A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 9 – Tập 253-260

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 9 – Tập 253-260

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 253

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm:

 

(Sao) Bát tùng liên sanh giả.

()八從蓮生者。

(Sao: “Tám phẩm sanh từ hoa sen”).

Tiếp đó, giải thích: Có những kẻ chấp trước văn tự trong kinh điển, thấy trong chương Thượng Phẩm Thượng Sanh của Quán Kinh chẳng nói đến hoa sen, từ thượng trung phẩm cho đến hạ hạ phẩm đều nói có hoa sen. Do vậy bèn chấp trước: Trong chín phẩm chỉ có tám phẩm là hóa sanh trong hoa sen, thượng thượng phẩm chẳng có hoa sen. Ở đây, Liên Trì đại sư trích dẫn khá nhiều kinh văn để chứng tỏ Thượng Phẩm Thượng Sanh cũng có hoa sen.

 

(Sao) Cứ Quán Kinh thượng phẩm thượng sanh văn vân: “Tự kiến kỳ thân, thừa kim cang  đài”, độc  vô “liên  hoa” nhị  tự, cố  ngôn “hạ chi bát phẩm, nãi tùng liên sanh”.

()據觀經上品上生文云:自見其身,乘金剛臺。獨無蓮華二字,故言下之八品,乃從蓮生。

(Sao: Căn cứ theo kinh văn trong phần Thượng Phẩm Thượng Sanh của Quán Kinh có nói: “Tự thấy thân mình ngồi đài kim cang”, chỉ riêng phẩm này chẳng có hai chữ “hoa sen”; vì thế nói: Tám phẩm dưới đó mới là sanh từ trong hoa sen).

Nghi vấn phát xuất từ chỗ này. Thật ra, đây chính là đã trái nghịch giáo huấn Tứ Y của đức Phật. Trong Tứ Y Pháp đã nói rất rõ ràng, dạy chúng ta hãy “y nghĩa, đừng y ngữ”.

 

(Sao) Nhiên kinh luận sở minh, lịch lịch giai thuyết sanh Tây Phương giả, câu tùng liên sanh.

()然經論所明,歷歷皆說生西方者,俱從蓮生。

(Sao: Nhưng kinh luận đã nói rõ, đều bảo rành rành: Người sanh về Tây Phương đều sanh từ hoa sen).

“Câu” (俱) có nghĩa là nói: Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, bất luận phẩm vị cao hay thấp, cho đến vãng sanh trong Biên Địa, đều là hóa sanh trong hoa sen.

 

(Sao) Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân.

()大本法藏願云。

(Sao: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng).

Trích dẫn phần bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ.

 

(Sao) Vô ương số thế giới, chư thiên nhân dân, dĩ chí quyên nhuyễn.

()無央數世界,諸天人民,以至蜎蝡。

(Sao: Vô ương số thế giới, chư thiên, nhân dân, cho đến loài côn trùng ngọ nguậy).

“Quyên nhuyễn” (蜎蝡) chỉ tiểu động vật, chúng ta hay nói chúng là nhuyễn thể tiểu động vật  (軟體小動物: động vật nhỏ thân mềm), là một loại côn trùng.

 

(Sao) Sanh ngã sát giả, giai ư thất bảo trì nội, liên hoa trung hóa sanh, ngôn “giai”, tắc khái cử cửu phẩm.

()生我剎者,皆於七寶內,蓮華中化生,言皆,則概舉九品

(Sao: Sanh về cõi ta, đều ở trong ao bảy báu, hóa sanh trong hoa sen. Nói là “đều” tức là nói chung cả chín phẩm).

Nếu trong đó có một loại chẳng phải là hóa sanh trong hoa sen, sẽ chẳng thể dùng chữ Giai (皆: đều). Đã dùng chữ Giai thì toàn bộ đều được bao gồm, trong ấy chẳng có sai biệt. Từ trong bổn nguyện của Phật Di Đà, chẳng nói loại vãng sanh nào không có hoa sen!

 

(Sao) Hựu vân: “Tha phương chư đại Bồ Tát, dục kiến A Di Đà Phật giả, kính ư bỉ quốc thất bảo trì nội, liên hoa hóa sanh”. Ngôn “đại Bồ Tát”, tắc tất phi trung hạ hỹ.

()又云。他方諸大菩薩,欲見阿彌陀佛者,徑於彼國七寶池內,蓮華化生。言大菩薩,則必非中下矣。

(Sao: Lại nói: “Các vị đại Bồ Tát từ phương khác muốn thấy A Di Đà Phật, bèn nhanh chóng hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu của cõi đó”. Nói là “đại Bồ Tát”, ắt chẳng phải là trung hạ căn).

Đoạn văn này nêu thêm một chứng cứ phụ. “Tha phương chư đại Bồ Tát” (Các vị đại Bồ Tát ở phương khác). Trong kinh luận có thói quen là nếu thêm chữ Đại vào trước Bồ Tát, chắc chắn vị ấy là Địa Thượng Bồ Tát thì mới gọi là Đại. Đó là một thông lệ trong Phật môn. Chúng ta thường gọi các Ngài là Bồ Tát Ma Ha Tát. Ma Ha (Mahā) là Đại, đại Bồ Tát được nói ở đây chính là Ma Ha Tát (Mahāsattva). Nói Bồ Tát tức là nói tới [các Bồ Tát thuộc những địa vị] Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, đó là các Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền. Lên cao hơn, từ Sơ Địa trở lên, chúng ta đều gọi [các Ngài] là Đại Bồ Tát. Đăng Địa Bồ Tát (Bồ Tát kể từ Sơ Địa trở lên) vãng sanh, tuyệt đối chẳng phải là bậc trung hay bậc hạ, quyết định là thượng thượng phẩm vãng sanh. Vì thế, phần kinh văn này nói “cũng là hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu”, có thể cung cấp cho chúng ta thêm một bằng chứng:

Thượng Phẩm Thượng Sanh cũng là hóa sanh trong hoa sen.

 

(Sao) Hựu vân: “Kỳ thượng bối giả, mạng dục chung thời, Phật dữ thánh chúng, tất lai nghênh trí, tức ư thất bảo trì nội, liên hoa hóa sanh”. Ngôn “thượng bối”, tức chánh đối thượng phẩm hỹ, tịnh vô tối thượng bất liên chi ý.

()又云:其上輩者,命欲終時,佛與聖眾,悉來迎致,即於七寶池內,蓮華化生。言上輩,即正對上品矣,並無最上不蓮之意。

(Sao: Lại nói: “Bậc thượng là khi mạng sắp chấm dứt, Phật và thánh chúng đều đến đón, liền ở trong ao bảy báu, hóa sanh trong hoa sen”. Đã nói là “bậc thượng”, tức là tương ứng khít khao với thượng phẩm [trong Quán Kinh], trọn chẳng có ý nghĩa “phẩm bậc vãng sanh tối thượng chẳng có hoa sen”).

 Nhìn từ kinh văn, chúng ta chẳng thấy “thượng thượng phẩm vãng sanh không có hoa sen”, chẳng thấy ý nghĩa ấy! Những điều đã dẫn chứng trên đây đều trích từ kinh Vô Lượng Thọ. Ba đoạn dưới đây trích dẫn từ các kinh điển khác để chứng minh.

 

(Sao) Hựu Pháp Hoa vân: “Văn thử kinh điển, như thuyết tu hành, mạng chung tức vãng Cực Lạc thế giới. A Di Đà Phật, đại Bồ Tát vi nhiễu trụ xứ, sanh liên hoa trung, đắc Bồ Tát thần thông, Vô Sanh Pháp Nhẫn”. Phù đắc Vô Sanh Nhẫn, phi thượng thượng phẩm hồ?

()又法華云:聞此經典,如說修行,命終即往極樂世界,阿彌陀佛大菩薩圍繞住處,生蓮華中,得菩薩神通,無生法忍。夫得無生忍,非上上品乎?

(Sao: Lại nữa, kinh Pháp Hoa nói: “Nghe kinh điển này, tu hành đúng như lời dạy, mạng chung liền về thế giới Cực Lạc. A Di Đà Phật và các vị đại Bồ Tát vây quanh chỗ ở, sanh trong hoa sen, đắc thần thông của Bồ Tát và Vô Sanh Pháp Nhẫn”. Phàm là người đã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, há chẳng phải là thượng thượng phẩm ư?)

Kinh Pháp Hoa nói như vậy. Chúng ta đọc kinh điển, từng câu, từng chữ phải đọc cho kỹ, muôn vàn chớ nên sơ sót! Thường là sai lầm một chữ, hay một câu, chúng ta sẽ hiểu sai be bét ý nghĩa, tạo thành sai lầm rất lớn. Có những kẻ thấy kinh văn nói như thế đó, vì đọc kinh [thấy nói] kinh Pháp Hoa có công đức rất lớn, bèn niệm kinh Pháp Hoa. Còn có cái thói được truyền từ ngoại quốc sang, chẳng niệm toàn bộ bản kinh, chỉ niệm tựa đề kinh “Nam-mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”[1], có được hay không? Đối với chỗ này, chư vị nhất định phải biết, quý vị thấy kinh nói rõ ràng: “Như thuyết tu hành” (Tu hành đúng như lời dạy). Nghe kinh điển này mà nếu chẳng có thể tu hành đúng theo lời dạy, vô dụng! Cho dù hằng ngày nghiêm túc đọc tụng, giống như các vị đại đức thời cổ có rất nhiều vị mỗi ngày niệm một bộ kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa niệm rất nhuần nhuyễn, có thể niệm thuộc lòng, đại khái là niệm một bộ cũng phải mất ba, bốn tiếng đồng hồ, kinh văn của kinh này có phân lượng nhiều. Điều khẩn yếu là tu hành! Không chiếu theo giáo huấn trong kinh điển ấy để tu hành, [chỉ niệm suông] chẳng có tác dụng! [Niệm tụng suông thì chỉ] tốt lành nơi cái miệng mà thôi! Chúng ta ắt cần phải thấy rõ ràng chuyện này. Tôi khuyên mọi người “kẻ sơ học phải đọc kinh, phải niệm kinh cho nhuần nhuyễn”, đó là giai đoạn thứ nhất. Vì nếu chẳng thông thuộc kinh, chẳng ghi nhớ, nói đến chuyện tu hành sao được! Ắt cần phải nhớ rất thuần thục giáo huấn trong kinh điển, [để rồi] trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta gặp sự, gặp người, gặp vật, khởi tâm động niệm, ngay lập tức có thể nghĩ xem trong kinh đức Phật đã dạy chúng ta làm như thế nào. Nương theo giáo huấn trong kinh điển để làm tiêu chuẩn hòng tu chỉnh cách nghĩ, cách nhìn, cách nói, cách làm sai lầm của chính mình, đó là “như thuyết tu hành” (tu hành đúng theo lời dạy). Trong mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát có nói tới cúng dường; trong ấy cũng nói: “Chư cúng dường trung, pháp cúng dường vi tối” (Trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là cao tột nhất). Pháp cúng dường có tất cả bảy điều, điều đầu tiên là “như thuyết tu hành cúng dường” (cúng dường bằng cách tu hành đúng theo lời dạy). Có thể thấy là: Chẳng thể thật sự làm, sẽ chẳng có tác dụng! Nếu thật sự làm, dùng tiêu chuẩn trong kinh điển để uốn nắn tư tưởng và hành vi của chúng ta, khi mạng chung, hy vọng đến thế giới Cực Lạc, hy vọng thấy A Di Đà Phật, nguyện ấy nhất định chẳng xôi hỏng bỏng không! Không chỉ là học Pháp Hoa, học bất cứ kinh luận gì cũng đều có thể, vì những điều được nói trong hết thảy kinh luận Đại Thừa đều là tiêu chuẩn của chư Phật Như Lai. Do vậy, nương theo kinh luận Đại Thừa để tu học, chính là “thường tùy Phật học”, tức là học theo Phật. Chúng ta nương theo kinh Vô Lượng Thọ, hoặc nương theo Tịnh Độ Tam Kinh, hoặc Ngũ Kinh để tu học, sẽ là trực tiếp học tập với A Di Đà Phật, mà cũng là chúng ta học theo A Di Đà Phật, lấy A Di Đà Phật làm tiêu chuẩn cho tâm hạnh của chính mình. Do vậy, đây là một câu nói hết sức quan trọng trong đoạn này.

 

(Sao) Hựu Hạnh Nguyện phẩm, Phổ Hiền Bồ Tát dĩ thập đại nguyện vương đạo quy Cực Lạc, nhi viết: “Bỉ Phật chúng hội hàm thanh tịnh, ngã thời ư thắng liên hoa sanh”.

()又行願品,普賢菩薩以十大願王導歸極樂,而曰:彼佛眾會咸清淨,我時於勝蓮華生。

(Sao: Lại trong phẩm Hạnh Nguyện, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, đã nói: “Chúng hội Phật ấy đều thanh tịnh, lúc ấy, ta sanh trong hoa sen thù thắng”).

“Bỉ Phật” là A Di Đà Phật, “chúng hội” là Liên Trì hải hội, Phật và Bồ Tát đều thanh tịnh. “Ngã thời ư thắng liên hoa sanh” (Khi ấy, ta sanh trong hoa sen thù thắng): Phổ Hiền Bồ Tát vãng sanh bèn hóa sanh trong hoa sen. Phổ Hiền là Hậu Bổ Phật của Tỳ Lô Giá Na Phật trong hội Hoa Tạng, là Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo. Xin hỏi Ngài sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì là phẩm vị gì? Đương nhiên là thượng thượng phẩm, còn có gì tranh cãi nữa chăng? Đấy là do Phổ Hiền Bồ Tát đích thân nói ra: Ngài sanh về thế giới Cực Lạc, hóa sanh trong hoa sen. Đó là trực tiếp chứng minh: Tuy Quán Kinh chẳng nói thượng thượng phẩm hóa sanh trong hoa sen, nhưng Phổ Hiền Bồ Tát đã bảo: Thượng phẩm thượng sanh là hóa sanh trong hoa sen.

 

(Sao) Phù Phổ Hiền vãng sanh, phi thượng thượng phẩm hồ?

()夫普賢往生,非上上品乎?

(Sao: Ngài Phổ Hiền vãng sanh, há chẳng phải là thượng thượng phẩm ư?)

 Đấy là đạo lý nhất định.

 

(Sao) Hựu Bảo Tích minh thập tâm hồi hướng, hậu đắc liên hoa hóa sanh. Phù thập tâm Bồ Tát, phi thượng thượng phẩm hồ? Dĩ thị tham khảo, xác hữu minh chứng.

()又寶積明十心回向,後得蓮華化生。夫十心菩薩,非上上品乎?以是參考,確有明證。

(Sao: Lại nữa, kinh Bảo Tích nói mười tâm hồi hướng; sau đấy, sẽ được hóa sanh trong hoa sen. Hàng Bồ Tát viên mãn mười tâm ấy há chẳng phải là thượng thượng phẩm ư? Dùng những điều ấy để tham khảo, đích xác là có chứng cứ rõ rệt).

 Vì thế, những vị Bồ Tát ấy xác thực là đã sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều là thượng thượng phẩm.

 

(Sao) Vấn: Quả nhĩ, tắc thượng thượng văn trung, hà dĩ viết kim cang đài, bất viết liên hoa?

()問:果爾,則上上文中,何以曰金剛臺,不曰蓮華。

(Sao: Hỏi: Nếu đúng là như vậy, cớ sao kinh văn giảng về thượng thượng phẩm lại nói là đài kim cang, chẳng nói là hoa sen?)

“Quả nhĩ” (果爾) [nghĩa là] quả nhiên là như thế. Vì sao kinh văn của phần thượng thượng phẩm trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật chẳng nói hoa sen,  mà nói là đài kim cang?  Đại sư giả lập một đoạn vấn đáp nhằm giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín.

 

(Sao) Đáp: Văn hỗ hữu vô, bất túc nệ cố.

()答:文互有無,不足泥故。

(Sao: Đáp: Văn lần lượt có nói hoặc không, chẳng đáng để câu nệ).

Hai câu này chính là “y nghĩa, bất y ngữ” trong Tứ Y Pháp; chớ nên chấp trước văn tự! Trong văn tự có tỉnh lược, nhưng ý nghĩa viên mãn, phải hiểu đạo lý này.

 

(Sao) Hà dĩ tri chi? Thượng phẩm trung sanh, diệc viết thừa tử kim đài.

()何以知之?上品中生,亦曰乘紫金臺。

(Sao: Vì đâu mà biết? Trong [phần kinh văn nói về] thượng phẩm trung sanh cũng nói là “ngồi đài tử kim”).

Có thể thấy: Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là hóa sanh trong hoa sen. Trong hoa sen, nhất định có đài sen. Vì thế, [kinh nói hành nhân thượng phẩm trung sanh] ngồi trên đài tử kim.

 

(Sao) Hựu tương viết thất tùng liên sanh hồ? Huống trung phẩm chi hạ, diệc đản vân “thử nhân mạng chung, thí như tráng sĩ khuất thân tý khoảnh, tức sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”, văn trung tịnh vô “liên hoa” nhị tự, hựu tương viết lục tùng liên sanh hồ?

()又將曰七從蓮生乎?況中品之下,亦但云此人命終,譬如壯士屈伸臂頃,即生西方極樂世界,文中並無蓮華二字,又將曰六從蓮生乎?

(Sao: [Cứ câu nệ theo văn tự như vậy] sẽ lại nói [chỉ có] “bảy phẩm sanh từ liên hoa” ư? Huống chi trong phần trung phẩm hạ sanh cũng chỉ nói: “Người ấy mạng chung, ví như trong khoảnh khắc tráng sĩ co duỗi cánh tay, liền sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Do kinh văn trọn chẳng nói đến hai chữ “hoa sen”, bèn bảo là [chỉ có] “sáu phẩm sanh từ hoa sen” ư?)

Cứ [câu nệ] theo văn tự để nói, vấn đề trong ấy sẽ khá nhiều! Vì thế, có chỗ nói rõ, có chỗ tỉnh lược, nhất định phải hiểu ý nghĩa này.

 

(Sao) Phù ký dĩ bất liên vi thắng, tắc trung hạ liệt phẩm, hà dĩ bất liên?

()夫既以不蓮為勝,則中下劣品,何以不蓮?

(Sao: Nếu đã coi “chẳng có hoa sen là thù thắng”, cớ sao trung phẩm hạ sanh[2] là phẩm vị kém cỏi lại chẳng có hoa sen?)

“Bất liên” (不蓮) là chẳng có hoa sen. Nếu coi chẳng có hoa sen là tối thắng, [do viện cớ] thượng thượng phẩm chỉ có kim cang đài, chẳng có hoa sen; [cứ cho rằng] “chẳng có hoa sen là tối thắng”, nếu quý vị nghĩ kiểu đó, ở đây, đại sư liền chất vấn: Cớ sao trung phẩm hạ sanh là phẩm vị kém cỏi lại chẳng có hoa sen?

 

(Sao) Hựu trung phẩm chi thượng, độc viết “liên hoa đài”, kỳ kim cang đài, tử kim đài chi loại hồ? Kỳ liên hoa chi loại hồ? Thác tạp bất luân, tấn thoái vô cứ.

()又中品之上,獨曰蓮華臺,其金剛臺紫金臺之類乎?其蓮華之類乎?錯雜不倫,進退無據。

(Sao: Lại nữa, đối với trung phẩm thượng sanh, chỉ nói là “liên hoa đài”, vậy là cùng loại với kim cang đài và tử kim đài, hay là thuộc loại liên hoa? [Nếu cứ khăng khăng câu nệ văn tự để rồi tranh cãi “chín phẩm đều có sanh trong hoa sen hay không”, lập luận] sẽ trở thành lộn xộn, không có lớp lang, biện định tới lui đều chẳng có căn cứ).

Nói hoa sen, chẳng nói đến đài; nói đài kim cang, chẳng nói đến hoa sen, đều là tỉnh lược từ ngữ. Ở đây, đại sư dạy chúng ta “bất túc nệ cố” (chẳng đáng để câu nệ). Nay ta nói “nệ” (泥) là chấp trước tướng văn tự. Chớ nên chấp trước tướng văn tự, biết lời Phật thuyết pháp về sau được kết tập thành kinh bổn, trong chín câu ấy có sự tỉnh lược lẫn nhau. Trong phẩm này, chuyện này đã nói rất tường tận, phẩm kia bèn tỉnh lược đôi chút. Trong phẩm kia, chuyện kia đã được nói tường tận, thì trong phẩm này bèn tỉnh lược đôi chút; thật ra đều là như nhau, phải hiểu rõ sự thật này!

 

(Sao) Chước tri văn hỗ khuyết nhi nghĩa tất châu dã.

()灼知文互缺而義必周也。

(Sao: Biết rành rành là lời văn do tỉnh lược lẫn nhau mà có chỗ chẳng nói, nhưng ý nghĩa ắt trọn đủ).

Trong văn tự có chỗ khiếm khuyết, nhưng ý nghĩa nhất định là viên mãn, phải hiểu đạo lý này. Đó cũng là chân tướng sự thật.

 

(Sao) Ngu ý các hữu liên hoa, hoa các hữu đài, đài các bất đồng, nhi kim cang vi đài chi tối thắng nhĩ.

()愚意各有蓮華,華各有臺,臺各不同,而金剛為臺之最勝耳。

(Sao: Theo ngu ý, mỗi phẩm vãng sanh đều có hoa sen, mỗi hoa đều có đài, đài hoa trong mỗi phẩm khác nhau, nhưng kim cang làm đài là tối thắng).

Liên Trì đại sư nói kiểu này, ý nghĩa rất viên mãn. Tôi vừa mới nói, bất luận là phẩm vị gì, đều là hóa sanh trong hoa sen, cho tới trong Biên Địa cũng chẳng phải là ngoại lệ. Trong hoa sen nhất định có đài, hoa sen và đài sen xác thực là khác nhau, vì sao khác nhau? Thế giới Tây Phương là một thế giới bình đẳng, chỉ riêng có chuyện này là bất bình đẳng. Thế giới bình đẳng là do hưởng phước báo của A Di Đà Phật, A Di Đà Phật ban cho chúng ta bình đẳng, nhưng hoa sen và đài sen do Tịnh nghiệp của chính mình biến hiện, sẽ chẳng giống nhau. Mỗi cá nhân chúng ta có công phu tu hành sâu hay cạn khác nhau. Sâu hay cạn là nói như thế nào? Là mức độ tinh thuần trong cái tâm thanh tịnh, là tầng cấp đoạn phiền não. Công phu sâu, phá mấy phẩm vô minh, đắc Lý nhất tâm bất loạn. Công phu nông cạn, giống như bọn chúng ta trong tương lai có thể vãng sanh, tuyệt đại đa số là chưa đoạn phiền não, chỉ chế phục, khống chế mà thôi. Đó là công phu nông cạn nhất! Người có công phu sâu, hoa sen to, quang minh và màu sắc [của hoa sen] cũng thù thắng, đài sen đương nhiên sẽ khác hẳn. Công phu kém hơn một bậc, hoa sen sẽ nhỏ, quang minh và màu sắc thua kém người công phu sâu, đài hoa trong ấy đương nhiên cũng chẳng bằng người ta. Chúng ta biết sự thật này, quý vị hãy nên biết hiện tại phải nên làm như thế nào? Pháp thế gian là giả, chẳng có gì là thật! “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Tục ngữ thường nói: “Sanh chẳng mang gì đến, chết không mang gì theo”. Huống hồ trong thế gian hiện tiền, tai nạn dồn dập, chúng ta lắng lòng quan sát xã hội này sẽ biết: Hiện tượng trong xã hội là quả, quả ắt có nhân. Nhìn vào quả sẽ biết nhân, nhìn vào nhân bèn biết quả báo trong tương lai. Nay chúng ta đã hiểu: Chân thật nhất, thù thắng nhất trong hết thảy các pháp, không gì hơn Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nay chúng ta tranh thủ điều gì? Xác thực là người thông minh nhất sẽ nhất tâm nhất ý giữ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, những thứ khác đều chẳng màng! Đó là người thật sự triệt để giác ngộ. Chúng ta hãy xem thí dụ dưới đây.

 

(Sao) Như Hoài Ngọc ngân đài sơ lai, kim đài kế chí, khả nghiệm dã.

()如懷玉銀臺初來,金臺繼至,可驗也。

(Sao: Như ngài Hoài Ngọc thoạt đầu thấy đài bạc, kế đó thấy đài vàng hiện đến. [Chuyện này] có thể chứng nghiệm [đài hoa trong mỗi phẩm vị khác nhau]).

Trong chuyện vãng sanh của Hoài Ngọc đại sư, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có [ghi chép chuyện này], Vãng Sanh Truyện cũng có. Có thể coi vị này là người rất có chí khí, suốt đời niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Khi lâm chung A Di Đà Phật hiện đến, cầm hoa sen đến tiếp dẫn Sư. Sư vừa thấy hoa sen ấy là đài bạc, tự nghĩ chính mình suốt đời tinh tấn nỗ lực niệm Phật như vậy mà chẳng thể đạt tới phẩm vị lý tưởng. Do vậy, đối trước đức Phật phát phẫn: “Con tiếp tục nỗ lực, hy vọng Phật có thể cầm đài vàng đến tiếp dẫn con”. Đức Phật hết sức từ bi, cho Sư mãn nguyện. Phật ra đi, Sư lại tiếp tục tinh tấn nỗ lực chẳng ngừng, lại niệm thêm một tuần, đức Phật lại tới. Sư thấy hoa sen quả nhiên là đài vàng, bèn theo Phật ra đi. Có phải là A Di Đà Phật niệm tình đổi đài vàng cho Sư hay không? Chẳng phải vậy! Hoa sen và đài hoa là do công phu của chính mình biến hiện, chẳng liên quan gì đến A Di Đà Phật. Đến khi quý vị lâm chung, kinh đã giảng rất rõ ràng: Chúng sanh trong mười phương thế giới vừa phát nguyện, tâm tưởng cầu sanh thế giới Tây Phương, trong ao bảy báu của A Di Đà Phật liền trổ một đóa sen. Trên hoa sen còn có tên họ của chính mình, làm sao có thể lầm lẫn cho được? Công phu niệm Phật của quý vị càng sâu, hoa sen ấy càng ngày càng to. Từ kinh văn, chúng ta thấy: Hoa sen trong ao bảy báu có hoa to một do-tuần, có hoa to mười do-tuần, trăm do-tuần, ngàn do-tuần. Có thể thấy là lớn nhỏ không giống nhau, quang minh và màu sắc cũng khác. Nếu chúng ta muốn hoa sen rất lớn, rất thù thắng, nếu muốn kim đài hay kim cang đài, phải thật sự tu thì mới được! Chẳng phải do A Di Đà Phật tặng cho quý vị, mà là do tịnh nghiệp của chính quý vị tự nhiên biến hiện. A Di Đà Phật giúp đỡ chúng ta, khi chúng ta lâm chung, A Di Đà Phật cầm hoa sen ấy đến tiếp dẫn. Hoa sen chẳng phải do A Di Đà Phật tự trồng, mà do tịnh nghiệp của chính chúng ta biến hiện, nhưng A Di Đà Phật đã ban cho chúng ta một hoàn cảnh rất tốt: Ao sen bảy báu, nước tám công đức là do A Di Đà Phật trao cho, nhất định phải biết điều này. Vì thế, người thật sự thông minh, thật sự triệt để giác ngộ, hãy nên buông xuống hết thảy, nghiêm túc niệm Phật.

Kinh giáo, nói thật thà, không trọng yếu! Chẳng cần phải lãng phí thời gian nơi kinh giáo. Ấn Quang đại sư là tấm gương tốt nhất cho chúng ta trong thời cận đại. Đạo tràng của lão nhân gia là Linh Nham Sơn Tự ở Tô Châu, hiện thời chúng ta du lịch vãn cảnh hết sức thuận tiện, các đồng tu học Phật gần như đều có thể đến viếng núi Linh Nham. Niệm Phật Đường của Ngài hiện thời vẫn niệm Phật y hệt, mỗi ngày [niệm Phật] sáu cây hương, giống hệt như đả Phật Thất thông thường, nhưng buổi tối có nghỉ ngơi. Đạo tràng chẳng giảng kinh, mà cũng chẳng có pháp hội, chẳng có Phật sự, chuyên nhất niệm Phật, rất có lý. Đặc biệt là trong thời đại này, thưa cùng chư vị, pháp môn này khế hợp căn cơ của hết thảy chúng sanh nhất. Kiến lập một đạo tràng như vậy, chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần gia hộ, quý vị niệm một câu Phật hiệu đến cùng, quyết định chẳng sai! Nếu muốn học kinh giáo để trong tương lai phát nguyện hoằng pháp lợi sanh, cũng ắt phải niệm Phật cho vững vàng rồi sau đấy mới học. Niệm Phật vững vàng, chính mình nắm chắc vãng sanh, bèn dành thời gian nơi kinh giáo, đấy là không màng đến chính mình, ta nguyện thà hy sinh phẩm vị của chính mình, học làm Bồ Tát phổ độ chúng sanh. Nếu nói độ chúng sanh mà chính mình trong tương lai chẳng thể vãng sanh, hỏng bét! Độ chúng sanh kiểu đó chỉ sợ vẫn là tạo tội nghiệp. Vì sao nói là tạo tội nghiệp? Cổ nhân nói: Đối với kinh điển, “nói sai một chữ chuyển ngữ, đọa thân chồn hoang năm trăm đời”, giảng sai một chữ đấy nhé! Quý vị có thể giảng sai kinh điển hay chăng? Nhất định là giảng sai! Vì sao nói nhất định sẽ bị giảng sai? Vì quý vị chưa đoạn phiền não, tâm chưa thanh tịnh, còn có thị phi, nhân ngã, còn có tham, sân, si, mạn, dùng cái tâm như vậy để nhập Đại Thừa của Như Lai, Thanh Lương đại sư nói là “hữu giải vô hạnh”, Giải (解) là nghiên cứu kinh luận, Hạnh (行) là tu trì. Chẳng có tu trì, chẳng đoạn phiền não, kết quả là “tăng trưởng tà kiến”. Quý vị dùng tà tri tà kiến để giáo hóa chúng sanh, có phải đọa trong tam đồ hay không? Quý vị có phải gánh trách nhiệm hay không? Ấn Quang đại sư từ bi, chẳng để cho quý vị làm chuyện sai quấy, không để cho quý vị đọa lạc. Vì thế, lão nhân gia thẳng thừng chẳng giảng kinh, mà cũng chẳng cổ vũ, khích lệ kẻ khác giảng kinh, chỉ khuyên quý vị niệm A Di Đà Phật, quyết định chẳng có lầm lỗi!

Do vậy, tại Trung Hoa từ xưa tới nay, trong đạo tràng, tổ sư đại đức bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp chẳng giống như mở Phật Học Viện chiêu sinh trong hiện thời, mà là từ trong tứ chúng đệ tử, trải qua quan sát kỹ lưỡng một thời gian dài, [thấy kẻ nào] xác thực là có căn tánh, có năng lực, bèn chọn ra để đặc biệt bồi dưỡng. Vào thời cổ, bồi dưỡng người hoằng pháp gọi là “giảng tiểu tòa” (講小座), nghĩa là: Trong buổi giảng kinh của pháp sư, quý vị ở đó nghe. Sau khi nghe xong, quý vị lên đài giảng một lượt, nhắc lại lời giảng của pháp sư trước đó một lượt. Có thể giảng được bảy mươi, tám mươi phần trăm thì người ấy có thể bồi dưỡng. Nếu chẳng có năng lực ấy, sẽ chẳng khuyên quý vị [học giảng kinh, hoằng pháp], khuyên quý vị vô dụng! Vì thế, nhân tài hoằng pháp rất ít, xác thực là phải có khả năng thiên phú ấy. Lại còn thật sự chịu tiếp nhận sự chỉ dạy thì mới có thể ra [hoằng pháp]. Không tiếp nhận sự chỉ dạy, chẳng có cách nào hết! Rất dễ lọt vào phường cuồng huệ, tự cho là đúng! Nhất định là phải tiếp nhận sự chỉ dạy, phải được rèn giũa, thì mới có thể trở thành đại khí. Vì thế, chuyện này chẳng phải là ai cũng có thể làm được. Bản thân chúng ta có nguyện vọng ấy, nhưng có năng lực ấy hay chăng? Chẳng có năng lực ấy thì có thể bồi dưỡng, bồi dưỡng như thế nào? Đoạn phiền não. Phiền não đã đoạn hết, trí huệ bèn mở mang, hễ quý vị có nguyện vọng ấy bèn đạt được. Nhất định là phải đoạn phiền não, mở mang trí huệ thì mới được. Nói cách khác, tâm địa đã thanh tịnh. Tâm thanh tịnh đối với cảnh giới bên ngoài là Chiếu Kiến, lục căn tự nhiên thông minh, vừa nghe, vừa thấy bèn khai ngộ, bèn hiểu rõ. Khi đó, phát nguyện hoằng pháp lợi sanh chẳng khó! Do vậy có thể biết, công tác cơ sở là đoạn phiền não, cũng là phải tu Định. Trước hết là định cái tâm, do Giới sanh Định, do Định khai Huệ. Vì thế, Giới là cội gốc của Vô Thượng Bồ Đề. Giới luật là tuân thủ quy củ. Quý vị chẳng tuân thủ quy củ, sẽ không thể đắc Định. Trong Niệm Phật Đường, dạy quý vị trong mười hai thời hãy thật thà niệm Phật, đấy là giới luật, quý vị phải tuân thủ. Niệm mấy năm, phiền não nhẹ nhàng, tâm thanh tịnh, quý vị đắc Định, đắc Niệm Phật tam-muội, cũng gọi là nhất tâm bất loạn. Sau khi đã đắc nhất tâm, có năng lực, có hứng thú, có chí nguyện, có thể học Giáo để hoằng pháp lợi sanh, lại làm chuyện ấy. Đi theo con đường ấy là đúng, trình tự ấy chẳng sai, mới có thể thành công. “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (Trong cửa nhà Phật, có cầu, ắt ứng), sư Hoài Ngọc cầu đài vàng, đến cuối cùng, quả nhiên đài vàng hiện tiền, mãn nguyện vãng sanh. Đài vàng hiện tiền là thượng phẩm thượng sanh.

 

(Sao) Thả đài chi nghĩa nhị.

()且臺之義二。

(Sao: Đài lại có hai nghĩa).

Đài có hai ý nghĩa.

 

(Sao) Nhất giả cơ đài chi đài, tắc đài tại hoa hạ, như thế khắc tượng, hạ tác bảo đài, đài thượng an hoa, hoa thượng an Phật, thị dã.

()一者基臺之臺,則臺在華下,如世刻像,下作寶臺,臺上安華,華上安佛,是也。

(Sao: Một là cái đài làm bệ nâng đỡ, tức là cái đài ở dưới hoa, như trong cõi đời khắc tượng: Phía dưới tạo đài báu, trên đài đặt hoa, trên hoa đặt tượng Phật, là như thế đó).

Mọi người thấy rất nhiều tượng Phật, bất luận là tượng đắp nặn hay tranh vẽ, phía dưới đều có một cái đài, hoa sen ở trên đài.

 

(Sao) Nhị giả, phòng đài chi đài, tắc đài tại hoa nội.

()二者房臺之臺,則臺在華內。

(Sao: Hai là đài ở trong búp hoa, tức là đài ở trong hoa).

Đó là đài ở trong hoa sen. Chúng ta gọi thông tục là “gương sen”, đấy chính là đài sen, nó ở trong hoa, Phật ngồi nơi đâu? Phật ngồi trên đài sen.

 

(Sao) Như Pháp Hoa Huyền Nghĩa, dĩ liên biểu Thập Như. Chí Như Thị Báo văn vân: “Thí như liên thật vi nhiễu phòng đài”.

()如法華玄義,以蓮表十如;至如是報文云:譬如蓮實圍繞房臺。

(Sao: Như sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa dùng hoa sen để biểu thị mười món Như Thị, đến phần giảng về Như Thị Báo bèn nói: “Ví như hạt sen vây quanh cái gương sen”).

“Liên thật” (蓮實) là hạt sen, “phòng đài” (房臺) là gương sen. Hạt sen vây quanh gương sen, đó là đài hiểu theo nghĩa “phòng đài”. “Liên biểu Thập Như” (Hoa sen biểu thị mười món Như Thị). Đối với tông Thiên Thai, Thập Như cũng là tinh nghĩa (精義) của kinh Pháp Hoa, [tinh nghĩa] chính là nghĩa lý tinh hoa. Vì sao nói nó là tinh hoa? Chỉ dùng mười câu để nói đơn giản mà rành mạch, rõ rệt về chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, đúng là chẳng dễ dàng! Vì thế, chúng ta phải nhớ kỹ Thập Như Thị.

 

(Diễn) Thập Như, tức như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bổn mạt cứu cánh.

()十如,即如是相,如是性,如是體,如是力,如是作,如是因,如是緣,如是果,如是報,如是本末究竟。

(Diễn: Thập Như là tướng như thế, tánh như thế, thể như thế, lực như thế, tác như thế, nhân như thế, duyên như thế, quả như thế, báo như thế, gốc ngọn rốt ráo như thế).

Quý vị thấy đó, đơn giản lắm! Chân tướng của vũ trụ và nhân sinh đã được giãi bày trọn hết. Hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm nhằm nói chuyện này. Vì thế, kinh điển mở đầu bằng “như thị ngã văn”. Điều gì “như thị”? Chính là những điều này!

 

(Diễn) Nhất thiết chư pháp, bất ly ư thử.

()一切諸法,不離於此。

(Diễn: Hết thảy các pháp chẳng lìa những điều ấy).

“Nhất thiết chư pháp” là hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Không chỉ là Phật pháp, mà pháp thế gian cũng được bao gồm trong ấy, lớn như hư không, thế giới, nhỏ như vi trần, lỗ chân lông, mỗi một pháp đều trọn đủ mười chuyện này. Vì thế, từ mười chuyện ấy mà quan sát hết thảy các pháp, quý vị mới thấy chân tướng. Chúng ta thường chẳng nói cặn kẽ như thế, thông thường để giới thiệu hết thảy các pháp bèn dùng Thể, Tướng, Dụng. Thông thường nói là Thể, Tướng, Dụng, tức là Thể và Tánh được gộp trong Thể, những thứ khác đều bao gồm trong Dụng hoặc Tướng. Nói cách khác, Thể, Tướng và Dụng triển khai thành Thập Như Thị, Thập Như Thị quy nạp thành Thể, Tướng, Dụng. Thể, Tướng, Dụng là nói đại lược, Thập Như Thị là nói chi tiết.

 

(Diễn) Như thị giả, chỉ pháp chi từ, vị chư pháp hữu như thị chi tướng, như thị chi tánh, nãi chí như thị nhi cùng tận, vô phi Thật Tướng dã.

()如是者,指法之辭。謂諸法有如是之相,如是之性,乃至如是而窮盡,無非實相也。

(Diễn: “Như thị” là từ ngữ biểu thị pháp, ý nói: Các pháp có tướng như thế, có tánh như thế, cho đến cùng tận như thế, không gì chẳng phải là Thật Tướng).

“Như thị tướng” là gì? Tướng là hiện tượng, Tướng là hình tướng. Hình tướng thì mắt chúng ta có thể thấy, tay chúng ta có thể sờ. Nó có màu sắc, có hình trạng, có tướng trạng. Động vật, thực vật, và khoáng vật có hình trạng và sắc tướng riêng của chúng. Hiện tượng thì có tướng, nhưng chẳng có hình thể, giống như chúng ta thấy mây trong không trung, bóng trăng trong nước. Chúng có hình tướng, nhưng chẳng có thật thể. Quý vị có thể trông thấy, nhưng chẳng thể sờ mó được, đó là hiện tượng. [Chữ Tướng] bao gồm hết thảy các tướng (hình tướng và hiện tượng) ở trong ấy. Vì sao nói là Như Thị? Trong ấy có ý nghĩa sâu xa, tướng do đâu mà có? Tướng là cái được hiện (sở hiện), nhất định là phải có một cái có thể hiện (năng hiện). Chẳng có một cái có thể hiện, làm sao có tướng được hiện cho được? Cái có thể hiện là Tánh, là Thể. Tánh Thể là gì? Là chân tâm của chúng ta, còn gọi là Chân Như. Những tướng được biến hiện bởi chân tâm có phải là thật hay không? Đương nhiên là thật; một thứ là thật thì hết thảy đều thật! Cổ nhân dùng một tỷ dụ để nói, ví như “dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng là vàng”. Vàng là cái có thể hiện, Tướng là cái được hiện. Chúng ta thích tượng Phật, đem vàng đúc thành một tượng Phật, tượng ấy có phải là vàng hay không? Tượng là vàng, vàng là tượng. Đối với người khai ngộ, người minh tâm kiến tánh, thầy của kẻ ấy hỏi: “Tánh ở chỗ nào?” Người ấy bèn nhặt một mẩu lá cỏ ở bên ngoài để sánh ví, người đã hiểu rõ bèn gật gù: “Chẳng sai!” Chẳng có một pháp nào không phải, pháp nào cũng đều là [Tánh]. Phải rất chú tâm lãnh hội điều này, chẳng có một pháp nào không phải là Tánh; đó gọi là Như Thị. Tướng giống như Tánh, Tánh giống như Tướng. Lìa Tánh chẳng có Tướng, lìa Tướng chẳng có Tánh, giống hệt như vàng. Lìa vàng chẳng có tượng này, lìa tượng cũng chẳng có vàng. Vàng và tượng là một, chẳng hai!

Nếu thật sự hiểu rõ, Tánh ở chỗ nào? Núi, sông, đại địa, chẳng có một pháp nào không phải là Tánh, đều là Chân Như bản tánh của chính mình. Nếu quý vị hiểu tận hư không khắp pháp giới là một chân tánh, tâm quý vị bèn bình đẳng, vì sao? Tận hư không khắp pháp giới và chính mình vốn là một. Chính mình và chính mình mà còn có phân biệt ư? Chính mình và chính mình còn có kèn cựa nữa ư? Chẳng có! Đạo lý này quá ư là rất sâu, nhưng nó xác thực là chân tướng sự thật. Đã mê thì mới có phân biệt, do mê mới có chấp trước, mới có thị phi, nhân ngã. Chuyện này đích xác là hết sức khó hiểu; vì thế, trong kinh luận thường sử dụng tỷ dụ. Tỷ dụ thường sử dụng nhất là “mộng, huyễn, bọt, bóng”. Chúng ta ai nấy đều có kinh nghiệm nằm mộng. Trong mộng có núi, sông, đại địa, trong mộng có chính mình, mà cũng có người khác, trong mộng có hết thảy các pháp. Ngay trong lúc chúng ta tỉnh mộng, hãy lắng lòng suy nghĩ, tất cả hết thảy cảnh giới trong mộng, có gì chẳng phải do tự tánh biến hiện? Chẳng sai! Chẳng phải là bên ngoài tiến vào giấc mộng của ta, đều do tự tánh của chính mình biến hiện. Lại hỏi thêm nữa, cảnh giới nào trong mộng chẳng phải là chính quý vị? Bản thân ta trong mộng là chính mình, người khác trong mộng vẫn là chính mình! Trừ chính mình ra, chẳng có ai khác. Núi, sông, đại địa trong mộng cũng là chính mình! Chẳng có gì không phải là chính mình, toàn thể cái tâm biến thành mộng, toàn thể mộng là tâm. Mộng là tướng, do tự tánh biến hiện. Hỏi quý vị, tâm quý vị có hình dạng như thế nào ư? Khi nằm mộng, mộng cảnh chính là hình dạng ấy (hình dạng của cái tâm). Nó biến thành một tướng, quý vị liễu giải rất dễ dàng! Vì sao nói tướng là hư vọng? Vì tướng thường biến đổi, nó chẳng cố định; do vậy, tướng được gọi là vọng tướng (妄相: tướng hư vọng). Tánh là thật, vì tánh bất biến. Ví như chúng ta dùng vàng, vàng bất biến, [dùng vàng] tạo thành thứ gì đó, [thứ gì đó] thường biến đổi [chứ vàng bất biến]. Thích tượng Phật, bèn dùng vàng làm thành tượng Phật. Chẳng thích tượng Phật nữa, nung chảy, lại tạo thành một hình tượng khác! Thích gì có thể tạo nấy, vàng chẳng biến đổi, tướng thời thời khắc khắc biến đổi. Cái có thể biến thì chúng ta gọi nó là hư vọng. Cái bất biến, ta gọi nó là chân thường. Nói là chân hay vọng là như thế đó, là nói tương đối. Nếu lìa khỏi tương đối, chân và vọng là một, không hai. Chân là vọng, vọng là chân. Ví như tượng Phật, tượng là vọng, vàng là thật. Tượng chính là vàng, vàng chính là tượng, chân và vọng chẳng hai, chân và vọng như một. Như vậy thì quý vị mới thật sự thấy chân tướng của vạn hữu trong vũ trụ. “Như thị tướng”: Tướng là như thế đó.

Thứ hai, “như thị tánh”. “Tánh” là nói tới bản tánh. “Như thị Thể”, “Thể” là nói tới bản thể. Nếu chẳng nói theo kiểu Thập Như, có lúc Thể và Tánh có thể hợp thành một. Thể là Tánh, Tánh là Thể, thường ghép Thể Tánh hoặc Tánh Thể cùng một chỗ, có cùng một ý nghĩa. Ở đây, tách rời chúng ra, đương nhiên sẽ chẳng phải là cùng một ý nghĩa. [Nếu là cùng] một ý nghĩa, sẽ chẳng thể nói thành hai chuyện. Tánh là bản tánh. Tánh là cội nguồn của hết thảy vạn pháp, là chân tâm, là bản tánh. Thể là đã biến, Tánh biến thành Thể. Thể có hai loại: Một loại là bản thể tinh thần, loại kia là bản thể vật chất. Chúng tôi dùng Pháp Tướng Duy Thức để giải thích, mọi người sẽ dễ hiểu hơn. Thể là Kiến Phần và Tướng Phần của A Lại Da Thức. Kiến Phần (見分) của A Lại Da là bản thể tinh thần, người Hoa gọi nó là “linh hồn”. Mỗi người chúng ta, sau khi đã chết bèn đi đầu thai, cái gì đi đầu thai? Linh hồn đi đầu thai, chẳng phải là cái thân xác thịt đi đầu thai. Cái thân xác thịt là vật chất. Kiến Phần là bản thể của tinh thần. Trong Phật pháp, chẳng gọi nó là “linh hồn”, mà gọi là “thần thức”. Đối với bản thể vật chất, các khoa học hiện thời đã quan sát đến mức có thể nói là khá tinh vi; có phải là đã quan sát được nó [chân xác] hay không? Chúng tôi vẫn chẳng dám nói lời này! Bất quá chúng tôi có thể nói là “khá tiếp cận”, đó là khả năng của khoa học. Nhưng khoa học chẳng có một tí biện pháp nào đối với bản thể của tinh thần, bó tay, chẳng có cách nào thăm dò. Nói cách khác, mãi cho đến nay, chẳng hề có mảy may tiến bộ nào đáng nói! Nhưng đối với việc khảo sát bản thể của vật chất, trong những năm qua, xác thực là [khoa học] đột nhiên tiến bộ nhanh chóng, chứng minh điều kinh Kim Cang đã dạy: Hết thảy các sắc tướng và vật chất là Nhất Hiệp Tướng. Điều này đã được khoa học chứng minh. Kinh Kim Cang nói thế giới này là Nhất Hiệp Tướng. “Nhất” (一) là một loại vật chất, Hiệp (合) là kết hợp lại. Các nhà khoa học hiện thời hiểu rõ: Vật chất cơ bản, xác thực là cùng một thứ, chỉ là công thức cấu tạo khác nhau, phương thức kết cấu khác nhau. Do như vậy mà kết hợp thành điện tử, kết hợp thành nguyên tử, kết hợp thành phân tử. Từ phân tử, kết hợp thành động vật, thực vật, hoặc khoáng vật. Đem những thứ ấy phân tích, xác thực đúng là Nhất Hiệp Tướng. Đích xác là khoa học đã chứng thực Nhất Hiệp Tướng của kinh Kim Cang. Ba ngàn năm trước, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói rõ chân tướng của vật chất, cho tới nay mới được các nhà khoa học chứng minh, chẳng sai tí nào! Xác thực là do một loại [vật chất cơ bản] kết hợp. “Nhất” chính là bản thể của vật chất, mà cũng chính là Tướng Phần (相分) được nói trong Pháp Tướng Tông.

“Như thị lực”: Lực (力) là năng lực, nay chúng ta nói là “động lực”, hoặc hiện thời nói là “vận động”. Lực ấy là vận động. Ai thúc đẩy nó? Chư vị phải hiểu, tâm là thanh tịnh. Chân tâm, bản tánh là thanh tịnh, là tịch diệt, là bất động. Trong đại vũ trụ, nhỏ đến mức như vi trần, vi trần cũng là một tiểu thế giới. Dưới kính hiển vi có độ phóng đại thật lớn, [sẽ thấy] giống như là trong ấy cũng có một thứ giống như tinh cầu, quanh đó là điện tử di chuyển vòng quanh, cũng giống như một tiểu vũ trụ, là đại vũ trụ được thu nhỏ, nó cũng đang chuyển động. Lực lượng nào thúc đẩy nó? Các nhà khoa học hiện thời tưởng là do điện Âm và điện Dương thúc đẩy nó. Điện Âm và điện Dương do đâu mà có? Nói thật ra, Phật pháp đã nói vấn đề này rất thấu triệt! Đức Phật dạy: “Vô minh bất giác sanh tam tế”, động do đâu mà có? Vô minh. Vô minh là động tướng (動相: tướng biến động, di động). Minh là bất động, vô minh mới là động. Vô minh còn tồn tại trước khi có ba tế tướng. Tâm đã bị động, hễ tâm động, vô minh bèn dấy lên. Do động nên mới sanh ra tam tế (三細: ba tế tướng). Ba tế tướng của A Lại Da Thức là Vô Minh Nghiệp Tướng, Kiến Tướng, và Cảnh Giới Tướng. Kiến Tướng là Kiến Phần, Cảnh Giới Tướng là Tướng Phần. Hễ động, [chân tánh] liền biến thành A Lại Da. Do vậy, A Lại Da là Thể. Tánh [được nói] trong phần trước là Chân Như bản tánh. Do một niệm bất giác, Chân Như bản tánh bèn biến thành Thể, biến thành A Lại Da. Trong A Lại Da có sức mạnh, sức mạnh ấy chính là sức mạnh của vô minh, ở trong ấy thúc đẩy nó. “Như thị tác”: Tác (作) là tạo tác (造作), mới có tạo tác, hễ tạo tác bèn có nghiệp.  Bất luận là vật nào có hình tướng lớn hay nhỏ, hết thảy các pháp, mỗi pháp đều trọn đủ mười chuyện này, chẳng thiếu một điều nào!

“Như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo”, quả và báo đôi khi được gộp thành một. Chia làm hai thì quả là quả, báo là báo. Đời trước chúng ta đã tu thiện nghiệp, đời này được làm thân người; đó là Quả. Được làm thân người thì hết thảy các thứ hưởng thụ trong một đời này gọi là Báo. Có người được làm thân người, đời này sống rất hạnh phúc; có người tuy được làm thân người, đời này sống rất vất vả, báo bất đồng mà! Quả đồng, quả là đều được làm thân người, nhưng báo bất đồng. Các nhà Duy Thức gọi chúng là Dẫn Nghiệp và Mãn Nghiệp. Dẫn (引) là dẫn dắt, hướng dẫn quý vị đi đầu thai, đó là Quả. Mãn Nghiệp (滿業) là sau khi đầu thai, những gì quý vị được hưởng thụ chính là Báo, khác nhau! Nếu chúng ta thật sự hiểu rõ, hiểu minh bạch chân tướng sự thật này, trong đại vũ trụ, bản thân chúng ta không chỉ có thể làm chủ trong một đời này, mà đời đời kiếp kiếp chính mình đều có thể làm chủ tể! Chính mình có thể làm chủ tể, quý vị chẳng còn gọi là chúng sanh nữa, mà gọi là Phật, hoặc Bồ Tát. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai”. Ai có thể chuyển cảnh? Hiểu rõ ràng, hiểu minh bạch, bèn có thể chuyển cảnh. Chuyển cảnh chẳng khó! Khó ở chỗ nhận thức, khó ở chỗ hiểu rõ. Nhận thức và hiểu rõ được kinh Phật gọi là ngộ, tức giác ngộ, khó ở chỗ giác ngộ. Sau khi đã ngộ, sẽ dễ thực hiện chuyện ấy. Vì sao? Quý vị hiểu rành mạch nhân duyên quả báo: Nhân duyên như thế nào sẽ có quả báo như thế nấy. Quý vị có thể khống chế, nắm giữ, sáng tạo nhân duyên, quả báo sẽ đúng như chính mình mong mỏi, chẳng có điều gì không đạt được!

“Nhân” là chủng tử được chứa đựng trong A Lại Da Thức; đó là Nhân, đời đời kiếp kiếp tích lũy. Nhân của mười pháp giới, chúng ta đều trọn đủ. Chúng ta có cái nhân làm Phật, có cái nhân làm Bồ Tát, cũng có cái nhân đọa địa ngục A Tỳ, thứ gì cũng đều có, chẳng thiếu một thứ nào! Chúng ta muốn hưởng quả báo như thế nào, mấu chốt là Duyên. Vì thế, Phật pháp hết sức coi trọng Duyên. Vì sao Phật chẳng nói “nhân sanh”, mà phải nói là “duyên sanh”? Duyên thì chính mình có thể khống chế, chứ tự mình chẳng thể khống chế nhân. Nhân là cái đã có, chẳng có cách nào, chẳng thể nào thay đổi được. Duyên thì chính mình có thể khống chế. Ví như trong quá khứ, chúng ta tạo tác cái nhân ác, nhân đã có; từ nay trở đi, ta đoạn hết các ác duyên, nhân mà chẳng có duyên sẽ chẳng thể kết quả, sẽ chẳng thọ báo, cắt đứt cái duyên! Trong đời quá khứ ta có thiện nhân, nay ta thêm thiện duyên vào. Quả báo sau đấy sẽ là thiện quả lý tưởng. Kinh luận thường chỉ dạy chúng ta: “Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, hai câu ấy nói lên điều gì? Nhân! Nhân như thế đó! Tây Phương Cực Lạc thế giới và A Di Đà Phật đều do cái nhân của chính chúng ta biến hiện. Chúng ta có cái nhân ấy, nay chỉ cần thêm duyên vào. Chúng ta đến thế giới Tây Phương để làm Phật. Vì thế, kinh Di Đà dạy: “Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”. Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ là nhân; nay chúng ta nhất tâm nhất ý nương tựa A Di Đà Phật, tín nguyện trì danh, đó là duyên. Hễ nhân và duyên kết hợp, quả báo sau đó là thế giới Tây Phương, sẽ thấy A Di Đà Phật, quả báo là như thế đó. Nếu chúng ta quên bẵng chuyện này, chúng ta có rất nhiều “nhân”: Tham tài, tham danh, tham sắc, tham ngũ dục, lục trần. Trong A Lại Da Thức có chứa đựng chủng tử của ba ác đạo, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Duyên của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là gì? Chính là tham, sân, si. Nay chúng ta tiếp tục gây tham, sân, si chẳng ngừng, về sau quả báo hiện tiền, quả báo gì vậy? Ba ác đạo. Do tham làm duyên, đi vào ngạ quỷ đạo. Do cái duyên nóng giận, đi vào địa ngục đạo. Do cái duyên ngu si, đi vào súc sanh đạo. Ngu si là “chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, thiện, ác” đều điên đảo, chẳng có năng lực phân biệt. Phật pháp ở Đài Loan dường như rất hưng thịnh. Trong Phật pháp có chánh pháp, có tà pháp, có chân Phật, có giả Phật, ai có thể phân biệt? Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Thời kỳ Mạt Pháp”, tức là nói đến thời đại hiện tại này, “tà sư thuyết pháp, như cát sông Hằng”. Quý vị có năng lực phân biệt tà chánh hay không? Chẳng thể phân biệt thì học Phật cuối cùng quả báo là ở trong súc sanh đạo. Thiện tâm học Phật, hưởng phước trong súc sanh đạo! Giống như hiện thời có khá nhiều kẻ nuôi các con vật cưng (pet), chúng có phước báo rất lớn. Chúng tôi ở ngoại quốc trông thấy: Con vật cưng ấy đúng là chủ nhân trong một nhà! Cả nhà đều phải hầu hạ nó, quý vị thấy nó có phước báo lớn lắm! Chẳng phải con người là chủ nhân, mà con vật cưng là chủ nhân. Vì con vật cưng đâu có hầu hạ chủ nhân, chủ nhân phải tận tụy hầu hạ, chăm sóc nó, đó là điên đảo! Trong kinh, đức Phật nói là “mê hoặc, điên đảo”. Tại Đài Loan và Trung Quốc hiện thời cũng dần dần lưu hành [thói quen cưng chiều thú vật nuôi]. Tôi thấy cũng có kẻ nuôi con vật cưng, chăm sóc cẩn thận, không điều nhỏ nhặt nào chẳng quan tâm, còn chu đáo hơn hiếu thuận cha mẹ! Đó là gì? Do thiện tâm mà ngu si, cho nên hứng chịu quả báo ấy. Vì thế, chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, nhất định phải hiểu rành mạch, rõ ràng, thì trong một đời này, chúng ta mới có thể vượt thoát tam giới, mới không đến nỗi luống uổng! Do vậy, nhất định phải biết khống chế duyên, duyên thật sự do bản thân chúng ta nắm quyền thao túng. Xa lìa hết thảy các ác duyên, phải thân cận hết thảy thiện duyên. Trong hết thảy các duyên, duyên chí thiện viên mãn là A Di Đà Phật. Nói thật ra, người biết điều này chẳng nhiều lắm! Quý vị thật sự đã biết, sẽ khăng khăng một mực, không chỉ là buông pháp thế gian xuống, mà tất cả hết thảy Phật pháp cũng buông xuống, nhất tâm nhất ý chuyên niệm A Di Đà Phật, đó là hoàn toàn đúng.

Câu cuối cùng là “như thị bổn mạt cứu cánh” (gốc ngọn rốt ráo như thế). Câu này nhằm tổng kết chín câu trước, có gốc, có ngọn, có đầu, có cuối thì mới là rốt ráo. Mỗi một pháp đều chẳng ra ngoài Thập Như. Thiên Thai đại sư giải thích tựa đề kinh Pháp Hoa, vì trong tựa đề kinh có một chữ Hoa (華), Hoa là hoa sen, để giải thích hoa sen, Ngài đã dùng Thập Như để giải thích. Nói cách khác, dùng Liên làm đại biểu hòng giảng rõ Thập Như. Sau đấy lại bảo quý vị: Hết thảy vạn pháp, pháp nào cũng đều có đủ Thập Như, chẳng có pháp nào là ngoại lệ.

Giảng đến câu “như thị báo”, đại sư có một tỷ dụ: “Thí như liên thật vi nhiễu phòng đài” (Ví như hạt sen vây quanh gương sen). “Liên thật” (蓮實) là hạt sen, hạt sen vây kín trong gương sen. Gương sen chính là đài sen. Gương sen sanh trưởng trong hoa. Chúng ta đắp tạc tượng Phật, bất luận là tượng Phật ngồi hay đứng, chân đứng trên gương sen, mà ngồi cũng là ngồi trên gương sen. Gương sen chính là “phòng đài” (房臺). Do vậy, đài có hai loại sai khác như vậy.

 

(Sao) Hựu vân: Thật y ư đài.

()又云:實依於臺。

(Sao: Lại nói: “Hạt nương vào đài”).

“Thật” (實) là hạt sen. Hạt sen nương náu gương sen.

 

(Sao) Thật tắc liên tử, tử tàng đài trung, tắc thế sở vị liên phòng thị dã.

()實則蓮子,子藏臺中,則世所謂蓮房是也。

(Sao: “Hạt” chính là hạt sen, hạt ẩn trong đài, đài chính là cái được cõi đời gọi là gương sen vậy).

Nói  văn  nhã  đôi  chút  về “liên phòng” (蓮房), chúng  ta  gọi  nó thông tục là “gương sen”, chính là ý nghĩa này. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 254

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm lẻ hai:

 

(Sao) Hựu Hoa Nghiêm Thập Địa liên hoa văn vân: “Lưu ly vi hành, chiên đàn vi đài, mã não vi tu, Diêm Phù Đàn kim vi diệp”, tịnh xưng hành, đài, tu, diệp. Nhi Niết Bàn diệc vân: “Thí như hành, diệp, tu, đài, hợp vi liên hoa”. Thử sở vị đài, giai phòng đài dã.

()又華嚴十地蓮華文云:琉璃為莖,栴檀為臺,瑪瑙為鬚,閻浮檀金為葉。並稱莖臺鬚葉。而涅槃亦云:譬如莖葉鬚臺,合為蓮華。此所謂臺,皆房臺也。

(Sao:Lại nữa, phần nói về hoa sen trong phẩm Thập Địa của kinh Hoa Nghiêm có nói: “Lưu ly làm cuống, chiên đàn làm đài, mã não làm tua (nhị sen), vàng Diêm Phù Đàn làm cánh hoa”, cùng nói đến cuống, gương, tua, cánh. Mà kinh Niết Bàn cũng nói: “Ví như cuống, cánh, tua, đài hợp thành hoa sen”. Đài được nói [trong các đoạn kinh văn ấy] đều là gương sen vậy).

Đại sư trích dẫn kinh văn từ kinh Hoa Nghiêm và Niết Bàn để chứng minh. Đức Phật nói tới “liên đài” rất nhiều, trong các kinh đều có nói. Đối với “đài” được nói ở đây, ta gọi là “gương sen” hoặc “đài sen”; chữ “phòng đài” [trong Sớ Sao] có ý nghĩa ấy.

 

(Sao) Tức Pháp Hoa “Chân Thúc Ca bảo dĩ vi kỳ đài” chi ý dã.

()即法華甄叔迦寶以為其臺之意也。

(Sao: Chính là ý nghĩa của [chữ Đài] trong câu “dùng báu Chân Thúc Ca để làm đài” trong kinh Pháp Hoa).

 Trích từ kinh Pháp Hoa. “Chân Thúc Ca (Kiṃśuka) bảo” là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “hồng bảo thạch”.

 

(Sao) Quán thị, tắc tri Quán Kinh hoa tòa quán trung, tiên ngôn tác liên hoa tưởng, thứ vân Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo dĩ vi kỳ đài, tắc hoa nội chi đài dã.

()觀是,則知觀經華座觀中,先言作蓮華想,次云釋迦毗楞伽寶以為其臺,則華內之臺也。

(Sao: Xem đó bèn biết trong phần Hoa Tòa Quán của Quán Kinh, trước hết nói quán tưởng hoa sen, kế đó nói “báu Thích Ca Tỳ Lăng Già để làm đài” chính là [nói tới] cái đài ở bên trong hoa vậy).

Những điều được nói trong các kinh đủ để chứng minh kim cang đài hay tử kim đài đều nhằm chỉ gương sen trong hoa sen. “Thích Ca Tỳ Lăng Già bảo” (Śakrābhilagna-maṇi-ratna) là danh xưng của một loại bảo châu, cũng là tiếng Phạn, có nghĩa là Năng Thắng. Loại bảo châu này vô cùng trân quý, hết sức hiếm có, thù thắng.

 

(Sao) Hựu vân: “Nhất nhất kim sắc, xứ xứ biến hóa, hoặc tác kim cang đài, hoặc tác trân châu võng đẳng”, tắc hoa hạ chi đài dã.

()又云:一一金色,處處變化,或作金剛臺,或作珍珠網等,則華下之臺也。

(Sao: Lại nói: “Mỗi một sắc vàng, biến hóa khắp nơi, hoặc biến ra đài kim cang, hoặc là lưới trân châu v.v…” chính là [nói tới] cái đài ở dưới hoa vậy).

 Hoa ở trên đài, trong hoa cũng có đài.

 

(Sao) Cố thượng phẩm trung sanh, tiên ngôn tử kim đài, thứ vân túc hạ diệc hữu thất bảo liên hoa, tắc tử kim đài tại hoa hạ, minh hỹ.

()故上品中生,先言紫金臺,次云足下亦有七寶蓮華,則紫金臺在華下明矣。

(Sao: Vì thế, trong phần thượng phẩm trung sanh [của Quán Kinh], trước hết nói đến đài tử kim, sau đó nói “dưới chân cũng có hoa sen bảy báu”, rõ ràng là nói tới đài vàng ở dưới hoa).

Nói theo kiểu này là nói tới cái đài [nâng đỡ] ở phía dưới hoa.

 

(Sao)  Hoa tất hữu đài,  đài tất hữu hoa,  ngôn kim cang đài, bất ngôn hoa, dữ ngôn hoa bất ngôn đài, văn tiền hậu hỗ hiển nhĩ.

()華必有臺,臺必有華,言金剛臺,不言華,與言華不言臺,文前後互顯耳。

(Sao: Hoa ắt có đài, có đài ắt phải có hoa. Nói “đài kim cang, chẳng nói hoa”, và “nói hoa, chẳng nói đài”, kinh văn trước sau soi tỏ lẫn nhau vậy).

Chúng ta đọc kinh Phật hãy nên biết điều này. Đức Phật thuyết pháp, rồi người đời sau kết tập, ghi chép thành văn tự. Trong văn tự, chẳng tránh khỏi có chuyện tu từ[3], tức là tại Trung Hoa, vào thuở phiên dịch, sau khi hoàn thành một bộ kinh, vẫn phải tìm những bậc đại văn học gia làm công tác tu từ, [tức là] giữ cho ý nghĩa chẳng thay đổi, nhưng [điểm xuyết] từ ngữ, câu văn cho đẹp. Người Hoa làm công tác này. Chúng tôi nghĩ: Khi tôn giả A Nan kết tập, thoạt ban sơ cũng phải nên có công tác tô điểm này. Vì thế, văn tự có chỗ nói rõ hoặc tỉnh lược lẫn nhau: Ở nơi đây đã nói rất rõ rệt thì ở chỗ kia bèn nói đơn giản, ở chỗ kia nói rất rõ rệt thì ở nơi đây bèn nói đơn giản. Vì thế, phải gộp lại để xem thì mới có thể thấy ý nghĩa hoàn chỉnh!

 

(Sao) Đản thượng thượng phẩm nhất sanh liên trung, tức thời hoa khai, tức thời kiến Phật, tức thời chứng đạo. Kỳ dư tắc hoa khai tiệm vãn, kiến Phật tiệm trì, chứng đạo tiệm viễn. Dĩ thị phân biệt, tri thượng thượng độc thắng, phi vị vô liên dã!

() 但上上品一生蓮中 ,即時華開,即時見佛,即時

證道;其餘則華開漸晚,見佛漸遲,證道漸遠。以是分別,知上上獨勝,非為無蓮也。

(Sao: Chỉ cần sanh vào hoa sen thuộc thượng thượng phẩm, ngay lập tức hoa nở, ngay lập tức thấy Phật, ngay lập tức chứng đạo. Trong những phẩm khác thì hoa nở chậm dần, thấy Phật trễ dần, chứng đạo xa dần, dùng những điều ấy để phân biệt bèn biết thượng phẩm thượng sanh thù thắng độc đáo, chứ không phải là do chẳng có hoa sen vậy).

Đây là đại sư nói rõ sự sai biệt hơn kém trong chín phẩm. Trong chín phẩm, chỉ có thượng thượng phẩm vãng sanh về nơi ấy, hoa liền nở, thấy Phật. Trong bài kệ Hồi Hướng chúng ta thường niệm [có câu]: “Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”. “Ngộ Vô Sanh” là chứng đạo. Quả vị Vô Sanh Pháp Nhẫn cũng có cạn hay sâu khác biệt. Theo như kinh Nhân Vương đã nói, sở chứng của Thất Địa Bồ Tát là hạ phẩm Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bát Địa là trung phẩm, Cửu Địa là thượng phẩm. Nếu chúng ta nới lỏng tiêu chuẩn một chút, Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo cũng có thể nói là “hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”. Sử dụng cách nói theo Lục Tức Phật của tông Thiên Thai thì Vô Sanh thuộc về Phần Chứng, tức là chứng đắc vài phần, chẳng chứng đắc viên mãn. Tông Thiên Thai nói Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo là Phần Chứng Phật. Đó là nói về sự chứng đạo. Chúng ta phải hiểu: Cùng là thượng thượng phẩm vãng sanh như nhau, nhưng địa vị trong ấy vẫn có bất đồng, vẫn là có phân chia cao thấp. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, chia nhỏ sẽ thành bốn mươi mốt giai cấp, đều là thật sự chứng quả. Bồ Tát thuộc các địa vị ấy, dẫu chẳng cần bổn nguyện và oai thần A Di Đà Phật gia trì, vị ấy cũng có năng lực và cũng có thần thông đến mười phương thế giới hóa độ chúng sanh, đáng nên dùng thân Phật để đắc độ, Ngài bèn có thể hiện thân Phật để thuyết pháp. Trong khá nhiều kinh Đại Thừa, đức Phật đã nói chuyện này. Đấy là Pháp Thân đại sĩ, thượng thượng phẩm vãng sanh. Nếu là phàm phu vãng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, phàm phu có phần trong thượng thượng phẩm hay không? Cũng có! Thiện Đạo đại sư nói chúng ta gặp duyên bất đồng. Nếu gặp duyên thù thắng, xác thực là cũng có thể đạt đến thượng thượng phẩm vãng sanh. Dẫu phẩm vị vãng sanh của chúng ta chẳng cao như vậy, nghiệp chướng tập khí của chúng ta rất nặng, đới nghiệp vãng sanh, sanh về Tây Phương thế giới, vãng sanh trong ba phẩm hạ. Sau khi đã tới thế giới Cực Lạc, chúng ta có năng lực gần giống như thượng thượng phẩm, tức là: Hạ hạ phẩm vãng sanh hễ đã tới thế giới Tây Phương, cũng có thể tùy loại hóa thân đến phổ độ chúng sanh trong các thế giới phương khác. Do đâu mà có năng lực ấy? Năng lực ấy chẳng phải là của chính mình! Chính mình chưa kiến tánh, chẳng phá vô minh, chẳng thấy Pháp Thân. Năng lực ấy do A Di Đà Phật gia trì. Chư vị phải ghi nhớ: Trong các thế giới phương khác chẳng có [chuyện kỳ đặc này], chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới là có, tức là người trong thế giới Cực Lạc chẳng phá vô minh, chẳng chứng đắc Pháp Thân, cũng giống như Pháp Thân đại sĩ ứng hóa trong mười phương các cõi Phật. Tây Phương được gọi là thù thắng bậc nhất là do chỗ này.

“Kỳ dư” là nói những phẩm vị khác kể từ thượng trung phẩm trở xuống, thời gian hoa nở chậm hơn. “Kiến Phật”: Thấy Phật ở đây là thấy Báo Thân Phật. Nếu nói tới Ứng Hóa Phật thì gặp mặt mỗi ngày. Chư vị phải biết: Ba ngàn năm trước, Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh trong thế giới này, từng vì chúng sanh thuyết pháp bốn mươi chín năm, tám mươi tuổi mới nhập Bát Niết Bàn. Thân tướng của vị Phật này được gọi là Ứng Thân Phật, chẳng phải là Báo Thân. Nếu Báo Thân Phật có đến [thế giới này], chúng ta cũng chẳng trông thấy. Đầu của Báo Thân Phật đại khái còn to hơn địa cầu, làm sao quý vị có thể thấy được? Chúng ta chẳng thấy Báo Thân Phật! Trong thế giới Tây Phương, “hoa khai kiến Phật” là thấy Báo Thân Phật. Trong bài kệ Tán Phật mà chúng ta hay niệm, thân tướng của Báo Thân Phật rất lớn: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di” (Lông trắng giữa hai chân mày cuộn tròn to bằng năm quả núi Tu Di); đó là cổ đại đức ca ngợi Phật. Tu Di (Sumeru) nghĩa là Diệu Cao, [hiểu theo nghĩa rộng sẽ] là một quả núi cao nhất trong khu vực của chúng ta, đấy chính là núi Tu Di ở nơi đây. Núi cao nhất trên địa cầu là núi Hỷ Mã Lạp Nhã (Himālaya)[4], Thích Ca Mâu Ni Phật sanh đúng ngay phía Nam núi Hỷ Mã Lạp Nhã, nay là xứ Nê Bạc Nhĩ (Nepal), là một tiểu quốc, bèn lấy núi Hỷ Mã Lạp Nhã làm thí dụ [để nói về Diệu Cao]. Giữa hai chân mày của đức Phật có hai sợi bạch hào[5], hai sợi bạch hào ấy cuộn tròn to cỡ nào? To bằng năm rặng núi Hỷ Mã Lạp Nhã. Quý vị hãy tưởng tượng xem, đầu đức Phật há chẳng phải là to như quả địa cầu, làm sao chúng ta có thể thấy được? Chẳng nhìn thấy! Chúng ta có thể thấy, có thể tiếp xúc, đều là Ứng Thân hoặc Hóa Thân của Phật. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ứng Hóa Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới hết sức nhiều, thời thời khắc khắc, nơi nơi chốn chốn đều trông thấy, hầu như Phật chẳng hề lìa khỏi chúng ta. Suốt ngày từ sáng đến tối đều ở chung một chỗ với Phật; đó là Ứng Hóa Phật. Chúng ta hiểu rõ sự thật này, nói thật ra, đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới, phẩm vị vãng sanh chẳng quan trọng cho lắm. Thấy Báo Thân sớm hay trễ chẳng khẩn yếu. Ứng Hóa Phật cũng là chân Phật, chẳng giả, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới gặp mặt hằng ngày. Huống hồ lại được bổn nguyện và oai thần của Phật gia trì mỗi ngày, trí huệ, thần thông, đạo lực gần như chẳng khác bậc Đẳng Giác Bồ Tát, thế mà vẫn chưa thỏa mãn ư? Hãy nên khăng khăng một mực thật thà niệm Phật, đó là đúng.

“Dĩ thị phân biệt, tri thượng thượng độc thắng, phi vị vô liên dã” (Dùng những điều ấy để phân biệt bèn biết thượng phẩm thượng sanh thù thắng độc đáo, chứ không phải là do chẳng có hoa sen vậy). Phần thượng phẩm thượng sanh trong Quán Kinh chỉ nói kim cang đài, chẳng nhắc tới hoa sen. Từ kinh văn nhiều ngần ấy, chúng ta có thể suy đoán: Thượng phẩm thượng sanh nhất định là cũng có hoa sen, kinh văn nói tỉnh lược đó thôi!

 

(Sao) Nhược dĩ vô liên vi thắng, hữu liên vi liệt, thị bạc liên dã, hà thủ ư liên bang?

()若以無蓮為勝,有蓮為劣,是薄蓮也,何取於蓮邦。

(Sao: Nếu nghĩ “chẳng có hoa sen là thù thắng, có hoa sen là kém cỏi”, tức là khinh thường hoa sen, sao còn cầu sanh Liên Bang?)

Nếu nói “chẳng có hoa sen là thù thắng nhất, có hoa sen đâm ra thua kém một bậc”, “thị bạc liên dã” [nghĩa là] chúng ta khinh thường hoa sen!

 

(Sao) Nhi hoa tòa quán, minh Phật tọa liên hoa, tắc Phật diệc liệt hỹ, lý vân hà thông?

()而華座觀,明佛坐蓮華,則佛亦劣矣,理云何通?

(Sao: Nhưng trong phần Hoa Tòa Quán, kinh nói Phật ngồi trên hoa sen, vậy thì Phật cũng kém cỏi, lý ấy nói sao cho suông?)

Trong mười sáu phép Quán, phép Quán thứ bảy là Hoa Tòa Quán, quán tòa hoa sen của Phật, quán hoa sen, Phật ngự trên hoa sen. [Nếu hiểu] là trong phần thượng phẩm thượng sanh chẳng có hoa sen, chỉ ngồi trên đài kim cang, chẳng có hoa sen là thù thắng, vậy thì Phật cũng chẳng sánh bằng người [vãng sanh] ấy, há có lẽ đó? Nói theo Lý chẳng suông! Những lời này không gì chẳng nhằm phá trừ nỗi nghi hoặc của chúng ta, chỉ rõ chín phẩm đều có hoa sen, chín phẩm đều có gương sen, đều có đài [nâng đỡ tòa sen].

 

(Diễn) Đản thượng thượng phẩm hạ.

()但上上品下。

(Diễn: Từ câu “chỉ là thượng thượng phẩm” trở đi).

Chỉ đoạn văn [trong phần Sao] trên đây.

 

(Diễn) Thị minh thượng phẩm thù thắng chi nghĩa.

()是明上品殊勝之義。

(Diễn: Nói rõ ý nghĩa thù thắng của thượng phẩm).

“Minh” là nói rõ, chỉ rõ thượng phẩm thượng sanh thù thắng khôn sánh.

 

(Diễn) Hoa khai tiệm vãn nhị cú.

()華開漸晚二句。

(Diễn: Hai câu từ “hoa nở chậm dần” [trở đi]).

Chỉ phần kế tiếp. Chúng ta xem phần kế tiếp.

 

(Diễn) Thượng phẩm trung sanh, kinh túc hoa khai, tức đắc kiến Phật.

()上品中生,經宿花開,即得見佛。

(Diễn: Thượng phẩm trung sanh, qua một đêm hoa nở, liền được thấy Phật).

Thượng phẩm thượng sanh, tới nơi đó hoa liền nở. Thượng phẩm trung sanh, qua một đêm hoa nở, cách một đêm hoa sẽ nở. Hoa nở bèn thấy Phật. Một đêm ấy chính là một đêm trong thế giới này của chúng ta. Thế giới Tây Phương chẳng có ngày, đêm, chẳng có năm, tháng, ngày, giờ. Nói cách khác, chậm hơn thượng phẩm thượng sanh mười hai tiếng đồng hồ mà thôi!

 

(Diễn) Thượng phẩm hạ sanh, kinh nhất nhật nhất dạ, liên hoa nãi khai.

()上品下生,經一日一夜,蓮華乃開。

(Diễn: Thượng phẩm hạ sanh, trải qua một ngày một đêm, hoa sen bèn nở).

Thượng phẩm hạ sanh mới là hai mươi bốn tiếng đồng hồ, hoa mới nở. Hoa nở vẫn chưa thấy Phật, khi nào sẽ thấy Phật?

 

(Diễn) Thất nhật chi trung, nãi đắc kiến Phật.

()七日之中,乃得見佛。

(Diễn: Trong bảy ngày bèn được thấy Phật).

Một ngày một đêm hoa nở, hoa nở [trong vòng] bảy ngày sẽ thấy Phật, thấy Báo Thân của Phật.

 

(Diễn) Nãi chí hạ phẩm thượng sanh, kinh thất thất nhật, hoa khai kiến Phật.

()乃至下品上生,經七七日,花開見佛。

(Diễn: Cho đến hạ phẩm thượng sanh, trải qua bốn mươi chín ngày, hoa nở thấy Phật).

 Hạ phẩm thượng sanh là chúng sanh tạo tác ác nghiệp, bất quá tạo ác chẳng quá nặng nề. Qua bảy lần bảy bốn mươi chín ngày, hoa nở thấy Phật.

 

(Diễn) Hạ phẩm trung sanh, kinh ư lục kiếp, hoa khai kiến Phật.

()下品中生,經於六劫,花開見佛。

(Diễn: Hạ phẩm trung sanh, qua sáu kiếp, hoa nở, thấy Phật).

Thời gian thật dài.

 

(Diễn) Hạ phẩm hạ sanh, kinh thập nhị đại kiếp, hoa khai kiến Phật.

()下品下生,經十二大劫,花開見佛。

(Diễn: Hạ phẩm hạ sanh, trải mười hai đại kiếp, hoa nở, thấy Phật).

Hoa nở chậm dần.

 

(Diễn) Chứng đạo tiệm viễn giả, thượng trung, kinh nhất tiểu kiếp.

()證道漸遠者,上中,經一小劫。

(Diễn: “Chứng đạo chậm dần”: Thượng phẩm trung sanh trải qua một tiểu kiếp).

“Chứng đạo” ở đây là đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. “Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh” là ba giai đoạn, chẳng phải là cùng lúc. Hoàn thành cùng lúc chỉ có thượng phẩm thượng sanh. Hoa nở và thấy Phật đồng thời, chứng quả chẳng đồng thời, thời gian có sai biệt; thượng phẩm trung sanh trải qua một tiểu kiếp.

 

(Diễn)  Thượng hạ,  kinh tam tiểu kiếp,  đắc Vô Sanh Nhẫn,  trụ

Hoan Hỷ Địa. Nãi chí hạ thượng, kinh thập tiểu kiếp, đắc nhập Sơ Địa.

()上下,經三小劫,得無生忍,住歡喜地。乃至下上,經十小劫,得入初地。

(Diễn: Thượng phẩm hạ sanh trải qua ba tiểu kiếp, đắc Vô Sanh Nhẫn, trụ Hoan Hỷ Địa. Cho đến hạ phẩm thượng sanh, trải qua mười tiểu kiếp, được nhập Sơ Địa).

Đắc Vô Sanh Nhẫn, trụ Hoan Hỷ Địa, chỉ rõ tiêu chuẩn Vô Sanh Nhẫn chính là Sơ Địa Bồ Tát trong Viên Giáo. Quả thật địa vị này rất cao, chứng Vô Sanh Nhẫn.

 

(Diễn) Hạ trung, kinh ư lục kiếp, phát vô thượng đạo tâm.

()下中,經於六劫,發無上道心。

(Diễn: Hạ phẩm trung sanh, trải qua sáu kiếp, phát vô thượng đạo tâm).

Sáu kiếp hoa nở, thấy Phật, phát vô thượng đạo tâm.

 

(Diễn) Hạ hạ, thập nhị đại kiếp, phát Bồ Đề chi tâm.

()下下,十二大劫,發菩提之心。

(Diễn: Hạ phẩm hạ sanh, qua mười hai đại kiếp, phát Bồ Đề tâm).

Vô Thượng Đạo Tâm có cùng một ý nghĩa với Bồ Đề tâm, đều là nói tới địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo, trong Biệt Giáo là Sơ Địa. Cũng có nghĩa là phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, chính là địa vị ấy. Nói theo Biệt Giáo [trong các thế giới khác], địa vị ấy đã tu trọn một A-tăng-kỳ kiếp, đến A-tăng-kỳ kiếp thứ hai mới chứng đắc quả vị này. Người hạ hạ phẩm vãng sanh trong thế giới Tây Phương chỉ cần mười hai đại kiếp, trong các thế giới phương khác phải tu một A-tăng-kỳ kiếp, chẳng thể sánh bằng! Đây cũng là nói rõ: Vì sao hết thảy chư Phật, Bồ Tát khuyên chúng ta cầu sanh Tịnh Độ? Đạo lý ở chỗ này.

Nhưng nếu chư vị đọc cẩn thận kinh văn này, sẽ có một nghi vấn: Vì sao hạ phẩm thượng sanh trong bảy lần bảy bốn mươi chín ngày bèn hoa nở thấy Phật, thành tựu vượt trỗi trung bối vãng sanh? “Trung bối” ở đây là trung phẩm thượng sanh, chứ trung phẩm trung sanh và trung phẩm hạ sanh [kinh văn] chẳng nói tới. Nhưng chúng ta hiểu rất rõ: Trong trung bối vãng sanh, hai loại trước (trung phẩm thượng sanh và trung phẩm trung sanh) là người Tiểu Thừa trì giới, hồi Tiểu hướng Đại cầu sanh Tịnh Độ. Trung phẩm hạ sanh là thiện nhân trong thế gian, hạ phẩm thượng sanh là kẻ làm ác. Vì sao họ vãng sanh thời gian còn ngắn hơn, thành tựu còn rất nhanh chóng? Ở đây, nhất định phải hiểu: Làm ác là một chuyện, căn tánh lại là một chuyện khác! Kẻ tạo ác bụng dạ rộng rãi, rất có nghĩa khí, bằng lòng giúp đỡ kẻ khác; nói theo phương diện này, kẻ Tiểu Thừa chẳng bằng họ. Kẻ Tiểu Thừa bảo vệ chính mình. Giang hồ hào kiệt có thể bỏ mình vì người, thấy người khác gặp nguy nan bèn chịu rút đao tương trợ, họ có khí phách hào sảng ấy. Vì thế, hễ họ quay đầu sanh về Tịnh Độ, sẽ thường có thành tựu nhanh chóng hơn kẻ khác, đạo lý là như thế đó. Hạ phẩm trung sanh thì không được. Kinh đã nói rất rõ ràng: Quá nửa đều là người xuất gia chẳng tuân thủ giới luật. Đó cũng là do thiện căn trong đời trước, họ còn có thể niệm Phật, tu tập, tích lũy công đức, cho nên được vãng sanh. Hạ phẩm hạ sanh là kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, có thể nói là kẻ tội to cực ác, cũng cậy vào thiện căn trong đời quá khứ, vãng sanh giống như vậy. Do vậy có thể biết: Chín phẩm chẳng phải do Phật, Bồ Tát kiến lập, mà hoàn toàn là do chúng ta tự mình sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, do công phu tu hành của chúng ta cạn hay sâu bèn cảm vời, hiển hiện những quả vị ấy. Trong phần trước, tôi đã từng thưa trình: Chúng ta thấy các quả vị ấy rất rõ ràng, nhưng người trong thế giới Tây Phương chưa hề khởi tâm động niệm đối với chuyện này. Chúng ta nhất định phải hiểu rõ chân tướng sự thật, vì các tướng trạng được trông thấy trong Tây Phương Cực Lạc thế giới hoàn toàn bình đẳng. Ở đây, chúng ta mới liễu giải “hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh” là do Tánh Đức của chính mình lưu lộ. Chẳng thấy Phật, chẳng ngộ Vô Sanh, những gì người ấy được hưởng thụ là do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Do vậy, nhìn từ bên ngoài, quý vị chẳng thấy có cao hay thấp, hoàn toàn bình đẳng. Vì lẽ đó, thế giới Tây Phương là một thế giới bình đẳng. Thế giới bình đẳng ấy cũng khiến cho chúng ta hoài nghi, cũng khiến cho chúng ta khó thể lý giải. Chúng sanh tạo tác nghiệp lực bất bình đẳng, công phu tu hành bất bình đẳng, vì sao hết thảy thần thông, đạo lực, và thọ dụng đều bình đẳng? Phần nào quý vị bất bình đẳng, A Di Đà Phật bèn giúp đỡ, ban thêm cho quý vị. Do vậy, quý vị thảy đều là bình đẳng, có ý nghĩa như vậy đó! Thế giới Tây Phương thật sự bình đẳng!

Dưới đây, Liên Trì đại sư lại giả lập một đoạn vấn đáp, đúng là sợ quý vị có nghi hoặc, nghi có thể chướng đạo! Nếu chẳng trừ nghi hoặc, dẫu niệm Phật vãng sanh, cũng sanh về Nghi Thành, Biên Địa. Đây là lòng từ bi chân thật của đại sư, giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín.

 

(Sao) Vấn: Cực Lạc cửu phẩm, bát tùng liên sanh, Tứ Minh hà vi hữu thị ngôn hồ?

()問:極樂九品,八從蓮生,四明何為有是言乎。

(Sao: Hỏi: “Cực Lạc có chín phẩm, tám phẩm sanh từ trong hoa sen”. Cớ sao ngài Tứ Minh nói lời ấy?)

Tứ Minh tôn giả[6] có tác phẩm chú giải là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao. Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ do Trí Giả đại sư soạn. Trong lời Sao, Tứ Minh tôn giả đã viết: “Cực Lạc cửu phẩm, bát tùng liên sanh” (Chín phẩm của Cực Lạc, tám phẩm sanh từ hoa sen). Câu ấy do Ngài nói. Ngài là một vị tổ sư của tông Thiên Thai, chẳng lẽ còn phạm sai lầm ư? Do vậy, nay chúng tôi chọn lựa chú giải cho bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, bèn chọn tác phẩm của ngài Thiện Đạo, chẳng chọn từ tông Thiên Thai. Quý vị hãy quan sát kỹ càng, [sẽ thấy] lời giải thích của ngài Thiện Đạo viên mãn, giảng giải hay hơn bộ Diệu Tông Sao của tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai, nói thật ra, vẫn chẳng lìa khỏi học thuyết chủ trương của họ. Nếu nói theo Phật pháp, họ có thành kiến, chấp trước, tức là [để giải thích bất cứ điều gì đều gò vào cái khuôn] Tam Chỉ Tam Quán. Đối với mười sáu phép Quán, họ giải thích bằng cách vận dụng Nhất Tâm Tam Quán của tông Thiên Thai, dùng phương pháp ấy để tu Quán. Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh xác thực là chẳng có ý nghĩa ấy, họ cứ khăng khăng áp dụng khuôn mẫu phương pháp của Thiên Thai vào chỗ này, như vậy thì sẽ càng thêm khó khăn, chẳng giảng giải đơn giản, dễ hiểu như Thiện Đạo đại sư. Chúng ta hãy xem cách nói của Liên Trì đại sư.

 

(Sao) Đáp: Tứ Minh chỉ thuyết bát tùng liên sanh, vị thuyết bất liên vi thị hà phẩm. Dĩ trung hạ phẩm diệc vô liên hoa cố, nhược quả thượng thượng bất liên, đương tất hữu thuyết, nhi nãi đồ khai kỳ đoan, bất cánh kỳ thuyết giả, hà dã?

()答:四明只說八從蓮生,未說不蓮為是何品。以中下品亦無蓮華故,若果上上不蓮,當必有說,而乃徒開其端,不竟其說者,何也。

(Sao: Đáp: Ngài Tứ Minh chỉ nói tám phẩm sanh từ hoa sen, chẳng nói phẩm nào chẳng sanh từ hoa sen. Bởi lẽ, trung phẩm hạ sanh cũng chẳng nhắc tới hoa sen. Nếu thượng phẩm thượng sanh thật sự chẳng có hoa sen, ắt Ngài phải nói, nhưng Ngài chỉ khơi ra đầu mối ấy, rốt cuộc chẳng nói rõ vì sao?)

“Bát tùng liên sanh” (Tám phẩm sanh từ hoa sen), rốt cuộc là phẩm nào chẳng có hoa sen? Chẳng nói minh bạch! Trong chín phẩm ấy, có phẩm nói đến đài sen, có phẩm nói đến hoa sen, có phẩm cùng nói đài sen và hoa sen, mà chẳng nói tới hoa sen thì cũng hoàn toàn chẳng phải chỉ riêng thượng phẩm thượng sanh, rốt cuộc là nói đến loại nào? Ngài Tứ Minh “đồ khai kỳ đoan, bất cánh kỳ thuyết” (chỉ khơi ra đầu mối ấy, rốt cuộc chẳng nói), chẳng nói rõ ràng!

 

(Sao) Hoặc thử bát tự truyền tả chi ngộ, an tri bất thị Cực Lạc cửu phẩm, tất tùng liên sanh, sĩ cao minh cánh biện chi!

()或此八字傳寫之誤,安知不是極樂九品,必從蓮生,俟高明更辨之。

(Sao: Chữ “bát” ấy có thể là do sao chép sai lầm, không chừng nó chính là chín phẩm trong cõi Cực Lạc đều sanh từ hoa sen, xin chờ bậc cao minh biện định).

Liên Trì đại sư nói lời này rất viên mãn. Có lẽ là do người đời sau biên chép sai lệch. “Bát” (八) cũng có thể là chữ “tất” (必: đều cùng) không chừng!

 

(Diễn) Vấn Cực Lạc cửu phẩm hạ, thị thích minh Diệu Tông Sao hoặc hữu sai ngộ.

()問極樂九品下,是釋明妙宗鈔或有差誤。

(Diễn: Từ câu “Hỏi: Chín phẩm trong Cực Lạc” trở đi nhằm giải thích rõ bộ Diệu Tông Sao có thể là sai lầm).

Do vậy mới khiến cho người đời sau sanh khởi lắm nỗi nghi hoặc ngần ấy.

 

(Sớ) Vấn: Hạ phẩm dĩ ngoại, phục hữu thai sanh, vị thật hữu phủ?

()問:下品之外,復有胎生,為實有否。

(Sớ: Ngoài hạ phẩm lại có thai sanh, có thật như vậy hay chăng?)

 Kinh Vô Lượng Thọ nói như vậy. Câu hỏi này rất hay, ngoài hạ hạ phẩm vãng sanh ra, có phải là đúng như kinh nói, thật sự có thai sanh?

 

(Sớ) Đáp: Biểu Tín Lực bất kiên cố, thật vô thai sanh.

()答:表信力不堅故,實無胎生。

(Sớ: Đáp: Biểu thị Tín Lực chẳng kiên cố, thật sự chẳng có thai sanh).

 Liên Trì đại sư nói câu này hết sức khẳng định, Tây Phương Cực Lạc thế giới xác thực là chẳng có thai sanh! Có Biên Địa, nhưng vẫn là hóa sanh trong hoa sen, bất quá trong năm trăm năm họ không thấy Phật, không nghe pháp, khổ là khổ ở chỗ ấy. Chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, đương nhiên là [chẳng thấy] Ứng Hóa Thân Phật, chẳng phải là Báo Thân Phật. Trong năm trăm năm chẳng thấy Ứng Hóa Thân Phật. Năm trăm năm ấy cũng dùng đơn vị thời gian trong nhân gian chúng ta để tính toán.

 

(Sao) Phi thai sanh giả, Đại Bổn vân: “Phật cáo Di Lặc: Nhược hữu chúng sanh, tu chư công đức, nguyện sanh bỉ sát, bất liễu Phật trí, chí ý do dự, lâm mạng chung thời, phương hối kỷ quá. Dĩ thị sanh bỉ, tài nhập Biên Địa, kiến thất bảo thành, tức tiện chỉ trụ, ư liên hoa sanh, diệc hữu tự nhiên khoái lạc, như Đao Lợi Thiên. Duy ư thành trung, kinh ngũ bách tuế, bất đắc kiến Phật, bất văn kinh pháp, dĩ thử vi khổ”. Cố danh Thai Sanh, phi thật thai dục như nhân gian dã.

()非胎生者,大本云:佛告彌勒,若有眾生,修諸功德,願生彼剎,不了佛智,志意猶豫,臨命終時,方悔己過,以是生彼,纔入邊地,見七寶城,即便止住,於蓮華生,亦有自然快樂,如忉利天,惟於城中經五百歲,不得見佛,不聞經法,以此為苦,故名胎生。非實胎育如人間也。

(Sao: “Chẳng phải là thai sanh”: Kinh Đại Bổn nói: “Phật bảo Di Lặc: Nếu có chúng sanh tu các công đức, nguyện sanh về cõi kia, chẳng hiểu rõ Phật trí, chí ý do dự, khi mạng sắp chấm dứt, mới hối lỗi mình. Do vậy sanh về cõi kia, mới đến Biên Địa, thấy thành bảy báu, liền ngưng nghỉ ở đó, sanh trong hoa sen, cũng có sự sung sướng tự nhiên như trong cõi trời Đao Lợi. Chỉ là trong năm trăm năm, ở trong thành ấy, chẳng được thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, coi đó là khổ”. Cho nên gọi là Thai Sanh, chẳng phải là thật sự có sanh nở bằng bào thai như trong nhân gian).

Vì sao bị đọa nơi Biên Địa Nghi Thành? Kinh Vô Lượng Thọ đã nói rất minh bạch. Nói chung, quy nạp lại thì có hai nhân tố: Một là hoài nghi trí huệ viên mãn rốt ráo của Phật; hai là dấy lòng hoài nghi thiện căn của chính mình. Nhưng người ấy vẫn tín nguyện trì danh. Nếu chẳng có tín nguyện trì danh, căn bản là chẳng thể sanh về đó. Có tín nguyện trì danh, nhưng trong tâm có niềm nghi hoặc, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thể “nhập phẩm” (入品: dự vào phẩm vị vãng sanh), đọa trong Biên Địa, có ý nghĩa như thế. Chư vị phải hiểu: Biên Địa trọn chẳng phải là một nơi thật sự cách xa khu vực trung tâm, chẳng phải vậy! Đó là tỷ dụ. Biên Địa là gì? Quý vị sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ở trong hoa sen, chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, bèn gọi là Biên Địa. Nhưng ở trong ấy, sung sướng giống như trời Đao Lợi, hoặc như Dạ Ma Thiên; ở trong ấy, xác thực là tự tại, vui sướng. Chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, coi đó là khổ, gọi là Biên Địa. Cũng không chừng hoa sen của quý vị ở ngay bên cạnh A Di Đà Phật, trọn chẳng rất xa, nhưng vì quý vị có nghi hoặc, cho nên chẳng thể cảm ứng Ứng Hóa Thân của Phật. Có thể thấy là đức Phật công bình đối với hết thảy chúng sanh, chẳng có giới hạn, [mọi nỗi chướng ngại] là vì chính quý vị có chướng ngại. Đại Kinh nói: “Nghi là chướng nạn lớn nhất của Bồ Tát”. Có nỗi nghi hoặc ấy, khiến cho chính mình chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp. Những lời chú thích đều xuất phát từ kinh Vô Lượng Thọ.

 

(Sao) Hựu vân: Như Sát-đế-lợi, kỳ tử phạm pháp, u chi nội cung.

()又云:如剎帝利,其子犯法,幽之內宮。

(Sao: Lại nói: Như Sát-đế-lợi[7], đứa con ông ta phạm pháp, bị giam cầm trong nội cung).

 “U” (幽) có nghĩa là giam cầm. [Vương tử] phạm pháp, bị giam, ngồi tù.

 

(Sao) Xử dĩ hoa quán.

()處以華觀。

(Sao: Ở trong cung điện tráng lệ).

“Hoa quán” (華觀) là cung điện hoa mỹ, tráng lệ. Bị giam cầm ở trong ấy, chẳng được phép tự do ra vào!

 

(Sao) Tằng lâu, ỷ điện, hảo sức kỳ trân, bảo trướng, kim sàng, phục ngự sở tư, tất giai phong bị.

()層樓綺殿,好飾奇珍,寶帳金床,服御所資,悉皆豐備。

(Sao: Lầu nhiều tầng, điện sơn vẽ rực rỡ, trang hoàng đẹp đẽ bằng nhiều chất báu quý lạ, trướng báu, giường vàng, quần áo, xe cộ, đồ vật cần dùng thảy đều dư dật, đầy đủ).

Ý nói cuộc sống hết sức hào nhoáng, hết thảy hưởng thụ vật chất đều chẳng thiếu khuyết, thứ gì cũng đầy đủ. Anh ta là vương tử, vương tử phạm pháp bị giam cầm chẳng giống kẻ bình phàm, giam cầm trong thâm cung.

 

(Sao) Nhi dĩ Diêm Phù kim tỏa hệ kỳ lưỡng túc, bất đắc tự tại, tức Thai Sanh dụ dã.

()而以閻浮金鎖繫其兩足,不得自在,即胎生喻也。

(Sao: Nhưng dùng xích bằng vàng Diêm Phù trói chặt hai chân, chẳng được tự tại, nên dùng Thai Sanh để sánh ví).

Đây là ý nghĩa của tỷ dụ Thai Sanh. Người ấy chẳng thể tự tại, chẳng thể thấy Phật, chẳng thể nghe pháp. Dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh, kẻ ấy đắc tự tại, hằng ngày có thể đến mười phương thế giới cúng dường chư Phật, nghe Phật thuyết pháp. Có khi gặp gỡ chúng sanh hữu duyên, kẻ ấy tiện dịp cũng có thể dùng các thứ thân để hóa độ chúng sanh, kẻ ấy tự do tự tại. Sanh trong Biên Địa Nghi Thành trong suốt năm trăm năm chẳng được tự tại. Đó là tỷ dụ Thai Sanh, Thai (胎) có nghĩa là “chẳng được tự tại”.

 

(Sao) Hựu vân: “Nhược thức kỳ bổn tội, thâm tự hối trách, cầu ly bổn xứ, tức đắc vãng nghệ Vô Lượng Thọ Phật sở.

()又云:若識其本罪,深自悔責,求離本處,即得往詣無量壽佛所。

(Sao: Lại nói: “Nếu biết tội của mình, tự hối hận, tự trách sâu xa, cầu lìa khỏi chỗ ấy, liền được đến chỗ Vô Lượng Thọ Phật”).

Nói cách khác, phàm là người vãng sanh thuộc loại này, năm trăm năm là cực hạn của người ấy. Cũng có nghĩa là: Tối đa là sau năm trăm năm, người ấy sẽ hối hận, biết sám hối, có thể đoạn trừ nỗi nghi hoặc ấy. Đương nhiên còn có người rất nhanh chóng, đến chỗ ấy một năm hoặc hai năm bèn sám hối. Hễ sám hối, liền lìa khỏi, Phật liền hiện tiền, có thể thấy Phật, nghe pháp. Đây cũng là nói rõ: Thời gian đọa trong Biên Địa chẳng phải là rất dài. Dài nhất bất quá là năm trăm năm mà thôi, dùng [đơn vị thời gian trong] thế gian này để tính toán.

 

(Sao) Hựu Bồ Tát Xử Thai kinh vân: “Tây Phương khứ thử Diêm Phù Đề thập nhị ức na-do-tha, hữu Giải Mạn Giới, quốc độ thất bảo, kỳ lạc vô tỷ. Phát ý dục sanh Di Đà Phật quốc, nhi nhiễm trước ư thử, bất năng tiền tấn, diệc Nghi Thành Biên Địa loại dã”. Như thị giai diêu tín bất thiết cố.

()又菩薩處胎經云:西方去此閻浮提十二億那由他,有懈慢界,國土七寶,其樂無比,發意欲生彌陀佛國,而染著於此,不能前進,亦疑城邊地類也。如是皆繇信不切故。

(Sao: Kinh Bồ Tát Xử Thai lại nói: “Về phương Tây, cách Diêm Phù Đề mười hai ức na-do-tha [thế giới], có cõi Giải Mạn là cõi nước bằng bảy báu, vui sướng khôn sánh. Kẻ phát khởi tâm ý muốn sanh về cõi nước của Phật Di Đà, nhưng nhiễm đắm cõi ấy, chẳng thể tiến lên, đó cũng là chỗ thuộc loại Nghi Thành Biên Địa”. Như thế đều là do lòng tin chẳng thiết tha vậy).

 Trong kinh Bồ Tát Xử Thai[8], đức Thế Tôn có nói như vậy. Theo như đoạn kinh ấy nói, người niệm Phật có kẻ đọa trong nước Giải Mạn. Giải (懈) là giải đãi (懈怠), Mạn (慢) là ngã mạn. Người niệm Phật chẳng sửa đổi khuyết điểm, tập khí, trong tương lai cầu sanh Tịnh Độ sẽ tìm sai chỗ! Ngỡ nước Giải Mạn là thế giới Cực Lạc, sai mất rồi! Cõi Giải Mạn khá gần thế giới Sa Bà, ở giữa Sa Bà và Cực Lạc. Còn chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thấy nơi ấy khá quá, cứ ngỡ chắc là Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn trụ trong đó, chẳng đi nữa, sai mất rồi! Người thật sự niệm Phật, nói thật ra, chẳng dễ gì đến chỗ đó, vì sao? A Di Đà Phật đến tiếp dẫn quý vị, cứ khăng khít theo A Di Đà Phật, lấy đâu ra sai lầm? Kẻ [chẳng thật lòng niệm Phật, nửa tin, nửa ngờ] theo A Di Đà Phật nửa chừng bèn chẳng theo nữa, sẽ có thể đến nơi ấy (cõi Giải Mạn), phiền phức to lớn! Vì thế, hãy theo chắc A Di Đà Phật. Huống chi thật sự vãng sanh thì thời gian từ thế giới này đến Tây Phương Cực Lạc thế giới hết sức ngắn ngủi, trong khoảng khảy ngón tay đã đến nơi, làm sao có thể đọa lạc vào nơi đó cho được! Chẳng thể nào! Điều này khiến cho chúng ta an tâm rất lớn, chỉ là biết có một nơi chốn như vậy!

 

(Sớ) Vấn: Ký vân thất nhật, bỉ lâm chung thập niệm, đặc nga khoảnh nhĩ, hà đắc vãng sanh?

()問:既云七日,彼臨終十念,特俄頃耳,何得往生?

(Sớ: Hỏi: Đã nói là bảy ngày, kẻ ấy lâm chung mười niệm chỉ là trong khoảnh khắc, vì sao được vãng sanh?)

“Ký vân thất nhật” (Đã nói là bảy ngày), chính là kinh Di Đà nói: “Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, cho đến hoặc bảy ngày”. Đã nói là “bảy ngày” thì kẻ lâm chung mười niệm chẳng có công phu bảy ngày! Xác thực là có người như vậy, giống như Trương Thiện Hòa đời Đường suốt một đời chẳng tiếp xúc Phật pháp, mà cũng chưa hề niệm Phật; khi lâm chung, thật sự là mười niệm vãng sanh. Lâm chung mười niệm thì chỉ là trong một sát-na, thời gian hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, vì sao cũng có thể vãng sanh? Những câu hỏi này đều hết sức hay.

 

(Sớ) Đáp: Chánh dĩ nhất tâm cố, như Trí Luận trung thuyết, hựu tự lực, tha lực, như Na Tiên trung thuyết.

()答:正以一心故,如智論中說。又自力他力,如那先中說。

(Sớ: Đáp: Chính là vì nhất tâm như trong Trí Độ Luận nói, lại do tự lực và tha lực như trong kinh Na Tiên đã nói).

Kinh nói “hoặc một ngày, cho đến hoặc bảy ngày”, mục đích là khiến cho chúng ta niệm đến nhất tâm bất loạn, “nhất tâm” bèn có thể vãng sanh. Đối với cương lãnh trọng yếu trong việc niệm Phật, Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói rất hay: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, đó thật sự là “một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Nếu chẳng phải là tịnh niệm thì là tạp niệm, xen tạp vọng tưởng! Vừa niệm Phật vừa dấy vọng tưởng, mỗi ngày niệm mười vạn tiếng cũng vô dụng. Tuy niệm nhiều, công phu nông cạn. Trong mười niệm của người ta chẳng có vọng tưởng; tuy niệm Phật hiệu ít, công phu sâu. Ngẫu Ích đại sư nói: “Niệm Phật chú trọng công phu sâu hay cạn”, chẳng nói “niệm Phật hiệu nhiều hay ít”, chẳng nói chuyện ấy. Về sau, các vị đại đức muốn chúng ta ấn định công khóa, mỗi ngày niệm một vạn, ba vạn, năm vạn [câu Phật hiệu]. Vì sao buộc chúng ta phải niệm như vậy? Đó là để nói với lũ chúng ta là những kẻ chẳng khéo dụng tâm. Chúng ta chẳng niệm Phật bèn dấy vọng tưởng; nói chung, niệm Phật tốt hơn dấy vọng tưởng, tức là loạn tâm niệm Phật tốt hơn chẳng niệm, có ý nghĩa như thế đó. Nhưng thật sự mong cầu nâng cao phẩm vị vãng sanh của chính mình, quý vị nhất định phải hiểu công phu cạn hay sâu là gì, phải hiểu đạo lý này. Vì thế, phải nhất tâm xưng niệm. Phải hiểu ý nghĩa thật sự được bao hàm trong chữ “Niệm”. Niệm là trong tâm thật sự có, đó là Niệm, chẳng nhất định là trong miệng có. Tuy trong miệng chẳng niệm, trong tâm thật sự là nhớ nghĩ. Người Hoa thường nói là “điếm ký” (惦記: ghi nhớ, ghi tâm tạc dạ), trong tâm thật sự nghĩ nhớ, thời thời khắc khắc chẳng quên.

Trong Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương có một tỷ dụ rất hay, “như mẹ nhớ con”, ghi lòng tạc dạ, trong tâm mẹ nhớ tới con, thời thời khắc khắc không quên. Mẹ trọn chẳng phải là miệng niệm, trong tâm mẹ thật sự có [ý niệm nghĩ nhớ con]. Bất luận khi nào, bất luận nơi chốn nào, hễ khởi tâm động niệm thì ý niệm thứ nhất bèn nghĩ tới, đó là “chân niệm”, đấy là công phu sâu. Do vậy, chẳng do miệng niệm Phật hiệu nhiều hay ít, mà là trong tâm quý vị thật sự có Phật hay không? Có thật sự mong đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thật sự mong thấy Phật hay không? Có cái tâm ấy thì gọi là niệm Phật. Tâm càng tinh, càng thuần, những ý niệm khác đều chẳng có, đều buông xuống, chỉ có một niệm này, công phu bèn sâu. Đại kinh dạy chúng ta “nhất hướng chuyên niệm” (một mực chuyên niệm), chính là ý nghĩa này.

 

(Sao) Trí Luận vân: “Lâm tử thiểu hứa thời tâm, hà năng thắng chung thân hạnh lực”.

()智論云:臨死少許時心,何能勝終身行力。

 (Sao: Trí Độ Luận nói: “[Hỏi]: Lúc sắp chết, cái tâm [niệm Phật] trong một thời gian rất ít, làm sao có thể vượt trỗi hạnh lực suốt đời”).

Đây là nêu ra câu hỏi giả thiết: Khi lâm chung thời gian rất ngắn, dụng tâm khi ấy làm sao có thể so với người đã niệm Phật suốt một đời? Làm sao có thể sánh bằng?

 

(Sao) Đáp viết: Tuy thời khoảnh thiểu, tâm lực mãnh lợi.

()答曰:雖時頃少,心力猛利。

(Sao: Đáp: Tuy thời gian ít ỏi, nhưng tâm lực mạnh mẽ, nhạy bén).

Tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng người ấy dụng tâm hết sức mạnh mẽ, nhạy bén. Nói cách khác, có thể vượt trỗi người bình thường niệm Phật suốt một đời. Trong một khoảng thời gian rất ngắn, công lực của người [lâm chung niệm Phật] ấy có thể vượt trỗi người kia (người suốt đời niệm Phật).

 

(Sao) Thị tối hậu tâm, danh vi đại tâm.

()是最後心,名為大心。

(Sao: Cái tâm vào lúc cuối cùng ấy được gọi là đại tâm).

Quý vị hỏi vì sao ư? Nói thật ra, chúng ta thấy khá nhiều người niệm Phật, niệm suốt mấy chục năm, niệm suốt một đời, chưa chắc đã vãng sanh. Người niệm Phật đông đảo, kẻ vãng sanh ít ỏi. Tôi ở Tân Gia Ba, thấy ông Lý Mộc Nguyên đến hóa độ tử tù. Ở Tân Gia Ba, hễ bắt được kẻ buôn bán ma túy thì [án phạt] duy nhất là tử hình. Tử hình bằng hình thức chết treo, [tức là] xử tử bằng cách treo cổ. Sau khi những phạm nhân tội tử hình ấy bị bắt, tự mình biết ngày nào sẽ chết, ai nấy đều biết trước lúc chết! Cư sĩ Lý Mộc Nguyên phát tâm rất tuyệt diệu, đến nơi đó khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, họ tiếp nhận. Tử tù tiếp nhận pháp niệm Phật, gần như ai nấy đều vãng sanh! Khi hỏa thiêu, xá-lợi vừa đẹp vừa xinh. Chúng ta rất ít thấy! Họ [niệm Phật] thời gian chẳng dài, vì sao ai nấy có thể vãng sanh? Người ta là “tối hậu tâm”, đúng là thứ gì cũng đều buông xuống! Chúng ta niệm Phật suốt đời, chuyện vướng mắc trong dạ quá nhiều, thứ gì cũng đều không buông xuống được! Vì thế, chẳng có được công phu như người ta! Họ ngồi ở trong tù, hết thảy hưởng thụ đều chẳng đạt được; vì thế, khăng khăng một mực niệm Phật, họ thật sự vãng sanh! Do vậy, ông Lý Mộc Nguyên có công đức rất lớn, đã đưa chẳng ít người về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì thế, tôi cảm thấy nhà giam tử tù của Tân Gia Ba là một Niệm Phật Đường thật sự, rất tuyệt diệu! Tân Gia Ba có nhiều người làm Phật như vậy, nơi ấy có công đức rất lớn, rất chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, người ta khi lâm chung, buông xuống muôn duyên, biết hết thảy đều chẳng mang theo được; khi ấy, bỗng dưng giác ngộ, hết thảy đã chẳng thể mang theo được thì buông xuống hết thảy, nhất tâm niệm Phật, sức mạnh ấy liền dũng mãnh. Vì thế, họ có thể vãng sanh, có thể giành được phẩm vị rất cao! Đạo lý ở ngay chỗ này. Do đó, [cái tâm tối hậu] được gọi là “đại tâm”.

 

(Sao) Đương tri tức thị nhất tâm bất loạn cố.

()當知即是一心不亂故。

(Sao: Hãy nên biết đấy chính là nhất tâm bất loạn).

Người ấy nhất tâm niệm Phật, chẳng có tạp niệm. Chúng ta xem lời chú giải dưới đây, giải thích về tâm tối hậu và đại tâm.

 

(Diễn) Tối hậu tâm giả, thử tâm chi hậu, cánh vô dư tâm cố.

()最後心者,此心之後,更無餘心故。

(Diễn: “Tâm tối hậu” là sau cái tâm ấy, chẳng còn tâm nào khác).

 Đó gọi là “tâm tối hậu”. Người ấy sắp chết, [đã đến lúc] cuối cùng, thời gian [chỉ còn lại] hoặc là mấy tiếng đồng hồ, hoặc là mấy phút, chẳng còn thời gian nữa. Đó là tâm tối hậu.

 

(Diễn) Danh vi đại tâm giả, dĩ thùy tử chi nhân, tất tri bất miễn, đế tâm quyết đoán, thắng bách niên nguyện lực, thị tâm danh vi đại tâm.

()名為大心者,以垂死之人,必知不免,諦心決斷,勝百年願力,是心名為大心。

(Diễn: Gọi là “đại tâm” là do người sắp chết, ắt biết là chẳng thể tránh khỏi, tâm quyết đoán chắc chắn, trỗi vượt nguyện lực cả trăm năm, tâm ấy được gọi là “đại tâm”).

Người sắp chết biết chính mình nhất định phải chết. “Đế tâm quyết đoán”: “Đế” (諦) là chân tâm, tức cái tâm chân thật. Tâm thật sự hạ quyết tâm, bỏ sạch và đoạn trừ hết thảy vọng niệm, nhất tâm niệm Phật, [tâm nguyện ấy sẽ] trỗi vượt nguyện lực [của người niệm Phật suốt] một trăm năm [mà tâm không tha thiết, dũng mãnh phát nguyện cầu vãng sanh]. Người bình thường niệm suốt một trăm năm, tâm người ấy hoàn toàn chẳng kiện toàn, cái này cũng chẳng buông xuống được, cái kia cũng chẳng buông xuống được, thời gian [niệm Phật] tuy dài, Ngẫu Ích đại sư bảo là “công phu nông cạn”. Còn người ấy (người sắp chết tinh tấn niệm Phật), tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng công phu sâu đậm, tâm người ấy thật sự chuyên nhất, vọng niệm gì cũng đều chẳng có. Tâm ấy gọi là đại tâm.

 

(Diễn) Dĩ xả thân sự cấp cố, như nhân nhập trận, bất tích thân mạng, danh vi “kiện nhân” dã.

()以捨身事急故,如人入陣,不惜身命,名為健人也。

(Diễn: Do xả thân là chuyện cấp bách, như người vào trận, chẳng tiếc thân mạng, nên gọi là “kẻ mạnh mẽ”).

Xả thân là chuyện cấp bách, đã tới lúc khẩn yếu, lúc bức thiết một mất một còn, người ấy điều gì cũng chẳng so đo. “Như nhân nhập trận, bất tích thân mạng, danh vi kiện nhân” (Như người vào trận, chẳng tiếc thân mạng, gọi là “kẻ mạnh mẽ”). Giống như đánh giặc, ở trên chiến trường, quên bẵng sanh tử thì mới có thể xung phong hãm trận. Nếu có lo ngại, sợ hãi, chân sẽ mềm nhũn, chẳng thể xung phong, đã bị hạ gục từ lâu! Đây là nói tỷ dụ.

 

(Diễn) Hựu phục đại tâm, diệc khả tức thị Bồ Đề tâm.

()又復大心,亦可即是菩提心。

(Diễn: Đại tâm lại cũng có thể chính là Bồ Đề tâm).

 Người đã phát đại tâm ấy, Bồ Đề là giác ngộ thật sự, giác ngộ triệt để, [nhận rõ] trừ A Di Đà Phật ra, chẳng có ai cứu được. Vì thế, phải nắm thật chặt danh hiệu A Di Đà Phật, chẳng bỏ lỡ phút giây nào! Đó là đại tâm.

 

(Diễn) Dĩ thử tâm chi hậu, cánh vô dư tâm, tắc thị đốn nhập Vô Tâm tam-muội, tức thị đốn ly niệm tướng, khởi bất vi đại, khởi bất tức thị Bồ Đề tâm?

()以此心之後,更無餘心,則是頓入無心三昧,即是頓離念相,豈不為大,豈不即是菩提心。

(Diễn: Do sau khi  đã  có  cái  tâm  ấy, chẳng  còn  tâm  nào  khác, chính là nhanh chóng nhập Vô Tâm tam-muội, chính là nhanh chóng lìa niệm tướng, há chẳng phải là đại, há chẳng phải chính là Bồ Đề tâm ư?)

 Nói kiểu này hết sức hay!

 

(Diễn) Cái dĩ cửu phẩm hạnh nhân, hạnh hạnh thông hồ cửu phẩm.

()蓋以九品行因,行行通乎九品。

(Diễn: Ấy là vì hạnh nhân [của mỗi phẩm] trong chín phẩm, hạnh nào cũng thông khắp chín phẩm).

Đây là lý luận, mà cũng là sự thật.

 

(Diễn) Như Ngũ Nghịch tội, lâm chung thập niệm vi năng tiêu công, thuộc hạ hạ phẩm.

()如五逆罪,臨終十念為能消功,屬下下品。

(Diễn: Như đối với kẻ phạm tội Ngũ Nghịch, mười niệm lúc lâm chung có công năng tiêu tội, thuộc về hạ hạ phẩm).

“Công” (功) là công phu. Mười niệm lúc lâm chung có thể tiêu sạch tội Ngũ Nghịch, người ấy có thể vãng sanh. Vãng sanh loại này thuộc về hạ hạ phẩm.

 

(Diễn) Nhược năng phục Hoặc, tức trung phẩm.

()若能伏惑,即中品。

(Diễn: Nếu có thể chế ngự phiền não thì là trung phẩm).

Lâm chung mười niệm mà có thể chế ngự phiền não, người ấy sẽ vãng sanh trong trung phẩm.

 

(Diễn) Nhược căn khí đại lợi, đốn năng đoạn Hoặc.

()若根器大利,頓能斷惑。

(Diễn: Nếu căn khí hết sức nhạy bén, sẽ có thể nhanh chóng đoạn Hoặc).

Người ấy là thượng phẩm. Cùng là  mười  niệm  như  nhau  mà  có mười niệm tiêu nghiệp chướng, có mười niệm chế phục Hoặc, có mười niệm đoạn Hoặc, đều là mười niệm, phẩm vị của người ấy là hạ bối vãng sanh, trung bối vãng sanh, hoặc thượng bối vãng sanh, khác nhau! Ở đây nêu ra một thí dụ:

 

(Diễn) Như Xà vương trọng hối, đắc vô căn tín, tức thị thượng tam sở nhiếp.

()如闍王重悔,得無根信,即是上三所攝。

(Diễn: Như vua A Xà Thế tha thiết sám hối, đắc Vô Căn Tín, vãng sanh thuộc vào ba phẩm thượng).

Theo Quán Kinh, vua A Xà Thế giết cha, giam mẹ. Giết hại cha mẹ, phá hòa hợp tăng, đúng là không điều ác nào chẳng làm, tạo tội địa ngục! Khi lâm chung, vua mới hối lỗi, mới thật sự sám hối. Vua do sám hối bèn đoạn Hoặc, vị này căn tánh rất nhạy bén; do vậy, nhà vua vãng sanh thuộc vào thượng phẩm trung sanh. Cả một đời tạo tội nghiệp to tát dường ấy, phẩm vị vãng sanh cao dường ấy, đấy cũng là nhằm bảo chúng ta: Phật môn thật sự rộng lớn, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới có hai loại người:

1) Một loại người là tích công lũy đức, vãng sanh như vậy đó.

2) Một loại khác là tạo tác hết thảy tội nghiệp, sám hối vãng sanh.

Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, biết chân tướng sự thật này, cũng chẳng dám khinh dễ kẻ làm ác. Vì sao? Nói không chừng, người lâm chung sám hối niệm Phật vãng sanh có phẩm vị cao hơn ta, ta còn chẳng bằng kẻ đó. Đúng là có thể như vậy. Đã hiểu rõ chân tướng sự thật, mới biết Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta “lễ kính chư Phật” rất có lý. Chớ nên phân chia kẻ khác là người tốt, kẻ xấu, thiện nhân, ác nhân, chẳng cần phải phân biệt! Phải dùng cái tâm chân thành cung kính để đối đãi hết thảy mọi người. Đối với Phật, Bồ Tát, ta cung kính như thế nào, thì đối với người tốt cũng cung kính giống hệt như thế đó, mà đối với người ác, vẫn là cái tâm cung kính ấy. Ta chí thành cung kính, tuyệt đối chẳng khác, chẳng có sai biệt; đó là đúng. Quý vị làm như vậy sẽ là hoàn toàn chánh xác.

 

(Diễn) Khởi phi Ngũ Nghịch tùy ư sám công, tự phân cửu phẩm dã.

()豈非五逆隨於懺功,自分九品也。

(Diễn: Đấy chẳng phải là tội Ngũ Nghịch do tùy thuộc công phu sám hối mà tự chia thành chín phẩm đó ư?)

 Lời này chẳng sai tí nào! Đó là kẻ lâm chung sám hối vãng sanh, cũng có chín phẩm, tuyệt đối chẳng phải là người ấy chỉ thuộc về hạ hạ phẩm vãng sanh, chẳng phải vậy! Tùy thuộc cái tâm hối lỗi của người ấy, tâm ấy thật sự dũng mãnh, chân thành, khẩn thiết, phẩm vị sẽ ngay lập tức nâng cao!

 

(Diễn) Thả thập niệm đắc sanh, giai thị túc hữu linh căn giả.

()且十念得生,皆是夙有靈根者。

(Diễn: Hơn nữa, người do mười niệm mà được vãng sanh đều là có linh căn từ trước).

Nhất định phải biết điều này. Do vậy, chẳng thể là may mắn được! [Cứ tưởng bở] “lâm chung sám hối vẫn có thể vãng sanh, nay tạo tội nghiệp nhiều một chút chẳng sao, khi mạng chung vẫn còn kịp mà!” Nếu quý vị nghĩ kiểu đó, sẽ là lầm lẫn quá đỗi! Vì sao? Khi lâm chung phải có đủ ba điều kiện. Quý vị ngẫm xem, trong tương lai, khi quý vị lâm chung, có thể hội đủ cả ba điều kiện ấy hay không?

1) Điều kiện thứ nhất là tâm phải sáng suốt, tỉnh táo, chẳng mê hoặc, chẳng điên đảo. Quý vị ngẫm xem, điều này có dễ làm được hay chăng? Rất khó! Chúng ta thấy rất nhiều người khi sắp mất đều ngã bệnh, bệnh đến nỗi bất tỉnh nhân sự, ngay cả người nhà quyến thuộc cũng chẳng nhận ra. Thôi rồi, chẳng cứu được! Lâm chung tỉnh táo, sáng suốt, chư vị phải hiểu: Một người tạo tội nghiệp đầy thân, lâm chung vẫn còn sáng suốt, còn tỉnh táo, quý vị biết người ấy đời trước phước báo to nhiều. Khi ấy, thiện căn và phước đức trong đời quá khứ hiện tiền, thần trí tỉnh táo, trọn chẳng mê hoặc.

2) Điều kiện thứ hai là gặp thiện hữu nhắc nhở, khuyên người ấy niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

3) Điều kiện thứ ba là khi ấy, vừa nghe bèn lập tức tiếp nhận, ngay lập tức sám hối, niệm ngay! Mười niệm hoặc một niệm bèn có thể vãng sanh.

Quý vị ngẫm xem, ba điều kiện ấy khó lắm, suốt một đời người khác khuyên kẻ đó niệm Phật, kẻ đó chẳng tin tưởng, lâm chung vừa khuyên, ngay lập tức tin tưởng, ngay lập tức tiếp nhận, khá là khó khăn! Vì vậy, chuyện này vàn muôn phần chẳng thể nào cầu may! Chúng ta vẫn cứ thật thà niệm Phật, tích lũy công đức, đi theo con đường này sẽ ổn thỏa, thích đáng hơn, ngàn muôn phần chớ nên cầu may!

 

(Diễn) Thập Nghi Luận vân: “Lâm chung ngộ thiện tri thức, thập niệm thành tựu giả, tịnh thị túc thiện nghiệp cường, thỉ ngộ tri thức đẳng”.

()十疑論云:臨終遇善知識,十念成就者,並是宿善業強,始遇知識等。

(Diễn: Thập Nghi Luận nói: “Lâm chung gặp thiện tri thức, mười niệm thành tựu, toàn là do thiện nghiệp quá khứ mạnh mẽ, cho nên mới gặp thiện tri thức v.v…”)

Thập Nghi Luận do Trí Giả đại sư soạn, đã giải thích hết sức rõ ràng, dạy chúng ta chớ nên cầu may, chỉ biết đó là sự thật: Người ấy trong đời quá khứ đã có đại thiện căn, đại phước đức, đời này chẳng gặp duyên tốt đẹp, hoàn toàn tương ứng với lời dạy của Thiện Đạo đại sư (tức là “chín phẩm vãng sanh sai biệt là do gặp duyên khác nhau”). Trong đời này, gặp ác duyên, chẳng gặp thiện duyên, lúc lâm chung mới gặp thiện duyên. Vì thế, hạng người như vậy được gọi là Bất Định Tánh. Tục ngữ có câu: “Gần son thì đỏ, gần mực thì đen”. Người ấy bị hoàn cảnh bên ngoài vây bủa, gặp thiện tri thức, người ấy hành thiện; gặp phải ác tri thức, người ấy tạo ác. Người ấy thuộc tánh chất như thế đó.

 

(Diễn) Diệu Tông Sao vân: Thử tuy tạo ác, dĩ tằng tu Quán.

()妙宗鈔云:此雖造惡,已曾修觀。

(Diễn: Sách Diệu Tông Sao nói: “Người ấy tuy làm ác, nhưng đã từng tu Quán”).

Đã từng tu Quán là trong đời quá khứ, chẳng phải đời này. Trong đời quá khứ, người ấy đã tu tập tích lũy rất dầy; đời này rất bất hạnh, do gặp phải ác duyên cho nên mê muội, chuyện là như vậy đó.

 

(Diễn) Cố sử lâm chung, thiện hữu khuyến xưng thập niệm, định tâm tắc thành.

()故使臨終,善友勸稱十念,定心則成。

(Diễn: Nên khiến cho khi lâm chung, bạn lành khuyên xưng danh mười niệm, do Định tâm bèn thành tựu).

Người ấy lâm chung mới gặp thiện tri thức thật sự. Khi ấy, vừa được khuyên dạy, người ấy lập tức tin tưởng, lập tức phát nguyện. Đó là thiện căn trong đời quá khứ thành tựu, chẳng phải là phàm nhân.

 

(Diễn) Diệc thị pháp hành.

()亦是法行。

(Diễn: Cũng là một hạnh môn).

“Pháp” là pháp môn, “hành” là tu hành. Đấy cũng là một hạnh môn trong vô lượng hạnh môn.

 

(Diễn) Thừa cấp giới hoãn nhân dã.

()乘急戒緩人也。

(Diễn: Thuộc hạng người thích nghiên cứu giáo pháp, nhưng không nghiêm túc tu tập).

Thuộc loại người nào? “Thừa cấp”: “Thừa” (乘) là Phật pháp, người ấy thích nghiên cứu, suy xét Phật pháp, thích làm chuyện này. “Hành” (行) là thật sự tu hành, Hành là Giới, Định, Huệ. Coi nhẹ Giới, Định, Huệ, chẳng chịu nghiêm túc tu hành, thích nghiên cứu kinh luận. Đó gọi là kẻ “thừa cấp giới hoãn”. Nay chúng ta gọi “thừa” là học thuật, “giới” là thật sự tu tập. Đối với việc thật sự tu tập, kẻ ấy sai sót; đối với Phật học bèn thật sự đổ công dốc sức nghiên cứu, suy luận; là hạng người như vậy đó!

 

(Diễn) Do thừa cấp cố, đắc trị thiện hữu.

()由乘急故,得值善友。

(Diễn: Do sốt sắng nghiên cứu giáo pháp, nên được gặp bạn lành).

 Thông đạt giáo lý, thích nghiên cứu kinh giáo, cũng thích giảng kinh, thuyết pháp, kết duyên cùng đại chúng khá nhiều, và cũng kết thiện duyên chẳng ít, lâm chung gặp gỡ thiện hữu.

 

(Diễn) Túng hiện thế bất tu tam-muội, diệc thị túc chủng kim thục, cố đắc vãng sanh.

()縱現世不修三昧,亦是宿種今熟,故得往生。

(Diễn: Dẫu cho đời hiện tại chẳng tu tam-muội, thì cũng là do [nhân duyên] đã gieo từ đời trước, nay đã chín muồi, cho nên được vãng sanh).

Đời này chẳng tu hành, nhưng phải hiểu người ta đời trước thật sự tu, đời này chẳng tu! Vì thế, khi lâm chung, hễ người ấy sám hối, buông xuống thì chính là tu. Có thể thấy là có mối quan hệ hết sức mật thiết với sự tu trì trong đời quá khứ.

 

(Diễn) Cố kim đại tâm, thuyết tức thị Bồ Đề đại tâm, diệc vô bất khả.

()故今大心,說即是菩提大心,亦無不可。

(Diễn: Vì thế, nay nói đại tâm chính là Bồ Đề đại tâm cũng chẳng phải là không được).

Gộp chung thiện căn, phước đức và nhân duyên trong đời quá khứ để nói, người ấy một niệm hồi tâm thì có thể nói là đại Bồ Đề tâm.

 

(Diễn) Huống bổn Sao văn, đương tri tức thị nhất tâm bất loạn, nhược Sự nhất tâm, do vị vi đại.

()況本鈔文,當知即是一心不亂,若事一心,猶未為大。

(Diễn: Huống chi đối với những điều được nói trong lời Sao, hãy nên biết đó chính là nhất tâm bất loạn. Nếu là Sự nhất tâm, vẫn chưa phải là “Đại”).

Vẫn chưa được coi là lớn.

 

(Diễn) Nhược Lý nhất tâm, khởi bất tức thị Bồ Đề tâm. Thị cố danh vi đại tâm.

()若理一心,豈不即是菩提心。是故名為大心。

(Diễn: Nếu là Lý nhất tâm, há chẳng phải chính là Bồ Đề tâm ư? Vì thế, gọi là đại tâm).

Vì vậy, nhất tâm là có thể “đốn chứng”, [tức là] vừa nghe bèn lập tức chứng đắc Lý nhất tâm, đấy là người căn tánh nhạy bén nhất. Nói cách khác, cũng là do công phu tu trì vô lượng kiếp của người ấy đến lúc đó đã chín muồi viên mãn; cho nên trong một đời bèn chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn. Trong đời này có tiệm chứng và đốn chứng. Ở đây, thuộc loại đốn chứng, cho nên thật sự là đại Bồ Đề tâm. Dẫu là Sự nhất tâm, nói thật ra, vẫn thuộc về Bồ Đề tâm, Bồ Đề là giác ngộ, người ấy đã thật sự giác ngộ, thật sự hiểu rõ. Hôm nay, chúng tôi nói đến chỗ này.

 

Tập 255

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm lẻ sáu:

 

(Sao) Na Tiên kinh vân: “Vương vấn Na Tiên, nhân sanh tạo ác, lâm chung niệm Phật, đắc sanh Phật quốc, ngã bất tín thị ngữ”.

()那先經云:王問那先,人生造惡,臨終念佛,得生佛國,我不信是語。

(Sao: Kinh Na Tiên chép: “Vua hỏi ngài Na Tiên: – Người suốt đời tạo ác, lâm chung niệm Phật, được sanh về cõi Phật, ta chẳng tin lời ấy”).

Na Tiên (Nāgasena) là danh hiệu của một vị xuất gia. Quốc vương [Di Lan Đà (Menander, Milinda)] gặp Ngài, hướng về Ngài thỉnh giáo một vấn đề: “Người suốt đời tạo ác, lâm chung niệm Phật bèn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ta chẳng thể tin tưởng chuyện này!” Hỏi một vấn đề như vậy.

 

(Sao) Na Tiên đáp ngôn: Như trì đại thạch, trí ư thuyền thượng, nhân đắc bất một.

()那先答言:如持大石,置於船上,因得不沒。

(Sao: Ngài Na Tiên đáp: “Như lấy đá to đặt trên thuyền, do vậy đá chẳng chìm”).

Ngài Na Tiên trả lời, trước hết là nêu ra một tỷ dụ: Đá bỏ vào nước nhất định bị chìm. Nếu đặt đá ấy trên thuyền, đá chẳng bị chìm vào nước.

 

(Sao) Nhân tuy bổn ác, nhân niệm Phật cố, bất đọa Nê Lê.

()人雖本惡,因念佛故,不墮泥犁。

(Sao: Người tuy vốn ác, do niệm Phật nên chẳng đọa địa ngục).

Nê Lê (Nāraka, Niraya) là địa ngục, chẳng đọa địa ngục.

 

(Sao) Nhi đắc vãng sanh, diệc phục như thị.

()而得往生,亦復如是。

(Sao: Bèn được vãng sanh cũng giống như thế).

Giống như đá đặt trên thuyền, sẽ chẳng bị chìm trong nước. Người niệm Phật nương vào đại nguyện thuyền của đức Phật, cũng chẳng bị đọa trong ba ác đạo. Tỷ dụ này rất rõ ràng, đơn giản, cũng chẳng khó hiểu. Nếu muốn thâm nhập truy cứu, trong ấy vẫn có vấn đề! Chúng ta hiểu: Phàm là người niệm Phật vãng sanh, nếu chẳng sám hối tội lỗi, quyết định là chẳng thể vãng sanh, nhất định là phải sám hối tội lỗi. Sám hối tội lỗi có công đức rất lớn! Dẫu suốt một đời tạo tội nghiệp, lâm chung sám hối, chân thành, cung kính, gột lòng, đổi hạnh, tuy thời gian ngắn ngủi, tạm bợ, cũng có thể gột rửa tâm địa sạch làu, như vậy thì mới có thể tương ứng với bổn nguyện của Phật. Chúng ta thường nghe nói pháp môn Tịnh Tông đới nghiệp vãng sanh, [nhưng phải nhớ kỹ] chỉ mang theo nghiệp cũ, chẳng mang theo nghiệp hiện hành. Nói như vậy thì mới là thật sự hiểu rõ rệt, thật sự hiểu rành rẽ lời này, cho thấy sám hối tội lỗi chẳng thể nghĩ bàn, nguyện lực của A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn. Đấy mới là thật sự giải đáp vấn đề!

 

(Sao) Tắc kỷ chi tâm lực, Phật chi nguyện lực, giao tương thành dã.

()則己之心力,佛之願力,交相成也。

(Sao: Tức là do tâm lực của chính mình và nguyện lực của Phật kết hợp với nhau mà thành).

Tâm lực của chính mình là sức mạnh sám hối tội lỗi. Đó là hai thứ sức mạnh (tâm lực của chính mình và nguyện lực của Phật), cho nên [pháp môn Tịnh Độ] được gọi là “nhị lực pháp môn”.

 

(Sớ) Vấn:  Ký vân vãng sanh,  tích nhân hựu vị  “sanh tắc quyết định sanh, khứ tắc thật bất khứ”, thị nãi hữu sanh vô vãng, kim viết “vãng sanh”, nhị nghĩa tương lệ.

()問:既云往生,昔人又謂生則決定生,去則實不去,是乃有生無往,今曰往生,二義相戾。

(Sớ: Hỏi: Đã nói là “vãng sanh”, người xưa lại nói: “Sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi”, tức là có sanh, nhưng chẳng có vãng, nay nói là “vãng sanh”, hai nghĩa mâu thuẫn).

Thoạt nhìn thì thấy có xung đột, có mâu thuẫn. Tịnh Tông có một tập sách nhỏ có tựa đề là Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận giảng rõ chân tướng vãng sanh. Nói chẳng sai, nhưng nhất định phải hiểu ý nghĩa thật sự của nó, ngàn muôn phần đừng nẩy sanh hiểu lầm nơi văn tự. [Nếu chấp trước văn tự rồi nẩy sanh hiểu lầm] thì sai mất rồi, sẽ nẩy sanh chướng ngại đối với việc cầu sanh Tịnh Độ của chúng ta. Ở đây, đại sư trả lời rất hay:

 

(Sớ) Đáp: Dĩ sanh ư tự tâm, cố bất vãng nhi vãng, danh vi “vãng sanh”, như Hoa Nghiêm Giải Thoát trưởng giả thuyết.

(Diễn) Dĩ sanh ư tự tâm cố bất vãng nhi vãng giả.

()答:以生於自心,故不往而往,名為往生,如華嚴解脫長者說。

()以生於自心故不往而往者。

(Sớ: Đáp: Do sanh trong tự tâm, nên chẳng vãng mà vãng, gọi là “vãng sanh”, như trong kinh Hoa Nghiêm, trưởng giả Giải Thoát đã nói.

Diễn: “Do sanh trong tự tâm nên chẳng vãng mà vãng”).

 Nay điều chúng ta nghi vấn ở ngay trong tự tâm. Nếu hiểu rõ tự tâm, vấn đề gì cũng đều chẳng có, đã giải quyết xong. Tâm là bản thể của hết thảy vạn pháp, Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng chẳng phải là ngoại lệ. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã dạy: Tâm có thể hiện tướng. Tâm chẳng có hình tướng, nhưng nó có thể hiện tướng. Hết thảy các pháp đều là duy tâm sở hiện. Thế giới này là duy tâm sở hiện, thế giới Cực Lạc cũng là duy tâm sở hiện, cho đến vô lượng vô biên thế giới chư Phật trong mười phương cũng là duy tâm sở hiện. Lìa khỏi tâm, chẳng có một pháp để có thể đạt được! Tâm có thể hiện tướng, vì sao hiện tướng khác nhau? Thế giới Tây Phương và thế giới này chẳng giống nhau! Huống chi kinh còn nói y báo và chánh báo các thứ sai khác trong mười pháp giới, đó lại là chuyện như thế nào? Cũng là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Duy thức sở biến”. Nói cách khác, tâm có thể hiện tướng, thức có thể biến tướng. “Tâm” là Chân Như bản tánh. Chúng ta vừa nghe nói “tự tâm”, bèn tưởng đấy chính là “trong cái tâm của chính mình”, phạm sai lầm mất rồi! Mở đầu kinh Lăng Nghiêm là bảy chỗ gạn tâm, ngài A Nan nói tới tự tâm, đức Phật bèn hỏi Ngài: “Tâm ở chỗ nào?” Ngài A Nan nói tâm ở trong thân thể, đức Phật bảo chẳng đúng. Tâm ở ngoài thân thể, cũng không đúng. Tâm ở chính giữa, cũng chẳng đúng. Ngài A Nan nêu ra bảy chỗ, đều bị đức Phật phủ định. Rốt cuộc tâm ở chỗ nào? Nếu quý vị thật sự hiểu rõ, vấn đề này đã được giải quyết. Thiền Tông nói rất hay: “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ” (Nếu người biết cái tâm, đại địa không tấc đất). Nói thật ra, tu hành trong Phật pháp chẳng có gì khác, chỉ là khiến cho quý vị nhận thức cái tâm mà thôi. Chỉ cần nhận thức tâm, vấn đề gì cũng đều được giải quyết. Chư Phật, Bồ Tát ngộ, “ngộ” là hiểu rõ tự tâm. Lục đạo phàm phu mê, chính là mê tự tâm, chẳng biết tự tâm ở chỗ nào, cũng chẳng biết tự tâm có hình dạng như thế nào, cứ lầm tưởng tâm ở trong thân thể, hoặc là cái tâm có thể tư duy, có thể tưởng tượng. Người hiện thời chẳng nói đến tâm, hiện thời gọi là “não”, đều chẳng đúng. Nhưng kinh Đại Thừa thường có một câu: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, cũng có lẽ có kẻ nghe lời ấy cho là tỷ dụ, [nhằm sánh ví] người nào đó có lòng độ lượng rất lớn, giống như hư không pháp giới, coi đó là tỷ dụ, sai mất rồi! Rốt ráo là gì? Chính là sự thật, tâm xác thực bao trùm thái hư không, vì sao? Thái hư không cũng là vật được biến hiện bởi tự tâm. Lìa khỏi tâm tánh, thái hư không cũng chẳng có! Vì thế, tâm là bản thể của hết thảy vạn pháp, hết thảy vạn pháp sanh từ tự tâm. Phật pháp nói “tu hành chứng quả, thành Bồ Tát, thành Phật”, rốt cuộc là chuyện như thế nào? Không gì chẳng nhằm nhận thức cái tâm mà thôi! Chứng quả là chứng gì? Chứng đắc tự tâm, là chuyện như vậy đó.

Đã là do tự tâm biến ra, còn có gì để “đi” và “chẳng đi” hay không? Tự tâm là một, không hai. Do vậy, tướng trạng thật sự của nó là “sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự không đi”, câu nói này rất khó hiểu! Rành rành là thế giới Sa Bà cách thế giới Cực Lạc mười vạn ức cõi Phật, cớ sao không đi? Chẳng đi mà lại sanh ư? Ví như chúng ta xem TV, từ nơi đây đến Lạc Sam Cơ (Los Angeles) ngồi máy bay phải bay mười tiếng đồng hồ mới có thể đến nơi. Chúng ta bật màn hình TV bèn thấy: Trận động đất tại Lạc Sam Cơ ở ngay trước mắt. Chúng ta có đi hay không? Chẳng đi! Có thấy Lạc Sam Cơ hay không? Đã thấy! Thật sự thấy, thực tại là chẳng đi, chuyện là như vậy đó. Vì thế, trong sát-na vãng sanh, có phải là chúng ta thật sự đến Tây Phương Cực Lạc thế giới hay không? Thật sự đi, thật sự đạt tới! Có đi hay không? Giống như chẳng có đi, giống như ở ngay trước mắt. Từ tỷ dụ này, quý vị hãy suy nghĩ cặn kẽ, giống như tình hình này. Đã hiểu rõ tỷ dụ ấy, rốt cuộc là vì sao? Điều này thật sự rất khó diễn tả, cũng may là hiện thời khoa học phát triển, xác thực là đã đem lại chẳng ít thuận tiện cho chúng ta, thực tại là “chuyển đổi không gian” như các nhà khoa học đã nói. Thực tại là chẳng có động, hễ không gian chuyển đổi sẽ khác hẳn. Thế giới này của chúng ta là không gian ba chiều, Tây Phương Cực Lạc thế giới là không gian vô hạn chiều. Vừa chuyển biến bèn đạt tới không gian vô hạn chiều, đắc đại tự tại. Người thế gian chúng ta thấy đó là đại thần thông, đại tự tại. Cái được gọi là “không gì chẳng biết, không gì chẳng thể” chính là chuyện như thế đó.

Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu, thăm dò chẳng ngừng, chuyển biến như thế nào? Họ biết có khả năng ấy, nhưng chẳng biết cách chuyển như thế nào? Họ chẳng ngờ niệm Phật có thể chuyển, cách này khéo léo tột bậc, dùng phương pháp này để chuyển. Đức Phật dạy chúng ta dùng công phu Thiền Định để chuyển. Muốn chuyển đến rốt ráo viên mãn, nếu cậy vào công phu định lực của chính mình, thật sự sẽ là khá khó khăn, cần phải có Thiền Định rất sâu. Đối với pháp môn này, chính mình chỉ cần một chút định lực nho nhỏ, cậy vào nguyện lực của A Di Đà Phật giúp đỡ, định lực của chính mình kết hợp với nguyện lực của Phật, định lực của chính mình là Niệm Phật tam-muội, kết hợp với nguyện lực của Phật. Sức mạnh ấy to lớn, có thể là từ trên cơ sở không gian ba chiều hiện thời, ngay lập tức chuyển thành không gian vô hạn chiều. Đối với người có đôi chút thường thức về khoa học trong hiện thời, chúng tôi nói với họ theo kiểu này, họ sẽ lý giải, thông hiểu rất dễ dàng, xác thực là “sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi”, người ấy bèn tin tưởng.

 

(Sao) Hoa Nghiêm, trùng trùng pháp giới bất xuất nhất tâm.

()華嚴,重重法界不出一心。

(Sao: Theo Hoa Nghiêm, trùng trùng pháp giới chẳng ra ngoài nhất tâm).

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: Thế giới Hoa Tạng có hai mươi tầng, giống như một tòa cao ốc có hai mươi tầng. Đó là nói theo chiều dọc, nói theo chiều ngang thì rộng lớn vô biên. Thế giới Sa Bà và Tây Phương Cực Lạc thế giới đều ở tầng thứ mười ba, một cõi ở phía Đông, một cõi ở phía Tây, có thể thấy là thế giới quá rộng lớn! Đức Phật dạy: Dùng một đại thế giới làm đơn vị, “đại thế giới” ở đây chẳng phải là một tam thiên đại thiên thế giới. Chư vị phải hiểu: Tam thiên đại thiên thế giới quá nhỏ bé, quý vị thấy trong tầng thứ mười ba, thế giới Sa Bà và Tây Phương Cực Lạc thế giới ở trong cùng một bình diện (平面, plane, mặt phẳng). Đức Phật nói mười vạn ức cõi Phật, chính là mười vạn ức đại thiên thế giới trong một tầng. Hai mươi tầng, mỗi tầng không chỉ có mười vạn ức [cõi nước]. “Mười vạn ức” là nói tới khoảng cách giữa thế giới này và thế giới của A Di Đà Phật. Đi theo phía Tây của thế giới A Di Đà Phật còn có những thế giới khác, theo hướng Đông của thế giới Sa Bà còn có những thế giới chư Phật khác nữa, quý vị mới biết thế giới này đúng là rộng lớn vô biên. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, một đại đơn vị ấy được gọi là “thế giới chủng” (世界種). Trong thái hư không có vô lượng vô biên thế giới chủng giống như vậy. Chân tâm chẳng có ngằn mé, tâm bao pháp giới, chẳng phải là pháp giới bao tâm. Do vậy, thế giới trùng trùng, vô lượng vô biên thế giới, “bất xuất nhất tâm” (chẳng ra ngoài nhất tâm). Trùng trùng vô tận pháp giới được Thanh Lương đại sư quy nạp thành bốn pháp giới:

1) Sự pháp giới là sự tướng. Sự tướng vô lượng vô biên.

2) Lý pháp giới, Lý là nhất tâm, đều do một lý biến hiện.

3) Nói theo tác dụng sẽ là Lý Sự vô ngại pháp giới: Lý chẳng ngại Sự, Sự ngàn biến vạn hóa như thế nào cũng chẳng trở ngại Lý.

4) Sự Sự vô ngại pháp giới: Thật sự hiểu rõ Lý và Sự, chẳng có chướng ngại, Sự Sự cũng vô ngại. Nếu Sự Sự có trở ngại, sẽ là “sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự đi”. Do vì Sự Sự vô ngại, cho nên người ấy “sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi”. Vô lượng vô biên pháp giới là nhất tâm của chính mình.

Do đó, kinh Di Đà là một pháp môn trực tiếp để tu tập nhằm hiển lộ nhất tâm, trực tiếp tu nhất tâm bất loạn, trực tiếp hiển lộ tác dụng của nhất tâm. Kinh thù thắng ở chỗ này. Pháp môn mầu nhiệm tột bậc.

 

(Sao) Lăng Nghiêm: “Thập phương hư không giai nhữ tâm nội”.

()楞嚴,十方虛空皆汝心內。

(Sao: Theo kinh Lăng Nghiêm, “mười phương hư không đều ở trong tâm ngươi”).

Kinh Lăng Nghiêm nói câu này có ý nghĩa hoàn toàn giống như kinh Hoa Nghiêm.

 

(Sao) Thị tri Cực Lạc chi sanh, sanh hồ tự tâm.

()是知極樂之生,生乎自心。

(Sao: Do vậy biết: Sanh về Cực Lạc là sanh trong tự tâm).

Các vị tổ sư đại đức nói hay lắm. Sa Bà là tự tâm uế, tức là cảnh giới được biến hiện bởi sự ô nhiễm trong tự tâm. Tây Phương Cực Lạc thế giới là cảnh giới được biến hiện bởi tự tâm tịnh. Tâm tịnh ắt cõi tịnh, tâm ô nhiễm ắt cõi nước ô nhiễm, là chuyện như thế đó. Đều chỉ là do thức làm chủ, biến ở trong ấy, biến ra tướng ấy. Tâm tánh hiện tướng, bất luận nó biến như thế nào, chỉ là hiện tướng mà thôi. Tướng ấy biến hóa như thế nào, đều do thức làm chủ. “Thị tri Cực Lạc chi sanh, sanh hồ tự tâm” (Do vậy biết sanh về Cực Lạc là sanh trong tự tâm), chúng ta sanh vào các cõi Phật khác cũng là sanh trong tự tâm. Dẫu chúng ta luân chuyển trong lục đạo, biến thành ngạ quỷ, biến thành súc sanh, hay biến thành địa ngục, cũng là sanh trong tự tâm! Lìa ngoài tự tâm, chẳng có một pháp nào khác để có thể được! Đó là nói theo Lý, nói theo chân tướng sự thật.

 

(Sao) Tâm vô giới hạn, tắc vô Tây, vô Đông, khứ chí hà sở?

()心無界限,則無西無東,去至何所。

(Sao: Tâm chẳng có giới hạn, nên chẳng có Tây, chẳng có Đông, đi đến nơi đâu?)

Câu này giải đáp [ý nghĩa] “đi thì thật sự chẳng đi”. Tâm rộng lớn chẳng có ngằn mé, tâm linh minh giác tri. Chúng ta niệm một câu Phật hiệu ở nơi đây, cớ sao A Di Đà Phật có thể biết? Cách chúng ta mười vạn ức cõi Phật vẫn là gần. Mười phương vô lượng vô biên thế giới chư Phật, vô lượng chư Phật Như Lai ở trong ấy, chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật ở nơi đây, các Ngài đều biết. Vì sao đều biết? Vì là một tâm, tâm là linh minh giác tri, chẳng ra ngoài tâm, làm sao các Ngài chẳng biết cho được? Nay chúng ta mê mất cái tâm ấy, cho nên chẳng biết. Ngày nào tìm được chân tâm là đã giác ngộ, quý vị thảy đều biết, là chuyện như vậy đó!

Từ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đọc thấy Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chẳng có cách nào tính toán số lượng người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trừ chư Phật Như Lai ra, các vị Bồ Tát đều chẳng có năng lực để tính toán rõ ràng. Năng lực của người trong cõi kia, dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh, cũng là Thiên Nhãn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe trọn khắp, Tha Tâm biết trọn khắp, thần thông trọn đủ. Cũng có nghĩa là: Hết thảy chúng sanh trong tận hư không khắp pháp giới khởi tâm động niệm họ đều biết. Đừng nói là Phật hay Bồ Tát, ngay cả những người thuộc hạ hạ phẩm vãng sanh đều biết. Hết thảy các trạng huống trong mười phương thế giới họ đều trông thấy, hết thảy chúng sanh nói khe khẽ họ đều nghe, khởi tâm động niệm họ đều biết. Quý vị nói thử xem: Vì sao? Vì chẳng lìa nhất tâm, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới [ai nấy] đều đắc nhất tâm bất loạn. Chúng ta niệm Phật xác thực là chẳng đạt đến công phu ấy, chúng ta chỉ là công phu thành phiến vãng sanh; hễ sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn đắc nhất tâm bất loạn. Vì sao đạt được? Đó là do bổn nguyện và oai thần A Di Đà Phật gia trì giúp quý vị đạt được, quý vị bèn có năng lực ấy. Hoa nở thấy Phật, đó là quý vị khôi phục bản năng (năng lực sẵn có), dẫu Phật chẳng gia trì, quý vị vẫn đạt được. Hễ hoa chưa nở, chẳng thấy Phật, [tức là] chẳng thấy Báo Thân Phật, nhưng thấy Ứng Hóa Thân Phật; khi ấy, năng lực của quý vị là do Phật lực gia trì. Hoa nở, thấy Báo Thân Phật là bản năng của chính quý vị đã khôi phục. Khi chưa khôi phục, Phật gia trì quý vị, gia trì mãi cho đến khi quý vị khôi phục bản năng. Đó là chỗ thù thắng bậc nhất của Tây Phương Cực Lạc thế giới, các thế giới phương khác đều chẳng có. Hiểu rõ chân tướng sự thật này, sẽ hiểu: Sanh xác thực là sanh, do cảnh giới biến. “Đi” là do nhất tâm biến, đi đến chỗ nào? Vì thế, đi thì thật sự chẳng đi!

 

(Sao) Trạng kỳ dịch uế nhi tịnh, thoát cựu nhi tân, ly nhất đắc nhất, tự hữu sở vãng, danh chi vi vãng, khởi viết tùng thử hướng bỉ, như thế gian kinh thành quá ấp chi vãng da?

()狀其易穢而淨,脫舊而新,離一得一,似有所往,名之為往,豈曰從此向彼,如世間經城過邑之往耶。

(Sao:  Giống như đổi uế thành tịnh,  thoát khỏi cái cũ để trở thành cái mới, lìa một bèn được một, tợ hồ có chỗ để đến, nên gọi là Vãng. Há có phải là từ đây hướng đến kia, như trong thế gian, [lần lượt] đi trải qua các thành ấp ư?)

Nói Vãng và nói Sanh, nói thật ra, đều là chuyển biến cảnh giới. Dùng cách nói của các nhà khoa học hiện tại, sẽ là chuyển biến thành những không gian khác nhau. Hết thảy các không gian vẫn do tự tâm hiện ra. Lìa khỏi tự tâm, đúng là một pháp cũng trọn chẳng thể được. Vô lượng vô biên các không gian có kích thước khác nhau đều do tự tâm biến hiện, đấy mới là nói lời chân thật.

 

(Sao) Nhập Pháp Giới phẩm.

()入法界品。

(Sao: Phẩm Nhập Pháp Giới).

Đó là phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm.

 

(Sao) Giải Thoát trưởng giả ngôn: “Bỉ chư Như Lai bất lai chí thử, ngã bất vãng bỉ”.

()脫長者言:彼諸如來不來至此,我不往彼。

(Sao: Trưởng giả Giải Thoát[9] nói: – Các đức Như Lai ấy chẳng đến nơi đây, ta chẳng qua chỗ các Ngài).

Phật cũng không đến, ta cũng chẳng đi.

 

(Sao) Nhược dục nguyện kiến An Lạc thế giới A Di Đà Phật, tùy ý tức kiến.

()若欲願見安樂世界阿彌陀佛,隨意即見。

(Sao: Nếu nguyện muốn thấy A Di Đà Phật trong thế giới An Lạc, tùy ý liền thấy).

Xác thực là thấy, xác thực là đối diện Phật. Có vấn đề gì, hướng về Phật thưa hỏi, Phật cũng khai thị cho quý vị. Phật có đến hay không? Phật chẳng đến. Ta có đi hay không? Ta cũng chẳng đi. Ngài không đến, ta cũng chẳng đi, hai người chúng ta đã gặp mặt, đã thảo luận cả buổi! Ý nghĩa là như thế đó, tùy ý liền thấy.

 

(Sao) Ký vân tùy ý, tắc bất việt nhất niệm nhi sanh bỉ quốc, cố tri trạng kỳ đắc sanh, danh chi vãng sanh, thật vô sở vãng, bất vãng nhi vãng, bất phương thuyết vãng.

()既云隨意,則不越一念而生彼國,故知狀其得生,名之往生,實無所往,不往而往,不妨說往。

(Sao: Đã nói là “tùy ý” thì chưa đầy một niệm đã sanh về cõi ấy. Vì thế, biết là giống như được sanh về nên gọi là “vãng sanh”. Thật ra, chẳng có qua đó, chẳng qua đó mà qua đó, chẳng ngại nói là “qua đó”).

 Ngàn muôn phần đừng hiểu lầm, giống như trong thế gian hiện thời, [hễ nói] Vãng thì nhất định phải là từ nơi đó trải qua bao nhiêu thời gian, qua bao nhiêu đường sá mới đạt đến, [hiểu như vậy] là lầm mất rồi! Đức Phật nói giữa thế giới này và Tây Phương Cực Lạc thế giới có mười vạn ức cõi Phật, đó là thật hay giả? Thưa cùng chư vị! Mười vạn ức cõi Phật là thật, đó là nói theo tướng. Nếu quý vị thấu hiểu “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại” trong bốn vô ngại pháp giới, sẽ là Sự Sự vô ngại, sẽ là chẳng qua đó mà qua đó, chẳng đến mà đến.

 

(Sao) Cứu cực nhi ngôn, phi đản vô vãng, diệc phục vô sanh, bất sanh nhi sanh, bất phương thuyết sanh.

()究極而言,非但無往,亦復無生,不生而生,不妨說生。

(Sao: Xét đến tột cùng để nói, không chỉ là chẳng có qua đó, mà cũng chẳng có sanh. Chẳng sanh mà sanh, chẳng ngại nói là Sanh).

Điều này là thật, nhưng nói thật thì người bình phàm chẳng hiểu. Càng nói, họ càng mê hoặc. Thôi đi, vẫn là chẳng nói! Chỉ cần quý vị thật thà niệm, niệm thành công, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì chẳng cần nói mà quý vị đều hiểu rõ. Hiện thời mà nói, dẫu có nói [cách nào đi nữa] cũng chẳng thể nói rõ ràng! Dẫu nói rõ ràng, quý vị nghe rồi cũng chẳng hiểu rõ! Cứ thật thà niệm, đấy chính là chuyện khẩn yếu nhất. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng chẳng cần phải nói, thế mà [ai nấy] đối với chân tướng sự thật này đều hiểu rõ toàn bộ. Tín nguyện, nhất tâm trì danh, đó là điều quan trọng bậc nhất.

 

(Sớ) Vấn: Đâu Suất Nội Viện, tích nhân diệc nguyện vãng sanh, kim hà thiên thị Cực Lạc?

()問:兜率內院,昔人亦願往生,今何偏示極樂。

(Sớ: Hỏi: Người xưa cũng nguyện vãng sanh Đâu Suất Nội Viện, nay vì sao cứ khăng khăng dạy [cầu vãng sanh] Cực Lạc?)

 “Đâu Suất Nội Viện”: Tầng trời thứ tư của thế giới Sa Bà gọi là Đâu Suất Thiên (Tuṣita), Nội Viện là đạo tràng của [Di Lặc] Bồ Tát. Thế giới Sa Bà có ba chỗ là cõi Phàm Thánh Đồng Cư: Nhân gian của chúng ta, Đâu Suất Thiên, và Đệ Tứ Thiền Thiên. Do vậy, cõi Phàm Thánh Đồng Cư [trong thế giới Sa Bà] chính là ba chỗ ấy. Trong Đệ Tứ Thiền Thiên có Ngũ Bất Hoàn Thiên (Śuddhāvāsa)[10] là nơi thánh nhân ở, chư thiên thuộc Tứ Thiền Thiên cũng chẳng thấy [những vị thánh nhân ấy], cảnh giới khác nhau! Dục Giới Thiên có tất cả sáu tầng, từ dưới lên trên thì tầng thứ nhất là Tứ Vương Thiên (Cāturmahārājikakāyika)[11], Tứ Đại Thiên Vương ngự nơi đây. Tầng thứ hai là Đao Lợi Thiên (Trāyastriṃśa), Ngọc Hoàng Đại Đế như người Hoa hay nói ngự trong Đao Lợi Thiên, ông ta là chúa cõi trời Đao Lợi. Tầng thứ ba là Dạ Ma Thiên (Yāma), Dạ Ma có nghĩa là Thời Phần (時分), người Hoa nói là “thời gian”. Tầng thứ tư là Đâu Suất Thiên, Đâu Suất dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tri Túc (知足). Nói cách khác, người trong tầng trời này lòng tham rất mỏng, ai nấy đều tri túc (biết đủ), cũng có thể tưởng tượng xã hội của họ an ổn, hòa bình, mọi người đều tri túc. Ngoại Viện của Đâu Suất Thiên là phàm phu, là thiên chúng bình phàm, Nội Viện là đạo tràng của Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát là Hậu Bổ Phật của Thích Ca Mâu Ni Phật; [nghĩa là] sau khi pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật đã diệt hết, lại qua năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm sau, Di Lặc Bồ Tát sẽ giáng sanh trong thế gian này, thị hiện thành Phật. Đó là vị Phật thứ năm trong thế giới Sa Bà, Thích Ca Mâu Ni Phật là vị thứ tư. Vì sao cách xa như thế Ngài mới hạ sanh? Một ngày trên Đâu Suất Thiên là bốn trăm năm trong nhân gian, thọ mạng của Đâu Suất Thiên là bốn ngàn năm, cũng như trong thế gian của chúng ta một năm là ba trăm sáu mươi ngày, cứ gộp lại để tính như vậy, sẽ là sau năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm trong nhân gian, thọ mạng của Di Lặc Bồ Tát trong Đâu Suất Thiên đã hết, Ngài bèn giáng hạ nhân gian, thị hiện thành Phật.

Trong kinh Di Lặc Hạ Sanh, đức Phật đã nói chuyện này rất cặn kẽ. Phước báo của Bồ Tát cũng rất lớn. Trong tương lai, Long Hoa Tam Hội[12] nơi thế gian này sẽ độ chúng sanh vô lượng. Có khá nhiều người hết sức hâm mộ Long Hoa Tam Hội, hy vọng có thể thân cận Di Lặc Bồ Tát. Trong tương lai, Di Lặc Bồ Tát hạ sanh thành Phật, họ sẽ làm đại đệ tử của Phật. Vì thế, phát nguyện mong cầu sanh về Di Lặc Tịnh Độ. Nhìn bề ngoài, đương nhiên là Di Lặc Tịnh Độ gần hơn Tây Phương Tịnh Độ rất nhiều, ở ngay trong tầng trời thứ tư của thế giới Sa Bà, Cực Lạc cách chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Nếu quý vị hiểu rõ đoạn kinh văn vừa mới nói [trong phần trước] thì xác thực là chẳng có xa hay gần. Vì sao kinh này cứ khăng khăng tán thán Tây Phương Cực Lạc thế giới, khuyên người ta hãy vãng sanh về đó?

 

(Sớ) Đáp: Nhân nan dị cố, cảnh thắng liệt cố, chủ sư tư cố.

()答:因難易故,境勝劣故,主師資故。

(Sớ: Đáp: Do cái nhân có khó dễ, do cảnh hơn kém, và quan hệ giữa đấng hóa chủ hai nơi (Cực Lạc và Đâu Suất Nội Viện) là thầy và trò).

Do ba nguyên nhân ấy.

 

(Sớ) Hựu vấn: Thắng Liên Hoa thế giới, thậm siêu Cực Lạc, hà dĩ bất vãng?

()又問:勝蓮華世界,甚超極樂,何以不往?

(Sớ: Lại hỏi: Thế giới Thắng Liên Hoa vượt trỗi Cực Lạc quá nhiều, cớ sao chẳng sanh về đó?)

Sự thọ dụng trong thế giới Thắng Liên Hoa quả thật vượt trỗi Tây Phương Cực Lạc thế giới quá nhiều, vì sao chẳng vãng sanh [về cõi đó]?

 

(Sớ) Đáp: Lạc Bang tại cận, bất ưng cầu viễn cố.

()答:樂邦在近,不應求遠故。

(Sớ: Đáp: Lạc Bang ở gần, chớ nên cầu nơi xa xôi).

Vấn đề này chúng ta để đến phần sau sẽ thảo luận. Trước hết, hãy xét tới ba vấn đề “nhân hữu nan dị, cảnh hữu thắng liệt, chủ hữu sư tư”.

 

(Sao) Vấn ý cái vị Di Lặc diệc hiện tại thuyết pháp, Nội Viện diệc thanh tịnh, trang nghiêm, nhi bất cầu sanh, đương thị hà cố?

()問意蓋謂彌勒亦現在說法,內院亦清淨莊嚴,而不求生,當是何故。

(Sao: Ý của lời hỏi là ngài Di Lặc nay cũng đang thuyết pháp, Nội Viện cũng thanh tịnh, trang nghiêm, nhưng chẳng cầu sanh [về đó] là vì cớ nào?)

Lời hỏi có ý nghĩa như vậy.

 

(Sao) Đáp hữu tam nghĩa.

()答有三義。

(Sao: Đáp: Có ba ý nghĩa).

Do có ba duyên.

 

(Sao) Nhất, nhân nan dị giả, phàm sanh Nội Viện, tất Trí Đoạn công đức, kham dự thánh lưu.

()一、因難易者,凡生內院,必智斷功德,堪與聖流。

(Sao: Một là cái nhân có khó và dễ: Phàm sanh vào Nội Viện, ắt phải có công đức Trí Đoạn, có thể dự vào dòng thánh).

 Phàm là người vãng sanh Di Lặc Nội Viện, phải thỏa điều kiện này.

 

(Diễn) Tất Trí Đoạn công đức, kham dự thánh lưu giả, Trí Đoạn, tức chứng trí đoạn Hoặc công đức. Nội Viện giai chứng trí đoạn Hoặc thánh nhân sở cư. Vô thử công đức, bất kham dự hội cố.

()必智斷功德,堪與聖流者,智斷,即證智斷惑功德,內院皆證智斷惑聖人所居,無此功德,不堪與會故。

(Diễn: “Ắt phải có công đức Trí Đoạn, có thể dự vào dòng thánh”: Trí Đoạn chính là công đức chứng trí, đoạn phiền não. Nội Viện toàn là bậc thánh nhân đã chứng trí, đoạn phiền não cư ngụ. Chẳng có công đức ấy, sẽ chẳng thể dự vào hội ấy).

 Ý nghĩa này đã nói rất minh bạch: Tiêu chuẩn để gia nhập Nội Viện của Di Lặc Bồ Tát rất cao. Quý vị chẳng đạt tiêu chuẩn ấy, sẽ chẳng tiến nhập được. Giống như quý vị thi vào một trường, chỗ chúng ta cách đại học Đài Loan rất gần, nhà quý vị ở sát vách đại học Đài Loan, nhưng chẳng học tại đại học Đài Loan, mà qua Cao Hùng học, vì sao? Ở đây, điểm trúng tuyển cao, đậu không nổi. Cao Hùng tuy rất xa, nhưng nơi ấy lấy điểm trúng tuyển thấp, quý vị bèn đến đó, đạo lý là như thế đó. Phàm là người vãng sanh Di Lặc Tịnh Độ, Di Lặc Bồ Tát học Pháp Tướng Duy Thức. Tu hành trong Pháp Tướng Duy Thức là tu Duy Tâm Thức Định. Duy Tâm Thức Định chẳng dễ dàng cho mấy, nó có năm tầng cấp, gọi là Ngũ Trùng Duy Thức Quán, tức là năm tầng cấp cảnh giới, phải tu đến tầng cấp cao nhất thì mới có thể sanh vào Di Lặc Tịnh Độ. Kẻ chẳng có công phu như vậy, muốn đến đó cũng chẳng đến được, Di Lặc Bồ Tát chẳng đến tiếp dẫn quý vị. Mỗi ngày ta niệm danh hiệu Ngài, Ngài chẳng đến tiếp dẫn quý vị. Đối với Ngài, quý vị phải có năng lực ấy, phải có công phu định lực ấy, chính quý vị đến đó, Ngài cũng chẳng hoan nghênh quý vị. Quý vị chẳng tới được, Ngài chẳng đến đón quý vị. Quý vị có mong mỏi cách nào đi nữa, mong mỏi uổng công, vô dụng! Đó là xét theo cái nhân [để vãng sanh], bèn có khó và dễ. Dưới đây là nói đến sự dễ dàng [trong vãng sanh Cực Lạc].

 

(Sao) Phi nhược Cực Lạc.

()非若極樂。

(Sao: Chẳng như Cực Lạc).

Không giống như thế giới Cực Lạc.

 

(Sao) Đản cầu sanh giả, tịnh niệm thành tựu, tức khắc như nguyện, vô luận Hoặc nghiệp.

()但求生者,淨念成就,即克如願,無論惑業。

(Sao: Chỉ cần là người cầu vãng sanh, tịnh niệm thành tựu bèn tức khắc thỏa nguyện, chẳng cần biết Hoặc nghiệp [như thế nào]).

Tịnh Độ Tông dễ dàng. Người cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ cần tịnh niệm thành tựu, không cần phải đoạn Hoặc. Di Lặc Tịnh Độ đòi hỏi công đức Trí Đoạn, vãng sanh Tây Phương chẳng cần [công đức ấy]. Nếu có công phu Trí Đoạn, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ là thượng bối vãng sanh. Chúng ta chỉ cần tịnh niệm thành tựu, mức độ tịnh niệm thấp nhất gọi là “công phu thành phiến”, thế là được rồi. Cổ đại đức nói “có Tịnh Độ”, [nghĩa là] trong tâm quý vị thật sự có, bèn quyết định vãng sanh. Có đằng miệng, trong tâm chẳng có, vô dụng, đó là “gào toạc cổ họng vẫn uổng công”. Nơi miệng chẳng có, nhưng trong tâm có thì được rồi! Hữu dụng! Phải biến A Di Đà Phật thành người vương vấn bậc nhất trong tâm chúng ta, đó là trong tâm thật sự có Phật. Trong tâm, trừ A Di Đà Phật ra, điều gì cũng đều chẳng vướng mắc, sẽ quyết định vãng sanh. Trong tâm vướng mắc lắm thứ, A Di Đà Phật cũng ở trong những nỗi vướng mắc ấy, khi vãng sanh sợ rằng [do có quá nhiều] niềm vương vấn khác, sẽ đi vào nhiều ngõ rẽ, nhằm lúc khẩn yếu mà quyết định ấy bị xen tạp, sẽ lỡ làng cơ hội này! Do vậy, tốt nhất là trong tâm chỉ có một niềm vướng mắc; trừ điều ấy ra, những vướng mắc gì khác đều chẳng có, quý vị quyết định vãng sanh. Có thể làm được chuyện này, dễ dàng hơn công đức Trí Đoạn quá nhiều. Dưới đây lại nêu lên một thí dụ:

 

(Sao)  Tích Trang sư vị Nội Viện dị sanh, lương dĩ Đâu Suất chi ly nhân thế khả kế do-tuần, Cực Lạc chi khứ Sa Bà lịch đa Phật sát, bỉ luận địa bất luận nhân, kim luận nhân bất luận địa, nghĩa các hữu thủ.

()昔奘師謂內院易生,良以兜率之離人世可計由旬,極樂之去娑婆歷多佛剎,彼論地不論因,今論因不論地,義各有取。

(Sao: Xưa kia, ngài Huyền Trang nói Nội Viện dễ sanh là vì khoảng cách giữa Đâu Suất và nhân gian có thể tính đếm do-tuần, từ Sa Bà đến Cực Lạc phải trải qua nhiều cõi Phật. Đó là luận theo nơi chốn, chẳng luận theo cái nhân. Nay chúng ta luận định theo cái nhân, chẳng luận theo nơi chốn. Do căn cứ trên những luận điểm khác nhau mà có ý nghĩa khác nhau).

Vì Huyền Trang đại sư học Pháp Tướng Duy Thức, nên vãng sanh Di Lặc Tịnh Độ đối với Ngài thì được. Ngài có bản lãnh ấy, có định lực ấy. Ngài là tổ sư của Pháp Tướng Duy Thức, là thầy của Khuy Cơ đại sư. Đối với các Ngài [chuyện vãng sanh Đâu Suất Nội Viện] chẳng thành vấn đề, chúng ta công phu thua kém các Ngài. Ngài khuyên người ta đến Đâu Suất Thiên vì Đâu Suất Thiên gần gũi, Tây Phương Cực Lạc thế giới xa xôi; vì sao bỏ gần cầu xa? Ngài luận định theo nơi chốn, chẳng luận theo cái nhân tu hành. Nay chúng ta luận định theo cái nhân tu hành, chẳng luận bàn nơi chốn!

 

(Sao) Nhiên cực nhi luận chi, Trang sư vị đương thời nhất loại chi cơ, thử kinh nãi vạn thế thường hành chi đạo nhĩ.

()然極而論之,奘師為當時一類之機,此經乃萬世常行之道耳。

(Sao: Nhưng luận định đến tột cùng, ngài Huyền Trang vì một loại căn cơ thuở ấy [mà nói như vậy], kinh này là đạo thường hành trong muôn đời).

 Câu này hết sức quan trọng. Nếu chẳng có câu này, ý nghĩa sẽ chẳng viên mãn. Do vậy, cổ đại đức khuyên người khác, các Ngài biết quan sát căn cơ. Ví như các Ngài khen ngợi Thiền, khuyên quý vị tham Thiền, là do quan sát thấy căn cơ của quý vị là Thiền, quý vị tham Thiền có thể đắc Định, có thể khai ngộ. Quý vị là căn tánh như thế nào, sẽ dạy quý vị học pháp môn ấy, tán thán pháp môn ấy. Thuở ấy, Huyền Trang đại sư nói lời ấy, hễ nói năng nhất định là có đối tượng [nghe nói], những người đó nhất định là căn cơ Pháp Tướng Duy Thức, xác thực là có năng lực sanh lên Đâu Suất Thiên, theo chân Di Lặc Bồ Tát, Ngài khuyên bảo những người ấy, chẳng nhằm khuyên bảo đại chúng. Kinh này được mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai khuyên trọn khắp hết thảy chúng sanh trong pháp giới, có ý nghĩa khác nhau! Vì thế, chúng ta nhất định phải hiểu rõ. Nói thật ra, dẫu tôi có năng lực đến Đâu Suất Thiên, quý vị hỏi tôi có đi hay không? Tôi quyết định chẳng đi. Tôi đến thế giới Cực Lạc thân cận A Di Đà Phật. Vì sao? Thế giới Tây Phương thù thắng hơn Đâu Suất Thiên quá nhiều! Đâu Suất Thiên chẳng thể sánh bằng thế giới Tây Phương. Đoạn dưới đây nhằm nói đến [sự thù thắng ấy].

 

(Sao) Nhị, cảnh thắng liệt giả, Nội Viện bất việt tam giới chi trung, Cực Lạc xuất quá tam giới chi ngoại.

()二、境勝劣者,內院不越三界之中,極樂出過三界之外。

(Sao: Hai là cảnh có hơn, kém. Nội Viện chẳng vượt ngoài tam giới, Cực Lạc đã ra khỏi tam giới).

Cảnh giới khác nhau. Đâu Suất Thiên ở ngay trong thế giới Sa Bà, chẳng vượt ngoài thế giới Sa Bà, bất quá là một nơi đặc thù trong thế giới Sa Bà! Do thánh nhân trụ tại đó, nên nó là một nơi đặc biệt, nhưng vẫn thuộc trong tam giới. Thế giới Tây Phương vượt trỗi tam giới quá nhiều!

 

(Sao) Cực Lạc Nghi Thành thượng vô nữ nhân, Nội Viện ngoại sanh tiện hữu ngũ dục, cố viết hạ sanh do thắng thiên cung dã.

()極樂疑城尚無女人,內院外生便有五欲,故曰下生猶勝天宮也。

(Sao: Nghi Thành của Cực Lạc còn chẳng có nữ nhân. Sanh ngoài Nội Viện bèn có ngũ dục. Vì thế, nói sanh vào nơi hèn kém [của Cực Lạc] còn trỗi vượt cung trời).

“Hạ sanh”  là nói tới Biên Địa Nghi Thành của thế giới  Cực  Lạc.

Ở trong ấy, hưởng những điều vui sướng vượt trỗi Dạ Ma Thiên, vượt trỗi Đao Lợi Thiên. Vì thế, Nội Viện chẳng sánh bằng Tây Phương Cực Lạc thế giới.

 

(Sao) Tam, chủ sư tư giả, Di Đà viên vạn đức chi quả, dĩ chứng Như Lai.

()三、主師資者,彌陀圓萬德之果,已證如來。

(Sao: Ba, quan hệ giữa đấng hóa chủ hai nơi (Cực Lạc và Đâu Suất Nội Viện) là thầy và trò, Phật Di Đà đã viên mãn quả vạn đức, đã chứng Như Lai).

A Di Đà Phật đã sớm chứng đắc viên mãn Phật Quả trong Viên Giáo, đã sớm thành Phật. Không chỉ thành Phật, Ngài lại còn được hết thảy chư Phật tôn kính, như Thích Ca Mâu Ni Phật đã tán thán Phật Di Đà là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (quang minh đáng tôn trọng nhất, vua trong các Phật). Ngài được hết thảy chư Phật tán thán.

 

(Sao) Di Lặc xưng Bổ Xứ chi tôn, do cư Đẳng Giác.

()彌勒稱補處之尊,猶居等覺。

(Sao: Di Lặc là vị được gọi là Bổ Xứ, vẫn còn thuộc địa vị Đẳng Giác).

 Di Lặc nay là Đẳng Giác Bồ Tát, chưa thành Phật.

 

(Sao) Kinh vân: “Kỳ trung đa hữu nhất sanh bổ xứ”, tắc Di Lặc phương dữ Quán Âm, Thế Chí, đồng thị đạo sư chi trắc, viết sư tư dã.

()經云:其中多有一生補處。則彌勒方與觀音勢至,同侍導師之側,曰師資也。

(Sao: Kinh dạy: “Trong số ấy, có nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ”, vậy thì Di Lặc và Quán Âm, Thế Chí cùng hầu bên cạnh đức Đạo Sư, nên nói là “thầy trò” vậy).

Di Lặc Bồ Tát có thân phận gì? Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài là học trò của A Di Đà Phật. Chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải biết là sẽ cùng Di Lặc Bồ Tát xưng huynh gọi đệ. Chúng ta có cùng một thầy, có mối quan hệ sư huynh, sư đệ. Nếu quý vị sanh về Di Lặc Tịnh Độ, quan hệ với Di Lặc Bồ Tát là thầy trò, tức là quý vị thấp hơn một bậc. Vì thế, đến thế giới Tây Phương, cùng Di Lặc Bồ Tát là sư huynh, sư đệ. Nếu quý vị mong du ngoạn Nội Viện, sẽ tùy ý tới, đến thăm sư huynh của ta. Tới đó, Di Lặc Bồ Tát còn phải bước xuống khỏi tòa để đặc biệt tiếp đãi quý vị, khác hẳn! Phải liễu giải những sự thật này!

 

(Sao) Cố kiến Di Đà, tức kiến Di Lặc; kiến Di Lặc, vị tất kiến Di Đà.

()故見彌陀,即見彌勒;見彌勒,未必見彌陀。

(Sao: Vì thế, thấy Phật Di Đà bèn thấy ngài Di Lặc. Thấy ngài Di Lặc, chưa chắc đã thấy Phật Di Đà).

Thật vậy! Quý vị vãng sanh Đâu Suất Nội Viện, chẳng nhất định là có cơ hội đến thế giới Cực Lạc; nhưng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, có thể tùy ý đến Di Lặc Nội Viện.

 

(Sao) Hựu cổ đức hữu vân: “Tiên sanh Tây Phương, hậu sanh Long Hoa”, diệc đại hữu lý, thiên cầu Cực Lạc, bất diệc nghi hồ!

()又古德有云:先生西方,後生龍華,亦大有理,偏求極樂,不亦宜乎。

(Sao: Có vị cổ đức lại nói: “Trước hết là sanh về Tây Phương, sau đó sanh vào Long Hoa”, cũng hết sức có lý. Khăng khăng cầu sanh Cực Lạc, có phải là thích đáng hơn không?)

 Nếu chúng ta muốn tham dự Long Hoa Tam Hội, chẳng khó! Di Lặc Bồ Tát vỗ tay hoan nghênh. Quý vị vãng sanh Nội Viện, trong tương lai Ngài thành Phật, quý vị là đệ tử Thanh Văn của Ngài, giống như những vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên. Khi Di Lặc Bồ Tát thị hiện thành Phật, chúng ta từ thế giới Tây Phương đến, sẽ giống như Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, là sư huynh sư đệ đến thị hiện, đến giúp đỡ Ngài; thân phận và địa vị hoàn toàn khác hẳn! Những điều này đều là chân tướng sự thật! Nếu chẳng hiểu rõ, chẳng hiểu minh bạch chân tướng sự thật này, chúng ta sẽ chẳng biết chọn lựa như thế nào. Đã hiểu rõ ràng, minh bạch, chính mình sẽ biết chọn lựa như thế nào. Đấy mới là chánh xác, chẳng đến nỗi nẩy sanh sai lầm, sai lầm chính là chuyện rất đáng tiếc nuối vậy!

 

(Sao) Thắng Liên Hoa giả, tường kiến tiền thọ mạng văn trung.

()勝蓮華者,詳見前壽命文中。

(Sao: Đối với thế giới Thắng Liên Hoa, xin coi lời giải thích tường tận trong phần kinh văn giảng về thọ mạng).

 Phía trước đã từng nói: “Hoa Nghiêm Thọ Lượng phẩm, vị Sa Bà thế giới nhất kiếp, vi Cực Lạc thế giới nhất trú dạ. Cực Lạc thế giới nhất kiếp, vi Ca Sa Tràng thế giới nhất trú dạ, triển chuyển kiếp nhật tương đối, nãi chí bách vạn A-tăng-kỳ thế giới, cực ư Thắng Liên Hoa, tắc Cực Lạc cẩn thắng Sa Bà, liệt hậu thù thậm, an đắc vi cánh vô hạn lượng chi vô lượng hồ?” (Phẩm Thọ Lượng trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Một kiếp trong thế giới Sa Bà là một ngày đêm trong thế giới Cực Lạc. Một kiếp trong thế giới Cực Lạc là một ngày đêm trong thế giới Ca Sa Tràng. Lần lượt đối ứng ngày và kiếp như vậy, cho đến trăm vạn A-tăng-kỳ thế giới, tột bậc là cõi Thắng Liên Hoa”. Vậy thì Cực Lạc chỉ hơn Sa Bà, kém cỏi, tụt lùi quá xa [so với những thế giới khác], làm sao có thể là vô lượng trong không có hạn lượng cho được?). Trích dẫn một đoạn kinh văn của kinh Hoa Nghiêm nhằm nói rõ các cõi Phật trỗi vượt Tây Phương Cực Lạc thế giới rất nhiều; vì sao chư Phật đều khuyên chúng ta hãy đến Tây Phương Cực Lạc thế giới? Ví như trong thế gian này, khá nhiều chốn đô hội nổi tiếng, phồn vinh, hưng thịnh vượt trỗi chỗ chúng ta quá nhiều. Bất luận xét theo sự hưởng thụ vật chất hay tinh thần, nơi này của chúng ta cũng chẳng thể sánh bằng được. Những nơi ấy quả thật là tốt đẹp. Vì sao khuyên quý vị đến chỗ này? Ở đây có một trường đại học nổi tiếng, quý vị đi hưởng phước hay muốn đến cầu học? Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới là đến cầu học, chẳng phải là đến hưởng lạc. Ở nơi đó, sau khi hoàn thành học nghiệp, sẽ tùy ý vãng sanh trong mười phương vô lượng vô biên hằng sa cõi nước, có bao gồm thế giới Thắng Liên Hoa hay chăng? Đức Phật chẳng nói rõ “ngoại trừ thế giới Thắng Liên Hoa”; nói cách khác, thế giới Thắng Liên Hoa cũng bao gồm trong số ấy. Do vậy, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cổ nhân bảo là “một sanh, hết thảy sanh”, điều này rất có lý. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới giống như sanh trong hết thảy các cõi Phật, kể cả thế giới Thắng Liên Hoa. Nhưng chúng ta chẳng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, sanh vào các thế giới chư Phật khác, sẽ chẳng có năng lực, [bởi lẽ] điều kiện [để được sanh vào các thế giới phương khác] rất cao, ngay cả Đâu Suất Thiên mà còn chưa đến được. Điều kiện sanh về Đâu Suất Thiên lại kém hơn thế giới Thắng Liên Hoa rất nhiều. Nhất định phải hiểu những sự thật này. Quay lại nghĩ tưởng căn tánh và trình độ của chính mình, dùng phương pháp xảo diệu gì để chúng ta rất dễ dàng, rất nhanh chóng mà cũng có thể đạt tới các cõi Phật cao nhất, thù thắng nhất thì không gì hơn được cách trước tiên là sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tới đó để thành tựu. Bất cứ cõi Phật nào cũng đều chẳng nói vừa đến nơi ấy [bèn là] “hoa nở, thấy Phật, ngộ Vô Sanh”, chỉ có Tây Phương Cực Lạc thế giới, thượng phẩm thượng sanh vừa đến bên đó hoa bèn nở, thấy Phật. Nói cách khác, chứng ngay quả vị Thất Địa trong Viên Giáo, mà Bát Địa Bồ Tát trong Viên Giáo bèn có năng lực dạo khắp các cõi Phật. Chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ đều nói: Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới liền chứng đắc A Bệ Bạt Trí Bồ Tát. A Bệ Bạt Trí thấp nhất là Thất Địa, cao nhất là Cửu Địa. Có thể thấy: Đã đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn có năng lực dạo khắp hết thảy các cõi Phật. Thượng phẩm thượng sanh tới đó, sẽ đích thân chứng đắc. Hạ hạ phẩm vãng sanh phải mất mười hai kiếp. Có phải đợi cho tới hết mười hai kiếp, hoa nở, thấy Phật thì mới có năng lực tham phỏng trọn khắp các cõi Phật hay không? Chẳng cần chờ đợi! Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng giống như Bát Địa Bồ Tát, hạ hạ phẩm vãng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng có thể đến tham phỏng mười phương các cõi Phật. Chính mình chẳng có năng lực ấy, vì sao có thể đi? Do là học trò của Phật Di Đà! Hết thảy chư Phật đều hoan nghênh quý vị, đó là được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Bản thân quý vị chẳng có năng lực, Phật gia trì quý vị; khi quý vị có năng lực, Phật vẫn gia trì quý vị. Chư vị nhất định phải biết: Trong các kinh luận khác chẳng có chuyện này, trong các cõi Phật khác cũng chẳng có, hết thảy chư Phật khuyên chúng ta cầu sanh thế giới Cực Lạc là có lý, chẳng phải là nói tùy tiện. Mọi người đọc kỹ kinh Vô Lượng Thọ, đối với từng câu, từng chữ trong kinh Vô Lượng Thọ đều chớ khinh thường, dễ dãi đọc lướt qua, quý vị mới thật sự giác ngộ Tịnh Độ siêu thắng, vượt trỗi hết thảy các cõi Phật, thù thắng khôn sánh. Có thể nói là giống như hết thảy chư Phật tạo lập một đại học Phật giáo nhằm giúp cho hết thảy chúng sanh thành Phật tại đó. Quý vị nghĩ xem: Nơi ấy thù thắng lắm!

 

(Sao) Kim vị Hoa Nghiêm giảo luận quốc độ.

()今謂華嚴較論國土。

(Sao: Nay nói: Kinh Hoa Nghiêm so sánh các cõi nước).

Kinh Hoa Nghiêm so sánh các cõi Phật.

 

(Sao) Sa Bà chi hậu, tức vân Cực Lạc, viễn chi hựu viễn, chí bách vạn A-tăng-kỳ thế giới, phương viết Thắng Liên.

()娑婆之後,即云極樂,遠之又遠,至百萬阿僧祇世界,方曰勝蓮。

(Sao: Sau Sa Bà, bèn nói Cực Lạc, đã xa lại càng xa hơn, cho đến trăm vạn A-tăng-kỳ thế giới, mới nói tới cõi Thắng Liên Hoa).

Từ thế giới Sa Bà đến Tây Phương Cực Lạc thế giới xa cách mười vạn ức cõi Phật, cõi Thắng Liên Hoa cách thế giới Sa Bà trăm vạn A-tăng-kỳ Phật sát (một thế giới là một Phật sát), khoảng cách ấy thật sự quá xa, mười vạn ức chẳng thể sánh bằng trăm vạn A-tăng-kỳ! Đại sư lại so sánh giữa xa và gần, luận định về sự xa gần, chẳng luận theo nhân hạnh. Luận xa gần giống như trong cách nói trong phần trên của Huyền Trang đại sư nhằm khuyên những kẻ đương cơ. Chư vị phải hiểu: Nói theo kiểu này chính là nói quyền xảo phương tiện.

 

(Sao) Tắc Cực Lạc giả lân bang, Thắng Liên giả hà vực dã, dụ như Việt cơ, Ngô nhẫm, cử túc tức Ngô, xả Ngô bất vãng, nhi mộ Yên, Tần, hoặc diệc thậm hỹ!

()則極樂者鄰邦,勝蓮者遐域也,喻如越饑吳稔,舉足即吳,捨吳不往,而慕燕秦,惑亦甚矣。

(Sao: Cực Lạc là nước kề cận, Thắng Liên Hoa là nước xa xôi, ví như nước Việt đói kém, nước Ngô được mùa, cất chân bèn sang đất Ngô. Bỏ nước Ngô chẳng đến, hâm mộ nước Yên, nước Tần, mê lầm quá đỗi!)

Nước Việt [thời Chiến Quốc] nay thuộc tỉnh Chiết Giang, nước Ngô nay thuộc tỉnh Giang Tô, hai nơi ấy rất gần nhau. Nếu ở nơi đây gặp nạn đói, thành thị kế bên trúng mùa, sang đó còn có cái ăn. Nước Yên nay là tỉnh Liêu Ninh, nước Tần nay là một giải Tây An[13], cách rất xa! Đó là nói theo lẽ xa gần. Vì thế, chúng ta biết đại sư nói kiểu này là nói quyền xảo phương tiện. Chúng ta phải liễu giải chân tướng từ Lý lẫn Sự, đó mới là chân tướng sự thật.

Thế giới Thắng Liên Hoa là cõi của Hiền Thắng Phật, các vị đại Bồ Tát như Phổ Hiền và Văn Thù thường hoạt động nơi đó. Ở đây, đã ban cho chúng ta một khải thị rất lớn: Phàm ai sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là Phổ Hiền Bồ Tát. Phẩm thứ hai trong kinh Vô Lượng Thọ là Đức Tuân Phổ Hiền, đương nhiên [là người trong cõi Cực Lạc] sẽ có phần trong thế giới Thắng Liên Hoa, [bởi lẽ], kinh Hoa Nghiêm nói Phổ Hiền Bồ Tát đầy ắp trong cõi đó. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, chính mình là Phổ Hiền Bồ Tát. Vì vậy, thế giới Tây Phương không chỉ là Nhất Chân pháp giới, mà nói thật ra, còn là pháp giới của Phổ Hiền Bồ Tát, ai nấy đều tu Phổ Hiền hạnh. Phổ Hiền chẳng giống các vị Bồ Tát khác, tâm địa của Ngài thật sự thanh tịnh, bình đẳng, chẳng có mảy may phân biệt, chấp trước. Bởi lẽ, tâm Ngài là tận hư không, khắp pháp giới, bất luận ở nơi đâu đều có cảm ứng đạo giao. Trong quá khứ, cư sĩ
Ngụy Nguyên đã ghép phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện vào Tịnh Độ Tam Kinh, gọi là Tịnh Độ Tứ Kinh. Đầu thời Dân Quốc, lão pháp sư Ấn Quang đã ghép Lăng Nghiêm Kinh Đại Thế Chí Viên Thông Chương vào sau bốn kinh, gọi là Tịnh Độ Ngũ Kinh.

Đã hiểu rõ Lý và Sự này, đối với sự tu học của Tịnh Tông, chúng ta sẽ có thể khăng khăng một mực, thâm nhập một môn. Nếu có thể khăng khăng một mực, thâm nhập một môn, thành tựu rất nhanh chóng. Kinh Di Đà nói, đúng là thật sự quá mức chẳng thể nghĩ bàn, “hoặc một ngày, hoặc hai ngày, cho đến hoặc bảy ngày” bèn thành tựu, lời này cũng là thật, chẳng giả. Bảy ngày bèn thành tựu, chẳng biết chúng ta đã niệm bao nhiêu lần bảy ngày, vẫn chẳng có thành tựu, có phải là đức Phật nói sai hay không? Phật và kinh chắc chắn chẳng sai lầm! Vấn đề ở chỗ nào? Chúng ta niệm Phật chẳng đúng lý, chẳng đúng pháp; cho nên niệm rất nhiều năm cũng chẳng thành tựu! Tu học đúng lý, đúng pháp, xác thực là có thể thành công rất nhanh. Pháp môn này nhanh chóng, thành tựu mau lẹ, chẳng thể nghĩ bàn. Trong A Di Đà Kinh Thông Tán Sớ, Khuy Cơ đại sư đã tán thán như vậy. Ngài Khuy Cơ là tổ sư của Pháp Tướng Duy Thức Tông, tán thán pháp môn Tịnh Độ tột bậc, đấy mới là một vị thiện tri thức thật sự. Khuy Cơ đại sư tán thán Tịnh Độ, thừa nhận Tịnh Độ là Đốn Giáo, thành tựu nhanh chóng khôn sánh. Kinh nói từ một ngày cho đến bảy ngày bèn thành công. Chúng ta xem Vãng Sanh Truyện, xem Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, và nhìn vào thời cận đại, những người thật sự vãng sanh, biết trước lúc mất, ra đi chẳng ngã bệnh, ra đi rất tiêu sái, rất tự tại, đứng mất, ngồi mất, đúng là thông thường khoảng chừng ba năm. Tu học các pháp môn khác, ba năm mà thành tựu thì rất ít thấy, Tịnh Độ ba năm thành tựu quá ư là nhiều! Những điều này đều đáng cho chúng ta phản tỉnh thật sâu. Nếu thật sự hiểu rõ, tín tâm của quý vị sẽ tự nhiên thanh tịnh, tín tâm kiên định, nguyện lực khẩn thiết, chắc chắn vãng sanh. Hôm nay, chúng tôi giảng đến chỗ này.

 

Tập 256

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm mười.

 

(Sớ) Vấn: Kiến hữu nhất sanh niệm Phật, lâm chung vị tất vãng sanh,  hà dã?  Đáp:  Lương diêu nhất sanh niệm Phật,  vị thị nhất tâm niệm Phật cố.

()問:見有一生念佛,臨終未必往生,何也?答:良繇一生念佛,未是一心念佛故。

(Sớ: Hỏi: Thấy có kẻ suốt đời niệm Phật, lâm chung chưa chắc vãng sanh, là vì lẽ nào? Đáp: Ấy là vì suốt đời niệm Phật, nhưng chưa phải là nhất tâm niệm Phật).

Đoạn này hết sức trọng yếu. Có kẻ suốt đời niệm Phật mà chẳng thể vãng sanh, hạng người như vậy hết sức nhiều! Chúng ta thường nghe nói: “Người niệm Phật đông đảo, kẻ vãng sanh ít ỏi”. Sự chênh lệch nhiều ít ấy rất lớn, có thể nói là trong một vạn người niệm Phật, sợ rằng người thật sự có thể vãng sanh không tới mười người, nguyên nhân ở chỗ nào? Ở ngay trong đoạn này. Do vậy có thể biết: Những điều được nói trong đoạn này chính là khai thị mấu chốt để chúng ta biết niệm Phật có thể vãng sanh trong một đời này hay không, chúng ta chớ nên không lưu ý.

 

(Sao) Du du chi đồ, nhất sanh niệm Phật, sở vị tuy bất giải đãi, diệc bất tinh tấn, vị năng nhất tâm, cố bất đắc sanh.

()悠悠之徒,一生念佛,所謂雖不懈怠,亦不精進,未能一心,故不得生。

(Sao: Hạng người hời hợt, niệm Phật suốt đời, tuy nói là chẳng biếng nhác, nhưng cũng chẳng tinh tấn, chưa thể nhất tâm, cho nên chẳng được vãng sanh).

 Cho biết vì sao niệm Phật chẳng thể vãng sanh, nguyên nhân ở ngay chỗ này! Điều khẩn yếu là bản thân chúng ta có phải là hạng người như Liên Trì đại sư vừa nói hay chăng? Chính mình phải nghiêm túc phản tỉnh, nghiêm túc kiểm điểm, chúng ta có phạm lỗi lầm ấy hay không? Nói là “chẳng biếng nhác” vì người ấy hằng ngày niệm, chẳng phải là không niệm. Một ngày niệm mấy ngàn câu, niệm một vạn câu, hai vạn câu, ba vạn câu, thật sự niệm, nhưng cũng chẳng tinh tấn. Mỗi ngày niệm Phật hiệu nhiều như thế, vì sao nói là chẳng tinh tấn? Niệm thì có niệm, trong tâm vẫn tán loạn! Do vậy có thể biết: Tinh tấn là gì? Niệm đến mức thật sự nhất tâm, niệm tới mức phiền não ít đi, nhất định phải nhìn từ hiệu quả này. Xác thực là chúng ta ít vọng tưởng, ít phiền não, tâm thanh tịnh, đó là tinh tấn, quý vị đạt được hiệu quả. Đừng nói là người tại gia niệm vài chục năm, trong tâm vẫn loạn thành một nùi, người xuất gia cũng chẳng phải là ngoại lệ, thị phi, nhân ngã, vọng tưởng, chấp trước có tăng, chẳng giảm, chẳng cảm thấy giảm bớt, dẫu niệm Phật hiệu mà chẳng có tác dụng! Tuy niệm Phật hiệu, chẳng tinh tấn, chẳng có tiến bộ. “Chưa thể nhất tâm”, thành tích được khảo sát nơi nhất tâm, chúng ta có phải là niệm đến mức nhất tâm hay không? Muốn thật sự niệm đến nhất tâm, nhất định là phải buông xuống muôn duyên, những thứ chẳng tất yếu thảy đều bỏ hết. Những thứ chẳng bắt buộc phải xem, chẳng cần xem! Những thứ chẳng bắt buộc phải nghe, không cần nghe! Những thứ chẳng bắt buộc phải nói, cũng không cần phải nói, tâm quý vị tự nhiên thanh tịnh. Các đồng tu tại gia ai nấy có sự nghiệp, có gia đình, những chuyện có quan hệ mật thiết đối với sự nghiệp và gia đình thì chúng ta phải xem, phải nghe, phải nói; những chuyện nào chẳng có quan hệ quá to tát đối với sự nghiệp và gia đình ta, chúng ta có thể chẳng nghe, chẳng hỏi, chẳng nói tới. Nói cách khác, phải giảm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước tới mức độ thấp nhất, khiến cho cái tâm định, tâm tĩnh lặng thì mới có thành tích đáng nói, mới có thể vãng sanh. Vì thế, trước hết là nói toạc ra nhân duyên khiến cho [hành nhân Tịnh Độ] chẳng thể vãng sanh.

 

(Sao) Nhược quả chân thật dụng tâm, nhi vị thuần nhất, tuy kim thế bất sanh, diệc thực sanh nhân, tất ư lai thế thành tựu tam-muội nhi đắc sanh bỉ.

()若果真實用心,而未純一,雖今世不生,亦植生因,必於來世成就三昧而得生彼。

(Sao: Nếu là thật sự dụng tâm, nhưng chưa thuần nhất, tuy chẳng thể vãng sanh trong đời này, cũng đã gieo cái nhân vãng sanh, ắt sẽ trong đời sau, thành tựu tam-muội mà được vãng sanh cõi ấy).

Thật sự dụng tâm, cũng rất đúng pháp, nhưng chưa thể đạt tới “thuần nhất”, hai chữ này trọng yếu! Trong phần trước nói “chưa thể nhất tâm”, ở đây nói là “chưa thể thuần nhất”. Thật sự đạt đến thuần nhất, trong một đời này, quyết định được vãng sanh. Trong đoạn lớn này, quý vị chỉ ghi nhớ một điều, “nhất tâm” hoặc “thuần nhất”, quý vị sẽ được thọ dụng. Chẳng thể thuần nhất, khi vãng sanh bèn tùy thuộc duyên phận. Duyên thù thắng, khi lâm chung gặp thiện hữu trợ niệm, thiện hữu khai thị, nhắc nhở, một niệm cuối cùng là niệm Phật, bèn vãng sanh. Nếu trong sát-na lâm chung, chẳng gặp thiện tri thức, người nhà, quyến thuộc lại khóc lóc, lại làm ồn, vướng mắc đầy dạ, do một niệm sai lầm sẽ chẳng thể vãng sanh; đó là thời khắc mấu chốt. Đó là chẳng thể thuần nhất, bèn sợ khi lâm chung có kẻ nhiễu loạn. Họ cũng chẳng cố ý làm hại quý vị, mà là do tình cảm con người trong thế gian này! Nhưng đối với người niệm Phật mà nói, những điều đó đều là ma chướng, khi lâm chung, chúng đến dày vò quý vị, đến chướng ngại quý vị vãng sanh. Tập sách nhỏ có tên là Sức Chung Tu Tri (飭終須知: những điều cần biết để giúp đỡ người lâm chung) chính là tác phẩm diễn dịch cuốn Sức Chung Tân Lương (飭終津梁: hướng dẫn khi trợ niệm lâm chung) từ văn chương Văn Ngôn sang văn Bạch Thoại, đọc dễ hiểu hơn. Chúng ta hãy nên ấn hành nhiều để giúp đỡ người khác, nhắc nhở họ khi lâm chung phải biết tu học như thế nào, điều này hết sức quan trọng. Chính mình phải hiểu, người nhà quyến thuộc cũng phải biết, mới chẳng đến nỗi tạo thành chướng ngại. Suốt một đời thật sự niệm Phật, chẳng đạt đến thuần nhất, khi lâm chung chẳng thể vãng sanh, nhưng người ấy cũng đã gieo cái nhân rất tốt. Do cái nhân ấy, có thể tiếp tục niệm Phật trong đời sau, sẽ có thể vãng sanh. Vì một người thật sự niệm Phật, tâm địa từ bi, thiện lương, quyết định chẳng bị đọa vào ba ác đạo. Đời sau ở trong cõi trời, người, được làm thân người hay thân trời, còn có cơ duyên gặp gỡ pháp môn này lại tiếp tục tu hành.

 

(Sao) Như Phạm Võng vân: “Bất đắc giới, nhi đắc tăng ích thọ giới”.

()如梵網云:不得戒,而得增益受戒。

(Sao: Như kinh Phạm Võng có nói: “Chẳng đắc giới, nhưng được lợi lạc tăng ích thọ giới[14]”).

Đây là nêu một thí dụ, chúng ta cũng có tình hình từa tựa như vậy.

 

(Diễn) Bất đắc giới nhi đắc tăng ích thọ giới giả, Phạm Võng vân: “Thiên lý nội vô năng thọ giới sư”.

()不得戒而得增益受戒者,梵網云:千里內無能授戒師。

(Diễn: “Chẳng đắc giới, nhưng được lợi ích cho sự thọ giới trong đời sau”. Kinh Phạm Võng nói: “Trong một ngàn dặm, chẳng có vị thầy nào có thể truyền giới”).

Ngàn dặm khá xa xôi. Trước kia, công cụ giao thông chẳng thuận tiện như trong hiện thời, toàn là đi bộ, tối đa là cưỡi ngựa. Ngàn dặm, nói thông thường thì đại khái là lộ trình mười ngày, khá xa xôi, cổ nhân thường nói “chẳng xa hơn một ngàn dặm” bèn đến. Hiện thời, khoảng cách ngàn dặm cũng rất ngắn, mấy tiếng đồng hồ bèn có thể đến nơi!

 

(Diễn) Hứa Phật, Bồ Tát tượng tiền thọ giới, yếu tu sám hối đắc kiến hảo tướng, tức tiện đắc giới.

()許佛菩薩像前受戒,要須懺悔得見好相,即便得戒。

(Diễn: Cho phép [người muốn thọ giới] đối trước tượng Phật, Bồ Tát tự thọ giới, nhưng cần phải tu sám hối [cho đến khi] thấy được hảo tướng thì mới đắc giới).

Trong kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo có nói chuyện này rất cặn kẽ, đối với tại gia Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, Bồ Tát Giới, xuất gia Sa Di Giới đều có thể tự mình đối trước tượng Phật, Bồ Tát phát nguyện thọ giới. Có đắc giới hay không? Nếu thấy hảo tướng thì đắc giới. Hảo tướng là gì?

 

(Diễn) Kiến hảo tướng giả, Phật lai ma đảnh, kiến quang, kiến hoa đẳng.

()見好相者,佛來摩頂,見光見花等。

(Diễn: “Thấy hảo tướng”: Phật đến xoa đỉnh đầu, thấy quang minh, thấy hoa v.v…).

Nhất định cảm ứng thụy tướng. Những thụy tướng ấy [được thấy] trong Định, hoặc ở trong mộng, đều là [dấu hiệu chứng tỏ] đắc giới.

 

(Diễn) Nhược bất kiến hảo tướng, tuy sám vô ích.

()若不見好相,雖懺無益。

(Diễn: Nếu chẳng thấy hảo tướng, tuy sám hối, vô ích).

Chúng ta đối trước Phật, Bồ Tát, kiền thành, cung kính phát nguyện thọ giới, trì giới, nhưng chẳng có thụy tướng ấy.

 

(Diễn) Nhiên tuy bất đắc giới, nhi đắc tăng ích thọ giới.

()然雖不得戒,而得增益受戒。

(Diễn: Nhưng tuy chẳng đắc giới, mà đắc tăng ích thọ giới).

Quý vị đắc giới, có thể nói là công đức lợi ích chân thật. Tuy chẳng đắc giới, cũng đạt được công đức và lợi ích, đó gọi là “đắc tăng ích thọ giới”. Nếu tâm chúng ta trì giới kiên định, thanh tịnh, lâu ngày nhất định sẽ có thụy tướng, thời gian dài hay ngắn khác nhau. Lợi căn, trong thời gian rất ngắn bèn có thụy tướng. Có người mấy tháng, cho đến hai, ba năm [mới thấy thụy tướng], chẳng sao cả, chính mình nhất định phải giữ được cái tâm thường hằng, đó là đúng. Sớm muộn gì thì cũng từ tăng ích thọ giới đạt đến thật sự đắc giới. Trong xã hội hiện thời, muốn phát tâm thọ giới, để thật sự đắc giới, thì đây là một phương pháp rất tốt. Kinh Chiêm Sát có nói: Dẫu chẳng có thụy tướng, bèn từ chiêm sát (chiêm nghiệm, quan sát) luân tướng[15] để quan sát. Do chiêm sát luân tướng, có thể biết bản thân chúng ta đã đắc giới hay không; nhưng nhất định phải theo đúng phương pháp để tu. Hễ dùng một thái độ rất khinh mạn, qua loa để [cầu thọ giới], sẽ chẳng thể đắc giới. [Do thái độ khinh mạn ấy, dẫu] chiêm sát luân tướng cũng chẳng thể cảm ứng.

 

(Sao) Tông Môn vị “tài xuất đầu lai, nhất văn thiên ngộ giả”, thị dã.

()宗門謂才出頭來,一聞千悟者,是也。

(Sao: Nhà Thiền nói là “vừa mới xuất đầu lộ diện đã nghe một, ngộ cả ngàn” chính là ý này).

Đây là tỷ dụ thứ hai. Trong Thiền Tông có nói “vừa mới xuất đầu lộ diện, nghe một, ngộ cả ngàn”. Nghe một, ngộ cả ngàn là gì? Chúng ta hãy xem chú giải.

 

(Diễn) Nhất văn thiên ngộ giả, như hiếp hạ thi quyền, cách giang chiêu thủ, tụng Dược Vương nhi thân kiến Linh Sơn, phùng xuy đặng nhi đốn truyền tâm ấn, thị dã.

()一聞千悟者,如脅下施拳,隔江招手,誦藥王而親見靈山,逢吹鐙而頓傳心印,是也。

(Diễn: “Nghe một, ngộ cả ngàn”: Như nắm tay đặt dưới hông, cách sông vẫy tay, tụng phẩm Dược Vương mà đích thân thấy Linh Sơn, gặp thổi nến mà truyền ngay tâm ấn, là như thế đó).

Ở đây, đại sư nêu liên tiếp bốn công án. Ở chỗ này, điều then chốt là câu “mới xuất đầu” có nghĩa là gì? Hễ hiểu ý nghĩa của câu này, những vấn đề tiếp đó đều được giải quyết. Nay chúng ta chưa ló đầu ra. Chưa ló đầu ra là tình hình gì? Chúng ta bị vô minh phiền não che lấp. Quý vị làm như thế nào để có thể từ trong vô minh phiền não vượt thoát thì sẽ ló đầu ra. Chỉ cần vượt thoát, chẳng sợ không khai ngộ. Cơ duyên như thế nào bèn có thể giúp cho người khác khai ngộ? Từ trong Tông Môn và Giáo Hạ, chúng ta thấy nhân duyên trong lần khai ngộ đầu tiên của mỗi người đều khác nhau! Đại sư nêu lên bốn vị: Ba vị thuộc Thiền Tông, một vị thuộc Giáo Hạ. “Tụng Dược Vương nhi thân kiến Linh Sơn” (Tụng phẩm Dược Vương mà đích thân thấy Linh Sơn) chính là Trí Giả đại sư, thuộc Giáo Hạ. Lão nhân gia niệm kinh Pháp Hoa, niệm đến Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự Phẩm, nhập Định. Lần nhập Định ấy, ở trong Định, [Ngài thấy] Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu, Ngài trông thấy quang cảnh ấy. Trí Giả đại sư đã trông thấy, còn nghe hết một buổi (nghe một lượt). Sau khi xuất Định, kể với người khác: “Hội Linh Sơn cho đến nay vẫn chưa tan!” Trí Giả đại sư cách Thích Ca Mâu Ni Phật một ngàn năm. Đã một ngàn năm mà hội Linh Sơn vẫn chưa tan, Ngài đến tham dự. Trong Thiền Tông, phương pháp Đốn Ngộ lại càng tuyệt vời, chẳng thể diễn tả được! Từ việc giơ tay, hoặc cuộn tay thành nắm đấm, từ mỗi động tác, mỗi biểu thị, mỗi cuộc vấn đáp [giữa thầy và người đến tham phỏng] mà khai ngộ. Từ ngữ lục của Thiền Tông, chúng ta thấy chuyện này nhiều lắm, vấn đề là nếu quý vị chưa đến sát-na xuất đầu lộ diện, sẽ chẳng làm được! Chúng ta xem ngữ lục Thiền Tông cả trăm lượt vẫn chẳng khai ngộ. Trong khi ấy, người ta vừa giơ tay lên hoặc ho hắng, [người đến tham phỏng] bèn khai ngộ. Chúng ta thấy chuyện đó, làm cách nào cũng chẳng khai ngộ được! Nguyên nhân ở chỗ nào? Người ấy vừa mới ngoi đầu, chúng ta chẳng ngoi đầu, then chốt là ở chỗ này.

Do đó, chính mình nhất định phải có sự cảnh giác cao độ. Chúng ta phiền não quá nặng, vọng tưởng quá nhiều, tập khí quá sâu, làm như thế nào? Nếu vẫn một mực như vậy, chắc chắn sẽ bị đọa lạc. Đọa lạc thì chư vị nhất định phải liễu giải một chân tướng sự thật: Đời sau của chúng ta chắc chắn chẳng tốt đẹp như đời này, đó gọi là “mỗi lúc một tệ hơn”, tụt dốc, mỗi đời một kém hơn đời trước. Thật đấy, chẳng giả đâu nhé! Nói “đời sau tốt đẹp hơn đời này”, đấy là chuyện chẳng thể nào có, quá khó có! Theo tôi thấy là chẳng có cách nào! Trong một trăm người, chẳng có một ai nói là đời sau sẽ tốt đẹp hơn đời này, chẳng thể nào! Nếu quý vị hỏi do nguyên nhân gì ư? Nếu quý vị liễu giải nguyên nhân, sẽ tin tưởng. Phiền não, ác nghiệp, tập khí của chúng ta mỗi năm một tăng thêm, mỗi đời một tăng thêm nhiều hơn, [thế mà] cuộc sống mai sau sẽ biến đổi tốt đẹp hơn, há có đạo lý ấy hay chăng? Muốn biến đổi tốt đẹp hơn thì phiền não, vọng tưởng, tập khí mỗi năm một ít hơn. Nhìn từ cái nhân tốt đẹp ấy, trong tương lai, đời sau của quý vị nhất định tốt đẹp hơn đời này. Tình hình của chúng ta có phải là như vậy hay không? Tâm địa của chúng ta bị ô nhiễm, ô nhiễm ngày càng sâu đậm hơn! Vì thế, cuộc sống về sau chẳng tốt đẹp. Dẫu đời này tu đại phước báo, quý vị nhất định sẽ hưởng phước báo, nhưng chẳng nhất định hưởng trong loài người! Nay chúng ta thấy rất nhiều [con vật thuộc] súc sanh đạo, những con vật cưng (pet) do người ngoại quốc nuôi thật sự hưởng phước. Chúng ta nói “chủ nhân nuôi con vật cưng”, thật ra là trái ngược: Con vật cưng là chủ nhân, người nuôi con vật cưng chính là đầy tớ, hầu hạ, hiếu thuận, chăm sóc con vật chu đáo chẳng thiếu một điều nhỏ nhặt nào. Con vật cưng chính là chủ nhân, kẻ nuôi dưỡng là người hầu, nó đến nơi đó để hưởng phước. Vì thế nói: Đúng là mỗi đời một kém hơn, nhất định phải biết điều này. Chúng ta phải hiểu rõ, hiểu minh bạch đạo lý và chân tướng sự thật này, mới biết: Gặp gỡ pháp môn này trong hiện tại là điều đáng quý! Pháp môn này hiếm có, khó gặp, nhất định phải nghiêm túc nắm giữ, quyết định chẳng thể lơi lỏng, nhất định phải thành tựu trong một đời này. Tổ sư đại đức rát miệng buốt lòng chỉ dạy chúng ta, nhân tố thành công là ở chỗ nào? Nhân tố khiến chẳng thể vãng sanh ở nơi đâu? Đều nói rành rẽ, rõ ràng cùng chúng ta! Chúng ta ghi nhớ giáo huấn, những lỗi lầm và khuyết điểm thảy đều sửa đổi, sẽ có hy vọng vãng sanh trong một đời này. Đọc kinh, nghe giáo nhằm mục đích này.

 

(Sao) Thận vô tạ khẩu viết: “Mỗ mỗ niệm Phật, đồ lao vô công”, toại báng thánh giáo, vị bất túc tín!

()慎毋藉口曰:某某念佛,徒勞無功,遂謗聖教為不足信。

(Sao: Hãy dè dặt đừng nói bừa bãi: “Kẻ nào đó niệm Phật, uổng công vô ích”, đấy chính là báng bổ thánh giáo “chẳng đáng tin tưởng”).

Đây là đại sư răn nhắc chúng ta, quý vị nhất định phải liễu giải nhân tố thật sự khiến cho vãng sanh thành hay bại, trọn chẳng thể nào tùy tiện thấy người khác niệm Phật chẳng thể vãng sanh, bèn nói niệm Phật là giả, vãng sanh chẳng thật, tu pháp này nhọc nhằn uổng công vô ích. Đó là báng Phật, báng Pháp, mà cũng là hủy báng những người thật sự vãng sanh, tạo thành tội báng bổ Tam Bảo, hạng người ấy ngu si thay! Do chẳng hiểu rõ lý lẽ, bèn tùy tiện, khinh thường, hủy báng, tạo tội rất nặng!

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh vô hình, thị bất điên đảo nghĩa. Tự tánh vô cấu, thị sanh Cực Lạc nghĩa.

()稱理,則自性無形,是不顛倒義;自性無垢,是生極樂義。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh vô hình là ý nghĩa “chẳng điên đảo”, tự tánh vô cấu là ý nghĩa “sanh về Cực Lạc”).

Trong đoạn này, cuối cùng là qua câu này, đại sư đã nói xứng tánh. “Tự tánh” là Chân Như bản tánh. Chân tâm của chúng ta chẳng có hình tướng. Chẳng có hình tướng thì lấy đâu ra điên đảo? Tự tánh thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, lấy đâu ra cấu uế? Đó là “chẳng điên đảo” thật sự, là ý nghĩa Cực Lạc chân thật. Tiếp đó, Liên Trì đại sư trích dẫn lời Lục Tổ đại sư của Thiền Tông để nói rõ ý nghĩa này.

 

(Sao) Lục Tổ vân: “Ngô hữu nhất vật, vô đầu, vô vĩ, vô bối, vô diện”. Thị tắc cầu ư chánh tướng thượng bất khả đắc, tương dĩ hà vật nhi danh điên đảo?

()六祖云:吾有一物,無頭無尾,無背無面。是則求於正相尚不可得,將以何物而名顛倒。

(Sao: Lục Tổ nói: “Ta có một vật, không đầu, không đuôi, không lưng, không mặt”. Như vậy là cầu chánh tướng (tướng ngay thẳng) còn chưa thể được, lấy vật gì để gọi là điên đảo?)

Ba câu đầu [trong đoạn Sao trên đây] đều trích từ Lục Tổ Đàn Kinh. Khi thuyết pháp, Lục Tổ đại sư đã nêu ra một vấn đề như thế, bảo học trò “đạo nhất cú lai!” Nói theo cách hiện thời sẽ là: Các ngươi nghe xong, nói cho ta nghe xem nào! Ngài nói ra một đề mục: “Ta có một vật, không đầu, không đuôi, không lưng, không mặt”, các ông hãy nói cho ta nghe thử. Đấy là hình dung Chân Như bản tánh lìa hết thảy tướng, thường nói là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, đó là thực tại. Phật, Bồ Tát thuyết pháp có phương tiện, có thiện xảo, dẫu những điều chẳng thể nói được vẫn có thể dùng ngôn ngữ để biểu đạt, như Chân Như bản tánh, làm sao có thể diễn tả được? Chẳng thốt nên lời! Ba câu nói ấy của Lục Tổ chính là phương pháp “dồn mây để diễn tả trăng”. Giống như vẽ vời, vẽ mặt trăng chẳng được, bèn vẽ mây bốn phía, ở giữa, lộ ra một hình tròn, [người xem sẽ tự hiểu] đó là vầng trăng. Dùng phương pháp mượn sự vật khác để diễn tả! Trong Thiền Tông thường vận dụng phương pháp này, khiến cho quý vị từ đấy mà thấu hiểu, xác thực là chẳng nói ra, nhưng từ ý nghĩa trong ngôn ngữ của họ, quý vị có thể thấu hiểu, có thể hiểu ý. Giống như những lời của Lục Tổ, “thị tắc cầu ư chánh tướng thượng bất khả đắc” (do vậy, cầu chánh tướng (tướng ngay thẳng) còn chưa thể được), ngay thẳng còn chẳng có, lấy đâu ra điên đảo? “Tương dĩ hà vật nhi danh điên đảo” (Lấy vật gì để gọi là điên đảo). Đối với chánh diện và phản diện, trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật cũng nói rất thú vị: Thật ra, đều là vọng tưởng và chấp trước của chúng sanh. Lìa khỏi hết thảy vọng tưởng, chấp trước, há có một pháp nào để có thể được? Tổng cương lãnh và tổng nguyên tắc của hết thảy các pháp do đức Phật đã nói là phá trừ chấp trước của hết thảy chúng sanh mà thôi! Do vậy, đức Phật chẳng có pháp để có thể nói.

Chư vị hãy xem kỹ ba mươi sáu cặp vấn đáp do Lục Tổ đại sư đã truyền dạy trong Đàn Kinh, quý vị sẽ biết: Lục Tổ dạy người khác thuyết pháp, dạy như thế nào? Người ta nói đúng, quý vị bèn nói sai, người ta nói dài, quý vị bèn nói ngắn, họ nói có, quý vị bèn nói không, người ta nói không, quý vị bèn nói có, nhằm phá chấp trước của người ấy mà thôi! Chẳng có chấp trước, chân tánh bèn hiển hiện. Nhưng phàm phu có quá nhiều phiền phức, họ chấp trước Có, quý vị nói Không; được rồi, họ chẳng cần đến Có nữa, lại chấp trước Không, có hỏng bét hay là không? Không lẫn Có đều chẳng có, là Trung Đạo, họ lại chấp trước Trung, luôn luôn là phải chấp trước, chẳng hiểu đức Phật nói hết thảy các pháp nhằm phá chấp trước mà thôi! Kết quả đến cuối cùng là chấp trước Phật pháp! Đức Phật thấy tình hình ấy, có thể nào chẳng chảy nước mắt hay sao? Đó là chẳng hiểu ý nghĩa chân thật của Như Lai, hoàn toàn hiểu lầm ý nghĩa của Phật. Hữu đã chẳng có thì Không cũng chớ nên chấp trước! Đó gọi là “chẳng chấp vào hai bên, Trung Đạo chẳng tồn tại”, Trung cũng chẳng có! Khi ấy, tự tánh hiện tiền. Nói theo Tịnh Tông chúng ta, [sẽ là] tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh là nhất tâm, tâm thanh tịnh là Chân Như bản tánh. Tâm thanh tịnh hiện tiền, sẽ “nghe một, ngộ cả ngàn”, vì tâm thanh tịnh là Căn Bản Trí. Đạt được Căn Bản Trí, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, thành tựu viên mãn Hậu Đắc Trí. Hậu Đắc Trí là “không gì chẳng biết”, Phật pháp và thế gian pháp chẳng có gì không biết. Đáng tiếc là chúng sanh trong hiện thời chẳng nghe lời giáo huấn của đức Phật, vì sao chẳng nghe? Không tin tưởng! Vì thế, tin Phật chẳng dễ, quá ư là khó, chúng ta không chịu tin tưởng. Không chịu tin tưởng, sẽ như thế nào? Muốn nghiên cứu, muốn học rộng nghe nhiều, đó là chẳng nghe lời giáo huấn của đức Phật. Đức Phật dạy chúng ta nhất tâm, chuyên ròng, chúng ta khăng khăng chẳng chịu làm theo, cứ muốn học rộng, nghe nhiều; như vậy là chẳng có cách nào cả! Học rộng nghe nhiều thì sao? Tăng trưởng tà kiến. Quý vị chẳng thể đoạn phiền não, chẳng thể trừ vọng tưởng, sanh tử luân hồi chẳng thể trừ, quý vị có oan uổng hay không? Thật sự chịu nghe lời đức Phật, hành theo đúng lời đức Phật dạy, người từ bậc trung trở lên có thể nói là chẳng có ai không thành tựu trong Giáo Hạ, nhưng kẻ từ bậc trung trở xuống, trong Tịnh Tông, chẳng có một ai không vãng sanh. Mấu chốt là nghe lời. Chẳng nghe lời, Phật, Bồ Tát có đến cũng chẳng thể làm gì được, chẳng có cách nào! Chẳng phải là Phật, Bồ Tát không có phương pháp dạy dỗ, mà là do chúng ta chẳng chịu tiếp nhận, vẫn muốn tiếp tục sanh tử luân hồi chẳng ngừng, vẫn muốn tạo nghiệp thọ báo, đó là khổ. Dưới đây, đại sư trích dẫn Tâm Kinh:

 

(Sao) Bát Nhã Tâm Kinh vân: Thị chư pháp Không tướng, bất cấu, bất tịnh.

()般若心經云:是諸法空相,不垢不淨。

(Sao: Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Tướng Không ấy của các pháp chẳng nhơ, chẳng sạch”).

Chúng ta thường niệm Tâm Kinh. Đức Thế Tôn giảng kinh, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, Bát Nhã là trung tâm của những điều lão nhân gia đã giảng trong suốt một đời. Ngài dùng thời gian dài nhất [để nói Bát Nhã], Ngài thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, nói Bát Nhã mất hai mươi hai năm, gần như là chiếm mất nửa thời gian. Nếu chúng ta nói tới những môn học do Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy thì Bát Nhã là một môn học quan trọng nhất, chiếm thời gian giảng dạy nhiều nhất, há chúng ta có thể coi thường? Nhưng kinh Bát Nhã khó lắm, bộ loại quá lớn, phân lượng quá nhiều. Chúng ta đọc Hoa Nghiêm, tám mươi quyển đã cảm thấy quá nhiều, kinh Đại Bát Nhã sáu trăm quyển! Có mấy ai trong một đời xem kinh Đại Bát Nhã từ đầu đến cuối một lượt? Đúng là chẳng nhiều! Chẳng thể xem toàn bộ kinh, hãy xem phần cương yếu của kinh Đại Bát Nhã cũng rất tốt. Kinh Kim Cang đích xác là cương yếu của kinh Đại Bát Nhã. Tâm Kinh càng là tinh hoa của kinh Đại Bát Nhã, là tâm yếu của kinh Đại Bát Nhã, càng đơn giản không gì hơn được nữa! Bản dịch gồm hai trăm sáu mươi chữ của Huyền Trang đại sư là bản mà mọi người chúng ta thường đọc tụng. Tuy niệm hằng ngày, niệm đến mức có thể thuộc làu làu, thuộc nhuyễn như cháo, có hiểu ý nghĩa hay không? Không hiểu, vì sao? Quý vị chẳng Không, thứ gì cũng đều chẳng Không. Vừa chẳng tịnh, mà cũng chẳng Không luôn. Suốt ngày từ sáng đến tối miệng ra rả Bát Nhã Tâm Kinh, “gào toạc cổ họng cũng uổng công”, chẳng thể đạt được thọ dụng. Do vậy, nhất định phải hiểu rõ đạo lý được giảng trong kinh, phải thật sự đạt được thọ dụng.

Lần sau, chúng tôi tổ chức Phật Thất tại Dallas, nước Mỹ, Phật Thất Mùa Xuân, các đồng học có thời gian thì cũng hoan nghênh tham gia pháp hội lần này. Trong Phật Thất lần này, Quán Trưởng đặt ra đề mục cho tôi, muốn tôi giảng Bát Nhã Tâm Kinh trong pháp hội. Tôi nói cũng được lắm. Giảng Bát Nhã Tâm Kinh theo cách nào? Cư sĩ Bành Tế Thanh có cuốn Hoa Nghiêm Niệm Phật Luận, chúng tôi tổ chức Phật Thất, nói chung chẳng thể nói vượt ra ngoài pháp môn Niệm Phật được, vì nội dung chẳng phù hợp chủ đề. [Cư sĩ Bành Tế Thanh có] Hoa Nghiêm Niệm Phật Luận, chúng tôi không dám nói là Luận, cho nên tôi định ra một đề mục là “Bát Nhã Tâm Kinh niệm Phật thuyết”. Trong Phật Thất, mỗi ngày có [thời gian giảng khai thị chừng] một cây hương, chúng tôi dùng đề mục này để thảo luận về niệm Phật: Làm như thế nào để nâng cao cảnh giới niệm Phật? Làm như thế nào để tăng trưởng tín nguyện niệm Phật? Trong Phật môn thường nói: “Biển rộng Phật pháp, tín có thể nhập, trí có thể vượt qua”. Trí là Bát Nhã; hết thảy các pháp môn chẳng lìa khỏi Bát Nhã, nhất là pháp môn Tịnh Độ. Nếu chẳng phải là đại trí huệ, người ấy sẽ chẳng thể chọn lựa pháp môn này. Chúng ta xem kinh Di Đà, kinh Di Đà do đức Phật nói với ai? Đức Phật gọi ngài Xá Lợi Phất. Xá Lợi Phất là “trí huệ bậc nhất” trong hàng đệ tử Thanh Văn; chẳng phải là trí huệ bậc nhất, đức Phật sẽ chẳng nói pháp môn này với người ấy. Pháp môn này phải nói với người có trí huệ bậc nhất, người ấy mới có thể nghe hiểu, mới có thể tiếp nhận. Trong các vị Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát là bậc đương cơ. Điều này cho thấy niệm Phật và Bát Nhã có mối quan hệ hết sức mật thiết: Chẳng có trí huệ chân thật, rất khó tin tưởng pháp môn này. Pháp môn này nổi tiếng là pháp khó tin.

Tướng Không của các pháp, không chỉ là Tánh Không, Tướng cũng chẳng thể được, lấy đâu ra cấu và tịnh? Đương nhiên là chẳng có. Cấu và tịnh do đâu mà có? Phát sanh từ vọng tưởng và chấp trước của chúng ta; lìa khỏi vọng tưởng, chấp trước, những thứ tạp nhạp ấy, thứ nào cũng chẳng có. Chúng ta bị hại, từ vô thỉ kiếp tới nay đã bị vọng tưởng, chấp trước làm hại, mà vọng tưởng, chấp trước còn không ngừng tăng trưởng, không ngừng sâu hơn, phiền phức to lớn, trước nay chưa từng được cải thiện. Chẳng gặp Phật pháp, chư vị hãy ngẫm xem, xác thực là ngày càng sâu thêm, mỗi năm một sâu hơn! Quý vị thấy đại chúng trong xã hội, ai chịu buông bỏ? Thà chết! Có chết cũng chẳng buông! Còn có cách nào nữa đây? Đời sau càng khổ hơn, có chết cũng chẳng chịu buông xuống! Người học Phật thật sự có trí huệ, thật sự có thiện căn, hiểu rõ nghĩa chân thật do đức Phật đã nói, có thấu hiểu, có thọ dụng, xác thực là buông xuống được. [Đó là vì] người ấy đã kiến tánh, chứ đối với người chẳng học Phật thì [buông xuống] khó lắm! Chúng ta buông xuống một chút, giảm nhẹ một ít; nói thật ra, mong vượt thoát luân hồi trong một đời này thì vẫn chẳng đủ, vẫn chẳng có cách nào, nhưng mong cầu vãng sanh Tịnh Độ [thì như vậy] là đủ rồi. Quý vị có thể buông xuống chừng ấy thì đã đủ rồi, đó gọi là “đới nghiệp vãng sanh”.

 

(Sao) Thị tắc cầu ư tịnh tướng thượng bất khả đắc.

()是則求於淨相尚不可得。

(Sao: Do vậy, cầu nơi tịnh tướng còn chẳng thể được).

Há có tịnh uế để có thể thấy ư?

 

(Sao) Tương chỉ hà xứ nhi hiệu Sa Bà. Bất điên đảo xứ, toàn thân tọa Cực Lạc liên đài; điên đảo tài sanh, ứng niệm trụ Sa Bà quốc độ.

()將指何處而號娑婆。不顛倒處,全身坐極樂蓮臺;顛倒才生,應念住娑婆國土。

(Sao: Sẽ chỉ vào nơi đâu để gọi là Sa Bà? Chỗ chẳng điên đảo, toàn thân ngồi nơi đài sen trong Cực Lạc.  Điên đảo vừa sanh,  ngay lập tức trụ trong cõi nước Sa Bà).

 “Điên đảo” là vọng tưởng, là chấp trước, là phân biệt. Ý niệm ấy vừa động, đã chẳng đến thế giới Cực Lạc được, vẫn ở trong thế giới Sa Bà, vẫn phải luân hồi trong lục đạo. Những lời này chớ nên coi thường, nghe lướt qua! Mỗi chữ, mỗi câu trong lời này đều hết sức quan trọng, có liên quan đến “đại sự sanh tử” như chúng ta thường nói, chẳng có gì quan trọng hơn điều này!

 

(Sao) Tức tâm tức độ, tức độ tức tâm.

()即心即土,即土即心。

(Sao: Tâm chính là cõi, cõi chính là tâm).

“Tâm” là Tánh, “độ” là Tướng. Tướng do Tánh biến hiện; Tánh và Tướng chẳng hai, Tánh và Tướng như nhau.

 

(Sao) Tây Phương khứ thử bất viễn.

()西方去此不遠。

(Sao: Tây Phương cách đây không xa).

Tìm chẳng thấy tướng đến hay đi, vì nó chỉ là thay đổi cảnh giới. Khoa học hiện thời nói là “thay đổi không gian”.

 

Tứ, kết khuyến

四、結勸。

(Bốn, là kết lại để khuyên).

 Đoạn lớn thứ hai đến đây là sắp kết thúc. Xin xem kinh văn.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn. Nhược hữu chúng sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.

()舍利弗。我見是利。故說此言。若有眾生聞是說者。應當發願。生彼國土。

(Kinh: Xá Lợi Phất! Ta thấy điều lợi này, nên nói lời này. Nếu có chúng sanh nghe nói như vậy, hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy).

Đức Phật quả thật đã rát miệng buốt lòng khuyên dạy chúng ta. Người thật sự hiểu rõ, sẽ sanh khởi lòng cảm kích vô tận đối với mấy câu này của đức Phật, đúng là lòng từ bi đến cùng cực. “Ngã” (ta) là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng, [ý nói] chẳng phải do ai khác thấy. Người khác trông thấy chưa chắc đã chánh xác, chưa chắc chân thật, đức Phật là bậc đã chứng đắc cực quả, như kinh Kim Cang đã nói, Phật là bậc “ngũ nhãn viên minh”, những điều Ngài trông thấy chắc chắn là chân thật. Ngài thấy lợi ích, lợi ích gì vậy? Niệm Phật vãng sanh bất thoái thành Phật, đức Phật thấy lợi ích ấy. Trong các lợi ích thuộc pháp thế gian và xuất thế gian, bất cứ lợi ích nào cũng đều chẳng thể sánh bằng lợi ích ấy! Chư vị phải biết: Phàm phu tạo tác ác nghiệp, [kể cả] phàm phu tạo tác ác nghiệp cực nặng mà có thể tín nguyện niệm Phật, đều có thể vãng sanh bất thoái thành Phật. Đến nơi đâu để tìm được lợi ích này [ngoài pháp môn Niệm Phật]? Cho thấy pháp môn này xác thực là có thể độ hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới, kể cả Phật pháp giới trong mười pháp giới. Phật mà còn phải vãng sanh thế giới Cực Lạc ư? Đúng vậy! Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật, và Biệt Giáo Phật đều chưa viên mãn Bồ Đề. Biệt Giáo Phật bằng với địa vị Nhị Hạnh Bồ Tát trong Viên Giáo, làm sao Ngài chẳng cầu vãng sanh cho được? Huống hồ là những địa vị thấp hơn thuộc về Tạng Giáo và Thông Giáo! Do đó, pháp môn này phổ độ viên mãn mười pháp giới. Tra duyệt khắp Đại Tạng Kinh, chẳng tìm thấy pháp môn thứ hai! Vì thế, pháp môn này thù thắng bậc nhất, thù thắng khôn sánh, được hết thảy chư Phật tán thán. Làm sao chúng ta có thể coi rẻ cho được? Xem thường pháp môn này, coi nhẹ nó, tức là nghiệp chướng sâu nặng, thật sự sâu nặng, chẳng để pháp môn này vào mắt! Người nào coi trọng [pháp môn này] nhất? Văn Thù Bồ Tát coi trọng, Phổ Hiền Bồ Tát coi trọng, các Ngài phát nguyện mong cầu sanh. Vì sao các Ngài coi trọng như thế? Đối với pháp môn này, các Ngài hiểu lý rốt ráo, liễu giải rất rõ ràng, rất minh bạch, phải biết điều này. Người thật sự hiểu rõ, người thật sự giác ngộ, hằng ngày niệm Phật luôn cảm thấy chẳng đủ thời gian, há còn có thời gian dấy vọng tưởng ư? Còn có thời gian nói chuyện thị phi nữa chăng? Chẳng có! Nói cách khác, người niệm Phật suốt ngày còn dấy vọng tưởng, còn làm chuyện thị phi, nhân ngã, có thể suy nghĩ mà biết căn tánh của người ấy! Ở đây, Phật Thích Ca đại diện cho mười phương hết thảy chư Phật. Phật Thích Ca thấy lợi ích này, cũng chính là mười phương ba đời hết thảy chư Phật cùng thấy lợi ích thù thắng nhất này. “Cố thuyết thử ngôn” (Vì thế, nói lời này), nói lời gì vậy? Khuyên chúng ta vãng sanh, chẳng nói hai lời, khuyên chúng ta hãy nhanh chóng niệm Phật để tới đó.

 

(Sớ) Thị lợi giả, chỉ thượng kiến Phật vãng sanh.

()是利者,指上見佛往生。

(Sớ: “Điều lợi này” chỉ [lợi ích] vãng sanh thấy Phật trong phần trên).

Những lợi ích được nói trong phần trước.

 

(Sớ) Thử ngôn giả, kiến tư đại lợi.

()此言者,見斯大利。

(Sớ: “Lời này” chính là câu “thấy lợi ích to lớn ấy”).

Lợi ích thế gian và xuất thế gian chẳng có gì lớn hơn điều này được!

 

(Sớ) Cố thuyết thử nhất tâm trì danh chi ngôn dã.

() 說此一心持名之言也。

(Sớ: Cho nên nói lời “nhất tâm trì danh” này).

Niệm Phật thì phải nhất tâm niệm, điều này trọng yếu lắm! Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát [cho biết Ngài] đã từ thế giới này niệm Phật sanh về Tây Phương Tịnh Độ. Sau khi tới đó, Ngài lại trở về làm một vị liên hữu, một vị thiện tri thức, Ngài kể lại kinh nghiệm của Ngài. Bí quyết niệm Phật là “chẳng xen tạp”, tức là tịnh niệm, Đại Thế Chí Bồ Tát nói “tịnh niệm tiếp nối”, Ngài (Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát) bảo chúng ta “niệm Phật kỵ nhất là xen tạp”. Những gì là xen tạp? Ngài nói rất rõ ràng, rất minh bạch. Chúng tôi đã trích lục một đoạn khai thị của Ngài in vào mặt sau của những tượng Phật nhỏ, in ra rất nhiều, chư vị đồng tu cũng đều trông thấy. Đã thấy mà vẫn xen tạp y như cũ, chẳng có cách nào hết! Thân tâm của chúng ta quả thật có bệnh nặng, đoạn khai thị ấy là toa thuốc, chúng ta cầm toa thuốc ấy mà chẳng thể trị bệnh, rất oan uổng!

 

(Sớ) Bất nguyện vãng giả, tắc cô Phật thuyết, thị vi đệ nhị trùng khuyến.

()不願往者,則孤佛說,是為第二重勸。

(Sớ: Kẻ chẳng nguyện vãng sanh là đã cô phụ lời Phật dạy, đây là lặp lại khuyên lần thứ hai).

Trong kinh Di Đà, đức Phật ba lượt khuyên chúng ta hãy nên phát nguyện sanh về cõi ấy. Đây là lần thứ hai.

 

(Sao) Vô lợi ích ngữ, Phật sở bất đàm.

()無利益語,佛所不談。

(Sao: Đức Phật chẳng nói lời không có lợi ích).

Chúng ta nên phải học tập câu này. Lời lẽ vô ích, chẳng có lợi ích cho chính mình, chẳng có lợi ích cho chúng sanh, quyết định chẳng nói lời ấy, chẳng có thời gian để nói.

 

(Sao) Trì danh tức đắc vãng sanh, ư chư chúng sanh hữu đại lợi ích, cố Phật thuyết dã.

()持名即得往生,於諸眾生有大利益,故佛說也。

(Sao: Trì danh bèn được vãng sanh, có lợi ích to lớn cho chúng sanh, cho nên đức Phật bèn nói).

Phật hiệu có công đức và lợi ích chẳng có gì sánh bằng, thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, người niệm hễ mở miệng bèn “A Di Đà Phật”. Câu ấy là tự lợi, lợi tha, chính mình niệm Phật cầu vãng sanh, người khác “nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng” (một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo), tự lợi, lợi tha, chẳng nói câu thứ hai [nào khác]. Phật hiệu mới là lời lợi ích chân thật, là lời công đức chân thật, toàn nói những lời ấy.

“Ư chư chúng sanh hữu đại lợi ích, cố Phật thuyết dã” (Có lợi ích to lớn cho chúng sanh, cho nên đức Phật nói đến). Vì vậy, đức Phật nói những kinh điển khác, trong cả một đời Ngài chỉ nói một lần, nói một lượt xong bèn chẳng nói lần thứ hai. Chỉ riêng khuyên nhủ chúng ta vãng sanh Tịnh Độ thì không chỉ là nói ra ba bộ kinh, mà một bộ kinh Vô Lượng Thọ còn được tuyên giảng nhiều lần. Do duyên cớ nào? Có đại lợi ích cho các chúng sanh. Hết thảy các kinh khác chẳng có bộ kinh nào có lợi ích to bằng bộ kinh ấy; vì thế, bộ kinh ấy phải được giảng mấy lượt, đạo lý ở ngay chỗ này.

 

(Sao) Lương diêu dĩ đắc vãng sanh, thị danh tự lợi.

()良繇已得往生,是名自利。

(Sao: Ấy là vì đã đắc vãng sanh thì gọi là tự lợi).

Thật sự sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì mới gọi là tự lợi.

 

(Sao) Sanh bỉ quốc dĩ, văn pháp đắc đạo, hoàn năng quảng độ vô lượng chúng sanh, thị danh lợi tha. Cụ tư nhị lợi, cố vân đại lợi.

()生彼國已,聞法得道,還能廣度無量眾生,是名利他。具斯二利,故云大利。

(Sao: Sanh về cõi ấy, nghe pháp đắc đạo, còn có thể rộng độ vô lượng chúng sanh, đó là lợi tha. Có đủ hai điều lợi ấy, nên gọi là “đại lợi”).

 Có một hạng người, bi nguyện từ bi rộng sâu, muốn rộng độ chúng sanh ngay trong hiện tại, chẳng mong sanh về thế giới Cực Lạc, nghĩ chúng sanh quá khổ, ta đến thế giới Cực Lạc, lẽ nào chẳng có lỗi đối với chúng sanh? Bi nguyện ấy đáng ca ngợi, nhưng sự thật hoàn toàn tương phản. Nói thật ra, đã chẳng thể tự độ, lại còn lầm lỡ chúng sanh, đáng tiếc lắm! Suy nghĩ kiểu ấy là điên đảo, lầm loạn! Giống như nay chúng ta thấy xã hội rối ren ngần ấy, quyết chí mong chỉnh lý xã hội cho tốt đẹp, tạo phước cho đại chúng, hãy nên làm như thế nào? Trước hết, phải đi học, học thành một thân bản lãnh, quý vị mới có thể làm được! Trước nay chưa từng đến trường, chẳng học hành gì, chẳng biết một chữ nào, mà phát nguyện cứu vớt xã hội và quốc gia này, có được hay không? Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới là đi học. Huống chi trường học ấy hết sức đặc thù, chẳng cần phải tốt nghiệp mà có năng lực cứu độ chúng sanh. Đối với những cõi nước chư Phật thông thường khác, nhất định phải là đến khi chính quý vị tốt nghiệp thì mới được. Tây Phương Cực Lạc thế giới không cần tốt nghiệp, quý vị đến thế giới Tây Phương, dẫu là hạ phẩm hạ sanh, trong hoa sen bèn thấy Hóa Thân Phật, Hóa Thân Phật là được rồi. Quý vị có thể thưa với Phật: “Con thấy chúng sanh rất đáng thương, nay con muốn đến độ họ, có được hay không?” Đức Phật nhất định gật đầu: “Được chứ! Nay ông hãy đi đi”. Đức Phật dùng thần lực gia trì quý vị, quý vị lập tức có thể thả chiếc bè Từ đến phổ độ chúng sanh, chẳng có gì nhanh chóng hơn được! Thông thường, hàng Bồ Tát thật sự đến độ chúng sanh là những vị đã đạt đến địa vị gì? Cửu Địa Bồ Tát. Cửu Địa được gọi là Pháp Sư Địa (Sādhumatī-bhūmiḥ, Thiện Huệ Địa). Bát Địa là Bất Động Địa (Acalā-bhūmiḥ), không bị lay động bởi hết thảy cảnh duyên. Cửu Địa có thể làm pháp sư, có thể rộng độ chúng sanh. Quý vị muốn đạt tới Cửu Địa, trong kinh, đức Phật thường nói trong các cõi Phật bình phàm phải tu trọn hai A-tăng-kỳ kiếp. Chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, nói thật ra, vài ngày đã viên mãn. Chúng ta từ nơi đây vừa vãng sanh, thấy A Di Đà Phật, cùng Ngài gặp mặt rồi bèn có thể lập tức trở về, trong bốn mươi tám nguyện có [nói tới chuyện ấy]! Trong bốn mươi tám nguyện, chẳng nói người ấy nhất định phải ở thế giới Tây Phương tu đến trình độ nào thì mới có thể tới các thế giới phương khác hóa độ chúng sanh. Chẳng hề nói, đã đến bèn ngay lập tức là có thể trở về. Còn có gì nhanh chóng hơn nữa? Chẳng có! Chẳng tin tưởng, nếu ở đây mà dấy vọng tưởng, học rộng nghe nhiều, chẳng chịu vãng sanh, đúng là chẳng còn biết nói sao được nữa!

Do đó, gọi là “đại lợi”, bất luận là vì chính mình, hay vì chúng sanh, đều phải nên ngay lập tức đến Tây Phương, sớm có ngày thấy A Di Đà Phật, quyết định là chánh xác. Cổ đức nói: “Chỉ được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ”. Lời ấy nhằm khuyên người tham Thiền, khuyên kẻ tham Thiền hãy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tham Thiền nhằm mục đích đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Hễ quý vị thấy A Di Đà Phật liền minh tâm kiến tánh, người học Giáo thấy A Di Đà Phật liền đại khai viên giải, há còn phải phiền phức, vất vả như thế nữa chăng? Nhất định là phải hiểu rõ, phải hiểu minh bạch điều này. Học Mật cũng chẳng phải là ngoại lệ, thấy A Di Đà Phật, cũng sẽ thông đạt Mật Giáo viên mãn. Huống hồ Mật Giáo do đâu mà có? Do Phổ Hiền Bồ Tát truyền dạy. Mật Tông trong Phật môn là do Long Thọ Bồ Tát truyền, Long Thọ Bồ Tát học Mật từ Kim Cang Thủ (Vajra-pāṇi) Bồ Tát, tức là Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva), mà Kim Cang Tát Đỏa là Hóa Thân của Phổ Hiền Bồ Tát, [tức là Mật Giáo do chính] Phổ Hiền Bồ Tát truyền dạy. Bản thân Phổ Hiền Bồ Tát ở nơi đâu? Trong thế giới Cực Lạc. Quý vị xem kinh Hoa Nghiêm, lão nhân gia cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, quý vị tìm Phổ Hiền Bồ Tát, đến thế giới Cực Lạc bèn gặp Ngài ngay lập tức. Ngài (Phổ Hiền Bồ Tát) là thỉ tổ, là lão tổ tông của Mật Tông! Niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, còn có gì để bàn cãi nữa ư? Ngàn muôn phần chớ để đại lợi luống qua!

 

(Sao) Đệ nhị khuyến giả, sơ  ngôn  chúng  sanh  văn  giả, chỉ thị

đắc văn bỉ quốc trang nghiêm thắng diệu, cố khởi nguyện nhạo, vị ủy như hà đắc sanh, kim xuất kỳ diêu.

()第二勸者,初言眾生聞者,止是得聞彼國莊嚴勝妙,故起願樂,未委如何得生,今出其繇。

(Sao: “Khuyên lần thứ hai”: Thoạt đầu, kinh nói “chúng sanh nghe nói”, [nghĩa là] chỉ là được nghe sự trang nghiêm thù thắng nhiệm mầu trong cõi ấy, cho nên dấy lòng phát nguyện, ưa thích, nhưng chưa rõ như thế nào sẽ được sanh về đó, nay nêu rõ duyên do).

 Trong phần trước kinh đã nói, “chúng sanh văn giả” (chúng sanh nghe nói), [tức là] trong phần trước nói tới y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương, thấy sự thù thắng của thế giới Tây Phương. Vì thế, phát nguyện cầu sanh. “Nguyện” (願) là phát nguyện, “nhạo” (樂) là ham thích, ham thích Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng chẳng biết làm thế nào thì mới có thể vãng sanh. Trong đoạn này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp vãng sanh.

 

(Sao) Ngôn nhất tâm trì danh, Phật lai tiếp dẫn, toại đắc sanh bỉ, tắc nguyện đương ích thiết, cố vân nhị khuyến.

()言一心持名,佛來接引,遂得生彼,則願當益切,故云二勸。

(Sao: Nói “nhất tâm trì danh, Phật đến tiếp dẫn, bèn được sanh về cõi kia”, như vậy thì nguyện sẽ càng thêm thiết tha. Vì thế, nói là “khuyên lần thứ hai”).

 Bản thân chúng ta chỉ cần làm được “nhất tâm, chuyên tinh”. Chỉ cần làm được bốn chữ ấy, lâm chung Phật đến tiếp dẫn, bèn được sanh về cõi kia. “Tắc nguyện đương ích thiết” (Cho nên nguyện sẽ càng thêm thiết tha); khi ấy, nguyện của chúng ta càng chân thật, thiết tha hơn trước. Đây là khuyên lần thứ hai, nguyện của chúng ta [nhờ đó] càng thêm chân thật, thiết tha. Tới khi khuyên lần thứ ba, đúng là đã nhập cảnh giới ấy, không đi (vãng sanh cõi Cực Lạc) chẳng được! Sức mạnh gì cũng chẳng thể ngăn cản được! Kinh Di Đà có đại hiệu quả, có đại oai lực dường ấy. Chúng ta niệm từ đầu đến cuối một lượt, tín tâm chưa hề sanh khởi, thì gọi là “niệm suông vô ích”, hoàn toàn chẳng liễu giải ý nghĩa trong kinh, hoàn toàn chẳng hiểu.  [Do  đó],  nghe mà như chẳng nghe,  thấy mà như không thấy!

 

(Sớ) Hựu ngôn lợi giả, phản hiển bất nguyện vãng sanh chi hại, thị hân yếm dã.

()又言利者,反顯不願往生之害,示欣厭也。

(Sớ: Lại nói lợi, nhằm hiển thị nỗi tai hại của việc chẳng nguyện vãng sanh, nhằm chỉ dạy sự ưa thích và chán nhàm).

Nhìn theo phương diện tương phản thì cũng hết sức có lý.

 

(Sao) Thử độ tu hành, đa kiếp thăng trầm, bất năng giải thoát.

()此土修行,多劫升沈,不能解脫。

(Sao: Tu hành trong cõi này, nhiều kiếp thăng trầm, chẳng thể giải thoát).

Chúng ta thường nói là “tiến, lùi”. Tiến ít, lùi nhiều, thời gian tiến lên thì ít, mà thời gian chìm đắm thì nhiều, chẳng tương xứng! Do vậy, tu tập phải cần đến ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Trên thực tế, chẳng phải là thời gian chỉ lâu ngần ấy, vì thời gian thoái chuyển quá lâu, những lần tiến bộ rất ít. “Đa kiếp thăng trầm, bất năng giải thoát” (Nhiều kiếp thăng trầm, chẳng thể giải thoát). Chẳng thể giải thoát, nói đơn giản là không thoát khỏi tam giới, chẳng có cách nào thoát ly luân hồi, đó là nỗi khổ thật sự! Khổ chẳng thể nói nổi.

 

(Sao) Kim dĩ xưng danh vãng sanh, toại đăng Bất Thoái, giảo kỳ lợi hại, minh nhược chỉ chưởng.

()今以稱名往生,遂登不退,較其利害,明若指掌。

(Sao: Nay do xưng danh mà vãng sanh, bèn dự lên ngôi vị Bất Thoái. So sánh điều lợi, lẽ hại, rõ ràng như đường chỉ trong lòng bàn tay).

Sự lợi hại, được mất trong ấy, đức Phật đã nói quá rõ ràng, quá minh bạch trong kinh này. Liên Trì đại sư lão nhân gia đọc kinh Di Đà, thấy rõ ràng, rất minh bạch, sợ chúng ta nửa hiểu nửa không, thấy mà như chẳng thấy, nên vì chúng ta viết bản chú giải tường tận này, khiến cho chúng ta thấy rõ ràng, thấy minh bạch ý nghĩa của kinh Di Đà, đừng nên cô phụ giáo huấn của đức Phật.

 

(Sao) Lợi tức chư lạc, hại tức chúng khổ, cố đương hân yếm.

()利即諸樂,害即眾苦,故當欣厭。

(Sao: “Lợi” chính là các điều vui, “hại” chính là các nỗi khổ. Vì thế, hãy nên yêu thích và chán nhàm).

Vãng sanh bèn phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Chẳng thể vãng sanh bèn mê hoặc, điên đảo, tiếp tục trầm luân.

 

(Sớ) Hựu ngã thuyết giả, chánh minh vô vấn tự thuyết cố.

()又我說者,正明無問自說故。

(Sớ: Lại nữa, “ta nói” nhằm chỉ rõ [bản kinh này] chẳng do ai hỏi mà [đức Phật] tự nói).

 Đức Phật có mười hai phương thức để nói kinh, chúng ta thường gọi là “thập nhị phần giáo”. Trong mười hai phương thức ấy, có một loại gọi là Vô Vấn Tự Thuyết (Udāna). Đức Phật thuyết kinh, đại đa số là có người khải thỉnh, tức là có người hỏi, đức Phật mới nói. Chẳng có ai hỏi, đức Phật sẽ không nói. Chỉ riêng chuyện niệm Phật vãng sanh này, không có ai hỏi mà đức Phật tự nói. Ở đây, có hai nguyên nhân:

1) Thứ nhất, pháp môn Tịnh Độ thật sự quá sâu. “Duy Phật dữ Phật, phương năng cứu cánh” (Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo). Đẳng Giác Bồ Tát nếu chẳng được chư Phật gia trì, cũng chẳng hiểu rõ pháp môn này cho lắm, vẫn là chẳng thể làm sao được! Ai có thể hỏi cho được? Không ai có thể hỏi!

2) Nguyên nhân thứ hai, đức Phật thấy căn cơ của chúng sanh đã chín muồi. Căn cơ gì vậy? Chính là “thiện căn, phước đức” như kinh Di Đà đã nói. Thiện căn, phước đức đã gieo từ vô thỉ kiếp tới nay, đến khi ấy đã chín muồi, chẳng có ai hỏi, đức Phật cũng phải nói, để tạo nhân duyên cho họ. Họ có thiện căn, đức Phật nói kinh này, họ có thể tin, có thể hiểu, [tức là] họ nghe hiểu, chịu tin tưởng. Hiểu gì vậy? Hiểu sự lợi, hại, được, mất trong ấy. Vãng sanh có đại lợi ích, không vãng sanh là đại tổn hại. Họ hiểu rõ điều này, tín tâm sanh khởi, đó là thiện căn. Họ có phước đức, phước đức là gì? Bằng lòng vãng sanh, chịu phát nguyện, chịu niệm Phật. Chịu phát nguyện và chịu niệm Phật là phước báo bậc nhất, chẳng có phước báo nào có thể sánh bằng phước báo này. Chư vị phải hiểu: Chúng ta niệm Tam Quy Y, “quy y Phật, Nhị Túc Tôn”, hai thứ gì vậy? Phước và huệ, Túc (足) là đầy đủ, có nghĩa là viên mãn. [Nhị Túc Tôn] là phước viên mãn, huệ viên mãn. Người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là đến đó làm Phật; phước và huệ của quý vị chẳng viên mãn thì làm sao có thể làm Phật cho được? Quý vị hiểu đạo lý này! Phước báo ấy chẳng phải là sự phú quý trong cõi nhân, thiên. Phước báo nhân, thiên được gọi là phước báo hữu lậu, vô dụng! Ở đây là phước báo chân thật. Phước báo ở đây là phước báo chân thật khiến cho quý vị thành Phật trong một đời này. Vì thế, chúng ta có thể tin, có thể hiểu, đó là thiện căn. Có thể nguyện, có thể niệm, đấy là phước đức. Thiện căn và phước đức của quý vị trọn đủ, đức Phật tạo nhân duyên cho quý vị. Ba thứ thiện căn, phước đức, và nhân duyên trọn đủ, chúc mừng quý vị, quý vị thành Phật trong một đời này, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới để làm Phật. Vì thế, kinh dạy chúng ta: “Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”. Kẻ ít thiện căn chẳng tin, chẳng hiểu, tức là đối với lợi, hại, được, mất, đích xác là chẳng thật sự hiểu rõ, chẳng thật sự hiểu minh bạch. Thật sự thông hiểu rõ ràng, trí huệ sẽ viên mãn. Vì sao? Những thứ khác đều buông xuống, chẳng còn làm nữa! Giống như Liên Trì đại sư lúc tuổi già đã thật sự viên mãn. Vì thế, lão nhân gia nói: “Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho người khác ngộ”. Từ đấy trở đi, chẳng còn đụng đến kinh sách nữa! Suốt đời là một quyển kinh Di Đà, niệm một câu Phật hiệu đến cùng. Đó là huệ đã viên mãn. Hễ còn muốn làm những thứ khác, trí huệ của người ấy hữu hạn. Thật sự là suốt ngày từ sáng đến tối niệm một câu A Di Đà Phật đến cùng, niệm niệm hy vọng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thấy A Di Đà Phật; đấy là phước viên mãn, phước đức viên mãn. Nói cách khác, hết thảy những thứ khác đều chẳng ghim trong tâm. Trong tâm chỉ có thế giới Cực Lạc, chỉ có A Di Đà Phật, phước huệ đều đủ, chỉ còn thiếu một chữ Tôn. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn là Tôn, Nhị Túc Tôn. Quý vị nói xem: Lợi ích ấy có nhiều hay chăng? Còn có lợi ích nào to hơn lợi ích này? “Nhất thất túc thành thiên cổ hận” (Một bước sa chân thành nỗi hận ngàn đời). Quý vị gặp gỡ pháp môn này mà chẳng phát nguyện vãng sanh, không chỉ là hận ngàn đời, mà là hối hận cả vạn kiếp, nói thật đấy! Loại cơ duyên này chẳng dễ gặp gỡ, rất khó gặp gỡ, chúng ta nhất định phải hiểu điều này. Chư vị ở trong giảng đường, nay có thể nghe đoạn kinh văn này, quý vị có phước báo!  Những kẻ chẳng đến đều là có nghiệp chướng, chẳng có phước!

 

(Sao) Kiến tư đại lợi, cấp vị chỉ trần, khủng chư chúng sanh trì trì thất lợi, cố bất sĩ thỉnh vấn dã!

()見斯大利,急為指陳,恐諸眾生遲遲失利,故不俟請問也。

(Sao: Do thấy điều lợi to lớn này, bèn vội vàng chỉ bày, vì sợ chúng sanh lề mề, đánh mất điều lợi; do vậy, chẳng đợi hỏi han).

Đức Phật sợ mọi người bỏ lỡ đại lợi ích thù thắng như vậy, chẳng cần chờ chúng ta hỏi, vội vã tuyên nói. Được rồi, chúng ta niệm Phật hồi hướng.

 

Tập 257

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm mười ba:

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh cụ túc, thị lợi nghĩa.

(Sao) Thí quán tự tánh, khiếm thiểu hà sự, linh tri thể thượng, Di Đà thánh chúng chung nhật hiện tiền, Thường Tịch Quang trung, Cực Lạc tịnh bang vô thời bất vãng. Nại hà Phật kiến thị lợi, chúng sanh nhược manh, Phật thuyết thị lợi, chúng sanh nhược lung. Tuy thị lao tha kim khẩu tuyên dương, tu thị nhất hồi thân kiến thỉ đắc.

()稱理,則自性具足,是利義。

()試觀自性,欠少何事,靈知體上,彌陀聖眾終日現前,常寂光中,極樂淨邦無時不往。奈何佛見是利,眾生若盲,佛說是利,眾生若聾,雖是勞他金口宣揚,須是一回親見始得。

(Sớ: Xứng Lý, tự tánh trọn đủ là ý nghĩa “điều lợi này”.

Sao: Thử quán tự tánh, có thiếu khuyết chuyện gì? Nơi cái thể linh tri, Phật Di Đà và thánh chúng suốt ngày hiện tiền. Trong Thường Tịch Quang, cõi tịnh Cực Lạc không lúc nào chẳng đến. Hiềm rằng Phật thấy điều lợi này, chúng sanh như mù; đức Phật nói điều lợi này, chúng sanh như điếc. Tuy Ngài nhọc nhằn miệng vàng tuyên dương, vẫn phải là [chính chúng ta] một phen đích thân trông thấy thì mới đạt được).

Trong đoạn này, Liên Trì đại sư đã nói xứng tánh. Do vậy có thể biết: Mê và ngộ sai biệt quá lớn. Chư Phật Như Lai thấy điều lợi ấy, chúng ta chỉ có thể nói theo Sự. Nói theo Lý, hoàn toàn chẳng phải là cảnh giới của bọn phàm phu chúng ta. Lý là chân tâm, là bản tánh. “Tự tánh” được nói ở đây chính là chân tâm bản tánh, tự tánh vốn trọn đủ, chẳng thiếu khuyết mảy may nào! Lục Tổ Huệ Năng đại sư lúc khai ngộ đã nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”, câu nói ấy hoàn toàn tương đồng với lời Liên Trì đại sư đang nói ở đây. Ắt cần phải là sau khi đã triệt ngộ thì mới thấy tự tánh vốn sẵn trọn đủ. Nếu còn thuộc địa vị mê hoặc, cũng có nghĩa là chúng ta mê mất tự tánh, có thể nói: Trước mắt chúng ta, thứ gì cũng đều khiếm khuyết, thứ gì cũng đều chẳng trọn đủ. Lợi và hại sai biệt há chỉ là một trời, một vực. Điều này nói rõ chuyện triệt ngộ và kiến tánh hết sức trọng yếu. Phật pháp chỉ dạy hết thảy chúng sanh chẳng có gì khác, chỉ là dạy chúng ta giác ngộ, chỉ nhằm dạy chúng ta khôi phục tự tánh mà thôi. Kinh Đại Thừa thường nói: “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc” (Viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ không có gì để đạt được). Viên mãn Bồ Đề là chứng đắc viên mãn Phật quả rốt ráo; khi ấy, hỏi quý vị rốt cuộc đạt được những gì? Mới hoảng nhiên đại ngộ, thứ gì cũng đều chẳng đạt được. Vì sao thứ gì cũng đều chẳng đạt được? Những gì đạt được thảy đều là vốn có sẵn trong tự tánh! Khi kẻ thuộc địa vị phàm phu như chúng ta quan sát, [sẽ thấy] người ấy đạt được quá nhiều, vô lượng trí huệ, trí huệ rốt ráo viên mãn, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ, vô lượng thọ mạng, hết thảy các thứ vô lượng đều đạt được. Vì sao nói quý vị thứ gì cũng chẳng đạt được? Vì hết thảy vô lượng đều vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh; ngoài tự tánh ra, thứ gì cũng đều chẳng có. Đó là ý nghĩa thật sự của “quy vô sở đắc”. Tánh trọn đủ tuy viên mãn như vậy, nhưng [phàm phu] chẳng thể kiến tánh, chẳng thể thọ dụng mảy may công đức vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh. Đương nhiên là lục đạo phàm phu chẳng cần phải nói nữa, càng ngày càng trầm luân, càng khổ sở hơn. Nếu quý vị hỏi: Vì sao khổ ư? Càng mê càng sâu, cuộc sống ngày càng khổ sở hơn. Đạo lý ở chỗ này.

Những điều được nói trong đoạn này hoàn toàn là lời lẽ kiến tánh, hoàn toàn là cảnh giới đã khôi phục bản tánh, quý vị mới thấy “Di Đà thánh chúng” (Phật Di Đà và thánh chúng), Di Đà thánh chúng do đâu mà có? Tự tánh Di Đà, tự tánh Quán Âm, tự tánh Đại Thế Chí, tự tánh Liên Trì Hải Hội, có thứ gì thuộc về bên ngoài hay chăng? Thật đấy! Chẳng giả tí nào! Thường Tịch Quang là toàn thể của tự tánh chúng ta. “Thường” (常) là chẳng gián đoạn, vĩnh hằng, vĩnh viễn là tình trạng như vậy, chưa hề biến đổi, thường hằng. “Tịch” (寂) là tịch tĩnh. Chúng ta nói đến Định, Định đến mức tột cùng bèn gọi là “tịch diệt”. Tịch Diệt Nhẫn trong Ngũ Nhẫn chính là tự tánh vốn định, chẳng phải do tu được. “Quang” (光) là quang minh, cũng là trí huệ viên mãn. Kinh Đại Thừa nói ba chữ ấy chính là “Tam Đức bí tạng”, tức là Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát,“Thường” là Pháp Thân, “Tịch” là Giải Thoát, “Quang” là Bát Nhã. Thường Tịch Quang là tướng Tam Đức viên mãn. “Cực Lạc tịnh bang vô thời bất vãng” (Không lúc nào chẳng đến cõi tịnh Cực Lạc). Thường Tịch Quang là thế giới Cực Lạc, thế giới Cực Lạc là Thường Tịch Quang. Cố nhiên ba chữ ấy là Quả Đức, nay chúng ta phải tu. Nếu nhân và quả chẳng tương ứng, dẫu tu tập vất vả thế nào đi nữa, vẫn chẳng thể nhập cảnh giới ấy! Chúng ta khởi đầu tu từ đâu? Tu khởi đầu từ Định. Định là then chốt, chỉ cần đạt được một chữ trong ba chữ “Thường Tịch Quang”, hai chữ kia sẽ đều đạt được. Trong ba chữ ấy, hãy nên thực hiện từ đâu? Thực hiện từ Tịch. Tịch chính là “nhất tâm bất loạn” được nói trong kinh này, mà cũng là Niệm Phật tam-muội được nói trong Tịnh Tông, đấy là mục tiêu tu học của người tu Tịnh Độ chúng ta. Nếu tâm chúng ta thật sự ngày càng thanh tịnh hơn, mỗi năm một thanh tịnh hơn, công phu sẽ đắc lực, tu học đúng vào nề nếp. Vì thế, nhân và quả nhất định phải tương ứng.

Không chỉ là tương ứng với mục tiêu cuối cùng này, mà những lợi ích đạt được trước mắt cũng thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói: Hết thảy các hiện tượng, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Duy tâm, Tâm và Thức đều là tự tánh khởi tác dụng. Đại dụng (tác dụng to lớn) của tự tánh là hiện tướng. [Nói tới] tác dụng của tự tánh thì trong ấy là hữu tác (có tạo tác). Nếu là vô tác thì [chỉ là] hiện tướng, hễ hữu tác thì tướng ấy bèn dấy lên sự biến hóa. Kinh thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, “tưởng” (想) là đã làm. Chẳng làm, há có tưởng? Chẳng cần phải đợi đến lúc thân thể cử động, hễ trong tâm vừa tưởng thì là “đã làm”. Ví như chúng ta ngủ bèn nằm mộng. Nằm mộng thì thân chúng ta chẳng động, miệng cũng chẳng động, nhưng trong tâm có tưởng, mộng cảnh bèn hiện tiền. Quý vị mới hiểu Tưởng có mối quan hệ quá lớn! Vì thế, tu hành trong nhà Phật hết sức coi trọng Quán Tưởng. Bất luận Hiển Giáo hay Mật Giáo, Tông Môn hay Giáo Hạ, Quán Tưởng là một khoa mục tu học hết sức quan trọng trong Phật môn. Chúng ta tu Tịnh Độ, Thập Lục Quán Kinh dạy chúng ta mười sáu phương pháp quán tưởng. Vì sao? “Tưởng” có thể biến, đó là “duy thức sở biến”. Nếu chúng ta thật sự hiểu đạo lý này, hiểu rõ sự thật này, cuộc sống của chúng ta có thể tùy tâm như ý. Chúng ta mong thân thể khỏe mạnh, mong chẳng bị bệnh tật, thậm chí mong bệnh tật nơi thân có thể khôi phục hoàn toàn bình thường, dùng phương pháp gì? Quán tưởng. “Tưởng” có thể biến.

Điều được ưa chuộng nhất trong hiện thời là biến đổi thể chất, biến hóa thể chất. Thể chất biến hóa như thế nào? Tưởng! Thể chất khỏe mạnh là do tâm địa thanh tịnh. Chỉ cần quý vị tịnh hóa tâm linh, thân thể sẽ có thể khôi phục khỏe mạnh. Người nhiễm bệnh, điều trị cách nào cũng trị chẳng lành, do nguyên nhân gì? Trong tâm người ấy dấy vọng tưởng, nghĩ đến bệnh tật. Khi người ta chẳng có bệnh, chỉ cần quý vị nghĩ đến bệnh tật, sớm muộn gì cũng mắc chứng bệnh ấy. Bệnh do đâu mà có? Do tưởng mà có, sanh từ tâm tưởng, lẽ nào quý vị chẳng mắc bệnh cho được? Vì vậy, quán tưởng hết sức quan trọng. Chúng ta tưởng, tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm của A Di Đà Phật, tưởng A Di Đà Phật thân kim sắc, tưởng thân tượng (身像: hình dạng thân thể) của A Di Đà Phật luôn trong suốt, chẳng có mảy may ô nhiễm nào. Có thể thường xuyên tưởng như thế, sẽ bất tri bất giác biến thân thể của chính mình trở thành giống hệt như thân thể của A Di Đà Phật. Chuyện là như vậy đó. Đó là sự thật. Vì thế, tâm chẳng thể không thanh tịnh, chớ nên có mảy may nhiễm trước. Từ lý luận này, chúng ta thật sự thấu hiểu trạng huống của thế giới Cực Lạc trong cảnh giới của Phật và các vị đại Bồ Tát, đích xác là chân thật, chẳng dối.

“Phật kiến thị lợi” (Đức Phật thấy điều lợi ấy), chư Phật, Bồ Tát đã thấy, “chúng sanh nhược manh” (chúng sanh như mù), “manh” (盲) là đui mắt, chẳng thấy. “Phật thuyết thị lợi, chúng sanh nhược lung” (Đức Phật nói điều lợi ấy, chúng sanh như điếc), lung” (聾) là chẳng nghe rõ, chẳng nghe thấy. Đức Phật nói [điều đại lợi ích ấy] mà chúng sanh đều như điếc, như mù; thế thì có thể suy ra sẽ biết trạng huống [lãnh hội] của chúng sanh khi [nghe] những hàng đệ tử kém cỏi hơn Phật giảng nói! Có mấy ai nghe pháp mà có thể thật sự giác ngộ?

“Tuy thị lao tha kim khẩu tuyên dương” (Tuy Ngài nhọc nhằn miệng vàng tuyên dương), chữ “tha” (他) chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta khiến cho Thích Ca Mâu Ni Phật nhọc nhằn giảng kinh, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm! Trong cái nhìn của lũ phàm phu chúng ta, Thích Ca Mâu Ni Phật rất vất vả, rát miệng buốt lòng khuyên dạy chúng ta; nhưng chúng ta cần phải đích thân thấy cảnh giới ấy, “thân kiến” (親見: đích thân trông thấy) [có nghĩa] là chứng đắc. Chứng đắc như thế nào? Phải vâng theo lời dạy mà tu hành, chiếu theo phương pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã chỉ dạy để hành, chúng ta sẽ có thể chứng minh, chứng thực cảnh giới ấy. Quý vị có thể chứng minh tức là chính mình sẽ nhập cảnh giới ấy, chính mình đạt được thọ dụng thật sự.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả, tán thán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức chi lợi.

()舍利弗。如我今者。讚歎阿彌陀佛不可思議功德之利。

(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như ta nay tán thán lợi ích công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật).

Qua đoạn kinh văn lớn dưới đây, chúng ta có thể thấy: Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán A Di Đà Phật, A Di Đà Phật cũng tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật. Không chỉ là Phật Di Đà và đức Thế Tôn tán thán lẫn nhau, mà mười phương hết thảy chư Phật thấy sự thật này, chẳng có vị Phật nào không tán thán. Mục đích là khiến cho chúng ta thấy tình hình tốt đẹp, tình hình tốt đẹp chưa từng có như thế ấy, sẽ giúp cho chúng ta đoạn nghi sanh tín.

 

(Sớ) Thừa thượng bất độc ngã kiến thị lợi nhi thuyết thử ngôn.

()承上不獨我見是利而說此言。

(Sớ: Thừa tiếp ý “không chỉ riêng ta thấy điều lợi ấy mà nói lời này” trên đây).

“Ta” là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng. “Như ngã kim giả” (Như ta nay), Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng.

 

(Sớ) Diệc thập phương chư Phật đồng kiến thị lợi nhi thuyết thử ngôn dã.

()亦十方諸佛同見是利而說此言也。

(Sớ: Mười phương chư Phật cũng do cùng thấy lợi ích ấy nên nói lời này).

Mười phương hết thảy chư Phật đều thấy lợi ích này, lợi ích này là nói theo Sự: “Tín nguyện trì danh, vãng sanh bất thoái thành Phật”. Đức Phật thấy lợi ích này. “Lý” hết sức sâu, chỉ có chư Phật Như Lai mới có thể thấy thấu triệt. Đẳng Giác Bồ Tát mà nếu chẳng được Phật lực gia trì, cũng chẳng thể thấy rõ ràng và minh bạch dường ấy. Chư Phật thấy điều lợi ích to lớn này, “tín nguyện trì danh, vãng sanh bất thoái thành Phật”, đã nói rõ ràng, minh bạch chuyện hóa độ chúng sanh của hết thảy chư Phật Như Lai. Phật pháp đúng là rất đơn giản. Không chỉ là đối với chuyện giáo hóa chúng sanh trong suốt một đời Thích Ca Mâu Ni, mà đối với sự giáo hóa chúng sanh của hết thảy chư Phật, quý vị thấy câu nói ấy (“tín nguyện trì danh, vãng sanh bất thoái thành Phật”) đã nói trọn hết. Người chuộng đơn giản bèn đơn giản như thế đó. Đối với kẻ ưa rườm rà, cả một bộ Đại Tạng Kinh vẫn chưa nói trọn hết! Đức Phật thuyết pháp là ứng cơ thuyết pháp, [nghĩa là] quý vị thích tiếp nhận như thế nào, đức Phật bèn giảng cho quý vị như thế đó. Kẻ chuộng đơn giản bèn dễ dàng như thế, lại còn thành tựu hết sức thù thắng.

 

(Sớ) Tán giả, xưng tán. Thán giả, cảm thán. Bất khả tư nghị giả, thượng ngôn “ngã kiến thị lợi”, kim cực ngôn kỳ lợi phi tầm thường chi lợi dã.

()讚者,稱讚;歎者,感歎。不可思議者,上言我見是利,今極言其利非尋常之利也。

(Sớ: “Tán” là khen ngợi. “Thán” là cảm thán. “Chẳng thể nghĩ bàn”: Trong phần trên đã nói “ta thấy điều lợi ấy”, nay cực lực nói “điều lợi ấy chẳng phải là lợi ích tầm thường”).

Chẳng phải là lợi ích bình phàm. Lợi ích bình phàm là lợi ích nhỏ nhặt, chẳng phải là lợi ích chân thật. [Lợi ích bình phàm] là đạt được lợi ích trước mắt, trong tương lai chẳng có lợi ích, là lợi ích đạt được trong một đời này, đời sau chẳng có lợi ích, [những thứ lợi ích như vậy] toàn là giả, đều chẳng chân thật. Đời này siêng khổ tu hành, đời sau có thể chứng quả A La Hán, thoát tam giới, liễu sanh tử, đó là tiểu lợi. Có thể đoạn Hoặc chứng Chân, chứng đắc quả vị Bồ Tát thì cũng là tiểu lợi, chẳng thể coi là đại lợi. Phàm phu thành Phật, đấy mới là đại lợi ích, đấy mới gọi là lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là lợi ích bình phàm.

 

(Sớ) Văn hữu tam chuyển.

()文有三轉。

(Sớ: Kinh văn có ba lượt chuyển biến).

Chúng ta rất khó thấy được [điều này]. Ở đây, Liên Trì đại sư nhắc nhở chúng ta, chúng ta suy nghĩ, thấy không sai, quả nhiên là như vậy.

 

(Sao) Đệ nhất, phi vô ích, cố vân lợi.

()第一、非無益,故云利

(Sao: Thứ nhất, chẳng phải là vô ích nên nói là Lợi).

Chúng ta học Phật, làm học trò của Phật để theo Phật học tập. Nếu chẳng đạt được một chút lợi ích nào, chúng ta học Phật để làm gì? Vì thế, tuyệt đối chẳng phải là không có lợi ích, cho nên gọi là Lợi.

 

(Sớ) Nhị, phi đản sự phước chi lợi, cố vân công đức chi lợi.

()二、非但事福之利,故云功德之利

(Sớ: Thứ hai, không chỉ là lợi ích thuộc về phước báo nơi Sự, cho nên nói là lợi ích thuộc về công đức).

Những sự, những phước báo trong thế gian chẳng phải là rốt ráo, chẳng hoàn mỹ. Nói cách khác, chúng có khuyết hãm, mà cũng chẳng lâu dài, chẳng phải là điều lợi thật sự. Lợi ích thuộc công đức khác hẳn, lợi ích thuộc công đức có thể giúp chúng ta tu hành chứng quả. Vì vậy, điều lợi ích này khác với lợi ích theo quan niệm thông thường của người thế gian.

 

(Sớ) Tam, phi đản công đức chi lợi, cố vân bất khả tư nghị công đức chi lợi dã.

()三、非但功德之利,故云不可思議功德之利也。

(Sớ: Ba là không chỉ lợi ích thuộc về công đức, cho nên nói là lợi ích chẳng thể nghĩ bàn về mặt công đức).

Giúp chúng ta thoát tam giới, liễu sanh tử, chứng quả Nhị Thừa là tiểu lợi ích. Giúp chúng ta chứng quả vị Đại Thừa Bồ Tát vẫn là tiểu lợi ích. Nay nói với quý vị lợi ích do niệm Phật vãng sanh, [lợi ích ấy] sẽ khác hẳn, đó là lợi ích viên mãn rốt ráo. Vì thế, gọi là “bất khả tư nghị công đức chi lợi”. Chư vị phải hiểu rõ câu nói này do chính miệng đức Phật nói ra, chẳng phải là được thốt ra từ miệng kẻ tầm thường! Kẻ bình phàm nói “chẳng thể nghĩ bàn” thì do trí huệ, kiến giải, năng lực của chúng ta hoàn toàn chẳng lớn, hễ hơi có chút gì chúng ta không có cách nào tưởng tượng được bèn bảo là “chẳng thể nghĩ bàn”. Chúng ta cảm thấy [những điều ấy] chẳng thể nghĩ bàn, nhưng đối với chư Phật, Bồ Tát, chúng là có thể nghĩ bàn! Nếu đối với chư Phật, Bồ Tát đều coi là chẳng thể nghĩ bàn thì chúng ta chẳng thể tư duy hay tưởng tượng cảnh giới ấy được. Đó là thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Do vậy, lời lẽ ấy do chính miệng Thích Ca Mâu Ni Phật thốt ra, [cho nên là chẳng thể nghĩ bàn thật sự]. Không chỉ riêng Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán như vậy, mười phương hết thảy chư Phật đều tán thán như vậy. Nếu chúng ta vẫn chẳng thể tin tưởng, vẫn chẳng thể tiếp nhận, sẽ là Nhất Xiển Đề (Icchantika) như kinh đã nói. Nhất Xiển Đề là “chẳng có thiện căn”, hết cách cứu!

 

(Sớ) Dĩ thị tán thán, phi ngẫu nhiên cố.

()以是讚歎,非偶然故。

(Sớ: Do vì tán thán như vậy chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên).

Chúng ta lại xem chú giải trong phần Sao.

 

(Sao) Xưng tán giả, xưng dương tán mỹ bỉ Phật quảng đại công đức.

()稱讚者,稱揚讚美彼佛廣大功德。

(Sao: “Xưng tán”: Ca ngợi, tôn vinh công đức rộng lớn của đức Phật ấy).

 “Bỉ Phật” là A Di Đà Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán công đức rộng lớn của A Di Đà Phật, [những công đức ấy được] nói cặn kẽ trong kinh Vô Lượng Thọ. Vì thế, qua kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn đã tán thán “quảng đại công đức” (công đức rộng lớn) của A Di Đà Phật. Mười phương chư Phật cũng tán thán A Di Đà Phật giống hệt như Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

(Sao) Linh nhân quy tín dã.

()令人歸信也。

(Sao: Khiến cho kẻ khác quay về tin tưởng).

“Quy” (歸) là quay về, “tín” (信) là tin tưởng, ngưỡng mộ. Không chỉ là từ lục đạo quay về, không chỉ là từ Nhị Thừa quay về, hoặc từ Đại Thừa quay về, mà là từ hết thảy các pháp môn quay về, chuyên nhất nơi pháp môn này. “Quy tín” có ý nghĩa này. Nếu quý vị chẳng chịu quay về, chẳng chịu từ trong lục đạo quay về, sẽ rất nhọc nhằn, quý vị phải luân hồi trong lục đạo. Luân hồi trong lục đạo sẽ chẳng tránh khỏi đọa trong ba ác đạo. Nói thật ra, ba ác đạo hết sức đáng sợ, hết sức kinh hãi! Sau khi đã chứng đắc quả Tu Đà Hoàn, hàng Nhị Thừa còn phải qua lại bảy lần trong cõi trời và nhân gian rồi mới có thể chứng quả A La Hán. Thọ mạng trong nhân gian ngắn ngủi, thọ mạng trong cõi trời dài lâu. Qua lại bảy lần, thời gian ấy tính bằng con số thiên văn, phải chịu đựng bao nhiêu nỗi nhọc nhằn! Đại Thừa Bồ Tát phải trải nghiệm ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Vì sao chẳng quay về? Hễ quay đầu, sẽ thành tựu ngay trong một đời! Người bình phàm phải tu trì suốt hai A-tăng-kỳ kiếp mới có thể đạt tới địa vị ấy, chúng ta trong một đời đã có thể làm được. Đó là công đức rộng lớn của A Di Đà Phật, chư Phật Như Lai gọi điều ấy là “chẳng thể nghĩ bàn”. Vì thế, chúng ta nhất định phải hiểu câu “chẳng thể nghĩ bàn” là do ai nói.

 

(Sao) Cảm thán giả, cảm kích thán tức, thử pháp nhân thiên hy hữu, lịch kiếp nan phùng.

()感歎者,感激歎息,此法人天希有,歷劫難逢。

(Sao: Cảm thán là cảm kích, than thở, pháp này là pháp hiếm có trong cõi trời người, trải bao kiếp khó gặp gỡ).

Phải ghi nhớ tám chữ này (“nhân thiên hy hữu, lịch kiếp nan phùng”). Chớ nghĩ đời này chúng ta có được pháp này quá dễ dàng. Nói thông tục là quý vị quá may mắn. “May mắn” là cách nhìn của kẻ bình phàm, nông cạn! Người thật sự có học vấn, có chiều sâu sẽ biết: Những gì quý vị đạt được chẳng phải là ngẫu nhiên, giống như trong kinh Vô Lượng Thọ đã nói, là do quý vị đã tu thiện căn và phước đức trong vô lượng kiếp nên mới có cơ hội gặp gỡ. Nếu chẳng phải là do thiện căn và phước đức trong vô lượng kiếp đã chín muồi, trong một đời này, chắc chắn là quý vị chẳng gặp pháp môn này! Dẫu có gặp, quý vị cũng chẳng tin tưởng, cũng chẳng thể coi trọng, dẫu gặp mà cũng như không gặp! Đúng là “nhân thiên hy hữu, lịch kiếp nan phùng” (hiếm có trong cõi trời người, trải bao kiếp khó gặp gỡ)! Cổ nhân từng nói: “Một ngày hiếm có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”. Chúng ta gặp được pháp môn này, chỉ có người thật sự biết sự thật này thì mới biết quý tiếc, coi pháp này như vật báu trân quý nhất.

 

(Sao) Linh nhân bi hỷ, hỷ giả, hỷ kỳ đắc văn.

()令人悲喜,喜者,喜其得聞。

(Sao: Khiến cho kẻ khác buồn vui [lẫn lộn]. Vui là vui mừng do được nghe).

Đây là hoan hỷ. Thật sự đắc đại hoan hỷ, còn hoan hỷ hơn hàng Bồ Tát thuộc Hoan Hỷ Địa. Bồ Tát chứng Hoan Hỷ Địa do tu hành trọn một A-tăng-kỳ kiếp, tu viên mãn địa vị Tam Hiền, chứng nhập Sơ Địa Bồ Tát, đắc đại hoan hỷ. Giống như quý vị học hành trong nhà trường mười mấy năm, tốt nghiệp Cao Trung (cấp ba Trung Học, Trung Học đệ nhị cấp), vừa lên Đại Học bèn rất hoan hỷ. Phía trên năm đầu tiên của Đại Học còn có khá nhiều lớp nữa, vẫn phải “bò” lên cao hơn rất vất vả. Đó là tu trọn một A-tăng-kỳ kiếp. Chúng ta gặp pháp môn này, chẳng cần phải tu, ngay lập tức vượt trỗi Sơ Địa, thật sự vượt trỗi! Kinh Di Đà nói như vậy, mà kinh Vô Lượng Thọ cũng nói giống y hệt. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là A Bệ Bạt Trí Bồ Tát. A Bệ Bạt Trí là hạng người nào? Từ Thất Địa trở lên. Nói cách khác, Bồ Tát bình phàm tu hành đến Thất Địa phải tu trọn hai A-tăng-kỳ kiếp. Trong A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất, tu mãn địa vị Tam Hiền; trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai [tu tập] từ Sơ Địa cho đến Thất Địa. Chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hễ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì cũng giống hệt như Thất Địa Bồ Tát, lẽ nào chẳng hoan hỷ? Trong chốc lát, vượt thoát hai A-tăng-kỳ kiếp. Trước kia, trong lời mi chú cho kinh Vô Lượng Thọ, thầy Lý đã nói: Kẻ gặp pháp môn này mà chẳng chịu phát nguyện vãng sanh, kẻ ấy “phi ngu tức cuồng”, [nghĩa là] chẳng phải đại ngu si thì là cuồng vọng. “Hỷ” (喜) là mừng vui do được nghe [pháp môn] này.

 

(Sao) Bi giả, bi kỳ văn chi vãn dã.

()悲者,悲其聞之晚也。

(Sao: Buồn là buồn vì nghe pháp này muộn màng).

 “Bi” (悲) là cảm thán chúng ta mãi cho tới nay mới được nghe. Tuy đã trễ tràng, vẫn không coi là chậm. Sớm nghe thấy, đã sớm tin tưởng, sớm thành tựu. Vì thế, chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, người cùng theo A Di Đà Phật đến đón tiếp chúng ta rất đông. Những người ấy đều là người nhà, quyến thuộc, bằng hữu, đồng học, đồng tham của chúng ta trong quá khứ, đều là những người mà ta quen biết. Trong quá khứ, những người ấy nghe pháp này bèn tin tưởng, nghiêm túc tu hành, đã vãng sanh. Chúng ta có duyên với họ, cho nên họ theo A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta. Vừa thấy mặt, chẳng cần giới thiệu liền nhận biết. Vì sao? Đến thế giới Tây Phương bèn có Tha Tâm Thông, chẳng cần phải giới thiệu, người này trong đời quá khứ nào đã có quan hệ gì với ta, ta đều hiểu rõ hoàn toàn. Vì thế, tới Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng tịch mịch. Chư vị phải hiểu rõ: Luân hồi trong lục đạo rất tịch mịch, [vì] xoay vần trong lục đạo, chẳng gặp một người thân nào, chẳng gặp ai quen biết. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, người mà chúng ta đã quen biết trong đời đời kiếp kiếp quá khứ thảy đều gặp mặt tại đó. Vì thế, thế giới Tây Phương rất náo nhiệt, chẳng tịch mịch. Do vậy, hãy nên đến đó.

 

(Sao) Bất khả tư nghị, thị thử kinh nguyên danh.

()不可思議,是此經原名。

(Sao: “Chẳng thể nghĩ bàn” là tên gốc của kinh này).

Kinh này là kinh Bất Khả Tư Nghị.

 

(Sao) Nghĩa kiến tiền tự.

()義見前序。

(Sao: Xem ý nghĩa trong phần Tựa ở trước).

Trong phẩm Tự thuộc phần trước đã có giảng [ý nghĩa của chữ Bất Khả Tư Nghị]; khi giới thiệu tựa đề kinh đã giảng qua.

 

(Sao) Kinh danh Bất Khả Tư Nghị giả, chánh dĩ A Di Đà Phật hữu thử bất khả tư nghị đại công đức dã.

() 經名不可思議者 ,正以阿彌陀佛有此不可思議大功德也。

(Sao: Kinh có tên là Bất Khả Tư Nghị chính là vì A Di Đà Phật có công đức to lớn chẳng thể nghĩ bàn ấy).

Lời chú giải trong sách Diễn Nghĩa đã nêu rõ ý nghĩa này.

 

(Sao) Văn hữu tam chuyển giả, lợi trung đa hàm, triển chuyển thâm quảng.

()文有三轉者,利中多含,展轉深廣。

(Sao: “Kinh văn có ba lượt chuyển biến”: Trong các điều lợi ích có nhiều ý nghĩa, [mỗi ý nghĩa] lần lượt càng sâu rộng hơn).

Công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, đích xác là lợi ích rất nhiều. Đoạn này nhằm giải thích ba câu trong phần Sớ.

 

(Sao) Sơ, sự phước chi lợi giả, tu sự tướng phước, thế gian nhân cố, thị danh tiểu lợi.

()初,事福之利者,修事相福,世間因故,是名小利。

(Sao: Đầu tiên, “điều lợi về phước theo mặt Sự”: Tu phước nơi sự tướng, sẽ là cái nhân của thế gian, nên gọi là “tiểu lợi”).

Nay chúng ta ở trong thế gian này làm những sự nghiệp từ thiện có công đức lợi ích đại chúng trong xã hội, những việc ấy thuộc về “sự tướng phước”, đạt được phước báo trong lục đạo. Quý vị tu phước, nhất định sẽ hưởng phước. Trong kinh luận, đức Phật thường nói rõ các sự thật về nhân duyên quả báo. Tu Tài Bố Thí, dùng tiền tài để giúp đỡ xã hội, giúp đỡ đại chúng, đạt được quả báo là của cải. Tài Bố Thí là nhân, được của cải là quả báo. Nay phát tài to lớn, quan cao chức cả, là do cái nhân đã tu trong đời trước, đời này được quả báo. Nhân như thế, nhất định là có quả như thế, báo như thế, quả báo chẳng sai lầm chút nào! Do Pháp Bố Thí bèn được thông minh, trí huệ. Do Vô Úy Bố Thí được khỏe mạnh, sống lâu. Những điều này đều thuộc loại phước báo nhân thiên. Nếu chẳng được làm thân trời, người thì sao? Trừ địa ngục ra, cũng hưởng phước trong loài súc sanh hay ngạ quỷ. Đã có phước báo thì làm súc sanh cũng rất có phước báo, là súc sanh hưởng phước lớn. Hễ đọa vào ngạ quỷ đạo, cũng chẳng phải là một con quỷ đói khát, mà là một con quỷ rất có phước, [tức là] sẽ làm Quỷ Vương trong loài quỷ, được người ta cúng quải. Như Thành Hoàng, Thổ Địa Công (ông Địa) đều là bậc có đại phước báo trong loài quỷ, bao nhiêu người đến cúng bái họ, nhất định là chẳng bị đói. Đấy là tu phước trong đời quá khứ, người ấy nhất định sẽ hưởng thụ. Thường là phàm phu trong lục đạo khi hưởng phước bèn mê hoặc, chúng ta thường nói là “lợi dục huân tâm” (lợi dục hun đúc cái tâm); hễ bị hun đúc liền mê, liền mờ mịt! Tâm đã mê, chẳng biết tiếp tục tu thiện. Sau khi đã mê bèn tạo tội nghiệp. Chờ cho đến khi hưởng hết phước báo, tội nghiệp hiện tiền. Đó gọi là “đọa lạc”, phải vào tam đồ chịu khổ. Đó gọi là “tam thế oán”, [nghĩa là] đời thứ nhất tu phước, đời thứ hai hưởng phước, đời thứ ba đọa lạc! Do vậy, điều lợi này là lợi ích nhỏ nhặt!

 

(Sao) Nhị, công đức chi lợi giả, xuất thế gian nhân cố, thị danh đại lợi.

()二、功德之利者,出世間因故,是名大利。

(Sao: Hai là điều lợi thuộc công đức chính là cái nhân xuất thế gian, nên gọi là đại lợi).

Công đức và phước đức sai biệt rất lớn; nhưng hiện thời có khá nhiều người nghĩ phước đức là công đức, đó là hiểu lầm rất lớn! Ví như họ nghĩ quyên cúng một chút tiền bạc cho chùa miếu là làm công đức rất lớn, sai mất rồi. Đó là phước đức, là tu phước nơi sự tướng, chẳng có mảy may liên quan gì đến công đức. Mọi người học Phật đều có thể kể về công án Lương Vũ Đế và Đạt Ma Tổ Sư. Lương Vũ Đế là đại hộ pháp trong Phật môn, dùng sự tôn quý và thế lực của đế vương để kiến tạo hơn bốn trăm tám mươi ngôi chùa, quy mô đều rất lớn. Vua độ người xuất gia, chăm sóc cuộc sống của người xuất gia. Chỉ cần ai phát tâm xuất gia, vua đều hoan hỷ, đều cúng dường, độ bao nhiêu người! Đạt Ma Tổ Sư đến Trung Quốc, gặp mặt Lương Vũ Đế. Sư là một vị cao tăng Ấn Độ, Lương Vũ Đế là một Phật tử kiền thành, đương nhiên phải tiếp đãi Sư. Nhà vua cũng rất đắc ý, khoe với Đạt Ma Tổ Sư: “Trong Phật giáo, trẫm làm công đức nhiều ngần ấy, công đức của trẫm có lớn hay không?” Đạt Ma Tổ Sư rất thật thà, chẳng nói dối, thẳng thừng bảo vua: “Trọn chẳng có công đức gì!” Những gì nhà vua đã làm chẳng có công đức chi hết. Lương Vũ Đế một bầu sôi nổi, đang phởn chí, bị Sư tạt cho một chậu nước lạnh tắt ngấm, trong lòng khó chịu lắm; cho nên Lương Vũ Đế đối đãi Đạt Ma Tổ Sư hết sức lãnh đạm, chẳng hộ pháp cho Ngài. Tổ chẳng có cách nào, đi đến chùa Thiếu Lâm nhìn vách suốt chín năm. Nếu khi ấy Lương Vũ Đế sửa một chữ: “Phước đức của ta lớn hay không?” Nhất định là Đạt Ma Tổ Sư gật đầu: “Rất ư là lớn!” Nhà vua tu phước đức, chẳng phải là công đức! Phải biết điều này! Vì thế, phải phân biệt rõ ràng công đức và phước đức. Phước đức dẫu to cách mấy, chẳng thể liễu sanh tử, chẳng thể thoát tam giới, đời sau hưởng phước báo nhân thiên mà thôi! Chỉ riêng công đức là khác. “Công” (功) tức là phải do chính mình tu tập.

Hôm trước, có người gọi điện thoại cho tôi, [than thở] chính mình nghiệp chướng rất nặng, một thân bệnh khổ, sự nghiệp gặp rất nhiều trắc trở, điều gì cũng chẳng như ý, hỏi tôi: “Bỏ ra mười vạn đồng làm công đức có thể tiêu tai hay không?” Có thể chuyển đổi vận số của người ấy hay không? Tôi nói: “Chẳng được. Đừng nói là mười vạn. Ông có dùng một trăm vạn hay một ngàn vạn đều vô dụng, chẳng chuyển được tai nạn”. Nếu tạo tội nghiệp, bỏ ra chút tiền bèn có thể tiêu tai, quá đơn giản! Trong xã hội hiện thời kẻ có tiền tạo nghiệp quá nhiều, tốn chút tiền bèn tiêu diệt tai ương, há có lẽ ấy hay chăng? Chẳng có lẽ ấy! Tiêu tai phải có công đức, phải biết điều này! Tu một chút phước, quả báo vẫn thuộc vào đời sau, chưa chắc quý vị đã có thể hưởng trong đời này, đời sau quý vị chắc chắn được hưởng, nhưng không nhất định là khi nào! Công đức khác hẳn.

“Công” là nói đến công phu. Lấy Giới, Định, Huệ Tam Học để nói, trì giới là Công, Định là Đức; tu Định là Công, khai trí huệ là Đức. Đó là công đức. Chúng ta niệm Phật, “tín nguyện niệm Phật” là Công, hằng ngày dụng công dốc sức tu niệm, nhất tâm bất loạn là Đức. Niệm Phật tam-muội là Đức. Tâm địa thanh tịnh, phiền não ít, vọng tưởng ít; đó là Đức. Công đức ấy chẳng thể bỏ tiền ra mua được! Công đức của tôi cũng chẳng có cách nào cho quý vị, đó gọi là “ông tu, ông đắc; bà tu, bà đắc. Chẳng tu, chẳng đắc”. “Công đức chi lợi, xuất thế gian nhân” (Lợi ích thuộc về công đức là cái nhân xuất thế). Quý vị tu học pháp môn khác, tu cái nhân xuất thế gian, vẫn chẳng đạt được cái quả xuất thế gian, nhưng cái nhân ấy tồn tại, khi nào lại gặp duyên, nhân và duyên ấy kết hợp thì mới có kết quả, đó là “đại lợi”. [Dẫu là] trong một đời này chẳng thể thành tựu, vẫn là đại lợi ích; trong tương lai, nói chung sẽ gặp duyên, bèn xuất ly.

 

(Sao) Tam, bất tư nghị công đức giả, xuất thế gian thượng thượng nhân cố, thị danh đại lợi trung đại lợi.

()三、不思議功德者,出世間上上因故,是名大利中大利。

(Sao: Ba là công đức chẳng thể nghĩ bàn, là cái nhân xuất thế gian thượng thượng, được gọi là đại lợi trong các đại lợi).

Công đức chẳng thể nghĩ bàn là gì? “Tín nguyện niệm Phật, vãng sanh bất thoái thành Phật”. Vì sao nói điều này là đại lợi trong các điều đại lợi? Người ấy đắc quả ngay trong đời này! Tu các pháp môn khác, tu suốt một đời, chưa chắc đã có thể đắc quả ngay trong đời này, không nhất định có thể chứng quả! Pháp môn này quyết định vãng sanh ngay trong đời này; hễ vãng sanh bèn chứng quả. Dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hễ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều là A Bệ Bạt Trí Bồ Tát, bỏ qua hai A-tăng-kỳ kiếp, đó là công đức chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, có khá nhiều vị Bồ Tát chẳng tin tưởng pháp môn này. Bồ Tát nhọc nhằn vất vả tu hai A-tăng-kỳ kiếp mới tu tới Thất Địa, quý vị chẳng tốn công phí sức bèn đạt đến Thất Địa, họ làm sao có thể tin tưởng cho được? Chẳng tin! Ví như quý vị học hành trong nhà trường, học từ lớp Một Tiểu Học cho đến khi tốt nghiệp Trung Học, tốn cả mười hai năm mới vào học năm thứ nhất Đại Học. Đột nhiên lòi ra một kẻ trước nay chưa hề đi học, cũng vào học năm thứ nhất Đại Học, chẳng thể nghĩ bàn! Đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Có người như vậy hay chăng? Có chứ! Đó gọi là đứa trẻ thiên tài, quá ít ỏi! Quý vị phải hiểu rõ: Quý vị gặp gỡ pháp môn này, dùng pháp môn này để tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều là những đứa trẻ thiên tài! Các vị Bồ Tát đó trông thấy quý vị đều sững sờ. Các Ngài nhọc nhằn, vất vả tốn hai A-tăng-kỳ kiếp [tu tập], quý vị chẳng cần tốn chút công sức nhỏ nhặt nào mà giống hệt như các Ngài; do đó, chẳng thể nghĩ bàn! Bồ Tát chẳng có cách nào, các Ngài chẳng thể ngờ được.

Nhưng Bồ Tát có mong là có chuyện như thế hay không? Các Ngài cũng rất muốn, tốt nhất là chẳng cần vất vả, ngay lập tức thành Phật. Tuy muốn [gặp gỡ] pháp môn này, nhưng chẳng có duyên phận, chẳng gặp gỡ pháp môn này. Chẳng có duyên phận không phải là vì Phật chẳng giúp đỡ họ. Đức Phật thường xuyên giảng pháp môn này, thường xuyên dạy pháp môn này, nhưng họ nghe xong chẳng tin tưởng. Đấy là chẳng có duyên! Họ không chịu tin tưởng, chẳng chịu tiếp nhận! Có nghĩa là từ đầu tới cuối họ chẳng có duyên phận gặp gỡ. Trong tâm họ rất mong thành Phật sớm một chút, nhưng chẳng gặp được pháp môn này. Đức Phật bảo họ, họ không tin, [tức là] vẫn chẳng gặp được! Chẳng gặp được là chuyện như vậy đó, chẳng phải là đức Phật thiếu lòng từ bi. [Chẳng phải là] hằng ngày họ mong mỏi mà Phật cũng chẳng dạy họ, chẳng phải là ý nghĩa ấy! Đức Phật hằng ngày nói với họ, họ hằng ngày chẳng tin tưởng, hằng ngày chẳng tiếp nhận, vẫn muốn làm theo kiểu cách của riêng mình, suy nghĩ loạn xạ, vậy là chẳng có cách nào hết! Từ kinh điển, chúng ta đọc thấy có khá nhiều vị Bồ Tát nghĩ đến pháp môn này, nhưng chẳng được gặp gỡ, “chẳng gặp” là như vậy đó. Tuyệt đối chẳng phải là Phật không giảng cho những vị ấy, chẳng phải vậy! Đức Phật giảng hằng ngày, nhưng chính họ nghe xong chẳng thể tiếp nhận, chẳng thể tin tưởng, không chịu nương theo pháp môn này tu học. Đó là “xuất thế gian thượng thượng nhân” (cái nhân xuất thế gian thượng thượng), là đại lợi trong các điều đại lợi.

 

(Sao) Cái công đức tuy thắng sự phước, ư trung phục phân thắng liệt, hữu khả tư nghị, hữu bất khả tư nghị.

()蓋功德雖勝事福,於中復分勝劣,有可思議,有不可思議。

(Sao: Vì công đức tuy thù thắng hơn phước thuộc sự tướng, nhưng trong ấy lại chia thành hơn kém, có công đức có thể nghĩ bàn và công đức chẳng thể nghĩ bàn).

Những pháp môn được nói trong kinh Tiểu Thừa và các kinh Đại Thừa khác, chúng ta thường gọi là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, tám vạn bốn ngàn pháp môn là “khả tư nghị” (có thể nghĩ bàn), pháp môn niệm Phật vãng sanh là “bất khả tư nghị” (chẳng thể nghĩ bàn).

 

(Sao) Kim thị bất khả tư nghị chi công đức dã. Cố đại lợi trung, phục xưng đại lợi.

()今是不可思議之功德也。故大利中,復稱大利。

(Sao: Nay là công đức chẳng thể nghĩ bàn, vì thế lại gọi là đại lợi trong các điều đại lợi).

Thật sự là lợi ích khôn sánh, lợi ích vô thượng. Trong sách Diễn Nghĩa, pháp sư Cổ Đức đã chú giải rất tỉ mỉ đoạn này.

 

(Sớ) Bất khả tư nghị, như Thanh Vương trung thuyết: “Bỉ An Lạc thế giới, sở hữu Phật pháp, bất khả tư nghị. Thần thông hiện hóa, bất khả tư nghị. Nhược năng tín như thị sự, đương tri thị nhân bất khả tư nghị, sở đắc nghiệp báo, diệc bất khả tư nghị”. Hựu y chánh nhân quả, tứ câu bất khả tư nghị.

()不可思議,如聲王中說:彼安樂世界,所有佛法,不可思議;神通現化,不可思議。若能信如是事,當知是人不可思議;所得業報,亦不可思議;又依正因果,四俱不可思議。

(Sớ: “Chẳng thể nghĩ bàn”: Như kinh Cổ Âm Thanh Vương Đà La Ni nói: “Trong thế giới An Lạc ấy, tất cả Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn; thần thông hiện hóa chẳng thể nghĩ bàn. Nếu [người nào] có thể tin chuyện như thế, hãy nên biết là người ấy chẳng thể nghĩ bàn; đạt được nghiệp báo cũng chẳng thể nghĩ bàn”. Lại nữa, y báo, chánh báo, nhân, quả, cả bốn điều đều chẳng thể nghĩ bàn).

Liên Trì đại sư giảng giải “chẳng thể nghĩ bàn” ở một mức độ cao hơn. Xác thực là “chẳng thể nghĩ bàn” có sâu, có cạn, có ý nghĩa rộng hẹp khác nhau! Thứ nhất, cho chúng ta biết: Thế giới Cực Lạc “tất cả Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn”. Câu này là nói chung, mấy câu kế đó là nói chi tiết riêng biệt. Trong câu này, chúng ta phải chú trọng hai chữ “Phật pháp”. “Pháp” là hết thảy vạn pháp, tức là hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian trong vũ trụ. “Phật” có nghĩa là giác ngộ, là hiểu rõ. Thế giới Cực Lạc “tất cả Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn”: Mỗi người trong thế giới Cực Lạc ai nấy đều có thể triệt để hiểu rõ rốt ráo vạn hữu trong vũ trụ, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Hiểu rõ rốt ráo viên mãn triệt để hết thảy vạn sự vạn vật trong vũ trụ, chỉ có chư Phật Như Lai mới có thể làm được, hàng Bồ Tát bình phàm chẳng thể làm được. Điều này chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao ai nấy trong thế giới Cực Lạc đều làm được? Đó là do bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì. Chúng ta niệm bốn mươi tám nguyện, [sẽ thấy]: Phàm là người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, hễ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới đều trọn đủ sáu thứ thần thông. Sáu thứ thần thông ấy, nói đại khái thì bậc chứng đắc A La Hán bèn trọn đủ, thảy đều đạt được, tức là Thiên Nhãn Thông (Dibba-cakkhu), Thiên Nhĩ Thông (Dibba-sota), Túc Mạng Thông (Pubbe-nivāsanussati), Tha Tâm Thông (Cetopariya-ñāṇa), Thần Túc Thông (Iddhividhā), và Lậu Tận Thông (Āsavakkhaya), nhưng năng lực của A La Hán trọn chẳng viên mãn cho lắm. Ví như kinh có dạy: Thiên Nhãn của A La Hán có thể thấy một đại thiên thế giới. Ngoài đại thiên thế giới, Ngài chẳng nhìn thấy. Đó là chẳng rốt ráo, chẳng viên mãn, thần thông của Ngài là có thể nghĩ bàn! Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tận hư không khắp pháp giới, quá khứ, hiện tại, vị lai, chẳng có gì không thông đạt, chẳng có gì không hiểu rõ, năng lực hoàn toàn giống như chư Phật Như Lai. Điều này chẳng thể nghĩ bàn, xác thực là do bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật gia trì. Đó là tán thán công đức của Phật Di Đà chẳng thể nghĩ bàn, [những năng lực ấy] là do A Di Đà Phật gia trì. Phật chẳng gia trì, quý vị chẳng có năng lực ấy.

“Thần thông hiện hóa, chẳng thể nghĩ bàn”: Trong phần trước là nói về giác pháp. Pháp thế gian và xuất thế gian, quá khứ, hiện tại, vị lai, không gì chẳng biết, không gì chẳng thể. “Tất cả Phật pháp” có ý nghĩa này. Đặc biệt là nói tới “thần thông” (Abhijñā). Thông (通) là thông đạt, chẳng bị chướng ngại. Mắt có thể thấy, mắt chúng ta cũng có thể thấy, nhưng cách một bức vách sẽ chẳng thấy, đó là chẳng thông, có chướng ngại! Mắt họ có năng lực mạnh hơn chúng ta, cách một vách tường cũng chả sao, họ có thể nhìn xuyên qua. Hiện thời, tại Đại Lục có những người có Thiên Nhãn, cách tường người ấy vẫn có thể thấy rõ ràng. Tại Đại Lục chẳng gọi là Thiên Nhãn, mà gọi là “mắt X-quang”. Họ ngồi đối diện với quý vị, có thể thấy sự hoạt động của nội tạng trong thân thể quý vị. Do vậy, đối với việc chữa bệnh, họ đích xác là một trợ thủ rất tốt. Họ có thể xem xét tìm ra bộ phận nào trong nội tạng có bệnh. Có một năm, tôi giảng kinh tại Lạc Sam Cơ (Los Angeles). Ở Lạc Sam Cơ, có một đồng tu từng gặp những người có công năng đặc dị ấy tại Đại Lục, bèn trắc nghiệm, bảo người ấy xem thân thể của chính mình. Kết quả là người ta vừa nhìn liền nói: “Trước đây, ông từng bị bệnh phổi, nay đã đóng thành sẹo, chẳng thể lan ra”. Vị đồng tu ấy hoảng hồn, vì ông ta bị chứng bệnh ấy hồi bé, về sau đã lành, [vết sẹo] đã đóng vôi, trước nay chưa từng nói với người khác, bị kẻ ấy nói toạc ra. Liền hỏi kẻ ấy: “Ông có năng lực ấy thì có bị mất đi hay không?” “Bị chứ!” Vì sao có thể bị mất đi? Biết nhiều chuyện quá sẽ bị mất. Điều này rất hợp lý! Biết quá nhiều chuyện, cái tâm chẳng thanh tịnh. Nói cách khác, năng lực vẫn là xuất phát từ cái tâm thanh tịnh. Người ấy thấy nghe rộng, nhiều, vọng niệm nhiều, sẽ chẳng còn có năng lực ấy nữa! Người có năng lực ấy thường là tuổi rất trẻ, hai mươi mấy tuổi, cho đến ba mươi, bốn mươi tuổi, năng lực ấy chẳng còn nữa! Điều này chứng tỏ chuyện tu Định được nói trong nhà Phật, sáu thứ thần thông đều phát sanh từ Định. Nói tới thần thông, tức là sáu loại bản năng (năng lực sẵn có) được khôi phục. “Hiện hóa” (現化) là hiện thân giáo hóa chúng sanh, giống như phẩm Phổ Môn nói Quán Thế Âm Bồ Tát “đáng nên dùng thân Phật để độ bèn hiện thân Phật để độ thoát”, tùy loại hiện thân, đáng nên dùng thân gì để độ bèn hiện thân ấy, họ có năng lực đó. Trong Lục Thông, năng lực ấy được gọi là Thần Túc Thông. Thần Túc Thông (神足通) là biến hóa thuận theo sự nghĩ tưởng của chúng sanh, người ấy (người có Thần Túc Thông) bèn có thể biến hóa [phù hợp với sự nghĩ tưởng ấy], có năng lực ấy, chẳng thể nghĩ bàn. Những điều này đều do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, năng lực này bèn hoàn toàn khôi phục, giống như Thất Địa và Bát Địa Bồ Tát, có trí huệ, đạo lực và thần thông to lớn như vậy, có thể tự do hiện thân để hóa độ chúng sanh trong mười phương thế giới. Có một hạng người tâm từ bi rất nặng, chẳng mong làm Phật, cũng chẳng mong vãng sanh, hy vọng đời đời kiếp kiếp vào các thế giới khổ nạn để độ chúng sanh. Bi nguyện ấy đáng ca ngợi, đáng được tán thán, nhưng họ chẳng có năng lực, chẳng có trí huệ, chẳng thể thần thông hiện hóa. Vì thế, tâm có thừa mà chẳng đủ sức, chẳng thể làm được! Vì thế, người thật sự có trí huệ, có bi nguyện, hãy mau chóng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đến nơi đó gặp gỡ A Di Đà Phật, được oai thần của A Di Đà Phật gia trì, quý vị bèn có thể đến mười phương thế giới để độ chúng sanh, bi nguyện mới chẳng trở thành rỗng tuếch. Chẳng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chắc chắn là bi nguyện ấy thất bại, chẳng thực hiện được. Đó là nguyện lực và oai thần của Phật Di Đà gia trì chẳng thể nghĩ bàn.

“Nhược năng tín như thị sự, đương tri thị nhân bất khả tư nghị” (Nếu ai có thể tin chuyện như vậy, hãy nên biết người ấy chẳng thể nghĩ bàn). Đức Phật giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng Quán Kinh, giảng kinh Di Đà, vừa giảng quý vị liền tin tưởng, quý vị là người chẳng thể nghĩ bàn. Chúng tôi giảng giải pháp môn này, rất nhiều người nghe xong chẳng tin, hoặc tin nhưng chẳng chịu phát nguyện, chẳng chịu nghiêm túc tu học. Chúng ta chẳng cần phải lấy làm lạ, vì người như vậy có thể nghĩ, có thể bàn, không phải là chẳng thể nghĩ bàn. Nói thật ra, nói theo kinh Vô Lượng Thọ, thiện căn và phước đức của người ấy chẳng chín muồi, cho nên người ấy chẳng thể tin tưởng. Thật sự tin tưởng pháp môn này, nhất định là ba điều kiện thiện căn, phước đức, và nhân duyên đã trọn đủ trong một đời này. Vì thế nói: “Chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”. Người có ba điều kiện ấy đồng thời chín muồi trong một đời xác thực là chẳng nhiều. Người có thiện căn, nhưng chẳng có phước là những ai? Người ấy có thể tin, có thể hiểu, [thế mà] chẳng mong vãng sanh, chẳng chịu niệm Phật, đó là có thiện căn mà chẳng có phước đức. Người có phước đức, chẳng có thiện căn, ví như người ấy tu học các pháp môn khác, hết sức tinh tấn, hết sức dụng công, nhưng chẳng tin tưởng pháp môn Niệm Phật, không thể tiếp nhận pháp môn chẳng thể nghĩ bàn bậc nhất này. Do vậy có thể biết: Ba điều kiện đồng thời trọn đủ đúng là chẳng dễ dàng. Phàm [những người có] ba điều kiện đều trọn đủ, trong một đời này, chẳng có ai không vãng sanh, chẳng có ai không thành Phật. Thiếu một điều kiện sẽ chẳng thể được!

“Sở đắc nghiệp báo, diệc bất khả tư nghị” (Đạt được nghiệp báo, cũng chẳng thể nghĩ bàn). Nghiệp báo: Nghiệp ấy được gọi là “tịnh nghiệp”, chẳng phải là nghiệp bình phàm. Thông thường, chúng ta khởi tâm động niệm có thiện nghiệp, ác nghiệp, vô ký nghiệp (chẳng thiện, chẳng ác), ba loại lớn ấy. Thiện nghiệp đắc thiện quả, ác nghiệp có ác báo, nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may! Người học Phật đầu óc phải tỉnh táo, phải sáng suốt hơn người bình phàm, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác tự nhiên sẽ chú tâm, cẩn thận. Vì sao? Người ấy biết trong ấy có nhân quả báo ứng. Khởi một ác niệm, tạo một ác sự, đối người khác mà nói, ảnh hưởng chẳng lớn, nhưng đối với chính mình mà nói, sẽ gặp phải khổ báo rất lớn. Kẻ chẳng học Phật không biết, người học Phật hiểu rành rẽ, hiểu rõ ràng sự thật này. “Bồ Tát sợ nhân”, Bồ Tát là bậc giác ngộ, rất cẩn trọng đối với chuyện tạo nhân, nhất định là tạo thiện nhân, quyết định chẳng tạo ác nhân; [do vậy] người ấy được gọi là Bồ Tát. Người niệm Phật đạt được quả báo là vãng sanh bất thoái thành Phật. Vì sao nghiệp báo của người ấy chẳng thể nghĩ bàn? Vì trong một đời, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn viên chứng ba món Bất Thoái, chẳng thể bàn luận! Từ kinh điển, chúng ta thường đọc thấy: Chứng đắc Tiểu Thừa Sơ Quả, phải đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới thì mới có thể chứng đắc Vị Bất Thoái, chẳng dễ dàng! Lại lên cao hơn nữa, ắt phải đoạn hết tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc trong tam giới, chứng quả vị Bồ Tát, Trần Sa Hoặc cũng phá hết thì mới có thể chứng đắc Hạnh Bất Thoái, chẳng còn lui sụt thành Tiểu Thừa. Lại lên cao hơn nữa, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân thì mới chứng đắc Niệm Bất Thoái, là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Vì thế, ba món Bất Thoái thảy đều chứng đắc, đương nhiên là đã chứng đắc điều cao nhất thì những điều thấp hơn đều chứng đắc. Nói cách khác, muốn chứng đắc ba món Bất Thoái thì tối thiểu phải là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, là Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm, hết sức hiếm có! Tuy chứng ba món Bất Thoái, chẳng viên mãn. Viên chứng ba món Bất Thoái chính là Thập Địa Bồ Tát, tức Pháp Vân Địa Bồ Tát, đấy mới là viên chứng ba món Bất Thoái, những địa vị thấp hơn Pháp Vân Địa sẽ chẳng viên mãn! Chúng ta lại hạ thấp tiêu chuẩn này một chút, sẽ là Cửu Địa, Bát Địa, Thất Địa. Vì thế, có rất nhiều vị cổ đại đức chú giải kinh [cho rằng viên chứng ba món Bất Thoái] là từ Thất Địa trở lên, có vị nói là từ Bát Địa trở lên, nói như vậy là chánh xác. Vì thế, hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, năng lực của quý vị bằng với Thất Địa Bồ Tát, hoặc bằng Bát Địa Bồ Tát. Viên chứng ba món Bất Thoái chính là quả, nghiệp báo chẳng thể nghĩ bàn!

“Y, chánh, nhân, quả”: Y báo là hoàn cảnh sống của chúng ta. Trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đã giới thiệu, hoàn cảnh sống của mọi người trong thế giới Tây Phương tốt đẹp chẳng thể nghĩ bàn. Cuộc sống vật chất thuận theo lòng mong, chúng ta muốn gì, thứ ấy ở ngay trước mặt. Nay chúng ta muốn một bộ quần áo, thứ ấy ở ngay trước mặt. Nay [trong thế giới Sa Bà này], chúng ta muốn có một bộ quần áo, quý vị còn phải đi tìm bên ngoài. Tuy hiện thời đã có quần áo may sẵn, nhưng quý vị vẫn phải cân nhắc, so sánh giá cả, cũng phải chịu rất nhiều nỗi vất vả! Tây Phương Cực Lạc thế giới thì ta muốn quần áo như thế nào, nó liền ở ngay trên người; chẳng muốn nữa, nó bèn chẳng có, tự tại lắm! Muốn ăn thứ gì, ngay lập tức thứ ấy bày ra trước mặt. Chẳng muốn ăn, sẽ chẳng có, mất sạch sành sanh, chẳng cần thu dọn chén đũa, chẳng phải rửa chén. Hết thảy cuộc sống vật chất tùy tâm biến hóa. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới sống trong cung điện, quý vị muốn kiểu dáng gì, nó biến thành kiểu dáng đó, mong to hơn nó biến thành to hơn một chút, mong nó nhỏ hơn, xinh xắn hơn, nó ngay lập tức thu nhỏ. Cuộc sống vật chất tùy theo lòng mong, chẳng thể nghĩ bàn! Cuộc sống tinh thần càng phong phú. A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp, mười phương hết thảy chư Phật đều giảng kinh, thuyết pháp cho quý vị. Thích nghe pháp môn nào bèn nghe pháp môn ấy. Thích thấy vị Phật nào, vị Phật ấy hiện ngay trước mặt, chẳng cần đến thế giới phương khác để được [vị Phật ấy] dạy bảo. Trong tâm vừa động niệm, Phật ở ngay trước mặt. Phật chẳng đến, chúng ta cũng chẳng đi, nghiễm nhiên gặp mặt, đúng là chẳng thể nghĩ bàn. “Y, chánh, nhân, quả, tứ câu bất khả tư nghị” (Y báo, chánh báo, nhân, quả, bốn điều ấy đều chẳng thể nghĩ bàn), cái nhân của y báo, cái quả của y báo, cái nhân của chánh báo, cái quả của chánh báo thảy đều chẳng thể nghĩ bàn. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 258

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm mười lăm:

 

(Sao) Thử phân vi tứ: Nhất thị thí pháp quảng đại công đức, vị vô lượng thọ, vô lượng quang, Tam Bảo đạo phẩm chủng chủng đẳng.

()此分為四:一是施法廣大功德,謂無量壽,無量光,三寶道品種種等。

(Sao: Phần này chia làm bốn. Thứ nhất là công đức thí pháp rộng lớn, nghĩa là các thứ như vô lượng thọ, vô lượng quang, Tam Bảo, đạo phẩm v.v…)

 Nói rõ “bất khả tư nghị công đức chi lợi” rốt cuộc là công đức nào? Là lợi ích nào? Ở đây, đại sư lại giảng rõ cặn kẽ, chia thành bốn điểm. Thứ nhất là “thí pháp quảng đại công đức” (công đức thí pháp rộng lớn). Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ chính là đức hiệu của Di Đà Thế Tôn, mà cũng là sự gia trì của Di Đà Thế Tôn đối với hết thảy đại chúng. Đúng như Thích Ca Thế Tôn xuất hiện trong thế gian này, lão nhân gia nói về “nhân từ, thanh tịnh”, [dùng những điều ấy để] chỉ dạy và gia trì chúng ta, có ý nghĩa giống như [những phẩm đức được bao hàm trong danh hiệu của A Di Đà Phật]. Phàm là người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tâm địa đều hết sức thanh tịnh; tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, chẳng từ bi, người ấy chẳng thể vãng sanh! Thanh tịnh và từ bi thì ai nấy trong thế giới Tây Phương đều trọn đủ, ai nấy đều là như vậy, đều là thanh tịnh, từ bi. Vì thế, chẳng cần phải đề xướng thanh tịnh, từ bi nữa.

Ở bên ấy, đề xướng điều gì? Đề xướng Quang và Thọ. Quang biểu thị trí huệ, Thọ biểu thị sự thù thắng nhất trong hết thảy các thứ thọ dụng. Người thế gian nói đến phước báo, phước báo có phạm vi bao hàm hết sức rộng rãi. Trong phước báo, quan trọng nhất là trường thọ. Nếu chẳng có thọ mạng, dẫu phước báo lớn đến mấy, chính mình chẳng có cách nào hưởng thụ. Điều thứ nhất là phải có thọ mạng để hưởng thụ phước báo của chính quý vị. Vì thế, thọ mạng là đức bậc nhất. Đấy cũng là lý do vì sao trong vô lượng [đức năng, phước báo], chỉ dùng Thọ và Quang để đại diện, chính là vì ý nghĩa này.

 

(Diễn) Vô lượng thọ, vô lượng quang, Tam Bảo đạo phẩm chủng chủng đẳng: Thử chỉ sở thí chi pháp dã.

()無量壽、無量光、三寶道品種種等,此指所施之法也。

(Diễn: “Các thứ như vô lượng thọ, vô lượng quang, Tam Bảo đạo phẩm v.v…” là nói về những pháp được ban xuống).

 A Di Đà Phật dùng điều gì để giáo hóa chúng sanh? Dùng những pháp ấy. Chư vị phải biết: Thọ tượng trưng cho phước báo, [vô lượng thọ là] vô lượng phước báo. Quang tượng trưng trí huệ. Chư Phật Như Lai thành Phật, có hiệu là Nhị Túc Tôn, Nhị (二) là trí huệ và phước đức, Túc (足) là trọn đủ, viên mãn. Trí huệ viên mãn và phước đức viên mãn, nên gọi là Nhị Túc Tôn (đấng trọn đủ hai thứ phước và huệ). Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật dạy mọi người hai thứ ấy, chư vị hãy ngẫm xem: Đó trực tiếp dạy cho quý vị một phương pháp để thành Phật rốt ráo viên mãn. Thế giới Tây Phương chẳng dạy gì khác, mà dạy thứ này. Đức Phật dùng phương pháp gì để dạy? Dưới đây bèn nói rõ.

 

(Diễn) Thử pháp hoặc xuất âm phu diễn, hoặc hiện tướng chỉ trần.

()此法或出音敷演,或現相指陳。

(Diễn: Những pháp ấy hoặc là phát ra âm thanh để phô diễn, hoặc là hiện tướng để chỉ bày).

“Xuất âm phu diễn” là ngôn giáo (dạy bằng lời nói), tức là giảng kinh, thuyết pháp. “Hiện tướng chỉ trần” là dùng thân giáo (nêu gương bằng thân nghiệp). Nói cách khác, chúng ta gọi là “giáo dục bằng chính cuộc sống”. Trong giáo dục cuộc sống, đầy ắp trí huệ, ngập tràn phước đức.

 

(Diễn) Dĩ bỉ độ chúng sanh, lục căn thanh tịnh, đắc đại tổng trì.

()以彼土眾生,六根清淨,得大總持。

(Diễn: Do chúng sanh trong cõi ấy, sáu căn thanh tịnh, đắc đại tổng trì).

Đúng như đức Thế Tôn đã nói trong kinh, chúng sanh trong thế giới ấy “sáu căn thanh tịnh”. Toàn bộ những lời lẽ trong phần kế tiếp đều là những điều được nói trong kinh, hết sức quan trọng. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ, mới hiểu là “chẳng thể không đến Tây Phương Cực Lạc thế giới”! Sanh về nơi ấy, sáu căn thanh tịnh; chúng ta ở nơi đây mà mong sáu căn thanh tịnh há dễ dàng sao? “Đắc đại tổng trì” cũng là điều chúng ta niệm niệm mong cầu, nhưng cầu chẳng được! Đại tổng trì là gì? Là tổng cương lãnh của hết thảy vạn pháp thế gian và xuất thế gian, quý vị đã nắm được. Chỉ cần quý vị nắm được tổng cương lãnh, nói cách khác, tự nhiên thông đạt hết thảy các pháp, chẳng có một pháp nào không thông đạt. Từ Phật giáo sử, chúng ta biết Long Thọ Bồ Tát học xong Đại Tạng Kinh trong ba tháng, lại còn thông đạt toàn bộ. Vì sao Ngài có năng lực ấy? Tuy Lục Tổ đại sư chẳng duyệt Kinh Tạng, lão nhân gia chưa hề đi học, chẳng biết chữ, nhưng nếu chúng ta hỏi: “Tam Tạng mười hai phần giáo chính là một bộ Đại Tạng Kinh, Lục Tổ có năng lực thông đạt trong vòng ba tháng hay chăng?” Quan sát từ những ghi chép trong Đàn Kinh, chắc chắn là Ngài có năng lực ấy! Vì sao biết? Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng suốt đời thọ trì kinh Đại Niết Bàn; kinh Đại Niết Bàn phân lượng rất đáng nể, bốn mươi quyển, đọc làu làu, nhưng chẳng hiểu ý nghĩa. Bà ta đọc cho Huệ Năng đại sư nghe. Sau khi nghe xong, Huệ Năng đại sư bèn giảng giải cho bà. Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng nghe Lục Tổ giảng giải, bèn khai ngộ. Lục Tổ cần người khác đọc cho Ngài nghe vì Ngài chẳng biết chữ. Cho thấy Ngài đã thông đạt, tuy Ngài chưa hề học. Ngũ Tổ chẳng giảng kinh Đại Niết Bàn cho Ngài, thế mà Ngài thông đạt. Thiền sư Pháp Đạt học Pháp Hoa, thưa cùng Lục Tổ: Sư đã niệm kinh Pháp Hoa ba ngàn lượt. Niệm kinh Pháp Hoa một lần phải mất thời gian bao lâu? Mỗi ngày chỉ có thể niệm một lần, niệm một bộ. Ba ngàn bộ là mười năm! Dành thời gian mười năm để đọc kinh Pháp Hoa, vẫn chẳng hiểu ý nghĩa. Sư gặp Lục Tổ bèn đảnh lễ, đầu chẳng sát đất, ngạo mạn mà! Bị Lục Tổ nhìn ra, Lục Tổ hỏi Sư: “Ông ngạo mạn như vậy, nhất định là có điều gì đáng để kiêu ngạo”. Sư liền thưa Sư đã niệm ba ngàn bộ Pháp Hoa, đáng để kiêu ngạo! Kinh Pháp Hoa có ý nghĩa gì? Sư chẳng biết, bị Lục Tổ hỏi ngược lại [bèn ú ớ], Sư bèn hỏi quay ngược lại thỉnh giáo Lục Tổ đại sư. Lục Tổ đại sư bảo: “Ta chưa từng đọc qua, đương nhiên là cũng chưa hề nghe qua, ông hãy niệm cho ta nghe thử”. Kinh Pháp Hoa có hai mươi tám phẩm, Sư niệm đến phẩm thứ hai là phẩm Phương Tiện, Lục Tổ nghe tới đó, bảo: “Chẳng cần niệm nữa, kinh này ta đều biết cả rồi”. Vì thế, đối với cả một bộ Đại Tạng Kinh, Ngài có cần đến ba tháng hay chăng? Hoàn toàn thông đạt. Tổ giảng kinh Pháp Hoa cho Pháp Đạt, thiền sư Pháp Đạt khai ngộ. Khi ấy, lại đảnh lễ, đầu ép sát đất. Nếu quý vị hỏi vì sao những người ấy đối với pháp thế gian và xuất thế gian hễ tiếp xúc đều thông đạt ư? Do đắc đại tổng trì, chư vị phải biết điều này. Nếu chúng ta hỏi: “Chúng ta dùng phương pháp gì để có thể đắc đại tổng trì?” Chư Phật Như Lai truyền dạy chúng ta một phương pháp tuyệt diệu, “tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ”. Vì quý vị sanh về Tịnh Độ, bèn đắc đại tổng trì, tâm địa thanh tịnh, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều thông đạt toàn bộ. Huống hồ còn nghe Phật Di Đà thuyết pháp, còn nghe hết thảy chư Phật thuyết pháp. Dẫu không nghe, cũng thông đạt. Đến nghe để làm Ảnh Hưởng Chúng mà thôi! Vì thế, tôi nói lời chân thật, thật thà cùng mọi người. Sống trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là cuộc sống như thế nào? Mỗi ngày đến chơi khắp các cõi Phật trong tận hư không khắp pháp giới, hằng ngày đi du lịch, hằng ngày vui chơi, sống cuộc đời ấy, chẳng có gì không thông đạt. Trí huệ và phước báo thảy đều viên mãn, huống hồ hoàn cảnh…

 

(Diễn) Lục trần giai thuyết, lục căn giai văn, pháp pháp đầu đầu, vô phi diệu pháp cố.

()六塵皆說,六根皆聞,法法頭頭,無非妙法故。

(Diễn: Sáu trần đều nói, sáu căn đều nghe, pháp nào, sự nào, không gì chẳng phải là diệu pháp).

 Mấy câu này nhằm giải thích câu “Tam Bảo, đạo phẩm chủng chủng đẳng” (các thứ như Tam Bảo, đạo phẩm v.v…) Có những kẻ chẳng mong vãng sanh, tức là chẳng có cơ duyên gặp gỡ pháp môn này, chẳng biết ưu điểm của Tây Phương Tịnh Độ. Kinh Đại Thừa thường nói: Khá nhiều vị Bồ Tát mong cầu, nhưng chẳng có cơ hội nghe pháp môn này. Có cơ hội nghe pháp môn này, mà tín nguyện cầu sanh chẳng dấy lên nổi; đó là nghiệp chướng quá nặng. Nếu không, gặp pháp môn này, hiểu rõ lợi ích chân thật này, có ai chẳng cầu vãng sanh? Đó là điều thứ nhất, “thí pháp quảng đại công đức” (công đức thí pháp rộng lớn). Lại xem điều thứ hai:

 

(Sao) Nhị thị thần hóa châu biến công đức.

()二是神化周遍功德。

(Sao: Hai là công đức thần thông biến hóa trọn khắp).

“Thần” (神) là thần thông, “hóa” (化) là biến hóa. Công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sao) Vị thủy, điểu, thụ lâm, hàm tuyên diệu pháp, y thực phục dụng, thọ dụng tự nhiên, chúng sanh giai cụ tướng hảo, thần biến đẳng.

()謂水鳥樹林,咸宣妙法,衣食服用,受用自然,眾生皆具相好神變等。

(Sao: Nghĩa là: Nước, chim, rừng cây đều tuyên thuyết diệu pháp; áo, cơm, đồ dùng, thọ dụng tự nhiên; chúng sanh đều có đủ tướng hảo, thần thông biến hóa v.v…)

Thế giới Tây Phương xác thực là chúng sanh và Phật bình đẳng. Đối với trí huệ và đức năng viên mãn của Phật, trí huệ và đức năng của đại chúng cũng gần như chẳng sai khác A Di Đà Phật cho mấy. Chư vị phải hiểu rõ: Trí huệ và đức năng ấy tuyệt đối chẳng phải do chính những người vãng sanh ấy có, mà là do oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Vì thế, ai nấy đều có trí huệ và đức năng viên mãn, chư vị xem kinh Vô Lượng Thọ sẽ hiểu rõ điều này. Trong mỗi một nguyện thuộc bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật đều nói rất rõ ràng. Phần tiểu chú ghi:

 

(Diễn) Thủy, điểu, thụ lâm hạ tứ cú, thử Di Đà thần biến dã.

()水鳥樹林下四句,此彌陀神變也。

(Diễn: Bốn câu từ “nước, chim, rừng cây” trở xuống là thần thông, biến hóa của Phật Di Đà).

 Bốn câu từ “thủy, điểu, thụ lâm” cho đến “thọ dụng tự nhiên” chính là thần thông biến hóa của A Di Đà Phật dành cho đại chúng hưởng thụ. Vì thế, chắc chắn là hết thảy các thứ thọ dụng ở nơi ấy chẳng thiếu khuyết. Đã thế, quý vị thọ dụng giàu có, dư dật chẳng khác chư Phật Như Lai. Đó là do Tánh Đức của Phật Di Đà lưu lộ.

 

(Diễn) Chúng sanh giai cụ tướng hảo, thần biến đẳng, thử chúng sanh thần biến dã.

()眾生皆具相好神變等,此眾生神變也。

(Diễn: Chúng sanh đều có đủ tướng hảo, thần biến v.v… chính là thần thông biến hóa của chúng sanh).

Oai thần của A Di Đà Phật vừa gia trì, bản thân ai nấy đều cũng có thể biến hóa. Chính mình chẳng thể biến hóa, vẫn khác chư Phật. Chính mình có thể biến hóa, năng lực ấy do Phật gia trì, vì sao? Chính mình chẳng đoạn hết phiền não, tự tánh chẳng hoàn toàn hiển lộ. Tuy chính mình vốn cũng trọn đủ, nhưng bị chướng ngại, chẳng thấu lộ, chẳng thể thọ dụng, nhất định phải được Phật lực gia trì, khiến cho trí huệ và đức năng trong tự tánh của chúng ta cũng khởi tác dụng. Điều này chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Diễn) Dĩ bỉ quốc chủng chủng diệu dụng, tuy Di Đà thần biến sở thành, nhược chúng sanh bất đắc thần biến, bất năng thọ dụng.

()以彼國種種妙用,雖彌陀神變所成,若眾生不得神變,不能受用。

(Diễn: Do các thứ diệu dụng trong cõi ấy, tuy do thần thông biến hóa của Phật Di Đà tạo thành, nhưng nếu chúng sanh chẳng có thần biến, sẽ không thể thọ dụng).

Đây là Sự Lý chân thật, chúng ta đã hiểu rõ thì mới có thể tin tưởng, tín tâm mới kiên định, tín tâm mới thanh tịnh, mới chẳng hoài nghi.

 

(Diễn) Kinh vân: Phương tiện thị Bồ Tát Tịnh Độ, Bồ Tát thành Phật thời, ư nhất thiết pháp phương tiện vô ngại chúng sanh lai sanh kỳ quốc, thị dã.

()經云:方便是菩薩淨土,菩薩成佛時,於一切法方便無礙眾生來生其國。是也。

(Diễn: Kinh nói: “Phương tiện là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, trong hết thảy các pháp, dùng phương tiện vô ngại khiến cho chúng sanh sanh về cõi ấy” chính là nói về ý này).

Áp dụng mấy câu này vào Tây Phương Cực Lạc thế giới rất thích hợp. Thế giới Tây Phương xác thực là như vậy. Nếu muốn nghiên cứu sâu hơn về chuyện này, Pháp Tướng Duy Thức đã nói rất rõ ràng, minh bạch; ở đây chúng tôi tỉnh lược, chẳng cần phải nói chi tiết.

 

(Sao) Tam thị tín thọ túc căn công đức, vị nan tín chi pháp, năng tín thọ giả, túc tu vô lượng thiện căn đẳng.

()三是信受宿根功德,謂難信之法,能信受者,宿修無量善根等。

(Sao: Ba là công đức tin nhận do túc căn, nghĩa là người có thể tin nhận pháp khó tin chính là do đời quá khứ đã tu vô lượng thiện căn v.v…)

Đối với ý nghĩa này, đã từng đọc kinh Vô Lượng Thọ thì mới dễ hiểu. Người chưa đọc kinh Vô Lượng Thọ sẽ chẳng hiểu rõ lắm. Đây cũng là điều chúng tôi thường nói, hết thảy chư Phật đều nói pháp môn này là “pháp khó tin”. Người nào có thể tin? Trong đời quá khứ đã vun bồi thiện căn sâu dầy, người như vậy mới có thể tin tưởng, mới có thể tiếp nhận. Nếu chẳng có thiện căn rất dầy mà tin tưởng, tiếp nhận pháp môn này, khó lắm! Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật đã bảo chúng ta: Thuở ấy, Ngài giảng kinh, vương tử A Xà Thế và năm trăm vị trưởng giả hiện diện nghe kinh trong pháp hội. Trong đời quá khứ, họ đã từng cúng dường bốn trăm ức Phật, nghe pháp môn này, vẫn chẳng dấy lên ý niệm phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Nếu nay nghe pháp môn này, thật sự phát tâm mong sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị ngẫm xem: Đó là căn tánh gì? Nay chúng ta nghe pháp môn này, trong tâm sanh khởi đại hoan hỷ, hận chẳng thể ngay lập tức mong thấy A Di Đà Phật, đến thế giới Cực Lạc, thiện căn của quý vị vượt trỗi bọn họ quá nhiều. Trong đời quá khứ, chắc chắn là không chỉ thân cận bốn trăm ức chư Phật Như Lai. Quý vị bèn hiểu rõ, đấy chính là thiện căn trong đời quá khứ sâu dầy ngần ấy. Chúng ta giới thiệu pháp môn này với người khác, người khác chẳng tin tưởng, chẳng thể tiếp nhận, không chịu học, có đạo lý đấy nhé! Trong đời quá khứ, người ấy chẳng có thiện căn sâu dầy như thế, cứ thong thả, dần dần từng đời một, đợi đến vô lượng kiếp, vô lượng kiếp sau nữa, nói với họ, họ sẽ tin tưởng. Vì sao? Thiện căn của người ấy đã dầy ngần ấy. Nay chúng ta thiện căn chín muồi, người ấy còn phải tới vô lượng kiếp sau mới có thể chín muồi. Hiện thời, khuyên họ là đúng, để họ gieo nhiều thiện căn hơn một tí, đời đời kiếp kiếp gieo thiện căn, lại gieo tới vô lượng kiếp, họ sẽ chín muồi. Chuyện là như vậy đó! Vì thế, trong một đời này, thiện căn của chính mình chín muồi, nhất định phải trân quý tiếc, phải y giáo tu hành, tức là tín nguyện, nhất tâm trì danh, cầu sanh Tịnh Độ, đó là đúng! Trong một đời này, quyết định thành tựu.

 

(Diễn) Nan tín chi pháp tam cú, kinh vân: “Nhược bất vãng tích tu phước huệ, ư thử chánh pháp bất năng văn, dĩ tằng khâm phụng chư Như Lai, cố hữu nhân duyên văn thử nghĩa”.

()難信之法三句,經云:若不往昔修福慧,於此正法不能聞,已曾欽奉諸如來,故有因緣聞此義。

(Diễn: Đối với ba câu “pháp khó tin…”, kinh dạy: “Nếu xưa kia chẳng tu phước huệ, chẳng thể được nghe chánh pháp này, đã từng phụng sự chư Như Lai, nên có nhân duyên nghe nghĩa này”).

Đây là một bài kệ trong kinh Vô Lượng Thọ. “Nhược bất vãng tích tu phước huệ” (Nếu xưa kia chẳng tu phước huệ): Quý vị chẳng có thiện căn từ đời quá khứ hết sức sâu dầy như vậy, sẽ chẳng được! Nghe pháp môn Niệm Phật sẽ lắc đầu, không chịu tiếp nhận. Dạy các pháp môn khác bèn hoan hỷ tiếp nhận, đó là vì chẳng đủ thiện căn. Phải có thiện căn sâu dầy nhất thì mới được. Thiện căn kém hơn một bậc, người ấy sẽ chẳng thể tiếp nhận pháp môn này.

 

(Diễn) Bát Nhã vân: “Nhược nhân nhất niệm sanh tịnh tín giả, đương tri thử nhân, bất ư nhất Phật, nhị Phật nhi chủng thiện căn đẳng”.

()般若云:若人一念生淨信者,當知此人,不於一佛二佛而種善根等。

(Diễn: Kinh Bát Nhã dạy: Nếu người nào một niệm sanh tịnh tín, hãy nên biết người ấy chẳng phải là đã gieo thiện căn nơi một đức Phật, hoặc hai đức Phật v.v…)

Kinh Kim Cang dạy: Có thể sanh khởi tín tâm thanh tịnh đối với Đại Thừa Phật pháp thì kẻ ấy thuộc loại [có thiện căn, phước đức] đáng nể, chẳng phải là một nhân vật lèng èng. Điều này nói rõ thiện căn trong đời quá khứ hết sức trọng yếu.

 

(Sao) Tứ thị quả báo nan thắng công đức.

()四是果報難勝功德。

(Sao: Bốn là công đức do quả báo khó thể vượt trỗi).

 Chúng ta càng phải hiểu rõ, thật sự minh bạch điều này: Dẫu trong đời quá khứ, thiện căn của chúng ta còn sai kém một chút, tiếp nhận sự chỉ dạy ấy, xác thực là hiện tại có thể bù đắp chỗ thiếu khuyết trong thiện căn, có thể thành công. Vì thế, vốn chẳng tin, đã học mấy năm bèn tin tưởng. Vì sao? Người ấy đã được bù đắp. Do đó, trong hiện thời có thể nỗ lực bù đắp thiện căn. Từ [hành trạng của] những vị tổ sư đại đức vãng sanh trải khắp các đời, chúng ta có thể thấy được tình hình này. Dẫu là thị hiện, cũng xác thực là sự thật, [các vị tổ sư đại đức đã thị hiện nhằm] chỉ rõ [thiện căn thiếu khuyết bèn] có thể bổ túc, như Ấn Quang đại sư là thị hiện. Thuở đầu học Phật, Ấn Quang đại sư không tin Tịnh Độ. Thuở trẻ, Ngài đọc sách Nho, chẳng tin tưởng Phật pháp, lại còn soạn văn chương phê phán, hủy báng Phật pháp, trong quá khứ đã làm những chuyện ấy. Trong lịch sử, chuyện giống như vậy không chỉ là một mình Ngài, khá nhiều vị tổ sư đại đức thoạt đầu đều có thái độ ấy. Về sau, do tiếp xúc bèn dần dần hiểu rõ, tu tập, tích lũy thiện căn, dần dần bù đắp những thiện căn và phước đức thiếu sót, sanh khởi tín tâm sâu xa đối với pháp môn này, đạt được mục tiêu “vãng sanh bất thoái thành Phật trong một đời”. Do vậy, [thiện căn và phước đức khuyết thiếu] có thể bù đắp! Cũng có nghĩa là: Chúng ta chẳng có tín tâm đối với pháp môn này, có thể kiến lập tín tâm. Kiến lập tín tâm chính là mười phần liễu giải pháp môn này, có nhận thức chân chánh đối với lý luận và sự thật. Người ấy đã hiểu rõ, tín tâm bèn sanh khởi. Thế nhưng chúng ta thấy có nhiều bà cụ chẳng biết chữ, chưa hề học hành, họ chẳng cần liễu giải lý luận và sự thật của pháp môn này. Căn bản là các cụ chẳng hỏi tới, vừa nghe nói bèn cứ một câu A Di Đà Phật niệm tới cùng, khi mất có thụy tướng còn thù thắng hơn các vị đại pháp sư. Đại pháp sư khi mất còn ngã bệnh, nằm mất; người ta chẳng sanh bệnh, đứng ra đi, do nguyên nhân gì? Hoàn toàn là do thiện căn sâu dầy. Vì sao các vị đại pháp sư không bằng những bà cụ ấy? Đại pháp sư học vấn cao hơn các cụ, [xét theo phương diện học vấn] các cụ chẳng thể bằng các vị pháp sư ấy; nhưng nếu nói tới thiện căn, các pháp sư chẳng bằng các cụ, chuyện là như vậy đó. Hiểu rõ sự thật này, khá nhiều nỗi nghi vấn tự nhiên được giải trừ. Tôi cũng đã gặp rất nhiều người hỏi về vấn đề này. Có nhiều vị pháp sư đại đức nổi tiếng trong nước, thông Tông, thông Giáo, suốt đời tu hành hết sức tốt đẹp, vì sao lúc mất thụy tướng vẫn chẳng bằng một người bình phàm? Do thiện căn và phước đức trong quá khứ của người bình phàm ấy sâu dầy! Xét theo phương diện này, vị pháp sư chẳng sánh bằng người ấy, đạo lý ở chỗ này. Chúng ta hãy xem sự thù thắng nơi quả báo.

 

(Sao) Vị tức đắc vãng sanh, tức đắc nhập thượng thiện hội.

()謂即得往生,即得入上善會。

(Sao: Nghĩa là hễ được vãng sanh, bèn được dự ngay vào hội của các vị thượng thiện nhân).

“Tức đắc” (即得) là ngay lập tức đạt được. Chúng ta hãy đặc biệt chú trọng hai chữ ấy. “Vãng sanh” chẳng thể nghĩ bàn, vãng sanh là thoát ly lục đạo luân hồi. Thoát ly lục đạo luân hồi là chuyện khó khăn dường ấy, kẻ bình phàm muốn vượt thoát luân hồi, phải tu thành công Cửu Thứ Đệ Định thì mới có thể vượt thoát. Do Tứ Thiền Bát Định chỉ có thể sanh về Sắc Giới Thiên hoặc Vô Sắc Giới Thiên, chẳng thoát khỏi tam giới! Nhất định phải tu đến Cửu Thứ Đệ Định thì mới có thể thoát tam giới, mấy ai có thể làm được? Cửu Thứ Đệ Định là Kiến Tư phiền não đều đoạn hết, há dễ dàng ư? Hễ vãng sanh, nói cách khác, công phu của quý vị thua kém người thành tựu Cửu Thứ Đệ Định. Cửu Thứ Đệ Định là A La Hán, Bích Chi Phật, công phu của chúng ta chẳng bằng họ, nhưng nói theo sự thành tựu thì vượt trỗi họ, họ chẳng bằng chúng ta. Tuy họ có thể thoát khỏi tam giới, điểm này giống như chúng ta; nhưng sau khi đã thoát tam giới, những điều họ đạt được chẳng sánh bằng chúng ta, thua kém quá xa. “Tức đắc nhập thượng thiện hội” (Liền được dự vào hội của các vị thượng thiện nhân): Thế giới Tây Phương là “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ” (các vị thượng thiện nhân nhóm họp cùng một chỗ), “thượng thiện” là Đẳng Giác Bồ Tác. Đẳng Giác là những vị giống như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc… Người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm vãng sanh, có thể cùng đứng, cùng ngồi với các vị Đẳng Giác Bồ Tát, xưng huynh gọi đệ, vì các Ngài trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là học trò của A Di Đà Phật, chúng ta tới đó cũng là học trò của A Di Đà Phật, quan hệ đôi bên là sư huynh, sư đệ.

 

(Sao) Tức đắc Bất Thoái Chuyển địa.

()即得不退轉地。

(Sao: Liền đắc địa vị Bất Thoái Chuyển).

Bất Thoái Chuyển là viên chứng ba món Bất Thoái, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị lập tức đạt được. Chư vị xem đoạn văn này, đôi khi có thể hoài nghi. Ở đây nói là “tức đắc” (liền đạt được), kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói hạ phẩm hạ sanh phải trải qua mười hai kiếp thì mới là hoa nở, thấy Phật, làm sao là “tức đắc” cho được? Chẳng phải là có mâu thuẫn ư? Hạ phẩm trung sanh phải mất sáu kiếp mới có thể đạt được, làm sao có thể là “tức đắc” cho được? Quý vị nhất định phải hiểu rõ, Quán Kinh nói đến chuyện [quý vị đạt được ba món Bất Thoái, thần thông, đạo lực, trí huệ] do cậy vào năng lực của chính mình! Quý vị sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ở bên đó thong thả tu hành, tu mất một thời gian dài như vậy thì mới có thể [thật sự] đạt được [ba món Bất Thoái, thần thông, đạo lực, trí huệ do công phu tu hành của chính mình]. Ở đây nói, quý vị ngay lập tức đạt được, có thể thấy đó chẳng phải là cảnh giới đạt được do công phu tu hành của chính quý vị, mà là do oai thần của A Di Đà Phật gia trì khiến cho quý vị đạt được. Nếu quý vị nghe mà vẫn chưa hiểu, tôi nêu một tỷ dụ để nói. Quý vị sanh trong một gia đình phú quý, cha quý vị đại phú, đại quý, tuy quý vị còn chưa trưởng thành, còn chưa kiếm ra tiền, nhưng sống trong biệt thự tráng lệ, hào nhoáng, ra khỏi cửa bèn ngồi xe hơi đắt tiền, [tiền của] ai? Tiền của cha quý vị, chẳng phải là của chính mình. Lại qua mấy năm sau, tự quý vị kiếm được tiền, cũng sống ở đó, cũng lái xe đó, nhưng những thứ đó là của chính quý vị. Quý vị đã hiểu rõ rồi chứ? Chúng ta đến nơi ấy, “tức đắc” là do A Di Đà Phật ban cho chúng ta. Qua mười hai kiếp sau, đó là năng lực của chính mình. Ví như đứa nhỏ ấy khôn lớn, tự mình có năng lực kiếm tiền, có năng lực để hưởng thụ. Trong khi chính kẻ ấy còn chưa có năng lực đó, A Di Đà Phật sẽ gia trì kẻ ấy. Nói cách khác, sanh về cõi ấy, sẽ đạt được những thọ dụng đó, đấy chính là “tức đắc”. Vì thế, cả hai kinh đều nói chẳng sai, đều là nói lên chân tướng sự thật. Nhưng quý vị tu hành trong các thế giới phương khác, chẳng được Phật gia trì, ắt cần phải tự mình tu đạt đến cảnh giới ấy thì mới có sự thọ dụng ấy. Nhưng tu hành trong các thế giới phương khác và tu hành trong Tây Phương Cực Lạc thế giới hoàn toàn khác nhau: Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm vãng sanh mười hai đại kiếp bèn thành tựu; trong các thế giới phương khác, muốn tu đến cảnh giới A Bệ Bạt Trí phải cần tới hai A-tăng-kỳ kiếp. So sánh thời gian, sai khác quá lớn! Như vậy thì mới biết thế giới Tây Phương thù thắng, tới đó thành tựu mau chóng! Huống chi chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng thể nào thuộc về hạ phẩm hạ sanh. Hạ phẩm hạ sanh là kẻ tạo tác Ngũ Nghịch, Thập Ác, chúng ta chẳng tạo tội nghiệp to như vậy! Tuy tạo tội nghiệp chẳng ít, nhưng chẳng tạo nghiệp nặng nề dường ấy: Giết cha, giết mẹ, [giết A La Hán], phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu, chúng ta vẫn chưa làm! Nói cách khác, địa vị vãng sanh thấp nhất của chúng ta cũng là hạ phẩm trung sanh, thuộc địa vị ấy. Hạ phẩm trung sanh, sáu kiếp bèn hoa nở, thấy Phật; quý vị ngẫm xem thời gian quá nhanh chóng. Thượng phẩm vãng sanh, sanh về đó bèn hoa nở, thấy Phật. Thiện Đạo đại sư nói: Chín phẩm vãng sanh mỗi kẻ phàm phu chúng ta đều có phần. “Do gặp duyên bất đồng mà có chín phẩm sai khác”. Duyên thù thắng, nếu chúng ta liễu giải thấu triệt cảnh giới, lý luận và sự thật của Tây Phương, duyên ấy bèn sâu, khiến cho quý vị chẳng có mảy may nghi hoặc nào, chắc chắn là thượng phẩm vãng sanh.

 

(Sao) Tất cánh thành Phật đẳng.

()畢竟成佛等。

(Sao: Rốt ráo thành Phật…)

 Bốn câu này nói lên lợi ích bao gồm bốn thứ công đức chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sao) Giai siêu việt thường tình, cố vân bất khả tư nghị.

()皆超越常情,故云不可思議。

(Sao: Đều vượt trỗi thường tình, nên nói là “chẳng thể nghĩ bàn”).

 “Thường” (常) là thường thức, “tình” (情) là kiến giải. Vượt thoát sự tư duy, tưởng tượng, kiến giải thông thường của chúng ta, đơn giản là chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng được sự thù thắng của Tịnh Độ. Chư vị phải biết: Mở Đại Tạng Kinh ra, công đức lợi ích được giảng trong bất cứ bộ kinh nào cũng đều thua kém những điều đang được nói ở đây rất xa! Thế mà phương pháp tu hành đơn giản, dễ dàng, quả báo thù thắng chẳng thể sánh bằng. Quý vị ngẫm xem, có thể nghe đến [pháp môn này] là do nhân duyên gì vậy? Là do phước đức như thế nào?

 

(Sao) Như Kim Cang Bát Nhã vân: “Thị kinh nghĩa bất khả tư nghị, quả báo diệc bất khả tư nghị”, thị dã.

()如金剛般若云:是經義不可思議,果報亦不可思議。是也。

(Sao: Như kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Kinh này nghĩa lý chẳng thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn”, chính là nói lên ý nghĩa này).

 Kinh Kim Cang nghĩa lý chẳng thể nghĩ bàn, quả báo chẳng thể nghĩ bàn. So giữa kinh Kim Cang và kinh Di Đà, kinh Kim Cang là có thể nghĩ, có thể bàn. Kinh Di Đà thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Mười phương ba đời hết thảy chư Phật tán thán kinh Di Đà, chẳng tán thán kinh Kim Cang. Hết thảy chư Phật Như Lai đề cao pháp môn Niệm Phật, chẳng đề cao pháp môn Bát Nhã. Từ chỗ này, hãy rất lắng lòng quan sát, quý vị mới thật sự thấu hiểu vài phần lợi ích công đức chẳng thể nghĩ bàn được nói trong kinh.

 

(Sao) Y, chánh, nhân quả giả, y vị Đồng Cư tức Tịch Quang, chánh vị Ứng Thân tức Pháp Thân.

()依正因果者,依謂同居即寂光,正謂應身即法身。

(Sao: “Y báo, chánh báo, nhân, quả”: Y báo thì cõi Đồng Cư tức là cõi Tịch Quang, chánh báo thì Ứng Thân tức là Pháp Thân).

Thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Vì trong mười phương thế giới, cõi Phàm Thánh Đồng Cư là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cõi Phàm Thánh Đồng Cư quyết định chẳng phải là cõi Phương Tiện Hữu Dư, cũng quyết định chẳng phải là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, đương nhiên lại càng không phải là Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Đức Thế Tôn nói điều này trong hết thảy các kinh Đại Thừa, bốn cõi có sai biệt, chẳng thể nói lẫn lộn được. Nhưng Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng vậy, “một chính là bốn, bốn chính là một”, điều này chẳng thể nghĩ bàn. Nói “Đồng Cư là Tịch Quang”, đương nhiên là những cõi ở giữa sẽ được bao gồm trong ấy, trong ấy có cõi Thật Báo, có cõi Phương Tiện. Phàm phu sanh về cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới; chư thượng thiện nhân, Đẳng Giác Bồ Tát trụ trong Tịnh Độ là cõi Thật Báo Trang Nghiêm, làm sao chúng ta có thể ở chung với nhau? Giống như trong hiện thời, thế gian này chính là cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật cũng có cõi Phương Tiện Hữu Dư, cũng có cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cũng có Thường Tịch Quang Tịnh Độ, nhưng những vị La Hán và Bồ Tát ở trong các nơi ấy, chúng ta chẳng thấy, chẳng ở cùng một chỗ với các Ngài! Thế nhưng, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng phải là như vậy, ở cùng một chỗ. Đẳng Giác, Quyền Thật Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, thảy đều trông thấy, hằng ngày ở cùng nhau, đó là y báo chẳng thể nghĩ bàn.

Chánh báo thì Ứng Thân là Pháp Thân, Báo Thân chẳng cần phải nói nữa, tự nhiên được bao gồm trong ấy. Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân, một thân là ba thân, ba thân là một thân. Thấy Ứng Thân của A Di Đà Phật chính là thấy Báo Thân và Pháp Thân của Phật, chẳng hai, chẳng khác. Trong thế giới Cực Lạc, Ứng Thân của A Di Đà Phật là khắp hết thảy mọi nơi. Chúng ta thường nói theo Lý, Pháp Thân khắp hết thảy mọi nơi. Trong thế giới Tây Phương, Ứng Thân của A Di Đà Phật khắp hết thảy mọi nơi. Từ mười sáu phép Quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, chư vị thấy chỗ ở, vườn rừng trong thế giới Tây Phương thù thắng bậc nhất, cây cối, hoa cỏ nhiều, đúng là chốn dinh dưỡng tánh tình, dưới gốc cây to hết sức mát mẻ, nghỉ ngơi ở nơi ấy rất tự tại. Đương nhiên là có thể nghe Phật thuyết pháp càng tốt hơn. Đức Phật luôn ngồi dưới cội cây thuyết pháp, dưới mỗi cội cây đều có A Di Đà Phật, tức là Ứng Hóa Thân của A Di Đà Phật. Nếu không, thế giới to lớn dường ấy, người đông ngần ấy, chỉ có một A Di Đà Phật, làm sao quý vị có thể thấy Ngài? Quý vị chẳng có cơ duyên thấy Ngài! Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật dùng Ứng Hóa Thân, vô lượng Ứng Hóa Thân; cho nên mỗi cá nhân đều cùng A Di Đà Phật gặp mặt mỗi ngày. Đúng là dường như A Di Đà Phật cũng chẳng đến, mà chúng ta cũng chẳng tới chỗ Ngài, [thế mà] hằng ngày ở cùng một chỗ. Trong mười phương hết thảy thế giới của chư Phật đều chẳng có quả báo ấy, đúng là quả báo chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sao) Nhân vị thất nhật công thành, quả vị nhất sanh bất thoái.

()因謂七日功成,果謂一生不退。

(Sao: Nhân là bảy ngày thành công, quả là Bất Thoái trong một đời).

Thời gian tu hành chẳng cần rất dài. Kinh dạy: “Hoặc một ngày cho đến bảy ngày”. Chỉ cần tu hành đúng lý, đúng pháp, quyết định thành công. Quả báo là “nhất sanh bất thoái”, [nghĩa là] hễ quý vị sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn viên chứng ba món Bất Thoái. Viên chứng ba món Bất Thoái, xét theo quả thì sự thọ dụng bằng với Thất Địa hoặc Bát Địa Bồ Tát trong Viên Giáo. Chúng ta cậy vào sự tu hành của chính mình chứng đến Thất Địa hoặc Bát Địa cần phải mất thời gian hai A-tăng-kỳ kiếp thì mới có thể chứng được. Dùng pháp môn này, vài ngày đã đạt được. Vì thế, pháp môn này đúng là pháp khó tin. Bồ Tát chẳng có cách nào tiếp nhận, chẳng có cách nào tin tưởng.

 

(Sao) Diệc phục siêu việt thường tình, cố câu bất khả tư nghị dã.

()亦復超越常情,故俱不可思議也。

(Sao: Cũng lại vượt trỗi thường tình, nên đều là chẳng thể nghĩ bàn).

Kế đó, Liên Trì đại sư trích dẫn một sự thật để chứng minh.

 

(Sao) Tích, Anh pháp sư ư Đông Đô giảng Hoa Nghiêm kinh tứ thập biến, nhân nhập Xước thiền sư Tịnh nghiệp đạo tràng, thâm nhập tam-muội, thán viết: “Tự hận đa niên không tầm văn sớ, lao thân tâm nhĩ, hà kỳ niệm Phật bất khả tư nghị”.

()昔,英法師於東都講華嚴經四十遍,因入綽禪師淨業道場,深入三昧,歎曰:自恨多年空尋文疏,勞身心耳,何期念佛不可思議。

(Sao: Xưa kia, Anh pháp sư giảng kinh Hoa Nghiêm bốn mươi lần tại Đông Đô[16], do dự vào Tịnh nghiệp đạo tràng của Đạo Xước thiền sư, thâm nhập tam-muội, than rằng: “Tự hận đã nhiều năm uổng công truy tìm trong sớ giải và kinh văn, thân tâm mệt nhọc, nào ngờ niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn”).

Quá khứ, Anh pháp sư tham gia đạo tràng Niệm Phật của thiền sư Đạo Xước, trong Niệm Phật Đường đắc tam-muội. Ngài có thể đắc Niệm Phật tam-muội trong Niệm Phật Đường; nói thật ra, cũng chẳng thể nói là bốn mươi lượt giảng Hoa Nghiêm không có ảnh hưởng. Ngài hết sức cảm thán: Trong quá khứ, hơn nửa đời dốc sức nghiên cứu kinh luận và chú giải, đi khắp nơi giảng giải, chẳng đạt được lợi ích chân thật, đạt được hư danh trong thế gian mà thôi! Vất vả, nhọc nhằn thân tâm của chính mình. “Nào ngờ Niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn”. Chẳng ngờ đạt được thọ dụng trong pháp môn Niệm Phật, thành tựu tam-muội. Điều này chỉ rõ pháp môn Niệm Phật thật sự vượt trỗi các pháp môn khác. Pháp môn Niệm Phật chỉ cần chuyên, chỉ cần tinh, đừng hoài nghi, đừng xen tạp, đừng gián đoạn. Niệm Phật tam-muội là nhất tâm bất loạn, chẳng khó chứng đắc. Đã chứng đắc tam-muội này, đúng là đắc đại tự tại, được thọ dụng chân thật.

 

(Diễn) Không tầm văn sớ lao thân tâm giả, Tứ Thập Nhị Chương Kinh vân: “Bác văn ái đạo, đạo tất nan hội, thủ chí phụng đạo, kỳ đạo thậm đại”.

()空尋文疏勞身心者,四十二章經云:博聞愛道,道必難會,守志奉道,其道甚大。

(Diễn: “Uổng công truy tìm trong sớ giải và kinh văn, thân tâm mệt nhọc”, kinh Tứ Thập Nhị Chương có nói: “Do học rộng nghe nhiều, tuy yêu thích đạo, mà ắt khó hiểu đạo. Giữ chí, vâng giữ đạo, đạo ấy rất lớn”).

Bốn câu này hết sức đơn giản, gồm mười sáu chữ, đúng là một khai thị mạnh mẽ nhất đối với những người tu hành mà mong mỏi chính mình có thành tựu, chỉ dạy chúng ta hãy nên dùng thái độ như thế nào để tu học. Mười sáu chữ ấy là nguyên tắc và cương lãnh tu hành, hễ có thể tuân thủ thì đúng là “công ít, hiệu quả nhiều”, có thể thu được hiệu quả rất tốt đẹp. “Bác văn” (博聞) là quý vị thực hiện bằng cách học rộng nghe nhiều. “Ái đạo” (愛道) là quý vị hết sức ưa chuộng Đại Thừa Phật pháp. “Đạo tất nan hội” (Ắt khó hiểu đạo), “hội” (會) là hiểu rõ, khế nhập, cũng là “chứng đạo” như chúng ta thường nói. Quý vị muốn hiểu rõ, mong khế nhập, mong chứng đắc, quá khó khăn! Điều này chứng tỏ: Anh pháp sư suốt một đời dốc sức nơi kinh Hoa Nghiêm, tuy giảng kinh bốn mươi lượt, những điều Ngài đã giảng đều là bề ngoài, đều là tri kiến dựa trên văn tự, chẳng có một tí tác dụng nào. Nói cách khác, chẳng thể hội quy tự tánh sẽ vô dụng, cũng như Thanh Lương đại sư đã nói: Đều là tăng trưởng tà kiến! Phải như thế nào thì mới có thể kiến tánh? “Thủ chí phụng đạo” (Giữ chí, phụng hành đạo) tức là thâm nhập một môn thì được, đạo ấy rất to lớn. “Chí” (志) là dốc chí chuyên nhất, quý vị có thể đạt được. “Phụng” (奉) là phụng hành. Y giáo phụng hành, thâm nhập một môn, sẽ là đúng. Phật pháp nói theo Lý là bình đẳng, “pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp”. Chỉ cần thâm nhập một môn, thảy đều có thể minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, đều có thể thành tựu. Bất luận quý vị trì Giới cũng vậy, tham Thiền cũng vậy, học Giáo cũng vậy, trì Chú cũng vậy, niệm Phật cũng vậy. Một môn! Quyết định chẳng thể học hai môn. Hai môn trở lên sẽ khó lắm! Ví như hiện thời Phật Đường này có ba cái cửa, quý vị ở ngoài cửa suy xét mong tiến vào, theo cửa nào để tiến vào? Có cách nào đồng thời tiến vào cả ba cửa hay chăng? Quý vị ở bên ngoài dấy vọng tưởng, dấy vọng tưởng cả đời cũng chẳng tiến vào được! Nếu theo một cửa mà tiến vào, theo bất cứ cửa nào cũng tiến vào được, đạo lý là như vậy đó. Sau khi đã tiến vào, quý vị đạt được pháp môn Đại Tổng Trì, chẳng có gì quý vị không đạt được. Quý vị chẳng tiến vào, ở bên ngoài bèn có sai biệt, [sẽ thấy] có vô lượng pháp môn. Sau khi đã tiến vào, [vô lượng pháp môn] bèn biến thành một. Vô lượng pháp môn đều quy về cùng một chỗ; một chính là vô lượng, vô lượng chính là một.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương và kinh Bát Đại Nhân Giác là những kinh được phiên dịch trước nhất khi Phật pháp vừa mới được truyền vào Trung Hoa. Trên thực tế, thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài chưa từng giảng kinh Bát Đại Nhân Giác hoặc kinh Tứ Thập Nhị Chương. Kinh Bát Đại Nhân Giác và kinh Tứ Thập Nhị Chương đều thuộc loại trích yếu của các kinh, đó là phương pháp được sử dụng trong thời kỳ đầu khi Phật pháp truyền đến Trung Hoa. Cùng một đạo lý như vậy, chúng ta truyền bá Phật pháp sang ngoại quốc, dùng phương pháp ấy là tốt nhất. Trích yếu các kinh, trích lục các kinh, vừa dễ dịch, vừa dễ giảng, lại rất khế cơ, xác thực là thuận tiện cho kẻ sơ học. Những câu [được trích lục]  trong các bản ấy, câu nào cũng đều vô cùng tinh túy,  chẳng hề nói thừa.

 

(Diễn) Vĩnh Gia vân: “Ngô tảo niên lai tích học vấn, diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận, phân biệt danh tướng bất tri hưu, nhập hải toán sa, đồ tự khốn”, thị dã.

()永嘉云:吾早年來積學問,亦曾討疏尋經論,分別名相不知休,入海算沙徒自困。是也。

(Diễn: Ngài Vĩnh Gia nói: “Tôi thuở đầu chuyên tích lũy học vấn, cũng từng tìm kiếm sớ giải, tìm tòi kinh luận, phân biệt danh tướng chẳng biết ngơi nghỉ, vào biển đếm cát, tự nhọc nhằn uổng công” là nói về ý này).

Bài kệ này của Vĩnh Gia đại sư trích từ Chứng Đạo Ca. Vĩnh Gia đại sư là học trò của Lục Tổ, Ngài chỉ học với Lục Tổ một ngày, vấn đáp mấy câu trong hội của Lục Tổ, được Tổ ấn chứng đã khai ngộ. Ngài lại muốn ra đi, Lục Tổ nói: “Sao ông đi mau như thế? Hãy ở lại một đêm, ngày mai sẽ đi”. Lục Tổ giữ Sư ở lại một đêm, đó là [công án] Nhất Túc Giác (一宿覺: một đêm giác ngộ) nổi danh. Bài kệ này do Ngài làm sau khi đã khai ngộ, thuật chuyện trước kia, trong khi Ngài mò mẫm, đã gặp những chướng nạn. Nhưng các bậc từng trải đã nói toạc chân tướng sự thật, người đời sau trông thấy những gương ấy mà vẫn mong dẫm theo vết, vẫn chẳng giác ngộ, vẫn chẳng chịu quay đầu, đúng là kẻ ngu! Thoạt đầu ngài Vĩnh Gia cũng nghiên cứu giáo lý. “Thảo sớ” (討疏), Sớ (疏) là chú giải, [“thảo sớ” nghĩa là] sưu tập những bản chú giải xưa nay của các vị đại đức để tham khảo, nghiên cứu kinh luận, đổ công dốc sức nơi đó. Phân biệt tư duy những danh tướng ấy chẳng biết ngưng nghỉ, rất tinh tấn, rất siêng năng, suốt ngày đêm đều bận bịu học hành. Khi chúng ta mê muội, trông thấy như vậy [bèn hâm mộ, cho là] lỗi lạc quá, thật sự dụng công, cứ ngỡ đó là học vấn. Người giác ngộ nói đó là dấy vọng tưởng, làm chuyện thuộc tà tri tà kiến. Đổ công nơi danh tướng và lý luận, các nhà Duy Thức bảo là “nhập hải toán sa” (vào biển đếm cát), bao giờ xong? Sau khi đã ngộ, mới biết làm chuyện ấy chính là “tự khốn”, [tức là] tự mình gây khó khăn cho chính mình.

Những lời ấy đều là nói sau khi đã khai ngộ, đều là lời lẽ của bậc từng trải. Nhưng chư vị nhất định phải ghi nhớ, đi theo con đường ấy, người thực hiện thành công có được mấy ai? Quá ư là ít. Người chẳng đi trọn hết, chết gục trong ấy, thường nói là “chết trong Giáo Hạ, bị vây khốn trong mê cung”. Giáo võng[17] được gọi là mê cung; sau khi đã bước vào, vĩnh viễn chẳng thoát ra được. Kẻ thoát ra là kẻ may mắn! Như Anh pháp sư đã nói trong phần trước, nếu Ngài chẳng dự vào Niệm Phật Đường của thiền sư Đạo Xước, sẽ chẳng thoát ra được. Chẳng thoát ra được tức là chết ngắc trong Giáo Hạ. Vĩnh Gia đại sư có cơ hội gặp gỡ Lục Tổ Huệ Năng đại sư, đây cũng là một người lăn lộn trong giáo võng hết sức may mắn. Cuối cùng là kết luận, nào ngờ “niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn”.

Xét theo toàn thể Đại Thừa Phật pháp để nói, bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư là một cống hiến vô cùng tuyệt diệu. Ngài có thể nói minh bạch chân tướng của Đại Thừa Phật pháp và biển cả Phật pháp, chỉ bày chánh xác phương hướng, mục tiêu cho chúng ta. Đó là cống hiến lớn nhất của Ngài. Chúng ta đọc kỹ càng [Sớ Sao], chú tâm lãnh hội, có thể nói là tất cả nghi hoặc đều tiêu trừ, tín nguyện chân thật được kiến lập từ chỗ này. Chúng ta thiếu khuyết thiện căn và phước đức, đều cậy vào nhân duyên này để bổ túc. Chúng ta in Sớ Sao rất nhiều, có mấy người đọc? Dẫu đọc, có thể đọc hiểu hay không? Do vậy có thể biết, nhân duyên khó có lắm! Giảng Sớ Sao một lượt chẳng dễ dàng, cần phải có thời gian rất dài, giảng rất khó, mà nghe cũng chẳng dễ dàng.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh ly tâm ngôn tướng, thị bất khả tư nghị công đức nghĩa.

()稱理,則自性離心言相,是不可思議功德義。

 (Sớ: Xứng Lý thì tự tánh lìa tướng tâm ngôn là ý nghĩa “công đức chẳng thể nghĩ bàn”).

“Tự tánh” là Chân Như bản tánh. Trong Chân Như bản tánh, chẳng có ngôn ngữ, chẳng có tướng trạng. Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã dạy chúng ta: “Lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên”. Chẳng có cách nào tưởng tượng, mà cũng không có cách nào bày tỏ, đó là “công đức chẳng thể nghĩ bàn”, nhà Thiền thường nói chuyện ấy. Vào thời đại của Liên Trì đại sư, kẻ bình phàm thường nghĩ Thiền là cao nhất trong Phật pháp, cho nên đại sư giới thiệu kinh A Di Đà, sau mỗi đoạn đều dùng cảnh giới Thiền để đại chúng được hiểu ý nghĩa kinh văn [nói theo Lý] hòng chứng minh kinh A Di Đà xác thực là “vô thượng thậm thâm Thiền”. Trong bản chú giải của lão nhân gia, tuyệt đại đa số là trích dẫn kinh Hoa Nghiêm. Nói theo Giáo Hạ, mọi người đều thừa nhận kinh Hoa Nghiêm là căn bản pháp luân, là vua của các kinh, lão nhân gia chỗ nào cũng dùng kinh Hoa Nghiêm để giải thích kinh A Di Đà, nhằm nâng cao kinh A Di Đà lên ngang bằng kinh Hoa Nghiêm, dụng ý ở chỗ này. Ngài nêu rõ trong Đại Thừa Phật pháp, kinh này mới xác thực là kinh bậc nhất, đó là dụng tâm khổ sở của lão nhân gia. Sự thật xác thực là như thế! Đáng tiếc là người đời chẳng nhận thức, thật đáng tiếc! Vì thế, đây là xứng tánh, tự tánh có công đức chẳng thể nghĩ bàn. Đấy là điều Thiền, Giáo, Mật, chẳng có một ai không thừa nhận. Các thứ sự tướng được nói trong kinh Di Đà, toàn là công đức chẳng thể nghĩ bàn lưu lộ từ tự tánh, từ trong tự tánh của A Di Đà Phật lưu lộ. A Di Đà Phật gia trì hết thảy đại chúng, khiến cho hết thảy đại chúng tuy chẳng đoạn phiền não, là hạ phẩm vãng sanh, Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh thảy đều chẳng đoạn, nhưng do được oai thần của Phật Di Đà gia trì, cũng có thể dẫn khởi công đức từ trong tự tánh, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Chuyện là như thế đó. Chúng ta đã biết Lý, sẽ chẳng hoài nghi nơi sự thật. Đoạn nghi thì mới có thể sanh ra tín tâm quyết định. Từ tín tâm mới sanh khởi nguyện vọng khẩn thiết, chúng ta mới có thể niệm câu Phật hiệu rất hoan hỷ, niệm chẳng mỏi mệt, chẳng chán nản, có thể sanh ra pháp hỷ, mới có thể đạt được thọ dụng chân thật. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!

 

Tập 259

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm mười bảy:

 

(Sao) Khởi Tín Luận vân: “Thị tâm tùng bổn dĩ lai, ly tâm duyên tướng, ly ngôn thuyết tướng. Thị cố, cử tâm tức thác, động niệm tức quai, trệ cú giả mê, thừa ngôn giả táng”. Nhiên tắc đương như chi hà? Túng nhiêu giam khẩu vong cơ, y nhiên đọa lạc vô ký, thị chi vị “bất khả tư nghị”.

()起信論云:是心從本以來,離心緣相,離言說相,是故舉心即錯,動念即乖,滯句者迷,承言者喪。然則當如之何,縱饒緘口忘機 ,依然墮落無記 ,是之謂不可思議。

(Sao: Khởi Tín Luận nói: “Tâm này từ trước đến nay lìa tướng tâm duyên, lìa tướng ngôn thuyết. Do vậy, động tâm bèn trật, dấy niệm liền sai, vướng vào câu văn bèn mê, nương theo lời nói bèn mất”. Vậy thì phải nên làm như thế nào? Dẫu ngậm miệng, dứt bặt suy nghĩ, vẫn nghiễm nhiên đọa vào vô ký. Vì thế mới nói là “chẳng thể nghĩ bàn”).

Đại sư trích dẫn một đoạn từ trong Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh Bồ Tát. Khởi Tín Luận là một quyển sách để nhập môn học Phật, là Đại Thừa Khởi Tín (khơi gợi lòng tin đối với Đại Thừa), chẳng phải là Tiểu Thừa, đương nhiên càng chẳng phải là nhân thiên thừa. Cảnh giới trong bộ sách ấy là cảnh giới của bậc Bồ Tát vừa mới kiến tánh, phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, tức là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Khởi Tín Luận là cảnh giới như vậy. Nếu xét theo Biệt Giáo, sẽ là cảnh giới của Sơ Địa Bồ Tát. Vì thế, được gọi là Đại Thừa thật sự, danh phù hợp thực, Đại Thừa Khởi Tín mà! Trong luận ấy, Thật Tướng và chân tướng chẳng thể nghĩ bàn của tâm tánh thảy đều được nêu tỏ.

“Thị tâm” (Tâm này): Cái tâm này là chân tâm, là bản tánh. Chẳng có cách nào diễn tả, mà cũng chẳng có cách nào tưởng tượng chân tâm. “Ly tâm duyên tướng” (Lìa tướng tâm duyên), “tâm duyên” là khởi tâm động niệm, duyên lự, phân biệt. Trong chân tâm trước nay chẳng dấy động ý niệm, chưa hề có phân biệt, nó giống như một tấm gương, hoặc giống như một ao nước lặng. Nước lặng thì tuyệt đối chẳng cuộn sóng, tình hình giống như thế, chưa hề động, bèn soi chiếu cảnh giới bên ngoài rành mạch, rõ ràng. Đấy là chân tâm. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tịnh cực quang thông đạt”, [nghĩa là] tịnh đến tột cùng, chân tâm sẽ hiện tiền, vì chân tâm là bất động, cái có thể động là vọng tâm. Chính vì sự thật có tình hình như vậy, cho nên trọng điểm trong sự giáo học của đức Phật là tu Định.

Nói thật ra, tu Định chính là khôi phục bản tánh. Chỉ cần khôi phục bản tánh, vô lượng trí huệ và đức năng trong bản tánh thảy đều hiện tiền. Nói cách khác, chẳng thể diễn tả những điều này được! Chẳng thể thốt thành lời, đức Phật nói suốt bốn mươi chín năm, những điều đức Phật đã nói đều là nói phương tiện, hy vọng chúng ta sẽ từ phương tiện mà lãnh hội chân thật. Chân thật [chỉ] có thể dùng tâm để hiểu, chẳng thể truyền trao bằng lời lẽ, ngôn ngữ bất lực!

“Thị cố, cử tâm tức thác” (Vì thế, động tâm bèn trật): “Cử tâm” (舉心) là vừa mới dấy lên ý niệm suy nghĩ, sai mất rồi! “Động niệm tức quai” (Dấy niệm bèn sai): Ý niệm vừa động liền trái nghịch tự tánh, chẳng phải là tự tánh. Chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, khi ấy chính là cảnh giới tự tánh hiện tiền. Hễ động niệm bèn trật, bèn mê; bất động là giác. Nếu chúng ta nắm vững nguyên tắc này, vâng theo nguyên tắc này để tu học, sẽ có hy vọng khai ngộ. Tham Thiền chẳng thể khai ngộ, học Giáo chẳng thể viên giải, gốc bệnh phát xuất từ phân biệt, chấp trước, khởi tâm động niệm. Dùng chú sớ của kinh điển để nghiên cứu thì sai bét mất rồi! Hễ nghiên cứu bèn mê. Những thứ ấy chẳng thể nghiên cứu được, đấy là chỗ khác biệt giữa Phật pháp và thế gian pháp. Vì vậy, quyết định chẳng thể dùng phương pháp của thế gian pháp để nghiên cứu Phật pháp, nhất định phải hiểu điều này!

“Trệ cú giả mê” (Vướng vào câu văn bèn mê), “cú” (句) [ở đây dùng để chỉ các câu văn trong] kinh điển. Thường nói “tử tại cú hạ” (chết ngắc nơi câu văn, ý nói khăng khăng chấp trước văn tự), có ý nghĩa ấy, đương nhiên là chẳng thể khai ngộ. Khai ngộ bèn sống sót nơi câu văn, kẻ đó (kẻ chẳng khai ngộ) chết ngắc nơi câu văn.

“Thừa ngôn giả táng” (Nương theo lời nói bèn bị chôn vùi), nghe giảng mà chấp trước ngôn ngữ thì cũng sai luôn! Mã Minh Bồ Tát dạy chúng ta, thái độ tu học phải là “ly ngôn thuyết tướng”, [nghĩa là] đừng chấp trước ngôn ngữ; “ly danh tự tướng”, [nghĩa là] đừng chấp trước danh tướng, thuật ngữ; “ly tâm duyên tướng”, [nghĩa là] đừng nên phân biệt, tư duy, tưởng tượng. Thái độ này hoàn toàn đúng như Quán Âm Bồ Tát đã dạy trong Tâm Kinh: “Dĩ thâm Bát Nhã Ba La Mật chiếu kiến” (Dùng Bát Nhã Ba La Mật sâu xa để soi thấy), đó là đã “chiếu kiến”. Vì sao? Tâm địa thanh tịnh, chẳng có khởi tâm, chẳng có động niệm, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước. Xem kinh giáo bèn dùng phương pháp này, nghe giảng kinh cũng là [dùng] phương pháp này. Tu học hết thảy các pháp môn đều chẳng lìa khỏi phương pháp này. Cho đến trong cuộc sống hằng ngày, mặc áo, ăn cơm, xử sự, đãi người tiếp vật cũng dùng phương pháp này. Vậy thì chúc mừng quý vị, mức độ thấp nhất là quý vị đã thành Viên Giáo Bồ Tát, đã thành Pháp Thân đại sĩ, chẳng phải là phàm phu. Ngay cả A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát cũng chẳng sánh bằng quý vị. Phải là như vậy thì mới có thể nhập môn Đại Thừa Phật pháp! Nếu là như vậy, quý vị vừa xem bộ Sớ Sao do tổ sư đã viết bèn hiểu ngay.

Nếu rớt vào tư duy, tưởng tượng, hoặc phân biệt, không chỉ là quý vị chẳng hiểu ý nghĩa của các kinh do đức Phật đã nói, mà đối với các chú giải của tổ sư đại đức, quý vị cũng chẳng tìm được cửa để vào! Bài Kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, nghĩa lý chân thật cách biệt chúng ta quá ư là xa! Mấu chốt là ở chỗ đắc pháp hay không, quý vị có thể nắm vững nguyên tắc ấy hay không? Nhưng tổ sư thật sự vô cùng từ bi, lại sợ quý vị thấy mấy câu ấy trong Khởi Tín Luận sẽ hiểu lầm ý nghĩa, [để rồi] đọc kinh cũng chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, giống như một gã đầu gỗ đối với kinh bổn, vậy thì có được hay chăng? Như vậy thì lại chẳng được! Như thế chính là rớt vào vô minh. Khởi tâm động niệm là sai, chẳng khởi tâm động niệm cũng trật, làm thế nào đây? Mấu chốt ở ngay chỗ này!

“Nhiên tắc đương như chi hà?” (Vậy thì hãy nên làm như thế nào?), câu này do Liên Trì đại sư nói. Liên Trì đại sư sợ chúng ta thấy mấy câu ấy sẽ nẩy sanh hiểu lầm, cho nên Ngài nói: “Túng nhiêu giam khẩu vong cơ” (Dẫu cho ngậm miệng, dứt bặt suy nghĩ), “giam khẩu” (緘口: ngậm chặt miệng) là chẳng nói, dứt bặt ngôn ngữ, chẳng nói nữa. [Kẻ nghe nói như vậy cứ hiểu lầm] “ly ngôn thuyết tướng” là chẳng nói gì nữa, [hiểu lầm] “ly tâm duyên tướng” là cũng chẳng suy nghĩ. “Vong cơ” (忘機) là không nghĩ ngợi, không khởi tâm, chẳng động niệm. “Y nhiên đọa lạc vô ký” (Vẫn nghiễm nhiên rớt vào vô ký), rắc rối to! Liên Trì đại sư nói kiểu này; thật ra, kể từ những năm đầu thời Đường, trong khi chú sớ kinh Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư cũng nói như vậy. Lão nhân gia nói theo phương diện Giải và Hành, có ý nghĩa giống hệt như [những gì tổ Liên Trì đang nói] ở đây: “Có Giải không Hành, tăng trưởng tà kiến. Có Hành không Giải, tăng trưởng vô minh”. Quý vị hãy chú tâm nghe kỹ cách nói của ngài Thanh Lương, rồi sau đó đối chiếu hai vị Mã Minh Bồ Tát và Liên Trì đại sư một phen, cũng có lẽ có thể thấu hiểu ý nghĩa chân thật.

Nói thật ra, đức Phật chưa từng khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, chẳng có ngôn ngữ để nói với chúng ta lời lẽ nhiều dường ấy, nói suốt bốn mươi chín năm. Đức Phật là “chẳng nói mà nói, nói mà chẳng nói”. Những vị đại Bồ Tát và các vị đại đệ tử của đức Phật cũng hết sức cao minh, dưới tòa của đức Thế Tôn, các Ngài “nghe mà không nghe, không nghe mà nghe”. Đó là pháp hội, tức các khóa giảng của chư Phật Như Lai, chẳng giống như chúng ta. Chúng tôi thật sự “có nói”, mọi người cũng thật sự “có nghe”. Nói cũng nói sai, nghe cũng hiểu lầm! Chúng ta làm chuyện này, cho nên người nói lẫn kẻ nghe đều chẳng khai ngộ. Nói cách khác, chúng ta nói mà cũng chẳng biết nói, nghe mà cũng chẳng biết nghe, mấu chốt ở ngay nơi đây.

Làm thế nào để chẳng rớt vào suy nghĩ tà vạy, mà cũng chẳng rớt vào vô minh? Do vậy, pháp Đại Thừa hiển thị sống động, hoạt bát, chẳng phải là chết lặng! Tịch mà Chiếu thì là hoạt bát, Chiếu mà Tịch bèn thanh tịnh. Tâm là tịch tĩnh, thanh tịnh; Dụng là linh hoạt, đấy là Đại Thừa Phật pháp. Dụng của phàm phu linh hoạt, nhưng tâm không thanh tịnh, chẳng phải là tịch diệt. Tâm của người Tiểu Thừa là tịch tĩnh, nhưng tác dụng chẳng hoạt bát, khô khan, cũng chẳng có lợi ích quá to lớn. Chỉ có Phật và Đại Thừa Bồ Tát thật sự đại tự tại, thật sự đắc đại thọ dụng, mà cũng chẳng rớt vào hai bên tà kiến và vô minh. Chúng ta phải mong tìm được đường ra từ chỗ này. Thật sự là nếu chẳng có cách nào để tìm cầu, hãy thật thà niệm Phật. Nói thật ra, đây là diệu pháp duy nhất. Niệm Phật phải đặc biệt chú ý hai chữ “thật thà”. Thật sự là thật thà, chắc chắn sẽ thành công. Chẳng thật thà, niệm suốt một đời cũng uổng công. Đến tột cùng, như thế nào là pháp thật thà, trong phần sau sẽ nói đến.

Đoạn kinh văn dưới đây chính là sáu phương Phật tán thán.

 

Nhị, tha Phật tán.

二、他佛讚。

(Hai, các vị Phật khác tán thán).

 Trong bản dịch của Huyền Trang đại sư là mười phương, bản dịch của La Thập đại sư là sáu phương. Người Hoa chuộng đơn giản, từ xưa tới nay [trong cách hành văn luôn] nhấn mạnh “giản, yếu, tường, minh” (đơn giản, trọng yếu, tường tận, rõ ràng). La Thập đại sư khế nhập sâu xa căn cơ của người Hoa, nên người Hoa đặc biệt thích niệm những bộ kinh do Ngài dịch. Xác thực là Ngài đã đạt tới khế cơ, khế lý. Bốn phương, bốn góc, trên, dưới [hợp thành mười phương], tỉnh lược bốn góc, chỉ có bốn phương và trên, dưới, [hợp thành] sáu phương Phật. Trên thực tế, sáu phương bao hàm mười phương. Xin xem kinh văn:

 

(Kinh) Đông phương diệc hữu  A  Súc  Bệ  Phật,  Tu  Di  Tướng

Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, như thị đẳng Hằng hà sa số chư Phật.

()東方亦有阿閦鞞佛。須彌相佛。大須彌佛。須彌光佛。妙音佛。如是等恆河沙數諸佛。

(Kinh: Phương Đông cũng có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, Hằng hà sa số chư Phật như vậy).

Đối với sáu phương Phật, cổ nhân giới thiệu mỗi vị mỗi khác. Trong Sớ Sao, Liên Trì đại sư giới thiệu khá cặn kẽ. Trước hết, chúng ta xem phần đoản văn trong Sớ Sao, rồi sau đấy mới lại thảo luận các ý nghĩa biểu thị pháp trong danh hiệu Phật. Phương Đông có bao nhiêu vị Phật? Vô lượng vô biên, “Hằng hà sa số” (Nhiều như số cát trong sông Hằng), số lượng chẳng cùng tận. Đối với danh hiệu Phật, chỉ nêu đại lược năm vị, đúng như trong thuở đức Thế Tôn tại thế, đại chúng tham dự pháp hội giảng kinh, thuyết pháp của Ngài rất đông. Các vị đệ tử thường tùy (thường theo hầu) của đức Phật là một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị, hội nào ắt cũng đến, chưa bao giờ vắng mặt. Ngoài Thường Tùy Chúng, còn có nhiều đại chúng xuất gia và tại gia, thường đến tham gia. Nhưng kết tập kinh, mỗi bộ kinh cũng chỉ kể tên mấy vị như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên; nêu tên những vị ấy nhiều hay ít khác nhau, danh hiệu mấy vị được nêu ra cũng khác nhau. Giống như trong phần đầu kinh Di Đà, nêu đại lược mười sáu vị trong số Thường Tùy Chúng, trong hàng Bồ Tát nêu đại lược bốn vị. Thật ra, số lượng Bồ Tát dự hội còn đông hơn các vị Thường Tùy Chúng. Vì sao không kể tên những vị khác, cứ khăng khăng nêu tên mười sáu vị này? Nhất định là có dụng ý. Nói cách khác, mấy vị ấy có mối quan hệ đặc biệt với pháp hội và pháp môn này! Từ danh hiệu của mấy vị ấy, chúng ta có thể nhận biết tánh chất của pháp hội này, tức là [nhận ra] tánh chất và công năng của kinh điển. Vì các vị đại đệ tử của đức Phật, mỗi vị đều có sở trường chuyên biệt, như ngài Xá Lợi Phất trí huệ bậc nhất, biểu thị pháp môn này là trí huệ bậc nhất. Mục Kiền Liên thần thông bậc nhất, [biểu thị] pháp môn này cũng là thần thông bậc nhất, biểu thị ý nghĩa ấy. Trong Tự phần, các vị Thanh Văn và Bồ Tát được liệt kê đã có ý nghĩa sâu xa như vậy, đức Thế Tôn vì chúng ta giới thiệu sáu phương Phật, há có lẽ nào những danh hiệu Phật được nêu lên lại có ngoại lệ ư? Trong mười phương, chư Phật nhiều ngần ấy, vì sao nêu tên năm vị này, mà chẳng nêu tên năm vị Phật khác? Xét theo thông lệ, chúng ta phải liễu giải, danh hiệu của mỗi vị bao hàm ý nghĩa hết sức sâu xa, hiển thị pháp môn và kinh điển chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sớ) Dẫn chư Phật tán giả, kiến thử Tịnh Độ pháp môn, nãi thiên Phật, vạn Phật, vô lượng chư Phật, dị khẩu đồng âm chi sở tán thán, đương đế tín vật nghi dã.

()引諸佛讚者,見此淨土法門,乃千佛萬佛,無量諸佛,異口同音之所讚歎,當諦信勿疑也。

(Sớ: Dẫn chư Phật tán thán để thấy pháp môn Tịnh Độ này được ngàn vị Phật, vạn vị Phật, vô lượng chư Phật khác miệng cùng lời tán thán, hãy nên tin chắc, đừng nghi ngờ).

Mười phương bao gồm ba đời. Mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai, chẳng có một vị Phật nào không tán thán kinh này, các Ngài tán thán theo cách nào? Vì hết thảy chúng sanh thường tuyên giảng bộ kinh này chính là tán thán. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng Tịnh Độ Tam Kinh, giới thiệu các thứ trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thì chính là Phật Thích Ca tán thán. Mười phương hết thảy chư Phật cũng giống như Phật Thích Ca, ở trong khu vực giáo hóa của chính mình, đối trước học trò của chính mình, cũng tuyên giảng ba kinh, cũng tán thán Tây Phương Tịnh Độ, khuyên mọi người niệm Phật vãng sanh, “vô lượng chư Phật, dị khẩu đồng âm”. Đại sư khuyên lơn, khích lệ chúng ta, “đương đế tín vật nghi” (hãy nên tin chắc chắn, đừng nghi ngờ). Phải thật sự tin tưởng, chớ nên nghi hoặc. Nếu quý vị ngờ vực, chẳng tin tưởng kinh này, cơ hội thành Phật trong một đời này đã bị luống uổng, đáng tiếc lắm!

 

(Sớ) Đường dịch cụ hữu thập phương, kim khuyết tứ ngung giả, văn tỉnh dã.

()唐譯具有十方,今缺四隅者,文省也

(Sớ: Bản dịch đời Đường chép đủ mười phương. Nay bản này thiếu bốn góc, tức là kinh văn tỉnh lược vậy).

“Đường dịch” là bản dịch của Huyền Trang đại sư, [trong bản ấy] đoạn kinh văn này là mười phương Phật. “Kim khuyết tứ ngung” (Nay thiếu bốn góc), bản dịch của La Thập đại sư đã tỉnh lược. Bản dịch của Huyền Trang đại sư là “trực dịch”, tức là dịch sát theo nguyên văn, cho nên có mười phương. La Thập đại sư dịch theo ý, chẳng theo sát nguyên văn, tức là phiên dịch những ý nghĩa chánh yếu.

 

(Sớ) Tiên Đông phương giả, cử phương thường pháp, diệc dĩ Đông biểu trí cố.

()先東方者,舉方常法,亦以東表智故。

(Sớ: Trước hết, nói đến phương Đông là tuân theo cách thức thông thường khi nói về phương hướng, mà cũng là vì phương Đông biểu thị trí huệ).

 Phương vị Đông, Nam, Tây, Bắc cũng đều có ý nghĩa biểu thị pháp.

 

(Sao) Thập phương giả, Trang sư dịch hữu tứ ngung, tắc thành thập phương. Kim chỉ lục giả, dĩ chánh nhiếp ngung, cố văn tỉnh dã.

()十方者,奘師譯有四隅,則成十方;今止六者,以正攝隅,故文省也。

(Sao: “Mười phương”: Ngài Huyền Trang dịch có bốn góc, nên thành mười phương. Nay [trong bản dịch này] chỉ có sáu phương, tức là trong sáu phương chánh đã bao gồm bốn phương bàng. Vì thế, tỉnh lược kinh văn).

Giải thích chỗ bất đồng giữa hai bản dịch, một bản kia là mười phương, bản này là sáu phương. Sáu phương cùng mười phương, nội dung như nhau, sáu phương chẳng ít, mười phương cũng chẳng nhiều. Chẳng tăng, chẳng giảm, hiểu là cách thức phiên dịch khác nhau thì là được rồi.

 

(Sao) Cử phương thường pháp giả.

()舉方常法者。

(Sao: “Cách thức thông thường khi nói về phương hướng”).

“Thường pháp” là thói quen. Người Hoa quen thói nói Đông, Nam, Tây, Bắc, chẳng nói Nam, Bắc, Tây, Đông, người Ấn Độ cũng nói như thế. Đấy là một thói quen.

 

(Sao) Kinh trung phàm cử thập phương, mỗi tiên Đông vi thủ.

()經中凡舉十方,每先東為首。

(Sao: Trong kinh, hễ nói đến mười phương, thường nhắc đến phương Đông trước hết).

Theo thói quen, xếp phương Đông lên đầu.

 

(Sao) Đông giả, ư thời vi Xuân, vạn vật sanh trưởng, hữu trí huệ nghĩa. Dĩ trí giả, vạn pháp chi tiên đạo.

()東者,於時為春,萬物生長,有智慧義。以智者,萬法之先導。

(Sao: Phương Đông xét theo thời tiết sẽ là mùa Xuân, vạn vật sanh trưởng. Lại có ý nghĩa là trí huệ, vì trí dẫn đường cho vạn pháp).

“Ư thời” (於時) nghĩa là phối hợp với bốn mùa, phương Đông tương ứng với mùa Xuân. Mùa Xuân vạn vật sanh trưởng, có ý nghĩa trí huệ, biểu thị ý nghĩa này. Phật pháp coi trọng trí huệ, Phật pháp mong cầu trí huệ rốt ráo viên mãn; vì thế, Trí dẫn dắt vạn pháp. Bất luận tông phái hay pháp môn nào, tám vạn bốn ngàn pháp môn, hay vô lượng pháp môn, mục tiêu chỉ có một, hoàn toàn là cầu trí huệ, chỉ là phương pháp và đường lối chẳng giống nhau mà thôi. Khai trí huệ, mục tiêu tu học của quý vị đã đạt được. Nói cách khác, phương pháp của quý vị nhất định là rất chánh xác, đã đạt tới mục tiêu. Nếu chẳng khai trí huệ, chẳng phải là bản thân pháp môn sai lầm, mà là do quý vị dụng công chẳng đúng pháp, hoặc là không khế cơ, cho nên quý vị chẳng thể khai ngộ. Vì thế, trong việc tu học, chọn lựa pháp môn là một khóa đề trọng yếu nhất.

Thuở đức Phật tại thế, quý vị chỉ cần gặp đức Thế Tôn, vấn đề ấy đã giải quyết xong. Đức Thế Tôn biết quan sát căn cơ, Ngài có thể thấy quá khứ của quý vị, quá khứ còn có đời quá khứ, từ vô lượng kiếp trong quá khứ cho đến nay, quý vị đời đời kiếp kiếp đã tu gì? Thấy quý vị căn tánh đã chín muồi, đức Phật bèn giới thiệu một pháp môn cho quý vị, hết sức khế cơ. Rất dễ dàng, mau thì vài ngày, chậm thì mấy tháng bèn thành công. Đó gọi là “ứng cơ thí giáo” (thuận theo căn cơ mà ban bố giáo pháp), khế cơ mà! Giống như đối với kẻ ngã bệnh, do thấy nguyên nhân gây bệnh rất chuẩn xác, khi cho thuốc thì uống thuốc vào, bệnh bèn trừ, mau chóng!

Đức Phật chẳng còn tại thế, hãy còn có các đệ tử Phật. Những vị đệ tử ấy cũng khá cao minh, nhưng xét căn cơ để chọn lựa pháp môn thì kém đức Phật một bậc, nhưng hãy còn có hiệu quả, có thể chậm hơn một chút. Gặp đức Phật thì vài ngày, vài tháng bèn thành tựu. Gặp đệ tử đức Phật, có thể phải vài năm hoặc hai mươi, ba mươi năm mới có thể thành tựu, đó là trong quá khứ. [Phật pháp có ba thời kỳ là] Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp, hiện thời là thời Mạt Pháp, lại còn đã qua một ngàn năm, những đệ tử Phật trong hiện thời kém xa thời Tượng Pháp và Chánh Pháp. Xác thực là chư vị phải hiểu sự thật này, mỗi đời một kém hơn, thật đấy! Chúng ta thấy các vị Liên Trì và Ngẫu Ích đại sư cách chúng ta năm trăm năm; nay chúng ta kém xa các Ngài! Ngẫu Ích đại sư viết bộ Yếu Giải trong chín ngày, nay chúng ta tốn thời gian suốt chín mươi ngày vẫn chẳng liễu giải ý nghĩa trong tác phẩm ấy, làm sao có thể so sánh được! Gần hơn một chút, chúng ta mở bộ Văn Sao của lão pháp sư Ấn Quang, so ra, vẫn thua kém Ngài một khoảng lớn.

Chúng ta phước quá mỏng, chẳng gặp thiện tri thức thật sự. Nếu chúng ta mong tu học thành tựu, đúng là hết sức gian nan. Trong các buổi giảng, tôi thường khuyên lơn, khích lệ đại chúng tìm vị nào làm thầy? Tìm Liên Trì đại sư, tôn Ngài làm thầy, tức là dùng Sớ Sao làm thầy. Hoặc tìm Ngẫu Ích làm thầy, tức là nương theo Yếu Giải để tu học. Chuyên công dốc sức nơi kinh A Di Đà thì hai bản chú giải ấy đủ rồi. Ngẫu Ích đại sư là tư thục đệ tử của ngài Liên Trì; nay chúng ta cũng là tư thục đệ tử của các vị Liên Trì và Ngẫu Ích, học theo các Ngài. Chư vị phải hiểu, đối với pháp thế gian và xuất thế gian, ngoại trừ bậc thiên tài, người thuộc căn tánh trung hạ mà mong thành tựu, nhất định là phải thâm nhập một môn, nhất định là phải theo một vị thầy. Hễ có sư thừa bèn có thể thành tựu. Học quá nhiều, học quá tạp, chẳng thể thành tựu!

 

(Sao) Cố thủ cử Đông phương, tức Xá Lợi Văn Thù thủ chúng ý dã.

()故首舉東方,即舍利文殊首眾意也。

(Sao: Vì thế, trước hết nói đến phương Đông là cũng có cùng ý nghĩa như xếp các vị Xá Lợi và Văn Thù đứng đầu đại chúng).

 Giống như vừa mở đầu kinh, nêu tên bậc thượng thủ của đại chúng, trong chúng Thanh Văn xếp ngài Xá Lợi Phất trí huệ bậc nhất, trong hàng Bồ Tát kể tên Văn  Thù  Sư  Lợi trí huệ bậc nhất,  nêu rõ điều chúng ta mong cầu chính là trí huệ, điều chúng ta tu tập cũng là trí huệ.

 

(Sớ) Cử lục phương giả, Thích Ca xử trung cố.

(Sao) Ký ngôn thượng hạ tứ phương, trung ương hà độc bất cử? Cái Thích Ca xử Sa Bà thế giới, dĩ bổn sở cư vi trung, tiền chi, hậu chi, tả chi, hữu chi, ngưỡng chi, phủ chi, thành lục phương dã.

()舉六方者,釋迦處中故。

()既言上下四方,中央何獨不舉?蓋釋迦處娑婆世界,以本所居為中,前之後之,左之右之,仰之俯之,成六方也。

(Sớ: Nêu lên sáu phương, vì Phật Thích Ca ở trung ương.

Sao: Đã nói trên, dưới và bốn phương, cớ sao chỉ riêng chẳng nói tới chính giữa? Ấy là vì Phật Thích Ca ngự trong thế giới Sa Bà, chính Ngài đã ở giữa. Trước, sau, phải, trái, ngửa lên, cúi xuống thành sáu phương).

“Trung” chẳng có vị trí cố định, lấy chính mình làm chính giữa. Chúng ta ở Đài Bắc là chính giữa, phía Bắc của Đài Bắc là Cơ Long, phía Nam là Tân Trúc. Nếu chúng ta đến Đài Trung, Đài Trung là trung. Chúng ta [ở Đài Bắc] coi Tân Trúc là Nam, nhưng ở Đài Trung thì Tân Trúc được gọi là Bắc. Vì vậy, bốn phương, bốn góc, trên, dưới phải tùy thuộc đang ở đâu mà nói. Đức Phật thuyết pháp trong thế giới Sa Bà, thế giới Sa Bà là trung, chẳng phải là nói tới quả địa cầu này! Thuở đức Phật giảng kinh tại Ấn Độ, Ngài cũng chẳng hề nói Ấn Độ là trung, mà cũng chẳng nói địa cầu là trung. Do đó, Tây Phương Cực Lạc thế giới ở phía Tây của thế giới Sa Bà, chẳng phải là phía Tây của địa cầu. Dưới đây, giới thiệu đức hiệu của năm vị Phật.

 

(Sớ) A Súc Bệ giả, thử vân Bất Động. Pháp Thân bất động cố. Nhất vân, bất vị nhị biên chi sở động cố.

()阿閦鞞者,此云不動。法身不動故,一云,不為二邊之所動故。

(Sớ: A Súc Bệ cõi này dịch là Bất Động, vì Pháp Thân bất động, có thuyết nói là vì chẳng bị lay động bởi hai bên).

A Súc Bệ Phật  (Akṣōbhya):  A dịch là Vô,  cũng dịch là Bất.  Súc Bệ dịch là Động, [A Súc Bệ] có nghĩa là Vô Động hoặc Bất Động.

 

(Sao) Pháp Thân giả, bất sanh, bất diệt, vô khứ, vô lai.

()法身者,不生不滅,無去無來。

(Sao: Pháp Thân chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đến, chẳng đi).

“Pháp Thân”: Tỳ Lô Giá Na Phật được nói trong kinh Hoa Nghiêm chính là Pháp Thân Phật. Danh hiệu ấy (Vairōcana) là phiên âm tiếng Phạn, có nghĩa là Biến Nhất Thiết Xứ (trọn khắp hết thảy mọi nơi). Triết học hiện đại gọi điều này là “bản thể”, tức bản thể của vạn hữu trong vũ trụ. Phật pháp gọi nó là Pháp Thân (Dharmakāya), còn danh từ triết học gọi là bản thể. Tất cả hết thảy các pháp trong vũ trụ đều sanh từ Pháp Thân. Pháp Thân có thể sanh ra vạn pháp, bản thân nó chẳng có sanh diệt, bản thân nó là bất sanh, bất diệt. Trọn khắp hết thảy mọi nơi, há có đến, đi? Giống như hư không, hư không trọn khắp hết thảy mọi nơi, có bao giờ [quý vị] thấy hư không có đến hay đi? Hư không chẳng có đến hay đi.

Chư vị phải biết: Nói Pháp Thân cũng thế, mà nói bản thể cũng vậy, nó chính là chân tâm bản tánh của chính chúng ta. Chân tâm bất sanh, bất diệt, chân tâm chẳng có đến đi. Hư không pháp giới, hết thảy vạn vật đều do chân tâm biến hiện. Chân tâm là có thể biến (năng biến), vạn pháp là cái được biến (sở biến). Vô lượng vô biên thế giới của chư Phật, kể cả Tây Phương Cực Lạc thế giới lẫn A Di Đà Phật, đều do tự tánh biến. Vì sao tự tánh có thể biến? Quý vị đêm nằm ngủ có nằm mộng hay không? Giấc mộng ấy chẳng phải là do chính quý vị biến ra ư? Tâm có thể biến thành mộng cảnh, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là một giấc mộng lớn, do chân tánh của chúng ta biến ra mộng cảnh. Vì thế, trong kinh Bát Nhã, đức Phật đã dạy: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Cảnh giới này “chẳng phải có, chẳng phải không”, chẳng thể nói nó không có, vì mộng cảnh thật sự tồn tại. Quý vị cũng chẳng thể nói nó là thật sự có. Vì sao? Tỉnh giấc bèn chẳng có. Đức Phật dạy: Hễ mê thì có, khi mê “trong mộng rành rành phô sáu nẻo”, có tam thiên đại thiên thế giới, có lục đạo luân hồi. “Giác rồi ba cõi rỗng toang hoang”, sau khi đã giác bèn chẳng có, giống như nằm mộng, tỉnh giấc bèn chẳng có.

Đại thiên thế giới do đâu mà có? Tự tánh mê bèn hiện cảnh giới ấy. Nếu giác ngộ tự tánh, cảnh giới ấy chẳng có. Vì thế, chẳng thể nói cảnh giới này là có, cũng chẳng thể nói là nó không có. Chẳng phải có, chẳng phải không, đấy là nói chân tướng với quý vị, giống như nằm mộng: Chẳng thể nói cảnh giới trong mộng là có, mà cũng chẳng thể nói là nó không có. Quý vị nói “chẳng có”, xác thực là có cảnh giới hiện tiền. Tỉnh giấc vẫn nhớ rất rõ ràng. Quý vị nói “có” thì sau khi tỉnh giấc, rốt cuộc là vẫn tìm chẳng thấy! Hoàn cảnh trên thực tế xác thực là mộng cảnh. Vì thế, đức Phật dạy chúng ta phải quán như thế này: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như thế”.

Quý vị có cách nhìn như vậy thì cũng rất tự tại. Vì sao? Trong hết thảy các pháp, chẳng có được, mất. Tất cả hết thảy phiền não sanh từ đâu? Sanh từ trong được, mất. Quý vị hiểu đó là mộng, rỗng tuếch. Có thì cũng rất tốt, mà Không Có thì cũng rất tốt, sung sướng lắm, hạnh phúc lắm! Vì thế, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, phiền não thảy đều chẳng có. Do vậy có thể biết: Những chấp trước, phân biệt, vọng tưởng, phiền não, nói thật ra, chẳng có mảy may ý nghĩa gì, đều chẳng phải là chân thật. Giống như quý vị nằm mộng, trong mộng sanh ra phiền não, trong mộng có chấp trước, hoàn toàn sai lầm, chẳng có một pháp nào là chân thật. Đây là nói tâm tánh có thể biến, bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi.

 

(Sao) Diệu Giác địa vô sở tăng.

()妙覺地無所增。

(Sao: Nơi địa vị Diệu Giác chẳng tăng).

 Diệu Giác là thành Phật. Đã thành Phật, tâm tánh có phải là rạng rỡ thêm chút nào hay không? Chẳng có! Vẫn là dáng vẻ như cũ, tuyệt đối chẳng tăng thêm tí ti nào!

 

(Sao) Vô minh địa vô sở giảm.

()無明地無所減。

(Sao: Nơi địa vị vô minh chẳng giảm).

 “Vô minh địa” là đọa lạc trong địa ngục A Tỳ, trong tâm tánh của quý vị có thiếu khuyết tí xíu nào hay không? Chẳng có. Giống y như chúng ta nằm mộng, gặp một giấc mộng đẹp, mộng thấy đức Phật giảng kinh, tham gia pháp hội của đức Phật. Đức Phật xoa đỉnh đầu chúng ta thọ ký, hay lắm! Tâm tánh của chúng ta có tăng thêm chút nào hay không? Chẳng có! Lại gặp một cơn ác mộng, mộng thấy rớt vào vạc dầu, lên núi đao trong địa ngục. Vào địa ngục chịu các tội khổ. Khi tỉnh giấc, tâm tánh của chúng ta có giảm thiểu tí ti nào chăng? Chẳng có! Chẳng tăng, chẳng giảm, xác thực là như vậy. Thành Phật cũng không tăng thêm một tí nào, vào địa ngục cũng chẳng giảm bớt tí nào. Đó là chân tánh, đấy mới là thật. Nếu có tăng, giảm, có đến, đi, có sanh, diệt, đấy đều chẳng phải là thật. Tâm tánh còn gọi là Chân Như, Chân (真) là chẳng giả, Như (如) là vĩnh viễn bất biến. Vĩnh viễn là tình trạng như vậy; đó là Chân Như. Chân Như chính là bản thể của hết thảy vạn pháp.

 

(Sao) Trạm tịch, thường trụ, như như bất động cố.

()湛然常住,如如不動故。

(Sao: Vì lặng trong, thường trụ, như như bất động).

 “Trạm” (湛) là tỷ dụ. Giống như nước rất sạch, chẳng nhiễm mảy trần. Rất tĩnh lặng, chẳng có sóng gió. Nước phẳng lặng, thanh tịnh, nhìn thấu suốt từ mặt nước đến tận đáy, rành rẽ, rõ ràng, nên gọi là “trạm nhiên” (湛然). Tỷ dụ cái tâm vốn thanh tịnh như thế. Chúng ta đã mê, hoặc là nói tâm thủy của chúng ta đã động, đã động thì chẳng thật. Chân tâm trước nay chưa hề động, trước nay chưa hề nhiễm. Hiện thời cũng chẳng nhiễm. Dẫu đọa trong tam đồ hoặc đọa địa ngục, vẫn chẳng nhiễm. Rốt cuộc những điều ấy là chuyện như thế nào? Đức Phật bảo: Đó là chuyện thuộc về vọng tâm, chẳng phải là chuyện thuộc về chân tâm. Do đã mê nên mới có chuyện này, hễ giác thì căn bản là chẳng có những chuyện này. Lời này cũng khiến cho chúng ta hết sức khó hiểu. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã nêu một tỷ dụ rất thú vị. Tỷ dụ ấy khiến cho chúng ta thấu hiểu vọng cảnh vì sao là hư vọng. Đức Phật nêu một thí dụ: Ví như mắt chúng ta bị bệnh, bèn nhìn thấy quanh đèn có một quầng sáng. Quầng sáng ấy là vọng cảnh. Hễ mê bèn có huyễn tướng; đã ngộ bèn chẳng có, nơi đèn quyết định chẳng có quầng sáng. Người mê trông thấy lục đạo luân hồi, tam thiên đại thiên thế giới, chứ người ngộ bèn chẳng có.

Do đó, kinh Hoa Nghiêm nói: Chư Phật, Bồ Tát đặc biệt chiếu cố hàng Bồ Tát từ Bát Địa trở lên. Vì sao? Từ Bát Địa trở lên, tới cuối cùng các Ngài sẽ đoạn sanh tướng vô minh. Hễ đoạn được sanh tướng vô minh bèn siêu việt, đại thiên thế giới chẳng có nữa, các Ngài bèn ra đi, cũng chẳng độ chúng sanh. Đối với những vị đại Bồ Tát ấy, chư Phật Như Lai hằng ngày ở cùng chỗ với họ, thường khuyên dạy, hướng dẫn họ, mong mỏi điều gì? Họ có năng lực phá một phẩm vô minh ấy, nhưng chẳng phá. Đó là đại từ đại bi, “lưu hoặc nhuận sanh” (留惑潤生: giữ lại phiền não hòng lợi lạc chúng sanh). Chẳng phá một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng ấy, vẫn lưu lại trong chốn mê mộng để độ chúng sanh trong mộng. Vì đã phá một phẩm vô minh ấy, giống như tỉnh giấc mơ, mộng cảnh hoàn toàn chẳng có. Nằm mơ mà có lúc biết chính mình đang nằm mơ, nằm mơ mà chẳng cần tỉnh giấc, ở trong mộng để độ chúng sanh trong mộng. Chuyện là như vậy đó, điều này được gọi là “đại từ, đại bi”. Vị ấy vừa tỉnh giấc, bèn chẳng có nữa, hoàn toàn thoát ly những huyễn cảnh trong mộng. Vị ấy có năng lực ra đi hay không? Có năng lực! Có năng lực, nhưng chẳng thoát ly, vào trong mười pháp giới để độ chúng sanh. Đó là “đại từ đại bi, lưu hoặc nhuận sanh”, tức là chừa lại một phẩm sanh tướng vô minh, đoạn sạch tất cả hết thảy phiền não, nhưng một phẩm ấy chẳng đoạn. Phẩm ấy được gọi là Sanh Tướng, hiện tướng y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới.

Các nhà khoa học và triết gia hiện thời đều đang tìm tòi vũ trụ do đâu mà có? Vạn vật do đâu mà có? Đức Phật đã nói rõ ràng từ lâu, do sanh tướng vô minh biến hiện! Hễ có thứ ấy (sanh tướng vô minh), [vạn vật và vũ trụ] bèn biến hiện. Chẳng có thứ ấy, muôn vàn hình tượng trong thế gian này sẽ chẳng có, giác rồi ba cõi trống toang hoang!

 

(Sao) Nhị biên giả, hữu vô dã. Hữu bất năng sử chi trước tướng, vô bất năng sử chi lạc không. Bất đoạn, bất thường, nhị bất động cố.

()二邊者,有無也,有不能使之著相,無不能使之落空。不斷不常,二不動故。

(Sao: “Hai bên” là Có và Không. Đối với Có, nó không thể khiến cho ta chấp tướng Có. Đối với Không, nó chẳng thể khiến cho ta rớt vào cái Không. Chẳng đoạn, chẳng thường, đối với hai bên đều bất động).

Các nhà khoa học gọi Nhị Biên là “tương đối”. Có và Không là một cặp [đối lập]. Dựa theo đó để suy rộng ra, động tĩnh là một cặp, lớn nhỏ là một cặp, dài ngắn là một cặp. Nói chung, những gì quý vị có thể tưởng tượng, có thể nói ra được, đều là tương đối. Lìa khỏi tương đối, ngôn ngữ dứt bặt, chẳng thể thốt nên lời! Bất động là vượt ngoài tương đối, vượt thoát hai bên. “Hữu bất năng sử chi trước tướng, vô bất năng sử chi lạc không” (Đối với Có, nó không thể khiến cho ta chấp tướng Có. Đối với Không, nó chẳng thể khiến cho ta rớt vào cái Không). Vượt trỗi hai bên, chẳng phải Không, chẳng phải Có. “Đoạn thường” cũng là tương đối.

 

(Diễn) Hữu, vô, đoạn, thường, giai thị vọng tâm kế độ.

()有無斷常,皆是妄心計度。

(Diễn: Có, không, đoạn, thường, đều là vọng tâm so đo).

“Kế” là kế giảo (計較: so sánh), là phân biệt; “độ” là độ lượng (度量: đo lường), tức là chấp trước. “Kế độ” là phân biệt, chấp trước.

 

(Diễn) Nhược ly vọng tâm, tự vô nhất thiết pháp sai biệt chi tướng dã.

()若離妄心,自無一切法差別之相也。

(Diễn: Nếu lìa vọng tâm, sẽ chẳng có tướng sai biệt của hết thảy các pháp).

Có thể thấy toàn bộ đều là do vọng tâm quấy phá. Vọng tâm sanh ra khá nhiều quan niệm sai lầm, cách nghĩ sai lầm, cách nhìn sai lầm. Tư tưởng và kiến giải sai lầm thì ngôn ngữ và tạo tác của chúng ta cũng lầm lạc theo, quả báo về sau là khổ chẳng thể nói nổi! Hoặc Nghiệp Khổ: Mê hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, vĩnh viễn chẳng ngơi, đó là tướng luân hồi, là cái nhân của sự luân hồi. Do vậy mà có luân hồi! Chúng ta biết đạo lý này; sau đấy, quý vị mới thấu hiểu luân hồi đáng sợ. Tướng luân hồi là ngày càng đi xuống, chẳng thể tiến lên, giống như nước xoáy, càng ngày càng chìm xuống dưới, mỗi đời một kém hơn đời trước. Vì sao? Quý vị tích lũy nghiệp, nhất định là ác nghiệp nhiều, thiện nghiệp ít, đời đời kiếp kiếp tạo tác ác nghiệp nhiều, quả báo trong đời sau, kiếp sau của quý vị nhất định chẳng bằng hiện thời. Đến đời sau lại tạo ác nghiệp, đời kế tiếp lại kém hơn. Do vậy, mỗi đời một khổ hơn, mỗi đời một trầm luân hơn, đáng sợ quá! Rất khó tiến lên một tầng cao hơn.

Tình hình trên thực tế là ngày càng tệ hơn, bản thân chúng ta mỗi đời một tệ hơn đời trước. Đó là chân tướng, đấy mới là đáng sợ. Có mấy ai có thể giống như Phật pháp đã nói: Thật sự đoạn ác, tu thiện, tích lũy công đức, suốt một đời thật sự thực hiện [những điều ấy], quả báo trong đời sau sẽ tăng cao hơn đời này, đúng là đã ít lại càng ít hơn. Đại đa số, đừng nói là người thế gian, ngay cả người học Phật cũng chẳng được, đều chẳng thể nâng cao cảnh giới của chính mình, huống hồ những kẻ chẳng học Phật, những kẻ mê muội!

Hiểu rõ trạng huống sự thật này, mới biết tầm trọng yếu của việc cầu sanh Tịnh Độ. Vì chúng ta trong một đời này, trừ pháp môn này ra, có thể nói là bất cứ pháp môn nào, tuy xét theo Lý chẳng có sai biệt, nhưng trên sự thật, nếu chúng ta tu học [những pháp môn ấy] thì có thể nói là đều chẳng thể thành tựu! Nguyên nhân ở chỗ nào? Phải đoạn phiền não. Phải đoạn Kiến Tư phiền não thì mới có thể vượt thoát lục đạo luân hồi. Nếu chẳng thể vượt thoát lục đạo luân hồi, quý vị sanh lên Sắc Giới Thiên, hoặc sanh trong Vô Sắc Giới Thiên đều vô dụng. Chỉ là thọ mạng dài lâu một chút; khi thọ mạng đã hết, vẫn phải đọa lạc, vẫn phải luân hồi! Nói cách khác, thoát tam giới là hạn mực thấp nhất. Quý vị chẳng thể vượt thoát, phiền phức sẽ to lớn. Nhưng nếu muốn vượt thoát, há có phải là dễ dàng ư?

Chẳng cần nói tới vượt thoát luân hồi, vượt thoát Dục Giới đã chẳng dễ dàng! Dục Giới gồm sáu tầng trời. Vượt khỏi Dục Giới bèn đến Sơ Thiền, Tứ Thiền có mười tám tầng trời. Đến tầng trời thứ nhất [của Sắc Giới] là Sơ Thiền, quý vị hãy xem [chính mình] có bản lãnh vượt thoát hay chăng? Trời và người trong Dục Giới có ngũ dục, tức là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, có những dục vọng ấy, có ý niệm ấy, quý vị có năng lực đoạn trừ ngũ dục tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê hay không? Chẳng có ý niệm ấy! Đừng nói là không có những sự ấy, [nếu] ngay cả ý niệm ấy cũng chẳng có thì được, quý vị có thể đạt đến Sơ Thiền Thiên, có thể vượt thoát Dục Giới. Nếu còn có ý niệm ấy, còn khởi tâm động niệm, quý vị vẫn thuộc vào Dục Giới, chẳng thể nào vượt thoát Dục Giới. Quý vị bèn biết chuyện này khó lắm! Nhất định phải biết là thật sự khó thì mới có thể khăng khăng một mực niệm Phật, mới biết pháp môn này dễ dàng, là đạo dễ hành!

Chỉ có pháp môn này đáng tin cậy. Chỉ có pháp môn này thì mới có thể cứu giúp; ngoài pháp môn này ra, chẳng có cách nào cứu được! Như vậy thì mới hoảng nhiên đại ngộ: Vì sao mười phương hết thảy chư Phật Như Lai rát miệng buốt lòng khuyên dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ? Chính vì các pháp môn khác quá khó! Quý vị hãy xem đức Phật giảng bất cứ bộ kinh nào, giảng bất cứ pháp môn nào khác, có mười phương chư Phật đến tán thán hay chăng? Trong hết thảy các kinh, chúng ta thấy: Mười phương chư Phật tán thán, chỉ có hai bộ kinh là kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ. Đấy là lòng từ bi và nguyện vọng chân thật của đức Phật, mong mỏi bọn chúng sanh khổ nạn chúng ta sẽ mau chóng thành Phật. Dưới đây, đại sư lập ra một đoạn vấn đáp.

 

(Sao) Vấn: Đông thuộc Xuân sanh, ư quái vi Chấn. Chấn giả, động dã, vân hà Phật hiệu Bất Động?

()問:東屬春生,於卦為震。震者,動也。云何佛號不動?

(Sao: Hỏi: Phương Đông thuộc về mùa Xuân, là sanh trưởng. Xét theo Bát Quái, [phương Đông] thuộc quẻ Chấn. [Theo kinh Dịch], “quẻ Chấn là động”, cớ sao Phật hiệu là Bất Động?)

Phương Đông, trong bốn mùa ứng với mùa Xuân; trong Bát Quái, tương ứng với quẻ Chấn. Chấn là tướng động.

 

(Sao) Đáp: Dĩ thị tức động, tức tĩnh, ứng vạn biến nhi thường tịch, cố vân Bất Động. Hoa Nghiêm dĩ Đông phương vi Bất Động Trí, chánh thử ý dã.

()答:以是即動即靜,應萬變而常寂,故云不動。華嚴以東方為不動智,正此意也。

(Sao: Đáp: Bởi lẽ, động chính là tĩnh, tĩnh chính là động, tương ứng với muôn vàn biến hóa mà thường tịch, nên nói là Bất Động. Kinh Hoa Nghiêm coi phương Đông là Bất Động Trí chính là vì ý này).

Ý nghĩa hết sức sâu xa, hết sức viên mãn, nói rõ chuyện “động tĩnh như một” thường được nói trong Phật pháp. Phàm phu chúng ta có phân biệt, chấp trước, đó là phiền não tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay, chẳng hiểu rõ chân tướng. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, rốt cuộc là động hay bất động? Là động. Đức Phật lại còn đi khắp nơi giảng kinh, thuyết pháp. Chúng ta đọc Phật Bổn Hạnh Kinh[18], hoặc xem Thích Ca Phương Chí[19] sẽ biết Thích Ca Mâu Ni Phật dạo khắp toàn cõi Ấn Độ. Từ phía Bắc, nay là Ni Bạc Nhĩ (Nepal), Ngài xuất sanh ở nơi ấy, cho đến Tích Lan (Ceylon), hiện thời là Tư Lý Lan Kha (Sri Lanka)[20], là cực Nam của Ấn Độ, đi khắp lưu vực sông Hằng. Ngài đi khắp nơi, đến khắp nơi để giảng kinh, thuyết pháp, Ngài động! Thân động, miệng động, tâm bất động. Trong tâm chưa hề khởi tâm động niệm, trước nay chưa hề có phân biệt, chấp trước, trong động mà có bất động, trong bất động có động; vì vậy, Ngài vẫn bất động. Vì thế, Phật pháp dùng tiêu chí (logo) ấy, [tức là] dùng Pháp Luân (Ḍharmacakra) để biểu thị pháp. Pháp Luân là tròn, vành tròn là động, biểu thị sự phổ độ chúng sanh, giống như kinh Đại Thừa thường nói: Đáng nên dùng thân gì để độ bèn hiện thân ấy, tùy thuận cái tâm của chúng sanh, ứng với khả năng tiếp nhận của họ. Tâm ấy vĩnh viễn bất động, tâm vòng tròn bất động, vòng tròn là động. Vành tròn là có, tâm vòng tròn là không. Do vậy, vòng tròn biểu thị “Không và Có chẳng hai, động và tĩnh như nhau”.

Đoạn này nhằm nói lên ý nghĩa ấy. “Tức động, tức tĩnh”, động và tĩnh đồng thời. Chúng ta học Phật phải nắm được nguyên tắc này: Trong cuộc sống hằng ngày, tâm phải thanh tịnh, tâm phải rỗng rang, trong tâm chớ nên có chút gì! Lục Tổ đại sư đã nói rất hay: “Vốn chẳng có một vật”. Tâm chúng ta chẳng rỗng rang, tâm bèn hỏng. Tâm vốn là rỗng rang, trong tâm quý vị nhồi nhét đầy nghẹt, những điều vướng mắc trong dạ quá nhiều, quá tạp, tâm bèn hỏng bét. Tâm đã hỏng, làm sao thân có thể tốt đẹp cho được? Vì thế, thân cũng có rất nhiều bệnh tật, đau đớn. Truy tìm cội nguồn thì chính là vì trong tâm quý vị có thứ này, thứ nọ.

Người tu hành, người đắc đạo, đắc đạo gì vậy? Nói thật ra, thứ gì cũng chẳng đạt được, đó mới là đắc đạo. Người đắc đạo thứ gì cũng đều chẳng đạt được; trong kinh, đức Phật đã nói rất minh bạch. Đức Phật hình dung một người thành Phật, thành Phật là đạt được gì? “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc” (Viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ chẳng có gì để đạt được). Chẳng đạt được gì, người ấy bèn viên mãn Bồ Đề. Hễ có gì để đạt được, Bồ Đề chẳng viên mãn. Khi nào ta chẳng có gì để đạt được, quý vị cũng sẽ viên mãn. Tâm phải rỗng rang, quyết định là chớ nên có vướng mắc. Thân phải động, thân là một cỗ máy, hễ bất động bèn rỉ sét, hễ bất động bèn hỏng. Thân phải động, tâm phải tĩnh, đó là đạo để khỏe mạnh, trường thọ. [Đó là điều] người hiện thời thích nghe nhất. Người hiện thời bảo chuyện này là hiện thực. Thật ra, hiện thời có mấy kẻ hiểu điều hiện thực này? Điều hiện thực thật sự là gì? Chính là như kinh đã nói: “Bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, không tăng, không giảm”. Đó là hiện thực, mọi người đã sơ sót chuyện này. Đức Phật rát miệng buốt lòng nhắc nhở chúng ta, chúng ta vẫn coi rẻ chuyện ấy, chỉ lo dấy vọng tưởng mong cầu thân thể khỏe mạnh, trường thọ, có thể làm được hay không? Chẳng làm được! Họ đã dụng tâm sai lầm! Dụng tâm đúng, vấn đề bèn được giải quyết. Dụng tâm sai, dấy vọng tưởng, vô dụng!

“Ứng vạn biến nhi thường tịch” (Tương ứng với muôn vàn biến hóa mà thường tịch): Chư Phật, Bồ Tát đã nêu gương rất tốt đẹp cho chúng ta. Nói thật ra, cũng chỉ có thường tịch thì mới có thể ứng vạn biến. Nay chúng ta chẳng có năng lực ấy. Vì sao? Tâm chúng ta thường động, chẳng phải là thường tịch. Thường động là vọng tưởng, vọng niệm. Ý niệm sanh diệt do vọng tâm làm chủ, vọng tâm đang quấy phá. Do đó, chúng ta chẳng thể ứng phó xã hội biến hóa vô cùng trong hiện tiền. Xã hội biến đổi, lòng người biến đổi; hiện thời, làm người thật khổ! Phương pháp duy nhất là cầu sanh Tịnh Độ, có thể làm được hay không? Quyết định là có thể làm được! Tiếp đó, đại sư trích dẫn kinh Hoa Nghiêm, “dĩ Đông phương vi Bất Động Trí” (coi phương Đông là Bất Động Trí), có ý nghĩa biểu thị pháp giống như A Súc Bệ Phật trong kinh Di Đà. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 260

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm hai mươi:

 

(Sớ) Tu Di Tướng giả, Phật tướng vô tận, như Tu Di cố.

()須彌相者,佛相無盡,如須彌故。

(Sớ: Tu Di Tướng: Phật tướng vô tận, như núi Tu Di).

 Vị Phật thứ hai trong phương Đông có Phật hiệu là Tu Di Tướng (Mērudhvaja); ba Phật hiệu kế tiếp đều có chữ Tu Di (Śumēru), dụng ý biểu thị pháp hết sức rõ rệt. “Phật tướng vô tận”: Không chỉ là ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Kinh điển gọi [thân tướng có] ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo là Liệt Ứng Thân (劣應身: Ứng thân tương ứng với căn cơ kém cỏi), đó là thân thị hiện trong thế giới Sa Bà. Đây đều là thuận theo cái tâm của chúng sanh mà ứng với khả năng nhận biết của họ. Vì Phật chẳng có tướng, cho nên mới có thể hiện vô tận tướng. Chúng sanh chấp trước tướng của chính mình, nhận thức, chấp chặt cái tướng ấy; do vậy, chẳng thể biến hiện tướng thứ hai. Sai biệt ở chỗ này! Kinh Đại Thừa nói về Báo Thân Phật: “Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo”. Như kinh Hoa Nghiêm tán thán Tỳ Lô Giá Na Phật, kinh Tịnh Độ ca ngợi A Di Đà Phật, đều là vô lượng tướng hảo. Ở đây, Tu Di là tỷ dụ, dưới đây là lời chú giải.

 

(Sao) Tu Di, thử vân Diệu Cao. Chúng bảo sở thành viết Diệu, huýnh xuất quần sơn viết Cao. Phật chi tướng hảo, bách phước sở thành, vô bất cụ túc, thị chi vị Diệu. Nhân, thiên, Nhị Thừa, cập chư Bồ Tát, tướng hảo giai mạc năng cập, thị chi vị Cao.

()須彌,此云妙高,眾寶所成曰妙,迥出群山曰高。佛之相好,百福所成,無不具足,是之謂妙;人天二乘,及諸菩薩,相好皆莫能及,是之謂高。

(Sao: Tu Di, cõi này dịch là Diệu Cao. Do các báu hợp thành, nên gọi là Diệu. Vượt trỗi các núi là Cao. Tướng hảo của Phật do trăm phước hợp thành, không gì chẳng trọn đủ, nên gọi là Diệu. Tướng hảo của người, trời, Nhị Thừa và các Bồ Tát đều chẳng thể sánh bằng, nên gọi là Cao).

“Tướng” do đâu mà có? Chúng ta phải hiểu đạo lý này. Trong kinh luận, đức Phật bảo chúng ta: Tướng của hết thảy chúng sanh do nghiệp lực biến hiện. Tướng đẹp xấu chính là do nghiệp thiện ác, tốt xấu hiện tiền. Người phước báo to lớn vừa nhìn bèn thấy là tướng tốt, phước tướng! Có thể thấy là các thầy xem tướng đoán mạng thường nói: “Tướng chuyển theo tâm”. Lời ấy là thật. Tâm thiện, tướng mạo hiền lành. Tâm ác, tướng mạo khiến cho người ta vừa nhìn bèn cảm thấy có chút sợ hãi. Có thể thấy là “thành ư trung” (lòng thành bên trong), nhất định là “hình ư ngoại” (tỏ lộ ra hình tướng bên ngoài), chẳng có cách nào giấu diếm! Người thế gian dùng sự thông minh để giấu diếm dẫu khéo léo cách mấy, [chỉ] có thể lừa gạt những kẻ ngu, chứ đối với những kẻ giàu kinh nghiệm học vấn, hoặc người có học vấn thật sự, sẽ chẳng có cách nào che giấu, vừa thấy mặt liền hiểu rõ.

Đối với Phật tướng, tuy đức Phật đã thành Phật, nếu Ngài chẳng tu phước, chúng ta ngẫm xem, tướng Phật có tốt đẹp hay không? Đương nhiên là tốt đẹp. Vì sao? Đức Phật đã chứng đắc tâm tánh viên mãn, tự tánh là viên mãn, há lẽ nào tướng mạo chẳng viên mãn? Nhưng sau khi đức Phật đã thành Phật, nhất định vẫn dùng thời gian một trăm kiếp để chuyên tu phước, để tu tướng hảo. Cớ gì lại phải làm như thế? Chư vị phải biết: Thảy đều là làm cho chúng sanh thấy, khuyến khích chúng sanh “tu phước là trọng yếu”, đó là lời thật. Nếu chẳng kiến tánh, tướng mạo sẽ do nghiệp lực thiện hay ác biến hiện. Sau khi đã kiến tánh, [tướng mạo] hoàn toàn là do Tánh Đức lưu lộ, khác hẳn! Do vậy có thể biết: Tu phước hết sức trọng yếu; nhất định phải biết tiếc phước và tu phước. Vô lượng vô biên phương pháp tu hành của hàng Đại Thừa Bồ Tát, quy nạp lại sẽ là sáu đại cương lãnh. Kinh Đại Thừa gọi những cương lãnh ấy là Lục Độ (ṣaṭ-pāramitā, Lục Ba La Mật). Đức Phật dạy chúng ta tu học Đại Thừa, xử sự, đãi người tiếp vật đều chẳng thể rời khỏi sáu nguyên tắc ấy. Nương theo đó tu học là tu phước; ở đây nói là “bách phước sở thành” (do trăm phước tạo thành). Nương theo phương pháp ấy để tu, thật sự có phước.

Bố Thí (Dāna) là buông xuống. Phương pháp tu hành Lục Độ và phương pháp tu hành bình thường hoàn toàn bất đồng. Nói thật ra, [Lục Độ nhằm dạy] chúng ta giữ tấm lòng như thế nào, xử sự như thế nào trong xử sự, đãi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày, nguyên tắc là như vậy đó. Buông xuống là gì? Nói thật ra, thân, tâm, thế giới hết thảy đều phải buông xuống. Buông xuống là đừng để nó vướng mắc trong tâm. Tâm phải thanh tịnh, phải bình đẳng, phải chân thành, phải cung kính, phải từ bi. Những điều ấy đều là Tánh Đức vốn sẵn có trong bản tánh của quý vị. Khi tâm đạt đến thanh tịnh, những đức dụng ấy tự nhiên hiện tiền, cho nên chẳng phải là do học mà có. Như cung kính và từ bi chẳng do học được, chúng từ Tánh Đức tự nhiên lưu lộ.

Nếu trong tâm chúng ta có thứ gì đó, tâm bèn hỏng. Tâm chẳng thể có vật gì. Lục Tổ đại sư đã nói rất hay: “Vốn chẳng có một vật”, chân tâm vốn chẳng có một vật. Quý vị thêm vào đó một vật, phàm phu chúng ta không chỉ là một vật, mà trong tâm suy nghĩ loạn xạ, phiền não tầng tầng, lo âu, vướng mắc, cái tâm hỏng be bét mất rồi. Tâm đã hỏng, bệnh tật nơi thân sẽ cả đống, chuyện là như thế đó. Vì thế, trong sự tu học của Bồ Tát, điều thứ nhất là phải buông xuống, phải bố thí. Phải buông xuống càng sạch càng hay. Kẻ bình phàm chẳng dám buông xuống, do nguyên nhân nào? Niệm nào cũng đều chấp trước cuộc sống. Ta buông xuống hết, sẽ sống bằng cách nào? Coi những thứ ấy rất nặng, chẳng biết chúng là căn bản của sanh tử luân hồi. Coi trọng căn bản của sanh tử luân hồi dường ấy, làm sao có thể vượt thoát luân hồi cho được? Người thế gian tu hành chẳng thể triệt để, không dám làm!

Chúng ta học Phật, tôi luôn khuyên mọi người trước hết hãy đọc Liễu Phàm Tứ Huấn ba trăm lượt, nguyên nhân ở chỗ nào? Nếu thật sự đọc sách ấy ba trăm lượt, nhất định sẽ hiểu rõ: “Một hớp uống, một miếng ăn, không gì chẳng được định trước”, tự nhiên người ấy dám buông xuống, cũng chịu buông xuống, biết buông xuống là đúng. Trong mạng có, quý vị bỏ kiểu nào vẫn bỏ chẳng được, nó sẽ đến. Trong mạng chẳng có, quý vị cầu kiểu nào cũng cầu chẳng được! Chư vị nhất định phải hiểu rõ đạo lý này.

Cổ nhân nói: “Quân tử vui vẻ làm quân tử, tiểu nhân oan uổng làm tiểu nhân”. Tiểu nhân trộm cắp, cướp đoạt, lừa lọc, có thể đạt được thì vẫn là trong mạng của họ vốn có, quý vị nói xem có oan uổng hay là không? Tạo một thân đầy tội nghiệp! Trong mạng chẳng có, có lừa đảo thì cũng chẳng lừa được! Ta đi lừa kẻ khác, chẳng lừa được. Lừa được là do trong mạng quý vị có, quý vị nói xem: Những điều ấy có phải là oan uổng hay chăng? Làm một đứa trộm vặt mà ăn trộm hoặc cướp đoạt được, đều là do trong mạng vốn có. Trong mạng chẳng có, quý vị cướp đoạt thử xem, chẳng cướp được gì, ngay lập tức bị cảnh sát thộp cổ, trong mạng chẳng có mà! Trong mạng đã có thì dù quý vị bố thí, bỏ đi, cho bên này, nơi kia bèn có người đưa tới!

Đấy chính là đạo lý khiến tôi thường khuyên người khác đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, hòng thật sự hiểu rõ “một hớp uống, một miếng ăn, không gì chẳng được định sẵn”. Mọi người đều biết sự thật này, đều biết chân tướng này, nhất định sẽ an phận thủ thường, xã hội bèn an tường, hòa hợp, thiên hạ thái bình. Nhất định nỗ lực đoạn ác tu thiện, phước báo của quý vị mỗi ngày một tăng thêm, ai bằng lòng làm ác? Làm ác chỉ gây tổn hại cho phước báo của chính mình, chẳng thể tăng thêm chút nào. Tu thiện tích đức quyết định tăng trưởng phước báo.

Trong kinh Phật, rải rác trong nhiều bộ kinh, đã nói rõ đạo lý và sự thật này, nhưng chẳng được tập trung như trong Liễu Phàm Tứ Huấn, [tất cả ở trong] một tập sách nhỏ, những lý luận và sự thật đều ở cùng một chỗ, rất dễ dàng nhìn thấy. Nhưng tâm ý phàm phu luôn thờ ơ, hời hợt, xem một hai lượt, ấn tượng rất hờ hững, nhạt mỏng, chẳng thể sanh ra hiệu quả. Liên tục đọc hai ba trăm lượt sẽ khác hẳn, cảm nhận sức mạnh khác hẳn, thật sự lý giải, tự nhiên sẽ khởi tác dụng rất lớn đối với người ấy. Trong Bồ Tát hạnh, nói đến Bố Thí, đều là tu phước, hết sức quan trọng. Tu tài bố thí được của cải, tu pháp bố thí được trí huệ, tu vô úy bố thí được sống lâu, trường thọ. Tu ba cái nhân ấy, nhất định đắc ba thứ quả báo thù thắng.

Trì giới (Śīla) là vâng giữ pháp tắc, tuân thủ quy củ. Nhẫn nhục (Ksānti) là kiên nhẫn. Bất luận đối với người hay sự đều phải có lòng kiên nhẫn, có cái tâm thường hằng, có cái tâm dài lâu. Tinh Tấn (Vīrya) là cầu tiến bộ, không ngừng cầu cải tiến, mỗi ngày một đổi mới. Thiền Định (Dhyāna) là trong tâm có chủ tể, chẳng bị cảnh giới bên ngoài nhiễu loạn, dao động; đó là Định, chẳng phải là ngồi Thiền tu Định trong Thiền Đường. Lục Độ vận dụng vào cuộc sống hằng ngày! Bát Nhã (Prajñā) là dùng lý trí, chẳng dùng cảm tình. Sáu nguyên tắc ấy đều sử dụng trong cuộc sống hằng ngày để đối xử với người, với sự, với vật. Đó là tu phước thật sự.

Thành Phật bèn đặc biệt dùng thời gian một trăm kiếp để tu phước, đúng là đã nêu gương cho hết thảy chúng sanh. Vì thế, thành Phật được gọi là Nhị Túc Tôn, phước đức viên mãn, trí huệ viên mãn. Túc (足) có nghĩa là đầy đủ, viên mãn. Hai thứ huệ và phước đều viên mãn, nên gọi là Nhị Túc Tôn. “Bách phước sở thành, vô bất cụ túc” (Do trăm phước tạo thành, không gì chẳng trọn đủ). Đó là Diệu (妙). Do vậy có thể biết, Lục Độ là diệu nhân (妙因: cái nhân mầu nhiệm), vô tận tướng hảo là diệu quả. Tướng ấy không chỉ là diệu tướng, mà còn đầy ắp trí huệ, ngập tràn phước báo. Có phước, có huệ, tướng hảo trang nghiêm. Đó là quả báo, là diệu quả. Người, trời, Nhị Thừa cũng như các vị Bồ Tát tu tập đều chẳng viên mãn, chẳng rốt ráo triệt để như Phật tu được. Vì thế, tướng hảo của Bồ Tát chẳng bằng Phật, trí huệ và phước báo cũng kém Phật một bậc, đạo lý ở ngay chỗ này!

 

(Sớ) Đại Tu Di giả, Phật đức cao quảng, như đại Tu Di cố.

()大須彌者,佛德高廣,如大須彌故。

(Sớ: Đại Tu Di (Mahāmēru): Phật đức cao rộng, như núi Tu Di to lớn vậy).

Tu Di có nghĩa là Diệu Cao. “Phật đức cao quảng, như đại Tu Di cố” (Phật đức cao rộng như Tu Di to lớn vậy), đây là nói theo tỷ dụ.

 

(Sớ) Nhất vân Phật danh đại ư Tu Di, như Duy Ma trung thuyết.

()一云佛名大於須彌,如維摩中說。

(Sớ: Một thuyết nói là danh hiệu Phật to hơn Tu Di, như trong kinh Duy Ma có nói).

Tức là Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh.

 

(Sao) Tu Di cao quảng, siêu ư thất kim.

()須彌高廣,超於七金。

(Sao: Tu Di rộng lớn, vượt trỗi bảy tòa kim sơn).

 “Thất kim sơn”[21] là các rặng núi lớn bọc quanh thế giới Sa Bà. Núi Tu Di còn cao hơn chúng. Dùng ý nghĩa Cao để tỷ dụ phước đức của Phật.

 

(Sao) Phật đức cao quảng, vô dĩ vi tỷ, như đại Tu Di dã.

()佛德高廣,無以為比,如大須彌也。

(Sao: Phật đức cao rộng, không gì sánh bằng, như núi Tu Di to lớn vậy).

Đây là nói theo tỷ dụ.

 

(Sao) Phật danh giả, Duy Ma kinh vân: “Danh xưng cao viễn, du ư Tu Di”.

()佛名者,維摩經云:名稱高遠,踰於須彌。

(Sao: “Phật danh”, kinh Duy Ma nói: “Danh xưng cao xa, vượt trỗi Tu Di”).

“Du” (踰) nghĩa là vượt hơn, vượt trỗi. Đấy chính là nói tiếng tăm to lớn của đức Phật, nay chúng ta nói là “nổi tiếng”. Danh tiếng của đức Phật cao trỗi nhất. Danh hiệu của mỗi vị Phật tận hư không, khắp pháp giới, hết thảy các cõi Phật đều biết. Tiếng tăm của mỗi người trong thế gian dẫu to lớn cách mấy, tối đa bất quá là người trên địa cầu đều biết, nhưng những tinh cầu khác chẳng biết tới! Chẳng như danh xưng của Phật và đại Bồ Tát trọn khắp pháp giới. Đây là tỷ dụ cao vượt Tu Di.

 

(Sớ) Tu Di Quang giả, Phật quang quảng chiếu, do như Tu Di, ánh tế chúng sanh cố.

()須彌光者,佛光廣照,猶如須彌,映蔽眾生故。

(Sớ: Tu Di Quang (Meruprabhā) là Phật quang rộng chiếu, ví như Tu Di che lấp ánh sáng của chúng sanh).

Quang minh của đức Phật chiếu khắp hết thảy. Thể chất của Tu Di là do bốn báu hợp thành. Chất báu tỏa sáng. Thân Phật có quang minh, toàn thân tỏa quang minh, [quang minh gồm] có thân quang và phóng quang. Quang minh chiếu khắp hết thảy chúng sanh. Tâm Phật bình đẳng, tâm Phật từ bi, chẳng có phân biệt. Chúng sanh làm lành được Phật chiếu; chúng sanh làm ác, Phật cũng chiếu. Chúng sanh trong thiên đường được Phật chiếu, chúng sanh trong địa ngục cũng được Phật chiếu. Phật quang giống như mặt trời, chiếu khắp đại địa. Có những chúng sanh được Phật quang gia trì, phước huệ tăng trưởng. Có những chúng sanh chẳng thấy Phật quang gia trì, nguyên nhân ở chỗ nào? Chính mình có chướng ngại, [ví như] ánh thái dương chiếu trọn khắp, chính người ấy dùng dù che khuất, chẳng cho mặt trời chiếu vào. Như vậy thì chẳng có cách nào cả! Chuyện này tỷ dụ bên phía chúng sanh có chướng ngại, chứ phía Phật vĩnh viễn chẳng có chướng ngại. Chúng sanh có chướng ngại gì? Nghiệp chướng, như vậy là chẳng có cách nào hết! Nghiệp chướng nặng nề, chẳng tin tưởng Phật pháp, bài xích Phật pháp, Phật quang chẳng có cách nào chiếu tới người ấy. Người ấy tự gây chướng ngại. Kẻ nghiệp chướng nhẹ nhàng, tin Phật, nhưng chẳng chịu y giáo phụng hành, đức Phật dạy chúng ta làm như vậy, [chúng ta] khăng khăng chẳng chịu hành, đức Phật cũng chẳng thể gia trì kẻ ấy được! Tâm địa của chúng ta càng thanh tịnh, nói cách khác, nghiệp chướng càng mỏng, quý vị sẽ cảm nhận sự gia trì của Phật quang càng rõ rệt hơn. Xác thực là đối với phước lẫn huệ đều có sức gia trì rất lớn. Đây là sánh ví quang minh của Phật như ánh sáng tỏa từ núi Tu Di, thật sự là Phật quang vượt trỗi quang minh của núi Tu Di quá nhiều!

 

(Sao) Quang hữu nhị nghĩa, nhất giả Tu Di bảo thành, bảo năng phát quang, như Phật tịnh cực quang thông cố.

()光有二義,一者須彌寶成,寶能發光,如佛淨極光通故。

(Sao: Quang có hai nghĩa: Một là núi Tu Di do các chất báu hợp thành. Chất báu có thể tỏa sáng, như Phật tịnh cực, quang thông vậy).

“Tịnh cực quang thông” là một câu trong kinh Lăng Nghiêm, [nghĩa là] khi tâm chúng ta thanh tịnh cao độ, tâm quang và Phật quang bèn thông đạt, chẳng có chướng ngại.

 

(Sao) Nhị giả, Tu Di thể đại, quang minh diệc đại, như Phật quang minh vô lượng cố.

()二者須彌體大,光明亦大,如佛光明無量故。

(Sao: Hai là Tu Di có thể chất to lớn, quang minh cũng lớn, như quang minh của Phật vô lượng).

Núi Tu Di hết sức lớn, quang minh cũng lớn. Thật ra, quang minh của núi Tu Di có hạn lượng, quang minh của Phật xác thực là vô lượng.

Đến đây, đã giới thiệu cùng chư vị ý nghĩa trong danh hiệu của bốn vị Phật. Đó là cách biểu thị pháp thông thường. Trong Tịnh Tông, có ý nghĩa biểu thị pháp đặc biệt, chúng ta chớ nên không biết. Những Phật hiệu được nêu trong kinh Di Đà tất nhiên có mối quan hệ mật thiết đối với pháp môn này, chúng ta chớ nên nhìn theo cách biểu thị pháp thông thường rồi ngừng ở đó, phải quan sát ở một bước cao hơn. Quan sát cặn kẽ, [sẽ thấy] ý nghĩa được bao hàm [trong những Phật hiệu ấy] hết sức sâu xa. Phương Đông biểu thị trí huệ; vì thế, thật sự là dạy chúng ta căn bản tu học của pháp môn. Không chỉ Tịnh Tông là như thế, mà tất cả hết thảy Đại Thừa Phật pháp đều chẳng ra ngoài lệ ấy. Phải như thế nào thì mới có thể tu học? Phải là từ bất động giác, quý vị sẽ có tư cách nhập Đại Thừa. Vì thế, vị Phật thứ nhất là A Súc Bệ Phật đã biểu thị: Chúng ta thường nói “tám gió thổi chẳng động”. Tám gió thổi chẳng động, có những kẻ tưởng công phu ấy lỗi lạc lắm; thật ra, nó là công phu tối thiểu, là công phu ở mức độ thấp nhất. Trong pháp thế gian, đối với tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, trọn chẳng bị chúng dao động. Cái tâm đã định, bất động, quý vị mới có thể tu đạo, mới có thể thành tựu.

Ông hội trưởng của Tân Gia Ba Tịnh Tông Học Hội là Lý cư sĩ (Lý Mộc Nguyên) đến thăm Đại Lục, có báo cáo với chúng ta ở đây. Cuộc sống tại đạo tràng Ngũ Đài Sơn hết sức kham khổ. Chúng ta thấy họ ăn chẳng ra ăn, mặc chẳng ra mặc, nhưng tặng tiền, tặng quần áo cho họ, họ chẳng tiếp nhận. Nói cách khác, chẳng bị dao động bởi những thứ ấy. Họ đề nghị, tặng băng thâu âm, tặng sách nhà Phật thì họ hoan nghênh. Họ nói đối với cơm áo đã hết sức thỏa mãn, chúng ta thường nói điều này là “tám gió thổi chẳng động”. Kẻ một mực truy cầu hưởng thụ vật chất, sẽ bị cảnh giới bên ngoài lay động, chẳng thể tu đạo! Không chỉ là chẳng bị pháp thế gian lay động, mà cũng chẳng bị Phật pháp lay động.

Trong Phật môn, tông phái rất nhiều, chúng ta đã lập chí nguyện chuyên tu Tịnh Độ, gặp những người học Thiền, học Mật, học Giáo, trì Luật, tâm chúng ta có bị lay động hay không? Vẫn là chẳng lay chuyển! Tán thán sự tu hành của họ, ta vẫn thật thà niệm Phật, trọn chẳng bị lay động, đó gọi là “bất động giác”. Điều kiện như vậy thì mới có tư cách tu học Đại Thừa, thâm nhập một môn. Học Tịnh bèn chuyên niệm A Di Đà Phật, học Thiền bèn chuyên môn tham cứu, học Mật bèn chuyên tâm trì chú, tuyệt đối chẳng bị các pháp môn khác mê hoặc, lay chuyển. Ở đây, A Súc Bệ Phật dạy chúng ta đạo lý này. Vì thế, danh hiệu được nêu ra ở đây chẳng phải là có ý nghĩa nông cạn, mà là có đạo lý rất sâu trong ấy. Tịnh Độ là pháp Đại Thừa, tất cả hết thảy các pháp Đại Thừa đều cần phải có thái độ như vậy thì mới có thể tu hành. Nếu không, ngay cả bén mảng ngoài rìa Đại Thừa Phật pháp cũng chẳng thể bén mảng được. Đó là điều kiện cơ bản để nhập môn Đại Thừa.

Ba vị Phật tiếp đó biểu thị những điều mong cầu trong Phật pháp Đại Thừa. Chúng ta tu học Đại Thừa là tu gì? Tu Di Tướng Phật biểu thị Báo Thân, Đại Tu Di Phật biểu thị Pháp Thân, Tu Di Quang Phật biểu thị Ứng Hóa Thân. Đó là ba thân nơi quả địa Như Lai, chính là những điều chúng ta mong cầu. Báo Thân là thân do trí huệ tích tụ; đến khi trí huệ viên mãn, tướng ấy hiện tiền. Báo Thân có sanh, chẳng có diệt. Pháp Thân là bản thể, là Chân Như bản tánh, bất sanh, bất diệt. Ứng Hóa Thân lợi ích hết thảy chúng sanh, tùy loại hóa thân vô lượng vô biên. Kinh Hoa Nghiêm có nói “ngàn trăm ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật”. Một Thể ba thân chính là điều chúng ta mong cầu; chúng ta học Phật với hy vọng chứng đắc viên mãn Phật quả, viên mãn Phật quả là ba thân. Do vậy có thể biết, ý nghĩa này cũng nhằm biểu thị mục tiêu của tất cả hết thảy các pháp môn Đại Thừa. Bất động giác là điều kiện để nhập Đại Thừa, điều kiện như nhau. Nói cách khác, phương pháp và cách thức tu hành của chúng ta khác nhau; do vậy, có tám vạn bốn ngàn pháp môn, có vô lượng pháp môn. Vô lượng pháp môn đều là lấy ba thân làm mục tiêu tu học, đều dùng bất động giác làm điều kiện để nhập môn, biểu thị ý nghĩa này.

 

(Sớ) Diệu Âm giả, pháp âm viên diệu, thuyết pháp xứng cơ cố.

()妙音者,法音圓妙,說法稱機故。

(Sớ: Diệu Âm: Pháp âm viên diệu, thuyết pháp xứng hợp căn cơ).

Vị Phật cuối cùng, đặc biệt là nói về pháp môn Tịnh Tông, chẳng phải là các pháp môn khác, phương pháp tu hành trong các pháp môn khác chẳng giống Tịnh Tông. Pháp môn Tịnh Tông dùng phương pháp gì để tu? Diệu Âm (Mañjughōṣa): Diệu (妙) là chẳng thể nghĩ bàn. Vị Phật này biểu thị căn bản trong tu học của pháp môn Tịnh Tông. Diệu Âm là Phật hiệu, tức “Nam-mô A Di Đà Phật”. Nhất tâm xưng niệm, đọc tụng, vì người khác diễn nói Tịnh Độ năm kinh một luận, những âm thanh ấy đều là Diệu Âm. Do phương pháp này mà có thể thành tựu, có thể giúp quý vị chứng đắc “một Thể, ba thân”. Năm vị Phật ở phương Đông bao hàm ý nghĩa sâu xa như vậy, chúng ta chớ nên không hiểu. Trong Sớ Sao, Liên Trì đại sư chẳng nêu rõ ý nghĩa này; ở đây, tôi nêu bổ sung. “Pháp âm viên diệu, thuyết pháp xứng cơ cố” (Pháp âm viên diệu, do thuyết pháp xứng hợp căn cơ), đó là nói theo cách thông thường.

 

(Sao) Viên diệu giả, như Duy Ma kinh vân: “Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải”. Hựu vân: “Ư chúng ngôn âm, vi diệu đệ nhất”.

()圓妙者,如維摩經云:佛以一音演說法,眾生隨類各得解。又云:於眾言音,微妙第一。

(Sao: “Viên diệu” là như kinh Duy Ma đã nói: “Phật dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy loại đều được hiểu”. Lại nói: “Trong các thứ ngôn ngữ, âm thanh, vi diệu bậc nhất”).

 Câu này trích từ kinh Duy Ma, nói về “viên âm” chứng đắc nơi quả địa của Như Lai, Viên (圓) là viên mãn, Diệu (妙) là vi diệu. Đức Phật thuyết pháp, hết thảy chúng sanh chủng loại bất đồng, ngôn ngữ bất đồng, nhưng mỗi chúng sanh nghe đức Phật thuyết pháp đều nghe thấy Ngài đang sử dụng ngôn ngữ của chính họ để nói. Giống như trong hiện thời, Liên Hiệp Quốc họp hành nhất định phải sử dụng phiên dịch. Chẳng dùng phiên dịch sẽ chẳng nghe hiểu. Đức Phật thuyết pháp ở nơi đó, chẳng cần sử dụng phiên dịch, nhưng người mỗi nước đến nghe, họ đều nghe đức Phật nói bằng ngôn ngữ của chính họ, đều nghe rất thuận tai, đó là “viên âm”. Điều này hết sức kỳ diệu, rất chẳng thể nghĩ bàn. Có thể hay không? Thưa cùng chư vị, có thể! Hiện thời, computer dần dần đạt tới cảnh giới này. Trong tương lai, phiên dịch chẳng cần người phiên dịch, mà dùng computer để phiên dịch. Đức Phật dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy loại đều được hiểu, computer có thể làm được. Do vậy có thể biết, đó là chân thật, chẳng phải là tỷ dụ. Đầu óc của Phật lợi hại hơn computer rất nhiều! Computer chẳng thể sánh bằng Ngài! Computer có thể phiên dịch ngôn ngữ của nhân loại, nhưng đối với ngôn ngữ của súc sanh và ngôn ngữ quỷ thần thì chẳng có cách nào! Đức Phật thuyết pháp, hết thảy quỷ thần đều nghe hiểu, tất cả súc sanh cũng nghe hiểu, âm thanh ấy mới thật sự là âm thanh viên mãn. “Ư chúng ngôn âm, vi diệu đệ nhất” (Trong các thứ ngôn ngữ, âm thanh, vi diệu bậc nhất). Trong phần trên đã nói “tướng hảo trăm phước”, hết thảy mọi người chẳng thể sánh bằng, phước báo của Ngài quá lớn. Phước do đâu mà có? Phước do chính mình tu được!

 

(Sớ) Như thị đẳng giả, đa nan tất cử, thả cử ngũ Phật, dĩ đẳng nhiếp chi. Hằng hà diệc vân Căng Già hà, sa giả dụ đa dã.

(Sao) Hằng hà tại Tây Vực Vô Nhiệt Trì trắc. Hương Sơn đảnh thượng, hữu Vô Nhiệt Não trì, lưu xuất tứ hà. Hằng hà tại Nam, quảng tứ thập lý, sa trục thủy lưu, chí vi vi tế. Phật cận bỉ hà thuyết pháp, cố phàm ngôn đa, thường thủ vi dụ. Minh Đông phương đa Phật, như Hằng hà trung sở hữu sa số dã. Nhược cứ Pháp Hoa nhất trần nhất kiếp chi dụ, tắc Hằng hà giả do vi chí thiểu. Kim cử Hằng sa, ý thật vô tận cố. Đại Bổn vân: Vô lượng vô số bất khả tư nghị vô hữu đẳng đẳng vô biên thế giới, chư Phật gia lai, giai cộng tán thán A Di Đà Phật sở hữu công đức, tắc Hằng sa vị túc dĩ tận chi dã!

()如是等者,多難悉舉,且舉五佛,以等攝之,恆河亦云殑伽河,沙者喻多也。

()恆河在西域無熱池側。香山頂上。有無熱惱池。流出四河。恆河在南。廣四十里。沙逐水流。至為微細。佛近彼河說法。故凡言多。常取為喻。明東方多佛。如恆河中所有沙數也。若據法華一塵一劫之喻。則恆河者猶為至少。今舉恆沙。意實無盡故。大本云。無量無數不可思議無有等等無邊世界。諸佛加來。皆共讚歎阿彌陀佛所有功德。則恆沙未足以盡之也。

(Sớ: “Như thị đẳng” (Như thế đó), ý nói nhiều đến nỗi khó thể nêu trọn, đành nêu ra năm vị Phật, dùng chữ “đẳng” để chỉ tất cả các vị Phật còn lại. Hằng Hà còn gọi là Căng Già Hà. “Cát” là sánh ví đông nhiều.

Sao: Hằng hà ở bên cạnh ao Vô Nhiệt bên Tây Vực. Trên đỉnh Hương Sơn có ao Vô Nhiệt Não, là nơi phát nguồn của bốn con sông. Sông Hằng ở phía Nam, rộng bốn mươi dặm, cát cuốn theo dòng nước, hết sức mịn nhuyễn. Đức Phật thuyết pháp ở gần sông ấy, cho nên hễ nói đến điều gì nhiều, thường dùng cát sông Hằng để tỷ dụ. [Đoạn kinh văn này nhằm] nói rõ phương Đông có nhiều vị Phật, [sánh ví số lượng ấy] như tất cả số lượng cát trong sông Hằng. Nếu xét theo kinh Pháp Hoa đã dùng tỷ dụ cứ một hạt vi trần là một kiếp thì [cát] sông Hằng vẫn là rất ít. Nay nói là cát sông Hằng, ý nghĩa thật sự là vô tận. Kinh Đại Bổn nói chư Phật Như Lai từ vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chẳng có gì sánh bằng vô biên thế giới đều đến gia trì, đều cùng tán thán tất cả công đức của A Di Đà Phật, như vậy thì cát sông Hằng chẳng đủ để nêu trọn hết [số lượng ấy] ).

Phương Đông không chỉ có năm vị Phật ấy. Chư Phật chẳng biết là có bao nhiêu vị giống như năm vị Phật ấy. “Đa nan tất cử” (Nhiều đến nỗi khó thể nêu trọn), quá ư là nhiều, chẳng thể kể trọn hết! Trong kinh Phật, mỗi khi nói đến số lượng nhiều, đều dùng “Hằng hà sa” (cát sông Hằng) để hình dung, nhằm sánh ví số lượng quá nhiều, chẳng có cách nào tính toán. Ý nói, chư Phật ở phương Đông cũng là vô lượng vô biên. Trong phần Sao dưới đó có nói về sông Hằng. Quả thật cát sông Hằng rất mịn, mịn như bột mì vậy!

 

(Sớ) Dĩ thượng Phật danh, Linh Chi vân: “Tương truyền bất thích, diệc hữu thích giả, hoặc thủ nhân, hoặc thủ quả, hoặc tánh, hoặc tướng, hoặc bi, trí, hạnh nguyện đẳng, diệc vô ngại cố”.

()以上佛名,靈芝云:相傳不釋,亦有釋者,或取因或取果,或性或相,或悲智行願等,亦無礙故。

(Sớ: Đối với những danh hiệu Phật trên đây, ngài Linh Chi nói: “Tương truyền là chẳng giải thích. Cũng có người giải thích thì hoặc là dựa theo nhân, hoặc căn cứ theo quả, hoặc nói theo tánh, hoặc nói theo tướng, hoặc bi, trí, hạnh nguyện v.v… cũng chẳng trở ngại gì”).

“Thích” (釋) là giải thích. Thời cổ, người giảng kinh khi giảng đến danh hiệu Phật bèn chẳng giải thích, [ngụ ý] dùng tâm chân thành cung kính để niệm, chẳng giảng giải. Cũng có vị chú giải, như trong Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã chú giải, nêu ra ý nghĩa. Đối với chuyện giải thích danh hiệu Phật, có rất nhiều cách nói, ở đây là nêu ra mấy trường hợp: Có vị nói theo nhân, có vị nói theo quả, có vị nói theo tánh, có vị nói theo tướng, hoặc là nói theo bi nguyện, trí huệ, các thứ phương diện tu hành. Nói theo những cách khác nhau, nhưng đều chẳng nói sai.

Tôi giải thích [danh hiệu chư Phật trong kinh Di Đà] cùng mọi người cũng là nói theo phương diện biểu thị pháp. Đại ý biểu thị pháp của sáu phương Phật, trong quá khứ, khi giảng diễn bộ Di Đà Yếu Giải, tôi đã nói cặn kẽ, tài liệu tham khảo cho đoạn này được in vào sau quyển kinh (trang bảy trăm). Cách giảng của tôi đối với sáu phương Phật cũng chẳng giống Liên Trì đại sư và Ngẫu Ích đại sư, hoàn toàn dựa theo phương diện biểu thị pháp trong Tịnh Tông để nói.

 

(Sao) Bất thích giả, dĩ Phật cụ vạn đức, bất khả dĩ nhất đức xưng cố.

()不釋者,以佛具萬德,不可以一德稱故。

(Sao: Chẳng giải thích là vì đức Phật có vạn đức, chẳng thể dùng một đức để ca ngợi được).

“Bất thích” là chẳng giải thích. Phật là vạn đức vạn năng, danh hiệu cũng là vạn đức vạn năng, ý nghĩa chẳng có cùng tận, nói theo kiểu nào đây? Đấy là nguyên nhân chẳng giải thích.

 

(Sao) Diệc hữu thích giả, dĩ Phật đức dung thông vô tận, diệc khả dĩ nhất nhiếp vạn, thiên cử nhất đức, tức bị chúng đức cố.

()亦有釋者,以佛德融通無盡,亦可以一攝萬,偏舉一德,即備眾德故。

(Sao: “Cũng có khi giải thích”: Do Phật đức dung thông vô tận, cũng có thể dùng một đức để nhiếp vạn đức. Riêng nêu ra một đức bèn trọn đủ các đức).

Giáo pháp Đại Thừa thường nói “vạn pháp quy nhất”, vạn pháp đã quy nhất thì “một” có thể nói, chứ vạn pháp khó nói. Nói “một” thì “một” là vạn pháp. Nói rõ [danh hiệu Phật] có thể giải thích [bằng cách giảng rõ một đức].

 

(Sao) Cố cử nhân tắc cai quả hải, cử quả tắc triệt nhân nguyên.

()故舉因則該果海,舉果則徹因源。

(Sao: Vì thế, nói nhân sẽ bao trùm biển quả, nêu quả sẽ thấu triệt nguồn nhân).

Nói theo nhân, nhân nhất định bao gồm quả. Nói theo quả, quả nhất định bao gồm nhân. “Nhân cai quả hải, quả triệt nhân nguyên” (Nhân bao trùm biển quả, quả thấu triệt nguồn nhân), khiến cho chúng ta từ một ý nghĩa bèn suy rộng đến vô tận nghĩa lý. Đó là khéo hiểu.

 

(Sao) Vô hữu trí nhi bất bi, bi nhi bất trí.

()無有智而不悲,悲而不智。

(Sao: Chẳng có chuyện “có trí mà chẳng có bi” hoặc “có bi mà chẳng có trí”).

Bi và trí là một Thể, người có bi tâm sẽ sanh trí huệ. Bi tâm là thương xót hết thảy chúng sanh, mong giúp đỡ hết thảy chúng sanh. Người chỉ cần chẳng có tự tư tự lợi, trí huệ liền hiện tiền. Do đạo lý nào? Vì quan niệm tự tư tự lợi chính là nghiệp chướng, là chướng ngại, ngăn trở trí huệ của quý vị. Ta chẳng có tự tư tự lợi, hết thảy đều có thể lợi ích chúng sanh; chính mình chẳng còn chướng ngại nữa, trí huệ bèn thấu lộ, đạo lý là như vậy đó. Trí huệ quang minh trong tâm tánh của chính mình thấu lộ ra ngoài, lại được quang minh của chư Phật và thiện thần gia trì, nên lòng bi càng nặng, trí huệ càng to, đạo lý ở chỗ này. Càng ích kỷ, trí huệ càng chẳng có, [đức năng trong tâm tánh của] chính mình cũng chẳng thấu lộ được, mà Phật quang cũng chẳng gia trì được! Đó là chân tướng sự thật. Vì thế, người có lòng bi nhất định có trí, người có trí nhất định là có lòng bi.

 

(Sao) Vô hữu hành phi nguyện khởi, nguyện bất hạnh thành.

()無有行非願起,願不行成。

(Sao: Chẳng có chuyện khởi hạnh mà chẳng do nguyện, hoặc nguyện chẳng có hành mà vẫn thành tựu).

Người đã có nguyện, nhất định sẽ có hành động. Thật sự tu hành, tất nhiên là có tín nguyện. Thảy đều là do liên khởi với nhau, bất luận nói theo phương diện nào, ý nghĩa đều có thể thông đạt rất sâu, rất rộng. Dưới đây, nêu lên mấy thí dụ:

 

(Sao) Như Nghiêu nhân, Thuấn hiếu, Vũ kiệm, Thang khoan, diệc hỗ cụ cố.

()如堯仁舜孝,禹儉湯寬,亦互具故。

(Sao: Như vua Nghiêu nổi tiếng là nhân, vua Thuấn có tiếng là hiếu, vua Đại Vũ được tiếng tiết kiệm, vua Thành Thang có tiếng khoan dung, [tuy vậy, mỗi vua] cũng đều là trọn đủ các đức).

Đây là cổ thánh tiên hiền của Trung Hoa. Vua Nghiêu nhân từ, vua Thuấn hiếu thuận, Đại Vũ[22] tiết kiệm, vua Thang khoan hậu. Trong lịch sử Trung Hoa, bốn vị này đều là đại thánh nhân. Vua Nghiêu nhân từ, nhưng Ngài cũng hiếu thuận, cũng tiết kiệm, cũng khoan dung, đều trọn đủ. Do một đức hạnh nào đó của Ngài đặc biệt hiển nhiên, nên người đời sau đặc biệt tôn sùng, chính là vì đạo lý này, trọn chẳng phải là Ngài không có những đức hạnh khác, thảy đều trọn đủ!

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh trí huệ bất khả tận, thị Đông phương hằng sa Phật nghĩa.

()稱理,則自性智慧不可盡,是東方恆沙佛義。

(Sớ: Xứng Lý thì trí huệ trong tự tánh chẳng thể cùng tận, đó là ý nghĩa phương Đông có hằng sa chư Phật).

Trong phần trước là nói theo sự tướng, mà cũng là nói theo đức dụng; còn trong phần sau, trong đoạn này, nói tương xứng với tánh. Nếu nói xứng tánh, “tự tánh trí huệ bất khả tận”: Trí huệ chẳng phải do từ bên ngoài mà có, nó vốn sẵn có trong tự tánh. Khi thành Phật, đức Phật đã bảo chúng ta: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, nói rõ mỗi người chúng ta đều trọn đủ vô tận trí huệ của Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác đều nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”, trong tương lai chúng ta tu hành thành Phật, thành Phật là đạt được gì? Thứ gì cũng đều chẳng đạt được! Kinh Lăng Nghiêm đã nói rất hay: “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc” (Viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ không có gì để đạt được). Vì sao? Những gì quý vị đạt được thảy đều vốn sẵn có trong tự tánh, hoàn toàn chẳng phải là từ ngoài tự tánh bèn có thể đạt được chút gì! Chẳng có! Hoàn toàn vốn sẵn có! Đó là chân tướng sự thật.

Nay chúng ta gặp nan đề này: Vốn có, nhưng chúng ta chẳng thể tự mình hưởng thụ được! Vốn có vô tận trí huệ, nay chúng ta biến thành “điều gì cũng chẳng biết”, ngu mê, đánh mất trí huệ vốn sẵn có. Đối với sự mất mát ấy, trong kinh, đức Phật cũng thường nói: Chẳng phải là thật sự mất đi. Nếu thật sự mất đi, há còn có thể khôi phục ư? Đức Phật bảo chúng ta: Sự mất mát ấy được gọi là “mê mất”, chẳng phải là thật sự mất mát! “Mê mất” tức là tuy có, nó chẳng khởi tác dụng; chuyện là như vậy đó, chẳng phải là thật sự mất đi. Khi nào giác ngộ, tác dụng ấy lập tức hiện tiền, sẽ lập tức thọ dụng. Vì thế, phàm phu và Phật là do mê hay ngộ. Mê tự tánh thì là phàm phu, ngộ tự tánh là Phật, hoặc là Bồ Tát. Phàm phu và Phật sai khác ở chỗ này. Tự tánh bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, vĩnh viễn là thường trụ. Đức Phật mong chúng ta khôi phục tự tánh, mục tiêu tối chung cực của Phật giáo cũng là điều này!

 

(Sao) Đông phương nghĩa kiến tiền giải.

()東方義見前解。

(Sao: Xem lời giải thích trong phần trước về ý nghĩa của phương Đông).

Phương Đông biểu thị ý nghĩa trí huệ.

 

(Sao) Hữu hình chi vật khả tận, trí huệ bất khả tận.

()有形之物可盡,智慧不可盡。

(Sao: Vật hữu hình có thể tận, trí huệ chẳng thể tận).

“Hữu hình chi vật khả tận” (Vật hữu hình có thể cùng tận): Phàm là có hình tướng, như hư không pháp giới, dẫu lớn đến đâu đi nữa, dẫu nhiều đến mấy đi nữa, đều có cùng tận. “Trí huệ bất khả tận” (Trí huệ chẳng thể tận): Trí huệ là vô hình. Vô hình, vô tướng, vốn sẵn đầy đủ trong tự tánh. Lục Tổ nói rất hay: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ; nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”. Hết thảy vạn pháp để ta thọ dụng, vạn pháp do đâu mà có? Sanh từ tự tánh, làm sao có khiếm khuyết cho được? Chẳng thể khiếm khuyết! Nhưng kẻ chẳng kiến tánh, người mê mất tự tánh, sẽ chẳng thể thọ dụng đức năng vốn sẵn có, biến thành khiếm khuyết. Nhưng muốn khôi phục tự tánh thì nói dễ lắm, làm thật khó! Đức Phật dạy chúng ta, phiền não có ba tầng, ba tầng phiền não đều đoạn hết, Tánh Đức mới hiện tiền. Đoạn Kiến Tư phiền não, chứng quả A La Hán, vượt thoát lục đạo luân hồi, chẳng còn đọa lạc, chẳng còn bị luân chuyển nữa. Phá trừ Trần Sa phiền não, trí huệ mới hiện tiền. Phá một phẩm vô minh, mới thấy Chân Như bản tánh. Khi ấy, vô tận trí huệ và vô tận phước đức trong Tánh Đức hiện tiền, bèn có thể hưởng thụ.

Khi nào chúng ta có thể đoạn phiền não? Khi nào có thể phá vô minh? Quá khó! Đúng là chẳng có hy vọng! Trong tình huống ấy, chúng ta chẳng thể không nương cậy A Di Đà Phật. A Di Đà Phật giúp đỡ chúng ta rất lớn: Chẳng cần đoạn phiền não mà cũng có thể hưởng thụ Tánh Đức. Điều này chẳng thể nghĩ bàn, cho nên [pháp môn này] được gọi là “pháp khó tin”. Trong tất cả hết thảy các kinh luận đều chẳng có cách nói này, trong các cõi nước của mười phương chư Phật cũng chẳng có hiện tượng này, chỉ riêng thế giới Tây Phương là đặc biệt.

Thế giới Tây Phương đặc biệt ở chỗ nào? Chúng ta tới đó là đới nghiệp vãng sanh, chẳng đoạn một phẩm Kiến Tư phiền não nào mà có thể đến đó! Chỉ cần tín, nguyện, trì danh, phải là tín chân thật, nguyện thiết tha, những thứ tạp nham vướng mắc khác trong tâm thảy đều bỏ sạch, chỉ có A Di Đà Phật, quý vị quyết định vãng sanh. Sanh về thế giới Tây Phương, ba kinh đã nói rất rõ ràng: Y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương do Tánh Đức biến hiện. Sự phú quý ấy có thể nói là chẳng hai, chẳng khác Tỳ Lô Giá Na Phật trong kinh Hoa Nghiêm, tức là hưởng thụ sự phú quý nơi quả địa Như Lai.

Nói thật ra, đấy chẳng phải là do năng lực của chính mình. Nếu do năng lực của chính mình mà đạt tới cảnh giới này, mức độ thấp nhất cũng là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, hoặc Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo, cũng là đã phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Đấy là do Pháp Thân biến hiện thì quý vị mới có sự hưởng thụ ấy. Huống chi sự hưởng thụ trong thế giới Tây Phương quyết định chẳng phải là cảnh giới của bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo [mà hòng đạt được; bởi lẽ] năng lực và trí huệ [của người trong cõi Cực Lạc] to hơn bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo quá nhiều. Kinh lại dạy chúng ta: Vãng sanh thế giới Tây Phương đều là A Bệ Bạt Trí. A Bệ Bạt Trí là Bồ Tát từ Thất Địa trở lên, cao hơn bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo quá nhiều! Do vậy, hưởng thụ như vậy đó. Vì sao có thể hưởng thụ như vậy? Chẳng phải là do Tánh Đức của chính chúng ta lưu lộ, mà là cảnh giới được biến hiện từ Tánh Đức của A Di Đà Phật để cho chúng ta hưởng thụ, một mực bồi dưỡng, dẫn dắt chúng ta đạt đến mức độ tự tánh của chúng ta lưu lộ giống như Ngài mới thôi. Trong các thế giới phương khác chẳng có điều này!

Chúng ta hiểu đạo lý này, hiểu sự thật này, thì mới có thể khăng khăng một mực niệm câu Phật hiệu đến cùng, quyết định tranh thủ [Tịnh Độ] trong một đời này. Chư vị nhất định phải hiểu: Trong thế gian, hết thảy đều là giả. Kinh Kim Cang dạy chúng ta: “Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, do mê hoặc trong ấy bèn tạo tác hết thảy tội nghiệp, chẳng đáng! Đó là chính quý vị đang tạo tác luân hồi, chính mình hứng chịu những nghiệp báo ấy. Từ vô lượng kiếp trong đời quá khứ, chúng ta chẳng hiểu rõ chuyện này, đời đời kiếp kiếp phải luân hồi! Đời này đúng là may mắn to lớn, quá sức may mắn, chúng ta gặp gỡ nhân duyên vô thượng này, gặp gỡ Phật pháp, gặp được Tịnh Tông, gặp được bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư, gặp sách Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư, gặp được kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta hiểu rõ ràng, hiểu minh bạch chuyện này. Chỉ cần nắm chặt cơ duyên này, trong một đời này, quyết định đắc độ. Đó chính là người thật sự thông minh, thật sự có trí huệ.

Thời gian trong một đời chúng ta rất ngắn ngủi, tạm bợ, hãy bỏ qua hết thảy, sống cuộc đời kham khổ một chút, trong khoảng chớp mắt bèn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chuyện này đáng giá lắm! Những người tu hành bên Đại Lục chịu khổ, chịu khó, chuyên tâm chánh niệm, đó là khuôn mẫu, điển hình cho chúng ta. Ở đây, chúng ta hãy lắng lòng quan sát, những người ấy trong tương lai ai nấy đều thành tựu. Giống như trong Niệm Phật Đường của Viễn công tại Lư Sơn xưa kia, một trăm hai mươi ba người thảy đều vãng sanh. Thiện Đạo đại sư bảo điều này là do “gặp duyên khác nhau”, nay chúng ta gặp duyên thù thắng, thù thắng khôn sánh! Vấn đề hiện thời là chính mình có thiện căn, phước đức hay không? Thiện căn là tín giải, nghe xong sẽ thật sự tin tưởng, thật sự hiểu rõ, thật sự nghe hiểu, đó là thiện căn. Phước đức là gì? Hạ quyết tâm cầu sanh Tịnh Độ. Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta “một mực chuyên niệm”, đó là đại phước đức, quyết định thành tựu.

 

(Sao) Ngoại cầu trí huệ khả tận, tự tánh trí huệ bất khả tận.

()外求智慧可盡,自性智慧不可盡。

(Sao: Trí huệ cầu từ bên ngoài có thể tận, trí huệ trong tự tánh chẳng thể tận).

Hai câu này hết sức trọng yếu. Hiểu đạo lý này, người thích thâm nhập kinh tạng sẽ có thể buông xuống vọng tưởng, vì sao? Thâm nhập kinh tạng là “ngoại cầu trí huệ”. Gặp một vị thiện tri thức thật sự cao minh, một vị thầy tốt, có thể cầu từ bên ngoài để đạt được một chút trí huệ. Nếu chẳng gặp thiện tri thức thật sự, “ngoại cầu” thường biến thành tà tri, tà kiến, sai lầm đặc biệt to lớn! Vì thế, cầu từ bên ngoài chẳng bằng hướng vào trong để cầu. Độ chúng sanh, chúng sanh vô lượng vô biên, căn tánh của chúng sanh lại là vô lượng vô biên. Muốn độ trọn hết thảy chúng sanh, nhất định là phải thông đạt vô lượng pháp môn. Do vậy, đức Phật dạy chúng ta trình tự tu hành, theo thứ tự bèn có “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Vì sao? Chẳng có vô lượng pháp môn, sẽ chẳng thể độ vô lượng chúng sanh.

Nếu không phát tâm độ vô lượng chúng sanh, đấy chẳng phải là Đại Thừa Bồ Tát. Nói cách khác, quý vị cũng chẳng thể vãng sanh Tịnh Độ. Tịnh Độ là pháp môn Đại Thừa, nhất định phải phát cái tâm này. Điều thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là bảo quý vị hãy phát [thệ nguyện] “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, quý vị phải phát tâm! Đã phát tâm, tâm bèn giống như tâm Bồ Tát, nhưng chẳng có bản lãnh, không chỉ chẳng thể độ chúng sanh, mà còn thường bị chúng sanh kéo đi theo! Đó là vì chính mình chẳng có bản lãnh. Do vậy, nhất định phải phát tâm tu hành.

Tu hành là tu từ chỗ nào? Trước hết, phải đoạn phiền não. “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Nếu chẳng đoạn phiền não, quý vị học ngay vào pháp môn, sai mất rồi. Trong Phật môn có một tỷ dụ: Giống như cái chén trà này, trước kia đựng độc dược. Tuy đã đổ độc dược đi, chẳng đổ hết sạch, hãy còn có một tí trong ấy. Chúng ta dùng cái chén ấy để đựng Đề Hồ. Đề Hồ là thức uống dinh dưỡng tốt nhất, đem chứa trong đó, Đề Hồ cũng biến thành độc dược! Đó là sánh ví Đề Hồ như Phật pháp, chất độc là Tam Độc tham, sân, si. Tam Độc chẳng hoàn toàn đoạn hết, mà tiếp nhận tất cả Phật pháp, Phật pháp cũng biến thành độc dược.

Điều này nói rõ vì sao trước hết là phải đoạn phiền não, trước hết là phải gột sạch tham, sân, si, gột sạch sành sanh, sau đấy mới lại tiếp nhận Phật pháp. Đoạn hết phiền não, lại tiến nhập trình tự kế tiếp: “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Người hiện thời mắc cái tật “dùng cái chén đã đựng độc dược để tiếp nhận Đề Hồ”. Vì thế, tu học dẫu chịu khó, chịu khổ, tinh tấn cách mấy, vẫn chẳng thể thành tựu! Chúng ta nhất định phải tìm được nguyên nhân khiến cho chính mình chẳng thể thành tựu thì mới biết tánh chất trọng yếu của việc đoạn phiền não.

Tôi thường khuyên đại chúng: Chúng ta chia Tứ Hoằng Thệ Nguyện thành hai giai đoạn để tu: Trong một đời này, chúng ta chỉ tu phát đại nguyện “độ chúng sanh”, thật sự niệm Phật hòng “đoạn phiền não”. Trong đời này, chúng ta chỉ làm hai công tác ấy; đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thấy A Di Đà Phật, chúng ta lại hoàn thành hai chuyện thuộc phần sau. “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học” là đến học ở nơi đâu? Đến học trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thành Phật đạo cũng là chuyện tự nhiên trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Làm như vậy, trong một đời này, chúng ta sẽ thảy đều viên mãn.

Nếu trong giai đoạn hiện thời mà thâm nhập kinh tạng, học rộng nghe nhiều, chẳng đoạn phiền não, tâm niệm Phật sẽ chẳng thể chuyên! Nói cách khác, trong tương lai, chẳng thể vãng sanh, vẫn phải luân hồi trong lục đạo, lại sai mất rồi! Đời đời kiếp kiếp trong quá khứ, chẳng biết chúng ta đã lầm lỗi bao nhiêu lần! Đời này vẫn giống y hệt đời quá khứ, vẫn phạm lỗi lầm, [vậy là] lầm lỗi quá to. Trong quá khứ, đã phạm quá nhiều lầm lỗi, hy vọng đời này chẳng sai lầm nữa, thật thà niệm Phật, đó là chuyện khẩn yếu! Nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ, quyết định chẳng cầu tiếng tăm, lợi dưỡng trong hiện tiền, chẳng cầu hưởng thụ ngũ dục trong hiện tiền. Vì sao? Hưởng thụ tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, sẽ khiến cho chúng ta sanh khởi tâm lưu luyến đối với thế giới khổ nạn này, cũng có nghĩa là ý niệm vãng sanh chẳng chân thật, chẳng thiết tha.

Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật dạy chúng ta: “Lấy khổ làm thầy” rất có lý. “Lấy giới làm thầy”, “giới” là vâng giữ pháp tắc. Phải tuân thủ những phương pháp do đức Phật đã dạy, quyết định chớ nên vi phạm. “Lấy khổ làm thầy”: Hoàn cảnh sống kham khổ một chút, được lắm, chẳng lưu luyến thế gian này. Khi chúng ta lâm chung, khi vãng sanh, sẽ chẳng có chướng ngại. Người thật sự giác ngộ, biết cách thực hiện như thế nào. Vì thế, dốc toàn bộ tinh thần vào kinh giáo, nếu chẳng thể thành tựu, đó là tổn thất rất lớn. Thành tựu nơi kinh giáo hết sức khó khăn, đấy chẳng phải là chuyện [có thể hoàn thành] trong một đời một kiếp được! Trước kia, thầy Lý dạy học tại Đài Trung cũng thường nói: Những vị thiện tri thức chẳng phải là trong một đời, mà là đời đời kiếp kiếp trong quá khứ đã làm công tác hoằng pháp lợi sanh. Họ có túc căn ấy, cho nên có thể học, thành tựu dễ dàng. Trong đời quá khứ mà chẳng có túc căn ấy, khó lắm! Dẫu gặp bậc cao thủ hạng nhất, người ấy vẫn chẳng dễ gì thành tựu. Chúng ta phải hiểu rõ những điều này! Vì thế, nếu thật sự muốn thông Tông, thông Giáo, học rộng, nghe nhiều, phổ độ chúng sanh, phương pháp thông minh nhất là phải tới Tây Phương Cực Lạc thế giới trước đã, gặp gỡ A Di Đà Phật, học thành một thân trí huệ, đức năng, lại trở vào mười phương thế giới hòng phổ độ chúng sanh hữu duyên. Đó là con đường thích đáng nhất, là sự chọn lựa thông minh nhất.

Đấy là nói về sự khác biệt giữa cầu trí huệ từ bên ngoài và cầu trí huệ từ bên trong. Chúng ta nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, thì “tự tánh trí huệ bất khả tận”. Nay quý vị làm như thế, chư Phật Như Lai sẽ tán thán quý vị, trí huệ trong tự tánh của quý vị chẳng thể tận, quý vị sẽ giống như Văn Thù, Phổ Hiền. Nếu chẳng phải là trí huệ chân thật, sẽ không thể chọn lựa Tịnh Độ, sẽ không thể nghiêm túc tu hành. Do vậy, pháp môn bày ở ngay trước mặt, cớ sao công phu chẳng đắc lực? Do chẳng có trí huệ chân thật, nghiệp chướng sâu nặng, tín tâm chẳng sanh khởi, nguyện tâm chẳng sanh khởi, khó niệm tốt đẹp câu Phật hiệu được, niệm chẳng suông sẻ, đó là nghiệp chướng.

 

(Sao) Viết Hằng sa giả, diệc thiểu phần dụ nhĩ.

()曰恆沙者,亦少分喻耳。

(Sao: Nói là “như cát sông Hằng” thì cũng là sánh ví chút phần).

Kinh nói “Hằng hà sa số” (nhiều như số cát trong sông Hằng); thật ra, số cát trong sông Hằng chẳng nhiều, có thể tính toán rõ ràng, tính trọn hết. Dùng cát sông Hằng làm tỷ dụ, người thế gian thoạt trông bèn nghĩ rất nhiều, đó là bất đắc dĩ dùng chuyện này làm tỷ dụ. Trên thực tế, Hằng hà sa lần Hằng hà sa cũng chẳng có cách nào tỷ dụ, quý vị mới biết công đức và trí huệ trong tự tánh thật sự là chẳng thể cùng tận, thật sự là vô lượng vô biên.

 

(Sao) Sở dĩ đạo: Tận tư cộng độ lượng, bất năng trắc Phật trí.

()所以道盡思共度量,不能測佛智。

(Sao: Cho nên nói: “Suy nghĩ trọn hết, cùng nhau tính lường, chẳng thể dò lường Phật trí”).

“Sở dĩ đạo” là cho nên nói, “tận tư cộng độ lượng”: Tất cả hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới, tận hết sức suy tưởng, cùng nhau tính lường, cũng chẳng có cách nào hiểu rõ trí huệ đức Phật, mà cũng chẳng có cách nào biết. Đó là hình dung tột bậc trí huệ và đức năng trong tự tánh thật sự là vô lượng vô biên. Nhưng chư vị phải ghi nhớ, vô tận trí huệ và đức năng là thứ bản thân chúng ta vốn sẵn có, chẳng phải là chỉ riêng Phật hoặc Bồ Tát mới có. Mỗi người chúng ta đều có! Chỉ cần trừ bỏ chướng ngại, trí huệ và đức năng liền hiển lộ. Chư Phật Như Lai xóa sạch hết thảy chướng ngại, hoàn toàn hiển lộ. Trí huệ và đức năng của chúng ta bị phiền não, vọng tưởng, và chấp trước chướng ngại, tuy có mà chẳng thể hiện tiền, chẳng thể thọ dụng. Vì thế, đức Phật dạy chúng ta, chẳng có gì khác, nhằm dạy chúng ta biết đạo lý này, biết chân tướng sự thật; trừ khử chướng ngại là chuyện của chính mình, người khác chẳng giúp được. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mở đầu vẫn là chính mình phải đổ công dốc sức, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật bèn giúp đỡ. Chẳng đến thế giới Tây Phương, A Di Đà Phật chẳng thể giúp đỡ được. Công phu niệm Phật của chúng ta thành tựu, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta vãng sanh, đó là sự giúp đỡ của A Di Đà Phật trong một đời này. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật sẽ giúp đỡ hoàn toàn, Ngài hoàn toàn đảm trách. Hôm nay, chúng tôi giảng đến chỗ này.