Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Kệ Khen Ngợi Trên Đỉnh Tu Di

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Kệ Khen Ngợi Trên Đỉnh Tu Di

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Thứ 14

Phẩm này là đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trên trời Ðao Lợi, điện Diệu Thắng, diễn nói pháp môn Thập Trụ, thuộc về phẩm thứ mười bốn. Cho nên gọi là Phẩm Kệ Khen Ngợi Trên Đỉnh Tu Di.

Nhĩ thời, Phật thần lực cố, thập phương các hữu nhất đại Bồ-tát, nhất nhất các dữ Phật sát vi trần số Bồ Tát câu, tùng bách Phật sát vi trần số quốc độ ngoại chư thế giới trung nhi lai tập hội,

Bấy giờ, do thần lực của Phật, mười phương đều có một vị đại Bồ Tát. Mỗi vị đều cùng với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi cõi Phật tụ lại. Từ ngoài cõi nước nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, trong các thế giới đồng tụ tập đến.

Giảng: Sau khi nói xong Phẩm Thăng Lên Ðỉnh Núi Tu Di thì lúc đó, nhờ Phật hiển hiện sức đại thần thông, cho nên mười phương thế giới, đều có một vị đại Bồ Tát. Ðây là biểu pháp, dùng để hiển pháp Thập Trụ. Ðại Bồ Tát là thượng thủ trong Bồ Tát, là lãnh tụ. Mỗi vị đại Bồ Tát đều xuất lãnh các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi cõi Phật, cùng nhau đến trời Ðao Lợi điện Diệu Thắng. Các Ngài từ ngoài cõi nước nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, trong các thế giới mà tụ tập đến, gần gũi Phật Thích Ca Mâu Ni.

 

Kỳ danh viết: Pháp tuệ Bồ Tát, nhất thiết tuệ Bồ Tát, thắng tuệ Bồ Tát, công đức tuệ Bồ Tát, tinh tấn tuệ Bồ Tát, thiện tuệ Bồ Tát, trí tuệ Bồ Tát, chân thật tuệ Bồ Tát, vô thượng tuệ Bồ Tát, kiên cố tuệ Bồ Tát.

Tên của các Ngài là: Bồ Tát Pháp Huệ. Bồ Tát Nhất Thiết Huệ. Bồ Tát Thắng Huệ. Bồ Tát Công Đức Huệ. Bồ Tát Tinh Tấn Huệ. Bồ Tát Thiện Huệ. Bồ Tát Trí Huệ. Bồ Tát Chân Thật Huệ. Bồ Tát Vô Thượng Huệ. Bồ Tát Kiên Cố Huệ.

Giảng: Lúc Phật nói pháp tại điện Diệu Thắng thì có mười vị đại Bồ Tát đến đạo tràng, tùy hỷ công đức, khen ngợi công đức của Phật, trợ giúp Phật hoằng dương Phật pháp. Ðây là danh hiệu mười vị đại Bồ Tát trong mười phương:

1). Phương đông là Bồ Tát Pháp Huệ. Ngài minh bạch Phật pháp, khai mở đại trí huệ.
2). Phương nam là Bồ Tát Nhất Thiết Huệ. Ngài thấu hiểu tất cả Phật pháp, chứng được nhất thiết trí huệ.
3). Phương tây là Bồ Tát Thắng Huệ. Ngài có trí huệ thù thắng.
4). Phương bắc là Bồ Tát Công Ðức Huệ. Ngài có đủ thứ công đức mà được chân thật trí huệ.
5). Phương đông bắc là Bồ Tát tinh tấn huệ. Ngài chuyên tu pháp môn tinh tấn, đắc được đại trí huệ.

6). Phương đông nam là Bồ Tát Thiện Huệ. Ngài chuyên làm việc thiện mà khai mở trí huệ.
7). Phương tây nam là Bồ Tát Trí Huệ. Ngài chuyên tu pháp môn Bát Nhã mà đắc đại trí huệ.
8). Phương tây bắc là Bồ Tát Chân Thật Huệ. Ngài được trí huệ từ sự tu giới luật, chẳng nói dối mà đắc được trí huệ chân thật.
9). Phương dưới là Bồ Tát Vô Thuợng Huệ. Trí huệ của Ngài vô thượng, chẳng ai cao hơn Ngài.
10). Phương trên là Bồ Tát Kiên Cố Huệ. Trí huệ của Ngài kiên cố như kim cang vừa quang minh, vừa sắc bén.

 

Sở tòng lai độ, sở vị: Nhân-đà-la hoa thế giới, ba-đầu-ma hoa thế giới, bảo hoa thế giới, ưu-bát-la hoa thế giới, Kim cương hoa thế giới, diệu hương hoa thế giới, duyệt ý hoa thế giới, A-lô-na hoa thế giới, na la đà hoa thế giới, hư không hoa thế giới.

Từ cõi nước đến, đó là: Thế giới Nhân Đà La Hoa. Thế giới Ba Đầu Ma Hoa. Thế giới Bảo Hoa. Thế giới Ưu Bát La Hoa. Thế giới Kim Cang Hoa. Thế giới Diệu Hương Hoa. Thế giới Duyệt Ý Hoa. Thế giới A Lư Na Hoa. Thế giới Na La Đà Hoa. Thế giới Hư Không Hoa.

Giảng: Mười vị đại Bồ Tát đó từ cõi nước nào đến ?
1). Từ thế giới Nhân Ðà La Hoa đến.
2). Từ thế giới Ba Ðầu Ma đến.
3). Từ thế giới Bảo Hoa đến.
4). Từ thế giới Ưu Bát La Hoa đến.
5). Từ thế giới Kim Cang Hoa đến.

6). Từ thế giới Diệu Hương Hoa đến.
7). Từ thế giới Duyệt Ý Hoa đến.
8). Từ thế giới A Lư Na Hoa đến.
9). Từ thế giới Na La Ðà Hoa đến.
10). Từ thế giới Hư Không Hoa đến.
Ðây cũng là mười phương thế giới.

 

Các ư Phật sở tịnh tu phạm hạnh, sở vị: Thù đặc nguyệt Phật, vô tận nguyệt Phật, bất động nguyệt Phật, phong nguyệt Phật, thủy nguyệt Phật, giải thoát nguyệt Phật, vô thượng nguyệt Phật, tinh tú nguyệt Phật, thanh tịnh nguyệt Phật, minh liễu nguyệt Phật.

Các vị Bồ Tát đó, ở chỗ chư Phật tịnh tu phạm hạnh. Đó là: Phật Thù Đặc Nguyệt. Phật Vô Tận Nguyệt. Phật Bất Động Nguyệt. Phật Phong Nguyệt. Phật Thủy Nguyệt. Phật Giải Thoát Nguyệt. Phật Vô Thượng Nguyệt. Phật Tinh Tú Nguyệt. Phật Thanh Tịnh Nguyệt. Phật Minh Liễu Nguyệt.

Giảng: Mười vị đại Bồ Tát, mỗi vị ở tại đạo tràng của Phật, tu phạm hạnh thanh tịnh. Các Ngài gần gũi mười vị Phật. Danh hiệu của mười vị Phật đó, dùng chữ nguyệt làm đại biểu. Tại sao ? Ðây là đại biểu trí đức viên dung, phước huệ vô ngại. Trí huệ và phước đức đều viên mãn, cho nên giống như trăng rằm.

Mười vị Phật đó là:

1). Phật Thù Ðặc Nguyệt, nhờ mười điều khó mà được pháp, nên gọi là thù đặc.
2). Phật Vô Tận Nguyệt, phát mười tâm lớn, không thể cùng tận.
3). Phật Bất Ðộng Nguyệt, quán nơi không đều bình đẳng nên chẳng lay động.
4). Phật Phong Nguyệt, biết rõ nghiệp hạnh, sinh tử Niết Bàn, như gió chẳng trụ.
5). Phật Thủy Nguyệt, lợi ích an lạc tất cả chúng sinh, như nước thấm nhuần khắp.

6). Phật Giải Thoát Nguyệt, nghe mười thứ pháp mà tâm định chẳng động.
7). Phật Vô Thượng Nguyệt, nghe thập bất thối, nên gọi là vô thượng.
8). Phật Tinh Tú Nguyệt, ba nghiệp chẳng lỗi lầm, như sao sáng thanh tịnh.
9). Phật Thanh Tịnh Nguyệt, khéo biết phiền não, tập khí, cho nên được thanh tịnh.
10). Phật Minh Liễu Nguyệt, quán sát căn dục của chúng sinh, hoàn toàn thấu rõ.

 

Thị chư Bồ-tát chí Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc. Tùy sở lai phương, các hóa tác Tỳ Lô Giá Na tạng sư tử chi tọa,

Các Bồ Tát đó, đến chỗ Phật rồi, đảnh lễ dưới chân Phật, theo phương của mình đến, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử Tỳ Lô Giá Na Tạng và ngồi kiết già trên tòa đó.

Giảng: Mười vị đại Bồ Tát đó, xuất lãnh các Bồ Tát quyến thuộc đến điện Diệu Thắng, chỗ Phật đang ngự rồi, đảnh lễ chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng. Tùy theo phương của mình đến, ai nấy đều biến hóa ra tòa sư tử Tỳ Lô Giá Na Tạng và ngồi kiết già trên tòa đó, lắng nghe Phật nói Hoa Nghiêm pháp lớn.

 

Ư kỳ tọa thượng kết già phu tọa. như thử thế giới trung, tu di đính thượng, Bồ Tát lai tập. nhất thiết thế giới, tất diệc như thị, bỉ chư Bồ-tát sở hữu danh tự, thế giới, Phật hiệu, tất đẳng vô biệt.

Như trong thế giới này, trên đỉnh Tu Di, các Bồ Tát đều tụ tập đến. Trong tất cả thế giới, cũng đều như thế. Các Bồ Tát đó, hết thảy danh hiệu, thế giới, danh hiệu Phật, cũng đều giống nhau không khác.

Giảng: Trong thế giới Ta Bà này, các Bồ Tát tụ tập trên đỉnh núi Tu Di. Trong mười phương thế giới, hết thảy trên đỉnh núi Tu Di cũng đều như thế, hết thảy Bồ Tát cũng đều tụ tập. Danh hiệu của mười vị đại Bồ Tát đó, tên của mười thế giới, danh hiệu của mười vị Phật, cũng đều hoàn toàn giống nhau.

 

Nhĩ thời, Thế Tôn tùng lưỡng túc chỉ phóng bách thiên ức diệu sắc quang minh, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới tu di đính thượng đế thích cung trung, Phật cập Đại chúng mĩ bất giai hiện.

Bấy giờ, đức Thế Tôn từ các ngón chân của hai bàn chân, phóng ra trăm ngàn ức quang minh sắc đẹp, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới. Trên đỉnh Tu Di, trong cung điện trời Đế Thích, Phật và đại chúng thảy đều hiện ra.

Giảng: Lúc đó, từ các ngón của hai bàn chân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng ra trăm ngàn ức quang minh màu sắc tuyệt đẹp, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới. Trên đỉnh núi Tu Di, trong cung điện của trời Ðế Thích.

Thế giới này, thế giới kia, cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng cõi nước chư Phật, trong mỗi thế giới, đều có Phật và đại chúng đều hiện ra. Tóm lại, tình hình Phật nói pháp ở thế giới Ta Bà, thì trong mười phương đều như thế.

 

Pháp tuệ Bồ Tát thừa Phật uy thần, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng viết:

Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ, nương thần lực của đức Phật, quán khắp mười phương mà nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Pháp Huệ ở phương đông, Ngài nương đại oai thần lực của Phật Thích Ca gia trì, mà quán khắp căn tánh nhân duyên của chúng sinh mười phương, dùng kệ để nói công đức của Phật.

 

Phật phóng Tịnh Quang minh,                  Phật phóng tịnh quang minh
Phổ kiến thế Đạo sư,                                  Khắp thấy Thế Đạo Sư
Tu Di Sơn Vương đảnh                              Trên đỉnh núi Tu Di
Diệu thắng điện trung trụ                          Ngự trong điện Diệu Thắng.

Quang minh thanh tịnh của Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng ra từ các ngón hai bàn chân, hết thảy Bồ Tát và tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, đều thấy được đấng Đại Đạo Sư (Phật) của thế gian, đang ở trên đỉnh núi Tu Di ngự trong điện Diệu Thắng.

 

Nhất thiết thích Thiên Vương                   Tất cả trời Đế Thích
Thỉnh Phật nhập cung điện                       Thỉnh Phật vào cung điện
Tất dĩ thập diệu tụng                                 Đều dùng mười kệ hay
Xưng tán chư Như Lai.                              Khen ngợi các Như Lai.

Trong mười phương thế giới, hết thảy tất cả vua trời Ðế Thích, đều thỉnh đức Phật Thích Ca Mâu Ni tiến vào điện Diệu Thắng. Ðều dùng mười bài kệ hay, để tán thán khen ngợi công đức của chư Phật. Hết thảy tất cả đều giống như ở điện Diệu Thắng, trên đỉnh núi Tu Di nơi thế giới Ta Bà không khác.

 

Bỉ chư Đại hội trung,                                 Trong các đại hội đó
Sở hữu Bồ Tát chúng,                                Hết thảy chúng Bồ Tát
Giai tùng thập phương chí,                        Đều từ mười phương đến
Hóa tọa nhi an tọa.                                    Hóa tòa ngồi trên đó.

Trong đại pháp hội của chư Phật đó, hết thảy tất cả chúng Bồ Tát, đều đến từ mười phương thế giới, mỗi vị Bồ Tát tự mình hóa ra tòa sư tử Tỳ Lô Giá Na Tạng mà ngồi yên trên đó, lắng nghe Hoa Nghiêm pháp lớn.

 

Bỉ hội chư Bồ-tát,                                       Các Bồ Tát hội đó
Giai đồng ngã đẳng danh,                          Danh hiệu đồng chúng tôi
Sở tùng chư thế giới,                                  Đến từ các thế giới
Danh tự diệc như thị.                                 Danh từ cũng như vậy.

Trong các thế giới nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, danh hiệu của các Bồ Tát trong hết thảy pháp hội, đều giống như danh hiệu của chúng tôi. Tên của các thế giới mà các Ngài đến, cũng giống như tên của thế giới Ta Bà Nam Diêm Phù Ðề.

 

Bổn quốc chư Thế Tôn,                              Cõi nước các Thế Tôn
Danh hiệu tất diệc đồng,                            Danh hiệu cũng đồng nhau
Các ư kỳ Phật sở,                                       Mỗi vị ở nước mình
Tịnh tu vô thượng hạnh                             Tịnh tu hạnh vô thượng.

Danh hiệu của các Ðức Phật, cõi nước của các vị Bồ Tát đó đến, cũng giống nhau. Mỗi vị ở cõi nước của mình, đều tu hạnh môn thanh tịnh từ bi vô thượng.

 

Phật tử nhữ ưng quán                                Phật tử ! Ông nên quán
Như Lai tự tại lực,                                     Tự tại của Như Lai
Nhất thiết Diêm-phù-đề                             Tất cả cõi Diêm Phù
Giai ngôn Phật tại trung.                           Đều nói Phật trong đó.

Bồ Tát Pháp Huệ gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Các vị mọi người nên quán xem, phải biết đó đều là sức thần thông tự tại thành tựu của Như Lai, hết thảy tất cả trong thế giới Nam Diêm Phù Ðề, đều nói Phật đang ở trong đó chuyển đại pháp luân, giáo hóa tất cả chúng sinh.

 

Ngã đẳng kim kiến Phật,                           Chúng ta nay thấy Phật
Trụ ư tu di đính,                                         Trụ trên đỉnh Tu Di
Thập phương tất diệc nhiên,                     Mười phương cũng như thế
Như Lai tự tại lực.                                     Sức tự tại Như Lai.

Chúng ta mọi người hiện tại thấy được Phật, trụ ở trên đỉnh núi Tu Di. Chúng sinh trong hết thảy mười phương thế giới, cũng đều nhìn thấy Phật ngự ở trên đỉnh núi Tu Di. Cảnh giới đó là do sức thần thông tự tại thành tựu của Như Lai.

 

Nhất nhất thế giới trung                            Trong mỗi mỗi thế giới
Phát tâm cầu Phật đạo,                             Phát tâm cầu Phật đạo
Y ư như thị nguyện,                                   Nương vào nguyện như vậy
Tu tập Bồ-đề hạnh                                     Tu tập hạnh bồ đề.

Trong hết thảy tất cả mười phương thế giới, mỗi vị Bồ Tát trong quá khứ đã phát tâm cầu Phật đạo, thì nương vào nguyện đã phát mà thành tựu Phật đạo vô thượng. Các Ngài trong đời đời kiếp kiếp tu tập hạnh bồ đề, tu hành giác đạo.

 

Phật dĩ chủng chủng thân                          Phật dùng đủ loại thân
Du hành biến thế gian                                Du hành khắp thế gian
Pháp giới vô sở ngại                                   Pháp giới chẳng gì ngại
Vô năng trắc lượng giả.                             Không ai trắc lượng được.

Phật dùng đủ loại hóa thân, khắp du hành tất cả thế gian. Pháp thân của Phật là khắp cùng pháp giới, đến tất cả mọi nơi mà chẳng chướng ngại, cũng chẳng có ai biết được cảnh giới thần thông diệu dụng của Phật.

 

Tuệ quang hằng phổ chiếu                         Huệ quang luôn chiếu khắp
Thế ám tất trừ diệt,                                    Đời tối đều trừ diệt
Nhất thiết vô đẳng luân,                            Tất cả chẳng sánh bằng
Vân hà khả trắc tri!                                   Làm sao dò biết được !

Trí huệ quang của Phật, luôn luôn chiếu khắp thế giới, dần dần tiêu diệt trừ sạch tất cả tham sân si đen tối của thế gian. Chẳng có ai sánh bằng Phật. Làm sao có thể trắc lượng biết được cảnh giới của Phật ? Cảnh giới của Phật chẳng dễ gì biết được.

 

Nhĩ thời, nhất thiết tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán khắp mười phương, mà nói kệ rằng.

Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Huệ ở phương nam, nương đại oai thần lực gia trì của đức Phật, quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của mười phương chúng sinh, dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật.

 

Giả sử bách thiên kiếp                               Giả sử trăm ngàn kiếp
Thường kiến ư Như Lai,                            Thường thấy đức Như Lai
Bất y chân thật nghĩa,                                Chẳng nương nghĩa chân thật
Nhi quán cứu thế giả.                                 Mà quán bậc Cứu Thế.

Nếu như trong trăm ngàn kiếp, luôn luôn thấy được Phật, song chẳng y chiếu nghĩa chân thật (lìa tướng) để quán sát Phật, thì thường chấp chặt vào ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của Phật, cho rằng đó là mặt mày chân thật của Phật.

 

Thị nhân thủ chư tướng,                            Người đó trụ các tướng
Tăng trưởng si hoặc võng,                         Tăng thêm lưới si hoặc
Hệ phược sanh tử ngục,                             Trói chặt ngục sinh tử
Manh minh bất kiến Phật.                         Mù tối chẳng thấy Phật.

Tuy nhiên người đó thấy Phật, song trụ vào các tướng, chẳng biết rằng tướng là không, thì chỉ tăng thêm lưới si hoặc, mà bị dây thừng sinh tử trói chặt, vĩnh viễn thoát chẳng khỏi sáu nẻo luân hồi. Nhốt ở trong lao ngục sinh tử, thì cũng như người mù tối, vĩnh viễn chẳng thấy được mặt mày chân thật của Phật.

Chúng ta nên phá tan chấp trước, đừng chấp trước có, cũng đừng chấp trước không. Chấp có, chấp không, thì rơi vào hai bên. Chấp có thì thủ lấy các tướng, chấp không thì rơi vào không (chẳng có gì hết). Không, có, chẳng chấp trước, tức là trung đạo.

Người chân chánh học Phật pháp thì phải lìa tướng, lìa tướng tức là bồ đề. Nếu không thể lìa tướng, mà chấp trước tướng, thì chỉ là ngày càng ngu si, không thể khai mở trí huệ. Khai mở trí huệ thì thấy Phật, chẳng khai mở trí huệ thì ngu si, ngu si thì thấy quỷ. Người học Phật pháp, nên càng học càng thông minh, không thể càng học càng hồ đồ.

Hiện tại là thời kỳ đả thiền thất, mọi người phải có tâm nhẫn nại, phải luyện tâm kim cang bất hoại, ví như sắt, trải qua rèn luyện rồi thì mới thành thép. Thép chế thành đao kiếm thì mới sắc bén. Chúng ta cũng phải trải qua một phen rèn luyện, thì mới thành Thánh Hiền. Bậc Thánh Hiền thì chẳng có tập khí mao bệnh, tất cả đều thanh tịnh. Ðả thiền thất tức là trừ tập khí, khử mao bệnh. Ði hương, chạy hương, ngồi hương, tức là rèn luyện thân tâm, khiến cho thanh tịnh. Khi đến được cảnh giới, trong chẳng biết có tâm, ngoài chẳng biết có thân, xa chẳng biết có vật, thì tất cả hết thảy đều buông xả hết. Nếu buông xả được, thì tự nhiên sẽ thành Phật. Tại sao chúng ta không khai ngộ ? Vì chẳng buông xả được thân tâm. Cho rằng túi da hôi thối là người bạn tốt, thì nhất định sẽ bảo hộ nó, thương tiếc nó, chẳng cho nó chịu thiệt thòi. Khát một chút cũng không được, đói một chút cũng không được, lạnh một chút, nóng một chút đều không xong. Tóm lại, luôn lúc nào cũng chiếu cứ nó, xem nó là bảo bối. Song, tuy nhiên bạn thương mến nó, lo cho nó, nhưng đến lúc lâm chung, thì nó một chút cũng chẳng trợ giúp bạn, suôi tay mà đi. Lúc đó, chỉ có bạn một mình đi thọ quả báo.

 

Quan sát ư chư Pháp,                                Quán sát nơi các pháp
Tự tánh vô sở hữu,                                     Tự tánh chẳng chỗ có
Như kỳ sanh diệt tướng,                            Tướng nó vốn sinh diệt
Đãn thị giả danh thuyết.                            Chỉ là giả danh nói.

Ba quán của tông Thiên Thai, tức là quán không, quán giả, quán trung. Dùng một bài kệ để nói rõ:
‘’Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không (quán không).
Tên cũng là giả danh (quán giả).
Tên cũng nghĩa trung đạo (quán trung).’’

Các pháp từ duyên sinh, các pháp từ duyên diệt. Nhân duyên sinh ra các pháp đều là không, cũng là giả; minh bạch tức là nghĩa trung đạo. Ba quán đó vốn là một, tức là quán trung. Song, trước hết phải minh bạch nó là quán không, sau đó lại minh bạch nó là quán giả, lại thấu hiểu nó là trung đạo liễu nghĩa, tức là quán trung.

Quán tất cả các pháp, đều là không tự tánh. Sinh rồi diệt, diệt rồi sinh. Tướng đó là không, nhưng là giả danh, chẳng có thật thể. Cho nên Tỳ Kheo Mã Thắng nói với tôn giả Xá Lợi Phất rằng:
‘’Các pháp từ duyên sinh
Các pháp từ duyên diệt.
Phật ta đại Sa Môn
Thường nói như vậy đó.’’

Tức là đạo lý này.

 

Nhất thiết pháp vô sanh                            Tất cả pháp không sinh
Nhất thiết pháp vô diệt,                             Tất cả pháp không diệt
Nhược năng như thị giải,                           Nếu hiểu được như vậy
Chư Phật thường hiện tiền.                       Chư Phật thường hiện tiền.

Quán sát tất cả các pháp, chẳng có tướng sinh, cũng chẳng có tướng diệt, đó là đắc được vô sinh pháp nhẫn. Tức cũng là chẳng thấy chút pháp sinh, chẳng thấy chút pháp diệt, mà kham nhẫn thọ nơi tâm. Lúc đó, miệng muốn nói cũng nói không ra. Có trí huệ thấu hiểu như thế, thì chư Phật luôn hiện tiền ở trước mặt bạn. Nếu chưa chứng đắc trí huệ như thế, thì dù chư Phật ở trước mặt bạn, bạn cũng nhìn chẳng thấy; dù có nhìn thấy cũng chẳng biết. Do đó, có câu:
‘’Ðối diện bất thức Quán Thế Âm.’’
Hà huống là Phật, càng không thể biết được.

 

Pháp tánh bổn không tịch,                        Pháp tánh vốn vắng lặng
Vô thủ diệc vô kiến,                                   Không lấy cũng không thấy
Tánh không tức thị Phật,                           Tánh không tức là Phật
Bất khả đắc tư lượng.                                Không thể suy lường được.

Bản tánh của pháp là không sinh không diệt, vốn là vắng lặng, không thể nắm lấy, cũng không thể nhìn thấy, do đó:
‘’Nhìn mà chẳng thấy,
Thính mà chẳng nghe,
Ngửi mà chẳng có mùi.’’

Nếu chứng được cảnh giới pháp tánh vắng lặng, thì tất cả đều là không. Ðó tức là Phật thật hiện ở trước, là cảnh giới không thể suy lường được. Nếu suy lường được thì biến thành đệ nhị nghĩa. Ðệ nhất nghĩa đế tức là không thể nghĩ, không thể tưởng, không thể lường.

 

Nhược tri nhất thiết pháp,                         Nếu biết tất cả pháp
Thể tánh giai như thị,                                Thể tánh đều như vậy
Tư nhân tức bất vi,                                    Thì người đó không bị
Phiền não sở nhiễm trước.                         Phiền não làm nhiễm trước.

Nếu như biết được bản tánh và tự tánh của tất cả các pháp, đều không sinh không diệt, thì người đó không bị tất cả phiền não làm nhiễm ô và chấp trước. Nếu biết tất cả pháp vốn không sinh, vốn không diệt, thì phiền não sẽ biến thành bồ đề. Lúc đó, chẳng có nhiễm ô, chỉ có thanh tịnh, diệu chân như tánh. Bổn thể của tất cả các pháp, cũng chẳng nhiễm trước.

 

Phàm phu kiến chư Pháp,                         Phàm phu thấy các pháp
Đãn tùy ư tướng chuyển,                            Nhưng tùy theo tướng chuyển
Bất liễu Pháp vô tướng,                             Chẳng rõ pháp vô tướng
Dĩ thị bất kiến Phật.                                   Do đó chẳng thấy Phật.

Phàm phu thì thấy có, hàng nhị thừa thì thấy không, Bồ Tát thì thấy trung đạo bổn thể. Phàm phu thấy tất cả các pháp, tức là tất cả pháp hữu vi mà chấp trước vào tất cả tướng. Hàng nhị thừa thấy tất cả các pháp đều là không, nhưng chưa thấy trung đạo. Bồ Tát tu pháp môn trung đạo, chẳng thiên về không, chẳng rơi vào có. Phàm phu thấy các pháp, thì tùy theo tướng mà chuyển, chẳng minh bạch đạo lý pháp, là lìa tất cả tướng, cho nên không thể thấy được bổn viên tự tánh thiên chân Phật.

 

Mâu Ni ly tam thế,                                     Mâu Ni lìa ba đời
Chư tướng tất cụ túc,                                 Các tướng đều đầy đủ
Trụ ư vô sở trụ,                                          Trụ nơi chẳng chỗ trụ
Phổ biến nhi bất động.                               Khắp thảy mà chẳng động.

Phật Thích Ca Mâu Ni đã lìa khỏi quá khứ, hiện tại, vị lai ba đời. Ðầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, các tướng đều viên mãn. Phật trụ ở chỗ chẳng chỗ trụ, tức cũng là vô tại mà vô bất tại. Do đó ‘’Tận hư không, khắp pháp giới,’’ đều là pháp thân của Phật. Phật chẳng động một nơi, mà khắp mọi nơi. Tuy khắp mọi nơi, mà chẳng lìa một nơi. Do đó: ‘’Một là tất cả, tất cả là một,’’ cho nên nói: ‘’Khắp hết thảy mà chẳng động.’’

 

Ngã quán nhất thiết pháp,                         Tôi quán tất cả pháp
Giai tất đắc minh liễu,                               Thảy đều thấu rõ hết
Kim kiến ư Như Lai,                                  Nay thấy nơi Như Lai
Quyết định vô hữu nghi.                            Quyết định không có nghi.

Bồ Tát Nhất Thiết Huệ nói: ‘’Hiện tại tôi quán sát nhân duyên của tất cả các pháp, bất cứ là quán không, quán giả, quán trung, đều hoàn toàn minh bạch thấu rõ. Hiện tại thấy Phật Thích Ca Mâu Ni, tất cả pháp đều quyết định minh bạch, chẳng có nghi hoặc.’’

 

Pháp tuệ tiên dĩ thuyết,                              Pháp Huệ trước đã nói
Như Lai chân thật tánh,                            Như Lai chân thật tướng
Ngã tòng bỉ liễu tri,                                    Tôi từ đó biết rõ
Bồ-đề nan tư nghị.                                      Bồ đề khó nghĩ bàn.

Bồ Tát Pháp Huệ trước đã nói qua thật tướng diệu lý và vô tướng công năng của tất cả chư Phật. Tôi từ bài kệ của Bồ Tát Pháp Huệ khen ngợi, mà đã thấu rõ biết được diệu lý của bồ đề, chẳng thể suy tư, chẳng thể luận bàn.

 

Nhĩ thời, thắng tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Thắng Huệ nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.

Lúc đó, vị Bồ Tát Thắng Huệ ở phương tây, nương đại oai thần lực gia trì của Phật, quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của mười phương chúng sinh, mà dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật.

 

Như Lai đại trí tuệ                                     Như Lai đại trí huệ
Hy hữu vô đẳng luân                                  Ít có không thể sánh
Nhất thiết chư thế gian                              Tất cả các thế gian
Tư tánh mạc năng cập.                              Suy tư chẳng biết được.

Trí huệ của Phật viên mãn, phước đức cũng viên mãn, do đó ‘’Phước huệ đều đầy đủ.’’ Ðại trí huệ của Phật rất ít có, chẳng thể sánh được. Hết thảy tất cả chúng sinh thế gian, tất cả chúng sinh trên trời, dù có dùng tâm suy tư, cũng không thể biết được. Tại sao ? Vì tâm lượng của chúng sinh bé nhỏ, cho nên chẳng đạt đến cảnh giới này.

 

Phàm phu vọng quan sát,                          Phàm phu vọng quán sát
Thủ tướng bất như lý,                                Giữ tướng chẳng như lý
Phật ly nhất thiết tướng,                            Phật lìa tất cả tướng
Phi bỉ sở năng kiến.                                    Phàm phu chẳng thấy được.

Phàm phu dùng vọng tưởng để quán sát cảnh giới của Phật, giữ lấy tướng, thì chẳng khế hợp với diệu lý của Phật. Phật là vô tướng, lìa khỏi tất cả tướng hữu vi, chẳng phải cảnh giới của phàm phu thấy được.

 

Mê hoặc vô tri giả,                                     Người mê hoặc vô tri
Vọng thủ ngũ uẩn tướng,                           Vọng giữ tướng năm uẩn
Bất liễu bỉ chân tánh,                                 Chẳng rõ chân tánh đó
Thị nhân bất kiến Phật.                             Người đó chẳng thấy Phật.

Chúng sinh điên đảo, vì chẳng có trí huệ, nên bị vô minh che đậy. Liền dùng vọng làm chân, mà giữ lấy tướng năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Người chẳng có tri thức, thì cho rằng năm uẩn là thật, cho nên mê hoặc nơi năm uẩn, mà chẳng thấy rõ chân tánh của Phật, người đó chẳng thấy được Phật.

 

Liễu tri nhất thiết pháp,                            Biết rõ tất cả pháp
Tự tánh vô sở hữu,                                     Đều chẳng có tự tánh
Như thị giải pháp tánh,                              Hiểu pháp tánh như vậy
Tức kiến Lô-xá-na.                                     Tức thấy Lô Xá Na.

Nếu thấu hiểu biết rõ tự tánh của tất cả pháp, vốn đều chẳng có, được như thế thì chẳng chấp trước nơi pháp, mà thấu rõ pháp tánh, tức sẽ thấy được Lô Xá Na, sẽ minh bạch cảnh giới của Phật.

Ở trước nói về năm uẩn, là cầu bên trong, giữ lấy tướng, thì chẳng thấy Phật. Hiện tại phá tướng, tức là bổn địa phong quang. Lìa tướng lời nói, lìa tướng tâm duyên, lìa tướng văn tự. Cảnh giới của Phật là lìa tất cả tướng và tất cả pháp.

 

Nhân tiền ngũ uẩn cố,                                Vì do năm uẩn trước
Hậu uẩn tướng tục khởi,                            Uẩn sau khởi liên tục
Ư thử tánh liễu tri,                                     Nơi tánh này biết rõ
Kiến Phật nan tư nghị.                               Thấy Phật khó nghĩ bàn.

Trong Tâm Kinh có nói: ‘’Bồ Tát Quán Tự Tại, khi hành sâu vào Bát Nhã Ba La Mật Ða, thì chiếu thấy năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách‘’. Năm uẩn đều là không. Cho nên nói: ‘’Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức, cũng đều như thế.’’ Bốn uẩn còn lại cũng đều giống như sắc uẩn, hư huyễn chẳng có thật thể.

Năm uẩn trước sinh năm uẩn giữa, năm uẩn giữa sinh năm uẩn sau, liên tục không ngừng. Tuy liên tục không ngừng, nhưng năm uẩn trước chẳng đến năm uẩn giữa, năm uẩn giữa chẳng đến năm uẩn sau. Giống như sóng cùng nhau sanh khởi. Song, sóng phía trước chẳng đi về phía sau, sóng phía sau cũng chẳng đi về phía sau nó. Năm uẩn trước, năm uẩn giữa, năm uẩn sau, sinh liên tục. Giống như hạt giống sinh mầm, nhưng hạt giống chẳng đến chỗ mầm.

Vì năm uẩn trước mà năm uẩn sau liên tục sinh ra. Song, năm uẩn sau chẳng đến năm uẩn trước; tức nghĩa là sóng trước chẳng đi về sóng phía sau. Nếu minh bạch pháp năm uẩn là không, thì thường thấy được Phật, minh bạch Phật là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

 

Thí như ám trung bảo,                               Ví như báu trong tối
Vô đăng bất khả kiến,                                Không đèn chẳng thể thấy
Phật Pháp vô nhân thuyết,                        Phật pháp chẳng người nói
Tuy tuệ mạc năng liễu.                               Dù huệ chẳng biết được.

Phật pháp là không thể nghĩ bàn. Ví như bảy báu trong phòng tối, nếu chẳng có đèn thì nhìn chẳng thấy được. Báu trong tối tức là Phật tánh, hàm tàng ở trong vô minh, vì vô minh, cho nên che lấp báu thật Phật tánh. Ðèn là trí huệ, có trí huệ thì mới minh bạch báu thật của tự tánh. Chẳng có trí huệ thì giống như hạt châu giấu trong áo, vì chẳng ai nói với bạn, cho nên bạn chẳng biết. Vô minh che lấp Phật tánh quang minh, cho nên chẳng có trí huệ.

Phật pháp phải có thiện tri thức giảng nói thì mới minh bạch. Nếu chẳng có thiện tri thức giảng nói, thì dù bạn có trí huệ, cũng không thể minh bạch hiểu rõ. Tóm lại, dù bạn có trí huệ, song vẫn cần có người đến mồi đèn trí huệ của bạn, thì bạn mới minh bạch Phật pháp.

Có bốn câu rằng:
‘’Một, có mắt không đèn thì chẳng thấy.
Hai, không mắt có đèn thì chẳng thấy.
Ba, không mắt không đèn thì chẳng thấy.
Bốn, có mắt có đèn thì thấy.’’

Có mắt không đèn, thì chẳng thể thấy châu báu, chỉ có đèn mà không có mắt, thì nhìn cũng chẳng thấy châu báu. Nếu người nghiệp chướng quá nặng, thì đèn trí huệ mồi chẳng đặng. Giống như hàng nhị thừa, ở trong pháp hội Hoa Nghiêm mà như điếc như mù, do đó:

‘’Có mắt chẳng thấy Lô Xa Na
Có tai chẳng nghe giáo viên đốn.’’

Người nhị thừa độn tánh, giống như người mù, chẳng thấy được trí huệ vốn có. Chẳng có đèn, chẳng có mắt, thì càng nhìn chẳng thấy tự tánh pháp bảo. Tất nhiên phải có mắt lại có đèn, thì mới thấy được tự tánh pháp bảo.

Mình có đèn trí huệ, lại có thiện trí thức để chỉ dạy, đó là có mắt, có đèn thấy pháp bảo. Chúng ta mỗi người đều có tự tánh pháp bảo, là Phật tánh. Nhưng mình chẳng biết. Giống như là mất, kỳ thật vẫn tồn tại, bất quá chẳng dùng nó được mà thôi.

 

Diệc như mục hữu ế,                                  Cũng như mắt có màng
Bất kiến tịnh diệu sắc,                               Chẳng thấy màu đẹp tịnh
Như thị bất tịnh tâm,                                 Tâm bất tịnh như vậy
Bất kiến chư Phật Pháp.                            Chẳng thấy pháp chư Phật.

Ví như con mắt có màng, nhìn sự vật thành hai. Vì trong con mắt có bệnh, cho nên chẳng thể thấy được thanh tịnh diệu pháp thân của Phật.Trong tâm nếu khởi tham sân si ba độc, tâm nhiễm ô, tâm chướng ngại, tâm đố kỵ, tâm ích kỷ, tâm tự lợi, đó đều là tâm chẳng thanh tịnh, chẳng minh bạch được diệu pháp của chư Phật.

 

Hựu như minh tịnh nhật,                           Lại như mặt trời sáng
Cổ giả mạc năng kiến,                                Kẻ mù chẳng thấy được
Vô hữu trí tuệ tâm,                                     Tâm chẳng có trí huệ
Chung bất kiến chư Phật.                          Không thấy được chư Phật.

Ví như mặt trời trong sáng, song người mù nhìn chẳng thấy. Trí huệ vốn có, nếu chẳng hiện ra thì thủy chung chẳng thấy được pháp thân thanh tịnh của chư Phật.

 

Nhược năng trừ nhãn ế,                             Nếu trừ được màng mắt
Xả ly ư sắc tưởng,                                       Xả lìa nơi sắc tưởng
Bất kiến ư chư Pháp,                                 Chẳng thấy nơi các pháp
Tức đắc kiến Như Lai.                               Tức thấy được Như Lai.

Nếu như chữa được màng trong con mắt, màng trong tâm cũng trừ khử đi, nghĩa là trừ sạch tham, sân, si, mạn nghi, tất cả phiền não. Nếu xả lìa được sắc pháp trong năm uẩn và tưởng ấm. Năm uẩn tất cả pháp đều không, mà chẳng bị năm uẩn che đậy, thì thấy được pháp thân của Như Lai.

 

Nhất thiết tuệ tiên thuyết                           Nhất Thiết Huệ trước nói
Chư Phật Bồ-đề Pháp,                               Pháp bồ đề chư Phật
Ngã tùng ư bỉ văn,                                      Tôi nghe từ nơi đó
Đắc kiến Lô-xá-na.                                     Thấy được Lô Xá Na.

Bồ Tát Nhất Thiết Huệ nghe được pháp của Bồ Tát Pháp Huệ nói, thì Ngài liền minh bạch rất nhiều đạo lý của Phật pháp. Bồ Tát Thắng Huệ lại nói: Ngài học được rất nhiều Phật pháp từ Bồ Tát Nhất Thiết Huệ. Ðây là mỹ đức Bồ Tát khiêm nhường với nhau.

Bồ Tát Nhất Thiết Huệ trước đã nói: không, giả, trung đạo lý ba quán. Ngài nói ba đời chư Phật diễn nói pháp bồ đề, tôi nghe được diệu pháp này rồi, thì mới thấy được thân viên mãn thanh tịnh của Phật Lô Xa Na.

Bồ Tát chẳng có tâm cống cao ngã mạn, tuyệt đối chẳng nói tôi có trí huệ hơn Bồ Tát khác. Kệ của tôi nói ra cao minh hơn Bồ Tát khác, các Ngài tôn kính với nhau. Chúng ta học Phật pháp, thì phải chân thật lãnh thọ tâm của Bồ Tát, tâm của chư Phật. Hành vi của các Ngài làm, đều là mô phạm cho chúng ta. Chúng ta phải y chiếu theo pháp mà tu hành, học sự khiêm nhường của Bồ Tát, từ bi của Bồ Tát, đó mới là bản sắc của người học Phật.

 

Nhĩ thời, công đức tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Công Đức Huệ nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, vị đại Bồ Tát Công Ðức Huệ ở phương bắc, nương đại oai thần lực gia trì của Phật. Quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của chúng sinh mười phương, mà dùng kệ để khen ngợi công đức của chư Phật.

 

Chư Pháp vô chân thật,                             Các pháp chẳng chân thật
Vọng thủ chân thật tướng,                         Vọng giữ tướng chân thật
Thị cố chư phàm phu,                                Do đó các phàm phu
Luân-hồi sanh tử ngục.                              Luân hồi ngục sinh tử.

Các pháp tức là trăm pháp. Trăm pháp là sắc pháp mười một, tâm pháp tám, tâm sở pháp năm mươi mốt, bất tương ưng pháp hai mươi bốn, vô vi pháp sáu, cộng thành trăm pháp. Tất cả các pháp đều là không tịch, chẳng có thể chân thật. Ðừng có ở trên pháp chẳng chân thật, mà đi tìm chân thật. Ðó cũng giống như tìm lông trên thân rùa, tìm sừng trên đầu con thỏ, vĩnh viễn tìm chẳng thấy được. Dùng vọng tâm để giữ tướng chân thật, muốn trên đầu an đầu, trên chân an chân, đó là dư thừa. Phàm phu tức là làm những việc điên đảo đó, trên pháp chẳng chân thật tìm chân thật. Vì chấp trước như thế, cho nên ở trong sáu nẻo luân hồi, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, vĩnh viễn không ngừng. Giống như hạt bụi, hốt lên trời, hốt xuống đất, chẳng có nơi nào chân thật.

 

Ngôn từ sở thuyết pháp,                             Lời lẽ nói các pháp
Tiểu trí vọng phân biệt,                             Trí nhỏ vọng phân biệt
Thị cố sanh chướng ngại,                           Do đó sinh chướng ngại
Bất liễu ư tự tâm.                                       Chẳng rõ nơi tâm mình.

Phàm là lời lẽ nói ra các pháp, hàng nhị thừa trí huệ nhỏ. Tuy đã phá ngã chấp, nhưng chưa phá được pháp chấp. Chỉ chứng được người không, mà chưa chứng được pháp không. Do đó, còn chấp trước nơi lời lẽ của tất cả các pháp, dùng trí nhỏ huệ nhỏ để phân biệt tất cả các pháp. Vì nguyên nhân đó, cho nên sinh ra đủ thứ chướng ngại, chẳng minh bạch pháp nói ra, là chẳng lìa tâm mình. Do đó:

‘’Phật nói tất cả pháp
Ứng sinh tất cả tâm
Nếu không tất cả tâm
Sao dùng tất cả pháp.’’

Cho nên tất cả pháp chẳng lìa tâm mình. Nếu cầu pháp ở ngoài tâm, đây tức là ngoại đạo. Do đó, có câu: ‘’Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba chẳng khác biệt.’’ Minh bạch tâm mình, thì chẳng phân biệt pháp chấp.

 

Bất năng liễu tự tâm,                                 Không thể rõ tâm mình
Vân hà tri chánh đạo                                 Làm sao biết chánh đạo
Bỉ do điên đảo tuệ,                                     Đó do điên đảo huệ
Tăng trưởng nhất thiết ác.                         Tăng trưởng tất cả ác.

Người nhị thừa chẳng minh bạch đạo lý vạn pháp do tâm, do đó:
‘’Tâm sinh đủ thứ pháp sinh
Tâm diệt đủ thứ pháp diệt.’’

Nếu chẳng thấu rõ tâm mình, thì làm sao biết được chánh đạo ? Người nhị thừa trí nhỏ, huệ nhỏ, sinh ra tâm phân biệt. Có tâm phân biệt rồi thì có chướng ngại, thì có điên đảo. Ðiên đảo tức là nhận thức ‘’thị phi‘’ chẳng rõ ràng, vì thị phi chẳng rõ ràng, cho nên dùng điên đảo huệ. Ðây cũng có thể nói là thế trí biện thông, chẳng có đạo lý mà nói ra đạo lý, tức là ‘’Cường từ đoạt lý.’’ Ðây tức là chẳng nói về đạo lý, ngã kiến thâm sâu, ngã tướng chẳng phá được. Có tâm phân biệt thì làm tăng trưởng tất cả các nghiệp ác.

 

Bất kiến chư pháp không,                          Chẳng thấy các pháp không
Hằng thọ sanh tử khổ,                               Luôn thọ khổ sinh tử
Tư nhân vị năng hữu,                                Người đó chưa có được
Thanh tịnh Pháp nhãn cố.                         Pháp nhãn thanh tịnh vậy.

Người không là chẳng còn chấp cái ta (ngã), pháp không là chẳng có chấp pháp. Ngã, pháp hai chấp chẳng dễ gì phá được. Một số phàm phu đều có chấp cái ta, ta như thế này, ta là đệ nhất, ta đều giỏi hơn mọi người. Ngày ngày vì cái ta này mà khổ sở, cũng chẳng cảm thấy khổ sở. Kỳ thật thân thể của con người đều có tên khác nhau, song tìm chẳng được cái ta (ngã) tồn tại. Vì nhìn chẳng không, cho nên mới nói có cái ta. Chúng ta có thì tướng người cũng có, tướng chúng sinh cũng có, tướng thọ mạng cũng có. Vì bốn tướng chẳng không, cho nên có tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai. Ba tâm chẳng rõ thì luôn luôn khởi vọng tưởng, khởi phân biệt. Tất cả sự vật chẳng có, thì thường tìm cách để có được. Ðã có được rồi, thì lại sợ mất đi. Khi chẳng có vọng tưởng này, thì sinh ra vọng tưởng khác. Ðây cũng giống như dùng giây thừng tự trói mình, chẳng đắc được giải thoát, cho nên nói chấp ta chẳng dễ gì phá được. Nếu phá được chấp ta thì chẳng còn thấy ta tướng ta. Nhưng lại có chấp pháp, sinh ra đủ thứ chấp trước đối với tất cả pháp, đủ thứ phân biệt, cho nên nói: ‘’Chẳng thấy các pháp không.’’ Không thể ngộ được đạo lý: ‘’Bổn lai chẳng một vật, chỗ nào dính bụi bặm.’’ Nếu chấp trước pháp hữu vi, thì không thể thoát khỏi ba cõi, thường thọ khổ sinh tử trong sáu nẻo luân hồi.

Người như thế, chẳng thấy được tất cả pháp không. Tại sao ? Vì chẳng đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Nếu đắc được pháp nhãn thanh tịnh, thì thấy được tất cả pháp không sinh, tất cả pháp không diệt, do đó:
‘’Các pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng.’’

Nghĩa là:
Các pháp vốn xưa nay
Tướng thường tự vắng lặng.

Ðắc được pháp nhãn thanh tịnh, thì thấu rõ đạo lý các pháp không tướng.

 

Ngã tích thọ chúng khổ,                             Xưa tôi thọ các khổ
Do ngã bất kiến Phật,                                Do tôi chẳng thấy Phật
Cố đương tịnh Pháp nhãn,                        Nên phải tịnh pháp nhãn
Quán kỳ sở ưng kiến.                                 Thấy chỗ đáng được thấy.

Bồ Tát Công Ðức Huệ nói: ‘’Thuở xưa lúc tôi chẳng biết tu hành, cho nên chịu đủ thứ khổ. Tại sao phải thọ khổ ? Vì tôi chẳng thấy được Phật, tại sao chẳng thấy được Phật ? Vì có cái ta. Thấy cái ta, tướng ta, chấp trước quá sâu, cho nên đối diện chẳng thấy Phật, chẳng thấy Bồ Tát, cho nên phải tu hành, thì mới đắc được pháp nhãn thanh tịnh, có thể thấy Phật chỗ đáng nhìn thấy.’’ Tại sao chúng ta chẳng thấy Phật ? Vì vọng tưởng quá nhiều.

 

Nhược đắc kiến ư Phật,                             Nếu thấy được đức Phật
Kỳ tâm vô sở thủ,                                       Mà tâm chẳng thủ giữ
Thử nhân tức năng kiến,                            Người đó tức thấy được
Như Phật sở tri Pháp.                                Biết pháp của Phật nói.

Nếu như có người thấy được Phật, mà chẳng chấp trước, tức là như như bất động, tức cũng là chẳng thủ lấy tướng. Trong kinh Kim Cang có nói:
‘’Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó hành đạo tà
Chẳng thấy được Như Lai.’’

Ðó tức là thủ lấy chấp trước tướng. Nếu thấy được mà chưa thấy, nghe mà chưa nghe, thì:
‘’Mắt thấy hình sắc trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay.’’

Thấy được Phật mà tâm chẳng động, tức là chẳng thủ lấy tướng. Nếu được như thế, chẳng thấy nghĩ khác, chẳng có tâm háo kỳ, thì người đó sẽ biết được pháp của Phật nói, tức cũng là rõ ràng sáng suốt, tức cũng là trí huệ vốn có hiện tiền.

Nghĩ muốn cùng Phật tại một chỗ, thì phải như như bất động, rõ ràng sáng suốt; muốn cùng quỷ ở một chỗ, thì như như thường động, chẳng rõ ràng sáng suốt. Hai con đường này tự mình chọn lấy.

Người có định lực thì thấy cảnh giới tốt, vẫn như như chẳng động. Dù có thấy cảnh giới không tốt, cũng như như chẳng động, nếu như như chẳng động, thì sẽ rõ ràng sáng suốt. Nếu rõ ràng sáng suốt thì được thăng lên tòa Như Lai, vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, đồng thể với Phật, trụ tại một chỗ.

 

Nhược kiến Phật chân Pháp,         Nếu thấy thật pháp Phật
Tức danh Đại trí giả,                                 Tức gọi bậc đại trí
Tư nhân hữu Tịnh nhãn,                           Người đó có mắt tịnh
Năng quan sát thế gian.                             Quán sát được thế gian.

Nếu như thấy được thật pháp của Phật, tức là người đại trí huệ. Phải vào sâu tạng kinh thì mới được trí huệ như biển. Người đó đắc được pháp nhãn thanh tịnh, thì quán sát được nhân duyên của toàn thế giới.

Tất cả mọi người đều đầy đủ ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông. Nhưng vì chẳng tu hành, cho nên chẳng hiện tiền, nếu tu hành viên mãn thì sẽ thành Phật.

Ba thân là: Pháp thân, báo thân, ứng (hóa) thân. Pháp thân là thanh tịnh đầy khắp tất cả mọi nơi. Pháp thân của phàm phu, vì bị vô minh che lấp, cho nên chẳng hiện ra. Hóa thân có nhiều hàng trăm ngàn ức, song phàm phu không dùng được nó, chỉ có báo thân. Báo thân tức là thân thể hiện tại, là thân thọ quả báo. Pháp thân của Phật là viên mãn. Chúng ta có đại trí huệ thì mới thấy được ba thân của Phật.

Bốn trí tức là: Thành sở tác trí, diệu quán sát trí, bình đẳng tánh trí, đại viên cảnh trí. Thành sở tác trí là những gì cần làm đã làm xong, chẳng thọ thân sau nữa. Diệu quán sát trí là đắc được năm nhãn, mới có trí huệ diệu quán sát. Bình đẳng tánh trí là tất cả chúng sinh đều bình đẳng, chư Phật cũng bình đẳng. Trí huệ này ở chư Phật cũng chẳng tăng chút nào, tại chúng sinh cũng chẳng giảm chút nào, đều là bình đẳng. Song, phàm phu bị vô minh che lấp, chẳng chứng được trí huệ tánh bình đẳng. Ðại viên cảnh trí là trí huệ thanh tịnh quang minh, giống như tấm gương tròn lớn, một hạt bụi cũng chẳng nhiễm. Vật đến thì ứng, vật đi thì tịnh, chẳng lưu lại dấu vết.

Năm nhãn tức là: Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Phật nhãn chiếu sáng như ngàn mặt trời, chiếu khắp vô lượng thế giới. Pháp nhãn quán sát tất cả các pháp. Ví như đọc kinh Hoa Nghiêm, thì chiếu thấu tất cả quyển kinh, một bộ kinh Hoa Nghiêm tám mươi quyển, chỉ một phút thì đọc xong. Huệ nhãn đầy đủ tất cả trí huệ, thấu rõ tất cả sự lý. Thiên nhãn thì thấy được người trời hành động. Nhục nhãn (chẳng phải nhục nhãn của phàm phu mà nhục nhãn khác) thấy được người, quỷ, thần, thấy được tướng có hình, có sắc. Phật nhãn ở chính giữa trán, pháp nhãn và huệ nhãn ở hai bên trán. Thiên nhãn và nhục nhãn ở tại huyệt thái dương. Quỷ cũng có đầy đủ năm nhãn này, nhưng chẳng quang minh.

Sáu thông tức là: Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông. Người tu hành tu đến trình độ tương ưng, thì có thiên nhãn thông, nhìn thấy cử chỉ hành động của người trời, mà chư Thiên nói cũng nghe được rất rõ ràng. Có tha tâm thông thì biết được người đối phương muốn nói và làm việc gì. Túc mạng thông quán sát được nhân quả của chúng sinh đã làm trong quá khứ. Có thần túc thông thì có thể đi đứng ở trong hư không, đến đi tự do, chẳng bị hạn chế. Có lậu tận thông thì quét trừ tất cả phiền não, chẳng có vọng tưởng, tức thành Phật quả.

 

Vô kiến tức thị kiến,                                   Không thấy tức là thấy
Năng kiến nhất thiết pháp,                        Thấy được tất cả pháp
Ư Pháp nhược hữu kiến,                            Nếu nơi pháp có thấy
Thử tức vô sở kiến.                                    Đó là không chỗ thấy.

Không thấy tức là chẳng có sự thấy thức phân biệt của phàm phu. Ðây tức là sự thấy trí huệ vốn có của Thánh nhân. Có thức phân biệt, là tất cả pháp hữu vi; trí chẳng có phân biệt là tất cả pháp vô vi. Trí huệ của Thánh nhân minh bạch được tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, nghĩa là thông đạt các pháp thật tướng, mà chẳng có pháp chấp trước, mới thấy được tất cả các pháp. Phàm phu nếu có sự phân biệt về pháp, thì vĩnh viễn chẳng minh bạch bản thể của tất cả các pháp. Bất cứ lúc nào cũng không thể vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển. Nếu phá được pháp chấp, thì mới minh bạch tất cả các pháp; tức là bổn địa phong quang, nhà vốn có sẵn, mặt mũi vốn có, tức là trở về cội nguồn, nghĩa là pháp thể chẳng sinh chẳng diệt.

 

Nhất thiết chư pháp tánh,                          Tất cả các pháp tánh
Vô sanh diệc vô diệt,                                  Không sinh cũng không diệt
Kì tai đại đạo sư,                                        Lạ thay đại Đạo Sư
Tự giác năng giác tha.                                Tự giác hay giác tha.

Tánh của tất cả các pháp, chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt, là vắng lặng bất động. Rất lạ thay đấng đại Đạo Sư (Phật) ! Ngài đã giác ngộ đạo lý tất cả các pháp, lại khiến cho người khác cũng giác ngộ đạo lý của tất cả các pháp. Ðây là ba giác viên mãn, vạn đức đầy đủ.

 

Thắng tuệ tiên dĩ thuyết,                            Thắng Huệ trước đã nói
Như Lai sở ngộ Pháp,                                Pháp của Như Lai ngộ
Ngã đẳng tòng bỉ văn,                                Chúng tôi từ đó nghe
Năng tri Phật chân tánh.                           Biết được chân tánh Phật.

Bồ Tát Công Ðức Huệ nói: ‘’Tôi nghe Bồ Tát Thắng Huệ nói kệ rồi, đắc được pháp ích, minh bạch tất cả pháp của Phật đã giác ngộ, quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, chẳng có mọi sự chấp trước. Chúng tôi từ Bồ Tát Thắng Huệ nghe được diệu pháp, cho nên thấu rõ chân như tự tánh của Phật, tất cả thế gian đều là vô thường.’’

 

Nhĩ thời, tinh tấn tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tấn Huệ nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, vị đại Bồ Tát Tinh Tấn Huệ ở phương đông bắc, nương đại oai thần lực của Phật gia trì. Quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của chúng sinh trong mười phương, dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật.

 

Nhược trụ ư phân biệt                               Nếu trụ nơi phân biệt
Tức hoại thanh Tịnh nhãn,                        Tức hoại mắt thanh tịnh
Ngu si tà kiến tăng,                                    Ngu si tà kiến tăng
Vĩnh bất kiến chư Phật.                             Vĩnh chẳng thấy chư Phật.

Nếu như trụ ở nơi phân biệt, dù có đối diện với Phật và Bồ Tát, cũng chẳng nhận thức được. Tại sao ? Vì hư hoại mắt thanh tịnh, cho nên ngày càng ngu si, tà kiến tăng thêm. Phải biết ngu si tức là súc sinh, tà kiến là ngạ quỷ. Như vậy, trước mắt chẳng nhận thức được Phật Pháp Tăng Tam Bảo, vĩnh viễn chẳng thấy được mười phương chư Phật. Lục Tổ Huệ Năng có nói: ‘’Tin ta, thì dù cách mười vạn tám ngàn dặm, cũng giống như bên cạnh thân ta. Chẳng tin ta thì dù ở bên cạnh thân ta, cũng như cách mười vạn tám nghìn dặm.’’ Ðây là dùng để giải thích bổn kệ tốt nhất.

Phân biệt là thức, chẳng phân biệt là trí; chuyển thức thành trí, thì mới đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Mắt thanh tịnh này, chẳng phải đắc được từ bên ngoài, mà là từ trong tâm mà chứng được. Nếu chẳng có phân biệt ta người, thị phi, thiện ác, thì lúc đó, đối với tất cả các pháp, đều chẳng có chấp trước, thì trí huệ sẽ hiện tiền, chiếu thấy pháp thế xuất thế gian.

Chúng ta học Phật pháp, nếu có tâm phân biệt, thì dù Phật Bồ Tát và thiện trí thức ở trước mặt bạn, bạn cũng chẳng nhận ra. Nếu chẳng có tâm phân biệt, thì Phật Bồ Tát thiện tri thức hiện tiền, bạn sẽ phân minh rõ ràng, thấy được rõ ràng.

 

Nhược năng liễu tà pháp                           Nếu rõ được pháp tà
Như thật bất điên đảo,                               Như thật chẳng điên đảo
Tri vọng bổn tự chân,                                Biết vọng vốn tự chân
Kiến Phật tức thanh tịnh.                          Thấy Phật liền thanh tịnh.

Nếu như thấu hiểu pháp tà, tức là minh bạch chánh pháp, tức cũng là minh bạch lý thể chân như thật tướng, không làm việc điên đảo. Ðiên đảo tức là không nên làm mà làm, nên làm mà không làm. Không điên đảo tức là nên làm thì làm, không nên làm thì không làm. Phải biết vọng là từ chân như thật tướng mà sinh ra. Phải biết gốc rễ của vọng là chân, trừ sạch hết vọng thì chân sẽ hiện ra, chỉ cần trừ khử tâm thức phân biệt, thì trí huệ vốn có sẽ hiện tiền. Như thế sẽ đầy đủ mắt thanh tịnh, mới thấy được Phật.

Tại sao chúng ta chẳng thấu hiểu chánh pháp ? Vì vô minh đang tác quái, khởi tâm tham, có tâm dục niệm, cho nên chẳng phân chánh tà. Nếu phá được vô minh, thì chẳng còn tâm tham, chẳng còn dục niệm, thì sẽ minh bạch gì là chánh pháp ? Tất cả mọi vấn đề đều tiếp nhận mà giải.

Chúng ta vốn giống như Phật, tự tánh quang minh hay chiếu sáng ba ngàn đại thiên thế giới, vì động một niệm vô minh, mà đến thế giới Ta Bà này, hoặc đến thế giới khác đầu thai làm người. Do đó, tu hành thì có thể thành Phật, không tu hành thì phải làm quỷ.

Chỉ cần chúng ta trở về cội nguồn, khôi phục lại trí huệ vốn có, thì chẳng còn tâm phân biệt, thì sẽ minh bạch tất cả. Do đó:
‘’Thiện ác hai con đường
Tu thì tu, tạo nghiệp thì tạo.’’

Tu phước tu huệ là Phật, tạo tội tạo nghiệp là quỷ. Phật xem tất cả chúng sinh đều là Phật. Quỷ xem chúng sinh đều là quỷ, đó là hết thảy do tâm tạo. Trong kinh này có nói:
‘’Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Hết thảy do tâm tạo.’’

Tất cả tánh pháp giới, đều do tâm mà tạo ra.

 

Hữu kiến tức vi cấu                                    Có thấy tức là cấu
Thử tức vị vi kiến,                                      Đó tức là chưa thấy
Viễn ly ư chư kiến,                                     Xa lìa các sự thấy
Như thị nãi kiến Phật.                               Như vậy mới thấy Phật.

Nếu có thấy tức là vọng tưởng. Có phân biệt thì có cấu bẩn. Nếu phàm phu chẳng có vọng tưởng phân biệt, thì sẽ xa lìa tất cả tâm phân biệt, tất cả tâm thấy hiểu. Như vậy sẽ thấy được Phật. Song, nghĩ muốn thấy Phật cũng là vọng tưởng. Phải đừng có vọng tưởng này thì sẽ thấy hết thảy, cũng chẳng có nghĩ thấy, cũng chẳng có không nghĩ thấy. Ðến được cảnh giới này, thì sẽ thường thấy Phật.

Sự thấy của phàm phu là có nghĩ, có niệm, có phân biệt; sự thấy của bậc Thánh là không nghĩ, không niệm, không phân biệt. Do đó:
‘’Thiền đến không tâm tức là đạo.
Không tâm không niệm phước vô biên
Tư dục tạp niệm là tội khiên.’’

Nghĩa là nói: Chẳng có tâm phân biệt là phước, có tâm phân biệt tức là tội.

 

Thế gian ngôn ngữ Pháp                            Pháp ngôn ngữ thế gian
Chúng sanh vọng phân biệt,                      Chúng sinh vọng phân biệt
Tri thế giai vô sanh,                                   Biết đời đều không sinh
Nãi thị kiến thế gian.                                  Đó là thấy thế gian.

Chúng sinh thế gian có đủ thứ ngôn ngữ. Dùng ngôn ngữ của thế gian mà nói, thì có rất nhiều thứ. Một nước có một thứ tiếng, một tộc có ngôn ngữ của họ, một phương có ngôn ngữ của một phương, ngũ hoa bát môn, đủ loại khác nhau. Chúng sinh dùng vọng tưởng để phân biệt pháp ngôn ngữ. Kỳ thật, tất cả pháp ngôn ngữ thế gian, tất cả tướng phân biệt, đều chẳng có thật thể. Vì chẳng có thật thể, cho nên tất cả chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt. Phải lãnh ngộ đạo lý này, thì mới chân chánh minh bạch pháp thế gian.

 

Nhược kiến kiến thế gian                           Nếu thấy thấy thế gian
Kiến tức thế gian tướng,                            Tức thấy tướng thế gian
Như thật đẳng vô dị,                                  Như thật đồng không khác
Thử danh chân kiến giả.                            Đây gọi người thấy thật.

Nếu như thật minh bạch tất cả pháp thế gian, thì sự minh bạch này tức là tướng thế gian thường trụ. Song, nó không sinh không diệt, giống như thật tướng lý thể. Nếu thấy được lý này, tức là thông đạt nguồn gốc. Lục Tổ Huệ Năng có nói:
‘’Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa đời cầu bồ đề
Ví như tìm sừng thỏ.’’

Nghĩa là: Cũng nói như đạo lý này. Ðó mới chân chánh hiểu rõ pháp thế gian và pháp xuất thế gian.

 

Nhược kiến đẳng vô dị                               Nếu thấy đồng không khác
Ư vật bất phân biệt,                                   Nơi vật chẳng phân biệt
Thị kiến ly chư hoặc,                                  Thấy đó lìa các hoặc
Vô lậu đắc tự tại.                                        Vô lậu được tự tại.

Nếu như minh bạch đạo lý thật tướng, thì nơi tất cả sự vật, đều chẳng sinh tâm phân biệt, thông đạt bản thể của tất cả sự vật, tức cũng là thật tướng vô tướng mà vô bất tướng, đạo lý căn bản này nếu không phân biệt, thì sẽ thấu đạt các pháp thật tướng. Pháp thế gian tức là pháp xuất thế, phiền não tức bồ đề. Phiền não chuyển qua tức là bồ đề. Sự thấy này chẳng có phân biệt. Lìa khỏi tất cả các hoặc, thì đắc được trí huệ căn bản. Nếu chẳng có tâm phân biệt, tức là vô lậu. Lậu tức là còn tất cả tập khí mao bệnh. Cảnh giới vô lậu tức là chẳng dùng thức để phân biệt, mà đắc được tự tại, cho nên nói vô lậu được tự tại. Tự tại tức là giải thoát, vô câu vô thúc, chẳng sầu chẳng lo, tiêu dao tự tại. Chúng ta học Phật pháp, tức là học pháp môn thân tự tại, tâm tự tại. Nếu thân tâm tự tại thì sẽ thành tựu.

 

Chư Phật sở khai thị,                                 Pháp chư Phật mở bày
Nhất thiết phân biệt Pháp,                        Tất cả pháp phân biệt
Thị tất bất khả đắc,                                    Đó đều bất khả đắc
Bỉ tánh thanh tịnh cố.                                Do đó tánh thanh tịnh.

Chư Phật khai thị tất cả pháp, là đối cơ của chúng sinh mà nói tất cả pháp, do đó:
‘’Phật nói tất cả pháp
Ứng với tất cả tâm.
Nếu không tất cả tâm
Sao dùng tất cả pháp‘’?

Vì muốn đối cơ của chúng sinh, tất cả phải có sự phân biệt, cho nên mới nói tất cả pháp phân biệt, nói Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Ðẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn, đủ thứ pháp khác nhau. Có pháp đại thừa, pháp tiểu thừa, pháp bốn đế, pháp mười hai nhân duyên, pháp lục độ vạn hạnh, đó là theo bệnh cho thuốc, cho chúng sinh uống một thứ thuốc, khi bệnh lành thì không cần uống thuốc nữa. Giống như qua sông, phải cần thuyền mới qua đến bờ kia; nhưng đến bờ kia rồi, thì nên bỏ thuyền. Trong kinh Kim Cang có nói:
‘’Pháp còn phải xả
Hà huống là phi pháp‘’?

Khi khai ngộ rồi, đắc được chân chánh căn bản trí huệ, thì tất cả các pháp đều phải buông xả, đừng có chấp pháp, cho nên mới nói, đó đều bất khả đắc. Tại sao nói bất khả đắc ? Vì lý thể của pháp là không sinh không diệt, vốn thanh tịnh. Tức là thanh tịnh, lại có gì có thể đắc ? Trong tâm kinh có nói:
‘’Vô trí cũng vô đắc.’’

Tức là xem tất cả pháp đều không, thì minh bạch tất cả pháp không tướng. Pháp Phật nói, bản tánh đều thanh tịnh, không tướng, nhưng thuần tạp là vì độ tất cả chúng sinh mà nói, chúng sinh độ hết, thì pháp cũng sẽ hết dùng.

 

Pháp tánh bổn thanh tịnh,                         Pháp tánh vốn thanh tịnh
Như không vô hữu tướng,                          Như không chẳng có tướng
Nhất thiết vô năng thuyết,                         Tất cả không thể nói
Trí giả như thị quán.                                  Bậc trí quán như vậy.

‘’Các pháp từ xưa nay
Tướng thường tự vắng lặng.’’

Pháp chân chánh thì nói chẳng ra. Do đó:
‘’Lời lẽ đã dứt, tâm hành đã diệt
Miệng muốn nói mà lời đã bặc
Tâm muốn duyên mà suy nghĩ chẳng còn nữa’’.

Là không thể nói, không thể nói, một khi nói ra đều là pháp phương tiện.

Bản tánh của pháp là thanh tịnh, giống như hư không, chẳng có hình tướng. Tức nhiên chẳng có hình tướng, lại có gì để nói ? Dùng tỷ lượng để nói, dùng hiện lượng để nói, nói mà không nói, không nói mà nói, vì phương tiện giáo hóa chúng sinh, không thể nói cũng phải nói. Giống như hư không, tuy nhiên chẳng có tướng, nhưng ở trong hư không, nhỏ như hạt bụi, lớn như núi sông, đều bao quát ở trong hư không, cũng chẳng ở ngoài hư không. Ðây tức là đạo lý chân không diệu hữu, diệu hữu hiện chân không. Do đó:

‘’Chân không chẳng không,
Chẳng ngại diệu hữu.
Diệu hữu chẳng hữu,
Chẳng ngại chân không.’’

Diệu hữu tức là chân không, chân không tức là diệu hữu, cho nên mới nói như không chẳng có tướng.

Bổn thể của pháp là thanh tịnh, chẳng có gì để nói. Pháp nói ra đều là pháp phương tiện. Song, trước khi chúng sinh chưa khai ngộ, thì không thể không nói pháp phương tiện cho chúng sinh. Khi chúng sinh khai ngộ rồi, thì tất cả pháp đều chẳng cần nữa, quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng. Do đó có câu:
‘’Mê thì ngàn quyển ít,
Ngộ rồi một chữ vẫn nhiều.’’

Khi chúng sinh mê hoặc, thì xem ngàn quyển kinh, đọc ngàn quyển kinh, lạy ngàn quyển kinh, vẫn cảm thấy ít. Ðến khi ngộ rồi, thì dù cho một chữ cũng chẳng có, xem vô tự chân kinh, đọc vô tự chân kinh, lạy vô tự chân kinh. Ðó là người có trí huệ, quán sát được như vậy.

 

Viễn ly ư pháp tưởng,                                Xa lìa nơi pháp tưởng
Bất lạc nhất thiết pháp,                             Chẳng ưa tất cả pháp
Thử diệc vô sở tu,                                       Đó cũng không chỗ tu
Năng kiến Đại Mâu Ni.                              Thấy được Đại Mâu Ni.

Nếu lìa được tất cả pháp tưởng, thì chẳng có suy nghĩ, chẳng có phân biệt. Không tưởng tức là chân như, tức là pháp thể. Chẳng ưa thích tất cả pháp, tức là phá trừ pháp chấp. Giống như chúng ta hiện tại nghiên cứu tất cả pháp, giảng nói tất cả pháp. Vì chẳng minh bạch, cho nên còn phải giảng nói. Ðến khi minh bạch thì vốn chẳng cần giảng nói. Giảng kinh gì, nói pháp gì, đó đều dư thừa.

Song, hiện tại chúng ta còn chưa minh bạch tất cả pháp, mà nghĩ không cần tất cả pháp thì chẳng đúng. Ví như muốn qua biển, đây bất quá là nói mà thôi. Nếu nói tôi đã qua biển rồi, kỳ thật chưa qua. Qua biển rồi mới có thể nói tôi đã qua biển rồi. Trước khi chưa chứng quả, trước khi chưa chứng đắc tự tánh chân như lý thể, mà nói tôi không cần tất cả pháp, đây là khi mình khi người. Giống như bịt tai ăn cắp chuông, là tự lường gạt mình mà thôi.

Trước khi chưa chứng quả, thì phải học tất cả pháp. Nếu thật lìa khỏi tất cả các tưởng, đến được cảnh giới: ‘’Một niệm không sinh toàn thể hiện,’’ thì tất cả pháp đều ở trong tự tánh, cũng chẳng cần tu, cũng chẳng cần học, cho nên mới nói, đó cũng chẳng chỗ tu, do đó: ‘’Qua sông chẳng cần thuyền.’’ Khi chứng được tứ quả A la hán, thì tu mà chẳng tu, chẳng tu mà tu, đó là bậc vô học. Khi chưa chứng được tứ quả A la hán, thì vẫn phải học, vẫn phải tu hành. Khi đến được không chỗ tu, thì mới thấy được Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

Như đức tuệ sở thuyết,                               Như chỗ Đức Huệ nói
Thử danh kiến Phật giả,                            Đây gọi người thấy Phật
Sở hữu nhất thiết hành,                             Hết thảy tất cả hạnh
Thể tánh giai tịch diệt.                               Thể tánh đều vắng lặng.

Bồ Tát Tinh Tấn Huệ nói: ‘’Giống như đạo lý mà Bồ Tát Công Ðức Huệ nói, phải minh bạch tất cả Phật pháp, tức là người thấy Phật. Hết thảy tất cả hạnh, thể tánh vốn có đều là vắng lặng. Phải ngộ đến cảnh giới này, thì sẽ minh bạch tự tánh của pháp.’’

 

Nhĩ thời, thiện tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Thiện Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.

Lúc đó, vị Bồ Tát Thiện Huệ ở phương đông nam, nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật. Quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của chúng sinh trong mười phương, rồi dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật.

 

Hy hữu đại dũng kiện,                               Ít có đại dũng kiện
Vô lượng chư Như Lai,                              Vô lượng các Như Lai
Ly cấu tâm giải thoát,                                Lìa cấu tâm giải thoát
Tự độ năng độ bỉ.                                       Tự độ hay độ họ.

Chúng ta tu hành phải dũng mãnh tinh tấn, siêng tu Phật đạo, dũng mãnh tinh tấn, tức là dùng thân giả huyễn này để tu Phật pháp chân chánh. Thân thể phần đoạn sinh tử của chúng ta đây, mỗi người đều có một phần, mỗi người đều có một đoạn. Vì có một phần, có một đoạn, cho nên có chấp trước. Chấp trước đây là ta, chấp trước đó là sở hữu của ta. Vì túi da hôi thối này, mà suốt ngày điên điên đảo đảo, tự lợi, ích kỷ, tham danh, tham lợi. Vì vậy mà thân thể giả này che lấp huệ mạng thật, nên không thể dũng mãnh tinh tấn. Tham sự ngủ nghỉ, ăn uống, nam nữ, danh lợi .v.v… đủ thứ chấp trước đều sinh ra. Khi chấp trước sinh ra, thì giải đãi mà chẳng tinh tấn, cuối cùng chẳng có thành tựu.

Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự trong kinh Pháp Hoa có nói như vầy: Bồ Tát Dược Vương vì cầu Phật đạo mà dùng thân mình quấn vải lụa, đổ dầu thơm lên đốt làm đèn để cúng dường Phật. Vì cầu pháp mà đem thân thể bố thí cho Phật, đó mới là thật tinh tấn, thật cúng dường. Kiền thành như thế mới sớm thành Phật đạo.

Phật Thích Ca Mâu Ni trong đời quá khứ, vì cứu chúng sinh mà xả bỏ vô lượng thân mạng, cho nên nói trong ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng có một chỗ nào nhỏ như hạt bụi, mà chẳng phải là chỗ của mười phương chư Phật xả thân. Do đó mới nói ít có đại dũng kiện. Trong Kinh Dịch có nói: ‘’Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.’’ Kiện, nghĩa là cang cường kiện khang. Luôn luôn hay tự cường bất tức, tức là dũng kiện. Vô lượng các Như Lai đều ít có đại dũng kiện. Chư Phật quá khứ đều tự cường bất tức, siêng tu tinh tấn, chẳng tiếc thân mạng, để cầu Phật đạo.

Lìa khỏi tất cả bụi dơ, tức cũng là lìa khỏi hai chướng. Hai chướng là gì ? Tức là có hai thứ chấp trước, chướng ngại nên không thể thành đạo. Một là phiền não chướng, hai là sở tri chướng. Phiền não chướng tức là chấp cái ta, sở tri chướng tức là chấp pháp. Chẳng có chấp ta thì phá được phiền não chướng; chẳng có chấp pháp thì phá được sở tri chướng. Nói thì dễ mà hành thì khó. Hay lìa khỏi phiền não chướng và sở tri chướng được, thì tâm sẽ giải thoát. Phá tan được hai chướng thì tức là tự độ, cũng phải độ kẻ khác. Phàm là người hành đạo Bồ Tát, thì phải độ mình độ người, giác mình giác người, lợi mình lợi người. Phàm là người thọ giới Bồ Tát, thì phải mau tu hành, hướng về ba mục tiêu lớn đó mà hành, sớm trở thành Bồ Tát.

 

Ngã kiến thế gian đăng,                             Tôi thấy Thế Gian Đăng
Như thật bất điên đảo,                               Như thật chẳng điên đảo
Như ư vô lượng kiếp,                                 Như trong vô lượng kiếp
Tích trí giả sở kiến.                                    Chỗ thấy bậc tích trí.

Phật là Thế Gian Đăng (Phật), vì ba cõi mà làm đèn sáng, chiếu phá đen tối của ba cõi, khiến cho ba cõi chúng sinh đều được ánh sáng. Tôi (Bồ Tát Thiện Huệ) thấy Phật chân như thật tướng, chẳng điên đảo. Cảnh giới của Phật như như chẳng động, thời thời tự tại, trong vô lượng kiếp thường tịch nhiên chẳng động. Ðó là người rộng tu trí huệ phương tiện, nên minh bạch được đạo lý này.

 

Nhất thiết phàm phu hành                        Tất cả phàm phu làm
Mạc bất tốc quy tận,                                  Thảy đều mau quy tận
Kỳ tánh như hư không,                              Tánh đó như hư không
Cố thuyết vô hữu tận.                                Nên nói không có tận.

Phàm là người không chứng quả đều gọi là phàm phu. Hành vi của phàm phu tục tử đều là vô thường, sinh diệt. Chẳng có phàm phu nào có thể thường trụ không diệt. Bản tánh của phàm phu đều có thật tánh. Hư không tức là Phật tánh. Do đó:
‘’Tự tánh như hư không
Chân vọng ở trong đó
Ngộ triệt thể bản lai
Một thông thảy đều thông.’’

Phàm phu cũng tốt, Thánh nhân cũng tốt, đều đầy đủ Phật tánh. Phật tánh thì chẳng sinh chẳng diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm. Tự tánh tức là Phật tánh, Phật tánh tức là tự tánh. Do đó chúng ta tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật. Phật tánh như thế nào ? Là giống như hư không. Trong chân không có diệu hữu, trong diệu hữu có chân không. Chân không chẳng ngại diệu hữu, diệu hữu chẳng ngại chân không. Cho nên trong Phật tánh có chân có vọng. Phải minh bạch bản lai tự tánh và hư không đều giống nhau, minh bạch như thế thì, dần dần đều sẽ minh bạch hết, do đó: ‘’Ðược một, vạn sự đều xong.’’ Nếu đắc được một, thì việc gì cũng đều chẳng có, việc lớn đã xong. Cho nên nói, một thông thảy đều thông. Minh bạch được một, thì tất cả đều minh bạch.

Vì Phật tánh như hư không, hư không thì vô cùng tận. Cho nên nói:
‘’Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh,
Đều có thể thành Phật.’’

Do đó, ai ai cũng đều có tư cách làm Phật, nhưng phải tu hành, phải dụng công tu hành thì mới có thể thành Phật.

Người tu hành, chẳng dễ gì gặp được Phật Bồ Tát, bậc A la hán, tất cả thiện tri thức. Có lúc cũng có thể gặp được, nhưng chẳng nhận ra. Khi qua rồi, nhận thức thì đã muộn, đây tức là trước mắt mà bỏ lỡ cơ hội.

Lúc tôi ở tại đông bắc Trung Quốc tỉnh Cát Lâm, thì nghe được một vị lão tu hành ở trên núi kể chuyện rằng: Trước kia có người đi dạo núi, ông ta đi vào trong núi, gặp hai vị lão tóc bạc phơ, rất hiền lành, khiến cho người tự nhiên cung kính. Hai vị đó ở trong động tụ tinh hội thần để đánh cờ. Người đó ở ngoài động nhìn xem nhiều tiếng đồng hồ, tâm nghĩ muốn vào động xem thử cứu kính ai thắng ai thua. Lúc muốn cất chân bước thì chỉ nghe lão già trong động nói: ‘’Ngươi là phàm phu, không thể đi vào trong động.’’ Nói xong dùng tay chỉ một cái thì cửa động đá tự động đóng lại. Người đó mới biết hai vị lão già đó nhất định là thần tiên. Người đó rất thành tâm quỳ ở ngoài động, cho đến chết ở ngoài động. Về sau có người phát hiện thi thể, mới đem đi mai táng ở bên động. Câu chuyện này nói rõ, cầu đạo thì chẳng dễ dàng. Người đó quỳ chết ở đó, cửa động thủy chung cũng không mở.

 

Trí giả thuyết vô tận,                                 Bậc trí nói vô tận
Thử diệc vô sở thuyết,                                Đây cũng không chỗ nói
Tự tánh vô tận cố,                                      Vì tự tánh vô tận
Đắc hữu nan tư tận.                                   Được có nan tư tận.

Hư không chẳng có tận, cũng chẳng có cái bất tận. Chẳng có cái hết, cũng chẳng có có cái không hết, nên mới nói bậc trí nói vô tận. Người có trí huệ mới nói hư không là vô tận. Vô tận tức là nói diệu hữu. Trong hư không có diệu hữu, trong chân không có diệu hữu. Trên cảnh giới có tận chẳng có tận nói chẳng ra gì, nói nó là có lại chẳng phải có, nói nó là không lại chẳng phải không. Nói nó có là nhìn không thấy, vì nó là diệu hữu. Nói nó là không lại chẳng không vì có diệu hữu. Diệu hữu lại nhìn chẳng thấy, lại là chân không. Cảnh giới vô tận vô bất tận cũng không chỗ nói. Lúc đó thì chẳng lập văn tự, nói không ra. Vì tự tánh tại hư không, tức là diệu hữu. Tại sao trong chân không có diệu hữu ? Là vì có Phật tánh. Phật tánh là vô tận. Vì nguyên nhân đó nên nói là vô tận không thể nghĩ bàn. Nói nó là thường, cũng chẳng phải thường. Nói nó là đoạn cũng chẳng phải đoạn. Chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng rơi vào biên kiến hai bên, tức cũng là trung đạo liễu nghĩa.

 

Sở thuyết vô tận trung,                              Trong chỗ nói vô tận
Vô chúng sanh khả đắc,                             Không chúng sinh khả đắc
Tri chúng sanh tánh nhĩ,                           Biết tánh chúng sinh vậy
Tức kiến Đại danh xưng.                           Tức thấy Đại Danh Xưng.

Vô tận tức là chỗ nói về hư không, vô tận vô bất tận. Không thể nói cái hữu tận, cái vô tận. Nếu nói hữu tận thì hư không sao lại hữu tận ? Nếu nói vô tận thì hư không sao lại có vô tận ? Cho nên trung đạo lý thể, thì không đoạn, không thường. Chiếu theo đạo lý này mà nói, thì chẳng có một chúng sinh khả đắc. Sao lại nói không chúng sinh khả đắc ? Vì là hư không ! Phải biết tánh của chúng sinh vốn cũng là không, chẳng có một chúng sinh khả đắc. Minh bạch được đạo lý này, thì đến được lý thể bổn lai Phật tánh. Ðây là nói thường thấy được Phật, mà thời khắc chẳng lìa Phật.

 

Vô kiến thuyết vi kiến,                               Không thấy nói là thấy
Vô sanh thuyết chúng sanh,                       Không sinh nói chúng sinh
Nhược kiến nhược chúng sanh,                 Nếu thấy, nếu chúng sinh
Liễu tri vô thể tánh.                                   Biết rõ không thể tánh.

Trên cảnh giới chân như thật tướng, không thể nói không thể nói, không thấy cũng không chẳng thấy. Chiếu theo tri kiến của một số phàm phu nói là có cái thấy, kỳ thật, cũng chẳng có chúng sinh khả đắc, đều là như hư không. Lý luận này hoặc nói thấy, hoặc nói chúng sinh. Nếu chân chánh thấu rõ tất cả hết thảy đều như là hư không, vậy thì không thể nói vậy.

 

Năng kiến cập sở kiến,                               Năng thấy và sở thấy
Kiến giả tất trừ khiển,                               Người thấy đều trừ bỏ
Bất hoại ư chân Pháp                                Chẳng hoại nơi thật pháp
Thử nhân liễu tri Phật.                              Người đó biết rõ Phật.

Tánh năng thấy và vật sở thấy, kiến giải đó đều chẳng có. Nếu chẳng có năng thấy và sở thấy, tức là bản thể của pháp như như bất động. Do đó, đều trừ khử xả lìa năng thấy và sở thấy, bèn hiện ra lý thể như như. Năng thấy và sở thấy đều không, pháp hữu vi và pháp vô vi cũng đều không, hữu lậu và vô lậu cũng đều không. Tất cả chấp trước cũng chẳng còn, đó mới là lý thể của chân chánh pháp giới.

Tại sao chúng ta không thể đạt được bản thể của pháp ? Chứng được đạo lý thật tướng vô tướng ? Là vì có sự chấp trước vào năng thấy và sở thấy, do đó không thể khế hợp với chân thật lý thể, cũng không thể thấy được Phật. Nếu khế hợp được với chân thật pháp tánh, thì người đó thấu rõ được cảnh giới của Phật, biết được đạo lý của Phật pháp.

 

Nhược nhân liễu tri Phật,                          Nếu người biết rõ Phật
Cập Phật sở thuyết pháp,                          Và pháp của Phật nói
Tức năng chiếu thế gian,                            Tức chiếu được thế gian
Như Phật Lô-xá-na.                                   Như Phật Lô Xá Na.

Nếu như có người minh bạch được cảnh giới của Phật và pháp môn phương tiện của Phật nói, tức cũng là tám vạn bốn ngàn pháp môn. Người đó có trí huệ quang minh mới chiếu phá trừ tất cả đen tối của thế gian. Giống như quang minh chiếu soi khắp của Viên Mãn Báo Thân ngàn trượng Lô Xa Na Phật Thích Ca Mâu Ni.

 

Chánh giác thiện khai thị,                         Chánh giác khéo khai thị
Nhất pháp thanh tịnh đạo,                        Một pháp tạo thanh tịnh
Tinh tấn tuệ đại sĩ,                                     Tinh Tấn Huệ đại sĩ
Diễn thuyết vô lượng Pháp.                       Diễn nói vô lượng pháp.

Phật là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Phật khéo dùng pháp phương tiện khéo léo, để diễn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, để đối trị tám vạn bốn ngàn tập khí mao bệnh của chúng sinh. Phật đến lúc cuối cùng mới diễn nói một thừa Phật đạo. Bổn lai một pháp cũng chẳng lập, tức là thanh tịnh bản nguyên, tánh diệu chân như. Bồ Tát Tinh Tấn Huệ Ngài đã diễn nói vô lượng pháp môn phương tiện.

 

Nhược hữu nhược vô hữu,                         Hoặc có hoặc không có
Bỉ tưởng giai trừ diệt,                                Tưởng đó đều trừ diệt
Như thị năng kiến Phật,                             Như vậy thấy được Phật
An trụ ư thật tế.                                          An trụ nơi thật tế.

Hoặc là hữu tận, hoặc là vô tận, hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu; hoặc là pháp hữu vi, hoặc là pháp vô vi, tất cả tưởng niệm đều diệt trừ. Trở về nguồi cội, xuất hiện thanh tịnh nguồn cội, tánh diệu chân như. Nếu có thể một niệm vọng tưởng cũng không sinh, thì lúc đó một niệm không sinh toàn thể hiện, tức sẽ thấy được Phật, luôn luôn an trụ ở cõi Tịnh Ðộ Thường Tịch Quang, cảnh giới chân thật. Lúc đó chứng được thật tướng lý thể, minh bạch chẳng có chút pháp sinh, chẳng có chút pháp diệt, tức là pháp chẳng sinh diệt.

 

Nhĩ thời, trí tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Trí Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, vị Bồ Tát Trí Huệ ở phương tây nam, nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật, quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của mười phương chúng sinh, dùng kệ để biểu đạt pháp muốn nói.

Trí huệ tức là Bát Nhã, Bát Nhã có ba thứ:
1). Văn tự Bát Nhã.
2). Quán chiếu Bát Nhã.
3). Thật tướng Bát Nhã.

Do văn tự để khởi quán chiếu Bát Nhã, do quán chiếu Bát Nhã mà khế ngộ thật tướng Bát Nhã, bài kệ mà vị đại Bồ Tát này nói, tức là đạo lý này.

 

Ngã văn tối thắng giáo                               Tôi nghe giáo tối thắng
Tức sanh trí tuệ quang,                              Bèn sinh trí huệ quang
Phổ chiếu thập phương giới,                      Chiếu khắp mười phương giới
Tất kiến nhất thiết Phật.                            Đều thấy tất cả Phật.

Bồ Tát Trí Huệ nói: ‘’Tôi nghe đến Phật giáo tối thắng (giáo dùng văn tự làm giáo thể), bèn sinh ra trí huệ quang minh (khởi quán chiếu Bát Nhã thì khế hợp với thật tướng Bát Nhã). Thật tướng Bát Nhã này, chiếu trời chiếu đất, chiếu khắp mười phương thế giới tất cả vạn vật và mười phương ba đời tất cả chư Phật hợp mà làm một, cho nên thấy được pháp thân của tất cả Phật.’’

 

Thử trung vô thiểu vật,                              Trong đó không chút vật
Đãn hữu giả danh tự,                                 Chỉ có danh tự giả
Nhược kế hữu ngã nhân,                            Nếu tánh có ta người
Tức vi nhập hiểm đạo.                               Tức là vào đường hiểm.

Trong thế giới đó vốn là không. Vì chúng sinh chấp trước mới có pháp hữu vi này. Lục Tổ Huệ Năng nói:

‘’Bồ đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài.
Xưa nay chẳng một vật
Chỗ nào dính bụi bặm‘’?

Tức cũng là nói về đạo lý này.

Gì cũng chẳng có, chỉ có giả danh mà thôi. Nếu như nhất định phải nói có người, ta, chúng sinh, thọ mạng bốn tướng, thì ngày càng mê hoặc, luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi, đây là con đường rất nguy hiểm.

Nơi chẳng có chân thật mà chấp làm chân thật, cho là chân thật, đó tức là tướng điên đảo của chúng sinh. Vì điên đảo, cho nên vào đường hiểm, chẳng dễ gì thoát khỏi ba cõi, không thể chấm dứt sinh tử.

 

Chư thủ trước phàm phu                           Phàm phu thủ chấp trước
Kế thân vi thật hữu,                                   Chấp thân là thật có
Như Lai phi sở thủ,                                    Như Lai chẳng chấp thủ
Bỉ chung bất đắc kiến.                               Họ trọn không thấy được.

Phàm là người chẳng chứng quả, đều là phàm phu. Tại sao chẳng chứng quả ? Vì có sự chấp trước, có sự tham cầu. Tại sao có sự chấp trước ? Vì có thân thể. Thân thể này là do đất nước gió lửa bốn đại giả hợp mà thành. Khi bốn đại này phân tán, thì thân thể này chẳng còn nữa. Song, phàm phu chẳng minh bạch đạo lý này, vì thân thể này mà sinh ra đủ thứ sự chấp trước, cho rằng thân thể này là ta. Kỳ thật, thân thể này chẳng phải ta. Nếu là ta thì tại sao lại chết ? Ai ai đều cũng chẳng muốn chết, nhưng thân thể cuối cùng cũng có ngày phải chết, mình làm chủ chẳng đặng. Khi về già thì bốn đại phải về hưu, trở về chỗ của nó. Mắt cũng hoa, muốn nó đừng hoa cũng chẳng làm được; tai cũng điếc, răng cũng rụng, da nhăn nhó giống như da gà, tóc thì bạc giống như lông hạc. Tìm khắp thân thể này cứu kính gì là của ‘’ta‘’ ? Tìm chẳng được. Thân thể là do bốn đại giả hợp mà thành, chỉ có thể nói thân thể này của ta, chứ không thể nói thân thể là ta. Tại sao ? Vì trong thân thể có chân như tự tánh, đó mới là chủ nhân ông.

Ví như ở trong phòng, không thể nói phòng là ta, chỉ có thể nói cái phòng này là chỗ của ta ở. Thân thể này là nơi ta ở. Chân như tự tánh mới là ta. Chân như tự tánh này ở trong thân thể, khi chết thì nó dọn nhà đi, dọn đến ở trong thân thể mới. Do nhân duyên này, cho nên đừng chấp trước thân thể này là thật có, kỳ thật đều là hư vọng.

Phật thì chẳng có chấp trước, nhưng phàm phu có sự chấp trước, cho nên không thể thấy được Phật. Nên chẳng chấp trước thì mới thấy được Phật. Phàm phu thủ trước, thủy chung chẳng thấy được mặt mũi thật của Như Lai.

 

Thử nhân vô tuệ nhãn,                               Người đó không huệ nhãn
Bất năng đắc kiến Phật,                             Không thể thấy được Phật
Ư vô lượng kiếp trung,                               Ở trong vô lượng kiếp
Lưu chuyển sanh tử hải.                            Lưu chuyển biển sinh tử.

Phàm phu chấp giữ, chẳng có mắt trí huệ, không thể thấy được chân thân của Phật. Người đó ở trong vô lượng kiếp, ở trong biển sinh tử, lưu chuyển không ngừng. Ở trong sáu nẻo luân hồi, lúc trên trời, lúc ở nhân gian, lúc làm súc sinh, lúc làm ngạ quỷ, vĩnh viễn chẳng thoát khỏi khổ trong sinh tử luân hồi. Tại sao ? Vì có sự chấp trước thủ lấy tướng, cho nên mê trong sinh tử.

Chúng ta người tu đạo, phải chú ý ! Chú ý cái gì ? Chú ý về số ‘’0‘’, có thể trở về nguồn cội, trở về số ‘’0’’, thì sẽ thấy được mười phương ba đời tất cả chư Phật. Số ‘’0‘’ là gì ? Gì cũng chẳng có, không đầu, không cuối, không trong, không ngoài, không lớn, không nhỏ. Nếu phá số ‘’0’’ này ra, thì biến thành số 1, đây là bắt đầu số mục. Có số 1 rồi lại thêm số 0, muốn thêm nhiều hoặc thêm ít đều được, số mục này sẽ diễn biến vô cùng tận.

Số ‘’0’’ này chẳng phải, chẳng trái, không bạn, không ta, không tướng người, không tướng ta, không tướng chúng sinh, không tướng thọ mạng, gì cũng chẳng có. Tuy chẳng có, nhưng tất cả đều bao hàm ở trong số ‘’0.’’ Nếu phóng mở nó thì thành số 1. Số 1 này rất quan trọng. Tại sao trời thanh ? Vì có được số 1. Tại sao đất lại yên ? Vì có được số 1. Tại sao làm được bậc Thánh ? Vì đắc được số 1 này. Số 1 này là gì ? Tức là trở về nguồn cội. Số ‘’0’’ là gì ? Tức là bản thể pháp giới, nguồn gốc của Phật tánh.

Trong kinh Ðạo Ðức có nói:
‘’Trời được một thì thanh
Đất được một thì yên
Người được một thì Thánh.’’

Số một này là mẹ của vạn vật, do đó:
‘’Ðược một vạn sự đều xong.’’

Khi chưa đắc được một, thì tìm đông, tìm tây, điên điên đảo đảo. Ðợi đến khi tìm được một, thì việc gì cũng đều xong. Nói tóm lại, sau khi đắc được một, thì mọi chấp trước gì cũng đều chẳng còn, buông xả hết tất cả. Ðó tức là trở về cội nguồn, chấm dứt sinh tử, chẳng còn lưu chuyển trong biển sinh tử nữa.

 

Hữu tránh thuyết sanh tử                          Có tranh nói sinh tử
Vô tránh tức Niết-Bàn,                              Không tranh tức Niết Bàn
Sanh tử cập Niết-Bàn,                                Sinh tử và Niết Bàn
Nhị câu bất khả đắc.                                  Cả hai bất khả đắc.

Có phiền não thì có tranh, không phiền não thì không tranh. Do đó:
‘’Tranh là tâm hơn thua
Trái ngược lại với đạo
Bèn sinh ra bốn tướng
Làm sao được tam muội‘’?

Tranh là tâm hơn thua, tranh cường luận thắng, đều nghĩ ta giỏi hơn người. Có tâm háo thắng tức là tham. Có tham thì có phiền não; có phiền não thì có hơn thua. Do đó, chúng ta người tu đạo, đừng tranh cường luận thắng với người, việc tốt nhường cho người, việc xấu mình nhận, đừng có tâm hơn thua. Có người nói: ‘’Vậy, tu đạo không cần tu, tu thì có tâm tham.’’ Tu đạo là hướng về Phật đạo mà đi, đi đến chỗ đáng trụ. Chúng ta muốn thành Phật, đây chẳng phải là tham, tức là muốn trở về nhà. Vì chúng ta bỏ nhà đi quá xa, cho nên phải trở về nhà.

Vì có tranh, nên sinh ra tâm bốn tướng. Có tâm bốn tướng, thì có đấu tranh. Có đấu tranh thì có sinh tử. Nếu đắc được tam muội không tranh, thì chẳng còn phiền não, chẳng còn đấu tranh, tức là Niết Bàn thanh tịnh, tức cũng là lý như như.

Sao lại có sinh tử ? Là vì có Niết Bàn. Sao lại có Niết Bàn ? Cũng vì có sinh tử. Chẳng có sinh tử thì không thể nói có Niết Bàn. Không có Niết Bàn thì không thể nói có sinh tử. Ðến được lý thể chân như tự tánh, thì sinh tử và Niết Bàn đều chẳng có. Vì có sinh tử, mới có Niết Bàn; có Niết Bàn mới có sinh tử. Ngộ triệt đạo lý này, thì đạt được đại quang minh tạng của tự tánh vốn có.

 

Nhược trục giả danh tự,                             Nếu truy danh tự giả
Thủ trước thử nhị Pháp,                            Thủ trước hai pháp này
Thử nhân bất như thật,                             Người đó chẳng như thật
Bất tri Thánh diệu đạo.                             Chẳng biết Thánh diệu đạo.

Nếu như theo đuổi danh tự giả này, cứ dụng công phu trên sự giả dối, mà chẳng dụng công phu trên sự thật, thì cuối cùng cũng chẳng đắc được Thánh diệu đạo. Xả chẳng được sinh tử và Niết Bàn, chấp trước về danh tự giả, nếu chẳng dụng công phu trên sự thật, thì làm sao đắc được thật ? Cứ dụng công phu trên sự giả, thì cuối cùng đều là giả. Người đó chẳng minh bạch đạo lý chân như thật tướng, cũng chẳng biết đạo lý chân không diệu hữu, càng chẳng hiểu về đạo lý số ‘’0.’’ Số ‘’0’’ này là Thánh diệu đạo.

Số 0 này diệu không thể tả. Các vị phải nghiên cứu tỉ mỉ một phen. Số 0 này tức là chân không diệu hữu, tức là đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quán sát trí, thành sở tác trí, đều bao hàm ở trong số 0 này. Nếu cứ dụng công phu trên sự giả dối, thì đạo lý thật vẫn chẳng khi nào minh bạch được.

Diệu đạo mà Phật Bồ Tát Thánh nhân đắc được, thì phàm phu không thể hiểu đặng. Nghiên cứu kinh điển là tại chỗ này, phải đặc biệt chú ý. Thánh diệu đạo này tức là trở về nguồn cội, trở về cảnh giới vốn có, chẳng có chỗ đắc. Trong Tâm Kinh có nói: ‘’Không trí cũng không đắc,’’ tức là đạo lý này.

Có phải phàm phu làm mất đi Thánh diệu đạo chăng ? Chẳng mất ! Một số phàm phu đều đầy đủ Thánh diệu đạo, bất quá chẳng biết xử dụng như thế nào ? Tu hành như thế nào ? Giống như máy vi tính, người đã học qua máy vi tính, thì mới biết xử dụng. Người chẳng học qua máy vi tính, thì đương nhiên chẳng biết xử dụng, dù có máy vi tính cũng trở thành vật chết.

Thánh diệu đạo tức là máy vi tính, dụng được mới có công năng. Người tu đạo phải minh bạch trí huệ vốn có, đại viên cảnh trí, đây tức là máy vi tính toàn năng. Nếu tu được thành công, thì đại viên cảnh trí sẽ hiện tiền, sẽ có cảnh giới không thể nghĩ bàn.

Chẳng những sinh tử và Niết Bàn là danh tự giả, mà trên thế gian tất cả cũng đều danh tự giả, ví như trẻ con mới sinh ra chẳng có tên, thì gọi là trẻ con. Ðợi khi cha mẹ đặt tên, thì đứa bé đó có tên, có người khen ngợi y, thì y vui mừng, có người phê bình y, thì y buông xả chẳng đặng, thậm chí sẽ sinh nóng giận. Có tên rồi thì ôm chặt chẳng buông tay, trước khi tôi đi xuất gia là họ Bạch, về sau thủ hiếu ba năm ở tại mộ phần mẹ, một số người gọi là Bạch hiếu tử. Pháp danh xuất gia gọi là An Từ, về sau lại gọi là Ðộ Luân, bây giờ gọi là Tuyên Hóa, đây đều gọi là giả, các bạn ! Ðừng chấp trước vào danh tự giả, có người mắng bạn, có người đánh bạn, thậm chí có người giết bạn, cũng chẳng động tâm, phải có định lực, đừng bị cảnh giới làm lay chuyển, đây mới là chân công phu tu đạo.

 

Nhược sanh như thị tưởng                         Nếu sinh tưởng như vậy
Thử Phật thử tối thắng.                             Đây Phật đây tối thắng
Điên đảo phi thật nghĩa                             Điên đảo chẳng thật nghĩa
Bất năng kiến chánh giác.                          Không thấy được Chánh Giác.

Nếu như nghĩ như vầy: vị Phật đó là thù thắng nhất, đây tức là điên đảo chấp trước, chưa thấu hiểu mười phương ba đời tất cả chư Phật, là cùng một pháp thân, là bình đẳng, chẳng có vị Phật nào là tối thắng, cũng chẳng có vị Phật nào là tối liệt, đều như nhau, chẳng có khác biệt. Nếu phân ra thắng liệt thì đều là điên đảo, chẳng phải đạo lý thật tướng. Phật Phật giống nhau, bất quá lời nguyện phát ra khác nhau và có duyên với chúng sinh cũng khác nhau, ví như Phật A Di Ðà phát bốn mươi tám đại nguyện để tiếp dẫn chúng sinh. Các Ðức Phật khác không phát 48 nguyện để tiếp dẫn chúng sinh, nhưng không thể nói Phật A Di Ðà là tối thắng, còn các vị Phật khác là tối liệt. Phật là bình đẳng, pháp là bình đẳng, mười phương Hiền Thánh Tăng cũng là bình đẳng, không thể dụng công phu trên sự hư vọng, bằng không thì thủy chung không thể đắc được trí huệ chánh tri chánh kiến.

Chúng ta đừng dụng công phu trên sự giả, phải dụng công phu trên sự chân như thật tướng; đừng dụng công trên vật chết, phải dụng công phu trên sự sống, nếu dụng công phu trên sự sống, thì chứng được quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ thấy được Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Năng tri thử thật thể,                                 Biết được thật thể này
Tịch diệt chân như tướng,                         Tướng tịch diệt chân như
Tức kiến chánh giác tôn,                            Thì thấy đấng Chánh Giác
Siêu xuất ngữ ngôn đạo.                             Vượt khỏi đường ngôn ngữ.

Biết được lý thể chân thật, tức cũng là đạo lý thật tướng vô tướng, vô sở bất tướng và là chân không diệu hữu. Lý thể chân thật này, tuy nhiên tịch nhiên không động, song cảm mà toại thông. Nếu ngộ được đạo lý chân như thật tướng, do đó:
‘’Bổn lai chẳng một vật
Chỗ nào dính bụi bặm‘’?

Bổn lai chẳng có phiền não, lại đến nơi nào cầu bồ đề ? Nếu minh bạch được cảnh giới này, thì thấy được mười phương Phật. Song, chỗ diệu này chẳng phải lời lẽ nói ra được, phải lìa tướng văn tự, lìa tướng danh tự, lìa tâm duyên tướng. Tóm lại, lìa tất cả tướng và tất cả pháp, thấu rõ đạo lý này, thì thường thấy được mười phương chư Phật.

 

Ngôn ngữ thuyết chư Pháp                        Ngôn ngữ nói các pháp
Bất năng hiển thật tướng,                          Không hiển được thật tướng
Bình đẳng nãi năng kiến,                           Bình đẳng mới thấy được
Như pháp Phật diệc nhiên.                        Như pháp Phật cũng thế.

Trên thế gian tất cả vạn sự vạn vật, đều đang nói diệu pháp. Mỗi loài chúng sinh nói pháp của loài đó: Trời thì nói pháp trời, người thì nói pháp người, súc sinh thì nói pháp súc sinh, ngạ quỷ thì nói pháp ngạ quỷ, A tu la thì nói pháp A tu la, địa ngục thì nói pháp địa ngục. Mười pháp giới đều đang nói pháp, mỗi pháp giới, dùng ngôn ngữ mà họ hiểu, để diễn nói các pháp.

Thanh Văn thì nói pháp Thanh Văn, Duyên Giác thì nói pháp Duyên Giác, Bồ Tát thì nói pháp Bồ Tát, Phật thì nói pháp Phật. Pháp gồm có tám vạn bốn ngàn thứ, là đối trị tập khí mao bệnh của chúng sinh. Chúng sinh có mao bệnh này, thì Phật dùng phương pháp này để đối trị. Khi chúng sinh chẳng còn tập khí mao bệnh nữa, thì tất cả pháp cũng phải buông xả. Pháp khế hợp còn phải buông xả, pháp không khế hợp càng phải buông xả. Trong kinh Kim Cang có nói:

‘’Pháp còn phải bỏ, hà huống là phi pháp‘’?

Ngôn ngữ chỉ là nói pháp quyền xảo phương tiện, để giáo hóa chúng sinh. Lý thể thật tướng, chân như tự tánh, không thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt được, dùng ngôn ngữ văn tự, thì không thể hiển được đạo lý thật tướng. Vậy phải làm thế nào ? Phải học chư Phật bình đẳng, chứng được tánh trí huệ bình đẳng vốn có, thì mới minh bạch đạo lý thật tướng. Nếu hay bình đẳng, thì mới có thể trở về cội nguồn. Nếu không bình đẳng, thì không thể minh bạch đạo lý chân như thật tướng.

 

Chánh giác quá khứ thế,                            Chánh Giác đời quá khứ
Vị lai cập hiện tại,                                      Vị lai và hiện tại
Vĩnh đoạn phân biệt căn,                           Vĩnh đoạn gốc phân biệt
Thị cố thuyết danh Phật.                           Cho nên gọi là Phật.

Phật là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh Giác, nhị thừa là Chánh Giác. Chánh giác mà nói ở đây, là chỉ Phật mà nói. Phật trong đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, vĩnh viễn đoạn tuyệt gốc phân biệt, tức cũng là thức. Phật đã chuyển tám thức thành bốn trí, đã hoàn toàn đoạn trừ thức tâm phân biệt, chỉ tồn tại trí huệ. Trí huệ hay chiếu thấy tất cả các pháp thật tướng. Phật là bậc đại giác, phước huệ đều đủ nên viên mãn, cho nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, mười danh hiệu.

 

Nhĩ thời, chân thật tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Chân Thật Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, vị đại Bồ Tát Chân Thật Huệ ở phương tây bắc, nương đại oai thần lực gia trì của Phật, quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của mười phương chúng sinh mà dùng kệ để diễn đạt pháp muốn nói.

 

Ninh thọ địa ngục khổ,                              `Thà thọ khổ địa ngục
Đắc văn chư Phật danh,                            Được nghe tên chư Phật
Bất thọ vô lượng lạc                                   Không thọ vô lượng vui
Nhi bất văn Phật danh.                              Mà chẳng nghe tên Phật.

Thà tôi chịu đủ thứ sự thống khổ trong địa ngục, mà thường được nghe danh hiệu của chư Phật. Nhưng chẳng muốn hưởng thụ vô lượng sự an vui, mà chẳng được nghe danh hiệu của chư Phật. Tóm lại, thà là chịu khổ, muốn nghe tên Phật. Chẳng muốn thọ vui mà chẳng nghe được tên Phật.

Chúng ta sinh vào nạn Phật trước Phật sau, một trong tám nạn, tuy nhiên sinh ra vào thời sau Phật, nhưng vẫn còn nghe được pháp, nghe được hồng danh của Phật. Có người một đời chẳng nghe được tên của Phật. Giống như người ở Bắc Câu Lưu Châu, tuổi thọ rất dài, có thể sống đến một ngàn tuổi, đời sống rất sung sướng, nhưng chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng gặp Tăng, vĩnh viễn chẳng nghe được tên Phật, cũng là một trong tám nạn.

 

Sở dĩ ư vãng tích,                                       Cho nên trong quá khứ
Vô số kiếp thọ khổ,                                    Chịu khổ vô số kiếp
Lưu chuyển sanh tử trung,                        Lưu chuyển trong sinh tử
Bất văn Phật danh cố.                                Vì không nghe tên Phật.

Vì không nghe tên Phật, cho nên quá khứ trong vô lượng kiếp thường lưu chuyển, thọ hết các sự khổ, luân hồi trong sinh tử. Nếu nghe được tên Phật, y pháp tu hành, thì sẽ thoát khỏi ba cõi, chẳng còn thọ khổ nữa.

 

Ư Pháp bất điên đảo,                                 Nơi pháp không điên đảo
Như thật nhi hiện chứng,                           Như thật mà hiện chứng
Ly chư hòa hợp tướng,                               Lìa các tướng hòa hợp
Thị danh vô thượng giác.                           Đó gọi Vô Thượng Giác.

Nếu không dùng tâm dục làm việc, thì nơi pháp chẳng điên đảo. Nếu một niệm không sinh, thì sẽ chứng được chân như thật tướng. Nếu lìa khỏi tất cả tướng giả hòa hợp, thì đây gọi là vô thượng giác đạo.

Trong kinh Ðịa Tạng có nói: ‘’Chúng sinh Nam Diêm Phù Ðề, khởi tâm động niệm đâu chẳng phải là nghiệp, đâu chẳng phải là tội.’’ Vậy có người làm việc thiện cũng có nghiệp, cũng có tội chăng ? Không sai ! Có nghiệp có tội, song làm việc thiện nếu vô tâm, thì mới là chân thiện, nếu có tâm thì là tội ác. Người xưa nói:
‘’Có tâm làm thiện, tuy thiện không thưởng,
Vô tâm làm ác, tuy ác không phạt.’’

Cố ý đi làm việc thiện mà hy vọng đắc được quả báo tốt, đây tức là tội nghiệp, tại sao ? Vì đắc được quả báo tốt, lại hay tạo nghiệp ác, ví như người nghèo, một đồng không xả, không thể đánh bạc, càng không thể hút nha phiến. Người có tiền thì có thể đánh bạc, có thể hút độc, tại sao ? Vì có tiền.

Có người nghĩ, tôi đi đánh bạc, đem tiền đánh bạc ăn được tạo một ngôi chùa lớn. Tư tưởng này tức là ác, bạn tạo chùa chẳng thanh tịnh, e rằng chẳng có ai tu hành. Hoặc có người nghĩ, tôi tạo chùa là cầu phước báo, tương lai sẽ đắc được quả báo tốt, đây cũng là tội nghiệp, vậy làm thế nào mới có công đức ? Phải làm mà đừng có chấp trước, chẳng có xí đồ, tạo chùa làm tháp là làm hết trách nhiệm của mình, đừng cầu mong quả báo gì hết, đừng động tâm niệm, động tâm tức là điên đảo, làm mà không động niệm, làm mà không có tâm phân biệt, làm mà không có vọng tưởng, đây tức là pháp không điên đảo. Nếu có tâm niệm đi làm việc, hy vọng đắc được quả báo tốt thì đó là tâm tham. Ví như có người lạy Phật, muốn cầu con cái. Có người lạy Phật muốn cầu phát tài. Hoặc cầu vạn sự như ý, tất cả cát tường. Nếu Phật là như vậy, đó chẳng phải là Phật tham ô hối lộ chăng ?

Chúng ta cúi đầu lạy Phật là cung kính Phật. Vì Phật là vạn đức viên dung, đáng đảnh lễ cung kính, chẳng tính quả báo, chẳng cầu quả báo, đó mới là không điên đảo. Như sinh một tâm niệm, tức là điên đảo. Như sinh một tâm niệm, tức là điên đảo, chưa có thể xa lìa điên đảo mộng tưởng.

Chúng ta tu hành đừng nghĩ muốn khai ngộ, càng nghĩ thì càng không khai ngộ. Tại sao ? Vì muốn khai ngộ, tức là vọng tưởng. Do đó có câu:

‘’Chỉ hỏi trồng trọt, đừng hỏi thu hoạch.’’

Ðến lúc gieo giống thì đi gieo giống, đừng màng thu hoạch như thế nào ? Hết mình trồng trọt, tưới nước, bón phân. Trồng được phần nào, thì sẽ thu hoạch được phần ấy. Ðừng động niệm, động niệm tức là vọng tưởng. Do đó:
‘’Có tâm là vọng tưởng
Vô tâm là cảm ứng.’’

Mình tự hỏi mình, một ngày có thời gian dài bao lâu một niệm không sinh ? Tâm của chúng ta như ngựa, như khỉ, chẳng nhìn đông thì ngó tây, đây tức là khởi vọng tưởng, tức cũng là điên đảo. Gì là điên đảo ? Tức là đáng làm mà không làm, không đáng làm mà làm. Nếu không khởi vọng tưởng, tức là nơi pháp chẳng điên đảo.

 

Hiện tại phi hòa hợp,                                 Hiện tại chẳng hòa hợp
Khứ lai diệc phục nhiên,                            Khứ lai cũng như thế
Nhất thiết pháp vô tướng,                          Tất cả pháp vô tướng
Thị tắc Phật chân thể.                                Đó là chân thể Phật.

Tướng là do các duyên giả hòa hợp mà thành, gọi là tướng hòa hợp. Ví như một hạt bụi, tập nhiều mà thành núi cao. Thật tế lý thể của Phật, chẳng phải hòa hợp mà thành. Nhưng hiện tại chẳng phải, tức là quá khứ và vị lai cũng chẳng phải. Tại sao ? Vì tất cả các pháp chẳng có thể tướng. Chẳng có thể tướng mới là bản lai diện mục thật tướng lý thể của Phật.

 

Nhược năng như thị quán                          Nếu quán sát như vậy
Chư Pháp thậm thâm nghĩa,                     Nghĩa các pháp thâm sâu
Tức kiến nhất thiết Phật,                           Tất thấy tất cả Phật
Pháp thân chân thật tướng.                       Tướng pháp thân chân thật.

Tất cả tướng hư vọng hòa hợp, đừng chấp trước nó. Nếu như hay quán sát như thế, thì sẽ quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng. Một niệm không sinh, thì vạn vật đều đủ nơi ta, đây tức là nghĩa chân thật của pháp vi diệu thâm sâu vô thượng, tức cũng là chân như thật tướng, tức là một niệm không sinh, cũng chẳng có niệm thiện, cũng chẳng có niệm ác. Lục Tổ Huệ Năng nói: ‘’Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính lúc đó là bản lai diện mục của thượng tọa Huệ Minh.’’ Lúc không nghĩ thiện không nghĩ ác, còn có gì ? Tức là bản lai diện mục của mỗi người. Cảnh giới này nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Nếu trong khoảng năm phút mà chẳng sinh một niệm, thì công đức này còn hơn là tạo tháp bảy báu nhiều như số cát sông Hằng, do đó có câu:

‘’Nếu ai tĩnh tọa trong chốc lát,
Hơn tạo tháp bảy báu nhiều như số cát sông Hằng.’’

Tức là đạo lý này. Tại sao ? Vì tài bồi pháp thân huệ mạng, tưới nước, bón phân, trồng trọt, cho nên công đức lớn nhất, tức là cảnh giới nghĩa các pháp thâm sâu.

Nếu như được như thế, thì tức là thấy được mười phương ba đời tất cả chư Phật. Tại sao ? Vì minh bạch đạo lý pháp thân chân như thật tướng của Phật; như vậy thì Phật thường tại một chỗ với bạn.

Tại sao chúng ta không thể trở về nguồn cội ? Là vì có sự chấp trước, có sự điên đảo. Trong kinh Ðịa Tạng có nói: “Tất cả chúng sinh, khởi tâm động niệm, đâu chẳng phải là nghiệp, đâu chẳng phải là tội.’’ Một số người thấy chúng sinh ba đường ác làm đều là điên đảo, đều chẳng hợp pháp. Song, người trên trời thấy người ở nhân gian, bất cứ làm việc thiện, hoặc việc ác, cũng đều là điên đảo mà chẳng hợp pháp. Chúng ta cảm thấy mình làm đều là việc thiện. Ta tu hành, ăn cơm niệm Phật, tụng kinh, lễ sám, cho rằng là dụng công tu hành, song người trời nhìn thì đều là điên đảo mộng tưởng. Tại sao ? Vì có sở xí đồ. Ăn chay muốn được quả báo, niệm Phật muốn được quả báo, tụng kinh muốn được quả báo, lễ sám muốn được quả báo. Hy vọng tương lai làm quan, phát tài, mạnh khoẻ, sống lâu. Kỳ thật, đó đều là điên đảo ! Có niệm thì có khổ, không cầu gì mới là phước. Có tâm niệm là có mong cầu, không có tâm niệm, thì không có mong cầu. Do đó có câu:
‘’Không tâm không niệm phước vô biên
Tư dục tạp niệm là tội khiên.’’

Phàm là có sự mong cầu, có tâm niệm đều là điên đảo. Cầu làm việc lành cũng là điên đảo. Tại sao ? Vì làm việc lành, thì được quả báo tốt. Ðợi đến khi được quả báo tốt thì lại mê hoặc. Do đó:
‘’Bần cùng bố thí khó,
Phú quý học đạo khó.’’

Người nghèo khổ, dạy họ bố thí thì rất là khó, vì chẳng có tiền. Người có tiền, dạy họ tu hành thì rất là khó, vì muốn hưởng thụ vui năm dục. Không thể tu hành mà còn tạo đủ thứ tội nghiệp, tương lai sẽ đọa vào địa ngục thọ khổ. Khi bần cùng thì muốn bố thí làm việc thiện, nhưng đến lúc giàu có, thì ngược lại làm những chuyện chẳng hợp pháp, sẽ đọa lạc thọ khổ. Ðây chẳng phải là tướng điên đảo chăng ?

Chúng ta người tu hành, thì không cầu đời sau quả báo tốt, không cầu quả báo sinh về trời. Tại sao ? Vì khi hưởng hết phước trời, thì cũng phải thọ khổ. Phải học không niệm, không cầu, không tham, đây mới là giàu sang thật, do đó:
‘’Không tham giàu sang thật
Biết đủ là thần tiên.’’

Phải siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si thì sẽ thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử, đây mới là tự tại thật sự.

 

Ư thật kiến chân thật,                                Nơi thật thấy chân thật
Phi thật kiến bất thật,                                Không thật thấy không thật
Như thị cứu cánh giải,                               Như vậy hiểu rốt ráo
Thị cố danh vi Phật.                                   Thề nên gọi là Phật.

Phật là giác cứu kính, lìa khỏi tất cả điên đảo, chấp trước, phân biệt, vọng tưởng, cho nên trên thật tướng chân như, chứng được cảnh giới chân như thật tướng. Tất cả điên đảo chấp trước, phân biệt vọng tưởng, đều là hư vọng, chẳng có thể tánh chân thật. Gì là hiểu cứu kính ? Tức là nơi thật thấy chân thật, tại lý thể chân như thật tướng, chứng đắc cảnh giới này, thì sẽ minh bạch đạo lý này. Lý như như này, dùng trí như như để khế hợp. Do đó cho nên gọi là Phật.

 

Phật Pháp bất khả giác,                             Phật pháp không thể giác
Liễu thử danh giác Pháp,                          Rõ đây gọi giác pháp
Chư Phật như thị tu,                                  Chư Phật tu như vậy
Nhất pháp bất khả đắc.                             Một pháp không thể được.

Phật nói tất cả pháp, là phá chấp trước của chúng sinh. Chúng sinh chẳng còn chấp trước, thì Phật pháp cũng chẳng dùng nữa. Nếu chúng ta chẳng có mọi chấp trước, thì một niệm chẳng sinh, tức là trở về nguồn cội, trở về nhà thật vốn có. Nếu còn một phần chấp trước, thì vẫn phải dùng một phần pháp để đối trị, để khống chế nó.

Phật pháp đều là như như, chẳng có cái biết, hoặc không biết, đều đến trên cảnh giới vốn có. Chúng ta chẳng đạt được cảnh giới, như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt, cho nên phải tu phải học. Ðến được cứu kính thì một pháp chẳng lập, vạn pháp đều không. Nói ra được đều chẳng phải, hay cảm giác được cũng chẳng phải, cho nên Phật nói pháp không thể giác. Không thể dùng tư tưởng để cảm giác nó, phát hiện nó. Nếu minh bạch được lý chân như thật tướng, thì chẳng có cái giác, cũng chẳng có cái không giác. Minh bạch đạo lý này, thì minh bạch Phật pháp.

Chư Phật tu đạo đều tu mà chẳng tu, chứng mà chẳng chứng, chẳng tu chẳng chứng. Tham sân si đều thanh tịnh rồi, thì đạt đến lý thể như như, một pháp chẳng sinh, vạn pháp đều không, gì cũng chẳng có, cho nên nói một pháp không thể được.

 

Tri dĩ nhất cố chúng,                                  Biết do một nên nhiều
Tri dĩ chúng cố nhất,                                  Biết do nhiều nên một
Chư Pháp vô sở y                                       Các pháp chẳng chỗ nương
Đãn tùng hòa hợp khởi.                             Nhưng từ hòa hợp khởi.

Phải biết hết thảy tất cả, đều từ một tập tụ mà thành nhiều, lại phải biết nhiều là do rất nhiều mà thành tựu. Ở trên có nói về số 0, đó là vượt khỏi ngoài số, do đó:
‘’Vượt ra ngoài ba cõi
Chẳng ở trong ngũ hành.’’

Ba cõi tức là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Ngũ hành tức là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Tất cả mọi người đều ở trong ngũ hành, tướng mạo của mỗi người, đều đầy đủ ngũ hành. Má gầy thân cao, thuộc về hình cây (mộc). Ðầu nhọn cằm rộng, thuộc về hình lửa (hỏa). Mặt vuông sắc vàng, thuộc về hình thổ (đất). Mặt trắng thuộc về hình kim. Mặt đen mà mập thuộc về hình thủy (nước). Có người là mộc hỏa thổ, có người là mộc hỏa kim. Có người bản thân kim mộc khắc với nhau, mình và mình đấu tranh. Hình thủy và hình hỏa ở cùng chỗ, thì thường phát sinh đấu tranh. Hình mộc và hình thổ ở cùng chỗ, thì thường phát sinh đấu tranh. Nhưng số 0 vượt ngoài những số mục này.

Một số người cho rằng vận mạng có sự an bài nhất định, do đó: ‘’Mạng có tám thước, khó cầu một trượng.’’ Không sai ! Nhưng đây là chỉ người bình thường mà nói. Nếu người tu đạo thì chẳng ở trong số này. Người tu đạo không cần hỏi Kinh Dịch, đó là một số phàm phu tục tử sử dụng, sinh tử của người tu đạo còn chấm dứt được, hà huống là những số khác ? Càng vượt khỏi được, cho nên đừng tin. Nói về ngũ hành, bất quá minh bạch lý của nó mà thôi, kỳ thật nhận chân mà tu hành, thì bất cứ đạo lý gì cũng sẽ minh bạch. Số 0 này là pháp môn rất quan trọng ! Các vị phải đối với số 0 mà dụng công, nghiên cứu tử tế một phen, thì tương lai nhất định sẽ có biện pháp, vì nó chẳng ở trong số. Số mục bắt đầu thì có một, song số 0 cho đến một cũng chẳng có.

Biết một nhiều rồi, tức là nhiều. Biết nhiều là do một mà thành. Do đó có câu:
‘’Một gốc tán làm vạn thù
Vạn thù quy về một gốc’’.

‘’Một làm vô lượng
Vô lượng làm một.’’

Tại sao có vô lượng ? Vì có một, tại sao có một ? Vì có vô lượng. Nếu là một sinh ra, thì có rất nhiều chuyện rắc rối; từ một sinh ra hai, ba, bốn, cho đến tám, chín, mười, số mục vô cùng vô tận theo đó mà ra. Nếu chẳng có một, thì nhiều đương nhiên cũng chẳng có. Cho nên nói: ‘’Một mà không thì nhiều là không, nhiều mà không thì một là không.’’ Một hạt bụi chẳng có, thì tất cả hạt bụi cũng chẳng có; nhiều hạt bụi không, thì một hạt bụi cũng không có.

Các pháp chẳng có thể tánh, cho nên chẳng có chỗ nương tựa, nhưng là từ giả hòa hợp với nhau mà thành tựu tất cả pháp phương tiện.

 

Vô năng tác sở tác,                                     Không năng tác sở tác
Duy tùng nghiệp tưởng sanh,                     Do từ nghiệp tưởng sinh
Vân hà tri như thị                                      Sao lại biết như vậy
Dị thử vô hữu cố.                                        Vì khác đây không có.

Trong trời đất, tất cả vạn sự vạn vật, có những người nói ở trong minh minh có chủ tể thao túng ! Ðây là năng tác. Tất cả vạn sự vạn vật, đây là sở tác. Có chủ tể thì năng tác tất cả vạn sự vạn vật, tất cả vạn sự vạn vật là sở tác ra. Một số tôn giáo đều là nói như thế. Song, nói về sự thật thì chẳng có người nào làm chủ tể tất cả vạn sự vạn vật, cho nên mới nói không năng tác sở tác, chẳng có một người năng tác, cũng chẳng có vật sở tác. Ðây là như thế nào ? Hết thảy tất cả đều là khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Nghiệp là từ đâu mà sinh ra ? Là từ vọng tưởng tạo ra. Lúc ban đầu là không giác (không hiểu biết), không giác tức là vô minh, vì vô minh nên sinh ra mê hoặc. Nếu chẳng có vô minh, thì chẳng có mê hoặc. Có mê hoặc rồi, thì sinh ra vọng tưởng. Có vọng tưởng thì tạo ra đủ thứ nghiệp.

Nghiệp tạo ra, nếu trồng nhân lành, thì có quả báo lành. Nếu nghiệp ác, thì có quả báo ác. Nếu là nghiệp không thiện, không ác, thì có quả báo không thiện không ác. Cho nên những gì chúng sinh gặp, đều là do mình đã tạo ra, chẳng có ai đến chi phối tạo ra; cho đến chuyển đi chuyển lại ở trong luân hồi, không thể thoát khỏi, theo nghiệp mà thọ quả báo; sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, vĩnh viễn không thoát khỏi sinh tử. Làm thế nào biết được là như vậy ? Nếu lìa khỏi đạo lý này, thì chẳng có đạo lý khác để nói.

Có tôn giáo chủ trương, tất cả thế gian là do thần chi phối, vậy thì làm thiện làm ác với mình chẳng có quan hệ gì. Song, đến lúc thọ quả báo, thì mình vẫn phải đi thọ, thần chẳng màng đến. Ðây là đạo lý chẳng hợp lý. Vì nhân duyên đó, cho nên nói là từ nghiệp tưởng của mình sinh ra. Giống như có người sai người khác đi giết người. Kẻ giết người tuy là phạm tội, song người sai khiến cũng có tội. Nếu thần chi phối chúng ta, thì tất cả đều do thần đến làm chủ, vậy thì nghiệp mà chúng ta tạo ra, thần cũng phải có một nửa tội nghiệp, mới hợp tình hợp lý. Nếu chẳng phải như vậy, thần dạy chúng ta làm việc, tội nghiệp thì của chúng ta, còn công đức thì của thần, như vậy thì chẳng bình đẳng, chẳng hợp lý.

Tội nghiệp mình tạo ra, với người khác chẳng có quan hệ gì. Làm việc thiện thì được quả báo thiện; làm việc ác thì được quả báo ác, đây là nhân quả rất hợp lý. Cho nên chúng ta cử chỉ hành động, đừng để người khác đến chi phối. Nếu thật là do thần chi phối, thì không nên dạy chúng ta làm đủ thứ chuyện ác, chỉ làm các chuyện tốt, như thế mới đúng. Vì thần chẳng muốn người làm việc ác, mong muốn người làm việc thiện. Nếu thần chẳng có năng lực này, thì mình làm ác mình thọ quả báo. Làm công đức là thần, làm ác là mình phải nhận, đây thật chẳng hợp lý chút nào.

 

Nhất thiết pháp vô trụ,                              Tất cả pháp không trụ
Định xứ bất khả đắc,                                  Định xứ không thể được
Chư Phật trụ ư thử                                    Chư Phật trụ nơi đây
Cứu cánh bất động dao.                             Rốt ráo chẳng giao động.

Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều là pháp phương tiện, là để đối trị tham sân si của chúng sinh. Cho nên nói bổn thể của tất cả pháp là không chỗ trụ. Không trụ nơi có, cũng không trụ nơi không. Do đó, chẳng có xứ sở nhất định. Pháp chẳng có thật thể, đều là nhân duyên sinh ra, cho nên là không. Tức nhiên là không, còn có chỗ nào để trụ ? Chư Phật trụ ở trong đạo lý thể chẳng không chẳng có. Pháp thân của Phật là vô tướng, vô tại vô bất tại; Phật là như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt, cho nên rốt ráo chẳng giao động.

 

Nhĩ thời, vô thượng tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Vô Thượng Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, vị đại Bồ Tát Vô Thượng Huệ ở phương dưới, nương đại oai thần lực của Phật gia trì, quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của mười phương chúng sinh, dùng kệ để nói pháp mà Ngài muốn nói.

 

Vô thượng Ma-ha tát,                                Vô thượng Ma Ha Tát
Viễn ly chúng sanh tưởng,                         Xa lìa chúng sinh tưởng
Vô hữu năng quá giả,                                 Không có ai hơn được
Cố hiệu vi vô thượng.                                 Nên hiệu là Vô Thượng.

Vị đại Bồ Tát Vô Thượng Huệ, trí huệ, tu hành, nguyện lực, thần thông .v.v… của Ngài đều là vô thượng. Pháp của Ngài nói cũng là vô thượng. Ngài không những là vị đại Bồ Tát, mà còn là thượng thủ trong Bồ Tát. Lãnh đạo tất cả Bồ Tát để đến chốn Phật, đến điện Diệu Thắng để nghe diệu pháp kinh Hoa Nghiêm.

Vị đại Bồ Tát Vô Thượng Huệ này, hết thảy tất cả Ngài đều đã đạt đến cực điểm, chẳng có ai vượt qua Ngài được, cho nên gọi là Vô thượng Ma ha tát.

Bồ Tát là nửa tiếng Phạn, đầy đủ là “bồ đề tát đỏa”. Bồ đề dịch là “giác”, tát đỏa dịch là “hữu tình”. Tức cũng là giác hữu tình, còn gọi là hữu tình giác, ý nghĩa giống nhau, chẳng có khác biệt.

Gì gọi là ‘’giác hữu tình‘’? Tức là dùng đạo lý mà mình giác ngộ, phương pháp mà mình minh bạch, để giác ngộ mười phương tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được sự giác ngộ. Ðây là tư tưởng tự giác giác tha của Bồ Tát.

Gì gọi là ‘’hữu tình giác‘’? Bồ Tát vốn cũng là chúng sinh, vì tu lục độ vạn hạnh, cho nên thành Bồ Tát, đó là một bậc giác ngộ trong hữu tình. Chẳng những Bồ Tát là chúng sinh, mà chư Phật cũng do chúng sinh giác ngộ mà thành Phật.

Phàm là có tri giác, có khí huyết, đều là chúng sinh, là chúng duyên hòa hợp mà sinh. Phật Bồ Tát trong quá khứ, đều giống như chúng ta chúng sinh, bất quá Phật Bồ Tát siêng tu lục độ vạn hạnh, cho nên thành Phật thành Bồ Tát; còn chúng ta lười biếng, chẳng chịu tu hành, cho nên vẫn là chúng sinh.

Tuy nhiên hiện tại chúng ta tu hành, nhưng chẳng tinh tấn, giống như phát nguyện tu hành, đợi ngày mai mới tu, ngày mai lại đợi ngày mai. Một ngày rồi một ngày, đợi đến già rồi cũng chẳng tu hành, cũng chẳng thành tựu. Có người nói, tôi tuổi còn trẻ, đợi tôi lớn tuổi mới tu. Song, sau khi lớn tuổi thì bị lưới thế gian ràng buộc, chẳng chịu tu hành. Ðến tuổi già thì càng chẳng có thời gian để tu hành. Ðợi đến lúc chết thì càng không thể tu hành, là vì có tư tưởng như thế, từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng phát tâm bồ đề, chẳng hành đạo Bồ Tát, chẳng tu lục độ vạn hạnh, thì làm sao liễu sinh thoát tử ? Do đó mà sinh sinh tử tử, lưu chuyển không ngừng ở trong luân hồi. Nếu chúng ta chẳng lười biếng, giống như chư Phật, Bồ Tát, A la hán, dũng mãnh tinh tấn, thì sớm sẽ thành Phật thành Bồ Tát thành La Hán, mà trở thành bậc giác ngộ trong hữu tình.

Bồ Tát còn dịch là “đại đạo tâm”, vì tâm đạo đặc biệt lớn, chẳng sợ mọi sự khổ, chẳng sợ mọi sự khó, tinh tấn tu Phật pháp, hết mình hành đạo Bồ Tát. Còn gọi là Ðại Sĩ, là đại trượng phu. Do đó ‘’Nam Hải Ðại Sĩ,’’ tức là biệt danh của Bồ Tát Quán Thế Âm; còn gọi là Khai Sĩ, chẳng có ích kỷ, tướng ta, thấy cái ta, chẳng đố kỵ người khác, cũng chẳng chướng ngại người khác.

Bồ Tát xa lìa hết thảy vọng tưởng của chúng sinh. Những gì chúng sinh nghĩ, đều là vì mình mà tính toán, để làm thế nào mình được lợi ích. Hết thảy vọng tưởng của Bồ Tát, đều nghĩ ta muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, ta muốn giáo hóa tất cả chúng sinh, ta muốn cứu độ tất cả chúng sinh, đó là tư tưởng của Bồ Tát xả mình vì người.

Tư tưởng của Bồ Tát với tư tưởng của chúng sinh đều trái ngược nhau. Chúng sinh nghĩ ích kỷ, Bồ Tát thì nghĩ lợi người. Có người nói: ‘’Tôi hiện tại hành đạo Bồ Tát, tôi cũng là Bồ Tát.’’ Không sai, bạn là Bồ Tát, song là Bồ Tát mới phát tâm, chứ chẳng phải là lão Bồ Tát. Lão Bồ Tát là từ vô lượng kiếp đến nay tu lục độ vạn hạnh. Bạn vừa mới bước đi trên con đường Bồ Tát, là mới phát tâm Bồ Tát mà thôi. Do đó có câu:

‘’Ngư tử nại ma la
Bồ Tát ban đầu phát tâm
Tam sự nhân trung đa
Như kỳ kết quả thiểu.’’

Nghĩa là: Cá tuy đẻ trứng rất nhiều, nhưng thành cá thì rất ít. Cây nại ma la nở hoa rất nhiều, nhưng kết trái thì rất ít. Bồ Tát mới phát tâm, chẳng biết là bao nhiêu ? Do đó: ‘’Phát tânm thì dễ, mãn nguyện thì khó.’’ Chân chánh hành đạo Bồ Tát, thành tựu quả Bồ Tát thì rất ít. Ba việc này tại nhân địa rất là nhiều, tại quả địa rất là ít. Tuy chúng ta là Bồ Tát mới phát tâm, thì nên phát tâm Bồ Tát vĩnh viễn, đừng phát tâm Bồ Tát năm phút, qua năm phút rồi, thì thối thất tâm Bồ Tát, điểm này rất quan trọng, hy vọng mọi người chú ý, phải có trước có sau, quán triệt thủy chúng.

 

Chư Phật sở đắc xứ                                    Chỗ chư Phật đắc được
Vô tác vô phân biệt                                    Vô tác vô phân biệt
Thô giả vô sở hữu                                       Thô lớn không chỗ có
Vi tế diệc phục nhiên.                                 Vi tế cũng như thế.

Mười phương ba đời tất cả chư Phật, lại có thể nói là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đắc được Niết Bàn mà chẳng chỗ được. Tại sao ? Vì bản giác là tự nhiên, không cần tạo tác, hoặc thêm công phu để đắc được Niết Bàn, tức cũng là giác ngộ vốn có, cho nên nói vô tác vô phân biệt. Vì chẳng tạo tác, không thể dùng thức để phân biệt. Không có thức thì đắc được trí huệ vốn có. Chẳng những sáu tướng thô hoàn toàn không có mà tướng tam tế cũng chẳng có. Ðây là Phật chứng đức bên trong, chính mình chứng được đức hạnh này bên trong. Bài kệ này có sáu câu, còn hai câu kệ phía sau là khen hóa đức bên ngoài, là đức tánh giáo hóa tất cả chúng sinh. Chứng đức bên trong, hóa đức bên ngoài là một thứ đức hạnh của Phật.

Tướng tam tế là gì ? Tức là:
1). Tướng nghiệp.
2). Tuớng thấy được.
3). Tướng cảnh giới.

Còn nói là tướng nghiệp, tướng hiện, tướng chuyển. Tướng tế này rất là vi tế, chẳng dễ gì giác được, chẳng dễ gì minh bạch, chẳng dễ gì biết được.

1). Tướng nghiệp: Tạo nghiệp như thế nào ? Tức là nương bất giác. Vô minh sinh ra tướng tam tế, do đó: ‘’Một niệm không giác sinh tam tế, cảnh giới là duyên lớn lục thô.’’ Lại nói: ‘’Vô minh là nhân sinh tam tế, cảnh giới là duyên sinh lục thô.’’ Tại sao chúng ta đến làm người ? Vì tạo nghiệp làm người, cho nên đến làm người. Mèo tạo nghiệp mèo, chó tạo nghiệp chó, cho nên đến làm chó mèo, đây là tự làm tự thọ. Do đó chúng ta vì một niệm vô minh mà đến làm người, vì vô minh mà tâm động, đây tức là nghiệp. Có nghiệp thì có khổ, nghiệp tạo ra phải thọ quả báo. Tạo nghiệp lành thọ quả báo lành, tạo nghiệp ác thọ quả báo ác.

Tướng nghiệp là vì một niệm vô minh mà khởi. Tóm lại, vô minh tức là sinh tử gốc rễ của ái. Vô minh trong mười hai nhân duyên, là chỉ nam nữ thấy tướng, sinh ra tâm ưa thích mà thương nhau. Có tình ái thì có hành vi. Góc rễ sinh tử của chúng ta là từ đây mà ra.

2). Tướng thấy được: Có tướng nghiệp rồi, thì sinh ra tướng thấy được. Tức có động tác thì thấy được; nếu không động tác thì chẳng thấy được.

3). Tướng cảnh giới: Có tướng thấy rồi thì sinh ra tướng cảnh giới, không thấy thì không cảnh giới.

Vô minh tâm động, động thì có khổ. Vì quả chẳng lìa nhân, tạo nhân gì thì thọ quả đó. Có động thì có tướng thấy sinh ra, chẳng động thì chẳng có tướng thấy, do đó:

‘’Niệm khởi trăm việc có

Niệm dừng vạn việc không.’’

Ðộng thì có tướng thấy, thì có tướng cảnh giới, tức là cảnh giới thấy được hiện ra.

Tướng lục thô là gì ? Tức là:
1). Trướng trí.
2). Tướng tương tục.
3). Tướng chấp lấy.
4). Tướng tánh danh tự.
5). Tướng khởi nghiệp.
6). Tướng nghiệp buộc khổ.

Cảnh giới là trợ duyên, lại sinh ra sáu thứ tướng thô này. Do gốc rễ vô minh sinh ra tướng tam tế, do cành ngọn vô minh, mà sinh ra tướng lục thô.

1). Tuớng trí: Có cảnh giới rồi thì biết cảnh giới, bèn sinh ra tâm ưa thích hoặc không ưa thích. Hai thứ tâm này, sinh sinh không ngừng, vọng sinh phân biệt.

2). Tướng tương tục: Nương trí huệ phân biệt, sinh ra hai thứ tâm, ưa và không ưa, lại sinh ra khổ và vui hai thứ tư tưởng. Hoặc ưa hoặc không ưa, hoặc khổ hoặc vui, tư tưởng như thế liên tục không ngừng.

3). Tướng chấp lấy: Vì liên tục không ngừng, nên sinh ra tướng chấp lấy, chấp trước cảnh giới khổ vui. Chẳng biết đây là hư vọng không thật, ngược lại còn sinh tâm niệm chấp lấy thâm sâu.

4). Tướng tánh danh tự: Chấp lấy cảnh giới thì tính toán rằng, đây là danh tự gì, kia là danh tự gì ? Bèn chấp trước vào danh tự hư vọng không thật, mà sinh ra phiền não phân biệt.

5). Tướng khởi nghiệp: Chấp trước cảnh giới hư vọng không thật, lại sinh ra nghiệp khổ, nghiệp vui, nghiệp thiện, nghiệp ác đủ thứ tướng. Nương danh tự mà chấp lấy, tạo ra đủ thứ các nghiệp nhiễm tịnh.

6). Tướng nghiệp buộc khổ: Tướng này sinh ra rồi, thì bị nghiệp ràng buộc mà chẳng tự tại, chẳng cách chi tháo gỡ. Giống như dạy người tu hành, thì họ nói hoàn cảnh không cho phép, trong nhà không ai lo liệu, tóm lại, có đủ thứ lý do, đây tức là tướng nghiệp buộc khổ không thoát được.

 

Chư Phật sở hạnh cảnh,                            Cảnh giới chư Phật hành
Ư trung vô hữu số,                                     Trong đó chẳng có số
Chánh giác viễn ly số                                 Chánh giác xa lìa số
Thử thị Phật chân Pháp.                           Đây là chân pháp Phật.

Cảnh giới chư Phật giáo hóa chúng sinh, vượt ra ngoài tất cả số mục, vì Phật đã xa lìa tất cả số. Chúng sinh còn ở trong số, có số thì có lời lẽ để nói, có tư tưởng để nghĩ. Phật đã vượt ra con đường lời lẽ tư tưởng. Nếu hiểu được cảnh giới này, thì tức là pháp môn phương tiện chân chánh của Phật.

Người học Phật pháp thì đừng có tướng ta, thấy ta. Nếu có tướng ta thì có chấp trước, có thấy ta thì vẫn có chấp trước. Có sự chấp trước thì không thể minh bạch lý không. Nếu muốn minh bạch lý không, thì phải phá tất cả chấp trước. Ðừng vì mình mà tính toán, phải vì chúng sinh mưu lợi ích. Ðừng lo lắng, buông xả tất cả, do đó:

‘’Buông xả thân tâm Phật tự thành.’’

Tại sao chúng ta chẳng tự tại ? Vì chẳng buông xả thân tâm. Chúng ta đối với quần áo, thức ăn uống, chỗ ở, đừng có tâm tham dục. Quần áo đủ che lạnh là được, đừng mặc đồ đẹp. Ăn cơm no bụng thì được, đừng ăn đồ quá bổ dưỡng. Chỗ ở đủ che mưa che gió thì được, đừng ở nhà cao sang rộng rãi. Ðừng vì thân thể mà lo lắng, lo đến đầu bạc. Ðến lúc đó, nó cũng chẳng trợ giúp bạn. Tức nhiên là vô tình vô nghĩa như vậy, thì hà tất phải vì đồ giả này ?

 

Như Lai quang phổ chiếu,                         Như Lai quang chiếu khắp
Diệt trừ chúng ám minh,                            Diệt trừ các đen tối
Thị quang phi hữu chiếu,                           Quang đó chẳng có chiếu
Diệc phục phi vô chiếu.                              Cũng lại chẳng không chiếu.

Phật quang chiếu khắp, trí huệ quang minh của Phật chiếu khắp tất cả tâm chúng sinh. Chiếu soi tâm chúng sinh, tiêu diệt trừ sạch tham sân si, chiếu soi đen tối thành quang minh, diệt trừ tám vạn bốn ngàn tập khí mao bệnh. Chúng ta học Phật pháp, tức là diệt trừ các đen tối, đừng chấp trước vào quang minh của Phật, sao ta chẳng nhìn thấy ? Nghiên cứu Phật pháp, khai mở trí huệ, thì đây chẳng phải là quang minh của Phật chăng ? Nếu càng nghiên cứu càng hồ đồ, chẳng hiểu chân chánh đạo lý Phật pháp, như vậy thì chẳng diệt trừ được tập khí mao bệnh, không thể nói quang minh của Phật không chiếu khắp. Mình chẳng khai mở trí huệ, thì tham sân si vẫn như cũ, một chút cũng chẳng thay đổi, đây tức là cũng chẳng chỗ chiếu, cũng chẳng phải có chiếu, cũng chẳng phải không chiếu, chiếu mà không chiếu, không chiếu mà chiếu. Ðây là nói trí huệ quang minh của mình hiện ra, tức là quang minh của Phật chẳng chiếu khắp.

Quang minh của Phật giống như công ty điện lực, phòng của chúng ta ở đã bắt dây điện, bóng đèn, nút mở tắt .v.v… tất cả đều đã bắt xong, đã tiếp thông với điện lực. Nhưng nếu không bật lên, thì đèn vẫn không sáng, trong phòng vĩnh viễn vẫn đen tối. Tại sao ? Vì điện chẳng thông, cho nên không khởi tác dụng, phải bật lên thì lập tức đèn sẽ sáng lên, chiếu phá đen tối. Tâm của chúng ta chúng sinh, tức là nút bật lên, khai mở bật nút tâm lên, thì quang minh của Phật sẽ chiếu sáng. Nếu nút tâm không bật lên, thì dù có quang minh của Phật, cũng chiếu chẳng đến. Tuy nhiên đây là ví dụ nông cạn, nhưng có lý giống nhau. Các vị ! Hãy mau bật nút tâm lên, để tiếp thọ trí huệ quang của Phật đến dẫn chứng, như vậy thì sẽ đắc được quang minh của Phật chiếu khắp.

Mỗi chúng sinh đều có tập khí mao bệnh của chính họ. Có người hoan hỷ ăn chua, có người hoan hỷ ăn ngọt, có người hoan hỷ ăn đắng, có người hoan hỷ ăn cay, có người hoan hỷ ăn mặn, đây là năm vị mà mọi người ưa thích. Phật nói pháp cũng giống như vậy, là vì người thí giáo. Có người hoan hỷ pháp tiểu thừa, thì Phật nói ba tạng giáo. Có người hoan hỷ pháp đại thừa, thì Phật nói Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết Bàn. Phật giáo phân ra nhiều thứ giáo, mỗi thứ giáo đều khác nhau. Chiếu theo Tông Thiên Thai mà nói, thì phân ra làm bốn giáo, tức là: Tạng, thông, biệt, viên. Chiếu theo tông Hiền Thủ mà nói, thì phân làm năm giáo, tức là : Tiểu, thủy, chung, đốn, viên. Vì con người hoan hỷ giáo khác nhau, cho nên phân ra đủ thứ giáo. Phật nói xong bộ kinh này, lại nói bộ kinh khác. Bộ kinh này nói xong, lại nói bộ kinh nọ. Mỗi bộ kinh đều là đối trị tập khí mao bệnh của chúng sinh. Chúng sinh nào cần bộ kinh nào, thì bộ kinh đó là chân kinh. Tóm lại, đối trị cơ chúng sinh, trừ khử được mao bệnh của chúng sinh, thì tức là chân, không trừ khử được tập khí của chúng sinh, thì đều là giả.

Khi Phật sắp vào Niết Bàn, thì có người hỏi:

– ‘’Ðức Thế Tôn ! Ngài nói kinh điển nhiều như vậy, làm sao mà truyền bá’’?

– Phât nói: ‘’Ta một chữ cũng không nói, thì có kinh điển gì‘’?

Ðây có phải là Phật nói dối chăng ? Phật nói ba tạng mười hai bộ, sao lại nói một chữ cũng không nói ? Không phải. Ðây nghĩa là nói hữu dụng là thật, vô dụng là giả. Nếu chúng sinh đều không dùng, thì bộ kinh này đương nhiên một chữ cũng chẳng có.

Phật đã từng đoán trước rằng: ‘’Vào lúc Phật pháp sắp diệt vong, thì kinh Lăng Nghiêm sẽ mất trước nhất.’’ Hiện tại đã phát sinh hiện tượng này. Trên toàn thế giới có rấr nhiều người nói Kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo. Cứu kính thì thật hay là giả ? Cũng chẳng có bằng cứ gì ! Bất quá, họ chỉ là nhìn không mà bắt ảnh, loạn phê bình mà thôi, chẳng những một số học giả bình luận như vậy mà cho đến người xuất gia, cũng công khai nói kinh Lăng Nghiêm là giả. Ðây là chuyển theo cảnh giới của các vị học giả. Chẳng những nói kinh Lăng Nghiêm là giả, mà từ từ hết thảy kinh điển đều là giả, chẳng có bộ kinh nào là thật, từng chút từng chút sẽ dần dần tiêu diệt. Mạt pháp ! Mạt pháp ! Tức là mạt pháp như vậy. Mọi người đều nói kinh Lăng Nghiêm là giả, thì đuơng nhiên Chú Lăng Nghiêm cũng là giả. Nếu một người truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn, ngàn truyền vạn người, tuyên truyền như vậy, thì bổn thân Phật giáo đồ đều giao động, thì sẽ chẳng có ai học kinh Lăng Nghiêm, tụng chú Lăng Nghiêm. Như vậy thì chẳng có trí huệ để nhận thức pháp nào là thật, pháp nào là giả.

Kỳ thật, bất cứ bộ kinh nào, đối với mình có lợi ích, thì tức là chân kinh, chẳng có lợi ích, thì là kinh giả. Tuy là Phật nói, nhưng chẳng đối cơ lại có dụng gì ? Tóm lại, khế hợp tức là chân, chẳng khế hợp tức là giả.

 

Ư Pháp vô sở trước,                                   Nơi pháp chẳng chấp trước
Vô niệm diệc vô nhiễm,                              Không niệm cũng không nhiễm
Vô trụ vô xứ sở,                                          Không trụ không xứ sở
Bất hoại ư pháp tánh.                                Chẳng hoại nơi pháp tánh.

Tất cả pháp là vì độ tất cả chúng sinh, nếu chẳng có tất cả chúng sinh, thì tất cả pháp cũng không có. Pháp là đối với chúng sinh mà có. Kinh Phật tức là kinh chúng sinh, tức cũng là kinh trong tâm. Cho nên tất cả đều phải hỏi ngược lại tâm mình. Do đó, tâm chân thì pháp chân, tâm chân, kinh giả cũng là chân. Tại sao ? Vì chẳng có phân biệt nhiều. Nếu tâm có sự phân biệt, thì chân kinh cũng biến thành kinh giả, pháp thật cũng biến thành pháp giả. Ðây với sự tụng chú cũng giống nhau, tụng chẳng có tâm phân biệt, tụng chẳng có vọng tưởng, thì tuy là âm chú có chút sai lệch, nhưng cũng sẽ có cảm ứng. Tại sao ? Vì tâm thành chuyên nhất thì linh. Nếu tụng có sự phân biệt vọng tưởng, thì dù chú linh cũng chẳng linh. Do đó có câu:

‘’Người chánh hành pháp tà
Pháp tà cũng là chánh.
Người tà hành chánh pháp
Chánh pháp cũng là tà.’’

Cho nên nói như vầy:
Người chánh đọc kinh giả,
Kinh giả cũng là thật.
Người giả đọc kinh thật,
Kinh thật cũng là giả.’’

Chẳng phải kinh có thật giả, mà là người có sự phân biệt. So sánh đây là thật, kia là giả, đó là chẳng hiểu Phật pháp. Nếu hiểu Phật pháp, thì tuyệt đối chẳng dụng công phu tại chỗ này. Cho nên nói nơi pháp không chấp trước, tức nghĩa là chẳng có tâm phân biệt. Chẳng có niệm tịnh, cũng chẳng có niệm nhiễm, tịnh nhiễm đều chẳng lập, thường gặp xe trâu trắng. Nếu nhiễm tịnh đều không, thì luôn luôn gặp được pháp chân thật. Pháp này là tận hư không biến pháp giới, không trụ mà không chỗ không trụ. Nhưng đều bao quát ở trong tự tánh. Ðây tức là chẳng hoại nơi pháp tánh. Pháp tánh là tận hư không biến pháp giới, chẳng phải chỗ nhỏ này là ta, chỗ kia lớn chẳng phải ta. Hoặc chỗ lớn này là ta, chỗ kia nhỏ chẳng phải ta. Chẳng có cái ta, đều không vượt ra ngoài pháp giới, đều bao quát ở trong pháp tánh.

 

Thử trung vô hữu nhị,                               Trong đây không có hai
Diệc phục vô hữu nhất,                              Cũng lại không có một
Đại trí thiện kiến giả,                                 Bậc đại trí khéo thấy
Như lý xảo an trụ.                                      Như lý khéo an trụ.

Ðây chẳng phải là hai pháp môn, tức là tự tánh không hai. Tức cũng chẳng có một, thậm chí cho đến một cũng chẳng lập, do đó:
‘’Một pháp chẳng lập,
Vạn pháp đều không.’’

Một cũng chẳng có, hai cũng chẳng có. Nghĩa là chẳng có một, chẳng có hai niệm, cho đến niệm cũng chẳng có. Nếu còn có hai niệm, thì đó vẫn là quái ngại, vẫn là hư vọng, vẫn là có niệm. Niệm cũng chẳng có, thì đây mới là cảnh giới :
‘’Chân không chẳng ta người
Đại đạo không hình tướng.’’

Bậc đại trí huệ thì khéo thấy tất cả lý, tức là đạo lý chân không diệu hữu. Ðây là trụ mà không trụ vi diệu không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là an trụ.

 

Vô trung vô hữu nhị,                                  Trong không chẳng có hai
Vô nhị diệc phục vô,                                   Chẳng hai cũng lại không
Tam giới nhất thiết không                         Ba cõi tất cả không
Thị tắc chư Phật kiến.                                Đó là chư Phật thấy.

Trong không đừng có hai niệm, nếu có hai niệm thì chẳng có không. Chẳng có hai niệm, tức là một không sinh. Một niệm không sinh, thì hợp với pháp giới lý thể, cho nên mới nói ba cõi tất cả không. Không tức là đệ nhất nghĩa không. Ðệ nhất nghĩa không, thì lúc đó sẽ hợp với pháp giới mà làm một. Pháp giới tức là tự tánh của chúng ta, tự tánh tức là pháp giới; đây tức là cùng chung một kiến giải của chư Phật, một thứ cảnh giới.

 

Phàm phu vô giác giải,                               Phàm phu chẳng giác hiểu
Phật lệnh trụ chánh pháp,                         Phật khiến trụ chánh pháp
Chư Pháp vô sở trụ,                                   Các pháp chẳng chỗ trụ
Ngộ thử kiến tự thân.                                 Ngộ đây thấy thân mình.

Tri kiến của phàm phu, đều có sự chấp trước và quái ngại, chẳng có trí huệ chân chánh, cho nên đối với hết thảy tất cả đều chẳng minh bạch. Vì phàm phu chẳng giác chẳng hiểu, cho nên Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, trụ vào chánh pháp, đừng có tà tri tà kiến. Chúng sinh trụ vào chánh pháp thì pháp trụ vào đâu ? Vì các pháp vốn không, cho nên các pháp chẳng chỗ trụ, nếu minh bạch đạo lý này thì phá được hết thảy mọi chấp trước, sẽ chân chánh nhận thức được bản lai diện mục của chính mình.

 

Phi thân nhi thuyết thân                            Không thân mà nói thân
Phi khởi nhi hiện khởi,                              Không khởi mà hiện khởi
Vô thân diệc vô kiến,                                 Không thân cũng không thấy
Thị Phật vô thượng thân.                          Là Phật vô thượng thân.

Trong kinh Kim Cang có nói: ‘’Phật nói không thân, là gọi thân lớn.’’ Nếu là thân thì chẳng phải thân lớn, thân lớn tức là pháp thân, pháp thân nói là thân; trên thật tế thì chẳng có hình thể, nó là lớn mà không ở ngoài, nhỏ mà không ở trong, cho nên Phật nói không thân, gọi là thân lớn. Chẳng có thân thể chân thật, mà chỉ nói thân thể. Phật là như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt, vô tại vô bất tại, chẳng có gì mà không biết, chẳng có nơi nào mà không chiếu đến, chẳng có nơi nào mà không hiện, cho nên nói chẳng khởi mà hiện khởi. Chẳng phải như phàm phu, phân biệt có khởi không khởi, có động không động. Phật thì tĩnh chẳng ngại động, động chẳng ngại tĩnh, động tĩnh như một, đây là đạo lý chẳng khởi mà hiện khởi.

Tức nhiên chẳng có thân, sao lại có thấy ? Không thân không thấy, tức là thân vô thượng thấy vô thượng của Phật; pháp thân vô thượng thì chẳng có hình tướng. Phải biết, chẳng có hình tướng thì giống như hư không, do đó:
‘’Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật
Hãy tịnh ý mình như hư không.’’

Trong ý niệm chẳng những chẳng có pháp nhiễm ô, mà pháp thanh tịnh cũng chẳng sinh, cho nên tất cả đều là bản lai đầy đủ, bản lai viên mãn, đây tức là thân vô thượng của Phật.

 

Như thị thật tuệ thuyết,                             Như vậy Thật Huệ nói
Chư Phật diệu pháp tánh,                         Chư Phật diệu pháp tánh
Nhược văn thử pháp giả,                           Nếu người nghe pháp này
Đương đắc thanh Tịnh nhãn.                    Sẽ được mắt thanh tịnh.

Giống như các đạo lý đã nói ở trên, là nghe được từ Bồ Tát Chân Thật Huệ, Ngài nói như vậy, tôi (Bồ Tát Vô Thượng Huệ) cũng nói như vậy, đây tức là diệu pháp tánh của mười phương ba đời tất cả chư Phật nói, nếu có người nghe được diệu pháp tánh này, thì sẽ đắc được đại trí huệ, đắc được pháp nhãn thanh tịnh.

 

Nhĩ thời, kiên cố tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Bồ Tát Kiên Cố Huệ nương oai lưc của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.

Giảng: Lúc đó, vị đại Bồ Tát Kiên Cố Huệ ở phương trên, nương đại oai thần lực gia trì của Phật, quán sát khắp nhân duyên và căn tánh của mười phương chúng sinh, dùng kệ để nói ra pháp muốn nói.

 

Vĩ tai đại quang minh                                Vĩ đại đấng quang minh
Dũng kiện Vô-thượng-Sĩ,                           Dũng kiện vô thượng sĩ
Vì lợi quần mê cố                                       Vì lợi ích quần mê
Nhi hưng ư thế gian.                                  Mà xuất hiện ra đời.

Ðức Phật rất vĩ đại ! Trí huệ đại quang minh của Ngài đã đạt đến tột đỉnh, Phật là dũng mãnh cường kiện, đối với lục độ vạn hạnh rất là dũng kiện. Phật có mười hiệu, Vô Thương Sĩ là một trong mười hiệu, Phật là Đại Sĩ tôn quý nhất, trên hết, chẳng có ai trên Ngài. Tại sao Phật xuất hiện ra thế giới Ta Bà ? Là vì lợi ích cho tất cả quần mê chúng sinh. Phật khiến cho chúng sinh, bỏ mê về với giác ngộ, cải tà về chánh, trở về cội nguồn, thấy được bộ mặt chân thật. Phật vì giáo hóa tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử nên mới hiện ra thế gian.

Thế gian có ba thứ:
1). Khí thế gian.
2). Hữu tình thế gian.
3). Chánh giác thế gian.

Khí thế gian là gì ? Tức là sông núi đất đai, nhà cửa phòng xá. Gì là hữu tình thế gian ? Tức là nơi tất cả chúng sinh ở. Gì là chánh giác thế gian ? Tức là nơi tất cả bậc Thánh ở. Tại hữu tình thế gian có thành Phật, có thành Bồ Tát, có thành A la hán, thế gian của các Ngài ở gọi là chánh giác thế gian.

Thế gian mà hiện tại đang nói, bao quát cả ba thế gian. Phật đến thế gian này để giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ rõ tâm thấy tánh, rốt ráo thành Phật, đây là tâm nguyện của Phật, cũng là tâm từ bi của Phật.

 

Phật dĩ đại bi tâm                                      Phật dùng tâm đại bi
Phổ quán chư chúng sanh,                         Quán khắp các chúng sinh
Kiến tại tam hữu trung                              Thấy ở trong ba cõi
Luân-hồi thọ chúng khổ.                           Luân hồi thọ các khổ.

Phật dùng tâm đại bi, quán sát khắp hết thảy tất cả mười phương chúng sinh, thấy tất cả chúng sinh đang ở trong ba cõi thọ sinh tử, ở trong luân hồi thọ mọi sự khổ, thật là rất thương xót, cho nên đến thế giới này để giáo hóa chúng sinh thoát khỏi biển khổ, đắc được an lạc của Niết Bàn.

Phật giáo hóa chúng sinh, dùng từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng, do đó:
‘’Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.’’

Thế nào là vô duyên đại từ ? Tức là gặp người vô duyên, phải dùng tâm từ để đối đãi với họ, để cảm hóa họ, như vậy mới kết duyên lành. Nếu đối với người vô duyên, mà chẳng kết duyên, chẳng chú ý họ, chẳng gần gũi họ, thì cuối cùng vẫn chẳng có duyên với người. Thế nào là đồng thể đại bi ? Tức là phải nhìn mình không đúng, đừng nhìn họ không đúng. Phật thấy chúng sinh không đúng, thì coi như mình không đúng. Tôi thường nói bài kệ này:

‘’Hãy nhận là mình sai
Đừng nói lỗi người quấy.
Lỗi người tức lỗi mình
Đồng thể gọi đại bi.’’

Các bạn đại khái vẫn chưa dùng được, cho nên vẫn thường nói người khác không đúng. Nếu có thể nghĩ như vầy: Họ không đúng tức là mình không đúng. Tội nghiệp của họ, tức là tội nghiệp của mình, đừng có phân biệt đó đây, nhìn thành một thể, đây tức là tâm đại bi.

Tại sao chúng ta có sinh tử ? Là vì có dục niệm. Dục niệm là gốc rễ của sinh tử. Mục đích chúng ta tu đạo, tức là chấm dứt sinh tử, tu như thế nào ? Phương pháp rất đơn giản, tức là đoạn dục khử ái. Nếu tu hành thành tựu triệt để, thì sinh tử sẽ chấm dứt, chẳng còn dục niệm, thì sẽ đóng chặt cửa địa ngục lại. Cho nên người tu đạo, quan trọng là tu chẳng còn dục niệm, còn dục niệm thì còn lậu, còn lậu thì còn sinh tử. Không còn dục niệm thì không còn lậu, không còn lậu thì không còn sinh tử.

Phật thấy chúng sinh trong dục giới, sắc giới, vô sắc giới, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, đời này sinh làm con nhà họ Trương, đời sau nữa sinh làm con nhà họ Lý. Ðời sau nữa sinh làm cha họ Triệu, hoặc làm ông nhà họ Vương. Cứ chìm nổi như vậy, chẳng có ngừng nghỉ. Có lúc kiếp trước là cha con, đời này là anh em, hoặc kiếp trước làm ông, đời này làm cháu. Ðiên đảo như vậy là nhân duyên khác biệt. Có lúc làm việc thiện được sinh về cõi trời, có lúc làm ác, đọa vào địa ngục, ở trong luân hồi, chuyển lại chuyển đi.

Chúng sinh trong dục giới, đặc biệt dục niệm rất nặng, cho nên chẳng chứng quả. Ở sắc giới vẫn còn hình sắc có thể thấy. Ở cõi vô sắc tuy không hình sắc có thể thấy, nhưng có thức phân biệt. Vì có thức thì vẫn chưa thoát khỏi ba cõi, vì gốc phân biệt vẫn chưa đoạn sạch. Chúng sinh chưa thoát khỏi ba cõi thì vẫn phải thọ các khổ.

Khổ có ba thứ khổ:
1). Khổ khổ.
2). Hoại khổ.
3). Hành khổ.

Lại có tám thứ khổ:
1). Sinh khổ.
2). Già khổ.
3). Bệnh khổ.
4). Tử khổ.
5). Ái biệt ly khổ.
6). Oán tắng hội khổ.
7). Cầu bất đắc khổ.
8). Ngũ ấm xí thạnh khổ.

Ngoài ra còn có vô lượng thứ khổ, suốt thuở vị lai cũng nói không hết.

Chúng sinh phải thọ vô lượng khổ. Có một người mà họ thọ nhiều thứ khổ, trải qua rất nhiều khổ nạn; hoặc có nhiều người mà thọ một thứ khổ, ví như chiến tranh, nhiều người chẳng cơm ăn, chẳng áo mặc, chẳng nhà ở, mọi người cùng thọ một tai nạn. Ðủ thứ khổ, khó mà nói hết được.

Ngoại đạo chẳng chấp đoạn, thì chấp thường, đều là chủ trương cực đoan, chẳng phải lý luận trung đạo. Người chấp đoạn, thì cho rằng người chết đi như đèn tắt, gì cũng chẳng còn nữa, chẳng có nhân quả, chẳng có luân hồi, làm thiện làm ác đều chẳng có báo ứng. Ðây là tà kiến chấp đoạn. Người chấp thường, thì cho rằng người chết rồi thì ở đời sau vẫn làm người, không thể làm súc sinh; súc sinh thì vĩnh viễn làm súc sinh, không thể làm người. Ðây là tà kiến chấp thường. Họ chẳng minh bạch nhân quả tuần hoàn báo ứng, cho nên lưu chuyển trong luân hồi mà thọ các khổ, vĩnh viễn chẳng được giải thoát.

 

Duy trừ chánh đẳng giác                           Chỉ trừ Chánh Đẳng Giác
Cụ đức tôn Đạo sư,                                    Đấng Đạo Sư đủ đức
Nhất thiết chư Thiên Nhân,                       Tất cả các người, trời
Vô năng cứu hộ giả.                                   Không ai cứu hộ được.

Phật dùng tâm đại bi, diệt trừ khổ của chúng sinh. Phật thấy chúng sinh ở trong ba cõi, luân hồi thọ tất cả khổ. Chỉ có Phật mới cứu được chúng sinh lìa khổ được vui. Tất cả các người trời, không thể giải cứu được chúng sinh khổ. Phật là đấng đại Ðạo Sư đầy đủ phước huệ, tức cũng là bậc cứu hộ của ba cõi. Chúng ta cải ác hướng thiện, cải tà về chánh, sửa lỗi làm mới, chúng ta hồi quang phản chiếu, bỏ mê về giác, thì đều được Phật cứu hộ, thoát khỏi biển khổ, đến được bờ kia.

 

Nhược Phật Bồ-tát đẳng,                           Nếu chư Phật Bồ Tát
Bất xuất ư thế gian,                                    Chẳng hiện ra thế gian
Vô hữu nhất chúng sanh,                           Chẳng có chúng sinh nào
Nhi năng đắc an lạc.                                  Đắc được sự an lạc.

Phật thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xuất hiện ra đời. Tất cả hiền Thánh Tăng chúng, cũng xuất hiện ra đời, các Ngài ban niềm vui thật sự cho tất cả chúng sinh. Gì là niềm vui thật sự ? Tức là chẳng có khổ, chỉ có vui.

 

Như Lai đẳng chánh giác,                          Nếu ai thấy Như Lai
Cập chư hiền thánh chúng,                        Sẽ được lợi lành lớn
Xuất hiện ư thế gian                                   Nghe tên Phật liền tin
Năng dữ chúng sanh lạc                             Tức là pháp thế gian.

Tại sao nghĩ muốn thấy Phật ? Vì muốn đắc đượi lợi lành lớn, nghĩa là muốn đắc được Vô Thượng Chánh Dẳng Chánh Giác. Nếu nghe được danh hiệu của mỗi vị Phật, đều sinh tâm tín ngưỡng, thì người đó là đèn tháp của thế gian, hay chiếu sáng tối tăm, dẫn đường chúng sinh mê đồ, đến được chỗ an lạc.

 

Nhược kiến Như Lai giả,             Nếu ai thấy Như-Lai
Vì đắc Đại thiện lợi,                                   Vì được lợi hành lớn
Văn Phật danh sanh tín,                            Nghe hiệu Phật sanh tin
Tức thị thế gian tháp.                                 Thời là tháp thế-gian.

 

Ngã đẳng kiến Thế Tôn                             Chúng tôi thấy Thế Tôn
Vì đắc Đại lợi ích                                       Vì được lợi ích lớn
Văn như thị diệu pháp,                              Nghe diệu pháp như vậy
Tất đương thành Phật đạo.                       Tất sẽ thành Phật đạo.

Mục đích chúng ta, mọi người muốn thấy được đấng Thế Tôn, là muốn đắc được lợi ích lớn. Nghe được diệu pháp không thể nghĩ bàn của đức Thế Tôn nói, thì tương lai đều sẽ thành Phật. Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói:
‘’Gọi một tiếng Nam Mô Phật
Đều đã thành Phật đạo.’’

Lại nói:
‘’Nếu người tâm tán loạn
Cho đến dùng cành hoa
Cúng dường nơi tượng Phật
Dần thấy vô số Phật.

Hoặc có người lạy Phật
Hoặc lại chỉ chắp tay
Cho đến giơ một tay
Hoặc lại chỉ cúi đầu

Dùng đây cúng dường tượng
Dần thấy vô lượng Phật.’’

Chúng ta đi vào chùa tháp, hoặc chỉ chắp tay, hoặc chỉ cúi đầu, lại niệm được Nam Mô Phật, mười phương ba đời tất cả Phật; Nam Mô Pháp, tất cả tôn Pháp của chư Phật nói; Nam Mô Tăng, mười phương tất cả hiền Thánh Tăng. Chẳng những niệm đầy đủ danh hiệu Tam Bảo, mà chỉ niệm một tiếng Nam Mô Phật, thì tương lai sẽ thành Phật đạo.

 

Chư Bồ-tát quá khứ                                   Các Bồ Tát quá khứ
Dĩ Phật uy thần lực,                                   Nhờ Phật oai thần lực
Đắc thanh tịnh Tuệ-nhãn                          Được huệ nhãn thanh tịnh
Liễu chư Phật cảnh giới.                            Rõ cảnh giới chư Phật.

Hết thảy Bồ Tát đến được Bồ đề đạo tràng, thì các Ngài trong quá khứ, đã nhờ đại oai thần lực của mười phương ba đời tất cả chư Phật gia trì, mà đắc được mắt trí huệ thanh tịnh, chiếu rõ các pháp thật tướng, cho nên thấu rõ cảnh giới của tất cả chư Phật. Cảnh giới chư Phật như hư không, song vẫn có diệu hữu. Không chẳng ngại hữu, hữu chẳng ngại không, không hữu chẳng hai, đây tức là cảnh giới của chư Phật.

 

Kim kiến Lô-xá-na,                                    Nay thấy Lô Xá Na
Trọng tăng thanh tịnh tín,                         Liền thêm tin thanh tịnh
Phật trí vô biên tế,                                     Trí Phật không bờ mé
Diễn thuyết bất khả tận.                            Diễn nói không hết được.

Hiện tại chúng ta thấy được, Viên Mãn Báo Thân ngàn trượng Lô Xá Na Phật, liền tăng thêm niềm tin thanh tịnh. Có người thấy tượng Phật trang nghiêm mà tin Phật, sự tin này chẳng thanh tịnh. Có người học Phật pháp, chẳng phải muốn hoằng dương Phật pháp, mà muốn làm đại pháp sư, biện tài vô ngại, đắc được thắng lợi, đây cũng chẳng thanh tịnh. Tin thanh tịnh tức là tin khẩn thành thân thiết, chẳng có pháp nhiễm ô xen tạp vào bên trong, chỉ có niềm tin thanh tịnh.

Trí huệ của Phật chẳng có bờ mé, dù có diễn nói thế nào, cũng không thể nói hết được, trí huệ của Phật vượt hơn tất cả, không thể dùng lời để nói. Phật là chẳng gì mà không biết, chẳng gì mà không thấy.

 

Thắng tuệ đẳng Bồ Tát,                             Thắng Huệ các Bồ Tát
Cập ngã kiên cố tuệ,                                   Và ta Kiên Cố Huệ
Vô số ức kiếp trung,                                   Trong vô số ức kiếp
Thuyết diệc bất năng tận.                          Nói cũng không hết được.

Bồ Tát Kiên Cố Huệ nói: ‘’Phương tây Bồ Tát Thắng Huệ và các Bồ Tát tám phương kia, và ta Kiên Cố Huệ, dù ở trong vô số ức đại kiếp, để nói trí huệ và cảnh giới của Phật, cũng không thể nào nói hết được.’’