之,可懼也。

(Diễn: “Niệm niệm trù tính, suy lường theo bên ngoài”: Niệm niệm đuổi theo ngoại trần, suy nghĩ, trù tính, cân nhắc, chưa từng tạm lìa, ngày đêm ở yên trong mê loạn mà chẳng nhận biết. Chỉ sống, chỉ chết, tự đặt mình trong sự nhiễu loạn, chẳng xưa, chẳng nay, quên bẵng trong tán loạn, đáng sợ thay!)

“Ngoại trần” là cảnh giới bên ngoài. Vì sao cảnh giới bên ngoài gọi là Trần? Trần (塵) là tỷ dụ, có ý nghĩa ô nhiễm. Tâm thanh tịnh của chúng ta bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm. Nói thật ra, cảnh giới bên ngoài có bao giờ ô nhiễm tâm thanh tịnh của quý vị? Ô nhiễm cũng là tỷ dụ, trọn chẳng phải là ô nhiễm thật sự. Do vì quý vị phân biệt, chấp trước, nên giống như bị nhuốm bẩn. Nếu đối với cảnh giới lục trần bên ngoài, quý vị chẳng phân biệt, không chấp trước, chúng ta thường nói là “không khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước”, ngoại cảnh có thể hưởng thụ, có thể thọ dụng, có trở ngại chính mình hay không? Không trở ngại. Đó là Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Vì lẽ đó, nói thật ra, cuộc sống của chư Phật, Bồ Tát chẳng khác chúng ta. Trên hình thức, sự tướng, chẳng khác gì nhau; nhưng tâm lý khác nhau. Chúng ta phân biệt, chấp trước, nên bị ô nhiễm; các Ngài chẳng phân biệt, không chấp trước, nên chẳng bị ô nhiễm. Nói theo phía các Ngài là Sự Sự vô ngại; nói theo phía chúng ta thì là “gặp chuyện bèn thành chướng ngại”, đâu đâu cũng đều là chướng ngại. Quý vị phải truy cứu nguyên nhân, chướng ngại do đâu mà có? Chướng ngại là từ tâm lý khởi tác dụng, lại còn chấp trước hư vọng, trọn chẳng phải là thật sự có chướng ngại, mà do quan niệm của chính mình sai lầm. Do quan niệm sai lầm ấy, tạo ra rất nhiều chướng ngại; do có những chướng ngại ấy nên khởi phiền não. Do có phiền não, nên dẫn khởi khổ báo, tam đồ là khổ báo.

“Niệm niệm tùy trục ngoại trần” (Niệm niệm đuổi theo ngoại trần), bị cảnh giới bên ngoài dối gạt, bị cảnh giới bên ngoài lôi đi, tâm chuyển theo cảnh, khổ lắm! Khổ quá! Trong Phật pháp thường nói đến chuyện bị “ma dựa”, ma cảnh. Ma có rất nhiều loại, kinh Bát Đại Nhân Giác chia ma thành bốn loại lớn, trong đó ba loại lớn thuộc về bản thân, chỉ có một loại ở bên ngoài. Ngũ Ấm Ma và Phiền Não Ma thuộc về bản thân, chính mình vốn sẵn có; Tử Ma là sanh tử, cũng là bản thân sẵn có, chỉ có Thiên Ma là ở bên ngoài. Thiên Ma là gì? Trừ ba loại lớn thuộc về bản thân ra, đều gọi là Thiên Ma. Có phải là Thiên Ma thật sự có thể chướng ngại chúng ta? Chẳng phải vậy! Vì bên trong quý vị có ba loại ma ấy, bên ngoài mới có thể khởi tác dụng. Nếu ba thứ bên trong chẳng có, bên ngoài chắc chắn chẳng có Thiên Ma. Chư vị đọc kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử chẳng gặp phải Thiên Ma, vì sao chẳng có? Vì chính Ngài chẳng có Ngũ Ấm Ma, Phiền Não Ma, Tử Ma, nên bên ngoài cũng chẳng có Thiên Ma. Bản thân chúng ta có phiền não, nên bên ngoài có ma. Thiện Tài đồng tử thấy cảnh giới bên ngoài là cảnh giới thiên nhiên, cảnh giới tự nhiên, toàn là thiện tri thức. Tình và vô tình đều là thiện tri thức, nên Ngài là Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.

Do vậy có thể biết, ma sanh từ đâu? Ma sanh từ tâm, cũng tức là ma sanh từ quan niệm và tư tưởng sai lầm của quý vị. Nếu kiến giải và tư tưởng của quý vị chánh chứ không tà, giác chứ không mê, quyết định chẳng có ma. Tư tưởng và kiến giải sai lầm, thưa cùng chư vị, ngay cả A Di Đà Phật và Thích Ca Mâu Ni Phật đều là ma, vì sao? Quý vị sẽ bị các Ngài thử thách, thật đấy, chẳng giả tí nào! Nếu đối với hết thảy các tướng, quý vị chẳng phân biệt, không chấp trước, yêu ma, quỷ quái đều là thiện tri thức, đều chẳng phải là ma, quý vị mới thật sự hiểu rõ cảnh chuyển theo tâm.

Cho nên tu hành là tu gì? Tu cái tâm của chính mình, thanh tịnh tâm. Tuy nói ba tâm, giác tâm, chánh tâm, thanh tịnh tâm, một mà ba, ba mà một. Trong ba loại tâm ấy, thanh tịnh tâm thuận tiện nhất, dễ dàng tu nhất. Tâm đã thanh tịnh, đương nhiên là chánh tri chánh kiến, đương nhiên là giác chứ không mê. Thiền tu tập từ nơi giác tâm, chẳng dễ dàng cho lắm! Giáo Hạ tu tập từ chánh tâm, tức là chánh tri chánh kiến, cũng chẳng phải chuyện dễ dàng. Niệm Phật tu tập từ tâm thanh tịnh.

Chúng ta hiểu chân tướng sự thật này, phải nên chuyển ngược lại, xoay chuyển lại. Niệm niệm đừng nên đuổi theo ngoại trần nữa, đừng bị dao động bởi cảnh giới bên ngoài, chính mình có chủ trương, chính mình làm chủ tể, chẳng bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Quý vị có bản lãnh ấy, sẽ chẳng khác Phật, Bồ Tát. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai”. Như Lai có bản lãnh gì? Như Lai chẳng bị cảnh giới chuyển. Chúng ta bị cảnh giới chuyển, nên là phàm phu. Chẳng bị cảnh giới chuyển, sẽ là Phật, Bồ Tát.

“Tư lương trù độ, tằng bất tạm ly, nhật dạ an ư mê loạn, nhi bất giác dã” (Suy lường, trù tính, cân nhắc, chưa hề tạm rời, ngày đêm ở yên trong mê loạn, mà chẳng hay biết). Đây là nói về phàm phu. “Duy sanh, duy tử”, sanh sanh tử tử, vĩnh viễn chẳng xong, luân hồi trong lục đạo. “Tự nhược ư phân nhiễu chi trung, vô cổ, vô kim, tương vong ư tán loạn chi nội, khả cụ dã” (Tự đặt mình trong sự nhiễu loạn, không xưa, không nay, quên bẵng trong vòng tán loạn, đáng sợ thay). Chữ “nội” chỉ lục đạo luân hồi. Tự mình mê mất, nên thấy hết thảy chúng sanh đều mê, mà vẫn cứ ngỡ đó là chánh xác.

Thuở tôi còn trẻ, thích đọc lịch sử, sau này học Phật, chẳng còn đọc Nhị Thập Ngũ Sử nữa, tôi buông một câu phê bình “chó cắn sủa nhau”. Lịch sử xưa nay, trong ngoài nước đều là như vậy, thật ra là đang tạo nghiệp. Trước kia, tại Đài Loan hằng năm đều tuyển chọn người tốt, chuyện tốt, thầy Lý viết trên bảng đen chữ Hảo Nhân (người tốt), dưới chữ Hảo bèn khuyên một cái, [thành ra] “hảo nhân háo sự!” (người tốt ham bới ra việc)[14]. Lại nghĩ tới Bàng cư sĩ đã bảo: “Hảo sự chẳng bằng vô sự”. Nếu mỗi người đều chẳng muốn làm chuyện tốt, sẽ đều vô sự, thưa cùng chư vị, thiên hạ thái bình. Vì sao hiện thời Đài Loan loạn như thế? Người “tốt” lắm quá! Ai nấy đều muốn làm chuyện tốt! Quý vị thấy ngay cả viện Lập Pháp (Quốc Hội) cũng đấu đá như vậy, háo sự đấy!

Công việc chúng ta đang làm hiện thời, đối với quốc gia, đối với xã hội, đối với thế giới có sự cống hiến nhất định, tuyệt đối chẳng ít hơn những việc họ làm, nhưng công việc của chúng ta thanh tịnh hơn. Việc người ta chẳng muốn làm, chúng ta sẽ làm. Những gì người ta muốn, thảy đều nhường cho quý vị làm; nếu quý vị chẳng làm, chúng tôi sẽ làm. Những người làm chuyện tốt ấy, bảo họ xuống tóc, xuất gia, giảng kinh, họ chẳng làm. Họ chẳng làm, tức là họ chẳng làm chuyện tốt đẹp ấy. Vì thế, phải hiểu chuyện tốt là gì, tiêu chuẩn của chuyện tốt cũng rất khó nhận biết rõ ràng. Chẳng có trí huệ kha khá, sẽ chẳng có cách nào phân biệt thị phi, thiện ác. Thị phi, thiện ác đều chẳng thể phân biệt, coi nhất loạt như nhau, ngay cả lợi hại cũng chẳng thể phân biệt, đó là ngu si tới tột cùng!

Trong lời Sao có nói: “Thế nhân khởi ư ý thức, niệm niệm trục ngoại trù lượng, thị tà tư duy dã” (Người đời khởi lên ý thức, niệm niệm trù tính, suy lường theo bên ngoài; đó là tà tư duy). Liên Trì đại sư đã kết luận: Thức thứ sáu và thức thứ bảy khởi tác dụng là tà tư duy, chẳng phải là chánh tư duy! Tà tư duy là tà tri, tà kiến, chẳng phải là trí huệ chân chánh.

 

(Sao) Toàn kỳ ý thức, khấu kỷ nhi tham, tư chi hựu tư, tư tận hoàn nguyên, tư vô sở tư, toàn thân tức thọ, tức quang, hà luận bỉ Phật, thử Phật?

()旋其意識,扣己而參,思之又思,思盡還源,思無所思,全身即壽即光,何論彼佛此佛。

(Sao: Xoay chuyển ý thức, quay trở lại tham cứu chính mình, suy đi nghĩ lại, suy nghĩ cho đến khi hết hẳn suy nghĩ sẽ trở về nguồn, suy nghĩ mà không còn có gì để suy nghĩ nữa, toàn thân chính là thọ, là quang, còn luận định Phật này, Phật kia chi nữa?)

 Đây là trở về tự tánh, chuyển thức thành trí, dạy chúng ta cách tu học như thế nào? “Toàn kỳ ý thức” (Xoay chuyển ý thức) thì cách xoay là như thế nào? Tham cứu như thế nào?

 

(Diễn) Toàn kỳ ý thức giả.

()旋其意識者。

(Diễn: Xoay chuyển ý thức).

“Toàn” (旋) là quay đầu. Trong Phật môn thường nói “hồi đầu thị ngạn” (quay đầu sẽ là bờ). Quán Thế Âm Bồ Tát rất biết vận dụng phương pháp này. Quý vị xem Quán Thế Âm Bồ Tát Viên Thông Chương của kinh Lăng Nghiêm, sẽ thấy Ngài giảng phương pháp tu hành của Ngài.

 

(Diễn) Vị sơ tâm nhân, vị năng cự y nghiệp thức tu hành, chỉ khả tức tựu ý thức hồi quang phản chiếu dã. Cố chư tu hành nhân vị đắc định giả, giai tán vị độc đầu ý thức vi quán Thể; đắc thượng định giả, diệc thị định ý thức hiện lượng quán sát dã.

()謂初心人,未能遽依業識修行,只可即就意識回光返照也。故諸修行人未得定者,皆散位獨頭意識為觀體;得上定者,亦是定意識現量觀察也。

(Diễn: Ý nói kẻ sơ tâm chẳng thể dựa ngay trên nghiệp thức để tu hành, chỉ có thể từ ngay nơi ý thức mà hồi quang phản chiếu. Vì lẽ đó, người tu hành mà chưa đắc Định đều dùng tán vị độc đầu ý thức[15] để quán Thể. Người đã đắc Định bậc thượng cũng là dùng Định hiện lượng ý thức để quán sát).

Chúng ta chớ nên không biết chân tướng sự thật này, vì lý luận này xuyên suốt tất cả các pháp môn. Chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ cũng cùng một nguyên lý như vậy. Người sơ phát tâm quyết định dùng thức thứ sáu, tức ý thức, để tu hành. Thiên Thai đại sư do kinh Pháp Hoa mà khai ngộ, sau khi đã ngộ, bèn sáng chế phương pháp tu hành Tam Chỉ Tam Quán. Phương pháp này của Ngài hết sức gần với phương pháp được giảng trong kinh Lăng Nghiêm. Thuở đó, cao tăng Ấn Độ đến núi Thiên Thai thăm viếng Trí Giả đại sư, nghe Ngài giảng pháp môn tu hành, đã bội phục năm vóc sát đất. Do kinh Lăng Nghiêm chưa truyền đến Trung Hoa, Ngài nghiễm nhiên suy nghĩ một phương pháp tương ứng với kinh Lăng Nghiêm. Tuy là giống nhau, trên thực tế, vẫn có chỗ bất đồng, bất đồng ở chỗ nào? Giao Quang đại sư đã nói rất rõ ràng: Tam Chỉ Tam Quán của ngài Thiên Thai dùng tâm ý thức để tu. Xa Ma Tha, Tam Ma Địa, Thiền Na được nói trong kinh Lăng Nghiêm dùng tự tánh để tu, chẳng dùng ý thức, đó là chỗ bất đồng. Nhìn bề ngoài, Xa Ma Tha là Chỉ, Tam Ma Địa là Quán, Thiền Na là Chỉ Quán đẳng vận (Chỉ và Quán cùng vận dụng), xác thực là giống như Tam Chỉ Tam Quán do Thiên Thai đại sư đã nói, [thật ra là] phương pháp giống nhau, nhưng dụng tâm khác nhau. Lăng Nghiêm khó, Lăng Nghiêm phải bỏ thức dùng căn, Thiên Thai dễ dàng, Thiên Thai dùng tâm ý thức, chúng ta ai nấy đều có thể tu học. Chú giải kinh Lăng Nghiêm chia làm hai phái lớn. Ngài Giao Quang là tân phái, chủ trương bỏ thức dùng căn. Ngài Trường Thủy[16] là cựu phái, chủ trương vận dụng tư tưởng của tông Thiên Thai, theo lối này, người bình phàm đều có thể tu học.

Tâm ý thức khẩn yếu ở chỗ hồi quang phản chiếu, phải biết quay đầu. “Quay đầu” là chẳng hướng ra ngoài phan duyên, mà là hướng nội phan duyên. Ngoại phan duyên là duyên theo lục trần, hướng nội phan duyên là duyên theo tự tánh. Bất luận chuyện gì, hễ có thể quay đầu, như vậy là tốt đẹp. Người tu hành chưa đắc Định, giống như chúng ta hiện thời chưa đắc Định, ai làm chủ? Tán vị độc đầu ý thức làm chủ. Nay chúng ta nói niệm Phật cũng thế, mà tu quán tưởng cũng thế, đọc tụng kinh điển cũng như vậy, đều là dùng tâm ý thức. Quý vị đã đắc Định, người niệm Phật đắc Định được gọi là Niệm Phật tam-muội. Vì quý vị thông thường dùng tâm ý thức sẽ dần dần có thể quay đầu, có thể phản quán, cũng là đối với hết thảy cảnh giới bên ngoài, pháp thế gian lẫn Phật pháp thảy đều buông xuống. Pháp môn Tịnh Tông chỉ duyên theo một câu A Di Đà Phật, chỉ tư duy một bộ kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Di Đà cũng là kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta suy nghĩ, nghĩ nhớ trong phạm vi ấy, không chạy theo bên ngoài, dần dần sẽ đắc Định, tâm thanh tịnh.

Thoạt tiên, quý vị đạt được cái gọi là “công phu thành phiến” trong Tịnh Tông. Công phu thành phiến chẳng phải là Định thật sự, nhưng coi như là Định, vì công phu của quý vị có thể chế phục tâm tán loạn. Công phu như vậy chắc chắn vãng sanh, đó gọi là “đới nghiệp vãng sanh”, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu công phu sâu hơn một tầng, thật sự đoạn Kiến Tư phiền não, chúng chẳng còn khởi tác dụng, chẳng khởi hiện hành, thật sự đã đoạn, bèn chứng đắc Sự nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm bất loạn là Niệm Phật tam-muội thật sự. Công phu thành phiến là tương tự tam-muội, chẳng phải là thật sự, nhưng chắc chắn vãng sanh. Đạt đến Sự nhất tâm, sanh về cõi Phương Tiện Hữu Dư trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng phải là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, địa vị vãng sanh đương nhiên cao. Công phu như vậy, nói thật ra, kẻ bình phàm chúng ta rất khó làm được!

Nói tới công phu thành phiến, có thể nói là bất cứ ai, chỉ cần quý vị thật sự nỗ lực, thật sự chịu tu, chẳng có một ai chẳng đạt được! Điều này có nghĩa là pháp môn này “vạn người tu, vạn người đến”. Hơn nữa, trong công phu thành phiến, cũng có ba bậc chín phẩm. Trong ba phẩm thượng của công phu thành phiến, [hành nhân] biết trước lúc mất, sanh tử tự tại, điều này có tác dụng cổ vũ chúng ta rất lớn. Sanh tử tự tại thì ta muốn đi lúc nào bèn ra đi lúc ấy, muốn ở thêm mấy năm bèn ở thêm mấy năm, tự tại! Bất cứ học vấn hay tôn giáo nào trong thế gian cũng đều chẳng làm được điều này, chỉ riêng trong Phật pháp là có thể làm được, sanh tử tự tại, thật vậy, chẳng giả! Ba phẩm trung của công phu thành phiến tuy không thể tự tại, nhưng có thể biết trước lúc mất, có thể đứng mất, ngồi mất, lúc mất chẳng bị bệnh khổ. Hễ còn chết trong bệnh khổ thì phẩm vị chẳng cao cho lắm!

Trong quá khứ, khi thầy Lý tại thế, đã có lần giảng kinh tại đại hội trường Trung Hưng, cụ công khai tuyên bố cụ sanh tử tự tại. Lúc ấy, cụ chỉ mới bảy mươi lăm tuổi. Cụ có thể làm được thì chúng ta cũng có thể làm được, phải có ý niệm này thì mới được. Cụ làm được, chúng ta rất hâm mộ, nhưng chúng ta làm không được, vậy là chẳng có ý nghĩa gì hết! Cụ có thể làm, chúng ta cũng có thể làm. Cụ bảy mươi lăm tuổi làm được thì chúng ta sáu mươi lăm tuổi phải làm được, đó gọi là “kẻ đến sau mà ở trước”, nói chung, chẳng lọt sau người ta! Quý vị chỉ cần hiểu rõ lý luận, tìm được phương pháp, nghiêm túc tu học, chẳng có ai không thành tựu!

Phật pháp chẳng phải là đặc quyền [cho riêng một ai], mà là bình đẳng, ai nấy đều có thể tu thành, ai nấy đều có thể đạt được, vấn đề là quý vị có chịu tu hay không? Đó gọi là “ông tu ông đắc, bà tu bà đắc”, không tu sẽ không đắc, quyền kiểm soát vấn đề này hoàn toàn nằm trong tay của chính mình. Dẫu đắc Định, vẫn là ý thức làm chủ trong Định, chẳng phải là bản tánh. Thật sự làm chủ thì nhất định phải chuyển thức thành trí. Trong Phật pháp, Đại Thừa Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát mới chẳng dùng tâm ý thức, lìa khỏi tâm ý thức. Thiền Tông nói đến chuyện tham Thiền, Tham là gì? Lìa tâm ý thức mới là Tham. Nay chúng ta nói “nghiên cứu”, Phật pháp chẳng nói “nghiên cứu”. Nghiên cứu là dùng tâm ý thức, dùng thức thứ sáu, tức ý thức, đó là tà tư duy, chẳng phải là chánh tư duy. Lìa khỏi tâm ý thức, sẽ là chánh tư duy, là chánh tri chánh kiến. Chánh tri chánh kiến cũng là “Phật tri Phật kiến” như kinh Pháp Hoa đã nói. Vị Phật ấy chẳng phải là Phật ở bên ngoài, mà là vị Phật của chính mình, tức tự tánh Phật, tự tánh Bát Nhã lưu lộ. Đức Phật dạy chúng ta làm như vậy, chẳng phải là dạy chúng ta dựa vào tri kiến, ý tưởng của Ngài. Phật chẳng phải là như vậy, Phật dạy chúng ta khai phát chánh tri chánh kiến trong tự tánh.

 

(Diễn) Khấu kỷ nhi tham giả, vị bất trục ngoại trù lượng, đản hướng nhất cú A Di Đà Phật thượng trước đảo, niệm niệm thể sát, niệm niệm cứu thẩm, cúc kỳ căn nguyên dã.

()扣己而參者,謂不逐外籌量,但向一句阿彌陀佛上著倒,念念體察,念念究審,鞫其根源也。

(Diễn: Tham cứu chính mình là chẳng trù tính, suy lường theo bên ngoài, chỉ hướng về một câu A Di Đà Phật mà nghiền ngẫm, niệm niệm nghĩ xét, niệm niệm tham cứu cặn kẽ, tra xét nguồn cội của nó).

Chúng ta thường nói là trong hết thảy cảnh duyên, chẳng phân biệt, không chấp trước, chẳng khởi tâm, không động niệm, giữ gìn tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, đó là chân chánh tu hành. Đó là quay đầu, trở về tự tánh. Trong phần trước đã nói, “toàn kỳ ý thức” (xoay chuyển ý thức), chúng ta phải quay đầu như vậy. “Đản hướng nhất cú A Di Đà Phật thượng trước đảo, niệm niệm thể sát, niệm niệm cứu thẩm, cúc kỳ căn nguyên dã” (Chỉ hướng về một câu A Di Đà Phật mà nghiền ngẫm, niệm niệm nghĩ xét, niệm niệm tham cứu cặn kẽ, tra xét nguồn cội của nó): Đó là nói theo phía người tu Tịnh Độ, vì tu pháp môn Tịnh Độ là dễ dàng nhất trong tất cả các pháp môn, mà cũng là pháp môn ổn thỏa, thích đáng nhất, đắc lực nhất. Chúng ta chẳng hướng ra ngoài phan duyên, chư vị nhất định phải biết: Đọc kinh luận càng ít càng hay! Quý vị niệm nhiều chẳng có lợi gì! Niệm nhiều, mà nếu chẳng thể hội quy tự tánh, chắc chắn sẽ tăng trưởng tà kiến. Thanh Lương đại sư nói lời này, vì sao? Quý vị niệm nhiều, vọng tưởng nhiều, chấp trước nhiều, phân biệt nhiều, phiền phức ở ngay chỗ này!

Học đạo chẳng giống như cầu học. Lão Tử đã nói: “Vi học nhật ích” (Vì sự học mà ngày càng tăng), đó là học thuật thế gian, càng học nhiều càng tốt. “Vi đạo nhật tổn”, vì đạo, học đạo thì trong tâm mỗi ngày phải buông xuống, mỗi ngày trừ bỏ, bỏ đến khi chẳng còn gì để bỏ, quý vị sẽ thành tựu, sẽ thành công. Vì lẽ đó, quý vị biết chuyện càng ít càng hay, những thứ quý vị đọc, xem, nghe càng ít càng hay! Hiện thời, người học đạo chẳng dễ thành tựu, là do các đồng tu học đạo biết quá nhiều chuyện, đến các chùa miếu khắp nơi, đi khắp nơi để xem kinh điển loạn xạ, xem đến nỗi một thân toàn là khuyết điểm! Vì vậy, kinh Phật có thể cứu người, mà cũng có thể hại người, hại chết quý vị mà quý vị cũng chẳng biết. Oan uổng quá! Vì vậy, bị Thích Ca Mâu Ni Phật hại chết. Thuở tôi thân cận thầy Lý, khi ấy, tôi còn chưa xuất gia, tôi nói: “Kinh Phật có thể hại chết người”. Các bạn học nghe nói chẳng phục, đến hỏi thầy. Thầy gật đầu: “Chẳng sai! Kinh Phật có thể hại chết người”. Họ nghe nói sững sờ! Kinh Phật giống như thuốc, thuốc trong tiệm thuốc đều là thuốc tốt lành, đều để chữa bệnh, nhưng quý vị có thể uống tùy tiện hay sao? Chắc chắn là uống vô chết ngắc, không đúng chứng bệnh mà! Kinh Phật là pháp dược, có thể đoạn dứt Pháp Thân huệ mạng của chúng ta, nên kinh Phật chẳng thể tùy tiện xem, chẳng thể tùy tiện nghe!

Khi tôi bái cụ Lý Bỉnh Nam làm thầy, thầy đặt ra ba điều kiện. Ba điều kiện ấy là ba điều giới luật:

– Điều kiện thứ nhất, chỉ cho phép nghe cụ giảng kinh. Trừ cụ ra, bất luận kẻ nào giảng kinh cũng chẳng được phép nghe.

– Điều kiện thứ hai, xem sách Phật hoặc sách thông thường, nếu chẳng được cụ đồng ý, chẳng được phép xem.

– Điều kiện thứ ba càng hà khắc hơn: “Những gì anh đã học trước đây tôi đều chẳng thừa nhận, nhất loạt bỏ đi. Nay anh đến chỗ tôi để học thì phải học lại từ đầu!” Điều kiện này rất lợi hại, thầy nói gì chỉ được phép nghe theo, chẳng thể biện bác, nói “trong quá khứ, con đã xem ở đâu đó, chẳng giống như thầy nói”. Thầy bảo: “Tôi chẳng thừa nhận điều ấy, bỏ nó đi!” Vì thế, ngay cả cơ hội nói năng cũng chẳng có, chỉ đành ngoan ngoãn nghe theo.

Về sau, chúng tôi mới hiểu rõ ba điều kiện ấy, chẳng phải là thầy Lý độc đoán. Từ xưa tới nay, tổ sư đại đức truyền dạy học trò đều là ba điều kiện ấy, chúng ta mới hiểu sư thừa là gì. Thầy đoạn tuyệt tất cả hết thảy vọng tưởng, phân biệt, ý kiến của quý vị, khiến cho tâm địa quý vị thật sự khôi phục sự thanh tịnh thì mới có thể tiếp nhận pháp môn quảng đại vi diệu rất sâu này. Về sau, tôi biết pháp sư Diễn Bồi cũng được giáo dục như vậy: Lúc Ngài làm tiểu sa-di theo lão hòa thượng Đế Nhàn, lão hòa thượng Đế Nhàn cũng đặt ra ba điều kiện ấy.

Hiện thời, các đồng tu trong Phật môn chúng ta, rất nhiều đồng tu xuất gia, quý vị nghĩ xem, họ làm sao có thể thành tựu cho được? Chẳng thể thành tựu, vì sao? Xem kinh quá nhiều, khi xem quá nhiều thì vọng niệm quá nhiều, phân biệt, chấp trước quá nhiều, chẳng có cách nào nói chuyện Phật pháp với họ được. Kinh này nói như thế này, kinh kia nói như thế ấy, luôn đem [các kinh ấy] ra để tranh cãi, đầy một bụng Phật pháp, nhưng trong tâm phiền não tầng tầng, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nhiều hơn bất cứ ai. Khi chưa học Phật còn ít, càng học [vọng tưởng, phân biệt, chấp trước] càng nhiều, làm sao có thể thành tựu cho được? Vì thế, ba đại nguyên tắc trong Phật pháp là: “Giác chứ không mê”, kẻ ấy là mê chứ chẳng giác. “Chánh chứ không tà”, kẻ ấy là tà, chẳng chánh. “Tịnh chứ chẳng nhiễm”, kẻ ấy là nhiễm chứ không tịnh. Do đó, sự tu học của người ấy là mê, tà, nhiễm, càng mê càng sâu, càng nhiễm càng sâu, lỗi lầm đặc biệt quá lớn.

Chư vị nhất định phải biết: Phật pháp tu gì? Phật pháp cầu gì? Cầu minh tâm kiến tánh. Người niệm Phật chúng ta cũng nhằm minh tâm kiến tánh, mục tiêu bậc nhất của người niệm Phật là nhất tâm bất loạn. Trong nhất tâm bất loạn, Sự nhất tâm bất loạn là Định, Lý nhất tâm bất loạn là Huệ, là minh tâm kiến tánh. Lý nhất tâm bất loạn hoàn toàn giống như minh tâm kiến tánh trong nhà Thiền, Giáo Hạ nói là “đại khai viên giải”. Chúng ta dùng phương pháp tuyệt diệu, một câu A Di Đà Phật khiến cho cái tâm định, khăng khăng một mực dựa vào một câu A Di Đà Phật, dựa vào một quyển kinh A Di Đà. Hiện thời, chúng tôi đề xướng hai loại chú giải kinh Di Đà, một là Sớ Sao Diễn Nghĩa, loại kia là Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư. Đối với Đại Bổn, chúng ta dựa vào kinh Vô Lượng Thọ là đủ rồi. Thật sự có thể tuân thủ trong phạm vi nhỏ nhoi này, quý vị là người bậc thượng trong loài người, là căn tánh thượng thượng, vì sao? Quý vị khăng khăng một lòng. Ở Trung Hoa xưa kia có một vị thiền sư, biệt hiệu là Chân Hiết Liễu, Hiết (歇) là nghỉ ngơi, [Chân Hiết Liễu] là thật sự nghỉ ngơi. Nếu chúng ta có thể dốc trọn một lòng niệm A Di Đà Phật, chúng ta đã thật sự nghỉ ngơi, chẳng có chuyện gì, chính mình cũng chẳng có chuyện gì, thiên hạ thái bình, thật sự nghỉ ngơi, thanh tịnh vô vi. Đó là bí quyết nhập môn, cũng là [bí quyết] nhập môn minh tâm kiến tánh, nhập môn Lý nhất tâm bất loạn.  Chẳng có công phu như vậy, chẳng có điều kiện như vậy, sẽ chẳng thể nhập môn.

Đó gọi là “khấu kỷ nhi tham”, thứ gì cũng chẳng cần hỏi, tự nhiên đạt được nhất tâm bất loạn, tự nhiên minh tâm kiến tánh, tự nhiên cảm ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật. Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 185

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm tám mươi tư:

 

(Diễn) Tư tận hoàn nguyên giả, tức sở vị thể cứu chi cực, ư tự bổn tâm, hốt nhiên khế hợp dã.

()思盡還源者,即所謂體究之極,於自本心忽然契合也。

(Diễn: “Đã hết suy nghĩ bèn trở về nguồn” chính là nói suy xét, thấu hiểu đến tận cùng, bỗng khế hợp bản tâm của chính mình).

Đây là công phu khá sâu! Tất cả các tông phái và pháp môn trong Phật môn đều chẳng lìa khỏi nguyên tắc này. “Hoàn nguyên” (Trở về nguồn): Nguyên (源) là cội nguồn, là Chân Như bản tánh. Bọn phàm phu chúng ta, Nhị Thừa, và Quyền Giáo Bồ Tát chưa thể kiến tánh, nguyên nhân căn bản là vì có Tư, có Tư là có vọng tưởng. “Tư tận” là đoạn sạch vọng tưởng. Đoạn sạch vọng tưởng thì mới có thể minh tâm kiến tánh.

Nhìn bề ngoài, Giáo Hạ sử dụng phương pháp chẳng giống Tông Môn. Tông Môn chú trọng tham cứu, thường nói là “chẳng lập văn tự, chỉ thẳng tâm người”, dạy quý vị buông xuống hết thảy vọng niệm. Dùng phương pháp ấy xác thực là người căn tánh rất nhạy bén. “Căn tánh nhạy bén” chẳng phải là nói tới những kẻ rất thông minh trong thế gian. Kẻ rất thông minh là Thế Trí Biện Thông, chưa chắc họ đã là căn tánh rất nhạy bén. Nếu người ấy thật sự có thể buông xuống, căn tánh ấy rất nhạy bén, mới có thể dùng phương pháp này để khế nhập. Nếu vọng niệm nhiều, nay chúng ta nói vọng niệm nhiều là “suy nghĩ nhiều quá”, kẻ ấy suy Đông nghĩ Tây, suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn cào cào. Căn tánh như vậy chẳng thích hợp để tham Thiền, mà thích hợp để nghiên cứu Giáo. Nghiên cứu Giáo, chư vị phải biết, thuở đức Thế Tôn tại thế, Ngài chẳng dạy: “Mỗi học trò, bất luận là tại gia hay xuất gia, phải nghiên cứu hết thảy các kinh điển do đức Phật đã giảng”. Chẳng có chuyện ấy! Thuở ấy, đức Phật giảng kinh trọn chẳng có kế hoạch giảng giải từ cạn đến sâu, thực hiện theo từng bước, chẳng có! Đức Phật trọn chẳng có kế hoạch giáo học, hoàn toàn chẳng có thứ tự và trình tự giáo học, mà là kẻ như thế nào đến [thưa hỏi], Ngài bèn dùng phương pháp nào [thích hợp với căn tánh của người ấy] để dạy. Phương pháp của Ngài là “ứng cơ thí giáo” (tương ứng với căn cơ mà giảng dạy), tùy theo tài năng của họ mà dạy bảo. Vì thế, người gặp đức Phật, hướng về đức Phật thỉnh giáo, đức Phật dạy người ấy một pháp môn, người ấy bèn dụng công đến cùng nơi pháp môn ấy. Nói cách khác, học trò đức Phật ai nấy đều là thâm nhập một môn, trọn chẳng phải là hết thảy các pháp môn đều thông đạt, chẳng có chuyện ấy! Vì sao? Chỉ có thâm nhập một môn thì mới có thể làm được “tư tận hoàn nguyên”, mới có thể kiến tánh. “Tư” (思) là trao cho quý vị một phạm vi, để cho quý vị tư duy trong phạm vi ấy, khi đã tư duy đến mức chẳng còn có thể tư duy được nữa, bèn kiến tánh. Hết thảy các kinh điển quý vị đều nghiên cứu, đều suy nghĩ, dò lường, thôi rồi! Chắc chắn là chẳng thể thành tựu trong một đời này! Chúng ta nhất định phải biết nguyên tắc này!

Tại Trung Hoa, từ xưa tới nay, mỗi tự viện tùng lâm đều có học phong và đạo phong duy nhất, đặc biệt, tức là tôn sùng mấy bộ kinh luận nào đó. Tông Hoa Nghiêm lấy kinh Hoa Nghiêm làm chủ, dùng các kinh luận có quan hệ mật thiết với kinh Hoa Nghiêm để phụ trợ. Mỗi tông phái luôn lấy một bộ kinh hoặc luận làm chủ. Tông phái có kinh luận [dùng làm căn cứ lập luận chủ yếu] nhiều nhất là Pháp Tướng Duy Thức Tông, gồm có sáu bộ kinh và mười một bộ luận. Tịnh Độ Tông từ xưa tới nay chỉ có ba kinh một luận, luận là Vãng Sanh Luận do Thiên Thân Bồ Tát soạn, cho đến hiện thời, vì được các vị tổ sư đại đức bổ sung, nên mới có năm kinh một luận.

Chữ Tư ở đây có phải là suy xét hoặc nghiên cứu hay không? Chẳng phải! Nếu dùng suy xét hoặc nghiên cứu, sẽ hoàn toàn rơi vào thức thứ sáu, tức ý thức. Dùng thức thứ sáu, tức ý thức, để tu hành, cao nhất là chỉ có thể đắc Cửu Thứ Đệ Định, chứng quả A La Hán, chẳng thể kiến tánh. Cũng có nghĩa là chúng ta dùng thức thứ sáu, tức tâm ý thức, để niệm Phật, có thể đắc Sự nhất tâm bất loạn, đó là cao nhất, chứ Lý nhất tâm bất loạn sẽ chẳng thể đạt được. Vì thế, Tư ở đây là Tư Huệ trong sự tu học của Bồ Tát, [dùng Tư Huệ trong] Tam Huệ Văn, Tư, Tu thì mới có thể hoàn nguyên.

Chúng ta nhất định phải biết  ý  nghĩa  chân  thật  của  Tư  Huệ, nó chẳng phải là dùng suy xét, mà dùng gì? Thể cứu (體究: Tham cứu đến mức thấu hiểu tận cùng). Thể (體) là thấu hiểu, hết sức thân thiết. Nghiên cứu, suy xét là thức thứ sáu, còn thấu hiểu, thể cứu sử dụng Chân Như bản tánh, tức là dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Chân tâm ly niệm, nên nó là trực giác. Cũng có nghĩa là: Vừa tiếp xúc bèn hiểu rõ, đó là Tư. Hoàn toàn chẳng thông qua suy xét, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ. Từ ý nghĩa tiếp xúc mà gọi là Văn Huệ. Từ ý nghĩa hiểu rõ mà gọi là Tư Huệ. Từ ý nghĩa phá mê mà gọi là Tu Huệ. Có thể thấy tiếp xúc, hiểu rõ, chẳng mê, là cùng một chuyện. Tam Huệ được hoàn thành cùng một lúc, trọn chẳng có thứ tự, chẳng phải là trước hết là Văn, sau đấy lại Tư, kế đó là Tu. Chẳng phải vậy! Nếu theo thứ tự, sẽ là Nhị Thừa và Quyền Giáo Bồ Tát đều có, chẳng thể nói là chỉ riêng Bồ Tát mới có Tam Huệ. Tam Huệ được hoàn thành cùng một lúc, chẳng có thứ tự, ở đây là nói tới bậc đại Bồ Tát đã minh tâm kiến tánh, chứ kẻ bình phàm chẳng có [Tam Huệ hoàn thành cùng một lúc]!

Chúng ta xem câu này vận dụng như thế nào vào công phu tu hành của bản thân chúng ta, điều này rất trọng yếu. Phải sử dụng như thế nào? Trong các buổi giảng, chúng tôi thường khuyến khích các đồng tu niệm kinh, niệm kinh là tu học Tam Huệ của Bồ Tát. Chúng ta mắt nhìn kinh bổn, tiếp xúc, là Văn Huệ. Sau khi đã tiếp xúc, bèn chuyên tâm đọc tụng, không khởi vọng tưởng, đó là Tu Huệ. Niệm kinh văn rành mạch rõ ràng, đó là Tư Huệ. Chẳng cần tìm cầu trong kinh có những ý nghĩa gì, chỉ một mực niệm, phương pháp này là Văn – Tư – Tu Tam Huệ hoàn thành cùng một lúc. Niệm kinh là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn, Tam Học và Tam Huệ đều hoàn thành cùng một lúc.

Đáng tiếc là hiện thời quý vị chẳng hoàn nguyên; chẳng hoàn nguyên thì Tư vẫn chưa hết. Khi nào quý vị hết sạch ý niệm, hết sạch chính là vô niệm. Vô niệm, vô bất niệm! Niệm đã không còn, vô niệm cũng không còn. Vô niệm, vô bất niệm chính là hoàn nguyên. Tôi lại thưa cùng quý vị, quý vị đã đạt được vô niệm, nói theo tiêu chuẩn của chúng ta, sẽ là Sự nhất tâm bất loạn. Quý vị đắc Niệm Phật tam-muội, vô niệm là Định. Chẳng có niệm thì vô niệm cũng chẳng có, đó là Huệ, là hoàn nguyên, tức là Lý nhất tâm bất loạn, đấy mới là “tư tận hoàn nguyên”. “Ư tự bổn tâm” (Đối với bổn tâm): Bổn tâm là chân tâm, là bản tánh, tức là Chân Như bản tánh của quý vị. “Hốt nhiên khế hợp” (Bỗng khế hợp), nhà Thiền nói là minh tâm kiến tánh, [“hốt nhiên khế hợp” là] bỗng kiến tánh. Kiến tánh là như thế nào? Tôi lại nói cho quý vị biết, tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đã nói rất hay, chính là “thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Quý vị phải hiểu người kiến tánh là như thế nào? Người kiến tánh tâm tuyệt đối thanh tịnh, tuyệt đối bình đẳng, giác chứ không mê, người ấy đã kiến tánh. Kiến tánh thành Phật, người ấy bèn thành Phật. Tựa đề của kinh Vô Lượng Thọ quá hay, nguyên lý và mục tiêu tu học, phương pháp tu hành và cảnh giới đều được nêu bày trong tựa đề kinh. Vì thế, năm chữ “thanh tịnh, bình đẳng, giác” là mục tiêu dụng công của chúng ta. “Tư tận hoàn nguyên” là nghĩ mà không có gì để nghĩ.

 

(Diễn) Tư vô sở tư giả, tức niệm nhi vô niệm, thị ly niệm cảnh giới, sở vị viễn ly vi tế niệm cố. Đắc kiến tâm tánh, tâm tức thường trụ dã. Hựu phục thử tức bất tư chi tư, thị nhậm vận thanh tịnh chi ý, cố Phật quả đệ thất, diệc danh vi Ý.

()思無所思者,即念而無念,是離念境界,所謂遠離微細念故。得見心性,心即常住也。又復此即不思之思,是任運清淨之意,故佛果第七,亦名為意。

(Diễn: “Nghĩ mà không có gì để nghĩ” chính là niệm mà vô niệm, là cảnh giới ly niệm, tức là xa lìa niệm vi tế. Được thấy tâm tánh, tâm chính là thường trụ. Điều này lại còn là chẳng nghĩ mà nghĩ, ý mặc lòng thanh tịnh, nên trong Phật quả, thức thứ bảy cũng gọi là Ý).

Sau khi “tư tận hoàn nguyên”, bèn là “niệm mà vô niệm”. Niệm và vô niệm là một, chẳng hai. Nay chúng ta trước khi đạt đến cảnh giới ấy, là phàm phu, đương nhiên Nhị Thừa và Quyền Giáo Bồ Tát cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, niệm và vô niệm là hai, chẳng phải là một; sanh và vô sanh cũng là hai, chẳng phải là một; phiền não và Bồ Đề là hai, chẳng phải là một; sanh tử và Niết Bàn cũng là hai, chẳng phải là một. Nhà Thiền nói toàn bộ đều rớt vào hai, ba, đó là mê, là bất giác. Nếu thật sự khế hợp chân tánh, thưa cùng chư vị, vạn pháp quy nhất. “Nhất” thì mới thanh tịnh, mới bình đẳng; là Nhị thì lấy đâu ra bình đẳng? Rớt vào Nhị là mê, Nhất mới là giác. Tông này (tức là tông Tịnh Độ) đặc biệt đề xướng “nhất tâm bất loạn”, Nhất là giác, là thanh tịnh, là bình đẳng. Phải như thế nào thì mới có thể đạt tới nhất tâm? Phải bỏ sạch hết thảy phân biệt, chấp trước, quý vị mới có thể đạt được. Trong kinh luận, đức Phật thường nói: Vì sao phàm phu chẳng thể thành tựu? Ngay trong Liễu Phàm Tứ Huấn, thiền sư Trung Phong đã nói: “Chấp tướng tu phước”. Chấp tướng tu phước, sẽ đạt được phước báo trong tam giới lục đạo. Chấp tướng tu phước, niệm niệm đều là phân biệt, so đo, chẳng thể đạt đến tam luân thể không. Tam luân thể không, có tu phước hay không? Tu chứ! Tuy tu, nhưng cũng giống như chẳng tu, trong tâm sạch làu làu, chẳng nhiễm mảy trần, đó gọi là chân tu.

“Tư tận hoàn nguyên, tư vô sở tư” là cảnh giới Phật pháp rất cao, là cảnh giới của Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát hoặc Biệt Giáo Sơ Địa trở lên. Quý vị chứng đắc cảnh giới ấy, Tịnh Độ Tông gọi là Lý nhất tâm bất loạn. Nhưng chỗ tốt đẹp lớn nhất của Tịnh Tông chẳng ở nơi Lý nhất tâm, vì nếu coi Lý nhất tâm là tiêu chuẩn, Tịnh Tông chẳng đáng coi là quý báu. Vì sao? Những pháp môn khác cũng đều là tiêu chuẩn như vậy. Chỗ đáng quý nhất của Tịnh Tông là đới nghiệp vãng sanh! Chẳng đạt đến công phu ấy, một phẩm phiền não chẳng đoạn, người ấy vẫn có thể vãng sanh, đó là điểm đặc sắc của Tịnh Độ Tông, trong các tông phái và pháp môn khác chẳng có chuyện này! Chỉ có như thế thì pháp môn này mới có thể phổ độ hết thảy chúng sanh.

Câu này là “ly niệm cảnh giới”, “niệm” cũng là hữu niệm và vô niệm; ly hữu niệm, ly vô niệm, đó mới là thật sự ly niệm. Chỉ niệm “hữu niệm” chẳng được, niệm “hữu niệm” thì quý vị vẫn rớt vào “vô niệm”. Vô niệm cũng chẳng thể, cũng phải trừ bỏ vô niệm. “Sở vị viễn ly vi tế niệm cố” (Đó gọi là xa lìa niệm vi tế), như vậy thì mới có thể kiến tánh. Vi tế niệm là Trần Sa Hoặc. Bồ Tát đạt đến minh tâm kiến tánh là đã đoạn Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não cũng đoạn, lại phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, đó là “đắc kiến tâm tánh”, phá một phẩm vô minh thì mới có thể thấy tâm tánh. “Tâm tức thường trụ” (Tâm tức là thường trụ), khi ấy, tâm quý vị chẳng động, chẳng bị cảnh giới bên ngoài lay động. Cái tâm giống như ta trong hiện thời thì không được, người ta khen ngợi một câu rất hoan hỷ, bị chửi một câu liền sanh phiền não, cáu kỉnh mấy ngày liền, không được rồi! Tâm bị cảnh giới bên ngoài dao động. Người thật sự thấy tâm, tâm chẳng động, tuyệt đối sẽ chẳng bị ngoại cảnh lay động. Đạt đến cảnh giới này, tôi lại thưa cùng quý vị: Chẳng có vận mạng, Phong Thủy cũng chẳng có, thảy đều chẳng có, những thứ ấy toàn là pháp thế gian. Trong hết thảy các cảnh giới, quý vị không gì chẳng tự tại, đắc đại tự tại. Đấy cũng là như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai”; khi ấy, sẽ chuyển cảnh,  chẳng phải là cảnh chuyển ta,  mà là ta chuyển cảnh,  ắt giống như Như Lai.

Tiếp theo đó, lại là một cách giải thích từ ngữ “tư vô sở tư”“tức bất tư chi tư” (nghĩ mà không nghĩ), người ấy có Tư hay không? Có Tư! Vì sao có Tư mà lại nói là người ấy chẳng tư? “Tư” là thức thứ bảy (Mạt Na Thức). Chẳng phải là Mạt Na khởi tác dụng thì là “vô tư chi tư”, tức là chân tánh khởi tác dụng. Chân tánh khởi tác dụng và tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở khởi tác dụng, nhìn từ bên ngoài sẽ chẳng nhìn ra [sự khác biệt của hai loại tác dụng ấy], quý vị thấy chúng đều giống như nhau. Đức Phật cũng cười, cũng tức giận, cũng có lúc mắng người khác, cũng có lúc khen ngợi kẻ khác, Ngài có gì khác chúng ta? Nhìn từ bên ngoài, quý vị sẽ thấy thật sự chẳng khác gì, nhưng bên trong tuyệt đối khác hẳn! Phàm phu chúng ta là tâm và Tâm Sở khởi tác dụng, còn Phật là Chân Như bản tánh khởi tác dụng, cũng có nghĩa là Phật mừng, giận, buồn, vui, thảy đều là thanh tịnh, thảy đều là bất nhiễm, thảy đều là bình đẳng, công phu của Ngài là như thế đấy. Đã là thanh tịnh, bình đẳng, bất nhiễm, vì sao có những thứ biểu lộ ấy? Những biểu lộ ấy đều nhằm độ chúng sanh, giống như diễn tuồng: Viết kịch bản, [tác giả quy định] đến đoạn này nhất định phải nổi nóng, quý vị không nổi nóng cũng không được, làm ra vẻ tức giận. Ngài đang biểu diễn trên sân khấu, chẳng phải là nội tâm [thật sự có cảm xúc ấy], mà là biểu diễn cho kẻ khác xem, nhằm khơi gợi người khác. Vì thế, đó là kỹ xảo độ chúng sanh. Đấy chính là “nhậm vận thanh tịnh chi ý” (ý mặc tình thanh tịnh). Trong bài kệ Khai Kinh có nói: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, Như Lai chân thật nghĩa là thanh tịnh ý, chẳng giống như chúng ta!

“Cố Phật quả đệ thất, diệc danh vi Ý” (Vì thế, trong Phật quả, thức thứ bảy cũng gọi là Ý). Nơi quả địa Như Lai, trong Tướng Tông, thức thứ bảy là Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển Mạt Na Thức thành Bình Đẳng Tánh Trí. Bình Đẳng Tánh Trí là thức thứ bảy, tức Ý Căn, tức là Mạt Na Thức nơi quả địa Như Lai, có ý nghĩa này. Thật ra, cách nói phân biệt này đều vì phàm phu chúng ta. Bởi lẽ, từ Sơ Trụ trở lên sẽ chẳng phân biệt, quý vị còn nói với họ về những chuyện này, sẽ chẳng có mảy may ý nghĩa gì cả! Từ Sơ Địa trở lên, đúng là chẳng có cách nào giảng kinh, vì là vô công dụng đạo. Phàm là các ngôn thuyết, giảng giải, đều là vì những kẻ chưa đạt đến Sơ Trụ, [đối với bậc] đã kiến tánh thì còn có gì để nói nữa? Chẳng nói được gì! Khi đó, tu hành hoàn toàn là tùy ý mà tu. Những lời chú giải đã đều được giới thiệu cả rồi, chúng ta hãy đem những phần kinh văn trên đây gộp lại để đọc một lượt.

 

(Sao) Trù lượng danh ý. Thế nhân khởi ư ý thức, niệm niệm trục ngoại trù lượng, thị tà tư duy dã.

()籌量名意,世人起於意識,念念逐外籌量,是邪思惟也。

(Sao: Trù tính, suy lường gọi là Ý. Người đời dấy lên ý thức, niệm niệm trù tính, suy lường theo bên ngoài, đó là tà tư duy).

Không chỉ là lục đạo phàm phu, trên thực tế là kể cả Thanh Văn, Duyên Giác, Quyền Giáo Bồ Tát, thảy đều dùng tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở. Nói cách khác, tri kiến bất chánh, thuộc loại tà tư duy.

 

(Sao) Toàn kỳ ý thức, khấu kỷ nhi tham.

()旋其意識,扣己而參。

(Sao: Xoay lại ý thức, tham cứu chính mình).

“Toàn” (旋) là quay đầu. Lục căn của ta chẳng duyên theo sáu trần bên ngoài, quay về duyên theo sáu tánh. Mắt thấy sắc tánh, tai nghe thanh tánh, cho đến ý biết pháp tánh. Sáu trần biến thành sáu tánh, Trần (塵) là ô nhiễm, tánh là thanh tịnh, bất nhiễm, đó là công phu tối thượng thừa. Chư vị hiểu điều này có quan hệ quá lớn đối với Tịnh Độ, Tịnh Độ là “tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh”, dùng phương pháp này để tu học.

“Toàn kỳ ý thức” (Xoay lại ý thức), cách xoay chuyển như thế nào? Chúng ta biết trong kinh, đức Phật đã bảo A Lại Da Thức là lưu lại ấn tượng. Ấn tượng được lưu lại trong ấy giống như một cái kho tài liệu, hoặc một kho chứa, thâu thập trọn hết, nó có tác dụng “tập khởi”. Nếu chúng ta không lưu lại ấn tượng, tuyệt lắm! Sẽ là Phật và các vị đại Bồ Tát, [vì] chẳng có tài liệu cho quý vị ghi chép, bảo tồn. Chỉ cần có tài liệu được ghi chép, bảo tồn, sẽ còn có quả báo. Chủng tử thiện nhất định có thiện báo, chủng tử ác nhất định có ác báo, thiện ác báo ứng chẳng sai suyển mảy may, quý vị có thể trốn được hay sao? Chẳng trốn khỏi! Vì sao? Đã ghi lại ấn tượng. Thấy sắc, nghe tiếng đều lưu lại ấn tượng, toàn bộ đều có ghi chép. Sự ghi chép này là ghi chép tự nhiên, chẳng phải do ai khác ghi chép cho quý vị, [mà là] hễ khởi tâm động niệm, đều có ấn tượng trong A Lại Da Thức, đó là tác dụng của A Lại Da. Tác dụng của Mạt Na là chấp trước. Tác dụng của thức thứ sáu, tức ý thức, là phân biệt. Năm thức trước là liễu biệt, là hiểu rõ. Ví như chúng ta mắt thấy bên ngoài rõ ràng, rành mạch, có phân biệt hay không? Chẳng phân biệt. Ai phân biệt? Thức thứ sáu, tức ý thức, phân biệt. Nếu chúng ta chẳng dùng thức thứ sáu, tức ý thức, chúng ta thường nói là “không chú ý”. Không chú ý nhìn thì tuy là nhìn như thế đó, dẫu nhìn, nhưng chẳng thấy rõ ràng, vì chẳng chú ý mà! Danh từ “chú ý” xuất phát từ Phật giáo, [chú ý là] dồn thức thứ sáu, tức ý thức vào đó, mắt liền trông thấy rõ ràng. Nhĩ Thức chuyên chú, bèn nghe rõ ràng. Nếu chẳng chú ý, sẽ là thấy mà như không thấy, nghe mà như không nghe, vì sao? Ý thức chẳng sử dụng vào nơi đó.

Trước kia, khi tôi mới học Phật, còn chưa xuất gia, tôi sống ở Bắc Đầu[17]. Pháp sư Diễn Bồi giảng kinh ở chùa Thiện Đạo, khi đó Ngài là Trụ Trì. Buổi tối, nghe kinh xong, tôi đều ngồi xe lửa trở về. Chờ xe ở trạm xe lửa, có lúc tôi vừa chờ xe, vừa xem sách. Khi xem sách, xe lửa đến rồi đi cũng chẳng biết, [trong lòng cứ thắc mắc] sao lâu thế mà xe lửa chưa đến? Nhìn thời gian thì đã qua mấy lượt xe rồi! Phía sau chỗ ngồi chính là đường xe lửa, xe đến xe đi âm thanh ầm ĩ dường ấy, do chỉ chú ý đọc sách, quên bẵng cả xe, chẳng chú ý đến. Vì thế, thuật ngữ “chú ý” xuất phát từ kinh Phật. Trong cuộc sống hằng ngày, rất nhiều thuật ngữ phát xuất từ kinh Phật, quý vị mới biết Phật pháp có quan hệ to cỡ nào đối với cuộc sống và văn hóa của chúng ta!

Quay ý thức lại như thế nào? Ta chẳng phân biệt, không chấp trước. Ta thấy rất rõ ràng, nhưng chẳng phân biệt; nghe rất rõ ràng, nhưng chẳng chấp trước, đó là quay lại. Trong cảnh giới, quý vị vẫn phân biệt, vẫn chấp trước, liền đi theo cảnh giới. Trong hết thảy các cảnh giới, quý vị hiểu rõ ràng, rành mạch, đó là Huệ. Chẳng có phân biệt, chấp trước là Định. Định Huệ đẳng trì (Định và Huệ giữ cân bằng), cách tu là như vậy, chẳng phải là tu Định thì cứ nhất định phải là ngồi xếp bằng nhìn vào vách, Định kiểu ấy vô ích! “Định Huệ đẳng trì” là Định và Huệ tu học đồng thời, ở nơi đâu? Trong cuộc sống hằng ngày, trong xử sự, đãi người, tiếp vật. Không lúc nào, không chỗ nào chẳng phải là lúc tu Định Huệ, [không nơi đâu] chẳng phải là nơi chốn để tu Định Huệ. Đạo tràng ở chỗ nào? Chẳng có chỗ nào không phải là đạo tràng. Phải tu Định, tu Huệ ngay trong cuộc sống. Định là chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. Chuyển thức thành trí, thức thứ sáu và thứ bảy chuyển nơi nhân, A Lại Da và năm thức trước được chuyển nơi quả, chẳng cần phải chú ý những thức ấy, chỉ chú ý nơi thức thức sáu và thức thứ bảy. “Toàn kỳ ý thức” (Xoay ý thức lại) là nói đến thức thứ bảy và thức thứ sáu. Thật sự biết xoay về thì trong hết thảy các pháp sẽ chẳng phân biệt, không chấp trước, chắc chắn có lợi ích cho chính mình, chắc chắn có thành tựu. Hết thảy phân biệt và chấp trước hư vọng nhất định có hại cho chính mình, quyết định sẽ chẳng thành tựu. Đối với người khác, sự lợi hại rất nhỏ ít, đối với chính mình lợi hại quá to. Hãy nghiêm túc tham học câu “khấu kỷ nhi tham” (tham cứu chính mình).

 

(Sao) Tư chi hựu tư, tư tận hoàn nguyên, tư vô sở tư.

()思之又思,思盡還源,思無所思。

(Sao: Suy đi nghĩ lại, suy nghĩ đến hết còn suy nghĩ sẽ trở về nguồn, suy nghĩ mà không có gì để suy nghĩ).

Đây là nói tới công phu thành tựu. Tôi nói cho quý vị biết: Từ “toàn kỳ ý thức” cho đến “tư tận hoàn nguyên” cũng là từ lúc mới bắt đầu tu tập cho đến khi công phu thành tựu, chẳng thể lìa khỏi nguyên tắc này. Nếu chư vị muốn thật sự có thành tựu, nay chúng ta dùng một bộ kinh Di Đà, hoặc một bộ kinh Vô Lượng Thọ, chắc chắn có thể đắc nhất tâm bất loạn, nhất định có thể minh tâm kiến tánh, quyết định có thể thành Phật, làm Tổ, chỉ cần quý vị bỏ hết vọng tâm. Ta suốt ngày từ sáng đến tối niệm một bộ kinh này, niệm một câu A Di Đà Phật, tâm ta đặt chết cứng ở nơi này, hết thảy các vọng niệm khác đều buông xuống, thảy đều chẳng có, thứ gì cũng chẳng cần. Không chỉ là pháp thế gian ta chẳng còn nghĩ đến, chẳng còn phân biệt, chấp trước; mà vô lượng pháp môn xuất thế gian, ta cũng chẳng nghĩ tới, cũng chẳng chấp trước, triệt để buông xuống. Cổ nhân nói “chân hiết liễu” (thật sự nghỉ ngơi), Hiết (歇) là trừ bỏ, thật sự bỏ sạch. Mỗi ngày niệm bộ kinh này chính là tham cứu chính mình, mỗi ngày niệm câu Phật hiệu cũng là tham cứu chính mình, một mực vận dụng công phu. “Khấu kỷ nhi tham, tư chi hựu tư” trong tông này chính là thật thà niệm Phật; công phu tự nhiên thành tựu, chẳng có mảy may miễn cưỡng! Đó là “tư tận hoàn nguyên, tư vô sở tư”. Từ Sự nhất tâm chứng đắc Lý nhất tâm, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn là thượng phẩm vãng sanh.

 

(Sao) Toàn thân tức thọ, tức quang, hà luận bỉ Phật, thử Phật?

()全身即壽即光,何論彼佛此佛。

(Sao: Toàn thân tức là thọ, là quang, còn luận định vị Phật này, vị Phật kia chi nữa).

“Bỉ Phật” là A Di Đà Phật. “Thử Phật”, nói thật ra, chẳng phải nói tới Thích Ca Mâu Ni Phật, mà là nói về chính mình. Vì sao? Tự và Tha chẳng hai! Tự và Tha là một, chẳng hai, là một Phật, chẳng phải là hai Phật, há có lẽ nào chẳng thành Phật? Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới gặp A Di Đà Phật, chính quý vị đích thân thành Phật, quý vị thành một vị Phật chẳng hai, chẳng khác A Di Đà Phật, công phu thật sự là đạt đến chỗ này. Thông thường, chúng ta phải đặc biệt chú ý, chớ nên suy nghĩ loạn xạ. Đời đời kiếp kiếp từ vô lượng kiếp tới nay, chúng ta phải sanh tử luân hồi, do nguyên nhân nào? Vì thích suy nghĩ loạn xạ! Từ nay trở đi, chúng ta đã tìm được gốc bệnh, trị liệu đúng vào căn bản, dốc hết tất cả tâm lực tinh thần vào kinh, dùng phương pháp này. Kinh điển cũng đừng học quá nhiều, tuân thủ trong một phạm vi nhỏ, chuyên tinh là “tư chi hựu tư”, học trong phạm vi ấy. Nước chảy mãi sẽ thành khe ngòi, đó là “tư tận hoàn nguyên”, chẳng cần chờ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà là ngay trong hiện tiền. Chúng ta còn chưa vãng sanh, chưa ra đi, mà ngay trong thân thể hiện tại đã là vô lượng thọ, vô lượng quang. Vì sao? Tâm địa thanh tịnh chính là vô lượng quang minh, vô lượng thanh tịnh bèn vô lượng quang minh. Công phu thành phiến thượng phẩm bèn sanh tử tự tại, sanh tử tự tại sẽ chẳng có sanh tử, chẳng có sanh tử là vô lượng thọ! Vì lẽ đó, vô lượng thọ, vô lượng quang chẳng cần đợi đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà có thể chứng đắc trong hiện tiền. Đây thật sự là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn!

 

Nhị hiển đức.

二,顯德。

(Hai, hiển đức).

Giải thích ý nghĩa của danh hiệu A Di Đà.

 

Sơ, danh hàm đa nghĩa. Nhị, đạo thành viễn kiếp.

(Kinh) Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại. Thị cố hiệu vi A Di Đà.

(Sớ) Vô lượng dĩ như tiền thích.

初,名含多義。二,道成遠劫。

()舍利弗。彼佛光明無量。照十方國。無所障礙。是故號為阿彌陀。

()無量已如前釋。

([Phần này gồm có hai tiểu mục]. Một là danh hiệu bao hàm nhiều ý nghĩa; hai là Phật đã thành đạo từ nhiều kiếp lâu xa.

Kinh: Này Xá Lợi Phất! Đức Phật ấy quang minh vô lượng, chiếu mười phương cõi nước chẳng bị chướng ngại. Vì thế, hiệu là A Di Đà.

Sớ: Chữ “vô lượng” như trong các phần trước đã giải thích).

Trong phần trước đã giải thích ý nghĩa chữ “vô lượng”.

 

(Sớ) Nhiên vị tri vô lượng đắc danh chi cố.

()然未知無量得名之故。

(Sớ: Nhưng chẳng biết nguyên nhân vì sao được gọi là vô lượng).

Đức Phật ấy vì sao phải dùng chữ Vô Lượng trong danh hiệu?

 

(Sớ) Kim vị thị quang minh, thọ mạng, nhị giai vô lượng dã.

()今謂是光明壽命,二皆無量也。

(Sớ: Nay nói là do hai thứ quang minh và thọ mạng đều vô lượng).

Danh hiệu A Di Đà Phật là phiên âm tiếng Phạn. A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác. A Di Đà Phật, hoàn toàn dịch theo ý nghĩa sẽ là Vô Lượng Giác. Nhưng ý nghĩa của chữ Vô Lượng chẳng có cách nào nói trọn hết, nếu có thể nói trọn hết thì làm sao gọi là vô lượng cho được? Nói chẳng trọn hết! Bất luận là chuyện gì, quý vị nghĩ đến cũng thế, hay chẳng nghĩ đến cũng thế, đều là vô lượng. Thích Ca Mâu Ni Phật quy nạp ý nghĩa vô lượng thành hai loại lớn: Một loại là vô lượng thọ, loại kia là vô lượng quang. Thọ biểu thị phước, Quang biểu thị trí huệ, [hàm nghĩa] phước đức và trí huệ của đức Phật thảy đều là vô lượng vô biên. Nói theo cách hiện thời, Quang biểu thị không gian, chiếu khắp mười phương. Thọ mạng là quá khứ, hiện tại, vị lai, theo chiều dọc cùng tột ba đời. Toàn thể vũ trụ, toàn thể pháp giới là một danh hiệu này, danh hiệu này bao quát toàn bộ. Quý vị hãy suy nghĩ, có thứ gì có thể vượt thoát thời gian và không gian? Danh hiệu ấy chẳng thể nghĩ bàn! Tựa đề kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm cũng hết sức viên mãn tột bậc, nhưng một câu A Di Đà Phật đã bao gồm trọn vẹn. Trong vô lượng nghĩa, quan trọng nhất là thọ mạng. Nếu chẳng có thọ mạng, bất cứ loại vô lượng nào cũng đều rỗng tuếch, lấy ai để hưởng thụ? Chẳng có cách nào hưởng thụ. Vì thế, trong hết thảy các thứ vô lượng, thọ mạng là chủ yếu. Quý vị có thọ mạng thì đối với hết thảy vô lượng mới có sự thọ dụng chân thật, mới có thể hưởng thụ. Nếu chẳng có thọ mạng, vô lượng gì gì đi nữa đối với quý vị chẳng có liên quan, vô dụng! Chúng ta xưng tụng A Di Đà Phật là Vô Lượng Thọ Phật, tức là lấy một ý nghĩa chủ yếu trong vô lượng nghĩa. Trong kinh này, trước hết là nói tới vô lượng quang, đặt ý nghĩa chủ yếu nhất ra phía sau, đó là tác phong thuyết pháp quen thuộc của đức Phật. Thứ tốt nhất, thù thắng nhất đều đặt ra sau dùng làm màn biểu diễn kết thúc. Quang minh và trí huệ đều tuyệt diệu!

 

(Sớ) Quang minh giả hữu nhị, nhất giả trí quang, nhị giả thân quang. Phục hữu nhị nghĩa, nhất giả thường quang, nhị giả phóng quang. Hựu quang sở nhân, phục hữu nhị nghĩa, nhất thị vạn đức sở thành, nhất thị bổn nguyện sở trí.

 (Sao) Tiên thích quang minh dã.

()光明者有二,一者智光,二者身光 ;復有二義,

一者常光,二者放光;又光所因,復有二義,一是萬德所 成,一是本願所致。

()先釋光明也。

(Sớ: Quang minh có hai thứ, một là trí quang, hai là thân quang. Lại có hai nghĩa, một là thường quang, hai là phóng quang. Nói đến cái nhân của quang minh thì lại có hai nghĩa, một là do muôn đức tạo thành, hai là do bổn nguyện tạo nên như vậy.

Sao: Trước hết, giải thích về quang minh).

Trong Vô Lượng, đức Phật nói hai ý nghĩa là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. Trước hết, hãy giải thích về quang minh.

 

(Sao) Trí quang, thân quang giả, như Lô Xá Na, thử vân Quang Minh Biến Chiếu. Tự Thọ Dụng thân, chiếu chân pháp giới, thị danh trí quang.

()智光身光者,如盧舍那,此云光明遍照。自受用身,照真法界,是名智光。

(Sao: Trí quang và thân quang: Như Lô Xá Na, cõi này dịch là “quang minh chiếu trọn khắp”. Tự Thọ Dụng Thân, chiếu chân pháp giới, nên gọi là trí quang).

Kinh Hoa Nghiêm nói Phật có ba thân:

Thứ nhất là Pháp Thân, tiếng Phạn là Tỳ Lô Giá Na, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Biến Nhất Thiết Xứ (trọn khắp hết thảy mọi nơi). Trọn khắp hết thảy mọi nơi là Lý, trong Triết Học, [Lý ấy] được gọi là “bản thể của vạn hữu trong vũ trụ”. Trong Phật pháp không nói là bản thể, mà nói là Pháp Thân. Triết học gọi Pháp Thân là bản thể. Bản thể trọn khắp hết thảy mọi nơi. Vì hết thảy mọi nơi đều do một Thể biến hiện, nên gọi là bản thể. Giống như chúng ta nằm mơ, trong mộng có khá nhiều cảnh giới, mộng từ đâu mà có? Mộng sanh từ tâm. Tâm là bản thể của mộng. Chẳng có tâm, chắc chắn sẽ chẳng có mộng. Trong khi quý vị đang nằm mộng, toàn thể mộng chính là tâm, toàn thể tâm chính là mộng. Toàn thể mộng cảnh là tâm của quý vị, tâm hiện tướng. Tất cả hết thảy cảnh giới trong mộng, người quý vị ưa thích, kẻ quý vị chán ghét, toàn là do một tâm biến hiện. Do quý vị có kẻ đáng ghét, có kẻ đáng ưa, đó là do quý vị mê tự tâm, nên mới có những tướng biến hiện ấy. Nếu quý vị giác chứ không mê, sẽ chẳng có những tướng ấy biến hiện.

Không mê, nhất định là quý vị sẽ thấy tất cả cảnh giới bình đẳng, tất cả cảnh giới đều thanh tịnh. Chính mình rốt cuộc là giác hay mê, cân nhắc từ góc độ này, sẽ thấy rất dễ dàng! Công phu tu hành của ta có tiến bộ hay không? Nếu có tiến bộ, ta phân biệt, chấp trước mỗi năm một nhẹ hơn, mỗi năm một nhạt mỏng hơn, cũng là tâm địa mỗi năm một thanh tịnh hơn, mỗi năm một bình đẳng hơn. Đó là có tiến bộ, là hiện tượng rất tốt! Tuy rất dụng công tu hành, nhưng phân biệt, chấp trước vẫn nặng nề ngần ấy, người mà ta ưa thích vẫn rất đáng ưa thích, kẻ ta chán ghét vẫn rất đáng ghét, tức là chẳng có tiến bộ. Tuy hằng ngày niệm Phật, chẳng có tiến bộ. Giác thì mới là tiến bộ, mê là chẳng tiến bộ. Chẳng tiến bộ, dẫu dụng công nhiều đến mấy, nói thật thà đều là uổng công, vô dụng, nhiều nhất là tu được một chút phước báo trong đời sau mà thôi! Đó là si phước trong lục đạo, chẳng phải là trí huệ thật sự. Xem nhạt hết thảy nhân sự, không chỉ Phật pháp là như thế, giáo học Nho gia cũng là “quân tử chi giao đạm như thủy” (người quân tử giao tiếp với nhau nhạt như nước lã), như nước là rất bình thường. Mối giao tình ấy mới có thể lâu dài, mới có thể không thay đổi; đây đều là nguyên lý và nguyên tắc xử sự, đãi người, tiếp vật do cổ thánh tiên hiền đã dạy.

Pháp Thân: Quý vị đích thân suy xét, thấu hiểu đến cùng cực, hoát nhiên khai ngộ: Tận hư không khắp pháp giới do tự tâm của ta biến hiện, ta ở nơi đâu? Tận hư không khắp pháp giới, chẳng có pháp nào chẳng phải là ta, ta là toàn thể hư không pháp giới, phá sạch Ngã Chấp, chẳng còn nữa! Ngã Chấp là chấp trước “thân này là ta, ngoài cái thân này ra đều chẳng phải là ta”. Kẻ ấy chẳng hiểu tận hư không khắp pháp giới vốn là ta. Có Ngã hay không? Có! Có chân ngã. Chân ngã là Pháp Thân, chẳng có gì không phải [là Pháp Thân]. Hết thảy hữu tình chúng sanh là ta, mà hết thảy vô tình chúng sanh cũng là ta, đó là triệt để giác ngộ, chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân. Chứng đắc cảnh giới này, chư vị hãy nghĩ xem, quý vị còn có sanh tử hay chăng? Quyết định là chẳng có sanh tử. Hiện tượng sanh tử là gì? Là do ta dấy lên sự biến hóa trong ấy. Quyết định là chẳng có sanh tử, mà cũng chẳng có luân hồi, cũng chẳng có lục đạo, cũng chẳng có mười pháp giới; khi ấy, gọi là gì? Là Nhất Chân pháp giới. Do mê nên mới có mười pháp giới, mới có lục đạo luân hồi; hễ giác ngộ, sẽ chẳng còn nữa!

Kế đó là Báo Thân, tiếng Phạn là Lô Xá Na, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Quang Minh Biến Chiếu (quang minh chiếu khắp nơi). Chư vị nghĩ xem, làm thế nào để thấu hiểu tận hư không khắp pháp giới là chính mình, điều này phải cậy vào trí huệ. Chúng ta đang nằm mộng, hễ tỉnh giấc: “Ta mới vừa nằm mộng; tất cả những thứ trong mộng đều do tự tâm của ta biến hiện”. Đó là có trí huệ, người ấy đã hiểu. Nay đức Phật dạy chúng ta, chúng ta phải lãnh hội, suy xét theo phương hướng ấy, tận hư không khắp pháp giới xác thực là chính mình, là một chỉnh thể. Trong chỉnh thể ấy, quả thật là Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, đó là thật, là chân tướng sự thật. Vì sao có chướng ngại? Chướng ngại là vì phân biệt, chấp trước hư vọng đối với hết thảy chúng sanh. Do mê nên mới có chướng ngại; hễ ngộ, sẽ chẳng có chướng ngại. Mê thì chỗ nào cũng thành chướng, đối với người ngộ là Sự Sự vô ngại. Hễ ngộ, sẽ biết tận hư không khắp pháp giới là một với chính mình. Do đã mê, nên mới có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng, người ấy chẳng biết có bao nhiêu tướng! Ở trong ấy, khởi vô lượng phân biệt, vô lượng chấp trước trong ấy, [cho nên có] vô lượng phiền não, vô lượng đau khổ, vô lượng nghiệp báo, tạo tác những thứ ấy, rất đáng thương! Lay gọi cách nào vẫn chẳng tỉnh, người ấy đã mê quá sâu! Vì thế, nhất định phải cầu trí huệ. Pháp Thân là Thể, Báo Thân là Huệ. Giáo học Phật pháp lấy trí huệ làm mục tiêu, từ đầu tới cuối đều phải khai trí huệ. Tông chỉ của Phật pháp là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; sở cầu trong Phật pháp là cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là trí huệ viên mãn.

 

(Diễn) Tự Thọ Dụng Thân chiếu chân pháp giới giả, nãi vô tướng chi thân.

()自受用身照真法界者,乃無相之身。

(Diễn: Tự Thọ Dụng Thân chiếu chân pháp giới, chính là thân vô tướng).

Báo Thân có phải là thân của chúng ta hay không? Chẳng phải! Báo Thân là trí huệ. Vì vậy, Báo Thân là Trí Thân. Kinh Hoa Nghiêm nói Phật có mười thân[18], mười loại thân ấy là do ba thân mở rộng ra, mười thân quy nạp thành ba thân. Ba thân và mười thân chẳng hai, chẳng khác, bất tăng, bất giảm. Mười thân chẳng nhiều, ba thân chẳng ít, tách ra hay hợp lại khác nhau. Đó là thân vô tướng.

 

(Diễn) Dĩ công đức trí huệ vi Thể, cố chiếu Nhất Chân pháp giới.

()以功德智慧為體,故照一真法界。

(Diễn: Dùng công đức và trí huệ làm Thể, nên chiếu Nhất Chân pháp giới).

Nay chúng ta cầu trí huệ, tu công đức, tu gì vậy? Tu Báo Thân của chính mình. Trong kinh thường nói đến Pháp Thân huệ mạng, Pháp Thân là tu Tỳ Lô Giá Na của chính mình, Huệ Mạng là tu Lô Xá Na của chính mình. Tỳ Lô Giá Na và Lô Xá Na đều là chính mình, đều chẳng phải là người ngoài. Vì sao phải cầu Huệ? Vì sao phải tu tập, tích lũy công đức? Nhằm trưởng dưỡng Báo Thân của chính mình; nhưng đối với Báo Thân, quý vị chỉ cần tu một phần bèn có một phần tác dụng, tu hai phần bèn có hai phần tác dụng. Quý vị quan sát vũ trụ và nhân sinh, mỗi ngày sẽ hiểu khác nhau, mỗi năm một khác nhau. Phật môn nói là cảnh giới khác nhau, cảnh giới của quý vị dần dần tăng cao hơn, cảnh giới tăng cao hơn chính là trưởng dưỡng Báo Thân của quý vị, có thể vun bồi Báo Thân tốt đẹp.

Phật là Ứng Hóa Thân, chúng ta là Nghiệp Báo Thân, tức là do tạo nghiệp bèn đến chịu báo. Làm thế nào để chuyển biến Nghiệp Báo Thân thành Ứng Hóa Thân? Phật pháp dạy chúng ta điều này. Trừ Phật pháp ra, pháp thế gian chẳng có đạo lý này! Đây chính là “thân nghĩa lý” (nghĩa lý chi thân) như thiền sư Vân Cốc đã nói trong Liễu Phàm Tứ Huấn, chuyển đổi! Thân phàm nhân đều có vận mạng, nhưng Nghĩa Lý Thân có thể “cách thiên” (格天: cảm thông với trời)[19], đương nhiên là có thể sửa đổi vận mạng, có thể vượt ngoài vận mạng. Sư nói cách ấy vẫn còn nông cạn, ở đây nói sâu hơn, nói đến mức rốt ráo, nói triệt để. Bản thân chúng ta phải biết tu Báo Thân của chính mình, tu Pháp Thân của chính mình, chẳng cần chuyển thân này, nó sẽ tự nhiên biến thành Ứng Hóa Thân, giống hệt như chư Phật Như Lai. Thị hiện khác nhau trong thế gian này, chính mình có thể làm chủ, chính mình rất tự tại. Đó là “công đức trí huệ vi Thể, cố chiếu Nhất Chân pháp giới” (công đức và trí huệ làm Thể, nên chiếu Nhất Chân pháp giới), tự thọ dụng!

 

(Sao) Tha Thọ Dụng thân, biến chiếu đại chúng, thị danh thân quang.

(Diễn) Tha Thọ Dụng thân biến chiếu đại chúng giả, nãi hữu tướng chi thân, dĩ sắc tâm vi Thể, vi Thập Địa Bồ Tát hiện khởi, cố biến chiếu đại chúng. Thử ước thân trí phân thích.

()他受用身,遍照大眾,是名身光。

()他受用身遍照大眾者,乃有相之身。以色心為體,為十地菩薩現起,故遍照大眾。此約身智分釋。

(Sao: Tha Thọ Dụng Thân: Chiếu khắp đại chúng, được gọi là Thân Quang.

Diễn: Tha Thọ Dụng Thân chiếu khắp đại chúng, chính là thân hữu tướng. [Thân ấy] lấy sắc và tâm làm Thể, do Thập Địa Bồ Tát hiện khởi, nên chiếu trọn khắp đại chúng. Đây là tách rời Thân và Trí để giải thích).

Tự Thọ Dụng vô hình, vô tướng, là trí huệ. Tha Thọ Dụng có thân tướng và sắc tướng, nhằm giúp cho người khác giác ngộ. Sau khi chư Phật Như Lai thành Phật, đức Phật có thân hình hay không? Phật chẳng có, chư vị phải biết điều này. Người thành tựu tam-muội chẳng có thân, vì thân người ấy có thể biến hóa. Do có thể tùy ý biến hóa, quý vị chẳng thể nói người ấy là nam, nữ, già, trẻ, chẳng thể nói được! Rốt cuộc Quán Âm Bồ Tát là nam hay nữ? Chẳng có cách nào nói được, vì Ngài có thể tùy ý biến hóa, muốn biến thân gì liền biến thành thân ấy, thân tự tại. Nay chúng ta chẳng được tự tại, nên chẳng thể biến.

Nói nghiêm ngặt, kiến tánh Bồ Tát cũng tức là từ Viên Giáo Sơ Trụ trở lên, đã chứng đắc Báo Thân, [đối với] người niệm Phật là đã niệm đạt đến Lý nhất tâm bất loạn; lúc đó, năng lực của quý vị sẽ giống như trong phẩm Phổ Môn đã nói: Quán Âm Bồ Tát có ba mươi hai Ứng Thân, đáng nên dùng thân gì để độ liền hiện thân có hình dạng ấy. Hiện thân tự tại, thọ mạng tự tại, trí huệ tự tại, phước báo tự tại, chẳng có gì không tự tại! Đấy mới gọi là viên mãn đến tột cùng, thứ gì cũng đều tự tại. Quả báo thù thắng như vậy là do tu thành. Tuy là Tánh Đức, nhưng nếu Tánh Đức chẳng có Tu Đức, Tánh Đức chẳng thể hiển lộ, nhất định là phải có Tu Đức. Tu gì vậy? Chẳng phải là tu bên ngoài, mà là tu tự tánh của chính mình, câu này quan trọng hơn bất cứ điều gì khác: Tu tự tánh ở bên trong. Tự tánh ở bên trong là gì? [Chính là như] tựa đề kinh Vô Lượng Thọ [đã nói] “thanh tịnh, bình đẳng, giác”, tu những điều này. Vì thế, hiện thân này bèn chiếu khắp đại chúng.

Do vậy có thể biết: Chư Phật, Bồ Tát tùy loại hiện thân, thân ấy là tác dụng gì? Thân các Ngài là Tha Thọ Dụng, Tự Thọ Dụng chẳng cần thân! Lại thưa cùng chư vị, vì Tự Thọ Dụng chẳng cần thân, nên các Ngài chẳng có bệnh khổ, mà cũng chẳng già! Có thân thì mới có bệnh, mới có già, chết. Thân chẳng có, lấy đâu ra già, chết? Lấy đâu ra bệnh? Thứ gì cũng đều chẳng có. Phàm phu bậc cao trong thế gian này là chư thiên trong Vô Sắc Giới, họ chẳng thoát tam giới, họ thấy hễ có thân bèn có phiền phức, nên cũng chẳng cần thân. Lão Tử cũng nói: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân”, [ý nói] ta có nỗi lo lắng rất lớn, vì ta có thân thể này. Ta chẳng có thân thể sẽ tốt lắm, tự tại lắm! Vì thế, thân này phiền toái rất lớn, là gánh nặng rất lớn!

Đối với Tự Thọ Dụng, chư Phật, Bồ Tát chẳng có thân, chẳng có khái niệm ấy, thân là gì? Thân là để cho người khác thọ dụng, chẳng liên can đến chính mình! Nếu chư vị chuyển biến ý niệm, ngay lập tức thân hiện tại sẽ từ Nghiệp Báo Thân chuyển thành Ứng Hóa Thân của Phật, Bồ Tát, tùy thuộc quý vị có thể chuyển hay không? Hễ chuyển biến, thân ta là công cụ nhằm hóa độ hết thảy chúng sanh, giúp hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Thân này có thoải mái hay không, chẳng liên can đến ta, về căn bản ta chẳng có thứ này. Nó là một công cụ giúp chúng sanh thành Phật, thoát ly luân hồi, viên thành Phật đạo mà thôi. Hễ chuyển được quan niệm này, thân thể, thọ mạng, và phước đức của quý vị, toàn bộ đều chẳng liên can đến quý vị. Do đó, nhất định phải biết chuyển, cần gì phải chấp trước cứng ngắc thân thể này? Vì sao không đem thân này dâng hiến, tặng cho hết thảy chúng sanh? Trên là cúng dường hết thảy chư Phật, dưới là bố thí hết thảy chúng sanh, thân này chẳng còn nữa. Thân chẳng còn, những bệnh tật phải mang trên thân cũng chẳng có, khổ cũng chẳng có, phiền não cũng chẳng có, ưu lự cũng chẳng có, toàn bộ đều chẳng có, quý vị thấy tự tại lắm! Học Phật phải học từ chỗ này! Đó gọi là “chiếu khắp đại chúng”.

 

(Sao) Hựu  Niết  Bàn  vân:  “Lưu Ly Quang Bồ Tát, phóng thân

quang minh. Văn Thù ngôn: Quang minh giả, danh vi trí huệ, tắc Sự Lý viên dung, thân trí bất nhị dã”.

()又涅槃云:琉璃光菩薩,放身光明。文殊言:光明者,名為智慧,則事理圓融,身智不二也。

(Sao: Kinh Niết Bàn lại nói: “Lưu Ly Quang Bồ Tát phóng quang minh từ nơi thân. Ngài Văn Thù nói: Quang minh có tên là trí huệ, tức là Sự Lý viên dung, thân và trí chẳng hai”).

Phàm quang minh chiếu đến đâu, nơi nơi đều sáng bừng, mọi vật được chiếu sáng, chẳng có thứ gì không sáng. Tận hư không khắp pháp giới là Báo Thân của chính mình, đó là Tự Thọ Dụng Báo Thân, tự và tha chẳng hai, đó chính là “thân và trí chẳng hai”.

 

(Diễn) Quang minh danh vi trí huệ giả, nhược thân quang bất thị trí huệ, tắc đồng, thổ, thạch, mộc ngẫu vô tình. Nhược trí huệ bất tức thân quang, tắc trí huệ hữu sở bất biến. Cố thân quang chi Sự, tức trí huệ chi Lý, viên dung bất nhị dã. Thử ước thân trí hợp thích.

()光明名為智慧者,若身光不是智慧,則同土石木偶無情;若智慧不即身光,則智慧有所不遍。故身光之事,即智慧之理,圓融不二也。此約身智合釋。

(Diễn: “Quang minh gọi là trí huệ”: Nếu thân quang chẳng phải là trí huệ, ắt sẽ giống như đất, đá, tượng gỗ vô tình. Nếu trí huệ chẳng phải là thân quang, ắt trí huệ có chỗ chẳng trọn khắp. Vì thế, Sự nơi thân quang chính là Lý nơi trí huệ, viên dung, chẳng hai. Đây là gộp chung Thân và Trí để giải thích).

Trong đoạn trước, tách rời thân và quang để nói, đoạn này là nói gộp lại. Nói gộp lại thì chúng là một, chẳng hai. Chúng ta ngày càng thấu hiểu sự tướng này. Nay chúng ta hiểu về mặt Lý, vẫn tu học nghiêm túc nơi mặt Sự, đó là Bồ Tát Ma Ha Tát, từ phàm trở thành thánh. Chúng ta là phàm phu đến trong thế gian này, nay lắc thân một cái để biến đổi, liền biến thành Phật, Bồ Tát, biến thành thánh nhân. Tâm tâm khế nhập đạo lý này, khiến cho đạo lý này được vận dụng viên mãn trong cuộc sống thực tế. Tất cả hết thảy cảnh duyên, cảnh là hoàn cảnh vật chất, duyên là hoàn cảnh nhân sự, chẳng có gì không thanh tịnh, chẳng có gì bất bình đẳng, thuận cảnh cũng thế mà nghịch cảnh cũng vậy, thuận tâm cũng thế, mà nghịch tâm cũng thế, thảy đều là thanh tịnh, bình đẳng, vì sao? Được trí huệ quang minh chiếu soi. Biết hết thảy cảnh giới toàn là do tự tánh biến hiện, trong các cảnh giới đã hiện, trong vô lượng vô biên mối quan hệ giữa con người với nhau, có giác và mê. Hiện thời, quý vị đã thoát ra. Thoát ra bèn là người xem diễn tuồng, chẳng phải là người diễn tuồng. Chưa thoát ra thì hãy còn đang trình diễn trên sân khấu. Nay ta tích cực thoát ra, thoát ra để xem diễn tuồng. Phật, Bồ Tát là người xem diễn tuồng, lục đạo luân hồi là diễn tuồng. Người diễn tuồng mê muội, người xem diễn tuồng chẳng mê. Kẻ diễn tuồng ngỡ tuồng giả là thật, đang mê. Người xem diễn tuồng hiểu rành mạch, rõ ràng!

Quan sát các hữu tình chúng sanh, thấy ai có thể giác ngộ bèn giúp đỡ người ấy, chỉ điểm cảnh tỉnh người ấy, đó là hóa độ. Kẻ chưa thể giác ngộ, chỉ điểm chẳng tỉnh thì cũng kết thiện duyên với kẻ đó. Kết thiện duyên là tạo cho người ấy chủng tử, chờ khi cơ duyên chín muồi. Cơ duyên ấy không nhất định chín muồi trong một đời này, có lẽ là đời sau, hoặc đời sau nữa, có lẽ là vô lượng kiếp sau. Đối với chúng ta thì thấy rất dài, nhưng đối với Phật, Bồ Tát thì là “niệm và kiếp viên dung”. Nay chúng ta cảm thấy thời gian có dài hay ngắn là do chúng ta vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Thật ra, nói thật với quý vị: Chẳng có thời gian, mà cũng chẳng có không gian; thời gian và không gian đều là giả.

Niệm niệm trí huệ quang minh chiếu khắp pháp giới, pháp giới và chính mình là một Thể, đó là “viên dung bất nhị”. Không chỉ là Lý nơi Trí, mà cũng là Lý nơi Sự. Nhập cảnh giới ấy, bèn gọi là chứng đắc Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới là điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm, dùng phương pháp gì để chứng đắc? Nhất tâm. Nhất Tâm là năng chứng (cái có thể chứng), Nhất Chân là sở chứng (cái được chứng), Năng và Sở bất nhị. Vì thế, kinh Di Đà chẳng khác gì kinh Hoa Nghiêm, tu hành kinh Di Đà có kết quả là Nhất Chân pháp giới trong kinh Hoa Nghiêm. Cổ nhân gọi kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm, gọi kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm rất hợp lý, có căn cứ, chẳng phải là nói năng tùy tiện, bừa bãi!

Trong lời kết luận, [Liên Trì đại sư nói] “Lý Sự viên dung, thân trí bất nhị”. Đó là nói về trí quang và thân quang, tức là hai ý nghĩa trước của quang minh. Sau đó, lại nói hai thứ là thường quang và phóng quang trong đoạn tiếp theo.

Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới đây!

 

 — o0o —

Tập 186

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm tám mươi lăm:

 

(Sao) Thường quang, phóng quang giả, thường sở hiển quang, vô phóng bất phóng, như viên quang nhất tầm đẳng, thị dã. Phóng quang giả, hoặc ư mi gian, hoặc ư đảnh thượng, hoặc khẩu, hoặc xỉ, hoặc tễ, hoặc túc chi loại, thị dã. Kim ngôn quang giả, chánh ý tại thường, nhi diệc kiêm phóng, cập dữ thân trí. Như Đại Bổn ngôn: “Nhĩ thời, A Di Đà Phật, tùng kỳ diện môn, phóng vô lượng quang”. Hựu vân: “Ngã dĩ trí huệ quang, quảng chiếu vô ương giới cố”.

()常光放光者,常所顯光,無放不放,如圓光一尋等,是也。放光者,或於眉間、或於頂上,或口、或齒、或臍、或足之類,是也。今言光者,正意在常,而亦兼放,及與身智。如大本言:爾時阿彌陀佛,從其面門,放 無量光。又云:我以智慧光,廣照無央界故。

(Sao: “Thường quang, phóng quang”: Thường quang là quang minh hiển lộ, chẳng có tỏa sáng hay không, như [kinh nói] viên quang chiếu xa một Tầm, chính là nói về thường quang. Phóng quang là như từ nơi giữa hai mày, hoặc từ trên đỉnh đầu, hoặc từ miệng, hoặc từ răng, hoặc từ rốn, hoặc từ chân v.v… [tỏa ra ánh sáng] là nói về loại này. Nay nói đến quang thì ý nghĩa chánh yếu là nói đến thường quang, mà cũng kèm thêm phóng quang cùng với thân quang và trí quang. Như kinh Đại Bổn nói: “Khi ấy, A Di Đà Phật từ nơi diện môn[20], tỏa ra vô lượng quang minh”. Lại nói: “Ta dùng trí huệ quang chiếu rộng khắp vô ương cõi”).

 Quang minh biểu thị trí huệ. Phật quang có hai loại:

1) Một là thường quang. Thường quang còn gọi là thân quang, trên thân đức Phật luôn có [loại quang minh này]. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trên thế gian này, [thân thị hiện] là thân Liệt Ứng, tức thân cao một trượng sáu thước. Thường Quang của Ngài chiếu xa một tầm. Một Tầm (尋) là đơn vị đo lường. Trung Hoa gọi tám thước là một Tầm. Thường quang của đức Phật chiếu xa tám thước, toàn thân đều có.

2) Phóng quang là do có nhân duyên đặc biệt, đức Phật sẽ tỏa ánh sáng.

Do vậy có thể biết, thường quang từ tâm thanh tịnh biến hiện. Tâm địa Ngài thanh tịnh, nên tự nhiên quang minh này chẳng gián đoạn. Vì thế, chẳng thể nói là Ngài có phóng quang hay không. Phóng quang là duyên phận, gặp cơ duyên, đức Phật sẽ phóng quang. Phóng quang là cảm ứng đạo giao cùng chúng sanh: Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Ứng hiện nhanh chóng nhất không gì hơn phóng quang. Phóng quang thì không nhất định ở nơi nào, đại khái là mỗi nơi đều có ý nghĩa biểu thị pháp đặc thù. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật từ trên nhục kế nơi đỉnh đầu phóng quang, biểu thị pháp môn ấy là đảnh pháp. Từ diện môn tỏa ánh sáng, ở đây nói là “hoặc ư mi gian” (hoặc từ giữa hai mày), “mi gian” nghĩa là tướng bạch hào phóng quang. Giữa hai chân mày của đức Phật có hai sợi bạch hào[21], bạch hào cuộn tròn lại cùng một chỗ, giống như một viên châu. Từ chỗ ấy tỏa ánh sáng là phổ biến nhất. Mỗi bộ vị trên thân Ngài đều có thể tỏa ánh sáng, loại tỏa sáng này được gọi là “phóng quang”.

Nay kinh này nói tới Quang, “chánh ý tại thường” (ý nghĩa chánh yếu là thường quang), thường quang của A Di Đà Phật. Kinh Đại Thừa thường nhắc tới và tán thán A Di Đà Phật, đức Phật có vô lượng tướng và vô lượng [tùy hình] hảo. Mỗi hảo có vô lượng quang minh, trong quang minh lại hóa hiện vô lượng chư Phật, phổ độ mười phương chúng sanh, trang nghiêm dường ấy! Vì thế, ý nghĩa chánh yếu là thường quang, nhưng trong ấy cũng hàm nhiếp phóng quang. Quang là trí quang và thân quang. Liên Trì đại sư trích dẫn một đoạn kinh Vô Lượng Thọ để chứng minh: “Nhĩ thời, A Di Đà Phật tùng kỳ diện môn, phóng vô lượng quang” (Lúc bấy giờ, A Di Đà Phật từ nơi diện môn, tỏa ra vô lượng quang minh), đó là phóng quang. Lại nói: “Ngã dĩ trí huệ quang, quảng chiếu vô ương giới” (Ta dùng ánh sáng trí huệ chiếu rộng khắp vô ương cõi nước). “Vô ương” là một con số lớn, thường nói là vô lượng vô biên, hoặc Vô Ương Số, chẳng có cách nào tính toán, chiếu rộng khắp mười phương thế giới.

 

(Sao) Vạn đức sở thành giả, Hoa Nghiêm Hiền Thủ phẩm, khai tứ thập tứ môn quang minh, các xuất kỳ nhân, hoặc quy Tam Bảo, hoặc phát Tứ Hoằng, Tam Học, Lục Độ chi sở thành tựu, nhất nhất kết vân, thị cố đắc thành thử quang minh.

()萬德所成者,華嚴賢首品,開四十四門光明,各出其因,或歸三寶,或發四弘,三學六度之所成就,一一結云,是故得成此光明。

(Sao: “Do muôn đức tạo thành”: Phẩm Hiền Thủ trong kinh Hoa Nghiêm có nói bốn mươi bốn môn quang minh, đối với mỗi loại quang minh đều nêu ra cái nhân, hoặc quy vào Tam Bảo, hoặc do Tứ Hoằng, Tam Học, Lục Độ thành tựu. Mỗi môn quang minh đều được kết thúc bằng câu “do vậy, được thành quang minh này”).

Trí quang và thân quang do đâu mà có? Nói thật ra, thân của mỗi người, thân mỗi chúng sanh đều có quang minh, chỉ vì tâm chúng ta chẳng thanh tịnh nên không thấy. Nếu tâm địa thanh tịnh, có thể thấy thân quang của mỗi người. Thân quang của Phật là tám thước, phàm phu chỉ có mấy tấc. Đã thế, màu sắc của quang minh cũng khác nhau, kim sắc quang minh là tốt nhất. Người luyện Khí Công, từ màu sắc và độ lớn nhỏ của quang minh, họ có thể thấy được tâm tư, mà cũng có thể thấy trạng huống sức khỏe nơi thân quý vị, biết quý vị bị bệnh ở chỗ nào! Vì sao? Nếu trong quang minh có chướng ngại, bộ phận nào chẳng phóng quang được, [tức là] ở nơi ấy bị bệnh, nên có chướng ngại. Quang minh có mối quan hệ mật thiết với tư tưởng, kiến giải, và hành vi của chúng ta. Tâm Phật thuần tịnh, đại từ, đại bi, nên quang minh của Ngài thù thắng.

Từ ý nghĩa này trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta biết thân quang và trí quang thù thắng là do tu thành. Tuy bản tánh vốn trọn đủ, nhưng nếu quý vị chẳng tu, Tánh Đức sẽ chẳng thể hiện tiền. “Vạn đức sở thành”: Trong vạn đức, đương nhiên bao hàm Tánh Đức và Tu Đức, nhưng thiên trọng Tu Đức, Tánh Đức vốn trọn đủ. Phẩm Hiền Thủ nói đại lược bốn mươi bốn thứ [quang minh][22], “các xuất kỳ nhân” (đối với mỗi loại quang minh đều nêu ra cái nhân của nó). Bốn mươi bốn thứ quang minh ấy do nhân duyên gì mà có, chúng ta phải chú ý những điều này. “Hoặc quy y Tam Bảo”: Quý vị thật sự quy y Tam Bảo, quỷ thần trông thấy quý vị đều cung kính, vì sao? Quỷ thần có thể thấy quang minh nơi thân quý vị. Thật sự quy y Tam Bảo, trên thân thể sẽ tỏa ra kim sắc quang minh. Kim quang minh thù thắng nhất trong các thứ quang minh, lẽ nào quỷ thần trông thấy chẳng tôn kính? Quang minh của quý vị vượt trỗi họ, họ cung kính quý vị. Nhưng hai chữ Quy Y chẳng dễ dàng! Nay chúng ta nói “quy y” thì đó là quy y trên hình thức, chẳng hữu dụng to tát. Phải thật sự làm được “phiên tà tam quy” (do Tam Quy mà lật ngược sự tà vạy), Quy là thật sự quay đầu, đoạn ác, tu thiện. Từ mê hoặc, điên đảo quay về, nương tựa tự tánh giác, giác chứ không mê, đó là Quy Y Phật. Từ tư tưởng và kiến giải sai lầm quay về, nương theo chánh tri chánh kiến, đó là Quy Y Pháp. Từ hết thảy ô nhiễm, ô nhiễm là gì? Cảm tình. Cảm tình là ô nhiễm, tham, sân, si, mạn, từ nơi đây quay về, nương theo tâm thanh tịnh, tự tánh thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó là Quy Y Tăng. Thật sự từ mê, tà, nhiễm, quay về nương tựa giác, chánh, tịnh, đó là Quy Y Tam Bảo. Ý niệm của quý vị vừa chuyển, đó gọi là “y báo chuyển theo chánh báo”. Thân quang và trí quang cũng là y báo, quang minh lớn hay nhỏ khác nhau, màu sắc cũng khác nhau. Thông thường, tâm thuật bất chánh, tạo tác ác nghiệp, quang minh màu xám hay đen. Màu đen là bất hảo nhất, gần như tai nạn sẽ xảy đến. Quang minh thù thắng là quang minh màu vàng, hoặc kim sắc quang minh, quang minh ấy khá thù thắng!

“Hoặc phát Tứ Hoằng”: Phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Tứ Hoằng Thệ Nguyện là Bồ Đề tâm. Tứ Hoằng lấy độ chúng sanh làm chủ, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. “Độ” là tận tâm tận lực giúp đỡ hết thảy chúng sanh, chỉ cần là họ cần đến, chúng ta phải tận tâm tận lực giúp đỡ họ. Giúp đỡ họ thì quan trọng nhất là giúp họ phá mê khai ngộ, giúp họ minh tâm kiến tánh, điều này quan trọng nhất! Vì sau khi khai ngộ, hết thảy phiền não, mê hoặc đều có thể đoạn trừ, trí huệ và đức năng tự nhiên hiển lộ. Đó là sự giúp đỡ thù thắng khôn sánh của Phật, Bồ Tát đối với hết thảy chúng sanh, những thứ khác như “đoạn phiền não, học pháp môn, thành Phật đạo” đều nhằm thỏa nguyện thứ nhất.

Nếu chúng ta muốn phổ độ chúng sanh, trước hết, phải độ chính mình. Chính mình chưa độ, sẽ chẳng có cách nào độ người khác. Độ chính mình thì trước hết phải đoạn phiền não, có thứ tự hoàn toàn giống như trong Liễu Phàm Tứ Huấn đã nói. Trước hết, phải đoạn ác. “Đoạn phiền não” là đoạn ác, “học pháp môn” là tu thiện, tích thiện, tích đức. Chỉ có viên thành Phật đạo, chúng ta mới giúp đỡ chúng sanh viên mãn. Chẳng thành Phật, trình độ của quý vị vẫn là hữu hạn, quý vị có thể giúp những chúng sanh có trình độ thấp hơn chính mình, nhưng đối với những chúng sanh có trình độ cao hơn, quý vị chẳng có cách nào giúp đỡ họ! Ắt phải thành Phật đạo thì mới có thể giúp Đẳng Giác Bồ Tát. [Những người có mức độ giác ngộ] từ Đẳng Giác trở xuống thì đương nhiên chẳng cần phải nói nữa! Do vậy, [phải thành Phật đạo] thì mới có thể phổ độ chúng sanh. Nếu quý vị phát đại tâm chân thành, rất khó có, hết sức hy hữu! Tuy chúng ta học Phật, hằng ngày niệm bốn câu ấy, chỉ là niệm ngoài cửa miệng, chẳng khởi tác dụng, chẳng thật sự phát tâm ấy. Vì sao biết? Nếu thật sự phát tâm ấy, người đó sẽ nghiêm túc đoạn phiền não, sửa lỗi, tu thiện. Người ấy có phiền não tập khí, vẫn chưa thể sửa, có thể thấy là Bồ Đề tâm và Tứ Hoằng Thệ Nguyện chưa phát, phát bằng miệng thì chẳng có tác dụng gì hết! Phật pháp là pháp môn tâm địa, nhất định phải từ nội tâm sanh khởi thì mới có thể thật sự biến hóa khí chất. Tam Học, Lục Độ: Tam Học là pháp tu tập của Nhị Thừa, tức là Giới Học, Định Học, Huệ Học. Lục Độ là pháp tu của Bồ Tát, gồm Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã.

Ở đây, nêu đại lược bốn khoa trong bốn mươi bốn môn [quang minh]. Trong mỗi môn, kinh Hoa Nghiêm đều kết luận: “Thị cố đắc thử quang minh” (Do vậy, đắc quang minh này). Từ chỗ này, chúng ta hoàn toàn hiểu rõ. Quang minh của đức Phật là do vô lượng kiếp tu tập, tích lũy mà đạt được. Vì tu tập, tích lũy [công đức], trừ bỏ phiền não, sở tri, nên quang minh vốn sẵn có trong Tánh Đức mới có thể hiển lộ. Mỗi người chúng ta đều có tướng hảo và quang minh giống hệt như Như Lai. Phẩm [Như Lai] Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm đã nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, có thể thấy là quang minh cũng giống như vậy. Quang minh là một trong các đức tướng, thảy đều có, “chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”. Vì sao quang minh chẳng hiển lộ? Quý vị có phiền não, có vọng tưởng, có chấp trước, nên Tánh Đức chẳng thể hiện tiền. Do vậy có thể biết, Tu Đức là tu gì? Trừ khử vọng tưởng và chấp trước mà thôi. Vọng tưởng và chấp trước đã trừ, trí huệ quang minh trong bản tánh tự nhiên hiển lộ. Quý vị đồng tu phải thấu hiểu cặn kẽ ý nghĩa này, phải hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta mới có thể nghiêm túc nỗ lực tu học.

 

(Sao) Hựu Bát Nhã kinh, Phật ngôn: “Ngã ư nhất thiết pháp vô sở chấp, cố đắc thường quang nhất tầm”. Tắc tri kim Phật quang minh, phi nhất đức sở trí dã.

(Diễn) Ngã ư nhất thiết vô sở chấp, đắc thường quang giả, chư Phật quang minh tùng trí huệ sanh. Phàm phu chấp trọng, trí huệ bất sanh. Trí huệ bất sanh, quang minh hà hữu? Cố đãng tận nhất thiết chấp giả, nãi năng phát quang minh dã. Hựu hữu sở chấp giả thức tình, vô sở chấp giả trí huệ. Ký hữu trí quang, khởi vô thân quang?

()又般若經,佛言:我於一切法無所執,故得常光一尋,則知今佛光明,非一德所致也。

()我於一切無所執,得常光者,諸佛光明從智慧生,凡夫執重,智慧不生,智慧不生,光明何有,故蕩盡一切執者,乃能發光明也。又有所執者識情,無所執者智慧。既有智光,豈無身光。

(Sao: Lại nữa, trong kinh Bát Nhã, đức Phật nói: “Đối với hết thảy các pháp, ta chẳng chấp trước, nên đạt được thường quang chiếu xa một Tầm”. Do đó biết quang minh của Phật chẳng phải do một đức tạo nên.

Diễn: “Đối với hết thảy, ta chẳng chấp trước, nên đắc thường quang”: Quang minh của chư Phật sanh từ trí huệ. Phàm phu chấp trước nặng nề, chẳng sanh trí huệ. Trí huệ chẳng sanh, làm sao có quang minh? Vì thế, gột sạch hết thảy chấp trước thì mới có thể phát sanh quang minh. Lại nữa, có điều gì chấp trước thì là thức tình, chẳng có chấp trước bèn là trí huệ. Đã có trí quang, lẽ nào chẳng có thân quang?)

Lời chú giải hay lắm, đã giải thích rõ ràng Lý và Sự của chuyện này. Ở đây còn có một chuyện đáng cho chúng ta chú ý. Người bình phàm thấy thân quang và trí quang của đức Phật, luôn cảm thấy cao chẳng thể vói tới, xa xôi chẳng thấu đạt được, dường như chẳng có mối quan hệ to tát gì đối với chính mình, thấy rồi kể như xong. Trước mắt, điều có quan hệ chặt chẽ nhất đối với chúng ta là gì? Tôi bảo quý vị, thân thể khỏe mạnh. Nhắc tới điều này, mọi người đều nên chú ý, thân quang và phóng quang có mối quan hệ mật thiết với sức khỏe nơi thân thể. Có thể thấy phần kinh văn này chẳng phải là không liên quan đến chúng ta, chẳng phải là vĩnh viễn không đạt được. Từng chữ, từng câu đều liên quan rất lớn với cuộc sống hiện tiền của chúng ta. Nếu quý vị biết học, thật sự thấu hiểu ý nghĩa này, vận dụng vào cuộc sống hằng ngày, quý vị sẽ khỏe mạnh, sống lâu, thanh xuân, chẳng già, quý vị có muốn hay không? Nếu quý vị muốn, chẳng thể không đổ công dốc sức nơi điều này, xác thực là có hiệu quả. Vì lẽ đó, chẳng phải là một đức mà có thể viên mãn, phải là các đức thì thân quang và trí quang mới viên mãn, nhưng các đức phải tu từ một đức.

Phật pháp thường dùng Pháp Luân để biểu thị pháp, dùng nó làm tiêu chí (logo). Luân biểu thị Không và Hữu bất nhị. Luân (bánh xe) tròn, nhưng cái tâm của hình tròn là Không, vành tròn thì có, nó biểu thị Không và Hữu bất nhị, động tĩnh như nhau. Vành tròn bên ngoài là động, tâm hình tròn chẳng động. Trong động mà có bất động, trong bất động có động. Động tĩnh bất nhị, biểu thị điều này. Vì thế, tâm chúng ta phải là rỗng không, trong tâm chớ nên có thứ gì, tâm phải tĩnh, tâm chẳng thể động, tâm thanh tịnh. Thân phải động, thân là gì? Thân là vành tròn, bánh xe không xoay, sẽ chẳng khởi tác dụng. Khoa học kỹ thuật hiện thời phát triển như vậy, truy tìm nguyên nhân, toàn là do bánh xe đang chuyển động. Chẳng có bánh xe, khoa học kỹ thuật trên thế giới đều phải ngưng dứt! Do đó, thân là bánh xe, thân phải động, tâm phải thanh tịnh, quý vị mới có thể khỏe mạnh.

Con người hiện thời sanh bệnh, [là vì] thân muốn thoải mái, chẳng động, trong tâm suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, hoàn toàn điên đảo. Thân chẳng động, thân này liền rỉ sét, phát sanh bệnh tật. Tâm đang động, tâm cũng sanh bệnh. Tâm vốn là thanh tịnh, bất động, nay quý vị khăng khăng buộc nó động, cho nên tâm sanh bệnh. Tâm đã bệnh, thân thể làm sao khỏe mạnh cho được? Chư vị phải biết: Dưỡng tâm thì phải tĩnh, dưỡng thân thì phải động. Lễ bái trong Phật môn là một thứ phương pháp tu hành rất tốt. Năm vóc gieo xuống đất là vận động. Khi lễ Phật, tâm địa cung kính, tâm cung kính là một niệm chẳng sanh. Đó là cung kính. Tâm thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh lạy Phật, đó là cung kính nhất. Vừa lạy Phật, trong tâm còn khấn khứa: “Phật, Bồ Tát ơi! Các Ngài phải phù hộ cho con”, sẽ chẳng linh! Vì sao? Thiếu cung kính, tâm chẳng chân thành. Quý vị dùng cái tâm vọng tưởng lạy Phật, làm sao có thể cảm ứng cho được? Có lẽ sẽ có người hỏi: “Trong tâm tôi có nguyện cầu, tôi không nói ra, làm sao đức Phật biết?” Nếu đức Phật không biết, Ngài sẽ chẳng được gọi là Phật, Phật sẽ biết. Vì thế, chẳng cần phải động niệm, chẳng cần phải khấn khứa. Quý vị càng động niệm, càng khấn khứa, càng chẳng được. Quý vị chẳng động niệm, chẳng cần khấn khứa, quý vị lạy Phật, Phật liền linh ứng. Vì lòng thành mà linh. Thành là gì? “Một niệm chẳng sanh thì gọi là Thành”. Trong tâm động niệm sẽ chẳng thành, chẳng thành sẽ không linh, chẳng có cảm ứng đạo giao. Phải nên ghi nhớ, phải biết những nguyên lý này.

 

(Sao) Bổn nguyện sở trí giả.

()本願所致者。

(Sao: Do bổn nguyện tạo thành).

Lời Sớ có nói quang minh có hai loại nguyên nhân: Một là do muôn đức tạo thành, hai là do “bổn nguyện sở trí” (bổn nguyện tạo thành). Phần trước đã nói về Tu Đức, tức là do muôn đức tạo thành. Nay trong phần này, nói về bổn nguyện.

 

(Sao) Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, đảnh trung quang minh, thắng ư nhật nguyệt bách thiên vạn ức bội”. Hựu nguyện vân: “Nguyện ngã tác Phật thời, quang minh chiếu vô ương số thiên hạ, u minh chi xứ, giai đương đại minh. Chư thiên nhân dân, dĩ cập quyên nhuyễn, kiến ngã quang minh, mạc bất từ tâm, tác thiện, lai sanh ngã quốc”.

()大本法藏願云:我作佛時,頂中光明,勝於日月百千萬億倍。又願云:願我作佛時,光明照無央數天下,幽冥之處,皆當大明,諸天人民,以及蜎蝡,見我光明,莫不慈心作善,來生我國。

(Sao: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật, quang minh nơi đỉnh đầu vượt trỗi mặt trời, mặt trăng trăm ngàn vạn ức lần”. Lại nguyện rằng: “Nguyện khi tôi thành Phật, quang minh chiếu vô ương số thiên hạ, chỗ tối tăm đều sẽ sáng bừng. Chư thiên nhân dân, cùng với các loài ngọ nguậy, bò trườn, thấy quang minh của tôi, không ai chẳng từ tâm, làm lành, sanh về nước tôi”).

 Hai đoạn này là kinh văn trong phần bốn mươi tám nguyện.

 

(Sao) Hựu nguyện tiền kệ vân: “Năng sử vô lượng sát, quang minh tất chiếu diệu”. Cố kim thành Phật, đắc như sở nguyện.

()又願前偈云:能使無量剎,光明悉照耀,故今成佛,得如所願。

(Sao: Trong bài kệ trước phần phát nguyện lại nói: “Hay khiến vô lượng cõi, quang minh ắt chói ngời”. Do đó, nay Ngài thành Phật, được như sở nguyện).

Đoạn này nhằm giải thích câu “bổn nguyện sở trí”. Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật chẳng phải là phát ra ngay lập tức; do đâu mà có bốn mươi tám nguyện? Thế Gian Tự Tại Vương Phật vì Ngài tuyên nói y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười phương cõi Phật trải qua ngàn ức năm. Thời gian nghe pháp lâu dài như thế, đồng thời lại được Phật gia trì, khiến cho Ngài có thể đích thân thấy hai mươi mốt câu-chi các cõi Phật (hai mươi mốt câu-chi là hai trăm mười ức). Hai trăm mười ức chẳng phải là một con số, mà là biểu thị pháp. Bát Nhã và Mật Tông đều dùng “hai trăm mười ức” để biểu thị sự viên mãn đến tột cùng. Nói cách khác, đối với mười phương ba đời các cõi Phật, A Di Đà Phật đều đã đến thăm, giống như năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, đại nguyện là từ những lần tham học và nghe pháp liên tục kết thành. Ngài thấy mười phương thế giới có lục đạo, có ba ác đạo rất khổ sở, cho nên phát nguyện: “Sau khi ta thành Phật, trong thế giới của ta chẳng có ba ác đạo”. Do Ngài thấy hoàn cảnh bên ngoài, nên mới phát đại nguyện như vậy.

Do vậy có thể biết, bốn mươi tám nguyện chẳng thể nghĩ bàn; sau khi Ngài đã nghe pháp, tu học viên mãn, mới kết thành đại nguyện. Sau khi đã kết thành đại nguyện, lại còn năm kiếp tu hành, dùng hạnh để thực hiện nguyện, nguyện nào cũng đều chẳng hư luống, mỗi nguyện đều thật sự làm được, như vậy thì mới viên thành Phật đạo. Nếu quý vị biết sự thật này thì mới hoảng nhiên đại ngộ: Tây Phương Cực Lạc là thế giới gì? Là tập hợp toàn bộ những điều tốt đẹp trong các cõi Phật, hết thảy những chỗ chẳng tốt đẹp trong các cõi Phật, Ngài chẳng dùng đến, các ưu điểm bèn hoàn toàn chọn lấy, [tạo thành] một thế giới như thế đó. Thế giới ấy vượt trỗi hết thảy các thế giới của chư Phật. Thế giới đã vượt trỗi, đương nhiên A Di Đà Phật cũng vượt trỗi, thế giới là y báo, Phật là chánh báo. Trong chánh báo, quý vị hãy nghĩ xem: Nếu cái tâm chẳng vượt trỗi, thân cũng chẳng thể vượt trỗi. Vì thế biết A Di Đà Phật thù thắng bậc nhất, phát tâm thù thắng. Ngài phát tâm chẳng phải là độ chúng sanh trong một thế giới, một thế giới là nói một tam thiên đại thiên thế giới, chẳng phải vậy! Ngài phát tâm muốn độ hết thảy chúng sanh trong các cõi Phật trọn khắp mười phương tận hư không khắp pháp giới, Ngài phát nguyện ấy. Vì thế, khu vực giáo hóa của A Di Đà Phật chẳng phải là một thế giới, mà vô lượng vô biên các cõi Phật đều là khu vực giáo hóa của Ngài. Vì thế, thường quang của Phật Di Đà cũng chiếu khắp pháp giới, cũng lại chẳng thể nghĩ bàn! Một Tầm, tức tám thước, là quang minh nơi Ứng Thân của Phật, chẳng phải là Báo Thân. Báo Thân của Phật thì quang minh chiếu trọn khắp.

Trong lời nguyện có nói tới “đảnh quang”, tức quang minh phát xuất từ đỉnh đầu “thắng ư nhật nguyệt bách thiên vạn ức bội” (trỗi vượt mặt trời, mặt trăng trăm ngàn vạn ức lần). Quang minh nơi một chỗ mà còn như thế, huống là thường quang nơi toàn thân. “Hựu nguyện vân” (Lại nguyện rằng), khi Ngài thành Phật, “quang minh chiếu vô ương số thiên hạ”, “thiên hạ” là một thế giới, đó là chiếu trọn khắp. “U minh chi xứ, giai đương đại minh” (Chỗ tối tăm đều sáng bừng). “U minh” là ngạ quỷ đạo, địa ngục đạo, trong lục đạo, đó là chỗ nghiệp chướng nặng nhất, quang minh của A Di Đà Phật đều chiếu thấu. “Chư thiên nhân dân” là nói thiên đạo và nhân đạo, “quyên nhuyễn” (蜎蝡) là súc sanh đạo, lục đạo thảy đều được nhắc tới. Lục đạo chúng sanh thấy quang minh của Phật Di Đà, “mạc bất từ tâm tác thiện, lai sanh ngã quốc” (không ai chẳng từ tâm, làm lành, sanh về nước ta).

Nếu nay chúng tôi hỏi mọi người: Quý vị có thấy quang minh của A Di Đà Phật hay không? Có mấy người thấy? Nói thật ra, mỗi vị đồng tu đều đã thấy, nhưng chính quý vị chẳng biết. Vì sao biết là đã thấy? Quý vị có thể thấy bộ kinh này, bộ kinh này chính là Phật quang. Quý vị có thể nghe câu danh hiệu A Di Đà Phật, một tiếng Nam-mô A Di Đà Phật là Phật quang. Quý vị nghe, thấy, trong tâm sanh hoan hỷ, cũng chịu niệm Phật, niệm kinh, phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đấy chính là như trong kinh đã nói “kiến ngã quang minh, mạc bất từ tâm, tác thiện, lai sanh ngã quốc” (thấy quang minh của ta, không ai chẳng từ tâm, làm lành, sanh về nước ta). Do đó, ba câu này nhằm nói tới chính chúng ta, chẳng nói tới ai khác! Đọc bộ kinh này, tâm địa phóng quang, chuyển biến ý niệm, dần dần tương ứng với bổn nguyện của A Di Đà Phật, và cũng tương ứng với sự tu trì của A Di Đà Phật. Đó là tiếp nhận Phật quang.

“Năng sử vô lượng sát, quang minh tất chiếu diệu” (Hay khiến vô lượng cõi, quang minh ắt chói ngời). Hai câu kệ này là kinh văn trong kinh Vô Lượng Thọ, “cố kim thành Phật, đắc như sở nguyện” (nên nay thành Phật, được như sở nguyện). A Di Đà Phật nay đang thị hiện thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân quang, trí quang, thường quang, phóng quang của Ngài, thảy đều chiếu khắp pháp giới, đối với điều này, chúng ta chẳng có mảy may nghi hoặc!

Tiếp theo đây là nói  về  Vô  Lượng, tức  Vô  Lượng  Quang. Phần trên đây chỉ giới thiệu Quang, có thân quang và thường quang. Quang minh của A Di Đà Phật là vô lượng quang. Hai thứ vô lượng thọ và vô lượng quang là cốt lõi của kinh này.

 

(Sớ) Vô lượng giả, ngôn sở chiếu chi quảng dã. Thập phương giả, bất đồng tha kinh chiếu nhất phương cố. Vô chướng ngại giả, bất đồng nhật quang, do hữu ngại cố.

()無量者,言所照之廣也。十方者,不同他經照一方故。無障礙者,不同日光,猶有礙故。

(Sớ: “Vô lượng”: Ý nói chiếu rộng khắp. “Mười phương”: Chẳng giống như các kinh khác chỉ chiếu một phương. “Vô chướng ngại”: Chẳng giống như ánh sáng mặt trời còn bị chướng ngại).

 “Vô lượng” có nghĩa là chiếu trọn khắp, không đâu chẳng chiếu tới. “Thập phương” là phạm vi chiếu thấu của Phật quang.

 

(Sao) “Bất đồng tha kinh” giả, như Pháp Hoa Đông chiếu, tắc bất thuyết dư phương.

()不同他經者,如法華東照,則不餘方。

(Sao: “Chẳng giống như kinh khác”: Như kinh Pháp Hoa nói [đức Phật phóng quang chiếu các cõi nước] ở phương Đông, tức là chẳng nói đến những phương khác).

Chỉ chiếu một phương.

 

(Sao) Vạn bát thiên, tắc bất cai dư quốc.

()萬八千,則不該餘國。

(Sao: [Kinh Pháp Hoa chỉ nói quang minh ấy chiếu tới] một vạn tám ngàn cõi, tức là chẳng bao gồm các nước khác).

“Vạn bát thiên” chẳng phải là một con số quá lớn. Có thể thấy quang minh ấy chẳng trọn khắp, nó có phạm vi.

 

(Sao) Nghĩa các hữu thủ cố, kim tắc tứ duy thượng hạ, nhất thiết quốc độ, vô bất chiếu cố.

() 義各有取故。今則四維上下 ,一切國土,無不照故。

(Sao: Xét ra, mỗi kinh có ý nghĩa riêng biệt, nay thì [kinh này nói] bốn phương, trên dưới, hết thảy các cõi nước, không đâu chẳng chiếu).

Tôi phải nói ý nghĩa này cùng quý vị, vì sao quang minh của Phật Di Đà không đâu chẳng chiếu đến? Từ Đại Bổn và Tiểu Bổn, chúng ta đều thấy, đặc biệt là tựa đề của kinh Tiểu Bổn vô cùng rõ rệt, Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh (kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn được hết thảy chư Phật hộ niệm), đó là đề mục nguyên gốc của kinh. Ai khen ngợi? Mười phương ba đời hết thảy chư Phật khen ngợi, đó là quang minh chiếu trọn khắp. Chẳng có một vị Phật nào không giảng kinh Vô Lượng Thọ; chẳng có vị Phật nào không nói kinh A Di Đà. Bộ kinh này tận hư không khắp pháp giới chẳng có cõi nước nào không hoằng dương! Quý vị mới biết bộ kinh này được lưu truyền rộng rãi, các kinh khác chẳng có hiện tượng này.

Đức Phật ứng cơ thuyết pháp, nếu căn cơ chẳng phù hợp, đức Phật sẽ không nói. Bộ kinh này chẳng có căn cơ nào không phù hợp, trên là đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát, dưới là đến chúng sanh trong địa ngục, chẳng có một ai không khế cơ. Trừ phi quý vị chẳng tin, chẳng nguyện, chẳng chịu niệm Phật thì chẳng có cách nào! Chỉ cần quý vị chịu tin, chịu nguyện, chịu niệm một câu A Di Đà Phật, quý vị sẽ là bậc đương cơ trong pháp môn này. Bậc đương cơ ấy rất lỗi lạc, quyết định thành Phật trong một đời này. Vì thế, pháp môn này là pháp môn thành Phật trong một đời, thành tựu trong một đời. Bất luận quý vị là thân phận gì, Bồ Tát cũng thế, Thanh Văn cũng thế, La Hán cũng thế, trời, người, quỷ thần, cho đến địa ngục thảy đều như thế, cũng chẳng quản nam, nữ, già, trẻ, cũng chẳng quản làm lành hay làm ác, đều chẳng quản. Chỉ cần trọn đủ Tín, Nguyện, Hạnh, chẳng có ai không vãng sanh, chẳng có ai không thành Phật. Quý vị nghĩ xem: Tìm đâu ra một pháp môn như thế này? Đó là “chiếu khắp”. Không như các kinh khác, những kinh khác ví như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa còn có rất nhiều chỗ chẳng khai diễn, chẳng nói, nên các kinh ấy chẳng rộng.

 

(Sao) Bất đồng nhật quang giả.

()不同日光者。

(Sao: Chẳng giống như ánh sáng mặt trời).

Nói theo tỷ dụ.

 

(Sao) Nhật tuy hữu quang, Tu La yểm chi tắc ngại, Thiết Vi lưỡng gian tắc ngại, phúc bồn chi hạ tắc ngại.

()日雖有光,修羅掩之則礙,鐵圍兩間則礙,覆盆之下則礙。

(Sao: Mặt trời tuy có quang minh, nhưng bị Tu La che bèn bị trở ngại, giữa hai núi Thiết Vi bèn bị trở ngại, dưới đáy chậu úp thì bị trở ngại).

Ánh sáng mặt trời có chướng ngại, Phật quang chẳng bị chướng ngại, Phật quang có thể soi thấu hết thảy vật chất, chẳng ngăn che được. Đối với ánh nắng mặt trời, kinh nói A Tu La dùng tay che khuất [mặt trời], sẽ chẳng thấy ánh sáng mặt trời. Người Ấn Độ nói như vậy, [họ nói] nhật thực do đâu mà có? Do tay A Tu La che khuất thái dương. Nay chúng ta biết, đó là do mặt trăng che khuất mặt trời, chẳng phải là tay A Tu La. Cổ Ấn Độ nói là do tay A Tu La che khuất thái dương, Thích Ca Mâu Ni Phật có biết chân tướng sự thật này hay không? Biết chứ! Thích Ca Mâu Ni Phật biết tinh cầu vận hành, mặt trăng chuyển đến vị trí ấy sẽ gây ra hiện tượng này. Vì sao thuở ấy Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nói? Chư vị nghĩ xem: Nói ra có tác dụng gì đâu? Mọi người đều nói như thế, được rồi, ta thuận theo cách nói của quý vị. Vì ý của đức Phật là khiến cho tâm quý vị thanh tịnh, khiến cho quý vị khai ngộ, chẳng phải là khiến cho quý vị hiểu những điều thường thức ấy. Tông chỉ giáo học của đức Phật ở chỗ này, chẳng liên can đến thường thức. Tâm thật sự thanh tịnh, khai ngộ, tự nhiên quý vị sẽ hiểu rõ hết thảy chân tướng, cần gì phải nói? Trong lúc khoa học kỹ thuật chưa phát minh, có nói cũng chẳng rõ ràng, không nói thì còn chẳng có chuyện gì, chứ càng nói càng rách việc! Người bình phàm nghĩ là tay A Tu La che khuất, đức Phật cũng nói: Quý vị nói kiểu ấy, ta cũng nói thuận theo quý vị, tùy thuận thế tục mà nói. Đức Thế Tôn thuyết pháp tùy thuận Chân Đế và Tục Đế, xét theo chính đức Phật là Chân Đế; tùy thuận cách nói của mọi người trong thế gian là Tục Đế. Quý vị phải hiểu nguyên tắc thuyết pháp của đức Phật vì hết thảy chúng sanh, chúng ta mới có thể hiểu nghĩa thú trong lời Phật dạy.

“Thiết Vi lưỡng gian tắc ngại”: Đây là hai rặng núi cao, khi mặt trời mọc từ phương Đông, mặt Đông của núi ngăn che ánh mặt trời, trong sơn cốc chẳng thấy. Chỉ đến khi mặt trời đã đứng bóng, mới chiếu xuống mặt đất [giữa hai núi Thiết Vi]. Hơi chênh về Tây, mặt Tây của núi lại ngăn che ánh sáng mặt trời, lại chẳng thấy nữa! Nó bị ngăn ngại! “Thiết Vi” là nói đến núi Thiết Vi. Giữa hai rặng Thiết Vi bèn có trở ngại.

“Phúc bồn chi hạ tắc ngại” (Dưới đáy chậu úp bèn bị trở ngại). Quý vị dùng cái chậu úp xuống, tuy mặt trời chiếu sáng, chẳng chiếu đến dưới đáy chậu, nên bị trở ngại.

 

(Sao) Hựu Diêm Phù minh, tắc Đan Việt ngại; Cù Da minh, tắc Phất Vu ngại.

()又閻浮明,則單越礙;瞿耶明,則弗于礙。

(Sao: Lại nữa, châu Diêm Phù sáng thì châu Đan Việt tối tăm, châu Cù Da sáng thì châu Phất Vu tối tăm).

 Đây là nói tới Đông, Nam, Tây, Bắc bốn đại bộ châu. Diêm Phù là châu Nam Diêm Phù (Jambudvīpa), ở phương Nam. Đan Việt là Uất Đan Việt (Uttarakuru), tức Bắc Câu Lô Câu ở phương Bắc; Cù Da (Aparagodānīya) là phương Tây; Phất Vu (Pūrvavideha) là phương Đông. Phương Nam sáng sủa, phương Bắc liền tối tăm. Phía Tây sáng sủa, phía Đông bèn tối tăm. Giống như địa cầu vận hành, mặt trời chỉ có thể chiếu sáng một nửa, nửa kia chẳng chiếu thấu. Có ý nghĩa này, những điều này đều nhằm nói rõ ánh sáng mặt trời bị chướng ngại.

 

(Sao) Kim tắc triệt sơn thấu bích, thông u đạt minh, vô năng giá chướng, sử quang ẩn một, vô năng cách ngại, sử quang đoạn tuyệt cố.

()今則徹山透壁,通幽達冥,無能遮障,使光隱沒,無能隔礙,使光斷故。

(Sao: Nay [Phật quang] soi núi, xuyên tường, thông đạt tới chỗ tối tăm, u ám, không gì có thể ngăn che khiến cho quang minh ấy bị ẩn mất; không gì có thể cách ngăn khiến cho quang minh ấy bị đoạn tuyệt).

Đây là nói về Phật quang. Núi cao, vách tường chẳng thể chướng ngại, Phật quang, nó xuyên thấu. Nay chúng ta có thể hiểu ý nghĩa này, ví như tia X, tia tử ngoại tuyến, mắt thường nhìn chẳng thấy, nó có thể xuyên qua vách tường. Khoa học hiện tại vẫn chưa thể dò thấy Phật quang, vì những thứ như tia X hoặc tia tử ngoại vẫn có chướng ngại, đối với một thứ kim loại nào đó, chúng vẫn chưa thể xuyên thấu. Nhưng Phật quang khác hẳn, chẳng có thứ gì có thể chướng ngại nó. Phật quang tuy chiếu trọn khắp, nhưng mắt thịt của chúng ta chẳng thể trông thấy.

Lại thưa cùng chư vị, nếu mắt thường của chúng ta có thể thật sự trông thấy những ánh sáng có bước sóng khác nhau, thế giới này ngay lập tức biến đổi. Nay chúng ta có thể thấy các ánh sáng [có bước sóng] rất ngắn, những ánh sáng có bước sóng dài hơn, chúng ta chẳng thấy, mà những ánh sáng có bước sóng ngắn hơn, chúng ta cũng chẳng nhìn thấy. Đối với vô hạn ánh sáng có bước sóng khác nhau, công năng của mắt chúng ta là chỉ có thể nhìn thấy một loại. Hiện thời, cậy vào các dụng cụ khoa học để đo lường, [các ánh sáng có] bước sóng đạt đến một độ dài nào đó thì chúng ta có thể trông thấy; đối với bước sóng ngắn hơn, cũng có thể trông thấy, nhưng chẳng dùng máy móc, sẽ chẳng thể thấy. Máy móc vẫn là hữu hạn, biết là còn có ánh sáng có bước sóng cực dài, nhưng máy móc bó tay. Nếu ánh sáng có bước sóng cực ngắn, máy móc cũng chịu thua. Chư vị phải biết: Phật là ngũ nhãn viên minh, chẳng cần nhờ vào bất cứ máy móc nào, tất cả hết thảy các sóng ánh sáng, chẳng có gì Ngài không thấy rõ ràng, rành rẽ. Vì vậy, thế giới trong mắt Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật khác biệt chúng ta, hoàn toàn khác nhau.

Tục ngữ thường nói thế gian này là “nhân quỷ tạp cư” (người và quỷ sống lẫn lộn). Tuy tạp cư, nhưng vì cảm giác về sóng ánh sáng khác nhau, nên đôi bên chẳng trở ngại lẫn nhau. Một mai thật sự hiểu rõ, cũng có lẽ là quỷ ngồi chễm chệ bên cạnh chúng ta, họ không thấy ta, chúng ta chẳng thấy họ. Nhà của chúng ta và nhà của quỷ trùng điệp, nhưng chẳng trở ngại lẫn nhau. Vì sắc pháp của chúng ta vô ngại đối với họ, sắc pháp của họ vô ngại đối với chúng ta, chúng ta xây tường bèn không đi qua được, nhưng họ có thể xuyên qua, vì sao? Trong tâm mục của họ chẳng cảm nhận thấy thứ ấy, nên họ đi xuyên qua được. Quỷ xây tường, họ chẳng vượt qua được. Họ bị chướng ngại, vì cảm giác nơi đó họ đã dựng tường, nên chẳng thể vượt qua được. Chúng ta chẳng cảm thấy nơi đó là tường, nên chẳng bị chướng ngại. Quả nhiên có năng lực ấy, quý vị sẽ thấy thế gian này hoàn toàn biến đổi hình dạng.

Ai biết chân tướng thế gian này? Đức Phật biết. Chúng ta nào có biết, chúng ta chỉ biết một phần cực nhỏ. Quang minh là như thế, âm thanh cũng là như thế, đối với tác dụng của tai, âm thanh có bước sóng dài chúng ta chẳng nghe thấy, âm thanh có bước sóng ngắn chúng ta cũng chẳng nghe thấy. Hiện thời dùng vô tuyến điện, biến đổi sóng âm thành dài hay ngắn, có thể truyền đến nơi xa; lại dùng máy móc để khôi phục trạng thái cũ, chúng ta lại nghe rất rõ ràng. Nếu tai chúng ta thông suốt, sáng tỏ, các thứ sóng âm khác nhau đều nghe, mười phương hết thảy chư Phật thuyết pháp, chúng ta ngồi nơi đây đều nghe trọn hết, chẳng có gì không nghe. Vì thế, phải hiểu, mắt của chúng ta tệ lắm, có chướng ngại; cái máy thu âm (tai) này cũng dở ẹt, cũng chẳng linh hoạt, chỉ nghe được một phần sóng âm cực nhỏ như thế, sóng âm dài hơn hoặc ngắn hơn đều chẳng thể nghe thấy.

Giáo học Phật pháp nhằm khôi phục năng lực sẵn có của sáu căn, đức Phật dạy: Hai mắt chúng ta không gì chẳng thấy, tận hư không khắp pháp giới chẳng có thứ gì chúng ta không thấy. Tây Phương Cực Lạc thế giới tuy cách xa chúng ta mười vạn ức cõi Phật, nhưng nếu mắt của quý vị khôi phục năng lực vốn có, sẽ thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới “như đối trước mắt”, quý vị sẽ thấy rành mạch. Nếu năng lực của tai được khôi phục, A Di Đà Phật thuyết pháp trong thế giới Cực Lạc, chúng ta sẽ nghe rõ ràng, rành mạch. Giáo học Phật pháp chẳng có gì khác, giúp chúng ta khôi phục năng lực sẵn có của sáu căn mà thôi! Vì thế nói là “Phật chẳng độ chúng sanh”, Phật có gì để ban cho chúng ta? Chẳng có, Phật dạy chúng ta khôi phục năng lực sẵn có của chính mình. Vì thế, giáo huấn của đức Phật đáng cho chúng ta tôn kính, đáng cho chúng ta bội phục.

“Vô năng giá chướng, sử quang ẩn một” (Không gì có thể ngăn che, khiến cho quang minh ấy ẩn mất), Phật quang chẳng có chướng ngại, “ẩn một” (隱沒) là gián đoạn, quang minh của Phật chẳng bị gián đoạn. Ví như chúng ta cảm thấy ánh sáng mặt trời có lúc sáng, có lúc tối, khi tối thì chẳng có ánh sáng, tức là có hiện tượng gián đoạn, Phật quang chẳng bị gián đoạn. “Vô năng cách ngại, sử quang đoạn tuyệt cố” (Chẳng thể ngăn cách khiến cho ánh sáng bị đoạn tuyệt), Phật quang vĩnh viễn chẳng đoạn. Đặc biệt là quang minh của A Di Đà Phật; bất luận thân quang, trí quang, thường quang, hay phóng quang, đều chiếu khắp pháp giới, hết thảy mọi lúc, hết thảy mọi chỗ, chẳng bị chướng ngại, chẳng bị đoạn tuyệt.

 

(Sao) Như Đại Bổn vân: Bỉ Phật quang minh, tối vi viễn trước, chư Phật quang minh sở bất năng cập.

()如大本云:彼佛光明,最為遠著,諸佛光明所不能及。

(Sao:  Như  kinh  Đại  Bổn  nói: “Quang  minh  của  đức  Phật  ấy, chiếu xa nhất, quang minh của chư Phật chẳng thể sánh bằng).

Đây là trích dẫn kinh Vô Lượng Thọ.

 

(Diễn) Bỉ Phật quang minh tối vi viễn giả, dĩ dữ chúng sanh duyên thâm, bị cơ phổ biến cố. Hựu kinh kinh tất tự tán, ức dương tùy thời diệc vô ngại. Hoặc nạn: “Phật quang ký viễn, kim hà bất kiến?” Viết: Phật quang bổn biến, chúng sanh tự mê, dĩ phiền não tâm chướng trí huệ nhãn cố. Như nhật quang biến chiếu, manh giả bất kiến, thị manh giả quá, phi nhật nguyệt cữu dã.

()彼佛光明最為遠者,以與眾生緣深,被機普遍故。又經經必自讚,抑揚隨時亦無礙;或難,佛光既遠,今何不見?曰佛光本遍,眾生自迷,以煩惱心障智慧眼故。如日光遍照,盲者不見,是盲者過,非日月咎也。

(Diễn: Quang minh của đức Phật ấy xa nhất, do có duyên sâu đậm với chúng sanh, thích hợp căn cơ phổ biến nhất. Lại đối với kinh nào cũng tự khen ngợi, tùy thời mà hạ thấp hay đề cao cũng vô ngại. Chắc là có kẻ bắt bẻ: “Phật quang đã chiếu xa như vậy, nay sao chẳng thấy?” Thưa: Phật quang vốn khắp mọi nơi, nhưng chúng sanh tự mê, do tâm phiền não chướng ngại mắt trí huệ. Như mặt trời soi khắp nơi, kẻ mù chẳng thấy, là do lỗi của kẻ mù, chẳng phải lỗi của mặt trời, mặt trăng).

Vì sao quang minh của A Di Đà Phật thù thắng, chiếu khắp mười phương pháp giới như vậy? Đó là do Phật Di Đà có duyên sâu cùng hết thảy chúng sanh. Trong lúc tu nhân, A Di Đà Phật phát nguyện phổ độ hết thảy chúng sanh, duyên ấy sâu xa. Nay chúng ta cũng phát nguyện này, công khóa sớm tối đều niệm “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Tuy niệm, nhưng thế nào? Chẳng phát. Vì sao? Chúng sanh kia đáng ghét, ta chẳng độ hắn. Có thể thấy nguyện do quý vị đã phát là giả, chẳng thật! Nếu quý vị thật sự phát nguyện này, thưa cùng chư vị, quý vị chẳng phải là phàm phu, từ địa vị phàm phu ngay lập tức nâng lên thành Bồ Tát, Bồ Tát gì vậy? Đại Thừa Bồ Tát, là hàng Bồ Tát từ Viên Giáo Sơ Trụ trở lên, từ phàm phu ngay lập tức trở thành Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát. Vì thế, tâm này chẳng dễ gì phát xuất.

Hễ phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện,  nhất định tương ứng với kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ do Hạ lão cư sĩ hội tập có tựa đề rất hay, ý nghĩa viên mãn trọn đủ, trang nghiêm, thanh tịnh, bình đẳng, giác. Nay chúng ta nói “trang nghiêm” là mỹ, tức chân, thiện, mỹ. Chân, thiện, mỹ đều là trang nghiêm. “Thanh tịnh, bình đẳng, giác”: Tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, chẳng bình đẳng, mà cũng chẳng giác, lấy đâu ra Tứ Hoằng Thệ Nguyện? Hằng ngày niệm, hy vọng niệm cho ra tâm này, nhưng niệm suốt cả một đời, cũng chẳng niệm ra cái tâm ấy! Giống như một cục gỗ quăng xuống nước, ngâm giầm mấy ngàn năm, đã ướt đẫm, nay vớt lên, châm một que diêm mà mong đốt cháy! Mỗi ngày châm một lần, châm suốt đời cũng chẳng đốt được! Phiền não tập khí của chúng ta giống như gỗ ngâm trong nước mấy ngàn năm, Tứ Hoằng Thệ Nguyện, niệm niệm có tác dụng gì đâu? Niệm một lần giống như lấy que diêm châm một chút, châm chẳng cháy, vô dụng! Củi đẫm nước cả ngàn năm, ở chỗ nào mới có thể đốt cháy nó? Trong lò luyện gang, bỏ nó vào chỗ đó, chốc lát cháy tan ngay!

Do đó, ý niệm bé tẹo của chúng ta không được, tâm chẳng phát nổi! Phải thật sự phát, phải phát tâm chân thành. Quý vị phải thật sự phát, phải có đảm thức, tức là quý vị có lòng can đảm và nhận thức, thật sự chịu buông xuống, hễ có mảy may điều gì chẳng thể buông xuống, tâm ấy sẽ chẳng phát được! Phải triệt để buông xuống, giống như Lục Tổ đại sư đã nói: “Vốn chẳng có một vật, nơi nào nhuốm bụi bặm”, như vậy là được rồi! Tâm địa thanh tịnh, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng sanh, “trong cửa nhà Phật, chẳng lập một pháp”, “lập” là kiến lập, một pháp cũng chẳng kiến lập. Tâm này thanh tịnh lắm, đó là tâm thanh tịnh. “Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một pháp”, đó là tâm từ bi. Tâm thanh tịnh là Thể, tâm từ bi là Dụng. Khi dùng, bèn là đại từ đại bi phổ độ chúng sanh; khi chẳng dùng, thanh tịnh bất nhiễm, đó là Bồ Tát. Đã thành Phật, từ bi và thanh tịnh là một, không chỉ lúc chẳng dùng là bất nhiễm, mà lúc dùng cũng chẳng nhiễm, Thể và Dụng như nhau, đạt đến thuần tịnh chẳng chướng ngại.

Phật Di Đà có duyên rất sâu với chúng sanh. Tâm Phật Di Đà thanh tịnh, tâm Phật Di Đà bình đẳng, Phật Di Đà tuyệt đối chẳng yêu thương thiên vị chúng sanh, tâm Ngài bình đẳng. Yêu thích chúng sanh này, không thích chúng sanh kia, không được rồi! Đó là tâm phàm phu, chẳng phải là tâm Phật. Đó là mê tâm, chẳng phải là giác tâm, là nhiễm tâm, chẳng phải là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là bình đẳng. Vì thế, quang minh của đức Phật chiếu trọn khắp, thù thắng nhất. “Bị cơ phổ biến cố” (Do thích hợp căn cơ trọn khắp), mười phương vô lượng vô biên hết thảy chúng sanh đều là đối tượng tiếp dẫn và giáo hóa của A Di Đà Phật đại nguyện. Cơ duyên chưa chín muồi, tức là chúng sanh ấy chẳng chịu tiếp nhận, chẳng phải là đức Phật không muốn dạy kẻ ấy! Khi nào quý vị mong tiếp nhận, Phật, Bồ Tát liền hiện diện trước mặt quý vị.

“Hựu kinh kinh tất tự tán” (Lại nữa, kinh nào cũng đều tự khen ngợi), đây là đạo lý nhất định. Đức Phật giảng hết thảy các kinh, đều nói bộ kinh ấy hay. Nếu Ngài nói bộ kinh ấy chẳng hay, đức Phật cần gì phải giảng? Đức Phật sẽ chẳng cần giảng. Do đó, mỗi khi nói một bộ kinh, đức Phật đều tán thán bộ kinh ấy, nói mỗi pháp môn đều tán thán pháp môn ấy, đây là đạo lý nhất định. Nếu quý vị chẳng hiểu rõ đạo lý này, thấy đức Phật kinh này cũng tán thán, kinh kia cũng tán thán, thứ gì quý vị cũng đều muốn học, hỏng bét rồi! Ắt phải chọn lựa một bộ kinh, một pháp môn khế hợp căn tánh của chính mình, nhất định phải thâm nhập một môn. Chẳng thể cùng lúc học hai bộ kinh, chẳng thể học cùng lúc hai pháp môn, vì sao? Tu học Phật pháp nhằm mục đích “giác, chánh, tịnh”, quý vị học hai bộ kinh, hai pháp môn, trong hai bộ kinh, đức Phật giảng theo phương cách khác nhau, vì sao khác nhau? Vì đức Phật nói với các đối tượng khác nhau, điều đó sẽ khiến cho quý vị mờ mịt!

Trong kinh này, đức Phật nói Có, trong kinh kia đức Phật nói Không, quý vị thấy vậy, [sẽ băn khoăn]: Rốt cuộc là Không hay Có? Không chỉ là chính mình chẳng hiểu rõ ràng, lại còn hủy báng Thích Ca Mâu Ni Phật: “Thích Ca Mâu Ni Phật đầu óc chẳng tỉnh táo cho lắm, một hồi nói Có, một hồi nói Không”, chẳng tự trách chính mình không biết chân tướng. Phật chẳng có pháp nhất định, chẳng có pháp để có thể nói. Đức Phật nói Có, là do người thỉnh giáo đức Phật chấp trước Không, đức Phật liền nói Có để phá cái Không của người đó, phá chấp trước ấy. Lại có kẻ khác chấp trước Có, đức Phật liền nói Có là sai, Không là đúng, dùng Không để phá cái Có của kẻ ấy. Khi đức Phật nói, Ngài nói Có hay Không đều là có lý, đều nhằm trị lành bệnh cho chúng sanh. Nay chúng ta chẳng mắc chứng bệnh ấy, xem kinh ấy đều bị trúng độc, đều bị bệnh, nên mới nói: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp mà không có người nói thì dù là kẻ có trí vẫn chẳng thể hiểu). Đức Phật thuyết pháp có đối tượng nhất định, đặc biệt [cho mỗi bản kinh]. Chẳng có đối tượng nhất định, đặc biệt chính là kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ, [bởi lẽ] các kinh này vì trọn khắp hết thảy đại chúng mà nói.

Chúng ta chẳng biết căn tánh của chính mình, hãy chọn lựa pháp môn thù thắng bậc nhất này. Pháp môn này là pháp môn phổ độ, mới đáng gọi là pháp môn bậc nhất. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ thường dùng máy chụp hình làm tỷ dụ. [Theo cụ], những kinh điển khác giống máy chụp ảnh được chế tạo đặc biệt, người bình thường đều chẳng biết dùng, hoặc là điều chỉnh độ mở ống kính chẳng đúng, hoặc là chỉnh tốc độ chụp chẳng đúng, hoặc chọn độ phân giải màu sắc không đúng, chụp hình thường chẳng được vừa ý. Pháp môn Tịnh Độ Di Đà giống như người hiện thời nói là “máy chụp ảnh dành cho kẻ vụng về”, hoàn toàn tự động, bất luận do người nào nhấn nút, tấm ảnh nào cũng đẹp đẽ, chẳng có tấm nào không đẹp. Cụ thường dùng chuyện này để tỷ dụ. Đây là khuyên chúng ta chọn lựa pháp môn này, khăng khăng một mực tu học, chẳng có ai không thành tựu. Kinh nào cũng tự khen ngợi [pháp môn đang được giảng giải bởi kinh ấy], phải hiểu đức Phật giảng kinh cho từng đối tượng đặc biệt, nhất định, do kinh này quyết định có lợi ích cho đối tượng ấy, nên nhất định phải tán thán, họ nghe như vậy thì mới có thể hoan hỷ, mới có thể y giáo phụng hành.

“Ức dương tùy thời diệc vô ngại” (Tùy thời mà hạ thấp hay đề cao cũng vô ngại), “Ức” (抑) là biếm ức (貶抑: chê trách, hạ thấp) pháp môn kia không hay, chẳng thích hợp. “Dương” (揚) là tán thán. Chê bai, hạ thấp pháp này, ca ngợi pháp kia, cũng chẳng có trở ngại. Vì sao? Vì đối với thính chúng khi ấy, chắc chắn có lợi ích. Thiền gia thường nói: “Niệm Phật một tiếng, súc miệng ba ngày”, lời ấy nói với những người đang ở trong Thiền đường thì có lợi ích, vì sao? Những người đó dùng pháp môn ấy, công phu sắp thành tựu; nếu đổi sang niệm Phật, công phu sẽ bị thoái chuyển, nên dùng câu nói ấy để họ không còn hứng thú với pháp môn Niệm Phật, chuyên tâm tham cứu, ngay lập tức khai ngộ, có ý nghĩa này! Chẳng phải là nói người tham Thiền chẳng thể niệm Phật. Quý vị thấy khóa tụng hằng ngày trong Thiền môn, khóa tối luôn tụng kinh Di Đà, luôn niệm A Di Đà Phật. Do đó, phải hiểu lời tổ sư, cũng tức là xét xem Ngài nói khi nào, có đối tượng đặc biệt nhất định, chớ nên hiểu lầm ý Ngài. Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư nói: “Có Thiền, có Tịnh Độ, giống như cọp đội sừng”. Lời ấy có đối tượng đặc biệt, nhất định, chẳng phải là nói với chúng ta. Đối tượng đặc biệt, nhất định là ai? Là những kẻ tham Thiền. Ngài thấy rõ ràng, những kẻ tham Thiền chẳng thể thành tựu, nhưng khuyên họ niệm Phật, họ chẳng cam lòng, xem thường Tịnh Độ. Vì thế, Tổ nói “có Thiền” lại có thêm Tịnh Độ sẽ rất lỗi lạc, đáng gọi là “cọp mang sừng”. Cọp đã rất hung mãnh, mọc thêm hai cái sừng nữa thì ghê gớm quá! Lời này là gì? Cổ vũ, khích lệ bọn họ! Thấy họ chẳng thể thành công bên Thiền, nên bảo họ niệm Phật, khuyên lơn họ. Chúng ta thật thà niệm Phật, nghe hai câu ấy lại đi tham Thiền. Nếu Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư biết, chắc sẽ tức chết luôn, khóc ròng, quý vị đã hoàn toàn hiểu sai ý Ngài. Vì thế, phải biết người ta nói chuyện là đối cơ, tức là nói với người [có căn tánh tương ứng] nào đó. Đấy là chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức ứng cơ thuyết pháp. “Cơ” là đối tượng. Đối tượng của những lời giảng nơi giảng đài là thính chúng [đang nghe giảng khi ấy]; nếu quý vị bảo tôi viết thành sách để lưu thông, rất nhiều thứ dành riêng cho những đối tượng đặc biệt, nhất định phải loại bỏ, vì sao? Tránh cho người khác thấy những thứ ấy nẩy sanh hiểu lầm. Viết thành sách, đối tượng sẽ là trọn khắp, chẳng phải là một đối tượng đặc biệt, nhất định nào, còn nơi giảng tòa là một đối tượng đặc biệt, nhất định.

Tiếp đó, có người nêu ra lời cật vấn, hoặc là có người bắt bẻ. Người ấy nói “Phật quang ký viễn”, nghĩa là nếu [Phật quang] đã chiếu xa, “kim hà bất kiến?”, [nghĩa là] vì sao nay chúng ta chẳng trông thấy? “Viết: Phật quang bổn biến, chúng sanh tự mê, dĩ phiền não tâm chướng trí huệ nhãn cố” (Thưa: Phật quang vốn chiếu khắp, do chúng sanh tự mê, do tâm phiền não chướng ngại mắt trí huệ). Tiếp theo đó là tỷ dụ, giống như “nhật quang biến chiếu, manh giả bất kiến” (ánh sáng mặt trời chiếu khắp nơi, nhưng kẻ mù chẳng thấy). Lỗi lầm là do mù lòa, chẳng phải là lỗi lầm của mặt trời. Tỷ dụ này khá dễ hiểu! Hôm nay tôi giảng tới chỗ này.

 

— o0o —

Tập 187

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm tám mươi bảy:

 

(Sao) Như Đại Bổn vân: “Bỉ Phật quang minh, tối vi viễn trước, chư Phật quang minh sở bất năng cập”. Thập phương chư Phật đảnh trung quang minh, hữu chiếu nhất lý giả, nhị lý giả. Như thị tiệm viễn, hữu chiếu nhị bách vạn lý giả, hữu chiếu nhất thế giới giả, nhị thế giới giả. Như thị tiệm viễn, hữu chiếu nhị bách vạn thế giới giả. Duy A Di Đà Phật quang minh, chiếu thiên vạn thế giới, vô hữu cùng tận. Cố hiệu Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, nãi chí Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật, giai quang minh vô lượng nghĩa dã.

(Diễn) “Chư Phật quang minh sở bất năng cập” giả, hoặc hữu nạn vân: “Phật Phật đạo đồng, tắc quang minh diệc đồng, kim Phật quang viễn cận huyền thù giả, hà dã?” Viết: Phật quang thật đồng, nhân cơ hiện dị.

()如大本云:彼佛光明,最為遠著,諸佛光明所不能及,十方諸佛頂中光明,有照一里者,二里者;如是漸遠,有照二百萬里者,有照一世界者,二世界者;如是漸遠,有照二百萬世界者;唯阿彌陀佛光明,照千萬世界,無有窮盡,故號無量光佛、無邊光佛、無礙光佛,乃至超日月光佛,皆光明無量義也。

()諸佛光明所不能及者,或有難云:佛佛道同,則光明亦同,今佛光遠近懸殊者,何也?曰佛光實同,因機現異。

(Sao: Như kinh Đại Bổn nói: “Quang minh của đức Phật ấy chiếu xa nhất, quang minh của chư Phật đều chẳng thể sánh bằng”. Quang minh từ trên đỉnh đầu của mười phương chư Phật có vị chiếu xa một dặm, hai dặm. Dần dần xa hơn như thế, có vị chiếu đến hai trăm vạn dặm, có vị chiếu xa một thế giới, hai thế giới. Dần dần xa hơn như thế, có vị chiếu hai trăm vạn thế giới. Chỉ riêng quang minh của A Di Đà Phật là chiếu ngàn vạn thế giới chẳng có cùng tận. Vì thế, Ngài có hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, cho đến Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật, đều có nghĩa là quang minh vô lượng.

Diễn: “Quang minh của chư Phật chẳng thể sánh bằng”: Chắc là có kẻ bắt bẻ: “Phật Phật đạo đồng, vậy thì quang minh cũng giống nhau, nay Phật quang xa hay gần thật khác xa nhau, là do cớ nào?” Thưa: Phật quang vốn thật sự là như nhau, do căn cơ [của chúng sanh khác nhau] mà hiện [chiếu xa hay gần] khác nhau).

Đoạn này cho chúng ta biết: Phật tâm thanh tịnh, bình đẳng, chẳng có sai biệt. Sở dĩ Phật hiện tướng là vì cơ duyên của chúng sanh mà hiện tướng. Nếu chẳng có cơ cảm, Phật sẽ chẳng thể hiện tướng, chúng ta phải biết nguyên lý này. Cơ cảm như thế nào, Ngài sẽ hiện tướng như thế ấy. Biết sự thật này, mới biết chúng ta đang thuộc địa vị phàm phu, cũng có nghĩa là đối với thân phận của chúng ta trong hiện tiền, hãy nên tu học như thế nào. Không hiểu rõ đạo lý này, dẫu trong tương lai quý vị thành Phật, quang minh của quý vị cũng không chiếu xa hơn một dặm, hai dặm, thân cũng rất kém. Quý vị hóa độ chúng sanh; tuy đã thành Phật, chúng sanh chẳng có duyên với quý vị, chẳng ưa thích quý vị. Quý vị giảng kinh, họ chẳng thích nghe, lắc đầu bỏ đi! Chẳng phải là vì Phật nói không hay, mà do chẳng có duyên với chúng sanh. Đó là [lý do] trước khi thành Phật, phải kết thiện duyên rộng rãi.

Đây là muốn nói đến [vấn đề] thiện và ác. Tiêu chuẩn của thiện ác không ở ngoại cảnh, các đồng tu hãy nên nhớ kỹ sự thật này. Học Phật thành tựu trong một đời chẳng dễ dàng. Quý vị thấy bao nhiêu người niệm Phật, mấy người vãng sanh? Năm Dân Quốc 47 (1958), khi tôi chưa xuất gia, ở Đài Trung, thầy Lý bảo tôi, theo danh sách tên họ và địa chỉ [của các liên hữu] thuộc Đài Trung Liên Xã thì có gần hai mươi lăm vạn người. Liên hữu trong Liên Xã đông ngần ấy, vãng sanh mấy người? Cũng bất quá dăm ba người mà thôi! Trong hai ba vạn người niệm Phật mới có một người vãng sanh! Vì sao chẳng thể vãng sanh? Nghiệp chướng quá nặng. Cố nhiên pháp môn này là đới nghiệp vãng sanh, nhưng mang theo nghiệp cũ, chẳng mang theo nghiệp mới. Nay ta vừa niệm Phật, mà vẫn vừa tạo nghiệp, ngỡ là có thể mang nghiệp ấy đi vãng sanh, sai mất rồi! Những nghiệp mang theo là các nghiệp trước khi quý vị chưa nghe Phật pháp, những nghiệp đã trót tạo ấy có thể mang theo. Quý vị nghe pháp, tu học pháp môn này, mà vẫn tạo nghiệp, sẽ chẳng thể vãng sanh! Là người niệm Phật, có mấy ai không tạo nghiệp? Rất khó! Vì thế, mọi người tu tập, tích lũy một chút thiện căn trong pháp môn Tịnh Độ, chuyện này rất phổ biến, rất nhiều, nhưng [những người] thật sự muốn cầu sanh Tịnh Độ trong một đời, có thể y giáo phụng hành quá ít.

Thật sự mong vãng sanh, điều thứ nhất là phải khai ngộ. Khai ngộ là gì? Biết khuyết điểm và tập khí của chính mình, đó gọi là khai ngộ. Quý vị thật sự chẳng biết thì hãy niệm kinh Vô Lượng Thọ, quý vị hãy niệm năm chương ba mươi ba, ba mươi bốn, ba mươi lăm, ba mươi sáu, và ba mươi bảy, đối chiếu với chính mình, xem chính mình có những lỗi lầm, tập khí ấy hay chăng? Nếu có, quý vị hãy tìm kiếm. Sau khi đã tìm ra, từ nay trở đi hãy sửa đổi. Pháp môn này tu từ tâm địa; tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh. Tập khí nghiêm trọng nhất của lũ phàm phu tầm thường chúng ta là ganh tỵ, sân khuể, tham ái. Thấy người khác có chỗ nào tốt đẹp hơn ta đôi chút, tâm ganh tỵ liền sanh khởi, chẳng biết ganh tỵ, sân khuể, tham ái là nghiệp nhân của ba ác đạo, tuy suốt ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật, mỗi ngày niệm mười vạn tiếng A Di Đà Phật chẳng ngừng, nhưng nếu quý vị chẳng đoạn ba tâm ấy, vẫn là niệm niệm tăng trưởng, dẫu niệm Phật, quả báo trong tương lai của quý vị là tam đồ!

Trong quá khứ, tôi đọc Đại Thế Chí Viên Thông Chương Sớ Sao của pháp sư Quán Đảnh, thấy một trăm loại quả báo của người niệm Phật ở cuối sách ấy, tôi cũng rất hoài nghi, liền thỉnh giáo thầy Lý: Vì sao quả báo thứ nhất của người niệm Phật là “đọa A Tỳ địa ngục”, tôi rất chẳng phục. Niệm Phật là chuyện tốt, cớ sao niệm đến nỗi vào A Tỳ địa ngục? [Thầy giải thích, đó là do] tâm ganh tỵ và sân khuể quá nặng, chướng ngại Phật pháp. Chướng ngại Phật pháp đáng sợ lắm. Chướng ngại chánh pháp là căn bệnh lớn của chúng ta, còn những khuyết điểm nho nhỏ thì nhiều lắm! Vì lẽ đó, mọi người niệm Liễu Phàm Tứ Huấn, niệm Cảm Ứng Thiên, chúng ta là kẻ nghiệp chướng nặng nề, hãy coi hai thứ ấy như công khóa. Chúng tôi in Vô Lượng Thọ Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, phía sau không chỉ in kèm thêm Bảo Vương Tam Muội Sám và Tịnh Tu Tiệp Yếu, mà tôi còn đặc biệt in thêm Cảm Ứng Thiên và Âm Chất Văn vào phía sau, vì sao? Người bình phàm chúng ta chẳng biết khuyết điểm của chính mình, những khuyết điểm ấy là nghiệp chướng. [Do chúng ta thường] chẳng biết nghiệp chướng của chính mình, [nên in thêm những sách ấy] khiến cho quý vị đọc xong, mỗi ngày sẽ phát hiện nghiệp chướng của chính mình. Quý vị có thể sửa đổi những khuyết điểm ấy thì gọi là “tiêu trừ nghiệp chướng”, tâm được thanh tịnh.

Tu học pháp môn Tịnh Tông này, chẳng có gì khác, tu cái tâm thanh tịnh mà thôi. Bất luận là hoàn cảnh nhân sự hay hoàn cảnh vật chất, phàm những gì có thể khiến cho tâm chúng ta không thanh tịnh, nhất định phải xa lìa. Vì thế, tôi khuyên các đồng tu đừng xem báo chí, đừng nghe radio, không xem TV, những kẻ không cần phải gặp bèn tận hết sức tránh gặp gỡ, tâm bèn thanh tịnh. Tục ngữ thường nói: “Biết nhiều chuyện, lắm điều phiền não”, quý vị cần gì phải biết nhiều chuyện ngần ấy? “Quen nhiều người, lắm nỗi thị phi”. Quý vị qua lại với người khác nhiều, thị phi sẽ nhiều, tâm làm sao thanh tịnh cho được? Quý vị nói: “Ta làm chuyện tốt”. “Chuyện tốt chẳng bằng không có chuyện gì”. Không chỉ là Bàng cư sĩ bảo như vậy, mà Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trong kinh Vô Lượng Thọ đã dạy: “Túng sử cúng dường hằng sa thánh chúng” (Dẫu cúng dường thánh chúng số nhiều như cát sông Hằng), chẳng tuyệt diệu ư? Chư Phật, Bồ Tát đến, mọi người tranh nhau cúng dường, đức Phật dạy như thế nào? “Bất như kiên dũng cầu Chánh Giác” (Chẳng bằng kiên quyết, dũng mãnh cầu Chánh Giác). Quý vị thấy đó, Phật, Bồ Tát có đến cũng chẳng bắt buộc phải cúng dường, ta tu tâm thanh tịnh. Quý vị tu thành tựu cái tâm thanh tịnh, sẽ thật sự có thể vãng sanh, có thể thấy A Di Đà Phật, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới cùng Quán Âm, Thế Chí nắm tay cùng đi. Quý vị cúng dường hằng sa thánh chúng, chẳng có cách chi hết, làm không được, bất quá là tu một chút si phước trong cõi trời, người mà thôi.

Nay chúng ta chẳng tiếp xúc người khác, làm thế nào để kết pháp duyên? Trong niệm niệm, kết pháp duyên bằng tâm thanh tịnh. Một niệm thanh tịnh tâm chẳng có chướng ngại, chẳng có phạm vi, tận hư không khắp pháp giới đều ở trong một niệm thanh tịnh tâm. Ta niệm một tiếng A Di Đà Phật hồi hướng cho họ, đều kết duyên cùng họ. Trong tâm phân biệt, so đo, dẫu quý vị tu công đức to tát cách mấy, vẫn là hết sức hữu hạn, vì sao? Trong tâm quý vị có phân biệt, có chấp trước. Phân biệt và chấp trước chẳng phá, dẫu tu công đức to tát cách mấy, nó bị hạn cuộc, có phạm vi, chẳng thể đột phá, mà cũng chẳng thể xứng tánh.

Học Phật phải học từ chỗ nào? Chiều hôm nay, Lục lão cư sĩ dẫn theo một người bạn, họ đều là người đã ngoài bảy mươi tuổi, đã học Phật vài chục năm, đến đây hỏi tôi: “Hãy nên học Phật theo cách nào?” Tôi bảo họ: – Quý vị đã cao tuổi rồi! Cổ nhân thường nói “người bảy mươi tuổi, xưa nay hiếm”, còn được bao nhiêu năm nữa? Tôi khuyên họ buông xuống hết thảy, thật thà niệm Phật. Phải biết tu học Tịnh Độ, cầu sanh Tịnh Độ, chỉ có một cái tâm thanh tịnh. Tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh. Thực hiện từ chỗ nào? Hôm nay tôi tặng cho họ một quyển kinh Vô Lượng Thọ. Tôi nói: – Quý vị hãy thực hiện từ nơi đây. Những gì đã tu trong mấy chục năm qua thảy đều buông xuống, chẳng cần tới nữa. Đó là tu mù luyện đui, hãy bắt đầu học từ hôm nay, niệm một bộ kinh đến cùng. Trước hết, hãy niệm ba ngàn lần, khiến cho cái tâm định, niệm cho tâm tĩnh. Vì sao người bình phàm niệm kinh cái tâm chẳng định? Vì sao chẳng tĩnh? Họ chẳng thể tuân thủ ba nguyên tắc: Chẳng hoài nghi, không gián đoạn, không xen tạp. Làm những chuyện thị phi, nhân ngã là xen tạp, rảnh hơi quản chuyện người khác cũng là xen tạp, quên bẵng công phu thật sự của chính mình.

Người có phước báo lớn nhất thì mới có thể tu học pháp  môn  này, nên khi chúng ta tu tập, sẽ có rất nhiều nghiệp chướng, vì sao? Thiếu phước! Vì sao chẳng có phước? Rảnh hơi lo chuyện bao đồng nhiều quá, chẳng chịu buông xuống muôn duyên, kẻ đó chẳng có phước! Người có phước báo tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là có phước báo. Tâm chẳng thanh tịnh, không có phước! Chẳng phải là nói quý vị có tiền, có thế lực thì là có phước, rỗng tuếch! Có tiền, có thế lực, chết rồi đâu có mang theo được! Tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian cũng bất quá là cho quý vị mượn vài ngày xem chơi mà thôi! Thế mà quý vị mê hoặc, điên đảo đến mức ấy, chúng đâu phải là thật. Phước báo thật sự là tâm thanh tịnh, là trí huệ khôn sánh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ. Quý vị có trí huệ thì mới phóng quang. Phật quang như đang được nói ở đây mới phóng quang. Chẳng có trí huệ, làm sao quý vị phóng quang cho được? Chẳng có lẽ ấy! Thân quang vẫn do trí quang sanh ra! Chẳng có trí, thân cũng chẳng thể phóng quang.

Các đồng tu nhất định phải ghi nhớ: Để tiêu nghiệp chướng thì niệm Phật là diệu pháp bậc nhất. Dẫu nghiệp chướng của quý vị lớn đến đâu đi nữa, dẫu sâu nặng đến mấy, một câu A Di Đà Phật đều tiêu diệt. Điều then chốt là phải giác, cổ nhân thường nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Ví như một niệm sân khuể vừa dấy lên trong tâm ta, liền lập tức nhận biết, ta sai rồi, đó gọi là sám hối. Một niệm tâm ganh tỵ vừa sanh khởi, ta sai rồi, ta là người niệm Phật, nếu muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thấy A Di Đà Phật, làm sao có thể ôm giữ ý niệm này cho được? Niệm ấy vừa sanh bèn lập tức giác ngộ, đó gọi là khai ngộ, người ấy là giác chứ không mê. Người ấy vừa giác, niệm ấy chẳng còn nữa, đã tiêu trừ, nghiệp chướng liền tiêu. Nếu như ý niệm [xấu ác ấy] tăng trưởng trong mỗi niệm thì là bất giác, là mê.

Nếu quý vị muốn thật sự giác ngộ, thật sự không mê, phải xem nhạt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, phải buông xuống. Sở dĩ con người mê hoặc, điên đảo, chẳng thể giác ngộ, là do quá coi trọng các pháp thế gian, không chịu buông xuống, nên niệm niệm tăng trưởng mê tình, chẳng thể giác ngộ. Chuyện gì quý vị cũng coi nhạt, sẽ giác ngộ dễ dàng. Hễ giác ngộ, lập tức dấy lên một câu Phật hiệu, cũng có nghĩa là niệm thứ nhất của ta là vọng niệm, niệm thứ hai là A Di Đà Phật, chuyển thật mau; đó gọi là “chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Niệm thứ hai ta liền giác, liền chuyển thành A Di Đà Phật, khiến cho một niệm A Di Đà Phật này tăng trưởng trong mỗi niệm, khiến cho hết thảy các vọng niệm khác chỉ tồn tại trong một niệm, qua niệm thứ hai bèn chẳng còn nữa, tối đa là khởi một niệm, chứ niệm thứ hai, thứ ba, quyết định sẽ chuyển [thành niệm A Di Đà Phật]. Người như vậy có phước, chắc chắn thành Phật trong một đời này! Người như vậy có đại phước đức, đại trí huệ, chẳng ai có trí huệ cao hơn người ấy!

Giúp đỡ chúng sanh, chư vị thấy trong giảng tòa này, chúng ta cộng tu một thời gian dài như vậy, hãy nên hiểu rõ, mà cũng nên khẳng định: Giúp đỡ người khác chỉ có một câu A Di Đà Phật. Khuyên người ta niệm Phật, người ta không chịu niệm. Vì sao họ chẳng chịu niệm? Do họ chẳng nhận biết pháp môn này. Vì thế, hãy khuyên họ đến nghe kinh. Họ chưa từng tiếp xúc kinh Phật, có thành kiến đối với Phật pháp, khuyên thế nào cũng chẳng đến. Ở đây, chúng ta còn có băng thâu âm, có thể để cho họ rảnh rỗi thì nghe một, hai băng hòng khơi gợi, phát khởi tín tâm của họ. Còn có những người chẳng thích nghe, nếu chúng ta có thể tặng những tập sách nhỏ giới thiệu đơn giản, tóm tắt Phật pháp cho họ xem, cũng rất có thể tiếp dẫn người ta. Những tác phẩm lớn, họ vừa trông thấy [liền kêu]: “Quá nhiều! Tôi chẳng có thời gian xem!” Các tập sách nhỏ tốt lắm, hết sức cần thiết! Nhất là tại ngoại quốc, chúng ta có hai đạo tràng, trong những năm qua đã in không ít kinh sách, [nhận được] phản ứng [từ đại chúng] cũng tốt lắm, nhưng một mực nhận được lời phê bình là chúng ta in những thứ quá sâu, khiến cho rất nhiều người đọc không hiểu. Có nhiều đồng tu bảo tôi như vậy, mong chúng ta hãy in những tác phẩm dễ hơn. Những thứ dễ hơn kiếm đâu ra? Tìm không thấy. Mấy hôm nay, Quán Trưởng phát đại tâm, tôi thỉnh bà ta viết chú giải đơn giản cho Tịnh Độ Ngũ Kinh. Trước hết là viết lời thiển thích (chú giải nông cạn, sơ lược) cho kinh A Di Đà, sau đó sẽ viết [những phần thiển thích] cho kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nhằm chuyên môn tiếp dẫn hàng sơ cơ. Những tác phẩm ấy sau khi được ấn hành, nhất định sẽ được hết sức hoan nghênh!

Kế đó, mỗi lần viết thư, Hoàng lão cư sĩ đều nhắc nhở, hy vọng tôi rút ngắn thời gian giảng kinh, cụ yêu cầu tôi viết sách, yêu cầu tôi bồi dưỡng học trò. Bồi dưỡng học trò chẳng dễ dàng! Học trò có thể gặp, chứ không thể cầu, nhất là học trò trong Tịnh Độ Tông, phải có phước báo thượng thượng thừa. Chẳng có đại phước báo, sẽ chẳng thể học pháp môn này. Học trò khó tìm, trong vạn ức người mới có thể tìm thấy một hai người, chẳng dễ dàng. Nhưng viết sách thì dễ hơn nhiều, nhất là trong năm trước, tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ ở Tân Gia Ba, băng thâu âm được lưu thông. Giáo sư Tạ đã ghi lại toàn bộ thành [một bộ sách] bảy tám chục vạn chữ, nay đã đưa cho tôi xem lại lần nữa, sửa chữa cẩn thận, thuận tiện hơn tôi tự viết lấy rất nhiều. Giảng kinh là giảng tại hiện trường, có đối tượng đặc biệt, nhất định, nhưng sách thì cung cấp phổ biến cho đại chúng xem, chẳng phải là một đối tượng đặc biệt, nhất định nào. Vì vậy, trong phần ghi chép còn có nhiều chỗ phải gạt bỏ, cũng như có những chỗ cần phải bổ sung. Sau khi chúng ta ấn hành bộ Vô Lượng Thọ Kinh Giảng Ký, nhất định có thể lợi ích nhiều vị đồng tu, khiến cho họ nhận biết pháp môn này, sau đó ưa thích và tu học pháp môn này, công đức ấy vô lượng vô biên. Chúng tôi tuyệt đối chẳng cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, quyết định không cần những thứ ấy, vì mục tiêu của chúng tôi là hy vọng sớm có ngày về thế giới Cực Lạc, bỏ sạch sành sanh hết thảy những thứ trong thế giới này. Chúng ta dùng phương pháp này để báo ân Phật, dùng phương pháp này để mãn nguyện Phật.

Phật phổ độ chúng sanh, chúng ta có thể tận hết một chút sức lực yếu mỏng giúp Phật phổ độ chúng sanh. Đó là phương pháp báo ân thật sự duy nhất nhằm “thượng báo tứ trọng ân”. Trừ cách này ra, chẳng có gì gọi là báo ân thật sự. Quý vị hằng ngày dùng hoa quả cúng dường Phật, hằng ngày lạy Phật mười vạn lễ, vẫn chẳng thể báo ân Phật. Vì sao? Phật chẳng cần những thứ đó. Điều Phật cần là làm cho hết thảy chúng sanh giác ngộ, hy vọng hết thảy chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đó là nguyện vọng của Phật. Chúng ta có thể làm chuyện này nhiều hơn một chút thì mới thật sự là “thượng báo tứ ân, hạ tế tam khổ” (trên đền bốn ân, dưới cứu khổ ba đường). Đó là kết pháp duyên cùng hết thảy chúng sanh. Không chỉ kết pháp duyên cùng hết thảy chúng sanh, mà còn là kết duyên với mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai và hết thảy Bồ Tát, vì hết thảy Bồ Tát, hết thảy chư Phật đều hoằng dương pháp môn này, đều khuyên hết thảy chúng sanh cầu sanh Tịnh Độ. Nay chúng ta cũng tham dự công tác này, đồng tâm, đồng nguyện, đồng hạnh với hết thảy chư Phật. Quý vị chẳng có phước báo chân thật, làm sao có thể tu học suốt một đời này? Do đó, tu học pháp môn này là đại phước báo khôn sánh! Phàm nhân thường sanh phiền não, chúng ta phải rộng dung đối với họ, vì rốt cuộc là trong hết thảy chúng sanh, người trọn đủ phước báo và trí huệ chân thật cực ít; do đó, chúng sanh nẩy sanh phiền não là chuyện đương nhiên!

Quang minh của A Di Đà Phật, “chư Phật quang minh sở bất năng cập” (quang minh của chư Phật chẳng thể sánh bằng), đó là do chư Phật trong khi tu nhân đã phát nguyện khác nhau. Tuy sự giác ngộ nơi quả địa giống nhau, nhưng cái tâm nơi nhân địa khác nhau. Xét theo nhân địa của hết thảy chư Phật, chỉ riêng nguyện hạnh của A Di Đà Phật là chẳng thể nghĩ bàn, từ kinh Vô Lượng Thọ chúng ta đã đọc thấy điều này.

“Thập phương chư Phật đảnh trung quang minh” (Quang minh từ trên đỉnh đầu của mười phương chư Phật), nêu ra một loại trong các thứ quang minh. Chúng ta thường nói [quang minh] từ “Phật đảnh” “viên quang”. Đỉnh đầu đức Phật phóng quang, “hữu chiếu nhất lý giả, nhị lý giả” (có vị chiếu xa một dặm, hai dặm), chúng ta có thể tưởng tượng [quang minh chiếu xa] một dặm hoặc hai dặm bèn là Liệt Ứng Thân của Phật. Giống như Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trên thế gian này; thuở ấy, quang minh của đức Phật chiếu xa một Tầm. Một Tầm (尋) là tám thước. “Như thị tiệm viễn, hữu chiếu nhị bách vạn lý giả, hữu chiếu nhất thế giới giả, nhị thế giới giả” (Dần dần xa hơn như thế, có vị chiếu đến hai trăm vạn dặm, có vị chiếu xa một thế giới, hai thế giới). Một thế giới là một tam thiên đại thiên thế giới. “Như thị tiệm viễn, hữu chiếu nhị bách vạn thế giới giả” (Dần dần xa hơn như thế, có vị chiếu đến hai trăm vạn thế giới), có thể thấy là sau khi mỗi vị thành Phật, nhân địa tâm và quả địa giác tương ứng, vẫn không ra ngoài phạm vi nhân quả. Thành Phật còn chẳng lìa nhân quả, huống hồ lục đạo phàm phu? Đúng như câu nói “thiện có thiện báo, ác có ác báo”. Sở tu của đức Phật là chí thiện, nên quả báo được hiển thị bằng quang minh, hiển thị bằng quốc độ lớn hay nhỏ, thế giới trang nghiêm; hiển thị ở những chỗ này.

Trong hết thảy chư Phật, “duy A Di Đà Phật quang minh, chiếu thiên vạn thế giới, vô hữu cùng tận” (chỉ có quang minh của A Di Đà Phật chiếu ngàn vạn thế giới, chẳng có cùng tận). “Ngàn vạn” không phải là một con số, mà nhằm hình dung rất nhiều. Nếu hiểu là một con số, ngàn vạn vẫn là một số nhỏ, chẳng phải là một con số lớn. “Vô hữu cùng tận”, phạm vi chiếu soi do quang minh của A Di Đà Phật là tận hư không khắp pháp giới, chẳng bỏ sót chỗ nào. Hoằng nguyện của Phật Di Đà viên mãn, đại hạnh của Phật Di Đà cũng viên mãn, nguyện hạnh viên mãn; do đó, quang minh thù thắng khôn sánh. “Cố hiệu Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, nãi chí Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật” (Vì thế, hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, cho đến Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật), đấy là mười hai [danh hiệu nhằm xưng tán] quang minh [của A Di Đà Phật] được  nói  trong  kinh  Vô  Lượng  Thọ, “giai  quang minh vô lượng nghĩa dã” (đều có nghĩa là quang minh vô lượng).

 

(Sao) Quán Kinh vân: “Bỉ Phật viên quang, như bách ức tam thiên đại thiên thế giới”. Hựu vân: “Bỉ Phật hữu bát vạn tứ thiên tướng, nhất nhất tướng, hữu bát vạn tứ thiên tùy hình hảo, nhất nhất hảo, hữu bát vạn tứ thiên quang minh, biến chiếu thập phương niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả”.

()觀經云:彼佛圓光,如百億三千大千世界。又云:彼佛有八萬四千相,一一相,有八萬四千隨形好,一一好,有八萬四千光明,遍照十方念佛眾生,攝取不捨。

(Sao: Quán Kinh nói: “Viên quang của đức Phật ấy như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới”. Lại nói: “Đức Phật ấy có tám vạn bốn ngàn tướng, mỗi một tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Mỗi một hảo có tám vạn bốn ngàn quang minh, chiếu khắp chúng sanh niệm Phật trong mười phương, nhiếp thủ chẳng bỏ”).

 Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói như vậy. Đó là một đoạn kinh văn dạy về Báo Thân của A Di Đà Phật. Báo Thân Phật chẳng phải là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo, nói thật ra: “Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, mỗi hảo có vô lượng quang”. Ở đây, [đối với mỗi thứ] đều nói thành tám vạn bốn ngàn. Tám vạn bốn ngàn cũng là biểu thị pháp, vì chúng sanh có tám vạn bốn ngàn phiền não, quý vị có biết hay không? Đức Phật biết, đức Phật nói mỗi điều thật sự tương ứng với tám vạn bốn ngàn phiền não của quý vị, chẳng sót một điều nào. Vì thế, “tám vạn bốn ngàn” chẳng phải là một con số thật sự, chẳng phải là giả thiết, chẳng phải là từ ngữ hình dung. Quý vị có thể tra cứu [từ ngữ này trong] từ điển Phật học hoặc sách Giáo Thừa Pháp Số[23]. Quý vị có thể tìm ra từng điều phiền não nơi thân mình, sẽ là bậc đại giác! Sau khi đã tìm ra, thảy đều đoạn sạch từng thứ một! Giáo Hạ dùng phương pháp này. Phương pháp này rất phiền phức, và cũng rất khó đoạn. Thiền Tông thông minh, chẳng đoạn từ cành lá, mà đoạn ngay từ căn bản. Tịnh Độ Tông dùng phương pháp còn thông minh hơn Thiền Tông. Có thể nói là “đoạn từ căn bản của mọi căn bản”, tức là tu tự tánh thanh tịnh tâm, những thứ khác đều chẳng quan tâm tới. Tâm đã thanh tịnh, thân bèn thanh tịnh, tất cả hết thảy cảnh giới đều thanh tịnh, chẳng có gì không thanh tịnh.

Chư vị phải hiểu, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta còn có vọng tưởng, tạp niệm, còn có tham, sân, si, mạn, nhất định phải giác ngộ! Đó là gì? Nghiệp chướng hiện tiền, Phật môn thường nói là “phiền não hiện hành”. Tôi nói “phiền não hiện hành”, chư vị cũng chẳng chú ý. Vì sao? Coi thường phiền não, chẳng quan tâm tới. Nhưng nghiệp chướng hiện tiền, vấn đề này nghiêm trọng. Đúng là nghiệp chướng hiện tiền, quý vị sẽ coi trọng nó. Khởi tâm động niệm, nghiệp chướng hiện tiền, nghiệp chướng ấy sẽ chướng ngại quý vị vãng sanh thế giới Cực Lạc, chướng ngại quý vị công phu thành phiến, chướng ngại quý vị nhất tâm bất loạn. Đó là nghiệp chướng, chẳng giả tí nào! Vì sao chúng ta niệm Phật mãi cho tới nay tâm vẫn chẳng thanh tịnh? Vì sao công phu chẳng thể thành phiến? Thưa cùng chư vị, hễ công phu thành phiến thì vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ nắm chắc. Trong công phu thành phiến, thượng phẩm liền sanh tử tự tại, mong khi nào vãng sanh bèn có thể vãng sanh khi ấy, mong ở lại thêm mấy năm cũng chẳng trở ngại. Sanh tử tự tại, tức là sanh tử chẳng còn nữa, đến đi tự do. Người khác làm được, vì sao chúng ta chẳng làm được? Thấy người ta làm được, chúng ta chẳng làm được, đúng là hổ thẹn, đúng là “kỳ sỉ đại nhục” (nhục nhã không chi bằng). Vì sao người ta có thể làm, chúng ta chẳng làm được? Người ta trong mười hai thời tâm địa thanh tịnh, vì sao chúng ta chẳng thanh tịnh? Phải tự trách mình ở chỗ này, chính mình phải nghiêm túc kiểm thảo, nghiêm túc sửa lỗi thì mới gọi là người tu hành, thì mới là người niệm Phật. Chẳng phải là suốt ngày từ sáng đến tối miệng leo lẻo một câu A Di Đà Phật, mà trong tâm suy nghĩ loạn tùng phèo, đó chẳng phải là người niệm Phật!

Vì thế, quý vị thật sự niệm Phật, Phật quang chiếu gội. A Di Đà Phật thời thời khắc khắc chiếu cố quý vị, đó gọi là “trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”. Từ chỗ này, chúng ta có thể thấy. Từ kinh văn của kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật: “Nhất nhất hảo, hữu bát vạn tứ thiên quang minh, biến chiếu thập phương niệm Phật chúng sanh” (Trong mỗi tùy hình hảo, có tám vạn bốn ngàn quang minh, chiếu khắp các chúng sanh niệm Phật trong mười phương). Nay chúng ta đang niệm Phật ở đây, chúng ta cũng thuộc trong [phạm vi] chiếu gội của Phật quang. “Nhiếp thủ bất xả” chính là Phật lực gia trì, khiến cho chúng ta tín tâm thanh tịnh, trí huệ tăng trưởng, thiện căn tăng trưởng. Trừ phi bản thân quý vị trái nghịch giáo huấn của đức Phật, tức là quý vị chẳng muốn tiếp nhận sự nhiếp thủ của Phật quang. Chớ trách Phật, hãy tự trách mình, chính mình muốn thoát lìa Ngài! Chư Phật, Bồ Tát, lịch đại tổ sư đại đức, tâm luôn thanh tịnh, bình đẳng, đối với hết thảy chúng sanh, tuyệt đối chẳng yêu thương thiên vị. Nếu có yêu thương thiên vị, tâm sẽ chẳng thanh tịnh, sẽ chẳng bình đẳng, đó là mê, chẳng phải là giác. Vì thế, các Ngài chẳng yêu thương thiên vị, chẳng có tâm riêng tư. Nhưng chúng ta cũng thường thấy các Ngài đặc biệt chú trọng một người nào đó, đặc biệt vun vén một kẻ nào đó, giúp cho kẻ ấy thành tựu. Thấy [dường như] các Ngài có tâm riêng tư, vì sao chẳng chiếu cố người này, mà chiếu cố người kia? Chư vị phải hiểu, đó chẳng phải là tư tâm, mà là duyên của hết thảy chúng sanh đã chín muồi. Chúng sanh này duyên chín muồi, chúng sanh kia còn chưa chín tới. Đã chín muồi bèn chiếu cố trước, chưa chín muồi sẽ chiếu cố sau, có ý nghĩa ấy. Trong mắt phàm phu chúng ta, các Ngài đối với người khác đích xác là có sự ưa chuộng thiên vị. Trên thực tế, tâm các Ngài thanh tịnh, bình đẳng.

Ví như cây đào, quả đào đã chín muồi, khi quý vị hái trái, nhất định là hái trước những quả vừa đỏ vừa to. Quả bé, còn chưa chín, đợi mấy hôm nữa rồi mới hái, có ý nghĩa này! Những quả được quý vị hái hôm nay, có phải là do đặc biệt có lòng yêu chuộng thiên vị, bất công hay chăng? Chẳng có, tâm là bình đẳng. Đối với mỗi quả đào trên cây đều bình đẳng, nhưng quả nào chín trước [sẽ được hái trước], [căn cơ của] chúng sanh chín muồi có trước hay sau khác nhau! Chín muồi là gì? Có thể thật sự phụng hành lời thầy chỉ dạy. Đó là chín muồi, thầy bằng lòng dạy dỗ quý vị. Vì sao? Quý vị bằng lòng tiếp nhận. Nếu chẳng coi thầy là đúng, thầy sẽ đối với kẻ ấy rất khách sáo, đối đãi với kẻ ấy như bằng hữu, chẳng dạy dỗ, chẳng thân thiết. Có thể thấy: Chẳng phải là thầy có lòng riêng tư, mà do học trò có lòng cung kính sai khác. Thầy trọn chẳng đòi hỏi trò phải có tâm cung kính như vậy. Nếu thầy đòi hỏi người khác cung kính, vị thầy ấy chẳng đáng cho chúng ta tôn kính. Tâm cung kính là do Tánh Đức lưu lộ. Tánh Đức lưu lộ ra bên ngoài, người ấy coi như là có thể minh tâm kiến tánh, nhất định phải giúp đỡ người ấy. Đối với kẻ chẳng phải là Tánh Đức lưu lộ, mà là phiền não lưu lộ, chỉ đành từ từ chuyển biến kẻ ấy, chẳng thể nào giúp kẻ ấy thành tựu ngay lập tức được. Mấu chốt là ở chỗ này!

Tôi hết sức ưa thích chế độ xưa kia. Thuở đó, những quan viên thuộc chánh phủ do quốc gia tuyển lựa, đề bạt. Quốc gia tuyển chọn kẻ làm quan theo hai tiêu chuẩn: Một là Hiếu, hai là Liêm. Người có thể hiếu thuận với cha mẹ, sẽ có thể trung quân ái quốc, sẽ chẳng thể làm chuyện xấu. Vì sao? Làm chuyện xấu, sẽ nghĩ có lỗi với cha mẹ, khiến cha mẹ mất hết mặt mũi! Nhằm vinh diệu tổ tông, khiến cho cha mẹ nở mày rạng mặt, người ấy sẽ tuân theo lẽ công chánh và pháp luật. Do đó, “trung thần xuất hiếu tử chi môn” (từ hàng hiếu tử mới có bề tôi trung thành). Vì thế, quốc gia tuyển chọn, đề bạt quan lại, điều kiện thứ nhất là Hiếu. Quan viên địa phương thường đi thăm dò bên ngoài, tìm tòi kẻ vừa hiếu vừa liêm, nghe ngóng nơi ấy có hiếu tử hay không. Nếu thăm dò là có, chánh phủ nhất định mời mọc người ấy, quốc gia vun đắp cho quý vị, để quý vị học hành, nhận tiền tài trợ của nước nhà. Trong Liễu Phàm Tứ Huấn có nhắc tới Lẫm Sinh (廩生)[24]. Lẫm là lẫm bổng (廩俸), [tức là] quốc gia cung cấp lương thực, đãi ngộ kẻ ấy, được quốc gia vun quén, nói theo hiện thời là sinh viên nhận học bổng của quốc gia. Điều kiện thứ hai là Liêm. Liêm là liêm khiết, tuyệt đối chẳng thể hối lộ, chắc chắn chẳng tham ô.

Thầy bồi dưỡng trò, cũng quan sát căn cơ của trò. Đối với vấn đề căn cơ, trong Văn Sao, lão pháp sư Ấn Quang đã nói rất hay: “Một phần cung kính được một phần lợi ích, mười phần cung kính được mười phần lợi ích”. Thầy dạy học giống hệt, mà mỗi đứa học trò đạt được lợi ích khác nhau. Vấn đề là chính mình có thật sự tiếp nhận lời thầy dạy hay không? Có phải là thật sự tiêu hóa [những giáo huấn ấy] hay không? Có thật sự biến những giáo huấn ấy thành hành động trong cuộc sống thực tế của chúng ta hay không? Điều này quan trọng lắm. Nếu chỉ học một ít học vấn ngoài cửa miệng, vô dụng! Học rồi sẽ biến thành Thế Trí Biện Thông. Nói đến nỗi hoa trời rơi lả tả, nhưng phiền não trùng trùng, tăng trưởng tham, sân, si, mạn, sai bét mất rồi! Vì thế, đạo nghiệp có thể thành tựu hay không là do chính mình, chẳng do ai khác. Thiện tri thức ở ngay trước mặt chúng ta! Trong năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, tận hư không khắp pháp giới chẳng có một ai không phải là thiện tri thức. Đó gọi là “khéo học”, nên Ngài có thể viên thành Phật đạo trong một đời. Ngài thành Phật là thành Viên Giáo Phật, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Quý vị đọc kinh Hoa Nghiêm, thấy Ngài chẳng đổi thân, vẫn là thân này, là một thân, là nhục thân. Thế mà nhục thân thành Phật, thành Viên Giáo Phật. Đó là một tấm gương cho chúng ta, chúng ta hãy nên học tập, hãy nên làm theo. Mở Tứ Thập Hoa Nghiêm ra, [học theo] người ta xử sự, đãi người, tiếp vật như thế nào, trong hết thảy thuận cảnh và nghịch cảnh thành tựu Vô Thượng Bồ Đề của chính mình.

Từ xưa tới nay, hễ thầy dạy trò, cũng đều là nói “năm năm học giới”. Năm năm học giới là một môn trọng yếu nhất để tu Nhẫn Nhục Ba La Mật. Quý vị xem Cao Tăng Truyện, hoặc xem Ngữ Lục của các tông, sẽ phát hiện một chuyện hết sức phổ biến: Học trò bái sư, trong năm năm, thầy chẳng dạy trò chi hết! Sau khi Lục Tổ Huệ Năng đại sư đã bái Ngũ Tổ làm thầy, giã gạo suốt tám tháng trong phòng xay xát, suốt tám tháng chẳng gặp mặt Ngũ Tổ. Người bình phàm sẽ nói: “Tôi bái ông ta làm thầy, tám tháng mà chẳng thấy mặt, đi cho rồi, tôi theo ổng làm chi nữa?” Gặp phải hạng người ấy, nhất định là tổ sư chắp tay: “A Di Đà Phật! Hãy đi cho sớm!” Vì sao? Chẳng thể thành tựu, chẳng phải là nhân tài thích hợp. Vì thế, đầu tiên là huấn luyện quý vị nhẫn nhục. Hễ có nhẫn, sẽ có Định. Tiền phương tiện của Định là Nhẫn. Chẳng Nhẫn, lấy đâu ra Định? Chẳng có Định, làm sao quý vị khai Huệ? Do vậy có thể biết, thời gian dài như thế nhằm rèn luyện quý vị nhẫn nhục, cũng là thầy đang dạy dỗ. Chẳng phải là thầy không dạy, hằng ngày đều dạy tuy chẳng gặp mặt quý vị. Thầy hằng ngày xem xét, hằng ngày chú ý: Quý vị có thật sự dụng công hay không, có thật sự nghe kinh hay chăng? Mở đầu là huấn luyện. Vì thế, kẻ chẳng thể nhẫn, chắc chắn chẳng phải là pháp khí, quyết định chẳng phải là nhân tài, dẫu bỏ đi nhiều cách mấy cũng chẳng đáng tiếc, tận hết sức cho người ấy ra đi! Nếu chèo kéo kẻ ấy ở lại, vì cảm thấy đáng tiếc, đó chính là quý vị điên đảo, tri kiến sai lầm.

Người thật sự có trí huệ, cách nhìn và cách làm khác kẻ bình phàm như chúng ta. Kẻ bình phàm mê hoặc, có cảm tình, xử sự theo cảm tình. Người thật sự có trí huệ, dùng trí huệ để quán chiếu, chẳng xử sự theo cảm tình, có thể nhẫn. Do nhẫn mà đắc Định, khi ấy, rất dễ dàng, do một bộ kinh, hoặc nửa bộ kinh mà khai ngộ, đại triệt đại ngộ, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều thông đạt. Một vị thầy tốt yêu cầu học trò như vậy, chẳng phải là người bình phàm! Người bình phàm dạy quý vị suốt đời cũng chẳng dạy nổi, dạy một điều, quý vị liền hiểu một điều, dạy hai thứ quý vị liền biết hai thứ. Chẳng dạy, quý vị sẽ không biết. Quý vị nghĩ xem một vị thầy kiểu ấy cả đời có thể dạy mấy người? Một người cũng chẳng dạy được! Một trăm năm là ba vạn sáu ngàn ngày, dạy ba vạn sáu ngàn chuyện; những gì thầy không dạy, quý vị hoàn toàn chẳng hiểu, có ích gì hay chăng? Vô dụng! Khổng lão phu tử dạy học, “cử nhất ngung nhi bất dĩ tam ngung phản” (nêu ra một góc mà chẳng thể suy ra ba góc kia), lão phu tử chẳng dạy, chẳng thâu nhận đứa học trò ấy! Vì sao? Đầu óc chết cứng, đầu não cứng còng, dạy một chỉ hiểu một, Khổng lão phu tử chẳng dạy. Tôi dạy quý vị một thứ, những thứ khác quý vị đều có thể suy ra mà hiểu. Tôi bảo quý vị góc tường này vuông vức, quý vị sẽ hiểu: Ba góc khác cũng phải biết là giống như vậy. Học trò như vậy thì phu tử mới chịu dạy. Do đó, Khổng lão phu tử dạy học trò, chẳng phải là người nào cũng nhận làm học trò, chẳng thể có chuyện ấy! Ngài vẫn phải khảo thí, vẫn phải có điều kiện.

Nhà Phật thu nhận học trò là nhận lấy người có thể Định. Bất luận Hiển Giáo hay Mật Giáo, bất luận tông nào, chỉ cần là Phật pháp thật sự, chẳng phải là tà pháp, tà pháp chẳng cần bàn tới. Mục tiêu của tà pháp là tiếng tăm, lợi dưỡng, nên họ sẽ chẳng đòi hỏi quý vị nghiêm ngặt như thế. Chỉ cần quý vị đến [với họ], chỉ cần quý vị tán dương, chỉ cần quý vị có thể quyên cúng, họ đã đạt được mục đích. Đối với Phật pháp thật sự, những thứ ấy đều chẳng cần tới! Toàn bộ tiếng tăm, lợi dưỡng đều chẳng cần, đạo tràng cũng chẳng cần! Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có cách nhìn hoàn toàn giống như chúng tôi. Đạo tràng chẳng cần to, chẳng coi trọng hình thức, chẳng chú trọng bề ngoài, đồng tu không chú trọng đông người, chẳng mong làm chuyện náo nhiệt, đồng tu quý chuyên tinh, chẳng quý nhiều. Tu hành trọng kiến tánh, chẳng coi trọng cảm ứng, chẳng đặt nặng thần thông, chẳng muốn làm những chuyện ấy. Niệm Phật, chú trọng nhất tâm bất loạn, chúng ta phải học những điều này: Tu tâm thanh tịnh, tu nhất tâm bất loạn. Phàm những gì chướng ngại nhất tâm bất loạn, chúng ta nhất định phải xa lìa. Có thể nhẫn, có thể định, niệm niệm đều cầu nhất tâm như vậy, mười phương Như Lai đều hoan hỷ, đều tán thán, A Di Đà Phật nhiếp thọ, lẽ nào chẳng vãng sanh? Kinh đã nêu chứng minh cho chúng ta.

 

(Sao) Hựu Đại Bổn ngôn: “A Nan đầu não trước địa, xưng Phật danh hiệu, lễ vị khởi tế, Phật phóng đại quang minh, biến thập phương thượng hạ”, giai quang minh vô lượng nghĩa dã.

()又大本言:阿難頭腦著地,稱佛名號,禮未起際,佛放大光明,遍十方上下。皆光明無量義也。

(Sao: Lại nữa, kinh Đại Bổn nói: “A Nan gieo đầu xuống đất, xưng danh hiệu Phật, trong lúc lễ bái, chưa đứng dậy, Phật đã phóng quang minh to lớn, trọn khắp mười phương trên dưới”, đều là ý nghĩa quang minh vô lượng vậy).

Đoạn này ở trong kinh Vô Lượng Thọ. Người hiện tại nhiều nghiệp chướng hơn người thuở trước. Tôi tin là quý vị có thể tự hiểu, hễ phản tỉnh quý vị liền biết chúng ta phiền não rất nhiều, tâm tình chẳng ổn định, một hồi mong Đông, một hồi nghĩ Tây, một hồi cái này tốt, một hồi cái kia tốt, suốt ngày sống trong nghiệp chướng sâu nặng! Hết sức đáng sợ, hết sức đáng thương! Nếu muốn cứu vãn, chẳng có phương pháp nào khác, chỉ có một phương pháp là chuyên tâm. Do vậy, học Phật, tôi ở mỗi nơi trên toàn thế giới, đều khuyên dạy trọn khắp các đồng tu: Quý vị học Phật mong thật sự có thành tựu, chỉ có thể theo một thầy. Trước khi quý vị khai ngộ, quý vị theo hai vị thầy là đi theo hai con đường, ba vị thầy là ngã ba, bốn vị thầy liền thành ngã tư, quý vị không có gì để noi theo. Quý vị chỉ có thể tham dự một đạo tràng, chớ nên tham gia hai đạo tràng. Hai đạo tràng quý vị nhất định thất bại hoàn toàn. Đến khi nào thì quý vị mới có thể tham học trọn khắp? Đến lúc quý vị đắc Định, khai Huệ. Đến khi quý vị đã khai huệ, thầy sẽ chẳng bảo quý vị theo thầy, cũng chẳng thể buộc quý vị ở đạo tràng này. Vì thế, theo nhất định một vị thầy nhằm cầu Căn Bản Trí, theo hai vị thầy, chắc chắn chẳng thể nào đắc Căn Bản Trí.

Khi tôi theo cầu học với thầy Lý, thầy liền hạn chế: “Chỉ có thể nghe một mình thầy giảng kinh”. Thầy lại còn tuân thủ quy chế thời cổ: Năm năm! Trong năm năm, quyết định theo một vị thầy, nghe một vị thầy giảng kinh, thuyết pháp. Bất luận là ai giảng kinh, thuyết pháp, thầy cũng chẳng cho phép chúng tôi nghe. Đọc sách đều phải được thầy đồng ý. Chưa được thầy đồng ý, không được phép xem! Trên thực tế, chúng tôi phiền não quá nặng, thầy chỉ có thể yêu cầu tôi như vậy để giữ tôi lại. Nếu lúc đó, thầy hạn định sách chỉ có thể đọc một quyển, tôi chịu không nổi, ngày hôm sau sẽ bỏ đi. Tôi vẫn muốn đọc rất nhiều sách, nhưng nhất định phải được thầy đồng ý. Thầy không đồng ý, chẳng thể xem! Điều này thì còn có thể chịu được. Nếu thầy nói: “Anh chỉ có thể đọc kinh Vô Lượng Thọ. Trừ kinh ấy ra, thứ gì cũng chẳng được phép xem”, có lẽ tôi ở đôi ba bữa rồi nhất định rời đi. Đó là gì? Phiền não nặng nề!

Nay tôi mới hoảng nhiên đại ngộ; vì thế, tiêu chuẩn của tôi đòi hỏi cao hơn thầy Lý. Tôi buộc quý vị trong năm năm chỉ đọc một bộ kinh, vì sao? Chư vị sẽ thành tựu vượt trỗi tôi, càng thuần, càng chuyên, càng dễ dàng thành tựu hơn tôi. Tôi dạy theo cách như vậy mới hòng chẳng có lỗi với quý vị. Nếu tôi dùng phương pháp của thầy Lý để dạy chư vị, tôi sẽ có lỗi với quý vị, cảm thấy lương tâm áy náy! Đấy chính là phước báo và thiện căn của chư vị sâu dầy hơn tôi. Thuở đó, tôi mới tiếp xúc Phật pháp, nghe kinh rất ít. Nay chư vị đã nghe kinh nhiều năm ngần ấy, đã có nền tảng kha khá, tôi nói với quý vị, quý vị có thể tin tưởng. Trước đây, tôi vừa mới gặp thầy Lý, thầy Lý nói như vậy, tôi chẳng thể tin tưởng. Càng lợi hại hơn là “những gì anh đã học trước đây tôi đều chẳng thừa nhận, thảy đều bỏ hết! Từ nay trở đi, anh bắt đầu học lại từ đầu với tôi”. Ba điều kiện ấy tôi đều ưng thuận.

Sau khi đã học mấy tháng, dần dần có chút hiểu biết, biết phương pháp này là chánh xác, phương pháp này hay! Vì vậy, thầy Lý yêu cầu tôi vâng giữ năm năm, tôi tự động tăng thêm gấp đôi, chẳng phải do thầy yêu cầu, mà tôi tuân thủ giáo huấn của thầy suốt mười năm. Nhưng tôi thấy thầy Lý chẳng đòi hỏi các bạn học khác chuyện này, chỉ có lúc tôi đến học là buộc mình tôi làm như thế. Về sau, tôi giới thiệu ông Từ Tỉnh Dân đến đó, thầy cũng chẳng yêu cầu như vậy. Trước tôi là ông Châu Gia Lân, thầy Lý cũng chẳng đòi hỏi như vậy. Đại khái là thầy thấy tôi nghiệp chướng rất nặng, chẳng có sự hạn chế ấy, sẽ chẳng thể thành tựu, đó là lòng từ bi của lão nhân gia. Vì thế, đối với pháp môn này, nếu chẳng tuân theo đường lối của cổ nhân, chúng ta muốn thành tựu trong một đời này rất khó!

Những điều trên đây đều là trích dẫn kinh văn nhằm nói rõ ý nghĩa của vô lượng quang.

 

(Sao) Hoặc nạn.

() 或難。

(Sao: Hoặc có kẻ cật vấn).

“Nạn” (難) là có người đến vấn nạn, đưa ra câu hỏi khó khăn.

 

(Sao) Nhật do hữu ngại, thế sở cộng tri.

()日猶有礙,世所共知。

(Sao: [Ánh sáng của] mặt trời còn bị trở ngại, cõi đời đều biết).

 Ánh sáng mặt trời có chướng ngại, mọi người chúng ta đều biết chuyện này!

 

(Sao) Phật quang vô ngại, đương hữu hà cứ?

() 佛光無礙,當有何據。

(Sao: Phật quang chẳng trở ngại, có căn cứ gì chăng?)

Quý vị nói “Phật quang chẳng bị chướng ngại”, có gì để làm chứng cứ?

 

(Sao) Đáp: Tu Đạt lão nữ, bất nguyện kiến Phật, tỵ nhập thâm khuê, Phật quang sở cập, viên bích câu triệt, nội ngoại tứ phương, hằng dữ Phật đối, tức vô ngại chi trưng dã.

()答:須達老女,不願見佛,避入深閨,佛光所及,垣壁俱徹,外四方,恆與佛對,即無礙之徵也。

(Sao: Đáp: Người tớ gái già của trưởng giả Tu Đạt chẳng muốn thấy Phật, trốn vào trong phòng kín, Phật quang vẫn chiếu tới, tường vây đều xuyên qua, trong, ngoài, bốn phương, [dẫu bà ta chạy trốn đến đâu] đều luôn đối trước Phật. Đấy chính là chứng cớ [Phật quang] vô ngại vậy).

Lời đáp hay lắm. Thuở ấy, đức Phật đặc biệt thị hiện chuyện này cho các đệ tử thấy. Người ấy chẳng có duyên với Phật, đức Phật chẳng độ được bà ta. Ở đây nói “Tu Đạt lão nữ”[25], chính là “thành Đông lão mẫu” (bà cụ già ở phía Đông thành [Xá Vệ]) như trong kinh Phật đã nói. Người này chẳng có duyên cùng Phật. Chẳng có duyên thì có thể hóa độ hay không? Chẳng độ được bà ta! Bà ta gặp đức Phật, quay đầu bỏ đi [sang chỗ khác]. Đức Phật có thần thông, lại hóa thân khác ở nơi đó. Bà ta lại gặp Ngài: “Hừm! Lại gặp ngươi thì ta rẽ sang lối khác!” Đức Phật lại dùng thần thông, bất luận bà ta đi đến đâu, đức Phật đều biến hiện rất nhiều thân, bốn phương tám hướng đều vây chặt lấy bà ta; cuối cùng, bà ta bưng đầu khóc lớn, vẫn là chẳng chấp nhận [đức Phật tiếp độ], chứng tỏ vô duyên! [Câu chuyện] bà đầy tớ già của ngài Tu Đạt chứng tỏ điều gì? Chứng minh Phật quang chiếu trọn khắp, bà ta chẳng có duyên nên chẳng thấy! Bà ta núp trong phòng mình, Phật quang xuyên thấu vách tường vẫn chiếu đến. “Viên bích câu triệt” (Tường vách đều xuyên qua): Viên là viên tường (垣牆)[26], tường vách. [Phật quang] xuyên thấu, “nội ngoại tứ phương, hằng dữ Phật đối” (trong ngoài bốn phương, luôn đối trước Phật), bà ta vẫn chẳng tin y như cũ. Chẳng có cách nào, vẫn không thể tiếp nhận. Điều này chứng tỏ Phật quang vô ngại.

Đoạn này giải thích Vô Lượng Quang, đoạn tiếp theo là ý nghĩa trọng yếu nhất trong kinh này, tức Vô Lượng Thọ. Trong hết thảy các thứ vô lượng, thọ mạng là bậc nhất, lấy thọ mạng làm Thể. Nếu chẳng có thọ mạng, dẫu có vô lượng quang cũng vô dụng. Vì thế, nhất định phải có thọ mạng.

 

Nhị, thọ mạng vô lượng.

(Kinh) Hựu Xá Lợi Phất! Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhân dân, vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, cố danh A Di Đà.

()又舍利弗。彼佛壽命。及其人民。無量無邊阿僧祇劫。故名阿彌陀。

(Hai là thọ mạng vô lượng.

Kinh: Lại này Xá Lợi Phất! Thọ mạng của đức Phật và nhân dân của Ngài là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, nên có tên là A Di Đà).

 Ý nghĩa trọng yếu được bao hàm [trong danh hiệu] A Di Đà là Vô Lượng Thọ, Phật có thọ mạng vô lượng. Câu tiếp theo quan trọng: “Cập kỳ nhân dân” (Và nhân dân của Ngài). Phàm là người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ có thọ lượng giống như Phật. Đức Phật thọ vô lượng, mỗi người [trong cõi Cực Lạc] cũng đều thọ vô lượng, tức là hạ hạ phẩm vãng sanh cũng thọ vô lượng! Lại thưa cùng quý vị, dẫu sanh trong Biên Địa, nghi thành, vẫn là thọ vô lượng. Thế giới ấy chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sớ) Quang minh vô lượng, thị vô lượng chi nhất nghĩa.

()光明無量,是無量之一義。

(Sớ: Quang minh vô lượng là một nghĩa trong vô lượng nghĩa).

“Quang minh vô lượng” là một nghĩa trong vô lượng nghĩa, cũng là một ý nghĩa rất trọng yếu, có ý nghĩa trọn khắp mười phương.

 

(Sớ) Kim ngôn thọ mạng, diệc vô lượng dã.

()今言壽命亦無量也。

(Sớ: Nay nói thọ mạng cũng vô lượng).

Thọ mạng vô lượng là nói “theo chiều dọc, trọn khắp ba đời”; vì thế, dùng một quang, một thọ sẽ là toàn thể pháp giới, đương nhiên là vô lượng. Quang và thọ tượng trưng cho toàn thể pháp giới, toàn thể của toàn bộ pháp giới là chính mình, chính mình là toàn thể pháp giới. Quay lại suy nghĩ, nay chúng ta tâm lượng nhỏ hẹp, đáng thương lắm! Tâm lượng chúng ta vốn là tận hư không khắp pháp giới, nay thì hai người chẳng thể dung nạp nhau. Không chỉ là hai người chẳng thể dung nạp nhau, mà chính mình và chính mình cũng chẳng thể dung nạp được. Vì sao? Một niệm trước chẳng thể dung nạp một niệm sau, quý vị thấy có hỏng bét hay là không? Chúng ta phải giác ngộ rất sâu điều này. Dẫu quý vị làm nhiều việc tốt lành, và cũng niệm Phật, nhưng nếu tật xấu và tập khí chẳng sửa, Quán Đảnh đại sư đã nói một trăm thứ quả báo do niệm Phật, trong tương lai quý vị sẽ vãng sanh nơi đâu? Vào trong A Tu La đạo, vì A Tu La là chính mình chẳng thể dung nạp chính mình, chính mình nổi cáu với chính mình, chính mình kèn cựa chính mình! Niệm Phật mà niệm thành A Tu La, có hỏng bét hay không? A Tu La có bốn loại là thiên A Tu La, phước báo to lớn, nhân gian A Tu La, phước báo ít nhất. Lại còn có ngạ quỷ đạo A Tu La, súc sanh đạo A Tu La, phước báo càng nhỏ hơn nữa. Quý vị sẽ đến làm A Tu La trong đường nào, vẫn là một câu hỏi lớn. Đến ngạ quỷ đạo cũng chẳng thể làm một con quỷ cho ra hồn, vẫn phải làm A Tu La, quý vị nói có hỏng bét hay là không?

Do đó, nghiệp chướng tập khí, nếu phát hiện, phải thống thiết sửa đổi lỗi trước! Phương pháp để sửa là niệm Phật tốt đẹp, tức là chuyên nhất niệm Phật. Vì thế, có thể thật sự dùng thời gian năm năm để học một bộ kinh, một câu Phật hiệu có thể đặt vững nền tảng của chính mình; sau đó, quý vị mới phát tâm tham học, sẽ khác hẳn. Hiện thời có những đạo tràng do ta đã đến đó nhiều lần, khi ta không đến nữa, nói theo phương diện tình cảm sẽ khó xử, [nhưng quý vị phải nhớ], tình cảm là cái còng tay xiềng chân của lục đạo luân hồi, còng chặt quý vị, Tây Phương A Di Đà Phật chẳng lôi đi được. Dưới chân có xích sắt khóa chặt tại đó, sợi xích sắt ấy là tình cảm, làm Phật sự theo lối tình cảm! Còng chặt quý vị, chẳng có cách nào vượt thoát luân hồi, mà cũng chẳng có cách nào lìa khỏi ba ác đạo, đáng sợ quá!

Chư vị hãy suy nghĩ kỹ càng, học Phật khó lắm, học Phật thật sự chẳng dễ dàng! Bản thân tôi học Phật có thể đạt một chút thành tựu như thế, đúng là rất may mắn, vừa học Phật liền gặp một vị thầy tốt, tôi chẳng đi theo con đường oan uổng. Tôi học Phật trước sau thân cận hai vị thầy, vị trước là Chương Gia đại sư, tôi theo Ngài ba năm thì lão nhân gia viên tịch. Vị sau là tôi theo thầy Lý mười năm, tôi cũng chẳng đến [rất nhiều] đạo tràng. Trừ Đài Trung Liên Xã và Từ Quang Đồ Thư Quán ở Đài Trung ra, tôi chẳng đến bất cứ đạo tràng nào! Vì thế, tôi biết chuyện rất ít, rất nhiều chùa miếu ở Đài Loan tôi không quen biết, rất nhiều pháp sư tôi cũng chẳng thân thuộc. Tôi đến Tân Gia Ba, pháp sư Diễn Bồi ở Tân Gia Ba vừa gặp mặt tôi liền hỏi: “Thầy từ Đài Loan đến đây, ắt là biết rõ chuyện ở Đài Loan”. Tôi nói: “A Di Đà Phật! Tôi chẳng biết chuyện gì ở Đài Loan cả! Hết sức hổ thẹn”. Thật vậy, chuyện gì cũng không biết. Quý vị nghĩ xem, vừa trở về, xuống máy bay thì quý vị sắp xếp cho tôi giảng kinh ngay tối hôm sau. Ngày mốt lên máy bay, tối mai vẫn chẳng bỏ không, vẫn phải giảng một buổi. Ra nước ngoài cũng là như thế, các đồng tu ở ngoại quốc bảo: “Thầy một năm mới đến dăm ba bữa”, đương nhiên là vừa đến là giảng liền, cũng chẳng để cho tôi nghỉ ngơi một hai bữa. Vì thế, phải biết là chuyện gì cũng chẳng biết, tốt lắm! Trong đầu chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, thứ gì cũng không biết, quyết định vãng sanh.

Quá trình học Phật của tôi cũng là hết sức may mắn, đơn giản là tôi chưa đến đạo tràng nào, chẳng thân cận pháp sư đại đức nào. Trong quá khứ, thầy Lý hạn chế không cho phép thân cận, sau này học giảng kinh, muốn thân cận cũng chẳng có cơ hội thân cận, chẳng có thời gian, chẳng có cơ hội. Cổ nhân nói hai câu này, tôi đã làm được: “Biết chuyện ít, ít điều phiền não”, tôi rất ít phiền não, vì ít biết chuyện. “Quen nhiều người, lắm nỗi thị phi”, tôi quen biết người ta rất ít, nên thị phi cũng ít. Vì thường xuyên giảng kinh, người khác nhận biết tôi, tôi chẳng nhận biết họ. Họ gật đầu chào tôi, tôi cũng gật đầu lại, người ấy tên họ là gì tôi đâu có biết. Không chỉ là người bình thường nghe kinh tôi không biết, mà chư vị thường đến nghe kinh bao nhiêu năm, tôi cũng chẳng biết chư vị họ gì, địa chỉ và số điện thoại của quý vị tôi chưa hề nhớ. Chẳng nhớ chuyện gì, chỉ nhớ A Di Đà Phật là được rồi. Những thứ khác chẳng cần phải nhớ thì học pháp mới có thể đạt được lợi ích.

Đôi khi, có những đồng học đến gặp tôi, nói đạo tràng này, nói những chuyện nọ, người ấy nói cả buổi, nói rất nhọc nhằn, tôi chẳng nghe lọt vào tai, một câu cũng chẳng nghe. Không chỉ là chư vị nói chuyện tôi không hiểu, mà còn chẳng nghe thấy. Tôi giảng kinh một tiếng rưỡi, sau khi bước xuống tòa, quý vị hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Trong một tiếng đồng hồ ấy, thầy đã giảng những gì?” Tôi cũng không biết. Chư vị hãy tìm băng thâu âm để nghe, đại khái là giảng qua rồi; nếu không, đích xác là chẳng biết [đã nói những gì]. Tôi giảng kinh chẳng chuẩn bị trước, xong chuyện bèn chẳng nghĩ tới nữa. Còn như hiện thời quý vị chép ra từ băng thâu âm, tôi mới xem qua, chỉnh sửa kỹ càng. Đó là một chút tâm đắc trong tu học của bản thân tôi kính dâng lên chư vị để mọi người tham khảo.

Phương pháp này do thầy Lý dạy tôi, tôi vận dụng phương pháp này của thầy vẫn thật sự đạt được một chút tốt lành, chỗ tốt lành chính là tâm địa thanh tịnh, ít phiền, ít não. Ít phiền, ít não, bèn lắm phước, nhiều huệ. Lắm phước chẳng phải là có tiền; tôi tiếng tăm lẫn lợi dưỡng đều chẳng có. Chúng tôi chẳng thù tạc, chẳng có thị phi, chẳng có phiền não, yên ổn niệm Phật, đọc kinh. Chúng tôi ngày một xa rời thế giới Sa Bà, ngày càng gần với Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng tôi đi theo con đường này. Hôm nay tôi giảng tới đây, ngày mai chúng ta lại nghiên cứu đoạn Vô Lượng Thọ, đó là một khoa trọng yếu nhất trong kinh Di Đà.

 

— o0o —

Tập 188

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm tám mươi tám:

 

(Sớ) Quang minh vô lượng, thị vô lượng chi nhất nghĩa, kim ngôn thọ mạng diệc vô lượng dã. Phật thọ hữu tam, Pháp Thọ, Báo Thọ, Ứng Thọ, như Pháp Hoa cập Quán Kinh Sớ trung thuyết. Nhiên Phật thọ vô lượng, tùy cơ sở kiến, kim chi vô lượng, diệc khả tức vô lượng chi vô lượng.

()光明無量,是無量之一義,今言壽命亦無量也。佛壽有三,法壽,報壽,應壽,如法華及觀經疏中。然 佛壽無量,隨機所見,今之無量,亦可即無量之無量。

(Sớ: Quang minh vô lượng là một nghĩa trong vô lượng nghĩa, nay nói thọ mạng cũng vô lượng. Phật thọ có ba loại là Pháp Thọ, Báo Thọ, và Ứng Thọ, như kinh Pháp Hoa và Quán Kinh Sớ đã nói. Nhưng Phật thọ vô lượng, tùy theo căn cơ mà thấy [sai khác], vô lượng ở đây cũng có thể chính là vô lượng của vô lượng).

Trong kinh Di Đà, danh hiệu của Phật hiển thị Vô Lượng Thọ là chủ thể, mà cũng là điều quan trọng nhất. Nếu chẳng có thọ mạng, hết thảy vô lượng đều như không, ai hưởng thụ? Vì thế, thọ mạng là Thể của hết thảy vô lượng. Có thọ mạng thì quý vị mới có thể thọ dụng hết thảy các thứ vô lượng. A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc được gọi là Vô Lượng Thọ, rốt cuộc là vô lượng thật sự hay vô lượng giả? Chắc là nhiều người suy nghĩ vấn đề này, và cũng đều đã từng hỏi. Vì trong kinh đã nói rõ ràng, trong tương lai A Di Đà Phật sẽ nhập diệt, Quán Âm Bồ Tát kế tiếp thành Phật. Sau khi Quán Âm Bồ Tát thành Phật, thọ mạng cũng là vô lượng. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, Đại Thế Chí lại nối tiếp thành Phật. Thoạt nhìn như vậy, thọ mạng của A Di Đà Phật vẫn là có hạn lượng. Do đó, có người nói “vô lượng” ở đây là “hữu lượng chi vô lượng”, [có nghĩa là do] số lượng quá lớn, nên chúng ta chẳng thể tính ra, [bèn gọi là “vô lượng”]. Cách nói của Liên Trì đại sư ở đây là chỉ rõ: “Tùy cơ sở kiến” (Tùy theo cái thấy của từng căn cơ). Thật ra, thọ mạng của A Di Đà Phật thật sự là “vô lượng chi vô lượng”[27], chẳng phải là một con số.

Phật Di Đà thọ mạng đã là thật sự vô lượng, phàm người nào sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, do thọ mạng giống như Phật, nên cũng biến thành vô lượng thật sự. Ngoại giáo thường nói thật sự vô lượng thọ là “sống đời đời”. Nói thật ra, chỉ trong Phật môn mới có “sống đời đời”, ngoài Phật môn mà mong sống đời đời sẽ là chuyện chẳng thể nào có được! Phàm phu muốn chứng đắc “sống đời đời” ngay trong một đời, chỉ có pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ này. Trừ pháp môn này ra, tu học những pháp môn khác, nói theo lý luận thì có thể thông suốt, nhưng trên sự thật chẳng dễ gì làm được. Chỉ riêng pháp môn này là Lý Sự viên dung, ai nấy đều có thể thành tựu.

 

(Sao) Thọ mạng giả, thọ chi sở lịch, hữu đoản, hữu trường. Kim đương giảm kiếp, thọ cẩn bách niên, bỉ tăng kiếp thời, diệc chỉ bát vạn. Túng Luân Vương, Thiên Đế, chư Phật trụ thế, diệc hữu hạn lượng.

()壽命者,壽之所歷,有短有長。今當減劫,壽僅百年,彼增劫時,亦止八萬。縱輪王天帝,諸佛住世,亦有限量。

(Sao: “Thọ mạng” là thời gian sống có dài, hay ngắn. Nay đang trong thời giảm kiếp, chỉ thọ một trăm năm. Trong thời tăng kiếp, cũng chỉ thọ tám vạn năm. Dẫu là Luân Vương, Thiên Đế, chư Phật trụ thế cũng có hạn lượng).

Hết thảy chúng sanh ở trong lục đạo, thọ mạng có dài hay ngắn. Thọ mạng là một trong các quả báo. Chư vị đọc kỹ Liễu Phàm Tứ Huấn, sẽ biết thọ mạng của mỗi người quả thật đều có nhất định. Phật pháp thừa nhận chúng sanh trong lục đạo quả thật có thọ mạng, nhưng trọn chẳng phải là “định mạng” (có thọ mạng nhất định, không hề thay đổi)! Nói thật ra, thọ mạng dài hay ngắn do chính mình nắm quyền thao túng. Người thọ mạng dài, nếu hằng ngày tạo nghiệp, mạng dài sẽ biến thành mạng ngắn. Người thọ mạng ngắn, hằng ngày làm việc thiện, do thiện nghiệp cảm vời, mạng ngắn ngủi sẽ biến thành mạng dài. Từ Liễu Phàm Tứ Huấn, quý vị có thể đạt được kết luận cụ thể. Thọ mạng có thể kéo dài, đây là chuyện khó khăn nhất, huống hồ những phước báo khác? Các phước báo khác, nếu trong mạng chẳng có mà muốn cầu đạt được [thì so ra] vẫn dễ dàng hơn; trong hết thảy các sở cầu, thọ mạng là khó khăn nhất. Mọi người đều hy vọng sống lâu, sống lâu thì phải khỏe mạnh mới tốt. Nếu sống lâu mà chẳng khỏe mạnh, thường ngã bệnh, sẽ rất đau khổ. Nếu thọ mạng dài, chẳng biết học Phật, tuổi cao sẽ hết sức cô quạnh. Nhất là trong hiện thời tại ngoại quốc, người già bên ngoại quốc tự sát hết sức nhiều, mỗi năm một tăng nhiều hơn, vì sao? Quá đỗi cô quạnh, lại còn bị bệnh khổ, bệnh cũ rề rề, rất đau khổ! Đức Phật nói tám khổ, trong đó còn có lão khổ, [bốn nỗi khổ thấy rõ nhất là] sanh khổ, bệnh khổ, lão khổ, tử khổ!

Sống lâu lại khỏe mạnh, già mà chẳng khổ, rất hạnh phúc, hạnh phúc ấy cũng chỉ trong Phật môn mới có thể cầu được; chẳng phải là Phật môn, sẽ rất khó cầu! Trong Phật môn, phải cầu đúng lý, đúng pháp, đó gọi là “trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Cầu chẳng đúng lý, chẳng đúng pháp, đương nhiên sẽ chẳng thể có cảm ứng. Nếu cầu chẳng đúng lý, chẳng đúng pháp mà có cảm ứng, thưa cùng chư vị, đó là yêu ma quỷ quái đang giở trò. Nếu quý vị kết bạn với họ, sau này mong thoát lìa ma chưởng rất khó! Họ có thể khống chế quý vị suốt đời. Không chỉ khống chế một đời, mà rất có thể là khống chế nhiều đời. Quý vị chẳng có cách nào thoát khỏi sự nắm giữ của họ. Do đó, nhất định chớ nên tiếp cận yêu ma quỷ quái. Đối với những chuyện có cầu ắt ứng, đừng nên hâm mộ, chẳng phải là chuyện tốt đẹp! Cầu phát tài, tiền tài đưa tới, có đáng hâm mộ hay chăng? Chẳng đáng hâm mộ. Quý vị nghĩ xem, quý vị phát tài thì dùng tiền tài ấy để làm gì? Mỗi ngày vẫn chỉ ăn ba bữa. Mỗi ngày ăn ba bữa thì quý vị có thể ăn tới một trăm năm. Mỗi ngày ăn sáu bữa, chỉ có thể ăn năm mươi năm, quý vị sẽ đoản mạng. Đó gọi là “lộc tận, nhân vong” (lộc hết, người chết), quý vị đã tiêu sạch cái phước đáng lẽ hưởng thụ trong một đời. Tuy có thọ mạng, cũng chẳng có cách nào, lộc đã hết, người sẽ chết mà! Người hiện thời chẳng biết tiết kiệm, người xưa nhấn mạnh tiết kiệm. Tiết kiệm, ví như chúng ta có tuổi thọ sáu mươi năm, hưởng lộc sáu mươi năm, “lộc” là sự hưởng thụ về mặt vật chất. Quý vị hết sức cần kiệm, đến lúc sáu mươi tuổi, quý vị vẫn chưa hưởng hết lộc, hãy còn dư, còn dư thì sao? Thọ mạng sẽ kéo dài. Vì thế, quý vị mới biết tiếc phước cũng là đường lối để sống lâu.

Kinh nói “kim đương giảm kiếp, thọ cẩn bách niên” (nay đang thời giảm kiếp, chỉ thọ một trăm năm). Đây là nói về thời đức Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên thế gian này, đức Phật nói tới thọ mạng của chúng sanh trong lục đạo, đặc biệt là nói về nhân gian. Khi con người có thọ mạng dài nhất, sẽ là tám vạn bốn ngàn năm, lúc ngắn nhất là mười năm. Từ ngắn nhất là mười tuổi, cứ mỗi một trăm năm bèn tăng thêm một tuổi, tăng như vậy cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi; từ tám vạn bốn ngàn tuổi, lại mỗi một trăm năm bèn giảm một tuổi cho đến [khi thọ mạng của con người chỉ còn] mười năm. Chu kỳ tăng giảm này lại được gọi là một tiểu kiếp (Antah-Kalpa). Kiếp (Kalpa) là đơn vị thời gian được nói trong kinh Phật. Thời Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian này, nhằm lúc thế gian đang thuộc giảm kiếp, giảm đến bao nhiêu tuổi? Giảm đến một trăm tuổi. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian vào lúc giảm kiếp còn một trăm tuổi. Từ lúc đức Phật diệt độ cho đến hiện thời là ba ngàn năm, cứ một trăm năm bèn giảm một tuổi, hiện thời tuổi thọ bình quân của con người là bảy mươi tuổi.

“Bỉ tăng kiếp thời” (Vào lúc tăng kiếp), chữ Bỉ (彼) là nói đến lúc tăng kiếp cao nhất, cũng chỉ là tám vạn bốn ngàn tuổi, đây là nói về nhân đạo trong lục đạo. Cõi trời thọ mạng dài hơn nhân gian chúng ta. “Túng Luân Vương, Thiên Đế” (Dẫu là Luân Vương, Thiên Đế), Luân Vương là Chuyển Luân Thánh Vương. Khi Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện trên thế gian này, thọ mạng của loài người trong thế gian rất dài, tám vạn tuổi, sáu vạn tuổi, hoặc bốn vạn tuổi. Khi vị Luân Vương nhỏ nhất[28] xuất hiện, tuổi thọ của loài người gần như là hai vạn năm, chúng sanh có phước. Thọ mạng dài là phước báo. Luân Vương xuất hiện trong thế gian vào thời này, người nơi thế gian này có phước. Cũng có rất nhiều Thiên Đế, [vì cõi trời] có Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên[29]. Dục Giới có sáu tầng, Sắc Giới có mười tám tầng.

“Chư Phật trụ thế”, “Phật” [ở đây] là nói tới Ứng Thân trụ thế, trong mười phương thế giới giáo hóa chúng sanh, thị hiện tám tướng thành đạo, thọ mạng luôn có số lượng. Ứng Thân của đức Phật tùy thuận sự cơ cảm của chúng sanh mà ứng. Chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát bèn có ứng. Ứng Thân có sanh diệt hay không? Phàm phu chúng ta thấy có sanh diệt, trên thực tế, chẳng có sanh diệt! Vì Ngài vốn chẳng sanh, lấy đâu ra diệt? Bất quá là cảm ứng đạo giao cùng chúng sanh mà thôi. Người nào trong tâm cầu Phật, Phật liền ứng hiện. Khi chẳng có ai cầu Phật, Phật liền diệt độ, căn cơ đã hết bèn chẳng hiển lộ nữa! Trong tầm mắt của phàm phu, Phật cũng có thọ mạng. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế, bảy mươi chín tuổi bèn nhập diệt, tính theo tuổi ta là tám mươi tuổi. Người thuở ấy thọ một trăm năm, vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật tám mươi tuổi liền nhập diệt? Đức Phật rất từ bi, rất giữ chữ tín. Khi ấy, Ma Vương Ba Tuần tới thỉnh cầu Thích Ca Mâu Ni Phật hãy sớm nhập Bát Niết Bàn, đức Phật đáp ứng. Chuyện này cho thấy các đệ tử đã sơ sót, chẳng thỉnh Phật trụ thế. Ma Vương thỉnh Phật nhập Bát Niết Bàn, Phật bèn đáp ứng. Ý nghĩa thứ hai: Pháp vận của đức Phật là một vạn hai ngàn năm, Thích Ca Mâu Ni Phật nói Ngài còn có hai mươi năm dư phước [trong tuổi thọ], hai mươi năm dư phước ấy để cho đệ tử xuất gia đời sau hưởng thụ tứ sự cúng dường chẳng cùng tận!

Hiện thời, người xuất gia được hưởng thụ là do dư phước của Thích Ca Mâu Ni Phật. Chỉ cần quý vị nghiêm túc tu hành, chớ nên phan duyên. Đức Phật đã nói như thế, chúng ta phải nên tin tưởng. Vì thế, hàng xuất gia chẳng cần quan tâm đến cuộc sống áo cơm, chẳng phải lo lắng chuyện này. Tuy trong kinh đức Phật đã nói như vậy, chúng ta cảm thấy Phật chẳng có đảm bảo cụ thể, nên hằng ngày vẫn phan duyên y như cũ! Quý vị do phan duyên mà đạt được thì nói thật thà, vẫn là do dư phước của Thích Ca Mâu Ni Phật chiếu cố! Quý vị chẳng phan duyên, do chẳng phan duyên mà vẫn có nhiều ngần ấy, tội gì mà phải phan duyên? Trong pháp thế gian, một hớp uống, một miếng ăn không gì chẳng được định sẵn. Trong Phật pháp, tất cả hết thảy những gì trong cuộc sống của quý vị đã được chư Phật, Bồ Tát chăm lo, chính mình thật sự chẳng cần bận tâm, tâm mới có thể tương ứng với đạo. Đạo là tâm thanh tịnh, đã xuất gia thì phải tu gì? Tu tâm thanh tịnh. Bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh, trong hết thảy các cảnh duyên, chỉ cầu thanh tịnh. Thanh tịnh là Định, thanh tịnh là Huệ, Định cũng là phước thật sự. Nói “Định Huệ đẳng học” hoặc nói “Định Huệ song tu” đều được, phước thật sự là Định.

Trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thấy thuở ấy, khi tỳ-kheo Pháp Tạng theo học với Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai, lúc đó, đức Phật trụ thế bốn mươi hai kiếp, cho thấy thọ mạng lâu dài. Tuổi thọ của đức Phật và tuổi thọ của con người trong thuở ấy, chắc là gần bằng nhau. Ngài thị hiện thân tướng độ các chúng sanh trong thời đại ấy, nên có thọ mạng tương đương với chúng sanh, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đã ứng hóa. Do vậy có thể biết: Thuở Thế Nhiêu Vương tại thế, phước báo của chúng sanh trong thời ấy hết sức lớn. Trong hết thảy các kinh, đức Phật đã nói trạng huống của mười phương thế giới, chúng ta có thể thấu hiểu: Thọ mạng dài là phước báo lớn.

 

(Sao) Duy bỉ Phật thọ mạng, chí vi cửu viễn, bất cục thường số, vân vô lượng dã.

()唯彼佛壽命,至為久遠,不局常數,云無量也。

(Sao: Chỉ có thọ mạng của đức Phật ấy lâu xa tột cùng, chẳng hạn cuộc trong lẽ thông thường, nên nói là “vô lượng”).

“Duy” (唯) là duy nhất, “bỉ Phật” là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật rất đặc thù, chẳng giống hết thảy các vị Phật khác. Trong thế giới của hết thảy chư Phật đều có bốn cõi, nhưng bốn cõi chẳng ở cùng một chỗ, bốn cõi chẳng xếp ngang nhau. Tây Phương Cực Lạc thế giới rất đặc biệt, nó cũng có bốn cõi, nhưng bốn cõi ở cùng một chỗ, bốn cõi dung thông lẫn nhau, chẳng có cách nào phân biệt. Giống như ánh đèn, ánh sáng của từng ngọn đèn hòa lẫn vào nhau, quý vị có thể phân biệt ánh sáng nào là của ngọn đèn nào hay chăng? Chẳng phân biệt được! Tây Phương Cực Lạc thế giới xác thực là có bốn cõi, nhưng bốn cõi ở cùng một chỗ, giống như ánh sáng của bốn ngọn đèn. Thế nhưng các cõi Phật ở phương khác chẳng có tình hình này, chúng có chướng ngại, có cách ngăn, trở ngại. Thế giới Tây Phương chẳng có cách ngăn, trở ngại, nên thế giới ấy là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Thọ mạng trong thế giới ấy lại đặc biệt lâu xa, “bất cục thường số” (chẳng hạn cuộc trong lẽ thường), “thường số” là tình hình trong mười phương thế giới. Quý vị dùng tình hình trong mười phương cõi nước để quan sát Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ chẳng có cách nào lý giải. Vì thế, thọ mạng của đức Phật ấy đúng là vô lượng, chẳng phải vô lượng trong hữu lượng.

 

(Sao) Tam thọ giả, Pháp Hoa Thọ Lượng Phẩm Sớ vân: “Thọ giả thọ dã. Nhược Pháp Thân, Chân Như bất cách chư pháp, cố danh vi Thọ. Nhược Báo Thân, cảnh trí tương ứng, cố danh vi Thọ. Nhược Ứng Thân, nhất kỳ báo đắc, bách niên bất đoạn, cố danh vi Thọ”.

()三壽者,法華壽量品疏云:壽者受也,若法身,真如不隔諸法,故名為受;若報身,境智相應,故名為受;若應身,一期報得,百年不斷,故名為受。

(Sao: Ba loại tuổi thọ: Lời sớ giải của phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa có giảng: “Thọ (thọ mạng) là Thọ (hứng chịu). Như Pháp Thân, Chân Như chẳng cách biệt các pháp, nên gọi là Thọ (hứng chịu, lãnh chịu). Nếu là Báo Thân, cảnh và trí tương ứng, nên gọi là Thọ (hứng chịu). Nếu là Ứng Thân, do quả báo kéo dài một thời gian, nên trăm năm chẳng đoạn, vì thế gọi là Thọ (hứng chịu)”).

Chữ Sớ (疏) chỉ tác phẩm chú giải kinh Pháp Hoa của Trí Giả đại sư. Đoạn này giảng về Pháp Thân Phật, Báo Thân Phật, và Ứng Thân Phật.

 

(Diễn) Tam thọ giả dĩ hạ thập tam cú, Phật hữu tam thân, thọ diệc hữu tam.

()三壽者以下十三句,佛有三身,壽亦有三。

(Diễn: [Đối với] mười ba câu kể từ “ba loại tuổi thọ” trở đi, do Phật có ba thân, nên thọ mạng cũng có ba loại).

Phật có ba thân, nên ba thứ thọ mạng nơi thân cũng khác nhau.

 

(Diễn) Pháp Thân dĩ như Lý vi thân, Báo Thân dĩ trí huệ vi thân, Ứng Thân dĩ ứng cơ phó cảm vi thân.

()法身以如理為身,報身以智慧為身,應身以應機赴感為身。

(Diễn: Pháp Thân lấy như Lý làm thân, Báo Thân lấy trí huệ làm thân, Ứng Thân lấy chuyện ứng theo căn cơ để cảm ứng làm thân).

Pháp Thân là vô lượng thọ thật sự, bất sanh, bất diệt. Báo Thân là hữu sanh vô diệt, cũng là vô lượng thọ thật sự, Báo Thân dùng trí huệ làm thân.

Người thế gian chúng ta có thông minh, nhưng chẳng có trí huệ. Dẫu tu hành, nếu chưa đạt tới minh tâm kiến tánh, tuy có trí huệ, nhưng hễ đầu thai, trí huệ chẳng còn nữa, lại mê. Đó gọi là “cách ấm chi mê” (mê khi cách ấm). Sau khi đã minh tâm kiến tánh, mới chẳng bị mê khi cách ấm. Trong kinh Kim Cang, đức Phật phó chúc hàng đại Bồ Tát phải thường hộ niệm các tiểu Bồ Tát, vì hàng tiểu Bồ Tát có thoái chuyển, bị mê khi cách ấm. Khi cơ duyên đến, những vị ấy (các đại Bồ Tát) sẽ đến chỉ điểm, cảnh tỉnh họ (các tiểu Bồ Tát). Vừa được chỉ điểm, họ liền khai ngộ, có thể khôi phục bình thường. Do đó, Phật và các vị đại Bồ Tát thường chẳng ngừng chiếu cố hàng tiểu Bồ Tát.

Nếu chư vị thật sự hiểu sự thật này, mới cảm nhận đức Phật nói hai câu “thân người khó được, Phật pháp khó nghe” có ý nghĩa quá sâu! Được làm thân người chẳng dễ dàng, đánh mất thân người quá dễ dàng. Lỡ đánh mất thân người, được làm thân người lần nữa, khó lắm! Chúng ta phải thường phản tỉnh chuyện này! Chính chúng ta hãy suy ngẫm, đánh mất thân người thì đời sau lại có thể làm thân người nữa hay không? Mấy ai dám nói đời sau ta vẫn được làm thân người? Chẳng có ai! Đời sau sẽ được làm thân người, trì Ngũ Giới, Thập Thiện thanh sạch, chúng ta có làm được hay chăng? Giết, trộm, dâm, dối, mỗi ngày đều hành, nói dối, nói đôi chiều, tham, sân, si, mạn, dùng tâm tham để học Phật, dùng tâm sân khuể, dùng tâm ganh tỵ để học Phật. Làm công đức trong Phật môn thì “ngươi bỏ ra một vạn, ta bỏ ra hai vạn, ta phải vượt trội ngươi!” Tâm thái như vậy, đời sau không chỉ chẳng thành Phật, mà thân người cũng chẳng đạt được! Trong tâm, phiền não quá nặng, chân vọng, tà chánh, thị phi, chẳng phân biệt được! Ngay cả lợi và hại cũng đều chẳng hiểu rõ ràng! Đức Phật gọi hạng người ấy là kẻ ngu si, ngu si đến mức cùng cực. Pháp thế gian và xuất thế gian có lợi và có hại đối với quý vị như thế nào, đều chẳng phân biệt được, coi chuyện tai hại là tốt lành, ngỡ chuyện tốt lành là xấu xa, mê hoặc, điên đảo! Vì thế, trong kinh đức Phật thường nói những kẻ ấy “là những kẻ đáng thương xót”, thật sự đáng thương! Quý vị mới biết đời sau được làm thân người chẳng dễ dàng! Thân trong cõi trời, người đều phải cậy vào tu phước thì mới có thể đạt được. Phật pháp càng cần phải tu giác, chánh, tịnh! Phật pháp từ đầu tới cuối, nói theo phương diện công phu, sẽ là đoạn phiền não, phá chấp trước. Nói theo phương diện thành tựu là khai trí huệ. Nói là “khai trí huệ” chính là trong hết thảy các pháp, quý vị có năng lực phân biệt chân, vọng, tà, chánh, thị, phi, thiện, ác, lợi, hại. Nếu chẳng có trí huệ, sẽ chẳng thể phân biệt.

Báo Thân là thân trí huệ, hễ đạt được sẽ vĩnh viễn chẳng bị mất đi. Vì thế, có khởi đầu, nhưng chẳng có kết thúc. Pháp Thân là chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Pháp Thân là Chân Như bản tánh, bản thể, bất sanh, bất diệt. “Ứng Thân dĩ ứng cơ phó cảm vi thân” (Ứng Thân lấy tùy cơ cảm ứng để làm thân), đó là cảm ứng. Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Thân ấy có sanh, có diệt, có [thọ mạng] dài hay ngắn, là huyễn thân, tức cái thân biến huyễn. Chúng ta phải nhận biết rõ ràng ba loại thân này. Đức Phật có ba thân, bản thân chúng ta cũng có ba thân. Pháp Thân là Lý, mỗi người đều trọn đủ. Tuy trọn đủ, nhưng nay quý vị chẳng thọ dụng được. Vì sao chẳng thọ dụng được? Đã mê rồi, mê gì vậy? Mê mất Pháp Thân của chính mình. Hễ ngộ thì ngộ gì? Ngộ Pháp Thân của chính mình. Mê ngộ bất nhị, mê ngộ là một, mê là Pháp Thân, ngộ vẫn là Pháp Thân, nhưng mê và ngộ thọ dụng khác biệt rất lớn.

 

(Diễn) Thọ giả thọ dã, lãnh nạp nghĩa dã.

()壽者受也,領納義也。

(Diễn: Thọ là nhận, có ý nghĩa nhận lãnh).

Nói đơn giản, nay ta gọi Thọ là hưởng thụ, thọ mạng là hưởng thụ. Xét theo ý nghĩa này, ba thân đều có sự hưởng thụ.

 

(Diễn) Pháp Thân dĩ Chân Như lãnh thọ chư pháp, cố danh vi Thọ.

()法身以真如領受諸法,故名為受。

(Diễn: Pháp Thân dùng Chân Như để lãnh nhận các pháp, nên gọi là Thọ).

Pháp Thân có ý nghĩa thọ lượng. Pháp Thân nhận lãnh gì? Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian trong hư không pháp giới, nó đều tiếp nhận, vì tất cả hết thảy các pháp đều do Pháp Thân biến hiện. Pháp Thân là Chân Như, là bản tánh. Trong triết học hiện thời, nó được gọi là “bản thể của vạn hữu trong vũ trụ”, trong Phật môn gọi là Pháp Thân. Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều nương vào nó mà biến hiện; do vậy, hết thảy các pháp đều là sự trang nghiêm và thọ dụng của Pháp Thân.

 

(Diễn) Tuy vân lãnh thọ, thật vô Năng Sở.

()雖云領受,實無能所。

(Diễn: Tuy nói là tiếp nhận, nhưng thật ra chẳng có Năng và Sở).

Vì Năng và Sở là một, không hai, cái có thể biến (năng biến) là bản tánh, cái được biến (sở biến) vẫn là bản tánh. Ngoài bản tánh ra, chẳng có một pháp nào để có thể đạt được. Đó là chỗ khác biệt so với triết học thế gian. Trong triết học thế gian, Năng và Sở là đối lập, cái có thể sanh chẳng phải là cái được sanh, cái được sanh chẳng phải là cái có thể sanh. Do đó, Phật pháp chẳng phải triết học, [trong Phật pháp] Năng và Sở là một, không hai. Có thể sanh là nó, mà cái được sanh vẫn là nó; cảnh giới này chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta chẳng có cách nào nghĩ thông suốt. Vì tư tưởng của chúng ta, nói thật ra, đều là vọng tưởng, là thức thứ sáu, tức ý thức, khởi tác dụng. Làm thế nào thì mới có thể thông đạt? Chẳng suy nghĩ sẽ thông đạt, càng suy tưởng, càng chẳng thông đạt. Chẳng suy nghĩ, quý vị sẽ thấy sự thật này rõ ràng! Do đó, tu học Phật pháp chú trọng Thiền Định, không đặt nặng nghiên cứu. Kinh điển càng nghiên cứu càng hỏng bét, càng sai bét! Chẳng nghiên cứu, quý vị sẽ hiểu rõ tất cả. Phương pháp hoàn toàn khác hẳn pháp thế gian. Vì thế, Phật pháp chẳng phải là tri thức, mà là trí huệ. Tri thức là từ tâm phân biệt mà hiển hiện. Trí huệ được hiển hiện từ cái tâm thanh tịnh, khác nhau! Vì thế, người học Phật tâm phải thanh tịnh. Bất luận trong cảnh giới nào, tâm phải tuyệt đối thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh, chẳng sanh một pháp. Há có Năng và Sở? Vì thế, “thật vô Năng Sở” (thật sự chẳng có Năng và Sở).

 

(Diễn) Dĩ Chân Như tức chư pháp, chư pháp tức Chân Như. Ngôn lãnh thọ giả, bất cách nghĩa dã.

()以真如即諸法,諸法即真如。言領受者,不隔義也。

(Diễn: Do Chân Như chính là các pháp, các pháp chính là Chân Như. Nói “tiếp nhận” có nghĩa là “chẳng ngăn cách” vậy).

Tánh và Tướng giao hòa,  dung nhập;  trong ấy,  chẳng có giới hạn, chẳng có sai biệt.

 

(Diễn) Chân Như vô thỉ, vô chung, chư pháp diệc vô thỉ, vô chung, cắng triệt tam tế, vô cùng, vô tận giả, Pháp Thân thọ dã.

()真如無始無終,諸法亦無始無終,亙徹三際,無窮無盡者,法身壽也。

(Diễn: Chân Như chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc, các pháp cũng chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc, trọn khắp thấu triệt ba đời, vô cùng, vô tận. Đó chính là Pháp Thân Thọ).

Kinh Hoa Nghiêm nói hết thảy các pháp chỉ do tâm hiện. Vì thế, chư pháp là chân tâm, chân tâm là chư pháp. Các pháp ấy thường biến hóa, vì sao có thể biến hóa? Chỉ do thức biến. “Thức” ở đây là nói tới tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở. Tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở là vọng tâm, là tâm mê. Tâm đã mê, quý vị thấy hết thảy chư pháp có thể biến. Động vật có sanh, lão, bệnh, tử. Thực vật có sanh, trụ, dị, diệt; có sanh trưởng, đã sanh trưởng thì sẽ có một giai đoạn ngưng trụ, sau đó dấy lên biến hóa, rồi lại biến mất, tức là diệt, nên nó có sanh, trụ, dị, diệt. Khoáng vật thành, trụ, hoại, không, biến hóa trong từng sát-na. Tuy nó đang biến hóa, vẫn là vô thỉ, vô chung (chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc).

Khoa học hiện đại tiến bộ hơn khoa học xưa kia rất nhiều. Nhờ vào quan sát khoa học, chúng ta có thể lãnh hội, hiểu rõ những đạo lý do đức Phật đã giảng. Chúng tôi lại nghĩ đến cổ nhân xưa kia, chẳng cần nói rất xa xôi, hai trăm năm trước thôi, họ cũng có thể tiếp nhận những điều được giảng trong kinh Phật, và cũng có thể tin tưởng. Chuyện này chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy có thể biết: Người thời ấy trí huệ cao hơn chúng ta! Nay chúng ta nói [chính mình] có kiến thức thông thường phong phú hơn họ, nhưng kiến thức thông thường chẳng sánh bằng trí huệ! Nay chúng ta hiểu: Hết thảy các pháp xác thực là bất sanh, bất diệt. Ví như đóa hoa này, quý vị chăm bẵm nó, nó sanh trưởng, nở một khoảng thời gian rồi héo tàn. Chúng ta thấy đóa hoa ấy đích xác là có sanh diệt, tức sanh, trụ, dị, diệt. Trong mắt các khoa học gia, đóa hoa ấy bất sanh bất diệt, vì sao? Các nhà khoa học chẳng thấy đóa hoa ấy, mà thấy gì? Thấy các nguyên tử, điện tử, bất quá chúng từ chỗ này chạy sang chỗ kia. Các khoa học gia thấy các nguyên tử, điện tử ấy có tụ, có tán, có diệt hay không? Chẳng có diệt!

Nếu mỗi người trong giảng đường của chúng ta là một hạt nguyên tử, nay chúng tôi đang giảng kinh, mọi người tụ họp tại đây, đó là một pháp hội. Giảng xong, mọi người giải tán. Chẳng có sanh diệt, bất sanh, bất diệt. Có duyên bèn tụ lại, vô duyên bèn tản mác. Các khoa học gia thấy các pháp chẳng có sanh diệt. Các khoa học gia gần đây mới phát hiện quan niệm này, nên nói “vật chất chẳng diệt”. Thích Ca Mâu Ni Phật đã nêu ra sự phát hiện này từ hơn ba ngàn năm trước, hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt. Có chết hay không? Chẳng có chết! Chết rồi, mỗi phân tử trong nhục thể này đều tồn tại, chỉ bất quá là tản mác. Thân thể trong hiện thời là do nhiều nguyên tử và điện tử như vậy tụ tập thành một hình trạng. Hết thảy vạn vật thảy đều là đạo lý này, duyên tụ hay duyên tán. Hễ tụ bèn thành hình, hễ tán ắt tiêu mất. Trong ấy, thật sự chẳng tìm thấy có sanh diệt, hy vọng chư vị hãy chú tâm hiểu điều này. Quý vị có thể hiểu đạo lý này, mới hiểu kinh Pháp Hoa đã nói: “Thế pháp trụ pháp vị, thế gian tướng bất hoại” (Pháp thế gian trụ đúng nơi vị trí của nó, tướng thế gian chẳng hư hoại), hai câu ấy là cảnh giới gì? Trong kinh, mọi người thường đọc thấy Vô Sanh Pháp Nhẫn, hai câu ấy đã nói rõ: Hết thảy các pháp vốn bất sanh, há có diệt? Phật và đại Bồ Tát thấy chân tướng của hết thảy vạn pháp. Hết thảy vạn pháp bất sanh, bất diệt; nếu quý vị thấy là sanh diệt, tức là quý vị đã thấy sai mất rồi!

Tế bào, nguyên tử, và điện tử tụ hay tán trong thân thể chúng ta là tụ tán mỗi ngày, chẳng phải là đến khi chết mới phân tán. Các tế bào nơi thân thể chúng ta cứ đúng chu kỳ bảy năm sẽ chẳng còn một tế bào cũ nào, toàn là mới toanh, nhưng chúng chẳng phải thay đổi cùng một lúc, mà là thay thế hằng ngày, thay đổi trong từng sát-na. Nói như vậy thì càng thay đổi càng tốt hơn mới đúng chớ! Giống như cỗ máy bị hư, tìm linh kiện khác thay vào, nhất định là thay bằng linh kiện tốt, chứ đâu có ai thay linh kiện xấu vào! Vì thế, người biết thay đổi, sẽ là càng thay đổi càng trẻ trung, càng thay đổi càng tốt đẹp hơn. Chẳng biết thay đổi, sẽ càng thay đổi càng bệnh nhiều hơn, càng thay đổi càng già nua hơn. Kẻ ấy chẳng biết cách thay đổi, chẳng biết chọn lựa linh kiện mới, chuyên môn tìm linh kiện cũ, tìm đồ bỏ đi của người khác, dùng những thứ ấy, rất khổ não! Tôi bảo các đồng tu: Chư vị dùng giác tâm, chánh tâm, thanh tịnh tâm để thay đổi, càng thay đổi, càng tốt đẹp hơn. Chư vị hằng ngày dùng phiền não, phân biệt, chấp trước [để thay đổi], vậy là càng thay đổi càng tệ hại! Sự trang nghiêm nơi thân thể và tướng mạo của chư vị đều do chính mình nắm quyền thao túng, tùy thuộc quý vị thay đổi theo cách nào! Người thật sự tu hành, thời gian càng lâu, xác thực sẽ hiển lộ hoàn toàn khác hẳn kẻ bình phàm, tôi nói cách này cho mọi người dễ hiểu, tức là người ta biết cách chọn lựa thay cũ, đổi mới tế bào, chọn cái tốt đẹp thay cho cái cũ kỹ.

 

(Diễn) Báo Thân tắc Thỉ Giác chi trí, lãnh thọ Bổn Giác chi Lý danh Thọ. Tuy vân lãnh thọ, diệc vô Năng Sở.

()報身則始覺之智,領受本覺之理名受,雖云領受,亦無能所。

(Diễn: Báo Thân thì trí Thỉ Giác, lãnh nhận Lý Bổn Giác, gọi là Thọ. Tuy nói là “lãnh nhận”, cũng chẳng có Năng và Sở).

Báo Thân là trí huệ, Bổn Giác vốn có. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát bảo Bổn Giác là Phật. Quan sát từ góc độ này, trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Lời này là thật, chẳng giả chút nào, vì sao? Mỗi người đều có Bổn Giác, Bổn Giác của quý vị chưa hề mất đi. Thành Phật, Bổn Giác hiển lộ. Dẫu đọa trong A Tỳ địa ngục, Bổn Giác của quý vị vẫn hiển lộ, chẳng hai, chẳng khác với quả địa Phật. Bổn Giác là trí huệ Bát Nhã vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh. Nếu quý vị nói: “Thầy nói chúng tôi đều chưa từng mất [trí huệ Bát Nhã], vậy nó ở chỗ nào? Tôi cảm thấy chính mình suốt ngày từ sáng đến tối mê hoặc, điên đảo, bất giác”. Đúng vậy! Nay quý vị là bất giác. Bất giác thì như Mã Minh Bồ Tát nói “bất giác vốn không”, vốn chẳng có. Vốn chẳng có mà quý vị cứ khăng khăng muốn tìm nó, tìm cho ra nó, tìm bất giác làm người chủ chốt, vấn đề trở thành hỏng mất rồi! Do đó, tế bào của quý vị khi thay cũ đổi mới bèn chuyên môn chọn lấy thứ xấu, chẳng chọn thứ tốt đẹp. Vì sao? Bất giác. Trong tựa đề của Đại Kinh có nói “thanh tịnh, bình đẳng, giác”, giác trọng yếu. Tâm quý vị chẳng thanh tịnh, bất bình đẳng, sẽ chẳng giác. Giác là như thế nào? Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng là giác.

Thỉ Giác là quý vị bắt đầu giác ngộ. Bắt đầu như thế nào? Thỉ Giác là như thế nào? Nói đơn giản, biết lỗi lầm của chính mình, biết tật xấu của chính mình, đó là giác. Bất giác là gì? Chính mình một thân đầy tật xấu mà chẳng biết! Vẫn cứ luôn tưởng chính mình là đúng. Tưởng chính mình là đúng tức là điên đảo, chính mình phạm lỗi mà cứ ngỡ là đúng. Thấy người khác đúng, lại tưởng họ sai. Đó là bất giác. Biết chính mình sai trái, biết chính mình đang mê, quý vị bắt đầu giác ngộ. Thưa cùng chư vị, Thỉ Giác là mỗi ngày bắt đầu giác ngộ. Hằng ngày có giác ngộ, hằng năm giác ngộ. Thỉ Giác chẳng phải là nói năm nào đó, ta mới bắt đầu [giác ngộ]. Hiểu như thế là sai bét bè be! Mỗi ngày đều là Thỉ Giác. Mãi cho đến địa vị Đẳng Giác Bồ Tát, vẫn là mỗi ngày Thỉ Giác. Thành Phật là Cứu Cánh Giác, trước khi thành Phật thì mỗi ngày vẫn là Thỉ Giác. Phải hiểu rõ ý nghĩa hai chữ Thỉ Giác! Thỉ Giác là Bổn Giác trí, cho nên nó “lãnh thọ Bổn Giác chi Lý” (tiếp nhận lý Bổn Giác).

Điều tốt đẹp lớn nhất của chư Phật, Bồ Tát, và hết thảy thiện hữu là các Ngài có thể giúp đỡ chúng ta Thỉ Giác. Nếu chúng ta lìa khỏi những vị thiện hữu ấy, sẽ càng mê sâu hơn, sẽ chẳng giác. Vì thế, nhất định phải thân cận thiện tri thức, phải thân cận Như Lai. Như Lai chẳng trụ thế, chúng ta thân cận Ngài bằng cách nào? Quý vị niệm kinh điển là thân cận Như Lai, đọc chú giải là thân cận thiện tri thức. Kinh do đức Phật nói, chú giải do tổ sư nói, ta hằng ngày niệm kinh, đọc chú giải, đó chính là thân cận chư Phật, Bồ Tát, và thiện tri thức. Chẳng cần tìm cầu bên ngoài, tìm bên ngoài sẽ chẳng thấy! Thiện tri thức thật sự ở trong nhà mà chẳng nhận biết, cứ chạy long nhong bên ngoài để tìm kiếm, tìm thấy toàn là ác tri thức, chẳng phải là thiện tri thức.

“Tuy vân lãnh thọ, diệc vô Năng Sở” (Tuy nói là tiếp nhận, cũng chẳng có Năng và Sở). Thỉ Giác và Bổn Giác hợp thành một, hoàn toàn giao hòa, dung thông, chẳng thể phân ra đâu là Năng Giác, đâu là Sở Giác. Năng Sở bất nhị! Câu kế tiếp nêu ra lý này.

 

(Diễn) Dĩ vô hữu Trí ngoại Như vi Trí sở chứng.

()以無有智外如為智所證。

(Diễn: Do chẳng có Như ở ngoài Trí để được chứng bởi Trí).

“Như” ở đây là Lý, tức Lý như như.

 

(Diễn) Vô hữu Như ngoại Trí năng chứng ư Như.

()無有如外智能證於如。

(Diễn: Chẳng có Trí ở ngoài Như để có thể chứng Như).

Có thể thấy: Cái Trí có thể chứng (năng chứng Trí) và cái Lý được chứng (sở chứng Lý, tức sở chứng Như) là một, không hai. Trong kinh Phật, chữ Như là một chữ kỳ diệu nhất. Nó có nghĩa là gì? Hoàn toàn như nhau thì là Như. Thứ gì hoàn toàn như nhau? Hiện tướng (tướng được biến hiện); hiện tướng và bản tánh như nhau. Hiện tướng, tận hư không khắp pháp giới, chúng ta nói y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, được gọi là “hết thảy vạn pháp”, pháp giống như tánh của nó, tánh giống như pháp. “Như” có ý nghĩa này. Quý vị muốn kiến tánh, kiến ở chỗ nào? Kiến tướng là kiến tánh. Vì sao? Như! Người bình phàm chúng ta rất khó hiểu cảnh giới này. Thuở trước, Hiền Thủ quốc sư đã nêu tỷ dụ: “Dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng đều là vàng”. Ví vàng như Tánh, ví đồ vật như Tướng. Đồ vật thì ta làm bông tai, làm dây chuyền, làm xuyến đeo tay, làm bát uống trà, làm chén trà, làm tượng Phật, làm giá cắm nến, hình dáng thiên biến vạn hóa, nhưng chất liệu đều là hoàng kim. “Đồ vật giống như vàng, vàng giống như đồ vật”. Vàng ví như Chân Như bản tánh của chúng ta, tất cả hết thảy vạn tướng đều do Chân Như bản tánh biến ra.

Vì vậy, Tánh ở chỗ nào? Tánh là Tướng, Tướng là Tánh. Do đó, kinh vừa mở đầu liền nói Như Thị. Nếu quý vị đã hiểu hai chữ ấy, tất cả các kinh đều chẳng cần xem, vì sao? Như Thị! Không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai, các Ngài giảng những gì? Như Thị mà thôi! Ngàn kinh muôn luận đều nhằm giảng Như Thị! Vì lẽ đó, quý vị đã hiểu Như Thị thì cần gì phải xem kinh nữa! Quý vị thật sự lãnh hội, khế nhập hai chữ ấy, quý vị thấy chư Phật giảng kinh, thuyết pháp sẽ cười cợt: “Nói thừa thãi!” Đúng là nói thừa thãi! Quý vị thấy Đại Tạng Kinh được bày ra đó: “Giấy lộn! Rác rưởi!” Thật vậy! Cảnh giới như thế đó! Nhưng vì sao đức Phật vẫn nói? Vì sao có nhiều “giấy lộn” dường ấy? Vì còn có rất nhiều kẻ chẳng hiểu Như Thị là gì, nên rất cần phải giảng cho họ. Đối với người đã hiểu Như Thị, chẳng cần phải nói! Vì thế, kinh mở đầu bằng hai chữ cực diệu ấy, hai chữ ấy là cương lãnh thuyết pháp của đức Phật. Đức Phật giảng gì? Giảng Như Thị. Như như Trí, như như Lý, quý vị có hiểu ý nghĩa của hai chữ Như ấy hay không? Một đằng là nói “Sự giống như Lý” như thế đó, một đằng là nói “Lý giống như Sự” như thế đó. Lý và Sự là một; do đó, Lý và Trí cũng là một. Năng và Sở trọn chẳng thể được, nên chẳng có Năng và Sở.

 

(Diễn) Như không hợp không, tự thủy đầu thủy.

()如空合空,似水投水。

(Diễn: Như hư không hợp với hư không, như nước gieo vào nước).

Đây là nêu tỷ dụ. Hư không và hư không chẳng có giới hạn! Nước và nước, nếu lấy một chén nước đổ vào một chén nước, chẳng thể phân biệt trong ấy, nước nào mới vừa đổ vào? Chẳng có! Tướng ấy hoàn toàn chẳng có, thật sự viên dung.

 

(Diễn) Ngôn lãnh thọ giả, tương ứng nghĩa dã.

()言領受者,相應義也。

(Diễn: Nói “tiếp nhận” có nghĩa là tương ứng).

Thọ (受: tiếp nhận) có ý nghĩa ở chỗ nào? Đã là giao hòa, dung hợp, Thọ có nghĩa là tương ứng.

 

(Diễn) Thỉ Giác hữu thỉ vô chung, Bổn Giác tuy triệt tam tế, kim thỉ xuất triền, diệc hữu thỉ vô chung.

()始覺有始無終,本覺雖徹三際,今始出纏,亦有始無終。

(Diễn: “Thỉ Giác có khởi đầu, chẳng có kết thúc”: Bổn Giác tuy thấu suốt ba đời, nhưng nay mới thoát khỏi triền phược, nên cũng có khởi đầu, chẳng có kết thúc).

Quý vị phải chú tâm lãnh hội mấy câu này. Thỉ Giác có khởi đầu, chẳng có kết thúc, vì quý vị mỗi ngày giác ngộ. Bổn Giác vốn có, giống như Pháp Thân, chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc, vô sanh, vô diệt. Nhưng quý vị chẳng có Thỉ Giác, là vì Bổn Giác của quý vị bị Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng quấn trói, nên Bổn Giác tuy có mà chẳng khởi tác dụng. Hiện thời, quý vị niệm niệm đều giác ngộ, Bổn Giác sẽ dần dần thấu lộ. Chư vị đồng tu phải ghi nhớ, dùng phương pháp gì để khôi phục Bổn Giác? Phải dùng Thỉ Giác. Trong Thỉ Giác, phương pháp thuận tiện nhất và xảo diệu nhất là dùng cái tâm thanh tịnh, dùng tâm chân thành, dùng tâm cung kính để niệm một bộ kinh, sẽ niệm cho ra Bổn Giác, khôi phục nó. Vì sao chẳng bảo quý vị niệm rất nhiều kinh? Niệm rất nhiều kinh sẽ mê. Vì mục đích của việc niệm kinh chẳng nhằm cầu hiểu ý nghĩa của kinh, kinh Phật chẳng có ý nghĩa gì để nói cả, chẳng phải là bảo quý vị cầu hiểu ý nghĩa, mà nhằm bảo quý vị hãy khôi phục Bổn Giác.

Vì lúc quý vị niệm kinh, điều gì cũng chẳng mong tưởng, nên tâm thanh tịnh. Lúc niệm kinh, chẳng có một vọng niệm nào, cũng chẳng có chút phân biệt nào, tâm thanh tịnh, bình đẳng, đó mới là Thỉ Giác. Mỗi ngày có mấy phút, có mấy giờ Thỉ Giác bằng cách tu thanh tịnh, bình đẳng, lâu ngày chầy tháng, Bổn Giác sẽ dần dần khôi phục. Vì thế, niệm kinh là phải niệm cho hết phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, chớ nên nghiên cứu ý nghĩa trong kinh. Nghiên cứu ý nghĩa trong kinh là tăng thêm vọng tưởng, tăng thêm phân biệt, tăng thêm chấp trước, hoàn toàn tương phản, điên đảo mất rồi! Vì lẽ đó, nếu mọi người muốn thật sự khai trí huệ, có thể hiểu hết thảy các pháp, chẳng cần phải học rất nhiều kinh.

Cổ đức có một câu danh ngôn, đó cũng là chân lý: “Một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”, vì sao? Mỗi bộ kinh đều là Như Thị Ngã Văn, quý vị thông suốt một kinh là thông gì vậy? Thật sự thông đạt hai chữ Như Thị. Chỉ cần quý vị thông đạt Như Thị, tất cả hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng có gì không thông đạt, mầu nhiệm ở chỗ này! Càng học kinh luận cho nhiều, càng chẳng thể thông đạt. Người sáng mắt ắt trong tâm có chủ kiến, nói với họ, họ sẽ chẳng tin tưởng. Vì sao không tin? Nghiệp chướng quá nặng!

Do đó, một người thật sự sáng suốt, nếu quan sát một kẻ mới học, [thấy] trên bàn chỉ có một quyển kinh, trong nhà chỉ thờ một bức tượng Phật, sẽ tôn kính người ấy khôn sánh! Vì sao? Người ấy quyết định khai ngộ, quyết định thành tựu. Thấy trong nhà người ấy kinh sách thật nhiều, như vào một tiệm sách, người ấy chẳng thể thành tựu. Người ấy Sở Tri Chướng nặng nề, Phiền Não Chướng nặng nề, chẳng thể thành tựu. Vì sao? Mê man nơi kinh, bị kinh điển của Thích Ca Mâu Ni Phật mê hoặc. Do đó, đối với Giáo, cổ nhân đã nói Giáo giống như tấm lưới, tức “giáo võng” (教網: lưới giáo). Mê mệt trong giáo võng, kẻ ấy là phường tầm thường, rất khó thành tựu! Thật sự là cao nhân, sẽ là suốt một đời chỉ niệm một bộ kinh, mà cũng chẳng cần nghiên cứu, mỗi ngày niệm bộ kinh ấy, niệm đến mức tâm thật sự thanh tịnh, trí huệ hiện tiền. Quý vị nghe người ấy giảng bất luận kinh gì, đều có thể giảng đến mức “chỗ nào cũng là đạo”, tuyệt đối chẳng giảng sai! Lục Tổ đại sư ở núi Hoàng Mai, cả đời Ngài chỉ nghe kinh Kim Cang, nghe bao nhiêu? Đại khái là từ một phần ba đến một phần tư, Ngũ Tổ giảng cho Ngài, giảng đến câu “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, Ngài thưa “chẳng cần giảng nữa”, phần sau không cần giảng. Không chỉ là kinh Kim Cang Ngài hiểu rõ hoàn toàn, mà tất cả hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, Ngài đều hiểu. Ngài hiểu gì vậy? Ngài hiểu rõ Như Thị. Đây là một chứng cứ rất hay!

Chư vị một hồi muốn nghiên cứu cái này, một hồi muốn nghiên cứu cái nọ, tôi ở bên cạnh thấy rất khó chịu! Vì sao? Chẳng có cách nào dạy được! Đó là nghiệp chướng, tập khí quá nặng, là “kẻ đáng thương xót”. Nói lời thật với quý vị, quý vị chẳng tin. Dạy quý vị niệm một quyển kinh, quý vị chẳng tin. Đã không tin lại còn hủy báng, còn chỉ trích tôi: “Chẳng phải là trong quá khứ thầy đã đọc khá nhiều kinh đó sao?” Giống như tôi lừa họ vậy! Trong quá khứ, tôi nghiệp chướng nặng nề, chẳng biết bí quyết này. Nếu tôi vừa bắt đầu học Phật, thầy dạy cho tôi bí quyết ấy, tôi ngay lập tức tiếp nhận, thì hiện thời bét nhất tôi cũng là hàng Sơ Trụ Bồ Tát trở lên, há có giống như tình hình hiện thời? Tướng mạo của tôi sẽ giống như Phật, chẳng có ba mươi hai tướng, cũng phải nên có ba mươi tướng mới đúng! Tôi nói lời thật cùng mọi người: [Đọc quá nhiều kinh luận] là lỗi lầm của tôi, đã đi sai đường, hy vọng quý vị chớ nên lặp lại [sai lầm ấy]! Nếu quý vị muốn đi theo con đường ấy, vẫn chưa chắc là đã có thể đi trót lọt được. Tôi từ vòng mê thoát ra, chỉ sợ quý vị lại mê trong ấy sẽ rất khó thoát ra! Người thoát khỏi Giáo Hạ, từ xưa tới nay chẳng nhiều cho lắm. Người chết gục trong Giáo Hạ đông lắm, không thoát ra khỏi được! Tôi rất may mắn, từ trong giáo võng thoát ra. Nếu chư vị đi theo con đường ấy giống như tôi, tôi cảm thấy rất khó, quý vị chẳng có vận may giống như tôi. Thật sự là đi theo con đường của tôi [đã đi lúc mới bắt đầu học Phật] rất khó đi trót lọt! Nay tôi chỉ điểm con đường này, nếu quý vị có thể đi theo, chắc chắn có thể đi thông suốt, thành tựu nhất định vượt trỗi tôi. Vì tôi đã đi rất nhiều chặng đường oan uổng, chịu thiệt thòi rất to lớn. Cổ đức thường nói: “Yếu tri sơn hạ lộ, tu vấn quá lai nhân” (Muốn biết đường qua núi, phải hỏi kẻ từng trải). Tôi là kẻ đã từng nếm trải, vậy mà quý vị chẳng tin, được rồi! Quý vị cứ đi đi, coi thử khi nào quý vị có thể vùng thoát ra được!

 

(Diễn) Tùng kim chí đương, vô cùng vô tận giả, Báo Thân Thọ dã.

()從今至當,無窮無盡者,報身壽也。

(Diễn: Từ nay cho tới tương lai, vô cùng, vô tận, đó chính là Báo Thân Thọ).

Ở đây, hãy đặc biệt chú trọng “kim thỉ xuất triền” (nay mới thoát khỏi triền phược). Chữ Kim trong Kim Thỉ ngụ ý: Niệm niệm đều là “nay mới bắt đầu”. Ngày nào cũng đều là “kim thỉ”, mãi cho đến khi thành Phật, “kim thỉ thành Phật” (nay mới thành Phật). Mở đầu kinh Hoa Nghiêm là khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, chính là ý nghĩa này; [kinh chép] “thỉ thành Chánh Giác” (vừa mới thành Chánh Giác). Niệm niệm, mỗi ngày đều là “kim thỉ”, nói thông tục là hằng ngày đều có tiến bộ. Một ngày chẳng có tiến bộ, tức là một ngày mê, “tiến bộ” là tâm địa thanh tịnh. Nay chúng ta nghiệp chướng phiền não tập khí rất nặng, phương pháp tốt nhất là đọc kinh. Trước kia, cơ hội tiếp nhận giáo dục ít ỏi, dùng phương thức Thiền Định xác thực rất hữu hiệu. Do đó, Thiền đặc biệt hưng thịnh tại Trung Hoa. Hiện thời, cơ hội tiếp nhận giáo dục nhiều hơn, giáo dục rất phát triển, Thiền Định chẳng hữu dụng. Vì sao? Ai nấy đều biết chữ, ai nấy đều thích đọc sách. Thích đọc sách mà bảo người ấy ngồi yên, người ấy sẽ ngồi rất khổ sở, chẳng thể ngồi yên được, nhất định phải đọc sách, nên con đường Giáo Hạ cũng rất khế cơ. Tịnh Độ Tông cũng thuộc về Giáo Hạ, là một pháp môn đặc biệt trong Giáo Hạ.

Lại xem tiếp Ứng Thân, giảng về Ứng Hóa Thân, điều này dễ hiểu. Bởi lẽ, Ứng Thân hoàn toàn nói theo sự tướng, còn những phần trên đây hoàn toàn nói theo Lý, chẳng dễ hiểu cho lắm!

 

(Diễn) Ứng Thân tắc từ bi lãnh thọ đương cơ.

()應身則慈悲領受當機。

(Diễn: Ứng Thân là từ bi lãnh nhận đương cơ).

“Từ bi” là ái. Học Phật phải đoạn ái dục, có những người không hiểu. Có một năm, trong khóa giảng mùa Hè tại Phật Quang Sơn, toàn là sinh viên các trường đại học hoặc các trường chuyên nghiệp đến đó học Phật, khi tôi giảng “Phật pháp phải đoạn ái dục”, có một nữ sinh viên đứng lên hỏi: “Thưa pháp sư! Nếu ái dục đều đoạn, con người ta sống còn có ý nghĩa gì nữa?” Khi ấy, tôi bảo cô ta: “Cao Hùng có Ái Hà[30], cô cứ nhảy xuống đó sẽ rất có ý nghĩa, vĩnh viễn tắm gội trong Ái Hà”. Chư vị phải nên biết, tình ái của phàm phu là giả, chẳng thật. Nếu là thật sự, sẽ chẳng biến đổi. Quý vị thấy bữa nay yêu thương, ngày mai ầm ĩ ly hôn, toàn là giả trất. Vì thế, phàm phu là hư tình giả ý. Chân ái được gọi là từ bi. Ái dục là giả, từ bi là thật. Lòng yêu thương do từ bi vĩnh viễn chẳng thay đổi. Chỉ có Phật, Bồ Tát mới có chân ái, nếu chẳng phải Phật, Bồ Tát thì đều là giả ái. Yêu thương kiểu đó toàn là gạt người, gạt người mà cũng là lừa chính mình, lừa mình, dối người. Đức Phật dạy quý vị đoạn tuyệt giả ái, tu tập, gìn giữ chân ái. Từ bi là chân ái.

“Lãnh thọ đương cơ”, đương cơ là kẻ học trò có thể dạy dỗ, có thể giúp kẻ ấy. Có thể giúp thì ắt phải giúp đỡ người ấy. Chẳng thể giúp, quý vị ở bên cạnh lặng lẽ quan sát. Vì sao? Chẳng thể giúp! Càng giúp càng phiền phức. Càng giúp, người ấy tạo tội nghiệp càng nặng, người ấy có thể báng Phật. Khi chúng sanh chẳng tin Phật pháp, vì sao Phật, Bồ Tát chẳng đến? Để tránh cho kẻ ấy tạo tội. Phật, Bồ Tát đến, kẻ đó báng Phật, báng thánh hiền tăng, mắc quả báo đọa địa ngục. Phật, Bồ Tát tội gì xuất hiện vào lúc ấy để tạo Tăng Thượng Duyên khiến cho kẻ ấy đọa địa ngục? Vì lẽ đó, Phật, Bồ Tát xuất hiện là đại từ đại bi, Phật, Bồ Tát không xuất hiện trong cõi đời cũng là đại từ đại bi. Thấy quý vị đã có thể tiếp nhận, các Ngài bèn đến dạy quý vị. Thấy quý vị chẳng thể tiếp nhận, các Ngài bèn rời khỏi. Hoặc là các Ngài trở lại thị hiện thân đồng loại, quý vị sẽ chẳng báng Phật. Các Ngài cũng thị hiện làm phàm phu, quý vị chẳng đến nỗi hủy báng các Ngài. Đó là từ bi tiếp nhận đương cơ.

 

(Diễn) Cố danh vi Thọ, tuy vân lãnh thọ, diệc vô Năng Sở.

()故名為受,雖云領受,亦無能所。

(Diễn: Vì thế gọi là Thọ (tiếp nhận), tuy nói là “lãnh nhận”, cũng chẳng có Năng và Sở).

Tâm Phật thanh tịnh, tuyệt đối chẳng phải là “tôi là người có thể độ, quý vị là người được tôi độ”. Nếu có quan niệm ấy, sẽ là phàm phu, tuyệt đối chẳng phải là một bậc giác ngộ, vì sao? Tâm Ngài thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, há có cao thấp? Há có Năng và Sở?

 

(Diễn) Dĩ Phật duy đại bi đại trí, vị chúng sanh tác Tăng Thượng Duyên, linh thiện căn thành thục chúng sanh, tự kỷ tâm trung kiến Phật thuyết pháp. Ngôn lãnh thọ giả, cơ cảm tương ứng nghĩa dã. Chúng sanh cơ thục, ưng tắc tùy hiện. Chúng sanh cơ tức, ưng tắc tùy vong, hữu thỉ, hữu chung, nhất kỳ bất đoạn giả, thử Ứng Thân thọ dã.

()以佛唯大悲大智,為眾生作增上緣,令善根成熟眾生,自己心中見佛法。言領受者,機感相應義也。眾生機熟,應則隨現,眾生機息,應則隨亡,有始有終。一期不斷者,此應身壽也。

(Diễn: Do Phật chỉ vì đại bi đại trí mà làm Tăng Thượng Duyên cho chúng sanh, khiến cho các chúng sanh có thiện căn đã chín muồi bèn thấy đức Phật thuyết pháp trong tâm của chính mình. Nói “lãnh nhận” nghĩa là cơ cảm tương ứng. Chúng sanh căn cơ đã chín muồi, bèn phải nên ứng hiện. Căn cơ của chúng sanh đã hết, ắt phải thuận theo đó mà chấm dứt. [Do đó], có khởi đầu, có kết thúc. [Tồn tại] một thời kỳ chẳng ngưng dứt là thọ mạng của Ứng Thân vậy).

Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế tám mươi năm, tức là có khởi đầu, có kết thúc. Vì sao đức Phật xuất hiện trong thế gian? “Chúng sanh cơ thục” (Căn cơ của chúng sanh chín muồi), vì sao nhập diệt? “Chúng sanh cơ tức” (Căn cơ của chúng sanh đã chấm dứt). Đó là có khởi đầu, có kết thúc. Phật do đại bi tâm, “đại bi tâm” là tâm thương xót chúng sanh, đó là một động lực, “đại trí” là giúp chúng ta khai ngộ. Vì thế, Ngài làm Tăng Thượng Duyên cho chúng ta, nêu bày chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, dạy chúng ta khôi phục bản tánh như thế nào, khôi phục trí huệ và đức năng sẵn có trong bản tánh của chính mình như thế nào. Ngài làm chuyện này, chỉ là Tăng Thượng Duyên.

Trên thực tế, khôi phục bản tánh là năng lực của chính quý vị, còn đức Phật thì khuyên dụ, hướng dẫn. Giống như hai ngọn nến, ngọn nến của Phật đã thắp sáng, ngọn nến của chúng ta tắt ngấm, chúng ta mượn ánh sáng của Ngài để thắp sáng, quang minh do tự thân phát ra, chẳng do Ngài ban cho. Trí huệ và đức năng của chúng ta cũng khôi phục như thế. Hiểu đạo lý này thì mới thật sự thấu hiểu “đức Phật chẳng độ chúng sanh”, chúng sanh là tự ngộ, tự độ. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!