A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 9 – Tập 274-280

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 9 – Tập 274-280

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 274

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm bảy mươi hai.

 

Tứ, hỗ chương nan sự linh thiết cảm phát.

四、互彰難事令切感發。

(Bốn, [đức Phật Thích Ca và chư Phật tán thán lẫn nhau] hòng lần lượt phơi bày sự khó khăn để phát khởi sự cảm kích thiết tha).

Đối với đoạn kinh văn tiếp theo, Liên Trì đại sư đã đặt một tiểu đề mục là “hỗ chương nan sự linh thiết cảm phát”, “chương” (彰) có nghĩa là “chương minh” (彰明: sáng tỏ), rõ rệt. Chư Phật tán thán lẫn nhau, phơi bày sự thật này rất rõ ràng, rất minh bạch, khiến cho thính chúng sau khi nghe xong sẽ cảm động sâu xa, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Đề mục này có ý nghĩa ấy.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công đức.

()舍利弗。如我今者。稱讚諸佛不可思議功德。

(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Như ta nay xưng tán công đức chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật).

 Đức Thế Tôn gọi ngài Xá Lợi Phất. Hễ gọi tên Ngài thì đoạn kinh văn tiếp đó sẽ hết sức trọng yếu, [gọi tên] nhằm nhắc nhở Ngài chú ý. “Như ngã kim giả” (Như ta nay), “ngã” (我) là Thích Ca Mâu Ni Phật tự xưng, “kim” (今) là hiện tại, là khi đức Phật giảng kinh Di Đà. Giảng kinh Di Đà là tán thán A Di Đà Phật, “xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công đức” (ca ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật) giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Ba kinh ấy chuyên môn tán thán vô lượng vô biên công đức của A Di Đà Phật, chuyên môn tán thán y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ở đây, nói “xưng tán chư Phật” mà chẳng nói “xưng tán A Di Đà Phật”, La Thập đại sư dịch như vậy. La Thập đại sư dịch kinh theo lối dịch ý, chẳng phải là trực dịch. Huyền Trang đại sư dịch theo lối “trực dịch” (直譯), [nghĩa là] chiếu theo sát nguyên văn tiếng Phạn để dịch từng câu một. Nguyên văn tiếng Phạn chẳng phải là “xưng tán chư Phật” mà là “xưng tán Vô Lượng Thọ Phật”.

 

(Sớ) Đường dịch đản vân.

()唐譯但云。

(Sớ: Bản dịch đời Đường chỉ nói).

“Đường dịch” là bản dịch của Huyền Trang đại sư.

 

(Sớ) Như ngã kim giả, xưng dương tán thán Vô Lượng Thọ Phật.

()如我今者,稱揚讚歎無量壽佛。

(Sớ: Như ta nay ca ngợi, tuyên dương, tán thán Vô Lượng Thọ Phật).

Hợp hai bản dịch lại để xem, ý nghĩa bèn hết sức rõ ràng. Nguyên lai, La Thập đại sư nói “chư Phật” chính là A Di Đà Phật, Vô Lượng Thọ Phật là A Di Đà Phật. Vì sao nguyên văn là A Di Đà Phật, La Thập đại sư lại dịch thành “chư Phật”?

 

(Sớ) Thử ngôn xưng tán chư Phật, Cổ Nhai vân: “Dĩ Di Đà chư Phật, đồng nhất Pháp Thân cố”.

()此言稱讚諸佛,古崖云:以彌陀諸佛,同一法身故。

(Sớ: Ở đây nói “khen ngợi chư Phật”: Ngài Cổ Nhai nói: “Do Phật Di Đà và chư Phật có cùng một Pháp Thân”).

Nói cách khác, Di Đà là chư Phật, chư Phật là Di Đà, rất chẳng thể nghĩ bàn! Công đức chẳng thể nghĩ bàn, ý nghĩa được bao hàm trong ấy hết sức phong phú, ý vị sâu xa!

 

(Sao) Đồng nhất Pháp Thân giả, như Hoa Nghiêm tụng vân: “Thập phương chư Như Lai, đồng cộng nhất Pháp Thân, nhất thân, nhất trí huệ, lực, vô úy diệc nhiên”.

()同一法身者,如華嚴頌云:十方諸如來,同共一法身,一身一智慧,力無畏亦然。

(Sao: “Cùng một Pháp Thân”: Như trong kinh Hoa Nghiêm có bài kệ rằng: “Mười phương chư Như Lai, cùng chung một Pháp Thân, một thân, một trí huệ, lực, vô úy cũng vậy”).

Trong Phật môn thường nói “Phật Phật đạo đồng”, rốt cuộc là thật sự tương đồng? Hay là đôi bên rất tiếp cận? “Tiếp cận” thì chẳng phải là hoàn toàn tương đồng. Chúng ta đọc ba kinh Tịnh Độ, đọc kinh luận Đại Thừa, sau đó mới hiểu rõ: Thật sự tương đồng, hoàn toàn giống nhau. Không chỉ là Phật Phật đạo đồng, mà Phật và hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới, chẳng một ai bất đồng. Điều đó chính là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Tình dữ vô tình, đồng viên mãn Chủng Trí” (Tình và vô tình cùng viên mãn Chủng Trí), “đồng” ở đây là “đồng” với Phật, chẳng phải là “đồng” với ai khác! “Tình” (情) là nói tới hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới, “vô tình” (無情) là y báo trang nghiêm trong chín pháp giới, hoàn toàn cùng Phật tương đồng, nhưng trong cảnh giới của chúng ta, cảm giác hoàn toàn bất tương đồng. Không chỉ là bất đồng với Phật, mà giữa mỗi người chúng ta, Giáp và Ất bất đồng. Ất và Bính cũng bất đồng. Nhưng trong cái nhìn của chư Phật Như Lai, các Ngài thấy hoàn toàn như nhau, chúng ta thấy bất đồng, nguyên nhân rốt cuộc là ở chỗ nào? Vì chúng ta sử dụng cái tâm bất đồng, [cho nên] thấy hết thảy cảnh giới đều bất đồng. Tâm bất đồng là gì? Là cái tâm sanh diệt, sanh diệt là vọng niệm. Tâm chúng ta là vọng tưởng, tạp niệm, sanh diệt và khởi diệt chẳng ngừng trong từng sát-na. Tâm Phật là định, là thanh tịnh, chẳng có hiện tượng sanh diệt. Điều này cho thấy: Dùng cái tâm bất sanh bất diệt để nhìn cảnh giới bên ngoài, tất cả hết thảy cảnh giới đều là bất sanh bất diệt, đều tương đồng. Dùng cái tâm sanh diệt để nhìn Phật, Phật cũng là sanh diệt; do vậy, bất đồng! Đó là chân tướng sự thật. Do hết thảy chư Phật Như Lai có cùng một Pháp Thân, cho nên “một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”. Kinh Hoa Nghiêm đã nói chân tướng sự thật này minh bạch và triệt để nhất. Đã là như vậy, chúng ta tùy tiện lạy bất cứ vị Phật nào chẳng phải là đều có thể được ư? Đúng vậy! Bất cứ vị Phật nào, bất cứ vị Bồ Tát nào cũng đều hoàn toàn tương đồng. Lý như thế, mà Sự cũng như thế. Nhưng bí quyết tu học chỉ có một, quyết định chẳng thể trái nghịch, tức là phải chuyên tinh! Bất luận tu học pháp môn nào, pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp, quý vị chỉ có thể học một pháp môn, chẳng thể học rất nhiều pháp môn. Học rất nhiều pháp môn, quý vị sẽ tạp, sẽ loạn, chẳng nhất. Quý ở chỗ “nhất”! “Nhất” là chuyên nhất, [hễ chuyên nhất], quý vị bèn có thành tựu.

Vì sao hết thảy chư Phật khăng khăng khuyên chúng ta chọn pháp môn Tịnh Độ của A Di Đà Phật, chẳng chọn các môn khác? Hết thảy đã là bình đẳng, vì sao cách nói này dường như là bất bình đẳng? Trong ấy có một đạo lý rất sâu! Đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, đức Phật bảo “đều do một chữ Duyên”. Giữa người và người với nhau phải có duyên. Chẳng có duyên, chuyện ấy sẽ rất khó thành tựu. Nếu hữu duyên, sẽ rất dễ thành tựu. Trong tất cả hết thảy chư Phật, Bồ Tát, đối với thế giới này, đặc biệt là đối với người Hoa, những vị có duyên phận rất sâu là Quán Âm Bồ Tát và A Di Đà Phật. Hai vị này và chúng ta đã có nhân duyên đặc biệt từ đời đời kiếp kiếp trong quá khứ. Quý vị tìm người hữu duyên, học pháp môn hữu duyên, sẽ đặc biệt thành tựu dễ dàng, đạo lý là như thế đó. Đối với A Di Đà Phật, từ kinh điển, chúng ta đọc bốn mươi tám nguyện của lão nhân gia. Bốn mươi tám nguyện bao trùm hư không pháp giới, bao trùm quá khứ, vị lai. Vì thế nói: A Di Đà Phật và mười phương ba đời hết thảy chúng sanh thảy đều có duyên, duyên ấy lại còn rất sâu. Chư Phật, Bồ Tát khuyên lơn, khích lệ chúng ta chọn lựa pháp môn Tịnh Độ, chuyên niệm A Di Đà Phật, chính là vì lý do này!

Đạo tràng này của chúng ta rất nhỏ,  đại khái là đạo tràng nhỏ nhất trên toàn thể [lãnh thổ] Đài Loan, nhưng chúng ta kết duyên cũng rất rộng. Thường có người đến đây xin xuất gia. Nói thật ra, xuất gia chẳng dễ dàng! Chẳng phải là mong xuất gia bèn có thể xuất gia, cũng là phải có nhân duyên trọn đủ. Người ấy nghe Phật pháp, hiểu rõ đạo lý Phật pháp, phát đại tâm. Đó là Thân Nhân Duyên xuất gia của người ấy trọn đủ. Ý niệm xuất gia của người ấy liên tục, chẳng ngã lòng, [tức là] Vô Gián Duyên trọn đủ. Còn có một điều quan trọng là Tăng Thượng Duyên, quý vị có duyên phận cùng đạo tràng hay không? Nếu chẳng có duyên với đạo tràng này, quý vị chẳng có cách nào đến được. Hiện thời, trong đạo tràng của chúng ta có hơn hai mươi vị xuất gia. Quý vị có duyên với hai mươi mấy người đó hay không? Nếu chẳng có duyên, quý vị tới đây, suốt ngày từ sáng đến tối cãi cọ, gây chuyện, cũng chẳng thể thành tựu. Phải có duyên với đại chúng sống trong đạo tràng, lại còn phải hữu duyên cùng mọi người, tức là tín đồ của đạo tràng và đồng tham đạo hữu, điều này thuộc loại Tăng Thượng Duyên. Bởi lẽ, đồng tu xuất gia trong đạo tràng chúng ta đều cộng tu ở đây rất nhiều năm, đều rất thân thuộc, đều quen biết nhau, thông hiểu lẫn nhau. Vì thế, sau khi xuất gia, đối xử hòa thuận như người cùng một nhà. Do đó, hễ thiếu một duyên sẽ chẳng được. Chúng ta có duyên với A Di Đà Phật, thường niệm A Di Đà Phật, quyết định có thể sanh về Tịnh Độ.

 

(Sao) Tắc Di Đà tức chư Phật, chư Phật tức Di Đà, cố bất viết Di Đà nhi viết chư Phật.

()則彌陀即諸佛,諸佛即彌陀,故不曰彌陀而曰諸佛。

(Sao: Cho nên Di Đà chính là chư Phật, chư Phật chính là Di Đà. Vì thế, chẳng nói Di Đà mà nói là “chư Phật”).

Cách dịch này của La Thập đại sư bao hàm ý nghĩa rất sâu, nêu rõ “một chính là hết thảy, hết thảy chính là một” được nói trong kinh Hoa Nghiêm, bao hàm ý nghĩa này.

 

(Sao) Cái cai Di Đà tại chư Phật trung, hạ ngôn chư Phật, diệc Di Đà dữ chư Phật đồng tán Thích Ca dã.

(Diễn) Nhất thân tức Pháp Thân, nhất trí huệ tức Bát Nhã, lực vô úy tức Giải Thoát.

()蓋該彌陀在諸佛中 ,下言諸佛 ,亦彌陀與諸佛同讚釋迦也。

()一身即法身。一智慧即般若。力無畏即解脫。

(Sao: Ấy là vì gộp Di Đà trong số chư Phật. “Chư Phật” được nói trong phần sau cũng là Phật Di Đà và chư Phật cùng khen ngợi Phật Thích Ca.

Diễn: Một thân là Pháp Thân, một trí huệ là Bát Nhã, lực vô úy chính là Giải Thoát).

Đó là [nói tới] đoạn kinh văn trong phần sau. Sách Diễn Nghĩa chú giải rất minh bạch, một thân là Pháp Thân, một trí là Bát Nhã, lực, vô úy là Giải Thoát, tức là Tam Đức Bí Tạng hoàn toàn giống nhau.

 

(Sớ) Đường dịch dĩ Di Đà cai chư Phật, kim kinh dĩ chư Phật cai Di Đà.

()唐譯以彌陀該諸佛,今經以諸佛該彌陀。

(Sớ: Bản Đường dịch dùng Di Đà để bao gồm chư Phật, bản kinh này dùng chư Phật để bao gồm Di Đà).

 “Đường dịch” là bản dịch của Huyền Trang đại sư, “kim kinh” là bản dịch của La Thập đại sư. “Cai” (該) có ý nghĩa là bao gồm, bao hàm.

 

(Sớ) Nhược nhị thuyết kiêm cụ, ư văn cánh thuận, nhi nghĩa diệc cụ.

()若二說兼具,於文更順,而義亦足。

(Sớ: Nếu dùng cả hai thuyết thì kinh văn càng thuận, mà ý nghĩa cũng đầy đủ).

Gộp hai bản dịch lại để xem, ý nghĩa vô cùng rõ rệt.

 

(Sao) Cụ nhị thuyết giả.

()具二說者。

(Sao: Dùng cả hai thuyết).

Gộp cả hai thuyết lại thì phải nên nói như thế nào?

 

(Sao) Ưng vân.

()應云。

(Sao: Hãy nên nói).

Hãy nên nói theo cách như thế này.

 

(Sao) Như ngã kim giả xưng tán A Di Đà Phật, cập dữ chư Phật bất khả tư nghị công đức.

()如我今者稱讚阿彌陀佛,及與諸佛不可思議功德。

(Sao: Như nay ta khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật và chư Phật).

Đấy là gộp cả hai bản dịch lại thì ý nghĩa sẽ rất rõ rệt.

 

(Sao) Tắc kinh văn ký thuận, nhi đồng nhất Pháp Thân chi nghĩa, diệc tại kỳ trung. Văn nghĩa song mỹ, đương tri Thập Sư bổn hữu thử ý, văn tỉnh tiện cố.

()則經文既順,而同一法身之義,亦在其中,文義雙美,當知什師本有此意,文省便故。

(Sao: Thì kinh văn đã thuận, mà ý nghĩa “có cùng một Pháp Thân” cũng ở trong ấy. Kinh văn và ý nghĩa đều trọn vẹn. Hãy nên biết ngài La Thập vốn có ý ấy, [nhưng] kinh văn [chẳng ghi] là vì tỉnh lược vậy).

Cách dịch của La Thập đại sư xác thực là có bao hàm ý nghĩa này. Văn chương của lão nhân gia đơn giản, trọng yếu, tường tận, rõ ràng. Tuy kinh văn chẳng có, nhưng ý nghĩa thì có. Do Ngài dùng hai chữ “chư Phật”, nên có ý nghĩa ấy.

 

(Sao) Trang Sư hậu dịch, đặc vị đơn cử giả.

()奘師後譯,特為單舉者。

(Sao: Ngài Huyền Trang là người dịch sau, đặc biệt nêu riêng [A Di Đà Phật]).

Huyền Trang đại sư phiên dịch về sau, chiếu theo nguyên văn để trực dịch.

 

(Sao) Dục nhân ư nhị kinh thiện hội kỳ ý, nhi bất nệ kỳ văn dã. Hựu chư Phật Di Đà tương tức, thị diệc bất khả tư nghị.

()欲人於二經善會其意,而不泥其文也。又諸佛彌陀相即,是亦不可思議。

(Sao: Muốn cho người ta khéo hiểu ý của hai kinh, chẳng câu nệ nơi văn tự. Lại nữa, chư Phật chính là Di Đà, Di Đà chính là chư Phật, điều này cũng là chẳng thể nghĩ bàn).

Chư Phật là Di Đà, Di Đà là chư Phật, chuyện này cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Ý cảnh này hết sức sâu xa. Rốt cuộc, A Di Đà Phật có những công đức chẳng thể nghĩ bàn nào? Chính là toàn thể những điều đã nói trong phần trước. Nhất là chúng ta niệm kinh Vô Lượng Thọ rất thuần thục, [sẽ biết] thoạt ban đầu, trong khi tu nhân, A Di Đà Phật đã phát tâm chẳng thể nghĩ bàn. Chẳng phải là như lũ bình phàm chúng ta phát tâm chẳng chân thật, chẳng thanh tịnh. Người ta phát tâm chân thật, thanh tịnh. Trong khi tu nhân, Ngài mang thân phận quốc vương, người Hoa thường nói “quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải” (thiên tử sang quý, giàu khắp bốn biển). Trong loài người, phú quý đạt tới mức tột đỉnh, đạt tới mức cùng cực, Ngài vứt bỏ, thảy đều chẳng cần tới, xuất gia tu hành. Nếu phát tâm chẳng chân thật, chẳng thanh tịnh, sẽ chẳng làm được [như vậy]! Nay chúng ta tuy phát tâm, bất luận xuất gia hay tại gia, hễ thấy tiếng tăm, lợi dưỡng bèn động tâm. Nếu trong khi tu nhân, chính mình phú quý giống như tỳ-kheo Pháp Tạng, quý vị sẽ chẳng thể bỏ hết để xuất gia được! Sau khi đã xuất gia, trông thấy kẻ quyền quý trong thế gian bèn dốc trọn hết sức để bợ đỡ, quý vị ngẫm xem: Cái tâm ấy lấy đâu ra thanh tịnh? Thấy trong bọn tín đồ có kẻ làm quan to, hay giàu có lớn, bèn đặc biệt bợ đỡ, chèo kéo. Do vậy, chúng tôi suy nghĩ: Nếu những kẻ ấy có địa vị như thế, chắc chắn là họ sẽ không chịu xuất gia, mà cũng chẳng thể nghiêm túc học Phật. Học Phật để làm gì? Trước kia, thầy Lý nói rất hay, người phú quý học Phật để tiêu khiển, đến chùa miếu để vui chơi. Có tâm thái như vậy, làm sao có thể đạt thành tựu cho được? Chẳng có thành ý! Hàng tại gia thật sự trọn đủ tấm lòng chân thành học Phật sẽ khác hẳn. Xưa kia, tiên sinh Châu Bang Đạo, rất nhiều đồng tu biết vị này. Cụ làm sảnh trưởng[78] giáo dục tại Đại Lục, đến Đài Loan từng làm Thứ Trưởng Chánh Vụ của Khảo Thí Viện[79]. Tại Đài Trung Liên Xã, cụ mặc một bộ quần áo kiểu Tôn Trung Sơn đã cũ, đi giày mềm[80], quét dọn đại điện. Có đồng tu từ Đài Bắc đến Đài Trung gặp thầy Lý, thấy Châu tiên sinh đang quét dọn tại đại điện, coi cụ như nhân viên tạp vụ, hỏi cụ: “Thầy Lý có nhà hay không?” Cụ hết sức cung kính, khách sáo tiếp đãi người ấy. Về sau, người ấy biết cụ là Châu Bang Đạo bèn sững sờ, chẳng ngờ cụ có thân phận và địa vị như vậy mà trong Phật môn làm chuyện như vậy. Quan chức và địa vị ấy, hễ đến nơi đây, thảy đều buông bỏ. Đó là một người thật sự học Phật. Chúng ta thấy những kẻ phú quý có thân phận và địa vị đến Phật đường bèn thông báo trước, lão hòa thượng ra tận cổng nghênh tiếp. Họ đến nơi bèn được tiếp đãi bằng trà ngon, khác hẳn! Đó là học Phật giả trất, chẳng phải là học Phật thật sự!

Do vậy, chúng ta thấy công đức phát tâm của A Di Đà Phật chẳng giống kẻ bình phàm. Người ta phát khởi chân tâm, [cho nên] tu hành khác hẳn, thật sự tinh tấn! Nghiêm túc nỗ lực; phát nguyện khác hẳn, chẳng giống kẻ khác. Những điều ấy đều là công đức chẳng thể nghĩ bàn. Thành tựu chẳng thể nghĩ bàn, vì hết thảy chúng sanh kiến lập Tây Phương Cực Lạc thế giới, rộng độ hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh bình đẳng đắc độ. Đó là công đức chẳng thể nghĩ bàn chân chánh. Hết thảy chúng sanh bình đẳng thành Phật, chẳng có giai cấp, chẳng có sai biệt. Vì vậy, thế giới Tây Phương là một thế giới bình đẳng. Chẳng thể nghĩ bàn quá nhiều! Điều chẳng thể nghĩ bàn nhất là từ kinh luận, chúng ta thấy: Mười phương hết thảy chư Phật Như Lai, chẳng có một vị Phật nào không tán thán A Di Đà Phật. Điều này chẳng thể nghĩ bàn! Cũng giống như vậy, A Di Đà Phật cũng tán thán hết thảy chư Phật. Hết thảy chư Phật đều khuyên học trò của các Ngài vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hòng thân cận A Di Đà Phật. Trong ấy chẳng có ganh tỵ, chẳng có chướng ngại.

Trong thế gian này, có những pháp sư tâm lượng nhỏ nhen, giữ tín đồ của chính mình rất chặt. [Hễ thấy] pháp sư khác đến, đều khuyên tín đồ: “Đừng nên tới [chỗ ông ta]. Ông ta nói nhăng nói cuội ở đó. Chớ nên đến nghe, nghe ta giảng là được rồi”. Chẳng giống các vị Phật Như Lai khác khuyên học trò của chính mình đến thân cận A Di Đà Phật. Vì thế, chư Phật đúng là công đức chẳng thể nghĩ bàn. “Chư Phật Di Đà tương tức, thị diệc bất khả tư nghị” (Chư Phật chính là Di Đà, Di Đà chính là chư Phật, điều này cũng chẳng thể nghĩ bàn), câu này bao hàm ý nghĩa sâu xa. Đấy chính là đức Thế Tôn tán thán A Di Đà Phật, [đồng thời] tán thán chư Phật.

 

(Kinh) Bỉ chư Phật đẳng.

()彼諸佛等。

(Kinh: Các đức Phật ấy).

“Chư Phật” là nói A Di Đà Phật và mười phương hết thảy chư Phật, chẳng giống như trong từ ngữ “xưng tán chư Phật” ở phần trước: “Chư Phật” là A Di Đà Phật. Ở đây là hết thảy chư Phật:

 

(Kinh) Diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công đức.

()亦稱讚我不可思議功德。

(Kinh: Cũng khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta).

 Chư Phật cũng khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật có những công đức chẳng thể nghĩ bàn nào? Dưới đây bèn nói rõ:

 

(Kinh) Nhi tác thị ngôn.

()而作是言。

(Kinh: Bèn nói như thế này).

Chư Phật tán thán rằng.

 

(Kinh) Thích Ca Mâu Ni Phật, năng vi thậm nan hy hữu chi sự.

()釋迦牟尼佛。能為甚難希有之事。

(Kinh: Thích Ca Mâu Ni Phật có thể làm chuyện hiếm có, rất khó).

“Thậm nan hy hữu” là chuyện chẳng thể nghĩ bàn, rất khó khăn, kẻ khác chẳng làm được, [thế mà] Thích Ca Mâu Ni Phật làm được. “Hy hữu”: Thế gian chẳng có chuyện này, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng biểu hiện ra. Chuyện gì vậy? Dưới đây là nói rõ cụ thể cùng chúng ta.

 

(Kinh) Năng ư Sa Bà quốc độ, Ngũ Trược ác thế, Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Não Trược, Chúng Sanh Trược, Mạng Trược trung, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

()能於娑婆國土。五濁惡世。劫濁。見濁。煩惱濁。眾生濁。命濁中。得阿耨多羅三藐三菩提。

(Kinh: Có thể ở trong cõi nước Sa Bà, nhằm đời ác năm trược: Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Não Trược, Chúng Sanh Trược, Mạng Trược, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

“Ngũ Trược ác thế”, đắc đạo thành Phật trong ấy. “Đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” là thành Phật. Đây là một chuyện rất khó khăn. Đoạn văn này bao hàm rất nhiều ý nghĩa. Nếu chẳng hiểu rõ đôi chút những ý nghĩa này, chúng ta sẽ chẳng cảm nhận nó rất khó khăn. Đối với chúng ta, [hiểu rõ chuyện này], sẽ có ích rất lớn trong việc chọn lựa pháp môn, [khiến cho chúng ta] tinh tấn, chẳng biếng nhác.

 

(Sớ) Phật Phật hỗ tán, biểu thử Tịnh Độ pháp môn, quyết ưng tín thọ cố.

()佛佛互讚,表此淨土法門,決應信受故。

(Sớ: Chư Phật tán dương lẫn nhau, biểu thị nhất quyết phải nên tin nhận pháp môn Tịnh Độ này).

Trong phần trước, đức Thế Tôn tán thán chư Phật; trong đoạn này, chư Phật tán thán đức Thế Tôn, đấy là “Phật Phật hỗ tán” (chư Phật khen ngợi lẫn nhau). “Biểu thử Tịnh Độ pháp môn, quyết ưng tín thọ cố” (Biểu thị nhất quyết phải nên tin nhận pháp môn Tịnh Độ này), nêu rõ chuyện này hết sức trọng yếu, quyết định phải nên tin tưởng, quyết định phải nên tin nhận. Chẳng phải là một vị Phật khuyên chúng ta, mà tất cả hết thảy chư Phật đều khuyên, có thể nào chẳng tiếp nhận? Có thể nào chẳng tin tưởng?

 

(Sao) Phật Phật hỗ tán giả, dĩ thử niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, túng nhất Phật độc tán.

()佛佛互讚者,以此念佛求生淨土,縱一佛獨讚。

(Sao: “Chư Phật khen ngợi lẫn nhau”: Dùng pháp Niệm Phật này để cầu sanh Tịnh Độ, dẫu chỉ một vị Phật khen ngợi [thì cũng phải nên tin tưởng]).

“Túng” (縱) là giả sử một vị Phật, [giả sử chỉ có] một mình Thích Ca Mâu Ni Phật nói như vậy, chúng ta đều phải nên tin tưởng, đều chớ nên nghi hoặc.

 

(Sao) Nhi kim bất đản Thích Ca tán ư Kỳ Viên.

()而今不但釋迦讚於祇園。

(Sao: Nhưng nay chẳng phải là chỉ một mình Phật Thích Ca tán thán nơi Kỳ Viên).

“Kỳ Viên” là Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên, là chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh A Di Đà.

 

(Sao) Chư Phật tán ư lục phương.

()諸佛讚於六方。

(Sao: Chư Phật tán thán trong sáu phương).

Bản dịch của Huyền Trang đại sư ghi là “mười phương”. Mười phương chư Phật chẳng có vị nào không tán thán.

 

(Sao) Hựu thử Phật, bỉ Phật.

()又此佛彼佛。

(Sao: Lại nữa, vị Phật trong cõi này và các vị Phật trong cõi kia).

“Thử Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật, “bỉ Phật” là mười phương Phật.

 

(Sao) Đệ hỗ tán thán, khởi phi siêu sanh thoát tử tối yếu pháp môn. Thị dĩ tái tứ đinh ninh, đa phương hối dụ, ân du từ mẫu, nhân quá mân thiên, phấn cốt toái thân, nan túc vi báo.

(Diễn) Ân du từ mẫu nhị cú, từ mẫu chi ân, từ cập nhất sanh, tha sanh vị tất năng từ. Mân thiên chi nhân, nhân chỉ nhất giới, tha giới vị tất năng nhân. Phật chi từ nhân, vô xứ, vô thời, nhi bất từ nhân. Cố vân “du” dã.

()遞互讚歎,豈非超生脫死最要法門。是以再四叮嚀,多方誨誘,恩踰慈母,仁過旻天,粉骨碎身,難足為報。

()恩踰慈母二句。慈母之恩。慈及一生。他生未必能慈。旻天之仁。仁止一界。他界未必能仁。佛之慈仁。無處無時而不慈仁。故云踰也。

(Sao: Lần lượt tán thán lẫn nhau, há đây chẳng phải là pháp môn trọng yếu nhất để siêu sanh thoát tử? Do vậy, nhiều lượt căn dặn, nhiều cách khuyên răn, dẫn dụ. Ân đức hơn mẹ hiền, lòng nhân vượt trời thẳm, tan xương nát thân, khó đủ để báo đền.

Diễn: Hai câu “ân đức hơn từ mẫu”: Ân của mẹ hiền, chỉ có thể yêu thương một đời; sang đời khác, chưa chắc đã có thể yêu thương. Lòng nhân vượt trời thẳm, chỉ có nhân trong một cõi, chưa chắc đã có thể nhân đối với các cõi khác. Lòng từ, lòng nhân của Phật không nơi nào, không lúc nào chẳng nhân từ. Vì thế, nói là “vượt trỗi”).

Ân đức ấy to lớn. Hết thảy chư Phật đều tán thán, chỉ rõ: Đối với chúng ta, pháp môn này trọng yếu khôn sánh! Chuyện lớn nhất trong một đời chúng ta là thoát ly luân hồi, liễu sanh thoát tử. Thật sự có thể giúp đỡ chúng ta hoàn tất chuyện này trong một đời, trừ pháp môn này ra, chẳng còn có pháp môn thứ hai nào khác! Kinh dạy rất hay, nếu chẳng phải là đại thiện căn, đại phước đức, đại nhân duyên, quý vị sẽ chẳng gặp được [pháp môn này]! Nay chúng ta có thể gặp gỡ pháp môn này, mọi người có thể ở cùng một chỗ, chúng ta giảng giải, thảo luận rõ ràng, minh bạch; nhân duyên này rất khó có. Chẳng hiểu rõ, tín tâm của chúng ta chẳng thể sanh khởi. Chẳng có tín tâm thật sự, nguyện lực cũng chẳng đáng trông cậy. Nguyện lấy Tín làm cơ sở. Sau khi đã có chân tín thì nguyện mới thiết tha, mới có thể niệm Phật cầu vãng sanh. Đó là phương pháp trọng yếu nhất và đường lối khẩn yếu nhất để siêu sanh thoát tử. Vì thế, chư Phật nhiều lượt căn dặn, khuyên dạy chúng ta. Kinh này khuyên lơn, khích lệ bốn lượt, “đa phương hối dụ”, “hối” (誨) là giáo huấn, “dụ” (誘) là dẫn dụ. “Đa phương” (多方) là đức Phật không chỉ khuyên dạy chúng ta như vậy trong ba kinh [Tịnh Độ], ta thấy trong Đại Tạng Kinh, những loại kinh luận Ngài khuyên kèm thêm “hãy nên cầu sanh Tịnh Độ” có đến hai trăm bảy mươi bộ. Do vậy nói là “ngàn kinh vạn luận, chốn chốn chỉ về”. Đấy là sự thật. Đức Phật nói những pháp môn khác, chưa từng có hiện tượng này, chỉ riêng pháp Niệm Phật vãng sanh thì ba kinh là chuyên giảng, trong những kinh luận Đại Thừa khác bèn nói kèm thêm. [Đó chính là] “đa phương hối dụ” (nhiều cách giáo huấn, dẫn dụ). Ân đức của Phật vượt trỗi mẹ hiền. Lòng nhân ái của đức Phật đối với chúng sanh vượt khỏi trời thẳm. Trời che, đất chở chúng ta, ân đức ấy to tát chẳng có cách nào để hình dung, dùng chuyện này để hình dung. Dẫu chúng ta “phấn cốt, toái thân” (tan xương, nát thân), vẫn chẳng có cách nào báo đáp ân Phật.

 

(Diễn) Cổ vân: “Giả sử đảnh đới kinh trần kiếp, thân vi sàng tòa biến tam thiên, nhược bất truyền pháp độ chúng sanh, tất cánh vô năng báo ân giả”.

()古云:假使頂戴經塵劫,身為床座遍三千,若不傳法度眾生,畢竟無能報恩者。

(Diễn: Cổ nhân nói: “Giả sử đeo, đội trải trần kiếp, thân làm giường, tòa khắp tam thiên. Nếu chẳng truyền pháp độ chúng sanh, rốt cuộc chẳng thể báo ân được”).

Chúng ta báo ân Phật như thế nào? Một phương pháp duy nhất là toàn tâm toàn lực giới thiệu, đề cao cùng người khác pháp môn thù thắng chẳng thể nghĩ bàn như vậy, pháp môn quan trọng nhất có thể khiến cho hết thảy chúng sanh siêu sanh thoát tử này. Đó là báo ân Phật. Hai câu đầu trong bài kệ là tỷ dụ. “Đảnh đới” (頂載) là đội ở trên đầu, thời gian bao lâu? Trải số kiếp nhiều như cát bụi. “Trần kiếp” (塵劫) là nói thời gian lâu dài. Chúng ta đội ân nhân trên đầu. “Thân vi sàng tòa biến tam thiên” (Thân làm giường, tòa khắp tam thiên đại thiên thế giới), chúng ta cong lưng phủ phục trên mặt đất, dùng lưng làm ghế để ân nhân ngồi trên thân chúng ta, “biến tam thiên” (遍三千: trọn khắp tam thiên đại thiên thế giới) là nói về không gian, trọn khắp trong tam thiên đại thiên thế giới. Như vậy thì có thể báo ân hay không? Chẳng thể! Làm như vậy vẫn chẳng thể báo ân Phật! Chỉ có truyền pháp, nhất định là phải phổ biến hoằng truyền pháp môn này thì mới có thể báo ân. Chư vị nhất định phải hiểu: Ngăn trở kẻ khác truyền pháp, tội lỗi này nặng nề bậc nhất. Mười phương hết thảy Như Lai đều khuyên mọi người lưu thông Phật pháp, giúp đỡ hết thảy chúng sanh. Nếu quý vị ngăn trở Phật pháp lưu thông, tội lỗi ấy đúng là vô lượng vô biên. Lưu thông đại pháp là tâm nguyện duy nhất của mười phương ba đời hết thảy chư Phật, quý vị chống trái, kháng cự các Ngài, do tội nghiệp ấy, sẽ đọa trong địa ngục A Tỳ. Sợ rằng tội ấy nặng hơn bất cứ tội nghiệp nào, đúng là vĩnh viễn chẳng thể trở mình được. Chúng ta chớ nên không biết điều này, chớ nên không lưu ý. Trong thời đại hiện tại, những chuyện hữu ý hay vô tình ngăn trở Phật pháp lưu thông gần như trông thấy hằng ngày, kinh thường cảm thán hạng chúng sanh ấy đúng là “kẻ đáng thương xót”!

 

(Sớ) Bỉ chư Phật đẳng, tức Di Đà dữ lục phương chư Phật dã.

()彼諸佛等,即彌陀與六方諸佛也。

(Sớ: “Các đức Phật ấy” chính là Phật Di Đà và sáu phương chư Phật).

 Đây là lời giải thích cho một câu trong đoạn kinh văn này.

 

(Sớ) Thích Ca thử vân Năng Nhân.

()釋迦此云能仁。

(Sớ: Cõi này dịch Thích Ca là Năng Nhân).

Thích Ca (Śākya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Năng Nhân. “Nhân” (仁) là nhân từ, [Năng Nhân] là Ngài có thể dùng lòng nhân từ đối đãi hết thảy chúng sanh, Nhân là bình đẳng. Chữ này (chữ Nhân) thuộc loại Hội Ý, [hàm nghĩa] hai người (Nhân (仁) do nhị (二) và nhân (人) ghép lại), chẳng phải là một người. Đó gọi là “thôi kỷ cập nhân” (suy từ mình ra người), hễ nghĩ đến chính mình, bèn nghĩ đến người khác. Phu tử (Khổng Tử) nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều gì mình không muốn, chớ làm cho người khác). Đó là Nhân, chuyện gì cũng là hễ nghĩ đến mình bèn nghĩ giùm người khác, đó là Nhân. Do vậy, trong Phật pháp, tâm bình đẳng là Nhân.

 

(Sớ) Mâu Ni thử vân Tịch Mặc.

()牟尼此云寂默。

(Sớ: Mâu Ni cõi này dịch là Tịch Mặc).

Mâu Ni (Muni) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịch Mặc (vắng lặng).

 

(Sao) Năng Nhân Tịch Mặc, tự hữu nhị nghĩa.

()能仁寂默,自有二義。

(Sao: Năng Nhân Tịch Mặc có hai ý nghĩa).

 Bản thân từ ngữ này có hai ý nghĩa.

 

(Sao) Nhất giả đối đãi thuyết, tắc năng giả thiện quyền phương tiện, khúc tựu cơ nghi.

()一者對待說,則能者善權方便,曲就機宜。

(Sao: Một là nói tương đối, Năng là phương tiện quyền xảo, khéo tùy thuận cơ nghi).

Chúng ta phải chú tâm nghiên cứu, thấu hiểu thật sâu những điều này. Đấy chính là trọng điểm để chúng ta học tập. Chúng ta học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Vì sao học theo Thích Ca Mâu Ni Phật? Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta ứng phó các trạng huống trong cuộc sống hiện tiền như thế nào. Điều này rất quan trọng! Nay chúng ta còn chưa vãng sanh, chưa đến thế giới Cực Lạc, thân thể của chúng ta còn ở trong thế giới Sa Bà. Đối với người và sự trong thế giới Sa Bà phức tạp dường ấy, chúng ta ứng phó như thế nào? Danh hiệu của đức Phật dạy chúng ta nguyên tắc ứng phó, giữ vững nguyên tắc ấy là được rồi, đức Phật dạy chúng ta điều này. Do vậy, chúng ta phải “hữu năng”, tức là có năng lực để ứng phó những tình huống ấy. “Năng” biểu hiện từ chỗ nào? “Thiện quyền phương tiện”. “Thiện” là thiện xảo (善巧), đã là xảo (巧: khéo léo) lại thêm thiện (善), tức là sự xảo diệu ấy chẳng mâu thuẫn chân lý, chẳng trái nghịch Tánh Đức; sự khéo léo ấy được gọi là “thiện xảo”. Người thế gian làm việc cũng rất xảo diệu, nhưng lương tâm tăm tối, làm những chuyện chẳng đúng pháp, xảo kiểu đó chẳng thể gọi là thiện xảo! Thiện xảo là phương thức xảo diệu, lợi mình, lợi người, tuyệt đối chẳng tổn hại người khác, chỉ có tạo lợi ích cho người khác, chẳng tổn thương kẻ khác; xảo kiểu ấy chính là thiện xảo. Đối với thiện xảo phương tiện, “quyền” (權) là quyền nghi, quyền biến, tức là biết xét tình hình để xử sự, chẳng phải là “hễ đã thành lập bèn bất biến”! Vì vậy, cuộc sống trong Đại Thừa Phật pháp mang sắc thái đa dạng.

Quý vị thấy năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, năm mươi ba vị thiện tri thức đều là Pháp Thân đại sĩ. Các Ngài thị hiện thân phận nam, nữ, già, trẻ, các ngành, các nghề trong xã hội, hạnh nghiệp tốt đẹp Bồ Tát cũng làm, hạnh nghiệp bất hảo Bồ Tát cũng làm. Đó chính là “thiện quyền phương tiện, khúc tựu cơ nghi” (phương tiện quyền xảo, khéo tùy thuận cơ nghi), “khúc” (曲) là uyển chuyển, linh động. “Cơ nghi” (機宜) là [căn cơ, căn tánh của] chúng sanh. Phật, Bồ Tát hoằng pháp lợi sanh, đối với chúng sanh phải uyển chuyển, mềm dẻo, lại còn phải là chỗ nào cũng linh động. Tuy uyển chuyển, mềm dẻo, linh động trong mọi hoàn cảnh, nhưng chẳng đánh mất cái tâm thanh tịnh và tâm bình đẳng của chính mình. Nói cách khác, chính là nguyên tắc trong Tam Quy Y: “Giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh mà chẳng nhiễm”, đó là Thiện. Nếu uyển chuyển, mềm dẻo, mà mê, tà, nhiễm, thì xảo kiểu đó chẳng thể kèm thêm thiện, chẳng thể gọi là thiện xảo. “Thiện xảo” là uyển chuyển, mềm dẻo, luôn linh động, nhưng chẳng mê, chẳng tà, chẳng nhiễm, cho nên mới có thể tự hành, hóa độ người khác. Chúng sanh chẳng dễ độ! Trong kinh, Địa Tạng Bồ Tát đã bảo: “Chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề ương ngạnh, khó thể giáo hóa”. Điều này chẳng giả tí nào. Do vậy [có thể biết] Phật, Bồ Tát thật sự kiên nhẫn đối với chúng sanh.

Trong quá khứ, Hà Đông Tước Sĩ phu nhân là mẹ của ông Hà Thế Lễ[81], bà cụ này quá tuyệt diệu! Người trong nhà cụ từ con trai, con dâu, [cho đến] cháu nội đều là tín đồ Cơ Đốc Giáo kiền thành, chỉ có mình cụ ăn chay trường, niệm Phật. Cũng may là con cái của cụ còn học Nho chẳng ít, vẫn rất hiếu thuận đối với mẹ. Trong nhà, [tuy con cháu] tin theo Cơ Đốc Giáo, tín ngưỡng bất đồng, cả nhà vẫn còn có thể chung sống hòa thuận. Ngày bà cụ vãng sanh, bèn gọi con cái đến, bảo họ: “Hôm nay mẹ sắp sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, cả nhà chúng ta tin theo tôn giáo khác nhau, nhưng chẳng can thiệp tín ngưỡng của nhau. Hôm nay mẹ vãng sanh, các con đều phải niệm vài câu A Di Đà Phật tiễn mẹ, coi như tròn hết duyên mẹ con một phen”. Đó là yêu cầu hợp tình hợp lý. Do vậy, họ thông báo thân thích bằng hữu mở đại hội chúc mừng vãng sanh tại nhà. Thân thích bằng hữu đều tới, bà cụ tắm rửa, thay quần áo, ngồi xếp bằng, người trong nhà niệm Phật cùng cụ chưa đầy mười lăm phút, cụ đã ra đi. Con trai, con dâu, cả nhà [do vậy] đều tin Phật. Vì sao? Chính mắt trông thấy. Đó là cụ độ người trong nhà, nhẫn nại chờ đợi vài chục năm, chờ đợi hằng ngày, đợi đến sát-na cuối cùng bèn độ hết cả nhà! Đấy là “thiện xảo phương tiện, khúc tựu cơ nghi”. Người trong nhà quý vị khó độ, hãy học theo bà cụ Hà, người một nhà quý vị sẽ đắc độ. Quý vị nói với họ, họ nghe chẳng lọt tai. Biểu diễn cho họ xem, họ chẳng thể nào không tin tưởng! Đó gọi là năng lực, thật sự có năng lực! “Nhân” là nhân từ, là tâm đại từ bi.

 

(Sao) Nhân giả, chí đức hồng ân, phổ triêm vạn loại, thị đại bi lợi vật dã.

(Diễn) Thiện quyền phương tiện, khúc tựu cơ nghi, độ sanh chi tài dã. Chí đức hồng ân, phổ triêm vạn loại, độ sanh chi đức dã. Hữu tài vô đức, thất độ sanh chi bổn, bất năng độ sanh. Hữu đức vô tài, thất độ sanh chi dụng, diệc bất năng độ sanh. Tài đức kiêm bị, Thể Dụng đồng thi, nãi năng độ sanh dã.

()仁者至德洪恩,普霑萬類,是大悲利物也。

()善權方便。曲就機宜。度生之才也。至德洪恩。普霑萬類。度生之德也。有才無德。失度生之本。不能度生。有德無才。失度生之用。亦不能度生。才德兼備。體用同施。乃能度生也。

(Sao: Nhân là ân mênh mông, đức cùng tột, thấm nhuần muôn loài, chính là lòng đại bi lợi lạc chúng sanh vậy.

Diễn: “Phương tiện quyền biến, thiện xảo, tùy thuận cơ nghi” chính là tài độ sanh. “Ân mênh mông, đức cùng tột, thấm nhuần khắp muôn loài” là đức độ sanh. Có tài thiếu đức, tức là đã mất cái gốc của việc độ sanh, chẳng thể độ sanh. Có đức mà chẳng có tài, đánh mất tác dụng độ sanh, cũng chẳng thể độ sanh. Tài và đức đều đủ, Thể và Dụng cùng vận dụng, sẽ có thể độ sanh).

Có năng lực mà nếu chẳng có động lực từ bi thúc đẩy, người ấy sẽ ngã lòng đối với chúng sanh ương ngạnh, khó giáo hóa, chẳng độ nữa. Chúng sanh quá khó độ, đối xử với họ bằng lòng tốt, họ vẫn dùng ác tâm để đáp trả, dùng cừu hận để báo ân, [nếu chẳng có động lực từ bi thúc đẩy, sẽ tự nhủ]: “Chẳng bận tâm đến kẻ đó nữa”, vội vã tránh xa kẻ đó. Đấy là chẳng có lòng từ bi. Đức Phật có tâm đại từ bi, niệm niệm chẳng bỏ chúng sanh. Đó là Nhân. Thích Ca: Họ ngoài đời của đức Phật là Thích Ca, có ý nghĩa như vậy đó. Đức Phật hiệu là Mâu Ni, Mâu Ni dịch nghĩa thành Tịch Mặc. Năng Nhân là đối với chúng sanh: Chúng ta đối đãi chúng sanh như thế nào? Ứng phó xã hội phức tạp như thế nào? Tịch Mặc là làm thế nào gìn giữ chính mình. Hai chữ này (Mâu Ni) là tự lợi, hai chữ trước (Thích Ca) là lợi tha.

 

(Sao) Tịch tắc trừng nhiên bất động, đốn tức vạn duyên.

(Diễn) Trừng nhiên bất động, đốn tức vạn duyên, tâm hành xứ diệt dã.

()寂則澄然不動,頓息萬緣。

()澄然不動。頓息萬緣。心行處滅也。

(Sao: Tịch là lắng trong, bất động, dứt ngay muôn duyên.

Diễn: Lắng trong, bất động, dứt ngay muôn duyên: Tâm hành xứ diệt).

 “Tịch”  là Định, là tâm thanh tịnh.  Tâm phải thanh tịnh, tâm  phải định. Bất luận trong cảnh giới nào, thuận cảnh cũng thế, mà nghịch cảnh cũng vậy; trong hoàn cảnh nhân sự, người lành cũng thế, mà kẻ ác cũng thế, chúng ta gặp những cảnh giới ấy, phải học theo đức Phật. Đức Phật đối diện chúng nó như thế nào? Đối với cảnh giới, đức Phật chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. Đó là Tịch. “Trừng nhiên bất động”: “Trừng” (澄) là tỷ dụ, giống như nước rất sạch, chẳng có một tí ô nhiễm nào, rất ngưng lặng. Nước ấy thanh tịnh. Tâm phải giống như thế, chớ nên động. “Đốn tức vạn duyên”: Chẳng có một vọng niệm nào, phải thời thời khắc khắc gìn giữ trạng thái này. Đó là chân tâm, là Phật Tánh, tức là chân tâm của chính mình. Tâm dấy ý niệm, chuyển động thì gọi là vọng tâm, chẳng phải là diện mục sẵn có (bổn lai diện mục) của chính mình. Diện mục sẵn có của chính mình là chân tâm, là bất động.

 

(Sao) Mặc tắc mạc nhĩ vong ngôn, vĩnh ly hý luận, thị đại trí minh Lý dã.

(Diễn) Mạc nhĩ vong ngôn, vĩnh ly hý luận, ngôn ngữ đạo đoạn dã. Hữu nhất vị vong, tắc cuồng tâm vị hiết, mạng căn vị đoạn, bất năng chứng Lý. Tư nghị song vong, nãi năng chứng Lý dã.

()默則漠爾忘言,永離戲論,是大智冥理也。

()漠爾忘言。永離戲論。言語道斷也。有一未忘。則狂心未歇。命根未斷。不能證理。思議雙亡。乃能證理也。

(Sao: “Mặc” là vắng lặng, quên lời, vĩnh viễn xa lìa hý luận. Đấy là đại trí ngầm khế hợp Lý vậy.

Diễn: “Vắng lặng, quên lời, vĩnh viễn lìa khỏi hý luận”: Ngôn ngữ dứt bặt. Hễ có một điều gì chưa quên, tức là cuồng tâm chưa dứt, mạng căn chưa đoạn, chẳng thể chứng Lý. Suy nghĩ và bàn luận đều mất thì mới có thể chứng Lý).

Phật, Bồ Tát hoàn toàn chẳng phải là rất nghiêm nghị. Nói thật ra, chư Phật, Bồ Tát hòa ái, dễ thân thiết. Cuộc sống của Đại Thừa Bồ Tát hết sức tiêu sái, rất thơ mộng. Chúng ta gọi “hý luận” (戲論) là ăn nói nhảm nhí, tức là những ngôn luận chẳng có mảy may ý nghĩa gì! Phật, Bồ Tát chẳng hý luận. Bình thường tiếp xúc chúng sanh, Phật, Bồ Tát giảng kinh, thuyết pháp có chỗ nào hài hước hay chăng? Có chứ, rất nhiều! Từ kinh luận Đại Thừa, chúng ta thường thấy Phật, Bồ Tát có nhiều cảm xúc hài hước. Nhưng bất luận dùng phương thức thuyết pháp nào, nhất định là có lợi ích cho chúng sanh; nói, cười, cử động đều đủ để khơi gợi trí huệ và phát khởi tâm tánh cho chúng sanh. Nếu chẳng có mảy may lợi ích gì đối với chúng sanh, dẫu là chuyện rất nghiêm túc, đức Phật cũng chẳng nói, [vì nói chuyện đó] thì cũng gọi là hý luận! Vì thế, tiêu chuẩn của hý luận chính là “đối với chúng sanh chẳng có lợi ích gì”. Dẫu nói êm tai cách mấy, đều là hý luận!

“Mạc nhĩ vong ngôn” (Vắng lặng, quên lời), câu này có ý nghĩa hết sức sâu xa. Ta cũng thường thấy kinh Đại Thừa chép: Đức Phật thuyết pháp “nói mà không nói, không nói mà nói”, chính là ý nghĩa này. Đức Phật thuyết pháp hoàn toàn là nói ứng theo căn cơ, chẳng phải là chuẩn bị trước. Phàm phu đến nơi đâu để giảng diễn, trước đó phải chuẩn bị. Đã chuẩn bị trước thì là “có nói, mà là nói”. Đức Phật chẳng hề chuẩn bị, “chẳng nói mà nói, nói mà không nói”. Năng Nhân là đại bi lợi vật, Tịch Mặc là đại trí ngầm hợp Lý. “Đại trí minh Lý” (Đại trí ngầm hợp Lý), Lý là tự tánh, Trí và Tánh dung hợp thành một Thể, đấy là tự lợi. Do vậy, danh hiệu Phật dạy chúng ta: Nay ở trên đời, tu học, xử sự, đãi người, tiếp vật, phải dùng tiêu chuẩn nào? Phải giữ những nguyên tắc nào? Chính là bốn chữ ấy (Thích Ca Mâu Ni), đức Phật dạy chúng ta như vậy đó.

 

(Sao) Nhị giả viên dung thuyết, dĩ Bi tức Trí cố, chung nhật độ sanh, vô sanh khả độ, động nhất tĩnh dã.

(Diễn) Dĩ Bi tức Trí hạ, dĩ đại bi cố, vãng lai tam giới, xuất một tứ sanh, chung nhật độ sanh. Dĩ đại trí cố, nhất thiết chúng sanh tức tịch diệt tướng, vô sanh khả độ.

()二者圓融說,以悲即智故,終日度生,無生可度,動一靜也。

()以悲即智下。以大悲故。往來三界。出沒四生。終日度生。以大智故。一切眾生即寂滅相。無生可度。

(Sao: Hai là nói viên dung, do Bi chính là Trí, cho nên suốt ngày độ sanh mà không có chúng sanh để có thể độ, động là một với tĩnh.

Diễn: Từ câu “do Bi chính là Trí” trở đi: Do đại bi nên qua lại ba cõi, ra vào tứ sanh, suốt ngày độ sanh. Do đại trí, nên hết thảy chúng sanh chính là tướng tịch diệt, chẳng có chúng sanh nào để có thể độ).

Bi và Trí là hai khía cạnh của một Thể. Bi là mong độ chúng sanh, Năng Nhân là độ chúng sanh, giúp đỡ chẳng mệt, chẳng chán, khiến cho hết thảy chúng sanh phá mê, khai ngộ, lìa khổ, được vui. “Chung nhật độ sanh, vô sanh khả độ” (Suốt ngày độ chúng sanh, chẳng có chúng sanh để có thể độ). Trong kinh Bát Nhã, đức Phật đã nói rất rõ ràng: Phật chẳng độ chúng sanh. Suốt ngày từ sáng đến tối giảng kinh, thuyết pháp, cớ sao nói “chẳng độ chúng sanh”? Đức Phật chưa hề khởi tâm động niệm nói một câu pháp, chưa hề khởi tâm động niệm nói độ một chúng sanh. Vì sao? Tâm Ngài “trừng nhiên bất động, đốn tức vạn duyên” (lắng trong, bất động, dứt bặt muôn duyên). Nói theo tâm tánh của chính mình, xác thực là chẳng có! Đấy chính là “vốn chẳng có một vật” như Lục Tổ đã nói. Suốt bốn mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp, chưa hề nói một chữ. Vì sao bảo là “chưa từng nói một chữ”? Trong tâm Ngài chưa hề phân biệt một chữ, chưa hề chấp trước một chữ nào. Tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm ô một chữ nào! Pháp được nói như thế nào? Do ứng với căn cơ của chúng sanh mà tự nhiên lưu lộ!

Cảm ứng đạo giao: Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Giống như cái chuông, hễ gõ, nó liền ngân vang ngay lập tức. Quý vị hỏi cái chuông, nó có ngân vang hay không? Nó sẽ đáp: “Tôi chưa từng ngân vang”. Xác thực là chưa hề ngân vang, nhưng quý vị gõ, nó bèn ngân lên. Chẳng gõ, nó sẽ không ngân. Đức Phật thuyết pháp cũng lại giống như vậy. Vì thế, suốt ngày độ sanh, suốt ngày chẳng có chúng sanh nào để có thể độ. Nếu “suốt ngày độ sanh, suốt ngày có chúng sanh để có thể độ”, đó là phàm phu, chẳng phải là Phật, Bồ Tát. Quyền Giáo Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, các Ngài suốt ngày độ sanh, [vẫn thấy] có chúng sanh để có thể độ. Phật và Pháp Thân đại sĩ – Pháp Thân đại sĩ là những vị Bồ Tát đã phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân – các Ngài đều là suốt ngày độ sanh, [thế mà] chẳng có chúng sanh để có thể độ. Đó là bậc Bồ Tát đã kiến tánh. Trong động, các Ngài tĩnh. Phật pháp dùng bánh xe làm tiêu chí, tức là biểu tượng, dùng pháp luân. Luân là động, tâm bất động; động và tĩnh là một, chẳng hai. “Động nhất tĩnh dã” (Động và tĩnh là một): [Bánh xe] động là Năng Nhân, tâm hình tròn [của bánh xe] là Tịch Mặc, tâm là bất động. Đấy là chỗ khác biệt giữa chúng sanh và Phật. Vì thế, Bi chính là Trí.

 

(Sao) Dĩ Trí tức Bi cố, bất khởi nhất niệm, thường độ chúng sanh, tĩnh nhất động dã.

(Diễn) Dĩ Trí tức Bi hạ, dĩ đại trí cố, liễu pháp giai không, bất khởi nhất niệm, bất cư sanh tử. Dĩ đại bi cố, bất trụ không tịch, thường độ chúng sanh, bất chứng Niết Bàn.

()以智即悲故,不起一念,常度眾生,靜一動也。

()以智即悲下。以大智故。了法皆空。不起一念。不居生死。以大悲故。不住空寂。常度眾生。不證涅槃。

(Sao: Do Trí chính là Bi, chẳng dấy một niệm, thường độ chúng sanh, tĩnh là một với động.

Diễn: Từ câu “do Trí chính là Bi” trở đi: Do đại trí, nên hiểu các pháp đều là không, chẳng dấy một niệm, chẳng ở trong sanh tử. Do đại bi, nên chẳng trụ vào không tịch, thường độ chúng sanh, chẳng chứng Niết Bàn).

Các Ngài trong tĩnh có động. Xác thực là Phật, Bồ Tát chưa hề dấy một niệm, nhưng các Ngài hóa thân vô lượng vô biên trong mười phương thế giới, giúp đỡ lục đạo chúng sanh đang khổ nạn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thật sự đang làm [chuyện hóa độ ấy]! Tuy thật sự đang làm, xác thực là các Ngài chẳng dấy một niệm. Thật sự học Phật là học ở chỗ này. Như thế là đúng, quý vị mới đạt được pháp lạc chân thật trong Phật pháp, nhà Phật nói là “pháp hỷ sung mãn”. Học từ chỗ này thì mới có thể đạt được pháp hỷ thật sự.

Pháp hỷ thật sự sanh từ cái tâm thanh tịnh, trong tâm xác thực chẳng có một niệm. Bên ngoài bèn hòa quang đồng trần, ở chung với mọi người, quý vị tuyệt đối chẳng nhìn ra chỗ khác biệt, hoàn toàn giống như mọi người, nhưng bên trong thì khác. Phàm phu bên ngoài là động, bên trong cũng là động. Phật, Bồ Tát bên ngoài là động, bên trong là bất động. Phàm phu trong lẫn ngoài đều nhiễm; Phật, Bồ Tát thì bên ngoài giống như là nhiễm, nhưng bên trong là thanh tịnh, bên trong trước nay vẫn chẳng nhiễm. Trên thực tế, bên ngoài là nhiễm, hay chẳng nhiễm? Bên ngoài cũng chẳng nhiễm, nhưng quý vị thấy dường như là có nhiễm. Thật ra, bên ngoài các Ngài cũng chẳng nhiễm; nhưng lũ phàm phu chúng ta thấy các Ngài cũng nhiễm như chúng ta. Đó là chúng ta đã thấy sai mất rồi. Chúng ta thật sự nhiễm, trong lẫn ngoài đều nhiễm, các Ngài là trong lẫn ngoài đều chẳng nhiễm, nhưng biểu hiện bên ngoài hoàn toàn giống như chúng ta! Đấy chính là “thiện quyền phương tiện, khúc tựu cơ nghi” (phương tiện quyền biến, thiện xảo, khéo phù hợp cơ nghi) như trong phần trước đã nói.

(Sao) Cố tri thiên cử nhị tự, nãi chí nhất ngôn, Phật chi toàn đức, nhiếp vô bất tận.

(Diễn) Thiên cử nhị tự giả, dĩ Bi tức Trí, Năng Nhân tức kiêm Tịch Mặc. Dĩ Trí tức Bi, Tịch Mặc tức kiêm Năng Nhân, nãi chí nhất ngôn giả, Năng tức kiêm Nhân, Dụng tức Thể cố. Nhân tức kiêm Năng, Thể tức Dụng cố. Tịch tức kiêm Mặc, tâm hành xứ diệt, tự nhiên ngữ ngôn đạo đoạn. Mặc tức kiêm Tịch, ngôn ngữ đạo đoạn, nãi viết tâm hành xứ diệt cố.

()故知偏舉二字,乃至一言,佛之全德,攝無不盡。

()偏舉二字者。以悲即智。能仁即兼寂默。以智即悲。寂默即兼能仁。乃至一言者。能即兼仁。用即體故。仁即兼能。體即用故。寂即兼默。心行處滅。自然語言道斷。默即兼寂言語道斷。乃曰心行處滅故。

(Sao: Vì thế biết: Chỉ riêng nêu lên hai chữ, thậm chí chỉ bằng một lời, toàn bộ phẩm đức của Phật đã được hàm nhiếp chẳng sót chút nào.

Diễn: “Chỉ riêng nêu lên hai chữ”: Do Bi chính là Trí, nên Năng Nhân bèn kiêm Tịch Mặc. Do Trí chính là Bi, nên Tịch Mặc bèn kiêm Năng Nhân. “Thậm chí chỉ bằng một lời”: Năng bèn kiêm Nhân, do Dụng chính là Thể. Nhân bèn kiêm Năng, do Thể chính là Dụng. Do Tịch kiêm Mặc, nên tâm hành xứ diệt, tự nhiên ngôn ngữ dứt bặt. Do Mặc kiêm Tịch, ngôn ngữ dứt bặt, bèn nói là “tâm hành xứ diệt”).

“Thiên cử nhị tự” (Chỉ riêng nêu lên hai chữ), tức là Trí Bi hoặc Bi Trí. “Nhất ngôn” (Một lời), hai thứ ấy là một Thể, [tức là] một Thể, một tác dụng. Thể và Dụng lại còn có thể dùng lẫn cho nhau: Bi là Thể, Trí là Dụng. Hoặc Trí là Thể, Bi là Dụng. Thể và Dụng có thể dùng lẫn nhau, chẳng nhất định cái nào là Thể, cái nào là Dụng! Chẳng phải là nói theo kiểu đó. Nói kiểu đó sẽ bị chướng ngại, mới trở thành hai thứ. Chúng là một thứ!

 

(Sớ) Thậm nan hy hữu, tổng hạ nhị nan.

()甚難希有,總下二難。

(Sớ: Nói “rất khó, hiếm có” hòng chỉ chung hai điều khó khăn [sẽ được nói đến] trong phần sau).

Hai sự khó khăn được nói trong phần kế tiếp.

 

(Sớ) Cụ thử nhị nan, cố ngôn công đức bất tư nghị dã.

(Sao) Ngôn nhị nan giả, ư Ngũ Trược đắc Bồ Đề, thị vi nhất nan.

()具此二難,故言功德不思議也。

()言二難者,於五濁得菩提,是為一難。

(Sớ: Do có đủ cả hai điều khó khăn ấy, nên bảo là công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Sao: Nói đến hai thứ khó khăn thì trong đời Ngũ Trược mà đắc Bồ Đề, đó là điều khó khăn thứ nhất).

Trong phần sau, còn có giải thích cặn kẽ, sau đấy, quý vị mới biết thật sự là khó! Chúng ta sống trong xã hội hiện thời, đọc bộ kinh này, sẽ có cảm xúc sâu đậm hơn cổ nhân rất nhiều! Người thời cổ, xã hội thuần phác, chẳng dễ cảm thấy việc ấy khó khăn cho lắm. Trong xã hội hiện thời, mọi người đều thấy: Phong khí thuần phác xa xưa đã hoàn toàn chẳng còn nữa! Đối với xã hội hiện thời, bốn điều giáo huấn thanh tịnh sáng suốt (thanh tịnh minh hối) trong kinh Lăng Nghiêm đã miêu tả [chuẩn xác] xã hội hiện thời. Nhìn vào xã hội hiện thời, trong xã hội là những gì? Yêu ma, quỷ quái, chẳng phải là người. Gì mới là người? Trong tâm con người là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đấy là con người. Trong tâm con người là Ngũ Giới, Thập Thiện, đấy là con người. Nếu trong tâm là tham, sân, si, là giết, trộm, dâm, dối, sẽ là yêu ma, quỷ quái. Vì vậy, chẳng thể nhìn từ bề ngoài, phải nhìn từ tâm địa. Chúng ta sống trong một xã hội như vậy, là đời ác Ngũ Trược, sự trược ác xác thực đã lộ ra ngoài. Đối với Ngũ Trược ác thế như Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói xưa kia, sự trược ác ấy vẫn chẳng dễ phát hiện cho lắm, nhìn chẳng ra! Nay thì giống như một quả táo đã mục ruỗng, từ bên trong thối ruỗng đến bên ngoài; ai nhìn vào cũng đều biết đó là một quả táo thối nát. Trước kia là trong tâm hư nát một tí, nhìn bề ngoài còn đẹp đẽ, chẳng nhìn ra!

Hiện tại là một thời đại như vậy đó! Trong một thời đại như thế, quý vị muốn làm một người tốt khó lắm, chẳng dễ dàng! Thành La Hán, thành Bồ Tát, thành Phật, há chẳng phải là càng khó hơn ư? Trong đời ác Ngũ Trược, Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, đấy là chuyện khó khăn! “Đắc Bồ Đề” là thành Phật.

 

(Sao) Hựu ư Ngũ Trược, thuyết thử Tịnh Độ pháp môn, thị vi nhị nan.

()又於五濁說此淨土法門,是為二難。

(Sao: Lại ở trong Ngũ Trược, nói pháp môn Tịnh Độ này, đó là chuyện khó thứ hai).

Đây là nỗi khó khăn thứ hai. Thích Ca Mâu Ni Phật trong khi ấy, nói pháp môn Tịnh Độ, khuyên người ta chuyên tín, chuyên nguyện, chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Có khá nhiều Bồ Tát đệ tử, Thanh Văn đệ tử ở ngay bên cạnh Thích Ca Mâu Ni Phật mà chẳng tin tưởng! Nghe đức Phật nói xong, họ gật đầu, chẳng có ý nghĩ cầu vãng sanh! Cho thấy đây là pháp khó tin. Phật pháp lưu truyền cho tới nay đã ba ngàn năm; ba ngàn năm sau, chúng ta cũng tuyên dương pháp môn này, có lắm kẻ chẳng tin, có lắm kẻ bài xích, đó là lẽ đương nhiên. Có gì kỳ quái đâu nhỉ? Nếu họ chẳng ngăn trở, chẳng bài xích, há chẳng phải là pháp dễ tin ư? Làm sao có thể gọi là “pháp khó tin” cho được? Vì thế, chúng ta phải hiểu rành mạch, hiểu rõ ràng.

Có lắm kẻ tu hành bảo: “Một bộ kinh không được đâu! Chẳng đáng tin cậy! Lạy một vị Phật, chẳng thể thành tựu!” Chúng ta nghe nói [như vậy] rất nhiều, chúng ta cũng tuyệt đối chẳng bị họ lay động. Do đạo lý gì? Đối với đạo lý và chân tướng sự thật này, chúng ta hiểu rất rõ ràng, minh bạch, biết nhất định là có thành tựu, quyết định chẳng luống uổng. Kinh nói “công bất đường quyên” (công chẳng phí uổng), quyết định là sẽ có kết quả.

 

(Sao) Tịnh thử nhị chủng, thị vi tối thượng nan hành chi sự, duy Phật hành chi, hy hữu hãn kiến chi sự, duy Phật hữu chi.

()并此二種,是為最上難行之事,唯佛行之,希有罕見之事,唯佛有之。

(Sao: Và hai loại này, chính là chuyện khó làm bậc nhất, chỉ có Phật làm được, và là chuyện hy hữu hiếm thấy, chỉ riêng Phật là có).

Đây là sự khó hành mà có thể hành, là pháp hiếm có. Đấy là tán thán công đức chẳng thể nghĩ bàn. Hôm nay chúng tôi nói tới chỗ này.

 

Tập 275   

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm bảy mươi lăm:

 

(Sao) Hựu nan hành năng hành, do vị hy hữu, thậm nan hành giả, nhi năng hành chi, thử thành giá cổ dật kim, siêu hiền việt thánh, thiên thượng, thiên hạ, trác nhiên độc thiện, nhi vô dữ đẳng liệt giả dã, cố vân hy hữu.

()又難行能行,猶未希有,甚難行者而能行之,此誠駕古軼今,超賢越聖,天上天下,卓然獨擅,而無與等埒者也,故云希有。

(Sao: Lại nữa, khó làm mà có thể làm, vẫn chưa phải là hy hữu. Đối với chuyện rất khó làm mà có thể làm, đúng là trỗi xưa vượt nay, vượt hiền, trỗi thánh, trên trời, dưới đất, riêng tốt lành lỗi lạc, chẳng có gì có thể sánh cùng. Vì thế nói là “hy hữu”).

Đây là giải thích câu “thậm nan hy hữu” trong lời Sớ. Liên Trì đại sư đã vì chúng ta kể ra hai điều khó:

1) Thứ nhất là trong đời ác Ngũ Trược, thành Phật khó khăn.

2) Thứ hai là hoằng dương pháp môn này trong cõi đời trược ác khó lắm. Pháp này được gọi là “pháp khó tin”.

Trong đoạn trước, đã giới thiệu điều này. Trong đoạn sau, bèn nói “điều khó làm mà có thể làm được” vẫn chưa đáng kể là hy hữu. “Hy hữu” là [nói tới] chuyện rất khó thực hiện. Điều rất khó thực hiện mà có thể làm được; đấy mới là thật sự hy hữu! Liên Trì đại sư nói lời này, chúng ta suy nghĩ kỹ càng, [sẽ thấy] Ngài nói xác thực là chẳng quá lố! Hiện thời, khoa học khá tiến bộ, các nhà khảo cổ và sử gia đều hiểu rõ: Trên địa cầu này, từ xưa đến nay, chỉ thấy có một người thành Phật, chẳng thấy vị thứ hai, xác thực là khó khăn! Chúng ta có thể tiếp nhận và tin tưởng điều này, nhưng đối với điều thứ hai, tức là “nói pháp khó tin này cũng khó khăn ngần ấy”, chúng ta nghe xong có lẽ cũng hoài nghi. Vì sao? Cổ Ấn Độ, chúng ta chẳng bàn tới, chỉ nói [kể từ khi] Phật pháp truyền sang Trung Hoa. Theo lịch sử ghi chép, Phật pháp được chánh thức truyền sang Trung Hoa nhằm năm Vĩnh Bình thứ mười, đời Hậu Hán, tức là năm 67 Công Nguyên, đã có lịch sử gần hai ngàn năm. Kể từ thời Đông Tấn, Huệ Viễn đại sư kiến lập Niệm Phật Đường đầu tiên ở Trung Hoa tại Lư Sơn, đề xướng nương theo kinh Vô Lượng Thọ để chuyên tu Tịnh nghiệp. Thuở đó, đối với ba kinh Tịnh Độ, chỉ có kinh Vô Lượng Thọ được dịch sang tiếng Hán, chứ kinh Di Đà và Quán Kinh vẫn chưa được phiên dịch. Thời ấy, Tịnh Độ Tông chỉ có một bộ kinh Vô Lượng Thọ, Lư Sơn Liên Xã căn cứ vào kinh Vô Lượng Thọ mà kiến lập.

Từ sau thời Viễn Công, trong hơn một ngàn năm, có thể nói là Tịnh Tông Trung Hoa khá hưng thịnh, không kém Thiền Tông. Cớ sao bảo là “pháp khó tin”? Nói thật ra, chúng ta có duyên quá thù thắng, những người chúng ta tiếp xúc đều là người niệm Phật. Vì thế, thấy pháp môn Niệm Phật này dường như chẳng khó, người niệm Phật đông lắm mà! Nếu lắng lòng quan sát kỹ, quý vị sẽ cảm thấy chẳng phải vậy! Pháp môn này xác thực là khó tin! Luận định theo dân cư trên cả thế giới, người gặp gỡ Phật pháp có thể chiếm mấy phần? Tỷ lệ quá thấp! Trong những người tiếp xúc Phật pháp, lại có mấy phần được nghe pháp môn Tịnh Độ? Trong những người nghe pháp môn Tịnh Độ, lại có mấy phần thật sự liễu giải Tịnh Tông? Cứ loại trừ từng tầng một như vậy, đúng là còn sót lại chẳng được mấy người. Chúng ta mới biết đức Phật nói “pháp môn này khó tin, khó nói”, xác thực là có đạo lý. Đoạn này nhằm nói rõ chuyện này!

 

(Sớ) Sa Bà thử vân Kham Nhẫn, nhất vân Nhẫn giới.

()娑婆此云堪忍,一云忍界。

(Sớ: “Sa Bà” cõi này dịch là Kham Nhẫn, một cách dịch khác là “Nhẫn Giới”).

“Sa Bà” (Sahā-lokadhātu) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Kham Nhẫn. “Kham” (堪) nghĩa là có thể chịu đựng, có ý nghĩa là thế giới này bất hảo, [thế mà] người sống trong thế giới này có thể chịu đựng, có thể hứng chịu [sự bất hảo ấy]. Kham Nhẫn có ý nghĩa ấy. Vì thế, cũng gọi là Nhẫn Giới, Giới (界) tức là thế giới này.

 

(Sớ) Tức Thích Ca Thế Tôn sở chủ đại thiên thế giới dã.

()即釋迦世尊所主大千世界也。

(Sớ: Tức là đại thiên thế giới nơi đức Thích Ca Thế Tôn làm chủ).

Thích Ca Mâu Ni Phật thật sự chẳng thể nghĩ bàn, thật sự hết sức khó có! Ngài đến thị hiện thành Phật trong thế giới này để hoằng pháp độ sanh.

 

(Sớ) Ngũ Trược giả, dĩ ngũ sự giao nhiễu, hồn trược chân tánh, cố danh ác thế.

()五濁者,以五事交擾,渾濁真性,故名惡世。

(Sớ: “Ngũ Trược” là do có năm chuyện xen tạp quấy nhiễu, khiến cho chân tánh bị nhơ đục, nên gọi là “đời ác”).

“Trược” (濁) là chẳng thanh tịnh. Nói theo cách hiện thời, sẽ là “ô nhiễm”. Có năm loại ô nhiễm lớn, nhiễm bẩn chân tâm bản tánh của chúng ta. Ở đây, ắt cần phải nói rõ: Chân tâm bản tánh quyết định chẳng bị ô nhiễm. Đức Phật nói những lời này để cho chúng ta dễ hiểu, đấy là đức Phật nói phương tiện, chẳng phải là nói chân thật. Giống như trời âm u, chúng ta nói “mây che khuất mặt trời”, nói kiểu ấy có nghe lọt tai hay không? Nghe lọt tai chứ! Mọi người đều nói như vậy! Nếu nói thật sự, mây làm sao có thể che lấp mặt trời cho được? Mặt trời to hơn địa cầu mấy chục vạn lần, một áng mây bé tí làm sao có thể che lấp mặt trời? Huống chi mây cách mặt trời quá ư là xa! Nhưng trong cái nhìn của chúng ta, giống như mây thật sự che lấp mặt trời. Ngũ Trược ô nhiễm tâm tánh cũng giống như tỷ dụ ấy, hoàn toàn chẳng phải là bản tánh thật sự bị ô nhiễm, mà là chướng ngại, khiến cho chúng ta hiện tiền chẳng thấy chân tánh, xác thực là bị nó chướng ngại. Vì thế, gọi là Trược, là vẩn đục. “Cố danh ác thế” (Nên gọi là đời ác), thế gian này chẳng thanh tịnh. “Chẳng thanh tịnh” là nói theo [phương diện] tâm hạnh của hết thảy chúng sanh, tạo tác hết thảy ác nghiệp. Do ác nghiệp, nhất định cảm vời khổ báo; nhân, duyên, quả báo chẳng sai sẩy mảy may! Đây là nói về thế gian này!

 

(Sớ) Vô Ngũ Trược giả, danh thiện thế dã.

()無五濁者,名善世也。

(Sớ: Chẳng có Ngũ Trược thì gọi là cõi đời tốt lành).

 Thế giới nào chẳng có Ngũ Trược? Thật sự chẳng có Ngũ Trược, rốt ráo chẳng có Ngũ Trược, chính là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đó là cõi nước thanh tịnh mà hết thảy các vị Bồ Tát đều mong cầu.

 

(Sao) Kham Nhẫn giả, dĩ thử trung chúng sanh, kham năng nhẫn thọ Tam Độc phiền não, luân hồi sanh tử, bất yếm ly cố.

()堪忍者 ,以此中眾生 ,堪能忍受三毒煩惱,輪迴生死,不厭離故。

(Sao: Kham Nhẫn là chúng sanh trong cõi ấy có thể chịu đựng Tam Độc phiền não, luân hồi, sanh tử, chẳng chán lìa vậy).

Hiện tượng này xác thực là sự thật, Phật, Bồ Tát trông thấy, luôn cảm thấy hết sức lạ lùng: Chúng sanh luân hồi trong lục đạo khổ sở ngần ấy, vì sao họ chẳng mong vượt thoát? Vì thế, gọi là Kham Nhẫn, có thể “nhẫn thọ Tam Độc” (chịu đựng tham, sân, si). Trong tất cả các thứ độc hại trên thế gian, ba thứ ấy nghiêm trọng nhất. Tam Độc là tham, sân, si, gọi là “Tam Độc phiền não”. Vì có Tam Độc, cho nên thế gian này có ba ác đạo. Hết thảy chúng sanh nếu chẳng thể vượt thoát luân hồi, quyết định là thời gian ở trong ba ác đạo dài lâu, thời gian ở trong ba thiện đạo ngắn ngủi, do nguyên nhân gì? Ý niệm tham, sân, si rất thô, rất nặng, đạo lý là như thế đó. Vì sao thời gian trong ba thiện đạo ngắn ngủi? Ý niệm chẳng tham, chẳng sân, chẳng si trong tâm chúng ta rất ít, sức mạnh của chúng rất mỏng yếu. Do vậy, thời gian ở trong ba thiện đạo ngắn ngủi. Ý niệm tham, sân, si rất mạnh, sức mạnh rất lớn, dẫn đến thời gian chúng ta ở trong ba ác đạo lâu xa. Đạo lý là như thế đó. Những kẻ ấy có thể chịu đựng Tam Độc phiền não, chẳng biết tiêu trừ, luân hồi trong lục đạo, chịu đựng những quả báo ấy mà chẳng biết xuất ly. Đó gọi là Kham Nhẫn.

 

(Sao) Nhẫn Giới giả, Như Lai ư trung, độc chứng Tự Thệ tam-muội cố. Hựu kiếp sơ, Phạm Vương danh Nhẫn cố.

(Diễn) Độc chứng Tự Thệ tam-muội giả, chứng giả, nhẫn dã. Tự Thệ tam-muội, tức Như Lai nhân địa Tứ Hoằng Thệ Nguyện, nguyện thành Phật đạo, nguyện độ chúng sanh, nguyện đoạn phiền não, nguyện tu pháp môn. Kim dĩ thành Phật, đoạn vô minh thành Phật đạo, chuyển pháp luân độ chúng sanh. Cố vi độc chứng. Thử tùng Như Lai đắc danh, y xuất thế chi chủ đắc danh dã. Kiếp sơ, Phạm vương danh Nhẫn giả, không kiếp dĩ tiền, thử giới vị hữu nhân dân. Tự Phạm Vương giáng sanh, thỉ hữu nhân loại. Kiếp sơ, Phạm vương danh Nhẫn, toại danh Nhẫn Giới. Thử tùng Phạm Vương đắc danh, y thế gian chi chủ đắc danh dã.

()忍界者,如來於中獨證自誓三昧故,又劫初梵王名忍故。

()獨證自誓三昧者 。證者忍也 。自誓三昧。即如來

因地四弘誓願。願成佛道。願度眾生。願斷煩惱。願修法門。今已成佛。斷無明成佛道。轉法輪度眾生。故為獨證。此從如來得名。依出世之主得名也。劫初梵王名忍者。空劫以前。此界未有人民。自梵王降生始有人類。劫初梵王名忍。遂名忍界。此從梵王得名。依世間之主得名也。

(Sao: Nhẫn Giới: Chỉ có mình Như Lai ở trong ấy chứng Tự Thệ tam-muội. Lại thuở kiếp sơ, Phạm Vương có tên là Nhẫn.

Diễn: “Một mình riêng chứng Tự Thệ tam-muội”: Chứng là Nhẫn. Tự Thệ tam-muội chính là Tứ Hoằng Thệ Nguyện của Như Lai trong khi tu nhân, nguyện thành Phật đạo, nguyện độ chúng sanh, nguyện đoạn phiền não, nguyện tu pháp môn. Nay đã thành Phật, đoạn vô minh, thành Phật đạo, chuyển pháp luân độ chúng sanh. Vì thế là “riêng chứng một mình”. Đây là từ Như Lai mà [thế giới này] có tên gọi như vậy, tức là nương theo bậc chủ của xuất thế gian để đặt tên. “Thuở kiếp sơ, Phạm Vương có tên là Nhẫn”: Từ bao kiếp lâu xa về trước, cõi này chưa có nhân dân. Từ khi Phạm Vương giáng sanh, mới có nhân loại. Phạm Vương thuở kiếp sơ tên là Nhẫn, bèn gọi [cõi này] là Nhẫn Giới. Đấy là do từ Phạm Vương mà đặt tên, tức là dựa theo bậc chủ của thế gian để đặt tên).

Thế giới này có tên là thế giới Kham Nhẫn, tên gọi ấy do đâu mà có? Tên ấy có hai xuất xứ:

1) Một là đức Phật “độc chứng Tự Thệ tam-muội” (riêng mình đức Phật tự chứng Tự Thệ tam-muội). “Tự Thệ” là tự mình phát ra thệ nguyện ấy. Từ nhiều kiếp lâu xa về trước, Thích Ca Mâu Ni Phật có thân phận giống như chúng ta trong hiện tại, vừa mới phát tâm học Phật, phát ra Tứ Hoằng Thệ Nguyện, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, phát nguyện này. Về sau, Ngài thành Phật. Sau khi đã thành Phật, bèn thực hiện nguyện ấy. Do vậy, Ngài trở lại thế giới Sa Bà, thị hiện thành Phật. Đó là “độc chứng Tự Thệ tam-muội cố” (riêng một mình Ngài chứng Tự Thệ tam-muội). Tuy chúng sanh trong thế giới này rất khổ, rất ngu si, đức Phật vẫn phải đến [cứu độ], quyết định chẳng thể vứt bỏ.

2) Thứ hai là nói thế giới này, lúc khởi đầu, loài người chúng ta do đâu mà có? Hiện thời, các nhà khoa học bảo con người do loài vượn tiến hóa thành. Cách nói ấy rất miễn cưỡng! Tuy họ đưa ra nhiều lý do, chẳng thể khiến cho mọi người vui vẻ, thật sự tin phục. Vì sao? Nếu con người do loài khỉ tiến hóa thành, cớ sao hiện thời có những con khỉ chẳng tiến hóa thành người? Há có chuyện một nửa loài khỉ tiến hóa, nửa kia chẳng tiến hóa? Chúng cùng sống một chỗ mà! Nói kiểu nào cũng chẳng suông! Gần đây nhất, cũng có người bảo: Tổ tiên của nhân loại đến từ không gian bên ngoài, hoặc từ tinh cầu khác di dân đến địa cầu. Sau khi đến đây, có thể là do công cụ giao thông của họ bị tổn hoại, họ chẳng thể quay về nữa, bèn bén rễ sanh sôi ở nơi đây. Cách nói ấy rất gần với cách nói trong kinh Phật.

Kinh Phật bảo: Tổ tiên nhân loại từ cõi trời Đại Phạm Thiên (Mahābrahmā) tới. Đại Phạm Thiên tuyệt đối chẳng phải là ở trên tinh cầu này của chúng ta, [mà là] từ tinh cầu khác di dân đến nơi đây. Trong kinh có khi nói là Đại Phạm Thiên, có chỗ nói là Quang Âm Thiên. Quang Âm Thiên (Ābhāsvara) thuộc về Nhị Thiền Thiên. Nói chung, đều chẳng phải là ở trên quả địa cầu này, đều là từ tinh cầu khác di dân đến đây. Tên của Đại Phạm Vương chỉ có một chữ là Nhẫn (Kṣānti). Do ông ta di dân đến chỗ này trước hết, bèn dùng tên của ông ta để làm danh hiệu của cả khu vực này. Điều này cũng rất hợp tình, hợp lý. Địa cầu này được gọi là thế giới Kham Nhẫn, cũng là vì thoạt đầu, có những người từ Đại Phạm Thiên di dân đến nơi đây. Do đó, có hai thứ xuất xứ của danh hiệu như vậy. Đoạn tiếp theo nhằm giải thích từ ngữ Ngũ Trược (Pañca-kaṣāya). Đoạn này rất quan trọng, nhằm muốn cho chúng ta nhận thức chính mình, nhận thức hoàn cảnh sống của chúng ta trong hiện tiền.

 

(Sao) Ngũ Trược giao nhiễu giả, tánh bổn uyên trừng, diêu kiếp đẳng ngũ, khởi chư trần chỉ.

()五濁交擾者,性本淵澄,繇劫等五,起諸塵滓。

(Sao: “Ngũ Trược xen tạp quấy nhiễu”: Tánh vốn sâu lắng, do năm thứ như Kiếp Trược v.v… mà dấy lên các thứ cặn trần).

“Tánh” là Chân Như bản tánh. Chân Như bản tánh vốn thanh tịnh, vốn là bất động. Khi Lục Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông khai ngộ, Ngài đã hướng về Ngũ Tổ thưa trình cảnh giới, nói ra năm câu. Câu đầu tiên là “nào ngờ tự tánh, vốn sẵn thanh tịnh”, chính là ý nghĩa này. “Uyên trừng” (淵澄) là hình dung nó hết sức thanh tịnh, quyết định chẳng có ô nhiễm. Ô nhiễm do đâu mà có? “Diêu kiếp đẳng ngũ” [nghĩa là bắt nguồn từ] Kiếp Trược, Kiến Trược, Phiền Não Trược, Chúng Sanh Trược, Mạng Trược, năm loại ô nhiễm lớn ấy. “Khởi chư trần chỉ”, “chỉ” (滓) là cặn bã, nghĩa là những thứ dơ bẩn, chẳng thanh tịnh. Chúng dấy lên như vậy đó.

 

(Sao) Như Lăng Nghiêm vân: “Thí chi thanh thủy, đầu dĩ sa thổ, thổ thất lưu ngại, thủy vong thanh khiết, mịch nhiên hồn trược cố”.

(Diễn) Lăng Nghiêm thí chi thanh thủy đẳng giả. Kinh vân: “A Nan, thí như thanh thủy, thanh khiết bổn nhiên, tức bỉ trần, thổ, hôi, sa chi luân, bổn chất lưu ngại. Nhị thể pháp nhĩ, tánh bất tương tuần. Hữu thế gian nhân, thủ bỉ thổ, trần, đầu ư tịnh thủy, thổ thất lưu ngại, thủy vong thanh khiết. Dung mạo mịch nhiên, danh chi vi Trược. Nhữ trược ngũ trùng, diệc phục như thị”.

()如楞嚴云:譬之清水,投以沙土,土失留礙,水亡清潔,汨然渾濁故。

()楞嚴譬之清水等者。經云。阿難。譬如清水。清潔本然。即彼塵土灰沙之倫。本質留礙。二體法爾。性不相循。有世間人。取彼土塵。投於淨水。土失留礙。水亡清潔。容貌汨然。名之為濁。汝濁五重。亦復如是。

(Sao: Như kinh Lăng Nghiêm nói: “Ví như nước trong, ném cát, đất vào đó, đất mất tánh chất ngăn ngại, nước mất tánh chất thanh khiết, lợn cợn, đục ngầu”.

Diễn: “Thí dụ về nước trong trẻo trong kinh Lăng Nghiêm”: Kinh chép: “Này A Nan! Ví như nước trong, vốn sẵn thanh khiết, còn những thứ như bụi, đất, tro, cát, bản chất vốn ngăn ngại. Bản thể của hai thứ ấy có tánh chất chẳng hòa hợp với nhau. Có người trong thế gian đem đất, bụi ném vào nước sạch, đất mất tánh ngăn ngại, nước mất tánh thanh khiết, hình trạng tạp loạn, nên gọi là Trược. Năm tầng ô trược của ông cũng giống như thế đó”).

 Đại sư trích dẫn một đoạn kinh văn từ kinh Lăng Nghiêm. Đoạn kinh này do đức Phật nói, Ngài giảng về hiện tượng ô nhiễm. “Thí chi thanh thủy, đầu dĩ sa thổ” (Ví như nước trong, ném đất, cát vào đó). Nước vốn rất trong, chúng ta đem bùn, cát ném vào trong nước. “Thổ thất lưu ngại”: Bùn, cát bỏ vào nước, tan rã. “Thủy vong thanh khiết”: Nước vẩn đục, nước chẳng thanh tịnh nữa! “Mịch nhiên hồn trược cố” (Lợn cợn, đục ngầu): Đấy là đức Phật dùng tỷ dụ để hình dung hiện tượng vẩn đục. Tỷ dụ này hết sức hay, nước có thật sự bị ô nhiễm hay không? Chẳng có! Thời gian đã lâu, đất cát bèn chìm lắng, nước vẫn trong, nước chẳng bị ô nhiễm. Giống như tâm tánh của chúng ta bị năm thứ ấy ô nhiễm là tạm thời, chẳng phải là thật sự ô nhiễm. Nếu thật sự ô nhiễm, chúng ta minh tâm kiến tánh sẽ khó khăn, chẳng thực hiện được!

 

(Sao) Thế giả, thiên lưu bất dĩ chi vị.

()世者,遷流不已之謂。

(Sao: “Thế” có nghĩa là dời đổi chẳng ngừng).

Đây là giải thích chữ “thế giới”. “Thế” (世) là quá khứ, hiện tại, vị lai, dời đổi không ngừng.

 

(Sao) Tắc thử thế chi tiền, thử thế chi hậu, đương hữu vô Ngũ Trược chi thiện thế.

(Diễn) Đương hữu vô Ngũ Trược chi thiện thế giả, dĩ nhân thọ nhị vạn tuế tiền, tà kiến bất khởi, phiền não khinh vi, tứ thú không hư, thọ mạng cửu viễn. Thời Phần thanh tịnh chi thiện thế dã.

()則此世之前,此世之後,當有無五濁之善世。

()當有無五濁之善世者。以人壽二萬歲前。邪見不起。煩惱輕微。四趣空虛。壽命久遠。時分清淨之善世也。

(Sao: Tức là trước và sau đời này, ắt có đời tốt lành chẳng có Ngũ Trược.

Diễn: “Ắt có đời tốt lành chẳng có Ngũ Trược”: Do trước lúc con người tuổi thọ chỉ còn hai vạn năm, tà kiến chẳng khởi, phiền não nhẹ ít, bốn đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A Tu La) trống rỗng, thọ mạng dài lâu, [đó chính là] đời tốt lành thanh tịnh xét theo phương diện thời gian vậy).

Trước một đời này, nhiều kiếp lâu xa về trước, thế giới này từng thanh tịnh, chẳng có ô nhiễm. Tôi tin là sau này, thế giới này vẫn có lúc thanh tịnh bất nhiễm. Chúng ta có thể tin tưởng cách nói này. Chúng ta nhìn từ lịch sử, hoặc nhìn gần hơn một chút, quan sát từ kinh nghiệm trong một đời chúng ta, những người cùng lứa tuổi với tôi đều có thể cảm nhận. Thuở ban đầu, chúng tôi mới đến Đài Loan, Đài Loan đúng là đảo báu, là một vùng Tịnh Độ, chẳng có mảy may ô nhiễm nào! Hằng ngày nhìn lên trời, trời xanh, mây trắng, hết sức đáng yêu! Nay vùng đất Đài Loan này ô nhiễm nghiêm trọng, chẳng còn nhìn thấy bầu trời xanh biếc đâu nữa. Hằng ngày ngó lên trời, thấy xám xịt như tro đất. Vì vậy, thế gian hiện thời xác thực là ô nhiễm hết sức nghiêm trọng. Trong quá khứ, kinh nói “Ngũ Trược ác thế”, chúng ta đọc và nghe xong đều chẳng lưu ý. Vì sao? Dường như chính mình chẳng có cảm xúc, chẳng cảm nhận được. Hiện thời, vừa nói “Ngũ Trược ác thế”, lập tức cảm nhận rất rõ rệt. Không chỉ Đài Loan bị ô nhiễm, mà đi khắp cả thế giới, ta sẽ thấy chẳng có nơi nào không bị ô nhiễm, chỉ là ô nhiễm nặng hay nhẹ khác nhau mà thôi! Ô nhiễm phổ biến, vấn đề này hết sức nghiêm trọng; đúng là Ngũ Trược ác thế như trong kinh đã nói.

 

(Sao) Kim vân ác thế, cứ Thích Ca hiện thế ngôn dã.

()今云惡世,據釋迦現世言也。

(Sao: Nay nói là “đời ác”, tức là căn cứ theo đời hiện tại của Phật Thích Ca để nói vậy).

“Hiện thế” (現世) là hiện tiền, thời đại hiện tại này. Dưới đây là giải thích Ngũ Trược:

 

(Sớ) Kiếp giả, Phạn ngữ, cụ vân Kiếp Ba, thử vân Thời Phần.

()劫者,梵語,具云劫波,此云時分。

(Sớ: Kiếp là tiếng Phạn, nói đủ là Kiếp Ba, cõi này dịch là Thời Phần).

Người Hoa chuộng đơn giản. Khi phiên dịch, thường tỉnh lược âm cuối; Kiếp Ba (Kalpa) chỉ dịch là Kiếp. “Thử vân Thời Phần”, có nghĩa là quan niệm thời gian như chúng ta nói trong hiện thời.

 

(Sớ) Kiếp Trược giả, vô biệt thể, dĩ hữu tứ trược đắc danh. Chúng trược giao thấu, tức kỳ tướng dã.

()劫濁者,無別體,以有四濁得名。眾濁交湊,即其相也。

(Sớ: Kiếp Trược (Kalpakaṣāya) không có thể tánh riêng biệt, do có bốn thứ trược kia mà gọi là Kiếp Trược. Các thứ trược xen tạp chính là tướng trạng của nó vậy).

Thời gian thì làm gì có ô nhiễm? Do có bốn thứ ô nhiễm sau đó, chúng ta bèn nói thời đại này bất hảo, là ác thế, chẳng phải là thiện thế.

 

(Sao) Kiếp Trược giả, nhất đại kiếp trung, Thành, Trụ, Hoại, Không, nhị thập tiểu kiếp, lộc lô tăng giảm.

()劫濁者,一大劫中,成住壞空二十小劫,轆轤增減。

(Sao: Kiếp Trược: Trong một đại kiếp có Thành, Trụ, Hoại, Không, [mỗi giai đoạn] là hai mươi tiểu kiếp, xoay vần tăng giảm).

 “Lộc lô” (轆轤)[82] là công cụ để kéo nước, là tỷ dụ. Trong kinh, đức Phật đã dạy: Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp, bốn trung kiếp là một đại kiếp. Một đại kiếp có tất cả tám mươi tiểu kiếp. Ở đây nói tới Thành, Trụ, Hoại, Không, đó là bốn trung kiếp. Trong mỗi một trung kiếp, đều có hai mươi tiểu kiếp. Cách tính toán như vậy đó. Tiểu kiếp được tính như thế nào?

 

(Sao) Nhân thọ tăng chí bát vạn tuế thời, tăng chi cực dã, nãi bách niên giảm nhất, giảm chí nhị vạn, tức nhập Kiếp Trược. Vô biệt thể giả, diêu hạ tứ trược, đương thử kiếp trung, nhân dĩ đắc danh. Thử chi kiếp phần, chúng trược giao thấu, hôn loạn, bác tạp, cố vân Trược dã.

()人壽增至八萬歲時,增之極也。乃百年減一,減至二萬,即入劫濁。無別體者,繇下四濁,當此劫中,因以得名。此之劫分,眾濁交湊,昏亂駮雜,故云濁也。

(Sao: Khi tuổi thọ con người tăng tới tám vạn năm là đã tăng tới mức cực hạn, bèn cứ mỗi trăm năm, giảm một tuổi, giảm đến khi tuổi thọ chỉ còn hai vạn năm bèn bước vào thời Kiếp Trược. “Không có thể tánh riêng biệt” là do trong kiếp số ấy có bốn thứ trược sau đó, vì thế mà đặt tên như vậy. Trong thời kiếp ấy, các thứ trược xen lẫn, tối tăm, rối loạn, hỗn tạp, nên bảo là Trược).

Trước hết, chúng ta phải có khái niệm về Kiếp. Trong kinh, đức Phật đã nói rất nhiều. Có nhiều cách nói khác nhau, nhưng mỗi cách đều có kinh bổn để làm căn cứ. Thông thường, coi một chu kỳ kiếp tăng giảm là một tiểu kiếp. Kinh dạy: Thọ mạng của loài người dài nhất là có thể sống tới tám vạn bốn ngàn năm. Cứ mỗi một trăm năm, giảm một tuổi, tức là sau một trăm năm lại giảm một tuổi, một mực giảm đến [khi thọ mạng chỉ còn] mười tuổi. Sau đấy, lại từ mười tuổi, qua mỗi một trăm năm bèn tăng thêm một tuổi, lại tăng đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Chu kỳ một tăng một giảm như vậy là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp, cứ bốn trung kiếp là một đại kiếp. Nhà Phật nói tới đơn vị thời gian đều dùng đại kiếp, như “A Di Đà Phật từ khi thành Phật cho tới nay là mười kiếp”, [nghĩa là] mười đại kiếp, tính theo cách như vậy.

Trong kiếp giảm, có thể thấy từ lúc con người thọ hai vạn tuổi trở về trước là “thiện thế” (đời tốt lành), lòng người thuần chánh, chẳng có tham, sân, si, mạn. Khi tuổi thọ con người giảm đến hai vạn năm, do có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lòng người chẳng thanh tịnh, khi ấy bèn bước vào thời Kiếp Trược. Kiếp Trược chẳng có bản thể riêng khác. Nói thật ra, bản thể của nó là do bốn thứ trược ác kia. Trong giai đoạn ấy, chúng sanh có bốn hiện tượng [trược ác] ấy, [cho nên] thời đại ấy được gọi là Kiếp Trược, có ý nghĩa như thế đó.

 

(Sao) Phản hiển Cực Lạc quốc trung, A Di Đà Phật hiện tại thuyết pháp, thanh tịnh chi thời, phi Kiếp Trược cố.

()反顯極樂國中,阿彌陀佛現在說法,清淨之時,非劫濁故。

(Sao: Nêu rõ rệt sự tương phản: Trong cõi Cực Lạc, A Di Đà Phật nay đang còn tại thế thuyết pháp, [thời đại trong cõi ấy] là thời đại thanh tịnh, chẳng phải là Kiếp Trược).

Đức Phật nói điều này có dụng ý rất sâu, khiến cho chúng ta so sánh rõ ràng, mạnh mẽ [sự tương phản giữa thế giới Sa Bà và] Tây Phương Cực Lạc. So sánh hai nơi, Tây Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh, chẳng có trược ác. Người trong thế giới Tây Phương chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chẳng có tham, sân, si, mạn. Vì vậy, thế giới Tây Phương chẳng có ba ác đạo. Vì sao chẳng có ba ác đạo? Mọi người đều chẳng có tham, sân, si, lấy đâu ra ba ác đạo? Tham, sân, si là nghiệp nhân, ba ác đạo là quả báo. Có nghiệp nhân thì mới có quả báo; chẳng có nhân, lấy đâu ra quả?

 

(Sao) Kim nhật ngã đẳng, hà vi an xử Kiếp Trược chi thế, nhi bất cầu sanh bỉ quốc hồ?

()今日我等,何為安處劫濁之世,而不求生彼國乎。

(Sao: Vì lẽ gì ngày nay chúng ta ở yên trong Kiếp Trược, chẳng cầu sanh về cõi ấy?)

Đây là Liên Trì đại sư buốt lòng rát miệng “khuyến miễn” (勸勉), tức là khuyến cáo, khích lệ chúng ta. Vì sao chúng ta ở yên trong đời ác Ngũ Trược, chẳng mong cầu sanh về Tịnh Độ? Bốn đoạn dưới đây cũng có cùng ý nghĩa này.

 

(Sao) Cố Trí Giả vân.

()故智者云。

(Sao: Vì thế, ngài Trí Giả nói).

Trí Giả đại sư nói.

 

(Sao) Tha phương Tịnh Độ vô Tam Độc đẳng, tắc danh ngũ thanh, chánh thử ý dã.

()他方淨土無三毒等,則名五清,正此意也。

(Sao: “Các cõi Tịnh Độ ở phương khác, hễ chẳng có Tam Độc v.v… bèn gọi là cõi Ngũ Thanh” chính là do ý này).

Chỉ cần thế gian này có tham, sân, si, sẽ là Ngũ Trược ác thế. Nếu thế gian này chẳng có tham, sân, si, bèn gọi là thế giới Ngũ Thanh, hoặc thế giới thanh tịnh. Kiếp Trược chẳng có tự thể, nhưng bốn thứ sau thì có.

 

(Sớ) Kiến Trược giả, ngũ Lợi Sử vi Thể, khai chi, tắc lục thập nhị đẳng. Chư kiến xí thịnh, tức kỳ tướng dã.

()見濁者,五利使為體,開之則六十二等,諸見熾盛,即其相也。

(Sớ:  Kiến Trược (Dṛṣṭikaṣāya):  Năm Lợi Sử làm  Thể, khai  triển ra thành sáu mươi hai thứ. Các Kiến lừng lẫy chính là tướng trạng của loại Trược này).

Điều này chính là kiến giải bất đồng. Trong xã hội hiện tiền, chuyện này rõ rệt nhất. Kiến (Dṛṣṭi, 見) là kiến giải. Kiến giải của mỗi người khác nhau, cũng có thể nói là mỗi người có cách nhìn riêng đối với vũ trụ và nhân sinh, đôi bên chẳng nhường nhịn, chẳng dung nạp lẫn nhau. Hằng ngày tranh cãi, hằng ngày đấu đá, đều là vì chuyện này. Vì sao khác nhau? Do “ngũ Lợi Sử”, gồm năm thứ. Lợi Sử là nói tỷ dụ. “Sử” (Saññojana, 使) là nha dịch thời cổ, tương đương với đội cảnh sát hình sự hiện thời, bắt kẻ phạm tội. Kẻ ấy làm chuyện xấu, đội cảnh sát hình sự hằng ngày theo dõi, muốn bắt hắn, tóm giữ tội phạm. “Lợi” (利) là nhanh nhạy. Có năm kẻ, tức năm tên cảnh sát hình sự hằng ngày lẩn quẩn bên cạnh quý vị, cuộc sống của quý vị có dễ chịu hay chăng? Dùng chuyện này để tỷ dụ. “Ngũ Lợi Sử vi Thể” (Năm thứ Lợi Sử làm Thể), năm thứ ấy mở rộng ra sẽ là sáu mươi hai thứ kiến giải sai lầm. “Xí thịnh” (熾盛) là hình dung giống như lửa cháy hừng hực, tức là nói đến các thứ kiến giải bất đồng khởi tác dụng, có thể nhiễu loạn thân tâm của chính mình, chẳng được yên ổn.

 

(Sao) Ngũ Lợi Sử giả, nhất, Thân Kiến, vị chấp ngã, ngã sở, nhi khởi ngã thân chi kiến.

(Diễn) Chấp ngã, ngã sở giả, nội chấp vi ngã, ngoại chấp ngã sở, hoặc Ngũ Ấm trung, chấp nhất Ấm vi ngã, dư Ấm vi ngã sở.

()五利使者,一、身見,謂執我我所,而起我身之見。

()執我我所者,內執為我,外執我所,或五陰中,執一陰為我,餘陰為我所。

(Sao: Ngũ Lợi Sử: Một là Thân Kiến (Satkāya-dṛṣṭi), nghĩa là chấp ta và cái của ta, dấy lên kiến chấp về cái thân của ta.

Diễn: “Chấp ta và cái của ta”: Chấp cái bên trong là ta, chấp cái bên ngoài là của ta. Hoặc là trong Ngũ Ấm, chấp một Ấm là Ngã, những Ấm còn lại là Ngã Sở).

Đây là điều đầu tiên. Quý vị đã thấy sai mất rồi, sai ở chỗ nào? Coi cái thân này là ta, lầm lẫn quá đỗi to tát! Chư vị ngẫm xem, quý vị hãy đi ra ngoài điều tra, thăm dò, có kẻ nào chẳng coi cái thân là ta? Hết thảy chúng sanh trong lục đạo đều coi thân là ta. Chỉ cần thấy thân này chính là ta, người ấy nhất định chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi. Thân này chẳng phải là ta, [cứ ngỡ thân là ta], đấy chính là một thứ vọng tưởng, chấp trước, chẳng biết chân tướng sự thật. Đức Phật dạy chúng ta: Những hiện tượng ấy, kể cả thân thể của chúng ta cũng là hiện tượng, các hiện tượng do đâu mà có? Do duyên sanh, nên chúng được gọi là “nhân duyên sanh pháp” (pháp được sanh bởi nhân duyên).

Hiện thời, chúng ta gọi Duyên là “điều kiện”, chẳng đơn thuần. Do khá nhiều điều kiện, mới sanh ra các hiện tượng ấy. Đối với khá nhiều điều kiện, đức Phật đã quy nạp chúng thành năm loại lớn, gọi là Ngũ Ấm, hoặc gọi là Ngũ Uẩn (Pañca-skandha). Ấm (陰) có nghĩa là che phủ. Che phủ điều gì? Che phủ bản tánh, giống như mây che khuất mặt trời, có ý nghĩa này. Ngũ Uẩn có thể che khuất bản tánh của chúng ta. Ngũ Uẩn là giả; tuy giả, quý vị ngỡ chúng là thật, cho nên quý vị chẳng thấy tánh. Quý vị biết chúng là giả, chúng sẽ chẳng gây trở ngại. Như trong Tâm Kinh, Quán Tự Tại Bồ Tát có bản lãnh, Ngài “chiếu kiến Ngũ Uẩn đều Không”, cho nên chẳng trở ngại, Ngũ Uẩn chẳng thể ô nhiễm bản tánh. Chúng ta chẳng thể thấy thấu suốt, ngỡ Ngũ Uẩn là chân thật, bị thua thiệt to lớn, đã bị cảnh giới xoay chuyển.

Lấy ngay thân thể này của chúng ta làm thí dụ để nói. Thân có vật chất, bộ phận vật chất này dùng Sắc (Rūpa) làm đại diện. Vì thế, Sắc được gọi là Sắc Thân. Chữ Sắc được nói trong kinh Phật có ý nghĩa rất rộng. Những gì mắt chúng ta có thể trông thấy đều gọi là Sắc. Sắc là đối tượng của Nhãn Căn. Trong Ngũ Uẩn, phạm vi của Sắc càng rộng hơn. Phàm cảnh giới sáu trần mà lục căn có thể tiếp xúc, đều dùng chữ này làm đại diện. Trên thực tế, chữ Sắc bao gồm sáu căn và sáu trần, dùng chữ này để biểu thị; đó là vật chất. Ngoài vật chất ra, chúng ta thường gọi phần tinh thần là “tâm pháp” (Citta-dharma). Vật chất và tâm kết hợp lại thì hiện thời chúng ta gọi nó là động vật, trong kinh Phật gọi là “hữu tình” (Sattva). Hữu tình do Ngũ Uẩn biến hiện. Nếu chỉ có Sắc mà chẳng có tâm, nay chúng ta gọi chúng là thực vật và khoáng vật. Chúng có Sắc, chẳng có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Đó gọi là vô tình chúng sanh. “Chúng sanh” là hiện tượng do các duyên hòa hợp mà sanh khởi. Nhà Phật nói đến “chúng sanh”; không chỉ là nói đến con người và động vật, mà ngay cả thực vật, khoáng vật và hiện tượng tự nhiên thảy đều được bao gồm trong ấy, vì chúng đều do các duyên hòa hợp mà sanh khởi. Trong chúng sanh, hữu tình chúng sanh là do Ngũ Uẩn nhóm họp, sanh khởi mà hiện. Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tâm và tác dụng tâm lý. Vì thế, chúng chẳng phải là thật sự, do các duyên hòa hợp mà sanh ra.

Đức Phật nói đến Sắc, Sắc cũng chẳng phải là thật sự có. Sắc do Tứ Đại (Catvāri mahā-bhūtāni) hòa hợp. Tứ Đại là đất, nước, lửa, gió. Sắc pháp có bốn hiện tượng ấy, tức là bốn loại tánh chất. “Đất” biểu thị phần vật chất của nó (Sắc pháp). Phần vật chất ấy là vật chất vô cùng nhỏ, khoa học hiện đại gọi nó là “hạt cơ bản” (Elementary particle). Trong phát hiện hiện thời, công nhận hạt cơ bản là nhỏ nhất, nó còn nhỏ hơn nguyên tử và điện tử. Cũng có lẽ sau hai mươi năm, hoặc ba mươi năm nữa, sẽ phát hiện thứ này có thể chia nhỏ hơn, còn có thứ nhỏ hơn nó. Khoa học chưa đạt đến cực hạn, nhưng “vật chất cơ bản” được nói trong Phật pháp xác thực là đã đạt tới cực hạn! Tất cả hết thảy vật chất đều do loại vật chất cơ bản này kết hợp thành. Hiện thời, chúng ta nói là “công thức cấu tạo” của chúng khác nhau. Nó kết hợp thành điện tử, kết hợp thành nguyên tử, kết hợp thành phân tử, lại kết hợp thành hết thảy vạn vật. Quý vị phân tích chúng, [sẽ thấy] hết thảy vạn vật đều do cùng một thứ kết hợp thành. Kinh Kim Cang nói là “nhất hiệp tướng” (一合相), Nhất (一) chính là Sắc Uẩn trong Ngũ Uẩn. Vì thế, trong nhãn quan của Phật, vạn pháp bình đẳng. Vì sao? Đều do cùng một loại vật chất hợp thành. Hễ chia chẻ ra, sẽ hoàn toàn giống hệt nhau, chỉ là cách kết hợp khác nhau, cách sắp xếp khác nhau mà thôi!

Trong mắt đức Phật, một viên kim cương và một cục bùn hoàn toàn giống nhau, cùng do một thứ [vật chất] hợp thành, nhưng cách cấu trúc khác nhau. Do vậy, trong cái nhìn của đức Phật, chúng là bình đẳng. Thân Phật và thân chúng sanh bình đẳng, thân Phật và thân súc sanh cũng bình đẳng. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong tận hư không khắp pháp giới đều là bình đẳng; đều là “nhất hiệp tướng” như kinh Kim Cang đã nói. Trong Phật pháp, vật chất cơ bản được gọi là “cực vi chi vi”, còn bé hơn vi trần. Vi trần chia chẻ nhỏ hơn, sẽ được gọi là “sắc tụ cực vi”. Lại chia sắc tụ cực vi nhỏ hơn nữa, bèn gọi là “cực vi chi vi”, còn gọi là Lân Hư Trần (Paramāṇu), đã đạt tới cực hạn. Hễ chia nhỏ nữa, sẽ chẳng còn gì, biến thành hư không. Một hạt bé tí như vậy, đương nhiên là nhục nhãn của chúng ta chẳng thể trông thấy, nhưng Phật nhãn trông thấy. Phật là “ngũ nhãn viên minh”. Hiện thời, các nhà khoa học dùng kính hiển vi có độ phóng đại cực lớn, phóng đại mấy vạn lần thì mới có thể trông thấy chúng. Đức Phật chẳng cần máy móc mà có thể thấy rõ ràng, rành rẽ.

Vật chất cơ bản có bốn loại đặc tánh: Nó là vật chất, nó tồn tại, bèn gọi là Địa Đại (Prthivī-dhātu). Nó có độ ấm, chính là Hỏa Đại (Tejo-dhātu). Nó có độ ẩm thì là Thủy Đại (Ab-dhātu). Nó là động, chẳng ngưng lặng thì là Phong Đại (Vāyu-dhātu). Vì thế, Địa, Thủy, Hỏa, Phong là nói rõ: Vật chất cơ bản có bốn hiện tượng đặc trưng. Nó [có vật chất], có nhiệt độ, có độ ẩm, nó chuyển động. Các nhà khoa học hiện thời chẳng nói Địa, Thủy, Hỏa, Phong, mà nói nó là một loại vật chất, có tích điện Âm và điện Dương. “Tích điện Âm” chính là Thủy Đại được nói trong kinh Phật. “Tích điện Dương” là Hỏa Đại. Theo quan sát trong hiện thời, chúng nó xác thực là động. Chúng vây quanh điện tử và nguyên tử, chúng chuyển động có quỹ đạo nhất định, hoàn toàn giống như trong kinh Phật đã nói. Từ ba ngàn năm trước, chẳng cần cậy vào bất cứ dụng cụ khoa học nào, đức Phật đã thấy rõ ràng, minh bạch dường ấy.

Vật chất cơ bản do đâu mà có? Kinh luận Đại Thừa đã nói hết sức thấu triệt, đặc biệt là kinh luận của Pháp Tướng Duy Thức. Trong kinh luận Duy Thức có nói: “Một niệm bất giác bèn có vô minh, do vô minh bất giác mà sanh ra ba tế tướng”. Vô minh còn có trước ba tế tướng. Ba tế tướng: Thứ nhất Nghiệp Tướng, nghiệp là động. Thứ hai là Kiến Tướng, thứ ba là Cảnh Giới Tướng. Hễ động, bèn sanh ra năng lực. Các nhà Duy Thức gọi năng lực ấy là Kiến Phần, còn gọi là Kiến Tướng, liền biến thành những thứ về sau được gọi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, biến thành tâm pháp. Từ Kiến Tướng biến hiện Cảnh Giới Tướng, tức là Tướng Phần, biến thành vật chất.

Vì vậy, tâm và vật có cùng nguồn. Tâm Kinh nói: “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”. Sắc và tâm có cùng nguồn, đều từ Chân Như bản tánh biến hiện. Vì thế, sắc và tâm có thể dung hội lẫn nhau. Đấy là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, kinh Hoa Nghiêm nói “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”, nhất là nói đến Sự Sự vô ngại, căn cứ lý luận ở chỗ nào? Sắc và tâm cùng nguồn, sắc và tâm là một Thể. Vì vậy, Lý và Sự chẳng có chướng ngại, giữa Sự với nhau cũng chẳng có chướng ngại. Sau đấy, quý vị mới thật sự hiểu rõ, kinh Tịnh Độ có nói “một niệm của chúng ta trọn khắp hư không pháp giới”, xác thực là như thế, chẳng giả tí nào! Đấy là nói rõ chân tướng của nhân sinh và vũ trụ.

Hiểu rõ chân tướng ấy, bèn gọi là Giác. Chẳng hiểu rõ chân tướng, đó là mê. Đã giác chân tướng, tâm thanh tịnh, người ấy chẳng có vọng tưởng, cũng chẳng có phân biệt, chấp trước. Vì sao? Người ấy biết vạn pháp đều Như, chẳng có pháp nào không Như, tâm người ấy khôi phục thanh tịnh, bình đẳng. Chẳng liễu giải chân tướng sự thật, suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ. Đó là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; cho nên mới luân hồi trong lục đạo. Luân hồi trong lục đạo xuất hiện từ chỗ này, nó là cảnh giới biến hiện từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.

Kẻ chẳng liễu giải chân tướng sự thật, chấp trước thân này là ta, chấp trước những vật ngoài thân là của ta. “Ngã sở” (我所) là cái ta có. Ta sở hữu người nhà, quyến thuộc, ta sở hữu tài sản, ta sở hữu những thứ thọ dụng bất luận nơi vật chất hay tinh thần. Đó là những thứ của ta. Kẻ ấy chấp trước những thứ đó, cho nên chấp Ngã, chấp Ngã Sở, những thứ chấp trước ấy trở thành kiến chấp về thân ta. Đấy là một kiến giải sai lầm trọng đại! Nếu quý vị có thể phá vỡ kiến giải sai lầm ấy, vậy thì chúc mừng quý vị! Quý vị chẳng còn là phàm phu, mà đã trở thành thánh nhân! Trong pháp Tiểu Thừa, quý vị là Sơ Quả Tu Đà Hoàn, đã chứng đắc Sơ Quả. Trong Đại Thừa Viên Giáo, quý vị là Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín, đã phá Thân Kiến, chẳng còn chấp trước Ngã và Ngã Sở. Bốn thứ sau đó, nói thật ra, đều xuất sanh từ Ngã và Ngã Sở. Điều này (Thân Kiến) là căn bản, bốn điều kia là cành nhánh!

 

(Sao) Nhị, Biên Kiến, vị chấp đoạn, chấp thường, thất hồ Trung Đạo, nhi khởi biên bàng chi kiến.

()二、邊見,謂執斷執常,失乎中道,而起邊傍之見。

(Sao: Hai là Biên Kiến (Anta-grāha-dṛṣṭi), nghĩa là chấp đoạn, hoặc chấp thường, đánh mất Trung Đạo, dấy lên kiến giải lệch lạc).

Nói theo cách hiện thời, Biên Kiến là “thiên kiến”, lệch về một bên, đương nhiên là không chánh xác, là sai lầm. Trong phần chú giải, cũng có nêu một tỷ dụ, hy vọng là từ tỷ dụ ấy [quý vị] có thể suy tưởng, đã nêu ra một, bèn suy ra ba. Đấy đều là chân tướng sự thật trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

 

(Diễn) Chấp đoạn, chấp thường giả, hoặc chấp chư pháp thị vô, nhi khởi đoạn diệt chi kiến, hoặc chấp chư pháp thị hữu, nhi khởi thường trụ chi kiến. Trung Đạo tức đệ bát thức, dĩ nhị thức hằng chuyển như bạo lưu cố. Hằng tắc bất đoạn, chuyển tắc bất thường. Kim chấp đoạn thường, thị thất Trung Đạo.

()執斷執常者,或執諸法是無,而起斷滅之見,或執諸法是有,而起常住之見。中道即第八識。以二識恒轉如瀑流故。恒則不斷。轉則不常。今執斷常是失中道。

(Diễn: “Chấp đoạn, chấp thường”: Hoặc chấp “các pháp là không”, bèn khởi kiến giải đoạn diệt. Hoặc chấp “các pháp là có”, bèn khởi kiến giải thường trụ. Trung Đạo là thức thứ tám, do hai thức hằng chuyển như dòng nước lũ. Hằng thì chẳng đoạn, Chuyển thì chẳng thường. Nay chấp đoạn và chấp thường, bèn đánh mất Trung Đạo).

Chúng ta hiểu rõ hai câu này, sẽ liễu giải đại ý của Biên Kiến. Đây là nêu ra một thí dụ: Hữu và Vô là hai bên. Có những kẻ chấp trước hết thảy các pháp đều là Vô, [cho rằng] với người đã chết, sau khi đã chết, thứ gì cũng đều chẳng có, đó gọi là Đoạn Diệt Kiến. Còn có những kẻ chấp trước: Người đã chết còn có đời sau, chết rồi chẳng sợ. Hai mươi năm sau lại là một trang hảo hán, cho rằng con người chết đi, đời sau vẫn làm người. Chó chết đi đời sau vẫn biến thành chó, vĩnh viễn chẳng thể biến đổi. Đó gọi là Thường Kiến. Hai loại ấy đều là kiến giải sai lầm, đều là thiên kiến, là kiến giải chẳng chánh xác.

Người đang ở trong lục đạo, sau khi đã chết, chẳng phải là thứ gì cũng đều chẳng có! Nếu người đã chết thứ gì cũng đều chẳng có, chuyện ấy sẽ dễ giải quyết! Còn phải chịu khổ, chịu khó niệm Phật tu hành để làm gì nữa? Chẳng cần! Nhưng sau khi đã chết, vẫn còn có đời sau, chuyện sau đó chưa chấm dứt, chuyện này phiền toái lắm! Người đã chết thì đời sau chẳng nhất định sẽ làm người. Luân hồi trong lục đạo, chẳng biết sẽ vào trong đường nào! Kinh Đại Thừa nói đến mười pháp giới, phạm vi của mười pháp giới còn to hơn lục đạo; nay chúng ta đang thuộc trong pháp giới nào? Trong tương lai, chúng ta sẽ đến pháp giới nào? Đấy mới là vấn đề thật sự! Đấy mới là đại sự! Do vậy, kinh Đại Thừa thường nói: “Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời”. Những chuyện khác đều là chuyện vặt vãnh, chuyện này mới là đại sự. Đối với đại sự sanh tử, sanh do đâu mà có? Sau khi đã chết, sẽ đến nơi đâu? Nhất định phải hiểu rõ ràng, hiểu minh bạch đại sự này, chẳng thể hồ đồ! Nếu mê hoặc, đời sau sẽ là súc sanh đạo. Súc sanh đạo là hồ đồ, mê muội; phải hiểu rõ ràng, phải hiểu minh bạch chuyện này!

Trong kinh, đức Phật đã dạy chúng ta: Bất cứ pháp thế gian hay xuất thế gian nào, [dẫu] nhỏ như một hạt vi trần, cũng đều do vô lượng nhân duyên sanh khởi, chẳng phải là đơn giản, hết sức phức tạp! Máy computer tiến bộ nhất trên thế giới hiện thời cũng chẳng có cách nào tính toán tình huống phức tạp ấy được! Từ vô lượng kiếp tới nay, bản thân chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, đó là những chuyện thuộc về tự thân; qua lại cùng lục đạo và mười pháp giới, [những điều ấy] đều thuộc ngoại giới. Nội và ngoại đều phức tạp, nhưng sự phức tạp bên trong và sự phức tạp nơi ngoại giới hoàn toàn là ngang nhau!

Trong nhiều nhân duyên phức tạp như vậy, nếu đức Phật phải giải thích [cặn kẽ] cho chúng ta sẽ khó lắm. Đức Phật vẫn dùng phương pháp quy nạp, trong nhiều điều kiện phức tạp như thế, điều nào quan trọng nhất, bèn nêu ra điều trọng yếu nhất ấy, vì chúng ta nói ra nhân hạnh của mười pháp giới. Đấy là nói tới những điều trọng yếu nhất trong vô lượng nhân duyên. Trong mười pháp giới, cao nhất là Phật pháp giới. Nhân duyên bậc nhất của Phật pháp giới là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi. Nếu tâm chúng ta thật sự thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, chúc mừng quý vị, quý vị thành Phật chẳng xa, đúng là quý vị sẽ thành Phật rất nhanh chóng. Vì sao? Tâm quý vị đã biến thành tâm Phật. Tâm Phật là thanh tịnh, bình đẳng, từ bi. Nếu chúng ta thường có tâm Lục Độ, thường nghĩ tưởng trong tâm, thường tu Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã. Đấy là tâm Bồ Tát. Nói cách khác, đấy là một điều kiện trọng yếu nhất trong Bồ Tát pháp giới. Nếu thấp hơn thì Duyên Giác là tâm mười hai nhân duyên, Thanh Văn là tâm Tứ Đế. Đó gọi là tứ thánh pháp giới, ở ngoài lục đạo luân hồi.

Trong lục đạo, nay chúng ta đang ở trong lục đạo, chẳng thoát ra ngoài! Trong lục đạo, cao nhất là thiên đạo. Thiên cũng rất phức tạp. Nói chung, Thiên là tu tâm Thập Thiện, tâm của chư thiên thiện lương. Thập Thiện là thân ba điều, khẩu bốn điều, ý ba điều, tức là: Thân chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm; miệng chẳng nói dối, không nói đôi chiều, chẳng nói lời ác, chẳng nói thêu dệt; ý không tham, không sân, không si. Có thể tu thượng phẩm Thập Thiện, người ấy đời sau nhất định sanh lên trời. Nếu là trời bậc cao, lại còn phải thêm từ, bi, hỷ, xả, lại còn thêm công phu Thiền Định, vậy thì sẽ sanh lên một tầng trời cao hơn. Nhân đạo là tu trung phẩm Thập Thiện, trì Ngũ Giới thanh tịnh, đời sau chẳng đánh mất thân người. A Tu La tu hạ phẩm Thập Thiện. Vì sao điều thiện của họ gọi là hạ phẩm? Vì họ ganh tỵ, tâm sân hận rất nặng. Họ tu thiện, cũng ăn chay, cũng niệm Phật, cũng tu các thứ công đức, chẳng kém người khác, nhưng lòng hiếu thắng rất mạnh, lòng ganh tỵ rất mạnh, quả báo là sanh trong A Tu La đạo. Đối với ba ác đạo kế đó, đức Phật dạy: Tâm tham là nghiệp nhân của ngạ quỷ đạo, tâm sân khuể là nghiệp nhân của địa ngục đạo, tâm ngu si là nghiệp nhân của súc sanh đạo. Ngu si là chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai đều chẳng phân biệt rõ ràng, đã hiểu điên đảo!

Đấy là đức Phật đã quy nạp các loại nhân hạnh rất phức tạp thành mười loại lớn, vì chúng ta nêu ra các nhân hạnh trọng yếu nhất trong mười pháp giới. Chúng ta dùng tiêu chuẩn này để kiểm điểm chính mình, [quan sát] khởi tâm, động niệm, cách xử sự, đãi người, tiếp vật, hết thảy các hành vi [của bản thân], sẽ biết chính mình đang ở trong pháp giới nào! Chuyện ấy chẳng cần hỏi người khác. Hỏi người khác, người ta sẽ lừa bịp quý vị, đâm ra chúng ta bị thua thiệt, mắc lừa! Biết tiêu chuẩn ấy, thường tuân theo tiêu chuẩn ấy để kiểm điểm hành vi nơi thân tâm của chính mình, sẽ biết chính mình nay đang ở trong đường nào; trong tương lai, sẽ đi vào đường nào! Nếu trong tâm chúng ta chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di Đà Phật ra, hết thảy đều buông xuống, trong tương lai, quý vị nhất định được sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, là chuyện như thế đó. Sanh vào thế giới Cực Lạc, thưa cùng chư vị, tốt đẹp hơn [thành tựu ngôi vị] Phật trong mười pháp giới nhiều lắm! [Bởi lẽ], Phật trong mười pháp giới chẳng vượt thoát mười pháp giới. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ vượt thoát mười pháp giới. Vượt khỏi mười pháp giới, bèn gọi là Nhất Chân pháp giới, thật sự vượt thoát, chúng ta nhất định phải hiểu rõ chuyện này! Vì thế, người thật sự thông minh, người thật sự giác ngộ, không chỉ là chẳng trụ trong lục đạo, mà mười pháp giới cũng chẳng trụ, nhất định phải sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, chớ nên có thiên kiến.

Đối với Giới Thủ Kiến và Kiến Thủ Kiến, người thế gian thường gọi hai loại này là “thành kiến”. Giới Thủ Kiến là thành kiến nơi nhân, Kiến Thủ Kiến là thành kiến nơi quả, đều là kiến giải sai lầm. Kiến giải chánh xác là phải buông thành kiến xuống, nay chúng ta nói là “phải dùng thái độ khách quan”, [người có Giới Thủ Kiến và Kiến Thủ Kiến là kẻ có] quan niệm chủ quan quá mạnh! Quan niệm chủ quan là thành kiến, thành kiến quá sâu. Phải trừ bỏ quan niệm chủ quan, dùng thái độ rất bình lặng, tỉnh táo, khách quan để xem xét, sẽ khác hẳn! Thường là có thể thấy rõ ràng, thấy minh bạch chân  tướng  sự  thật. Đối  với  hai  điều này, tối mai chúng tôi sẽ nói cặn kẽ. Hôm nay đã hết thời gian rồi.

 

Tập 276

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm bảy mươi bảy:

 

(Sao) Tam, Giới Thủ, vị phi nhân kế nhân, tu chư khổ hạnh, nhi khởi thủ trước ngã năng trì giới chi kiến.

(Diễn) Phi nhân kế nhân giả, phi Niết Bàn nhân, kế dĩ vi nhân, hoặc bạt phát, huân tỵ, ngọa cức, đầu hôi, hoặc trì ngưu, cẩu đẳng giới, chủng chủng vô ích khổ hạnh.

()三、戒取,謂非因計因,修諸苦行,而起取著我能持戒之見。

()非因計因者。非涅槃因。計以為因。或拔髮熏鼻臥棘投灰。或持牛狗等戒。種種無益苦行。

(Sao: Ba là Giới Thủ (Śīla-vrata-parāmarśa), nghĩa là chẳng phải nhân mà coi là nhân, tu các khổ hạnh, dấy lên kiến giải chấp trước “ta có thể trì giới”.

Diễn: “Chẳng phải nhân mà coi là nhân”: Chẳng phải là cái nhân của Niết Bàn mà coi là nhân, [ví như ngoại đạo Ấn Độ] nhổ tóc, xông khói vào mũi, nằm trên gai, vùi mình vào tro, hoặc giữ giới của trâu, chó v.v… các thứ khổ hạnh vô ích).

Đây là loại thứ ba trong Kiến Hoặc, nay chúng ta gọi Giới Thủ và Kiến Thủ là “thành kiến”, đấy cũng là quan niệm chủ quan, đều thuộc về loại này. “Phi nhân kế nhân” [nghĩa là] chẳng phải là nhân tố thật sự, nhưng người ấy chấp trước nó là nhân. Tu nhân, đương nhiên có thể chứng quả, người ấy đã nhìn sai cái nhân. Đối với chuyện thuộc loại như thế này, trong kinh, đức Phật đã nêu ra một thí dụ rất hay. Từ thí dụ ấy, chúng ta hiểu rõ loại kiến giải sai lầm này, có thể lý giải kiến giải sai lầm ấy rõ ràng hơn một chút. Thuở đức Phật tại thế, Ấn Độ thuở ấy có chẳng ít ngoại đạo, nay chúng ta nói là “tôn giáo”. Họ tu Định, có những người xác thực là có công phu định lực rất tốt. Chư vị phải biết, đối với những công phu định lực ấy, cảnh giới trong Định cũng thuộc về cảnh giới Hiện Lượng, do họ chính mắt trông thấy. Họ thấy sau khi trâu chết, linh hồn của nó sanh lên cõi trời. Do vậy, trong tâm những người ngoại đạo ấy bèn nghĩ: Người chết phải đọa trong ba ác đạo, trâu đã chết bèn sanh lên trời. Người ấy bèn nghĩ người chẳng bằng trâu! Trâu suốt một đời làm những gì? Trâu thay người cày ruộng, ăn cỏ xanh, người ấy bèn nghĩ: Muốn sanh lên trời thì phải học theo trâu, giúp nông dân cày ruộng, ăn cỏ ở bên ngoài. Cứ ngỡ là học theo trâu thì trong tương lai sẽ có thể sanh lên trời! Cái nhân để sanh lên trời tuyệt đối chẳng phải là do ăn cỏ, cày ruộng. Họ nẩy sanh chấp trước sai lầm nơi ấy, ngỡ đó là cái nhân để sanh lên cõi trời, bèn tu loại khổ hạnh theo kiểu như vậy.

Đức Phật bảo chúng ta: Sanh lên trời thì phải tu Thập Thiện Nghiệp Đạo. Vì sao trâu đã chết có thể sanh lên trời? Con trâu ấy đời này thuộc về súc sanh đạo, kiếp trước do ngu si nên đọa lạc làm súc sanh. Làm trâu suốt một đời này, chẳng tạo ác nghiệp, chỉ là hứng chịu quả báo. Sau khi chịu hết quả báo, do nó kiếp trước còn có nhân lành, tức là cái nhân do nó tu Thập Thiện Nghiệp Đạo trong đời trước đã chín muồi. Nó do cái nhân ấy mà sanh lên cõi trời, tuyệt đối chẳng phải là do nó làm trâu mà có thể sanh thiên. Đấy chính là đã hiểu sai bét cái nhân. “Phi nhân” (非因) có nghĩa là chẳng phải do nhân duyên ấy, nhưng quý vị so đo, chấp trước, cho đó là nhân duyên. Đó là kiến giải sai lầm, quý vị đã nhìn sai mất rồi!

Nói theo Phật pháp, “nhân quả thông ba đời”. Quả báo cũng có ba thứ:

1) Có hiện báo, tức là hứng chịu quả báo ngay trong một đời này. Đối với hiện báo, bất luận làm thiện hay làm ác, thiện có thiện báo, ác có ác báo. Đại khái là khởi tâm động niệm tạo tác thiện hay ác đều hết sức mãnh liệt. Cái tâm ấy rất mạnh, đời này liền cảm vời quả báo. Có nhiều đồng tu đã đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, [đều biết] tiên sinh Liễu Phàm nghe Vân Cốc đại sư khuyên dạy, ông ta hiểu rõ, biết vận mạng có thể chuyển biến. Do vậy, nghiêm túc nỗ lực đoạn ác tu thiện, lại còn cả nhà đều hành thiện. Sức mạnh của việc làm lành rất lớn, chẳng cần chờ đến đời sau, đạt được hảo báo ngay trong đời này. Từ Liễu Phàm Tứ Huấn, chúng ta thấy được điều này.

2) Nếu quả báo không thuộc đời này, nhất định thuộc về đời sau. Do nhân lành, đời sau nhất định đắc thiện quả; do nhân ác, đời sau nhất định cảm ác báo.

3) Nếu đời sau chưa thọ báo, nhất định là trong đời sau nữa. “Đời sau nữa” tức là đời thứ ba trở đi, không nhất định là trong đời nào.

Nhân nhất định phải có duyên thì mới có thể kết thành quả. Vì thế, đối với nhân, duyên, quả báo, duyên rất trọng yếu. Phật pháp không nói “nhân sanh” mà nói “duyên sanh”. Bất luận kinh điển Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều nói “duyên sanh”, Phật pháp coi trọng cái duyên. Vì sao không nói “nhân sanh”? Nhân đã gieo, chẳng có cách nào thay đổi. Không chỉ là chúng ta chẳng có cách nào thay đổi, mà chư Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể nào thay đổi được! Mỗi người chúng ta, mỗi chúng sanh đều có trọn đủ các nhân trong mười pháp giới. Hôm nay, chúng ta từ sáng thức dậy, tâm địa rất thanh tịnh, chắp tay niệm một câu A Di Đà Phật. Đó là cái nhân của Phật pháp giới, đã gieo cái nhân ấy. Thấy hết thảy chúng sanh rất đáng thương, khởi tâm bố thí, đó là tâm Bồ Tát. Vì thế, chúng ta mỗi ngày khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, đều là tạo nhân trong mười pháp giới. Những cái nhân ấy, nhân nào sẽ cảm vời quả báo? Tùy thuộc cái duyên. Nhân nào gặp duyên, sẽ cảm vời quả báo trước. Chúng ta có thể khống chế duyên, chứ đối với nhân thì chẳng có cách nào. Có thể khống chế duyên thì nói cách khác, có thể tự mình khống chế quả báo.

Chúng ta không mong cảm vời ác báo thì đức Phật đã dạy chúng ta hãy bỏ sạch hết thảy các ác duyên, tu nhiều thiện duyên. Như vậy thì cái nhân lành của chúng ta sẽ thọ quả báo trước, cái nhân ác tạm thời bất động, chẳng thọ báo. Giống như chúng ta trồng dưa, trồng đậu, muốn có dưa bèn gieo hạt dưa, vun bón kỹ càng. Duyên của dưa cần phải có đất màu, phân bón, nước, ánh sáng mặt trời, điều kiện nào thuộc về duyên cũng đều đầy đủ, dưa nhất định sanh trưởng hết sức tốt đẹp. Chúng ta chẳng muốn đậu, bèn bỏ hạt đậu trong chén uống trà, để đó cả một trăm năm, nó vẫn chẳng thể phát triển thành đậu được! Đạo lý là như thế đó. Do vậy, chính mình phải biết khống chế duyên. Nói cách khác, quả báo trong mười pháp giới xác thực là do chính mình hoàn toàn nắm giữ, chẳng liên quan đến ai khác. Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể giúp đỡ, toàn là do tự mình khống chế. Đấy là đức Phật đã dạy cho chúng ta biết một chân tướng sự thật: Nhân tố trọng yếu nhất trong mười pháp giới là tâm hạnh. Chúng ta đã hiểu, biết phải nên tăng cường những duyên ấy như thế nào, khiến cho những duyên ấy tăng thượng. Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức đều bảo chúng ta: Người chẳng tu hành thì thôi, chứ đối với người thật sự tu hành, chỉ có vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới mới là thật sự chứng đắc chánh quả. Chuyện này chẳng giả tí nào! Nếu chẳng vãng sanh Tây  Phương  Cực  Lạc thế giới, quyết định chẳng thể thoát lìa lục đạo luân hồi. Nhất định phải hiểu rõ chân tướng sự thật này!

Chúng ta có nắm chắc vãng sanh hay không? Có, đương nhiên là có! Vì sao? Chúng ta có chủng tử của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong A Lại Da Thức của chúng ta có A Di Đà Phật, có ba kinh Tịnh Độ, có y báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Tây Phương, nhân đã đầy đủ. Nếu nay muốn vãng sanh thì phải tăng cường duyên. Duyên là gì? Ba tư lương, tức là ba điều kiện, chúng đều là duyên. Tín, Nguyện, Hạnh, Hạnh là nhất tâm trì danh. Chúng ta trọn đủ ba duyên Tín, Nguyện, Hạnh, quý vị chắc chắn vãng sanh, cái nhân ấy là chánh xác. Chẳng phải là ta đã tin Phật, ta có thể chẳng cần niệm Phật. Ta mong vãng sanh, hằng ngày cúng dường Phật, Bồ Tát, bợ đỡ Phật, Bồ Tát, [hy vọng là] tới khi đó, Phật, Bồ Tát sẽ đến tiếp dẫn ta. Đấy chính là “phi nhân kế nhân” (chẳng phải là nhân, mà coi là nhân). Đời này dẫu đã gặp pháp môn Tịnh Tông, [tức là] quý vị có cái nhân thù thắng, [nhưng nếu] duyên chẳng đầy đủ, chẳng thể vãng sanh. Nêu ra một thí dụ này, [để thấy] trong cuộc sống hằng ngày, kiến giải thuộc loại sai lầm rất nhiều, thấy sai nhân duyên!

 

(Sao) Tứ, Kiến Thủ, chấp thô vi thắng, đảm ma khí kim, nhi khởi tự phụ sở kiến chi kiến.

(Diễn) Chấp thô vi thắng giả, duy chấp kỷ kiến vi thị, dư giai thị phi. Túng ngộ Phật lai, diệc bất tín thọ, như đảm ma vi bảo, khí kim bất cố đẳng. Đảm ma khí kim giả, tích hữu nhị nhân nhập sơn, các đảm nhất đảm ma, ngẫu ư trung lộ, kiến vô số bố bạch. Nhất trí giả vân: “Ngô khí ma, đảm bố”. Nhất ngu giả vân: “Ngô đảm lai lộ đa”, tức thị đảm ma. Vãng tiền bất viễn, hựu kiến vô số bạch ngân. Trí giả khí bố, đảm ngân, ngu giả y cựu đảm ma. Tiền vãng hựu kiến vô số hoàng kim, trí giả khí ngân, đảm kim, ngu giả y cựu chỉ thị đảm ma, tự phụ sở kiến, bất khẳng tùng nhân giả, đại suất như thị.

()四、見取,執粗為勝,擔麻棄金,而起自負所見之見。

()粗為勝者。唯執己見為是。餘皆是非。縱遇佛來。亦不信受。如擔麻為寶。棄金不顧等。擔麻棄金者。昔有二人入山。各擔一擔麻。偶於中路見無數布帛。一智者云。吾棄麻擔布。一愚者云。吾擔來路多。即是擔麻。往前不遠。又見無數白銀。智者棄布擔銀。愚者依舊擔麻。前往又見無數黃金。智者棄銀擔金。愚者依舊只是擔麻。自負所見。不肯從人者。大率如是。

(Sao: Bốn là Kiến Thủ (Dṛṣṭi-parāmarśa), chấp cái thô thiển là thù thắng, gánh gai bỏ vàng, dấy lên cách nhìn tự phụ về kiến giải của chính mình.

Diễn: “Chấp cái thô thiển là thù thắng”, chỉ chấp ý kiến của chính mình là đúng, những người khác đều sai. Dẫu có Phật hiện tới, cũng chẳng tin nhận. Như gánh gai coi là của báu, vứt bỏ vàng, chẳng đoái hoài v.v… “Gánh gai bỏ vàng”: Xưa có hai người vào núi, mỗi người gánh một gánh gai. Bỗng ở trên đường thấy vô số vải, lụa, một người có trí bèn nói: “Tôi vứt gai, gánh vải”. Kẻ ngu nói: “Tôi gánh gai trên đường đã lâu rồi, do vậy cứ gánh gai”. Đi tiếp chẳng xa, lại thấy vô số bạc trắng, người trí vứt vải, gánh bạc, kẻ ngu vẫn gánh gai y như cũ. Đi tiếp lại thấy vô số vàng ròng, người trí vứt bạc, gánh vàng, kẻ ngu vẫn chỉ gánh gai y như cũ, tự phụ kiến giải của chính mình, chẳng chịu nghe theo ý kiến của người khác, đại khái là như thế đó).

Thứ tư là Kiến Thủ Kiến, nói về quả báo. Có các bản chú sớ [giảng loại kiến chấp này là] “phi quả kế quả” (chẳng phải là quả mà coi là quả), [có nghĩa là] nó chẳng phải là quả báo chân thật, mà chính mình cứ tưởng nó là quả báo thật sự. Liên Trì đại sư bảo “chấp thô vi thắng”, “thô” (粗) là cảnh giới thô, cứ ngỡ đó là thù thắng nhất, rốt ráo nhất. Đấy là sai lầm. Tiếp đó là tỷ dụ “đảm ma khí kim, nhi khởi tự phụ sở kiến chi kiến” (gánh gai bỏ vàng, dấy lên kiến chấp tự phụ đối với kiến giải của chính mình). “Gánh gai bỏ vàng” là một câu chuyện nhỏ, trong phần chú giải có nói. Chẳng phải là quả, mà tưởng là quả, thí dụ rõ rệt nhất là trong thế gian, có nhiều kẻ mong sanh lên cõi trời, [cứ nghĩ]: Đến thiên đường chính là quả vị rốt ráo nhất. Sanh về thiên đường, sẽ trường sanh bất lão, sống đời đời, bất tử. Hoàn toàn sai lầm! Chỉ là thọ mạng của chư thiên dài hơn chúng ta, họ có phước báo to hơn chúng ta. Thọ mạng dẫu dài đến mấy, vẫn có lúc hưởng hết. Đã hưởng hết, họ vẫn phải chết, vẫn phải đọa lạc. Do đó, Thiên chẳng phải là quả vị rốt ráo. Chấp trước “sanh thiên là đạt đến quả vị rốt ráo” thì gọi là Kiến Thủ Kiến, tức là thành kiến đối với quả báo.

Cũng giống như vậy, trong Phật môn, người tu cái nhân Tiểu Thừa, coi quả A La Hán là quả vị rốt ráo. Họ chẳng tin có Đại Thừa, chẳng tin có thế giới phương khác, chẳng tin có hết thảy chư Phật, chấp trước A La Hán là quả vị cao nhất (đức Thế Tôn bảo họ là “mầm hư, hạt lép”), cũng thuộc loại Kiến Thủ Kiến. Tiểu Thừa Sơ Quả chẳng có Kiến Hoặc; nếu họ còn chấp trước một kiến giải như vậy, người ấy tu Tiểu Thừa có thể chứng quả hay không? Quyết định là chẳng thể chứng quả. Người tu Tiểu Thừa rất đông, chưa thấy người nào chứng quả Tu Đà Hoàn, là do nguyên nhân nào? Họ có thứ chấp trước này. Đã thế, Giới Thủ Kiến và Kiến Thủ Kiến còn đặc biệt nghiêm trọng. Chúng ta nói họ có chấp trước nghiêm trọng, có thiên kiến nghiêm trọng. Đấy là chướng ngại rất lớn cho sự tu hành. Chúng ta nhất định phải hiểu rõ ràng điều này thì trên đường Bồ Đề vãng sanh Tây Phương Cực Lạc mới không đến nỗi gặp trở ngại.

 

(Sao) Ngũ, Tà Kiến.

()五、邪見。

(Sao: Năm là Tà Kiến).

Thứ năm là Tà Kiến (Mithyā-dṛṣṭi). Các kiến giải sai lầm được quy nạp thành bốn loại lớn trên đây, còn tất cả những kiến giải sai lầm chẳng thể bao gồm trong bốn loại lớn trên đây đều gom vào một điều này. Trong điều này, chuyện nghiêm trọng nhất là chẳng tin nhân quả báo ứng. Người trong thế gian hiện thời chẳng tin nhân quả báo ứng rất đông, khi gặp phải báo ứng họ vẫn chẳng tin, đúng là chẳng có một tí biện pháp nào hết!

 

(Sao) Vị bát vô nhân quả, đọa hoát đạt không, nhi khởi tà ngoại bất chánh chi kiến.

(Diễn) Bát vô nhân quả, đọa hoát đạt không giả, bất tín tạo thiện vi lạc, tạo ác vi khổ, nhi ngôn thiện, ác, khổ, lạc, nhất thiết giai không, bất tri vô ngã, vô tác, vô thọ giả, thiện ác chi nghiệp diệc bất vong, đọa hoát đạt không, khởi đoạn diệt kiến cố.

()謂撥無因果,墮豁達空,而起邪外不正之見。

()撥無因果。墮豁達空者。不信造善為樂。造惡為苦。而言善惡苦樂一切皆空。不知無我無作無受者。善惡之業亦不亡。墮豁達空。起斷滅見故。

(Sao:  Nghĩa là bài bác  “chẳng có nhân quả”,  đọa vào trong cái Không rỗng tuếch, dấy lên kiến giải tà vạy, ngoại đạo, bất chánh.

Diễn: “Bài bác chẳng có nhân quả, đọa lạc trong cái Không rỗng tuếch”: Chẳng tin làm lành là vui, tạo ác là khổ, nói thiện, ác, khổ, lạc, hết thảy đều rỗng tuếch, chẳng biết [dẫu là] vô ngã, vô tác, chẳng có người nhận, nghiệp thiện ác cũng chẳng mất. Đọa vào cái Không rỗng tuếch tức là khởi kiến giải đoạn diệt).

 Tà tri, tà kiến, tri kiến ngoại đạo, đều chẳng phải là chánh tri chánh kiến. Chỉ riêng đức Phật mới có chánh tri chánh kiến, tri kiến của người thế gian đều bất chánh. Vì sao bất chánh? Do quý vị có phiền não, có năm thứ tà kiến ấy. Có Thân Kiến, có Ngã Chấp, có thiên kiến, có thành kiến, làm sao kiến giải có thể chánh xác cho được? Do vậy, đức Phật khuyên người thế gian chúng ta chớ nên tin vào ý nghĩ của chính mình. Bởi lẽ, cách nghĩ và cách nhìn của chính quý vị đều chẳng chánh xác.

Đức Phật nói một câu thật thà, đến khi nào mới có thể tin vào chính mình? Tối thiểu là phải chứng đắc quả A La Hán, quý vị mới có thể tin tưởng chính mình. Đây lại là đạo lý như thế nào? Vì A La Hán đã đoạn Kiến Tư phiền não, tâm thanh tịnh, chẳng có thành kiến, chẳng có quan niệm chủ quan, bất luận nhìn vào chuyện gì, các Ngài đều thấy rõ ràng, minh bạch. Cũng có nghĩa là: Kiến Tư phiền não còn chưa đoạn, chẳng thể tin vào kiến giải của chính mình, chẳng thể tin vào cách nghĩ và cách nhìn của chính mình là chánh xác, thường là chính mình phạm sai lầm mà chính mình chẳng biết. Trong giai đoạn trước khi đoạn hết Kiến Tư phiền não, chúng ta nay đang thuộc trong giai đoạn này, rốt cuộc phải làm như thế nào thì mới chẳng đến nỗi nẩy sanh lầm lỗi? Chúng ta biết: Trong giai đoạn hiện tiền, nói chung là chẳng thể tránh khỏi lầm lỗi. Có thể dần dần giảm bớt những lầm lỗi, giảm thiểu đến mức độ thấp nhất, thì mới được coi là đã kha khá.

Chúng ta dựa vào những gì để tu chỉnh cách nghĩ và cách nhìn của chính mình? Chính là [dựa vào] kinh luận. Kinh Phật được chia thành ba tạng Kinh, Luật, Luận. Nương theo những điều đã dạy trong kinh luận để uốn nắn kiến giải và tư tưởng của chúng ta. Cách nghĩ và cách làm của chúng ta chẳng giống với những gì đã dạy trong kinh Phật, chúng ta phải giác ngộ: Chúng ta đã nghĩ sai, thấy trật, Phật là chánh xác. Ngàn muôn phần đừng nghĩ: “Đức Phật thuộc vào thời đại ba ngàn năm trước, rất lạc hậu, [thuở ấy] khoa học kỹ thuật chẳng phát triển. Nay chúng ta thông minh hơn Ngài”. Quý vị đã phạm sai lầm mất rồi, lại phạm vào Kiến Thủ và Giới Thủ. Nhất định phải biết tri kiến của Ngài là chánh xác, còn [tri kiến của] chúng ta là sai lầm! Nương theo giáo huấn trong kinh điển để sửa đổi lời nói và việc làm của chính mình, cũng như xử sự, đãi người, tiếp vật phải chiếu theo những quy củ, khuôn khổ đã nói trong giới luật. Dùng những tiêu chuẩn ấy để sửa đổi các hành vi sai lầm nơi thân và miệng của chúng ta. Tác dụng của Tam Tạng kinh điển chính là [cung cấp một] tiêu chuẩn để sửa đổi những hành vi sai lầm nơi ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tác dụng của kinh điển là ở chỗ này. Chẳng phải là bảo chúng ta niệm hằng ngày, niệm cho Phật, Bồ Tát nghe! Các Ngài chẳng cần nghe, [ta niệm kinh] là niệm cho chính mình nghe, chính mình nhớ rất nhuần nhuyễn, nương theo những tiêu chuẩn ấy để sửa đổi hành vi của chính mình. Đó gọi là “tu hành thật sự”.

Trong tà kiến, điều quan trọng nhất là chẳng tin tưởng nhân quả báo ứng. Chuyện này hết sức nghiêm trọng, cho nên đặc biệt nêu ra. Chúng sanh trong thế gian dám làm ác, chính vì “bát vô nhân quả” (bài bác không có nhân quả), họ mới dám làm. Nếu đối với những sự lý nhân duyên quả báo ấy, họ thật sự hiểu rõ, chắc chắn sẽ không dám làm ác. Vì sao? Làm ác thì chính mình bị thua thiệt, do có báo ứng. Thiện có thiện báo, ác có ác báo. Quyết định chẳng dám khởi tâm động niệm hại người, hại người là hại chính mình. Quyết định chẳng dám có hành vi trộm cắp. Trộm cướp tiền tài của người khác thì phải trả nợ, chẳng phải là đã trộm rồi bèn có thể không trả. Thiếu mạng người khác thì phải đền mạng. Quý vị xem truyện ký của đại sư An Thế Cao; kinh Bát Đại Nhân Giác và kinh A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung là do ngài An Thế Cao phiên dịch. Ngài An Thế Cao đến Trung Hoa hai lần đền mạng. Đời trước lỡ tay giết người, đời này đến Trung Hoa, hai lần bị kẻ khác ngộ sát. Có thể thấy: Tạo cái nhân như thế nào, sẽ chịu quả báo như thế ấy, đúng vậy đó!

“Một hớp uống, một miếng ăn, không gì chẳng được định trước”. Ai định trước cho quý vị? Chính mình định! Điều này chẳng cần phải bàn cãi chi nữa! Chẳng phải do Phật, Bồ Tát định, cũng chẳng phải do vua Diêm La định, cũng chẳng phải do Thượng Đế định, mà do chính mình định. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của chính mình rất hạnh phúc, rất sung sướng, rất bình an, quyết định chẳng tạo cái nhân ác. Không chỉ là chớ nên tạo ác, ngay cả ác niệm cũng đều chẳng có. Ác niệm đều chẳng có, ác duyên sẽ bị đoạn trừ. Trong đời quá khứ, tuy có ác nhân, nhưng tạm thời, nó chẳng thể dấy lên hiện hành.  Vì  sao?  Nó  chẳng  có duyên.

Nếu hiện thời, chúng ta trong mỗi niệm còn có ác niệm, ác niệm ấy là duyên, sẽ có ác báo hiện tiền. Hiện thời, chẳng có ác niệm. Chẳng có ý niệm ấy, chẳng dễ dàng đâu nhé! Pháp môn này hay lắm, chuyển ý niệm của quý vị thành A Di Đà Phật. Tiêu trừ ý niệm chẳng dễ dàng, thay đổi ý niệm dễ hơn. Cổ nhân thường nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Ý niệm dấy lên chớ sợ. Sợ là quý vị bất giác. Quý vị bất giác; ý niệm này kế tiếp ý niệm kia sẽ sanh ra sức mạnh. Nếu đã giác ngộ, chẳng có ác niệm! Giác ngộ là như thế nào? Một câu A Di Đà Phật dấy lên, đó là giác ngộ. Chư vị phải hiểu: Cái giác ấy chẳng thể giống với sự giác ngộ bình phàm, mà là đại giác viên mãn rốt ráo, khác hẳn! Vì thế, chúng ta hễ khởi tâm động niệm bèn biết rất nhanh chóng thay đổi [ý niệm vừa khởi lên ấy] thành A Di Đà Phật, đấy là một người thật sự niệm Phật. Công phu niệm Phật thật sự đắc lực chính là dùng Phật hiệu để thay thế hết thảy các vọng niệm, bất luận là thiện niệm hay ác niệm thế gian và xuất thế gian, đều chẳng màng tới. Ý niệm thứ nhất dấy lên, ý niệm thứ hai sẽ là A Di Đà Phật. Đó là đúng, đã chuyển biến được!

 

(Sao) Thử ngũ giả.

()此五者。

(Sao: Năm điều này).

Năm loại [kiến giải] lớn vừa nói trên đây.

 

(Sao) Năng linh chúng sanh xu nhập sanh tử, cố danh vi Sử.

()能令眾生趨入生死,故名為使。

(Sao: Có thể khiến cho chúng sanh tiến nhập sanh tử, nên gọi là Sử).

 “Sử” (使) là nha dịch thời cổ, giống như đội cảnh sát hình sự trong hiện thời. Năm thứ ấy có thể khiến chúng ta phải sanh tử luân hồi trong lục đạo, vĩnh viễn chẳng ngừng, chẳng xong. Đó là vì bị năm thứ phiền não ấy làm hại, chúng ta phải nhận thức rõ ràng chuyện này!

 

(Sao) Nhi cơ vi, tấn tật, vi hại phi tế, đối Ngũ Độn ngôn, cố danh Lợi Sử.

()而幾微迅疾,為害非細,對五鈍言,故名利使。

(Sao: Nhưng rất vi tế, nhanh chóng, gây hại chẳng nhỏ. Do nói đối ứng với năm thứ Độn Sử mà gọi là Lợi Sử).

Nó rất nhỏ nhiệm, lại còn rất nhanh chóng. Ý niệm khởi lên cũng mau, tiêu mất cũng mau. Niệm này dấy lên, niệm kia diệt mất. Niệm niệm sanh diệt, nhưng phải biết: Nó gây hại quá to lớn, chẳng phải là điều hại nhỏ nhặt, mà là mối tai hại to lớn! Nỗi tai hại to lớn ấy khiến cho chúng ta vĩnh viễn ở trong lục đạo, chẳng có cách nào vượt thoát. Do nói đối ứng với năm Độn Sử, bèn gọi chúng là Lợi (利), vì chúng mạnh mẽ, nhạy bén. Tuy mạnh mẽ, nhạy bén, chúng dễ đoạn. Hễ thật sự giác ngộ, chúng liền đoạn. Chẳng giống như năm phiền não Độn Sử trong phần sau, sau khi đã giác ngộ, cũng chẳng dễ gì đoạn được! Cổ nhân nói năm Độn Sử giống như “dẫu lìa ngó, ý còn vương tơ lòng”. Dẫu đã đoạn, sau đấy, vẫn còn những sợi tơ vấn vít, rất khó đoạn sạch sành sanh. Chẳng giống như năm loại này, tuy mạnh mẽ, nhạy bén, rất dễ đoạn. “Dễ dàng” là nói so sánh [với chuyện đoạn năm thứ Độn Sử], trên thực tế, cũng là rất khó!

 

(Sao) Khai chi tắc lục thập nhị giả, dĩ Đoạn Thường nhị kiến vi bổn, nhi Sắc đẳng Ngũ Ấm, các cụ tứ cú, tam thế điệt chi, tắc thành lục thập, gia bổn Đoạn Thường, thành lục thập nhị.

(Diễn) Sắc đẳng Ngũ Ấm các cụ tứ cú, tam thế điệt chi, tắc thành lục thập giả, như Sắc Ấm giả, vị “Sắc đại Ngã tiểu, Ngã tại Sắc trung”, “Ngã đại Sắc tiểu, Sắc tại Ngã trung”, hoặc “tức Sắc thị Ngã”, “ly Sắc thị Ngã”. Sắc ký như thị, Tứ Ấm diệc nhiên, ngũ tứ cộng thành nhị thập cú, tam thế điệt chi, thành lục thập cú.

()開之則六十二者,以斷常二見為本,而色等五陰,各具四句,三世迭之,則成六十,加本斷常,成六十二。

()色等五陰各具四句。三世迭之。則成六十者。如色陰者。謂色大我小。我在色中。我大色小。色在我中。或即色是我。離色是我。色既如是。四陰亦然。五四共成二十句。三世迭之。成六十句。

(Sao: “Khai triển ra sẽ thành sáu mươi hai thứ”: Lấy hai thứ Thường Kiến và Đoạn Kiến làm gốc, mà Ngũ Ấm như Sắc v.v… mỗi thứ đều có đủ bốn câu, lại nhân với ba đời (tức là 5x4x3) sẽ thành sáu mươi, cộng với hai thứ kiến chấp gốc là Đoạn và Thường, bèn thành sáu mươi hai.

Diễn: “Ngũ Ấm như Sắc v.v… mỗi thứ đều có đủ bốn câu, lại nhân với ba đời bèn thành sáu mươi”, ý nói: Như đối với Sắc Ấm, bảo là “Sắc lớn Ngã nhỏ, Ngã ở trong Sắc”; “Ngã lớn Sắc nhỏ, Sắc ở trong Ngã”, hoặc “Sắc chính là Ngã”, “lìa Sắc là Ngã”. Đối với Sắc đã [có bốn câu] như thế, đối với bốn Ấm kia cũng vậy. Năm Ấm nhân với bốn câu [kiến chấp điên đảo trên đây] thành hai mươi câu, nhân với ba đời, thành sáu mươi câu).

“Đoạn Thường” là Biên Kiến.

 

(Sao) Thử chi chư kiến, do như la võng, do như trù lâm.

()此之諸見,猶如羅網,猶如稠林。

(Sao: Các món kiến chấp này giống như lưới rập, ví như rừng rậm).

“Trù lâm” (稠林) là rừng rậm dày đặc.

 

(Sao) Triền phược khuất khúc, bất khả xuất ly, hồn loạn chân tánh, cố vân Trược dã.

()纏縛屈曲,不可出離,渾亂真性,故云濁也。

(Sao: Trói buộc, cong vạy, chẳng thể thoát ra, vẩn đục, rối loạn chân tánh. Vì thế, bảo là Trược).

Đối với sáu mươi hai món kiến chấp, sách Diễn Nghĩa có giải thích đơn giản. Mọi người có thể tham khảo Phật Học Đại Từ Điển, Giáo Thừa Pháp Số, Tam Tạng Pháp Số và bộ Phật Giáo Cơ Bản Thường Thức do pháp sư Chánh Quả biên soạn.

 

(Sao) Phản hiển Cực Lạc quốc trung, nhân cụ chánh kiến, phi Kiến Trược cố.

()反顯極樂國中,人具正見,非見濁故。

(Sao: Nhằm nêu tương phản rõ rệt: Trong cõi Cực Lạc, người ta có đủ chánh kiến, chẳng phải là Kiến Trược).

So với Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là người hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, [ai nấy] đều là tri kiến thuần chánh, chẳng có mảy may lầm lạc. Đó chính là điều khiến cho thế giới này chẳng sánh bằng họ!

 

(Sớ) Phiền Não Trược giả, ngũ Độn Sử vi Thể.

()煩惱濁者,五鈍使為體。

(Sớ: Phiền Não Trược (Kleśakaṣāya): Năm Độn Sử làm Thể).

“Độn” (鈍) nghĩa là chúng chậm chạp, chẳng lanh lợi, chẳng rất nhạy bén, chẳng rất nhanh chóng như [năm món Sử] trước, những [món Sử] này trì độn.

 

(Sớ) Quảng chi nãi chí vi thập, vi bách bát, vi bát vạn tứ thiên, cập Hằng hà sa đẳng.

()廣之乃至為十,為百八,為八萬四千,及恆河沙等。

(Sớ: Nói rộng ra sẽ là cho đến mười, một trăm lẻ tám, tám vạn bốn ngàn, cho đến như Hằng hà sa).

Nói triển khai sẽ là mười điều. Thập Sử mở rộng ra là một trăm lẻ tám điều, đều thuộc loại quy nạp. Lại mở rộng ra, sẽ là tám vạn bốn ngàn. Trong kinh Phật, hễ nói đến con số thì chỉ nói tới “tám vạn bốn ngàn”. Đó là nêu ra từng điều một, xác thực là chẳng sót một điều nào. Tám vạn bốn ngàn điều được gọi là “tám vạn bốn ngàn phiền não”, phiền não thật nhiều! Tám vạn bốn ngàn điều quy nạp thành một trăm lẻ tám điều. Một trăm lẻ tám điều này, thông thường cũng ít nhắc tới, quá rắc rối! Chuỗi tràng hạt của chúng ta gồm một trăm lẻ tám hạt, có dụng ý gì? Nhằm đối trị một trăm lẻ tám phiền não. Nếu lại mở rộng hơn nữa, sẽ là “Hằng hà sa đẳng” (nhiều như cát sông Hằng). Phiền não vô lượng vô biên, nói chẳng hết! Vì thế, chúng ta biết: Tám vạn bốn ngàn vẫn là quy nạp, nếu nói chi tiết, sẽ là chẳng cùng tận!

 

(Sớ) Tam tai cảm triệu, tức kỳ tướng dã.

()三災感召,即其相也。

(Sớ: Cảm vời tam tai, chính là tướng trạng của nó).

“Tam tai” gồm có đại tam tai và tiểu tam tai. Tam tai do đâu mà có? Do phiền não chiêu cảm mà có. Từ chỗ này, chúng ta bèn hiểu: Hết thảy khổ nạn lớn nhỏ của chúng sanh đều do phiền não tạo thành. Nói cách khác, nếu đoạn phiền não, chúng sẽ chẳng có, tất cả hết thảy tai nạn đều chẳng có. Nhân chẳng có, lấy đâu ra quả? Chẳng có nữa! Tiêu tai miễn nạn thì phải tiêu từ nơi đâu? Nếu tiêu trừ phiền não, tai nạn chẳng còn nữa. Chẳng tiêu trừ phiền não, chư vị phải biết: Tai nạn nhất định sẽ hiện tiền. Một đằng là năng cảm, một đằng là sở cảm.

 

(Sao) Ngũ Độn Sử giả, nhất, tham, vị ngộ thuận tình cảnh, khởi ư ái trước, bất năng xả ly cố.

()五鈍使者,一、貪,謂遇順情境,起於愛著,不能捨離故。

(Sao: Năm Độn Sử: Một là tham, nghĩa là gặp tình cảnh đẹp ý, sẽ dấy lòng yêu đắm, chẳng thể lìa bỏ).

Đấy là hiện tượng tham, chẳng nỡ lìa khỏi, tham ái! Trong ấy, có phạm vi hết sức rộng lớn: Có tham danh, có tham lợi, có tham quyền thế, có tham ngũ dục, lục trần. Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê, những thứ ấy thuộc về ngũ dục, lục trần. Lục trần là các thứ hưởng thụ nơi hoàn cảnh vật chất, đó là thế gian. Xuất thế gian có tứ thánh pháp giới, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. Chẳng tham pháp thế gian, mà tham Phật pháp. Chư vị ngẫm xem, tâm tham có đoạn hay không? Chẳng đoạn! Thay đổi đối tượng mà thôi. Pháp thế gian ác, Phật pháp thiện, tâm tham chẳng đoạn; người như vậy học Phật, trong tương lai, sẽ đến thọ báo trong ba đường lành. Vì sao? Tâm tham chẳng đoạn, chẳng thể thành chánh quả. Đức Phật dạy chúng ta đoạn tâm tham, chẳng bảo chúng ta thay đổi đối tượng của lòng tham. Phải hiểu rõ ràng điều này. Do vậy, đối với Phật pháp, cũng chẳng thể tham. Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp). “Pháp” là Phật pháp, Phật pháp cũng phải buông xuống, cũng chớ nên tham đắm, huống hồ pháp thế gian! Chúng ta nhất định phải hiểu điều này!

Vô lượng vô biên phiền não quy nạp thành năm loại lớn là tham, sân, si, mạn, nghi. Năm loại lớn ấy còn có thể quy nạp nữa hay không? Có thể chứ! Quy nạp thành ba loại lớn là tham, sân, si. Ba loại ấy còn có thể quy nạp nữa hay chăng? Vẫn có thể, quy nạp thành một thứ là Tham. Vì sao có sân hận? Do tham không được, nên mới có sân hận. Nếu tham mà đạt được, tâm sân hận sẽ chẳng sanh khởi. Truy tận nguồn cội, căn cội chung của chứng bệnh ấy chính là một chữ Tham. Đức Phật dạy chúng ta dùng phương pháp gì để đối trị nó? Dùng bố thí. Điều thứ nhất trong Lục Độ là bố thí. Bố thí nhằm độ keo tham, nhằm đối trị phiền não này.

Hiện thời, có khá nhiều người tu bố thí, có thể độ keo tham hay không? Chẳng thể! Vì họ, do có tâm tham, nên mới hành bố thí. Nghe nói Phật môn là “một vốn vạn lời”, bỏ một, sẽ được báo cả vạn. Do vậy, họ mới chịu bố thí. Nếu bảo họ, “bố thí chẳng có quả báo tốt lành”, họ sẽ không bố thí, [tức là] vẫn có cách nhìn theo kiểu con buôn! Tu bố thí như vậy, sẽ tăng trưởng tâm tham. Do đó, chỉ gọi là bố thí, chẳng thể gọi là Bố Thí Ba La Mật. Ba La Mật là độ, [bố thí mà mong cầu hưởng hảo báo] chẳng thể gọi là Bố Thí Độ. Kẻ ấy tu pháp thế gian, chẳng phải là pháp Bồ Tát. Pháp Bồ Tát thì phải độ keo tham. Ta tu bố thí nhằm mục đích nào? Mục đích là bỏ sạch cái tâm keo tham từ vô thỉ kiếp tới nay. Đó là quý vị thật sự tu Lục Độ, thật sự đang tu Bồ Tát đạo.

Người thế gian bố thí, tu phước, đức Phật bảo chúng ta: Quả báo của Tài Bố Thí là của cải, quả báo của Pháp Bố Thí là thông minh, trí huệ, quả báo của Vô Úy Bố Thí là khỏe mạnh, sống lâu. Đó là bố thí theo pháp thế gian. Nếu là bố thí trong pháp Đại Thừa Bồ Tát, người ấy đắc quả “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, chẳng phải là ba thứ quả báo nhỏ nhoi kia. Khác hẳn! Vì sao? Xan tham là căn bản phiền não. Căn bản đã bị dẹp trừ thì tám vạn bốn ngàn phiền não, hoặc vô lượng vô biên phiền não, thảy đều chẳng có. Đó là quả báo “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, chẳng phải là đạt được của cải, được thông minh, được khỏe mạnh, sống lâu, chẳng phải là những thứ ấy. Những thứ ấy là do người thế gian tu tiểu bố thí bèn đắc tiểu quả báo. Do vậy có thể biết: Chúng ta thấy đại chúng trong xã hội hiện tiền, có kẻ phát tài, giàu to, được thông minh, trí huệ. Thời cổ nói là “đắc công danh”, nay nói là giành được các học vị Thạc Sĩ hay Tiến Sĩ, [đó là quả báo do] pháp bố thí, hoặc được khỏe mạnh, sống lâu, đều thuộc loại quả báo này. Nhưng trong thế gian này, thiện quả đều khá là khó tu. Để tu phước thật sự vẫn phải là người có phước [thì mới tu được]! Kẻ chẳng có phước, tu phước chẳng nổi! Vì sao? Nhận lầm phước điền! Chúng ta nói “gieo ruộng phước”, [cần phải] biết ruộng để gieo trồng ắt phải là một vùng đất rất phì nhiêu thì [những thứ gieo trồng] mới tăng trưởng rất xum xuê. Nếu gieo trồng nơi đất nhiều cát, ngay cả rễ cũng chết queo, hạt giống cũng hư nát, chẳng có thâu hoạch! Thường là chúng ta nhận lầm ruộng phước, coi sa mạc là ruộng tốt, gieo hạt nơi sa mạc. Tới cuối cùng, không chỉ là chẳng thâu hoạch được, mà ngay cả vốn cũng tiêu mất. Trong xã hội hiện tiền, chúng ta thấy chuyện này quá nhiều! Vì thế, bất luận pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, đều cần đến trí huệ, trí huệ trọng yếu lắm! Chúng ta ngu si, chẳng có trí huệ, làm như thế nào? Hãy đọc kinh; đọc kinh khai trí huệ. Đọc kinh nhiều, đọc kinh đã lâu, tâm định, tự nhiên trí huệ mở mang, thấy mọi chuyện cũng thấy rõ ràng, làm việc cũng chẳng phạm sai lầm. Nhất định là phải đọc kinh, nhất định là phải niệm Phật.

 

(Sao) Nhị, sân, vị ngộ vi tình cảnh, khởi ư khuể hận, bất năng dung nhẫn cố.

()二、瞋,謂遇違情境,起於恚恨,不能容忍故。

(Sao: Hai là sân, nghĩa là gặp tình cảnh trái ý, dấy lòng sân hận, chẳng thể khoan dung, chịu đựng).

Trái nghịch ý thích của chúng ta, ta cũng chẳng ưa! Cảnh giới là như vậy đó. “Khởi ư khuể hận, bất năng dung nhẫn cố” (Dấy lòng sân hận, chẳng thể khoan dung, chịu đựng), chẳng thể bao dung! Đức Phật dạy chúng ta tu Nhẫn Nhục Ba La Mật. Nhẫn nhục nhằm đối trị sân khuể, phải biết nhẫn. Biết nhẫn, bao dung, sẽ là người có phước. Chẳng thể nhẫn, chẳng thể bao dung, dẫu có phước, cũng hưởng hết rất nhanh; sau đấy chẳng có phước nữa! Do vậy, nhất định là phải học bao dung, nhẫn nhục.

 

(Sao) Tam, si, vị ư phi vi, phi thuận cảnh, khởi ư ngu ám, bất năng giác sát cố.

()三、痴,謂於非違非順境,起於愚暗,不能覺察故。

(Sao: Ba là si, nghĩa là đối với cảnh chẳng trái nghịch, chẳng tùy thuận, bèn dấy lên ngu si, tăm tối, chẳng thể quan sát, nhận biết).

“Si” là ngu si. Điều này nói đơn giản, sẽ là đối với vũ trụ và nhân sinh, nhân tình, lý sự, vạn sự, vạn vật, điều nào là thật? Điều nào là giả? Tu như thế nào là tà? Thế nào là chánh? Thế nào là đúng? Thế nào là sai? Người ấy hoàn toàn chẳng hiểu rõ ràng, mê hoặc, điên đảo. Đó là ngu si. Vấn đề này cũng hết sức nghiêm trọng. Trong năm Độn Sử, khó đoạn nhất là ngu si. Đức Phật dạy chúng ta phải dùng Bát Nhã để độ ngu si, nhất định cần đến trí huệ Bát Nhã chân thật. Trong giai đoạn cuối cùng của Đại Thừa, ngu si được gọi là vô minh. Đẳng Giác Bồ Tát hãy còn có một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, quý vị mới biết ngu si nghiêm trọng lắm! Đẳng Giác Bồ Tát phá trừ một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng; đó là đại giác viên mãn, bèn thành Phật. Vì thế, điều này khó đoạn nhất, phải có trí huệ thật sự. Đối với mấy điều trước, có thể dùng Định để khắc phục, chỉ riêng điều này thì phải dùng Huệ, chứ Định thì chẳng có cách nào!

 

(Sao) Tứ, mạn, vị ư nhất thiết chúng sanh, khởi kiêu ngạo tâm, thượng lăng, hạ hốt, bất năng cung tốn cố.

()四、慢,謂於一切眾生,起驕傲心,上陵下忽,不能恭遜故。

(Sao: Bốn là mạn, nghĩa là đối với hết thảy chúng sanh, dấy lòng kiêu ngạo, lấn lướt người trên, khinh thường kẻ dưới, chẳng thể cung kính, khiêm tốn).

 “Mạn” (慢) là ngạo mạn, “tốn” (遜) là khiêm hư. Kẻ ấy chẳng biết cung kính, chẳng biết khiêm hư, bất luận đối với ai, cũng đều là kiêu ngạo phiền não dấy lên hiện hành. Nhà Phật coi trọng chuyện này. Vì sao? Vì quý vị có mạn, sẽ chẳng thể nhập đạo. Phiền não nhiều ngần ấy, cớ sao đức Phật khăng khăng nêu lên điều này? Điều này nghiêm trọng ở chỗ nào? Chướng đạo! Vì thế, đức Phật coi trọng, thánh nhân thế gian cũng coi trọng. Trong Lễ Ký có nói: “Ngạo bất khả trưởng” (Chớ nên tăng trưởng lòng kiêu ngạo). Nho gia biết thứ phiền não này là “câu sanh phiền não” (phiền não bẩm sinh), chẳng cần học vẫn biết. Do bẩm sanh, ai nấy đều có, hết thảy chúng sanh thảy đều có; chỉ có thể nói là xét theo mức độ thì có cạn hay sâu sai biệt, chứ ai nấy đều có! Chuyện này rất phiền phức. Có phiền não này, sẽ coi thường thầy, coi thường thiện tri thức, coi thường đồng học, quý vị còn có thể thành tựu hay chăng? Thiện căn tôn sư trọng đạo đã bị phiền não này phá hoại. Vì thế, chúng ta phải nhận rõ: Ngạo mạn tổn hại chúng ta to tát dường ấy!

Đức Phật dạy chúng ta nhẫn nhục, Nho gia dạy chúng ta khiêm hư. Trong phần Hệ Từ của kinh Dịch, Khổng Tử đã dạy người khác: “Mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích” (Tự mãn chuốc lấy tổn hại, khiêm tốn được lợi ích). Trong sáu mươi bốn quẻ, chỉ có quẻ Khiêm là sáu hào đều tốt lành. Quái Tượng[83] của quẻ này chẳng có gì là hung. Sáu mươi ba quẻ kia, tối thiểu là có một hào thuộc về quẻ hung, chẳng phải là quẻ cát. Khiêm (謙) là khiêm hư! [Tên gọi đầy đủ của quẻ ấy là] Địa Sơn Khiêm (地山謙), [hàm nghĩa] hình tượng của quẻ giống như núi ở dưới đất, phía trên là quẻ Khôn (坤), Khôn là đất. Núi vốn ở trên mặt đất, [nhưng trong quẻ này], núi lại ở dưới mặt đất. Quý vị hãy suy ngẫm ý nghĩa này. Nho gia nói “tự ty nhi tôn nhân” (hạ thấp mình, đề cao người khác). Đấy là Khiêm, chúng ta dùng phương pháp này để đối trị kiêu mạn từ vô thỉ kiếp tới nay. Chúng ta bị kiêu mạn hại quá thê thảm, phải nhận biết nó, phải thật sự tu hành, phải sửa đổi nó. Từ nay trở đi, bất luận đối với người nào, cũng đều phải khiêm hư, đều phải nhún nhường. Đó là đúng!

 

(Sao) Ngũ, nghi, vị ư chư thiện pháp, khởi sai nhị tâm, dục tấn, dục thoái, bất năng quyết định cố.

()五、疑,謂於諸善法,起猜貳心,欲進欲退,不能決定故。

(Sao: Năm là nghi, nghĩa là đối với các thiện pháp, dấy lòng nghi ngờ, do dự, toan tiến, toan lùi, chẳng thể quyết định).

“Sai” (猜) là ngờ vực vô căn cứ, “nhị tâm” (貳心) là tâm chẳng thể xác định, hoài nghi. Trong pháp thế gian, Nghi chướng ngại thiện pháp, chướng ngại thiện hạnh. Trong pháp xuất thế gian, Nghi quyết định chướng đạo. Dấy lòng nghi hoặc giáo huấn của Phật, Bồ Tát, tổ sư, chẳng thể tin tưởng. Phật pháp hoàn toàn kiến lập trên cơ sở tín tâm thanh tịnh. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín là nguồn đạo, mẹ công đức”. Quý vị chẳng có tín tâm kiên định, làm sao có thể nhập môn cho được? Một người nếu muốn có thành tựu nơi đạo nghiệp thì:

1) Thứ nhất là đối với pháp, phải có tín tâm kiên định, hoàn toàn khẳng định, chẳng có hoài nghi, chúng ta mới có thể tiếp nhận.

2) Thứ hai là đối với thầy và thiện tri thức, phải có tín tâm thanh tịnh, chúng ta mới có thể tiếp nhận sự chỉ dạy của họ, mới có thể y giáo phụng hành. Nếu dấy lòng hoài nghi thầy, thầy dạy chúng ta, chúng ta chỗ nào cũng đánh dấu hỏi, chẳng thể tuân thủ, chẳng thể phụng hành, chắc chắn là chẳng đạt được lợi ích nơi pháp ấy!

Nghi là chuyện xấu, Nghi là chướng ngại lớn nhất trong quá trình tu học của Bồ Tát. Chúng ta đoạn nghi sanh tín như thế nào? Chuyện này nói dễ dàng, thực hiện khá khó khăn! Thật sự có tín tâm thanh tịnh, sẽ giống như trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật nói có hai loại người:

1) Một loại người là kẻ thượng căn thông minh, vừa tiếp xúc Phật pháp bèn hiểu rõ, giác ngộ, chẳng mê. Vì thế, người ấy có thể tin.

2) Loại thứ hai là thiện căn sâu dầy. Tuy đối với lý luận và sự thật chẳng hiểu rõ ràng, nhưng người ấy đối với Phật, Bồ Tát, đối với bậc thiện nhân rất tôn kính, và cũng có thể nghe lời, cũng có thể y giáo phụng hành. Đó là khó có, đáng quý.

Đại khái là hai hạng người trên đây, tín tâm bất nhị, thành tựu dễ dàng! Hễ tín tâm bị dao động, hiện tượng nguy cơ bèn xảy ra, chẳng thể thành tựu. Đặc biệt là đối với người niệm Phật chúng ta, đối với Tịnh Độ, đối với A Di Đà Phật, đối với chuyện vãng sanh, quyết định chớ nên hoài nghi, quyết định chớ nên dao động. Ở bên ngoài, những pháp môn khác rất nhiều, quý vị gặp những kẻ tri thức, người này bảo quý vị tu Thiền, người kia bảo quý vị niệm chú, người nọ lại nói pháp môn chi đó lập tức thấy có hiệu quả, quý vị vừa nghe, tín tâm bị dao động. Hễ tín tâm bị dao động, nói thật thà, đối với pháp môn nào, quý vị cũng đều chẳng thể thành tựu! Trong vô lượng pháp môn của chư Phật, Bồ Tát, quý vị thật sự chẳng hiểu rõ ràng, chẳng hiểu minh bạch, chẳng nhận biết, chẳng biết pháp môn nào thù thắng. Do vậy, trong quá trình tu học, chẳng đạt được lợi ích.

Thật sự có tín tâm quyết định, chẳng hoài nghi, thâm nhập một môn, trong những năm qua, chúng tôi cũng thấy chẳng ít người, xác thực là họ có hiệu quả. Chúng ta có thể nhìn thấy rất rõ ràng: Thân thể họ khỏe mạnh, tướng mạo đầy đặn, khí sắc tốt đẹp. Thường là học Phật dăm ba tháng bèn biến đổi, đó là thật sự đạt được lợi ích nơi Phật pháp. Đó có phải là do Phật, Bồ Tát gia trì hay không? Chẳng phải, mà là do trong tâm người ấy sanh ra biến hóa. Trước kia, trong tâm là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lắm nỗi phiền não, [cho nên] thân thể chẳng khỏe mạnh, khí sắc chẳng tốt. [Hiện thời], đã có tín tâm kiên định đối với Phật pháp, thâm nhập một môn, bèn ít vọng niệm, ít phiền não, tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, thân bèn thanh tịnh. Những bệnh tật trước kia nơi thân thể này chẳng cần phải đi khám bác sĩ, tự nhiên khỏi hẳn. Đó là vì người ấy đã điều chỉnh sinh lý nơi tâm lý; hiện thời, điều này đã có căn cứ khoa học xác thực.

Thân thể bị ý niệm làm chủ tể. Kinh Đại Thừa thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”. Một người tâm thuần thiện, chẳng ác, thuần tịnh bất nhiễm, sinh lý tự nhiên điều chỉnh bình thường. Kẻ có vọng niệm, có tạp niệm, có vọng tưởng, sinh lý bình thường bị nhiễu loạn. Hễ loạn, bệnh tật sanh khởi, dùng thuốc men, dùng những phương pháp khác để giúp điều trị, rất khó khăn! Chẳng bằng dùng cách điều chỉnh cái tâm của chính mình, đấy là phương pháp hữu hiệu nhất. Thân thể của người ấy đã được điều chỉnh, nay chúng ta nói là “biến đổi thể chất”, khôi phục bình thường. Do đó, dung mạo và khí sắc của người ấy đều khác đi, điều này hết sức rõ rệt. Cổ nhân nói “ưu năng sử nhân lão” (ưu tư khiến người ta già sọm). Người nào nếu có ưu lự, phiền não, sẽ bị lão hóa rất nhanh chóng. Ngược lại, kẻ suốt ngày từ sáng đến tối hết sức hoan hỷ, vui sướng, chẳng dễ gì suy lão. Tâm tình người ấy vui sướng, cũng có thể nói là người ấy ít phiền ít não. Kẻ chẳng có phiền não không dễ già, người có phiền não rất dễ lão hóa.

Trong phần chú giải bộ kinh này, Liên Trì đại sư đã nói: “Chuyên trì danh hiệu còn thù thắng hơn trì chú, mà cũng thù thắng hơn các chú khác, và cũng thù thắng hơn hết thảy các công đức khác”. Mấy câu này đã nêu trọn hết lợi ích của việc nhất tâm trì danh. Trong Phật môn, chúng ta thường nghe nói: “Niệm kinh chẳng bằng niệm chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật”, chúng ta nghe rất quen thuộc, rốt cuộc vì sao chẳng bằng? Ở chỗ này, Liên Trì đã nói rõ. Lời Sao viết: “Thiên tán trì danh” (Riêng ca ngợi trì danh), [nghĩa là] tán thán chỗ lợi ích của Trì Danh. “Nhất, thắng bổn chú giả” (Thù thắng hơn chú này), “bổn chú” là chú Vãng Sanh, niệm danh hiệu Phật tốt hơn niệm chú Vãng Sanh. Vì sao? “Dĩ chú vân: Tụng tam thập vạn biến, tắc kiến A Di Đà Phật, nhi trì danh, tắc nhất nhật nhất tâm, tức Phật hiện tiền cố” (Do [trong kinh văn giảng về công đức của] chú đã nói: “Tụng ba mươi vạn biến bèn thấy A Di Đà Phật”, thế mà trì danh, hễ một ngày nhất tâm, Phật liền hiện tiền). Niệm ba mươi vạn biến chú [Vãng Sanh] phải tốn thời gian rất dài, nhưng kinh Di Đà nói một ngày một đêm cho đến bảy ngày bảy đêm, người ấy liền thấy Phật. Có thể thấy là [niệm danh hiệu Phật] mạnh hơn chú Vãng Sanh khá nhiều! “Hựu chú vân: Trú dạ lục thời, các tụng tam thất biến, năng diệt Ngũ Nghịch đẳng tội” (Chú lại nói: “Ngày đêm sáu thời, trong mỗi thời đều tụng hai mươi mốt biến, có thể diệt các tội như Ngũ Nghịch v.v…), “ngày đêm sáu thời” là hai mươi bốn giờ. Trong hai mươi bốn giờ, cứ mỗi hai giờ, quý vị bèn niệm chú [Vãng Sanh] hai mươi mốt lần. Cách mỗi hai giờ bèn niệm hai mươi mốt lần, một ngày một đêm niệm mười hai lần, ngày đêm chẳng thể gián đoạn, cứ hai tiếng đồng hồ bèn niệm hai mươi mốt lần. “Nhi trì danh, tắc chí tâm niệm Phật nhất thanh, tức diệt bát thập ức kiếp sanh tử trọng tội cố” (Nhưng trì danh, hễ chí tâm niệm Phật một tiếng bèn diệt trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử). Công đức của chú Vãng Sanh làm sao có thể so với Phật hiệu cho được? Thua quá xa! “Nhị, thắng dư chú giả” (Hai, thù thắng hơn các chú khác), tất cả hết thảy các chú khác, kể cả những chú ngữ trong Mật Tông, đều chẳng bằng niệm Phật. Ở đây nói: “Chuyên trì danh hiệu, tức đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú” (Chuyên trì danh hiệu, chính là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, chú không có gì sánh bằng). Đó chính là Tâm Kinh tán thán thần chú đến mức cùng cực. “Dĩ thập niệm tiện đắc vãng sanh, nhất sanh tiện đắc Bất Thoái, oai linh bất trắc, tư danh đại thần, dư khả lệ tri cố” (Do mười niệm liền được vãng sanh, trong một đời bèn đắc Bất Thoái, oai linh chẳng thể lường, nên gọi là đại thần, những điều khác có thể suy ra mà biết). Câu A Di Đà Phật là đại thần chú. Sách Diễn Nghĩa giảng: “Nhất tâm bất loạn, đoạn vô minh, kiến tự tánh, đại minh chú dã. Vãng sanh bỉ quốc, cứu cánh thành Phật, vô thượng chú dã. Chứng Vô Sanh Nhẫn, hồi nhập Sa Bà, phổ độ chúng sanh, vô đẳng đẳng chú dã” (Nhất tâm bất loạn, đoạn vô minh, thấy tự tánh, nên là đại minh chú. Vãng sanh cõi ấy, thành Phật rốt ráo là vô thượng chú. Chứng Vô Sanh Nhẫn, trở về Sa Bà, phổ độ chúng sanh, là chú không gì sánh bằng).

Vì thế, danh hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn! Người xác thực biết [điều này] quá ít. Thật sự biết thì vô lượng vô biên pháp môn bày ra trước mặt, tuyệt đối chẳng động tâm. Vì sao? Hiểu pháp môn này bao gồm hết thảy! Những pháp môn do quý vị đã nói, dẫu hay đến mấy đi nữa, [chỉ là] một cành, một lá của pháp môn tôi [đang tu tập], pháp môn của tôi thống nhiếp toàn bộ. Chẳng biết sự thù thắng của pháp môn này! Thật sự được gặp gỡ [pháp môn này], [thế mà] gặp người khác vừa khuyên, họ đã bỏ đi mất, đúng là đáng tiếc! Người hiện thời chẳng niệm kinh Di Đà, mà niệm kinh Địa Tạng, cứ tưởng kinh Địa Tạng vượt trỗi kinh A Di Đà, danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát vượt trỗi A Di Đà Phật, đó là lầm lẫn to lớn quá đỗi! Chỉ có thể nói là kẻ ấy ít thiện căn, ít phước đức, ít nhân duyên. Pháp môn này cần phải có nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên, kẻ ấy chẳng có thiện căn to như vậy, bèn học pháp môn hạng nhì, pháp môn hạng ba, pháp môn hạng tư, chẳng có phần nơi pháp môn bậc nhất này! Phải nên đọc kỹ Sớ Sao, nghiêm túc đọc, quý vị sẽ thấu hiểu. Quý vị thật sự niệm nhuần nhuyễn, thấu suốt kinh Vô Lượng Thọ, Di Đà Kinh Yếu Giải, và chú giải kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật của Thiện Đạo đại sư, tín tâm đối với pháp môn này sẽ tự nhiên chẳng hai, tín tâm kiên định, tuyệt đối chẳng hoài nghi, trong một đời này, chúng ta mới thật sự có thành tựu.

 

(Sao) Thử ngũ giả, diệc năng sử nhân xu nhập sanh tử, cố danh viết Sử. Giảo tiền, sảo vi trọng trệ, cố danh Độn Sử.

(Diễn) Giảo tiền, sảo vi trọng trệ giả, dĩ thử Ngũ Sử, dữ cảnh tương đối, phương đắc sanh khởi, bất đồng Ngũ Lợi tài xúc tức sanh, cơ vi tấn tật cố.

()此五者,亦能使人趨入生死,故名曰使。較前稍為重滯,故名鈍使。

()較前稍為重滯者。以此五使。與境相對方得生起。不同五利纔觸即生。幾微迅疾故。

(Sao: Năm điều này cũng có thể khiến cho người ta tiến nhập sanh tử, vì thế gọi là Sử. So với [năm món Sử] trước thì hơi nặng nề, chậm chạp hơn, nên gọi là Độn Sử.

Diễn: “So với [năm món Sử] trước thì hơi nặng nề, chậm chạp hơn”: Do năm món Sử này phải đối ứng với cảnh thì mới có thể sanh khởi, chẳng giống như năm món Lợi Sử trước đó, vừa tiếp xúc bèn sanh khởi, vi tế, nhạy bén hơn).

Chúng chẳng mạnh mẽ, lanh lợi như những món Sử trước, nhưng năm thứ này cũng là nhân tố căn bản của sanh tử luân hồi trong lục đạo. Chúng ta thường nói “Kiến Tư phiền não”, Kiến là Kiến Trược trong phần trước, Tư là Phiền Não Trược ở chỗ này.

 

(Sao) Quảng chi giả, vị hợp ngũ lợi, vi thập phiền não.

()廣之者,謂合五利,為十煩惱。

(Sao: Nói rộng ra thì [năm Độn Sử] gộp chung với năm Lợi Sử, thành mười phiền não).

Nếu kinh nói “thập phiền não” thì là hai loại này, hoặc nói Thập Sử, hoặc nói Kiến Tư phiền não, đều là nói đến những điều này.

 

(Sao) Hựu phân chi vi cửu thập bát, gia Thập Triền, thành bách bát phiền não.

(Diễn) Phân chi vi cửu thập bát giả, Kiến Hoặc hữu bát thập bát, dĩ tiền Thập Sử, lịch tam giới, Tứ Đế hạ tăng giảm bất đồng, thành bát thập bát. Vị Dục Giới Khổ thập sử cụ túc, Tập, Diệt các thất sử, trừ Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ. Đạo Đế bát sử, trừ Thân Kiến, Biên Kiến. Tứ Đế hạ, hợp vi tam thập nhị, thượng nhị giới Tứ Đế hạ, dư giai như Dục Giới, chỉ ư mỗi Đế hạ trừ sân sử cố, nhất giới các hữu nhị thập bát. Nhị giới hợp vi ngũ thập lục, tịnh tiền tam thập nhị, hợp vi bát thập bát. Cánh gia Tư Hoặc thập sử, vị Dục Giới tham, sân, si, mạn, thượng nhị giới tham, si, mạn, cộng vi cửu thập bát dã.

()又分之為九十八,加十纏,成百八煩惱。

()分之為九十八者。見惑有八十八。以前十使。歷三界四諦下增減不同。成八十八。謂欲界苦十使具足。集滅各七使。除身見邊見戒取。道諦八使除身見邊見。四諦下。合為三十二。上二界四諦下。餘皆如欲界。只於每諦下除瞋使故。一界各有二十八。二界合為五十六。并前三十二。合為八十八。更加思惑十使。謂欲界貪瞋痴慢。上二界貪痴慢。共為九十八也。

(Sao: Lại chia ra thì là chín mươi tám thứ, thêm Thập Triền vào bèn thành một trăm lẻ tám phiền não.

Diễn: “Chia thành chín mươi tám thứ”: Kiến Hoặc có tám mươi tám món, do mười món Sử trên đây, xét theo ba cõi và Tứ Đế, sẽ có sự tăng giảm khác biệt, nên thành tám mươi tám món. Nghĩa là Khổ Đế trong Dục Giới có đủ mười món Sử, Tập Đế và Diệt Đế, mỗi Đế đều có bảy Sử, tức là trừ Thân Kiến, Biên Kiến, và Giới Thủ Kiến ra. Đạo Đế có tám Sử, tức là trừ Thân Kiến và Biên Kiến. Như vậy là xét theo Tứ Đế [trong Dục Giới], có ba mươi hai món Sử (10 món Sử của Khổ Đế + 7 món Sử của Tập Đế + 7 món Sử của Diệt Đế + 8 món Sử của Đạo Đế = 32 món Sử trong Dục Giới). Đối với hai cõi trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới), các món Sử thuộc Tứ Đế đều như trong Dục Giới, chỉ là trong mỗi Đế trừ đi Sân Sử (ba mươi hai món Sử trừ đi bốn món Sân Sử của Tứ Đế), cho nên mỗi cõi có hai mươi tám món Sử. [Do vậy], hai cõi (Sắc Giới và Vô Sắc Giới) hợp thành năm mươi sáu món Sử (2 cõi x 28 món Sử = 56 món Sử), cộng với ba mươi hai món Sử trong phần trên (tức ba mươi hai món Sử của Dục Giới), hợp thành tám mươi tám món Sử (56+32=88), lại cộng thêm mười món Sử thuộc Tư Hoặc, tức là [cộng thêm] tham, sân, si, mạn trong Dục Giới và tham, si, mạn từ hai cõi trên (Sắc Giới và Vô Sắc Giới), cho nên cộng thành chín mươi tám món Sử).

Chín mươi tám món phiền não cộng thêm Thập Triền[84], một trăm lẻ tám món phiền não do đây mà có. Mọi người xem chú giải trong sách Diễn Nghĩa [sẽ biết chi tiết].

 

(Sao) Hựu tế thôi chi, tắc bát vạn tứ thiên, nãi chí Hằng sa, đa đa vô lượng.

(Diễn) Tế thôi tắc bát vạn tứ thiên giả, dĩ thập sử hỗ cụ thành nhất bách, lịch thập pháp giới thành nhất thiên, thân khẩu thất chi vi thất thiên, tam thế cộng thành nhị vạn nhất, tứ tâm các cụ nhị vạn nhất, cộng thành bát vạn tứ thiên số, dĩ bát vạn tứ thiên luật nghi đối trị chi, tắc thành bát vạn tứ thiên pháp môn.

()又細推之,則八萬四千,乃至恆沙,多多無量。

()細推則八萬四千者。以十使互具成一百。歷十法界成一千。身口七支為七千。三世共成二萬一。四心各具二萬一。共成八萬四千數。以八萬四千律儀對治之。則成八萬四千法門。

(Sao: Lại mở rộng chi tiết hơn, sẽ là tám vạn bốn ngàn, cho đến Hằng sa, nhiều đến vô lượng.

Diễn: “Mở rộng chi tiết hơn, sẽ là tám vạn bốn ngàn”: Do Thập Sử phối hợp lẫn nhau thành một trăm (nghĩa là mỗi món Sử có đủ mười món Sử kia, nên 10×10=100), trải qua mười pháp giới thành một ngàn

 (100 món Sử x 10 pháp giới=1.000), phối ứng với bảy chi của thân và khẩu (giết, trộm, dâm, nói dối, nói đôi chiều, nói thêu dệt, ác khẩu) thành bảy ngàn (1.000×7=7.000), ứng với ba đời thành hai vạn một ngàn món (7.000x 3=21.000), do bốn tâm[85], mỗi tâm đều có đủ hai vạn một ngàn món, cộng thành con số tám vạn bốn ngàn (4×21.000=84.000). Dùng tám vạn bốn ngàn luật nghi để đối trị, nên thành tám vạn bốn ngàn pháp môn).

Phiền não đúng là vô lượng vô biên.

 

(Sao) Lao phiền ngã tâm, bất đắc an ổn, nhiệt não ngã tâm, bất đắc thanh lương.

()勞煩我心,不得安穩,熱惱我心,不得清涼。

(Sao: Nhọc phiền tâm ta, chẳng được an ổn, khiến tâm ta nóng nảy, bứt rứt, chẳng được thanh lương).

Vì thế, gọi nó là phiền não. Cái tên “phiền não” do đó mà có.

 

(Sao) Hựu huyên phiền chi pháp, bức loạn tâm thần, sử chân minh bất lãng, cố danh phiền não.

()又喧煩之法,逼亂心神,使真明不朗。故名煩惱。

(Sao: Lại là pháp phiền huyên náo, khiến cho tâm trí bị bức bách, rối loạn, khiến cho chân minh chẳng sáng suốt, nên gọi là phiền não).

“Chân minh” là Chân Như bản tánh, trí huệ vốn có trong bản tánh chẳng thể hiện tiền, bị chúng nó chướng ngại. Danh từ [phiền não] ấy do từ chỗ này mà kiến lập. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 277

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm tám mươi:

 

(Sao) Tam Tai cảm triệu giả, tham cảm cơ cẩn, sân cảm đao binh, si cảm tật dịch, nãi chí thủy hỏa phong chi đại nạn, giai dĩ loại tùng, cố danh Trược dã. Phản hiển Cực Lạc quốc trung, nhân tất trí huệ, phi Phiền Não Trược cố.

(Diễn) Tam Tai cảm triệu giả, nhất Tiểu Tam Tai. Sơ cơ cẩn, nhân thọ giảm chí tam thập tuế thời, thiên bất giáng vũ, do đại hạn cố, thảo thái bất sanh, tư dục kiến thủy, thượng bất khả đắc, hà huống ẩm thực! Dĩ thị nhân duyên, thế gian nhân dân, cơ cẩn tử giả, kỳ số vô lượng. Nhị tật dịch, nhân thọ giảm chí nhị thập tuế thời, hữu đại tật dịch, chủng chủng chư bệnh, nhất thiết giai khởi. Dĩ thị nhân duyên, thế gian nhân dân, tật dịch tử giả, kỳ số vô lượng. Tam đao binh, nhân thọ giảm chí thập tuế thời, chư nhân các khởi đấu tranh, thủ chấp thảo mộc, tức thành đao thương, hỗ tương tàn hại. Dĩ thị nhân duyên, thế gian nhân dân, đao binh tử giả, kỳ số vô lượng. Nhị Đại Tam Tai giả, nhất Hỏa Tai, vị ư kiếp hoại thời, hữu thất nhật xuất hiện, đại địa, Tu Di, tiệm tiệm băng hoại. Tứ đại hải thủy, tiệm tiệm tiêu tận. Đại thiên thế giới cập Sơ Thiền Thiên, giai tất đỗng nhiên, vô hữu di dư. Thị danh Hỏa Tai. Nhị Thủy Tai, vị Sơ Thiền dĩ hạ, thất phiên Hỏa Tai, hoại ư thế giới chi hậu, thế giới phục thành. Hựu ư hoại kiếp chi thời, tiệm giáng đại vũ, trích như xa trục, cánh kiêm địa hạ thủy luân, dũng phí thượng đằng, đại thiên thế giới, nãi chí Nhị Thiền Thiên, thủy giai di mãn. Nhất thiết hoại diệt, như thủy tiêu diêm. Thị danh Thủy Tai. Tam Phong Tai, vị Nhị Thiền dĩ hạ, thất phiên Thủy Tai dĩ hậu, thế giới phục thành, hựu ư hoại kiếp chi thời, tùng hạ phong luân, hữu mãnh phong khởi, kiêm dĩ chúng sanh nghiệp lực tận cố, xứ xứ sanh phong. Đại thiên thế giới, nãi chí Tam Thiền Thiên, tất giai phiêu kích, đãng tận vô dư. Thị danh Phong Tai. Hựu phục đương tri, hỏa thiêu Sơ Thiền, hữu ngũ thập lục phiên, thủy yểm Nhị Thiền, hữu thất phiên, phong quát Tam Thiền, hữu nhất phiên. Hợp chi cộng lục thập tứ phiên dã.

()三災感召者,貪感饑饉,瞋感刀兵,痴感疾疫,乃至水火風之大難,皆以類從,故名濁也。反顯極樂國中,人悉智慧,非煩惱濁故。

()三災感召者。一小三災。初飢饉。人壽減至三十歲時。天不降雨。由大旱故。草菜不生。思欲見水尚不可得。何況飲食。以是因緣。世間人民飢饉死者。其數無量。二疾疫。人壽減至二十歲時。有大疾疫。種種諸病一切皆起。以是因緣。世間人民疾疫死者。其數無量。三刀兵。人壽減至十歲時。諸人各起鬥爭。手執草木即成刀鎗。互相殘害。以是因緣。世間人民刀兵死者。其數無量。二大三災者。一火災。謂於劫壞時。有七日出現。大地須彌漸漸崩壞。四大海水漸漸消盡。大千世界及初禪天。皆悉洞然無有遺餘。是名火災。二水災。謂初禪以下。七番火災。壞於世界之後。世界復成。又於壞劫之時。漸降大雨。滴如車軸。更兼地下水輪。涌沸上騰。大千世界乃至二禪天。水皆彌滿。一切壞滅。如水消鹽。是名水災。三風災。謂二禪以下。七番水災以後。世界復成。又於壞劫之時。從下風輪有猛風起。兼以眾生業力盡故。處處生風。大千世界乃至三禪天。悉皆飄擊。蕩盡無餘。是名風災。又復當知火燒初禪。有五十六番。水渰二禪有七番。風刮三禪有一番。合之共六十四番也。

(Sao: “Tam Tai cảm vời”: Tham cảm vời sự đói kém, sân cảm vời binh đao, si cảm vời bệnh dịch. Cho đến các tai nạn lớn như nước, lửa, gió, đều do những phiền não tương ứng mà sanh ra. Vì thế, gọi là Trược. Nêu rõ sự tương phản: Trong cõi Cực Lạc, ai nấy đều có trí huệ, chẳng phải là Phiền Não Trược.

Diễn: “Tam Tai cảm vời”: Một là Tiểu Tam Tai. Thứ nhất là đói kém, khi con người chỉ còn thọ ba mươi tuổi, trời chẳng đổ mưa. Do vậy bị hạn hán to, cây cỏ chẳng mọc. Nghĩ mong thấy nước còn chưa thể được, huống là ăn uống! Do nhân duyên ấy, nhân dân trong thế gian chết vì đói khát, số đến vô lượng. Hai là bệnh dịch, khi tuổi thọ con người giảm xuống còn hai mươi tuổi, có bệnh dịch lớn. Hết thảy các thứ bệnh tật đều cùng dấy lên. Do nhân duyên ấy, nhân dân trong thế gian chết vì bệnh dịch, số đến vô lượng. Ba là đao binh, khi tuổi thọ con người giảm đến mười tuổi, mọi người ai nấy dấy lòng tranh đấu. Cây cỏ cầm trong tay liền biến thành đao, thương, tàn hại lẫn nhau. Do nhân duyên ấy, nhân dân trong thế gian chết vì đao binh, số đến vô lượng. Thứ hai là Đại Tam Tai. Một là Hỏa Tai, nghĩa là lúc kiếp hoại, có bảy mặt trời xuất hiện. Đại địa, núi Tu Di dần dần băng hoại, nước trong bốn biển cả dần dần cạn khô. Đại thiên thế giới cho đến trời Sơ Thiền đều rỗng tuếch, chẳng còn sót gì. Đó gọi là Hỏa Tai. Hai là Thủy Tai, nghĩa là từ trời Sơ Thiền trở xuống, bảy phen gặp Hỏa Tai. Thế giới sau khi đã hư hoại, lại khôi phục. Lại vào lúc Hoại Kiếp, dần dần đổ mưa to, giọt mưa to như trục bánh xe. Lại còn Thủy Luân ở dưới mặt đất, dâng vọt trào lên trên. Đại thiên thế giới cho đến trời Nhị Thiền, đều tràn ngập nước. Hết thảy hoại diệt, như nước hòa tan muối. Đó gọi là Thủy Tai. Ba là Phong Tai, nghĩa là từ trời Nhị Thiền trở xuống, sau bảy phen Thủy Tai, thế giới lại khôi phục. Lại vào thời Hoại Kiếp, từ Phong Luân ở phía dưới [đại địa], có gió mạnh dấy lên. Lại do nghiệp lực của chúng sanh, gió nổi khắp nơi. Đại thiên thế giới, cho đến trời Tam Thiền, thảy đều bị gió vùi dập, tan nát hết sạch, chẳng còn sót gì. Đó là Phong Tai. Lại còn nên biết: Lửa cháy tới trời Sơ Thiền có năm mươi sáu lần, nước ngập tới trời Nhị Thiền bảy lần, gió trùm tới trời Tam Thiền một lần. Tính gộp chung là sáu mươi bốn lần [tai họa]).

 Trong đoạn khai thị này, đại sư đã nêu bày minh bạch. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói: “Y báo chuyển theo chánh báo”. Chánh báo là lòng người. Y báo là hoàn cảnh sống của chúng ta. Hoàn cảnh sống thiện hay ác, trên thực tế, lệ thuộc lòng người. Lòng người thiện, bèn cảm vời mưa hòa, gió thuận. Lòng người bất thiện, cảm vời Tam Tai Thủy, Hỏa, Phong. Đạo lý này, trừ Phật pháp ra, trong những nơi khác, bất luận là triết học hay khoa học, cho đến tôn giáo, đều vẫn chưa thể phát hiện. Vì thế, từ xưa tới nay, bất luận là Trung Hoa hay ngoại quốc, đối với những tai nạn tự nhiên, vĩnh viễn chẳng tìm thấy một phương pháp đối trị vì chẳng hiểu các tai nạn ấy từ đâu sanh ra. Nói là “do lòng người cảm ứng”, rất nhiều kẻ trong hiện thời chẳng thể tiếp nhận, chẳng thể tin tưởng. Họ nói chúng ta mê tín Phật pháp. Chúng ta cũng có thể chê ngược lại là họ mê tín khoa học. Rốt cuộc, ai mê, ai chẳng mê? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã giảng đạo lý cảm ứng rất rõ ràng. Đối với những tai nạn ấy, ba câu trước nói về Tiểu Tam Tai, các đại nạn nước, lửa, gió trong phần sau là Đại Tam Tai. Sách Diễn Nghĩa đã chú giải [cặn kẽ]. Đối với “đao binh kiếp” trong Tiểu Tam Tai như kinh dạy, “đao binh” (刀兵) là chiến tranh, [kéo dài] bảy ngày bảy đêm. Tiếp theo đó sẽ là “tật dịch” (疾疫), tức tật bệnh, ôn dịch, bảy tháng lẻ bảy ngày, lại tiếp theo đó là “cơ cẩn” (饑饉), [tức là] nạn đói kém suốt bảy năm bảy tháng.

Đức Phật nói kiểu này, trước kia, người ta thật sự chẳng hiểu, chẳng có cách nào lý giải, nay thì chúng ta đã hiểu rõ. Chư vị phải biết: Đại chiến thế giới lần thứ ba chính là Tiểu Tam Tai. Thời gian chiến tranh sẽ chẳng rất dài. Đúng là bảy ngày bảy đêm, chiến tranh bằng vũ khí nguyên tử mà! Sau khi chiến tranh kết thúc, bụi phóng xạ đầy ắp không trung, rơi xuống chỗ nào, người nơi ấy sẽ tử vong, bị bệnh vì nhiễm phóng xạ, phải mất nửa năm, hoặc bảy tháng bảy ngày, có thể vượt qua được thì người ấy coi như thoát khỏi một tai kiếp. Nếu không vượt qua được, chẳng có cách nào hết! Phàm là bom nguyên tử nổ ở chỗ nào, hoặc là nơi bị ô nhiễm bởi một số lượng lớn bụi phóng xạ, cỏ cây chẳng mọc được! Sau bảy năm bảy tháng, mặt đất mới có thể mọc cỏ. Đức Phật nói Tiểu Tam Tai, chính là thế gian này phát sanh chiến tranh vũ khí nguyên tử, Ngài nói đến sự kiện ấy.

Hai mươi năm trước, tôi đến thăm Trường Kỳ (Nagasaki, 長崎) và Quảng Đảo (Hiroshima, 廣島), lúc ấy vừa đúng tám năm [sau khi hai nơi ấy bị dội bom nguyên tử], mặt đất mới mọc cây cỏ. Tôi thấy tình hình ấy, bỗng dưng nghĩ tới Tiểu Tam Tai được nói trong kinh Phật, vỡ lẽ: Vốn là chuyện như thế đó, hết sức đáng sợ! Hiện thời, người phương Tây thường có tư tưởng rất ngờ nghệch, cho rằng mỗi quốc gia đều có thể chế tạo vũ khí nguyên tử, thế lực về phương diện vũ khí hạch nhân sẽ cân bằng, chiến tranh chẳng thể bùng nổ được! Họ liều mạng phát triển vũ khí nguyên tử, còn nói sẽ chẳng phát sanh chiến tranh. Mọi người đều biết: Cuộc chiến tranh ấy là cuộc chiến mang tánh chất hủy diệt, là cuộc chiến tranh chẳng có thua hay thắng, là một loại chiến tranh cùng nhau chết sạch! Đương nhiên, kẻ có đầu óc rất tỉnh táo, thần trí bình thường, sẽ chẳng phát động, nhưng trong thế giới hiện thời, chúng ta lắng lòng quan sát, sẽ thấy rất đáng sợ. Vì sao? Có chẳng ít kẻ bất bình thường, nếu trong tay kẻ bất bình thường có vũ khí nguyên tử, sẽ rắc rối to lớn! Rất có thể là sẽ thấy tai nạn này xảy ra trong một đời này của chúng ta!

Chúng ta nhìn vào xã hội hiện tại và lòng người hiện thời, Tam Độc phiền não tham, sân, si chẳng giảm thiểu, mỗi năm một tăng trưởng, tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn, quả báo sẽ là Tam Tai. Mắt thấy Tam Tai ngày một gần hơn, chẳng biết phát sanh lúc nào, hết sức đáng sợ! Con đường sống sót duy nhất của chúng ta là buông xuống vạn duyên, thật thà niệm Phật. Không chỉ là niệm Phật, mà còn phải toàn tâm toàn lực khuyên mọi người niệm Phật. Người niệm Phật đông đảo, dẫu chẳng thể tiêu trừ kiếp nạn này, nhưng chúng ta có thể tin tưởng kiếp nạn này sẽ giảm nhẹ, [bởi lẽ] trong cộng nghiệp còn có biệt nghiệp. Nay chúng ta đã hiểu minh bạch, hiểu rõ ràng: Trong các pháp của mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai, Niệm Phật Vãng Sanh Tịnh Độ là pháp môn bậc nhất. Trong nhiều năm qua, coi như là chúng ta thấy rõ ràng, thấy minh bạch điều này, tạm thời những kinh luận và pháp môn khác đều buông xuống hết. Chẳng phải là những pháp ấy không hay, nhưng chúng không cứu vãn kịp chứng bệnh trong hiện thời. Chỉ có mình bộ kinh này và pháp môn này là có thể cứu giúp trong cơn ngặt nghèo! Nhất định là phải tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ. Tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần trong thế gian hãy buông xuống, chớ nên ghim trong lòng, hãy buông xuống từ trong tâm. Nếu chính mình còn có chút năng lực, hãy làm nhiều chuyện tốt đẹp. Nếu không, trong tương lai, Tam Tai hiện tiền, mong làm chuyện tốt sẽ chẳng còn có cơ hội nữa. Để làm chuyện tốt, cũng phải nắm bắt cơ hội! Tới khi ấy, mong làm chuyện tốt, chẳng còn có cơ hội nữa, đó mới là thật sự đáng tiếc, thật sự đáng than thở! Trong hiện tại, khi thân thể chúng ta khỏe mạnh, đầu óc rất sáng suốt, khi hãy còn có một chút phước báo nhỏ nhoi, phải nghiêm túc nỗ lực.

Chiến tranh, ôn dịch, đói kém là do nghiệp lực cảm vời, do tham, sân, si cảm vời. Đại Tam Tai cũng là do ba thứ nghiệp ấy cảm thành, đương nhiên càng phải nặng nề hơn so với hiện thời. Trong chú giải có [đề cập] Đại Tam Tai, gần như là đến khi đại kiếp sắp tận. Trong một đại kiếp, có bốn trung kiếp, tức là Thành, Trụ, Hoại, Không. Khi Hoại Kiếp bắt đầu, [Đại Tam Tai] sẽ hiện tiền vào khi ấy. Khi nhân loại tham, sân, si đạt tới tột đỉnh, thế giới này sẽ hoại. Từ chỗ này, chúng ta có thể liên tưởng: Thành, Trụ, Hoại, Không của thế giới này đều do nghiệp lực của chúng sanh biến hiện. Thế giới này chẳng phải là do Thượng Đế sáng tạo, chẳng phải là do Phật, Bồ Tát tạo ra, mà là do cộng nghiệp của chúng ta cảm vời, do nghiệp lực biến hiện.

 

(Diễn) Giai dĩ loại tùng giả, sân cảm Hỏa Tai, tham cảm Thủy Tai, si cảm Phong Tai.

()皆以類從者,瞋感火災,貪感水災,痴感風災。

(Diễn: “Đều do một loại phiền não mà sanh ra”: Sân cảm Hỏa Tai, tham cảm Thủy Tai, si cảm Phong Tai).

Tướng của Si là tướng động, nó chẳng phải là  tĩnh  lặng. Si  là  vô minh. Đức Phật bảo chúng ta: Hỏa Tai trong Đại Tam Tai có thể cháy tới Sơ Thiền Thiên, toàn bộ sáu tầng trời của Dục Giới đều hủy hoại. Dục Giới chẳng còn nữa, cho đến tầng trời Sơ Thiền cũng bị hủy hoại. Thủy Tai có thể ngập đến Nhị Thiền Thiên, Phong Tai có thể thổi hư nát Tam Thiền Thiên. Điều này thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Chư vị ngẫm xem, Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, người có công phu định lực khá sâu mới có thể sanh đến những nơi ấy. Người tu Thiền Định trong hiện thời, dẫu tu thành công, sanh lên Sơ Thiền, Nhị Thiền, hoặc Tam Thiền, vẫn chẳng tránh khỏi gặp nạn Tam Tai. Mãi cho đến Đệ Tứ Thiền Thiên mới là ổn thỏa, chẳng gặp Tam Tai. Vì thế, Đệ Tứ Thiền Thiên gọi là Phước Thiên, thật sự có phước báo.

Tuy [Đệ Tứ Thiền Thiên] chẳng có Tam Tai, nhưng chư vị phải hiểu: Tứ Thiền và Tứ Không[86] vẫn có thọ mạng. Thọ mạng đã hết, vẫn phải đọa lạc xuống dưới. Vì thế, Sắc Giới và Vô Sắc Giới đều chẳng phải là rốt ráo, phải biết điều này. Nếu sanh về đó, tốn nhiều công tu Định, tu Thập Thiện, tu Tứ Vô Lượng Tâm, đạt được quả báo trọn chẳng phải là viên mãn rốt ráo. Vì thế, hết thảy chư Phật khuyên dạy chúng ta: Nhất định phải cầu sanh Tịnh Độ. Cầu sanh Tịnh Độ, nói thật ra, chúng ta sử dụng công phu [đỡ tốn sức] hơn sanh lên Sơ Thiền Thiên rất nhiều! Điều này cho thấy: Sanh về Tịnh Độ dễ dàng, sanh lên Sơ Thiền Thiên khó khăn. Không chỉ là sanh lên Sơ Thiền Thiên khó khăn, mà sanh vào Đao Lợi Thiên trong Dục Giới Thiên đều chẳng dễ dàng. Vì thế, pháp môn này được gọi là “pháp khó tin” là có lý. Há lẽ nào [sanh về nơi có] quả báo thù thắng viên mãn như vậy lại dễ hơn sanh về Đao Lợi Thiên? Thật đấy, chẳng giả đâu nhé!

Đó gọi là Trược, trược ác, Ngũ Trược ác thế. Phơi bày sự tương phản: Tây Phương Cực Lạc thế giới “nhân tất trí huệ” (ai nấy đều có trí huệ). Người có trí huệ bèn chẳng có tâm tham. Có trí huệ bèn chẳng có sân khuể, ganh tỵ. Nếu chúng ta còn có tâm tham, tâm sân khuể, quý vị phải ghi nhớ, chẳng có trí huệ! Người thật sự có trí huệ, chẳng có tham, sân, si, trí huệ mới hiện tiền. “Phi Phiền Não Trược” (Chẳng phải là Phiền Não Trược), người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có tham, sân, si. Vì vậy, thế giới ấy không chỉ là chẳng có Đại Tam Tai, mà ngay cả Tiểu Tam Tai cũng chẳng có.

 

(Sớ) Chúng Sanh Trược giả, nhất vân A Hàm tam nghĩa vi Thể, hựu vân lãm Ngũ Ấm, kiến, mạn, quả báo vi Thể. Ác danh uế xưng, tức kỳ tướng dã.

()眾生濁者,一云阿含三義為體,又云攬五陰見慢果報為體,惡名穢稱,即其相也。

(Sớ: Chúng Sanh Trược (Sattvakaṣāya): Một thuyết nói là dùng ba nghĩa trong kinh A Hàm để làm Thể [của Chúng Sanh Trược]. Lại nói: Hòa hợp Ngũ Ấm, kiến, mạn, quả báo để làm Thể. Danh xưng xấu bẩn chính là tướng của nó vậy).

Trong Phật môn thường nghe nói theo hai cách này. Trong pháp Đại Thừa, ý nghĩa thứ hai được nói nhiều hơn.

 

(Sao) Tam nghĩa giả, A Hàm kinh vân: Nhất giả, kiếp sơ Quang Âm hạ sanh; nhị giả, lãm chúng Ấm nhi sanh; tam giả, xứ xứ thọ sanh. Cố vân chúng sanh.

()三義者,阿含經云:一者,劫初光音下生;二者,攬眾陰而生;三者,處處受生,故云眾生。

(Sao: “Ba nghĩa” là như kinh A Hàm nói: Một là thuở kiếp sơ, [chúng sanh từ] cõi trời Quang Âm hạ sanh. Hai là do Ngũ Ấm hòa hợp sanh ra. Ba là thọ sanh trong các chỗ [thuộc sáu đường], nên gọi là “chúng sanh”).

Đức Phật dạy điều này trong kinh A Hàm.

1) Thứ nhất, “kiếp sơ” (劫初) là nói đến Thành Kiếp (成劫), tức là thế giới này đã thành tựu, [trong bốn trung kiếp] Thành, Trụ, Hoại, Không, Thành Kiếp là “kiếp sơ”. Trên thế giới này, thuở ban đầu không có ai, con người từ đâu đến? Con người từ Quang Âm Thiên hạ sanh. Hiện thời, bên ngoại quốc, rất nhiều nhà khoa học đồng ý với cách nói này. Họ chẳng nói là Quang Âm Thiên, mà nói là “người từ ngoài vũ trụ”. Họ lại còn tìm thấy khá nhiều chứng cứ khoa học [chứng tỏ] con người từ ngoài không gian đến địa cầu này. Có thể là sau khi đã đến đây, công cụ phi hành của họ bị trục trặc, chẳng trở về được nữa. Sau đấy, họ ở lại địa cầu, đó là tổ tiên của nhân loại. Vào thuở ấy, địa cầu là một vùng hoang phế, phương thức sống của họ cũng chẳng khác các loài dã thú cho mấy! Kinh Phật cũng nói theo kiểu như vậy: [Con người] từ Quang Âm Thiên [hạ sanh]. Quang Âm Thiên là Nhị Thiền Thiên, người từ trời Nhị Thiền đến nơi này.

2) Thứ hai, “lãm chúng Ấm nhi sanh” (hòa hợp các Ấm mà sanh); đấy là nói theo Lý. Điều thứ nhất trong phần trước là nói nhân loại rốt cuộc từ đâu tới? Nhân loại sanh ra như thế nào? “Lãm chúng Ấm” (Hòa hợp các Ấm), “chúng Ấm” là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thân thể hiện thời của chúng ta, tất cả hết thảy động vật, nói theo Phật pháp là “hữu tình chúng sanh”, đều do Ngũ Ấm hòa hợp hiện ra thân tướng.

3) Thứ ba là “xứ xứ thọ sanh” (thọ sanh trong các chỗ). Chữ “xứ xứ” (處處) chỉ lục đạo. Lục đạo không chỉ ở trên địa cầu này, phạm vi của nó là một tam thiên đại thiên thế giới. Một đại thiên thế giới có mười ức đơn vị thế giới (một hệ Ngân Hà là một đơn vị thế giới). Có những vị Phật khi đã thành Phật, khu vực giáo hóa của Ngài là hai đại thiên thế giới, hoặc ba đại thiên thế giới, cho đến mười mấy đại thiên thế giới, chẳng giống nhau! Một vị Phật trước khi thành Phật, kết pháp duyên rộng rãi cùng chúng sanh, sau khi thành Phật, khu vực giáo hóa bèn rộng rãi. Kết duyên ít, khu vực giáo hóa bèn nhỏ. “Xứ xứ thọ sanh” là nói rõ chúng ta chẳng có năng lực vượt thoát lục đạo, tức là chẳng có năng lực vượt thoát đại thiên thế giới này. Nói cách khác, không gian hoạt động của chúng ta là trong mười ức hệ Ngân Hà. Hiện thời, dân cư trên địa cầu tăng mạnh, những người ấy từ đâu tới? Từ các tinh cầu khác đầu thai đến đây. Hiện thời, bên ngoại quốc, dùng phương pháp thôi miên khiến cho người được thôi miên nói ra đời trước của họ (ngôn ngữ và văn tự [do họ sử dụng trong lúc bị thôi miên] hoàn toàn khác với chúng ta), rất nhiều người là từ các tinh cầu khác đến. Điều này cũng được chứng minh. Loài người chúng ta ở nơi này sau khi chết đi, cũng có thể đến tinh cầu khác đầu thai. Do vậy, đại thiên thế giới này chính là không gian sống của bọn phàm phu chúng ta, tức là những chúng sanh chưa đoạn tham, sân, si, mạn. Nếu vượt thoát lục đạo luân hồi, sẽ vượt thoát đại thiên thế giới, thường gọi là “tận hư không khắp pháp giới”, phạm vi hoạt động bèn rộng lớn.

Nói theo pháp Đại Thừa, hiện tượng do các  duyên  hòa  hợp  sanh khởi được gọi là “chúng sanh”. Định nghĩa này bao gồm động vật, thực vật, và khoáng vật, cho đến các hiện tượng tự nhiên. “Duyên” là điều kiện, “chúng duyên hòa hợp” là khá nhiều điều kiện [kết hợp lại]. Kinh Hoa Nghiêm nói, lớn như hư không, nhỏ như vi trần, đều do vô lượng nhân duyên thành tựu. Các duyên ấy chẳng đơn giản, chẳng đơn thuần, mà hết sức phức tạp. Kinh Hoa Nghiêm giảng chuyện này đích xác là có đạo lý rất sâu, chúng ta càng nghĩ, càng thấy chân thật; càng nghĩ, càng cảm thấy kinh dạy hợp tình hợp lý. Một vi trần tuy bé, thế giới tuy to, chúng được thành tựu phức tạp giống hệt như nhau. Đối với mức độ phức tạp ấy, tuyệt đối chẳng thể nói là thế giới [phức tạp] nhiều hơn một chút, vi trần ít hơn một chút, chẳng có chuyện ấy! Kinh Hoa Nghiêm nói “một và nhiều chẳng hai”. Bản thân mỗi người chúng ta biết vũ trụ rất phức tạp, thế giới rất phức tạp, sự phức tạp của vọng niệm trong đầu óc chúng ta hoàn toàn tỷ lệ thuận với sự phức tạp ấy (sự phức tạp của thế giới và vũ trụ). Đây là sự thật ngàn muôn phần xác thực. Đó gọi là “các duyên hòa hợp mà sanh”, nên gọi là “chúng sanh”. Các duyên hết sức phức tạp, [đức Phật] quy nạp chúng thành năm loại lớn, tức là Ngũ Ấm. Giới thiệu và thuyết minh như vậy thì sẽ thuận tiện hơn!

 

(Sao) Ngũ Ấm, tức Sắc, Thọ đẳng.

()五陰,即色受等。

(Sao: Ngũ Ấm chính là Sắc, Thọ v.v…)

Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, những điều này được kinh Đại Thừa, đặc biệt là kinh Bát Nhã giảng hết sức nhiều. Nay chúng ta gọi Sắc trong Ngũ Uẩn là “vật chất”. Chúng ta chia hết thảy các pháp thành hai loại lớn: Một loại là vật chất, loại kia là tinh thần. Đấy là cách phân loại hiện thời. Phật pháp cũng chia theo cách như vậy, tức là chia [các pháp] thành Sắc và Tâm. Sắc (Rūpa) là vật chất, Tâm (Citta) là tinh thần. Đức Phật lại chia tâm pháp thành bốn loại: Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

1) Thọ (受, Vedanā) có nghĩa là cảm nhận, lãnh nạp. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, gặp cảnh giới vừa lòng bèn có cảm nhận vui sướng, thoải mái. Gặp cảnh trái ý, sẽ có cảm nhận chán ghét. Loại này được gọi là Thọ, tức là cảm giác khi quý vị tiếp xúc. Đó là Thọ.

2) Tưởng (想, Samjñā) là ý niệm, nay  chúng  ta  nói  tới  kiến  giải

hoặc tư tưởng, chúng đều gộp trong loại này. Đấy cũng là nói tới cách nghĩ và cách nhìn của chúng ta đối với vũ trụ và nhân sinh. Loại này thuộc về tâm lý.

3) Thứ ba là Hành (行, Samskāra), mang ý nghĩa “chẳng trụ”, cũng có nghĩa là nó chẳng ngừng. Người thế gian thường nói “thanh xuân chẳng còn mãi, chẳng giữ được”. Đó chính là ý nghĩa của Hành. Hành là mỗi niệm đều dời đổi, biến hóa trong mỗi niệm, chẳng dừng nghỉ.

4) Thức (識, Vijñāna) là bản thể của Tâm. Ba loại trước là tác dụng của cái tâm.

 

(Sao) Kiến giả, hoành kế chủ tể vi Kiến Ngã.

(Diễn) Hoành kế chủ tể vi kiến Ngã giả, “hoành kế” vị hoành sanh kế độ. Chủ tể tức Ngã Chấp dã. Thử tức Phân Biệt Ngã Chấp. Duy Thức vân: Phân Biệt Ngã Chấp thị do hiện tại ngoại duyên lực cố, phi dữ thân câu. Yếu đãi tà giáo, cập tà phân biệt, nhiên hậu phương khởi. Cố danh Phân Biệt, duy tại đệ lục ý thức trung hữu thị dã. Kiến Ngã, như kế “tức Sắc thị Ngã, ly Sắc thị Ngã, Ngã đại Sắc tiểu, Sắc tại Ngã trung, Sắc đại Ngã tiểu, Ngã tại Sắc trung đẳng”. Thử tùng tà sư huấn hối, nhi thành Phân Biệt Ngã dã.

()見者,橫計主宰為見我。

()橫計主宰為見我者。橫計謂橫生計度。主宰即我執也。此即分別我執。唯識云。分別我執。是由現在外緣力故。非與身俱。要待邪教。及邪分別然後方起。故名分別。唯在第六意識中有是也。見我。如計即色是我。離色是我。我大色小。色在我中。色大我小。我在色中等。此從邪師訓誨。而成分別我也

(Sao: Kiến: Ngang ngạnh nẩy sanh Ngã Chấp, đó là Kiến Ngã (cái Ngã hư vọng nẩy sanh do kiến giải sai lầm).

Diễn: “Hoành kế chủ tể vi kiến Ngã”: “Hoành kế” là ngang ngược nẩy sanh sự so đo. “Chủ tể” là Ngã Chấp. Đây chính là Phân Biệt Ngã Chấp. Duy Thức nói Phân Biệt Ngã Chấp là do sức của ngoại duyên trong hiện tại, chẳng phải là bẩm sinh, phải chờ đến sau khi được dạy dỗ tà vạy và do phân biệt tà vạy thì nó mới sanh khởi. Vì thế, gọi là Phân Biệt. Chấp trước này chỉ tồn tại trong ý thức, tức thức thứ sáu. “Kiến Ngã” là so đo “Sắc chính là Ngã, lìa Sắc là Ngã, Ngã lớn Sắc nhỏ, Sắc ở trong Ngã, Sắc lớn Ngã nhỏ, Ngã ở trong Sắc” v.v… Những điều này đều do tà sư dạy dỗ mà thành phân biệt Ngã).

Trong hết thảy các kiến giải sai lầm, có hai điều nghiêm trọng nhất, khiến cho chúng ta bị vây hãm chặt chẽ trong sanh tử luân hồi, vĩnh viễn chẳng thể xuất ly. Một là Kiến Ngã, hai là Mạn Ngã. Hai thứ này là chấp trước kiên cố. “Hoành kế” (橫計): “Kế” (計) là so đo, phân biệt, “hoành” (橫) là chẳng có lý do, chẳng có căn cứ, nhưng cứ khăng khăng chấp trước như thế. Chấp trước thân này là Ta, Ta là chúa tể. Đó là sai lầm. Phật pháp nói Vô Ngã. Vô Ngã là để phá chấp trước này, phá Thân Kiến, phá Ngã Kiến.

Kinh Kim Cang nói: “Bồ Tát có Ngã Kiến, Nhân Kiến, Chúng Sanh Kiến, Thọ Giả Kiến thì chẳng phải là Bồ Tát”. Chủ yếu nhất là Ngã Kiến, ba thứ sau đó là phụ trợ. Vì có ta thì mới có người, ta và người đối lập. Chẳng có ta, lấy đâu ra người? Có ta thì mới có chúng sanh, mới đối lập với chúng sanh. Có ta thì mới có ham muốn mong cầu thọ mạng, cầu trường thọ. Ta đã chẳng có, thì ba thứ sau đó đều chẳng có.

Phật pháp nói: Nếu phá trừ Ngã Kiến, bèn chứng quả Tu Đà Hoàn, tức Tiểu Thừa Sơ Quả. Tiểu Thừa Sơ Quả là thánh nhân, chứng đắc Vị Bất Thoái trong ba thứ Bất Thoái. Vị Bất Thoái nghĩa là quý vị tuyệt đối chẳng lùi trở lại thành phàm phu. Cũng có nghĩa là tính từ ngày chứng đắc Tu Đà Hoàn, sau khi đã phá trừ Ngã Kiến, tính từ ngày ấy, nếu học Tiểu Thừa, qua lại bảy lần trong cõi trời và nhân gian xong, sẽ nhất định chứng quả A La Hán. Cũng có nghĩa là đã vượt thoát lục đạo luân hồi, đột phá phạm vi của tam thiên đại thiên thế giới, không gian sống của quý vị bèn to lớn. Chuyện là như thế đó. Trong Đại Thừa Viên Giáo, quý vị là bậc Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín. Trong năm mươi mốt tầng cấp của Đại Thừa Bồ Tát, quý vị dự vào địa vị Sơ Tín. Địa vị Sơ Tín là đoạn Kiến Hoặc. So sánh địa vị Sơ Tín và Tiểu Thừa Sơ Quả, công phu đoạn chứng bằng nhau, đều là đoạn Kiến Hoặc; nhưng nói theo phương diện trí huệ, hoàn toàn khác nhau. Đại Thừa trí huệ cao, Tiểu Thừa trí huệ ít ỏi, chẳng có cách nào so sánh được! Vì thế, kiến chấp này là một sai lầm rất lớn, nẩy sanh sự so sánh ngang ngạnh, sanh ra một thứ Ngã Chấp.

 

(Sao) Mạn giả, câu sanh chủ tể vi Mạn Ngã.

(Diễn) Câu sanh chủ tể vi Mạn Ngã giả, câu sanh đối phân biệt nhi ngôn. Dữ sanh câu sanh, phi cưỡng tư kế độ khởi cố. Chủ tể giả, Ngã Chấp dã. Thử tức Câu Sanh Ngã Chấp. Duy Thức vân: Câu Sanh Ngã Chấp, vô thỉ thời lai, hư vọng huân tập nội nhân lực cố, hằng dữ thân câu, bất đãi tà giáo, cập tà phân biệt, nhậm vận nhi chuyển. Cố danh Câu Sanh. Thử phục nhị chủng: Nhất thường tương tục, tại đệ thất thức. Nhị hữu gián đoạn, tại đệ lục thức, thị dã. Mạn Ngã hữu thất: Nhất, ngã mạn; nhị, mạn; tam, quá mạn; tứ, mạn quá mạn; ngũ, tăng thượng mạn; lục, ty liệt mạn; thất, tà mạn. Thử thất chủng, giai y Ngã tướng nhi sanh, giai vi Mạn Ngã. Thử tắc bất dụng giáo hối, sanh lai tức hữu, câu sanh ngã dã.

()慢者,俱生主宰為慢我。

()俱生主宰為慢我者。俱生對分別而言。與生俱生。非強思計度起故。主宰者。我執也。此即俱生我執。唯識云。俱生我執。無始時來。虛妄熏習內因力故。恒與身俱。不待邪教。及邪分別。任運而轉。故名俱生。此復二種。一常相續。在第七識。二有間斷。在第六識。是也。慢我有七。一、我慢。二、慢。三、過慢。四、慢過慢。五、增上慢。六、卑劣慢。七、邪慢。此七種皆依我相而生。皆為慢我。此則不用教誨。生來即有。俱生我也。

(Sao: Mạn (Māna): Cái ngã chấp bẩm sinh là Mạn Ngã.

Diễn: “Câu sanh chủ tể vi Ngã Mạn”: Câu Sanh là nói phối ứng với phân biệt, có nghĩa là hễ sanh ra là đã có, chẳng phải tốn công sức suy lường để dấy lên. “Chủ tể” là Ngã Chấp. Đấy chính là Câu Sanh Ngã Chấp. Duy Thức nói: Câu Sanh Ngã Chấp là do sức huân tập hư vọng của cái nhân bên trong từ thời vô thỉ. Nó luôn sanh cùng cái thân, chẳng cần đợi được dạy dỗ tà vạy và tà phân biệt, tùy ý xoay chuyển. Vì thế, gọi là Câu Sanh (bẩm sinh). Thứ này lại có hai loại: Một là thường liên tục trong thức thứ bảy; hai là có lúc gián đoạn, ở trong thức thứ sáu. Mạn có bảy loại: Một là Ngã Mạn, hai là Mạn, ba là Quá Mạn, bốn là Mạn Quá Mạn, năm là Tăng Thượng Mạn, sáu là Ty Liệt Mạn, bảy là Tà Mạn[87]. Bảy loại này đều nương vào Ngã tướng để sanh, đều là Mạn Ngã. Những thứ này chẳng cần phải dạy dỗ, sanh ra đã có, là cái Ngã bẩm sanh vậy).

 “Mạn” (慢) là phiền não. Loại phiền não dấy lên hiện hành vào lúc tối sơ chính là loại này. Nếu chúng ta chú tâm quan sát, sẽ có thể nhận thấy. Quan sát trẻ thơ, hoặc những đứa bé, khi chúng còn chưa biết tham, mà cũng chưa biết sân, chúng đã có cái Mạn này, chúng có thể biểu hiện ra. Mạn là bẩm sinh, chúng nó chẳng cần phải học. Có những nghiệp nhân ấy, đương nhiên là có quả báo.

 

(Sao) Quả báo giả, tiền sở tác nhân, kim thọ quả báo, diệc thượng thọ sanh nghĩa dã.

()果報者,前所作因,今受果報,亦上受生義也。

(Sao: Quả báo: Do cái nhân đã tạo từ trước, nay nhận lãnh quả báo, cũng là ý nghĩa “thọ sanh” trong phần trước).

Đây cũng là ý nghĩa Thọ Sanh trong Ngũ Ấm. Trong Duy Thức Luận có nói hết thảy hữu tình chúng sanh lãnh chịu “quả báo”. Báo có hai loại:

1) Một loại gọi là Dẫn Nghiệp (引業), sẽ dẫn dắt quý vị đến đầu thai trong đường nào. Như hiện thời chúng ta đều đầu thai trong loài người, [là do có] Dẫn Nghiệp giống nhau. Đó là Cộng Nghiệp dẫn chúng ta đều vào nhân đạo, đầu thai nơi này.

2) Sanh vào thế gian này, mỗi người chúng ta tướng mạo khác nhau, trạng huống sức khỏe của thân thể khác nhau, hoàn cảnh sống của mỗi người khác nhau. Đó gọi là Mãn Nghiệp (滿業).

Mãn Nghiệp thuộc về biệt nghiệp, biệt báo; Dẫn Nghiệp thuộc loại cộng nghiệp, cộng báo, khác nhau! Hết thảy chúng sanh, kể cả chư Phật, Bồ Tát, đều chẳng có cách nào lìa khỏi nhân duyên quả báo. Đã thành Phật, có phải lãnh chịu quả báo hay không? Thưa cùng chư vị, vẫn phải lãnh chịu. Chẳng thể nói là “đã thành Phật, sẽ không bị”, chẳng có đạo lý ấy! Chư Phật, Bồ Tát lãnh chịu quả báo chẳng giống chúng ta. Chúng ta nhận lãnh quả báo mà chẳng cam lòng, chẳng ưng chịu, lúc hứng chịu bèn oán trời hờn người, lại tạo vô lượng tội nghiệp. Chư Phật, Bồ Tát hứng chịu quả báo, lãnh nhận rất cam tâm, lãnh nhận rất tình nguyện, rất vui sướng lãnh nhận. Vì sao? Giống như thiếu nợ thì phải trả tiền. Sau khi đã trả xong bèn hết chuyện. Đó là sự khác biệt giữa mê và ngộ. Chư Phật, Bồ Tát hứng chịu quả báo, hiểu rõ tiền căn, hậu quả. Lũ phàm phu chúng ta hồ đồ, mờ mịt hứng chịu; trong khi hứng chịu, lại tạo nghiệp. Lại còn tạo càng nặng hơn, quả báo trong đời sau càng khổ, mỗi lúc một tệ hơn, cuộc sống rất khổ sở! Chẳng như Phật, Bồ Tát chịu quả báo, mỗi lần đều đền trả xong xuôi, mỗi lần đều kết thúc, các Ngài không ngừng tiến cao hơn, còn chúng ta không ngừng đọa lạc. Do vậy, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, chẳng thể không cẩn thận, chớ nên chẳng chú ý! Hại chính mình thì vẫn chưa sao, tổn hại người khác, tổn hại xã hội, tổn hại đại chúng, tội lỗi ấy nặng nề lắm! Trong kinh Phật đã nói những đạo lý và chân tướng sự thật này rất nhiều.

 

(Sao) Ác danh uế xưng giả, sanh Phật tương đối, chúng sanh chi danh, hạ liệt bỉ lậu, luân hồi lục đạo, bị thọ chư khổ, cố vân Trược dã. Phản hiển Cực Lạc quốc trung, chư thượng thiện nhân đồng hội nhất xứ, phi Chúng Sanh Trược cố.

()惡名穢稱者,生佛相對,眾生之名,下劣鄙陋,輪迴六道,備受諸苦,故云濁也。反顯極樂國中,諸上善人同會一處,非眾生濁故。

(Sao: “Danh xưng xấu nhơ”: So sánh chúng sanh và Phật thì danh xưng của chúng sanh kém hèn, thô lậu, luân hồi trong lục đạo, chịu đủ mọi nỗi khổ. Vì thế nói là Trược. Nêu rõ sự tương phản với cõi Cực Lạc, [trong cõi ấy], các vị thượng thiện nhân nhóm họp một chỗ, chẳng phải là Chúng Sanh Trược).

Thế giới Tây Phương được gọi là Thanh Thái, Thanh Lương, hoặc An Khang. Nhất là trong kinh, đức Phật đã giới thiệu “chư thượng thiện nhân”, “thượng thiện” chỉ bậc Đẳng Giác Bồ Tát, nói rõ người chứng quả vị Đẳng Giác trong thế giới Tây Phương hết sức đông. Phàm phu chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thành tựu hết sức nhanh chóng! Chiếu theo trạng huống do đức Phật đã nói trong kinh, đại khái, chúng ta có thể suy ra: Do đức Phật đã nói bậc thượng thiện nhân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới rất đông, chẳng có cách nào tính toán được; chỉ có thể nói là “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”. Nói cách khác, nhất định là phải hơn một nửa thì mới nói là đa số. Số lượng thượng thiện nhân chiếm đa số!

A Di Đà Phật thành Phật tới nay mới mười kiếp, [tức là] những vị Đẳng Giác Bồ Tát ấy đều thành tựu trong vòng mười kiếp. Mười kiếp thành tựu thì khi A Di Đà Phật thành Phật, người vãng sanh trong kiếp thứ nhất nay đã chứng đắc Đẳng Giác, vậy thì trong mười kiếp, họ (những người phải mất mười kiếp mới thành Đẳng Giác Bồ Tát) chỉ chiếm một phần mười. Người vãng sanh trong kiếp thứ hai cũng thành Đẳng Giác, số người ấy phải nên là hai phần mười. Người vãng sanh từ kiếp thứ năm trở đi cũng thành Đẳng Giác, thì Đẳng Giác Bồ Tát trong thế giới Tây Phương sẽ chiếm một nửa, chiếm nửa số [nhân dân]. Kiếp thứ sáu vãng sanh, nay cũng thành Đẳng Giác, như vậy sẽ là hơn phân nửa. Quan sát từ chỗ này, người bình phàm sanh về thế giới Tây Phương, đại khái là trong hai ba kiếp bèn có thể thật sự chứng đắc quả vị Đẳng Giác. Thật sự là pháp khó tin!

Quán Kinh cho biết: Hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, sanh về Tây Phương, phải mất mười hai kiếp mới có thể thành tựu. Đó là hạ hạ phẩm vãng sanh, là thiểu số, chẳng phải là đa số. Hạ phẩm trung sanh, sáu kiếp bèn hoa nở, thấy Phật, ngộ Vô Sanh. Chư vị ngẫm xem, sáu kiếp bèn thành tựu. Vậy thì vãng sanh trong kiếp thứ nhất, vãng sanh trong kiếp thứ hai, kiếp thứ ba, kiếp thứ tư, kiếp thứ năm đều thành tựu. Quý vị cứ tính như thế, mới hiểu Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thể nghĩ bàn! Thành tựu nhanh chóng, trong bất cứ cõi Phật nào, cũng đều chưa hề nghe nói, Thích Ca Mâu Ni Phật chưa hề nói [có chuyện tương tự như vậy trong các cõi Phật khác]. Chỉ có trong cõi ấy (cõi Cực Lạc) là thành tựu mau chóng. Vì sao? Viên chứng ba món Bất Thoái, chư thượng thiện nhân nhóm họp một chỗ, hằng ngày ở cùng một chỗ với Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí, làm sao quý vị thoái chuyển cho được? Chẳng thể nào có chuyện ấy! Thầy tốt, A Di Đà Phật, và mười phương chư Phật Như Lai là thầy, Đẳng Giác Bồ Tát là bạn học. Hoàn cảnh tu học như vậy thì đương nhiên là thành tựu nhanh chóng.

 

(Sớ) Mạng Trược giả, dĩ sắc tâm liên trì vi Thể, thôi niên giảm thọ, tức kỳ tướng dã.

()命濁者,以色心連持為體,催年減壽,即其相也。

(Sớ: Mạng Trược (Āyuskaṣāya) là dùng Sắc và Tâm duy trì lẫn nhau liên tục để làm Thể, năm tháng giục giã tuổi thọ suy giảm chính là tướng trạng của nó vậy).

“Mạng” (命) là thọ mạng. Hiện tượng thọ mạng là gì? Mấy câu nói của Liên Trì đại sư ở đây có ý nghĩa hoàn toàn tương ứng với kinh Phật. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật dạy chúng ta: Thọ mạng chẳng thật, chỉ là một thứ “tương tục tướng” (tướng liên tục) mà thôi. Ở đây nói: “Sắc tâm liên trì, thôi niên giảm thọ” (Sắc và Tâm duy trì lẫn nhau liên tục, năm tháng giục giã tuổi thọ suy giảm). Liên Trì đại sư và đức Phật đều nói chân tướng, nhưng Liên Trì nói kiểu này càng khiến cho chúng ta dễ cảnh giác hơn, càng có thể nhận rõ sự thật, có nghĩa là Ngài nói thọ mạng của con người giảm thiểu hằng ngày. Trong bài kệ cảnh tỉnh của Phổ Hiền Bồ Tát có câu: “Như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc” (Như cá thiếu nước, há có vui chi), đúng vậy đấy! Giả sử quý vị có thọ mạng là một trăm năm, tính từ ngày được sanh ra, sống mỗi ngày tức là [thọ mạng] giảm bớt một ngày; sống một năm là [thọ mạng] giảm bớt một tuổi. Bọn người thế gian chúng ta mê hoặc, điên đảo, [sống đến] bảy mươi, tám mươi, còn muốn làm lễ mừng thọ, còn muốn chúc mừng, chúc mừng thọ mạng của quý vị mỗi ngày một giảm thiểu, chẳng phải là ý nghĩa ấy hay sao? Người thế gian điên đảo, điên đảo ở chỗ này. Thọ mạng chẳng thể tăng trưởng, giảm thiểu từng ngày một! Dùng bốn chữ “thôi niên giảm thọ” (năm tháng giục giã tuổi thọ suy giảm) hết sức hay, đó là chân tướng của đời sống con người. Thọ mạng của kẻ bình phàm đều do nghiệp lực khống chế, là nghiệp báo. Thân thể của chúng ta là thân nghiệp báo. Do vậy, kẻ xem tướng đoán mạng, [nếu có khả năng] xem tướng rất chuẩn xác, xác thực là sẽ có thể dự đoán, chẳng phải là gạt người! Thọ mạng do nghiệp lực của chính mình làm chủ tể. Do vậy, chính mình cũng có thể biến đổi nó, chẳng phải là không thể biến đổi. Đức Phật dạy chúng ta điều này. Phật pháp dạy: Ai nấy đều có vận mạng, nhưng đức Phật chẳng nói theo kiểu Túc Mạng Luận. Đức Phật dạy chính mình có thể sáng tạo vận mạng, chính mình có thể biến đổi nó. Chỉ cần quý vị hiểu lý luận, hiểu phương pháp, xác thực là sẽ có thể sửa đổi nó. Như trong quá khứ, thiền sư Vân Cốc đã dạy ông Viên Liễu Phàm phương pháp sửa đổi cũng rất hữu hiệu. Tiên sinh Viên Liễu Phàm đã viết lại sự thật về chuyện sửa đổi vận mạng của chính mình, mọi người đều biết [tác phẩm ấy]. Người thành tựu như tiên sinh Liễu Phàm chẳng biết là bao nhiêu, [nhưng họ] chẳng viết ra, chẳng công bố, cho nên quý vị không biết. Những người ấy đã sửa đổi thù thắng hơn và có thành tựu cao hơn tiên sinh Liễu Phàm cũng rất nhiều.

“Sắc tâm liên trì” (Sắc và tâm là duy trì lẫn nhau liên tục), Sắc là thân này. Thân thể là vật chất. Tinh thần ở trong thân thể thì thân thể này còn sống. Tinh thần lìa khỏi, thân thể liền mục nát. Do vậy, có thể biết: Sắc thân chịu sự điều khiển và chi phối của tâm lý. Nếu quý vị có thể quan sát đến chỗ này, quý vị đã có mức độ [lãnh hội] khá sâu. Sau đấy, nhất định là quý vị sẽ nghĩ: Do thiện niệm, thân thể của chúng ta khỏe mạnh. Do một ác niệm, thân thể sẽ có bệnh tật. Nếu là thanh tịnh niệm, thân thể này có thể sống đến một trăm tuổi, có thể giữ mãi tuổi xuân, đều là do đã thấu hiểu đạo lý này. Sự thật xác thực là có tình hình như vậy. Suy nghĩ lung tung, suốt ngày từ sáng đến tối sanh phiền não, gây tạo tham, sân, si, mạn, khiến cho thân thể của chính mình chẳng kham chịu được! Cách suy nghĩ khỏe mạnh nhất là niệm A Di Đà Phật. Vì sao? A Di Đà Phật vô lượng thọ, quý vị niệm A Di Đà Phật, quý vị sẽ là vô lượng thọ. A Di Đà Phật vô lượng quang, kẻ học Khí Công nói trên thân có Khí, Phật pháp gọi nó là Quang. Quý vị niệm A Di Đà Phật sẽ là vô lượng quang. A Di Đà Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, quý vị niệm A Di Đà Phật, tướng của quý vị bèn trang nghiêm. Chân tín, chân nguyện, nhất tâm trì danh, quý vị có thể đạt đến viên mãn rốt ráo. Kẻ chẳng thể tin tưởng, chẳng thể tiếp nhận, [tức là] chẳng có phước báo. Trong kinh, đức Phật đã nói rất rõ ràng, “Chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”. Do vậy, có thể biết: Người có thể tín, có thể nguyện, chịu niệm Phật, đều là nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên.

 

(Sao) Liên trì giả.

()連持者。

(Sao: Duy trì lẫn nhau liên tục).

 “Trì” (持) là gìn giữ, “liên” (連) là liên tục.

 

(Sao) Y nghiệp sở dẫn đệ bát thức chủng.

(Diễn) Đệ bát thức, tức Lê Da bổn thức. Chủng thị chủng tử, vị bổn thức trung thân sanh tự quả, công năng sai biệt giả. Thích vân: Thân sanh tự quả giả, tùng tự chủng tử thân sanh hiện hành quả cố. Công năng sai biệt giả, hiển thử chủng tử phi nhất chủng cố. Nhiên thử chủng tử, dữ đệ bát thức, cập sở sanh quả, bất nhất, bất dị. Thể thị bổn thức, quả thị hiện hành. Thức thể vọng chủng vi dụng. Hiện quả vọng chủng vi nhân. Cố thử tam pháp, lý ưng bất nhất, bất dị dã. Tông Kính vân: “Bổn thức thị Thể, chủng tử thị Dụng, chủng tử thị nhân, sở sanh thị quả. Thử tam lý ưng bất nhất, bất dị”. Y nghiệp sở dẫn giả, vị tùy túc nhân lực sanh thiện ác đẳng, công năng quyết định phương thành chủng tử dã.

()依業所引第八識種。

()第八識。即黎耶本識。種是種子。謂本識中親生自果。功能差別者。釋云。親生自果者。從自種子親生現行果故。功能差別者。顯此種子非一種故。然此種子。與第八識。及所生果。不一不異。體是本識。果是現行。識體望種為用。現果望種為因。故此三法。理應不一不異也。宗鏡云。本識是體。種子是用。種子是因。所生是果。此三理應不一不異。依業所引者。謂隨宿因力生善惡等。功能決定方成種子也。

(Sao: Nương theo nghiệp dẫn khởi các chủng tử trong thức thứ tám.

Diễn: Thức thứ tám chính là A Lại Da Thức. “Chủng” là chủng tử, ý nói từ trong bổn thức đích thân sanh ra cái quả, có công năng sai khác. Giải rằng: “Đích thân sanh ra cái quả” [nghĩa là] từ chủng tử, đích thân sanh cái quả hiện hành. “Công năng sai khác”: Chỉ rõ những chủng tử ấy không chỉ là một loại. Nhưng chủng tử ấy, thức thứ tám, và cái quả được sanh chẳng một, chẳng khác. Thể là bổn thức, quả là hiện hành. Đối với cái Thể của thức thì chủng tử hư vọng là Dụng, đối với cái quả hiện hành thì chủng tử hư vọng là Nhân. Do vậy, ba pháp xét theo Lý thì phải là chẳng một, chẳng khác. Sách Tông Kính Lục viết: “Bổn thức là Thể, chủng tử là Dụng, chủng tử là nhân, cái được sanh là quả. Ba thứ ấy theo Lý phải là chẳng một, chẳng khác”. “Nương theo nghiệp mà dẫn khởi”, nghĩa là do sức của túc nhân mà sanh ra thiện, ác v.v… công năng quyết định mới thành chủng tử).

Người thế gian gọi “đệ bát thức”“linh hồn”. Thật ra, gọi nó là “linh hồn” là sai lầm, vì sao? Vì nó chẳng linh. Nếu nó linh, nó làm sao có thể chịu đến đầu thai trong ba ác đạo? Nó đến đầu thai trong ba ác đạo, có thể thấy là nó chẳng linh! Nhà Phật nói là mê hoặc, điên đảo, [gọi nó là] “mê hồn” là đúng, [gọi nó là] “linh hồn” là sai lầm, Khổng lão phu tử gọi nó là “du hồn” (遊魂: cái hồn bềnh bồng trôi nổi). Nói kiểu này rất chánh xác, vì tốc độ của nó hết sức to lớn. Đại thiên thế giới này là phạm vi hoạt động của du hồn. Trong phần Hệ Từ Truyện của kinh Dịch, Khổng Tử bảo: “Tinh khí vi vật, du hồn vi biến” (Tinh khí là vật, cái hồn bồng bềnh biến đổi), cách quan sát này hoàn toàn giống như kinh Phật đã nói. “Tinh khí vi vật” là giải thích nguồn gốc của vật chất. Đối với vật chất, tuy hiện thời đã phát hiện được những hạt rất nhỏ, những hạt ấy do đâu mà có? Khổng phu tử nói “tinh khí vi vật”, có nghĩa là từ tinh khí biến hiện. Phật pháp nói Tướng Phần do Kiến Phần biến hiện, “y nghiệp sở dẫn đệ bát thức chủng” (nương theo nghiệp, dẫn khởi chủng tử trong thức thứ tám), “chủng” (種) là chủng tử (hạt giống, mầm mống), “đệ bát thức chủng” là chủng tử được chứa đựng trong A Lại Da Thức.

 

(Sao) Ngoại Sắc nội tâm, hỗ tương liên thuộc.

()外色內心,互相連屬。

(Sao: Sắc bên ngoài, tâm bên trong liên quan, lệ thuộc lẫn nhau).

“Bên ngoài” là vật chất, tức là cái thân thể này, nhục thân này. “Bên trong” là tâm, tức là Thọ, Tưởng, Hành, Thức, liên tiếp với nhau.

 

(Sao) Tức tức, noãn, thức, tam, tương trì bất tán, thị vi Mạng Căn.

(Diễn) Ngoại sắc tức tức, noãn, thuộc đệ bát thân Tướng Phần, nội tâm tức đệ bát hiện hành thức, thuộc đệ bát Kiến Phần.  Do chủng

tử nghiệp lực, thử tam tương trì bất tán, danh Mạng Căn bất đoạn.

()即息煖識三,相持不散,是為命根。

()外色即息煖。屬第八親相分。內心即第八現行識。屬第八見分。由種子業力。此三相持不散。名命根不斷。

(Sao: Tức là ba thứ gồm hơi thở, thức và độ ấm duy trì lẫn nhau, chẳng tan hoại thì là Mạng Căn.

Diễn: Ngoại sắc chính là hơi thở và độ ấm, thuộc về Tướng Phần của đích thân thức thứ tám. Nội tâm chính là thức thứ tám hiện hành, thuộc về Kiến Phần của thức thứ tám. Do nghiệp lực của chủng tử mà ba thứ ấy (hơi thở, độ ấm và thức) duy trì lẫn nhau, chẳng tan hoại, bèn gọi là Mạng Căn chẳng đoạn).

Điều này gọi là Mạng Căn hoặc Thọ Mạng. “Tức” (息) là hô hấp, “noãn” (煖) là độ ấm, tức nhiệt độ cơ thể. Thức (識) là tâm. Ba thứ ấy kết hợp với nhục thân thành một Thể, “tương trì” (duy trì lẫn nhau), giữ gìn lẫn nhau, chẳng tách rời. Đó gọi là Mạng Căn.

 

(Sao) Nhất bất liên trì, Mạng Căn tức đoạn, cố dĩ vi Thể.

(Diễn) Nhất bất tương trì, hoặc noãn khí ly thân, hoặc xuất nhập tức đoạn, hoặc Kiến Phần ly thể, danh Mạng Căn đoạn dã.

()一不連持,命根即斷,故以為體。

()一不相持。或煖氣離身。或出入息斷。或見分離體。名命根斷也。

(Sao: Nếu một thứ [trong ba thứ, tức hơi thở, sức ấm và thức] chẳng duy trì liên tục, Mạng Căn liền đoạn, nên coi chúng là Thể.

Diễn: Một thứ chẳng duy trì: Hoặc là hơi ấm lìa thân thể, hoặc ngừng hô hấp, hoặc Kiến Phần lìa thân, thì gọi là Mạng Căn chấm dứt).

Trong ba thứ này, hễ chẳng có hô hấp, người bèn chết. Chẳng có hô hấp, nhất định là độ ấm chẳng còn. Người đã chết, thân thể lạnh ngắt. Độ ấm chẳng còn, thức đã lìa khỏi. Trong ba thứ này, trước hết là hô hấp ngưng dứt, tiếp theo đó, chẳng có độ ấm, thức lìa khỏi cuối cùng. Phật pháp nói: Sau khi người đã chết, sau khi đã tắt hơi tám tiếng đồng hồ, thức của người ấy mới rời khỏi. Nói cách khác, trong tám tiếng đồng hồ sau khi ngừng thở, người ấy vẫn có cảm giác. Nếu chúng ta động vào họ, họ sẽ cảm thấy đau khổ. Hễ đau khổ, sẽ dễ dẫn đến sân hận. Do dấy lên một niệm sân hận ấy, người ấy sẽ đọa trong địa ngục, hoặc đọa trong ác đạo. Do vậy, đức Phật cảnh cáo chúng ta: “Đối với người chết, trong vòng tám tiếng đồng hồ, đừng động đến họ” là do nguyên nhân này.

“Thức” đến trước, tức là khi đầu thai thì nó đến trước; khi ra đi, thì nó rời đi cuối cùng. Duy Thức Luận nói: “Lai tiên, khứ hậu, tác chủ công” (Đến trước, đi sau, làm ông chủ). Tâm là chủ, thân chẳng phải là chủ. Tâm là chủ, [sanh mạng của một cá nhân] lấy nó làm Thể. Thể của Mạng Căn là A Lại Da Thức, tức là thức thứ tám. “Đầu thai” là thức đi đầu thai. Nhục thân đúng là giống như quần áo, chúng ta dùng đã lâu, quá cũ kỹ, có thể bỏ đi, thay đổi một bộ mới. Thức là chính mình, nó có thể thay đổi thân thể, [giống như] do quần áo đã rách, bèn thay đổi một bộ quần áo mới. Bỏ thân, thọ thân giống hệt như cởi quần áo [cũ ra] để thay quần áo [mới]. Nếu chúng ta hiểu rõ ràng, minh bạch sự thật này, sẽ chẳng kinh hoảng, chẳng sợ hãi đối với sanh tử. Có ai quần áo đã cũ, bảo quý vị thay đổi quần áo liền sợ hãi, kinh hoảng? Chẳng có. Chỉ có trẻ nít vô tri, bảo nó thay quần áo, nó vừa khóc vừa quấy, chẳng chịu thay đổi, chỉ có loại người đó, chứ người bình thường sẽ chẳng như vậy!

 

(Sao) Thôi niên giảm thọ giả, đương thử giảm kiếp, bất mãn bách niên.

()摧年減壽者,當此減劫,不滿百年。

(Sao: “Năm tháng giục giã tuổi thọ suy giảm”: Đang trong thời giảm kiếp, [tuổi thọ] chẳng đủ trăm năm).

Chẳng đủ trăm năm, thông thường, có thể sống đến bảy mươi tuổi khá khó khăn! Hiện thời, nói là y dược phát triển, kéo dài tuổi thọ của loài người, quý vị cảm thấy nói kiểu đó là thật hay giả? Giả trất, chẳng thật! Thọ mạng dài chính là biệt báo của cá nhân. Người ta do đời trước tu phước, đời trước tu vô úy bố thí, nên được quả báo khỏe mạnh, sống lâu. Y dược chỉ có thể chữa bệnh, chẳng thể chữa mạng. Chắc chắn là y dược không thể kéo dài thọ mạng của quý vị được. Thọ mạng xác thực là do đời trước tu được, chẳng phải do công lao của y dược.

 

(Sao) Nhi phục bào mạt, phong đăng.

()而復泡沫風燈。

(Sao: Lại còn như bọt nước, đèn trước gió).

 “Bọt nước, đèn trước gió” đều rất ngắn ngủi, tạm bợ, rất [dễ gặp phải] nguy hiểm [đến nỗi mất mạng dễ dàng]. Thắp một ngọn nến đặt trước cơn gió lớn, chẳng biết sẽ tắt lụi lúc nào. Đấy là tỷ dụ.

 

(Sao) Sát-na bất trụ, vưu vi đoản xúc.

()剎那不住,尤為短促。

(Sao: Trong khoảng sát-na bèn chẳng tồn tại, càng là ngắn ngủi).

 Chúng ta nhìn từ toàn thể để xét tuổi thọ bình quân, [sẽ thấy] tuổi thọ con người chẳng dài. Xét theo biệt nghiệp, có khá nhiều người trường thọ. Xét theo cộng nghiệp, thọ mạng bình quân của chúng sanh xác thực là mỗi năm một thấp hơn, đang trong thời giảm kiếp mà!

 

(Sao) Cố vân Trược dã.

()故云濁也。

(Sao: Cho nên nói là Trược).

Gọi là Mạng Trược. Thọ mạng ngắn ngủi, lại còn có thiên tai nhân họa.

 

(Sao) Phản hiển Cực Lạc quốc trung, nhân dân thọ mạng, đồng Phật vô lượng, phi Mạng Trược cố.

()反顯極樂國中,人民壽命,同佛無量,非命濁故。

(Sao: Nêu bật tương phản: Trong cõi Cực Lạc, nhân dân thọ mạng vô lượng giống như Phật, chẳng phải là Mạng Trược).

 Tương phản, chúng ta xem Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong kinh, đức Phật đã dạy chúng ta: Thế giới Tây Phương thù thắng nhất, đặc biệt nhất. Cõi ấy một là thế giới bình đẳng thật sự. Con người có thọ mạng hoàn toàn giống như đức Phật. Trong thế giới Tây Phương, chẳng có cơ cấu chánh phủ, cũng chẳng có các chánh đảng (政黨: đảng phái chánh trị) hằng ngày đấu đá với nhau. Người trong thế giới Tây Phương đông đảo, hoàn cảnh cư trụ đẹp đẽ, tốt lành. Kinh dạy rất rõ ràng: Thế giới Tây Phương có đường sá, nhưng chẳng có tên đường, cũng chẳng có số nhà. Nay chúng tôi suy nghĩ, có thể là sau bao nhiêu năm nữa, thế giới này cũng chẳng cần đường sá, mà cũng chẳng cần biển số nữa. Vì sao? Tiến nhập thời đại điện toán. Trong tương lai, máy điện toán sẽ nối liền mỗi gia đình trên thế giới. Quý vị muốn tìm ai, ở trong nhà nhấn một nút, trên màn ảnh của máy computer bèn hiện hình ảnh. Quý vị muốn đến thăm bè bạn, chẳng cần đến nhà họ, đối trước máy computer bèn có thể trò chuyện. Nhưng chúng ta phải dùng máy móc, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng cần dùng máy móc, hoàn toàn dùng sức mạnh của ý niệm trong tâm là có thể biến hiện ngay trước mặt. Đường sá cần tên gọi để làm chi nữa? Cần biển số để làm gì? Đó mới là hạnh phúc thật sự, vui sướng thật sự, chẳng giống như trong thế giới này. Hôm nay, chúng tôi giảng đến chỗ này!

 

Tập 278

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm tám mươi ba:

 

(Sớ) Thử chi Ngũ Trược, thả cứ quả ngôn, nhược Lăng Nghiêm sở vân: Hoặc phối tam tế, lục thô, hoặc phối Ngũ Ấm, nghĩa diệc bất dị.

(Diễn) Thử chi Ngũ Trược, thả cứ quả ngôn giả, vị thượng văn sở giải Ngũ Trược, thả nhất vãng tựu quả biên thuyết, phi nhược Lăng Nghiêm sở thuyết, thông hồ nhân quả dã. Hoặc phối tam tế giả, thị chư sư dĩ tam tế, lục thô thích Ngũ Trược dã, hoặc phối Ngũ Ấm, thị Cô Sơn ước Ngũ Ấm vọng tưởng vi Ngũ Trược dã. Nghĩa diệc bất dị giả, vị pháp tướng tuy bất đồng, nhi nghĩa lý tắc vô biệt dã.

()此之五濁,且據果言,若楞嚴所云:或配三細六粗,或配五陰,義亦不異。

()此之五濁。且據果言者。謂上文所解五濁。且一往就果邊說。非若楞嚴所說。通乎因果也。或配三細者。是諸師以三細六粗釋五濁也。或配五陰。是孤山。約五陰妄想為五濁也。義亦不異者。謂法相雖不同。而義理則無別也。

(Sớ: Năm món Trược ấy là nói theo quả. Nếu theo như kinh Lăng Nghiêm đã nói, thì hoặc là phối ứng với ba tế tướng, sáu thô tướng, hoặc phối ứng với Ngũ Ấm, nhưng ý nghĩa cũng chẳng khác.

Diễn: “Năm món trược ấy là nói theo quả”, nghĩa là Ngũ Trược như đã giải thích trong đoạn văn trên đây chính là một mực dựa theo phía quả để nói, chẳng dung thông cả nhân lẫn quả như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói. “Hoặc phối ứng với ba tế tướng” là các Sư dùng ba tế tướng và sáu thô tướng để giải thích Ngũ Trược. “Hoặc phối ứng với Ngũ Ấm” là như ngài Cô Sơn coi vọng tưởng thuộc Ngũ Ấm là Ngũ Trược. “Nghĩa cũng chẳng khác” ý nói: Pháp tướng tuy khác nhau, nghĩa lý chẳng sai khác).

Câu này nhằm tổng kết “Ngũ Trược ác thế” đã nói trong phần trước. “Trược ác” là nói theo quả; hễ có quả, nhất định là có nguyên nhân. Đức Phật thuyết kinh, có khi thiên trọng nơi tạo nhân, có lúc chú trọng nói đến quả báo. Như trong đoạn này là nói về quả báo, cũng có khi là nhân và quả đều nói. Do tình hình ấy, chúng ta có thể thấu hiểu rõ ràng: Đức Phật thuyết pháp là ứng theo căn cơ để nói, Ngài xem xét [căn cơ] của đại chúng tham dự pháp hội khi ấy. Nói đến nhân, chúng ta sẽ nghĩ đến quả báo; nói đến quả, cũng giống như vậy, chúng ta cũng biết nhân duyên nào tạo thành quả báo ấy. Nhất là trong thời đại hiện tại, đối với quả báo trược ác, chẳng cần phải nêu cặn kẽ như đức Phật đã nói trong kinh, gần như mỗi người chúng ta đều có cảm xúc rất sâu đậm. Hiện thời, y báo của chúng ta chẳng tốt đẹp, hoàn cảnh sống chẳng tốt đẹp. Chẳng cần nói là so với thời cổ, chỉ so với ba mươi năm trước. Ba mươi năm trước, hoàn cảnh sống của chúng ta xác thực là vẫn rất đẹp đẽ, đại chúng trong xã hội cũng rất tốt lành. Tuy chưa thể nói là “chân thiện mỹ đạt đến tiêu chuẩn rất cao”, nhưng vẫn còn có một chút ý nghĩa. Trong hoàn cảnh sống hiện tại, có thể nói là đã chẳng tìm được mảy may nào. Tuy điều kiện vật chất ưu việt hơn trước kia, của cải gia tăng, nhưng hoàn cảnh sống của chúng ta thua kém quá khứ rất xa. Tục ngữ Trung Hoa thường nói: “Giàu mà chẳng vui”. Đâm ra, thời thời khắc khắc bận tâm, lo lắng, chẳng có cảm giác an toàn. Điều này thuộc về quả báo, tức là cõi đời trược ác.

Nhân duyên của sự trược ác là do thiên tai ư? Là do tai nạn tự nhiên ư? Hiện thời, xác thực là có lắm kẻ tưởng là do thiên tai, là tự nhiên, sức người chẳng có cách nào chống chọi. Các nhà khoa học và triết gia đều nói theo kiểu này, mọi người tin theo, cho là thật, nghĩ cách nói ấy là chánh xác. Trọn chẳng biết trong kinh, đức Phật đã dạy: Hoàn cảnh sống của chúng ta tốt hay xấu tùy thuộc lòng người thiện hay ác mà chuyển biến. Lòng người thiện hay ác chính là nguyên do khiến cho hoàn cảnh xã hội tốt hay xấu. Kinh cũng thường dạy: “Y báo chuyển theo chánh báo”. Chánh báo ở đây chính là lòng người thiện hay ác, còn y báo là hoàn cảnh tốt hay xấu. Chỉ có đức Phật nói rõ ràng, minh bạch chuyện này. Chúng ta thấy người hiện thời tạo cái nhân gì? Cũng có nghĩa là thông thường họ nghĩ tưởng những gì, nói những gì, làm những gì, chúng ta sẽ biết quả báo trong tương lai như thế nào. Đức Phật bảo: Hết thảy ác nhân và ác duyên đều phát sanh từ Tam Độc. Kiến Trược, Phiền Não Trược là nhân, Kiếp Trược, Chúng Sanh Trược, và Mạng Trược thuộc về quả báo. Chúng ta thấy người hiện thời kiến giải sai lầm mỗi ngày một sâu hơn, phiền não ngày một tăng trưởng, một mực như vậy, quả báo trong tương lai sẽ càng đáng sợ hơn hiện thời!

Người trên thế gian hiện thời truy cầu của cải, truy cầu quyền lực, địa vị, truy cầu hưởng thụ. Truy cầu mù quáng là tạo tội nghiệp. Những thứ ấy có thể cầu hay không? Có thể chứ! Đức Phật đã nói rất minh bạch: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng). Cầu của cải, được của cải; chẳng có gì không cầu được! Cầu thì phải đúng lý, đúng pháp, phải biết mối quan hệ giữa nhân, duyên và quả. Cầu như vậy là cầu chánh đáng, sẽ cầu được quả báo tốt đẹp, cũng là như chúng ta thường nói: “Cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn”. Đó là do đúng lý, đúng pháp mà cầu được. Nếu cứ cầu mù quáng, chắc chắn chẳng đạt được hạnh phúc. Hạnh phúc còn chẳng có, thì mỹ mãn càng chẳng cần phải bàn đến nữa! Kẻ chẳng học Phật không biết, chứ đối với người học Phật, hãy nên hiểu rành mạch, rõ ràng.

Nói theo kinh Lăng Nghiêm, Ngũ Trược có thể “phối tam tế, lục thô” (phối ứng với ba tế tướng và sáu thô tướng), cũng có thể “phối Ngũ Ấm” (phối ứng với Ngũ Ấm), Ngũ Ấm là Ngũ Uẩn. Do vậy, có thể biết: Phật pháp xác thực là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”. Phật pháp viên dung, thông đạt, chẳng có chướng ngại, tỏ rõ pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp.

 

(Sao)Phối tam tế đẳng giả, dĩ Kiếp Trược phối Nghiệp Tướng, vị vô minh sơ khởi, tánh toại hồn trược cố.

(Diễn) Tam tế đẳng giả, Khởi Tín Luận vân: “Bất như thật tri Chân Như pháp nhất cố, bất giác tâm khởi nhi hữu kỳ niệm. Y bất giác cố, sanh tam chủng tướng: Nhất giả Vô Minh Nghiệp Tướng, dĩ y bất giác cố, tâm động, thuyết danh vi Nghiệp. Giác tắc bất động, động tắc hữu khổ, quả bất ly nhân cố. Nhị giả Năng Kiến Tướng, dĩ y động, cố năng kiến, bất động tắc vô kiến. Tam giả Cảnh Giới Tướng, dĩ y năng kiến cố, cảnh giới vọng hiện. Ly kiến, tắc vô cảnh giới”. Dĩ hữu cảnh giới duyên cố, phục sanh lục chủng tướng: Nhất giả Trí Tướng, y ư cảnh giới tâm khởi phân biệt, ái dữ bất ái cố. Nhị giả Tương Tục Tướng, y ư Trí cố, sanh kỳ khổ lạc giác, tâm khởi niệm tương ứng bất đoạn cố. Tam giả Chấp Thủ Tướng, y ư tương tục duyên niệm cảnh giới, trụ trì khổ lạc, tâm khởi trước cố. Tứ giả Kế Danh Tự Tướng, y ư vọng chấp, phân biệt giả danh ngôn tướng cố. Ngũ giả Khởi Nghiệp Tướng, y ư danh tự, tầm danh thủ trước, tạo chủng chủng nghiệp cố. Lục giả Nghiệp Hệ Khổ Tướng, dĩ y nghiệp thọ báo, bất tự tại cố. Dĩ Kiếp Trược phối Nghiệp Tướng giả. Kiếp giả, thời dã. Tâm tánh bổn tịnh, do vô minh sơ động thời tức hồn trược. Cố viết Kiếp Trược. Kim Nghiệp Tướng diệc nhiên, vô minh sơ khởi, thành Nghiệp Tướng cố.

()配三細等者,以劫濁配業相,謂無明初起,性遂渾濁故。

()三細等者。起信論云。不如實知真如法一故。不覺心起而有其念。依不覺故。生三種相。一者無明業相。以依不覺故心動。說名為業。覺則不動。動則有苦。果不離因故。二者能見相。以依動故能見。不動則無見。三者境界相。以依能見故境界妄現。離見則無境界。以有境界緣故。復生六種相。一者智相。依於境界心起分別。愛與不愛故。二者相續相。依於智故。生其苦樂覺心起念相應不斷故。三者執取相。依於相續緣念境界。住持苦樂。心起著故。四者計名字相。依於妄執。分別假名言相故。五者起業相。依於名字。尋名取著。造種種業故。六者業繫苦相。以依業受報。不自在故。以劫濁配業相者。劫者時也。心性本淨。由無明初動時即渾濁。故曰劫濁。今業相亦然。無明初起成業相故。

(Sao: “Phối ứng với ba tế tướng”: Đem Kiếp Trược phối ứng với Nghiệp Tướng, có nghĩa là vô minh vừa mới khởi lên, tánh bèn bị vẩn đục.

Diễn: “Ba tế tướng v.v…”: Khởi Tín Luận nói: “Chẳng đúng như thật biết pháp Chân Như là một, cái tâm bất giác dấy lên bèn có niệm. Nương vào sự bất giác ấy, sanh ra ba thứ tướng. Một là Vô Minh Nghiệp Tướng, do nương vào bất giác nên tâm động, nên gọi tên là Nghiệp. Hễ giác, sẽ chẳng động. Hễ động, sẽ có khổ, quả chẳng lìa nhân vậy. Hai là Năng Kiến Tướng, do nương vào động nên có thấy. Chẳng động, sẽ không thấy. Ba là Cảnh Giới Tướng, do nương vào cái có thể thấy (Năng Kiến) mà hư vọng hiện ra cảnh giới. Lìa cái thấy, sẽ chẳng có cảnh giới. Do có cảnh giới để duyên vào, lại sanh ra sáu thứ tướng. Một là Trí Tướng, [nghĩa là] nương vào cảnh giới mà tâm dấy lên sự phân biệt yêu thích và chẳng yêu thích. Hai là Tương Tục Tướng, do nương vào trí, bèn sanh cái tâm nhận biết khổ, lạc, dấy lên ý niệm tương ứng chẳng ngừng. Ba là Chấp Thủ Tướng, nương vào sự duyên niệm cảnh giới liên tục mà duy trì khổ hay vui, tâm dấy lên sự đắm trước. Bốn là Kế Danh Tự Tướng, nương vào chấp trước hư vọng, mà phân biệt tướng ngôn ngữ giả danh. Năm là Khởi Nghiệp Tướng, nương vào danh tự, theo đuổi cái danh, nắm giữ, chấp trước, tạo đủ mọi nghiệp. Sáu là Nghiệp Hệ Khổ Tướng, do nương theo nghiệp mà thọ báo, chẳng tự tại”. “Đem Kiếp Trược phối hợp với Nghiệp Tướng”: Kiếp là Thời. Tâm tánh vốn tịnh, do vô minh dấy động lúc ban sơ, [tâm tánh] bèn vẩn đục, nên gọi là Kiếp Trược. Nay Nghiệp Tướng cũng thế, lúc vô minh vừa mới dấy động bèn trở thành Nghiệp Tướng). 

 Phần chú giải đã chú thích rất tỉ mỉ, ở đây, tôi chỉ nói đại ý. “Nghiệp” là tạo tác, khởi tâm động niệm là sự tạo tác nơi ý, ngôn ngữ là sự tạo tác nơi miệng, nhất cử nhất động nơi thân thể là sự tạo tác nơi thân nghiệp. Đó gọi là sự tạo tác nơi ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ba nghiệp tạo tác bèn có lầm lỗi, lầm lỗi là gì vậy? Nói cách khác, sẽ là chẳng tương ứng với Tánh Đức. Tương ứng với Chân Như bản tánh, sẽ chẳng có lầm lỗi, chúng ta gọi loại tạo tác đó là “tịnh nghiệp”, tức là nghiệp thanh tịnh. Vì sao? Nó chẳng có quả báo trong tam giới, lục đạo, cho đến quả báo trong mười pháp giới đều chẳng có, đức Phật bất đắc dĩ gọi nó là Nhất Chân pháp giới, như Tây Phương Cực Lạc thế giới thuộc về Nhất Chân pháp giới. Hết thảy đại chúng trong ấy, từ A Di Đà Phật cho đến tất cả những người vãng sanh thế giới Tây Phương, tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, và tạo tác của họ đều thuận theo Chân Như bản tánh. Vì thế gọi là “tịnh nghiệp”. Nay chúng ta khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác đều trái nghịch, tương phản Chân Như bản tánh, bèn có lầm lỗi trong ấy. Đã có lầm lỗi, cái nhân là bất thiện, sẽ ảnh hưởng đến hoàn cảnh y báo. Đó gọi là Kiếp Trược.

Hai câu kế tiếp trong lời chú giải hết sức hay, đơn giản, mà trọng yếu, ngắn gọn. “Vô minh sơ khởi” (Vô minh vừa mới dấy lên). Vấn đề phát sanh ở chỗ này. Vô minh là gì? Đối với vũ trụ và nhân sinh bèn mê hoặc, chẳng liễu giải. Giáo dục trong Phật pháp, nói thật ra, chỉ nhằm dạy chúng ta một chuyện: Dạy chúng ta nhận thức, thông hiểu vũ trụ và nhân sinh. Như vậy thì sẽ chẳng đến nỗi vô minh. Vũ trụ là hoàn cảnh sống của chúng ta. Nhân sinh là chính con người. Nói cách khác, mục tiêu cao nhất của nền giáo học Phật pháp là dạy chúng ta nhận rõ chính mình, nhận rõ hoàn cảnh sống; chỉ là như thế mà thôi. Nội dung của cả một bộ Đại Tạng Kinh là nói về chuyện này. Quý vị thật sự nhận thức rõ ràng, minh bạch, bèn phá trừ vô minh, chẳng có vô minh nữa. Chẳng có vô minh thì sẽ giống như chư Phật, Bồ Tát. Chư Phật, Bồ Tát chẳng giống chúng ta, phàm phu có vô minh, chư Phật, Bồ Tát chẳng có vô minh, các Ngài điều gì cũng hiểu rõ. Vô minh là chẳng hiểu rõ: Chẳng hiểu rõ chính mình; đối với hoàn cảnh sống, cũng chẳng hiểu rõ. Như thế thì sẽ khiến cho Chân Như tự tánh vốn thanh tịnh, dường như [trở thành] chẳng thanh tịnh, bị vẩn đục. Thứ gì vẩn đục nó? Chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, sanh ra những lời lẽ và hành vi trái nghịch tự tánh, những thứ ấy khiến cho tự tánh bị vẩn đục.

Cách nói ấy khiến cho các đồng tu sơ học vẫn thấy rất khó lý giải. Chúng tôi lại nói đơn giản hơn đôi chút, lại nói thô thiển, dễ hiểu hơn một chút, vì chẳng thể không biết những chuyện này. Ví như chúng ta tâm tâm niệm niệm mong cầu của cải, thấy người khác phát tài, sẽ tự nhiên hâm mộ, nghĩ ta cũng phải nên có của cải. Của cải do đâu mà có? Tuyệt đối chẳng phải là do kẻ ấy có năng lực. [Nếu nghĩ] người ấy rất có khả năng, vận may rất tốt, quý vị đã thấy sai mất rồi, đã thấy lệch lạc mất rồi! Nguyên nhân thật sự là trong đời quá khứ, người ấy tu tài bố thí, đó là cái nhân. Đời này, người ấy hoặc là buôn bán, hoặc làm thợ. Đó là duyên. Người ấy mua một tờ vé số, trúng giải độc đắc; đó là duyên. Cái nhân thật sự để phát tài là tài bố thí trong quá khứ; nhân và duyên gặp gỡ, quả báo hiện tiền. Chuyện là như thế đó. Vì thế, nếu chúng ta muốn có của cải, quý vị hãy tu tài bố thí. Quý vị bố thí càng nhiều, đạt được càng nhiều. Chỉ tu tài bố thí, đã phát tài; nếu chẳng vận dụng thích đáng, quý vị cũng bị hại thảm lắm. Vận dụng như thế nào? Đó là trí huệ. Đức Phật dạy người ta phước huệ song tu, chẳng thể lệch về một bên. Nếu lệch sang một bên, thà thiên trọng huệ, chớ nên thiên trọng tài. Vì có tài mà chẳng có huệ, sẽ tạo nghiệp, sẽ bị đọa lạc. Có huệ mà chẳng có tài, chẳng sao cả! Mức độ tệ nhất là cuộc sống kham khổ đôi chút, chẳng đến nỗi tạo tội nghiệp, chẳng đến nỗi đọa trong tam đồ. Do vậy, có thể biết: Huệ quan trọng hơn phước.

Chúng ta nhìn rộng ra xã hội hiện thời, thấy điều gì? Thấy mọi người đang tạo nhân. Người Đài Loan đứng đầu thế giới về tài bố thí. Ai nấy đều có thể bỏ ra tiền tài, ai nấy đều thích xả tài. Trong tương lai, của cải ở nơi đây sẽ còn hưng vượng hơn hiện thời. Mọi người tu nhân, sau này, nhất định có quả báo. Nhưng ở trong ấy, chẳng thể nói là không có vấn đề. Vấn đề gì vậy? Rất nhiều người chẳng thể phân biệt tà, chánh! Tuy tu tài, nhưng chẳng tu nơi chánh pháp, mà tu nơi tà đạo. Những kẻ ấy tuy có của cải, chúng sẽ đem lại rất nhiều nỗi khó chịu. Vì thế, phải phân định rõ tà và chánh, có phải là phước điền thật sự hay không? Những gì là phước điền chánh pháp? Những gì chẳng phải là phước điền chánh pháp? Chúng ta phải phân biệt rõ ràng. Chỉ có chánh pháp thì mới có thể đem lại an định, phồn vinh cho xã hội, mang lại hạnh phúc thật sự cho hết thảy đại chúng. Nhân duyên của trí huệ là phải hành pháp bố thí. Nay chúng ta thấy một điều hết sức đau đầu; có thể nói là một trào lưu thời đại, ai cũng chẳng thể nào ngăn cản được! Trào lưu gì vậy? Bảo vệ quyền tài sản trí huệ; quả báo là gì? Ngu si. Bảo hộ quyền tài sản trí huệ là không chịu hành pháp bố thí, do pháp bố thí thì mới tăng trưởng trí huệ. Nay họ rất thông minh, rất có tư tưởng, có kiến giải, viết rất nhiều bộ sách hay, phía sau ghi: “Giữ bản quyền sở hữu, in lại ắt truy cứu trách nhiệm”. Chuyển sang đời sau, họ sẽ là kẻ ngu si, vì sao? Chẳng thể hành pháp bố thí. Chẳng thể bố thí pháp, sẽ mắc quả báo ngu si!

Trong kinh Di Đà, đối với mười sáu vị tôn giả [được kể tên] trong phần đầu, ngài Châu Lợi Bàn Đà Già hết sức ngu si. Đức Phật dạy tôn giả hai câu kệ, dạy Ngài thuộc câu trước thì câu sau chẳng biết. Dạy câu sau, Ngài quên khuấy câu trước. Đức Phật bảo mọi người: Đời trước, tôn giả là một vị Tam Tạng pháp sư, pháp thế gian và xuất thế gian đều thông đạt. Vì sao chuyển thế bèn biến thành ngu si dường ấy? Keo kiệt pháp! Ngài dạy người khác mà chẳng chịu dạy hoàn toàn, chính mình còn giấu diếm đôi chút. Nay chúng ta đối với quyền tài sản trí huệ, phía sau [có ghi] “Giữ bản quyền sở hữu, in lại ắt truy cứu trách nhiệm”, chính là tự mình giữ riêng đôi chút, quả báo trong vị lai sẽ như ngài Châu Lợi Bàn Đà Già, như vậy thì mới là đáng thương. Do vậy, chuyện này chính là trào lưu hình thành trong thế giới hiện thời, chẳng có cách nào ngăn chặn, đúng như thầy Lý đã nói, chư Phật, Bồ Tát, thần tiên đều chẳng cứu được. Sanh lộ duy nhất của chúng ta là “thật thà niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ”. Vì mỗi người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều hành pháp bố thí, tuyệt đối chẳng có “giữ bản quyền sở hữu, in lại ắt truy cứu”. Đó là vì cái nhỏ nhặt mà đánh mất cái lớn lao. Những phần tử trí thức chỉ tham cầu một tí lợi ích rất nhỏ trước mắt, chẳng biết đã tạo thành khó khăn to lớn cho xã hội, chính mình trong tương lai sẽ bị đọa lạc, thật sự là chẳng thể kham suy tưởng được. Tầm nhìn của chúng ta hướng ra xa, sẽ liễu giải chân tướng sự thật này.

Vô úy bố thí bèn đạt được quả báo là khỏe mạnh, sống lâu. Vô úy là gì? Chúng ta thời thời khắc khắc, nơi nơi chốn chốn, đều có thể nghĩ đến sự an toàn và hạnh phúc của đại chúng trong xã hội, tận tâm tận lực giúp đỡ, hiệp trợ người khác. Những điều ấy đều thuộc loại vô úy bố thí, quả báo là được khỏe mạnh, sống lâu. Chúng ta dùng cái tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm từ bi để tu tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố thí, quý vị đạt được quả báo tự nhiên là hết sức mỹ mãn. Hạnh phúc mỹ mãn là do tu được, người chẳng học Phật không hiểu rõ đạo lý này. Người học Phật mà chẳng thấu triệt, sẽ chẳng tin tưởng lời Phật dạy, chính là như kinh này đã nói: “Thiện căn, phước đức, nhân duyên ít ỏi”, chẳng nhiều! Kẻ ấy tuy tiếp xúc Phật pháp, nghe đức Phật giáo huấn, nhưng chẳng thể tin tưởng, chẳng thể làm theo, [dẫu] nghe mà giống như chẳng nghe, hết sức đáng tiếc!

 

(Sao) Thứ dĩ Kiến Trược phối Chuyển Tướng, Hiện Tướng.

(Diễn) Thứ dĩ Kiến Trược phối Chuyển Hiện giả. Kiến giả năng kiến, sở kiến dã. Tiền Nghiệp Tướng Năng Sở vị phân, thứ thành Chuyển Hiện. Tuy vô phân biệt, Năng Sở uyển nhiên, tâm cảnh cụ túc. Cố dĩ Kiến Trược phối Chuyển Hiện.

()次以見濁配轉相,現相。

()次以見濁配轉現者。見者能見所見也。前業相能所未分。次成轉現。雖無分別。能所宛然。心境具足。故以見濁配轉現。

(Sao: Kế đó, phối ứng Kiến Trược với Chuyển Tướng và Hiện Tướng.

Diễn: “Kế đó, phối ứng Kiến Trược với  Chuyển  Tướng  và  Hiện

Tướng”: Kiến là năng kiến (chủ thể trông thấy) và sở kiến (đối tượng được thấy). Đối với Nghiệp Tướng trong phần trước, Năng và Sở chưa phân, kế đó, trở thành Chuyển Tướng và Hiện Tướng. Tuy chẳng có phân biệt, nhưng Năng và Sở rành rành, tâm và cảnh trọn đủ. Vì thế phối hợp Kiến Trược với Chuyển Tướng và Hiện Tướng).

Đây là ba tế tướng. Tướng thứ nhất trong ba tế tướng là Nghiệp Tướng, Nghiệp là động. Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật đã nói: “Một niệm bất giác bèn có vô minh”. Bất giác là động, điều gì động? Tâm đã động. Tâm động như thế nào? Khởi niệm. Chư vị phải biết: Tâm khởi niệm là vô minh, chẳng khởi niệm cũng là vô minh. Càng nói, chúng ta càng khó hiểu. Vì sao nói động và chẳng động đều là vô minh? Khi chẳng động, bến nước (ý nói tâm thủy) của quý vị bị vẩn đục, chẳng thanh tịnh. Hễ động, sẽ cuộn sóng. Tuy nó bất động, giống như đắc Định, Tứ Thiền, Bát Định, A La Hán đắc Cửu Thứ Đệ Định, công phu định lực càng sâu, [thế nhưng] A La Hán chẳng có trí huệ. Vì sao? Tâm thủy của họ chẳng thanh tịnh. Nếu định đạt đến một mức độ kha khá, tâm thủy đã trong, chẳng có vô minh, Thiền Tông gọi chuyện này là “minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ”, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, quá khứ, hiện tại, vị lai đều thông đạt, đều hiểu rõ, đó mới là phá vô minh. Nếu không, Định cũng là vô minh, mà chẳng Định cũng vẫn là ở trong vô minh. Chúng ta nhất định phải hiểu: Động cũng là vẩn đục, mà bất động cũng là vẩn đục. Nay chúng ta chẳng niệm Phật, chẳng cầu sanh Tịnh Độ, chẳng nương cậy A Di Đà Phật, nói thẳng thừng chẳng có cách nào! Bất luận quý vị tu pháp môn nào, [chỉ đơn độc] mong cậy vào sức của chính mình để lìa khỏi vẩn đục, sợ rằng chẳng có một ai có thể làm được!

“Kiến” (見) là phân biệt. Vô minh và nghiệp vẫn chưa có phân biệt, chẳng có chấp trước, chỉ là động. Hễ động, bèn vẩn đục hết sức mỏng nhẹ. Đến đây, do đã có phân biệt, cho nên có Kiến. Sau khi đã có phân biệt, bèn hiện tướng. Khoa học hiện thời đã chia hết thảy các pháp thành hai loại lớn: Một loại là vật chất, loại kia là tinh thần. Phật pháp cũng chia hết thảy các pháp thành hai loại lớn: Một loại là tâm pháp, loại kia là sắc pháp. Chuyển Tướng là tâm pháp, tức là tinh thần, Hiện Tướng là vật chất, là sắc pháp. Tâm và vật có cùng nguồn. Phật pháp nói “Sắc và Tâm cùng một Thể”, cùng do một thứ biến hiện, thứ gì vậy? Vô Minh Nghiệp Tướng. Từ Nghiệp Tướng biến hiện, biến hiện ra hai loại là tâm và vật, nay chúng ta nói là tinh thần và vật chất.

 

(Sao) Thứ dĩ Phiền Não Trược phối Trí, Tương Tục, Chấp Thủ, Kế Danh Tự Tướng.

(Diễn) Thứ dĩ phiền não phối Trí Tướng, Tương Tục Tướng, Chấp Thủ, Kế Danh giả, phiền não bất xuất ngã pháp nhị chấp. Ngã pháp phục phân câu sanh, phân biệt. Kim Trí vi câu sanh pháp, Tương Tục vi phân biệt pháp, Chấp Thủ vi câu sanh ngã, Danh Tự vi phân biệt ngã, tứ tướng giai thuộc phiền não đạo cố.

()次以煩惱濁配智、相續、執取、計名字相。

()次以煩惱配智相。相續相。執取。計名者。煩惱不出我法二執。我法復分俱生分別。今智為俱生法。相續為分別法。執取為俱生我。名字為分別我。四相皆屬煩惱道故。

(Sao: Kế đến là phối ứng Phiền Não Trược với Trí Tướng, Tương Tục Tướng, Chấp Thủ Tướng, Kế Danh Tự Tướng.

Diễn: “Kế đến, đem phiền não phối ứng với Trí Tướng, Tương Tục Tướng, Chấp Thủ Tướng, Kế Danh Tự Tướng”: Phiền não chẳng ngoài hai thứ chấp là Ngã Chấp và Pháp Chấp. Ngã Chấp và Pháp Chấp lại chia thành Câu Sanh và Phân Biệt. Nay Trí Tướng là Câu Sanh Pháp Chấp, Tương Tục Tướng là Phân Biệt Pháp Chấp, Chấp Thủ Tướng là Câu Sanh Ngã Chấp, Danh Tự là Phân Biệt Ngã Chấp. Bốn tướng đều thuộc về phiền não).

Từ đây trở đi là sáu thô tướng. Trong phần trước là ba tế tướng, ở đây là sáu thô tướng. Trong thô tướng có chấp trước; trong tế tướng chẳng có chấp trước, chúng có phân biệt, nhưng chẳng có chấp trước. Ở đây là có chấp trước, tức là có Trí. Tâm Kinh nói “vô trí mà cũng vô đắc”, “vô trí” là đoạn hết sáu thô tướng. Tự cho chính mình là có Trí, hỏng rồi! Quý vị đọa trong sáu thô tướng, là phàm phu thứ thiệt, chẳng phải là thánh nhân. Tương Tục (相續) là phân biệt, chấp trước chẳng gián đoạn, niệm niệm tiếp nối. Chấp Thủ: Chấp (執) là chấp trước, Thủ (取) là chiếm hữu, nay chúng ta nói là “dục vọng chiếm hữu”. Dục vọng chiếm hữu do đâu mà có? Do Chấp Thủ Tướng mà ra. Kế Danh Tự Tướng là đối với hết thảy vạn pháp đều đặt cho chúng một cái tên. Danh là giả danh, chẳng thật. Lão Tử đã nói: “Danh khả danh, phi thường danh” (Cái tên mà gọi được thì chẳng phải là cái tên thường hằng), Ngài biết danh là giả, chẳng thật, chớ nên chấp trước. Chẳng liễu giải sự thật này, chấp trước kiên cố đối với tướng danh tự, cũng sẽ tạo ra khá nhiều tội nghiệp, nguyên nhân là do cứ ngỡ danh tự là chân thật, chẳng biết là [danh tự của mọi pháp] đều là những cái tên giả đặt.

 

(Sao) Thứ dĩ Chúng Sanh Trược phối Khởi Nghiệp Tướng.

(Diễn) Thứ dĩ chúng sanh phối Khởi Nghiệp Tướng giả, chúng sanh giả, chúng pháp tương sanh, diệc xứ xứ thọ sanh, cố viết chúng sanh. Dĩ do tạo thiện ác bất động đẳng nghiệp, phương cảm chúng pháp, xứ xứ thọ sanh cố.

()次以眾生濁配起業相。

()次以眾生配起業相者。眾生者。眾法相生。亦處處受生。故曰眾生。以由造善惡不動等業。方感眾法。處處受生故。

(Sao: Kế đó, đem Chúng Sanh Trược phối ứng với Khởi Nghiệp Tướng.

Diễn: “Kế đó, đem chúng sanh phối ứng với Khởi Nghiệp Tướng”: Chúng sanh là do các pháp hòa hợp mà sanh, lại cũng thọ sanh các nơi, nên gọi là “chúng sanh”. Do tạo các nghiệp thiện, ác, bất động v.v… nên mới cảm vời các pháp, thọ sanh các nơi).

Hoặc, Nghiệp, Khổ, [các tướng] Trí, Tương Tục, Chấp Thủ, Kế Danh Tự đều thuộc loại mê hoặc. Sau khi đã mê hoặc bèn tạo nghiệp, tức là Khởi Nghiệp Tướng. Sau khi đã tạo nghiệp, bèn có quả báo.

 

(Sao) Thứ dĩ Mạng Trược phối Nghiệp Hệ Khổ Tướng.

(Diễn) Thứ dĩ Mạng Trược phối Nghiệp Hệ Khổ giả, Mạng Trược tức bát thức mạng căn, vi nhất kỳ chúng sanh chi tổng báo chủ, vi nghiệp sở hệ trụ thời quyết định bất đắc giải thoát cố.

()次以命濁配業繫苦相。

()次以命濁配業繫苦者。命濁即八識命根。為一期眾生之總報主。為業所繫住時決定不得解脫故。

(Sao: Kế đó, phối ứng Mạng Trược với Nghiệp Hệ Khổ Tướng.

Diễn: “Kế đó, phối ứng Mạng Trược với Nghiệp Hệ Khổ Tướng”, Mạng Trược là tám thức, mạng căn, là cái chủ yếu trong quả báo nói chung của chúng sanh trong một giai đoạn [thọ sanh], khi bị nghiệp ràng buộc thì chắc chắn là chẳng được giải thoát).

Đây là quả báo. Chúng ta thường nói chuyện này là lục đạo luân hồi. Chúng ta phải biết lục đạo luân hồi vì sao mà có? Ba tế tướng thuyết minh sự hình thành của vũ trụ, [nêu rõ] nguồn gốc của vũ trụ. Sáu thô tướng nhằm chỉ rõ vì sao có lục đạo luân hồi, xác thực là nói rất rành mạch. Ở đây, nhất định phải hiểu: Nhân như thế nào, sẽ có quả như thế ấy. Thiện nhân đắc thiện quả, do ác nhân đắc ác báo, nhân duyên quả báo chẳng sai sót mảy may. Đoạn tiếp theo là phối hợp [Ngũ Trược] tương ứng với Ngũ Ấm. Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.

 

(Sao) Phối Ngũ Ấm giả, dĩ Kiếp Trược phối Sắc Ấm.

()配五陰者,以劫濁配色陰。

(Sao: Phối ứng với Ngũ Ấm: Đem Kiếp Trược ghép với Sắc Ấm).

Sắc là vật chất, nay chúng ta nói là thế giới và hoàn cảnh thiên nhiên.

 

(Sao) Vị không kiến bất phân, vọng kiến không nhi lưỡng vô kỳ thật, tánh vị hồn trược cố.

(Diễn) Dĩ Kiếp Trược phối Sắc Ấm giả, Lăng Nghiêm vân: “Nhữ kiến hư không, biến thập phương giới, Không Kiến bất phân, hữu Không vô thể. Hữu Kiến vô giác, tương chức vọng thành. Thị đệ nhất trùng danh vi Kiếp Trược”. Thử tức thị dĩ Kiếp Trược phối Sắc Ấm dã. Dĩ tương chức vọng thành, thị Không dữ Kiến tương chức, nhi vọng thành Sắc Ấm. Thử tức danh vi Kiếp Trược, khởi bất thị dĩ Kiếp Trược phối Sắc Ấm? Cái Tứ Đại căn trần đồng danh Sắc Ấm, nhi Không Kiến bất phân chi thời, căn trần hồn loạn, phi Kiếp Trược nhi hà? Phân Không, phân Kiến, bổn vô biên bạn. Cố vân Không Kiến bất phân. Dĩ vô thể chi Không, chức vô giác chi Kiến. Dĩ vô giác chi Kiến, chức vô thể chi Không, nãi vọng kiến không nhi lưỡng vô kỳ thật. Thử trạm viên minh tâm, vi ngoan không sở hồn, nhi thành Kiếp Trược, thị tánh vị hồn trược.

()謂空見不分,妄見空而兩無其實,性為渾濁故。

()以劫濁配色陰者。楞嚴云。汝見虛空。遍十方界。空見不分。有空無體。有見無覺。相織妄成。是第一重名為劫濁。此即是以劫濁配色陰也。以相織妄成。是空與見相織。而妄成色陰。此即名為劫濁。豈不是以劫濁配色陰。蓋四大根塵同名色陰。而空見不分之時。根塵渾亂。非劫濁而何。分空分見。本無邊畔。故云空見不分。以無體之空。織無覺之見。以無覺之見。織無體之空。乃妄見空而兩無其實。此湛圓明心。為頑空所渾。而成劫濁。是性為渾濁。

(Sao: Nghĩa là Không và Kiến chẳng phân, hư vọng thấy có Không, nên cả hai đều chẳng thật, tánh bị vẩn đục vậy.

Diễn: “Đem Kiếp Trược ghép với Sắc Ấm”: Kinh Lăng Nghiêm nói: “Ông thấy hư không trọn khắp các cõi trong mười phương. Do Kiến và Không chẳng tách lìa, chỉ có Không [mà chẳng có Kiến] thì chẳng có Thể, có Kiến [mà chẳng có Không] thì chẳng có Giác. Do Không và Kiến đan xen lẫn nhau, mà hư vọng tạo thành. Đấy là tầng thứ nhất, gọi là Kiếp Trược”[88]. Đấy chính là đem Kiếp Trược phối ứng với Sắc Ấm. “Do chúng đan xen vào nhau mà hư vọng tạo thành” tức là Không và Kiến đan xen vào nhau, hư vọng tạo thành Sắc Ấm. Điều này được gọi là Kiếp Trược. Há chẳng phải là đem Kiếp Trược phối ứng với Sắc Ấm ư? Bởi lẽ, Tứ Đại, Căn, Trần cùng gọi là Sắc Ấm, cho nên khi Không và Kiến chẳng phân, Căn và Trần lẫn lộn, chẳng phải là Kiếp Trược thì là gì? Chia ra Không và Kiến, vốn chẳng ngằn mé, nên nói là “Không và Kiến chẳng phân”. Do cái Không chẳng có Thể đan xen với cái Kiến chẳng có Giác, hoặc dùng cái Kiến không có Giác để xen kết với cái Không chẳng có Thể, cho nên cả hai thứ Kiến và Không đều là hư vọng, chẳng thật. Cái tâm lắng trong, viên minh ấy bị vẩn đục bởi cái ngoan không (cái Không trơ trơ), nên tạo thành Kiếp Trược, đó là tánh bị vẩn đục).

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã giảng Ngũ Trược tỉ mỉ hơn kinh này, vì kinh văn của kinh Lăng Nghiêm dài, trong hội Lăng Nghiêm đều là hàng Bồ Tát có trí huệ cao sâu, sung mãn. Đức Phật nói với các vị Bồ Tát ấy, đương nhiên cách nói chẳng giống như khi nói với chúng ta là những kẻ sơ học. Đối với chúng ta, nói đơn giản là được rồi, chứ đối với những vị ấy, phải nói chi tiết. Để nghiên cứu Lăng Nghiêm, có thể nhập môn từ bộ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa của pháp sư Viên Anh. “Không Kiến bất phân”: Không là hư không, Kiến là năng kiến (chủ thể để thấy), hư không là sở kiến (đối tượng được thấy). [Không Kiến bất phân] là Năng và Sở là một, chẳng hai. “Vọng Kiến Không nhi lưỡng vô kỳ thật” (Kiến và Không hư vọng, cả hai đều chẳng thật), Không chẳng phải là thật. Không vốn là thật; lìa khỏi Kiến, Không là thật. Hễ có Kiến trong ấy, Không sẽ biến thành Ngoan Không (cái Không trơ trơ, rỗng tuếch), chẳng phải là Chân Không. Hỏng ở chỗ có Kiến. Hiện thời, có ai trong chúng ta chẳng có Kiến? Do vậy, chúng ta đều chẳng thể thành Phật. Nếu chúng ta chẳng có Ngã Kiến, chúc mừng quý vị, nếu quý vị chẳng phải là Phật, thì đại khái cũng thuộc hàng Pháp Thân đại sĩ, hoặc hàng Đẳng Giác Bồ Tát. Hễ gặp vấn đề bèn “cách nhìn của ta là như thế nào?” Kết quả, “cách nhìn của ta” chính là Kiến, tức là quý vị có Kiến. “Cách nghĩ của ta như thế nào?” chính là phiền não, tức Phiền Não Chướng, chính là Phiền Não Trược trong Ngũ Trược. Kiến giải của ta như thế nào? Cách nhìn của ta như thế nào? Quý vị liền vướng vào Kiến Trược. Lời đức Phật dạy xác thực là chân tướng sự thật. Chúng sanh mê như thế nào, đức Phật hiểu rõ ràng, rành rẽ. Bản thân chúng ta hồ đồ, năng kiến đã chẳng thật, đương nhiên là sở kiến càng hư vọng, nhưng chúng ta chấp trước, ngỡ là thật sự có năng kiến và sở kiến.

“Tánh vị hồn trược” (Tánh bị vẩn đục), tâm tánh vốn sẵn thanh tịnh bèn mê, chẳng trông thấy. Cái mê ấy phiền toái lắm, càng mê càng sâu hơn. Thứ này rất đáng ghét. Trong các buổi giảng, chúng tôi thường nhắc nhở các đồng tu: Trong đời này, nếu chúng ta chẳng thể vãng sanh, quả báo trong đời sau chắc chắn sẽ thua kém đời này, sẽ chẳng thể tốt đẹp bằng đời này. Dẫu quý vị rất thích tu phước, tu bố thí, nhưng quý vị chẳng biết tu huệ. Có phước mà chẳng có huệ, quá nguy hiểm! Nhà Phật nói “tam thế oán”, đời thứ nhất tu phước, đời thứ hai hưởng phước, đời thứ ba đọa lạc, đọa trong tam đồ, chính là vì chẳng nghiêm túc tu huệ, chuyên môn tu phước.

 

(Sao) Thứ dĩ Kiến Trược phối Thọ Ấm.

(Diễn) Thứ dĩ Kiến Trược phối Thọ Ấm giả, Lăng Nghiêm vân: “Nhữ thân hiện đoàn Tứ Đại vi Thể, kiến, văn, giác, tri, ung linh lưu ngại, thủy, hỏa, phong, thổ, toàn linh giác tri, tương chức vọng thành. Thị đệ nhị trùng, danh vi Kiến Trược”. Thử tức thị dĩ Kiến Trược phối Thọ Ấm dã. Dĩ tương chức vọng thành, thị lục căn dữ Tứ Đại tương chức, nhi vọng thành Thọ Ấm. Dĩ kỳ kiến cảnh lãnh nạp, hồn trược chân tánh, tức danh Kiến Trược, khởi bất thị dĩ Kiến Trược phối Thọ Ấm?

()次以見濁配受陰。

()次以見濁配受陰者。楞嚴云。汝身現摶四大為體。見聞覺知壅令留礙。水火風土旋令覺知。相織妄成。是第二重名為見濁。此即是以見濁配受陰也。以相織妄成。是六根與四大相織。而妄成受陰。以其見境領納。渾濁真性。即名見濁。豈不是以見濁配受陰。

(Sao: Kế đó, đem Kiến Trược ghép tương ứng với Thọ Ấm.

Diễn: “Kế đó, ghép Kiến Trược tương ứng với Thọ Ấm”: Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thân ông nay do gom góp Tứ Đại làm Thể. Thấy, nghe, hay, biết do bị ngăn lấp mà trở thành chướng ngại, nước, lửa, gió, đất bị chuyển thành có hay biết, đan xen hư vọng mà thành. Đó là tầng thứ hai, gọi là Kiến Trược”[89]. Đấy chính là đem Kiến Trược phối ứng với Thọ Ấm. “Đan xen hư vọng mà thành” tức là sáu căn và Tứ Đại đan quyện vào nhau, hư vọng tạo thành Thọ Ấm. Do nó thấy cảnh bèn lãnh nạp, khiến cho chân tánh bị vẩn đục, nên gọi là Kiến Trược. Há chẳng phải là đem Kiến Trược phối ứng với Thọ Ấm ư?)

 Trong Ngũ Uẩn, Sắc pháp nói khá đơn giản, chỉ có một điều, còn Tâm pháp nói khá cặn kẽ, bao gồm Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Nói Tâm pháp tỉ mỉ, chính là vì đức Phật nói với kẻ mê Sắc nhẹ, mê tâm nặng nề. Kiến được nói ở đây chính là “thành kiến” như chúng ta thường gọi, tức là quan niệm chủ quan. Kẻ có thành kiến, có quan niệm chủ quan, người có quan niệm rất nặng nề thì sự cảm nhận của người ấy cũng đặc biệt nhạy bén.

“Thọ” là gì? Khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, kẻ ấy cảm nhận rất dễ dàng. Năm thứ cảm nhận ấy cũng chẳng thật. Từ khóa học dành cho sinh viên các trường đại học và chuyên nghiệp của Đài Trung Liên Xã, [thầy Lý] đã biên soạn Thập Tứ Giảng Biểu, [trong ấy], bài giảng thứ tư [nói về đề tài] “quán Thọ là khổ”. “Thọ” trong ấy là thuần túy nói về Thọ của lục đạo phàm phu, thật sự khổ! Khổ, lạc, ưu, hỷ, xả: Khổ là Khổ Khổ, Lạc là Hoại Khổ, lạc chẳng thật. Vì sao? Lạc chẳng lâu dài, Khổ là dài lâu, Lạc là tạm thời, Ưu là lâu dài, Hỷ là ngắn ngủi, tạm bợ. Đời người sống trong ưu khổ, hoạn nạn, phải giác ngộ điều này. Đời này của chúng ta là như thế, phải biết là đời đời kiếp kiếp đều là như vậy. Đời sau còn mong làm người nữa hay chăng? Vẫn mong luân hồi trong lục đạo hay chăng? Lục đạo luân hồi giống như một con ốc vít, một mực vặn xuống, chẳng thể vặn lên trên được. Do đó, mỗi đời sau sẽ kém hơn đời trước, đời sau khổ hơn đời trước. Nếu quý vị hỏi: “Vì sao thầy nói chắc nịch như vậy, mỗi đời sau sẽ khổ hơn đời trước?” Thật ra, đạo lý này rất đơn giản. Chỉ cần quý vị tự nghiêm túc suy nghĩ, phản tỉnh. Chúng ta từ sáng đến tối, từ ngày đầu năm cho đến Ba Mươi tháng Chạp, khởi tâm động niệm nghĩ tưởng những gì? Chúng ta mở miệng bèn nói gì? Chúng ta làm những gì? Quý vị biết ngay. Ba nghiệp chúng ta tạo thiện nhiều hay làm ác nhiều? Nếu ba nghiệp tạo ác nhiều hơn thiện, đời sau chẳng bằng đời này! Nếu như ba nghiệp của chúng ta tạo thiện nhiều hơn ác, đời sau nhất định tốt đẹp hơn đời này. Tiêu chuẩn của thiện ác là ở chỗ nào? Lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội, đó là thiện. Lợi ích chính mình, lợi ích gia đình của ta, đó là ác. Vì thế, phàm đối với chuyện gì, nếu ý niệm đầu tiên là suy xét coi nó có lợi ích cho chính mình hay không; đó là đại ác, chẳng phải là chuyện tốt đẹp. Phải học theo Phật, Bồ Tát, khởi tâm động niệm bèn nghĩ tới hết thảy chúng sanh, chẳng nghĩ tới chính mình. Hiện thời, có mấy ai khởi tâm động niệm bèn nghĩ tới hết thảy chúng sanh, nghĩ đến đại chúng trong xã hội, chẳng nghĩ tới chính mình? Một người làm, đó là biệt nghiệp, biệt báo; mọi người cùng nhau tạo tác, sẽ là cộng nghiệp, cộng báo. Chuyện này phiền phức to tát.

 

(Sao) Thứ dĩ Phiền Não Trược phối Tưởng Ấm.

(Diễn) Thứ dĩ Phiền Não Trược phối Tưởng Ấm giả, kinh vân: “Hựu nhữ tâm trung ức thức, tụng tập, tánh phát tri kiến dung hiện lục trần. Ly trần vô tướng, ly giác vô tánh, tương chức vọng thành. Thị đệ tam trùng, danh Phiền Não Trược”. Thử tức thị dĩ Phiền Não Trược phối Tưởng Ấm dã. Dĩ tương chức vọng thành, thị tri kiến dữ lục trần tương chức, nhi vọng thành Tưởng Ấm. Ký thủ trước sở lãnh, tắc nhiễu loạn thậm tiền. Ký hồn chân tánh, tức danh Phiền Não Trược, khởi bất thị dĩ phiền não phối Tưởng Ấm?

()次以煩惱濁配想陰。

()次以煩惱濁配想陰者。經云。又汝心中憶識誦習。性發知見容現六塵。離塵無相。離覺無性。相織妄成。是第三重名煩惱濁。此即是以煩惱濁配想陰也。以相織妄成。是知見與六塵相織。而妄成想陰。既取著所領。則擾亂甚前。既渾真性即名煩惱濁。豈不是以煩惱配想陰。

(Sao: Kế đó, đem Phiền Não Trược ghép với Tưởng Ấm.

Diễn: “Kế đó, đem Phiền Não Trược ghép với Tưởng Ấm”: Kinh nói: “Lại do trong tâm ông nhớ tưởng, nhận biết, ôn luyện, tánh bèn dấy lên tri kiến hòa nhập sáu trần. Lìa trần thì không có tướng, lìa giác thì không có tánh, đan xen hư vọng mà thành. Đó là tầng thứ ba gọi là Phiền Não Trược”[90]. Đấy chính là đem Phiền Não Trược phối ứng với Tưởng Ấm. “Do đan xen hư vọng mà thành”, tức là tri kiến và lục trần đan quyện vào nhau, hư vọng tạo thành Tưởng Ấm. Do chấp trước những gì đã tiếp nhận, nên nó quấy nhiễu chân tánh mạnh hơn [những thứ Trược] trước đó. Do nó vẩn đục chân tánh, nên gọi là Phiền Não Trược. Há chẳng phải là đã ghép phối ứng Phiền Não Trược với Tưởng Ấm ư?)

 Đây cũng là chỉ rõ: Phiền não sanh từ vọng tưởng. Quý vị chẳng dấy vọng tưởng, lấy đâu ra phiền não? Phiền não là gì? Quá nhiều! Vô lượng vô biên. Đức Phật thuyết pháp, đã quy nạp phiền não thành hai mươi sáu loại, giống như hai mươi sáu món phiền não được nói trong Bách Pháp Minh Môn Luận. Trong hai mươi sáu món ấy, có sáu món được gọi là Căn Bản Phiền Não[91], những món khác được gọi là Tùy Phiền Não. Trong Tùy Phiền Não, có Đại Tùy Phiền Não, Trung Tùy Phiền Não, và Tiểu Tùy Phiền Não[92], tổng cộng hai mươi món. Đấy là hai mươi loại lớn. Lại quy nạp, sẽ là tham, sân, si trong Căn Bản Phiền Não, những món này được gọi là Tam Độc. Những thứ này độc địa nhất, chẳng có gì độc địa hơn. Bất cứ độc dược nào trong thế gian cũng đều chẳng thể sánh bằng ba điều này, thua kém quá xa, đơn giản là chẳng thể sánh bằng. Nay chúng ta đều đang trúng độc, lại còn trúng độc rất sâu. Vì thế, tiếp nhận Phật pháp khá khó khăn.

Phật pháp là pháp thanh tịnh, chắc chắn là tương phản với Tam Độc. Cổ đức tỷ dụ: Phật pháp là đề-hồ, đề-hồ là thức uống ngon nhất. Chúng ta dùng một cái chén để tiếp nhận đề-hồ. Cái chén ấy vốn để đựng thuốc độc. Thuốc độc chưa rửa sạch, đổ đề-hồ vào đó, đề-hồ cũng biến thành độc dược. Chuyện này ví như trạng huống học Phật của chúng ta trong hiện thời. Chúng ta đã tiếp nhận Phật pháp, nhưng đem chứa nó trong đồ đựng Tam Độc. Vì thế, Phật pháp vào trong tâm chúng ta bèn biến chất. Nó vốn là thanh lương, là vô thượng pháp bảo, tiến nhập cái tâm của chúng ta cũng biến thành Tam Độc. Có những kẻ càng học Phật, phiền não càng nặng nề. Hãy nên biết điều này, vì đồ chứa của họ chẳng sạch sẽ.

Vì thế, tu học Phật pháp thì học khởi đầu từ đâu? Học khởi đầu từ đoạn phiền não. Tứ Hoằng Thệ Nguyện dạy chúng ta trình tự tu học chẳng thể đảo loạn, chẳng thể điên đảo. Nhập Phật môn, điều thứ nhất là khuyên quý vị phát nguyện. Vì sao? Nguyện là động lực tu học, nó có thể thúc đẩy quý vị vĩnh viễn tinh tấn chẳng biếng nhác. Quý vị chẳng có nguyện lực, sẽ mệt mỏi, chán nản, sẽ thoái chuyển. Điều thứ nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, điều này là động lực. Vì sao quý vị chịu nghiêm túc nỗ lực tu học, chẳng sợ hết thảy khó khăn, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển? Do nguyện lực này thôi thúc quý vị.

Học bắt đầu từ nơi đâu? Học khởi đầu từ đoạn phiền não, “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Sau khi đã đoạn phiền não, mới có thể học pháp môn. Chẳng đoạn phiền não, chẳng thể học pháp môn. Từ xưa tới nay, tổ tổ tương truyền, đều dạy quý vị thâm nhập một môn. Thâm nhập một môn, nhằm mục đích nào? Nhằm đoạn phiền não. Nói cách khác, chỉ có một môn thì mới có thể tu tâm thanh tịnh. Quý vị có phiền não, tâm sẽ chẳng thanh tịnh. Dùng một môn để tu cái tâm thanh tịnh, bất luận tông phái nào hay pháp môn nào đều chẳng thể trái nghịch nguyên tắc này. Nguyên tắc này xuất phát từ Tứ Hoằng Thệ Nguyện, cho đến khi phiền não nhẹ nhàng, trí huệ tăng trưởng,  khi  ấy  bèn  có  thể “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”.

Kinh Hoa Nghiêm là một tấm gương tốt nhất [về chuyện “thâm nhập một môn”]. Thiện Tài đồng tử và chư đại Bồ Tát đã nêu gương và biểu diễn cho chúng ta thấy. Thiện Tài đồng tử ở trong hội của Văn Thù Bồ Tát, so với năm mươi ba lần tham học, hội ấy được gọi là “bổn hội” (hội gốc). Thiện Tài đồng tử tham phỏng Văn Thù Bồ Tát, thâm nhập một môn, đoạn phiền não. Phiền não đã đoạn, trí huệ mở mang, Văn Thù Bồ Tát cho Ngài đi tham học, đó gọi là “năm mươi ba lần tham học”. Tham học chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Chẳng đoạn phiền não, chẳng có tư cách tham học. Đã đoạn phiền não, trí huệ hiện tiền; khi ấy, bèn có tư cách tham học. Tham học chẳng đơn giản, chẳng phải là ai nấy hễ học Phật bèn có thể tham học, chẳng có lẽ ấy! Đây là nói rõ tầm quan trọng của việc đoạn phiền não, cũng như [nói rõ] phiền não đối với chuyện chướng ngại minh tâm kiến tánh có mức độ to lớn dường nào!

 

(Sao) Thứ dĩ Chúng Sanh Trược phối Hành Ấm.

(Diễn) Thứ dĩ Chúng Sanh Trược phối Hành Ấm giả, kinh vân: “Hựu nhữ triêu tịch sanh diệt bất đình, tri kiến mỗi dục lưu ư thế gian, nghiệp vận mỗi thường thiên ư quốc độ, tương chức vọng thành. Thị đệ tứ trùng, danh Chúng Sanh Trược”. Thử tức thị dĩ Chúng Sanh Trược phối Hành Ấm dã. Dĩ tương chức vọng thành, thị tri kiến dữ nghiệp vận tương chức, nhi vọng thành Hành Ấm, nhi khứ lưu giả hợp, hồn trược chân tánh, tức danh Chúng Sanh Trược, khởi bất thị dĩ Chúng Sanh Trược phối Hành Ấm?

()次以眾生濁配行陰。

()次以眾生濁配行陰者。經云。又汝朝夕生滅不停。知見每欲留於世間。業運每常遷於國土。相織妄成。是第四重名眾生濁。此即是以眾生濁配行陰也。以相織妄成。是知見與業運相織。而妄成行陰。而去留假合。渾濁真性。即名眾生濁。豈不是以眾生濁配行陰。

(Sao: Kế đó, đem Chúng Sanh Trược ghép với Hành Ấm.

Diễn: “Kế đó, đem Chúng Sanh Trược ghép với Hành Ấm”: Kinh nói: “Ông lại sáng tối sanh diệt chẳng ngừng, tri kiến thường mong ở trong thế gian, nghiệp vận thường đổi dời trong cõi nước, đan xen hư vọng mà thành. Đó là tầng thứ tư, gọi là Chúng Sanh Trược”[93]. Đây chính là đem Chúng Sanh Trược phối ứng với Hành Ấm. “Do đan xen hư vọng mà thành” tức là tri kiến và nghiệp vận đan xen, hư vọng tạo thành Hành Ấm, nhưng bỏ, giữ, giả hợp, vẩn đục chân tánh, bèn gọi là Chúng Sanh Trược. Há chẳng phải là dùng Chúng Sanh Trược phối ứng với Hành Ấm ư?)

“Hành” ở đây là tạo tác, Hành (行) là hành vi. Trong Phật pháp, thường nói là “tu hành”. Đối với Ngũ Uẩn, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chẳng nói tu Sắc, tu Tưởng, hoặc tu Thọ. Hằng ngày nói đến “tu hành”, chính là nhằm nói rõ: Trong năm loại lớn ấy, Hành hết sức trọng yếu. Nói với ai? Nói với bọn phàm phu chúng ta! Nói cách khác, hành vi của bọn phàm phu chúng ta chẳng kiểm điểm nhất, dễ phạm lỗi nhất. Vì thế, đức Phật đặc biệt đổ công dốc sức nơi chữ này, dạy quý vị phải tu hành. Đương nhiên là chúng ta hiểu rõ: Trong năm chữ ấy, tùy tiện nói một chữ, thảy đều bao gồm toàn bộ. Hễ nói “tu hành” thì bao gồm Sắc, Thọ, Tưởng trước đó, và bao gồm Thức sau đó.

Đây là nói với hàng phàm phu, hành trì chẳng thể không kiểm điểm. Đức Phật yêu cầu chúng ta phải nghiêm trì giới luật. Nghiêm trì giới luật là nói phối ứng với Hành Ấm. Tư tưởng, lời nói, hành vi tạo tác, khởi tâm động niệm của chúng ta đều phải tương ứng với giáo huấn trong kinh điển. Nói cách khác, giáo huấn trong kinh điển là tiêu chuẩn để chúng ta tu hành. Tuy chúng ta tu Tịnh Độ, tin tưởng Tịnh Độ, yêu thích Tịnh Độ, chúng ta có thể tiếp nhận, cũng nguyện sanh Tịnh Độ, nay vẫn chưa mong vãng sanh! [Nếu như] hiện tại đã mong vãng sanh, vậy thì đơn giản lắm! Một câu Phật hiệu A Di Đà Phật là được rồi, những thứ khác đều chẳng cần thiết. Vì hiện thời quý vị chẳng mong vãng sanh, cho nên tôi mới khuyên quý vị niệm kinh Vô Lượng Thọ. Quý vị phải hiểu đạo lý này! Hiện thời, [đã là] thật sự mong vãng sanh thì chẳng cần niệm kinh Vô Lượng Thọ, một câu Phật hiệu là được rồi.

Hiện thời, chẳng mong vãng sanh, vẫn còn lưu luyến thế giới này; do vậy, mới bảo quý vị đọc kinh Vô Lượng Thọ. Đọc kinh Vô Lượng Thọ nhằm dụng ý gì? Vun bồi cơ sở Giới, Định, Huệ của quý vị, khiến cho Tam Học Giới, Định, Huệ của quý vị tăng trưởng hằng ngày. Kinh niệm rất thuộc, nhớ kỹ từng câu rất minh bạch, trong cuộc sống, đối với khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, sẽ nghĩ trong kinh đức Phật đã nói như thế nào? Ta khởi ý niệm, ý niệm ấy có nên dấy lên hay chăng? Ta nói lời này, lời ấy có nên nói hay chăng? Ta có một tiêu chuẩn, tiêu chuẩn ấy chính là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ là A Di Đà Phật, chúng ta dùng A Di Đà Phật làm tiêu chuẩn để tu hành, như vậy thì trong tương lai, sẽ vãng sanh dễ dàng. Vì sao? Tâm nguyện giải hạnh của chúng ta tương ứng với A Di Đà Phật, há có lẽ nào chẳng vãng sanh? Không chỉ là được vãng sanh, mà phẩm vị còn nhất định rất cao. Đấy là mục đích của việc đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ.

Một bộ kinh sẽ chuyên chú dễ dàng, chuyên tâm niệm, tâm sẽ được thanh tịnh, có thể đoạn phiền não! Phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước chẳng cần đoạn, tự nhiên chúng sẽ giảm nhẹ, dùng phương pháp này để đạt tới “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”. Từ trên cơ sở này, đặt vững “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Trong một đời này, chúng ta chẳng có thời gian để tu học hết thảy các pháp môn, nhưng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, y báo và chánh báo ở bên đó đều đạt tới mức viên mãn rốt ráo. Vì thế, vô lượng vô biên pháp môn đều được hoàn thành trong hội của Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Chúng ta thực hiện hai nguyện đầu của Tứ Hoằng Thệ Nguyện trong hiện thời, đối với hai nguyện sau là “tu pháp môn, thành Phật đạo”, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ lại thực hiện. Như vậy thì sẽ ổn thỏa, thích đáng.

 

(Sao) Thứ dĩ Mạng Trược phối Thức Ấm.

(Diễn) Thứ dĩ Mạng Trược phối Thức Ấm giả, kinh vân: “Nhữ đẳng kiến văn nguyên vô dị tánh, chúng trần cách việt, vô trạng dị sanh. Tánh trung tương tri, dụng trung tương bối, đồng dị thất chuẩn, tương chức vọng thành. Thị đệ ngũ trùng, danh vi Mạng Trược”. Thử tức thị dĩ Mạng Trược phối Thức Ấm dã, dĩ tương chức vọng thành, thị nhất đồng, nhất dị, như kinh vĩ mật chức, nhi thành Thức Ấm. Nhi thức trụ mạng tồn, thức khứ mạng tạ, hồn trược chân tánh, tức danh Mạng Trược, khởi bất thị dĩ Mạng Trược phối Thức Ấm?

()次以命濁配識陰。

()次以命濁配識陰者。經云。汝等見聞元無異性。眾塵隔越無狀異生。性中相知。用中相背。同異失準。相織妄成。是第五重名為命濁。此即是以命濁配識陰也。以相織妄成。是一同一異。如經緯密織。而成識陰。而識住命存。識去命謝。渾濁真性。即名命濁。豈不是以命濁配識陰。

(Sao: Kế đó, đem Mạng Trược ghép với Thức Ấm.

Diễn: “Kế đó, đem Mạng Trược ghép với Thức Ấm”: Kinh nói: “Cái Thấy và cái Nghe của các ông vốn chẳng khác tánh, do các trần cách biệt mà không gì chẳng dường như là khác tánh. Luận theo tánh thì biết là [tánh của sáu căn] thông tỏ lẫn nhau [nên là tương đồng], xét theo Dụng thì chúng trái nghịch nhau, đồng và dị mất chuẩn định, đan xen hư vọng mà thành. Đấy là tầng thứ năm gọi là Mạng Trược”[94]. Đây chính là đem Mạng Trược phối hợp với Thức Ấm. “Do đan xen hư vọng tạo thành”: Một đồng, một dị, như sợi dọc và sợi ngang đan bện chặt chẽ, tạo thành Thức Ấm. Thức trụ, mạng còn; thức rời đi, mạng mất. Vẩn đục chân tánh, nên gọi là Mạng Trược. Há chẳng phải là đem Mạng Trược phối ứng với Thức Ấm ư?)

 Chúng ta là hữu tình chúng sanh, nói theo cách hiện thời thì là “động vật”. Con người thuộc loại động vật, thọ mạng của động vật do Thức [quyết định]. Người thế gian gọi Thức là “tinh thần”, dân gian Trung Hoa gọi Thức là “linh hồn”. Linh hồn lìa khỏi thân thể, thân thể này sẽ là xác chết. Thời gian tồn tại [của thân xác sau khi thức đã rời khỏi] rất ngắn ngủi, chừng mấy giờ hoặc một, hai ngày liền mục nát, còn có mùi thối! Con người có thể sống là do linh hồn ở trong nhục thể. Phật giáo chẳng gọi nó là “linh hồn”, mà gọi là Thức. Kinh nói là “thức thần”, Duy Thức nói nó chính là thức thứ tám, tức A Lại Da Thức. Nó “đến trước, đi sau”, đầu thai thì nó đến đầu tiên. Đến lúc chết, nó đi cuối cùng. Người đã chết, đã ngừng hô hấp, nhưng trên người còn có độ ấm, chứng tỏ A Lại Da Thức chưa rời đi. Nếu thức hoàn toàn rời khỏi, chẳng còn có độ ấm nữa. Đức Phật bảo chúng ta, sanh tử là đại sự trong đời người! Sau khi một người đã tắt hơi, nói thông thường, trong vòng tám tiếng đồng hồ, thức thần của người ấy hoàn toàn chưa lìa khỏi. Nói cách khác, nếu quý vị đụng chạm, sờ mó người ấy, tuy người ấy chẳng thể nói năng, vẫn nhận biết rõ ràng, rành mạch. Vì thức bao gồm tám thức, [các thức nơi] mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều lìa khỏi, [nhưng A Lại Da Thức vẫn còn]. Nói cách khác, [các thức khác] thảy đều chẳng khởi tác dụng, thức thứ tám là A Lại Da vẫn khởi tác dụng. Thông thường là sau tám tiếng đồng hồ, thức sẽ lìa khỏi, lúc ấy mới là thật sự đã chết. Các sách Sức Chung Tu Tri (những điều cần biết để giúp đỡ người lâm chung) và Sức Chung Tân Lương (hướng dẫn về sự giúp đỡ dành cho người lâm chung), đã căn cứ trên những điều được dạy trong kinh luận nhà Phật mà giảng giải chuyện này rất rõ ràng, chớ nên không biết. Quý vị hiểu rõ, sẽ có thể giúp đỡ người ấy. Sau khi người ấy đã chết, sẽ sanh đến chỗ tốt đẹp, chớ nên chướng ngại, gây khó khăn cho người ấy. Nếu khiến cho người ấy sân hận, khiến cho người ấy tham luyến; nói cách khác, quý vị giúp người ấy vào trong ba ác đạo. Quý vị tạo cái nhân ác đó, trong tương lai cũng phải hứng chịu quả báo ấy. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta tạo nhân, bất luận hữu ý hay vô ý, đều phải lãnh nhận quả báo, chẳng thể nói “vô ý thì sẽ không hứng chịu quả báo”, chẳng có lẽ ấy!

“Mạng”, nói thông thường là thọ mạng. Thọ mạng dài hay ngắn cũng là có nhất định, phải biết điều này. Ai định sẵn [thọ mạng] cho quý vị? Chính là những nghiệp thiện ác trong đời quá khứ quyết định, chẳng phải do vua Diêm La quyết định, cũng chẳng phải do Thượng Đế định đoạt, càng chẳng dính dáng gì đến Phật, Bồ Tát, hoàn toàn là tự làm, tự chịu. Cùng một đạo lý như vậy, vận mạng đã do sự tạo tác của chính mình mà định sẵn, đương nhiên là chính mình có thể sửa đổi. Tự làm thì nhất định là tự chịu, người khác chẳng thể giúp đỡ quý vị sửa đổi. Nếu người khác có thể giúp quý vị sửa chữa; hiện thời, chúng ta chẳng cần học Phật nữa! Chư Phật, Bồ Tát đại từ, đại bi, nhất định là sẽ sửa đổi rất tốt đẹp cho chúng ta. Nếu các Ngài chẳng thay chúng ta sửa chữa, [tức là] các Ngài chẳng từ bi. Vì vậy, Phật, Bồ Tát cũng chẳng có sức mạnh để sửa đổi cho chúng ta.

Chư vị hiểu đạo lý này, đối với những gã thầy bói xem tướng đoán mạng bình phàm trong xã hội đòi phê bát tự, đòi sửa đổi vận mạng cho quý vị, quý vị biết ngay là giả trất, chẳng thật! Nếu hắn thật sự có thể sửa đổi vận mạng, sao hắn không sửa đổi cho chính mình? Vì thế, người học Phật đầu óc phải tỉnh táo, đừng bị kẻ khác lừa gạt. Chư Phật, Bồ Tát giúp đỡ chúng ta, chỉ là nói rõ ràng chân tướng sự thật này, ngõ hầu bản thân chúng ta hiểu nên làm như thế nào. Liễu Phàm Tứ Huấn là một tấm gương tốt lành trong chuyện sửa đổi vận mạng. Chư vị hãy xem cho nhiều, đọc cho nhiều, sẽ hiểu rõ. Bất quá, cách sửa đổi của cư sĩ Liễu Phàm rất nhọc nhằn, là phương cách rất ngốc nghếch, chẳng phải là một phương pháp thông minh và rất nhanh chóng. Có cách nào thông minh, nhanh lẹ hơn hay không? Có chứ! Có [phương pháp để trong] một niệm mà từ phàm phu bèn thành Phật, tiên sinh Liễu Phàm làm sao có thể sánh bằng được, thua kém quá xa! Trong Phật pháp thường nói đến phương pháp này, đức Phật thường khuyên “phát nguyện”. Nếu nguyện lực của quý vị vượt trỗi nghiệp lực, nghiệp lực của quý vị chẳng khởi tác dụng, dùng nguyện lực thay thế [nghiệp lực] thì chính là “thừa nguyện tái lai”.

Chúng ta chẳng sửa đổi vận mạng được, là do đạo lý nào? Tuy chúng ta cũng phát nguyện, nguyện lực của chúng ta nhỏ bé, nghiệp lực to lớn. So sánh hai đằng, nghiệp lực áp đảo nguyện lực, nguyện lực chẳng khởi tác dụng, vẫn nghe theo sự chi phối của nghiệp lực. Nếu nguyện lực của chúng ta thật sự thanh tịnh, kiên cố, nguyện lực vượt trội nghiệp lực, nghiệp lực chẳng khởi tác dụng, nguyện lực khởi tác dụng.

 

Vì thế, sẽ là thừa nguyện tái lai. Không nhất định là sau khi đã sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mới thả chiếc bè Từ trở lại, cũng đúng là như thế, nhưng ngay trong hiện tiền, khi tâm niệm của ta vừa chuyển, nguyện lực của ta thật sự vượt trỗi nghiệp lực, ngay trong một niệm hiện tại, đã là “thừa nguyện tái lai”. Thừa nguyện tái lai thì thọ mạng dài hay ngắn tự tại, ở trong thế gian, muốn trụ bao nhiêu năm, bèn trụ bấy nhiêu năm, mong ra đi lúc nào, bèn đi lúc ấy. Đó gọi là “liễu sanh tử, đắc đại tự tại”. Chúng ta làm được chuyện này, chẳng phải là không làm được, vấn đề là quý vị có chịu làm hay không? Bộ kinh luận nào, pháp môn nào giảng chuyện này thấu triệt nhất, viên mãn nhất? Kinh A Di Đà.

Trong hết thảy các kinh, kinh A Di Đà bậc nhất. Trong hết thảy danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát, A Di Đà bậc nhất! Do vậy, nếu thật sự hiểu rõ, thật sự lý giải ý nghĩa của kinh, thật sự tin tưởng, y giáo phụng hành, mỗi cá nhân trong hiện tiền đều có thể dùng nguyện lực để chuyển đổi nghiệp lực, xác thực là đắc đại tự tại. Vì thế, trong hết thảy các pháp, đối với chuyện khó nhất, ngay cả vận mạng mà còn chuyển được, thì đối với những chuyện vặt vãnh khác, lẽ nào chẳng chuyển được? Thứ gì cũng đều chuyển được. Vấn đề sanh tử người ấy còn giải quyết được, thì những chuyện cùng quẫn, hanh thông, phú quý trong thế gian này sẽ đều là chuyện nhỏ nhặt như lông gà, vỏ tỏi, chẳng có chuyện gì không viên mãn! Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 279

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm tám mươi sáu.

 

(Sao) Ngôn bất dị giả, tiền nhất thuyết, tâm vô sơ tướng, tắc siêu Kiếp Trược, nãi chí vô Nghiệp Hệ Khổ, tắc siêu Mạng Trược, thị đoạn vô minh đẳng, danh Ngũ Trược đắc Bồ Đề dã. Hậu nhất thuyết, Sắc Ấm phá, tắc siêu Kiếp Trược, nãi chí Thức Ấm phá, tắc siêu Mạng Trược, thị phá Ngũ Ấm đẳng, danh Ngũ Trược đắc Bồ Đề dã. Vị thuyết thiểu thù, nhi nghĩa tắc đại đồng dã.

(Diễn) Vị thuyết sảo thù, nhi nghĩa tắc đại đồng giả, ly cửu tướng vô Ngũ Ấm, ly Ngũ Ấm vô cửu tướng, danh thù nhi thể nhất dã.

()言不異者,前一說,心無初相,則超劫濁,乃至無業繫苦,則超命濁,是斷無明等,名五濁得菩提也。後一說,色陰破,則超劫濁,乃至識陰破,則超命濁,是破五陰等,名五濁得菩提也。為說少殊,而義則大同也。

()說稍殊。而義則大同者。離九相無五陰。離五陰無九相。名殊而體一也。

(Sao: Nói là “chẳng khác”: Thuyết trước (tức thuyết phối hợp ba tế tướng và sáu thô tướng với Ngũ Trược), tâm không có tướng ban đầu bèn vượt thoát Kiếp Trược, cho đến chẳng có Nghiệp Hệ Khổ Tướng bèn vượt thoát Mạng Trược, đấy là đoạn những thứ như vô minh v.v… gọi là “từ trong Ngũ Trược đắc Bồ Đề”. Đối với thuyết sau, phá Sắc Ấm bèn vượt thoát Kiếp Trược, cho đến phá Thức Ấm bèn vượt thoát Mạng Trược, đó là do phá Ngũ Ấm bèn nói là “từ trong Ngũ Trược đắc Bồ Đề”. [Hai cách] nói sai khác đôi chút, nhưng ý nghĩa hầu như tương đồng.

Diễn: “Nói sai khác đôi chút, nhưng ý nghĩa hầu như tương đồng”: Lìa chín tướng (ba tế tướng và sáu thô tướng) chẳng có Ngũ Ấm, lìa Ngũ Ấm chẳng có chín tướng, danh tướng tuy sai khác, nhưng Thể là một).

Đoạn này nhằm giải thích câu “hoặc phối tam tế, lục thô, hoặc phối Ngũ Ấm, nghĩa diệc bất dị” (hoặc là phối ứng với ba tế tướng và sáu thô tướng, hoặc là phối ứng với Ngũ Ấm, ý nghĩa cũng chẳng khác) trong lời Sớ. “Tiền nhất thuyết” (thuyết trước) chính là [giải thích Ngũ Trược theo] ba tế tướng như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói, “hậu nhất thuyết” là phối ứng [Ngũ Trược] với Ngũ Ấm. Ba tế tướng và sáu thô tướng là huyễn giác, trong Chân Như bản tánh và cái tâm thanh tịnh, quyết định chẳng có những thứ ấy! Khoa học hiện thời đã khá tiến bộ, theo như các nhà khoa học quan sát, họ nhận thấy: Về căn bản, vật chất chẳng tồn tại. Các hiện tượng được sanh ra như thế nào? Đó là một loại dao động, [vật chất] là một hiện tượng dao động. Pháp Tướng Duy Thức nói: “Một niệm bất giác”, một niệm bất giác là dao động. Hễ bất giác bèn động, giác thì bất động. Do từ một niệm bất giác, mới có các hiện tượng ba tế tướng và sáu thô tướng phát sanh.

“Tâm vô sơ tướng” (Tâm không có tướng ban đầu): “Tâm” [ở đây] là chân tâm. Chân tâm chẳng có đầu hay cuối, cũng có nghĩa là “chẳng có quá khứ, hiện tại, vị lai”, chẳng có các hiện tượng ấy. Kinh Kim Cang có nói: “Mịch tam tâm bất khả đắc” (Tìm ba tâm chẳng thể được). Nó chẳng có trước sau; chẳng có trước sau bèn vượt thoát thời gian, “tắc siêu Kiếp Trược” (bèn vượt thoát Kiếp Trược). “Kiếp” là thời gian và không gian, [“siêu Kiếp Trược”] là đã vượt thoát [thời gian lẫn không gian]. “Nãi chí vô Nghiệp Hệ Khổ” (Cho đến chẳng có Nghiệp Hệ Khổ), Nghiệp Hệ Khổ (nỗi khổ gắn chặt với nghiệp) là quả báo, tức là điều cuối cùng trong sáu thô tướng. Hễ nói đến một mình Nghiệp Tướng, hoặc nói đến một mình Nghiệp Hệ Khổ, chính là đã bao gồm ba tế tướng và sáu thô tướng. “Nãi chí” (乃至) là từ ngữ diễn tả sự tỉnh lược, “tắc siêu Mạng Trược” (bèn vượt thoát Mạng Trược). Phải thật sự giác ngộ, triệt để giác ngộ, nhà Thiền nói là “đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, đã thấy chân tướng sự thật này. Kẻ chẳng có công phu như chúng ta vẫn sống trong thế gian huyễn hóa, dẫu cho các nhà khoa học hiện thời đã nói: “Không gian là vô hạn chiều”. Con người sống trong không gian ba chiều hoặc bốn chiều, cho đến năm chiều, sáu chiều, cho đến vô hạn chiều, toàn là huyễn hóa, đều chẳng chân thật. Chỉ cần không gian có số chiều hạn lượng, sẽ chẳng phải là thật, đều thuộc trong phạm vi của ba tế tướng và sáu thô tướng. Vượt thoát phạm vi ấy, sẽ gọi là Nhất Chân pháp giới. Các nhà khoa học hiện thời vẫn chưa phát hiện, cách nhìn và cách nói của họ vẫn chưa có ý vị của Nhất Chân pháp giới, nhưng đã khá khả quan.

“Đoạn vô minh”“Ngũ Trược đắc Bồ Đề” (Từ trong Ngũ Trược mà đắc Bồ Đề), có thể thấy Ngũ Trược và Bồ Đề chỉ là do một niệm giác hay mê mà sanh ra hai thứ cảnh giới bất đồng. Giác là Bồ Đề, mê là Ngũ Trược. Thuyết sau và thuyết trước có ý nghĩa tương đồng, [chỉ là] cách nói khác nhau. Thuyết trước nói theo ba tế tướng và sáu thô tướng, thuyết sau nói theo Ngũ Ấm. Ba tế tướng và sáu thô tướng là nói rõ: Sau khi chúng ta đã mê chân tánh, bèn biến hiện y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới; những lý luận, sự thật và quá trình ấy được nói rất cặn kẽ! [Luận định theo] Ngũ Ấm thì chỉ là nói về hiện tượng, Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chẳng nói sâu sắc, rõ ràng như ba tế tướng và sáu thô tướng. Nếu phá Ngũ Ấm thì cũng gọi là Bồ Đề. Phá Ngũ Ấm bằng cách nào? Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã dạy rất cặn kẽ!

 

(Sớ) Quán Kinh vân: “Trược ác bất thiện, ngũ khổ sở bức”. Kim bất ngôn ngũ khổ giả, văn tỉnh dã.

(Diễn) Trược ác bất thiện giả, Trược  giả  Ngũ  Trược, bất  thiện

tức thập bất thiện. Ngũ khổ vị ngũ đạo phi lạc cố.

()觀經云:濁惡不善,五苦所逼。今不言五苦者,文省也。

()濁惡不善者。濁者五濁。不善即十不善。五苦謂五道非樂故。

(Sớ: Quán Kinh nói: “Trược ác, bất thiện, bị năm nỗi khổ bức bách”. Nay chẳng nói đến năm nỗi khổ, tức là kinh văn tỉnh lược vậy.

Diễn: “Trược ác bất thiện”: Trược là Ngũ Trược, bất thiện chính là mười điều chẳng lành. Năm nỗi khổ có nghĩa là năm đường đều chẳng vui sướng).

Nếu muốn nói cặn kẽ, thật sự là chẳng thể nói trọn hết được! Vì thế, Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức giảng kinh, thuyết pháp cho đại chúng, đều phải luôn nêu ra những điều trọng yếu, cương lãnh, nhằm dạy chúng ta “từ một suy ra ba”. Người nói đỡ tốn công sức, mà người nghe cũng có chỗ lãnh ngộ, có chỗ hội nhập. Ở đây, [lời Sao] đã nêu lên hai câu “trược ác bất thiện, ngũ khổ sở bức” (trược ác, bất thiện, bị năm nỗi khổ bức bách) trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Hai câu ấy đúng là “bằng một lời đã nói toạc tướng trạng của thế gian trong thời kỳ Mạt Pháp”. Các thứ thọ dụng trong cuộc sống của chúng ta trên thế gian này trong hiện thời xác thực là như Quán Kinh đã nói!

 

(Sao) Ngũ Khổ giả, Sớ vân: “Ngũ đạo chi khổ, hoặc Ngũ Thống, Ngũ Thiêu, Ngũ Ác đẳng, tường cụ Đại Bổn”. Tư bất phồn lục, dĩ trược tất hữu khổ. Cử trược cai khổ, cố viết văn tỉnh.

(Diễn) Ngũ đạo chi khổ giả, địa ngục thiêu chử khổ, ngạ quỷ cơ hư khổ, súc sanh đồ cát khổ, nhân gian bát chủng khổ, thiên thượng ngũ suy khổ. Thử sơ dĩ ngũ đạo phi lạc, thích ngũ khổ dã. Hoặc Ngũ Thống, Ngũ Thiêu, Ngũ Ác đẳng giả, Ngũ Ác vị sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngữ, ẩm tửu. Ngũ Thống tức Ngũ Ác chi hiện tại hoa báo. Ngũ Thiêu tức Ngũ Ác chi tam đồ quả báo. Thử thứ dĩ ngũ tội chiêu báo, thích ngũ khổ dã.

()五苦者,疏云:五道之苦,或五痛五燒五惡等。詳具大本,茲不繁錄,以濁必有苦,舉濁該苦,故曰文省。

()五道之苦者。地獄燒煮苦。餓鬼飢虛苦。畜生屠割苦。人間八種苦。天上五衰苦。此初以五道非樂。釋五苦也。或五痛五燒五惡等者。五惡謂殺生。偷盜。邪婬。妄語。飲酒。五痛即五惡之現在花報。五燒即五惡之三塗果報。此次以五罪招報。釋五苦也。

(Sao: Năm nỗi khổ, giải rằng: Nỗi khổ trong năm đường, hoặc là năm điều đau đớn, năm điều thiêu đốt, năm điều ác v.v… được nói tường tận trong kinh Đại Bổn. Ở đây, do rườm rà, chẳng sao lục. Bởi lẽ, do Trược bèn có Khổ. Nêu lên Trược để bao hàm Khổ; vì thế, nói là “văn tỉnh lược”.

Diễn: “Nỗi khổ trong năm đường”: Địa ngục khổ vì bị đốt nấu, ngạ quỷ khổ vì đói khát, súc sanh khổ vì bị mổ chặt, nhân gian có tám nỗi khổ, cõi trời khổ vì năm tướng suy. Đây chính là trước hết, dùng [sự thật] năm đường đều chẳng vui để giải thích năm nỗi khổ. Còn như năm điều đau đớn, năm điều thiêu đốt, năm điều ác v.v… Năm điều ác chính là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu. Năm điều đau đớn chính là hoa báo của năm điều ác trong hiện tại. Năm điều thiêu đốt là quả báo của năm điều ác trong tam đồ. Đây là kế đó, dùng chuyện “do năm tội mà chiêu cảm báo” để giải thích năm nỗi khổ).

 “Tỉnh” (省) là tỉnh lược. Nay các đồng học đọc đoạn văn tự này, phải nên có ấn tượng khá sâu đậm. Vì chúng tôi đã từng giảng bản chú sớ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật của Thiện Đạo đại sư, và đối với bộ Diệu Tông Sao của Thiên Thai Trí Giả đại sư, tuy chúng tôi chẳng giảng toàn bộ, nhưng đã giảng bản tiết lục bộ Diệu Tông Sao của pháp sư Đế Nhàn, [cho nên các đồng tu] cũng rất quen thuộc đối với những phần văn tự này. Ngũ Thống là hoa báo, tức là các nỗi đau khổ mà chúng ta phải chịu trong hiện tiền. Vì sao nói là Ngũ Thống? Do năm loại nhân lớn mà cảm vời năm loại quả báo lớn này. Ngũ Thiêu là quả báo. Nói theo Phật pháp, Ngũ Thống là hoa báo, trước nở hoa, sau kết quả. Ý nghĩa này cũng nhằm bảo cho chúng ta biết rõ ràng: Hoa báo là báo trong hiện đời, quả báo là trong đời sau. Đời sau là khổ báo trong tam đồ. Đặc biệt dùng chữ Thiêu (燒), nói thật ra, Thiêu là quả báo trong địa ngục. Bất luận địa ngục thuộc loại hình nào cũng đều là một vùng biển lửa.

Ngũ Ác là nhân. Ngũ Ác là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Chư vị phải hiểu: Những điều này tương phản với Ngũ Giới. Người gây tạo năm thứ ác ấy, bèn cảm vời quả báo Ngũ Thống và Ngũ Thiêu. Người thế gian chẳng biết chân tướng sự thật này, chẳng biết lợi hại. Nay gây tạo năm thứ ác nghiệp ấy, người ta trong khi tạo tác, trọn chẳng nghĩ năm thứ ấy là ác nghiệp, cứ nghĩ năm thứ ấy là bình thường. Đó chính là mê hoặc, điên đảo. Tâm tạo tác hết sức sôi nổi, hết sức mạnh mẽ, cảm vời quả báo cũng hết sức rõ rệt. Đối với những quả báo ấy, nếu đầu óc chúng ta hơi tỉnh táo một chút, sẽ có thể thấy được, vì quả báo ấy quá nhanh chóng. Nhanh chóng nhất là chưa đầy một năm, hai năm, ba năm, năm năm, Ngũ Thống và Ngũ Thiêu hiện tiền, chúng ta thường có thể thấy được. Đương nhiên là thông thường đối với những người học Phật, do đã được Phật pháp un đúc, tâm địa khá thiện lương, đối với hết thảy tạo tác, đều biết thâu liễm, chúng ta chẳng thể nói là không có Ngũ Thống và Ngũ Thiêu, nhưng nhẹ ít hơn kẻ bình phàm. Thế nhưng chư vị phải hiểu: Những thứ ấy vẫn gây chướng đạo. Nói theo con đường của chúng ta trong hiện thời, chúng chính là chướng ngại cho việc mong cầu vãng sanh Tịnh Độ.

Trong kinh luận, các vị tổ sư đại đức đều dạy chúng ta: Thật sự vãng sanh thì điểm then chốt chính là một sát-na lâm chung; trong sát-na ấy, tâm địa phải sáng suốt, rõ ràng. Nhất tâm bất loạn là công phu [phải tu tập] trong thường nhật thì tới sát-na lâm chung, tâm sẽ chẳng điên đảo. Kinh Di Đà nói “tâm chẳng điên đảo” là nói lúc lâm chung. Một niệm khi lâm chung chẳng điên đảo, quyết định được vãng sanh. Chúng ta thấy mấy ai có thể giữ cho đầu óc rất sáng suốt, tỉnh táo, chẳng mê hoặc tí nào khi lâm chung? Đó là đại phước báo. Cổ nhân nói Ngũ Phước[95], phước thứ năm là chết an lành. Cái gọi là “chết an lành” chính là tỉnh táo, sáng suốt. Người như vậy, dẫu không niệm Phật, chẳng cầu vãng sanh, cũng chẳng bị đọa trong ác đạo. Phải biết: Đọa vào ba ác đạo là hồ đồ, mờ mịt đi vào, chẳng phải là tỉnh táo, sáng suốt mà đi vào đó. Tỉnh táo, sáng suốt, chắc chắn sẽ ở trong hai đường trời, người; quý vị có thể niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, quyết định vãng sanh. Chúng ta biết đạo lý này, biết chân tướng sự thật này, đối với lợi, hại, được, mất, từ ngày nay trở đi, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, phải nghiêm trì giới luật. Ngũ Giới là giới căn bản, chẳng cần tham nhiều[96]. Giữ gìn tốt đẹp năm điều ấy, chẳng có ai không vãng sanh. Đấy là cổ đức đã rủ lòng giáo huấn chúng ta “trì giới niệm Phật”. Thật sự làm được năm điều ấy, sẽ hữu ích to tát đối với chuyện vãng sanh. Nếu chẳng thể thọ trì năm điều ấy, dẫu niệm Phật tốt đẹp cách mấy, chúng (Ngũ Ác) sẽ gây chướng ngại, chẳng thể nắm chắc vãng sanh. Nghiêm trì giới luật thì mới thật sự nắm chắc vãng sanh.

 

(Sớ) Thử Ngũ Trược xứ, năng tự lập giả, diệc dĩ tiển hỹ, đắc thành Chánh Giác, ninh bất nan hồ? Thị vi đệ nhất trùng nan sự, minh tự lợi công đức bất khả tư nghị.

()此五濁處,能自立者,亦已鮮矣,得成正覺,寧不難乎?是為第一重難事,明自利功德不可思議。

(Sớ: Người ở trong Ngũ Trược mà có thể tự lập cũng đã là hiếm hoi lắm. Được thành Chánh Giác, há chẳng khó khăn ư? Đây là sự khó thuộc tầng thứ nhất, nói rõ: Công đức tự lợi chẳng thể nghĩ bàn).

Người ở trong đời ác Ngũ Trược mà có thể tự lập, chẳng dễ dàng! “Tiển” (鮮) là ít ỏi. Liên Trì đại sư bảo người như vậy đã là thiểu số. So sánh thời đại của Liên Trì đại sư và chúng ta trong hiện thời, sự trược ác của thời chúng ta vượt xa thời Ngài không chỉ gấp trăm lần. Do vậy có thể biết: Trong xã hội hiện thời, người có thể tự lập [hiếm hoi] như lông phượng, sừng lân, quá đỗi khó khăn!

 

(Sao) Tự lập giả, ngũ trược ác thế, nhân sanh kỳ trung, ngoại tắc thời thế chi sở bức não, nội tắc hoặc chướng chi sở oanh triền.

()自立者,五濁惡世,人生其中,外則時勢之所逼惱,內則惑障之所縈纏。

(Sao: “Tự lập”: Người sanh trong đời ác Ngũ Trược, ngoài thì bị thời thế bức bách khổ não, trong thì bị Hoặc chướng quấn trói).

 Thời cổ, nói kinh này khó lắm, vì sự trược ác [trong thuở ấy] nhẹ hơn chúng ta trong hiện thời rất nhiều, chẳng dễ cảm nhận cho lắm. Thông thường, họ cảm thấy xã hội rất an ổn, phong tục, tình người rất thuần hậu, cuộc sống xác thực là hạnh phúc mỹ mãn. Hiện thời chẳng phải vậy, dẫu giàu có, chúng ta thấy khá nhiều kẻ giàu có mà chẳng sung sướng. Dẫu địa vị rất cao, địa vị cao mà vẫn bị người khác nhục mạ, đúng là khổ chẳng thể nói nổi! Chúng ta sống trong hoàn cảnh này, thời thế bên ngoài bức bách, não hại chúng ta. Trong ấy, lại có hoàn cảnh nhân sự (các mối quan hệ giữa con người với nhau), Phật pháp thường nói là “oán tắng hội” (怨憎會: oán ghét mà cứ phải gặp gỡ). Chẳng phải là oan gia, không gặp gỡ! Cho đến thân tình như cha con, anh em, hiện thời đều ít thấy! Vì của cải, vì quyền lực, địa vị, mà cốt nhục tương tàn rất nhiều! Chẳng phải là thời cổ không có [những chuyện ấy], nhưng rất ít, hiện thời quá nhiều! Người hiện thời, [mối quan hệ] giữa con người với nhau là quan hệ lợi hại. Hôm nay, anh có lợi cho tôi, hai ta là bạn bè tốt; ngày mai, anh chẳng có lợi ích gì cho tôi nữa, gặp mặt bèn [làm như] không quen biết, coi như kẻ xa lạ. Đó là sự bức não trong hoàn cảnh nhân sự.

Hoàn cảnh vật chất cũng chẳng phải là ngoại lệ. Hiện thời, trên toàn thể địa cầu, hết thảy vạn vật đều bị ô nhiễm khá nghiêm trọng. Chúng ta sống trong thế gian, chẳng thể không ăn, chẳng thể không mặc quần áo, chẳng thể không uống nước; những thứ chúng ta uống, ăn thảy đều bị ô nhiễm, những thứ mặc trên thân đều có tác dụng phụ. Sự bức não nơi hoàn cảnh vật chất đã đạt tới trạng huống hết sức nghiêm trọng, có mấy ai giác ngộ? Mấy ai hiểu rõ?

“Nội tắc Hoặc chướng” (Bên trong thì là Hoặc chướng). “Hoặc” (惑) là mê hoặc, [tức là] đối với chân tướng sự thật, tiền nhân hậu quả chẳng biết một điều nào! Một mực mù quáng theo đuổi, nẩy sanh khá nhiều chướng ngại. Trong Phật pháp gọi những chướng ngại đó là Nhị Chướng hoặc Tam Chướng. Nhị Chướng hoặc Tam Chướng là nói quy nạp. Trong thì có mê hoặc, có chướng ngại, bên ngoài có những ác duyên. Đấy là hoàn cảnh sống của thân thể chúng ta trong hiện thời.

 

(Sao) Huống hồ thân thuộc Tứ Sanh.

(Diễn) Thân thuộc Tứ Sanh giả, noãn nhân tưởng sanh, thai nhân tình hữu, thấp dĩ hợp cảm, hóa dĩ ly ứng. Tình tưởng hợp ly cánh tương biến dịch. Sở hữu thọ nghiệp trục kỳ phi trầm.

()況乎身屬四生。

()身屬四生者。卵因想生。胎因情有。濕以合感。化以離應。情想合離更相變易。所有受業逐其飛沈。

(Sao: Huống hồ thân thuộc Tứ Sanh.

Diễn: “Thân thuộc Tứ Sanh”: Nhân của Noãn Sanh là do Tưởng sanh ra, nhân của Thai Sanh là do có Tình, Thấp Sanh là do hợp mà cảm vời, Hóa Sanh là do ly mà ứng. Do Tình, Tưởng, Hợp, Ly mà biến đổi, tất cả đều do thọ nghiệp mà thăng trầm).

Tứ Sanh là thai, noãn, thấp, hóa, tức là nói tới các hình thức sanh nở của hết thảy các hữu tình chúng sanh, có thể chia thành bốn loại lớn. Thân thể của chúng ta thuộc về Thai Sanh trong bốn loại lớn đó.

 

(Sao) Mạng tồn hô hấp.

()命存呼吸。

(Sao: Sanh mạng tồn tại trong hơi thở).

 Câu này nhằm nói mạng của chúng ta hết sức mong manh, yếu đuối, hoàn toàn chẳng kiên cố.

 

(Sao) Thị dĩ dục khiết thiên ô, cầu thăng phản trụy.

()是以欲潔偏汙,求升反墜。

(Sao: Do vậy, muốn thanh khiết mà lại thành ô uế, cầu thăng lên đâm ra bị đọa xuống).

“Khiết” (潔) là thanh tịnh. Chúng ta rất mong thanh tịnh, kết quả là như thế nào? Ô nhiễm càng sâu. Chúng ta mong mỏi vượt lên cao, kết quả ngược ngạo là đọa lạc. Mong muốn là một chuyện, kết quả lại là một chuyện khác, nguyên nhân ở chỗ nào? Chính là do “Hoặc chướng” như trong phần trước đã nói, chẳng biết hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng lìa khỏi mối quan hệ nhân quả. Tạo tác ác nhân mà mong được thiện quả, há có lẽ ấy? Chắc chắn là chẳng thể đạt được! Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác đều là Ngũ Ác, hy vọng chính mình được hạnh phúc, vui sướng, gia đình mỹ mãn, xã hội hòa hài, đó là điều chúng ta mong cầu, cầu kiểu nào cũng chẳng cầu được! Dùng đủ mọi phương pháp, thủ đoạn, cho đến [luồn lách những kẽ hở trong] pháp luật, đều chẳng đạt được. Nếu kẻ ấy liễu giải chân tướng sự thật, thực hiện từ nơi nhân duyên, sẽ có thể đạt được quả báo ấy. Hãy nên cầu theo cách nào? Đoạn ác, tu thiện, trì giới, niệm Phật, sẽ thật sự cải thiện được. Chúng ta muốn thanh khiết bèn được thanh khiết, cầu thăng tiến bèn thăng tiến, phải đổ công dốc sức từ chỗ này thì mới được.

 

(Sao) Năng ư thử trung, phân biệt thiện ác, trì giới, tu phước, tự lập ư nhân thiên chi vị giả, tiển hỹ!

()能於此中,分別善惡,持戒修福,自立於人天之位者,鮮矣。

(Sao: Có thể ở trong ấy, phân biệt thiện ác, trì giới, tu phước, tự lập nơi địa vị trong cõi trời người, hiếm lắm thay!)

Thiểu số! Chúng ta học Phật, thành tựu thấp nhất là đời sau chẳng đọa trong ba ác đạo, coi như quý vị suốt một đời này chẳng uổng công học Phật! Học Phật suốt cả một đời này, đời sau vẫn phải đọa trong ba ác đạo để thọ báo, quý vị đã uổng công học Phật pháp mất rồi, đã học sai bét mất rồi! Nhưng chúng ta quan sát kỹ lưỡng người học Phật trong thế gian này, người đi sai đường đông lắm, vẫn chẳng phải là thiểu số. Chuyện này rất đáng sợ! Chúng ta chẳng cần bận tâm dòm ngó người khác, hãy thường hồi quang phản chiếu để suy xét chính mình, đấy mới là thật sự có thọ dụng. Dò xét người khác thì có liên quan gì đến mình? Người ta thanh tịnh, đáng thăng lên cao hơn, hay đáng đọa xuống thấp hơn, chẳng có mảy may nào liên quan tới mình, điều khẩn yếu là phải tu sửa chính mình! Trong tu hành, điều quan trọng nhất là quý vị có năng lực “phân biệt thiện ác”, đấy là trí huệ. Liễu Phàm Tứ Huấn đã dạy chúng ta: “Sự có thật và giả”. Chúng ta nói đến Thiện thì Thiện có chân và giả, có thiên (lệch lạc) và viên (viên mãn), có lớn và nhỏ, có bán (một phần) và mãn (trọn vẹn), nói rất nhiều. Quý vị đọc kỹ [sẽ thấy] rất thú vị! Chúng ta học Phật là học theo chân Phật hay học theo giả Phật? Chúng ta học Phật là học theo bán Phật hay học theo mãn Phật? Chớ nên không biết! Tức là ở chỗ này, bèn phân biệt thiện ác, đó là trí huệ.

“Trì giới, tu phước”, mà nếu quý vị chẳng biện định thiện ác, giới do quý vị đã trì chắc chắn chẳng phải là thanh tịnh giới, phước do quý vị đã tu chưa chắc đã là phước báo chân thật. Gieo phước điền, quý vị gieo nơi đất lắm cát, hoặc gieo trên tảng đá, chẳng có thâu hoạch. Quý vị chẳng tìm thấy, chẳng trông thấy phước điền phì nhiêu nhất! Trì giới lẫn tu phước đều phải có huệ; chẳng có huệ, sẽ không được. Do vậy, có năng lực phân biệt thiện ác, [sau đấy] nghiêm túc trì giới, tu phước, người ấy quyết định có thể giữ vững thân người, đời sau sẽ hưởng phước trong hai đường nhân thiên. Đó là “tự lập ư nhân thiên chi vị” (tự lập nơi địa vị nhân thiên), [người như vậy] ít ỏi, chẳng nhiều cho mấy!

Đúng như thuở ấy, đức Thế Tôn ngự tại vườn Cấp Cô Độc. Khi [các cư sĩ] xây cất nhà cửa trong Cấp Cô Độc Viên, đức Phật trông thấy một tổ kiến trên mặt đất, bèn mỉm cười. Các đệ tử bèn hỏi: “Đức Phật cười chuyện gì? Vì sao phải cười chúng nó?” Đức Phật đáp: “Những con kiến này đọa làm thân kiến mãi cho đến nay đã trải qua bảy đức Phật nhập diệt, chúng nó vẫn làm thân kiến”. Nói thông thường, [thời gian để] một vị Phật [xuất thế] là ba A-tăng-kỳ kiếp, đã trải qua bảy vị Phật, tức là [trong suốt] hai mươi mốt A-tăng-kỳ kiếp, chúng nó vẫn chưa lìa khỏi thân kiến. Do chúng nó ngu si, chẳng phải là kiến có thọ mạng dài như thế, mà là chết đi, lại đầu thai làm thân kiến trong cái tổ ấy.

Chuyện này cho thấy: Quyết định chớ nên đi vào ác đạo! Đọa ác đạo dễ dàng, thoát khỏi ác đạo hết sức gian nan. Thọ mạng trong đường ngạ quỷ hoặc địa ngục còn dài hơn [thọ mạng trong súc sanh đạo]. Hỏi đến [tình trạng của] loài người, sau khi đã đánh mất thân người thì tỷ lệ lại được làm thân người sẽ là như thế nào? Đức Phật bốc một nhúm đất trên mặt đất, rồi vẩy đi, trong kẽ móng tay còn dính chút đất, đức Phật dùng ngay chuyện ấy để làm tỷ dụ: Đời sau vẫn có thể được làm thân người, giống như chút đất dính nơi móng tay, cho thấy tỷ lệ của cơ duyên ấy quá nhỏ!

Chúng ta nghe đức Phật thuyết pháp, sau đấy, lại tự nghĩ đến mình: Từ sáng đến tối chúng ta khởi tâm động niệm, nghĩ tưởng những gì? Chúng ta niệm gì? Chúng ta có thể niệm Ngũ Giới, Thập Thiện, có thể nghĩ lợi ích chúng sanh, đó là ý niệm nhân thiên. Chúng ta niệm tham, sân, si, niệm tổn người lợi mình, đó là ý niệm của ba ác đạo. Cứ so sánh mà xem, ý niệm nào nhiều? Ý niệm nào có sức mạnh to lớn? Đời sau, bản thân chúng ta sẽ đi về đâu, bèn biết rõ ràng, rành mạch, chẳng cần phải hỏi ai khác!

Kinh Đại Thừa thường dạy chúng ta: “Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, tưởng gì biến nấy! Mười pháp giới đều do tâm tưởng biến hiện. Thập Lục Quán Kinh khuyên chúng ta tưởng Phật, tưởng Phật bèn thành Phật. “Tưởng” (想) là trong tâm (心) thật sự có tướng (相). Trong văn tự Trung Hoa, “tưởng” (想) là trong tâm có tướng, Niệm (念) là cái tâm hiện tại. Chúng ta có thể tưởng niệm A Di Đà Phật, há lẽ nào chẳng sanh về Tịnh Độ? Có thể tưởng niệm A Di Đà Phật, đó là người có phước báo to bậc nhất trong thế gian và xuất thế gian, vì chẳng bao lâu nữa, người ấy sẽ thành Phật.

 

(Sao) Năng ư thử trung, thâm cụ vô thường, tu Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, tự lập ư Thanh Văn, Duyên Giác chi vị giả, ức hựu tiển hỹ.

()能於此中,深懼無常,修四諦十二因緣,自立於聲聞緣覺之位者,抑又鮮矣。

(Sao: Có thể ở trong ấy, sợ hãi vô thường sâu xa, tu Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, tự lập nơi địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, lại càng hiếm hoi hơn nữa).

Trong điều trước, đã được làm thân người mà chẳng đánh mất thân người, đã là rất khó. Đoạn thứ hai lại cao hơn đoạn trước một tầng. Đời sau, vẫn được hưởng quả báo trong cõi nhân thiên, thọ mạng của nhân thiên chẳng dài, có khổ, có lạc, chẳng phải là “không có khổ, thuần vui”. Có khổ, có lạc, đời sau vẫn phải sống cuộc đời như vậy ư? Vẫn phải hứng chịu những khổ nạn ư? Hứng chịu suốt một đời này vẫn chưa đủ ư? Nếu có sự giác ngộ ấy, người ấy nhất định sẽ nghĩ: “Ta phải lìa khỏi lục đạo”. Cách nghĩ ấy thông minh, chánh xác. Lìa khỏi lục đạo, “thâm cụ vô thường” (sợ hãi vô thường sâu xa), “vô thường” là sanh tử. Trong lục đạo, luôn luôn có sanh tử, chỉ là thọ mạng dài hay ngắn khác nhau mà thôi. Mọi người đừng tưởng thọ mạng trong cõi trời dài lâu! Thọ mạng của Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên là tám vạn đại kiếp, bọn phàm phu chúng ta thoạt nhìn, ngỡ là con số thiên văn, chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng chư vị phải hiểu rõ một sự thật: Thọ mạng của loài người chúng ta dài tới một trăm năm, những con phù du sống trên mặt nước từ lúc sanh ra cho đến khi chết đi chỉ có bảy, tám tiếng đồng hồ. Phù du nhìn thọ mạng một trăm năm của con người, há chẳng phải là giống như loài người chúng ta nhìn [thọ mạng] của Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên ư? Từ tỷ dụ ấy, quý vị bèn liễu giải trạng huống sự thật: Tuổi thọ dài lâu trên cõi trời chẳng đáng để hâm mộ! Loài phù du thấy con người trường thọ, chẳng khác chúng ta thấy cõi trời trường thọ! Tuy nói là dài, chúng ta vẫn có cảm giác là một sát-na đã trôi qua, cuộc sống trôi qua quá nhanh. Nhất định phải giác ngộ: “Sanh tử đáng sợ, vô thường nhanh chóng”! Nhất tâm nhất ý liễu sanh tử, thoát tam giới, tam giới là lục đạo. Cầu thoát lìa lục đạo luân hồi, làm như thế nào? “Tu Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên”, đó là phương pháp liễu sanh tử, thoát tam giới được dạy trong giáo pháp Tiểu Thừa. Có sự giác ngộ như vậy, người tu học nghiêm túc như vậy, “ức hựu tiển hỹ” (lại càng ít hơn), càng ít hơn so với loại trước!

 

(Sao) Nãi ư thử trung, vĩnh đoạn vô minh, cao siêu tam giới, nhi đắc ư Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, thị tắc đồng cư hỏa trạch, độc ngự bảo xa, cộng nịch ái hà, trác đăng bỉ ngạn. Khởi phi nhẫn nhân sở bất năng nhẫn, hành nhân sở bất năng hành, thử chi vị nan, thử chi vị tự lợi công đức bất khả tư nghị dã!

()乃於此中,永斷無明,高超三界,而得於無上正等菩提,是則同居火宅,獨馭寶車,共溺愛河,卓登彼岸。豈非忍人所不能忍,行人所不能行,此之謂難,此之謂自利功德不可思議也。

(Sao: Cho đến ở trong ấy, vĩnh viễn đoạn vô minh, vượt thoát tam giới cao tột, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, tức là cùng sống trong nhà lửa, mà riêng ngự xe báu, cùng chìm đắm trong sông Ái, riêng mình lên bờ kia. Há chẳng phải là nhẫn được những điều người khác chẳng thể nhẫn, hành được những điều người khác chẳng thể hành. Chuyện ấy gọi là Khó, điều này được gọi là công đức tự lợi chẳng thể nghĩ bàn).

Điều này so với điều trước càng khó hơn. Đây là trí huệ cao, kiến giải thấu triệt, biết thoát khỏi tam giới vẫn chưa phải là rốt ráo. Thật sự rốt ráo là gì? Phải “vĩnh đoạn vô minh” (vĩnh viễn đoạn trừ vô minh). Vĩnh viễn đoạn trừ vô minh là gì? Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, quá khứ, hiện tại, vị lai thảy đều hiểu rõ, thứ gì cũng đều chẳng mê, đó gọi là “đoạn vô minh”. Vô minh là chẳng hiểu rõ; đoạn vô minh là thảy đều hiểu rõ ràng, đều hiểu rành rẽ, trí huệ ấy mới được coi là viên mãn. “Cao siêu tam giới”: Chẳng phải là vượt thoát bình thường, mà là vượt thoát ở cấp độ cao. Đó là chuyện của Phật, Bồ Tát. “Nhi đắc ư Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề” (Mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề), câu này nói theo cách hiện thời, sẽ là “đạt trí huệ rốt ráo viên mãn, chẳng có gì không biết, chẳng có gì không hiểu rõ”. Người có tầm nhìn như vậy, có chí hướng như vậy, được gọi là “căn tánh Đại Thừa”, hoặc “căn tánh Bồ Tát”, họ học Bồ Tát đạo.

“Thị tắc đồng cư hỏa trạch” (Tức là cùng ở trong nhà lửa), nghĩa là ở cùng một chỗ với chúng ta trong hiện tại. Cõi này là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, thuộc đời ác Ngũ Trược. Chúng ta tuy sống chung với nhau, nhưng tâm và hạnh của chúng ta rốt ráo bất đồng. Suy nghĩ trong tâm phàm phu là vì tư lợi, tham, sân, si, mạn, trong tâm Bồ Tát là thanh tịnh, quang minh, lợi ích chúng sanh rộng rãi. Đó là kiến giải và tư tưởng của các Ngài chẳng giống lũ phàm phu chúng ta, ví như “độc ngự bảo xa” (riêng ngự xe báu) vậy.

Tiếp đó, lại có một tỷ dụ, “cộng nịch ái hà” (cùng chìm đắm trong sông Ái), Ái ở đây là tham, tức tham ái. Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Tham tương ứng với nước”. Vì thế, người ta khi tham ăn, bèn chảy nước miếng. Sân tương ứng với lửa, nên khi nổi giận thì mặt đỏ bừng, giống như bị lửa đốt, phát nóng! “Ái hà” là tham dục. Trong tham ái, người ấy có thể buông bỏ, chẳng tham, “trác đăng bỉ ngạn” (riêng lên bờ kia). “Khởi phi nhẫn nhân sở bất năng nhẫn” (Há chẳng phải là có thể nhẫn những điều người khác chẳng thể nhẫn), người khác chẳng thể nhẫn tham, sân, si! Bồ Tát thấy rõ ràng, thấy minh bạch, có chí nguyện to lớn, có mục tiêu và phương hướng chánh xác. Kẻ khác tham, Ngài chẳng tham. Kẻ khác sân hận, Ngài không sân hận, nhẫn được những điều kẻ khác chẳng thể nhẫn. Người thế gian mong muốn tiếng tăm, lợi dưỡng, tham cầu ngũ dục, lục trần, Bồ Tát thảy đều buông bỏ, trọn chẳng tiêm nhiễm. “Hành nhân sở bất năng hành” (Làm được những điều người khác chẳng thể hành): Người thế gian chẳng muốn làm, Bồ Tát thực hiện hằng ngày, nghiêm túc, nỗ lực, tinh tấn thực hiện. Bồ Tát làm gì? Đối với chính mình, bèn tu cái tâm thanh tịnh; đối với người khác, bèn đại từ đại bi, tận tâm tận lực giúp đỡ chúng sanh, chẳng mong được báo đáp. Người thế gian giúp đỡ người khác sẽ mong cầu được báo đáp, Bồ Tát chẳng cầu báo đáp. Đó là “hành nhân sở bất năng hành”. Khó lắm! “Thử chi vị tự lợi công đức bất khả tư nghị” (Điều này được gọi là công đức tự lợi chẳng thể nghĩ bàn), ở đây nói đến ba tầng [của sự khó khăn].

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh Thỉ Giác minh hồ Bổn Giác, thị ngã tán chư Phật nghĩa. Bổn Giác minh hồ Thỉ Giác, thị chư Phật tán ngã nghĩa.

(Diễn) Thỉ Giác minh hồ Bổn Giác đẳng giả, chư Phật cửu thành thị Bổn Giác nghĩa. Thích Ca kim thành thị Thỉ Giác nghĩa. Thỉ Giác tại triền viết Bổn. Bổn Giác xuất triền viết Thỉ. Thỉ Bổn bất nhị, thị Phật Phật hỗ tán nghĩa.

()稱理,則自性始覺冥乎本覺,是我讚諸佛義;本覺冥乎始覺,是諸佛讚我義。

()始覺冥乎本覺等者。諸佛久成是本覺義。釋迦今成是始覺義。始覺在纏曰本。本覺出纏曰始。始本不二。是佛佛互讚義。

(Sớ: Xứng Lý thì Thỉ Giác trong tự tánh ngầm hợp Bổn Giác chính là ý nghĩa “ta tán thán chư Phật”, Bổn Giác ngầm hợp Thỉ Giác là ý nghĩa “chư Phật tán thán ta”.

Diễn: “Thỉ Giác ngầm hợp Bổn Giác”: Chư Phật thành Phật đã lâu chính là ý nghĩa Bổn Giác. Phật Thích Ca nay mới thành Phật chính là ý nghĩa Thỉ Giác. Thỉ Giác ẩn trong phiền trược, nên gọi là Bổn. Bổn Giác thoát khỏi phiền trược, nên gọi là Thỉ. Thỉ và Bổn chẳng hai, đấy chính là ý nghĩa chư Phật tán thán lẫn nhau).

Chư Phật thành Phật đã lâu là ý nghĩa của Bổn Giác. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện “hiện tại mới thành Chánh Giác”, đó chính là ý nghĩa Thỉ Giác. Thỉ Giác và Bổn Giác là một, Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai. Đó là “tán Phật” hiểu theo phương diện xứng tánh. Cùng một đạo lý như vậy, Bổn Giác ngầm hợp Thỉ Giác chính là ý nghĩa chư Phật tán thán Phật Thích Ca.

 

(Sớ) Tự tánh Tịch nhi thường Chiếu, Chiếu nhi thường Tịch, thị Thích Ca Mâu Ni nghĩa.

(Diễn) Thích Ca nãi đại bi lợi sanh thị Chiếu nghĩa, Mâu Ni nãi đại trí minh Lý thị Tịch nghĩa. Tịch Chiếu đồng thời, thị Năng Nhân Tịch Mặc nghĩa.

()自性寂而常照,照而常寂,是釋迦牟尼義。

()釋迦乃大悲利生是照義。牟尼乃大智冥理是寂義。寂照同時。是能仁寂默義。

(Sớ: Tự tánh Tịch mà thường Chiếu, Chiếu mà thường Tịch, là ý nghĩa của Thích Ca Mâu Ni.

Diễn: Thích Ca chính là ý nghĩa Chiếu, tức là đại bi lợi lạc chúng sanh. Mâu Ni chính là ý nghĩa Tịch, tức là đại trí ngầm hợp Lý. Tịch và Chiếu đồng thời, chính là ý nghĩa của Năng Nhân Tịch Mặc).

Thích Ca Mâu Ni là danh hiệu của đức Bổn Sư. Chúng ta biết chư Phật, Bồ Tát chẳng có danh hiệu, danh hiệu là do tùy thuận chúng sanh mà kiến lập. Danh hiệu là tông chỉ và cương lãnh của sự giáo hóa chúng sanh. Trong thế gian này, trong khu vực này, đối với chúng sanh trong thời đại này, căn bệnh lớn nhất là thiếu khuyết tâm từ bi. Vì thế, trong sự dạy học, đức Phật dùng chữ Thích Ca. Thích Ca (Śakya) dịch sang nghĩa tiếng Hán là Năng Nhân (能仁), tức là nhân từ, dạy chúng ta đối đãi với hết thảy chúng sanh phải dùng lòng nhân từ. Kế đó, do tâm của chúng sanh trong thời đại này chẳng thanh tịnh, cho nên dùng danh hiệu Mâu Ni. Mâu Ni (Muni) có nghĩa là Tịch Mặc (寂默). Nói đơn giản, Tịch Mặc chính là tâm thanh tịnh. Có thể thấy: Danh hiệu chính là tông chỉ giáo học của lão nhân gia trong thời này, chốn này, dạy chúng ta đối với người khác phải từ bi, đối với chính mình phải thanh tịnh. Đó chính là ý nghĩa của danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

(Sớ) Tự tánh nhiễm nhi bất nhiễm, bất nhiễm nhi nhiễm, thị Ngũ Trược Bồ Đề nghĩa.

(Diễn) Ngũ Trược thị nhiễm nghĩa, Bồ Đề thị bất nhiễm nghĩa. Tùy duyên bất nhiễm, bất nhiễm tùy duyên, thị Ngũ Trược Bồ Đề nghĩa.

()自性染而不染,不染而染,是五濁菩提義。

()五濁是染義。菩提是不染義。隨緣不染。不染隨緣。是五濁菩提義。

(Sớ: Tự tánh nhiễm mà bất nhiễm, bất nhiễm mà nhiễm, chính là ý nghĩa của Ngũ Trược và Bồ Đề.

Diễn: Ngũ Trược có ý nghĩa là nhiễm, Bồ Đề có ý nghĩa chẳng nhiễm. Tùy duyên mà chẳng nhiễm, tuy chẳng nhiễm mà vẫn tùy duyên, đó là ý nghĩa của Ngũ Trược và Bồ Đề).

Tự tánh có thật sự bị ô nhiễm hay chăng? Chẳng có! Xác thực là chẳng có! Thành Phật chẳng ô nhiễm, nay chúng ta biến thành chúng sanh, tự tánh của chúng ta cũng chẳng bị ô nhiễm. Đó gọi là “nơi Phật chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm”, chẳng giảm thiểu chút nào! Nhiễm chẳng phải là thật. Nay chúng ta thấy nhiễm là có thật, Phật, Bồ Tát dạy chúng ta [nhiễm] chẳng phải là thật sự có. Chẳng phải là thật sự có, chuyện này là như thế nào? Kinh điển thường nói Diệu Hữu. Diệu Hữu là “có mà chẳng phải là có, chẳng phải là có mà có”, đó mới gọi là Diệu! “Có” là khi chúng ta dấy lên một vọng niệm bèn có; niệm mà được gọi là “vọng niệm”, có thể thấy nó chẳng phải là thật. Tưởng gọi là “vọng tưởng” thì nó chẳng phải là thật. Phía trước [những chữ ấy] đều thêm vào một chữ Vọng, nhằm chỉ rõ rành rành: Tưởng là vọng tưởng, niệm là vọng niệm, động là vọng động, từ trong hư vọng sanh ra những hiện tượng ấy. Vì thế, dường như là bị ô nhiễm, trên thực tế là bất nhiễm. Bản tánh bất nhiễm, nay thấy dường như bị ô nhiễm. Đó là ý nghĩa Ngũ Trược và Bồ Đề. Trược là [nhìn theo] phương diện nhiễm, Bồ Đề là [xét theo] phương diện bất nhiễm. Bát Nhã Tâm Kinh nói: “Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”, đối với ý nghĩa này, đã hiểu rõ triệt để, chiếu kiến Ngũ Uẩn đều là Không.

 

(Sao) Nhân cai quả hải, quả triệt nhân nguyên, tắc Thỉ Bổn bất nhị.

(Diễn) Nhân cai quả hải đẳng giả, nhân cai quả hải: Thỉ tức Bổn dã. Quả triệt nhân nguyên: Bổn tức Thỉ dã.

()因該果海,果徹因源,則始本不二。

()因該果海等者。因該果海。始即本也。果徹因源。本即始也。

(Sao: Nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân chính là Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai.

Diễn: “Nhân trùm biển quả” v.v…: Nhân trùm biển quả: Thỉ Giác chính là Bổn Giác. Quả tột nguồn nhân: Bổn Giác chính là Thỉ Giác).

Hai câu này là tổng cương lãnh. Ứng dụng vào hết thảy các pháp môn, bất luận là pháp thế gian hay Phật pháp, chúng đều là tiêu chuẩn, đều chẳng có mảy may sai lầm. Trong nhân có quả, trong quả có nhân. Khi chúng ta thọ báo, đó là tạo nhân, tạo nhân mà cũng đồng thời thọ báo. Ngũ Ác là tạo nhân, Ngũ Thống là hoa báo. Hoa báo là ngay trong khi quý vị đang tạo nhân bèn thọ quả báo. Ngũ Thiêu là quả báo càng nghiêm trọng hơn trong tương lai, nhưng trong quả báo Ngũ Thiêu, người ấy lại đang tạo nhân. Nhân quả luôn đan quyện vào nhau, chẳng thể tách bạch rõ ràng, chúng ta nhất định phải hiểu điều này. Tu hành chứng quả thành Phật, Thỉ Giác là nhân, Bổn Giác là quả. Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, trong Thỉ Giác có Bổn Giác, trong Bổn Giác cũng có Thỉ Giác. Vì thế, “Thỉ Bổn bất nhị” (Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai).

 

(Sao) Dụng bất ly Thể, Thể bất ly Dụng.

(Diễn) Dụng bất ly Thể, Năng Nhân tức Tịch Mặc. Thể bất ly Dụng, Tịch Mặc tức Năng Nhân.

()用不離體,體不離用。

()用不離體。能仁即寂默。體不離用。寂默即能仁。

(Sao: Dụng chẳng lìa Thể, Thể chẳng lìa Dụng.

Diễn: Dụng chẳng lìa Thể, Năng Nhân tức là Tịch Mặc. Thể chẳng lìa Dụng, Tịch Mặc chính là Năng Nhân).

Hai câu này nhằm giải thích đại ý trong đức hiệu của đức Thế Tôn. Tâm thanh tịnh là Thể, đại từ bi là Dụng. Thích Ca là đại từ bi, Mâu Ni là tâm thanh tịnh, có Thể và có Dụng. “Dụng bất ly Thể”: Đại từ bi xuất sanh từ cái tâm thanh tịnh. Vì thế, lòng từ bi ấy được gọi là Đại, Đại là gì? Bình đẳng, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng có điều kiện. Khi nó đang khởi tác dụng, chẳng có hết thảy phân biệt, chấp trước, tâm thanh tịnh hoàn toàn hiển lộ. Từ đại từ bi, hiển thị tâm thanh tịnh; từ tâm thanh tịnh sanh ra tâm đại từ bi. Thể và Dụng là một, chẳng hai. Vì thế, Thể và Dụng giúp đỡ lẫn nhau thành tựu, chúng ta phải hiểu chuyện này. Tu cái tâm thanh tịnh của ta như thế nào? Đại từ bi. Tu đại từ bi như thế nào? Tâm thanh tịnh.

 

(Sao) Tắc tịch chiếu đồng thời, bất nhiễm nhi nhiễm, nan khả liễu tri, thị Bồ Đề trầm mai Ngũ Trược.

()則寂照同時。不染而染,難可了知,是菩提沉埋五濁。

(Sao: Do vậy Tịch và Chiếu đồng thời. Chẳng nhiễm mà nhiễm, khó thể biết rõ, đó chính là Bồ Đề chôn vùi trong Ngũ Trược).

Chư Phật Như Lai “Tịch Chiếu đồng thời”. Tâm phàm phu, thậm chí là ác đạo, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng là Tịch Chiếu đồng thời. Vốn là bất nhiễm, vì có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nên “bất nhiễm mà nhiễm”. Lý ở trong ấy quá sâu, Sự quá phức tạp, quá nhiều, cho nên “nan khả liễu tri” (khó thể biết rõ). “Thị Bồ Đề trầm mai Ngũ Trược” (Là Bồ Đề chôn vùi trong Ngũ Trược), chân tánh lưu chuyển trong ngũ đạo (ngũ đạo chính là lục đạo), [đoạn này] cũng nhằm nói rõ vì sao [chúng sanh sẵn có Bồ Đề mà] biến thành chúng sanh trong lục đạo.

 

(Sao) Nhiễm nhi bất nhiễm, nan khả liễu tri, thị Ngũ Trược độc lộ Bồ Đề.

()染而不染,難可了知,是五濁獨露菩提。

(Sao: Nhiễm mà chẳng nhiễm, khó thể biết rõ, chính là Ngũ Trược riêng hiển lộ Bồ Đề).

 “Nhiễm nhi bất nhiễm” (Nhiễm mà chẳng nhiễm) là nói: Đối với người tu hành thì cũng là “nan khả liễu tri” (khó thể biết rõ). Lý và Sự đều hết sức sâu rộng. Người Tiểu Thừa đoạn Kiến Tư phiền não, vượt thoát tam giới luân hồi. Đại Thừa Bồ Tát phá vô minh, hiển lộ Pháp Thân, mãi cho đến khi viên mãn Vô Thượng Bồ Đề. Những lý ấy đều hết sức sâu xa, Sự hết sức rắc rối, phức tạp. “Thị Ngũ Trược độc lộ Bồ Đề” (Là trong Ngũ Trược, riêng hiển lộ Bồ Đề), La Hán và Bồ Tát vẫn chưa thành Phật viên mãn, nhưng ở trong Ngũ Trược, các Ngài giác ngộ, nên ở trong nhiễm mà chẳng nhiễm. Giống như kinh Hoa Nghiêm đã sánh ví: Ví như hoa sen, không chỉ là chẳng bị bùn lầy ô nhiễm, mà ngay cả nước cũng chẳng nhiễm. Hoa sen nở phía trên mặt nước. Đức Phật thường dùng chuyện này làm tỷ dụ. Bùn đất ví như lục phàm pháp giới, nước ví như tứ thánh pháp giới, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Hoa nở trên mặt nước, tức là vượt khỏi tứ thánh lục phàm. Đó là gì? Bất đắc dĩ, lại đặt cho nó một cái tên là Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới vượt lên trên mười pháp giới! Chư vị hiểu sự thật này, sẽ hiểu [vì sao] trong Thiền Tông thường nói: “Ma đến phải chém, Phật đến cũng phải chém”. Vì sao Phật đến mà cũng phải chém? Phật là mười pháp giới, phải hướng thượng “vô Phật, vô chúng sanh”, đó mới là pháp giới Nhất Chân bình đẳng. “Một” mới là thật, có thể thấy mười chẳng phải là thật. Chúng ta nhất định phải hiểu rõ, nhất định phải hiểu minh bạch điều này.

Đối với Phật, tông Thiên Thai nói Tứ Giáo, tức là có bốn loại Phật:

Tạng Phật, Thông Phật, Biệt Phật, Viên Phật. Chỉ có Viên Phật thuộc về Nhất Chân pháp giới, ba quả vị Phật khác đều là Phật trong mười pháp giới, chẳng phải là chân Phật! Tông Hiền Thủ nói Ngũ Giáo (Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên), nói cách khác là năm loại Phật, ngoài Viên Phật ra, những quả vị Phật khác cũng chẳng phải là chân Phật! “Thành Phật” là thành Phật loại nào? Chẳng thể không hiểu rõ ràng! Muốn thành chân Phật, tức là [thành] chân Phật trong Nhất Chân pháp giới, thưa cùng chư vị, chỉ có đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì mới có thể thật sự chứng đắc rốt ráo viên mãn Phật. Vì sao biết? Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy được chuyện này. Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát là trợ thủ đắc lực của Tỳ Lô Giá Na Phật, là Đẳng Giác Bồ Tát trong thế giới Hoa Tạng, các Ngài vẫn phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì sao? Thế giới Hoa Tạng là Nhất Chân pháp giới; thế giới Cực Lạc cũng là Nhất Chân pháp giới. Các Ngài phải sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới để thành Phật. Các Ngài chẳng thể thành Phật trong hội của Tỳ Lô Giá Na Phật, mà đến thành Phật trong hội của Di Đà Như Lai. Điều này nói rõ: Thành Phật trong hội của Tỳ Lô Giá Na Phật khó khăn! Đến chỗ của Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, thành Phật dễ dàng, rất nhanh chóng! Người ta bèn qua đó. Ngay cả hai vị đại Bồ Tát ấy mà còn phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới là nơi như thế nào? Chúng ta phải nên suy nghĩ cho nhiều, có còn phải đến đó hay chăng? Chẳng muốn đến đó, đúng là như xưa kia thầy Lý đã nói: “Phi ngu tức cuồng” (Chẳng phải là ngu thì tức là cuồng). Nói cách khác, đầu óc bất bình thường! Người bình thường thấy hiện tượng này, nghe kinh điển này, quyết định cầu vãng sanh.

 

(Sao) Cố tri thử Phật, bỉ Phật, đồng quy Tịch Chiếu chi tự tâm.

(Diễn) Cố tri hạ, ký vân Thỉ Bổn nhị giác, vi thử Phật, bỉ Phật, tịch chiếu tự tâm, vi Thích Ca Mâu Ni. Bất độc thử Phật thị tịch chiếu tự tâm. Thử Phật, bỉ Phật đồng quy tịch chiếu tự tâm. Thỉ Giác, Bổn Giác, tức Tịch Chiếu chi Thể cố.

()故知此佛彼佛,同歸寂照之自心。

()故知下。既云始本二覺。為此佛彼佛。寂照自心。為釋迦牟尼。不獨此佛是寂照自心。此佛彼佛同歸寂照自心。始覺本覺。即寂照之體故。

(Sao: Vì thế biết vị Phật này và vị  Phật  kia (mười  phương  Phật),

đều quy vào tự tâm Tịch Chiếu.

Diễn: Từ chữ “vì thế biết” trở đi, đã nói đến hai thứ giác là Bổn Giác và Thỉ Giác, đấy chính là vị Phật này, vị Phật kia. [Còn nói đến chuyện] tịch chiếu tự tâm thì chẳng riêng Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật này độc chiếu tự tâm, mà là vị Phật này và các vị Phật kia đều cùng quy vào tự tâm Tịch Chiếu, do Thỉ Giác và Bổn Giác chính là cái Thể của Tịch Chiếu vậy).

Không chỉ là “thử Phật, bỉ Phật”, “thử Phật” là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, “bỉ Phật” là mười phương thế giới hết thảy chư Phật. Nói thật ra, hữu tình chúng sanh trong mười pháp giới, có ai chẳng phải là “đồng quy tịch chiếu chi tự tâm”? Đều là như vậy. Chỉ là cái tâm Tịch Chiếu của phàm phu bị che phủ bởi một tầng chướng ngại. Nói theo Phật pháp, chướng ngại ấy chính là Sở Tri Chướng và Phiền Não Chướng, hai loại chướng ngại to lớn. Vốn là Tịch Chiếu, bị hai thứ chướng ngại ấy che trùm, dường như là bị ô nhiễm, trên thực tế là chẳng nhiễm. Chư Phật Như Lai chỉ là phá trừ hai thứ chướng ngại ấy mà thôi, khiến cho tự tâm Tịch Chiếu hoàn toàn hiển lộ.

 

(Sao) Phiền não, Bồ Đề, bất xuất ngộ mê chi nhất niệm.

(Diễn) Ký vân bất nhiễm nhi nhiễm, thị Bồ Đề Ngũ Trược nghĩa. Nhiễm nhi bất nhiễm, thị Ngũ Trược Bồ Đề nghĩa, tắc phiền não, Bồ Đề bất xuất ngộ mê nhất niệm.

()煩惱菩提,不出悟迷之一念。

()既云不染而染。是菩提五濁義。染而不染。是五濁菩提義。則煩惱菩提不出悟迷一念。

(Sao: Phiền não, Bồ Đề, chẳng ra ngoài một niệm ngộ hay mê.

Diễn: Đã nói là “bất nhiễm mà nhiễm” là ý nghĩa của Ngũ Trược trong Bồ Đề, “nhiễm mà chẳng nhiễm” là ý nghĩa Bồ Đề trong Ngũ Trược. Vì vậy, phiền não và Bồ Đề chẳng ra ngoài một niệm ngộ hay mê).

 “Phiền não” là mê, Bồ Đề là giác. Nói cách khác, bất giác bèn mê, chẳng mê bèn giác, chúng là một Thể, hai khía cạnh mà thôi. Do vậy, nói “mê và ngộ chẳng hai, phiền não tức Bồ Đề”, có ý nghĩa như vậy đó. Thể là một, nhưng Dụng khác nhau, [tức là] tác dụng chẳng giống nhau. Tác dụng của Giác là bình thường, tác dụng của Mê là sai lầm. Tác dụng của Giác là chư Phật, Bồ Tát phổ độ chúng sanh trong chín pháp giới. Tác dụng của Mê là hứng chịu những quả báo sanh tử luân hồi trong tam đồ lục đạo. Câu này cũng nhằm nói rõ sự bất đồng giữa phàm và thánh: Giác ngộ là thánh nhân, bất giác là phàm phu. Vì thế, có phiền não thì là phàm phu. Chuyển phiền não thành Bồ Đề, thì gọi là “chuyển phàm thành thánh”, chúng ta thường nói là “phá mê khai ngộ”.

 

(Sao) Bổn Sư tức ngã, ngã tức Bồ Đề, cập đắc Bồ Đề, thật vô sở đắc.

(Diễn) Ký thử Phật, bỉ Phật đồng quy tự tâm, phiền não Bồ Đề bất ly nhất niệm, tắc Bổn Sư tức ngã, ngã tức Bồ Đề. Ký ngã tức Bồ Đề, tức đắc Bồ Đề, thục vi năng đắc, thục vi sở đắc da?

()本師即我,我即菩提,及得菩提,實無所得。

()既此佛彼佛同歸自心。煩惱菩提不離一念。則本師即我。我即菩提。既我即菩提。則得菩提。孰為能得。孰為所得耶。

(Sao: Bổn Sư chính là ta, ta chính là Bồ Đề, và đắc Bồ Đề chính là thật sự không có gì để đắc.

Diễn: Đã là vị Phật này và các vị Phật kia đều quy vào tự tâm, [cho nên] phiền não và Bồ Đề chẳng lìa một niệm. Do đó, Bổn Sư chính là ta, ta chính là Bồ Đề. Ta đã là Bồ Đề, bèn đắc Bồ Đề. Cái nào là năng đắc (chủ thể chứng đắc), cái nào là sở đắc (đối tượng được chứng đắc) vậy thay?)

 Trong phần cuối, Tâm Kinh đã hoàn toàn phơi bày chân tướng, “vô trí mà cũng vô đắc”, đấy mới là chân tướng của sự thật. Ở đây nói là “thật vô sở đắc” (thật sự chẳng có gì để đạt được). Pháp Đại Thừa thường nói: “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc” (Viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ không có gì để đạt được). Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật đã nói điều này. Ở đây, mọi người phải đặc biệt lưu ý. “Bổn Sư tức ngã, ngã tức Bồ Đề”, chớ nên chỉ học theo hai câu ấy, sẽ biến thành cuồng huệ, cuồng vọng. Xét theo Lý thì [thật sự] là như vậy, nhưng nơi Sự, chúng ta vẫn còn thua kém một khoảng cách rất xa.

Nói theo Lý, chẳng sai! Thích Ca Mâu Ni Phật là ta, A Di Đà Phật cũng là ta, Tỳ Lô Giá Na Phật cũng là ta. Nơi Sự, chúng ta là phàm phu sanh tử, vẫn phải luân hồi trong lục đạo, là Phật, Bồ Tát ở chỗ nào? Thua kém rất xa! Ở đây, lại phải biết: Lý là một chuyện, Sự lại là một chuyện khác nữa! Lý và Sự chẳng tương ứng. Tương ứng thì tốt quá rồi, chúng ta có thành tựu, chứng quả. Phải như thế nào thì mới có thể tương ứng? Kinh này dạy chúng ta phương pháp thù thắng nhất, phương pháp xảo diệu nhất: “Tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ”. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, hai câu ấy bèn tương ứng. Chẳng thể thật sự tiến vào Tây Phương, hai câu ấy sẽ là nói theo Lý, chẳng mảy may dính dáng đến Sự. Phải hiểu rõ ràng, hiểu minh bạch điều này! Hôm nay chúng tôi nói tới chỗ này.

 

Tập 280

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm tám mươi chín:

 

(Kinh) Vị chư chúng sanh, thuyết thị nhất thiết thế gian nan tín chi pháp.

()為諸眾生。說是一切世間難信之法。

(Kinh: Vì các chúng sanh nói pháp này mà hết thảy thế gian khó tin).

 Chúng ta xem Liên Trì đại sư khai thị:

 

(Sớ) Tiền thị nhân trung nan sự, kim thị nan sự trung chi nan sự dã.

()前是人中難事,今是難事中之難事也。

(Sớ: Trong phần trước là nói đến chuyện khó trong loài người, còn đây là nói đến chuyện khó khăn nhất trong các chuyện khó).

Trong phần trước là nói đến những nỗi khó khăn trong việc đức Phật tu hành chứng quả nhằm đời ác Ngũ Trược. Tiếp theo đây, đức Phật lại nói rõ sự khó khăn trong việc hoằng pháp lợi sanh thuở Ngũ Trược ác thế, nhất là [hoằng dương] pháp môn Tịnh Tông.

 

(Sớ) Lương diêu Tịnh Độ pháp môn, nhất thiết thế gian chi sở nan tín.

()良繇淨土法門,一切世間之所難信。

(Sớ: Ấy là vì pháp môn Tịnh Độ là pháp khó tin trong hết thảy các thế gian).

Chúng ta phải đọc câu này nhiều lần, ghi nhớ kỹ càng; sau đấy, chúng ta tự hành, hóa độ người khác, khuyên họ tu Tịnh Độ, nếu gặp những chướng nạn, tâm chúng ta sẽ bình lặng. Không phải là chỉ trong thế gian này, pháp môn này là pháp khó tin, mà là trong “nhất thiết thế gian” (hết thảy các thế gian). Nói cách khác, trong mười phương hết thảy các cõi Phật, chư Phật Như Lai khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, tuyệt đối chẳng dễ dàng hơn Thích Ca Mâu Ni Phật khuyên nhủ chúng ta. Pháp khó tin này gần như là pháp khó tin chung cho trọn khắp pháp giới. Chúng ta thường nói điều này là “cộng nghiệp sở cảm” (do nghiệp chung cảm vời), chẳng phải là cộng nghiệp trên địa cầu này, [chẳng phải] là cộng nghiệp [của riêng] thế giới Sa Bà, mà là cộng nghiệp của mười phương ba đời hết thảy các cõi Phật. Nếu chẳng khó, há chẳng phải là mọi người thảy đều thành Phật, há còn có tam đồ lục đạo nữa ư? Có thể thấy nỗi khó khăn này là thật, chẳng giả!

 

(Sớ) Phật ư ác thế đắc đạo.

()佛於惡世得道。

(Sớ: Đức Phật đắc đạo trong đời ác).

Đây là đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

 

(Sớ) Phục ư ác thế thuyết thử pháp, dĩ độ chúng sanh, hựu nan trung nan dã.

()復於惡世說此法,以度眾生,又難中難也。

(Sớ: Lại còn nói pháp này trong đời ác để độ chúng sanh, đó là điều khó nhất trong các điều khó).

Nói pháp môn “niệm Phật thành Phật” này để độ chúng sanh là điều khó nhất trong các điều khó.

 

(Sớ) Thị vi đệ nhị trùng nan sự, minh lợi tha công đức bất khả tư nghị.

()是為第二重難事,明利他功德不可思議。

(Sớ: Đây là tầng khó khăn thứ hai, nói rõ công đức lợi tha chẳng thể nghĩ bàn).

Trong phần trước, đã nói rõ công đức tự lợi chẳng thể nghĩ bàn. Trong đoạn này, giảng rõ: “Công đức lợi tha chẳng thể nghĩ bàn”. Nếu chúng ta thật sự thấy thấu suốt, thấy thấu triệt đạo lý và chân tướng sự thật này, tín tâm và nguyện tâm của chúng ta đối với sự tu hành trong Tịnh Tông tự nhiên tăng trưởng, biết nhân duyên này thù thắng khôn sánh, rất khó gặp gỡ. Bài kệ Khai Kinh có câu “trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”. Cư sĩ Bành Tế Thanh bảo là “một ngày hiếm có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”. Nay chúng ta nghiễm nhiên gặp gỡ, may mắn ngần nào! Trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có pháp nào thù thắng, chẳng có chuyện nào đáng coi là may mắn hơn được! Trong sự may mắn ấy, làm thế nào để nắm vững cơ hội này hòng thành tựu viên mãn ngay trong một đời này, thì mới là chẳng cô phụ dịp gặp gỡ hiếm có khó gặp này, chẳng cô phụ nỗi khổ tâm thuyết pháp truyền đạo của chư Phật, tổ sư. Điều này cũng có nghĩa là công đức tự lợi và lợi tha chẳng thể nghĩ bàn, nay chúng ta đã đạt được.

 

(Sao) Ngôn nan tín giả, cử lược hữu thập.

()言難信者,略舉有十。

(Sao: Nói đến “khó tin”, nêu ra đại lược gồm mười điều).

“Khó tin”, nói khái quát, bèn có mười điều.

 

(Sao) Kim cư uế độ, tập cửu tâm an, sạ văn bỉ quốc thanh tịnh trang nghiêm, nghi vô thử sự, nan tín nhất dã.

()今居穢土,習久心安,乍聞彼國清淨莊嚴,疑無此事,難信一也。

(Sao: Nay sống trong cõi uế, do lâu ngày quen thói, tâm bèn cam chịu, chợt nghe nói cõi ấy thanh tịnh, trang nghiêm, bèn ngờ vực “chẳng có chuyện ấy”. Đó là điều khó tin thứ nhất).

Đây là chuyện khó tin thứ nhất. Chúng ta sống nhằm đời ác, nhưng [kể từ khi] chúng ta sanh ra, do luôn sống trong đời ác, đã dưỡng thành thói quen, đối với những hoàn cảnh trước mắt đã rất quen thuộc, rất thích ứng, chẳng cảm thấy cõi đời là trược ác. Đặc biệt là những kẻ trẻ tuổi trong hiện thời, chưa hề trải qua cuộc sống khổ nạn trong Đệ Nhị Thế Chiến xưa kia, [nghe nói tới những nỗi khổ nạn ấy] giống như nghe chuyện cổ tích, nghe người ta nói mà vẫn nửa tin nửa ngờ: “Há có chuyện ấy? Cũng có lẽ những người lớn tuổi đã đặt chuyện lừa gạt chúng ta”. Trên thực tế, từ vô lượng kiếp tới nay, chúng ta đã thoạt vào, thoạt ra, luân hồi trong lục đạo trược ác. Đúng là “tập cửu” (習久), “tập” (習) là tập quán. Chúng ta chấp nhận hoàn cảnh trược ác, về căn bản là chẳng có ý nghĩ thoát lìa. Chợt nghe đức Phật nói Tây Phương Cực Lạc thế giới “thanh tịnh, trang nghiêm”, nghe đức Phật nói kiểu ấy, bèn sanh khởi ngờ vực: “Há có thế giới ấy? Có phải là một cõi lý tưởng của người ta hay không? Thật sự có chuyện ấy hay không?” Chẳng thể tiếp nhận, cho là cách nói về Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng phù hợp hiện thực! Đây là điều khó tin thứ nhất. Thật ra, xác thực là Tây Phương Cực Lạc thế giới tồn tại, là chuyện chân thật. Chẳng tin tưởng thế giới Cực Lạc, chẳng mong cầu sanh, người ấy mới là thật sự coi nhẹ hiện thực. Tầm mắt quan sát hiện thực của kẻ đó quá ngắn ngủi, chỉ thấy hiện thực trong hoàn cảnh cư trụ hiện tại; hễ vượt ra ngoài một chút, sẽ chẳng thấy nữa!

 

(Sao) Túng tín bỉ quốc, hựu nghi thập phương Phật sát giai khả vãng sanh, hà tất định sanh Cực Lạc? Nan tín nhị dã.

()縱信彼國,又疑十方佛剎皆可往生,何必定生極樂?難信二也。

(Sao: Dẫu tin tưởng cõi ấy, lại nghi mười phương cõi Phật đều có thể vãng sanh, cớ gì cứ nhất định sanh về Cực Lạc? Đó là điều khó tin thứ hai vậy).

 Trong Phật môn có lắm kẻ như vậy đấy! Họ nghe kinh Phật, khóa tối mỗi ngày vẫn niệm kinh A Di Đà, nhưng chẳng mong cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Chúng ta thường thấy có kẻ phát nguyện cầu sanh về Di Lặc Tịnh Độ, có người phát nguyện cầu sanh về Dược Sư Tịnh Độ, có người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ của Tỳ Lô Giá Na Phật, rất nhiều! [Họ bắt bẻ]: Hết thảy chư Phật đều có Tịnh Độ, cần gì phải sanh về thế giới Cực Lạc? Đây là điều khó tin thứ hai!

 

(Sao) Túng tín đương sanh, hựu nghi Sa Bà chi khứ Cực Lạc thập vạn ức sát, vân hà cực viễn nhi đắc vãng bỉ? Nan tín tam dã.

()縱信當生,又疑娑婆之去極樂,十萬億剎,云何極遠而得往彼?難信三也。

(Sao: Dẫu tin là sẽ sanh về [Cực Lạc], nhưng lại nghi Sa Bà cách Cực Lạc đến mười ức cõi nước, lẽ nào lại có thể sanh về nơi hết sức xa xôi ngần ấy cho được? Đó là điều khó tin thứ ba).

Nghe nói Tây Phương Cực Lạc thế giới cách thế giới này mười vạn ức cõi Phật. Chúng ta biết một cõi Phật là một đại thiên thế giới. Trong quá khứ, có người nói: Một đại thiên thế giới là một hệ Ngân Hà như chúng ta hay nói trong hiện thời, một hệ Ngân Hà thì đã là quá lớn rồi. Các nhà khoa học hiện thời chẳng có cách nào phát hiện Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì sao? Ngoài mười vạn ức hệ Ngân Hà, khoa học kỹ thuật hiện thời chưa đạt đến, quá xa xôi! Đó là cách nói trước kia. Theo cách nói của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, một hệ Ngân Hà thật ra là một đơn vị thế giới, một đại thiên thế giới có bao nhiêu đơn vị thế giới? Có mười ức, tức là nói rõ: Mười ức hệ Ngân Hà mới là một đại thiên thế giới, trong ấy, lại còn cách xa mười vạn ức đại thiên thế giới [mới tới cõi Cực Lạc], lại càng chẳng thể nghĩ bàn, đã xa xôi lại càng xa xôi hơn. [Có những kẻ] nghe nói vậy bèn sợ hãi, tới khi nào thì mới có thể tới đó? Huống chi trong vũ trụ chẳng có ngằn mé, hễ góc độ sai lệch đôi chút, chẳng biết sẽ lầm lạc đến nơi nào? Tuy tin tưởng, vẫn chẳng dám phát nguyện vãng sanh. Đó là điều khó tin thứ ba.

 

(Sao) Túng tín bất viễn, hựu nghi bác địa phàm phu tội chướng thâm trọng, vân hà cự đắc vãng sanh bỉ quốc, nan tín tứ dã.

()縱信不遠,又疑博地凡夫罪障深重,云何遽得往生彼國,難信四也。

(Sao: Dẫu tin là chẳng xa, lại nghi [chính mình là] hạng phàm phu sát đất, tội chướng sâu nặng, làm sao có thể liền được vãng sanh cõi ấy. Đó là điều khó tin thứ tư).

 Đại chúng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là hàng Bồ Tát tu hạnh Phổ Hiền, ngẫm lại bản thân, nghiệp chướng sâu nặng, có thể nào ở cùng một chỗ với Bồ Tát cho được? Chính mình hình thành mặc cảm tự ty rất nặng, cảm thấy chẳng xứng với những vị Bồ Tát ấy. Do vậy, chẳng dám phát nguyện vãng sanh. Đó là điều khó tin thứ tư.

 

(Sao) Túng tín đắc sanh, hựu nghi sanh thử Tịnh Độ, tất hữu kỳ diệu pháp môn, đa chủng công hạnh. Vân hà đản trì danh hiệu, toại đắc vãng sanh? Nan tín ngũ dã.

()縱信得生,又疑生此淨土,必有奇妙法門,多種功行。云何但持名號,遂得往生?難信五也。

(Sao: Dẫu tin là được vãng sanh, lại nghi: Để sanh về cõi Tịnh Độ ấy, ắt phải có pháp môn kỳ diệu, nhiều thứ công hạnh. Lẽ đâu chỉ trì danh hiệu, bèn được vãng sanh? Đó là điều khó tin thứ năm vậy).

Chúng ta cũng thường gặp kẻ như vậy. Họ chẳng tin “do một câu danh hiệu bèn có thể vãng sanh, chẳng tin niệm một bộ kinh bèn có thể vãng sanh”, cho rằng: Nhất định là phải học rất nhiều pháp môn, đọc tụng rất nhiều kinh điển thì mới có thể vãng sanh. Kẻ ấy trọn chẳng biết chính mình đã nghĩ sai bét, học pháp môn cho lắm, đọc tụng kinh điển cho nhiều, tâm lực bị phân tán, chẳng thể đắc Niệm Phật tam-muội, chẳng thể thành tựu nhất tâm bất loạn, đâm ra chẳng thể vãng sanh! Đó là điều khó tin thứ năm.

 

(Sao) Túng tín trì danh, hựu nghi trì thử danh hiệu, tất tu đa lịch niên kiếp, nãi khắc thành tựu, vân hà nhất nhật, thất nhật, tiện đắc sanh bỉ? Nan tín lục dã.

()縱信持名,又疑持此名號必須多歷年劫乃克成就,云何一日七日便得生彼?難信六也。

(Sao: Dẫu tin tưởng trì danh, lại nghi trì danh hiệu ấy, ắt phải trải qua nhiều kiếp thì mới có thể thành tựu, lẽ đâu do một ngày hoặc bảy ngày [trì danh], bèn được sanh về cõi ấy? Đó là điều khó tin thứ sáu vậy).

Nói thật ra, đối với khá nhiều điều khó tin chẳng thể trách móc những kẻ ấy; trong đây, xác thực là có đạo lý rất sâu. Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đã dạy: Phàm những kẻ có thể nghe pháp môn này mà hoan hỷ, tin nhận, chẳng phải là phàm nhân, mà là do thiện căn trong vô lượng kiếp trong đời quá khứ đã chín muồi. Trong đời quá khứ, chẳng vun bồi thiện căn, dẫu được tiếp xúc, nhất định là có lắm nỗi khó tin ngần ấy. Nếu chúng ta tiếp xúc pháp môn này, xét thấy chính mình cũng có lắm nỗi khó tin dường ấy, chính mình phải phản tỉnh: Trong đời quá khứ, chúng ta đã vun bồi chẳng đủ thiện căn. Chẳng đủ thì trong đời này có thể bổ cứu. Tuy chẳng đủ, vẫn còn sai kém đôi chút, vậy thì trong một đời này phải càng thêm nỗ lực một phen, thiện căn, phước đức, nhân duyên bèn đầy đủ, bèn trọn vẹn. Nhất định là phải cậy vào đời này gặp gỡ thiện hữu, gặp được thiện duyên, giúp chúng ta kiến lập tín tâm, giúp chúng ta tăng trưởng tín tâm. Đó là điều tất yếu.

Chúng ta nhất định phải tin tưởng lời đức Phật giáo huấn trong kinh. Kinh đã nói rành mạch, rõ ràng: Từ một ngày cho đến bảy ngày có thể thành tựu. Chúng ta lại xem những chuyện được ghi chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện, từ một ngày cho đến bảy ngày vẫn có người thật sự thành tựu, chứng tỏ lời Phật dạy trong kinh chẳng sai. Họ có thể thành tựu, vì sao ta chẳng thể thành tựu? Nay chúng ta đọc kinh Phật, đức Phật chẳng tại thế, đọc kinh Phật giống như nghe đức Phật giáo huấn, ngôn giáo đấy! Những người niệm Phật trong đời sau, từ một ngày cho đến bảy ngày bèn vãng sanh, đó là “thân giáo”. Họ nêu gương cho chúng ta thấy, xác thực là biết trước lúc ra đi, không bệnh tật mà mất. Họ chẳng sanh bệnh, biết khi nào sẽ ra đi, trước khi ra đi mấy phút, vẫn làm lụng như thường lệ, thời gian đã tới, [bèn bảo người chung quanh] “ta phải đi”. Tiêu sái như thế đó, tự tại như thế đó! Đấy là thân giáo. Chúng ta nghe được, thấy được, lẽ nào vẫn chẳng tin tưởng ư? Vẫn chẳng tin, đúng là chẳng có cách nào hết, đúng là chẳng có thiện căn! Đối với lời khai thị của lão pháp sư Đàm Hư trong kỳ Phật Thất tại Hương Cảng, chúng ta đã nghe hiểu, thật sự tin tưởng, đời này quyết định được vãng sanh. Lão hòa thượng kể cho chúng ta nghe những câu chuyện vãng sanh, thật sự có những người ấy, thật sự có những chuyện ấy.

 

(Sao) Túng tín thất nhật đắc sanh, hựu nghi thất thú thọ sanh, bất ly thai, noãn, thấp, hóa, vân hà bỉ quốc tất thị liên hoa hóa sanh? Nan tín thất dã.

()縱信七日得生,又疑七趣受生,不離胎卵濕化,云何彼國悉是蓮華化生?難信七也。

(Sao: Dẫu tin bảy ngày bèn được vãng sanh, lại nghi chuyện thọ sanh trong bảy đường, chẳng ngoài [các phương cách] thai, noãn, thấp, hóa, cớ sao cõi ấy ắt là hóa sanh trong hoa sen? Đó là điều khó tin thứ bảy).

“Thất thú” (七趣: bảy đường) là như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật nói phàm phu thuộc trong tam giới, tức Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Tam giới có thể chia thành lục đạo, nhưng có lúc, đức Phật nói là ngũ thú (“ngũ thú” (五趣) là năm đường), [tức là] chẳng nhắc tới A Tu La đạo. Đối với A Tu La, kinh Lăng Nghiêm đã nói rất rõ ràng: Trừ địa ngục ra, trong bốn đường khác, đều có A Tu La. Cõi trời có A Tu La, nhân gian có A Tu La, trong súc sanh có A Tu La, trong ngạ quỷ có A Tu La. A Tu La trong quỷ đạo, chúng ta thường nói là chúng hại người, hết sức độc ác, tàn nhẫn. Ngạ quỷ chính là A Tu La trong quỷ đạo. Thuộc trong đường nào, sẽ nói gom vào đường đó, chẳng nói đơn độc. Nếu nói “lục đạo” thì [hễ nói đến] A Tu La đạo, chính là chuyên nói về A Tu La trong thiên đạo. Do vậy, ngũ đạo và lục đạo có cùng một ý nghĩa.

“Thất thú” là bảy đường, vì sao lại có thêm một đường? Thêm một đường là tiên nhân, nói những kẻ ấy thành một loại riêng. Thật ra, tiên nhân có thiên tiên, trong nhân gian có tiên nhân, trong súc sanh có tiên nhân. Súc sanh tu luyện [thành tiên], hồ tiên (hồ ly tinh) là tiên nhân trong súc sanh đạo. Chúng cũng có thần thông, cũng có thể biến hóa, [nói “thất thú” là] nói tiên đạo thành một đường riêng lẻ. Nói “lục đạo” thì tiên thuộc về đường nào, bèn nói gộp trong đường ấy, không nói đơn độc. Vì thế, nói là ngũ thú, lục đạo, hay thất thú, chính là gộp vào hay tách ra khác nhau, chứ nội dung chẳng khác gì nhau!

“Thất thú thọ sanh”, từ cõi trời, nhân gian, cho đến ba ác đạo là nơi thọ sanh của hữu tình chúng sanh, chúng ta nói thông tục là “đầu thai”. “Bất ly thai, noãn, thấp, hóa” (Chẳng lìa các cách thọ sanh bằng thai, trứng, sanh nơi ẩm ướt, hóa sanh), đó là bốn cách sanh nở. Có loài sanh nở bằng bào thai, bằng đẻ trứng, thấp sanh, hay hóa sanh. Đấy là hiện tượng trong thế giới này, chúng ta đã quen rồi. Kẻ ấy hoài nghi: Vì sao tất cả những ai vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, từ Đẳng Giác Bồ Tát cho đến chúng sanh trong địa ngục, hễ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới đều bình đẳng, thảy đều là hóa sanh trong hoa sen? Người bình phàm cứ nghĩ bất bình đẳng là đúng; hễ bình đẳng, liền [cảm thấy] quái lạ. Bồ Tát đã tu trong thời gian vô lượng kiếp, chúng ta khắp thân tội nghiệp, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, làm sao có thể bình đẳng với các Ngài cho được? Đấy là vì họ chẳng hiểu rõ đạo lý trong ấy. Vì thế, hễ đối với chuyện gì, nhất định là phải hiểu rất rõ ràng, rất thấu triệt, thì chúng ta sẽ chẳng có nghi hoặc, tín tâm mới có thể sanh khởi. Nguyện được kiến lập từ tín. Chẳng có lòng tin chân thật, quyết định là chẳng thể phát nguyện. Đấy là điều khó tin thứ bảy.

 

(Sao) Túng tín liên sanh, hựu nghi sơ tâm nhập đạo, đa thiệp thoái duyên, vân hà nhất sanh bỉ quốc, tiện đắc Bất Thoái? Nan tín bát dã.

()縱信蓮生,又疑初心入道,多涉退緣,云何一生彼國便得不退?難信八也。

(Sao: Dẫu tin hóa sanh trong hoa sen, lại nghi kẻ sơ tâm nhập đạo, sẽ vướng mắc nhiều duyên thoái chuyển, làm sao vừa sanh về cõi ấy liền đắc Bất Thoái cho được? Đó là điều khó tin thứ tám).

 “Sơ tâm nhập đạo”, đối với chân tướng sự thật, tợ hồ đã hiểu mà chẳng hiểu, chẳng thật sự hiểu rõ thấu triệt. Tâm kẻ ấy bị cảnh giới xoay chuyển, vẫn hoài nghi, bất định, lúc tiến, lúc lùi. Đây là một nhân tố quan trọng nhất khiến cho phàm phu học đạo rất khó thành công, tiến ít, lùi nhiều, tiến chậm chạp, lùi nhanh chóng, thành tựu hết sức gian nan. Hiện tượng này phổ biến trong thế gian. Nếu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ chẳng bị thoái chuyển. Điều này rất khó khiến cho kẻ khác tin tưởng. Thật ra, những vấn đề nghi hoặc khó tin ấy, nói thật thà, [là do] người ấy chẳng đọc kỹ kinh Vô Lượng Thọ và Tịnh Độ Ngũ Kinh, câu trả lời đều ở ngay trong đó. Thật sự niệm thuần thục, nghi vấn sẽ hoàn toàn chẳng còn nữa! Vì sao sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ bất thoái? Kinh đã dạy rất rõ ràng, quý vị sanh về nơi đó, những người ở chung quanh quý vị toàn là “chư thượng thiện nhân”. Đó là nhân tố thứ nhất thật sự khiến cho chẳng thoái chuyển. Chúng ta bị thoái chuyển là vì bị hoàn cảnh ảnh hưởng, tâm chuyển theo cảnh. Tây Phương Cực Lạc thế giới là cảnh giới thù thắng nhất. Hằng ngày, quý vị luôn bầu bạn cùng hàng Đẳng Giác Bồ Tát, có còn bị thoái chuyển hay chăng? Hiện thời, vây quanh chúng ta toàn là yêu ma, quỷ quái, dẫn dụ, mê hoặc chúng ta khởi tham, sân, si, mạn, cho nên mới bị thoái chuyển. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, vây quanh chúng ta là chư thượng thiện nhân, giúp đỡ chúng ta thành tựu đạo nghiệp. Đấy là một nhân duyên không thoái chuyển trọng yếu nhất.

Nhân duyên thứ hai, chúng ta ở trong thế gian này, do ăn, mặc, ở, đi lại chẳng dễ dàng, cứ phải bươn bả vì cơm áo, bị hoàn cảnh bức bách, [cho nên] dễ dàng thoái chuyển. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có những chuyện ấy, ai nấy đều có cuộc sống vật chất đại tự tại. Kinh đã nói rất rõ ràng, “nghĩ đến áo bèn được áo, nghĩ ăn bèn được ăn”. Hoàn cảnh sống của quý vị là “hết thảy thuận lòng mong muốn; nghĩ tới cảnh giới gì, cảnh giới ấy bèn hiện tiền”. Làm sao quý vị có duyên thoái chuyển cho được? Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhân duyên thoái đọa đã tiêu mất! Đấy chính là nhân tố thật sự khiến cho chẳng thoái chuyển.

 

(Sao) Túng tín bất thoái, hựu nghi thử thị tiếp dẫn độn cơ chúng sanh, thượng trí lợi căn, bất tất sanh bỉ, nan tín cửu dã.

()縱信不退,又疑此是接引鈍機眾生,上智利根不必生彼,難信九也。

(Sao: Dẫu tin tưởng bất thoái, lại nghi pháp này là để tiếp dẫn chúng sanh căn cơ ngu độn, chứ bậc thượng trí lợi căn chẳng cần phải sanh về đó. Đó là điều khó tin thứ chín).

Đây là điều khó tin thứ chín, chúng ta cũng thường thấy chuyện này. Có những kẻ thông minh, lanh lợi coi rẻ Tịnh Độ, cho rằng: “Đức Phật dùng Tịnh Độ để tiếp dẫn những bà cụ già chẳng có kiến thức. Chúng ta là những kẻ có học vấn, có trí huệ, thượng căn, lợi trí, chẳng nên học pháp môn dành cho hạng hạ căn này!” Họ rẻ rúng [Tịnh Độ], học Thiền, học Giáo, học Mật, nghĩ những pháp môn ấy là sở học của bậc thượng thượng căn. Đúng là họ chẳng hiểu! Căn tánh và trí huệ của họ có thể sánh bằng Văn Thù, Phổ Hiền hay chăng? Văn Thù và Phổ Hiền còn cầu sanh thế giới Cực Lạc, còn mong thấy A Di Đà Phật, [kẻ khinh rẻ Tịnh Độ] há chẳng phải là cuồng vọng ư?

 

(Sao) Túng tín lợi căn diệc sanh, hựu nghi tha kinh, hoặc thuyết hữu Phật, hoặc thuyết vô Phật, hoặc hữu Tịnh Độ, hoặc vô Tịnh Độ, hồ nghi bất quyết, nan tín thập dã.

()縱信利根亦生,又疑他經,或說有佛、或說無佛,或有淨土、或無淨土,狐疑不決,難信十也。

(Sao: Dẫu tin lợi căn cũng vãng sanh, lại ngờ kinh khác nói có Phật, hoặc nói chẳng có Phật, hoặc là nói có Tịnh Độ, hoặc là chẳng có Tịnh Độ, [cho nên] hồ nghi, chẳng quyết đoán. Đó là điều khó tin thứ mười).

Loại người này quá nửa là chẳng thân cận minh sư, chẳng có thiện tri thức thật sự chỉ dẫn. Họ nghe rất nhiều, xem rất nhiều, đầu óc đã rối tinh rối mù! Cho nên nghi vấn đối với Phật pháp đặc biệt nhiều, tạo thành chướng ngại rất lớn. Không chỉ là chẳng thể thành tựu nơi Tịnh Độ, mà bất luận tu pháp môn nào, thảy đều chẳng đạt được thành tựu.

 

(Diễn) Thập chủng nan tín, đại ước bất xuất cuồng ngu nhị bệnh.

()十種難信,大約不出狂愚二病。

(Diễn: Mười thứ khó tin, nói đại lược chẳng ra ngoài hai căn bệnh cuồng và ngu).

Thầy Lý thường nói: “Chẳng mong cầu sanh Tịnh Độ, chẳng phải là ngu thì chính là cuồng”.

 

(Diễn) Tiền bát hệ ngu giả cao thôi thánh cảnh cố bất tín.

()前八係愚者高推聖境故不信。

(Diễn: Tám loại trước là do kẻ ngu đề cao thánh cảnh cho nên chẳng tin).

 Kẻ ngu si chẳng dám tin tưởng.

 

(Diễn) Đệ cửu hệ cuồng giả miệt thị Tây Phương, cố bất tín. Đệ thập song kiêm nhị giả, dĩ ngu giả văn lý chi vô, cố nghi bất tín. Cuồng giả văn sự chi hữu, cố nghi bất tín.

()第九係狂者蔑視西方故不信。第十雙兼二者,以愚者聞理之無,故疑不信;狂者聞事之有,故疑不信。

(Diễn: Loại thứ chín là hạng người ngông cuồng miệt thị Tây Phương, nên chẳng tin tưởng. Loại thứ mười là kiêm cả hai, bởi kẻ ngu do nghe cái Không nơi Lý bèn nghi ngờ chẳng tin, kẻ cuồng do nghe cái Có nơi mặt Sự bèn nghi ngờ chẳng tin).

Đã ngu lại cuồng, chẳng có cách nào! Hai loại người này gặp pháp môn này cũng như chẳng gặp, kinh Phật thường gọi họ là “kẻ đáng thương xót”.

 

(Sao) Cố nan tín nhi viết “nhất  thiết  thế  gian”, thị  bất  đản  ác

đạo nan tín, nhi nhân thiên do hoặc nghi chi.

()故難信而曰一切世間,是不但惡道難信,而人天猶或疑之。

(Sao: Vì thế, khó tin mà nói là “hết thảy thế gian” là vì không chỉ là [chúng sanh trong] ác đạo khó tin, mà trời người vẫn còn nghi ngờ).

“Ác đạo” là nói tới ba ác đạo, ngu si; đức Phật vì họ nói pháp môn này, thật sự là quá khó khăn! “Nhân thiên” thông minh hơn ba ác đạo, có một chút trí huệ, đức Phật vì hàng nhân thiên tuyên dạy pháp môn này, người tin tưởng vẫn là thiểu số!

 

(Sao) Bất đản ngu mê nan tín, nhi hiền trí do hoặc nghi chi.

()不但愚迷難信,而賢智猶或疑之。

(Sao: Không chỉ là kẻ ngu mê khó tin, mà bậc hiền trí hãy còn ngờ vực).

Trong hai đường nhân thiên, kẻ ngu si chẳng dễ dàng tiếp nhận cho lắm. Có không ít những người thông minh, tài nghệ rất cao, vẫn khó tin tưởng pháp môn này, cũng rất khó tiếp nhận.

 

(Sao) Bất đặc sơ cơ nan tín, nhi cửu tu do hoặc nghi chi.

()不特初機難信,而久修猶或疑之。

(Sao: Không chỉ là kẻ sơ cơ khó tin, mà kẻ tu lâu hãy còn ngờ vực).

Người mới học Phật chẳng dễ dàng tiếp nhận, nhưng người học Phật suốt cả một đời vẫn chẳng thể tiếp nhận! Bất luận là tại gia hay xuất gia, kẻ tu học pháp môn khác bèn chẳng tin “niệm Phật có thể sanh về Tịnh Độ”.

 

(Sao) Bất đặc phàm phu nan tín, nhi Nhị Thừa do hoặc nghi chi. Cố viết “nhất thiết thế gian nan tín chi pháp”.

()不特凡夫難信,而二乘猶或疑之。故曰一切世間難信之法。

(Sao: Không chỉ riêng phàm phu khó tin, mà hàng Nhị Thừa hãy còn chẳng tin. Vì thế, nói là “pháp mà hết thảy thế gian khó tin”).

Nhị Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, bao gồm Quyền Giáo Bồ Tát.

 

(Sao) Kim ư thử thế diễn thuyết thử pháp, thị do nhập lõa hình chi quốc, tuyên thị oai nghi, đối sanh manh chi nhân, chỉ trần hắc bạch, thử chi vị nan.

()今於此世演說此法,是猶入裸形之國宣示威儀,對生盲之人指陳黑白,此之謂難。

(Sao: Nay ở trong đời này, diễn thuyết pháp này, ví như vào cõi nước của kẻ lõa lồ mà tuyên dạy oai nghi, đối với kẻ mù từ thuở lọt lòng mà chỉ bày đen trắng. Điều này được gọi là khó khăn).

Ở đây, đại sư nêu ra hai tỷ dụ, [nhằm hình dung] mức độ khó khăn giống như trong hai tỷ dụ đã nói:

1) Ví như đối với những người sống trong vùng đất lạc hậu, thân thể chẳng mặc quần áo, [họ tụ lại] ở đó vừa la hét vừa ca hát, những người dân lạc hậu ấy chẳng có giáo dục, chẳng có văn hóa, quý vị ở chỗ đó, nói với họ về chuyện lễ tiết, nói đến oai nghi, họ nghe xong ngơ ngác. Làm sao họ có thể nghe hiểu cho được? Đức Phật vì chúng ta tuyên nói Tây Phương Tịnh Độ, giống như ở trong vùng chưa khai hóa mà nói đến những nơi khác có nền văn minh bậc cao trên thế giới, trước nay họ chưa từng thấy, mà cũng chưa hề nghe nói tới, làm sao họ có thể tin tưởng cho được?

2) “Đối sanh manh chi nhân chỉ trần hắc bạch” (Đối với kẻ mù từ thuở lọt lòng mà chỉ bày đen trắng), “sanh manh” (生盲) là sanh ra đã mù. Quý vị nói với họ đây là đen, kia là trắng, họ chẳng có cách nào hiểu được, vì họ chẳng có kinh nghiệm ấy, chưa hề thấy qua!

 

(Sao) Thử chi vị lợi tha công đức bất khả tư nghị dã.

()此之謂利他功德不可思議也。

(Sao: Đấy là nói công đức lợi tha chẳng thể nghĩ bàn vậy).

Đức Phật vì hết thảy chúng sanh tuyên nói pháp môn này, công đức chẳng thể nghĩ bàn. Nói hết thảy các pháp, thì nói pháp môn Tịnh Tông khó tin nhất. Đối với pháp khó tin mà phải nói khiến cho người ta tin tưởng, chẳng phải là một chuyện đơn giản!

 

(Sớ) Hựu Pháp Hoa, Kim Cang giai vân nan tín, dữ thử đồng ý.

()又法華金剛皆云難信,與此同意。

(Sớ: Lại nữa, kinh Pháp Hoa và Kim Cang đều nói là khó tin, có cùng ý nghĩa với điều này).

Trong kinh Pháp Hoa và Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, đức Phật cũng nói đến pháp khó tin, ý nghĩa rất giống với ở đây.

 

(Sao) Pháp Hoa vân: “Dục linh chúng sanh, giai đắc văn tri nhất thiết thế gian nan tín chi pháp”. Hựu vân: “Thử kinh nan văn, tín thọ diệc nan”.

(Diễn) Dục linh chúng sanh, giai đắc văn tri nhất thiết thế gian nan tín chi pháp giả, thị Văn Thù cáo Di Lặc chi từ, vị: Tứ thập niên tiền sở thuyết, thừa thị tam thừa, tánh hữu ngũ tánh, nhân giai dị tín. Nhược thuyết tam thừa thị nhất thừa, ngũ tánh thị nhất tánh, nhân sở nan tín. Tầm thường đản thuyết “duy Phật nhất nhân độc đắc Chánh Giác”, kim viết “Tiểu Thừa La Hán giai đương tác Phật”, nhân sở nan tín. Tầm thường đản thuyết “tu hành tam kỳ, phương thỉ thành Phật”, kim viết “tức tâm thị Phật”, nhân sở nan tín. Kim dục thuyết thử nan tín chi pháp, dục linh chúng sanh đắc tri “tức tâm tức Phật, vô nhị, vô tam” chi chỉ, cố hiện tư thụy nhĩ.

()法華云:欲令眾生,皆得聞知一切世間難信之法。又云:此經難聞,信受亦難。

()欲令眾生。皆得聞知一切世間難信之法者。是文殊告彌勒之辭。謂四十年前所說。乘是三乘。性有五性。人皆易信。若說三乘是一乘。五性是一性。人所難信。尋常但說唯佛一人獨得正覺。今曰小乘羅漢皆當作佛。人所難信。尋常但說修行三祇方始成佛。今曰即心是佛。人所難信。今欲說此難信之法。欲令眾生得知即心即佛。無二無三之旨。故現斯瑞耳。

(Sao: Kinh Pháp Hoa nói: “Muốn khiến cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mà hết thảy thế gian khó tin”. Lại nói: “Kinh này khó nghe, tin nhận cũng khó”.

Diễn: “Muốn khiến cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mà hết thảy thế gian khó tin”: Chính là như lời ngài Văn Thù đã bảo ngài Di Lặc rằng: – Đối với những pháp đã nói trong bốn mươi năm trước, ‘thừa’ là ba thừa, tánh thì có năm tánh, ai nấy đều dễ tin tưởng. Nếu nói “ba thừa là một thừa, năm tánh là một tánh”, người ta sẽ khó tin. Thông thường, chỉ nói “một mình đức Phật đắc Chánh Giác”, nay nói “Tiểu Thừa La Hán đều sẽ thành Phật”, người ta khó tin. Thông thường, chỉ nói “tu hành ba A-tăng-kỳ kiếp mới thành Phật”, nay nói “tâm này chính là Phật”, người ta khó tin. Nay muốn nói pháp khó tin này, muốn khiến cho chúng sanh được biết đến tông chỉ ‘cái tâm này chính là Phật, chẳng có hai thừa, hoặc ba thừa’, vì thế, hiện tướng lành này).

“Pháp mà hết thảy thế gian khó tin” được nói trong kinh Pháp Hoa chính là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Đấy là một bộ đại kinh của Nhất Thừa Viên Giáo, cũng rất khó thể khiến cho hết thảy chúng sanh nghe xong bèn có thể tin tưởng, tiếp nhận. Đó là pháp khó tin. “Hựu vân: Thử kinh nan văn” (Lại nói: “Kinh này khó được nghe”), chữ “thử kinh” cũng chỉ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, vì chúng sanh khó tin, nên đức Phật ít nói. Nói ra, mọi người chẳng tin tưởng, cần gì phải nói? Cơ hội nghe pháp cũng rất ít, tin tưởng, thọ trì cũng rất khó.

Pháp môn Tịnh Tông này khó tin, vì sao đức Phật phải tuyên giảng nhiều lần? Tình hình khác nhau. Kinh Pháp Hoa nhằm uyển chuyển, mềm mỏng khuyên dụ chúng ta cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới; kinh này (kinh Di Đà) nhằm trực tiếp, thẳng thừng khuyên dạy chúng ta vãng sanh, mà bộ kinh này xác thực là pháp môn bậc nhất để độ hết thảy chúng sanh, đúng là vô thượng diệu pháp. Vì thế, bất luận quý vị tin hay chẳng tin, đức Phật đều nói cho quý vị. Dẫu chẳng tin, cũng đã gieo chủng tử Kim Cang trong A Lại Da Thức của quý vị. Vì thế, đức Phật nói nhiều lần, tuyên thuyết nhiều lượt. Các vị Bồ Tát, tổ sư đại đức làm theo đức Phật, cũng tuyên dương, phổ biến mạnh mẽ.

Ở Tân Trúc[97], có một vị xuất gia phát tâm chuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, nghe nói đã giảng mười một lần. Thầy ấy giảng một bộ kinh, mỗi ngày giảng một giờ, giảng hằng ngày, khó có lắm! Vị ấy đúng là đáng cho người khác tôn kính! Thâm nhập một môn, chẳng có ai không thành tựu! Theo sách vở ghi chép, các vị đại đức thuở trước, có vị chuyên môn giảng kinh A Di Đà, suốt đời giảng hai ba trăm lượt, đi khắp nơi tuyên giảng. Cận đại, chúng ta xem Niệm Phật Luận do lão pháp sư Đàm Hư giảng. Pháp sư có một đồ đệ quy y tại gia, tên là Trịnh Tích Tân, vốn làm nghề buôn bán. Về sau, khi đã học Phật, học hiểu kinh Di Đà, chẳng buôn bán nữa, chuyên môn đi giảng kinh A Di Đà. Xưa kia, tại vùng quê ở Đại Lục, chẳng có người giảng kinh, ông ta chỉ cần chỗ nào có người quen biết bèn đến đó. Ba người nghe cũng được, năm người nghe cũng được, chuyên môn giảng kinh A Di Đà. Về sau, ông ta vãng sanh, biết trước lúc mất, ngồi ra đi, tiêu sái, tự tại như vậy đó. Vì thế, học điều gì, bất luận là pháp thế gian hay xuất thế gian, thâm nhập một môn là đúng. Nếu quý vị không buông xuống được, điều này cũng muốn học, pháp kia cũng muốn học, suốt một đời này, quý vị chẳng thể thành tựu. Dẫu có thành tựu, cũng là loàng xoàng!

 

(Sao) Kim Cang Bát Nhã vân: “Văn thuyết thử kinh, tâm tức cuồng loạn, hồ nghi, bất tín”, nhi dĩ bất kinh, bất bố, bất úy, vi hy hữu. Bất kinh đẳng tức năng tín dã.

()金剛般若云:聞說此經,心即狂亂,狐疑不信,而以不驚不怖不畏為希有。不驚等即能信也。

(Sao: Kim Cang Bát Nhã nói: “Nghe nói kinh này, tâm liền cuồng loạn, hồ nghi, chẳng tin”, tức là coi kẻ chẳng kinh ngạc, chẳng sợ sệt, chẳng hoảng hốt là hy hữu. “Chẳng kinh ngạc v.v…” là có thể tin tưởng vậy).

Có thể nghe nói Bát Nhã rất sâu mà chẳng kinh ngạc, chẳng sợ hãi, đó là có tín tâm. Nếu chẳng có tín tâm, nghe xong, nhất định là sẽ lắc đầu, “há có cách nói kiểu ấy!” Nhất định là sẽ phản đối, đưa ra lời chống đối. Vì thế, [nghe kinh Bát Nhã mà chẳng kinh sợ], hết sức khó có!

 

(Sao) Kim kinh nan tín, đồng ư nhị kinh, hề khả khinh dã.

()今經難信,同於二經,奚可輕也。

(Sao: Kinh này khó tin giống như hai kinh ấy, há nên khinh rẻ ư?)

Kinh Di Đà khó tin, tuyệt đối chẳng kém kinh Pháp Hoa và kinh Kim Cang.

 

(Diễn) Thử kinh nan văn, tín thọ diệc nan. Thị  Pháp  Sư  phẩm,

Phật cáo Dược Vương chi từ.

()此經難聞。信受亦難。是法師品。佛告藥王之辭。

(Diễn: “Kinh này khó nghe, tin nhận cũng khó”: Chính là lời đức Phật bảo Dược Vương Bồ Tát trong phẩm Pháp Sư).

 Chính là phần kinh văn trong phẩm Pháp Sư của kinh Pháp Hoa. [Trong phẩm ấy], đức Phật bảo Dược Vương Bồ Tát [như vậy].

 

(Diễn) Cái dĩ hành Bồ Tát đạo giả, đắc kiến, văn, độc, tụng thị kinh, nãi năng thiện hành Bồ Tát chi đạo, cầu Phật đạo giả. Nhược kiến, nhược văn thị Pháp Hoa kinh, văn dĩ tín, giải, thọ trì giả, đắc cận A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố.

()蓋以行菩薩道者。得見聞讀誦是經。乃能善行菩薩之道。求佛道者。若見若聞是法華經。聞已信解受持者。得近阿耨多羅三藐三菩提故。

(Diễn: Ấy là vì người hành Bồ Tát đạo mà được thấy, nghe, đọc tụng kinh này, thì chính là người khéo hành đạo Bồ Tát, là người cầu Phật đạo. Nếu ai thấy, nghe kinh Pháp Hoa này, nghe xong bèn tin, hiểu, thọ trì, sẽ được gần Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Cái gọi là “hành Bồ Tát đạo”, nói theo cách hiện thời, sẽ là: Chúng ta sống theo cách sống của Bồ Tát thì gọi là “hành Bồ Tát đạo”. Tôi lại nói rõ chuyện này hơn một chút, tức là sống cuộc đời “giác chứ không mê”, có ý nghĩa này. Phải như thế nào thì mới có thể thực hiện được? Phải đọc kinh, phải cầu hiểu. Nếu áp dụng giáo huấn trong kinh vào cuộc sống hằng ngày, cuộc sống của chúng ta sẽ chẳng khác gì Bồ Tát, sẽ là cuộc sống của bậc giác ngộ. Trong hội Pháp Hoa, đức Phật bảo Dược Vương Bồ Tát nương theo kinh Pháp Hoa, nay chúng ta nói là nương theo kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, và kinh Quán Vô Lượng Thọ. Do đó, phải đọc kinh, phải cầu hiểu, phải hội quy đạo lý trong kinh về tự tánh, phải biến những giáo huấn trong kinh thành hành vi xử sự, đãi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Đó là “hành Bồ Tát đạo”, là sống cuộc đời Bồ Tát.

 

(Diễn) Văn thuyết thử kinh, tâm tức cuồng loạn, hồ nghi, bất tín giả.

()說此經。心即狂亂狐疑不信者。

(Diễn: “Kẻ nghe nói kinh này, tâm bèn cuồng loạn, hồ nghi chẳng tin”).

Kinh Kim Cang Bát Nhã nói như vậy.

 

(Diễn) Thử kinh phi Đại Thừa căn khí, bất năng trì tụng, sở cảm công đức, phi thường nhân khả văn. Văn tất hồ nghi bất tín, cái thử kinh chi nghĩa thú, dữ kỳ quả báo bất khả tư nghị cố dã.

()此經非大乘根器不能持誦。所感功德。非常人可聞。聞必狐疑不信。蓋此經之義趣。與其果報不可思議故也。

(Diễn: Kinh này nếu chẳng phải là căn khí Đại Thừa, sẽ chẳng thể trì tụng. Công đức cảm vời [do hành trì kinh này] chẳng phải là kẻ tầm thường có thể nghe được. Họ nghe xong, ắt sẽ hồ nghi, chẳng tin. Ấy là vì nghĩa thú trong kinh ấy cũng như quả báo của kinh ấy đều chẳng thể nghĩ bàn).

Đối với chuyện này, trong bộ sách Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, cư sĩ Giang Vị Nông đã nói thấu triệt nhất. Từ xưa tới nay, người giảng kinh chẳng muốn giảng kinh Bát Nhã, sợ mọi người nghe xong, chẳng nghe hiểu ý nghĩa chân chánh, hiểu lầm ý nghĩa, tổn hại quá lớn! Cư sĩ Giang Vị Nông nói: “Chớ nên vì mắc nghẹn mà bỏ ăn, vậy thì phải làm sao? Nhất định là phải giảng thấu triệt, giảng minh bạch, đừng nói sao khiến cho người ta nghe xong sẽ nẩy sanh kiến giải cong vạy, nẩy sanh hiểu lầm, phải tránh những chuyện đó”. Do vậy, bộ [Kim Cang Kinh] Giảng Nghĩa [của ông Giang Vị Nông] cũng giải thích rất rõ ràng. Người căn tánh Đại Thừa, hễ nêu lên một góc, họ bèn biết ba góc kia. Đó gọi là “nghe một, biết mười”, nói theo Phật pháp, sẽ là “nghe một, ngộ cả ngàn”. Vì thế, người ấy nghe xong bèn ngộ, chẳng phải là suy nghĩ loạn xạ. Người hiện thời coi suy nghĩ loạn xạ là khai ngộ, sai lầm mất rồi!

Chư vị phải hiểu, “ngộ” là chẳng thông qua phân biệt, chẳng thông qua nghiên cứu, suy tư. Đó là ngộ. Trong tâm bỗng dưng sáng suốt, bỗng dưng hiểu rõ, đó là khai ngộ. Nếu nghe xong, chúng ta còn phải suy nghĩ đôi chút, càng nghĩ càng hỏng bét, càng nghĩ càng trật lất, những thứ ấy chẳng thể suy tưởng được. “Mở miệng bèn trật, động niệm đã sai”. Vì thế, gọi là “chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn”, chẳng thể nghiên cứu, thảo luận. Đó là Phật pháp ở mức độ cao. Phật pháp ở mức độ trung hạ bèn có thể thảo luận, có thể tư duy.

Đối tượng của Phật pháp bậc cao là Pháp Thân đại sĩ, chúng ta thường nói là “bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ”. Kinh Kim Cang là sở học của các vị Pháp Thân đại sĩ. Tiêu chuẩn của các Ngài, người phá tứ tướng là đối tượng của kinh Kim Cang: “Nếu có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thì chẳng phải là Bồ Tát”, kẻ như thế chẳng phải là đối tượng của kinh Kim Cang. Đối tượng của kinh Kim Cang tối thiểu là phải phá tứ tướng. Vì thế, quý vị vừa nghe, vừa đọc, bèn có thể khai ngộ. Thuở ấy, Lục Tổ đại sư bán củi, ngẫu nhiên nghe có một người niệm kinh Kim Cang, Ngài đứng bên cạnh nghe, bèn khai ngộ. Vì sao? Ngài chẳng có tứ tướng; do đó, Ngài có thể khai ngộ. Chúng ta niệm hằng ngày, niệm suốt một đời, vẫn chẳng khai ngộ, do nguyên nhân nào? Chấp trước tứ tướng kiên cố. Chẳng khai ngộ, vừa đọc kinh vừa suy nghĩ loạn xạ, kẻ ấy suy đoán ý nghĩa chân thật của Như Lai, há lẽ nào hiểu được ý nghĩa chân thật của Như Lai? Bởi lẽ, tông chỉ và nghĩa thú của kinh chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Diễn) Dĩ bất kinh, bất bố, bất úy, vi hy hữu giả. Đại Thừa chi pháp, bổn tự nan tín, nan giải, phi Đại Thừa căn khí, tốt văn thị pháp, vị miễn kinh ngạc, nghi, phạ, úy cụ. Năng văn thị pháp, nhi bất úy cụ giả, thật vi hy hữu.

()以不驚不怖不畏為希有者。大乘之法。本自難信難解。非大乘根器。卒聞是法。未免驚愕疑怕畏懼。能聞是法。而不畏懼者。實為希有。

(Diễn: “Coi kẻ chẳng kinh ngạc, chẳng sợ sệt, chẳng hoảng hốt là hy hữu”: Pháp Đại Thừa vốn là khó tin, khó hiểu, chẳng phải là căn khí Đại Thừa, bỗng nghe pháp này, chưa tránh khỏi kinh ngạc, ngờ vực, sợ hãi, hoảng hốt. Có thể nghe pháp này mà chẳng kinh sợ, đúng là hiếm có).

 “Tốt văn thị pháp” nghĩa là đột nhiên nghe pháp môn này. Kinh Kim Cang được lưu hành phổ biến nhất tại Trung Hoa. Người Hoa nghe niệm kinh Kim Cang dường như chẳng có ai sợ hãi. Đó có phải là nghe rồi đều có thể tin hay không? Chưa chắc! Vì sao họ chẳng sợ hãi? Vì họ chẳng hiểu ý nghĩa. Nếu thật sự giảng cho họ một lượt, họ nghe xong sẽ kinh hoảng!

 

(Sớ) Vấn: Ký vân nan tín, tắc thuyết vi cưỡng quát, hà dĩ thuyết vi? Đáp: Chung dĩ Phật thuyết, hữu tín giả cố.

()問:既云難信,則說為強聒,何以說為?答:終以佛說,有信者故。

(Sớ: Hỏi: Đã nói là khó tin, vậy thì nói ra sẽ là gượng ép lải nhải, cớ gì phải nói? Đáp: Trọn là vì đức Phật nói ra, sẽ có kẻ tin).

Đã là khó tin như thế, vậy thì quý vị nói ra, chẳng phải là quá miễn cưỡng ư? “Cưỡng quát” (強聒) có nghĩa là quá miễn cưỡng. Đã là miễn cưỡng, lại cần gì phải nói? Lời hỏi có ý nghĩa này. Lời đáp cũng rất hay. “Chung dĩ Phật thuyết, hữu tín giả cố” (Trọn là vì đức Phật nói ra, sẽ có kẻ tin). Tuy đại đa số mọi người chẳng tin, hãy còn có một ít người có thể tin. Dẫu là có một người có thể tin, vẫn phải nên nói. Vì người ấy có thể vãng sanh, bất thoái, thành Phật ngay trong một đời. Đấy là nhân duyên hy hữu. Không thể vì rất nhiều người không tin tưởng, mà cũng buông bỏ người ấy, đó là sai lầm! “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân” (Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai). Thuở đức Thế Tôn tại thế, trong pháp hội giảng kinh có nhiều người đến nghe ngần ấy, người thật sự đắc độ là thiểu số, người đến góp phần náo nhiệt chứ chẳng thể đắc độ không ít! Tới thời kỳ Mạt Pháp, người nghe kinh đông đảo, người thật sự đắc độ, có lẽ là một hoặc hai người! Chuyện này là sự thật. Tỏ rõ ý nghĩa “đại từ đại bi, chẳng bỏ một ai” như nhà Phật đã nói. [Hễ có] một người có thể tin thì phải nên nói.

 

(Sao) Nhân thuyết hữu tín giả.

()說有信者。

(Sao: Do nói mà có người tin).

Nói thì nhất định là có kẻ tin tưởng. Ở đây, chúng tôi giảng pháp khó tin này, trong giảng đường chẳng có một người tin tưởng, chẳng sao hết! Chúng ta truyền bá băng thâu hình này, cũng có lẽ sẽ có người khác nghe xong bèn tin tưởng. Người do nghe thuyết pháp từ băng thâu hình mà quay lại, thật sự tin tưởng niệm Phật, sanh về Tịnh Độ, tại Đài Loan, tại Đại Lục, tại Hoa Kỳ, tại Đông Nam Á, khắp nơi đều có. Do vậy, nhất định phải nói kinh này. Nói cặn kẽ thì nhất định là sẽ có người tin tưởng.

 

(Sao) Thử chi diệu pháp, nhược Như Lai tằng bất văn tuyên, tắc vạn cổ vĩnh đồng trường dạ, chung vô hữu nhân niệm Phật cầu sanh. Cố thán kỳ nan tín giả.

()此之妙法,若如來曾不聞宣,則萬古永同長夜,終無有人念佛求生,故歎其難信者。

(Sao: Diệu pháp này, nếu đức Như Lai chưa từng nói ra, ắt muôn đời vĩnh viễn giống như đêm dài, trọn chẳng có người nào niệm Phật cầu vãng sanh. Vì thế, than là “khó tin” vậy).

Tuy khó tin, đức Phật vẫn nói, lại còn tuyên nói nhiều lượt. Nếu đức Phật chẳng nói, chẳng người nào có thể biết đến pháp môn thù thắng như vậy, mà cũng sẽ chẳng có ai tu hành thành tựu ngay trong một đời. Đó là lòng đại từ đại bi của đức Phật.

 

(Sao) Kiến bất tín giả chi tự khí, năng tín giả chi hữu duyên.

()見不信者之自棄,能信者之有緣。

(Sao: Kẻ thấy pháp môn này mà chẳng tin, tức là tự mình ruồng rẫy chính mình; kẻ có thể tin, tức là người hữu duyên).

Nghe pháp này mà chẳng tin tưởng, tức là chính mình bỏ lỡ cơ hội thành Phật trong một đời này, quá đáng tiếc! “Năng tín giả chi hữu duyên” (Người có thể tin tưởng là kẻ hữu duyên): Kẻ có thể tin tưởng, bèn vãng sanh, bất thoái, thành Phật ngay trong một đời này, người ấy có duyên. Hai câu này có ý nghĩa rất sâu. Càng khẩn yếu hơn nữa là chúng ta phải thường dùng hai câu này để kiểm điểm chính mình: Chúng ta rốt cuộc có tin tưởng hay không? Có lẽ quý vị sẽ nói: “Tôi tin chứ!” Tôi lại hỏi: Quý vị có tin thật sự hay không? Tin thật sự tức là buông xuống vạn duyên! Nay quý vị trong tâm còn có khá nhiều phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, ưu lự, vướng mắc, lòng tin của quý vị chẳng phải là chân tín! Nếu quý vị thật sự tin Tây Phương là thế giới Cực Lạc, tuy quý vị chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đã nhiễm khí phận của Cực Lạc. Quý vị có thể cảm nhận cuộc sống hiện thời hết sức mỹ mãn, hết sức vui sướng hay chăng? Có thể cảm nhận điều ấy, có sự thọ dụng ấy, quý vị đã hưởng được khí phận của thế giới Cực Lạc.

Nếu quý vị còn có rất nhiều phiền não, ưu lự, vậy thì quý vị niệm Phật, nói cách khác, một tí lợi ích cũng chẳng đạt được, do nguyên nhân gì? Chẳng tin! Nếu chúng ta chia lòng tin thành mười phần, chúng ta chỉ có một phần hoặc hai phần, sức mạnh của lòng tin ấy quá mỏng yếu, chẳng có tác dụng. Đạt được năm sáu phần tín tâm, quý vị sẽ rất vui sướng, sẽ được thọ dụng. Quý vị có tám chín phần tín tâm, quyết định vãng sanh, chẳng còn nghi hoặc mảy may! Tín nguyện niệm Phật, công phu ở ngay trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Còn có một hình tượng rất rõ rệt, quý vị có thể thấy ngay trong cuộc sống hằng ngày: Người thật sự niệm Phật, thân tâm vui sướng, thân thể nhất định khỏe mạnh, tướng mạo nhất định viên mãn. Tướng mạo mỗi năm một dễ coi hơn, vì sao? Tâm thanh tịnh, bèn được Tam Bảo gia trì. Cả ba kinh đều nói mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai hộ niệm, gia trì. Chỉ có chân tín, tiếp nối khí phận, thì chúng ta sẽ thật sự đạt được sức gia trì ấy, chẳng có chướng ngại, hoàn toàn đạt được. Thể chất bèn biến hóa, biến đổi thể chất, biến đổi tướng mạo, tự nhiên là người ấy sẽ khác hẳn.

Người tu hành mà càng tu, thân thể càng kém, tướng mạo càng biến thành xấu xí hơn, có vấn đề to lớn đấy nhé! Từ chỗ này, có thể thấy được công phu của người tu hành. Chúng ta chẳng cần xem xét ai khác, hãy thường soi gương xem xét chính mình, xét coi chính mình mỗi năm sau so với năm trước có tiến bộ hay không. Mỗi năm sau so với năm trước, công phu của chính mình có đắc lực hay không? Điều này rất quan trọng. Vì thế, “bất tín giả chi tự khí, năng tín giả chi hữu duyên” (kẻ chẳng tin là tự ruồng rẫy chính mình, kẻ có thể tin là hữu duyên). “Chẳng tin” và “có thể tin” cũng chẳng phải là nói đến ai khác, đều là nói về chính mình.

 

(Sao) Linh nhất thiết chúng sanh bi thương tuyệt phần, nhi hân hạnh đắc văn cố.

()令一切眾生悲傷絕分,而欣幸得聞故。

(Sao: [Nói ra pháp khó tin] nhằm khiến cho hết thảy chúng sanh buồn tủi, [tiếc mình] chẳng có phần, [còn kẻ nghe rồi có thể tin tưởng sẽ] vui mừng được may mắn nghe nói).

Kẻ không tin, tự ruồng rẫy chính mình, đối với pháp môn thù thắng như vậy, pháp môn thành tựu trong một đời, hết sức đáng tiếc, kẻ ấy chẳng có phần! Chẳng có phần không vì ai khác chướng ngại kẻ ấy,

 

mà là do chính kẻ ấy tự chướng ngại mình! Người có thể tin tưởng, hữu duyên, hết sức hoan hỷ, mừng rỡ chính mình hữu duyên nghe pháp môn này. Pháp môn này chính là cơ duyên vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi, viên thành Phật đạo ngay trong một đời này, người ấy đã đạt được.

 

(Sao) Kim chi tín Tịnh Độ giả, giai nhân Phật thuyết nhi phát khởi dã.

()今之信淨土者,皆因佛說而發起也。

(Sao: Kẻ tin Tịnh Độ trong hiện thời, đều là do đức Phật đã nói khiến cho [tín tâm của kẻ ấy] được phát khởi).

Kể từ thời Thích Ca Phật, mãi cho đến hiện thời, cho đến mai sau, có người thấy pháp môn này, đọc kinh điển này, nghe kinh điển này, xét đến nguồn cội, đều là do ân đức của Thích Ca Mâu Ni Phật. Thoạt đầu, lão nhân gia đã vì chúng ta tuyên nói, nay chúng ta đời đời truyền thừa, đạt được lợi ích. Trong các đồng tu, có mấy vị có khả năng ngoại ngữ rất khá, hãy làm sao để có thể dịch pháp môn này sang văn tự ngoại quốc để giúp đỡ những chúng sanh trong các nước khác cũng có thể nghe chánh pháp, cũng có thể tin nhận phụng hành. Công đức ấy đúng là vô lượng vô biên.

 

(Sao) Tuy kim bất tín, nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng cố.

()雖今不信,一歷耳根永為道種故。

(Sao: Tuy nay chẳng tin, một phen lọt qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo).

Mấy câu này đúng là đã nói trọn hết, chẳng thể không tuyên dương pháp môn này. Vì sao? “Nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng”, đời này người ấy chẳng tin, trong tương lai sẽ tin tưởng, vì đã có chủng tử này tồn tại. Hôm nay, chúng tôi nói đến chỗ này.