A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 9 – Tập 267-273

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 9 – Tập 267-273

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 267

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm năm mươi:

Xác thực là danh hiệu của sáu phương Phật nhằm chỉ dạy chúng ta là những kẻ niệm Phật tu pháp môn Tịnh Độ hãy nên đi theo con đường Bồ Đề đại đạo. Ý nghĩa này hết sức trọng yếu.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh ngưỡng chi di cao bất khả tận, thị thượng phương hằng sa Phật nghĩa.

(Sao) Nhan Uyên thán đạo, viết: “Ngưỡng chi di cao”, kim tá dụng chi, ngôn linh tâm trác việt, thể tuyệt phan duyên. Ngưỡng chi di cần, cao chi ích thậm. Tích Tịnh Danh quá thượng phương tứ thập nhị Hằng hà sa thế giới, nhi thủ hương phạn; kim vị cánh quá thượng phương bất khả thuyết Hằng hà sa thế giới, cầu ư tự tánh, thí như tiếp trúc điểm thiên, dục chí kỳ điên, chung bất khả đắc!

(Diễn) Thể tuyệt phan duyên giả, vị Bát Nhã như đại hỏa tụ, chúng sanh chi tâm xứ xứ năng duyên, độc bất duyên ư Bát Nhã chi thượng dã. Tịnh Danh thượng phương thủ hương phạn giả, kinh vân: Thời Duy Ma Cật, tức nhập tam-muội, dụng thần thông lực, thị chư đại chúng. Thượng phương giới phận, quá tứ thập nhị Hằng hà sa quốc độ, hữu quốc danh Chúng Hương, Phật hiệu Hương Tích. Kim hiện tại, kỳ quốc hương khí, tỷ ư thập phương chư Phật thế giới nhân thiên chi hương, tối vi đệ nhất. Bỉ độ vô hữu Thanh Văn, Bích Chi Phật danh, duy hữu thanh tịnh đại Bồ Tát chúng, Phật vị thuyết pháp. Nãi chí cư sĩ, khiển hóa Bồ Tát đáo bỉ, thỉnh hương phạn viết: “Nguyện đắc Thế Tôn sở thực chi dư, đương ư Sa Bà thế giới, thi tác Phật sự” đẳng.

()稱理,則自性仰之彌高不可盡,是上方恆沙佛義。

()顏淵歎道。曰。仰之彌高。今借用之。言靈心卓越。體絕攀緣。仰之彌勤。高之益甚。昔淨名過上方四十二恆河沙世界。而取香飯。今謂更過上方不可說恆河沙世界。求於自性。譬如接竹點天。欲至其巔。終不可得。 ()絕攀緣者。謂般若如大火聚。眾生之心處處能緣。獨不緣於般若之上也。 淨名上方取香飯者。經云。時維摩詰。即入三昧。用神通力。示諸大眾。上方界分過四十二恒河沙國土。有國名眾香。佛號香積。今現在。其國香氣。比於十方諸佛世界人天之香。最為第一。彼土無有聲聞辟支佛名。唯有清淨大菩薩眾。佛為說法。乃至居士。遣化菩薩到彼。請香飯曰。願得世尊所食之餘。當於娑婆世界。施作佛事等。

(Sớ: Xứng Lý thì càng ngưỡng vọng tự tánh, càng cảm thấy cao chót vót chẳng thể cùng tận, chính là ý nghĩa của phương trên có hằng sa Phật.

Sao: Nhan Uyên cảm thán về đạo[50] [của Khổng Tử], nói: “Ngửa trông lên càng cao”, nay mượn ý ấy để dùng, hòng nói: Tâm linh thông chót vót tuyệt diệu, Thể của nó dứt bặt mọi sự nắm níu. Càng siêng gắng ngưỡng vọng, càng thấy cao cả. Xưa kia, ngài Tịnh Danh (Duy Ma Cật) qua khỏi bốn mươi hai ức Hằng hà sa thế giới để lấy cơm thơm. Nay lại nói qua khỏi bất khả thuyết Hằng hà sa thế giới trong phương trên để cầu tự tánh thì ví như nối tre để khều trời, toan muốn chạm đến tột đỉnh của bầu trời, trọn chẳng thể được.

Diễn: “Thể dứt bặt nắm níu”, ý nói Bát Nhã như đống lửa lớn, tâm chúng sanh chỗ nào cũng có thể duyên được, chỉ riêng Bát Nhã là chẳng thể duyên được. “Tịnh Danh lấy cơm thơm nơi thượng phương”: Kinh nói khi ấy ngài Duy Ma Cật dùng sức thần thông, liền nhập tam-muội, thị hiện cho đại chúng thấy trong các thế giới ở phương trên, qua khỏi bốn mươi hai Hằng hà sa số quốc độ, có một cõi nước tên là Chúng Hương, Phật hiệu Hương Tích, nay vẫn còn đang trụ thế. Hương thơm trong cõi ấy so với mùi hương của trời, người trong mười phương thế giới chư Phật, sẽ là thù thắng tột bậc. Cõi ấy chẳng có tên gọi Thanh Văn, Bích Chi Phật, chỉ có hàng đại Bồ Tát thanh tịnh, đức Phật vì họ thuyết pháp. Cư sĩ (ngài Duy Ma Cật) bèn sai hóa Bồ Tát đến cõi đó, xin cơm thơm, nói như sau: “Mong được thức ăn còn thừa của đức Thế Tôn để thực hiện Phật sự trong thế giới Sa Bà” v.v…)

Liên Trì đại sư dùng một thành ngữ của Nho gia để hình dung ý nghĩa “tự tánh có vô tận công đức”.

 

(Kinh) Các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh”.

()各於其國。出廣長舌相。遍覆三千大千世界。說誠實言。汝等眾生。當信是稱讚不可思議功德一切諸佛所護念經。

(Kinh: Mỗi vị đều ở trong cõi mình, hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật: “Chúng sanh các ngươi hãy nên tin kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm này”).

Trong một bộ kinh Di Đà ngắn ngủi này, chúng ta thấy câu này rất nhiều lần, sáu phương Phật là sáu lần [lặp lại], trong phần sau, đức Phật vẫn nhắc tới. Đọc nhiều lần, chúng ta bèn có ấn tượng hết sức sâu đậm, đấy là đức Phật đặc biệt nói nhấn mạnh. Nếu chúng ta có thể thật sự biết đôi chút đại ý trong tựa đề gốc của bản kinh này, tín nguyện trì danh sẽ tự nhiên đắc lực. Công phu niệm Phật chẳng đắc lực; nói cách khác, [đó là do] vẫn còn chưa thân thuộc đối với công đức của danh hiệu cho lắm!

 

(Sớ) Dĩ thượng lục phương Phật tán, diệc thị A Di Đà Phật bổn nguyện lực cố.

()以上六方佛讚,亦是阿彌陀佛本願力故。

(Sớ: Sáu phương Phật tán thán như trên đây cũng là do sức bổn nguyện của A Di Đà Phật).

Sáu phương chính là mười phương, mười phương cũng là ba đời. Đúng là mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều lễ tán A Di Đà Phật. Vì sao nói hết thảy chư Phật tán thán cũng là do bổn nguyện của A Di Đà Phật? Đó là vì trong bốn mươi tám nguyện có nguyện này.

 

(Sao) Bổn nguyện giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, danh văn thập phương vô ương số thế giới, chư Phật các ư đại chúng chi trung, xưng ngã công đức cập dữ quốc độ” đẳng.

()本願者,大本法藏願云:我作佛時,名聞十方無央數世界,諸佛各於大眾之中,稱我功德及與國土等。

(Sao: “Bổn nguyện”: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta làm Phật, tiếng tăm vang khắp mười phương vô ương số thế giới, chư Phật mỗi vị đều ở trong đại chúng khen ngợi công đức và cõi nước của ta” v.v…)

Phật Di Đà có nguyện này. Sau mỗi nguyện, lão nhân gia đều nói: Nếu nguyện ấy chẳng thành tựu, Ngài sẽ chẳng thành Phật. Vì thế, bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng đều thành tựu viên mãn. Ngài ở trong thế giới Tây Phương thành Phật cho đến nay đã là mười kiếp.

 

(Sao) Cố kim thành Phật, như kỳ sở nguyện.

()故今成佛,如其所願。

(Sao: Cho nên nay thành Phật, đúng như sở nguyện).

Đối với nguyện này, dụng ý chính của Ngài là ở chỗ nào? Có phải là A Di Đà Phật rất háo danh hay chăng? Kẻ háo danh mà còn có thể thành Phật ư? Chúng ta nhất định phải hiểu bổn ý của Ngài! Phật Di Đà tuyệt đối chẳng mong tiếng tăm, lợi dưỡng, mà là mong phổ độ hết thảy chúng sanh, giúp đỡ hết thảy chúng sanh thành Phật viên mãn ngay trong một đời! Nếu chư Phật chẳng tán thán, chẳng đề cao, chẳng giới thiệu Ngài, chúng sanh làm sao biết có A Di Đà Phật? Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật là một trong các vị Phật, do Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu cho chúng ta, chúng ta mới biết có Tây Phương Cực Lạc thế giới, có một vị Phật tên là A Di Đà. Mười phương chư Phật ở ngay trong khu vực giáo hóa của chính mình, đối trước các học trò của các Ngài, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật dạy bảo chúng ta. Chư Phật cũng khẩn thiết hệt như Thích Ca Mâu Ni Phật, khuyên dạy chúng ta phải phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Đấy chính là ý nghĩa [được ẩn tàng] trong bổn nguyện công đức của A Di Đà Phật. Thực ra, Ngài thật sự có thể làm được, cũng có nghĩa là: Hết thảy chúng sanh, kể cả chúng sanh trong địa ngục, [dẫu là] hạng chúng sanh tạo tác tội nghiệp cực nặng, chỉ cần họ có thể tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, cũng nhất định được vãng sanh ngay trong một đời. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, vô lượng tội nghiệp cực nặng đều có thể tiêu trừ ngay trong một đời. Tây Phương Cực Lạc thế giới tiêu trừ nghiệp chướng nhanh chóng nhất, viên thành Phật đạo ngay trong một đời. Vì thế, chư Phật Như Lai không vị nào chẳng tán thán, đạo lý ở chỗ này.

 

(Sớ) Hữu chấp Lăng Nghiêm, vị Quán Âm Nhĩ Căn, thử phương giáo thể, Thế Chí niệm Phật, bất dự Viên Thông, vân hà kim nhật phổ giáo niệm Phật? Dĩ thử vi nghi giả, chánh diêu bất đạt lục phương Phật tán cố.

(Diễn) Quán Âm Nhĩ Căn, thử phương giáo thể giả, Văn Thù tuyển Viên Thông ký vân: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn. Dục thủ Tam-ma-đề, thật dĩ Văn trung nhập, ly khổ đắc giải thoát. Lương tai Quán Thế Âm!” Thế Chí Niệm Phật bất dự Viên Thông giả, kệ vân: “Chư hành thị vô thường, niệm tánh nguyên sanh diệt, nhân quả kim thù cảm, vân hà hoạch Viên Thông?”

()有執楞嚴,謂觀音耳根,此方教體,勢至念佛,不與圓通,云何今日普教念佛?以此為疑者,正繇不達六方佛讚故。

()觀音耳根。此方教體者。文殊選圓通記云。此方真教體。清淨在音聞。欲取三摩提。實以聞中入。離苦得解脫。良哉觀世音。勢至念佛不與圓通者。偈云。諸行是無常。念性元生滅。因果今殊感。云何獲圓通。

(Sớ: Có kẻ chấp vào kinh Lăng Nghiêm, bảo: Phép Nhĩ Căn của đức Quán Âm [khế hợp] giáo thể của cõi này, còn phép Niệm Phật của ngài Thế Chí chẳng được chọn là phép Viên Thông, cớ sao nay lại dạy trọn khắp [hữu tình] niệm Phật? Viện vào điều ấy rồi nghi ngờ, chính là vì chẳng thấu hiểu [ý nghĩa của việc] sáu phương Phật đều tán thán.

Diễn: “Pháp Nhĩ Căn của Quán Âm” [khế hợp] giáo thể phương này: Kinh ghi lời ngài Văn Thù nói khi chọn lựa Viên Thông như sau: “Chân giáo thể phương này, thanh tịnh nơi nghe tiếng. Muốn chứng nhập Chánh Định, thật sự do Nghe nhập, lìa khổ được giải thoát. Lành thay Quán Thế Âm”. “Pháp Niệm Phật của ngài Thế Chí chẳng được chọn là phép Viên Thông”: Trong bài kệ ấy có đoạn: “Các hành là vô thường, tánh niệm vốn sanh diệt. Nhân cảm quả sai khác, làm sao đắc Viên Thông?”)

“Chấp” (執) là chấp trước. Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh khá phổ biến tại Trung Hoa; cổ nhân thường nói: “Khai huệ Lăng Nghiêm, thành Phật Pháp Hoa”. Trong những kinh điển đã được phiên dịch tại Trung Hoa, kinh Lăng Nghiêm được coi là hay nhất về mặt văn chương, nên những kẻ học Văn Học đều đọc kinh Lăng Nghiêm. Trong kinh Lăng Nghiêm, Văn Thù Bồ Tát đã vì thế giới này chọn lựa pháp môn, Ngài chọn pháp Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Thế Âm Bồ Tát. “Bất dự Viên Thông” nghĩa là chẳng chọn Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông Chương; vì sao nay lại dạy trọn khắp chúng ta niệm Phật? “Dĩ thử vi nghi” (Do điều này mà sinh nghi): Xét theo giáo nghĩa của kinh Lăng Nghiêm, không thể chẳng có nghi vấn! “Chánh diêu bất đạt lục phương Phật tán cố” (Chính là vì chẳng thấu đạt sáu phương Phật đều tán thán), “đạt” (達) là thông đạt, hiểu rõ. Vì sao kẻ ấy có nghi hoặc? Chính là vì kẻ ấy không biết sáu phương Phật tán thán trọn khắp pháp môn này, hết thảy chư Phật đều tán thán! Trong hội Lăng Nghiêm, pháp Viên Thông do Văn Thù Bồ Tát chọn lựa, đó là sự chọn lựa của bậc Bồ Tát. Còn ở đây là sự chọn lựa của chư Phật, chẳng phải là chọn lựa của riêng một vị Phật nào. Tất cả hết thảy chư Phật đều chọn lựa pháp môn này, chẳng lẽ [sự chọn lựa ấy] còn chẳng sánh bằng Văn Thù Bồ Tát ư? Chúng ta nhìn từ chỗ này, nghi hoặc sẽ chẳng còn nữa, đây là sự chọn lựa của chư Phật!

 

(Sao) Nghi giả vị Niệm Phật pháp môn, ký bất đậu thử phương chi cơ.

()疑者謂念佛法門,既不逗此方之機。

(Sao: Nghi là vì cho rằng pháp môn Niệm Phật chẳng phù hợp căn cơ của người phương này).

“Bất đậu” (不逗) là chẳng thích hợp. Chẳng thích hợp căn cơ của chúng sanh trong thế giới Sa Bà.

 

(Sao) Hựu bất nhập Viên Thông chi tuyển.

()又不入圓通之選。

(Sao: Lại còn chẳng được chọn là phép Viên Thông).

Ngài Văn Thù chọn lựa phép Viên Thông cho chúng ta, chẳng chọn lựa pháp môn Niệm Phật.

 

(Sao) Ký cư thử phương, hà tất niệm Phật?

()既居此方,何必念佛。

(Sao: [Vậy thì] đã sống trong cõi này, cần gì phải niệm Phật?)

Nay chúng ta sống trong thế giới Sa Bà, thế giới Sa Bà là Nhĩ Căn Viên Thông, cớ gì chúng ta phải niệm Phật? Kẻ hoài nghi trong tâm có nỗi nghi hoặc như vậy! Dưới đây, Liên Trì đại sư đã vì chúng ta đoạn nghi, sanh tín.

 

(Sao) Kim quán lục phương chư Phật giai tán thử kinh.

()今觀六方諸佛皆讚此經。

(Sao: Nay xét thấy sáu phương chư Phật đều khen ngợi kinh này).

Sáu phương chính là mười phương. Hết thảy chư Phật, chẳng có vị Phật nào không tán thán bộ kinh này, chẳng có vị Phật nào không tán thán pháp môn này.

 

(Sao) Tắc tri Nhĩ Căn giả, thiên đậu thử phương chi cơ.

()則知耳根者,偏逗此方之機。

(Sao: Cho nên biết Nhĩ Căn phù hợp riêng cho căn cơ của người trong cõi này).

Nhĩ Căn Viên Thông rất thích hợp căn cơ của chúng sanh trong thế giới Sa Bà. Văn Thù Bồ Tát nói: “Thử phương chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn” (Chân giáo thể phương này, thanh tịnh nơi nghe tiếng). Ngài chọn lựa chẳng sai.

 

(Sao) Niệm Phật tắc phổ đậu thập phương thế giới chi cơ dã.

()念佛則普逗十方世界之機也。

(Sao: Niệm Phật phù hợp trọn khắp căn cơ của mười phương thế giới).

Nhĩ Căn Viên Thông trong thế giới Sa Bà thì được, đối với các thế giới khác, chưa chắc đã thích hợp, chưa chắc đã khế cơ, nhưng trong hết thảy các cõi Phật, pháp môn Niệm Phật đều khế cơ, khác hẳn!

 

(Sao) Đại Bổn vân: “Thập phương chúng sanh, xưng ngã danh hiệu, tất sanh ngã quốc”, thị dã.

()大本云:十方眾生,稱我名號,必生我國。是也。

(Sao: Kinh Đại Bổn nói: “Mười phương chúng sanh, xưng danh hiệu ta, ắt sanh về cõi ta” chính là ý này).

Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. “Thập phương” là chúng sanh thuộc chín pháp giới trong hết thảy các cõi Phật, trên là bao gồm Đẳng Giác Bồ Tát, dưới là mãi cho đến chúng sanh trong địa ngục. “Xưng ngã danh hiệu” (Xưng danh hiệu của ta) là niệm Phật. Niệm Phật nhất định sanh về Tịnh Độ, nhất định được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Điều này chứng tỏ pháp môn này thích hợp trọn khắp hết thảy chúng sanh trong mười phương. Đó là so sánh giữa Nhĩ Căn Viên Thông và Niệm Phật Viên Thông. Dưới đây là nhìn từ một góc độ khác.

 

(Sao) Nhĩ Căn giả, thiên đậu nhân loại chi cơ, niệm Phật tắc phổ đậu lục đạo chúng sanh chi cơ dã.

()耳根者,偏逗人類之機,念佛則普逗六道眾生之機也。

(Sao: Nhĩ Căn riêng phù hợp căn cơ của nhân loại, còn niệm Phật thích hợp trọn khắp căn cơ của chúng sanh trong lục đạo).

Văn Thù Bồ Tát chọn lựa pháp Viên Thông cho chúng ta, là vì Nhĩ Căn của loài người trong thế giới Sa Bà rất nhạy bén, chứ đối với năm đường khác thì chẳng phải là như vậy. Pháp môn Niệm Phật lợi ích khắp cả lục đạo.

 

(Sao) Đại Bổn vân: “Địa ngục, quỷ, súc sanh, diệc sanh ngã sát trung”, thị dã.

()大本云:地獄鬼畜生,亦生我剎中。是也。

(Sao: Kinh Đại Bổn nói: “Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng sanh trong nước ta” chính là ý này).

Đây là nói về ba ác đạo, tức địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nghe pháp môn này, có thể tín, có thể nguyện, có thể niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, cũng đều được vãng sanh. Có thể thấy là phạm vi nhiếp thọ của Nhĩ Căn Viên Thông nhỏ bé, chỉ [gói gọn] trong loài người của thế giới Sa Bà, còn pháp môn Niệm Phật nhiếp thọ căn cơ rộng lớn, có thể nhiếp trọn khắp hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới, có thể hàm nhiếp hết thảy chúng sanh trong lục đạo.

 

(Sao) Nhiên tắc Nhĩ Căn bất nhiếp Niệm Phật.

()然則耳根不攝念佛。

(Sao: Vậy thì Nhĩ Căn chẳng hàm nhiếp Niệm Phật).

Pháp môn trong Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông Chương chẳng thể bao gồm pháp môn Niệm Phật.

 

(Sao) Niệm Phật năng nhiếp Nhĩ Căn.

()念佛能攝耳根。

(Sao: Niệm Phật có thể bao hàm Nhĩ Căn).

Pháp môn Niệm Phật có thể bao hàm pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Thế Âm Bồ Tát.

 

(Sao) Thị cố Nhĩ Căn giả, thử phương Thích Ca Như Lai sở tán.

()是故耳根者,此方釋迦如來所讚。

(Sao: Vì vậy, Nhĩ Căn là pháp được tán thán bởi Thích Ca Như Lai trong cõi này).

Pháp được một đức Phật tán thán sẽ thích ứng cho một khu vực [giáo hóa của chính Ngài], thích hợp một thời đại, có giới hạn, có phạm vi [nhất định].

 

(Sao) Niệm Phật giả, thập phương hằng sa Như Lai sở tán.

()念佛者,十方恆沙如來所讚。

(Sao: Niệm Phật là pháp được mười phương hằng sa Như Lai tán thán).

Pháp này siêu việt thời gian và không gian. Pháp môn này thật sự chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sao) Kim tùng đa tán cố dã.

()今從多讚故也。

(Sao: Nay [khuyên khắp mọi người niệm Phật] là thuận theo pháp được đa số tán thán vậy).

Nay chúng ta học pháp môn này, chúng ta khuyên trọn khắp mọi người niệm Phật là do dựa theo sự khuyên dạy và tán thán  của  hết  thảy chư Phật, có ý nghĩa như thế đó. Chúng ta hoàn toàn chẳng phạm sai lầm!

 

(Sao) Thả kim phổ thiên chi hạ, truy, tố, nam, nữ, tự nhiên niệm Phật, như tiền văn sở minh đậu cơ chi quảng, hựu hà nghi tai?

(Diễn) Nhĩ Căn bất nhiếp niệm Phật, niệm Phật năng nhiếp Nhĩ Căn giả, nhược luận pháp môn, Niệm Phật hữu Sự trì, Lý trì. Lý trì tắc phản Phật tự Phật, tức thị phản văn tự văn, thị Niệm Phật năng nhiếp Nhĩ Căn dã. Nhi Nhĩ Căn tắc vô Sự trì chi pháp, thị Nhĩ Căn bất nhiếp niệm Phật dã. Nhược luận nhiếp sanh, niệm Phật tắc phổ nhiếp lợi độn chư căn: Hạ tự địa ngục, quỷ, súc, du du phàm phu, thượng chí cụ Văn Tư Tu nhập Tam-ma-địa giả, giai sanh bỉ quốc, thị Niệm Phật năng nhiếp Nhĩ Căn dã. Nhi Nhĩ Căn Viên Thông, tắc hạ cơ tuyệt phần, thị Nhĩ Căn bất nhiếp Niệm Phật dã.

()且今普天之下,緇素男女,自然念佛,如前文所明逗機之廣,又何疑哉。

()耳根不攝念佛。念佛能攝耳根者。若論法門。念佛有事持理持。理持則反佛自佛。即是反聞自聞。是念佛能攝耳根也。而耳根則無事持之法。是耳根不攝念佛也。若論攝生。念佛則普攝利鈍諸根。下自地獄鬼畜悠悠凡夫。上至具聞思修入三摩地者。皆生彼國。是念佛能攝耳根也。而耳根圓通。則下機絕分。是耳根不攝念佛也。

(Sao: Hơn nữa, nay trọn khắp thiên hạ, tăng, tục, nam, nữ tự nhiên niệm Phật, như trong phần kinh văn trước đó đã nói [nguyên do là vì pháp môn này] thích hợp căn cơ rộng rãi, há còn ngờ chi?

Diễn: “Nhĩ Căn chẳng nhiếp Niệm Phật, Niệm Phật có thể nhiếp Nhĩ Căn”: Nếu luận định theo pháp môn, Niệm Phật có Sự trì và Lý trì. Lý trì là xoay từ đức Phật [bên ngoài để nhận biết] đức Phật của chính mình, tức là xoay cái Nghe lại để nghe tự tánh, đấy chính là Niệm Phật có thể nhiếp Nhĩ Căn. Nhưng môn Nhĩ Căn chẳng có pháp Sự trì, tức là Nhĩ Căn chẳng nhiếp Niệm Phật. Nếu luận định theo phương diện nhiếp độ chúng sanh, Niệm Phật nhiếp độ trọn khắp các căn lợi và độn, dưới từ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, phàm phu ngu ngơ, trên đến bậc đầy đủ Văn, Tư, Tu, nhập Chánh Định, đều sanh về cõi ấy. Đó là Niệm Phật có thể nhiếp Nhĩ Căn; nhưng Nhĩ Căn Viên Thông thì căn cơ bậc hạ trọn chẳng có phần. Đấy chính là Nhĩ Căn chẳng nhiếp Niệm Phật vậy).

“Truy” (緇) là người xuất gia, “tố” (素) là người tại gia, nay chúng ta nói là tứ chúng đệ tử tại gia và xuất gia.

 

(Sao) Thí thiết nhất dụ, như thử quốc trung, hữu bách thiên ấp.

()試設一喻,如此國中,有百千邑。

(Sao: Thử lập một thí dụ, như trong nước này, có trăm ngàn ấp).

Dùng một quốc gia để làm tỷ dụ. Ấp (邑)[51] là thành thị. “Bách thiên ấp”: Quốc gia ấy có rất nhiều thành thị, lãnh thổ của quốc gia ấy rất lớn.

 

(Sao) Ư trung, sĩ tử phân tập Ngũ Kinh.

()於中士子分習五經。

(Sao: Trong ấy, sĩ tử chia nhau học tập Ngũ Kinh).

“Sĩ” (士) là người đọc sách. Ngũ Kinh là kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi, Lễ Ký và Xuân Thu.

 

(Sao) Hoặc hữu nhất ấp, sĩ đa tập Thi.

()或有一邑,士多習詩。

(Sao: Hoặc có một ấp, sĩ tử phần nhiều học tập kinh Thi).

Hoặc là có một khu vực, người đọc sách thích học kinh Thi.

 

(Sao) Hoặc hữu nhất ấp, sĩ đa tập Lễ.

()或有一邑,士多習禮。

(Sao: Hoặc có một ấp, sĩ tử phần nhiều học Lễ Ký).

Trong một khu vực khác, họ học Lễ Ký.

 

(Sao) Sở xưng “đa tập”, cứ bổn ấp cố.

()所稱多習,據本邑故。

(Sao: Nói “phần nhiều học tập” là dựa trên ấp đó).

 Ở trong vùng này, nhiều người học khoa mục ấy, đó là tánh chất [đặc thù] của vùng này, chẳng mang tánh chất phổ biến, giống như Văn Thù Bồ Tát chọn lựa Nhĩ Căn Viên Thông mang tánh chất địa phương, chẳng mang tánh chất phổ biến.

 

(Sao) Như kỳ tham hội chư kinh, thông giảo hợp quốc, tắc tập chi tối đa, mạc thượng ư Dịch.

()如其參會諸經,通較合國,則習之最多,莫尚於易。

(Sao: Nếu xét chung các kinh, so sánh chung cả nước, thì kinh được học tập nhiều nhất không kinh nào hơn kinh Dịch).

 Trong Ngũ Kinh, kinh Dịch được người đọc sách ưa thích nhất. Nếu nói theo phạm vi cả nước, người học kinh Dịch chiếm đại đa số. Nếu nói theo từng khu vực, có chỗ thích kinh Thi, có nơi thích Lễ Ký, có nơi chuộng Xuân Thu[52], khác nhau!

 

(Sao) Kim thử Nhĩ Căn, như Thi, Lễ cố.

()今此耳根,如詩禮故。

(Sao: Nay pháp Nhĩ Căn này, như kinh Thi hoặc Lễ Ký [trong thí dụ trên đây]).

Nó chiếm đa số trong một khu vực.

 

(Sao) Kim thử Niệm Phật, như Châu Dịch cố.

(Diễn) Kim thử Nhĩ Căn như Thi, Lễ giả, Nhĩ Căn độc bị thử phương chi cơ, bất thông dư phương. Như tập Thi, Lễ, cứ nhất ấp ngôn, phi hợp quốc cố. Kim thử Niệm Phật như Châu Dịch giả, Niệm Phật thiên đậu thập phương chi cơ, bất cục nhất phương, như bỉ Châu Dịch thông hợp quốc ngôn, phi nhất ấp cố.

()今此念佛,如周易故。

()今此耳根如詩禮者。耳根獨被此方之機。不通餘方。如習詩禮。據一邑言非合國故。今此念佛如周易者。念佛偏逗十方之機。不局一方。如彼周易通合國言非一邑故。

(Sao: Nay pháp Niệm Phật này giống như Châu Dịch[53] vậy.

Diễn: “Nay pháp Nhĩ Căn này giống như kinh Thi, Lễ Ký”: Nhĩ Căn chỉ riêng phù hợp căn cơ trong phương này, chẳng phù hợp những phương khác. Như người học tập kinh Thi, Lễ Ký là nói theo một ấp, chẳng phải là xét theo cả nước. “Nay pháp Niệm Phật như Châu Dịch”: Niệm Phật riêng thích hợp căn cơ mười phương, chẳng hạn cuộc trong một phương, giống như [nói học] Châu Dịch [nhiều nhất] là nói theo cả nước, chẳng phải là nói theo một ấp).

Nếu luận định theo cả nước, người học kinh Dịch nhiều nhất, dùng tỷ dụ này để sánh ví pháp môn trong Nhĩ Căn Viên Thông Chương là [pháp được ưa chuộng] trong một khu vực, còn Niệm Phật Viên Thông là [pháp môn] phổ biến, thông dụng khắp toàn quốc. Lại lập ra một câu hỏi:

 

(Sớ) Vấn: Ký lục phương chư Phật cộng tán Tây Phương, vân hà Lục Tổ bất tùy Phật tán, phản tự xích vô, kỳ cố an tại?

()問:既六方諸佛共讚西方,云何六祖不隨佛讚,反似斥無,其故安在?

(Sớ: Hỏi: Đã nói là sáu phương chư Phật cùng tán thán Tây Phương, cớ sao Lục Tổ chẳng thuận theo chư Phật tán dương, mà dường như ngược ngạo bài xích “chẳng có Tịnh Độ”, nguyên cớ là vì đâu?)

Lục Tổ là Huệ Năng đại sư của Thiền Tông. Vì sao Lục Tổ chẳng thể tùy thuận chư Phật tán thán Tây Phương, mà ngược lại, trong ngôn từ dường như có vẻ bài xích Tây Phương. Vì sao Ngài có loại ngôn luận ấy?

 

(Sớ) Đáp: Thử hữu tứ ý.

()答:此有四意。

(Sớ: Đáp: Chuyện này có bốn ý).

Liên Trì đại sư giải thích: Chuyện này có bốn ý nghĩa. Đoạn văn này rất quan trọng, vì có những kẻ đọc Đàn Kinh bèn chẳng tin tưởng Tịnh Độ do đã hiểu sai lời Lục Tổ đã nói trong Đàn Kinh.

 

(Sớ) Nhất, vị môn bất đồng cố.

()一為門不同故。

(Sớ: Một là vì pháp môn bất đồng).

Họ tu hành pháp môn khác biệt.

 

(Sớ) Nhị, tự hủy thật tán cố.

()二似毀實讚故。

(Sớ: Hai là dường như hủy báng, nhưng thật ra là tán thán).

Ngài tợ hồ phê bình Tịnh Độ, trên thực tế là Ngài tán thán. Lũ bình phàm chúng ta sơ ý, chẳng thể hiểu ý nghĩa thật sự của Lục Tổ, hiểu lầm lời nói của Ngài.

 

(Sớ) Tam, bất vị sơ cơ cố.

()三不為初機故。

(Sớ: Ba là [nói như vậy] chẳng vì kẻ sơ cơ).

Đối tượng tiếp dẫn của Lục Tổ là bậc thượng thượng căn, chẳng phải là những kẻ bình phàm.

 

(Sớ) Tứ, ký lục hữu ngoa cố.

()四記錄有訛故。

(Sớ: Bốn là ghi chép có sai lầm).

Có sai ngoa, lầm lẫn! Vì Lục Tổ Đàn Kinh chẳng phải do chính Ngài viết. Ngài nói (giảng giải, vấn đáp), học trò ghi chép lại, ghi chép sẽ chẳng tránh khỏi phạm sai lầm. Dưới đây, đối với bốn nguyên nhân bèn giải thích từng điều một.

 

(Sao) Lục Tổ Đàn Kinh vân: “Đông phương nhân tạo ác, niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Tây Phương nhân tạo ác, niệm Phật cầu sanh hà quốc?”

()六祖壇經云:東方人造惡,念佛求生西方;西方人造惡,念佛求生何國?

(Sao: Lục Tổ Đàn Kinh nói: “Người phương Đông tạo ác, niệm Phật cầu sanh Tây Phương; người Tây Phương tạo ác, niệm Phật cầu sanh cõi nào?”)

Trong Đàn Kinh có một đoạn Lục Tổ đại sư nói như thế.

 

(Sao) Hựu vân: “Ngu nhân nguyện Đông, nguyện Tây”.

()又云:愚人願東願西。

(Sao: Lại nói: “Kẻ ngu nguyện Đông, nguyện Tây”).

Điều này có nghĩa là: Quý vị phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ là kẻ ngu, chẳng phải là hạng người căn tánh nhạy bén.

 

(Sao) Hậu nhân chấp thử.

()後人執此。

(Sao: Người đời sau chấp điều này).

 Người đời sau thấy mấy câu này trong Đàn Kinh, do vậy bèn chấp trước.

 

(Sao) Toại nghi Lục Tổ thuyết vô Tây Phương, cố vị thử biện.

()遂疑六祖說無西方,故為此辯。

(Sao: Bèn nghi Lục Tổ nói “không có Tây Phương”; vì thế, phải biện định chuyện này).

Mọi người tưởng Lục Tổ chẳng thừa nhận có Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho nên Liên Trì đại sư mới có đoạn văn tự này để biện định, chứng minh.

 

(Sao) Sơ, vị môn bất đồng giả, phục hữu nhị nghĩa: Nhất giả thả cứ Lý Sự nhị môn, Lục Tổ sở thuyết, thị dĩ Lý đoạt Sự môn.

()初為門不同者,復有二義:一者且據理事二門,六祖所說,是以理奪事門。

(Sao: Thứ nhất, “vì pháp môn khác nhau”, lại có hai nghĩa: Một là xét theo hai môn Lý và Sự, lời Lục Tổ nói chỉ xét theo Lý, chẳng xét theo Sự).

 Hết thảy các pháp chẳng ngoài hai môn Lý và Sự, hoặc nói là hai môn Tánh và Tướng. Tánh là Lý, Tướng là Sự, có Lý, có Sự. “Dĩ Lý đoạt Sự môn”: Lục Tổ nói theo Lý, chẳng phải là nói theo Sự.

 

(Diễn) Dĩ Lý đoạt Sự môn giả, Chân Như giới nội  bất  lập  nhất

trần, hữu hà tịnh uế, hà tất nguyện cầu? Dục hiển Chân Như chi lý, cố đoạt tịnh, uế, nguyện cầu chi sự, phi chân vô tịnh, uế, vãng sanh chi sự dã.

()以理奪事門者,真如界內不立一塵,有何淨穢,何必願求?欲顯真如之理,故奪淨穢願求之事,非真無淨穢往生之事也。

(Diễn: “Xét theo phương diện dùng Lý để đoạt Sự”: Trong Chân Như chẳng lập mảy trần, há có tịnh hay uế, cần gì phải nguyện cầu? Do muốn hiển thị lý Chân Như nên chẳng nói đến chuyện tịnh, uế, nguyện cầu, chứ chẳng phải là thật sự không có chuyện tịnh, uế, vãng sanh!)

Trong phần trước của Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói rất rõ ràng: “Vốn chẳng có một vật”. Có thế giới Tây Phương, há chẳng phải là có một vật ư? Còn có một vị A Di Đà Phật, há chẳng phải là có hai vật ư? Nơi Lý chẳng có, nơi Tánh chẳng có! Chư vị nhất định phải hiểu đạo lý này: Trong Chân Như bản tánh, chẳng lập một pháp. “Dục hiển Chân Như chi lý, cố đoạt tịnh uế, nguyện cầu chi sự” (Do muốn hiển thị lý Chân Như, nên chẳng nói đến chuyện tịnh, uế, nguyện cầu). Mục đích giáo học của Thiền Tông là dạy quý vị minh tâm kiến tánh. Nếu trong tâm quý vị còn có những thứ ấy tồn tại, chúng sẽ chướng ngại quý vị minh tâm kiến tánh. Vì thế, những tri kiến ấy ắt cần phải đều trừ sạch. Đó là phương pháp của Thiền Tông. Mục tiêu của Thiền Tông là khiến cho quý vị minh tâm kiến tánh, cách nói của Lục Tổ chẳng sai! Trong pháp môn của Ngài thì nói như vậy. “Phi chân vô tịnh uế, vãng sanh chi sự” (Chẳng phải thật sự là không có chuyện tịnh, uế, vãng sanh): Ngài chẳng nói đến Sự. Người ta nói theo Lý, nói theo tự tánh thanh tịnh, chẳng bàn luận sự tướng cùng quý vị.

 

(Sao) Nhược dĩ Sự đoạt Lý môn, tắc Phật sự môn trung, bất xả nhất pháp, an đắc bát vô Tịnh Độ.

()若以事奪理門,則佛事門中,不捨一法,安得撥無淨土。

(Sao: Nếu xét theo Sự, chẳng nói đến Lý, thì trong các Phật sự, chẳng bỏ một pháp, lẽ nào bác bỏ chẳng có Tịnh Độ cho được?)

Chúng ta và Lục Tổ cũng là do pháp môn bất đồng,  pháp môn của

Ngài là Lý môn, còn chúng ta đi theo Sự môn. Nơi Lý, chẳng lập một pháp. Nơi Sự, chẳng bỏ một pháp. “Phật sự môn trung, bất xả nhất pháp” (Trong các Phật sự, chẳng bỏ một pháp), lẽ nào Tịnh Độ chẳng có cho được? Lẽ nào chẳng có A Di Đà Phật cho được? Nói theo Sự, hết thảy đều có; nói theo Lý, hết thảy đều là Không, đạo lý là như thế đó. Thiền Tông nói “hết thảy đều là Không”, từ Không môn tiến nhập. Pháp môn này của chúng ta là “hết thảy đều có”, từ Hữu môn tiến nhập, quyết định là phải tin tưởng có Tây Phương Cực Lạc thế giới, quyết định tin tưởng có A Di Đà Phật. Chúng ta từ Hữu môn tiến nhập, kiến lập từ Sự; Thiền Tông nói theo Lý, kiến lập từ Tánh. Môn đình được kiến lập bất đồng!

 

(Sao) Nhị giả Tấn, Tống nhi hạ, cạnh dĩ Thiền Quán tương cao, trực chỉ đơn truyền chi ý, kỷ ư hối tắc, ư thời Đạt Ma thỉ xướng, chư Tổ kế hưng, duy dục đại minh thử đạo, nhi thử đạo vô Phật, vô chúng sanh.

()二者晉宋而下,競以禪觀相高,直指單傳之意,幾於晦塞,於時達摩始唱,諸祖繼興,惟欲大明此道,而此道無佛無眾生。

(Sao: Hai là kể từ thời Tấn, Tống trở đi, [người đời] đua nhau đề cao Thiền Quán, nhưng đối với ý chỉ “trực chỉ đơn truyền” [người học Thiền Quán] gần như mờ mịt [chẳng thông đạt]. Khi ấy, tổ Đạt Ma khởi đầu đề xướng, chư Tổ kế tục chấn hưng [Thiền Tông], chỉ mong sao đạo ấy được rạng ngời, nhưng trong đạo ấy chẳng có Phật, chẳng có chúng sanh).

 Phật pháp truyền sang Trung Hoa vào năm Vĩnh Bình thứ mười (67)[54] đời Hậu Hán, khi ấy vừa đúng lúc Thích Ca Mâu Ni Phật đã diệt độ một ngàn năm. Thời kỳ Chánh Pháp của đức Phật đã qua, bắt đầu Tượng Pháp. Trong kinh, đức Phật đã tiên đoán: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu; thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu; thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”. Phật giáo truyền sang Trung Hoa nhằm thời kỳ Tượng Pháp, cho nên tại Trung Hoa, phong khí Thiền hết sức hưng thịnh, hưng thịnh hơn một ngàn năm. Kể từ đời Tấn, Tống trở đi, người học Phật đều nghĩ Thiền là cao, một mực tham Thiền. “Trực chỉ đơn truyền chi ý, kỷ ư hối tắc” (Đối với ý chỉ “trực chỉ đơn truyền” gần như mờ mịt), ai nấy đều tham Thiền, nhưng Thiền là gì cũng chẳng hiểu rõ, há có thể thành tựu được ư? Phong khí Thiền hưng thịnh như thế, người hy vọng học Thiền đông đảo ngần ấy, nhưng chẳng hiểu rõ Thiền là gì? Người Hoa có cảm, tổ Đạt Ma bèn có ứng. Tổ Đạt Ma đến Trung Hoa nhằm nói rõ đại ý “trực chỉ đơn truyền”.

 

(Diễn) Trực chỉ đơn truyền giả, Thiền Tông trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, đơn truyền tâm ấn, bất lập văn tự.

()直指單傳者,禪宗直指人心,見性成佛,單傳心印,不立文字。

(Diễn: “Trực chỉ đơn truyền”: Thiền Tông chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật, chỉ truyền tâm ấn, chẳng lập văn tự).

Đây là tông chỉ nhà Thiền, phương thức của Thiền và phương thức của Giáo Hạ hoàn toàn khác nhau. “Bất lập văn tự” là chẳng chấp trước văn tự, chẳng phải là không cần đến văn tự. Trong Đại Tạng Kinh, từ xưa tới nay, những ngữ lục, trước tác của các tổ sư, các tác phẩm của Thiền Tông chiếm hơn một nửa. Thiền chẳng lập văn tự, [thế mà] văn tự của Thiền nhiều hơn bất cứ tông nào khác, nhiều gấp mấy lần! “Bất lập” là đừng chấp trước, hoàn toàn là “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời). Không chỉ là chẳng chấp trước văn tự, mà ngôn ngữ đều chẳng chấp trước. Hai vị Thiền sư trò chuyện, chúng ta ở bên cạnh lắng nghe, chẳng hiểu họ đang nói những gì! Họ đáp chẳng nhằm câu hỏi, quý vị chẳng hiểu ý họ, ý của họ nằm ngoài ngôn ngữ. Sau thời Đạt Ma đến Trung Hoa, chư tổ truyền cho nhau cũng là “trực chỉ” (chỉ thẳng).

 

(Diễn) Thử đạo vô Phật, vô chúng sanh giả, thử đạo Phật lai dã sát, ma lai dã sát, thượng vô Phật đạo khả thành, hạ vô chúng sanh khả độ cố.

()此道無佛無眾生者,此道,佛來也殺,魔來也殺,上無佛道可成,下無眾生可度故。

(Diễn: “Trong đạo ấy, chẳng có Phật, chẳng có chúng sanh”: Trong đạo ấy, Phật đến cũng giết, ma đến cũng giết, trên là chẳng có Phật đạo để có thể thành, dưới là chẳng có chúng sanh để có thể độ).

Xét theo pháp môn ấy, Ngài tuyệt đối là chánh xác. Vì sao? Nếu có Phật, có ma, Phật và ma là hai pháp; hai pháp thì chẳng phải là Phật pháp! Hai pháp là mê, chẳng phải là giác. Có Phật đạo, có chúng sanh, đó lại là hai pháp. Trong Đàn Kinh, khi Lục Tổ và Ấn Tông vừa mới gặp mặt, Ấn Tông phát hiện Ngài là Lục Tổ, là truyền nhân của Hoàng Mai Ngũ Tổ. Do vậy, Sư hết sức hoan hỷ, hết sức lễ kính đối với Ngài, hướng về Ngài thỉnh giáo: Thông thường, Ngũ Tổ dạy đại chúng, có nói tới giải thoát hay không? Có nói tới Thiền Định hay chăng? Có dạy mọi người những phương pháp ấy hay chăng? Lục Tổ trả lời: “Thiền Định và giải thoát là hai pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”. Phật và ma là hai pháp, Phật pháp là pháp bất nhị. Vì thế, chẳng có Phật, mà cũng chẳng có ma! Chúng sanh và Phật đạo cũng là hai pháp, Phật pháp có phải là hai pháp hay không?

Do vậy có thể biết: Thiền tâm chân chánh là chân thanh tịnh, chân bình đẳng, họ hoàn toàn đạt được viên mãn “thanh tịnh, bình đẳng, giác” của kinh Vô Lượng Thọ. Tịnh Tông chứng “thanh tịnh, bình đẳng, giác” từng phần, Thiền Tông là đốn chứng, chuyện này rất khó! Nếu người tham Thiền còn có phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng phải là Thiền, giả trất, chẳng thật. Vì sao? Kẻ ấy chẳng nhập pháp môn Bất Nhị, vẫn còn rớt vào hai, ba. Rớt vào hai, ba thì chẳng phải là Thiền, nói theo Giáo Hạ thì được, ở trong Thiền thì chẳng thể! Kẻ ấy còn có phân biệt, chấp trước, tâm kẻ ấy chẳng phải là Thiền tâm. Thiền tâm quyết định chẳng có phân biệt, chấp trước. Nếu kẻ ấy còn nói “Thiền cao, Tịnh không được” thì Thiền và Tịnh là hai pháp, [thế nhưng] Phật pháp là pháp Bất Nhị. Nói như thế với kẻ ấy, dùng ngay thí dụ trong Lục Tổ Đàn Kinh để trả lời kẻ đó là được rồi, bớt được rất nhiều rắc rối!

 

(Sao) Kim Tây Phương giả, chánh khai thị chúng sanh thú hướng Phật cố.

()今西方者,正開示眾生趣向佛故。

(Sao: Nay [pháp môn] Tây Phương chính là vì khai thị chúng sanh hướng đến Phật).

Pháp môn này có Phật, có chúng sanh, còn pháp môn của họ (người tu Thiền) là pháp môn “chẳng có Phật, chẳng có chúng sanh”, được kiến lập trên tự tánh, kiến lập trên Lý. Chúng ta kiến lập từ Tướng, kiến lập từ Sự, có Phật, có chúng sanh, khuyên hết thảy chúng sanh niệm Phật vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để thấy A Di Đà Phật, khác nhau! Do pháp môn bất đồng [nên cách nói sẽ bất đồng], nhất định phải hiểu rõ ràng.

 

(Sao) Thử đạo cử tâm tức thác, động niệm tức quai.

()此道舉心即錯,動念即乖。

(Sao: Đạo ấy hễ khởi tâm bèn lỗi, động niệm bèn sai).

“Thử đạo” (đạo này) là nói tới Thiền Tông. Trong Thiền, hễ khởi tâm động niệm bèn sai, chẳng thể khởi tâm động niệm.

 

(Sao) Kim Tây Phương giả, chánh giáo nhân khởi tâm niệm Phật cố.

()今西方者,正教人起心念佛故。

(Sao: Nay [pháp môn] Tây Phương chính là nhằm dạy người ta khởi tâm niệm Phật).

Pháp môn này của chúng ta nhằm cổ vũ, khích lệ, khuyên lơn mọi người khởi tâm động niệm, niệm A Di Đà Phật. “Khởi tâm” là phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, “động niệm” là niệm Phật, cầu sanh thế giới Cực Lạc. Môn đình kiến lập khác biệt!

 

(Sao) Thử đạo tâm cảnh câu tịch.

(Diễn) Thử đạo tâm cảnh câu tịch giả, cổ vân: “Ngoại tức chư duyên, nội tâm vô suyễn. Tâm như tường bích, khả dĩ nhập đạo”. Hựu vân: “Xuất tức bất thiệp chúng duyên, nhập tức bất cư Ấm, Giới đẳng”.

()此道心境俱寂。

()此道心境俱寂者。古云。外息諸緣。內心無喘。心如牆壁。可以入道。又云。出息不涉眾緣。入息不居陰界等。

(Sao: Đạo ấy, tâm lẫn cảnh đều vắng lặng.

Diễn: “Đạo ấy tâm và cảnh đều vắng lặng”: Cổ nhân nói: “Ngoài thì dứt các duyên, trong thì tâm chẳng máy động. Tâm như tường vách, có thể nhập đạo”. Lại nói: “Thở ra chẳng dính dáng các duyên, hít vào chẳng ở trong Ấm, Giới” v.v…)

“Thử đạo” là nói tới Thiền Tông, “tâm” là bên trong, “cảnh” là bên ngoài. Tâm thanh tịnh, cảnh thanh tịnh, đó là Thiền. Hoàn cảnh bên ngoài chẳng thanh tịnh, là vì tâm quý vị không thanh tịnh. Nếu tâm quý vị thật sự thanh tịnh, cảnh giới bên ngoài cũng nhất định thanh tịnh. Vì sao? Quý vị chẳng có tâm phân biệt, chẳng có tâm chấp trước, thanh tịnh hoặc chẳng thanh tịnh là do phân biệt, chấp trước sanh ra. Lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, há có thanh tịnh và chẳng thanh tịnh? Hai bên tịnh và bất tịnh đều bỏ sạch, đó là chân thanh tịnh; nhưng trong Tịnh Tông, nhiễm và tịnh phân chia rất rõ ràng. Thế giới Sa Bà của chúng ta là nhiễm, Tây Phương Cực Lạc thế giới là tịnh.

 

(Sao) Kim Tây Phương giả, chánh dĩ Phật quốc vi cảnh, phát tâm cầu sanh cố.

()今西方者,正以佛國為境,發心求生故。

(Sao: Nay [pháp môn] Tây Phương chính là lấy Phật quốc làm cảnh, phát tâm cầu được sanh về).

Đây là chỉ rõ chỗ khác nhau cơ bản giữa Thiền và Tịnh. Đó là sự khác biệt nơi Tướng: Phương pháp khác nhau, nhưng Lý như nhau. Điều họ mong cầu là minh tâm kiến tánh, chúng ta mong cầu vãng sanh Tây Phương. Xét theo điều mong cầu, dường như khác biệt, chúng ta đến Tây Phương để làm gì? Đến Tây Phương gặp A Di Đà Phật bèn minh tâm kiến tánh, giống hệt như họ. Họ mong minh tâm kiến tánh ở nơi đây, chúng ta chẳng thể minh tâm, chẳng kiến tánh trong cõi này được, bèn tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, nương cậy vào sự giúp đỡ và giáo huấn của A Di Đà Phật để minh tâm kiến tánh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì thế, mục tiêu cuối cùng hoàn toàn giống nhau, nhưng phương pháp tu hành và đường lối khác nhau.

 

(Sao) Thị tuy Lý vô nhị trí, nhi môn đình thi thiết bất đồng.

()是雖理無二致,而門庭施設不同。

(Sao: Tức là xét theo Lý thì chẳng hai, nhưng môn đình kiến lập khác nhau).

Chúng ta xét theo Lý thì [Tịnh Độ] giống hệt [như Thiền], mục tiêu mong cầu cũng là như nhau. “Môn đình thi thiết bất đồng”: Chúng ta theo cửa ngõ khác biệt để vào;  họ vào từ cửa này, chúng ta tiến vào từ cửa kia.

 

(Sao) Tùy thời trục cơ, pháp tự ưng nhĩ.

()隨時逐機,法自應爾。

(Sao: Tùy thuộc thời tiết và căn cơ, pháp đáng nên là như vậy).

Tùy thuận thời tiết nhân duyên, tùy thuận căn tánh của hết thảy chúng sanh, tự nhiên là như vậy.

 

(Sao) Giả sử tài hoằng trực chỉ, phục tán Tây Phương, tắc trực chỉ chi ý, chung vô diêu minh hỹ.

()假使纔弘直指,復讚西方,則直指之意,終無繇明矣。

(Sao: Giả sử vừa mới hoằng truyền pháp Trực Chỉ, lại ca ngợi Tây Phương thì ý chỉ Trực Chỉ trọn chẳng thể do đâu mà tỏ rạng được).

Đối với một người thuộc Thiền Tông, nhấn mạnh “tâm và cảnh đều vắng lặng, chẳng sanh một niệm”, nếu lại khuyên kẻ ấy niệm Phật cầu sanh Tây Phương, sẽ phá hoại cái tâm thanh tịnh của kẻ đó, làm sao có thể làm như vậy được? Trực Chỉ là minh tâm kiến tánh, điều này đã bị phá hoại. Cùng một đạo lý giống y hệt, hoằng dương pháp môn Tịnh Độ, nhất định là khuyên mọi người: Khẳng định là thật sự có Tây Phương Cực Lạc thế giới. Kinh Di Đà dạy: “Qua khỏi mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc”. Có [cõi ấy]! “Cõi ấy có Phật hiệu Di Đà”, khẳng định như vậy, có! Thiền Tông là chẳng có, chúng ta có! Chúng ta nói theo Sự, thật sự có! Môn đình khác nhau, giáo học Thiền Tông và giáo học Tịnh Độ khác nhau. Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý này.

Làm một vị pháp sư, làm một vị thiện tri thức, tham học trong hết thảy các đạo tràng, phải hiểu điều thường thức này. Tôi là một người tu Di Đà Tịnh Độ, hễ tôi tham phỏng đạo tràng Thiền Tông, nhất định là cực lực khen ngợi Thiền, trọn chẳng nhắc đến Tịnh Độ. Hễ nhắc đến Tịnh Độ, sẽ phá hoại ý niệm của họ. Trong quá khứ, tôi đến thăm chùa Bảo Lâm tại Đại Dữ Sơn[55], Hương Cảng, đó là đạo tràng của pháp sư Thánh Nhất, là đạo tràng Thiền Tông. Thiền Đường của họ mỗi ngày đều tuân theo quy củ tọa hương, có bốn mươi mấy người, rất khó có, quy củ rất nghiêm. Pháp sư Thánh Nhất mời tôi đến Thiền Đường khai thị, kết duyên với mọi người. Tôi hoàn toàn chẳng thể khuyên họ niệm Phật, [nếu khuyên họ], chẳng phải là đã hoàn toàn phá hoại công phu của họ ư? May là tôi còn có mấy câu Khẩu Đầu Thiền có thể ứng phó, tán thán họ. Họ hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Thầy đã tán thán Thiền Tông dường ấy, sao chẳng tham Thiền mà lại niệm Phật?” Tôi thật thà đáp lời: “[Để tu] Thiền phải là người thượng căn, tôi là kẻ hạ hạ căn”. Đề cao họ, các ông là thượng thượng căn, tôi là kẻ hạ hạ căn. Ở Tân Gia Ba, tôi đến thăm đạo tràng của pháp sư Diễn Bồi. Đạo tràng của ngài Diễn Bồi tu Di Lặc Tịnh Độ, tôi tu Di Đà Tịnh Độ, khác nhau. Mục đích của họ là trong tương lai sanh lên trời Đâu Suất, thân cận Di Lặc Bồ Tát; còn chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thân cận A Di Đà Phật. Sư đã dạy tại đó hơn hai mươi năm, tôi chẳng thể khuyên mọi người niệm A Di Đà Phật. Vì thế, đến đạo tràng của Sư, tôi phải đặc biệt ca ngợi Di Lặc Bồ Tát. Đấy là quy củ, nhất định phải biết. Họ đang học gì, chúng ta nhất định phải tán thán pháp môn ấy, phải khiến cho họ sanh tâm hoan hỷ, phải khiến cho họ tăng trưởng tín tâm đối với pháp môn ấy, chúng ta giúp đỡ họ. Quyết định chớ nên phá hoại đạo tràng, chớ nên phá hoại sự tu học của chúng sanh. Họ đã tu nhiều năm ngần ấy, nếu khiến cho họ nghi hoặc, nếu khiến cho tâm địa của họ lay động, tội lỗi đó to lắm! Phật môn có một câu tục ngữ: “Ninh động thiên giang thủy, bất động đạo nhân tâm” (Thà động nước ngàn sông, chẳng động tâm người tu đạo). Nếu quý vị phá hoại tín niệm của người tu đạo, tội lỗi ấy quá nặng!

 

(Sao) Cố Lục Tổ dữ Tịnh Độ chư sư, dịch địa tắc giai nhiên dã.

(Diễn) Dịch địa tắc giai nhiên giả, Lục Tổ xử Tịnh Độ chư sư chi thời, Lục Tổ diệc tán Tây Phương. Tịnh Độ chư sư xử Lục Tổ thời, Tịnh Độ chư sư diệc đơn hoằng trực chỉ hỹ.

()故六祖與淨土諸師,易地則皆然也。

()易地則皆然者 。六祖處淨土諸師之時 。六祖亦贊

西方。淨土諸師處六祖時。淨土諸師亦單弘直指矣。

(Sao: Vì thế, Lục Tổ và các sư Tịnh Độ, nếu đổi chỗ cho nhau thì đều cũng vậy.

Diễn: “Nếu đổi chỗ cho nhau thì đều cũng vậy”: Lục Tổ sống vào thời của các sư Tịnh Độ, Lục Tổ cũng khen ngợi Tây Phương. Các sư Tịnh Độ ở vào thời Lục Tổ thì các sư Tịnh Độ cũng chỉ hoằng truyền Trực Chỉ vậy).

Nếu thay đổi địa vị để xử sự, biểu hiện sẽ đều giống hệt như nhau. Chúng ta lại xem đoạn thứ hai:

 

(Sao) Nhị tự hủy thật tán giả.

()二似毀實讚者。

(Sao: Hai là dường như hủy báng, nhưng thật ra là tán thán).

“Tự” (似) là dường như. Lời lẽ của Lục Tổ dường như báng bổ Tịnh Độ; trên thực tế là tán thán Tịnh Độ. Kẻ hời hợt sẽ chẳng nghe ra!

 

(Sao) Lục Tổ Đông Tây chi thuyết.

()六祖東西之說。

(Sao: Lục Tổ nói Đông, nhắc Tây).

Lục Tổ nói tới phương Đông, phương Tây.

 

(Sao) Kỳ thị khuyến nhân yếu tu thật tâm vi thiện, không nguyện vô ích, hà tằng thuyết vô Tây Phương.

()祇是勸人要須實心為善,空願無益,何曾說無西方。

(Sao: Ngài chỉ là khuyên người khác cần phải thật tâm làm lành, [đừng] nguyện suông, vô ích, chứ Ngài có bao giờ nói “không có Tây Phương”?)

Lục Tổ chẳng phủ định Tây Phương, hoàn toàn chẳng phải là Ngài không thừa nhận có Tây Phương tồn tại, Ngài chẳng nói kiểu ấy. Dụng ý của Ngài là khuyên người khác hãy nghiêm túc tu hành. Nếu chẳng phải là chân tâm tu tập, chỉ nguyện suông, sẽ chẳng đạt được lợi ích. Nguyện thì nhất định là phải dùng hạnh để thực hiện nguyện, nhất định là phải thực tiễn, có công phu thì mới được.

 

(Sao) Dụ như Khổng Tử sanh ư Đông Lỗ.

()喻如孔子生於東魯。

(Sao: Ví như Khổng Tử sanh tại Đông Lỗ).

Đây là tỷ dụ. Khổng Tử sanh ở nước Lỗ[56], nay thuộc về tỉnh Sơn Đông.

 

(Sao) Kim hữu nhân ngôn: Tề nhân tạo ác, mộ Khổng Tử cầu cư Lỗ bang.

()今有人言:齊人造惡,慕孔子求居魯邦。

(Sao: Nay có kẻ nói: Người nước Tề tạo ác, kẻ hâm mộ Khổng Tử bèn cầu sống tại nước Lỗ).

Khổng lão phu tử đức cao vọng trọng. Ngài ở nơi đâu, nhân dân nơi đó được Ngài giáo hóa, ai nấy đều giữ lễ, đều hết sức thiện lương, xã hội thuần phác, nhân dân đều an cư lạc nghiệp. Nước Tề[57] ở phía Bắc tỉnh Sơn Đông, nước Lỗ ở phía Nam tỉnh Sơn Đông, Lỗ là một nước nhỏ. Giả sử có người nói như thế này: Người sống ở nước Tề tạo ác, nay chúng ta nói là “xã hội chẳng an định”, bèn hâm mộ sự giáo hóa của Khổng Tử, di cư sang nước Lỗ, thân cận Khổng lão phu tử.

 

(Sao) Lỗ nhân tạo ác, mộ Khổng Tử cầu cư hà quốc?

()魯人造惡,慕孔子求居何國。

(Sao: Người nước Lỗ tạo ác, kẻ hâm mộ Khổng Tử bèn cầu sống ở nước nào?)

Ý nghĩa này từa tựa như khi Lục Tổ nói phương Đông, phương Tây. Nếu người nước Lỗ tạo ác, kẻ hâm mộ Khổng Tử làm như thế nào? Họ đến nơi đâu?

 

(Sao) Cái vị vi thiện thị chân học Trọng Ni, hà tằng thuyết vô Đông Lỗ?

()蓋謂為善是真學仲尼,何曾說無東魯?

(Sao: Đấy là nói “làm lành” chính là thật sự học theo ngài Trọng Ni, chứ có bao giờ nói là không có nước Đông Lỗ?)

Trọng Ni[58] là biệt hiệu của Khổng lão phu tử. Thật sự học theo Khổng Tử chính là học theo đức hạnh của Khổng Tử.

 

(Sao) Lục Tổ thử ngôn, chánh kinh trung tất dĩ đa thiện căn đắc sanh bỉ quốc chi vị dã, ô[59] đắc vân hủy?

()六祖此言,正經中必以多善根得生彼國之謂也,惡得云毀?

(Sao: Lời ấy của Lục Tổ chính là như kinh đã nói: “Ắt là do nhiều thiện căn bèn được sanh về cõi ấy”. Há nên bảo là hủy báng?)

Không thể nói Lục Tổ hủy báng Tịnh Tông, Lục Tổ chẳng hủy báng Tịnh Tông. Lục Tổ nói lời ấy nhằm khuyên làm lành, mục đích ở chỗ này. Tợ hồ hủy báng, nhưng trên thực tế là Ngài tán thán.

 

(Sao) Tam, bất vị sơ cơ giả.

()三不為初機者。

(Sao: Ba là chẳng vì hàng sơ cơ).

Điều này cũng hết sức quan trọng.

 

(Sao) Lục Tổ tự vân: “Ngô Giới, Định, Huệ tiếp tối thượng thừa nhân”.

()六祖自云:吾戒定慧接最上乘人。

(Sao: Lục Tổ tự nói: “Giới, Định, Huệ của ta nhằm tiếp độ người thuộc căn cơ tối thượng thừa”).

Điều này được nói trong Đàn Kinh. Đối tượng giáo hóa của Lục Tổ là “tối thượng thừa nhân”. Nói cách khác, kẻ căn tánh Đại Thừa đều chẳng có cách nào dự vào hàng môn đệ của Ngài, phải là bậc tối thượng thừa đến chỗ Ngài thì mới có lợi ích. Giống như trong nhà trường, Ngài mở lớp dành cho Tiến Sĩ, kẻ có trình độ Tiểu Học hoặc Trung Học chẳng thể theo học được, có ý nghĩa này!

 

(Sao) Kim sơ tâm hạ phàm, dĩ thu hào thế trí, miểu thị Tây Phương, vọng đàm Bát Nhã, phi đồ vô ích, nhi hựu hại chi!

()今初心下凡,以秋毫世智,藐視西方,妄談般若,非徒無益,而又害之。

(Sao: Nay kẻ sơ tâm, phàm phu căn tánh bậc hạ, cậy vào cái trí thế gian bé tí như mảy lông mùa Thu mà rẻ rúng Tây Phương, bàn xằng Bát Nhã, chẳng phải là chỉ uổng công vô ích, mà lại còn có hại).

Kẻ sơ học trí huệ rất nông cạn, chẳng nhận thức rõ ràng. Cổ nhân chẳng giảng kinh Bát Nhã cho kẻ sơ học, mà cũng chẳng giảng Đàn Kinh. Vì sao? Họ sẽ hiểu cong vạy ý nghĩa của các kinh sách ấy, không chỉ là vô ích mà còn hại cả một đời họ! Đó gọi là “điều gì được tiếp xúc đầu tiên, sẽ trở thành [tri kiến] chánh yếu”, đạo lý ở chỗ này.

 

(Sao) Cố Đàn Kinh giả, thận vật thị chi sơ cơ. Cẩu đầu phi khí, tiện lạc cuồng ma, thành khả thán tích.

()故壇經者,慎勿示之初機,茍投非器,便落狂魔,誠可歎惜。

(Sao: Vì thế, hãy cẩn thận đừng dạy Đàn Kinh cho kẻ sơ cơ. Nếu cẩu thả dạy [kinh ấy cho] những kẻ căn cơ chẳng thích hợp, họ sẽ bị đọa lạc, trở thành cuồng ma, thật đáng than tiếc).

Đối với Đàn Kinh, kinh Kim Cang, hoặc các kinh thuộc loại giống như kinh Bát Nhã, cổ nhân đối với hàng sơ học hết sức thận trọng, chẳng đàm luận những kinh luận ấy với kẻ sơ học. Hiện thời, vừa học Phật bèn ngay lập tức học kinh Bát Nhã hoặc Lục Tổ Đàn Kinh, học rồi kẻ nào cũng là cuồng vọng, là ma, chẳng phải là Phật. Kiêu căng, ngã mạn, khinh thường Giáo Hạ, coi rẻ Tịnh Độ, tự nghĩ là đã thành Phật, hoặc thành Bồ Tát, chẳng biết tương lai bị đọa lạc, đúng là đáng thương, đáng xót!

 

(Sao) Tứ, ký lục hữu ngoa giả.

()四記錄有訛者。

(Sao: Bốn là biên chép có sai lầm).

 Có sai lạc, lầm lẫn.

 

(Sao) Đàn Kinh hựu ngôn: “Tây Phương khứ thử thập vạn bát thiên lý”. Thị thác dĩ Ngũ Thiên Trúc đẳng vi Cực Lạc dã.

()壇經又言:西方去此十萬八千里。是錯以五天竺等為極樂也。

(Sao: Đàn Kinh lại nói: “Tây Phương cách đây mười vạn tám ngàn dặm”. Tức là đã lầm lẫn coi Ngũ Thiên Trúc như là Cực Lạc).

Mười vạn tám ngàn dặm là từ Trung Hoa đến Ấn Độ, nói theo lộ trình ấy. Kinh Di Đà dạy Tây Phương Cực Lạc thế giới cách chúng ta mười vạn ức cõi Phật, chẳng phải là mười vạn tám ngàn dặm. Ngũ Thiên Trúc là năm xứ Ấn Độ. Coi Ấn Độ là Tây Phương Cực Lạc thế giới, hiển nhiên là do biên chép sai lầm.

 

(Sao) Ngũ Thiên, Chấn Đán.

()五天震旦。

(Sao: Ngũ Thiên Trúc, Chấn Đán).

Ngũ Thiên là Ngũ Thiên Trúc[60]. Khi ấy, Ấn Độ chia thành năm bộ phận là Đông, Nam, Tây, Bắc, và Trung. Ngũ Thiên Trúc chính là Ấn Độ hiện thời. Chấn Đán là Trung Hoa, vì Trung Hoa ở phía Đông của đại lục châu Á. Phương Đông thuộc về quẻ Chấn, mặt trời mọc từ phía này, nên gọi là xứ Chấn Đán.

 

(Sao) Đồng vi Sa Bà uế độ.

()同為娑婆穢土。

(Sao: Cùng là Sa Bà uế độ).

Ấn Độ và Trung Hoa đều thuộc vào thế giới Sa Bà, đều là uế độ, đều chẳng phải là Tịnh Độ.

 

(Sao) Hà tu phân biệt, nguyện Đông, nguyện Tây?

()何須分別,願東願西。

(Sao: Cần gì phải phân biệt, nguyện Đông, nguyện Tây?)

 Đông và Tây chẳng khác nhau.

 

(Sao) Nhi Cực Lạc tự khứ thử Sa Bà thập vạn ức độ, cái Đàn Kinh giai học nhân ký lục, ninh bảo vô ngoa!

()而極樂自去此娑婆十萬億土,蓋壇經皆學人記錄,寧保無訛。

(Sao: Nhưng Cực Lạc cách Sa Bà mười vạn ức cõi Phật! Do Đàn Kinh toàn là do học trò ghi chép, làm sao bảo đảm không sai lầm cho được).

Đàn Kinh là bút ký của học trò Lục Tổ đại sư, khó đảm bảo chẳng có chỗ bị ghi sai. Điều này có thể là do ghi chép sai lầm.

 

(Sao) Bất nhiên, tắc tá thử chi Tây Vực, dĩ dụ bỉ chi Tây Phương nhĩ.

()不然,則借此之西域,以喻彼之西方耳。

(Sao: Nếu chẳng phải vậy, thì chính là mượn xứ Tây Vực trong cõi này để tỷ dụ Tây Phương trong cõi kia vậy).

Nếu chẳng vậy thì chính là mượn xứ Ấn Độ để tỷ dụ Tây Phương Cực Lạc thế giới, có ý nghĩa ấy.

 

(Sao) Cổ vị tận tín thư, bất như vô thư giả, thử dã.

()古謂盡信書,不如無書者,此也。

(Sao: Cổ nhân nói “hoàn toàn tin vào sách, chẳng bằng không có sách” chính là ý này).

Vì thế,  chúng ta đọc sách phải có trí huệ. Đức Phật  dạy  chúng ta “y nghĩa, bất y ngữ”, [nghĩa là] nương theo ý nghĩa trong kinh, chớ nên chấp trước văn tự, ngôn ngữ; đó là đúng. Vì thế, hoàn toàn tin tưởng sách, chẳng bằng không có sách!

 

(Sao) Huống Tây Phương thiên Phật sở tán, kim nãi nghi thiên Phật chi ngôn, tín nhất tổ chi ngữ, Phật thượng bất túc tín, huống ư tổ hồ?

()況西方千佛所讚,今乃疑千佛之言,信一祖之語,佛尚不足信,況於祖乎。

(Sao: Huống chi Tây Phương được ngàn vị Phật khen ngợi. Nay bèn nghi lời của ngàn vị Phật, tin lời của một vị Tổ! Phật mà còn chẳng đáng tin, huống là Tổ ư?)

“Ngàn” chẳng phải là một con số, mà là biểu thị pháp, biểu thị mười phương thế giới vô lượng vô biên chư Phật đều tán thán bộ kinh này, đều tán thán pháp môn này. Quý vị chẳng tin lời hết thảy chư Phật, mà tin lời một vị tổ sư. Lỗi lầm này, những kẻ bình phàm chúng ta đều có thể thông hiểu! Cũng cùng vào thời Đường, Thiện Đạo đại sư sống vào thời đại sớm hơn Lục Tổ đôi chút, Ngài sanh trước Lục Tổ[61], đại khái là đã sớm biết những nỗi nghi hoặc được nhắc tới trong Đàn Kinh. Trong phần chú giải cho chương Thượng Phẩm Thượng Sanh của kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Ngài đã nói rất rõ ràng: Dẫu là A La Hán, Bồ Tát, Địa Thượng Bồ Tát, hoặc Đẳng Giác Bồ Tát vì chúng ta thuyết pháp mà chẳng tương ứng với kinh điển, chúng ta thảy đều chớ nên tiếp nhận. Vì sao? Chúng ta phải tin lời Phật. Trí huệ của Bồ Tát chẳng viên mãn, còn kém Phật một bậc. Chúng ta phải tin tưởng Phật, chớ nên tin tưởng Bồ Tát. Nếu chư Phật đến trước mặt chúng ta, đều nói “chẳng có Tây Phương Tịnh Độ”, [nói kiểu ấy] chẳng tương ứng với kinh này, nói chẳng giống như lời Thích Ca Mâu Ni Phật đã dạy; [vậy thì] vị Phật ấy chẳng phải là Phật thật sự, đại khái là yêu ma quỷ quái biến thành một vị Phật giả! Lời dạy của một vị Phật thật sự quyết định sẽ giống hệt [lời dạy của Phật Thích Ca]. Lục Tổ là tổ sư của Thiền Tông, chỉ là một vị Pháp Thân đại sĩ mà thôi, Ngài đâu có phải là Phật. Mấy câu dưới đây hết sức quan trọng!

 

(Sao) Minh trí giả.

()明智者。

(Sao: Kẻ trí sáng).

Một người hiểu rõ, thông đạt rõ ràng, có trí huệ.

 

(Sao) Đương vi thế nhân quyết nghi khởi tín.

()當為世人決疑起信。

(Sao: Hãy nên dứt nghi, khởi phát tín tâm cho người đời).

Quý vị thông minh, có trí huệ, hiểu rõ chân tướng sự thật, hãy nên giúp người đời đoạn nghi sanh tín.

 

(Sao) Tại tại xứ xứ, hoằng tán lưu thông.

()在在處處,弘讚流通。

(Sao: Nơi nơi chốn chốn, hoằng dương, tán thán, lưu thông).

Hết thảy lúc, hết thảy chỗ, nhất định là phải hoằng dương, tán thán Tịnh Độ. Quý vị có thể làm như vậy:

 

(Sao) Tức thị đại chư Phật xuất quảng trường thiệt, tức thị báo Phật thâm ân.

()即是代諸佛出廣長舌,即是報佛深恩。

(Sao: Tức là thay chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài, chính là báo ân sâu của Phật).

Quý vị làm theo kiểu ấy chắc chắn là chánh xác. Ở đây, Liên Trì đại sư phó chúc, khuyến khích chúng ta, mà cũng là niềm kỳ vọng không chi lớn hơn đối với chúng ta.

 

(Sao)Như kỳ vi bội thánh ngôn, cố vi ma thuyết, kỳ vi tội dã, hà khả ngôn tận!

()如其違背聖言,故為魔說,其為罪也,何可言盡。

(Sao: Nếu trái nghịch thánh ngôn, sẽ là ma thuyết, sẽ gây tội chẳng sao nói hết cho được).

Nếu chúng ta trái nghịch ý nghĩa của hết thảy chư Phật, hiểu cong vạy ý nghĩa của tổ sư, nói “chẳng có Tây Phương Tịnh Độ, Tây Phương Tịnh Độ là giả thiết, chẳng phải là chân thật”, hoặc nói “Tây Phương Tịnh Độ chẳng phải là rốt ráo”, khuyên kẻ khác chớ nên tu hành, tội lỗi ấy nặng lắm!

Trong đời này, người ấy gặp gỡ cơ duyên này, có thể liễu sanh tử, thoát tam giới, quý vị ngay lập tức ngăn chặn, kéo ngược kẻ ấy lại. Tội lỗi ấy nặng lắm! Hết thảy các tội nghiệp đã tạo trong thế gian chẳng có gì nặng hơn tội này! Giết người, đoạn thân mạng của người ta, sau bốn mươi chín ngày, người ấy lại đầu thai, cho nên tội đoạn dứt thân mạng của người khác còn nhỏ! Tội này là tội đoạn Pháp Thân huệ mạng của kẻ khác, tội ấy nặng lắm! Chỉ có kẻ ngu si mới tạo tội nghiệp này. Người thật sự có trí huệ quyết định chẳng tạo tội nghiệp này.

 

(Sao) Kim dĩ dụ minh.

()今以喻明。

(Sao: Nay dùng tỷ dụ để nêu rõ).

Nêu tỷ dụ.

 

(Sao) Ư thử hữu nhân, nhật xuất vạn ngôn.

()於此有人,日出萬言。

(Sao: Ở nơi đây có kẻ mỗi ngày thốt ra một vạn lời).

Nói nhiều lắm! Mỗi ngày nói tới một vạn câu!

 

(Sao) Dĩ báng vạn Phật.

()以謗萬佛。

(Sao: Để hủy báng một vạn vị Phật).

Hủy báng hết thảy các vị Phật.

 

(Sao) Tích mãn thiên tuế, thị nhân tội nghiệp, vô lượng vô biên.

()積滿千歲,是人罪業,無量無邊。

(Sao: Trọn một ngàn năm, tội nghiệp của kẻ ấy vô lượng vô biên).

Đây là nói một kẻ mỗi ngày chửi một vạn tiếng, chửi hết thảy chư Phật, lại còn chửi suốt một ngàn năm, tội lỗi ấy rất nặng.

 

(Sao) Nhi phục hữu nhân xuất nhất ác ngôn, trở nhân niệm Phật.

()而復有人出一惡言,阻人念佛。

(Sao: Lại có kẻ thốt một lời nói ác, ngăn trở người khác niệm Phật).

Có một kẻ khác, chỉ nói một câu, bảo người khác là “chẳng có Tịnh Độ, chẳng có Tây Phương”, ngăn trở người khác niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

 

(Sao) Thị nhân tội nghiệp, quá ư tiền nhân bách thiên vạn bội, nãi chí vô toán.

()是人罪業,過於前人百千萬倍,乃至無算。

(Sao: Tội nghiệp của kẻ đó vượt hơn người trước trăm ngàn vạn lần, cho đến chẳng thể tính toán được).

Người ấy tội lỗi nặng hơn người trước trăm ngàn vạn lần!

 

(Sao) Hà dĩ cố? Vi trần chư Phật, tán thán Tây Phương, duy dục nhân nhân thành Phật.

()何以故?微塵諸佛,讚歎西方,惟欲人人成佛。

(Sao: Vì lẽ nào? Vi trần chư Phật tán thán Tây Phương chỉ vì mong cho ai nấy đều thành Phật).

Đấy mới là bổn nguyện độ sanh của chư Phật. Tâm nguyện của hết thảy chư Phật là mong mỏi hết thảy chúng sanh mau chóng thành Phật. Quyết định chớ nên ngăn trở kẻ khác thành Phật.

 

(Sao) Nhữ độc sanh báng, tức thị biến báng vi trần Như Lai, hãm hại chúng sanh, thường trầm khổ hải, bất đắc thành Phật, cố tội như thị, kỳ thận từ tai!

()汝獨生謗,即是遍謗微塵如來,陷害眾生,常沉苦海,不得成佛,故罪如是,其慎辭哉。

(Sao: Chỉ riêng ngươi sanh lòng báng bổ, tức là đã hủy báng trọn khắp vi trần Như Lai, hãm hại chúng sanh thường bị chìm trong biển khổ, chẳng được thành Phật, cho nên tội như vậy đó. Ăn nói hãy thận trọng nhé!)

Đối với ngôn ngữ, lời lẽ, chúng ta chẳng thể không cẩn thận, tuyệt đối chớ nên báng Phật, báng Pháp. Ví như in kinh sách, cuối sách lại in “giữ sở hữu bản quyền, in lại sẽ bị truy cứu trách nhiệm”. Đó là hủy báng Tam Bảo, tội nghiệp quá nặng. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!

 

Tập 268

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm năm mươi sáu:

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh biến chiếu, thị lục phương Phật tán nghĩa.

()稱理,則自性遍照,是六方佛讚義。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh chiếu trọn khắp chính là ý nghĩa sáu phương Phật tán thán).

Chúng ta xem đại sư chú giải:

 

(Sao) Linh quang độc diệu, huýnh tuyệt trung biên, chân chiếu vô tư, hà phân bỉ thử? Cố đắc nhất đa vô ngại, chủ bạn giao thành. Vô ngại, tắc thiên sai tuy cách nhi phi thù. Giao thành, tắc vạn pháp bất kỳ nhi tự hội. Nhiên tắc lục phương bất ly ư chỉ xích, chư Phật tất hiện ư hào đoan, kim giả thử kinh, đương tại hà xứ?

(Diễn) Linh quang độc diệu nhị cú, linh quang đối vọng thức ngôn, vọng thức tức bát thức chi quang. Bát thức các duyên tự cảnh, cố bất ly trung biên dã. Linh quang tức chân tánh chi quang. Chân tánh tuyệt hồ đối đãi, cố huýnh tuyệt trung biên. Chân chiếu vô tư nhị cú, chân chiếu đối vọng chiếu ngôn. Vọng chiếu tức lục thức chi chiếu. Lục thức đối cảnh chi chiếu. Cố bất ly bỉ thử. Chân chiếu tức tự thể chi chiếu, tự thể bổn vô năng sở, cố viết bất phân bỉ thử. Huýnh tuyệt trung biên, cố nhất Phật tức đa Phật, đa Phật tức nhất Phật, nhất đa vô hữu chướng ngại. Dĩ nhất đa tận vọng thức phân biệt, linh quang phi vọng thức cố. Hà phân bỉ thử? Cố Di Đà chủ tức chư Phật bạn, chư Phật bạn tức Di Đà chủ. Chủ bạn giao tương thành tựu, dĩ chủ bạn giai vọng chiếu an lập, chân chiếu vô chủ bạn cố. Vô ngại, tắc thiên sai tuy cách nhi phi thù. Như đế võng thiên châu trùng trùng thiệp nhập cố. Giao thành, tắc vạn pháp bất kỳ nhi tự hội. Như vạn tượng sâm la bất ly thái hư không cố.

()靈光獨耀,迥絕中邊,真照無私,何分彼此,故得一多無礙,主伴交成。無礙,則千差雖隔而非殊;交成,則萬法不期而自會。然則六方不離於咫尺,諸佛悉現於毫端,今者此經,當在何處。

()靈光獨耀二句。靈光對妄識言。妄識即八識之光。八識各緣自境。故不離中邊也。靈光即真性之光。真性絕乎對待。故迥絕中邊。真照無私二句。真照對妄照言。妄照即六識之照。六識對境之照。故不離彼此。真照即自體之照。自體本無能所。故曰不分彼此。逈絕中邊故一佛即多佛。多佛即一佛。一多無有障礙。以一多盡妄識分別。靈光非妄識故。何分彼此故彌陀主即諸佛伴。諸佛伴即彌陀主。主伴交相成就。以主伴皆妄照安立。真照無主伴故。無礙。則千差雖隔而非殊。如帝網千珠重重涉入故。交成。則萬法不期而自會。如萬象森羅不離太虛空故。

(Sao: Linh quang riêng chiếu, dứt sạch chính giữa và hai bên, chân thật chiếu khắp, chẳng riêng tư, há phân chia đây đó? Vì thế, đạt được một và nhiều vô ngại, chủ và bạn thành tựu lẫn nhau. Do vô ngại cho nên [vạn pháp] sai khác ngàn phần, dẫu cách biệt nhưng chẳng khác nhau. Do thành tựu lẫn nhau, cho nên muôn pháp chẳng hẹn mà tự hợp lại. Vì thế, sáu phương chẳng lìa gang tấc, chư Phật ắt hiện trong đầu sợi lông, vậy thì nay kinh này sẽ ở nơi đâu?

Diễn: Đối với hai câu “linh quang độc diệu”, linh quang là do so với vọng thức mà nói. Vọng thức chính là quang minh của tám thức. Mỗi thức trong tám thức duyên với cảnh của riêng nó, cho nên chúng chẳng thể lìa khỏi chính giữa và hai bên. Linh quang là quang minh của chân tánh; chân tánh dứt bặt đối đãi, nên dứt sạch chính giữa và hai bên. Đối với hai câu “chân chiếu vô tư” (chân thật chiếu khắp, chẳng riêng tư), chân chiếu là nói đối ứng với vọng chiếu. Vọng chiếu chính là tác dụng Chiếu của sáu thức. Sáu thức do đối ứng với cảnh mà phát khởi tác dụng Chiếu. Vì thế, nó chẳng thể lìa khỏi đây và kia. Chân chiếu là tác dụng Chiếu của tự thể. Tự thể vốn chẳng có Năng và Sở, cho nên chẳng phân chia đây và kia. Do tuyệt dứt chính giữa và hai bên nên một Phật chính là nhiều Phật, nhiều Phật chính là một Phật. Một và nhiều chẳng có chướng ngại; bởi lẽ, một và nhiều hoàn toàn là do vọng thức phân biệt. Linh quang chẳng phải là vọng thức, nên há có phân chia đây và kia? Do vậy, Di Đà là chủ chính là chư Phật là bạn, chư Phật là bạn chính là Di Đà là chủ. Chủ và bạn thành tựu lẫn nhau là vì chủ và bạn đều do vọng chiếu an lập. Chân chiếu chẳng có chủ và bạn! Vô ngại thì ngàn muôn sai khác tuy cách biệt nhưng chẳng khác nhau, giống như ngàn viên châu trong cái lưới của Đế Thích trùng trùng xen nhập lẫn nhau. Do thành tựu lẫn nhau, nên muôn pháp chẳng hẹn mà tự lãnh hội, như sâm la vạn tượng chẳng lìa khỏi vũ trụ).

 Trong đoạn này, Liên Trì đại sư dùng cách nói theo lối Thiền cơ của các vị đại đức trong Tông Môn để giải thích. Câu nào trong đoạn này cũng đều là những câu thoại đầu trong Tông môn. “Linh quang” là trí huệ Bát Nhã vốn sẵn có trong tự tánh, do đối ứng với vọng thức mà nói [bằng danh xưng như thế]. Phàm phu mê mất tự tánh, trong thường nhật, chẳng phải là chân tâm khởi tác dụng, mà là vọng tâm. Trong Tướng Tông, vọng tâm được gọi là “tám thức”. Do mê mất tự tánh, tự tánh biến thành tám thức. Chư vị phải hiểu: Tám thức và chân tánh là cùng một chuyện, chẳng phải là hai chuyện. Khi ngộ bèn gọi là “tự tánh”, lúc mê bèn gọi là “tám thức”. Nói cách khác, chỉ có phân biệt giữa mê và ngộ, [nói theo] danh xưng thì là danh xưng mê hay ngộ, chứ tự thể của chân tánh chẳng có mê hay ngộ.

“Huýnh tuyệt trung biên” (Dứt bặt chính giữa và hai bên), “huýnh” (迥) là xa xôi, [“huýnh tuyệt” là] vượt xa khỏi chính giữa và hai bên. Chính giữa và hai bên là tương đối. Nói cách khác, trong Chân Như tự tánh, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, lấy đâu ra chính giữa và hai bên? Chính giữa và hai bên là do đối lập mà hình thành. Hiện thời, do chẳng có sự đối lập giữa hai bên, cho nên chính giữa và hai bên đều chẳng có. Nhiễm, tịnh cũng chẳng có, Phật và chúng sanh cũng chẳng có, [nói nhiễm, tịnh, Phật, chúng sanh] đều là nói theo phương diện đối lập. Lìa khỏi tương đối, chẳng thể thốt lên một câu nào được! Đó gọi là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Phần chú giải [trong sách Diễn Nghĩa] có nói: “Huýnh tuyệt trung biên, cố nhất Phật tức đa Phật, đa Phật tức nhất Phật” (Do dứt tuyệt chính giữa và hai bên, nên một Phật chính là nhiều Phật, nhiều Phật chính là một Phật), chắc chắn là chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước.

“Chân chiếu vô tư, hà phân bỉ thử” (Chân thật chiếu soi chẳng riêng tư, há có phân chia đây, kia). Chân là nói đối ứng với Vọng. Chư Phật, Bồ Tát dùng chân tâm. Chân tâm là thanh tịnh, bình đẳng; do đó, chẳng có riêng tư. Phàm phu sử dụng vọng tâm, mê vọng! Vì sao gọi là mê? Trong tự tánh thanh tịnh, vốn chẳng có phân biệt, nếu kẻ ấy khởi lên một phân biệt, dấy lên một chấp trước, bèn mê. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (Từ nơi tri kiến mà lập ra một cái biết, đó là cái gốc của vô minh). Vô minh liền dấy lên! Thứ ấy chẳng thật, giả trất, nhưng kẻ bình phàm luôn ngỡ nó là thật. Phật dạy lẽ thật, họ coi là giả, chẳng tin tưởng, không thể tiếp nhận. Phàm phu phân chia đây, kia; còn người kiến tánh chẳng phân đây, kia. Nói cách khác, kẻ còn phân chia đây, kia thì vẫn chưa kiến tánh. Hễ còn có đây, kia, còn có đúng, sai, còn có ta, người, kẻ ấy là phàm phu thứ thiệt, chắc chắn chẳng phải là đã khai ngộ. Đã khai ngộ, sẽ tuyệt đối chẳng có hiện tượng này.

“Thị cố đắc nhất đa vô ngại” (Vì thế, được một, nhiều vô ngại). Ở đây, “một” là chỉ A Di Đà Phật, “nhiều” là chỉ mười phương hằng sa chư Phật. A Di Đà Phật là hằng sa chư Phật, hằng sa chư Phật là A Di Đà Phật, quyết định chẳng có phân biệt, chấp trước. Nơi Sự, có A Di Đà Phật hay không? Có! Có hằng sa chư Phật hay không? Cũng có! Nơi Sự tuy có, xét theo Lý, quyết định là một, cách nhìn như vậy là đúng! Xét theo Lý là viên dung, cho nên nơi Sự tuy có, chẳng cần phải chấp trước. Tuy có, cũng chẳng cần phải phân biệt. Đấy là chỗ khác biệt trong cách nhìn và cách nghĩ đối với vũ trụ và nhân sinh của chư Phật, Bồ Tát so với chúng ta. Chúng ta có phân biệt, có chấp trước; các Ngài chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước.

“Chủ bạn giao thành” (Chủ và bạn thành tựu lẫn nhau), “giao” (交) là lẫn nhau. Coi A Di Đà Phật là chủ, tất cả hết thảy chư Phật đều là bạn. Giống như trong đại hội, A Di Đà Phật là chủ tịch, hết thảy các vị Phật khác đều ngồi ở dưới đài làm thính chúng. Bất cứ vị Phật nào cũng đều có thể làm chủ. Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật làm chủ, A Di Đà Phật cũng ngồi ở phía dưới; chủ bạn dung thông lẫn nhau. Quán Thế Âm Bồ Tát làm chủ, A Di Đà Phật cũng ngồi ở phía dưới. “Giao thành” (交成): Thành tựu lẫn nhau. Hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới, bất cứ ai cũng đều có thể làm chủ. Phật pháp nói: “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”, vạn pháp quy nhất. Cái Nhất ấy là bất cứ một điều nào, chẳng phải là chuyên nhất, chẳng phải là duy nhất, mà là bất cứ cái nhất nào, pháp ấy mới là viên dung. Ví như một quả cầu, bất cứ điểm nào trên mặt cầu cũng đều có thể làm điểm trung tâm. Vì thế, nó mới là viên mãn.

“Vô ngại, tắc thiên sai tuy cách nhi phi thù” (Do vô ngại nên ngàn phần sai khác, tuy cách biệt nhưng chẳng khác nhau), y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới tuy thiên sai vạn biệt, thể tánh của chúng là một. Chúng ta đọc kinh thấy nói: “Mười phương tam thế Phật, cùng chung một Pháp Thân”. Hết thảy chư Phật cùng chung một Pháp Thân, hết thảy chúng sanh và chư Phật có phải là cùng một Pháp Thân hay không? Cũng vậy! Không chỉ là hết thảy hữu tình chúng sanh và chư Phật có cùng một Pháp Thân, mà vô tình cũng giống vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tình và vô tình, cùng viên thành Chủng Trí”. Tất cả hết thảy động vật, thực vật, khoáng vật, hiện tượng trong đại tự nhiên, hư không, thế giới đều do tự tánh biến hiện, tự tánh là năng biến (cái có thể biến), hết thảy vạn vật là sở biến (cái được biến). Năng Biến là một. Tuy Sở Biến muôn vàn sai khác, trên thực tế đều là như nhau, đều do tự tánh biến. Lìa khỏi tự tánh, chẳng có một pháp để có thể được.      

Trong kinh, đức Phật thường nói: Hết thảy các pháp là bình đẳng, vạn pháp bình đẳng, vạn pháp đều Như, chẳng có một pháp nào không Như! Như gì vậy? Như Tánh của nó, như Thể của nó, Thể là một. Vạn pháp đều Như, tức là vạn pháp đều bình đẳng. “Giao thành, tắc vạn pháp bất kỳ nhi tự hội” (Do thành tựu lẫn nhau, nên muôn pháp chẳng hẹn mà tự thấu hiểu). “Kỳ” (期) là dự kỳ (預期: dự tính kỳ hạn để đạt được điều gì đó), tức là có kế hoạch. “Bất kỳ” là tự nhiên, có ý nghĩa giống như cách nói “sanh thái tự nhiên” của người hiện thời. Hiện thời, sanh thái tự nhiên trên địa cầu bị con người phá hoại, địa cầu phát sanh trục trặc nghiêm trọng, thiên tai xảy ra dồn dập, sanh thái bất ổn định, cân bằng, gây ảnh hưởng khiến khí hậu bất bình thường. Cổ nhân hiểu đạo lý này, họ tỉ mỉ quan sát thiên nhiên, hết thảy đều tùy thuận, tìm được nghĩa lý thật sự trong ấy, họ có thể lãnh hội. Đó là ý nghĩa “bất kỳ tự hội” (tự nhiên lãnh hội). Chúng ta nói một địa cầu thì [phạm vi] thảo luận nhỏ nhoi; nếu nói rộng hơn, [sẽ là] vô lượng tinh cầu đang vận hành trong vũ trụ. “Bất kỳ nhi tự hội”: Mỗi tinh cầu có quỹ đạo của chính mình, nó sẽ chẳng rối loạn, rất có trật tự. Có những kẻ thấy hiện tượng ấy, cảm thấy rất chẳng thể nghĩ bàn, [chấp trước là] nhất định phải có một người đang thiết kế, có một người đang chi phối, bèn gọi người ấy là Thượng Đế. Vì thế, Thượng Đế nẩy sanh từ tưởng tượng như vậy, [nhân loại cứ ngỡ] ông ta là chúa tể của vũ trụ. Thật ra, chẳng phải vậy! Đấy chính là quy tắc tự nhiên trong vũ trụ, “vạn pháp bất kỳ nhi tự hội” (muôn pháp tự nhiên chẳng hẹn mà tự lãnh hội), chúng thành tựu lẫn nhau!

Biết đạo lý này, biết hiện tượng này, mới biết “lục phương bất ly ư chỉ xích” (sáu phương chẳng lìa gang tấc), gang tấc rất ngắn, khoảng cách rất ngắn. Không gian thuộc sáu phương quá to! Mấy câu này có nghĩa là “chẳng có xa gần, xa gần đồng thời đạt đến”. Ví như giảng đường này, ban đêm tối tăm, chúng ta thắp ở đây một ngọn đèn. Đèn thắp lên, bên này gần, bên kia xa, ánh sáng đồng thời soi tới. Chúng tôi nêu một thí dụ rất nông cạn, rõ rệt như vậy, có thể tỷ dụ khít khao thích đáng hay chăng? Chẳng sánh ví được! Chỉ có thể sánh ví phảng phất, vì sao? Ánh sáng vẫn là có tốc độ, tốc độ nhanh chóng một tí [so với tốc độ của những vật thể khác]. Nói thật ra, tự tánh chẳng có tốc độ, đúng là chẳng có xa hay gần. Thật sự là xa hay gần đều đồng thời chiếu tới. Công đức trong tự tánh chẳng thể nghĩ bàn!

“Chư Phật tất hiện ư hào đoan” (Chư Phật ắt hiện trong đầu sợi lông), “hào đoan” (毫端) là chót đầu của sợi lông. Đó là nói đến sự gần gũi. Mười phương chư Phật cách nơi này của chúng ta không chỉ là mười vạn ức cõi Phật, thế mà đều ở trong đầu sợi lông. Đầu một sợi lông chẳng phình to, các thế giới của mười phương chư Phật (tức pháp giới) chẳng thu nhỏ. Vì sao thế giới to đùng có thể bỏ vào đầu sợi lông bé tẹo? Đó là vì tự tánh chẳng có lớn hay nhỏ. Nay chúng ta chẳng thể tiếp nhận chuyện này, chấp trước trong ấy có một lớn, một nhỏ, lớn làm sao có thể vào trong nhỏ cho được? Chẳng thể nào! Chúng ta có chấp trước như thế, có chướng ngại như thế. Vì vậy, vĩnh viễn chẳng quan sát thấy chân tướng sự thật. Bồ Tát đã hiểu, Bồ Tát đã vĩnh viễn lìa khỏi phân biệt, chấp trước. “Huýnh tuyệt trung biên, linh quang độc diệu” (Dứt bặt chính giữa và hai bên, linh quang riêng chiếu). Các Ngài đã chiếu kiến, đức Phật nói chẳng sai tí nào! Đấy hoàn toàn là cảnh giới Sự Sự vô ngại được nói trong kinh Hoa Nghiêm: Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại! Trong cảnh giới ấy, Liên Trì đại sư bèn nêu ra một câu để nói:

 

(Sao) Kim giả thử kinh, đương tại hà xứ?

(Diễn) Kim giả thử kinh đương tại hà xứ giả, lục phương vi năng tán, thử kinh vi sở tán. Năng tán chi Phật, bất ly chỉ xích hào đoan. Sở tán chi kinh, đương tại hà xứ? Di! Bất ly đương xứ thường trạm nhiên, mịch tức tri quân bất khả kiến dã!

()今者此經,當在何處。

()今者此經當在何處者。六方為能贊。此經為所贊。能贊之佛。不離咫尺毫端。所贊之經。當在何處。咦。不離當處常湛然。覓即知君不可見也。

(Sao: Vậy thì nay bộ kinh này sẽ ở chỗ nào?

Diễn: “Nay thì bộ kinh này sẽ ở chỗ nào”: Sáu phương [chư Phật] là Năng Tán (người tán thán), kinh này là Sở Tán (đối tượng được tán thán). Chư Phật là người tán thán chẳng lìa gang tấc, mảy lông. Kinh được tán thán sẽ ở chỗ nào? Ôi! Chẳng lìa chỗ này mà thường trong lặng, hễ tìm sẽ biết là ông chẳng thể thấy được).

 Phật Thuyết A Di Đà Kinh ở chỗ nào? Tiếp đó, Ngài chẳng trả lời, để cho mọi người tự tham cứu. Đây là hoàn toàn dùng giọng điệu của Thiền Tông để thuyết pháp.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh?

()舍利弗。於汝意云何。何故名為一切諸佛所護念經。

(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Do vì lẽ nào mà có tên là kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm?)

Trong Khoa Phán, đại sư đặt tựa đề cho phần này là Thích Kinh Ưng Tán (釋經應讚), [nghĩa là] giải thích [nguyên do vì sao] phải nên tán thán bộ kinh này. Vì nó xác thực là kinh bậc nhất, là pháp môn bậc nhất để hết thảy chư Phật Như Lai độ chúng sanh, thành Phật đạo; do đó, phải nên tán thán. Đức Phật gọi Xá Lợi Phất, hỏi: Ý ông nghĩ ra sao? Vì sao bộ kinh này được gọi là kinh được hết thảy chư Phật  hộ  niệm? Ngài  Xá

Lợi Phất cũng chẳng đáp nổi, vẫn là đức Phật tự mình giải thích.

 

(Sớ) Danh tất hữu nghĩa, chương xiển kỳ nghĩa, phương khắc phụng hành, vô sở nghi cố.

()名必有義,彰闡其義,方克奉行,無所疑故。

(Sớ: Danh ắt có nghĩa, nêu bày rõ ràng nghĩa ấy thì mới có thể quyết ý phụng hành, chẳng nghi ngờ).

“Danh” (名) là tựa đề của kinh, tức tên kinh. Tên thì nhất định có ý nghĩa. “Chương xiển kỳ nghĩa” [nghĩa là] ý nghĩa đó phải rất rõ ràng, rất rõ rệt thì chúng ta mới có thể nhìn vào danh nghĩ đến nghĩa, tin nhận phụng hành, chúng ta mới có thể làm được. Chư vị phải hiểu: Kinh Phật coi trọng thực hành, chú trọng tu hành. Thanh Lương đại sư phán định kinh Hoa Nghiêm có bốn phần là Tín, Giải, Hành, Chứng. Chẳng có đủ bốn phần ấy, chúng ta sẽ chẳng thể đạt được lợi ích chân thật từ bộ kinh ấy. Nhập môn từ Tín: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn đạo, mẹ công đức). Tín là cội nguồn để nhập đạo, vô lượng vô biên công đức đều sanh từ Tín. “Công đức mẫu” là có thể sanh ra hết thảy công đức. Vì thế, từ Tín mà tiến nhập. Đã tin rồi bèn có thể hiểu. Nếu chẳng hiểu, chỉ tin tưởng, lòng tin ấy là cảm tình, chúng ta thường nói là “mê tín”, miễn cưỡng tin tưởng.

Trong pháp môn Tịnh Độ, chẳng hiểu ý nghĩa, chuyên tín, chuyên nguyện, chuyên niệm, vẫn có thể vãng sanh! Nhưng chư vị phải hiểu: [Người như vậy chỉ có thể] sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, chẳng thể sanh trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm phải là khai ngộ thì mới được. Nếu Lý và Sự đều thông đạt, đều hiểu rõ mà niệm Phật, phẩm vị vãng sanh bèn cao, đạo lý là như vậy đó. Vì thế, Giải rất quan trọng! Sau khi đã Giải (hiểu) thì phải hành. Hành là những gì quý vị đã tin, đã hiểu thảy đều làm được. Trong cuộc sống hằng ngày, quý vị chẳng thực hiện được [những điều đã tin và hiểu ấy], vô dụng! Những thứ tín giải ấy chẳng phải là của chính quý vị, nhất định là phải làm được! Tín, Giải, Hành dung hợp thành một thì gọi là Chứng. Chứng chẳng có chi khác, Tín được chứng thực bởi Hành và Giải, Hành được chứng thực bởi Tín và Giải. Chứng thực lẫn nhau, chứng minh chẳng sai tí nào, đó gọi là Chứng, sẽ đạt được sự thọ dụng chân thật. Vì thế, kinh Phật chẳng giống sách vở thế gian; kinh Phật chẳng phải là huyền đàm (đàm luận những chuyện huyền hoặc), mà là hoàn toàn nói lên chân tướng sự thật, đều nói đến Thật Tế. Do vậy, Hành hết sức trọng yếu, hãy y giáo tu hành.

 

(Sao) Đề thập lục tự, đản trưng hạ chi bát tự giả.

()題十六字,但徵下之八字者。

(Sao: Tựa đề kinh gồm mười sáu chữ, nhưng chỉ gạn hỏi tám chữ sau).

[Tựa đề kinh gồm] mười sáu chữ, tám chữ trước là Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức bị tỉnh lược, đức Phật chỉ nói tám chữ sau đó: Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh.

 

(Sao) Dĩ bất khả tư nghị, Thích Ca sở tán, kỳ nghĩa dĩ minh.

()以不可思議,釋迦所讚,其義已明。

(Sao: Do “chẳng thể nghĩ bàn” là do Phật Thích Ca khen ngợi, nghĩa ấy đã rõ ràng).

Giải thích vì sao ở đây đức Phật chỉ nói nửa sau của tựa đề kinh, chẳng nói tới nửa trước: Ý nghĩa của nửa trước đã được nói minh bạch trong những phần trước.

 

(Sao) Tha phương Phật tán, tăng thử bát tự, cố trưng kỳ nghĩa.

()他方佛讚,增此八字,故徵其義。

(Sao: Chư Phật ở phương khác tán thán, tăng thêm tám chữ ấy, nên gạn hỏi nghĩa đó).

“Trưng” là trưng vấn (徵問: cật vấn, gạn hỏi). Vì kinh này được mười phương hết thảy chư Phật đều tán thán, cho nên ở đây, đức Phật đặc biệt nhắc nhở tôn giả Xá Lợi Phất, nhằm ý nghĩa nêu lên: Vì sao bộ kinh này được hết thảy chư Phật đều tán thán? Có thể thấy là câu này rất quan trọng.

 

(Sao) Vân hà Phật hộ, vân hà Phật niệm?

()云何佛護,云何佛念。

(Sao: Phật hộ trì là như thế nào? Phật niệm là như thế nào?)

Vì sao chư Phật hộ trì? Vì sao chư Phật hộ niệm?  Người hiện thời

cũng nói “niệm”“hệ niệm” (繫念: luôn nghĩ tới, luôn bận tâm). Niệm nào đức Phật cũng đặt chuyện này trong tâm, những chuyện khác Phật chẳng màng tới, chỉ riêng chuyện này được giữ trong tâm. Chuyện này tuyệt đối chẳng phải là chuyện bình phàm! Chuyện gì vậy? Bổn nguyện của đức Phật, bổn nguyện của hết thảy chư Phật đều là “độ chúng sanh thành Phật đạo”. Nguyện thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, phương pháp cụ thể để độ thoát chúng sanh ở ngay trong bộ kinh này. Đức Phật muốn độ hết thảy chúng sanh thành Phật đạo; do vậy, trong tâm đức Phật thường hệ niệm bộ kinh này. Do thường nghĩ tới bèn thường nói, thường tuyên dương, thường khuyên kẻ khác niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, giống như Thích Ca Mâu Ni Phật. Đạo lý là như vậy đó.

 

(Sao) Dĩ tiền, giáo đương tín thị kinh.

()以前教當信是經。

(Sao: Trong các phần trước, dạy hãy nên tin kinh này).

Trong các phần kinh văn trước đó, đức Phật dạy chúng ta hãy nên tin tưởng bộ kinh này.

 

(Sao) Kim vị nghĩa minh, nhiên hậu tín cố dã.

()今謂義明,然後信固也。

(Sao: Nay nói: Ý nghĩa đã rõ ràng, sau đấy sẽ tin tưởng vững chắc).

 Hiện thời nói đến chỗ này, ý nghĩa càng nói càng rõ ràng, càng nói càng minh bạch. Tín tâm của quý vị đương nhiên càng ngày càng kiên cố. Đức Phật nói lời này, trong ấy bao hàm ý nghĩa sâu xa như vậy đó. Ngài Xá Lợi Phất chẳng đáp được, ý nghĩa quá sâu, vẫn là Thích Ca Mâu Ni Phật tự mình giải thích.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả.

()舍利弗。若有善男子善女人。聞是經受持者。及聞諸佛名者。

(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe kinh này, thọ trì, và nghe danh hiệu chư Phật).

Trong phần giải thích, kinh văn được chia thành ba đoạn[62], đây là đoạn thứ nhất, nói đến sự nghe kinh và trì kinh.

 

(Sớ) Văn thị kinh giả, điệp thượng y chánh tín nguyện, trì danh vãng sanh đẳng.

()聞是經者,牒上依正信願。持名往生等。

(Sớ: “Nghe kinh này”: Nhắc lại y báo, chánh báo, tín, nguyện, trì danh vãng sanh v.v… trong các phần trên).

“Văn” (聞) là nghe giảng. Đối với y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới đã được nói trong các phần trước, tổ sư đã phán định bộ kinh này thành ba đoạn lớn là Tín, Nguyện, Hạnh. Ba điều ấy được gọi “ba tư lương Tịnh Độ”. Tín và Nguyện đã nói viên mãn, trì danh vãng sanh là Hạnh. Tín, Nguyện, Hạnh đều đã nói xong!

 

(Sớ) Văn thọ trì.

()聞受持。

(Sớ: Nghe rồi thọ trì).

Sau khi nghe xong, tin tưởng, lý giải, hiểu rõ. Sau khi đã hiểu rõ, có thể tiếp nhận hay không? Có thể gìn giữ hay chăng? “Thọ” (受) là gì? Sau khi nghe xong, ta thật sự mong đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thật sự muốn thấy A Di Đà Phật. Đó là Thọ, thật sự muốn vãng sanh. Đấy là phát nguyện cầu sanh. Tâm mong muốn đến đó, tâm mong thấy A Di Đà Phật hết sức khẩn thiết, đó là Thọ. Hiện thời, người niệm Phật tại Đài Loan có nhân duyên thù thắng, có nhiều người giảng kinh, giảng rất rõ ràng, rất minh bạch. Đó là nhân duyên, nhân duyên trọn đủ. Mọi người nghe xong, nghe rất thông hiểu, cũng tin tưởng, cũng phát nguyện, cũng niệm Phật, nhưng vẫn chẳng thể vãng sanh, nguyên nhân rốt cuộc là ở chỗ nào? Ở ngay chỗ ý niệm vãng sanh của chúng ta chẳng tha thiết. Vừa mong vãng sanh, nhưng danh lợi ở nơi đây lại không buông xuống được! Phiền phức ở chỗ này! Những người vãng sanh khác hẳn chúng ta, họ chỉ có một nguyện vọng là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, [đối với tất cả những gì] thuộc thế giới này thảy đều buông xuống, chẳng tiêm nhiễm mảy may nào. Vì thế, họ ra đi rất thuận lợi. Tuy chúng ta rất mong muốn, hằng ngày niệm Phật hồi hướng “nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung”, thứ gì cũng đều chẳng nỡ bỏ! Đó là cái gốc bệnh, [khiến cho] chúng ta chẳng có cách nào đi được, sai lầm ở chỗ này. Sai lầm chẳng phải là một lần này, trong quá khứ đã sai lầm như vậy chẳng biết bao nhiêu lượt? Lần này vẫn phạm khuyết điểm ấy thì đời này lại tích lũy một chút thiện căn, chẳng thể thành tựu trong một đời này. Đối với kinh điển này, vì sao phải giới thiệu lý luận và chân tướng sự thật của Tây Phương Cực Lạc thế giới rõ ràng, minh bạch ngần ấy? Nhằm khiến cho quý vị dấy lên cái tâm chân thật hướng về, sau đấy mới có thể buông trần duyên trong thế giới này xuống được. Đạo lý ở chỗ này! Chẳng được có mảy may tiêm nhiễm nào!

Ở đây, các đồng tu chớ nên hiểu lầm. Chẳng phải là dạy quý vị hết thảy đều buông xuống thì ngày mai quý vị cũng chẳng đi làm, chuyện trong nhà cũng chẳng làm nữa, chỉ niệm Phật mà thôi. [Làm kiểu đó] sẽ trở thành đứa con ngây ngốc của đức Phật, đứa con ngây ngốc của Phật sẽ chẳng thể vãng sanh đâu nhé! Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là Bất Thoái Bồ Tát, chẳng có kẻ nào đầu óc ngây ngô! “Buông xuống” là dạy chúng ta trong tâm hãy buông xuống, chẳng phải là buông xuống nơi Sự. Trong tâm khởi tâm động niệm là chướng ngại, chứ nơi Sự chẳng có chướng ngại. “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”, Sự há có chướng ngại? Vô ngại, thành tựu lẫn nhau. Một và nhiều vô ngại! Sự chẳng có chướng ngại, Lý cũng chẳng có chướng ngại. Lý Sự và Sự Sự thảy đều chẳng có chướng ngại. Ý niệm phân biệt, chấp trước, ưu lự, vướng mắc, những thứ ấy là chướng ngại, trong tâm chúng ta quyết định chẳng có những thứ ấy. Trong tâm chỉ có một vị A Di Đà Phật, trong tâm chỉ có bộ kinh A Di Đà này. Kinh Vô Lượng Thọ là Đại Bổn A Di Đà Kinh, Đại Bổn và Tiểu Bổn hoàn toàn như nhau. Trong tâm chúng ta chỉ cần một bộ kinh, chỉ cần một vị Phật, những thứ khác đều buông xuống, chẳng còn phân biệt, chấp trước nữa, tâm của quý vị bèn thanh tịnh. Tâm tịnh, ắt cõi tịnh; đó là điều kiện ắt phải trọn đủ để vãng sanh. Tham luyến thế gian này thì không được! Phàm những gì khiến cho quý vị dấy lên tâm tham, đó là ma cảnh. Ma chẳng mong quý vị thành Phật, chẳng mong quý vị lìa khỏi lục đạo luân hồi. Ma tới nhiễu loạn, ngăn trở con người, không cho quý vị đến thế giới Cực Lạc. Phàm những gì khiến cho quý vị khởi tâm động niệm, hoàn toàn thuộc về ma chướng. “Thọ” là chúng ta thật sự tiếp nhận. “Trì” là gìn giữ chẳng để mất đi. Nay đã tiếp nhận, sau khi đã tiếp nhận, nhất định phải trọn đời gìn giữ, trọn hết sanh mạng trong một đời này, chúng ta sống một ngày liền gìn giữ một ngày, quyết định chớ nên để mất đi. Đó gọi là Thọ Trì.

 

(Sớ) Tức tiền Tam Huệ, Tam Tư Lương cố.

()即前三慧三資糧故。

(Sớ: Tức là Tam Huệ, Tam Tư Lương trong phần trước).

 Văn, Tư, Tu là Tam Huệ, Tam Tư Lương được nói trong phần trước.

 

(Sao) Văn tức Văn Huệ, Thọ tức Tư Huệ, Trì tức Tu Huệ.

()聞即聞慧,受即思慧,持即修慧。

(Sao: Văn là Văn Huệ, Thọ là Tư Huệ, Trì là Tu Huệ).

Văn, Tư, Tu là cương lãnh tu hành của Đại Thừa Bồ Tát. Cương lãnh tu hành của hàng Tiểu Thừa là Tam Học Giới, Định, Huệ.

 

(Sao) Văn tức Tín nghĩa, Tư tức Nguyện nghĩa, Trì tức Hạnh nghĩa.

()聞即信義,思即願義,持即行義。

(Sao: Văn có nghĩa là Tín, Tư nghĩa là Nguyện, Trì nghĩa là Hạnh).

 Văn là Tín, Thọ là Nguyện, Trì là Hạnh. Tín, Nguyện, Hạnh là ba điều kiện để vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, được gọi là ba tư lương. Tư lương (資糧) là tỷ dụ. Trước kia, ra ngoài đi xa thì phải mang theo lương khô, chi phí đi lại, nên [những gì cần phải có để thành tựu bất cứ một sự việc gì đều] gọi là “tư lương”. Đây là tỷ dụ chúng ta tu hành từ Sa Bà thế giới đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải mang theo chi phí đi đường như thế nào? Tín, Nguyện, Hạnh, ba điều này giống như tư lương vậy!

 

(Sớ) Văn chư Phật danh, điệp thượng lục phương chư Phật danh dã. Văn kinh thọ trì, văn Phật danh giả, diệc ưng thọ trì cố.

()聞諸佛名,牒上六方諸佛名也。聞經受持,聞佛名者,亦應受持故。

(Sớ: Nghe danh hiệu chư Phật: Nhắc lại danh hiệu của sáu phương Phật trong phần trên. Nghe kinh thọ trì, nghe danh hiệu Phật cũng nên thọ trì).

Đại sư giả lập một cuộc vấn đáp:

 

(Sao) Vấn: Thử kinh văn A Di Đà Phật danh hiệu vi vãng sanh nhân, hà kiêm chư Phật?

()問:此經聞阿彌陀佛名號為往生因,何兼諸佛。

(Sao: Hỏi: Kinh này lấy nghe danh hiệu A Di Đà Phật làm cái nhân vãng sanh, sao lại kèm thêm chư Phật?)

[Chánh kinh dạy] “cập văn chư Phật danh giả” (và nghe danh hiệu chư Phật): Ngẫu Ích đại sư giải thích “chư Phật” là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là chư Phật. Liên Trì đại sư giải thích: Chư Phật chỉ sáu phương chư Phật được nói trong phần trước. Cách nói của hai vị đều chẳng sai. Liên Trì đại sư nói theo Sự, Ngẫu Ích đại sư nói theo Lý. Theo Lý thì “một chính là nhiều, nhiều chính là một”, [do vậy] chư Phật là A Di Đà Phật.

 

(Sao) Đáp: Di Đà công đức, vị hằng sa chư Phật chi sở cộng tán, tắc văn chư Phật danh, tri chư Phật tán, tín thọ thử kinh, bội phục thân thiết, cố song cử dã.

()答:彌陀功德,為恆沙諸佛之所共讚,則聞諸佛名,知諸佛讚,信受此經,倍復親切,故雙舉也。

(Sao: Đáp: Công đức Di Đà được hằng sa chư Phật cùng xưng tán, cho nên nghe danh hiệu chư Phật, biết chư Phật tán thán, tin nhận kinh này càng thêm thân thiết gấp bội, cho nên nêu ra song song).

Ý nghĩa này của Liên Trì đại sư cũng rất hay. Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương, giới thiệu vô lượng công đức của đấng Tây Phương giáo chủ A Di Đà Phật, tức là một vị Phật nói. Chúng ta kính ngưỡng, hâm mộ Thích Ca Mâu Ni Phật vô hạn, tôn kính đức Phật chẳng còn gì hơn được nữa. Đức Thế Tôn đã giới thiệu, đương nhiên là chúng ta hoan hỷ tiếp nhận, nay lại thấy trong kinh đức Phật cho biết: Không chỉ là một mình lão nhân gia giới thiệu như vậy, mà mười phương hết thảy chư Phật đều khác miệng cùng tiếng đề cao, giới thiệu như vậy, khiến cho tín tâm của chúng ta càng thêm tăng trưởng, có ý nghĩa này. Biết bộ kinh điển này chẳng phải là do một vị Phật nói, mà là hết thảy chư Phật đều nói ba kinh Tịnh Độ, chẳng có vị Phật nào chẳng dùng pháp môn này để khuyên dạy người học. Trừ phi kẻ ấy chẳng chịu tiếp nhận, nếu người ấy có thể tiếp nhận tức là duyên Tịnh Độ đã chín muồi. Duyên đã chín muồi, đức Phật nhất định dùng pháp môn này để tiếp dẫn, giúp họ ngay trong một đời vãng sanh, bất thoái thành Phật. Nếu họ không thể tiếp nhận, lại dùng pháp môn khác, tức là [sử dụng các pháp môn] kém hơn, hoặc kém hơn một bậc nữa. Pháp này là trực tiếp thành Phật, thành Phật viên mãn trong một đời, cho nên gọi là “pháp môn bậc nhất”. Do vậy có thể biết: Trong một đời này, chúng ta có duyên phận gặp gỡ pháp môn này, có duyên phận nghe pháp môn này, quyết định chẳng phải là chuyện nhỏ nhặt, kinh Pháp Hoa bảo là “đại sự nhân duyên”. Kinh Vô Lượng Thọ đã nói: Đấy là do thiện căn của chính mình từ đời quá khứ trong vô lượng kiếp đã chín muồi, [cho nên] mới có cơ hội gặp gỡ, có cơ hội nghe thấy, nghe rồi có thể sanh tâm hoan hỷ. Đấy là thiện căn, phước đức, nhân duyên từ vô lượng kiếp đến nay, quyết định chẳng phải là ngẫu nhiên! Chỉ cần chúng ta trong một đời này có thể buông duyên thế gian xuống. Đối với lòng tham ái hoặc sân khuể tương ứng với hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất trong thế gian này: Hễ ưa thích bèn tham ái, chẳng ưa thích bèn sân khuể; hễ có thể buông xuống những thứ ấy, sẽ quyết định vãng sanh trong một đời này, những thứ chướng ngại vãng sanh bèn chẳng còn nữa. Phải hiểu những thứ ấy sẽ gây chướng ngại vãng sanh, phải dẹp trừ chúng từ tâm địa, chứ chẳng liên can gì đến sự tướng, trong tâm quyết định chẳng nên có [những thứ ấy].

 

(Sao) Hoa Nghiêm đệ lục Hồi Hướng vân.

()華嚴第六回向云。

(Sao: Chương Đệ Lục Hồi Hướng trong kinh Hoa Nghiêm có nói).

Phẩm kinh nói về địa vị Hồi Hướng thứ sáu[63] trong kinh Hoa Nghiêm.

 

(Sao) Phục ư Phật sở, đắc văn Phật danh, chuyển cánh trị ngộ vô số chư Phật, tức văn thử kinh, hựu văn chư Phật danh chi ý dã.

(Diễn) Đáp Di Đà công đức hạ hữu nhị nghĩa, tiền nghĩa nãi quyển đa quy nhất, hậu nghĩa nãi triển nhất vi đa. Tuy hữu nhị nghĩa, thật nhất đa tương tức, triển quyển vô ngại, dĩ chư Phật đồng nhất Pháp Thân cố.

()復於佛所,得聞佛名,轉更值遇無數諸佛,即聞此經,又聞諸佛名之意也。

()答彌陀功德下有二義。前義乃卷多歸一。後義乃展一為多。雖有二義。實一多相即。展卷無礙。以諸佛同一法身故。

(Sao: “Lại ở chỗ Phật được nghe danh hiệu Phật, lần lượt gặp gỡ vô số chư Phật”. Đấy chính là ý nghĩa “nghe kinh này, lại nghe danh hiệu chư Phật” trong kinh này vậy.

Diễn: Đáp: Công đức của Phật Di Đà có hai nghĩa: Nghĩa trước là thâu nhiều về một, nghĩa sau là mở rộng một thành nhiều. Tuy có hai nghĩa, thật ra một chính là nhiều, nhiều chính là một. Mở rộng hay rút gọn vô ngại, vì chư Phật có cùng một Pháp Thân).

Hiện thời, chúng ta là phàm phu nghiệp chướng sâu nặng, đức Phật đã vì chúng ta đề cao, giới thiệu, nhưng Ngài chỉ có thể chỉ dạy đơn giản đề cương yếu lãnh, chẳng thể nói cặn kẽ. Chỉ bày cặn kẽ, chúng ta sẽ không thể tiếp nhận nổi! Đối với mười phương hằng sa thế giới vô lượng vô biên chư Phật, nếu đức Phật nói những danh hiệu ấy, nói từng câu tiếp nối nhau, nói đến một vạn năm cũng chẳng nói xong, làm sao chúng ta có thể tiếp nhận cho được? Chúng ta cũng chẳng có thọ mạng dài như vậy. Vì thế, đối với vô lượng Phật trong mỗi phương, chỉ nêu ra năm hoặc sáu vị Phật, nhiều nhất là chỉ giới thiệu mười vị Phật thì chúng ta có thể tiếp nhận. Nhiều hơn nữa, sẽ chẳng thể tiếp nhận được. Nếu chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, là hạ hạ phẩm vãng sanh, là phẩm vị thấp nhất. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, chư vị phải biết: Nghiệp chướng của chúng ta tiêu trừ. Vì sao nghiệp chướng tiêu trừ?

Tâm chúng ta thanh tịnh, đó là nhân tố thứ nhất. Vì hiện thời chúng ta chuyên tín, chuyên nguyện, chỉ nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ nguyện đọc kinh Di Đà, những kinh khác ta đều chẳng để trong lòng, đều buông xuống, “chuyên” mà! Chẳng chuyên sẽ không được, nhất định phải chuyên. Chuyên tín, chuyên nguyện, chuyên niệm A Di Đà Phật. Hễ chuyên thì tâm liền thanh tịnh, tâm thanh tịnh có thể diệt tội nghiệp. Tội nghiệp là gì? Tội nghiệp là vọng niệm, là suy nghĩ loạn xạ, là tham, sân, si, mạn, những thứ ấy là tội nghiệp. Hễ chuyên, những thứ ấy đều chẳng có. Dẫu có, cũng rất nhẹ nhàng, chẳng nghiêm trọng như trước kia. Vì thế, tâm thanh tịnh là tịnh niệm.

Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta: “Tịnh niệm tiếp nối”, tịnh niệm bèn tiêu nghiệp. Nay chúng ta đạt được “tịnh niệm tiếp nối” thì hiện thời Phật quang chiếu đến chúng ta, chẳng phải là chờ đến khi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà là ngay trong hiện thời, Phật quang chiếu soi, Phật quang tưới gội quý vị. Hễ Phật quang chiếu tới, sẽ giúp chúng ta tiêu nghiệp. Chư vị phải hiểu: Bản thân chúng ta ắt phải có năng lực tiêu trừ [tội nghiệp], Phật quang mới gia trì được. Bản thân chúng ta chẳng có năng lực, cứ suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, Phật quang tuy chiếu, vô dụng! Tâm tư tạp loạn là chướng ngại, ngăn chướng Phật quang, quý vị chẳng thể thọ dụng. Tâm thanh tịnh bèn chẳng có chướng ngại; Phật quang chiếu tới, chúng ta sẽ trực tiếp cảm nhận được. Quang minh của Phật giúp chúng ta tiêu nghiệp chướng, khai trí huệ, chẳng đợi tới vãng sanh, mà đạt được ngay trong hiện thời! Do vậy có thể biết: Tịnh niệm quan trọng lắm! Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát dạy chúng ta niệm Phật, Ngài bảo: “Đừng hoài nghi, đừng xen tạp, đừng gián đoạn”. Chẳng hoài nghi, không xen tạp là “tịnh niệm”; chẳng gián đoạn là “tiếp nối”. Ba câu gồm chín chữ ấy nhằm giải thích lời dạy “tịnh niệm tiếp nối” của Đại Thế Chí Bồ Tát. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thấy A Di Đà Phật, trực tiếp đẫm mình trong Phật quang, trí huệ rộng mở. Do vậy, danh hiệu của  mười  phương  vô  lượng  vô  biên  chư Phật thảy đều hiện tiền.

Trong kinh, đức Phật nói cho chúng ta biết trạng huống cuộc sống trong thế giới Tây Phương. Người thế gian chúng ta, thuở trẻ đi học, học hành khá vất vả, [đến khi] bước chân vào xã hội làm việc, càng vất vả hơn! Trong tương lai, kết hôn, sanh con, có gia đình càng khổ! Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới hằng ngày nghe kinh, niệm Phật, tham Thiền, kinh hành, hoặc là những người chí đồng đạo hợp cùng nhau nghiên cứu, thảo luận, hoặc là đến các thế giới ở phương khác tham phỏng, cúng dường chư Phật, nghe kinh, nghe pháp. Gặp kẻ hữu duyên, bèn giúp Phật tiếp dẫn chúng sanh, họ làm những chuyện ấy, đúng là tiêu dao tự tại! Thần tiên cũng chẳng sánh bằng họ. Thần tiên tuy tự tại, không gian hoạt động hữu hạn, chẳng thể vượt thoát lục đạo. Đại thiên thế giới này là phạm vi hoạt động của họ; vượt ra ngoài đại thiên thế giới, họ sẽ chẳng đạt đến.

Đối với người hạ hạ phẩm vãng sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, không gian hoạt động của họ là tận hư không khắp pháp giới. Vì thế, thần tiên hay chư thiên cũng đều chẳng sánh bằng họ. Họ thấy một vị Phật chính là thấy hết thảy chư Phật, nghe danh hiệu một vị Phật, hiện thời nghe danh hiệu là nghe danh hiệu của một mình A Di Đà Phật, [mai sau] sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, danh hiệu của mười phương ba đời hết thảy chư Phật thảy đều hiện tiền. Vì thế, họ thảy đều nghe thấy. “Văn chư Phật danh” (Nghe danh hiệu chư Phật) là [nghe] chẳng sót [danh hiệu của] một vị Phật nào. Đấy chính là nghĩa lý được nói trong kinh Hoa Nghiêm và kinh này.

 

(Sớ) Đại Bổn vân: “Đa hữu Bồ Tát, dục văn thử kinh, nhi bất đắc văn”.

()大本云:多有菩薩,欲聞此經,而不得聞。

(Sớ: Kinh Đại Bổn nói: “Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh này mà chẳng được nghe”).

Đoạn này trích từ kinh Vô Lượng Thọ. “Đa hữu Bồ Tát” (Có nhiều vị Bồ Tát), chẳng phải là thiểu số! Mong nghe kinh này, cớ sao chẳng được nghe? Đúng là có rất nhiều vị Bồ Tát chẳng biết có kinh A Di Đà, chẳng biết có kinh Vô Lượng Thọ. Họ làm sao có thể mong tưởng kinh này cho được? Họ nghĩ tốt nhất là có một pháp môn dạy chúng ta thành tựu trong một đời, mong muốn pháp môn ấy, trọn chẳng biết pháp môn ấy chính là bộ kinh này. Do vậy, nghe kinh phải có duyên phận, phải có phước báo. Người chẳng có phước báo, sẽ chẳng thể nghe! Người chẳng có duyên phận, sẽ chẳng thể tiếp xúc, trọn chẳng phải là chuyện dễ dàng. Có bao nhiêu đồng tu học Phật tại thành phố Đài Bắc của Đài Loan? Mấy ai nghe bộ kinh này? Dẫu khóa tối mỗi ngày đều niệm kinh A Di Đà, [thế mà] họ chẳng hiểu ý nghĩa, tín tâm chẳng kiến lập, chẳng có nguyện tâm. [Vậy thì] cũng như chẳng niệm. Có thể thấy chuyện này đúng là khó khăn!

Có hai hạng người được thọ dụng thật sự:

1) Một là người thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật, hạ quyết tâm chọn lựa pháp môn này.

2) Loại người kia tuy chẳng hiểu rõ lý luận và chân tướng sự thật, nhưng thiện căn và phước đức của người ấy hết sức sâu dầy, nghe pháp môn này, tiếp xúc pháp môn này, liền nắm thật chặt, khăng khăng một mực, suốt cả một đời cũng chẳng thay đổi. Niệm câu Phật hiệu tới cùng bèn vãng sanh.

Hai loại người ấy là bậc đương cơ của pháp môn này. Những người khác, tín tâm như sương buổi sớm, giống như bèo trôi chẳng có rễ, chỉ có thể gieo một chút thiện căn trong Tịnh Tông mà thôi, chẳng thể thành tựu trong một đời này, do chao đảo, bất định đấy mà! Năm trước, chúng tôi mở Phật Thất tại Dallas, nước Mỹ, cũng có không ít đồng tu bên đó nghe tôi giới thiệu pháp môn Tịnh Độ. Nghe xong, hết sức hoan hỷ, tới nói với tôi: “Chúng con sẽ thật sự chuyên tâm, sẽ chuyên cầu Tịnh Độ, sẽ thật thà niệm Phật”. Sau khi chúng tôi rời khỏi Dallas nửa năm, họ có những bằng hữu học Mật, hoặc học Thiền khuyên nhủ, lôi kéo họ, họ lại đến những chỗ đó, bèn vứt bỏ, quên bẵng A Di Đà Phật. Tình hình như vậy rất nhiều. Có những người là làm Phật sự theo cảm tình: Bạn bè thân thiết lôi kéo, không đi thì ngại quá! Vừa đến đó, bèn cảm thấy nơi ấy cũng khá, tín tâm bị dao động! Tương lai sẽ như thế nào? Bên Tịnh chẳng thể thành tựu, mà bên Thiền cũng chẳng thể thành công, đáng tiếc lắm! Đấy gọi là ma đến quấy nhiễu, ma lôi quý vị đi mất rồi! Chúng tôi nghĩ tới trong kinh đức Phật đã nói: Có nhiều vị Bồ Tát mong cầu một pháp môn thành tựu viên mãn trong một đời. Vì thiện căn, phước đức, nhân duyên thiếu sót, chẳng có cơ duyên gặp gỡ pháp môn này, chẳng có cơ duyên nghe nói tới pháp môn này. Do vậy, cơ hội gặp gỡ pháp môn này, nghe pháp môn này, chẳng dễ dàng đâu nhé! Cổ đức nói: “Một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”. Nay chúng ta được nghe, đấy chính là một ngày hiếm có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay. Chẳng phải là người thật sự có thiện căn, phước đức và nhân duyên sâu dầy, quý vị sẽ chẳng thể gặp! Vì thế, phải quý tiếc!

 

(Sớ) Hựu kinh vân: “Ninh ư địa ngục đắc văn Phật danh”.

()又經云:寧於地獄得聞佛名。

(Sớ: Kinh lại nói: “Thà ở trong địa ngục mà được nghe danh hiệu Phật”).

Kinh nói điều này, nêu ra một tỷ dụ: Thà nguyện đọa địa ngục, chỉ cần có thể được nghe danh hiệu A Di Đà Phật, dẫu đọa địa ngục cũng cam lòng tình nguyện. Đấy mới là thấu hiểu giá trị của một câu danh hiệu này. Danh hiệu có công đức đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Đọa địa ngục chịu khổ, chịu khổ nạn thì có lúc sẽ xong, sợ gì chứ? Nghe danh hiệu A Di Đà Phật, phát nguyện vãng sanh, sẽ được vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, chẳng còn hứng chịu nỗi khổ địa ngục. Thọ tội một lần rồi sẽ chẳng còn bị nữa!

 

(Sớ) Tắc tri văn thử kinh, văn chư Phật danh, đại phi dị sự.

(Diễn) Bồ Tát dục văn nhi bất đắc văn giả, hoặc vấn vân: – Kim bác địa phàm phu, văn giả thậm đa, tương siêu Bồ Tát da? Đáp: – Văn kinh đại hữu sai đẳng. Phàm phu nhĩ tuy văn danh, tâm bất san thái, hoặc tâm tuy tư duy, bất dũng dược đốc hành. Thử đản nhĩ thính ngôn thuyên, tâm bất đắc chỉ, như bất văn dã. Kim sở vị văn giả, nhân thuyên đắc chỉ. Bi hỷ giao tập, đốc tín lực hành, nãi tâm văn dã, khởi bất siêu phàm tiểu da?

()則知聞此經,聞諸佛名,大非易事。

()菩薩欲聞而不得聞者。或問云。今博地凡夫。聞者甚多。將超菩薩耶。答。聞經大有差等。凡夫耳雖聞名。心不飧采。或心雖思惟。不踴躍篤行。此但耳聽言詮。心不得旨。如不聞也。今所謂聞者。因詮得旨。悲喜交集。篤信力行。乃心聞也。豈不超凡小耶。

(Sớ: Cho nên biết là nghe kinh này, nghe danh hiệu chư Phật, thật chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Diễn: “Bồ Tát muốn nghe mà chẳng được nghe”: Có lẽ sẽ có kẻ hỏi: “Nay hạng phàm phu sát đất được nghe rất nhiều, họ sẽ vượt trỗi hàng Bồ Tát ư?” Đáp: – Nghe kinh có sự sai biệt to lớn. Phàm phu tuy nghe tên (tên kinh hoặc nghe danh hiệu Phật), nhưng tâm chẳng thấu hiểu. Hoặc là tuy tâm suy nghĩ, chẳng hớn hở, dốc sức hành trì. Đấy chỉ là tai nghe lời giảng giải, tâm chẳng lãnh hội ý chỉ, cũng giống như chẳng nghe vậy. Nay nói đến Nghe, [phải hiểu là] do lời giảng giải mà đạt được ý chỉ, buồn vui xen lẫn, dốc lòng tin tưởng, tận lực hành trì, đấy chính là “nghe bằng cái tâm” vậy. Há chẳng phải là vượt trỗi phàm phu, tiểu căn ư?)

 Nói rõ: [Đây là chuyện] rất khó khăn! Nay chúng ta nghe câu Phật hiệu này dường như dễ quá! Đó là vì thiện căn, phước đức, nhân duyên trong quá khứ đã chín muồi! Nếu quý vị chẳng tin tưởng, [cứ xem] những người hàng xóm sát vách chúng ta chẳng đến [đây nghe kinh hoặc cộng tu cùng chúng ta]! Chúng tôi giảng ở đây cả mười mấy năm, họ cũng chưa hề tới một lần, quý vị mới biết là thật sự khó! Vì thế, phải biết quý trọng. Đệ tử Phật Di Đà, học trò của chư Phật, có trách nhiệm giới thiệu trọn khắp pháp môn này cùng đại chúng, họ tiếp nhận hay không là chuyện của họ. Người nào có thể tiếp nhận, chúng ta liền chúc mừng người ấy có thể thành tựu trong một đời. Người nào chẳng tiếp nhận, chúng ta chẳng có lỗi với người ấy. Chính mình gặp gỡ pháp môn tốt đẹp dường ấy mà chẳng giới thiệu cho người khác, tức là có lỗi với họ.

 

(Sao) Bồ Tát dục văn nhi bất đắc, tắc Nhị Thừa, phàm phu khả tri hỹ.

()菩薩欲聞而不得,則二乘凡夫可知矣。

(Sao: Bồ Tát muốn nghe mà chẳng được nghe, vậy thì Nhị Thừa và phàm phu có thể suy ra mà biết vậy).

 Bồ Tát mong cầu pháp môn này đều chẳng dễ gì cầu được. Người Nhị Thừa, hàng phàm phu mong cầu pháp môn này, đương nhiên là càng khó hơn, càng chẳng dễ dàng hơn!

 

(Sao) Đại Bổn kệ vân: “Nhược bất vãng tích tu phước huệ, ư thử chánh pháp bất năng văn, dĩ tằng khâm phụng chư Như Lai, cố hữu nhân duyên văn thử nghĩa”.

()大本偈云:若不往昔修福慧,於此正法不能聞,已曾欽奉諸如來,故有因緣聞此義。

(Sao: Kinh Đại Bổn có bài kệ: “Nếu xưa kia chẳng tu phước huệ, chẳng thể nghe đến chánh pháp này, đã từng khâm phụng chư Như Lai, nên có nhân duyên nghe nghĩa này”).

 Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đã nói rành mạch chuyện này. Nếu chẳng phải là nhiều đời, nhiều kiếp tu phước, tu huệ, quý vị sẽ chẳng có cơ hội nghe pháp môn này. Dẫu trao pháp môn này cho quý vị, quý vị nghe rồi cũng chẳng hiểu, nghe xong cũng chẳng thể sanh khởi tâm hoan hỷ, tín nguyện hoàn toàn chẳng sanh khởi. Do nguyên nhân nào? Trong đời quá khứ tu phước huệ quá ít.

“Dĩ tằng khâm phụng chư Như Lai” (Đã từng khâm kính, tuân phụng các đức Như Lai): Vua A Xà Thế và năm trăm vị trưởng giả trong đời quá khứ đã từng cúng dường bốn trăm ức Phật; nhưng cúng dường bốn trăm ức Phật, phước huệ vẫn chẳng đủ! Vì vậy, họ nghe Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ kinh này, họ nghe hết sức hoan hỷ, trong tâm dấy lên ý niệm: “Trong tương lai ta thành Phật, phải giống như A Di Đà Phật”, vẫn chẳng thể phát tâm niệm Phật hòng ngay lập tức vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thân cận A Di Đà Phật. Chẳng có nguyện ấy!

Nói cách khác, cúng dường bốn trăm ức Phật, trong ba tư lương chỉ có mỗi Tín, chẳng có Nguyện, quý vị mới biết chuyện này khó lắm! Nay chư vị gặp gỡ pháp môn này, có thể tin, có thể nguyện, chứng tỏ trong đời quá khứ, quý vị đã từng cúng dường chư Phật Như Lai không chỉ là bốn trăm ức vị. Vì sao? Vì phước huệ của quý vị vượt trỗi vương tử A Xà Thế. Vương tử A Xà Thế chẳng phát nguyện cầu sanh, nay quý vị phát nguyện cầu sanh, phước huệ của quý vị vượt trỗi họ. “Cố hữu nhân duyên văn thử nghĩa” (Cho nên có nhân duyên nghe kinh này). Quý vị mới có duyên phận này, mới có phước báo nghe bộ kinh này.

 

(Sao) Địa ngục văn Phật giả, Hoa Nghiêm kệ vân: “Ninh thọ địa ngục khổ, đắc văn chư Phật danh, bất nguyện sanh thiên trung, nhi bất văn Phật danh”.

()地獄聞佛者,華嚴偈云:寧受地獄苦,得聞諸佛名,不願生天中,而不聞佛名。

(Sao: “Ở trong địa ngục được nghe nói tới Phật”: Kinh Hoa Nghiêm có bài kệ rằng: “Thà chịu địa ngục khổ, được nghe tên chư Phật, chẳng mong sanh cõi trời, chẳng nghe danh hiệu Phật”).

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói mấy câu như vậy.

 

(Sao) Cố tri thử kinh, cập dữ Phật danh, bất dị văn dã.

()故知此經,及與佛名,不易聞也。

(Sao: Do vậy biết kinh này và danh hiệu Phật chẳng dễ nghe).

Dẫn kinh điển để làm chứng, nói rõ kinh điển và pháp môn này duyên phận khó có, thật sự chẳng dễ dàng! Chẳng phải là Đài Loan không có kiếp nạn, kiếp nạn rất nặng! Trong những năm qua, từ Nam đến Bắc có nhiều người thọ trì kinh Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật, kiếp nạn này mới dần dần hóa giải. Những chuyện này đều là sự thật, hy vọng chúng ta càng nỗ lực, càng nghiêm túc tu học, tận tâm tận lực đề xướng rộng rãi, giới thiệu phổ biến kinh điển và pháp môn này với đại chúng, mọi người đều chiếu theo pháp môn này để tu học, nơi này chắc chắn chẳng gặp tai nạn. Vì sao? Kinh đã nói rất rõ ràng: “Được hết thảy chư Phật hộ niệm”. Tôi niệm kinh này được chư Phật hộ niệm, quý vị niệm kinh này cũng được chư Phật hộ niệm. Toàn bộ đồng bào Đài Loan đều niệm kinh này, ai nấy đều được chư Phật hộ niệm, hết thảy tai nạn đều chẳng có. Chúng ta ắt phải biết điều này; đấy mới là nhân tố bậc nhất để tiêu tai miễn nạn, bảo đảm an toàn cho bản thân, gia đình và xã hội của chúng ta. Hai câu cuối cùng là lời tổng kết.

 

(Sao) Kim đắc văn chi, khả phất tín thọ.

()今得聞之,可弗信受。

(Sao: Nay đã được nghe, há nên chẳng tin nhận ư?)

Nay chúng ta có thể nghe, cơ duyên ấy thật sự hết sức khó khăn. Sau khi nghe xong, có lẽ nào chẳng tin tưởng? Có thể nào chẳng tiếp nhận? Hôm nay chúng tôi nói tới chỗ này!

 

Tập 269

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm năm mươi chín:

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh tự quỹ, thị văn thử kinh nghĩa. Tự tánh tự giác, thị văn chư Phật danh nghĩa.

()稱理,則自性自軌,是聞此經義;自性自覺,是聞諸佛名義。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh có quy củ là ý nghĩa “nghe kinh này”. Tự tánh tự giác là ý nghĩa “nghe danh hiệu chư Phật”).

 Cuối mỗi đoạn kinh văn, Liên Trì đại sư đều bàn luận xứng tánh, các vị đại đức trong Giáo Hạ cũng thường gọi đoạn này là “hội quy tự tánh”. Trong các chú giải kinh luận, thông thường chúng ta chẳng thấy có cách nói hội quy tự tánh. Trong bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư, mỗi đoạn đều hội quy tự tánh, hiển thị Thiền và Tịnh xác thực là một. “Tự tánh tự quỹ”: “Quỹ” (軌) có nghĩa là phép tắc, mà cũng là trật tự. Giống như hiện thời chúng ta quan sát thấy trong vũ trụ có khá nhiều tinh cầu, tinh hệ, ngân hà, chúng nó đều vận hành rất trật tự, chẳng rối loạn trong không gian, dường như mỗi thiên thể đều có quỹ đạo riêng. Mỗi hành tinh trong chín đại hành tinh[64] thuộc Thái Dương Hệ di chuyển quanh mặt trời đều có quỹ đạo riêng. Điều đó mang ý nghĩa “quy tắc”. [“Tự tánh tự quỹ” nghĩa là] tự tánh vốn có quy tắc, vốn có lớp lang, chẳng rối ren!

 

(Diễn) Kinh hữu quỹ trì nghĩa, tự tánh bổn tự quỹ trì, tức thị chân kinh, cánh ư hà xứ tầm kinh.

()經有軌持義,自性本自軌持,即是真經,更於何處尋經。

(Diễn: Kinh có ý nghĩa “vâng theo khuôn khổ, phép tắc”. Tự tánh vốn tự gìn giữ khuôn khổ, quy tắc, đó chính là chân kinh, còn phải tìm kinh ở nơi đâu nữa?)

Kinh Phật nhằm dạy chúng ta lý luận, phương pháp, giảng rõ cảnh giới, xác thực là nó có quy tắc, có trật tự rạch ròi, chẳng rối loạn tí nào! Cổ nhân dùng Khoa Phán (科判), Khoa Phán [là một sáng tạo trong] Phật môn. Sau này, Nho gia cũng học theo phương pháp ấy, dùng Khoa Phán để phán định một bộ kinh hoặc một bài văn chương, họ gọi là “chương cú chi học” (章句之學), nhằm phân chia [nội dung] thành từng phần theo một thứ tự hoặc tầng lớp rõ ràng, minh bạch. Kinh Di Đà phân lượng chẳng lớn; cuối bản in này, chúng tôi có đính kèm phần Biểu Giải, bao gồm phần Khoa Phán của Liên Trì đại sư và Khoa Phán của Ngẫu Ích đại sư. Mỗi vị có cách phán định khác nhau, cho nên Yếu Giải và Sớ Sao có [Khoa Phán riêng biệt]. Xem Khoa Phán sẽ biết: Kết cấu văn tự hết sức hoàn mỹ. Thật sự là đạt tới mức độ: Thêm vào một chữ cũng chẳng được, mà bớt đi một chữ cũng chẳng được. Hễ bớt một chữ, [mạch văn, ý tưởng] sẽ chẳng liên tục, bị gián đoạn! Thêm vào một chữ, sẽ thành thừa thãi! Trong văn chương, làm được như vậy, đó là văn chương hay khéo bậc nhất. Văn tự được chia thành thứ lớp phân minh, nghĩa lý rạch ròi, có lớp lang. Một bộ kinh nhỏ là như thế, mà đối với một bộ kinh lớn cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Quý vị thấy Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, kinh văn của bộ kinh ấy rất lớn, có tới tám mươi quyển, Thanh Lương đại sư cũng phân khoa, phán giáo, phân chia hết sức tinh tế. Ở đây, chúng ta có Khoa Văn Biểu Giải của kinh Hoa Nghiêm. Sau khi chúng ta xem Khoa Phán của bộ Đại Bát Nhã sáu trăm quyển, thật sự cảm thán là Quán Chỉ[65], mới biết kinh Phật đúng là vĩ đại. Những điều này đều có ý nghĩa “quỹ trì” (軌持: tuân thủ nguyên tắc, giữ vững khuôn khổ), xác thực là từ tự tánh lưu lộ, rành mạch, lớp lang, có trật tự, chẳng rối loạn. Tự tánh vốn trọn đủ như vậy, pháp vốn là như thế. Người thế gian có mấy ai minh tâm kiến tánh? Tại Trung Hoa, hết sức hy hữu; về căn bản là ngoại quốc chẳng có. Bởi lẽ, mọi người thấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú vận hành trên bầu trời đều rất có quy tắc, họ liền nghĩ: Nhất định là phải có một người an bài chuyện ấy, bèn tưởng tượng người ấy được gọi là Thượng Đế, [cho rằng mọi sự do] Thượng Đế an bài, hoặc do thần tạo dựng! Thần và Thượng Đế đều do con người nghĩ ra, rốt cuộc là có hay không? Xác thực là hiện thời có khá nhiều người đánh dấu hỏi đối với thần và Thượng Đế. Nói theo Phật pháp, xác thực là có thần và Thượng Đế, nhưng họ chẳng phải là Tạo Vật Chủ (Tạo Hóa), chỉ là thiên thần.

Ý nghĩa Quỹ Trì của tự tánh là: Tự tánh tự nhiên có những pháp tắc ấy, đó là “chân kinh”. Kinh điển thuyết minh chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. “Tự tánh tự quỹ” (Tự tánh tự gìn giữ pháp tắc) là ý nghĩa của việc nghe kinh; hội quy tự tánh chính là ý nghĩa này. “Tức thị chân kinh, cánh ư hà xứ tầm kinh” (Chính là chân kinh, còn tìm kinh ở nơi nào nữa). Từ đạo lý này, chúng ta cũng có thể thông hiểu một sự thật. Trong Phật môn thường nói: “Một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”, quý vị phải hiểu “thông” là thông đến tự tánh thì mới được! Ta thông đạt văn tự của bộ kinh này, có thể đọc từ đầu đến cuối rất thuần thục, chưa chắc đã thông! Phải từ một bộ kinh mà minh tâm kiến tánh [thì mới là “thông”]. Minh tâm kiến tánh là như thế nào? Từ một bộ kinh bèn thấu đạt “tự tánh tự quỹ” thì mới được coi là “thông” bộ kinh ấy. Tất cả hết thảy các kinh, không chỉ là những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, mà các kinh do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói đều là tự nhiên lưu lộ từ tự tánh. Do vậy, sau khi kiến tánh, sẽ tự nhiên thông đạt các kinh do hết thảy chư Phật đã nói, [bởi lẽ], chúng đều lưu xuất từ tự tánh, có ý nghĩa này.

“Tự tánh tự giác, thị văn chư Phật danh nghĩa” (Tự tánh tự giác là ý nghĩa “nghe danh hiệu chư Phật”). Tự tánh tự giác, [có nghĩa là] tự tánh vốn là giác. Cái giác ấy chẳng đến từ bên ngoài, cũng chẳng phải là do tu được. Vì thế, gọi là Bổn Giác, tức là sự giác ngộ vốn sẵn có trong tự tánh. Phật có nghĩa là Giác, tức là ý nghĩa tự tánh giác.

 

(Diễn) Phật hữu giác chiếu nghĩa, tự tánh bổn tự oánh chiếu, tức thị chân Phật, cánh ư hà xứ mịch Phật? Nhược ly tự tánh biệt cầu Phật pháp, đại tự kỵ ngưu mịch ngưu, phao gia lãng tẩu dã.

()佛有覺照義 ,自性本自瑩照 ,即是真佛。更於何

處覓佛。若離自性別求佛法。大似騎牛覓牛。拋家浪走也。

(Diễn: Phật có nghĩa là giác chiếu. Tự tánh vốn tự chiếu rạng ngời, đó chính là chân Phật, còn tìm Phật ở nơi đâu nữa? Nếu lìa tự tánh để cầu Phật pháp nào khác, sẽ rất giống như đang cưỡi trâu mà tìm trâu, bỏ nhà đi lang thang vậy).

Phật ở nơi đâu? Phật là sự giác chiếu của tự tánh. Tâm Kinh dạy: “Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không” (Soi thấy năm uẩn đều Không). Đó chính là tự tánh giác chiếu, là ý nghĩa của Phật. Thiền gia nói rất hay: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Tánh khởi tác dụng là giác chiếu; đã giác chiếu bèn gọi là Phật. Những điều này đều là nói theo kiểu hội quy tự tánh. Có thể thấy Giáo Hạ, Tịnh Tông và Thiền, nói thật ra, chẳng hai, chẳng khác, chỉ là phương pháp tu học khác nhau, kỹ xảo khác nhau, chứ đạt tới mục đích bèn hoàn toàn như nhau.

 

(Sao) Tự quỹ tự trì, tắc tôn giả bất thuyết, ngã nãi vô văn, thị chân Bát Nhã.

()自軌自持,則尊者不說,我乃無聞,是真般若。

(Sao: “Tự quỹ” là tự trì, chính là “tôn giả chẳng nói, ta bèn chẳng nghe”, đó là chân Bát Nhã).

“Trì” là (持) gìn giữ, những điều này đều là Tánh Đức.

 

(Diễn) Thị chân Bát Nhã giả, chung nhật chuyển kinh, bất tri kinh chuyển, dĩ phi chân kinh dã.

()是真般若者,終日轉經,不知經轉,以非真經也。

(Diễn: “Là chân Bát Nhã”: Suốt ngày chuyển kinh, chẳng biết là bị kinh chuyển, do chẳng phải là chân kinh).

“Chuyển kinh” (轉經) bao gồm đọc kinh, giảng kinh, nghiên cứu, thảo luận, đều dùng chữ Chuyển (轉) để biểu thị. Hằng ngày đọc tụng, hằng ngày nghiên cứu, thảo luận, kết quả là như thế nào? Luôn bị kinh chuyển, chẳng phải là đang chuyển kinh. Chúng ta thường nói chuyện này là “chết trong Giáo Hạ”. Chấp trước quyển kinh, chẳng thấy chân kinh. Chân kinh ở chỗ nào? Chẳng ở nơi văn tự, chẳng ở trong kinh bổn. Từ văn tự cho đến ngôn ngữ, tư tưởng của kinh sách, đều chẳng có chân kinh. Chân kinh là Chân Như tự tánh! Nói cách khác, đức Phật nói hết thảy các kinh nhằm giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Nếu chúng ta thật sự phá mê khai ngộ, chân Bát Nhã bèn hiện tiền, chúng ta đạt được chân kinh. Nếu vẫn cứ loay hoay trong văn tự, đời này sang đời khác chẳng thể khai ngộ, [chính là] bị kinh xoay chuyển.

Trong Lục Tổ Đàn Kinh có một công án về thiền sư Pháp Đạt. Sư Pháp Đạt rất dụng công, đọc ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Mỗi ngày niệm một bộ, niệm ba ngàn bộ thì gần như là mười năm, có thể thấy là Sư chuyên ròng, thuần nhất. Bất luận tu học pháp môn nào, điều đáng quý là chuyên tinh. Trong Tam Tự Kinh có câu: “Giáo chi đạo, quý dĩ chuyên” (Đạo giáo hóa, chú trọng ở chỗ chuyên ròng). Chẳng chuyên sẽ không được! Người hiện thời học Phật, đọc kinh, sở dĩ chẳng khai ngộ là vì học quá tạp, quá loạn. Sư Pháp Đạt suốt mười năm thọ trì một bộ kinh Pháp Hoa, chưa khai ngộ, [là vì] chấp trước giáo nghĩa trong kinh. Sư gặp Lục Tổ, được chỉ điểm mới hoát nhiên đại ngộ, mới biết chính mình trong suốt mười năm qua luôn bị kinh Pháp Hoa chuyển, chẳng thể chuyển kinh Pháp Hoa. Lục Tổ vừa chỉ điểm, sau khi Sư khai ngộ, mới chuyển kinh Pháp Hoa, đạt được chân kinh. Do vậy, nhất định là phải biết chuyển kinh, đừng bị kinh chuyển. Bị kinh chuyển, sẽ chết ngắc trong Giáo Hạ!

 

(Diễn) Kim “vô thuyết, vô văn, phương thị chân Bát Nhã”, sở vị thường chuyển như thị kinh, bách thiên vạn ức quyển dã.

()今無說無聞,方是真般若,所謂常轉如是經,百千萬億卷也。

(Diễn: Nay “chẳng nói, chẳng nghe mới là chân Bát Nhã”. Đó gọi là “thường chuyển kinh như thế, trăm ngàn vạn ức quyển”).

 Trong Thiền Tông, những công án tương tự như thế rất nhiều. Thuở tại thế, đức Thế Tôn cũng đã từng thị hiện. Giảng kinh luôn có duy-na, Thích Ca Mâu Ni Phật thăng tòa giảng kinh, Văn Thù Bồ Tát làm duy-na. Đức Phật vừa thăng tòa, lão nhân gia gõ khánh; giảng kinh xong, đức Phật bước xuống tòa. Ngay khi ấy, người ta hỏi Bồ Tát, Ngài đáp: “Đức Thế Tôn chẳng nói, ta cũng chẳng nghe”. “Vô thuyết, vô văn, thị chân Bát Nhã” (Chẳng nói, chẳng nghe, là chân Bát Nhã). Đấy là bảo minh bạch cùng chúng ta: Có thuyết, có nghe, đều là phương tiện, chẳng phải là chân thật. Lý Đế chân thật chẳng lập một pháp, quý vị nói gì nữa? Đàn Kinh vừa mở đầu liền nói: “Vốn chẳng có một vật”. Quý vị còn nói gì được nữa? Do vậy, mở miệng liền trật, động niệm bèn sai. Không chỉ là chẳng thể nói năng, mà khởi tâm động niệm cũng đều chẳng thể được. Khởi tâm động niệm bèn rớt vào ý thức. Trong Chân Như bản tánh, chẳng có khởi tâm động niệm; khởi tâm động niệm là vô minh. Khởi tâm động niệm là chuyển biến Chân Như bản tánh thành tám thức. Nghĩa lý này hết sức sâu; không chỉ chẳng phải là cảnh giới của phàm phu, mà Quyền Giáo lẫn Nhị Thừa đều không đạt tới. Đấy là cảnh giới của Pháp Thân đại sĩ, chân trí huệ hiện tiền. Thiền Tông dùng phương pháp tham cứu để đạt tới mục tiêu này. Trí huệ Bát Nhã hiện tiền, Thiền Tông nói là “đại triệt đại ngộ”, Giáo Hạ bảo là “đại khai viên giải”, Tịnh Tông gọi là “Lý nhất tâm bất loạn”. Danh tướng khác nhau, cảnh giới hoàn toàn như nhau, cùng nói đến một chuyện. Danh tướng khác nhau, cho thấy Thiền, Giáo, Tịnh sử dụng phương pháp khác nhau, nhưng phương pháp của Tịnh Tông thuận tiện nhất.

Trong tất cả các phương pháp, phương pháp Trì Danh Niệm Phật thù thắng nhất; bất luận quý vị hiểu Lý hay không, chẳng sao cả! Chỉ cần quý vị thật thà niệm. Then chốt ở ngay hai chữ “thật thà”, thật thà rất khó khăn! Đại Thế Chí Bồ Tát nói: “Nhiếp trọn lục căn, tịnh niệm tiếp nối”, đó là thật thà. Nói nông cạn, dễ hiểu hơn một tí, [sẽ là] chỉ cần chúng ta chuyên tín, chuyên nguyện, chuyên niệm A Di Đà Phật; trừ A Di Đà Phật ra, điều gì cũng chẳng để trong lòng, sẽ là rất gần với thật thà. Tuy chẳng phải là thật thà thật sự, nhưng rất giống với thật thà, cho nên hữu hiệu. Pháp môn này dễ tu, dễ thành tựu hơn các pháp môn khác, lại còn chẳng cần tốn thời gian [tu tập] rất dài.

 

(Sao) Tự giác tự chiếu, tắc vô danh, vô tự, vô thể, vô tướng, thị danh Như Lai.

()自覺自照,則無名無字,無體無相,是名如來。

(Sao: Tự giác tự chiếu, nên chẳng có danh, có tự, vô thể, vô tướng, bèn gọi là Như Lai).

Trong kinh điển, có nhiều cách giải thích danh xưng Như Lai. Kinh Kim Cang giải thích Như Lai có hai ý nghĩa:

1) Thứ nhất, Như Lai là  “kim Phật như cổ Phật chi tái lai”  (Phật

hiện tại giống như cổ Phật tái lai), Phật Phật đạo đồng. Do Phật hiện thời giống hệt như cổ Phật tái lai, nên gọi là Như Lai.

2) Một ý nghĩa khác là nói theo Lý. “Như Lai giả, chư pháp Như nghĩa” (Như Lai là nghĩa Như của các pháp). Nói hay lắm. Đúng là nói đơn giản, ngắn gọn, [nêu ra] ý nghĩa hết sức viên mãn. Nói thật ra, lời giải thích ở chỗ này đã sử dụng thuật ngữ “chư pháp Như nghĩa”.

 

(Diễn) Thị danh Như Lai giả, ngoại cầu hữu tướng Phật, dữ ngã bất tương can, dĩ phi chân Phật dã.

()是名如來者,外求有相佛,與我不相干,以非真佛也。

(Diễn: “Gọi là Như Lai”: Cầu vị Phật có hình tướng ở bên ngoài, chẳng liên quan gì đến ta; bởi lẽ, đó chẳng phải là chân Phật).

 Phải ghi nhớ câu này, đó gọi là “tâm ngoại cầu pháp” (cầu pháp ở ngoài tâm). Cầu pháp ngoài tâm, pháp là giả, cầu Phật ở ngoài tâm, Phật cũng là giả. Nói gọn một câu, hết thảy những thứ ở ngoài tâm chắc chắn chẳng phải là chân thật. Nếu chúng ta hỏi: “Cách thế giới Sa Bà mười vạn ức cõi Phật về phương Tây, có một thế giới tên là Cực Lạc. Trong thế giới Cực Lạc, có một vị Phật hiệu là A Di Đà Phật” rốt cuộc là ở trong tâm hay ngoài tâm? Hằng ngày chúng ta niệm A Di Đà Phật, mong cầu sanh về thế giới Cực Lạc; thử hỏi [A Di Đà Phật và cõi Cực Lạc] ở trong hay ngoài tâm? Điều này rất khẩn yếu. Nếu chẳng hiểu rõ ràng, sẽ luôn có nghi vấn ở chỗ này. Nghi vấn ấy sẽ sanh ra chướng ngại cho người niệm Phật. Dẫu niệm Phật rất tốt đẹp, sẽ sanh vào Biên Địa Nghi Thành của Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Trong lần tổ chức Phật Thất tại Hương Cảng, pháp sư Đàm Hư lão nhân gia khai thị đã từng có một đoạn nói như thế này: Ngài mở trường học ở miền Đông Bắc, hiệu trưởng cũng niệm Phật. Có một hôm, ông ta hướng về Ngài nêu câu hỏi, nói: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ. Đã là tự tánh Di Đà, chúng ta còn niệm Phật Di Đà để làm gì nữa? Đã là duy tâm Tịnh Độ, cần gì phải cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới cách xa mười vạn ức cõi Phật?” Lão hòa thượng bảo: “Hỏi rất hay!” Lão hòa thượng hỏi ngược lại: “Tự tánh Di Đà và Phật Di Đà trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, giới hạn ở chỗ nào? Thế giới Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức cõi Phật và duy tâm Tịnh Độ, giới hạn lại ở chỗ nào?” Ông ta thưa cùng lão pháp sư: “Tìm chẳng ra biên giới!” Đúng vậy, chẳng có biên giới! Vì sao chẳng có biên giới? Vì thế giới Cực Lạc cách mười vạn ức cõi Phật là do tự tánh biến hiện. Thế giới Sa Bà cũng do tự tánh biến hiện, thảy đều là do tự tánh biến hiện, đương nhiên là chẳng có giới hạn. Nói theo Sự, có Đông, có Tây, có Tự, có Tha. Nói theo Tánh, chẳng có! Đàm luận xứng tánh là luận theo Lý, chẳng luận theo Sự. Cổ nhân nói “dĩ Lý đoạt Sự” (chỉ luận định theo Lý, chẳng bàn đến Sự), đó là cảnh giới trong Thiền Tông, hoàn toàn nói theo tự tánh. Vì thế, chúng ta đừng nên khởi phân biệt, chớ nên chấp trước. Hễ có phân biệt, chấp trước, bèn gọi là “ngoài tâm”. Về Sự, chẳng có ngoài tâm. Có thể thấy “cầu pháp ngoài tâm” là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của quý vị. Nói “ngoài tâm” là nói đến những điều ấy, chẳng phải là nói tới Sự. Sự và tâm là một, chẳng hai. Sự là Tướng Phần của tâm. Tánh và Tướng chẳng hai, Tánh và Tướng như nhau, Lý Sự bất nhị!

Kinh Hoa Nghiêm nói “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”; vì sao vô ngại? Chúng là một, chẳng phải là hai thứ. Vì thế, chẳng có chướng ngại! Chỉ sợ quý vị có phân biệt, có chấp trước, có vọng tưởng. Có thể buông phân biệt, chấp trước, vọng tưởng xuống, ai nấy đều thành Phật, vốn đã thành Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác, đức Phật đã nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Buông xuống bèn thành Phật, chẳng buông xuống thì là phàm phu. Nay chúng ta dùng phương pháp niệm A Di Đà Phật, buông xuống tất cả hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, ưu lự, vướng mắc, trong tâm chỉ là một câu A Di Đà Phật. Câu A Di Đà Phật ấy có phải là vọng tưởng hay không? Có phải là chấp trước hay không? Tùy thuộc cách quý vị niệm Phật dụng tâm như thế nào. Quý vị chẳng khéo dụng tâm, một câu Phật hiệu xác thực cũng là vọng tưởng, cũng là phân biệt, chấp trước; nhưng vẫn là tốt đẹp, vì ta dùng một vọng tưởng để phá sạch tất cả hết thảy vọng tưởng, vẫn là cao minh. Vì thế, vẫn có thể vãng sanh, nhưng phẩm vị vãng sanh sẽ thấp kém.

Nếu quý vị thật sự hiểu rõ: Một câu A Di Đà Phật chính là đức hiệu của Chân Như bản tánh nơi chính mình, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước bèn chẳng có, một câu Phật hiệu chính là Chân Như bản tánh. Kinh Kim Cang dạy: “Tín tâm thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng”. Thật Tướng là minh tâm kiến tánh, “sanh Thật Tướng” là kiến tánh, là thành Phật. Có thể thấy: Tín tâm thanh tịnh rất quan trọng. “Thanh tịnh” là chẳng có hoài nghi, chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân biệt, chẳng có xen tạp. Đấy là điều đáng quý nhất, đó gọi là “chân tâm”.

 

(Diễn) Kim vô danh, vô tướng, phương thị chân Như Lai, sở vị “chân Phật ốc lý tọa, thời nhân tự bất thức” dã.

()今無名無相,方是真如來,所謂真佛屋裡坐,時人自不識也。

(Diễn: Nay vô danh, vô tướng, mới là chân Như Lai, đó gọi là “vị Phật thật ngồi trong nhà, người đương thời chẳng biết”).

Hai câu này tôi chẳng nói, chư vị hãy suy nghĩ kỹ càng hòng tự thấu hiểu, tôi chẳng cần nói toạc ra. Chú ý hiểu những điều đã nói trong phần trước, sẽ thấu hiểu ý nghĩa này, sẽ có thể lãnh ngộ.

 

(Sao) Tư tắc thế gian nan tín chi diệu pháp, bất văn nhi lịch lịch phân minh; hằng sa chư Phật chi hồng danh, tuyệt thính nhi oanh oanh tại nhĩ. Khả vị sở vị văn kinh, tín chi bất nghi, thừa sự chư Phật, vô không quá giả.

(Diễn) Ký tri chân Bát Nhã, tắc xứ xứ Di Đà thuyết pháp. Cố lịch lịch phân minh. Ký thức chân Như Lai, tắc thời thời chư Phật hiện tiền. Cố oanh oanh tại nhĩ. Lịch lịch phân minh, tắc A Nan sở vị văn kinh, vô bất văn chi, thuyết Tín dĩ thành lưỡng quyết, hà huống hữu nghi! Oanh oanh tại nhĩ, tắc dạ thần sở sự chư Phật, nhất nhất thừa sự, thuyết bất không, tảo dĩ tương quai, huống hữu không quá.

()斯則世間難信之妙法,不聞而歷歷分明;恆沙諸佛之洪名,絕聽而轟轟在耳。可謂所未聞經,信之不疑,承事諸佛,無空過者。

()既知真般若。則處處彌陀說法。故歷歷分明。既識真如來。則時時諸佛現前。故轟轟在耳。歷歷分明。則阿難所未聞經。無不聞之。說信已成兩橛。何況有疑。轟轟在耳。則夜神所事諸佛。一一承事。說不空早已相乖。況有空過。

(Sao: Đấy chính là diệu pháp thế gian khó tin, chẳng nghe mà hiểu phân minh, rành rẽ; hồng danh của hằng sa chư Phật trọn chẳng nghe mà vang rền bên tai. Có thể nói: Đối với kinh chưa được nghe, tin tưởng chẳng nghi, phụng sự chư Phật, chẳng bỏ sót vị nào vậy.

Diễn: Đã biết chân Bát Nhã thì chốn chốn Di Đà thuyết pháp. Vì thế, vằng vặc phân minh. Đã biết chân Như Lai, lúc nào chư Phật cũng hiện tiền. Bởi thế, vang rền bên tai. “Vằng vặc phân minh” chính là ngài A Nan đối với những kinh chưa được nghe [đều thông suốt, chẳng khác gì] không kinh nào chẳng nghe. Nói đến Tín, đã thành hai thứ, huống hồ còn Nghi? “Vang rền bên tai” chính là dạ thần phụng sự chư Phật, mỗi mỗi đều thừa sự, nói “chẳng không” thì đã sớm trở thành trái nghịch, huống hồ là “bỏ sót” ư?)

“Diệu pháp thế gian khó tin” là nói tới kinh này, hoặc là nói ba kinh Tịnh Độ. Ba kinh ấy chuyên nói về Tây Phương Tịnh Độ, đấy chính là diệu pháp khó tin nhất. “Tuyệt thính” là chẳng nghe. Nói thật ra, đối với cảnh giới này, nếu tham Thiền thì không chỉ là tham cứu thấu suốt điều mình phải tham, mà còn phải là thật sự chứng đắc địa vị Bất Động, tức là địa vị Bát Địa Bồ Tát trong Viên Giáo, cảnh giới ấy mới thật sự hiện tiền. “Sở vị văn kinh, tín chi bất nghi” (Đối với kinh chưa được nghe, bèn tin tưởng chẳng ngờ): Kinh do mười phương hết thảy chư Phật đã nói, chúng ta chẳng nghe. Tuy chẳng nghe, do kinh giáo của tất cả chư Phật đều lưu lộ từ tự tánh, [chúng ta] có hiểu rõ hay không? Thứ gì cũng đều hiểu rõ, chẳng học mà hiểu! Vì sao? Tự tánh của ta và tự tánh của Phật là một tánh. Kinh nói: “Mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân”, một tự tánh! Do vậy, kinh do hết thảy chư Phật nói đã từ tự tánh lưu lộ; [vậy thì] quý vị đã kiến tánh, lẽ nào chẳng hiểu rõ? Há có lẽ nào hoài nghi? Tin tưởng chẳng ngờ! Mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai đều là Tướng Phần do tự tánh biến hiện. Vì thế, sau khi đã kiến tánh, “thừa sự chư Phật”, chẳng bỏ sót một vị Phật nào! Nói thông thường, đấy là cảnh giới của bậc Bát Địa trong Viên Giáo trở lên.

Nói theo phía người niệm Phật, thật sự là “pháp khó tin chẳng thể nghĩ bàn”. Đối với cảnh giới của Bát Địa Bồ Tát, chúng ta thật sự chẳng có phần. Không chỉ là chúng ta chẳng có phần, mà Tiểu Thừa A La Hán, Bích Chi Phật, và Quyền Giáo Bồ Tát cũng đều chẳng có phần. Nhưng người niệm Phật lại chẳng thể nghĩ bàn, người niệm Phật chỉ cần tín tâm thanh tịnh, tức là “tịnh niệm tiếp nối” như Đại Thế Chí Bồ Tát đã dạy, chúng ta chỉ cần đạt được tiêu chuẩn này, cảnh giới ấy liền hiện tiền, quá dễ dàng! Dễ đến nỗi khiến cho người ta chẳng dám tin tưởng. [Vì thế] gọi là “pháp khó tin”. Vì sao người niệm Phật đạt tới cảnh giới này dễ dàng dường ấy? Chư vị phải hiểu: Đối với người niệm Phật, thật sự có thể niệm đến mức “tịnh niệm tiếp nối”, quý vị đừng nhìn vào một đời này của người ấy! [Nếu chỉ] nhìn vào một đời này của người ấy, quý vị nghĩ kiểu nào, cũng thấy chẳng thông suốt, chẳng có cách nào tiếp nhận! Thật sự có thể “tịnh niệm tiếp nối” thì thiện căn, phước đức, và nhân duyên của người ấy, [so ra], bậc A La Hán, Bích Chi Phật và hàng Bồ Tát bình phàm đều thua kém, chẳng thể sánh bằng! Quý vị niệm kinh Vô Lượng Thọ đều biết: Người ấy đã từng trong nhiều đời nhiều kiếp cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai; đời này, thiện căn của người ấy chín muồi. Vì thế, cổ nhân nói: “Một ngày khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay!” Thiện căn và phước đức của người ấy từ vô lượng kiếp đến nay đã chín muồi, chẳng phải là ngẫu nhiên! Đồng thời, lại được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, mười phương hết thảy chư Phật Như Lai hộ niệm, phước báo ấy to lắm! Do vậy, người thật sự niệm Phật, Phật thường ngự trên đỉnh đầu người ấy, quang minh của Phật thường chiếu tới người ấy. Bọn phàm phu mắt thịt chúng ta, vọng niệm quá nhiều, chẳng thể thấy được! Người tâm địa hơi thanh tịnh, có một chút công phu định lực sẽ thấy được. Phật quang chiếu gội, chư Phật hộ niệm gia trì, lẽ nào là kẻ tầm thường? Hàng Quyền Giáo Bồ Tát bình phàm đều chẳng sánh bằng! Bản thân chúng ta phải hiểu rõ điều này. Chính mình phải quý tiếc, giống như Thiết Thụ nở hoa[66] trong thế gian, mấy chục năm, mấy trăm năm mới nở hoa một lần; trong lúc này đã nở, hy hữu quá! Nếu chúng ta chẳng biết quý tiếc, bỏ lỡ nhân duyên này, mong sau này sẽ lại nở hoa lần nữa, sợ rằng phải qua vô lượng kiếp sau mới gặp lần nữa! Chẳng phải là đời đời kiếp kiếp thường gặp gỡ! Hết sức hiếm có, hết sức khó có!

 

(Kinh) Thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề .

()是諸善男子善女人。皆為一切諸佛之所護念。皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。

(Kinh: Các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều đắc bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

 “Thiện nam tử, thiện nữ nhân” là nói tới những người nào? Trong kinh văn thuộc phần trước, đã có nói: “Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe kinh này, thọ trì và nghe danh hiệu chư Phật, các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, đều đắc bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”. Xem liền mạch như vậy, ý nghĩa bèn rõ ràng. Điều này khẩn yếu! Kinh văn như vậy, chỉ dạy như vậy, chư vị tra duyệt Đại Tạng Kinh, [thử tìm xem], trừ kinh này ra, còn có kinh nào khác có câu nói giống như vậy hay chăng? Tìm chẳng thấy! Do vậy, pháp này biến thành pháp hy hữu khó tin! “Nghe kinh thọ trì, nghe danh hiệu chư Phật”, đấy là tiêu chuẩn “thiện” của thiện nam tử, thiện nữ nhân được nói trong kinh. Quý vị có thể nghe bộ kinh A Di Đà này, có thể hiểu rõ ý nghĩa được nói trong kinh, nghe danh hiệu A Di Đà Phật, hoặc là nghe danh hiệu chư Phật, danh hiệu của sáu phương và danh hiệu A Di Đà Phật như nhau. Chẳng nhớ danh hiệu sáu phương Phật, thì ghi nhớ một câu Nam-mô A Di Đà Phật là được rồi. Câu Phật hiệu ấy là danh hiệu của chư Phật. Người như vậy chính là [đạt] tiêu chuẩn “thiện” của thiện nam tử, thiện nữ nhân được nói trong kinh này. Chúng ta ngẫm xem: Tiêu chuẩn ấy không cao, chúng ta đều có phần. Nhưng quý vị phải hiểu, người không học Phật thì chẳng bàn tới, đối với tất cả những ai học Phật, họ có đạt tiêu chuẩn này hay không? Rất khó nói! Họ cũng từng niệm kinh Di Đà, khóa sáng tối mỗi ngày đều niệm, họ cũng đã từng nghe, cớ sao họ chẳng phải là thiện nam tử, thiện nữ nhân? Chư vị phải thấy rõ ràng: Cuối kinh văn còn có câu “thọ trì giả”. Nghe xong chẳng tiếp nhận, chẳng thể gìn giữ, đấy chẳng phải là thiện nam tử, thiện nữ nhân. Thọ (受) là gì? Ta thật sự tin tưởng, thật sự bằng lòng tới Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong mười hai thời, câu A Di Đà Phật chẳng gián đoạn, niệm đâu bèn nghĩ tại đó, thật sự làm được “tịnh niệm tiếp nối”. “Tịnh niệm tương kế”“thọ trì”, tịnh niệm là Thọ, “tương kế” là Trì. Như thế thì mới được!

Các đồng tu niệm Phật phải ghi nhớ, những thứ tạp nhạp của thế gian và xuất thế gian đều là chướng ngại, đều phải buông xuống. Đối với những thứ chẳng thể buông xuống, không buông xuống được cũng phải buông xuống! Không buông xuống, sẽ là chướng ngại, gây chướng ngại vãng sanh trong một đời này, sẽ phiền phức to lớn, quý vị sẽ chẳng phải là “thiện nam tử, thiện nữ nhân” như kinh đã nói. Tiêu chuẩn “thiện” của thiện nam tử là “buông xuống vạn duyên”. Đối với “buông xuống”, ngàn muôn phần phải ghi nhớ, chớ nên hiểu lầm ý nghĩa. Chẳng phải là bảo quý vị buông xuống nơi Sự, nơi Sự chẳng có chướng ngại, Sự Sự vô ngại. Hãy buông xuống trong tâm, trong tâm chớ nên có. [Nghĩa là] bất luận chuyện gì, thiện pháp hay bất thiện pháp trong thế gian, Phật pháp, phi Phật pháp, đều buông xuống, chỉ là một quyển kinh này, một câu danh hiệu, bèn thành công.

Tôi khuyên lơn, khích lệ mọi người như vậy, cũng có những kẻ nêu ra ý kiến, có cách nhìn bất đồng, chê tôi nói quá võ đoán: “Há lẽ nào do một bộ kinh bèn có thể thành công ư? Dường như là ăn nói quá lố!” Chúng ta xem Vãng Sanh Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục thời cổ, hoặc xem bộ Niệm Phật Luận của pháp sư Đàm Hư trong thời cận đại, [sẽ thấy] sách viết: Kẻ chẳng biết chữ, chưa hề nghe một bộ kinh nào, mà cũng chưa hề niệm. Do một câu danh hiệu, người ta niệm mấy năm bèn đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, biết trước lúc mất, ra đi tiêu sái tự tại dường ấy. Do một câu danh hiệu, bèn có thể thành công, huống hồ cả một bộ kinh? Chúng ta nhất định phải tin tưởng, chính mình chớ nên rối loạn bước chân. Hiện tại là thời đại thiên hạ đại loạn, “mạng người vô thường, chỉ trong hơi thở”. Há có nhiều thời gian để học tràn lan nhiều loại kinh luận ư? Chẳng kịp nữa rồi! Chúng ta phải đề cao cảnh giác điều này.

Kinh nào chẳng tốt đẹp ư? Kinh nào cũng đều tốt đẹp, nhưng kinh nào cũng đều mong học thì thời gian chẳng cho phép, hoàn cảnh chẳng cho phép. Nay chúng ta khăng khăng một mực, một bộ kinh, một câu danh hiệu; đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, nơi ấy là một thế giới thái bình, lại còn là vô lượng thọ, có đủ thời gian, có hoàn cảnh tốt đẹp, thứ gì cũng đều có thể học tập. Đấy mới là người thông minh, mới là chọn lựa thông minh. Vì thế, điều then chốt là Thọ Trì, cũng có nghĩa là ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh đều trọn đủ. “Văn thị kinh” (Nghe kinh này) là Tín; “thọ trì” là Nguyện và Hạnh. Ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh thảy đều trọn đủ, đức Phật nói thiện nam tử, thiện nữ nhân như vậy “giai vi nhất thiết chư Phật sở hộ niệm” (đều được hết thảy chư Phật hộ niệm).

Nay trong thế giới này, ai nấy đều thấu hiểu thế gian này chẳng có nơi nào an ổn. Bao nhiêu người hằng ngày vắt óc suy nghĩ: Do xã hội động loạn, họ mong có cách di dân đến một nơi tốt đẹp. Đi trọn khắp thế giới, chẳng có chỗ nào tốt đẹp, chẳng có nơi đâu thái bình, chẳng có một chỗ nào an ổn, quý vị tìm đâu ra? Phương pháp duy nhất là cầu chư Phật, Bồ Tát gia hộ, chúng ta liền bình an. Dùng phương pháp gì để cầu? Tín, nguyện, trì danh, tự nhiên quý vị được hết thảy chư Phật hộ niệm. Chẳng phải là một, hai vị Phật hộ niệm quý vị! Tất cả hết thảy chư Phật, chẳng có vị Phật nào không hộ niệm quý vị, phước báo của quý vị to cỡ nào! Chư vị ngẫm xem, tìm chẳng thấy người thứ hai nào có phước báo to hơn quý vị! Quý vị là người có phước báo bậc nhất trong tận hư không khắp pháp giới. Quý vị chẳng tin, chẳng mong muốn, chẳng niệm Phật thì chính là kẻ vô phước, chẳng được Phật gia hộ! Quý vị thật sự chịu tin, thật sự chịu nguyện, thật sự chịu niệm Phật, hết thảy chư Phật đều gia hộ, đều hộ niệm quý vị. Quý vị không chỉ là một người có phước báo lớn bậc nhất trên địa cầu này, cũng chẳng phải chỉ là một người có phước báo to bậc nhất trong một hệ Ngân Hà này, mà là người có phước báo to bậc nhất trong tận hư không khắp pháp giới. Được hết thảy chư Phật hộ niệm chính là phước lớn.

Câu kế tiếp nói tới trí huệ to tát, “giai đắc bất thoái chuyển” (đều được bất thoái chuyển), “giai” (皆) là đều. Bất luận là ai, chỉ cần quý vị phát tâm, phù hợp tiêu chuẩn này, bất luận quý vị là Bồ Tát, là La Hán, hay là phàm phu, thậm chí chúng sanh trong địa ngục A Tỳ, thảy đều đắc bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là huệ! Người niệm Phật, huệ to bậc nhất, phước lớn bậc nhất. Vì thế, tôi nói pháp môn này là “kinh bậc nhất để mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai độ chúng sanh thoát luân hồi, thành Phật đạo”. Chư vị có thể hiểu rõ ràng ý nghĩa kinh này, sẽ tin tưởng lời tôi nói chẳng sai!

 

(Sớ) Chư Phật hộ niệm, cố đắc bất thoái Bồ Đề. Bất thoái nghĩa kiến tiền thích.

()諸佛護念,故得不退菩提,不退義見前釋。

(Sớ: Do chư Phật hộ niệm nên được bất thoái Bồ Đề, đối với ý nghĩa của “bất thoái”, xem giải thích trong phần trước).

Bất Thoái là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, điều thù thắng bậc nhất là: Người sanh vào thế giới Cực Lạc, dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh, cũng viên chứng ba món Bất Thoái. Chúng ta đặc biệt phải chú ý chữ Viên; viên chứng và chứng đắc bình thường sai khác rất lớn. Bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đã chứng ba món Bất Thoái, nhưng chẳng viên! Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa Bồ Tát đều chẳng viên. Viên chứng là ai? Đẳng Giác và Diệu Giác. Do vậy có thể biết: Người hạ hạ phẩm vãng sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, hễ tới Tây Phương bèn giống như bậc Đẳng Giác Bồ Tát. Người ấy có phải là Đẳng Giác hay không? Chẳng phải! Người ấy xác thực là phàm phu, chẳng đoạn một phẩm phiền não nào, đới nghiệp vãng sanh, chẳng thể nói người ấy là Đẳng Giác Bồ Tát được! Nhưng hình dạng, trí huệ, thần thông và đức năng của người ấy chẳng khác Đẳng Giác, quý vị lại chẳng thể nói người ấy là phàm phu. Chuyện này rốt cuộc là như thế nào? Do được bổn nguyện của A Di Đà Phật gia trì, xác thực chẳng phải là do chính người ấy chứng đắc. Thoạt nhìn, người ấy giống như Phật, giống như Quán Âm, Thế Chí, đó là do được oai thần của Phật gia trì. Vì thế, pháp môn này đúng là pháp khó tin, đúng là chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sao) Thượng trưng vân hà hộ niệm, kim xuất kỳ diêu.

()徵云何護念,今出其繇。

(Sao: Trong phần trên đã gạn hỏi hộ niệm là gì, nay nêu nguyên do).

 

Trong phần trước đã từng đề cập, chư Phật Như Lai hộ niệm người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ như thế nào? Do vậy, người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là người cát tường nhất. Bất luận ở nơi đâu, người ấy an toàn nhất, có đại phước báo, được chư Phật hộ niệm, chẳng gặp hết thảy tai nạn. “Kim xuất kỳ diêu” (Nay nêu ra nguyên do), “diêu” (繇) là nguyên nhân, nguyên do. Trong đoạn kinh văn này, đức Phật nêu bày nguyên nhân.

 

(Sao) Vị trì kinh cập Phật danh giả.

()謂持經及佛名者。

(Sao: Ý nói trì kinh và trì danh hiệu Phật).

Trì kinh, trì danh. “Trì kinh” chẳng phải là đọc tụng. Hằng ngày, sáng tối niệm kinh Di Đà một lượt, [ngỡ là] ta thọ trì kinh Di Đà, vậy là quý vị đã tự hiểu lầm ý nghĩa mất rồi! Ta suốt ngày từ sáng đến tối “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, [cứ ngỡ] ta đang trì danh, quý vị cũng sai mất rồi! Chỉ có đằng miệng, chẳng được! Trong tâm phải có thì mới là Trì. Quý vị miệng có, tâm không, vô dụng, chẳng được chư Phật hộ niệm. Trì là “trong tâm thật sự có”. Tôi thường nói theo lệ thường: Người thế gian thường bảo “người trong lòng”; quý vị biến A Di Đà Phật thành người trong lòng của chính mình, sẽ thành công. Đó là thật sự trì danh. Miệng niệm hay không, chẳng khẩn yếu! Trong tâm thật sự có, thật sự mong đến thế giới Tây Phương, thật sự mong sớm có ngày thấy A Di Đà Phật, phải có chân tâm, miệng niệm hay không, chẳng sao cả! Miệng niệm Phật, có hai ý nghĩa:

1) Một ý nghĩa là sợ trong tâm quên bẵng. Tâm và miệng phải tương ứng, miệng niệm hòng nhắc tâm nhớ. Trong tâm nhớ Phật, niệm Phật. Ức và niệm đều là tâm, chẳng phải là ngoài miệng.

2) Thứ hai, miệng niệm Phật ra tiếng nhằm độ chúng sanh, khiến cho chúng sanh có duyên phận nghe một câu Phật hiệu A Di Đà Phật. Câu Phật hiệu ấy thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo. Đó là hóa tha.

Chúng ta niệm ra tiếng là tự hành, hóa tha, dụng ý ở chỗ này, giúp đỡ kẻ khác, chẳng cần lôi kéo hoặc khuyên nhủ người ta. Tự nhiên người ấy nghe [danh hiệu] “A Di Đà Phật” lọt vào tai, là một phương pháp như vậy đó. Do vậy, thọ trì hết sức quan trọng. Trì kinh, tiếp nhận những gì được nói trong kinh điển là sự thật: Qua khỏi mười vạn ức cõi về phương Tây, thật sự “có thế giới tên là Cực Lạc. Trong cõi ấy, có Phật hiệu là A Di Đà”. Chúng ta thật sự tin tưởng, thật sự muốn vãng sanh. Trong kinh này, đức Thế Tôn khuyên chúng ta phát nguyện vãng sanh, tổng cộng là bốn lần khuyên nhủ. Đúng là một rồi hai, hai rồi ba, ba rồi bốn [lượt khuyên lơn]. Phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, đấy là Thọ. Quyết định chẳng để cho tâm nguyện ấy gián đoạn, đó là Trì. Đấy là trì kinh.

 

(Sao) Chư Phật hộ chi, niệm chi.

()諸佛護之念之。

(Sao: Chư Phật hộ niệm).

“Hộ” (護) là gia hộ, bảo vệ. Chư Phật che chở quý vị, bảo hộ quý vị. Chư Phật đều bảo hộ, vậy thì lẽ nào Bồ Tát, La Hán, thần hộ pháp chẳng bảo hộ? Hết thảy thiện thần đều vây quanh, bảo hộ quý vị. “Niệm” là ta niệm Phật, Phật niệm ta. Vì sao? Tâm ta và tâm Phật là một tâm, ta niệm Phật, há lẽ nào Phật chẳng niệm ta? Ta thật sự niệm Phật, Phật thật sự niệm ta. Ta niệm Phật giả dối, Phật chẳng quan tâm tới ta, đó là đạo lý nhất định. Nếu thật sự niệm, cảm ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sao) Linh bất thoái dã.

()令不退也。

(Sao: Khiến cho chẳng thoái chuyển).

Bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đạo lý là như thế đó. Ba món Bất Thoái, nói thật ra, chẳng phải là sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mới chứng ba món Bất Thoái. Tín tâm thanh tịnh, thật sự niệm đến mức “tịnh niệm tiếp nối”, ngay trong hiện tại đã là ba món Bất Thoái. Viên mãn ba thứ Bất Thoái, chẳng cần đợi vãng sanh, có thể chứng đắc trong hiện tại, chẳng giả tí nào!

 

(Sao) Hựu Đường dịch.

()又唐譯。

(Sao: Lại nữa, bản dịch đời Đường).

“Đường dịch” là bản dịch của Huyền Trang đại sư. Kinh Di Đà có hai loại bản dịch, chúng ta dùng bản dịch của Cưu Ma La Thập dịch vào đời Tấn[67]. Bản dịch kia là của Huyền Trang đại sư dịch vào thời Đường.

 

(Sao) Tất vị thập phương thập Căng Già sa chư Phật chi sở nhiếp thọ.

()必為十方十殑伽沙諸佛之所攝受。

(Sao: [Chép rằng]: “Ắt được mười phương mười Căng Già sa chư Phật nhiếp thọ”).

Đây là kinh văn trích từ bản dịch của Huyền Trang đại sư. La Thập đại sư dịch là sáu phương Phật, Huyền Trang đại sư dịch là mười phương Phật. Căng Già (Gaṅgā, Ganges) là sông Hằng, [người nghe kinh này, thọ trì ắt] được mười phương chư Phật nhiều như số cát trong mười sông Hằng nhiếp thọ. Ngài La Thập dịch “nhiếp thọ” (攝受) là “hộ niệm”. La Thập đại sư dịch là “giai vi nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm” (đều được hết thảy chư Phật hộ niệm), Huyền Trang đại sư dịch câu kinh văn này thành “tất vị thập phương thập Căng Già sa chư Phật chi sở nhiếp thọ”. “Tất vị” (必為: ắt được), Huyền Trang đại sư sử dụng giọng điệu rất khẳng định! Nhất định được hết thảy chư Phật hộ niệm.

 

(Sao) Tắc phi duy bất chỉ lục phương, diệc bất chỉ nhất hằng sa nhi dĩ.

()則非惟不止六方,亦不止一恆沙而已。

(Sao: Ắt chẳng phải chỉ là sáu phương, mà cũng chẳng phải chỉ là một Hằng hà sa mà thôi).

Xác thực là vô lượng vô biên Hằng hà sa số chư Phật, thật đấy! Phật hộ niệm quý vị nhiều ngần ấy, phước báo đó đúng là chỉ có Phật biết. Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng có cách nào nói phước báo của quý vị to cỡ nào! Chúng ta nói đến tu phước và tu huệ thì đến nơi đâu để tu? Đến nơi nào để tu phước huệ lớn nhất, tu phước huệ tối cực viên mãn, nay quý vị đã biết, [tức là] tối nay quý vị chẳng uổng công đến đây! Phải thọ trì bộ kinh này, phải hiểu rõ nghĩa kinh. Muốn hiểu rõ nghĩa kinh, chú giải đã giúp đỡ chúng ta hết sức tốt đẹp. Nếu xem chú giải vẫn không hiểu, ở đây, chúng tôi có băng thâu âm, cũng hữu ích rất lớn cho mọi người. Phải nghe đi nghe lại băng thâu âm ấy. Thế hệ hiện thời có phước báo to hơn người thuở trước. Người thuở trước nghe kinh một lần; nếu quên mất, vĩnh viễn chẳng có cách nào [nghe lại]. Người hiện thời có băng thâu âm, có thể nghe lần thứ hai, lần thứ ba, nghe mấy trăm lượt, mấy ngàn lượt cũng chẳng khó. Chẳng thể thấu triệt, hiểu rõ ý nghĩa trong kinh, sẽ chẳng làm nổi hai chữ “thọ trì”. Nhất định là phải hiểu hết sức rõ ràng, hết sức minh bạch, chúng ta mới thọ trì kinh, thọ trì danh hiệu, mới có thể được hết thảy chư Phật hộ niệm.

 

(Sớ) A giả, thử vân Vô, Nậu Đa La, thử vân Thượng, Tam Miệu, thử vân Chánh Đẳng, Tam Bồ Đề, thử vân Chánh Giác, ngôn Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

()阿者,此云無,耨多羅,此云上,三藐,此云正等,三菩提,此云正覺,言無上正等正覺。

(Sớ: A cõi này dịch là Vô, Nậu Đa La cõi này dịch là Thượng, Tam Miệu cõi này dịch là Chánh Đẳng, Tam Bồ Đề cõi này dịch là Chánh Giác, nói [gộp lại] sẽ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā-samyak-saṃbodhi) dịch là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao không trực tiếp dịch thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác? Dịch kinh vào thời cổ, trong thể lệ dịch kinh có Ngũ Bất Phiên (năm loại không phiên dịch)[68]. Danh tướng này thuộc loại “tôn trọng bất phiên”, [nghĩa là] chúng ta đặc biệt tôn trọng danh tướng ấy, nên giữ nguyên âm đọc, chẳng trực tiếp dịch ý nghĩa. Như Bát Nhã cũng thuộc loại tôn trọng chẳng dịch. Chữ Phật thuộc loại “hàm đa nghĩa bất phiên”, [nghĩa là] chữ Phật Đà bao hàm rất nhiều ý nghĩa, trong tự vựng tiếng Hán chẳng tìm thấy ý nghĩa tương đương, bất đắc dĩ vẫn là phiên âm rồi mới giải thích thêm.

 

(Sao) Cứu cánh cực quả.

()究竟極果。

(Sao: Quả tột cùng rốt ráo).

Thật sự đạt tới đến viên mãn rốt ráo, đã “đăng phong tạo cực” trong quả báo, chẳng có gì cao hơn được!

 

(Sao) Đối hạ nhi ngôn, danh chi Vô Thượng. Chánh quán Chân Đế, đối tà nhi ngôn, danh chi viết Chánh.

(Diễn) Cứu cánh cực quả giả, đạo cùng Diệu Giác, vị cực ư Trà. Chứng Nhất Thiết Chủng Trí, viên quán Đệ Nhất Nghĩa Đế, đối Đẳng Giác nhi ngôn danh chi Vô Thượng, dĩ Đẳng Giác Bồ Tát do hữu vi tế vô minh vị đoạn, danh Hữu Thượng Sĩ cố. Chánh quán Chân Đế giả, Nhị Thừa tu Nhất Thiết Trí. Chánh quán Chân Đế, đối ngoại đạo tà kiến nhi ngôn, danh chi viết Chánh, dĩ cửu thập lục chủng ngoại đạo, các chấp dị kế, giai tà kiến cố.

()對下而言,名之無上。正觀真諦,對邪而言,名之曰正。

()究竟極果者。道窮妙覺。位極於茶。證一切種智。圓觀第一義諦。對等覺而言名之無上。以等覺菩薩猶有微細無明未斷。名有上士故。正觀真諦者。二乘修一切智。正觀真諦。對外道邪見而言。名之曰正。以九十六種外道。各執異計。皆邪見故。

(Sao: Đối với hạ mà nói, bèn gọi là Vô Thượng. Chánh quán Chân Đế: Đối với tà mà nói, bèn gọi là Chánh.

Diễn: “Quả rốt ráo tột cùng”: Đạo đạt đến Diệu Giác tột cùng, địa vị không còn gì cao hơn được nữa[69]. Chứng Nhất Thiết Chủng Trí, quán trọn vẹn Đệ Nhất Nghĩa Đế, do so với Đẳng Giác mà nói là Vô Thượng, vì Đẳng Giác Bồ Tát còn có vi tế vô minh chưa đoạn, nên gọi là Hữu Thượng Sĩ (bậc còn có người cao hơn). “Chánh quán Chân Đế”: Nhị Thừa tu Nhất Thiết Trí, chánh quán Chân Đế. Đối với ngoại đạo tà kiến mà nói, thì gọi là Chánh. Do chín mươi sáu thứ ngoại đạo, mỗi loại đều có sự chấp trước khác biệt, nhưng đều là tà kiến).

Chân Đế là chân tướng sự thật, là chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Ngài thấy rõ ràng, rành rẽ, quyết định chẳng thấy sai lầm, quyết định chẳng lệch lạc. Đó gọi là Chánh. Sai lầm, lệch lạc nghĩa là Tà.

 

(Sao) Đẳng quán Tục Đế, đối thiên nhi ngôn, danh chi viết Đẳng, diệc danh viết Biến.

(Diễn) Đẳng quán Tục Đế giả, Bồ Tát tu Đạo Chủng Trí, đẳng quán Tục Đế. Đối Nhị Thừa thiên quán nhi ngôn, danh chi viết Đẳng. Dĩ Nhị Thừa khí Hữu quán Không, đọa thiên kiến cố.

()等觀俗諦,對偏而言,名之曰等,亦名曰遍。

()等觀俗諦者。菩薩修道種智。等觀俗諦。對二乘偏觀而言。名之曰等。以二乘棄有觀空。墮偏見故

(Sao: Bình đẳng quán Tục Đế, đối với Thiên (lệch lạc) mà nói, bèn gọi là Đẳng (bình đẳng), cũng gọi là Trọn Khắp.

Diễn: “Bình đẳng quán Tục Đế”: Bồ Tát tu Đạo Chủng Trí, nên bình đẳng quán Tục Đế. Do đối với Nhị Thừa mà nói, nên gọi là Đẳng. Bởi lẽ, Nhị Thừa bỏ Hữu quán Không, cho nên đọa vào tri kiến lệch lạc).

“Đẳng quán Tục Đế”, Tục (俗) là thế tục. Thấy rõ ràng, rành rẽ các thứ biến hóa của nhân quả, sự lý trong thế tục (tức lục phàm thế gian). Tuy sự tướng ngàn muôn sai khác, thể tánh là bình đẳng, lũ phàm phu chúng ta thấy là tuyệt đối bất bình đẳng, Phật và Bồ Tát thấy là hoàn toàn bình đẳng. Tục và Chân là bình đẳng, “danh chi viết Đẳng” (bèn gọi là Đẳng), “diệc danh viết Biến”, “Biến” (遍: trọn khắp) cũng có nghĩa là bình đẳng.

 

(Sao) Giác giả, linh minh tự tâm.

()覺者,靈明自心。

(Sao: Giác là linh minh tự tâm)

Đây là tâm địa, “linh” là chẳng mê mờ, “minh” là chẳng tối tăm. Tự tánh thanh tịnh tâm là quang minh, là chiếu trọn khắp. Đấy gọi là Giác.

 

(Sao) Chánh Giác giả, kiêm thượng Chánh Đẳng nhị nghĩa. Ngôn thử giác giả, thị Vô Thượng Chánh Đẳng chi Chánh Giác dã.

(Diễn) Chánh Giác kiêm Chánh Đẳng nhị nghĩa giả, dĩ Nhị Thừa đối ngoại đạo danh Chánh. Nhược đối Bồ Tát, khí Hữu, quán Không, diệc danh Tà cố.

()正覺者,兼上正等二義。言此覺者,是無上正等之正覺也。

()正覺兼正等二義者。以二乘對外道名正。若對菩薩。棄有觀空。亦名邪故。

(Sao: Chánh Giác gồm cả hai nghĩa Chánh và Đẳng trên đây. Nói tới Giác ấy thì chính là Chánh Giác Vô Thượng Chánh Đẳng vậy.

Diễn: “Chánh Giác kiêm cả hai nghĩa Chánh và Đẳng”: Do đối với ngoại đạo thì Nhị Thừa được gọi là Chánh, nhưng so với Bồ Tát, [do Nhị Thừa] bỏ Hữu để quán Không, nên cũng gọi là Tà).

Chánh Giác ở đây, nói thật ra là Chánh Đẳng Chánh Giác. Chánh Giác: Điều chứng đắc của A La Hán là Chánh Giác, [bởi lẽ] cách nhìn của Ngài đối với vũ trụ và nhân sinh chẳng đến nỗi sai lầm to lớn. Chánh Đẳng Chánh Giác là Bồ Tát, Đẳng có nghĩa là bằng với Phật. Tuy bằng Phật, chẳng viên mãn. Chẳng rốt ráo như Phật, chẳng viên mãn giống như Phật. Đạt tới địa vị Phật bèn gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đoạn này nhằm giải thích từ ngữ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Hôm nay tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 270

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm sáu mươi hai:

 

(Sao) Lương dĩ xuẩn động hàm linh giai hữu Phật Tánh, tắc Bồ Đề giả. Phật dữ chúng sanh bổn lai vô nhị, vô minh sở phú, toại thành mê vọng, thị tắc tà giác, bất danh vi Chánh.

(Diễn) Lương dĩ hạ xuất thượng sở dĩ. Phật dữ chúng sanh bổn lai vô nhị giả, vị Bổn Giác chi Thể, nhân tâm, quả chứng, vô nhị, vô biệt dã. Vô minh sở phú toại thành mê vọng giả, vị bất tri Chân Như pháp nhất cố, bất giác tâm khởi nhi hữu kỳ niệm, toại thành tam tế, lục thô dã. Thị tắc tà giác, bất danh vi Chánh giả. Vị phàm phu tuy cụ hữu linh giác, nhi toàn giai thị vọng, phi vi chánh cố.

()良以蠢動含靈皆有佛性,則菩提者,佛與眾生本來無二,無明所覆,遂成迷妄,是則邪覺,不名為正。

()良以下出上所以。 佛與眾生本來無二者。謂本覺之體。因心果證。無二無別也。 無明所覆遂成迷妄者。謂不知真如法一故。不覺心起而有其念。遂成三細六粗也。是則邪覺。不名為正者。謂凡夫雖具有靈覺。而全皆是妄。非為正故。

(Sao: Ấy là vì các loài hàm linh ngọ ngoạy đều có Phật Tánh, cho nên đối với Bồ Đề, Phật và chúng sanh vốn chẳng hai. Do bị vô minh che lấp, nên trở thành mê vọng. Đó là tà giác, chẳng gọi là Chánh.

Diễn: Từ chữ “ấy là vì” trở đi, nêu ra nguyên do của những điều vừa được nói trên đây. “Phật và chúng sanh vốn chẳng hai” nghĩa là xét theo cái Thể của Bổn Giác thì cái tâm tu nhân và cái quả đã chứng đắc chẳng hai, chẳng khác. “Do bị vô minh che lấp, nên trở thành mê vọng” nghĩa là: Do chẳng biết pháp Chân Như là một, nên cái tâm bất giác dấy niệm, bèn biến thành ba tế tướng và sáu thô tướng. “Đó là tà giác, chẳng phải là chánh”, có nghĩa là phàm phu tuy có linh giác, nhưng đều toàn là vọng, chẳng phải là chánh).

Đoạn này nói rõ sự sai biệt giữa Phật và chúng sanh. Phật và chúng sanh vốn chẳng có sai biệt, sai biệt ở chỗ mê hay ngộ. Trên thực tế, mê hay ngộ chỉ trong một niệm. Ở đây, đại sư bảo chúng ta: “Xuẩn động hàm linh” (蠢動含靈) là nói tới hết thảy các động vật, dẫu là loài “động vật cấp thấp” như chúng ta thường nói, [chẳng hạn như] ruồi, trùng, kiến, chúng cũng có Phật Tánh. Bồ Đề là Bổn Giác trong tự tánh. Tự tánh vốn giác ngộ, chẳng phải do bên ngoài mà có. Tuy Phật đã thành Phật, Bồ Đề của Phật cũng chẳng tăng thêm phần nào. Chúng sanh tuy đọa lạc trong lục đạo, dẫu là đang ở trong các đường súc sanh, ngạ quỷ, hay địa ngục, Bồ Đề của họ cũng chẳng giảm bớt phần nào. Có thể nói là “tự tánh giác bất tăng, bất giảm”. Do đó nói “Phật và chúng sanh vốn chẳng hai”, “chẳng hai” là giống hệt. Hiện thời, là như nhau, hay khác nhau? Nói thật ra, vẫn là như nhau. Điểm khác nhau là trên Bồ Đề, chúng ta có thêm một chút mê, hỏng ở chỗ này. Phật, Bồ Tát chẳng thêm mê vào, chúng ta lại thêm vào một chút mê. Mê là gì? Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Tri kiến lập tri” (Từ trên tri kiến, lập thêm một cái biết), “tri kiến” [được nhắc tới trong câu kinh ấy của Lăng Nghiêm] chính là Bồ Đề. Hết thảy loài chúng sanh, mắt đều có thể thấy, tai đều có thể nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm. Có thể thấy, có thể nghe, có thể cảm nhận, có thể nếm, cái “có thể” ấy chính là Bồ Đề, chúng sanh và Phật chẳng khác nhau. Rốt cuộc mê ở chỗ nào? Chư Phật, Bồ Tát thấy, nghe, hay, biết chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, mà hiểu biết cảnh giới rành mạch, rõ ràng, đó là Bồ Đề. Trong sự thấy, nghe, hay, biết của chúng ta, kèm thêm phân biệt, chấp trước. Từ phân biệt, chấp trước, lại còn thêm vào tham, sân, si, mạn, đó là mê. Đấy chính là “vô minh sở phú, toại thành mê vọng” (do vô minh che lấp, bèn thành mê vọng). Cái giác của chúng ta chẳng thể gọi là Chánh Giác, mà là tà giác, chuyện là như vậy đó.

Đúng như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã dạy: “Hết thảy chúng sanh chỉ vì vọng tưởng, chấp trước mà chẳng thể chứng đắc”. Cái mê ấy được gọi là vọng tưởng, là chấp trước. Trừ khử vọng tưởng, chấp trước, bèn thành Phật. Vì sao? Bồ Đề và quả địa Như Lai hoàn toàn giống hệt; Thể, Tướng, và tác dụng đều như nhau, bèn gọi là “thành Phật”. Hỏng là hỏng ở chỗ vọng tưởng, chấp trước. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối luôn dấy vọng tưởng, ngay cả đêm ngủ vẫn dấy vọng tưởng. Nằm mộng là khi ngủ dấy vọng tưởng. Nếu ngủ mà chẳng dấy vọng tưởng, sẽ chẳng nằm mộng. Mộng sanh từ vọng tưởng; có thể thấy đích xác là chúng ta mê đã quá sâu, đích xác là hết sức nghiêm trọng. Ở đây, trước hết là nói rõ chúng sanh và Phật chẳng hai.

 

(Sao) Thanh Văn, Bích Chi.

()聲聞辟支。

(Sao: Thanh Văn, Bích Chi Phật).

Thanh Văn là Tiểu Thừa Tứ Quả La Hán. Bích Chi là Duyên Giác, tức Bích Chi Phật. Nói thành ba thừa thì Thanh Văn là Tiểu Thừa, Bích Chi Phật là Trung Thừa, Bồ Tát là Đại Thừa. Nói thành hai thừa thì Thanh Văn và Bích Chi Phật được gọi gộp chung là Tiểu Thừa hoặc Nhị Thừa. Hai loại người này:

 

(Sao) Chỉ phá Kiến Tư.

(Diễn) Thanh Văn, Bích Chi chỉ phá Kiến Tư giả, Thanh Văn quán Tứ Đế, Bích Chi quán Thập Nhị Nhân Duyên, tuy hành môn bất đồng, nhi sở đoạn giả, đồng thị tam giới Kiến Tư. Duyên Giác đản xâm tập khí, cư Thanh Văn thượng nhĩ.

()止破見思。

()聲聞辟支止破見思者。聲聞觀四諦。辟支觀十二因緣。雖行門不同。而所斷者。同是三界見思。緣覺但侵習氣。居聲聞上耳。

(Sao: Chỉ phá Kiến Tư phiền não.

Diễn: “Thanh Văn và Bích Chi chỉ phá Kiến Tư”: Thanh Văn quán Tứ Đế, Bích Chi Phật quán Thập Nhị Nhân Duyên, tuy hành môn khác nhau, nhưng cái họ đoạn đều là Kiến Tư phiền não trong tam giới. Do Duyên Giác chỉ phải đối trị tập khí [chẳng còn có Kiến Tư phiền não để đối trị] nên địa vị cao hơn Thanh Văn).

Đối với sự mê chấp ấy, chúng ta có thể phân chia đại lược thành ba loại lớn. Chúng ta nói từ cái thô nhất tới cái vi tế. Phân biệt, chấp trước thô nhất là Kiến Tư phiền não. Kiến (見) là kiến giải sai lầm, Tư (思) là tư tưởng sai lầm. Chúng ta nghĩ lầm, thấy trật, loại này được gọi là Kiến Tư phiền não. Loại thứ hai là Trần Sa phiền não, vi tế hơn Kiến Tư phiền não rất ư là nhiều, nhiều giống như cát bụi. Trần Sa là tỷ dụ rất nhiều. Đồng thời, Trần Sa cũng nhằm tỷ dụ sự ô nhiễm, ô nhiễm quá ư là nhiều! Vi tế nhất là Vô Minh phiền não. Phân biệt, chấp trước có ba loại lớn như vậy. Thanh Văn và Duyên Giác chỉ “phá Kiến Tư”; trong ba loại phiền não lớn ấy, họ chỉ phá Kiến Tư.

 

(Sao) Tuy đắc Bồ Đề, kỳ đạo vị Trung, thị tắc Thiên Giác, bất danh vi Đẳng.

(Diễn) Tuy đắc Bồ Đề kỳ đạo vị trung, bất danh vi Đẳng giả. Bồ Đề vị Nhất Thiết Trí, đản năng tùng Giả nhập Không, bất năng tùng Không nhập Giả. Cố kỳ đạo vị Trung, đản ngộ Thiên Chân lý. Cố thị Thiên Giác, vị tu bình đẳng quán, cố bất danh vi Đẳng.

()雖得菩提,其道未中,是則偏覺,不名為等。

()雖得菩提其道未中。不名為等者。菩提謂一切智。但能從假入空 。不能從空入假。故其道未中 。但悟偏真理。故是偏覺。未修平等觀故不名為等。

(Sao: Tuy đắc Bồ Đề, đạo của họ chưa phải là Trung, nên là Thiên Giác, chẳng gọi là Đẳng.

Diễn: “Tuy đắc Bồ Đề, đạo của họ chưa phải là Trung, chẳng gọi là Đẳng”: Bồ Đề là Nhất Thiết Trí. Họ chỉ có thể từ Giả nhập Không, chẳng thể từ Không nhập Giả. Do vậy, đạo của họ chưa phải là Trung, chỉ ngộ lý Thiên Chân, nên là Thiên Giác (sự giác ngộ lệch lạc). Do chưa tu bình đẳng quán, nên chẳng gọi là Đẳng).

A La Hán và Bích Chi Phật được coi là Chánh Giác. Vì sao họ chánh, còn chúng ta chẳng chánh? Vì họ đoạn Kiến Tư phiền não, chúng ta chẳng đoạn Kiến Tư phiền não. Giác của chúng ta là tà giác, chẳng phải là Chánh Giác. Nhất định phải là đoạn Kiến Tư phiền não thì cái giác ấy mới gọi là Chánh Giác, tiêu chuẩn ở chỗ này. Có thể gọi họ là Chánh Giác, chẳng thể gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao? Giác của họ là Chánh, chẳng sai, nhưng lệch lạc, chẳng đạt đến Trung Đạo, mà lệch về một bên. Ở đây, đại sư nói giác của họ là Thiên Giác (偏覺: sự giác ngộ lệch lạc, thiên vị), chẳng thể gọi là Đẳng. Liên Trì đại sư gọi sự giác ngộ ấy là Thiên Giác, [từ ngữ này] cũng chẳng phải là do Ngài sáng chế, Ngài vẫn có căn cứ. Trong kinh, đức Phật đã nói hàng Nhị Thừa chứng đắc Thiên Chân Niết Bàn. Thiên Chân (偏真: lệch về Chân Đế) thì chẳng phải là Trung Đạo; Bồ Tát mới là Trung Đạo. Đó là trạng huống của hàng Nhị Thừa.

 

(Sao) Nhất thiết Bồ Tát, dĩ tận Trần Sa, vị tận vô minh, tuy đắc Chánh Đẳng Bồ Đề, Phật địa do viễn, bất danh Vô Thượng.

(Diễn) Nhất thiết Bồ Tát dĩ tận Trần Sa, vị tận vô minh giả, Biệt Giáo tự Thập Hồi Hướng, Thập Địa, chí Đẳng Diệu nhị giác, Viên Giáo tự Đệ Thập Tín chí Đẳng Giác, thị nhất thiết Bồ Tát. Biệt Thập Hướng dĩ tận Trần Sa, vị đoạn vô minh. Sơ Địa thỉ đoạn nhất phẩm vô minh, nãi chí Diệu Giác đoạn thập nhị phẩm vô minh, cố vị tận. Viên Thập Tín dĩ tận Trần Sa, vị đoạn vô minh. Sơ Trụ thỉ đoạn nhất phẩm vô minh, nãi chí Đẳng Giác đoạn tứ thập nhất phẩm vô minh, cố diệc vị tận. Tuy đắc Chánh Đẳng Bồ Đề, Phật địa do viễn, bất danh Vô Thượng giả. Bồ Đề, vị Đạo Chủng Trí, phần chứng Nhất Thiết Chủng Trí, dĩ năng song giá, song chiếu, tâm tâm thú nhập Tát Bà Nhã hải. Cố đắc Chánh Đẳng Bồ Đề. Hoa Nghiêm thuyết Thập Địa Bồ Tát, sung mãn vi trần quốc độ, ư na-do-tha kiếp tu Bồ Tát hạnh, sở sanh trí huệ tỷ nhất Như Lai trí huệ, bách phần bất cập nhất, nãi chí ưu-ba-ni-sa-đà phần, diệc bất cập nhất. Cố vân Phật địa do viễn. Vô luận chư vị Bồ Tát, tức chí Đẳng Giác, thượng cánh hữu quá giả, danh Hữu Thượng Sĩ. Cố bất danh Vô Thượng.

()一切菩薩,已盡塵沙,未盡無明,雖得正等菩提,佛地猶遠,不名無上。

()一切菩薩已盡塵沙。未盡無明者。別教自十回向。十地至等妙二覺。圓教自第十信至等覺。是一切菩薩。別十向已盡塵沙。未斷無明。初地始斷一品無明。乃至妙覺斷十二品無明。故未盡。圓十信已盡塵沙。未斷無明。初住始斷一品無明。乃至等覺斷四十一品無明。故亦未盡。雖得正等菩提。佛地猶遠。不名無上者。菩提。謂道種智分證一切種智。以能雙遮雙照。心心趣入薩婆若海。故得正等菩提。華嚴說十地菩薩。充滿微塵國土。於那由他劫修菩薩行。所生智慧比一如來智慧。百分不及一。乃至優波尼沙陀分亦不及一。故云佛地猶遠。無論諸位菩薩。即至等覺。尚更有過者。名有上士。故不名無上。

(Sao: Hết thảy các vị Bồ Tát đã đoạn hết Trần Sa, chưa đoạn hết Vô Minh, tuy đắc Chánh Đẳng Bồ Đề, vẫn cách xa địa vị Phật, chẳng gọi là Vô Thượng.

Diễn: “Hết thảy các vị Bồ Tát đã đoạn hết Trần Sa, chưa đoạn hết Vô Minh”: Biệt Giáo thì từ Thập Hồi Hướng, Thập Địa, cho đến Đẳng Giác và Diệu Giác, Viên Giáo thì từ Đệ Thập Tín cho đến Đẳng Giác, đó là “hết thảy các vị Bồ Tát”. Thập Hồi Hướng của Biệt Giáo đã đoạn hết Trần Sa, chưa đoạn Vô Minh. Sơ Địa [của Biệt Giáo] mới đoạn một phẩm vô minh, cho đến Diệu Giác đoạn hết mười hai phẩm vô minh, nên là “chưa đoạn hết”. Địa vị Đệ Thập Tín của Viên Giáo đã đoạn hết Trần Sa, chưa đoạn Vô Minh. Sơ Trụ mới đoạn một phẩm vô minh, cho đến Đẳng Giác đoạn bốn mươi mốt phẩm vô minh, nên cũng là “chưa đoạn hết”. “Tuy đắc Chánh Đẳng Bồ Đề, còn cách xa địa vị Phật, chẳng gọi là Vô Thượng”: Bồ Đề là nói tới Đạo Chủng Trí, phần chứng Nhất Thiết Chủng Trí. Do có thể cùng ngăn lấp hai bên, cùng chiếu hai bên, tâm tâm tiến nhập biển Nhất Thiết Trí, nên đắc Chánh Đẳng Bồ Đề. Kinh Hoa Nghiêm nói Thập Địa Bồ Tát đầy ắp các cõi nước nhiều như vi trần, trong na-do-tha kiếp tu Bồ Tát hạnh. Trí huệ do họ sanh khởi so với trí huệ của một đức Như Lai thì trăm phần chẳng bằng được một, cho đến một phần Ưu-ba-ni-sa-đà cũng chẳng bằng. Vì thế nói là “còn cách xa địa vị Phật”. Bất luận Bồ Tát thuộc các địa vị nào cho đến Đẳng Giác, đều hãy còn có người vượt trỗi hơn, nên [các địa vị Bồ Tát đều] được gọi là Hữu Thượng Sĩ (người có kẻ vượt trội hơn), chẳng gọi là Vô Thượng). Đây là Bồ Tát.

 

(Diễn) Viên Thập Tín dĩ tận Trần Sa.

()圓十信已盡塵沙。

(Diễn: Địa vị Thập Tín trong Viên Giáo đã đoạn hết Trần Sa).

Tôi chỉ nói với quý vị câu này, vì những câu khác đều chẳng khó hiểu. Thập Tín [trong lời Diễn Nghĩa] là địa vị Thập Tín, chẳng phải từ địa vị Sơ Tín cho đến Thập Tín, mà là địa vị Đệ Thập Tín Bồ Tát, đã đoạn hết Trần Sa Hoặc. Từ Sơ Tín cho đến Lục Tín chưa đoạn hết Kiến Tư phiền não, đạt đến địa vị Thất Tín bèn đoạn hết Kiến Tư phiền não. Ba địa vị Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín, cho tới Đệ Thập Tín, đoạn hết Trần Sa Hoặc. Viên mãn tâm Thập Tín, tức là tu hành viên mãn địa vị Thập Tín, viên mãn gì vậy? Đoạn hết Trần Sa Hoặc, bèn nhập Sơ Trụ. Đó là Viên Giáo. Nếu nói theo Biệt Giáo, sẽ là Đệ Thập Hồi Hướng trong Biệt Giáo. Đệ Thập Hồi Hướng đoạn sạch Trần Sa Hoặc, tiến cao hơn một cấp, dự vào Sơ Địa. Sơ Địa của Biệt Giáo bằng với Sơ Trụ của Viên Giáo, đều là đoạn sạch Trần Sa Hoặc, phá một phẩm vô minh. Do vậy có thể biết: Nếu hãy còn Trần Sa Hoặc, quyết định là chẳng có cách nào phá vô minh, nhất định là phá sạch Trần Sa Hoặc thì mới có thể phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Chúng ta hiểu những đạo lý này, mới biết tu hành thật sự chẳng dễ dàng, đoạn Hoặc chứng Chân hết sức khó khăn. Nếu chư Phật Như Lai chẳng vì chúng ta rộng mở pháp môn đới nghiệp vãng sanh; nói cách khác, chúng sanh thời Mạt Pháp chẳng có một ai đắc độ, ai có năng lực đoạn phiền não? Sự thật này bày ra trước mắt chúng ta, chúng ta chẳng thể không thừa nhận!

Trong trạng huống này, chúng ta đã gặp [pháp môn này], chẳng cần đoạn phiền não, [tức là] Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh đều chẳng phải đoạn, mà vẫn có thể thành Phật. Pháp môn này chính là pháp môn Trì Danh Niệm Phật được nói trong kinh A Di Đà. Lần trước, tôi đã thưa cùng mọi người, phước huệ nghe kinh rồi thọ trì thật sự là bậc nhất trong tận hư không khắp pháp giới. Phước báo là được hết thảy chư Phật đều hộ niệm quý vị, phước báo ấy to lắm! Tra duyệt khắp Đại Tạng Kinh, cũng tìm chẳng ra một bộ kinh nào, pháp môn nào khác nói chúng ta đọc tụng, thọ trì [bản kinh ấy sẽ] khiến cho hết thảy chư Phật đều gia hộ, đều hộ niệm, chưa hề nghe nói! Huệ là “giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (đều đắc bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Viên chứng ba món Bất Thoái là Huệ. Do đó, nghe kinh thọ trì, cũng chính là thật thà niệm Phật, phát nguyện vãng sanh, người ấy phước lớn bậc nhất, huệ cũng lớn bậc nhất. Trong kinh, đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã bảo chúng ta điều này, làm sao có thể là giả cho được? Chúng ta có thể tin tưởng, chẳng ngờ vực, chúng ta là người nghe kinh thọ trì.

“Hết thảy Bồ Tát” được nói ở đây chính là hàng Bồ Tát từ địa vị Đệ Thập Tín trong Viên Giáo trở lên, từ Cửu Tín Bồ Tát trở về trước chẳng xét tới. “Dĩ tận Trần Sa” (Đã hết Trần Sa), tiêu chuẩn chính là một câu này. “Hết thảy Bồ Tát” là những vị Bồ Tát thuộc loại nào? Đã đoạn hết Trần Sa Hoặc, chẳng đoạn hết Vô Minh Hoặc, [hoặc là những vị đã] phá một phẩm vô minh, hoặc phá hai phẩm vô minh. Vô minh có bốn mươi mốt phẩm, các Ngài chẳng thể đoạn hết. “Tuy đắc Chánh Đẳng Bồ Đề”, các Ngài chẳng phải là Thiên Giác, mà là Chánh Đẳng Chánh Giác. “Đẳng” (等) là bằng với Phật. Bằng với Phật, nhưng vẫn chưa phải là Phật, rất gần với Phật, rất tương tự, vẫn chẳng phải là Phật thật sự, bằng với Phật mà thôi. “Phật địa do viễn” (Còn cách xa địa vị Phật), còn cách biệt Phật quả rốt ráo khá xa. Sơ Trụ Bồ Tát phá một phẩm vô minh, còn cách quả vị rốt ráo bốn mươi địa vị, xác thực là khá xa xôi! “Bất danh Vô Thượng” (Chẳng gọi là Vô Thượng): Chẳng thể bảo là vị Bồ Tát ấy là Vô Thượng, phía trên Ngài còn có rất nhiều [đẳng cấp] Bồ Tát. Đẳng Giác Bồ Tát đã phá bốn mươi phẩm trong bốn mươi mốt phẩm vô minh, hãy còn một phẩm. Trên Ngài còn có Phật, cho nên chẳng thể nói Ngài là Vô Thượng. Do vậy có thể biết: Chánh Đẳng Chánh Giác là từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác trong Viên Giáo, gồm có bốn mươi mốt địa vị.  Kinh Hoa Nghiêm nói “bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ” là nói tới Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

(Sao) Duy Phật nhất nhân.

()惟佛一人。

(Sao: Chỉ có mình Phật).

“Nhất nhân” (Một mình) là quả vị này, địa vị này. Bồ Tát nếu tính cả Thập Tín sẽ có năm mươi mốt địa vị. Phật quả rốt ráo là một địa vị, chỉ có mình Phật.

 

(Sao) Vọng tận, giác mãn.

(Diễn) Duy Phật nhất nhân vọng tận giác mãn giả, như Bồ Tát địa tận, mãn túc phương tiện, nhất niệm tương ứng giác tâm, sơ khởi tâm vô sơ tướng, viễn ly vi tế niệm cố, danh vi ‘vọng tận’. Cứu tận chư pháp Thật Tướng, biên tế trí mãn, Chủng Giác đốn viên, danh vi giác mãn.

()妄盡覺滿。

()惟佛一人妄盡覺滿者。如菩薩地盡。滿足方便。一念相應覺心。初起心無初相。遠離微細念故。名為妄盡。究盡諸法實相。邊際智滿。種覺頓圓。名為覺滿

(Sao: Hết vọng, giác ngộ viên mãn.

Diễn: “Chỉ có mình đức Phật hết vọng, giác ngộ viên mãn”: Như trọn hết địa vị Bồ Tát, phương tiện trọn đủ, một niệm tương ứng giác tâm, bắt đầu dấy lên cái tâm mà chẳng có tướng khởi đầu, vì đã xa lìa hết thảy các niệm vi tế, nên gọi là “hết vọng”. Thấu suốt cùng tột Thật Tướng của các pháp, trí huệ đã viên mãn tận bờ mé, mau chóng viên mãn Chủng Giác, nên gọi là “giác ngộ viên mãn”).

Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh đều đoạn hết. Ở đây, chư vị phải lưu ý, Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh đều là vọng! Những thứ ấy đều là vọng tưởng, chấp trước, [nơi quả vị Phật] đều đoạn hết, đều chẳng có [những thứ ấy], giác đã viên mãn. Chúng ta gọi sự viên mãn này là Đại Giác, [hàm ý] giác đã viên mãn. Mọi người nhất định phải ghi nhớ: Vọng tưởng, chấp trước và Đại Giác là cùng một chuyện, chẳng phải là hai chuyện. Quý vị coi chúng là hai chuyện, sai mất rồi, chúng là cùng một chuyện, là hai mặt của một Thể.

Vì thế, chúng là một, không hai. Chuyển phiền não thành Bồ Đề; hễ chuyển biến, [phiền não] sẽ chính là [Bồ Đề]! Giác là gì? Giác là do quý vị từ Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh trước đó chuyển biến thành. Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh chính là Bồ Đề Chánh Giác. Vì vậy, chúng là một, chẳng hai.

 

(Sao) Như vọng dạ nguyệt.

()如望夜月。

(Sao: Như trăng đêm Rằm).

 “Vọng” (望) là ngày Rằm. Ngày Rằm mặt trăng tròn đầy, vầng trăng viên mãn, chẳng có mảy may khuyết hãm nào! Sánh ví nó như Phật quả, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là viên mãn.

 

(Sao) Cánh vô hữu giác quá ư thử giả.

()更無有覺過於此者。

(Sao: Trọn chẳng có gì giác ngộ hơn địa vị này).

Bồ Tát tuy giác, chẳng viên mãn. Vì thế, chẳng thể nào viên mãn bằng Phật được!

 

(Sao) Danh Vô Thượng Chánh Đẳng Giác dã.

(Diễn) Như vọng dạ nguyệt, cánh vô hữu giác quá ư thử giả. Quán Kinh Sớ vân: “Vô Thượng Sĩ giả, danh vô sở đoạn. Vô Thượng Sĩ giả, cánh vô quá giả, như thập ngũ nhật nguyệt viên mãn cụ túc, chúng tinh trung vương, tối thượng, tối thắng, oai đức đặc tôn”, thị dã.

()名無上正等覺也。

()如望夜月。更無有覺過於此者。觀經疏云。無上士者。名無所斷。無上士者,更無過者。如十五日月圓滿具足。眾星中王。最上最勝。威德特尊。是也。

(Sao: Gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

Diễn: “Như trăng ngày Rằm, chẳng còn có gì giác ngộ hơn địa vị này”: Quán Kinh Sớ nói: “Vô Thượng Sĩ, gọi là không có gì để đoạn. Vô Thượng Sĩ là không còn ai hơn được. Như trăng Rằm viên mãn, trọn đủ, là vua trong các ngôi sao, tối thượng, tối thắng, oai đức đặc biệt tôn quý”, chính là nói về ý này vậy).

Danh hiệu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chuyên dùng để xưng tụng Phật, gọi Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh Giác, chỉ có [đối với sự giác ngộ của] Phật mới thêm vào [hai chữ] Vô Thượng. Phần dưới đây chuyển sang đề tài thảo luận chánh yếu trong đoạn này, chúng ta phải đặc biệt chú ý.

 

(Sao) Kim đản trì danh, mông Phật hộ niệm.

()今但持名,蒙佛護念。

(Sao: Nay chỉ trì danh, được Phật hộ niệm).

Nay chúng ta học Phật dụng công, dùng công phu gì vậy? Chính là niệm một câu Phật hiệu. “Đản” (但) là chỉ niệm một câu Phật hiệu này, bèn “mông Phật hộ niệm” (được Phật hộ niệm). Chẳng phải là được một vị Phật, mà là mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều nghĩ nhớ, đều bảo vệ quý vị. Chúng ta được hết thảy chư Phật nghĩ nhớ, được hết thảy chư Phật gia hộ. Do vậy, tôi bảo mọi người hãy suy nghĩ kỹ càng: Phước của quý vị to cỡ nào! Đại Phạm Vương, Đao Lợi Thiên Chúa so với người niệm Phật, thua kém quá xa! Đao Lợi Thiên Chúa và Đại Phạm Thiên Vương chỉ có quỷ thần hộ vệ, bảo hộ, chứ Phật chẳng hộ niệm họ, thần hộ pháp chẳng che chở họ. Hết thảy chư Phật hộ niệm, hết thảy Bồ Tát tán thán, hết thảy thiện thần hộ pháp ủng hộ, trong thế gian và xuất thế gian, còn ai có phước báo to hơn quý vị? Tìm chẳng ra! Do tín nguyện trì danh có thể đạt được phước lớn như vậy, đáng tiếc là chẳng ai biết! Không chỉ là kẻ bình phàm chẳng biết, người niệm Phật cũng rất ít người biết! Nếu thật sự đã biết, nhất định là quý vị sẽ khăng khăng một mực niệm câu Phật hiệu, chắc chắn chẳng bị dao động. Vì sao? Quý vị đã hiểu chân tướng sự thật ấy, nguyên lai quý vị là người có phước báo to lớn bậc nhất trong tận hư không khắp pháp giới. Chúng ta đọc kinh này, đọc lời khai thị của Liên Trì đại sư, khiến cho chúng ta đối với ý nghĩa chân thật trong đoạn kinh văn này, mới được coi là đã hiểu rõ ràng, hiểu rành rẽ. Một câu Phật hiệu vốn không chỉ là Định Huệ đẳng học (học cân bằng giữa Định và Huệ), mà còn là phước huệ song tu! Vừa bắt tay tu tập, phước huệ bèn viên mãn tột cùng, chẳng giống các pháp môn khác, hoặc những vị Bồ Tát khác: Chứng đắc phước huệ từng phần, họ chẳng thể viên mãn ngay lập tức. Chúng ta vừa thực hiện bèn viên mãn. Vì vậy, pháp môn này được gọi là “pháp khó tin”, kinh này được gọi là kinh “chẳng thể nghĩ bàn”!

 

(Sao) Ư như thị giác, tức bất thoái chuyển.

()於如是覺,即不退轉。

(Sao: Đối với sự giác ngộ như thế, bèn chẳng thoái chuyển).

 “Như thị giác” là nói Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong pháp môn này, chẳng cần trải qua các địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, cũng chẳng cần trải qua bốn mươi mốt tầng cấp Bồ Tát, mà trực tiếp tiến nhập Vô Thượng Bồ Đề, đạt tới mục tiêu này. Chuyện này giống như hai người tu hành, một người là Bồ Tát, rất lỗi lạc! Từ tầng trệt lên trên cao là năm tầng lầu, người ấy trèo cầu thang, từng bước tiến lên, bốn mươi mốt tầng cấp người ấy đều chứng đắc. Người niệm Phật tuy vẫn chẳng phải là Bồ Tát, đi thang máy lên, chẳng trải qua từng tầng cấp, trong chốc lát bèn thành Phật. Do vậy, pháp môn này là pháp môn rất chẳng thể nghĩ bàn, chúng ta phải nhận biết và quý trọng nó! Phần Bất Thoái Chuyển nhằm giải thích câu cuối cùng trong kinh văn.

 

(Sao) Ngôn trực chí đạo tràng, chung bất tái đọa tam hữu, trung chỉ hóa thành, quyết định thành Phật dã.

()言直至道場,終不再墮三有、中止化城,決定成佛也。

(Sao: Nói “đến thẳng đạo tràng” là trọn chẳng còn đọa trong ba cõi, hoặc dừng nơi hóa thành giữa đường, mà là quyết định thành Phật).

Bồ Tát thành Phật; trong kinh, đức Phật đã nói: Phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Đấy là đức Phật nói với kẻ sơ học tâm lượng nhỏ bé, vì nếu nói nhiều, sợ quý vị sẽ kinh hãi, chẳng học nữa, nên bảo quý vị là “ba A-tăng-kỳ kiếp bèn thành Phật”. Đức Phật chẳng gạt người, chẳng nói dối, xác thực là thành Phật, thành Phật gì? Tạng Giáo Phật. Tông Thiên Thai nói Tạng, Thông, Biệt, Viên, trở thành Tạng Giáo Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói thành Phật là thành Viên Giáo Phật, phải mất bao nhiêu thời gian? Vô lượng kiếp thì mới có thể thành Viên Giáo Phật. Vì sao phải mất thời gian dài như thế? Là vì tiến ít, lùi nhiều, Bồ Tát cũng bị mê khi cách ấm! Đời này, chúng ta hết sức siêng khổ tu hành, đọc tụng khá nhiều kinh điển, thọ mạng đã hết, chết đi, nhưng suốt một đời này chẳng tạo ác nghiệp, luôn dụng công tu hành; đời sau nhất định vẫn được làm thân người, vẫn tiếp tục nghe pháp, tiếp tục tu trì. Nhưng hễ sanh tử, sẽ hoàn toàn quên sạch những chuyện đời trước, đầu thai vào đời này, chẳng thể ngay lập tức tiếp tục dụng công, phải đến mười mấy, hai mươi tuổi mới giác ngộ, lầm lỡ bao nhiêu thời gian? Hết thảy đều phải học từ đầu, học đến mức gần như cũ thì thọ mạng lại đến. Đời đời kiếp kiếp luôn ở trong giai đoạn này, tiến cao hơn một chút khá khó khăn, thoái chuyển quá dễ dàng. Vì vậy, cần một thời gian rất dài thì mới có thể thành tựu, đạo lý ở chỗ này. Thế giới Tây Phương chẳng vậy! Sanh về bên ấy, sẽ là vô lượng thọ, chẳng cần phải sanh tử luân hồi. Thọ mạng lâu dài, chẳng có ai tính toán được! Do vậy, người ấy chẳng bị thoái chuyển, chẳng mê!

Trong thế giới Tây Phương, thành Phật hết sức dễ dàng, trong thời gian rất ngắn bèn thành tựu. Từ Quán Kinh, chúng ta thấy: Chúng sanh tạo tội nghiệp Ngũ Nghịch Thập Ác cực nặng, nếu lúc lâm chung gặp thiện tri thức khuyên người ấy niệm Phật vãng sanh, người ấy lập tức tiếp nhận, hối cải, phát nguyện vãng sanh, một niệm hay mười niệm đều có thể thành công, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ hạ phẩm vãng sanh. Đức Phật nói người như vậy phải trải qua mười hai kiếp trong thế giới Tây Phương thì hoa sẽ nở, thấy Phật. Mười hai kiếp so với A-tăng-kỳ kiếp, quá ngắn ngủi! Mười hai kiếp hoa nở thấy Phật là địa vị gì? Là địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo. Nói cách khác, như Thích Ca Mâu Ni Phật thường nói là “ba đại A-tăng-kỳ kiếp”, [để đạt đến địa vị Sơ Trụ, nói thông thường] người ấy đã tu trọn đủ hai A-tăng-kỳ kiếp. Trong thế gian này, chúng ta tu hành phải mất hai A-tăng-kỳ kiếp; trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ cần mười hai kiếp. Rút ngắn thời gian biết là bao nhiêu! Đó là hạ hạ phẩm vãng sanh đấy nhé.

Chúng ta vãng sanh sẽ không rơi vào hạ hạ phẩm, vì sao? Chúng ta chẳng tạo tội nặng ngần ấy! Tuy cũng tạo tội nghiệp, chẳng nặng dường ấy. Chúng ta chẳng giết cha, chẳng giết mẹ, chẳng làm thân Phật chảy máu, chẳng phá hòa hợp tăng. Chúng ta chẳng tạo tội Ngũ Nghịch, cho nên chúng ta vãng sanh, thấp nhất thì đại khái cũng là hạ phẩm trung sanh. Hạ phẩm trung sanh thì “hoa nở, thấy Phật” chỉ cần sáu kiếp, thời gian càng ngắn hơn. Ba phẩm thượng vãng sanh, [theo như] kinh Vô Lượng Thọ nói, thượng bối vãng sanh đều là người căn tánh Đại Thừa tích thiện, tu phước. Căn tánh Đại Thừa tâm lượng to lớn, mà những ý niệm phân biệt, chấp trước tương đối nhạt mỏng. Căn tánh Đại Thừa vãng sanh thì sang bên đó, thành tựu hết sức nhanh chóng. Người thượng phẩm thượng sanh vừa đến bên đó bèn hoa nở thấy Phật. Nói cách khác, thời gian chưa đầy một ngày đã vượt trỗi Bồ Tát bình phàm tu hành hai A-tăng-kỳ kiếp. Thượng phẩm trung sanh cũng chỉ là bảy ngày mà thôi, “bảy ngày” là bảy ngày trong thế giới này, chẳng phải là trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bảy ngày liền vượt trỗi hai A-tăng-kỳ kiếp! Chúng tôi nghĩ, trong các đồng tu chúng ta, người căn tánh Đại Thừa rất nhiều! Đúng là khó có, đáng quý. Nói theo cách hiện thời, [những ai có] bụng dạ thanh tịnh, bình đẳng, cởi mở, chính là người Đại Thừa. Trung bối vãng sanh là người trì giới tu phước, căn tánh Tiểu Thừa. Người căn tánh Tiểu Thừa khá chấp trước, bụng dạ chẳng rộng mở như hàng Đại Thừa, người Đại Thừa tiêu sái lắm! Nhưng chư vị phải ghi nhớ, tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, thì tiêu sái kiểu đó mới là người Đại Thừa. Nếu rất tiêu sái mà trong tâm có tham, sân, si, mạn, chẳng phải là người Đại Thừa! Hạ bối [vãng sanh] là kẻ tạo tác hết thảy tội nghiệp, tạo rất nhiều tội nghiệp, gặp thiện tri thức khuyên dạy, bèn một niệm quay đầu sám hối vãng sanh. Nhìn theo tiêu chuẩn này, nếu chúng ta thật sự niệm Phật vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quá nửa đều thuộc từ trung phẩm trở lên, chẳng thể thuộc vào hạ bối!

“Trực chí đạo tràng” (Đến thẳng đạo tràng): Trong hết thảy các cõi Phật, hàng Bồ Tát bình phàm tu hành tiến tiến, lùi lùi, cho nên cần thời gian rất dài. Đối với hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, do thế giới Tây Phương chẳng có ba ác đạo, sẽ chẳng bị thoái đọa. Vì thế, họ tiến thẳng đến đạo tràng. Họ cũng chẳng sẽ “trung chỉ hóa thành” (dừng nơi hóa thành ở giữa đường), “hóa thành” là nói tới Thiên Chân Niết Bàn của Thanh Văn, Duyên Giác. A La Hán bình phàm chứng đến quả vị này, sẽ phải ngừng lại hai đại kiếp, chẳng thể tiếp tục tinh tấn. Họ ngưng nghỉ ở chỗ đó, [do] cảm thấy cảnh giới ấy khá quá, họ sẽ ở lại đó. Phải trải qua hai đại kiếp, họ mới sẽ quay đầu, hồi Tiểu hướng Đại. Bích Chi Phật phải ngưng lại một đại kiếp, đức Phật tỷ dụ chuyện này là “hóa thành”, họ ngưng nghỉ giữa chừng ở nơi ấy. Những người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng “đọa tam hữu”. “Tam hữu” là Dục Giới Hữu, Sắc Giới Hữu, Vô Sắc Giới Hữu. Tam Hữu là lục đạo luân hồi, [người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới] tuyệt đối chẳng còn luân hồi trong lục đạo nữa, mà cũng chẳng như A La Hán và Bích Chi Phật ngừng nghỉ giữa chừng nơi Thiên Chân Niết Bàn, họ sẽ quyết định thành Phật. Đoạn khai thị này đã nói rất rõ ràng, rất minh bạch hai thứ lợi ích do nghe kinh và thọ trì được nhắc đến trong phần kinh văn phía trước. Sau khi chúng ta nghe xong, nếu vẫn còn hoài nghi, vẫn chẳng thể tin tưởng, vẫn muốn làm chuyện khác; đó đúng là nghiệp chướng quá nặng, chẳng có phước báo. Người có phước báo nghe pháp môn này bèn khăng khăng một mực, thâm nhập một môn.

 

(Sao) Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân.

()大本法藏願云。

(Sao: Trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng).

Trong kinh Vô Lượng Thọ, phần bốn mươi tám nguyện có nói.

 

(Sao) Văn ngã danh dĩ, ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, hữu thoái chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.

()聞我名已,於阿耨多羅三藐三菩提,有退轉者,不取正覺。

(Sao: Đã nghe tên ta mà còn có kẻ thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ta chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác).

Do vậy có thể biết: Vì sao sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn viên chứng ba Bất Thoái? Do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, chẳng phải là chính mình có năng lực ấy, mà là do Phật lực gia trì.

 

(Sao) Hựu vân: Diêu ư thử pháp, bất thính văn cố, hữu nhất ức Bồ Tát thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

()又云:繇於此法,不聽聞故,有一億菩薩退轉於阿耨多羅三藐三菩提。

(Sao: Lại nói: Do chẳng được nghe pháp này, có một ức Bồ Tát thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề).

Nói rõ các vị Bồ Tát trong các thế giới phương khác do không được nghe pháp môn này, chẳng có duyên phận tu học pháp môn này, hàng Bồ Tát ấy bị thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề quá nhiều.

 

(Sớ) Tiền vân A Bệ Bạt Trí, chánh thử bất thoái Bồ Đề nghĩa dã, nhi sanh tiền, sanh hậu, ý sảo sai biệt.

(Sao) A Bệ Bạt Trí, vân Bất Thoái giả.

()前云:阿鞞跋致,正此不退菩提義也,而生前生後,意稍差別。

()阿鞞跋致,云不退者。

(Sớ: A Bệ Bạt Trí được nói trong phần trước chính là ý nghĩa “bất thoái Bồ Đề” được nói ở đây, nhưng đối với chuyện trước và sau khi được vãng sanh, ý nghĩa sai biệt đôi chút.

Sao: A Bệ Bạt Trí có nghĩa là Bất Thoái).

A Bệ Bạt Trí (Avaivartika) là tiếng Phạn, có nghĩa là Bất Thoái Chuyển.

 

(Sao) Chánh ngôn ư Vô Thượng Bồ Đề bất thoái chuyển nhĩ.()正言於無上菩提不退轉耳。

(Sao: Chính là nói chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề).

Đây chẳng phải là Bất Thoái bình phàm, mà là chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề, chuyện này hết sức khó có! Nói đại khái, chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề là nói từ bậc Bát Địa Bồ Tát trở lên. Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác được gọi là Đại Bồ Tát. Lũ phàm phu chúng ta, ngay cả một phẩm Kiến Tư phiền não cũng chẳng đoạn, nghiễm nhiên cũng chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề, đúng là hy hữu.

 

(Sao) Nhiên tiền vân.

()然前云。

(Sao: Nhưng trong phần trước đã nói).

Trong kinh văn thuộc phần trước đã nói, tức là lời đức Phật dạy trong kinh.

 

(Sao) Sanh bỉ quốc giả, giai đắc Bất Thoái.

()生彼國者,皆得不退。

(Sao: Người sanh về cõi ấy đều đắc Bất Thoái).

Phàm là sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ai nấy đều chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề. Trong chú sớ của tổ sư, có nhiều chỗ chúng ta thấy nói “viên chứng tam Bất Thoái”, [tức là] chứng đắc viên mãn ba món Bất Thoái, địa vị ấy cao lắm. Thông thường, nếu chúng ta nói tới hàng Bồ Tát đã chứng ba thứ Bất Thoái, ba thứ Bất Thoái là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái, thì Sơ Địa của Biệt Giáo, hoặc Sơ Trụ của Viên Giáo đã chứng đắc. Tuy chứng đắc, chẳng viên mãn. Đẳng Giác Bồ Tát, đối với bốn mươi mốt phẩm vô minh, đã phá bốn mươi phẩm, hãy còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, khi ấy mới có thể nói là viên chứng ba món Bất Thoái. Đẳng Giác Bồ Tát vượt trỗi Thập Địa, đã tu mãn ba A-tăng-kỳ kiếp; người niệm Phật vãng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn thuộc địa vị này. Tổ sư nói viên chứng ba món Bất Thoái, trong kinh chẳng nói; viên chứng ba Bất Thoái là căn cứ vào đâu để nói? Chính là căn cứ trên câu kinh văn này, “ư Vô Thượng Bồ Đề bất thoái” (chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề). Chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề chính là Đẳng Giác Bồ Tát. Phàm là người vãng sanh thế giới Tây Phương, dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cũng là vĩnh viễn chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề, đúng là thật sự hy hữu! Xác thực là có khá nhiều vị Bồ Tát chưa từng nghe nói tới, nghe điều chưa được nghe.

 

(Sao) Thử ngôn văn kinh, văn Phật, giai đắc Bất Thoái, tắc bất đãi vãng sanh bỉ quốc, nhi vị sanh dĩ tiền, tức dĩ thành tựu Bồ Đề thiện căn, bất khả phá hoại, huống phục sanh bỉ, nhi hữu thoái chuyển.

()此言聞經聞佛,皆得不退,則不待往生彼國,而未生以前,即已成就菩提善根,不可破壞,況復生彼,而有退轉。

(Sao: Ở đây nói là nghe kinh, nghe [danh hiệu] Phật, đều được Bất Thoái, nên chẳng đợi đến khi vãng sanh cõi ấy, mà là trước khi vãng sanh, đã thành tựu thiện căn Bồ Đề, chẳng thể phá hoại, há còn có chuyện đã sanh về cõi kia mà bị thoái chuyển ư?)

Trong phần trước là [nói đến tình huống] sau khi đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Tuy là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, đều có thành tựu chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Nay ở đây là nói: “Kẻ nghe kinh này, thọ trì”, tức là kẻ chưa vãng sanh, chính là chúng ta trong hiện tại! Nay chúng ta nghe kinh này, tin tưởng tiếp nhận, hiện tại chưa vãng sanh. Tuy chưa vãng sanh, chúng ta đã đạt được lợi ích to cỡ nào? Cũng đạt được lợi ích giống y hệt [như sau khi vãng sanh], “tắc bất đãi vãng sanh bỉ quốc” (chẳng đợi vãng sanh về cõi kia). “Vị sanh dĩ tiền” (Trước lúc chưa vãng sanh) là nói tới chúng ta trong hiện thời, “tức dĩ thành tựu Bồ Đề thiện căn, bất khả phá hoại” (tức là đã thành tựu thiện căn Bồ Đề chẳng thể phá hoại). Thiện căn Bồ Đề được thành tựu như thế nào? Chư vị phải biết: Tín thành tựu, chúng ta đã tin tưởng, thật sự tin tưởng, chẳng có mảy may hoài nghi nào. Giải thành tựu: Đối với những điều kinh đã nói, chúng ta nghe hiểu, nghe đã thông hiểu rồi, chẳng có hoài nghi. Từ nay trở đi, nhất tâm niệm Phật, Hạnh bèn thành tựu. Ba thứ Tín, Giải, Hạnh là thiện căn Bồ Đề, chúng ta tu tập [ba điều ấy] đơn giản, dễ dàng, chứ cách tu thiện căn Bồ Đề của hàng Bồ Tát rất rắc rối! Đọc bao nhiêu là kinh luận, tu học khá nhiều pháp môn, vẫn chưa chắc đã có thể kiến lập thiện căn Bồ Đề thanh tịnh, kiên cố! Chúng ta tốn chút ít công sức mà thành tựu dễ dàng, chẳng thể phá hoại. Nay đã thành tựu thiện căn Bồ Đề; trong tương lai vãng sanh thế giới Cực Lạc, lẽ nào bị thoái chuyển?

Nay mà đã chẳng thoái chuyển, huống hồ trong tương lai? Nếu chúng ta nghe kinh, thọ trì, vẫn bị các pháp môn khác lay động, gặp kẻ tham Thiền khuyên quý vị tĩnh tọa, quý vị cảm thấy hay quá, muốn học theo. Thân thể chẳng khỏe lắm, gặp kẻ học Khí Công, bèn luyện Khí Công để cho thân thể cường tráng, lại bị động tâm, học theo ngoại đạo mất rồi! Như vậy là quý vị chẳng có thiện căn Bồ Đề. Thật sự có thiện căn Bồ Đề bất thoái, tất cả hết thảy các pháp môn bày ra trước mặt, quyết định chẳng động tâm, giống như Thiện Đạo đại sư đã khai thị trong phần chú giải chương Thượng Phẩm Thượng Sanh của kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Thật sự chẳng lay chuyển, tín tâm thật sự kiên định, thiện căn Bồ Đề bèn thành tựu.

 

(Sao) Phục hữu nhị nghĩa: Nhất giả, kiến sanh Bất Thoái, như thượng sở minh.

()復有二義:一者,見生不退,如上所明。

(Sao: Lại có hai nghĩa: Một là Bất Thoái ngay trong đời hiện tại như vừa nói trên đây).

Thời cổ, chữ Kiến (見) được sử dụng lẫn lộn với chữ Hiện (現). “Kiến sanh Bất Thoái” nghĩa là chúng ta đã bất thoái ngay trong đời hiện tại. “Như thượng sở minh” (Như trên đã nói), giống như đã nói trong phần trên, chúng ta chẳng hoài nghi, đã hiểu rõ ràng.

 

(Sao) Nhị giả, túng kỳ thiểu thọ đa chướng, bất khắc vãng sanh.

()二者,縱其少壽多障,不克往生。

(Sao: Hai là dẫu là kẻ thọ ít, chướng nhiều, chẳng thể vãng sanh).

Điều này cũng là sự thật, cũng là đặt ra một vấn đề hết sức nghiêm túc trước mặt chúng ta. Nếu người ấy thọ mạng rất ngắn, nghiệp chướng rất nặng, tuy nghe kinh, thọ trì, chẳng thể chuyển nổi nghiệp lực, chẳng thể vãng sanh. Người ấy sẽ chết mà chẳng thể vãng sanh, làm như thế nào đây?

 

(Sao) Nhi thừa thử tự chấp trì lực, Phật hộ niệm lực, tất ư lai sanh Bồ Đề thiện căn diệc bất táng thất, tất cánh đắc sanh bỉ Phật quốc độ.

()而乘此自執持力,佛護念力,必於來生菩提善根亦不喪失,畢竟得生彼佛國土。

(Sao: Nương theo sức chấp trì của chính mình và sức hộ niệm của Phật, ắt thiện căn Bồ Đề trong đời sau cũng chẳng bị chôn vùi, rốt cuộc được sanh về cõi nước Phật ấy).

Điều này nói rõ chủng tử Niệm Phật là chủng tử Kim Cang, vĩnh viễn bất hoại. Trong một đời này, quý vị nghe kinh thọ trì, dẫu vì nghiệp chướng sâu nặng, chẳng thể vãng sanh, đời sau còn có cơ hội, Phật vẫn sẽ gia trì quý vị. Đời sau chẳng thành thì đời sau nữa hãy còn có cơ duyên. Đời đời kiếp kiếp trong quá khứ chúng ta đều niệm A Di Đà Phật, chẳng thể vãng sanh, đời này lại gặp gỡ. Vì sao gặp gỡ? Trong đời quá khứ, chính mình niệm Phật có thiện căn, hiện thời lại được chư Phật gia trì, hộ niệm, chúng ta có cơ duyên nghe, nghe rất hoan hỷ, [nguyên nhân là do] thiện căn trong đời quá khứ hiện tiền. Chuyện là như vậy đó! Hy vọng thành tựu trong đời này, ngàn muôn phần đừng lại qua quýt, lại lầm lỡ, lại phải đợi đến đời sau, quý vị lại hứng chịu khổ sở suốt một đời. Người hiện thời khổ hơn người trước kia quá nhiều. Đừng nói là rất xa, tôi nghĩ các đồng tu từ sáu mươi tuổi trở lên đều có thể cảm nhận: Thuở chúng ta còn là những đứa trẻ mười mấy tuổi vui sướng ngần ấy; nay những đứa trẻ mười mấy tuổi chẳng vậy, chúng nó chẳng hưởng thụ [niềm vui ấy]. Hiện thời vật chất phát triển, con người chẳng sung sướng! Thế hệ của chúng tôi, thuở trẻ đúng là ngây thơ, hồn nhiên, thật sự là tuổi thơ hết sức sung sướng. Trẻ nhỏ hiện thời còn bé tí tẹo, đã đeo cặp sách nặng trĩu, tôi thấy khổ quá! Cuộc sống như vậy quyết định chẳng thể sống lần nữa! Chớ nên làm [như vậy] nữa, hãy nhanh chóng đến thế giới Cực Lạc thì mới có thể tránh khỏi. Con người khổ quá! Đó là thật sự giác ngộ!

Nói thật ra, thọ mạng có thể kéo dài, nghiệp chướng có thể chuyển biến, vấn đề là quý vị tin tưởng hay không? Quý vị có chịu làm hay không? Nếu quý vị thật sự tin tưởng, thật sự chịu làm, sẽ chuyển rất mau! Chuyển từ chỗ nào? Chuyển từ nơi tâm, thân bị tâm lý chi phối, “hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Niệm nếu thanh tịnh, thân bèn thanh tịnh, thân thể khỏe mạnh, thọ mạng tự nhiên kéo dài. Do vậy, thọ mạng chẳng phải là định mạng, mà là do chính mình thao túng, cũng là do ý niệm của chính mình điều khiển. Điều này đã được đức Phật nhắc đến trong nhiều bộ kinh điển: Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng. Thọ mạng, tướng mạo, và tình trạng sức khỏe nơi thân thể chúng ta đều sanh từ tâm tưởng, hết sức có lý! Nếu chư vị hơi lưu ý, sẽ thấy người niệm Phật tu hành, [chỉ nói đến] người thật sự phát tâm niệm Phật tu hành, sau mấy tháng, quý vị nhìn lại họ, tướng mạo nhất định biến đổi. Nếu sau mấy tháng, sau đôi ba năm, thấy họ dáng vẻ vẫn y như cũ, bèn biết là công phu niệm Phật của người ấy chẳng tiến triển chút nào, chẳng tăng trưởng tí nào, niệm uổng công mất rồi!

Quý vị xem Liễu Phàm Tứ Huấn, tiên sinh Liễu Phàm tu điều thiện thế gian, tích lũy công đức, kéo dài tuổi thọ. Thọ mạng của ông ta vốn chỉ là năm mươi ba tuổi, [thế mà] ông sống đến bảy mươi mấy tuổi mới mất. Trong Phật pháp có phương pháp còn thù thắng hơn phương pháp của tiên sinh Liễu Phàm: Kinh này được hết thảy chư Phật hộ niệm, [người tu tập pháp môn này] đều bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Pháp môn của tiên sinh Liễu Phàm làm sao có thể sánh bằng được! Vấn đề là quý vị có chịu thật sự tu hay không? Nếu quý vị thật sự chịu tu, vận mạng của quý vị sẽ hoàn toàn biến đổi. Vì sao? Trước khi nghe kinh, thọ trì, thân chúng ta do nghiệp lực biến hiện, do nghiệp báo mà có, là thân nghiệp báo, chẳng có cách nào, thọ mạng là nhất định. Sang, hèn, hanh thông, cùng quẫn trong cả một đời đều đã được định sẵn trong mạng. Đó gọi là “nhất sanh giai thị mạng, bán điểm bất do nhân” (suốt đời đều do mạng, chẳng nửa điểm do người). Nhưng nay chúng ta chiếu theo pháp môn này để tu học, chỉ cần quý vị phát tâm chân thật, tâm chân thật thì ngay lập tức nghiệp lực chuyển thành nguyện lực, nguyện lực làm chủ, nghiệp lực chẳng khởi tác dụng. Vì sao? Nguyện lực vượt trỗi nghiệp lực, nguyện lực to hơn nghiệp lực. Thừa nguyện tái lai, ắt chẳng cần đợi đến Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi mới quay trở lại nơi đây. Nay ta vừa chuyển biến ý niệm, nguyện lực của ta lớn hơn nghiệp lực, tức là ngồi ngay ở nơi đây, trong thời gian mấy phút bèn thừa nguyện tái lai, ngay lập tức chuyển biến. Thọ mạng trong thế gian sẽ chẳng thể đoán định được. Do nguyện lực trụ thế, ta thích ở thêm bao nhiêu năm, bèn ở thêm bấy nhiêu năm, thích ra đi lúc nào, bèn ra đi lúc ấy, sanh tử tự tại. Chuyện này cũng là thật, chẳng giả. Trong kinh, đức Phật đã nói rành mạch, rõ ràng, quý vị phải tin tưởng, tin tưởng sẽ có phước!

Đây là nói rõ: “Thọ ít, chướng nhiều” có thể chuyển. Chẳng chuyển được thì chủng tử Kim Cang cũng vĩnh viễn chẳng tiêu mất, đời sau hoặc là đời sau nữa, “đời sau” là kể từ đời thứ ba trở đi, gặp nhân duyên sẽ còn có thể tiếp tục nỗ lực, nhất định là sẽ có thành tựu. “Tất cánh đắc sanh bỉ Phật quốc độ” (Rốt ráo được sanh về cõi Phật ấy); chúng ta hiểu đạo lý này, hiểu sự thật này, giúp Phật tiếp dẫn chúng sanh, chính mình tu “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, nguyện ấy sẽ chẳng khó thực hiện. Chúng ta lúc nào, chỗ nào, tay cũng cầm tràng hạt, miệng niệm A Di Đà Phật, người ở bên cạnh nghe thấy, họ sẽ đắc độ. Tuy trong đời này, họ “thọ ít, chướng nhiều, chẳng thể vãng sanh”, sau nhiều đời nhiều kiếp, duyên ấy chín muồi, [làm như vậy sẽ] hữu ý hay vô tình độ được rất nhiều người. Chúng ta in hình A Di Đà Phật, in danh hiệu A Di Đà Phật trên những tấm băng dính (sticker), dán một tờ băng dính ấy trên cửa nhà, khiến cho người qua đường trông thấy “A Di Đà Phật”, toàn bộ đều đắc độ, có ý nghĩa này. Vì thế, trong quá khứ, tôi đã từng khuyên mọi người, lại còn khuyên những đồng tu làm nghề buôn bán, đối với quảng cáo lưu hành bên ngoài, tức là đối với quảng cáo đăng tải trên báo chí, tạp chí, hoặc quảng cáo đăng trên TV, đều thêm vào một câu A Di Đà Phật, chẳng cần tốn nhiều tiền, [thế mà] chẳng biết là đã độ bao nhiêu chúng sanh! Do vậy, phải có trí huệ, phải biết thực hiện như thế nào. Dưới đây là một tỷ dụ.

 

(Sao) Như tích nhân vị kim sanh ký hạ thử đẳng Bát Nhã chủng tử, túng vị minh liễu,  tài xuất đầu lai,  quản thủ ư Bát Nhã trung hiện thành thọ dụng, chánh thử vị dã.

()如昔人謂今生既下此等般若種子,縱未明了,纔出頭來管取於般若中現成受用,正此謂也。

(Sao: Cổ nhân nói: “Đời nay đã gieo các chủng tử Bát Nhã như vậy, dẫu chưa hiểu rõ, [đời sau] vừa mới ló đầu ra, Bát Nhã sẽ hiện thành, tùy ý thọ dụng”, chính là nói về ý này).

Điều này giống như hạt giống. Chủng tử A Di Đà Phật đã gieo xuống, nhà Phật nói [gieo chủng tử] trong “bát thức điền”, tức là trong A Lại Da Thức, chúng ta nói là “lưu lại ấn tượng”. Nhìn thấy tượng A Di Đà Phật, thấy danh hiệu A Di Đà Phật, hoặc nghe danh hiệu A Di Đà Phật, ấn tượng ấy vĩnh viễn ghim trong lòng, in vào A Lại Da Thức, quyết định chẳng bị hư hoại. Nói chung, sẽ có ngày [chủng tử ấy] dấy lên hiện hành. Vì chủng tử ấy, người đó sẽ niệm Phật, gặp gỡ pháp môn này, người ấy cũng sẽ nghe kinh, thọ trì, quyết định được vãng sanh. Trong kinh Bát Nhã cũng nói lên ý nghĩa này.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh thường giác, thị bất thoái Bồ Đề nghĩa.

(Sao) Linh linh độc chiếu.

()稱理,則自性常覺,是不退菩提義。

()靈靈獨照。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh thường giác là ý nghĩa bất thoái Bồ Đề.

Sao: Linh thông riêng chiếu).

Có cùng ý nghĩa với “linh quang độc chiếu” trong phần trước.

 

(Sao) Liễu liễu thường tri.

()了了常知。

(Sao: Thường biết rành rành).

“Liễu” là hiểu rõ, “thường” là vĩnh viễn chẳng gián đoạn. Mắt thấy rành mạch, tai nghe rõ ràng; đó là tự tánh khởi tác dụng.

 

(Sao) Bất giảm, bất tăng.

()不減不增。

(Sao: Chẳng giảm, chẳng tăng).

Sáu căn của chúng ta linh minh giác tri, nơi phàm chẳng giảm, tại thánh cũng không tăng, phàm thánh bình đẳng.

 

(Sao) Vô đắc, vô thất.

()無得無失。

(Sao: Chẳng được, chẳng mất).

Thành Phật, người ấy cũng chẳng đắc. Vốn có, người ấy đạt được gì? Nơi phàm, thậm chí trong ác đạo, cũng chẳng bị mất đi. Bất quá là mê, vận dụng [cái tâm] sai lầm!

 

(Sao) Bồ Đề tức ngã, ngã tức Bồ Đề.

()菩提即我,我即菩提。

(Sao: Bồ Đề chính là ta, ta chính là Bồ Đề).

 Đấy là chân ngã của ta, chẳng phải là ý niệm chấp trước “cái thân này là ta” như trong quan niệm hiện thời. Chấp trước “thân này là ta” chính là kiến giải sai lầm. Trong [việc trừ diệt] Kiến Tư phiền não, điều thứ nhất là phá Thân Kiến. Thông thường, sai lầm lớn nhất của phàm phu là coi thân thể là ta. Thân thể chẳng phải là ta, rốt cuộc là gì? Y phục của ta. Có ai coi y phục là ta? Nói chung, rất hiếm có! Quần áo là cái ta sở hữu, thân này là cái ta sở hữu, giống như quần áo. Thân là cái ta sở hữu, chẳng phải là ta. Coi thứ ta sở hữu chính là ta, sẽ giống như coi quần áo là ta. Thấy sai mất rồi; do vậy, đức Phật nói [cách nhìn ấy] là mê hoặc, điên đảo.

Thân chẳng phải là ta! Ta bất sanh, bất diệt, thân có sanh, có diệt. Giống như quần áo, quần áo cũ rồi, quý vị đổi lấy một bộ mới; y phục đã bị bẩn bèn cởi ra giặt giũ, đó là hiện tượng rất bình thường. Vì thế, thân là cái sở hữu của ta, chẳng phải là ta. “Bồ Đề là ta”, đấy là thật, ta là Bồ Đề, Bồ Đề là Chân Như bản tánh. Chân Như bản tánh mới là ta, ta là Chân Như bản tánh. Chân Như bản tánh “linh linh độc chiếu” bèn gọi là Bồ Đề, Bồ Đề là Bổn Giác của ta. Đối với vạn sự vạn vật, ta giác chứ không mê. Từ giác, bèn gọi nó là Bồ Đề; từ Thể, bèn gọi nó là tự tánh. Bồ Đề là tác dụng của tự tánh; tác dụng ấy vốn có, chẳng phải là từ bên ngoài.

 

(Sao) Thượng vô hữu tấn, vân hà hữu thoái?

()尚無有進,云何有退。

(Sao: Còn chẳng có tiến, làm sao có lùi cho được?)

 Có tiến bèn có lùi, có lùi ắt có tiến. Tiến và lùi là hai bên. Trong tự tánh, chẳng có tiến, lùi, chẳng có tăng, giảm, chẳng có được, mất. Phàm là hai bên, tìm khắp trong tự tánh đều chẳng thấy! Bởi lẽ, tự tánh là viên mãn, tự tánh là viên dung, tự tánh là chân thật chẳng thể nghĩ bàn. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 271

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm sáu mươi lăm:

 

(Kinh) Thị cố Xá Lợi Phất, nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết.

(Sớ) Giai đương tín thọ, thị vi đệ tam trùng khuyến.

()是故舍利弗。汝等皆當信受我語。及諸佛所說。

()皆當信受,是為第三重勸。

(Kinh: Do vậy, này Xá Lợi Phất! Các ông hãy đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật đã nói.

Sớ: “Đều nên tin nhận” là khuyên lần thứ ba).

Trong hội này, đức Phật khuyên chúng ta tin tưởng lời đức Phật đã nói. Đây là lần thứ ba, trong phần sau sẽ còn có một lần nữa. Bốn lần khuyên lơn, khích lệ, thật sự tỏ rõ lòng đại từ đại bi của đức Phật, thật sự rát miệng buốt lòng [khuyên nhủ]. Chúng ta là đệ tử Phật, phải giống như Thiện Đạo đại sư đã dạy bảo trong [phần chú giải] chương Thượng Phẩm Thượng Sanh [của Quán Kinh]: Quyết định phải tin tưởng lời đức Phật dạy. Ngoài đức Phật ra, đối với những vị thiện tri thức được xã hội thế gian công nhận, hoặc là bậc A La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát đã tu hành chứng quả, cho đến bậc Địa Thượng Bồ Tát, thậm chí Đẳng Giác Bồ Tát vì chúng ta thuyết pháp, nếu những gì các Ngài đã nói chẳng giống [những điều được dạy trong] ba kinh Tịnh Độ, chúng ta đều có thể chẳng cần tiếp nhận, đều có thể chẳng cần tin tưởng. Nhất định phải tin lời đức Phật thì chúng ta mới thật sự đắc độ trong một đời này.

Nếu chẳng tin lời Phật dạy, cứ tin lời chỉ dạy chẳng tương ứng của các vị từ hàng Bồ Tát trở xuống, quý vị sẽ gặp ma. Cớ sao nói là “gặp ma”? Ma chướng ngại quý vị chẳng thể vãng sanh trong một đời này, ma hy vọng quý vị đời đời kiếp kiếp đều phải luân hồi trong lục đạo. Đấy là ma đến gây chướng ngại, thử thách quý vị. Chúng ta ắt phải hiểu rõ chuyện này, quyết định phải tin tưởng lời đức Phật dạy. Ở đây, đức Thế Tôn nói hết sức hay, phải tin tưởng “ngã ngữ”, [tức là tin vào] lời dạy của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. “Cập chư Phật sở thuyết” (Và lời nói của chư Phật), tức là sáu phương Phật khác miệng cùng tiếng tán thán lời dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật, nhằm chứng minh cho Thích Ca Mâu Ni Phật: Những điều Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói hoàn toàn là chân tướng sự thật.

 

(Sớ) Hữu phán thử xứ tức thuộc Lưu Thông, kim nhưng thuộc Chánh Tông, dĩ thừa thượng văn, chánh miễn tín thọ, linh vãng sanh cố. Tiền văn nhị giai khuyến nguyện, kim phục khuyến tín.

()有判此處即屬流通,今仍屬正宗,以承上文,正勉信受,令往生故。前文二皆勸願,今復勸信。

(Sớ: Có người phán định chỗ này thuộc về phần Lưu Thông, nay tôi phán định [phần kinh văn này] vẫn thuộc về phần Chánh Tông, do nó tiếp nối phần kinh văn trước đó, chính là để khuyên lơn [người nghe] hãy tin nhận hòng được vãng sanh. Hai lần khuyên trong những phần kinh văn trước nhằm khuyên nguyện, nay [trong phần kinh văn này] lại khuyên tin).

Hai lần trước nhằm khuyên lơn chúng ta “ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ” (hãy nên phát nguyện, sanh vào cõi nước ấy). Ở chỗ này là khuyến tín, tức là lần thứ ba: “Giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết” (Đều nên tin nhận lời ta và lời chư Phật đã nói). Nói thật ra, thật sự có thể tin thì phước báo và trí huệ đúng là vô lượng vô biên, chẳng có cách nào có thể xưng nói, kinh văn đã chép rõ điều này!

Từ xưa tới nay, các đại đức bên Giáo Hạ phán định kinh điển, đối với cách chia đoạn trong bộ kinh này, mỗi vị phân đoạn khác nhau. Có vị cổ đức phán định phần này thuộc về phần Lưu Thông của kinh A Di Đà, Liên Trì đại sư vẫn y như cũ, coi đoạn kinh văn này thuộc về phần Chánh Tông, Ngài có cách phán định khác với cổ nhân. Sau thời Liên Trì đại sư, trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư phán định phần sáu phương Phật thuộc vào phần Lưu Thông, cách phán định cũng khác Liên Trì đại sư. Thậm chí cách phán định của Ngài cũng chẳng giống cách phân đoạn của các vị đại đức từ xưa tới nay; nhưng Ngẫu Ích đại sư cũng giải thích rất thỏa đáng, chúng ta nghe xong cũng [cảm thấy] rất hợp tình, hợp lý. Cách phán định như thế nào, [tùy thuộc] “người nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí”. Điều quan trọng là chúng ta phải nương theo kinh văn, còn đối với cách phân khoa, phán giáo và những chỉ dạy của tổ sư đều dùng để tham khảo, [đừng chấp trước vào những thuyết đó]. Trong Tứ Y Pháp, [đức Phật] dạy chúng ta: “Y pháp, bất y nhân”. Kinh là “pháp” do đức Phật nói, là chỗ nương cậy duy nhất cho chúng ta. Những lời giải thích của các vị từ bậc Đẳng Giác Bồ Tát trở xuống đều là “nhân”, hễ tương ứng với những điều đã dạy trong kinh thì chúng ta chọn lấy; chẳng tương ứng, chúng ta chẳng chọn. Đó là nguyên tắc tu học do Thiện Đạo đại sư đã dạy chúng ta.

 

(Sao) Đệ tam khuyến giả, thượng ngôn “văn thị thuyết giả”, chỉ thị trì danh đắc sanh, vị ủy thoái dữ bất thoái.

()第三勸者,上言聞是說者,止是持名得生,未委退與不退。

(Sao: “Khuyên lần thứ ba”: Trong phần trên có nói “nghe nói như vậy”, chính là nói đến người trì danh bèn được vãng sanh, nhưng chưa rõ thoái chuyển và bất thoái [là như thế nào]).

Khi khuyên lần thứ nhất trong phần trước, chỉ là nói rõ: Chiếu theo phương pháp này để tu học, hoặc từ một ngày cho đến bảy ngày trì danh, nhất tâm bất loạn, quyết định được sanh về Tịnh Độ, chẳng nói cặn kẽ về bất thoái chuyển.

 

(Sao) Kim ngôn bất đản đắc sanh, tất ư Vô Thượng Bồ Đề vĩnh bất thoái chuyển.

()今言不但得生,必於無上菩提永不退轉。

(Sao: Nay nói “không chỉ được vãng sanh, mà ắt còn được vĩnh viễn chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề”).

 Trong phần trên đã nói: “Người nghe kinh này, thọ trì, đều được hết thảy chư Phật hộ niệm, được bất thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam Miệu  Tam  Bồ  Đề”.  Đấy là nói rõ:  Không chỉ được vãng sanh, mà còn bất thoái chuyển.

 

(Sao) Như thị tắc nguyện đương ích thiết.

()如是則願當益切。

(Sao: Như thế thì tâm nguyện sẽ càng thêm thiết tha).

Nếu chúng ta hiểu rõ những chân tướng sự thật này, tâm hướng về, tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ nhất định càng thêm tha thiết, do biết [cõi Cực Lạc] quá tốt đẹp!

 

(Sao) Cố vân tam khuyến.

()故云三勸。

(Sao: Do vậy, nói lời khuyên lần thứ ba).

Đến chỗ này là khuyên chúng ta lần thứ ba: Nhất định phải tin tưởng, nhất định phải phát nguyện, nhất định phải cầu sanh [Tịnh Độ].

 

(Sao) Vị thuộc Lưu Thông giả.

()未屬流通者。

(Sao: Chưa thuộc phần Lưu Thông).

Liên Trì đại sư giải thích cách phán định của Ngài, [tức là] đối với phương pháp phân đoạn, vì sao Ngài chia như vậy? Ngài nói phần này không thuộc về Lưu Thông.

 

(Sao) Dĩ tín nguyện vãng sanh, thị nhất kinh yếu lãnh, hạ văn trùng trùng khuyến tín, khuyến nguyện, phán thuộc ChánhTông.

()以信願往生,是一經要領,下文重重勸信勸願,判屬正宗。

(Sao: Vì tín nguyện vãng sanh chính là cương lãnh trọng yếu của kinh này, do phần kinh văn tiếp theo lại [nêu rõ] nhiều phen khuyến tín, khuyến nguyện, cho nên phán định phần này thuộc về Chánh Tông).

Đây là cương lãnh trọng yếu nhất của kinh này: “Chuyên tín, chuyên nguyện, cầu sanh Tịnh Độ”. Thuở ấy, đức Phật giảng ba kinh Tịnh Độ theo thứ tự:

1) Thoạt ban sơ, giảng kinh Vô Lượng Thọ, [với dụng ý] giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới hết sức hoàn chỉnh. Có thể nói kinh Vô Lượng Thọ là khái luận của Tịnh Tông. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc, sự tu nhân chứng quả của A Di Đà Phật, cùng với sự kiến lập đạo tràng rộng độ chúng sanh, đều được nói rất rõ rệt.

2) Thứ hai là giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, dạy chúng ta ba chuyện, nói thật ra là để bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ. Ba chuyện ấy là:

  1. a) Thứ nhất là lý luận “tâm này là Phật, tâm này làm Phật”. Nêu ra đạo lý này, nhằm bổ sung những điều chưa nói trong Đại Kinh.
  2. b) Thứ hai là phương pháp. Đã giới thiệu Tây Phương Cực Lạc, nhưng đến đó bằng cách nào? Dạy chúng ta phương pháp Niệm Phật, gồm có Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, Trì Danh Niệm Phật, và Thật Tướng Niệm Phật, nêu ra phương pháp. Mười sáu phép Quán là mười sáu loại phương pháp.
  3. c) Thứ ba là nói rõ chi tiết nhân quả của chín phẩm. Nói thật ra, phần “tam bối vãng sanh” (ba bậc vãng sanh) trong kinh Vô Lượng Thọ chẳng dài, [chỉ là] nói khái lược. Quán Kinh chia ba bậc thành chín phẩm, giảng giải nhân quả cặn kẽ. Đó là tánh chất của Quán Kinh.

3) Cuối cùng, đức Phật giảng kinh Di Đà. Giảng kinh này với dụng ý khuyến tín, khuyến nguyện, khuyên chúng ta nhất tâm niệm Phật. Vì thế, bộ kinh này từ đầu đến cuối là khuyến tín, khuyến nguyện, khuyến hạnh. Tín, Nguyện, Hạnh là ba đại cương lãnh trọng yếu của kinh này.

Có thể thấy ba kinh đều thuộc cùng một loại. Ở đây, đại sư phán định đoạn kinh văn này vẫn thuộc về phần Chánh Tông.

 

(Sao) Ư nghĩa vi đáng.

()於義為當。

(Sao: Xét theo nghĩa lý sẽ thỏa đáng).

 Ý nghĩa này tương đối thỏa đáng.

 

(Sao)Nhữ đẳng giả, chánh chỉ Thân Tử, dĩ cập hiện tiền đại chúng, kiêm vị lai nhất thiết chư chúng sanh đẳng.

()汝等者 ,正指身子,以及現前大眾 ,兼未來一切諸眾生等。

(Sao: “Nhữ đẳng” chính là nói tới ngài Thân Tử (Xá Lợi Phất) và hiện tiền đại chúng, kèm thêm hết thảy các loại chúng sanh trong đời mai sau).

Thuở ấy, đức Phật giảng kinh, trong pháp hội, tôn giả Xá Lợi Phất là bậc đương cơ. Trong kinh này, đức Phật luôn gọi tên ngài Xá Lợi Phất để nói. Hễ kêu tên thì những lời tiếp đó đều hết sức trọng yếu, gọi tên nhằm khiến cho người đó (người được gọi) chú ý. “Nhữ đẳng” (Các ngươi) nói thật ra cũng bao gồm hiện tiền đại chúng. Chúng ta là những người đọc kinh văn này đều được bao gồm trong hai chữ “nhữ đẳng”. Do vậy có thể biết: Kinh này đối với bản thân chúng ta thân thiết như thế nào, đức Phật chẳng coi chúng ta là người ngoài! “Nhữ đẳng” là gộp cả chúng ta vào đó. Nói cách khác, [kinh này] nhằm nói với chính chúng ta. “Kiêm vị lai nhất thiết chư chúng sanh đẳng” (Kiêm hết thảy chúng sanh trong tương lai), mỗi người chúng ta đều được bao gồm trong đó.

 

(Sao) Lương dĩ nhất Phật thân tuyên.

()良以一佛親宣。

(Sao: Ấy là vì do một đức Phật đích thân nói).

“Nhất Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật, một vị Phật tự mình vì chúng ta tuyên giảng.

 

(Sao) Tức đương đế tín.

()即當諦信。

(Sao: Hãy nên tin sâu).

Lời Phật là chân thật ngữ. Kinh Kim Cang có nói: Như Lai là “chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả” (là bậc nói chân thật, nói sự thật, nói đúng với bản chất sự vật), “như ngữ” là hoàn toàn phù hợp chân tướng sự thật, chẳng tăng thêm tí nào, mà cũng chẳng giảm bớt tí nào, nói hoàn toàn đúng như chân tướng sự thật. “Bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả” (Chẳng nói dối trá, chẳng nói khác lạ). Làm sao đức Phật có thể gạt người ta cho được? Vì thế, chúng ta hãy nên tin tưởng.

 

(Sao) Chư Phật đồng tán, cánh phục hà nghi.

()諸佛同讚,更復何疑。

(Sao: Chư Phật cùng khen ngợi, còn nghi ngờ chi nữa).

 Không chỉ là một vị Phật nói; ở đây, chúng ta thấy là sáu phương. Sáu phương chính là mười phương, mười phương hết thảy chư Phật đều vì Thích Ca Mâu Ni Phật chứng minh, đều tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật nói hay lắm, nói chẳng sai, há còn hoài nghi ư? Quyết định là chẳng hoài nghi! Chẳng hoài nghi, lòng tin ấy mới gọi là chân tín. Sau khi đã thật sự tin tưởng, phải phát nguyện, quyết định phát nguyện cầu vãng sanh. Đặc biệt là trong thời đại hiện tại, đúng là thế gian đại loạn chưa từng thấy trong lịch sử trước nay, kinh gọi là “ngũ trược ác thế”, đúng là trược ác đến tột bậc! “Trược” (濁) là tâm chẳng thanh tịnh, tâm địa bị ô nhiễm. “Ác” (惡) là khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đều bất thiện. Trong Phật pháp nói: Thân tạo giết, trộm, dâm, miệng nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt, nói lời thô ác, ý tham, sân, si. Chúng sanh hiện thời tạo tác mười ác nghiệp. Nay chúng ta thấy trược và ác rất rõ ràng, thấy rất rõ rệt, mỗi năm [trược ác] càng tăng trưởng nhiều hơn! Đấy chẳng phải là một hiện tượng tốt đẹp! Khi chúng tăng trưởng đến một mức độ nhất định, đại tai nạn sẽ bùng nổ. Người học Phật đầu óc phải tỉnh táo hơn kẻ bình phàm, biết mối quan hệ nhân quả, đối với ác nhân và ác quả, ít nhiều cũng có tánh cảnh giác. Chúng ta đối diện hiện thực như thế nào? Nói cách khác, chúng ta sống như thế nào? Chúng ta sống cuộc đời ra sao? Nếu chẳng có đại trí huệ và đại phước đức, rất khó may mắn tránh khỏi cộng nghiệp!

Đại trí và đại phước cầu từ nơi đâu? Cách tu như thế nào? Ai nấy đều mong cầu, mà chẳng cầu được! Thực tại là bày ra ngay trước mặt quý vị, nhưng quý vị chẳng nhận biết giá trị, chẳng nhận thức. Trong phần kinh văn ở phía trước, chẳng phải là đức Thế Tôn đã bảo chúng ta rồi đó sao? “Văn thị kinh, thọ trì giả, giai vi nhất thiết chư Phật sở hộ niệm” (Người nghe kinh này, thọ trì, đều được hết thảy chư Phật hộ niệm), trong cộng nghiệp mà có thể chẳng bị mắc nạn, quý vị có đại phước báo. “Giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Đều được chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác), quý vị có đại trí huệ. Vì thế, người trọn đủ Tín, Nguyện, Hạnh là người có đại phước báo và đại trí huệ thì mới có thể vượt qua ngũ trược ác thế. Do vậy, kinh điển này, pháp môn này, thật sự là chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao  [kinh này được]  hết thảy chư Phật hộ niệm? Vì sao phải tán thán là có lý, chẳng phải là nói tùy tiện!

 

(Sao) Tín, Hạnh, Nguyện tam, bất khả nhất khuyết.

()信行願三,不可一缺。

(Sao: Ba điều Tín, Hạnh, Nguyện, chẳng thể thiếu một điều nào).

 Thiếu một điều cũng đều chẳng thể; phải thật sự tin, phải thật sự phát nguyện, phải thật sự niệm Phật. Đã hiểu rõ đạo lý, đã hiểu rõ chân tướng sự thật, chân tín (lòng tin chân thật) sẽ chẳng có vấn đề. Đối với nguyện, ắt cần phải nhận thức rõ ràng hoàn cảnh trước mắt, thật sự hiểu rõ sự khó khăn trong việc tu hành các pháp môn khác và sự thù thắng trong thế giới Tây Phương, để có thể chắc chắn vãng sanh trong đời này. [Nếu những điều ấy] đều hiểu rõ ràng, nguyện của quý vị sẽ tự nhiên sanh khởi. Sau khi đã có nguyện, nhất định phải chiếu theo phương pháp để tu học. Phương pháp để đến Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là niệm Phật. Điều quan trọng nhất trong niệm Phật là trong tâm có Phật, chẳng phải là có Phật ngoài cửa miệng. Ngoài cửa miệng có Phật, trong tâm chẳng có Phật, sẽ là như xưa kia hai vị đại sĩ Hàn Sơn và Thập Đắc đã cười nhạo kẻ niệm Phật “gào toạc cổ họng cũng uổng công”. Vì sao? Miệng có, tâm không. Chữ “niệm” (念) là “kim tâm” (今心), cái tâm hiện tại, trong tâm thật sự có! Đó gọi là niệm Phật, hết sức quan trọng. Trong tâm thật sự có, không chỉ là ban ngày quý vị “niệm tại đâu, nghĩ tại đó”, mà đêm ngủ cũng nằm mộng thấy cảnh giới của Phật. Tục ngữ thường nói: “Ngày suy nghĩ gì, đêm nằm mộng thấy”. Những điều này đều có thể chứng minh công phu niệm Phật của chúng ta. Trong mộng có thể làm chủ thì trong tương lai, khi mắc bệnh, có thể làm chủ trong khi đau bệnh, điều này rất quan trọng. Nhất định là phải giữ A Di Đà Phật, giữ y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới trong tâm. Tôi thường khuyên các đồng tu phải đọc kinh, phải nghe giảng. Trong tâm chúng ta không chỉ lưu giữ hình tướng A Di Đà Phật. Lưu giữ hình tướng của A Di Đà Phật trong tâm thì vẫn chưa được, đó là chấp tướng, chẳng khác gì trì danh. Phải ghim “tâm, nguyện, giải, hạnh” của A Di Đà Phật trong lòng. Đó là thật sự niệm Phật.

A Di Đà Phật giữ tấm lòng gì? Cũng có nghĩa [học nhân Tịnh Độ phải biết] A Di Đà Phật dùng tâm như thế nào để xử sự, đãi người, tiếp vật, chúng ta phải học theo Ngài. Kinh nói rất minh bạch: A Di Đà Phật dùng chân tâm, chẳng phải là vọng tâm. Ngài dùng cái tâm thanh tịnh, dùng tâm bình đẳng, dùng tâm đại từ bi; có phải là chúng ta dùng những tâm ấy để xử sự, đãi người, tiếp vật hay không? Chúng ta thật sự có thể dùng những tâm ấy để xử sự, đãi người, tiếp vật, thưa cùng chư vị, quý vị thật sự niệm Phật, tâm quý vị giống như tâm Phật. A Di Đà Phật có nguyện vọng gì? Bốn mươi tám nguyện trong kinh, nguyện nào trong bốn mươi tám nguyện ấy cũng đều nhằm phổ độ chúng sanh. Chúng ta niệm bốn mươi tám nguyện rất nhuần nhuyễn, biến bốn mươi tám nguyện thành đại nguyện của chính mình, nguyện của ta và nguyện của A Di Đà Phật cũng như nhau. Đó là thật sự niệm Phật. A Di Đà Phật tu hành như thế nào? A Di Đà chứng quả như thế nào? Tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới như thế nào? Thời thời khắc khắc, chúng ta ghim những chuyện ấy trong tâm, tịnh niệm tiếp nối; đó là thật sự niệm Phật. Chiếu theo khuôn mẫu của A Di Đà Phật để đắp nặn chính mình, khiến cho chính mình giống A Di Đà Phật như đúc. Chư vị ngẫm xem, há có thể nào chẳng vãng sanh ư? Chắc chắn là vãng sanh! Miệng thường niệm câu Phật hiệu, sẽ có hai tác dụng:

1) Tác dụng thứ nhất là khiến cho chánh niệm của chính mình được dấy lên, tức là nhắc nhở chính mình chớ nên quên bẵng tâm, nguyện, giải, hạnh, và vô lượng công đức của A Di Đà Phật.

2) Ý nghĩa thứ hai là tiếp dẫn chúng sanh. Chúng ta niệm cho người khác nghe, một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo.

Vì thế, niệm Phật ra tiếng là tự lợi, lợi tha. Lúc chẳng có ai, cũng nên niệm Phật ra tiếng. Có các loại chúng sanh mắt ta không trông thấy, còn có quỷ thần ở bên cạnh [chúng ta], họ cũng nghe thấy. Chúng ta niệm Phật hiệu, họ cũng được lợi ích. Câu Phật hiệu có công đức chân thật chẳng thể nghĩ bàn! Dùng phương pháp này để tự lợi, lợi tha. Vì thế, đối với ba điều Tín, Nguyện, Hạnh, chẳng thể thiếu một điều nào. Thiếu một điều sẽ chẳng thể vãng sanh.

 

(Sao) Cố tiền văn khuyến nguyện, kim phục khuyến tín. Phục khuyến giả, tiền lục phương trung dĩ khuyến đương tín thị kinh.

()故前文勸願,今復勸信。復勸者,前六方中已勸當信是經。

(Sao: Vì thế, trong phần trước đã khuyên nguyện, nay lại khuyên tín. [Nói] “lại khuyên” vì trong phần sáu phương trước đó, đã khuyên “hãy nên tin tưởng kinh này”).

Đấy là chư Phật khuyên.

 

(Sao) Kim phục minh ngôn đương tín ngã ngữ.

()今復明言當信我語。

(Sao: Nay [đức Phật] lại nói rõ “hãy nên tin lời ta”).

Đức Phật thật sự chẳng phụ chúng sanh. Chúng sanh phạm lỗi đối với Phật, cô phụ lời Phật giáo huấn. Ở đây, đức Phật lại bảo rõ ràng, khuyên chúng ta hãy tin tưởng lời Ngài, hãy tin vào những điều Ngài đã nói.

 

(Sao) Lương dĩ bất nguyện, diêu ư bất tín.

()良以不願,繇於不信。

(Sao: Vì chẳng nguyện là do chẳng tin).

Cái nguyện vãng sanh của chúng ta chẳng thiết tha, chẳng chân thật, nguyên nhân là ở chỗ nào? Chúng ta chẳng có lòng tin thật sự. Vì sao chẳng có lòng tin thật sự? Chẳng thật sự hiểu rõ, chẳng thật sự hiểu minh bạch chuyện này. Thật sự hiểu rõ, thật sự hiểu minh bạch, lẽ đâu chẳng tin tưởng?

 

(Sao) Bất tín, tắc khởi hạnh vô diêu. Cố Phật ư thử kinh, trùng trùng khuyến tín.

()不信,則起行無繇。故佛於此經,重重勸信。

(Sao: Chẳng tin thì sẽ không do đâu mà khởi hạnh được. Vì thế, trong kinh này đức Phật đã nhiều lượt khuyên tin).

“Khởi hạnh” là niệm Phật. Tuy miệng niệm Phật, nhưng sự niệm Phật ấy giống như bèo trôi chẳng có rễ.

 

(Sao) Như Đại Bổn ngôn: “Bất tín Phật ngữ giả, nãi ác đạo trung lai, dư ương vị tận, ngu si bất tín, vị đương giải thoát”.

()如大本言:不信佛語者,乃惡道中來,餘殃未盡,愚痴不信,未當解脫。

(Sao: Như kinh Đại Bổn nói: “Kẻ chẳng tin lời Phật chính là từ ác đạo sanh tới, những ương họa còn sót lại chưa hết sạch, [vì thế] ngu si, chẳng tin, chưa được giải thoát”).

Kinh Vô Lượng Thọ có một đoạn kinh văn như thế. Đức Phật dạy rõ: Nghe kinh này, kẻ đó vẫn chẳng tin tưởng, chính là vì nghiệp chướng rất nặng, đời trước là do từ ác đạo sanh tới. Đời trước ở trong ác đạo chính là sự thật. Hiện thời, bên ngoại quốc, người ta dùng phương pháp khoa học để chứng minh. Hiện nay, người ngoại quốc tin có lục đạo luân hồi, vì từ các chứng minh khoa học, họ đã phát hiện: Rất nhiều người đời trước ở trong súc sanh đạo. Tỷ lệ người từ nhân đạo sanh trở lại nhân gian hoàn toàn chẳng nhiều, còn tỷ lệ sanh từ súc sanh đạo [vào loài người] rất nhiều. Còn như đối với ngạ quỷ, địa ngục, khoa học vẫn chẳng có cách nào phát hiện. “Dư ương vị tận” (Họa ương còn sót lại, chưa hết sạch). Vì thế, kẻ ấy “ngu si”, gặp gỡ pháp môn này mà chẳng thể tin tưởng, chẳng thể giải thoát, duyên thành Phật trong đời này của kẻ ấy chưa chín muồi! “Vị đương giải thoát” (Chưa được giải thoát): Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là thành Phật, là giải thoát.

 

(Sao) Hựu Pháp Tạng nguyện vân: “Chí tâm tín nhạo, dục sanh ngã sát, thập niệm tất sanh, duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”.

()又法藏願云:至心信樂,欲生我剎,十念必生,惟除五逆誹謗正法。

(Sao: Lại nữa, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Chí tâm tin ưa, muốn sanh về cõi ta, mười niệm ắt được sanh, chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”).

Điều này được nói trong phần bốn mươi tám nguyện của kinh Vô Lượng Thọ. “Chí tâm” (至心) là chân tâm, “tín nhạo” (信樂) là tin tưởng, ưa thích; đấy là Tín thành tựu. “Dục sanh ngã sát” (Muốn sanh về cõi ta), là Nguyện thành tựu. “Thập niệm” là Hạnh thành tựu. Đó là nguyện thứ mười tám “mười niệm ắt được vãng sanh”. “Duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp” (Chỉ trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp): Kinh Vô Lượng Thọ nói “Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp”, còn trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đức Phật bảo: “Ngũ Nghịch mà chẳng hủy báng chánh pháp” vẫn có thể vãng sanh. Do vậy có thể biết: Ở đây là Ngũ Nghịch, lại còn hủy báng chánh pháp, loại người ấy chẳng thể vãng sanh. Nếu phạm tội Ngũ Nghịch mà chẳng hủy báng chánh pháp, gặp gỡ pháp môn này, khi lâm chung, người ấy có thể tin, có thể nguyện, do mười niệm cũng có thể được vãng sanh. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, chương Hạ Phẩm Hạ Sanh nói tới kẻ tạo nghiệp Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung gặp thiện tri thức, dạy người ấy niệm Phật vãng sanh, người ấy vừa nghe liền tiếp nhận. Vì thế, một niệm hay mười niệm đều có thể vãng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là hạ hạ phẩm vãng sanh, thuộc hạng người này. Tôi đã từng nói với các đồng tu: Nếu chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuyệt đối chẳng phải là hạ hạ phẩm; [bởi lẽ], chúng ta chẳng tạo tội nghiệp nặng nề dường ấy.

 

(Sao) Báng chánh pháp giả, bất tín chi vị dã.

()謗正法者,不信之謂也。

(Sao: “Báng chánh pháp” là nói tới kẻ chẳng tin).

Đối với chuyện báng pháp, nếu người ấy tin tưởng, sẽ chẳng báng pháp. Báng pháp là vì chẳng tin. Ở đây, tôi hy vọng các đồng tu sẽ chú ý: Quyết định chớ nên sơ sót, ơ hờ đọc lướt qua câu này! Ý nghĩa hết sức sâu rộng đấy nhé! Nay chúng ta tu Tịnh Độ, thấy người ta tham Thiền, trì chú, chúng ta phê bình, hủy báng họ, có được hay không? Chẳng được! Đều thuộc về báng pháp! Vô lượng pháp môn đều do đức Phật nói. Nếu quý vị coi rẻ, hủy báng, tức là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng, đều tạo thành chướng ngại cho sự vãng sanh của chính mình. Chúng ta phải biết dùng thái độ gì đối với những người thuộc các pháp môn bất đồng? Phải học theo Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần; trong năm mươi ba vị thiện tri thức, có hai vị nêu gương niệm Phật. Vị trước nhất là vị thiện tri thức đầu tiên, tức tỳ-kheo Đức Vân, vị cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát; bốn mươi chín vị [thiện tri thức] giữa hai vị này đại diện cho vô lượng vô biên pháp môn. Thái độ của Thiện Tài đồng tử đối với những vị đại đức thuộc các pháp môn khác là cung kính, tán thán. Đó là đúng. Tán Phật, tán Pháp, tán Tăng, quyết định chẳng hủy báng. Tuy lễ kính, tán thán, Thiện Tài đồng tử chẳng học theo họ, “luyến đức lễ từ”, “luyến” (戀) là hâm mộ sự tu học của quý vị, tôi hết sức cung kính quý vị. “Từ” (辭) là gì? Tôi chẳng học theo quý vị. Các vị học pháp ấy hết sức tốt đẹp, tôi vẫn thật thà niệm Phật, chẳng học pháp môn của quý vị, mà vẫn y như cũ, thâm nhập một môn.

Từ năm mươi ba lần tham học, chúng ta thấy mỗi vị thiện tri thức đều là thâm nhập một môn. Tuy pháp môn khác nhau, thành tựu đều như nhau, tán thán lẫn nhau, chẳng hủy báng nhau. Chư vị đồng tu ngàn muôn phần phải ghi nhớ điều này! Nghe người khác hủy báng chúng ta, chúng ta chắp tay “A Di Đà Phật”, chẳng cần biện bác. Thái độ ấy là đúng. Quý vị biện bác chẳng giải quyết được gì; càng biện bác, họ càng hủy báng nhiều hơn. Họ hủy báng một câu, [quý vị niệm] A Di Đà Phật một câu. Báng bổ hai câu, [bèn niệm] hai câu A Di Đà Phật. Họ nói mười câu, tám câu, nói mệt rồi sẽ chẳng nói nữa! Họ hủy báng, chúng ta lễ tán. Chúng ta chắp tay là Lễ, xưng niệm A Di Đà Phật là Tán. Đó là đúng. Vì thế, câu này có ý nghĩa hết sức sâu, chúng ta chớ nên phạm phải lỗi lầm [biện bác] ấy!

 

(Sao) Hựu Văn Thù Bát Nhã kinh, như tiền sở dẫn, mạt diệc vân: “Duy trừ bất tín”. Hựu Hoa Nghiêm vị: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu”.

()又文殊般若經,如前所引,末亦云:惟除不信。又華嚴謂信為道元功德母。

(Sao: Kinh Văn Thù Bát Nhã, như đã dẫn trong phần trước, cuối cùng cũng nói: “Chỉ trừ chẳng tin”. Kinh Hoa Nghiêm lại nói: “Tín là nguồn đạo, mẹ công đức”).

Những điều này đều nhằm nói rõ: Tín hết sức quan trọng. Kinh Hoa Nghiêm nói: Tín là cội nguồn của đạo, “nguyên” (元) là nguồn gốc, căn bản. Tín là căn bản để nhập đạo. “Mẹ công đức”, “mẹ” là tỷ dụ “có thể sanh”. Mẹ có thể sanh ra con cái. Tín giống như mẹ, có thể sanh ra hết thảy công đức.

 

(Sao) Nhi phục lũy ngôn bất trí, khởi đồ nhiên tai?

()而復累言不置,豈徒然哉。

(Sao: Mà còn nói nhiều lần chẳng thôi, há có phải là chuyện phí công ư?)

“Lũy ngôn” là nhắc đi nhắc lại, khuyên đi khuyên lại. “Khởi đồ nhiên tai?” (Há có phải là chuyện phí công ư?): Chẳng phải là không có đạo lý, mà là có nỗi khổ tâm rất sâu trong ấy. Do đó, Phật, Bồ Tát chẳng ngại phiền, hết lần này tới lần khác khuyên chúng ta phải tin tưởng. Thánh hiền thế gian và xuất thế gian, nhất là bậc đại thánh xuất thế thông đạt, hiểu rõ chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, đã vì chúng ta tuyên nói, chúng ta phải nên tin tưởng chuyện này. Vì sao các Ngài thông đạt, hiểu rõ? Tâm các Ngài thanh tịnh. Tâm thanh tịnh chiếu kiến, tâm giống như một tấm gương, chiếu rành mạch, rõ ràng cảnh giới bên ngoài. Tâm chúng ta trược ác, đó là ô nhiễm, tác dụng Chiếu hoàn toàn bị mất sạch, chẳng có tác dụng giác chiếu. Tâm ô nhiễm khởi tác dụng là tà tri tà kiến, suy tưởng loạn xạ. Suy tưởng loạn xạ, thân và miệng bèn tạo tác xằng bậy, tội nghiệp nặng nề, quả báo khổ sở. Vì sao chúng ta phải tin tưởng giáo huấn và ngôn luận của các bậc thánh hiền? Đạo lý là do chỗ này. Người hiện thời chẳng tin tưởng cổ thánh tiên hiền, mà cũng chẳng tin tưởng người khác, luôn tin vào tà tri tà kiến của chính mình, làm sao được nữa! Mảy may khiêm hư cũng chẳng có! Trong sáu mươi bốn quẻ của kinh Dịch, phần nói về quẻ Khiêm[70] có câu: “Khiêm thọ ích” [nghĩa là] người khiêm hư có thể nhận được vô lượng, vô biên lợi ích. “Mãn chiêu tổn”: Lòng người hiện thời tự mãn, chẳng khiêm hư, thiện ngôn, [vì thế, đối với] thiện hạnh chẳng tiến nhập được. Đó là nguyên nhân căn bản khiến cho thiên hạ đại loạn, [do tự mãn, thiếu khiêm hư, cho nên] nhất quyết chẳng thể tiếp nhận thiện ngôn, chẳng thể tiếp nhận giáo huấn của thánh hiền.

 

(Sao) Thanh Lương đại sư vân: “Cao Tề Đại Hạnh hòa thượng tông sùng niệm Phật, dĩ tứ tự giáo chiếu, vị: “Tín ức nhị tự, bất ly ư tâm. Xưng kính nhị tự, bất ly ư khẩu”. Vãng sanh Tịnh Độ, yếu tu hữu tín, thiên tín tức thiên sanh, vạn tín tức vạn sanh.

()清涼大師云:高齊大行和尚,宗崇念佛,以四字教詔,謂信憶二字,不離於心;稱敬二字,不離於口。往生淨土,要須有信,千信即千生,萬信即萬生。

(Sao: Thanh Lương đại sư nói: “Đời Cao Tề, hòa thượng Đại Hạnh ngưỡng mộ, sùng bái niệm Phật, dùng bốn chữ để dạy răn. Ngài nói: ‘Hai chữ Tin, Nhớ chẳng lìa khỏi tâm, hai chữ Xưng, Kính chẳng lìa nơi miệng’. Vãng sanh Tịnh Độ cần phải có tín. Ngàn người tin, ngàn người vãng sanh; vạn người tin, vạn người vãng sanh).

Thanh Lương đại sư là tổ sư đời thứ tư của tông Hoa Nghiêm, Hoa

Nghiêm Kinh Sớ Sao do Ngài trước tác. Thời đại Nam Bắc Triều, hoàng đế nước Tề họ Cao, nên [Sử gọi triều đại] này là Cao Tề[71]. Hòa thượng Đại Hạnh chuyên tu pháp môn Niệm Phật. Ngài niệm Phật có “tứ tự quyết”, tức là dùng bốn chữ ấy để dạy người niệm Phật. Bốn chữ ấy là “tín, ức, xưng, kính”. Tín Ức: Đặt chữ Tín lên đầu, Ức (憶) là như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói “ức Phật, niệm Phật”, Ức (nhớ) là trong tâm thật sự có. Thường tưởng Phật, tưởng Phật phát tâm: Thoạt đầu, Phật phát tâm như thế nào? Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn đã giới thiệu đức Phật tu hành, phát nguyện, giúp đỡ hết thảy chúng sanh “tốc tật” viên thành Phật đạo ra sao. “Tốc tật” (速疾) là nhanh chóng, chẳng cần tới ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thời gian quá dài! “Viên” (圓) là viên mãn, chẳng cần [lần lượt chứng đắc] năm mươi mốt giai cấp, [lần lượt chứng đắc như vậy] chậm chạp quá, vất vả quá! [Nhanh chóng viên thành Phật đạo] toàn là do vô lượng công đức của A Di Đà Phật [gia trì]. Chúng ta thường nghĩ tới những điều ấy, đừng nên suy nghĩ loạn xạ. Suy nghĩ loạn xạ, chẳng nghĩ tới Phật, thưa cùng chư vị, những gì quý vị suy tưởng đều là tạo nghiệp luân hồi. Hằng ngày tạo nghiệp luân hồi chẳng ngừng, quý vị còn có thể thoát khỏi luân hồi hay chăng? Chắc chắn là chẳng thoát khỏi! Nay chúng ta chuyển ý niệm, chuyên tưởng A Di Đà Phật, tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Cực Lạc, tưởng vô lượng công đức của họ (những người sống trong cõi Cực Lạc), đó gọi là “tu Tịnh nghiệp”. Tâm thanh tịnh giống như “tâm, nguyện, giải, hạnh” của Phật. Thường nghĩ tưởng, tự nhiên sẽ tương ứng, tự nhiên giống nhau. “Tín Ức nhị tự, bất ly ư tâm” (Hai chữ Tin và Nhớ, chẳng lìa nơi tâm): Trong tâm thật sự tin, thường nhớ Phật. “Xưng Kính nhị tự, bất ly ư khẩu” (Hai chữ Xưng Kính, chẳng lìa nơi miệng). “Xưng” (稱) là xưng danh, tức là miệng niệm Phật, miệng chẳng lìa A Di Đà Phật. “Kính” (敬) giải thích như thế nào? Có phải là suốt ngày từ sáng đến tối lạy A Di Đà Phật hay không? Chẳng phải vậy! A Di Đà Phật cũng chẳng cần quý vị lạy lục. “Kính” là trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đãi người, tiếp vật, bèn nghiêm túc nhận trách nhiệm. Đó là Kính. Kính người, kính sự, kính nghiệp, [nghĩa là] chúng ta theo đuổi bất cứ nghề nghiệp nào, bèn thực hiện tốt đẹp [phận sự chức trách của chính mình]. Đó là “kính nghiệp”. “Kính vật” là yêu thương hết thảy muôn vật. Phật kính hết thảy chúng sanh, chúng ta làm như vậy bèn gọi là “kính Phật”. Chẳng phải là trông thấy tượng Phật bèn rất cung kính, trông thấy cha mẹ bèn chẳng quan tâm, vênh mặt lên, đó chẳng phải là người học Phật. Phải dùng tấm lòng kính Phật để đối đãi hết thảy mọi người, đối đãi hết thảy mọi sự, hết thảy mọi vật. Đó là đúng. Đó là “lễ kính chư Phật” trong hạnh nguyện Phổ Hiền; chúng ta tu hành là tu từ chỗ này. Khi chưa học Phật, chúng ta chẳng biết Kính là gì. Sau khi đã học Phật, chúng ta mới bừng tỉnh giác ngộ: Chúng ta vốn chẳng có kính ý đối với người, đối với sự, đối với vật, đại bất kính! Từ nay trở đi, chúng ta học theo Phật: “Hai chữ Xưng Kính chẳng lìa nơi miệng”, “miệng” ở đây bao gồm thân.

“Vãng sanh Tịnh Độ, yếu tu hữu Tín” (Vãng sanh Tịnh Độ cần phải có Tín): Cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Tín là điều kiện bậc nhất. Chẳng có Tín, chắc chắn sẽ chẳng thể vãng sanh! Chân tín, Tín đương nhiên là có Nguyện, đương nhiên là có Hạnh. Do vậy, một ngàn người tin, “tin” ở đây là trọn đủ Tín, Nguyện, Hạnh, một ngàn người ấy đều có thể vãng sanh, chẳng sót một ai. Một vạn người có thể tin, một vạn người ấy đều vãng sanh. Cổ nhân thường nói: “Vạn người tu, vạn người đến”, một người cũng chẳng sót! Nay như chúng ta thấy, một vạn người niệm Phật, thật sự có thể vãng sanh cũng chẳng quá đôi ba người, chẳng như cổ nhân nói “vạn người tu, vạn người đến”; có phải là cổ nhân nói sai hay không? Cổ nhân nói chẳng sai! Người hiện thời niệm Phật nói đến Tín thì Tín ở ngoài miệng, trong tâm chẳng tin tưởng! Đó là giả tín, chẳng phải là chân tín. Do đó, chẳng thể vãng sanh. Người thật sự tin há còn lưu luyến thế giới này ư? Còn tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng ư? Hễ còn mảy may lưu luyến thế giới này, hễ có mảy may vướng mắc, đều là bất tín.

Người thật sự tin tưởng, đúng là thân, tâm, thế giới, hết thảy đều buông xuống. Sự buông xuống ấy chẳng phải là buông xuống nơi Sự, nơi Sự chẳng có chướng ngại, Sự Sự vô ngại. Trong tâm buông xuống, tâm địa thanh tịnh, trong tâm chỉ có Phật, chỉ có Tịnh Độ. Ngoài Tịnh Độ ra, trong thế giới Sa Bà này, đích xác là chẳng có chút vướng mắc nào. Chẳng có vướng mắc, mà cũng chẳng có ưu lự, đấy là chân tín. Như vậy thì “ngàn người tin, ngàn người sanh; vạn người tin, vạn người sanh”, có ý nghĩa như vậy đó.

 

(Sao) Tín Phật danh tự, chư Phật tức cứu, chư Phật tức hộ.

()信佛名字,諸佛即救,諸佛即護。

(Sao: Tin vào danh hiệu Phật, chư Phật liền cứu, chư Phật liền hộ trì).

Đại sư nói những lời này đều nhằm nói rõ ý nghĩa tinh yếu, những lời dạy tinh thuần nhất trong kinh. Chỉ cần quý vị tin tưởng một câu “Nam-mô A Di Đà Phật”, sẽ được hết thảy chư Phật hộ niệm, sẽ được hết thảy chư Phật cứu vớt, che chở. Bất luận kiếp nạn như thế nào, quý vị đều có thể tránh khỏi, đều có thể chẳng hứng chịu những tai nạn ấy. Phước báo ấy to cỡ nào? Hiện thời, bao nhiêu người đang cầu điều này, chẳng biết dùng phương pháp gì để cầu. Họ mê hoặc, điên đảo! Phương pháp thù thắng nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất bày ra ngay trước mặt, họ chẳng tin tưởng, chẳng có cách nào hết! [Áp dụng phương pháp ấy], Phật sẽ cứu quý vị. Chẳng phải là một vị Phật, mà là tất cả hết thảy chư Phật đều cứu quý vị, tất cả hết thảy chư Phật đều hộ niệm quý vị.

 

(Sao) Tâm thường ức Phật, khẩu thường xưng Phật, thân thường kính Phật, thỉ danh thâm tín.

()心常憶佛,口常稱佛,身常敬佛,始名深信。

(Sao: Tâm thường nhớ Phật, miệng thường niệm Phật, thân thường kính Phật thì mới gọi là “tin sâu”).

Đây là nêu ra tiêu chuẩn của Tín, nêu ra tướng trạng của Tín. Như thế nào thì mới gọi là “thâm tín”? Trong tâm thật sự có Phật, miệng thường niệm Phật, thân thường kính Phật, tức là chúng ta từ sáng đến tối xử sự, đãi người, tiếp vật, hết thảy cung kính thì mới gọi là “thâm tín”.

 

(Sao) Nhậm ý tảo vãn, chung vô tái trụ Diêm Phù chi pháp.

()任意早晚,終無再住閻浮之法。

(Sao: Tùy ý [vãng sanh] sớm hay trễ, trọn chẳng còn vướng mắc trong các pháp của cõi Diêm Phù Đề).

“Nhậm ý” [ở đây] có nghĩa là tự tại, sanh tử tự tại, vãng sanh tự tại. “Tảo vãn” là gì? Ta mong sớm có ngày đến thế giới Cực Lạc, hoặc ta mong đến đó trễ một chút, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới có thể tùy thuộc ý muốn của chính mình: Muốn đi bèn đi, muốn ở thêm vài năm cũng chẳng trở ngại, quyết định chẳng còn có lẽ nào bị luân hồi! “Tái trụ Diêm Phù chi pháp” (Còn vướng mắc trong các pháp của cõi Diêm Phù Đề) nghĩa là phải luân hồi trong lục đạo. [Người chân tín, chân nguyện, chân hạnh] chẳng luân hồi trong lục đạo, chẳng còn bị luân hồi trong lục đạo nữa, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, sanh tử tự tại. Còn như vãng sanh sớm hay muộn, tuyệt đối chẳng phải là do tham luyến thế giới này. [Nếu nghĩ] “ta vẫn chẳng mong vãng sanh, phải qua mấy năm nữa rồi mới đi”, kẻ ấy chẳng thể vãng sanh được! Nguyên nhân gì khiến cho người ấy (người vãng sanh tự tại) lưu lại? Hãy còn có những kẻ hữu duyên cần chúng ta khuyên dạy, độ họ, chỉ có lý do này. Hóa duyên (duyên giáo hóa) đã hết, bèn ra đi. Lại quan sát, [nhận thấy] chẳng còn có kẻ hữu duyên nào nữa, ta ở nơi đây vô ích, căn tánh của những kẻ đó chẳng chín muồi, ta có khuyên, họ cũng chẳng thể nghe, chẳng thể tiếp nhận, ta hãy nên đến thế giới Cực Lạc. Nếu còn có người mà ta khuyên họ, họ chịu tin tưởng, và cũng chịu nghiêm túc phát nguyện niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ, [vậy thì] ta chưa nên đi, phải giúp đỡ họ. Đạo lý là như thế đó. Chư Phật, Bồ Tát ứng hóa trên thế gian hoàn toàn là do cái duyên hóa độ chúng sanh. Duyên tụ, Phật, Bồ Tát bèn đến. Duyên hết, các Ngài ra đi. Trong ấy, tuyệt đối chẳng có chuyện cảm tình. Hễ có cảm tình thì sẽ phải luân hồi trong lục đạo.

 

(Sao) Thử sách phát tín tâm, tối vi thiết yếu dã.

()此策發信心,最為切要也。

(Sao: Lời dạy này (lời dạy của hòa thượng Đại Hạnh) nhằm sách tấn [hành nhân Tịnh Tông nhận biết] phát khởi tín tâm là điều thiết yếu nhất).

 Đây là Thanh Lương đại sư tán thán phương pháp niệm Phật do hòa thượng Đại Hạnh đã dạy. “Sách” (策) là cảnh sách (警策: cảnh tỉnh, răn nhắc và cổ vũ), khuyên người ta hãy phát tâm. Bốn chữ ấy đơn giản, ngắn gọn, trọng yếu, “tín, ức, xưng, kính”.

 

(Diễn) Lũy ngôn bất trí giả, như: “Tín vô cấu trược, tâm thanh tịnh, Tín năng tất thí tâm vô lận. Tín năng hoan hỷ nhập Phật pháp. Tín năng tăng trưởng trí công đức. Tín năng tất đáo Như Lai địa” đẳng.

()累言不置者,如信無垢濁心清淨,信能悉施心無吝,信能歡喜入佛法,信能增長智功德,信能必到如來地等。

(Diễn: “Nói nhiều lần chẳng thôi”: Như Tín chẳng có cấu trược, tâm sẽ thanh tịnh. Do tín tâm, nên có thể phát tâm bố thí chẳng keo tiếc. Do tín tâm, nên có thể hoan hỷ khế nhập Phật pháp. Do tín tâm, nên có thể tăng trưởng công đức nơi trí huệ. Do tín tâm, nên ắt có thể đạt đến địa vị Như Lai v.v…)

 Điều này trích từ một bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm: “Tín vô cấu trược, tâm thanh tịnh” (Lòng tin chẳng có cấu trược, tâm sẽ thanh tịnh). Câu này có cùng ý nghĩa với câu kinh Kim Cang: “Tín tâm thanh tịnh, ắt sanh Thật Tướng”, cảnh giới tương đồng. Đối với thế giới Tây Phương, đối với A Di Đà Phật, chúng ta nẩy sanh tín tâm chân thật, tâm quý vị bèn thanh tịnh. Vì sao thanh tịnh? Thân, tâm, thế giới, hết thảy đều buông xuống, lẽ đâu chẳng thanh tịnh? [Đương nhiên là] thanh tịnh. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương là Thật Tướng, một câu A Di Đà Phật sáu chữ hồng danh là Thật Tướng.

“Tín năng tất thí tâm vô lận” (Do tín tâm, nên có thể phát tâm bố thí chẳng keo tiếc), câu này nói đến sự buông xuống. Nhất tâm nhất ý đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, [đối với tất cả những thứ] trong cõi này đều có thể buông xuống, đều có thể thí xả, tuyệt đối chẳng còn có mảy may keo kiệt nào, thật sự buông xuống.

“Tín năng hoan hỷ nhập Phật pháp”  (Do tín tâm, nên có thể hoan

hỷ khế nhập Phật pháp): Pháp hỷ sung mãn, do tín tâm thanh tịnh, bèn có thể tiến nhập Phật pháp. Câu này thông thường là nói đến sự chứng quả và chứng nhập trong tu hành. Chứng quả vị như thế nào? Quả vị thấp nhất là Sơ Trụ trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa trong Biệt Giáo. Kinh Kim Cang nói “tín tâm thanh tịnh, tắc sanh Thật Tướng” (tín tâm thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng), “sanh Thật Tướng” là thấy Chân Như bản tánh. Chân Như bản tánh là Thật Tướng, Thiền Tông nói là “minh tâm kiến tánh”. Sơ Trụ Bồ Tát phá một phẩm vô minh, chứng một phần chân tánh, thì gọi là “nhập Phật pháp”. “Nhập” ở đây là chứng nhập, khế nhập, đấy là Pháp Thân đại sĩ. Tu học Đại Thừa rất nhanh! Trong pháp Đại Thừa, cách Trì Danh Niệm Phật của Tịnh Tông là chẳng thể nghĩ bàn nhất. Chỉ cần quý vị chuyên tín, nói thật ra, quý vị nay tuy vẫn chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đây là nói chúng ta trong hiện tại, đối với pháp môn Tịnh Tông và năm kinh Tịnh Độ, thật sự tin sâu, chẳng ngờ vực mảy may, thật sự nguyện, thật sự niệm Phật, thì ngay trong hiện tiền, quý vị có địa vị bằng với Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, bằng với Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo. Hiện tiền đã là bất thoái! Sau khi vãng sanh, sẽ từ cơ sở này, chẳng ngừng tiến lên cao hơn. Tăng bao nhiêu cấp, tùy thuộc mức độ dụng công của quý vị.

“Tín năng tăng trưởng trí công đức” (Do tín tâm, nên có thể tăng trưởng công đức nơi trí huệ), người ấy không ngừng tiến cao hơn.

“Tín năng tất đáo Như Lai địa” (Do tín tâm, ắt có thể đạt đến địa vị Như Lai), địa vị Như Lai là thành Phật viên mãn rốt ráo, đều gồm trong chữ Tín. Chư vị phải hiểu: Hễ còn có vướng mắc, còn có cách nghĩ ấy, còn có điều gì chẳng buông xuống được, đều gọi là “bất tín”.

Tôi hy vọng quý vị chép mấy câu này vào sổ tay để thường đọc, hòng kiểm nghiệm xem tín tâm của chúng ta rốt cuộc là thật hay giả? Chúng ta tin tới mức độ nào? Pháp môn này đúng là mầu nhiệm đến cùng cực!

 

(Sớ) Tín giả, bất nghi chi vị.

()信者,不疑之謂。

(Sớ: Tín có nghĩa là chẳng nghi).

Chẳng có mảy may nghi hoặc, hoàn toàn khẳng định. Đó là Tín.

 

(Sớ) Thọ giả, tín dĩ nhi lãnh nạp bất vong chi vị.

()受者,信已而領納不忘之謂。

(Sớ: “Thọ” là đã tin rồi bèn nhận lãnh chẳng quên).

 “Thọ” (受) có nghĩa là tiếp nhận. Sau khi ta đã tin tưởng, đối với những lý luận do đức Phật đã dạy trong kinh điển, ta đều tiếp nhận, ta nương theo đạo lý ấy để thực hiện. Đối với phương pháp do đức Phật đã dạy, ta hoàn toàn tiếp nhận, tuân theo phương pháp ấy để tu học. Đối với cảnh giới do đức Phật đã giảng, ta hoàn toàn tiếp nhận, ta tu hành, nhất định sẽ dần dần khế nhập cảnh giới ấy. Đó là Thọ. Có lắm kẻ chẳng hiểu ý nghĩa của Thọ, cứ ngỡ mỗi ngày niệm kinh này một lần là Thọ Trì, há có chuyện dễ dàng như vậy! Đó gọi là đọc tụng, thọ trì là chuyện khác hẳn. “Thọ” là thật sự tiếp nhận lý luận, phương pháp, cảnh giới, và các thứ giáo huấn của đức Phật, thảy đều tiếp nhận, nghiêm túc thực hiện thì mới là Thọ. Thực hiện cho đến hết tuổi thọ, quyết định chẳng trái nghịch, đó là Trì. Trì (持) là gìn giữ, là tiếp nối, chẳng gián đoạn giữa chừng, ta vĩnh viễn làm như vậy.

 

(Sớ) Tín nhi bất thọ, do phất tín dã.

()信而不受,猶弗信也。

(Sớ: Tin mà chẳng nhận lấy thì cũng như chẳng tin).

 Nếu như tin, đã tin nhưng chẳng tiếp nhận, vậy thì niềm tin ấy chẳng đạt được lợi ích, vẫn là luống uổng. Vì thế, sau Tín, nhất định phải là Thọ, Thọ rồi nhất định phải Hành, công đức mới là viên mãn, mới là “phước huệ nhị nghiêm” thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, chúng ta lý giải, hiểu rất rõ ràng, minh bạch, biểu hiện ra ngoài đúng là pháp hỷ sung mãn. “Pháp hỷ sung mãn” chính là cuộc sống sung sướng mỹ mãn mà người thế gian hết sức hâm mộ. Cuộc sống thật sự sung sướng mỹ mãn chỉ có người niệm A Di Đà Phật, chuyên tu Tịnh Độ mới có. Thật sự sung sướng, thật sự hạnh phúc, thật sự mỹ mãn!

 

(Sao) Tín nhi bất thọ.

()信而不受。

(Sao: Tín mà chẳng nhận).

Đã tin nhưng chẳng tiếp nhận.

 

(Sao) Thí như hữu nhân, quỹ dĩ dị bảo.

()譬如有人,饋以異寶。

(Sao: Ví như có người được tặng báu vật lạ lùng).

 “Quỹ” (饋,餽) là biếu tặng. Có người tặng quà cho quý vị, đưa tặng bảo vật hết sức quý báu, lạ lùng.

 

(Sao) Tuy tri thị bảo, thâm tín vô nghi.

()雖知是寶,深信無疑。

(Sao: Tuy biết là của báu, tin sâu chẳng nghi).

Biết đó là của báu, kể ra cũng đã nhận biết giá trị.

 

(Sao) Nhiên cự chi bất nạp, tín diệc hà ích?

()然拒之不納,信亦何益。

(Sao: Nhưng cự tuyệt chẳng nhận, tín có ích gì đâu?)

Không tiếp nhận! Sau khi đã tin như vậy, chẳng đạt được lợi ích.

 

(Sao) Cố viết do phất tín dã.

()故曰猶弗信也。

(Sao: Nên nói là “cũng như chẳng tin”).

Vậy thì chẳng khác gì không tin! Vì thế, Tín thì nhất định phải Thọ, Thọ rồi nhất định phải Hành. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 272

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm sáu mươi bảy:

 

(Sớ) Hựu tín tức tâm tịnh, như Duy Thức thuyết.

(Sao) Thành Duy Thức Luận vân: “Tín giả, vị ư thật, đức, năng, thâm nhẫn lạc dục, tâm tịnh vi tánh. Hà ngôn tâm tịnh? Dĩ tâm thắng cố, như thủy thanh châu, năng thanh trược thủy. Hựu chư nhiễm pháp, các tự hữu tướng. Duy hữu bất tín, tự tướng hồn trược, phục năng hồn trược dư tâm, tâm sở, như cực uế vật, tự uế, uế tha. Tín chánh phiên bỉ, cố tịnh vi tướng”. Kim tu Tịnh Độ, chủ hồ tâm tịnh. Tín vi cấp vụ, minh diệc thậm hỹ!

()又信即心淨,如唯識說。

()成唯識論云:信者,謂於實德能,深忍樂欲,心淨為性。何言心淨,以心勝故,如水清珠,能清濁水。又諸染法,各自有相,唯有不信,自相渾濁,復能渾濁餘心心所,如極穢物,自穢穢他。信正翻彼,故淨為相。今修淨土,主乎心淨。信為急務,明亦甚矣。

(Sớ: Tín lại chính là tâm tịnh như Duy Thức đã nói.

Sao: Thành Duy Thức Luận[72] viết: “Tín là nói tới đức, năng, thật, thâm nhẫn, thâm lạc, thâm dục, tâm tịnh là tánh”. Vì sao nói là tâm tịnh? Do tâm thù thắng vậy. Giống như thủy thanh châu có thể lắng trong nước đục. Lại nữa, các pháp ô nhiễm, mỗi pháp đều có tướng riêng. Chỉ có bất tín là tướng của chính nó vẩn đục, lại còn có thể làm vẩn đục các tâm và tâm sở khác, giống như một vật tột cùng ô uế, chính nó đã ô uế, lại còn làm các vật khác bị ô uế lây. Do Tín có thể thay đổi tướng ấy (tướng dơ bẩn vì bất tín) nên lấy tịnh làm tướng”. Nay tu Tịnh Độ thì lấy tâm tịnh làm điều chủ yếu. Tín là việc cấp bách cũng đã rõ rành rành).

Đây là đại sư rát miệng buốt lòng khuyên bảo, chẳng ngại tốn công dẫn kinh trích điển, nhằm bảo rõ cùng chúng ta: “Tín là trọng yếu”. Có rất nhiều đồng tu niệm Phật thường nói: “Tôi niệm Phật rất lâu, tâm vẫn chẳng thanh tịnh, vẫn chẳng thể đạt được hiệu quả”. Nay chúng ta đọc đoạn kinh văn này, hãy nên hiểu rõ câu trả lời. Niệm Phật chẳng đạt được hiệu quả thật sự, vẫn là do tín tâm chẳng đủ. Chúng ta thường nói là “công phu chẳng đủ”, công phu là gì? Tín, Nguyện, Hạnh gọi là công phu. Ba điều này khuyết một thì trên thực tế, hiệu quả sẽ rất khó thành tựu. Nếu có thể trong một thời gian ngắn ngủi mà đạt được hiệu quả thù thắng nhất, chỉ có một phương pháp là y giáo phụng hành. Đối với những phương pháp do đức Phật đã dạy trong kinh, chúng ta phải nghiêm túc thực hiện. Ở đây, đại sư nói rất hay: “Tín tức tâm tịnh”, [nghĩa là] Tín là tâm địa thanh tịnh. “Tín tâm thanh tịnh, tắc sanh Thật Tướng” (Tín tâm thanh tịnh bèn sanh Thật Tướng), đức Phật đã nói điều này trong kinh Kim Cang. Có thể thấy tín tâm xác thực là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Tín là nguồn đạo, mẹ công đức”, lời này là thật. Đại sư trích dẫn một đoạn trong Thành Duy Thức Luận nhằm chỉ rõ câu nói ấy (“Tín tức tâm tịnh”) là có căn cứ, chẳng phải là nói tùy tiện. Thành Duy Thức Luận có nói: “Tín giả, ư thật đức năng” (Tín là đối với thật, đức, năng), thuộc trong ba chuyện ấy, tức là Thật, Đức và Năng. “Thâm nhẫn lạc dục”: Thâm nhẫn, thâm lạc, thâm dục. Hiểu ý nghĩa của sáu chữ “thật, đức, năng, nhẫn, lạc, dục”, sẽ tự nhiên hiểu [ý nghĩa của] đoạn trích từ bộ luận ấy.

 

(Diễn) Ư thật đức năng, thâm nhẫn lạc dục giả, vị: Ư Thật tắc thâm nhẫn, ư Đức tắc thâm lạc, ư Năng tắc thâm dục dã.

()於實德能,深忍樂欲者,謂於實則深忍,於德則深樂,於能則深欲也。

(Diễn: “Đối với thật, đức, năng, thâm nhẫn, thâm lạc, thâm dục”: Ý nói đối với Thật bèn nhẫn sâu xa, đối với Đức bèn vui thích sâu xa, đối với Năng bèn ưa muốn sâu xa).

Chữ Thâm (深) xuyên suốt cả ba chữ [nhẫn, dục, lạc].

 

(Diễn) Bát Thức Quy Củ vân: “Thâm nhẫn giả, ư chư pháp thật sự, thật lý, thâm tín minh khế, nhẫn khả ư tâm, bất vị hư vọng sự lý chi sở chuyển cố.

()八識規矩云:深忍者,於諸法實事實理,深信冥契,忍可於心,不為虛妄事理之所轉故

(Diễn: Bát Thức Quy Củ[73] nói: “Thâm nhẫn là đối với thật sự và thật lý của các pháp, tin sâu, ngầm khế hợp, tâm thừa nhận, khẳng định, chẳng bị xoay chuyển bởi sự lý hư vọng”).

Đây là “thâm nhẫn” được nói trong Bát Thức Quy Củ Tụng. Nay chúng ta nói Nhẫn là “khẳng định”. “Thâm nhẫn” là tin tưởng rất sâu, hoàn toàn khẳng định, đối với điều gì? Đối với hết thảy các pháp, cũng là như nay chúng ta nói “chân tướng của vũ trụ và nhân sinh”, Sự chân thật, Lý chân thật. Vũ trụ và nhân sinh do đức Phật đã dạy trong kinh xác thực là chân tướng, chân lý, chúng ta tin tưởng sâu xa. Tin sâu chẳng phải là mờ mịt, chẳng phải là mê tín, mà cũng chẳng phải là “hễ đức Phật nói, chúng ta đều tin tưởng”. Tin kiểu ấy thuộc loại mê tín. Chúng ta ắt cần phải chứng nhập cảnh giới ấy. Đối với những gì đức Phật đã dạy, chúng ta đích thân chứng minh “đức Phật dạy chẳng sai”, niềm tin ấy mới là Chân Tín. Chúng ta chẳng thấy, nghe đức Phật nói như thế, bèn cũng tin như thế, niềm tin kiểu đó là tin tưởng miễn cưỡng. Đương nhiên, đức Phật chẳng lừa chúng ta, chúng ta tin tưởng lời Phật dạy, đó gọi là Thánh Ngôn Lượng (聖言量). Đức Phật là thánh nhân, chẳng lừa gạt người khác. Tuy chúng ta chẳng hiểu rõ sự lý ấy, chúng ta vẫn có thể tin tưởng lời Phật dạy, lòng tin ấy gọi là Chánh Tín. Chánh Tín là tin tưởng đức hạnh và nhân cách của đức Phật, Ngài chẳng lừa gạt người khác. Sâu hơn một tầng so với lòng tin kiểu ấy là chúng ta hoàn toàn lý giải, đối với các đạo lý thảy đều hiểu rõ, tín tâm bèn sâu xa. Đó là Thâm Tín. Vì sao? Chẳng phải là nghe đức Phật nói chúng ta bèn tùy tiện tin ngay, xác thực là có lý luận để làm căn cứ, hữu lý, chuyện ấy đương nhiên là có khả năng. Sâu hơn một tầng nữa là Chân Tín, [tức là lòng tin của người đã] nhập cảnh giới của Phật. Đối với cảnh giới do đức Phật đã thấy, bản thân chúng ta cũng thấy, lòng tin ấy gọi là Chân Tín. “Thâm tín” được nói ở đây có đủ cả ba tầng ý nghĩa. Chỉ cần chúng ta tin sâu Thánh Ngôn Lượng chẳng nghi, bèn đạt được lợi ích trong hiện tiền. Muốn đạt tới tầng bậc cao hơn, phải cậy vào công phu tu chứng của chính mình.

“Nhẫn khả ư tâm” là trong tâm thừa nhận, khẳng định, chẳng có mảy may hoài nghi. “Bất vị hư vọng sự lý chi sở chuyển” (Chẳng bị xoay chuyển bởi sự lý hư vọng), sự lý hư vọng là gì? Chúng ta dùng một tiêu chuẩn nông cạn nhất để nói: Những gì kẻ khác nói chẳng tương ứng với lời Phật dạy, đó là hư vọng, chẳng phải là chân thật. Do nguyên nhân nào? Chư vị nhất định phải hiểu: Những gì đức Phật đã nói chính là cảnh giới Hiện Lượng, [tức là cảnh giới do chính Ngài] đích thân mắt thấy, tai nghe, những điều ấy làm sao còn có thể sai trật cho được? Tây Phương Cực Lạc thế giới cách cõi này mười vạn ức cõi Phật, nhãn quang của đức Phật sắc bén hơn chúng ta. Đức Phật ngồi ở nơi đây, thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới rành rành. A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp bên đó, Ngài cũng nghe rõ ràng; đó gọi là cảnh giới Hiện Lượng. Ngài chẳng cậy vào tưởng tượng suông, chẳng phải là suy đoán, đó là cảnh giới Hiện Lượng. Người chẳng có năng lực này, tối đa là cảnh giới Tỷ Lượng (cảnh giới do suy luận dựa trên kinh nghiệm trong quá khứ). Trong Tỷ Lượng vẫn có thể phạm sai lầm, chỉ riêng Hiện Lượng là chẳng sai lầm. Do vậy, nhất định phải dùng lời đức Phật dạy làm tiêu chuẩn. Đức Phật là ngũ nhãn viên minh, Ngài đích thân trông thấy chân tướng của vũ trụ và nhân sinh.

Nhưng điều quan trọng hơn là Phật pháp có Đại Thừa và Tiểu Thừa, Phật pháp có nhiều tông phái, pháp do đức Phật đã nói có liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Vì sao đức Phật phải thuyết pháp như vậy? Đối với một kẻ nghiệp chướng nặng nề, phiền não tập khí sâu đậm, đức Phật nói với kẻ ấy chân tướng sự thật, kẻ ấy chẳng thể tiếp nhận, kiên quyết chẳng tiếp nhận. Ví như nói về Tây Phương Cực Lạc thế giới, không chỉ là rất nhiều kẻ bình phàm trong thế gian chẳng tiếp nhận, mà ngay trong các đồng tu học Phật cũng [có rất nhiều người] chẳng thể tiếp nhận, số ấy rất đông! Những người học những tông phái khác chẳng thể tiếp nhận [pháp môn Tịnh Độ]! Nhà Phật nói “lục đạo luân hồi”, hiện thời những phần tử trí thức cao cấp đã tiếp nhận “phép rửa tội” của khoa học sẽ chẳng thể nào đồng ý được. Họ bảo đó là chuyện vô căn cứ, hoang đường, quái đản! Nói với những kẻ đó, sẽ chẳng thể thông suốt được.

Do vậy, đức Phật ứng cơ thuyết pháp. Quý vị chẳng tin luân hồi, Ngài không nói đến chuyện luân hồi, chỉ nói chuyện trước mắt, quý vị có thể thấy, có thể tư duy, tưởng tượng được, bàn với quý vị những chuyện đó. Còn những chuyện quý vị chẳng thấy, chẳng nghĩ được, chắc chắn là Ngài chẳng nói đến. Người có thể tin lời Phật thì đức Phật mới nói lời chân thật với họ. Đó gọi là “cơ duyên chín muồi”, đức Phật bèn nói pháp chân thật với họ. Họ mới có thể thật sự giải quyết vấn đề ngay trong một đời này, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử, luân hồi. Chẳng phải là ai cũng có phước ấy, chẳng phải là ai cũng đều có cơ duyên ấy. “Thâm nhẫn” là đối với những chân tướng sự thật do đức Phật đã dạy, [bèn có thể tiếp nhận, tin tưởng sâu xa]. Tây Phương Cực Lạc thế giới quyết định là sự thật, lục đạo luân hồi cũng là sự thật, tuyệt đối chẳng giả!

 

(Diễn) Thâm lạc giả.

()深樂者。

(Diễn: Vui thích sâu xa).

“Thâm lạc” là hết sức hoan hỷ. Hoan hỷ là gì?

 

(Diễn) Ư Tam Bảo thanh tịnh Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát.

()於三寶清淨法身般若解脫。

(Diễn: Đối với Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát thanh tịnh trong Tam Bảo).

Chúng ta thường nói đến Tam Bảo. Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng, đấy là [cách hiểu theo] quan niệm của mọi người. Đó chỉ là bề ngoài của Tam Bảo, là Tam Bảo hình thức, chẳng có tác dụng to lớn cho lắm. Nếu quý vị biết dùng, sẽ hữu ích cho quý vị. Quý vị chẳng biết dùng, nói thật ra, hoàn toàn chẳng có lợi ích gì cả! Tam Bảo thật sự chính là Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát được nói tới ở đây. Pháp Thân là Phật Bảo, Bát Nhã là Pháp Bảo, Giải Thoát là Tăng Bảo, Tam Bảo thanh tịnh! Tam Bảo ở chỗ nào? Tam Bảo ở trong nhất tâm, chẳng ở bên ngoài, bên ngoài chẳng có! Tam Bảo hình thức là Phật, Pháp, Tăng; khi người học Phật biết ứng dụng, hình thức ấy sẽ thời thời khắc khắc nhắc nhở chúng ta. Chúng ta thấy tượng Phật, bèn nghĩ tới Pháp Thân, thấy kinh bổn bèn nghĩ tới Bát Nhã, thấy người xuất gia, bèn nghĩ tới Giải Thoát. Đó là đúng. Tác dụng lớn nhất của Tam Bảo hình thức là thời thời khắc khắc nhắc nhở, cảnh giác chúng ta: Chớ nên quên mất Tam Bảo. Trong Tam Quy, [Tam Bảo] là Giác, Chánh, Tịnh. Pháp Thân là Giác, tức Bổn Giác; Bát Nhã là Chánh; Giải Thoát là Thanh Tịnh. Đấy là “một mà ba, tuy ba mà một”.

 

(Diễn) Chân tịnh đức trung, thâm tín, hảo nhạo, bất vị vọng nhiễm tà đức chi sở hoặc cố.

()真淨德中,深信好樂,不為妄染邪德之所惑故。

(Diễn: Trong tịnh đức chân thật, tin sâu, ưa thích, chẳng bị mê hoặc bởi tà đức vọng nhiễm).

Ý nghĩa của câu này tuy không quá sâu, vẫn là chẳng dễ lãnh hội. Trong Tam Quy nói “giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ chẳng nhiễm”, chính là ý nghĩa này. Nếu chúng ta hết sức yêu thích Giác, Chánh, Tịnh, đó là đúng, đó chính là đức. Giác, Chánh, Tịnh là đức, Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát gọi là Tam Đức. Tự tánh trọn đủ Tam Đức, chúng ta phải thường giác, phải thường chánh, phải thường thanh tịnh.

 

(Diễn) Thâm dục giả.

()深欲者。

(Diễn: Thâm dục là…)

“Dục” (欲) là hy vọng. Chúng ta mong đợi, hy vọng, mong mỏi sâu đậm nhất.

 

(Diễn) Ư nhất thiết thế xuất thế thiện, thâm tín hữu lực, năng đắc thiện báo, năng thành đạo quả, khởi hy vọng tâm, cầu tất đắc cố.

()於一切世出世善,深信有力,能得善報,能成道果,起希望心,求必得故。

(Diễn: Đối với hết thảy điều thiện thế gian và xuất thế gian, tin sâu xa là chúng có sức mạnh [khiến cho người làm lành] có thể đạt được thiện báo, có thể thành tựu đạo quả, dấy lòng hy vọng ắt sẽ đạt được [những điều mong mỏi ấy]).

 Nhà Phật thường nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng). Lời này là thật, tuyệt đối chẳng phải là dối người, có cầu ắt ứng! Trong Liễu Phàm Tứ Huấn, thiền sư Vân Cốc đã giảng đạo lý này cho tiên sinh Viên Liễu Phàm rất rõ ràng, rất thấu triệt. Nếu quý vị đọc kỹ, suy nghĩ sâu sắc, sẽ có thể hiểu rõ chuyện “hữu cầu tất ứng” (có cầu ắt ứng) trong nhà Phật. Tiên sinh Liễu Phàm chẳng cầu mong nhiều nhõi gì! Tâm lượng của ông ta chẳng lớn, cho nên mong cầu rất hữu hạn. Trong mạng ông ta chẳng có công danh; công danh xưa kia là Cử Nhân hay Tiến Sĩ. Trong mạng ông ta chẳng có [những học vị ấy, thế mà] ông ta cầu công danh bèn đạt được, đã đậu Cử Nhân rồi về sau lại đỗ Tiến Sĩ. Trong mạng ông ta chẳng có con cái, ông ta chiếu theo phương pháp ấy để cầu, sanh được hai đứa con ngoan ngoãn. Ông chẳng cầu sống lâu, mà cũng được trường thọ. [Theo Khổng tiên sinh đoán định], thọ mạng của ông ta là năm mươi ba tuổi, [vậy mà] sống đến bảy mươi mấy tuổi!

Tâm lượng to lớn thì chúng ta mong cầu điều gì? Chúng ta phải cầu thành Phật; phước báo trong nhân gian quá nhỏ, vặt vãnh chẳng đáng kể, nhất định là phải cầu thành Phật viên mãn. Thành Bồ Tát vẫn chưa đủ, giống như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, vẫn chưa đáng để vào mắt! Nhất định là phải cầu thành Phật, mong cầu ấy mới thật sự đạt đến viên mãn rốt ráo. Có thể cầu được hay không? Quyết định là có thể cầu được. Có thể cầu thành Phật được, những thứ khác có thể cầu được hay không? Trong pháp thế gian và xuất thế gian, khó nhất là thành Phật. Vượt thoát lục đạo luân hồi chẳng khó, A La Hán đã làm được. Do vậy, chúng ta phải cầu viên mãn, rốt ráo, nhất định phải cầu viên thành Phật đạo. Cách cầu như thế nào? Nương theo đạo lý và phương pháp do đức Thế Tôn và chư Phật đã dạy trong kinh này; trong một đời này, quý vị chắc chắn có thể đạt được, đấy là chân thật chẳng thể nghĩ bàn. Trong các điều thiện thế gian và xuất thế gian, đấy là điều thiện thứ nhất, đại thiện viên mãn rốt ráo chính là viên thành Phật đạo.

“Thâm tín hữu lực” (Tin sâu có sức mạnh), đối với chính mình phải có tín tâm. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói về sáu thứ Tín. Thứ nhất là tin tưởng chính mình, chính là điều đang được nói ở đây. Thứ nhất là tin tưởng chính mình: Trong một đời này, ta quyết định có thể thành Phật, đó là quả. Vì sao khẳng định và nắm chắc như thế? Trước đó đã có nhân, ta tin tưởng những phương pháp do đức Phật đã giảng ta đều có thể làm được, đó là nhân. Tin tưởng chính mình có thể làm được những phương pháp do đức Phật đã nói, quả báo trong tương lai đương nhiên thành tựu. Nhân và quả nhất định tương ứng. Trong đoạn kinh văn này, đức Phật rát miệng buốt lòng khuyên dạy, khích lệ chúng ta, hòng kiến lập tín tâm sâu đậm nhất: “Năng đắc thiện báo, năng thành đạo quả” (Có thể đạt được thiện báo, có thể thành tựu đạo quả). Chúng ta gặp phải hết thảy tai nạn và chướng ngại trong thế gian và xuất thế gian, tự nhiên đều có thể hóa giải, đều có thể tiêu trừ. Đó gọi là “gặp dữ hóa lành, gặp tai nạn trở thành an tường”, đó là thiện báo. Đạo quả là chứng quả. Chứng quả đầu tiên là vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Phật. Chứng quả lần thứ hai là ở trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, viên mãn Bồ Đề, thành Đẳng Chánh Giác, thành Phật. Phải tin tưởng chính mình nhất định có thể thành tựu đạo quả, tin tưởng chính mình nhất định đạt được thiện báo. Hai thứ ấy đều thuộc về quả. Trước khi có quả, phải tu nhân. Nếu chẳng có nhân hạnh, quả báo ấy là giả, chẳng thật. Nhân nhất định là đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, thật thà niệm Phật, như vậy là được. Đối với thiện báo và đạo quả, quý vị nhất định có hy vọng, “khởi hy vọng tâm, cầu tất đắc cố” (dấy lòng hy vọng, cầu ắt đạt được).

 

(Diễn) Ư trung nhẫn khả thị tín nhân.

()於中忍可是信因。

(Diễn: Nhẫn khả những điều ấy, đó chính là cái nhân của Tín).

Chúng ta tin tưởng những gì đức Phật đã giảng về chân tướng của vũ trụ và nhân sinh.

 

(Diễn) Lạc dục thị tín quả.

()樂欲是信果。

(Diễn: Lạc và dục là quả của Tín).

Thâm lạc và thâm dục là quả của Tín.

 

(Diễn) Tri chi tất háo chi dã.

()知之必好之也。

(Diễn: Đã biết ắt sẽ ham thích).

Nói cách khác, đối với những điều ấy, nếu quý vị vẫn chẳng dấy lòng ưa chuộng, chẳng sanh khởi lòng hy vọng, thì nói cách khác, quý vị chẳng liễu giải chân tướng sự thật. Có những đồng tu niệm Phật được một thời gian, tới nói với tôi họ chẳng thể tiếp tục niệm nữa, đến hỏi tôi phải làm sao? Quý vị hãy nghĩ xem: “Niệm không nổi thì nên làm sao? Vì sao có những người niệm rất ngon lành?” Nói thật ra, niệm năm kinh Tịnh Độ nhuần nhuyễn như thế, lẽ ra phải nên nói ra câu trả lời dễ dàng! Trong kinh, đức Phật đã dạy rất rõ ràng: Niệm Phật đến mức chẳng có chướng ngại, niệm thật sự có cảm ứng, rất có thọ dụng, chính là hai hạng người:

1) Một loại là người tin sâu chẳng nghi ngờ những lời đức Phật đã dạy trong kinh. Đó là người thiện căn và phước đức sâu dầy. Người ấy chẳng có chướng ngại, càng niệm càng hoan hỷ.

2) Một hạng người khác là người hiểu rõ ràng minh bạch những đạo lý do đức Phật đã dạy, biết chọn lựa như thế nào. Trong vô lượng pháp môn, người ấy đều nhận biết rõ ràng, đương nhiên sẽ chọn pháp môn người ấy cần thiết nhất. Giống như trong Quán Kinh, phu nhân Vi Đề Hy gặp nạn, cầu đức Phật giúp đỡ. Bà cảm thấy thất vọng quá lớn đối với thế gian này, hỏi đức Phật: “Có thế giới nào khác là một thế giới thanh tịnh, con có thể lìa khỏi đời ác ngũ trược này để sanh về một cõi Phật thanh tịnh hay không?” Thích Ca Mâu Ni Phật dùng thần lực khiến cho các thế giới của chư Phật trong mười phương đều biến hiện trước mặt bà ta, giống như chúng ta xem TV trông thấy hình ảnh. Sau khi đã xem trọn khắp, bà ta chọn thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật. Do vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng phải do đức Thế Tôn giới thiệu cho phu nhân Vi Đề Hy, mà do phu nhân Vi Đề Hy tự mình chọn lựa.

Hai hạng người ấy niệm Phật tâm bất thoái, càng niệm càng hoan hỷ, niệm được tương ứng. Nếu chẳng phải là hai loại người ấy, sẽ niệm chẳng nổi, sẽ ngã lòng. Đó là hiện tượng tất nhiên. Đối với y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương, người ấy chẳng hiểu cho mấy, còn hoài nghi, vẫn chẳng thể hoàn toàn tin tưởng, cho nên mới ngã lòng. Đã thật sự biết, nhất định sẽ ưa chuộng. Phật pháp xác thực là “tri nan, hành dị”, [nghĩa là] biết rất khó, hành dễ dàng. Đặc biệt là pháp môn Tịnh Độ, đấy là pháp khó tin. “Tin khó, hành dễ”, pháp ấy tu hành xác thực là hết sức dễ dàng, hết sức thuận tiện. Trong xã hội hiện tiền, mọi người chẳng có cách nào thoát ly cuộc sống hiện thực. Tuy thời đại dường như là tiến bộ hằng ngày, khoa học kỹ thuật đổi khác hằng ngày, hằng tháng, cuộc sống của nhân dân dường như ngày càng giàu có hơn, tôi dùng từ ngữ “dường như”, chẳng phải là khẳng định. Vì sao chẳng phải là khẳng định? Nếu so giữa chúng ta và cổ nhân, chúng ta phải trả giá cho cuộc sống hiện thời quá lớn. Nói cách khác, cái được không bù đắp nổi cái mất, chẳng bằng cổ nhân! Cổ nhân tuy chẳng có đèn điện, máy lạnh, ra khỏi cửa chẳng có xe hơi, tâm cổ nhân thanh tịnh, thanh nhàn, tự tại; nay chúng ta là tâm tình gì? Trả một cái giá nặng nề ngần ấy để đổi lấy một chút hưởng thụ vật chất; tính toán kỹ một phen, chẳng bõ công! Thật đấy! Cổ nhân sống cuộc đời của nhân loại, nay chúng ta sống một cuộc đời chẳng ra người, có đôi chút giống như yêu ma, quỷ quái. Đây là nói rõ: Tín tâm chính là mấu chốt quyết định sự thành bại!

Chúng ta lại xem phần Sao. “Tâm tịnh vi tánh” (Tâm tịnh là tánh), “tánh” là Chân Như bản tánh, là chân tâm lý thể của chúng ta. Chân tâm là gì? Bản tánh là gì? Tâm tịnh là tự tánh. Nói cách khác, tâm thanh tịnh là Chân Như bản tánh. Trong kinh luận Đại Thừa, Phật, Bồ Tát coi trọng tâm thanh tịnh như vậy là có đạo lý. Pháp môn Tịnh Tông tu tập từ tâm thanh tịnh. Để viên thành đạo quả trong Phật pháp, chỉ có ba môn là Giác, Chánh, Tịnh. Thiền Tông, Tánh Tông từ Giác Môn mà chứng đạo, trong Thiền Tông nói là “đại triệt, đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Ngoài Thiền Tông là Giáo Hạ, như Hiền Thủ, Thiên Thai, Tam Luận, Pháp Tướng Duy Thức đều thuộc về Giáo Hạ, họ thành tựu từ Chánh Môn, chánh tri chánh kiến, đại khai viên giải, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề như thế đó. Tịnh Độ Tông không theo hai môn này, mà đi theo Tịnh Môn. Giác Môn thì phải là bậc thượng căn lợi trí mới có phần, giống như Lục Tổ đã nói: Đối tượng tiếp dẫn của Ngài là người thượng thượng thừa thì mới có hy vọng. Thấp hơn thượng thượng thừa, căn tánh Đại Thừa thì đều chẳng được, đều chẳng có hy vọng. Do vậy, chúng ta đi theo môn đó sẽ không suông sẻ, tiêu chuẩn quá cao! Chánh Môn cũng chẳng dễ đi. Nói thật ra, đối với Chánh Môn, chúng ta có tư cách và cũng có năng lực, nhưng thời gian quá lâu, lộ trình quá dài, giống như đi học, [lần lượt học] Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, nghiên cứu sinh, phải mất vài chục năm. Đó là tỷ dụ. Trong Phật môn, Giáo Hạ phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, hoặc phải mất vô lượng kiếp, thời gian quá dài, quá xa xôi. Do vậy, Tịnh Tông không đi theo hai lộ trình ấy, mà đi theo một con đường đặc biệt phương tiện thiện xảo là tâm thanh tịnh, tu điều này. Chỉ cần tâm thanh tịnh, tâm tịnh ắt cõi tịnh, hành nhân liền nhập môn. Chư vị quyết định chớ nên sơ sót điều này!

Niệm Phật đến trình độ nào thì mới biết chính mình có nắm chắc vãng sanh hay không? Cũng có đồng tu đến hỏi tôi: “Con phải niệm bao lâu mới biết chính mình khi nào sẽ vãng sanh?” Người ấy đến hỏi tôi, tôi liền thật thà bảo người ấy: – Hễ trong tâm quý vị có ý niệm ấy, suốt một đời này, quý vị sẽ chẳng thể vãng sanh! Vì sao? Xen tạp! Tâm quý vị chẳng thanh tịnh. Tâm không thanh tịnh, chẳng thể vãng sanh. Chớ nên xen tạp, cứ thật thà niệm, nước chảy mãi thành giòng! Quý vị giữ ý niệm ấy, sẽ chẳng phải là thật thà. Chẳng thật thà, làm sao có thể thành tựu cho được? Xác thực là chúng ta phải cầu nhất tâm bất loạn, nhưng chớ nên giữ ý niệm cầu nhất tâm bất loạn trong tâm, [giữ] như vậy là hỏng, sai mất rồi! “Cầu” là nguyện, có nguyện ấy, nhưng chớ nên có ý niệm ấy. Hễ có ý niệm ấy, sẽ hỏng chuyện, chỉ một mực thật thà niệm là được rồi! Do vậy, chúng ta từ tâm thanh tịnh tiến nhập, chỉ niệm một câu Phật hiệu. Phật hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn! Trong đoạn kinh văn này, càng nói cụ thể hơn cho chúng ta biết. Đức Thế Tôn dạy: “Văn thị kinh” (Nghe kinh này), tức là nghe kinh A Di Đà, “thọ trì giả” là hành trì theo kinh A Di Đà, “cập văn chư Phật danh giả” (cùng nghe danh hiệu của chư Phật), nói rất rõ ràng, minh bạch: “Tức đắc nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm” (Liền được hết thảy chư Phật hộ niệm), chính là nói tới phước báo, chuyện này chẳng thể nghĩ bàn! Quý vị được hết thảy chư Phật gia hộ, gia trì, hộ niệm, còn gặp phải tai nạn chi nữa? Quý vị còn có chuyện gì chẳng thể thành tựu? Mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều hộ niệm, đều giúp đỡ quý vị. Chúng ta xem câu kinh văn này mới hiểu, một người thật sự niệm Phật, sẽ đúng như tiêu chuẩn do Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đã dạy: “Không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”, mà cũng như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Đó gọi là người niệm Phật chân chánh. Người ấy được hết thảy chư Phật hộ niệm. Đối với các thứ thiện báo, các thứ đạo quả đã nói trong kinh, người ấy đỡ tốn công mất sức mà dễ dàng đạt được. Câu kế tiếp lại nói: “Giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Đều được bất thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác), đó là đạo quả. Trong phần trước, “được hết thảy chư Phật hộ niệm” là thiện báo. Thiện báo ấy là thiện báo viên mãn rốt ráo, chẳng có thiện báo nào khác tốt lành hoặc thù thắng hơn thiện báo này. Nó là thiện báo bậc nhất trong hết thảy các thiện báo, thù thắng khôn sánh, là Phật quả viên mãn rốt ráo trong hết thảy các đạo quả, người nào có được? Người thật thà niệm Phật bèn có! Hễ còn tam tâm nhị ý học pháp môn này, học pháp môn nọ, đều gọi là chẳng thật thà!

Chúng ta chưa đọc đến đoạn kinh văn này, sẽ thường là chẳng dám nói, [vì sợ người ta chê trách] kẻ tu tập Tịnh Tông chúng ta khoe khoang lớn lối! [Nói điều này], dường như chúng ta xem thường những kẻ tu hành khác. Thật ra, chẳng phải vậy, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nói, A Di Đà Phật đã nói, hết thảy chư Phật Như Lai đều nói, há còn có thể sai lầm ư? Chúng ta vẫn chẳng tin điều này thì tín tâm làm sao kiến lập cho được? Đã thật sự tin, sau khi đã thật sự tin, hết thảy đều buông xuống. Không chỉ là hết thảy các pháp trong thế gian đều buông xuống, mà Phật pháp cũng buông xuống, cái tâm ấy gọi là thật sự thanh tịnh. Quả báo của pháp thế gian là lục đạo luân hồi; quả báo của Phật pháp là [bốn pháp giới] A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, và Phật, gọi gộp chung [quả báo của pháp thế gian và Phật pháp] là “mười pháp giới”. Pháp thế gian và Phật pháp đều buông xuống, tức là mười pháp giới đều buông xuống. Mười pháp giới đều buông xuống sẽ đến nơi đâu? Nhất Chân pháp giới. Di Đà Tịnh Độ là Nhất Chân pháp giới, Tịnh Độ của Hoa Nghiêm Tỳ Lô Giá Na Phật cũng là Nhất Chân pháp giới, đến Nhất Chân pháp giới.

Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều buông xuống, chỉ cần một bộ kinh, chỉ cần sáu chữ hồng danh bèn thành công, thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chúng ta thấu hiểu chỗ này, tin sâu chẳng ngờ, y giáo phụng hành, vậy thì thật sự phải chúc mừng quý vị: Tín tâm đã thanh tịnh, công phu thành phiến, nhất tâm bất loạn tự nhiên đạt được. Do vậy, nếu mọi người hỏi: “Khi nào chính mình sẽ biết được vãng sanh?” [Câu trả lời sẽ là]: Khi nào tín tâm thanh tịnh sẽ biết. Tín tâm thanh tịnh, vãng sanh tự tại. Muốn đi khi nào, bèn đi khi ấy; muốn ở bao nhiêu năm, bèn ở bấy nhiêu năm, hoàn toàn chẳng có chướng ngại. Đó mới gọi là “sanh tử tự tại, đến đi tự nhiên”, chẳng có mảy may chướng ngại nào! Muốn đi bèn đi, muốn đến bèn đến.

Mấy câu kế tiếp đều nhằm giải thích tâm tịnh. “Hà ngôn tâm tịnh” (Vì sao nói đến tâm tịnh), vì sao phải nhấn mạnh “tâm tịnh”? “Dĩ tâm thắng cố” (Vì tâm thù thắng), [nghĩa là] trong hết thảy các pháp, tâm tối thắng! Trong kinh, đức Phật đã dạy: “Hết thảy pháp sanh từ tâm tưởng”. Nói cách khác, tâm là năng sanh (cái có thể sanh), hết thảy các pháp là sở sanh (cái được sanh ra). So sánh giữa năng sanh và sở sanh, năng sanh thù thắng! Tâm là thù thắng. Do vậy, người biết tu hành thì phải tu từ tâm địa, Thiền Tông thường nói “tu từ căn bản”. Căn bản là gì? Căn bản của hết thảy vạn sự vạn pháp là tâm; trực tiếp dụng công từ tâm địa, đấy là Đại Thừa, là con đường tắt. Thực hiện từ tâm địa, vì tâm thù thắng nhất. Đổ công dốc sức nơi tướng, sẽ là cành nhánh, cổ đức sánh ví: “Nhập hải toán sa, tầm chi trích diệp” (Vào biển đếm cát, tìm cành lặt lá), rất phiền phức, tốn thời gian rất dài, chịu rất nhiều khổ sở! Tu từ căn bản sẽ dễ dàng.

Tiếp đó là tỷ dụ: “Như thủy thanh châu, năng thanh trược thủy” (Như thủy thanh châu có thể lắng trong nước đục). Tâm vốn thanh tịnh, tâm chẳng có ô nhiễm. Hiện tiền, dường như tâm tánh của chúng ta bị ô nhiễm; thật ra, nó chẳng bị ô nhiễm, mà là do có những thứ ô nhiễm chướng ngại cái tâm thanh tịnh. Chuyện là như vậy đó. Giống như trời âm u là do mây che lấp mặt trời, mặt trời có bị mây ô nhiễm hay không? Chẳng có. Tuy chẳng có, [mây] chướng ngại nó, che lấp nó, chúng ta chẳng thấy mặt trời, chuyện là như vậy đó. Vì thế, chân tâm quyết định là thanh tịnh, vô nhiễm.

Tiếp đó, lại nói: “Hựu chư nhiễm pháp, các hữu tự tướng” (Các pháp ô nhiễm lại là mỗi pháp đều tự có tướng riêng). Nhiễm pháp: Mười pháp giới đều nhiễm, Kiến Tư nhiễm, Trần Sa nhiễm, Vô Minh cũng nhiễm. Mười pháp giới đều thuộc về nhiễm pháp, tướng của chúng khác nhau. Lục đạo phàm phu thì ba loại ô nhiễm lớn là Kiến Tư, Trần Sa, và Vô Minh đều trọn đủ. A La Hán, Bích Chi Phật và Quyền Giáo Bồ Tát đã đoạn Kiến Tư phiền não, nhưng có Trần Sa và Vô Minh, các Ngài nhiễm nhẹ hơn chúng ta. Thật Giáo Bồ Tát, kinh Hoa Nghiêm nói là Pháp Thân đại sĩ, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, các Ngài Kiến Tư lẫn Trần Sa đều chẳng có, chỉ còn sót lại Vô Minh, nhiễm nhẹ nhất. Mãi cho đến Đẳng Giác Bồ Tát của Viên Giáo, hãy còn có một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn, vẫn là nhiễm, vẫn là đới nghiệp. Thật sự bất nhiễm, chỉ có một mình đức Phật, hoàn toàn chẳng có ô nhiễm. Đấy là nói mỗi pháp nhiễm đều có tướng riêng. Trong hết thảy các ô nhiễm, “duy hữu bất tín, tự tướng hồn trược” (chỉ riêng có bất tín là tự tướng của nó vẩn đục). “Bất tín” là pháp ô nhiễm nghiêm trọng nhất; không chỉ là trở ngại cái tâm thanh tịnh của chính mình, mà còn trở ngại hết thảy các pháp chung quanh chúng ta, chúng đều bị ô nhiễm bởi pháp này. “Phục năng hồn trược dư tâm, tâm sở” (Lại còn có thể vẩn đục các tâm và tâm sở khác), “tâm” là tám thức, “tâm sở” là năm mươi mốt Tâm Sở. Bất Tín ô nhiễm tám tâm vương và năm mươi mốt Tâm Sở, giống như một thứ “cực ô uế”, tức là vật bẩn thỉu đến cùng cực, “tự uế, uế tha” (tự mình bẩn thỉu, bẩn thỉu lây sang thứ khác), bản thân dơ bẩn, mà cũng trở ngại kẻ khác.

“Tín chánh phiên bỉ” (Tín chính là tương phản với tướng ô uế ấy), “phiên” (翻) là đảo ngược lại. Tín tâm giống như các loại thuốc tẩy rửa, giống như thủy thanh châu. Đối với Phật pháp, đặc biệt là ba kinh Tịnh Độ, thật sự cần phải nhấn mạnh điều này, vì những điều được giảng trong ba kinh Tịnh Độ đều là thanh tịnh rốt ráo, là bi tâm triệt để của Như Lai, là pháp môn bậc nhất để hết thảy chư Phật phổ độ chúng sanh viên thành Phật đạo. Đối với những kinh luận khác, hết thảy chư Phật Như Lai không nhất định là sẽ nói. Hễ chẳng khế cơ, các Ngài sẽ không nói. Chỉ riêng ba kinh Tịnh Độ, tất cả hết thảy chư Phật hễ thuyết pháp bèn nhất định phải giảng, giống như những môn học bắt buộc trong nhà trường, nhất định phải giảng, lại còn là môn học chung [cho mọi khoa hệ]. Bất luận quý vị học khoa hệ nào, ba kinh là môn bắt buộc phải tu học, những kinh luận khác là những môn học tuyển tu, [nghĩa là] quý vị học cũng được, mà không học cũng được, chẳng sao cả! Do vậy, hết thảy chư Phật nhất định phải nói [ba kinh Tịnh Độ]. Nếu Phật chẳng nói ba kinh ấy, nói thật ra, Ngài sẽ có lỗi với chúng sanh. Nói rồi mà quý vị chẳng tin, chẳng thể tiếp nhận, đức Phật chẳng có lỗi với quý vị. Lỗi ở chính quý vị, đức Phật chẳng có lỗi với quý vị, quý vị có lỗi với Phật. Đối với đạo lý, cảnh giới, và phương pháp tu học trong năm kinh Tịnh Độ, quý vị có thể tin sâu chẳng ngờ, nhất định sẽ đạt được cái tâm thanh tịnh.

“Tín chánh phiên bỉ, cố tịnh vi tướng” (Tín chính là tương phản với tướng ô uế ấy, nên tịnh là tướng của tín). Tướng của tín là thanh tịnh. Từ tiêu chuẩn này, cũng có thể xét nghiệm cảnh giới của chính mình. Nếu tâm chúng ta chẳng thanh tịnh; nói cách khác, chúng ta chẳng có tín tâm. Thật sự có tín tâm, tâm thanh tịnh, tâm bèn định. Tâm đã định, bèn có thể lập tức thấy công đức lợi ích. Do tâm người ấy đã biến đổi, tướng bèn biến đổi theo. Thầy tướng số thường nói: “Tướng chuyển theo tâm”. Tâm đã biến đổi, thể chất bèn biến đổi theo, chẳng giả tí nào! Vì vậy, từ thể chất và tướng mạo, có thể nhìn thấy công phu tu hành của quý vị. Công phu là gì? Tâm thanh tịnh là công phu. Càng thanh tịnh, công phu càng sâu. Chẳng phải là nói quý vị hằng ngày niệm Phật bao nhiêu câu, niệm chú bao nhiêu biến, lễ Phật bao nhiêu lạy, đó chẳng phải là công phu. Công phu là Giác, Chánh, Tịnh. Hiện thời, chúng ta thiên trọng tâm thanh tịnh, công phu ở chỗ này. Vì tâm đã định, tâm đã thanh tịnh, vọng tưởng ít, tạp niệm ít, thân thể tự nhiên dấy lên sự biến hóa. Vốn có rất nhiều bệnh tật, bệnh tật là gì? Kết cấu trong thân thể chúng ta dấy lên sự biến hóa bất bình thường, dấy lên biến hóa như thế nào? Suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ; hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, suy nghĩ loạn xạ là bất bình thường. Vì thế, kết cấu bình thường biến thành bất bình thường, thân thể của quý vị bèn có lắm bệnh, lắm tai, lắm nạn! Hễ tâm thanh tịnh, đã định, [thân thể] bèn khôi phục bình thường. Hễ khôi phục bình thường, những bệnh tật vốn có đều chẳng còn nữa. Ốm đau đều chẳng có, chính là đạo lý này. Tướng mạo của quý vị cũng biến đổi, khí sắc cũng biến đổi, thứ gì cũng đều khác hẳn. Quý vị lập tức đạt được thiện báo, ngay lập tức có thể đạt được!

“Kim tu Tịnh Độ, chủ hồ tâm tịnh” (Nay tu Tịnh Độ, điều chủ yếu là tâm tịnh). Nói nhiều ngần ấy, hai câu này mới là chủ đề. Tịnh Tông là tu tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh dùng phương pháp gì để tu? Dùng Tín để tu. “Tín vi cấp vụ, minh diệc thậm hỹ” (Tín là chuyện cấp bách, cũng đã rõ rành rành), điều này quá minh bạch, quá rõ rệt. Tín là trọng yếu. Trong kinh này, đức Phật đã bốn lượt khuyên chúng ta, hai lần trước là khuyên chúng ta “ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ” (hãy nên phát nguyện, sanh về cõi ấy). Lần thứ ba bèn khuyên chúng ta phải Tin. Trong phần sau, còn có một lần khuyên chúng ta phải “cầu sanh Tịnh Độ”.

 

(Diễn) Chủ hồ tâm tịnh giả, Duy Ma vân: “Nhược Bồ Tát dục đắc Tịnh Độ, đương tịnh kỳ tâm. Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”.

()主乎心淨者,維摩云:若菩薩欲得淨土,當淨其心,隨其心淨則佛土淨。

(Diễn: “Điều chủ yếu là tâm tịnh”: Kinh Duy Ma chép: “Nếu Bồ Tát muốn đạt được Tịnh Độ, hãy nên tịnh cái tâm. Tùy thuận cái tâm tịnh mà cõi nước sẽ tịnh”).

Đây là đoạn khai thị hết sức trọng yếu trong kinh Duy Ma. Nếu quý vị là người niệm Phật mà thắc mắc: “Có thể vãng sanh hay không? Có nắm chắc vãng sanh hay không? Khi nào vãng sanh?” Quý vị hãy niệm ba câu kinh văn trên đây nhiều lượt. Trong kinh này, đức Thế Tôn dạy chúng ta pháp môn “tín nguyện trì danh”, dùng ba phương pháp ấy, chuyên tín, chuyên nguyện, chuyên niệm A Di Đà Phật, tu gì? Tu tâm thanh tịnh. Hễ tâm thanh tịnh, sẽ có mối liên hệ với Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta thường nói là “cảm ứng đạo giao”. Xác thực là ngầm khế hợp với A Di Đà Phật. Sự ngầm khế hợp ấy càng ngày càng rõ rệt, tùy thuận công phu tín nguyện trì danh cạn hay sâu, càng ngày càng rõ rệt, giống như Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói: “Hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật”. Hiện tiền thấy Phật có ba loại:

1) Một loại là “mộng trung kiến Phật” (trong mộng thấy Phật), đó là cảm ứng nông cạn.

2) Loại thứ hai là “Định trung kiến Phật” (trong Định thấy Phật). Chúng ta niệm Phật, chẳng tĩnh tọa, không tham Thiền, nhưng chúng ta chỉ tĩnh. Khi chúng ta chỉ tĩnh, cũng là ngồi rất bình yên ở nơi này. Tuy trong miệng chẳng có âm thanh, Phật hiệu trong tâm hoàn toàn chẳng gián đoạn. Thấy Phật trong khi ấy bèn thuộc loại thấy Phật trong Định, hoàn toàn chẳng phải là đang ngủ, [nhận biết] sáng suốt, rõ ràng. Phật hiện tiền trong Định cảnh.

3) Loại thứ ba, công phu càng sâu hơn, hoặc là đứng,  hoặc là ngồi, Phật ở ngay trước mặt, bèn trông thấy.

Những điều này đều thuộc loại “hiện tiền thấy Phật”. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là “đương lai kiến Phật” (thấy Phật trong tương lai). Khi lâm chung, người ấy còn sống, hoàn toàn chưa tắt hơi, thấy Phật đến tiếp dẫn, thuộc loại “hiện tiền kiến Phật”. Nhưng người niệm Phật nhất định phải ghi nhớ: Nếu cầu cảm ứng, cầu thần thông, hằng ngày đều cầu mong thấy Phật, quý vị cũng rất dễ dàng bị ma dựa. Vì chúng ta khởi tâm động niệm, Phật, Bồ Tát biết, ma cũng biết. Yêu ma quỷ quái có thần thông, chúng nó biết quý vị khẩn thiết mong mỏi thấy Phật, sẽ thừa cơ hội tìm đến, biến thành hình dáng một vị Phật cho quý vị trông thấy. Kết quả là quý vị bị chúng nó lừa, bị chúng nó gạt gẫm. Do vậy, chúng ta mong thấy Phật, bỗng nhiên Phật hiện đến, điều đó chẳng đáng tin cậy. Cớ sao Phật hiện tiền? Chúng ta trọn chẳng mong thấy Ngài mà Ngài hiện đến, chuyện này thuộc về cảm ứng. Đã thấy bèn như thế nào? Thấy mà như chẳng thấy. Tuy thấy, chúng ta cũng không khởi tâm, chẳng động niệm, cũng không cảm thấy: “Ta còn khá quá! Công phu của ta thành tựu bèn thấy Phật”. Nói không chừng, quý vị đã thấy ma.

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã dạy chúng ta đề phòng, ngăn ngừa yêu ma quỷ quái biến hiện giả Phật, giả Bồ Tát đến gạt chúng ta. Đức Phật dạy chúng ta một phương pháp là “quyết định chẳng chấp trước”. Quý vị chẳng chấp trước, chúng nó sẽ chẳng khởi tác dụng đối với quý vị được, sẽ là cảnh giới tốt đẹp. Nếu khởi tâm động niệm, khởi tâm hoan hỷ, hỏng bét, sẽ bị ma lừa. Vì sao? Cái tâm thanh tịnh của quý vị đã bị nhiễu loạn. Dẫu là Phật hay Bồ Tát hiện đến, vẫn gìn giữ cái tâm thanh tịnh của chính mình, nhất định phải là như như bất động. Đó sẽ là cảnh giới tốt đẹp, chẳng bị lay động bởi cảnh giới. Vì thế, nhất định phải biết tịnh tâm.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh bổn lai thị Phật, thị tín thọ nghĩa.

()稱理,則自性本來是佛,是信受義。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh vốn là Phật chính là ý nghĩa “tin nhận”).

 Nói theo Lý, Phật là tự tánh, tự tánh là Phật, bổn ý của “văn thị kinh, thọ trì giả” là như thế đó.

 

(Sao) Hoa Nghiêm Thập Tín,  toàn  dĩ  Quả  Phật  vi  tự  tín  tâm.

Lương diêu Phật tức thị tâm, cố chúng sanh tâm trung, niệm niệm thường hữu Phật thành Chánh Giác. Tác như thị tín, Kỳ Viên diệu chỉ, thiên Phật huyền đàm, nhất thời thọ tất.

(Diễn) Toàn dĩ Quả Giác vi tự tín tâm giả, dĩ bỉ Quả Phật vi ngã nhân tâm. Nhược ly giác thể, biệt ngôn tín giả, thị danh tà tín, phi Đại Thừa viên đốn chi chánh tín dã. Chúng sanh tâm trung, niệm niệm thường hữu Phật thành Chánh Giác giả. Kinh vân: “Ưng tri tự tâm niệm niệm thường hữu Phật thành Chánh Giác”. Hà dĩ cố? Bất ly thử tâm, thành Chánh Giác cố.

()華嚴十信,全以果佛為自信心。良繇佛即是心,故眾生心中,念念常有佛成正覺,作如是信,祇園妙旨,千佛玄談,一時受畢。

()全以果覺為自信心者。以彼果佛為我因心。若離覺體。別言信者。是名邪信。非大乘圓頓之正信也。眾生心中念念常有佛成正覺者。經云。應知自心念念常有佛成正覺。何以故。不離此心。成正覺故。

(Sao: Bậc Thập Tín trong Hoa Nghiêm hoàn toàn dùng Quả Phật để làm tâm tự tín. Ấy là vì Phật chính là tâm, cho nên trong tâm chúng sanh, niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Tin như thế, ý chỉ mầu nhiệm nơi Kỳ Viên, lời bàn luận u huyền của ngàn vị Phật sẽ được nhận lãnh hết trong một lúc.

Diễn: “Hoàn toàn lấy Quả Giác làm cái tâm tự tín”: Lấy Quả Phật của Ngài để làm cái tâm tu nhân của ta. Nếu lìa khỏi giác thể mà nói tới một cái Tín nào khác thì đó là tà tín, chẳng phải là chánh tín viên đốn của Đại Thừa. Trong tâm chúng sanh, niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Kinh dạy: “Hãy nên biết trong tự tâm niệm nào cũng đều có Phật thành Chánh Giác”. Vì cớ nào? Chẳng lìa cái tâm này mà thành Chánh Giác vậy).

 “Quả” là quả vị cao nhất trong Viên Giáo, chẳng phải là Biệt Giáo Phật, mà là Viên Giáo Phật. Chẳng cần đợi tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, “thiên Phật” là nói tới Hiền Kiếp. Trong tương lai, một ngàn vị Phật thuộc Hiền Kiếp xuất thế, giảng nói hết thảy các kinh, quý vị đều hiểu rõ ràng, minh bạch. Nói thật ra, chẳng phải là một ngàn vị Phật, mà đối với vô biên kinh giáo do mười phương ba đời vô lượng vô biên chư Phật đã nói, quý vị cũng “nhất thời thọ tất” (thọ trọn hết ngay trong một lúc). Vì sao? Tất cả hết thảy chư Phật do tâm thanh tịnh biến hiện, tất cả hết thảy các giáo pháp cũng từ tâm thanh tịnh lưu xuất. Nay quý vị khôi phục sự thanh tịnh, há chẳng phải là thảy đều đạt được ư? Do đó, Thiền Tông châm chọc Giáo Hạ, bảo là Giáo Hạ tìm cành vặt lá, giống như đối với một cái cây lớn, họ vặt lá, bẻ cành. Muốn trừ bỏ cái cây ấy, bèn tước bỏ lá, cành, nhánh, quá tốn sức! Lãng phí bao nhiêu thời gian! Thiền Tông dùng phương pháp gì? Thiền Tông đào trốc rễ. Rễ đã bị đào trốc, cái cây ấy ngay lập tức bị trừ khử. Không thực hiện từ cành lá, mà ra tay ngay từ cội rễ. Chẳng biết căn bản của căn bản chính là tâm thanh tịnh. Tịnh Tông còn thù thắng, còn căn bản, còn triệt để hơn Thiền.

Thập Tín: Thứ nhất là Tín Tâm, thứ hai là Niệm Tâm, thứ ba là Tinh Tấn Tâm, thứ tư là Huệ Tâm, thứ năm là Định Tâm, thứ sáu là Bất Thoái Tâm, thứ bảy là Hồi Hướng Tâm, thứ tám là Hộ Pháp Tâm (không chỉ hộ trì pháp của chư Phật, mà còn hộ trì tâm pháp của chính mình), thứ chín là Giới Tâm, thứ mười là Nguyện Tâm. Kinh Hoa Nghiêm giảng như vậy. Thập Tín đều dùng Quả Phật, tức là dùng Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Tịnh Tông chúng ta dùng A Di Đà Như Lai, để làm “tự tín tâm”. Người niệm Phật thực hiện và hành trì trong cuộc sống hằng ngày. Tâm, nguyện, giải, hạnh của chúng ta đều phải học theo Phật, học theo A Di Đà Phật, chớ nên học theo những vị Phật khác, nhất định phải học theo A Di Đà Phật. Đó chắc chắn là chánh xác. Nếu quý vị học theo những vị Phật khác bèn là học tạp; đâm ra, tâm chẳng thể thanh tịnh. Hãy chuyên học theo A Di Đà Phật. A Di Đà Phật ở chỗ nào? Những điều được giảng trong ba kinh Tịnh Độ đều là A Di Đà Phật. Đối với tâm của A Di Đà Phật, A Di Đà Phật xử thế, đãi người dùng tâm gì? Kinh đã nói rất rõ ràng. Đối với nguyện của A Di Đà Phật, cách nhìn và cách nghĩ của A Di Đà Phật đối với vũ trụ và nhân sinh, A Di Đà Phật xử sự, đãi người, tiếp vật như thế nào, chúng ta học những điều ấy. Học giống hệt như Ngài, bản thân chúng ta sẽ biến thành hóa thân của A Di Đà Phật, bản thân chúng ta và A Di Đà Phật hợp thành một. A Di Đà Phật là chính mình, chính mình là A Di Đà Phật, có lẽ nào chẳng vãng sanh? Vì thế, vãng sanh đúng là có thể tự tại, đắc đại tự tại. Hôm nay, chúng tôi giảng đến chỗ này!

 

Tập 273

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm sáu mươi tám:

 

Nhị, tùy nguyện đắc sanh.

(Kinh) Xá Lợi Phất! Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả. Thị chư nhân đẳng, giai đắc bất thoái chuyển ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh.

二、隨願得生。

()舍利弗。若有人已發願。今發願。當發願。欲生阿彌陀佛國者。是諸人等。皆得不退轉於阿耨多羅三藐三菩提。於彼國土。若已生。若今生。若當生。

(Hai, tùy nguyện được vãng sanh.

Kinh: Này Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện, muốn sanh vào cõi của A Di Đà Phật, thì những người ấy đều được chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đối với cõi nước ấy hoặc là đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh).

Đoạn kinh văn này bảo cho chúng ta biết: Vãng sanh thế giới Tây Phương thật sự chẳng khó. Liên Trì đại sư đặt tiểu đề mục cho đoạn này là “tùy nguyện đắc sanh”, chúng ta thấy hết sức nhẹ nhàng, tiêu sái.

 

(Sớ) Thượng ngôn “tín thọ”, kim ngôn “tín dĩ sanh nguyện” dã. Dĩ nguyện, kim nguyện, đương nguyện, quá, hiện, vị tam thời dã. Cử tam thời giả, minh hữu nguyện giả, vô nhất bất sanh dã.

()上言信受,今言信已生願也。已願、今願、當願,過現未三時也。舉三時者,明有願者,無一不生也。

(Sớ: Trong phần trước đã nói đến sự tin nhận, nay nói “do đã tin bèn sanh khởi nguyện”. Đã nguyện, nay nguyện, sẽ nguyện, tức là ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Nêu ra ba thời hòng chỉ rõ: “Hễ có nguyện, không một ai chẳng được vãng sanh”).

Quá khứ, hiện tại, vị lai là ba đời.

 

(Sao) Dĩ nguyện dĩ sanh, tắc kim Phật thuyết kinh chi tiền, dĩ hữu nhân cầu sanh bỉ quốc, nhi đắc sanh cố.

()已願已生,則今佛說經之前,已有人求生彼國而得生故。

(Sao: “Đã nguyện, đã sanh” là trước khi đức Phật nói kinh trong hiện tại, đã có người cầu sanh cõi ấy, bèn được vãng sanh).

“Dĩ phát nguyện”, “nhược dĩ sanh”, trước thời Thích Ca Mâu Ni Phật, [có những người] đã phát nguyện, đã vãng sanh. “Tắc kim Phật thuyết kinh chi tiền” (Tức là trước khi đức Phật nói kinh trong hiện tại), trước khi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh. Trước khi Thích Ca Mâu Ni Phật đến thế giới này, thị hiện thành Phật, vô lượng vô biên chư Phật trong mười phương vô lượng vô biên thế giới, đều vì mọi người tuyên giảng ba kinh Tịnh Độ, khuyên dạy trọn khắp chúng sanh hãy chuyên tín, chuyên nguyện, chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ. “Dĩ hữu nhân cầu sanh bỉ quốc nhi đắc sanh cố” (Đã có người cầu sanh cõi ấy bèn được vãng sanh): Chỉ cần cầu vãng sanh, chẳng có ai không vãng sanh.

 

(Sao) Kim nguyện, kim sanh, tắc Phật chánh trụ thế thời dã.

()今願今生,則佛正住世時也。

(Sao: “Nay nguyện, nay sanh” là đúng nhằm lúc đức Phật trụ thế).

Đức Phật nói “nay phát nguyện, đời này vãng sanh”. Câu này nhằm nói về những thính chúng trong thuở đức Phật trụ thế.

 

(Sao) Đương nguyện, đương sanh, tắc văn kinh dĩ hậu, chí ư kim nhật, hậu chi hậu dã.

()當願當生,則聞經已後,至於今日,後之後也。

(Sao: “Sẽ nguyện, sẽ sanh”, tức là sau khi đã nghe kinh, cho đến hiện thời và mai sau).

 “Đương phát nguyện”, “nhược đương sanh” là sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, mãi cho đến khi pháp vận của đức Thế Tôn chấm dứt trên thế gian. Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật là một vạn hai ngàn năm: Chánh Pháp một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm. Sau một vạn năm, Phật pháp thảy đều diệt hết sạch, kinh Di Đà diệt cuối cùng. Kinh Di Đà còn trụ thế một trăm năm, kéo dài thêm một trăm năm nữa. Sau một trăm năm ấy, kinh Di Đà cũng chẳng còn, danh hiệu sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật” vẫn còn trên thế gian. Thuở ấy, nếu nghe danh hiệu này mà có thể tín, có thể nguyện, vẫn có thể vãng sanh. Do vậy, có thể biết: Pháp môn này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, công đức của danh hiệu càng chẳng thể nghĩ bàn. “Văn kinh dĩ hậu, chí ư kim nhật” (Sau khi nghe kinh cho đến hiện thời), chúng ta cách Phật đã ba ngàn năm!

 

(Sao) Tiên ngôn bất thoái Bồ Đề, hậu vân vãng sanh giả.

()先言不退菩提,後云往生者。

(Sao: Trước là nói bất thoái Bồ Đề, sau là nói tới vãng sanh).

 Đây là nói: Trong đoạn kinh văn thuộc phần trước đã nói rõ, “văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả” (người nghe kinh này, thọ trì kinh này, và nghe danh hiệu của chư Phật), La Thập đại sư dịch như vậy. Bản dịch của Huyền Trang đại sư chẳng ghi là “cập văn chư Phật danh giả”. Câu này trong bản dịch của Huyền Trang đại sư là “cập văn Vô Lượng Thọ Phật danh giả” (và người nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật). Do vậy, có thể biết: “Chư Phật” chính là Vô Lượng Thọ Phật, tức là A Di Đà Phật. Người nghe kinh, thọ trì, và nghe danh hiệu A Di Đà Phật, sẽ được hết thảy chư Phật hộ niệm, sẽ chẳng thoái chuyển nơi Vô Thượng Bồ Đề. Tức là trong phần trước đã nói rõ sự bất thoái, nêu ra hai thứ lợi ích thù thắng khôn sánh để khuyên chúng ta hãy phát nguyện vãng sanh.

 

(Sao) Hậu vân vãng sanh giả, minh phát nguyện giả, kiến thế chi trung, dĩ thuận giác lộ.

()後云往生者,明發願者,見世之中已順覺路。

(Sao: Sau đó, nói đến chuyện vãng sanh, nhằm chỉ rõ: Người phát nguyện thì ngay trong hiện đời đã đi theo đúng con đường giác ngộ).

 Thời cổ, chữ Kiến (見) và chữ Hiện (現) trong hiện tại là cùng một chữ. “Kiến thế” (見世) là trong đời hiện tại. “Dĩ thuận giác lộ” (Đã theo đúng con đường giác ngộ), “giác lộ” (覺路) là đại đạo Vô Thượng Bồ Đề. Chư vị phải biết: Vô Thượng Bồ Đề đạo là sở hành của Pháp Thân đại sĩ, là sở hành của hết thảy Ma Ha Tát Đại Bồ Tát; Nhị Thừa và Quyền Giáo đều chẳng có phần, kể cả Biệt Giáo Tam Hiền Bồ Tát đều chẳng có phần. Pháp môn này đặc biệt, chỉ cần quý vị chịu tin, chịu nguyện, thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, đấy chính là đại đạo Vô Thượng Bồ Đề, là đường tắt để thành Phật. Đại sư Tông Khách Ba (Tsong Khapa) thuộc Hoàng Giáo (Gelug-pa)[74] của Mật Tông Tây Tạng có tác phẩm Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận (Lamrim Chenmo)[75]. Chư vị phải hiểu: Bồ Đề đạo [của Mật Tông] là có thứ tự, là leo cầu thang. Bồ Đề đạo của chúng ta là đáp thang máy, ngay lập tức lên đến nơi, chẳng có thứ lớp, dành cho bậc đại thiện căn, đại phước đức tu hành. Hạng người nào là đại thiện căn, đại phước đức? Người thật sự tin tưởng kinh Di Đà và A Di Đà Phật, thật sự nguyện sanh Tịnh Độ, người ấy là đại thiện căn, đại phước đức, gặp gỡ pháp môn này là đại nhân duyên.

 

(Sao) Huống ký đắc vãng sanh hồ? Vô nhất bất sanh giả, kiến vãng sanh giả thậm đa vô lượng dã.

()況既得往生乎?無一不生者,見往生者甚多無量也。

(Sao: Huống hồ người đã được vãng sanh ư? “Không một ai chẳng vãng sanh”: Thấy người vãng sanh rất nhiều, số đến vô lượng).

“Vô nhất bất sanh” (Không một ai chẳng vãng sanh), chỉ rõ người vãng sanh quá nhiều, vô lượng vô biên. Chúng sanh căn cơ thuần thục trong mười phương thế giới đều vãng sanh thế giới Cực Lạc. Dưới đây, đại sư đặt ra hai đoạn vấn đáp.

 

(Sao) Vấn: Sanh giả ký đa vô lượng, kim hà ngẫu nhất kiến chi?

()問:生者既多無量,今何偶一見之。

(Sao: Hỏi: Người vãng sanh đã nhiều vô lượng, sao nay chỉ đôi khi trông thấy [dăm ba người vãng sanh]?)

Người vãng sanh thế giới Tây Phương nhiều ngần ấy, vì sao chúng ta thấy người vãng sanh rất ít?

 

(Sao) Đáp: Thập phương thế giới, chúng như vi trần, kỳ vãng sanh giả hà hạn?

()答:十方世界,眾如微塵,其往生者何限。

(Sao: Đáp: Mười phương thế giới nhiều như vi trần, người vãng sanh từ những cõi ấy há có hạn lượng?)

“Hà hạn” (何限) là chẳng có cách nào tính toán hạn lượng, quá ư là nhiều!

 

(Sao) Tử kiến Sa Bà, bất kiến trần sát cố.

()子見娑婆,不見塵剎故。

(Sao: Ông chỉ thấy cõi Sa Bà, chẳng thấy các cõi nước số nhiều như vi trần).

“Tử” (子) là tiếng tôn xưng đối với người khác vào thời cổ; hiện thời nói là “tiên sinh” (先生). Quý vị chỉ thấy thế giới Sa Bà, trên thực tế, “thế giới Sa Bà” ở đây được Liên Trì đại sư dùng để chỉ địa cầu, lại còn chỉ trong một phạm vi nhỏ nhoi là Trung Hoa. Đấy chính là một nguyên nhân khiến cho chúng ta thấy [người vãng sanh] quá ít!

 

(Sao) Hựu vấn: Sanh giả ký đa vô lượng, bỉ độ hà dĩ dung chi?

()又問:生者既多無量,彼土何以容之?

(Sao: Lại hỏi: Người vãng sanh đã là nhiều vô lượng, cõi ấy làm sao dung nạp được?)

Ai nấy đều vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, dân cư của thế giới Cực Lạc có bị bành trướng hay không? Dân số có trở thành quá đông hay không? Chẳng ít người có thắc mắc này!

 

(Sao) Đáp: Thương minh nạp bách xuyên nhi bất dật.

()答:滄溟納百川而不溢。

(Sao: Đáp: Biển thẳm dung nạp trăm sông mà chẳng đầy tràn).

“Thương minh” (滄溟) là biển cả. Nước từ sông ngòi lớn nhỏ đều đổ vào biển cả, chảy suốt ngày từ sáng đến tối, chảy suốt mấy ngàn năm, cũng chẳng thấy biển cả đầy tràn. Đây là sánh ví Tây Phương Cực Lạc thế giới giống như biển cả, người vãng sanh từ mười phương ví như nước từ sông ngòi.

 

(Sao) Minh kính hàm vạn tượng nhi hữu dư.

()明鏡含萬象而有餘。

(Sao: Gương sáng thừa sức chứa đựng muôn hình tượng).

Lại dùng gương để tỷ dụ. Tấm gương ấy chẳng lớn, nhưng gương soi cảnh giới bên ngoài rành mạch, rõ ràng, [cảnh giới bên ngoài] đều được soi trong ấy, gương chẳng lộ vẻ bị tràn ngập.

 

(Sao) Huống Tịnh Độ hồ!

()況淨土乎。

(Sao: Huống hồ Tịnh Độ!)

Huống hồ Tịnh Độ của Phật? Tịnh Độ của Phật rốt cuộc là như thế nào? Bốn câu dưới đây sẽ nói rõ:

 

(Sao) Tức tâm thị độ, tức độ thị tâm, dĩ tâm quy tâm, hà phất dung dã?

()即心是土,即土是心,以心歸心,何弗容也。

(Sao: Tâm chính là cõi, cõi chính là tâm, dùng tâm để quy vào tâm, lẽ đâu chẳng dung nạp được?)

Câu giải đáp này hoàn toàn là chân tướng sự thật, mà cũng chính là “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà” như nhà Phật đã nói, là cảnh giới “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại” trong kinh Hoa Nghiêm. Vì sao có thể vô ngại? Chính là do hai câu này: “Tức tâm thị độ, tức độ thị tâm” (Tâm chính là cõi, cõi chính là tâm). Chúng tôi chỉ cần thay thế “tâm”“độ” bằng chữ khác, chư vị sẽ hiểu rõ: Đổi Tâm thành Tánh, đổi Độ thành Tướng. Tánh chính là Tướng, Tướng chính là Tánh, Tánh và Tướng như nhau, Tánh và Tướng chẳng hai, há có lớn, nhỏ? Há có nhiều, ít? Chúng sanh trong mười phương thế giới niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ chính là “dĩ tâm quy tâm” (dùng tâm để quy vào tâm), lẽ nào chẳng thể dung nạp lẫn nhau? Y báo và chánh báo trang nghiêm trong hư không pháp giới đều là những vật được biến hiện bởi tự tâm. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, đó là chân tâm, đó là bản tánh. Tây Phương Cực Lạc thế giới là Pháp Tánh Độ, chẳng giống thế giới này. Thế giới này của chúng ta là Pháp Tướng Độ. Chỗ Pháp Thân đại sĩ ngự được gọi là Nhất Chân pháp giới. Pháp giới của chúng ta là mười pháp giới, mười pháp giới là Pháp Tướng Độ; Nhất Chân pháp giới là Pháp Tánh Độ. Điều này chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh phi khứ, lai, kim, thị dĩ sanh, kim sanh, đương sanh nghĩa.

(Diễn) Tự tánh phi khứ, lai, kim, thị dĩ sanh, kim sanh, đương sanh nghĩa giả. Nhược ngôn quá khứ dĩ sanh, hiện tại kim sanh, vị lai đương sanh, thử tắc tam tế thiên lưu, tứ tướng lưu chuyển, phi sanh Tịnh Độ, nãi sanh Sa Bà dã. Duy tự tánh bất lạc tam tế, nãi dĩ sanh, kim sanh, đương sanh nghĩa dã.

()稱理,則自性非去來今,是已生今生當生義。

()自性非去來今 。是已生今生當生義者 。若言過去

已生。現在今生。未來當生。此則三際遷流。四相流轉。非生淨土。乃生娑婆也。唯自性不落三際。乃已生今生當生義也。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh chẳng phải là quá khứ, vị lai, hiện tại chính là ý nghĩa “đã sanh, nay sanh, sẽ sanh”.

Diễn: Tự tánh chẳng phải là quá khứ, vị lai, hiện tại, chính là ý nghĩa “đã sanh, nay sanh, sẽ sanh”: Nếu nói quá khứ là đã sanh, hiện tại là nay sanh, vị lai là sẽ sanh, thì chính là chuyển dời theo ba đời, bị lưu chuyển theo bốn tướng (thành, trụ, hoại, không), chẳng phải là sanh Tịnh Độ, mà là sanh trong Sa Bà! Chỉ có tự tánh chẳng rơi vào ba đời thì mới là ý nghĩa “đã sanh, nay sanh, sẽ sanh”).

Nói xứng tánh, trong Chân Như bản tánh, chẳng có quá khứ, hiện tại, tương lai, chẳng có ba đời, mà cũng chẳng có mười phương. Nếu có mười phương thì còn có xa, gần; có ba đời thì còn có trước, sau. Chẳng có mười phương, bèn chẳng có ba đời; thưa cùng chư vị, chẳng có trước, sau, mà cũng chẳng có xa, gần. Những điều này toàn là chân tướng sự thật, nhưng lũ phàm phu chúng ta rất khó lý giải. Nguyên nhân ở chỗ nào? Vì chúng ta chấp trước có mười phương, chấp trước có ba đời, [sự chấp trước ấy] đã cứng chắc, không có gì phá được, biến thành một thứ thói quen. Nghe đức Phật giảng cảnh giới chân thật này, chúng ta đâm ra cảm thấy hết sức xa lạ, khó thể tiếp nhận. Trên thực tế, những gì đức Phật đã nói chính là chân tướng, còn [những gì] chúng ta trông thấy chính là giả tướng.

 

(Sao) Vạn niên nhất niệm, hà cổ phi kim. Nhất niệm vạn niên, hà kim bất cổ?

(Diễn) Vạn niên nhất niệm giả, thập thế cổ kim, thỉ chung bất ly đương niệm cố. Vạn niên vi cổ, nhất niệm vi kim. Vạn niên nhất niệm, hà cổ nhi phi kim? Nhất niệm vạn niên giả, nhất niệm phổ quán vô lượng kiếp dã. Nhất niệm vi kim, vạn niên vi cổ. Nhất niệm vạn niên, hà kim nhi phi cổ, hà cổ phi kim? Dĩ kim đoạt cổ dã. Hà kim phi cổ? Dĩ cổ đoạt kim dã. Hỗ đoạt lưỡng vong, tắc cổ kim không hỹ. Tọa đoạn tam tế, đương xứ Tây Phương.

()萬年一念,何古非今;一念萬年,何今不古。

()萬年一念者 。十世古今 。始終不離當念故。萬年

為古。一念為今。萬年一念。何古而非今。一念萬年者。一念普觀無量劫也。一念為今。萬年為古。一念萬年。何今而非古。何古非今。以今奪古也。何今非古。以古奪今也。互奪兩亡。則古今空矣。坐斷三際。當處西方。

(Sao: Vạn năm là một niệm, có gì là xưa mà chẳng phải là nay; một niệm là vạn năm, có gì là nay mà chẳng phải là xưa?

Diễn: “Vạn năm là một niệm”: Do mười đời, xưa nay, từ đầu đến cuối chẳng lìa một niệm ngay trong hiện tại. Vạn năm là cổ, một niệm là kim (hiện tại). Vạn năm là một niệm, có cổ nào chẳng phải là kim? Một niệm là vạn năm, một niệm quán khắp vô lượng kiếp. Một niệm là kim, vạn năm là cổ. Một niệm là vạn năm, có kim nào chẳng phải là cổ? Có cổ nào chẳng phải là kim? Đó là dùng kim để đoạt cổ. Có kim nào chẳng phải là cổ? Đó là dùng cổ để đoạt kim. Hai bên đoạt lẫn nhau, cho nên cùng mất sạch. Vì vậy, cổ lẫn kim đều rỗng không. Dứt bặt ba đời, ngay nơi đây chính là Tây Phương).

“Vạn năm” là thời gian rất dài, “nhất niệm” là thời gian rất ngắn. Vạn năm có thể rút gọn thành một niệm, thời viễn cổ cũng biến thành hiện tại. Một niệm có thể biến thành vạn năm, cho nên hiện tại cũng có thể biến thành viễn cổ. Chư vị phải đọc kỹ hai câu này, trong ấy có huyền cơ, tức là “nhất niệm”. Trong “một”, chẳng có phân biệt, chấp trước, chẳng có chướng ngại. Hai niệm bèn có phân biệt, chấp trước, tức là có chướng ngại. Người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ai nấy đều chứng đắc nhất tâm bất loạn. Nay đã niệm đến mức nhất tâm bất loạn, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, phẩm vị của quý vị càng cao. Nay chưa niệm đến mức nhất tâm bất loạn, chúng ta thường nói là “chỉ niệm đến mức công phu thành phiến”, khi A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chúng ta vãng sanh, Phật quang vừa chiếu gội, tội của chúng ta liền diệt, nghiệp chướng cũng chẳng còn, bèn đắc nhất tâm. Bản thân chúng ta là công phu thành phiến, Phật đến tiếp dẫn, Phật quang vừa gia trì, chúng ta được nâng cao thành nhất tâm bất loạn. Điều này chẳng phải là do chúng ta tu được, mà là do Phật gia trì bèn đạt được. Do như vậy mà đạt được nhất tâm bất loạn. Vì thế, người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới có trí huệ và thần thông to tát dường ấy, đạo lý ở ngay chỗ này. Đó là do được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì.

Một niệm không chỉ là một vạn năm!  “Vạn”  chẳng  phải  là  một con số, [mà có nghĩa] là vô lượng. Vô lượng kiếp có thể biến thành một niệm, đều ở ngay trong hiện tiền! Chẳng có ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai; ba đời đều là cảnh giới hiện tiền, cũng chẳng có mười phương xa hay gần, hết thảy các cõi Phật đều ở ngay trước mặt. Chúng ta rất khó tưởng tượng cảnh giới ấy, cho nên gọi nó là “chẳng thể nghĩ bàn”. Có đôi chút giống như phim lập thể (3D) trong hiện thời: Vô lượng vô biên cõi nước đều ở ngay trước mắt, tùy thuộc ý niệm của quý vị. Ý niệm là sóng, giống như sóng điện, mong thấy thế giới nào, thế giới ấy bèn hiện tiền, chính mình tiến nhập. Vì thế, xác thực là chẳng có xa, gần, trước, sau. Đã thành Phật, chẳng thể nói vị nào là Phật trước, vị nào là Phật sau, chẳng có! Nếu còn có Phật trước, Phật sau, thưa cùng chư vị, đó là Phật trong mười pháp giới, tuyệt đối chẳng phải là Nhất Chân pháp giới. Trong mười pháp giới thì có xa, gần, có trước, sau; vượt thoát mười pháp giới, bèn chẳng có xa, gần, chẳng có trước, sau. Đây là nêu ra Lý. Sau khi đã hiểu rõ Lý, Sự bèn dễ hiểu.

 

(Sao) Tắc niệm niệm du hành lạc quốc.

()則念念遊行樂國。

(Sao: Tức là niệm nào cũng dạo chơi cõi an vui).

“Lạc quốc” là cõi nước của hết thảy chư Phật, nơi Phật ngự đều là Tịnh Độ.

 

(Sao) Thời thời lễ cận từ tôn.

()時時禮覲慈尊。

(Sao: Lúc nào cũng lễ bái, thân cận đức Từ Tôn).

“Từ tôn” (慈尊) là mười phương hết thảy chư Phật Như Lai. Khi ấy, chẳng phải là thân cận một vị Phật, hai vị Phật, mà là đồng thời thân cận vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, đồng thời nhiếp nhập vô lượng vô biên cõi nước của chư Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói “trùng trùng vô tận pháp giới”. Kinh Hoa Nghiêm dùng “Nhân Đà La võng” (cái lưới của Indra, tức lưới của Đế Thích) để tỷ dụ sự trùng trùng vô tận, là một cảnh giới như thế đó. Quốc sư Hiền Thủ ở trong hoàng cung giảng cảnh giới này, mọi người nghe xong, cảm thấy rất khó hiểu. Quốc sư Hiền Thủ xin hoàng đế dựng một cái đình bát giác, ở mỗi cạnh đều đặt một tấm gương lớn. Tám tấm gương chiếu lẫn nhau. Sư mời đế vương đứng ở giữa, [nhà vua và quần thần thấy] bốn phương tám hướng chẳng biết có bao nhiêu thân thể! Trùng trùng nhiếp nhập giống như cảnh giới ấy, họ bèn thấu hiểu. Đồng thời hiện thân, đồng thời nhiếp nhập trong vô lượng vô biên các cõi nước của chư Phật, xác thực là cảnh giới ấy, chẳng có cõi nào không hiện thân. Đấy mới là chứng minh “kiến thế chi trung dĩ thuận giác lộ” (ngay trong hiện đời, đã đi theo đúng con đường giác ngộ), chỉ rõ đại đạo Vô Thượng Bồ Đề chẳng có thứ lớp, viên mãn rốt ráo.

 

(Sao) Thùy phi vãng sanh giả.

(Diễn) Thùy phi vãng sanh giả, thử xuất tam tế thời dã.

()誰非往生者。

()誰非往生者。此出三際時也。

(Sao: Có ai chẳng phải là người vãng sanh?

Diễn: “Có ai chẳng phải là người vãng sanh”: Đấy chính là vượt thoát thời gian bị hạn cuộc trong ba đời vậy).

 Có kẻ nào chẳng phải là người vãng sanh? Dưới đây là nói đến ba thứ tâm bất khả đắc.

 

(Sao) Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc. Ký vô kỳ tâm, thùy thị vãng sanh giả?

(Diễn) Quá khứ hạ, tam tế cầu tâm, tâm bất hữu. Tâm bất hữu xứ, vọng nguyên vô. Vọng nguyên vô xứ tức Bồ Đề. Sanh tử Niết Bàn bổn bình đẳng. Tắc thùy thị vãng sanh giả, thử không tam tế tâm dã. Hựu thùy thị vãng sanh giả, sanh nhi vô sanh dã. Thùy phi vãng sanh giả, vô sanh nhi sanh dã.

()過去心不可得,現在心不可得,未來心不可得,既無其心,誰是往生者。

()過去下。三際求心心不有。心不有處妄元無。妄元無處即菩提。生死涅槃本平等。則誰是往生者。此空三際心也。又誰是往生者。生而無生也。誰非往生者。無生而生也。

(Sao: Tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được. Đã không có những tâm ấy, ai là người vãng sanh?

Diễn: Từ chữ “quá khứ” trở đi, cầu tâm nơi ba đời, tâm chẳng có. Tâm đã chẳng có ở bất cứ nơi đâu, thì vọng vốn là không. Vọng vốn là không thì chính là Bồ Đề. Sanh tử và Niết Bàn vốn bình đẳng, cho nên ai là người vãng sanh? Đấy chính là chẳng có cái tâm ba đời. Lại nữa, ai là người vãng sanh? Do sanh mà vô sanh vậy! Có ai chẳng phải là người vãng sanh? Chính là vì vô sanh mà sanh vậy).

Ở chỗ này bèn dung hợp hai câu hỏi lại.

 

(Sao) Vô sanh nhi sanh.

()無生而生。

(Sao: Vô sanh mà sanh).

“Vô sanh mà sanh, sanh mà vô sanh”, từ chỗ này diễn dịch thành hai vấn đề ấy.

 

(Sao) Thị danh dĩ sanh, kim sanh, đương sanh.

()是名已生今生當生。

(Sao: Gọi là đã sanh, nay sanh và sẽ sanh).

Quý vị thật sự hiểu rõ đạo lý và chân tướng sự thật này, sẽ có thể thấu hiểu ý vị “dĩ sanh, kim sanh, đương sanh” do đức Phật đã nói. Đức Phật nói lời này chính là lời lẽ phương tiện dành cho đại chúng hiện tiền chúng ta, tức là nói tùy thuận Tục Đế, [ngõ hầu] chúng ta sẽ nghe hiểu, có thể lý giải. Nếu chẳng tham thấu triệt Lý, chẳng sao cả! Cứ tin tưởng nơi Sự là được rồi! Đã phát nguyện, đã sanh, hiện thời phát nguyện, hiện thời vãng sanh; tương lai gặp được pháp môn này bèn phát nguyện, trong tương lai nhất định được vãng sanh. Quý vị đã hiểu rõ nơi mặt Sự, có thể tin sâu chẳng nghi, sẽ đạt được lợi ích.

 

Tam, tổng kết tín nguyện.

(Kinh) Thị cố, Xá Lợi Phất! Chư thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ.

三、總結信願

()是故舍利弗。諸善男子善女人。若有信者。應當發願。生彼國土。

(Ba, tổng kết tín nguyện.

Kinh: Do vậy, Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân, nếu là người có lòng tin, hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước ấy).

Đây là khuyên lần thứ tư. Kinh Di Đà chẳng dài, là một bộ kinh nhỏ, ngắn ngủi như thế, [thế mà] ở trong ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật bốn lần khuyên dạy chúng ta. Đúng là một rồi hai lượt, hai lượt rồi ba lượt, ba lượt rồi bốn lượt, chẳng ngại phiền khuyên lơn chúng ta vãng sanh. Chư vị còn phải ghi nhớ: Chẳng phải là một mình Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên, mà là sáu phương chư Phật cùng khuyên. Sáu phương chư Phật đại diện cho mười phương hết thảy chư Phật Như Lai, thảy đều khuyên nhủ. [Thế mà] còn có kẻ dẫu được khuyên vẫn cứ trơ trơ! Kẻ ấy nghiệp chướng rất nặng, hết thảy chư Phật khuyên nhủ, kẻ ấy vẫn chẳng động tâm. Người hơi có thiện căn và phước đức, đọc kinh văn như vậy, trông thấy cảnh giới ấy, có lẽ nào chẳng phát nguyện? Trong các kinh điển khác, chúng ta chưa từng thấy điều này. Tuy Tịnh Tông có ba kinh, thiết yếu nhất là kinh Di Đà. Kinh Vô Lượng Thọ giới thiệu cặn kẽ, nhưng chẳng nhọc công khuyên lơn như thế, chẳng có bốn lần khuyên nhủ. Hết thảy chư Phật Như Lai bốn lần khuyên lơn, khích lệ chúng ta, chỉ có mình bộ kinh này! Nếu được khuyên mà vẫn cứ trơ trơ, kẻ ấy phải là phường Nhất Xiển Đề như trong kinh đã nói, chẳng có thiện căn!

Trong bản kinh này, nơi trang bốn trăm mười bốn, kinh văn chép: “Xá Lợi Phất! Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc” (Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh nghe vậy, hãy nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy). Đó là khuyên lần đầu. Kinh văn nơi trang năm trăm mười hai chép: “Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn. Nhược hữu chúng sanh, văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ” (Này Xá Lợi Phất! Ta thấy điều lợi ấy, nên nói lời đó. Nếu có chúng sanh, nghe lời nói ấy, hãy nên phát nguyện, sanh vào cõi ấy). Đấy là khuyên lần thứ hai. Kinh văn trong trang năm trăm sáu mươi lăm có chép: “Thị cố Xá Lợi Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết” (Do vậy, Xá Lợi Phất! Các ông hãy nên tin lời ta và lời chư Phật đã nói). Đó là khuyên lần thứ ba. Nay chúng ta thấy ở chỗ này: “Nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ” (Nếu có kẻ nào tin tưởng, hãy nên phát nguyện, sanh vào cõi nước ấy). Đó là khuyên lần thứ tư. Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội, chưa từng thuyết pháp kiểu ấy. Quý vị mới biết kinh này có tầm trọng yếu ngần ấy đối với hết thảy đại chúng học Phật.

 

(Sớ) Thượng ngôn hữu nguyện tất sanh.

()上言有願必生。

(Sớ: Trong phần trước có nói: “Có nguyện ắt sanh”).

Trong một đoạn kinh văn ở phần trước có nói [như thế].

 

(Sớ) Tắc nhân quả lịch nhiên.

()則因果歷然。

(Sớ: Tức là nhân quả rành rành).

“Lịch” (歷) là rành mạch, rõ ràng. Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Niệm Phật thành Phật, nhân quả ấy rành mạch, rõ ràng. Đó là chánh đạo Bồ Đề.

Thuở tôi mới học Phật, tức là hơn bốn mươi năm trước. Khi đó, tôi hai mươi sáu tuổi. Chương Gia đại sư giới thiệu tôi đọc Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận của ngài Tông Khách Ba (Tsong Khappa). Ngài Tông Khách Ba là thầy của đại sư [Chương Gia]. Bốn vị lạt-ma Đạt Lại (Dalai), Ban Thiền (Panchen), Triết Bố Tôn Đan Ba (Jebtsundamba Khutuktu), và Chương Gia (lCang-skya, Zangia Hutagt) đều là học trò của ngài Tông Khách Ba. Chúng tôi gặp kinh này mới biết: Pháp môn này chẳng cần thứ lớp, chẳng cần rắc rối như vậy, mà đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, nhanh chóng. Lại còn thành tựu rốt ráo viên mãn. Chúng ta đọc lời khai thị về Niệm Phật của Ngẫu Ích đại sư, đối với những câu nói của lão nhân gia, thật sự khẳng định, hoàn toàn tin tưởng: Xác thực là viên siêu (圓超: siêu việt viên mãn), viên thâu (圓收: “thâu” là bao dung). Bộ kinh A Di Đà này siêu việt viên mãn hết thảy các kinh điển, bao hàm viên mãn hết thảy các kinh điển. Không chỉ là những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, mà kinh do mười phương hết thảy chư Phật Như Lai đã nói, đều chẳng thể vượt ra ngoài kinh A Di Đà! Tất cả đều thuộc trong phạm vi của bộ kinh này. Chuyện này thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Tuy kinh Di Đà được lưu truyền rất rộng, mọi người dùng kinh này để niệm trong khóa tối, [thế mà] người hiểu rõ chân tướng sự thật này, chẳng có mấy ai! Vì vậy, tụng kinh niệm Phật “miệng có, tâm không”, nguyên nhân là vì chưa hiểu rõ ràng. Nếu thật sự hiểu rõ ràng, hiểu minh bạch, đọc, tụng, thọ trì sẽ là cảm ứng đạo giao, hiệu quả hoàn toàn khác hẳn!

 

(Sớ) Kỳ khủng bất tín.

()祇恐不信。

(Sớ: Chỉ sợ không tin).

Kẻ không tin rất nhiều. Vì thế, pháp môn này được gọi là “pháp khó tin”.

 

(Sớ) Dữ tín nhi bất nguyện nhĩ.

()與信而不願耳。

(Sớ: Và kẻ tin mà chẳng nguyện).

Còn có kẻ có thể tin. Tuy có thể tin, kẻ ấy chẳng phát tâm vãng sanh Tịnh Độ, chẳng muốn đến Tịnh Độ. Vì sao kẻ ấy chẳng mong vãng sanh? Kẻ đó chẳng biết lợi ích chân thật của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu kẻ ấy biết, sức mạnh nào cũng đều chẳng ngăn cản kẻ ấy được, quyết định sẽ vãng sanh.

 

(Sớ) Cố tổng kết tín nguyện, ngôn: “Bất tín tắc dĩ, nhược hữu tín giả, ưng đương nguyện vãng”. Thị vi đệ tứ trùng khuyến.

()故總結信願,言不信則已,若有信者,應當願往,是為第四重勸。

(Sớ: Vì thế, tổng kết tín nguyện, nói: “Kẻ chẳng tin thì thôi. Nếu là người đã tin, hãy nên nguyện vãng sanh”. Đó là khuyên lần thứ tư).

“Trùng” (重) là lặp lại, khuyên chúng ta lần thứ tư.

 

(Sao) Đệ tứ khuyến giả, tùng sơ nhi tái, giai minh phát nguyện cầu sanh.

()第四勸者,從初而再,皆明發願求生。

(Sao: Khuyên lần thứ tư: Từ lần đầu cho đến lần thứ hai đều nói rõ: [Người nghe kinh này], hãy nên phát nguyện cầu sanh).

[Đó là nội dung của lời khuyên] lần đầu và lần thứ hai.

 

(Sao) Chí ư tam trung, phục minh nguyện tùng tín khởi.

()至於三中,復明願從信起。

(Sao: Cho đến lần thứ ba, lại nói rõ nguyện do tín mà khởi).

 Khuyên lần thứ ba là khuyên chúng ta nhất định phải tin tưởng lời đức Phật dạy, quyết định chớ nên hoài nghi. Nếu không, quý vị sẽ bỏ lỡ lợi ích thù thắng ấy, đúng là quá đáng tiếc. Điều này nói thật ra là “trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”, đúng vậy, chẳng giả tí nào! Chúng ta rất may mắn gặp gỡ, đã gặp mà còn bỏ lỡ, quá đáng tiếc! Đây là nói rõ: Nguyện sanh khởi từ Tín.

 

(Sao) Như thượng tam trùng, chỉ thị khuyến thuyết ưng đương phát nguyện, vị hiển phát nguyện công đức.

()如上三重,止是勸說應當發願,未顯發願功德。

(Sao: Ba lần khuyên trên đây, chỉ là khuyên hãy nên phát nguyện, chưa nói rõ công đức do phát nguyện).

Ba lượt khuyên dạy mà chẳng nói rõ công đức của việc phát nguyện.

 

(Sao) Kim ngôn quá, vị, hiện tại, đản hữu nguyện giả, vô nhất bất sanh, phương tri nguyện lực như thị quảng đại, yên khả bất tín, yên khả bất nguyện, cố vân tứ khuyến, cố vân tổng kết.

()今言過未現在,但有願者,無一不生,方知願力如是廣大,焉可不信,焉可不願,故云四勸,故云總結。

(Sao: Nay nói: Quá khứ, vị lai, hiện tại, chỉ cần là người có nguyện, không một ai chẳng vãng sanh, mới biết nguyện lực rộng lớn như thế, há nên chẳng tin, há nên chẳng nguyện? Vì vậy, nói là “khuyên lần thứ tư”, nói là “tổng kết”).

Đến chỗ này, công đức và lợi ích do phát nguyện đều nói rõ ràng. Quá khứ phát nguyện, bèn vãng sanh trong quá khứ. Hiện tiền phát nguyện, hiện tiền vãng sanh. Tương lai phát nguyện, tương lai nhất định vãng sanh. Lợi ích đều được nêu ra. Vì thế, trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã bảo: Có thể vãng sanh Tịnh Độ hay không, “hoàn toàn do có tín nguyện hay không” chính là đã căn cứ vào phần kinh văn của bốn lần khuyên lơn để nói. Phẩm vị cao hay thấp là “do công phu trì danh sâu hay cạn”. Vãng sanh chỉ cần trọn đủ tín nguyện, lâm chung một tiếng hoặc mười tiếng Phật hiệu, cũng đều vãng sanh. Trong ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh, lâm chung một niệm hay mười niệm, người ấy cũng có Hạnh. Vì thế, điểm then chốt để vãng sanh là tín nguyện, do công phu trì danh mà phẩm vị sanh vào thế giới Tây Phương sẽ cao hay thấp. Do vậy, chúng ta phải phát nguyện vãng sanh, phải nhất tâm trì danh. Vì sao? Phẩm vị cao hay thấp trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là thật, là điều chúng ta có thể đạt được, chứ tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian này, hết thảy đều giả trất, thứ gì cũng đều chẳng đem theo được! Chẳng đem theo được, mà lãng phí quá nhiều tinh lực và thời gian trong đó, thì gọi là “ngu si”. Người thật sự tu hành, đối với hết thảy mọi thứ trong thế gian này, bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thảy đều hoan hỷ, hết thảy đều tùy duyên, đều là rất tốt đẹp, đều chẳng có chuyện gì! Điều thật sự khẩn yếu là nắm chắc câu Phật hiệu, điều đó là khẩn yếu! Chúng ta mang điều ấy theo được. Đấy chính là chúng ta đã biết công đức và lợi ích chân thật. “Yên khả bất tín” (Há nên chẳng tin), có thể nào chẳng tin? Có thể nào chẳng phát nguyện?

 

(Sao) Trí Giả vân.

()智者云。

(Sao: Ngài Trí Giả nói).

Đời Tùy, Thiên Thai Tông Trí Giả đại sư.

 

(Sao) Hỏa xa tướng hiện, thượng đắc vãng sanh, Giới Định huân tu, công bất khả đường quyên hỹ, tín chi chí dã.

()火車相現,尚得往生,戒定薰修,功不可唐捐矣,信之至也。

(Sao: Tướng xe bốc lửa hiện, còn được vãng sanh. Giới Định huân tu, công chẳng luống uổng, tin tưởng tột bậc vậy).

Đây là tín tâm đạt đến tột bậc! “Hỏa xa tướng hiện”: “Hỏa xa” chính là Hỏa Xa địa ngục. Khi còn là phàm phu tu hành, Thích Ca Mâu Ni Phật đã từng đọa vào Hỏa Xa địa ngục. Kinh Phật Bổn Hạnh có chép câu chuyện này. Đức Phật nói Ngài ở trong Hỏa Xa địa ngục. Tình huống trong Hỏa Xa địa ngục là như thế nào? Tội nhân kéo cái xe bốc lửa, [nghĩa là] xe ấy được nung đến mức sắt cháy đỏ rực, [quỷ sứ] rút gân tội nhân làm thừng để kéo cái xe đó. Chịu tội khổ trong địa ngục ấy, khổ chẳng thể nói nổi! Nhóm Thích Ca Mâu Ni Phật [thuở ấy] là mấy người kéo một xe. Ngài thấy mọi người rất đáng thương, bèn cầu xin quỷ tốt ngưu đầu mã diện (đầu trâu mặt ngựa): “Người kế bên tôi khổ quá, rút gân chẳng được. Rút thêm một sợi gân của tôi để thế cho người ấy, có được hay không?” Tên tiểu quỷ ấy vung lang nha bổng[76] đập chết Thích Ca Mâu Ni Phật: “Ngươi còn có hảo tâm toan giúp đỡ họ ư!” Một bổng đập chết Ngài, do bị đập chết trong địa ngục, Ngài bèn siêu sanh. Phát một niệm từ bi tâm, bèn từ địa ngục siêu sanh.

 

(Diễn) Hỏa xa tướng hiện giả, Quán Kinh hạ phẩm văn vân: “Hoặc hữu chúng sanh, thâu tăng-kỳ vật, bất tịnh thuyết pháp, vô hữu tàm quý, dĩ chư ác nghiệp, nhi tự trang nghiêm. Như thử ác nhân, mạng dục chung thời, địa ngục chúng hỏa, nhất thời câu chí. Ngộ thiện tri thức, giáo linh niệm Phật, tầm đắc vãng sanh”.

()火車相現者,觀經下品文云:或有眾生,偷僧祇物,不淨說法,無有慚愧,以諸惡業,而自莊嚴。如此惡人,命欲終時,地獄眾火一時俱至。遇善知識,教令念佛,尋得往生。

(Diễn: “Tướng xe lửa hiện”: Phần Hạ Phẩm trong Quán Kinh có nói: “Nếu có chúng sanh trộm đồ vật Tăng-kỳ, bất tịnh thuyết pháp, chẳng hề hổ thẹn, dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm. Kẻ ác như vậy, khi mạng sắp hết, các thứ lửa trong địa ngục cùng lúc ùa tới. Gặp thiện tri thức, dạy kẻ ấy niệm Phật, liền được vãng sanh”).

Hiện thời kẻ hữu ý hay vô tình phạm tội này chẳng ít. Có lắm kẻ phạm phải tội lỗi này, nhưng xác thực là chính họ không biết, lại còn chẳng biết do phạm những tội lỗi ấy, trong tương lai sẽ mắc phải khổ báo nặng nề dường ấy. Tuy đọc kinh văn, cũng luôn là hồ đồ, đọc loáng thoáng lướt qua, giống như chẳng có gì liên quan tới chính mình, có thể nói là rất hời hợt, vô ý! “Thâu Tăng-kỳ vật”: Tăng-kỳ là tăng đoàn, nay chúng ta nói là đạo tràng Phật giáo. “Thâu đạo” (偷盜: trộm cắp) là không cho mà lấy. Đừng nói là người bình phàm dùng trộm vật của thường trụ tội rất nặng, người xuất gia cũng chẳng được phép; nhưng hiện thời, Phật pháp chỗ nào cũng suy vi đến tột cùng, đoàn thể Phật giáo thật sự đúng như pháp tôi chưa hề thấy, mà cũng chẳng hề nghe nói tới. Thế nhưng chúng tôi hết sức mong mỏi có một đoàn thể đúng pháp như vậy xuất hiện trên thế gian này, chúng tôi thường nói là “tăng đoàn Lục Hòa Kính”. Nay tuy chúng ta nói tới Lục Hòa Kính, ở ngoài mặt thì hòa hợp khá lắm, bên trong vẫn là bất hòa, [nguyên nhân là do] cách nghĩ và cách nhìn khác biệt. Chỉ cần có cách nghĩ và cách nhìn khác biệt, sẽ vĩnh viễn chẳng có cách nào đạt tới hòa kính. Tăng đoàn Lục Hòa thật sự kiến lập từ nơi đâu? Chính là cách nghĩ và cách nhìn của chính mình thảy đều bỏ hết, hoàn toàn chẳng đòi hỏi [kẻ khác phải chấp nhận] cách nghĩ của chính mình là chánh xác, “các ngươi phải giống hệt như ta”, chẳng phải là như vậy! Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng đòi hỏi kẻ khác như thế. Thích Ca Mâu Ni Phật là tất cả hết thảy tri kiến và cách nghĩ thảy đều buông bỏ, tâm địa sạch làu làu, chẳng nhiễm mảy trần, chẳng sanh một niệm. Mỗi người trong đoàn thể đại chúng đều buông xuống, tâm mỗi người đều thanh tịnh, chẳng sanh một niệm. Đó là Kiến Hòa Đồng Giải, được kiến lập như thế đó. Đối với cách nói này của đức Phật, chúng ta quả thật bội phục!

“Bất tịnh thuyết pháp”: Phương thức hoằng pháp rất nhiều, không chỉ là thuyết pháp trên giảng đài. Nhưng hoằng pháp mà nghĩ tới tiếng tăm, lợi dưỡng, đó là bất tịnh. Hễ có mảy may tâm phan duyên tiếng tăm, lợi dưỡng, đó là bất tịnh thuyết pháp. Làm chuyện hoằng pháp lợi sanh, dẫu cho [làm chuyện ấy vì] danh lợi, [dẫu] chính mình chẳng hưởng thụ [danh lợi ấy] thì vẫn không được, tâm quý vị chẳng thanh tịnh. Điều này hết sức quan trọng! Người thế gian tưởng làm chuyện tốt chính là chuyện tốt đẹp, chưa chắc! Bàng cư sĩ đã dạy chúng ta: “Chuyện tốt chẳng bằng vô sự”, “vô sự” mới là chuyện tốt đẹp thật sự. Chư Phật, Bồ Tát trong tận hư không khắp pháp giới thị hiện các thứ thân, các thứ tướng hòng lợi ích hết thảy chúng sanh. Các Ngài là “làm mà chẳng làm, chẳng làm mà làm”. Các Ngài chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, điều gì cũng đều chẳng mong cầu, cũng chẳng thấy là cái do chính mình có. Tâm thanh tịnh, làm mà không làm. Tuyệt đối chẳng suy tưởng phan duyên làm chuyện gì, [hễ phan duyên] thì sai mất rồi! Tùy duyên, chẳng phan duyên. Hễ phan duyên, tâm chúng ta chẳng thanh tịnh.

“Vô hữu tàm quý, dĩ chư ác nghiệp, nhi tự trang nghiêm” (Chẳng hề hổ thẹn, dùng các ác nghiệp để tự trang nghiêm): Tạo tác các thứ ác nghiệp, vẫn cứ tự tưởng là thanh danh rất lớn, rất nổi tiếng, có địa vị cao cả trong xã hội. Kẻ ấy muốn làm chuyện ấy, ngỡ đó là tự trang nghiêm chính mình. Làm theo kiểu đó, trọn chẳng biết là tạo tội nghiệp, quả báo trong tương lai là địa ngục A Tỳ, hết sức đáng thương! Hiện thời phong khí trong xã hội cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Khắp nơi trên toàn thế giới gào rống: “Bảo vệ quyền tài sản trí huệ”. Danh từ này mấy năm gần đây mới nghe thấy, trước kia chẳng có! Bảo vệ quyền tài sản trí huệ, trên thực tế là đảm bảo quý vị đọa địa ngục!

Đặc biệt là đối với Phật pháp, Phật pháp là trí huệ. Trí huệ của Phật pháp nhằm lợi ích và phổ độ chúng sanh. Kinh Hoa Nghiêm có dạy: Nếu chẳng hoằng pháp, độ chúng sanh, chẳng thể gọi là người báo đáp ân Tam Bảo. Chúng ta báo đáp ân đức của Phật, Bồ Tát, chỉ có một chuyện là hoằng pháp lợi sanh, lưu thông Phật pháp. [Kẻ hô hào bảo vệ quyền tài sản trí huệ trong Phật pháp] đã ngăn cấm Phật pháp, chẳng cho phép lưu thông! Ngay cả ấn hành kinh sách, hiện thời, tôi thấy người ta tặng cho một bộ kinh Hoa Nghiêm, phía sau, trên trang ghi bản quyền có đề: “Sở hữu bản quyền, chẳng được phép in lại”. Thành ra thể thống chi nữa? Kinh Hoa Nghiêm nghiễm nhiên trở thành bản quyền của kẻ đó, thành [tài sản riêng] của kẻ đó. Chẳng phải rõ ràng là đã ăn trộm bản quyền của Thích Ca Mâu Ni Phật ư? Trong tương lai, đọa vào địa ngục A Tỳ, có chối cũng chẳng được, vừa thấy chuyện bản quyền, chứng cứ ở ngay đây nè! Đừng nói là Phật, Bồ Tát, [ngay cả] cổ thánh tiên hiền cũng niệm niệm đều hy vọng người khác tốt đẹp, niệm niệm đều hy vọng giúp đỡ xã hội an định, phồn vinh, giúp đỡ hết thảy chúng sanh có thể đạt được hạnh phúc mỹ mãn. Người ta in lại, hoan hỷ còn chưa xuể, lẽ đâu còn muốn giữ bản quyền? Chưa hề nghe nói! Do vậy, có thể biết: Chúng ta có thể suy ra, con người mai sau ngày càng ngu si, vì mắc phải quả báo ngu si do tiếc pháp. Khi lâm chung, gặp gỡ thiện hữu hoặc thiện tri thức dạy kẻ ấy niệm Phật, đều có thể vãng sanh. Đấy là tín tâm đạt đến tột bậc. Chúng ta niệm Phật, phát nguyện cầu vãng sanh, quyết định được vãng sanh, chẳng có hoài nghi tí nào!

 

(Sao) Vĩnh Minh vân: “Kiếp thạch khả ma, ngã nguyện vô dịch hỹ”. Nguyện chi chí dã.

(Diễn) Kiếp thạch khả ma giả, hữu thạch phương viên đại nhất do- tuần, dĩ chư thiên lục thù y, quá ngũ bách niên, nãi phất nhất thứ, ma thử thạch tận, danh vi nhất kiếp.

()永明云:劫石可磨,我願無易矣。願之至也。

()劫石可磨者。有石方圓大一由旬。以諸天六銖衣。過五百年乃拂一次。磨此石盡。名為一劫。

(Sao: Ngài Vĩnh Minh nói: “Kiếp thạch có thể mòn, nguyện của ta chẳng đổi”. Đó là nguyện đến tột bậc vậy.

Diễn: “Kiếp thạch có thể mòn”: Có một hòn đá vuông vắn một do-tuần, dùng cái áo nặng sáu thù[77] của chư thiên, cứ qua năm trăm năm bèn phất qua tảng đá ấy một lần, cho đến khi mài mòn sạch tảng đá ấy thì gọi là một kiếp).

Đây là đức Phật dùng tỷ dụ để nói. Có một tảng đá lớn, tảng đá ấy lớn cỡ nào? To một do-tuần. Một do-tuần: Tiểu do-tuần là bốn mươi dặm. Một khối đá to ngần ấy! Chất liệu quần áo của chư thiên mặc rất mỏng, rất nhẹ. Mỗi năm trăm năm, vị trời ấy đi qua đó một lần, ống tay áo phất qua [tảng đá đó]. Tới năm nào, tảng đá ấy bị mài mòn hết sạch, bèn gọi là một kiếp. Đây là nói rõ thời gian một kiếp dài bao lâu. Kiếp thạch có thể bị mài mòn, nguyện cầu sanh Tịnh Độ của ta quyết định chẳng thay đổi. Vĩnh Minh đại sư dùng tỷ dụ này để nói, “nguyện chi chí dã” (nguyện đạt tới tột cùng). Vì thế, tín và nguyện của chúng ta đều phải giống như tổ sư vậy.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh như trí minh khế, thị tín nguyện song thành nghĩa.

()稱理,則自性如智冥契,是信願雙成義。

(Sớ:  Xứng  Lý,  Như và Trí trong tự tánh ngầm khế hợp chính là ý nghĩa “tín và nguyện cùng thành tựu”).

 “Tự tánh Như” là nói theo Lý. “Tự tánh Trí” là nói theo Bát Nhã vốn sẵn có. Vạn pháp đều Như, chẳng có pháp nào không Như. Như là tự tánh, là bản thể của tự tánh. Trí và Như là một, chẳng hai, đó là “minh khế” (冥契: ngầm khế hợp). Ông Âu Dương Cánh Vô nói: “Phật giáo chẳng phải là triết học”. Lời ấy bắt nguồn từ đâu? Trong Triết Học, Lý và Sự tách rời, chẳng phải là một. Tâm và vật tách rời, chúng là đối lập, cũng là “tương đối” như chúng ta nói trong hiện tại. Trong Phật pháp, chẳng có tương đối. Tuy Phật pháp nói Nhị Biên, nhưng Nhị Biên là một, chẳng phải là hai; giống như trong Tâm Kinh, Phật pháp nói Sắc và Không, nhưng Sắc và Không là một, chẳng hai: “Sắc chính là Không, Không chính là Sắc”. Trong Triết Học, Sắc là Sắc, Không là Không, Sắc chẳng phải là Không, Không chẳng phải là Sắc. Đó là nói theo Triết Học. Vì thế, Phật pháp chẳng phải là Triết Học. Đấy là từ Tánh và Thể mà nói tới Tín và Nguyện. Tín và Nguyện là một, chẳng hai. Hễ có Tín, quyết định có Nguyện; có Nguyện, đương nhiên là có Tín.

 

(Sao) Thuần nhiên chân thật nhi bất hư giả, tự tánh Như dã, thị chi vị Tín.

()純然真實而不虛者,自性如也,是之謂信。

(Sao: Chân thật, thuần nhất, chẳng hư dối, chính là tự tánh Như. Đó gọi là Tín).

 “Như” là Chân Như, là bản tánh. “Tín” xuất sanh từ chân tánh.

 

(Sao) Xí nhiên xuất sanh nhi vô tận giả, tự tánh trí dã, thị chi vị Nguyện.

()熾然出生而無盡者,自性智也,是之謂願。

(Sao: “Hừng hực xuất sanh vô tận” chính là Tự Tánh Trí, đó gọi là Nguyện).

“Xí” (熾) là tỷ dụ, giống như lửa, cháy hết sức mạnh mẽ. “Tự tánh Trí dã” (Là tự tánh Trí), trí huệ là vô tận. “Thị chi vị Nguyện”: Điều đó gọi là Nguyện.

 

(Sao) Như minh hồ Trí, Trí khế hồ Như.

()如冥乎智,智契乎如。

(Sao: Như ngầm hợp Trí, Trí khế hợp Như).

Như có thể sanh ra Trí, Trí do Như sanh, xác thực là một, chẳng hai. Nói cách khác, một đằng là Thể, một đằng là Dụng. Thể và Dụng là một, chẳng hai.

 

(Sao) Trí ngoại vô Như, Như ngoại vô Trí.

()智外無如,如外無智。

(Sao: Ngoài Trí chẳng có Như, ngoài Như chẳng có Trí).

 Đấy là nói theo Lý. Dưới đây là nói theo Sự.

 

(Sao) Văn Thù tín thủ, cụ túc nhất tâm.

()文殊信首,具足一心。

(Sao: Ngài Văn Thù đứng đầu về Tín, trọn đủ nhất tâm).

Nơi Sự, Văn Thù Bồ Tát biểu thị Tín, có thể sanh ra hết thảy Phật pháp. Văn Thù Bồ Tát là “thất Phật chi sư”, tức là thầy của bảy đức Phật, “bảy” biểu thị sự viên mãn. Hết thảy chư Phật đều từ Tín sanh ra. Văn Thù biểu thị ý nghĩa này. “Cụ túc nhất tâm” (Trọn đủ nhất tâm), nhất tâm là Văn Thù.

 

(Sao) Phổ Hiền nguyện vương, bất ly đương niệm.

()普賢願王,不離當念。

(Sao: Nguyện vương của Phổ Hiền, chẳng lìa ý niệm trong hiện tại).

“Đương niệm” (當念) là nhất niệm, nhất niệm là Phổ Hiền. Nhất tâm là Văn Thù, nhất niệm là Phổ Hiền. Chúng ta nhất tâm niệm Phật, bèn trọn đủ viên mãn Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm ở nơi đâu? Nhất tâm niệm Phật bèn viên mãn! Diệu nghĩa này thật sự chẳng thể nghĩ bàn.

Chư vị đồng tu phải biết: Nếu Ngài (Liên Trì đại sư) chẳng phải là bậc tái lai, sẽ chẳng thể nói như vậy được. Liên Trì đại sư trước tác bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa, gần như quá nửa là dùng kinh Hoa Nghiêm để giải thích kinh A Di Đà, giải thích hết sức viên mãn, chẳng có mảy may thêm thắt khiên cưỡng nào! Vì thế, kinh này xác thực là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm. Thời đầu nhà Thanh, cư sĩ Bành Thiệu Thăng đã nói kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm, kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm. Những vị này đều là bậc thông gia thật sự, thật sự thông đạt. Nếu không, sẽ chẳng nói như thế được! Chúng ta chỉ có thể từ chú sớ nhìn ra những dấu tích ấy. Chúng ta chẳng có cách nào suy lường công phu tu hành của các Ngài trên thực tế, các Ngài tuyệt đối chẳng phải là phàm nhân!

 

(Diễn) Chân thật bất hư chi Như vi Tín giả. Tín hữu chân thật nghĩa. Dĩ nhược vô hữu tín, vạn sự giai hư cuống cố.

()真實不虛之如為信者。信有真實義。以若無有信。萬事皆虛誑故。

(Diễn: “Cái Như chân thật, chẳng hư dối chính là Tín”: Tín có ý nghĩa chân thật. Bởi lẽ, nếu chẳng có Tín, muôn sự đều trở thành hư dối).

Phải chú tâm thấu hiểu ý nghĩa này; đây là học vấn rất sâu. Bất luận là kẻ học Phật hay không học Phật, đối với pháp thế gian, hoặc trong Phật pháp, nếu chẳng có tín tâm, suốt cả một đời này, kẻ ấy chẳng thể thành tựu một chuyện gì! Phàm là người thành tựu, vì sao người ấy thành tựu? Nhân tố thứ nhất là người ấy có tín tâm kiên định. Kinh Hoa Nghiêm dạy chẳng sai: “Tín là nguồn đạo, mẹ công đức”. Ngẫu Ích đại sư nói sáu loại Tín, loại thứ nhất là Tín Tự (tin vào chính mình). Chính mình chẳng có lòng tự tin, chẳng còn chuyện gì để bàn luận nữa! Thành tựu của quý vị lớn, nhỏ, cao, thấp, tùy thuộc lòng tự tin của quý vị lớn hay nhỏ. Lòng tự tin kiên định, hoàn toàn tỷ lệ thuận [với sự thành tựu]. Pháp thế gian là như thế, mà Phật pháp cũng là như thế. Do vậy, đây là đại học vấn! Vạn sự hư dối sẽ lầm lỡ một đời, chẳng có thành tựu gì!

 

(Diễn) Xuất sanh vô tận chi trí vi Nguyện giả. Nguyện hữu xuất sanh nghĩa. Dĩ vạn đức, vạn hạnh, giai tùng lạc dục cố.

()出生無盡之智為願者。願有出生義。以萬德萬行。皆從樂欲故。

(Diễn: Trí xuất sanh vô tận là Nguyện. Nguyện có ý nghĩa xuất sanh. Do vạn đức, vạn hạnh đều xuất phát từ lòng ưa muốn).

Nói theo pháp thế gian là “lập chí”. Nếu một người mà chẳng có chí thì chuyện gì cũng chẳng thành. Người ấy có chí hướng, trong một đời này, người ấy có phương hướng, có mục tiêu, đời này người ấy sống có ý nghĩa, có giá trị. Nếu trong một đời này, ở trong thế gian mà chẳng có phương hướng, chẳng có mục tiêu, sẽ hồ đồ, mê muội, sống say, chết mộng, tự nhiên là sẽ luống uổng một đời này. Pháp thế gian và xuất thế gian đều giống nhau. Trong Phật pháp, nói đến sự phát nguyện, nói tới sự phát tâm, phát tâm là phát nguyện; trong pháp thế gian bèn nói là “lập chí”. Trước đây, trong sự giáo học của Nho gia, Khổng Tử đã nói “tam thập nhi lập” (ba mươi tuổi, chí hướng đã định). Có thể thấy lập chí hết sức trọng yếu. Từ rất sớm, Khổng phu tử đã dốc chí nơi học vấn, “chí ư học” (dốc chí nơi việc học) suốt cả một đời, Ngài quả thật đã thành tựu viên mãn. Trong Phật pháp cũng là như vậy, học nhân Tịnh Tông lại còn thù thắng hơn. Chí hướng của họ là vãng sanh Tịnh Độ, là mong thấy A Di Đà Phật. Trong tất cả chí nguyện, đây là chí nguyện to lớn bậc nhất trong thế gian và xuất thế gian, là chí nguyện viên mãn rốt ráo. Hôm nay, chúng tôi giảng đến chỗ này!