A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 8 – Tập 225-232

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 8 – Tập 225-232

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 225

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm bốn mươi hai:

 

(Sao) Nhiếp danh trung giả nhị nghĩa: Nhất giả, danh tất hữu tướng cố. Nhị giả, danh tướng giai bất ly nhất tâm cố. Tắc nhất cử Phật danh, chánh báo y báo nhiếp vô bất tận, hà nghi sắc tượng?

()攝名中者二義,一者名必有相故,二者名相皆不離一心故。則一舉佛名,正報依報攝無不盡,何疑色像。

(Sao: Nói “bao gồm trong danh hiệu” là có hai nghĩa: Một là danh ắt có tướng; hai là danh và tướng đều chẳng lìa nhất tâm. Vì thế, vừa nêu lên danh hiệu Phật, chánh báo và y báo đều được thâu nhiếp, không gì chẳng trọn hết, sao lại nghi ngờ hình sắc [chẳng được nhiếp trong danh hiệu Phật]?)

Đoạn này nhằm giải thích một câu trong lời Sớ: “Như Văn Thù Bát Nhã, cập Tỳ Bà Sa luận trung thuyết, dĩ sắc tượng đẳng nhiếp danh trung cố” (Như kinh Văn Thù Bát Nhã và Tỳ Bà Sa Luận đã nói: “Các thứ như hình sắc v.v… được thâu nhiếp trong danh hiệu”). Câu này [ý nói]: Được thâu nhiếp trong danh hiệu như thế nào? Các hình sắc đều được thâu nhiếp trong danh hiệu. Nói cách khác, đều được bao hàm trong danh hiệu [A Di Đà Phật]. Liên Trì đại sư dùng hai ý nghĩa để giải thích:

1) Thứ nhất là “danh tất hữu tướng” (danh ắt có tướng). Danh tuy là giả danh, nhưng vì có tướng, nên mới kiến lập danh hiệu. Dẫu chẳng có tướng trạng ấy, ví như kinh có nói “quy mao, thố giác” (lông rùa, sừng thỏ), chắc chắn là chẳng có “quy mao, thố giác”, con thỏ nào có sừng? Con rùa đen nào có lông? Chúng ta suy nghĩ danh từ ấy, có phải cũng là “hễ có danh, ắt phải có tướng” hay chăng? Giả sử chẳng có rùa, quý vị sẽ chẳng thể nghĩ ra chuyện “rùa có thể mọc lông” được! Tuy rùa đen chẳng có lông, nhưng rùa chính là có tướng, lông cũng là có tướng. Trên thân rùa chẳng có lông, quý vị nói “nó có lông”, vẫn là [danh từ] được kiến lập theo tướng. Ngay cả loại danh hiệu hoàn toàn hư vô, mờ mịt ấy, vẫn chẳng lìa khỏi tướng trạng, có thể thấy: Danh xác thực là có tướng, huống hồ nó là do tướng mà lập danh. Do vậy, danh nhất định tương ứng với Thể và Tướng. Đó là ý nghĩa thứ nhất.

2) Ý nghĩa thứ hai càng sâu hơn: “Danh tướng giai bất ly nhất tâm” (Danh lẫn tướng đều chẳng lìa khỏi nhất tâm). Tâm là có thể hiện (năng hiện). Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy vạn pháp, duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tâm và thức là cùng một thứ. Tâm là Thể của thức, thức là tác dụng của tâm. Chúng ta nói tới tâm hay thức là nói đến Thể và tác dụng của cùng một thứ. Nói theo Thể bèn gọi là Tâm. Xét theo tác dụng, chúng ta gọi nó là Thức. Sâm la vạn tượng trong thế gian và xuất thế gian, đều chẳng lìa khỏi nhất tâm.

Danh hiệu “A Di Đà Phật” là danh hiệu của bản thể tâm tánh. Vừa xưng danh hiệu này, có thể nói là tác dụng của tâm thể hoàn toàn được thâu nhiếp trong ấy. Niệm Phật mà biết niệm và không biết niệm sai biệt rất lớn. Người biết niệm, niệm nào cũng đều tương ứng, tương ứng với gì? Tương ứng với bản thể của tự tánh, tương ứng với Thể và Dụng của nhất tâm. Tương ứng thì gọi là “thành Phật”. Vì thế, “một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Trạng huống tương ứng là như thế nào? Trong tâm tánh chẳng lập một pháp, chẳng có bất cứ gì; đó là tâm tánh. Tâm tánh thanh tịnh, thứ gì cũng đều chẳng có. Lục Tổ nói rất hay: “Vốn chẳng có một vật”; đúng như vậy đó, vật gì cũng đều chẳng có, đó chính là bản thể của nó. Khi chúng ta niệm câu Phật hiệu này, câu Phật hiệu này rành mạch, rõ ràng, trong tâm chẳng có một vọng niệm nào, chẳng lập một pháp; khi ấy, xác thực là tâm giống như thái hư không, lượng trọn khắp các cõi với số lượng nhiều như cát, tương ứng với Thể. Đồng thời, trong một câu Phật hiệu ấy, thân thể của chúng ta tương ứng với hết thảy các cõi nước của chư Phật trong tận hư không khắp pháp giới và y báo lẫn chánh báo trang nghiêm trong ấy. Đó là tác dụng tương ứng của nhất tâm. Đó là “biết niệm”, công đức và lợi ích của việc niệm Phật sẽ là vô lượng vô biên, hết thảy chư Phật, Bồ Tát tán thán chẳng cùng tận. Thật đấy, chẳng giả tí nào!

Niệm Phật, khá nhiều kẻ niệm chẳng tương ứng. Nguyên nhân khiến cho chẳng tương ứng là ở chỗ nào? Nói thật ra, là do nghiệp chướng quá nặng. Nghiệp chướng là gì? Hễ câu Phật hiệu chẳng thể tương ứng với Thể và Dụng của nhất tâm, chướng ngại ấy được gọi là “nghiệp chướng”. Chướng ngại ấy ngăn trở, khiến cho quý vị chẳng thể tương ứng. Nếu trừ khử chướng ngại ấy, há có lẽ nào chẳng tương ứng? Tương ứng thì mới thật sự thọ dụng. Trong Đại Kinh có nói “trụ chân thật huệ, chân thật tế, chân thật lợi”, ba thứ chân thật ấy thảy đều đạt được. Do vậy, chúng ta phải biết niệm. Nếu nói tương phản, nếu nói rõ ràng hơn một chút: Vì sao chẳng biết niệm? Vì ý niệm tự tư tự lợi quá nặng, chẳng buông xuống thị phi, nhân ngã, đó là đại chướng ngại. Chư vị phải hiểu: Thị phi, nhân ngã, tự tư tự lợi thuần là vọng tưởng, chẳng chân thật. Vì sao nói chúng là chẳng chân thật? Nếu chư vị chú tâm lãnh hội, quan sát, [sẽ thấy] trong hết thảy các pháp, xác thực là chẳng có Ngã. Hết thảy chúng sanh đều coi thân thể của chính mình là Ngã. Thân thể chúng ta biến hóa trong từng sát-na, các tế bào thay cũ đổi mới. Chúng ta từ lúc bước vào Phật đường này, sau một tiếng rưỡi lại đi ra, chẳng biết bao nhiêu tế bào trong thân thể đã chết, cũng chẳng biết bao nhiêu [tế bào mới] được sanh ra! Thay cũ đổi mới mà! Y học hiện tại đã chứng minh, bảy năm là một chu kỳ, các tế bào cũ hoàn toàn chẳng còn nữa, sau bảy năm [các tế bào trên thân] đều đổi mới. Nếu quý vị coi thân thể này là Ngã, cái Ngã bảy năm trước chẳng còn vì các tế bào cũ trên thân chẳng còn một tế bào nào! Lại qua bảy năm sau, cũng tìm chẳng ra một tế bào nào nơi thân hiện tại; rốt cuộc, Ngã là gì? Ngã còn chẳng thể được, lấy đâu ra cái được sở hữu bởi ta (ngã sở hữu)? Vật ngoài thân [mà nghĩ] là thứ sở hữu của ta, giả trất! Có Ngã, ngã sở (cái của ta), đó chính là vọng tưởng, là chấp trước.

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói rất rõ ràng: Chúng ta chẳng thể minh tâm kiến tánh, chẳng thể tương ứng với Thể và Dụng của nhất tâm là vì “vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc”. Nếu chúng ta hỏi: Học Phật là học gì? Chính là trừ sạch vọng tưởng, chấp trước, khiến cho chính mình tương ứng viên mãn với Thể và Dụng của nhất tâm; đó gọi là học Phật. Đối với các chấp trước và vọng tưởng trước mắt, quý vị hãy còn chấp trước kiên cố như vậy, chẳng chịu buông xuống; đó chẳng phải là học Phật. Học Phật kiểu đó tức là đã hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa Phật pháp. Chúng ta biết chân tướng sự thật này, đối với việc chấp trì danh hiệu sẽ chẳng hoài nghi. Thông thường, nói đến niệm Phật, muốn niệm câu Phật hiệu cho tốt đẹp, thứ nhất là đừng hoài nghi, thứ hai là đừng xen tạp, thứ ba là chẳng gián đoạn. Quý vị có thể làm được chín chữ ấy (“đừng hoài nghi, đừng xen tạp, đừng gián đoạn”), trong một đời này, quyết định là thượng thượng phẩm vãng sanh.

Tổ sư đại đức chú giải kinh điển cặn kẽ và minh bạch như thế, nhằm mục đích gì? Nhằm mục đích khiến cho chúng ta đoạn nghi sanh tín. Chẳng thể không đọc và không nghe kinh, chớ nên không chú tâm lãnh hội. Nguyên nhân ở chỗ nào? Quý vị chẳng nghiêm túc thấu hiểu, tham cứu, sẽ chẳng thể đoạn nghi hoặc! Chẳng thể đoạn nghi hoặc, chắc chắn là chẳng thể vứt bỏ vọng tưởng và chấp trước được, dẫu niệm Phật suốt một đời, cũng chưa chắc có thể vãng sanh. Điều này cũng cho thấy: Chướng ngại kẻ khác lãnh hội, tham cứu kinh giáo, chính là đoạn Pháp Thân huệ mạng của người ta. Đoạn thân mạng của kẻ khác, quý vị giết chết người ấy, tội ấy chẳng lớn, tối đa là đời sau đền cho người ấy một mạng mà thôi! Đoạn Pháp Thân huệ mạng của người ấy, tội ấy đáng sợ lắm, chính là quả báo địa ngục.

 

(Sớ) Kim nhân văn Phật bất khẳng chấp trì giả, ước hữu tứ chướng. Tứ chướng phá trừ, phương năng chấp trì, nãi chí nhất tâm cố.

()今人聞佛不肯執持者,約有四障,四障破除,方能執持,乃至一心故。

(Sớ: “Người thời nay nghe nói tới [danh hiệu] Phật, chẳng chịu chấp trì”: Nói đại lược thì có bốn chướng. Phá trừ bốn chướng thì mới có thể chấp trì, cho đến [đạt được] nhất tâm).

Đại sư nói: Thông thường, chúng ta chẳng thể tiếp nhận pháp môn Niệm Phật, chẳng thể khăng khăng một lòng y giáo phụng hành, [xét đến nguyên nhân], quy nạp lại bèn có bốn loại chướng ngại lớn.

 

(Sao) Chướng giả, giá dã.

()障者,遮也。

(Sao: Chướng là ngăn che).

“Giá” (遮) là chướng ngại.

 

(Sao) Dĩ thử tứ chủng, giá chướng niệm tâm.

()以此四種,遮障念心。

(Sao: Do bốn loại ấy, ngăn che, trở ngại cái tâm niệm Phật).

Chướng ngại tâm niệm Phật, không chịu niệm Phật.

 

(Sao) Bất khẳng chấp trì, cố tu phá trừ.

()不肯執持,故須破除。

(Sao: Chẳng chịu chấp trì, vì thế, cần phải phá trừ).

Nhất định phải bài trừ bốn loại chướng ngại lớn ấy.

 

(Sao) Tứ chướng giả, nhất vị tức tâm thị Phật, hà tất xả kỷ niệm bỉ.

()四障者,一謂即心是佛,何必捨己念彼。

(Sao: “Bốn chướng”: Một là nói “tâm chính là Phật, cần gì phải bỏ vị Phật của chính mình để niệm vị Phật khác”).

Nói thật thà, bốn loại [chướng ngại] ấy đều do người học Phật học [đến nỗi] trở thành chấp trước. Đó là cái thường gọi là “tiên nhập vi chủ, môn hộ chi kiến” (điều gì được tiếp xúc đầu tiên bèn trở thành chánh yếu, tri kiến chấp trước môn hộ, tông phái). Quả thật, trong hết thảy các kinh Đại Thừa có cách nói như vậy: “Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm”. Đã là “tâm chính là Phật”, ta niệm cái tâm của chính mình là được rồi, cần gì phải niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật? Chẳng cần niệm Phật. Trên thực tế, họ chẳng biết: Phật là tâm, niệm Phật là niệm tự tâm, niệm tự tâm là niệm A Di Đà Phật. Họ chẳng hiểu chân tướng sự thật này, nên nẩy sanh hiểu lầm.

 

(Sao) Bất tri tức Phật thị tâm, bất phương niệm Phật cố. Lương diêu tức tâm thị Phật, khởi bất tức Phật thị tâm, đản chấp niệm tâm, bất hứa niệm Phật. Tắc tâm Phật thị nhị, Tức nghĩa bất thành.

()不知即佛是心,不妨念佛故。良繇即心是佛,豈不即佛是心,但執念心,不許念佛,則心佛是二,即義不成。

(Sao: Chẳng biết Phật chính là tâm, nên chẳng trở ngại niệm Phật. Ấy là vì tâm đã chính là Phật, há chẳng phải Phật chính là tâm ư? Chỉ chấp vào niệm tâm, chẳng chấp thuận niệm Phật. [Do sự chấp trước ấy] tâm và Phật là hai, nên cái nghĩa “tức” (tâm tức là Phật, Phật tức là tâm) chẳng thành).

Ý nghĩa “tức” nói chẳng suông được!

 

(Sao) Thị dĩ niệm Phật, niệm tâm, lưỡng bất ngại cố.

()是以念佛念心,兩不礙故。

(Sao: Do vậy, niệm Phật và niệm tâm, hai đằng chẳng trở ngại nhau).

Không chỉ là chẳng trở ngại, chúng xác thực là cùng một chuyện. Tâm là Phật, Phật là tâm, niệm Phật là niệm tâm; niệm tâm thì mới thật sự niệm Phật. Nếu chư vị nghe nhiều hơn, rắc rối còn to hơn. Tâm chính là Phật, vậy thì tâm này có phải là Bồ Tát hay không? Tâm này có phải là Thanh Văn hay không? Tâm này có phải là tham, sân, si hay không? Đều là! Nói cách khác, hằng ngày ta tham thì cũng là niệm Phật, cũng là niệm tâm, chẳng sai tí nào! “Hết thảy vạn pháp chỉ do tâm hiện, chỉ do thức biến”, có pháp nào chẳng phải là tâm? Thảy đều là tâm. Đã đều là tâm, vì sao ta phải niệm Phật? Ta thích ăn thì hằng ngày nghĩ tới ăn không được sao? Ăn cũng là tâm biến hiện. Ta thích chưng diện quần áo, quần áo cũng do tâm biến, hằng ngày ta nghĩ tới quần áo cũng chẳng phải là niệm tâm đó sao? Nói theo Lý, chẳng sai tí nào! Nhưng chư vị phải hiểu, tâm có giác và mê. Nói theo giác hay mê: Thuần giác, rốt ráo giác, viên mãn giác là Phật. Niệm Phật là niệm tánh giác viên mãn của chính mình. Hằng ngày nghĩ tới cái ăn, cái mặc, nghĩ tới danh vọng, lợi dưỡng, nghĩ tới tham, sân, si, mạn, đó là cái tâm mê hoặc, điên đảo. Như vậy thì mới biết vì sao đức Phật dạy chúng ta niệm Phật, chẳng bảo chúng ta niệm từ Bồ Tát trở xuống. Chúng ta phải giác, phải đạt đến cứu cánh giác, phải là viên mãn giác, mong đạt đến mục tiêu ấy thì chỉ có niệm Phật. Trong hết thảy chư Phật, A Di Đà Phật là bậc nhất! Vì sao A Di Đà Phật là bậc nhất? Trong giảng đường, chúng tôi đã nói quá nhiều, ở đây, không cần rườm lời nữa, phải nhận thức rõ ràng điều này, sau đấy đọc kinh, hoặc nghe pháp sư đại đức khác giảng diễn, tín niệm của chính mình mới chẳng bị dao động. Lại xem loại thứ hai:

 

(Sao) Nhị vị hà bất biến niệm chư Phật, nhi duy niệm nhất Phật?

()二謂何不遍念諸佛,而唯念一佛?

(Sao: Hai là nói “sao không niệm khắp chư Phật, chỉ niệm một vị Phật?”)

Phật quá nhiều.  Trong kinh Vạn Phật Danh[23],  Thích  Ca  Mâu  Ni Phật đã nói ra danh hiệu của hơn một vạn hai ngàn vị Phật. Niệm Phật thì cớ sao chúng ta chẳng niệm một vạn vị Phật mà cứ phải niệm một vị Phật? Khá nhiều người lạy Vạn Phật Sám hoặc Thiên Phật Sám. Trong đầu họ cứ nghĩ: “Ta lạy nhiều vị Phật như thế, sẽ có sức [công đức lợi ích] mạnh hơn lạy một vị Phật”. Đấy cũng là một chướng ngại.

 

(Sao) Bất tri tâm chuyên chí nhất, nãi thành tam-muội cố.

()不知心專志一,乃成三昧故。

(Sao: Chẳng biết tâm chí chuyên nhất thì mới thành tựu tam-muội).

Chúng ta niệm Phật nhằm mục đích nào? Mục đích chẳng phải là kết duyên cùng chư Phật. Nếu là để kết duyên cùng chư Phật, đương nhiên quý vị lạy Thiên Phật Sám, hoặc lạy Vạn Phật Sám được lắm, kết duyên cùng hết thảy chư Phật. Hiện thời, chúng ta niệm Phật nhằm mục đích mong đắc nhất tâm bất loạn, mong đắc Niệm Phật tam-muội. Nếu nói theo nhất tâm bất loạn hoặc Niệm Phật tam-muội, niệm một vị Phật sẽ dễ dàng đạt được, niệm nhiều vị Phật sẽ chẳng dễ gì đạt được!

 

(Sao) Lương diêu chúng sanh trí thiển, phồn tắc bất thắng.

()良繇眾生智淺,繁則不勝。

(Sao: Ấy là vì chúng sanh trí cạn, rườm rà sẽ chẳng thể đảm đương).

“Thắng”“thắng nhậm” (勝任: đảm đương). Quá rườm rà, chúng ta chẳng có cách nào làm trọn, chẳng gánh vác được!

 

(Sao) Cố dụng chí bất phân giả thần ngưng.

()故用志不分者神凝。

(Sao: Cho nên dụng tâm chẳng phân tán hòng tĩnh lặng tinh thần).

“Dụng chí” (用志) là dụng tâm, cũng có nghĩa là người chuyên tâm sẽ có thể tập trung tinh thần, người ấy có thể dốc hết tinh thần. “Thần ngưng” (神凝) là tập trung tinh thần, nói theo Phật pháp thì là Định.

 

(Sao) Dịch tâm đa kỳ giả, công táng.

()役心多岐者功喪。

(Sao: Tâm nhọc nhằn theo nhiều ngã rẽ, công sức mất sạch).

“Dịch” (役) là nhọc nhằn. Bận tâm quá nhiều chuyện, công phu chẳng thể thành tựu, công phu bị mất đi. Quý vị niệm nhiều vị Phật, tâm niệm phân tán, chẳng dễ đắc Niệm Phật tam-muội. Quý vị niệm một vị Phật, niệm một bộ kinh, đắc Định dễ dàng, khai ngộ dễ dàng. Nếu quý vị niệm nhiều kinh, nhiều vị Phật, trong xã hội hiện thời, quý vị có thể trở thành một nhà Phật học, trở thành một học giả Phật giáo, thành tiến sĩ trong Phật môn, nhưng chẳng có mảy may nào liên quan tới Giới, Định, Huệ, phải biết điều này. Nói cách khác, quý vị có thể đạt được danh vọng và lợi dưỡng trong thế gian, chẳng có phần trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sau khi đã chết thì đáng luân hồi như thế nào, vẫn luân hồi như thế ấy, làm chuyện này! Đó chẳng gọi là học Phật, mà là Phật học. Phật học là pháp thế gian, học Phật là pháp vượt trỗi thế gian. Chư vị phải biết, học Phật chú trọng thâm nhập một môn. Ở đây, Sự và Lý đã được nói rõ ràng như vậy, nếu chúng ta vẫn chẳng thể thông hiểu, đúng là ngu si đến tột cùng. Vì sao không bảo chúng ta một mực học nhiều? Ở đây đã nói rất rõ ràng: Quý vị học nhiều, thử hỏi có phải nhọc lòng hay chăng? Có phải là tinh lực bị phân tán hay không? Chuyên học [một thứ] có phải là dễ dàng đắc Định hay không? Những chuyện này đã bày ra trước mặt rất rõ ràng! Tuyệt đối chẳng phải là các vị thầy, những bậc đại đức lừa gạt quý vị, sợ quý vị học nhiều, trong tương lai sẽ vượt trỗi họ. Đó là quan niệm và kiến giải sai lầm của chính quý vị, đúng là nghiệp chướng của chính mình.

Thiện tri thức thật sự, một vị thầy tốt thật sự, luôn hy vọng học trò vượt trỗi chính mình. Người làm cha mẹ hy vọng trong tương lai con cái có thành tựu vượt trỗi chính mình. Bản thân ta suốt một đời này rất vất vả, hy vọng con cái có thể sống rất hạnh phúc, đó là nỗi lòng của cha mẹ. Có kẻ làm cha mẹ nào [suy nghĩ] “ta rất khổ sở, trong tương lai con cái sẽ càng khổ hơn ta. Ta học Đại Học, trong tương lai chúng nó học Trung Học là được rồi” hay không? Có người làm cha mẹ nào hy vọng con cái hoặc thế hệ sau mỗi đời một kém hơn đời trước hay không? Chẳng có. Ở Trung Hoa vào thời cổ, y phục do người làm quan mặc được gọi là “chương phục” (章服). Trên y phục thêu hoa văn. Hoa văn (花紋) được gọi là “văn chương” (文章). Văn (文) là “văn thái” (文采: màu sắc đẹp đẽ, rực rỡ), “chương” (章) là rõ rệt, hiển thị ý nghĩa biểu thị được bao hàm trong ấy. Mão họ đội được gọi là “tấn hiền quan” (進賢冠: mũ đề cao người hiền), gồm hai tầng, phía trước thấp, phía sau cao. Phần trước tượng trưng cho chính mình, phía sau biểu thị thế hệ kế tiếp, niệm niệm chẳng quên thế hệ sau phải cao hơn thế hệ chúng ta. Dụng ý hay lắm, tốt lành lắm!

Phương pháp giáo học ấy chính là kinh nghiệm tích lũy mấy ngàn năm, chuyên ròng! Tại Trung Hoa, Nho gia dùng phương pháp này; tại Ấn Độ, nhà Phật dùng phương pháp này. Hoài nghi, chẳng thể tin tưởng, chẳng thể tiếp nhận phương pháp này, đó là ngu si, là nghiệp chướng sâu nặng. Tôi còn nghe có người kể với tôi, họ nói những năm qua, tôi giảng kinh, thuyết pháp, dạy người khác phương pháp này, bên ngoài có rất nhiều kẻ phê bình, nói: “Lẽ nào có chuyện niệm một bộ kinh, niệm một câu A Di Đà Phật, đơn giản dường ấy mà có thể thành tựu ư? Chẳng tin được! Hãy nên biết: Phải học rộng, nghe nhiều, thâm nhập kinh tạng”. Lời lẽ ấy dường như hết sức hữu lý; cứ làm thử xem, sẽ biết ngay! Học rộng nghe nhiều, thâm nhập kinh tạng, thời cổ thì có. Giở xem lịch sử, đọc truyện ký, [sẽ thấy] cổ nhân học tập như thế nào. Thoạt ban sơ, vẫn là thâm nhập một môn, đặc biệt là Thiền Tông. Thiền Tông nêu tiêu chuẩn “ngộ hậu khởi tu” (sau khi đã ngộ mới bắt đầu tu), khi nào sẽ thâm nhập kinh tạng? Sau khi đã đại triệt đại ngộ. Trước khi đạt đến đại triệt đại ngộ, quyết định chẳng cho phép quý vị xem kinh. Ngay như Giáo Hạ, trước khi đại khai viên giải, chỉ có thể tuân thủ lời dạy răn của thầy. Thầy dạy quý vị niệm một bộ, hoặc hai bộ, tuyệt đối chẳng thể dạy quý vị nghiên cứu hết thảy kinh điển, chẳng có lẽ ấy! Sau khi đã chuyên dốc công sức nơi một bộ, đã đại khai viên giải, khi ấy, thầy liền bỏ hết mọi ngăn cấm, mới cho quý vị thâm nhập kinh tạng, cho quý vị ra ngoài tham học. Tham học là đa văn, đọc nhiều, nghe nhiều.

Thật ra, kinh Hoa Nghiêm đã nêu bày một tấm gương cho chúng ta noi theo, tức là Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử trong hội của thầy mình, phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là phẩm Nhập Pháp Giới, cũng chính là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Trong phẩm ấy, có hai hội Bổn và Mạt: Bổn hội (hội căn bản, hội gốc) là hội của Văn Thù Bồ Tát. Thiện Tài đồng tử cầu học trong hội của Văn Thù Bồ Tát, chính là thâm nhập một môn, cầu chuyên ròng. Từ nơi Văn Thù Bồ Tát mà đắc Định, đạt được tam-muội, trí huệ đã mở mang, đại triệt đại ngộ, đại khai viên giải. Khi ấy, Văn Thù Bồ Tát bảo Thiện Tài đi tham học, đấy mới là năm mươi ba lần tham học. Năm mươi ba lần tham học là học rộng nghe nhiều, là giai đoạn thứ hai. Nay chúng ta chẳng cần đến giai đoạn thứ nhất, bắt đầu ngay bằng giai đoạn thứ hai, chẳng hợp lý! Chẳng có lẽ này! Nghe người khác nói những lời lẽ đó, nói khá lắm, [thế nhưng] kẻ đó chỉ nói một nửa, nửa trước chẳng nhắc tới, chỉ nói nửa sau! Phải hiểu rõ chuyện này!

Nếu chúng ta đem Tứ Hoằng Thệ Nguyện phối hợp với năm mươi ba lần tham học để xem, bổn hội chính là “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, năm mươi ba lần tham học thuộc mạt hội (hội cuối, hội đằng ngọn) chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Đến cuối cùng, Thiện Tài đồng tử gặp Phổ Hiền Bồ Tát [dùng] mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, chính là “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới mới là thành tựu Phật đạo, Tứ Hoằng Thệ Nguyện mới viên mãn. Tứ Hoằng Thệ Nguyện là tổng cương lãnh của cả bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm, hoặc là [tổng cương lãnh] của phẩm Nhập Pháp Giới trong kinh [Bát Thập] Hoa Nghiêm. Bốn câu ấy được giảng giải tường tận nhất trong bộ kinh Hoa Nghiêm bốn mươi quyển (Tứ Thập Hoa Nghiêm).

 

(Sao) Như Phổ Quảng đại sĩ vấn Phật, thập phương câu hữu Phật độ, hà dĩ độc tán Tây Phương?

()如普廣大士問佛,十方俱有佛土,何以獨讚西方?

(Sao: Như Phổ Quảng đại sĩ hỏi đức Phật: “Trong mười phương đều có các cõi Phật, cớ sao lại riêng xưng tán cõi Tây Phương?”)

Liên Trì đại sư trích dẫn một đoạn kinh văn để phá trừ nỗi nghi hoặc của chúng ta. Nói thật ra, lẽ nào pháp sư Phổ Quảng chẳng biết? Há bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng biết! Đây là diễn tuồng, bọn phàm phu chúng ta không hiểu, Ngài hỏi thay cho chúng ta: “Mười phương đều có các cõi Phật. Vì sao đức Phật khăng khăng dạy chúng con niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật?”.

 

(Sao) Phật ngôn: “Diêm Phù Đề nhân, tâm đa tạp loạn, linh kỳ chuyên tâm nhất cảnh, nãi đắc vãng sanh”.

()佛言閻浮提人,心多雜亂,令其專心一境,乃得往生。

(Sao: Đức Phật dạy: “Người trong cõi Diêm Phù Đề tâm lắm nỗi tạp loạn, [dạy như vậy] để khiến cho họ chuyên tâm nơi một cảnh bèn được vãng sanh”).

Đức Phật dạy rõ: Những điều được nói ở đây đều là chân tướng. Chúng ta là chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, “tâm nhiều tạp loạn”, đã tạp lại còn loạn, đó là cái gốc bệnh của chúng ta. Gốc bệnh của lục đạo luân hồi sanh tử là do cái tâm quá tạp, quá loạn, Phật pháp nhằm trị chứng bệnh này. Đức Phật giảng tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, mỗi pháp môn đều là một liều thuốc để chữa bệnh. Trong các pháp môn nhiều ngần ấy, thù thắng nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, đắc lực nhất, không chi hơn pháp môn Niệm Phật. Thường nói là “trong vô lượng tam-muội, Niệm Phật tam-muội là vua của các tam-muội”, đạo lý ở chỗ này!

Trong phần trước, tôi đã thưa cùng quý vị: Vì sao dạy chúng ta niệm Phật? Phật là giác tánh viên mãn rốt ráo, niệm Phật là niệm giác tánh viên mãn rốt ráo. Dạy chúng ta “chuyên tâm một cảnh”, duyên nơi một cảnh giới, buông xuống tất cả hết thảy tạp niệm, vọng niệm, như vậy thì sẽ có thể vãng sanh.

 

(Sao) Dĩ chư Phật đồng nhất Pháp Tánh thân, niệm nhất Phật, tức niệm nhất thiết Phật cố.

()以諸佛同一法性身,念一佛,即念一切佛故。

(Sao: Do chư Phật có cùng một thân Pháp Tánh, niệm một vị Phật chính là niệm hết thảy Phật).

Đức Phật dạy chúng ta: Vì sao trong hết thảy chư Phật, lại khuyên chúng ta niệm một vị Phật? Đạo lý này được nói rất rõ ràng! Tiếp đó, lại hỏi: Niệm một vị Phật thì tùy tiện niệm bất cứ vị Phật nào cũng đều có thể được chứ? Vì sao nhất định phải niệm A Di Đà Phật? Có những kẻ chẳng phục, ta niệm Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng giống như vậy hay sao? Chẳng lẽ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật còn thua A Di Đà Phật ư?

 

(Sao) Tam vị Phật Phật khả niệm.

()三謂佛佛可念。

(Sao: Ba là nói “Phật nào cũng đều có thể niệm được”).

Đã là hết thảy Phật thì tùy tiện bất cứ vị Phật nào cũng đều có thể niệm.

 

(Sao) Hà bất tùy niệm nhất Phật, nhi tất niệm A Di Đà Phật?

()何不隨念一佛,而必念阿彌陀佛?

(Sao: Sao chẳng tùy ý niệm một vị Phật, mà cứ ắt phải niệm A Di Đà Phật?)

Nói thật ra, trong lời hỏi này, là đã có lỗi lầm. [Vì nếu] đức Phật bảo quý vị niệm Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, quý vị sẽ hỏi: “Cớ sao cứ phải niệm Thích Ca Mâu Ni Phật? Ta niệm đức Phật khác chẳng được hay sao?” [Do vậy], đây chẳng phải là một câu hỏi thích đáng! Nhưng ở đây, đức Phật giải thích: Niệm A Di Đà Phật xác thực là có nhân duyên đặc biệt.

 

(Sao) Bất tri bỉ Phật dữ chư chúng sanh thiên hữu nhân duyên cố.

()不知彼佛與諸眾生偏有因緣故。

(Sao: Chẳng biết đức Phật ấy có nhân duyên đặc biệt với chúng sanh).

A Di Đà Phật kết duyên với hết thảy chúng sanh, đặc biệt thù thắng so với các vị Phật khác, khác hẳn! Phật Di Đà do tâm đại từ, đại bi, thanh tịnh, bình đẳng giúp đỡ hết thảy chúng sanh trong pháp giới, dùng pháp bình đẳng để nhanh chóng viên thành Phật đạo. Duyên ấy đặc biệt thù thắng. Duyên nhìn từ chỗ nào? Nhìn từ bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, nguyện nào cũng đều nhằm phổ độ chúng sanh. Hỏi: “Ta và A Di Đà Phật có duyên hay không?” Xem lại bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, chẳng hề nói loại trừ kẻ nào đó. Đã chẳng nói loại trừ ta ra, đương nhiên ta cũng là một phần tử trong đó, tức là có duyên. Xác thực là A Di Đà Phật chẳng nói ngoại trừ một ai, thảy đều có duyên. Các vị Phật khác chẳng phát nguyện như vậy. Thích Ca Mâu Ni Phật phát nguyện độ chúng sanh trược ác trong thế giới Sa Bà, Ngài chẳng phát nguyện độ chúng sanh trong các thế giới phương khác, chẳng giống như A Di Đà Phật phát nguyện phổ độ. Nếu chúng ta hỏi: Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật dùng phương pháp gì để độ chúng sanh trong đời trược ác? Chính là khuyên chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đó là phương pháp độ chúng sanh của Ngài. Chúng ta phải tin tưởng, tiếp nhận, thật thà niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, hòng thỏa mãn đại nguyện độ sanh của đức Bổn Sư. Nếu quý vị chẳng tin tưởng, khăng khăng chấp trước “Thích Ca Mâu Ni Phật ban cho ta ân đức rất lớn, hằng ngày niệm Thích Ca Mâu Ni Phật”, cũng chẳng bằng lòng vãng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật thấy vậy cũng lắc đầu: “Nghiệp chướng sâu nặng, ngu si, ngoan cố, chẳng thể đắc độ!” Bởi lẽ, Phật Di Đà có duyên hết sức sâu xa với chúng ta.

 

(Sao) Lương diêu bỉ Phật danh hiệu, nhân sở nhạo xưng, tựu linh ác nhân, hữu thời bất giác thất thanh niệm Phật. Nãi chí nhân phùng thiện sự, bất giác niệm Phật, hoan hỷ tán thán. Nhân phùng ác sự, cập dữ khổ nạn, bất giác niệm Phật, thương bi thống thiết. Cơ cảm nhân duyên, mạc hoặc sử chi nhi tự nhiên cố.

()良繇彼佛名號,人所樂稱,就令惡人,有時不覺失聲念佛;乃至人逢善事,不覺念佛,歡喜讚歎;人逢惡事,及與苦難,不覺念佛,傷悲痛切,機感因緣,莫或使之而自然故。

(Sao: Ấy là vì danh hiệu của đức Phật ấy, người ta thích xưng niệm, khiến cho kẻ ác có lúc bất giác thất thanh niệm Phật. Cho đến người ta gặp chuyện tốt lành, bất giác niệm Phật, hoan hỷ khen ngợi. Người gặp chuyện ác và khổ nạn, bất giác niệm Phật, bi thương, thống thiết. Do nhân duyên cơ cảm, chẳng ai bảo ban, mà khiến tự nhiên thành như vậy).

Đối với danh hiệu Di Đà, vì đức Thế Tôn thuở tại thế đã nhiều lần tuyên thuyết, hoằng dương, người tu học pháp môn này đông đảo, gia tộc của Thích Ca Mâu Ni Phật đều niệm Phật. Sau khi truyền đến Trung Hoa, được Huệ Viễn đại sư đề xướng, pháp môn Niệm Phật đã trải qua thời gian lâu dài chẳng suy. Nay chúng ta nhìn vào Phật giáo trên thế giới hiện thời, pháp môn Niệm Phật có xu thế ngày càng hưng vượng, có thể thấy danh hiệu này có công đức chẳng thể nghĩ bàn, Phật Di Đà và chúng ta có duyên phận chẳng thể nghĩ bàn. Dẫu là kẻ không học Phật, trong lúc bất tri bất giác, thỉnh thoảng miệng cũng niệm một câu A Di Đà Phật. Chúng ta thường thấy, thường nghe chuyện này. Không chỉ là người Hoa biết niệm, ngay cả người ngoại quốc cũng biết niệm A Di Đà Phật. Họ chẳng hiểu A Di Đà Phật có nghĩa là gì, nhưng biết niệm A Di Đà Phật. Phật có duyên sâu đậm với chúng ta.

 

(Sao) Tứ vị hà bất niệm Phật công đức, trí huệ, tướng hảo, quang minh, nhi đản niệm danh hiệu?

()四謂何不念佛功德智慧相好光明,而但念名號?

(Sao: Bốn là nói “sao chẳng niệm công đức, trí huệ, tướng hảo, quang minh của Phật mà chỉ niệm danh hiệu?”)

Chúng ta niệm công đức, trí huệ, tướng hảo, quang minh của Phật, há chẳng phải là thù thắng hơn danh hiệu ư? Cách nói này thoạt nghe rất có lý, thật ra, chư vị phải hiểu: Đối với công đức, trí huệ, tướng hảo, quang minh, chúng ta phải hỏi, chúng có đều được bao gồm trong câu danh hiệu này hay không? Hoàn toàn đều bao gồm! Nói cách khác, quý vị niệm công đức thì chẳng bao gồm trí huệ, niệm trí huệ chẳng bao gồm tướng hảo, niệm tướng hảo chẳng bao gồm quang minh. Niệm danh hiệu thì thảy đều được bao gồm. Phải hiểu rõ ràng những sự thật này, sau đấy mới thật sự chẳng hoài nghi danh hiệu.

 

(Sao) Bất tri trì danh, ư Mạt Pháp trung, tối đậu cơ cố, bất tư nghị cố.

()不知持名,於末法中最逗機故,不思議故。

(Sao: Chẳng biết trong thời Mạt Pháp, trì danh thích hợp căn cơ nhất, chẳng thể nghĩ bàn).

“Đậu cơ” (逗機) là khế cơ. Trong thời Mạt Pháp, chấp trì danh hiệu khế cơ nhất.

 

(Sao) Đậu cơ giả, Văn Thù Bát Nhã kinh vân: “Chúng sanh ngu độn, quán bất năng giải, đản linh niệm thanh tương tục, tự đắc vãng sanh”.

()逗機者,文殊般若經云:眾生愚鈍,觀不能解,但令念聲相續,自得往生。

(Sao: Khế hợp căn cơ: Kinh Văn Thù Bát Nhã chép: “Chúng sanh ngu độn, chẳng thể hiểu cách quán, chỉ nên dạy họ niệm sao cho tiếng niệm liên tục, sẽ tự được vãng sanh”).

 Đây là nói theo phía lợi ích chân thật. Quán tưởng là một phương pháp thường được sử dụng nhất trong Phật môn. Xưa kia rất hữu hiệu, hiện thời khó khăn. Vì sao trước kia hữu hiệu, nay chẳng có công hiệu? Người thuở trước thật thà và nồng hậu hơn người hiện thời. Do hình thái xã hội xưa kia khác hẳn hiện thời, họ chẳng có nhiều vọng tưởng và tạp niệm như người hiện thời, tâm địa thanh tịnh hơn, [cho nên] có thể sử dụng công phu quán chiếu. Người hiện thời hoàn cảnh tiếp xúc quá phức tạp, không chỉ là phức tạp gấp trăm ngàn lần quá khứ. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, suốt ngày từ sáng đến tối [hoàn cảnh bên ngoài] giúp quý vị suy nghĩ loạn xạ. Xem TV giúp quý vị suy nghĩ loạn xạ. Đọc báo giúp quý vị suy nghĩ loạn xạ. Quý vị tiếp xúc, chuyện gẫu với kẻ nào cũng là suy nghĩ loạn xạ. Chư vị hãy ngẫm xem, có đúng hay không? Tâm tạp loạn đến tột cùng; tuy phương pháp quán chiếu, quán tưởng rất hay, nhưng quán chẳng nổi!

Nghiên cứu, lý giải kinh giáo, lý giải cũng rất khó thành tựu. Vì sao? Tà tri tà kiến quá nhiều. Nghe người này giảng theo cách này, người kia giảng kiểu kia, xem sách này thấy viết như thế này, sách nọ viết như thế kia, chẳng biết sách nào đúng, sách nào sai! Đúng như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Chẳng có tiêu chuẩn, chẳng có gì để nương tựa, làm thế nào được nữa? Đó là chúng sanh ngu độn đến tột cùng! Ngu là thiếu trí huệ, chẳng có năng lực phân biệt tà chánh, chẳng có năng lực phân biệt đúng sai, thậm chí ngay cả lợi hại cũng chẳng có năng lực phân biệt.

Nếu quý vị có năng lực phân biệt lợi hại, làm sao bị thua thiệt, mắc lừa cho được? Làm sao có thể bị kẻ khác gạt gẫm cho được? Quý vị bị thua thiệt, mắc lừa, bị kẻ khác phỉnh phờ, nói cách khác, ngay cả lợi hại đều chẳng có năng lực phân biệt, quý vị nói xem có đáng thương lắm hay không? Nhưng chỉ cần người ấy có thể thật thà niệm Phật, sẽ còn có thể thành tựu. Đấy là “niệm thanh tương tục” (tiếng niệm liên tục), cũng là không xen tạp, không gián đoạn. Điều kiện tiên quyết để chẳng xen tạp, không gián đoạn là chẳng hoài nghi. Hoài nghi thì về căn bản là chẳng thể nào niệm được, người như vậy làm sao có thể vãng sanh cho được?

Chúng sanh trong thời kỳ Mạt Pháp do pháp môn này có thể đắc độ. Thật sự có thể đắc độ, quyết định nắm chắc đắc độ, ắt phải hờ hững đối với các duyên trong cõi đời, xem nhẹ chúng, chớ nên so đo quá lố! Lỗi lầm ấy rất lớn, thưa cùng chư vị, chẳng tổn hại ai khác, mà là tổn hại chính mình. Ngăn trở, quấy nhiễu người khác, tức là ngăn trở, quấy nhiễu những kẻ thiếu công phu. Người thật sự có công phu, quyết định chẳng thể ngăn trở, quấy nhiễu được! Nhưng mê mất tự tánh, tự mình tổn thất quá lớn, chẳng có cách nào bù đắp! Người thế gian thường nói: “Hại người là hại chính mình”. Nhưng ý nghĩa chân thật được bao hàm trong câu nói ấy chính là kẻ đó chẳng biết mức độ [chính mình] bị hại sâu đậm.

Nếu thật sự hiểu rõ, kẻ ấy tuyệt đối sẽ chẳng làm chuyện tổn hại người khác. Vì sao? Kẻ ấy biết: Người khác bị tổn hại đôi chút, còn chính mình bị tổn hại vô lượng vô biên, khiến cho chính mình mê mất tự tánh, phá hoại Tam Học Giới, Định, Huệ của chính mình. Lục Tổ đại sư nói rất hay: “Nếu người thật tu đạo, chẳng thấy lỗi người khác”. Cớ sao người ấy chẳng thấy lỗi kẻ khác? Tâm người ấy thanh tịnh. Mỗi ngày thấy lỗi người này, thấy lỗi kẻ kia, tâm người ấy chẳng thanh tịnh, sanh phiền não. Sanh phiền não, nói cách khác, nói theo phía người niệm Phật, công phu thành phiến đã bị phá hoại, chẳng có hy vọng vãng sanh Tịnh Độ, đã bị đoạn tuyệt, tổn thất quá to!

Mỗi người chúng ta đời đời kiếp kiếp gặp pháp môn này, đích xác là hiếm có khó gặp. Gặp cơ hội tốt đẹp dường ấy, [thế mà] hờ hững bỏ qua, đúng là ngu si đến tột cùng, tự mình hủy diệt chính mình. Lỗi lầm của kẻ khác ăn nhằm gì đến ta? Ta mong vãng sanh, họ mong làm chuyện thuộc lục đạo. Họ làm chuyện của họ, chúng ta chẳng đi cùng một đường, bận tâm đến người ta làm chi? Người chẳng quản chuyện của kẻ khác bèn thành tựu. Kẻ lo bao đồng chuyện của người khác, sẽ chẳng thể thành tựu. Xưa kia, Trụ Trì, Đương Gia, người quản chúng, hoặc Chấp Sự trong tự viện là Phật, Bồ Tát tái lai, chuyển thế, chính họ đã đắc độ, bèn giúp đỡ người khác. Chính mình chưa đắc độ, bèn làm thanh chúng (đại chúng thanh tịnh tu hành), tuyệt đối chẳng đảm nhiệm Chấp Sự, nghe theo sự cai quản của người khác, chính mình quyết định chẳng dám quản người khác. Vì sao? Tâm chẳng thanh tịnh. Phật, Bồ Tát đến cai quản đại chúng, thấy lỗi này, lỗi nọ, hằng ngày xử phạt, quở trách người khác, tâm các Ngài thanh tịnh, chẳng nhiễm, các Ngài có bản lãnh ấy.

Chúng ta không được, chúng ta thật sự dấy động tâm sân hận, có tham, sân, si. Hễ có tham, sân, si, sẽ là một lần quả báo trong tam đồ. Nay quý vị một lần động niệm tâm sân khuể, chính là tạo một cái nhân địa ngục. Động tâm sân khuể lần thứ hai liền tạo nhân địa ngục lần thứ hai. Động tâm tham một lần là động một cái nhân trong ngạ quỷ đạo. Từ sáng đến tối đã khởi bao nhiêu tham, sân, si, mạn? Sẽ biết mỗi ngày quý vị đã bao nhiêu lần tạo nghiệp trong tam ác đạo. Trong ngày hôm nay, có mấy phút, mấy giờ niệm Phật? Lại còn là dùng cái tâm thanh tịnh để niệm Phật, khi niệm Phật chẳng có một vọng niệm, đó gọi là tạo nhân tịnh nghiệp. So sánh hai chuyện ấy, sẽ biết chính mình có nắm chắc vãng sanh hay không? Nếu trong một ngày, thời gian ta dùng cái tâm thanh tịnh để niệm Phật ít ỏi, thời gian dấy động tham, sân, si nhiều. Nói cách khác, đời sau vẫn chẳng tránh khỏi ba ác đạo, chẳng có cách nào! Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể nào cứu quý vị, tự làm tự chịu mà! Do đó, chính mình phải hiểu: Chúng ta là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, tự mình cứu chính mình còn chẳng kịp, há có thời gian để quản chuyện của người khác ư? Thật vậy! Đó là sự thật. Chúng ta có thể đề cao cảnh giác ở chỗ này, đó là khai ngộ. Người ấy đã giác ngộ, đã giác ngộ bèn quay đầu, quay đầu là bờ. Quay đầu chính là chuyên niệm A Di Đà Phật.

Thường trụ có khá nhiều công việc, trong gia đình cũng có nhiều chuyện vụn vặt, chi ly, chẳng thể không làm những chuyện thuộc về chức trách của chính mình. Phải dùng thái độ gì để làm? Xét theo Sự thì phải nghiêm túc làm, tâm địa phải thanh tịnh, từ bi, niệm niệm chẳng quên A Di Đà Phật, đó là đúng. Công việc có trở ngại tu hành hay chăng? Chẳng ngăn ngại! Cuộc sống và công việc chính là tu hành. Do vậy, pháp này được gọi là khế cơ, “đậu cơ” là khế cơ.

 

(Sao) Bất tư nghị giả, như tiền sở minh Nhất Hạnh tam-muội, tắc bất đản đậu hồ độn cơ, thần dụng bất trắc cố.

()不思議者,如前所明一行三昧,則不但逗乎鈍機,神用不測故。

(Sao: “Chẳng thể nghĩ bàn”: Như Nhất Hạnh tam-muội đã được nói trong phần trước không chỉ là khế hợp độn cơ, mà còn có tác dụng thần diệu chẳng thể lường).

 Chúng ta thuộc loại “độn cơ”, [nghĩa là căn cơ] ngu si, thô lỗ, chậm lụt, nhưng oai thần và đức dụng của pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta có thể lý giải điều này thì quý vị có thể tập trung năng lực, tâm không có hai tác dụng.

 

(Sao) Như Di Giáo kinh ngôn: “Tâm giả chế chi nhất xứ, vô sự bất biện”.

()如遺教經言:心者制之一處,無事不辦。

(Sao: Như kinh Di Giáo có nói: “Tâm mà có thể chế ngự sao cho chuyên nhất một chỗ thì không chuyện gì chẳng thể thực hiện được”).

Đức Phật nói câu này trong kinh Di Giáo[24], nêu rõ tầm trọng yếu của việc tu Định. Tu Định là “chế tâm nhất xứ”, bất luận chuyện gì cũng đều có thể làm viên mãn, đều có thể thành tựu. Chỉ sợ tâm loạn. Hễ tâm đã loạn, chuyện gì cũng chẳng thể làm được; hễ làm, sẽ xuất hiện sai sót!

 

(Sao) Kim chế tâm Phật hiệu, nhi chí nhất tâm, hà khả tư nghị.

()今制心佛號,而至一心,何可思議。

(Sao: Nay do chế tâm nơi Phật hiệu, bèn đạt đến nhất tâm, há có thể nghĩ bàn ư?)

Chế tâm nhất xứ thì chỗ thù thắng nhất chính là A Di Đà Phật. Chúng ta chế tâm nơi Phật hiệu A Di Đà Phật, tuyệt diệu thay, có thể thực hiện đại sự bậc nhất là thành Phật viên mãn. Chế tâm nhất xứ, không chuyện gì chẳng làm được. “Chế tâm Phật hiệu” chẳng thể nghĩ bàn, quyết định thành Phật. Đời này, quý vị tu hành chứng quả, thoát tam giới, liễu sanh tử, thành Phật đạo, một câu [Phật hiệu] này đều giải quyết tất cả. Ngàn kinh vạn luận đều phải nói một câu này, mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai khuyên dạy chúng sanh trọn khắp cũng là một câu này. Câu [Phật hiệu] này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, đáng tiếc là chẳng có ai hiểu được.

Lão cư sĩ Hạ Liên Cư nói: “Đức Phật nói khó tin, thật sự khó tin, trong ức vạn người chỉ có một, hai người biết”. Trong ức vạn người [chỉ] có một hai người biết! Câu này bày ra trước mặt, [chỉ có] một hai người trong ức vạn người thật sự biết. Sau khi đã thật sự biết, từ nay trở đi, tâm của quý vị là Phật tâm, hạnh của quý vị là Phật hạnh, quý vị đã thành Phật, chẳng giả tí nào!

 

(Sớ) Khắc niệm kỳ giả, nhất nhật chí thất nhật, thị sở khắc định chi kỳ yếu dã.

()剋念期者,一日至七日,是所剋定之期要也。

(Sớ: “Ấn định kỳ hạn để niệm”: Từ một ngày cho tới bảy ngày chính là ấn định thời hạn cần thiết).

Đây là thời gian niệm Phật được ấn định trong kinh này, pháp môn này [tu tập trong] bao lâu bèn có thể thành công? Bảy ngày bèn có thể thành công! Hoặc một ngày cho đến bảy ngày, bảy ngày thật sự có thể thành công. Chỉ cần quý vị niệm đúng pháp, như trong phần trước đã nói, quý vị niệm nào cũng đều tương ứng, bảy ngày [thành tựu], tuyệt diệu thay! Chư vị phải biết: Nếu niệm chẳng tương ứng, càng niệm, vọng tưởng càng nhiều, càng niệm, phiền não càng nhiều, càng niệm, càng chẳng niệm được, đấy là nghiệp chướng sâu nặng, mà cũng là ma chướng.

“Ma” là vùi dập, chướng ngại quý vị chẳng thể dụng công niệm Phật, như vậy thì phải nghiêm túc sám trừ nghiệp chướng. Sám trừ nghiệp chướng như thế nào? Thứ nhất là phải biết lỗi lầm nơi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, và tạo tác của chính mình. Nếu có thể phát hiện, cảm nhận, sau khi đã cảm nhận, phải thật sự triệt để sửa trừ, nghiệp chướng sẽ tiêu trừ. Phải nghiêm túc sửa lỗi, đổi mới, tiêu trừ chướng ngại; sau đấy, quý vị mới niệm câu Phật hiệu suông sẻ. Khi quý vị niệm, vọng tưởng sẽ ít đi, tâm cũng có thể định được. Đây là điểm then chốt hết sức trọng yếu trong việc thật sự dụng công, chính mình phải hiểu, chính mình phải biết dùng phương pháp nào để khắc phục, khiến cho công phu của chính mình có thể đắc lực. Tiếp đó, nói rõ vì sao phải là bảy ngày.

 

(Sớ) Thế xuất thế gian, trọng kỳ sự giả, hằng dĩ thất cố, thất nhật xưng Phật, miễn địa ngục cố.

()世出世間,重其事者,恆以七故,七日稱佛,免地獄故。

(Sớ: Đối với [các pháp] thế gian và xuất thế gian, hễ coi trọng chuyện gì, luôn dùng con số bảy. Bảy ngày xưng niệm danh hiệu Phật, khỏi đọa địa ngục).

 Nói rõ thế gian lẫn xuất thế gian đều rất coi trọng con số Bảy. Không chỉ là người Hoa coi trọng, hay người Ấn Độ coi trọng, mà người Âu Tây cũng coi trọng. Tại Trung Hoa, vào thời Thương – Châu có nói “thất nhật lai phục”, “lai phục” (來復) là chu kỳ, [bảy ngày là] một chu kỳ. Vì thế, đức Phật cũng ấn định bảy ngày. “Thất nhật xưng Phật” là xưng niệm, [ở đây] “xưng niệm” là nhất tâm xưng niệm. Nhất tâm xưng niệm thánh hiệu của Phật, Bồ Tát, có thể tránh thoát nỗi khổ địa ngục. Nhưng chư vị đồng tu phải biết: Trong quá khứ, chúng ta tạo tác tội nghiệp rất nhiều, ta niệm Phật bảy ngày, kinh nói “có thể thoát khỏi nỗi khổ địa ngục” là lời chân thật, nhưng quý vị đừng nên hiểu lầm [rồi sanh vọng tưởng]: “Ta niệm Phật bảy ngày, chắc chắn chẳng bị đọa địa ngục. Sau đấy, lại tạo tội nghiệp, do ta đã từng niệm Phật bảy ngày [không sợ bị đọa địa ngục nữa]”, chẳng được đâu nhé! Sau khi đã niệm Phật bảy ngày, sau đó, chẳng còn tạo nữa thì mới chẳng bị đọa địa ngục. Chứ sau khi đã niệm Phật bảy ngày, sau đấy lại tạo tội nghiệp, vẫn đọa vào địa ngục y hệt, chẳng sai! Đây là nói rõ công đức và lợi ích thù thắng do niệm Phật. Địa ngục là chỗ khổ sở nhất; [do niệm Phật mà] quả báo khổ nhất còn có thể tránh được, huống hồ những thứ khác? Những tội be bé đương nhiên là bị tiêu diệt, đấy là đạo lý nhất định. Có thể thấy công đức và lợi ích to lớn của niệm Phật.

 

(Sớ) Hựu thất nhật chi kỳ, phục hữu nhị nghĩa, các phân lợi độn.

()又七日之期,復有二義,各分利鈍。

(Sớ: Lại nữa, kỳ hạn bảy ngày lại có hai nghĩa, mỗi nghĩa đều chia thành lợi căn và độn căn).

 Sách Diễn Nghĩa có chú giải câu này:

 

(Diễn) Phục hữu nhị nghĩa các phân lợi độn giả, nhất giả tùng tán nhập định nghĩa, nhị giả tùng định nhập tán nghĩa.

()復有二義各分利鈍者,一者從散入定義,二者從定入散義。

(Diễn: “Lại có hai nghĩa, mỗi nghĩa đều chia thành lợi căn và độn căn”: Một là nghĩa từ tán nhập định; hai là nghĩa từ định nhập tán).

“Tùng tán nhập định”: Bảy ngày, công phu ngày càng thù thắng hơn, thành tựu Niệm Phật tam-muội. “Tùng định nhập tán”: Sau khi đã được Niệm Phật tam-muội, dần dần lại lui sụt, mất đi.

 

(Diễn) Tùng tán nhập định, tắc lợi giả nhật thiểu, độn giả nhật đa.

()從散入定,則利者日少,鈍者日多。

(Diễn: Từ tán nhập định thì người lợi căn ít ngày (tốn ít thời gian), kẻ độn căn nhiều ngày (phải tốn nhiều thời gian)).

Nói theo căn tánh, kẻ lợi căn thì một hai ngày sẽ đắc Niệm Phật tam-muội. Nói cách khác, lợi căn và độn căn là gì? Chính là phiền não nhẹ hay nặng khác nhau, vọng tưởng nhiều hay ít khác nhau. Phiền não nặng, vọng niệm nhiều, phải niệm bảy ngày thì mới có thể đắc Niệm Phật tam-muội, tâm mới có thể thanh tịnh. Căn tánh bén nhạy, phiền não nhẹ nhàng, vọng niệm ít, một hoặc hai ngày sẽ đạt được. Sau khi đã được lại nỗ lực, cũng là trong một hai ngày bèn đắc công phu thành phiến, ba bốn ngày bèn có thể đắc Sự nhất tâm bất loạn, sáu bảy ngày sẽ có thể đắc Lý nhất tâm bất loạn. Đó là [nói theo] hạng lợi căn.

 

(Diễn) Tùng định nhập tán, tắc lợi giả nhật đa, độn giả nhật thiểu.

()從定入散,則利者日多,鈍者日少。

(Diễn: Từ định mà trở thành tán loạn thì người lợi căn phải mất một thời gian dài, kẻ độn căn chẳng tốn nhiều thời gian).

Đã đắc cái tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh ấy sẽ dần dần mất đi theo thời gian. Đối với người lợi căn, họ giữ được [cái tâm thanh tịnh] trong một thời gian lâu dài. Sau khi đã đạt được, có thể giữ suốt bảy ngày chẳng tan mất, tâm chẳng tán loạn. Kẻ độn căn sau khi đạt được, sau một, hai ngày, tâm bèn tán loạn.

Chúng ta hãy nghĩ lại để thấy chính mình thuộc loại căn tánh nào? Trước kia, thầy Lý tổ chức Đại Chuyên Phật Học Giảng Tòa (khóa diễn giảng Phật pháp cho các sinh viên trường đại học và chuyên nghiệp) tại Đài Trung, sinh viên các trường đại học và chuyên nghiệp nghỉ hè bèn tham gia khóa giảng ấy, được huấn luyện trong bốn tuần, xác thực là có sự biểu hiện rất rõ rệt, cử chỉ, ăn nói đều có biến hóa, rất có tiến bộ. Khi kết thúc khóa học, thầy Lý đã hết sức cảm khái nói một câu: “Trong khóa học này, chúng tôi đã tốn nhiều tâm tư ngần ấy, mời nhiều vị thầy như thế đến giảng giải Phật pháp cho chư vị, cùng nhau cộng tu, [kết quả] khá lắm, nhưng sau khi khóa học kết thúc, quý vị đến rạp chiếu bóng xem phim hai tiếng đồng hồ, sẽ khôi phục lại tình trạng y hệt như cũ! Bốn tuần [tu tập] của chúng ta chẳng thể chống lại hai tiếng đồng hồ trong rạp chiếu phim”. Hiện thời, chẳng cần đến rạp chiếu phim, trong nhà mở TV hai tiếng đồng hồ là thôi rồi, quý vị nói thế nào được nữa đây! Thuở ấy, TV còn chưa phổ biến, Đài Loan vẫn chưa có TV màu, [chỉ là] TV đen trắng, những gia đình bình dân còn chưa có, thời chúng tôi còn chưa hề thấy TV. Quý vị bèn hiểu chúng ta thuộc loại căn tánh nào, chính mình nhất định phải răn dè điều này!

Đức Phật nói kỳ hạn bảy ngày, đối với người thuở trước thì hữu hiệu, chứ đối với người hiện thời chẳng hữu hiệu. Nói thật thà, người hiện thời, ngay cả đả liên tiếp bảy Phật Thất, chỉ sợ là một cuốn phim đã [đủ sức] đánh tan [mọi hiệu quả tu tập], còn làm sao được nữa! Sau đó, quý vị mới biết vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng dễ dàng! Thật sự quyết tâm cầu sanh Tây Phương, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều phải bỏ sạch, không xem phim, không coi TV, không nghe radio, không đọc báo chí, tạp chí, không nói chuyện thị phi, ưu khuyết điểm, suốt ngày từ sáng đến tối trong mười hai thời thật thà niệm Phật, người như vậy mới có hy vọng vãng sanh. Xã hội này chỗ nào cũng thông tới ba ác đạo, là bẫy rập của địa ngục A Tỳ, một bước chẳng cẩn thận sẽ sụp bẫy, chẳng thể không biết điều này! Hôm nay, tôi giảng tới đây!

 

Tập 226

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm bốn mươi ba:

 

(Sớ) Hựu đa tắc Đại Bổn thập nhật, Thanh Vương thập nhật, Đại Tập thất thất nhật, Bát Châu cửu thập nhật đẳng; thiểu tắc Đại Bổn nhất nhật, Quán Kinh thập niệm đẳng. Ngôn nhật giả, dĩ kinh thiên đạo hối minh chi nhất châu cố.

()又多則大本十日,聲王十日,大集七七日,般舟九十日等;少則大本一日,觀經十念等。言日者,以經天道晦明之一周故。

(Sớ: Lại nữa, nhiều thì như kinh Đại Bổn nói mười ngày, kinh Cổ Âm Thanh Vương nói mười ngày, kinh Đại Tập nói bốn mươi chín ngày, kinh Bát Châu nói chín mươi ngày v.v… Ít thì như kinh Đại Bổn nói một ngày, Quán Kinh nói mười niệm v.v… Nói “ngày” là nói đã tròn một chu kỳ trời tối rồi sáng vậy).

Vẫn là nói về chuyện ấn định kỳ hạn để niệm Phật, nói “bảy ngày” chủ yếu là kinh A Di Đà, ấn định kỳ hạn từ một ngày cho đến bảy ngày. Nhiều thì như kinh Vô Lượng Thọ nói mười ngày, kinh Đại Tập nói bốn mươi chín ngày, [tức là] dự liên tiếp bảy Phật Thất, kinh Bát Châu Tam Muội dạy chuyên tu pháp môn Niệm Phật, lấy chín mươi ngày làm kỳ hạn. Do vậy có thể biết: Đối với thời gian dài hay ngắn, trong kinh, đức Phật trọn chẳng nói nhất trí. Vì sao? Chư vị phải hiểu, đức Phật giảng kinh khế cơ, khế lý, một pháp hội nào đó có thính chúng [riêng biệt] của pháp hội ấy. Thính chúng khác nhau, cũng có nghĩa là thiện căn và tập khí của thính chúng chẳng giống nhau. Có những người thiện căn sâu dầy, căn tánh nhạy bén, đức Phật nói kỳ hạn ít hơn. [Thính chúng] căn tánh chậm lụt, nghiệp chướng sâu nặng, đức Phật sẽ nói kỳ hạn dài hơn. Tôi nghĩ nếu đức Phật Thích Ca xuất hiện trước mặt chúng ta trong hiện thời, nhất định sẽ chẳng thể nói [kỳ hạn] bảy ngày! Chắc chắn là “bảy ngày” chúng ta chẳng làm được! Bốn mươi chín ngày cũng chẳng làm được. Chỉ sợ phải nói “bảy năm”, từ ba năm cho đến bảy năm chắc là cũng có thể thành tựu.

Căn tánh của chúng ta trong hiện thời kém xa cổ nhân, tâm địa tạp loạn, tâm cổ nhân xác thực là thanh tịnh. Tạp loạn là cội nguồn của khổ báo, tâm địa thanh tịnh là nguyên do của lạc báo. Đại Bổn và Quán Kinh nói “ít” thì là một ngày, Quán Kinh nói ít hơn nữa, “mười niệm”. Câu kế tiếp rất trọng yếu, bất luận là một ngày, bảy ngày, hay mười ngày, hễ nói tới “ngày” đều là nói một ngày đêm, “hối minh chi nhất châu” (một chu kỳ tối rồi sáng), hai mươi bốn giờ được coi là một ngày. Do vậy có thể biết: Niệm Phật mà nếu là ban ngày niệm, tối nghỉ ngơi thì đó là niệm nửa ngày, chẳng phải là một ngày.

 

(Sao) Kỳ yếu giả, nhược cứ Như Lai đắc Bồ Đề, thật bất hệ ư nhật, tắc phi nhật, phi kiếp, yên hữu thất nhật?

()期要者,若據如來得菩提,實不係於日,則非日非劫,焉有七日。

(Sao: “Kỳ hạn”: Nếu xét theo phương diện đức Như Lai đắc quả Bồ Đề, thật sự chẳng hạn cuộc nơi ngày giờ, chẳng thể nói đến ngày hay kiếp, há có bảy ngày ư?)

Đây là nói theo Lý.

 

(Sao) Nhược cứ Bồ Tát tu hành, động kinh trần kiếp, tắc vô cùng vô tận, hà chỉ thất nhật?

()若據菩薩修行,動經塵劫,則無窮無盡,何止七日。

(Sao: Nếu xét theo sự tu hành của Bồ Tát, trải qua số kiếp nhiều như vi trần, nên [thời gian tu tập] vô cùng vô tận, há chỉ là bảy ngày?)

Nói theo phương diện tu hành nơi mặt Sự của hàng Bồ Tát, phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, hoặc vô lượng kiếp, bảy ngày làm sao có thể thành tựu cho được? Đây là một đằng nói theo Sự, một đằng nói theo Lý.

 

(Diễn) Như Lai đắc Bồ Đề, thật bất hệ ư nhật, dĩ nhật giả thời dã, y sắc tâm phận vị giả lập, vô hữu tự thể cố. Bách pháp trung thời, vi nhị thập tứ bất tương ứng hành nhiếp. Kim Như Lai đắc Bồ Đề, tọa đoạn tam tế, hà hữu ư thời? Thời giả, giai chúng sanh vọng tưởng phân biệt dã!

()如來得菩提,實不係於日,以日者時也,依色心分位假立,無有自體故,百法中時,為二十四不相應行攝。今如來得菩提,坐斷三際何有於時,時者皆眾生妄想分別也。

(Diễn: “Như Lai đắc quả Bồ Đề, thật sự chẳng hạn cuộc nơi ngày giờ”: Do “ngày” là thời, nương theo sự phân biệt giữa sắc pháp và tâm pháp mà giả lập, chẳng có tự thể. Trong Bách Pháp, Thời thuộc vào hai mươi bốn món Bất Tương Ứng Hành pháp. Nay Như Lai đắc Bồ Đề, dứt sạch ba thời, há có thời ư? [Sở dĩ có] “Thời” đều là do chúng sanh vọng tưởng, phân biệt).

Thời gian và không gian đều chẳng phải là chân thật, chẳng có thực thể để có thể đạt được! Trong Bách Pháp, Thời và Không (thời gian và không gian) thuộc về Bất Tương Ứng Hành Pháp. Nói theo cách hiện thời, chúng thuộc loại khái niệm trừu tượng, tuyệt đối chẳng phải là sự thật. Phật pháp nói hết thảy các pháp, tâm pháp thuộc về phương diện tinh thần, sắc pháp thuộc phương tiện vật chất. Bất Tương Ứng Hành Pháp chẳng phải là tâm pháp, mà cũng chẳng phải là sắc pháp, thậm chí cũng chẳng phải là Tâm Sở Hữu Pháp (các pháp thuộc về tác dụng tâm lý), chúng từ Tâm, Tâm Sở, và Sắc pháp mà giả lập, chẳng phải là sự thật. Vì vậy, chúng ta phải hiểu rõ những điều này, chớ nên chấp trước. Hễ chấp trước, sẽ biến thành vọng tưởng. Đối với thời kiếp, nói thật ra, chính là một thứ cảm nhận sai lầm nẩy sanh từ quan niệm của mỗi cá nhân. Có người cảm thấy thời gian trôi qua rất nhanh, có người cảm thấy thời gian trôi qua quá chậm, mỗi người cảm nhận khác nhau. Trong kinh thường nói “niệm kiếp viên dung” (một niệm và một kiếp viên dung), biến một niệm hoặc một sát-na thành vô lượng kiếp; khi ấy, thời gian bèn quá chậm! Vô lượng kiếp cô đọng thành một sát-na, thời gian trôi qua rất nhanh! Mỗi cá nhân cảm nhận khác nhau, huống hồ lục đạo chúng sanh? Huống hồ chúng sanh trong mười pháp giới? Đời Tống, Tần Cối hại chết Nhạc Phi, đọa vào địa ngục A Tỳ, nghe nói hiện thời hắn đã biến thành lợn, từng bị người ta giết. Khi giết, lột da, thấy trên thân lợn viết “thân đời thứ bảy của Tần Cối”, [tức là] hắn đã bảy lần làm lợn. Địa ngục A Tỳ là vô lượng kiếp, cớ sao hắn thoát ra làm lợn? Hắn đọa vào địa ngục, cảm nhận [thời gian trong ấy] là vô lượng kiếp, đó gọi là “sống một ngày bằng cả năm”, sống một năm mà như đã sống mấy trăm năm. Hắn cảm nhận như vậy, quyết chẳng phải là dùng ngày tháng năm trong thế gian để tính toán. Do vậy, đức Phật nói lời thật cùng chúng ta: Thời gian chẳng phải là pháp cố định.

 

(Diễn) Kinh vân: “Nhất niệm phổ quán vô lượng kiếp, vô khứ, vô lai, diệc vô trụ, như thị liễu tri tam thế Phật, siêu chư phương tiện thành Thập Lực”.

()經云:一念普觀無量劫,無去無來亦無住,如是了知三世佛,超諸方便成十力。

(Diễn: Kinh dạy: “Một niệm quán khắp vô lượng kiếp, chẳng đến, chẳng đi, mà cũng chẳng trụ. Biết rõ tam thế Phật là như thế, vượt trỗi các phương tiện thành Thập Lực”).

 Đây là nói rõ chân tướng cùng chúng ta. Chân tướng là như thế đó, vì sao đức Phật phải nêu ra một kỳ hạn?

 

(Sao) Kim lập kỳ yếu giả, dĩ Mạt Pháp chúng sanh tu chư công đức, tinh tấn hằng nan, phế thi hằng dị, ưng tu khắc hạn, nãi phát thắng tâm dã.

()今立期要者,以末法眾生修諸功德,精進恆難,廢弛恆易,應須剋限,乃發勝心也。

(Sao: Nay lập kỳ hạn là do chúng sanh đời Mạt Pháp tu các công đức, luôn khó tinh tấn, luôn dễ dàng buông bỏ, lơi là, [cho nên] cần phải ấn định kỳ hạn hòng phát tâm thù thắng).

Vì sao ấn định một kỳ hạn cho chúng ta? Sợ chúng ta giải đãi! Hy vọng chúng ta sẽ có thành tích trong kỳ hạn do lão nhân gia quy định, nhằm [thúc đẩy chúng ta] tinh tấn, tránh khỏi giải đãi, dụng ý ở chỗ này. Vì thế, Ngài hạn định một ngày, bảy ngày, mười ngày, hoặc là ba tháng, ba năm, năm năm. Các tổ sư Trung Hoa ấn định [kỳ hạn] năm năm cho hàng sơ học, [thường nói là] “năm năm học giới”, mong mỏi trong năm năm ấy [các đệ tử] sẽ hoàn thành cơ sở dự bị cho việc tu học. Đây vẫn chưa phải là học Phật, mà là cơ sở dự bị cho việc học Phật, kiến lập trong năm năm, nhấn mạnh thân tâm thanh tịnh. Người thuộc thế hệ hiện thời tu học khó khăn là do thiếu cơ sở này.

Nói thật ra, pháp thế gian và xuất thế gian đều phải kiến lập trên cơ sở tâm thanh tịnh, vì sao? Chỉ có tâm thanh tịnh thì mới có ngộ xứ, mới có thể ngộ nhập. Trước kia, đối với chuyện học hành, Nho gia nói đến chữ “ngộ”, Phật pháp càng coi trọng “ngộ nhập”. Tâm địa tạp loạn, quyết định chẳng thể ngộ nhập. Nếu quý vị muốn ngộ nhập, phải buông tất cả hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống. Phật pháp cũng là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ngay cả Phật pháp cũng phải buông xuống.

Bảo quý vị niệm một bộ kinh, niệm một bài chú, mục đích chỉ nhằm dùng một niệm để ngăn dứt hết thảy vọng niệm, dùng phương cách này, hy vọng quý vị khôi phục tâm địa thanh tịnh. Khi nào tâm đã thanh tịnh, có thể tiếp nhận Phật pháp, lúc đó mới học rộng nghe nhiều, mới có năng lực nghe kinh, tham Thiền. Chẳng có đủ cơ sở này, vô dụng! Cổ nhân dùng phương pháp này, trong mấy ngàn năm qua, người thành tựu chẳng thể kể xiết; nay chúng ta vứt bỏ phương pháp này, thế hệ này không chỉ chẳng có ai khai ngộ, [mà còn như] lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã nói “ngay cả người tu hành cũng chẳng có”. Chẳng có người tu hành; nói cách khác, chẳng được chư Phật, Bồ Tát hộ niệm gia trì, chẳng có chỗ nào để tu hành. Do vậy, yêu ma quỷ quái hoành hành, làm thế nào được nữa? Người ở nơi ấy lẽ nào chẳng gặp tai nạn? Lẽ nào chẳng bị khổ sở? Chúng ta nhất định phải giác ngộ điều này. Hiện thời, bất luận là kẻ nào, khoe mình là Phật chi đó hay Bồ Tát chi đó tái lai, nếu chẳng tương ứng với giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, chúng ta thảy đều chẳng tiếp nhận, quyết định chẳng thâu nạp. Cổ thánh tiên hiền dạy chúng ta “thâm nhập một môn”. Sau khi đã tiến nhập thì mới học rộng nghe nhiều, nhất định phải biết thứ tự theo chiều thuận này.

Một bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm nhằm giảng giải cặn kẽ Tứ Hoằng Thệ Nguyện. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham phỏng Văn Thù Bồ Tát, phát Bồ Đề tâm, học Bồ Tát đạo, đó là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Ngài phát ra đại nguyện ấy, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh. Ngài tu học như thế nào? Trong hội Văn Thù, hội này được gọi là “bổn hội” (hội gốc, hội căn bản). Từ đầu đến cuối, Tứ Thập Hoa Nghiêm chia thành hai hội bổn và mạt, bổn hội là tiếp nhận sự huấn luyện về cơ sở Phật pháp, nhằm đoạn phiền não: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Đã đoạn Kiến Tư phiền não, đã đoạn Trần Sa phiền não, phá một phẩm vô minh, lúc ấy thầy mới thả lỏng, cho Ngài đi tham học. Tham học là “mạt hội” (hội cuối, hội đằng ngọn), chính là năm mươi ba lần tham học. Tham học năm mươi ba lần nói lên điều gì? “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Lần tham học cuối cùng gặp Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”, đó chính là đạt đến nguyện thứ tư “Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Một bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm há chẳng phải là nói về Tứ  Hoằng  Thệ  Nguyện  ư?  Tứ  Hoằng  Thệ  Nguyện chính là trình tự học Phật tu hành do đức Phật dạy cho chúng ta.

Theo sự truyền thừa từ đời này sang đời khác của các tổ sư Trung Hoa, [để nhập môn bắt buộc phải là] năm năm học giới, chú trọng đoạn phiền não, tập khí, thành tựu pháp khí của chính mình. Sau năm năm, thân tâm đã thật sự thanh tịnh, chẳng bị cảnh giới lay động, Phật môn chúng ta thường nói là “tám gió thổi chẳng động”, khi ấy, mới có tư cách đi tham học, tuyệt đối chẳng bị cảnh giới lay động. Nghe người khác nói vẫn bị động tâm, [tức là] chẳng đủ tư cách để tham học! Nhất định phải đạt đến mức như như bất động thì mới có tư cách tham học. Cổ đức ấn định kỳ hạn năm năm. Tham học rốt cuộc là đến khi nào thì mới có thể khai ngộ? [Tùy thuộc] mỗi cá nhân không nhất định, vì thiện căn của mỗi người khác nhau, những hạnh tu tập trong đời đời kiếp kiếp quá khứ khác nhau, phước đức chẳng giống nhau, duyên phận khác biệt nhau!

Trong pháp môn Tịnh Tông, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới có ba bậc chín phẩm. Trong Tứ Thiếp Sớ, Thiện Đạo đại sư đã nói: “Do gặp duyên khác nhau”. Ngài nói hay quá! Câu ấy mới thật sự phù hợp bổn hoài của Phật Di Đà và đức Thế Tôn. Vì Phật Di Đà và đức Thế Tôn dùng pháp bình đẳng để bình đẳng phổ độ hết thảy chúng sanh. Nếu người này thiện căn trong đời quá khứ sâu dầy, sẽ thượng phẩm thượng sanh. Kẻ kia thiện căn kém hơn, sẽ là hạ phẩm hạ sanh, vẫn là bất bình đẳng. Lão nhân gia nói “chín phẩm vãng sanh do gặp duyên bất đồng”, người thiện căn mỏng mà gặp duyên tốt đẹp, gặp duyên thù thắng bèn thượng phẩm thượng sanh. Người thiện căn dầy nhưng suốt cả một đời chẳng gặp duyên thù thắng, phẩm vị vãng sanh thấp hơn! Duyên là gì? Duyên là Tín Nguyện Hạnh. Quý vị gặp thiện tri thức, gặp gỡ đồng tham đạo hữu, giúp quý vị kiến lập tín tâm kiên định; đó là duyên thù thắng. Nếu gặp duyên [tức là gặp thiện hữu] chỉ khuyên quý vị niệm Phật, nhưng vì sao niệm Phật vẫn chưa hiểu rõ, chính mình nửa tin nửa ngờ, thiện tri thức cũng chẳng nói rõ ràng, [tức là] gặp duyên kém cỏi hơn, quý vị cũng chẳng rất nghiêm túc niệm Phật. Như vậy thì đương nhiên là phẩm vị vãng sanh phải thấp hơn! Gặp duyên bất đồng thì mới thật sự phù hợp tông chỉ “bình đẳng độ sanh”. Nói thật ra, không chỉ là một đời này, mà là nhiều đời! Nay chúng ta gặp duyên thù thắng khôn sánh, Liên Trì, Ngẫu Ích, lão cư sĩ Hạ Liên Cư, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã giới thiệu Đại Bổn và Tiểu Bổn cặn kẽ dường ấy, duyên này đích xác là hiếm có, khó gặp. Nếu trong một đời này, chúng  ta  chẳng  thể  thượng  phẩm thượng sanh vãng sanh, rất oan uổng!

Ngày hôm qua, tôi nghe pháp sư Diễn Bồi giảng diễn, Ngài thấy những người trẻ tuổi luôn miệng đề cao “nhân gian Phật giáo”. Chư vị đồng tu hãy suy nghĩ kỹ lưỡng, nay chúng ta niệm Phật rốt cuộc là nhân gian Phật giáo hay là thiên thượng Phật giáo? Đối với Tịnh Nghiệp Tam Phước như đức Thế Tôn đã khẩn thiết răn bảo trong Quán Kinh, [chúng ta] ắt phải tuân thủ, quý vị nói xem đó là Phật giáo loại nào vậy? Hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy, tâm từ bi, tu Thập Thiện Nghiệp; đó là nhân thiên Phật giáo. Chẳng làm được bốn điều ấy, chẳng có tư cách thọ Tam Quy, vì Tam Quy Ngũ Giới được kiến lập trên cơ sở nói trên. Nay chúng ta thọ Tam Quy, có khảo hạch xem quý vị đủ tư cách thọ Tam Quy hay không? Hồ đồ mờ mịt mà thọ. Đó gọi là “nhân tình Phật sự” (làm Phật sự theo kiểu tình cảm cá nhân), chẳng biết kẻ ấy có đủ tư cách hay không! Kẻ đó có phải là thật sự hiếu thuận cha mẹ, tôn sư, trọng đạo, tu Thập Thiện Nghiệp hay không? Nếu dựa theo tiêu chuẩn ấy, nói thật thà, chúng ta có tư cách để thọ Tam Quy hay không đều trở thành vấn đề! Lại quay về xem kinh Vô Lượng Thọ, nửa phần sau kinh Vô Lượng Thọ hoàn toàn dạy chúng ta sống như thế nào, xử sự, đãi người, tiếp vật như thế nào! Đấy chính là nhân gian Phật giáo thật sự, chẳng phải là nói lời giả dối.

Nhân, thiên, Nhị Thừa, Bồ Tát, Phật là một! Chẳng thể tách ra. Chúng ta đoạn Kiến Tư phiền não, bèn thay đổi danh xưng, gọi quý vị là A La Hán, chứ người ấy chẳng thay đổi. Ví như quý vị học hành, học đến khi tốt nghiệp Đại Học, người ta gọi quý vị là “phần tử trí thức”. Quý vị giành được học vị Tiến Sĩ, từ nay trở đi, người ta gọi quý vị là Tiến Sĩ. Quý vị có thay đổi diện mạo hay chăng? Vẫn là dáng vẻ ấy, thay đổi danh xưng mà thôi. Quý vị triệt để giác ngộ vũ trụ và nhân sinh, bèn ban cho quý vị một tước hiệu, gọi quý vị là Phật. Do vậy, giới tuyến của Ngũ Thừa Phật pháp ở chỗ nào? Quý vị hãy tìm xem: Giới tuyến ở chỗ nào? Quý vị có thể tìm ra giới tuyến hay không? Tìm ra giới tuyến thì mới có sự khu biệt; tìm chẳng ra giới tuyến, nguyên lai là một Thể.

Kinh Lăng Nghiêm nói “lìa hết thảy tướng chính là hết thảy các pháp”. Tôi lại phải hỏi một câu, “trụ hết thảy tướng” thì câu kế đó sẽ như thế nào? Các vị có hiểu hay không? Vẫn là hết thảy các pháp! Ví như khi quý vị chưa đạt được học vị Tiến Sĩ, quý vị là chính mình, nhưng sau khi đã đạt học vị Tiến Sĩ, vẫn là quý vị, có khác gì chăng? Lìa hết thảy các pháp là giác; trụ hết thảy các pháp là mê. Giác là người ấy, mê vẫn là người ấy, có gì khác nhau? Do vậy, thưa cùng quý vị, mê và ngộ chẳng hai, cùng là một người. Ly và Tức đồng thời, Ly là như thế, mà Tức cũng là như thế. Chư Phật, Bồ Tát sống cùng một chỗ với chúng ta, cũng phải mặc áo, ăn cơm, cuộc sống hằng ngày chẳng khác biệt. Giác là Phật, mê là phàm phu. Người giác ngộ lìa hết thảy tướng, trong tâm chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Người mê trong tâm có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, khác nhau ở chỗ này. “Khắc kỳ” (剋期) là ấn định một kỳ hạn, dụng ý thật sự là ngăn ngừa chúng ta giải đãi. Tiếp theo đây, sẽ giải thích người thế gian coi trọng con số bảy [là như thế nào].

 

(Sao) Thất vi thế trọng giả, như lễ sám viết thất dạ, trì chú viết thất biến, thử kinh lan võng hàng thụ viết thất trùng, nãi chí quốc gia tự tổ viết thất miếu, giáo dân viết thất niên, kiệt thành viết thất nhật trai giới chi loại, thị dã.

()七為世重者,如禮懺曰七夜,持咒曰七遍,此經欄網行樹曰七重,乃至國家祀祖曰七廟,教民曰七年,竭誠曰七日齋戒之類,是也。

(Sao: “Con số bảy được thế gian coi trọng”: Như lễ sám bèn nói là bảy đêm, trì chú bèn nói bảy lần, kinh này đối với lan can, lưới mành, hàng cây bèn nói là bảy tầng, cho đến miếu thờ tổ tiên của quốc gia (miếu thờ tổ tiên của hoàng đế) được gọi là “thất miếu”[25], dạy dân bèn nói là bảy năm[26], dốc hết lòng thành bèn nói là bảy ngày trai giới v.v…, là như thế đó).

Người thế gian có thói quen coi trọng số bảy, nên trong kinh đức Phật hay dùng con số này. Nếu người thế gian coi trọng số tám, đức Phật liền nói tám, Phật chẳng có pháp nhất định để có thể nói. Các vị coi trọng điều này, ta bèn nói tới điều này, khiến cho quý vị chú ý. Người Hoa coi chuyện bị khinh nhục rất nặng, “sĩ khả sát, bất khả nhục” (kẻ sĩ có thể giết, chứ không thể làm nhục). Được rồi! Tổ sư dịch kinh bèn dịch chữ “nhẫn nại” thành “nhẫn nhục”. Vì người Hoa rất coi trọng sự nhục nhã, cho là chẳng thể chịu đựng. Chẳng thể chịu đựng thì vẫn phải nhẫn, [những thứ] có thể nhẫn càng chẳng cần phải nói tới! Có ý nghĩa như thế đó! Đức Phật thuyết pháp khế cơ, khế lý, đức Phật thuyết pháp chẳng lìa Nhị Đế. Nhị Đế là Chân Đế và Tục Đế. Chân Đế là kiến giải của Như Lai, Tục Đế là kiến giải của lũ phàm phu chúng ta. Nói chung, chẳng lìa hai nguyên lý ấy để nói hết thảy các pháp cho mọi người.

 

(Sao) Miễn địa ngục giả.

()免地獄者。

(Sao: Thoát khỏi địa ngục).

Chú giải lời Sớ “thất nhật xưng Phật, miễn địa ngục khổ” (bảy ngày xưng niệm danh hiệu Phật, thoát khỏi nỗi khổ trong địa ngục).

 

(Sao) Kinh Luật Dị Tướng vân: “Hữu vương hại phụ, thất nhật đương đọa địa ngục. Nhất tôn giả giáo kỳ xưng nam-mô Phật, vương tiện nhất tâm xưng Phật, thất nhật bất giải. Mạng chung, chí địa ngục môn, xưng “nam-mô Phật”, biến ngục tội nhân giai đắc giải thoát.

()經律異相云:有王害父,七日當墮地獄。一尊者教其稱南無佛,王便一心稱佛,七日不懈。命終,至地獄門,稱南無佛,遍獄罪人皆得解脫。

(Sao: Sách Kinh Luật Dị Tướng chép: “Có một ông vua hại cha, sau bảy ngày sẽ đọa địa ngục. Một vị tôn giả dạy nhà vua xưng niệm Nam-mô Phật, vua bèn nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật suốt bảy ngày chẳng lười nhác. Khi mạng chung, tới cửa địa ngục, xưng ‘nam-mô Phật’, tội nhân khắp ngục đều được giải thoát”).

Trong Kinh Luật Dị Tướng[27] có một câu chuyện như vậy: Quốc vương giết hại cha, đó là tội Ngũ Nghịch, là tội cực nặng, quả báo là địa ngục A Tỳ. Vì sao niệm Phật bảy ngày có thể miễn trừ địa ngục? Thật sự sám hối. Chư vị ngẫm xem, nếu ông ta chẳng sám hối, làm sao có thể chịu niệm Phật cho được? Chịu niệm Phật là sám hối, quay đầu là bờ. Trong quá khứ, đã lầm lỡ phạm các tội ác chớ sợ, chỉ sợ chẳng chịu quay đầu, không chịu sửa lỗi, đáng ngại lắm! Nho gia nói: “Quá nhi năng cải, thiện mạc đại yên” (Có lỗi mà có thể sửa đổi, không gì tốt lành hơn). Đại thiện là gì? Sửa lỗi là đại thiện. Thật sự có thể niệm Phật, có thể niệm suốt bảy ngày bảy đêm, đó là triệt để hối cải, không chỉ chính mình chẳng đọa địa ngục, mà còn cảm hóa chúng sanh trong địa ngục đều siêu độ.

 

(Sao) Lợi độn giả, hữu vị lợi căn nhất nhật, độn hoặc chí thất.

()利鈍者,有謂利根一日,鈍或至七。

(Sao: “Lợi căn, độn căn”: Có người nói là lợi căn thì một ngày, độn căn thì có thể tới bảy ngày).

Đây là nói tới cái tâm người ta từ tán loạn đạt đến Định. Tâm tán loạn niệm Phật, niệm đến mức tâm đắc Định, niệm đến mức thanh tịnh, người lợi căn có thể đạt được trong một ngày. Người độn căn phải niệm mất vài ngày, thậm chí đến bảy ngày thì mới có thể đạt được. Phải thật sự đổ công dốc sức. Nay chúng ta niệm Phật suốt bảy ngày, tâm vẫn chẳng thanh tịnh, nguyên nhân ở chỗ nào? Vừa niệm Phật, vừa dấy vọng tưởng. Nói cách khác, công phu đã bị phá hoại. Vì thế, bảy ngày, hoặc bốn mươi chín ngày đều chẳng thể thành tựu. Tôi nghĩ rất nhiều đồng tu đều hy vọng thật sự thành tựu, vì sao chẳng thể thành tựu? Có mấy ai đi tìm nguyên nhân khiến [chính mình] chẳng thể thành tựu? Quý vị chẳng đi tìm. Nếu quý vị tìm được nguyên nhân khiến chẳng thể thành tựu, tiêu trừ nguyên nhân ấy, chướng ngại chẳng còn nữa, sẽ có thể thành tựu. Chướng ngại là gì? Nói đại khái sẽ là tham, sân, si, mạn, ngũ dục, lục trần, quý vị chẳng buông xuống được! Vì thế, vừa niệm Phật, vừa thường xuyên có chuyện vướng mắc trong lòng tự nhiên trào ra, nói chung là chẳng buông xuống được. Nhân tố thứ hai là chưa thể chết sạch cái tâm mong ngóng, mưu mẹo, mánh mung. Chẳng tiêu diệt ý niệm ấy, cái tâm niệm Phật của chúng ta chẳng chân thật, chẳng chân thành. Do vậy, đó cũng là chướng ngại trọng đại khiến cho tâm chẳng thể thanh tịnh, chẳng đạt được nhất tâm. Vì lẽ đó, chính mình phải nghiêm túc kiểm thảo, phải tiêu trừ những chướng ngại ấy, triệt để buông xuống. Vì sao cổ nhân có thể, ta chẳng thể? Bất luận nói theo Sự hay Lý, người khác có thể thì ta cũng phải là có thể, đúng như vậy đó. Nếu từ định trở lại tán loạn, người độn căn nhất định là có thể trong một ngày liền mất định, kẻ lợi căn có thể gìn giữ bảy ngày. Tâm thanh tịnh bèn có thể gìn giữ lâu dài như thế, chẳng bị tiêu mất.

 

(Sao) Kim vị lợi độn nhị căn, các nhất chí thất.

()今謂利鈍二根,各一至七。

(Sao: Nay nói đến lợi căn và độn căn thì mỗi căn đều là từ một đến bảy ngày).

Từ một ngày cho đến bảy ngày.

 

(Sao) Lợi căn giả, tánh mẫn tiệp cố, nhất nhật công thành, tức đắc nhất tâm, tiện vô sở loạn.

()利根者,性敏捷故,一日功成,即得一心,便無所亂。

(Sao: Lợi căn là căn tánh nhanh nhạy, một ngày bèn thành công, liền đắc nhất tâm, chẳng bị loạn động).

Niệm một ngày bèn có thể đắc nhất tâm bất loạn. Đối với nhất tâm bất loạn, trừ Sự nhất tâm và Lý nhất tâm ra, mỗi người đều có công phu sâu hay cạn khác nhau. Nếu sâu hay cạn giống hệt nhau, làm sao có thể chia thành chín phẩm cho được? Chín phẩm cũng chẳng thể chia ra. Chia thành chín phẩm, có thể thấy là công phu tối thiểu chia thành chín bậc. Bậc thấp kém nhất còn có tư cách vãng sanh, huống hồ thượng phẩm? Chúng ta thường gọi hạ hạ phẩm Sự nhất tâm là công phu thành phiến. Thành phiến là gì? Có phải là ta suốt ngày từ sáng đến tối trong mười hai thời tâm và miệng Phật hiệu chẳng đoạn bèn gọi là “một phiến” hay không? Tình hình ấy đích xác là giống như thành phiến, [nhưng là] tương tự thành phiến! Thành phiến thật sự là gì? Nếu trong lòng chẳng vướng mắc tất cả hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, trong lòng chỉ còn giữ một câu A Di Đà Phật, đó là công phu thành phiến thật sự. Còn vướng mắc những chuyện khác, chẳng gọi là công phu thành phiến. Cổ nhân nói là niệm câu Phật hiệu đến mức giống như tường đồng vách sắt. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư nói là “phong xuy bất nhập, vũ đả bất thấp” (gió thổi chẳng lọt, mưa tạt chẳng ướt), vẫn vô dụng! Quý vị đạt tới thành phiến trên hình thức, vô ích! Ắt cần phải là trong tâm xác thực chẳng vướng mắc! Cũng có lẽ các đồng tu sẽ nói: “Thật là khó! Chẳng dễ làm được!” Khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ ngỡ hết thảy các pháp là thật, coi chúng là thật, chẳng biết hết thảy các pháp đều là giả. Kinh Kim Cang dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Trong tâm quý vị vướng mắc hết thảy các pháp, chẳng buông xuống được, chẳng thấy thấu suốt, oan uổng! Chúng chẳng phải là chân thật. Đó là lý do khiến chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh chẳng thể thành công! Trở ngại lớn nhất ở ngay chỗ này!

Quý vị có thể thấy thấu suốt hết thảy các pháp thế gian, đó là trí huệ. Thật sự buông xuống hết thảy, chính là công phu! Sau đấy, một câu Phật hiệu, như thường nói “một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”, quý vị mới có thể tương ứng. Có mảy may vướng mắc trong tâm chẳng thể buông xuống, sẽ không tương ứng, phiền phức ở ngay chỗ này. Cũng phải nhận thức rõ ràng hai chữ “tương ứng”. Có những kẻ cứ ngỡ trong tâm ta có Phật hiệu, miệng niệm ra, tai nghe vào, đó là tương ứng. [Thật ra] đó chính là tâm, tai và miệng tương ứng, chẳng tương ứng cùng Phật; đối với chuyện “một niệm tương ứng một niệm Phật”, chẳng tương ứng với Phật! Phật là gì? Phật là tự tánh. Tự tánh là gì? Tự tánh là pháp giới. Chẳng có mảy may vướng mắc nào, tâm ấy sẽ giống như hư không pháp giới, thân và hư không pháp giới giống hệt như nhau, thân cũng chẳng có sai biệt!

Chư vị hãy thấu hiểu cặn kẽ hai câu tôi vừa mới đề cập: “Lìa hết thảy tướng, tức là hết thảy các pháp”“trụ hết thảy tướng, tức là hết thảy các pháp”. “Lìa hết thảy tướng, tức là hết thảy các pháp” chính là bốn thánh pháp giới. “Trụ hết thảy tướng, tức hết thảy các pháp” là lục phàm pháp giới. Tứ thánh và lục phàm chẳng hai, là một, không hai. Vì sao? Đều là hết thảy các pháp, hết thảy các pháp chẳng khác gì nhau! Vậy thì sẽ tương ứng với hết thảy các pháp. Hễ có một niệm chấp trước, sẽ chẳng tương ứng. Hoàn toàn chẳng chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, như thế thì mới tương ứng, như vậy mới là đạt đến nhân sinh rốt ráo viên mãn. Đời người vui sướng khôn sánh, ai mong khổ não dường ấy! Khổ từ đâu mà có? Do quý vị chấp trước mà có. Quý vị chẳng chấp trước, lấy đâu ra khổ? Quý vị có thể thật sự chẳng chấp trước hết thảy các pháp, khổ bèn đoạn sạch, chẳng còn khổ nữa!

 

(Sao) Kỳ sảo độn giả, hoặc nhị, hoặc tam, nãi chí thất nhật, phương đắc thuần nhất. Diệc hữu lợi căn, kinh ư thất nhật, đoan nhiên nhất tâm, chung bất thiểu loạn. Kỳ sảo độn giả, cẩn lục, cẩn ngũ, nãi chí nhất nhật, hoặc tiện tán loạn. Thị cố các hữu lợi độn, bất ưng thiên thuộc.

()其稍鈍者,或二或三,乃至七日,方得純一;亦有利根,經於七日,端然一心,終不少亂;其稍鈍者,僅六僅五,乃至一日,或便散亂。是故各有利鈍,不應偏屬。

(Sao: Kẻ căn tánh hơi độn thì hoặc hai, hoặc ba, cho đến bảy ngày mới được thuần nhất. Cũng có người lợi căn, trải qua bảy ngày, nghiễm nhiên nhất tâm, trọn chẳng bị tán loạn chút nào. Kẻ căn tánh hơi độn, chỉ [giữ được nhất tâm] sáu ngày hoặc năm ngày, thậm chí một ngày bèn tán loạn. Do vậy, đều có lợi căn và độn căn [khác biệt], chớ nên chấp trước).

Nói “thiên thuộc” (偏屬) là bảo quý vị chớ nên chấp trước, những điều này đều là hiện tướng. “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”; tướng có hay không? Tướng có; tuy có, chẳng phải là thật.

 

(Sao) Thập nhật giả, Đại Bổn vân: “Trai giới thanh tịnh, nhất tâm thường niệm, thập trú dạ bất tuyệt giả, mạng chung, tất sanh ngã sát”.

()十日者,大本云:齋戒清淨,一心常念,十晝夜不絕者,命終必生我剎。

(Sao: Mười ngày là như kinh Đại Bổn dạy: “Trai giới thanh tịnh, nhất tâm thường niệm mười ngày đêm chẳng dứt, mạng chung ắt sanh về cõi ta”).

Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đã dạy như vậy. Ngài ấn định kỳ hạn là mười ngày mười đêm, then chốt là “trai giới thanh tịnh, nhất tâm thường niệm”. “Trai giới thanh tịnh” là chẳng hoài nghi, không xen tạp, “thường niệm” là không gián đoạn. Thật sự nắm được điểm quan trọng này, chẳng có ai không thành tựu. Nhất định phải biết những chỗ then chốt trong kinh văn, nhất định phải nắm chắc, thì mới biết cách niệm Phật hiệu như thế nào!

 

(Sao) Hựu Cổ Âm Vương kinh vân: “Nhược thọ trì bỉ Phật danh hiệu, kiên cố kỳ tâm, ức niệm bất vong, thập nhật, thập dạ, trừ xả tán loạn, tất đắc kiến bỉ A Di Đà Phật”.

()又鼓音王經云:若受持彼佛名號,堅固其心,憶念不忘,十日十夜,除捨散亂,必得見彼阿彌陀佛。

(Sao: Kinh Cổ Âm Vương lại nói: “Nếu thọ trì danh hiệu của đức Phật ấy, tâm kiên cố, nghĩ nhớ chẳng quên suốt mười ngày mười đêm, trừ bỏ tán loạn, ắt sẽ được thấy A Di Đà Phật”).

 Kinh Cổ Âm Vương (kinh A Di Đà Phật Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni) cũng nói mười ngày mười đêm, phương pháp chẳng khác, đều là không hoài nghi, không gián đoạn, không xen tạp. Như vậy thì mới có thể thành công.

 

(Sao) Thất thất nhật giả, Đại Tập kinh vân: “Nhược nhân chuyên niệm nhất phương Phật, hoặc hành, hoặc tọa, chí thất thất nhật, hiện thân kiến Phật, tức đắc vãng sanh”.

()七七日者,大集經云:若人專念一方佛,或行或坐,至七七日,現身見佛,即得往生。

(Sao: Bốn mươi chín ngày là như kinh Đại Tập nói: “Nếu ai chuyên niệm vị Phật ở một phương, hoặc đi, hoặc ngồi, cho tới bốn mươi chín ngày, thân hiện tại thấy Phật, liền được vãng sanh”).

Trong kinh Đại Tập[28], đức Phật trọn chẳng chỉ ra vị Phật nào, chẳng đặc biệt nêu rõ A Di Đà Phật. Nói cách khác, hết thảy chư Phật đều có Tịnh Độ, quý vị mong vãng sanh [cõi Tịnh Độ của vị Phật nào], sử dụng phương pháp niệm Phật này đều có thể mãn nguyện. Huống hồ bổn nguyện của A Di Đà Phật là dùng danh hiệu để tiếp dẫn hết thảy chúng sanh. Do vậy, niệm A Di Đà Phật càng thù thắng hơn!

 

(Sao) Cửu thập nhật giả, Bát Châu Tam Muội kinh vân: “Nhược nhân tự thệ, cửu thập nhật trung, thường hành, thường lập, nhất tâm hệ niệm, ư tam-muội trung, đắc kiến A Di Đà Phật”.

()九十日者,般舟三昧經云:若人自誓,九十日中常行常立,一心繫念,於三昧中得見阿彌陀佛。

(Sao: “Chín mươi ngày”: Kinh Bát Châu Tam Muội chép: “Nếu có người tự thề, trong chín mươi ngày, thường đi, hoặc thường đứng, nhất tâm hệ niệm, trong tam-muội sẽ được thấy A Di Đà Phật”).

Tu Bát Châu tam-muội khá khó khăn. Thời gian rất dài, chín mươi ngày! “Chín mươi ngày” là suốt chín mươi ngày đêm chẳng được ngủ, chẳng được ngồi xuống, có thể đứng, có thể nhiễu Phật, có thể đi lại, nhưng chẳng thể ngồi hoặc nằm xuống. Chư vị ngẫm xem: Kẻ bình phàm chẳng thể tu Bát Châu tam-muội, kẻ bình phàm chẳng có năng lực ấy. Phải là kẻ trẻ tuổi, phải có sức lực, phải có tinh thần thì mới có thể tu Bát Châu tam-muội.

“Nhất tâm hệ niệm”, [nói tới] nhất tâm là đã bao gồm “yếu lãnh” (cương lãnh trọng yếu) của việc tu hành. Trong tâm quý vị còn có vọng tưởng, chấp trước, sẽ chẳng phải là nhất tâm. Hễ còn có nghi hoặc, cũng chẳng phải là nhất tâm.

 

(Sao) Hựu Văn Thù Bát Nhã vân: “Cửu thập nhật trung, đoan tọa Tây hướng, chuyên niệm ư Phật, tức thành tam-muội”.

()又文殊般若云:九十日中,端坐西向,專念於佛,即成三昧。

(Sao: Kinh Văn Thù Bát Nhã lại nói: “Trong chín mươi ngày, ngồi ngay ngắn hướng về Tây, chuyên niệm đức Phật, liền thành tam-muội”).

Văn Thù Bát Nhã là ngồi niệm, Bát Châu Tam Muội là đứng niệm, đều lấy chín mươi ngày làm kỳ hạn, rất khó, chẳng dễ dàng.

 

(Sao) Nhất nhật giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Nhất tâm hệ niệm ư ngã, tuy chỉ nhất trú dạ bất tuyệt, tất sanh ngã sát”. Thập niệm giả, Quán Kinh hạ hạ phẩm vân: “Kỳ nhân khổ bách, bất hoàng niệm Phật, thập thanh xưng Phật” đẳng. Tắc tri nhất nhật chí thất, tùy nhật đa thiểu, giai vãng sanh kỳ, cố lực hành hà như nhĩ.

()一日者,大本法藏願云:一心繫念於我,雖止一晝夜不絕,必生我剎。十念者,觀經下下品云,其人苦迫,不遑念佛,十聲稱佛等。則知一日至七,隨日多少,皆往生期,顧力行何如耳。

(Sao: “Một ngày” là như trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Nhất tâm hệ niệm ta, tuy chỉ một ngày đêm chẳng dứt, ắt sanh về cõi ta”. “Mười niệm” là như trong phần hạ hạ phẩm [vãng sanh] của Quán Kinh có nói: “Người ấy bị sự khổ bức bách, chẳng rảnh rỗi để niệm Phật [bằng cách quán tưởng, bèn dạy cho người ấy] xưng danh hiệu Phật mười tiếng” v.v…. Do đó, biết từ một ngày cho tới bảy ngày, bất luận số ngày nhiều hay ít, đều là kỳ hạn [ấn định nhằm tu tập để được] vãng sanh xét theo khả năng [của hành nhân] như thế nào đó thôi).

 Đây là pháp Thập Niệm được nói trong Quán Kinh; một niệm hay mười niệm trong Quán Kinh đều được kinh Vô Lượng Thọ nói rất cặn kẽ. Bất luận là Sự, Lý, hay cảnh giới, đều nói rất nhiều. Điều khẩn yếu là thật thà niệm Phật, ấn định kỳ hạn để cầu chứng nhập, khiến cho chính mình thật sự tinh tấn chẳng biếng nhác, mục đích là ở chỗ này.

 

(Sao) Hối minh nhất châu giả, tùng Tý chí Ngọ, nãi tự hối nhi minh; tùng Ngọ chí Tý, nãi tự minh nhi hối. Thị vi thiên đạo nhất trú dạ.

()晦明一周者,從子至午,乃自晦而明;從午至子,乃自明而晦。是為天道一晝夜。

(Sao: “Một chu kỳ sáng tối”: Từ giờ Tý đến giờ Ngọ là từ tối đến sáng; từ giờ Ngọ đến giờ Tý là từ sáng đến tối. Đó là một ngày đêm trong trời đất).

 Giờ Tý là từ mười một giờ đêm cho đến một giờ [sáng]. Giờ Ngọ là từ mười một giờ trưa cho đến một giờ [chiều]. Từ giờ Tý vào ban đêm cho đến giờ Ngọ ngày hôm sau là từ tối đến sáng; từ giờ Ngọ cho đến giữa đêm là từ sáng đến tối, [gọi gộp chung] là “hối minh nhất châu” tức là một ngày đêm.

 

(Sao) Phù tâm cố sát-na sanh diệt, huống trú dạ hồ, ư thử nhất tâm, sở vị “nhị lục thời trung, niệm niệm vô gián” giả dã.

()夫心固剎那生滅,況晝夜乎,於此一心,所謂二六時中,念念無間者也。

(Sao: Ôi! Tâm vốn sanh diệt trong từng sát-na, huống là ngày đêm ư? Đối với nhất tâm, bèn nói là “trong mười hai thời, niệm niệm chẳng gián đoạn” vậy).

Nói rõ bổn ý trong kinh Phật, dạy chúng ta niệm Phật đừng gián đoạn. Vì thế, nhất định phải phấn chấn tinh thần, lo liệu đại sự sanh tử của chính mình. Người học Phật chớ nên không biết: Người có thể lo liệu sanh tử đại sự, há có lẽ nào đời người chẳng hạnh phúc mỹ mãn? Lớn có thể bao gồm nhỏ, nhỏ chẳng bao gồm lớn. Vô thượng Phật thừa quyết định bao gồm nhân thiên, nhưng nhân thiên chẳng thể bao gồm vô thượng Phật thừa, đấy là đạo lý nhất định.

Nhưng học Phật thì phải khởi đầu từ học làm người. Làm người chẳng xong, lẽ đâu có thể thành Phật cho được? Do vậy, trước khi Thích Ca Mâu Ni Phật dạy phu nhân Vi Đề Hy phương pháp cầu sanh Tịnh Độ, bèn dạy bà ta tu Tam Phước trước. Quý vị muốn thành Phật, phải làm người tốt đẹp trước đã. Làm người chẳng trọn vẹn, chẳng có hy vọng thành Phật!

 

(Sớ) Hựu thử thất nhật, bất tất định thị lâm chung thất nhật, dĩ bình thời hữu như thị định lực giả, tất sanh bỉ quốc.

()又此七日,不必定是臨終七日,以平時有如是定力者,必生彼國。

(Sớ: Lại nữa, “bảy ngày” không nhất định là bảy ngày khi lâm chung. Do lúc thông thường mà có định lực như thế, ắt sẽ sanh về cõi kia).

Đoạn khai thị này vô cùng trọng yếu, trọng yếu là công phu trong lúc thường nhật, ngàn muôn phần chớ nên sơ sót, coi nhẹ.

 

(Sao) Bình thời giả, khủng nhân chấp thất nhật chi văn, vị tất nhất nhật chí thất nhi tiện mạng chung, phương danh thất nhật.

()平時者,恐人執七日之文,謂必一日至七而便命終,方名七日。

(Sao: “Lúc thông thường”: Sợ người ta chấp vào câu chữ “bảy ngày” rồi cho rằng: Ắt phải là từ một ngày cho tới bảy ngày liền mạng chung thì mới gọi là bảy ngày).

Sợ người ta sẽ hiểu lầm [kinh văn nói] “bảy ngày”, đại khái là bảy ngày trước khi lâm chung, niệm Phật bảy ngày bèn vãng sanh. Sợ người ta hiểu lầm ở chỗ này.

 

(Sao) Cố ngôn “hoặc lâm chung, hoặc bình thời, đản hữu nhất nhật hoặc thất nhật chi Định lực giả, giai đắc vãng sanh” dã. Sở vị “nhàn thời biện, mang thời dụng”, hậu chí mạng chung, nhân quả tương phù, tất sanh bỉ quốc.

()故言或臨終、或平時,但有一日或七日之定力者,皆得往生也。所謂閒時辦,忙時用,後至命終,因果相符,必生彼國。

(Diễn: Vì thế, nói: “Hoặc khi lâm chung, hoặc lúc bình thời, nhưng người có định lực từ một ngày cho đến bảy ngày đều được vãng sanh”. Đó gọi là “lo toan lúc rảnh rỗi để dùng khi bận bịu”, sau này, đến khi mạng chung, nhân và quả phù hợp lẫn nhau, ắt sanh sang cõi kia).

Mấy câu này rất khẩn yếu: Niệm lúc bình thường, niệm đến mức tâm thanh tịnh, phải giữ cho cái tâm thanh tịnh ấy chẳng bị mất đi. Nếu muốn gìn giữ vĩnh viễn thì phải là “tin sâu nhân quả” như trong Tam Phước của Quán Kinh mới hòng thật sự là duy trì vĩnh viễn. Vì sao? Người thật sự tin sâu nhân quả, tâm sẽ định, chẳng sợ hãi, chẳng bị tán loạn. Người thế gian sợ nhất là sống không nổi! Luôn vì áo cơm mà phiền não! Người thật sự tin sâu nhân quả, biết “một miếng ăn, một hớp uống đều đã định trước”, chẳng cần phải bận lòng vì những chuyện ấy. Hằng ngày bận tâm thì cuộc sống của quý vị vẫn là như thế, mà chẳng quan tâm thì vẫn sống như thế, chẳng thể nói “không quan tâm, sẽ sống không nổi!” Vẫn chưa nghe nói [có một ai không bận tâm cơm áo mà chẳng sống được], sự bận tâm ấy há chẳng phải là nhọc trí oan uổng ư? Suốt một đời, Ấn Quang đại sư cực lực đề xướng Liễu Phàm Tứ Huấn nhằm khiến cho mọi người thật sự giác ngộ, thật sự nhận biết sự thật này, chẳng bận tâm, chẳng còn dấy vọng tưởng. Số mạng cả một đời người đã được định sẵn, quý vị còn bận tâm để làm gì? Dẫu cho số mạng chẳng tốt đẹp, cũng phải hứng chịu. Vì sao mạng chẳng tốt? Đời trước đã tạo ra cái nhân chẳng tốt đẹp. Nếu muốn số mạng tốt đẹp, chỉ đành trong hiện thời tạo cái nhân tốt, sửa đổi vận mạng của chính mình, thay đổi tái tạo vận mạng của chính mình. Sách Liễu Phàm Tứ Huấn nói hết sức thấu triệt, bận tâm để làm gì? Xác thực là không chỉ học Phật, ngay cả làm người cũng đều phải lấy sách ấy làm cơ sở, làm căn bản. Chẳng có những thứ ấy, bàn đến Phật pháp chi nữa, làm sao có thể học Phật cho được? Đấy mới là điều khẩn yếu thật sự, [sách ấy] cũng giống như một bộ kinh điển, chẳng kém gì kinh điển!

Tâm chúng ta quả nhiên là “chẳng tranh với người, chẳng cầu nơi đời”, tâm bèn định, tri túc thường lạc (biết đủ, thường vui), thỏa mãn với cuộc sống hiện thực, hễ thỏa mãn bèn vui sướng. Có người nói: “Như vậy thì chẳng khỏi là quá tiêu cực, xã hội làm sao có thể tiến bộ cho được?” Chắc chắn chẳng phải là tiêu cực, mà cũng chắc chắn chẳng ngăn trở xã hội tiến bộ. Xã hội càng tiến bộ, đời sống càng mỹ mãn, vì sao? Khi ấy, thật sự biết vì chúng sanh phục vụ.

Khi tiên sinh Liễu Phàm chưa hiểu rõ, ông rất tiêu cực; sau khi đã hiểu rõ, bèn hết sức tích cực, chẳng tiêu cực. Có vị Bồ Tát nào tiêu cực? Có vị Phật nào tiêu cực? Chúng ta chưa hề thấy, thậm chí ngay cả một vị A La Hán tiêu cực cũng chẳng tìm thấy. Thật sự có thể tìm được kẻ tiêu cực trong hàng trời người, chứ đối với Thanh Văn, Duyên Giác, chư Phật, Bồ Tát sẽ chẳng tìm thấy! Các Ngài đều tích cực phát tâm vì hết thảy chúng sanh phục vụ.

Do vậy, công phu niệm Phật phải dưỡng thành trong lúc thường nhật, đến khi lâm chung mới hữu dụng. Thường ngày chẳng dưỡng thành, khi lâm chung, tay cuống chân loạn, vô dụng! Vì thế, chuyện gì cũng đều phải xem nhẹ, chớ nên riết róng, phá tan cửa ải “được, mất”, tuyệt đối chẳng có tâm được mất. Hễ đạt được, bèn coi giống như trong mơ đạt được; mất đi thì cũng như mất mát trong giấc mộng, như vậy là tốt. Có được mất hay không? Có, nhưng chẳng quan tâm đến chuyện được hay mất, chẳng có tí nào dính dáng đến ta, lẽ nào tâm quý vị chẳng thanh tịnh? Khi ấy, công phu niệm Phật mới đắc lực!

Người thật sự tu đạo, tinh tấn nơi đạo nghiệp, đối với sự nghiệp bèn tùy duyên. Duyên thù thắng bèn làm nhiều, chẳng có duyên bèn không làm thì mới tự tại. Lần này, pháp sư Diễn Bồi đến trụ tại giảng đường của chúng ta, các đồng tu Đài Loan đều cảm thấy bất ngờ, nghĩ cách nào cũng không hiểu vì sao Sư đến trụ tại giảng đường của chúng ta? Thật ra, Sư muốn xem chúng ta rốt cuộc đang làm gì? Ở lại nhiều ngày như vậy, Sư thấy sự nghiệp của chúng ta là tùy duyên, chẳng hóa duyên, chẳng phải là suy nghĩ kế hoạch, năm nay chúng ta phải làm những gì? Chẳng làm chuyện ấy, đó là dấy vọng tưởng! Ngày mai còn chưa tới! Nghĩ tới chuyện ngày mai là dấy vọng tưởng. Do đó, chúng ta chẳng có kế hoạch. Chúng ta cũng chẳng hỏi xin tiền ai! Chúng ta giữ vững một nguyên tắc: “Nhiều chuyện chẳng bằng ít chuyện, ít chuyện chẳng bằng vô sự”. Tâm sẽ tự tại lắm! Nhưng nếu người ta biếu tiền, chúng ta phải làm thay cho họ. Họ biếu nhiều bèn làm nhiều, biếu ít bèn làm ít. Chẳng biếu là tốt nhất, chúng ta chẳng phải làm, vui sướng lắm! Lần này, Sư thấy mọi người ở cùng một chỗ, đối xử hoan hỷ với nhau, vui sướng lắm! Sự vui sướng ấy, nói thật ra là do đức Phật đã dạy, chúng ta làm theo nên mới đạt được vui sướng.

Lý tưởng của chúng ta là giúp đỡ hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Mục tiêu của chúng ta, xét theo mức độ gần, sẽ là cá nhân hạnh phúc, gia đình mỹ mãn, xã hội hài hòa, thế giới hòa bình; mức độ xa là chúng ta mong sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quý vị nói xem: Phật pháp của chúng ta là nhân thừa hay thiên thừa? Vì thế, tuyệt đối chớ nên nói suông, chúng ta thật sự đạt được! Hạnh phúc mỹ mãn, đó là nhân gian Phật giáo thật sự, hết sức thực tiễn, sung sướng, vui vẻ. Chẳng dấy vọng tưởng, chẳng dối gạt mình, chẳng lừa gạt người, ứng dụng giáo huấn trong kinh điển vào cuộc sống hằng ngày; đó gọi là học Phật.

Đoạn lớn kế tiếp rất dài, chiếm đến một phần tám của toàn bộ kinh văn, nhằm giải thích “nhất tâm bất loạn”. Đây là trọng điểm của kinh Di Đà, đặc biệt là tác phẩm Di Đà Kinh Sớ Sao.

 

(Sớ) Nhất tâm bất loạn, ngôn chấp trì chi cực dã, thị vi nhất kinh yếu chỉ.

()一心不亂,言執持之極也,是為一經要旨。

(Sớ: Nhất tâm bất loạn là nói chấp trì đến mức cùng tột, đây là tông chỉ chánh yếu của cả bộ kinh).

Câu này là nói tổng quát, nêu ra tổng cương lãnh.

 

(Sao) Tâm giả, giản khẩu tụng, nhi tâm bất niệm dã.

()心者,揀口誦而心不念也。

(Sao: [Nói là] “tâm” nhằm loại trừ chuyện miệng tụng, tâm chẳng niệm).

Chú trọng nhất tâm bất loạn.

 

(Sao) Nhất giả, giản tâm tuy niệm, nhi niệm bất nhất dã.

()一者,揀心雖念而念不一也。

(Sao: [Nói là] “nhất” nhằm loại trừ trường hợp tâm tuy niệm, nhưng niệm chẳng chuyên nhất).

Mỗi một chữ đều vô cùng trọng yếu. Niệm Phật chú trọng tâm niệm. Miệng niệm mệt mỏi có thể nghỉ ngơi, không niệm chẳng sao, trong tâm chẳng thể không có Phật. Nếu trong tâm có Phật, miệng chẳng niệm không sao. Trong tâm chỉ có thể có một vị Phật, chẳng thể có hai vị Phật, vì hai vị Phật sẽ là hai niệm, đó là nhị tâm niệm Phật. Vậy là chẳng thể được, phải là nhất tâm, phải chuyên nhất.

 

(Sao) Bất loạn giả, giản niệm tuy nhất, nhi hữu thời hồ bất nhất dã.

()不亂者,揀念雖一而有時乎不一也。

(Sao: [Nói] “bất loạn” là loại trừ trường hợp niệm tuy chuyên nhất, nhưng có lúc chẳng chuyên nhất).

“Bất loạn” là nhất tâm đạt tới mức độ thuần thục, vì hễ có một tạp niệm sẽ loạn.

 

(Sao) Nhất tâm bất loạn, tịnh nghiệp chi năng sự tất hỹ.

()一心不亂,淨業之能事畢矣。

(Sao: Nhất tâm bất loạn thì tịnh nghiệp mới có thể hoàn tất).

 Nhất tâm bất loạn, từ Sự đến Lý có các mức độ sai biệt. Nếu phân loại đại khái, Lý [nhất tâm] có chín phẩm, Sự [nhất tâm] cũng có chín phẩm. Lại chia chi tiết hơn, mỗi cõi trong bốn cõi [Tịnh Độ] lại có chín phẩm, bốn lần chín là ba mươi sáu phẩm, Lý nhất tâm gồm ba mươi sáu phẩm, Sự nhất tâm cũng gồm ba mươi sáu phẩm. Đây là vẫn phân chia thô lược, phân chia đại khái. Tuy đều đạt tới nhất tâm bất loạn, nhưng trong nhất tâm bất loạn còn có mức độ sâu hay cạn khác nhau!

 

(Diễn) Khẩu tụng nhi tâm bất niệm giả, khẩu tụng Phật danh, tâm trì vạn cảnh, thị vi độc Phật, phi niệm Phật dã, dĩ niệm tùng tâm cố.

()口誦而心不念者,口誦佛名,心馳萬境,是為讀佛,非念佛也,以念從心故。

(Diễn: “Miệng tụng mà tâm chẳng niệm” là miệng tụng danh hiệu Phật, tâm rong ruổi theo muôn cảnh. Đó là đọc danh hiệu Phật, chẳng phải là niệm Phật, vì niệm xuất phát từ tâm).

 Trong “đọc” chẳng có tâm, đó gọi là đọc Phật, chẳng phải là niệm Phật. Niệm Phật là có tâm, [niệm (念) là] kim tâm (今心), [nghĩa là] cái tâm hiện tại là Phật, Phật là tâm, đó mới là niệm Phật. Đọc Phật thì chẳng có tâm, nơi miệng niệm rất to tiếng, trong tâm suy nghĩ loạn cào cào, đều là đọc Phật. Đọc Phật lớn tiếng, vô dụng!

 

(Diễn) Tâm tuy niệm nhi niệm bất nhất giả, tuy tâm niệm Phật, tịnh uế giao trì, thị tuy niệm Phật, phi nhất tâm dã. Dĩ nhất tâm giả thuần tịnh cố.

()心雖念而念不一者,雖心念佛,淨穢交馳,是雖念佛,非一心也。以一心者純淨故。

(Diễn: “Tâm tuy niệm, nhưng niệm chẳng chuyên nhất”: Tuy tâm niệm Phật mà tịnh uế xen lẫn, đấy là tuy niệm Phật, nhưng chẳng nhất tâm. Bởi lẽ, nhất tâm là thuần tịnh).

Tâm chẳng thanh tịnh, không thanh tịnh là có xen tạp. Niệm Phật có xen tạp bèn chẳng chuyên nhất, chuyên nhất thì chẳng thể có xen tạp.

 

(Diễn) Niệm tuy nhất nhi hữu thời bất nhất giả, tuy thiểu thời nhất tâm, hậu phục hoàn loạn. Sở vị “triêu tắc cần, nhi mộ tắc đãi, nhất nhật bạo chi, thập nhật hàn chi”, thị tuy nhất tâm hoàn phục loạn dã. Dĩ bất loạn tại vô gián cố, giai phi tịnh nghiệp chi năng sự dã.

()念雖一而有時不一者,雖少時一心,後復還亂。所謂朝則勤,而暮則怠,一日暴之,十日寒之,是雖一心還復亂也。以不亂在無間故,皆非淨業之能事也。

(Diễn: “Niệm tuy nhất mà có lúc chẳng chuyên nhất”: Tuy chuyên nhất một thời gian ngắn, sau đó bị loạn trở lại. Thường nói là “sáng siêng, tối lười, một ngày nóng, mười ngày lạnh”. Đó là tuy đã nhất tâm rồi lại loạn. Do bất loạn phải là chẳng gián đoạn, cho nên những tâm ấy đều chẳng thể hoàn thành tịnh nghiệp được).

Lời này rất rõ ràng, minh bạch! Cốt yếu là niệm chẳng gián đoạn. Gián đoạn sẽ chẳng chuyên nhất. Dẫu có lúc đạt đến nhất tâm, nhưng sau mấy tiếng đồng hồ lại thoái chuyển, lại loạn. Chư vị hãy suy xét cặn kẽ nguyên nhân ở chỗ nào? Tôi cũng đã thưa cùng mọi người, hãy thật sự thấu hiểu cặn kẽ, truy cứu, phải tìm cho ra. Đó mới là chuyện đại sự bậc nhất trong cuộc đời chúng ta. Hiện thời là thời Mạt Pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng, có rất nhiều kẻ chất vấn: “Một câu A Di Đà Phật đơn giản như vậy, có được hay không? Có đáng tin cậy hay không? Suốt một đời dựa vào một bộ kinh có thể thành tựu hay không? Nếu nương theo một bộ kinh mà thành tựu, vì sao đức Phật nói kinh điển nhiều dường ấy? Nói pháp môn nhiều ngần ấy?” Nghe ra cũng rất có lý! Chúng ta nghe xong tâm có bị dao động hay không? Có biến đổi ý niệm hay không? Đó là điểm then chốt khiến cho chúng ta thành hay bại trong cả một đời. Vì thế, niệm Phật đòi hỏi phải thật thà niệm Phật. “Thật thà” thì tiếp xúc cảnh giới bên ngoài càng ít càng tốt. Chúng ta cũng chẳng cần tranh luận cùng kẻ khác. Họ tu pháp của họ, ta tu pháp của ta thì mới có thành tựu để trông mong. Hôm nay tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 227

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm bốn mươi bảy:

 

(Sớ) Thích thử tứ tự, tiên tổng minh đại ý, thứ nãi tường trần Sự Lý. Đại ý vị “nhất, loạn” thị chánh phản ngữ, chánh ngữ nhất tâm, phản ngữ bất loạn.

()釋此四字,先總明大意,次乃詳陳事理。大意謂一亂是正反語,正語一心,反語不亂。

(Sớ: Giải thích bốn chữ này, trước hết là nêu tổng quát đại ý, kế đến là trình bày cặn kẽ Sự và Lý. Đại ý là “nhất” và “loạn” là những từ ngữ được nói [theo hai phương diện] thuận và nghịch: Nói theo chiều thuận là “nhất tâm”, nói theo phía tương phản là “bất loạn”).

Bốn chữ ấy chính là“nhất tâm bất loạn”; câu này là cốt lõi của kinh Di Đà, là một câu khai thị hết sức quan trọng. Nói tổng quát đại ý thì “nhất” là nhất tâm, “loạn” là nói tới bất loạn. Nói “nhất” hay nói “loạn” chính là nói theo phương diện thuận hay nghịch. Nói theo chiều thuận sẽ là “nhất tâm”, nói tương phản sẽ là “bất loạn”.

 

(Sao) Nhất tắc bất loạn, loạn tắc bất nhất, hữu kỳ nhất tâm, vô kỳ loạn tâm, cố vân “chánh, phản”. Như ngôn “thuần nhất bất tạp, tinh nhất vô nhị” chi loại, thị dã.

()一則不亂,亂則不一,有其一心,無其亂心,故云正反。如言純一不雜,精一無二之類,是也。

(Sao: “Nhất” là bất loạn, hễ loạn sẽ chẳng nhất. Hễ có nhất tâm, sẽ chẳng có loạn tâm. Vì thế, nói là “thuận và nghịch”. Như nói “thuần nhất chẳng tạp, ròng rặt, chẳng hai” v.v… chính là theo ý nghĩa này).

Niệm Phật có thể thật sự sanh về Tịnh Độ hay không, then chốt ở ngay chỗ này. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã bảo chúng ta: “Có thể vãng sanh hay không được quyết định bởi có tín nguyện hay không?” Nói cách khác, quý vị có tín tâm hay không? Có nguyện tâm hay không? Có tín và có nguyện, quyết định vãng sanh. Xét theo phẩm vị vãng sanh, Tây Phương Tịnh Độ có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm: “Phẩm vị cao hay thấp được quyết định bởi công phu niệm Phật sâu hay cạn”. Công phu sâu là tâm thanh tịnh; công phu cạn là tâm tán loạn, điều này có quan hệ chặt chẽ với Tín và Nguyện. Tin thật sự, nguyện thiết tha, tâm thường chuyên nhất. Vì sao? Người ấy nhất tâm nhất ý chuyên cầu Tịnh Độ, đối với các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều chẳng phan duyên, đấy mới là Tín. Tin Tây Phương Tịnh Độ, lại tin tham Thiền, lại tin trì giới, lại tin niệm chú, đó chẳng phải là chân tín, chẳng phải là Tín. Lại còn nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vừa nguyện có tiếng tăm, lợi dưỡng trong hiện tiền. Đó chẳng phải là Nguyện. Nguyện của quý vị quá tạp, quá nhiều. Ở đây, [tổ Liên Trì] muốn nói tới sự chuyên nhất, “tinh nhất vô nhị” là nhấn mạnh điều này.

Người thật sự chuyên nhất ý chí, đích xác là tự nhiên buông xuống vạn duyên. Nhà khoa học dốc toàn bộ tinh thần làm thí nghiệm, ngay cả ăn lẫn ngủ đều quên bẵng, thời gian cũng quên khuấy, làm việc chẳng biết tới thời gian. [Có trường hợp] nhà khoa học Âu Tây đói bụng, luộc trứng gà, kết quả là đã bỏ cái đồng hồ đeo tay của chính mình vào nồi luộc! Nhìn từ chỗ này, [có thể] thấy người ấy dụng tâm chuyên chú. Tín tâm và nguyện tâm của chúng ta phải chuyên như vậy thì mới được. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đã nói: “Nếu người thật tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”. Một người thật sự tu đạo, tâm chuyên chú nơi đạo, chuyện gì trong thế gian người ấy cũng chẳng màng, chẳng có thời gian để hỏi tới, thị phi, nhân ngã thảy đều chẳng biết, tâm người ấy chuyên chú nơi công phu. Đó là bậc tu đạo thật sự. Người tu Tịnh Độ, tâm chuyên chú nơi y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương; trong mười hai thời, khởi tâm động niệm tưởng Tây Phương Cực Lạc thế giới, hễ nghĩ bèn nghĩ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, hễ niệm bèn niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đấy chính là “trọn đủ Tín Nguyện Hạnh”. Hội đủ ba điều kiện ấy, người đó quyết định vãng sanh. Thiện Đạo đại sư bảo: “Trăm người tu, trăm người vãng sanh; ngàn người tu, ngàn người vãng sanh”. Chẳng sót một ai! Cái tâm còn tạp, còn loạn, còn dấy vọng tưởng, sẽ chẳng thể vãng sanh! Ngàn muôn phần chúng ta phải ghi nhớ điều này.

Có các đồng tu đến hỏi tôi: “Tiêu nghiệp chướng sâu nặng bằng cách nào? Làm thế nào thì mới có thể sám trừ nghiệp chướng?” Chư vị hãy nghĩ xem, người ấy có thể tiêu nghiệp chướng được hay chăng? Chẳng thể tiêu nổi! Vì sao chẳng thể tiêu nổi? Suốt ngày từ sáng đến tối luôn tăng trưởng nghiệp chướng! Nghiệp chướng là gì? Dấy vọng tưởng là nghiệp chướng. Suy Đông nghĩ Tây, suy trước nghĩ sau, đó là nghiệp chướng. Tiêu trừ nghiệp chướng như thế nào? Niệm A Di Đà Phật, nghiệp chướng liền tiêu trừ, vì một câu A Di Đà Phật chẳng phải là nghiệp chướng. Chẳng niệm A Di Đà Phật bèn dấy vọng tưởng; đó là nghiệp chướng hiện tiền. Chư vị hãy ngẫm xem, phương pháp nào tiêu trừ nghiệp chướng hữu hiệu nhất? Chính là niệm Phật. Niệm Phật, đọc kinh, quyết định tiêu trừ nghiệp chướng. Đọc kinh thì chẳng được nghiên cứu; hễ nghiên cứu, sẽ lại biến thành nghiệp chướng! Làm sao có thể nghiên cứu kinh cho được? Kinh là nghĩa chân thật của Như Lai; ta chưa thành Như Lai, làm sao có thể hiểu nghĩa chân thật của Như Lai? Về căn bản là chẳng thể nào! Do đó, quý vị hãy thật thà niệm. Niệm kinh bèn tiêu nghiệp chướng; nghiên cứu kinh sẽ tăng trưởng nghiệp chướng. Chuyện này chẳng do tôi đặt ra, mà do Thanh Lương đại sư đã nói. Tâm quý vị vẫn là loạn tâm, tạp tâm, vẫn là cái tâm nhiễm ô. Nhiễm ô là trong tâm có tham, sân, si, mạn, những gì quý vị hiểu về Phật pháp toàn là tà tri tà kiến, vì quý vị chẳng đoạn phiền não. Đoạn phiền não, Phật pháp do quý vị đã hiểu sẽ được gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác, khác hẳn! Đoạn Kiến Tư phiền não, tri kiến sẽ là Chánh Giác. Chẳng đoạn Kiến Tư phiền não, đều là tà tri tà kiến. Bản thân chúng ta nhất định phải nhận biết rõ ràng điều này. Chúng ta chưa đoạn Kiến Tư phiền não, hãy thật thà niệm Phật, sẽ tiêu nghiệp chướng, phá vô minh, đoạn tà kiến.

“Nhất” rất trọng yếu, [Nhất có nghĩa là] thuần nhất, chẳng tạp. Có những kẻ cảm thấy một quyển kinh, một Phật hiệu quá đơn giản, sau khi niệm một khoảng thời gian bèn hoài nghi, chỉ sợ [hành trì theo] kiểu này không được, chẳng đáng tin cậy! Không sao cả! Quý vị cảm thấy cách nào đáng tin cậy cứ chọn cách đó. Quý vị chẳng sợ phiền phức thì kinh Hoa Nghiêm nhiều lắm, hãy học Hoa Nghiêm đi, kinh ấy chẳng đơn giản! Duy Thức có rất nhiều thứ, [tông ấy có] sáu kinh, mười một luận [căn bản][29], lại còn có chú sớ của tổ sư đại đức, tổng cộng hơn mấy trăm loại, chẳng đơn giản! Thích từ môn nào bèn vào từ môn đó. Nếu nghĩ pháp môn này quá đơn giản, chẳng đáng tin cậy cho lắm, quý vị hãy hành theo những bộ đại kinh, đại luận đó! Bởi lẽ, vô lượng pháp môn trong Phật pháp nhằm thích hợp các loại căn cơ khác nhau để cho quý vị tự do chọn lựa. Nói thật ra, do sợ phiền phức, chúng ta mới chọn lựa pháp môn này. Đầu óc chúng ta đơn giản, nên chọn lựa một pháp đơn giản, dễ dàng, chẳng tốn công sức gì, chúng ta đi theo đường lối này. Nếu quý vị chẳng sợ phiền phức, chuộng rườm rà, trong Phật môn có rất nhiều thứ phức tạp, rườm rà. Đây là lòng đại từ đại bi của đức Phật.

Pháp môn này nhấn mạnh “thuần nhất chẳng tạp”. Phải áp dụng thuần nhất chẳng tạp vào khởi tâm động niệm trong cuộc sống, đó là tu hành. Từ sáng đến tối thường giữ cho tâm chuyên nhất, tâm người ấy (người tu pháp môn Tịnh Độ) chỉ có một chuyện là A Di Đà Phật. Kẻ khác khen ta hay, chê ta dở, ta thảy đều chẳng nghe, ta chỉ là “A Di Đà Phật”. Người khác bảo ta đúng, hoặc chê ta sai, chẳng liên quan gì đến ta, ta vẫn “A Di Đà Phật”, đó là đúng. Hễ hơi bị dao động bởi cảnh giới, tâm ta sẽ loạn, sẽ tạp, đã bị nhuốm bẩn, như vậy sẽ chẳng phải người niệm Phật, chẳng phải là tu Tịnh Độ. Người tu Tịnh Độ phải tu gì? Thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe. Ở chung một chỗ với kẻ khác, gật gù ứng phó cho qua chuyện, người ta nói gì cũng gật đầu, “đúng vậy, đúng vậy”. “Đúng vậy, đúng vậy” cả buổi, kẻ khác hỏi: “Hắn nói chi đó?” Chẳng biết! “Chẳng biết” là đúng đấy! Trong tâm ta chỉ có A Di Đà Phật, đúng là như vậy, chớ nên chẳng [gật gù đồng ý với ý kiến của kẻ khác] cho xong chuyện! Đấy chính là “kính nhi viễn chi” như cổ đức đã dạy. Thái độ và tướng mạo của chúng ta rất cung kính, “viễn” (遠) là “kẻ ấy nói gì, ta chẳng nghe thấy”, chẳng phải là “lánh thật xa kẻ đó”. Thường gìn giữ tâm địa của chính mình “thuần nhất bất tạp, tinh nhất vô nhị” (thuần nhất chẳng tạp, ròng rặt chẳng hai), kẻ thật sự tu Tịnh Độ phải tu từ chỗ này. Do đó, kẻ biết tu rất ít, đại đa số chẳng biết tu! Tuy niệm Phật, mà hễ nghe thấy đôi chút âm thanh, trong tâm bèn nghi thần nghi quỷ, nghe kẻ khác nói mấy câu, [liền băn khoăn, thắc mắc] có phải là họ đang nói điểm hay điều dở của ta hay chăng? Vậy thì có hỏng bét hay là không? Chẳng nói tới họ, mà họ cũng vơ quàng vào, cũng cho là [kẻ khác] đang nói tới điều đúng, lẽ sai của chính mình, suốt ngày từ sáng đến tối sống trong cảnh giới sợ hãi, kẻ ấy rất đáng thương! Đúng là “thiên hạ vốn vô sự, kẻ vụng về tự rối bời”. Chính mình tự tìm nỗi phiền phức cho chính mình!

Nói thật ra, bản thân Tăng đoàn cũng rất phức tạp. Đừng nói hiện thời đang nhằm thời kỳ Mạt Pháp, Tăng đoàn trong thuở Thích Ca Mâu Ni tại thế, nhóm Lục Quần tỳ-kheo[30] là những học trò chẳng nghe lời. Trong Tăng đoàn, họ tạo tác thị phi, khơi gợi ly gián. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế mà tình hình đã là như thế. Do vậy, đoàn thể [luôn luôn] là rắn rồng hỗn tạp! Thuở đức Phật tại thế, đương nhiên Phật là tiêu chuẩn tuyệt đối cho chúng ta, dẫu [kẻ nào] ăn nói khuấy động thị phi thế nào đi nữa, họ (các đệ tử Phật) chẳng cần nghe, mà nghe lời Phật dạy. Lời Phật dạy là lời chân thật. Đức Phật chẳng tại thế, những kẻ [quấy hôi bôi nhọ] ấy càng đông, làm thế nào đây? Đức Phật dạy chúng ta một phương pháp rất mầu nhiệm. Để đối phó những gã tỳ-kheo xấu ác chuyên môn làm khó dễ, gây chuyện ấy, đức Phật dùng một phương pháp gọi là Mặc Tẫn (默擯, Brahma-danda), Mặc Tẫn là không quan tâm đến họ. Họ nói chuyện với ta, nói đúng, sai, ưu, khuyết, ta cung kính “dạ, dạ, vâng vâng”, vâng dạ cả buổi, chẳng nghe lọt tai câu nào. Đó là phương pháp Mặc Tẫn. Hoặc là nghe xong, quyết định không kể lại, ta tuyệt đối chẳng nói cho người thứ hai biết, kẻ [lắm điều, xấu ác] ấy đành bó tay! Do vậy, Tăng đoàn chân chánh phải gìn giữ sự hòa hợp, điều này rất khẩn yếu. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta, dùng chánh pháp để ảnh hưởng kẻ ấy, dần dần kẻ ấy cũng sẽ cải tà quy chánh. Nếu kẻ ấy chẳng cải tà quy chánh, mọi người trong Tăng đoàn ấy đều chẳng quan tâm tới hắn, hắn biến thành kẻ trơ trọi, cô đơn, chỉ đành phục tùng đa số, phục tùng đại chúng. Nếu không, tự nhiên hắn sẽ lìa khỏi Tăng đoàn, quý vị cũng chẳng cần xua đuổi hắn, hắn chẳng ở được! Không ai đếm xỉa tới hắn, tự nhiên hắn lìa khỏi. Đức Phật dạy chúng ta phương pháp này, quyết định chẳng mất lòng ai! Do vậy có thể biết, “thuần nhất bất tạp, tinh nhất vô nhị” hết sức trọng yếu.

 

(Sao) Hoa Nghiêm Thập Hồi Hướng đệ tứ văn vân.

()華嚴十回向第四文云。

(Sao: Kinh văn trong phần giảng về địa vị thứ tư trong phẩm Thập Hồi Hướng của kinh Hoa Nghiêm có nói).

Phần kinh văn giảng về địa vị Đệ Tứ Hồi Hướng Bồ Tát.

 

(Sao) Sở vị bất loạn hồi hướng, nhất tâm hồi hướng.

()所謂不亂回向,一心回向。

(Sao: Có nói “bất loạn hồi hướng, nhất tâm hồi hướng”).

 “Bất loạn” là hồi hướng, “nhất tâm” là hồi hướng. Chư vị tham cứu thấu đáo ý nghĩa này, mới có thể thấu hiểu lời cổ nhân nói: Pháp môn Niệm Phật được gọi là “bất hồi hướng pháp môn”. Chẳng cần phải hồi hướng, vì  sao? Vì  nhất  tâm  là  hồi  hướng, bất  loạn  là  hồi  hướng, chẳng cần phải đặc biệt hồi hướng. Lời giải thích kế đó rất trọng yếu:

 

(Sao) Thích vân nhất tâm giả, chuyên chú chánh cảnh dã.

()釋云一心者,專注正境也。

(Sao: Giảng rằng: Nhất tâm là chuyên chú nơi chánh cảnh).

“Chánh cảnh” của người niệm Phật là gì? Chính là y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương. Nói tổng quát sẽ là một câu A Di Đà Phật. Tâm quý vị “chuyên chú”, đó chính là như chúng tôi thường nói: “Đối với câu Phật hiệu này, chẳng hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”. Đấy là chuyên chú, là nhất tâm. Nói “nhất tâm xưng niệm” thì phải niệm theo kiểu ấy. Niệm Phật như thế sẽ là công đức, thật sự đang tu Tịnh nghiệp, tu nhất tâm bất loạn.

 

(Sao) Bất loạn giả, bất sanh vọng niệm dã.

()不亂者,不生妄念也。

(Sao: Bất loạn là chẳng sanh vọng niệm).

 Ngoài một niệm A Di Đà Phật ra, tuyệt đối chẳng có niệm thứ hai. Vì quý vị có niệm thứ hai sẽ là vọng niệm. Bất luận dấy lên niệm nào, cũng đều là vọng niệm. Quý vị tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật cũng là vọng niệm, tưởng Tỳ Lô Giá Na Như Lai vẫn là vọng niệm. Bảo quý vị niệm A Di Đà Phật, cớ sao quý vị nghĩ tới Bồ Tát, Phật khác? Đó đều là vọng niệm. Ngay cả tưởng chư Phật, Bồ Tát mà đều là vọng niệm, huống hồ những thứ khác? Nếu chẳng hiểu rõ chuyện này, công phu niệm Phật lúc bình thường của chúng ta làm sao đắc lực cho được?

 

(Sao) Chuyên chú bất vọng, tức chánh phản ý.

()專注不妄,即正反意。

(Sao: Chuyên chú chẳng vọng, tức là ý nghĩa thuận và nghịch).

 “Chuyên chú” là nói theo phương diện thuận. “Chẳng sanh vọng niệm” là nói theo phía tương phản. Đây chính là lời giải thích của nhất tâm bất loạn. Đoạn này nhằm nêu tổng quát đại ý, đoạn dưới đây sẽ giải thích cặn kẽ.

 

(Sớ) Thứ minh Sự Lý giả.

()次明事理者。

(Sớ: Kế tiếp là giảng về Sự và Lý).

 Nhất tâm bất loạn có Sự nhất tâm bất loạn và Lý nhất tâm bất loạn.

 

(Sớ) Như Lai nhất ngữ, Sự Lý song bị, cố đồng danh Nhất Tâm, hữu Sự, hữu Lý.

()如來一語,事理雙備,故同名一心,有事有理。

(Sớ: Một lời của Như Lai đầy đủ Sự lẫn Lý; vì thế, cùng gọi là Nhất Tâm mà có Sự và Lý).

Một câu nói của đức Phật, không chỉ là có Sự, có Lý, mà còn có Thể, có Tướng, có Dụng, có nhân, có quả, pháp nào cũng đều viên dung, khía cạnh nào cũng xét tới. Do đó, muốn hiểu từng câu, từng chữ của Như Lai chẳng phải là chuyện dễ dàng! Chỉ có thể dùng cái tâm cực thanh tịnh để lãnh hội, chứ tư duy, tưởng tượng, ngôn thuyết đều chẳng có cách nào nói viên dung, chỉ có thể diễn tả một phần mà thôi, chẳng có cách nào liễu giải toàn thể! Ở đây, [lời Sớ] đã nêu đại lược Sự và Lý.

 

(Diễn) Sự Lý song bị giả, Như Lai dĩ Quyền Thật nhị trí, chứng Chân Tục nhị đế chi lý. Phàm thuyết pháp thời, bất ly Nhị Đế. Y Tục Đế thuyết pháp, cố hữu Sự, y Chân Đế thuyết pháp, cố hữu Lý. Sở y chi Đế, Chân Tục bất nhị, cố nhất tự, nhất ngữ, Sự Lý song bị dã.

()事理雙備者,如來以權實二智,證真俗二諦之理。凡說法時不離二諦,依俗諦說法故有事,依真諦說法故有理。所依之諦,真俗不二,故一字一語,事理雙備也。

(Diễn: “Đầy đủ Sự lẫn Lý””: Như Lai dùng Quyền Trí và Thật Trí để chứng lý Chân Đế và lý Tục Đế. Mỗi khi thuyết pháp, đều chẳng rời khỏi Nhị Đế. Do nương theo Tục Đế để thuyết pháp bèn có Sự. Nương theo Chân Đế để thuyết pháp bèn có Lý. Đối với Đế để nương vào thì Chân Đế và Tục Đế chẳng hai; vì thế, mỗi chữ, mỗi lời đều trọn đủ Sự lẫn Lý).

Đây là một điều thường thức quan trọng trong Phật học,  tức là nói “Phật nương vào Nhị Đế để thuyết pháp”. Nếu quý vị chẳng hiểu nguyên lý và nguyên tắc thuyết pháp này, sẽ rất khó hiểu rốt cuộc đức Phật nói điều gì, thường hiểu lầm ý nghĩa. Đã hiểu lầm ý nghĩa, còn oán thầm đức Phật, hủy báng Tam Bảo, tạo tội nghiệp sâu xa. Đức Phật thuyết pháp là nói trong trường hợp nào? Nói với người nào? Điều này có mối quan hệ rất lớn. Thuở đức Phật tại thế thuyết pháp, Ngài ứng cơ thuyết pháp: Người nào đưa ra vấn đề nào, đức Phật có năng lực thần thông thù thắng, chuyện trong đời đời kiếp kiếp của người ấy, đức Phật đều biết. Vì thế, Ngài thuyết pháp rất khế cơ. Người khác lại đến hỏi, căn cơ trong đời trước của hai người ấy chẳng giống nhau, cùng hỏi một vấn đề giống như nhau, nhưng có thể là đức Phật có hai lời đáp khác nhau. Chúng ta thấy vậy ngơ ngác: “Vì sao đối với người này, đức Phật nói như vậy; đối với kẻ kia, lại nói như thế nọ?” Không chỉ đức Phật là như thế, Khổng lão phu tử cũng là như thế. Trong Luận Ngữ, khi học trò hỏi về đạo hiếu, Khổng lão phu tử đã trả lời mỗi người mỗi khác. Hỏi về lòng nhân, Ngài cũng trả lời chẳng giống nhau, rốt cuộc câu trả lời nào là đúng? Thuở ấy, khi có người đến hỏi, Khổng lão phu tử giảng giải cho người ấy [cách nào cũng] đều đúng, ứng cơ mà! Phật pháp là khế cơ, khế lý. Vì thế, chuyện này chẳng dễ dàng.

Nay chúng ta mở kinh điển ra xem, đôi khi [bộ kinh nào đó] chẳng khế hợp căn cơ của chúng ta. Vì sao? Chẳng phải là điều chúng ta thắc mắc. Nếu đức Phật tại thế, hễ chúng ta hỏi, đức Phật nhất định sẽ khai thị, [lời khai thị tức là] bộ kinh ấy nhằm giảng cho chúng ta, nên sẽ khế hợp căn cơ của ta. Những kinh khác là để giảng cho người khác. Giống như thầy thuốc chữa bệnh, người bệnh nào đến, thầy sẽ bắt mạch rồi mới kê toa. Người thứ hai đến, cùng một chứng bệnh, thầy bắt mạch, kê toa, cho thuốc chẳng giống, phân lượng có tăng giảm, há lẽ nào có chuyện toa thuốc giống hệt nhau? Hai người mắc bệnh giống hệt nhau, mà bệnh tình nặng như nhau, chẳng thể nào có chuyện ấy! Vì sao? Thể chất mỗi người khác nhau. Có người sức đề kháng mạnh, có kẻ sức đề kháng yếu ớt. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý ấy. Do vậy, đức Phật chẳng có pháp nhất định để có thể nói. Quý vị coi Phật pháp là pháp cố định, lẽ nào Phật chẳng kêu oan uổng? “Y văn giải nghĩa, tam thế Phật oan” (Dựa theo kinh văn để hiểu nghĩa, ba đời chư Phật bị oan uổng), ba đời chư Phật đều kêu oan uổng, quý vị đã hiểu sai bét ý nghĩa của ta! Phật, Bồ Tát thuyết pháp còn như thế, chúng ta thuyết pháp bị người khác hiểu oan uổng càng nhiều hơn! Phải hiểu tình hình này, phải  hiểu  căn  cứ  thuyết pháp này.

Quyền Trí là Phương Tiện Trí, là phương tiện thiện xảo. Thật Trí là trí huệ chân thật. Nói đơn giản, Thật Trí là tâm thanh tịnh, Quyền Trí là tác dụng phát khởi bởi cái tâm thanh tịnh. Giảng kinh, thuyết pháp, các thứ thị hiện đều nhằm giúp người khác khai ngộ, các phương pháp và phương cách ấy đều gọi là Quyền Trí. Do đâu mà có Quyền Trí? Do Thật Trí mà có. “Như Lai dĩ Quyền Thật nhị trí, chứng Chân Tục nhị đế chi lý” (Như Lai dùng Quyền Trí và Thật Trí để chứng lý Chân Đế và Tục Đế). “Chân” là Thật Tướng, tức là chân tướng của hết thảy các pháp. Thật Tướng còn gọi là Chân Như Bản Tánh, Pháp Giới, hoặc Đệ Nhất Nghĩa Đế, có đến mấy chục loại danh từ, nhưng đều là nói về cùng một chuyện. Tục Đế là nói theo hiện tượng, là hình thái ý thức của hết thảy chúng sanh. Lục căn của họ tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, tư tưởng, kiến giải, việc làm đều là Tục Đế, chẳng có gì đức Phật không biết, thảy đều hiểu rõ ràng, minh bạch. Căn cứ để đức Phật thuyết pháp là chân tướng do chính Ngài đã thấy và căn cứ trên tất cả những cảm nhận sai lầm của đại chúng. Đức Phật thuyết pháp nhằm mục đích phá trừ cảm nhận sai lầm của quý vị, giúp quý vị nhận biết Thật Tướng. Nhận biết Thật Tướng được gọi là khai ngộ, phá mê, khai ngộ.

Đã mê bèn khổ! Đau khổ, hễ ngộ bèn vui, quý vị chẳng thấu hiểu niềm vui do ngộ, vì sao? Vì quý vị chưa hề khai ngộ, chẳng biết niềm vui sướng do ngộ. “Mê” là trong tâm quý vị có vọng tưởng, có chấp trước, có phân biệt, có phiền não, có ưu lự, có vướng mắc, làm sao quý vị vui sướng cho được? Dẫu quý vị có vui, niềm vui ấy là giả, chẳng thật. Người đã ngộ, chẳng mê, không chấp trước, chẳng phân biệt, chẳng có ưu lự, vướng mắc, phiền não. Mê hay ngộ sai biệt ở ngay chỗ này. Sau khi nghe kinh còn có cả đống vấn đề muốn hỏi, chắc chắn là người ấy chưa khai ngộ. Hễ ngộ, sẽ chẳng có thắc mắc. Trước kia, thầy Lý giảng kinh, thuyết pháp, nghe chẳng hiểu thì thôi! Có hỏi, thầy cũng chẳng nói. Nói một lần, chẳng nhắc lại nữa, chẳng hiểu thì cứ là chẳng hiểu, phương pháp này rất hay! Lần sau, quý vị muốn nghe hiểu thì phải chú ý nghe. Hễ nghe mà bỏ sót thì chắc chắn là thầy chẳng lặp lại lần thứ hai. Đấy là phương cách thầy Lý sử dụng trong cả một đời giảng kinh dạy học, đúng là đã giảm bớt rất nhiều việc.

“Phàm thuyết pháp thời bất ly Nhị Đế” (Phàm là lúc thuyết pháp bèn chẳng lìa Nhị Đế). Suốt một đời, đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm chẳng lìa khỏi nguyên lý và nguyên tắc này. Nói theo kiến giải và thường thức của đại chúng, sẽ là có Sự. Vì sao? Những điều ấy đều là do mọi người phân biệt, chấp trước, cho rằng nhất định là có, nhất định tồn tại, đức Phật bèn nói thuận theo quý vị, đức Phật hoàn toàn chẳng phản bác. Hễ phản bác, chắc chắn là quý vị chẳng thừa nhận. Lũ phàm phu chúng ta nói “đây là ngã”, đức Phật nói “vô ngã”, hai điều ấy chẳng thể nào không mâu thuẫn! Có lúc, đức Phật thuyết pháp thuận theo tri kiến của chúng sanh, cách thuyết pháp ấy được gọi là “bất liễu nghĩa”. Thuyết pháp [theo kiểu] “bất liễu nghĩa” rất nhiều! Trong Tứ Y Pháp, đức Phật đã dạy chúng ta: “Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa”. Vì sao đức Phật phải nói [các pháp] bất liễu nghĩa? Nói bất liễu nghĩa, quý vị mới hiểu; nói pháp liễu nghĩa, quý vị chẳng thể tiếp nhận. Càng liễu nghĩa, trình độ càng cao; càng là bất liễu nghĩa, trình độ càng thấp. Nếu nói theo Ngũ Thừa Phật pháp: Nhân Thừa là bất liễu nghĩa nhất. So với nhân thì thiên được coi là liễu nghĩa. Nếu so sánh giữa thiên và Thanh Văn thì thiên là bất liễu nghĩa, Thanh Văn là liễu nghĩa. So sánh giữa Thanh Văn và Duyên Giác, Thanh Văn là bất liễu nghĩa, Duyên Giác là liễu nghĩa. So sánh giữa Duyên Giác và Bồ Tát, Bồ Tát là liễu nghĩa, Duyên Giác là bất liễu nghĩa. So sánh giữa Bồ Tát và Phật, Phật là liễu nghĩa, Bồ Tát là bất liễu nghĩa. Đức Phật dạy chúng ta “y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa”, hy vọng chúng ta sẽ dần dần nâng cao trình độ, đừng giữ mãi tầng cấp “bất liễu nghĩa”. Đức Phật mong mỏi chúng ta sẽ tinh tấn, sẽ tiến bộ thuần nhất, Ngài chẳng tán thành quý vị giữ chặt giai đoạn hiện tiền, phải là hằng ngày đều cầu tiến bộ.

“Y Chân Đế thuyết pháp cố hữu Lý” (Nương theo Chân Đế để thuyết pháp nên có Lý). Lý là căn do của sự tướng. Vì sao có Sự? Vì sao có hiện tượng ấy? Nói chung là có đạo lý. Nói thật ra, nhìn theo Sự dễ dàng, xét theo Lý, khó khăn! Chúng ta mỗi ngày mặc quần áo, ăn uống, đó là Sự, mọi người quen thói coi là chuyện thường. Nếu quý vị nghiên cứu vì sao phải ăn uống, rất có thể là [sẽ nhận thấy] Lý ấy phiền phức to lớn. Nói thế nào cũng chỉ sợ chẳng nói rõ được! Diện mạo của con người rất thanh tú, ngũ quan rất đoan chánh, nếu quý vị hỏi: “Vì sao có hai mắt? Vì sao có một cái miệng? Vì sao không mọc ra hai cái miệng? Chẳng mọc bốn mắt?” Chuyện này bèn trở thành phiền phức, đạo lý rất sâu, đều có Lý trong ấy. Thông đạt lý luận, những vấn đề nơi Sự đều được giải quyết. Thông đạt Sự, lý luận cũng minh bạch. Lý và Sự giúp nhau hoàn thành. Nghiên cứu khoa học cũng giống như vậy, thường thường là phát hiện dựa trên lý luận, tuân theo lý luận để tìm tòi, kết quả là có sự vật được phát minh. Quá nửa phát minh khoa học kỹ thuật hiện thời là do trước hết đã phát hiện theo lý luận, sau đó mới căn cứ trên lý luận ấy để tìm ra phát minh khoa học, kỹ thuật mới. Phật pháp cũng là như thế; vì vậy, mỗi chữ, mỗi câu đều có Sự và Lý.

“Sở y chi Đế” (Đế lý để nương vào), Đế (諦, Satyāni) là chân lý. “Đế” có nghĩa là chân thật, tuyệt đối chẳng phải là hư vọng. “Chân Tục bất nhị” (Chân Đế và Tục Đế chẳng hai). Lý là bản thể của sự tướng, sự tướng là sự tướng của Lý, là sự tướng của bản thể. Thể, Tướng, Dụng là cùng một chuyện, tuy một mà ba, tuy ba mà một. Chân và Tục chẳng hai, như vậy mới là pháp nào cũng viên dung, chuyện gì cũng vô ngại. Kinh Hoa Nghiêm nói “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Dựa theo đạo lý ấy mà nói. Theo Lý là như thế, mà theo Sự cũng là như thế. Nơi Sự cũng là vô ngại. Vì sao hiện thời chúng ta bị trở ngại nơi Sự? Sự trở ngại ấy là do dấy lên mê chấp, do quý vị có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Vốn chẳng có chướng ngại mà biến thành chướng ngại tầng tầng. Khuyết điểm nẩy sanh từ chỗ này. Đến khi nào mới thật sự nhập vô chướng ngại, sống đại tự tại? Kinh Hoa Nghiêm có nói: Từ Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên, đã đoạn Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não đã đoạn, cũng phá một phẩm vô minh, bèn nhập vô chướng ngại pháp giới. Tựa đề của kinh Tứ Thập Hoa Nghiêm là Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới, cảnh giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn. Giải thoát là thật sự tự do tự tại, nhập cảnh giới ấy. Chẳng phá vô minh, sẽ chẳng thể tiến nhập được, luôn bị chướng ngại. Phương pháp [được sử dụng] trong pháp môn Niệm Phật thật sự xảo diệu tột bậc, dùng một câu Phật hiệu để khiến cho chúng ta đạt tới cảnh giới ấy. Tây Phương Cực Lạc thế giới là cảnh giới giải thoát viên mãn rốt ráo chẳng thể nghĩ bàn, các đồng tu chúng ta chớ nên hoài nghi, vì kinh Vô Lượng Thọ đã dạy rất rõ ràng: “Giai tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức” (Đều tu phẩm đức của Phổ Hiền đại sĩ). Đức của Phổ Hiền đại sĩ là “pháp giới vô chướng ngại”; tựa đề của kinh [Tứ Thập Hoa Nghiêm] là Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Đấy chính là nói: “Nhất tự, nhất ngữ, Sự Lý song bị” (Từng chữ, từng lời đều trọn đủ Sự lẫn Lý).

 

(Sớ) Như Đại Bổn vân: “Nhất tâm hệ niệm”, chánh sở vị nhất tâm bất loạn dã, nhi Sự Lý các biệt. Sơ, Sự nhất tâm giả, như tiền ức niệm, niệm niệm tương tục, vô hữu nhị niệm, Tín Lực thành tựu, danh Sự nhất tâm, thuộc Định môn nhiếp, vị hữu huệ cố.

()如大本云:一心繫念,正所謂一心不亂也,而事理各別。初事一心者,如前憶念,念念相續,無有二念,信力成就,名事一心,屬定門攝,未有慧故。

(Sớ: “Nhất tâm hệ niệm” như được nói trong kinh Đại Bổn chính là “nhất tâm bất loạn” [được nói trong kinh này], nhưng [nhất tâm] có Sự và Lý khác biệt. Trước hết, [luận về] Sự nhất tâm: Như đối với sự ức niệm đã nói trong phần trước, niệm niệm liên tục, chẳng có hai niệm, Tín Lực thành tựu, gọi là Sự nhất tâm, thuộc về Định môn, do chưa có huệ).

Giải thích tướng mạo của Sự nhất tâm. Kinh Vô Lượng Thọ nói là “nhất tâm hệ niệm”, dễ hiểu hơn điều được nói trong kinh này, kinh này nói là “nhất tâm bất loạn”. Trong bản tiếng Phạn của kinh A Di Đà cũng ghi là “nhất tâm hệ niệm”, chẳng phải là “nhất tâm bất loạn”. “Nhất tâm bất loạn” là do Cưu Ma La Thập đại sư dịch ý, chẳng phải là “trực dịch”, [mà là] dịch theo ý nghĩa, chẳng phải là dịch theo mặt chữ. Bản dịch của Huyền Trang đại sư là trực dịch, [nghĩa là] văn tự ghi như thế nào, Ngài bèn dịch như thế đó. Đây là hai phương thức dịch thuật khác biệt. Bản dịch của Huyền Trang đại sư ghi là “nhất tâm hệ niệm”. “Hệ niệm” (繫念) là vương vấn, nhất tâm nhất ý vương vấn điều gì? Vương vấn A Di Đà Phật, những thứ khác đều chẳng bận tâm tới, thảy đều buông xuống. Từ nay trở đi, nhất tâm chỉ nghĩ niệm A Di Đà Phật. Nghe như vậy, [sẽ cảm thấy] dễ hiểu và dễ học hơn nhiều. Đấy chính là ý nghĩa “nhất tâm bất loạn” được chép trong kinh Tiểu Bổn. Có thể thấy là kinh Đại Bổn nói “nhất tâm hệ niệm” thì ý nghĩa xác thực của “hệ niệm”“nhất tâm bất loạn”. La Thập đại sư dùng cách dịch ý, [vì thế, lời Sớ mới ghi]: “Chánh sở vị nhất tâm bất loạn dã” (Chính là nói tới nhất tâm bất loạn). Phạm vi của nhất tâm bất loạn rất rộng, rốt cuộc, nhất tâm là gì? Bất loạn là gì? Trong ấy, có rất nhiều tiêu chuẩn. Nếu chẳng có lắm tiêu chuẩn ngần ấy, Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thể có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm. Bốn cõi, ba bậc, chín phẩm đều là nhất tâm bất loạn. Vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng là nhất tâm bất loạn. Thượng thượng phẩm vãng sanh trong cõi Thật Báo vẫn là nhất tâm bất loạn. Danh xưng giống nhau, nhưng trình độ trong ấy khác nhau, có cạn hay sâu khác biệt. Ngẫu Ích đại sư bảo điều này là do công phu cạn hay sâu, tức là công phu nhất tâm hệ  niệm, công  phu  nhất  tâm bất loạn.

Trong ấy có Sự và Lý, đó là sự sai khác to lớn. Có sự sai khác to lớn vì có Sự và Lý. Hiện thời, trước hết bèn nói rõ Sự nhất tâm là gì. Sự nhất tâm chú trọng nơi sự tướng, dễ hiểu! Nói cách khác, đó là kiến thức thông thường, tư tưởng và kiến giải của bọn phàm phu chúng ta có thể đạt tới, đức Phật nói [những chuyện ấy] chúng ta rất dễ tiếp nhận. “Lý” là cảnh giới của Như Lai, chúng ta chẳng thấy, chẳng dễ tin tưởng cho lắm, khá khó tiếp nhận!

Sự nhất tâm sẽ được nói như thế nào? [Nói] từ cạn đến sâu. Trước hết, nói theo mức độ nông cạn nhất. “Như tiền ức niệm” [nghĩa là] như trong phần trước đã nói về ức niệm. “Ức” (憶) là tưởng, “niệm niệm tương tục, vô hữu nhị niệm” (niệm niệm nối tiếp, chẳng có hai niệm), như thế thì mới được. Niệm này nối tiếp niệm kia, chẳng thể gián đoạn. Hễ gián đoạn, sẽ còn có vọng tưởng xen tạp vào đó. Khi đoạn, cũng chẳng dấy vọng tưởng; [thế nhưng] không dấy vọng tưởng thì vô minh xen lẫn trong đó. Vô minh và vọng tưởng đều là đại chướng ngại. Do vậy có thể biết: Điều khẩn yếu trong câu Phật hiệu là niệm nào cũng đều chẳng gián đoạn. Sau khi đã đoạn, nếu chẳng phải là vọng tưởng thì nhất định là vô minh, hai thứ ấy đều là đại chướng ngại cho tâm tánh. Sở dĩ phàm phu chẳng thể minh tâm kiến tánh là do hai đại chướng ngại ấy. Vọng tưởng thuộc về Sở Tri Chướng, vô minh thuộc về Phiền Não Chướng. Thật ra, hai thứ ấy có thể dùng lẫn cho nhau, cũng có thể nói vọng tưởng là Phiền Não Chướng, vô minh là Sở Tri Chướng. Ý nghĩa gốc của vô minh là “chẳng hiểu rõ hết thảy vạn sự vạn pháp”. Đó là vô minh, rất khó hiểu!

Đã từng có một người giảng kinh, khi giảng kinh, thính chúng hỏi người ấy “vô minh là gì”, người ấy trích dẫn cả đống kinh điển. Kết quả là người nghe vẫn chẳng hiểu gì hết! Pháp sư Diễn Bồi đã kể một công án: Thuở xưa, có một vị Tể Tướng. Nhằm lúc vị pháp sư đang niệm kinh, ông ta bèn thỉnh giáo: “Vô minh là gì?” Vị pháp sư ấy chẳng đếm xỉa tới ông ta, cứ tiếp tục niệm. Hỏi hai ba câu vẫn chẳng đoái hoài, kết quả là ông ta nổi cáu: “Ngươi phách lối quá đi!” Pháp sư ngó lại: “Đó gọi là vô minh”. Ông ta bèn lập tức đảnh lễ, đã biết vô minh là gì. Pháp sư đã thật sự dạy ông ta thấu hiểu ý nghĩa ấy. Ông ta có thật sự thấu hiểu hay không? Ông ta lãnh hội “vô minh” là “lửa vô minh”, nói thật ra, vẫn chưa hiểu rõ ràng! Tôi bổ sung một câu: “Chẳng hiểu rõ thì chính là vô minh. Nghe xong bèn hiểu rõ, chứ nghe mà chẳng hiểu rõ thì là vô minh”. Tôi nói cả buổi, quý vị nghe chẳng hiểu, đó là vô minh. “Minh” (明) là hiểu rõ, thông đạt hết thảy vạn sự, vạn pháp, quá khứ, hiện tại, vị lai. Quý vị chẳng có năng lực ấy thì chính là vô minh.

Chẳng phải là vô minh, bèn là vọng tưởng, điều này rất phiền phức. Phá trừ vô minh, vọng tưởng bằng cách nào? Phật hiệu mầu nhiệm lắm! Đại Thế Chí Viên Thông Chương có nói “tịnh niệm tương kế” (tịnh niệm tiếp nối); quý vị chỉ cần làm được bốn chữ ấy, công phu niệm Phật sẽ đắc lực. “Tịnh niệm”: Tịnh (淨) là thanh tịnh. Trong tâm quý vị hoài nghi, tâm chẳng thanh tịnh. Niệm ấy chẳng gọi là “tịnh niệm”. Quý vị còn suy nghĩ loạn cào cào, còn có xen tạp, tâm sẽ chẳng thanh tịnh, niệm ấy chẳng phải là tịnh niệm. “Tịnh niệm” (淨念) là chẳng hoài nghi, không xen tạp, “tương kế” (相繼) là chẳng ngừng. Chúng tôi thường nói, nói rất minh bạch: “Chẳng hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”. Đối với chín chữ ấy, kinh Lăng Nghiêm chỉ dùng bốn chữ “tịnh niệm tương kế”. Niệm Phật như vậy, công phu đắc lực, niệm Phật như vậy sẽ là tương ứng.

“Vô hữu nhị niệm, Tín Lực thành tựu, danh Sự nhất tâm” (Chẳng có hai niệm, Tín Lực thành tựu, gọi là Sự nhất tâm). Liên Trì đại sư nói câu này hay quá. Đấy mới được coi là tin tưởng, ngưỡng mộ Tịnh Tông, mới được coi là tin tưởng A Di Đà Phật. Chúng ta có tin hay không? Chúng ta chẳng tin! Hằng ngày niệm Phật phát nguyện cầu vãng sanh, [thế mà] hằng ngày làm kẻ đối đầu với A Di Đà Phật, làm kẻ oan gia của tổ sư đại đức. Vì sao? Xen tạp, hoài nghi, gián đoạn, đó là làm kẻ oan gia, làm kẻ đối đầu, chẳng tin tưởng mà! Chúng ta nói tới Tín Nguyện Hạnh, [chỉ là] Tín Nguyện Hạnh ngoài miệng; trên thực tế, Tín Nguyện Hạnh thảy đều chẳng có, làm sao có thể vãng sanh cho được? Thật sự vãng sanh thì phải kiến lập từ chỗ này, “Tín Lực thành tựu”. Đó mới là Sự nhất tâm. Sự nhất tâm kiểu này chẳng cao, mà là Sự nhất tâm ở mức độ tối thiểu, cũng là điều kiện để hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Có điều kiện này là được, sẽ vãng sanh.

Điều này thoạt nhìn khó lắm, chẳng dễ dàng! Đúng thế! Nếu dễ dàng, há chẳng phải là người niệm Phật thảy đều vãng sanh ư? Thầy Lý thường nói: “Trong một vạn người niệm Phật, chỉ có dăm ba kẻ vãng sanh”, quý vị biết nguyên nhân là do chỗ này. Nói thật ra, dăm ba người vãng sanh đó, đúng là người thật thà. Quý vị chửi, đánh, nhục mạ họ, họ cũng không biết. Thậm chí, quý vị ở bên cạnh chửi họ cả buổi, họ chẳng biết quý vị đang chửi ai. Họ ở đó niệm “A Di  Đà  Phật, A Di  Đà  Phật”.

Họ có thể vãng sanh, vì sao? Họ có thể chuyên nhất, chẳng hai!

 

(Diễn) Tín Lực thành tựu giả, Sự nhất tâm nhân, bất tu Lý Quán.

()信力成就者,事一心人,不修理觀。

(Diễn: Tín Lực thành tựu là người đắc Sự nhất tâm, chẳng tu Lý Quán).

 Lý luận của pháp môn này quá sâu, quá mầu nhiệm, kẻ bình phàm chẳng thể lý giải! Chẳng hiểu [vẫn] không sao cả, vẫn có thể vãng sanh y hệt! Thực hiện từ phương diện sự tướng là được rồi! Vì thế, pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Diễn) Duy bằng Tín Lực.

()唯憑信力。

(Diễn: Chỉ cậy vào Tín Lực).

Người ấy tin tưởng! Hai câu khai thị cốt lõi của kinh Di Đà là “nhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo”. Hai câu này khẩn yếu! Dùng phương pháp gì để đạt được? “Chấp trì danh hiệu”. Ba câu gồm mười hai chữ đã nói trọn hết cả bộ kinh Di Đà, toàn thể pháp môn Tịnh Tông cũng được nói trọn hết. Không chỉ là nói trọn hết toàn thể pháp môn Tịnh Tông, mà hết thảy kinh giáo và hết thảy các pháp môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong bốn mươi chín năm cũng đều được nói trọn, mới biết lời khai thị đại từ đại bi phổ độ chúng sanh tinh yếu nhất của chư Phật chính là ba câu này. Nếu quý vị thật sự nắm vững ba câu này, chẳng có lẽ nào không vãng sanh! Có thể nhất tâm thọ trì, từ Sự nhất tâm sẽ tự nhiên niệm đạt đến Lý nhất tâm. Bởi lẽ, do Sự nhất tâm có thể đắc Định. Sau khi đã đắc Định bèn khai ngộ, hễ ngộ bèn nhập Lý nhất tâm, chẳng khác gì đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh của Thiền Tông. “Duy bằng Tín Lực” (Chỉ cậy vào Tín Lực)! Do đó, chúng ta phải tin tưởng. Người nào thật sự tin tưởng? Từ nay trở đi, chẳng còn có thị phi, nhân ngã; chẳng còn có vọng tưởng, chấp trước, người ấy đã tin tưởng. Hễ còn suy nghĩ lung tung, còn có thị phi, nhân ngã, người ấy vẫn chẳng tin. Kẻ không tin đông đảo, người tin tưởng ít ỏi. Trong một vạn người, thật sự có dăm ba người tin tưởng, đại đa số là người nghe kinh bất quá chỉ gieo một tí thiện căn mà thôi. Do vậy có thể biết: Tín Căn kiến lập, xác thực là như kinh Đại Bổn đã nói rất tỉ mỉ, người ấy từ vô lượng kiếp đến nay đã hành Bồ Tát đạo, cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, nay được mười phương chư Phật gia trì, tín tâm thành tựu, chẳng phải là kẻ bình phàm.

 

(Diễn) Như thủy thanh châu, năng thanh trược thủy.

()如水清珠,能清濁水。

(Diễn: Như thủy thanh châu có thể lắng trong nước đục).

 Đây là nói theo tỷ dụ, “thủy thanh châu” là bảo châu. Nước đục ngầu, dơ bẩn, sau khi bỏ hạt châu này vào, những chất bẩn trong nước tự nhiên lắng xuống. Có loại châu để lắng trong nước hay không? Có! Rất tầm thường! Mua ngoài phố đều có. Nước đục bẩn, chúng ta biết dùng phèn chua. Bỏ phèn chua[31] vào, nước tự nhiên lắng cặn, bèn trong trẻo. Đấy chính là thủy thanh châu. Do vậy, thứ này hoàn toàn chẳng phải là thần thông, kỳ quái chi cả! Do nó phát sanh tác dụng phân giải hóa học khiến cho những chất cặn trong nước lắng chìm xuống đáy, nước khôi phục sự thanh tịnh.

 

(Diễn) Cổ vân: Thanh châu đầu ư trược thủy, trược thủy bất đắc bất thanh.

()古云:清珠投於濁水,濁水不得不清。

(Diễn: Cổ nhân nói: “Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng thể không trong”).

Câu này là tỷ dụ, kế đó là chánh thuyết (nói đến vấn đề chánh yếu, nói thẳng vào vấn đề).

 

(Diễn) Phật niệm đầu ư tán tâm, tán tâm bất đắc bất nhất.

()佛念投於散心,散心不得不一。

(Diễn: Niệm Phật hiệu gieo vào tâm tán loạn, tâm tán loạn chẳng thể không chuyên nhất).

Người ấy tự nhiên có thể niệm đến mức nhất tâm, chỉ sợ quý vị chẳng niệm. Có người mới niệm Phật nói với tôi: “Khi tôi không niệm Phật, tâm rất thanh tịnh, chẳng có vọng niệm. Càng niệm Phật, vọng niệm càng nhiều, chớ nên niệm Phật!” Tình hình có phải là như vậy hay chăng? Đúng vậy! Không chỉ người ấy như thế, mà rất nhiều người cũng như thế. Đây là chuyện như thế nào? Nói thật ra, bình thường người ấy có lắm vọng niệm dường ấy, nhưng chẳng phát hiện, chẳng hay biết, cứ ngỡ chính mình chẳng có vọng niệm! Nay vừa niệm Phật, mong thu hồi cái tâm, mới phát hiện có lắm vọng niệm như thế. Phát hiện [chính mình có nhiều vọng niệm] là chuyện tốt, chẳng phải là chuyện xấu. Sau khi đã phát hiện, dùng phương pháp gì để đối trị? Dùng một câu Phật hiệu để đối trị. Trong phương pháp niệm Phật, dẫu vọng niệm nhiều cách mấy, chẳng cần quan tâm đến chúng. Vọng niệm và Phật hiệu đồng thời dấy lên chẳng sao hết, quý vị dốc sức chú ý nơi Phật hiệu, mặc kệ vọng niệm, tự nhiên Phật hiệu ngưng tụ, có sức mạnh, vọng niệm tự nhiên sẽ giảm ít. Ngàn muôn phần đừng quan tâm vọng niệm: “Ta có lắm vọng niệm dường ấy”. Càng nghĩ, sẽ càng nhiều, phiền toái to lớn, vĩnh viễn cũng chẳng có cách nào đoạn hết. Phương pháp tốt nhất là chẳng nghĩ tới. Điều này thuộc về pháp môn sám hối, pháp môn sám trừ nghiệp chướng. Chính mình có nghiệp chướng, có tội nghiệp, chớ nên nghĩ tới chúng, vì quý vị nghĩ tới nó một lần sẽ giống như lại tạo một lần nữa. Nghĩ hai lần lại tạo hai lần. Chỉ sợ nghiệp chướng vẫn chưa đủ nhiều! Đó là ngu si!

Người thật sự giác ngộ từ nay trở đi chẳng nghĩ đến tất cả hết thảy lầm lỗi, hãy tưởng A Di Đà Phật. Từ nay trở đi, ta đổi thành tưởng A Di Đà Phật, nghiệp chướng sẽ tiêu trừ. Mọi người phải hiểu rõ đạo lý này. Đó là thật sự tiêu trừ nghiệp chướng. Từ nay trở đi, vọng niệm gì cũng đều chẳng có. Như thế thì công phu do niệm câu Phật hiệu của quý vị mới có sức mạnh chế phục phiền não, tới cuối cùng là đoạn hết phiền não. “Phật niệm đầu ư tán tâm, tán tâm bất đắc bất nhất” (Phật niệm gieo vào cái tâm tán loạn, tâm tán loạn chẳng thể không chuyên nhất), thật sự có thể đạt đến nhất tâm. Nhất tâm là khôi phục tâm địa thanh tịnh, vọng niệm tự nhiên ít đi. Vọng niệm ít tức là công phu của chính mình đắc lực, công phu niệm Phật của chính mình có tiến bộ. Từ chỗ này, cảm nhận rất rõ công phu của ta có tiến bộ hay không? Niệm kinh cũng giống như vậy, mục đích không gì chẳng nhằm niệm cho hết sạch vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Có người bắt đầu niệm Phật, vọng niệm quá nhiều, đổi thành niệm kinh bèn tốt đẹp hơn một chút. Đấy cũng là một biện pháp. Chẳng cầu hiểu nghĩa mà niệm kinh. Nói cách khác, thảy đều nhằm đạt đến mục tiêu “nhất tâm bất loạn”. Niệm kinh hay niệm Phật đều là biện pháp, là phương pháp.

 

(Diễn) Thuộc Định môn nhiếp giả.

()屬定門攝者。

(Diễn: Thuộc vào Định môn).

Đã thành tựu thì đều gọi là Niệm Phật tam-muội. Tam-muội thuộc về Định.

 

(Diễn) Định hữu thế xuất thế, dữ Đại Tiểu Thừa, cập Sự Lý chư Thiền Định bất đồng.

()定有世出世,與大小乘,及事理諸禪定不同。

(Diễn: Định có thế gian và xuất thế gian, và có các loại Thiền Định Đại Thừa, Tiểu Thừa, Sự, Lý khác nhau).

Trong Phật pháp, nói đến Định thì có thế gian Thiền Định và xuất thế gian Thiền Định. Tứ Thiền Bát Định thuộc loại thế gian Thiền Định, cũng khá khó khăn! Người tu Thiền Định hiện thời công phu đạt đến cảnh giới gì chúng ta chẳng biết! Bản thân chúng ta có thể tu tập [Thiền Định] hay không? Chính mình phải rất lắng lòng suy nghĩ: Ngũ dục, lục trần, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê bày ra trước mắt chúng ta, có còn động niệm hay chăng? Nếu động niệm, tức là quý vị còn có dục, chưa đoạn dục! Chẳng đoạn dục, sẽ thuộc vào trong Dục Giới, chẳng có phần nơi Sắc Giới Thiên. Thấp nhất trong Sắc Giới Thiên là Sơ Thiền. Nói cách khác, quý vị tu Sơ Thiền chẳng thành công! Tu Sơ Thiền thành công, đoạn hết ngũ dục, lục trần. Đoạn hết ngũ dục, như đã nói “tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, là năm cội gốc của địa ngục”, hễ có một điều, quý vị sẽ bị lôi lại, huống hồ vẫn còn cả năm điều! Quý vị có năng lực đoạn trừ hay chăng? Chẳng có năng lực đoạn trừ, sẽ chẳng có tư cách tu Thiền Định. Trước kia, nhà Thiền độ người, thường là hễ có người đến tham học, họ bảo người ấy hãy quay về: “Ngươi chẳng có tư cách xuất gia, vì sao? Trần duyên của ngươi chưa hết”. Nhìn từ chỗ nào? Chưa đoạn trừ dục niệm! Chẳng đoạn trừ dục niệm, chẳng có tư cách học Thiền. Quý vị xuất gia học Thiền vô dụng, suốt đời chẳng thể nào thành tựu. Vì thế, [tốt hơn là] vẫn bảo quý vị hãy trở về nhà. Chẳng thà ở trong xã hội, trong tương lai làm quan, hoặc làm chuyện này nọ, làm một chút chuyện tốt đẹp cho dân chúng để tu phước. Tu Định chẳng thành, bèn tu phước, phải hiểu điều này. Vì thế, tham Thiền chẳng dễ dàng, vờ vĩnh ngồi đó, cũng được vậy, nhưng ngồi đó mà đầu óc luôn suy nghĩ loạn cào cào, vô dụng! Lừa kẻ khác thì được, chứ chẳng có cách nào lừa gạt chính mình! Chúng ta phải hiểu điều này.

“Dữ Đại Tiểu Thừa” (và Đại Thừa, Tiểu Thừa). Tiểu Thừa đạt đến Đệ Cửu Định, vượt thoát tam giới, được gọi là Thiền Định xuất thế gian. Kinh Lăng Nghiêm đã giảng rất rõ ràng: A La Hán chứng Cửu Thứ Đệ Định, Định thứ tám là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, Đệ Cửu Định vượt trỗi, đã thoát khỏi tam giới. A La Hán và Bích Chi Phật đã chứng đắc Cửu Thứ Đệ Định, đó là Thiền Định xuất thế gian, nhưng các Ngài vẫn là Tiểu Thừa. Đại Thừa Thiền Định càng nhiều hơn, giống như Niệm Phật tam-muội trong pháp môn Niệm Phật này. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật giảng Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, trong Hoa Nghiêm giảng Sư Tử Phấn Tấn tam-muội; những [tam-muội] ấy đều thuộc loại Đại Thừa.

“Cập Sự Lý chư Thiền Định bất đồng” (Và các thứ Sự Thiền Định và Lý Thiền Định khác nhau). Có loại là Sự Định, có loại là Lý Định. Sự Định chú trọng nơi sự tướng, Định thuộc về Lý sẽ là “Sự Sự vô ngại”. Trong kinh Hoa Nghiêm, trưởng giả Dục Hương tu Thiền Định, tu Thiền Định Ba La Mật trong Thập Ba La Mật, đến đâu để tu? Đến nơi chợ búa để tu. Chợ búa là gì? Là công ty bách hóa hoặc các chợ hiện thời, là nơi náo nhiệt nhất. Ông ta hằng ngày la cà nơi đó, tu Thiền Định. Trong hết thảy trần duyên, tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó là Định, thượng thượng thừa Định. Ông ta tu [Thiền Định] kiểu ấy chẳng phải là Sự, mà là Lý, đó là chân Định. Thứ gì cũng thấy rõ ràng, rành rẽ, đó là Huệ, là Định Huệ đẳng học (Định và Huệ học cân bằng). Học ở chỗ nào? Học nơi chợ búa, đó là đạo tràng của ông ta. Hý viện (rạp hát) là đạo tràng, tiệm khiêu vũ là đạo tràng, rất lỗi lạc! Nay chúng ta gọi đạo tràng của rất nhiều vị thiện tri thức trong kinh Hoa Nghiêm là “chỗ vui chơi”, các Ngài tu Định tu Huệ nơi đó, thành tựu Vô Lậu Học, thuộc về Lý Định.

 

(Diễn) Nhi yếu chi Định giả vô tán chi vị.

()而要之定者無散之謂。

(Diễn: Điều cốt yếu là Định có nghĩa là “chẳng tán loạn”).

Bất luận là thế gian Định hay xuất thế gian Định, Đại Thừa, Tiểu Thừa, Sự Định, hay Lý Định, nói gọn một câu sẽ là “nhất tâm bất loạn”. Nhất tâm bất loạn bao gồm trọn hết, tâm chẳng tán loạn là Định.

 

(Diễn) Kim niệm niệm tương tục, vô hữu nhị niệm.

()今念念相續,無有二念。

(Diễn: Nay niệm niệm tiếp nối, chẳng có hai niệm).

Nay chúng ta là người niệm Phật, A Di Đà Phật câu này tiếp nối câu kia, từng câu một nối tiếp nhau, chẳng gián đoạn, tuyệt đối chẳng có một tạp niệm nào. Niệm Phật hiệu tinh thuần, sẽ chẳng có niệm thứ hai xen vào.

 

(Diễn) Tắc tâm bất tán loạn, cố thuộc Định nhiếp.

()則心不散亂,故屬定攝。

(Diễn: Do tâm chẳng tán loạn nên thuộc về Định).

Công phu niệm Phật đến mức này được gọi là “công phu thành phiến”. Công phu thành phiến là mức thấp nhất của Sự nhất tâm bất loạn. Có thành tích như vậy, vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư nhất định là nắm chắc. Phẩm vị trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cao hay thấp tùy thuộc công phu định lực của quý vị sâu hay cạn. Phẩm vị sâu, công phu cao; phẩm vị thấp, công phu kém hơn.

 

(Diễn) Nhiên bỉ thể cứu vô gián, chí như tĩnh dạ chung thanh, trừng đàm nguyệt ảnh.

()然彼體究無間,至如靜夜鐘聲,澄潭月影。

(Diễn: Nhưng người ấy thấu hiểu, tham cứu chẳng gián đoạn đến mức như tiếng chuông trong đêm vắng, bóng trăng in nơi mặt đầm trong lặng).

Mấy câu này nhằm hình dung cảnh giới nơi tâm địa của người  ấy.

Tâm người ấy thanh tịnh bất loạn, công phu miên mật, thấu hiểu, thể cứu chẳng gián đoạn. Thiền Tông gọi “thể cứu”“tham cứu”, chẳng rơi vào tâm ý thức. Phật hiệu câu nọ nối tiếp câu kia, trong tâm chẳng có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Phân biệt là thức thứ sáu, tức ý thức, chấp trước là thức thứ bảy, vọng tưởng là thức thứ tám. Chẳng dùng tâm ý thức để thể cứu, chẳng gián đoạn. Cảnh giới nơi tâm địa của người ấy giống như “tĩnh dạ chung thanh”, [ý nói] vì [trong tâm] người ấy có Phật hiệu, Phật hiệu rành rẽ, minh bạch, giống như lúc trời đêm rất an tĩnh mà thỉnh chuông, âm thanh niệm Phật giống như tiếng chuông, tâm địa an tĩnh dường ấy. Lại giống như “trừng đàm nguyệt ảnh”, “trừng đàm” (澄潭: cái đầm trong lặng) ví như cái tâm thanh tịnh, bóng trăng ví như Phật hiệu. Phật hiệu rành mạch, rõ ràng. Đó là cảnh giới Sự nhất tâm bất loạn, lẽ nào người ấy chẳng vui sướng? Thật sự vui sướng!

 

(Diễn) Nhược vị đắc lãnh hôi đậu bộc, họa địa nhất thanh, diệc thuộc Định nhiếp, diệc tức thị Sự nhất tâm.

()若未得冷灰豆爆,地一聲,亦屬定攝,亦即是事一心。

(Diễn: Nếu chưa đạt đến mức “đậu nổ trong tro lạnh, hộc lên một tiếng” thì cũng thuộc về Định, đó là Sự nhất tâm).

 “Tĩnh dạ chung thanh, trừng đàm nguyệt ảnh” như đã nói trong phần trước chính là công phu thành phiến. Công phu vừa mới thành phiến cũng là hạ hạ phẩm Sự nhất tâm bất loạn. Nếu người ấy không ngừng nâng cao công phu, tăng cao tới mức Kiến Tư phiền não đều đoạn hết, sẽ là thượng thượng phẩm Sự nhất tâm bất loạn, công phu bằng với cảnh giới của A La Hán và Bích Chi Phật, nhưng chưa khai ngộ, chưa kiến tánh. “Lãnh hôi đậu bộc” (Đậu nổ trong tro lạnh) là tỷ dụ kiến tánh. Đậu vùi trong tro nóng mới có thể nổ. Nổ trong tro nóng thì chẳng có gì lạ lùng, nổ trong tro lạnh mới là lạ. Câu “họa địa nhất thanh” hình dung sự hoát nhiên khai ngộ (Chú thích: Chữ Họa là bên trong chữ Vi (囗) có chữ Lực (力), âm đọc là Huò (Họa), chính là âm thanh phát ra khi kéo thuyền, hoặc âm thanh phát ra khi phải dùng sức, hoặc âm thanh phát ra khi đột nhiên tìm được vật đã mất. Trong sách vở nhà Thiền, chữ này được dùng để biểu thị âm thanh do vị tăng tu Thiền bất giác phát ra lúc đốn nhiên đại ngộ, mang ý nghĩa trông thấy vật bị mất, vui sướng khôn ngằn. “Họa địa nhất thanh” là từ ngữ Thiền Tông thường dùng để biểu thị sự đại triệt đại ngộ). “Vị đắc” (未得) nghĩa là người ấy chưa đạt đến trình độ ấy. Chưa đạt đến trình độ ấy thì vẫn là Sự nhất tâm, là thượng thượng phẩm Sự nhất tâm. Nếu đã đạt đến trình độ ấy, bèn gọi là Lý nhất tâm, chẳng phải là Sự nhất tâm, đã kiến tánh. Do vậy, đã tịnh, tịnh đến cùng cực, nhưng còn chưa thông đạt. Kinh Lăng Nghiêm nói là “tịnh cực quang thông đạt”. Đạt đến mức độ “quang thông đạt” thì phải là Lý nhất tâm, minh tâm kiến tánh, phá vô minh. Do vậy có thể biết: Trước hết, phải đoạn vọng tưởng và tạp niệm thì mới có năng lực phá vô minh. Vô minh phải dùng công phu định lực để phá, chứ tri kiến chẳng thể phá vô minh, đó là chướng ngại. Nhất định phải dùng công phu định lực, nhất định phải niệm Phật đến mức tâm thật sự thanh tịnh tột cùng, Kiến Tư và Trần Sa thảy đều đoạn hết, hoát nhiên khai ngộ, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Chưa đạt đến cảnh giới ấy thì vẫn thuộc về Định.

 

(Diễn) Nhi Sớ Sao chuyên dĩ Sự nhất thuộc ức niệm, diệc nhất loạn ngôn nhĩ.

()而疏鈔專以事一屬憶念,亦一亂言耳。

(Diễn: Nhưng Sớ Sao chuyên coi Sự nhất tâm thuộc về ức niệm, cũng là nói theo kiểu chánh diện và tương phản).

“Nhất loạn” (一亂) là chánh diện và tương phản, cũng là nói theo chiều thuận hay theo chiều nghịch. Ý nghĩa “chuyên dĩ Sự nhất thuộc ức niệm” (chuyên coi Sự nhất tâm thuộc về ức niệm) của Liên Trì đại sư trong Sớ Sao cũng là nói theo hai phương diện chánh diện và tương phản. “Vị hữu huệ cố” (Do chưa có Huệ) là chưa khai ngộ, chưa kiến tánh.

 

(Diễn) Vị hữu huệ cố giả, dĩ tức tựu ức niệm vô gián, niệm đáo liên niệm thoát lạc, đốn nhập vô niệm, tức thuộc Huệ môn.

()未有慧故者,以即就憶念無間,念到連念脫落,頓入無念即屬慧門。

(Diễn: “Do chẳng có Huệ”, chính là ức niệm chẳng gián đoạn, niệm đến mức ngay cả “niệm” cũng mất, nhanh chóng tiến nhập vô niệm, bèn thuộc vào Huệ môn).

Từ hữu niệm, niệm đến mức vô niệm, đấy mới thuộc về Huệ. Nhưng có những kẻ niệm Phật bảo: “Ta niệm Phật, niệm đến một khoảng thời gian thì chính mình cũng quên mất, đạt đến cảnh giới niệm mà vô niệm”. Họ đem chuyện ấy hỏi tôi, tôi bảo: “Công phu của quý vị khá lắm, rất khó có”. Thật ra là như thế nào? Người ấy còn biết chính mình vô niệm, còn biết thân thể của kẻ ấy chẳng còn nữa. Người ấy biết như thế nào? Vẫn là vọng tưởng, chấp trước. Đạt tới cảnh giới ấy, người ấy đến nói với tôi, nhằm khoe công phu của chính mình rất lỗi lạc, toàn là vọng tưởng! Người thật sự dụng công, hễ đạt tới cảnh giới ấy, tuyệt đối sẽ chẳng nói với người khác. Có nói, kẻ khác cũng chẳng hiểu, [vì] kẻ khác chẳng đạt tới cảnh giới ấy! Khi sinh tiền, Huệ Viễn đại sư ba lượt thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, trọn chẳng nhắc tới, đến lúc lâm chung vãng sanh mới kể với mọi người. Lâm chung vãng sanh, cảnh giới lại hiện tiền, Phật đến tiếp dẫn, [Sư chính mắt thấy] Phật và đại chúng, [cũng thấy] những người trong liên xã đã vãng sanh trước theo A Di Đà Phật đến tiếp dẫn Sư; khi đó, Sư mới tuyên bố cùng mọi người: “Trong quá khứ, tôi đã thấy cảnh giới ấy hai lần. Lần này là lần thứ ba, tôi sắp vãng sanh”.

Công phu ấy chính là “ức niệm vô gián” (ức niệm chẳng gián đoạn), thật sự niệm đến mức “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. Vô niệm chẳng phải là không niệm Phật hiệu “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, vẫn niệm y hệt như cũ! Vô niệm là gì? Cái tâm trước kia đặt nơi niệm Phật, có tâm và có nguyện niệm Phật. Bây giờ, tâm và nguyện đều chẳng có. Nói cách khác, trước kia là có tâm ý thức trong khi niệm, nay chẳng còn tâm ý thức. Chẳng còn tâm ý thức bèn thành Phật, chuyển thức thành trí, có còn niệm hay không? Vẫn niệm, chẳng phải là không niệm. Đại Thế Chí Bồ Tát hằng ngày niệm A Di Đà Phật, trước nay chưa từng gián đoạn, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Do vậy, Phật hiệu vĩnh viễn chẳng gián đoạn. Chẳng phải là nói “niệm tức vô niệm, vô niệm tức niệm” [có nghĩa là] “ta không niệm chính là niệm”, chẳng phải là nói như vậy. [Nói như vậy] tức là đã hiểu sai ý nghĩa, là tà tri tà kiến, chẳng phải là chánh tri chánh kiến. Niệm đến mức phá vô minh, thấy bản tánh, đốn nhập vô niệm; đó là Huệ môn.

 

(Diễn) Cổ vân: Chỉ nhất trực niệm khứ, diệc hữu ngộ nhật, thị dã.

()古云:只一直念去,亦有悟日是也。

(Diễn: Cổ nhân nói: “Chỉ một mực niệm, cũng có ngày khai ngộ”, nhằm nói lên ý này).

Câu này của cổ nhân luận về kinh nghiệm, là lời chân thật, xác thực là lời chú giải cho câu nói của Đại Thế Chí Bồ Tát: “Chẳng cậy vào phương tiện, tự được tâm khai”. Chỉ cần niệm miết một câu Phật hiệu này, tự nhiên sẽ có ngày khai ngộ, có thể minh tâm kiến tánh, chẳng cần dùng đến pháp môn thứ hai! Đấy là chỗ tuyệt diệu thù thắng của pháp môn này. Vì thế, mười phương chư Phật tán thán.

 

(Diễn) Kim công phu thỉ thành phiến đoạn, thượng vị khế nhập bổn tâm, cố chỉ thuộc Định môn dã.

()今工夫始成片段,尚未契入本心,故止屬定門也。

(Diễn: Nay công phu vừa mới thành phiến, còn chưa khế nhập bổn tâm, nên chỉ thuộc về Định môn).

Đây là kết luận cho đoạn [kinh văn luận định] về cảnh giới Sự nhất tâm. Công phu vừa mới thành phiến, chưa kiến tánh, chưa minh tâm, thuộc về Định. Định ở đây là Niệm Phật tam-muội, vừa mới đắc Niệm Phật tam-muội. Tuy chẳng cao, quyết định vãng sanh. Nói cách khác, đối với trình độ như vậy, bản thân chúng ta nỗ lực một chút sẽ làm được, ai nấy đều làm được, chỉ sợ chẳng chịu làm! Nếu quý vị chịu làm, ai nấy đều làm được! Nếu nói tới thượng phẩm, đã đoạn Kiến Tư phiền não, chẳng phải là ai cũng sẽ làm được. Còn công phu như thế này, ai cũng có thể làm được! Thế nhưng, điều khẩn yếu là từ nay về sau chẳng còn làm chuyện thị phi nữa thì mới có thể làm được. Vẫn chẳng lìa khỏi thị phi, nhân ngã, quý vị sẽ chẳng làm được. Rốt cuộc, cả một đời này chúng ta làm gì? Ta vì cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ta bèn nghiêm túc học, chớ nên có tri kiến giống như kẻ bình phàm. Ta chớ nên đi theo ai khác, mà phải đi theo Phật, đó là đúng. Hôm nay chúng tôi nói tới đây!

 

Tập 228

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm bốn mươi tám:

 

(Sao) Tiền chấp trì trung, dĩ ức niệm thể cứu, lược phân nhị chủng: Ức niệm giả, văn Phật danh hiệu, thường ức, thường niệm, dĩ tâm duyên lịch, tự tự phân minh. Tiền cú, hậu cú, tương tục bất đoạn, hành trụ tọa ngọa, duy thử nhất niệm, vô đệ nhị niệm, bất vị tham sân phiền não chư niệm chi sở tạp loạn. Như Thành Cụ Quang Minh Định Ý Kinh, sở vị không nhàn tịch mịch nhi nhất kỳ tâm, tại chúng phiền não nhi nhất kỳ tâm, nãi chí bao sán lợi thất thiện ác đẳng xứ, giai nhất kỳ tâm giả, thị dã.

()前執持中,以憶念體究,略分二種:憶念者,聞佛名號,常憶常念,以心緣歷,字字分明,前句後句,相續不斷,行住坐臥,唯此一念,無第二念,不為貪瞋煩惱諸念之所雜亂。如成具光明定意經,所謂空閒寂寞而一其心,在眾煩惱而一其心,乃至褒訕利失善惡等處皆一其心者,是也。

(Sao: Trong đoạn nói về Chấp Trì trong phần trước, đã chia đại lược ức niệm và thể cứu thành hai loại. Ức niệm là nghe danh hiệu Phật, thường nhớ, thường niệm, dùng tâm duyên theo từng chữ rõ ràng. Câu trước, câu sau, tiếp nối chẳng ngừng. Đi, đứng, ngồi, nằm, chỉ có một niệm này, chẳng có niệm thứ hai, chẳng bị tạp loạn bởi các niệm tham, sân phiền não. Như kinh Thành Cụ Quang Minh Định Ý đã nói: “Nơi thanh vắng, yên lặng, chuyên nhất cái tâm; ở trong các phiền não, chuyên nhất cái tâm. Cho đến đối với những chỗ khen, chê, được lợi, mất mát, thiện, ác v.v… tâm đều chuyên nhất” là nói về ý này).

Lại giải thích câu “chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn” được nói trong phần trước. Nói đến chấp trì danh hiệu, bèn nói tới câu “ức niệm, thể cứu”. Câu này có hai ý nghĩa là “ức niệm”“thể cứu”.

Trước hết, giải thích “ức niệm”. Ức niệm thuộc về Sự, tức là Sự Trì, Sự nhất tâm bất loạn được bao gồm trong phạm vi của chữ này. Ức niệm là gì? “Văn Phật danh hiệu, thường ức, thường niệm” (Nghe danh hiệu Phật thường nhớ, thường nghĩ), “thường” (常) là không gián đoạn, “ức” (憶) là trong tâm niệm, miệng chẳng niệm ra tiếng, tâm niệm bèn gọi là Ức. Nói thật ra, niệm kiểu này cũng có thể thuộc loại tâm niệm, nhưng nếu hợp hai chữ lại thì như nay ta nói “niệm ra tiếng, niệm thầm, hoặc Kim Cang Trì” đều được bao gồm trong đó. Khẩn yếu là một chữ Thường, chớ nên gián đoạn! Bốn câu kế tiếp nhằm nói rõ, niệm Phật thì phải niệm theo cách nào: Phải là “dĩ tâm duyên lịch, tự tự phân minh” (dùng tâm duyên theo từng chữ rõ ràng).

 

(Diễn) Dĩ tâm duyên lịch, tự tự phân minh giả, thử thị tâm niệm.

()以心緣歷,字字分明者,此是心念。

(Diễn: Dùng tâm duyên theo từng chữ rõ ràng, đây là tâm niệm).

 “Dĩ tâm duyên lịch, tự tự phân minh” rất trọng yếu. Nếu miệng niệm mà tâm chẳng niệm, vô dụng! Miệng có, tâm không, vô dụng! Tâm niệm, miệng chẳng niệm, vẫn hữu dụng. Vì sao? Dưới đây sẽ giải thích rõ ràng!

 

(Diễn) Bất đồng tiền khẩu niệm nhi tâm bất niệm dã.

()不同前口念而心不念也。

(Diễn: Chẳng giống như trong phần trên đã nói “miệng niệm mà tâm chẳng niệm”).

Trong phần trên đã nói, miệng niệm, tâm chẳng niệm, vậy là không được.

 

(Diễn) Tiền cú, hậu cú tương tục bất đoạn, nãi chí vô đệ nhị niệm giả, thử thị nhất tâm niệm, bất đồng tiền tâm tuy niệm, nhi niệm bất nhất dã.

()前句後句相續不斷,乃至無第二念者,此是一心念,不同前心雖念,而念不一也。

(Diễn: “Câu trước, câu sau tiếp nối không ngừng, cho đến chẳng có niệm thứ hai”: Đấy là nhất tâm niệm, chẳng giống như trong phần trên đã nói “tâm tuy niệm, nhưng niệm chẳng chuyên nhất”).

Tâm trước là niệm Phật, sau đấy, tâm lại dấy vọng tưởng, như vậy thì không được. Nhất định là niệm này tiếp nối niệm kia, như vậy thì mới có thể niệm hết sạch vọng tưởng, phiền não.

 

(Diễn) Bất vị tham sân phiền não chi sở tạp loạn.

()不為貪瞋煩惱之所雜亂。

(Diễn: Chẳng bị tạp loạn bởi tham sân phiền não).

“Tạp loạn” là xen tạp. Niệm Phật ắt phải là không gián đoạn, chẳng xen tạp. Thật sự có thể chẳng gián đoạn, không xen tạp, chư vị ngẫm xem, người ấy có còn hoài nghi hay chăng? Quyết định chẳng hoài nghi! Đấy mới là “tịnh niệm tiếp nối” như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói trong kinh Lăng Nghiêm thì mới có thể thành công.

 

(Diễn) Thử thị nhất tâm bất loạn, bất đồng tiền niệm tuy nhất, nhi hữu thời bất nhất dã.

()此是一心不亂,不同前念雖一,而有時不一也。

(Diễn: Nhất tâm bất loạn ở đây chẳng giống như trong phần trước đã nói, “niệm tuy nhất, nhưng có lúc chẳng chuyên nhất”).

Xen tạp, gián đoạn sẽ chẳng chuyên nhất. Chúng ta cũng thường thấy hoặc nghe nói có kẻ nào đó trước kia tu học pháp môn Niệm Phật rất dụng công, rất tinh tấn, về sau, biến đổi, thoái chuyển, hoặc là đổi sang học pháp môn khác, lại là do nguyên nhân nào? Nói thật ra, là vì kẻ ấy chẳng hiểu rõ công đức của danh hiệu. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói minh bạch: Kẻ ấy cho rằng còn có pháp môn khác thù thắng, ổn thỏa, thích đáng, nhanh chóng hơn pháp môn này, cho nên thay đổi phương hướng, đều là vì thiếu hiểu biết Tịnh Tông. Tu học thuở ban đầu, do thấy người khác tu, nên chính mình cũng tu. Tu một khoảng thời gian, chẳng đạt được lợi ích thật sự, bèn vứt bỏ, đi theo người khác. Hiện thời, trong thế gian này, trong ngoài nước, tình hình như vậy rất nhiều. Cổ nhân nói pháp môn này “duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” (chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là chẳng đổi dời [chí hướng tu tập]). Hai loại người ấy chẳng thay đổi cái tâm. Bậc thượng trí hiểu rõ ràng, minh bạch công đức của danh hiệu nên chẳng hoài nghi; kẻ hạ ngu tin tưởng lời chư Phật, Bồ Tát dạy, sau khi nghe xong, họ tuyệt đối chẳng bị dao động, thay đổi. Hai hạng người ấy quyết định thành tựu. Trừ phi người ấy trong suốt một đời chẳng có duyên phận gặp gỡ pháp môn này, chứ hễ gặp, quyết định thành tựu. Đó là bậc đương cơ của Tịnh Tông. Gặp được pháp môn này mà chẳng thể thành tựu, nói cách khác, kẻ ấy vừa chẳng phải là thượng trí, mà cũng chẳng phải là hạ ngu, phiền phức to lớn! Chẳng thừa nhận chính mình là kẻ ngu, nhưng cũng chẳng đủ tư cách để làm bậc thượng trí! Tuy học, nghi vấn cả một đống lớn, vĩnh viễn cũng chẳng giải quyết được. Đến nơi nào để gặp bậc thiện tri thức, đến chỗ nào để có thể gặp [dịp nghe] khai diễn đại kinh, giảng giải các kinh luận ấy tỉ mỉ, minh bạch trong một thời gian dài? Nhân duyên ấy chẳng dễ gì gặp được!

Đài Loan có người thật sự tu hành hay không, hãy khoan bàn tới, chỉ xét theo mặt ngoài, cơ duyên giảng kinh thuyết pháp đứng đầu thế giới! Có mấy ai giảng Di Đà Kinh Sớ Sao? Có mấy ai giảng Di Đà Kinh Yếu Giải? Có mấy ai giảng kinh Vô Lượng Thọ? Đó là những kinh điển tối thiểu trong Tịnh Tông. Đối với ba thứ ấy, nếu theo như tấn độ (mức độ tiến triển) của chúng ta trong hiện thời, giảng cặn kẽ một lần, giảng hằng ngày chẳng gián đoạn, cũng phải mất trọn hai năm. Chỉ riêng một bộ Sớ Sao này, chúng tôi giảng lần này chỉ sợ cũng phải hơn bốn trăm giờ. Dẫu là có người bằng lòng giảng, chẳng có ai nghe! Trong nước là như thế, mà ngoài nước cũng là như vậy. Ở nước ngoài, giảng hơi dài một chút, người ta chẳng có thời gian nghe, làm sao có thể giải quyết nghi vấn cho được? Nỗi nghi hoặc chẳng thể phá tan sẽ chính là chướng ngại căn bản; trong tương lai, trong quá trình tu học, quý vị sẽ ngã lòng, sẽ thay đổi! Chỉ có thông đạt, hiểu rõ triệt để thì tâm mới định. Vì thế, duyên này khá khó khăn! Có một vị đồng tu sang Đại Lục thăm người thân trở về, [cho biết]: Tại Đại Lục có đồng tu sau khi nghe băng giảng kinh của tôi rất hoan hỷ, cậy người ấy cầm về hai ngàn Nhân Dân Tệ, đổi thành tiền Đài Loan là một vạn đồng, giao cho tôi in kinh, chẳng [ghi lại] tên họ, địa chỉ. Đích xác là người tu hành thật sự, là người thật sự phát tâm! Cơ duyên càng khó gặp, càng quý trọng. Chúng ta ở bên này có quá nhiều cơ hội. Hôm nay chẳng nghe [giảng kinh], hãy còn có ngày mai. Năm nay chẳng nghe, hãy còn có năm sau, biếng nhác, buông lung! Do cơ duyên chẳng dễ gặp gỡ, cho nên hết sức quý trọng, hết sức trân quý, người như vậy bèn thành tựu. Tuy chúng tôi chẳng có cơ hội sang bên kia gặp họ giảng kinh, họ vâng theo lời giảng trong băng thâu âm để tu hành, bèn cảm thấy hết sức thỏa mãn.

Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn chẳng dễ làm được, nhưng phải hiểu: Nếu quý vị mong vãng sanh, chẳng làm như vậy (chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, chẳng gián đoạn) thì sẽ không được. Nếu quý vị mong niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn thì cũng chẳng thể nào không thực hiện [những điều ấy]. Thật sự làm được, thưa cùng chư vị, vui sướng khôn sánh! Thật sự làm được, sẽ chuyển phàm thành thánh. Tuy quý vị chưa đoạn Kiến Tư phiền não, ngay cả bậc đã chứng Sơ Quả trong Tiểu Thừa cũng chẳng bằng [quý vị]! Nhưng thật sự đạt được công phu thành phiến, xác thực là quý vị chẳng có phiền não. Vì sao? Phật hiệu từng tiếng nối tiếp nhau, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, phiền não chẳng thấm vào được. Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tham, sân, si, mạn chẳng khởi, cảnh giới ấy chính là thánh nhân. Nay quý vị chưa ra đi, nói thật ra, quý vị đã là Bồ Tát trong thế giới Cực Lạc, đã chẳng còn là phàm phu trong lục đạo. Khi nào sẽ chuyển phàm thành thánh? Khi quý vị niệm tới mức vọng tưởng, chấp trước chẳng thấm vào, tức là đã trở thành thánh nhân, là Bồ Tát. Bồ Tát và phàm phu sai khác ở ngay chỗ này! Phàm phu vẫn thường dấy vọng tưởng, Bồ Tát chẳng có vọng tưởng, chẳng có tạp niệm, niệm niệm đều là A Di Đà Phật, niệm niệm là kinh Vô Lượng Thọ. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật, tư tưởng và kiến giải hoàn toàn tương ứng với kinh Vô Lượng Thọ. Trong mười hai thời, một câu Phật hiệu chẳng gián đoạn, người ấy là Bồ Tát trong cõi Cực Lạc, chẳng phải là phàm phu. Lời này chẳng phải do tôi nói, mà là do đức Thế Tôn đã nói trong kinh Vô Lượng Thọ, “chẳng phải là phàm nhân”. Chẳng phải là phàm nhân thì phải là Bồ Tát trong cõi Cực Lạc. Bồ Tát trong cõi Cực Lạc cao hơn các Bồ Tát trong những thế giới phương khác quá nhiều! Bồ Tát trong các phương khác chẳng nhất định có thể thành Phật trong một đời, Bồ Tát trong cõi Cực Lạc nhất định thành Phật ngay trong một đời này. Vì thế, các Bồ Tát nơi phương khác chẳng thể sánh bằng! Từ chỗ này, chúng ta bèn hiểu rõ: Chúng ta tu gì? Chính là tu điều này!

Thật sự tu hành thì phải niệm niệm cảnh giác. Quên bẵng Phật hiệu, vọng niệm bèn dấy lên, ngay lập tức sẽ luân hồi sanh tử trong lục đạo, nhất định phải đọa trong ba ác đạo. Thời gian trong ác đạo dài lâu, thời gian trong thiện đạo ngắn ngủi. Nếu thời gian trong thiện đạo lâu dài, rất dễ gặp gỡ hai đường trời, người, thành Phật há phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp? Chẳng cần! Thời gian trong ác đạo lâu dài, hễ thoái chuyển, chẳng biết sẽ thoái chuyển đến đâu! Nói thật ra, đúng là phải luôn luôn cảnh giác, niệm niệm cảnh giác. Phải thường dán hai chữ Sanh và Tử do tổ Ấn Quang đã viết ở chỗ chúng ta dễ thấy nhất để thời thời khắc khắc đề cao cảnh giác. Tổ Ấn Quang nói: Người có thể thường nhận biết chính mình sắp chết thì đạo tâm mới có thể kiên cố. Nói “đạo tâm kiên cố” có nghĩa là Phật hiệu thật sự niệm đến mức tịnh niệm tiếp nối.

Tịnh niệm tiếp nối thì quý vị là Bồ Tát trong cõi Cực Lạc. Từ phàm phu chuyển biến thành Bồ Tát trong cõi Cực Lạc, ai nấy đều có cơ hội, ai nấy đều có thể chuyển, vấn đề là bản thân quý vị có chịu chuyển hay không? Tu hành cốt yếu do cá nhân, chẳng cần phải bận tâm đến kẻ khác. Người khác chuyển cũng thế, mà không chuyển cũng vậy, chẳng liên can gì đến ta! Quý vị thường bận lòng dòm ngó người bên cạnh, nói thật thà, chính quý vị sẽ chuyển không được! Người thật sự từ bi, chuyện gì cũng chẳng quản! Chính mình tới Tây Phương thành Phật, hoặc làm Bồ Tát trước; sau đấy mới thả chiếc bè Từ trở lại cứu độ chúng sanh. Đó là thật sự từ bi, thật sự trí huệ.

 

(Diễn) Hựu dĩ tâm duyên lịch, tự tự phân minh, thị nhất cú bất loạn.

()又以心緣歷,字字分明,是一句不亂。

(Diễn: Lại nữa, dùng tâm duyên theo từng chữ rõ ràng chính là “một câu bất loạn”).

Nam-mô A Di Đà Phật, từng chữ phân minh, rõ ràng, trong một câu [Phật hiệu] chẳng xen tạp vọng tưởng, phiền não vào đó. Đó là một câu bất loạn.

 

(Diễn) Tiền cú, hậu cú tương tục, thị đa cú bất loạn.

()前句後句相續,是多句不亂。

(Diễn: Câu trước, câu sau tiếp nối là nhiều câu bất loạn).

Ta niệm một trăm câu, niệm một ngàn câu, niệm Phật nhớ số bằng cách dùng tràng hạt, đấy là nhiều câu bất loạn.

 

(Diễn) Bất vị tham, sân đẳng tạp loạn, thị đối cảnh bất loạn dã.

()不為貪瞋等雜亂,是對境不亂也。

(Diễn: Chẳng bị tạp loạn bởi tham, sân v.v… là đối trước cảnh chẳng loạn).

Sáu căn đối ứng cảnh giới sáu trần, tu nhất tâm bất loạn.

 

(Diễn) Thành Cụ hạ, dẫn chứng bất loạn.

()成具下,引證不亂。

(Diễn: Từ câu “kinh Thành Cụ Quang Minh” trở đi là dẫn chứng về sự bất loạn).

 Dẫn kinh Thành Cụ Quang Minh Định Ý để chứng minh.

“Không nhàn tịch mịch nhi nhất kỳ tâm” (Chỗ thanh vắng tĩnh mịch chuyên nhất cái tâm): Khi thanh vắng, tĩnh mịch, bèn nhất tâm bất loạn. Hoàn cảnh thanh tịnh chẳng có ai quấy nhiễu; khi ấy, tâm địa quý vị thanh tịnh, công phu niệm Phật hiệu rất đúng nề nếp, niệm đến mức tịnh niệm tiếp nối. “Tại chúng phiền não nhi nhất kỳ tâm” (Ở trong các phiền não mà chuyên nhất cái tâm): Ở trong các cảnh giới chẳng như ý, tâm vẫn bất loạn, vẫn dấy lên một câu Phật hiệu. Chúng ta đối ứng với hoàn cảnh nhân sự, “bao” (褒) là được người khác khen ngợi, ca tụng quý vị. “Sán” (訕) là người khác chê cười, hủy báng. “Lợi” (利) là khi quý vị đạt được điều tốt đẹp. “Thất” (失) là khi quý vị bị tổn thất, mất mát tài vật hoặc địa vị. “Giai nhất kỳ tâm” (Đều chuyên nhất cái tâm), tám gió thổi chẳng động. Đối trước hết thảy các cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh hay nghịch cảnh cũng có thể niệm đến mức nhất tâm bất loạn. “Không nhàn tịch mịch” là thuận cảnh, “chúng phiền não” là nghịch cảnh. “Bao san lợi thất thiện ác đẳng xứ” (Những chỗ khen, chê, được lợi, mất mát, thiện, ác v.v…) là nói tới hoàn cảnh nhân sự. Bất luận trong hoàn cảnh nhân sự hay hoàn cảnh vật chất, từ đầu đến cuối gìn giữ một câu Phật hiệu, câu trước câu sau tiếp nối chẳng ngừng, sẽ thành công.

Do đó, chỗ hay của pháp môn này là trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều có thể tu, dễ dàng hơn các pháp môn khác. Quý vị mong tu Thiền, Thiền Định, đích xác là phải [ở nơi] thanh vắng, tĩnh mịch thì mới tọa Thiền hay tham Thiền được! Nếu trong hoàn cảnh nhiễu loạn, cũng chẳng dễ dàng tĩnh tọa cho lắm! Chỗ này của chúng ta chỉ có thể làm giảng đường, chẳng thể làm Thiền đường, tạp âm bên ngoài quá nhiều, quấy nhiễu quá nhiều. Thiền đường quyết định chẳng thể bị hoàn cảnh bên ngoài quấy nhiễu. Hễ có quấy nhiễu, khi người nhập Định chẳng cẩn thận, dễ nhập ma cảnh. Khi tâm người ấy tột bậc thanh tịnh, đối với âm thanh của người đi đường bên ngoài, chúng ta cảm thấy rất bình thường, người đó nghe âm thanh ấy sẽ thấy rất khó chịu. Trong khi vắng lặng, chỗ ngồi Thiền chỉ có một con bọ chét rớt xuống đất, ngã gãy chân, đau đớn, kêu gào tại đó, âm thanh cực vi tế ấy [người ngồi Thiền] sẽ nghe rất rõ ràng. Khi có người đang đi đường rống lên một tiếng lớn, người [tọa Thiền] ấy kinh hoảng liền xảy ra chuyện, bị ma dựa! Do vậy, ngoài Thiền đường có người tuần liêu trông nom. Một Niệm Phật Đường chân chánh cũng là như thế, quyết định chẳng thể bị quấy nhiễu, nhất định phải là hoàn cảnh rất thanh tịnh. Nhưng niệm Phật thuận tiện quá nhiều, chỉ cần sao cho câu này tiếp nối câu kia chẳng dứt; [niệm] lớn tiếng hay nhỏ tiếng chẳng sao hết. Hoàn cảnh thanh tịnh rất tốt, không thanh tịnh vẫn có thể niệm, chẳng gặp trở ngại rất lớn, điều này khó có! Hết thảy chư Phật đặc biệt ca ngợi pháp môn này quả thật là rất có lý.

 

(Sao) Sự thượng tức đắc, Lý thượng vị triệt.

()事上即得,理上未徹。

(Sao: Đã đạt về Sự, nhưng chưa thấu triệt Lý).

Xét theo Sự, người ấy đã đắc Định. Tuy đắc Định, trong tâm chẳng có vọng tưởng, chấp trước, cũng có thể nói tâm ấy chẳng tạp, chẳng loạn, chẳng nhiễm. Chẳng tạp, chẳng loạn, chẳng nhiễm là Định, đó là Niệm Phật tam-muội, nhưng người ấy chưa khai ngộ. Vì thế, “Lý thượng vị triệt” (chưa thấu triệt Lý).

 

(Sao) Duy đắc Tín Lực, vị kiến đạo cố, danh Sự nhất tâm dã.

()惟得信力,未見道故,名事一心也。

(Sao: Chỉ đắc Tín Lực, do chưa kiến đạo, nên gọi là Sự nhất tâm).

Người ấy đắc Tín Lực, chưa kiến đạo. Đạo là Chân Như bản tánh. Người ấy đã đoạn Kiến Tư phiền não, thậm chí Trần Sa phiền não cũng đoạn, [nhưng] vô minh còn chưa phá. Khi nào phá một phẩm vô minh, chứng một phần bản tánh, trí huệ bèn mở mang, bèn nhập Lý nhất tâm, thì chẳng gọi là Sự nhất tâm. Do vì lẽ này, người ấy thuộc về Niệm Phật tam-muội.

 

(Sao) Ngôn Định giả, dĩ phục vọng cố; vô huệ giả, dĩ vị năng phá vọng cố.

()言定者,以伏妄故;無慧者,以未能破妄故。

(Sao: Nói là Định vì đã chế phục vọng, [bảo là] chẳng có Huệ là do chưa thể phá vọng).

“Vọng” (妄) là vọng tưởng, chấp trước, chúng ta cũng gọi nó là Kiến Tư phiền não. [Đối với người đã đắc Sự nhất tâm bất loạn], một câu Phật hiệu có thể chế phục, nhưng chẳng đoạn trừ [Kiến Tư phiền não]. Chúng ta thường nói A La Hán đã đoạn Kiến Tư phiền não, thật ra, có phải là A La Hán đã thật sự đã đoạn hết hay chưa? Có thể nói là Ngài đã đoạn; vì sao? Phiền não vĩnh viễn chẳng còn khởi tác dụng nữa. Căn cội phiền não có còn hay không? Căn cội vẫn còn! Căn cội hoàn toàn chẳng đoạn, nhưng do Ngài công phu Thiền Định sâu xa, chẳng mất Định, có thể vĩnh viễn khống chế [phiền não], chẳng cho chúng nó khởi tác dụng. Đến khi nào thì mới chẳng còn có căn cội phiền não? Nhất định phải là khai trí huệ. Khai trí huệ thì phiền não có còn hay không? Vẫn còn, nhưng phiền não bị biến chất, biến thành Bồ Đề. Vì thế, phiền não tức là Bồ Đề. Khi mê, Bồ Đề biến thành phiền não, một mai minh tâm kiến tánh, phiền não lại biến thành Bồ Đề. Nói cách khác, cảnh giới của A La Hán và Bích Chi Phật là đã khống chế phiền não, nhưng chẳng có cách nào biến chúng thành Bồ Đề. Vì thế, phiền não và Bồ Đề là cùng một thứ, chẳng phải là hai thứ, chuyển biến đó thôi! Do vậy, nhiều phiền não, sợ gì! Tới khi quý vị đã giác ngộ, Bồ Đề sẽ nhiều, đúng không? Chuyện là như vậy đó! Bồ Đề là trí huệ, trí huệ bèn nhiều. Nếu quý vị chẳng biết chuyển biến, phiền não luôn luôn là phiền não, quý vị vẫn phải chịu khổ, mắc nạn. Một mai chuyển biến, sẽ là đại tự tại, dùng trí huệ ấy để hoằng pháp lợi sanh. Hết thảy chúng sanh có phiền não kỳ quái kiểu nào đi nữa, Phật, Bồ Tát đều biết. Vì sao? Vì trong quá khứ các Ngài cũng có; nhưng các Ngài đã chuyển biến trọn hết phiền não thành trí huệ, trí huệ có thể giải quyết vấn đề. Đó là chế phục vọng. “Vô huệ giả, dĩ vị năng phá vọng cố” (Chẳng có huệ là vì chưa thể phá vọng). Huệ thật sự là chuyển vọng tưởng thành trí huệ.

 

(Sớ) Lý nhất tâm giả.

()理一心者。

(Sớ: Lý nhất tâm là…).

Trong phần trên là nói về Sự nhất tâm, ở đây, giảng về Lý nhất tâm.

 

(Sớ) Như tiền thể cứu, hoạch tự bổn tâm, cố danh nhất tâm.

()如前體究,獲自本心,故名一心。

(Sớ: [Do] thể cứu như trong phần trước [đã nói] mà đạt được bổn tâm, nên gọi là nhất tâm).

Đầu tiên,  giải thích Lý nhất tâm.  Lý nhất tâm chẳng tu từ mặt Sự.

Niệm A Di Đà Phật, niệm này tiếp nối niệm kia, chẳng để cho tạp niệm xen tạp trong đó, chẳng hoài nghi, không gián đoạn, không xen tạp, thuộc về Sự tu (tu theo mặt Sự). Thoạt nhìn, tu theo Lý dễ dàng hơn tu theo Sự, chẳng cần phải niệm nhọc nhằn dường ấy. Nhưng chư vị phải hiểu: Vất vả kiểu đó, suốt ngày từ sáng đến tối lần chuỗi niệm Phật hiệu; niệm đến mức thật sự chẳng hoài nghi, không gián đoạn, không xen tạp, xét theo mặt Sự, mỗi cá nhân đều có thể thành công. Hành theo Lý, phải có túc căn, chẳng phải là ai nấy đều có thể làm được! Đó gọi là “vừa tiếp xúc Phật pháp bèn hoát nhiên khai ngộ”. Trong một đời này, quý vị thấy mấy ai khai ngộ? Nhìn vào lịch sử Trung Hoa, chúng ta thấy rõ ràng nhất. Lục Tổ Huệ Năng đại sư là một [trong số đó], vừa nghe bèn khai ngộ; những vị khác, tối thiểu cũng phải tu dăm ba năm mới khai ngộ, chẳng phải là vừa tiếp xúc bèn khai ngộ. Do vậy có thể biết, căn tánh mỗi người khác nhau, điều này chẳng thể miễn cưỡng.

“Nhân quý tự tri” [nghĩa là] kẻ đáng khen nhất chính là người tự biết mình. Chính mình hiểu mình, quý vị sẽ giữ bổn phận. Một người có thể tuân thủ bổn phận, suốt một đời này, sẽ sống bình an, hạnh phúc, sẽ chẳng tạo tội nghiệp. Vào thời cổ, giáo dục tại Trung Hoa nhằm dạy quý vị nhận biết chính mình, nhận biết hoàn cảnh. Nói theo Phật pháp là vũ trụ và nhân sinh, nhân sinh là chính mình, vũ trụ là hoàn cảnh sống. Triệt để thông đạt, hiểu rõ, biết chúng ta sống trên cõi đời, trong vài chục năm ấy, phải biết làm người như thế nào, thì trong đời này, chúng ta mới có thể đạt đến hạnh phúc thật sự. Đó là giáo dục, tuyệt đối chẳng thể bộp chộp làm xằng, tuyệt đối chẳng thể không tuân thủ bổn phận. Nho gia dạy chúng ta Ngũ Luân, Thập Nghĩa. “Nghĩa” (義) là quý vị hãy nên làm như thế nào. Điều thứ nhất trong Ngũ Luân (五倫) là chồng vợ. Chồng phải nên làm chồng ra sao? Vợ phải nên làm vợ như thế nào? Giống như biểu diễn trên sân khấu, phải biểu diễn cho giống! Đều phải đạt tới tiêu chuẩn. Cha con: Làm cha phải nên làm giống như một người cha; làm con phải nên [cư xử sao cho] ra dáng một đứa con. Anh em, vua tôi, bạn bè, ai nấy đều gìn giữ bổn phận của chính mình, trọn hết nghĩa vụ cá nhân, gia đình sẽ mỹ mãn, xã hội hài hòa, quốc gia cường thịnh, thế giới đại đồng. Giáo dục xưa kia nhắm đến mục tiêu ấy, ai nấy đều hạnh phúc, toàn thể nhân loại hạnh phúc, đều do coi trọng chuyện này.

Vì sao xã hội hiện thời rối loạn dường ấy? Người ta chẳng biết bổn phận của chính mình, chẳng biết mình phải nên làm những gì trong thế gian này. Thấy người khác muốn làm, ta cũng muốn làm, khó lắm! Một quốc gia chỉ có một Tổng Thống, ông ta làm [Tổng Thống], ta cũng muốn làm, ông ta cũng muốn làm, sẽ như thế nào? Đánh nhau! Đánh đến nỗi toác đầu tươm máu, thế giới loạn tùng phèo! Trước kia, [người nắm giữ địa vị cai trị] do ai làm? Kẻ có phước báo to lớn làm; kẻ ấy có phước, có trí huệ, mọi người hưởng phước của kẻ ấy. Người hiện thời chẳng đọc sách [thánh hiền], chẳng tin tưởng lời này; chứ người đọc sách thời cổ tin tưởng. Trong gia đình, người làm Đương Gia (當家: người tổng quản trị trong một gia tộc hoặc một đoàn thể) là do anh em đông, nói chung là chọn lựa một người làm Đương Gia. Người làm Đương Gia có trí huệ, có phước, người một nhà hoặc người cùng dòng họ hưởng phước của người ấy. Người lãnh đạo một quốc gia có phước, người dân trong nước hưởng phước của vị lãnh đạo ấy. Người có phước được mọi người kính phục, nghe lời, ưa chuộng người ấy. Đó là có phước. Làm người lãnh đạo mà kẻ dưới chẳng nghe lời, chẳng phục quý vị, chẳng có phước! Chẳng có phước sẽ ngay lập tức rút lui, chẳng rút lui sẽ tạo tội nghiệp. Hiện thời, mọi người chẳng nói đến chuyện này, cảm thấy “ngươi có khả năng, ta còn có khả năng hơn ngươi”. Chuyện này chẳng phải là có khả năng hay không, mà là phước báo, đặc biệt là kẻ làm lãnh tụ. Tiên sinh Tôn Trung Sơn đã luận về lãnh tụ rất hay: Lãnh tụ chẳng cần có năng lực, lãnh tụ phải có quyền, cán bộ cấp dưới của lãnh tụ phải có năng lực. Vì sao? Họ là những kẻ chấp hành, làm việc. Nói theo Phật pháp, hoặc nói theo Nho gia, chẳng phải là nói tới chuyện “có quyền”, [mà là nói] phải “có phước”, tu phước! Nói thật ra, có phước thì sẽ có quyền, có quyền chẳng nhất định là có phước! Có phước thì mọi người nghe lời, tuân phục quý vị, đó là “quyền”. Ai nấy đều nghe lời, chẳng chống trái.

Nếu muốn làm người lãnh đạo, hãy tu theo cách nào? Đoạn ác, tu thiện, tích lũy công đức. Chư vị phải biết: Một vị lãnh tụ do thiện căn, phước đức đã tu tập từ nhiều đời nhiều kiếp, làm sao có thể tranh chấp cho được? Trong đời quá khứ, người ấy đã vun bồi sâu dầy như vậy, ta chẳng bằng kẻ ấy, há có thể tranh ư? Ta có trí huệ vừa có năng lực, thậm chí ta nêu ra chủ ý, thực hiện những chánh sách còn tốt đẹp hơn người ấy, nhưng chẳng có ai nghe theo ta, đó là thiếu phước báo! Chẳng có phước báo, làm sao có thể tranh cho được? Chẳng thể tranh! Người thuở trước hiểu rõ đạo lý này, tuân thủ bổn phận, không tranh giành, xã hội mới thật sự đạt đến an hòa, lợi lạc. Trong quá khứ, tuyển lựa người hiền đức và có khả năng, người được tuyển còn chưa chắc đã chịu đi [làm quan]. Vì sao? Trách nhiệm quá lớn, là chuyện rất vất vả, chẳng ai bằng lòng làm! Nếu quý vị thật sự làm một công chức, tuân thủ pháp luật và lẽ công chính, được đãi ngộ rất đơn bạc, làm bất cứ nghề nào [khác] cũng có nhiều lợi nhuận hơn! Ai chịu làm chuyện nhọc nhằn đó? Đều là những kẻ thật sự có học vấn, có đạo đức, hy sinh, phụng hiến, dấn thân làm việc thay cho đại chúng. Khi đến tuổi về hưu, hai tay áo nhẹ tênh, chẳng sở hữu gì, lưu tiếng thơm trong lịch sử mà thôi! Người đời sau tán thán người ấy, trừ chuyện ấy ra, người ấy đạt được gì? Nói thật ra, chết rồi cũng chẳng biết luân hồi trong đường nào. Chẳng giống như hiện thời, mọi người giành nhau làm quan, xưa kia chẳng có ai muốn làm, người đầu óc thật sự sáng suốt sẽ chẳng làm. Đừng nói là ra tranh cử, quý vị đưa tôi lên làm Tổng Thống, tôi cũng chẳng làm. Tôi cảm thấy khổ quá, ràng buộc quá, đi đường còn phải có người bảo vệ, chẳng thuận tiện! Người chẳng muốn gặp, hằng ngày vẫn phải bắt tay, mệt quá đi! Hằng ngày họp hành mệt chết luôn! Chẳng thể làm chuyện ấy. Vui sướng nhất là làm dân đen. Những người ấy tạo phước, dân chúng hưởng phước, phải hiểu rõ đạo lý này. Trong một đoàn thể cũng là như thế, Trụ Trì, Đương Gia, Chấp Sự trong chùa chiền là người tạo phước, thanh chúng (đại chúng tu hành thanh tịnh) là kẻ hưởng phước. Những người phụ trách chiếu cố quý vị mọi mặt, quý vị mới có thể an tâm tu đạo.

Do vậy có thể biết: Thiện căn, phước đức, nhân duyên của mỗi cá nhân khác nhau, chẳng có cách nào nói đến chuyện bình đẳng được! Do tu tập và tích lũy trong đời quá khứ [mà thành ra như thế], quý vị làm sao nói bình đẳng cho được? Do vậy, đức Thế Tôn tuyên thuyết một pháp môn bình đẳng thành Phật, chẳng có ai tin tưởng. Về căn bản là chẳng thể nào bình đẳng, há có thể bình đẳng thành Phật ư? Chẳng có ai tin tưởng. Do vậy, người thâm nhập kinh tạng tuyệt đối chẳng thể tin tưởng pháp môn này. Nói thật ra, pháp môn này lý luận quá sâu, trong Đại Kinh đã nói rõ ràng: Nếu chẳng do chư Phật Như Lai gia trì, chúng sanh thuộc chín pháp giới cậy vào năng lực của chính mình sẽ chẳng có cách nào lý giải. Giáo Hạ chấp trước giáo tướng, [sẽ cảm thấy]: Thiện căn, phước đức, và nhân duyên của mỗi người trong đời quá khứ đều khác nhau, làm sao có thể bình đẳng thành Phật cho được? Nói chẳng suông! Họ chẳng hiểu lý luận này được kiến lập trên Chân Như bản tánh, tánh là bình đẳng, kiến lập từ nơi Lý, chẳng phải là kiến lập nơi Sự, đấy mới là bình đẳng thật sự. Do đó, câu Phật hiệu thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Câu Phật hiệu là tên gọi của Chân Như bản tánh. Cái tâm năng niệm là Thỉ Giác, đức Phật được niệm là Bổn Giác. Người hiểu đạo lý này rất ít, người có thể tiếp nhận càng ít hơn! Nếu chúng ta muốn trong cuộc đời này sống rất hạnh phúc, bình an, đạo nghiệp có thể quyết định thành tựu, thì phải nhận biết chính mình, phải nhận biết hoàn cảnh. Thật sự nhận biết, tâm sẽ bình, chẳng có tham, sân, ghen tỵ, chẳng còn có những cái tâm và những vọng tưởng ấy. Người nào thiện căn sâu dầy, bèn xin họ làm nhiều chuyện hơn cho chúng ta. Chúng ta là những kẻ ít thiện căn, phước đức kém hơn bèn hưởng phước nhiều hơn đôi chút. Người thiện căn và phước đức nhiều hãy thay chúng tôi tạo nhiều phước hơn, sẽ chẳng có tranh chấp. Đó là học vấn thật sự, cổ nhân nói “học vấn thâm thời, ý khí bình” (khi học vấn sâu đậm, ý khí sẽ bình ổn).

“Thể cứu”: Thể Cứu là sử dụng chân tâm. Vọng tâm chẳng phải là Thể, chân tâm mới là bản thể. Thể (體) là nói tới chân tâm, bản tánh, Cứu (究) là hiểu rõ. Thể Cứu như thế nào? Thiền gia nói rất hay: “Ly tâm ý thức tham” (Lìa cái tâm ý thức để tham cứu), đó là Thể Cứu. Quý vị sử dụng tâm ý thức, sẽ rơi vào Sự, chẳng phải là Thể. Rốt cuộc tâm ý thức là gì? Nói thô thiển nhất, Thức là thức thứ sáu, tức ý thức, có đặc tánh phân biệt, thức thứ bảy là Mạt Na có tánh chất chấp trước, thức thứ tám là A Lại Da có tác dụng giữ lại ấn tượng. Lìa tâm ý thức là chẳng phân biệt, không chấp trước, không giữ lại ấn tượng, đó mới gọi là Thể Cứu. Chúng ta vẫn dùng tâm ý thức, chắc chắn chẳng thể làm được hai chữ Thể Cứu. Như tham Thiền phải lìa tâm ý thức thì mới có thể minh tâm kiến tánh; Giáo Hạ nói là “đại khai viên giải”. Làm như thế nào thì mới có thể đạt tới đại khai viên giải? Cũng phải lìa tâm ý thức. Lìa tâm ý thức thì quý vị mới thật sự hiểu rõ, thông đạt ý nghĩa chân thật của Như Lai. Nói cách khác, chỉ cần quý vị sử dụng tâm ý thức, chắc chắn là quý vị sẽ chẳng hiểu ý nghĩa chân thật của Như Lai. Quý vị đọc kinh bèn đoán mò, đại khái là ý nghĩa này, phỏng chừng là ý nghĩa nọ, hoàn toàn là phỏng đoán sai lầm, vẫn cứ ngỡ mình là chánh xác!

Không chỉ là quý vị suy đoán, cổ đại đức cũng suy đoán. Liên Trì đại sư có một tác phẩm chú giải kinh Lăng Nghiêm, Ngài chẳng giải thích dựa trên từng câu kinh văn một. Tác phẩm của Ngài thuộc thể loại Luận, có tựa đề là Lăng Nghiêm Mô Tượng Ký (楞嚴摸象記: những ghi chép sờ voi về kinh Lăng Nghiêm), [ý nói giống như] kẻ mù sờ voi, mỗi người mò trúng một bộ phận, chẳng biết toàn thể. Mò phải chân voi, [bèn kết luận] voi giống như cây cột. Mò trúng đuôi voi, [cứ ngỡ] voi giống như cái chổi xể. Họ có nói đúng hay không? Quý vị chẳng thể bảo họ không đúng, họ [chỉ nói] đúng một bộ phận. Họ thật sự chạm vào voi, bất quá chẳng thấy voi hoàn toàn đúng. Người hiện thời mò trúng một khối đá lớn bèn ngỡ là voi, hỏng bét, hoàn toàn sai lầm, còn kém người mù sờ voi quá xa! Điều này cho thấy người thuộc thế hệ chúng ta chẳng có phước báo, chẳng có người tu hành thật sự. Lìa tâm ý thức thì mới có thể hiểu ý nghĩa của kinh. Chẳng lìa tâm ý thức, trong tâm còn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, quý vị mong hiểu ý Phật sẽ là chuyện chẳng thể được! Mọi người cầm lấy kinh điển suy đoán vung vít. Nếu suy đoán như thế bèn tiếp tục không ngừng, suy đoán mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, dần dần họ sẽ mò được, dần dần sẽ phát hiện có thể mò được, chứ trong một thời gian ngắn bèn chẳng mò được. Vì họ làm như vậy trong một thời gian dài, không ngừng sửa đổi, cải tiến, cuối cùng sẽ phát hiện. Nếu chẳng phải là trong một thời gian dài, sẽ rất khó phát hiện sai lầm của chính mình. Tự mình chẳng biết chính mình sai lầm, sửa chữa từ chỗ nào? Vĩnh viễn sai lầm, điều này hết sức đáng sợ.

Chư vị phải hiểu: Niệm Phật cũng phải lìa tâm ý thức, cớ sao nói cũng phải lìa? Lý nhất tâm thì phải lìa. Chẳng lìa tâm ý thức chính là Sự nhất tâm. Nói cách khác, trong các pháp môn khác, nếu chẳng lìa tâm ý thức, quyết định chẳng thể thành tựu. Trong pháp môn này, chẳng lìa tâm ý thức vẫn có thể vãng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ tiếp tục làm chuyện ấy. Như vậy là quá sức thuận tiện, pháp môn này thù thắng ở ngay chỗ này! Lìa tâm ý thức vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là [sanh vào] cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Chẳng lìa tâm ý thức, sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, có thể vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hoặc cõi Phương Tiện Hữu Dư. Chúng ta mới biết vì sao phải chọn lựa pháp môn này, do chúng ta chẳng có cách nào lìa tâm ý thức. Người nào có bản lãnh ấy, trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đãi người, tiếp vật, ta chẳng phân biệt, không chấp trước, không giữ lại ấn tượng, ai có thể làm được? Nói thì hay lắm, nhưng chẳng làm được! Nếu ta có thể làm được, sẽ chẳng niệm Phật, chẳng học pháp môn này. Suy nghĩ, [sẽ thấy rõ là] chẳng làm được! Làm không được thì như thế nào? Vẫn đới nghiệp vãng sanh! Chuyện này có thể nắm chắc, có thể làm được. Đới nghiệp là mang theo phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, ta có thể mang theo những thứ ấy vãng sanh, ta có thể làm được chuyện này. Chẳng mang theo những thứ ấy, ta chẳng làm được. Nhưng ở chỗ này, phải hiểu Lý, chẳng làm được thì [vẫn là] chẳng làm được, nhưng chẳng thể không biết! Đã biết thì đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ còn biết nâng cao phẩm vị của chính mình, sẽ chẳng “được chút ít bèn cho là đủ”!

 

(Sớ) Ư trung phục nhị.

()於中復二。

(Sớ: Trong ấy lại có hai loại).

Trong Thể Cứu có hai loại.

 

(Sớ) Nhất giả, liễu tri năng niệm, sở niệm, cánh phi nhị vật, duy nhất tâm cố.

()一者,了知能念所念,更非二物,唯一心故。

(Sớ: Một là biết rõ năng niệm và sở niệm trọn chẳng phải là hai vật, vì chỉ là nhất tâm).

“Năng niệm” (Chủ thể niệm) là tâm, “sở niệm” (đối tượng được niệm) là y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Năng niệm và sở niệm là cùng một thứ, đều là tự tánh. Do đâu mà có y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới? Do tự tánh biến hiện, chính là cái được gọi là “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”.

 

(Diễn) Năng niệm, sở niệm cánh phi nhị vật giả, dĩ sở niệm giả Phật, thị tức Bổn Giác chi Lý.

()能念所念更非二物者,以所念者佛,是即本覺之理。

(Diễn: “Năng niệm và sở niệm chẳng phải là hai vật”: Do đức Phật được niệm chính là Lý Bổn Giác).

Đấy là tự tánh Di Đà.

 

(Diễn) Năng niệm giả tâm, thị tức Thỉ Giác chi trí. Nhược năng Thỉ Bổn hợp nhất, phương liễu năng sở bất nhị.

()能念者心,是即始覺之智。若能始本合一,方了能所不二。

(Diễn: Năng niệm là tâm, chính là trí  Thỉ  Giác. Nếu  có  thể  hợp nhất Thỉ Giác và Bổn Giác thì mới có thể hiểu rõ Năng và Sở chẳng hai).

Khi nào quý vị giác ngộ Thỉ Giác và Bổn Giác là cùng một chuyện thì Tự và Tha chẳng hai. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương cùng cái tâm năng niệm của chính mình chẳng hai. Nếu chúng ta hỏi: Sâm la vạn tượng trước mắt chúng ta trong thế giới này và tự tánh là một hay là hai? Cũng là chẳng hai. Tận hư không khắp pháp giới là một tự tánh. Cảnh giới triệt ngộ trong Thiền Tông có thể nói thành một câu: “Tận hư không khắp pháp giới là một con mắt của sa-môn”, đó chính là Tự và Tha là một, không hai. Đến lúc đó, chư vị ngẫm xem, quý vị còn có thể đối lập cùng hết thảy vạn pháp ư? Chẳng thể! Quý vị còn có thể có thị phi, nhân ngã hay không? Chẳng có. Toàn bộ tất cả hết thảy vọng tưởng, tạp niệm đều chẳng có. Đấy là sự thật, là chân tướng. Kinh Bát Nhã nói “chư pháp Thật Tướng”, đó là tướng chân thật, chẳng giả tí nào! Nhập cảnh giới ấy chính là minh tâm kiến tánh, được gọi là “kiến tánh thành Phật”. Nếu quý vị hỏi khi nào sẽ thành Phật ư? Khi nào tận hư không khắp pháp giới và chính mình là một khối, trở thành một, bèn gọi là thành Phật. Nếu còn cảm thấy có ta, có quý vị, có người khác, chắc chắn sẽ là lục đạo phàm phu, ngay cả Tiểu Thừa A La Hán vẫn chưa chứng đắc. Tiểu Thừa A La Hán đã chẳng có ngươi, ta, kẻ khác. Đã phá trừ Ngã Chấp, nhưng các Ngài còn có tâm, có pháp, có tâm năng niệm, có pháp sở niệm (pháp được niệm), vẫn chưa thể hợp thành một. Đó là Tiểu Thừa, có Năng và Sở, Năng và Sở chưa thể hợp thành một. Hợp thành một thứ, sẽ là Đại Thừa Bồ Tát, đấy là kiến tánh thành Phật.

Tiểu Thừa đã phá Ngã Chấp; do vậy, trong kinh luận, đức Phật thường nhắc nhở chúng ta: Khởi tâm động niệm đừng nghĩ tới chính mình. Nghĩ tới chính mình bèn tăng trưởng Ngã Chấp, đấy chẳng phải là thiện pháp, mà là ác pháp, là chướng ngại, là nghiệp chướng lớn nhất. Khởi tâm động niệm đều nghĩ đến ta, thậm chí còn nói “phái của ta, đảng của ta”, càng hỏng bét! Ta cùng kẻ khác đối lập, tạo tội nghiệp ngày càng sâu hơn, phải vào ba ác đạo. Khổng Tử nói: “Nhân giả vô địch” (Người nhân từ chẳng có kẻ đối địch), “Địch” (敵) là đối địch. Một người nhân từ thì trong tâm chẳng có kẻ đối lập, suốt một đời người ấy vĩnh viễn chẳng có oan gia đối đầu, người ấy chẳng đối lập với kẻ khác. Phật pháp nói từ bi, so với lòng Nhân, từ bi còn được giảng tinh vi hơn. Khởi tâm động niệm đối lập kẻ khác, đó là phàm phu ngu muội, phàm phu bậc thấp, quả báo trong tương lai là ác đạo, chẳng phải là hai đường nhân, thiên.

Nho gia nói Ngũ Thường (五常). Điều thứ nhất trong Ngũ Thường là Nhân, [Ngũ Thường là] nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Người ta thường có oan gia đối đầu, [là do vì] vẫn còn vạch giới hạn đối lập với người khác. Hễ có lòng Nhân, sẽ chẳng có [oan gia, chẳng có giới hạn đối lập]. Sau khi đã bị thiếu khuyết Ngũ Thường, đời sau chẳng được làm thân người. Ngũ Thường chính là Ngũ Giới trong nhà Phật, giữ năm giới thì đời sau có thể được làm thân người. Kẻ chẳng phải là đệ tử Phật, nhưng vâng giữ giáo dục đạo đức luân thường của Nho gia cũng có thể được làm thân người.

Đời người rất ngắn, cớ gì chẳng thể chung sống với người khác? Cần gì cứ phải đối lập với người ta? Nhường nhịn, nhường một bước là được rồi, chớ nên đối lập. Người chẳng học Phật sẽ không biết, người thật sự học Phật đầu óc sáng tỏ, quan sát vi tế: Phá Ngũ Giới, đánh mất Ngũ Thường thì đời sau chẳng được làm thân người. Nay tuy là người, nhưng đã ghi danh, nhập sổ bộ trong ba ác đạo, chẳng bao lâu phải đi trình diện, người đáng thương như vậy, quý vị có còn tranh đua với họ nữa chăng? Chúng ta thương xót còn chẳng kịp, chớ nên tranh giành cùng họ. Họ vạch giới tuyến với ta, ta chẳng vạch giới tuyến với họ. Họ coi ta là kẻ đối địch, ta chẳng đối địch họ, đó là người học Phật. Gia đình cũng thế, mà đoàn thể cũng thế, quốc gia cũng thế, hễ có kẻ đối địch, phiền phức sẽ đưa đến, chẳng thể nào có hạnh phúc!

 

(Sớ) Nhị giả, phi hữu, phi vô, phi diệc hữu diệc vô, phi phi hữu phi vô, ly ư tứ cú, duy nhất tâm cố. Thử thuần Lý Quán, bất chuyên sự tướng, quán lực thành tựu, danh Lý nhất tâm, thuộc Huệ môn nhiếp, kiêm đắc Định cố.

()二者,非有,非無,非亦有亦無,非非有非無,離於四句,唯一心故。此純理觀,不專事相,觀力成就,名理一心,屬慧門攝,兼得定故。

(Sớ: Hai là “chẳng có, chẳng không, chẳng phải là cũng có, cũng không, chẳng phải là không phải có, không phải không”, lìa bốn câu, vì chỉ là nhất tâm. Điều này là thuần Lý Quán, không chuyên trọng sự tướng. Quán lực thành tựu, gọi là Lý nhất tâm, thuộc về Huệ môn, kiêm đắc Định).

“Chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải là cũng có, cũng không, chẳng phải là không phải có, không phải không”, được gọi là “lìa bốn câu”. Phật gia thường nói “ly tứ cú, tuyệt bách phi”.

 

(Diễn) Ly ư tứ cú, duy thị nhất tâm giả, vị ly nhất thiết pháp sai biệt chi tướng.

()離於四句,唯是一心者,謂離一切法差別之相。

(Diễn: “Lìa bốn câu, chỉ là nhất tâm”, ý nói: Lìa tướng sai biệt của hết thảy các pháp).

Hết thảy các pháp có sai biệt hay không? Có sai biệt! Vì sao có sai biệt? Duyên bất đồng. Hết thảy các pháp đều sanh bởi duyên. Pháp sanh bởi nhân duyên, mà duyên bất đồng, đương nhiên là có sai biệt bất đồng, nhưng tâm chẳng bất đồng, tâm giống như nhau. Quý vị dùng cái tâm thanh tịnh để nhìn hết thảy vạn pháp, [sẽ thấy] tướng của hết thảy các pháp là bình đẳng, thanh tịnh. Vì sao? Vì quý vị chẳng có phân biệt. Hễ có phân biệt, sẽ khác hẳn. Trong lúc quý vị chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, vạn pháp bình đẳng, thanh tịnh như nhau, đấy là cảnh giới của chư Phật, Bồ Tát. Vì thế, chư Phật, Bồ Tát chẳng có phiền não, chẳng có chấp trước, chẳng có vọng tưởng, chẳng có ưu lự, chẳng có vướng mắc. Vì sao? Các Ngài chẳng phân biệt, không chấp trước! Phàm phu chúng ta đối với các cảnh giới, do vì phân biệt, chấp trước, nên quý vị sanh phiền não, có ưu lự, có vướng mắc. Nói thật ra, những ưu lự, vướng mắc, phân biệt, chấp trước ấy có thật hay không? Đối với tâm thái và cách làm ấy, quý vị có thể thật sự đạt được gì hay không? Rỗng tuếch, thứ gì cũng chẳng đạt được! Nếu quý vị chẳng tin tưởng, hãy suy nghĩ kỹ càng, đêm ngủ, quý vị có gì hay không? Quý vị được gì trong thế gian này? Đã ngủ say, người ta khiêng quý vị đi cũng chẳng biết, còn được gì nữa đây? Chẳng cần chờ đến chết, ngủ say là đã chết tạm thời, thời gian chết rất ngắn, sau mấy giờ, quý vị sống lại, vẫn chẳng giác ngộ ư? Vốn là người sau khi đã chết, thứ gì cũng chẳng mang theo được, giống như khi ngủ, thứ gì cũng chẳng mang theo được, thứ gì cũng chẳng có!

Vì thế, đối với thế gian này, xác thực là chúng ta chẳng mang theo được gì, chẳng đạt được gì, rỗng tuếch! Chẳng khác gì nằm mộng! Mỗi ngày đều nằm mộng, vì sao chẳng mơ giấc mộng đẹp? Cớ sao nằm ác mộng? Người giác ngộ bèn mơ giấc mộng đẹp, đó là du hý thần thông. Chư Phật, Bồ Tát thị hiện du hý thần thông trên thế gian, mỗi ngày đều có mộng đẹp. Lục đạo phàm phu nằm ác mộng mỗi ngày, chẳng biết chân tướng sự thật của cái được tạo thành, cứ ngỡ hết thảy vạn pháp là thật có, cứ ngỡ cái thân của chính mình là thật có, cho nên mới có Ái, Thủ, Hữu, mới làm những chuyện ấy, mới phân biệt, chấp trước, chẳng biết thân là giả, cảnh giới bên ngoài cũng là không.

 

(Diễn) Dĩ vô hư vọng tâm niệm cố.

()以無虛妄心念故。

(Diễn: Vì chẳng có tâm niệm hư vọng).

Điều trọng yếu nhất là người ấy chẳng có vọng niệm. “Hư vọng tâm niệm” là vọng tưởng, người ấy chẳng có vọng tưởng.

 

(Diễn) Sở vị Chân Như tự tánh, phi hữu tướng, phi vô tướng, phi phi hữu phi vô tướng, phi hữu vô câu tướng.

()所謂真如自性,非有相,非無相,非非有非無相,非有無俱相。

(Diễn: Nói đến Chân Như tự tánh thì nó chẳng phải là có tướng, chẳng phải là không có tướng, chẳng phải là “chẳng phải có, chẳng phải không có tướng”, chẳng phải là “vừa có tướng, vừa vô tướng”).

“Phi hữu vô câu tướng”: Chẳng phải là vừa có vừa không. Đức Phật nói lắm danh từ thuật ngữ dường ấy, đều là từ vọng tưởng của hết thảy chúng sanh. Nếu chúng sanh chẳng có vọng tưởng, đức Phật sẽ chẳng nói một câu nào. Vì quý vị có vọng tưởng, đức Phật mới nói, giống như thầy thuốc chữa bệnh, quý vị chẳng có bệnh, lấy đâu ra thuốc? Chẳng có thuốc! Vì quý vị có bệnh, nên mới có thuốc để đối trị. Chúng sanh có vọng tưởng, đức Phật mới có pháp. Chúng sanh chẳng có vọng tưởng, Phật pháp cũng chẳng có. Kinh Kim Cang nói “pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp”, “pháp” là Phật pháp.

 

(Diễn) Y nhất thiết chúng sanh dĩ hữu vọng tâm, niệm niệm phân biệt, giai bất tương ứng, cố thuyết vi Không. Nhược ly vọng tâm, thật vô khả không cố.

()依一切眾生以有妄心 ,念念分別 ,皆不相應,故說為空;若離妄心,實無可空故。

(Diễn: Do hết thảy chúng sanh có vọng tâm, niệm niệm phân biệt, đều chẳng tương ứng, nên nói là Không. Nếu lìa vọng tâm, sẽ thật sự chẳng có gì là không).

Vì quý vị “Có”, đức Phật mới nói “Không”. Chẳng còn “Có” thì đức Phật cũng chẳng thể nói Không được! Phàm những gì có thể nói ra toàn là tương đối, cái bên này được kiến lập thì mới có thể lập ra cái tương đối với nó. Nếu cái bên này chẳng có, cái bên kia cũng chẳng có! Nhà Thiền thường nói: “Ly danh tự tướng, ly tâm duyên tướng, ly ngôn thuyết tướng, đạo nhất cú lai!” (Lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, lìa tướng ngôn thuyết, hãy nói một câu coi nào!). Ví như đối với thứ này, tôi hỏi quý vị nhé: Lìa tướng tâm duyên, lìa tướng danh tự, lìa tướng ngôn thuyết, quý vị hãy nói một câu cho tôi biết, đó là gì vậy? Thứ này thật sự tồn tại, là chân thật, quý vị có thể nói ra được không? Nói chẳng được! “Nói chẳng được” sẽ là thật, “có thể nói được” là giả! Vì sao là giả? Danh tự do người ta gán cho nó, chẳng phải là cái nó vốn có. “Danh khả danh, phi thường danh” (Cái tên mà có thể gọi ra được, chẳng phải là cái tên thường hằng). Nó chẳng có danh tự, mà cũng chẳng có ngôn thuyết, quý vị có thể nói ra được hay không? Nói chẳng được!

 

(Diễn) Vô tâm vô niệm Không Huệ tương ứng, cố thuộc Huệ môn. Chư vọng tiêu vong, cố kiêm đắc Định.

()無心無念空慧相應,故屬慧門,諸妄消亡,故兼得定。

(Diễn: Vô tâm vô niệm tương ứng với Không Huệ, nên thuộc về Huệ môn. Các vọng tiêu vong, nên kèm thêm đắc Định).

Lý nhất tâm nhất định là đắc Niệm Phật tam-muội, đã đắc Định. Sự nhất tâm thì không nhất định là có Huệ. Người có Huệ nhất định có Định, người có Định chưa chắc đã có Huệ. Lý nhất tâm cao hơn Sự nhất tâm.

Còn như phương pháp tu học Lý nhất tâm thì đoạn tiếp theo sẽ nói rõ. Tuy nói rõ, cũng chỉ có thể dùng làm tham khảo, rất khó tu học. Chúng ta phải nhận biết chính mình, chính mình chẳng có năng lực ấy, hãy nên tu tập theo mặt Sự! Sự tu vẫn có thể vãng sanh y hệt, đừng thấy Lý nhất tâm của người ta là cao, chúng ta chẳng vói tới được! Giống như trèo núi, người ta ngồi xe cáp treo, hoặc ngồi máy bay trực thăng lên núi, chúng ta chẳng có bản lãnh ấy, chỉ đành trèo từ từ, sau một thời gian dài hơn đôi chút, cũng có thể lên đến đỉnh núi. Do vậy, nhất định phải nhận biết chính mình, nhất định phải giữ bổn phận, đạo nghiệp như vậy thì mới có thể thành công. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 229

 Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm năm mươi:

 

(Sao) Thể cứu giả, văn Phật danh hiệu, bất duy ức niệm, tức niệm phản quán, thể sát cứu thẩm, cúc kỳ căn nguyên. Thể cứu chi cực, ư tự bổn tâm, hốt nhiên khế hợp. Trung nhị nghĩa giả, sơ tức Như Trí bất nhị.

()體究者,聞佛名號,不惟憶念,即念反觀,體察究審,鞫其根源,體究之極,於自本心,忽然契合。中二義者,初即如智不二。

(Sao: “Thể cứu” là nghe danh hiệu Phật, không chỉ ức niệm, mà còn từ ngay nơi niệm quán ngược lại, hòng lãnh hội thấu hiểu, truy tìm đến tận nguồn cội của nó. Thể cứu đến mức cùng cực, sẽ bỗng dưng khế hợp bản tâm của chính mình. Trong ấy có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là Như và Trí chẳng hai).

Giải thích lời giảng về Lý nhất tâm bất loạn trong phần Sớ. Hai chữ “thể cứu” (體究) chẳng dễ hiểu cho lắm, vì nó đòi hỏi phải là công phu nội tại. Lại còn phải lìa hết thảy tư duy và phân biệt thì mới là Thể Cứu. Chẳng giống như “nghiên cứu” mà chúng ta đang nói trong hiện thời; nghiên cứu là dùng thức thứ sáu, tức ý thức, [tức là] dùng cái tâm có thể tư duy. Ở đây, ắt phải lìa khỏi hết thảy phân biệt và chấp trước, đấy mới là Thể Cứu. Tiếp đó, [lời Sao] giải thích Thể Cứu là gì? “Văn Phật danh hiệu, bất duy ức niệm” (Nghe danh hiệu Phật, không chỉ là ức niệm), [hãy chú ý] “không chỉ là ức niệm”. Nếu nghe danh hiệu Phật, ức niệm chẳng quên, sẽ chẳng thuộc về Thể Cứu, mà thuộc về Sự niệm, là cảnh giới Sự nhất tâm bất loạn. “Tức niệm phản quán, thể sát cứu thẩm” (Từ ngay nơi niệm, quán ngược lại, hòng lãnh hội xem xét), đó là Thể Cứu, có độ sâu hơn công phu Sự niệm một tầng nữa. Chúng ta dùng phương pháp nào [để Thể Cứu] chẳng quan trọng! Chẳng cần phải dùng [phương pháp nào cả], có dùng cũng vô ích. Vì sao? Quý vị vẫn dùng tâm ý thức, dùng tâm ý thức thì chắc chắn chẳng phải là Thể Cứu. Chẳng bằng thật thà niệm một câu Phật hiệu đến mức “không xen tạp, không gián đoạn”, Sự niệm quyết định thành công. Sau khi Sự niệm đã thành công, niệm lâu ngày, niệm nhuần nhuyễn, niệm thấu suốt, tự nhiên bèn nhập Lý niệm. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Chẳng cậy vào phương tiện, tâm được tự khai”. “Tâm được tự khai” chính là Thể Cứu. Tâm khai ý giải bèn minh tâm kiến tánh, pháp môn này thù thắng ở chỗ này! Bậc thượng thượng căn nghe đoạn khai thị này, vừa nghe bèn ngộ nhập, chẳng khác gì Thiền; kẻ trung hạ căn chẳng có phần. Trung hạ căn chẳng có phần nơi Thiền, vậy là [kẻ trung hạ căn tu Thiền sẽ] chẳng thoát khỏi tam giới, chẳng có cách nào liễu sanh tử. Trong Tịnh Tông, tuy kẻ trung hạ căn chẳng có phần [nơi Thiền], vẫn có thể vãng sanh y hệt, đới nghiệp vãng sanh. Sau khi sanh đến thế giới Tây Phương, ba căn thượng trung hạ bình đẳng, chẳng hai, chẳng khác, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta nhất định phải nhận thức rõ rệt điều này!

“Tức niệm phản quán”: Phản quán (反觀) rất khó diễn tả, mà cũng rất khó hiểu. Trong kinh Lăng Nghiêm, pháp “phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” (xoay ngược cái Nghe để nghe tự tánh, tánh trở thành vô thượng đạo) của Quán Thế Âm Bồ Tát chính là ý nghĩa này. Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta phương pháp xoay chuyển lục căn, đức Phật chỉ nêu ra một căn của sáu trần bên ngoài, quay ngược lại duyên theo tự tánh để nói: Hãy nên xoay ngược dòng[32] của sáu căn, [chuyện đó] được gọi là “phản văn” (反聞) , dùng chữ Văn (聞: nghe) để biểu thị. Nói cách khác, lục căn chẳng duyên theo trần cảnh, mà duyên theo căn tánh của sáu căn, đó là đúng! Căn tánh của sáu căn là Chân Như bản tánh của chính mình. Do vậy, quý vị có thể quay lại. Trong hội Lăng Nghiêm, đối với sáu căn, đức Phật nêu ra một căn là Nhãn Căn. Phần đầu của kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh văn rất dài [thường được các vị chú giải] gọi là “thập phiên hiển kiến” (十番顯見: mười phen giảng rõ cái Thấy). “Kiến” ở đây chẳng phải là Nhãn Thức, chẳng phải là “ngũ câu ý thức”[33] đồng thời khởi tác dụng với Nhãn Thức, chẳng phải là thứ ấy. Lìa khỏi Nhãn Thức lẫn ngũ câu ý thức; sau khi đã lìa khỏi, sẽ là kiến tánh. Kiến tánh [thì “tánh” như vừa mới nói chính] là chân tánh, nơi mắt gọi là tánh Thấy, nơi tai là tánh Nghe, nơi mũi gọi là tánh Ngửi, là một tánh. Một tánh, chứ không phải là hai tánh! Có thể thật sự tìm được thứ này, bèn thành vô thượng đạo. Vì lẽ này, Phật pháp được gọi là “nội học” (內學), phải hướng nội, hồi quang phản chiếu, đừng duyên theo cảnh giới bên ngoài. Duyên theo cảnh giới bên ngoài, sẽ vĩnh viễn chẳng đạt được chân tướng. Đức Phật dạy chúng ta dùng phương pháp này để tu hành. Trì Danh Niệm Phật cũng dùng phương pháp này: Đối với một câu Phật hiệu của ta, ta chẳng duyên theo Thanh Trần bên ngoài. Ta tìm tòi, tìm kiếm cội nguồn của Phật hiệu, Phật hiệu do đâu mà có? Niệm xong, nó lại đến nơi đâu? Hoàn toàn là công phu của nhà Thiền, chẳng khác gì tham Thiền, tham thoại đầu, và quán tâm! Cổ đức nói “niệm Phật chính là thâm diệu Thiền”, là có lý! Nếu chư vị mong biết cách phản quán như thế nào, mà chẳng đọc Lăng Nghiêm thì sẽ chẳng có cách nào! Trong quyển sáu của kinh Lăng Nghiêm, nói chung là kinh văn trong nửa quyển ấy hoàn toàn giảng về công phu này, [tức là giảng về] phương pháp và công phu tu hành của Quán Thế Âm Bồ Tát.

“Thể sát cứu thẩm”: “Thể” (體) là dùng tâm để lãnh hội, trong tâm hiểu rõ là Sát (察). Ba chữ Sát (察), Cứu (究), Thẩm (審) đều có nghĩa là “hiểu rõ”. Do lãnh hội mà hiểu rõ, chẳng phải là nghiên cứu hoặc tư duy, chẳng phải là suy luận. Hễ dùng những phương pháp ấy (nghiên cứu, tư duy, suy luận) sẽ đều sai bét, đều rơi vào tâm ý thức. “Cúc kỳ căn nguyên” nghĩa là truy cứu đến tận cùng, thấu hiểu đến chỗ sâu thẳm. Chư vị ngẫm xem: Chúng ta có thể làm được ba câu ấy (“tức niệm phản quán, thể sát cứu thẩm, cúc kỳ căn nguyên”) hay không? Vì sao chúng ta chẳng làm được? Nói thật ra, tâm quá thô. Ở đây, tâm rất tế, tế tâm là gì? Tế tâm là định tâm, là tâm thanh tịnh. Do vậy, chúng ta hiểu rõ: Lý nhất tâm ở sau Sự nhất tâm. Quý vị chẳng đoạn phiền não, chẳng có cách nào thực hiện công phu này! Chúng ta còn có thị phi, nhân ngã, còn có tham, sân, si, mạn, còn có ưu lự, được, mất, sẽ chẳng có cách nào thực hiện công phu này. Người tâm địa hết sức thanh tịnh thì được, có thể thực hiện công phu này.

Ba câu tiếp theo đó chính là “tự đắc tâm khai” như kinh Lăng Nghiêm đã nói, đã khai ngộ, kiến tánh. “Thể cứu chi cực”: Thể Cứu là định công (công phu định lực), Định chẳng phải là “tử định” (định lực chết cứng, cứng ngắc, chẳng hoạt bát, uyển chuyển). Nếu là tử định, trong ấy chẳng có Quán; còn Định [của Lý nhất tâm] có Quán, như trong phần trước đã nói là “tức niệm phản quán” (quán ngược lại ngay nơi niệm). Nói theo Giáo Hạ, sẽ là “Chỉ Quán song vận” (vận dụng Chỉ lẫn Quán); nói theo Thiền thì Thiền là Tĩnh Lự, Tĩnh (靜) là Định, Lự (慮) là Huệ, “Định Huệ đẳng trì” (giữ cân bằng Định và Huệ). Họ dùng công phu này, dùng đến mức kha khá, sẽ hoát nhiên khai ngộ. “Ư tự bổn tâm, hốt nhiên khế hợp” (Bỗng dưng khế hợp bản tâm của chính mình). Đấy là khai ngộ, nhà Thiền nói là “minh tâm kiến tánh”, trong Giáo Hạ nói là “đại khai viên giải”. Cảnh giới ấy, nói theo kinh Phật, sẽ là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, hoặc Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo. Địa vị này liễu sanh tử, thoát tam giới. Không chỉ là liễu sanh tử, vượt thoát tam giới, mà vị ấy còn có năng lực hóa thân theo từng loài: Đáng nên dùng thân Phật để độ, bèn thị hiện thành Phật, thị hiện tám tướng thành đạo, dùng thân phận Phật để giáo hóa chúng sanh trong thế gian. Đáng nên dùng thân Bồ Tát để độ, Ngài có thể hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp, có năng lực ấy.

Trong pháp môn Niệm Phật, chỉ cần niệm một câu A Di Đà Phật đến mức độ này là được rồi, chẳng cần thay đổi phương pháp, chẳng cần thêm vào phương pháp nào khác nữa! “Chẳng cậy vào phương tiện, tự được tâm khai”, một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Nay chúng ta niệm Phật, chẳng biết phản quán. Nói thật ra, nay quý vị cũng chẳng cần phải phản quán, chỉ cần chú ý sao cho thật sự niệm đến mức không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Chúng ta chỉ yêu cầu ba điều kiện ấy, ba điều kiện ấy chính là Sự niệm. Niệm đạt đến Sự nhất tâm, bèn sanh vào cõi Đồng Cư, hoặc sanh trong cõi Phương Tiện, quyết định vãng sanh! Nhưng nếu quý vị thật sự niệm đến Sự nhất tâm bất loạn, cho tới khi đó, sẽ tự nhiên có thể phản quán. Vì sao? Tâm đã thanh tịnh.

Trong ấy, có hai nghĩa: Trong Thể Cứu có hai loại cảnh giới. Loại thứ nhất là “Như Trí bất nhị”. “Như” (如) là Lý, là sở chiếu (cái được chiếu). “Trí” (智) là Bát Nhã, là năng chiếu (chủ thể chiếu soi). Năng và Sở chẳng hai. Năng và Sở chẳng hai tức là Tự và Tha chẳng hai. Nếu chư vị hỏi “khi nào tôi sẽ đắc Lý nhất tâm” ư? Thật sự đắc Lý nhất tâm, quan niệm của quý vị sẽ biến đổi, biến đổi như thế nào? Tận hư không khắp pháp giới và chính mình là một. Đó là chánh tri chánh kiến; tuyệt đối chẳng còn có nhân ngã, thị phi, chẳng thể nào còn có quan niệm sai lầm ấy!

 

(Sao) Năng niệm tâm ngoại, vô hữu Phật vi ngã sở niệm, thị Trí ngoại vô Như. Sở niệm Phật ngoại, vô hữu tâm năng niệm ư Phật, thị Như ngoại vô Trí. Phi Như, phi Trí, cố duy nhất tâm.

()能念心外,無有佛為我所念,是智外無如;所念佛外,無有心能念於佛,是如外無智。非如非智,故惟一心。

(Sao: Ngoài cái tâm năng niệm, chẳng có đức Phật để ta niệm. Đó là ngoài Trí chẳng có Như. Ngoài đức Phật được niệm, chẳng có cái tâm có thể niệm Phật. Đó là ngoài Như chẳng có Trí. Chẳng phải là Như, chẳng phải là Trí, nên chỉ là nhất tâm).

Cảnh giới này chính là: Tận hư không khắp pháp giới là nhất tâm. Kinh Hoa Nghiêm nói tận hư không khắp pháp giới là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, là cảnh giới này. Khi đó, chính là Pháp Thân đại sĩ, chẳng phải là kẻ bình phàm, mà gọi là “thành Phật”. Tuy chưa phải là Cứu Cánh Phật, vị ấy là Phần Chứng Phật, tức Phần Chứng Phật trong Lục Tức Phật như tông Thiên Thai đã nói, được gọi là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”.

Chúng ta ắt cần phải biết, phải giác ngộ: Con người sống trên thế gian hết sức ngắn ngủi, tạm bợ. Ngày hôm qua, tôi tham dự cuộc họp mặt bạn học cũ, [là bạn cũ] thuộc trường trung học, hiệu trưởng là lão cư sĩ Châu Bang Đạo. Năm mươi bốn năm trước, trường được thành lập trong thời Kháng Chiến; khi Kháng Chiến[34] kết thúc, trường học cũng đóng cửa. Thuở ấy, trường trung học do quốc gia lập ra nhằm cứu giúp những học trò lưu vong. Chúng tôi học trong trường đó giống như vào lính, hoàn toàn được chính quyền trợ cấp. [Do học trò] mất hẳn liên lạc với gia đình, mọi nguồn kinh tế đều bị cắt đứt, nên quốc gia nuôi dưỡng những đứa trẻ ấy. Toàn bộ cơm áo, chi phí sinh hoạt đều do quốc gia cung cấp, [trường ấy] thuộc loại trung học lâm thời (tạm thời). Khi chúng tôi đến Đài Loan, các bạn học cùng trường có chừng một trăm tám mươi người. Ngày hôm qua, chúng tôi họp mặt, những người có thể đến được đều đến, chỉ có bốn mươi mấy người, một nửa số người đã chẳng còn, còn có những người đã di dân sang hải ngoại. Trong hội bạn cũ ấy, tôi học lớp dưới, tuổi tác nhỏ nhất, các bạn học đều đã trên bảy mươi, đại đa số đều về hưu; cho nên là hội của người già. Cuộc họp mặt ấy rất thương cảm, vì sao? Họp mặt mỗi năm đều thiếu mất mấy người, người mỗi năm một già hơn, mỗi năm một ít hơn. Đối với chuyện học Phật, đây là một sự cảnh giác rất lớn, nhất định phải hiểu: “Sanh tử là chuyện lớn, vô thường nhanh chóng”, chúng tôi họp mặt có cảm xúc rất sâu đậm. Tuổi già bệnh tật khổ lắm, còn có một bạn học bị trúng phong đã chín năm, đẩy xe lăn đến tham gia cuộc họp mặt bạn học, nói chuyện cảm động ứa lệ, đau lòng khóc ròng!

Người thế gian mong cầu phước báo, mong cầu thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu, nhất là lúc tuổi già. Khi trẻ tuổi, chẳng cảm nhận [tầm quan trọng] của sự khỏe mạnh, trường thọ, đến khi già cả, lắm bệnh, mới biết tầm quan trọng của sự khỏe mạnh, trường thọ! Đến khi ấy, biết tầm trọng yếu của khỏe mạnh, trường thọ thì đã muộn rồi! Chữa trị kiểu nào, thuốc men kiểu nào, đều chẳng trông mong được! Nếu do chữa trị và thuốc thang mà có thể chuộc lại sức khỏe, những kẻ có tiền, có thế lực phải nên sống lâu trăm tuổi! Chuyện này tiền bạc chẳng mua được, mà thế lực cũng chẳng thể đạt được! Đức Phật biết chuyện này rất rõ ràng: Của cải là quả báo đạt được do Tài Bố Thí. Quý vị chẳng chịu tu Tài Bố Thí, làm sao đạt được quả báo có của cải? Không thể đạt được! Tu nhân thì mới có thể đắc quả! Không tu nhân mà có thể may mắn đạt được quả báo, chẳng có lẽ ấy! Trồng dưa thì mới có dưa để thâu hoạch, trồng quả thì mới có quả hạt để thâu hoạch. Quý vị chẳng trồng mà hưởng thâu hoạch dưa, trái, há có lẽ ấy? Người thế gian chẳng hiểu rõ! Chư vị đọc thuần thục sách Liễu Phàm Tứ Huấn, [sẽ hiểu]: Nói thật ra, chính mình có thể làm chủ tể vận mạng của chính mình.

Phật pháp dạy chúng ta thật sự lìa khổ được vui, thật sự là hết sức hiện thực. Lìa nỗi khổ nghèo cùng, lìa nỗi khổ ngu muội, lìa nỗi khổ già bệnh, chúng ta thật sự mong cầu những điều này. Phật pháp nói có ba loại bố thí nhằm rời lìa ba loại khổ ấy. Nếu muốn lìa bần cùng, hãy tu Tài Bố Thí. Nếu muốn lìa ngu si, hãy tu Pháp Bố Thí. Có lẽ cũng có kẻ nói: “Tôi chẳng biết giảng kinh, thuyết pháp, chẳng có cách nào tu pháp bố thí. Trong tương lai, đời đời kiếp kiếp đều ngu muội, đáng thương lắm!” Thật ra, chẳng phải vậy! Pháp Bố Thí, đặc biệt là Phật pháp, [có thể thực hiện bằng cách] ta khuyên kẻ khác đến nghe kinh, giới thiệu người khác đến nghe kinh. Họ nghe kinh khai ngộ, cũng giống như ta bố thí cho họ, đã biến pháp thí giảng kinh của pháp sư thành pháp thí của chính mình, chẳng khác gì hết! Mười phương hết thảy chư Phật Như Lai giới thiệu với đại chúng pháp niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều đã biến pháp thí của A Di Đà Phật thành pháp thí của chính mình. Các vị hãy suy ngẫm: Trong giảng tòa, chúng tôi đã nói nhiều lượt ngần ấy, tôi vừa nhắc tới điều này, chư vị hãy nên có cảm xúc rất sâu. Đặc biệt là đối với kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ, mười phương hết thảy chư Phật Như Lai đã biến công đức của Phật Di Đà thành công đức của chính mình. Nay chúng ta cũng thực hiện đúng pháp, nay chúng ta phổ biến giới thiệu cho người khác, phổ biến đề xướng rộng rãi, cũng là biến công đức của Phật Di Đà thành công đức của chính mình, bản thân chúng ta cũng chẳng kém mười phương chư Phật Như Lai cho mấy! Vấn đề là quý vị có thể làm hay không? Quý vị có phước ấy hay không? Người chẳng có phước sẽ không tin. Đúng như trong kinh đã nói, kẻ ấy ít thiện căn, ít phước đức, cho nên chẳng tin tưởng. Nếu chướng ngại pháp môn này, chướng ngại kẻ khác pháp thí, có thể suy ra mà biết tội lỗi ấy: Tội lỗi ấy chẳng có cách nào diễn tả trọn hết! Do [pháp thí Tịnh Độ là] công đức bậc nhất, nên chống trái [việc pháp thí ấy] sẽ là tội lỗi bậc nhất. Dẫu bản thân quý vị tu suốt một đời tốt đẹp cách mấy, làm người tốt đẹp cách mấy, mà nếu quý vị phạm tội nghiệp to lớn này, trong tương lai vẫn phải đọa vào địa ngục A Tỳ. Đó chính là chướng ngại Pháp Thân huệ mạng của kẻ khác, chướng ngại cơ duyên đắc độ của kẻ khác trong một đời, đáng ngại lắm!

Chúng ta phải hiểu: Ai nấy đều có thể tu Pháp Bố Thí, chẳng có kẻ nào không thể tu! Nay chúng ta tặng kẻ khác một quyển kinh sách, nói cho họ biết chỗ tốt đẹp của kinh sách, khuyên họ hãy tin nhận phụng hành, đấy là Pháp Thí. Chúng ta biếu họ một cuốn băng thâu âm để họ nghe, đó là Pháp Bố Thí. Người hiện thời tu Pháp Bố Thí dễ hơn người thời cổ, có nhiều cơ duyên hơn. Trước kia, muốn bố thí pháp, thật sự là phải giảng kinh, thuyết pháp. Người giảng kinh, thuyết pháp cũng chẳng nhiều. Nếu muốn tặng người khác kinh sách, chỉ có cách sao chép, đâu có thuận tiện như hiện tại! Hễ in, bèn in mấy ngàn cuốn, mấy vạn cuốn, chẳng biết bao nhiêu người được lợi ích! Nhất là phát sóng trên đài truyền thanh, phí tổn chẳng nhiều lắm, nhưng người được hưởng lợi ích quá đông. Chẳng ngại phát sóng lặp đi lặp lại trên đài truyền thanh, chỉ có phát sóng trùng lặp thì mới có thể thật sự độ chúng sanh. Vì sao? Vì có khá nhiều người chẳng có dịp nghe đến. Quý vị phát sóng lần thứ nhất, thậm chí đã phát sóng hai hôm rồi họ mới biết. Khi họ biết thì [chương trình ấy đã] phát qua rồi; nếu phát lại lần thứ hai, họ sẽ hoan hỷ. Có rất nhiều người nghe lần thứ nhất, đến lần thứ hai đã phát được một nửa, họ mới nghe. Như vậy thì quý vị phát sóng lần thứ ba để giúp đỡ họ. Đừng sợ phát sóng trùng lặp, phải biết là có nhiều người vẫn chưa nghe. Dẫu đã nghe, nghe thêm một lần, nghe thêm hai lần càng hay! Nghe một lần chưa thể khai ngộ, nghe nhiều lần thì mới có thể có ngộ xứ, mới có thể nhập cảnh giới.

Chúng ta đọc kinh cũng là như vậy. Quý vị đọc càng nhiều lượt càng hay. Quý vị học giảng kinh cũng là như thế, bộ kinh này quý vị giảng càng nhiều lần càng hay. Năm xưa, tôi học kinh ở Đài Trung, nếu một bộ kinh chẳng giảng từ đầu đến cuối mười lượt, tức là chưa học hiểu kinh ấy. Có thể giảng từ đầu đến cuối mười lần, [đó chính là] mức độ thấp nhất để quen tay thạo việc. Đã thông thạo thì ở trên giảng đài mới có thể vận dụng linh hoạt, chẳng bị khô khan. Lần này, pháp sư Diễn Bồi đến ở đây vài ngày, Ngài rất vui thích, rất khách sáo bảo: “Tôi phải học theo thầy”. Tôi hỏi: “Học điều gì nơi tôi?” Sư nói: “Trong quá khứ, tôi giảng kinh luôn luôn là giảng một lượt, chẳng nghĩ sẽ giảng lần thứ hai, chẳng giống như thầy giảng một bộ kinh rất nhiều lượt”. Đây là do phương pháp học tập của hai người chúng tôi khác nhau. [Tôi học kinh theo cách sau đây]: Một bộ kinh tối thiểu phải giảng mười lần thì mới coi như học hiểu bộ kinh ấy, mới có thể học bộ khác. Chẳng giảng trên giảng đài mười lượt, tôi tuyệt đối chẳng thể suy tính học một bộ kinh khác. Tôi ở Đài Trung mười năm chỉ học năm bộ kinh; tuy học rất ít, nhưng học rất thực tiễn.

Quyết định đừng tiếc pháp! Quả báo của tiếc pháp là ngu si. Kinh Di Đà có nhắc tới ngài Châu Lợi Bàn Đà Già, Ngài là một học trò đầu óc chậm lụt nhất trong hội của đức Thế Tôn, chẳng có trí nhớ. Đức Phật dạy Ngài “thiều trửu” (笤帚: Chổi quét bằng cỏ lau bó lại). Dạy chữ Thiều, Ngài quên khuấy chữ Trửu; dạy đến chữ Trửu, lại quên tuốt chữ Thiều trước đó. Ngu si tột bậc! Do nguyên nhân gì? Đời trước, Ngài là một vị Tam Tạng pháp sư hoằng pháp lợi sanh nhưng keo kiệt pháp, dạy người khác bèn giấu diếm, chẳng thể để kẻ khác vượt trỗi chính mình, đời sau vướng phải quả báo như vậy. Quý vị càng chịu bố thí, trí huệ càng tăng trưởng. Nếu quý vị muốn tăng trưởng trí huệ, phải toàn tâm toàn lực dạy kẻ khác, chẳng giữ lại mảy may, biết bao nhiêu bèn nói bấy nhiêu. Nay ta biết nhiều như thế, ta còn giữ lại hai, ba phần, chẳng hoàn toàn nói ra; nói cách khác, trình độ quý vị sẽ dừng ở đó, chẳng thể tăng cao hơn, rất đáng tiếc! Toàn bộ đều giãi bày hết, chẳng để lại gì, ngày mai sẽ lại tiến cao hơn, cảnh giới mỗi ngày mỗi khác. Vì sao? Do đã bố thí hết sạch. Giữ lại đôi chút, chắc chắn là chẳng thể tăng cao, chẳng thể tăng trưởng. Chúng ta nhất định phải nhận biết rõ ràng sự thật này! Sau đấy, chúng ta bố thí chẳng giữ lại mảy may, thảy đều thí xả hết.

Vô úy bố thí sẽ được khỏe mạnh, trường thọ. Úy (畏) là kinh sợ. Hết thảy chúng sanh trong thế gian đều có những nỗi kinh sợ. Sanh, lão, bệnh, tử đáng sợ, thiên tai nhân họa đáng sợ, những nỗi bức bách trong cuộc sống đáng sợ, những nỗi niềm trong tinh thần đáng sợ, chuyện đáng kinh sợ nhiều lắm! Ta có thể giúp người khác, khiến họ lìa hết thảy các nỗi sợ hãi, đó là vô úy bố thí. Người ấy an tâm, chẳng sợ hãi, lìa khỏi hết thảy buồn đau, khổ não, phàm những gì thuộc loại này đều gọi là vô úy bố thí. Phạm vi của vô úy bố thí vô cùng rộng rãi. Nói quy nạp lại, sẽ là đối với cuộc sống vật chất lẫn cuộc sống tinh thần của chúng sanh, chúng ta đều bảo vệ, khiến cho tâm họ an ổn, sẽ thuộc loại vô úy bố thí. Tương phản, nếu chúng ta cố ý nhiễu loạn tâm tình của chúng sanh, khiến cho họ kinh sợ, bất an; do tạo tác như vậy, sẽ bị già bệnh, thương tổn, tàn tật. Quả báo khiến cho năm căn tàn khuyết là như vậy đó. Nếu chẳng thể hành vô úy bố thí, quyết định chớ nên uy hiếp kẻ khác, khiến cho kẻ khác thân tâm bất an, quyết định chớ nên làm chuyện đó! Quả báo ấy đưa đến quá nhanh, chẳng cần chờ đến đời sau, mà là báo ứng ngay trong hiện đời! Quá đáng sợ! Khi làm [những chuyện sai trái], quý vị chẳng có cảm giác; khi quả báo xảy đến, hối hận chẳng kịp! Bản thân chúng ta nếu muốn được phú quý, được thông minh, được khỏe mạnh, trường thọ, phải tu! Không tu thì làm sao được? Há có lẽ nào chẳng dựa vào đâu mà đạt được ư? Hằng ngày lễ Phật, bái Phật [mà không tu tâm sửa tánh], thưa cùng chư vị, điều gì đều chẳng đạt được. [Tu tập] nơi tâm hạnh, nơi xử sự, đãi người, tiếp vật, nơi khởi tâm động niệm, sẽ đạt được những điều ấy.

Cụ Hoàng Niệm Tổ thường dạy người học Phật chúng ta đừng nên coi trọng hình thức. Lễ Phật hoặc bái Phật là một loại hình thức. Hình thức chẳng quan trọng, quan trọng ở chỗ sửa lỗi đổi mới nơi khởi tâm động niệm, chính mình phải thường phản tỉnh. Trong quá khứ, tôi đã nhiều lần nhắc nhở mọi người: “Khóa sáng nhằm nhắc nhở chính mình, khóa tối nhằm phản tỉnh”. Khóa sáng nhắc nhở trong một ngày hôm nay, khởi tâm động niệm, việc làm, cách đãi người, tiếp vật của chúng ta sẽ chẳng trái nghịch giáo huấn của Phật, Tổ. Khóa tối là phản tỉnh, kiểm điểm, trong một ngày hôm nay, hành vi của chúng ta có chỗ nào trái nghịch giáo huấn của đức Phật, có làm chuyện lầm lỗi hay không? Sau khi phản tỉnh, kiểm điểm, bèn sửa lỗi, đổi mới, ngày mai ta quyết định chẳng tái phạm những lầm lỗi ấy. Mọi người hằng ngày đều có thể sửa một lỗi, ba năm sau, quý vị sẽ là thánh nhân. Trong ba năm, quý vị sửa đổi một ngàn điều lầm lỗi, quý vị chẳng phải là thánh nhân, ai mới là thánh nhân? Đó chính là Phật, Bồ Tát. Đó chính là khóa tụng sáng tối phát sanh tác dụng. Nếu không, khóa tụng sáng tối có tác dụng gì đâu! Bình thường, khởi tâm động niệm lợi mình, tổn người, nói dối, nói đôi chiều, khóa tụng sáng tối chẳng thiếu buổi nào, vẫn là tội lỗi vô biên. Sáng sớm lừa gạt Phật, Bồ Tát một lần, buổi tối lừa một lần nữa. Mỗi ngày đúng lệ lừa hai lần, quý vị nói xem tội lỗi ấy có lớn hay chăng? [Tượng] Phật, Bồ Tát [ta đang thờ phụng] là tượng bằng đất nặn, gỗ khắc, căn bản là [Phật, Bồ Tát] chẳng ngự nơi đó, cứ sáng tối lừa tượng hai lần, huống hồ là [đối với] người thế gian [sẽ còn e ngại gì mà chẳng lừa gạt]? Tu hành như vậy quyết định đọa vào địa ngục A Tỳ! Người thế gian thường nói: “Trước cửa địa ngục, tăng đạo đông”. Vì sao? Những kẻ ấy mang tiếng xuất gia tu hành, nhưng hằng ngày lừa gạt chư Phật, Bồ Tát, quỷ thần, chẳng chuyện ác nào không làm, [thế mà] bản thân vẫn cứ ngỡ chính mình đang tu hành, cứ ngỡ chính mình là thiện nhân, đó là mê hoặc, điên đảo. Hạng người như vậy chính mình chẳng nhận biết [những sai trái nơi bản thân], thậm chí là ngu si đến tột cùng, có chỉ điểm vẫn chẳng tỉnh!

Hiện thời, tôi ăn nói chẳng có chút ý nghĩa ẩn tàng như trước kia. Hiện thời [ăn nói kiểu đó sẽ] không được, quý vị nghe chẳng hiểu! Hy vọng bản thân chúng ta hãy thật sự phản tỉnh, thật sự cảnh giác, thật sự quay đầu. Mục tiêu duy nhất trong một đời này là vãng sanh Tịnh Độ, đại sự nhân duyên này bèn thành tựu viên mãn, những thứ khác đều là giả. Hết thảy các pháp trong thế gian này đều tùy duyên, quyết định chẳng phan duyên, tùy duyên sống qua ngày, quyết định chẳng tranh chấp thị phi, nhân ngã cùng kẻ khác!

Hôm qua, có hai vị tỳ-kheo-ni đến kể với tôi: Đạo tràng của họ có vấn đề. Tín đồ cúng một cuộc đất, họ đi khắp nơi để hóa duyên xây chùa. Phòng ốc đã xây dựng xong, chỉ cần sơn phết là xong. Nay chủ đất đổi ý, muốn đưa người con gái đã xuất gia của họ về làm Trụ Trì hòng cai quản ngôi chùa ấy. Họ hỏi tôi nên làm sao? Tôi đáp: “Chỉ sợ chẳng có đạo, đừng sợ chẳng có chùa! Quý vị cứ giao cho họ là xong. Họ tranh, chúng ta chẳng tranh”. Tôi bảo: “Nếu trong mạng của quý vị có, sau vài ngày sẽ có người mời quý vị làm Trụ Trì”. Nghe xong, bà ta tâm khai ý giải, chẳng còn vướng mắc, ưu lự. Tôi nói: “Khi quý vị trao chùa cho họ, hãy nói với họ một câu là hết trách nhiệm. Nói câu gì vậy? Ngôi chùa này do mười phương tín đồ hiến cúng. Sau khi quý vị nhận lấy, nếu vẫn là tự viện Phật giáo, sẽ chẳng gánh trách nhiệm nhân quả. Nếu quý vị giữ lấy để tự mình hưởng thụ, trong tương lai, sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ”. Nói lời này với họ là được rồi! Họ có nghe lọt tai hay không, chẳng sao hết! Chúng ta đã dặn dò hòng sau này khi họ bị đọa địa ngục, khỏi tìm đến chúng ta [cật vấn]: “Sao thuở ấy ngươi không bảo cho ta biết? Ngươi là kẻ xấu xa!” Khi đó, tôi đã bảo quý vị, quý vị chẳng làm theo, chẳng giác ngộ, còn nói gì được nữa? Đã trọn hết nghĩa khí bằng hữu rồi! Do vậy, nhất quyết đừng tham luyến, trọn chẳng thèm nghĩ ta phải đi làm Trụ Trì. Phải bảo cho họ biết trách nhiệm nhân quả, phải nói rõ ràng. Đó là yêu thương, bảo vệ họ, tuyệt đối chẳng mong tranh giành đạo tràng ấy, như vậy là đúng.

Phải ghi nhớ, từ sáng đến tối, nơi nào, lúc nào, cũng thực hiện ba loại bố thí này, mỗi ngày chúng ta đều thực hiện ba loại bố thí này. Giảng kinh trên giảng tòa là pháp bố thí và vô úy bố thí. Chúng ta in tặng kinh điển, tặng băng thâu âm, chính là tài, pháp, vô úy ba loại bố thí đều có, viên mãn cùng một lượt! Phải nghiêm túc, nỗ lực thực hiện, chúng ta mới có thể thật sự đạt được. Chẳng cần có của cải, chỉ cần không bị thiếu khuyết là được rồi. Trí huệ ngày một tăng trưởng, khỏe mạnh, sống lâu, ít bệnh tật, ít khổ não, tự tại lắm! Trong tương lai, khi lâm chung, biết trước lúc mất, như nhập Thiền Định, tâm chẳng điên đảo, tự tại vãng sanh, chúng ta chẳng sống uổng một đời này! Cuộc đời này mới thật sự có ý nghĩa, có giá trị. Các đồng tu phải khéo ghi nhớ lời này! Nhất định phải nghe kinh cho nhiều, nghe nhiều thì mới khắc sâu ấn tượng. Hiện thời, trong nhà có TV, xem TV tâm sẽ chuyển theo hình ảnh được chiếu. Thấy TV chiếu kịch vui bèn cười theo; thấy TV chiếu cảnh đấu đá bèn bực tức, tâm đã bị cảnh giới chuyển mất rồi! Tôi thấy tình hình này, tính bảo người ta thiết kế một tờ băng dính (sticker) nho nhỏ, [trong ấy] thiết kế một tượng Phật, hoa sen, chính giữa in bốn câu kệ của kinh Kim Cang: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”, “nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai” (Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng, tức là thấy Như Lai). Dán tấm băng ấy trên màn hình TV để nhắc nhở quý vị khi xem TV phải biết những hình tướng ấy là giả, chẳng thật, đừng bị chúng xoay chuyển. Quý vị có thể thấy “các tướng chẳng phải là tướng”, bèn thấy Như Lai. Điều này có thể độ rất nhiều người. Thiết kế sao cho tấm băng dính đó trong suốt, chẳng ngăn ngại hình ảnh [trên màn hình TV]. Chúng ta có thể lưu thông rộng rãi, trong nhà thân thích, bạn bè của quý vị có TV đều tặng cho họ một tấm. Bởi lẽ, ba thứ bố thí ấy rất quan trọng!

Đối với người học Phật, điều thứ nhất trong Lục Ba La Mật của Bồ Tát là Bố Thí. Nói thật ra, một độ Bố Thí bao hàm trọn vẹn Lục Độ, đều được bao gồm. Trong Bố Thí đã bao gồm tài bố thí, pháp bố thí, và vô úy bố thí. Trì giới là vô úy bố thí. Một người trì giới, mọi người chẳng sợ hãi kẻ ấy. Ví dụ như tài vật bị quý vị trông thấy, [họ sẽ tự nhủ]: “Kẻ ấy trì giới, sẽ chẳng trộm cắp, ta rất an tâm, chẳng sao cả! Tiền tài của ta bày ở nơi đó, kẻ ấy sẽ chẳng lấy, chẳng trộm cắp!” Trong tâm người ta chẳng có nỗi sợ hãi. Chúng ta ăn nói mích lòng kẻ ấy, hoặc là nói rất khó nghe, [vẫn an tâm]: “Người ấy trì giới. Người trì giới sẽ chẳng so đo cùng chúng ta”, họ an tâm. Nhẫn Nhục là vô úy bố thí; Tinh Tấn, Thiền Định và Bát Nhã là pháp bố thí. Nếu chúng ta hỏi: “Bồ Tát tu hạnh gì?” Bồ Tát tu bố thí. Chẳng tu bố thí sẽ không phải là Bồ Tát. Có người hỏi: “Quý vị học Phật là tu hạnh gì?” Quý vị bảo kẻ ấy: “Tôi tu tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố thí”. Đồng thời, nói cho kẻ ấy biết vì sao ta phải tu? Vì ta mong có của cải, mong được thông minh trí huệ, mong được khỏe mạnh, trường thọ, quý vị có mong muốn hay không? Quý vị mong muốn thì phải học theo tôi. Nếu quý vị chẳng mong học theo tôi, chắc chắn quý vị chẳng đạt được điều mong muốn!

Cảnh giới được nói ở đây cao lắm. Năng niệm và sở niệm; Năng và Sở chẳng hai, tâm và cảnh như một, đó là nhất tâm, là thật, chẳng giả! Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã bảo chúng ta: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Hãy nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo). Y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật cũng là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, chẳng có ngoại lệ. Tâm của ai? Tâm của chính mình! Không chỉ là y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương và A Di Đà Phật là vật được biến hiện bởi cái tâm của chính mình, mà vô lượng vô biên các cõi Phật và vô lượng vô biên chư Phật Như Lai trong tận hư không khắp pháp giới đều do tự tâm biến ra. Vì thế, đủ mọi phương pháp tu học do đức Phật đã dạy đều là Tánh Đức, chẳng phải là ở bên ngoài, tự tánh vốn trọn đủ đức dụng. Giống như ba loại bố thí chúng ta vừa nói, Lục Ba La Mật là công đức của tự tánh, tự tánh khởi tác dụng, hoàn toàn tương ứng với Tánh Đức, cho nên người ấy mới có thể kiến tánh. Nếu trái nghịch, sẽ là mê; còn tương ứng là giác. Giác là Phật, Bồ Tát, mê là lục đạo chúng sanh. Phàm phu và Phật, Bồ Tát sai biệt ở chỗ tự tánh giác hay tự tánh mê, ở nơi mê hay ngộ. Hễ giác thì hết thảy đều giác; hễ mê thì hết thảy đều mê! Chớ nên không biết điều này.

Nương theo giáo huấn của Phật để tu học, đi theo con đường tự tánh giác. Vì sao con đường này khó đi dường ấy? Chúng ta mê quá lâu, mê quá sâu, nay ngay lập tức quay lại sẽ chẳng dễ dàng cho lắm, đạo lý ở chỗ này! Người lợi căn, người thiện căn sâu dầy, sẽ chuyển mình nhanh chóng, do chướng ngại ít. Kẻ thiện căn mỏng, nghiệp chướng tập khí sâu nặng, sẽ chuyển khó khăn, [do bị] nghiệp lực ngăn trở! Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng hữu hiệu nhất là niệm Phật, niệm kinh Vô Lượng Thọ. Trong Quán Kinh Trực Chỉ, Từ Vân Quán Đảnh đại sư bảo: Nếu hết thảy các kinh pháp chẳng thể tiêu nghiệp chướng, [vì] nghiệp chướng ấy nặng nề [đến nỗi] hết thảy các kinh giáo và pháp môn do đức Như Lai đã nói đều chẳng có hiệu quả, đều chẳng thể tiêu nghiệp chướng ấy, thì niệm Phật có thể tiêu, niệm kinh Vô Lượng Thọ có thể tiêu. Chúng ta hãy suy ngẫm, vì sao? Vì Phật hiệu và hai kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn được mười phương chư Phật hộ niệm, quý vị mới biết chúng có công đức chẳng thể nghĩ bàn! Đó chẳng phải là do một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật tuyên dương, mà là mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai, chẳng có vị Phật nào không hoằng dương, chẳng có vị Phật nào không hộ niệm. Do đó, [Phật hiệu, kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn] có sức mạnh đặc biệt thù thắng, chẳng có gì thù thắng hơn được! Nếu quý vị thật sự có thể tin nhận phụng hành, chẳng có nghiệp chướng nào không tiêu được! Trừ phi chính quý vị chẳng làm theo đúng cách này, hiểu sai ý nghĩa kinh, dụng tâm sai lầm, cho nên đọc tụng thọ trì, chấp trì danh hiệu đều chẳng thể tương ứng với giáo huấn trong kinh. Vậy thì [chẳng tiêu được nghiệp chướng cũng] chẳng có gì đáng để trách móc cả! Nếu thật sự tương ứng, chẳng có gì không thể tiêu được!

 

(Diễn) Năng niệm tâm ngoại vô hữu Phật vi ngã sở niệm giả, vị nhất niệm vị sanh tiền, Phật tại hà sở? Nhân tâm khởi niệm, cố Phật cảnh hiện tiền. Tắc sở niệm chi Phật, nhân năng niệm chi tâm nhi hữu. Nhược ly năng niệm chi tâm, diệc vô sở niệm chi Phật, tắc Phật cảnh tùng duyên vô hữu tự tánh.

()能念心外無有佛為我所念者,謂一念未生前,佛在何所?因心起念故佛境現前。則所念之佛,因能念之心而有,若離能念之心,亦無所念之佛,則佛境從緣無有自性。

(Diễn: “Ngoài cái tâm năng niệm, chẳng có vị Phật để ta niệm”, ý nói: Trước khi một niệm sanh khởi, Phật ở chỗ nào? Do tâm khởi niệm, nên Phật cảnh hiện tiền. Vậy thì đức Phật được niệm là do cái tâm năng niệm mà có. Nếu lìa khỏi cái tâm năng niệm, cũng chẳng có đức Phật để niệm, cho nên Phật cảnh do duyên [mà có], chẳng có tự tánh).

Ý nghĩa này hay lắm, rất rõ ràng, rất minh bạch. Đây chính là “chư pháp Thật Tướng” như đức Phật đã nói trong kinh Bát Nhã; đấy mới là chân tướng. Nếu chúng ta chẳng niệm Phật, lấy đâu ra Phật? Phật chẳng có. Phật do đâu mà có? Do vì chúng ta khởi niệm nên Phật mới hiện, duy tâm sở hiện mà! Cớ sao chúng ta biết là Phật, hay là Bồ Tát? Ở đây, có phân biệt, chấp trước, [đó chính là] duy thức sở biến. Tâm chúng ta có thể hiện Phật, có thể biến Phật. Cũng giống như vậy, tâm chúng ta cũng có thể hiện Bồ Tát, cũng có thể biến Bồ Tát. Nói cách khác, tâm chúng ta có thể biến địa ngục, có thể hiện địa ngục, mười pháp giới [hiện hữu] là do đạo lý này. Trong mười pháp giới, quý vị muốn pháp giới nào? Muốn pháp giới nào, bèn có pháp giới ấy; muốn pháp giới nào bèn thành tựu pháp giới ấy. Đạo lý ở chỗ này! Niệm Phật bèn thành Phật, niệm tham, sân, si bèn thành tam ác đạo. Như vậy thì mới biết y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới vốn do khởi tâm động niệm của chúng ta quyết định, chẳng phải do Phật, Bồ Tát làm chủ tể, cũng chẳng phải do Thượng Đế làm chủ tể, cũng chẳng phải do vua Diêm La làm chủ tể, mà do một niệm tâm của quý vị làm chủ tể. Đấy mới là chân tướng sự thật. Quý vị có một niệm thiện tâm, hết thảy cảnh giới tốt lành bèn hiện tiền. Một niệm ác tâm, hết thảy cảnh giới ác hiện tiền, làm sao quý vị có thể oán trời hờn người cho được? Hết thảy Phật cảnh giới đều từ duyên khởi, còn có gì để nói nữa? Đức Phật giảng Pháp Hoa hay Hoa Nghiêm cũng là một đại duyên khởi. Trừ duyên khởi ra, chẳng có thứ gì khác. Tâm của chính chúng ta hiện, tâm của chính mình biến. Sau khi đã biến, hiện, chính mình chẳng biết chân tướng sự thật, mê muội ngay trong cảnh giới do chính mình biến hiện, đó là phàm phu, khổ lắm! Chư Phật, Bồ Tát tâm hiện, tâm biến, [nhưng] các Ngài chẳng mê mất chính mình trong ấy, mà hiểu rõ ràng, rành rẽ. Đó gọi là “du hý thần thông”, chính mình biến hiện để chính mình thọ dụng.

 

(Diễn) Sở niệm Phật ngoại, vô hữu tâm năng niệm ư Phật giả, vị Phật cảnh vị hiện chi tiền, tâm tại hà sở?

()所念佛外無有心能念於佛者,謂佛境未現之前,心在何所。

(Diễn: “Ngoài đức Phật được niệm, chẳng có tâm để có thể niệm Phật” nghĩa là: Trước khi Phật cảnh hiện ra, tâm ở chỗ nào?)

Tìm không thấy! Kinh Lăng Nghiêm gạn tâm bảy chỗ, tâm ở nơi nào? Chẳng biết, nhưng vừa động một niệm, tâm bị phát hiện, biết nó đang ở chỗ nào!

 

(Diễn) Nhân văn sở niệm chi Phật, nãi dẫn sanh năng niệm chi tâm, tắc năng niệm chi tâm, nhân sở niệm chi Phật nhi hữu. Nhược ly sở niệm chi Phật, diệc vô năng niệm chi tâm, tắc tâm diệc tùng duyên, vô hữu tự tánh.

()因聞所念之佛,乃引生能念之心,則能念之心,因所念之佛而有;若離所念之佛,亦無能念之心,則心亦從緣無有自性。

(Diễn: Do nghe đức Phật được niệm mà dẫn khởi cái tâm niệm Phật. Vậy thì cái tâm niệm Phật là do có đức Phật được niệm mà có. Lìa khỏi đức Phật được niệm, cũng chẳng có cái tâm có thể niệm. Do vậy, tâm cũng từ duyên [mà hiện hữu], chẳng có tự tánh).

Tâm ở chỗ nào? Chẳng thể nói là nó không có. Tâm chẳng có dấu vết, công năng của sáu căn đều chẳng thể thấu đạt. Mắt chẳng trông thấy, tai cũng chẳng nghe thấy, tay cũng chẳng sờ được, ngửi không thấy, nếm chẳng được, cũng chẳng nghĩ tới được. Những gì quý vị có thể suy tưởng đều thuộc trong phạm vi của A Lại Da Thức. Công năng của thức thứ sáu, tức ý thức rất lớn. Bên ngoài, nó có thể duyên theo cảnh giới sáu trần; bên trong, nó duyên tới thức thứ tám, nhưng chẳng thể duyên chân tánh! Đối với tâm, nó chẳng có một tí biện pháp nào hết, chẳng duyên được! Vì sao chẳng duyên được? Do nó có phân biệt, có chấp trước, cho nên chẳng duyên được. Lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, tâm tánh ở chỗ nào? Không nơi nào chẳng tồn tại! Nó là bản thể của hư không pháp giới. Tách lìa bản thể, nó có thể hiện gì? Tâm tánh giống như màn hình của TV, tất cả hết thảy các hiện tượng đều phải hiện ra trên màn huỳnh quang. Rời lìa màn huỳnh quang, nó hiện gì vậy? Chẳng hiện! Tâm chúng ta là hư không pháp giới, hư không vẫn là vật được biến hiện bởi tâm tánh. Tâm tánh chẳng phải là hư không, hư không vẫn là vật do tâm tánh biến hiện. Tâm tánh cũng chẳng phải là pháp giới, pháp giới là vật được biến hiện bởi tâm tánh.

Tâm chúng ta to cỡ nào? Hiện thời, tâm lượng nhỏ nhen quá đỗi, [chỉ có] hai người mà còn cãi nhau! Quý vị nói xem có đáng thương hay không? Đó gọi là “mê mất tự tâm, là kẻ đáng thương xót”. Học Phật thì học từ chỗ nào? Học từ chỗ mở rộng tâm lượng. Tâm lượng chẳng lớn, sẽ chẳng thể tiến nhập Đại Thừa. Trong kiến trúc của chùa miếu, tại Thiên Vương Điện, đối diện với cổng chính bèn bày tượng Phật Di Lặc bụng bự, nhằm dạy quý vị tâm lượng phải lớn thì mới có tư cách bước vào, ngưỡng cửa [của sơn môn] biểu thị cửa Đại Thừa. Phật giáo Trung Hoa là Đại Thừa Phật pháp; quý vị chẳng có tâm lượng to lớn, sẽ chẳng thể bước vào cửa Đại Thừa! Lại thưa cùng quý vị: Chẳng tiến vào được, cũng chẳng sao! Nếu là tâm lượng nhỏ hẹp, sau khi tiến nhập Đại Thừa, sẽ hỏng bét! Ngưỡng cửa ấy là gì vậy? Cửa địa ngục! Vì sao là cửa địa ngục? Tâm lượng hẹp hòi, sau khi tiến vào, sẽ phá hòa hợp tăng, phá hoại tăng đoàn, kẻ ấy tuyệt đối đọa địa ngục. Do vậy, quý vị thấy cửa ấy là Phật môn hay là địa ngục môn? Nói thật ra, nó cũng chẳng phải là Phật môn, mà cũng chẳng phải là địa ngục môn. Tâm lượng lớn, cửa ấy bèn biến thành Phật môn. Tâm lượng hẹp hòi, cửa ấy sẽ biến thành cửa địa ngục. Cảnh giới bên ngoài không Phật cũng không ma, Phật môn và địa ngục đều do tự tâm biến hiện. Cùng là một ngôi chùa như nhau, ta từng bước tiến vào là Phật môn, kẻ khác từng bước tiến vào mà thành địa ngục môn, khác nhau! Chúng ta dắt tay nhau cùng tiến vào, ta vào cửa Phật, họ tiến vào cửa địa ngục, làm sao có thể giống nhau cho được? Sau khi đã bước vào cửa, nhất định là trước hết phải đoạn phiền não, trước hết là tu Giới, Định, Huệ, đoạn phiền não, sau đấy mới lại học vô lượng pháp môn, viên thành Phật đạo, phổ độ chúng sanh. Quyết định chẳng thể đảo lộn thứ tự này, [nếu đảo lộn] sẽ là sai lầm khôn cùng!

Do vì niệm Phật mà cái tâm phát khởi, hiện ra, Phật cũng phát khởi, hiện ra. Chẳng niệm, Phật chẳng có, mà tâm cũng chẳng có, đều chẳng có. “Thật Tướng vô tướng” (Thật Tướng chẳng có tướng); vừa niệm Phật, tâm lẫn cảnh đều hiện tiền, “Thật Tướng vô bất tướng”! “Vô bất tướng” là có tướng. Nếu chư vị có thể thật sự thấu hiểu hai câu trên đây, bất luận khởi tâm gì, động niệm gì, tâm và cảnh đều hiện tiền. Khi chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, tâm lẫn cảnh cùng mất, hai bên đều chẳng hiện tiền. Hễ khởi tâm động niệm, hai bên đều cùng hiện tiền. Niệm Phật, hai bên hiện tiền; niệm Bồ Tát, hai bên hiện tiền. Khởi một niệm tâm tham lam, hai bên hiện tiền. Dấy tâm nóng giận, cũng là hai bên hiện tiền. Do đó, tâm và cảnh đều sanh từ duyên. Duyên là gì? Ý niệm sanh khởi chính là duyên. Duyên ấy chẳng thể nói tỉ mỉ; hễ nói tỉ mỉ, sẽ rất phức tạp. Trong Duy Thức có giảng cặn kẽ, kinh Hoa Nghiêm nói vô lượng nhân duyên. Cái tâm ấy hễ động, [sẽ là] vô lượng nhân duyên. Nếu quý vị chẳng có duyên, ý niệm sẽ chẳng động. Vô lượng nhân duyên rất phức tạp.

Tuy đoạn này thuộc cảnh giới rất cao, nhưng có thể khiến cho chúng ta nhận biết chân tướng của tâm và cảnh, cái hay [của sự nhận biết chân tướng] là khiến cho chúng ta chẳng hoài nghi, một lòng khăng khăng chuyên chú niệm Phật, biết pháp môn Niệm Phật quyết định là chẳng sai lầm, xác thực là có căn cứ lý luận!

 

(Diễn) Trí ngoại vô Như giả, tâm giả thị Trí, Phật giả thị Như. Tâm ngoại vô Phật, thị Trí ngoại vô Như dã.

()智外無如者,心者是智,佛者是如,心外無佛,是智外無如也。

(Diễn: “Ngoài Trí chẳng có Như”: Tâm là Trí, Phật là Như. “Ngoài tâm chẳng có Phật” là ngoài Trí chẳng có Như).

“Trí” là chân tâm khởi tác dụng. Chân tâm phát khởi tác dụng, hết thảy đều hiểu rõ, hết thảy đều thông đạt, ta thường nói là “trí huệ Bát Nhã”. Tâm khởi tác dụng, tâm là trí huệ; Phật là cảnh giới được biến hiện bởi tâm. Nếu nói theo Duy Thức, Trí là Kiến Phần của tâm, Phật là Tướng Phần của tâm. Tâm là bản thể, cái có thể thấy (năng kiến) chính là Kiến Phần của nó, cái bị thấy (sở kiến) chính là Tướng Phần của nó. Chính mình thấy chính mình, bên ngoài chẳng có thứ gì! Do vậy nói “ngoài tâm không có Phật”, đó chính là “ngoài Trí chẳng có Như”.

 

(Diễn) Thử nãi đoạt cảnh bất đoạt nhân. Cổ vân: “Thượng viên hoa dĩ tạ, xa mã thượng biền điền”, thị dã.

()此乃奪境不奪人。古云:上園花已謝,車馬尚駢填,是也

(Diễn: Đây chính là đoạt[35] cảnh, chẳng đoạt người. Cổ nhân nói: “Thượng Uyển hoa tàn lụi, xe ngựa vẫn dập dìu” nhằm nói lên ý này).

Đây là nêu lên một công án của cổ nhân để nói. “Thượng viên” chỉ ngự hoa viên. Thông thường, hễ người ta nói tới Thượng thì đều là tiếng tôn xưng hoàng đế. Điều này tỷ dụ “đoạt cảnh, chẳng đoạt người”. Câu kế tiếp nói theo phương diện tương phản.

 

(Diễn) Như ngoại vô Trí giả, ký Phật ngoại vô tâm, thị Như ngoại vô Trí dã. Thử nãi đoạt nhân bất đoạt cảnh. Cổ vân: “Thị xứ hữu phương thảo, mãn thành vô cố nhân”, thị dã.

()如外無智者,既佛外無心,是如外無智也。此乃奪人不奪境。古云:是處有芳草,滿城無故人,是也。

(Diễn: “Ngoài Như không có Trí”: Đã là ngoài Phật chẳng có tâm, tức là ngoài Như chẳng có Trí. Đây chính là đoạt người, chẳng đoạt cảnh. Cổ nhân nói: “Nơi đây, cỏ tỏa hương thơm ngát, khắp thành đâu thấy bóng người xưa” là nói lên ý này).

“Thị xứ hữu phương thảo” là cảnh, “mãn thành vô cố nhân” là người. Người chẳng có, nhưng cảnh tồn tại. Trong đoạn trước là “chẳng có cảnh, nhưng người tồn tại”. Nói cách khác, đối với vũ trụ và nhân sinh, quý vị nhìn từ góc độ nào, sẽ hiểu kết quả như thế đó. Những kết quả ấy đều chánh xác, nhưng vẫn chưa phải là viên mãn. Cũng có nghĩa là: Đối với cảnh giới, quý vị chỉ thấy một mặt, hãy còn các mặt khác. Giống như đối với một cánh tay, quý vị nhìn vào mặt trước, chẳng thấy mặt sau, nhìn vào mặt sau, chẳng thấy mặt trước. Ắt cần phải hợp cả hai mặt lại để nhìn thì mới có thể hoàn toàn liễu giải chân tướng.

“Phi Như phi Trí” là thấy toàn thể. Chẳng thấy toàn thể, ắt sẽ có sự tranh chấp. Chư vị phải hiểu: Ngay trong bản thân Phật môn cũng có rất nhiều tranh chấp. Vì sao có lắm nỗi tranh chấp ngần ấy? Chẳng thể nói là tri kiến của họ không chánh xác, đều chánh xác, nhưng họ thấy một mặt, chẳng thấy mặt khác. Các đại tông phái như Tông Môn, Giáo Hạ công kích lẫn nhau, người học Thiền và kẻ niệm Phật hủy báng lẫn nhau, đều là do nhìn vào một mặt, chẳng thấy mặt thứ hai. Nếu mặt nào cũng đều nhìn thấy, mới biết không chỉ mười đại tông phái chính là một, mà tất cả hết thảy ngoại đạo bên ngoài cũng là một. Đối với những lời tôi nói cùng mọi người trong phần trước, nếu quý vị có thể thấu hiểu, sẽ biết ngay. Vì sao? Chẳng có một pháp nào không phải là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, đều là như vậy. Tâm hễ niệm ngoại đạo liền hiện ngoại đạo, niệm ma vương liền hiện ma vương. Niệm gì hiện nấy, tâm biến ra cảnh ấy.

Vì thế, quý vị hãy nói xem: Có pháp nào chẳng phải là tự tánh? Pháp nào cũng đều là [tự tánh], pháp nào cũng đều là Như. Tâm chúng ta liền bình, liền thanh tịnh. [Có như vậy thì] trong hết thảy các pháp, mới giống như kinh Kim Cang đã dạy: “Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”. Vì sao chẳng chấp lấy tướng? Vì hết thảy các tướng do tự tánh biến hiện, huyễn hóa, chẳng có tự tánh. Không chỉ là chẳng chấp sắc pháp, mà tâm pháp cũng chẳng chấp giữ, tâm cũng là duyên khởi. Hai bên tâm và cảnh đều xóa sạch, tự tánh hiện tiền. Thiên trọng sắc pháp, sẽ là vật chất, duy vật, chẳng thể kiến tánh. Thiên trọng tâm pháp, sẽ là duy tâm, cũng chẳng thể kiến tánh. Ắt phải là tâm và pháp hai bên đều buông xuống thì mới có thể khế nhập, hoát nhiên khế nhập.

Chư vị phải hiểu, khi một câu Phật hiệu niệm đến mức tâm và cảnh như nhau thì sẽ khế hợp. Nếu quý vị hỏi: Niệm đến khi nào thì mới có thể đạt đến Lý nhất tâm bất loạn? Niệm đến khi [tâm và cảnh] như nhau, niệm đến khi cái tâm năng niệm chính là đức Phật được niệm (sở niệm chi Phật), đức Phật được niệm là cái tâm năng niệm, Năng và Sở là một, Năng và Sở chẳng hai, bèn khai ngộ. Do vậy, đây là một công phu rất sâu. Hễ còn có Năng và Sở, nói cách khác, đều rớt vào hai bên, chẳng thể kiến tánh, có thể niệm đến Sự nhất tâm, chẳng phải là Lý nhất tâm.

 

(Diễn) Phi Như phi Trí, cố duy nhất tâm giả, Trí ngoại vô Như, dĩ Trí đoạt Như, cố phi Như. Như ngoại vô Trí, dĩ Như đoạt Trí, cố phi Trí. Hỗ đoạt lưỡng vong, tắc phi Như phi Trí, cố duy nhất tâm.

()非如非智,故唯一心者,智外無如,以智奪如故非如;如外無智,以如奪智故非智。互奪兩忘,則非如非智,故唯一心。

(Diễn: “Chẳng phải là Như, chẳng phải là Trí, nên chỉ là nhất tâm”: Ngoài Trí chẳng có Như, do Trí đoạt Như, nên chẳng phải là Như. Ngoài Như không có Trí, do Như đoạt Trí, nên chẳng phải là Trí. Do [Như và Trí] đoạt lẫn nhau, nên hai bên cùng mất. Vì thế, chẳng phải là Như, chẳng phải là Trí, chỉ là nhất tâm).

“Hỗ đoạt lưỡng vong” (Hai bên đoạt lẫn nhau), hai đằng đều chẳng có. Đây là phương pháp xảo diệu để tô đậm cảnh giới Lý nhất tâm, giống như vẽ vời vậy, dồn mây để mô tả mặt trăng. Do chẳng thể vẽ mặt trăng được, nên trong giữa các đám mây, [vẽ] lộ ra một hình tròn trặn, thoạt nhìn liền biết là mặt trăng. Dùng phương pháp ấy để biểu lộ, khiến cho chúng ta nhờ vào đó bèn có thể thấu hiểu.

 

(Diễn) Thử nhân cảnh song đoạt. Cổ vân: “Vân tán, thủy lưu khứ, tịch nhiên, thiên địa không”. Hựu vân: “Nhân ngưu câu bất kiến, chánh thị nguyệt minh thời”, thị dã.

()此人境雙奪。古云:雲散水流去,寂然天地空。又云:人牛俱不見,正是月明時。是也。

(Diễn: Đây chính là người và cảnh đều bị đoạt. Cổ nhân nói: “Mây tan, nước chảy mất, khắp trời đất lặng tênh”. Lại nói: “Người, trâu đều chẳng thấy; khi ấy, trăng rạng ngời” là nói về ý này).

Đây là bài kệ trong Mục Ngưu Đồ Tụng[36] (tranh kệ chăn trâu), những điều này đều thuộc về Thiền cơ, hãy chú tâm lãnh hội, cảm nhận, trong ấy rất có ý vị. Ý thú cạn hay sâu tùy thuộc cảnh giới lãnh ngộ khác

 

nhau của mỗi người. Đó là đối với hai nghĩa của chữ Thể Cứu, chúng tôi đã giảng một ý nghĩa. Kế tiếp sẽ là ý nghĩa thứ hai, tức “tịch chiếu nan tư”. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi để lần sau sẽ giảng tiếp.

 

Tập 230

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm năm mươi:

 

(Sao) Nhị tức Tịch Chiếu nan tư. Nhược ngôn kỳ hữu, tắc năng niệm chi tâm, bản thể tự không, sở niệm chi Phật, liễu bất khả đắc. Nhược ngôn kỳ vô, tắc năng niệm chi tâm, linh linh bất muội, sở niệm chi Phật, lịch lịch phân minh. Nhược ngôn diệc hữu vô, tắc hữu niệm vô niệm câu mẫn. Nhược ngôn phi hữu phi vô, tắc hữu niệm vô niệm câu tồn. Phi hữu tắc thường Tịch, phi vô tắc thường Chiếu, phi song diệc, phi song phi, tắc bất Tịch bất Chiếu, nhi Chiếu nhi Tịch. Ngôn tư lộ tuyệt, vô khả danh trạng, cố duy nhất tâm.

()二即寂照難思,若言其有,則能念之心,本體自空,所念之佛,了不可得;若言其無,則能念之心,靈靈不昧,所念之佛,歷歷分明;若言亦有無,則有念無念俱泯;若言非有非無,則有念無念俱存。非有則常寂,非無則常照,非雙亦,非雙非,則不寂不照,而照而寂。言思路絕,無可名狀,故唯一心。

(Sao: Hai là “Tịch và Chiếu khó nghĩ tưởng”. Nếu nói nó là Có thì bản thể của cái tâm năng niệm là Không, đức Phật được niệm trọn chẳng thể được. Nếu bảo là Không thì cái tâm năng niệm linh thông chẳng mê muội, đức Phật được niệm vằng vặc phân minh. Nếu bảo là “vừa Có, vừa Không” thì hữu niệm và vô niệm đều mất. Nếu nói “chẳng phải là Có, chẳng phải là Không” thì hữu niệm và vô niệm cùng tồn tại. Chẳng phải Có mà thường Tịch, chẳng phải là Không mà thường Chiếu, chẳng phải là “cùng Có, cùng Không”, chẳng phải là “chẳng phải Có, chẳng phải Không” mà chẳng Tịch, chẳng Chiếu, lại vừa Chiếu, vừa Tịch. Nói năng lẫn suy nghĩ đều chẳng được, không thể nào gọi tên hay hình dung. Vì thế, chỉ là nhất tâm).

Đoạn này nhằm giảng  về  ý  nghĩa  thứ  hai  của  Thể  Cứu, tức  là “Tịch Chiếu nan tư”. Trước hết, chúng tôi nói ý nghĩa của bốn chữ ấy theo phương diện văn tự. Phàm phu, Nhị Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát đều dùng vọng tâm. Dùng vọng tâm thì từ Nhị Thừa trở lên tuy tu Định, công phu định lực đã tu có [mức độ] thành công kha khá, có thể chế phục vọng tưởng, nhưng các Ngài chưa thể kiến tánh. Ắt phải là sau khi đã kiến tánh thì mới dùng chân tâm. Chân tâm là Tịch mà thường Chiếu, Chiếu mà thường Tịch, khác xa vọng tâm! Chúng ta niệm Phật, đương nhiên là đại đa số vẫn dùng vọng tâm để niệm. Dùng vọng tâm để niệm mà rất đúng pháp, bèn có thể đới nghiệp vãng sanh. Trong bốn cõi Tây Phương, cõi Phàm Thánh Đồng Cư và cõi Phương Tiện Hữu Dư đều là đới nghiệp vãng sanh. Nếu niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, sẽ sanh trong cõi Thật Báo, hoặc cõi Thường Tịch Quang, khác hẳn!

Chúng ta có thể vãng sanh hay không? Đây là một câu hỏi lớn! Nếu muốn vãng sanh, nhất định là phải chế phục phiền não. Chúng ta chẳng đoạn được thì phải chế phục phiền não. Phiền não là gì? Phiền não là vọng tưởng, ngay cả độ chúng sanh cũng là dấy vọng tưởng. Quý vị thường có ý niệm độ chúng sanh, nói thật thà, chẳng thể đến Tây Phương Cực Lạc thế giới được! Chẳng thể không có nguyện độ chúng sanh, nhưng chớ nên có ý niệm độ chúng sanh; bởi nó là vọng niệm. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối niệm câu A Di Đà Phật, vẫn thường nghĩ “ta phải độ chúng sanh”, tức là vọng niệm ấy xen tạp vào đó. Niệm Phật sợ nhất là xen tạp, quyết định chớ nên hoài nghi, chớ nên gián đoạn, chớ nên xen tạp! Pháp tốt đẹp như vậy, chẳng giới thiệu cho người khác, trong lòng rất khó chịu, đó là vọng tưởng. Chư Phật, Bồ Tát chẳng cảm thấy khó chịu, quý vị khó chịu nỗi gì! Vì sao chư Phật, Bồ Tát chẳng khổ sở? Duyên chưa chín muồi. Nếu duyên đã chín muồi, Phật, Bồ Tát tự nhiên sẽ đến. “Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”, người nào nhân duyên đã chín muồi, Phật, Bồ Tát tự nhiên sẽ hóa thân tới độ kẻ ấy, chẳng vứt bỏ một ai! Duyên chưa chín muồi, không thể đến, [vì có hiện thân đến tiếp độ] không chỉ là chẳng thể thành tựu việc gì, trái lại còn là chuyện xấu. Vì sao? Khiến cho kẻ ấy nẩy sanh ác cảm, khiến cho thời gian [cần thiết] để duyên của kẻ đó chín muồi bị kéo dài, vậy thì từ bi ở chỗ nào? Đó gọi là ngu si, ngu muội.

Do vậy, trong đời này, chúng ta gặp gỡ Phật pháp, ý niệm đầu tiên là “quyết định phải sanh về Tịnh Độ”. Chỉ sau khi đã sanh về Tịnh Độ thì mới có thể rộng độ chúng sanh, trong một đời này chẳng vội vàng độ chúng sanh. Có đồng tu đề nghị, bảo tôi phải nghĩ phương pháp lưu thông băng thâu âm và băng thâu hình giảng kinh của tôi. Trên thực tế, hiện thời đã được lưu thông chẳng ít, tôi biết nhiều nơi trên cả thế giới đều có. Còn có người dấy lên ý niệm muốn lập một hội gây quỹ, quyên mộ một khoản tiền để làm chuyện này, có nên hay không? Thoạt nghe thì dường như hay lắm, hiện thời, trong Phật môn có nhiều đạo tràng đều làm theo kiểu ấy, nhưng hễ làm chuyện ấy, sẽ chẳng thể vãng sanh! Chúng ta ngẫm xem: Vãng sanh là khẩn yếu, hay tu phước báo luân hồi trong lục đạo là khẩn yếu? Chúng ta phải cân nhắc cẩn thận! Trong các buổi giảng, tôi thường khuyên lơn, khích lệ các đồng tu giới thiệu Phật pháp, đề cao Phật pháp, trong Phật môn nói là “hoằng dương Phật pháp”, chúng ta phải làm chuyện này. Dùng tâm thái gì để làm? Tùy duyên, tùy phận, như vậy thì tốt. Đừng nên cố ý thực hiện, chớ nên lập kế hoạch để làm, chẳng cần phải có tổ chức để làm, vì sẽ tạo ra quá nhiều điều tệ hại! Lỡ như chúng ta do hảo tâm, có tổ chức sao cho mỗi huyện đều có một tiểu tổ, có một người phụ trách, lỡ như kẻ ấy hóa duyên tại đó, dùng món tiền [quyên góp] được để tiêu xài cho chính mình, trong tương lai kẻ ấy sẽ đọa địa ngục. Vì sao kẻ ấy đọa địa ngục? Chính là do chúng ta đã cài bẫy đưa kẻ ấy vào địa ngục, tội lỗi ấy quá nặng!

Nhà Phật thường nói: “Một hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di, kiếp này chẳng liễu đạo, mang lông, đội sừng đền”. Chúng ta an phận thủ thường, chẳng gánh trách nhiệm nhân quả, như vậy thì mới là tốt đẹp. Chúng ta chủ trương “quyết định chẳng hóa duyên, mà là tùy duyên”. Người ta cúng dường nhiều bèn làm nhiều, có ít bèn làm ít, chẳng có bèn không làm. Làm và không làm tâm đều thanh tịnh, đều tự tại, như vậy là tốt đẹp. Đạo tràng là như thế, mỗi vị đồng tu tại gia phải giữ vững tâm thái như vậy để sống qua ngày, để xử sự, đãi người, tiếp vật, khiến cho cái tâm của chúng ta có thể thật sự an định, một dạ hướng về đạo! Đó là tốt đẹp!

Chúng sanh có phước, Phật, Bồ Tát tự nhiên tới, Phật pháp có thể phổ biến hoằng dương. Chúng ta thấy thời đại hiện tại là có phước hay là có tai nạn? Có đại tai nạn! Quý vị thấy các hiện tượng trong xã hội chẳng phải là hiện tượng tốt lành, tai nạn xảy đến. Đấy là cộng nghiệp. Chúng ta nhất định phải đề cao cảnh giác, nhất định phải nhận biết rõ ràng “sanh tử là chuyện lớn, vô thường nhanh chóng”, phải biết nhân quả, nhất định phải đoạn ác tu thiện. Thiện là gì? Tâm địa thanh tịnh là thiện. Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ có nói thanh tịnh, bình đẳng, giác chứ không mê, đó là thiện. Nói cách khác, tâm không thanh tịnh là ác, tâm bất bình đẳng là ác, trong tâm mê hoặc, điên đảo là ác.

Học Phật quyết định đừng làm theo kiểu hình thức, quyết định chớ nên làm chuyện náo nhiệt, những điều ấy nhất định tổn hại đạo nghiệp. Vì sao? Chẳng thể Tịch! “Tịch” (寂) là thanh tịnh, chẳng Tịch lấy đâu ra Chiếu? “Chiếu” (照) chính là trí huệ Bát Nhã. Trước hết, chúng ta phải từ mặt chữ mà liễu giải, nhận rõ: Tịch là Định, Chiếu là Huệ. “Tịch chiếu nan tư” chính là Tịch và Chiếu được phát huy đến mức cao nhất. Thông thường, nói theo Đại Thừa Phật pháp, mức sơ khởi để đạt tới cảnh giới này sẽ là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, hoặc Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo, chẳng thể nghĩ bàn! Chẳng cần nhắc tới hàng Bồ Tát thuộc địa vị sâu, [hàng Bồ Tát] vừa mới đạt đến cảnh giới này đã chẳng thể nghĩ bàn! Hai mươi lăm vị Bồ Tát được nhắc đến trong hai mươi lăm chương giảng về các phép Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm đều là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, chẳng phải là rất cao, mà là những vị vừa mới tu thành tựu Lăng Nghiêm Đại Định. Ở đây, chúng ta gọi Lăng Nghiêm Đại Định là Lý nhất tâm bất loạn, [Sơ Trụ Bồ Tát] vừa mới đạt đến cảnh giới ấy. Thật sự chẳng thể nghĩ bàn!

Vì sao chẳng thể nghĩ bàn? Trong đoạn văn này, đã nêu ra đạo lý ấy: Vì nghĩ và bàn đều thuộc về Đệ Nhị Nghĩa. Suy nghĩ, nghiên cứu, và thảo luận đều là tác dụng của tâm ý thức. Lìa khỏi tâm ý thức, chẳng có cách nào nghĩ bàn! Chân tâm bản tánh chẳng nghĩ bàn, vì nó chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng có vọng tưởng. Lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, còn có gì để nói nữa? Tôi phải hỏi các đồng tu: Tôi bày vật này ra nơi đây. Lìa khỏi hết thảy phân biệt, lìa hết thảy tướng danh tự, tướng ngôn thuyết, quý vị hãy nói xem: Đây là gì? Quý vị nói: “Đấy là một mảnh giấy”. Tôi bảo quý vị: Chẳng có tướng danh tự, [vậy thì] lấy đâu ra “mảnh giấy”? Hễ dùng tâm ý thức bèn có thể nghĩ bàn. Lìa tâm ý thức, chẳng thể nghĩ bàn! Hết thảy các pháp bày trước mặt chúng ta, [chúng ta hiểu] rõ ràng, rành rẽ, đó gọi là Chiếu Kiến. Tôi vừa mới làm thử, các vị đều trông thấy, đó là Chiếu Kiến, đấy chính là Chiếu. Tâm là Tịch, rành mạch, rõ ràng, chẳng có ngôn thuyết, mà cũng chẳng có tư duy. Cảnh giới ấy ở chỗ nào? Ở ngay trước mặt chúng ta. Trong cảnh giới, hễ chúng ta khởi tâm, động niệm, cảnh giới ấy (cảnh giới “Chiếu mà Tịch, Tịch mà Chiếu”) chẳng còn nữa, liền biến thành cảnh giới hư vọng. Quý vị gán cho nó một cái tên, đó là giả danh! Nó vốn chẳng có tên. Quý vị gán cho nó một tướng trạng, nó vốn chẳng có tướng trạng. [Tên gọi lẫn tướng trạng] đều sanh từ phân biệt, chấp trước của quý vị. Quý vị coi những thứ do phân biệt, chấp trước sanh ra là thật, lầm lẫn đặc biệt to tát, đó là mê hoặc, điên đảo. Đã hiểu rõ đại tiền đề này thì những điều giải thích tiếp đó sẽ chẳng khó hiểu, quý vị càng xem càng hiểu rõ.

Đối với các câu “nhược ngôn kỳ hữu, tắc năng niệm chi tâm, bản thể tự không, sở niệm chi Phật, liễu bất khả đắc” (nếu nói là Có thì bản thể của cái tâm năng niệm là không, đức Phật được niệm trọn chẳng thể được), [sách Diễn Nghĩa] có chú giải năm câu ấy.

 

(Diễn) Nhược ngôn kỳ hữu ngũ cú, vị năng niệm chi tâm, nhân sở niệm chi Phật nhi hữu.

()若言其有五句,謂能念之心,因所念之佛而有。

(Diễn: Năm câu “nếu nói là Có…” ý nói: Cái tâm năng niệm do từ đức Phật được niệm mà có).

Tâm và cảnh đều là duyên sanh. Nếu trong lúc tâm chẳng sanh một niệm, tâm lẫn cảnh đều Không; nhưng khi chúng ta dấy tâm niệm Phật, cảnh giới Phật hiện tiền, Phật là duyên khởi. Do vì niệm Phật, cũng sẽ hiển lộ ngược lại rõ ràng [sự kiện] “[trong tâm] ta đã dấy lên một niệm niệm Phật”, tâm cũng là duyên khởi. Cái tâm năng niệm và đức Phật được niệm làm duyên khởi lẫn nhau. Các pháp do nhân duyên sanh mà! Vì thế nói là nhất tâm, đó là chân tâm. Hễ quý vị niệm Phật, bèn có năng niệm (cái tâm niệm Phật) và sở niệm (đức Phật được niệm). Năng niệm và sở niệm đều phát xuất từ duyên khởi. “Nhân sở niệm chi Phật nhi hữu” (Do đức Phật được niệm mà có), [nghĩa là] bèn có cái tâm năng niệm, tâm là duyên khởi. Tâm ấy chính là do có đức Phật được niệm nên mới hiển lộ cái tâm năng niệm. “Tắc năng niệm chi tâm bản thể tự không” (bản thể của cái tâm năng niệm là Không): Chẳng có đức Phật được niệm, cái tâm năng niệm của quý vị cũng trọn chẳng thể được, cũng chẳng có. Tâm năng niệm là duyên khởi.

 

(Diễn) Sở niệm chi Phật, nhân năng niệm chi tâm nhi hữu, tắc sở niệm chi Phật liễu bất khả đắc.

()所念之佛,因能念之心而有,則所念之佛了不可得。

(Diễn: Đức Phật được niệm do cái tâm năng niệm mà có, nên đức Phật được niệm [chính là] trọn chẳng thể được).

Cũng là “bản thể chính là Không”. “Bản thể tự không”“trọn chẳng thể được” có cùng một ý nghĩa, tâm và cảnh đều chẳng thể được!

 

(Diễn) Dĩ tâm duyên cảnh, tùng vô tự tánh, cố hữu phi hữu dã. Thử vi Không Quán.

()以心緣境,從無自性,故有非有也。此為空觀。

(Diễn: Do tâm duyên cảnh, vốn chẳng có tự tánh, cho nên “tuy có mà chẳng có”. Đấy chính là Không Quán).

Cảnh là sắc pháp. Bản thể của tâm pháp và sắc pháp là Không, quý vị còn có chấp trước gì nữa? Còn phải khởi vọng tưởng chi nữa? Đối với tất cả hết thảy tưởng của quý vị, đức Phật thêm vào một chữ Vọng (妄), tức là “vọng tưởng”. Chân tâm vốn chẳng có tưởng; chỉ cần quý vị có tưởng đều gọi là vọng tưởng. Quý vị điều gì cũng chẳng tưởng, đó là đúng. Nếu tưởng, sẽ là trật! Chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi phổ độ chúng sanh, các Ngài có tưởng hay chăng? Chẳng tưởng! Chẳng tưởng thì độ [chúng sanh] như thế nào? Tùy duyên độ sanh. Duyên hiện tiền, Phật bèn tận tâm tận lực giúp đỡ kẻ ấy. Duyên chẳng hiện tiền, Ngài như như bất động. Dẫu cho duyên hiện tiền, đến giúp đỡ hết thảy chúng sanh, vẫn là như như bất động, chưa hề khởi tâm động niệm. Kể cả khi đức Phật vì chúng ta giảng kinh, thuyết pháp, Ngài là “nói mà chẳng nói, chẳng nói mà nói”. Kẻ sơ học chúng ta [nghe nói như vậy] rất khó hiểu, rõ ràng là có nói, cớ sao [bảo là] “chẳng nói”? Giống như gõ khánh, chúng ta cầm dùi gõ nó, khánh bèn ngân vang. Chẳng gõ, nó sẽ không ngân. Hãy thử hỏi, khi chúng ta gõ, nó có dấy lên ý niệm “ta phải ngân vang” hay không? Chẳng có! Do đó, nó là “chẳng ngân mà ngân, ngân mà chẳng ngân”. Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp là như thế đó, chẳng có phân biệt, chấp trước, chẳng có tâm, chẳng khởi tâm động niệm! Chúng sanh hỏi gì, Ngài bèn thuận theo lời hỏi để đáp, tuyệt đối chẳng nói: “Quý vị hỏi, ta phải suy xét, ngẫm nghĩ để trả lời quý vị như thế nào”. Nếu là như vậy, sẽ rớt vào ý thức, sẽ là phàm phu. Do vậy, đức Phật thuyết pháp giống như gõ khánh: Gõ mạnh bèn kêu to, gõ nhẹ liền kêu nhỏ, chẳng gõ bèn im tiếng. Đức Phật có thuyết pháp hay không? Chẳng có thuyết pháp! Chúng ta nghe đức Phật thuyết pháp, phải biết nghe. “Biết nghe” chính là lìa tâm ý thức để nghe. Nói cách khác, nghe đức Phật thuyết pháp mà chẳng phân biệt, không chấp trước, không giữ lại ấn tượng, nghe pháp như vậy bèn có thể khai ngộ. Càng nghe, tâm càng thanh tịnh. Thanh tịnh đến một mức độ nhất định, sẽ khai ngộ, tương ứng với tâm Phật, mà cũng tương ứng với tâm tịch tĩnh. Tâm Phật tịch tĩnh, tâm chúng ta cũng tịch tĩnh. Giữa tịch tĩnh và tịch tĩnh, chẳng có giới tuyến, hết thảy đều thông đạt vô ngại. Thật sự dụng công, thật sự tin Phật, thật sự tin tự tánh có vô lượng công đức, điều này vô cùng quan trọng!

Đây là nhìn theo Thể; vì thế nói là Không Quán. Bản thể của nó chính là Không, trọn chẳng thể được. Những điều này đều nhằm nói rõ chân tướng của nhân sinh và vũ trụ.

 

(Diễn) Nhược ngôn kỳ vô ngũ cú, vị nhân sở niệm chi Phật, dẫn sanh năng niệm chi tâm.

()若言其無五句,謂因所念之佛,引生能念之心。

(Diễn: Năm câu “nếu nói là không…” ý nói do đức Phật được niệm mà dẫn khởi, phát sanh cái tâm năng niệm).

Tâm năng niệm do đâu mà có? Do đức Phật được niệm dẫn khởi.

 

(Diễn) Tắc năng niệm chi tâm tỉnh tỉnh bất muội.

()則能念之心惺惺不昧。

(Diễn: Nên cái tâm năng niệm sáng suốt, chẳng mê muội).

Tâm ấy rõ ràng, minh bạch, giống như tôi vừa mới cầm một tờ giấy [giơ lên] cho mọi người xem. Há chẳng phải là quý vị đã thấy rõ ràng, minh bạch hay sao? Quý vị dùng gì để thấy? Tâm! Dùng cái tâm thấy. Vì chẳng cho phép quý vị phân biệt, không cho quý vị chấp trước, cái tâm được dùng là chân tâm. Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước là vọng tâm, thuộc vào tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở. Ngay trong khi quý vị chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, những gì quý vị đã thấy chính là nhìn bằng tánh Thấy, thấy bằng chân tâm. Chân tâm thấy pháp tánh. Phàm phu chúng ta cũng có, đáng tiếc chẳng giữ được lâu dài. Niệm thứ nhất là tâm, thấy bằng tánh Thấy, niệm thứ hai là thấy bằng Nhãn Thức, ngay lập tức [vạn pháp] bị biến chất, biến quá nhanh chóng! Chư Phật, Bồ Tát thấy, vĩnh viễn chẳng biến chất, cho nên những điều các Ngài thấy toàn là chân tướng, thật tướng. Trong cái Thấy của chúng ta, Thật Tướng đã bị chuyển biến thành tướng hư vọng. Cái tâm này nhận biết rành mạch, rõ ràng!

 

(Diễn) Nhân năng niệm chi tâm, dẫn sanh sở niệm chi Phật.

()因能念之心,引生所念之佛。

(Diễn: Do cái tâm năng niệm, dẫn khởi đức Phật được niệm).

Đức Phật được niệm do đâu mà có? Do cái tâm năng niệm hiển hiện.

 

(Diễn) Tắc sở niệm chi Phật lịch lịch phân minh.

()則所念之佛歷歷分明。

(Diễn: Nên đức Phật được niệm vằng vặc phân minh).

 Vị Phật ấy ở ngay trước mặt, rành rẽ, rõ ràng.

 

(Diễn) Dĩ tánh Không chi xứ, bất ngại duyên sanh.

()以性空之處,不礙緣生。

(Diễn: Do nơi tánh Không chẳng trở ngại duyên sanh).

Tâm năng niệm là duyên sanh, đức Phật được niệm là duyên sanh. Nói theo hiện tướng (tướng biến hiện) thì là duyên sanh; nói theo Thể, quyết định là không tịch, trọn chẳng thể được. Tướng có, Thể không, giống như nằm mộng, quyết định là Thật Tướng. Thật Tướng là tướng chân thật, quyết định là tướng chân thật. Quý vị chẳng lãnh hội đến cấp độ này, những gì quý vị trông thấy đều là tướng hư vọng. Tướng hư vọng sẽ đem lại vô lượng vô biên phiền não cho quý vị, khiến cho quý vị tạo nghiệp, khiến cho quý vị bị khổ báo luân hồi. Nếu quý vị thấy Thật Tướng, tâm quyết định thanh tịnh. Tâm quý vị đã định, thường sanh trí huệ, chẳng hai, chẳng khác với Phật. Nói thật ra, Phật và chúng sanh là do một niệm sai khác, thường nói là “sai chỉ hào ly, mất đi ngàn dặm”. Sai biệt nhỏ nhặt ngần ấy, hễ quý vị có thể chuyển điều nhỏ nhặt ấy, bèn lập tức thành Phật.

 

(Diễn) Cố vô phi vô dã.

()故無非無也。

(Diễn: Do đó, không mà chẳng phải là không).

Chẳng phải là “thứ gì cũng đều chẳng có”, tướng là có.

 

(Diễn) Thử vi Giả Quán.

()此為假觀。

(Diễn: Đây là Giả Quán).

Chư vị phải hiểu: Tướng toàn là giả. Có tướng hay không? Có, nhưng chẳng thật. Có là giả! Kinh Kim Cang đã nói rất hay: “Như mộng, huyễn, bào, ảnh”. Mộng, huyễn, bọt, bóng là có! Ai nấy đều có thể nằm mộng. “Huyễn” (幻) là gì? Huyễn là làm ảo thuật. Nhà ảo thuật biến hóa, biến ra những thứ nhìn giống như là có thật, nhưng thật ra, chúng là giả! Đó là huyễn hữu. “Bào” (泡) là bọt nước. Các vị đến bờ biển sẽ thấy bọt nước. “Ảnh” (影): Nay chúng ta xem TV, những hình ảnh trên TV đều là ảnh. Như mộng, huyễn, bọt, bóng, chẳng có thứ gì là chân thật. Chư Phật, Bồ Tát ở trên thế gian được gọi là “du hý thần thông”, du hý thần thông là gì? Trong cảnh giới, các Ngài chẳng phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, chẳng động niệm. Bất luận cảnh duyên là thuận hay nghịch, các Ngài đều tự tại. Trong thuận cảnh, các Ngài chẳng sanh tham ái; trong nghịch cảnh chẳng sanh sân khuể, tâm các Ngài thanh tịnh, bình đẳng. Vì thế, các Ngài cảm nhận vạn pháp như nhau, chẳng có khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Do muôn pháp như nhau, tâm thường trụ trong Định. Hễ có khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, tâm chẳng định, Định bị mất đi. Vì sao? Tâm động. Tâm các Ngài bất động.

Người thật sự học đạo trong hết thảy các cảnh duyên, “cảnh” là hoàn cảnh vật chất, “duyên” là hoàn cảnh nhân sự, trong hết thảy các hoàn cảnh, tu cái tâm bất động. Đó là Phật pháp. Bất luận tông nào hay phái nào, thảy đều tu điều này, chỉ là phương pháp tu khác nhau. Tịnh Độ Tông dùng phương pháp trong pháp môn Niệm Phật để tu, hòng ngăn dứt khởi tâm động niệm. Trong thuận cảnh, dấy lên một chút tâm tham, ngay lập tức “A Di Đà Phật”, chuyển ý niệm ấy, chuyển thành A Di Đà Phật, trừ khử tham. Trong nghịch cảnh, tâm khởi lên đôi chút buồn bực, hoặc dấy tâm sân khuể, ngay lập tức đổi thành A Di Đà Phật, trừ bỏ sân niệm, dùng phương pháp này. Dạy quý vị trong bất luận cảnh giới nào, quý vị gìn giữ “thanh tịnh, bình đẳng, giác” trong cái tâm của chính mình, đó gọi là “người niệm Phật”, người ấy thật sự niệm Phật. Trọn chẳng phải là miệng niệm Phật, trong tâm vẫn muốn gây chuyện thị phi, nhân ngã, vẫn muốn nói dối, nói đôi chiều, vẫn muốn tham, sân, si, mạn, miệng đúng, tâm sai, sai bét rồi! Đó chẳng phải là người niệm Phật. Niệm Phật kiểu đó, chẳng thể vãng sanh. Người niệm Phật nhất định là niệm niệm đều trụ trong “thanh tịnh, bình đẳng, giác”, niệm Phật kiểu đó quyết định vãng sanh. Bản thân chúng ta tu như vậy, cũng dạy kẻ khác tu như vậy. Đấy mới là tự lợi, lợi tha, hoằng pháp lợi sanh.

Biết hết thảy cảnh giới đều là giả, tự nhiên chẳng sanh phiền não. Hết thảy đều là giả, có gì đáng để tham luyến? Giả trất, chẳng thật! Hết thảy đều là mộng, huyễn, bọt, bóng, có gì đáng để cáu giận? Hiểu Lý, tâm bèn an, thấy rõ ràng, rành rẽ chân lý, đã hiểu, tâm tự nhiên an, tự nhiên buông xuống những nỗi ưu lự, sợ sệt, vướng mắc. Thân tâm của chúng ta cũng là duyên khởi, cũng chẳng phải là chân thật. Ngày mai chẳng có cái để ăn, bèn chết đói. Nói thật ra, ai chết đói? Thân thể trọn chẳng thể được, cảnh giới trọn chẳng thể được, ai chết? Chẳng có sanh tử, ngay lập tức sanh tử được giải quyết, đó là “liễu sanh tử”, chẳng có sanh tử! Sanh tử do đâu mà có? Sanh tử cũng từ duyên khởi. Vì quý vị sợ chết, cái chết hiện ra ngay trước mặt, quý vị bèn kinh hoảng, đều do chính mình biến hiện. Trừ tự tâm ra, há còn có pháp nào nữa? Chẳng có! Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều là giả tướng do tự tâm duyên khởi biến hiện. Đấy là Giả Quán. Không Quán là quán bản thể. Đã hiểu rõ Lý, Giả Quán là nhìn vào hiện tượng, cũng hiểu rõ hiện tượng.

Sau đó là nói tới Trung Quán. Trung Quán là gì? Trong cảnh giới, chúng ta sống như thế nào? Hưởng thụ cảnh giới ấy ra sao? Hưởng thụ bình thường. Trong hưởng thụ, quyết định chẳng tạo nghiệp, quyết định chẳng sanh phiền não, quyết định chẳng khởi tâm động niệm. Cuộc sống như vậy là cuộc sống của chư Phật, Bồ Tát. Nếu quý vị học hiểu, sẽ phải thay đổi danh xưng, chẳng thể gọi là người nữa, phải gọi quý vị là Bồ Tát. Những thứ khác cũng chẳng thay đổi, tâm và cảnh đều chẳng thay đổi, thay đổi danh tự mà thôi. Không gọi là người nữa, mà gọi quý vị là Phật, Bồ Tát.

 

(Diễn) Nhược ngôn diệc Hữu diệc Vô nhị cú.

()若言亦有亦無二句。

(Diễn: Hai câu “nếu cũng có, cũng không”).

Đây là “tắc hữu niệm vô niệm câu mẫn” (hữu niệm và vô niệm đều mất).

 

(Diễn) Vị nhược song chấp Hữu Vô.

()謂若雙執有無。

(Diễn: Ý nói: Nếu cùng chấp Có lẫn chấp Không).

Nếu quý vị chấp trước “cũng Có, cũng Không”, điều then chốt là Chấp. Trừ bỏ Chấp, vấn đề bèn được giải quyết. Quyết định chớ nên chấp trước! Xóa sạch chấp trước, quý vị nói là Có cũng được, bảo là Không cũng được, hoặc nói là “cũng Có, cũng Không”, chẳng có gì không đúng. Pháp nào cũng là đạo, việc gì cũng thuận lợi. Hễ có Chấp, câu nào cũng đều trật, chẳng có một câu nào là đúng! Điểm then chốt là chấp trước.

Ở đây, nói tới sự song chấp Hữu Vô, [tức là] đã chấp trước Có, lại chấp trước Không.

 

(Diễn) Tắc chánh đương bản thể tự không liễu bất khả đắc thời, hựu linh linh bất muội lịch lịch phân minh, dĩ Hữu đoạt Vô dã.

()則正當本體自空了不可得時,又靈靈不昧歷歷分明,以有奪無也。

(Diễn: Như vậy thì ngay trong lúc bản thể là không, trọn chẳng thể được, lại là linh thông, chẳng mê muội, vằng vặc phân minh, tức là dùng Hữu để đoạt Vô vậy).

Không thể nói là nó chẳng có, rõ ràng là có, rành mạch, rõ ràng. Đây là phá sự chấp trước về Vô.

 

(Diễn) Chánh đương linh linh bất muội lịch lịch phân minh thời, hựu bản thể tự không liễu bất khả đắc, dĩ Vô đoạt Hữu dã.

()正當靈靈不昧歷歷分明時,又本體自空了不可得,以無奪有也。

(Diễn: Ngay đang trong lúc vằng vặc phân minh chẳng mê muội, bản thể lại trọn chẳng thể được, [chính là] dùng Vô để đoạt Hữu).

Đây là phá chấp trước Có.

 

(Diễn) Hỗ đoạt lưỡng vong, tắc Hữu Vô song mẫn.

()互奪兩亡,則有無雙泯。

(Diễn: Hai bên đoạt lẫn nhau nên cùng mất, chính là Hữu và Vô cùng mất).

Quý vị nói “cũng Không” chẳng thể thành lập, mà quý vị nói “cũng Có” cũng chẳng thể thành lập. “Hỗ đoạt lưỡng vong”: Hai bên đều chẳng thể thành lập. “Tắc Hữu Vô song mẫn”: “Mẫn” (泯) là tiêu mất, hai bên “cũng Có” và “cũng Không” đều tiêu mất.

 

(Diễn) Thử song giá nhị biên chi Trung Đạo Quán dã.

()此雙遮二邊之中道觀也。

(Diễn: Đây chính là Trung Đạo Quán ngăn dứt cả hai bên [Hữu và Vô]).

Hai bên đều chẳng chấp trước, đó là Trung Đạo. Đây là “song giá” (雙遮: ngăn dứt cả hai). Hễ ngăn dứt bèn tương ứng với Thể, tương ứng với Lý.

 

(Diễn) Nhược ngôn phi hữu phi vô nhị cú.

()若言非有非無二句。

(Diễn: Hai câu “nếu nói chẳng phải có, chẳng phải không…”).

“Cũng Có, cũng Không” chẳng thể thành lập, tức là “chẳng phải Có, chẳng phải Không”. [Nếu chấp là] “chẳng phải Có, chẳng phải Không” thì lại sai mất rồi. Sai ở chỗ nào? Dưới đây, [sách Diễn Nghĩa] giảng giải:

 

(Diễn) Vị nhược song phá Hữu Vô.

()謂若雙破有無。

(Diễn: Ý nói nếu cùng phá Có và Không).

Chẳng phải Có, chẳng phải Không, hai bên Có và Không cùng bị phá.

 

(Diễn) Tắc nhân bản thể tự không liễu bất khả đắc, cố đắc linh linh bất muội lịch lịch phân minh, nhân Vô thành Hữu dã.

()則因本體自空了不可得,故得靈靈不昧歷歷分明,因無成有也。

(Diễn: Thì do bản thể vốn là Không, trọn chẳng thể được, cho nên linh thông chẳng mê muội, vằng vặc phân minh, [đó chính là] do Không mà thành Có vậy).

“Linh linh bất muội” là tâm, “lịch lịch phân minh” là cảnh. Tâm và cảnh sanh từ Không, từ trong Không mà sanh ra Có, quý vị chẳng thể nói nó là Không được!

 

(Diễn) Nhân linh linh bất muội lịch lịch phân minh, cố đắc bản thể tự Không, liễu bất khả đắc, nhân Hữu thành Vô dã. Hỗ thành song lập, tắc Hữu Vô câu tồn, thử song chiếu nhị biên chi Trung Đạo Quán dã.

()因靈靈不昧歷歷分明,故得本體自空了不可得,因有成無也。互成雙立,則有無俱存,此雙照二邊之中道觀也。

(Diễn: Do linh thông bất muội, vằng vặc phân minh, nên bản thể là Không, trọn chẳng thể được, [đó chính là] do Có mà thành Không. Do thành lẫn nhau mà đôi bên cùng được kiến lập, nên Có và Không đều tồn tại. Đấy chính là Trung Đạo Quán chiếu soi cả hai bên).

Đoạn này nói theo hiện tượng (hình tượng được biến hiện) nơi tâm và cảnh. Nói theo hiện tượng thì Có; nói theo Lý Thể, sẽ là Không. Chỉ cần quý vị không chấp trước, quý vị nói Có, đúng lắm! Quý vị nói Không, cũng đúng luôn! Chỉ sợ chấp trước, chấp trước là bệnh, sự chấp trước ấy được gọi là Pháp Chấp. Chư vị phải biết: Phá Ngã Chấp bèn chứng quả A La Hán; phá Pháp Chấp bèn thành Phật. Vì sao đức Phật coi chấp trước quan trọng dường ấy? Quý vị có những chấp trước ấy, sẽ không thể kiến tánh, chẳng thể thành Phật, nhất định phải phá trừ chấp trước.

Đối trước hết thảy đại chúng thuyết pháp, đức Phật có lúc nói Có, có khi nói Không. Chúng ta nẩy sanh hoài nghi: “Đức Phật thuyết pháp trước sau chẳng nhất trí, thường là trước sau mâu thuẫn”! Phải biết: Phật chẳng có pháp để thuyết! Quý vị chấp trước Có, đức Phật bèn nói Không. Kẻ khác chấp trước Không, đức Phật liền nói Có với kẻ đó. Đức Phật nói Có hay Không đều nhằm phá chấp trước của quý vị. Chấp trước bị phá vỡ, chuyện ấy chẳng còn nữa! Đức Phật phá chấp trước mà! Quý vị chấp trước Có, Ngài bảo quý vị Không, đúng lắm! Ngài nói rất đúng, ngay lập tức quý vị được thọ dụng. Đối với kẻ chấp trước Không, đức Phật nói Có, kẻ ấy cũng được thọ dụng, ngay lập tức khai ngộ chứng quả, ai nấy đều được lợi ích. Đối với người chấp trước Có mà đức Phật nói Có, sẽ hại kẻ đó. Đối với kẻ chấp trước Không, đức Phật nói Không với người ấy, cũng là nói sai mất rồi!

Quý vị hãy xem Lục Tổ Đàn Kinh, Lục Tổ truyền dạy học trò mai sau thuyết pháp lợi sanh như thế nào? Hết thảy các pháp được nói đều là nói theo hướng phản diện. Đức Phật không có pháp nào để có thể nói, nhằm phá chấp trước của chúng sanh mà thôi. Ba mươi sáu cặp [vấn đáp] trong Lục Tổ Đàn Kinh chính là nguyên lý và nguyên tắc để chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp cho hết thảy chúng sanh.

Thật ra có pháp gì hay chăng? Chẳng có pháp! Tâm cũng chẳng có, cảnh cũng chẳng có, còn có pháp gì để nói nữa? Quý vị chấp trước gì, bèn xóa sạch chấp trước ấy, đó là đúng. Đến khi quý vị chẳng chấp trước, còn có Phật pháp hay không? Chẳng có Phật pháp! Phật pháp cũng chẳng có. Do chúng sanh chấp trước mà Phật pháp được kiến lập, giống như chúng sanh có bệnh thì mới có thuốc. Chúng sanh đều chẳng có bệnh, lấy đâu ra thuốc? Chẳng có thuốc! Không chỉ là chẳng có thuốc, danh từ “thuốc” cũng chẳng có. Cho thuốc tương ứng căn bệnh, uống thuốc vào bèn hết bệnh. Bệnh đã hết, thuốc cũng chẳng còn. Đó gọi là Phật pháp.

Song Giá là nói theo Lý, Song Chiếu là nói theo Sự, không gì chẳng nhằm phá trừ chấp trước mà thôi!

 

(Diễn) Hữu vô tứ cú thị bệnh.

()有無四句是病。

(Diễn: Bốn câu “có, không” là bệnh).

 “Có, không, cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không”, bốn câu ấy là bệnh căn. Tất cả hết thảy chúng sanh đều chấp trước như vậy. Đối với thân, tâm, vạn vật, trong quan niệm và tư tưởng của họ, có bốn thứ chấp trước ấy. Đó gọi là phàm phu, là ngoại đạo, là Tiểu Thừa. Kinh Lăng Nghiêm xếp Tiểu Thừa thành một loại ma, [nguyên nhân là do Tiểu Thừa] tri kiến bất chánh, họ có Pháp Chấp.

 

(Diễn) Tam Quán thị dược.

()三觀是藥。

(Diễn: Tam Quán là thuốc).

[Tam Quán là] Không Quán, Giả Quán, và Trung Quán. Trong Trung Quán, có Song Giá Trung Quán và Song Chiếu Trung Quán. Dùng phương pháp ấy để trừ khử bệnh căn mê hoặc, điên đảo.

 

(Diễn) Nhược tứ cú ký ly, tắc Tam Quán diệc tuyệt.

()若四句既離,則三觀亦絕。

(Diễn: Nếu đã lìa bốn câu thì ba phép Quán cũng mất).

 Tam Quán là thuốc, bệnh đã lành, thuốc chẳng còn nữa, Tam Quán cũng chẳng có. Ngàn muôn phần chớ nên chấp trước có Tam Quán. Chấp trước Tam Quán, sẽ lại biến thành bị bệnh. Rốt cuộc Tam Quán là có hay không? Hay là cũng có cũng không? Hay là chẳng phải có chẳng phải không? Lại biến thành bốn câu. Chư vị phải hiểu, mỗi một pháp đều có bốn câu. Chúng ta chấp trước người này, người này là nam nhân, rốt cuộc là có nam nhân hay không? Hay là cũng có cũng không nam nhân? Hay là chẳng có chẳng không nam nhân? Tùy tiện lấy một pháp nào, cũng đều là bốn câu. Nếu quý vị hỏi: Vô minh là gì? Điên đảo là gì? Bốn câu ấy là vô minh, bốn câu ấy là vọng tưởng điên đảo. Hết thảy vật, hết thảy sự, hết thảy lý, hết thảy cảnh, mỗi một pháp đều có bốn câu này. Chúng ta niệm Phật, có rất nhiều người niệm Phật mà hoài nghi, chẳng đoạn nghi căn: Tây Phương Cực Lạc thế giới rốt cuộc là có hay không? Hay là cũng có cũng không? Hay là chẳng phải có chẳng phải không? Người ấy đề ra những hạng mục ấy. Người ta vừa xướng lên, chúng ta suy nghĩ, [cảm thấy] chẳng sai! Rốt cuộc là có hay chẳng có? Tâm liền loạn động!

 

(Diễn) Thử trung, Hữu tức Tục Đế, Vô tức Chân Đế, song diệc song phi tức Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế.

()此中有即俗諦,無即真諦,雙亦雙非即中道第一義諦。

(Diễn: Trong ấy, Có chính là Tục Đế, Không là Chân Đế, “cũng có cũng không” và “chẳng phải có chẳng phải không” chính là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế).

“Trung Đạo” là không rơi vào hai bên, hai bên đều chẳng chấp trước, đó là Trung Đạo. Đối với hết thảy cảnh duyên, tùy thuận là được rồi. Tùy thuận thì quyết định chớ nên khởi tâm động niệm, chớ nên suy nghĩ ta phải như thế nào, [nếu suy nghĩ phải như thế này, như thế nọ] tức là tự mình chuốc khổ. Hễ suy nghĩ ta phải như thế này, như thế nọ, đó là tạo nghiệp. Quý vị hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, sẽ chẳng phải là tạo nghiệp, mà là công đức. Công đức là gì? Tương ứng với pháp tánh, tương ứng với Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế; đấy là công đức. Vì sao phải nghĩ tưởng? Khởi tâm động niệm là phan duyên. Người thật sự học Phật, tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh có quá nhiều lợi ích. [Lợi ích] thứ nhất của tâm thanh tịnh là đắc pháp hỷ, hoan hỷ, vui sướng. Phật pháp nói “lìa khổ được vui”, lời này là thật, chẳng giả. Tâm địa quý vị thanh tịnh, bèn vui sướng, pháp hỷ sung mãn. Nho gia cũng nhấn mạnh chuyện này, câu đầu tiên trong Luận Ngữ là “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (Học rồi tập luyện, cũng chẳng vui sao)? “Duyệt” (悅) là pháp hỷ, “tập” (習) là phải đem những điều quý vị đã học ứng dụng vào cuộc sống, biến thành thói quen trong cuộc sống của chính mình. Trong ấy bèn có pháp hỷ. Pháp hỷ là chất bồi bổ tốt nhất đối với thân tâm, khỏe mạnh, sống lâu, chẳng bệnh, chẳng già. Tục ngữ nói: “Ưu năng sử nhân lão” (Lo âu khiến người ta già xọm). Một kẻ có nhiều tham, sân, si, mạn, lắm nỗi lo âu, vướng mắc, sẽ già suy rất nhanh, và cũng dễ dàng nhiễm bệnh. Vì sao? Thân tâm chẳng thanh tịnh. Đây là lợi ích thiết thực cho chúng ta, quý vị bèn biết tu tâm thanh tịnh trọng yếu dường ấy! Trong kinh này, điểm lợi ích được đặc biệt chú trọng là [kinh này] thật sự giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín. Học xong, lập tức có thể áp dụng vào cuộc sống, lợi ích ở chỗ này. Nó chẳng phải là lý luận, mà lập tức có thể biến thành cuộc sống của chúng ta.

Nay chúng ta gọi “Đế” (諦) là chân lý. Nói theo Phật pháp, Đế chính là ý nghĩa chắc thật, là thực tại, chẳng sai tí nào! Hữu là Tục Đế, tức là kiến giải của người thế tục. Hữu là Giả Hữu, chẳng thật. Vô là Chân Đế, Vô là Không, chớ nên hiểu “Vô là hoàn toàn không có gì”, [hãy nên hiểu] là “Thể vô”, tức là vô tự tánh. Hết thảy vạn pháp chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể, cớ sao mà có? Do duyên sanh. Phàm là duyên sanh thì đều chẳng có tự tánh, đó là thật. “Song diệc song phi” là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế.

 

(Diễn) Cử nhất tức tam, ngôn tam tức nhất.

()舉一即三,言三即一。

(Diễn: Nêu ra một thì chính là ba, nói ba mà chính là một).

Ba điều ấy là một chuyện. Nếu chúng ta thật sự triệt để liễu giải hết thảy vạn vật là “Thể không, Tướng có”, chúng ta dùng Trung rất sung sướng. Dùng Trung như thế nào? Quyết định chẳng chấp trước chính là quý vị dùng Trung. Người biết dùng Trung, sẽ nhập cảnh giới Hoa Nghiêm “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Vì sao người thế gian khởi tâm động niệm thì hết thảy đều là chướng ngại? Vì họ có chấp trước; hễ có chấp trước thì còn có chướng ngại. Chẳng có chấp trước, sẽ chẳng có chướng ngại. Phật pháp nói xuyên suốt sẽ là “phá chấp trước mà thôi”, trọn chẳng có pháp môn nào khác, phá chấp trước mà thôi. Đó là nói “tuy một mà ba, tuy ba mà một”. Nói thật ra, tận hư không khắp pháp giới và chính mình là một Thể. Thật đấy! Chẳng giả tí nào. Hư không pháp giới đều là tự tánh duyên khởi, chẳng có gì không phải là tự tánh duyên khởi. Đó gọi là “ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm”, là một, không hai.

 

(Diễn) Giai như cảnh dã.

()皆如境也。

(Diễn: Đều là cảnh của Như vậy).

“Như” là Chân Như bản tánh, đều là cảnh giới của Chân Như bản tánh.

 

(Diễn) Cố vân Bát Nhã như hỏa tụ, tứ diện bất khả nhập.

()故云般若如火聚,四面不可入。

(Diễn: Vì thế nói Bát Nhã như đống lửa, bốn phía chẳng thể tiến vào được).

 Đây là một tỷ dụ trong kinh Đại Bát Nhã. Bát Nhã giống như đống lửa, bất luận từ phía nào, quý vị cũng đều chẳng thể tiến vào. Hễ tiến vào đều bị nó đốt rụi, tỷ dụ sự chiếu phá: Tất cả hết thảy vọng tưởng, chấp trước, hễ Bát Nhã hiện tiền, chúng đều chẳng còn nữa, đều bị chiếu phá, có ý nghĩa này. Phiền não giống như củi đốt, đụng phải lửa đều bị đốt rụi. Lửa trí huệ, củi phiền não là tỷ dụ này.

 

(Diễn) Hựu vân Bát Nhã như thanh lương trì, tứ diện giai khả nhập dã.

()又云般若如清涼池,四面皆可入也。

(Diễn: Lại nói Bát Nhã như ao thanh lương, bốn phía đều có thể vào).

 Bát Nhã giống như ao thanh lương, gieo mình vào đó, thân tâm tự tại, vui sướng khôn sánh. Đây là nói tới sự thọ dụng, hưởng vui. Trong đoạn trên là tỷ dụ sự lìa khổ, đoạn phiền não, phá trừ Phiền Não Chướng. Đây là lý do vì sao nói là “Tịch Chiếu nan tư”.

“Tắc bất Tịch, bất Chiếu, nhi Chiếu, nhi Tịch, ngôn tư lộ tuyệt, vô khả danh trạng, cố duy nhất tâm” (Nên chẳng Tịch, chẳng Chiếu, vừa Chiếu, vừa Tịch, dứt bặt nói năng, suy nghĩ, không thể gọi tên hay mô tả, nên chỉ là nhất tâm). Đó gọi là “nhất tâm bất loạn, Tịch và Chiếu đồng thời”, thuộc về hiện tượng tự nhiên. Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật nói tám thứ tự nhiên. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói “pháp nhĩ tự nhiên” (pháp vốn tự nhiên là như vậy). Giống như nước, khi nước trong lặng, tự nhiên nó có tác dụng Chiếu. Xét theo sự tịch tĩnh của nước, sẽ là ý nghĩa Tịch. Xét theo [khả năng] chiếu cảnh giới bên ngoài, sẽ là ý nghĩa Chiếu. Chiếu thuộc về Bát Nhã, Tịch thuộc về tâm thanh tịnh, thuộc về Định; chúng ta nói là “Định Huệ song vận”, là đồng thời.

Huệ do Định mà có, chẳng phải là đạt được bởi văn tự. Tôi thường khuyên lơn, khích lệ các đồng tu phải tu Định, phải thật sự tu. Quý vị mong trong tương lai trở thành pháp sư đại đức giảng kinh, thuyết pháp, mà cứ một mực nghiên cứu Tam Tạng kinh điển, sẽ chẳng thể thành công. Vì sao? Giảng Tam Tạng kinh điển đến mức hoa trời rơi tán loạn, học thuộc nhuyễn nhừ, chẳng có mảy may nào liên quan đến tâm tánh của chính mình! Quý vị chẳng có trí huệ, những gì quý vị đã giảng là do nhớ nhiều, nghe nhiều, đó gọi là “ký vấn chi học” (cái học do hỏi han, ghi nhớ), chẳng phải là trí huệ. Nho gia hết sức coi rẻ cái học ký vấn. Trong sách Lễ Ký có nói: “Ký vấn chi học, bất khả dĩ vi nhân sư dã” (Với cái học thức có được do cách học ký vấn, chẳng thể làm thầy người khác). Nếu quý vị làm thầy người khác, nhất định là sẽ khiến cho con em người khác bị lầm lỡ! Nhất định phải khai ngộ! Để khai ngộ thì phải tu Định, nhất định là phải tu tâm thanh tịnh. Đối với pháp môn Tịnh Tông, nhất định là phải niệm đến mức nhất tâm bất loạn. Chẳng đạt được Lý nhất tâm bất loạn thì nhất định phải đạt đến Sự nhất tâm bất loạn. Vì sao? Mới có thể khai trí huệ. Chư vị phải hiểu: Tu Định quan trọng hơn nghiên cứu giáo pháp khá nhiều! Vì sao chẳng cho phép kẻ mới học nghiên cứu kinh giáo? Nếu cho phép quý vị nghiên cứu kinh giáo, sẽ hại chết quý vị! Nay quý vị không biết, nhưng trong tương lai quý vị chẳng thể thành tựu, sẽ kiếm tôi làm phiền. Quý vị bị đọa trong lục đạo tam đồ, sẽ nói: “Tôi tôn ông làm thầy, bị ông hại”. Tới khi đó, chẳng gột sạch quả báo ấy được! Nay tôi dạy quý vị, quý vị chẳng nghe theo, đến lúc đó, quý vị đọa lạc, chẳng thể trách tôi!

Do vậy, tu Định là quan trọng, tu nhất tâm bất loạn quan trọng! Mức độ thấp nhất là phải đạt tới Sự nhất tâm, tâm địa thật sự thanh tịnh, quang minh, từ bi. Từ bi thì mới có thể yêu thương, kính trọng người khác; sau đấy, quý vị nghiên cứu kinh giáo thì mới hữu dụng, có ích cho quý vị, chẳng có chỗ họa hại. Quý vị chẳng có cơ sở này mà nghiên cứu kinh giáo, sẽ có hại, chẳng được lợi. Chẳng thông hiểu kinh giáo thì còn rất thật thà, còn rất khiêm hư, thấy người khác thì hãy còn rất cung kính. Nghiên cứu đôi chút kinh giáo, mắt bèn trợn ngược lên đỉnh đầu, xem thường người khác, kiêu căng, ngã mạn, tạo nghiệp cả đống. Một niệm kiêu căng, ngã mạn, chính là nguyên nhân đọa địa ngục. Vẫn là thật thà một chút, khiêm hư một chút, cung kính người khác một chút sẽ tốt hơn, luôn tu phước, chẳng tạo ác nghiệp. Do vậy, đối với chuyện học Phật, cổ đức thường khuyên chúng ta “thật thà niệm Phật”. Nói thật ra, bất luận tông phái nào cũng đều phải thật thà. Người thật thà sẽ có thành tựu, kẻ không thật thà quyết định chẳng có thành tựu. “Trước cửa địa ngục, tăng đạo đông”, [những kẻ đọa lạc] đều là phường chẳng thật thà! Người thật thà làm sao có thể đọa địa ngục cho được? Bất luận xuất gia hay tại gia đều phải học thật thà, phải tiến từng bước, tiến dần theo thứ tự, chớ nên vượt cấp, đừng nên ham cao chuộng xa, phải giữ bổn phận của chính mình.

Nói thật thà, đối với chức vụ được giao phó trong đoàn thể, phải tận tâm tận lực làm tròn công việc. Chẳng bị giao phó chức vụ, đúng là được Phật, Bồ Tát gia hộ, ta chẳng có chuyện gì, tâm địa thanh tịnh. Trách nhiệm càng nặng, chịu trách nhiệm nhân quả càng to. Ví như hiện thời có rất nhiều người muốn làm Trụ Trì, hoặc muốn làm Đương Gia. Làm Trụ Trì thì phải giáo hóa một phương, chẳng dùng chánh pháp để giáo hóa một phương, quả báo của người ấy cũng rất thảm. Giống như ở nơi đây mở một trường học, mời quý vị đến làm hiệu trưởng. Hiệu trưởng [có trách nhiệm] giáo dục ở nơi đây. Nếu quý vị chẳng tận tâm tận lực thực hiện, tuy quý vị là người rất tốt, cũng chẳng tham ô, mà cũng chẳng phạm pháp, nhưng quý vị chẳng tận hết trách nhiệm, tội lỗi bèn nặng nề, chẳng thà làm thanh chúng (đại chúng thanh tịnh tu hành), chẳng có trách nhiệm! Cớ gì phải tranh giành? Người thật sự thông minh, có trí huệ, hễ có chuyện gì dính líu trách nhiệm bèn thoái thác còn chẳng kịp, há lại tranh giành ư? Chẳng có ai làm, chính mình có năng lực để làm thì phải làm, đó gọi là “đương nhân bất nhượng” (gặp chuyện nhân bèn chẳng nhường). Nếu có kẻ khác có thể làm được, sao không nhường cho kẻ khác làm?

Nếu quý vị muốn thành tựu đạo nghiệp trong một đời này, nhất định là trước hết phải buông danh lợi xuống, quyết định đừng nên tranh danh tranh lợi. Đó là sự tổn hại lớn nhất. Do vậy, hãy buông xuống, đầu tiên là phải buông danh lợi xuống, [vì] tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần thảy đều là căn bản của địa ngục. Hễ có một điều chẳng thể buông xuống, nói cách khác, quý vị chẳng tránh khỏi bị dính líu với địa ngục. Chẳng tránh khỏi bị liên hệ thì nói cách khác, rất dễ dàng bị nó lôi vào. Vì vậy, nếu quý vị chẳng muốn đọa địa ngục, chắc chắn là quý vị phải buông tham, sân, si, mạn, tiếng tăm, lợi dưỡng xuống. Mỗi điều trong cái được gọi là “năm cái rễ của địa ngục” đều có thể lôi quý vị đọa địa ngục. Nếu có đủ năm điều, quý vị còn có thể thoát nổi hay chăng? Quyết định là trốn không thoát.

Nhưng là phàm phu thì phiền não tập khí từ vô lượng kiếp tới nay rất nặng, nghe đức Phật giảng kinh giác ngộ đôi chút, [bèn cảm thấy]: “Đúng quá! Hay lắm, ta buông xuống liền!” Hai hôm sau, do chẳng nghe kinh, chúng lại trồi lên, quên sạch bách kinh Phật, lại tạo tội nghiệp, làm sao được nữa? Vì thế, kinh phải giảng mỗi ngày, niệm mỗi ngày, là do đạo lý này! Đạo tràng xưa kia thù thắng vì giảng kinh mỗi ngày, niệm Phật mỗi ngày. Một ngày giảng kinh tám tiếng đồng hồ, niệm Phật tám tiếng đồng hồ, thời gian còn lại quý vị bèn thật thà đi ngủ. Vì sao? Mệt mỏi, chẳng có tinh thần. Ở trong đạo tràng ấy ba năm, thật sự có thành tựu. Đạo tràng hiện thời lơi lỏng, biếng nhác, chẳng có ai đốc thúc quý vị, tu hành hoàn toàn phải cậy vào chính mình. Nhưng người hiện thời có phước báo của người hiện thời. Nếu quý vị thật sự phấn chấn tinh thần, người khác chẳng học, ta học. Ta mỗi ngày nghe kinh tám tiếng đồng hồ. Ta nghe băng thâu âm, mang máy nghe nhạc cá nhân để nghe. Ta mỗi ngày niệm Phật tám tiếng đồng hồ, ta nghe Phật hiệu, dùng máy nghe nhạc cá nhân để nghe, hoặc dùng máy niệm Phật, đeo ống nghe riêng, chẳng làm phiền kẻ khác, [làm như thế] sẽ chẳng kém đạo tràng thời cổ. Người hiện thời có phước báo này, cổ nhân có nằm mộng cũng chẳng dám mong cầu. Người thời nay có phước báo này, nói cách khác, quý vị có biết dùng hay không? Quý vị có biết hưởng phước này hay không? Mỗi ngày nghe kinh tám tiếng đồng hồ là hưởng phước!

Có không ít đồng tu ở vùng Bắc Kinh, Thiên Tân nghe băng thâu âm của tôi. Tôi đến Bắc Kinh, họ đến đón tiếp tôi, nói: Họ có phước báo lớn hơn người Đài Loan, lớn ở chỗ nào? “Người Đài Loan nghe pháp sư giảng kinh, mỗi tuần mới nghe hai giờ, mỗi tuần nghe hai lần. Kinh Vô Lượng Thọ giảng hai lần, nghe hai lần, chúng tôi mỗi ngày nghe năm sáu lần, nghe hằng ngày”. Họ lấy băng thâu âm, mỗi ngày nghe bảy tám cuộn băng, nghe hai mươi mấy ngày là nghe xong một bộ kinh. Nghe xong, bèn nghe lại từ đầu đến cuối. Họ nói “chúng tôi có phước báo to hơn người Đài Loan” là có lý. Họ hưởng thụ lợi ích do máy móc khoa học đem lại, thật sự dùng được! Đó mới là người thật sự có phước. Họ càng nghe càng hoan hỷ. Nghe xong còn thâu lại, mỗi lần nghe xong lại thâu thêm một bộ. Thâu thêm một bộ để tặng cho người khác nghe. Vị đồng tu ấy kể với tôi là đã thâu ba mươi mấy bộ. Chúng tôi nghe kể rất cảm động. Ba mươi mấy bộ được gởi đi các nơi, mạn Bắc gởi tới Cáp Nhĩ Tân, Trường Xuân; phía Tây gởi đến Tứ Xuyên, mặt Nam gởi tới Vân Nam, gởi tặng rất xa! Mỗi tháng chỉ thu nhập hơn một trăm Nhân Dân Tệ, tức là sáu bảy trăm đồng Đài Loan, giảm bớt chi tiêu để mua băng thâu âm lưu thông, thật sự lỗi lạc! Hoàng lão cư sĩ nói: “Đài Loan chẳng có đạo tràng, chẳng có người tu hành, toàn là giả, đều chẳng thật. Phật pháp thật sự, người tu hành thật sự là ở Đại Lục”. Chúng tôi nghe xong rất hổ thẹn.

 

(Diễn) Phi Hữu tắc thường Tịch hạ cửu cú, kết quy Tịch Chiếu nan tư.

()非有則常寂下九句,結歸寂照難思。

(Diễn: Chín câu từ “chẳng phải là Có nên thường Tịch” trở đi nhằm kết quy [ý nghĩa] Tịch Chiếu khó nghĩ tưởng).

Đoạn này nhằm tổng kết “phi Hữu tắc thường Tịch, phi Vô tắc thường Chiếu, phi song diệc, phi song phi, tắc bất Tịch bất Chiếu, nhi Chiếu nhi Tịch, ngôn tư lộ tuyệt, vô khả danh trạng” (chẳng phải là Có nên thường Tịch, chẳng phải là Không nên thường Chiếu. Chẳng phải là đều có, chẳng phải là đều không, nên chẳng Tịch chẳng Chiếu mà lại vừa Chiếu vừa Tịch, nói năng, suy nghĩ dứt bặt, chẳng thể gọi tên hay diễn tả hình dạng được). Trạng (狀) là hình trạng, Danh (名) là tên gọi, lìa tướng danh tự, lìa tướng ngôn thuyết, lìa hết thảy sắc tướng, vậy thì làm như thế nào? “Cố duy nhất tâm” (Nên chỉ là nhất tâm), khi ấy mới nói xuyên suốt chân tướng của hết thảy các pháp. Nói xuyên suốt sẽ là nhất tâm. “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, xác thực là nhất tâm.

 

(Sao) Tư tắc năng sở tình tiêu, hữu vô kiến tận.

()斯則能所情消,有無見盡。

(Sao: Cho nên tình thức Năng lẫn Sở đều tiêu, kiến giải Có và Không đều hết).

Hai câu này nói hết sức hay, chúng ta hãy xem chú giải:

 

(Diễn) Tư tắc hạ tổng kết thượng nhị. Năng Sở tình tiêu, tức Như Trí bất nhị. Hữu Vô kiến tận, tức Tịch Chiếu nan tư.

()斯則下總結上二。能所情消,即如智不二;有無見盡,即寂照難思。

(Diễn: Từ chữ “cho nên” trở đi là tổng kết hai [ý nghĩa] trong đoạn trên, tình thức Năng lẫn Sở đều tiêu chính là “Như và Trí chẳng hai”; kiến giải Có và Không đều hết chính là “Tịch và Chiếu khó nghĩ tưởng”).

“Kiến” là kiến giải. Đối với hết thảy vạn pháp, quý vị có kiến giải là Có hay là Không. Bỏ sạch những kiến giải ấy thì là Tịch Chiếu chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sao) Thanh tịnh bổn nhiên chi thể, cánh hữu hà pháp nhi vi tạp loạn.

()清淨本然之體,更有何法而為雜亂。

(Sao: Cái Thể thanh tịnh bổn nhiên, há còn có pháp nào để tạp loạn được nữa).

“Thanh tịnh bổn nhiên chi thể” là tự tánh, là chân tâm của chính mình. Tự tánh chân tâm hiển lộ, bèn gọi là “thành Phật”, thuộc về Lý nhất tâm bất loạn, “cánh hữu hà pháp nhi vi tạp loạn” (còn có pháp gì để tạp loạn được nữa), chẳng có pháp nào!

 

(Sao) Dĩ kiến Đế cố, danh Lý nhất tâm dã.

()以見諦故,名理一心也。

(Sao: Do đã thấy các Đế, nên gọi là Lý nhất tâm).

 Tam Đế Tam Quán đều viên dung, đó là Lý nhất tâm.

 

(Sao) Ngôn Huệ giả, năng chiếu vọng cố. Kiêm Định giả, chiếu vọng bổn không, vọng tự phục cố.

()言慧者,能照妄故。兼定者,照妄本空,妄自伏故。

(Sao: Nói là Huệ vì nó có thể chiếu thấu vọng. “Kèm thêm Định” vì nó chiếu thấu suốt vọng vốn là Không, nên vọng tự bị chế phục).

 Lý nhất tâm là Huệ, là Bát Nhã Ba La Mật. Trong Huệ, nhất định có Định, vì sao? Chẳng có Định, bèn chẳng có Huệ, Huệ từ Định khởi. Có Định, chưa chắc đã có Huệ. Có Huệ bèn nhất định có Định. Vì sao nói “có Định, chưa chắc đã có Huệ”? Định chẳng đủ sâu, giống như nước đục ngầu, tuy bất động, đã định, nhưng vẫn chưa hoàn toàn trầm lắng, nước trong chẳng hiện tiền, vẫn là nước đục, nhưng xác thực là nước bất động. Do vậy, tu Định, Tứ Thiền Bát Định thế gian chẳng có Huệ. Định của hàng Tiểu Thừa còn sâu hơn Tứ Thiền Bát Định. [Định của Tiểu Thừa là] Cửu Thứ Đệ Định, là chứng đắc của A La Hán và Bích Chi Phật, cũng chẳng có Huệ. Vì sao? Chưa phá vô minh, giống như nước tuy đã định, nhưng vẫn dơ đục như cũ, chẳng thanh tịnh. Ắt là những thứ dơ bẩn đều phải chìm xuống, hoàn toàn hiển lộ nước trong, sẽ khởi tác dụng Chiếu. Do vậy, Huệ nhất định có Định, Định nhất định có Giới. Do Giới sanh Định, do Định sanh Huệ. Do đó, có Huệ thì Tam Học Giới, Định, Huệ nhất định trọn đủ. Người có Giới chưa chắc đã có Định, người có Định chưa chắc đã có Huệ, nhất định phải biết điều này.

“Huệ, năng chiếu vọng cố” ([Lý nhất tâm là] Huệ vì có thể chiếu vọng), “vọng” là vọng tưởng, phá sạch vọng tưởng của quý vị. “Kiêm Định” (Kèm thêm Định), trong Huệ nhất định có Định. “Chiếu vọng bổn không, vọng tự phục cố” (Do soi chiếu vọng vốn là Không, nên vọng tự bị khuất phục), vọng bị khuất phục thì chính là Định.

 

(Sao) Hựu Chiếu năng phá vọng, bất đản phục cố.

()又照能破妄,不但伏故。

(Sao: Lại Chiếu có thể phá vọng, không chỉ là chế phục).

 Chế phục vọng là tiểu huệ. Tiểu huệ có thể chế phục vọng tưởng. Giống như nay chúng ta nghe kinh, nếu chư vị rất chú ý nghe kinh, những ý nghĩa trong kinh đều có thể lãnh hội, sẽ tự nhiên do một chút tiểu huệ ấy mà chế phục vọng tưởng. Nhưng sau khi đã thật sự đắc Định, trong Định khai Huệ, phá vọng tưởng, vọng tưởng chẳng còn. Chuyển phiền não thành Bồ Đề, vọng tưởng vừa bị chiếu liền biến thành Bồ Đề, ngay lập tức chuyển biến. Từ nay trở đi, vọng tưởng, phiền não đều chẳng có, biến thành vô lượng trí huệ Bồ Đề. Do đó, vọng tưởng và phiền não cũng chẳng phải là thứ gì xấu xa, hễ được biến đổi sẽ trở thành vô lượng trí huệ, vô lượng phương tiện thiện xảo, có thể lợi ích hết thảy chúng sanh. Nhưng khi chưa thể chuyển, phải luân hồi trong tam đồ lục đạo, khổ chẳng thể nói nổi! Phải luôn giác ngộ điều này.

Do đó, phải thường nghe kinh, phải nghe nhiều, nghe lần này sang lần kia, quyết định chẳng thể nói: “Tôi đã nghe kinh này một lần, chẳng cần nghe nữa”. [Kẻ nói như vậy là] người ngu, có chấp trước, chẳng được thọ dụng. Thật sự được thọ dụng thì tất nhiên là cứ nghe một lần bèn được thọ dụng một lần. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!

 

Tập 231

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm năm mươi hai:

 

(Sớ) Hựu giáo phân tứ chủng niệm Phật, tùng thiển chí thâm, thử cư tối thỉ. Tuy hậu hậu thâm ư tiền tiền, thật tiền tiền triệt ư hậu hậu, dĩ Lý nhất tâm, tức Thật Tướng cố.

()又教分四種念佛,從淺至深,此居最始。雖後後深於前前,實前前徹於後後,以理一心,即實相故。

(Sớ: Lại nữa, giáo pháp chia thành bốn loại niệm Phật, từ cạn đến sâu, pháp [trì danh] này đứng đầu tiên. Tuy pháp sau sâu hơn pháp trước, nhưng thật ra, pháp trước thông thấu pháp sau, vì Lý nhất tâm chính là Thật Tướng).

Lời Sao có giải thích cặn kẽ đoạn văn này. [Nói] “bốn loại niệm Phật” là quy nạp thành từng loại lớn. Có nhiều cách niệm Phật, nhưng quy nạp lại, chẳng ngoài bốn loại lớn ấy. Trong bốn loại lớn, có cạn, có sâu, pháp Trì Danh nông cạn nhất, Thật Tướng là sâu nhất. Càng về sau, càng sâu hơn loại trước. Loại trước tuy nông cạn, nó có thể quán triệt đến loại cuối cùng. Do vậy có thể biết, “cạn” hoàn toàn chẳng phải là “nông cạn, dễ thấy” trong cách nói theo quan niệm của bọn phàm phu chúng ta. Vì sao? Dùng phương pháp Trì Danh có thể niệm đạt tới Lý nhất tâm bất loạn. Nếu niệm đến Lý nhất tâm, sẽ là Thật Tướng Niệm Phật. Có rất nhiều đồng tu thường đến hỏi: “Thật Tướng Niệm Phật phải niệm theo cách nào? Cách tu ra sao?” Nói thật ra, chuyện này có học cũng chẳng hiểu được! Nếu quý vị chẳng minh tâm kiến tánh, bất luận dùng phương pháp gì để niệm Phật, sẽ đều chẳng phải là Thật Tướng Niệm Phật. Sau khi đã phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, bất luận dùng phương pháp gì để niệm Phật, đều gọi là Thật Tướng Niệm Phật. Vì lẽ này, Thật Tướng Niệm Phật xác thực là phương pháp tu hành sau khi đã chứng đắc Lý nhất tâm.

Chứng đắc Lý nhất tâm, có còn phải niệm Phật hay không? Phải niệm! Không niệm thì vẫn chưa được, vì sao? Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo bèn chứng đắc Lý nhất tâm. Từ Sơ Trụ cho đến thành Phật còn có bốn mươi mốt tầng cấp. Niệm Phật trong bốn mươi mốt tầng cấp ấy đều gọi là Thật Tướng Niệm Phật. Có thể thấy Thật Tướng Niệm Phật không chỉ là tất yếu, mà còn [phải tu tập hành trì] trong thời kiếp khá dài. Trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói là ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp là nói theo Biệt Giáo. Nói chung, sẽ là trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai và thứ ba, [tức là để tu tập] Thật Tướng Niệm Phật, phải dùng tới hai A-tăng-kỳ kiếp trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Nay chúng ta dùng Trì Danh thì trong A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất bèn xưng danh, [A-tăng-kỳ] kiếp thứ hai và thứ ba đều là [tu tập] Thật Tướng [Niệm Phật]. Chúng ta biết chuyện này, trong tương lai thảy đều phải tu, hiện thời chẳng cần sốt ruột, có gấp cũng chẳng được!

 

(Sao) Tứ chủng như tiền Tự trung thuyết, nhất Xưng Danh, nhị Quán Tượng, tam Quán Tưởng, tứ Thật Tướng.

()四種如前序中說,一稱名,二觀像,三觀想,四實相。

(Sao:  Bốn loại là như trong lời Tự thuộc phần trước đã  nói:  Một là Xưng Danh, hai là Quán Tượng, ba là Quán Tưởng, bốn là Thật Tướng).

Trong lời Tựa thuộc phần trước đã giới thiệu danh xưng của bốn loại Niệm Phật ấy. Loại thứ nhất là Xưng Danh, tức chấp trì danh hiệu. Loại thứ hai là Quán Tượng, loại thứ ba là Quán Tưởng, loại thứ tư là Thật Tướng.

 

(Sao) Xưng Danh giả, tức kim kinh.

()稱名者,即今經。

(Sao: Xưng Danh là [pháp hành trì được đề xướng trong] kinh này).

Kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ đều chủ trương Xưng Danh. Kinh điển trọng yếu nhất của Tịnh Tông, kinh Vô Lượng Thọ là kinh bậc nhất của Tịnh Tông. Kinh Di Đà do đức Thích Ca xứng tánh đàm luận, chẳng ai hỏi mà tự nói, thù thắng khôn sánh.

 

(Sao) Quán Tượng giả, vị thiết lập tôn tượng, chú mục quan chiêm. Như Pháp Hoa vân: “Khởi lập hiệp chưởng, nhất tâm quán Phật”, tức quán tướng hảo, quang minh hiện tại chi Phật dã. Nhược Ưu Điền vương, dĩ Chiên Đàn tác Thế Tôn tượng, tức quán nê, mộc, kim, đồng chú tạo chi Phật dã, cố vân Quán Tượng.

()觀像者,謂設立尊像,注目觀瞻。如法華云:起立合掌,一心觀佛,即觀相好光明現在之佛也。若優填王,以栴檀作世尊像,即觀泥木金銅鑄造之佛也,故云觀像。

(Sao: Quán Tượng là thiết lập tôn tượng, mắt chăm chú chiêm ngưỡng. Như kinh Pháp Hoa nói “đứng dậy, chắp tay, một lòng quán Phật” chính là quán tướng hảo và quang minh của vị Phật hiện tại. Còn như vua Ưu Điền dùng gỗ Chiên Đàn tạc tượng đức Thế Tôn, tức quán vị Phật bằng đất, gỗ, vàng, đồng đúc tạo. Do đó nói là “quán tượng”).

Đối với chuyện quán tượng, trong kinh Pháp Hoa có một đoạn kinh văn như vậy. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật có tất cả mười sáu phép Quán, phép Quán thứ mười ba là Quán Tượng Niệm Phật, phép quán thứ mười hai trước đó là Quán Tưởng Niệm Phật. Nói thật ra, những phương pháp Niệm Phật này đều phát xuất từ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Để quán tượng, phải tạo lập tượng Phật, tượng Phật càng trang nghiêm càng tốt. Trong nhà có Phật đường hết sức trang nghiêm, tượng Phật trang nghiêm, thờ phụng tượng Phật. Quý vị mỗi ngày từ sáng đến tối chắp tay chăm chú chiêm ngưỡng tượng Phật, khiến cho ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp in hằn trong A Lại Da Thức; đó là Quán Tượng Niệm Phật. Do vậy có thể biết, “niệm” không nhất định là miệng [niệm]. Chữ Niệm (念) là [được cấu tạo theo cách] Hội Ý. [Niệm do hai chữ Kim và Tâm ghép thành], kim tâm (今心) chính là một niệm tâm hiện tiền. Một niệm tâm hiện tiền là tượng Phật, niệm nào trong tâm cũng đều nghĩ tới tượng Phật, dùng phương pháp này! Tu học phương pháp này chẳng khó, nhưng phải có phước báo rất lớn: Quý vị chẳng cần đi làm, cũng chẳng bị ai quấy nhiễu, chẳng lo âu về cuộc sống, lại có người hầu hạ thì quý vị mới có thời gian để suốt ngày từ sáng đến tối ngắm tượng Phật. Nếu quý vị có công việc phải đi làm, trong nhà có những chuyện vụn vặt [phải lo liệu], sẽ bị tách rời tượng Phật, công phu tu hành bị đứt đoạn, chẳng thể tiếp nối!

Xưa kia, chạm khắc một bức tượng Phật chẳng dễ dàng. Hai bức tượng Phật được chạm khắc giống hệt nhau chẳng phải là chuyện dễ dàng! Chẳng phải như trong hiện thời có thể dùng máy móc tạo thành một mô hình, [từ mô hình ấy] làm ra một trăm tượng hay một ngàn tượng giống nhau như đúc. Hiện thời, dùng kỹ thuật ấn loát để in tượng Phật càng thuận tiện. Đặc biệt là trong Phật Thất hay trong Niệm Phật Đường, tốt nhất là vây quanh bốn phía đều là tượng Phật. Quý vị đi kinh hành, hoặc chỉ tĩnh (止靜: ngồi yên lặng), bất luận quý vị ngồi hoặc đứng ở nơi đâu, hễ mở mắt đều trông thấy tượng Phật. Đạo tràng Phật Thất phải nên xếp đặt như vậy. Bốn phía treo đầy tượng Phật, quý vị thấy [nhiều hình tượng, nhưng chỉ là] một vị Phật, sẽ chẳng bị tạp loạn. Đích xác là hết sức thù thắng, hoàn toàn tương ứng với sự tu trì và ý nghĩa trong kinh.

Kinh Pháp Hoa dạy chúng ta một phương pháp là “đứng dậy, chắp tay”. Nói thật ra, sẽ là đi, đứng, ngồi, vì trong Phật đường chẳng thể nằm xuống, mà là ngồi ở đó niệm Phật, đứng niệm Phật, nhiễu Phật kinh hành. “Nhất tâm quán Phật”: Tuy chẳng xưng niệm, mà thấy rất cặn kẽ, mỗi bộ vị trên tượng Phật đều thấy rất rõ ràng, in hằn thật sâu trong tám thức điền.

“Quán tướng hảo quang minh hiện tại chi Phật” (Quán tướng hảo và quang minh của vị Phật hiện tại): Đó là [quán tượng] khi đức Phật tại thế. Khởi nguyên của tượng Phật, căn cứ theo kinh đã nói: Vua Ưu Điền là người đầu tiên tạo tượng Phật.

 

(Diễn) Như Pháp Hoa hạ, vị Quán Tượng thông nhị chủng: Nhất chân Phật, nhị tượng Phật dã.

()如法華下,謂觀像通二種:一真佛,二像佛也。

(Diễn: [Từ câu] “như Pháp Hoa” trở đi, ý nói: Quán Tượng gồm hai loại: Một là quán đức Phật thật sự, hai là quán Phật bởi hình tượng).

 Thuở Phật tại thế, chiêm ngưỡng tướng hảo của đức Phật là quán tượng. Khi đức Phật chẳng còn tại thế, chúng ta tạo tượng Phật để quán tượng Phật.

 

(Diễn) Dẫn Pháp Hoa chứng, quán hiện tại chân Phật. Dẫn Ưu Điền chứng, quán hiện tại tượng Phật.

()引法華證,觀現在真佛;引優填證,觀現在像佛

(Diễn: Dẫn kinh Pháp Hoa để làm chứng cho việc quán vị Phật thật sự trong hiện tại. Dẫn vua Ưu Điền để làm chứng cho việc quán tượng Phật trong hiện tại).

“Quán hiện tại tượng Phật” là quán tượng Phật.

 

(Diễn) Chiên Đàn tượng giả.

()栴檀像者。

(Diễn: “Tượng bằng Chiên Đàn”).

Nói ra nguồn gốc của chuyện tạc tượng.

 

(Diễn) Thế Tôn thành đạo hậu, thường vãng Đao Lợi thiên cung vị mẫu thuyết pháp.

()世尊成道後嘗往忉利天宮為母說法。

(Diễn: Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẹ).

Kinh Địa Tạng do Thích Ca Mâu Ni Phật vì mẹ mà nói tại cung trời Đao Lợi. Suốt ba tháng, đức Phật chẳng ngự trong nhân gian, vua Ưu Điền (Udayana)[37] hết sức mong nhớ đức Thế Tôn, Phật chẳng hiện tiền thì làm thế nào đây? Vua kiếm một người thợ tạc tượng Thích Ca Mâu Ni Phật để thờ phụng trong cung.

 

(Diễn) Ưu Điền vương dục cận Phật nhi bất khả đắc, nãi thỉnh Mục Liên tôn giả, đới tam thập nhị tượng, vãng bỉ thiên cung, các thuyết nhất tướng, hoàn lai nhân gian, dụng Chiên Đàn hương mộc khắc Thế Tôn tượng, quan chiêm lễ bái.

()優填王欲覲佛而不可得,乃請目連尊者,帶三十二匠,往彼天宮,各說一相 ,還來人間 ,用栴檀香木刻世尊像,觀瞻禮拜。

(Diễn: Vua Ưu Điền muốn thân cận đức Phật mà chẳng thể được, bèn thỉnh tôn giả Mục Liên đem theo ba mươi hai người thợ lên cung trời ấy, mỗi người nói một tướng, trở về nhân gian, dùng gỗ thơm Chiên Đàn khắc hình tượng đức Thế Tôn để nhìn ngắm, lễ bái).

Thuở ấy, bức tượng thứ nhất dùng gỗ Chiên Đàn[38] [để tạc], tức là như hiện thời chúng ta nói là “tượng khắc bằng gỗ đàn hương”. Về sau, tượng Phật cũng có rất nhiều chủng loại, có tượng đắp bằng đất, tượng gỗ khắc, tượng đúc bằng vàng hoặc đồng. Cho đến hiện thời thì có tượng vẽ tô màu, được in màu với số lượng lớn. Tạo tác hoặc vẽ tượng Phật, nhất định phải dựa theo kinh Tạo Tượng Lượng Độ[39] do đức Phật đã dạy. [Dựa theo những điều] kinh Tạo Tượng Lượng Độ đã dạy, [sẽ thấy]: Đích xác là [tượng Phật] không nhất định giống như hình dáng của con người chúng ta, điểm quan trọng nhất trong tượng Phật là biểu thị pháp, phải hiển thị được điểm đặc trưng là ba mươi hai tướng và tám mươi tùy hình hảo của đức Phật. Tướng và tùy hình hảo đều là quả báo, chúng ta trông thấy quả báo ấy phải biết tu nhân: Tu cái nhân lành như thế nào, bèn được quả báo như thế ấy. Đức Phật dạy lũ người đời sau chúng ta cúng dường hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát phải chú trọng điểm này. Có thể thấy là trong ấy chứa đựng ý nghĩa giáo dục rất sâu, tượng không nhất định phải giống hệt như bản thân Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng cần thiết, mà nhất định là phải hiển lộ quả đức nơi các tướng hảo ấy, khiến cho kẻ khác vừa trông thấy bèn nghĩ: Ta muốn có những tướng hảo ấy thì phải tu cái nhân như thế nào? Tu nhân thì mới có thể chứng quả. Tinh thần giáo dục quan trọng nhất của kinh Tạo Tượng Lượng Độ ở ngay chỗ này. Đấy là nói về Quán Tượng Niệm Phật.

 

(Sao) Quán Tưởng giả, vị dĩ ngã tâm mục, tưởng bỉ Như Lai.

()觀想者,謂以我心目,想彼如來。

(Sao: Quán tưởng là dùng tâm mục của ta để quán đức Như Lai kia).

Quán Tượng trong phần trước là dùng mắt để quán; [còn trong pháp tu] này, không nhất định phải dùng mắt để nhìn, mà là tưởng trong tâm.

 

(Sao) Tức Quán Phật Tam Muội Kinh, Thập Lục Quán Kinh sở thuyết, thị dã.

()即觀佛三昧經,十六觀經所說,是也。

(Sao: Chính là những điều được giảng trong các kinh Quán Phật Tam Muội và Thập Lục Quán Kinh).

Thập Lục Quán Kinh là một kinh trong Tịnh Độ Tam Kinh. Trừ kinh ấy ra, kinh Quán Phật Tam Muội cũng nói về pháp môn quán tưởng. Kinh Quán Phật Tam Muội [dạy các phép tu thuộc về cách] quán Phật thông thường, còn Thập Lục Quán Kinh là quán y báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, chuyên tu Tịnh Độ.

 

(Diễn) Dĩ ngã tâm mục giả, Quán Kinh vân: “Kỳ quang, tướng hảo, cập dữ hóa Phật, bất khả cụ thuyết”.

()以我心目者,觀經云:其光相好,及與化佛,不可具說。

(Diễn: “Dùng tâm mục của ta”: Quán Kinh nói: “Quang minh, tướng hảo của đức Phật và các hóa Phật [hóa hiện trong quang minh của Ngài] chẳng thể nói trọn”).

“Quang” là quang minh, “Tướng” là tướng hảo, [“quang tướng” tức là] quang minh và tướng hảo của đức Phật. “Cập dữ hóa Phật” (Cùng với các hóa Phật). Bọn phàm phu thế gian chúng ta nghiệp chướng tập khí sâu nặng. Vì thế, đức Phật xuất hiện trong thế gian này bằng Ứng Thân. Ứng Thân ấy kém cỏi nhất, nên gọi là Liệt Ứng Thân (劣應身). “Liệt” (劣) là kém cỏi nhất. Loại Ứng Thân này chỉ có ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo. Nếu là Ứng Hóa Thân của Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, sẽ chẳng phải là Liệt Ứng Thân, mà là Ứng Thân thù thắng (Thắng Ứng Thân, 勝應身). Đức Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo; chẳng phải chỉ là ba mươi hai tướng, chẳng thể biết rõ số! “Bất khả cụ thuyết” (Chẳng thể nói trọn): Chẳng có cách nào nói viên mãn, nói toàn bộ. Quang minh và tướng hảo chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Diễn) Đản đương ức tưởng, linh tâm nhãn kiến.

()但當憶想,令心眼見。

(Diễn: Chỉ nên ức tưởng, khiến cho tâm nhãn trông thấy).

Nếu người học Phật trong tâm muốn tưởng, phải chiếu theo những gì Thập Lục Quán Kinh đã dạy. Quý vị quán tuởng, tu tập pháp môn này thì tâm phải rất nhỏ nhiệm, mới hòng tưởng tượng được. Chẳng cần nói tới ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo của đức Phật, đó là [những tướng và tùy hình hảo thuộc] Liệt Ứng Thân, chẳng cần nói tới điều này. Phép Quán thứ nhất trong Thập Lục Quán Kinh là [quán tưởng] “mặt trời lặn giống như cái trống treo”, dễ dàng nhất: Tưởng mặt trời. Mặt trời lặn xuống núi, vầng mặt trời đỏ rực, bảo quý vị tưởng điều ấy. Quý vị khéo tưởng, phải tưởng đến mức sao cho bất luận khi nào, bất luận nơi nào, khi mở banh mắt, vầng mặt trời đỏ ở ngay trước mặt. Nhắm mắt lại, vầng mặt trời đỏ vẫn ở ngay trước mặt, phép Quán này đã quán thành công. Nếu trong tâm tưởng mà tướng ấy chẳng thể hiện ra trước mặt, chẳng tu thành công phép Quán này. Thập Lục Quán Kinh khó tu lắm! Người có tâm rất vi tế mới có thể tu. Quán Kinh truyền đến Trung Hoa, người tu học quá ít. Từ đời Tống trở đi, chẳng có ai tu nữa. Vì sao? Chắc chắn là chẳng tu thành công. Quán Kinh có người giảng giải, có người đọc tụng, nhưng chẳng có ai nương theo phương pháp ấy để tu, vì nó rất khó, cảnh vi tế, tâm thô tháp, quán chẳng thành công!

Phép Quán thứ hai là “biển cả kết băng”. Sau khi đã quán thành công, sẽ thấy đại địa là đất lưu ly, trong suốt. Lưu ly (Vaidūrya, Tỳ-lưu-ly, Phệ-lưu-ly) là ngọc màu lục, chúng ta gọi là Phỉ Thúy (翡翠). [Lưu Ly] là loại Phỉ Thúy tốt nhất, màu lục, trong suốt. Nếu quý vị thấy nền nhà bằng đá mài, đường sá trải nhựa đường, [tức là] chẳng quán thành công.

Từ Thập Lục Quán Kinh, quý vị bèn lý giải: Trong kinh, đức Phật dạy “cảnh chuyển theo tâm”, biết chân tướng sự thật này. Phong Thủy là gì? Phong Thủy chuyển theo tâm. Tu quán tưởng thành công là người có đại phước đức, “phước nhân cư phước địa” (người có phước ở nơi phước đức). Ở nơi đây, chúng ta thấy [nền nhà] là xi-măng, họ thấy là đất bằng lưu ly. Trong sự cảm nhận của người ấy, giảng đường tường vách chói ngời, do bảy báu tạo thành, chẳng khác gì thế giới Cực Lạc, [tức là] phép Quán đã thành tựu. Điều này cho thấy pháp môn này chẳng dễ tu được!

 

(Diễn) Kiến thử sự giả, tức kiến thập phương nhất thiết chư Phật, cố danh Niệm Phật tam-muội.

()見此事者,即見十方一切諸佛,故名念佛三昧。

(Diễn: “Thấy sự này” chính là thấy mười phương hết thảy chư Phật, nên gọi là Niệm Phật tam-muội).

Quý vị thật sự quán thành công, cảnh giới hiện tiền. Đã hiện tiền, sẽ chẳng bị mất đi. Cảnh giới của quý vị chẳng giống cảnh giới của người khác, đó gọi là Niệm Phật tam-muội. Tam-muội là Thiền Định. Chúng ta dùng phương pháp Quán Tưởng Niệm Phật để đắc Định, là cảnh giới trong Định.

 

(Diễn) Tưởng bỉ Như Lai giả, chư Phật Chánh Biến Tri hải tùng tâm tưởng sanh.

()想彼如來者,諸佛正遍知海從心想生。

(Diễn: “Tưởng đức Như Lai kia”: Biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng).

Câu này là nguyên lý, “chư Phật Chánh Biến Tri hải tùng tâm tưởng sanh” (biển Chánh Biến Tri của chư Phật sanh từ tâm tưởng). Nếu chúng ta hỏi, Bồ Tát và La Hán có phải là sanh từ tâm tưởng hay không? Lục đạo luân hồi có phải là sanh từ tâm tưởng hay không? Hết thảy nhân quả báo ứng khổ lạc trước mắt có phải là sanh từ tâm tưởng hay không? Đều sanh từ tâm tưởng! Trong tâm quý vị tưởng gì, bèn sanh điều đó; đây là nguyên lý tu hành đã được nêu bày trong Phật pháp. Tây Phương Cực Lạc thế giới do ai ban cho quý vị? Nó sanh từ tâm tưởng của chính quý vị. Mỗi người chúng ta đều tưởng như vậy, hiện ra cảnh giới này là do cộng nghiệp của chúng ta cảm vời. Thông thường, chúng ta suy nghĩ lung tung, mỗi người suy tưởng một cách riêng, nay Thích Ca Mâu Ni Phật dạy mọi người chúng ta hãy đều tưởng giống nhau. Tưởng y hệt nhau, [cảnh giới] sẽ sanh ra y hệt nhau, sanh ra Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng sanh từ tâm tưởng.

 

(Diễn) Tâm tưởng Phật thời, thị tâm tức thị tam thập nhị tướng, bát thập tùy hình hảo.

()心想佛時,是心即是三十二相八十隨形好。

(Diễn: Khi tâm tưởng Phật, tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo).

Người thật sự biết xem tướng, đoán mạng, quý vị thỉnh giáo họ, họ có thể nói tính cách, sự ưa thích, sự thiện ác trong tâm địa quý vị và cát hung họa phước suốt cả một đời quý vị hết sức chuẩn xác! Các vị đọc sách Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ biết: Người thật sự cao minh, vừa thấy tướng mạo liền biết cát hung họa phước trong suốt một đời quý vị, đối với những suy nghĩ thông thường trong tâm quý vị, người ấy cũng biết đại khái. Thấy diện mạo của chúng ta chẳng có phước, diện mạo chẳng phải là hảo tướng, [để biết] vận hạn trước mắt bèn xem khí sắc, khí sắc cũng chẳng tốt lắm. Phải sửa đổi ra sao? Hãy thật thà niệm Phật, đoạn ác tu thiện, một niệm hồi tâm, tướng sẽ thay đổi, tướng chuyển theo tâm mà! Tướng chuyển theo tâm tức là mạng chuyển theo tâm, cát hung họa phước đều do ý niệm của quý vị [chi phối]. Quý vị nghĩ xem có trọng yếu lắm không?

Trong học Phật, nói về tu hành, tu từ chỗ nào? Khởi tâm động niệm! Tu từ chỗ này. Khởi lên một niệm, quý vị có thể nhận biết niệm ấy là thiện hay ác, đó là trí huệ. Trong Phật pháp nói giác và mê, giác hay mê quan sát từ chỗ nào? Từ ý niệm. Một niệm dấy lên, chính quý vị biết niệm ấy là thiện hay ác, đó là giác. Một niệm dấy lên, nhưng chính mình chẳng biết niệm ấy là thiện hay ác, đó là mê. Người thật sự tu hành, hễ có một thiện niệm, thiện niệm bèn tiếp tục tăng trưởng; hễ có một niệm ác thì ngay lập tức điều ác ấy bị đoạn trừ. Ác niệm thứ nhất dấy lên, chẳng thể có ác niệm thứ hai; ác niệm thứ hai bị tiêu diệt, đó là thật sự tu hành. Người tu hành như vậy được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần tôn kính. Họ đã tôn kính quý vị, đương nhiên sẽ gia hộ quý vị. Kẻ mê hoặc, một thiện niệm dấy lên, trong niệm thứ hai, thiện niệm bị đoạn trừ; ác niệm dấy lên, ác niệm này nối tiếp ác niệm kia tăng trưởng, thiện thần xa lìa, yêu ma quỷ quái liền dựa thân, theo sát quý vị. Thảy đều do nơi khởi tâm động niệm, đó là chân tướng của pháp giới duyên khởi. Đức Phật giảng nhiều pháp môn đều là căn cứ trên sự thật này để nói.

 

(Diễn) Sở vị: “Dĩ pháp giới tâm, quán pháp giới cảnh, sanh ư pháp giới y chánh sắc tâm dã”.

()所謂以法界心,觀法界境,生於法界依正色心也。

(Diễn: Đó gọi là “dùng pháp giới tâm để quán pháp giới cảnh, sanh trong y báo, chánh báo, sắc, tâm nơi pháp giới”).

Nói về nguyên lý và nguyên tắc quán tưởng. Nay chúng ta gặp khó khăn ở chỗ nào? Chẳng có pháp giới tâm, tâm lượng quá nhỏ, khởi tâm động niệm đều vì chính mình. Nếu lớn hơn một chút thì là vì gia đình, chẳng thể khởi tâm động niệm vì hết thảy chúng sanh trong pháp giới, chúng ta chẳng có tâm lượng ấy. Do vậy, quán chẳng thành. A Di Đà Phật trong khi tu nhân, kinh nói [Ngài có hiệu là] tỳ-kheo Pháp Tạng, Ngài khởi tâm động niệm suy nghĩ vì ai? Suy nghĩ vì hết thảy chúng sanh trong tận hư không khắp pháp giới, Ngài “dùng pháp giới tâm để quán pháp giới cảnh”. Tây Phương Cực Lạc thế giới là y báo và chánh báo trang nghiêm trong pháp giới. Vì thế, phải đọc, phải giảng Quán Kinh, tuy chẳng thể tu, kinh ấy có lợi ích rất lớn, lớn ở chỗ nào? Quán Kinh có lý luận viên mãn và minh bạch nhất. Đức Phật dạy chúng ta, chúng ta tin tưởng, quyết định chớ nên hoài nghi, chúng ta cũng muốn tu, biết phương pháp tu hành ấy quyết định là chánh xác. Quán Kinh nêu ra ba trọng điểm là lý luận, phương pháp, và nhân quả. Chín phẩm vãng sanh là nói về nhân quả, tu nhân gì sẽ đắc quả vị như thế nào.

 

(Sao) Thật Tướng giả, tức niệm tự tánh thiên chân chi Phật, vô sanh, diệt, hữu, không, Năng, Sở đẳng tướng.

()實相者,即念自性天真之佛,無生滅有空能所等相。

(Sao: Thật Tướng là niệm vị Phật Thiên Chân trong tự tánh, chẳng có các tướng như sanh, diệt, có, không, Năng, Sở v.v…).

Những điều tiếp đó toàn là tương đối. Sanh diệt là tương đối. Hữu – Không là tương đối, Năng – Sở là tương đối. Chữ Vô xuyên suốt, [nghĩa là] “vô sanh diệt, vô Không Hữu, vô Năng Sở”, thảy đều là Vô, ngay cả Vô cũng là Vô. Hễ chấp có một cái Vô lại hỏng rồi, lại là chấp tướng. “Vô” cũng chẳng cần. Đó là Tự Tánh Thiên Chân Phật, cũng là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Hết thảy chúng sanh vốn thành Phật”, vốn đã là Phật! Phật là gì? Phật là giác. Vốn đã thành Phật! Nói cách khác, quý vị vốn giác, chẳng mê! Nay vì sao biến thành chúng sanh? Do quý vị mê Bổn Giác, chẳng mê bên ngoài. Quý vị nói “mê cảnh giới bên ngoài”, đó là giả, sai lầm đặc biệt to lớn, [phải hiểu là] “đã mê nơi tự tánh”. Vì thế, Phật pháp từ đầu đến cuối nói đến “trong”, chẳng nói tới “ngoài”. Bên ngoài chẳng có mê hay ngộ, mê hay ngộ ở trong tự tâm. Đối với cảnh giới bên ngoài, giác là cảnh giới ấy, mà mê vẫn là cảnh giới ấy. Mê và ngộ chẳng hai, mê và ngộ như một, đó là nói về ngoại cảnh. Mắc mứu là trong nội tâm. Thành Phật, thành Bồ Tát, thành La Hán, cho đến luân hồi trong lục đạo đều do tự tâm. Một niệm giác sẽ tiến lên cao trong mười pháp giới; một niệm mê, bèn đọa lạc. Chuyện là như vậy đó.

Triệt để giác ngộ, mười pháp giới sẽ chẳng có, đã thoát ra ngoài, vượt thoát. Mê nặng nhất, phân biệt, chấp trước nặng nhất, đọa lạc sâu nhất là A Tỳ địa ngục. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều chẳng nói tới mê hay ngộ. Nay chúng ta thấy những lời lẽ này trong kinh, người hiện thời gọi là “tương đối luận”. Sanh và diệt là tương đối, Hữu và Vô là tương đối (Không là Vô), Năng và Sở là tương đối, lớn và nhỏ là tương đối, dài và ngắn là tương đối, phàm và thánh là tương đối, tánh và tướng là tương đối. Chỉ cần quý vị có thể nói ra được, sẽ toàn là tương đối. Lìa khỏi tương đối, sẽ chẳng thể nói được, chẳng thể thốt được câu nào. Chúng ta là người sống trên địa cầu, đang sống trong cảnh giới nào? Sống trong cảnh giới tương đối, chẳng thật!

 

(Diễn) Vô sanh diệt hữu không Năng Sở đẳng tướng giả, đối thượng tam chủng niệm Phật.

()無生滅有空能所等相者,對上三種念佛。

(Diễn: “Chẳng có các tướng sanh, diệt, hữu, không, Năng, Sở”… là đối ứng với ba loại niệm Phật trước đó).

Tức Xưng Danh, Quán Tượng, Quán Tưởng đã nói trong phần trước.

 

(Diễn) Trì Danh thị sanh diệt tướng. Kinh vân: “Chư hành thị vô thường, niệm tánh nguyên sanh diệt cố”.

()持名是生滅相 ,經云:諸行是無常 ,念性元生滅故。

(Diễn: Trì Danh là tướng sanh diệt. Kinh nói: “Các hành là vô thường, do tánh của niệm vốn là sanh diệt”).

Trì Danh là sanh diệt, niệm này sanh, niệm kia diệt, niệm trước diệt, niệm sau sanh. [Do đó, xưng danh] niệm Phật là tướng sanh diệt.

 

(Diễn) Quán Tượng thị không hữu tướng, đối tượng tắc hữu, ly tượng thị vô cố. Quán Tưởng thị Năng Sở tướng, hữu năng quán chi tâm, sở quán chi cảnh cố.

()觀像是空有相,對像則有,離像是無故。觀想是能所相,有能觀之心、所觀之境故。

(Diễn: Quán Tượng là tướng Không Hữu, vì đối trước tượng bèn Có, lìa tượng bèn Không. Quán Tưởng là tướng Năng Sở, do có cái tâm năng quán và cảnh được quán).

Chân tướng của ba loại [Niệm Phật] trước là như thế.

 

(Diễn) Hựu tiền tam, giai bất ly sanh diệt, hữu không, Năng Sở đẳng tướng.

()又前三,皆不離生滅有空能所等相。

(Diễn: Lại nữa, ba loại trước đều chẳng lìa các tướng sanh diệt, Có Không, Năng Sở v.v…).

Trì Danh, Quán Tưởng, Quán Tượng đều có sanh – diệt, có – không, năng – sở.

 

(Diễn) Hựu tiền tam, giai bất ly ngôn thuyết tướng, danh tự tướng, tâm duyên tướng.

()又前三,皆不離言說相、名字相、心緣相。

(Diễn: Lại nữa, ba cách [niệm Phật] trước đều chẳng lìa tướng ngôn thuyết, tướng danh tự, và tướng tâm duyên).

Thảy đều chẳng lìa khỏi! [Vì lẽ đó], phàm phu tu học thuận tiện. Chứ thảy đều lìa, chúng ta sẽ chẳng biết tu như thế nào! Chẳng có cách nào tu được!

 

(Sao) Diệc phục ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm duyên tướng, thị danh Thật Tướng.

()亦復離言說相,離名字相,離心緣相,是名實相。

(Sao: Lại cũng lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, thì gọi là Thật Tướng).

 Thật Tướng ở chỗ nào? Ở ngay trước mắt chúng ta. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần, chẳng phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm; chính ngay trong khi ấy, Thật Tướng hiện tiền. Tướng được thấy bởi chư Phật, Bồ Tát chính là tướng này. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bèn khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, Thật Tướng liền biến thành tướng hư vọng, xa lìa chân thật. Ví như chúng tôi đưa lên vật này, tất cả mọi người đều trông thấy, thấy rõ ràng, rành rẽ, vật được cầm trên tay cũng là thật sự có, [nhưng] chẳng khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, [hỏi quý vị] đó là gì? Quý vị có thể nói được hay không? Có thể suy tưởng hay không? Hễ quý vị có thể suy tưởng, có thể nói, thảy đều là chấp tướng! Nay bảo quý vị “chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước”, đó là gì? Quý vị đều không biết. Bày ra ngay trước mặt, “giá khiếu Thật Tướng” (đó gọi là Thật Tướng), sai mất rồi! Thật Tướng là một danh từ, lại chấp trước mất rồi! Bảo quý vị lìa tướng danh tự, cớ sao lại có Thật Tướng? Thật Tướng vẫn là một danh tự. “Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, chẳng thể nghĩ bàn, đấy là Thật Tướng.

Chư Phật, Bồ Tát giảng kinh, thuyết pháp cho chúng ta, trong tâm các Ngài xác thực chẳng khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước. Các Ngài nói những danh từ ấy là do phàm phu chấp trước như vậy, “ta tùy thuận theo sự chấp trước của quý vị để nói”. Bản thân các Ngài chẳng chấp trước. Các Ngài là “nói mà không nói”, nói theo phía bản thân các Ngài thì “một chữ cũng chẳng hề nói”. “Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”, thuyết pháp nhằm hằng thuận chúng sanh, cớ sao quý vị chấp trước? Ta tùy thuận sự chấp trước của quý vị [như thế ấy], cớ sao quý vị phân biệt? Ta tùy thuận sự phân biệt của quý vị, chính mình rất hoan hỷ, vì sao? Chính mình chẳng có phân biệt, chấp trước, tâm khai ý giải, chẳng nhiễm mảy trần, đó là Phật tâm. Chúng ta học Phật thì phải học điều này. Đức Phật có lìa khỏi pháp thế gian hay không? Chẳng lìa khỏi! Thứ gì cũng đều chẳng lìa khỏi, sống vui sướng cùng mọi người. Quý vị có phiền não, các Ngài chẳng có phiền não. Vì sao các Ngài chẳng phiền não? Các Ngài chẳng động niệm. Phiền não của quý vị do đâu mà có? Do khởi tâm động niệm. Trong Chân Như bản tánh vốn chẳng có niệm, khởi tâm động niệm là chẳng tuân thủ tự tánh, quý vị trái nghịch tự tánh, đã mê mất rồi!

“Lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên”, ba câu này hết sức quan trọng! Người tham Thiền sử dụng công phu này. Người nghiên cứu kinh giáo cũng dùng công phu này. Quý vị chẳng dùng công phu này, chẳng thể đại khai viên giải. Nhà Thiền chẳng dùng công phu này, chẳng thể đại triệt đại ngộ. Người niệm Phật chẳng dùng công phu này, chẳng thể đắc Lý nhất tâm bất loạn, nhưng có thể đắc Sự nhất tâm bất loạn. Nếu chúng ta hỏi: “Khi nào mới có thể đạt đến Lý nhất tâm bất loạn?” Khi nào quý vị niệm Phật đến mức ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên đều thoát lìa, trong hết thảy các cảnh giới cũng chẳng còn có mảy may phân biệt, chấp trước, mà cũng chẳng còn khởi tâm động niệm nữa. Đó là cảnh giới Lý nhất tâm. Nhưng đối với điều này, chớ nên tác ý: “Ta chẳng khởi tâm, ta không động niệm”! Quý vị ngẫm xem, có khởi tâm động niệm hay không? Quý vị đã khởi tâm động niệm. “Ta không động niệm”, hễ có niệm ấy là đã động niệm rồi. “Ta chẳng phân biệt”, thật ra là đã phân biệt. “Ta không chấp trước”, thật ra là đã chấp trước, chấp trước [ý niệm] “không chấp trước”. Khó quá! Rất ư là khó! Chuyện này chỉ có chính mình thấu hiểu, người khác chẳng có cách nào truyền cho quý vị, đấy mới là công phu thật sự! Công phu của quý vị càng tiếp cận điều này, quý vị càng vui sướng, xác thực là lìa khổ được vui. Ba thứ ấy (phân biệt, chấp trước, vọng tưởng) càng nhiều, khổ não càng lắm! Ba thứ ấy càng ít, quý vị vui sướng càng nhiều. Đều là ngay trong cuộc sống bình phàm. Người niệm Phật tuy chẳng thể đoạn [phân biệt, vọng tưởng, chấp trước], phải hờ hững [đối với chúng], chớ nên chấp trước quá lố, [chấp trước] càng nhạt mỏng càng tốt! Nói thật ra, những thứ ấy chính là nghiệp chướng. Quý vị có bao nhiêu nghiệp chướng, chính mình tự biết, chẳng cần phải hỏi ai khác. Những thứ ấy rất nhạt mỏng, nghiệp chướng của quý vị bèn nhẹ nhàng. Chấp trước rất nặng nề, coi chúng rất thật, nghiệp chướng cũng rất nặng! Nghiệp chướng nặng nề, sẽ chướng ngại quý vị vãng sanh, đáng ngại lắm!

Điều xảo diệu của pháp môn Tịnh Tông là quý vị thích phân biệt, ưa chấp trước, [pháp môn này bèn dạy] quý vị thay đổi cảnh giới: Hãy phân biệt ba mươi hai tướng và tám mươi thứ [tùy hình] hảo của A Di Đà Phật, dạy quý vị chấp trước A Di Đà Phật. Nếu quý vị hoan hỷ, mến luyến, hãy mến luyến A Di Đà Phật, chắc chắn sẽ vãng sanh. Quý vị mến luyến người thế gian, mà muốn chẳng luân hồi trong lục đạo sẽ chẳng thể được! Quý vị phải chuyển dời mục tiêu và quan niệm, ta yêu A Di Đà Phật, ta thích Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạng người ấy quyết định vãng sanh. Trong tâm chẳng có phân biệt, chỉ có A Di Đà Phật, hằng ngày ngắm nhìn tượng A Di Đà Phật, hằng ngày niệm giáo huấn của A Di Đà Phật. Kinh Vô Lượng Thọ và Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa là gia thư, gia phả của Tây Phương Cực Lạc thế giới, nêu rõ khái lược trạng huống [trong cõi ấy]. Quý vị hằng ngày đọc những sách ấy, suy tưởng những điều ấy, chắc chắn sẽ được sanh về Tịnh Độ. Hễ còn nghĩ tưởng những điều khác, bất luận nghĩ tưởng ai, nghĩ tưởng chuyện gì, thảy đều là lục đạo luân hồi, quyết định chẳng thể thoát khỏi lục đạo!

 

(Diễn) Kim Thật Tướng chi Phật, quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, vô sanh diệt tướng. Nhất trần bất lập xứ, vạn pháp tề chương, vô không hữu tướng. Chiếu thể độc lập, tuyệt chư đối đãi, vô năng sở tướng. Hựu phục ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, từ táng lự vong, ly ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên đẳng tướng, thị vô tướng bất tướng, danh vi Thật Tướng dã.

()今實相之佛,過去無始,未來無終,無生滅相;一塵不立處,萬法齊彰,無空有相;照體獨立,絕諸對待,無能所相;又復言語道斷,心行處滅,詞喪慮亡,離言說名字心緣等相,是無相不相,名為實相也。

(Diễn: Nay vị Phật Thật Tướng quá khứ không khởi đầu, vị lai chẳng kết thúc, chẳng có tướng sanh diệt. Chẳng có chỗ nào để lập mảy trần, vạn pháp cùng phô bày, chẳng có tướng Có và Không. Chiếu thể độc lập, dứt bặt các đối đãi, chẳng có tướng Năng và Sở. Lại còn chẳng thể diễn tả được, chẳng thể suy lường, dứt bặt ngôn từ, tuyệt dứt suy tưởng, rời lìa các tướng như ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên, chẳng có tướng, mà không phải là chẳng có tướng, nên gọi là Thật Tướng).

Chẳng có cách nào diễn tả Thật Tướng được, cũng chẳng có cách nào tư duy, tưởng tượng! Đức Phật dùng phương tiện thiện xảo để miêu tả khái lược hình tướng của nó, khiến cho chúng ta từ những điều ấy mà lãnh hội. “Thật Tướng chi Phật” là gì? Là Chân Như bản tánh của chính mình, là toàn thể pháp giới. “Quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, vô sanh diệt tướng” (Quá khứ chẳng có khởi đầu, vị lai không có kết thúc, chẳng có tướng sanh diệt), nó bất sanh bất diệt. Hết thảy vạn pháp, hễ có sanh bèn có diệt. Từ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới có sanh, nó có chẳng diệt hay không? Đương nhiên là có diệt; hễ có sanh bèn có diệt. Vì thế, trong tương lai, A Di Đà Phật sẽ diệt độ, Quán Âm Bồ Tát nối tiếp thành Phật, lại có sanh diệt. Bất quá thời gian quá dài, dài đến nỗi chúng ta chẳng có cách nào tính toán, nên gọi là “vô lượng thọ”. Thọ mạng có hạn lượng, chẳng sai! Có hạn lượng, quý vị hãy nói thử xem: Rốt cuộc con số ấy là bao nhiêu? Nói chẳng được! Trong kinh, đức Phật đã dạy minh bạch: Giả sử chúng sanh trong mười phương thế giới đều chứng quả Bích Chi Phật, thần thông đều như ngài Mục Kiền Liên, trong thời gian lâu ngàn ức kiếp như thế cùng nhau tính toán thọ mạng của người trong thế giới Tây Phương, tính chẳng ra! Do vậy, chúng ta có thể nói [thọ mạng ấy] là vô lượng. Tự tánh chẳng có sanh diệt, [nói] Thật Tướng là nói tới Pháp Thân Phật, bất sanh, bất diệt.

“Nhất trần bất lập xứ, vạn pháp tề chương, vô không hữu tướng” (Chẳng có chỗ để lập một mảy trần, muôn pháp cùng phô bày, chẳng có tướng Không và Có): Bản thể, tức bản thể của tự tánh, chẳng lập mảy trần, chẳng nhiễm mảy trần, thuần tịnh. “Vạn pháp tề chương”: Nó có thể biến hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong vô lượng vô biên thế giới chư Phật, nó có thể biến. Giống như chúng ta nằm mộng, cái tâm nằm mộng chẳng lập mảy trần, trong tâm thứ gì cũng đều chẳng có, nhưng hằng ngày nó có thể biến ra mộng cảnh bất đồng. Thậm chí là một ngày mơ đến mấy giấc mộng, mỗi giấc mộng đều khác nhau. “Vạn pháp tề chương” (Muôn pháp cùng phô bày), “chương” (彰) là rõ ràng, hiển lộ. Tuy hiện muôn pháp, nhưng như thế nào? “Vô không hữu tướng” (Chẳng có tướng Có và Không). Nếu quý vị bảo là Không, nó hiện tướng, tướng chẳng phải là Không. Nếu quý vị bảo là Có, tướng ấy là giả, chẳng thật! “Đương thể tức không, liễu bất khả đắc” (Bản thể của chính nó là Không, trọn chẳng thể được). Do vậy, chẳng thể bảo nó là Không, mà cũng chẳng thể nói nó là Có. Hai bên Có và Không đều chẳng nói được!

“Chiếu thể độc lập, tuyệt chư đối đãi, vô năng sở tướng” (Chiếu thể độc lập, dứt bặt các đối đãi, chẳng có tướng Năng và Sở). “Thể” là bản thể của tự tánh, Chiếu là tác dụng của tự tánh. Chiếu là giác, hết thảy muôn vàn hình tượng trong tận hư không khắp pháp giới không gì chẳng biết, không gì chẳng thể. Năng Chiếu và Sở Chiếu là một, Năng Biến và Sở Biến cũng là một. Do vậy, nó chẳng có tương đối. Vì thế, quan niệm tương đối của chúng ta là sai lầm. Trong Nhất Chân pháp giới chẳng có tương đối, hễ có quan niệm tương đối thì là mê. Lìa khỏi quan niệm tương đối là giác. Giác chẳng dễ dàng! Nay chúng ta khởi tâm động niệm còn có Năng và Sở, đó là mê. Nếu mong thật sự giác, đích xác là chớ nên khởi tâm động niệm. Chư Phật Như Lai có năng lực, có bản lãnh: Trong cảnh giới, vĩnh viễn chẳng khởi tâm, không động niệm. Nếu quý vị có thể chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn thành Phật, thành Bồ Tát. Chẳng khởi tâm, không động niệm, bèn gọi là Tam-muội, hay Chánh Thọ, [có nghĩa là] hưởng thụ hết sức bình thường. Khởi tâm động niệm bèn có thất tình, ngũ dục, có khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Cảm nhận khổ, lạc, ưu, hỷ, xả là bất bình thường, vì sao? Trong tự tánh vốn chẳng có [những cảm nhận ấy]. Sự hưởng thụ bình thường vốn sẵn có trong tự tánh, cho nên đó là Định, người niệm Phật [gọi Định ấy] là Niệm Phật tam-muội, kinh Lăng Nghiêm gọi nó là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, kinh Hoa Nghiêm gọi nó là Sư Tử Phấn Tấn tam-muội. Danh xưng khác nhau, thật ra là cùng một cảnh giới.

Đây cũng là nói rõ cùng mọi người: Trong sự tu hành của Phật pháp, tu Định là then chốt. Bất luận pháp môn nào trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, hoặc vô lượng pháp môn, “pháp” là phương pháp, “môn” là cửa nẻo. Nói theo cách hiện thời, [pháp môn] là biện pháp, là phương pháp. Bất luận dùng biện pháp hay phương pháp nào, [đều nhằm] tu gì? Đều nhằm tu Định. Trong Phật giáo, kinh điển Tịnh Tông [gọi Định] là “nhất tâm bất loạn”. Thiền Tông gọi “nhất tâm bất loạn” là Thiền Định. Danh xưng khác nhau, ý nghĩa và cảnh giới hoàn toàn giống nhau. Hiểu rõ chân tướng này, quý vị mới hiểu “pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp”. Pháp môn nào thích hợp căn tánh của chính mình, thuận tiện cho chính mình tu học, ta liền chọn lấy pháp môn ấy. Sau khi đã chọn dứt khoát một pháp môn, điều then chốt là nhất tâm, chuyên tu, sẽ có thể thành tựu. Kỵ nhất là xen tạp, tạp tu, loạn tu, pháp môn gì cũng đều chẳng thể thành tựu, ngay như [tu] pháp môn Niệm Phật [mà tạp tu, loạn tu], cũng chẳng thể vãng sanh. Người chuyên tu Thiền có thể khai ngộ, người chuyên học Giáo có thể đại khai viên giải, người chuyên tu Tịnh có thể đắc nhất tâm bất loạn, điều khẩn yếu là chuyên tu. Học Thiền, học Giáo, thậm chí học Mật, đều phải hội đủ một số điều kiện đặc thù nào đó thì mới có thể thành tựu trong một đời. Chẳng trọn đủ điều kiện, tuy chuyên, cũng chẳng dễ gì thành tựu! Điều kiện của Tịnh Tông rộng rãi nhất. Điều kiện do Tịnh Tông đặt ra, có thể nói là gần như mỗi cá nhân chúng ta đều trọn đủ. Do vậy, mới là “vạn người tu, vạn người đến”. Dẫu tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, là kẻ tạo tội nghiệp nặng nhất, người ấy [vẫn có thể] hội đủ điều kiện để tu Tịnh Độ. Người ấy tu pháp khác, sẽ chẳng hội đủ điều kiện, nhưng tu Tịnh Độ thì đủ. Do vậy, pháp môn này mới được hết thảy chư Phật tán thán, thật sự có thể rộng độ hết thảy chúng sanh trong pháp giới. Đấy chính là chỗ thù thắng bậc nhất.

“Hựu phục ngôn ngữ đạo đoạn” (Lại còn dứt bặt ngôn ngữ): Chẳng thể thốt lên lời được! Ở đây, “đạo” (道) là động từ [có nghĩa là “nói”], “ngôn ngữ” là danh từ. Quý vị chẳng thể dùng ngôn ngữ để nói được, dùng phương pháp [diễn đạt bằng] ngôn ngữ sẽ chẳng thông suốt, cho nên phải dứt bỏ. “Tâm hành xứ diệt”: “Tâm” là tư duy, tưởng tượng. Tưởng tượng cũng chẳng được, tưởng tượng không ra! Tưởng tượng chính là quý vị khởi tâm động niệm. Hễ khởi tâm động niệm, bèn rơi vào Năng và Sở (chủ thể và khách thể), tức là rớt vào Không và Có. “Từ táng lự vong”: “Từ” (詞) là ngôn từ, “lự” (慮) là tư lự. “Từ táng” (詞喪: chôn vùi ngôn từ) là ngôn ngữ dứt bặt, “lự vong” (慮亡) là tâm hành xứ diệt. Đó là một ý nghĩa; ở đây, thêm vào câu này nhằm đặc biệt nhấn mạnh.

“Ly ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên đẳng tướng, thị vô tướng, vô bất tướng” (Lìa các tướng ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên v.v… là vô tướng, là chẳng phải là không có tướng). Vô tướng là Thể, “vô bất tướng” là tác dụng của bản thể. Giống như chúng ta nằm mộng, vô tướng là tâm, vô bất tướng là mộng cảnh. Tâm là Không, chẳng có hình dáng, dấu vết, mắt cũng chẳng nhìn thấy, tai cũng chẳng nghe thấy, tay cũng chẳng sờ đến, tâm cũng chẳng nghĩ tới được. Vì thế, gọi là Không. Bất đắc dĩ nói là Không, nhưng nó có thể hiện tướng. Gặp duyên bèn hiện tướng. Tuy hiện tướng, tướng ấy “đương thể tức Không, liễu bất khả đắc” (bản thể của nó là Không, trọn chẳng thể được). Quý vị chớ nên chấp trước tướng ấy. Quý vị chấp trước tướng ấy, ngỡ tướng ấy là Có, cho tướng ấy là thật sự tồn tại, lầm lẫn đặc biệt to lớn!

Người thật sự tu hành, tốt nhất là coi cuộc đời là “mộng, huyễn, bọt, bóng” như kinh Kim Cang đã dạy. Chúng ta từ sáng đến tối tiếp xúc những thứ ấy, đều đang nằm mộng! Quý vị có thể coi hoàn cảnh như mộng, mộng là giả, chẳng thật! Trong ấy, bất luận quý vị ưa thích thì cũng thế, mà phiền não cũng thế, phải thật sự hiểu rõ chúng là rỗng tuếch, mức độ ưa thích sẽ nhạt bớt, phiền não cũng nhẹ đi. Vì sao? Trống rỗng, giả trất, chẳng thật! Nay có được một khối vàng to, chẳng vui thích, nằm mộng mà! Chẳng thật! Kẻ này muốn hại ta, hãm hại ta, ta cũng chẳng so đo với kẻ ấy. Vì sao? Giả trất! Mộng, huyễn, bọt, bóng, riết róng so đo là sai mất rồi! Đó là chân tướng sự thật; nhưng người thế gian mê, chẳng biết, cứ ngỡ giả là thật, coi thật là giả!

 

(Sao) Sở vị ngã dục kiến Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, tùy ý tức kiến, thị dã.

()所謂我欲見極樂世界阿彌陀佛,隨意即見,是也。

(Sao: Nói “ta muốn thấy Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, tùy ý bèn thấy” chính là nói về điều này).

Rất tự tại! Nếu quý vị thật sự đạt tới cảnh giới như đã nói trong phần trước: Quý vị muốn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mong thấy A Di Đà Phật, đó là “tùy ý”! Muốn ra đi chừng nào bèn đi khi đó; khi nào mong thấy Phật thì khi đó thấy Phật, tự tại vô ngại. Đấy là “liễu sanh tử, thoát tam giới”. Lại thưa cùng các vị đồng học, xác thực là ai nấy đều có thể làm được, quý vị có chịu làm hay không? Tục ngữ có câu: “Thế gian nan sự, đăng thiên nan, cầu nhân nan” (Chuyện khó trong thế gian, lên trời khó khăn, cầu cạnh người khác khó khăn). “Thấy A Di Đà Phật, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới” chính là cầu từ chính mình. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, chính quý vị có thể thật sự buông vọng tưởng, chấp trước xuống, sẽ thành công. Hễ buông vọng tưởng, chấp trước xuống, thưa cùng chư vị, tất cả hết thảy nghiệp chướng từ vô thỉ kiếp cho đến nay thảy đều tiêu trừ. Nghiệp chướng là vọng tưởng, chấp trước, bị tiêu sạch sành sanh. Do đó, người niệm Phật xử sự, đãi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày, nói cách khác, [sẽ đều là] thời thời khắc khắc dấy lên tâm cảnh giác cao độ, giác chứ không mê. Như thế nào thì mới là thật sự giác chứ không mê? Đối trước hết thảy cảnh giới, tuyệt đối chẳng khởi tâm động niệm, tuyệt đối chẳng dấy vọng tưởng, chẳng chấp trước, người ấy giác chứ không mê. Sau đấy mới có thể giúp người khác phá mê khai ngộ, giúp người khác đoạn ác tu thiện. Đó là đại từ đại bi, là tự tánh khởi tác dụng. Người như vậy và chư Phật, Bồ Tát đồng tâm, đồng nguyện, đồng đức, đồng hạnh, sẽ thành Phật. Tục ngữ thường nói: “Phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật” (Buông dao đồ tể xuống, ngay lập tức thành Phật). “Đồ đao” (屠刀) chính là vọng tưởng, chấp trước. Quý vị chỉ cần buông chúng xuống, sẽ ngay lập tức thành Phật.

 

(Diễn) Ngã nhược dục kiến A Di Đà Phật, tùy ý tức kiến, thị Hoa Nghiêm Giải Thoát trưởng giả sở thuyết.

()我若欲見阿彌陀佛隨意即見,是華嚴解脫長者所說。

(Diễn: “Nếu ta muốn thấy A Di Đà Phật bèn tùy ý thấy ngay” chính là lời trưởng giả Giải Thoát đã nói trong kinh Hoa Nghiêm).

 Trưởng giả Giải Thoát nói [câu ấy] với Thiện Tài đồng tử.

 

(Diễn) Dĩ thử chứng Thật Tướng giả, dĩ trưởng giả dĩ năng liễu tri tự tánh, như ảnh, hưởng, mộng, huyễn.

()以此證實相者,以長者已能了知自性,如影響夢幻。

(Diễn: “Dùng điều này để chứng Thật Tướng”: Vì trưởng giả đã có thể biết rõ tự tánh như hình bóng, tiếng vang, mộng, huyễn).

Có ý nghĩa hoàn toàn giống như kinh Kim Cang đã nói: “Hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”.

 

(Diễn) Sở kiến chư Phật, giai do tự tâm.

()所見諸佛,皆由自心。

(Diễn: Thấy chư Phật đều do tự tâm).

Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do tự tâm hiện, do tự thức biến, chẳng có gì không thấy. Muốn thấy vị nào trong mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai đều thấy, vì sao? Quý vị đã kiến tánh. Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, bèn có năng lực thị hiện tám tướng thành đạo. Phần đầu kinh Vô Lượng Thọ nói tới tám tướng thành đạo. Đó là địa vị gì? Sơ Trụ trong Viên Giáo, hoặc Sơ Địa trong Biệt Giáo. Giúp đỡ hết thảy chúng sanh thuận theo lòng mong muốn. Đáng nên dùng thân Phật để độ, bèn hiện thân Phật. Tám tướng thành đạo là hiện thân Phật. Đáng nên dùng thân Bồ Tát để độ, bèn hiện thân Bồ Tát. Đáng nên hiện thân gì, bèn hiện thân ấy, chẳng có gì không tự tại. Cảm ứng đạo giao cùng hết thảy chúng sanh!

 

(Diễn) Cố kinh văn vân.

()故經文云。

(Diễn: Do vậy, kinh văn nói).

Dưới đây là trích dẫn kinh văn của kinh Hoa Nghiêm.

 

(Diễn) Thiện nam tử.

()善男子。

(Diễn: Này thiện nam tử).

Ở đây,“thiện nam tử” là để gọi Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử đại diện cho tất cả các đồng tu học Phật chúng ta, có thiện căn, có phước đức. Kinh Di Đà dạy: “Chẳng thể do ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”. Có thể thấy vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới phải do nhiều thiện căn, nhiều phước đức. Nhiều thiện căn, nhiều phước đức bèn gọi là Thiện Tài (Sudhanakumâra). Kinh gọi Ngài là “thiện nam tử” là do ý nghĩa này, theo tiêu chuẩn như vậy.

 

(Diễn) Ngã kiến như thị đẳng thập phương Phật sát vi trần số Như Lai, bỉ chư Như Lai bất lai chí thử, ngã bất vãng bỉ.

()我見如是等十方佛剎微塵數如來,彼諸如來不來至此,我不往彼。

(Diễn: Ta thấy chư Như Lai nhiều như số vi trần trong mười phương các cõi Phật như thế đó. Các vị Như Lai ấy chẳng đến đây, ta chẳng đến chỗ ấy).

 Nói rõ “chẳng đến, chẳng đi, bất sanh, bất diệt”; đó là chân tướng sự thật.

 

(Diễn) Ngã nhược dục kiến An Lạc thế giới.

()我若欲見安樂世界。

(Diễn: Nếu ta muốn thấy thế giới An Lạc).

“An Lạc thế giới” là thế giới Cực Lạc.

 

(Diễn) A Di Đà Phật Như Lai, tùy ý tức kiến.

()阿彌陀佛如來,隨意即見。

(Diễn: A Di Đà Phật Như Lai tùy ý liền thấy).

 A Di Đà Phật chẳng đến, ta cũng không đi. Ta chỉ cần muốn thấy bèn thấy, như đối trước mặt. Ngài chẳng đến, ta cũng chẳng đi, xác thực là như thế. Tịnh Tông có một quyển sách mang tựa đề là Sanh Vô Sanh Luận: “Sanh tắc quyết định sanh, khứ tắc thật bất khứ” (Sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi). Người mới học nghe lời này lại hoài nghi: Rốt cuộc là có thể vãng sanh hay không? Nếu chúng ta niệm suốt một đời mà chẳng thể vãng sanh, há chẳng phải là niệm uổng công ư? Đã là sanh thì quyết định sanh, nhưng lại chẳng thể đi, sanh bằng cách nào? Chẳng biết chân tướng sự thật, chẳng biết cảnh giới nơi quả địa Như Lai. Cảnh giới ấy là cảnh giới của Phật, chẳng phải là cảnh giới của bọn phàm phu chúng ta!

Bọn phàm phu chúng ta chấp tướng “đến, đi”, tướng sanh diệt. Quý vị trừ sạch các tướng đến, đi, sanh, diệt, Năng, Sở, thì mới hiểu ý nghĩa do Phật, Bồ Tát đã nói, quý vị bèn hoảng nhiên đại ngộ. Có phải là Sanh hay không? Thật sự sanh! Có phải là đi hay không? Thật sự đi, vì sao? Sanh và “chẳng sanh” không hai. Đi và “không đi” như một, phải nhập cảnh giới ấy thì mới được. Chẳng nhập cảnh giới, sanh và “chẳng sanh” là hai chuyện, tuyệt đối chẳng giống nhau, đi và “không đi” cũng là hai chuyện, làm sao có thể cùng bàn luận cho được! Cảnh giới Phật và cảnh giới của chúng ta khác nhau!

Chúng ta là hữu tình chúng sanh trên địa cầu, sống trong không gian ba chiều; không gian của chư Phật là không gian vô hạn chiều, tuyệt đối chẳng phải chỉ là bốn chiều, năm chiều, sáu chiều, bảy chiều! Không gian của Phật là vô hạn chiều, làm sao chúng ta có thể hiểu được? Hoàn toàn chẳng biết! Nếu chư vị thường đọc kinh điển Đại Thừa, rất chú tâm lãnh hội, sẽ có thể thấu hiểu. Tuy chẳng viên mãn, nhưng có thể tăng trưởng tín tâm, có thể dần dần hiểu chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, kinh Phật gọi chuyện này là  “chư  pháp  Thật  Tướng” (Thật Tướng của các pháp).  Tiếp theo đó,  kinh  [Hoa Nghiêm]  giảng về Lý.  Phần trên là nói theo Sự, muốn thấy A Di Đà Phật liền thấy A Di Đà Phật.

 

(Diễn) Tri nhất thiết Phật cập dữ ngã tâm, tất giai như mộng. Tri nhất thiết Phật do như ảnh tượng, tự tâm như thủy. Tri nhất thiết Phật sở hữu sắc tướng, cập dĩ tự tâm, tất giai như huyễn, tất giai như hưởng. Ngã như thị tri, như thị ức niệm, sở kiến chư Phật giai do tự tâm.

()知一切佛及與我心,悉皆如夢;知一切佛猶如影像,自心如水;知一切佛所有色相,及以自心,悉皆如幻,悉皆如響。我如是知,如是憶念,所見諸佛皆由自心。

(Diễn: Biết hết thảy chư Phật và tâm ta thảy đều như mộng. Biết hết thảy chư Phật giống như hình bóng, tự tâm như nước. Biết tất cả sắc tướng của hết thảy chư Phật và tự tâm thảy đều như huyễn, thảy đều như tiếng vang. Ta biết như thế, ức niệm như thế, các đức Phật được thấy đều do tự tâm).

Tục ngữ Trung Hoa thường nói: “Thiên giang hữu thủy, thiên giang nguyệt” (Nước ngàn sông in bóng ngàn trăng). Vầng trăng trên không trung, chỉ cần trên mặt đất có nước, nước rất sạch sẽ, trăng bèn hiện bóng. Trăng chẳng đến nước, nước cũng chẳng đến trăng, [thế mà] người khác trông thấy [ánh trăng trong nước]. Đây là nói theo tỷ dụ. Tỷ dụ chỉ có thể nói mường tượng, tuyệt đối chẳng phải là sự thật. Sự thật thì phải thân thiết, phải thực tại hơn tỷ dụ. Bất đắc dĩ dùng tỷ dụ để mô tả gián tiếp, khiến cho chúng ta dần dần lãnh hội cảnh giới ấy. Chuyện này chứng tỏ “vạn pháp duy tâm, vạn pháp duy thức”, cũng chứng minh điều kinh Hoa Nghiêm đã dạy: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Hãy nên quán tánh pháp giới, hết thảy đều do tâm tạo), đấy là nói về Thật Tướng.

 

(Sao) Thử chi tứ giả, tuy đồng danh Niệm Phật, tiền thiển hậu thâm.

()此之四者,雖同名念佛,前淺後深。

(Sao: Bốn phép này tuy đều gọi là Niệm Phật, nhưng phép trước cạn, phép sau sâu).

Bốn phép này tuy đều là pháp môn Niệm Phật, nhưng phép trước cạn, phép sau sâu, càng về sau càng sâu.

 

(Sao) Trì Danh tuy tại sơ môn, kỳ thật, ý hàm vô tận. Sự nhất tâm tắc thiển, Lý nhất tâm tắc thâm.

()持名雖在初門,其實意含無盡,事一心則淺,理一心則深。

(Sao: Trì Danh tuy thuộc môn đầu tiên, nhưng thật ra, chứa đựng vô tận ý nghĩa. Sự nhất tâm là cạn, Lý nhất tâm là sâu).

Trì Danh Niệm Phật nông cạn nhất, dạy quý vị suốt ngày từ sáng đến tối niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật, chẳng hoài nghi, không gián đoạn, không xen tạp. Nông cạn nhất, nhưng chư vị nhất định phải ghi nhớ “không xen tạp”. Nay công phu của chúng ta sở dĩ chẳng thể thành tựu là vì xen tạp; xen tạp hết thảy các pháp hư vọng trong thế gian, đồng thời lại còn xen tạp hết thảy Phật pháp, đều là sai lầm. Bất luận xen tạp điều gì cũng đều sai lầm. Làm thế nào thì mới có thể thật sự đạt “tịnh niệm tương kế”? Làm được bốn chữ ấy bèn thành công. Bốn chữ ấy chính là “thật thà niệm Phật”, mới thật sự là thật thà. Nếu chẳng làm được bốn chữ ấy, chẳng gọi là thật thà! “Tịnh niệm”: Tịnh là tâm thanh tịnh, chẳng có hoài nghi, chẳng có xen tạp, cái tâm ấy mới thanh tịnh, mới là tịnh niệm. Câu Phật hiệu này nối tiếp câu Phật hiệu kia, niệm đến mức giống hệt như máy niệm Phật trong hiện thời, nó chẳng xen tạp, không hoài nghi, mà cũng không gián đoạn. “Tương kế” (相繼: nối tiếp) là chẳng gián đoạn. Nếu chúng ta thật sự niệm giống như vậy, sẽ thành công! Không chỉ là Sự nhất tâm, mà còn niệm đến mức Lý nhất tâm. Vì sao? Chẳng phân biệt, không chấp trước, lìa hết thảy tướng chính là hết thảy các pháp. Nếu quý vị hỏi “ai là người hành Thật Tướng Niệm Phật” ư? Máy niệm Phật là Thật Tướng Niệm Phật! Các đồng tu hãy khéo lãnh hội ý nghĩa này.

“Trì Danh tuy tại sơ môn, kỳ thật, ý hàm vô tận. Sự nhất tâm tắc thiển, Lý nhất tâm tắc thâm” (Trì Danh tuy thuộc môn đầu tiên, nhưng thật ra, chứa đựng vô tận ý nghĩa. Sự nhất tâm là cạn, Lý nhất tâm là sâu). Nếu quý vị niệm tới Sự nhất tâm bất loạn, đó là cạn. Nếu niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, sẽ là sâu. Có thể thấy Trì Danh thông đến mức sâu nhất! Cổ nhân chẳng dùng Quán Tượng, hoặc Quán Tưởng, vì sao? Tướng ấy nếu quán thành, ấn tượng khắc sâu, tướng có tốt hay không?

“Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, vẫn phải trừ khử ấn tượng ấy thì mới có thể nhập Thật Tướng. Nếu chẳng trừ hết tướng ấy, chẳng thể nhập Thật Tướng, [bởi lẽ] Thật Tướng chẳng có tướng. Quý vị mới biết Quán Tượng và Quán Tưởng chẳng phải là phương pháp tốt đẹp, vì sao? Chẳng thể thông đến Thật Tướng. Câu Phật hiệu buông bỏ dễ dàng. Sau khi niệm đến một mức độ kha khá, Năng lẫn Sở đều mất, bèn nhập Thật Tướng. Vì thế, Trì Danh rất dễ khế nhập Thật Tướng, Quán Tượng và Quán Tưởng chẳng dễ dàng. Đây là chư Phật Thế Tôn đã đặc biệt dạy chúng ta ý nghĩa chân thật của việc Trì Danh Niệm Phật. Pháp môn này chẳng nông cạn đâu nhé! Mở đầu là nông cạn, về sau, sâu thẳm khôn dò! Tuyệt đối chẳng phải là Quán Tưởng hay Quán Tượng mà hòng đạt đến! Trì Danh Niệm Phật…

 

(Sao) Tức Sự, tức Lý, tắc tức thiển, tức thâm, cố viết “triệt tiền, triệt hậu”.

()即事即理,則即淺即深,故曰徹前徹後。

(Sao: Do Sự chính là Lý, nên cạn chính là sâu, vì thế nói “thấu triệt trước sau”).

“Tiền” là mới học, “hậu” là đạt đến Đẳng Giác Bồ Tát, như Đại Thế Chí Bồ Tát hoặc Quán Thế Âm Bồ Tát, đã nhập cảnh giới của các Ngài. Vì thế, pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 232

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm năm mươi ba.

 

(Sao) Thử chi tứ giả, tuy đồng danh Niệm Phật, tiền thiển, hậu thâm. Trì Danh tuy tại sơ môn, kỳ thật, ý hàm vô tận. Sự nhất tâm tắc thiển, Lý nhất tâm tắc thâm. Tức Sự, tức Lý, tắc tức thiển, tức thâm, cố viết “triệt tiền, triệt hậu”. Sở dĩ giả hà? Lý nhất tâm giả, nhất tâm tức thị Thật Tướng, tắc tối sơ tức thị tối hậu cố.

()此之四者,雖同名念佛,前淺後深。持名雖在初門,其實意含無盡,事一心則淺,理一心則深,即事即理,則即淺即深 ,故曰徹前徹後 。所以者何?理一心者,一心即是實相,則最初即是最後故。

(Sao: Bốn pháp này, tuy cùng gọi là Niệm Phật, nhưng phép trước cạn, phép sau sâu. Trì Danh tuy thuộc môn đầu tiên, nhưng thật ra, chứa đựng ý nghĩa vô tận. Sự nhất tâm là cạn, Lý nhất tâm là sâu. Do Sự chính là Lý, nên cạn chính là sâu. Vì thế nói là “thông triệt trước sau”. Vì sao vậy? Đối với Lý nhất tâm, nhất tâm chính là Thật Tướng, cho nên pháp thoạt đầu chính là pháp tối hậu vậy).

Từ đoạn kết luận này của đại sư, chúng ta mới thật sự thấu hiểu diệu hạnh Trì Danh chẳng thể nghĩ bàn. Trì Danh, Quán Tượng, Quán Tưởng, Thật Tướng, bốn loại Niệm Phật nếu đều triển khai tỉ mỉ để quan sát, [sẽ thấy]: Nó bao gồm Thiền, Mật, Tông, Giáo, vô lượng pháp môn trong Phật pháp, có nghĩa là Thiền và Mật đều chẳng thể vượt khỏi phạm vi của Niệm Phật! Kết luận này hay lắm, đã tổng kết “danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn; chấp trì danh hiệu cũng là chẳng thể nghĩ bàn”. Quý vị nói một câu Phật hiệu là nông cạn thì nó rất nông cạn. Quý vị nói nó là sâu, sẽ là sâu không đáy, nó chính là Sự mà cũng là Lý. Ở đây, đại sư nói “triệt tiền triệt hậu”, Tiền là Trì Danh, Hậu là Thật Tướng.

 

(Diễn) Triệt tiền triệt hậu giả, Lý tức Sự cố triệt tiền, Sự tức Lý cố triệt hậu.

()徹前徹後者,理即事故徹前,事即理故徹後。

(Diễn: “Thông triệt trước sau”: Lý chính là Sự cho nên “thông triệt pháp trước”, Sự chính là Lý nên “thông triệt pháp sau”).

 Trước và sau chẳng hai, Lý và Sự như một, pháp môn như vậy xác thực là các pháp môn bình phàm khác chẳng thể sánh bằng!

 

(Diễn) Lý nhất tâm tức Thật Tướng giả, như thượng sở ngôn Lý nhất tâm giả, tắc Năng Sở tình tiêu, Hữu Vô kiến tận, ly sanh diệt, không hữu đẳng tướng, cố tức Thật Tướng dã.

()理一心即實相者,如上所言理一心者,則能所情消,有無見盡,離生滅空有等相,故即實相也

(Diễn: “Lý nhất tâm chính là Thật Tướng”: Như trong phần trên đã nói “Lý nhất tâm chính là tình chấp về Năng Sở đều mất, kiến giải về Có và Không đã hết”. Do lìa các tướng như sanh, diệt, không, có v.v… nên chính là Thật Tướng).

Đó là hình trạng của Thật Tướng, trong pháp môn Niệm Phật thảy đều trọn đủ. Niệm đến khi công phu thành tựu, đương nhiên chẳng cần phải nói. Nay chúng ta khởi tâm niệm Phật, một câu Phật hiệu hiện tiền có phải là Thật Tướng hay chăng? Nếu đúng là như vậy, Phật hiệu thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Thưa cùng chư vị, một câu Phật hiệu trong hiện tiền xác thực là Thật Tướng. Cớ sao là Thật Tướng? Nếu niệm Phật chẳng hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn, quý vị có thể niệm như vậy, câu Phật hiệu ấy chính là Thật Tướng. Đó gọi là “một niệm tương ứng một niệm Phật”, tương ứng với gì? Tương ứng với Thật Tướng. Nói cách khác, quý vị có hoài nghi, sẽ chẳng tương ứng với Thật Tướng, [vì] trong Thật Tướng chẳng có nghi. Quý vị có xen tạp, bèn chẳng tương ứng với Thật Tướng, [bởi lẽ], Thật Tướng là thanh tịnh, chẳng có xen tạp. Quý vị có gián đoạn, lại chẳng tương ứng, vì Thật Tướng bất sanh bất diệt. Có thể thấy ba điều kiện ấy thảy đều trọn đủ, câu Phật hiệu ngay lập tức là Thật Tướng.

“Tắc Năng Sở tình tiêu” (Tình chấp Năng và Sở đều tiêu); năng niệm (chủ thể niệm, cái tâm niệm Phật) và sở niệm (đức Phật được niệm, danh hiệu Phật được niệm). Quý vị niệm câu A Di Đà Phật, chớ nên nghĩ: “Ta là năng niệm, A Di Đà Phật là đối tượng được niệm bởi ta”. Nếu quý vị còn nghĩ như thế, tức là đã dấy vọng tưởng, xen tạp. Đó gọi là “tạp loạn”. Tình chấp Năng và Sở đều tiêu, Năng Niệm và Sở Niệm đã hợp thành một, là nhất niệm. Trong ấy, chẳng thể tìm thấy Năng và Sở. “Hữu vô kiến tận” (Kiến giải về Hữu và Vô đã hết). Hữu – Vô là tà kiến, chẳng phải là chánh kiến. Năng và Sở [như đã nhắc tới] trong phần trước chính là phiền não, là mê tình. Vì thế, hết thảy tà tri tà kiến cũng đều chẳng có. Phải niệm sao cho một câu Phật hiệu này dứt sạch phiền não và tri kiến, như vậy thì mới thật sự đạt đến “thanh tịnh, bình đẳng, giác”. “Thanh tịnh, bình đẳng, giác” là Thật Tướng, là bản tánh của chính mình, là bản thể của pháp giới. “Ly sanh diệt không hữu đẳng tướng” (Lìa các tướng như sanh, diệt, không, có v.v…), đương nhiên đó chính là Thật Tướng, chúng ta thường gọi điều này là “công đức của danh hiệu”. Người niệm Phật rất nhiều, người biết công đức chân thật của danh hiệu chẳng mấy. Nếu họ thật sự biết, công phu niệm Phật bèn đắc lực. Người ấy niệm một câu Phật hiệu xác thực là có thể tiêu tai diệt tội, có thể vãng sanh thấy Phật. “Tối sơ tức thị tối hậu” (Thoạt đầu chính là cuối cùng), “tối sơ” là khi chúng ta vừa mới phát tâm niệm Phật; “tối hậu” là viên thành Phật đạo. Điều này rất chẳng thể nghĩ bàn, bất cứ pháp môn nào cũng đều chẳng có cách nào sánh bằng Niệm Phật! Tuy nói như vậy, người tin tưởng rất ít, kẻ chẳng tin rất nhiều, luôn nghĩ là người niệm Phật tự khoe khoang, bốc phét, chẳng thật; kẻ bình phàm dấy lòng hoài nghi. Họ ít thiện căn, phước đức chẳng đủ, nghe pháp môn này chẳng tránh khỏi hoài nghi, do dự. Do vậy, [để tu tập] pháp môn này, nhất định phải là nhiều thiện căn, nhiều phước đức. Kinh Di Đà dạy: “Chẳng thể do ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”, chính là nói rõ thiện căn và phước đức ít ỏi sẽ không được, sẽ chẳng thể tiếp nhận, thậm chí nghe xong còn hiểu lệch lạc ý nghĩa, hiểu biết sai lầm!

 

(Sao) Vấn: Khởi đắc xưng danh tiện thành Thật Tướng?

()問:豈得稱名便成實相?

(Sao: Hỏi: Há có lẽ nào xưng danh chính là Thật Tướng?)

 Trì Danh là Thật Tướng, thoạt đầu chính là cuối cùng, nghe xong có thể khiến cho người ta hoài nghi, lập tức nêu ra câu hỏi!

 

(Diễn) Khởi đắc xưng danh tiện thành Thật Tướng giả, dĩ xưng danh niệm Phật, niệm niệm khởi diệt, thị sanh diệt tướng. Niệm thời tắc hữu, bất niệm tắc vô, thị không hữu tướng. Năng niệm thị tâm, sở niệm thị Phật, thị năng sở tướng. Xưng Phật danh hiệu, dĩ tâm duyên lịch, thị ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên đẳng tướng, hà ngôn tức Thật Tướng da?

()豈得稱名便成實相者,以稱名念佛,念念起滅,是生滅相;念時則有,不念則無,是空有相;能念是心,所念是佛,是能所相;稱佛名號,以心緣歷,是言說名字心緣等相,何言即實相耶?

(Diễn: “Há có lẽ nào xưng danh chính là Thật Tướng?”: Do xưng danh niệm Phật, khởi lên rồi diệt mất trong mỗi niệm. Đó là tướng sanh diệt. Khi niệm thì có, chẳng niệm bèn không. Đó là tướng Không Hữu. Chủ thể để niệm là cái tâm, đối tượng được niệm là Phật. Đó là tướng Năng Sở. Xưng danh hiệu Phật, dùng tâm duyên theo. Đó chính là các tướng ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên v.v… Cớ sao nói là Thật Tướng cho được?)

“Sanh  diệt”  chẳng  phải  là  Thật  Tướng, “Không – Hữu”  chẳng phải là Thật Tướng. Có Năng có Sở, há có thể gọi là Thật Tướng? Trong một câu hỏi của người ấy chứa đựng nhiều ý nghĩa như vậy.

 

(Sao) Đáp: Thật Tướng vân giả, phi tất diệt trừ chư tướng, cái tức tướng nhi vô tướng dã.

()答:實相云者,非必滅除諸相,蓋即相而無相也。

(Sao: Đáp: Nói “Thật Tướng” chẳng phải là ắt phải diệt trừ các tướng, bởi lẽ, từ ngay nơi tướng mà [nhận biết] chẳng có tướng).

Nói thật ra, đến chỗ này, đã giải đáp trọn hết, đã giải đáp rất viên mãn, [nhưng Liên Trì đại sư] sợ người nghe vẫn chưa hiểu, nên tiếp đó lại dẫn chứng. Đại sư bảo cho chúng ta biết: Ý nghĩa khẩn yếu là “Thật Tướng trọn chẳng phải là tiêu diệt hết thảy các tướng”. “Chư tướng” là nói đến tướng sanh diệt, tướng Không Hữu, tướng Năng Sở, cũng như các tướng ngôn thuyết, danh tự, tâm duyên v.v… [những tướng ấy đều] chẳng cần phải tiêu diệt. Vì sao chẳng cần tiêu diệt? Vì “phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Hư vọng thì quý vị cần gì phải tiêu diệt nó? Nó là thật thì quý vị mới tiêu diệt, nó chẳng phải là thật sự có! Nó là hư vọng, “đương thể tức Không, liễu bất khả đắc” (bản thể chính là Không, trọn chẳng thể được). Quý vị muốn tiêu diệt hư vọng, chẳng phải là tự chuốc phiền ư? Lại sai mất rồi! Ví như bóng dáng là giả, cớ gì cứ nhất định phải diệt trừ bóng dáng? Chẳng cần thiết!

 

(Diễn) Đáp viết: Vị Thật Tướng giả, phi vi diệt trừ chư tướng, nhi đàm Thật Tướng, tức tướng vô tướng, danh Thật Tướng dã.

()答曰:謂實相者,非為滅除諸相,而談實相,即相無相,名實相也。

(Diễn: Đáp: Ý nói “Thật Tướng chẳng phải là diệt trừ các tướng”. Nói đến Thật Tướng thì nó chính là tướng mà chẳng có tướng, nên gọi là Thật Tướng).

Thật vậy! Đấy mới là Thật Tướng thật sự. Câu “tức tướng vô tướng” có đạo lý rất sâu, mà cũng là một chuyện rất chân thật. Từ Quyền Giáo và Tiểu Thừa trở xuống, Quyền Giáo Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, lục đạo phàm phu, chẳng hiểu rõ chân tướng vũ trụ và nhân sinh. Thật Tướng là chân tướng. Do chẳng biết chân tướng, lầm tưởng những tướng ấy đều là chân thật, sai lầm ở chỗ này. Chẳng biết chân tướng của hết thảy các tướng, đó là mê hoặc. Sau khi đã mê bèn tạo nghiệp, tạo nghiệp thì phải hứng chịu quả báo, quả báo ấy vẫn là hư vọng. Tuy Hoặc, Nghiệp, Khổ đều là hư vọng, chẳng thật sự tồn tại, bản thể của chúng là Không, nhưng đối với người mê, bèn thật sự có cảm nhận [dường như chúng thật sự tồn tại], giống như nằm mộng, mộng là giả, nhưng khi nằm mộng, ở trong mộng chẳng biết giấc mộng ấy là giả, trong mộng có khổ nạn, thật sự có cảm nhận [đau đớn, hoảng sợ].

Người giác ngộ ở trong mộng bèn biết chính mình đang nằm mộng, biết hết thảy đều là mộng cảnh, đó gọi là “thấy thấu suốt”. Đã là mộng cảnh, trong hết thảy cảnh giới thuận nghịch đều nhất loạt chẳng có cảm thọ, [tức là] trong thuận cảnh chẳng có lạc thọ, trong nghịch cảnh chẳng có khổ thọ, tâm người ấy bình thường. Đó gọi là “buông xuống”, là “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”, chẳng có chướng ngại! Cớ gì cứ nhất định phải phá trừ mộng thì mới gọi là Thật Tướng? Biết giấc mộng ấy là Thật Tướng, mộng cảnh cũng là sự thật. Nhất định phải hiểu rõ chân tướng sự thật, [đã hiểu rõ] bèn gọi là Thật Tướng. Về Thể, quyết định chẳng có, nên gọi là Vô Tướng Thật Tướng. Xét theo Sự, xác thực là có chuyện như vậy, nên gọi là Vô Bất Tướng Thật Tướng. Có thể thấy là Không, Có, sanh diệt, Năng Sở, không gì chẳng phải là Thật Tướng. Quý vị đã hiểu rõ, đã thấu hiểu chân tướng sự thật, đó là Thật Tướng. Chẳng hiểu rõ thì Lý cũng là vọng tướng (妄相: tướng hư vọng), Sự cũng là vọng tướng, chắc chắn là quý vị chẳng thấy Thật Tướng. Người đã thấy Thật Tướng, cũng chính là bậc được gọi là “viên thật Bồ Tát”, [nghĩa là] Viên Giáo Bồ Tát, Thật Giáo Bồ Tát. “Thật” là nói đối ứng với Quyền, cũng nêu rõ người ấy chính là bậc minh tâm kiến tánh Bồ Tát. Trong bất luận cảnh giới nào, tâm địa người ấy thanh tịnh, bình đẳng, tuyệt đối chẳng khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước.

Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, còn khởi tâm động niệm hay không? Còn phân biệt, chấp trước hay không? Nếu khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, chính mình hãy suy nghĩ: Ta vẫn là phàm phu, chẳng có năng lực liễu sanh tử, thoát tam giới. Công phu niệm Phật như vậy sẽ chẳng nắm chắc vãng sanh. Chẳng thể nói là “[tuyệt đối] không thể vãng sanh”, [vẫn] có thể vãng sanh, nhưng phải xét theo vận may của quý vị! Đó là đới nghiệp vãng sanh. Đới nghiệp vãng sanh thì đích xác là phải xét theo nhân duyên của mỗi người: Khi quý vị lâm chung, một niệm cuối cùng có phải là A Di Đà Phật hay không? Nếu là A Di Đà Phật, bèn vãng sanh. Niệm Phật suốt một đời, đến khi lâm chung, niệm cuối cùng chẳng phải là A Di Đà Phật thì cũng chẳng có cách nào, đời này chẳng thể thành tựu! Do vậy, quyết định là do duyên. Duyên đã quan trọng như vậy, mới biết tánh chất quan trọng của việc Phật, Tổ dạy chúng ta đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. “Đoạn hết thảy ác” là xa lìa ác duyên; “tu hết thảy thiện” là chúng ta phải khéo tu thiện duyên. Thiện duyên có thể giúp đỡ chúng ta thành tựu đạo nghiệp.

Người tu đạo nếu chẳng phải là bậc tái lai thì nghiệp chướng lẫn tập khí đều rất nặng. Biết chính mình tội nghiệp sâu nặng, biết chính mình trước khi học Phật đã tạo nhiều tội nghiệp. Tội nghiệp ấy chẳng nhất định là chuyện tạo tác hữu hình, mà khởi tâm động niệm đều là tội nghiệp. Kinh Địa Tạng dạy: “Diêm Phù Đề chúng sanh khởi tâm động niệm, vô phi thị tội” (Chúng sanh trong Diêm Phù Đề khởi tâm động niệm, không gì chẳng phải là tội). Tội như thế nào? Khởi tâm động niệm đều là lợi mình, tổn người. Do tâm người ấy là như vậy, cho nên hành vi cũng là như vậy. Đã xuất gia, nếu xuất gia mà chẳng thật sự giác ngộ, chẳng thật sự phát tâm tu đạo, vẫn còn mang theo tập khí lúc còn tại gia. Nói cách khác, [kẻ ấy] vào trong Phật môn tạo tội nghiệp còn nặng hơn thuở tại gia rất nhiều lần. Vì nơi đây là đạo tràng Phật pháp, quý vị ở trong tăng đoàn khuấy động thị phi, đòn xóc hai đầu, phá hòa hợp tăng, do tội lỗi ấy, sẽ đọa vào địa ngục A Tỳ. Ở trong thế gian, nếu làm những chuyện ấy, đương nhiên là cũng có tội, nhưng chẳng nặng dường ấy. Sứ mạng của Tăng đoàn là hoằng pháp lợi sanh, quý vị đến hủy hoại, làm tăng đoàn suy bại, tội lỗi ấy nặng nề! Tục ngữ có câu “trước cửa địa ngục, tăng đạo đông” là có đạo lý, chẳng phải là nói tùy tiện, cũng chẳng phải là nhiếc móc người xuất gia tu đạo. Đó là sự thật. Đối với tội nghiệp do thế gian đã tạo, trong Phật môn tạo tội nghiệp y hệt, nhưng mức độ [kết tội sẽ] cạn hay sâu khác nhau! Thế gian tạo tội cạn, trong Phật môn tạo tội nặng, khác hẳn! Người học Phật chớ nên không biết, chớ nên chẳng cảnh giác, ngàn muôn phần chớ làm!

Đã học Phật thì quyết định phải thành tựu trong một đời này! Muốn thành tựu trong một đời này, chính mình phải thường tưởng: Ta khởi tâm động niệm, tiếp người, đãi vật có giống Phật, Bồ Tát hay không? Đấy mới là thật sự tu hành. Do vậy, mục đích của khóa tụng sáng tối là ở chỗ này. Đặc biệt là đạo tràng của chúng ta, buổi sáng niệm bốn mươi tám nguyện. Khi niệm, hãy suy nghĩ: Tâm nguyện của chúng ta có giống A Di Đà Phật hay không? Buổi tối niệm kinh Vô Lượng Thọ từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy, trong sáu phẩm kinh ấy, đức Thế Tôn đã ban cho chúng ta khá nhiều khai thị, những khai thị ấy đều là chuẩn mực để xử sự, tiếp người, đãi vật, chúng ta có vi phạm hay không? Có phụng hành hay không? Những điều đức Phật dạy chúng ta hãy nên làm, chúng ta có làm hay không? Những điều đức Phật dạy chúng ta đừng nên làm, chúng ta có làm hay không? Khóa tối nhằm phản tỉnh, đó là thật sự tu hành. Tuyệt đối chẳng phải là niệm cho Phật, Bồ Tát nghe, mà là niệm cho chính mình nghe, niệm cho chính mình phản tỉnh. Ý nghĩa thật sự của công khóa sáng tối là ở chỗ này! Do vậy, có thể lãnh hội đôi chút chân tướng vũ trụ và nhân sinh thì đối với muôn hình tượng, nhất định sẽ chẳng chấp trước, sẽ chẳng riết róng, chẳng tạo tội nghiệp. Người ấy sẽ lợi dụng cơ duyên ấy để tu phước cho chính mình, tu tập, tích lũy thiện căn cho chính mình, tuyệt đối chẳng lợi dụng cơ hội này để tạo tội nghiệp. Học Phật và không học Phật sai biệt ở chỗ này.

 

(Sao) Kinh vân: “Trị thế ngữ ngôn, giai dữ Thật Tướng bất tương vi bội”.

()經云:治世語言,皆與實相不相違背。

(Sao: Kinh dạy: “Lời lẽ trị thế đều chẳng trái nghịch Thật Tướng”).

Đấy là một câu trong kinh Phật.

 

(Sao) Vân hà vạn đức hồng danh, bất cập trị thế nhất ngữ?

()云何萬德洪名,不及治世一語?

(Sao: Lẽ nào vạn đức hồng danh chẳng bằng một lời trị thế?)

“Trị thế ngữ ngôn”: “Thế” (世) là thế gian, “trị” (治) là cai trị. Khiến cho hết thảy chúng sanh trong thế gian đạt được an hòa, lợi lạc, những lời lẽ ấy được gọi là “trị thế ngữ ngôn” (lời lẽ trị thế). Giống như Tứ Thư và Ngũ Kinh của Nho gia là “lời lẽ trị thế”, xác thực là chẳng trái nghịch Thật Tướng. Nếu trái nghịch Thật Tướng, những sách ấy chẳng thể gọi là “kinh”. Gọi là “kinh”, nói theo cách hiện thời, nó là chân lý. Chân lý siêu việt không gian, nói theo cách hiện thời, [sẽ là] siêu việt quốc gia, siêu việt dân tộc, siêu việt tôn giáo, siêu việt chánh trị, bất cứ quốc gia, dân tộc, người thuộc khu vực nào, y theo phương pháp trong ấy, đều có thể đạt được lợi ích. Kế đó, do siêu thời gian, nên thời cổ dùng những phương pháp ấy có thể đạt được an hòa, lợi lạc; hiện thời dùng phương pháp ấy thì cũng có thể đạt được [an hòa, lợi lạc y hệt như vậy]; ngàn vạn năm trong tương lai dùng phương pháp ấy, vẫn có thể đạt được, đó mới gọi là Kinh. Vì sao nó có thể siêu việt thời gian và không gian? Vì nó tương ứng với Thật Tướng, Thật Tướng siêu việt thời gian và không gian; do đó, kinh cũng siêu việt thời gian và không gian. Chỉ có thể siêu việt thời gian và không gian thì mới gọi là kinh điển. Sách vở thế gian của Khổng, Mạnh, chư tử bách gia còn chẳng trái nghịch Thật Tướng, há câu vạn đức hồng danh A Di Đà Phật còn chẳng sánh bằng Tứ Thư, Ngũ Kinh ư? Đại sư dùng chuyện này làm dẫn chứng để nói.

 

(Diễn) Trị thế ngữ ngôn giai dữ Thật Tướng bất vi bội giả, dĩ chứng ý Thật Tướng, tắc chư sở thuyết pháp vô phi Thật Tướng, cố bất tương vi bội, tuy thuyết tục sự, diệc thuận chánh pháp dã.

()治世語言皆與實相不違背者,以證意實相,則諸所說法無非實相,故不相違背,雖說俗事,亦順正法也。

(Diễn: “Lời lẽ trị thế đều chẳng trái nghịch Thật Tướng”: Do chứng đắc Thật Tướng của Ý nên các pháp đã nói không gì chẳng phải là Thật Tướng, cho nên chẳng trái nghịch. Tuy nói chuyện thế tục, cũng thuận theo chánh pháp).

 Do chứng đắc Thật Tướng nơi Ý Căn, tức là Ý Căn thanh tịnh bèn nhập Thật Tướng, nên những pháp đã được nói ra không gì chẳng phải là Thật Tướng. Đó gọi là “viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên” (người căn tánh viên đốn thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên mãn). Người ấy nói kinh điển thế gian, như Tứ Thư, Ngũ Kinh [chẳng hạn], cũng đều chẳng trái nghịch Thật Tướng. Đã chứng đắc Thật Tướng bèn gọi là “viên nhân”. Kiến giải và suy nghĩ của người ấy viên mãn, chẳng khiếm khuyết. Người chẳng kiến tánh, tri kiến sẽ chẳng viên. Nói cách khác, người ấy có chấp trước, phân biệt, chúng ta thường nói là “cách nhìn phiến diện”, chẳng thể viên dung. Người khế nhập Thật Tướng sẽ viên dung. Chính vì người ấy viên dung, nên có thể ứng cơ thuyết pháp. Như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, đáng nên dùng thân gì để thuyết pháp bèn hiện thân ấy thuyết pháp, đó là viên dung, xác thực là có thể lợi ích chúng sanh, tuyệt đối chẳng gây trở ngại cho chúng sanh. Kẻ tri kiến chẳng viên mãn, có thể gây trở ngại cho chúng sanh. Ví như người ấy tu pháp môn này rất khá, mong mỏi người khác thảy đều tu pháp môn này, đó là tri kiến chẳng viên mãn. Vì sao? Những người đó có căn tánh giống như chính mình hay không? Nếu căn tánh khác nhau, ta cưỡng ép người ấy tu pháp môn này, người ấy chẳng thể thành tựu. Nếu học pháp môn khác, người ấy có thể thành công. Ví như người ấy thật thà niệm Phật, chúng ta khích lệ, khuyên người ấy niệm Phật, người ấy có thể thật sự vãng sanh trong một đời này, có thể gặp A Di Đà Phật. Nay ta thích tham Thiền, bèn nói: “Pháp này của ta hay lắm, hãy học theo ta”. Người ấy tham Thiền suốt cả một đời, ngay cả Sơ Thiền cũng chưa đạt được, đời sau vẫn phải luân hồi trong lục đạo, đó là cắt đứt cơ hội vãng sanh thành Phật của người ta trong một đời này, tàn khốc dường ấy! Kẻ đó tuy là một phen hảo tâm, nhưng kết quả của hành động ấy hết sức tàn nhẫn. Đó chẳng phải là thiện tri thức, mà là ma! Gặp phải kẻ đó, kể như đời này đã tiêu rồi!

Cư sĩ Giản Phong Văn đặc biệt ưa thích Đàn Kinh và kinh Kim Cang, nhiều lần tuyên giảng ở nơi đây, cũng dùng phương pháp ấy để tiếp dẫn đại chúng. Tôi cảnh tỉnh ông ta: “Ông hãy nên có thái độ giống như Lục Tổ, chỉ dạy người thượng thượng căn, đừng dạy kẻ trung hạ. Vì sao? Họ chẳng có phần!” Tôi nói: “Ông dùng thái độ đó sẽ là đại từ đại bi, chẳng hại chúng sanh. Tu học pháp môn ấy chính là thượng thượng căn, căn tánh Đại Thừa còn chẳng có phần. Đó là đúng, chẳng sai!” Có thể thấy là chẳng có pháp môn nào không hay, nhưng nhất định phải khế cơ và khế lý. Chẳng khế lý, sẽ trở thành ma thuyết. Chẳng khế cơ, sẽ chẳng đạt được lợi ích trong đời này, nói uổng công! Người căn tánh viên đốn thuyết pháp bèn khế cơ, vì họ đại khai viên giải, có trí huệ chân thật viên mãn, dẫu nói chuyện thế tục cũng là chánh pháp, luôn tương ứng với chánh pháp.

 

(Diễn) Kinh vân: “Dĩ thị thanh tịnh ý căn, nãi chí văn nhất kệ, nhất cú, thông đạt vô lượng vô biên chi nghĩa, năng diễn thuyết nhất cú, nhất kệ, chí ư nhất nguyệt, tứ nguyệt, nãi chí nhất tuế, chư sở thuyết pháp, tùy kỳ nghĩa thú, giai dữ Thật Tướng bất tương vi bội. Nhược thuyết tục gian kinh thư, trị thế ngữ ngôn, tư sanh nghiệp đẳng, giai thuận chánh pháp”.

()經云:以是清淨意根,乃至聞一偈一句,通達無量無邊之義,能演說一句一偈,至於一月四月乃至一歲,諸所說法,隨其義趣,皆與實相不相違背;若說俗間經書、治世語言、資生業等,皆順正法。

(Diễn: Kinh nói: “Do Ý Căn thanh tịnh cho đến nghe một kệ, một câu, mà thông đạt vô lượng vô biên nghĩa, có thể diễn thuyết một câu, một kệ, bèn từ một tháng cho đến bốn tháng, thậm chí cả năm, những pháp đã nói đều thuận theo nghĩa thú ấy, đều chẳng trái nghịch Thật Tướng. Nếu có nói đến những kinh sách trong cõi đời, những lời lẽ trị thế, các nghề nghiệp kiếm sống v.v… đều thuận theo chánh pháp”).

Đối với đoạn này, chúng ta có thể dẫn kinh Hoa Nghiêm để chứng minh. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, gặp gỡ năm mươi ba vị thiện tri thức, chỉ có sáu vị là người xuất gia[40], những vị khác đều là tại gia, làm các nghề nghiệp trong thế gian, đều là chánh pháp. Nói cách khác, đều có thể tương ứng với Thật Tướng. Kinh doanh, thợ thuyền, cầm quyền, dạy học, làm lính, thảy đều tương ứng với Thật Tướng. Do đó nói: “Có pháp nào chẳng phải là Phật pháp?” Pháp nào cũng đều là [Phật pháp]. Có nghề nghiệp nào chẳng phải là tu Lục Độ, Tứ Nhiếp? Các nghề nghiệp, nam, nữ, già, trẻ, thật sự giác ngộ, thảy đều đang hành Bồ Tát đạo, thảy đều tu Vô Thượng Bồ Đề, chẳng có một pháp nào không phải!

Vì sao nay chúng ta niệm Phật cũng chẳng phải [là tu Vô Thượng Bồ Đề]? Trong đoạn này, có một câu hết sức quan trọng! “Thanh tịnh Ý Căn”. Nay chúng ta chẳng có điều này, đó là chỗ then chốt quyết định là Bồ Tát hay phàm phu. Ý Căn của chúng ta là Ý Căn nhiễm ô, có thể chuyển biến nhiễm ô thành thanh tịnh thì là Bồ Tát. Học Phật là học từ chỗ nào? Có một vị tỳ-kheo-ni muốn theo học với tôi, còn có một vị cư sĩ cũng muốn phát tâm theo tôi đến Mỹ để học, hỏi tôi cần có điều kiện gì? Điều kiện của tôi là “thanh tịnh Ý Căn”. Như thế nào thì mới có thể thanh tịnh Ý Căn? Trước hết, hãy niệm kinh. Kinh điển để làm căn cứ cho đạo tràng nhỏ này của chúng ta có tất cả bảy bộ: Kinh Vô Lượng Thọ, Di Đà Kinh Yếu Giải, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung, đối với kinh Phật chúng ta chỉ chọn lấy bốn bộ, ba thứ khác thuộc loại ngôn ngữ trị thế, tức Liễu Phàm Tứ Huấn, Cảm Ứng Thiên, và Tứ Thư. Học nằm lòng bảy thứ ấy, tâm quý vị sẽ thanh tịnh. Trong kinh có ý nghĩa gì, chẳng cần suy nghĩ! Chẳng có ý nghĩa gì, cứ thật thà niệm là được. Mỗi ngày niệm mười lần, hai mươi lần, niệm suốt năm năm, có thể niệm cho cái tâm thanh tịnh. Sau đấy mới tìm tới tôi, điều kiện của tôi là như vậy đó.

Tâm chẳng thanh tịnh, những thứ quý vị đã học đều biến thành tà tri tà kiến. Thanh Lương đại sư đã nói lời này. Nói thật ra, [đó chính là] lời dạy của đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm dạy chúng ta trước hết hãy phát Bồ Đề tâm. Nói “phát Bồ Đề tâm” có nghĩa là dụng tâm chân thành. Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm cung kính để xử sự, đãi người, tiếp vật, đó là “phát Bồ Đề tâm”. Chân tâm khởi tác dụng là đại từ đại bi. Vì thế, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện chính là Bồ Đề tâm thật sự. “Độ” (度) là ta giúp đỡ, hiệp trợ kẻ ấy. Chịu giúp đỡ, hiệp trợ chúng sanh, chư vị ngẫm xem, làm sao có thể hại chúng sanh cho được? Làm sao chướng ngại họ cho được? Làm sao ngăn trở, quấy nhiễu họ cho được? Chẳng thể nào! Sau đấy mới tu hành. Để tu hành, hãy học khởi đầu từ đâu? Đoạn phiền não. Chẳng đoạn phiền não, chẳng thể học pháp môn. Chưa đoạn phiền não, học một chút pháp môn nhằm giúp đoạn phiền não. Sau khi đã đoạn hết phiền não, tiến nhập nguyện thứ ba là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Khi ấy, vẫn phải đoạn phiền não. Đoạn phiền não nhằm giúp học pháp môn. Khi ấy, học pháp môn là chánh yếu, đoạn phiền não là phụ trợ. Trong giai đoạn thứ nhất này, đoạn phiền não là chánh yếu, học pháp môn là phụ trợ. Chánh Trợ song tu như vậy thì mới có thể viên thành Phật đạo. Toàn thể những thứ tự này đều ở trong kinh Hoa Nghiêm.

Nay chúng ta gặp pháp môn như vậy, có các đồng tu thường ở cùng một chỗ dùi mài lẫn nhau, nhân duyên này chẳng thể nghĩ bàn! Đúng như ông Bành Tế Thanh đã nói: “Hiếm có, khó gặp, từ vô lượng kiếp tới nay”. Nếu nay chúng ta đã gặp gỡ, mà khinh thường, bỏ lỡ, nói thật ra, thiện căn và phước đức quá ít. Nếu có thể thật sự nắm chắc cơ duyên này, sẽ quyết định liễu sanh tử, thành Phật đạo ngay trong một đời này. Đã gặp duyên, quyết định chớ nên bỏ lỡ, phải thật sự tu học. Do vậy, điều then chốt là thanh tịnh Ý Căn.

Có những đồng học đến hỏi: “Tu học như vậy có phải là rất ngây ngốc hay chăng? Có phải là rất chậm chạp hay không?” Thật ra, nếu họ nghe hiểu lời tôi nói, chẳng thể nào đưa ra câu hỏi ấy. Vì sao? Bắt đầu, tôi bảo quý vị tu đoạn phiền não, chẳng bảo quý vị học pháp môn! Pháp môn vẫn chưa bắt đầu học, làm sao quý vị biết là nhanh hay chậm? Trước hết, buộc quý vị thực hành trong năm năm, năm năm chưa được thì mười năm, làm gì vậy? Đoạn phiền não, tu thanh tịnh Ý Căn. Tâm đã thật sự thanh tịnh rồi mới bắt đầu học pháp môn. Khi ấy, học pháp môn, thưa cùng chư vị, giống như một bộ Đại Tạng Kinh, tối đa là ba năm sẽ thông đạt toàn bộ. Ý Căn của quý vị chẳng thanh tịnh, cho quý vị [học Đại Tạng Kinh suốt] ba trăm năm, vẫn chẳng thể thông đạt. Ý Căn thanh tịnh, ba năm bèn thông đạt. Y theo phương pháp này để tu thì mới thật sự là đường tắt. Vì sao nói ba năm bèn thông đạt? Vì tâm quý vị đã thanh tịnh, Phật pháp hoàn toàn lưu lộ từ cái tâm thanh tịnh. Tâm quý vị thanh tịnh giống như tâm Phật, vừa thấy liền thông đạt, liền liễu giải, chẳng cần giảng giải. Vì sao? Văn chương do chính mình viết, còn cần phải có người khác giảng giải cho chính mình, chẳng phải là lời lẽ quá nực cười ư? Đại Tạng Kinh là văn chương, là ngôn ngữ của chính mình; do đó, vừa xem mười hàng, thậm chí vừa lướt mắt nhìn qua hai mươi hàng, vừa đọc bèn hiểu rõ hoàn toàn. Lật từng trang, xem chưa được mấy ngày đã xem xong, có năng lực như vậy đó. Nay tâm quý vị chẳng thanh tịnh, nghe giảng cũng chẳng hiểu, nghe xong còn hiểu sai ý nghĩa, có oan uổng hay không? Do đó, học tập phải có thứ tự, [phải tuân theo] phương pháp, chẳng thể vượt cấp tràn lan! Do vậy, mới hiểu tầm quan trọng của chuyện tu tâm thanh tịnh!

Thanh tịnh Ý Căn là Căn Bản Trí, học rộng nghe nhiều là Hậu Đắc Trí, trí huệ hiện tiền, sáu căn vừa tiếp xúc bèn thông đạt. Quý vị xem Lục Tổ Đàn Kinh, [sẽ thấy] Lục Tổ Huệ Năng đại sư có bản lãnh ấy. Ngài chẳng biết chữ, chưa hề đi học, quý vị niệm kinh cho Ngài nghe, Ngài hiểu ngay. Lại còn chẳng cần phải niệm từ đầu đến cuối, niệm một đoạn ngắn, [thế mà] toàn bộ bản kinh đều biết. Bản thân quý vị hãy suy ngẫm, quý vị học một bộ kinh Pháp Hoa phải mất bao lâu? Trí Giả đại sư giảng tựa đề kinh mất chín mươi ngày, còn chưa giảng đến phần kinh văn. Huệ Năng đại sư phải học trong bao lâu? Tôi thấy là chưa đầy một giờ, Ngài đã quán thông toàn bộ. Tổ bảo thiền sư Pháp Đạt niệm kinh cho Ngài nghe, chỉ niệm đến phẩm thứ hai là phẩm Phương Tiện, Lục Tổ nói: “Chẳng cần niệm nữa, ta biết cả rồi”. Ngài đã học hiểu. Ngài bèn nói cho thiền sư Pháp Đạt nghe, thiền sư Pháp Đạt ngay lập tức khai ngộ. Nếu Ngài chẳng thật sự thông đạt, có thể nào nói ra ý nghĩa thật sự đơn giản, ngắn gọn trong ấy, khiến cho người khác vừa nghe bèn khai ngộ, minh tâm kiến tánh. Do nguyên nhân gì? Người ta Ý Căn thanh tịnh, chẳng có gì khác cả! Tâm lão nhân gia “vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”. Nay trong tâm chúng ta lộn xộn, gột rửa cũng chẳng thể gột sạch, khác nhau ở ngay chỗ này!

Do vậy, tu học Phật pháp chẳng có gì khác, chính là tu thanh tịnh Ý Căn, tu tâm thanh tịnh. Nếu tâm quý vị đạt đến thanh tịnh, quyết định vãng sanh. Quý vị nếu đắc Ý Căn thanh tịnh, trong suốt một đời này, chắc chắn là hạnh phúc mỹ mãn, quyết định vui sướng vô cùng, đó là đạt được lợi ích ngay trong đời hiện tại. Hết thảy phiền não, hết thảy tai nạn, đều do Ý Căn của chính mình chẳng thanh tịnh mà có. Bất luận là trên phương diện tinh thần, trên phương diện sinh lý, hay trên phương diện vật chất, tất cả hết thảy tai nạn đều do Ý Căn chẳng thanh tịnh, chúng ta phải nên đặc biệt coi trọng điều này. Tu tâm thanh tịnh, tâm tịnh, ắt thân thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh, cảnh giới thanh tịnh (thế giới bèn thanh tịnh). Tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh; điều này không chỉ là tông chỉ tu hành của Tịnh Tông, mà cũng là của toàn thể Phật pháp. Bất luận tông nào, phái nào, đều chẳng lìa khỏi nguyên tắc này.

Do vì người ta có tâm thanh tịnh, [cho nên] “nãi chí văn nhất kệ, nhất cú, thông đạt vô lượng vô biên chi nghĩa” (cho đến nghe một kệ, một câu, bèn thông đạt vô lượng vô biên nghĩa). Công án về Lục Tổ đại sư và thiền sư Pháp Đạt là một chứng minh, Ngài chẳng cần nghe toàn bộ kinh, nghe một phần bèn thông đạt toàn bộ. Với điều kiện giống như Lục Tổ, học một bộ Đại Tạng Kinh sẽ mất bao nhiêu thời gian để học xong? Tôi cho Ngài ba năm thì quý vị nghĩ thử xem có phải là thời gian quá dài hay chăng? Đúng là quá dài! Chư vị phải hiểu: Đây chính là bí quyết thông đạt Đại Tạng Kinh nhanh chóng. Nếu không, trong một đời mà quý vị muốn thông đạt một bộ kinh cũng chẳng dễ dàng, luôn luôn là rất khó! Y theo phương pháp này, trong một đời này, quý vị có thể thông đạt hết thảy các kinh, có thể thông suốt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian.

“Năng diễn thuyết nhất cú, nhất kệ, chí ư nhất nguyệt, tứ nguyệt, nãi chí nhất tuế” (Có thể diễn nói một câu, một kệ, từ một tháng cho đến bốn tháng, thậm chí đến suốt cả năm). “nhất tuế” (一歲) là một năm. Do Phật pháp và lời lẽ trị thế của thế gian tương ứng với Thật Tướng, đối với “một câu, một kệ” ở đây, “một kệ” là bốn câu, để giảng giải cho quý vị một câu hoặc một bài kệ bốn câu, có thể giảng suốt một tháng, bốn tháng, hoặc một năm. Chuyện này chẳng giả! Trí Giả đại sư giảng năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh suốt chín mươi ngày. Điều này cho thấy phàm những gì tương ứng với Thật Tướng thảy đều là vô lượng nghĩa. Vì Thật Tướng vô lượng, [cho nên ý nghĩa sẽ là] vô lượng vô biên. [Đã là] vô lượng nghĩa thì làm sao có thể nói trọn hết cho được? Giảng một câu kinh văn suốt cả năm! Đó là nói rất ít. Nếu nói dài hơn một tí, sợ sẽ dọa quý vị chết khiếp, [thật ra là] một câu kinh văn giảng suốt vô lượng kiếp vẫn chẳng giảng xong. Đó là sự thật, chẳng giả, vô lượng nghĩa mà! “Chư sở thuyết pháp, tùy kỳ nghĩa thú, giai dữ Thật Tướng bất tương vi bội” (Các pháp được nói đều thuận theo nghĩa thú ấy, đều chẳng trái nghịch Thật Tướng). Kinh điển Đại Tiểu Thừa không gì chẳng phải là như vậy, đều sanh từ Thật Tướng. Chớ nên xem thường kinh Tiểu Thừa, kinh sách thế gian giống như kinh Tiểu Thừa, bất quá [kinh sách thế gian] nói rất nông cạn, rất thông tục, hoàn toàn thuận theo kiểu nói của thế gian, nhưng vẫn chẳng lìa Thật Tướng. Tùy thuận thế gian mà vẫn chẳng lìa Thật Tướng. Do đó, đều là vô lượng nghĩa.

“Nhược thuyết tục gian kinh thư, trị thế ngữ ngôn” (Nếu nói kinh sách, lời lẽ trị thế trong cõi thế tục), kinh sách thế gian [như các tác phẩm của] Nho gia, Đạo gia, cho đến các tác phẩm của chư tử bách gia, nay nói là thư tịch của hết thảy tôn giáo, Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, Y Tư Lan giáo (đạo Hồi), chỉ cần là chánh giáo, sẽ đều là “tục gian kinh thư”. “Trị thế ngữ ngôn” là các loại học thuyết chánh trị, người hiện thời gọi là “triết học chánh trị”. Như sách Trinh Quán Chánh Yếu[41] vào đời Đường là sách thuộc loại này, chính là một tác phẩm khuôn mẫu thuộc thể loại chánh trị, hoặc là sách thực lục của mỗi triều đại trong lịch sử, như Tư Trị Thông Giám[42], đều thuộc loại này. “Tư sanh nghiệp đẳng” là sách vở thuộc về phương diện kinh tế, bao gồm công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, y học, thủy lợi. “Tư sanh” (資生) có nghĩa là những sách vở ấy cần thiết cho cuộc sống vật chất và tinh thần của chúng ta. “Giai thuận chánh pháp” (Đều thuận theo chánh pháp). “Thuận chánh pháp” là chẳng trái nghịch Thật Tướng. Thật sự hiểu rõ, quý vị mới biết Phật pháp chẳng lìa khỏi thế gian. Phật pháp ở nơi đâu? Sinh hoạt, cư xử của chúng ta từ sáng đến tối chính là Phật pháp; tuyệt đối chẳng phải là tách rời cuộc sống, tách rời xã hội, tách rời nhân quần mà có riêng Phật pháp. [Nếu hiểu là tách rời] thì sai mất rồi, hoàn toàn chẳng tương ứng. Phật pháp ở ngay trong cuộc sống!

 

(Sao) Nhất xưng Nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo, hà huống kim danh Lý nhất tâm dã.

(Diễn) Dĩ loạn tâm xưng Phật thị vi tối dị, nhi giai thành Phật đạo.

()一稱南無佛,皆已成佛道,何況今名理一心也。

()以亂心稱佛是為最易,而皆成佛道。

(Sao: “Vừa xưng Nam-mô Phật, đều đã thành Phật đạo”, huống hồ nay gọi là Lý nhất tâm.

Diễn: Dùng loạn tâm để xưng danh hiệu Phật là dễ dàng nhất, đều thành tựu Phật đạo).

Cách này dễ dàng nhất, người nào cũng có thể niệm. Dùng cái tâm tạp nhiễm, tâm tán loạn để niệm một câu A Di Đà Phật, có ai chẳng thể niệm được? Niệm một câu Nam-mô Phật, sẽ đều thành Phật đạo. Nhưng chư vị phải hiểu: Câu “giai dĩ thành Phật đạo” (đều đã thành Phật đạo) là thật, chẳng lừa dối quý vị, hoàn toàn chẳng nói “hiện thời đã thành Phật đạo”, chẳng nói “thành Phật đạo ngay trong đời này”, chẳng nói theo kiểu ấy. Do vậy, quý vị chớ nên hiểu lầm. Trong kinh Pháp Hoa có một thí dụ nói rõ chuyện này, do đức Phật chính mắt thấy, trí huệ của Phật mới có thể liễu giải rốt ráo. Thuở đức Phật tại thế, có một người muốn xuất gia, các vị đại đệ tử của đức Phật đều đã chứng A La Hán. Thần thông của A La Hán có thể quán năm trăm đời. Mọi người thấy kẻ ấy trong năm trăm đời chẳng có một tí thiện căn nào, người này làm sao có thể xuất gia cho được? Mọi người thấy vậy đều lắc đầu. Thích Ca Mâu Ni Phật nói người ấy có thể xuất gia, cho người ấy quy y. Những vị A La Hán hỏi đức Phật: “Vì sao?” Đức Phật nói: Vô lượng kiếp trước, người ấy là một tiều phu, lên núi đẵn củi, gặp một con cọp toan ăn thịt ông ta. Ông ta trèo lên ngọn cây, hét lên một tiếng Nam-mô Phật. Do thiện căn xưng một tiếng Nam-mô Phật ấy, nay có tư cách xuất gia trong hội của ta. Đức Phật cho người ấy xuống tóc; về sau, người ấy chứng quả A La Hán. “Nhất xưng Nam-mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo” (Vừa xưng Nam-mô Phật, đều đã thành Phật đạo). Do một tiếng Nam-mô Phật đến vô lượng kiếp sau mới gặp Thích Ca Mâu Ni Phật, mới thành tựu, chẳng phải là ngay trong hiện tại. Do vậy, một tiếng Phật hiệu là chủng tử Kim Cang vĩnh viễn bất hoại trong A Lại Da Thức, tùy thuộc khi nào người ấy gặp duyên, chủng tử ấy sẽ dấy lên hiện hành, khởi tác dụng. Cậy vào chủng tử ấy, người đó có thể tu hành, có thể chứng quả. Đối với kẻ bình phàm, thậm chí người tạo tội nghiệp rất nặng, cho đến súc sanh, đức Phật dạy chúng ta phải lễ kính, chớ nên khinh thường. Vì sao? Có thể là người ấy sẽ thành Phật trước ta. Nếu ta chẳng tu đàng hoàng, chẳng thành Phật trong một đời này, hễ đọa lạc [rồi mới] lại quay đầu, chẳng biết đã trải qua bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp, không chừng người ấy đã sớm thành Phật, há có nên khi dễ ư?

 

(Diễn) Tín hồ đạo vô nan dị, điên bái, tạo thứ, vô phi diệu pháp, vô phi Đệ Nhất Nghĩa dã.

()信乎道無難易,顛沛造次,無非妙法,無非第一義也。

(Diễn: Tin tưởng đạo chẳng có khó hay dễ, vất vả, gian nan, không gì chẳng phải là diệu pháp, không gì chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa).

Thật sự hiểu biết chân tướng sự thật, sẽ biết chúng ta phải nên xử thế, làm người như thế nào. Chúng ta quyết định chẳng hiếp đáp người khác. Kẻ khác hiếp đáp ta, ta tuyệt đối chớ nên ôm lòng báo thù. Nếu quý vị ôm lòng báo thù, oan oan tương báo, sẽ rất thê thảm, chẳng thể nào xong! Người khác hiếp đáp ta, ta chịu thua thiệt, chịu bị mắc lừa, bằng lòng tiếp nhận. Cảnh giới thuận hay nghịch đều tiếp nhận, đó gọi là tu hành. Nói thật ra, vì sao kẻ ấy chẳng hiếp đáp người khác, mà lại hiếp đáp ta? Chuyện trong thế gian đều có nhân quả. Kẻ ấy hiếp đáp ta, có lẽ là trong đời quá khứ ta đã hiếp đáp kẻ ấy, nay gặp duyên, hắn hiếp đáp ta, mối nợ ấy đã trang trải xong. Về sau, chẳng còn thiếu nợ nữa, đó là chuyện tốt, chẳng phải là chuyện xấu! Giữa người và người với nhau, giữa người và hết thảy chúng sanh, nói xuyên suốt sẽ là bốn thứ duyên, [tức là] báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ, quan hệ là như vậy đó.

Chiều hôm nay, có một vị cư sĩ đến gặp tôi, hỏi tôi một chuyện. Ông ta nói có người thường đến chỗ ông ta hóa duyên, lại còn là định kỳ, mỗi tháng [ông ta] đều bố thí. Về sau, [ông ta] phát hiện kẻ ấy chẳng dùng [tiền quyên tặng] để làm việc thiện, mà là gạt tiền. Ông ta hỏi tôi: “Tôi có bị tội hay không?” Tôi bảo ông ta: “Kẻ lường gạt có tội, ông bị hắn lừa, ông có lỗi, chứ chẳng có tội”. Tội và lỗi khác nhau, lỗi là gì? Quý vị ngu si! Nếu quý vị chẳng ngu si, lẽ nào bị người khác lừa gạt cho được? Hiện thời, kẻ mượn danh nghĩa Phật, Bồ Tát để lường gạt người khác rất đông; quý vị bị kẻ khác lừa, chứng tỏ quý vị rất ngu si, chẳng thể phân biệt thị, phi, tà, chánh, đó chính là lầm lỗi của quý vị. Lỗi ở chỗ nào? Kẻ ác ấy nếu chẳng có ai giúp đỡ hắn, hắn chẳng tạo ác to lớn, mà là tạo ác hữu hạn. Quý vị bỏ tiền, bỏ công sức giúp đỡ hắn, hắn có thể làm chuyện ác rất lớn. Hắn là thủ phạm đầu sỏ, quý vị là tùng phạm. Tội lỗi của quý vị nhẹ hơn một chút. Đã giác ngộ thì từ nay về sau đừng nên qua lại với hắn nữa, cũng đừng bị hắn lừa nữa. Đó là đúng.

Tôi bảo ông ta hãy thật thà niệm Phật. Gần đây, ông ta ở nhà nghe băng thâu âm bài giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi bảo ông ta hãy chăm chỉ niệm Phật, niệm Phật có thể diệt tội, có thể tiêu tai, có thể chuyển nghiệp báo của chúng ta. Quý vị phải thật sự niệm, phải biết niệm! Phải hiểu rõ ý nghĩa trong kinh, phải y giáo phụng hành. Như thế thì mới có thể chuyển thân nghiệp báo thành thân nguyện lực. Nguyện lực là thừa nguyện tái lai, khác hẳn. Ông ta nói: “Nếu pháp sư thường ở ngoại quốc, chúng con sẽ là ‘một ngày nóng, mười ngày lạnh’, chỉ sợ phiền não nghiệp chướng sẽ lại hiện tiền”. Tôi nói: “Ông nghĩ kiểu đó là sai rồi! Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, chúng sanh có phước. Ông hãy nghe đi nghe lại băng thâu âm chẳng ngừng. Mỗi ngày tối thiểu nghe hai cuốn băng (tức là nghe giảng ba tiếng đồng hồ), chớ nên gián đoạn ngày nào! Hễ gián đoạn, phiền não của ông sẽ sanh khởi. Nghe kinh nhằm nhắc nhở bản thân ông giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm. Chỉ cần ông thật sự chịu nghe, sẽ chẳng khác gì tôi đang ở tại Đài Loan!” Chư vị ngẫm xem, các vị đều thích nghe kinh. Nay tôi  giảng cho mọi người một bộ kinh Hoa Nghiêm, quý vị có thể đến nghe
hay không? Mỗi ngày tôi giảng bốn tiếng, tiếp tục giảng không ngừng trong suốt hai năm, chẳng ngưng ngày nào, quý vị có thể đến nghe hay không? Các vị chẳng đến, sẽ chẳng thể giảng kinh ấy, tức là chẳng thể viên mãn. Nay ở nước Mỹ, chúng tôi có một đạo tràng như thế, tâm chúng ta đã định, sống cuộc đời kham khổ đôi chút, chỉ cần có thể duy trì cuộc sống, tôi nghĩ mỗi ngày sẽ giảng bốn tiếng đồng hồ. Tuy học trò chỉ có mấy người, dăm ba người là đủ rồi, tôi sẽ giảng cho họ nghe, lưu lại một bộ băng thâu âm. Mỗi ngày giảng bốn giờ, thâu âm lại. Ba bốn người nghe tôi giảng kinh ấy cũng chẳng phải là nghe suông vô ích. Tôi bảo họ viết Giảng Ký, giảng xong một bộ kinh, bèn xuất bản sách. Quý vị ngẫm xem, đấy mới là thật sự hữu ích đối với đại chúng. Băng thâu âm có thể đưa về Đài Loan lưu thông, sách đương nhiên phải in ở Đài Loan, chúng ta làm chuyện này. Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Bát Nhã có mối quan hệ vô cùng mật thiết với Tịnh Tông, quý vị chẳng thể nghiên cứu triệt để những bộ đại kinh đại luận ấy một phen, sẽ chẳng hiểu rõ công đức của danh hiệu cho lắm. Nghiên cứu thấu triệt những bộ đại kinh, đại luận ấy, quý vị mới có thể giảng kinh Vô Lượng Thọ và Di Đà Kinh Sớ Sao một cách tốt đẹp, mới có thể thật sự nói ra ý vị trong ấy. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này.