Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Công Đức Ban Đầu Phát Tâm

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Công Đức Ban Đầu Phát Tâm

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Thứ 17

Lúc ban đầu phát tâm liền thành chánh giác. Ðây là pháp môn đốn ngộ. Ðốn ngộ tức là chẳng tu trì mà liền chứng được chánh giác. Tại sao lại như vậy ? Vì trong quá khứ đã từng phát tâm tu hành Bồ Tát đạo, hiện tại công đức viên mãn, căn lành chín mùi cho nên khai ngộ.

Ban đầu phát tâm tức là hiện tại bắt đầu phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng. Trong quá khứ chẳng có phát tâm bồ đề, tức cũng là một niệm tin Phật ban đầu, một niệm học Phật pháp ban đầu, một niệm nghĩ xuất gia ban đầu. Bồ Tát ban đầu phát tâm rất nhiều, nhưng Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn thì rất ít. Thành tựu quả vị Bồ Tát lại càng ít.

Bồ đề dịch là giác đạo. Chúng ta người tu đạo, nhất định phải phát tâm giác đạo, tức cũng là tâm bồ đề. Tâm bồ đề là gì ? Nói đơn giản tức là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Nói rộng ra là giữ năm giới, siêng tu lục độ vạn hạnh, đây đều là phát tâm bồ đề. Quy y Tam Bảo, gần gũi Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, đây cũng là phát tâm bồ đề. Không làm các điều ác, làm các việc lành. Siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si, đây đều là phát tâm bồ đề. Thậm chí không giữ tiền bạc, phiên dịch kinh điển, đây cũng là phát tâm bồ đề. Tóm lại, lợi ích kẻ khác, mà mình chẳng có ích kỷ lợi mình, đây tức là bồ đề tâm. Do đó:

‘’Phát tâm bồ đề lớn
Thì thành tựu quả lớn;
Phát tâm bồ đề nhỏ
Thì thành tựu quả nhỏ.’’

Phát tâm bồ đề lớn, thì tức thân thành Phật, phát tâm bồ đề nhỏ, thì phải trải qua số kiếp mới thành đạo.

Công đức tức là làm việc lợi ích cho chúng sinh. Ví như làm cầu, làm đường, xây chùa, xây tháp, đều là công đức. Làm việc thiện viên mãn thì có công đức. Do đó: ‘’Công đức vô lượng.’’ Song, Bồ Tát đem hết tất cả công đức hồi hướng cho tất cả chúng sinh. Công đức ban đầu phát tâm không thể nghĩ bàn, tức là suốt thuở vị lai cũng nói không hết. Vì một khi phát tâm thì liền có thể thành Phật. Tức nhiên thành Phật, cho nên công đức vô cùng vô tận. Phẩm này là phẩm thứ mười bảy trong Kinh Hoa Nghiêm.

 

Nhĩ thời, Thiên đế thích bạch pháp tuệ Bồ Tát ngôn: Phật tử! Bồ Tát sơ phát Bồ-đề chi tâm, sở đắc công đức, kỳ lượng kỷ hà?

Bấy giờ, trời Đế Thích bạch Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Phật tử ! Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, đắc được bao nhiêu công đức ?

Giảng: Lúc đó, vị trời Ðế Thích đối với Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Xin hỏi Ngài, lúc Bồ Tát mới phát tâm bồ đề, thì cứu kính đắc được công đức, số lượng bao nhiêu ? Xin Ngài từ bi khai thị.

Trời Ðế Thích gọi là Nhân Ðà La, còn gọi là Thích Ðề Hoàn Nhân. Sao ông ta lại được làm chủ trời Ðao Lợi ? Trong quá khứ, ông ta là một phụ nữ rất nghèo, nhưng có tâm lành lớn. Một ngày nọ, đi ngang qua một ngôi chùa, thấy chánh điện dột nát sập xệ, mái chùa chẳng còn nữa. Tượng Phật bị mưa gió, màu vàng trên thân chẳng còn nữa, mất đi sự trang nghiêm. Do đó, cô ta phát tâm muốn tu sửa lại, nhưng chẳng có tiền, biết làm sao ? Người có chí việc tất thành. Cô ta đi các nơi hóa duyên, cảm động ba mươi hai người nữ, đến trợ giúp cô ta hoàn thành tâm nguyện, chẳng bao lâu công đức viên mãn, thân Phật vàng óng ánh chói mắt, chánh điện tu sửa lại rất trang nghiêm. Sau khi cô ta chết đi, vì nhờ công đức đó, cho nên được sinh về cõi trời Ðạo Lợi làm Thiên tử. Còn ba mươi hai người nữ kia, cũng làm Thiên chủ ba mươi hai trời. Do đó có thể biết, phàm là phát tâm làm công đức, thì nhất định sẽ được quả báo thiện. Do đó:

‘’Trồng nhân lành được quả lành.’’

 

Pháp tuệ Bồ Tát ngôn: thử nghĩa thậm thâm, nan thuyết, nan tri, nan phân biệt, nan tín giải, nan chứng, nan hành, nan thông đạt, nan tư tánh, nan so lường, nan thú nhập.

Bồ Tát Pháp Huệ nói: Nghĩa này rất thâm sâu, khó nói, khó biết, khó phân biệt, khó tin hiểu, khó chứng, khó hành, khó thông đạt, khó suy gẫm, khó độ lượng, khó hướng vào.

Giảng: Vị Bồ Tát Pháp Huệ đối với trời Ðế Thích nói: Nghĩa lý của công đức này rất thâm áo, chẳng dễ gì nói ra, cũng chẳng dễ gì biết được, càng chẳng dễ gì phân biệt được. Số lượng công đức này, nói ra bạn cũng không thể tin, cũng không thể hiểu đặng. Công đức này cũng chẳng dễ gì chứng thật, cũng chẳng dễ gì tu hành. Khó thông đạt vô ngại, khó suy gẫm trắc lường. Không thể dùng thước để độ lượng, cũng không thể dùng cân để cân lường. Công đức này chẳng dễ gì hướng vào, số lượng rốt ráo có bao nhiêu ? Chẳng cách chi biết được.

 

Tuy nhiên, ngã đương thừa Phật uy thần chi lực nhi vi nhữ thuyết.

Tuy nhiên tôi sẽ nương sức oai thần của Phật để vì ông mà nói.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại nói: Tuy nhiên công đức ban đầu phát tâm bồ đề rất thâm sâu, chẳng dễ gì biết được. Song, tôi (Bồ Tát Pháp Huệ) sẽ nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật để vì các ông đại chúng nói ra, công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm có bao nhiêu ?

Tâm lý của chúng sinh đều có hiện tượng biến thái. Tin tà chẳng tin chánh, tin ác chẳng tin thiện. Giảng Phật pháp chân chánh cho họ nghe, thì họ chẳng muốn nghe. Giảng tà pháp cho họ nghe, thì họ thích nghe. Tại sao ? Vì tâm của chúng sinh có ô nhiễm dơ bẩn, cho nên hoan hỷ nghe pháp ô nhiễm, do đó:

‘’Căn lành sâu thì nghe lời thiện
Tội nghiệt nặng thì nghe lời ác.’’

Người có căn lành đến chùa Kim Sơn, thì giống như đến được nhà của mình. Song, người chẳng có căn lành, đến được chùa Kim Sơn, thì cảm thấy ở trong hầm băng, toàn thân chẳng thoải mái. Cho nên người đến chùa Kim Sơn để nghe kinh, đều là người có căn lành lớn. Song, có người tuy đến chùa Kim Sơn, nhưng chẳng hiểu quy cụ của chùa Kim Sơn, vẫn tùy tiện. Tập khí ở nhà cũng chẳng bỏ, mao bệnh cũng chẳng thay đổi. Mọi người phải biết, nếu tập khí mao bệnh chẳng trừ khử sạch, thì trí huệ không thể hiện tiền.

 

Phật tử! giả sử hữu nhân dĩ nhất thiết nhạc cụ, cúng dường Đông phương a-tăng-kì thế giới sở hữu chúng sanh, Kinh ư nhất kiếp, nhiên hậu giáo lệnh tịnh trì ngũ giới. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Phật tử ! Nếu như có người dùng tất cả nhạc cụ, cúng dường hết thảy chúng sinh ở phương đông A tăng kỳ thế giới, trải qua một kiếp. Sau đó dạy khiến cho họ giữ năm giới thanh tịnh. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ đưa ra một ví dụ để nói rõ công đức ban đầu phát tâm có bao nhiêu ? Là mười một cái ?

1). Dụ lợi lạc chúng sinh.
2). Dụ mau chóng bộ sát.
3). Dụ biết kiếp thành hoại.
4). Dụ khéo biết thắng giải.
5). Dụ khéo biết các căn.

6). Dụ khéo biết dục lạc.
7). Dụ khéo biết phương tiện.
8). Dụ khéo biết tâm kẻ khác.
9). Dụ khéo biết tướng nghiệp.
10). Dụ khéo biết phiền não.
11). Dụ cúng Phật và Tăng.

Bồ Tát Pháp Huệ gọi một tiếng Phật tử ! Nếu như có người dùng đủ thứ nhạc cụ, để cúng dường hết thảy chúng sinh ở phương đông A tăng kỳ thế giới (vô lượng số thế giới), trải qua thời gian một kiếp. Sau đó dạy khiến cho vô lượng vô số vô biên chúng sinh, giữ gìn năm giới thanh tịnh. Ở phương nam, phương tây, phương bắc, bốn hướng (đông bắc, đông nam, tây nam, tây bắc, bốn phương), phương trên, phương dưới, chín phương này cũng đều như vậy.

Một kiếp là gì ? Lấy tuổi thọ con người tám vạn bốn ngàn tuổi làm tiêu chuẩn, mỗi một trăm năm giảm xuống một tuổi, thân cao giảm đi một tấc, giảm đến tuổi thọ con người mười tuổi là ngừng. Sau đo mỗi một trăm năm, tuổi thọ lại tăng lên một tuổi, thân cao tăng lên một tấc. Tăng cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi là ngừng, một lần tăng một lần giảm như vậy gọi là một kiếp.

 

Phật tử! ư nhữ ý vân hà, thử nhân công đức ninh vi đa bất?

Phật tử ! Ý của ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ?

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Ý nghĩ cảm giác của ông như thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ? Ông hãy nói cứu kính có bao nhiêu ?

 

Thiên đế ngôn: Phật tử! thử nhân công đức, duy Phật năng tri, kỳ dư nhất thiết vô năng lượng giả.

Đế Thích nói: Phật tử ! Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được. Ngoài ra, tất cả chẳng có ai lường được.

Giảng: Trời Ðế Thích đối với Bồ Tát Pháp Huệ nói rằng: Phật tử ! Công đức của người đó, cứu kính có bao nhiêu ? Chúng tôi chẳng biết được, ngoài ra, tất cả chúng sinh đều không thể nào lường được công đức đó có bao nhiêu ?

 

Pháp tuệ Bồ Tát ngôn: Phật tử! thử nhân công đức bỉ Bồ Tát sơ phát tâm công đức, bách phân bất cập nhất, thiên phần bất cập nhất, bách thiên phần bất cập nhất. Như thị, ức phần, bách ức phần, thiên ức phần, bách thiên ức phần, na-do-tha ức phần, bách na do tha ức phần, thiên na-do-tha ức phần, bách thiên na-do-tha ức phần, số phần, Ca la phần, toán phần, dụ phần, ưu ba ni sa đà phần, diệc bất cập nhất.

Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Công đức người đó, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Như vậy một phần ức, một phần trăm ức, một phần ngàn ức, một phần trăm ngàn ức, một phần Na do tha ức, một phần trăm Na do tha ức, một phần ngàn Na do tha ức, một phần trăm ngàn Na do tha ức, một phần số, một phần ca la, một phần toán, một phần dụ, một phần ưu ba ni sa đà.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại nói: Phật tử ! Công đức của người đó, tuy nhiều không thể nói, nhưng nếu so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, thì chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ức, một phần ngàn ức, một phần trăm ngàn ức, một phần Na do tha, một phần trăm Na do tha, một phần ngàn Na do tha, một phần trăm ngàn Na do tha, một phần số, một phần ca la, một phần toán, một phần dụ, một phần ưu ba ni sa đà, có công đức nhiều như vậy cũng chẳng bằng một phần công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm.

 

Phật tử! thả trí thử dụ. giả sử hữu nhân dĩ nhất thiết nhạc cụ, cúng dường thập phương thập a-tăng-kì thế giới sở hữu chúng sanh, Kinh ư bách kiếp, nhiên hậu giáo lệnh tu thập thiện đạo.

Phật tử ! Đừng nói đến ví dụ này. Nếu như có người, đem tất cả nhạc cụ, cúng dường cho hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua trăm kiếp. Sau đó dạy khiến cho họ tu mười điều lành.

Giảng: Phật tử ! Hãy tạm ngừng ví dụ ở trên. Bây giờ đưa ra một ví dụ khác nữa. Nếu như có người dùng đủ thứ nhạc cụ, để cúng dường hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua thời gian một trăm kiếp. Sau đó dạy khiến cho họ tu học mười điều lành. Mười điều lành là gì ? Tức là pháp ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, thân nghiệp chẳng phạm sát sinh, trộm cắp, tà dâm; khẩu nghiệp chẳng phạm nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói chửi mắng; ý nghiệp chẳng phạm tham, sân, si. Ðây là mười điều lành.

 

Như thị cúng dường, Kinh ư thiên kiếp, giáo trụ tứ Thiền. Kinh ư bách thiên kiếp, giáo trụ tứ vô lượng tâm. Kinh ư ức kiếp, giáo trụ tứ vô sắc định. Kinh ư bách ức kiếp, giáo trụ Tu-đà-hoàn quả. Kinh ư thiên ức kiếp, giáo trụ Tư đà hàm quả. Kinh ư bách thiên ức kiếp, giáo trụ A-na-hàm quả. Kinh ư na-do-tha ức kiếp, giáo trụ A-la-hán quả. Kinh ư bách thiên na-do-tha ức kiếp, giáo trụ Bích Chi Phật đạo.

Cúng dường như vậy, trải qua ngàn kiếp, sau đó dạy họ trụ ở tứ thiền. Trải qua trăm ngàn kiếp, dạy họ trụ ở bốn tâm vô lượng. Trải qua ức kiếp, dạy họ trụ ở bốn định vô sắc. Trải qua trăm ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Tu đà hoàn. Trải qua ngàn ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Tư đà hàm. Trải qua trăm ngàn ức kiếp, dạy họ trụ ở quả A na hàm. Trải qua Na do tha ức kiếp, dạy họ trụ ở quả A la hán. Trải qua trăm ngàn Na do tha ức kiếp, dạy họ trụ ở quả Bích Chi Phật.

Giảng: Như vậy, cúng dường nhạc cụ cho hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua thời gian một ngàn kiếp. Sau đó giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở bốn thiền định (Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền), tu tập pháp bốn thiền định. Trải qua trăm ngàn kiếp thời gian, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở bốn tâm vô lượng.

Trải qua thời gian ức kiếp để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở bốn định vô sắc (không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ), tu tập pháp bốn không định. Công đức này có thể nói là rất lớn. Song, cũng chẳng bằng một phần công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm. Trải qua trăm ức kiếp thời gian để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở quả Tu Ðà Hoàn (sơ quả A la hán), dịch là dự lưu hoặc nghịch lưu. Dự vào dòng Thánh nhân pháp tánh, nghịch dòng phàm phu lục trần, còn có bảy lần sinh tử. Khi chứng được sơ quả thì mắt chẳng tham sắc, tai chẳng tham tiếng, mũi chẳng tham hương, lưỡi chẳng tham vị, thân chẳng tham xúc, ý chẳng tham pháp. Chẳng bị cảnh giới sáu trần lay chuyển, tâm định như núi. Lúc đó, ngày ngày mưu đạo chẳng mưu thực. Chẳng mưu tức là chẳng nghĩ, chỉ nghĩ tu đạo, chẳng nghĩ ăn vật ngon, nếu bạn muốn trắc lượng mình có chứng quả hay không ? Thì hỏi chính tâm của mình: Có muốn ăn vật ngon chăng ? Nếu có tâm tham này, thì đó là chứng minh chẳng chứng quả, vẫn còn ở trong giai đoạn phàm phu tục tử. Sơ quả A la hán đi đường, thì chân chẳng dính đất, giống như đi trong hư không. Tại sao phải như vậy ? Vì có tâm từ bi; rất sợ đạp chết kiến và trùng nhỏ. Ai có thể đi được như vậy, thì người đó chứng được sơ quả A la hán. Chẳng có cảnh giới này mà nói chứng quả, là phạm tội đại vọng ngữ, tương lai chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục vô gián.

Trải qua thời gian dài ngàn ức kiếp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở quả Tư Ðà Hàm (nhị quả A la hán), dịch là nhất lai, một lần sinh về trời, một lần sinh xuống nhân gian, thọ hai phen sinh tử, mới vào được Hữu dư Niết Bàn.

Trải qua thời gian lâu dài trăm ngàn ức kiếp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở quả A na hàm (tam quả A la hán), dịch là bất lai, hoặc bất hoàn. Tức là chẳng đến dục giới thọ sinh tử, ở sắc giới, hoặc vô sắc giới, thọ một lần sinh tử, mới vào được Hữu dư Niết Bàn.

Trải qua thời gian lâu dài Na do tha ức kiếp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở quả A la Hán, dịch là vô sinh. Tức là chẳng sinh chẳng diệt, đã chấm dứt phần đoạn sinh tử, chứng được Hữu dư Niết Bàn. Lúc này chứng được bậc vô học, học đạo đã viên mãn, chẳng cần tu học nữa.

Trải qua thời gian lâu dài trăm ngàn Na do tha ức kiếp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ ở Bích Chi Phật. Thế gian chẳng có Phật mà khai ngộ thì gọi là Độc Giác, có Phật mà khai ngộ thì gọi là Duyên Giác. Công đức của người đó tuy rất rộng lớn, nhưng chẳng bằng một phần công đức ban đầu phát tâm.

 

Phật tử! ư ý vân hà, thị nhân công đức ninh vi đa bất?

Phật tử ! Ý ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ?

 

Thiên đế ngôn: Phật tử! thử nhân công đức, duy Phật năng tri.

Đế Thích nói: Phật tử ! Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Theo ý của ông như thế nào ? Người đó trải qua vô lượng kiếp, cúng dường các thứ nhạc cụ cho tất cả chúng sinh và dạy khiến cho họ trụ ở tứ thiền, tứ vô lượng tâm, cho đến Bích Chi Phật .v.v… Công đức của người đó có nhiều chăng ? Ðế Thích nói: Phật tử ! Công đức của người đó được bao nhiêu ? Chúng ta chẳng cách chi biết được, chỉ có Phật mới biết được.

 

Pháp tuệ Bồ Tát ngôn: Phật tử! thử nhân công đức bỉ Bồ Tát sơ phát tâm công đức, bách phân bất cập nhất, thiên phần bất cập nhất, bách thiên phần bất cập nhất, nãi chí ưu ba ni sa đà phần diệc bất cập nhất.

Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Công đức của người đó, so với Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Công đức của người đó, so với Bồ Tát ban đầu phát tâm chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

 

Hà dĩ cố? Phật tử! nhất thiết chư Phật sơ phát tâm thời, bất đãn vi dĩ nhất thiết nhạc cụ, cúng dường thập phương thập a-tăng-kì thế giới sở hữu chúng sanh, Kinh ư bách kiếp, nãi chí bách thiên na-do-tha ức kiếp cố, phát Bồ-đề tâm. bất đãn vi giáo Nhĩ sở chúng sanh, lệnh tu ngũ giới, thập thiện nghiệp đạo, giáo trụ tứ Thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, giáo đắc Tu-đà-hoàn quả, Tư đà hàm quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả, tích chi Phật đạo cố, phát Bồ-đề tâm.

Tại sao ? Phật tử ! Vì tất cả chư Phật ban đầu phát tâm, thì chẳng những đem tất cả nhạc cụ cúng dường hết thảy chúng sinh trong mười phương A tăng kỳ thế giới. Trải qua trăm kiếp, cho đến trăm ngàn Na do tha ức kiếp, mà phát bồ đề tâm. Chẳng những vì dạy những chúng sinh đó tu năm giới, mười điều lành. Giáo hóa họ trụ ở bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, cho đến chứng quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán, quả Bích Chi Phật, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Ở trước đưa ra đủ thứ ví dụ, để hình dung công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, song chẳng có công đức nào sánh bằng. Là nhân duyên gì ? Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Mười phương ba đời tất cả chư Phật, lúc ban đầu phát tâm bồ đề, thì chẳng những đem tất cả nhạc cụ để cúng dường hết thảy chúng sinh trong mười phương mười A tăng kỳ thế giới, trải qua trăm kiếp cho đến trăm ngàn Na do tha ức kiếp thời gian, vì đây để phát tâm bồ đề. Chẳng những vì giáo hóa hết thảy những chúng sinh đó, khiến cho họ tu năm giới mười điều lành. Hoặc vì dạy họ trụ ở bốn thiền, bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc giáo hóa họ chứng được quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư Ðà Hàm, quả A na hàm, quả A la hán, quả Bích Chi Phật mà phát tâm bồ đề.

 

Vi lệnh Như Lai chủng tánh bất đoạn cố, vi sung biến nhất thiết thế giới cố, vi độ thoát nhất thiết thế giới chúng sanh cố, vi tất tri nhất thiết thế giới thành hoại cố, vi tất tri nhất thiết thế giới trung chúng sanh cấu tịnh cố, vi tất tri nhất thiết thế giới tự tánh thanh tịnh cố, vi tất tri nhất thiết chúng sanh tâm lạc phiền não tập khí cố, vi tất tri nhất thiết chúng sanh tử thử sanh bỉ cố, vi tất tri nhất thiết chúng sanh chư căn phương tiện cố, vi tất tri nhất thiết chúng sanh tâm hành cố, vi tất tri nhất thiết chúng sanh tam thế trí cố, vi tất tri nhất thiết Phật cảnh giới bình đẳng cố, phát ư vô thượng Bồ-đề chi tâm.

Mà vì khiến cho chủng tánh của Như Lai chẳng dứt. Vì đầy khắp tất cả thế giới. Vì độ thoát tất cả thế giới chúng sinh. Vì biết hết tất cả thế giới thành hoại. Vì biết hết chúng sinh cấu tịnh trong tất cả thế giới. Vì biết hết tất cả thế giới tự tánh thanh tịnh. Vì biết hết tất cả tâm chúng sinh sở thích phiền não tập khí. Vì biết hết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia. Vì biết hết các căn phương tiện của tất cả chúng sinh. Vì biết hết tâm hành của tất cả chúng sinh. Vì biết hết trí ba đời của tất cả chúng sinh. Vì biết hết cảnh giới bình đẳng của tất cả chư Phật, mà phát tâm vô thượng bồ đề.

Giảng: Tại sao Bồ Tát phải phát tâm bồ đề ?

1). Vì muốn tiếp nối huệ mạng của Phật, khiến cho chủng tánh của Phật chẳng dứt. Nghĩa là khiến cho huệ mạng của Phật tiếp tục tồn tại vĩnh viễn, khiến cho đèn trí huệ của Phật chiếu sáng mãi mãi, chiếu soi tất cả thế giới, vì khiến cho hạt giống Phật vĩnh viễn trụ thế.

2). Vì khiến cho Phật pháp đầy khắp hết thảy tất cả thế giới. Phật thấy tất cả chúng sinh ở thế giới Ta Bà và thế giới khác đều khổ nhiều vui ít, trầm mê chẳng ngộ, cho nên khiến cho chúng sinh quay lưng trần lao hợp với giác ngộ, mới có thể lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.

3). Vì độ thoát hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, cho nên Phật mới phát tâm bồ đề.

4). Vì hết tất cả thế giới thành trụ hoại không bốn tướng. Trái đất có thành trụ hoại không, con người có sinh già bệnh chết, vật có sinh trụ dị diệt, nhất định là có lý do.

5). Vì biết hết tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới, nhiễm như thế nào ? Ðược thanh tịnh như thế nào ? Nếu nhiễm pháp thế gian tức là nhiễm ô. Nếu xả bỏ pháp thế gian, bỏ mê về giác, trở về nguồn cội, tức là thanh tịnh.

6). Vì biết hết tất cả thế giới tự tánh là thanh tịnh.

7). Vì muốn biết sự ưa thích, sự phiền não, hết thảy tập khí ở trong tâm của tất cả chúng sinh.

8). Vì muốn biết hết thảy chúng sinh, nguyên nhân gì, ở nơi này chết ? Lại sinh ra ở nơi khác.

9). Vì biết hết đủ thứ căn tánh của tất cả chúng sinh, dùng pháp môn phương tiện gì có thể giáo hóa chúng sinh.

10). Vì biết hết tâm nghĩ, biểu hiện hành động ở trong tâm của tất cả chúng sinh. Vì chúng sinh mê hoặc quá sâu, chẳng biết trở về nguồn cội, cho nên Bồ Tát mới phát tâm bồ đề.

11). Vì biết hết trí huệ ba đời của tất cả chúng sinh. Ba đời là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Cũng có thể nói hôm qua, ngày nay, ngày mai. Và cũng có thể nói năm qua, năm nay, năm tới. Tóm lại, bất cứ nói như thế nào cũng đều có thể thành lập ba đời. Do đó ‘’pháp vô định pháp,’’ pháp chẳng có nhất định, đừng chấp trước. Nhất là cảnh giới Hoa Nghiêm, là viên dung vô ngại, nói ngang nói dọc cũng đều có lý.

12). Vì muốn biết cảnh giới của tất cả chư Phật, cảnh giới của chúng sinh, cảnh giới của tâm, đều là bình đẳng. Do đó: ‘’Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba chẳng khác biệt.’’ Vì muốn biết đủ thứ nhân duyên, cho nên mới phát tâm vô thượng bồ đề, đây là ví dụ thứ nhất, dụ lợi lạc chúng sinh.

Người phát tâm bồ đề, chẳng phải Phật, cũng chẳng phải Bồ Tát mà là chúng ta người tu đạo. Vì Phật, Bồ Tát đã phát tâm bồ đề. Tức đã biết đủ thứ cảnh giới vừa nói ở trên, đủ thứ đạo lý, thì phải dũng mãnh tinh tấn, đừng giải đãi, hoặc phóng dật.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng qua Đông phương a-tăng-kì thế giới. Niệm niệm như thị, tận a-tăng-kì kiếp, thử chư thế giới vô hữu năng đắc tri kỳ biên tế.

Phật tử ! Hãy miễn ví dụ này. Nếu như có người, trong một niệm, có thể đi qua phương đông A tăng kỳ thế giới. Niệm niệm như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ. Các thế giới đó không có ai hiểu được.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! Ví dụ vừa nói ở trên hãy tạm gát lại. Bây giờ đưa ra một ví dụ khác nữa: Nếu như có người, ở trong một niệm thời gian rất ngắn, trải qua các thế giới nhiều như số A tăng kỳ ở phương đông. Ở trong mỗi niệm đều trải qua các thế giới nhiều như vậy, trải qua suốt A tăng kỳ kiếp thời gian. Những thế giới đó, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ? Vì trong một niệm, trải qua vô lượng thế giới, trong một niệm, trải qua vô lượng vô biên vô số thế giới, hà huống là trải qua vô lượng số kiếp thời gian ? Thật chẳng có ai biết được cứu kính có bao nhiêu ? Chẳng cách chi tính được.

 

Hựu đệ nhị nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng quá tiền nhân a-tăng-kì kiếp sở qua thế giới. Như thị, diệc tận a-tăng-kì kiếp. Thứ đệ triển chuyển, nãi chí đệ thập. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Và người thứ hai, ở trong một niệm trải qua các thế giới, mà người ở trước đã trải qua A tăng kỳ kiếp. Như vậy cũng hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

Giảng: Và người thứ hai, cũng ở trong một niệm, trải qua các thế giới mà người thứ nhất đã trải qua A tăng kỳ. Cứ lần lượt như vậy, cho đến người thứ mười. Ở phương đông tình hình như vậy, ở phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới chín phương này cũng đều như vậy.

 

Phật tử! thử thập phương trung, phàm hữu bách nhân, nhất nhất như thị qua chư thế giới, thị chư thế giới khả tri biên tế. Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm sở hữu thiện căn, vô hữu năng đắc tri kỳ tế giả.

Phật tử ! Trong mười phương này, phàm là có một trăm người, mỗi người cũng đều như vậy, trải qua các thế giới. Các thế giới đó, có thể biết được bờ mé, còn Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đắc được căn lành, chẳng có ai biết được bờ mé.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Trong mười phương này, dù có một trăm người. Mỗi người đều trải qua các thế giới như vậy. Các thế giới đó sẽ tính biết được bờ mé của nó. Nhưng Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô thượng chánh đẳng chánh giác), công đức và căn lành đắc được, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

 

Hà dĩ cố? Phật tử! Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi vãng Nhĩ sở thế giới đắc liễu tri cố, phát Bồ-đề tâm. vi liễu tri thập phương thế giới cố, phát Bồ-đề tâm.

Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì biết rõ các thế giới đã trải qua, mà phát tâm bồ đề. Vì muốn biết rõ mười phương thế giới, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Tại sao không thể biết bờ mé công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề ? Phật tử ! Vì Bồ Tát tu pháp vô sở định. Nhưng Bồ Tát tĩnh cực tư động, muốn qua các thế giới nhiều như vậy để tìm chúng sinh có thể độ được, vì thấu rõ thế giới như thế nào ? Vì Bồ Tát có cầu biết dục, cho nên muốn đến nhiều thế giới để quán sát nhân duyên, mà phát tâm bồ đề. Tức cũng là tu đạo, y theo Phật pháp tu hành, mới đắc được giác đạo. Bồ Tát không việc tìm việc làm, việc không nên biết, Ngài muốn biết. Muốn thấu rõ mười phương thế giới mà phát tâm bồ đề. Tức cũng là muốn tu hành. Tu hành là chức nghiệp của Bồ Tát, Bồ Tát chẳng tu hành thì thất nghiệp.

Phật pháp là gì ? Chỉ tóm tắt một lời đó là chìa khóa. Hiện tại giảng kinh, tức là giảng chìa khóa. Hiện tại thuyết pháp, tức là nói chìa khóa. Vốn chẳng mất đi, nhưng không biết dùng nó. Khi nào tìm được chìa khóa trí huệ này, thì lúc đó sẽ khai mở được cửa vô minh. Ðó tức là lúc khai ngộ. Mong các vị chuyên nhất để tìm chìa khóa trí huệ này.

 

Sở vị: dục liễu tri diệu thế giới tức thị thô thế giới, thô thế giới tức thị diệu thế giới. Ngưỡng thế giới tức thị phước thế giới, phước thế giới tức thị ngưỡng thế giới. Tiểu thế giới tức thị Đại thế giới, Đại thế giới tức thị tiểu thế giới. Quảng thế giới tức thị hiệp thế giới, hiệp thế giới tức thị quảng thế giới. Nhất thế giới tức thị bất khả thuyết thế giới, bất khả thuyết thế giới tức thị nhất thế giới. bất khả thuyết thế giới nhập nhất thế giới, nhất thế giới nhập bất khả thuyết thế giới. uế thế giới tức thị tịnh thế giới, tịnh thế giới tức thị uế thế giới.

Đó là: Muốn biết rõ diệu thế giới, tức là thế giới thô, thế giới thô tức là diệu thế giới. Thế giới ngửa tức là thế giới úp, thế giới nhỏ tức là thế giới lớn. Thế giới lớn tức là thế giới nhỏ. Thế giới rộng tức là thế giới hẹp, thế giới hẹp tức là thế giới rộng. Một thế giới tức là bất khả thuyết thế giới, bất khả thuyết thế giới tức là một thế giới. Bất khả thuyết thế giới vào một thế giới, một thế giới vào bất khả thuyết thế giới. Thế giới dơ tức là thế giới sạch, thế giới sạch tức là thế giới dơ.

Giảng: Ðó là muốn biết rõ, diệu thế giới tức là thế giới thô; thế giới thô tức là thế giới diệu, mà phát tâm bồ đề. Gì là diệu thế giới ? Tức là thế giới trang nghiêm thanh tịnh, giống như thế giới Cực Lạc. Gì là thế giới thô ? Tức là thế giới năm trược (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược), như thế giới Ta Bà. Muốn kiến lập thế giới thanh tịnh trang nghiêm, thì phải ở trong thế giới năm trược mà kiến lập. Muốn chuyển biến thế giới năm trược thành thế giới tốt đẹp, thì phải ở tại đây dụng công phu, cho nên thế giới thanh tịnh trang nghiêm có thể biến thành thế giới thô xấu, thế giới năm trược có thể biến thành thế giới tốt đẹp. Có thể tốt đẹp như thế nào ? Có thể thô xấu như thế nào ? Thì quyết định ở tại tư tưởng của mình. Trong tâm chẳng có tư tưởng nhiễm ô, tức là thế giới diệu (tốt đẹp); nếu trong tâm có rất nhiều vọng tưởng, dục niệm, tham sân si .v.v… tức là thế giới thô xấu. Tóm lại, thế giới diệu và thế giới thô, chẳng lìa khỏi tâm thế giới của bạn. Tâm thế giới chẳng lìa khỏi một tâm niệm. Một tâm niệm có thể trở thành thế giới thanh tịnh trang nghiêm; một tâm niệm có thể trở thành thế giới thô năm trược.

Thế giới ngửa tức là thế giới úp; thế giới úp tức là thế giới ngửa. Gì là thế giới ngửa ? Tức là thế giới cao. Gì là thế giới úp ? Tức là thế giới thấp. Thế giới cao thấp là một thể. Tại sao thành tựu thế giới ngửa ? Tại sao thành tựu thế giới úp ? Cơ sở của thế giới úp tức là thế giới ngửa, căn bản của thế giới ngửa tức là thế giới úp.

Thế giới nhỏ tức là thế giới lớn; thế giới lớn tức là thế giới nhỏ. Thế giới nhỏ tụ tập nhỏ mà thành lớn, có thể trở thành thế giới lớn. Thế giới lớn phân ra, tức cũng là một bộ phận của thế giới nhỏ, cho nên lớn nhỏ vô ngại.

Thế giới rộng tức là thế giới hẹp; thế giới hẹp tức là thế giới rộng. Thế giới hẹp mà mở rộng ra, tức là thế giới rộng. Thế giới rộng mà thu hẹp lại thì trở thành thế giới hẹp.

Một thế giới tức là bất khả thuyết thế giới; bất khả thuyết thế giới tức là một thế giới. Tại sao nói như vậy ? Vì thế giới với thế giới có mối quan hệ với nhau. Mỗi hạt bụi và mỗi thế giới, đều thông đạt với nhau. Giống như sóng điện radar, tâm điện của chúng ta chúng sinh thông đạt với nhau. Tại sao đắc được tha tâm thông ? Vì có sóng điện tâm linh tác dụng cảm ứng. Trong mỗi lỗ chân lông, đều có thiết bị máy radar (máy ra đa), tu hành thành công thì máy ra đa của lỗ chân lông đều phát sinh tác dụng, máy ra đa và máy ra đa cùng nhau thông đạt vô ngại, sóng điện và sóng điện cùng nhau thông đạt vô ngại. Cho nên nói tha tâm thông là việc rất bình thường, chẳng có gì lạ lùng. Giống như bây giờ có người chẳng biết xử dụng máy vi tính và máy ra đa. Nếu học qua cách thức xử dụng thì mới xử dụng được. Hiện tại chúng ta tu hành, tức là học kỹ thuật máy vi tính và máy ra đa trong tâm linh.

Không thể nói thế giới vào được trong một thế giới, một thế giới cũng có thể vào trong bất khả thuyết thế giới. Tại sao ? Vì nó cùng nhau thông đạt vô ngại.

Thế giới dơ tức là thế giới sạch; thế giới sạch tức là thế giới dơ. Thế giới dơ bẩn có thể biến thành thế giới sạch sẽ. Biến như thế nào ? Do đó ‘’Tất cả do tâm tạo.’’ Tâm thanh tịnh rồi, thì thế giới sẽ thanh tịnh, thấy gì cũng đều thanh tịnh, giống như người thấy nước là nước, Phật Bồ Tát thấy nước là lưu ly, quỷ đói thấy nước là lửa ngọn. Cùng tình hình như vậy, thế giới thanh tịnh cũng có thể biến thành dơ bẩn. Biến như thế nào ? Tâm có tư tưởng nhiễm dơ bẩn, thì thấy gì cũng đều chẳng thanh tịnh. Dù đến được thế giới thanh tịnh trang nghiêm, cũng cảm thấy là thế giới năm trược. Vì trong tâm chẳng sạch sẽ. Do đó: ‘’Mười pháp giới chẳng lìa một tâm niệm.’’

 

Dục tri nhất mao đoan trung, nhất thiết thế giới sái biệt tánh. Nhất thiết thế giới trung, nhất mao đoan nhất thể tánh. Dục tri nhất thế giới trung xuất sanh nhất thiết thế giới, dục tri nhất thiết thế giới vô thể tánh. dục dĩ nhất niệm tâm tận tri nhất thiết quảng đại thế giới nhi Vô chướng ngại cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Vì muốn biết trong một đầu sợi lông, tất cả thế giới tánh khác biệt, trong tất cả thế giới một đầu sợi lông một thể tánh. Muốn biết trong một thế giới sinh ra tất cả thế giới. Muốn biết tất cả thế giới không thể tánh. Muốn dùng một tâm niệm biết hết tất cả thế giới rộng lớn, chẳng chướng ngại, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Bồ Tát muốn biết tánh khác biệt của tất cả thế giới trong một đầu sợi lông, đều có quan hệ với nhau. Một thể tánh một đầu sợi lông trong tất cả thế giới. Bồ Tát muốn biết trong một thế giới sinh ra tất cả thế giới, cho nên hay sinh ra vô lượng thế giới. Mỗi hạt bụi trong mỗi thế giới, có thể thành tựu vô lượng vô biên thế giới. Bồ Tát muốn biết tất cả thế giới chẳng có một thể tánh. Ðều là nhân duyên mà sinh ra, nhân duyên mà diệt. Thành trụ hoại không chẳng phải là một thể tánh cứu kính bất hoại. Bồ Tát muốn dùng một tâm niệm, biết hết thế giới rộng lớn vô biên, mà chẳng có chướng ngại, cho nên phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ hai, dụ mau chóng bộ sát.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri Đông phương a-tăng-kì thế giới thành hoại kiếp số. Niệm niệm như thị, tận a-tăng-kì kiếp, thử chư kiếp số vô hữu năng đắc tri kỳ biên tế.

Phật tử ! Hãy miễn ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được kiếp số thành hoại A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Niệm niệm như vậy hết A tăng kỳ kiếp. Các số kiếp đó, chẳng có ai biết được bờ mé.

Giảng: Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ ở trước vừa nói. Hiện tại lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, ở trong một niệm, biết được kiếp số thành trụ hoại không A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Trong mỗi niệm đều như thế, hết số kiếp A tăng kỳ, trải qua thời gian dài như vậy. Kiếp số nhiều như vậy, cứu kính có bao nhiêu ? Chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

 

Hữu đệ nhị nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri tiền nhân a-tăng-kì kiếp sở tri kiếp số. Như thị quảng thuyết, nãi chí đệ thập. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được kiếp số của người thứ nhất biết trong A tăng kỳ kiếp. Nói rộng như vậy, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

Giảng: Lại có người thứ hai, cũng trong một tâm niệm, biết được kiếp số của người thứ nhất biết trong A tăng kỳ kiếp thời gian. Tức cũng là trong khoảng một niệm, liền trải qua thời gian dài nhất của người ở trước. Nói rộng như vậy, cho đến người thứ mười. Chín phương kia còn lại cũng đều như vậy.

 

Phật tử! thử thập phương a-tăng-kì thế giới thành hoại kiếp số, khả tri biên tế. Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm công đức thiện căn, vô hữu năng đắc tri kỳ tế giả.

Phật tử ! Kiếp số thành hoại trong mười phương A tăng kỳ thế giới đó, có thể biết được bờ mé, còn công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.

Giảng: Phật tử ! Kiếp số thành trụ hoại không trong mười phương A tăng kỳ thế giới, còn có thể biết được bờ mé của nó, song Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đắc được công đức và căn lành, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

 

Hà dĩ cố? Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi tri Nhĩ sở thế giới thành hoại kiếp số cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. vi tất tri nhất thiết thế giới thành hoại kiếp tận vô dư cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Tại sao ? Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết kiếp số thành hoại của các thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết kiếp số thành hoại, của hết thảy tất cả thế giới không còn sót, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Tại sao vậy ? Bồ Tát chẳng có bờ mé nhất định, chẳng có pháp độ nhất định. Nhưng vì muốn biết các thế giới đó thành, trụ, hoại, không, như thế nào ? Vì bốn tướng kiếp số này, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết kiếp số thành trụ hoại không của tất cả thế giới, không còn sót thừa, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Sở vị: tri trường kiếp dữ đoản kiếp bình đẳng, đoản kiếp dữ trường kiếp bình đẳng. Nhất kiếp dữ vô số kiếp bình đẳng, vô số kiếp dữ nhất kiếp bình đẳng. hữu Phật kiếp dữ vô Phật kiếp bình đẳng, vô Phật kiếp dữ hữu Phật kiếp bình đẳng. Nhất Phật kiếp trung hữu bất khả thuyết Phật, bất khả thuyết Phật kiếp trung hữu nhất Phật. hữu lượng kiếp dữ vô lượng kiếp bình đẳng, vô lượng kiếp dữ hữu lượng kiếp bình đẳng. hữu tận kiếp dữ vô tận kiếp bình đẳng, vô tận kiếp dữ hữu tận kiếp bình đẳng. bất khả thuyết kiếp dữ nhất niệm bình đẳng, nhất niệm dữ bất khả thuyết kiếp bình đẳng. Nhất thiết kiếp nhập phi kiếp, phi kiếp nhập nhất thiết kiếp.

Đó là: Biết kiếp dài và kiếp ngắn bình đẳng, kiếp ngắn và kiếp dài bình đẳng. Một kiếp và vô số kiếp bình đẳng, vô số kiếp và một kiếp bình đẳng. Kiếp có Phật và kiếp không có Phật bình đẳng, kiếp không có Phật và kiếp có Phật bình đẳng. Trong kiếp một vị Phật có bất khả thuyết vị Phật bình đẳng, trong kiếp bất khả thuyết vị Phật có một vị Phật bình đẳng. Kiếp hữu lượng và kiếp vô lượng bình đẳng, kiếp vô lượng và kiếp hữu lượng bình đẳng. Kiếp bất khả thuyết và một niệm bình đẳng, một niệm và kiếp bất khả thuyết bình đẳng. Tất cả kiếp vào phi kiếp, phi kiếp vào tất cả kiếp.

Giảng: Ðó là Bồ Tát muốn biết kiếp dài và kiếp ngắn là bình đẳng; kiếp ngắn và kiếp dài cũng là bình đẳng. Kiếp dài chẳng lìa một niệm, kiếp ngắn cũng chẳng lìa một niệm. Trong một niệm dài ngắn bình đẳng vô ngại. Giống như não tức là nước, nước tức là băng. Lại giống như phiền não tức bồ đề, bồ đề tức phiền não, đều bình đẳng.

Một kiếp và nhiều kiếp là bình đẳng; nhiều kiếp và một kiếp cũng là bình đẳng. Một kiếp cũng là kiếp, nhiều kiếp cũng là kiếp. Trong đó vốn chẳng có quan hệ thời gian, cho nên nói là bình đẳng.

Kiếp có Phật và kiếp không có Phật là bình đẳng; kiếp không có Phật và kiếp có Phật cũng là bình đẳng. Kiếp có Phật ra đời và kiếp chẳng có Phật ra đời đều là bình đẳng, chẳng có phân biệt.

Trong kiếp một vị Phật có bất khả thuyết vị Phật ra đời; trong kiếp bất khả thuyết vị Phật có một vị Phật ra đời đều là bình đẳng, chẳng có phân biệt.

Kiếp hữu lượng và kiếp vô lượng là bình đẳng; kiếp vô lượng và kiếp hữu lượng cũng là bình đẳng. Kiếp hữu tận và kiếp vô tận là bình đẳng; kiếp vô tận và kiếp hữu tận là bình đẳng. Ðây tức là chẳng có tâm phân biệt. Nếu có tâm phân biệt, thì tất cả đều chẳng bình đẳng.

Kiếp bất khả thuyết thời gian và kiếp một niệm thời gian bình đẳng; kiếp thời gian một niệm và kiếp bất khả thuyết thời gian cũng bình đẳng. Tất cả kiếp vào được trong phi kiếp; phi kiếp vào được trong tất cả kiếp, đều là bình đẳng, chẳng có chướng ngại.

 

Dục ư nhất niệm trung tận tri tiền tế, hậu tế, cập hiện tại nhất thiết thế giới thành hoại kiếp cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, thị danh: sơ phát tâm đại thệ trang nghiêm liễu tri nhất thiết kiếp thần thông trí.

Muốn ở trong một niệm, biết hết tiền tế hậu tế và kiếp thành hoại tất cả thế giới hiện tại, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đây gọi là ban đầu phát tâm đại thệ trang nghiêm, biết rõ tất cả kiếp thần thông trí.

Giảng: Bồ Tát muốn ở trong một niệm, biết hết kiếp số thành trụ hoại không, của tất cả thế giới quá khứ vị lai hiện tại, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây gọi là ban đầu phát tâm đại thệ nguyện trang nghiêm. Trí huệ thấu rõ biết tất cả kiếp thần thông diệu dụng. Ðây là ví dụ thứ ba, dụ biết kiếp thành hoại.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri Đông phương a-tăng-kì thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng sái biệt giải. Niệm niệm như thị, tận a-tăng-kì kiếp.

Phật tử ! Hãy thôi ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Niệm niệm như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ.

Giảng: Phật tử ! Hãy tạm ngừng lại ví dụ vừa nói ở trên. Hiện tại đưa ra một ví dụ khác nữa. Nếu như có người, trong một tâm niệm, biết được đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong A tăng kỳ thế giới ở phương đông. Trong niệm niệm đều biết được, đủ thứ kiến giải khác nhau của hết thảy chúng sinh trong A tăng kỳ thế giới, mà trải qua thời gian số kiếp A tăng kỳ.

 

Hữu đệ nhị nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri tiền nhân a-tăng-kì kiếp sở tri chúng sanh chư giải sái biệt. Như thị, diệc tận a-tăng-kì kiếp. thứ đệ triển chuyển, nãi chí đệ thập. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được người ở trước biết các kiến giải của chúng sinh trong A tăng kỳ kiếp. Như vậy cũng hết A tăng kỳ kiếp. Lần lượt cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

Giảng: Lại có người thứ hai, có thể ở trong một niệm, biết được người ở trước biết các kiến giải khác nhau của chúng sinh trong A tăng kỳ kiếp. Cũng như vậy hết A tăng kỳ kiếp thời gian, lần lượt đến người thứ mười ở chín phương kia cũng lại như thế.

 

Phật tử! thử thập phương chúng sanh chủng chủng sái biệt giải, khả tri biên tế. Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm công đức thiện căn, vô hữu năng đắc tri kỳ tế giả.

Phật tử ! Đủ thứ kiến giải khác nhau của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng có ai biết được bờ mé.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ðủ thứ các kiến giải của tất cả chúng sinh trong mười phương, đều có thể biết được cứu kính có bao nhiêu ? Nhưng công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

 

Hà dĩ cố? Phật tử! Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi tri Nhĩ sở chúng sanh giải cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. vi tận tri nhất thiết thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng sái biệt giải cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết kiến giải của chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì biết hết đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Tại sao vậy ? Phật tử ! Bồ Tát tu pháp bất định, nhưng vì muốn biết các kiến giải khác nhau của nhiều chúng sinh đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ kiến giải khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Sở vị: dục tri nhất thiết sái biệt giải vô biên cố, nhất chúng sanh giải, vô số chúng sanh giải bình đẳng cố. dục đắc bất khả thuyết sái biệt giải phương tiện trí quang minh cố. dục tất tri chúng sanh hải các các sái biệt giải, tận vô dư cố. dục tất tri qua, hiện, vị lai, thiện, bất thiện chủng chủng vô lượng giải cố. dục tất tri tương tự giải, bất tương tự giải cố. dục tất tri nhất thiết giải tức thị nhất giải, nhất giải tức thị nhất thiết giải cố. dục đắc Như Lai giải lực cố.

Đó là: Vì muốn biết vô biên kiến giải khác nhau. Vì một chúng sinh kiến giải và vô số chúng sinh kiến giải bình đẳng. Vì muốn được bất khả thuyết kiến giải khác biệt phương tiện trí quang minh. Vì muốn biết hết mỗi mỗi kiến giải khác nhau của biển chúng sinh không thừa sót. Vì muốn biết đủ thứ vô lượng kiến giải thiện bất thiện của quá khứ hiện tại vị lai. Vì muốn biết kiến giải tương tợ chẳng tương tợ. Vì muốn biết tất cả kiến giải tức là một kiến giải, một kiến giải tức là tất cả kiến giải. Vì muốn được sức kiến giải của Như Lai.

Giảng: Bồ Tát vì muốn biết biết tất cả kiến giải khác nhau, chẳng có bờ mé. Vì một chúng sinh kiến giải và nhiều chúng sinh kiến giải là bình đẳng. Bồ Tát vì muốn đắc được bất khả thuyết kiến giải khác nhau, phương tiện trí huệ quang minh. Bồ Tát vì muốn biết hết biển chúng sinh mỗi mỗi kiến giải khác biệt, không thừa sót. Bồ Tát vì muốn biết đủ thứ vô lượng kiến giải, thiện, bất thiện của đời quá khứ hiện tại vị lai. Bồ Tát vì muốn biết kiến giải tương tợ (kiến giải thế gian) và kiến giải chẳng tương tợ (kiến giải xuất thế). Bồ Tát vì muốn biết tất cả kiến giải tức là một kiến giải; một kiến giải tức là tất cả kiến giải. Bồ Tát vì muốn đắc được giải thoát thập lực của Như Lai, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Dục tất tri hữu thượng giải, vô thượng giải, hữu dư giải, vô dư giải, đẳng giải, bất đẳng giải sái biệt cố.

Vì muốn biết hữu thượng kiến giải, vô thượng kiến giải, hữu dư kiến giải, vô dư kiến giải, đẳng kiến giải, bất đẳng kiến giải khác nhau.

Giảng: Bồ Tát vì muốn biết hữu thượng kiến giải, tức là trí huệ kiến giải của Bồ Tát. Vô thượng kiến giải, tức là trí huệ kiến giải của Phật. Hữu dư kiến giải, tức là kiến giải của chín pháp giới chúng sinh. Vô dư kiến giải, tức là kiến giải của Phật pháp giới. Ðẳng kiến giải, tức là tất cả đẳng đẳng kiến giải. Bất đẳng kiến giải, tức là kiến giải bất tương đồng. Vì có đủ thứ kiến giải khác nhau, cho nên Bồ Tát phát tâm vô thượng bồ đề.

 

Dục tất tri hữu y giải, vô y giải, cọng giải, bất cộng giải, hữu biên giải, vô biên giải, sái biệt giải, vô sái biệt giải, thiện giải, bất thiện giải, thế gian giải, xuất thế gian giải sái biệt cố.

Vì muốn biết hữu y kiến giải, vô y kiến giải, cộng kiến giải, bất cộng kiến giải, hữu biên kiến giải, vô biên kiến giải, sai biệt kiến giải, vô sai biệt kiến giải, thiện kiến giải, bất thiện kiến giải, thế gian kiến giải, xuất thế gian kiến giải khác nhau.

Giảng: Bồ Tát vì muốn biết kiến giải có sở y, kiến giải vô sở y; kiến giải cộng đồng, kiến giải chẳng cộng đồng; kiến giải hữu biên, kiến giải vô biên; kiến giải có khác biệt, kiến giải chẳng khác biệt; kiến giải thiện, kiến giải chẳng thiện; kiến giải thế gian, tức là sự hiểu biết của phàm phu. Kiến giải xuất thế gian, tức là sự hiểu biết của Thánh nhân. Có đủ sự khác biệt, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Dục ư nhất thiết diệu giải, Đại giải, vô lượng giải, chánh vị giải trung, đắc Như Lai giải thoát vô chướng ngại trí cố.

Vì muốn ở nơi tất cả diệu kiến giải, đại kiến giải, vô lượng kiến giải, chánh lập kiến giải trung, đắc được trí không chướng ngại giải thoát của Như Lai.

Giảng: Bồ Tát vì muốn ở trong tất cả diệu kiến giải, đại kiến giải, vô lượng kiến giải, chánh lập kiến giải trung, đắc được trí không chướng ngại giải thoát của Như Lai, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Dục dĩ vô lượng phương tiện, tất tri thập phương nhất thiết chúng sanh giới, nhất nhất chúng sanh tịnh giải, nhiễm giải, quảng giải, lược giải, tế giải, thô giải, tận vô dư cố.

Vì muốn dùng vô lượng phương tiện, thảy đều biết tất cả cõi chúng sinh trong mười phương. Mỗi mỗi chúng sinh hiểu thanh tịnh, hiểu ô nhiễm, hiểu rộng lớn, hiểu giản lược, hiểu vi tế, hiểu thô, không thừa sót.

Giảng: Bồ Tát vì muốn dùng vô lượng phương tiện, thảy đều biết hết tất cả cõi chúng sinh trong mười phương, mỗi một chúng sinh hiểu thanh tịnh, hiểu nhiễm ô, hiểu rộng lớn, hiểu hạn hẹp, hiểu vi tế, hiểu thô, mà triệt để minh bạch, chẳng thừa sót mà phát tâm Vô thượng chánh chẳng chánh giác.

 

Dục tất tri thâm mật giải, phương tiện giải, phân biệt giải, tự nhiên giải, tùy nhân sở khởi giải, tùy duyên sở khởi giải, nhất thiết giải võng tất vô dư cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Vì đều muốn biết giải thâm mật, giải phương tiện, giải phân biệt, giải tự nhiên, giải theo nhân mà khởi lên, giải theo duyên mà khởi lên. Tất cả lưới giải, đều không thừa sót. Mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Bồ Tát vì muốn biết hoàn toàn về kiến giải thâm mật, tức là kiến giải chân thật. Kiến giải phương tiện, tức là phương tiện khéo léo, tức là nhân sự chế nghi, nhân địa chế nghi, nhân nhơn chế nghi. Kiến giải phân biệt, tức là phân tích tử tế tất cả đạo lý. Kiến giải tự nhiên, tức là rất tự nhiên mà minh bạch. Kiến giải theo nhân khởi lên, tức là tùy theo đủ thứ nhân mà khởi lên đủ thứ kiến giải. Kiến giải theo duyên khởi lên, tức là tùy theo đủ thứ duyên khởi lên đủ thứ kiến giải. Tất cả kiến giải, giống như tấm lưới. Nếu minh bạch thì đắc được giải thoát. Nếu chẳng minh bạch thì vĩnh viễn bị khốn ở trong lưới. Vì minh bạch hết hoàn toàn, chẳng thừa sót mà phát tâm vô thượng chánh đảng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ thư, dụ khéo biết thắng giải.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri Đông phương vô số thế giới nhất thiết chúng sanh chư căn sái biệt. Niệm niệm như thị, Kinh a-tăng-kì kiếp.

Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người nơi một tâm niệm, biết được các căn khác nhau của tất cả chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, trải qua số kiếp A tăng kỳ.

Giảng: Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ ở trên. Hiện tại lại đưa ra một ví dụ khác nữa. Ví như có người ở trong một tâm niệm, biết được các căn (sáu căn) khác nhau của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Trong niệm niệm đều như vậy, trải qua thời gian dài A tăng kỳ kiếp.

 

Hữu đệ nhị nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri tiền nhân a-tăng-kì kiếp niệm niệm sở tri chư căn sái biệt. Như thị quảng thuyết, nãi chí đệ thập. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Có người thứ hai, nơi một tâm niệm biết được người ở trước biết các căn lành khác nhau trong niệm niệm trải qua số kiếp A tăng kỳ. Nói rộng ra như vậy, cho đến người thứ mười, phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như vậy.

Giảng: Lại có người thứ hai, trong một tâm niệm, biết được người thứ nhất mỗi mỗi tâm niệm biết các căn khác nhau của hết thảy tất cả chúng sinh thời gian dài A tăng kỳ kiếp. Nói rộng ra như vậy, cho đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy.

 

Phật tử! thử thập phương thế giới sở hữu chúng sanh chư căn sái biệt, khả tri biên tế. Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm công đức thiện căn, vô hữu năng đắc tri kỳ tế giả.

Phật tử ! Các căn khác nhau của hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới đó, có thể biết được bờ mé. Còn công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.

Giảng: Các vị Phật tử ! các căn khác nhau của hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới đó, có thể biết được bờ mé của nó. Song, công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đắc được, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

 

Hà dĩ cố? Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi tri Nhĩ sở thế giới chúng sanh căn cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. vi tận tri nhất thiết thế giới trung nhất thiết chúng sanh căn chủng chủng sái biệt, quảng thuyết nãi chí, dục tận tri nhất thiết chư căn võng cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Tại sao ? Vì Bồ Tát chẳng giới hạn, chỉ vì muốn biết căn tánh của chúng sinh ở trong các thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ căn tánh khác nhau của tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến muốn biết hết tất cả lưới các căn tánh, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Tại vì sao ? Vì Bồ Tát chẳng có pháp độ nhất định, cho nên chẳng có giới hạn. Nhưng vì muốn biết các căn tánh của hết thảy tất cả chúng sinh trong vô số thế giới đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ các căn tánh khác nhau của hết thảy tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới. Có người lợi căn, thì có trí huệ. Có người độn căn, thì ngu si. Có người có căn lành, có người có căn ác. Có đủ thứ sự khác nhau. Nói rộng ra, cho đến muốn biết hết tất cả lưới các căn, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ năm, dụ khéo biết các căn.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri Đông phương vô số thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng dục lạc. Niệm niệm như thị, tận a-tăng-kì kiếp. Thứ đệ quảng thuyết, nãi chí đệ thập. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ sự ưa thích của hết thảy chúng sinh, trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt nói rộng ra, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.

Giảng: Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ vừa nói ở trên. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, trong một tâm niệm, biết được đủ thứ sự ưa thích của hết thảy tất cả chúng sinh, trong vô số thế giới ở phương đông. Nghĩa là một loại chúng sinh đó ưa thích thứ đó, đều hoàn toàn biết hết. Trong mỗi tâm niệm cũng đều như vậy, hết thời gian A tăng kỳ kiếp. Từng người từng người, cho đến người thứ mười. Chín phương kia cũng tình hình như vậy.

 

Thử thập phương chúng sanh sở hữu dục lạc, khả tri biên tế. Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm công đức thiện căn, vô hữu năng đắc tri kỳ tế giả.

Hết thảy sự ưa thích của chúng sinh trong mười phương, có thể biết được. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé.

Giảng: Hết thảy sự ưa thích của chúng sinh trong mười phương, có thể biết được bờ mé của nó. Song, công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đắc được, chẳng có ai biết được bờ mé của nó.

 

Hà dĩ cố? Phật tử! Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi tri Nhĩ sở chúng sanh dục lạc cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. vi tận tri nhất thiết thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng dục lạc, quảng thuyết nãi chí, dục tận tri nhất thiết dục lạc võng cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn. Nhưng Bồ Tát vì muốn biết sự ưa thích của chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ sự ưa thích của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến vì muốn biết lưới tất cả sự ưa thích, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Tại vì sao ? Phật tử ! Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, chẳng có phạm vi nhất định. Nhưng Bồ Tát vì muốn biết sự ưa thích của hết thảy chúng sinh trong nhiều thế giới đó, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ sự ưa thích của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới. Nếu nói rộng ra thì cho đến muốn biết tất cả lưới sự ưa thích mà phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ sáu, dụ khéo biết sự ưa thích.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri Đông phương vô số thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng phương tiện. như thị quảng thuyết, nãi chí đệ thập. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng ra như vậy, cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như vậy.

Giảng: Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ vừa nói ở trước. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, trong một niệm, biết được đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Tình hình như vậy nói rộng ra cho đến người thứ mười. Chín phương kia còn lại cũng giống như vậy.

 

Thử thập phương chúng sanh chủng chủng phương tiện, khả tri biên tế. Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm công đức thiện căn, vô hữu năng đắc tri kỳ tế giả.

Đủ thứ phương tiện của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng ai biết được bờ mé.

Giảng: Ðủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới đó, có thể biết được bờ mé của nó. Song, công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chẳng ai biết được bờ mé của nó.

 

Hà dĩ cố? Phật tử! Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi tri Nhĩ sở thế giới chúng sanh chủng chủng phương tiện cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. vi tận tri nhất thiết thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng phương tiện, quảng thuyết nãi chí, dục tận tri nhất thiết phương tiện võng cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Tại sao ? Phật tử ! Vì Bồ Tát chẳng giới hạn. Nhưng vì muốn biết đủ thứ phương tiện của chúng sinh trong những thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết hết đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, nói rộng ra cho đến vì muốn biết tất cả lưới phương tiện, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Tại sao vậy ? Phật tử ! Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, chẳng có giới hạn nhất định. Nhưng vì muốn biết đủ thứ phương tiện của hết thảy chúng sinh trong nhiều thế giới đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ phương tiện, của hết thảy chúng sinh trong nhiều thế giới, nói rộng ra cho đến vì muốn biết hết tất cả lưới phương tiện, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ mười, dụ khéo biết phương tiện.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri Đông phương vô số thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng sái biệt tâm. Quảng thuyết nãi chí, thử thập phương thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng sái biệt tâm, khả tri biên tế.

Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ tâm khác biệt, của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng cho đến mười phương thế giới, đủ thứ tâm niệm của hết thảy chúng sinh, đều biết được bờ mé.

Giảng: Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ vừa nói ở trước. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, trong một tâm niệm, biết được đủ thứ tâm khác nhau của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng ra cho đến mười phương thế giới, đủ thứ tâm khác nhau của hết thảy chúng sinh, cũng biết được bờ mé.

 

Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm công đức thiện căn, vô hữu năng đắc tri kỳ tế giả. Hà dĩ cố?

Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?

Giảng: Công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chẳng có ai biết được bờ mé của nó. Tại sao không thể biết được bờ mé của nó?

 

Phật tử! Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi tri Nhĩ sở chúng sanh tâm cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. vi tất tri tận Pháp giới, hư không giới vô biên chúng sanh chủng chủng tâm, nãi chí dục tận tri nhất thiết tâm võng cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Phật tử ! Bồ Tát không giới hạn, nhưng vì muốn biết tâm của những chúng sinh đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì muốn biết hết đủ thứ tâm khác biệt của vô biên chúng sinh trong pháp giới, cho đến muốn biết tất cả lưới tâm, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Phật tử ! Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, chẳng có pháp độ nhất định. Nhưng vì muốn biết tâm của nhiều chúng sinh đó, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ tâm niệm của vô biên vô số chúng sinh, trong tận cùng pháp giới hư không giới, cho đến muốn biết tất cả lưới tâm, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ tám, dụ khéo biết tâm của kẻ khác.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri Đông phương vô số thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng sái biệt nghiệp. Quảng thuyết nãi chí, thử thập phương chúng sanh chủng chủng sái biệt nghiệp, khả tri biên tế.

Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ nghiệp khác biệt của hết thảy chúng sinh, trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng cho đến mười phương chúng sinh đủ thứ nghiệp khác biệt, đều có thể biết được bờ mé.

Giảng: Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ vừa nói ở trên. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, nơi một niệm, biết được đủ thứ nghiệp khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Nói rộng ra, cho đến trong mười phương thế giới, đủ thứ nghiệp khác nhau của hết thảy chúng sinh. Bồ Tát có thể biết được bờ mé của nó.

 

Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm thiện căn biên tế, bất khả đắc tri. hà dĩ cố?

Công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?

Giảng: Công đức và căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đắc được là bao nhiêu ? Chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao không thể biết được ?

 

Phật tử! Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi tri Nhĩ sở chúng sanh nghiệp cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. dục tất tri tam thế nhất thiết chúng sanh nghiệp, nãi chí dục tất tri nhất thiết nghiệp võng cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Phật tử ! Bồ Tát không giới hạn, nhưng vì muốn biết nghiệp của các chúng sinh đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết nghiệp của tất cả chúng sinh trong ba đời, cho đến muốn biết tất cả lưới nghiệp, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, chẳng có giới hạn nhất định. Nhưng vì muốn biết nghiệp báo của bao nhiêu chúng sinh đó, cho nên phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết nghiệp báo của tất cả chúng sinh ba đời, cho đến muốn biết tất cả lưới nghiệp, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ chín, dụ khéo biết tướng nghiệp.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri Đông phương vô số thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng phiền não. Niệm niệm như thị, tận a-tăng-kì kiếp, thử chư phiền não chủng chủng sái biệt, vô hữu năng đắc tri kỳ biên tế.

Phật tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, biết được đủ thứ phiền não, của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Niệm niệm đều như vậy, cho đến hết số kiếp A tăng kỳ. Đủ thứ các phiền não khác biệt đó, chẳng có ai biết được bờ mé.

Giảng: Phật tử ! Hãy tạm ngưng ví dụ vừa nói ở trên. Lại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, trong một tâm niệm, biết được đủ thứ phiền não của hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới ở phương đông. Trong niệm niệm đều như vậy, hết số kiếp A tăng kỳ thời gian. Ðủ thứ các phiền não khác biệt đó, chẳng có người nào biết được bờ mé của nó.

 

Hữu đệ nhị nhân, ư nhất niệm khoảnh, năng tri tiền nhân a-tăng-kì kiếp sở tri chúng sanh phiền não sái biệt. Như thị, phục tận a-tăng-kì kiếp. Thứ đệ quảng thuyết, nãi chí đệ thập. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Có người thứ hai, nơi một tâm niệm, biết được người thứ nhất biết các phiền não khác biệt của chúng sinh trong A tăng kỳ kiếp. Như vậy lại hết số kiếp A tăng kỳ. Lần lượt nói rộng ra cho đến người thứ mười. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.

Giảng: Lại có người thứ hai, trong một tâm niệm, biết được người thứ nhất biết phiền não của chúng sinh trải qua thời gian số kiếp A tăng kỳ. Cứ như vậy, lại hết số kiếp A tăng kỳ. Nói rộng ra cho đến người thứ mười. Chín phương kia còn lại, cũng đều như vậy.

 

Phật tử! thử thập phương chúng sanh phiền não sái biệt, khả tri biên tế. Bồ Tát sơ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm thiện căn biên tế, bất khả đắc tri. hà dĩ cố?

Phật tử ! Phiền não khác biệt của chúng sinh trong mười phương đó, có thể biết được bờ mé. Công đức căn lành của Bồ Tát phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chẳng có ai biết được bờ mé. Tại sao ?

Giảng: Phật tử ! Trong vô số thế giới ở mười phương, hết thảy chúng sinh, đều có phiền não khác nhau. Chúng sinh có vô lượng vô biên, phiền não cũng có vô lượng vô biên, cho nên có đủ thứ khác nhau. Tuy có nhiều phiền não như vậy, nhưng cũng có thể biết được bờ mé của nó. Song, công đức căn lành của Bồ Tát ban đầu phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đắc được, cứu kính có bao nhiêu ? Bờ mé của nó đến đâu ? Chẳng có người nào biết được. Tại sao không biết được bờ mé của căn lành?

 

Phật tử! Bồ Tát bất tề hạn, đãn vi tri Nhĩ sở thế giới chúng sanh phiền não cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. vi tận tri nhất thiết thế giới sở hữu chúng sanh phiền não sái biệt cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Phật tử ! Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì muốn biết phiền não của chúng sinh trong những thế giới đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì muốn biết phiền não khác biệt của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Phật tử ! Bồ Tát chẳng có pháp nhất định, cho nên chẳng giới hạn. Nhưng vì muốn biết phiền não của hết thảy chúng sinh trong những thế giới đó, cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì muốn biết hết đủ thứ phiền não khác nhau, của hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Phiền não là gì ? Tức là phiền tâm não thân. Nói rộng ra thì có đến tám vạn bốn ngàn, quy về tức là tham sân si. Phiền não của tham, tham chẳng biết chán, tham mà chẳng được, đều có phiền não. Vật chẳng có thì tìm đủ ngàn phương vạn kế để cho được. Ðã có rồi thì lại sợ mất đi, đây đều là phiền não. Phiền não của sân, tham được thì vui mừng, tham chẳng được thì sinh tâm sân hận, tức cũng là nóng giận. Một khi nổi nóng thì sẽ thiêu sạch tất cả công đức. Do đó:

‘’Ngàn ngày nhặt củi
Một đốm lửa nhỏ thiêu sạch.’’

Phiền não của ngu si, tức là vô minh tác quái. Có vô minh thì sanh ra tâm ái. Ái gì ? Thích hưởng thụ, thích vui năm dục. Vì muốn hưởng thụ, nên bất cứ những gì, cũng đều muốn lấy làm của riêng mình. Như vậy thì sẽ làm việc điên đảo, chẳng phân trắng đen, chẳng rõ thiện ác. Ðây tức là biểu hiện của ngu si.

 

Sở vị: dục tận tri khinh phiền não, trọng phiền não, miên phiền não, khởi phiền não, nhất nhất chúng sanh vô lượng phiền não chủng chủng sái biệt, chủng chủng giác quán, tịnh trì nhất thiết chư tạp nhiễm cố.

Đó là vì muốn biết phiền não nhẹ, phiền não nặng, phiền não ẩn tàng, phiền não sinh khởi, mỗi mỗi chúng sinh có vô lượng phiền não, đủ thứ khác biệt, đủ thứ giác quán, tịnh trị tất cả các tạp nhiễm.

Giảng: Bồ Tát muốn biết nguyên lai của tất cả phiền não, phiền não nhẹ, tức là phiền não chẳng trọng yếu, tức cũng là phiền não nhỏ của mười hoặc. Phiền não nặng, tức là phiền não rất trọng yếu, tức cũng là đại phiền não của tám hoặc. Phiền não ẩn tàng ở bên trong. Phiền não sinh khởi, tức là phiền não sinh ra tất cả. Mỗi chúng sinh, đều có vô lượng vô biên phiền não, có đủ thứ khác nhau; có đủ thứ giác quán khác nhau. Thanh tịnh tu trị tất cả phiền não biến thành bồ đề, biến tất cả tư tưởng nhiễm ô thành tư tưởng thanh tịnh. Vì nguyên nhân đó, cho nên Bồ Tát phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Dục tận tri y vô minh phiền não, ái tướng ứng phiền não, đoạn nhất thiết chư hữu thú phiền não kết cố.

Vì muốn biết hết vô minh phiền não nương tựa, phiền não ái tương ưng. Dứt trừ tất cả phiền não kết trong các loài.

Giảng: Bồ Tát muốn biết vô minh phiền não nương tựa, trong đo có hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái .v.v… phiền não tương ưng. Phải chặt đứt tất cả phiền não kết trong các cõi, cho nên Bồ Tát phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Phiền não kết có ba thứ: Một là dục kết, tức là tất cả ái của dục giới. Hai là hữu kết, tức là tất cả ái sở hợp thành của sắc giới và vô sắc giới. Ba là vô minh kết, tức là vô minh ba cõi. Tam kết tức là ba lậu, nếu si ái chặt đứt, thì vĩnh viễn đoạn trừ dòng sinh tử.

 

Dục tận tri tham phần phiền não, sân phần phiền não, si phần phiền não, đẳng phần phiền não, đoạn nhất thiết phiền não căn bản cố.

Vì muốn biết phần phiền não tham, phần phiền não sân, phần phiền não si, phiền não đẳng phần. Đoạn trừ tất cả gốc rễ phiền não.

Giảng: Tại sao Bồ Tát phát tâm bồ đề ? Vì muốn giáo hóa chúng sinh, cho nên phát tâm tu hành. Tu hành thành tựu thì mới giáo hóa được chúng sinh. Nếu muốn giáo hóa chúng sinh, thì trước hết phải biết căn tánh của chúng sinh. Nếu muốn biết căn tánh của chúng sinh, thì trước hết phải biết dục (lòng ưa muốn) của chúng sinh. Tức cũng là chúng sinh hoan hỷ gì ? Dục tức là tham dục, tham dục nhiều thì phiền não nhiều, tham dục ít thì phiền não ít. Bồ Tát muốn biết mỗi chúng sinh có bao nhiêu tham dục ? Cho nên phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Phần phiền não tham: Ai ai cũng đều có phần, không tham danh thì tham lợi. Tham danh thì chết vì lửa, tham lợi thì chết vì nước. Danh là thứ hại người, lợi cũng là thứ hại người, song ai ai cũng chẳng nhận thức nó, cho nên đều tham. Có người tham tài, có người tham sắc, có người tham ăn, có người tham ngủ. Do đó:

‘’Tài sắc danh thực thùy
Địa ngục năm căn dành sẵn.’’

Khi tham thì cho rằng là điều tốt, chẳng biết tham tới tham lui, cuối cùng sẽ đọa vào địa ngục. Trên thế giới chỉ có hai hạng người, một hạng người là vì danh, một hạng người là vì lợi. Lấy người xuất gia mà nói, thì muốn làm đại hòa thượng, đại pháp sư, tham đến già thì muốn làm lão hòa thượng, lão pháp sư. Tham đồ muốn làm pháp sư có danh vọng nhất thế giới, làm hòa thượng có thế lực nhất, song mình vẫn chẳng biết, tham làm lão pháp sư thì lìa tham tử pháp sư chẳng bao xa; tham làm lão hòa thượng thì tham tử hòa thượng chẳng bao xa. Tham tới tham lui tham chết rồi thì hai tay hoàn không, tùy theo nghiệp mà đi. Phải biết, tham tiền tài thì có thể chết về tiền tài; tham sắc đẹp thì sẽ chết vì sắc đẹp; tham danh lợi thì sẽ chết vì danh lợi, tham ăn thì sẽ chết vì ăn; tham ngủ thì sẽ chết vì ngủ. Người tham ngủ thì càng ngủ càng hồ đồ, càng hồ đồ thì càng muốn ngủ, ngủ tới ngủ lui thì ngủ chết luôn, thật là đáng thương xót !

Phần phiền não sân: Tức là nóng giận. Vì tâm tham không thể mãn nguyện thì sinh ra tâm sân hận. Nếu nhẹ thì ôm hận trong tâm, nếu nặng thì phát sinh chiến tranh. Bạn tham tôi đoạt, thậm chí bạn chết tôi sống. Ví như nước này với nước kia đánh nhau, đều do tâm sân của vị lãnh tụ nguyên thủ mà ra. Nếu chẳng có tâm sân thì hai nước chẳng có chiến tranh, nhân dân được bình an vô sự. Tại sao thế giới có chiến tranh ? Vì do nguyên thủ quốc gia khởi tâm tham, muốn xâm lược đất đai của nước khác, chiếm lợi ích của nước khác. Nguyên thủ của nước khác, vì giữ gìn quốc gia, chẳng muốn lợi ích bị đoạt lấy đi, bèn phát sinh xung đột với nước khác, hoặc là chiến tranh. Dẫn đến dân của hai nước gặp nạn, chết vô số, lầm than khổ cực. Nghiên cứu tỉ mỉ sự phát sinh chiến tranh, đều vì nguyên thủ của hai nước giận dữ mà đưa đến chiến tranh, người dân chết vô số, tổn thất vô số của cải tài sản. Ðây là phần phiền não sân.

Phần phiền não si: Tức là ngu si, chẳng rõ sự lý. Người ngu si chẳng có lý tánh, chẳng cứ tất cả, thậm chí giết người phóng lửa cũng dám làm, chẳng suy nghĩ, chẳng lường hậu quả.

Phiền não đẳng phần: Tức là tham sân si ba phần đều nhiều. Ví như phiền não tham có bao nhiêu ? Phiền não sân có bao nhiêu ? Phiền não si có bao nhiêu ? Lại phân chia nó ra thì biến thành ngàn vạn phiền não, không thể đếm được. Ở trên là lược nói về tham sân si các phiền não.

 

Dục tất tri ngã phiền não, ngã sở phiền não, ngã mạn phiền não, giác ngộ nhất thiết phiền não tận vô dư cố.

Vì muốn biết hết phiền não của ngã, phiền não của ngã sở, phiền não ngã mạn. Giác ngộ tất cả phiền não hết không thừa.

Giảng: Vì Bồ Tát muốn biết phiền não của ngã. Vì có ngã (cái ta), mới có phiền não. Nếu chẳng có cái ta thì chẳng có phiền não. Ðạo lý này ai ai cũng biết, song ai ai cũng buông xả chẳng đặng cái ta, cho nên sinh ra quá nhiều phiền não. Bồ Tát muốn biết phiền não của ngã sở. Vì có ngã, đây là sở hữu của ta, kia là sở hữu của ta, con cái sở hữu của tôi, tài sản sở hữu của tôi. Tóm lại, tất cả tất cả đều là sở hữu của tôi, đây đều là phiền não. Bồ Tát muốn biết phiền não ngã mạn. Mạn tức là kiêu mạn, xem ai cũng chẳng ra gì. Ðều cảm thấy mình đều giỏi hơn người. Có tâm lý ngã mạn thì sẽ sinh ra đủ thứ phiền não. Ba thứ phiền não này hại người không ít, vì nó mà có sinh tử.

Có phiền não thì có chấp trước, có chấp trước thì có tạo nghiệp, tạo nghiệp thì thọ quả báo. Nếu phiền não không, thì nghiệp cũng không, quả báo cũng không, tất cả đều không, thì chẳng còn sinh tử. Bồ Tát muốn giác ngộ tất cả phiền não hết không thừa sót, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Dục tất tri tùng điên đảo phân biệt sanh căn bản phiền não, tùy phiền não, nhân thân kiến sanh lục thập nhị kiến, điều phục nhất thiết phiền não cố.

Vì muốn biết hết từ điên đảo phân biệt mà sinh ra gốc rễ phiền não. Tùy phiền não. Vì thấy thân mà sinh ra sáu mươi hai kiến, điều phục tất cả phiền não.

Giảng: Bồ Tát vì muốn biết tất cả phiền não, là từ điên đảo phân biệt mà sinh ra gốc rễ phiền não. Có gốc rễ phiền não thì có tùy phiền não. Gốc rễ phiền não tức là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới thủ kiến. Tùy phiền não phân làm (đại trung tiểu) lớn, vừa, nhỏ, ba thứ. Ðại phiền não là hôn trầm, trạo cử, chẳng tin, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất tri, tám thứ. Trung phiền não là không hổ, không thẹn, hai thứ. Tiểu phiền não là phẫn, hận, phú, não, kỵ, xan, xiểm, cuống, hại, kiêu, mười thứ. Vì thấy thân mà sinh ra sáu mươi hai kiến. Sáu mươi hai kiến này vốn chẳng có, là vọng chấp mà có sáu mươi hai kiến. Phàm là hư vọng chấp trước, đều chẳng phải chánh quyết. Chỉ có tên mà chẳng có nghĩa. Gì là sáu mươi hai kiến ? Trong mỗi năm uẩn có bốn kiến. Ví như ‘’Cho rằng sắc là tôi, tôi ở trong sắc.’’ Thọ tưởng hành thức bốn uẩn cũng như thế. Ðây là hai mươi. Trải qua ba đời, thành là sáu mươi. Lại thêm đoạn kiến và thường kiến là sáu mươi hai kiến. Do thân thấy phân biệt mà sinh ra sáu mươi hai kiến, cho nên Phật thuận theo chúng để phá phiền não của chúng. Bồ Tát vì điều phục tất cả phiền não, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Dục tất tri cái phiền não, chướng phiền não, phát đại bi cứu hộ tâm, đoạn nhất thiết phiền não võng, lệnh nhất thiết trí tánh thanh tịnh cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Vì muốn biết hết phiền não che đậy, phiền não chướng, phát tâm đại bi cứu hộ, dứt trừ tất cả lưới phiền não, khiến cho tất cả trí tánh thanh tịnh, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Bồ Tát vì muốn biết hết phiền não che đậy. Giống như mây che mặt trời, tức cũng là vô minh che đậy trí huệ quang minh. Che đậy có năm thứ:

1). Tham dục che đậy (cái): Chẳng biết tại sao ? Người nam muốn tìm người nữ, người nữ muốn tìm người nam, đi tìm khắp nơi, tìm chẳng đặng thì sinh phiền não. Ðây tức là tham dục đang tác quái, khiến cho bạn sinh phiền não.

2). Sân hận che đậy: Vì tham dục chẳng đắc được, thì sinh ra phiền não sân hận. Sân là hình dáng lộ trên mặt, hận là tâm hận ẩn trong tâm. Hai thứ hiện trượng này, khiến cho người cảm tình hành động, thậm chí không có lý trí thì phát sinh chuyện điên đảo, cho đến giết người phóng lửa, chẳng có gì mà không làm.

3). Ngủ che đậy: Vì có sân hận bực tức, thì đi ngủ để giải cơn sầu. Nhưng càng ngủ thì càng hồ đồ, tâm cũng hôn mê, thân cũng nặng nề, thì che lấp tâm tánh.

4). Trạo hối che đậy: Sau khi ngủ mê thì trạo hối, chẳng biết đâu là đúng, đâu là không đúng, bèn mê hoặc.

5). Nghi pháp che đậy: Trạo hối rồi thì gì cũng chẳng tin, đối với tất cả pháp đều sinh ra tâm hoài nghi, do dự chẳng quyết định mà che lấp tâm tánh. Vì chẳng mãn túc mà sinh ra năm thứ che đậy, che đến nỗi trời đất u ám, chẳng biết đông tây nam bắc. Hoặc lấy tài sắc danh thực thùy làm năm thứ che đậy, tham tài thì che lấp trí huệ, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ, đều che lấp trí huệ.

Bồ Tát muốn biết phiền não chướng. Chướng tức là chướng ngại. Chướng có hai thứ:

1). Phiền não chướng: Do ngã chấp mà sinh, hay chướng ngại chân lý Niết Bàn tịch tĩnh.

2). Sở tri chướng: Do pháp chấp mà sinh, hay chướng ngại các pháp thật tướng trí bồ đề. Lại có ba thứ:

2a) Phiền não chướng: Tức là tham sân si mạn nghi các hoặc.

2b). Nghiệp chướng: Tức là ngũ nghịch thập ác các hoặc.

2c). Báo chướng: Tức là địa ngụ, ngạ quỷ, súc sinh khổ báo. Còn có rất nhiều thứ chướng, tạm ngừng không bàn.

Vì phiền não che đậy và phiền não chướng là phiền não nặng, cho nên Bồ Tát phải phát tâm đại bi cứu hộ. Ðại bi tức là tâm đại từ bi, tức cũng là tâm đồng tình, tâm thương xót. Tâm đại bi tức là Bồ Tát chẳng thấy chúng sinh lỗi lầm. Chúng sinh dù có khó điều khó phục như thế nào, Bồ Tát vẫn không ngừng nghỉ để giáo hóa. Ðây tức là biểu hiện của tâm đại bi. Tâm cứu hộ tất cả chúng sinh, khiến cho đoạn tuyệt tất cả lưới phiền não. Phiền não của người với người, giao kết với nhau mà thành lưới. Bất quá, nhục nhãn phàm phu chúng ta nhìn chẳng thấy mà thôi. Lưới phiền não này rất là lợi hại, bạn giăng bủa tôi, tôi giăng bủa bạn, bạn chẳng dạy tôi thoát khỏi ba cõi, tôi cũng chẳng nhường bạn thoát khỏi ba cõi, mọi người giăng bủa với nhau, đều không thể thoát khỏi sáu nẻo luân hồi. Nếu chặt đứt lưới phiền não, thì thoát khỏi ba cõi, được giải thoát. Vậy dùng gì để chặt đứt lưới phiền não ? Dùng kiếm báu giới định huệ, nhẹ mà dễ cầm thì sẽ chặt đứt được. Bồ Tát vì khiến cho tất cả gốc rễ trí huệ tánh thanh tịnh khôi phục lại diệu minh chân tâm, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ mười, dụ khéo biết phiền não.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử hữu nhân, ư nhất niệm khoảnh, dĩ chư chủng chủng thượng vị ẩm thực, hương hoa, y phục, tràng phan, tản cái, cập tăng già lam, thượng diệu cung điện, bảo trướng, võng mạn, chủng chủng trang nghiêm sư tử chi tọa cập chúng diệu bảo, cúng dường Đông phương vô số chư Phật, cập vô số thế giới sở hữu chúng sanh, cung kính tôn trọng, lễ bái tán thán, khúc cung chiêm ngưỡng, tướng tục bất tuyệt, Kinh vô số kiếp. Hựu khuyến bỉ chúng sanh, tất lệnh như thị cúng dường ư Phật.

Phật tử ! Hãy tạm ngưng ví dụ này. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, dùng đủ thứ thức ăn uống thượng hạng, hương hoa y phục, tràng phan dù lọng và Tăng già lam, cung điện tốt đẹp, màn lưới báu võng, đủ thứ tòa báu sư tử, và các báu đẹp, cúng dường vô số chư Phật ở phương đông, và vô số thế giới hết thảy chúng sinh. Cung kính tôn trọng, lễ lạy khen ngợi, cúi mình chiêm ngưỡng, liên tục không ngừng, trải qua vô số kiếp. Lại khuyên những chúng sinh đó, đều khiến như vậy, cúng dường chư Phật.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ nói: Phật tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ ở trước. Hiện tại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người, nơi một tâm niệm, dùng đủ thứ thức ăn thơm ngon thượng hạng, hoặc dùng đủ thứ hương hoa, y phục, tràng phan, dù lọng và vườn rừng nơi ở của chư Tăng. Và cung điện trang nghiêm tốt đẹp, dùng màn làm bằng bảy báu, võng báu, lưới báu đủ thứ, để trang nghiêm tòa sư tử. Lại dùng đủ thứ báu đẹp, để cúng dường vô số chư Phật ở phương đông, và hết thảy chúng sinh vô số thế giới ở phương đông. Sau đó cung kính chư Phật, tôn trọng chư Phật, lễ kính Tam Bảo, khen ngợi Tam Bảo, trải qua thời gian dài vô số kiếp. Lại phát tâm khuyên dạy hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, cũng cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật.

 

Chí Phật diệt hậu, các vi khởi tháp. kỳ tháp cao quảng, vô số thế giới chúng bảo sở thành chủng chủng trang nghiêm. Nhất nhất tháp trung, các hữu vô số Như Lai hình tượng, quang minh biến chiếu vô số thế giới, Kinh vô số kiếp. Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.

Cho đến sau khi Phật diệt độ, mỗi vị Phật đều xây tháp cho rộng. Vô số thế giới đều có tạo thành các bảo tháp bảy báu, có đủ thứ sự trang nghiêm. Trong mỗi tháp đều có vô số hình tượng Như Lai. Quang minh chiếu khắp vô số thế giới, trải qua vô số kiếp. Phương nam, tây, bắc, bốn hướng, trên dưới, cũng lại như thế.

Giảng: Cho đến sau khi Phật diệt độ, vì mỗi vị Phật đều tạo một ngôi tháp báu, cúng dường xá lợi Phật. Tòa tháp báu đó, cao lớn vĩ đại. Trong vô số thế giới, đều có tạo thành tháp báu làm bằng bảy báu, có đủ thứ sự trang nghiêm, rất là mỹ lệ. Trong mỗi tháp lại có vô số hình tượng Phật, tượng Phật dùng bảy báu trang nghiêm, cho nên phóng ra đại quang minh, chiếu soi khắp vô số thế giới, trải qua thời gian dài vô số kiếp, quang minh đó cũng chẳng giảm đi. Ở phương nam tây bắc, bốn hướng, trên dưới chín phương cũng lại như thế.

 

Phật tử! ư nhữ ý vân hà, thử nhân công đức ninh vi đa bất? Thiên đế ngôn: thị nhân công đức, duy Phật nãi tri, dư vô năng trắc.

Phật tử ! Ý ông thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ? Đế Thích nói: Công đức của người đó, chỉ có Phật mới biết được, ngoài ra chẳng có ai lường được.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ nói với Ðế Thích rằng: Phật Tử ! Ý của ông thế nào ? Cảm tưởng như thế nào ? Công đức của người đó có nhiều chăng ? Ðế Thích trả lời: Công đức của người đó, tôi chẳng biết được cứu kính là bao nhiêu ? Chỉ có đức Phật mới biết được. Ngoài ra hết thảy Bồ Tát e rằng cũng không thể dò lường được.

 

Phật tử! thử nhân công đức bỉ Bồ Tát sơ phát tâm công đức, bách phân bất cập nhất, thiên phần bất cập nhất, bách thiên phần bất cập nhất, nãi chí ưu ba ni sa đà phần diệc bất cập nhất.

Phật tử ! Công đức của người đó, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn, cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà.

Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng Phật tử ! công đức của người đó, tuy rất nhiều, nhưng so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm thì thua xa lắm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Bất cứ ví dụ như thế nào, cũng đều chẳng bằng một phần công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm.

 

Phật tử! phục trí thử dụ. giả sử phục hưũ đệ nhị nhân, ư nhất niệm trung, năng tác tiền nhân cập vô số thế giới sở hữu chúng sanh vô số kiếp trung cúng dường chi sự. Niệm niệm như thị, dĩ vô lượng chủng cúng dường chi cụ, cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, cập vô lượng thế giới sở hữu chúng sanh, Kinh vô lượng kiếp.

Phât tử ! Hãy ngưng ví dụ này. Nếu như lại có người thứ hai, nơi một tâm niệm, làm được như người ở trước và cúng dường hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới trải qua vô số kiếp. Niệm niệm như vậy. Dùng vô lượng các thứ đồ cúng dường, cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai, và hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, trải qua vô lượng kiếp.

Giảng: Phât tử ! Hãy tạm gác lại ví dụ ở trên. Hiện tại đưa ra một ví dụ khác. Nếu như có người thứ hai. Trong một tâm niệm, làm được như người ở trước và cúng dường hết thảy chúng sinh vô số thế giới, trong vô số kiếp. Một niệm là như vậy, niệm niệm cũng đều như vậy. Dùng vô lượng vô biên đồ cúng dường, để cúng dường vô lượng chư Phật và vô lượng thế giới hết thảy chúng sinh, cũng trải qua thời gian dài vô lượng kiếp.

 

Kỳ đệ tam nhân, nãi chí đệ thập nhân, giai diệc như thị, ư nhất niệm trung năng tác tiền nhân sở hữu cúng dường. Niệm niệm như thị, dĩ vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết cúng dường chi cụ, cúng dường vô biên nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật, cập Nhĩ hứa thế giới sở hữu chúng sanh, Kinh vô biên nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.

Người thứ ba, cho đến người thứ mười cũng đều như vậy. Nơi một tâm niệm, đều đem các đồ cúng dường như người thứ nhất. Niệm niệm cũng đều như vậy. Dùng vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đồ cúng dường. Cúng dường vô biên cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật, và hết thảy chúng sinh trong vô số thế giới, trải qua vô biên cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp.

Giảng: Người thứ ba, cũng cúng dường vô số chư Phật và vô số chúng sinh như vậy, cho đến người thứ mười cũng như vậy. Trong một niệm, đem các đồ cúng dường như người thứ nhất. Một niệm như vậy, niệm niệm cũng như vậy. Chẳng có bờ mé, chẳng có tương đồng, không thể dùng số mục để đếm nó, không thể dùng thước để đo lường nó, không thể dùng lời để hình dung nó, nói thẳng là bất khả thuyết bất khả thuyết, nói không ra các thứ đồ cúng dường, để cúng dường vô biên các Ðức Phật. Cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết các đức Phật, và hết thảy chúng sinh trong vô lượng vô số thế giới. Trải qua vô biên kiếp, cho đến số kiếp nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết.

 

Chí Phật diệt hậu, các vi khởi tháp, kỳ tháp cao quảng. Nãi chí trụ kiếp, diệc phục như thị.

Sau khi Phật diệt độ, đều xây tháp báu. Tháp báu đó cao rộng, cho đến kiếp trụ, cũng lại như thế.

Giảng: Ðợi sau khi Phật diệt độ, đều xây dựng tháp báu. Tháp báu đó chẳng những cao đến tận mây mà còn rộng lớn vô cùng. Cho đến trải qua kiếp trụ, cũng vì chư Phật tạo dựng tháp báu như vậy, cúng dường xá lợi và hình tượng của chư Phật.

 

Phật tử! thử tiền công đức bỉ Bồ Tát sơ phát tâm công đức, bách phân bất cập nhất, thiên phần bất cập nhất, bách thiên phần bất cập nhất, nãi chí ưu ba ni sa đà phần diệc bất cập nhất. Hà dĩ cố?

Phật tử ! Công đức của những người cúng dường ở trên, so với công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Tại sao ?

Giảng: Phật tử ! công đức của những người cúng dường chư Phật ở trên, so với công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn. Cho đến chẳng bằng một phần ưu ba ni sa đà. Tóm lại, Bồ Tát phát một chút tâm bồ đề cũng vượt qua công đức của những người cúng dường vô số chư Phật. Tại sao vậy ?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bất tề hạn, đãn vi cúng dường Nhĩ sở Phật cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm. vi cúng dường tận Pháp giới, hư không giới, bất khả thuyết bất khả thuyết thập phương vô lượng khứ, lai, hiện tại sở hữu chư Phật cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Phật tử ! Bồ Tát chẳng giới hạn, nhưng vì cúng dường bao nhiêu chư Phật đó, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Vì cúng dường hết pháp giới hư không giới, bất khả thuyết bất khả thuyết mười phương vô lượng quá khứ vị lai hiện tại, hết thảy các đức Phật, mà phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Giảng: Phật tử ! Ðại Bồ Tát trong Bồ Tát phát tâm bồ đề chẳng giới hạn. Cảnh giới của Bồ Tát, chẳng có bờ mé nhất định. Nhưng vì cúng đường hết thảy bao nhiêu các đức Phật, mà phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Bồ Tát vì cúng dường tận hư không khắp pháp giới, bất khả thuyết bất khả thuyết, mười phương vô lượng số quá khứ vị lai hiện tại ba đời hết thảy các đức Phật, mà phát tâm Vô thượng chánh chẳng chánh giác. Ðây là ví dụ thứ mười một, dụ cúng Phật và chúng sinh.

 

Phát thị tâm dĩ, năng tri tiền tế nhất thiết chư Phật thủy thành chánh giác cập Bát Niết Bàn, năng tín hậu tế nhất thiết chư Phật sở hữu thiện căn, năng tri hiện tại nhất thiết chư Phật sở hữu trí tuệ.

Phát tâm bồ đề rồi, sẽ biết được quá khứ tất cả chư Phật ban đầu thành Chánh giác và vào Niết Bàn. Sẽ tin hết thảy căn lành của tất cả chư Phật vị lai. Biết được hết thảy trí huệ của tất cả chư Phật hiện tại.

Giảng: Ðại Bồ Tát phát tâm bồ đề rồi, sẽ biết được quá khứ tất cả chư Phật do ban đầu phát tâm, cho đến thành Chánh giác và vào Niết Bàn. Lại biết được hết thảy căn lành của tất cả chư Phật thuở vị lai. Lại biết được hết thảy trí huệ của tất cả chư Phật đời hiện tại.

 

Bỉ chư Phật sở hữu công đức, thử Bồ Tát năng tín, năng thọ, năng tu, năng đắc, năng tri, năng chứng, năng thành tựu, năng dữ chư Phật bình đẳng nhất tánh.

Hết thảy công đức của chư Phật đó, Bồ Tát này hay tin, hay thọ trì, hay tu tập, hay đắc được, hay biết được, chứng được, thành tựu được, bình đẳng một tánh với chư Phật.

Giảng: Hết thảy công đức của tất cả chư Phật ba đời, Bồ Tát ban đầu phát tâm hay tin nói, hay thọ trì, hay tu tập, thành tựu được. Hay tu hành pháp môn này thì bình đẳng một tánh với chư Phật.

 

Hà dĩ cố? Thử Bồ Tát vi ất đoạn nhất thiết Như Lai chủng tánh cố, phát tâm. Vi sung biến nhất thiết thế giới cố, phát tâm. Vi độ thoát nhất thiết thế giới chúng sanh cố, phát tâm. Vi tất tri nhất thiết thế giới thành hoại cố, phát tâm. Vi tất tri nhất thiết chúng sanh cấu tịnh cố, phát tâm. Vi tất tri nhất thiết thế giới tam hữu thanh tịnh cố, phát tâm. Vi tất tri nhất thiết chúng sanh tâm lạc phiền não tập khí cố, phát tâm. Vi tất tri nhất thiết chúng sanh tử thử sanh bỉ cố, phát tâm. Vi tất tri nhất thiết chúng sanh chư căn phương tiện cố, phát tâm. Vi tất tri nhất thiết chúng sanh tâm hành cố, phát tâm. Vi tất tri nhất thiết chúng sanh tam thế trí cố, phát tâm.

Tại sao ? Vì Bồ Tát này, chẳng dứt tất cả chủng tánh Như Lai mà phát tâm. Vì sung mãn tất cả thế giới mà phát tâm. Vì độ thoát tất cả thế giới chúng sinh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả thế giới thành hoại mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh cấu tịnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả thế giới ba cõi thanh tịnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh tâm ưa thích phiền não tập khí mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh chết đây sinh kia mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh các căn phương tiện mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh tâm hạnh mà phát tâm. Vì biết hết tất cả chúng sinh trí ba đời mà phát tâm.

Giảng: Vì sao ? Bồ Tát ban đầu phát tâm, hay phát tâm bồ đề mà tu đạo ? Vì muốn tiếp nối huệ mạng Phật. Vì chẳng dứt chủng tánh Như Lai mà phát tâm bồ đề. Vì sung mãn tất cả thế giới mà phát tâm bồ đề. Vì độ thoát tất cả thế giới hết thảy chúng sinh mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết thành trụ hoại không của tất cả thế giới mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết tất cả chúng sinh nhiễm cấu bẩn như thế nào, mà chuyển biến thành thanh tịnh, mà phát tâm bồ đề. Vì biết tất cả thế giới ba cõi, làm thế nào mới được thành thanh tịnh, mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết tất cả chúng sinh tâm ưa thích và phiền não tập khí, mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết tất cả chúng sinh chết ở thế giới này, lại sinh về ở thế giới kia, mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết các căn phương tiện của tất cả chúng sinh mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết tâm hành của tất cả chúng sinh mà phát tâm bồ đề. Vì biết hết trí huệ ba đời của tất cả chúng sinh mà phát tâm bồ đề.

 

Dĩ phát tâm cố, thường vi tam thế nhất thiết chư Phật chi sở ức niệm, đương đắc tam thế nhất thiết chư Phật vô thượng Bồ-đề. Tức vi tam thế nhất thiết chư Phật dữ kỳ diệu pháp, tức dữ tam thế nhất thiết chư Phật thể tánh bình đẳng. dĩ tu tam thế nhất thiết chư Phật trợ đạo chi Pháp, thành tựu tam thế nhất thiết chư Phật lực, vô sở úy. Trang nghiêm tam thế nhất thiết chư Phật bất cộng Phật Pháp, tất đắc Pháp giới nhất thiết chư Phật thuyết Pháp trí tuệ.

Vì phát tâm bồ đề, nên thường được tất cả chư Phật ba đời nghĩ nhớ. Sẽ đắc được vô thượng bồ đề của tất cả chư Phật ba đời. Liền được tất cả chư Phật ba đời ban cho diệu pháp. Liền bình đẳng thể tánh với tất cả chư Phật ba đời. Đã tu pháp trợ đạo của tất cả chư Phật ba đời, thì thành tựu sức vô sở úy của tất cả chư Phật ba đời. Trang nghiêm bất cộng Phật pháp của tất cả chư Phật ba đời. Đắc được pháp giới tất cả chư Phật nói pháp trí huệ.

Giảng: Vì phát tâm bồ đề, nên thường được tất cả chư Phật ba đời tưởng niệm, sẽ đắc được vô thượng bồ đề của tất cả chư Phật ba đời. Lập tức thọ các thứ diệu pháp của chư Phật ba đời nói. Lập tức bình đẳng thể tánh của tất cả chư Phật ba đời. Tức cũng là đã tu hành pháp trợ đạo của tất cả chư Phật ba đời. Cũng thành tựu mười lực và bốn vô sở úy của tất cả chư Phật ba đời. Cũng trang nghiêm mười tám bất cộng Phật pháp của tất cả chư Phật ba đời. Bồ Tát ban đầu phát tâm sẽ đắc được trí huệ pháp giới tất cả chư Phật nói pháp. Dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh.

 

Hà dĩ cố? dĩ thị phát tâm, đương đắc Phật cố. Ứng tri thử nhân tức dữ tam thế chư Phật đồng đẳng, tức dữ tam thế chư Phật Như Lai cảnh giới bình đẳng, tức dữ tam thế chư Phật Như Lai công đức bình đẳng, đắc Như Lai nhất thân, vô lượng thân cứu cánh bình đẳng chân thật trí tuệ.

Tại sao ? Vì nhờ phát tâm này mà sẽ được thành Phật. Nên biết người đó liền đồng với chư Phật ba đời. Liền bình đẳng cảnh giới với chư Phật Như Lai ba đời. Liền bình đẳng công đức với chư Phật Như Lai ba đời, đắc được một thân vô lượng thân của Như Lai, cứu kính bình đẳng trí huệ chân thật.

Giảng: Tại sao vậy ? Vì nhờ sự phát tâm này, nên sẽ được thành quả vị Phật. Nên biết vị Bồ Tát ban đầu phát tâm đó, lập tức đồng với chư Phật ba đời. Lập tức bình đẳng cảnh giới với chư Phật Như Lai ba đời. Lập tức bình đẳng công đức với chư Phật Như Lai ba đời. Ðắc được một thân Phật, thì cũng đắc được vô lượng thân Phật. Bài kệ trong phẩm Quang Minh Giác của kinh này có nói:

‘’Một thân làm vô lượng thân
Vô lượng lại làm một
Biết rõ các thế gian
Hiện hình klhắp tất cả

Thân này chẳng từ đâu
Cũng chẳng chỗ tích tụ
Vì chúng sinh phân biệt
Thấy Phật đủ thứ thân.’’

Một thân có thể làm vô lượng thân, vô lượng thân là từ một thân mà thành tựu. Thấu rõ biết tất cả thế gian, hiện ra đủ thứ thân, đầy khắp mọi nơi. Thân này chẳng từ đâu đến, cũng chẳng phải tích tụ mà thành. Vì chúng sinh phân biệt, nên Phật mới hiện đủ thứ thân, khiến cho chúng sinh tùy duyên mà thấy thân Phật. Bồ Tát ban đầu phát tâm, đắc được đại trí huệ bình đẳng cứu kính của Phật, đại trí huệ chân thật.

 

Tài phát tâm thời, tức vi thập phương nhất thiết chư Phật sở cọng xưng thán, tức năng thuyết Pháp giáo hóa điều phục nhất thiết thế giới sở hữu chúng sanh, tức năng chấn động nhất thiết thế giới, tức năng quang chiếu nhất thiết thế giới, tức năng tức diệt nhất thiết thế giới chư ác đạo khổ, tức năng nghiêm tịnh nhất thiết quốc độ, tức năng ư nhất thiết thế giới trung thị hiện thành Phật, tức năng lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc hoan hỉ, tức năng nhập nhất thiết pháp giới tánh, tức năng trì nhất thiết Phật chủng tánh, tức năng đắc nhất thiết Phật trí tuệ quang minh.

Lúc vừa phát tâm, liền được tất cả chư Phật mười phương cùng khen ngợi. Liền có thể nói pháp, giáo hóa điều phục hết thảy chúng sinh tất cả thế giới. Liền chấn động tất cả thế giới. Liền phóng quang minh chiếu tất cả thế giới. Liền tiêu diệt các đường ác khổ của tất cả thế giới. Liền trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước. Liền có thể thị hiện thành Phật trong tất cả thế giới. Liền có thể khiến cho tất cả chúng sinh đều được hoan hỷ. Liền nhập vào tất cả tánh pháp giới. Liền giữ gìn tất cả chủng tánh Phật. Liền đắc được nhất thiết trí huệ quang minh của Phật.

Giảng: Bồ Tát ban đầu phát tâm, mới hành đạo Bồ Tát, thì lập tức được tất cả chư Phật trong mười phương cùng tán thán khen ngợi: ‘’A ! Trên thế giới, lại có một người phát tâm bồ đề, tương lai nhất định sẽ thành Phật quả. Lành thay ! Lành thay ! Vị nam tử này rất có chí khí, phát tâm hành Bồ Tát đạo, đáng mừng, đáng mừng.’’ Bồ Tát ban đầu phát tâm, lập tức được chư Phật mười phương gia bị, mà khai mở đại trí huệ, được biện tài vô ngại, vì chúng sinh nói pháp, giáo hóa điều phục hết thảy chúng sinh trong tất cả thế giới. Lúc đó, tất cả thế giới đều phát sinh sáu thứ chấn động, tức là: Chấn, hống, kích, động, dũng, khởi, sáu hiện tượng. Lập tức trí huệ quang minh chiếu sáng tất cả thế giới. Lập tức tiêu diệt đủ thứ khổ trong các đường ác của tất cả thế giới. Lập tức trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Lập tức có thể thị hiện thành Phật trong tất cả thế giới. Lập tức khiến cho tất cả chúng sinh đều được hoan hỷ vui mừng. Lập tức nhập vào tất cả tánh pháp giới, đầy khắp mười phương. Lập tức giữ gìn tất cả chủng tánh Phật không đoạn diệt. Lập tức đắc được nhất thiết trí huệ quang minh của Phật.

 

Thử sơ phát tâm Bồ-tát, bất ư tam thế thiểu hữu sở đắc. sở vị: nhược chư Phật, nhược chư Phật Pháp. Nhược Bồ Tát, nhược Bồ Tát Pháp. Nhược độc giác, nhược độc giác Pháp. Nhược Thanh văn, nhược thanh văn Pháp. Nhược thế gian, nhược thế gian pháp. Nhược xuất thế gian, nhược xuất thế gian pháp. Nhược chúng sanh, nhược chúng sanh pháp. Duy cầu nhất thiết trí. ư chư Pháp giới, tâm vô sở trước.

Bồ Tát ban đầu phát tâm đó, chẳng có chút sở đắc nơi ba đời, như là: Chư Phật, hoặc pháp chư Phật. Hoặc Bồ Tát, hoặc pháp Bồ Tát. Hoặc Độc Giác, hoặc pháp Độc Giác. Hoặc Thanh Văn, hoặc pháp Thanh Văn. Hoặc thế gian, hoặc pháp thế gian. Hoặc xuất thế gian, hoặc pháp xuất thế gian. Hoặc chúng sinh, hoặc pháp chúng sinh. Chỉ cầu nhất thiết trí. Nơi các pháp giới, tâm chẳng chấp trước.

Giảng: Vị Bồ Tát ban đầu phát tâm đó, sở đắc của Ngài với mười phương ba đời chư Phật như nhau. Tức là tất cả chư Phật nói, pháp của chư Phật nói. Tất cả Bồ Tát, pháp của Bồ Tát nói. Tất cả Ðộc Giác, pháp của Ðộc Giác nói. Tất cả Thanh Văn, pháp của Thanh Văn nói. Tất cả thế gian, pháp hữu vi của thế gian. Tất cả xuất thế gian, pháp vô vi của xuất thế gian. Tất cả chúng sinh, pháp của chúng sinh. Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, chỉ cầu nhất thiết trí huệ, ở trong tất cả pháp giới, tất cả hết thảy tâm chẳng dính mắc.

 

Nhĩ thời, Phật thần lực cố, thập phương các nhất vạn Phật sát vi trần số thế giới lục chủng chấn động. Sở vị: động, biến động, đẳng biến động, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích. Vũ chúng thiên hoa, thiên hương, Thiên mạt hương, thiên hoa man, thiên y, Thiên bảo, Thiên trang nghiêm cụ, tác Thiên kĩ nhạc, phóng thiên quang minh cập Thiên âm thanh.

Bấy giờ, do thần lực của Phật, mỗi phương trong mười phương, đều có các thế giới, nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật, đều sáu thứ chấn động. Đó là: Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích. Mưa xuống các hoa trời, hương trời, hương bột trời, tràng hoa trời, y trời, báu trời, đồ trang nghiêm cõi trời, tấu âm nhạc trời, phóng quang minh trời, và âm thanh trời.

Giảng: Lúc bấy giờ, nhờ thần thông oai lực của Phật. Mỗi phương trong mười phương, có các thế giới nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật, đều có sáu thứ chấn động phát sinh. Tức là động: Tại một nơi động; biến động: Tại một thế giới biến động khắp; đẳng biến động: Tại hết thảy thế giới đều đồng thời chấn động. Khởi, dũng, chấn, hống, kích, cũng như vậy. Nơi nơi đều có tình hình như vậy phát sinh, trở thành mười tám thứ chấn động.

Cùng lúc đó, từ trên trời mưa xuống tất cả hoa trời, hương trời, hương bột trời, tràng hoa trời, y trời, báu trời, đồ trang nghiêm trời .v.v… lại diễn tấu âm nhạc trời, lại phóng ánh sáng trời, lại vang âm thanh trên trời.

 

Thị thời, thập phương các qua thập Phật sát vi trần số thế giới ngoại, hữu vạn Phật sát vi trần số Phật, đồng danh: Pháp tuệ, các hiện kỳ thân, tại Pháp tuệ Bồ Tát tiền tác như thị ngôn: Thiện tai! Thiện tai! Pháp tuệ! nhữ ư kim giả, năng thuyết thử pháp. Ngã đẳng thập phương các vạn Phật sát vi trần số Phật, diệc thuyết thị pháp. Nhất thiết chư Phật, tất như thị thuyết.

Lúc đó, mỗi phương trong mười phương, qua các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, đều đồng danh hiệu là Pháp Huệ, thảy đều hiện thân, ở trước Bồ Tát Pháp Huệ, nói như vầy: Lành thay ! Lành thay ! Pháp Huệ ! Ông hôm nay nói pháp này. Chúng ta trong mười phương, mỗi phương có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, cũng nói pháp này, tất cả chư Phật đều nói pháp này.

Giảng: Lúc bấy giờ, mỗi phương trong mười phương, trải qua các thế giới nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, lại có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật. Danh hiệu của những vị Phật đó, đều là Pháp Huệ Phật. Mỗi vị Phật Pháp Huệ, đều hiện thân ở trước Bồ Tát Pháp Huệ, khác miệng cùng lời nói: Lành thay ! Lành thay ! Pháp Huệ ! Hiện tại ông ở đây nói pháp công đức ban đầu phát tâm bồ đề. Chúng ta trong mười phương, mỗi phương có các vị Phật nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, cũng đều nói pháp này. Tất cả chư Phật cũng đều nói pháp công đức ban đầu phát tâm bồ đề.

 

Nhữ thuyết thử pháp thời, hữu vạn Phật sát vi trần số Bồ Tát phát Bồ-đề tâm. Ngã đẳng kim giả, tất thọ kỳ kí, ư đương lai thế qua thiên bất khả thuyết vô biên kiếp, đồng nhất kiếp trung nhi đắc tác Phật, xuất hưng ư thế, giai hiệu: thanh tịnh tâm Như Lai, sở trụ thế giới các các sái biệt. Ngã đẳng tất đương hộ trì thử pháp, lệnh vị lai thế nhất thiết Bồ Tát, vị tằng văn giả giai tất đắc văn.

Khi ông nói pháp này, thì có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, phát tâm bồ đề. Hôm nay chúng ta đều thọ ký cho họ, trong đời vị lai, trải qua ngàn bất khả thuyết vô biên kiếp, cùng ở trong một kiếp mà được thành Phật, xuất hiện ra đời, đều hiệu là Thanh Tịnh Tâm Như Lai. Ở các thế giới, đều khác nhau. Chúng ta đều đang hộ trì pháp này, khiến cho đời vị lai, tất cả Bồ Tát, chưa từng được nghe, thảy đều được nghe.

Giảng: Phật Pháp Huệ nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật lại nói: Pháp Huệ ! Hiện tại ông nói pháp công đức ban đầu phát tâm bồ đề thì các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, đồng thời phát tâm bồ đề. Hiện tại chúng ta thọ ký cho họ, tương lai sẽ thành Phật, trải qua ngàn bất khả thuyết vô biên kiếp, đồng ở trong một kiếp, thảy đều thành Phật, xuất hiện ra đời. Phật hiệu đều là Thanh Tịnh Tâm Như Lai. Ở các thế giới đều khác nhau. Chúng ta đều hộ trì pháp này, khiến cho đời vị lai Bồ Tát phát tâm bồ đề, chưa từng được nghe qua pháp này thì hoàn toàn được nghe pháp này.

 

Như thử Ta Bà thế giới tứ thiên hạ tu di đính thượng thuyết như thị pháp, lệnh chư chúng sanh văn dĩ thọ hóa. Như thị thập phương bách thiên ức na-do-tha vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, tận Pháp giới, hư không giới, chư thế giới trung diệc thuyết thử pháp giáo hóa chúng sanh.

Như trên đỉnh núi Tu Di tứ thiên hạ thế giới Ta Bà này, nói pháp như vậy. Khiến cho các chúng sinh được nghe rồi, thọ sự giáo hóa của Phật. Như vậy mười phương trăm ngàn ức, Na do tha, vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, tận pháp giới hư không giới, trong các thế giới cũng nói pháp này, giáo hóa chúng sinh.

Giảng: Giống như tại điện Diệu Thắng của trời Ðế Thích, trên đỉnh núi Tu Di, ở tứ thiên hạ thế giới Ta Bà này, diễn nói pháp công đức ban đầu phát tâm. Khiến cho tất cả chúng sinh nghe rồi, được thọ Phật giáo hóa. Như vầy trong mười phương trăm ngàn ức, Na do tha, vô số lượng, vô đẳng biên, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết bất khả thuyết, tận hư không biến pháp giới. Trong tất cả thế giới cũng đều nói pháp này, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ bỏ mê về giác ngộ, phát tâm bồ đề thành vô thượng đạo.

 

Kỳ thuyết pháp giả, đồng danh: Pháp tuệ. Tất dĩ Phật thần lực cố, Thế Tôn bản nguyện lực cố, vi dục hiển thị Phật Pháp cố, vi dĩ trí quang phổ chiếu cố, vi dục khai xiển thật nghĩa cố, vi lệnh chứng đắc pháp tánh cố, vi lệnh chúng hội tất hoan hỉ cố, vi dục khai thị Phật Pháp nhân cố, vi đắc nhất thiết Phật bình đẳng cố, vi liễu Pháp giới vô hữu nhị cố, thuyết như thị pháp.

Những người nói pháp đều đồng danh hiệu là Pháp Huệ. Vì đều nhờ thần lực của Phật. Vì sức bổn nguyện của Thế Tôn. Vì muốn hiển bày Phật pháp. Vì dùng trí huệ quang minh chiếu khắp. Vì muốn khai xiển thật nghĩa. Vì khiến cho chứng được pháp tánh. Vì khiến cho chúng hội đều hoan hỷ. Vì muốn khai thị Phật pháp nhân. Vì được tất cả Phật bình đẳng. Vì thấu rõ pháp giới chẳng hai, mà nói pháp như vậy.

Giảng: Bồ Tát diễn nói pháp công đức ban đầu phát tâm bồ đề, đều đồng một danh hiệu là Bồ Tát Pháp Huệ. Vì các Ngài đều nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật. Vì bổn nguyện của mười phương chư Phật trong quá khứ đã phát. Vì muốn hiển bày Phật pháp để khai thị cho chúng sinh. Vì dùng trí huệ quang minh để chiếu khắp tất cả thế giới. Nghĩa là đem hết thảy trí huệ nói cho chúng sinh, khiến cho họ khai ngộ. Vì muốn khai xiển diễn nói chân lý đạo lý. Vì khiến cho tất cả chúng sinh chứng được pháp tánh mà thành Phật. Ví khiến cho đại chúng trong pháp hội thảy đều hoan hỷ vui mừng. Vì muốn mở bày cho tất cả chúng sinh minh bạch Phật pháp nhân. Phật pháp nhân là gì ? Tức là nhân lành. Vì khiến cho tất cả chúng sinh đắc được quả vị chư Phật bình đẳng, tức cũng là Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thấu rõ mười phương pháp giới đều là một. Vì có mười nhân duyên này, mà nói pháp công đức ban đầu phát tâm.

 

Nhĩ thời, Pháp tuệ Bồ Tát phổ quán tận hư không giới thập phương quốc độ nhất thiết chúng hội, dục tất thành tựu chư chúng sanh cố, dục tất tịnh trì chư nghiệp quả báo cố, dục tất khai hiển thanh tịnh pháp giới cố, dục tất bạt trừ tạp nhiễm căn bản cố, dục tất tăng trưởng quảng đại tín giải cố, dục tất lệnh tri vô lượng chúng sanh căn cố, dục tất lệnh tri tam thế pháp bình đẳng cố, dục tất lệnh quan sát Niết Bàn giới cố, dục tăng trưởng tự thanh tịnh thiện căn cố. Thừa Phật uy lực, tức thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ, quán sát khắp tận hư không giới, mười phương cõi nước tất cả chúng hội. Vì muốn thành tựu các chúng sinh. Vì muốn tịnh trị các nghiệp quả báo. Vì muốn khai thị hiển bày pháp giới thanh tịnh. Vì muốn dứt trừ gốc rễ tạp nhiễm. Vì muốn tăng trưởng tin hiểu rộng lớn. Vì muốn khiến cho biết vô lượng căn tánh chúng sinh. Vì muốn khiến cho biết pháp ba đời bình đẳng. Vì muốn khiến cho quán sát Niết Bàn giới. Vì muốn tăng trưởng căn lành thanh tịnh của mình, bèn nương oai lực của đức Phật mà nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, vị đại Bồ Tát Pháp Huệ, quán sát khắp tận hư không giới, mười phương hết thảy chúng hội trong cõi nước Phật. Ðây là vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều thành tựu quả vị Phật. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh tịnh trị tất cả nghiệp ác tạp nhiễm, đắc được nghiệp lành thanh tịnh, minh bạch đạo lý trồng nhân kết quả. Vì muốn hoàn toàn khiến cho pháp giới hiện ra nguồn gốc thanh tịnh. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, dứt trừ vô minh phiền não tất cả gốc rễ tạp nhiễm. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng sự tin hiểu rộng lớn. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, biết vô lượng căn tánh của chúng sinh. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, biết pháp ba đời là bình đẳng. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, quán sát Niết Bàn giới là thường, lạc, ngã, tịnh. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, tăng trưởng căn lành thanh tịnh của mình. Vì những nhân duyên đó, Bồ Tát Pháp Huệ nương đại oai thần lực gia trì của Phật Thích Ca Mâu Ni, mà nói ra một trăm hai mươi mốt bài kệ.

 

Vi lợi thế gian phát Đại tâm                      Vì lợi thế gian phát tâm lớn
Kỳ tâm phổ biến ư thập phương               Tâm đó khắp cùng nơi mười phương
Vhúng sanh quốc độ tam thế Pháp           Chúng sinh cõi nước pháp ba đời
Phật cập Bồ Tát tối thắng hải.                  Phật và Bồ Tát biển tối thắng.

Tại sao Bồ Tát phát tâm bồ đề ? Vì muốn lợi ích hết thảy chúng sinh thế gian, cho nên mới phát tâm lớn. Tâm lớn lượng khắp cùng mười phương thế giới. Hết thảy chúng sinh, cõi nước, pháp ba đời, Phật, Bồ Tát và tối thắng hải hội đại chúng nghe pháp.

 

Cứu cánh hư không đẳng Pháp giới,        Cứu kính hư không khắp pháp giới
Sở hữu nhất thiết chư thế gian,                 Hết thảy tất cả các thế gian
Như chư Phật Pháp giai vãng nghệ           Như các Phật pháp đều qua đến
Như thị phát tâm vô thoái chuyển.           Như vậy phát tâm chẳng thối chuyển.

Cứu kính hư không khắp pháp giới, hết thảy mười phương tất cả thế gian. Dù ở thế giới nào ? Dù ở cõi nước nào ? Phàm là chỗ có Phật, có pháp, thì Bồ Tát đều đi đến đó, rộng tu cúng dường mười phương chư Phật, phát tâm đại bồ đề như vậy, thì vĩnh viễn chẳng thối chuyển.

 

Từ niệm chúng sanh vô tạm xả,                Từ niệm chúng sinh chẳng tạm rời
Jy chư não hại phổ nhiêu ích,                    Lìa các não hại lợi ích khắp
Quang minh chiếu thế vi sở quy,               Quang minh chiếu đời làm chỗ tựa
Thập lực hộ niệm nan tư nghị.                  Thập Lực hộ niệm khó nghĩ bàn.

Bồ Tát phát tâm đại bồ đề, thường thường từ niệm tất cả chúng sinh, chẳng tạm thời quên chúng sinh. Muốn làm cho lìa khỏi não hại chúng sinh, khắp lợi ích cho tất cả chúng sinh. Bồ Tát phóng quang minh chiếu tất cả thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh đến quy y Tam Bảo. Dùng thập lực của Phật để hộ niệm tất cả chúng sinh, tu hạnh môn không thể nghĩ bàn.

 

Thập phương quốc độ tất thú nhập,         Mười phương cõi nước đều hướng vào
Nhất thiết sắc hình giai thị hiện,               Tất cả sắc hình đều thị hiện
Như Phật phước trí quảng vô biên           Như Phật phước trí rộng vô biên
Tùy thuận tu nhân vô sở trước.                 Tùy thuận tu nhân chẳng chấp trước.

Bồ Tát đến hết thảy cõi nước trong mười phương, để cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh, đều thị hiện tất cả hình sắc. Ngài có phước đức và trí huệ giống như Phật, rộng lớn vô biên, lại hay tùy thuận tất cả Phật pháp mà tu hành, luôn luôn thuận chúng sinh, hành Bồ Tát đạo. Tại nhân địa tu đủ thứ hạnh môn, lại phải đừng chấp trước. Chỗ diệu của Phật pháp là phá chấp trước của chúng sinh.

Tại sao chúng sinh ích kỷ ? Nhìn chẳng thấu ? Buông chẳng đặng ? Là vì có sự chấp trước, chấp trước đất nước, chấp trước nhà, chấp trước thân, chấp trước tất cả của cải sở hữu của mình, do đó mà có vô lượng phiền não.

 

Hữu sát ngưỡng trụ hoặc bàng phước      Có cõi hình ngửa hoặc nghiêng úp
Thô diệu quảng đại vô lượng chủng,         Thô tốt rộng lớn vô lượng thứ
Bồ Tát nhất phát tối thượng tâm              Bồ Tát khi phát tâm tối thượng
Tất năng vãng nghệ giai vô ngại.              Đều hay qua đến chẳng chướng ngại.

Có thế giới là hình trạng ngửa; hoặc hình trạng nghiêng úp. Có thế giới thô, tức là đời ác năm trược, có thế giới tốt, tức là thế giới Cực Lạc. Có thế giới rộng lớn, có thế giới nhỏ bé. Thế giới vô lượng vô biên loại. Bồ Tát một khi phát tâm bồ đề, thì hay qua đến hết thảy thế giới, rộng tu cúng dường, giáo hóa chúng sinh, mà chẳng có mọi chướng ngại.

 

Tất năng vãng nghệ giai vô ngại.              Bồ Tát thắng hạnh không thể nói
Giai cần tu tập vô sở trụ,                           Đều siêng tu tập chẳng chấp trước
Kiến nhất thiết Phật thường hân lạc         Thấy tất cả Phật thường vui mừng
Phổ nhập ư kỳ thâm pháp hải.                  Khắp vào trong biển pháp thâm sâu.

Bồ Tát tu hạnh môn thù thắng, là không thể nói. Ngài đều siêng tu tập đủ thứ hạnh môn, mà chẳng có sự chấp trước. Thấy được tất cả Phật thì tâm luôn vui mừng, khắp vào trong biển trí huệ thâm sâu của Phật.

 

Ai mẩn ngũ thú chư quần sanh                 Thương xót năm nẻo các quần sinh
Lệnh trừ cấu uế phổ thanh tịnh,               Khiến trừ dơ bẩn được thanh tịnh
Thiệu long Phật chủng bất đoạn tuyệt,     Tiếp tục giống Phật không đoạn tuyệt
Tồi diệt ma cung vô hữu dư.                      Phá tan cung ma chẳng còn sót.

Bồ Tát từ bi thương xót địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Tu la, loài người, năm nẻo chúng sinh khổ não nhất. Tại sao chúng ta đọa vào trong năm nẻo ? Vì tâm tham sân si quá nặng, dơ bẩn quá sâu dày, cho nên phải quét sạch dơ bẩn, khôi phục lại sự thanh tịnh vốn có. Phải tiếp tục giống Phật, khiến cho đừng đoạn tuyệt, phải phá tan cung điện của ma vương, khiến chẳng còn sót thừa.

 

Dĩ trụ Như Lai bình đẳng tánh,                Đã trụ Như Lai tánh bình đẳng
Thiện tu vi diệu phương tiện đạo,             Khéo tu đạo phương tiện vi diệu
Ư Phật cảnh giới khởi tín tâm,                  Nơi cảnh giới Phật khởi tâm tin
Đắc Phật quán đảnh tâm Vô Trước.         Được Phật quán đảnh tâm chẳng chấp.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, đã trụ ở trong biển tánh bình đẳng của Phật, khéo tu hành đủ thứ pháp môn phương tiện vi diệu. Ðối với hết thảy cảnh giới của Phật và pháp nói ra, tin sâu chẳng nghi, cho nên được chư Phật quán đảnh thì tâm chẳng chấp trước. Tại sao ? Vì đã là một thể với pháp giới hư không giới, cho nên chẳng dính mắc.

 

Lượng túc tôn sở niệm báo ân                   Nghĩ nhớ báo ân đấng Lưỡng Túc
Tâm như Kim cương bất khả tự,               Tâm như kim cang không thể hoại
Ư Phật sở hạnh năng chiếu liễu,               Nơi Phật tu hành chiếu thấu được
Tự nhiên tu tập Bồ-đề hạnh                      Tự nhiên tu tập hạnh bồ đề.

Ðấng Lưỡng Túc tức là Phật. Vì phước huệ đều đầy đủ, thọ trời người tôn kính. Trong niệm niệm báo ân Phật, ân chúng sinh. Tâm tu đạo Bồ Tát kiên cố như kim cang, có sức kiên cố quang minh sắc bén, bất cứ sức lực gì cũng chẳng hoại được, tức có nghĩa là không thể thay đổi tư tưởng tu đạo. Người tu đạo Bồ Tát, thì ban đầu phát tâm đến niệm cuối cùng đều phải như kim cang, tức chẳng thối chuyển tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tu đạo phải có tinh thần quán triệt thủy chung, không thể lúc nóng lúc lạnh. Ðối với pháp của Phật tu hành thì dùng trí huệ quang chiếu thấu, tự nhiên sẽ thường tu tập pháp môn hạnh bồ đề.

Người tu đạo phải càng ngày càng tinh tấn, càng ngày càng nhẫn nại. Tu đạo giống như thuyền đi ngược dòng, chẳng nỗ lực tinh tấn, thì bị cảnh giới ngược giòng làm lay chuyển mà thối lùi. Nhẫn nại là pháp môn tu đạo bậc nhất, không thể nhẫn cũng phải nhẫn, không thể thọ cũng phải thọ, làm được như thế thì mới thành tựu hạnh bồ đề.

 

Chư thú sái biệt tưởng vô lượng               Các cõi khác nhau nghĩ vô lượng
Nghiệp quả cập tâm diệc phi nhất,           Nghiệp quả và tâm cũng chẳng một
Nãi chí căn tánh chủng chủng thù             Cho đến căn tánh đủ thứ thù
Nhất phát Đại tâm tất minh kiến.             Khi phát tâm lớn đều thấy rõ.

Các cõi có đủ thứ sự khác nhau, mỗi loại chúng sinh, nghĩ tưởng vô lượng vô biên. Chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, cũng chẳng giống nhau, tâm niệm cũng khác nhau, cũng chẳng phải một. Cho đến căn tánh của chúng sinh cũng có đủ thứ khác nhau. Khi Bồ Tát phát tâm bồ đề, thì nghiệp báo, tâm niệm, căn tánh đều thấy rõ.

 

Kỳ tâm quảng đại đẳng Pháp giới             Tâm đó rộng lớn đồng pháp giới
Vô y vô biến như hư không,                       Không nương không đổi như hư không
Thú hướng Phật trí vô sở thủ                    Hướng về Phật trí chẳng chấp lấy
Đế liễu thật tế ly phân biệt.                       Thấu rõ thật tế lìa phân biệt.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, tâm của các Ngài rộng lớn vô biên, đồng với pháp giới. Chẳng chỗ nương tựa, chẳng chỗ thay đổi, như hư không. Ngài hướng về trí huệ của Phật, nhưng chẳng thủ lấy. Do đó: ‘’Vô trí diệc vô đắc‘’ Ngài thấu rõ lý thể chân thật, lìa khỏi tất cả sự phân biệt.

 

Tri chúng sanh tâm vô sanh tưởng,          Biết tâm chúng sinh không sinh tưởng
Liễu đạt chư Pháp vô pháp tưởng,            Thấu đạt các pháp không pháp tưởng
Tuy phổ phân biệt vô phân biệt                Tuy khắp phân biệt chẳng phân biệt
Ức na do sát giai vãng nghệ.                      Ức Na Do cõi đều qua đến.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, biết tâm của chúng sinh, nhưng không vọng tưởng chúng sinh. Vì Bồ Tát là lìa tướng, Bồ Tát là thâm nhập kinh tạng, cho nên trí huệ như biển. Thấu đạt đạo lý các pháp thật tướng, nhưng chẳng có chấp trước, chẳng có chúng sinh tưởng, chẳng có ngã tưởng, cũng chẳng có pháp tưởng. Tuy nhiên vào khắp tất cả thế giới, giáo hóa tất cả chúng sinh, nhưng chẳng có phân biệt. Nếu có một ức Na do tha cõi Phật, thì Bồ Tát đều đi đến gần gũi chư Phật, lễ bái chư Phật, cúng dường chư Phật.

 

Vô lượng chư Phật diệu pháp tạng,          Vô lượng chư Phật diệu pháp tạng
Tùy thuận quan sát tất năng nhập,           Tùy thuận quán sát đều vào được
Chúng sanh căn hạnh mị bất tri               Chúng sinh căn hạnh thảy đều biết
Đáo như thị xứ như Thế Tôn.                    Đến nơi như vậy như Thế Tôn.

Vô lượng diệu pháp tạng của chư Phật, Bồ Tát đều tùy thuận quán sát mà thâm nhập trong pháp tánh Như Lai. Hết thảy căn tánh và hành vi của chúng sinh, Bồ Tát đều biết hết. Bồ Tát hay sinh vào nhà Pháp vương, đến được địa vị tôn quý nhất.

 

Thanh tịnh đại nguyện hằng tướng ứng    Thanh tịnh đại nguyện luôn tương ưng
Lạc cúng Như Lai Bất-thoái-chuyển,        Ưa cúng Như Lai chẳng thối chuyển
Nhân thiên kiến giả Vô yếm túc                Trời người thấy được chẳng nhàm đủ
Thường vi chư Phật sở hộ niệm.               Thường được chư Phật luôn hộ niệm.

Bồ Tát phát đại nguyện đại hạnh thanh tịnh, luôn luôn tương ưng. Nghĩa là tu hành theo nguyện mà mình đã phát, ưa tu pháp môn cúng dường. Cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật, vĩnh viễn chẳng thối tâm cúng dường. Trời và người thấy được vị Bồ Tát đó phát tâm bồ đề, thì luôn sinh tâm hoan hỷ, mà chẳng có tâm nhàm mỏi biết đủ, cho nên thường được mười phương chư Phật hộ niệm.

 

Kỳ tâm thanh tịnh vô sở y,                        Tâm đó thanh tịnh chẳng chỗ nương
Tuy quán thâm pháp nhi bất thủ,             Tuy quán pháp sâu mà chẳng chấp
Như thị tư duy vô lượng kiếp                    Suy gẫm như vậy vô lượng kiếp
Ư tam thế trung vô sở trước.                     Ở trong ba đời chẳng chấp trước.

Trong tâm Bồ Tát thường thanh tịnh, chẳng có chút tư tưởng nhiễm ô nào. Tuy nhiên hay quán sát pháp vi diệu thâm sâu, nhưng chẳng thủ trước, minh bạch tất cả pháp mà chẳng chấp trước tất cả pháp, suy gẫm nghĩa sâu tất cả pháp như vậy, trải qua vô lượng kiếp thời gian. Ðối với pháp chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại, chư Phật vị lai nói, đều chẳng chấp trước.

 

Kỳ tâm kiên cố nan chế tự,                        Tâm đó kiên cố khó phá hoại
Thú Phật Bồ-đề vô chướng ngại,               Hướng Phật bồ đề chẳng chướng ngại
Chí cầu diệu đạo trừ mông hoặc               Chí cầu diệu đạo trừ mê hoặc
Châu hàng Pháp giới bất cáo lao.             Đi khắp pháp giới chẳng mệt nhọc.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, tâm đó rất kiên cố, như kim cang, chẳng cách chi phá hoại được. Ngài thú hướng về chư Phật bồ đề đại đạo, chẳng có chướng ngại. Lập chí truy cầu đạo quả vi diệu, trừ khử đủ thứ ngu tối mê hoặc. Ði khắp pháp giới, đến hết thảy thế giới để giáo hóa chúng sinh, chịu khổ chịu nhọc, tuyệt đối chẳng nhàm khổ nhọc.

 

Tri ngữ ngôn Pháp giai tịch diệt               Biết pháp lời lẽ đều vắng lặng
Đãn nhập chân như tuyệt dị giải,              Nhưng vào chân như dứt hiểu khác
Chư Phật cảnh giới tất thuận quán          Cảnh giới chư Phật đều thuận quán
Đạt ư tam thế tâm vô ngại.                        Thông đạt ba đời tâm chẳng ngại.

Bồ Tát biết pháp lời lẽ đều vắng lặng, nhưng Ngài vào lý thể chân như, lìa bặt tri kiến chẳng chánh quyết, hết thảy cảnh giới của mười phương chư Phật, Ngài đều tùy thuận quán sát, thông đạt pháp của chư Phật ba đời, trong tâm chẳng có quái ngại.

 

Bồ Tát thủy phát quảng đại tâm               Bồ Tát mới phát tâm rộng lớn
Tức năng biến vãng thập phương sát,       Liền qua đến được mười phương cõi
Pháp môn vô lượng bất khả thuyết           Pháp môn vô lượng không thể nói
Trí quang phổ chiếu giai minh liễu.          Trí quang chiếu khắp đều thấy rõ.

Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, khi mới bắt đầu phát tâm rộng lớn, thì hóa thân của Bồ Tát, liền qua đến được mười phương cõi Phật để cúng dường chư Phật. Tuy pháp môn nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết, nhưng đại trí huệ quang minh của Bồ Tát chiếu khắp tất cả các pháp thật tướng, thảy đều thấu suốt.

 

Đại bi quảng độ tối vô bỉ                           Đại bi rộng độ chẳng gì bằng
Từ tâm phổ biến đẳng hư không,              Tâm từ khắp cùng đồng hư không
Nhi ư chúng sanh bất phân biệt                Mà nơi chúng sinh chẳng phân biệt
Như thị thanh tịnh du ư thế.                      Thanh tịnh như vậy du thế gian.

Bồ Tát có tâm đại bi. Bi hay diệt trừ tất cả khổ chúng sinh và hay rộng độ tất cả chúng sinh thoát ba cõi. Tâm đại bi đó cao thượng nhất, chẳng gì sánh bằng. Từ hay ban cho tất cả chúng sinh an vui, dùng tâm từ để cứu hộ khắp tất cả chúng sinh, đồng như hư không. Ðối với chúng sinh một luật bình đẳng chẳng có phân biệt. Bất luận chúng sinh có căn lành, hoặc chẳng có căn lành, đều xem bình đẳng, giáo hóa khắp. Bồ Tát dùng hành vi thanh tịnh như vậy, du hóa tất cả thế giới.

 

Thập phương chúng sanh tất úy an          Mười phương chúng sinh đều an ủi
Nhất thiết sở tác giai chân thật,                Tất cả việc làm đều chân thật
Hằng dĩ tịnh tâm bất dị ngữ,                     Luôn dùng tâm tịnh lời chẳng khác
Thường vi chư Phật cọng gia hộ.              Thường được chư Phật cùng gia hộ.

Mười phương chúng sinh đều được an ủi, chẳng có khó khăn, chẳng có chướng ngại. Tất cả việc làm đều chân thật, chẳng có hư vọng. Tâm của Bồ Tát luôn luôn thanh tịnh, chẳng nói hai lời, cho nên thường được mười phương chư Phật cùng đến để gia bị và bảo hộ.

Trong kinh Phương Ðẳng, có một đoạn kinh văn rằng: Phật Thích Ca nói với Bồ Tát Lôi Âm: Thuở xưa có vị Phật, danh hiệu là Ðàn Hoa Phật, vị Phật đó vào Niết Bàn rất lâu. Thời đó, ta và ngươi như nhau, đều là Bồ Tát. Ðương thời lại có một vị Bồ Tát hiệu là Thượng Thủ Bồ Tát, hóa làm khất sĩ (Tỳ Kheo), vào trong thành ôm bát khất thực, lại có một vị Tỳ Kheo khác, hiệu là Hằng Già Tỳ Kheo. Ông ta hỏi vị khất sĩ:

– ‘’Xin hỏi Ngài từ đâu đến‘’?

– Vị khất sĩ đáp: ‘’Tôi từ trong chân thật đến.’’

– Tỳ Kheo Hằng Già lại hỏi: ‘’Gì là chân thật‘’?

– Vị khất sĩ đáp: ‘’Tướng vắng lặng gọi là chân thật.’’

– Tỳ Kheo Hằng Già lại hỏi: ‘’Trong tướng vắng lặng, có chỗ cầu ? Không chỗ cầu‘’?

– Vị khất sĩ đáp: ‘’Không chỗ cầu.’’

– Tỳ Kheo Hằng Già lại hỏi: ‘’Không chỗ cầu, tại sao phải cầu‘’?

– Vị khất sĩ đáp: ‘’Có sở cầu, tất cả đều không. Ðược cũng không, trước cũng không, thật cũng không, cầu cũng không, lời cũng không, hỏi cũng không. Vắng lặng Niết Bàn, tất cả hư không, tất cả thế giới, cũng đều là không. Ta vì pháp không thứ lớp như vậy mà cầu chân thật.’’

– Tỳ Kheo Hằng Già lại hỏi: ‘’Bồ Tát cầu nơi nào‘’?

– Vị khất sĩ đáp: ‘’Cầu trong cầu lục độ Ba La Mật.’’

Tỳ Kheo Hằng Già nghe vị khất sĩ đáp như vậy rồi, bèn sinh tâm đại hoan hỷ, mới đem thân mình đi bán, được số tiền mang đến cúng dường vị khất sĩ (hóa thân của Bồ Tát Thượng Thủ). Có thể thấy người thời xưa, vì pháp mà quên mình, nghe pháp bán thân, phát tâm rộng lớn, để cúng dường Tam Bảo. Tinh thần như vậy thật là đáng quý !

 

Quá khứ sở hữu giai ức niệm,                   Quá khứ hết thảy đều nghĩ nhớ
Vị lai nhất thiết tất phân biệt,                   Vị lai tất cả đều phân biệt
Thập phương thế giới phổ nhập trung      Khắp vào trong mười phương thế giới
Vi độ chúng sanh lệnh xuất ly.                  Vì độ chúng sinh khiến thoát khỏi.

Quá khứ chư Phật, thường nghĩ nhớ Bồ Tát ban đầu phát tâm. Vị lai chư Phật cũng thường phân biệt để gia hộ Bồ Tát ban đầu phát tâm. Khắp vào trong mười phương tất cả thế giới. Vì độ chúng sinh thoát khỏi biển khổ, đắc được an vui.

 

Bồ Tát cụ túc diệu trí quang,                     Bồ Tát đầy đủ diệu trí quang
Thiện liễu nhân duyên vô hữu nghi,         Khéo rõ nhân duyên chẳng hoài nghi
Nhất thiết mê hoặc giai trừ đoạn              Tất cả mê hoặc đều dứt trừ
Như thị nhi du ư Pháp giới.                       Như vậy du hành nơi pháp giới.

Bồ Tát ban đầu phát tâm, đầy đủ trí huệ quang minh vi diệu, khéo thấu rõ tất cả nhân duyên quả báo, đối với nhân quả báo ứng chẳng có hoài nghi. Vì thấy sự việc gì thì thấu hiểu sự việc đó, cho nên dứt trừ tất cả sự mê hoặc. Bồ Tát có đại trí huệ như thế, nên du hóa nơi pháp giới.

 

Ma vương cung điện tất tồi phá,               Cung điện ma vương đều phá tan
Chúng sanh ế mô hàm trừ diệt,                 Chúng sinh màn lòa đều trừ diệt
Ly chư phân biệt tâm bất động,                Lìa các phân biệt tâm chẳng động
Thiện liễu Như Lai chi cảnh giới.             Khéo rõ cảnh giới của Như Lai.

Hay khiến cho cung điện của ma vương hoàn toàn phá tan. Vô minh của chúng sinh, giống như màn mắt bị lòa, cho nhên nhìn chẳng thấy rõ. Phải trừ diệt nó thì mới khôi phục được quang minh. Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, chẳng có tâm phân biệt. Vì lìa khỏi chấp trước, cho nên tâm chẳng động. Ngài khéo thấu rõ tất cả cảnh giới của Như Lai đắc được.

 

Tam thế nghi võng tất dĩ trừ                     Lưới nghi ba đời đều đã trừ
Ư Như Lai sở khởi tịnh tín,                       Ở chỗ Như Lai khởi tin tịnh
Dĩ tín đắc thành bất động trí,                    Nhờ tin được thành trí bất động
Trí thanh tịnh cố giải chân thật.               Vì trí thanh tịnh hiểu chân thật.

Lưới nghi hoặc ba đời, đã hoàn toàn tiêu trừ. Ở trong đạo tràng của Phật, sinh ra tâm tin thanh tịnh, nhờ tâm tin thanh tịnh mà đắc được thành tựu trí huệ bất động. Vì có trí huệ thanh tịnh bất động, cho nên mới thấu hiểu đạo lý chân thật.

 

Vi lệnh chúng sanh đắc xuất ly,                 Vì khiến chúng sinh được thoát khỏi
Tận ư hậu tế phổ nhiêu ích,                       Tận thuở vị lai khắp lợi ích
Trường thời cần khổ tâm vô yếm,             Mãi mãi cần khổ tâm chẳng mỏi.
Nãi chí địa ngục diệc an thọ.                     Cho đến địa ngục cũng an thọ.

Vì khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi ba cõi, đắc được khoái lạc. Tận thuở vị lai, khắp lợi ích tất cả chúng sinh, bất cứ trải qua thời gian dài bao lâu ? Chẳng màng thọ khổ bao nhiêu ? Tâm cũng chẳng nhàm mỏi, cho đến vào địa ngục thọ khổ, tâm cũng an nhiên tiếp thọ. Như Bồ Tát Ðịa Tạng hiện tại vẫn ở trong địa ngục, cứu thoát chúng sinh thọ khổ. Tại sao phải như vậy ? Vì Bồ Tát Ðịa Tạng phát đại nguyện:

‘’Ðịa ngục chẳng trống không,
Thề không thành Phật.’’

Tinh thần như vậy thật là vĩ đại !

 

Phước trí vô lượng giai cụ túc,                  Phước huệ vô lượng đều đầy đủ
Chúng sanh căn dục tất liễu tri,                Căn dục chúng sinh đều biết rõ
Cập chư nghiệp hành vô bất kiến             Và các nghiệp hành đều thấy hết
Như kỳ sở lạc vi thuyết Pháp.                   Như chỗ họ thích vì nói pháp.

Bồ Tát tu vô lượng vô biên phước huệ, cho nên phước huệ đều đầy đủ. Căn tánh và dục vọng của chúng sinh, Bồ Tát đều hoàn toàn biết rõ. Hết thảy nghiệp báo và hành vi của chúng sinh đều nhìn thấy hết. Như có chỗ chúng sinh hoan hỷ, thì vì họ bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bồ Tát dùng bốn pháp nhiếp này, để giáo hóa chúng sinh.

 

Liễu tri nhất thiết không vô ngã,              Biết rõ tất cả không vô ngã
Từ niệm chúng sanh hằng bất xả,             Từ niệm chúng sinh luôn chẳng bỏ
Dĩ nhất đại bi vi diệu âm,                          Dùng một âm đại bi vi diệu
Phổ nhập thế gian nhi diễn thuyết.           Vào khắp thế gian để diễn nói.

Bồ Tát biết rõ tất cả đều là không, chẳng có cái ta tồn tại, cho nên chẳng có mọi sự chấp trước. Ngài từ bi nghĩ nhớ tất cả chúng sinh, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh. Dùng một âm thanh đại bi vi diệu, vào khắp tất cả thế gian, để vì chúng sinh diễn nói tất cả diệu pháp.

 

Phóng đại quang minh chủng chủng sắc   Phóng đại quang minh đủ thứ màu
Phổ chiếu chúng sanh trừ hắc ám,            Chiếu khắp chúng sinh trừ đen tối
Quang trung Bồ Tát tọa liên hoa              Trong quang Bồ Tát ngồi hoa sen
Vi chúng xiển dương thanh tịnh Pháp.     Vì chúng xiển dương pháp thanh tịnh.

Phóng ra đủ thứ đại quang minh, trong đại quang minh lại có đủ thứ màu. Quang minh màu đó chiếu khắp tất cả chúng sinh, khiến cho họ tiêu trừ đen tối. Trong quang minh có Bồ Tát ngồi trên hoa sen báu lớn, vì chúng sinh khai xiển tuyên dương diệu pháp thanh tịnh.

 

Ư nhất mao đoan hiện chúng sát,              Nơi đầu sợi lông hiện các cõi
Chư đại Bồ-tát giai sung mãn,                  Các đại Bồ Tát đều đầy dẫy
Chúng hội trí tuệ các bất đồng,                 Chúng hội trí huệ đều khác nhau
Tất năng minh liễu chúng sanh tâm.         Thảy đều thấu rõ tâm chúng sinh.

Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, nương đại oai thần lực của chư Phật, có thể ở đầu một sợi lông, hiện ra cõi nước chư Phật mười phương. Ở trong các cõi Phật có các đại Bồ Tát đầy dẫy pháp giới. Trong chúng hội chư Phật, có biển chúng Bồ Tát thanh tịnh, trí huệ của mỗi vị Bồ Tát đều khác nhau. Hết thảy Bồ Tát hoàn toàn hiểu rõ tâm niệm của tất cả chúng sinh hoan hỷ gì ?

 

Thập phương thế giới bất khả thuyết,      Mười phương thế giới không thể nói
Nhất niệm châu hàng vô bất tận,              Một niệm đi khắp hết tất cả
Lợi ích chúng sanh cúng dường Phật,       Lợi ích chúng sinh cúng dường Phật
Ư chư Phật sở vấn thâm nghĩa.                 Nơi chỗ chư Phật hỏi nghĩa sâu.

Mười phương thế giới, tuy nhiều không thể nói hết được, nhưng Bồ Tát trong một niệm, đều có thể du hành khắp hết thảy thế giới, chẳng có nơi nào mà không đến. Tại sao ? Vì Ngài muốn lợi ích chúng sinh và cúng dường chư Phật. Do đó:
‘’Trên cầu Phật đạo
Dưới độ chúng sinh.’’

Nên đến mười phương chỗ các Ðức Phật, để thưa hỏi diệu nghĩa thâm sâu.

 

Ư chư Như Lai tác phụ tưởng,                  Nơi các Như Lai nghĩ cha lành
Vi lợi chúng sanh tu giác hạnh                  Vì lợi chúng sinh tu giác hạnh
Trí tuệ thiện xảo thông Pháp tạng            Trí huệ khéo léo thông pháp tạng
Nhập thâm trí xứ vô sở trước.                   Vào chỗ trí sâu chẳng chấp trước.

Bồ Tát ban đầu phát tâm, đối với mười phương chư Phật nghĩ là cha lành. Vì lợi ích chúng sinh, mới tu hành tất cả giác hạnh. Còn gọi là giác quán, tức là do giác ngộ để quán sát. Trí huệ nhiều rồi thì sẽ dùng phương tiện khéo léo, thông đạt tất cả các pháp thật tướng, vào môn Bát Nhã thâm sâu của Bồ Tát mà chẳng chấp trước.

Giác có tám thứ.

1). Dục giác: Tức là thường nghĩ muốn đắc được cảnh giới hoan hỷ trong tâm.

2). Sân giác: Tức là lửa vô minh quá lớn, tự mình khống chế chẳng đặng, đến lúc chẳng giữ được nữa thì nổi giận với người.

3). Não giác: Tức là não hại kẻ khác, xúc phạm đến tự do của kẻ khác, phỉ báng danh dự của kẻ khác.

4). Thân lý giác: Tức là thường nghĩ nhớ thân nhân bà con bạn bè.

5). Quốc độ giác: Tức là thường nghĩ thế giới bình an, hoặc chẳng bình an.

6). Bất tử giác: Không thể giác ngộ mình sẽ chết, cho nên liều mạng tích của cải đồ ăn.

7). Tộc tánh giác: Thường phân biệt sang hèn trong tộc tánh.

8). Khinh mạn giác: Tức là cống cao ngã mạn, đều cảm thấy mình cao minh hơn người khác.

Tám thứ giác này chẳng tương ưng với đạo, nên chuyển biến nó lại thì mới tương ưng với đạo.

 

Tùy thuận tư tánh thuyết Pháp giới,         Tùy thuận suy gẫm nói pháp giới
Kinh vô lượng kiếp bất khả tận,               Trải vô lượng kiếp không thể lường
Trí tuy thiện nhập vô xứ sở                       Tuy trí khéo vào chẳng xứ sở
Vô hữu bì yếm vô sở trước.                       Chẳng có mỏi nhàm chẳng chấp trước.

Tùy thuận sự suy gẫm của chúng sinh để nói đạo lý pháp giới, trải qua thời gian vô lượng kiếp, cũng chẳng thể nói hết được. Trí huệ tuy khéo vào tạng pháp, nhưng cũng chẳng có xứ sở. Tuy chẳng có xứ sở, nhưng cũng chẳng mỏi nhàm, cũng chẳng chấp trước. Tại sao ? Vì có sở đắc vô sở đắc, đều chẳng chấp trước.

 

Tam thế chư Phật gia trung sanh              Sinh trong nhà chư Phật ba đời
Chứng đắc Như Lai diệu Pháp thân,        Chứng được diệu pháp thân Như Lai
Phổ vi quần sanh hiện chúng sắc,             Khắp vì quần sinh hiện các màu
Thí như huyễn sư vô bất tác.                     Ví như huyễn sư biến hết thảy.

Bồ Tát làm con của đấng Pháp Vương trong nhà chư Phật ba đời, chứng được diệu pháp thân của Như Lai. Khắp vì tất cả chúng sinh hiện ra đủ thứ sắc thân, giống như nhà huyễn thuật ngàn biến vạn hóa, chẳng có gì mà chẳng biến hóa được.

 

Hoặc hiện thủy tu thù thắng hạnh            Hoặc hiện ban đầu tu thắng hạnh
Hoặc hiện sơ sanh cập xuất gia,                Hoặc hiện sơ sinh và xuất gia
Hoặc hiện thụ hạ thành Bồ-đề                   Hoặc hiện dưới cây thành Chánh Giác
Hoặc vi chúng sanh thị Niết-Bàn.             Hoặc vì chúng sinh hiện Niết Bàn.

Bồ Tát hoặc hiện ra ban đầu tu hành hạnh môn thù thắng, hoặc hiện ra ban đầu sinh ra đời, hoặc hiện ra xuất gia tu đạo, hoặc hiện ra ở dưới cội bồ đề thành tựu quả Phật chánh đẳng chánh giác, hoặc thị hiện vào Niết Bàn .v.v… tám tướng thành đạo.

 

Bồ Tát sở trụ hy hữu Pháp                        Bồ Tát trụ chỗ pháp hi hữu
Duy Phật cảnh giới phi nhị thừa,              Chỉ cảnh giới Phật chẳng nhị thừa
Thân ngữ ý tưởng giai dĩ trừ                     Thân lời ý tưởng đều đã trừ
Chủng chủng tùy nghi tất năng hiện.        Đủ thứ tùy nghi đều hiện được.

Sở trụ của Bồ Tát đều là pháp ít có, làm gì cũng đều là cảnh giới của Phật, chứ chẳng phải là cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác nhị thừa. Thân, khẩu, ý ba nghiệp đều thanh tịnh, đều đã đoạn trừ ba nghiệp ác. Ngài dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, tùy nghi nói pháp, thị hiện tất cả thứ thân hình.

 

Bồ Tát sở đắc chư Phật Pháp,                   Bồ Tát đắc được các Phật pháp
Chúng sanh tư tánh phát cuồng loạn,       Chúng sinh suy gẫm phát cuồng loạn
Trí nhập thật tế tâm vô ngại,                    Trí vào thật tế tâm vô ngại
Phổ hiện Như Lai tự tại lực.                      Khắp hiện Như Lai tự tại lực.

Bồ Tát đắc được tất cả Phật pháp, chúng sinh suy gẫm cảnh giới đó, thì tâm sẽ phát cuồng loạn. Trí huệ của Bồ Tát hay vào lý thể Bát Nhã chân thật, tâm chẳng quái ngại. Khắp thị hiện tự tại thần lực của Phật.

 

Thử ư thế gian vô dữ đẳng                        Đây nơi thế gian chẳng gì bằng
Hà huống phục tăng thù thắng hạnh        Hà huống lại thêm hạnh thù thắng
Tuy vị cụ túc nhất thiết trí                         Tuy chưa đầy đủ nhất thiết trí
Dĩ hoạch Như Lai tự tại lực.                     Đã được sức tự tại Như Lai.

Cảnh giới đó, ở tại thế gian chẳng có gì sánh bằng, hà huống càng ngày càng tăng thêm hạnh thù thắng. Tuy Bồ Tát chưa đầy đủ tất cả trí huệ của Phật, nhưng đã đắc được thần lực tự tại của Phật.

 

Dĩ trụ cứu cánh nhất thừa đạo,                 Đã trụ một thừa đạo cứu kính
Thâm nhập vi diệu tối thượng Pháp,        Vào sâu pháp tối thượng vi diệu
Thiện tri chúng sanh thời phi thời,           Khéo biết chúng sinh thời phi thời
Vi lợi ích cố hiện thần thông.                    Vì lợi ích mà hiện thần thông.

Ðã trụ nơi một thừa Phật đạo cứu kính, vào sâu pháp môn tối thượng vi diệu không thể nghĩ bàn, khéo biết tâm chúng sinh, lúc nào cơ duyên thành thục độ được ? Lúc nào cơ duyên chẳng thành thục, không thể độ được ? Hoàn toàn biết rõ. Vì lợi ích chúng sinh, cho nên thị hiện đủ thứ thần thông.

 

Phần thân biến mãn nhất thiết sát,           Phân thân đầy khắp tất cả cõi
Phóng Tịnh Quang minh trừ thế ám,        Phóng tịnh quang minh diệt đời tối
Thí như long Vương khởi đại vân,            Ví như Long Vương nổi mây lớn
Phổ vũ diệu vũ tất sung hiệp.                    Mưa khắp pháp vũ đều thấm nhuần.

Bồ Tát hay phân thân vô lượng, đầy khắp tất cả cõi Phật. Phóng đại trí huệ quang minh, phá trừ tất cả đen tối của thế gian. Ví như Long vương ở trong hư không nổi vầng mây lớn, khắp mưa xuống pháp vũ vi diệu, khiến cho chúng sinh đều được thấm nhuần pháp vũ.

 

Quan sát chúng sanh như huyễn mộng     Quán sát chúng sinh như huyễn mộng
Dĩ nghiệp lực cố thường lưu chuyển,        Vì nghiệp lực nên thường lưu chuyển
Đại bi ai mẫn hàm cứu bạt,                       Đại bi thương xót đều cứu vớt
Vi thuyết vô vi tịnh Pháp tánh.                 Vì nói pháp tánh tịnh vô vi.

Bồ Tát quán sát tất cả chúng sinh như huyễn mộng. Vì chúng sinh khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, cho nên chuyển đi chuyển lại trong sáu nẻo luân hồi, chẳng được giải thoát. Bồ Tát có tâm đại bi thương xót tất cả chúng sinh, cho nên cứu vớt tất cả chúng sinh thoát khổ được vui. Vì chúng sinh mà nói pháp tánh thanh tịnh vô vi.

 

Phật lực vô lượng thử diệc nhiên,             Phật lực vô lượng đây cũng thế
Thí như hư không vô hữu biên,                 Ví như hư không chẳng bờ mé
Vi lệnh chúng sanh đắc giải thoát             Vì khiến chúng sinh được giải thoát
Ức kiếp cần tu nhi bất quyện.                    Ức kiếp siêng tu chẳng nhàm mỏi.

Sức lực của Phật vô lượng vô biên, sức lực của Bồ Tát giáo hóa chúng sinh cũng vô lượng vô biên. Ví như hư không chẳng có bờ mé. Vì khiến cho tất cả chúng sinh được giải thoát, cho nên trong ức kiếp, siêng tu Phật pháp chẳng nhàm mỏi.

 

Chủng chủng tư tánh diệu công đức         Đủ thứ suy gẫm diệu công đức
Thiện tu vô thượng đệ nhất nghiệp,          Khéo tu nghiệp bậc nhất vô thượng
Ư chư thắng hành hằng bất xả,                 Nơi các thắng hạnh luôn không bỏ
Chuyên niệm sanh thành nhất thiết trí.    Chuyên niệm họ thành nhất thiết trí.

Dùng đủ thứ thiền định tam muội để tu hành tất cả diệu công đức, đắc được cảnh giới thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Khéo tu hành nghiệp bậc nhất vô thượng, nghĩa là phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo. Tu tất cả pháp môn thù thắng, luôn luôn chẳng xả bỏ hành Bồ Tát đạo, chuyên nghĩ tất cả chúng sinh, chuyển hóa tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả trí huệ.

 

Nhất thân thị hiện vô lượng thân,             Một thân thị hiện vô lượng thân
Nhất thiết thế giới tất chu biến,                 Tất cả thế giới đều đến khắp
Kỳ tâm thanh tịnh vô phân biệt                Tâm Ngài thanh tịnh chẳng phân biệt
Nhất niệm nan tư lực như thị.                   Một niệm sức tư nghì như vậy.

Một thân hay thị hiện vô lượng thân, vô lượng thân lại thị hiện ra một thân. Thần thông này hay dùng đầy khắp tất cả thế giới. Tâm của Bồ Tát thanh tịnh, cho nên lúc hành Bồ Tát đạo, hoặc lúc giáo hóa chúng sinh, chẳng có phân biệt. Chẳng màng chúng sinh thiện hay ác, Ngài là một luật bình đẳng, chẳng phân chia đó đây, xem như nhau. Mà trong một niệm đi khắp mười phương thế giới. Hết thảy các cõi nước chư Phật, sức không thể nghĩ bàn, tức là như vậy.

 

Ư chư thế gian bất phân biệt,                    Nơi các thế gian chẳng phân biệt
Ư nhất thiết Pháp vô vọng tưởng,             Nơi tất cả pháp chẳng vọng tưởng
Tuy quán chư Pháp nhi bất thủ                Tuy quán các pháp chẳng thủ lấy
Hằng cứu chúng sanh vô sở độ.                 Luôn cứu chúng sinh chẳng chỗ độ.

Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, trong tất cả thế gian, dùng trí quang để chiếu soi căn tánh của tất cả chúng sinh, mà chẳng phân biệt chúng sinh thiện ác. Ðối với tất cả pháp, đều chẳng sinh ra vọng tưởng: Tôi dùng pháp gì để giáo hóa chúng sinh ? Tuy dùng trí huệ để quán sát các pháp, nhưng chẳng thủ lấy các pháp. Luôn luôn cứu độ chúng sinh mà chẳng chấp trước tướng độ chúng sinh.

Chúng ta người tu đạo, đừng có tư tưởng tuyên truyền cái ngã của mình: ‘’Ề ! Anh biết không ! Tôi đang hành Bồ Tát đạo, tôi đang giáo hóa chúng sinh, tôi đang cứu độ chúng sinh .v.v…’’ Do đó:

‘’Suốt ngày độ chúng sinh, mà chẳng độ.’’

Phải có tinh thần như vầy. Trong thiền tông có nói:
‘’Suốt ngày ăn cơm,
Chưa ăn một hạt gạo.
Suốt ngày mặc áo,
Chưa mặc một sợi tơ.’’

Tại sao phải nói như vậy ? Là vì dạy người đừng chấp trước, đừng giữ lấy tướng.

 

Nhất thiết thế gian duy thị tưởng              Tất cả thế gian chỉ là tưởng
Ư trung chủng chủng các sái biệt,             Trong đó đủ thứ đều khác nhau
Tri tưởng cảnh giới hiểm thả thâm           Biết cảnh giới tưởng hiểm lại sâu
Vi hiện thần thông nhi cứu thoát.             Vì họ hiện thần thông cứu thoát.

Do vọng tưởng của chúng sinh mà tạo thành thế gian hư vọng, cho nên nói tất cả thế gian chỉ là tưởng. Trong thế gian có đủ thứ vọng tưởng, mỗi loại chúng sinh có mỗi loại vọng tưởng, đều khác nhau. Bồ Tát biết cảnh giới vọng tưởng là nguy hiểm, lại vừa sâu vừa rộng, cho nên thị hiện thần thông để cứu thoát tất cả chúng sinh thoát khỏi ba cõi.

Mục đích của chúng ta tu đạo là đối trị vọng tưởng, phải tu dứt trừ vọng tưởng. Làm thế nào để dứt trừ vọng tưởng? Như là đả thất đói (không ăn cơm), tức là đánh chết vọng tưởng. Tôi thường hỏi các vị đã chết chưa? Chẳng phải nói là người chết chưa? Mà là hỏi vọng tưởng đã chết chưa? Có còn lòng tham không? Có biết đã mấy ngày tâm không ăn cơm chăng? Nếu còn cái tâm nầy, thì đó là vọng tưởng. Đó là chứng minh tâm tham vẫn chưa dừng lại. Đả thất đói là phương phápp đối trị tâm tham. Bạn (vọng tưởng) muốn ăn vật gì chăng? Thì không cho nó ăn. Bạn muốn uống sữa chăng? Thì không cho nó uống. Đó là đấu tranh với vọng tưởng. Đó là một thứ sức lực không gì so sánh của người tu đạo, để chinh phục vọng tưởng, điều phục vọng tưởng, để không thể nhiễu loạn tâm thanh tịnh của người tu đạo.

 

Thí như huyễn sư tự tại lực,                      Ví như huyễn sư sức tự tại
Bồ Tát thần biến diệc như thị,                   Thần biến Bồ Tát cũng như vậy
Thân biến Pháp giới cập hư không           Thân khắp pháp giới và hư không
Tùy chúng sanh tâm mị bất kiến.              Tuỳ tâm chúng sinh đều thấy được.

Thần thông chẳng phải là chân thật. Giống như nhà huyễn thuật, có thể từ không hoá có, từ có hoá không. Lại có thể lúc lớn lúc nhỏ, lúc ẩn lúc hiện, có một thứ sức tự tại, do đó: “Biến hoá khó dò”, tức cũng là biến hoá vô cùng. Bồ Tát dùng thần thông biến hoá, cũng như thế, một thân có thể sung mãn khắp cùng hết thảy pháp giới và hư không giới, tuỳ tâm niệm của chúng sinh mà thị hiện, thảy đều nhìn thấy Bồ Tát thị hiện thân.

 

Năng sở phân biệt nhị câu ly,                    Năng sở phân biệt hai đều lìa
Tạp nhiễm thanh tịnh vô sở thủ,               Tạp nhiễm thanh tịnh chẳng thủ lấy
Nhược phược nhược giải trí tất vong        Hoặc trói hoặc mở trí đều mất
Đãn nguyện phổ dữ chúng sanh lạc          Nhưng nguyện ban vui khắp chúng sinh.

Chẳng có cái năng phân biệt, cũng chẳng có cái sở phân biệt. Năng sở phân biệt đều lìa. Tâm của Bồ Tát chẳng có tạp nhiễm, cũng chẳng có thanh tịnh, cho nên gọi bất cấu bất tịnh, đều chẳng thủ lấy. Chẳng chấp trước dơ, cũng chẳng chấp trước sạch. Hoặc bị nghiệp ràng buộc, hoặc đắc được giải thoát. Bất luận là trói buộc, hoặc giải thoát, cả hai trí huệ này đều hoàn toàn mất đi. Nhưng nguyện ban vui cho chúng sinh, lợi ích khắp chúng sinh. Tại sao thế giới có chiến tranh ? Vì mọi người tranh giành lợi ích. Bạn tranh tôi giành thì phát sinh chiến tranh. Người ngu si thì bị người thông minh gạt gẫm. Người thông minh chẳng những gạt người, mà còn gạt chính mình. Do đó: ‘’Thông minh ngược lại bị thông minh lừa.’’ Chiến tranh trên thế gian, hoặc chiến tranh là vì danh, hoặc vì lợi. Nếu buông xả danh lợi thì chẳng có tranh, cũng chẳng có giành, nhân loại hòa bình với nhau, thì biến thành thế giới thanh tịnh. Cho nên Bồ Tát đem tất cả lợi ích hồi hướng cho tất cả chúng sinh, chính mình một chút cũng chẳng cần. Chỉ cần có lợi ích đối với chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh hoan hỷ thì Bồ Tát mãn nguyện. Do đó: ‘’Quên người không ta.’’ Bồ Tát có tư tưởng này, thì còn có ai đến chiến tranh với Bồ Tát chăng ? Dù ma vương thấy Bồ Tát cũng sinh tâm hoan hỷ mà chẳng chiến tranh. Người người đều học tinh thần của Bồ Tát, tất cả vì người chẳng vì mình, thì trên thế giới tuyệt đối chẳng có chiến tranh, vĩnh viễn hòa bình.

 

Nhất thiết thế gian duy tưởng lực             Tất cả thế gian do sức tưởng
Dĩ trí nhi nhập tâm vô úy,                           Dùng trí mà vào tâm chẳng sợ
Tư tánh chư Pháp diệc phục nhiên           Suy gẫm các pháp cũng như thế
Tam thế thôi cầu bất khả đắc.                   Ba đời thôi cầu chẳng thể được.

Tất cả thế gian hư vọng, là do sức vọng tưởng mà thành tựu. Bồ Tát dùng trí huệ để minh bạch thế gian tất cả hư vọng, thì tâm chẳng sợ hãi, sẽ nhìn xuyên thấu, buông xả đặng. Suy gẫm tất cả pháp đều như vậy. Tu thiền định tư duy tu, tu trí huệ văn tư tu, cũng như thế. Ðời quá khứ không thể được, đời hiện tại không thể được, đời vị lai không thể được. Tại sao ? Vì thời gian quá khứ đã qua rồi; thời gian hiện tại cũng chẳng ngừng; thời gian vị lai thì chưa đến, cho nên ba đời thôi cầu, tất cả không thể được, tất cả chẳng có thật thể. Thôi cầu thế nào cũng tìm chẳng được, vì rõ là không thể được !

 

Năng nhập quá khứ tất tiền tế                   Hay vào quá khứ xong thuở trước
Năng nhập vị lai tất hậu tế,                        Hay vào vị lai xong thuở sau
Năng nhập hiện tại nhất thiết xứ              Hay vào hiện tại tất cả nơi
Thường cần quan sát vô sở hữu.               Thường siêng quán sát chẳng chỗ có.

Suy gẫm các pháp ba đời không thể được, hay vào quá khứ thì thuở trước cũng chẳng có. Hay vào vị lai thì thuở sau cũng chẳng có. Hay vào hiện tại thì tất cả thời gian và không gian, tất cả mọi nơi cũng chẳng có. Thường thường quán sát tất cả các pháp, đều rõ là không thể được.

 

Tùy thuận Niết-Bàn tịch diệt pháp           Tùy thuận Niết Bàn pháp vắng lặng
Trụ ư vô tránh vô sở y,                               Trụ nơi vô tránh chẳng chỗ nương
Tâm như thật tế vô dữ đẳng,                     Tâm như thật tế chẳng gì bằng
Chuyên hướng Bồ-đề vĩnh bất thoái.        Chuyên hướng bồ đề vĩnh bất thối.

Tại sao tất cả các pháp chẳng thể được ? Vì tùy thuận pháp Niết Bàn vắng lặng, cho nên rõ không thể được. Trụ ở trong tam muội vô tránh và chẳng có tranh luận với ai, cũng chẳng nương tựa hết thảy pháp. Tâm tức là thật tướng, thật tướng tức là tâm. Thật tướng này chẳng gì sánh bằng, chỉ là hướng về đạo bồ đề mà đi, vĩnh viễn chẳng quay đầu lại, tức cũng là chẳng sinh tâm thối chuyển. Người tu hành, nhất định tiến về trước, đừng lùi về sau, bằng không sẽ cách rất xa đạo bồ đề.

 

Tu chư thắng hành vô thoái khiếp,           Tu các thắng hạnh chẳng thối sợ
An trụ Bồ-đề bất động dao,                       An trụ bồ đề chẳng lay động
Phật cập Bồ Tát dữ thế gian,                     Phật và Bồ Tát hiện ra đời
Tận ư Pháp giới giai minh liễu.                 Tận nơi pháp giới đều thấu rõ.

Bồ Tát tu hành tất cả hạnh thù thắng, thì chẳng sợ tất cả gian nan khốn khổ. An trụ ở đạo bồ đề, thì chẳng bị tư tưởng khác làm giao động. Nghĩa là vĩnh viễn có đạo tâm kiên cố, chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển, chẳng bị ma khảo nghiệm mà sinh tâm thối lùi. Chư Phật Bồ Tát ở tại thế gian, hết thảy đạo lý pháp giới đều hoàn toàn thấu rõ minh bạch.

 

Dục đắc tối thắng đệ nhất đạo                   Muốn được đạo đệ nhất tối thắng
Vi nhất thiết trí giải thoát Vương,              Được nhất thiết trí vua giải thoát
Ứng đương tốc phát Bồ-đề tâm,                Hãy mau chóng phát tâm bồ đề
Vĩnh tận chư lậu lợi quần sanh.                 Vĩnh sạch các lậu lợi quần sinh.

Bồ Tát tu hành, muốn đắc được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho nên đắc được nhất thiết trí huệ, trở thành vua giải thoát trong sự giải thoát. Làm thế nào để đắc được cảnh giới này ? Hãy mau cấp tốc phát tâm đại bồ đề, vĩnh viễn dứt sạch tập khí mao bệnh, vô minh phiền não của mình. Nếu được như vậy thì chẳng còn lậu. Lậu tức là có tâm dục. Tâm dục tức là gốc rễ của sinh tử. Nói cho dễ hiểu là ai có lậu, thì người đó không thể thoát khỏi ba cõi. Tu đạo tức là phải vĩnh viễn sạch các lậu. Nhất là tâm dâm dục, rất là quan trọng. Nếu tâm niệm dấy lên thì có lậu, lậu đi vào trong ba cõi thọ sinh tử. Nếu như vĩnh viễn dứt sạch các lậu, thì sẽ lợi ích quần sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích diệu dụng.

 

Thú hướng Bồ-đề tâm thanh tịnh,             Hướng về bồ đề tâm thanh tịnh
Công đức quảng đại bất khả thuyết,         Công đức rộng lớn không thể nói
Vi lợi chúng sanh cố xưng thuật                 Vì lợi chúng sinh nên khen thuật
Nhữ đẳng chư hiền ưng thiện thính.         Các ông hiền nhân khéo lắng nghe.

Thường thường hướng về đạo bồ đề, thì trong tâm sẽ thanh tịnh. Công đức phát tâm bồ đề rộng lớn vô biên không thể nói hết được. Tức nhiên không thể nói ra, vậy tại sao lại phải nói ? Vì muốn khiến cho chúng sinh đồng phát tâm bồ đề, đồng thành đạo vô thượng, cho nên trong sự không thể nói lại nói công đức này. Các ông (chỉ chúng đại hội Hoa Nghiêm) các vị hiền nhân, nên chú ý nghe đạo lý tôi nói.

 

Vô lượng thế giới tận vi trần,                     Vô lượng thế giới làm bụi hết
Nhất nhất trần trung vô lượng sát,           Trong mỗi hạt bụi vô lượng cõi
Kỳ trung chư Phật giai vô lượng,               Trong đó chư Phật đều vô lượng
Tất năng minh kiến vô sở thủ.                   Thảy đều thấy rõ chẳng thủ lấy.

Ví như đem vô lượng vô biên thế giới, đều nghiền nát thành từng hạt bụi. Trong mỗi hạt bụi, lại hiện ra vô lượng vô biên chư Phật đang ở trong đó giáo hóa chúng sinh. Song, Bồ Tát ban đầu phát tâm, đối với số mục rộng lớn, phân tích được rất rõ ràng, mà chẳng chấp trước số mục, cho nên nói thảy đều thấy rõ chẳng thủ lấy.

 

Thiện tri chúng sanh vô sanh tưởng         Khéo biết chúng sinh không sinh tưởng
Thiện tri ngôn ngữ vô ngữ tưởng,             Khéo biết lời lẽ chẳng lời tưởng
Ư chư thế giới tâm vô ngại,                       Nơi các thế giới tâm vô ngại
Tất thiện liễu tri vô sở trước.                    Đều khéo biết rõ chẳng chấp trước.

Vì Bồ Tát có tha tâm thông, cho nên khéo biết sự nghĩ tưởng trong tâm chúng sinh. Ngài dùng phương tiện khéo léo để giáo hóa chúng sinh, song chẳng chấp trước có giáo hóa chúng sinh. Bồ Tát đối với tất cả lời lẽ, hoàn toàn thấu rõ, chẳng những nói được mà còn viết được, bất cứ loại ngôn ngữ nào, Ngài đều có thể không thầy mà tự biết. Cho nên dùng đủ thứ lời lẽ để giáo hóa đủ loài chúng sinh, song chẳng chấp trước lời lẽ. Ðối với hết thảy tất cả trong tất cả thế giới, đều minh bạch, tâm chẳng quái ngại. Bất cứ pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian đều thấu triệt mà chẳng chấp trước.

 

Kỳ tâm quảng đại như hư không              Tâm lượng rộng lớn như hư không
Ư tam thế sự tất minh đạt,                         Sự việc ba đời đều thông đạt
Nhất thiết nghi hoặc giai trừ diệt,             Tất cả nghi hoặc đều trừ diệt
Chánh quán Phật Pháp vô sở thủ.            Chánh quán Phật pháp chẳng thủ lấy.

Tư tưởng và hành vi của Bồ Tát, rộng lớn vô biên như hư không. Ðối với sự việc ba đời đều hoàn toàn thấu rõ, thông đạt vô ngại. Hết thảy tất cả vô minh và mê hoặc đều trừ sạch, tuy tu trì tất cả Phật pháp, chưng chẳng chấp trước tất cả pháp.

 

Thập phương vô lượng chư quốc độ,        Mười phương vô lượng các cõi nước
Nhất niệm vãng nghệ tâm Vô Trước,        Một niệm qua đến tâm chẳng chấp
Liễu đạt thế gian chúng khổ Pháp,           Thông đạt thế gian các pháp khổ
Tất trụ vô sanh chân thật tế.                     Đều trụ vô sinh chân thật tế.

Mười phưong vô lượng vô biên các cõi Phật, Bồ Tát có thể trong một niệm, đều qua đến mười phương các cõi Phật để cúng dường chư Phật, giáo hóa tất cả chúng sinh. Bất cứ đến nước nào, tâm đều chẳng chấp trước. Thấu rõ thông đạt tất cả vui của thế gian, đều là nhân của các khổ. Do đó: ‘’Các khổ đốt nhau, các ma đầy dẫy.’’ Ngài thường trụ ở thật tướng lý thể, pháp chân thật vắng lặng.

 

Vô lượng nan tư chư Phật sở,                    Vô lượng nan tư chỗ chư Phật
Tất vãng bỉ hội nhi cận yết,                        Đều đến hội đó chiêm lễ Phật
Thường vi thượng thủ vấn Như Lai,         Thường làm thượng thủ hỏi Như Lai
Bồ Tát sở tu chư nguyện hạnh.                  Các hạnh nguyện tu của Bồ Tát.

Chỗ các đức Phật nhiều không thể suy lường được, không thể nói được. Bồ Tát thảy đều qua đến pháp hội đạo tràng của chư Phật, lễ bái chư Phật, chiêm ngưỡng chư Phật, làm thượng thủ, đại biểu đại chúng hướng Phật thỉnh pháp, đây là tất cả nguyện, tất cả hạnh của Bồ Tát tu hành.

 

Tâm thường ức niệm thập phương Phật           Tâm thường nghĩ nhớ mười phương Phật
Nhi vô sở y vô sở thủ,                                             Mà chẳng chỗ nương chẳng thủ lấy
Hằng khuyến chúng sanh chủng thiện căn,       Luôn khuyên chúng sinh trồng căn lành
Trang nghiêm quốc độ lệnh thanh tịnh.            Trang nghiêm cõi nước khiến thanh tịnh.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Cho nên trong tâm thường nghĩ nhớ mười phương chư Phật. Tuy nhiên nghĩ nhớ, nhưng chẳng ỷ lại, cũng chẳng thủ lấy. Tại sao ? Vì Bồ Tát biết Phật là Phật đã thành, chúng sinh là Phật chưa thành, mình sẽ thành Phật, cho nên chẳng chấp trước. Bồ Tát thường dùng phương tiện pháp môn, đủ thứ lời lẽ để khuyên tất cả chúng sinh trồng nhiều căn lành, vun bồi căn lành, khiến cho tăng trưởng, khiến cho chín mùi, đắc được giải thoát. Ngài lại trang nghiêm mười phương cõi nước chư Phật, khiến cho thanh tịnh.

 

Nhất thiết chúng sanh tam hữu xứ            Tất cả hướng sinh nơi ba cõi
Dĩ vô ngại nhãn hàm quan sát,                  Dùng mắt vô ngại để quán sát
Sở hữu tập tánh chư căn giải                     Hết thảy tập tánh các căn hiểu
Vô lượng vô biên tất minh kiến.                Vô lượng vô biên đều thấy rõ.

Tất cả chúng sinh, hướng về chỗ sinh, nơi ba cõi, Bồ Tát dùng mắt trí huệ vô ngại để quán sát nhân duyên của tất cả chúng sinh. Hết thảy đủ thứ tập khí, căn tánh, tri giải của chúng sinh nhiều vô lượng vô biên, song Bồ Tát đều hoàn toàn thấy rõ.

 

Chúng sanh tâm lạc tất liễu tri,                 Chúng sinh tâm thích đều biết rõ
Như thị tùy nghi vi thuyết Pháp,               Như vậy tùy nghi vì nói pháp
Ư chư nhiễm tịnh giai thông đạt               Nơi các nhiễm tịnh đều thông đạt
Lệnh bỉ tu trì nhập ư đạo.                          Khiến họ tu trị vào trong đạo.

Chúng sinh có đủ thứ tâm ưa thích, Bồ Tát thảy đề biết rõ. Vì Bồ Tát minh bạch căn tánh và ưa muốn của chúng sinh mà nói pháp phương tiện khéo léo. Bồ Tát đối với pháp nhiễm ô và pháp thanh tịnh đều thông đạt vô ngại, minh bạch thấu rõ. Khiến cho tất cả chúng sinh y pháp tu hành, đối trị tất cả tập khí mao bệnh, khiến cho vào đạo vô thượng.

 

Vô lượng vô số chư tam muội,                   Vô lượng vô biên các tam muội
Bồ Tát nhất niệm giai năng nhập,             Bồ Tát một niệm đều vào được
Ư trung tưởng trí cập sở duyên,                Trong đó tưởng trí và sở duyên
Tất thiện liễu tri đắc tự tại.                         Đều khéo biết rõ được tự tại.

Vô lượng vô số tam muội giải thoát, Bồ Tát có thể trong một niệm, đều vào được vọng tưởng, trí huệ, phan duyên .v.v… tất cả ở trong tam muội, đều thấu triệt rất rõ ràng, biết tỷ mỉ, đắc được chân chánh tự tại thanh tịnh.

 

Bồ Tát hoạch thử quảng đại trí                  Bồ Tát được trí rộng lớn này
Tật hướng Bồ-đề vô sở ngại,                       Mau hướng bồ đề chẳng chướng ngại
Vi dục lợi ích chư quần sanh,                     Vì muốn lợi ích các quần sinh
Xứ xứ tuyên dương Đại nhân pháp.          Nơi nơi tuyên dương pháp đại nhân.

Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, đắc được trí huệ rộng lớn này, thấu rõ tất cả cảnh giới, mau hướng về đạo bồ đề, chẳng có gì chướng ngại. Bồ Tát vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên khắp nơi đều tuyên dương pháp đại nhân, pháp đại nhân là tám pháp giác nói ở trong kinh Bát Ðại Nhân Giác.

1). Giác thế gian vô thường.

2). Giác nhiều tham dục là khổ.

3). Giác tâm chẳng nhàm đủ.

4). Giác giải đãi đọa lạc.

5). Giác ngu si sinh tử.

6). Giác nghèo khổ nhiều oán.

7). Giác năm dục họa hoạn.

8). Giác sinh tử thiêu đốt, khổ não vô lượng.

Tám việc này là pháp giác ngộ của Phật Bồ Tát đại nhân.

 

Trong kinh Di Giáo (kinh Niết Bàn) cũng nói tám thứ pháp.

1). Thiểu dục: Tức là chẳng có háo danh, cũng chẳng có háo lợi, chẳng có ham muốm làm lãnh tụ, cũng chẳng có ham tranh luận. Tóm lại, chẳng có tham dục gì.

2). Tri túc: Tức là tâm không tham. Do đó:

‘’Tri túc thường lạc, năng nhẫn tự an.’’

Người biết đủ thì luôn luôn an lạc. Người chẳng biết đủ thì luôn luôn khổ đau. Do đó: ‘’Tham tâm bất túc xà thôn tượng.’’ mọi thời mọi nơi, luôn luôn biết đủ thì chẳng có phiền não.

3). Tịch tĩnh: Lìa khỏi phiền não là tịch, đoạn tuyệt khổ hoạn là tĩnh. tức là chẳng có tiếng ồn ào. Pháp của bậc đại nhân giác là ưa thích vắng lặng, không tiếng động.

4). Tinh tấn: Tức là siêng học dũng mãnh tinh tấn, do đó ‘’nghiệp tinh ư siêng,’’ nghề nghiệp giỏi nhờ siêng năng. Người tu đạo, dụng một phần công thì có một phần giá trị. Thời gian của người tu đạo rất quý báu, có thể nói một tấc thời gian là một tấc vàng. Phải thân tâm đều tinh tấn, ngày đêm sáu thời luôn tinh tấn, phải vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.

5). Chánh niệm: Tức là niệm chánh đáng thanh tịnh, chứ chẳng phải là tà niệm. Chánh niệm tức là tâm thanh tịnh, tà niệm tức là tâm nhiễm ô.

6). Chánh định: Chẳng lệch chẳng tà là chánh, chẳng suy chẳng nghĩ là định. Tức cũng là biểu hiện chẳng động tâm. Người tu đạo phải có mắt chọn pháp, tu chánh định chẳng tu tà định.

7). Chánh huệ: Tức là trí huệ chân chánh, biện rõ thị phi, rõ thiện ác, phân tích sự lý, mười phần chánh quyết. Không thể có tiểu thông minh thế trí biện thông, đó là trí huệ tà.

8). Chẳng hý luận: Phật Bồ Tát thì chẳng nói tiếu, đều là nói lời chân thật, chẳng có pháp hý luận. Tám pháp này là pháp của bậc đại nhân tu.

 

Thiện tri thế gian trường đoản kiếp          Khéo biết thế gian kiếp dài ngắn
Nhất nguyệt bán nguyệt cập trú dạ,          Một tháng nửa tháng và ngày đêm
Quốc độ các biệt tánh bình đẳng               Cõi nước khác nhau tánh bình đẳng
Thường cần quan sát bất phóng dật.        Thường siêng quán sát chẳng phóng dật.

Bồ Tát có thể quán sát nhân duyên ngoài tám vạn đại kiếp, A la hán chỉ có thể quán sát nhân duyên trong vòng tám vạn đại kiếp. Vị Bồ Tát này chẳng những quán sát được sự vật tám vạn đại kiếp, mà dù kiếp dài nhất và kiếp ngắn nhất, cũng đều có thể biết rất rõ ràng. Mỗi thế giới có thành trụ hoại không bốn kiếp làm một đại kiếp. Trong một đại kiếp có hai mươi tiểu kiếp. Tóm lại, trong kiếp dài, có vô số kiếp thành trụ hoại không. Trong kiếp ngắn, có một tháng, hoặc nửa tháng, thậm chí thời gian ngắn một ngày đêm. Cõi nước tuy khác nhau, nhưng tánh cõi nước đều bình đẳng. Bồ Tát thường siêng tu học đủ thứ trí huệ, quán sát nhân duyên thành trụ hoại không, lúc nào cũng tinh tấn, chẳng phóng dật, cũng chẳng giải đãi.

 

Phổ nghệ thập phương chư thế giới,         Đến khắp mười phương các thế giới
Nhi ư phương xứ vô sở thủ,                       Mà các nơi đến chẳng thủ lấy
Nghiêm tịnh quốc độ tất vô dư,                 Nghiêm tịnh cõi nước đều không thừa
Diệc bất tằng sanh tịnh phân biệt.            Cũng chẳng sinh phân biệt thanh tịnh.

Bồ Tát đến khắp mười phương các thế giới, đi lễ kính chư Phật, khen ngợi Như Lai, rộng tu cúng dường. Ðến các thế giới mà chẳng chấp trước, cũng chẳng có tâm phân biệt. Ngài chỉ biết đến mười phương để gần gũi chư Phật, đi trang nghiêm thanh tịnh hết thảy cõi nước chư Phật. Tuy nghiêm tịnh cõi nước, mà chẳng sinh tưởng phân biệt thanh tịnh trang nghiêm cõi nước.

 

Chúng sanh thị xứ nhược phi xứ               Chúng sinh thị xứ hoặc phi xứ
Cập dĩ chư nghiệp cảm báo biệt,               Cùng với các nghiệp cảm báo khác
Tùy thuận tư tánh nhập Phật lực              Tùy thuận tu đi vào Phật lực
Ư thử nhất thiết tất liễu tri.                        Nơi đó tất cả đều biết rõ.

Bồ Tát chẳng màng chúng sinh ở thiên đường cũng tốt, tại địa ngục cũng tốt, và ba nghiệp cảm báo khác biệt. Ngài đều tùy cơ nói pháp, tức cũng là quán cơ thí pháp. Tóm lại, vì người nói pháp, theo bệnh cho thuốc. Tùy thuận tư duy mà dùng đủ thứ sức phương tiện của chư Phật, đối với chúng sinh nên dùng pháp gì để giáo hóa được, thì Bồ Tát đều thấy rõ.

 

Nhất thiết thế gian chủng chủng tánh       Tất cả thế gian đủ thứ tánh
Chủng chủng sở hạnh trụ tam hữu,          Đủ thứ chỗ làm trụ ba cõi
Lợi căn cập dữ trung hạ căn,                      Lợi căn cùng với trung hạ căn
Như thị nhất thiết hàm quan sát.              Như vậy tất cả đều quán sát.

Tất cả thế gian hết thảy chúng sinh, có đủ thứ căn tánh, vì chúng sinh có đủ thứ nghiệp tạo tác, cho nên trụ ở trong ba cõi, luân chuyển không ngừng, bất luận là lợi căn, hoặc trung căn, hay hạ căn. Căn tánh như vậy, Bồ Tát đều quán sát được rất rõ ràng.

 

Tịnh dữ bất tịnh chủng chủng giải            Tịnh và bất tịnh đủ thứ hiểu
Thắng liệt cập trung tất minh kiến,           Thắng liệt và trung đều thấy rõ
Nhất thiết chúng sanh chí xứ hàng,           Tất cả chúng sinh chỗ đi đến
Tam hữu tướng tục giai năng thuyết.        Ba cõi liên tục đều nói được.

Căn tánh của chúng sinh hoặc là thanh tịnh ? Hoặc chẳng thanh tịnh, tình hình như vậy, Bồ Tát đều thấu rõ, hoặc là thắng căn, hay liệt căn, hoặc trung căn, hay trung căn ? Bồ Tát đều thấy rõ hết. Tất cả chúng sinh trồng nhân gì ? Kết quả gì ? Tu pháp môn gì ? Thành tựu quả vị gì ? Tất cả đều tự mình tu hành. Tại sao chúng sinh lưu chuyển trong sinh tử luân hồi ? Lại liên tục chẳng đoạn tuyệt ? Bồ Tát lại có tâm từ bi, vì chúng sinh giải thích tỉ mỉ, khiến cho họ biết nguồn gốc sinh tử.

 

Thiền định giải thoát chư tam muội,        Thiền định giải thoát các tam muội
Nhiễm tịnh nhân khởi các bất đồng,         Nhiễm tịnh nhân khởi đều khác nhau
Cập dĩ tiên thế khổ lạc thù                         Cùng với khổ vui thù đời trước
Tịnh tu Phật lực hàm năng kiến.               Tịnh tu Phật lực đều thấy được.

Thiền định có chín thứ đệ định. Tức là tứ thiền, tứ không xứ và diệt thọ tưởng định, đây là định chỉ tức tất cả tâm thức. Giải thoát có tám giải thoát, tức là :

1). Trong có sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
2). Trong không sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
3). Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
4). Không vô biên xứ giải thoát.

5). Thức vô biên xứ giải thoát.
6). Vô sở hữu xứ giải thoát.
7). Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
8). Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.

Tam muội dịch là định. Tâm dừng nơi một cảnh, chẳng khiến cho tán động, đây gọi là định. Tam muội có nhiều thứ, ví như niệm Phật tam muội, Pháp Hoa tam muội, Hải ấn tam muội, Duy tâm tam muội, An thuyền tam muội, Du hí tam muội .v.v… tức cũng là tất cả định. Nếu trồng nhân nhiễm ô, thì chẳng dễ gì được định. Nếu trồng nhân thanh tịnh, thì dễ dàng được định, cũng dễ dàng được giải thoát. Cho nên nói nhiễm tịnh nhân khởi đều khác nhau. Hoặc đời trước thọ nhiều khổ, hoặc hưởng nhiều vui, đều do nhân trồng khác nhau, cho nên Bồ Tát thanh tịnh tu tập thập lực của Phật, đối với tất cả nhân duyên đều thấy được rất rõ ràng.

 

Chúng sanh nghiệp hoặc tục chư thú        Chúng sinh nghiệp hoặc tục các cõi
Đoạn thử chư thú đắc tịch diệt,                  Dứt các cõi này được vắng lặng
Chủng chủng lậu Pháp vĩnh bất sanh       Đủ thứ pháp lậu vĩnh chẳng sinh
Tinh kỳ tập chủng tất liễu tri.                      Và tập chúng đó đều biết rõ.

Tại sao chúng sinh luân hồi trong sáu nẻo ? Vì nghiệp hoặc liên tục. Do đó: ‘’Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo,’’ cho nên liên tục không ngừng. Nếu dứt trừ được sáu nẻo luân hồi thì đắc được vắng lặng, thoát khỏi ba cõi. Nếu dứt trừ được tập khí mao bệnh, vô minh phiền não .v.v… thì vĩnh viễn chẳng sinh nữa, và tập tánh chủng tử đó, Bồ Tát cũng đều biết rõ.

 

Như Lai phiền não giai trừ tận,                 Như Lai phiền não đều trừ sạch
Đại trí quang minh chiếu ư thế,                Đại trí quang minh chiếu thế gian
Bồ Tát ư Phật thập lực trung                     Bồ Tát ở trong Phật thập lực
Tuy vị chứng đắc diệc vô nghi.                  Tuy chưa chứng được cũng chẳng nghi.

Phật đã dứt trừ sạch tất cả phiền não, cho nên trí huệ vốn có hiện tiền. Ðại trí huệ quang minh đó, chiếu khắp nơi thế gian. Bồ Tát ở trong mười thứ trí huệ lực của Phật, tuy chưa chứng được mười lực của Phật, nhưng tơ hào chẳng có hoài nghi.

 

Bồ Tát ư nhất mao khổng trung                Bồ Tát ở trong một lỗ lông
Phổ hiện thập phương vô lượng sát,         Hiện khắp mười phương vô lượng cõi
Hoặc hữu tạp nhiễm hoặc thanh tịnh,      Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
Chủng chủng nghiệp tác giai năng liễu.    Đủ thứ nghiệp làm đều rõ được.

Bồ Tát có thần thông diệu dụng, có thể ở trong một lỗ chân lông, khắp hiện ra mười phương vô lượng các cõi nước chư Phật. Hoặc có cõi nước tạp nhiễm, hoặc có cõi nước thanh tịnh. Chúng sinh khởi đủ thứ nghiệp, thọ đủ thứ quả báo, Bồ Tát đều thấu rõ được.

 

Nhất vi trần trung vô lượng sát                Trong một hạt bụi vô lượng cõi
Vô lượng chư Phật cập Phật tử,                Vô lượng chư Phật và Phật tử
Chư sát các biệt vô tạp loạn,                     Các cõi khác nhau chẳng tạp loạn
Như nhất nhất thiết tất minh kiến.           Như một tất cả đều thấy rõ.

Ở trong một hạt bụi, hiện ra được vô lượng cõi nước chư Phật. Ở trong vô lượng cõi nước chư Phật, lại có vô lượng chư Phật ở trong đó diễn nói diệu pháp. Ở trong đạo tràng của mỗi vị Phật, lại có vô lượng đại Bồ Tát đang ở trong đó, nghe Phật diễn nói diệu pháp. Ở trong một hạt bụi, hoặc ở một lỗ chân lông, hiện ra vô lượng cõi Phật có hàng lối chẳng tạp loạn. Bồ Tát thấy được mỗi cõi Phật, cho đến hết thảy cõi Phật đều thấy rõ ràng.

 

Ư nhất mao khổng kiến thập phương       Nơi một lỗ lông thấy mười phương
Tận hư không giới chư thế gian,                Tận cõi hư không các thế gian
Vô hữu nhất xứ không vô Phật                  Chẳng có nơi nào không có Phật
Như thị Phật sát tất thanh tịnh.                 Như vậy cõi Phật đều thanh tịnh.

Bồ Tát có thể trong một lỗ chân lông, nhìn thấy mười phương hết thảy thế giới. Tận hư không biến pháp giới, các thế gian đều hoàn toàn nhìn thấy được, chẳng có một nơi nào mà chẳng thấy Phật ở đó chuyển đại pháp luân, giáo hóa tất cả chúng sinh. Trong mỗi lỗ lông đều hiện ra mười phương thế giới, trong mỗi thế giới, có vô lượng chư Phật đang diễn nói diệu pháp, những cõi Phật đó đều thanh tịnh trang nghiêm.

 

Ư mao khổng trung kiến Phật sát,             Ở trong lỗ lông thấy cõi Phật
Phục kiến nhất thiết chư chúng sanh,       Lại thấy tất cả các chúng sinh
Tam thế lục thú các bất đồng,                    Ba đời sáu nẻo đều khác nhau
Trú dạ nguyệt thời hữu phược giải.          Ngày đêm tháng giờ có buộc giải.

Bồ Tát có thể ở trong một lỗ chân lông, thấy được mười phương các cõi nước Phật. Chẳng những thấy được các cõi Phật mà còn thấy được tất cả chúng sinh. Trong ba đời sáu nẻo đều có nghiệp báo khác nhau. Ngày đêm tháng giờ đều khác nhau, hoặc bị nghiệp ràng buộc hoặc được giải thoát.

 

Như thị đại trí chư Bồ-tát,                            Như vậy các Bồ Tát đại trí
Chuyên tâm thú hướng pháp vương vị,    Chuyên tâm hướng về bậc Pháp Vương
Ư Phật sở trụ thuận tư tánh                       Chỗ của Phật trụ thuận tư duy
Nhi hoạch vô biên đại hoan hỉ.                  Mà được vô biên đại hoan hỷ.

Như vậy có các Bồ Tát đại trí huệ, chuyên tâm hướng về quả vị Pháp Vương. Tức là tu pháp lục độ vạn hạnh, mới có thể trụ ở chỗ Ðức Phật, tùy thuận tư duy của Phật, mà đắc được vô biên đại hoan hỷ.

 

Bồ Tát phần thân vô lượng ức,                  Bồ Tát phân thân vô lượng ức
Cúng dường nhất thiết chư Như Lai,        Cúng dường tất cả các Như Lai
Thần thông biến hiện thắng vô bỉ,            Thần thông biến hiện thắng vô tỉ
Phật sở hạnh xứ giai năng trụ.                   Chỗ hành của Phật đều trụ được.

Bồ Tát phát tâm bồ đề, hay phân thân thành vô lượng ức, đến khắp mười phương chư Phật, để cúng dường tất cả chư Phật. Thần thông biến hiện của Bồ Tát rất thù thắng, chẳng gì sánh bằng. Phàm là nơi có Phật giáo hóa chúng sinh, Bồ Tát đều đến cúng dường. Vì Bồ Tát rộng tu pháp môn cúng dường.

 

Vô lượng Phật sở giai toản ngưỡng           Chỗ vô lượng Phật đều suy ngưỡng
Sở hữu Pháp tạng tất đam vị,                    Hết thảy tạng pháp đều nếm vị
Kiến Phật văn pháp cần tu hành,             Thấy Phật nghe pháp siêng tu hành
Như ẩm cam lồ tâm hoan hỉ.                     Như uống cam lồ tâm hoan hỷ.

Bồ Tát ở chỗ của vô lượng chư Phật, suy xét nghiên cứu nghĩa lý pháp của chư Phật nói, kính ngưỡng Phật pháp, dụng công tu tập. Hết thảy tạng pháp của Phật, Bồ Tát đều tìm pháp vị ở trong đó. Thấy được Phật, nghe được pháp bèn siêng năng tu hành, nghiên cứu pháp lý. Giống như uống nước cam lồ ngon ngọt, giải trừ đi sự khô khát, tiêu trừ hết tham sân si, cho nên tâm sinh đại hoan hỷ.

 

Dĩ hoạch Như Lai thắng tam muội,            Đã được Như Lai thắng tam muội
Thiện nhập chư Pháp trí tăng trưởng        Khéo vào các pháp trí tăng trưởng
Tín tâm bất động như Tu-Di                       Tâm tin chẳng động như Tu Di
Phổ tác quần sanh công đức tạng.             Khắp làm quần sinh công đức tạng.

Bồ Tát ban đầu phát bồ đề tâm, thì đã đắc được định thù thắng của chư Phật. Khéo vào các pháp, diễn nói các pháp, thì trí huệ càng ngày càng tăng trưởng, tâm tin càng ngày càng vững chắc, tuyệt đối chẳng giao động, như núi Tu Di. Khắp vì chúng sinh mà làm công đức tạng.

 

Từ tâm quảng đại biến chúng sanh,         Tâm từ rộng lớn khắp chúng sinh
Tất nguyện tật thành nhất thiết trí,          Đều nguyện sớm thành nhất thiết trí
Nhi hằng Vô Trước vô y xứ,                        Mà luôn chẳng chấp chẳng chỗ nương
Ly chư phiền não đắc tự tại.                      Lìa các phiền não được tự tại.

Tâm từ bi của Bồ Tát rộng lớn vô bờ, khắp cứu hộ tất cả chúng sinh, nguyện chúng sinh sớm được thành tựu tất cả trí huệ. Tuy đắc được trí huệ, nhưng chẳng chấp trước, cũng chẳng chỗ nương tựa, lìa khỏi tất cả phiền não mà đắc được tự tại.

Tại sao chúng sinh làm chúng sinh ? Vì chẳng có lìa khỏi tất cả phiền não. Nếu lìa khỏi phiền não thì sẽ được giải thoát, đắc được tự tại. Tại sao Bồ Tát làm Bồ Tát ? Vì chẳng có phiền não. Bất luận việc gì ? Ðều nghĩ đến chúng sinh, chẳng có chút tâm ích kỷ lợi mình nào, chỉ muốn lợi ích cho chúng sinh, Ngài cam tâm tình nguyện hy sinh tánh mạng của mình để phục vụ cho chúng sinh, tinh thần này thật là vĩ đại.

 

Ai mẩn chúng sanh quảng đại trí,             Thưong xót chúng sinh trí rộng lớn
Phổ nhiếp nhất thiết đồng ư kỷ,                Khắp nhiếp tất cả đồng như mình
Tri không vô tướng vô chân thật               Biết không vô tướng chẳng chân thật
Nhi hành kỳ tâm bất giải thoái.                 Mà hành tâm nguyện chẳng giải thối.

Bồ Tát có trí huệ rộng lớn, thương xót tất cả chúng sinh, cho nên khắp nhiếp thọ tất cả chúng sinh, như đồng nhiếp thọ chính mình. Bồ Tát biết các pháp đều không, chẳng có thật tánh. Nhưng hành tâm nguyện của Bồ Tát đạo, vĩnh viễn chẳng giải đãi, chẳng thối lùi.

 

Bồ Tát phát tâm công đức lượng,             Bồ Tát phát tâm công đức lượng
Ức kiếp xưng dương bất khả tận,             Ức kiếp khen ngợi không hết được
Dĩ xuất nhất thiết chư Như Lai,                Vì sinh tất cả các Như Lai
Độc giác Thanh văn an lạc cố.                  Độc Giác Thanh Văn đều an lạc.

Lượng công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm, dùng ức kiếp thời gian dài để khen ngợi tán thán, cũng nói không hết được. Mười phương chư Phật thuở xưa đều hành Bồ Tát đạo, đây là khiến cho hàng Thanh Văn và Ðộc giác đều đắc được an lạc.

 

Thập phương quốc độ chư chúng sanh,    Mười phương cõi nước các chúng sinh
Giai tất thí an vô lượng kiếp,                        Thảy đều thí an vô lượng kiếp
Khuyến trì ngũ giới cập Thập thiện          Khuyên giữ năm giới và thập thiện
Tứ Thiền tứ đẳng chư định xứ                  Tứ thiền tứ đẳng các định xứ.

Bồ Tát trong mười phương các cõi nước, thường hành bố thí, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được an lạc, trải qua thời gian vô lượng kiếp. Lại khuyên nói hướng dẫn tất cả chúng sinh giữ năm giới, tu mười điều lành, và tu tứ thiền định và tứ đẳng định. Tứ đẳng tức là tứ không định, diệt thọ tưởng định, đây là các định xứ.

 

Phục ư đa kiếp thí an lạc,                           Lại trong nhiều kiếp thí an lạc
Lệnh đoạn chư hoặc thành La-hán           Khiến dứt các hoặc thành La Hán
Bỉ chư phước tụ tuy vô lượng                    Các phước đức đó tuy vô lượng
Bất dữ phát tâm công đức bỉ.                    Chẳng bằng công đức phát tâm này.

Bồ Tát lại ở trong nhiều đời nhiều kiếp, bố thí tất cả an lạc cho chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh dứt hoặc, chứng chân, trở thành quả vị A la hán. Phước đức đó tuy vô lượng vô biên, nhưng chẳng bằng so với công đức phát bồ đề tâm.

 

Hựu giáo ức chúng thành duyên giác        Lại dạy ức chúng thành Duyên Giác
Hoạch vô tránh hành vi diệu đạo,             Được vô tánh hành đạo vi diệu
Dĩ bỉ nhi giáo Bồ-đề tâm,                            Dùng đó mà sánh tâm bồ đề
Toán số thí dụ vô năng cập.                       Tính đếm ví dụ chẳng bằng được.

Bồ Tát lại dạy trăm ngàn vạn ức chúng sinh, thành tựu quả vị Duyên Giác. Ðắc được tam muội vô tránh, hành đạo vi diệu không thể nghĩ bàn. Công đức đó vô lượng vô biên. Song, so sánh với công đức ban đầu phát tâm bồ đề, dùng sự tính đếm ví dụ để hình dung, cũng chẳng bằng được.

 

Nhất niệm năng qua trần số sát                Một niệm qua được cõi số bụi
Như thị Kinh ư vô lượng kiếp,                    Như vậy trải qua vô lượng kiếp
Thử chư sát số thượng khả lượng,            Các cõi đó đếm còn lường được
Phát tâm công đức bất khả tri.                  Công đức phát tâm chẳng biết được.

Trong một niệm, có thể đi qua các cõi Phật nhiều như số hạt bụi. Cảnh giới như vậy, trải qua vô lượng kiếp thời gian, cõi Phật đó đếm cũng chẳng cách chi biết được. Song, tính đếm còn có thể biết được số lượng, nhưng công đức ban đầu phát tâm, chẳng có ai biết được là bao nhiêu ?

 

Quá khứ vị lai cập hiện tại,                       Quá khứ vị lai và hiện tại
Sở hữu kiếp số vô biên lượng,                  Hết thảy kiếp số vô biên lượng
Thử chư kiếp số do khả tri,                       Các kiếp đó đếm có thể biết
Phát tâm công đức vô năng trắc.            Công đức phát tâm không dò được.

Kiếp quá khứ, kiếp vị lai, kiếp hiện tại, hết thảy kiếp số vô lượng vô biên, chẳng biết được có bao nhiêu ? Những kiếp số đó còn có thể biết được, song công đức ban đầu phát tâm bồ đề, chẳng có ai có thể dò lường được cứu kính là bao nhiêu ?

 

Dĩ Bồ-đề tâm biến thập phương,               Dùng tâm bồ đề khắp mười phương
Sở hữu phân biệt mị bất tri,                       Hết thảy phân biệt đâu chẳng biết
Nhất niệm tam thế tất minh đạt,               Một niệm ba đời đều thông đạt
Lợi ích vô lượng chúng sanh cố.                Vì lợi ích vô lượng chúng sinh.

Dùng tâm bồ đề rộng lớn, đầy khắp mười phương thế giới. Hết thảy căn tánh và tri giải của chúng sinh đâu mà chẳng biết. Trong một niệm, thời gian ba đời đều thông đạt vô ngại. Bồ Tát phát tâm bồ đề, vì lợi ích vô lượng chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.

 

Thập phương thế giới chư chúng sanh      Mười phương thế giới các chúng sinh
Dục giải phương tiện ý sở hạnh,                 Muốn hiểu phương tiện ý hành vi
Cập dĩ hư không tế khả trắc,                       Với bờ mé hư không dò được
Phát tâm công đức nan tri lượng.               Công đức phát tâm khó biết được.

Mười phương thế giới hết thảy chúng sinh, Bồ Tát đều muốn minh bạch phương tiện trí huệ và ý niệm hành vi của họ, cùng với bờ mé của hư không có thể dò lường được, nhưng công đức Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề khó dò lường biết được.

 

Bồ Tát chí nguyện đẳng thập phương       Bồ Tát chí nguyện đồng mười phương
Từ tâm phổ hiệp chư quần sanh,               Tâm từ nhuần khắp các quần sinh
Tất sử tu thành Phật công đức,                  Khiến họ tu thành công đức Phật
Thị cố kỳ lực vô biên tế.                               Cho nên lực đó chẳng bờ mé.

Bồ Tát ban đầu phát tâm, chí nguyện đầy khắp mười phương. Dùng tâm từ bi độ khắp chúng sinh, khiến cho họ bỏ mê về giác, tu thành công đức của Phật. Vì nhân duyên đó, cho nên sức lực công đức ban đầu phát tâm chẳng có bờ mé.

 

Chúng sanh dục giải tâm sở lạc                 Chúng sinh muốn hiểu tâm ưa thích
Chư căn phương tiện hành các biệt          Các căn phương tiện hành khác nhau
Ư nhất niệm trung tất liễu tri,                    Ở trong một niệm đều thấu rõ
Nhất thiết trí trí tâm đồng đẳng.               Nhất thiết trí trí tâm đồng nhau.

Sự ưa muốn của chúng sinh, sự hiểu biết của chúng sinh, tâm ưa thích của chúng sinh, các căn và sở hành phương tiện pháp môn của chúng sinh đều khác nhau, mà chẳng giống nhau. Tuy rất phức tạp, nhưng Bồ Tát có thể trong một niệm đều biết được. Vì nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí tâm đều đồng nhau, chẳng có khác biệt.

 

Nhất thiết chúng sanh chư hoặc nghiệp    Tất cả chúng-sanh các hoặc nghiệp
Tam hữu tướng tục vô tạm đoạn,                Ba cõi tương-tục không tạm dứt
Thử chư biên tế thượng khả tri,                   Những ngằn mé này còn biết được
Phát tâm công đức nan tư nghị.                  Công-đức phát tâm khó nghĩ bàn.

 

Phát tâm năng ly nghiệp phiền não,          Phát tâm hay lìa nghiệp phiền não
Cúng dường nhất thiết chư Như Lai,         Cúng dường tất cả các Như Lai
Nghiệp hoặc ký ly tướng tục đoạn,            Nghiệp hoặc sẽ lìa dứt liên tục
Phổ ư tam thế đắc giải thoát.                     Khắp nơi ba đời được giải thoát.

Phát tâm bồ đề hay lìa khỏi tất cả nghiệp phiền não, mà hay rộng tu cúng dường tất cả chư Phật. Nghiệp và mê hoặc mà chúng sinh đã tạo ra đều đã dứt tuyệt. Quả sinh tử cũng đoạn tuyệt, chẳng còn liên tục nữa. Khắp nơi ba đời đều đắc được giải thoát.

 

Nhất niệm cúng dường vô biên Phật         Một niệm cúng dường vô biên Phật
Diệc cúng vô số chư chúng sanh,                Cũng cúng vô số các chúng sinh
Tất dĩ hương hoa cập diệu man                  Cũng cúng hương hoa và màn đẹp
Bảo tràng phan cái thượng y phục,            Tràng phan lọng báu y phục tốt.

Bồ Tát dùng sức thần thông, ở trong một niệm, cúng dường mười phương vô số chư Phật. Cũng cúng dường vô số các chúng sinh. Dùng gì để cúng dường ? Dùng đủ thứ hương thơm, hoa đẹp, màn quý và tràng báu, phan báu, lọng báu, y phục tốt đẹp để cúng dường.

 

Mỹ thực trân tọa kinh hành xứ                    Thức ngon tòa quý nơi kinh hành
Chủng chủng cung điện tất nghiêm hảo    Đủ thứ cung điện đều nghiêm đẹp
Tỳ Lô Giá Na diệu bảo châu                         Tỳ Lô Giá Na châu báu đẹp
Như ý ma-ni phát Quang diệu.                     Như ý ma ni phát quang chiếu.

Bồ Tát dùng thức ăn uống thơm ngon, tòa sư tử trân quý để cúng dường Phật, và chỗ đi kinh hành đều dùng bảy báu để trang nghiêm. Lại dùng đủ thứ cung điện để cúng dường chư Phật và tất cả chúng sinh, đều là trang nghiêm tốt đẹp. Châu báu đẹp Tỳ Lô Giá Na Phật, châu như ý, châu ma ni, đều phát ra ánh sáng chiếu soi mười phương thế giới.

 

Niệm niệm như thị trì cúng dường,           Niệm niệm như vậy đem cúng dường
Kinh vô lượng kiếp bất khả thuyết.           Trải vô lượng kiếp không thể nói
Kỳ nhân phước tụ tuy phục đa,                 Phước đức người đó tuy rất nhiều
Bất cập phát tâm công đức Đại.                Chẳng bằng đại công đức phát tâm.

Trong niệm niệm, dùng đủ thứ bảy báu để cúng dường chư Phật và tất cả chúng sinh, trải qua vô lượng kiếp thời gian không thể nói. Phước báo của người đó tuy rất nhiều, nhưng chẳng bằng đại công đức ban đầu phát tâm bồ đề.

 

Sở thuyết chủng chủng chúng thí dụ         Đủ thứ các ví dụ nói ra
Vô hữu năng cập Bồ-đề tâm,                      Đều không bằng phát tâm bồ đề
Dĩ chư tam thế nhân trung tôn,                 Bởi các Nhân Trung Tôn ba đời
Giai tùng phát tâm nhi đắc sanh.              Đều từ phát tâm mà sinh ra.

Bất cứ ví dụ nào, cũng đều không bằng công đức ban đầu phát tâm bồ đề. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều từ phát tâm bồ đề mà sinh ra. Ai phát tâm bồ đề thì người đó là Phật.

 

Phát tâm vô ngại vô tề hạn                        Phát tâm vô ngại chẳng bờ mé
Dục cầu kỳ lượng bất khả đắc,                   Muốn biết lượng đó không thể được
Nhất thiết trí trí thệ tất thành,                   Nhất thiết trí trí thệ tất thành
Sở hữu chúng sanh giai vĩnh độ.               Hết thảy chúng sinh vĩnh viễn độ.

Công đức phát tâm bồ đề, chẳng có bờ mé nhất định, là viên dung vô ngại. Muốn biết công đức ban đầu phát tâm là bao nhiêu ? Không thể biết được, chẳng cách chi dò lường được. Nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí, Bồ Tát cũng phải phát thệ, tất sẽ được thành tựu. Bồ Tát phát tâm là vĩnh viễn độ thoát hết thảy chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi ba cõi, đắc được Niết Bàn khoái lạc.

 

Phát tâm quảng đại đẳng hư không,         Phát tâm rộng lớn đồng hư không
Sanh chư công đức đồng Pháp giới,          Sinh các công đức đồng pháp giới
Sở hạnh phổ biến như vô dị,                       Sở hành phổ khắp như chẳng khác
Vĩnh ly chúng trước Phật bình đẳng.         Vĩnh lìa chấp trước Phật bình đẳng.
Bồ Tát là tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới. Phát tâm bồ đề rộng lớn đồng vời hư không. Phát tâm bồ đề này, sinh ra công đức bình đẳng đồng với pháp giới. Bồ Tát sở hành, tuy nhiên phổ khắp pháp giới, nhưng vĩnh viễn lìa khỏi tất cả sự chấp trước, và bình đẳng với sự giải thoát của chư Phật, chẳng có gì khác biệt.

 

Nhất thiết pháp môn vô bất nhập             Tất cả pháp môn thảy đều vào
Nhất thiết quốc độ tất năng vãng,             Tất cả cõi nước đều qua đến
Nhất thiết trí cảnh hàm thông đạt            Tất cả trí cảnh đều thông đạt
Nhất thiết công đức giai thành tựu.          Tất cả công đức đều thành tựu.

Hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn, Bồ Tát thảy đều nhập vào, mười phương tất cả chư Phật cõi nước, Bồ Tát thảy đều nhập vào mười phương tất cả chư Phật cõi nước, Bồ Tát đều đi đến cúng dường chư Phật. Tất cả cảnh giới trí huệ của chư Phật, Bồ Tát đều thông đạt vô ngại. Hết thảy tất cả công đức của chư Phật, Bồ Tát đều thành tựu.

 

Nhất thiết năng xả hằng tướng tục            Tất cả xả được luôn liên tục
Tịnh chư giới phẩm vô sở trước,                 Tịnh các giới phẩm chẳng chấp trước
Cụ túc vô thượng Đại công đức,                  Đầy đủ đại công đức vô thượng
Thường cần tinh tấn Bất-thoái-chuyển.    Thường siêng tinh tấn chẳng thối lùi.

Bồ Tát có tâm trạng từ bi khó xả bỏ mà xả bỏ được, cho nên luôn luôn bố thí liên tục không ngừng. Bồ Tát chẳng những tu pháp môn bố thí, mà còn tu pháp môn trì giới. Tu giữ tất cả giới phẩm thanh tịnh, mà chẳng chấp trước. Do đó, đầy đủ đại công đức vô thượng, Bồ Tát siêng tu pháp môn nhẫn nhục và pháp môn tinh tấn, vĩnh viễn chẳng thối chuyển.

 

Nhập thâm Thiền định hằng tư tánh        Vào sâu thiền định luôn suy gẫm
Quảng đại trí tuệ cộng tướng ứng,            Trí huệ rộng lớn cùng tương ưng
Thử thị Bồ Tát tối thắng địa,                       Đây là bậc Bồ Tát tối thắng
Xuất sanh nhất thiết Phổ Hiền đạo.          Sinh ra tất cả đạo Phổ Hiền.

Bồ Tát siêng tu thiền định thâm sâu, tức cũng là tư duy tu. Luôn luôn tư duy tu, thì sẽ tương ưng với đại trí huệ. Tóm lại, trí huệ là từ trong thiền định sinh ra, ngồi thiền ngồi đến lúc một niệm không sinh, thì đại trí huệ tự nhiên sẽ hiện tiền, tức cũng là trí huệ hơn người. Nói nông cạn cho dễ hiểu tức là thần thông, biết việc người chẳng biết, thấy việc người chẳng thấy. Lục độ này là hạnh môn tối thắng của Bồ Tát, do sự quan hệ phát tâm bồ đề, mà sinh ra tất cả đạo tu hành của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Tam thế nhất thiết chư Như Lai,                   Ba đời tất cả các Như Lai
Mị bất hộ niệm sơ phát tâm,                         Thảy đều hộ niệm sơ phát tâm
Tất dĩ tam muội Đà-la-ni                                 Đều dùng tam muội đà la ni
Thần thông biến hóa cọng trang nghiêm.       Thần thông biến hóa cùng trang nghiêm.

Mười phương ba đời tất cả chư Phật, chẳng có vị Phật nào mà chẳng hộ niệm Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề. Mười phương chư Phật dùng đủ thứ sức tam muội để gia trì Bồ Tát ban đầu phát tâm, lại dùng đủ thứ đà la ni và thần thông biến hóa cùng để trang nghiêm.

 

Thập phương chúng sanh vô hữu lượng,    Mười phương chúng sinh vô số lượng
Thế giới hư không diệc như thị,                    Thế giới hư không cũng như vậy
Phát tâm vô lượng qua ư bỉ,                          Phát tâm vô lượng quá hơn đó
Thị cố năng sanh nhất thiết Phật.                 Cho nên hay sinh tất cả Phật.

Mười phương thế giới chúng sinh, nhiều vô lượng vô biên. Thế giới cũng vô lượng, hư không cũng vô lượng. Phát tâm bồ đề cũng vô lượng, song vượt qua chúng sinh, thế giới, hư không, đủ thứ vô lượng. Tại sao ? Vì phát tâm bồ đề hay sinh ra tất cả chư Phật.

 

Bồ-đề tâm thị thập lực bổn,                       Tâm bồ đề là gốc mười lực
Diệc vi tứ biện vô úy bổn,                           Cũng là gốc bốn biện vô úy
Thập bát bất cộng diệc phục nhiên,          Mười tám bất cộng cũng từ đó
Mạc bất giai tùng phát tâm đắc.                Thảy đều từ phát tâm mà được.

Tâm bồ đề là mẹ của tất cả chư Phật, cho nên sinh ra tất cả chư Phật. Lại là gốc mười lực của Phật, lại là gốc của bốn biện tài vô ngại. Lại là gốc của bốn vô sở úy, lại là gốc của mười tám pháp bất cộng. Tóm lại, tất cả pháp đều từ ban đầu phát tâm bồ đề mà chứng được.

 

Chư Phật sắc tướng trang nghiêm thân,   Thân sắc tướng trang nghiêm chư Phật
Cập dĩ bình đẳng diệu Pháp thân,              Cùng với diệu pháp thân bình đẳng
Trí tuệ Vô Trước sở Ứng-Cúng,                   Trí huệ vô trước sở ứng cúng
Tất dĩ phát tâm nhi đắc hữu.                      Đều nhờ phát tâm mà đắc được.

Thân sắc tướng trang nghiêm của mười phương chư Phật, tức cũng là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Thân bình đẳng, thân trí huệ, thân diệu pháp, thân vô trước, thân ứng cúng, đều từ sự phát tâm bồ đề mà đắc được đủ thứ thân đó.

 

Nhất thiết độc giác Thanh văn thừa,        Tất cả Độc Giác Thanh Văn thừa
Sắc giới chư Thiền tam muội lạc               Các thiền tam muội vui cõi sắc
Cập vô sắc giới chư tam muội,                   Và các tam muội cõi vô sắc
Tất dĩ phát tâm tác kỳ bổn.                        Đều nhờ phát tâm làm cơ bản.
Tất cả Ðộc Giác thừa và Thanh Văn thừa, ở cõi sắc đắc được khoái lạc tam muội tứ thiền. Do đó: ‘’Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.’’ Ở cõi vô sắc đắc được khoái lạc tam muội tứ không. Sự khoái lạc đó, chẳng cách chi hình dung được, đều là từ ban đầu phát tâm mà chứng được, cho nên ban đầu phát tâm làm cơ sở của các thiền tam muội.

 

Nhất thiết nhân thiên tự tại lạc                 Tất cả trời người tự tại vui
Cập dĩ chư thú chủng chủng lạc                Cùng với các cõi đủ thứ vui
Tấn định căn lực đẳng chúng lạc              Tấn định căn lực thảy các vui
Mị bất giai do sơ phát tâm.                        Hết thảy đều do sơ phát tâm.

Hết thảy người ở trên trời và người ở thế gian, đắc được sự an vui tự tại, cùng với đủ thứ sự an vui trong các cõi. Sự an vui của tín, tấn, niệm, định, huệ, năm căn và sự an vui của tín, tấn, niệm, định, huệ, năm lực (năm căn hay sinh ra năm lực). Ðủ thứ sự an vui đó, đều từ ban đầu phát tâm mà đắc được.

 

Dĩ nhân phát khởi quảng đại tâm             Nhờ nhân phát sinh tâm rộng lớn
Tức năng tu hành lục chủng độ,                Tất hay tu hành hạnh lục độ
Khuyến chư chúng sanh hành chánh hạnh,      Khuyên các chúng sinh hành chánh hạnh
Ư tam giới trung thọ an lạc.                        Ở trong ba cõi thọ an vui.

Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, lúc ở tại nhân địa thì phát tâm nguyện rộng lớn. Nguyện tất cả chúng sinh đoạn trừ tất cả phiền não, nguyện tất cả chúng sinh học tất cả Phật pháp, nguyện tất cả chúng sinh thành Phật đạo vô thượng. Vì phát thệ rộng lớn, cho nên mới tu hành hạnh lục độ. Công việc của Bồ Tát là khuyên nói tất cả chúng sinh tu hành bồ đề chánh hạnh, ở trong ba cõi luôn thọ sự an lạc.

 

Trụ Phật vô ngại thật nghĩa trí,                    Trụ Phật vô ngại trí thật nghĩa
Sở hữu diệu nghiệp hàm khai xiển,           Hết thảy diệu nghiệp đều khai xiển
Năng lệnh vô lượng chư chúng sanh         Hay khiến vô lượng các chúng sinh
Tất đoạn hoặc nghiệp hướng Niết-Bàn.    Đều dứt hoặc nghiệp hướng Niết Bàn.

Bồ Tát hay trụ ở trí huệ viên dung vô ngại chân thật nghĩa lý của chư Phật, hết thảy nghiệp vi diệu đều vì chúng sinh khai diễn xiển dương diệu pháp, hay khến cho vô lượng chúng sinh đều dứt trừ sạch hoặc thô, hoặc tế, hoặc thấy, hoặc suy nghĩ, cùng với hoặc trần sa và hoặc vô minh, để hướng về Niết Bàn.

 

Trí tuệ quang minh như tịnh nhật,         Trí-huệ sáng chói như tịnh-nhựt
Chúng hạnh cụ túc do mãn nguyệt,           Các hạnh đầy đủ như trăng tròn
Công đức thường doanh thí cự hải,        Công-đức luôn đầy như biển-cả
Vô cấu vô ngại đồng hư không.                  Không nhơ không ngại đồng hư-không.

 

Phổ phát vô biên công đức nguyện         Khắp phát vô biên nguyện công đức
Tất dữ nhất thiết chúng sanh lạc             Đều ban vui tất cả chúng sinh
Tận vị lai tế y nguyện hạnh,                      Suốt thuở vị lai nương nguyện hành
Thường cần tu tập độ chúng sanh.          Thường siêng tu tập độ chúng sinh.

Bồ Tát khắp phát nguyện công đức rộng lớn vô biên, nguyện ban cho tất cả chúng sinh an vui, nguyện đời đời kiếp suốt thuở vị lai, y chiếu nguyện của mình đã phát mà tu hành, thường siêng học tập pháp môn rộng độ chúng sinh.

 

Vô lượng đại nguyện nan tư nghị,               Vô lượng đại nguyện khó nghĩ bàn
Nguyện lệnh chúng sanh tất thanh tịnh,   Nguyện khiến chúng sinh đều thanh tịnh
Không vô tướng nguyện vô y xứ                  Không vô tướng nguyện chẳng chỗ nương
Dĩ nguyện lực cố giai minh hiển.                  Nhờ nguyện lực nên đều hiểu rõ.

Bồ Tát phát vô lượng đại nguyện đều không thể nghĩ bàn, Ngài nguyện khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được pháp thanh tịnh, mà chẳng có tư tưởng nhiễm ô. Bồ Tát tu hành hạnh môn chẳng có chấp trước. Tại sao ? Vì tất cả pháp đều là không, chẳng có thật tướng. Tuy nhiên phát nguyện độ chúng sinh, nhưng chẳng chấp trước nguyện, cũng chẳng nương tựa vào nơi nào. Do nhờ phát nguyện lực, cho nên tất cả đều hiển hiện ra rõ ràng.

 

Liễu pháp tự tánh như hư không,             Rõ pháp tự tại như hư không
Nhất thiết tịch diệt tất bình đẳng,             Tất cả vắng lặng đều bình đẳng
Pháp môn vô số bất khả thuyết,                Pháp môn vô số không thể nói
Vi chúng sanh thuyết vô sở trước.             Vì chúng sinh nói chẳng chấp trước.

Bồ Tát thấu rõ tất cả tự tánh của tất cả các pháp như hư không. Bổn thể của pháp là vắng lặng, pháp vắng lặng này là bình đẳng. Pháp môn có rất nhiều vô lượng không thể nói. Vì giáo hóa chúng sinh, ở trong sự không thể nói, vẫn phải nói pháp này. Tuy vì chúng sinh nói pháp, nhưng chẳng có sự chấp trước.

 

Thập phương thế giới chư Như Lai           Thập phương thế-giới chư Như-Lai
Tất cọng tán thán sơ phát tâm,                 Ðều đồng tán-thán sơ-phát-tâm
Thử thân vô lượng đức sở nghiêm            Tâm này vô-lượng đức trang-nghiêm
Năng đáo bỉ ngạn đồng ư Phật.                 Ðến được bờ kia đồng với Phật.

 

Như chúng sanh số Nhĩ hứa kiếp              Như số chúng sinh bao kiếp số
Thuyết kỳ công đức bất khả tận,               Nói công đức đó không hết được
Dĩ trụ Như Lai quảng đại gia                      Nhờ ở nhà Như Lai rộng lớn
Tam giới chư Pháp vô năng dụ.                Ba cõi các pháp không thể dụ.

Dù có dùng thời gian nhiều đại kiếp như số lượng chúng sinh, để nói công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, cũng không thể nói hết được. Ðã ở trong nhà rộng lớn của Như Lai, thì dùng tất cả các pháp trong ba cõi, để ví dụ công đức ban đầu phát tâm, cũng không thể ví dụ được.

 

Dục tri nhất thiết chư Phật Pháp,             Muốn biết tất cả các Phật pháp
Nghi ưng tốc phát Bồ-đề tâm,                    Hãy nên mau phát tâm bồ đề
Thử tâm công đức trung tối thắng,           Công đức tâm này tối thắng nhất
Tất đắc Như Lai vô ngại trí.                        Sẽ được trí Như Lai vô ngại.

Muốn biết hết thảy các pháp của mười phương chư Phật, thì hãy mau phát tâm bồ đề. Công đức của tâm bồ đề là tối thù thắng trong công đức, tất sẽ đắc được trí huệ chẳng chướng ngại của chư Phật.

 

Chúng sanh tâm hành khả số tri,              Tâm hành chúng sinh đếm biết được
Quốc độ vi trần diệc phục nhiên,              Hạt bụi cõi nước cũng như thế
Hư không biên tế sạ khả lượng,                Bờ mé hư không có thể lường
Phát tâm công đức vô năng trắc               Công đức phát tâm không dò được.

Tâm niệm và hành vi của chúng sinh, có thể đếm biết được có bao nhiêu. Hết thảy hạt bụi trong mỗi cõi nước cũng có thể đếm biết được có bao nhiêu. Bờ mé của hư không cũng có thể độ lượng lớn bao nhiêu. Song, công đức của Bồ Tát ban đầu phát tâm, chẳng cách chi dò lường được.

 

Xuất sanh tam thế nhất thiết Phật            Sinh ra ba đời tất cả Phật
Thành tựu thế gian nhất thiết lạc              Thành tựu thế gian tất cả vui
Tăng trưởng nhất Thiết thắng công đức   Tăng trưởng tất cả thắng công đức
Vĩnh đoạn nhất thiết chư nghi hoặc.         Vĩnh dứt tất cả các nghi hoặc.

Tâm bồ đề hay sinh ra ba đời tất cả chư Phật, tâm bồ đề hay thành tựu tất cả khoái lạc an vui của thế gian. Tâm bồ đề hay tăng trưởng tất cả công đức thù thắng. Tâm bồ đề hay vĩnh viễn dứt trừ tất cả nghiệp chướng nghi hoặc, nói chung, phát tâm bồ đề, mới có thể thành Phật đạo.

 

Khai thị nhất thiết diệu cảnh giới,             Mở bày tất cả diệu cảnh giới
Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại,         Trừ sạch tất cả các chuớng ngại
Thành tựu nhất thiết thanh tịnh sát,        Thành tựu tất cả cõi thanh tịnh
Xuất sanh nhất thiết Như Lai trí.               Sinh ra tất cả trí Như Lai.

Công đức của tâm bồ đề, hay mở bày tất cả diệu cảnh giới, hay trừ sạch tất cả các chướng ngại, hay thành tựu tất cả các cõi nước, hay thanh tịnh tất cả các cõi nước, hay sinh ra nhất thiết trí huệ của Phật.

 

Dục kiến thập phương nhất thiết Phật      Muốn thấy mười phương tất cả Phật
Dục thí vô tận công đức tạng,                     Muốn thí vô tận tạng công đức
Dục diệt chúng sanh chư khổ não             Muốn diệt phiền não của chúng sinh
Nghi ưng tốc phát Bồ-đề tâm.                    Hãy nên mau phát tâm bồ đề.

Muốn thấy được mười phương ba đời tất cả chư Phật chăng ? Vậy thì phải phát tâm bồ đề. Muốn thành tựu tạng công đức vô cùng tận chăng ? Vậy thì phải phát tâm bồ đề. Muốn diệt trừ tất cả phiền não của chúng sinh chăng ? Vậy thì phải phát tâm bồ đề. Hãy nên mau phát tâm bồ đề, mới đạt được mục đích hy vọng là cứu kính Niết Bàn.