A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 7 – Tập 189 – 194

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 7 – Tập 189 – 194

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 189

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm tám mươi chín:

 

(Diễn) Hựu Pháp Thân giả, sư quỹ Pháp Tánh, hoàn dĩ Pháp Tánh vi thân. Thử thân phi sắc chất, diệc phi tâm trí, phi Ấm, Giới, Nhập chi sở nhiếp trì, cưỡng chỉ Pháp Tánh vi Pháp Thân nhĩ.

()又法身者,師軌法性,還以法性為身,此身非色質,亦非心智,非陰界入之所攝持,強指法性為法身耳。

(Diễn: Lại nữa, Pháp Thân noi theo Pháp Tánh, lại còn lấy Pháp Tánh làm thân. Thân ấy chẳng phải là sắc chất, cũng chẳng phải là tâm trí, chẳng bị nhiếp trì bởi Ấm, Giới, Nhập, cưỡng gọi Pháp Tánh là Pháp Thân mà thôi).

 Pháp Hoa Kinh Thọ Lượng Phẩm Sớ (lời Sớ cho phẩm Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa) chép: “Thọ giả thọ dã, nhược Pháp Thân, Chân Như bất cách chư pháp, cố danh vi Thọ” (Thọ mạng là Thọ (lãnh chịu). Nếu là Pháp Thân, do Chân Như chẳng cách ngăn các pháp, nên gọi là Thọ (lãnh chịu)), giải thích Pháp Thân là gì. Sách Diễn Nghĩa đã giảng rất rõ ràng, văn tự vắn tắt, ý nghĩa trọn đủ, dễ nhớ. “Sư quỹ Pháp Tánh”: Pháp Thân là Pháp Tánh. Pháp Tánh chẳng phải là vật chất, nên nó chẳng phải là sắc pháp, mà cũng chẳng phải là tâm trí, cho nên cũng chẳng phải là tâm pháp, nhưng hết thảy sắc pháp và tâm pháp đều do nó biến hiện. Triết học cận đại gọi nó là “bản thể của vạn hữu trong vũ trụ”; trong Phật pháp, nó được gọi là Pháp Thân. “Sư quỹ Pháp Tánh”, “sư” (師) có nghĩa là sư pháp (師法: tuân theo, vâng theo), tuân theo pháp. “Quỹ” (軌) là quỹ tắc (軌則: đường lối, khuôn khổ), giống như xe lửa chạy trên đường rầy. Pháp Tánh là thể tánh của hết thảy các pháp, chúng ta gọi nó là Pháp Tánh, nó cũng là bản thể của hết thảy các pháp. Chúng ta gọi Pháp Tánh là thân, thân ấy chẳng phải là thân thể của chúng ta, mà là thân của vạn pháp trong toàn thể vũ trụ; thân ấy được gọi là Pháp Thân.

“Thử thân phi sắc chất, diệc phi tâm trí” (Thân ấy chẳng phải là sắc chất, mà cũng chẳng phải là tâm trí). Pháp Thân chẳng phải là sắc pháp, mà cũng chẳng phải là tâm pháp. Đức Phật nói đến sắc và tâm, thường triển khai tỉ mỉ thành Ngũ Ấm, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới, kinh Lăng Nghiêm nói rất cặn kẽ. Pháp Thân có phải là những thứ ấy hay không? Chẳng phải! Thảy đều chẳng phải! Pháp Thân cũng chẳng rời lìa những thứ ấy, vì hết thảy các pháp đều do Pháp Tánh biến hiện, nơi hữu tình chúng sanh, chúng ta gọi nó là Phật Tánh, nơi vô tình chúng sanh thì gọi là Pháp Tánh. Chư vị phải biết: Pháp Tánh có phạm vi bao quát còn lớn hơn Phật Tánh. Nói thật ra, chúng là một tánh, chẳng phải là hai tánh. Hiểu đạo lý này, chúng ta mới chẳng hoài nghi câu “tình và vô tình, cùng viên thành Chủng Trí” trong kinh Hoa Nghiêm, vì tất cả vạn pháp đều sanh từ cùng một căn nguyên.

“Cưỡng chỉ”, “cưỡng” (強) là miễn cưỡng. Trên thực tế, chỉ có thể hiểu ý, chẳng thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Vì thế, nói đến chỗ này, “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Không chỉ là nói chẳng được, mà ngay cả nghĩ tưởng cũng chẳng thể nghĩ tưởng được! Hễ nghĩ tưởng bèn rơi vào tâm trí, hễ nói năng sẽ rớt vào sắc chất. Nó có thật, chẳng phải là không có, thật sự tồn tại. Tuy tồn tại, lục căn của chúng ta chẳng có cách nào tiếp xúc. Nói thật ra, chẳng phải là lục căn không thể tiếp xúc! Nếu bảo là lục căn không thể tiếp xúc, cớ sao Phật và đại Bồ Tát có thể tiếp xúc? Có thể thấy bọn phàm phu chúng ta sở dĩ chẳng thể tiếp xúc là vì còn có chướng ngại trong ấy. Chướng ngại gì vậy? Chướng ngại rất nhiều, trong kinh, đức Phật đã quy nạp khá nhiều thứ chướng ngại ấy thành hai loại lớn: Một loại lớn là Phiền Não Chướng, loại lớn kia là Sở Tri Chướng. Chỉ cần hai thứ chướng ngại này tồn tại, sẽ chẳng có cách nào thấy Pháp Thân.

Thấy Pháp Thân thì mới coi như tìm được chính mình, tức là cái được Thiền gia gọi là “phụ mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra), coi như quý vị đã tìm được chính mình. Chẳng thấy Pháp Thân, nói thật ra là mê mất chính mình, chính mình ở đâu chẳng biết! Do vậy có thể biết, chuyện này hết sức trọng yếu, chúng ta học Phật nhằm mục đích nào? Mong tìm được Pháp Thân, Thiền Tông nói là “minh tâm kiến tánh”, kiến tánh đã tìm được [Pháp Thân]. Tánh là gì? Tánh là Pháp Tánh, là Pháp Thân, đã tìm được nó. Phải như thế nào thì mới kiến tánh? Phải minh tâm. Nay cái tâm của chúng ta chẳng minh, tâm một mực hồ đồ. Do đó, phải thực hiện “công tác” minh tâm!

Phải làm sao thì tâm mới minh? Vậy thì trước hết quý vị trước phải tự hỏi: Vì sao tâm chẳng minh? Trong tâm có vọng niệm sẽ chẳng minh, có phân biệt sẽ không minh, có vọng tưởng sẽ không minh, có phiền não, có chấp trước sẽ không minh. Những thứ ấy điều nào chúng ta cũng có đầy đủ; vì thế, tâm chẳng minh, chẳng thấy Pháp Tánh! Mê mất chính mình, do mê nên mới có lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi do ai tạo ra? Mê tạo ra! Chính mình mê, chính mình tạo, chính mình hứng chịu, quý vị thấy oan uổng quá đi! Trong kinh, đức Phật thường cảm thán: “Kẻ đáng thương xót”, rất đáng thương! Tự làm, tự chịu. Có những thứ ấy hay chăng? Thưa cùng chư vị, thật sự chẳng có, lục đạo cũng chẳng có, luân hồi cũng chẳng có. Tuy chẳng có, nhưng chính quý vị khăng khăng tạo ra cho có, giống như nằm mộng, mộng là thật hay giả? Thật sự chẳng có! [Đã là] thật sự chẳng có, mà quý vị cứ khăng khăng muốn nằm mộng, mỗi ngày gặp ác mộng, mỗi ngày sợ đến nỗi toàn thân mướt mồ hôi lạnh, do đâu mà khổ sở thế? Do mê mất chính mình nên mới có hiện tượng này.

Cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn được nói trong Tịnh Độ Tông chẳng hai, chẳng khác [cảnh giới] “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” trong nhà Thiền. Chư vị phải biết: So sánh giữa Thiền và Tịnh, Thiền khó khăn! Thiền nếu không thấy tánh, chẳng có thành tựu. Nói cách khác, luống uổng một đời! Dẫu đắc Thiền Định, sanh lên Sắc Giới Thiên hoặc Vô Sắc Giới Thiên, khi thọ mạng đã hết, vẫn phải đọa lạc. Vì vậy, chẳng thể coi là thành tựu, vẫn phải luân hồi trong lục đạo y như cũ. Nhưng muốn do Thiền mà kiến tánh, có mấy ai [tu thành công]? Nếu chúng ta đọc lịch sử Thiền Tông, từ xưa tới nay, có mấy ai khai ngộ kiến tánh do Thiền? Chưa được một phần vạn! Trong một vạn người, khó có được một kẻ thành tựu. Đó là trong quá khứ, cận đại thì chỉ sợ trong mười vạn người hoặc trăm vạn người, chẳng tìm được một ai! Vì sao? Tâm họ chẳng tĩnh được. Xã hội hiện thời có sức dụ dỗ, mê hoặc quá lớn, dụ dỗ, mê hoặc quá nhiều, quá phức tạp. Xã hội xưa kia đơn thuần mà thành tựu còn ít ỏi ngần ấy, huống hồ hiện thời!

Pháp môn Tịnh Độ Tông, vạn người tu vạn người đến, một vạn người tu, một vạn người thành công. Thiền là một vạn người tu, khó có một kẻ thành công, quý vị vẫn hành pháp ấy hay sao? Phải hiểu rõ chân tướng sự thật, biết pháp môn ấy không thể theo! Chẳng phải là pháp môn không hay, mà là do nghiệp chướng của chính mình quá nặng, chẳng thể hành trót lọt! Pháp môn này (Tịnh Độ) là đới nghiệp vãng sanh; vì thế, hành trót lọt, chẳng cần đoạn phiền não. Tuy chẳng đoạn phiền não, nhưng chư vị phải biết: Ắt phải do một câu Phật hiệu khuất phục phiền não thì mới có thể vãng sanh. Khuất phục phiền não dễ hơn đoạn phiền não quá nhiều. Chúng ta suy nghĩ [sẽ thấy chính mình] chẳng có năng lực đoạn phiền não, nhưng chế phục phiền não thì vẫn có thể làm được! Phải quý trọng pháp môn này, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn thành tựu Lý nhất tâm bất loạn, đó là chứng Pháp Thân.

Chiếu theo cách nói trong kinh Vô Lượng Thọ, pháp môn này thật sự là pháp khó tin. Không vãng sanh thì thôi, chẳng bàn tới nữa, chứ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, kinh đã dạy rõ ràng: Bốn mươi tám nguyện chẳng giả, đức Phật nói người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều chứng đắc A Bệ Bạt Trí. A Bệ Bạt Trí là cảnh giới gì? Cảnh giới của bậc Thất Địa Bồ Tát trong Đại Thừa Viên Giáo, tuyệt diệu thay! Sơ Trụ đã minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Từ Sơ Trụ đạt đến Thất Địa, chẳng thể nghĩ bàn! Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, ba mươi địa vị ấy, lại thêm Thất Địa, tức là đã vượt trỗi ba mươi bảy địa vị, làm sao có thể khiến cho kẻ khác tin tưởng cho được! Do vậy, pháp môn này được gọi là pháp khó tin. Không chỉ là phàm nhân khó tin, mà khá nhiều bậc Đại Thừa Bồ Tát cũng chẳng thể tin tưởng.

Kinh cũng nói rất hay: Nếu pháp môn này chẳng được Phật lực gia trì, tuyệt đối chẳng phải là chúng sanh trong chín pháp giới có thể cậy vào năng lực của chính mình để liễu giải! Chín pháp giới bao gồm cả Bồ Tát, trong hàng Bồ Tát bao gồm Đẳng Giác Bồ Tát. Nếu Đẳng Giác Bồ Tát chẳng được Phật lực gia trì, cũng chẳng hiểu rõ Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nay chúng ta có thể tin tưởng, có thể phát nguyện, đều là do Phật lực gia trì. Chẳng do Phật lực gia trì, ngay cả Đẳng Giác Bồ Tát cũng không [tin pháp môn này], chúng ta là hạng phàm phu lè tè sát đất làm sao có thể tin tưởng cho được? Do đó, ngày nay có khá nhiều người chẳng thể tiếp nhận, chẳng thể tin tưởng pháp môn này, quý vị ngàn vạn phần đừng hoài nghi, đừng nên chê trách. Chúng ta có thể tin tưởng tức là rất may mắn, chướng ngại ít hơn một chút, được Phật gia trì; những kẻ chẳng thể tiếp nhận, nghiệp chướng nặng nề, Phật lực có muốn gia trì họ cũng chẳng thể gia trì được, do có chướng ngại trong ấy.

 

(Diễn) Chân như bất cách giả, dĩ nhất thiết pháp tất giai chân cố, nhất thiết pháp giai đồng như cố. 

()真如不隔者,以一切法悉皆真故,一切法皆同如故。

(Diễn: Chân Như chẳng  ngăn  cách: Do  hết  thảy  các  pháp  đều thật, hết thảy các pháp đều Như).

 Hai câu này có ý nghĩa quá sâu. Bậc Viên Giáo Sơ Trụ trở lên thấy Pháp Tánh, chúng ta chẳng thấy, là do đạo lý “Chân Như bất cách”. Chân Như chẳng có chướng ngại, đó gọi là “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Thế gian này đích xác là chẳng có chướng ngại, chướng ngại do đâu mà có? Do mê mà có. Mê là phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, phiền não, do có những thứ ấy nên có chướng ngại. Chẳng có những thứ ấy, tất cả chướng ngại đều chẳng có. Vì Chân Như chẳng ngăn cách, nên không có một pháp nào chẳng Chân, chẳng có pháp nào không Như! “Chân” là nói tới bản thể của Pháp Tánh, tức tánh thể; Như là nói tới tác dụng của Pháp Tánh. Nó chẳng có tướng, mà nó có thể biến hiện hết thảy tướng. Nó chẳng phải là sắc pháp, mà có thể biến hiện sắc pháp. Nó chẳng phải là tâm pháp, mà có thể biến hiện tâm trí. Sắc và tâm đều do nó biến. Vì thế, sắc và tâm đều giống hệt như nhau!

Vừa mở kinh điển Đại Thừa ra, câu đầu tiên là Như Thị Ngã Văn. Như Thị được giải thích như thế nào? Chính là “Chân Như bất cách” như đang nói ở đây. Hết thảy các pháp đều Chân, hết thảy các pháp đều Như. Như Thị có ý nghĩa như vậy đó. Hai chữ Như Thị đã nói trọn vẹn tất cả Phật pháp. Một bộ Đại Tạng Kinh ngàn vạn ngôn từ đều nhằm chú giải hai chữ Như Thị mà thôi! Quý vị hiểu hai chữ ấy, có còn phải xem Đại Tạng Kinh nữa hay không? Chẳng cần! Do đó, chư vị thật sự ngộ nhập, đã hiểu, khi ấy, có thể vỗ tay cười to ha hả, những gì đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong suốt bốn mươi chín năm là một đống to đùng lời lẽ thừa thãi! Đại Tạng Kinh là giấy lộn, rác rưởi! Ai cần nó? Người mê mới cần! Người đã ngộ chẳng cần tới. Kẻ miệt mài trong đống giấy cũ, suốt một đời vẫn chẳng thể khai ngộ. Học Phật, Phật bảo quý vị khai ngộ, chẳng phải là bảo quý vị miệt mài trong đống giấy cũ, chẳng bảo quý vị đọc rất nhiều kinh. Chớ nên hiểu lầm, hãy ngộ gì? Ngộ Pháp Tánh, Pháp Tánh mới là căn bản, mới là diện mạo chính mình vốn sẵn có, điều này là trọng yếu! Ba thân lấy Pháp Thân làm căn bản. Ai nấy đều trọn đủ Pháp Thân. Nếu quý vị chẳng có Pháp Thân, cái thân này do đâu biến hiện? Cảnh giới trước mắt chúng ta do đâu biến hiện? Toàn là do Pháp Thân biến hiện. Vì thế, Pháp Thân ai nấy đều trọn đủ, chẳng ai không có, lại còn chắc chắn là bình đẳng, Pháp Thân là bình đẳng.

Tựa đề Đại Kinh đã phô bày [rõ rệt]: Pháp Thân Lý thể là Vô Lượng Thọ, thật sự vô lượng, chẳng phải là “hữu lượng chi vô lượng”, mà là thật sự vô lượng, tức là vô lượng thọ. Tướng Pháp Thân là Trang Nghiêm, tác dụng của Pháp Thân là Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác. Chúng ta tu hành, tu những gì? Tu thanh tịnh, tu bình đẳng, tu giác chứ không mê, quả là trang nghiêm, là vô lượng thọ, quý vị thảy đều đạt được. Trang Nghiêm là Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Vô Lượng Thọ là Chân Như biến hiện hết thảy các pháp, pháp nào cũng đều Như, pháp nào cũng đều thật.

Người biết học nắm vững cương lãnh, nắm những thứ này để học, chẳng cần phải học những thứ cành lá! Vì sao nhập môn bèn bảo quý vị dùng đọc kinh để nhập môn? Đọc kinh nhằm tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng, tu giác tâm, tu những điều ấy. Quý vị niệm kinh này một lần, tâm quý vị bèn thanh tịnh một lần. Mỗi lần là hai tiếng đồng hồ, quý vị tu tâm thanh tịnh hai tiếng đồng hồ. Niệm một tiếng đồng hồ là quý vị tu tâm thanh tịnh một tiếng đồng hồ. Do đó, niệm kinh chẳng cần mong hiểu nghĩa, hiểu nghĩa chính là suy nghĩ loạn xạ. Kinh chẳng có ý nghĩa, quý vị cứ khăng khăng tìm tòi ý nghĩa trong ấy, chẳng phải là hỏng bét ư! Nó vừa chẳng phải là sắc pháp, mà cũng chẳng phải là tâm trí, há có ý nghĩa gì? Chẳng có ý nghĩa, cứ khăng khăng tìm ý nghĩa trong ấy, đó gọi là “dấy vọng tưởng, chẳng thật thà”, quý vị vĩnh viễn chẳng tìm thấy thanh tịnh Pháp Thân! Điều này vô cùng khẩn yếu. Lại xem đến Báo Thân, Báo Thân là Pháp Thân hiện tướng, là Pháp Thân khởi tác dụng. Báo Thân là tác dụng của Pháp Thân.

 

(Diễn) Hựu Báo Thân giả, tu hành sở cảm.

()又報身者,修行所感。

(Diễn: Lại nữa Báo Thân là do tu hành cảm vời).

Báo Thân là trí huệ, là tâm trí, [tức là] trí huệ.

 

(Diễn) Pháp Hoa vân: “Huệ quang chiếu vô lượng, cửu tu nghiệp sở đắc”.

()法華云:慧光照無量,久修業所得。

(Diễn: Kinh Pháp Hoa chép: “Huệ quang chiếu vô lượng, nghiệp tu lâu đạt thành”).

Đối với hai câu này, tôi nghĩ chẳng có chữ nào là khó, đều nhận ra, mà cũng có thể niệm được, nhưng có thể thấu hiểu ý nghĩa hay không? Nếu quý vị thật sự lãnh hội, chắc chắc sẽ thành tựu trong một đời này. Kinh chẳng cần nhiều, một câu hoặc hai câu là đủ dùng rồi, thọ dụng suốt một đời này chẳng hết. Trong đây, điều quan trọng nhất là phải Chiếu, kế đó là “tu lâu”, đó là những chữ then chốt trong câu này. Như nhà Thiền đã nói, mọi người thường niệm Tâm Kinh, [trong ấy có câu] “chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”. Cương lãnh tu học trong nhà Thiền không chỉ thích hợp với Thiền Tông. Hễ nói tới cương lãnh thì Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều thích hợp. Trong phương pháp tu hành, bước đầu là sử dụng Quán Chiếu. Quán Chiếu lâu ngày sẽ Định, tức là Chiếu Trụ. Chiếu Trụ là đắc Định. Trong Định lại khai trí huệ, trí huệ vừa khai liền Chiếu Kiến. Trong ba bậc công phu ấy, tầng thứ nhất là Quán Chiếu, tầng thứ hai là Chiếu Trụ, tầng thứ ba là Chiếu Kiến, Tâm Kinh là Chiếu Kiến.

Đem phối hợp với Tịnh Độ, chúng ta gọi Quán Chiếu là công phu thành phiến. Ví như nay chúng ta dùng phương pháp niệm kinh Vô Lượng Thọ, đích xác là một phương pháp tốt đẹp. Ta mỗi ngày niệm ba lượt hoặc năm lượt, đó là tu Quán Chiếu. Tịnh Độ Tông nói là “chế phục phiền não”. Ta dùng phương pháp này để chế phục phiền não. Chế phục lâu ngày, phiền não chẳng còn nữa, đoạn mất. Phiền não đoạn mất sẽ là Sự nhất tâm bất loạn. Thiền Tông gọi Sự nhất tâm bất loạn là Chiếu Trụ, Tịnh Độ Tông gọi là Niệm Phật Tam Muội. Công phu lại tăng cao hơn bèn chứng Lý nhất tâm bất loạn. Lý nhất tâm bất loạn là Chiếu Kiến, là thấy bản tánh. Do vậy có thể biết: Sự nhất tâm chỉ đắc Định, chẳng khai huệ; Lý nhất tâm bèn khai trí huệ, là bậc Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát trở lên. Nói theo Lục Tức Phật của tông Thiên Thai, Pháp Thân là Lý Tức Phật, tức là Lý Thể ai nấy đều có. Công phu thành phiến là Quán Hạnh Tức Phật, Quán Chiếu như Thiền gia đã nói chính là Quán Hạnh Tức Phật. Chiếu Trụ là Sự nhất tâm bất loạn, là Tương Tự Tức Phật. Tương Tự nghĩa là rất giống Phật, nhưng vẫn chưa phải là Chân Phật, mà là Tương Tự Phật. Đạt đến Chiếu Kiến bèn là Lý nhất tâm bất loạn, là Phần Chứng Tức Phật. Đó là thật, chẳng giả, nhập địa vị Phần Chứng. Vì lẽ đó, Báo Thân là từ Sơ Trụ trở lên, cũng là cảnh giới “chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không” như Tâm Kinh đã nói, chính là cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn trong Tịnh Độ Tông.

Vì vậy, cương lãnh trọng yếu trong tu hành là phải quán chiếu, phải là huệ quang chiếu vô lượng. Huệ quang trong Tịnh Tông là tụng kinh, trì danh. Một tiếng Phật hiệu là một tiếng vô lượng quang minh, từng tiếng Phật hiệu là từng tiếng vô lượng quang. Quý vị niệm kinh hay niệm Phật là vô lượng quang, vô lượng thọ, không ngừng chiếu. Nay chúng ta cũng niệm kinh, cũng niệm Phật, vì sao chẳng có hiệu quả? Quý vị chẳng tu đã lâu! Lâu là lâu cỡ nào? Tôi nói cho quý vị biết: Ba tháng! Quý vị có chịu làm hay không? Ba tháng mà quý vị cũng chẳng chịu làm, còn nói chi nữa! Phải trì thường hằng thì quý vị mới có thể thành công. Tuyệt đối chẳng phải là tu đôi ba ngày bèn có hiệu quả, chẳng hề có chuyện đó! Tôi dạy quý vị một phương pháp, mỗi ngày niệm kinh Vô Lượng Thọ một lượt, hoặc hai lượt, ba lượt, mỗi ngày [đều niệm như thế] chẳng gián đoạn; sau ba tháng quý vị sẽ có cảm nhận, tâm sẽ thanh tịnh, phiền não ít đi, trí huệ tăng trưởng, đó chính là hiệu quả. Quý vị niệm càng nhiều, sức mạnh càng lớn. Người thật sự niệm suốt ba tháng, bèn có tín tâm, vì sao? Đã nếm được pháp vị, bèn có thể sanh tâm hoan hỷ. Niệm nửa năm, tâm sẽ kiên cố, chẳng bị dao động. Các pháp môn khác dụ dỗ, mê hoặc, người ấy chẳng dễ dàng bị dao động. Vì sao? Người ấy đã dần dần đặt vững căn cội nơi ấy, đã nếm được công đức lợi ích. Nay chúng ta còn bị cảnh giới bên ngoài dao động, vẫn còn nghĩ Đông tưởng Tây, tức là ngay cả căn còn chẳng có, thật sự chẳng có hai chữ “tu lâu”! Ba tháng công phu mà chúng ta cũng chẳng có, nói gì được nữa!

Đối với các bậc cổ đức, chư vị đọc ngữ lục của Thiền Tông, hoặc đọc Cao Tăng Truyện, Nho lẫn Phật đều nói tới sư thừa, học theo một vị thầy, thầy dạy những gì? Từ truyện ký hoặc lịch sử, chúng ta chẳng thấy thầy giảng kinh, thuyết pháp cho học trò mỗi ngày. Gương điển hình nhất [được ghi chép trong] Lục Tổ Đàn Kinh. Lục Tổ ở núi Hoàng Mai, Ngũ Tổ dạy Ngài những gì? Ngày đầu tiên gặp mặt, nói mấy câu, liền sai Ngài đến làm việc trong xưởng xay xát, đó là truyền pháp, có mấy ai biết? Làm lụng nhọc nhằn tám tháng, Ngũ Tổ biết Ngài đã thành tựu, bèn nửa đêm canh ba tìm Ngài truyền y bát cho. Suốt tám tháng Lục Tổ chẳng bước vào Thiền đường, chẳng nghe Ngũ Tổ thuyết pháp, đó gọi là truyền tâm! Làm việc là tu phước, trong khi làm lụng chẳng có một vọng tưởng nào, một niệm chẳng sanh, Định lẫn Huệ đều thành tựu. Vì thế, Lục Tổ ở Hoàng Mai tám tháng là phước huệ song tu! [Sau khi đã tu viên mãn bèn] rời khỏi sư phụ, ra đi!

Sư phụ dạy đồ đệ, trao cho quý vị một bản kinh, trao cho quý vị kinh Pháp Hoa hoặc kinh Lăng Nghiêm, mỗi ngày niệm một lần, niệm suốt năm năm. Niệm xong năm năm mới lại đến gặp ta, ta sẽ truyền pháp cho ngươi. Niệm xong năm năm, hướng về sư phụ thỉnh pháp, sư phụ bảo: “Pháp tại nhữ biên” (Pháp ở ngay nơi ngươi), ngay lập tức đạt được! Vì sao? Trong năm năm ấy, Định và Huệ đã thành tựu viên mãn. Đó là vị thầy Căn Bản, sau đấy mới ra ngoài tham học, tham học nhằm thành tựu Hậu Đắc Trí. Thành tựu Căn Bản Trí từ tay thầy, Căn Bản Trí là Bát Nhã vô tri. Do đó, đối với sư thừa, thầy dạy quý vị vô tri, chẳng nhằm dạy quý vị hữu tri! Dạy quý vị hữu tri là hỏng rồi! Dạy quý vị đắc tâm thanh tịnh như thế nào, trong tâm thanh tịnh tự nhiên sanh ra trí huệ. Nếu quý vị chẳng nghe lời thầy, vẫn lén lút mong học điều này, học điều nọ, thôi rồi. Thầy thấy vậy: “Đứa học trò này hết cách, đã hết cách thì cũng chẳng thể miễn cưỡng!” Trong Phật pháp, nhất định chẳng thể miễn cưỡng một ai! Nghe lời thì quý vị sẽ tự nhiên đạt thành tựu; chẳng nghe lời, chẳng thể thành tựu. Thầy thật sự dạy, thật sự dạy những gì? Thứ gì cũng không dạy! Điều gì cũng không dạy là thật sự dạy! Mầu nhiệm ở chỗ này! Phật pháp hoàn toàn khác pháp thế gian, hy vọng mọi người hãy thường thấu hiểu, đó là pháp vị. “Cửu tu nghiệp sở đắc” (Là điều đạt được do hạnh nghiệp tu trì đã lâu), một pháp môn!

Trong các buổi giảng, chúng tôi thường kể với chư vị: Đồ đệ của lão hòa thượng Đế Nhàn niệm một câu A Di Đà Phật, niệm ba năm bèn đứng vãng sanh. Sau khi đã vãng sanh, vẫn đứng sững ba ngày, chờ sư phụ đến lo liệu hậu sự cho chính mình. Ông ta chỉ có một câu A Di Đà Phật. Quý vị thấy lão hòa thượng dạy ông ta đơn giản lắm: “Ông cứ thật thà niệm. Niệm mệt bèn nghỉ ngơi. Nghỉ khỏe khoắn xong bèn niệm tiếp”. Ông ta thật sự nghe lời, niệm ba năm, do nghiệp tu đã lâu bèn đạt được, niệm đến mức nhất tâm bất loạn! Biết trước lúc mất, chẳng ngã bệnh, trước ngày vãng sanh, còn đến gặp thân thích, bằng hữu để từ biệt, ngày hôm sau tự tại ra đi. Nếu ông ta chẳng thật thà, còn muốn xem kinh này, vừa muốn theo đuổi kinh sám, vừa muốn làm pháp hội, vừa muốn giao tế, thù tạc, thôi rồi, ba mươi năm cũng chẳng thể thành tựu! Vị thầy ấy mới đúng là ân sư! Lão pháp sư Đế Nhàn đưa ông ta đến một ngôi chùa nhỏ tại vùng quê, trước nay chẳng gặp ông ta một lần! Sau khi đưa ông ta đến đó ba năm, lại đến lo liệu hậu sự, Ngài là vị thầy chân chánh. Há có phải là thầy suốt ngày từ sáng đến tối trông chừng, đó là thầy kiểu gì vậy! Nhìn vào các tấm gương sư thừa xưa nay, hãy nên lãnh ngộ, nhất định phải là phước huệ song tu. Vì lẽ đó, hai câu kinh Pháp Hoa này rất hay! Phải học!

 

(Diễn) Niết Bàn vân: Đại Bát Niết Bàn tu đạo đắc cố.

()涅槃云:大般涅槃修道得故。

(Diễn: Kinh Niết Bàn nói: “Đại Bát Niết Bàn là do tu đạo mà đắc”).

Niết Bàn (Nirvāṇa) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Diệt, [hàm ý] diệt phiền não, diệt vọng tưởng, diệt sanh tử, những thứ ấy đều diệt thì gọi là Niết Bàn. Niết Bàn còn dịch là Viên Tịch, Viên (圓) là viên mãn, Tịch (寂) là thanh tịnh tịch diệt. Người hiện thời lầm lạc, ngỡ chết là Niết Bàn. Nếu chết là Niết Bàn, thì Niết Bàn có còn phải tu nữa không? Chẳng cần phải tu, nhất định phải hiểu điều này! Đấy là lầm lẫn quá đỗi! Chư vị phải hiểu: Niết Bàn là chứng đắc ngay trong khi còn sống, chẳng phải là chết rồi mới chứng đắc. Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinirvāṇa): Đại là Đại Thừa. Tiểu Thừa bát Niết Bàn, chỉ diệt Kiến Tư phiền não, hãy còn có Trần Sa và Vô Minh mà họ chẳng biết. Đại Bát Niết Bàn là Trần Sa phiền não và Vô Minh phiền não thảy đều diệt hết, là do “tu đạo đắc cố” (do tu đạo mà đạt được). Đại Bát Niết Bàn là do tu đạo thì mới có thể đạt đến. Đại Bát Niết Bàn là Pháp Tánh, là Pháp Thân được nói trong phần trước, nhất định phải tu đạo thì mới có thể đạt đến.

 

(Diễn) Thử thân phi thân, phi bất thân, cưỡng danh thử trí vi Báo Thân nhĩ.

()此身非身非不身,強名此智為報身耳。

(Diễn: Thân này chẳng phải là thân, chẳng phải là không phải thân, cưỡng gọi trí ấy là Báo Thân mà thôi).

Chẳng thể nói Báo Thân là thân, mà cũng chẳng thể nói nó không phải là thân. Quý vị nói nó chẳng phải là thân ư? Thân tồn tại. Quý vị bảo nó là thân ư? Thân này chẳng phải là Báo Thân. Tuy thân này chẳng phải là Báo Thân, nhưng nó là chỗ nương vào của Báo Thân. Báo Thân là trí huệ, tức là đối với vũ trụ, đối với nhân sinh, đối với hoàn cảnh, đối với chính mình, đều triệt để nhận biết, triệt để hiểu rõ, nương tựa vào cái thân này, “phi thân, phi bất thân” (chẳng phải là thân, chẳng phải là không phải thân). Chư vị nhất định phải biết: Báo Thân là nói theo phương diện trí huệ, trí huệ là nói theo sự ngộ nhập Pháp Tánh. Vì lẽ đó, hàng Bồ Tát bình phàm chẳng có Báo Thân. Từ Viên Giáo Sơ Trụ trở lên mới có Báo Thân. Nói cách khác, chẳng kiến tánh, thân này chẳng gọi là Báo Thân. Ngày nào, quý vị minh tâm kiến tánh, thân này là Báo Thân. Chúng ta niệm Phật, niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn, đắc Lý nhất tâm bất loạn thì khi ấy, thân này là Báo Thân. Chẳng chứng đắc Lý nhất tâm, bèn chẳng phải là Báo Thân; nhưng cũng coi như là Báo Thân, cái Báo Thân ấy chính là thân nghiệp báo! Thân nghiệp báo chẳng giống Báo Thân của hàng Bồ Tát. Báo Thân của Bồ Tát là trí báo, là trí huệ Bát Nhã, còn thân chúng ta là thân do nghiệp thiện ác [cảm vời], là thân nghiệp báo! Vì vậy, [thân của] lục đạo chúng sanh là thân nghiệp báo.

 

(Diễn) Cảnh trí tương ứng giả, như như trí chiếu như như cảnh, Bồ Đề trí huệ, dữ Pháp Tánh tương ứng, tương minh dã.

()境智相應者,如如智照如如境,菩提智慧,與法性相應相冥也。

(Diễn: Cảnh trí tương ứng: Như như trí chiếu như như cảnh, trí huệ Bồ Đề tương ứng và ngầm khế hợp Pháp Tánh).

 Nêu rõ cảnh giới của Báo Thân, tâm và cảnh như một, dung thông vô ngại. Giống như trong giảng đường của chúng ta có nhiều đèn như thế. Sau khi bật đèn, ánh sáng hòa nhập lẫn nhau. Mỗi ngọn đèn có ánh sáng riêng của nó, nhưng ở đây, quý vị có thể tách bạch giới tuyến ánh sáng của từng ngọn đèn hay không? Chỗ nào là do ánh sáng của ngọn đèn ở đây [chiếu sáng], có thể tách bạch hay không? Vì sao? Chúng đã dung hòa thành một thể, giống như nước và sữa hòa lẫn, các ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau.

Cảnh (境) là cảnh giới, Trí (智) là tâm trí. Chúng ta thường nói là “tánh, tướng chẳng hai, Lý, Sự như một” đều nhằm nói về chuyện này. “Như như trí chiếu như như cảnh”, như như trí là năng chiếu, như như cảnh là sở chiếu. Vì sao phải thêm “như như” vào trí? Hai chữ Như ấy, chữ Như thứ nhất là động từ, chữ Như thứ hai là danh từ. Chữ Như thứ hai chính là Chân Như, là Pháp Tánh, bản tánh, cũng có thể nói nó là chân tâm. Chân tâm khởi tác dụng là trí huệ. Cảnh giới cũng là như thế, như như cảnh mà! Như chính là Như trong câu Như Thị Ngã Văn mở đầu một bản kinh, nói trọn hết các pháp. Nếu tâm quý vị chẳng Như, cảnh cũng chẳng Như. Tâm và cảnh còn có chướng ngại, tức là Lý Sự hữu ngại! Tâm và cảnh có chướng ngại, giữa các Sự đều có chướng ngại, giữa các cảnh với nhau đều có chướng ngại. Đó là Sự Sự hữu ngại! Nếu quý vị minh tâm kiến tánh, Lý Sự vô ngại, Sự Sự cũng vô ngại, cảnh giới ấy chính là “cảnh trí tương ứng, như như trí chiếu như như cảnh”. Thưa cùng chư vị, đối với câu nói này, [tức câu] “như như trí chiếu như như cảnh”, một phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm gồm bốn mươi quyển nhằm giảng điều gì? Nhằm giảng một câu này! Câu này nếu nói cặn kẽ sẽ là bốn mươi quyển của kinh Hoa Nghiêm. Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử là “như như trí chiếu như như cảnh”, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, Nhất Chân pháp giới, đó là cảnh giới của thế giới Hoa Tạng, là cảnh giới của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì vậy, câu này là đề mục của bốn mươi quyển cuối trong kinh Hoa Nghiêm, kinh văn trong bốn mươi quyển nhằm giải thích tỉ mỉ [một câu kinh này]. Vì lẽ đó, hai chữ Như Như quan trọng lắm!

Khi nào thì tâm chúng ta mới có thể giống như chân tâm bản tánh? Tu hành mà chẳng chú trọng chuyện này, sẽ là sai lầm đặc biệt to lớn. Khi nào quý vị có thể thành tựu? Chẳng thể nào có chuyện ấy. Nói theo thực tiễn cụ thể, nhất định là phải tu tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, vì chúng là như như. Tâm không thanh tịnh, tâm bất bình đẳng, thấy gì cũng đều có chướng ngại. Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tuyệt đối chẳng phải là có thể đạt được từ [xem đọc, nghiên cứu] kinh điển; vì vậy, mọi người ngàn muôn phần đừng mê tín kinh điển. Quý vị niệm Đại Tạng Kinh, đem Đại Tạng Kinh niệm từ đầu đến cuối, niệm suốt một đời, tâm quý vị vẫn chẳng thanh tịnh! Vì sao? Trong kinh này, đức Phật nói như thế này, trong kinh kia đức Phật nói như thế nọ, càng xem nhiều, [sẽ cảm thấy] dường như Thích Ca Mâu Ni Phật nói năng cũng mâu thuẫn lung tung! Một hồi nói Không, một hồi nói Có, rốt cuộc là Không hay Có? Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nói rõ ràng. Vì lẽ đó, quý vị chẳng xem thì còn đỡ, vừa xem liền bị kinh điển làm mê!

Vì thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, quý vị chẳng đích thân hiện diện, chẳng biết vì sao Ngài phải nói những điều ấy. Đối với người chấp trước Có, Thích Ca Mâu Ni Phật nói Không, khiến cho người ấy đừng nên chấp trước Có. Đối với kẻ chấp trước Không bèn nói Có, khiến cho người ấy đừng chấp trước Không. Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng mâu thuẫn, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nói một câu nào! Không gì chẳng nhằm trừ khử chấp trước cho người khác mà thôi! Nay quý vị chấp trước đã quá nhiều, vẫn sợ chẳng đủ, lại chấp trước lời Thích Ca Mâu Ni Phật, càng thêm hỏng bét! Tam thế Phật đều ứa lệ, học Phật kiểu đó làm sao có thể học thành công cho được? Phật [giảng kinh, thuyết pháp] nhằm trừ khử phân biệt, chấp trước. Phân biệt và chấp trước là cái gốc bệnh. Phẩm [Như Lai] Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm đã nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc”. Đức Phật xuất hiện trên thế gian để làm gì? Nhằm giúp chúng ta trừ khử vọng tưởng và chấp trước mà thôi. Người biết dụng tâm, y giáo phụng hành, chẳng có một ai không thể thành tựu. Những kinh văn được trích dẫn ở đây, câu nào cũng đều là tinh hoa, cũng đều hết sức quan trọng. “Bồ Đề trí huệ, dữ Pháp Tánh tương ứng, tương minh” (Trí huệ Bồ Đề tương ứng, ngầm hợp Pháp Tánh). “Tương ứng” là gì? “Tương minh” là gì?

 

(Diễn) Tương ứng giả, như hàm cái tương ứng.

()相應者,如函蓋相應。

(Diễn: Tương ứng là như hộp và nắp khít khao).

Hàm (函) chính là cái hộp. Hộp và nắp vừa khít chặt chẽ, dùng chuyện này để tỷ dụ hai vật phù hợp, vô ngại. Hộp to thì nắp cũng to, hộp nhỏ thì nắp cũng nhỏ.

 

(Diễn) Tương minh giả, như thủy nhũ tương minh.

()相冥者,如水乳相冥。

(Diễn: “Ngầm khế hợp” là như nước và sữa hòa lẫn).

 “Minh” (冥) có nghĩa là dung nhập, như nước và sữa hòa lẫn vào nhau. Người hiện thời thường uống sữa bò. Sữa bỏ vào nước liền hòa tan, nước và sữa hòa lẫn thành một, cũng chẳng tách rời được, đó là “tương minh”.

Ý nghĩa ở đây là tương ứng và dung nhập cùng Pháp Tánh. Khi ấy, tâm chính mình là hư không, là pháp giới; hư không pháp giới là chính mình, đấy mới là “tương ứng, tương minh”. Có thể làm được hay không? Thưa cùng chư vị, thật sự có thể làm được. Như thế nào thì mới làm được? Một niệm chẳng sanh bèn tương ứng, bèn tương minh; hễ động một niệm, sẽ chẳng tương ứng. Chân tâm ly niệm, trong chân tâm chẳng có niệm. Hễ có niệm thì là vọng niệm, phải ghi nhớ điều này. Ta có một niệm “phải độ hết thảy chúng sanh” tức là vẫn có vọng niệm. Trong kinh, đức Phật đã nói “Phật chẳng độ chúng sanh”, Phật còn chẳng độ chúng sanh, quý vị làm sao có thể độ chúng sanh? Suốt ngày dấy vọng tưởng! Phật cũng chẳng thuyết pháp, quý vị còn có thể thuyết pháp ư? Chuyện lạ đấy nhé! Kinh Kim Cang đã nói rất hay: Nếu có kẻ nào nói đức Phật thuyết pháp thì đó là báng Phật, đức Phật chẳng thuyết pháp. Thật vậy! Đích xác là đức Phật chẳng thuyết pháp, vì đức Phật trước nay chưa hề khởi tâm động niệm. Giống như chuông trống chưa hề nói chính mình ngân vang, chẳng hề có! Quý vị gõ nó, nó liền phát ra tiếng. Chẳng gõ, sẽ không kêu. Đó gọi là cảm ứng đạo giao. Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Sự cảm ứng ấy tận hư không khắp pháp giới. Nơi nào có cảm, sẽ ứng nơi đấy. Trong Quán Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm đã nói sự tướng này rất rõ ràng: “Thiên xứ kỳ cầu, thiên xứ ứng” (Ngàn xứ khẩn cầu, ngàn xứ ứng). Vì sao có năng lực to dường ấy? Năng lực là bản năng (năng lực sẵn có), là như thế đó. Chỉ cần trong tâm quý vị chẳng có chướng ngại, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, tâm địa thanh tịnh bèn chẳng có chướng ngại, sợ nhất là khởi tâm động niệm.

Đấy là Báo Thân, ý nghĩa và cảnh giới của Báo Thân. Văn tự không nhiều lắm, rất đơn giản, nhưng nói rõ ràng, dễ hiểu. Báo Thân là dùng trí huệ làm thân, còn Pháp Thân dùng Lý Thể làm thân. Loại thứ ba…

 

(Diễn) Hựu Ứng Thân giả, ứng đồng vạn vật vi thân dã, ứng đồng liên trì vi thọ dã.

()又應身者,應同萬物為身也,應同連持為壽也。

(Diễn: Lại nữa, Ứng Thân là ứng hiện giống như vạn vật để làm thân, ứng hiện giống như được duy trì liên tục để làm thọ lượng vậy).

Thân tướng hiện tại của chúng ta là Ứng Thân. Vạn vật đều có hình trạng, chúng ta cũng có một hình trạng, coi hình trạng ấy là Thân. Bất luận hữu tình hay vô tình đều có một thân tướng, có hình trạng tồn tại. Chén trà có “thân” của chén trà, nến có thân của nến, đều có một hình tướng, nên gọi là Thân. Đã có thân thì thân có thọ mạng, thọ mạng là “liên trì vi thọ”. “Liên” (連) là tồn tại liên tục, nên gọi là thọ. Thời gian liên tục, dài hay ngắn chẳng nhất định. Liên tục có nghĩa là tiếp nối, dùng chữ này quá hay. “Liên trì” (連持) là tiếp nối (tương tục). Tiếp nối thì chẳng phải là thật sự tồn tại. Thật sự tồn tại thì làm sao có thể dùng từ ngữ “tiếp nối” cho được? Tiếp nối là cái này tiếp theo cái kia, cái kia tiếp theo cái nọ, chẳng ngừng! Giống như chúng ta xem phim, phim xi-nê là từng tấm phim nối tiếp nhau,  chẳng ngừng.  Hễ ngừng,  sẽ chẳng phải là “tiếp nối”.

Dùng hai chữ “tiếp nối” hoặc “liên trì” (duy trì liên tục), nhằm bảo với chúng ta: Thân hiện tại chẳng thật, mà là tướng tiếp nối đó thôi! Một giây trước và một giây sau khác nhau! [Nói là] “một giây trước” thì thời gian ấy còn quá dài! [Nói đúng ra là] khác nhau trong từng sát-na, nó tiếp nối mà! [Nói là tiếp nối] trong từng sát-na vẫn là quá dài, kinh bảo một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một sát-na là một phần sáu mươi [của thời gian] khảy ngón tay. Trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt, chín trăm lần sanh diệt tiếp tục chẳng ngừng trong ấy, há có thứ gì là thật? Chẳng có! Quý vị nghĩ hết thảy các pháp trong thế gian là thật, tức là lầm lẫn đặc biệt to lớn, hoàn toàn thấy sai bét mất rồi!

Kinh Kim Cang đã nói chân tướng của vũ trụ và nhân sinh rất rõ ràng: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như thế”. Đúng vậy, đó là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh! Do đó, hết thảy các hiện tượng, chẳng có một hiện tượng nào tồn tại! Những gì chúng ta thấy trong hiện thời đều là tướng tiếp nối. Phải nhận rõ điều này. Sau khi đã nhận biết rõ ràng, quý vị sẽ chẳng còn chấp trước hết thảy hiện tượng. Thưa cùng quý vị, không chấp trước sẽ chẳng có phiền não, vì sao? Ý niệm được mất chẳng còn, biết là chẳng có được mà cũng chẳng có mất. Do có được, nên mới có mất. Có thể đạt được hay không? Không đạt được. “Đạt được” là vọng tưởng, chẳng đạt được! Trong Bách Pháp, khái niệm “đắc” (đạt được) chính là môn thứ nhất trong hai mươi bốn pháp Bất Tương Ứng. Bất Tương Ứng hoàn toàn là khái niệm trừu tượng, trọn chẳng phải là sự thật, thuần túy là vọng tưởng. Quý vị đạt được gì? Thân thể của chính mình mà còn chưa đạt được, nó sanh diệt trong từng sát-na, huống hồ vật ngoài thân? Chẳng có gì để có thể đạt được!

Nhưng có biện pháp để có thể đạt được: Chỉ cần quý vị tìm được Pháp Tánh, sẽ đạt được. Nếu quý vị chẳng tìm được Pháp Tánh, thứ gì cũng chẳng đạt được! Truy đến tận cội nguồn, Pháp Tánh trọng yếu lắm! Nói cụ thể, nhất tâm bất loạn là trọng yếu, tâm thanh tịnh là trọng yếu. Có tâm thanh tịnh bèn chẳng có chướng ngại, chẳng có giới hạn. Có giới hạn, có nhân ngã, có thị phi, tâm chẳng thanh tịnh. Thị phi, nhân ngã, vọng tưởng thảy đều chẳng có, tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh to cỡ nào? Tận hư không khắp pháp giới là một tâm; khi ấy, quý vị biến thế nào đi nữa cũng chẳng ra ngoài bản tánh. Vì thế, quý vị thảy đều đạt được, chẳng có gì không đạt được. Nếu chẳng đạt đến cảnh giới ấy, thứ gì cũng chẳng đạt được! Phật pháp nhằm khiến cho chúng ta thật sự đạt được, đạt được viên mãn! Phật pháp chẳng tiêu cực, trong quá trình tu học, [nhìn bề ngoài] dường như là tiêu cực, nhưng sau khi thành tựu, thật sự là chẳng thể nghĩ bàn!

Trước khi nói đến phần chú giải kế tiếp, tôi phải nói cho quý vị biết một chuyện: Vô lượng thọ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là thật, chẳng phải là giả. Cõi Phàm Thánh Đồng Cư và cõi Phương Tiện Hữu Dư trong các thế giới phương khác đều chẳng thật, chỉ riêng cõi Phàm Thánh Đồng Cư trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là thật, điều này chẳng thể nghĩ bàn. Phải thật sự hiểu rõ sự thật này thì quý vị mới có thể thật sự mong mỏi, hâm mộ Tây Phương. Vì sao? Thành tựu trong một đời! Hơn một năm qua, tại Mỹ rất chẳng thể nghĩ bàn! Tại Lạc Sam Cơ (Los Angeles), pháp sư Ấn Hải giảng kinh Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật. Pháp sư Diệu Cảnh ở Cựu Kim Sơn (San Francisco) cũng niệm A Di Đà Phật, cũng đọc kinh Vô Lượng Thọ, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Trong quá khứ, họ chẳng tin pháp môn này, nay đều quay về. Không chỉ là tự mình học, mà còn hoằng dương bên đó, khuyên người khác học. Do đó, thế giới Cực Lạc hết sức hy hữu, thật sự chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Diễn) Trí dữ thể minh, năng khởi đại dụng.

()智與體冥,能起大用。

(Diễn: Trí và Thể ngầm hợp, có thể khởi tác dụng to lớn).

“Thể” là Pháp Tánh, là Pháp Thân, “Trí” là Báo Thân, chúng là một, không hai, tuy một mà hai, tuy hai mà một, tương ứng, dung nhập. Hễ tương ứng, dung nhập, chúng liền khởi tác dụng.

 

(Diễn) Như thủy ngân hòa chân kim, năng đồ chư sắc tượng, công đức hòa Pháp Thân, xứ xứ ứng hiện vãng.

()如水銀和真金,能塗諸色像,功德和法身,處處應現往。

(Diễn: Như thủy ngân và vàng ròng [hòa tan vào nhau] có thể dùng để sơn phết các hình tượng, công đức và Pháp Thân đến ứng hiện khắp nơi).

Khởi tác dụng, hình dung tác dụng của nó to lớn chẳng thể nghĩ bàn. Thủy ngân và vàng ròng hòa hợp, nay ta gọi là vàng K[31], bất luận vật phẩm gì cũng đều có thể dùng nó để trang sức. Như Lai “công đức hòa Pháp Thân”, Pháp Thân là vàng ròng, công đức giống như thủy ngân. Thân ứng hóa của Phật “xứ xứ ứng hiện vãng” (đến ứng hiện khắp nơi), tận hư không khắp pháp giới, chúng sanh nơi nào có cầu, Phật, Bồ Tát lập tức ứng hiện. Hư không pháp giới to như vậy, xa như vậy, vì sao các Ngài có thể lập tức hiện tiền? Vì tâm chư Phật, Bồ Tát thanh tịnh, bình đẳng, không đâu chẳng tồn tại. Các Ngài có từ nơi xa đến hay không? Chẳng hề đến, các Ngài ở ngay trước mặt quý vị, nhưng chính quý vị chẳng nhận biết! Quý vị cầu trong một niệm, các Ngài liền hiện ngay trong một niệm. Quý vị chẳng cầu, các Ngài chẳng hiện, quý vị nhất định phải hiểu nguyên lý này. Chúng ta cầu Phật, Phật hiện tiền; cầu Bồ Tát, Bồ Tát hiện tiền; cầu quỷ, quỷ hiện tiền; cầu ma, ma hiện tiền. Hiện thời, có kẻ chẳng học Phật cũng bị ma dựa, mà người học Phật bị ma dựa cũng chẳng ít! Chuyện này phiền phức to lớn! Yêu ma quỷ quái tràn ngập trong thế gian này, hễ một niệm bất chánh liền rơi vào ma chưởng, muốn trốn thoát rất khó. Trong thế giới ma cảnh, tham, sân, si, mạn, quần ma quay cuồng này, để có thể bảo toàn chính mình thì chúng ta ắt phải có chánh niệm.

Chánh niệm là gì? Chúng ta tu Tịnh Độ Tông, một niệm A Di Đà Phật là chánh niệm. Niệm niệm chẳng lìa A Di Đà Phật, niệm niệm nương tựa A Di Đà Phật, nhất tâm mong thấy A Di Đà Phật, mong sanh về thế giới Cực Lạc; đó là chánh niệm, quyết định chẳng sai! Chúng ta còn mong nghiên cứu kinh điển, còn mong hoằng pháp lợi sanh, thưa cùng chư vị, đều là tà niệm, chẳng phải là chánh niệm! Ý niệm đều tà, còn có thể hoằng pháp lợi sanh ư? Trong quá trình hoằng pháp lợi sanh, quý vị chẳng bị nẩy sanh rối loạn ư? Ý niệm đã tà! Ắt phải do tâm trí thuần chánh hiển lộ, phát xuất, thì khi ấy mới có thể hoằng pháp lợi sanh. Do đó, phải phát nguyện “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, nhưng chẳng phải là thực hiện trong hiện thời. Điều phải làm trong hiện thời là “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, phải làm chuyện này! [Chưa đoạn phiền não mà] pháp môn vô lượng thệ nguyện học thì thôi rồi, hỏng rồi! Phiền não đã đoạn hết thì mới có thể học pháp môn, đó là đúng! Phiền não chẳng đoạn hết, học pháp môn bèn tăng trưởng tà tri, tà kiến, trong tương lai sẽ giúp quý vị làm xằng, làm càn, họa hại chúng sanh. Nói cách khác, [chưa đoạn phiền não mà đã “pháp môn vô lượng thệ nguyện học” chính là] hy vọng quý vị sớm có ngày đọa địa ngục! Do đó, Phật pháp là đoạn phiền não trước rồi mới thành trí huệ, chẳng thể đồng thời học những thứ này!

Do cổ nhân tuân theo thứ tự ấy, cho nên thành tựu rất nhanh chóng, người thành tựu rất nhiều. Người hiện tại tu học tràn lan, chẳng thực hiện từng bước theo thứ tự, học đồng thời cả bốn nguyện trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, tự xưng là Phật chi đó hoặc Bồ Tát chi đó tái lai. Hiện thời, tôi nghe các đồng tu cho biết tại Cựu Kim Sơn (San Francisco) nước Mỹ nghiễm nhiên có bọn ngoại đạo tạo ra tân kinh gọi là Chân Phật Kinh[32]. Những kinh Phật trước kia chẳng cần niệm, mà niệm chân kinh do chính hắn ta viết ra, quý vị thấy có hỏng bét hay là không! Kẻ ấy Phật đạo vô thượng đã thành, tứ hoằng thệ nguyện tu đồng thời, cùng một lúc, ngay lập tức thành Phật. Vì thế, mọi người đều như ong vỡ tổ kéo đến. Chư vị phải hiểu, giống như chúng ta dựng căn nhà to có bốn tầng lầu, xây lầu cùng lúc, có thể thành công hay chăng? Người ta xây lầu thì trước hết xây tầng thứ nhất, rồi lại xây tầng thứ hai, rồi lại xây đến tầng thứ ba, tiếp tục xây tầng thứ tư, còn họ xây cả bốn tầng cùng lúc, người hiện thời thích làm theo kiểu ấy, toàn là yêu ma quỷ quái, há có chuyện ấy!

Nếu chư vị muốn thật sự thành tựu, hãy học từ chỗ nào? Học từ đoạn phiền não, học từ tu tâm thanh tịnh, những điều khác đều chẳng cần làm! Chúng tôi cũng in Đại Tạng Kinh rất nhiều, in để làm gì? Để cho người khác ngộ. Liên Trì đại sư nói: “Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho kẻ khác ngộ”. Chúng ta cũng in Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho kẻ khác ngộ, mọi người nhất định phải hiểu đạo lý này. Bản thân chúng ta chọn lựa một bộ kinh từ Đại Tạng Kinh, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chúng ta chọn lựa một pháp môn niệm A Di Đà Phật, quyết định thành tựu!

Năm ngoái, tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ ở Tân Gia Ba, các đồng tu bên ấy chép lại, đưa cho tôi sửa chữa. Tôi vừa coi bản thảo ấy, [thấy đúng là] nói nhăng nói cuội, chẳng thể dùng được! Gần như là phải viết lại hai phần ba! Cảnh giới năm xưa khác với năm nay. Ngày mai chúng tôi sẽ lại giảng lại từ đầu, là cảnh giới mới, chẳng giống trước kia. Những gì đã giảng xưa kia đều phải bỏ hết, tôi chẳng giảng kinh! Nếu quý vị nói tôi giảng kinh cũng là hủy báng! Tôi chưa hề giảng kinh. Các đồng tu phải ghi nhớ, tu tâm thanh tịnh, thâm nhập một môn, mỗi ngày một vui sướng hơn, ngày càng hạnh phúc hơn. Đó là lợi ích chân thật trong Phật pháp. Kinh đã nói rất rõ ràng: “Trụ chân thật huệ”. Trí huệ chân thật là gì? Là một câu A Di Đà Phật. Kinh Vô Lượng Thọ chân thật nhất. Cổ nhân bảo: Trong hết thảy các kinh, Hoa Nghiêm chân thật bậc nhất. So sánh giữa Hoa Nghiêm và kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ chân thật nhất. So giữa kinh Vô Lượng Thọ và danh hiệu A Di Đà Phật, danh hiệu A Di Đà Phật chân thật nhất. Chân thật huệ là một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, lợi ích chân thật.

Lợi ích chân thật là quý vị thọ trì một câu Phật hiệu A Di Đà Phật này. Quý vị có thể thọ trì giống như người đồ đệ của lão pháp sư Đế Nhàn, thọ trì ba năm, đứng vãng sanh, đó là lợi ích chân thật, chẳng phải giả! Nếu so với người ấy, trong tương lai chúng ta chẳng thể nằm mà ra đi. Nằm thì sẽ chẳng bằng người ta. Ngã bệnh thì càng tệ hơn nữa, càng thua kém người ta. Nếu chẳng muốn mất mặt, phải ra đi chẳng khác ông ta cho mấy, tức là vạn duyên buông xuống, trụ chân thật huệ, thật thà niệm Phật, đó là đúng. Chớ nên bày trò hoa dạng nữa! Bày trò hoa dạng chắc chắn tổn hại chính mình. Đó là nói “xứ xứ ứng hiện vãng” (chỗ nào cũng đều ứng hiện tới đó), Ngài có năng lực to lớn ấy. Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 190

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi:

 

(Diễn) Hựu Ứng Thân giả, ứng đồng vạn vật vi thân dã, ứng đồng liên trì vi thọ dã. Trí dữ thể minh, năng khởi đại dụng, như thủy ngân hòa chân kim, năng đồ chư sắc tượng, công đức hòa Pháp Thân, xứ xứ ứng hiện vãng.

()又應身者,應同萬物為身也,應同連持為壽也。智與體冥,能起大用,如水銀和真金,能塗諸色像,功德和法身,處處應現往。

(Diễn: Lại nữa Ứng Thân là ứng hiện giống như vạn vật để làm thân, ứng hiện liên tục tiếp nối giống như vậy để làm thọ lượng. Trí và thể dung nhập, có thể khởi tác dụng to lớn, như thủy ngân hòa lẫn vàng ròng có thể dùng để sơn phết các hình tượng, công đức và Pháp Thân chỗ nào cũng đều ứng hiện đến).

Chủ yếu nói đến Ứng Thân của đức Phật. Ứng Thân biến hiện từ Pháp Thân, kinh Lăng Nghiêm đã giảng chuyện này rất rõ ràng: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (Thuận theo tâm chúng sanh mà ứng hiện phù hợp với khả năng nhận biết của họ). Do đâu mà có Ứng Thân? Có phải là do Phật hữu ý hiện thân ấy hay chăng? Trọn chẳng phải là như vậy! Ứng Thân là do chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng, đó gọi là “cảm ứng đạo giao”. Chúng sanh có cảm, tức là có tâm, Như Lai ứng hiện là vô tâm; giống như chúng ta gõ khánh. Chúng ta hữu ý gõ nó, khánh ngân vang là vô tình ngân vang. Chúng ta gõ mạnh, âm thanh ngân to, tiếng ngân kéo dài. Chúng ta gõ nhẹ, tiếng ngân cũng nhẹ, thời gian ngân cũng ngắn. Khánh vô tâm, do vô tâm nên mới có thể ứng.

Do vậy có thể biết, Phật có vô lượng vô biên Ứng Thân. Vì sao? Pháp Thân không đâu chẳng tồn tại, nên Ứng Thân trọn khắp pháp giới. Nói thật ra, chẳng có đến đi, đúng như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Sanh ra từ nơi đâu, bèn diệt tận tại đó”. Chẳng đến, chẳng đi, bất sanh, bất diệt. Tuy là Ứng Thân, vẫn là bất sanh, bất diệt. Nay chúng ta thấy Ứng Thân là tướng sanh diệt, là do bọn phàm phu chúng ta dùng cái tâm sanh diệt để nhìn sự thật ấy. Nói thật ra, chẳng có sanh diệt, thân ứng hóa trọn chẳng có sanh diệt. Trong đoạn trên đây, câu quan trọng nhất là “công đức và Pháp Thân, không nơi đâu chẳng ứng hiện đến đó”. Nói thật ra, há có đến? Hễ có đến là có tới, tức là có lui tới, [thật ra], chẳng có đến đi. Vẫn là kinh Lăng Nghiêm nói sự thật, nói rốt ráo, sanh ra ở nơi đâu, sẽ diệt tận ở ngay nơi đó!

 

(Diễn) Nhiên thử ứng thân, hữu thắng, hữu liệt. Thắng tức Tha Thọ Dụng, thị nghiệp thức sở kiến giả, thử y Trung Lý nhi trụ. Liệt tức sanh thân, sự thức sở kiến giả, thử y Chân Lý nhi trụ.

()然此應身,有勝有劣,勝即他受用,是業識所見者,此依中理而住;劣即生身,事識所見者,此依真理而住。

(Diễn: Nhưng Ứng Thân ấy có thắng và liệt. Thắng Ứng Thân chính là Tha Thọ Dụng, được thấy bởi nghiệp thức, thân này nương vào Trung Lý để trụ. Liệt Ứng Thân chính là sanh thân, được thấy bởi sự thức, thân này nương vào Chân Lý để trụ).

Cách nói này tuân theo giáo nghĩa của tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai nói Chân, Giả, Trung, điều đó được gọi là Tam Đế Tam Quán. “Ứng Thân” ở đây chính là Ứng Hóa Thân. Quả thật là Ứng Hóa Thân có thân rất thù thắng, mà cũng có thân khá kém cỏi. Ví như đức Phật giáo hóa chúng sanh trong chín pháp giới, chúng ta thấy phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa có nói đến ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên dùng thân gì để độ được, bèn hiện thân ấy. Nên dùng thân Phật để độ được, bèn hiện thân Phật. Ứng Thân ấy cũng rất thù thắng. Đáng nên dùng thân người để độ liền hiện thân người. Thân người tuy kém Phật rất xa, kể ra vẫn còn khá. Đáng nên dùng thân súc sanh để độ liền hiện thân súc sanh, thân tướng ấy còn thua cả loài người. Thậm chí hiện thân thảo mộc. Nói theo Phật pháp, quý vị đọc kinh Địa Tạng sẽ biết: Hoa, cỏ, cây cối đều có quỷ thần ở trong ấy. Vì thế, có thần cây, thần hoa, thân phận còn thấp kém hơn thân súc sanh bình phàm. Thậm chí hiện thân quỷ vương, thị hiện thân địa ngục. Địa Tạng Bồ Tát giáo hóa chúng sanh trong địa ngục, hiện thân địa ngục, chẳng phải là thân mà chúng ta thấy trong hiện thời. Nay chúng ta thấy Ngài là thân Bồ Tát. Thân Bồ Tát vào trong địa ngục, chúng sanh trong địa ngục chẳng thấy Ngài; nhất định phải hiện thân đồng loại thì mới có thể khiến cho những chúng sanh tiếp nhận sự hóa độ của Ngài hoan nghênh. [Như vậy là] thân này (Ứng Thân) còn có thân thù thắng và thân hèn kém.

Ở đây nói tới thù thắng và hèn kém, vẫn chẳng phải là ý nghĩa như tôi vừa mới nói, mà còn thù thắng hơn ý nghĩa vừa được đề cập! Nói đến Thắng Ứng Thân thì “Thắng tức Tha Thọ Dụng thân”, Tha Thọ Dụng Thân là nói đến hạng người nào? Nói đến Thập Địa Bồ Tát. Đức Phật nhằm độ bậc Địa Thượng Bồ Tát bèn hiện thân tướng hết sức trang nghiêm, đó là độ hàng Bồ Tát. Tam Hiền Thập Thánh thấy [thân tướng của] Phật là Thắng Ứng Thân, tức Tha Thọ Dụng. “Nghiệp thức sở kiến giả” (Được thấy bằng nghiệp thức): Nghiệp thức khác sự thức, nghiệp thức có sự phân biệt vi tế, sự thức có sự phân biệt rất thô. “Sự thức” là gì? Nói theo tám thức, sáu thức trước đều thuộc về sự thức, thức thứ bảy tức Mạt Na là chuyển thức, A Lại Da mới là nghiệp thức. Có thể thấy là khi sắp chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, khi đó mới thấy Thắng Ứng Thân. Nếu như A Lại Da đã chuyển thành Đại Viên Kính Trí, chẳng phải là thấy Ứng Thân Phật, mà là thấy Báo Thân Phật, vì sao? Bản thân người ấy đã chứng đắc Báo Thân. Vì vậy, Ứng Thân và Báo Thân vẫn có sai biệt. Nghiệp thức nương vào lý Trung Đạo để trụ, sự thức nương vào Chân Lý để trụ. [Sách Diễn Nghĩa nói Trung Lý và Chân Lý] chính là như tông Thiên Thai đã nói Chân, Giả, Trung, [Chân Lý là] Chân Đế. Nhưng chư vị phải biết, [những điều được trình bày trong đoạn này] đều là nói theo cách thông thường. Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, ba thân là một Thể, là Pháp Thân, đồng thời cũng là Báo Thân và Ứng Thân, tuy một mà ba, tuy ba mà một. Vì lẽ đó, thế giới Tây Phương thù thắng chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Diễn) Nhất kỳ báo đắc bách niên bất đoạn giả.

()一期報得百年不斷者。

(Diễn: Một kỳ hiện báo là trăm năm chẳng đoạn).

Đây là nêu một thí dụ,  nêu Thích Ca Mâu Ni Phật làm thí  dụ.  Vì

đức Thích Ca Thế Tôn xuất hiện trong thế giới này, đối với chúng ta, Ngài thân thuộc nhất. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, trong ba thân thì là thân nào? Là Ứng Thân. Thuở đức Phật tại thế, thuở ấy, người thế gian thông thường có tuổi thọ bình quân là một trăm năm. Nay chúng ta đang thuộc giảm kiếp, cứ mỗi một trăm năm giảm một tuổi, từ khi Phật Thích Ca diệt độ cho tới hiện thời là ba ngàn lẻ mười bảy năm, nên hiện thời tuổi thọ bình quân của con người là bảy mươi tuổi.

Đức Phật trọn chẳng trụ thế một trăm năm. Ngài thị hiện viên tịch lúc tám mươi tuổi. Nói cách khác, Ngài còn có thể trụ thế hai mươi năm, nhưng đã đi trước hai mươi năm. Kinh đã nói rất rõ ràng, đức Phật cúng dường phước báo trong hai mươi năm ấy cho các đệ tử xuất gia trong thời Mạt. Quý vị thật sự phát tâm học Phật, sẽ chẳng phải lo lắng về chuyện thọ dụng vật chất. Vì sao? Đức Phật đã đem hai mươi năm phước báo ban cho quý vị, đó là di sản, quý vị hưởng thụ chẳng hết! Nếu quý vị chẳng tin, đi tìm kẻ khác, đó là trái nghịch ý Phật, chẳng phải là học trò đức Phật! Học trò đức Phật quyết định chớ nên lo lắng cuộc sống vật chất, vì sao? Quý vị tiếp nhận di sản hai mươi năm phước báo của đức Như Lai, nhất định có chư Phật Như Lai và thần hộ pháp chăm nom quý vị, chính mình phải có tín tâm đối với điều này thì mới được!

 

(Diễn) Như ngã Thế Tôn, vương cung xuất gia, khổ hạnh thành đạo, tam thập nhị tướng, bát thập chủng hảo, thuyết pháp ngũ tuần.

()如我世尊,王宮出家,苦行成道,三十二相八十種好,法五旬。

(Diễn: Như đức Thế Tôn của chúng ta, [lìa khỏi] vương cung xuất gia, khổ hạnh, thành đạo, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, thuyết pháp năm mươi năm).

Đây là nói tròn số, trên thực tế, đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, “ngũ tuần” (五旬) là năm mươi năm.

 

(Diễn) Trụ thế bát thập.

()住世八十。

(Diễn: Ở trên đời tám mươi năm).

Nói tròn số, trên thực tế, Thích Ca Mâu Ni Phật viên tịch khi Ngài bảy mươi chín tuổi.

 

(Diễn) Song Lâm thụ hạ, nãi nhập Niết Bàn, thử tức Liệt Ứng sanh thân dã.

()雙林樹下,乃入涅槃,此即劣應生身也。

(Diễn: Dưới cội cây trong rừng Song Lâm, bèn nhập Niết Bàn. Đấy chính là sanh thân Liệt Ứng).

Vì đức Phật xuất hiện trong thế gian này nhằm thời Mạt Pháp, lại còn nhằm đời ô trược, ngũ trược ác thế, nhằm khi con người chỉ thọ một trăm tuổi. Kinh bảo chúng ta: Khi con người trong thế gian này có tuổi thọ dài nhất sẽ là tám vạn bốn ngàn năm, có thể thấy người trong thuở ấy có phước báo rất lớn, thọ mạng rất dài, tâm địa cũng thanh tịnh. Hiện thời, tuy y dược tiến bộ hơn xưa kia, có những người thọ mạng dài hơn trong hiện thời, [khiến cho chúng ta cảm thấy] dường như kinh Phật nói chẳng đúng. Thật ra, đó là một thứ cảm giác sai lầm. Vì nếu quý vị khảo sát sự sanh tử của dân cư trên cả thế giới, sẽ biết đức Phật nói rất chánh xác. Ngài nói tới tuổi thọ bình quân, người hai mươi, ba mươi tuổi đã chết rất nhiều, trọn chẳng nhất định là do bị bệnh, mà do thiên tai, nhân họa! Giống như pháp sư Khai Tâm đã nói xưa kia, Ngài nói thế giới này có tai nạn, cả một đống người vô duyên vô cớ chết ngắc, đích xác là có tình hình này! Thống kê theo phương diện này, tuổi thọ con người thật sự là bảy mươi tuổi. Đoạn này thuật bày chuyện Thích Ca Mâu Ni Phật nên rất dễ hiểu!

 

(Diễn) Pháp Thân dĩ như lý tam cú, vị Pháp Thân dĩ Lý vi thân, cố tức như lý vi mạng.

()法身以如理三句,謂法身以理為身故即如理為命。

(Diễn: Ba câu “Pháp Thân dùng như lý…” ý nói: Pháp Thân lấy Lý làm thân tức là lấy như lý làm mạng).

Tiếp đó là giải thích thọ mạng của Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Hóa Thân. Pháp Thân chẳng có hình tướng, nó là cội nguồn của hết thảy hình tướng. Nói cách khác, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới từ đâu mà có? Đều từ Pháp Thân biến hiện. Pháp Thân là Thể, nó có thể hiện, có thể biến, hết thảy vạn pháp trong vũ trụ là cái được biến, đó là hiện tướng của bản thể. Do vậy, nó có Thể, có Tướng. Đã có tướng, đương nhiên còn có tác dụng. Thể, Tướng, Dụng là phân chia đại lược thành ba phần, đối với ba phần, chư vị nhất định phải nhớ rõ, là một mà ba, tuy ba mà một, chẳng thể độc lập. Nếu chúng ta lãnh ngộ chỗ này thì mới thật sự hiểu tận hư không khắp pháp giới là một Thể, là một, không hai. Pháp giới này quả thật như đức Phật đã nói là Nhất Chân pháp giới. Nói “mười pháp giới” hoặc “chín pháp giới”, hay nói lục đạo, đều là đức Như Lai nói phương tiện, pháp giới xác thật là Nhất Chân. Từ nghĩa lý của Pháp Thân, chúng ta có thể thấu hiểu rất rõ ràng; vì thế, nó là “dĩ Lý vi thân” (dùng Lý làm thân), “như Lý vi mạng” (như Lý làm mạng), đó là vô lượng thọ, thật sự vô lượng, [bởi lẽ] Lý là vô lượng vô biên.

 

(Diễn) Báo Thân dĩ trí huệ vi thân cố tức trí huệ vi mạng.

()報身以智慧為身故即智慧為命。

(Diễn: Do Báo Thân lấy trí huệ làm thân nên trí huệ chính là mạng).

 Cớ sao biết có Lý? Quý vị đã biết có Lý ấy, thấu hiểu cái Lý ấy. Sự nhận biết, thấu hiểu ấy chính là trí huệ Bát Nhã. Do vậy có thể biết, Báo Thân là nói tới trí huệ, là cái có thể biết. Pháp Thân là Lý được biết (sở tri chi Lý), Báo Thân là trí huệ nhận biết [cái Lý ấy] (năng tri chi Trí). Năng và Sở chẳng hai, năng tri và sở tri là một, không hai. Nếu coi là hai, sai rồi, chúng là một chuyện. Do vậy có thể biết: Trong Phật pháp chẳng có Năng và Sở đối lập, tự mình biết chính mình, Năng và Sở đều là chính mình. Vì thế, Báo Thân có khởi đầu, chẳng có kết thúc, cũng là vô lượng thọ, Pháp Thân là chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc.

Khi quý vị chưa khai ngộ, mê mất chính mình, tức là mê mất Pháp Thân của chính mình, nay chúng ta giác ngộ, đã tìm được chính mình. Nay chúng ta có giác ngộ hay không? Có tìm được hay không? Thưa cùng chư vị, hiện thời là nghe nói mà thôi, chẳng tìm được, cũng chẳng giác ngộ, chỉ là nghe Thích Ca Mâu Ni Phật nói có một chuyện như thế. Đức Phật bảo cho chúng ta biết tin tức này, tìm lại chính mình như thế nào? Đó là một đại sự trọng yếu từ nay trở đi. Phải tìm lại chính mình, Thiền Tông thường nói “phụ mẫu vị sanh tiền bản lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra) tức là nói tới Pháp Thân. Phải dùng thứ gì để tìm lại nó? Phải dùng trí huệ. Trí huệ do đâu mà có? Trí huệ từ Thiền Định mà có. Vì thế, quý vị chẳng có Định, sẽ chẳng có trí huệ, chắc chắn chẳng tìm được chính mình.

Vì lẽ đó, học Phật, chư vị đồng tu ngàn muôn phần phải ghi nhớ, muốn thật sự được thọ dụng, phải lấy Định làm then chốt. Đức Phật đã nói rất rõ ràng: Tu học phải có thứ tự, chẳng thể tràn lan. Thứ tự chính là trước hết đoạn phiền não, sau đó học pháp môn. Sau khi đoạn hết phiền não bèn khai ngộ, sau khi đã khai ngộ bèn thông đạt hết thảy các pháp môn. Vì thế, học pháp môn vào lúc nào? Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm là gương mẫu tốt nhất, đó chính là Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy chúng ta cách học Phật pháp như thế nào. Trong quá khứ, tiên sinh Phương Đông Mỹ đã tán thán Phật pháp tột bậc, nhất là kinh Hoa Nghiêm. Cụ là một triết gia, công nhận kinh Hoa Nghiêm là sách khái luận triết học hay nhất trên toàn thế giới xưa nay, trong ngoài nước. Kinh có lý luận viên mãn, có phương pháp tinh vi. Cuối kinh còn có biểu diễn, năm mươi ba lần tham học nhằm làm cho chúng ta thấy. Cụ nói: “Trên thế giới há có sách giáo khoa nào hoàn bị dường ấy?” Thật sự chẳng thể nghĩ bàn!

Chúng ta hiểu rõ, khi nào Thiện Tài đồng tử học vô lượng pháp môn? Sau khi đã đại triệt đại ngộ dưới tòa của Văn Thù Bồ Tát, mới có tư cách “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Ngài “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” trong hội của Văn Thù Bồ Tát, theo thầy, chẳng có gì khác, đoạn phiền não mà thôi! Phiền não đã đoạn hết, Văn Thù Bồ Tát mời Ngài đi tham học, nhằm thành tựu vô lượng pháp môn. Giáo học cổ đại tại Trung Quốc đều căn cứ theo phương pháp lý luận này. Trước khi khai ngộ, chẳng có tư cách tham học! Tham học là chuyện sau khi đã khai ngộ. Khai ngộ là cảnh giới gì? Là cảnh giới của bậc Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát theo kinh Hoa Nghiêm, vượt trỗi A La Hán quá nhiều. A La Hán, Bích Chi Phật, và Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng có đủ tư cách đi tham học.

Người trẻ tuổi trong hiện thời rất lỗi lạc, vừa học Phật bèn tham học, chẳng cần “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, vừa bắt đầu bèn là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, chắc chắn là chẳng thể nào [có thành tựu được]! Học pháp môn như vậy, đúng là “tà tri, tà kiến” như Thanh Lương đại sư đã viết trong phần giảng giải tựa đề kinh của bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao. Sở học và sự thành tựu đều là tà tri, tà kiến, quý vị nói xem có hỏng bét hay là không? Đó chẳng phải là trí huệ. Trong Phật pháp, nói dễ nghe hơn một chút là Thế Trí Biện Thông, đó là tà tri, tà kiến. Do vậy có thể biết, đoạn phiền não trọng yếu dường ấy! Các đồng tu chúng ta nhất định phải ghi nhớ điều này!

Nay chúng ta dùng phương pháp gì để đoạn phiền não? Phương pháp rất nhiều, thường nói là là tám vạn bốn ngàn pháp môn, chúng đều là phương pháp. Tám vạn bốn ngàn pháp môn có thể quy nạp thành bốn loại lớn: Thứ nhất là tham Thiền, đây là một phương pháp. Loại thứ hai là đọc kinh, Giáo Hạ dùng phương pháp đọc kinh, đọc tụng; Tịnh Độ Tông dùng phương pháp niệm Phật; Mật Tông dùng phương pháp trì chú. Bốn loại phương pháp này đều nhằm tu Định, do đã Định bèn có thể khai Huệ. Chẳng hề nói: Kẻ tâm bất định, còn có thị phi, nhân ngã, còn có tham, sân, si, mạn mà có thể học pháp môn, chẳng thể nào có chuyện ấy được! Mở kinh bổn ra, chữ nào cũng đều biết, nhưng chẳng hiểu ý nghĩa! Ý nghĩa trong kinh từ chỗ nào lưu lộ? Từ tâm thanh tịnh lưu lộ. Quý vị mới biết tu tâm thanh tịnh là căn bản to lớn trong giáo học Phật pháp. Tâm chẳng thanh tịnh, vô dụng!

Muốn cho tâm được thanh tịnh, phương pháp quan trọng nhất là phải trì giới. Giới là kỹ xảo nhằm giúp cho chúng ta đạt đến thanh tịnh. Tâm địa đã thanh tịnh bèn có những cái được gọi là Đạo Cộng Giới và Định Cộng Giới, tâm thanh tịnh làm sao có thể lầm lỗi cho được? Chẳng phạm lầm lỗi! Người đắc Thiền Định chẳng phạm lầm lỗi, tâm người ấy định, nên gọi là Định Cộng Giới. Do trí huệ hiện tiền, nên gọi là Đạo Cộng Giới. “Đạo” được nói trong Phật pháp chính là trí huệ Bát Nhã, ở đây nói là “dĩ trí huệ vi thân” (lấy trí huệ làm thân), “dĩ trí huệ vi mạng” (lấy trí huệ làm mạng). Giới, Định, Huệ Tam Học. Người ấy khai Huệ, khai Huệ là Đạo Cộng Giới. Trước khi khai Huệ phải có Định, Định ở địa vị này được gọi là Định Cộng Giới, ngay cả Định cũng chẳng có thì là Luật Nghi Giới!

Do vậy có thể biết: Từ sơ học mãi cho đến khi thành Phật đều chẳng lìa khỏi giới luật! Luật Nghi Giới là có sự tướng. Định Cộng Giới và Đạo Cộng Giới có khi chẳng có sự tướng. Chúng ta biết, mục đích của giới luật là giúp cho chúng ta đắc Định, mục đích của Định là giúp chúng ta khai Huệ. Mục tiêu chung cực của Phật pháp là khai Huệ, mở mang trí huệ. Trí huệ vừa khai, bèn chứng đắc Báo Thân. Vì thế, nói theo Viên Giáo, Sơ Trụ Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, Báo Thân liền hiện tiền. Sơ Trụ là Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân, ba thân đều cùng hiện tiền. Chúng ta học Phật phải hiểu đạo lý này, phải hiểu phương pháp tu học này thì chúng ta mới có thể thành tựu.

Nay chúng ta niệm kinh thì mục đích niệm kinh là gì?  Vì sao phải niệm kinh? Vì sao phải niệm Phật? Nhất định phải hiểu! Chẳng niệm kinh, không niệm Phật, bèn dấy vọng tưởng, vọng tưởng là gì? Vọng tưởng là nghiệp chướng. Có người nói: “Tôi nghiệp chướng rất nặng!” Quý vị hỏi người ấy: “Nghiệp chướng là gì?” Người ấy cũng chẳng thể nói ra. Tội nghiệp rất nặng, nhưng tội nghiệp là gì thì cũng chẳng hiểu rõ! Kinh Địa Tạng đã giảng rõ ràng: “Diêm Phù Đề chúng sanh, khởi tâm động niệm, vô bất thị nghiệp, vô bất thị tội” (Chúng sanh trong Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm, không gì chẳng phải là nghiệp, không gì chẳng phải là tội). Tội nghiệp là gì? Tội nghiệp là khởi tâm động niệm, là dấy vọng tưởng. Do vậy có thể biết, người học Phật đang học những gì? Chỉ nhằm trừ bỏ vọng tưởng mà thôi! Vọng tưởng đã trừ bỏ, tâm định, tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ. Học Phật rốt cuộc là học gì, tu gì? Nhất định phải hiểu rõ những điều này! Tuyệt đối chẳng phải là ta niệm bao nhiêu bộ kinh, hoặc niệm bao nhiêu bộ luận, ta cũng có thể viết lách, cũng có thể giảng giải, vô dụng! Mọi người trên thế gian đều có thể làm được điều ấy. Coi Phật pháp như một loại học thuật thế gian để nghiên cứu, người ấy làm chuyện thuộc về Phật học, chẳng phải là chuyện học Phật. Học Phật là phải hành trì Giới, Định, Huệ, còn Phật học là lo toan Thế Trí Biện Thông, hoàn toàn là hai chuyện [khác hẳn nhau]! Học Phật thì thành tựu là công đức. Phật học, thành tựu là tạo nghiệp, chẳng phải là công đức. Không chỉ chẳng có công đức, mà nói thật thà, phước đức cũng chẳng có. Thật sự nói lời thật thà thì là “tạo nghiệp”! Bản thân chúng ta rốt cuộc là đang tu tập, tích lũy công đức, hay vẫn là đang tạo nghiệp? Chẳng thể không hiểu rõ điều này.

 

(Diễn) Ứng Thân dĩ ứng cơ phó cảm vi thân, cố dĩ nhân duyên vi mạng.

()應身以應機赴感為身故以因緣為命。

(Diễn: Vì Ứng Thân do cảm ứng thuận theo căn cơ, nên lấy nhân duyên làm mạng).

Ứng Thân là Dụng, Pháp Thân là Thể, Báo Thân là Tướng. Ứng Thân là khởi tác dụng, từ Thể khởi tác dụng, tác dụng gì vậy? Giúp người khác khai ngộ, giúp người khác chứng đắc Pháp Thân. Vì lẽ đó, chư Phật, Bồ Tát thị hiện trong thế gian này, đó là “ứng cơ phó cảm”. Chữ Cơ (機) chỉ hết thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh mong được học, chỉ cần quý vị dấy một niệm muốn học, sẽ lập tức cảm ứng đạo giao, Phật, Bồ Tát liền hiện thân. Các đồng tu nhất định phải biết một đạo lý, đấy là chân lý: Phật, Bồ Tát có thể ứng cơ phó cảm, yêu ma quỷ quái cũng có thể ứng cơ phó cảm. Trong tâm quý vị nghĩ đến quỷ, quỷ liền đến. Nghĩ tưởng yêu quái, yêu quái bèn hiện tiền. Quý vị nghĩ gì bèn hiện nấy, vì sao? Vì Pháp Thân là tự tánh, tự tánh vốn sẵn đầy đủ hết thảy vạn pháp. Phật ở trong tự tánh, Bồ Tát cũng ở trong tự tánh, yêu ma quỷ quái thảy đều ở trong tự tánh. Ứng cơ phó cảm là bản tánh phó cảm, chẳng phải là gì khác! Người hiện thời ham chuộng kỳ quái. Ý niệm kỳ quái ấy vừa động, yêu ma quỷ quái đều đến, Phật, Bồ Tát đều chẳng thấy, vì sao? Phật, Bồ Tát chẳng có cơ duyên, nhưng yêu ma quỷ quái có cơ duyên.

Cơ duyên gì vậy? Thích cảm ứng, chuộng thần thông, ham Thiền Định, thích làm các chuyện ấy, chuộng thấy thần, thấy quỷ, ngỡ những chuyện ấy là rất tuyệt vời! Chỉ cần quý vị động một niệm ấy, bèn có [cơ duyên gặp gỡ yêu ma quỷ quái], thật sự trông thấy, tiếp xúc, thấy người ta phóng quang, thấy thân hình kẻ ấy ngồi ở đó mà lìa khỏi mặt đất ba thước. Tâm như thế nào bèn có cảm ứng như thế ấy. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói rất hay: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn trọn đủ”, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới vốn sẵn trọn đủ. “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”. Quý vị tưởng Phật sẽ thấy Phật, tưởng Bồ Tát sẽ thấy Bồ Tát. Đó là ta mong thành Phật, mong thành Bồ Tát, trọn chẳng phải là mong thấy Phật, thấy Bồ Tát. Quý vị muốn thấy thì sai bét rồi! “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, đức Phật đã nói rất rõ ràng [như vậy] trong kinh Kim Cang. Do bản thân chúng ta mong thành Phật, thành Bồ Tát, mong minh tâm kiến tánh, cho nên khởi cảm ứng đạo giao cùng chư Phật, Bồ Tát.

Ứng Thân là có thọ mạng, thọ mạng là “nhân duyên vi mạng” (lấy nhân duyên làm mạng). Có duyên phận này, Phật sẽ trụ trong thế gian này. Chẳng có duyên phận, Phật liền diệt độ, cũng chẳng hiện hình. Chính là ý nghĩa “sanh ra từ nơi đâu, sẽ diệt mất từ nơi đó”. [Do trong thế gian có] nhiều người học Phật, thời gian Phật trụ thế bèn lâu hơn một chút. Ít người học Phật, thời gian Ngài trụ thế bèn ngắn hơn đôi chút. Chẳng phải là đức Phật hữu ý trụ thế dài hay ngắn, chẳng phải vậy, Ngài chẳng có ý nghĩ ấy. Nếu có ý nghĩ ấy, Ngài là phàm phu, chẳng phải là thánh nhân. Do Ngài chẳng có ý nghĩ, đức Phật trụ thế dài hay ngắn tùy thuộc duyên phận của chúng sanh, tức là [tùy thuộc] cơ duyên tu học của chúng sanh. Vì lẽ đó, thọ mạng của Phật, Bồ Tát do từ chỗ này mà có!

Thuở đức Phật trụ thế, các đệ tử chẳng biết cầu Phật trụ thế, quên bẵng, sơ sót chuyện này. Ma Vương Ba Tuần thấy đức Phật hằng ngày đều độ chúng sanh, dạy chúng sanh ai nấy đều vượt thoát tam giới, trong tâm hắn rất bồn chồn. Do chẳng có ai thỉnh Phật trụ thế thì hắn ta đến [chỗ đức Phật], đến để làm gì? Thỉnh Phật hãy mau chóng nhập Bát Niết Bàn, thỉnh Phật ra đi ngay lập tức: “Ngài ở đây đã độ chẳng ít người, cũng được rồi, đủ rồi, chẳng cần độ thêm nữa”. Đức Phật rất từ bi, nhận lời. Đức Phật chẳng nói dối, đã đáp ứng thì nhất định phải thực hiện. Vì lẽ đó, Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Bát Niết Bàn sớm hai mươi năm là do Ma Vương Ba Tuần khải thỉnh, các đệ tử nhất thời hồ đồ, bỏ sót!

 

(Diễn) Nhân tức chúng sanh năng cảm chi nhân, duyên tức chư Phật năng ứng chi duyên. Nhân duyên thời chí, cảm ứng đạo giao, nhân duyên biệt ly, cảm ứng tư mẫn.

()因即眾生能感之因,緣即諸佛能應之緣,因緣時至,感應道交,因緣別離,感應斯泯。

(Diễn: Nhân là chúng sanh có thể cảm, duyên là chư Phật có thể ứng. Khi nhân duyên đã tới, bèn cảm ứng đạo giao. Khi nhân duyên đã tách lìa, sự cảm ứng bèn chấm dứt).

Đây là nói về Ứng Thân. Chúng ta cần phải biết cảm ứng đạo giao cùng Phật thì cảm ứng theo cách nào? Nay chúng ta cầu Phật, toàn là cảm ứng yêu ma quỷ quái kéo đến, vì sao chẳng thể cảm ứng Phật, Bồ Tát thật sự hiện tiền? Điều này đáng cho chúng ta nghiêm túc phản tỉnh: Chúng ta đã dụng tâm sai lầm mất rồi! Chúng ta chẳng dùng chân tâm, mà dùng vọng tâm. Vọng tâm chẳng thể khởi cảm ứng cùng Phật, Bồ Tát. Đừng nói là cảm ứng với Phật, Bồ Tát, từ A La Hán trở lên [mà dùng vọng tâm thì] đều chẳng có cách nào cảm ứng. Vọng tâm có thể cảm lục đạo, vì lục đạo phàm phu, dẫu là chư thiên thuộc cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng vẫn dùng thức thứ sáu, tức tâm ý thức. Nay chúng ta dùng thức thứ sáu, tức tâm ý thức, để cầu Phật, Bồ Tát, sẽ chẳng cảm được vị Phật thật sự.

Nếu muốn cảm ứng đạo giao với Phật, Bồ Tát, phải dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm cung kính thì mới được, mới có thể cảm ứng đạo giao. Dùng cái tâm thị phi, nhân ngã; tâm tham, sân, si, mạn; tâm ganh tỵ, ngu si, làm sao có thể cảm ứng đạo giao cùng thánh nhân? Chẳng thể nào có chuyện ấy! Đừng nói là trong thời đại này, Phật, Bồ Tát chẳng đến, chẳng phải vậy, mà là do chúng ta chẳng có cách nào khởi cảm ứng cùng các Ngài. Chúng ta vẫn tưởng chính mình thông minh, học Phật như vậy, cả một đời này vẫn luống uổng, rất khó thành tựu.

Tu hành, trong ba nghiệp thân, khẩu, ý, quan trọng nhất là ý nghiệp, cũng là tu từ tâm địa, sửa đổi quan niệm và tư tưởng sai lầm. Tâm đã chánh, ngôn ngữ và sự tạo tác nơi thân thể tự nhiên đều chánh. Vì thế, người biết tu bèn tu từ căn bản, căn bản là tu pháp môn tâm địa. Người Tiểu Thừa tu theo sự tướng, người Đại Thừa tu từ tâm địa. Đối với giới luật, Tiểu Thừa luận sự, chẳng luận tâm, Đại Thừa luận tâm, chẳng luận sự. Vì thế, tại Thái Lan, Tích Lan, hàng Tiểu Thừa xem thường Đại Thừa Phật giáo của Trung Quốc! Vì sao? [Nhìn bề ngoài] Đại Thừa Phật giáo chẳng trì giới, họ (Tiểu Thừa) trì giới rất nghiêm, nhưng trì nơi sự tướng. Giới Đại Thừa trì nơi tâm địa. Nếu tâm địa chẳng thanh tịnh, nói thật thà, đúng là chẳng bằng họ. Do đó, giới Đại Thừa khó hơn giới Tiểu Thừa quá nhiều. Giới Đại Thừa xét theo chỗ khởi tâm động niệm.

Hiểu rõ đạo lý tam thân trong đoạn này, đồng thời, quý vị cũng biết cảm ứng đạo giao cùng chư Phật, Bồ Tát như thế nào. Phải biết: Hết thảy chư Phật, hết thảy Bồ Tát hiện hữu khắp nơi, vì sao? Pháp Thân trọn khắp pháp giới. Pháp Thân Phật, trong kinh Hoa Nghiêm gọi là Tỳ Lô Giá Na, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Biến Nhất Thiết Xứ (trọn khắp hết thảy mọi nơi). Pháp Thân trọn khắp hết thảy mọi nơi, há có chỗ nào chẳng tồn tại! Thiền Tông Trung Hoa có một công án kể rằng: Có một chú tiểu sa-di rất nghịch ngợm, đại tiện trong Đại Hùng Bảo Điện, rắn mắt quá sức! Hết nói nổi luôn! Thầy duy-na trông thấy bèn vội báo lên Trụ Trì, phải xử phạt nó, đại bất kính đối với đức Phật! Kết quả là hòa thượng đến mắng nó: “Ngươi làm vậy, quá thiếu cung kính”, tiểu sa-di trả lời bằng một câu: “Xin hòa thượng kiếm chỗ nào chẳng có Phật để con đại tiện”. Một câu nói khiến hòa thượng bí rị, tìm chẳng thấy! Tận hư không khắp pháp giới đều là Phật hóa thân, đến chỗ nào để tìm [một nơi chẳng có Phật]! Lão hòa thượng quá chấp tướng, bị một câu nói cảnh tỉnh, lão hòa thượng bèn khai ngộ. Đó là người thật sự khai ngộ, dùng kỹ xảo ấy để giúp cho người khác khai ngộ.

Vì thế, đối với cảm ứng đạo giao, ngàn vạn phần đừng hiểu lầm là chỉ có Phật mới có cảm ứng đạo giao, mà [thật ra] yêu ma quỷ quái thảy đều cảm ứng đạo giao với quý vị! Lý là một; do đó, tâm chánh, tâm thanh tịnh quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác! Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới có bao giờ chẳng do cảm ứng đạo giao biến hiện? Tùy thuộc ý niệm của quý vị biến đổi theo cách nào. Đúng như kinh Đại Thừa đã nói “duy tâm sở hiện”, cảnh giới do tâm hiện, “duy thức sở biến”. Duy tâm sở hiện bèn hiện Nhất Chân pháp giới, biến Nhất Chân pháp giới thành mười pháp giới là biến như thế nào? Do thức biến, thức là phân biệt, chấp trước, kinh Hoa Nghiêm nói là “vọng tưởng, chấp trước”. Nếu chẳng có vọng tưởng, chấp trước, sẽ bất biến, bất biến chính là Nhất Chân! Pháp giới là Nhất Chân. Hễ có vọng tưởng, chấp trước, liền biến Nhất Chân thành mười pháp giới. Trong mười pháp giới có thù thắng, có kém cỏi, nhưng trong Nhất Chân pháp giới chẳng có thù thắng hay kém cỏi, mà là bình đẳng.

Do đó, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhất định phải học, học gì vậy? Gặp chuyện quái lạ nào cũng đừng nghĩ là lạ, tâm chúng ta sẽ thanh tịnh. Chớ nên bị dao động bởi hoàn cảnh, chớ nên bị nhuốm bẩn bởi hoàn cảnh, hãy tu tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng trong hoàn cảnh, đó là đúng. Thấy người lành, chuyện tốt cũng thế, mà thấy kẻ ác, chuyện xấu cũng thế, đều coi bình đẳng, đó là thật sự tu hành. Đương nhiên, công phu của chúng ta còn chưa đủ, vẫn chưa có cách nào tu tâm thanh tịnh và tâm bình đẳng trong hai cảnh giới cực đoan, công phu chưa đến mức! Khi công phu chưa đến mức, tốt nhất là xa lìa chúng, tâm chúng ta sẽ thanh tịnh.

Tâm địa thật sự thanh tịnh, cũng chẳng phải là cố ý tiếp cận, vì sao? Hóa độ chúng sanh. Chúng sanh ở nơi nào cơ duyên đã chín muồi, mời quý vị đến giảng kinh, thuyết pháp, mời quý vị trụ trì đạo tràng, quý vị có thể đến đó. Xưa kia, trụ trì đạo tràng toàn là Phật, Bồ Tát, hoặc bậc tái lai, vì sao? Trong cảnh giới chẳng động tâm thì mới có tư cách trụ trì giáo hóa một phương. Vẫn bị cảnh giới bên ngoài ảnh hưởng thì chỉ có thể làm học trò, làm thanh tịnh chúng, chẳng thể trông nom sự vụ. Trông nom sự vụ sẽ phải tiếp xúc với người khác, hễ tiếp xúc với người khác mà còn có phiền não, phiền não ngày càng tăng trưởng, trái nghịch đạo tâm. Người học đạo mong sao phiền não mỗi ngày một ít đi, chẳng thể là ngày một tăng thêm. Ngày một tăng thêm là tu lục đạo luân hồi, tu ba ác đạo, sai mất rồi, chắc chắn là chẳng thể làm theo cách ấy! Vì thế, đối với cảm ứng đạo giao, chúng ta nhất định phải liễu giải, nhất định phải coi trọng.

 

(Sao) Quán Kinh Sớ vân: “Thị đồng sanh diệt, hữu thỉ hữu chung giả, Ứng Thân thọ dã. Nhất đắc vĩnh đắc, hữu thỉ vô chung giả, Báo Thân thọ dã. Phi thọ, phi bất thọ, vô thỉ vô chung giả, Pháp Thân thọ dã”.

()觀經疏云:示同生滅,有始有終者,應身壽也;一得永得,有始無終者,報身壽也;非壽非不壽,無始無 終者,法身壽也。

(Sao: Quán Kinh Sớ viết: “Thị hiện cùng sanh diệt [giống như chúng sanh], có khởi đầu, có kết thúc, đó là thọ mạng của Ứng Thân. Hễ đạt được sẽ vĩnh viễn đạt được, có khởi đầu, chẳng có kết thúc, đó là thọ mạng của Báo Thân. Chẳng phải là thọ, chẳng phải là không thọ, chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc, đó là thọ mạng của Pháp Thân”).

Giảng về vô lượng thọ, đối với vô lượng thọ bèn giảng giải theo ý nghĩa của ba thân.

 

(Diễn) Quán Kinh Sớ vân hạ thập cú.

()觀經疏云下十句。

(Diễn: Mười câu kể từ “Quán Kinh Sớ viết” trở đi).

Chính là đoạn chúng ta vừa đọc.

 

(Diễn) Lục đạo hữu sanh diệt, Pháp Thân khởi ứng, diệc thị hữu sanh diệt, vương cung giáng tích, song lâm Niết Bàn, hữu thỉ, hữu chung, Ứng Thân thọ dã.

()六道有生滅,法身起應,亦示有生滅,王宮降蹟,雙林涅槃,有始有終,應身壽也。

(Diễn: “Có sanh diệt trong lục đạo”: Pháp Thân ứng hiện, cũng thị hiện có sanh diệt, thị hiện giáng sanh trong cung vua, nhập Niết Bàn chốn Song Lâm, có khởi đầu, có kết thúc, đó là thọ mạng của Ứng Thân).

Lấy đức Phật làm thí dụ. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trong nhân gian, thị hiện trong lục đạo. Thị hiện trong lục đạo bèn giống như lục đạo. Nếu thị hiện khác biệt, rất khó kiến lập sự giáo hóa. Nếu đức Phật thị hiện trụ trong thế gian, mãi cho đến nay vẫn còn hiện diện, chúng ta có thể học theo Ngài hay chăng? [Chúng ta sẽ thưa]: “Ngài là Phật! Ngài sống hơn ba ngàn năm, chứ chúng con thì không được, chúng con làm sao có thể học được?” Học chẳng được, mọi người chẳng chịu học theo Ngài. Nhất định là phải thị hiện có hoàn cảnh sống giống như chúng ta, sau đấy mới bảo: “Ta có thể làm được thì các vị cũng có thể làm được”. Chúng ta suy nghĩ bèn gật đầu: “Chẳng sai! Ngài làm được thì con cũng có thể làm được!” Đó là phương tiện giáo hóa nhiếp thọ chúng sanh. Đức Phật xuất hiện trong nhân gian, có thọ mạng giống như loài người. Nếu thị hiện trên cõi trời, sẽ có thọ mạng giống như chư thiên. Ngài ở trong đường nào, nhất định phải có tình huống giống như chúng sanh trong đường ấy. Đây là nói về thọ mạng của Ứng Thân, nói theo sự cảm ứng.

 

(Diễn) Tam kỳ hạnh mãn, vô minh đoạn tận, Bát Nhã hiện tiền, tùng Tự Thọ Dụng, hiện Tha Thọ Dụng, ư Sắc Cứu Cánh Thiên hiện tối cao đại thân, tận vị lai tế thuyết pháp giáo hóa, hữu thỉ vô chung giả, Báo Thân thọ dã.

()三祇行滿,無明斷盡,般若現前,從自受用,現他受用,於色究竟天現最高大身,盡未來際法教化,有 始無終者,報身壽也。

(Diễn: Tu hành trọn ba A-tăng-kỳ, đoạn sạch vô minh, Bát Nhã hiện tiền, từ Tự Thọ Dụng hiện Tha Thọ Dụng, hiện thân to lớn cao nhất trong Sắc Cứu Cánh Thiên, thuyết pháp, giáo hóa đến tận đời vị lai, có khởi đầu, chẳng có kết thúc, đó là thọ mạng của Báo Thân).

“Tam kỳ” là ba A-tăng-kỳ kiếp. Trong hết thảy các kinh, đức Như Lai thường bảo từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật phải mất thời gian bao lâu? Phải mất ba A-tăng-kỳ kiếp. Sơ phát tâm tuyệt đối chẳng phải là nói chúng ta phát tâm trong hiện thời. Nói thật thà, hiện thời chúng ta về căn bản là chẳng phát tâm, đạo tâm của chúng ta trong hiện thời, nói theo thuật ngữ Phật giáo là “lộ thủy đạo tâm” (đạo tâm mong manh như sương buổi sáng). Sương buổi sáng thì mặt trời vừa mọc liền tan mất, đạo tâm như sương buổi sáng chẳng thể coi là phát tâm được! Sơ phát tâm như kinh đã nói là sơ phát tâm theo kiểu nào? Quý vị hãy đọc Đại Thừa Khởi Tín Luận, [nói] “Đại Thừa Khởi Tín” thì Khởi là mới vừa phát tâm, quý vị có thể nhập cảnh giới của Đại Thừa Khởi Tín Luận thì mới được coi là thật sự phát tâm. Bắt đầu kể từ ngày hôm ấy, [trải qua] ba A-tăng-kỳ kiếp bèn thành Phật. Thật sự chẳng dễ dàng! Sơ phát tâm thì mức độ thấp nhất là phải chứng đắc Vị Bất Thoái. Vị Bất Thoái là địa vị gì? Tiểu Thừa Sơ Quả. Tiểu Thừa Sơ Quả là cảnh giới gì? Kinh đã dạy rất rõ, phải đoạn sạch tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, tính từ ngày hôm ấy trở đi. Kể từ ngày hôm ấy, trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới thành Phật. Nếu chẳng đạt tới cảnh giới này, thảy đều chẳng tính. Trong đời quá khứ, chúng ta tu hành không chỉ là ba A-tăng-kỳ kiếp, mà là đã tu vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, nhưng mỗi đời mỗi kiếp đều chẳng đạt tới tiêu chuẩn này, nên thoái chuyển trong lục đạo. Tiến tiến lùi lùi, không ngừng thoái chuyển, chẳng có lần nào đạt tới tiêu chuẩn Vị Bất Thoái. Nếu quý vị đạt tới tiêu chuẩn này, quyết định sẽ chẳng làm phàm phu, chẳng thoái chuyển. Do đó, ba đại A-tăng-kỳ kiếp là tính từ Vị Bất Thoái. Nói theo Viên Giáo, sẽ là Sơ Tín Vị Bồ Tát. Quả vị Viên Giáo Bồ Tát gồm năm mươi mốt giai cấp, Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, năm mươi mốt địa vị. Năm mươi mốt địa vị phải tu ba A-tăng-kỳ kiếp thì mới có thể tu viên mãn, gọi là “hạnh mãn”, khi ấy “vô minh đoạn tận”, tới lúc ấy, Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh phiền não thảy đều đoạn tận, đã thành Phật, “Bát Nhã hiện tiền”.

“Tùng Tự Thọ Dụng thân, hiện Tha Thọ Dụng thân” (Từ Tự Thọ Dụng thân, hiện Tha Thọ Dụng thân): Thân Tha Thọ Dụng nhằm giáo hóa bậc Địa Thượng Bồ Tát, vì Địa Thượng Bồ Tát chứng đắc Báo Thân, thân tướng rất lớn. Trong bài kệ tán Phật có câu: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”. Thân tướng này của đức Phật ở trước mặt chúng ta, chúng ta chẳng thấy, quá to lớn. Đầu đức Phật to hơn địa cầu quá nhiều, hai mắt đức Phật còn to hơn Thái Bình Dương, làm sao quý vị có thể thấy được? Căn bản là chẳng thấy. Bạch Hào là một trong ba mươi hai tướng, là hai sợi lông quấn lại một chỗ giữa hai chân mày giống như một hạt châu, to cỡ nào? To bằng năm quả núi Tu Di. Báo Thân Bồ Tát cũng là thân to dường ấy. Quý vị muốn hóa độ họ, cũng hiện thân to ngần ấy. Nếu không, quý vị hiện thân tướng nhỏ, họ sẽ không thấy quý vị, mà quý vị cũng chẳng thấy họ, nhất định phải là hiện thân tướng bằng nhau. Vì thế, hiện thân to lớn là Tha Thọ Dụng, cũng là Địa Thượng Bồ Tát cảm ứng Phật tướng có thân tướng to lớn ngần ấy. “Ư Sắc Cứu Cánh Thiên hiện tối cao đại thân” (Trong Sắc Cứu Cánh Thiên, hiện thân to lớn cao nhất), Sắc Cứu Cánh Thiên là tầng trời cao nhất trong Tứ Thiền Thiên, cao nhất trong Sắc Giới. Lên cao hơn nữa là Vô Sắc Giới bèn chẳng có thân tướng, “tận vị  lai  tế  thuyết  pháp giáo hóa” (thuyết pháp giáo hóa đến tận đời vị lai).

Chư vị phải biết: Thuyết pháp giáo hóa chúng sanh phải là chuyện sau khi chính mình đã khai trí huệ. Trí huệ chưa khai, thuyết pháp phải cẩn thận. Cổ nhân đã có tiền lệ rồi đó: “Nói sai một chữ chuyển ngữ, đọa làm thân chồn hoang năm trăm đời”, đó là chuyện rất đáng sợ! Quyết định chẳng thể tùy tiện nói, càng chẳng thể tùy tiện viết. Giảng kinh chẳng thể tùy tiện giảng, kinh điển đương nhiên càng chẳng thể tùy tiện phiên dịch. Hiện thời có nhiều người muốn dịch kinh Phật sang tiếng Anh, vấn đề này rất nghiêm trọng! Chính mình trí huệ chẳng hiện tiền, phiền não chẳng đoạn sạch, chớ nên lỗ mãng. Tại Trung Hoa, từ xưa tới nay, các vị Tam Tạng pháp sư dịch kinh, mức độ thấp nhất đều là thánh nhân đã chứng từ Tam Quả trở lên, tâm các Ngài thanh tịnh lắm nên mới có khởi tác dụng cảm ứng với Phật. Nhất là đối với bộ kinh này, Ngẫu Ích đại sư nói: Nếu chẳng do Phật lực gia trì, hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới tuyệt đối chẳng thể cậy vào năng lực của chính mình để tin hiểu, chẳng phải là chuyện đơn giản! Nhất định phải cầu cảm ứng, mong cầu Phật, Bồ Tát gia trì. Cầu cảm ứng chỉ có một phương pháp là chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, cung kính thì mới có thể được Phật, Bồ Tát gia trì. Trong tâm có thị phi, nhân ngã, có tà niệm, có [ý niệm ham cầu] tiếng tăm, lợi dưỡng, quyết định chẳng thể được Phật lực gia trì, mà được yêu ma quỷ quái gia trì. Yêu ma quỷ quái phá hoại chánh pháp, chúng lợi dụng quý vị, quý vị lợi dụng chúng, đôi bên kết hợp làm công tác hủy diệt Phật pháp, quả báo trong tương lai là A Tỳ địa ngục, hết sức đáng sợ!

Do đó, phải ghi nhớ, Bát Nhã hiện tiền. Chuyện này khó lắm! Rất khó! Nhưng trong kinh Vô Lượng Thọ có nói, chuyện này chẳng khó, chẳng khó là vì người có phước mới được gặp gỡ. Kẻ chẳng có duyên, chẳng có phước báo sẽ chẳng gặp! Vì sao? Kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà là chân thật huệ! Kinh dạy “trụ chân thật huệ”, Trụ là tâm an trụ, an trụ trong trí huệ chân thật. Trí huệ Bát Nhã chân thật là gì? Là kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ. Quý vị có thể mỗi ngày đọc tụng là trụ chân thật huệ, thọ trì một câu danh hiệu này, Nam-mô A Di Đà Phật chính là trụ chân thật huệ. Trong tâm quý vị chẳng trụ chân thật huệ, nhất định sẽ dấy vọng tưởng. Dấy vọng tưởng thì nói thật thà sẽ là tu lục đạo luân hồi. Chẳng dấy vọng tưởng thì niệm kinh hay niệm Phật hiệu đều là tu Tây Phương Tịnh Độ.

Mỗi ngày quý vị phải lắng lòng suy tưởng, hôm  nay  ta  đã  tu  lục đạo luân hồi bao nhiêu tiếng đồng hồ? Tu Tây Phương Cực Lạc thế giới mấy tiếng đồng hồ? Nếu thời gian tu lục đạo luân hồi dài, thời gian tu thế giới Tây Phương ít ỏi thì vẫn phải luân hồi trong lục đạo, vẫn chẳng thể vãng sanh! Nếu tu thứ này mười hai giờ, mà thứ kia cũng là tu mười hai giờ, vẫn chẳng đáng tin cậy cho lắm! Tôi nói lời thật cùng mọi người, tôi chẳng lừa gạt các quý vị. Nếu lừa gạt quý vị tức là có lỗi với quý vị. Vì thế, tâm an trụ nơi hai bộ Đại Bổn và Tiểu Bổn, nơi một câu Phật hiệu, quyết định phải hơn mười hai tiếng đồng hồ thì chúng ta mới thật sự nắm chắc vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đã thế, chính mình còn cảm giác nắm chắc, chính mình nhận biết, vì sao? Tâm đã thanh tịnh, phiền não quả thật ít hơn, vọng niệm ít hơn, chẳng còn muốn làm chuyện thị phi, nhân ngã, trong hết thảy các pháp, ý niệm tham, sân, si dần dần nhạt mỏng hơn. Đó gọi là “thấy thấu suốt, buông xuống”, là tiến bộ, là lợi ích chân thật, đức Phật ban cho chúng sanh lợi ích chân thật chính là những điều này. Đối với các pháp môn khác, thưa cùng chư vị, chẳng tìm thấy [những lợi ích ấy], chỉ riêng pháp môn này là có!

“Chân Thật Tế” chính là ba thân Pháp, Báo, Ứng đã nói trên đây, ba thân chính là Chân Thật Tế. Đại Bổn và Tiểu Bổn là kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà, là chân thật huệ. Chúng ta có thể nghiêm túc thọ trì, sẽ đạt được lợi ích chân thật. Đến khi đó, trí huệ mở mang, đấy mới là “tận vị lai tế, thuyết pháp giáo hóa, hữu thỉ vô chung” (thuyết pháp, giáo hóa đến tận đời vị lai, có khởi đầu, chẳng có kết thúc). Đấy là vô lượng thọ, là thọ lượng của Báo Thân. Báo Thân đã là có khởi đầu, chẳng có kết thúc, thưa cùng chư vị, Ứng Hóa Thân vẫn là có khởi đầu, chẳng có kết thúc!

 

(Diễn) Báo, Ứng tức Pháp, cố phi thọ.

()報應即法,故非壽。

(Diễn: Báo Thân và Ứng Thân chính là Pháp Thân, nên chẳng phải là thọ).

Báo Thân và Ứng Thân đều từ Pháp Thân biến hóa mà ra, bản thể của chúng là thanh tịnh Pháp Thân. Đối với Pháp Thân, chẳng thể nói đến thọ và vô thọ!

 

(Diễn) Pháp tức Báo, Ứng, cố phi bất thọ.  

()法即報應,故非不壽。

(Diễn: Pháp Thân chính là Báo Thân và Ứng Thân, nên chẳng phải là không có thọ lượng).

Nói theo Thể, sẽ chẳng nói tới thọ mạng. Nói theo tướng và tác dụng, bèn có thể miễn cưỡng nói đến thọ lượng.

 

(Diễn) Thụ cùng tam tế, vô thỉ, vô chung giả, Pháp Thân thọ dã.

()豎窮三際,無始無終者,法身壽也。

(Diễn: Theo chiều dọc trọn khắp ba đời, chẳng có khởi đầu, không có kết thúc chính là thọ lượng của Pháp Thân).

Khi Hiền Thủ quốc sư giảng kinh Hoa Nghiêm, đã nêu tỷ dụ: “Dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng đều là vàng”, vàng là gì? Pháp Thân. Đồ vật là Báo Thân và Ứng Thân, đều do Pháp Thân biến hóa. Pháp Thân chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Nói thật thà, Ứng Thân và Hóa Thân cũng là chẳng có khởi đầu và kết thúc. Đó là nói chân tướng với chư vị, đó là Thật Tướng của các pháp. Lời này thoạt nghe dường như rất khó hiểu, nhưng người hiện thời đã có kiến thức khoa học, sẽ chẳng khó hiểu cho lắm! Các khoa học gia hiện tại đã chứng thực: Vật chất bất diệt. Ứng Thân là vật chất, vật chất bất diệt thì phải là vô lượng thọ, phải là chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Lại nói tinh thần bất diệt, tinh thần là trí huệ, là Báo Thân. Báo Thân cũng là vô lượng thọ, cũng là bất sanh, bất diệt, vì sao? Thể là bất sanh, bất diệt. Ba thân tuy một mà ba, tuy ba mà một, chẳng thể tách nó làm ba thân.

Nếu chư vị khế nhập từ chỗ này, chúng ta cũng rất vui sướng, vì sao? Thân hiện tại bất sanh bất diệt. Thân này do nghiệp báo mà có, là thân tướng có được bởi nghiệp thiện hay ác đã tạo trong đời quá khứ. Nhưng kể từ hôm nay, chúng phải chuyển biến thân nghiệp báo thành Báo Thân thanh tịnh. Thân này do chính mình tạo ra, nên chính mình có thể chuyển. Do chính mình tạo, nên người khác chẳng có cách nào chuyển thay cho ta. Vì thế, mọi người đầu óc phải tỉnh táo, đừng bị kẻ khác lừa bịp. Mạng do chính mình tạo, quyết định là do chính mình chuyển! Nếu người khác có thể chuyển thay cho chúng ta, Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, ắt sẽ chuyển thay cho chúng ta, chúng ta cũng chẳng cần phải tu hành, ai nấy đều thành Phật. Phật, Bồ Tát chẳng thể chuyển thay cho chúng ta! Phật, Bồ Tát dẫu tốt với quý vị cách mấy, ưa chuộng quý vị cách nào đi nữa, đều chẳng có cách nào chuyển nghiệp thay cho quý vị. Vì thế, sửa đổi vận mạng, chuyển biến quả báo, thảy đều phải cậy vào chính mình.

Những điều chúng tôi nói hôm nay chính là nguyên lý, đã hiểu Lý thì về Sự đương nhiên sẽ là chuyện có thể thực hiện được! Do đó, chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực tu học nơi sự tướng, điều then chốt trong sự tu học là quyết định phải đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Thiện ác là gì? Đức Phật đã dạy một tiêu chuẩn rất thấp: Phàm những gì có lợi ích cho chính mình đều là ác, phàm những gì lợi ích đại chúng thì là thiện. Chúng ta nghe lời ấy có khi rất khó tiếp nhận, đối với ta có lợi ích, cớ sao là ác? Quý vị hãy nghiêm túc suy nghĩ, [sẽ thấy] đúng là như vậy. Vì Phật pháp từ đầu tới cuối là phá chấp trước, phá Ngã Chấp bèn chứng quả A La Hán, phá Pháp Chấp bèn thành Pháp Thân đại sĩ, thành Phật. Niệm niệm đều là lợi ích của ta, Ngã Chấp sẽ tăng trưởng trong mỗi niệm, quý vị vĩnh viễn chẳng thể phá [Ngã Chấp]. Nói cách khác, chẳng thể phá Ngã Chấp, bèn chẳng thể thoát tam giới, đó có phải là ác hay chăng? Niệm niệm nghĩ đến chính mình, chẳng thoát khỏi tam giới, do đó, đức Phật bảo là ác. Niệm niệm vì chúng sanh, quên bẵng chính mình, khởi tâm động niệm đều nghĩ tới đại chúng, nghĩ tới hết thảy chúng sanh, đừng nghĩ tới chính mình, dần dần quên sạch chính mình, chẳng đoạn Ngã Chấp mà Ngã Chấp tự nhiên chẳng còn, đó là đại thiện. Hãy nên học tập điều này. Do đó, phải đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện.

Trong đoạn ác tu thiện, khẩu nghiệp là nặng nhất. Kinh Địa Tạng nói về chuyện đọa địa ngục, địa ngục có ba loại: Thân tạo tội nghiệp ít, đọa trong tiểu địa ngục. Khẩu tạo tội nghiệp nặng nề, khẩu nghiệp rất nặng, thường rêu rao lỗi lầm của kẻ khác, nói dối, nói đôi chiều. Nói đôi chiều là khơi gợi thị phi, nói chuyện chẳng chịu trách nhiệm, đáng sợ lắm! Khẩu nghiệp đọa trong mười tám địa ngục, là đọa đại địa ngục. Ý niệm càng nặng hơn, nên nói là do ý nghiệp bèn đọa Vô Gián địa ngục. Vì vậy, chúng ta nói chuyện phải hết sức cẩn thận, đừng nói tới khuyết điểm của người khác. Cổ nhân đã nói: “Quân tử tuyệt giao, bất xuất ác ngôn” (Quân tử nghỉ chơi, chẳng thốt lời ác), đó là đúng. Quý vị và người khác xích mích, bèn kể lể điều xấu của người ta, người khác nghe kể sẽ cảnh giác, vì sao? Ngươi đã có thể nói xấu kẻ khác, trong tương lai sẽ bêu xấu ta, ta phải kiêng dè, lánh xa ngươi! Vì thế, người đầu óc tỉnh táo đôi chút, chắc chắn chẳng dám làm bạn với quý vị, vì sao? Biết là trong tương lai nhất định sẽ bị quý vị làm hại! Trước đây, đi ra ngoài tham học, quải đơn (xin nhập chúng), sau khi người ấy rời khỏi ngôi chùa ấy, có người hỏi: “Chùa ấy như thế nào?” Kẻ đó nói không tốt như thế này, không hay như thế nọ! Người ta nghe xong, tối đa là đãi quý vị một bữa cơm, mời quý vị lên đường, ở đây tôi không dám giữ quý vị. Vì sao? Quý vị ở đây vài hôm, đến chỗ khác, lại nói chỗ tôi đây chẳng ra gì! Không ai dám lưu quý vị! Vì thế, vẫn là chính mình bị thua thiệt, chẳng phải là ai khác, khiến cho người khác dấy lòng nghi kỵ. Do vậy, quyết định đừng kể lể lỗi lầm của kẻ khác, người như vậy, chẳng có ai không tôn trọng quý vị, chẳng có ai không ưa thích, đều bằng lòng kết bạn với quý vị. Thường kể lể lầm lỗi của kẻ khác, chính mình bị thua thiệt quá to lớn!

Quý vị biết lầm lỗi, tật xấu, đó là giác ngộ; có thể sửa đổi thì là tu hành. Tu hành chẳng phải là mỗi ngày lạy Phật, niệm Phật. Nếu làm những việc ấy một cách hình thức, sẽ chẳng có tác dụng gì, đều là thực hiện bề ngoài, bề ngoài thì chẳng có lợi ích chân thật. Phải nghiêm túc tu hành! Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

— o0o —

Tập 191

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi mốt:

 

(Diễn) Hựu phi thọ giả, phi ứng đồng liên trì chi thọ. Phi bất thọ giả, phi báo trí bất liên trì thọ. Song phi nhị biên, minh trung pháp thể. Hựu thử thọ phi trường lượng, diệc phi đoản lượng, vô diên, vô xúc, vân “phi thọ, phi bất thọ” dã.

()又非壽者,非應同連持之壽;非不壽者,非報智不連持壽。雙非二邊,冥中法體。又此壽非長量,亦非短量,無延無促,云非壽非不壽也。

(Diễn: Lại nữa, “chẳng phải thọ” là chẳng giống với thọ mạng do tướng duy trì liên tục. “Chẳng phải là không thọ” vì chẳng phải là thọ mạng của Báo Thân Trí Huệ chẳng có tướng duy trì liên tục. Đều chẳng thuộc vào hai loại ấy, ngầm khế hợp pháp thể. Thọ mạng ấy lại chẳng phải là số lượng dài, chẳng phải là số lượng ngắn, không kéo dài, chẳng rút ngắn, nên nói là “chẳng phải là thọ, chẳng phải là không thọ”).

Đoạn này nói về Pháp Thân. Pháp Thân chẳng có khởi đầu, chẳng có kết thúc, nên chẳng thể nói tới thọ và “chẳng thọ” được! Chúng ta nói “thọ” thì nói chung là nó có số lượng. Nếu đã là vượt ngoài số lượng, sẽ chẳng thể hạn cuộc trong ngôn từ hay suy lường! Đó là nói theo Pháp Thân, chứ nói theo Ứng Thân và Báo Thân vừa được nhắc đến trong phần trước thì mới có cách nói như vậy[33]. Nếu rời khỏi Báo Thân và Ứng Hóa Thân, sẽ như nhà Thiền thường nói: “Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”.

“Phi thọ giả, phi ứng đồng liên trì chi thọ” (“Chẳng phải thọ” là chẳng ứng với thọ mạng do tướng tiếp nối): Ứng Hóa Thân dùng tướng liên tục để làm thọ mạng, Phật là như thế, chúng ta cũng chẳng ra ngoài lệ ấy! Nói thật ra, thân thể chúng ta sanh diệt trong từng sát-na, hiện tượng ấy là tướng tiếp nối trong từng sát-na. Nếu thật sự khế nhập Thật Tướng, sẽ hiểu cái thân hiện tại của chúng ta cũng là bất sanh, bất diệt. Vốn là chẳng sanh, lấy đâu ra diệt? Đạo lý này hết sức sâu, rất khó hiểu! Dẫu tỷ dụ, cũng chẳng có cách nào tỷ dụ rất thích đáng! Tỷ dụ chỉ có thể sánh ví phảng phất, phải từ sự phảng phất ấy mà thấu hiểu.

Ví như chúng ta xem phim, chư vị đều biết chuyện thường thức này. Chúng ta thấy các hình ảnh trong phim, [cứ tưởng] những tướng ấy dường như là thật. Thật ra, các hình ảnh đó là một loại tướng liên tục. Chúng ta nhìn vào cuộn phim liền biết đó là hình ảnh trong từng tấm phim một, tấm phim này được chiếu lên màn bạc, ống kính [của máy chiếu phim] lập tức đóng lại [rồi mở ra] chiếu tấm phim thứ hai. Do tốc độ nhanh, chúng ta trông thấy những hình ảnh ấy giống như thật. Bất quá tốc độ của máy là một giây chiếu hai mươi bốn tấm phim, tức là ống kính đóng mở hai mươi bốn lần. Hai mươi bốn lần [đóng mở] mà đã lừa được chúng ta, [khiến cho] chúng ta ngỡ là rất giống như thật! Đức Phật bảo các hiện tượng trong hiện tiền rất giống ống kính của máy chiếu phim đóng mở, bất quá tốc độ quá nhanh, nhanh đến nỗi chúng ta chẳng có cách nào phân biệt! Đức Phật bảo: Trong một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, một phần sáu mươi của [thời gian] khảy ngón tay là một sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Một giây chúng ta có thể khảy ngón tay bốn lần, bốn nhân với sáu mươi lại nhân với chín trăm, tức là trong một giây, “ống kính” nơi A Lại Da Thức của quý vị đóng mở bao nhiêu lần? Vừa đúng hai lần của mười vạn tám ngàn lần (hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần). [Ống kính của máy chiếu phim đóng mở] hai mươi bốn lần mà chúng ta đã chẳng có cách nào phân biệt nó là tướng liên tục, huống hồ một giây là hai mươi mốt vạn sáu ngàn lượt, chúng ta làm sao có thể biết những hiện tượng ấy là giả! Kinh Lăng Nghiêm đã nói rất hay: Tất cả hết thảy các tướng cảnh giới, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều chẳng có ngoại lệ, “sanh ra từ nơi đâu, bèn diệt từ nơi đó”. Đừng nên nghĩ chúng ta mới vừa từ nhà đến đây, chẳng có chuyện ấy! Chẳng đến, chẳng đi, sanh ra từ nơi đâu, diệt mất ngay tại đó, đó mới là chân tướng sự thật. Nhìn từ Tướng Phần thì tướng liên tục, tiếp nối được gọi là “liên trì” (連持), [có nghĩa là] một hiện tượng được duy trì liên tục, chúng ta gọi nó là thọ mạng. Thọ mạng ấy có dài hay ngắn, đó là Ứng Hóa Thân. Chỉ cần là Tướng Phần, sẽ đều chẳng thể vượt ra ngoài nguyên lý này.

“Phi bất thọ giả, phi báo trí bất liên trì thọ” (“Chẳng phải là thọ” vì chẳng phải là thọ mạng của Báo Thân trí huệ không có tướng duy trì liên tục): Đây là nói tới Báo Thân. Báo Thân dùng trí huệ làm thân. Nó chẳng phải là sắc tướng, sắc tướng là tướng liên tục; do nó chẳng phải là sắc tướng, nên chẳng thể nói tới chuyện liên tục. Báo Thân có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Sau khi quý vị chứng đắc, [Báo Thân] sẽ không bị mất đi. Đây là nói về trí huệ. Nay chúng ta chẳng có trí huệ, trí huệ đã đi về đâu rồi? Trí huệ đều biến thành phiền não. Kinh Đại Thừa thường nói “phiền não chính là Bồ Đề”, trí huệ là Bồ Đề, nhưng nay chúng ta biến nó thành phiền não cả rồi! Do đó, phiền não vô lượng vô biên. Sau khi Bồ Tát tu học đến một mức độ nào đó, chứng đắc Báo Thân. Biệt Giáo gọi sự chứng đắc Báo Thân ấy là Sơ Địa Bồ Tát, phá một phẩm vô minh, thấy một phần Pháp Thân. Thấy một phần Pháp Thân cũng là chứng đắc Báo Thân. Trong Viên Giáo, sẽ là từ Sơ Trụ trở lên. Kinh Hoa Nghiêm nói [những vị Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên thuộc về] bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, đấy là [những người] chứng đắc Báo Thân. Báo Thân có khởi đầu, không có kết thúc. Do đó, nó cũng chẳng phải là thọ mạng của Báo Thân trí huệ, không có tướng duy trì liên tục. Pháp Thân chẳng có khởi đầu, không có kết thúc, Báo Thân có khởi đầu, không có kết thúc, Ứng Thân có khởi đầu, có kết thúc, nên “song phi nhị biên” (đều chẳng thuộc về hai loại ấy), cả hai bên đều chẳng phải. “Minh trung pháp thể” (Ngầm khế hợp pháp thể): Minh (冥) là âm thầm, ngấm ngầm, nó dung thông, khế hợp cùng bản thể của các pháp, là bản thể của hết thảy các pháp.

“Thử thọ phi trường lượng, diệc phi đoản lượng” (Thọ mạng ấy chẳng phải là số lượng dài, mà cũng chẳng phải là số lượng ngắn). Pháp Thân Lý thể đã là chẳng có khởi đầu, không có kết thúc, nên chẳng thể nói số lượng của nó là dài, cũng chẳng thể nói số lượng của nó là ngắn. Dài và ngắn là “hai bên”, nó vượt thoát hai bên. “Vô diên, vô xúc” (Chẳng kéo dài, chẳng rút ngắn), “diên” (延) là thời gian lâu dài, “xúc” (促) là thời gian ngắn ngủi. “Vân phi thọ, phi bất thọ dã” (Nói là “chẳng phải là thọ, chẳng phải là không thọ”). Thọ và phi thọ cũng là hai bên, Pháp Thân vĩnh viễn rời khỏi hai bên, chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta hễ khởi tâm động niệm đều rớt vào hai bên, chỉ có lúc chẳng khởi tâm, không động niệm thì mới có thể ngầm khế hợp Trung Đạo, mới có chút tương ứng với Pháp Thân. Đó là giải thích cho câu “phi thọ, phi bất thọ”.

 

(Diễn) Nhiên thượng tam thọ, diệc thị tùy nghi cơ giáo, phi viên đốn nghĩa dã.

()然上三壽,亦是隨宜機教,非圓頓義也。

(Diễn: Nhưng ba thứ thọ mạng trên đây cũng là giáo nghĩa tùy thuận cơ nghi, chẳng phải là ý nghĩa viên đốn).

Đức Phật dạy thọ mạng của ba thân khác nhau, cách nói ấy cũng là ứng cơ thuyết pháp, là phương tiện thuyết pháp. Nói thật sự thì như thế nào? Thật sự thì như trong đoạn kế tiếp đã khải thị cho chúng ta đôi chút, đúng là chẳng thể nói được, nhất định phải do chính mình tự thấu hiểu. “Phi viên đốn nghĩa” (Chẳng phải là ý nghĩa viên đốn): Những điều vừa nói trên đây chẳng phải là giáo nghĩa Viên Giáo, chẳng phải giáo nghĩa Đốn Giáo. Trong phần trước, đức Phật đã nói theo giáo nghĩa Tạng Giáo, giáo nghĩa Thông Giáo, giáo nghĩa Biệt Giáo, cho nên nói như vậy. Giáo nghĩa Đốn Giáo chẳng nói như thế.

 

(Diễn) Nhược cứ Viên Giáo tánh cụ pháp môn, tam thân tánh cụ, tam thân dung tức, tùng tánh khởi tu. Tánh ký tam thân, vô thỉ, vô chung, Tu diệc tam thân, vô thỉ, vô chung. Tánh ký tam thân dung tức, Tu diệc tam thân dung tức. Cử nhất tức tam, ngôn tam tức nhất, bất khả tư nghị giả, Viên Giáo thọ dã.

() 若據圓教性具法門,三身性具,三身融即,從性起修,性既三身,無始無終,修亦三身,無始無終。性既三身融即,修亦三身融即,舉一即三,言三即一,不可思議者,圓教壽也。

(Diễn: Nếu xét theo pháp môn “tánh trọn đủ” trong Viên Giáo thì tánh trọn đủ ba thân. Ba thân dung thông, chính là lẫn nhau, từ tánh khởi tu. Tánh đã là ba thân, không có khởi đầu, chẳng có kết thúc, Tu cũng là ba thân, không có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Tánh đã là “ba thân dung thông, chính là lẫn nhau”, nên Tu cũng là “ba thân dung thông, chính là lẫn nhau”. Nêu ra một bèn chính là ba, nói đến ba thì chính là một, chẳng thể nghĩ bàn. Đó là thọ mạng theo Viên Giáo).

Hai dòng rưỡi này toàn là lời chân thật, hoàn toàn là chân tướng sự thật. Chư Phật, Bồ Tát là như thế, mà mỗi người chúng ta cũng đều như thế. Rất đáng tiếc là bản thân chúng ta chẳng biết, đã mê! Tự mình nghĩ là thọ mạng của Phật, Bồ Tát rất dài, thọ mạng của chúng ta rất ngắn. Phật, Bồ Tát đã chứng đắc “ba thân một Thể”, còn chúng ta thì Pháp Thân và Báo Thân đều chưa chứng đắc. Nhìn từ phía chư Phật, Bồ Tát, chúng ta chẳng khác các Ngài. Vì sao chúng ta và Phật, Bồ Tát có cách nhìn khác nhau? Nguyên nhân chỉ có một, phàm phu mê mất chính mình, đó là nguyên nhân. Vì thế, trong Phật môn nói đến mê và ngộ, mê là gì? Mê là chính mình. Ngộ là gì? Ngộ vẫn là chính mình. Vì thế, nói mê và ngộ chẳng hai! Mê và ngộ là một chuyện, chẳng phải là hai chuyện. Nhìn từ tiêu chuẩn này, khi nào mới giác ngộ? Ắt phải là khi đại khai viên giải thì mới thật sự khai ngộ. Chúng ta ai nấy đều mong khai ngộ, nhưng chẳng thể ngộ. Vì sao chẳng thể ngộ? Có chướng ngại, khiến cho ngộ môn của quý vị bị chướng ngại. Chướng ngại là gì? Đương nhiên chướng ngại rất nhiều, Phật pháp quy nạp chúng thành Nhị Chướng hoặc Tam Chướng. Nhị Chướng là Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng. Tam Chướng là Hoặc Chướng, Nghiệp Chướng và Báo Chướng, hoặc, nghiệp, khổ. Phải dùng phương pháp gì để trừ bỏ các chướng ngại ấy? Trừ bỏ sẽ khai ngộ; hễ trừ bỏ, ba thân bèn hiện tiền.

Muốn trừ Tam Chướng, cũng chỉ có một cách là tu Định. Trừ Định ra, chẳng có cách nào trừ khử chướng ngại. Phật pháp tuy nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, hoặc vô lượng pháp môn, có pháp môn nào chẳng phải là tu Định? Thảy đều là tu Định, nhưng mỗi pháp môn tu Định khác nhau, cách thức tu Định khác nhau. Tám vạn bốn ngàn hoặc vô lượng [pháp môn] chính là cách thức, phương pháp khác nhau, nhưng đều nhằm tu Thiền Định. Chúng ta dùng cách niệm A Di Đà Phật. Kinh A Di Đà nói “nhất tâm bất loạn”, nhất tâm bất loạn là Thiền Định. Chúng ta thường nói tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là Thiền Định. Đối với chuyện này, tôi tin là các đồng tu nghe cũng đã nhàm tai, chẳng biết đã nghe nói bao nhiêu lần, có tác dụng gì hay không? Chẳng có tác dụng chi hết! Vì sao biết là vô dụng? Quý vị suốt ngày từ sáng đến tối vẫn là thị phi, nhân ngã, tham, sân, si, mạn, trước nay chưa hề thật sự dấy động ý niệm muốn tu Định. Vì lẽ đó, tụng kinh cũng thế, lạy Phật cũng thế, niệm Phật cũng vậy, trì chú cũng vậy, công phu đều chẳng đắc lực, đều chẳng thành tựu. Nhất định phải hiểu: Trong hiện tiền, chúng ta phải tu đoạn phiền não nhằm trừ bỏ những chướng ngại ấy.

Ngày hôm qua, pháp sư Huệ Thiên ở chùa Tịnh Luật tại Nam Đầu dẫn mấy vị đồng học đến thăm tôi, họ mở một Phật học viện bên đó. Sư dẫn năm học viên đã tốt nghiệp trong khóa thứ nhất đến hỏi tôi: “Tu học thì phải tu theo cách nào?” Tôi bảo họ: “Tứ Hoằng Thệ Nguyện đã dạy rõ ràng, rành rẽ phương pháp, thứ tự và cương lãnh trọng yếu trong chuyện tu hành”. Trong Tứ Nguyện, chỉ có điều thứ nhất là nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” là phát Bồ Đề tâm, ba điều sau đều là hành. Đối với ba điều ấy, chẳng thể đảo lộn thứ tự, hãy từ đoạn phiền não mà khởi tu. “Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn”. Sau khi đã đoạn phiền não thì mới có thể học pháp môn, “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Hiện thời, mọi người tu hành chẳng thành công, càng tu càng điên đảo, càng tu càng nhiều phiền não, nguyên nhân ở chỗ nào? Quý vị đã làm sai thứ tự. Trong Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, đối với phần giảng về tựa đề kinh, Thanh Lương đại sư đã nói hết sức rõ ràng: Chẳng đoạn phiền não thì hết thảy các pháp môn đã học đều là tăng trưởng tà kiến! Mỗi ngày đã có rất nhiều tà kiến, mà lại còn tăng trưởng tà kiến hằng ngày, làm sao có thể thành công cho được?

Kinh Hoa Nghiêm đích xác là một bộ sách hay nhất. Trong quá khứ, tiên sinh Phương Đông Mỹ đã suốt đời tán thán [kinh Hoa Nghiêm], rất có lý! Trong Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đã nêu ra một khuôn phép: Ngài bái Văn Thù Bồ Tát làm thầy. Trong hội của Văn Thù Bồ Tát, Ngài đã học gì? Chư vị có thể lật xem Tứ Thập Hoa Nghiêm, mà cũng có thể tra cứu kinh điển. Văn Thù Bồ Tát chẳng dạy Ngài, chẳng sai tí nào! Trong hội của Văn Thù Bồ Tát, Thiện Tài đoạn phiền não, thành tựu điều này: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, đoạn sạch phiền não trong hội của Văn Thù Bồ Tát. Sau khi đã đoạn, Văn Thù Bồ Tát bảo Thiện Tài đi tham học, tham học là học gì? Tham học là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, năm mươi ba lần tham học! Đến lần tham học cuối cùng, gặp Phổ Hiền Bồ Tát, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, đó chính là nguyện cuối cùng “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, Tứ Hoằng Thệ Nguyện đã được nói rõ ràng. Tứ Thập Hoa Nghiêm giảng gì? Giảng Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Vì vậy, tu học chẳng thể luông tuồng, không tuân theo thứ tự! Nay chúng ta tu học chẳng thành công, điều kỵ nhất là chẳng đoạn phiền não mà đã khởi sự mong học pháp môn, [cứ tưởng] học càng nhiều càng hay, vẫn muốn làm đại thông gia, nhưng sở học và sở đắc đều là tà tri, tà kiến, đến khi nào thì mới có thể thành tựu? Vì lẽ đó, các đồng tu chúng ta phải thật thà ghi nhớ giáo huấn này!

Các đồng học hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Nếu vừa khởi đầu, thầy liền học pháp môn Tịnh Độ, chẳng học hết thảy các pháp môn khác và hết thảy kinh điển, thầy có thể đạt thành tựu như ngày nay hay không?” Họ vẫn còn hoài nghi, tôi bảo họ: “Nếu vừa bắt đầu học Phật, tôi liền thật thà niệm Phật thì bây giờ tôi sẽ có thành tựu vượt trỗi tối thiểu là từ mười lần trở lên so với hiện thời”. Họ nghe nói đều sững sờ! Tôi bảo: “Tôi nói thật đấy! Gấp mười lần trở lên chính là sự ước đoán rất dè dặt. Tôi đã đi theo một con đường oan uổng cả ba mươi năm mới thật sự tìm được một con đường như thế này, mới thật sự hiểu rõ!” Tứ Hoằng Thệ Nguyện là một bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, trong quá khứ, quý vị đã từng nghe người khác nói như vậy hay chưa? Phí thời gian hơn ba mươi năm mới phát hiện, mới tìm được, nguyên lai một bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm nhằm giảng rõ ràng, cặn kẽ Tứ Hoằng Thệ Nguyện! “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành” vốn là mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Những thứ trước đó chẳng cần tới nữa, tôi phải chuyên học pháp môn này!

Chuyên học pháp môn này, phải biết: Nay chúng ta niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà, niệm A Di Đà Phật, trong giai đoạn hiện thời, nhắm đến mục tiêu nào? Nhắm tới đoạn phiền não! Phải niệm sao cho trừ hết vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ưu lự, vướng mắc, tâm thanh tịnh sẽ hiện tiền. Tâm thanh tịnh hiện tiền chính là đoạn phiền não, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, dùng phương pháp này để đoạn phiền não. Chẳng có phiền não, tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ, tâm thanh tịnh xử sự, đãi người, tiếp vật tức là năm mươi ba lần tham học. Trong quá khứ, tôi giảng Hoa Nghiêm thường nói: “Năm mươi ba lần tham học là suốt ngày từ sáng đến tối ở trong xã hội, tiếp xúc các loại nhân vật, vì trong các vị thiện tri thức của năm mươi ba lần tham học, mọi nghề nghiệp, nam nữ, già trẻ thảy đều có, đó chính là nói tới xã hội hiện thực. Đến khi tâm địa quý vị thanh tịnh, tiếp xúc xã hội hiện thực đều khai trí huệ, giác chứ không mê, thành tựu vô lượng trí huệ”. Như vậy thì chúng ta mới thật sự tìm được căn bản to lớn trong tu hành.

Hiện thời có cần phải nghiêm túc nghiên cứu giáo lý hay không? Phải nghiêm túc, nhưng chẳng phải là thực hiện trong hiện thời. Yêu cầu trong hiện tại là: Đoạn phiền não là chuyện khẩn yếu! Trước hết là cầu gì? Vô tri. Kinh Bát Nhã nói: “Bát Nhã vô tri, không gì chẳng biết”. Vô tri là tâm thanh tịnh, không gì chẳng biết là tâm thanh tịnh khởi tác dụng. Hiện thời, nếu quý vị muốn cầu hiểu biết, đó là điên đảo, toàn là tà tri, tà kiến, làm sao có thể thực hiện được! Bởi lẽ, hiện thời chúng ta phiền não rất nặng, thế gian này rất loạn, là cõi đời đại loạn.

Nay chúng ta muốn tu, chư vị nhất định phải biết: Tu tâm thanh tịnh thì đạo nghiệp mới có thể thật sự thành tựu trong một đời này. Tuy phương pháp tu học rất nhiều, vô lượng pháp môn, quy nạp lại, chỉ có bốn loại lớn:

Thứ nhất là tham Thiền. Giáo học Thiền Tông dùng gì để dạy? Hương bản giáo học, tức là đánh! Quý vị khởi tâm động niệm, hương bản liền giáng xuống hòng đập tan ý niệm của quý vị. Đánh tới khi quý vị nói “chẳng có niệm nào”, vẫn phải đánh! Cớ sao chẳng có ý niệm mà vẫn đánh? Chẳng có ý niệm tức là vô minh, phải đánh hòng cảnh tỉnh quý vị. Có ý niệm thì là vọng niệm, chẳng có ý niệm bèn là vô minh, thảy đều phải đánh. Nhưng trong hiện tại thì phương pháp này của Thiền Tông không sử dụng được, thời đại này khác với thời đại trước kia. Trước đây, học trò bị thầy đánh là chuyện rất bình thường, nay thì không được. Bây giờ mà đánh liền ngay lập tức đâm đơn kiện, phạm pháp, bó tay luôn! Vì thế, hiện thời, nói thật thà, Thiền Tông không thể sử dụng được, chẳng thể dùng hương bản được!

Giáo Hạ là đọc kinh. Đọc kinh chỉ cần đọc một bộ, bất luận bộ kinh nào. Quý vị thích kinh điển nào, bèn chọn một bộ. Đã chọn một bộ, đừng đổi sang bộ thứ hai. Vì chúng ta đọc kinh chẳng nhằm hiểu nghĩa, chẳng mong hiểu ý nghĩa trong kinh Phật; dùng phương pháp niệm kinh để niệm cho hết sạch phân biệt, chấp trước, có ý nghĩa này! Vì quý vị không niệm kinh, bèn suy nghĩ lung tung. Niệm kinh sẽ chẳng suy nghĩ lung tung, mục đích ở chỗ này, chẳng nhằm hiểu ý nghĩa của kinh. Do vậy, kinh nào cũng đều được, tùy thuộc thời gian của chính mình. Nếu quý vị rất rảnh rỗi, có thể chọn một bộ kinh có phân lượng khá lớn, như kinh Pháp Hoa hoặc kinh Lăng Nghiêm chẳng hạn, mỗi ngày niệm một bộ. Công việc rất bận rộn, chẳng có nhiều thời gian như vậy thì kinh Vô Lượng Thọ rất tiện, chẳng quá dài. Mỗi ngày niệm một bộ. Sau khi đã niệm quen, ước chừng một giờ là đủ rồi. Quý vị mỗi ngày niệm một giờ, tức là tu hành một giờ, tu gì? Tu tâm thanh tịnh. Nếu quý vị nghiên cứu ý nghĩa trong kinh điển, sai mất rồi, chẳng đạt được cái tâm thanh tịnh! Có hiểu ý nghĩa trong kinh Phật hay không? Căn bản là chẳng hiểu, những gì quý vị đạt được là tà tri, tà kiến, hết sức đáng tiếc, công sức đọc kinh hoàn toàn bị phá hoại. Do đó, phải hiểu: Chúng ta đọc kinh là tu Định, chẳng nhằm cầu hiểu nghĩa. Chúng ta đọc kinh để cầu Căn Bản Trí, để cầu vô tri, chẳng phải là cầu “không gì chẳng biết”. Không gì chẳng biết sẽ cầu không được, trước hết, hãy cầu vô tri. Mọi người nhất định phải ghi nhớ kỹ càng đạo lý này, nghiêm túc tu học. Tu dăm ba năm, tâm sẽ thanh tịnh. Tâm đã thanh tịnh, phiền não ít đi. Phiền não giảm ít, thưa cùng chư vị, sẽ ít nói lăng nhăng! Vì sao biết là có phiền não? Mỗi ngày quý vị nói cả đống lời lẽ nhảm nhí, người như vậy phiền não cũng rất nhiều. Lời lẽ nhảm nhí ít đi, thị phi sẽ ít đi, tâm bèn thanh tịnh.

Tâm sau khi đã thanh tịnh bèn nghiên cứu kinh điển, nghiên cứu kinh điển là học pháp môn. Từ xưa tới nay, Phật pháp ở Ấn Độ chẳng tính, khi truyền sang Trung Hoa, trong hai ngàn năm, tổ sư đại đức đời nào cũng truyền thừa phương pháp cổ lỗ này. Chúng ta dùng phương pháp này để tu học, nhất định có thành tựu. Dùng phương pháp này để tu Tịnh Độ, mới là “vạn người tu, vạn người đến”, chớ nên không biết chuyện này! Người khác hỏi ta về Phật pháp, chúng ta có thể dạy họ nguyên tắc này, sẽ là công đức vô lượng; đó là con đường chánh đáng. Lìa khỏi con đường chánh đáng này, sẽ là đường tà! Người hiện thời vừa khởi đầu bèn học rộng, nghe nhiều, Tứ Hoằng Thệ Nguyện học tràn lan! Giống như dựng nhà, chẳng cần tầng thứ nhất, muốn dựng ngay tầng thứ hai, dựng như thế nào đây? Vĩnh viễn chẳng thể thành tựu. Trong quá khứ, tại Trung Quốc, pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian đều lấy tu tâm thanh tịnh làm cơ sở, làm căn bản. Nếu cơ sở này chẳng được thật sự đặt vững, rất khó nói tới chuyện thành tựu! Nho và Phật nói tới sư thừa, sư thừa cũng là nói từ chỗ này. Đối với sư thừa, không nhất định là phải kề cận thầy hằng ngày, đó gọi là “một ngày làm thầy, suốt đời là cha”. Thầy giảng cho quý vị mấy câu, quý vị thật sự tiếp nhận, suốt một đời y giáo phụng hành. Đó là truyền pháp, “thầy trò đạo hợp”, há có phải là mỗi ngày đều theo sát thầy! Chẳng bắt buộc phải như vậy!

Vì thế, chúng ta và Phật, Bồ Tát, cùng hết thảy chúng sanh trong pháp giới, đúng là chẳng hai, chẳng khác. “Tánh cụ pháp môn”: Bất luận là Phật pháp hay pháp thế gian, hết thảy các pháp môn thảy đều vốn trọn đủ trong tự tánh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh vốn trọn đủ”. Đó là “tánh cụ pháp môn”. Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân, “tam thân tánh cụ, tam thân dung tức” (ba thân tánh trọn đủ, ba thân chính là lẫn nhau, dung thông lẫn nhau), một tức là ba, ba chính là một. Lời này rất khó hiểu, nói như thế nào? Pháp Thân tận hư không khắp pháp giới, còn Ứng Hóa Thân là một cái thân như thế đó, cái thân này của ta làm sao có thể tận hư không khắp pháp giới? Thật ra, cái thân này xác thực là tận hư không khắp pháp giới, cảnh giới này đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Kinh Hoa Nghiêm nói “giới tử nạp Tu Di” (hạt cải chứa đựng núi Tu Di), “giới tử” (芥子) là hạt cải. Hạt cải rất bé, núi Tu Di quá to. Bỏ núi Tu Di vào trong hạt cải, núi Tu Di chẳng rút nhỏ, hạt cải cũng chẳng phình to; làm sao có thể bỏ vào được? Tỷ dụ này vẫn chưa được coi là rốt ráo. Nói rốt ráo thì như trong kinh, đức Phật đã nói: “Thập phương Như Lai ư nhất mao đoan chuyển đại pháp luân” (Mười phương Như Lai chuyển đại pháp luân trong một chót lông), “mao đoan” (毛端) là chót đầu của một sợi lông, còn bé hơn hạt cải nhiều. Trong chót đầu một sợi lông, mười phương Như Lai đều giảng kinh, thuyết pháp tại đó. Vô lượng vô biên hằng sa thế giới ở ngay trong đầu sợi lông. Điều này có nghĩa là trong Pháp Tánh chẳng có lớn hay nhỏ, dung thông lẫn nhau, trọn khắp lẫn nhau, chẳng thể nghĩ bàn! Ví như ánh sáng của một ngọn nến chiếu khắp giảng đường, giảng đường dung nhập trong ánh sáng của nến, đó là nhỏ mà chứa đựng lớn, nó được bao gồm trong quang minh [của ngọn nến], cả giảng đường được nến chiếu soi rõ ràng. Thấy ánh sáng của nến trong giảng đường, tức là lớn dung chứa nhỏ, chân tướng của pháp giới là như thế. Thân thể này của chúng ta rút đến mức nhỏ nhất, rút nhỏ đến một sợi lông, đó là toàn thể pháp giới cô đọng, là toàn thể của toàn bộ pháp giới, chẳng phải là một bộ phận. Đấy chính là Thập Huyền Môn, Tứ Vô Ngại, tức bốn thứ vô ngại “Sự vô ngại, Lý vô ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại” như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Khi nào mới có thể thật sự thấu hiểu Thập Huyền, Tứ Vô Ngại? Phá một phẩm vô minh, cảnh giới ấy liền hiện tiền. Vô minh chưa phá, cảnh giới vẫn ở trước mặt, vẫn là ở ngay trước mặt mà chính mình chẳng biết! Phá vô minh, sẽ hoảng nhiên đại ngộ cảnh giới trước mắt vốn là [Tứ Vô Ngại, Thập Huyền Môn]! Cổ nhân nói: “Đạp phá thiết hài vô mịch xứ, đắc lai toàn bất phí công phu” (Giày sắt đi mòn, tìm chẳng thấy! Được rồi, chẳng tốn chút công phu), [cái mà ta mải miết tìm kiếm] vốn chính là nó, ở ngay trước mắt! Vì thế, xác thực một chính là ba, ba chính là một. Chư Phật Như Lai là như thế, chúng ta cũng là như thế. Chúng ta mê, bất giác; Phật, Bồ Tát giác chứ không mê. “Tam thân dung tức”: Dung nhập lẫn nhau, chính là lẫn nhau. Thân này là Ứng Thân, mà cũng là Báo Thân, cũng là Pháp Thân. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói đạo lý này rất cặn kẽ, kinh Hoa Nghiêm càng nói thấu triệt hơn!

“Tùng tánh khởi tu, Tánh ký tam thân, vô thỉ, vô chung, Tu diệc tam thân, vô thỉ, vô chung” (Từ tánh khởi tu, Tánh đã là ba thân, không khởi đầu, chẳng kết thúc. Tu cũng là ba thân, chẳng khởi đầu, không kết thúc). Cổ đức đã để lại khuôn mẫu, dạy chúng ta phương pháp “tùng tánh khởi tu”, dạy quý vị trước hết là đoạn phiền não, tức là từ tánh khởi tu. Tánh là gì? Tâm thanh tịnh, chân tâm! Chân tâm là bản tánh, phải bắt đầu tu tập từ chỗ này. Chẳng phải là khởi tu bằng nghiên cứu giáo lý. Nghiên cứu giáo lý chẳng phải là khởi tu từ tánh, mà là khởi tu từ sự tướng, phiền phức to lớn, phải tới năm nào thì mới có thể quay về tự tánh? Tiểu Thừa Phật pháp khởi tu từ sự tướng, cho nên để chứng A La Hán phải qua lại cõi trời và nhân gian bảy lần! Nhân gian thọ mạng ngắn ngủi, cõi trời thọ mạng lâu dài, bao nhiêu năm mới có thể chứng A La Hán! Đại Thừa Phật pháp thông minh, khởi tu từ tánh, mau chóng lắm! Khởi tu từ Tánh Đức là khởi tu từ tâm thanh tịnh.

Tánh đã là ba thân, chẳng có khởi đầu, không có kết thúc, nên nay chúng ta cũng tu ba thân, cũng là chẳng có khởi đầu, không có kết thúc. Trong các buổi giảng, chúng tôi đã nói: Nếu quý vị thật sự là chân tâm, dùng cái tâm chân thành để cầu sanh Tịnh Độ, niệm câu A Di Đà Phật, trọn đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh, hiện tại chúng ta là vô lượng thọ! Chẳng cần phải đợi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mới gọi là vô lượng thọ, mà hiện tại đã là vô lượng thọ! Chẳng cần phải đợi tới vãng sanh mới chứng trọn vẹn Tam Bất Thoái, mà là hiện tiền đã viên chứng ba món Bất Thoái. Vì sao? Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] đã trả lời: “Tùng tánh khởi tu, tánh ký tam thân, vô thỉ, vô chung, tu diệc tam thân, vô thỉ, vô chung” (Từ tánh khởi tu, Tánh đã là ba thân, không khởi đầu, chẳng kết thúc. Tu cũng là ba thân, chẳng khởi đầu, không kết thúc), chính là đạo lý này! Ở đây, lời tôi nói đã được ấn chứng. Quý vị mới biết: Pháp môn Niệm Phật thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Điều cuối cùng trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là thành Phật đạo, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc chính là thành Phật đạo, từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy điều này!

Hai kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn chuyên giảng về y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói cách khác, hai bộ kinh này hoàn toàn nói về cảnh giới công đức nơi quả địa Như Lai. Chúng ta tu pháp môn này là khởi tu từ quả, chẳng phải là khởi tu từ nhân, nhân quả đồng thời, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Kinh Hoa Nghiêm vẫn là từ nhân đến quả. Pháp môn này khởi tu từ quả, lấy quả làm nhân, trong hết thảy các pháp môn khác chẳng tìm thấy điều này. Nhân tức là quả, quả tức là nhân, nhân quả chẳng hai! Nếu không thể lãnh hội như vậy, quý vị sẽ chẳng thể nhận ra sự nhiệm mầu trong pháp môn này, chẳng thể lý giải sự thù thắng của pháp môn này, chẳng có cách nào lý giải!

“Tánh ký tam thân dung tức, tu diệc tam thân dung tức. Cử nhất tức tam, ngôn tam tức nhất, bất khả tư nghị giả, Viên Giáo thọ dã” (Tánh đã là ba thân dung nhập, chính là lẫn nhau. Tu cũng là ba thân dung nhập, chính là lẫn nhau. Nêu ra một chính là ba, nói là ba mà chính là một, chẳng thể nghĩ bàn. Đó là thọ mạng theo Viên Giáo). Mấy câu này dễ hiểu, thuộc về giáo nghĩa Viên Giáo, xác thực là chẳng giống những giáo nghĩa khác. Cổ đức tán thán kinh này viên nhất trong các pháp viên, đốn nhất trong các pháp đốn. Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Bổn Sư tán thán A Di Đà Phật: “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Quang minh tôn quý nhất, vua trong chư Phật). Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên chúng ta tu học pháp môn này, chỉ dạy, truyền trao pháp môn thành Phật của chính Ngài, ân đức ấy quá lớn. Chúng ta có được pháp môn này, sẽ ổn thỏa thành Phật trong một đời này. Vấn đề là quý vị có tin tưởng hay không, quý vị có chịu tiếp nhận hay không? Nếu thật sự tin tưởng, thật sự chịu tiếp nhận, từ nay về sau chẳng dấy vọng tưởng, một bộ kinh, một câu Di Đà niệm đến cùng, chắc chắn sẽ thành công! Ta còn mong học các pháp môn khác, đó chính là vọng niệm, là đi vào ngõ rẽ, là xen tạp. Cổ đức dạy chúng ta “tử tận thâu tâm” (chết sạch tấm lòng mong ngóng, chụp giật), phải vứt bỏ những vọng niệm ấy, tuyệt đối chẳng khởi lên niệm thứ hai.

Có lẽ chư vị đồng tu sẽ  nói:  “Hiện  thời  người  học  kinh  Di  Đà, kinh Vô Lượng Thọ đông ngần ấy, ta chẳng cần phải học!” Quý vị tính cho tôi xem thử, rốt cuộc có mấy người? Trung Quốc Đại Lục to dường ấy, có mười một ức dân cư, thế giới phương Đông và phương Tây rộng lớn ngần ấy, có [lèo tèo] mấy người chúng ta, có đủ dùng hay chăng? Chẳng đủ dùng! Nói thật ra, kiểu suy nghĩ ấy là nghiệp chướng, là tội chướng, chướng ngại sự tu học của chính mình. Trong thời kỳ Mạt Pháp, muốn độ chúng sanh, thành Phật đạo, nói thật thà, chỉ có pháp môn này. Có được pháp môn này là may mắn, quá hên! Sau khi đã có được, hãy nghiêm túc tu học, nỗ lực hoằng dương, như vậy thì mới có thể báo Phật ân. Trong hết thảy các kinh, chúng ta chỉ tuyển chọn một bộ này, những bộ khác đều chẳng màng tới! Người khác muốn hoằng dương kinh điển nào đó, chúng ta cũng tán thán, cũng hoan hỷ, cũng đừng chướng ngại họ. Bản thân chúng ta chỉ học bộ kinh này, chỉ hoằng dương bộ kinh này, con đường này là chánh xác!

 

(Sao) Hựu vị bỉ Phật thọ mạng, thật hữu kỳ hạn, nhân thiên mạc sổ, thị hữu lượng chi vô lượng dã.

()又謂彼佛壽命,實有期限,人天莫數,是有量之無量也。

(Sao: Lại có kẻ nói: “Thật ra thọ mạng của đức Phật ấy thật sự có kỳ hạn, nhưng trời, người chẳng thể tính nổi số lượng, đó chính là vô lượng trong hữu lượng”).

“Hựu vị” (又謂) [nghĩa là] lại có kẻ nói. “Bỉ Phật” là A Di Đà Phật. [Họ cho rằng] thọ mạng của A Di Đà Phật nói thật ra là có kỳ hạn. Kinh đã nói[34] rất rõ ràng: Trong tương lai, A Di Đà Phật nhập Niết Bàn. A Di Đà Phật buổi sáng nhập Bát Niết Bàn, buổi chiều Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện thành Phật. Vì vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có Tượng Pháp, Mạt Pháp và Chánh Pháp, luôn luôn có Phật trụ thế. Trong tương lai, Quán Âm Bồ Tát nhập Bát Niết Bàn, Đại Thế Chí Bồ Tát nối ngôi thành Phật, từng vị nối tiếp nhau thành Phật. Tây Phương Cực Lạc thế giới vĩnh viễn có Phật trụ thế, chẳng phải là không có Phật trụ thế.

Nói thật ra là có kỳ hạn, nhưng kỳ hạn ấy quá dài, “nhân thiên mạc sổ” (trời, người chẳng tính được), tính không ra! Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói “giả sử”, tức là ví như, chẳng phải là thật. “Thập phương thế giới chúng sanh”, chẳng phải là một thế giới (một thế giới là thế giới Sa Bà, tức là một đại thiên thế giới), mà là mười phương thế giới, tất cả chúng sanh trong vô lượng vô biên các cõi Phật khắp mười phương thảy đều chứng quả Bích Chi Phật. Bích Chi Phật còn cao hơn A La Hán một bậc, tâm địa còn thanh tịnh hơn A La Hán. “Thần thông giai như Đại Mục Kiền Liên” (Thần thông đều như Đại Mục Kiền Liên): Trong các đệ tử của Phật Thích Ca, ngài Mục Kiền Liên thần thông bậc nhất. Ngài Mục Kiền Liên có năng lực trong một ngày một đêm có thể tính rõ số lượng tinh tú trên bầu trời. Những người ấy đều thành Bích Chi Phật, thần thông đều giống như Mục Kiền Liên, thọ mạng của họ đều dùng kiếp số để luận, dùng trọn hết tuổi thọ ấy để chung sức tính toán thọ mạng của người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều tính chẳng ra, [đó chính là] “nhân thiên mạc sổ” (người lẫn trời đều chẳng tính được). Vô lượng thọ chẳng phải là Vô Lượng trong mười con số lớn của Ấn Độ. Con số Vô Lượng đó dễ dàng tính ra. A-tăng-kỳ lần A-tăng-kỳ là một Vô Lượng, Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên, dễ tính toán, người bình phàm đều có thể tính ra. Thọ mạng ấy (thọ mạng của người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới) trời, người chẳng thể tính toán được, tuy là hữu lượng, chúng ta có thể nói nó thật sự là vô lượng, chẳng có cách nào tính toán!

 

(Sao) Việt Khê giải vân: “Thử kinh tuy vân vô lượng, nãi thị tam thập nhị tướng thường sở kiến thân, phi Quán Kinh Thắng Ứng tôn đặc chi thân”, diệc đồng thượng ý.

()越溪解云:此經雖云無量,乃是三十二相常所見身,非觀經勝應尊特之身,亦同上意。

(Sao: Ngài Việt Khê giải thích: “Tuy kinh này nói vô lượng, nhưng đó là thân ba mươi hai tướng thường thấy, chẳng phải là Thắng Ứng Thân đặc biệt tôn quý trong Quán Kinh”, cũng có cùng ý nghĩa như trên đây).

Việt Khê đại sư giải thích, ba mươi hai tướng chính là Ứng Hóa Thân của Phật, thị hiện trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Thân to lớn nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật ngự trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm là Báo Thân, có khởi đầu, chẳng có kết thúc. Vì thế, nói tới thọ lượng của Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, nói thật ra là nói tới thọ lượng của Ứng Thân Phật. Thọ lượng của Ứng Thân quả thật có kỳ hạn, Báo Thân đương nhiên chẳng cần nói tới. Đừng nói là A Di Đà Phật, hết thảy chư Phật Như Lai đều là vô lượng thọ. Bất quá là thọ mạng của Ứng Thân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật quá ư là dài. Chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ mạng sẽ giống như thọ lượng của Phật. Trong hết thảy các thứ chân thật, điều này là chân thật bậc nhất. Chẳng có thọ mạng, hết thảy các thứ trang nghiêm khác đều rỗng tuếch, ai sẽ hưởng thụ? Ắt phải là trường thọ thì mới có thể hưởng thụ, hưởng thụ hết thảy y báo và chánh báo trang nghiêm.

 

(Sao) Kim vị tùy cơ sở kiến giả. Thử kinh Phật thân vô định, tiền nghĩa lý trung dĩ biện, huống kinh văn đản ngôn A Di Đà Phật hiện tại kỳ tiền, vị tằng chỉ định hiện hà đẳng thân, Việt Khê an đắc phán thuộc tam thập nhị tướng, tất vị Liệt Ứng, tắc liệt cơ tự kiến, phi thử kinh chuyên dĩ Liệt Ứng nhi bị liệt cơ dã.

()今謂隨機所見者,此經佛身無定,前義理中已辯,況經文但言阿彌陀佛現在其前,未曾指定現何等身,越溪安得判屬三十二相,必謂劣應,則劣機自見,非此經專以劣應而被劣機也。

(Sao: Nay tôi nói là “tùy theo căn cơ mà thấy [khác biệt]”, thân Phật trong kinh này chẳng nhất định, điều này đã được biện định trong phần nghĩa lý trên đây. Huống chi kinh văn chỉ nói “A Di Đà Phật hiện ra trước mặt” [người sắp vãng sanh], chưa hề nói rõ hiện những thân nào, sao ngài Việt Khê lại phán định [thân Phật trong kinh này] thuộc về ba mươi hai tướng? Ắt là hễ nói tới Liệt Ứng Thân thì đó là thân được thấy bởi kẻ căn cơ kém hèn, chứ không phải là kinh này chuyên dùng thân Liệt Ứng để tiếp độ kẻ căn cơ kém cỏi).

Trong đoạn này, Liên Trì đại sư phê bình lời nhận định của ngài Việt Khê. Ngài Việt Khê nói có lý, mà trong đoạn này, Liên Trì đại sư cũng nói có lý! Vì sao? Người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mỗi người mang theo nghiệp khác nhau, khi vãng sanh sẽ thấy hình tượng Phật khác nhau. Trong Quán Kinh đã nói rất rõ ràng, thượng phẩm thượng sanh thấy tận hư không khắp pháp giới đều là A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí. Phẩm vị vãng sanh thấp hơn sẽ chẳng thấy hình tượng Phật thù thắng như vậy. Hạ phẩm hạ sanh chỉ thấy Quán Âm và Thế Chí đến tiếp dẫn, chẳng thấy A Di Đà Phật.

Tịnh Tông nhất định phải lấy kinh Vô Lượng Thọ làm kinh bậc nhất, lấy kinh ấy làm căn cứ nguyên thủy. Vì sao? Vì trong kinh Vô Lượng Thọ có bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện do chính A Di Đà Phật tự nói, cho nên là chân thật nhất. Thích Ca Mâu Ni Phật kể lại cho chúng ta biết, kể lại tức là chẳng khác A Di Đà Phật tự nói! Bốn mươi tám nguyện đã nói rõ ràng: Dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh, hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, không chỉ là thọ mạng giống hệt như Phật, mà tướng mạo cũng giống như Phật, y báo và chánh báo trang nghiêm đều giống như Phật. Vì vậy, thế giới ấy là thế giới bình đẳng, chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy có thể biết: Khi chúng ta ở trong cõi này, muốn vãng sanh, còn chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, lúc Phật đến tiếp dẫn thì còn có chút sai biệt, nhưng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn chẳng có sai biệt. Từ cõi này, chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới phải mất bao lâu? Thời gian quả thật hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, tốc độ quá nhanh, trong một cái khảy ngón tay! Dẫu là Liệt Ứng Thân, thời gian cũng rất ngắn ngủi. Đến thế giới Cực Lạc, bèn chứng pháp giới bình đẳng; từ Đại Kinh, chúng ta đã có được sự thật này.

Tiếp đó, chúng ta hãy xem lời Liên Trì đại sư lão nhân gia nói: “Kim vị tùy cơ sở kiến giả, thử kinh Phật thân vô định, tiền nghĩa lý trung dĩ biện, huống kinh văn đản ngôn A Di Đà Phật hiện tại kỳ tiền” (Nay nói là tùy theo căn cơ mà thấy [thân Phật sai khác]. Thân Phật trong kinh này không nhất định, điều này đã được biện định trong phần nghĩa lý trên đây, huống chi kinh văn chỉ nói A Di Đà Phật hiện trước mặt [người sắp vãng sanh]), trọn chẳng nói là Báo Thân hay Ứng Thân của A Di Đà Phật, chỉ nói A Di Đà Phật hiện ra trước mặt người ấy. Pháp sư Việt Khê nói là ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo, đó là Liệt Ứng Thân, giống như thân tướng do Thích Ca Mâu Ni Phật đã hiện trong thế gian này. Chúng ta căn cơ hèn kém, Ngài liền thị hiện Liệt Ứng Thân, [đó là] “liệt cơ tự kiến” (do căn cơ của chúng sanh kém cỏi, bèn tự thấy [thân Phật là Liệt Ứng Thân]). Nói thật thà, chúng ta niệm Phật vãng sanh, đại khái thấy hình tượng Phật đều là thân này. Ngài Việt Khê nói có lý, vì sao? Nếu Báo Thân của Phật hiện tiền, chúng ta chẳng trông thấy! “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”, làm sao chúng ta có thể trông thấy được? Chẳng thấy nổi! Do đó, đức Phật nhất định phải hiện một tướng, tuy là  thân  to  lớn, cũng chẳng thể quá lớn, quá lớn thì chúng ta chẳng thấy rõ, sẽ chẳng thấy được!

Ví như chúng ta là thân người, kiến chắc chắn chẳng thấy vẻ mặt chúng ta, vì sao? Nó quá nhỏ. Phật muốn độ kiến, cũng phải hiện thân kiến, to hơn nó một hai lần thì nó mới thấy; quá lớn, nó sẽ chẳng thấy. Vì thế, đến tiếp dẫn chúng ta, ắt phải là thân ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, [tức là] kim thân trượng sáu, thân tướng to gấp đôi, gấp ba người bình phàm đến tiếp dẫn, đó là hợp lý. Nhưng phải biết: A Di Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh trong chín pháp giới. Bồ Tát vãng sanh mà A Di Đà Phật hiện thân tướng [trượng sáu] này, thân tướng của Bồ Tát to như vậy, thân tướng của Phật nhỏ chừng ấy, chẳng tương xứng! Do đó, Phật nhất định phải hiện đại thân.

Mười phương vô lượng vô biên các cõi Phật, chẳng có một vị Phật nào không khuyên chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Hằng ngày đều có Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, lục đạo phàm phu cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nên Phật hiện thân cũng là tương ứng căn cơ. Đáng nên dùng thân gì để tiếp dẫn, đức Phật tự nhiên hiện thân tướng ấy. Ứng cơ thị hiện là chuyện hợp lý! Nhưng chư vị phải ghi nhớ, tuyệt đối chẳng phải chỉ có một Liệt Ứng Thân ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Nếu nghĩ như vậy (tức là nghĩ chỉ có một Liệt Ứng Thân thị hiện), sai mất rồi! Đối với thế giới Sa Bà, đối với người trên địa cầu niệm Phật vãng sanh, [hiểu như vậy] thì rất chánh xác!

 

(Sao) Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, giả linh thập phương chúng sanh, giai tác Duyên Giác, Thanh Văn, giai tọa Thiền nhất tâm, dục kế ngã niên thọ kỷ thiên ức vạn kiếp, vô năng tri giả”, khởi diệc thường sở kiến thân chi vô lượng hồ?

()大本法藏願云:我作佛時,假令十方眾生,皆作緣覺聲聞,皆坐禪一心,欲計我年壽幾千億萬劫,無能知者,豈亦常所見身之無量乎。

(Sao: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật, giả sử mười phương chúng sanh đều là Duyên Giác, Thanh Văn, đều tọa Thiền nhất tâm, muốn tính xem ta thọ mấy ngàn ức vạn kiếp đều chẳng thể biết”, há chẳng phải là cái thân thường thấy cũng là  thọ vô lượng ư?)

Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Ở đây, trích dẫn bốn mươi tám nguyện nhằm chứng minh “A Di Đà Phật thọ vô lượng” xác thực là vô lượng thọ. Dẫu trong phần trên có nói là hữu lượng, nhưng trời lẫn người đều chẳng tính được, chẳng có cách nào tính toán.

 

(Sao) Thị cố, nhập diệt Song Lâm, hoặc kiến Linh Sơn vị tán, Xá Na thiên trượng, hoặc kiến trượng lục kim thân, Phật bổn bất di, cơ tự dị cố. Tắc vị bỉ Phật thọ mạng, tức vô lượng chi vô lượng, diệc hà bất khả?

 ()是故入滅雙林,或見靈山未散,舍那千丈,或見丈六金身,佛本不移,機自異故。則謂彼佛壽命,即無量之無量,亦何不可。

(Sao: Do vậy, nhập diệt chốn Song Lâm, hoặc thấy hội Linh Sơn chưa giải tán, thân Lô Xá Na Phật cao ngàn trượng, hoặc thấy thân vàng trượng sáu, Phật vốn chẳng dời, do căn cơ mà thấy sai khác. Do vậy, nói thọ mạng của đức Phật ấy chính là vô lượng của vô lượng thì cũng chẳng có gì là không được!)

 Đoạn này viện dẫn Thích Ca Mâu Ni Phật làm tỷ dụ, Ngài nhập diệt tại Song Lâm.

 

(Diễn) Thị cố hạ, dẫn Thích Ca lệ Di Đà, nhập diệt Song Lâm, nãi Ứng Thân, bị phàm tiểu cơ. Cơ tân ký tận, ứng hỏa tắc vong.

()是故下,引釋迦例彌陀,入滅雙林,乃應身,被凡小機,機薪既盡,應火則亡

(Diễn: Từ chữ “do vậy” trở đi, dẫn Phật Thích Ca để suy diễn Phật Di Đà. Nhập diệt tại Song Lâm là Ứng Thân nhằm độ hàng phàm phu tiểu cơ. Củi cơ duyên đã hết, lửa ứng hóa bèn tắt).

 Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian, giáng sanh tại vương cung, ba mươi tuổi thị hiện thành đạo, thuyết pháp bốn mươi chín năm, bảy mươi chín tuổi “nhập diệt Song Lâm”, [tức là] nhập diệt trong rừng cây [Sa La] Song Thụ. Đấy là Ứng Thân của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ứng Thân có tác dụng gì? Giáo hóa phàm phu, giáo hóa Tiểu Thừa. Đối tượng giáo học đã hết, đức Phật bèn ra đi. Nói thật ra, Ứng Thân của Phật thọ mạng dài ngắn tự tại, chẳng giống như chúng ta. Thọ mạng của chúng ta là nghiệp báo, mong kéo dài chẳng thể kéo dài, muốn rút ngắn cũng chẳng thể rút ngắn, thân nghiệp báo mà! Có người sống không nổi, bèn tự sát, tự sát có giải quyết vấn đề hay chăng? Chẳng giải quyết được! Tự sát còn khổ sở, còn đáng sợ hơn là sống sót! Vì sao? Thọ mạng của quý vị chưa hết, quý vị đoạn dứt nó, phàm là kẻ tự sát đều phải tìm kẻ chết thay, chẳng tìm kẻ thế thân, người ấy chẳng có cách nào đi luân hồi, chẳng có cách nào đầu thai, mới biết đó thật sự là khổ sở!

Chư Phật, Bồ Tát nương theo nguyện trở lại, nên thọ mạng dài ngắn tự tại. Các Ngài muốn trụ trong thế gian này một trăm năm, hai trăm năm, thậm chí trụ một ngàn năm, hai ngàn năm, đều làm được! Vì sao các Ngài chẳng thường trụ trong thế gian? Nói thật thà, thường trụ trong thế gian chẳng có tác dụng, chẳng thể độ chúng sanh. Chúng sanh thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đã sống ba ngàn năm, chúng con làm sao có thể sánh bằng Ngài? Chẳng sánh bằng thì chúng con chẳng có cách nào học theo Ngài! Vì thế, để dạy bảo chúng ta, đức Phật nhất định phải thị hiện hoàn toàn giống như chúng ta, sau đó mới bảo: “Ta có thể thành tựu, quý vị cũng có thể thành tựu!” Chúng ta nghe nói gật đầu, có thể tin tưởng, có thể tiếp nhận.

Những chúng sanh hữu duyên đều đắc độ, thân thể Ngài lưu lại thế gian vô dụng, đó là “cơ tân ký tận” (củi cơ duyên đã hết), cơ (機) là cơ duyên, tức là học trò. Các học trò có thể giáo hóa chẳng còn, đều đã thành tựu, “ứng hỏa tắc vong” (lửa ứng hóa bèn tắt), lửa cần có củi đốt, củi chẳng còn nữa, đương nhiên lửa cũng tắt, đó là đạo lý nhất định. Học trò chẳng có, thầy cũng chẳng có. Có học trò thì mới có thầy. Chẳng có học trò thì thầy cũng chẳng còn! Đó là nói đến Ứng Thân.

 

(Diễn) Linh Sơn vị tán, nãi Báo Thân, bị Bồ Tát cơ. Cơ ký thường thời, Phật diệc thường tại.

()靈山未散,乃報身,被菩薩機,機既常時,佛亦常在。

(Diễn: Hội Linh Sơn chưa giải tán là nói về Báo Thân nhằm độ Bồ Tát. Căn cơ đã thường tồn tại, đức Phật cũng thường tồn tại).

Đời Tùy, Trí Giả đại sư thuộc tông Thiên Thai đọc kinh Pháp Hoa, đọc đến phẩm Dược Vương Bồ Tát, lão nhân gia nhập Định. Trong Định, Ngài tới núi Linh Thứu, Thích Ca Mâu Ni Phật còn đang giảng kinh Pháp Hoa tại đó. Ngài ngồi nghe một buổi, trở về xuất Định, bảo mọi người: “Hội Linh Sơn nay vẫn chưa giải tán!” Ngài Trí Giả cách Thích Ca Mâu Ni Phật hơn một ngàn năm, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu vẫn chưa giải tán, Trí Giả đại sư đích thân trông thấy. Không chỉ là vào thời Trí Giả đại sư hội ấy chưa giải tán, mà thưa cùng chư vị, hiện thời cũng chẳng giải tán! Rất đáng tiếc, quý vị đến Ấn Độ lên núi bái Phật, thấy núi Linh Thứu, chẳng thấy Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng chẳng thấy Ngài đang giảng kinh Pháp Hoa tại đó. Hội ấy thật sự chưa tan. Điều này cũng chứng tỏ hết thảy các pháp bất sanh bất diệt, tùy thuộc quý vị có duyên phận hay không!

Nói theo Lý, người nào chẳng có duyên phận? Ai nấy đều có! Ai nấy đều có, cớ sao hiện tại chẳng có? Hiện thời, duyên của quý vị tạm thời gián đoạn, vì sao gián đoạn? Do quý vị có hai thứ chướng hoặc ba thứ chướng, có vọng tưởng, chấp trước, nên quý vị chẳng thấy. Lìa khỏi hết thảy vọng tưởng, chấp trước, sẽ trông thấy. Chư vị nghĩ xem, muốn học kinh, muốn đọc kinh, cần gì phải phiền phức như vậy? Hễ tâm địa thanh tịnh, thứ gì cũng đều hiện thành, chẳng cần phải kiếm chuyện phiền phức ấy! Do đó, Phật pháp cầu ở nơi đâu? Cầu trong tự tánh! Chẳng phải là ở ngoài tâm, cầu pháp ngoài tâm là ngoại đạo. Vì thế, chính mình học Phật mà học thành ngoại đạo, vẫn chẳng biết, oan uổng quá! Phật pháp phải học từ trong tự tánh.

Trí Giả đại sư là Bồ Tát, nên Ngài có thể trông thấy. Nay chúng ta chẳng thấy, chúng ta chẳng phải là Bồ Tát. Nhưng chư vị phải nhớ, nếu quý vị thật sự phát Bồ Đề tâm, nhất tâm chuyên niệm, quý vị là Bồ Tát. Đáng tiếc là hằng ngày niệm kinh, kinh đã dạy như thế, trong các buổi giảng chúng tôi cũng hằng ngày lớn tiếng kêu gào như vậy, quý vị chẳng thể phát cái tâm Bồ Đề! Đó là vì chẳng chịu một mực chuyên niệm, khi niệm Phật vẫn còn xen tạp! Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đã bảo: “Pháp môn này kỵ nhất là xen tạp”. Chúng ta khăng khăng muốn xen tạp, làm cách nào đây? Cứ ngỡ chính mình thông minh, tự cho là đúng, lầm lỡ chính mình!

 

(Diễn) Xá Na thiên trượng, nãi Bồ Đề tràng sở hiện Báo Thân.

()舍那千丈,乃菩提場所現報身。

(Diễn: Lô Xá Na Phật thân cao ngàn trượng, chính là Báo Thân hiện nơi Bồ Đề đạo tràng).

Đây là Lô Xá Na Phật, là cảnh giới trong kinh Hoa Nghiêm. Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân Như Lai, Lô Xá Na là Báo Thân Như Lai, Thiên  Bách  Ức Hóa Thân là Thích Ca Như Lai, ba thân là một nhưng là ba, tuy là ba mà một, kinh Hoa Nghiêm nói như vậy.

 

(Diễn) Trượng lục kim thân nãi Lộc Dã Uyển sở hiện Ứng Thân, nhị thỉ đồng thời, song thùy lưỡng tướng dã.

()丈六金身乃鹿野苑所現應身,二始同時,雙垂兩相也。

(Diễn: Thân vàng trượng sáu chính là Ứng Thân đã hiện tại Lộc Dã Uyển, hai thân ấy cùng đồng thời khởi đầu, rủ lòng thị hiện hai tướng).

Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành đạo, bộ kinh được giảng đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm. Giảng kinh Hoa Nghiêm bèn hiện thân tướng cao lớn ngàn trượng. Thân tướng ấy thị hiện trong Định, phàm phu và Tiểu Thừa đều chẳng thấy. Trong mười bốn ngày giảng Hoa Nghiêm, thính chúng là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, đó là khởi đầu. Sau khi đức Phật giảng xong Hoa Nghiêm, xuất Định, tại Lộc Dã Uyển độ năm vị tỳ-kheo bèn giảng kinh A Hàm; đó là Ứng Thân, tức thân cao một trượng sáu, phàm phu và Tiểu Thừa trông thấy thân ấy. “Nhị thỉ đồng thời”: Nhị Thỉ (二始: hai thứ khởi đầu), một là trong Định giảng Hoa Nghiêm, hai là xuất Định, ở Lộc Dã Uyển, giảng kinh A Hàm cho năm vị tỳ-kheo. “Song thùy lưỡng tướng” nghĩa là đồng thời hiện hai loại thân tướng khác nhau. Năm vị tỳ-kheo tại Lộc Dã Uyển thấy Ứng Thân, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong Định thấy Báo Thân, tức là Lô Xá Na Phật cao ngàn trượng.

 

(Diễn) Phật bổn bất di, cơ tự dị giả.

()佛本不移,機自異者。

(Diễn: Phật vốn chẳng đổi dời, do căn cơ mà tự thấy khác biệt).

Phật chẳng phải là hữu tâm hiện tướng, Phật chẳng phải là cố ý. Hễ đức Phật hữu tâm, hữu ý, sẽ là phàm phu. Phàm phu sở dĩ chẳng giống Phật, Bồ Tát là do hữu tâm, hữu ý, có cách nghĩ, có cách nhìn. Mỗi người có cách nghĩ và cách nhìn của riêng họ, chư Phật, Bồ Tát chẳng có cách nghĩ, mà cũng chẳng có cách nhìn của riêng mình. Vì thế, tâm các Ngài thanh tịnh, chẳng sanh một niệm. Hiện tướng là tự nhiên hiện, chẳng phải là cố ý hiện. Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng, tự nhiên hiện thân, cảm ứng đạo giao. Dùng gì để cảm? Dùng tâm để cảm. Tùy thuộc vào mức độ của tâm thanh tịnh và chân thành trong tâm quý vị, tùy thuộc mức độ nguyện lực và công đức sâu hay cạn, dùng những điều ấy để cảm, Phật tự nhiên ứng hiện. Mỗi người chúng ta tâm địa thanh tịnh, tâm địa chân thành, tâm địa cung kính, chân thành, công đức sâu hay cạn khác nhau, nên Phật ứng hiện tướng cũng khác nhau, đạo lý ở ngay chỗ này. Tiếp đó, sách viết mấy câu rất thú vị:

 

(Diễn) Pháp Thân khởi dụng, như không cốc truyền thanh.

()法身起用,如空谷傳聲。

(Diễn: Pháp Thân khởi tác dụng, như hang trống dội lại tiếng vọng).

 “Không cốc” là sơn cốc (hang núi). Chúng ta ở trong hang núi hét to một tiếng, ngay lập tức có tiếng vọng. Âm thanh của quý vị dài, tiếng vọng sẽ dài. Âm thanh ngắn, tiếng vọng sẽ ngắn. Tiếng vọng tương ứng với âm thanh mà quý vị đã hét. Sánh ví Pháp Thân như hang trống, chúng ta ở đó hú dài, tức là cảm, tiếng vọng là ứng. Chúng ta có tâm, tiếng vọng vô tâm, vô tâm mới là thật sự bình đẳng. Tuy mọi người thấy hình tướng khác nhau, nhưng nói theo phía Phật thì bình đẳng. Phật trọn chẳng hữu ý hiện [thân tướng nào]. Hữu ý sẽ là bất bình đẳng. Nói thật thà, chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật, hữu tâm sẽ chẳng bình đẳng, vô tâm bèn bình đẳng. Chúng ta hãy nên học tập điều này. Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 192

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi hai:

 

(Diễn) Phật bổn bất di, cơ tự dị giả, Pháp Thân khởi dụng, như không cốc truyền thanh, minh kính tả ảnh, tùy thanh cao hạ, tùy tướng nghiên xi, động nhược hành vân, chỉ do cốc thần, vân vân tự bỉ, ư ngã hà vi da?

()佛本不移,機自異者,法身起用,如空谷傳聲,明鏡寫影,隨聲高下,隨相妍媸,動若行雲,止猶谷神,紜紜自彼,於我何為耶。

(Diễn: Phật vốn chẳng đổi dời, do căn cơ mà tự thấy sai khác. Pháp Thân khởi tác dụng như hang trống dội lại tiếng vọng, như gương sáng in hình ảnh, tùy theo âm thanh cao hay thấp, tùy theo hình tướng đẹp hay xấu, động thì như mây bay, ngưng lặng thì giống như chính giữa hang núi, lăng xăng tự nó, can dự gì đến ta?)

Đoạn này tổng kết thân tướng do Phật đã hiện, thân tướng xác thực là có khác biệt, nhưng sở dĩ Phật hiện tướng là vì chúng sanh có cảm, Phật tự nhiên ứng hiện Tướng Phần. Hoàn toàn chẳng phải là Phật cố ý muốn hiện các thứ tướng, mà thật ra là do chúng sanh có các thứ tâm, nên Phật tự nhiên hiện các thứ tướng. Tuy ở đây nói đến Phật Thích Ca và Phật Di Đà để làm thí dụ; thật ra, Tướng Phần do mỗi người chúng ta đã hiện cũng là do cảm ứng đạo giao. Chúng ta đọc kinh, ắt cần phải chú ý điều này, vì những điều được nói trong kinh chính là cảnh giới hiện tiền của bản thân chúng ta, mà cũng là chuyện thuộc về bổn phận của chính mình. Nói tới Phật là nói đến tự tánh, nói tới Pháp Thân, nói tới bản thể, chúng sanh và Phật chẳng hai! Mười pháp giới hiện tướng khác nhau, đó là vì bản tánh tùy duyên khác nhau, chúng ta gọi duyên ấy là “cơ duyên”.

“Phật bổn bất di” (Phật vốn chẳng đổi dời), câu này nói về Chân Như bản tánh. Chúng sanh và Phật chẳng khác, nói tới Phật Thích Ca, nói đến Phật Di Đà, hay nói đến chư Phật là nói về chính mình. “Cơ tự dị giả” (Do căn cơ mà tự sai khác), cơ cảm không giống nhau. Cũng có lẽ chúng ta lý giải chuyện “trong tâm chúng sanh có cảm, Phật tự nhiên có ứng” khá dễ dàng; còn đối với Chân Như bản tánh của chính chúng ta, làm sao chính mình có thể cảm ứng đạo giao cùng chính mình? Nói thật ra, chính mình cảm ứng chân tánh bằng ý niệm. Chúng ta một niệm niệm Phật bèn tương ứng với Phật, một niệm niệm Bồ Tát bèn tương ứng với Bồ Tát. Chúng ta từ sáng đến tối khởi tâm động niệm chẳng giống nhau, tướng được biến hiện sẽ khác nhau. Tương đối dễ nhận biết là ví như hôm nay có chuyện rất vui vẻ, quý vị sẽ hiện tướng vui sướng, ngày hôm nay gặp chuyện trái ý, quý vị sẽ hiện tướng rất khó coi. Chẳng phải là tướng biến đổi theo tâm ư? Trọn chẳng khó hiểu! Thầy bói xem tướng nói: “Tướng chuyển theo tâm”, tâm ấy là khởi tâm động niệm, khởi tâm động niệm là cơ cảm. Hiện các thứ tướng bất đồng, đó là Phật ứng, Phật ở đây là Tự Tánh Phật. Nếu hiểu rõ đạo lý này, quý vị sẽ biết chúng sanh thành Phật chẳng khó, khẩn yếu là quý vị niệm niệm trong tâm nghĩ tới Phật, tâm giống như tâm Phật, đương nhiên [tướng sẽ] giống như tướng Phật. Đó là đạo lý nhất định.

Cổ nhân nói: Sau bốn mươi tuổi, tướng mạo phải do chính mình chịu trách nhiệm, từ bốn mươi tuổi trở về trước là tướng có được khi thần thức đầu thai. Vì sao con cái giống cha mẹ? Chúng nhìn thấy tướng của cha mẹ, ưa thích tướng ấy, bèn biến thành tướng tương tự như họ. Chuyện này chẳng phải là di truyền, mà trong một sát-na đầu thai đã giữ lấy tướng đó. Giữ lấy tướng đó chính là tiên thiên, nhưng tướng mạo hậu thiên[35] sẽ biến đổi theo tâm hạnh của quý vị trong một đời. Nếu suốt đời tâm địa hết sức thiện lương, đối xử trung hậu với người khác, sau khi đã thành niên, ba mươi, bốn mươi, người ấy bèn có tướng trung hậu, lão thành, tướng mạo đã biến đổi. Lúc bốn mươi tuổi, tướng mạo định hình, chẳng dễ gì biến đổi, khi ấy, chính mình phải chịu trách nhiệm về tướng mạo.

“Pháp Thân khởi dụng”, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do Pháp Thân khởi tác dụng. Trước mắt chúng ta, chánh báo là thân thể của chúng ta, y báo là hoàn cảnh sống, thảy đều là Pháp Thân khởi tác dụng. Mười pháp giới chẳng có ngoại lệ, toàn là Pháp Thân khởi tác dụng, Pháp Thân là chính mình. Khởi tác dụng là gì? “Không cốc truyền thanh, minh kính tả ảnh” (Hang trống dội lại tiếng vọng, gương sáng soi hình ảnh), “không cốc” (空谷) là hang núi. Chúng ta ở trong hang núi hú dài, sẽ có tiếng vang dội lại, [thân Phật ứng hiện theo căn cơ cảm ứng của chúng sanh] giống như tiếng vọng. “Minh kính” (明鏡) là một tấm gương sạch làu làu, soi rõ rệt hiện tượng bên ngoài, đó gọi là “tả ảnh” (寫影). Pháp Thân khởi tác dụng xác thực là như vậy. Vì thế, kinh Kim Cang có nói: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như thế”. Đúng là như vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói Lý Sự vô ngại, Lý là Pháp Thân, Sự là khởi tác dụng, vô ngại. Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Quý vị thật sự hiểu thấu triệt đạo lý này, sẽ vô ngại. Vì sao vô ngại? Vì chẳng chấp trước; không chấp trước bèn chẳng có ngăn ngại. Bọn phàm phu chúng ta hiện thời vì sao có ngăn ngại? Trong vô ngại, sanh khởi chướng ngại. Nẩy sanh chướng ngại là vì chỗ nào cũng chấp trước, chỗ nào cũng phân biệt, coi giả là thật. Còn những gì là thật, họ chẳng nhận biết!

“Phàm những gì có tướng đều là hư vọng”: Hang trống dội lại tiếng vọng, chúng ta biết là hư vọng. Chúng ta biết hình bóng trong gương là hư vọng, nhưng chẳng biết thân thể này và thế giới trước mắt là hư vọng. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đã đôi ba lượt bảo chúng ta: Cảnh giới hiện tại sanh diệt trong từng sát-na. Kinh Lăng Nghiêm giảng thấu triệt, cảnh giới “sanh ra từ nơi đâu sẽ diệt mất từ nơi đó”, “thuận theo tâm chúng sanh mà ứng với khả năng tiếp nhận của họ”, ứng theo tâm lượng. Chúng ta đọc những câu kinh văn ấy, ứng theo tâm lượng, “thuận theo tâm chúng sanh, Phật, Bồ Tát ứng theo khả năng nhận biết của họ”. Nếu quý vị hiểu như vậy, đó chỉ là hiểu Phật pháp ở mức nông cạn. Chân Như bản tánh thuận theo vọng niệm của chúng ta mà hiện tướng, điều đó gọi là “tùy tâm ứng lượng”. Hết thảy các kinh do đức Phật đã giảng có quan hệ rất mật thiết với chúng ta, hết thảy các kinh luận vốn là chuyện của chính bản thân ta. Lìa khỏi bản thân chúng ta, nói thật ra, chẳng có một pháp nào để có thể đạt được. Đã là chẳng có một pháp nào để có thể đạt được, còn có pháp gì để có thể nói hay chăng? Phật là bản tánh của chính mình. Bồ Tát cũng là bản tánh của chính mình. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới vẫn là bản tánh của chính mình. Thiền Tông nói rất hay: “Nếu người hiểu biết tâm, đại địa không tấc đất”. Tâm [trong câu nói trên đây] chính là chân tâm. Nếu quý vị nhận biết chân tâm, đại địa chẳng có tấc đất nào, vì sao? Hết thảy toàn là Tướng Phần của tự tâm. Tánh, Tướng như nhau, Lý, Sự chẳng hai, mới biết hoàn toàn là chính mình.

Do hang trống dội lại tiếng vọng, cho nên có “tùy thanh cao thấp”, [nghĩa là] âm thanh của quý vị cao, tiếng vọng cũng cao. Âm thanh của quý vị dài, tiếng vọng cũng kéo dài. Gương sáng chiếu cảnh giới bên ngoài, chẳng hạn như soi người ta thì cổ nhân thường nói: “Hồ lai hiện Hồ, Hán lai hiện Hán” (người Hồ đến soi, gương bèn hiện bóng người Hồ. Người Hán đến soi, gương bèn hiện bóng người Hán). Người Hán soi gương, trong gương hiện người Hán. Người Hồ là người ngoại quốc, người ngoại quốc soi gương, trong gương hiện hình người ngoại quốc, “tùy tướng nghiên xi” (tùy theo tướng mà hiện hình bóng xấu đẹp). Nay chúng ta thường tự trách tướng mạo của chính mình chẳng đẹp, tướng mạo đức Phật đẹp nhất, mảy may khuyết hãm đều chẳng có. Kinh thường tán thán mặt Phật như “mãn nguyệt” (trăng tròn), vầng trăng ngày Rằm. Nếu chúng ta hiểu lầm ý nghĩa, [cứ ngỡ] “mãn nguyệt” là tròn xoe, đầu Phật tròn quay, cũng rất khó coi! “Mãn nguyệt” là chẳng có chỗ nào khuyết hãm, mang ý nghĩa này. Ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo, quý vị chẳng tìm thấy chỗ khuyết hãm nào trên thân tướng đức Phật, quá đẹp đẽ! Vì sao có hảo tướng như vậy? Kinh Đại Thừa đã nói rất rõ ràng: Tướng thuộc về quả báo, mỗi tướng đều có tu nhân (cái nhân để tu tập). Chẳng có thiện nhân, lấy đâu ra thiện quả? Đối với ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo của đức Phật, trong Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, cư sĩ Giang Vị Nông đã trích lục nhân quả rất rõ ràng. Nếu quý vị muốn tu tướng hảo, hãy nên tu từ nơi nhân, quả sẽ tự nhiên chuyển biến. Đó gọi là “tướng tùy tâm chuyển” (tướng chuyển theo tâm). Do điều này có thể biết, tướng Phật trang nghiêm như vậy [là do] tâm Phật quá tốt đẹp! Tâm tốt lành là nhân, tướng hảo là quả, phải biết điều này!

“Động nhược hành vân” (Động thì như mây bay): Trong kinh Phật, chữ Vân được dùng rất nhiều, nhất là kinh Hoa Nghiêm. Dùng chữ này với ý nghĩa gì? “Chẳng phải có, chẳng phải không”. Chúng ta thấy áng mây thật sự là có, nhưng đến gần thì chẳng có. Đức Phật nói: Chúng ta đều hãy nên quán hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian như thế, chớ nên chấp trước có, mà cũng đừng chấp trước không! Quý vị nói nó không có, nó có! Quý vị nói nó là có, thật sự nó là không. Đó mới là chân tướng sự thật. Trước mắt chúng ta cũng là như thế, thân thể chúng ta cũng là chẳng phải có, chẳng phải không, giống như mây trôi. “Động” là nói nó khởi tác dụng, Pháp Thân khởi tác dụng, hiển hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, chẳng phải có, chẳng phải không. Vì thế, chớ nên chấp trước những thứ ấy. Phàm phu chấp trước, cho nó là có. Hàng Nhị Thừa tưởng nó là không. Phàm phu chấp trước có, Nhị Thừa chấp trước không, đều là sai lầm. Bồ Tát bất đắc dĩ, cưỡng gọi chuyện này là Trung Đạo. Trung Đạo là chẳng chấp trước có, mà cũng chẳng chấp trước không. Quý vị nói “ta là Trung Đạo”, lại sai bét mất rồi! Quý vị lại có chấp trước! Nói tóm lại, quyết định chớ nên chấp trước, quý vị bèn tự tại. Có chấp trước tức là bệnh. Hết thảy đều chẳng chấp trước sẽ tự tại.

“Chỉ do cốc thần” (Ngưng lặng thì như hang núi), Lão Tử nói: “Cốc thần bất tử”, chính giữa hang núi gọi là “cốc thần” (谷神). Chính giữa sơn cốc là vô hình, vô ảnh. Cả quả núi, sơn cốc thấp nhất, tỷ dụ sự thấp hèn, hình dung sự an tĩnh, bất động. Lão Tử dùng ý nghĩa này để dạy người. Xử thế, đãi người, trong xã hội phải hạ mình, khiêm hư, an tĩnh, chẳng mê. Dùng chỗ chính giữa nơi đáy hang núi để làm tỷ dụ nhằm sánh ví sự nhiệm mầu của đạo. Nói thật ra, Đạo do Nho gia nói, Đạo của Đạo gia nói và Đạo do Phật gia nói đều hết sức gần gũi, đều là nói về tâm. Dụng tâm phải khiêm hư, phải hạ mình, phải an tĩnh. Phật môn gọi “an tĩnh” là Thiền Định, là “như như bất động”! Tâm bất động sẽ chẳng khởi bất cứ tác dụng gì, nên là bất tử. Phật pháp gọi “bất tử” là bất sanh bất diệt, có ý nghĩa này! Cổ đại đức Trung Quốc nói cảnh giới của Lão Trang là từ Thất Địa trở lên. [Cảnh giới của] Nho và Đạo, nói thật ra, xác thực là cảnh giới Bồ Tát trong Phật pháp. Họ có phải là Phật, Bồ Tát hóa thân đến Trung Quốc nhằm giáo hóa chúng sanh hay chăng? Nói theo Lý thì thông suốt, nhưng xét theo Sự bèn chẳng có dấu tích. “Chỉ do cốc thần” (Ngưng lặng thì giống như đáy hang núi), đó là đại định. Tự tánh vốn định, mang ý nghĩa này.

“Vân vân tự bỉ, ư ngã hà vi da” (Lăng xăng tự nó, can dự gì đến ta), hai câu này nói đến sâm la vạn tượng. Trong xã hội hiện thời xao động bất an, cả thế giới nguy cơ ẩn nấp bốn bề, giống như quả bom đã cài giờ sẵn, chẳng biết sẽ nổ tung lúc nào. Kinh nói là “ngũ trược ác thế”, thật đấy, chẳng giả! Nếu bản thân chúng ta có thể thật sự khế nhập cảnh giới Như Lai, sự động loạn ấy chẳng dính dáng gì đến ta! Chính mình ở trong cảnh giới ấy vẫn là động tĩnh như nhau, chẳng hề dính dáng! Họ động, chúng ta bất động. Người bất động sẽ thấy rõ ràng, rành rẽ cảnh giới đang động. Tục ngữ thường nói “kẻ trong thì quáng, người ngoài bèn sáng”. Kẻ bàng quan do chẳng có lợi hay có hại gì đối với họ, cho nên họ nhìn thấy rất rành rẽ. Hiện thời, thế giới này động loạn, vì sao mọi người chẳng thấy rõ ràng? Vì tâm chính mình đang bị động, chính mình rất sợ chết, trong tâm có [nỗi sợ] sanh tử!

Đoạn kinh văn này đã nói: “Động nhược hành vân, chỉ do cốc thần”, đó là bất sanh bất diệt. Dùng cái tâm bất sanh bất diệt để thấy cảnh giới được hiện bởi cái tâm sanh diệt trong thế gian này, [sẽ thấy] khác hẳn! Đó là chỗ  khác biệt, chúng ta phải học điều này, mong cầu đạt được. Học Phật nhập môn từ chỗ nào? Nhập môn từ tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là “cốc thần”, tuyệt chẳng phải do niệm kinh điển bao nhiêu, nghiên cứu bao nhiêu, hoặc là phải biết cỡ nào! Chẳng phải do những điều ấy. Nói thật thà, tâm địa thanh tịnh đến tột bậc thì mới có tư cách xem kinh, mới có tư cách đọc sách, mới có tư cách nhìn vào thế giới này, nhìn vào nhân sinh. Vì sao? Chính quý vị đã vượt thoát, đã thấy rõ ràng, rành rẽ, mới biết khi nào, nhà Phật thường nói là “thời tiết, nhân duyên”, đối với người nào thì phải nên dùng phương pháp gì để giúp họ. Đó gọi là “quán cơ thí giáo” (xem xét thời cơ, để ban bố giáo pháp), giáo hóa chúng sanh, cơ cảm tương ứng.

Nếu tâm chính mình vẫn chưa thanh tịnh, càng đọc, tri kiến càng nhiều, quan sát xã hội càng nhiều, phiền não càng lắm. Sách Phật pháp hay sách thế gian càng đọc nhiều, tà kiến càng nhiều. Vì sao người ấy chẳng thể biến thành đại thánh đại hiền? Do chẳng trừ bỏ phiền não. Chẳng trừ bỏ phiền não thì trong Phật môn, quý vị nghiên cứu kinh luận ít sẽ tạo nghiệp cũng ít, chẳng có năng lực tạo nghiệp. Đọc kinh sách càng nhiều, tạo nghiệp cũng lớn! Quý vị có thể giảng, biết lắm thứ, đó là cái học do hỏi han ghi nhớ, hết sức rộng rãi, có thể nói đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, có thể lừa hết thảy chúng sanh, tạo tội nghiệp to đùng! Tăng trưởng vô lượng tà tri, tà kiến, làm thế nào được nữa! Đó chẳng phải là hưng thịnh Phật pháp, mà là hủy diệt Phật pháp. Do vậy, cổ đức giáo học thì trước hết là khởi sự bằng đoạn phiền não. Trước hết, chẳng bảo quý vị đọc kinh, không cho phép quý vị xem kinh sách, chỉ là chỉ định một quyển bảo quý vị đọc tụng, chẳng giảng giải, [nhằm vào mục đích] định cái tâm! Tu tâm thanh tịnh. Đến khi tâm địa đã khá thanh tịnh, thầy chấp nhận, khi ấy, mới có thể nghiên cứu kinh điển, đọc rộng rãi các kinh, mới có tư cách [làm chuyện đó]. Khi đó, quý vị biết càng nhiều càng hay. Quý vị có trí huệ, trong tương lai có thể giúp đỡ hết thảy chúng sanh, thành tựu vô lượng công đức. Tu học trong hiện thời, căn bệnh to lớn là điên đảo thứ tự. Vì thế, đoạn kinh văn này có ý nghĩa hết sức sâu xa!

 

(Sớ) Cập kỳ nhân dân giả, xảo dụng đảo ngữ cố. Ngôn nhân dân giả, Phật như vương cố. A-tăng-kỳ, thử vân Vô Số, bội chi danh Vô Lượng, Vô Biên. Nhân thọ hữu nhị: Nhất Phật bổn nguyện lực cố, nhị tự công đức lực cố.

()及其人民者,巧用倒語故。言人民者,佛如王故。阿僧祇,此云無數,倍之名無量無邊。人壽有二:一佛本願力故,二自功德力故。

(Sớ: “Cùng với nhân dân”: Khéo sử dụng đảo ngữ. Nói “nhân dân” là vì Phật giống như vua. Cõi này dịch A-tăng-kỳ là Vô Số. Những bội số của nó là Vô Lượng và Vô Biên. Tuổi thọ của con người [trong cõi Cực Lạc] có hai [yếu tố]: Một là do bổn nguyện lực của Phật, hai là do sức công đức của chính mình).

Đoạn này nhằm giải thích câu kinh văn “cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”.

 

(Sao) Đảo ngữ giả, chánh ngữ đương vân “Phật cập nhân dân, thọ mạng vô lượng”.

()倒語者,正語當云佛及人民,壽命無量。

(Sao: “Đảo ngữ”: Nói thuận theo cú pháp thì phải là “Phật và nhân dân, thọ mạng vô lượng”).

Đây là nói theo ngữ pháp tiếng Hán, ngữ pháp tiếng Phạn có sai khác đôi chút. Họ nói là “bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhân dân”, theo cách nói của người Hoa sẽ là “bỉ Phật cập kỳ nhân dân, thọ mạng vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, nói theo cách đó. Kinh văn nói đảo ngược, nên gọi là “đảo ngữ”.

“Phật như vương cố” (Do Phật giống như vua), vãng sanh có nhân dân. Đây là tỷ dụ. Chư vị phải hiểu, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có vua, mà cũng chẳng có nhân dân. Vì sao? Thế giới ấy bình đẳng. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có họ tên. Nhà cửa họ ở chẳng có tên đường, mà cũng chẳng có số nhà. Tây Phương Cực Lạc thế giới là một thế giới như vậy đó. Hình dáng của mọi người lại đều giống hệt như nhau, hoàn cảnh sống đều giống nhau, thế giới bình đẳng mà! Chúng ta vừa nghe lời này, ắt sẽ kinh hãi, đến đó, Trương Tam hay Lý Tứ đều chẳng nhận biết, vị nào là Phật, vị nào là Bồ Tát, chúng ta cũng chẳng phân biệt rõ ràng! Kinh dạy: Sau khi đã đến bên đó, thần thông và đạo lực của chúng ta thảy đều khôi phục, chắc chắn chẳng nhận lầm bất cứ một ai. Quý vị vừa thấy người đó, không chỉ biết hiện thời người ấy là ai, mà chuyện trong đời đời kiếp kiếp quá khứ của người đó quý vị đều biết. Người trong thế giới Tây Phương trọn đủ sáu loại thần thông, gần như chẳng khác A Di Đà Phật cho mấy. Thiên Nhãn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thông suốt, Tha Tâm biết trọn khắp, trong tình hình ấy, chẳng cần đến danh tự! Vì thế, bên ấy chẳng có vua, mà cũng chẳng có nhân dân. Cách thuyết pháp bên ấy chắc chắn chẳng giống cách thuyết pháp ở nơi đây, vì trong cõi này, phải dùng ngôn ngữ, phải dùng phân biệt, chấp trước để thuyết pháp, ở bên kia thảy đều chẳng cần, chẳng có những thứ ấy!

 

(Sao) Như Ba La Mật, vân Bỉ Ngạn Đáo, đương thị Đáo Bỉ Ngạn nhĩ.

()如波羅密,云彼岸到,當是到彼岸耳。

(Sao: Như Ba La Mật, nghĩa là Bờ Kia Đến, [hiểu theo cách hành văn theo thứ tự thuận] phải là Đến Bờ Kia).

Đây là nêu một thí dụ. Ngữ pháp tiếng Ấn Độ tương phản ngữ pháp tiếng Hán, như Ba La Mật (Pāramitā) là tiếng Phạn, dịch thẳng [từng chữ] sang tiếng Hán sẽ là Bỉ Ngạn Đáo, nhưng theo ngữ pháp tiếng Hán thì phải là Đáo Bỉ Ngạn.

 

(Sao) Dĩ ý hội chi, vô dĩ từ hại.

()以意會之,無以辭害。

(Sao: Phải hiểu theo ý nghĩa, chớ vì từ mà hại ý).

Dạy chúng ta phải hiểu ý nghĩa, chớ nên chấp trước danh tướng, chính là “y nghĩa, bất y ngữ” trong Tứ Y Pháp. Hiểu rõ ý nghĩa là được rồi!

 

(Sao) Phật như vương giả.

()佛如王者。

(Sao: “Phật như vua”).

Đây là tỷ dụ.

 

(Sao) Bỉ quốc tuy vô quân thần phụ tử.

()彼國雖無君臣父子。

(Sao: Tuy cõi ấy chẳng có vua, tôi, cha, con).

Phàm là đi vãng sanh đều là liên hoa hóa sanh. Do đó, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có quan hệ cha con, chẳng có quan hệ vua tôi.

 

(Sao) Nhiên Phật vi pháp vương, hữu quân chủ nghĩa.

()然佛為法王,有君主義。

(Sao: Nhưng Phật là pháp vương, nên có ý nghĩa quân chủ).

Nhưng xác thực là có A  Di  Đà  Phật  ở trong thế giới ấy giáo hóa chúng sanh, địa vị của đức Phật là thầy. Vì thế, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có quan hệ thầy trò. Phật là thầy, hết thảy Bồ Tát đều là học trò.

 

(Sao) Sanh bỉ quốc giả, y Phật, học Phật, hữu nhân dân nghĩa.

()生彼國者,依佛學佛,有人民義。

(Sao: Người sanh về cõi ấy nương theo Phật, học Phật, nên có ý nghĩa nhân dân).

Dùng theo ý nghĩa này, có ý nghĩa này.

 

(Sao) Phi như thử độ, bản tịch sở thống, thật biên manh dã.

()非如此土,版籍所統,實編氓也。

(Sao: Chẳng giống như cõi này, có sổ bộ, hộ tịch thống kê, biên chép dân chúng).

Thế gian này là xã hội Ngũ Luân, thật sự có tổ chức, có sự thống hạt (cai quản, kiểm soát, quản chế). Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có chuyện ấy. [Chỉ có một mối quan hệ] là thầy trò. Nói thật ra là một trường học, thầy và học trò địa vị bình đẳng.

 

(Sao) Tăng Kỳ giả, nhập thập đại số chi thủ.

()僧祇者,入十大數之首。

(Sao: Tăng Kỳ thuộc con số đầu tiên trong mười con số lớn).

Những chữ số của Ấn Độ tính từ những số cơ bản là đơn vị, mười, trăm, ngàn, đại khái có một trăm năm mươi mấy chữ số. A Tăng Kỳ (Asaṅkhya) là số đầu tiên trong mười con số lớn cuối cùng[36].

 

(Sao) Tùng bách Lạc Xoa, bội bội tích lũy nhi sanh.

()從百洛叉,倍倍積累而生。

(Sao: Từ một trăm Lạc Xoa[37] tính gấp bội dần mà có những số đó).

Cơ số của Ấn Độ được tính theo cách tăng gấp mười, nhưng đến những con số lớn chẳng tính theo cách tăng gấp mười, mà là bội số của chính nó nhân lên, nên những con số ấy hết sức to lớn.

 

(Sao) Hựu Tăng Kỳ Tăng Kỳ vi nhất Vô Lượng.

()又僧祇僧祇為一無量。

(Sao: Lại nữa, Tăng Kỳ lần Tăng Kỳ là một Vô Lượng).

 A-tăng-kỳ lần A-tăng-kỳ là một Vô Lượng.

 

(Sao) Vô Lượng Vô Lượng vi nhất Vô Biên.

()無量無量為一無邊。

(Sao: Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên).

Vô Lượng lần Vô Lượng là một Vô Biên.

 

(Sao) Kim hợp ngôn giả, tự hữu nhị nghĩa.

()今合言者,自有二義。

(Sao: Nay nói gộp lại, là có hai ý nghĩa).

Nay trong kinh văn nói là “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, ở đây có hai ý nghĩa.

 

(Sao) Nhất thị thật minh kỳ số, dĩ tăng kiếp kế chi, hữu vô lượng vô biên Tăng Kỳ dã.

()一是實明其數,以僧劫計之,有無量無邊僧祇也。

 (Sao: Một là thật sự nói đến con số ấy, dùng A Tăng Kỳ kiếp để tính toán bèn có Vô Lượng Vô Biên Tăng Kỳ).

Nói đến một con số thật sự.

 

(Sao) Nhị thị cực tán kỳ đa, vô phục biên lượng, vô phục cùng tận chi Tăng Kỳ dã.

()二是極讚其多,無復邊量,無復窮盡之僧祇也。

(Sao: Hai là tán thán số ấy nhiều đến tột bậc, lại còn là chẳng có bờ mé, số lượng, chẳng có cùng tận A Tăng Kỳ vậy).

Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, biết trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ mạng của Phật và chúng sanh dài lâu đương nhiên [phải hiểu] theo ý nghĩa thứ hai, tuyệt đối chẳng phải là ý nghĩa thứ nhất, vì sao? Theo ý nghĩa thứ nhất, Vô Lượng Vô Biên A-tăng-kỳ kiếp có thể tính toán được. Vì thế, từ ngữ này (vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp) thật sự là từ ngữ hình dung, chẳng phải là một con số, vì Đại Kinh đã nói rất rõ ràng: “Giả sử chúng sanh trong mười phương thế giới đều chứng đắc quả Bích Chi Phật, thần thông đều như Mục Kiền Liên, cùng nhau tính toán thọ mạng của A Di Đà Phật, trọn hết tuổi thọ của họ để tính toán, đều chẳng có cách nào tính toán được!” Vậy thì đương nhiên chẳng phải là vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp [hiểu theo nghĩa một con số cụ thể]. Nếu thật sự là [một con số] vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp, một mình tôn giả Mục Kiền Liên đã tính ra, cần gì phải có lắm người ngần ấy? Vì vậy, ý nghĩa thứ hai là chánh xác.

 

(Sao) Phật lực giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, ngã sát trung nhân, thọ mạng giai vô ương số kiếp, vô hữu năng kế kỳ số giả”, thị thừa Phật nguyện lực, hữu thử thọ cố.

()佛力者,大本法藏願云:我作佛時,我剎中人,壽命皆無央數劫,無有能計其數者,是承佛願力,有此壽故。

(Sao: Phật lực: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật, người trong cõi tôi thọ mạng đều là vô ương số kiếp, chẳng người nào có thể tính được số ấy”. Đó là nhờ vào nguyện lực của Phật mà có tuổi thọ ấy).

Giải thích vì sao người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thọ mạng dài như thế. Trong lời Sớ, đã nêu ra hai nguyên nhân, thứ nhất là Phật lực, do sức bổn nguyện của Phật gia trì. Vì Phật đã từng phát ra bốn mươi tám nguyện. Nếu người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có thọ mạng dài như thế, đức Phật đã trái nghịch bổn nguyện, chẳng thể thành Phật. Vì lẽ đó, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định là thọ mạng dài lâu như đức Phật đã phát nguyện. Đây là nêu nguyên văn trong bốn mươi tám nguyện để nói. Pháp Tạng là tiền thân của A Di Đà Phật, Pháp Tạng chính là pháp danh của A Di Đà Phật khi Ngài còn tu nhân. “Ngã tác Phật thời” (Khi ta thành Phật), nay Ngài đã thành Phật, kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn đều nói rất rõ ràng, Ngài thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đến nay đã là mười kiếp. “Ngã sát trung nhân” (Người trong cõi ta), [tức là] người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, “thọ mạng giai vô ương số kiếp” (thọ mạng đều là vô ương số kiếp), Vô Ương[38] là một con số lớn, “vô hữu năng kế kỳ số giả” nghĩa là chẳng có ai có thể tính toán con số ấy, đó là “thừa Phật nguyện lực” (nương vào nguyện lực của Phật), nên người vãng sanh có thọ mạng dài như vậy, thọ mạng giống như Phật. Nguyên nhân thứ hai là:

 

(Sao) Tự lực giả.

()自力者

(Sao: Sức của chính mình).

Là sức công đức của chính mình, cũng chớ nên coi nhẹ!

 

(Sao) Nhất tâm niệm Phật, tâm thanh tịnh cố.

()一心念佛,心清淨故。

(Sao: Do nhất tâm niệm Phật, nên tâm thanh tịnh).

Hai câu này nói đến tự lực, hai câu này hết sức quan trọng. Vì sao? Chẳng có tự lực, Phật lực chẳng thể gia trì được! Do vậy có thể biết, chúng ta tu học pháp môn này, quan trọng nhất là nhất tâm niệm Phật, niệm cho đạt đến tâm thanh tịnh. Tâm còn có thị phi, nhân ngã, còn có tham, sân, si, mạn, tâm ấy chẳng thanh tịnh. Xưa kia, các vị đại đức đã nói: Nếu muốn nhập Phật môn, phải thấy thấu suốt, phải buông xuống. Thấy thấu suốt là giác ngộ, buông xuống là công phu. Nay vì sao tâm chúng ta chẳng thanh tịnh? Không buông xuống được! Vì sao không buông xuống được? Chẳng thấy thấu suốt! Những gì đức Phật dạy, chúng ta đều có thể ghi nhớ, chính mình cũng có thể nói “phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Đều là hư vọng, vì sao quý vị không buông xuống? Vì sao phải chấp trước tướng hư vọng ấy? Chấp trước những tướng hư vọng ấy sẽ tạo vô biên tội nghiệp, phải tạo tác lục đạo luân hồi, vẫn phải tạo nghiệp, chịu báo trong ấy, chẳng thể nào giải quyết xong, khổ chẳng thể nói! Vì thế, Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức rát miệng buốt lòng khuyên dạy chúng ta: “Phải thấy thấu suốt, phải buông xuống!” Nếu những hiện tướng là thật, mà Phật, Bồ Tát dạy chúng ta “thấy thấu suốt, buông xuống” thì trật mất rồi! Do tất cả hết thảy huyễn tướng đều là giả, chẳng có gì là thật, nên bảo quý vị thấy thấu suốt và buông xuống là tuyệt đối chánh xác. Chỉ cần quý vị có thể thấy thấu suốt, buông xuống, mới đắc đại tự tại trong hết thảy cảnh giới. Vì lẽ đó, tâm thanh tịnh trọng yếu hơn bất cứ gì khác.

Sở dĩ pháp môn này thù thắng, có thể vượt trỗi hết thảy các pháp môn, là do nó đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, tức là nhất tâm niệm Phật, trong tâm chỉ có mình A Di Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật ra, thứ gì cũng chẳng có. Giống như Liên Trì đại sư đã nói: “Tam Tạng mười hai bộ, để dạy người khác ngộ”, tuyệt đối chẳng phải để dạy chính mình. Dạy chính mình thì một câu Nam-mô A Di Đà Phật cũng đủ rồi, ngay cả kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ đều là quá thừa, huống gì những thứ khác! Còn cần đến những kinh điển ấy vì chúng là công cụ để tiếp dẫn chúng sanh, tuyệt đối chẳng phải là để chính mình thọ dụng, mà nhằm dành cho người khác thọ dụng. Quý vị có thể hiểu rõ giới tuyến ở chỗ này, sẽ không trở ngại sự. Hóa độ người khác, chẳng trở ngại tâm chính mình thanh tịnh; tự tâm thanh tịnh cũng chẳng trở ngại giảng kinh, thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh, vô ngại! Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, nhất định phải hiểu rõ ràng. Nhưng đối với tự lợi, lợi tha, nhất định lấy tự lợi làm chủ, [bởi lẽ] chính mình chẳng thật sự đạt được lợi ích, sẽ chẳng thể lợi tha. Lợi tha thì phải tự lợi trước. Tự lợi được nói như thế nào? Chính mình phải đạt được cái tâm thanh tịnh trước đã, đó là tự lợi.

 

(Sao) Liên hoa hóa sanh, thanh hư chi thân, bất đồng chất ngại nhục thân, hữu lão bệnh tử. Thị tự tinh tấn lực, hữu thử thọ cố.

()蓮華化生,清虛之身,不同質礙肉身,有老病死,是自精進力,有此壽故。

(Sao: “Liên hoa hóa sanh”: Cái thân thanh hư, chẳng giống như nhục thân vật chất ngăn ngại, có già, bệnh, chết. Đó là do sức tinh tấn của chính mình mà có thọ lượng ấy).

Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là “liên hoa hóa sanh”. Nói cách khác, thân thể chẳng giống thân thể loài người chúng ta trong thế giới này! Nếu nói là khác nhau, thì vẫn rất khó nói, vì sao? Nói theo lý luận thì như nhau, chẳng khác gì cả! Các nhà khoa học đã phân tích thân thể này, tách thành nguyên tử, điện tử, hạt cơ bản. Hoa sen phân tích ra cũng là những thứ đó, há có khác gì? Hết thảy vạn pháp, pháp thế gian và xuất thế gian phân tích đến cuối cùng, vật chất cơ bản đều như nhau. Nếu nói là khác nhau thì là do sự tổ hợp khác nhau, công thức cấu tạo khác nhau. Rốt cuộc là do ai sắp đặt? Ai tổ hợp chúng? Thưa cùng chư vị, người sắp đặt và tổ hợp chẳng phải là A Di Đà Phật, chẳng phải là Phật, Bồ Tát. Nếu Phật, Bồ Tát có năng lực tổ hợp, sắp đặt, chúng ta còn phải tu chi nữa! Các Ngài giúp chúng ta tổ hợp là được rồi! Hiện thời nói là “biến đổi thể chất”. Nếu Phật, Bồ Tát có năng lực giúp chúng ta biến đổi thể chất, các Ngài đại từ đại bi đều giúp chúng ta biến đổi, chúng ta chẳng cần tu hành! Chư vị nhất định phải biết, trong sự tổ hợp, sắp xếp ấy, ai làm chủ tể? Ý niệm làm chủ tể, niệm lực chẳng thể nghĩ bàn! Trong kinh Phật thường nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt”. Bản năng của tâm, năng lực của Phật, và năng lực nghiệp duyên của chúng sanh, ba sức mạnh ấy đều chẳng thể nghĩ bàn!

Thân người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới do tâm thanh tịnh tổ hợp, tâm thanh tịnh tạo thành công thức cấu tạo, chúng ta gọi [thân tâm ấy] là Vô Lậu Ngũ Ấm. Ngũ Ấm như nhau, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nhưng chúng là vô lậu. Vô lậu là tâm thanh tịnh, hữu lậu là tâm phiền não. Chúng ta do tâm phiền não sắp đặt, tổ hợp, nên biến thành hữu lậu Ngũ Ấm, khác hẳn, bất đồng ở chỗ này. “Liên hoa hóa sanh, thanh hư chi thân”, do tâm thanh tịnh sắp đặt, tổ hợp; lại còn được Phật lực gia trì, nên thân của họ là thân Kim Cang bất hoại. “Thanh hư chi thân, vô cực chi thể” (Thân thanh hư, thể vô cực), do đó, thọ mạng dài lâu, chẳng có già, bệnh, chết! Trong thế gian này, chúng ta là thân hữu lậu Ngũ Uẩn. Hữu lậu là do tâm phiền não sắp đặt, tổ hợp thể chất, nên có chướng ngại. Vì thế, có già, có bệnh, có chết.

Thân người trong thế giới Tây Phương và thân người chúng ta khác nhau, điều này đáng để chúng ta chú ý. Ví như vàng y và chén trà, vật chất cơ bản hoàn toàn như nhau, nhưng công thức cấu tạo khác nhau, một đằng là có thể gìn giữ lâu dài, một đằng chẳng thể gìn giữ lâu dài. Ai sắp xếp? Do tâm niệm sắp xếp. Trong tâm chẳng có vọng niệm, sắp xếp, sẽ hoàn toàn phù hợp tự nhiên, tự nhiên là bất sanh bất diệt. Do khởi tâm động niệm sắp xếp, sẽ chẳng thể thuận theo tự nhiên, bèn trở thành hữu sanh, hữu diệt. Hiện thời đạo lý này đã được khoa học chứng thực. Vì thế, chúng ta mong trường thọ, mong được trẻ trung mãi mãi, quý vị phải biết then chốt ở chỗ nào? Then chốt là tâm thanh tịnh. Tuyệt đối chẳng phải do thuốc men, chẳng do cầu thần, cầu quỷ, chẳng do sửa sắc đẹp mà có thể đạt được, mà là do trong tâm của chính quý vị biến đổi thể chất của chính mình. Hiện thời có người đề ra uống thuốc gì đó, dùng phương pháp gì đó để biến đổi, toàn là gạt người! Đó là trị đằng ngọn, chẳng phải là trị tận gốc. Quan trọng nhất để có thể biến đổi thể chất là tâm niệm. Hiểu đạo lý này, chúng ta mới chẳng bị kẻ khác lường gạt!

“Thị tự tinh tấn lực” (Do sức tinh tấn của chính mình), Tinh (精) là thuần chứ chẳng tạp. Nhất tâm là Tinh, niệm niệm tiếp nối là Tấn (進). Nay chúng ta có sức tinh tấn, thọ mạng trong thế gian hiện thời cũng có thể lâu dài, cũng chẳng phải là hạn lượng cố định, mà có thể vượt khỏi hạn lượng đã định sẵn. Nếu bản thân chúng ta chẳng biết tu học, xác thực là thọ mạng có hạn lượng nhất định. Như trong Liễu Phàm Tứ Huấn đã nói, thọ mạng có [hạn lượng] nhất định. Thọ mạng kéo dài hay rút ngắn do sự tu học của chính quý vị. Quý vị tu tốt đẹp, sẽ chẳng phải là hạn lượng cố định, thọ mạng có thể kéo dài. Quý vị tạo nên oan nghiệt, tạo tội quá nhiều, vốn là trường thọ mà thọ mạng có thể bị rút ngắn. Do đó, tuy có thọ mạng, nó cũng chẳng là một con số nhất định, dài hay ngắn vẫn là do duyên, tùy thuộc bản thân chúng ta thực hiện như thế nào. Trong đoạn kế tiếp, đại sư đã giả lập một đoạn vấn đáp:

 

(Sớ) Vấn vân: Thử vô lượng diệc khả tức vô lượng chi vô lượng giả, hoàn hữu chứng phủ?

()問云:此無量亦可即無量之無量者,還有證否?

(Sớ: Hỏi: “Vô lượng” ở đây cũng có thể hiểu là vô lượng trong vô lượng, còn có chứng cớ gì chăng?)

Kinh nói là “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp”, ở đây, Liên Trì đại sư nêu ra hai ý nghĩa: Một là hữu lượng vô lượng, hai là vô lượng vô lượng. Chúng ta chọn thuyết sau. Chọn thuyết sau do ý nghĩa viên mãn, nhưng có những kẻ sẽ hoài nghi: “Quý vị nói kiểu ấy có căn cứ hay không?” Kinh Vô Lượng Thọ là căn cứ, chúng ta thật sự niệm kinh Vô Lượng Thọ rất thuần thục, nên chẳng thấy có vấn đề gì! Ở đây là giả thiết, thời Liên Trì đại sư, kinh Vô Lượng Thọ lưu thông chẳng rộng. Người tu Tịnh Độ quá nửa thọ trì kinh A Di Đà, người niệm kinh Vô Lượng Thọ chẳng có mấy ai, nhưng người niệm kinh Hoa Nghiêm đông đảo, nên lão nhân gia chỗ nào gặp phải khó khăn đều dẫn kinh Hoa Nghiêm để chứng minh, giải thích.

 

(Sớ) Đáp: Lệ như Hoa Nghiêm trung thuyết.

()答:例如華嚴中

(Sớ: Đáp: Theo như trong kinh Hoa Nghiêm có nói).

 Kinh Hoa Nghiêm nói gì? Trong phần chú giải, lão nhân gia đã nêu cặn kẽ:

 

(Sao) Thượng dẫn Quán Sớ vân: “Thử vô lượng thị hữu lượng chi vô lượng, nhi ngôn diệc khả tức vô lượng chi vô lượng giả”, dĩ kim văn chánh tự Hoa Nghiêm cố.

()上引觀疏云:此無量是有量之無量,而言亦可即無量之無量者,以今文正似華嚴故。

(Sao: Trong phần trước đã trích dẫn Quán Kinh Sớ: “Vô lượng ở đây là vô lượng trong hữu lượng, mà cũng có thể nói là vô lượng trong vô lượng”, nay phần kinh văn này giống như kinh Hoa Nghiêm).

“Hữu lượng chi vô lượng” là căn cứ theo kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, là điều được nói trong Thập Lục Quán Kinh. Nói nó là “vô lượng trong vô lượng”, tức là nói theo kinh Vô Lượng Thọ. Trong các kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa cũng có nói. Cổ đức gọi kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm, gọi kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm, nói thật ra là có lý, vì sao? Ý nghĩa hết sức giống kinh Hoa Nghiêm. Ở đây, Ngài bèn trích dẫn:

 

(Sao) Bỉ kinh Thập Hồi Hướng văn vân: “Vô lượng A-tăng-kỳ”. Thích vân: “Thử phi số trung chi nhất, đản thị vô số chi ngôn. Nhược định thị số, tiện đương cục hạn”.

()彼經十回向文云,無量阿僧祇,釋云:此非數中之一,但是無數之言,若定是數,便當局限。

(Sao: Trong phần kinh văn giảng về Thập Hồi Hướng có nói: “Vô lượng A-tăng-kỳ”. [Ngài Thanh Lương] giải thích: “Đây chẳng phải là một con số, chỉ là do không thể tính đếm bèn nói như vậy. Nếu nhất định coi nó là một con số, sẽ trở thành có giới hạn”).

Chú giải phẩm Thập Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư đã nói theo kiểu này.

 

(Sao) Kim kinh diệc vân “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”.

()今經亦云無量無邊阿僧祇。

(Sao: Nay kinh này cũng nói “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”).

Rất giống câu “vô lượng A-tăng-kỳ kiếp” được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Nếu “vô lượng A-tăng-kỳ kiếp” trong kinh Hoa Nghiêm đã được Thanh Lương đại sư giải thích chẳng phải là một con số, mà là một từ ngữ để hình dung, đương nhiên ở đây cũng có thể giải thích [vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp] chẳng phải là một con số, mà là từ ngữ để hình dung, nhằm hình dung thời gian lâu dài tột bậc! Nói theo ý nghĩa trong Hoa Nghiêm, đây chẳng phải là một con số hạn cuộc!

 

(Sao) Nhị kinh văn thế, ý cực tương loại.

()二經文勢,意極相類。

(Sao: Ngữ mạch của lời văn trong hai kinh có ý nghĩa hết sức giống nhau).

Câu kinh Hoa Nghiêm và câu văn trong kinh này hết sức tương tự.

 

(Sao) Cố ngôn bỉ Phật thọ mạng, diệc khả tức thị cánh vô hạn lượng chi vô lượng dã.

()故言彼佛壽命,亦可即是更無限量之無量也。

(Sao: Nên nói “thọ mạng của đức Phật ấy cũng có thể hiểu là vô lượng theo nghĩa chẳng có hạn lượng”).

Chúng ta dùng lời nguyện trong phần bốn mươi tám nguyện của kinh Vô Lượng Thọ và lời khai thị của đức Thế Tôn thì đều có thể chứng minh lời giải thích của Liên Trì đại sư là chánh xác.

 

(Sao) Vấn: Hoa Nghiêm Thọ Lượng phẩm, vị Sa Bà thế giới nhất kiếp vi Cực Lạc thế giới nhất trú dạ. Cực Lạc thế giới nhất kiếp vi Ca Sa Tràng thế giới nhất trú dạ, triển chuyển kiếp nhật tương đối, nãi chí bách vạn A-tăng-kỳ thế giới, cực ư Thắng Liên Hoa, tắc Cực Lạc cẩn thắng Sa Bà, liệt hậu thù thậm, an đắc vi cánh vô hạn lượng chi vô lượng hồ?

()問:華嚴壽量品,謂娑婆世界一劫,為極樂世界一晝夜,極樂世界一劫,為袈裟幢世界一晝夜,輾轉劫日相對,乃至百萬阿僧祇世界,極於勝蓮華,則極樂僅勝娑婆,劣後殊甚,安得為更無限量之無量乎。

(Sao: Hỏi: Phẩm Thọ Lượng trong kinh Hoa Nghiêm nói một kiếp trong thế giới Sa Bà là một ngày đêm trong thế giới Cực Lạc. Một kiếp trong thế giới Cực Lạc là một ngày đêm trong thế giới Ca Sa Tràng. Lần lượt so sánh giữa kiếp và ngày như vậy, cho đến trăm vạn A-tăng-kỳ thế giới, tột bậc là thế giới Thắng Liên Hoa. Như vậy thì Cực Lạc chỉ trỗi hơn Sa Bà, thua kém quá mức, lẽ nào là vô lượng theo ý nghĩa chẳng có số lượng cho được?)

Lời hỏi này hay lắm! Kinh Hoa Nghiêm thật sự có một đoạn kinh văn như vậy. Vì thế, quý vị niệm kinh Hoa Nghiêm đến đoạn này, [ắt sẽ nghĩ] thế giới Cực Lạc trọn chẳng có gì là tuyệt diệu, bất quá tốt đẹp hơn thế giới Sa Bà một chút, còn kém xa những thế giới ở phương khác! Gặp phải câu hỏi này, làm như thế nào đây? Vẫn phải dùng giáo nghĩa Hoa Nghiêm để giải thích:

 

(Sao) Đáp: Bỉ sao thích vân, tam thân ký dung, tam thọ vô ngại.

()答:彼鈔釋云,三身既融,三壽無礙。

(Sao: Đáp: Trong lời Sao cho kinh ấy, [ngài Thanh Lương] đã giải thích: “Ba thân đã dung thông thì ba loại thọ mạng chẳng ngăn ngại”).

Lời Sớ và Sao của kinh Hoa Nghiêm đều do Thanh Lương đại sư soạn. Thanh Lương đại sư đã vì chúng ta giải thích vấn đề này, Ngài nói rất hay: “Tam thân ký dung” (Ba thân đã dung thông), ba thân là Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Thân. Kinh Hoa Nghiêm nói ba thân thì một chính là ba, ba chính là một. Nói thật ra, nhục thân hiện tại của chúng ta xác thực là tương dung, tương tức cùng hư không pháp giới. Nếu chẳng dung thông, làm sao mắt chúng ta có thể thấy được? Nếu nói thân chỉ có to đôi chút như thế, vì sao mắt quý vị có thể nhìn xa ngần ấy? Mắt quý vị có thể nhìn thấy là vì thân lượng đạt tới. Phạm vi tai có thể nghe cũng là do thân lượng đạt đến. Nhưng nay chúng ta mê mất tự tánh, năng lực của sáu căn rất hữu hạn.

Thật sự giác ngộ, sẽ giống như kinh Lăng Nghiêm nói “sáu căn dùng lẫn cho nhau”. Kinh Vô Lượng Thọ nói Thiên Nhãn thấy thấu suốt, tận hư không khắp pháp giới đều có thể thấy rõ ràng. Chúng ta ngồi ở nơi đây, bất động, thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới giống như ở ngay trước mặt. Thân của chúng ta há chẳng phải là hợp làm một với toàn thể hư không pháp giới? Đó là Pháp Thân và nhục thân của chúng ta dung thông, to như nhau, chẳng có lớn hay nhỏ! Khi ấy, mới giống như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Phá một vi trần, lấy ra quyển kinh to bằng đại thiên thế giới”, hoặc “ngồi trong vi trần, chuyển đại pháp luân”, là cảnh giới ấy. Nói thật ra, cảnh giới này ở ngay trước mắt chúng ta, nhưng chúng ta tự mình mê muội, bất giác, chính mình ràng buộc chính mình! Do tâm lượng của chúng ta nhỏ nhoi như thế, nên thân nhỏ nhoi ngần ấy, chính mình đã hạn cuộc chính mình!

Phải biết: Ba thân của Phật dung thông lẫn nhau, mà ba thân của chúng ta vẫn dung thông. Tuyệt đối chẳng phải là đến khi thành Phật thì ba thân mới dung thông, chẳng phải vậy. Hết thảy chư Phật lúc thành Phật, chẳng tăng, chẳng giảm. Thành Phật chẳng hề tăng thêm chút nào, mà tại địa vị phàm phu, chẳng hề giảm bớt chút nào, chỉ là giác và mê khác biệt! Phật là giác ngộ, đã phát sanh sự giác ngộ: Thân tâm và pháp giới xác thực hợp thành một. Khi mê, chẳng biết chính mình và pháp giới hợp nhất. Thật ra, [vẫn là] hợp thành một, khi mê bèn bất giác, khi giác sẽ không mê, then chốt ở ngay chỗ này. Nếu ba thân dung thông, ba thọ liền vô ngại. Chúng ta nói vô lượng trong vô lượng, tức là Pháp Thân thọ. Nói vô lượng trong hữu lượng thì là Ứng Thân thọ. Nói kiểu nào cũng đều suông, đều chẳng bị chướng ngại.

 

(Sao) Tức trường năng đoản, tức đoản hằng trường, vô trường, vô đoản, trường đoản tồn yên!

()即長能短,即短恆長,無長無短,長短存焉。

(Sao: Tức là dài mà có thể rút ngắn, chính là ngắn mà luôn dài, chẳng dài, chẳng ngắn, dài ngắn cùng tồn tại vậy).

Nói dài hay ngắn là do phàm phu phân biệt, chấp trước. Chư vị hãy suy nghĩ: Nếu thật sự niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, nhất tâm là chẳng có vọng tưởng. Chẳng có vọng tưởng thì lấy đâu ra dài hay ngắn? Nói dài là vọng tưởng; nói ngắn, vẫn là vọng tưởng, đều biến thành vọng tưởng. Chỉ cần đạt đến nhất tâm, tâm thanh tịnh hiện tiền, dài lẫn ngắn đều chẳng có. Khi đạt đến nhất tâm bất loạn, mới bảo quý vị: Các vị xem Tam Tạng mười hai bộ, nghe Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp cho chúng sanh, quý vị ở bên cạnh nghe, [sẽ thấy] Thích Ca Mâu Ni Phật đang gạt gẫm trẻ nít, dỗ dành trẻ nít! Sẽ cảm thấy quả thật Ngài đang dỗ dành trẻ nhỏ, lá vàng dỗ trẻ thôi khóc! Hết thảy các pháp đã nói đều chẳng có thật nghĩa! Có ý nghĩa thật sự hay không? Chẳng có. Vì sao? Ý nghĩa thật sự chẳng thể nói được! Ý nghĩa thật sự chẳng thể suy tưởng được. Ý nghĩa thật sự là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Đức Phật nói lời thật cùng chúng ta: Phàm những gì được nói ra đều chẳng có thật nghĩa. Chính quý vị phải ngộ thật nghĩa, chẳng thể diễn tả được. Thật nghĩa thật sự có, vô lượng vô biên, là chân thật, chẳng thể nói được, mà cũng chẳng thể tưởng tượng. Khi nào tâm quý vị thanh tịnh, Thật Tướng ở ngay trước mặt. Quý vị có thể thấu hiểu thật nghĩa, sẽ có thể thấy Thật Tướng, quý vị bèn thành Phật, tối thiểu cũng là Viên Giáo Sơ Trụ Bồ Tát trở lên, thuộc địa vị Phần Chứng Phật. Đó là điều đức Phật kỳ vọng nơi chúng ta. Chúng ta cứ khăng khăng tìm tòi trong ngôn ngữ, kinh điển, đó là chuyện rất oan uổng. Đấy gọi là “y theo kinh văn để hiểu nghĩa, ba đời Phật đều oan uổng”. Ba đời chư Phật, quá khứ, hiện tại, vị lai, hết thảy chư Phật đều kêu oan uổng! Coi chuyện dỗ dành trẻ nít là chân thật, oan uổng quá! Vì lẽ đó, thọ mạng dài hay ngắn tự tại chính là thuận theo niệm mà hiện tướng.

 

(Sao) Nhất nhất viên dung, ngôn tư tư tuyệt.

()一一圓融,言思斯

(Sao: Mỗi mỗi đều viên dung, ngôn ngữ lẫn tư duy đều dứt bặt).

Đây là nói chân thật cùng quý vị. “Nhất nhất viên dung” là pháp nào cũng đều viên dung, chẳng có một pháp nào không viên dung. Vì thế, pháp giới là Nhất Chân pháp giới. Mê thì gọi là mười pháp giới, “mười” chẳng phải là một con số cố định, mà nhằm biểu thị sự vô lượng. Mê, Nhất Chân bèn biến thành vô lượng pháp giới; ngộ, vô lượng pháp giới là Nhất Chân pháp giới. Một là thật, hai là vọng, chẳng thật. Một thì chứng từ nơi đâu? Tâm! Nhất tâm là chân, nhị tâm là hư vọng. Chúng ta dùng nhất tâm, tận hư không khắp pháp giới sẽ là chân thật. Chúng ta dùng nhị tâm, thảy đều là hư vọng, quý vị quyết định chẳng thấy chân thật. Nay tâm chúng ta không chỉ là nhị tâm, chẳng biết là có bao nhiêu tâm, làm sao quý vị có thể thấy Nhất Chân pháp giới?

 

(Sao) Kỳ nghĩa tự minh, bất lao cánh biện.

()其義自明,不勞更辯。

(Sao: Nghĩa này tự rõ, chẳng cần nhọc sức biện định).

Liễu giải ý nghĩa này, chẳng cần biện luận nữa!

 

(Diễn) Tức trường năng đoản, tức Báo tức Ứng dã.

()即長能短,即報即應也。

(Diễn: Tức là dài mà có thể rút ngắn, Báo Thân chính là Ứng Thân).

 Nói đến Báo Thân và Ứng Thân.

 

(Diễn) Tức đoản hằng trường, tức Ứng tức Báo dã.

()即短恆長,即應即報也。

(Diễn: Chính là ngắn mà luôn dài, Ứng Thân chính là Báo Thân vậy).

Ứng Thân là Báo Thân, Ứng Thân ngắn ngủi, Báo Thân dài. Ứng Thân và Báo Thân là một, đương nhiên dài ngắn đều tự tại.

 

(Diễn) Vô trường, vô đoản, Báo, Ứng tức Pháp dã.

()無長無短,報應即法也。

(Diễn: Chẳng dài, chẳng ngắn, Báo Thân và Ứng Thân chính là Pháp Thân).

Báo Thân và Ứng Thân đều do Pháp Thân biến hiện.

 

(Diễn) Trường đoản tồn yên, Pháp tức Báo, Ứng dã.

()長短存焉,法即報應也。

(Diễn: Dài ngắn cùng tồn tại thì Pháp Thân chính là Báo Thân và Ứng Thân).

Pháp Thân là Báo Thân và Ứng Thân, tuy một mà ba, tuy ba mà một.

 

(Diễn) Nhất nhất viên dung, ngôn tư tư tuyệt giả, tức trường năng đoản, bất khả dĩ Báo ngôn.

()一一圓融,言思斯者,即長能短,不可以報言。

(Diễn: Mỗi mỗi viên dung, ngôn ngữ lẫn tư duy đều dứt bặt: Chính là dài mà có thể rút ngắn thì chẳng thể nói là Báo Thân).

“Bất khả dĩ Báo ngôn” nghĩa là chẳng thể chấp trước có Báo Thân. Nói là Báo Thân, Pháp Thân hay Ứng Thân đều là “thuận theo tâm chúng sanh, ứng với sự nhận biết của họ”. Trong tâm Phật thanh tịnh, chẳng có ba chữ ấy. Nếu trong tâm Phật còn có Pháp Thân, Báo Thân, và Ứng Thân, tâm Phật bị nhiễm bẩn. Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật”, Ngài chẳng có một vật như thế nào? Ngài còn có Báo Thân, còn có Pháp Thân thì sẽ có chẳng ít vật trong ấy. Vốn chẳng có một vật là tâm thanh tịnh! Tuy nói với quý vị nhiều ngần ấy, một câu đức Phật cũng chẳng nói! Tâm Phật vĩnh viễn thanh tịnh, Ngài nói là thuận theo ý niệm của chúng sanh mà nói, chẳng phải là theo phía Ngài, [thuận theo phía Ngài], Ngài sẽ chẳng nói chi hết! Thuận theo chúng sanh bèn có nói, tùy thuận chính mình, chẳng nói! “Nói mà chẳng nói”, đối với người khác bèn có nói, chính mình chẳng nói, “chẳng nói mà nói”. Ý nghĩa này sâu xa, chúng ta làm sao hiểu được? Chúng ta tưởng Phật giống như chúng ta, nói là có nói, không nói là không nói, há có biết Phật, Bồ Tát hoàn toàn khác chúng ta.

Chúng ta phải học chỗ này, cũng phải học “nói mà không nói, không nói mà nói”, đó là tu hành, cho đến thân thể chúng ta “làm mà không làm, không làm mà làm”, khi ăn cơm bèn “ăn mà chẳng ăn, chẳng ăn mà ăn”. Trong cuộc sống, mặc quần áo, ăn cơm, xử sự, đãi người, tiếp vật, chẳng có chuyện gì không phải là tu hành. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần là tu như thế đó, đó gọi là “trải qua sự việc để luyện tâm”. Trải qua sự việc là Hữu, luyện tâm, tâm thanh tịnh, bất luận chuyện gì đều chẳng lìa tâm thanh tịnh. Trong hết thảy sự, rèn luyện tâm càng thanh tịnh, người ấy bèn thành tựu. Nhất tâm bất loạn, tu từ chỗ nào? Thành tựu từ năm mươi ba lần tham học. Lìa khỏi hết thảy cảnh duyên, làm sao quý vị biết chính mình đã đắc nhất tâm bất loạn? Chẳng trải qua khảo nghiệm! [Tu luyện trong ấy] bèn gọi là công phu chân chánh, hy vọng mọi người phải lưu ý, ý nghĩa này hết sức sâu xa!

 

(Diễn) Tức đoản hằng trường, bất khả dĩ Ứng ngôn, nãi chí trường đoản tồn yên, bất khả dĩ Pháp ngôn. Dĩ ngôn lệ tư, diệc phục như thị.

()即短恆長,不可以應言,乃至長短存焉,不可以法言,以言例思,亦復如是。

(Diễn: Chính là ngắn mà luôn dài, chẳng thể nói là Ứng Thân. Cho đến dài và ngắn cùng tồn tại, chẳng thể nói là Pháp Thân. Dựa theo cách giải thích về “nói năng” mà có thể suy ra ý nghĩa của Tư (suy nghĩ) cũng giống như thế).

Chỗ này dễ hiểu. Đoạn này đã giới thiệu thọ mạng xong, phần tiếp theo lại nói về quang minh, vì Ngài là vô lượng thọ, vô lượng quang. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

— o0o —

Tập 193

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi bốn:

 

(Sớ) Hựu thọ mạng, quang minh giả, ước nhi ngôn chi, thiểu nhiếp đa cố. Nhị bộ danh đề, chỉ viết Vô Lượng Thọ giả, ước chi hựu ước, Thể nhiếp Dụng cố. Nhược cụ thuyết giả, y báo, chánh báo, tất giai vô lượng.

(Sao) Ước ngôn giả.

()又壽命光明者,約而言之,少攝多故。二部名題,止曰無量壽者;約之又約,體攝用故;若具者,依報正報,悉皆無量。

()約言者。

(Sớ: Lại nữa, thọ mạng và quang minh là nói ước lược, dùng ít để bao gồm nhiều. Tựa đề của hai bộ kinh chỉ nói là Vô Lượng Thọ, tức là đã ước lược lại còn ước lược hơn, vì dùng Thể để thâu nhiếp Dụng vậy. Nếu nói đầy đủ, y báo và chánh báo thảy đều vô lượng.

Sao: Nói ước lược…)

 Nói ước lược.

 

(Sao) Phật cụ vạn đức, kim chỉ cử thọ mạng, quang minh giả, như Hoa Nghiêm Bát Địa, ngôn thân tướng vô lượng, trí huệ vô lượng, phương tiện vô lượng, quang minh vô lượng, thanh tịnh âm thanh vô lượng đẳng. Tắc tri cử nhị sự giả, dĩ thiểu nhiếp đa dã.

()佛具萬德,今止舉壽命光明者。如華嚴八地,言身相無量,智慧無量,方便無量,光明無量,清淨音聲無 量等。則知舉二事者,以少攝多也。

(Sao: Phật có đủ vạn đức, nay chỉ nêu lên thọ mạng và quang minh, như kinh Hoa Nghiêm nói bậc Bát Địa Bồ Tát thân tướng vô lượng, trí huệ vô lượng, phương tiện vô lượng, quang minh vô lượng, âm thanh thanh tịnh vô lượng v.v… cho nên biết nêu ra hai chuyện chính là dùng ít để thâu nhiếp nhiều vậy).

Danh hiệu của Phật Di Đà là A Di Đà Phật. Bốn chữ A Di Đà Phật là phiên âm tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Lượng. A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác. Danh hiệu Vô Lượng có ý nghĩa hết sức sâu rộng. Trong sự sâu rộng vô hạn, đức Phật chỉ nói hai chuyện: Một là thọ mạng, hai là quang minh, tức là vô lượng thọ và vô lượng quang. Đây chính là ý nghĩa của chữ “ước ngôn” (約言), tức là nói đơn giản nhất, nói tóm tắt nhất. Cổ đức nói: Trong hết thảy các thứ vô lượng, coi thọ mạng là bậc nhất. Chúng ta suy nghĩ thấy rất có lý. Nếu chẳng có thọ mạng, hết thảy các thứ vô lượng đều rỗng tuếch. Dẫu là vô lượng, chúng ta chẳng thể thọ dụng, chẳng thể hưởng thụ được. Vì thế, thọ mạng trọng yếu bậc nhất. Có thể nói là hết thảy các thứ vô lượng đều lấy thọ mạng vô lượng làm Thể, những điều khác đều là đức dụng của nó. Trong hết thảy các đức dụng, đương nhiên coi “trí huệ quang minh” là bậc nhất. Vì sao? Có trí huệ thì mới có vui sướng thật sự; có trí huệ, sẽ chẳng có phiền não. Vì sao nhiều phiền não? Vì chẳng có trí huệ. Do mê, nên mới có phiền não; hễ ngộ, sẽ chẳng có phiền não. Vì lẽ đó, trong hết thảy các thọ dụng, trí huệ là bậc nhất. Chẳng có trí huệ, dẫu có phước báo, tục ngữ thường nói là “giàu mà chẳng vui”. Người ấy rất giàu có, nhưng chẳng sung sướng. “Quý mà chẳng vui sướng”, Quý (貴) là có địa vị trong xã hội, địa vị rất cao, làm hoàng đế, làm Tổng Thống, suốt một đời chẳng sung sướng, đó là vì thiếu trí huệ. Nếu có trí huệ, dẫu nghèo hèn, tuy nghèo mà vui, người ấy vẫn hết sức sung sướng. Do vậy có thể biết, trong hết thảy các đức dụng, trí huệ hết sức trọng yếu. Vì lẽ đó, trong hết thảy các thứ vô lượng, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nêu lên những điều khác, chỉ nêu ra hai thứ này: Một là nêu lên thọ mạng, hai là nêu ra quang minh.

Ở đây, đại sư dùng một trường hợp trong kinh Hoa Nghiêm để thuyết minh, nêu rõ đức Phật đề ra hai thứ quang minh và thọ mạng là nói theo ý nghĩa tỉnh lược, chứ trên thực tế là nói chẳng thể cùng tận! Ngài nhắc tới bậc Bát Địa Bồ Tát trong Hoa Nghiêm, Bát Địa là Bất Động Địa (Achala-bhūmi). Hoa Nghiêm là Viên Giáo, Tịnh Tông gọi bậc Bát Địa của Viên Giáo là A Bệ Bạt Trí. Chúng ta biết: Chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quả báo sẽ giống như Bát Địa Bồ Tát. Thầy Lý chú giải kinh đã ghi là “từ Thất Địa trở lên”, từ Thất Địa trở lên là Bát Địa. Đó là A Bệ Bạt Trí, là Bất Thoái Chuyển Bồ Tát, thật sự chẳng thoái chuyển. Thất Địa là Viễn Hành Địa (Duramgama-bhūmi), Bát Địa mới là Bất Động Địa.

Khen ngợi Bát Địa Bồ Tát “thân tướng vô lượng”, câu này rất khó hiểu, thân tướng vô lượng cách nào? Dẫu lớn cách mấy, cũng còn có hạn lượng. Như trong bài kệ Tán Phật đã mô tả thân lượng Phật to lớn: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”, năm Tu Di, bốn đại hải, vẫn là có hạn lượng! Vì cớ nào nói Bát Địa Bồ Tát thân tướng vô lượng? Nói thật ra, Bát Địa Bồ Tát thật sự đoạn sạch phân biệt, chấp trước. Từ Thất Địa trở xuống là phục đoạn (chế ngự phiền não), chẳng phải là diệt đoạn (đoạn hết), các Ngài dùng sức Định Huệ để chế ngự, khiến cho chúng chẳng dấy lên hiện hành, chẳng khởi tác dụng, còn Bát Địa Bồ Tát là diệt đoạn. Nay chúng ta nói là hữu lượng, do đâu mà có hữu lượng? Do từ vọng tưởng, chấp trước mà có. Nếu chẳng có vọng tưởng, chấp trước, sẽ giống như cảnh giới khai ngộ trong Thiền Tông: “Tận hư không khắp pháp giới là một con mắt của sa-môn”. Các vị hãy suy nghĩ: Thân tướng này là hữu lượng hay vô lượng? Phải thật sự đoạn sạch phân biệt và chấp trước thì mới có thể thấy cảnh giới ấy. Nói theo Lý thì nói thật ra, cũng chẳng khó lãnh hội, tận hư không khắp pháp giới là một Chân Như bản tánh, là một chân tâm.

Người học Phật học điều gì? Khôi phục chân tâm của chính mình mà thôi. Phàm phu sử dụng vọng tâm, suốt ngày từ sáng đến tối đều dùng vọng tâm. Trong Phật pháp, vọng tâm được gọi là dùng tâm ý thức. Dùng tâm ý thức chính là biến cái vốn là vô lượng trở thành hữu lượng. Có phân biệt, có chấp trước, bèn đối lập với hết thảy các pháp. Hễ đối lập, bèn có giới hạn. Vì thế, vốn là vô lượng, nay bị biến thành hữu lượng. Vọng tưởng, chấp trước càng nặng, giới hạn ngày càng bé đi. Vọng tưởng, chấp trước nhẹ đi, giới hạn bèn lớn hơn đôi chút. Nói chung, chẳng thể thoát lìa giới hạn! Vì thế, tâm thể vô lượng là chân tâm bản tánh, chúng ta chẳng thể chứng đắc! Hư không pháp giới đều là vật được biến hiện bởi Chân Như bản tánh. Nói cách khác, Tướng Phần của tự tánh là vô lượng, chúng ta cũng chẳng thể chứng đắc. Nếu chứng đắc, bèn gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân.

Trong các buổi giảng, tôi cũng thường nhắc tới Pháp Thân, Pháp là hết thảy vạn pháp, dùng vạn pháp để làm tự thân! Chẳng phải là lấy thân thể này làm tự thân. Thân thể là một pháp trong vạn pháp, đương nhiên cũng chẳng phải là ngoại lệ, mà cũng chẳng thể nói thân này chẳng phải là chính mình. Người thật sự nhập cảnh giới này, sẽ có quan niệm chẳng giống chúng ta, người ấy lấy vạn pháp làm tự thân, vì [vạn pháp] do một Chân Như bản tánh biến hiện. Giống như nằm mộng, khi mê bèn ở trong mộng, trong mộng đương nhiên có chính mình, chấp trước chính mình là ta, cảnh giới bên ngoài chẳng phải là ta. Nếu ở trong mộng mà lập tức giác ngộ “ta nay đang nằm mộng”, toàn thể mộng cảnh đều do tự tâm của ta biến hiện, vậy thì có thứ gì trong mộng chẳng phải là chính mình? Thứ gì cũng đều là chính mình, toàn là do tự tánh biến hiện. Hễ giác ngộ, toàn thể mộng cảnh vốn đều là chính mình, đó gọi là Pháp Thân. Vì vậy, Pháp Thân chẳng phải là nói về một thân của chính mình, mà là thân của vạn pháp. Lão Tử nói: “Trời đất và ta có cùng cội rễ, vạn vật và ta có cùng một Thể”. Hai câu này chính là Thanh Tịnh Pháp Thân được nói trong Phật pháp; nói rõ thân tướng vô lượng.

Tâm tánh trọn khắp hư không pháp giới; thân tướng cũng là trọn khắp hư không pháp giới vô lượng vô biên. Vì sao biết? Nhất định là phải có trí huệ. Chẳng có trí huệ, làm sao quý vị có thể hiểu được! Nói thật ra, Quyền Giáo Bồ Tát, thánh nhân Nhị Thừa, và lục đạo phàm phu đều không biết. Thật sự biết chân tướng sự thật này, trong kinh Phật thường nói là “chư pháp Thật Tướng”, tức là tướng chân thật của hết thảy các pháp. Chứng đắc Thật Tướng là các vị Bồ Tát từ Sơ Trụ trở lên trong Viên Giáo, hoặc Sơ Địa Bồ Tát trở lên trong Biệt Giáo, vì các vị Bồ Tát ấy trí huệ vô lượng. Trí huệ do đâu mà có? Trí huệ sanh từ tâm thanh tịnh. Nay chúng ta nhất tâm nhất ý mong cầu trí huệ, nhưng cầu trí huệ mà tâm chẳng thanh tịnh, lấy đâu ra trí huệ? Trí huệ tuyệt đối chẳng phải là do sự học hỏi ghi nhớ mà có! Ngay cả Nho gia cũng biết: “Ký vấn chi học, bất túc dĩ vi nhân sư dã” (Cái học do hỏi han, ghi nhớ thì chẳng đáng để làm thầy người khác). Vì lẽ đó, tu học Phật pháp coi trọng tu Định, tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng có một pháp môn nào không tu Định, quý vị biết Định học trọng yếu dường ấy! Có thể nói là lìa khỏi Thiền Định, sẽ chẳng phải là Phật pháp. Người niệm Phật chúng ta tu nhất tâm bất loạn, nhất tâm bất loạn là Thiền Định. Cảnh giới trong Định vô lượng vô biên. Tâm đã định, sẽ chẳng khởi tâm động niệm. Không khởi tâm động niệm, bèn chẳng có giới hạn.

Công phu niệm Phật và tham Thiền, nói thật ra, chỉ có phương pháp khác nhau, chứ cảnh giới giống nhau. Công phu quán chiếu được nói trong nhà Thiền chính là công phu thành phiến trong Tịnh Độ Tông. Công phu thành phiến chính là công phu vừa mới đắc lực, [nói công phu thành phiến] là nói công phu đắc lực. Thành phiến bằng cách nào? Trong mười hai thời, trong tâm luôn có A Di Đà Phật. Đó gọi là “tịnh niệm nối tiếp”, bèn thành phiến. Công phu đã thành phiến, tuy quý vị có vọng tưởng, chấp trước, nhưng chúng chẳng khởi tác dụng, vì trong tâm quý vị một câu A Di Đà Phật niệm niệm chẳng gián đoạn, cũng là như chúng tôi thường nói “không gián đoạn, không xen tạp”, sẽ thành một phiến. Gián đoạn bèn chẳng thành một phiến, xen tạp cũng chẳng thể thành một phiến. Vì thế, thật sự muốn công phu đắc lực thì quyết định chớ nên gián đoạn, xen tạp, điều này rất trọng yếu.

Vì sao tu hành bèn coi trọng kết kỳ hạn niệm Phật, thường gọi thông tục là “đả Phật Thất”. Đả Phật Thất nhằm cầu công phu thành phiến. Phật Thất thì phải luyện tập, giống như lũ bình phàm chúng ta niệm Phật suốt bảy ngày chỉ sợ chẳng thể chịu nổi; bởi lẽ, “chẳng gián đoạn” là ngày lẫn đêm đều chẳng gián đoạn. Buổi tối đi ngủ, hễ ngủ bèn gián đoạn, ngủ một giờ bị gián đoạn một giờ, ngủ hai giờ bị gián đoạn hai giờ, ngày lẫn đêm đều chẳng ngủ. Bắt đầu học thì tốt nhất là một ngày, niệm suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, dần dần sẽ kéo dài thời gian, đối với chúng ta mà nói, cách làm này khá thích đáng. Giống như trong đạo tràng thông thường hiện thời, Phật Thất là Pháp Hội Phật Thất, có thể tham gia, vì sao? Trong ấy có gián đoạn, và cũng có xen tạp, mục đích bất quá là để mọi người rộn ràng suốt bảy ngày mà thôi, trọn chẳng phải là cầu đạt công phu thành phiến.

Phật Thất chân chánh nhằm cầu công phu thành phiến. Đạt đến công phu thành phiến là thành tựu tối thiểu, coi như đạt tiêu chuẩn. Thành tựu cao là đắc Sự nhất tâm bất loạn, thành tựu cao nhất là đắc Lý nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm bất loạn tương đương với Chiếu Trụ được nói trong Thiền Tông. Lý nhất tâm bất loạn là Chiếu Kiến như Tâm Kinh đã nói, đạt đến cảnh giới cao nhất. Chiếu Kiến là phá trừ vô minh, tối thiểu là phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, nhập cảnh giới này. Tâm thể vô lượng, tâm tướng vô lượng, tác dụng của tâm là vô lượng, khi ấy, quý vị đều chứng đắc, đó là cảnh giới của Viên Giáo Sơ Trụ, là mục tiêu chân chánh của người học Phật. Nhập cảnh giới ấy, thưa cùng chư vị, chẳng có sanh tử, thật sự là liễu sanh tử, vượt thoát tam giới, thành Phật ngay trong thân này! Thành Phật ngay trong thân này (tức thân thành Phật) không chỉ là Mật Tông [mới có], mà tông phái nào cũng đều là như thế, bất quá các tông phái khác chẳng phô trương như vậy, chứ thật ra là hoàn toàn tương đồng. Nói theo Tịnh Độ Tông, chỗ phương tiện tối thắng là quý vị niệm đến mức công phu thành phiến, là thành tựu chẳng thể nghĩ bàn. Nói cách khác, liễu sanh tử, thoát tam giới, tức thân thành Phật. Vì vậy, các đồng tu phải thật sự nỗ lực hướng theo mục tiêu và phương hướng này.

Học Phật trọn chẳng phải là trò đùa bỡn của trẻ nít! Thật sự nỗ lực ắt cần phải buông xuống; thân, tâm, thế giới hết thảy đều buông xuống. Vì sao phải buông xuống? Chẳng buông xuống, chúng sẽ là chướng ngại. Người biết buông xuống bèn buông xuống từ căn bản, người biết tu bèn tu từ căn bản. Căn bản là gì? Căn bản là vọng tưởng, chấp trước như đức Phật đã nói. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã dạy: “Hết thảy chúng sanh chẳng thể chứng đắc, là do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc”. Quý vị có thể buông vọng tưởng, chấp trước xuống, những cành lá thảy đều buông xuống. Vì thế, trong cuộc sống hằng ngày, bất luận là đối với người, đối với sự, tâm vừa khởi một niệm, bèn nghĩ: “Ta lại chấp trước, ta lại dấy vọng tưởng”. Nếu nói cụ thể hơn một chút, [sẽ là] “ta lại khởi nghiệp chướng”. Vọng tưởng, chấp trước là nghiệp chướng, là tội chướng, tội chướng hiện tiền! Vì sao trong hết thảy cảnh giới, chư Phật, Bồ Tát chẳng khởi vọng tưởng, chấp trước? Vì sao ta khởi vọng tưởng, chấp trước? Ở đây, phải sanh tâm hổ thẹn. Tâm hổ thẹn vừa khởi, lo cho chính mình còn chưa xuể, há có thời gian để dòm ngó người khác? Bởi vậy, Lục Tổ đại sư đã nói rất tuyệt: “Nếu người thật tu đạo, chẳng thấy lỗi kẻ khác”. Vì sao? Tự trông chừng mình còn không xuể, há có thời gian dò xét người khác!

Công phu thật sự đắc lực, nói thật thà, nhất định phải học theo Thiện Tài. Thiện Tài đồng tử là biểu thị pháp, trọn chẳng phải là thật sự có một người như thế. Thiện (善) là nói tới thiện căn, Tài (財) là nói về phước đức, biểu thị phước đức. Người có đại thiện căn, đại phước đức ấy bèn được gọi là Thiện Tài. Vì thế, nam, nữ, già, trẻ đều có thể gọi bằng danh xưng Thiện Tài. Ai có thiện căn và phước đức, người ấy là Thiện Tài. Người có thiện căn, phước đức, thái độ tu học giống như kinh Hoa Nghiêm đã nói: Chỉ có mình ta là học trò; trừ ta ra, đều là thiện tri thức, đều là Phật, Bồ Tát. Trên đường Bồ Đề, hoàn toàn chẳng có đồng học! Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài là một người tham phỏng, chẳng có đồng học! Vì sao chẳng có đồng học? Có đồng học, Ngài sẽ chẳng thể thành tựu trong một đời. Vì sao? Đồng học thì “ngươi chẳng khác gì ta cho mấy”, vọng tưởng, chấp trước lại dấy lên! Chẳng có đồng học, ai nấy đều là Phật, người nào cũng là Bồ Tát, ai cũng chẳng có lầm lỗi, lầm lỗi hoàn toàn do chính một mình ta gánh hết. Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, người ấy sửa lỗi, đổi mới, sửa sao cho tất cả lỗi lầm đều chẳng còn, bèn thành Phật, viên thành Phật đạo! Vì lẽ đó, chẳng thể có một đồng học.

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nêu gương cho chúng ta, Ngài bảo: “Thành Phật trong một đời”. Thiện Tài đồng tử thành Phật trong một đời, nhục thân thành Phật, chẳng trải qua đời thứ hai, Ngài tu như thế nào? Nếu tu giống như Thiện Tài, có ai chẳng là nhục thân thành Phật? Ai nấy đều như vậy! Chỉ thấy lỗi của chính mình, chẳng thấy lỗi người khác. Lục Tổ bảo Thần Hội: “Ta cũng thấy, mà cũng chẳng thấy”. “Ta cũng thấy” là thấy lỗi của chính mình. “Ta chẳng thấy” là chẳng thấy lỗi của người khác. Có thể thấy sự hành trì trong suốt một đời Lục Tổ là theo tiêu chuẩn của Thiện Tài đồng tử. Lục Tổ chẳng thấy lỗi của chúng sanh, chỉ thấy lỗi của chính mình. Ai nấy đều là Thiện Tài, đoàn thể ấy chính là Tăng đoàn Lục Hòa Kính. Nói thật ra, Phật pháp cao minh hơn pháp thế gian quá nhiều. Pháp thế gian ấn định một chương trình nhất định, buộc mọi người phải tuân thủ, Phật pháp chẳng phải vậy. Phật pháp đề ra chương trình nhằm khuyên bản thân mỗi người tự mình tuân thủ, chẳng buộc ai khác phải tuân thủ. Bản thân ta tuân thủ, người khác đã thành Phật, hoặc là Bồ Tát, họ còn phải vâng giữ chi nữa? Họ chẳng cần tuân thủ. Ta là một kẻ mới học, phải tuân thủ! Mỗi người đều có thể hồi quang phản chiếu, đoàn thể ấy chính là đoàn thể của Phật, Bồ Tát; vì vậy, Lục Hòa Kính là tu như thế đó. Do đó, giới luật được nói trong Phật pháp và pháp luật, quy củ của thế gian chẳng giống nhau, [Phật pháp] là tự hạn chế, chẳng bó buộc người khác. Vì lẽ đó, chẳng thấy lỗi của người khác.

Thấy lỗi lầm của kẻ khác, trong tâm chúng ta khởi phiền não, chẳng phải là kẻ khác có lầm lỗi, mà là nghiệp chướng của chính mình lại hiện tiền, hiện tượng bên ngoài dẫn khởi nghiệp chướng của chính mình. Nếu muốn tìm phương pháp để tiêu nghiệp chướng của chính mình, chớ nên đoái hoài cảnh giới bên ngoài. Thuận cảnh, khởi tâm hoan hỷ. Tâm hoan hỷ cũng là nghiệp chướng. Chẳng hoan hỷ, khởi tâm sân khuể, tâm sân khuể cũng là nghiệp chướng. Nói chung, trong tâm thanh tịnh chẳng sanh một pháp, Lục Tổ thường nói “vốn chẳng có một vật”, há có tham, sân, si, mạn ư? Há có ngũ dục, thất tình ư? Thất tình, ngũ dục vừa động, tội chướng hiện tiền. Chúng ta có thể thường phản tỉnh từ chỗ này, dụng công ở chỗ này, lẽ nào công phu của quý vị chẳng đắc lực? Tu hành là tu từ nơi đâu? Tu ở ngay chỗ này! Thật sự trong hết thảy cảnh duyên, “cảnh” là hoàn cảnh vật chất, “duyên” là hoàn cảnh nhân sự, trong hết thảy hoàn cảnh, chúng ta luôn có thể giữ gìn cái tâm thanh tịnh, luôn có thể giữ gìn cái tâm bình đẳng, nghiệp chướng sẽ tiêu trừ, chẳng có nghiệp chướng!

Cảnh giới nào cũng đều thấy thuận mắt, tâm luôn thanh tịnh, tuyệt đối chẳng khởi tâm, không động niệm, đó là tự tánh vốn định đã thành tựu. Quý vị thấy tướng cảnh giới bên ngoài rành mạch, rõ ràng, đó là vô lượng trí huệ hiện tiền. Trí huệ ấy là thanh tịnh huệ, vì sao? Trong huệ chẳng có phân biệt, chẳng phân biệt “chuyện này là tốt, chuyện kia là xấu”, chẳng có sự phân biệt ấy. Hễ khởi phân biệt, bèn có chấp trước liên đới dấy lên, sai mất rồi! Đó là tri kiến phàm phu, chẳng phải là Phật tri Phật kiến.

Phật tri Phật kiến, tâm giống như gương sáng; bởi lẽ, tâm là Đại Viên Kính Trí. Gương soi rành rẽ bên ngoài, gương có phân biệt hay không? Chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước. Tuy chiếu rất rõ ràng, bản thân tấm gương sạch làu, chẳng nhiễm mảy trần. Nay chúng ta vừa chiếu, hễ chiếu thì cái tâm liền bị nhiễm, liền ghi lại ấn tượng. Làm thế nào để khiến cho cái tâm chúng ta chiếu cảnh giới bên ngoài mà chẳng giữ lại ấn tượng? Không chỉ là lìa cảnh giới bèn chẳng ghi lại ấn tượng, mà khi cảnh giới hiện tiền, cũng chẳng giữ lại ấn tượng, đó gọi là “thật sự chẳng giữ lại ấn tượng”! Chỉ có không ghi lại ấn tượng thì tâm quý vị mới thanh tịnh, mới bình đẳng. Trong Phật pháp, bất luận tông nào, pháp môn nào, đều tu cùng một chuyện: “Tâm tịnh, ắt cõi Phật tịnh!” Cõi Phật thanh tịnh được tu hành như vậy. Vô lượng trí huệ hiện khởi từ cái tâm thanh tịnh.

“Phương tiện vô lượng, quang minh vô lượng, âm thanh thanh tịnh vô lượng”, ba câu này là sự lợi tha của Bồ Tát. Trong phần trước đã nói về sự tự lợi của Bồ Tát, chính mình chứng đắc. Sau khi đã chứng đắc, Bồ Tát nhất định sẽ giúp đỡ hết thảy chúng sanh. Giúp đỡ chúng sanh thì có vô lượng phương tiện, Phương (方) là phương pháp, Tiện (便) là tiện nghi. Đáng nên dùng phương pháp nào, bèn dùng phương pháp ấy, chẳng có pháp nhất định, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát trong phẩm Phổ Môn. “Ba mươi hai” là nói tới ba mươi hai loại lớn, trong mỗi loại lại có thể chia ra vô lượng, vô biên. Đáng nên dùng thân gì để độ, liền hiện thân ấy; nên dùng phương pháp gì, bèn sử dụng phương pháp ấy, chẳng có phương pháp nhất định. Đó là nói “phương tiện vô lượng”.

“Quang minh vô lượng” là nói tới tác dụng của trí huệ. Trí huệ được nói trong phần trước chính là Căn Bản Trí, còn quang minh vô lượng là nói tới Hậu Đắc Trí. Hậu Đắc Trí là ứng dụng nơi Sự. Căn Bản Trí là vô tri, Bát Nhã vô tri! Ứng dụng là không gì chẳng biết, ứng dụng là nói theo phía chúng sanh. Nói cách khác, sẽ là Tha Thọ Dụng, chẳng phải là Tự Thọ Dụng. Trong tâm Tự Thọ Dụng, vĩnh viễn thanh tịnh, là vô tri. Tự Thọ Dụng là vô tri, Tha Thọ Dụng là không gì chẳng biết. Chư vị muốn cầu trí huệ chân thật, trí huệ chân thật là vô tri. Chỉ có vô tri thì ứng dụng mới có thể là không gì chẳng biết. Vô tri là như Lục Tổ đã nói “vốn chẳng có một vật”, người biết học Phật cầu điều này. Quý vị hằng ngày dốc hết tánh mạng để cầu biết, sai lầm mất rồi! Trong tâm thanh tịnh chẳng có một vật, làm sao có nhiều thứ ngần ấy cho được? Các kinh do đức Phật đã giảng toàn là Hậu Đắc Trí, chẳng phải là Căn Bản Trí. Vì sao đức Phật có thể nói ra lắm kinh dường ấy, nói ra vô lượng nghĩa? Đều là do Ngài vô tri!

Nay chúng ta dụng công dốc sức nơi Hậu Đắc Trí của Ngài, lầm lẫn quá đỗi! Quý vị vĩnh viễn chẳng giống như Ngài, vĩnh viễn chẳng thể bằng Ngài, chẳng thể vượt trỗi Ngài. Phải như thế nào thì mới có thể bằng Ngài, mới có thể vượt trỗi Ngài? Quý vị hãy mong cầu vô tri. Đối với sự thật này, hy vọng mọi người hãy đọc kỹ Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư có thể chứng minh cho chúng ta, ban cho lũ hậu học chúng ta một sự khải thị rất lớn. Sau đó, bản thân chúng ta mới có thể phát hiện chính mình vốn đã dụng công dốc sức lầm lạc, phương pháp lẫn thái độ thảy đều sai bét, luôn thực hiện ở chỗ hữu tri, chẳng biết đi theo con đường vô tri!

Đối với ba câu này, nếu dùng ngay gương giáo hóa chúng sanh suốt một đời của Thích Ca Mâu Ni Phật trong thuở Ngài tại thế để nhìn vào thì sẽ rất rõ ràng. Đức Phật giảng cho chúng ta vô lượng pháp môn, tức là phương tiện vô lượng. Đức Phật hiển thị đủ mọi loại trí huệ để giáo hóa chúng sanh đó là quang minh vô lượng. Đức Phật vì chúng ta nói ra kinh điển nhiều ngần ấy, đó là âm thanh thanh tịnh vô lượng! Thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật đã dùng âm thanh làm Phật sự. Kinh Hoa Nghiêm tán thán Bát Địa Bồ Tát, cũng chỉ nêu ra mấy câu như vậy, đó cũng là tỉnh lược. Nếu nói cặn kẽ, sẽ chẳng thể nói trọn hết! “Tắc tri cử nhị sự giả, dĩ thiểu nhiếp đa dã” (Cho nên biết nêu ra hai sự nhằm dùng ít để bao gồm nhiều). Trong kinh Di Đà, để giải thích vô lượng, Thích Ca Mâu Ni Phật chỉ nêu lên hai điều là vô lượng thọ và vô lượng quang. Chúng ta biết “dùng ít để bao gồm nhiều” là nêu thí dụ mà thôi. Tiếp đó, sách viết: “Ước chi hựu ước, Thể nhiếp Dụng cố” (Đã ước lược lại càng ước lược hơn, do Thể nhiếp Dụng vậy).

 

(Sao) Thể nhiếp Dụng giả, hoặc nạn: Ký quang thọ song cử, vân hà Đại Bổn cập Quán Kinh đề, giai chỉ vân Vô Lượng Thọ, bất ngôn quang giả, phục thị hà nghĩa?

()體攝用者,或難,既光壽雙舉,云何大本及觀經 題,皆止云無量壽,不言光者,復是何義。

(Sao: “Thể nhiếp Dụng”: Chắc là có kẻ bắt bẻ: “Đã là quang lẫn thọ cùng nêu, cớ sao tựa đề của Đại Bổn và Quán Kinh chỉ nói Vô Lượng Thọ, chẳng nói đến quang, ý nghĩa lại là như thế nào?”)

“Nạn” là vấn nạn (問難: bắt bẻ, cật vấn). Có người hướng về đại sư bắt bẻ: Đã là quang lẫn thọ cùng nêu, nêu ra hai ý nghĩa ấy, cớ sao tựa đề kinh Vô Lượng Thọ chẳng ghi là Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang Kinh, tựa đề kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng chẳng nói là kinh Quán Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang Phật, [cả hai kinh] đều chỉ nói tới vô lượng thọ, chẳng nhắc tới vô lượng quang? Chúng ta xem lời giải thích của đại sư:

 

(Sao) Lương dĩ Nhất Chân Như tâm.

()良以一真如心。

(Sao: Ấy là vì Nhất Chân Như tâm).

“Nhất Chân Như”: Nhất là chân tâm, chân tâm còn gọi là Chân Như, cũng gọi là nhất tâm. Nhị tâm sẽ chẳng chân! Tâm chẳng động niệm bèn là nhất tâm; hễ động một niệm bèn là nhị tâm. Chân tâm lìa niệm, trong chân tâm chẳng có niệm. Điều này rất khó, khá chẳng dễ dàng! Hết thảy phàm phu luôn khởi tâm động niệm, nên tuy có chân tâm, nhưng chân tâm chẳng thể hiện tiền. Dẫu có chân tâm, chân tâm chẳng khởi tác dụng, đó chính là phàm phu.

Nhưng trong hết thảy các pháp môn, chỉ riêng Tịnh Tông là thuận tiện. Vì sao? Một câu A Di Đà Phật là chân tâm. A Di Đà Phật cũng là một niệm, một niệm ấy có kể như là vọng niệm hay không? Nếu chư vị chỉ có một niệm ấy, niệm ấy chẳng coi như là vọng niệm, mà niệm ấy chính là chánh niệm hiện tiền, vì chánh niệm “chẳng phải là hữu niệm, chẳng phải là vô niệm”. Nếu thật sự hết thảy đều vô niệm, sẽ biến thành Vô Tưởng Định, cũng sai mất rồi! Quý vị có một niệm là một câu A Di Đà Phật này, chẳng phải là vô niệm. Trừ câu A Di Đà Phật ra, xác thực là trong tâm chẳng một niệm thứ hai, cảnh giới này là phi hữu niệm phi vô niệm. Niệm đến mức Năng lẫn Sở đều mất. Năng và Sở đều mất là chẳng có phân biệt và chấp trước, lìa hết thảy phân biệt, chấp trước, một câu A Di Đà Phật bốn chữ, chữ nào cũng đều rõ ràng, rành mạch, trong ấy chẳng có năng niệm (cái tâm niệm Phật) mà cũng chẳng có sở niệm (đức Phật được niệm), Năng lẫn Sở đều mất. Đó gọi là Lý nhất tâm bất loạn, là chánh niệm.

Trong hết thảy các pháp môn tu học, dùng phương pháp Niệm Phật để đạt tới chánh niệm khá dễ dàng. Khởi đầu, cái niệm hiện thời của chúng ta là vọng niệm, tích lũy vọng niệm [niệm Phật] đến cuối cùng sẽ biến thành chánh niệm. Khi nào sẽ niệm đến mức biến vọng niệm [niệm Phật] thành chánh niệm? Niệm cho đến mức “cả Năng lẫn Sở đều mất” thì sẽ là chánh niệm. Niệm đến mức mất cả Năng lẫn Sở thì là Lý nhất tâm bất loạn. Vẫn còn chưa rời khỏi Năng và Sở thì là công phu thành phiến hoặc Sự nhất tâm bất loạn, chúng ta gọi là Niệm Phật tam-muội, đã nắm chắc vãng sanh, quyết định chẳng có vấn đề gì! Niệm đến mức công phu thành phiến bèn vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Chuyện này trọng yếu! Trong kinh đã đôi ba lượt cảnh tỉnh chúng ta, kinh Di Đà dạy “nhất tâm bất loạn”, kinh Vô Lượng Thọ dạy “một mực chuyên niệm”, những điều này trọng yếu! Tâm Nhất Chân Như hiện tiền:

 

(Sao)  Vô  khứ, vô  lai, cắng  cổ, cắng  kim, kỳ  thọ  vô  lượng, kỳ quang diệc nhĩ.

()無去無來,亙古亙今,其壽無量,其光亦爾。

(Sao: Chẳng đi, chẳng đến, suốt xưa, thấu nay, thọ mạng vô lượng, quang minh cũng giống như vậy).

Thế nào là chẳng có đến, chẳng có đi? Quý vị hãy ngẫm xem: Đến và đi là hai pháp, hai pháp thì chẳng phải là Phật pháp. Chẳng phải là Phật pháp, sẽ không phải là Tánh Đức, chẳng phải là đức năng vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh. Tánh Đức là Phật pháp, trong Tánh Đức chẳng có tương đối. Đến và đi là tương đối, xưa và nay là tương đối, những thứ ấy đều sanh từ vọng tưởng, chẳng phải là sự thật, [nhưng trong cách nghĩ, cách nhìn của] lũ phàm phu chúng ta thì dường như có sự thật. Nói thật ra, đó là cảm nhận sai lầm. Các đại khoa học gia đã phát hiện chuyện này, như ông Ái Nhân Tư Thản (Albert Einstein) biết [những hiện tượng ấy là] tương đối, chẳng phải là thật. Thậm chí, khoa học cận đại cũng phát hiện: Ngay cả vật chất cũng không là sự thật. Trước kia, người ta nghĩ vật chất tồn tại, hiện thời, họ biết vật chất chẳng tồn tại, chẳng phải là sự thật. Vật chất là gì? Các nhà khoa học hiện thời phát hiện chúng là hiện tượng dao động, là hiện tượng sóng ánh sáng chấn động, chẳng phải là sự thật. Những phát hiện này rất gần với những điều đã nói trong kinh Phật. Trong kinh Phật có nói “Tánh và Tướng cùng nguồn”. Nói theo Duy Thức sẽ là Kiến Phần và Tướng Phần có cùng một Tự Chứng Phần. Tự Chứng Phần là bản thể, Kiến Phần và Tướng Phần đều do Tự Chứng Phần biến hiện. Kiến Phần là tâm pháp, Tướng Phần là sắc pháp. Sắc và tâm là một, không hai. Tâm pháp và sắc pháp là một pháp, chẳng phải là hai pháp. Những lời nhận định của giới khoa học tiến bộ quá nhiều, chỉ có Phật pháp là có thể chứng minh cho họ. Vật chất chẳng thật, quý vị coi vật chất và sắc tướng đều là thật, há chẳng oan uổng ư? Ai oan uổng? Chính mình bị oan uổng, chính mình sanh phiền não trong ấy, sanh khởi phân biệt và chấp trước hư vọng, chính mình luân hồi trong lục đạo, tự mình hứng chịu trong ấy. Đó gọi là “tự làm, tự chịu”, kinh Phật thường nói là “kẻ đáng thương xót”. Hạng người ấy thật sự đáng thương xót, chẳng biết chân tướng sự thật.

Chân tướng sự thật chỉ có Nhất Chân; vì thế, đức Phật dạy chúng ta phải cầu chân thật, tức là cầu Nhất Chân. Cầu Nhất Chân từ đâu? Cầu từ tâm địa. Nhất tâm, quý vị sẽ thấy pháp giới là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới có mười pháp giới hay không? Có mười pháp giới, tuyệt đối chẳng phải là không có. Quý vị lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, mười pháp giới là Nhất Chân pháp giới. Ví như quý vị ở trong thiên đường, ao bảy báu, nước tám công đức, cung điện bảy báu, quý vị ở trong đó mà chẳng có Lạc Thọ, tâm địa thanh tịnh, bình đẳng. Quý vị đến thăm địa ngục, trèo lên núi đao, lại vào trong vạc dầu, chẳng có Khổ Thọ. [Do] quý vị bình đẳng, nên gọi là Nhất Chân pháp giới. Khi ngộ bèn thanh tịnh, bình đẳng; khi mê, bất bình đẳng, chẳng thanh tịnh. Khổ và lạc do đâu mà có? Khổ và lạc từ vọng tưởng, chấp trước mà có. Lìa khỏi vọng tưởng, chấp trước thì khổ lẫn lạc đều chẳng thể có được! Chẳng có khổ, lạc thì mới là Chân Lạc, được gọi là Cực Lạc. Hai bên khổ và lạc đều chẳng có, đó là Cực Lạc. Do vậy, Nhất Chân vô cùng trọng yếu; Nhất Chân là mong cầu nhất tâm. Trong nhất tâm, chẳng có một pháp đối lập, chẳng có đến, đi, chẳng có xưa, nay, đương nhiên là thọ vô lượng. Nói thật ra, ngay cả thọ cũng chẳng nói được, đây là chuyện bất đắc dĩ! Phàm phu còn có quan niệm về thọ, được rồi, dùng ngay quan niệm ấy để nói thì là vô lượng thọ. “Thọ vô lượng”: Thọ là Thể, Quang là tác dụng. Thể đã là vô lượng, đương nhiên Dụng cũng là vô lượng, [nên mới nói] “kỳ quang diệc nhĩ” (quang cũng là như thế). Dưới đây là nêu tỷ dụ [nhằm nói lên ý nghĩa] Thể và Dụng chẳng hai.

 

(Sao) Kim thể, kim quang, bất tương ly cố.

()金體金光,不相離故。

(Sao: Thể của vàng và ánh sáng của vàng chẳng lìa nhau).

Đối với vàng y thì vàng là Thể, vàng y tỏa ra ánh sáng nhìn rất đẹp. Ánh sáng của vàng chẳng lìa khỏi Thể của vàng, chúng là một! Sánh ví Thọ như Thể, sánh ví Quang như Dụng, chẳng tách lìa nhau!

 

(Sao) Khởi Tín vân: “Tâm tánh bất khởi, tức thị đại trí huệ quang minh, châu biến pháp giới”.

()起信云:心性不起,即是大智慧光明,周遍法界。

(Sao: Luận Khởi Tín chép: “Tâm tánh chẳng khởi, chính là quang minh đại trí huệ, trọn khắp pháp giới”).

“Khởi Tín” là Đại Thừa Khởi Tín Luận do Mã Minh Bồ Tát soạn. Mã Minh Bồ Tát là một vị đại Bồ Tát minh tâm kiến tánh, chẳng phải là phàm nhân, những lời Ngài nói chẳng khác gì đức Phật nói, chính là lời Phật nói. “Đại trí huệ quang minh, châu biến pháp giới” là điều chúng ta hướng tới, vô cùng hâm mộ, cũng mong đạt được. Đấy là Tánh Đức, nói thật ra, đó là những gì chúng ta vốn có, vốn trọn đủ. Phải như thế nào thì mới có thể khiến cho Tánh Đức của chúng ta hiện tiền? Trong phần trên có một câu trọng yếu: “Tâm tánh chẳng khởi”. Trong hết thảy cảnh duyên, quý vị thật sự chẳng khởi tâm, không động niệm, chúng tôi lại nói thêm hai câu nữa là “chẳng phân biệt, không chấp trước”, Tánh Đức của quý vị liền lưu lộ. Tánh Đức khởi tác dụng sẽ là “đại trí huệ quang minh”, xác thực là “trọn khắp pháp giới”.

Chúng ta hãy suy nghĩ, nghiệp chướng của chính mình thật sự nặng nề. Nghiệp chướng là khởi tâm động niệm. Hằng ngày, mọi người luôn cầu tiêu nghiệp chướng, tiêu bằng cách nào? Lạy Lương Hoàng Sám, lạy Thủy Sám, niệm mấy bộ kinh Địa Tạng [với hy vọng] nghiệp chướng liền tiêu trừ. Quý vị cứ chăm chỉ tu hành [theo kiểu đó] xem sao, sau khi tu xong, chính mình có còn khởi tâm động niệm hay không? Vẫn còn khởi tâm động niệm thì nghiệp chướng vẫn còn, chẳng tiêu mất! Bao nhiêu người cảm thấy chính mình có nghiệp chướng, tội nghiệp rất sâu, nhưng chẳng biết nghiệp chướng là gì, đều là ù ù cạc cạc, làm thế nào được nữa! Nương theo pháp môn này để tu học, sau khi đã tu, tâm thật sự đạt đến thanh tịnh, vọng niệm ít, phiền não giảm, đó là hiện tượng nghiệp chướng tiêu trừ. Đương nhiên chẳng thể nào tiêu trừ ngay lập tức, phải giảm bớt dần dần, đó là một hiện tượng tốt đẹp.

Do vậy có thể biết, phương pháp tiêu nghiệp chướng có hiệu quả nhất là chuyên tu. Bất luận pháp môn nào, chỉ cần là chuyên, tâm người ấy sẽ thanh tịnh. Tham Thiền mà có thể tiêu nghiệp chướng, người ấy đắc Định. Học Giáo mà có thể tiêu nghiệp chướng, người ấy có thể tùy văn nhập quán, quán là Chỉ Quán. Niệm Phật có thể tiêu nghiệp chướng, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật, chẳng có hết thảy vọng tưởng, tạp niệm. Nếu chúng ta tu học, dẫu dụng công cỡ nào, mà vọng tưởng, chấp trước vẫn còn, vẫn chẳng đoạn, tức là công phu chẳng đắc lực, công phu chẳng có hiệu quả, rất đáng tiếc! Công phu chẳng có hiệu quả, tu đến cuối cùng đạt được phước báo, công đức đều biến thành phước đức, trở thành phước báo nhân thiên! Phước báo nhân thiên rất khổ! Bảo tôi làm người đại phú đại quý trong thế gian này, tôi không làm! Tôi rất ngại phiền, khổ quá! Hiện thời làm quan phải lo tranh cử, vất vả quá, chẳng thể làm chuyện này! Dẫu không phải tranh cử, mời tôi làm, tôi cũng chẳng muốn làm, vì sao? Họp hành quá nhiều, thù tạc quá nhiều. Đừng nói chi khác, mỗi ngày phải bắt tay người khác tôi đã không quen, mệt chết luôn! Hạnh phúc nhất vẫn là hằng ngày du sơn ngoạn thủy, đọc các sách chính mình ưa thích, làm những chuyện chính mình ưa thích, người ấy là người có phước bậc nhất. Phàm là miễn cưỡng, chẳng muốn làm, nhưng chẳng thể không làm, sẽ rất khổ não, chẳng làm chuyện này được! Phải thật sự giác ngộ ở chỗ này. Do đó, chớ nên tu phước thế gian, chúng ta phải tu tập và tích lũy công đức, công đức là tâm địa thanh tịnh.

 

(Sao) Bất khởi, thọ dã.

()不起,壽也。

(Sao: Chẳng khởi là Thọ).

Vì người ấy chẳng khởi tâm động niệm, nên chẳng có dài hay ngắn, chẳng có trước, sau, chẳng có xưa, nay, đó là vô lượng thọ. Đối với khái niệm thọ lượng của chúng ta, người ấy đã hoàn toàn đột phá, vượt trỗi thọ lượng. Đấy là vô lượng thọ thật sự.

 

(Sao) Trí huệ, quang dã. Ngôn thọ tắc quang tại kỳ trung, cố đơn cử dã.

()智慧,光也。言壽則光在其中,故單舉也。

(Sao: Trí huệ là quang. Nói đến thọ thì quang đã được bao gồm trong ấy, nên chỉ nói đến thọ).

Tựa đề kinh chỉ cần nói Vô Lượng Thọ là được rồi. Không chỉ là Quang được hàm nhiếp trong ấy, mà như trong phần trên đã nói, thân tướng vô lượng, trí huệ vô lượng, phương tiện vô lượng, âm thanh thanh tịnh vô lượng, cho đến y báo và chánh báo trang nghiêm, thứ gì cũng đều là vô lượng, thảy đều được bao hàm trong vô lượng thọ. Đối với tất cả hết thảy vô lượng, vô lượng thọ là bản thể. Lìa khỏi vô lượng thọ, hết thảy các thứ vô lượng khác đều chẳng có ý nghĩa gì nữa! Do vậy mới hiểu: Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ lượng như Phật; do Phật là vô lượng thọ, mỗi người chúng ta đều là vô lượng thọ, vô lượng trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thảy đều thọ dụng. Chúng ta cần gì phải bỏ ra một khoảng thời gian và tinh thần để làm những chuyện chẳng liên can trong thế gian này? Chẳng có ý nghĩa chi hết! Không chỉ là pháp thế gian chẳng liên quan, mà ngay cả Phật pháp cũng chẳng có liên quan! Quý vị thật sự giác ngộ, chúng ta học một câu Nam-mô A Di Đà Phật, sáu chữ ấy là được rồi, những thứ khác đều chẳng cần tới. Tôi thường nói: Trong suốt một đời này, chỉ có một bộ kinh, một câu Phật hiệu, đó là người thượng thượng căn. Vẫn còn phải học Tịnh Độ Ngũ Kinh, niệm câu A Di Đà Phật, đó là hạng căn tánh bậc trung. Năm kinh vẫn chưa đủ, còn phải đọc ngữ lục của cổ đại đức Tịnh Độ như Tịnh Độ Thập Yếu, Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, đó là hạng hạ căn. Nếu còn muốn học những thứ khác nữa, đời này chẳng thể vãng sanh, vẫn chưa thể coi là hạng hạ căn được, vì hạ căn vẫn có thể vãng sanh. Chúng ta hãy suy nghĩ, có mấy ai là bậc thượng thượng căn? Điều này đáng cho chúng ta phản tỉnh, kiểm điểm sâu xa.

 

(Sao) Y chánh vô lượng giả.

()依正無量者。

(Sao: Y báo và chánh báo vô lượng).

Đây là giải thích câu “y báo, chánh báo, tất giai vô lượng” (y báo và chánh báo thảy đều vô lượng) trong lời Sớ. Chánh báo là nói tới thân thể. Trừ thân thể ra, thảy đều gọi là y báo. Trong y báo có hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất. Hết thảy mọi người đều thuộc về y báo của chính mình. Chúng ta phải nương vào đại chúng thì mới có thể sống sót trên thế gian này. Cũng giống như vậy, chúng ta phải nương vào đại chúng thì đạo nghiệp của chính mình mới có thể thành tựu. Nếu Thiện Tài đồng tử chẳng tham học năm mươi ba lần, năm mươi ba lần tham học là nương tựa đại chúng, Ngài sẽ chẳng thể thành tựu đạo nghiệp. Vì vậy, Ngài phải nương cậy đại chúng, trải qua sự việc trong hoàn cảnh để luyện cái tâm, trải nghiệm trong mỗi chuyện, luyện tâm gì vậy? Luyện không khởi tâm động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, luyện những điều này.

Trong cảnh giới, chuyển tâm ý thức, tức là chuyển tám thức thành bốn trí. Chuyển tám thức thành bốn trí là chuyển nơi cảnh giới, chẳng phải là lìa khỏi cảnh giới, đóng chặt cửa để chuyển! [Đóng chặt cửa, xa lìa cảnh giới] sẽ vô dụng, chẳng thể chuyển được! Chẳng phân biệt, chuyển thức thứ sáu tức ý thức thành Diệu Quán Sát Trí. Chẳng chấp trước, chuyển Mạt Na thức thành Bình Đẳng Tánh Trí. Không giữ lại ấn tượng, chuyển A Lại Da Thức thành Đại Viên Kính Trí. Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, chuyển năm thức trước thành Thành Sở Tác Trí, chuyển trong cảnh giới! Do đó, trong hết thảy cảnh giới, người ấy chẳng khởi phiền não, chỉ tăng trưởng trí huệ. Khi gặp Ngũ Tổ, Huệ Năng đại sư đã thưa: “Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ”. Chúng ta thấy vậy rất hâm mộ, chúng ta và Ngài hoàn toàn tương phản, chúng ta thường sanh phiền não, còn Ngài thường sanh trí huệ. Vì sao Ngài sanh trí huệ? Trong cảnh duyên, Ngài có thể chuyển thức thành trí, trí huệ là Tứ Trí Bồ Đề. Người bình phàm tu hành dụng công, chẳng biết tu như thế nào, chẳng biết phải dụng công như thế nào? Đó là tu mù luyện đui! Chẳng biết phải tu như thế nào ư? Chẳng biết phải thực hiện từ chỗ nào ư? Nào có biết là dụng công ngay trong mặc áo, ăn cơm, trong đãi người, tiếp vật, dụng công ở ngay trong những chỗ ấy, sẽ bất tri bất giác thành Phật ngay trong các chỗ ấy, nghiệp chướng tiêu trừ, Phật đạo thành tựu viên mãn. Chúng ta xem phần nói về y báo và chánh báo vô lượng:

 

(Sao) Tự Phật nhất thân sở hữu công đức, cập như hạ văn Thanh Văn, Bồ Tát, nãi chí tiền chi lan võng hàng thụ đẳng, chủng chủng trang nghiêm, tất vô lượng cố.

()自佛一身所有功德,及如下文聲聞菩薩,乃至前之欄網行樹等,種種莊嚴,悉無量故。

(Sao: Từ tất cả các công đức nơi thân một đức Phật cho đến các vị Thanh Văn, Bồ Tát như sẽ nói trong phần sau, cho đến lan can, lưới mành, hàng cây v.v… trong phần trước, các thứ trang nghiêm thảy đều vô lượng).

“Vô lượng” không chỉ là nói về Sự, vì Thể, Tướng, Đức Dụng là một chỉnh thể. Tâm tánh vô lượng, nên Thanh Văn, Bồ Tát, cho đến mười phương chư Phật Như Lai, kể cả Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật đều là do tự tánh biến hiện. Do đó nói “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, “ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm” đều do tự tánh biến hiện. Do tự tánh vô lượng, nên chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn cũng vô lượng, cho đến mười phương thế giới vô lượng, hết thảy thế giới, chúng sanh cũng là vô lượng, toàn là do tâm tánh biến hiện. Chánh báo là như thế, mà y báo cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, trong phần trước đã nói lan can, lưới mành, hàng cây, ao báu, nước tám công đức, mỗi mỗi đều là vô lượng. “Chủng chủng trang nghiêm” (Các thứ trang nghiêm), “chủng chủng” là bao gồm toàn bộ, đây là hai chữ tỉnh lược, [mang ý nghĩa] nói chẳng trọn hết, thảy đều vô lượng! Các thứ vô lượng vô biên trang nghiêm, chư vị phải ghi nhớ: Nếu chẳng có vô lượng thọ, toàn bộ [các thứ vô lượng khác] đều rỗng tuếch, chẳng có tí ti ý nghĩa nào cả! Có thể thấy tầm trọng yếu của vô lượng thọ! Trong tựa đề kinh, đối với hết thảy các thứ vô lượng, đức Phật chỉ nêu ra một mình vô lượng thọ, đạo lý ở ngay chỗ này! Trong tất cả hết thảy vô lượng, vô lượng thọ là bậc nhất.

Trong đoạn cuối cùng [của phần này] sẽ được nêu ra dưới đây, Liên Trì đại sư đã hội quy tự tánh để nói, đây cũng là tâm đắc trong khi đọc kinh của Ngài, [tức là] những gì Ngài đã lãnh hội từ đoạn kinh văn này. Trong Phật pháp thường nói tới chuyện “hội quy tự tánh”; đoạn kinh văn này được hội quy tự tánh như thế nào, đấy mới là thật sự đạt được thọ dụng.

 

(Sớ) Xứng Lý.

()稱理。

(Sớ: Xứng Lý).

Nói theo Chân Như bản tánh, Lý là bản tánh, hội quy tự tánh.

 

(Sớ) Tắc tự tánh thường chiếu, thị quang minh nghĩa.

()則自性常照,是光明義。

(Sớ: Tự tánh thường chiếu là ý nghĩa của quang minh).

Tự tánh vốn có đức năng là Chiếu. Nơi phàm phu, đức năng Chiếu này cũng hoàn toàn chẳng mất đi. Chiếu là gì? Chiếu là giác. Mắt chúng ta có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm, thân có thể cảm nhận, đều là tự tánh giác. Điều này nơi phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng tăng, bản năng trong tự tánh vĩnh viễn chẳng thể mất. Khi mê, công năng giác chiếu bị trở ngại đôi chút, phạm vi nhỏ hơn một chút. Sau khi ngộ, chướng ngại chẳng có, công năng của giác chiếu vô lượng vô biên. Điều gì chướng ngại công năng? Tâm dao động, tức là vọng tâm, tâm bị động. Tâm động với mức độ càng lớn, chướng ngại càng to. Mức độ dao động càng nhỏ, chướng ngại càng nhỏ. Nói thật ra, mười pháp giới là do tâm dao động với các mức độ sai biệt mà hình thành. Phật hoàn toàn bất động, Bồ Tát còn bị động khe khẽ. Duyên Giác động nhiều hơn Bồ Tát, Thanh Văn càng nhiều hơn nữa. Càng đi xuống, mức độ dao động càng lớn.  Địa ngục nói đơn giản là gió to,  sóng lớn!  Sai  biệt  như thế đó, mười pháp giới sai biệt.

Tâm vọng tưởng, chấp trước thì mức độ dao động càng lớn, chướng ngại càng lớn, nên bản năng (năng lực sẵn có) của quý vị bị chướng ngại. Tuy có chướng ngại, nó vẫn khởi tác dụng, chẳng phải là không có tác dụng. Ví như hôm trời âm u, mây dày che khuất mặt trời, đó là chướng ngại. Tuy bị che khuất, nó vẫn có ánh sáng, chẳng qua ánh sáng yếu ớt, chẳng rạng rỡ như khi trời quang đãng. Quang minh hôm trời âm u vẫn là ánh nắng mặt trời. Nay chúng ta tuy thuộc địa vị phàm phu, sóng gió vọng tưởng, chấp trước trong tâm rất lớn, vẫn là còn có tri giác, mắt vẫn có thể thấy, tai vẫn có thể nghe, bản năng vẫn khởi tác dụng. Kinh Lăng Nghiêm gọi chuyện này là “căn tánh của sáu căn”. Phật, Tổ thường nói: “Lục căn môn đầu phóng quang động địa” (Từ nơi lục căn phóng quang minh chấn động cõi đất), đó chính là con người vốn có của ta, là diện mục sẵn có của ta, chỉ cần đừng thêm cái tâm ý thức vào đó là được rồi. Hiện thời chúng ta mê điều gì? Tròng thêm cái tâm ý thức [vào bản tâm sẵn có]. Tâm ý thức: Thức là phân biệt, ý là chấp trước, tâm là ghi giữ ấn tượng, chúng ta phạm lỗi ở chỗ này. Nếu thật sự chẳng phân biệt, không chấp trước, chẳng giữ lại ấn tượng, sẽ chuyển tâm ý thức thành Tứ Trí Bồ Đề, chuyển ở ngay chỗ này!

Cổ đức dạy chúng ta: “Nghe giáo phải hội quy tự tánh”, đó là thọ dụng chân thật, chớ nên ghi nhớ ngôn ngữ văn tự, hãy thấu hiểu ý nghĩa, hội quy tự tánh nhằm giúp quý vị giác ngộ. “Tu hành phải chuyển thức thành trí”. Tôi nói đơn giản cùng quý vị, chuyển thức thành trí là trong hết thảy cảnh giới, ta học chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không ghi giữ ấn tượng. Nói cách khác, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều giữ gìn cái tâm thanh tịnh của chính mình, đó là tu hành. Bất luận quý vị dùng phương pháp gì, tám vạn bốn ngàn pháp môn, mục đích là một: Làm thế nào để khôi phục tự tánh thanh tịnh tâm? “Tự tánh thường chiếu”: Chiếu là giác, thường giác chính là ý nghĩa của quang minh. Đó là trí huệ quang minh chân chánh.

 

(Sớ) Tự tánh thường tịch, thị thọ mạng nghĩa.

()自性常寂,是壽命義。

(Sớ: Tự tánh thường tịch là ý nghĩa của thọ mạng).

 “Tịch” (寂) là vắng lặng, bất động. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng dao động”, tự tánh là bất động. Nay chúng ta nói khởi tâm động niệm, vọng tâm là động, chân tâm bất động. Chân tâm là vốn có, vọng tâm vốn không. Vốn không thì đương nhiên có thể rời lìa, vốn có thì đương nhiên có thể chứng đắc. Bất động là ý nghĩa của thọ mạng, bất động là thường hằng vĩnh cửu, chẳng có xưa, nay, đến, đi; đó là trường thọ thật sự, thật sự sống đời đời, bất sanh, bất diệt.

 

(Sớ) Tự tánh tịch chiếu bất nhị, thị A Di Đà nghĩa.

()自性寂照不二,是阿彌陀義。

(Sớ: Tự tánh tịch và chiếu chẳng hai, đó là ý nghĩa của A Di Đà).

Vì sao niệm một câu A Di Đà Phật chẳng phải là vọng niệm? Từ chỗ này đã chứng minh. Niệm điều gì khác đều là vọng tưởng, đều là vọng niệm, chỉ có riêng niệm A Di Đà Phật chẳng phải là vọng niệm, vì sao? A Di Đà Phật là “tự tánh tịch chiếu bất nhị”. Vì sao niệm câu A Di Đà Phật bèn thấy tự tánh tịch chiếu bất nhị? Trong phần Sao tiếp theo sẽ giảng tỉ mỉ, nhưng hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi chỉ có thể giảng tới chỗ này. Trong buổi sau, chúng ta sẽ lại thảo luận “tự tánh tịch chiếu bất nhị” là ý nghĩa của A Di Đà Phật.

 

— o0o —

Tập 194

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba trăm chín mươi lăm:

 

(Sao) Linh minh đỗng triệt, quang tuyệt nhai sĩ, trạm tịch thường hằng, thọ hà trù toán? Thường hằng nhi phục đỗng triệt, cố tức thọ nhi quang, đỗng triệt nhi diệc thường hằng, cố tức quang nhi thọ. Như thị, tắc A Di Đà Phật, tuy quá thập vạn ức sát chi ngoại, nhi thật ư thử Sa Bà thế giới chúng sanh tâm trung, kết già phu tọa, nghiễm nhiên bất động.

()靈明洞徹,光涯涘,湛寂常恆,壽何籌算,常恆而復洞徹,故即壽而光,洞徹而亦常恆,故即光而壽。如是,則阿彌陀佛,雖過十萬億剎之外,而實於此娑婆世界眾生心中,結跏趺坐,儼然不動。

(Sao: Linh giác sáng suốt, thấu triệt rỗng rang, sáng ngời chẳng có ngằn mé. Trong trẻo, tĩnh lặng, thường hằng, làm sao có thể tính toán thọ lượng cho được? Thường hằng mà lại rỗng rang thấu triệt, nên thọ chính là quang. Rỗng rang thấu triệt mà cũng thường hằng, nên quang chính là thọ. Như vậy thì tuy A Di Đà Phật ở ngoài mười ức cõi, mà thật sự ở trong tâm của chúng sanh, Ngài ngồi kết già, nghiễm nhiên, bất động).

Trong đoạn này, Liên Trì đại sư bổ sung những ý chưa được nói hết trong đoạn trước. Ba câu đầu trong đoạn này nói về tác dụng to lớn của Tánh Đức, cũng chính là “xứng tánh khởi dụng” như kinh điển Đại Thừa thường nói. Trong tu học, điều này được gọi là “xứng tánh khởi tu, toàn tu tức tánh”. Mấy câu ở đây đều nhằm nêu rõ ý nghĩa này. Nay chúng ta mê thì chính là mê mất những điều này, chư Phật, Bồ Tát ngộ chính là ngộ những chuyện này.

Bản tánh cũng là chân tâm, vốn là “linh minh đỗng triệt” (linh giác sáng suốt, thấu triệt rỗng rang), nên nó là Tánh Đức, chẳng phải là Tu Đức. Chính là như Lục Tổ đã nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn trọn đủ”. Nó vốn là như vậy. “Linh” (靈) nghĩa là chẳng mê muội, Minh là hiểu rõ. Đức dụng của bản tánh là đối với hết thảy sự vật trong vũ trụ, không gì chẳng hiểu rõ. Không chỉ hiểu rõ, lại còn thấu triệt rỗng rang, chẳng phải chỉ là hiểu rõ nơi hình tướng. Chúng ta thường nói là “hiểu rõ lẽ đương nhiên, nhưng chẳng biết rõ nguyên do”. “Đỗng triệt” (洞徹) là đối với căn nguyên, hiện tượng, biến hóa, quy túc, chẳng có gì không hiểu rõ đến lý tột cùng. Câu này chính là câu khen ngợi “Thượng Đế toàn tri toàn năng” của các tín đồ tôn giáo. Bốn chữ [toàn tri toàn năng] ấy có nghĩa là “không gì chẳng biết, không gì chẳng thể”. Nói thật ra, Thượng Đế trọn chẳng phải là toàn năng, mà cũng chẳng phải là toàn tri. Ông ta cũng là phàm phu, cũng mê hoặc, điên đảo giống như chúng ta. Có thể là có chỗ nào đó ông ta mê nhẹ hơn chúng ta đôi chút, chúng ta mê nặng hơn ông ta. Vì lẽ đó, ông ta tỏ lộ dáng vẻ rất có trí huệ, nhưng hoàn toàn chẳng phải là toàn tri toàn năng. Thật sự có toàn tri toàn năng, đức Phật nói mỗi cá nhân chúng ta đều trọn đủ [toàn tri toàn năng], chẳng có tí ti hiếm hoi, lạ lùng gì, đó là năng lực sẵn có của chính mình. Nay bảo chúng ta là mê, nói thật ra là mê mất bản năng của chính mình; kinh bảo là “kẻ đáng thương xót”, rất đáng thương! Mê mất, chẳng biết chính mình có trí huệ và đức năng viên mãn như vậy. “Quang tuyệt nhai sĩ” (Quang minh chẳng có ngằn mé), “nhai sĩ” (涯涘) là bờ mé. Trí huệ và đức năng chẳng có ngằn mé, đúng là toàn tri toàn năng.

“Trạm tịch thường hằng”: Trong phần trước đã nói là đức dụng của năng lực sẵn có, còn “trạm tịch thường hằng” là nói về thể tánh. Câu này vô cùng quan trọng. Nếu chẳng có câu này, đức năng trong phần trước sẽ chẳng thể hiển lộ. “Trạm” (湛) là giống như nước hết sức thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Dẫu nước sâu đến mấy, từ trên mặt nước có thể nhìn thấy đáy nước, thấy rõ ràng, rành rẽ. Chữ này nhằm hình dung sự sạch sẽ, chẳng bị nhiễm ô. “Tịch” (寂) là tịch tĩnh, chẳng dao động, tỷ dụ chân tâm của chúng ta. Tâm giống như nước; vì thế, tâm chớ nên động, hễ động sẽ chẳng tĩnh. Tâm chớ nên nhiễm ô, hễ nhiễm ô sẽ mất tánh chất “trạm” (trong trẻo). “Trạm” là chẳng nhiễm. “Tịch” là bất động. Bí quyết tu hành ở ngay nơi đây. “Thường hằng” là công phu. Nơi phàm phu, Trạm và Tịch có thể tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, nhưng chẳng thể giữ được một thời gian dài. Dẫu là thời gian rất ngắn ngủi, tạm bợ, cũng phải huấn luyện. Chẳng trải qua sự huấn luyện, dẫu trong một thời gian ngắn ngủi nhất, cũng chẳng thể xuất hiện.

Trong chú giải Liễu Phàm Tứ Huấn có nói về chuyện vẽ bùa: Trong sát-na vẽ bùa ấy, trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, tâm người vẽ một niệm chẳng sanh, cũng là có công phu trạm tịch, đạo bùa chú do người ấy vẽ bèn thiêng. Vẽ bùa thì phải vẽ theo cách như vậy. Niệm chú cũng phải niệm theo cách đó. Có người niệm chú rất linh, có người niệm chú chẳng linh, do nguyên nhân gì vậy? Bất luận chú dài hay ngắn, hễ đã niệm chú thì trong tâm chẳng khởi một tạp niệm, dùng cái tâm trạm tịch để niệm bài chú ấy, chú ấy sẽ linh. Vì thế, chú càng dài càng khó linh nghiệm, vì sao? Có thể dấy lên vọng tưởng. Chú càng ngắn càng dễ linh, [vì] trong thời gian rất ngắn có thể giữ cho chính mình chẳng sanh một niệm. Nói thật ra, câu A Di Đà Phật là thần chú vô thượng, là thần chú ngắn nhất. Kinh dạy chúng ta phải nhất tâm xưng niệm, nhất tâm là trạm tịch, trạm tịch là nhất tâm. Trong tâm chẳng có nhiễm ô, chẳng có tạp niệm, chẳng có dao động, đó là nhất tâm. Trong tâm dấy động vọng niệm, khởi lên ý niệm, tâm ấy chẳng phải là chân tâm. Vì thế, một niệm tương ứng một niệm Phật, người ấy có cảm ứng. Chúng ta niệm câu Phật hiệu, trong Phật hiệu xen tạp vọng tưởng, khi niệm Phật vẫn bị ngoại cảnh lay động, đó là chẳng tương ứng. Không tương ứng, dẫu niệm nhiều đến mấy, vẫn chẳng có tác dụng! Giống như Hàn Sơn, Thập Đắc đã nói: “Niệm toạc cổ họng, cũng uổng công!” Tức là mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, rách toạc cổ họng cũng uổng công, nguyên nhân ở chỗ nào? “Chẳng  có  một  niệm” chính là vận dụng công phu trạm tịch.

Dùng trạm tịch thì mới có cảm ứng, mới có hiệu quả.

Đạt đến trạm tịch thường hằng, có hai chữ “thường hằng” sẽ là nhất tâm bất loạn. Mức độ thấp nhất cũng là Sự nhất tâm bất loạn. Nói thật ra, Sự nhất tâm bất loạn là đã đắc Niệm Phật tam-muội. Nói thật thà, trong cảnh giới ấy, thọ mạng chẳng có! Do đâu mà có thọ mạng? Từ phân biệt, chấp trước mà có. Vì chấp trước “có quá khứ, hiện tại, vị lai”, nên mới có thọ mạng. Thọ mạng là thời gian, khi tâm đã định, giới hạn ấy chẳng có, chẳng chấp trước ba đời quá khứ, hiện tại, tương lai, nên chẳng có thọ mạng, bất sanh, bất diệt. Đắc Niệm Phật tam-muội thì nói trường thọ hay đoản thọ đều chẳng có ý nghĩa, đó là đối với chúng sanh mà nói phương tiện, chẳng phải là lời chân thật. Trong chân thật ngữ, chẳng có khái niệm thọ mạng. Nay phương tiện để nói với hết thảy chúng sanh nên nói “vô lượng thọ”. “Thọ hà trù toán?” (Làm thế nào để tính toán thọ lượng cho được?), chẳng có cách nào tính toán thọ mạng! Người ấy đã chẳng khởi tâm, không động niệm, còn tính toán gì nữa? Chỉ có khởi tâm động niệm thì mới có thể tính toán.

Do vậy có thể biết: “Trạm tịch thường hằng” là Thể, là Định, là nhất tâm bất loạn. “Linh minh đỗng triệt” là khởi tác dụng, là không gì chẳng biết, không gì chẳng thể. Thể và Dụng có thể dung thông lẫn nhau. “Linh minh đỗng triệt” là Thể, “trạm tịch thường hằng” là Dụng, [hoặc nói] “trạm tịch thường hằng” là Thể, “linh minh đỗng triệt” là Dụng, có thể dùng lẫn cho nhau. Đấy là Định Huệ cân bằng, Định là Thể, Huệ là Dụng, [hoặc nói] Huệ là Thể, Định là Dụng, có thể dùng lẫn cho nhau. Do vậy, Định và Huệ chuyển sâu hơn, Định cũng ngày càng sâu hơn, Huệ cũng ngày càng rộng hơn.

“Thường hằng nhi phục đỗng triệt, cố tức thọ nhi quang” (Thường hằng mà lại rỗng rang, thấu triệt, nên thọ chính là quang), vô lượng thọ và vô lượng quang cũng là một chuyện, vô lượng thọ là vô lượng quang, vì sao? Định là Huệ, thường hằng là Định, đỗng triệt là Huệ. “Đỗng triệt nhi diệc thường hằng, cố tức quang nhi thọ” (Rỗng rang thấu suốt mà cũng thường hằng, nên quang chính là thọ). Quang là thọ, thọ là quang, là một, không hai, đây là sự thật. Quan sát từ sự thật này, thọ mạng của A Di Đà Phật đúng là vô lượng. Chẳng phải là vô lượng hữu hạn, mà là vô lượng trong vô lượng. Nó là Tánh Đức của bản thể, há có hạn lượng?

“Như thị, tắc A Di Đà Phật, tuy quá thập vạn ức sát chi ngoại” (Như thế thì A Di Đà Phật tuy ở ngoài mười vạn ức cõi), phàm phu luôn chấp tướng, nhìn theo sự tướng, [bèn thấy] Tây Phương Cực Lạc thế giới cách thế giới này ngoài mười vạn ức cõi Phật. Một Phật sát rốt cuộc to cỡ nào? Trước đây, chúng ta thường nghĩ một hệ Ngân Hà là một đại thiên thế giới; đó là một Phật sát. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói “một hệ Ngân Hà là một đơn vị thế giới, tức là một tiểu thế giới”, chẳng thể nghĩ bàn! Chỉ sợ khoa học hiện thời vẫn chưa phát hiện đại thiên thế giới. Điều này nói rõ từ thế giới Sa Bà đến thế giới Cực Lạc, nói theo hình tích, dấu vết thì khoảng cách khá xa, khoảng cách rất lớn. Tuy khoảng cách to như thế, chư vị phải hiểu [những cõi Phật ấy] đều ở trong nhất tâm của chúng ta, chẳng phải là ở bên ngoài. Khoảng cách dẫu lớn đến mấy đều chẳng lìa khỏi nhất tâm của chúng ta. Giống như ban đêm chúng ta nằm mộng, mộng thấy ngồi phi cơ bay sang ngoại quốc, bất luận bay tới đâu đi nữa, [thân người nằm mộng] đều chẳng rời khỏi cái giường! Hư không dẫu to cách mấy, chẳng thể lìa khỏi cái tâm nằm mộng, thảy đều do tâm biến. Cùng một đạo lý giống như vậy, tận hư không khắp pháp giới, vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật, thảy đều do nhất tâm hiện ra. Vì thế, nếu tâm quý vị thanh tịnh, bất động, xác thực là linh minh đỗng triệt, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có gì quý vị không biết, thứ nào cũng đều rõ ràng!

Từ thế giới Sa Bà đến thế giới Cực Lạc, quý vị động một niệm muốn tới liền tới. Khoảng cách dẫu xa đến mấy, một niệm bèn đến. Vì sao? Khi trong tâm thanh tịnh chẳng có phân biệt, chấp trước, thưa cùng chư vị, chẳng có khoảng cách, không gian và thời gian đều chẳng có, đều là giả. Thời gian là quá khứ, hiện tại, vị lai, [xét theo không gian thì] không có bốn phương chính, bốn phương bàng, và trên dưới. Trong kinh luận Duy Thức, đức Phật nói những thứ ấy chẳng phải là thật. “Phương phần” (方分) là không gian, “thời phần” (時分) là thời gian, quy nạp lại, chúng (thời gian và không gian) sẽ thuộc vào hai mươi bốn món Bất Tương Ứng, chúng thuộc về Bất Tương Ứng Hành Pháp. Chúng chẳng phải là tâm pháp, chẳng tương ứng với tâm pháp, mà cũng chẳng phải là sắc pháp, cũng chẳng tương ứng với sắc pháp. Thảy đều chẳng tương ứng với tâm, tâm sở và sắc pháp. Nói theo cách hiện thời, chúng thuộc về khái niệm trừu tượng, chẳng phải là sự thật. Khi quý vị mê, trong tâm có phân biệt, chấp trước, [sẽ thấy] xác thực là có những chuyện như ba đời và mười phương. Nếu tâm địa thanh tịnh, lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, quyết định chẳng có những thứ ấy! Tâm, tâm sở pháp, sắc pháp là Y Tha Khởi Tánh, do các thứ duyên thành tựu, từ trong khá nhiều điều kiện mà sanh ra các pháp ấy. Còn Bất Tương Ứng Hành Pháp chẳng có, thuần túy thuộc về khái niệm trừu tượng. Nói theo Phật pháp, [Bất Tương Ứng Hành Pháp] là mê, là cảm nhận sai lầm, nẩy sanh từ cảm nhận sai lầm.

Nếu quý vị hiểu rõ chân tướng sự thật này, sẽ biết vì sao tận hư không khắp pháp giới trong một niệm bèn đến nơi. Nay chúng ta dùng tốc độ ánh sáng để nói, tốc độ của ánh sáng rất nhanh, một giây đi được ba mươi vạn cây số. Dùng tốc độ ánh sáng để từ thế giới Sa Bà đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ sợ cũng phải mất mấy vạn ức năm! Quý vị mới biết tốc độ của ánh sáng không lớn, quá nhỏ, chẳng có sức mạnh to như tâm lực! Do đó, tu học Phật pháp, quan trọng nhất là tu tâm, tu tâm thanh tịnh, chẳng để trong tâm có một vọng niệm tồn tại, công phu sẽ thành tựu. Hãy nên tu hành như thế nào? Thật thà niệm Phật. Thật thà là khi niệm Phật chẳng xen tạp vọng niệm; xen tạp vọng niệm là chẳng thật thà. Thật thà niệm Phật nhằm mục đích nào? Nhằm mục đích khôi phục Tánh Đức “linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng”, khôi phục bản năng của chính chúng ta. Mê mất bản năng, nói thật ra là sỉ nhục to lớn! Chúng ta vốn giống hệt mười phương chư Phật, cớ sao hiện thời biến thành nông nỗi này? Các Ngài đắc đại tự tại trong hư không pháp giới, hết thảy các pháp tùy tâm sở dục (thuận theo lòng mong muốn), nay chúng ta luân hồi trong lục đạo, vẫn phải trôi lăn trong ba ác đạo, đáng thẹn thay!

Chiều nay có một pháp sư trẻ tuổi từ Đài Trung đến gặp tôi, thầy ấy hiện thời muốn làm rất nhiều chuyện, đến hỏi tôi. Thầy ấy nghe băng thâu âm rất thích học Tịnh Độ, tôi khuyên thầy ấy: “Những chuyện to nhỏ thầy hãy đều buông xuống!” Tôi hỏi thầy ấy: “Thầy có nắm chắc sanh tử hay không? Sanh tử là chuyện lớn! Chẳng nắm chắc sanh tử, làm chi được nữa? Dẫu làm nhiều cách mấy, làm tốt đẹp đến mấy, sẽ là phước báo hữu lậu trong tam giới mà thôi, những gì thầy đang tu là tu phước báo! Hiện thời trong xã hội này, chúng ta thấy lắm kẻ làm quan lớn, giàu sụ, là do đời quá khứ đã tu phước. Nếu hiện thời thầy tu học theo kiểu đó, đời sau làm quan to, giàu sụ. Do làm quan to, giàu có, lại mê, hễ mê bèn tạo nghiệp. Đã tạo tội nghiệp, chết đi, tất nhiên đọa trong ba ác đạo”. Phật môn nói “tam thế oán” (nỗi oán ba đời), [tức là] đời thứ nhất tu phước, đời thứ hai hưởng phước, đời thứ ba đọa lạc, tam thế oán đấy nhé, chúng ta nhất định phải giác ngộ điều này. Cổ đức thường nói: “Chuyện tốt chẳng bằng vô sự”.

Nói là độ chúng sanh, nhưng chính mình vẫn chưa độ được, làm sao độ người khác cho nổi? Hôm nay, tôi bảo thầy ấy: “Thứ tự tu học của Tứ Hoằng Thệ Nguyện đã sắp xếp rành mạch, rõ ràng, xác thực là phải có đại nguyện độ chúng sanh. Đã nguyện rồi thì phải khởi hạnh, phải thật sự tu hành. Điều thứ nhất trong tu hành là phải đoạn phiền não. Sau khi đã đoạn phiền não thì mới có thể học pháp môn”. Thầy ấy cũng muốn mở Phật học viện, lỗi lạc thay! Tôi liền bảo thầy ấy: “Cũng có rất nhiều người khuyên tôi lập Phật học viện, tôi chẳng thể làm”. Thầy ấy hỏi: “Vì sao?” Tôi đáp: “Chẳng tìm được học trò”. Thầy ấy hỏi: “Chẳng phải là học trò rất đông ư? Thưa pháp sư, khi thầy mở Phật học viện, nhất định là học trò rất đông”. Tôi bảo: “Các Phật học viện khác thu nhận các trò ấy, chứ Phật học viện của tôi không nhận những trò ấy”. Thầy ấy hỏi: “Vì sao?” [Tôi đáp]: “Phiền não chưa đoạn!” Phiền não chưa đoạn thì tu hết thảy các pháp môn, sẽ như Thanh Lương đại sư đã nói rất hay: “Tăng trưởng tà kiến”. Chúng ta lập Phật học viện, thành tích ở chỗ nào? Thành tích là giúp học trò tăng trưởng tà kiến, vấn đề này khá nghiêm trọng, tôi phải gánh trách nhiệm nhân quả. Vì lẽ đó, chẳng thể [lập Phật học viện].

Vì sao tôi khuyên mọi người hãy thật thà niệm kinh Vô Lượng Thọ suốt ba năm, chẳng mong cầu hiểu nghĩa? Nhằm mục đích tu tâm thanh tịnh, khiến cho cái tâm định trong ba năm. Sau khi đã định, sẽ lại học này nọ, hiệu quả hoàn toàn khác hẳn. Quý vị dùng tâm thanh tịnh để đối diện hết thảy các pháp, thưa cùng chư vị, tăng trưởng trí huệ, trí huệ mới có thể hiện tiền. Chẳng đoạn phiền não, chẳng thể có trí huệ. Những thứ học được dẫu giỏi giang cách mấy, ngay cả Nho gia cũng nói, [chỉ là] cái học do ghi nhớ, hỏi han! Nho gia chẳng nói là “tà tri, tà kiến”, chỉ nói là cái học do ghi nhớ, hỏi han, ta ghi nhớ rất nhiều, nghe rất nhiều. “Ký vấn chi học, bất túc dĩ vi nhân sư dã” (Học vấn do hỏi han, ghi nhớ, chẳng đáng để làm thầy người khác), chẳng thể làm thầy người khác, chẳng thể dạy người khác. Vì thế, Phật pháp yêu cầu chúng ta: Tâm địa thanh tịnh bèn có thể sanh ra trí huệ. Nhất định phải là từ cái tâm thanh tịnh mà khai ngộ. Nhấn mạnh thể ngộ (lãnh hội, giải ngộ), không coi trọng ghi nhớ, hỏi han. Khi tôi theo học với thầy Lý tại Đài Trung, thầy Lý chẳng tán thành chuyện hỏi han, ghi nhớ, hễ nghe [giảng kinh, thuyết pháp] thì phải dùng tâm để nghe. Khi đó, tôi nghe giảng kinh, ghi bút ký; thầy không bằng lòng, bảo: “Anh ghi để làm gì? Quý ở chỗ có thể lãnh ngộ, có thể thấu hiểu, ngộ nhập, chẳng quý ở chỗ ghi nhớ những danh từ, thuật ngữ. Anh có thể lãnh ngộ, [những điều đã được nghe giảng] sẽ xác thực là những thứ của chính mình. Vì thế, dùng tâm cung kính để nghe, dùng tâm thanh tịnh để nghe, nghe kinh là nhập Định. Nghe một tiếng rưỡi thì một tiếng rưỡi ấy là nhập Định, tâm địa thanh tịnh, chẳng sanh một niệm. Nghe kinh như vậy dễ dàng khai ngộ, có ngộ xứ”. Nghe hiểu cũng được, mà không hiểu cũng thế. Hiểu là có ngộ xứ; không hiểu thì chính mình ở trong Định, Định chẳng khởi tác dụng. Vì thế nói là Định lẫn Huệ đều đạt được, hai đằng đều đạt được. Dấy vọng tưởng thì Định lẫn Huệ cùng mất, hai đằng đều lỡ làng, biến thành giống như giảng bài trong các trường học thông thường của thế gian.

Nói cách khác, hiện thời, quá nửa người học Phật có thái độ sai lầm, họ chẳng hiểu đạo lý này, chẳng biết Phật pháp và pháp thế gian khác nhau. Nói thật ra là chẳng giống với pháp thế gian trong hiện thời, chứ so với pháp thế gian vào thời cổ thì vẫn giống nhau. Tại Trung Quốc, vào thời cổ, Nho gia và Đạo gia cũng nói tới khai ngộ, thầy dạy học coi trọng ngộ tánh của trò. Huấn luyện trò bèn tuân theo phương cách học thuộc lòng. Trẻ nhỏ đọc sách, nhất là đối với Tiểu Học trong quá khứ tại Trung Quốc, hoàn toàn là học thuộc lòng, thầy chẳng giảng sách, tức là chẳng giảng giải, cứ đốc thúc lũ trẻ sao cho chúng có thể học thuộc, bắt chúng nó liên tục đọc thuộc lòng một trăm lần hoặc hai trăm lần. Đã là học thuộc lòng, vì sao còn phải học nhiều lần như vậy? Nói thật ra là khiến cho chúng nó chẳng dấy vọng tưởng. Nếu chúng nó chẳng học thuộc sách, sẽ suy nghĩ lung tung, muốn rong chơi. Từ nhỏ đã huấn luyện chúng nó giảm bớt vọng tưởng, tận hết sức giúp chúng nó giảm thiểu, khiến cho chúng nó khôi phục bản tánh. Trong các trước tác về Duy Thức, cư sĩ Đường Đại Viên đã nói rất cảm khái: “Từ thời Dân Quốc trở đi, cách dạy học sai lầm, Định lẫn Huệ thảy đều chẳng có”.

Đoạn này nói về cảnh giới Định Huệ viên mãn, Định là Huệ, Huệ là Định. Vì thế, hoàn toàn đột phá không gian và thời gian, toàn thể pháp giới biến thành một Thể, gọi là Nhất Chân pháp giới, đấy là cảnh giới sở chứng của chư Phật Như Lai. Tu học Phật pháp là mong mỏi chúng ta đều có thể đạt tới cảnh giới này, đó mới là thật sự học Phật. Chính mình học Phật có thọ dụng, chúng ta bèn giúp đỡ người khác. Giúp người khác thì quan trọng nhất là kiến lập tín tâm cho đại chúng, giúp họ có một thái độ tu học chánh xác, lại có thể cống hiến một phương pháp vô cùng tốt đẹp. Nếu họ có thể tiếp nhận, sẽ thành tựu nhanh chóng, đó là giáo học. Nhưng pháp môn này, nói thật ra là pháp khó tin nhất trong các pháp khó tin, là pháp khó tin tột bậc, nay chúng ta nói với người khác thái độ và phương pháp này, chưa chắc người ta đã tin tưởng! Vì sao họ chẳng tin? Họ thấy mỗi người đều đi theo con đường khác với những gì quý vị đã nói! Vừa mở đầu, [người khác] bèn thực hiện từ học rộng, nghe nhiều, [còn chúng ta bảo họ hãy chuyên nhất một bộ kinh, một pháp môn, huân tu dài lâu, họ sẽ băn khoăn]: “Quý vị bảo tôi thứ gì cũng đừng xem, nguy hiểm quá! Chỉ sợ là trong tương lai điều gì tôi cũng chẳng thể thành tựu!” Vì thế, nói thật với họ, họ chẳng tin tưởng. Nói lời giả dối, liền hợp ý ngay; họ tin giả, chứ không tin thật! Bởi thế, người hiện thời khó độ lắm! Nghe lừa, chẳng nghe khuyên; nhận giả, chẳng nhận thật! Rất khó! Có thể nghe lọt tai những lẽ thật, người ấy thật sự là đại thiện căn, đại phước đức, xác thực chẳng phải là một người bình phàm. Quả thật, kẻ bình phàm hết sức khó tiếp nhận. Vì lẽ đó, ở trong cảnh giới này, đột phá thời gian và không gian, nói “đột phá thời gian và không gian” chính là chẳng còn phân biệt, chấp trước.

“Nhi thật ư thử Sa Bà thế giới chúng sanh tâm trung, kết già phu tọa, nghiễm nhiên bất động” (Thật sự ở trong tâm của chúng sanh nơi thế giới Sa Bà này, ngồi kết già, nghiễm nhiên bất động), quý vị có lãnh hội ý nghĩa này hay không? A Di Đà Phật ở trong tự tánh của chúng ta, “ngồi kết già, nghiễm nhiên, bất động”. Vì Tây Phương Cực Lạc thế giới do tự tánh biến hiện, nên A Di Đà Phật cũng do tự tánh biến hiện. Ngài không ở trong tâm chúng sanh thì ở nơi đâu? Tận hư không khắp pháp giới do đâu mà có? Từ trong tâm chúng sanh biến hiện. “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tâm là Thể, thức là tác dụng. Không chỉ A Di Đà Phật là như thế, mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai có bao giờ chẳng phải [như vậy]? Chẳng có một vị nào là ngoại lệ!

Chư Phật, Bồ Tát là tác dụng nơi phần giác trong bản tánh của chúng ta, lục đạo phàm phu là tác dụng của phần mê trong tự tánh của chúng ta. Vì thế, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới toàn là do tự tánh biến hiện. Nếu chúng ta một niệm giác, quý vị sẽ thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới như như bất động. Phật chẳng động, cớ sao nay chúng ta thường động? Đức Phật ngồi kết già, nghiễm nhiên bất động, lục đạo chúng sanh cho đến chúng sanh trong địa ngục cũng là ngồi kết già, nghiễm nhiên bất động, chẳng có ngoại lệ! Trong khi chúng ta đang mê, thấy chư Phật Như Lai đều động. Đã mê thì một động, hết thảy đều động; bất động thì hết thảy đều bất động. Bất động là nhìn từ chỗ nào? Bất động nhìn từ Tánh Đức, Tánh Đức bất động. Động là nhìn từ chỗ nào? Động là sau khi mê mất Tánh Đức, thoạt nhìn dường như có động, thật ra vẫn là bất động. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật có nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Vốn đã thành Phật là nhìn từ Tánh Đức, Tánh Đức xác thực là vốn sẵn thanh tịnh, vốn chẳng có dao động, vốn trọn đủ, có thể sanh ra vạn pháp, là thật, vốn là như thế, tuyệt đối chẳng phải là khi mê liền mất đi. Tuy mê, vẫn chẳng mất, cho nên mới gọi là bản tánh, vĩnh viễn là như vậy.

Dẫu chúng ta đọa trong ba ác đạo, bản tánh vẫn là thanh tịnh, vẫn bất động. Ba ác đạo là ngạ quỷ đạo, súc sanh đạo, địa ngục đạo, bản thể của họ (chúng sanh trong ba ác đạo) vẫn là Chân Như bản tánh. Trong ác đạo, nhất là kinh Địa Tạng nói là “chịu khổ, chịu nạn”, thấy nỗi khổ to tát dường ấy thảy đều kinh hãi, rởn cả da gà, đó là chuyện như thế nào? Vọng thức, tức là vọng tâm. Vọng tâm là khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm chẳng phải là chân tâm, mà là vọng tâm! Chân tâm vốn bất động, vọng tâm động. Bất động là chân, động là vọng. Vọng thì đương nhiên có thể lìa khỏi, đương nhiên có thể trừ bỏ. Bất động là chân, đương nhiên có thể khôi phục. Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã nói rất hay: “Bổn Giác vốn có”. Linh minh đỗng triệt, trạm tịch thường hằng, đó là Bổn Giác vốn có. “Bất Giác vốn không”. Bất giác là vọng tâm, khởi tâm động niệm vốn là không, vốn chẳng có. Vốn chẳng có, đương nhiên có thể đoạn trừ. Vốn có, đương nhiên có thể khôi phục. Mấy câu này khiến cho người học Phật chúng ta kiến lập tín tâm thật sự.

Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư giảng về Tín, Nguyện, Hạnh, Ngài nói về Tín thì điều thứ nhất là tin vào chính mình. Điều này giúp chúng ta kiến lập tín tâm: Tin chính mình vốn đã thành Phật, tin chính mình trong một đời này quyết định có thể đoạn phiền não, quyết định có thể thành Phật đạo, chúng ta thật sự có thể buông vọng niệm xuống. Vì sao chúng ta không buông xuống được? Vì thời gian sử dụng vọng tưởng đã quá lâu, dùng đến nỗi trở thành thói quen, thói quen trở thành tự nhiên, mong buông xuống cũng chẳng thể buông xuống được! Nguyên nhân ở chỗ này. Đức Phật có phương tiện, phương tiện bậc nhất trong các phương tiện là dạy chúng ta niệm Phật. Vì thế, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn phương tiện, Niệm Phật là pháp môn bậc nhất, dùng phương pháp này có thể đoạn sạch sành sanh vọng niệm. Dùng theo cách nào? Niệm Phật, “ức Phật, niệm Phật, tịnh niệm tương kế” (nhớ Phật, niệm Phật, tịnh niệm tiếp nối), tám chữ trong kinh Lăng Nghiêm! Ức (憶) là nghĩ tưởng, hằng ngày ta nghĩ tới A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật. Pho tượng A Di Đà Phật này chúng ta tạc đích xác là trang nghiêm, nay chúng ta in ra, nhìn [hình in ra] còn trang nghiêm hơn, còn đẹp hơn tượng thật. Do vậy, có đồng tu phát tâm in thành những bức nhỏ như hình chụp để mọi người mang theo nơi thân, hễ rảnh rỗi bèn ngắm nhìn, tưởng A Di Đà Phật, đừng nghĩ tới ai khác! Nghĩ tới người khác, nghĩ tới chuyện khác, đều là tạo lục đạo luân hồi, đều là dấy vọng tưởng.

Ta nghĩ tới A Di Đà Phật, bèn niệm A Di Đà Phật, hết thảy những chuyện vướng mắc trong tâm thảy đều buông xuống, thay đổi chúng, đổi thành gì vậy? Đổi thành vấn vương A Di Đà Phật. Quý vị có thể tu như vậy, thưa cùng chư vị, chẳng cần nhiều, sáu tháng bèn thành công. Tất cả vọng niệm tối thiểu có thể trừ bỏ tám mươi phần trăm, tâm quý vị sẽ thanh tịnh. Nói cách khác, quý vị niệm Phật có thể đắc công phu thành phiến, chẳng cần rất lâu, trong thời gian nửa năm bèn có thể đạt đến công phu thành phiến, ba năm là có thể đạt đến nhất tâm bất loạn. Vấn đề là quý vị chẳng chịu làm, còn khăng khăng nghĩ tưởng người này, chuyện nọ, phiền toái to đùng! Nhất định phải đề cao cảnh giác đối với điều này. Nghĩ tưởng hết thảy người, hết thảy sự, phải nhớ: Toàn là tạo lục đạo luân hồi. Từ vô thỉ kiếp tới nay đã bị những chuyện ấy làm hại, bị chúng hại phải sanh tử luân hồi, vĩnh viễn chẳng thể xuất ly, [thế mà] vẫn chẳng giác ngộ, vẫn muốn làm chuyện này, sai mất rồi!

Vì thế, mọi người hãy nhất tâm nhất ý tưởng A Di Đà Phật, in hình A Di Đà Phật cho nhiều, in với số lượng lớn, thường đem theo người, lại còn có thể mang theo mấy tấm để biếu tặng người khác bất cứ lúc nào. Nếu người ta nghĩ tới quý vị, quý vị bảo họ: “Chẳng cần nhớ tới tôi, hãy tưởng A Di Đà Phật. Tưởng A Di Đà Phật thì trong tương lai chúng ta cùng đến Tây Phương, mới sẽ có thể vĩnh viễn ở cùng một chỗ!” Trừ điều này ra, muốn vĩnh viễn ở cùng một chỗ, thưa cùng chư vị, về căn bản là chẳng thể nào được! Nhất định là chẳng thể tránh khỏi sanh ly tử biệt. Sau khi đã chết, mỗi người bị nghiệp lực lôi đi luân hồi, lần sau gặp lại, đúng là vô lượng kiếp sau! Dẫu có gặp mặt, cũng chẳng nhận ra. Vì lẽ đó, há có gì tốt đẹp như nghĩ tưởng Phật? Thật sự mong mỏi chúng ta đừng bị chia lìa, vĩnh viễn ở chung với nhau, thế thì mọi người hãy đều nghĩ tưởng A Di Đà Phật sẽ là đúng. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, “ức Phật, niệm Phật” là pháp môn bậc nhất, vì hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, nghĩ thứ gì liền biến ra thứ đó. Mấy câu dưới đây ý nghĩa hết sức viên mãn, hết sức chân thật.

 

(Sao) Hà nãi bội trường sanh chi quyết, uổng tự thương vong.

()何乃佩長生之訣,枉自殤亡。

(Sao: Cớ sao lại đeo giữ bí quyết trường sanh, mà tự oan uổng chết yểu).

Nói đến vô lượng thọ. Mỗi người chúng ta vốn là vô lượng thọ, vô lượng thọ chẳng phải là do tu được. Mỗi người chúng ta vốn có vô lượng thọ. Vốn là vô lượng thọ, nay trở thành đoản mạng, quá oan uổng! Vì sao bị đoản mạng? Do suốt ngày dấy vọng tưởng. Vọng tưởng càng nhiều, thọ mạng càng ngắn. Nói thật ra, cái thân nghiệp báo của chúng ta cũng là như thế, vọng tưởng ít, thọ mạng sẽ dài, chẳng dễ gì già suy! Cổ nhân thường nói: “Ưu sầu khiến người ta già sọm”. Một người thường ưu lự, sẽ lão hóa rất nhanh! Người chẳng có ưu lự, chẳng dễ gì già đi. Chúng ta bỏ sạch hết thảy ưu lự, hết thảy phiền não, hết thảy vọng niệm, hết thảy vướng mắc, vọng tưởng, chấp trước, bèn khôi phục Tánh Đức, Tánh Đức vốn là vô lượng thọ.

Nói tới thọ mạng trong thế giới Tây Phương, mọi người quyết định đừng hoài nghi. Có người nói “rốt cuộc chỉ sợ thọ mạng ấy vẫn là có hạn lượng, bất quá là rất dài mà thôi, chúng ta chẳng có cách nào tính toán”. Quý vị xem đoạn này, [đã biết] thật sự là vô lượng thọ! Chẳng giả! Hai câu này nói về trường thọ, cũng là như chúng ta nói “bất sanh, bất diệt”, xác thực là bất sanh, bất diệt, Pháp Thân thường trụ! Pháp, Báo, Ứng ba thân một Thể, Pháp Thân bất sanh, bất diệt, Báo Thân và Ứng Thân cũng là bất sanh, bất diệt, chẳng có ý niệm tham sống sợ chết! Tham sống sợ chết là vọng niệm, vọng tưởng; lục đạo phàm phu sống trong vọng tưởng. Đó là chuyện rất khổ.

 

(Sao) Phụ cảo nhật chi minh, phiên thành hắc ám.

()負杲日之明,翻成黑暗。

(Sao: Được chiếu bởi ánh sáng mặt trời rạng rỡ, mà trở thành tối tăm).

Câu này nói về quang minh. Quang minh cũng là vốn có, tâm thanh tịnh khởi tác dụng là vô lượng quang, là vô lượng trí huệ. Hiện thời chẳng có trí huệ, biến thành vô minh. “Hắc ám” là vô minh, nay vô lượng quang minh biến thành vô minh, biến như thế nào? Chẳng phải do người khác biến đổi quý vị, mà do chính quý vị tự biến, vẫn là do vọng tưởng, chấp trước biến ra. Có vọng tưởng, chấp trước, vô lượng trí huệ quang minh liền mất đi, hiển hiện thành vô minh, tà kiến. Do vậy có thể biết, nếu xóa trừ vọng tưởng và chấp trước, vô minh liền biến thành quang minh, tà kiến liền biến thành trí huệ.

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, trí huệ là vô lượng quang, đức tướng là vô lượng thọ, “chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”. Câu này đã chỉ ra gốc bệnh của chúng ta. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, chư vị hãy suy nghĩ, trong pháp môn nhiều ngần ấy, pháp môn nào vô cùng hữu hiệu, có thể phá tan vọng tưởng, chấp trước, pháp môn ấy sẽ là pháp môn thù thắng nhất. Qua sự thể nghiệm tu học các pháp môn, cổ đức đã đạt đến một kết luận: “Niệm kinh không bằng niệm chú, niệm chú không bằng niệm Phật”. Vì sao? Kinh quá dài, chú ngắn hơn kinh, nhưng vẫn dài hơn Phật hiệu. Một câu A Di Đà Phật đơn giản, dễ dàng, ức niệm thuận tiện.

Vì thế, đối với tượng Phật trang nghiêm này, tôi đề nghị các đồng tu hãy thỉnh nhiều bức về nhà, treo ở chỗ dễ thấy nơi mỗi phòng trong nhà, bất luận đi đến đâu, mắt ta đều thấy tượng Phật, thường ở cùng một chỗ với Phật, thời thời khắc khắc chẳng lìa Phật, như vậy là đúng. Thật sự làm được “ức Phật, niệm Phật”, thật sự làm được “tịnh niệm tiếp nối”, đó là chuyển vô minh thành bổn minh (cái vốn sáng suốt), chuyển tà kiến thành trí huệ, khôi phục vô lượng quang, vô lượng thọ mà chúng ta vốn có. Vô lượng quang, vô lượng thọ chẳng đến từ bên ngoài, cũng chẳng phải là do tu được. Tu được thì nói thật thà: [Cái tu được ấy] còn có thể dài hay ngắn, vẫn chưa chắc là thật! Do nó vốn trọn đủ trong Tánh Đức, nên chẳng thể nói là dài hay ngắn!

 

(Sao) Tâm bổn thị Phật, tự muội tự tâm; Phật bổn thị tâm, tự mê tự Phật.

()心本是佛,自昧自心;佛本是心,自迷自佛。

(Sao: Tâm vốn là Phật, tự mê muội tự tâm, Phật vốn là tâm, tự mê muội vị Phật của chính mình).

Hai câu này thật sự nói thấu triệt, nói tới chỗ cùng tột! Sở dĩ phàm phu biến thành phàm phu là do tự mê muội tự tâm, nên tự mê muội vị Phật của chính mình. Do đó, Phật pháp dạy chúng ta phá mê khai ngộ. Mê là tâm, cho nên phải đổ công dốc sức nơi tâm địa, chớ nên đổ công dốc sức nơi văn tự, chớ nên đổ công dốc sức ngoài tâm. Đổ công dốc sức ngoài tâm, vĩnh viễn chẳng thể đắc lực. Nói cách khác, đổ công dốc sức ngoài tâm sẽ vĩnh viễn chẳng có liên can chi hết, cổ nhân ví von: “Gãi ngứa ngoài giày”, gãi chẳng được! Nhất định phải là đổ công dốc sức nơi tâm địa, cầu tâm bất muội, cầu tâm không mê. Ức Phật, niệm Phật là tâm bất muội, không mê, trọng yếu lắm! Chúng tôi cũng học Phật chẳng ít năm. Trong tất cả các pháp môn, chúng tôi thí nghiệm, xác thực là pháp môn Niệm Phật dễ dàng đắc lực. Bởi lẽ đó, mười phương ba đời hết thảy chư Phật, Bồ Tát đề xướng pháp môn này là có lý! Nói những pháp môn khác là do cơ duyên đặc biệt mà nói. Đề xướng pháp môn Niệm Phật, có thể nói là mười phương chư Phật, Bồ Tát chẳng tiếc sức thừa, tận tâm tận lực, mạnh mẽ đề xướng, chúng ta hãy nên thấu hiểu điều này. Vô lượng thọ và vô lượng quang giảng đến đây là hết một đoạn. Lại xem phần kinh văn tiếp theo.

 

Nhị, đạo thành viễn kiếp.

(Kinh) Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp.

二道成遠劫。

()舍利弗。阿彌陀佛成佛以來。於今十劫。

(Hai, thành đạo từ nhiều kiếp lâu xa.

Kinh: Này Xá Lợi Phất! A Di Đà Phật từ lúc thành Phật cho đến nay đã là mười kiếp).

Chúng ta xem phần chú giải của Liên Trì đại sư.

 

(Sớ) Dĩ tri bỉ Phật đắc danh chi nghĩa.

()已知彼佛得名之義。

(Sớ: Đã biết ý nghĩa vì sao đức Phật ấy có danh hiệu như thế).

Danh hiệu này có nghĩa là vô lượng; trong vô lượng, đặc biệt lấy vô lượng thọ và vô lượng quang để biểu thị. Đó là ý nghĩa được bao hàm trong danh hiệu A Di Đà Phật.

 

(Sớ) Vị thẩm bỉ Phật thành Phật chí kim.

()未審彼佛成佛至今。

(Sớ: Chưa rõ đức Phật ấy từ khi thành Phật tới nay).

Lại tiến hơn bước nữa, chẳng biết A Di Đà Phật từ lúc thành Phật cho đến hiện thời đã là bao lâu? Bọn phàm phu chúng ta vọng tưởng, phân biệt, chấp trước luôn thắc mắc.

 

(Sớ) Kinh kỷ hà thời.

()經幾何時。

(Sớ: Đã được bao lâu).

Trải qua bao lâu?

 

(Sớ) Kiếp giả, cụ vân Kiếp Ba.

()劫者,具云劫波。

(Sớ: Kiếp, nói đầy đủ là Kiếp Ba).

Kiếp Ba (Kalpa) là tiếng Phạn. Người Hoa thích đơn giản, thường tỉnh lược âm cuối. Trung Quốc từ xưa tới nay, bất luận là ngôn ngữ hay văn chương, đòi hỏi phải “giản yếu tường minh”, tức là đơn giản, nêu lên những điểm trọng yếu, tường tận, và rõ ràng.

 

(Sớ) Thử vân Thời Phần.

()此云時分。

(Sớ: Cõi này dịch là Thời Phần).

Ý nghĩa của Thời Phần là như hiện thời chúng ta nói “thời gian”.

 

(Sớ) Thập kiếp giả.

()十劫者。

(Sớ: Mười kiếp).

Kiếp Ba là đơn vị thời gian, là một đơn vị số lượng rất lớn. Chúng ta nói ngày, tháng, năm, nhưng Kiếp còn lớn hơn rất nhiều. Tại Ấn Độ có đại kiếp, trung kiếp, và tiểu kiếp. Rốt cuộc [Kiếp ở đây] là đại kiếp hay tiểu kiếp, kinh văn chẳng nói rõ.

 

(Sớ) Nhất vân đại kiếp, nhất vân tiểu kiếp.

()一云大劫,一云小劫。

(Sớ: Có thuyết nói là đại kiếp, thuyết khác là tiểu kiếp).

Có người nói là đại kiếp, cũng có người nói là tiểu kiếp.

 

(Sớ) Kim vị minh viễn, ưng thị đại kiếp.

()今謂明遠,應是大劫。

(Sớ: Nay nói rõ là lâu xa, phải nên là đại kiếp).

Đây là ý kiến của Liên Trì đại sư, phải là đại kiếp thì mới hợp lý. Đức Phật đã thành Phật, cách hiện tại một thời gian khá xa xôi. Kiếp tính toán theo cách nào?

 

(Sao) Nhất đại kiếp giả, Thành, Trụ, Hoại, Không, các nhị thập tiểu kiếp, bát thập kiếp chung, phương thành đại kiếp.

()一大劫者,成住壞空各二十小劫,八十劫終,方成大劫。

(Sao: Một đại kiếp là các thời kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không, mỗi thời kỳ là hai mươi tiểu kiếp, đã hết tám mươi [tiểu] kiếp mới thành một đại kiếp).

Một đại kiếp gồm có bốn trung kiếp là Thành, Trụ, Hoại, Không. Một trung kiếp gồm hai mươi tiểu kiếp. Một đại kiếp có tất cả tám mươi tiểu kiếp.

 

(Sao) Vân thập đại kiếp, thị bát bách tiểu kiếp dã. Kinh ý vi minh thành Phật cửu viễn, nhi viết tiểu kiếp vị kiến kỳ viễn.

()云十大劫,是八百小劫也。經意為明成佛久遠,而曰小劫未見其遠。

(Sao: Nói mười đại kiếp tức là tám trăm tiểu kiếp. Ý kinh nhằm nói rõ Ngài đã thành Phật lâu xa, nếu nói là tiểu kiếp thì chẳng xa xưa cho mấy).

 Nếu là tiểu kiếp, A Di Đà Phật thành Phật cách hiện thời chẳng được coi là xa lắm. Nếu là đại kiếp thì khá xa.

 

(Sao) Kim y Đường dịch, vân thập đại kiếp.

()今依唐譯,云十大劫。

(Sao: Nay dựa theo bản dịch đời Đường, [trong ấy] nói là mười đại kiếp).

“Đường dịch” là bản dịch của Huyền Trang đại sư. Bản dịch của Huyền Trang đại sư là trực dịch, [tức là] chiếu theo nguyên văn mà dịch trực tiếp, khá đáng tin cậy. Ngài dịch là “mười đại kiếp”, La Thập đại sư dịch là “mười kiếp”, chẳng nói là đại kiếp hay tiểu kiếp. Liên Trì đại sư nhận định là mười đại kiếp cũng có căn cứ, vì bản dịch của Huyền Trang đại sư viết như vậy.

Một tiểu kiếp dài cỡ nào? Kinh Phật có tới mấy cách nói. Thường nói đến nhất là “tăng giảm kiếp”. Đức Phật dạy, thọ mạng của con người trong thế giới này khi dài nhất là tám vạn bốn ngàn năm. Từ tám vạn bốn ngàn năm, cứ mỗi trăm năm bèn giảm một tuổi, giảm đến mười tuổi là lúc con người có thọ mạng ngắn nhất. Lại từ mười tuổi, mỗi trăm năm tăng thêm một tuổi, lại tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi, [thời gian hết một chu kỳ] một tăng một giảm ấy là một tiểu kiếp. Khi Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên thế gian, con người thọ một trăm tuổi, nhằm vào thời giảm kiếp, cứ một trăm năm giảm một tuổi. Thích Ca Mâu Ni Phật cách hiện thời ba ngàn năm, nên [thọ mạng của nhân loại đã] giảm bớt ba mươi năm. Tuổi thọ bình quân của nhân loại hiện thời là bảy mươi tuổi.

Ngoài ra, còn có mấy cách nói khác, đều hình dung [thời gian] rất dài, nhưng cũng rất khó hiểu. Trong quá khứ, trong Phật Học Giảng Tòa, thầy Lý có nói một con số, đương nhiên là thầy cũng có căn cứ. Có thể tra cứu Pháp Uyển Châu Lâm hoặc Kinh Luật Dị Tướng, đó là những bộ bách khoa toàn thư trong nhà Phật. Thầy có một cách tính rất đơn giản, dựa theo cách đếm số của Trung Hoa, lấy Triệu làm đơn vị, vạn vạn là một Ức, vạn Ức là một Triệu[39]. Một ngàn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn triệu (tám chữ vạn), con số ấy mới là một A-tăng-kỳ. Chúng ta nói thành Phật theo A-tăng-kỳ kiếp, dẫu là tiểu kiếp, thời gian cũng chẳng thể nghĩ bàn! Nếu tính bằng đại kiếp, thời gian càng chẳng thể nghĩ bàn, phải lớn hơn tám mươi lần. Có thể thấy thời gian tu học vô cùng lâu xa!

Tây Phương Cực Lạc thế giới thọ mạng là vô lượng kiếp, A Di Đà Phật thành Phật mới mười kiếp. Dùng vô lượng kiếp để xem mười kiếp, thật giống như người thế gian chúng ta thọ trăm tuổi, nay Ngài thành lập [cõi Cực Lạc] đã bao lâu? Đại khái chẳng hơn mười phút! Có thể nói là thế giới Cực Lạc mới khai mạc chưa đầy vài bữa! Ở đây, đức Phật khuyến khích chúng ta, nay chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ là thời gian tốt nhất, vì sao? Ngài mới “khai trương” một vài ngày, nếu chúng ta vãng sanh, trong tương lai đến thế giới Cực Lạc đều mang thân phận nguyên lão. A Di Đà Phật thành Phật mười kiếp, chúng ta đã đến, cơ duyên ấy khó có. Vì thế, ngàn muôn phần đừng lỡ làng. Hễ lỡ làng, nếu đời sau lại gặp pháp môn này, chẳng biết là đã trải qua bao nhiêu kiếp! Nếu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật thành Phật đã rất nhiều kiếp, chẳng phải là mười kiếp, khác hẳn. Đoạn kế tiếp nói rất hay:

 

(Sớ) Hựu thập đại kiếp, diệc thị nhất kỳ phó cơ chi thuyết. Cứu cực nhi ngôn, thành Phật dĩ lai, diệc ưng vô lượng, như Pháp Hoa trung thuyết.

()又十大劫,亦是一期赴機之。究極而言,成佛以來,亦應無量,如法華中

(Sớ: Lại nữa, “mười đại kiếp” cũng là nói theo một khoảng thời gian của sự cảm ứng thuận theo căn cơ. Nói đến mức rốt ráo, cũng phải là vô lượng, như trong kinh Pháp Hoa đã nói).

“Nhất kỳ chi thuyết” là chuyện như thế nào? Ví như hiện thời nhà trường mỗi năm đều phải chiêu sinh, hằng năm đều có học trò tốt nghiệp, đó là từng khóa một. “Nhất kỳ” nói đúng ra là từng khóa một, chẳng phải là nói kể từ khi trường học được thành lập tới nay. Nếu xét theo Tây Phương Cực Lạc thế giới từ khởi đầu cho tới nay, thế giới ấy lâu xa, đó là vô lượng vô lượng kiếp. A Di Đà Phật thành Phật tới nay “ư kim thập kiếp”, đó là nói theo kiếp hiện tiền. Trong quá khứ vô lượng kiếp, trong tương lai vẫn là vô lượng kiếp, nói theo giai đoạn trước mắt là mười kiếp. Thời gian ấy chẳng dài, kinh Pháp Hoa có chứng cứ.

 

(Sao) Như Pháp Hoa trung, chúng nghi Thế Tôn thành Phật vị cửu, vân hà khoáng kiếp Bồ Tát thị sở giáo hóa.

()如法華中,眾疑世尊成佛未久,云何曠劫菩薩是所教化。

 (Sao: Như trong kinh Pháp Hoa, đại chúng nghi Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu như thế, làm sao Ngài có thể giáo hóa hàng Bồ Tát trong nhiều kiếp lâu xa?)

Trong hội Pháp Hoa, có kẻ hoài nghi: Có rất nhiều Bồ Tát hoặc Đại Bồ Tát từ mười phương thế giới hiện đến, đều là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật chưa bao lâu, Ngài thị hiện thành đạo lúc ba mươi tuổi, thuyết pháp bốn mươi chín năm, thành Phật không lâu, vì sao hàng đại Bồ Tát nhiều dường ấy đều là học trò của Ngài? Khi đó, đức Phật mới nêu bày lời thật.

 

(Sao) Phật ngôn: “Ngã thật thành Phật dĩ lai, vô lượng vô biên kiếp”.

()佛言:我實成佛以來,無量無邊劫。

(Sao: Đức Phật nói: “Kể từ khi ta thật sự thành Phật đến nay, đã là vô lượng vô biên kiếp”).

Điều này được nói trong phẩm Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng đã thành Phật từ kiếp xa xôi, đây là thị hiện mà thôi!

 

(Sao) Tắc A Di Đà Phật, kỳ khả lượng hồ?

()則阿彌陀佛,其可量乎。

(Sao: Như vậy thì [thọ mạng của] A Di Đà Phật có thể tính lường được sao?)

Do vậy có thể biết, lẽ nào A Di Đà Phật chẳng phải là đã thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa, nay Ngài ngự trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là một lần thị hiện; vì thế, có ý nghĩa tương đồng. Thọ mạng xác thực là vô lượng vô biên. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.