Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Như Lai Xuất Hiện 2

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 37

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

PHẨM NHƯ LAI XUẤT HIỆN 2

Dĩ kỳ tâm vô lượng biến thập phương cố, sở hạnh vô ngại như hư không cố, phổ nhập Pháp giới cố, trụ chân thật tế cố, vô sanh vô diệt cố, đẳng trụ tam thế cố, vĩnh ly nhất thiết phân biệt cố, trụ tận hậu tế thệ nguyện cố, nghiêm tịnh nhất thiết thế giới cố, trang nghiêm nhất nhất Phật thân cố.

Do vì tâm vô lượng khắp mười phương vậy. Vì sở hành vô ngại như hư không vậy. Vì vào khắp pháp giới vậy. Vì trụ chơn thiệt tế vậy. Vì vô sanh vô diệt vậy. Vì bình đẳng trụ tam thế vậy. Vì lìa hẳn tất cả phân biệt vậy. Vì an trụ thệ nguyện tốt hết thưở vị lai vậy. Vì nghiêm tịnh tất cả thế giới vậy. Vì trang nghiêm mỗi mỗi thân Phật vậy.

Giảng: Vì tâm Phật vô lượng, nên khắp mười phương. Tâm lượng của chúng sinh, cũng khắp cùng mười phương. Phật vốn chẳng có hình tướng, mà vì chúng sinh hiện hình tướng. Vì tu hạnh môn vô ngại, nên thanh tịnh như hư không. Phật hay vào khắp tất cả pháp giới, nên trụ chân thật lý thể. Vì pháp thân của Phật không sinh cũng không diệt, bình đẳng trụ ba đời, nên vĩnh viễn lìa tất cả sự phân biệt. Vì trụ thệ nguyện hết thuở vị lai. Vì trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới. Vì trang nghiêm hết thảy thân Phật. Vì những nguyên nhân đó, nên mới thị hiện mười thứ pháp thân.

 

Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Lúc đó, vị đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa lý vừa nói ở trước, mà dùng hai mươi bài kệ để nói ra.

 

Thí như hư không biến thập phương                 Ví như hư không khắp mười phương
Nhược sắc phi sắc hữu phi hữu                          Hoặc sắc phi sắc, hữu phi sắc
Tam thế chúng sanh thân quốc độ                    Tam thế chúng sanh : thân, quốc độ
Như thị phổ tại vô biên tế.                                   Ở khắp không biên tế như vậy

Giảng: Ví như hư không, khắp cùng mười phương thế giới. Hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tướng, hoặc không có tướng. Hoặc thế giới ba đời, hoặc thân của tất cả chúng sinh, hoặc tất cả cõi nước, khắp cùng như vậy không có bờ mé.

 

Chư Phật chân thân diệc như thị                       Cũng thế, chơn thân của chư Phật
Nhất thiết pháp giới vô bất biến,                        Tất cả pháp giới đều khắp cả
Bất khả đắc kiến bất khả thủ                             Chẳng thể thấy được, chẳng lấy được
Vi hóa chúng sanh nhi hiện hình.                       Vì độ chúng sanh mà hiện thân

Giảng: Chân thân của chư Phật cũng như vậy, không có bờ mé. Chân thân của Phật, chẳng có một chỗ nào chẳng đầy khắp hư không pháp giới. Nhưng chân thân của Phật, nếu muốn thấy không thể thấy, nếu muốn lấy không thể lấy. Phật vì giáo hoá tất cả chúng sinh, mới thị hiện ra thế gian.

 

Thí như hư không bất khả thủ                           Ví như hư không chẳng lấy được
Phổ sử chúng sanh tạo chúng nghiệp                Khiến khắp chúng sanh tạo những nghiệp
Bất niệm: ngã kim hà sở tác                               Hư không chẳng nghĩ : ta làm gì ?
Vân hà ngã tác vi thùy tác?                                Ta làm thế nào, làm vì ai ?

Giảng: Ví như hư không, không thể lấy được, mà khắp khiến cho tất cả chúng sinh tạo tất cả nghiệp. Phật chẳng nghĩ hiện tại ta đang làm gì ? Ta làm vì ai ? Chẳng có những tâm phân biệt như vậy.

 

Chư Phật thân nghiệp diệc như thị,                   Thân nghiệp của Phật cũng như vậy
Phổ sử quần sanh tu thiện Pháp                        Khiến khắp quần sanh tu pháp lành
Như Lai vị tằng hữu phân biệt:                          Như Lai chưa từng có phân biệt
Ngã kim ư bỉ chủng chủng tác.                          Rằng ta làm những việc nơi kia

Giảng: Thân nghiệp của mười phương chư Phật cũng như vậy, Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, tu tập đủ thứ pháp lành. Như Lai chưa từng có tâm phân biệt : Hiện tại ta đối với tất cả chúng sinh, làm đủ thứ việc lành, trợ giúp họ lìa khổ được vui, Phật chẳng có những tư tưởng như thế.

 

Thí như nhật xuất Diêm-phù-đề                         Ví như mặt nhựt mọc thế gian
Quang minh phá ám tất vô dư                           Ánh sáng phá tất cả tối tăm
Sơn thọ trì liên địa chúng vật                              Núi, cây, ao sen, đất, các vật
Chủng chủng phẩm loại giai mông ích.              Tất cả mọi loài đều lợi ích

Giảng: Ví như khi mặt trời mọc lên ở cõi Diêm Phù Đề Nam Thiệm Bộ Châu. Ánh sáng mặt trời phá tan tất cả đen tối của đại địa, hiện ra ánh sáng, chẳng có nơi nào đen tối. Bất cứ là núi rừng, hoặc ao hồ, hoặc hoa sen, hoặc đại địa, hết thảy tất cả sư vật, đủ thứ phẩm loại, bao quát phi, cầm, động, thực. Phàm là động vật có khí, có huyết, như chúng sinh hai chân, hoặc bốn chân, nhiều chân, hoặc không chân, đều gọi là hữu tình chúng sinh. Hoa cỏ cây cối, vàng đá khoáng thạch, đều gọi là vô tình chúng sinh. Mặc dù chúng sinh phẩm loại khác nhau, nhưng đều được ánh sáng mặt trời chiếu khắp, đều thọ được lợi ích. Do đó : Mỗi loài được sinh tồn, mỗi loài được lớn lên.

 

Chư Phật nhật xuất diệc như thị                        Chư Phật xuất hiện cũng như vậy
Sanh trưởng nhân Thiên Chúng thiện hạnh     Sanh trưởng hạnh lành cho nhơn thiên
Vĩnh trừ si ám đắc trí minh                                Trừ hẳn si tối được trí sáng
Hằng thọ tôn vinh nhất thiết lạc.                        Hằng thọ tôn vinh tất cả vui

Giảng: Khi trí huệ của mười phương chư Phật xuất hiện ra đời, cũng lại như thế. Hay sinh trưởng tất cả hạt giống hạnh lành của con người tại nhân gian và chư Thiên ở trên trời gieo trồng. Vĩnh viễn tiêu trừ đen tối ngu si, đắc được quang minh trí huệ. Phật thường được chúng sinh tôn vinh, tất cả chúng sinh đều hoan hỉ Phật.

 

Thí như nhật quang xuất hiện thời                    Ví như mặt nhựt lúc xuất hiện
Tiên chiếu sơn vương thứ dư sơn                       Trước chiếu núi cao kế các núi
Hậu chiếu cao nguyên cập đại địa                      Sau chiếu cao nguyên và đại địa
Nhi nhật vị thủy hữu phân biệt.                          Mà mặt nhựt vẫn không phân biệt

Giảng: Ví như khi ánh sáng mặt trời xuất hiện, trước hết chiếu núi chúa Tu Di, sau chiếu núi Thiết Vi, và các núi thường khác, sau cùng chiếu cao nguyên và đại địa. Mặt trời vốn chẳng có tư tưởng phân biệt như thế, chẳng qua tuỳ theo sự cao thấp khác nhau, nên mới có sự chiếu trước chiếu sau mà thôi.

 

Thiện-Thệ quang minh diệc như thị                   Thiện Thệ quang minh cũng như vậy
Tiên chiếu Bồ Tát thứ duyên giác                       Trước chiếu Bồ Tát, kế Duyên Giác
Hậu chiếu Thanh văn cập chúng sanh              Sau chiếu Thanh Văn và chúng sanh
Nhi Phật bản lai vô động niệm.                           Mà Phật bổn lai không động niệm

Giảng: Quang minh của Thiện Thệ (Phật), trước hết chiếu Bồ Tát. Bồ Tát tu pháp môn lục độ vạn hạnh, lục độ tức là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, mà đắc được địa vị tam Hiền thập Thánh. Kế tiếp chiếu bậc Duyên Giác. Duyên Giác thì tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, mười hai nhân duyên tức là : Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, chứng đắc quả Bích Chi Phật; sau đó chiếu đến bậc Thanh Văn. Thanh Văn tu : Khổ, tập, diệt, đạo, pháp bốn Thánh đế, chứng được quả A la hán; sau cùng lại chiếu đến tất cả chúng sinh căn lành quyết định, nhưng Phật vốn chẳng có tư tưởng phân biệt như thế, tuyệt đối chẳng phải tư tưởng trước chiếu Bồ Tát, cuối cùng chiếu chúng sinh.

 

Thí như sanh manh bất kiến nhật                      Như sanh mù chẳng thấy mặt trời
Nhật quang diệc vi tác nhiêu ích,                       Ánh sáng cũng lợi ích cho họ
Lệnh tri thời tiết thọ ẩm thực,                            Khiến biết thời tiết thọ uống ăn
Vĩnh ly chúng hoạn thân an ẩn.                         Lìa hẳn tai hoạn thân an ổn

Giảng: Ví như người sinh ra mù lòa, lúc mới sinh ra chẳng có mắt, chưa từng thấy được ánh sáng mặt trời, chẳng biết là như thế nào ? Nhưng vẫn đắc được lợi ích của ánh sáng mặt trời, khiến cho họ biết thời tiết, biết thọ ăn uống, nhờ nhân duyên đó, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả bệnh hoạn, thân thể đắc được an ổn.

 

Vô tín chúng sanh bất kiến Phật,                       Bất tín chúng sanh chẳng thấy Phật
Nhi Phật diệc vi hưng nghĩa lợi,                          Phật cũng vì họ làm lợi ích
Văn danh cập dĩ xúc quang minh,                     Nghe danh nhẫn đến chạm quang minh
Nhân thử nãi chí đắc Bồ-đề.                               Nhơn đây nhẫn đến được Bồ Ðề

Giảng: Chúng sinh chẳng có niềm tin, chẳng thấy được Phật. Tuy nhiên Phật vẫn hiện tại ở trước mặt họ, họ giống như người sinh ra mù loà, không cách chi thấy được; tuy nhiên chẳng thấy được Phật, nhưng Phật rất từ bi, cũng sẽ tiêu diệt nghiệp chướng của họ, khiến cho họ đắc được lợi ích; bất quá lợi ích đắc được, chẳng viên mãn mà thôi, hoặc nghe được danh hiệu của Phật, hoặc  xúc chạm được quang minh của Phật, nhờ đó mà có chút nhân duyên, cho đến đắc được quả giác bồ đề.

 

Thí như tịnh nguyệt tại hư không,                     Ví như tịnh nguyệt tại hư không
Năng tế chúng tinh thị doanh khuyết,               Hay chói tinh tú, hiện tròn khuyết
Nhất thiết thủy trung giai hiện ảnh                    Tất cả nước trong đều hiện hình
Chư hữu quán chiêm tất đối tiền.                       Ai cũng xem thấy ở trước mình

Giảng: Ví như mặt trăng trong sáng ở trong hư không, che lấp tất cả ánh sáng của tinh tú, thị hiện sự tròn khuyết. Những ngày đầu tháng thì mặt trăng khuyết, ngày rằm thì trăng tròn. Tất cả ao hồ vũng nước, đều có bóng mắt trăng hiện ra, hết thảy chúng sinh, khi ngước nhìn mặt trăng, đều nhìn cảm giác mặt trăng đang ở trước mặt mình, chuyên chiếu đến mình.

Hiện tại đang giảng đến đoạn kinh văn mặt trăng sao, khiến cho tôi nghĩ đến câu chuyện đức Khổng Tử mượn gạo, nói ra cho quý vị nghe. Vào thời xuân thu ở Trung Quốc, có nhà đại giáo dục, ông ta đề xướng giáo dục bình dân, hữu giáo vô loại làm tông chỉ. Lúc đó, chỉ có đệ tử quý tộc mới có tư cách thọ giáo dục, đệ tử bình dân, vốn chẳng có cơ hội đi học. Khi Khổng Tử đề xướng thì có ba ngàn đệ tử đến học, một thời đệ tử đầy thiên hạ.

Khi đức Khổng Tử về già, dẫn những người đệ tử chu du liệt quốc, đến các nơi giảng dạy. Một lần nọ, bất hạnh đến mảnh đất Trần Thái, thì bị thiếu lương thực, không cách chi duy trì được sự sinh hoạt. Đó là vấn đề nghiêm trọng, nên thượng lượng với mọi người, xem ai có thể đi mượn lương thực? Đang lúc thương lượng thì có người đưa ra ý kiến, nghe nói Phạm Dũng tích trữ rất nhiều lương thực, mình nên cho người đến đó mượn lương. Đức Khổng Tử bèn sai Tử Lộ đi mượn gạo. Tử Lộ cảm thấy mình là đệ tử đắc ý nhất của đức Khổng Tử, làm chút việc nầy nhất định sẽ thành công, để các sư huynh đệ khỏi bị chết đói. Do đó rất đắc ý như vậy, đi đến nhà Phạm Dũng. Gặp Phạm Dũng nói rõ ý mình đến.

Phạm Dũng nói: – “Anh Tử Lộ, anh đến mượn gạo, không sao. Nhưng tôi có câu hỏi, nếu anh trả lời thoả đáng, thì tôi sẽ cho anh mượn gạo. Nếu trả lời không đúng, thì tôi không cho mượn”.

Lúc đó, Tử Lộ sinh ra tâm cống cao ngã mạn, tâm nghĩ không thể bị câu hỏi của ông ta làm khó mình được, bèn nói với Phạm Dũng rằng: – “Xin ông cứ hỏi”.

Phạm Dũng hỏi: – “Cái gì nhiều, cái gì ít ? Điều gì vui vẻ, điều gì buồn phiền?”

Tử Lộ không ngần ngại đáp: – “Tinh tú thì nhiều, mặt trăng thì ít. Cưới hỏi thì vui vẻ, người chết thì buồn phiền”.

Phạm Dũng nghe, lắc đầu nói: – “Không đúng! Không đúng! Không thể cho anh mượn gạo”.

Lúc đó Tử Lộ buồn rầu cúi đầu quay về gặp đức Khổng Tử, kể lại đối thoại vừa rồi.

Khổng Tử nghe Tử Lộ đáp, bèn nói với Tử Lộ: – “Con trả lời sai rồi, cho nên Phạm Dũng không cho mượn gạo”. Con nên trở lại nói với ông ta rằng: “Kẻ tiểu nhân thì nhiều, quân tử thì ít, khi cho mượn thì vui vẻ, khi cần thì buồn phiền”.

Tử Lộ bèn đi đến nhà Phạm Dũng, gặp Phạm Dũng nói: Câu hỏi của ông, thầy của tôi đáp rằng: “Kẻ tiểu nhân thì nhiều, quân tử thì ít, lúc cho mượn thì vui vẻ, lúc cần thì buồn phiền”. Không biết có đúng chăng? Phạm Dũng nghe rồi, bèn cười vang lên: “Thầy của ông quả nhiên là Thánh nhân, tôi sẽ cho anh mượn gạo”. Do đó, Khổng Tử với môn đồ được Phạm Dũng trợ giúp trở về nước Lỗ. Tại sao phải nói ra câu chuyện này? Vì nói về tinh tú, nên đưa ra để tham khảo. Chúng ta bất cứ làm gì, phải xử lý cẩn thận.

 

Như Lai tịnh nguyệt diệc phục nhiên                 Như Lai quang minh cũng như vậy
Năng tế dư thừa thị tu đoản,                              Hay che Nhị thừa, hiện lâu mau
Phổ hiện Thiên Nhân tịnh tâm thủy                   Hiện khắp trong tâm của nhơn thiên
Nhất thiết giai vị đối kỳ tiền.                               Ai ai cũng nói Phật trước mình

Giảng: Mặt trăng sáng mát mẻ của Như Lai cũng như vậy, do đó có câu:

Phật như mặt trăng mát mẻ
Thường lơ lửng trên bầu trời
Chúng sinh tâm sạch dơ
Bóng bồ đề hiện ra”.

Quang minh của Phật hay che lấp quang minh của hàng nhị thừa, hay thị hiện thọ mạng dài, hoặc thọ mạng ngắn, hiện khắp trong tâm nước tịnh của trời và người. Mỗi chúng sinh đều nói: “Phật đang ở trước mặt mình, đang nói pháp với mình.

 

Thí như Phạm Vương trụ tự cung,                    Thí như Phạm Vương ở cung mình
Phổ hiện tam thiên chư phạm xứ                       Hiện khắp nơi trong cõi Ðại Thiên
Nhất thiết nhân thiên hàm đắc kiến                   Tất cả nhơn thiên đều được thấy
Thật bất phần thân hướng ư bỉ.                         Thiệt chẳng phân thân đến nơi kia

Giảng: Ví như Đại Phạm Thiên Vương ở trong cung điện của mình, hay hiện khắp tất cả các cõi Phạm Thiên trong ba ngàn đại thiên thế giới. Hết thảy người trời đều thấy được Đại Phạm Thiên Vương. Kỳ thật, vị Đại Phạm Thiên Vương đó, chẳng có phân thân đến ở trước mặt chúng sinh. Ông ta chẳng động bổn xứ, thị hiện đến trước mặt hết thảy chúng sinh.

 

Chư Phật hiện thân diệc như thị,                       Chư Phật hiện thân cũng như vậy
Nhất thiết thập phương vô bất biến,                  Tất cả mười phương đều khắp cả
Kỳ thân vô số bất khả xưng                                Thân Phật vô số chẳng kể được
Diệc bất phần thân bất phân biệt.                     Cũng chẳng phân thân chẳng phân biệt

Giảng: Mười phương chư Phật thị hiện thân cũng như vậy, tất cả mười phương thế giới, Phật đều thị hiện thân. Vì pháp thân của Phật có nhiều vô số vô lượng, không thể đếm được có bao nhiêu? Cũng chẳng phải phân thân đi đến các thế giới, cũng chẳng sinh tâm phân biệt.

 

Như hữu y vương thiện phương thuật,              Như có Y Vương giỏi phương thuật
Nhược hữu kiến giả bệnh giai dũ                        Nếu ai được thấy bịnh đều lành
Mạng tuy dĩ tận dược đồ thân,                          Y Vương dầu chết, thuốc thoa thân
Lệnh kỳ tác vụ tất như sơ.                                  Khiến thân hành động như lúc sống

Giảng: Ví như có vị đại y vương, ông ta nghiên cứu đủ thứ tánh thuốc, lại nghiên cứu đủ thứ y thuật. Nếu có chúng sinh gặp được đại y vương, thì bất cứ chứng bệnh gì, không cần uống thuốc thì khỏi bệnh. Vị đại y vương đó, khi ông ta biết mình sắp chết, bèn dùng đủ thứ thuốc chế thành thuốc hay, rồi thoa lên thân mình, khiến cho sau khi mình chết rồi, thân thể vĩnh viễn không huỷ hoại, cũng chẳng thối rữa, cũng chẳng khô héo, giống như lúc còn sống. Tuy nhiên đại y vương đã chết, nhưng vẫn còn chữa trị cho bệnh nhân như lúc còn sống; tóm lại, tinh thần của vị đại y vương bất tử, vẫn vì người cứu chữa.

 

Tối thắng y vương diệc như thị,                          Vô thượng Y Vương cũng như vậy
Cụ túc phương tiện nhất thiết trí,                      Ðầy đủ phương tiện nhứt thiết trí
Dĩ tích diệu hạnh hiện Phật thân                       Do diệu hạnh xưa hiện Phật thân
Chúng sanh kiến giả phiền não diệt.                  Chúng sanh được thấy phiền não diệt

Giảng: Đại y vương tối thù thắng (Phật) cũng như thế. Phật đầy đủ các thứ phương tiện và nhất thiết trí huệ, nhờ thuở xưa tu công đức, tích tập căn lành, tu hạnh môn không thể nghĩ bàn, cho nên hiện tại đã thành Phật. Nếu có chúng sinh thấy được Phật, thì tất cả phiền não đều sẽ tiêu diệt hết.

 

Thí như hải trung hữu bảo vương,                     Ví như trong biển có bửu vương
Phổ xuất vô lượng chư quang minh,                  Khắp pháp vô lượng những quang minh
Chúng sanh xúc giả đồng kỳ sắc                        Chúng sanh chạm đến đồng màu bửu
Nhược hữu kiến giả nhãn thanh tịnh.                Nếu ai được thấy, mắt thanh tịnh

Giảng: Ví như trong biển cả có báu chúa ma ni, khắp phóng ra vô lượng tất cả quang minh. Nếu có chúng sinh xúc chạm được quang minh của báu chúa ma ni, thì lập tức đồng màu sắc với báu chúa đó. Nếu có chúng sinh thấy được báu chúa ma ni, thì liền đắc được pháp nhãn thanh tịnh.

 

Tối thắng bảo vương diệc như thị,                     Vô thượng Y Vương cũng như vậy
Xúc kỳ quang giả tất đồng sắc,                           Chạm quang minh Phật tất đồng màu
Nhược hữu đắc kiến ngũ nhãn khai,                  Nếu ai được thấy thành ngũ nhãn
Phá chư trần ám trụ Phật địa.                           Phá những mê tối trụ Phật địa

Giảng: Báu chúa tối thù thắng (Phật) cũng như vậy. Nếu có chúng sinh xúc chạm được quang minh của Phật, thì cũng đồng với màu sắc vàng. Nếu có chúng sinh thấy được thân Phật, thì liền đắc được ngũ nhãn. Ngũ nhãn tức là: Thiên nhãn, nhục nhãn (chẳng phải nhục nhãn của phàm phu), pháp nhãn, huệ nhãn, Phật nhãn. Hay phá tan tất cả ngu si đen tối, tiêu diệt được tất cả tà kiến. Trụ nơi Phật địa, sinh ra trí huệ đại quang minh.

 

Thí như như ý ma-ni bảo,                                   Ví như ma ni như ý bửu
Tùy hữu sở cầu giai mãn túc,                             Tùy có người cầu đều đầy đủ
Thiểu phước chúng sanh bất năng kiến             Chúng sanh kém phước chẳng thấy được
Phi thị bảo vương hữu phân biệt.                       Chẳng phải bửu vương có phân biệt

Giảng: Ví như châu báu ma ni như ý, hay tuỳ thuận tâm ý của chúng sinh, phàm là cầu vật gì, thì trong châu như ý đều hiện ra, đều được toại tâm mãn nguyện. Nhưng châu báu đó, chúng sinh ít phước báo không thể thấy được châu ma ni như ý, chẳng phải châu ma ni như ý có sự phân biệt, mà là do người ít phước báo, vốn chẳng thấy được châu báu nầy.

 

Thiện-Thệ bảo vương diệc như thị,                    Thiện Thệ Bửu Vương cũng như vậy
Tất mãn sở cầu chư dục lạc,                               Người cầu đều toại theo sở thích
Vô tín chúng sanh bất kiến Phật,                       Chúng sanh không tin chẳng thấy Phật
Phi thị Thiện-Thệ tâm khí xả.                             Chẳng phải Thiện Thệ quên bỏ họ.

Giảng: Thiện Thệ báu chúa (Phật) cũng như vậy. Hay khiến cho được toại tâm mãn nguyện, đắc được tất cả dục lạc. Chúng sinh chẳng có niềm tin, thì chẳng thấy được Phật, chẳng phải Phật chẳng hoan hỉ họ, chẳng gần gũi họ, mà là do người chẳng có niềm tin, giống như người sinh ra mù loà, Phật hiện ra ở trước họ, họ cũng chẳng thấy được, giống như đạo lý mặt trời ở trong hư không, người sinh ra mù loà, nhìn chẳng thấy được mặt trời, đó chẳng phải Phật có tâm xả bỏ họ.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác âm thanh?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết như thế nào về âm thanh của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát phải làm thế nào biết được âm thanh của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác? Bây giờ tôi sẽ nói rõ với các vị.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri Như Lai âm thanh biến chí, phổ biến vô lượng chư âm thanh cố.

Ðại Bồ Tát phải biết âm thanh của đức Như Lai là đến khắp tất cả, khắp đến vô lượng âm thanh.

Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát các vị phải biết âm thanh Như Lai đến khắp tất cả âm thanh, vì khắp cùng vô lượng các âm thanh. Tất cả âm thanh đều bao quát ở trong âm thanh của Như Lai.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh tùy kỳ tâm lạc giai lệnh hoan hỉ, thuyết Pháp minh liễu cố

Phải biết âm thanh của đức Như Lai, tùy tâm sở thích của thính giả đều làm cho họ hoan hỷ, vì thuyết pháp minh liễu.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai, tuỳ thuận tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ đắc được sự hoan hỉ, vì thuyết tất cả pháp thấu suốt rõ ràng.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh tùy kỳ tín giải giai lệnh hoan hỉ, tâm đắc thanh lương cố

Phải biết âm thanh của đức Như Lai, tùy tín giải của thính giả đều làm cho họ hoan hỉ, vì tâm được thanh lương.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai, tuỳ thuận theo sự tin hiểu của tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ hoan hỉ, vì trong tâm đắc được mát mẻ.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh hóa bất thất thời, sở ưng văn giả vô bất văn cố

Phải biết âm thanh của đức Như lai giáo hóa chẳng lỗi thời, vì người đáng được nghe thời đều được nghe.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai, khi chúng sinh đáng được giáo hoá, thì liền đến giáo hoá, chẳng lỗi thời, vì những người đáng được nghe pháp, thảy đều được nghe Phật pháp.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh vô sanh diệt, như hô hưởng cố

Phải biết âm thanh của đức Như Lai không sanh diệt, vì như vang ứng tiếng.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai chẳng có tánh sinh diệt, vì như tiếng ứng vang.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh vô chủ, tu tập nhất thiết nghiệp sở khởi cố

Phải biết âm thanh của đức Như Lai không chủ, vì do tu tập tất cả công hạnh phát khởi.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai chẳng có chủ tể, vì thuở xưa tu tập tất cả nghiệp lành sinh khởi.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh thậm thâm, nan khả so lường cố

Phải biết âm thanh của đức Như Lai rất sâu, vì khó lường được.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai thâm sâu không thể dò lường, rốt ráo sâu rộng bao nhiêu? Lớn bao nhiêu? Vì chẳng có cách gì có thể độ lượng được.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh vô tà khúc, Pháp giới sở sanh cố

Phải biết âm thanh của đức Như Lai không tà vạy, vì do pháp giới phát sanh.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai không tà khúc, lời nói ra đều là chánh tri chánh kiến, chẳng có tà tri tà kiến. Vì âm thanh Như Lai từ pháp giới sinh ra.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh vô đoạn tuyệt, phổ nhập Pháp giới cố

Phải biết âm thanh của đức Như Lai không đoạn tuyệt, vì vào khắp pháp giới.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai vĩnh viễn không đoạn tuyệt, vì tận hư không khắp pháp giới, đều có âm thanh của Như Lai.

 

Ứng tri Như Lai âm thanh vô biến dịch, chí ư cứu cánh cố.

Phải biết âm thanh của đức Như Lai không biến đổi, vì đã đến nơi rốt ráo.

Giảng: Phải biết âm thanh Như Lai không khi nào biến đổi, vì đến nơi rốt ráo.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri Như Lai âm thanh, phi lượng, phi vô lượng, phi chủ, phi vô chủ, phi thị, phi vô thị. Hà dĩ cố? Phật tử! thí như thế giới tướng dục hoại thời, vô chủ vô tác, Pháp nhĩ nhi xuất tứ chủng âm thanh.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết âm thanh của đức Như Lai chẳng phải lượng, chẳng phải vô lượng, chẳng phải chủ, chẳng phải không chủ, chẳng phải thị giáo, chẳng phải không thị giáo. Tại sao ?

Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát các vị phải biết âm thanh Như Lai, chẳng phải có lượng, cũng chẳng phải vô lượng. Chẳng phải có chủ, cũng chẳng phải vô chủ. Chẳng phải có thị, cũng chẳng phải vô thị. Tại sao vậy?

 

Hà dĩ cố? Phật tử! thí như thế giới tướng dục hoại thời, vô chủ vô tác, Pháp nhĩ nhi xuất tứ chủng âm thanh. Kỳ tứ giả hà?

Ví như thế giới lúc sắp hoại, không chủ không làm, tự nhiên phát ra bốn thứ âm thanh. Những gì là bốn thứ âm thanh?

Giảng: Các vị Phật tử! Ví như khi thế giới sắp hoại, chẳng có chủ tể, chẳng có tạo tác, trên bản thể của pháp là phải như vậy, mà phát ra bốn thứ âm thanh. Những gì là bốn thứ âm thanh?

 

Nhất viết: nhữ đẳng đương tri sơ Thiền an lạc, ly chư dục ác, siêu quá dục giới. Chúng sanh văn dĩ, tự nhiên nhi đắc thành tựu sơ Thiền, xả dục giới thân, sanh ư phạm thiên.

Một là âm thanh nói : ” Mọi người nên biết Sơ thiền an lạc, rời những lỗi dục nhiễm vượt khỏi cõi dục”. Chúng sanh nghe rồi tự nhiên được thành tựu Sơ thiền, bỏ thân cõi dục sanh lên Phạm Thiên.

Giảng: Âm thanh thứ nhất, tự nhiên nói rằng: “Các vị nên biết, cõi trời Sơ thiền (Trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Phạm Thiên của sắc giới), là nơi rất an lạc, chẳng có tai nạn, đã lìa khỏi tất cả mọi dục ác, chẳng còn tham tài, sắc, danh, ăn và ngủ năm dục. Vượt qua sự an lạc của sáu cõi trời dục giới (Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi, trời Dạ Ma, trời Đâu Suất, trời Hoá Lạc, trời Tha Hoá Tự Tại)”. Chúng sinh nghe lời đó rồi, tự nhiên đắc được thành tựu cảnh giới sơ thiền. Xả bỏ thân thể của dục giới, sinh về cõi Phạm Thiên, đắc được thân thể thanh tịnh.

 

Nhị viết: nhữ đẳng đương tri nhị Thiền an lạc, vô giác vô quán, siêu ư phạm thiên. Chúng sanh văn dĩ, tự nhiên nhi đắc thành tựu nhị Thiền, xả phạm thiên thân, sanh Quang âm Thiên.

Hai là âm thanh nói : ” Mọi người nên biết Nhị thiền an lạc không giác không quán vượt hơn Phạm Thiên”. Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Nhị thiền, bỏ thân Phạm Thiên sanh lên Quang Âm Thiên.

Giảng: Âm thanh thứ hai, tự nhiên nói: “Các vị nên biết: Trời Nhị thiền (Trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm của sắc giới), an lạc hơn so với trời Sơ thiền, nơi đó không giác, không quán, vượt qua cảnh giới cõi Phạm Thiên”. Chúng sinh nghe lời đó rồi, tự nhiên được thành tựu cảnh giới Nhị thiền. Xả bỏ thân thể Phạm Thiên, sinh về cõi trời Quang Âm.

 

Tam viết: nhữ đẳng đương tri tam Thiền an lạc, vô hữu quá thất, siêu Quang âm Thiên. Chúng sanh văn dĩ, tự nhiên nhi đắc thành tựu tam Thiền, xả quang âm thân, sanh biến tịnh Thiên.

Ba là âm thanh nói : ” Mọi người nên biết Tam thiền an lạc không lỗi lầm vượt hơn Quang Âm Thiên”. Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Tam thiền, bỏ thân Quang Âm Thiên sanh lên Biến Tịnh Thiên.

Giảng: Âm thanh thứ ba, tự nhiên nói: “Các ông nên biết, trời Tam thiền (Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh), an lạc hơn so với trời Nhị thiền, chẳng có mọi sự lỗi lầm, an lạc vượt qua cõi trời Quang Âm”. Chúng sinh nghe lời rồi, tự nhiên được thành tựu cảnh giới Tam thiền. Xả bỏ thân thể trời Quang Âm, sinh về cõi trời Biến Tịnh.

 

Tứ viết: nhữ đẳng đương tri tứ Thiền tịch tĩnh, siêu biến tịnh Thiên. Chúng sanh văn dĩ, tự nhiên nhi đắc thành tựu tứ Thiền, xả biến tịnh thân, sanh Quảng quả Thiên.

Bốn là âm thanh nói : ” Mọi người nên biết Tứ thiền tịch tịnh hơn Biến Tịnh Thiên”. Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Tứ thiền, bỏ Biến Tịnh Thiên sanh lên Quảng Quả Thiên.

Giảng: Âm thanh thứ tư, tự nhiên nói rằng: “Các ông nên biết, trời Tứ thiền (Trời Phước Sinh, trời Phước Ái, trời Quảng Quả) rất là tịch tịnh, an lạc hơn so với cõi trời Biến Tịnh”. Chúng sinh nghe lời đó rồi, tự nhiên được thành tựu cảnh giới Tứ thiền. Xả bỏ thân thể trời Biến Tịnh, sinh về cõi trời Quảng Quả. Đó là bốn thứ âm thanh tự nhiên phát sinh.

 

Thị vi tứ. Phật tử! thử chư âm thanh vô chủ vô tác, đãn tùng chúng sanh chư thiện nghiệp lực chi sở xuất sanh.

Đó là bốn. Bốn thứ âm thanh trên đây không chủ không làm, chỉ do sức thiện nghiệp của chúng sanh mà phát sanh.

Giảng: Đó là bốn. Các vị Phật tử! Các âm thanh đó, chẳng có chủ tể, chẳng có tạo tác, nhưng do từ sức các nghiệp lành của chúng sinh mà sinh ra.

 

Phật tử! Như Lai âm thanh diệc phục như thị, vô chủ vô tác, vô hữu phân biệt, phi nhập phi xuất, đãn tùng Như Lai công đức pháp lực, xuất ư tứ chủng quảng đại âm thanh. Kỳ tứ giả hà?

Cũng vậy âm thanh của đức Như Lai, không chủ không làm, không có phân biệt, chẳng phải nhập chẳng phải xuất, chỉ từ pháp lực công đức của Như Lai phát sanh bốn thứ âm thanh quảng đại. Những gì là bốn thứ âm thanh?

Giảng: Các vị Phật tử! Âm thanh của Như Lai cũng lại như thế, chẳng có chủ tể, chẳng có tạo tác, chẳng có sự phân biệt, chẳng phải vào, chẳng phải ra. Do từ sức pháp công đức của Như Lai, tự nhiên sinh ra bốn thứ âm thanh rộng lớn nầy. Những gì là bốn thứ âm thanh nầy?

 

Nhất viết: nhữ đẳng đương tri nhất thiết chư hạnh giai tất thị khổ, sở vị: địa ngục khổ, súc sanh khổ, ngạ quỷ khổ, vô phước đức khổ, trước ngã ngã sở khổ, tác chư ác hạnh khổ. dục sanh nhân, Thiên đương chủng thiện căn; sanh nhân, Thiên trung, ly chư nạn xứ. Chúng sanh văn dĩ, xả ly điên đảo, tu chư thiện hạnh, ly chư nạn xứ, sanh nhân, Thiên trung.

Một là âm thanh nói : ” Ðại chúng nên biết tất cả hành pháp đều là khổ. Những là địa ngục là khổ, súc sanh là khổ, ngạ quỷ là khổ, không phước đức là khổ, chấp ngã ngã sở là khổ, tạo những ác hạnh là khổ. Muốn sanh cõi trời hay nhơn gian phải gieo căn lành sanh trong nhơn thiên rời khỏi các chỗ nạn”. Chúng sanh nghe xong bỏ lìa điên đảo tu những hạnh lành, rời khỏi những chỗ nạn mà sanh trong nhơn thiên.

Giảng: Âm thanh thứ nhất tự nhiên nói: “Các vị nên biết, tất cả các hành, tất cả hành vi, tạo nghiệp, đều là quả khổ. Tạo nghiệp địa ngục, cũng phải thọ quả khổ, tạo nghiệp ngạ quỷ, cũng phải thọ quả khổ, tạo nghiệp súc sinh, cũng phải thọ quả khổ. Chẳng có phước đức cũng là khổ, chấp vào cái ta, mà sinh ra của ta cũng là khổ. Có chấp cái ta, thì có chấp pháp, cũng là khổ. Làm tất cả hạnh ác cũng là khổ. Nếu muốn sinh về cõi nhân gian làm người, hoặc muốn sinh về cõi trời, thì phải trồng nhiều căn lành, trồng nhiều công đức. Sinh trong trời người, lìa khỏi nơi các nạn”. Chúng sinh nghe rồi, xả lìa điên đảo, tu hành các hạnh lành, sinh về cõi trời người.

 

Nhị viết: nhữ đẳng đương tri nhất thiết chư hạnh chúng khổ sí nhiên, như nhiệt thiết hoàn. Chư hạnh vô thường, thị ma diệt pháp; Niết Bàn tịch tĩnh, vô vi an lạc, viễn ly sí nhiên, tiêu chư nhiệt não. Chúng sanh văn dĩ, cần tu thiện Pháp, ư Thanh văn thừa đắc tùy thuận âm thanh nhẫn.

Hai là âm thanh nói : ” Ðại chúng nên biết tất cả hành pháp tràn đầy những khổ như hòn sắt nóng, hành pháp vô thường là pháp diệt mất. Niết Bàn tịch tịnh vô vi an lạc lìa xa khốn khổ, tiêu sạch nhiệt não”. Chúng sanh nghe xong siêng tu pháp lành, nơi Thanh Văn thừa được tùy thuận âm thanh nhẫn.

Giảng: Âm thanh thứ hai tự nhiên nói: “Các vị nên biết, tất cả các hạnh, các khổ như lửa dữ, thiêu đốt thân chẳng được tự tại, giống như hòn sắt nóng. Phải biết các hành vô thường, là pháp diệt mất. Niết bàn mới là nơi tịch tĩnh an vui, vô vi an lạc. Xa lìa tất cả khổ thiêu đốt, tiêu diệt các nhiệt não. Chúng sinh nghe rồi, siêng tu pháp lành. Nơi Thanh Văn thừa, được tuỳ thuận âm thanh nhẫn.

 

Tam viết: nhữ đẳng đương tri Thanh văn thừa giả, tùy tha ngữ giải, trí tuệ hiệp liệt; cánh hữu thượng thừa, danh: độc giác thừa, ngộ bất do sư, nhữ đẳng ưng học. Lạc thắng đạo giả văn thử âm dĩ, xả Thanh văn đạo, tu độc giác thừa.

Ba là âm thanh nói : ” Ðại chúng nên biết Thanh Văn thừa do lời người khác mà được tỏ ngộ, trí huệ hẹp kém. lại có Ðộc Giác thừa tỏ ngộ chẳng do thầy, đại chúng nên học”. Những người thích thắng đạo nghe lời này xong liền bỏ Thanh Văn thừa mà tu Ðộc Giác thừa.

Giảng: Âm thanh thứ ba tự nhiên nói: “Các vị nên biết, bậc Thanh Văn thừa do lời người khác nói mà được ngộ hiểu, đắc được trí huệ hẹp kém. Lại có thừa cao hơn, gọi là Độc Giác thừa, các Ngài tự mình khai ngộ, mùa xuân xem trăm hoa đua nở, mùa thu quán lá vàng rơi, biết tất cả vạn sự vạn vật đều là vô thường, là pháp sinh diệt. Nên chẳng do thầy dạy mà ngộ đạo. Lúc có Phật ra đời, tu quán pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, gọi là Duyên Giác. Các vị nên học tập Duyên Giác thừa”. Người ưa thích thắng đạo, nghe lời đó rồi, xả bỏ đạo Thanh Văn, tu tập Độc Giác thừa.

 

Tứ viết: nhữ đẳng đương tri qua nhị thừa vị cánh hữu thắng đạo, danh vi: Đại-Thừa. Bồ Tát sở hạnh, thuận lục Ba la mật, bất đoạn Bồ Tát hạnh, bất xả Bồ-đề tâm, xứ vô lượng sanh tử nhi bất bì yếm, qua ư nhị thừa, danh vi: Đại-Thừa, đệ nhất thừa, thắng thừa, tối thắng thừa, thượng thừa, vô thượng thừa, lợi ích nhất thiết chúng sanh thừa. Nhược hữu chúng sanh tín giải quảng đại, chư căn mãnh lợi, tú chủng thiện căn, vi chư Như Lai thần lực sở gia, hữu thắng lạc dục, hy cầu Phật quả; văn thử âm dĩ, phát Bồ-đề tâm.

Bốn là âm thanh nói : ” Ðại chúng nên biết hơn hàng Nhị thừa còn có thắng đạo gọi là Ðại thừa, là chỗ tu hành của Bồ Tát thuận sáu môn Ba la mật, chẳng dứt hạnh Bồ Tát, chẳng bỏ tâm Bồ Ðề, ở vô lượng sanh tử mà chẳng mỏi nhàm, hơn hàng Nhị thừa, gọi là Ðại thừa, là Ðệ nhứt thừa, là Thắng thừa, là Tối thắng thừa, là Thượng thừa, là Vô thượng thừa, là thừa lợi ích tất cả chúng sanh”. Nếu có chúng sanh nào lòng tin hiểu rộng lớn, căn khí mạnh lẹ, đời trước gieo căn lành, được thần lực của đức Như Lai gia hộ, có chí nguyện thù thắng mong cầu Phật quả, nghe lời này xong liền phát tâm Bồ Ðề.

Giảng: Âm thanh thứ tư tự nhiên nói: “Các vị nên biết, vượt qua bậc nhị thừa Thanh Văn và Duyên Giác, lại có đạo thù thắng, gọi là đại thừa. Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo sáu ba la mật, tức cũng gọi là lục độ, tu đến lúc thanh tịnh viên mãn, đến được bờ kia, vĩnh viễn chẳng dứt Bồ Tát hạnh, chẳng xả bỏ tâm bồ đề. Trải qua vô lượng sinh tử, mà chẳng nhàm chán sinh tử. Tóm lại là: Trở lại con thuyền từ bi, thừa nguyện trở lại, ở trong sáu nẻo độ chúng sinh đáng được độ. Như Bồ Tát Địa Tạng có thệ nguyện rằng: ‘Chúng sinh độ hết, mới chứng bồ đề’. Lại nói: ‘Địa ngục chẳng không, thệ không thành Phật’, tư tưởng vượt qua hang nhị thừa, cho nên gọi là đại thừa, là đệ nhất thừa, là thắng thừa, là tối thắng thừa, là thượng thừa, là vô thượng thừa, là lợi ích tất cả chúng sinh thừa”. Nếu có chúng sinh tin hiểu rộng lớn, các căn dũng mãnh lanh lợi, xưa đã trồng căn lành, nhờ phước lực của mười phương chư Phật gia trì, có thệ nguyện thù thắng, mong cầu quả Phật, nghe lời đó rồi, liền phát bồ đề tâm.

 

Phật tử! Như Lai âm thanh bất tùng thân xuất, bất tùng tâm xuất, nhi năng lợi ích vô lượng chúng sanh.

Chư Phật tử ! Âm thanh của đức Như Lai, chẳng từ thân phát ra, chẳng từ tâm phát ra mà có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.

Giảng: Các vị Phật tử! Âm thanh của Như Lai chẳng từ thân ra, cũng chẳng từ tâm ra, từ tận hư không khắp pháp giới, thường thường tại tại, mà hay lợi ích vô lượng chúng sinh.

 

Phật tử! thị vi Như Lai âm thanh đệ nhất tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ nhứt của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Đó là tướng âm thanh thứ nhất của Như Lai. Các vị đại Bồ Tát nên biết đạo lý cảnh giới như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như hô hưởng, nhân ư sơn cốc cập âm thanh khởi, vô hữu hình trạng, bất khả đổ kiến, diệc vô phân biệt, nhi năng tùy trục nhất thiết ngữ ngôn.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như vang, do hang núi và âm thanh mà phát ra không có hình trạng, chẳng ngó thấy được, cũng không phân biệt mà có thể theo dõi tất cả ngữ ngôn.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Ví như tiếng vang, do trong hang núi và âm thanh khởi lên. Âm thanh đó không có hình trạng, không thể thấy được, cũng không có sự phân biệt, mà tiếng vang đó, hay tuỳ theo tất cả tiếng nói mà có sự phản ứng. Ở trong hang động bên này nói lên một câu, thì ở trong hang động bên kia đáp ứng một câu.

 

Như Lai âm thanh diệc phục như thị, vô hữu hình trạng, bất khả đổ kiến, phi hữu phương sở, phi vô phương sở; đãn tùy chúng sanh dục giải duyên xuất, kỳ tánh cứu cánh, vô ngôn vô thị, bất khả tuyên thuyết.

Cũng vậy, âm thanh của đức Như lai không có hình trạng, chẳng thấy được, chẳng phải có phương sở, chẳng phải không phương sở, chỉ tùy nơi duyên dục giải của chúng sanh mà phát ra. tánh âm thanh này rốt ráo, không nói không bày, chẳng tuyên thuyết được.

Giảng: Âm thanh Như Lai cũng lại như thế, không có hình trạng, không thể thấy được, chẳng có phương sở, chẳng phải không có phương sở. Nhưng tuỳ theo nhân duyên mong muốn hiểu biết của chúng sinh mà phát ra. Tánh của âm thanh rốt ráo, không lời nói, không chỉ bày, không thể nói nó là như vậy.

 

Phật tử! thị vi Như Lai âm thanh đệ nhị tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ hai của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Đó là tướng âm thanh thứ hai của Như Lai. Các vị đại Bồ Tát nên biết đạo lý cảnh giới như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như chư thiên hữu đại pháp cổ, danh vi: giác ngộ. Nhược chư Thiên Tử hành phóng dật thời, ư hư không trung xuất thanh cáo ngôn: nhữ đẳng đương tri nhất thiết dục lạc giai tất vô thường, hư vọng điên đảo, tu du biến hoại, đãn cuống ngu phu lệnh kỳ luyến trước. Nhữ mạc phóng dật, nhược phóng dật giả, đọa chư ác thú, hậu hối vô cập. Phóng dật chư Thiên văn thử âm dĩ, sanh Đại ưu bố, xả tự cung trung sở hữu dục lạc, nghệ Thiên Vương sở cầu Pháp hành đạo.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như chư Thiên có pháp cổ lớn tên là giác ngộ. Lúc chư Thiên Tử nếu ham vui phóng dật, thời pháp cổ nơi hư không phát ra tiếng bảo chư Thiên Tử đó rằng : “Chư Thiên Tử nên biết tất cả dục lạc thảy đều vô thường hư vọng điên đảo giây lát đã biến hoại, chỉ kẻ cuồng ngu mới tham luyến. Chư Thiên Tử chớ phóng dật, nếu phóng dật sau sẽ đọa ác thú ăn năn đã muộn”. Chư Thiên Tử nghe âm thanh này lòng rất kinh hải, liền bỏ những sự dục lạc trong Thiên cung, cùng nhau đến chỗ Thiên Vương cầu pháp tu hành.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Ví như chư thiên có trống pháp lớn, gọi là Giác ngộ. Trống đó chẳng đánh mà tự kêu, diệu không thể tả. Nếu lúc chư Thiên tử và chư Thiên nữ không giữ quy cụ (quy cụ ở trên trời là toạ thiền, tu định) ở trên trời, thì trống trời ở trong hư không tự động vang ra âm thanh, cảnh báo chư Thiên tử và chư Thiên nữ nói: “Các vị nên biết! Tất cả dục lạc không thể tham luyến, đều là vô thường, chẳng phải rốt ráo. Thứ dục lạc đó, khiến cho các vị mất đi giới lực, định lực, huệ lực. Dục lạc đó là hư vọng chẳng thật, khiến cho các vị điên điên đảo đảo. Dục lạc đó, trong khoảnh khắc sẽ biến hoại. Chỉ có kẻ lường gạt chẳng có trí huệ, mới tham trước khoái lạc vô thường. Các vị nên biết, khoái lạc phóng dật chẳng phải là khoái lạc rốt ráo. Người ngu si mới hoan hỉ hành vi như vậy, người có trí huệ thì xa lìa hành vi như vậy. Các vị Thiên tử! Đừng có phóng dật, nếu tham trước khoái lạc hư vọng điên đảo đó, thì tương lai sẽ đoạ vào trong ba đường ác, đợi khi đến địa ngục rồi, mới biết phóng dật là không đúng, thì sau này hối hận không còn kịp nữa”.
Chư Thiên tử không giữ pháp luật trên trời, nghe tiếng trống trời nói rồi, bèn giác ngộ, sinh tâm lo sợ, xả bỏ hết thảy dục lạc trong cung điện của mình, đến chỗ Thiên chủ, cầu pháp tu hành.

 

Phật tử! bỉ thiên cổ âm, vô chủ vô tác, vô khởi vô diệt, nhi năng lợi ích vô lượng chúng sanh.

Tiếng của thiên cổ không chủ không làm, không khởi không diệt mà có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.

Giảng: Các vị Phật tử! Tiếng trống trời đó, chẳng có ai quản lý, chẳng có ai dạy nói nói, chẳng khởi, chẳng diệt, mà lúc nói pháp, giáo hoá vô lượng chúng sinh, lợi ích vô lượng chúng sinh.

 

Đương tri Như Lai diệc phục như thị, vi dục giác ngộ phóng dật chúng sanh, xuất ư vô lượng diệu pháp âm thanh, sở vị:

Vô Trước thanh, Bất phóng dật thanh, Vô thường thanh, Khổ thanh, vô ngã thanh, bất tịnh thanh, tịch diệt thanh, Niết-Bàn thanh, vô hữu lượng tự nhiên trí thanh, bất khả hoại Bồ Tát hạnh thanh,

Chí nhất thiết xứ Như Lai vô công dụng trí địa thanh, dĩ thử âm thanh biến Pháp giới trung nhi khai ngộ chi.

Phải biết đức Như Lai cũng như vậy. Vì muốn giác ngộ chúng sanh phóng dật mà phát ra vô lượng diệu pháp âm thanh. Những là tiếng vô trước, tiếng chẳng phóng dật, tiếng vô thường, tiếng khổ, tiếng vô ngã, tiếng bất tịnh, tiếng tịch diệt, tiếng Niết Bàn, tiếng vô lượng tự nhiên trí, tiếng Bồ Tát hạnh bất khả hoại, tiếng trí địa vô công dụng của Như Lai đến tất cả chỗ. Dùng âm thanh này khắp trong pháp giới để khai ngộ.

Giảng: Nên biết Như Lai cũng lại như thế, vì muốn giác ngộ tất cả chúng sinh phóng dật, mà phát ra vô lượng âm thanh diệu pháp. Đó là:

Tiếng không chấp trước: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, thì không còn mọi sự chấp trước.

Tiếng không phóng dật: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, thì không phóng dật mà giữ gìn quy cụ.

Tiếng vô thường: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, biết tất cả thế gian đều là vô thường.

Tiếng khổ: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, biết tất cả thế gian đều là khổ.

Tiếng vô ngã: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, biết tất cả thế gian đều là vô ngã.

Tiếng bất tịnh: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, biết tu pháp thanh tịnh.

Tiếng tịch diệt: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, biết tu pháp tịch diệt.

Tiếng Niết Bàn: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, biết tu pháp đến bờ kia.

Tiếng trí tự nhiên không có hạn lượng: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, chứng được trí huệ tự nhiên không có hạn lượng.

Tiếng Bồ Tát hạnh không thể hoại: Khiến cho chúng sinh nghe được tiếng pháp đó, thì có thể tu Bồ Tát hạnh, kiên cố như kim cang, bàng môn tả đạo không cách chi phá hoại được.

Tiếng bậc trí huệ vô công dụng của Như Lai đến tất cả chỗ.

Như lai dùng những tiếng diệu pháp đó, tận hư không khắp pháp giới, đều khiến cho tất cả chúng sinh thảy đều khai ngộ, đắc đại trí huệ.

 

Vô số chúng sanh văn thị âm dĩ, giai sanh hoan hỉ, cần tu thiện Pháp, các ư tự thừa nhi cầu xuất ly, sở vị: hoặc tu Thanh văn thừa, hoặc tu độc giác thừa, hoặc tập Bồ Tát vô thượng Đại-Thừa. Nhi Như Lai âm, bất trụ phương sở, vô hữu ngôn thuyết.

Vô số chúng sanh được nghe âm thanh này đều rất hoan hỷ siêng tu pháp lành. Ðều ở nơi tự thừa mà cầu xuất ly. Những là hoặc tu Thanh Văn thừa, hoặc tu Ðộc Giác thừa, hoặc tu Bồ Tát vô thượng Ðại thừa. nhưng âm thanh của Như Lai vẫn không trụ phương sở, không có ngôn thuyết.

Giảng: Vô số vô lượng chúng sinh nghe những tiếng đó rồi, đều sinh tâm đại hoan hỉ, siêng tu tất cả pháp lành. Mỗi người đều ở nơi thừa của mình, tu pháp môn của mình, mà cầu xuất ly. Hoặc tu pháp môn Thanh Văn thừa, tức là : Khổ tập diệt đạo bốn đế, hoặc tu pháp môn Độc Giác thừa, hoặc tu Bồ Tát vô thượng đại thừa, mà tiếng Như Lai chẳng có phương hướng nhất định, chẳng có xứ sở nhất định, cũng chẳng có lời nói nhất định.

 

Phật tử! thị vi Như Lai âm thanh đệ tam tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ ba của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Đó là tướng âm thanh thứ ba của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên biết cảnh giới đạo lý như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như Tự tại Thiên Vương hữu Thiên thải nữ, danh viết: thiện khẩu, ư kỳ khẩu trung xuất nhất âm thanh, kỳ thanh tức dữ bách thiên chủng lạc nhi cộng tướng ứng, nhất nhất lạc trung phục hưũ bách thiên sái biệt âm thanh.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Tự Tại Thiên Vương có thiên thể nữ tên là Thiện Khẩu. Nơi miệng Thiên nữ này phát ra một âm thanh hay hòa cùng với trăm ngàn thứ nhạc, trong mỗi thứ nhạc lại có trăm ngàn âm thanh sai khác.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Ví như Tự Tại Thiên Vương, có thiên thể nữ, tên là Thiện Khẩu. Ở trong miệng của cô ta vang ra một thứ âm thanh, có diệu dụng thiên biến vạn hoá, có thể hoà đồng với trăm ngàn thứ âm thanh âm nhạc. Trong mỗi mỗi thứ âm nhạc, lại có trăm ngàn thứ âm thanh khác nhau.

 

Phật tử! bỉ thiện khẩu nữ tùng khẩu nhất thanh, xuất ư như thị vô lượng âm thanh. đương tri Như Lai diệc phục như thị, ư nhất âm trung xuất vô lượng thanh, tùy chư chúng sanh tâm lạc sái biệt, giai tất biến chí, tất lệnh đắc giải.

Chư Phật tử ! Thiên nữ Thiện Khẩu từ nơi miệng phát ra một âm thanh mà thành vô lượng âm thanh như vậy. Phải biết đức Như Lai cũng thế, từ trong một âm thanh phát ra vô lượng âm thanh, tùy theo tâm sở thích sai khác của chúng sanh đều đến khắp, đều làm cho hiểu.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Ví như Tự Tại Thiên Vương, có thiên thể nữ, tên là Thiện Khẩu. Ở trong miệng của cô ta vang ra một thứ âm thanh, có diệu dụng thiên biến vạn hoá, có thể hoà đồng với trăm ngàn thứ âm thanh âm nhạc. Trong mỗi mỗi thứ âm nhạc, lại có trăm ngàn thứ âm thanh khác nhau.

Các vị Phật tử! Một âm thanh từ trong miệng của nữ Thiện Khẩu, có thể biến hoá ra vô lượng âm thanh khác nhau. Các vị nên biết, âm thanh Như Lai cũng lại như thế, trong một thứ âm thanh, có thể vang ra vô lượng vô biên âm thanh, tuỳ theo tâm ưa thích của các chúng sinh khác nhau, thảy đều đến khắp cùng, đều khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được giải thoát, do đó có câu :

Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh tuỳ loài đều hiểu được.

 

Phật tử! thị vi Như Lai âm thanh đệ tứ tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ tư của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Đó là tướng âm thanh thứ tư của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên biết cảnh giới đạo lý như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như Đại phạm Thiên Vương trụ ư phạm cung xuất Phạm Âm thanh, nhất thiết phạm chúng mị bất giai văn, nhi bỉ âm thanh bất xuất chúng ngoại. Chư phạm Thiên Chúng hàm sanh thị niệm: Đại phạm Thiên Vương độc dữ ngã ngữ.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Ðai Phạm Thiên Vương trụ nơi Phạm cung xuất Phạ âm thanh, tất cả Phạm chúng đều đều đựơc nghe, mà âm thanh đó chẳng ra ngoài Phạm chúng. Chư Phạm chúng mỗi đều tự nghỉ Ðai Phạm Thiên Vương riêng nói với tôi.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như Đại Phạm Thiên Vương, ở trong cung điện Thanh Tịnh, vang ra một thứ tiếng Phạm. Âm thanh của chúng Phạm Thiên chẳng vượt ra ngoài chúng. Tóm lại, nơi nào chẳng có Phạm chúng, thì chẳng có âm thanh đó. Hết thảy chúng Phạm Thiên đều nghĩ rằng : Đại Phạm Thiên Vương chỉ nói với tôi.

 

Như Lai Diệu-Âm diệc phục như thị, đạo tràng chúng hội mị bất giai văn, nhi kỳ âm thanh bất xuất chúng ngoại. Hà dĩ cố? căn vị thục giả bất ưng văn cố. Kỳ văn âm giả giai tác thị niệm: Như Lai Thế Tôn độc vi ngã thuyết.

Diệu âm của đưc Như Lai cũng như vậy, chúng hội trong đạo tràng đều được nghe, mà âm thanh đó chẳng ra ngoài chúng hội. Vì người căn chưa thành thục thời chẳng nên nghe. Những người được nghe, mỗi mỗi đều tự nghĩ : đức Như Lai Thế Tôn riêng vì tôi mà nói.

Giảng: Diệu âm thanh của Như Lai cũng lại như thế, đại chúng ở trong chúng hội đạo tràng thảy đều nghe được diệu âm thanh đó, mà diệu âm thanh thanh tịnh của Phật, chẳng vang ra ngoài chúng hội. Tại sao vậy? Vì căn lành của chúng sinh chưa thành thục, thì không đáng nghe được diệu âm thanh của Như Lai. Người nghe được diệu âm thanh của Như Lai, đều nghĩ rằng : Như Lai Thế Tôn, chỉ vì tôi nói pháp.

 

Phật tử! Như Lai âm thanh vô xuất vô trụ, nhi năng thành tựu nhất thiết sự nghiệp.

Chư Phật tử ! Âm thanh của đức Như Lai không xuất không trụ, mà có thể thành tựu tất cả Phật sự.

Giảng: Các vị Phật tử ! Âm thanh Như Lai không ra, không trụ, mà hay thành tựu tất cả sự nghiệp.

 

Thị vi Như Lai âm thanh đệ ngũ tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ năm của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Đó là tướng âm thanh thứ năm của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên biết cảnh giới đạo lý như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như chúng thủy giai đồng nhất vị, tùy khí dị cố thủy hữu sái biệt, thủy vô niệm lự diệc vô phân biệt. Như Lai ngôn âm diệc phục như thị, duy thị nhất vị, vị giải thoát vị, tùy chư chúng sanh tâm khí dị cố vô lượng sái biệt, nhi vô niệm lự diệc vô phân biệt.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như nước đồng một vị, tùy đồ đựng khác nhau nên nước cũng sai khác. Nước không lo nghĩ cũng không phân biệt. Cũng vậy, ngôn âm của đức Như Lai chỉ có một vị giải thoát. Tùy theo tâm sai khác của chúng sanh nên có vô lượng sai khác. Nhưng vẫn không niệm lự cũng không phân biệt.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như nước đều đồng một vị. Tuỳ theo đồ chứa đựng khác nhau, mà hình trạng của nước có sự khác nhau. Nước ở trong đồ chứa đựng hình tròn, thì nước là hình tròng; nước ở trong đồ chứa đựng hình vuông, thì nước là hình vuông. Nước chẳng có sự suy nghĩ, cũng chẳng có sự phân biệt.

Âm thanh của Như Lai cũng lại như thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Khiến cho tất cả chúng sinh đắc được giải thoát, trừ sạch tất cả phiền não, thành tựu bồ đề. Nhưng căn tánh của mỗi chúng sinh khác nhau, có chúng sinh thượng căn, có chúng sinh trung căn, có chúng sinh hạ căn. Tuỳ theo tâm khí chúng sinh khác nhau, nên có vô lượng sự khác nhau, mà Như Lai chẳng có suy nghĩ, cũng chẳng có sự phân biệt.

 

Phật tử! thị vi Như Lai âm thanh đệ lục tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ sáu của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng âm thanh thứ sáu của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên biết cảnh giới đạo lý như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như A na bà đạt đa Long Vương hưng Đại mật vân, biến Diêm-phù-đề phổ tuôn cam vũ, bách cốc giá giai đắc sanh trưởng, giang hà tuyền trì nhất thiết doanh mãn; thử Đại vũ thủy bất tùng Long Vương thân tâm trung xuất, nhi năng chủng chủng nhiêu ích chúng sanh.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như A Na Bà Ðạt Ða Long Vương nổi mây dầy mưa khắp Diêm Phù Ðề. Cây trái lúa mạ đều được sanh trưởng, sông rạch ao suối đều tràn đầy. Nước mưc này chẳng từ thân Long Vương chảy ra, mà có thể thành tựu những việc lợi ích như trên.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Ví như Long Vương A Na Bà Đạt Đa (Vô nhiệt não), nổi mây lớn dày đặc khắp cõi Diêm Phù Đề, khắp mưa xuống nước cam lồ, trăm thứ ngũ cốc lúa mạ đều được lợi ích sinh trưởng. Sông ngòi suối ao tất cả đều tràn đầy. Nước mưa lớn đó, chẳng từ trong thân của Long Vương ra, cũng chẳng từ trong tâm của Long Vương ra, mà hay lợi ích chúng sinh đủ thứ.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, hưng đại bi vân biến thập phương giới, phổ vũ vô thượng cam lộ pháp vũ, lệnh nhất thiết chúng sanh giai sanh hoan hỉ, tăng trưởng thiện Pháp, mãn túc chư thừa. Phật tử! Như Lai âm thanh bất tùng ngoại lai, bất tùng nội xuất, nhi năng nhiêu ích nhất thiết chúng sanh.

Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác nổi mây đại bi khắp mười phương cõi, khắp rưới pháp cam lồ vô thượng, khiến chúng sanh đều hoan hỷ, thêm lớn pháp lành, viên mãn các thừa. Âm thanh của Như Lai chẳng từ ngoài lại, chẳng từ trong ra, mà có thể lợi ích tất cả chúng sanh.

Giảng: Các vị Phật tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế, nổi mây pháp đại bi, khắp cùng mười phương thế giới, khắp mưa xuống pháp vũ cam lồ vô thượng, khiến cho tất cả chúng sinh, đều sinh hoan hỉ, tăng trưởng tất cả pháp lành, đầy đủ các thừa: Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, Phật thừa.
Các vị Phật tử! Âm thanh của Như Lai chẳng từ ngoài đến, chẳng từ trong ra, mà hay lợi ích tất cả chúng sinh, tận hư không khắp pháp giới, đều là âm thanh của Như Lai.

 

Thị vi Như Lai âm thanh đệ thất tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ bảy của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Đó là tướng âm thanh thứ bảy của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên biết cảnh giới đạo lý như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như Ma na tư Long Vương tướng dục hàng vũ, vị tiện tức hàng, tiên khởi đại vân di phước hư không ngưng đình thất nhật, đãi chư chúng sanh tác vụ cứu cánh. Hà dĩ cố? bỉ đại Long Vương hữu từ bi tâm, bất dục não loạn chư chúng sanh cố. Qua thất nhật dĩ, hàng vi tế vũ phổ nhuận đại địa.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Ma Na Tư Long Vương muốn làm mưa nhưng chưa tiện mưa liền. Trước kéo mây trùm khắp hư không ngưng đình bảy ngày, chờ các chúng sanh làm việc xong, vì đại Long Vương đó có tâm từ bi chẳng muốn chúng sanh bị não loạn. Quá bảy ngày Long Vương mới mưa nhỏ thấm ướt cả đại địa.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Ví như Long Vương Ma Na Tư (Từ tâm), lúc sắp muốn mưa xuống, nhưng chưa tiện mưa liền, mà là trước hết, nổi mây lớn, che trùm đầy khắp hư không, ngưng đình bảy ngày. Đợi các chúng sinh làm xong công việc, rồi mới mưa nhỏ xuống. Tại sao lại như vậy? Vì đại Long Vương Ma Na Tư đó có tâm đại từ bi, không muốn làm não loạn các chúng sinh. Cho nên qua bảy ngày rồi, mới mưa xuống, thấm nhuần khắp đại địa, khiến cho vạn vật được sinh trưởng.

Sự mưa xuống của Long Vương Ma Na Tư là mưa cấp thời, lượng mưa vừa đủ không nhiều cũng không ít, tuyệt đối chẳng giống như mưa lớn khi thế giới sắp thành, cũng chẳng giống như mưa lớn khi thế giới sắp hoại.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, tướng hàng Pháp vũ, vị tiện tức hàng, tiên hưng pháp vân thành thục chúng sanh, vi dục lệnh kỳ tâm vô kinh phố; đãi kỳ thục dĩ, nhiên hậu phổ hàng cam lộ pháp vũ, diễn thuyết thậm thâm vi diệu thiện Pháp, tiệm thứ lệnh kỳ mãn túc Như Lai nhất thiết trí trí vô thượng pháp vị.

Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác sắp ban pháp vũ nhưng chưa tiện ban liền, trước nổi pháp vân thành thục chúng sanh, vì muốn lòng họ chẳng kinh sợ. Chờ lúc họ đã thành thục mới ban pháp vũ cam lồ, diễn nói pháp lành thậm thâm vi diệu, lần lần làm cho họ đầy đủ pháp vị vô thượng nhứt thiết chủng trí của Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế, lúc sắp mưa pháp, chưa tiện mưa pháp liền. Trước hết, nổi mây pháp lớn, thành thục tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh khi nghe pháp, chẳng sinh tâm sợ hãi, đợi khi căn cơ của họ thành thục rồi, sau đó khắp mưa xuống pháp vũ cam lồ, vì chúng sinh diễn nói pháp lành vi diệu thâm sâu, lần lược khiến cho họ đầy đủ pháp vị trí Nhất thiết trí vô thượng của Như Lai.

 

Phật tử! thị vi Như Lai âm thanh đệ bát tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ tám của âm thanh Như Lai chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Đó là tướng âm thanh thứ tám của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên biết cảnh giới đạo lý như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như hải trung hữu Đại Long Vương, danh: đại trang nghiêm, ư Đại hải trung hàng vũ chi thời, hoặc hàng thập chủng trang nghiêm vũ, hoặc bách, hoặc thiên, hoặc bách thiên chủng trang nghiêm vũ. Phật tử! thủy vô phân biệt, đãn dĩ Long Vương bất tư nghị lực lệnh kỳ trang nghiêm, nãi chí bách thiên vô lượng sái biệt.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như trong biển có đại Long Vương tên là Ðại Trang Nghiêm, lúc ở trong đại hải tuôn mưa, hoặc mưa mười thứ trang nghiêm, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ngàn thứ trang nghiêm nước vẫn không sai khác chỉ do sức bất tư nghì của Long Vương khiến những thứ trang nghiêm nhẫn đến có trăm ngàn vô lượng thứ sai khác.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Ví như trong biển có đại Long Vương, tên là Đại Trang Nghiêm. Khi mưa xuống ở trong biển, hoặc mưa xuống mười thứ mưa trang nghiêm. Hoặc trăm thứ mưa trang nghiêm, hoặc ngàn thứ mưa trang nghiêm, hoặc trăm ngàn thứ mưa trang nghiêm.

Các vị Phật tử! Nước chẳng có sự phân biệt, nhưng do sức lực Long Vương không thể nghĩ bàn, khiến cho trang nghiêm, cho đến có trăm ngàn vô lượng sự khác nhau.

 

Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, vi chư chúng sanh thuyết Pháp chi thời, hoặc dĩ thập chủng sái biệt âm thuyết, hoặc bách, hoặc thiên, hoặc dĩ ách thiên, hoặc dĩ át vạn tứ thiên âm thanh thuyết bát vạn tứ thiên hạnh, nãi chí hoặc dĩ vô lượng bách thiên ức na-do-tha âm thanh các biệt thuyết Pháp, lệnh kỳ văn giả giai sanh hoan hỉ; Như Lai âm thanh vô sở phân biệt, đãn dĩ chư Phật ư thậm thâm Pháp giới viên mãn thanh tịnh, năng tùy chúng sanh căn chi sở nghi, xuất chủng chủng ngôn âm giai lệnh hoan hỉ.

Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác lúc vì chúng sanh thuyết pháp, hoặc dùng mười thứ âm thanh để thuyết, hoặc dùng trăm ngàn, hoặc dùng tám vạn bốn ngàn âm thanh để nói tám vạn bốn ngàn hạnh. Nhẫn đến hoặc dùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha âm thanh thuyết pháp sai khác, làm cho người nghe đều sanh lòng vui mừng. Âm thanh của Như Lai vẫn không phân biệt, chỉ do chư Phật nơi thậm thâm pháp giới viên mãn thanh tịnh hay tùy theo sở nghi của căn khí chúng sanh mà phát ra nhiều thứ ngôn âm đều làm cho hoan hỷ cả. \

Giảng: Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế. Khi Như Lai vì tất cả chúng sinh thuyết pháp, thì hoặc dùng mười thứ tiếng khác nhau để nói pháp, hoặc trăm thứ âm thanh khác nhau để nói pháp, hoặc dùng ngàn thứ âm thanh khác nhau để nói pháp, hoặc dùng trăm ngàn thứ âm thanh khác nhau để nói pháp, hoặc dùng tám vạn bốn ngàn thứ âm thanh, nói tám vạn bốn ngàn hạnh môn. Cho đến hoặc dùng vô lượng trăm ngàn ức Na do tha âm thanh khác nhau để thuyết pháp. Trong một thứ âm thanh, có thể nói pháp môn khác nhau, âm thanh khác nhau, pháp môn khác nhau, khiến cho người nghe được pháp âm đó, đều sinh tâm đại hoan hỉ. Âm thanh Như Lai không có sự phân biệt, chỉ nhờ chư Phật nơi pháp giới thâm sâu viên mãn thanh tịnh, hay tuỳ theo căn cơ chúng sinh thích nghi, chúng sinh tiếp thọ được pháp gì thì nói pháp đó. Phát ra đủ thứ tiếng nói, đều khiến cho tất cả chúng sinh đều hoan hỉ.

Các vị! Hiện tại các vị đang nghe trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật thị hiện trăm ngàn thứ âm thanh, vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Chúng ta nên giác ngộ hết thảy tất cả âm thanh trên thế giới, đều đang thuyết pháp. Do đó có câu:

“Sơn sắc vô phi quảng trường thiệt
Kê thanh tận thị thanh tịnh âm”.

Nghĩa là:
Sông núi đều là tướng lưỡi rộng dài
Tiếng suối reo đều là âm thanh tịnh.

Màu sắc núi sông giống như tướng lưỡi rộng dài, diễn nói diệu pháp. Tiếng suối nước chảy đều là tiếng pháp thanh tịnh, khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỉ. Nếu thấu rõ được triết lý nầy, thì tất cả tất cả trên thế gian, đều đang nói pháp. Người thiện nói pháp thiện với bạn, người ác nói pháp ác với bạn. Ngựa nói với bạn pháp làm ngựa, bò nói với bạn pháp làm bò. Khiến cho bạn minh bạch nguyên nhân tại sao phải làm ngựa, và làm bò, nguyên lai là do kiếp trước chẳng hiếu thuận với cha mẹ, chẳng cung kính sư trưởng. Hoặc chẳng nghe lời dạy bảo của cha mẹ và sư trưởng, cho nên đời nầy đoạ làm súc sinh. Ngựa bò là như vậy, còn những súc sinh khác, cũng tương tự như vậy mà thôi. Tóm lại, giữ năm giới hành thập thiện, thì sẽ được sinh về cõi trời cõi người. Có tâm tham sân si, thì sẽ bị đoạ vào ba đường ác.

Mèo bắt chuột, cọp ăn thỏ, mạnh hiếp yếu, đều đang nói pháp. Mỗi chúng sinh đều có nhân quả, đều có lập trường, đều nói diệu pháp của mình. Thầy giáo nói pháp của thầy giáo, học sinh nói pháp của học sinh. Tỳ kheo nói pháp của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nói pháp của Tỳ kheo ni. Hữu tình đang nói pháp, vô tình cũng đang nói pháp. Nếu nhận thức được, thì núi xanh mây trắng, hoa vàng trúc biếc, đều đang nói pháp.

Vạn sự vạn vật đều đang nói pháp. Bọn trộm cắp đi ăn cướp đồ đạc của người khác, đó là do kiếp trước, bị người khác trộm cướp, cho nên bây giờ đi đòi nợ cũ. Nếu kiếp trước chẳng có ai trộm cướp của họ, đời nầy họ đi trộm cướp, thì tương lai họ sẽ bị người khác trộm cướp, đó là trả nợ, do đó, triết lý nhân quả tuần hoàn báo ứng rất thiết thực.

 

Phật tử! thị vi Như Lai âm thanh đệ cửu tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Phật tử! Ðây là tướng thứ chín của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Đó là tướng âm thanh thứ chín của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên biết cảnh giới đạo lý như  vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như sa kiệt la Long Vương, dục hiện Long Vương Đại tự tại lực, nhiêu ích chúng sanh hàm lệnh hoan hỉ, tùng tứ thiên hạ nãi chí tha hóa tự tại thiên xứ, hưng đại vân võng châu táp di phước. kỳ vân sắc tướng vô lượng sái biệt, hoặc diêm phù đàn kim quang minh sắc, hoặc Tì lưu ly quang minh sắc, hoặc bạch ngân quang minh sắc, hoặc pha lê quang minh sắc, hoặc mưu tát la quang minh sắc, hoặc mã não quang minh sắc, hoặc thắng tạng quang minh sắc, hoặc xích trân châu quang minh sắc, hoặc vô lượng hương quang minh sắc, hoặc vô cấu y quang minh sắc, hoặc thanh tịnh thủy quang minh sắc, hoặc chủng chủng trang nghiêm cụ quang minh sắc, như thị vân võng châu táp di bố.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Ta Kiệt La Long Vương muốn hiện sức đại tự tại làm lợi ích chúng sanh đều khiến vui mừng, từ tứ châu thiên hạ nhẫn đến Tha Hóa Tự Tại Thiên, nổi lưới đại vân giăng khắp mọi nơi, đại vân có vô lượng sắc tướng sai khác : hoặc màu sáng chói như vàng diêm phù đàn, như tỳ lưu ly, như bạch ngân, như pha lê, như mã não, như xích chơn châu, như nước trong sạch, như các thứ đồ trang nghiêm, hoặc màu sáng chói như mâu tát la, như thắng tạng, như vô lượng hương, như vô cấu y.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Ví như Ta Kiệt La Long Vương (Biển mặn), muốn biểu hiện sức đại tự tại của Long Vương, lợi ích tất cả chúng sinh, đều khiến cho sinh hoan hỉ. Từ bốn thiên hạ cho đến cõi trời Tha Hoá Tự Tại, nổi lưới mây lớn, che trùm đầy khắp mười phương. Sắc tướng mây đó, có vô lượng sự khác biệt: Hoặc màu sắc quang minh vàng diêm phù đàn. Hoặc màu sắc quang minh tỳ lưu ly. Hoặc màu sắc quang minh bạc trắng. Hoặc màu sắc quang minh pha lê. Hoặc màu sắc quang minh mâu tát la. Hoặc màu sắc quang minh mã não. Hoặc màu sắc quang minh thắng tạng. Hoặc màu sắc quang minh xích chân châu. Hoặc màu sắc quang minh vô lượng hương. Hoặc màu sắc quang minh y vô cấu. Hoặc màu sắc quang minh nước thanh tịnh. Hoặc màu sắc quang minh đủ thứ đồ trang nghiêm. Lưới mây màu sắc quang minh như vậy, giăng che trùm khắp hư không, có thể nói là che trùm khắp tận hư không khắp pháp giới.

 

Ký di bố dĩ, xuất chủng chủng sắc điện quang. Sở vị: diêm phù đàn kim sắc vân xuất lưu ly sắc điện quang, lưu ly sắc vân xuất kim sắc điện quang, ngân sắc vân xuất pha lê sắc điện quang, pha lê sắc vân xuất ngân sắc điện quang, mưu tát la sắc vân xuất mã não sắc điện quang, mã não sắc vân xuất mưu tát la sắc điện quang, thắng tạng bảo sắc vân xuất xích trân châu sắc điện quang, xích trân châu sắc vân xuất thắng tạng bảo sắc điện quang, vô lượng hương sắc vân xuất vô cấu y sắc điện quang, vô cấu y sắc vân xuất vô lượng hương sắc điện quang, thanh tịnh thủy sắc vân xuất chủng chủng trang nghiêm cụ sắc điện quang, chủng chủng trang nghiêm cụ sắc vân xuất thanh tịnh thủy sắc điện quang; nãi chí chủng chủng sắc vân xuất nhất sắc điện quang, nhất sắc vân xuất chủng chủng sắc điện quang.

Mây lớn đã giăng khắp rồi phát ra nhiều thứ điển quang đủ màu. Mây màu vàng diêm phù đàn phát ra điển quang màu lưu ly, mây màu lưu ly phát ra điển quang màu vàng, mây màu pha lê phát ra điển quang màu bạch ngân, mây màu bạch ngân phát ra điển quang màu pha lê, nhẫn đến mây màu nước trong phát ra điển quang màu các thứ đồ trang nghiêm, mây màu các thứ đồ trang nghiêm phát ra điển quang màu nước trong, mây nhiều màu phát ra điển quang một màu, mây một màu phát ra điển quang nhiều màu.

Giảng: Lưới mây đủ thứ màu sắc quang minh, che trùm khắp như vậy rồi, phát ra đủ thứ màu sắc ánh chớp. Đó là:
1. Mây màu vàng Diêm Phù Đàn, phát ra ánh chớp màu lưu ly.
2. Mây màu lưu ly, phát ra ánh chớp màu vàng.
3. Mây màu bạc, phát ra ánh chớp màu pha lê.
4. Mây màu pha lê, phát ra ánh chớp màu bạc.
5. Mây màu mâu tát la, phát ra ánh chớp màu mã não.
6. Mây màu mã não, phát ra ánh chớp màu mâu tát la.
7. Mây màu thắng tạng bảo, phát ra ánh chớp màu xích chân châu.
8. Mây màu xích chân châu, phát ra ánh chớp màu thắng tạng bảo.
9. Mây màu vô lượng hương, phát ra ánh chớp màu vô cấu y.
10. Mây màu vô cấu y, phát ra ánh chớp màu vô lượng hương.
11. Mây màu nước thanh tịnh, phát ra ánh chớp màu đủ thứ đồ trang nghiêm.
12. Mây màu đủ thứ đồ trang nghiêm, phát ra ánh chớp màu nước thanh tịnh.
13. Cho đến mây đủ thứ màu sắc, phát ra ánh chớp một màu sắc.
14. Mây một màu sắc, phát ra ánh chớp đủ thứ màu sắc.

 

Phục ư bỉ vân trung xuất chủng chủng lôi thanh, tùy chúng sanh tâm giai lệnh hoan hỉ. Sở vị: hoặc như Thiên nữ ca vịnh âm, hoặc như chư Thiên kĩ nhạc âm, hoặc như Long nữ ca vịnh âm, hoặc như Càn thát bà nữ ca vịnh âm, hoặc như khẩn-na-la nữ ca vịnh âm, hoặc như Đại địa chấn động thanh, hoặc như hải thủy ba triều thanh, hoặc như thú Vương hao hống thanh, hoặc như hảo điểu minh chuyển thanh, cập dư vô lượng chủng chủng âm thanh.

Lại trong mây lớn phát ra các thứ tiếng sấm tùy sở thích của chúng sanh đều làm cho họ hoan hỉ. Những là tiếng sấm như ca ngâm của Thiên nữ, hoặc như tiếng thiên nhạc, hoặc như tiếng ca ngâm của Long nữ, hoặc như tiếng ca ngâm của Càn thát bà nữ, hoặc như tiếng ca ngâm của Khẩn na la nữ, hoặc như tiếng đại địa chấn động, hoặc như tiếng hải triều, hoặc như tiếng gầm hét của thú vương, hoăc như tiếng chim hót lảnh lót, và vô lượng thứ tiếng khác.

Giảng: Lại nữa ở trong mây lớn đó, phát ra đủ thứ tiếng sấm. Tuỳ tâm chúng sinh, đều khiến cho họ hoan hỉ. Đó là:
1. Hoặc như tiếng Thiên nữ ca xướng.
2. Hoặc như tiếng chư Thiên tấu nhạc.
3. Hoặc như tiếng rồng nữ ca xướng.
4. Hoặc như tiếng Càn Thác Bà nữ ca xướng.
5. Hoặc như tiếng Khẩn Na La nữ ca xướng.
6. Hoặc như tiếng đại địa chấn động.
7. Hoặc như tiếng hải triều.
8. Hoặc như tiếng chúa loài thú gầm thét.
9. Hoặc như tiếng chim hót.
Và có vô lượng đủ thứ âm thanh khác, phát ra tiếng sấm như vậy rồi, lại nổi gió mát, khiến cho các chúng sinh sinh tâm vui mừng.

 

Ký chấn lôi dĩ, phục khởi lương phong, lệnh chư chúng sanh tâm sanh duyệt lạc, nhiên hậu nãi hàng chủng chủng chư vũ, lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh. Tùng tha hóa thiên chí ư địa thượng, ư nhất thiết xứ sở vũ bất đồng. sở vị: ư Đại hải trung vũ thanh lãnh thủy, danh: vô đoạn tuyệt; ư tha hóa tự tại thiên vũ tiêu địch đẳng chủng chủng nhạc âm, danh vi: mỹ diệu; ư Hoá Lạc Thiên vũ đại ma ni bảo, danh: phóng đại quang minh; ư Đâu suất thiên vũ Đại trang nghiêm cụ, danh vi: thùy kế; ư dạ ma thiên vũ Đại hương khí, danh: chủng chủng trang nghiêm cụ. Ư tam thập tam thiên vũ chúng diệu hương, danh vi: duyệt ý; ư Tứ Thiên vương thiên vũ Thiên bảo y, danh vi: phước cái;

Ðã nổi sấm rồi tiếp nổi gió mát làm cho lòng chúng sanh hoan hỷ rồi sau mới tuôn nhiều thứ mưa, làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh. Từ Tha Hoá Thiên đến đại địa, ở tất cả chỗ mưa chẳng đồng nhau. Ở trong đại hải thời mưa nước trong mát tên là Vô đoạn tuyệt. Ở Tha Hóa Thiên thời mưa các thứ nhạc âm như tiêu, sáo v.v… tên là Mỹ Diệu. Ở Hóa Lạc Thiên thời mưa đại ma ni bửu tên là Phóng đại quang minh. Ở Ðâu Suất Thiên thời mưa đồ đại trang nghiêm tên là Thủy kế. Ở Dạ Ma Thiên thời mưa hoa đẹp lớn tên là Chủng chủng trang nghiêm cụ. Ở Tam Thập Tam Thiên thời mưa những diệu hương tên là Duyệt ý. Ở trời Tứ Thiên Vương thời mưa thiên bửu y tên là Phú cái.

Giảng: Trước hết Long Vương nổi mây lớn, trong mây phát ra ánh chớp, lại có tiếng sấm, lại nổi gió mát, rồi sau đó bèn mưa xuống các thứ mưa, lợi ích an lạc vô lượng chúng sinh. Từ mặt đất đến cõi trời Tha Hoá, tất cả mọi nơi, mưa xuống đều khác nhau. Đó là đối căn cơ của chúng sinh mà mưa xuống: Ở trong biển thì mưa nước mát, tên là Vô đoạn tuyệt. Ở cõi trời Tha Hoá Tự Tại, thì mưa xuống nước mưa tiêu sáo đủ thứ âm nhạc, tên là Mỹ diệu. Ở cõi trời Hoá Lạc, thì mưa xuống nước mưa báu đại ma ni, tên là Phóng đại quang minh. Ở cõi trời Đâu Suất, thì mưa xuống nước mưa đồ đại trang nghiêm, tên là Thuỳ kế. Ở cõi trời Dạ Ma, thì mưa xuống nước mưa hoa lớn đẹp, tên là Đủ thứ đồ trang nghiêm. Ở cõi trời Tam Thập Tam, thì mưa xuống nước mưa các hương thơm, tên là Duyệt ý. Ở cõi trời Tứ Thiên Vương, thì mưa xuống nước mưa y báu trời, tên là Lọng che.

 

Ư Long Vương cung vũ xích trân châu, danh: dũng xuất quang minh; ư A-tu-la cung vũ chư binh trượng, danh: hàng phục oán địch; ư thử uất đan việt vũ chủng chủng hoa, danh viết: khai phu; dư tam thiên hạ tất diệc như thị, nhiên các tùy kỳ xứ, sở vũ bất đồng. Tuy bỉ Long Vương kỳ tâm bình đẳng vô hữu bỉ thử, đãn dĩ chúng sanh thiện căn dị cố, vũ hữu sái biệt.

Ở cung Long Vương thời mưa xích chơn châu tên là Dũng xuất quang minh. Ở cung A Tu La thời mưa những vũ khí tên là Hàng phục oán địch. Ở châu Bắc Uất Ðơn Việt thời mưa các thứ hoa tên là Khai phu. Ba châu kia cũng mưa như vậy, tùy theo mỗi xứ mà mưa chẳng đồng. Dầu Ta Kiệt La Long Vương tâm bình đẳng không có bỉ thử, chỉ do chúng sanh thiện căn có khác mà mưa có sai biệt.

Giảng: Ở Long cung, thì mưa xuống nước mưa xích chân châu, tên là Quang minh vọt lên. Ở cung A tu la, thì mưa xuống nước mưa các binh gậy, tên là Hàng phục oán địch. Ở Bắc Uất Đơn Việt, thì mưa xuống nước mưa đủ thứ hoa, tên là Khai phu. Còn ba thiên hạ kia (Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu), cũng đều mưa xuống như thế. Ở tại mỗi nơi, tuỳ theo cơ duyên của tất cả chúng sinh, mà mưa xuống khác nhau, nhưng tâm của Long Vương bình đẳng, không có sự phân biệt đó đây, chỉ vì căn lành của chúng sinh khác nhau, nên mưa xuống có sự khác biệt.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác vô thượng Pháp Vương diệc phục như thị, dục dĩ chánh pháp giáo hóa chúng sanh, tiên bố thân vân di phước Pháp giới, tùy kỳ lạc dục vi hiện bất đồng. sở vị: hoặc vi chúng sanh hiện sanh thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện hóa thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện lực trì thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện sắc thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện tướng hảo thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện phước đức thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện trí tuệ thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện chư lực bất khả hoại thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện vô úy thân vân, hoặc vi chúng sanh hiện pháp giới thân vân.

Phật tử! Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác vô thượng Pháp Vương muốn đem chánh pháp giáo hoá chúng sanh, trước giăng thân vân che khắp pháp giới, tùy theo sở thích của chúng sanh mà hiện thân chẳng đồng : Hoặc vì chúng sanh mà hiện sanh thân, hoặc hiện hóa thân, hoặc hiện lực trì thân, hoặc hiện sắc thân, hoặc hiện tướng hảo thân, hoặc hiện phước đức thân, hoặc hiện trí huệ thân, hoặc hiện thân đủ năng lực bất khả hoại, hoặc hiện vô úy thân, hoặc vì chúng sanh mà hiện pháp giới thân.

Giảng: Các vị Phật tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Vô Thượng Pháp Vương, cũng lại như thế. Muốn đem chánh pháp giáo hoá tất cả chúng sinh. Trước hết giăng bày thân mây, che trùm pháp giới. Tuỳ theo sự ưa thích của họ mà vì chúng sinh hiện mười thứ thân mây khác nhau. Đó là:
1. Hoặc vì chúng sinh hiện mây thân sơ sinh.
2. Hoặc vì chúng sinh hiện mây biến hoá thân.
3. Hoặc vì chúng sinh hiện mây lực trì thân.
4. Hoặc vì chúng sinh hiện mây sắc thân.
5. Hoặc vì chúng sinh hiện mây tướng hảo thân.
6. Hoặc vì chúng sinh hiện mây phước đức thân.
7. Hoặc vì chúng sinh hiện mây trí huệ thân.
8. Hoặc vì chúng sinh hiện mây các lực bất khả hoại thân.
9. Hoặc vì chúng sinh hiện mây vô uý thân.
10. Hoặc vì chúng sinh hiện mây pháp giới thân.
Mười thân của Phật phân ra làm hai thứ, một là mười thân của ba đời, hai là mười thân bổn thân của chư Phật.

Mười thân của ba đời:
1. Chúng sinh thân.
2. Quốc độ thân.
3. Nghiệp báo thân.
4. Thanh Văn thân.
5. Duyên Giác thân.
6. Bồ Tát thân.
7. Như Lai thân.
8. Trí thân.
9. Pháp thân.
10. Hư không thân.

Mười thân của chư Phật:
1. Nguyện thân.
2. Hoá thân.
3. Lực trì thân.
4. Ý sinh thân.
5. Trang nghiêm thân.
6. Phước đức thân.
7. Trí thân.
8. Bồ đề thân.
9. Oai thế thân.
10. Pháp thân.
Mười thân của chư Phật ở trên, tên tuy khác nhau, nhưng nghĩa giống nhau.

 

Phật tử! Như Lai dĩ như thị đẳng vô lượng thân vân, phổ phước thập phương nhất thiết thế giới, tùy chư chúng sanh sở lạc, các biệt thị hiện chủng chủng quang minh điện quang. Sở vị: hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: vô sở bất chí; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: vô biên quang minh; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: nhập Phật bí mật pháp; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: ảnh hiện quang minh; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: quang minh chiếu diệu; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: nhập vô tận đà-la-ni môn; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: chánh niệm bất loạn; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: cứu cánh bất hoại; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: thuận nhập chư thú; hoặc vi chúng sanh hiện quang minh điện quang, danh: mãn nhất thiết nguyện giai lệnh hoan hỉ.

Phật tử! Ðức Như Lai dùng vô lượng thân như vậy hiện khắp mười phương tất cả thế giới, tùy sở thích sai khác của chúng sanh mà thị hiện các thứ quang minh : hoặc vì chúng sanh mà hiện quang minh tên là Vô sở bất chí, hoặc hiện quang minh tên là Vô biên quang, hoặc hiện quang minh tên là Nhập Phật bí mật pháp, hoặc hiện quang minh tên là Ảnh hiện quang, hoặc vì chúng sanh hiện quang minh tên là Chiếu diệu quang, hoặc hiện quang minh tên là Nhập vô tận đà la ni môn, hoặc hiện quang minh tên là Chánh niệm bất loạn, hoặc hiện quang minh tên là Cứu cánh bất hoại, hoặc hiện quang minh tên là Thuận nhập chư thú, hoặc vì chúng sanh hiện quang minh tên là Mãn tất cả nguyện đều làm cho hoan hỷ.

Giảng: Các vị Phật tử! Như Lai dùng vô lượng thân mây như vậy, che khắp mười phương tất cả thế giới, tuỳ theo sở thích của tất cả chúng sinh khác nhau, mà thị hiện tướng khác nhau, đủ thứ ánh chớp quang minh. Đó là:
1. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Chẳng đâu mà không đến.
2. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Vô biên quang minh.
3. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Vào pháp bí mật của Phật.
4. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Ảnh hiện quang minh.
5. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Quang minh chiếu sáng.
6. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Vào vô tận môn Đà La Ni.
7. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Chánh niệm bất loạn.
8. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Cứu kính bất hoại.
9. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Thuận vào các cõi.
10. Hoặc vì chúng sinh hiện ánh chớp quang minh, tên là Mãn tất cả nguyện đều khiến hoan hỉ.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác hiện như thị đẳng vô lượng quang minh điện quang dĩ, phục tùy chúng sanh tâm chi sở lạc, xuất sanh vô lượng tam muội lôi thanh. Sở vị: thiện giác trí tam muội lôi thanh, minh thịnh ly cấu hải tam muội lôi thanh, nhất thiết pháp tự tại tam muội lôi thanh, Kim Cương luân tam muội lôi thanh, Tu-di sơn tràng tam muội lôi thanh, hải ấn tam muội lôi thanh, nhật đăng tam muội lôi thanh, vô tận tạng tam muội lôi thanh, bất hoại giải thoát lực tam muội lôi thanh.

Phật tử! Ðức Như Lai hiện vô lượng quang minh như vậy rồi, lại tùy tâm sở thích của chúng sanh mà phát ra vô lượng tiếng tam muội : những là tiếng tam muội thiện giác trí, tiếng tam muội xí nhiên ly cấu hải, tiếng tam muội nhứt thiết pháp tự tại, tiếng tam muội kim cang luân, tiếng tam muội tu di sơn tràng, tiếng tam muội hải ấn, tiếng tam muội nhựt đăng, tiếng tam muội vô tận tạng, tiếng tam muội bất hoại giải thoát lực.

Giảng: Các vị Phật tử! Nhu Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thị hiện vô lượng ánh chớp quang minh như vậy rồi. Lại tuỳ thuận tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, mà phát ra vô lượng tiếng sấm tam muội. Đó là:
1. Tiếng sấm tam muội Thiện giác trí.
2. Tiếng sấm tam muội Sí nhiên ly cấu hải.
3. Tiếng sấm tam muội Tất cả pháp tự tại.
4. Tiếng sâm tam muội Kim cang luân.
5. Tiếng sấm tam muội Tu Di sơn tràng.
6. Tiếng sấm tam muội Hải ấn.
7. Tiếng sấm tam muội Nhựt đăng.
8. Tiếng sấm tam muội Khắp khiến chúng sinh hoan hỉ.
9. Tiếng sấm tam muội Vô tận tạng.
10. Tiếng sấm tam muội Bất hoại giải thoát lực.
Khiến cho tất cả chúng sinh nghe được những tiếng sấm tam muội đó, phát bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo, cầu quả Phật vô thượng.

 

Phật tử! Như Lai thân vân trung xuất như thị đẳng vô lượng sái biệt tam muội lôi thanh dĩ, tướng hàng Pháp vũ, tiên hiện thụy tướng khai ngộ chúng sanh. Sở vị: tùng vô chướng ngại đại từ bi tâm, hiện ư Như Lai đại trí phong luân, danh: năng lệnh nhất thiết chúng sanh sanh bất tư nghị hoan hỉ Thích-duyệt.

Trong thân Như Lai phát ra vô lượng tiếng tam muội sai biệt như vậy rồi, sắp ban pháp vũ trước hiện thoại tướng khai ngộ chúng sanh. Những là từ nơi vô chướng ngại đại từ bi tâm hiện ra đại trí phong luân của Như Lai tên là hay làm cho tất cả chúng sanh được vui thích hoan hỷ bất tư nghì. Tướng

Giảng: Các vị Phật tử! Trong thân mây của Như Lai, phát ra vô lượng tiếng sấm tam muội khác biệt như vậy rồi, khi sắp mưa pháp vũ, thì trước hết hiện tướng điềm lành, để khai thị chúng sinh. Đó là: Từ tâm đại từ bi không chướng ngại, hiện ra Như Lai đại trí phong luân, tên là Hay khiến tất cả chúng sinh hoan hỉ vui mừng không thể nghĩ bàn.

 

Thử tướng hiện dĩ, nhất thiết Bồ Tát cập chư chúng sanh, thân chi dữ tâm giai đắc thanh lương. Nhiên hậu tùng Như Lai đại pháp thân vân, đại từ bi vân, Đại bất tư nghị vân, vũ bất tư nghị quảng đại pháp vũ, lệnh nhất thiết chúng sanh thân tâm thanh tịnh.

tốt lành này đã hiện thời tất cả Bồ Tát và chúng sanh, thân cùng tâm đều được thanh lương. Sau đó từ mây đại pháp thân của Như Lai, mây đại từ bi, mây đại bất tư nghì của Như Lai ban pháp vũ quảng đại bất tư nghì, làm cho tất cả chúng sanh thân tâm đều thanh tịnh.

Giảng: Tướng đó thị hiện ra rồi, thì tất cả Bồ Tát và các chúng sinh, thân và tâm đều đắc được sự mát mẻ. Sau đó, từ mây đại pháp thân, mây đại từ bi, mây lớn không thể nghĩ bàn của Như Lai, mưa xuống pháp vũ rộng lớn không thể nghĩ bàn, khiến cho tất cả chúng sinh thân tâm đều thanh tịnh tự tại.

 

Sở vị: vi tọa Bồ-đề trường Bồ Tát vũ đại pháp vũ, danh: Pháp giới vô sái biệt

Những là vì Bồ Tát ngồi đạo tràng Bồ Ðề ban đại pháp vũ tên là pháp giới vô sai biệt.

Giảng: Đó là:  Vì Bồ Tát ngồi bồ đề tràng (sắp thành Phật), mưa đại pháp vũ, tên là Pháp giới không khác biệt.

 

Vì tối hậu thân Bồ Tát vũ đại pháp vũ, danh: Bồ Tát du hí Như Lai bí mật giáo

Vì tối hậu thân Bồ Tát ban đại pháp vũ tên Bồ Tát du hí mật giáo của Như Lai.

Giảng: Vì Bồ Tát tối hậu thân (đời sau thành Phật), tức là nhất sinh bổ xứ. Bồ Tát nầy ở nội viên cung trời

 

Vì nhất sanh sở hệ Bồ-tát vũ đại pháp vũ, danh: thanh tịnh phổ quang minh

Vì nhứt sanh bổ xứ Bồ Tát ban đại pháp vũ tên là thanh tịnh phổ quang minh.

Giảng: Vì Bồ Tát nhất sinh sở hệ (chưa đến một đời cuối cùng), mưa đại pháp vũ, tên là Thanh tịnh phổ quang minh.

 

Vì quán đảnh Bồ Tát vũ đại pháp vũ, danh: Như Lai trang nghiêm cụ sở trang nghiêm

Vì quán đảnh Bồ Tát ban đại pháp vũ tên là được trang nghiêm với đồ trang nghiêm của Như Lai.

Giảng: Vì Bồ Tát quán đảnh (vào bậc Pháp Vương), mưa đại pháp vũ, tên là Trang nghiêm đồ trang nghiêm của Như Lai.

 

Vì đắc nhẫn Bồ Tát vũ đại pháp vũ, danh: công đức bảo trí tuệ hoa khai phu bất đoạn Bồ Tát đại bi hạnh

Vì đắc nhẫn Bồ Tát ban đại pháp vũ tên là hoa trí huệ công đức bửu nở xòe chẳng dứt hạnh Bồ Tát đại bi.

Giảng: Vì Bồ Tát đắc nhẫn (Vô sinh pháp nhẫn), mưa đại pháp vũ, tên là Công đức bảo trí huệ hoa khai phu, chẳng dứt hạnh đại bi của Bồ Tát.

 

Vì trụ hướng hạnh bồ tát vũ đại pháp vũ, danh: nhập hiện tiền biến hóa thậm thâm môn nhi hành Bồ Tát hạnh vô hưu tức vô bì yếm

Vì Bồ Tát an trụ nơi Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng ban đại pháp vũ tên là vào môn hiện tiền biến hóa rất sâu mà thật hành Bồ Tát hạnh không thôi dứt không mỏi nhàm.

Giảng: Vì Bồ Tát trụ hướng hạnh (Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng), mưa đại pháp vũ, tên là Vào môn hiện tiền biến hoá thâm sâu, mà hành Bồ Tát hạnh không ngừng nghỉ, không nhàm mỏi.

 

Vì sơ phát tâm Bồ-tát vũ đại pháp vũ, danh: xuất sanh Như Lai đại từ bi hạnh cứu hộ chúng sanh

Vì sơ phát tâm Bồ Tát ban đại pháp vũ tên là xuất sanh hạnh đại từ bi cứu hộ chúng sanh của Như Lai.

Giảng: Vì Bồ Tát sơ phát tâm (vừa mới phát tâm bồ đề), mưa đại pháp vũ, tên là Sinh ra hạnh đại từ bi của Như Lai, cứu hộ chúng sinh.

 

Vì cầu độc giác thừa chúng sanh vũ đại pháp vũ, danh: thâm tri duyên khởi pháp viễn ly nhị biên đắc bất hoại giải thoát quả

Vì hạng cầu Ðộc Giác thừa ban đại pháp vũ tên là biết rõ pháp duyên khởi xa lìa nhị biên được quả giải thoát bất hoại.

Giảng: Vì chúng sinh cầu Duyên Giác thừa, mưa đại pháp vũ, tên là Biết sâu pháp duyên khởi, xa lìa hai bên (Có, không), đắc được quả giải thoát bất hoại.

 

Vì cầu Thanh văn thừa chúng sanh vũ đại pháp vũ, danh: dĩ Đại trí tuệ kiếm đoạn nhất thiết phiền não oán

Vì chúng sanh cầu Thanh Văn thừa ban đại pháp vũ tên là dùng kiếm đại trí huệ chặt đứt tất cả oán tặc phiền não.

Giảng: Vì chúng sinh cầu Thanh Văn thừa, mưa đại pháp vũ, tên là Dùng kiếm đại trí huệ, chặt đứt tất cả oán phiền não.

 

Vì tích tập thiện căn quyết định, bất quyết định chúng sanh vũ đại pháp vũ, danh: năng lệnh thành tựu chủng chủng Pháp môn sanh đại hoan hỉ.

Vì chúng sanh chứa nhóm thiện căn quyết định hay chẳng quyết định ban đại pháp vũ tên là hay khiến thành tựu các pháp môn sanh lòng rất hoan hỷ.

Giảng: Vì chúng sinh tích tập căn lành quyết định chẳng quyết định, mưa đại pháp vũ, tên là Hay khiến thành tựu đủ thứ pháp môn, sinh đại hoan hỉ.

 

Phật tử! chư Phật Như Lai tùy chúng sanh tâm, vũ như thị đẳng quảng đại pháp vũ, sung mãn nhất thiết vô biên thế giới.

Chư Phật Như Lai tùy tâm chúng sanh ban những pháp vũ quảng đại như vậy đầy khắp tất cả vô biên thế giới.

Giảng: Các vị Phật tử! Chư Phật Như Lai tuỳ tâm tất cả chúng sinh, mưa pháp vũ rộng lớn như vậy, đầy khắp tất cả vô biên thế giới.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác kỳ tâm bình đẳng, ư Pháp vô lận, đãn dĩ chúng sanh căn dục bất đồng, sở vũ Pháp vũ thị hữu sái biệt.

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, tâm của Ngài bình đẳng, nơi pháp không lẫn tiếc, chỉ vì chúng sanh căn dục chẳng đồng nên ban pháp vũ thị hiện có sai khác.

Giảng: Các vị Phật tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tâm bình đẳng, đối với pháp không xẻn tiếc. Chỉ vì căn tánh chúng sinh khác nhau, nên mưa pháp vũ, thị hiện có sự khác biệt.

 

Thị vi Như Lai âm thanh đệ thập tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng thứ mười của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Đó là tướng âm thanh thứ mười của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết đạo lý cảnh giới như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! ứng tri Như Lai âm thanh hữu thập chủng vô lượng. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Lại nữa, chư Phật tử ! Phải biết âm thanh của đức Như Lai có mười thứ vô lượng :

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử! Các vị nên biết âm thanh Như Lai có mười thứ vô lượng. Những gì là mười? Đó là:

 

1. Như hư không giới vô lượng, chí nhất thiết xứ cố

Một là như hư không giới vô lượng, vì đến tất cả chỗ.

Giảng: Như cõi hư không vô lượng, vì đến tất cả mọi nơi.

 

2. Như pháp giới vô lượng, vô sở bất biến cố;

Hai là như pháp giới vô lượng, vì không chỗ nào chẳng khắp.

Giảng: Như pháp giới vô lượng, vì không đâu mà chẳng cùng khắp.

 

3. Như chúng sanh giới vô lượng, lệnh nhất thiết tâm hỉ cố

Ba là như chúng sanh giới vô lượng, vì khiến tất cả tâm hoan hỷ.

Giảng: Như cõi chúng sinh vô lượng, vì khiến cho tất cả chúng sinh sinh tâm hoan hỉ.

 

4. Như chư nghiệp vô lượng, thuyết kỳ quả báo cố

Bốn là như các nghiệp vô lượng, vì nói quả báo của nghiệp.

Giảng: Như các nghiệp vô lượng, vì nói ra được quả báo của nghiệp.

 

5. Như phiền não vô lượng, tất lệnh trừ diệt cố

Năm là như phiền não vô lượng, vì đều làm cho trừ diệt.

Giảng: Như phiền não vô lượng, vì đều khiến cho tất cả phiền não trừ diệt sạch hết.

 

6. Như chúng sanh ngôn âm vô lượng, tùy giải lệnh văn cố

Sáu là như ngôn âm của chúng sanh vô lượng, vì tùy theo sự hiểu biết mà làm cho được nghe.

Giảng: Như tiếng nói chúng sinh vô lượng, vì tuỳ sự hiểu mà khiến cho được nghe.

 

7. Như chúng sanh dục giải vô lượng, phổ quán cứu độ cố

Bảy là như dục giải của chúng sanh vô lượng, vì khắp quán sát cứu độ.

Giảng: Như chúng sinh thích hiểu vô lượng, vì khắp quán sát nhân duyên của chúng sinh, cứu độ tất cả chúng sinh.

 

8. Như tam thế vô lượng, vô hữu biên tế cố

Tám là như tam thế vô lượng, vì vô biên tế.

Giảng: Như ba đời vô lượng, vì không có bờ mé.

 

9. Như trí tuệ vô lượng, phân biệt nhất thiết cố

Chín là như trí huệ vô lượng, vì phân biệt tất cả.

Giảng: Như trí huệ vô lượng, vì phân biệt được tất cả các pháp.

 

10. Như Phật cảnh giới vô lượng, nhập Phật Pháp giới cố.

Mười là như Phật cảnh giới vô lượng, vì nhập Phật pháp giới.

Giảng: Như cảnh giới Phật vô lượng, vì vào khắp pháp giới của Phật.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác âm thanh thành tựu như thị đẳng a-tăng-kì vô lượng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Âm thanh của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác thành tựu vô số vô lượng như vậy, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thành tựu A tăng kỳ vô lượng như vậy. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn tường thuật lại nghĩa vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói. Bồ Tát từ bi tha thiết sợ rằng đại chúng trong pháp hội Kinh Hoa Nghiêm, và tương lai chúng sinh bạn, tôi, và họ, chẳng minh bạch đạo lý kinh trường hàng, nên tường thuật lại lần nữa.

 

Tam thiên thế giới tướng hoại thời                     Ðại Thiên thế giới lúc sắp hoại
Chúng sanh phước lực thanh cáo ngôn,            Do phước chúng sanh có tiếng bảo
Tứ Thiền tịch tĩnh vô chư khổ,                           Tứ thiền tịch tịnh không sự khổ
Lệnh kỳ văn dĩ tất ly dục.                                   Khiến ai được nghe đều ly dục.

Giảng: Khi ba ngàn đại thiên thế giới sắp huỷ hoại, thì phước lực của chúng sinh trên trời và phước lực của chúng sinh nhân gian, có phát ra một thứ âm thanh, bảo chúng sinh rằng: Cõi Sơ Thiền chẳng có khổ mà có vui, Thiên chúng, từ địa ngục sinh về cõi trời, tự nhiên lìa khỏi dục giới lục thiên, sinh về cõi Sơ Thiền sắc giới.

Lại có một thứ âm thanh, bảo chúng sinh rằng: Sự khoái lạc ở cõi Sơ Thiền chẳng rốt ráo, cõi trời Nhị Thiền rất thanh tịnh an lạc. Chúng sinh tự nhiên lìa khỏi cõi trời Sơ Thiền, sinh về cõi trời Nhị Thiền. Lại khen ngợi sự an vui ở cõi trời Tam Thiền, chúng sinh bèn sinh về cõi trời Tam Thiền. Lại khen ngợi sự tịch tĩnh của cõi trời Tứ Thiền, chẳng có mọi sự khổ, chúng sinh bèn sinh về cõi trời Tứ Thiền. Khiến cho các chúng sinh, nghe được tiếng đó rồi, đều lìa khỏi dục lạc.

 

Thập lực Thế Tôn diệc như thị,                          Thập Lực Thế Tôn cũng như vậy
Xuất diệu âm thanh biến Pháp giới,                   Phát diệu âm thanh khắp pháp giới
Vi thuyết chư hạnh khổ vô thường,                   Vì nói các hạnh khổ vô thường
Lệnh kỳ vĩnh độ sanh tử hải.                              Khiến họ thoát hẳn biển sanh tử

Giảng: Thập Lực Thế Tôn cũng lại như thế, hay vang ra âm thanh vi diệu, khắp cùng pháp giới. Vì chúng sinh nói đạo lý các hành là: khổ, không, vô thường, vô ngã, khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn thoát khỏi biển sinh tử, không còn bị chịu khổ ở trong sáu nẻo luân hồi.

 

Thí như thâm sơn Đại cốc trung,                       Như trong hang lớn chốn thâm sơn
Tùy hữu âm thanh giai hưởng ưng,                   Tùy có âm thanh đều vang dội
Tuy năng tùy trục tha ngôn ngữ,                       Dầu hay theo dõi ngôn ngữ kia
Nhi hưởng tất cánh vô phân biệt.                       Mà vang rốt ráo vô phân biệt

Giảng: Ví như trong hang động chốn núi sâu, bất cứ phát ra âm thanh gì, thì ở trong hang núi sẽ hồi lại tiếng vang. Âm thanh lớn thì tiếng vang lớn. Tiếng vang, tuy nhiên tuỳ theo tiếng của bạn nói mà có tiếng vang, nhưng bản thể của tiếng vang, rốt ráo chẳng có sự phân biệt.

 

Thập lực ngôn âm diệc phục nhiên,                   Thập Lực ngôn âm cũng như vậy
Tùy kỳ căn thục vi thị hiện,                                 Tùy kia căn thục vì thị hiện
Lệnh kỳ điều phục sanh hoan hỉ,                       Khiến họ điều phục sanh hoan hỷ
Bất niệm ngã kim năng diễn thuyết.                  Chẳng nghĩ ta nay hay thuyết pháp

Giảng: Âm thanh của Như Lai cũng lại như thế. Tuỳ theo căn tánh thành thục của chúng sinh, mà thị hiện vì họ nói pháp, khiến cho tất cả chúng sinh được điều phục, sinh tâm hoan hỉ. Nhưng Phật chẳng nghĩ rằng: Hiện tại ta vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.

 

Như thiên hữu cổ danh năng giác,                     Như có thiên cổ tên Năng giác
Thường ư không trung chấn pháp âm,             Thường ở hư không chấn pháp âm
Giới bỉ phóng dật chư Thiên Tử,                        Răn những Thiên tử ưa phóng dật
Lệnh kỳ văn dĩ đắc ly trước                                Khiến họ nghe xong lìa say đắm

Giảng: Ví như ở trên trời có cái trống, tên là Năng giác. Khiến cho tất cả chúng sinh, nghe được tiếng trống trời, mà được giác ngộ. Trống trời đó thường ở trong hư không vì chúng sinh nói pháp, răn dạy các Thiên tử và các Thiên nữ đừng có phóng dật, đừng có tham đồ khoái lạc, phải giữ gìn pháp luật của chư Thiên; khiến cho các Thiên tử và Thiên nữ, nghe được pháp âm của trống trời đó, đều được lìa khỏi mọi sự chấp trước.

 

Thập lực pháp cổ diệc như thị,                           Thập Lực pháp cổ cũng như vậy
Xuất ư chủng chủng diệu âm thanh,                  Phát ra các thứ âm thanh diệu
Giác ngộ nhất thiết chư quần sanh                    Giác ngộ tất cả các quần sanh
Lệnh kỳ tất chứng Bồ-đề quả.                            Khiến họ đều chứng Bồ Ðề quả

Giảng: Trống pháp của Như Lai cũng lại như thế, hay vang ra đủ thứ âm thanh vi diệu, khiến cho tất cả chúng sinh, ở trong mê mộng sớm được tỉnh giác, đừng tham trước cảnh giới ở trong mộng, đều là hư vọng không thật. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều chứng được quả bồ đề giác ngộ.

 

Tự tại Thiên Vương hữu bảo nữ,                        Tự Tại Thiên Vương có bửu nữ
Khẩu trung thiện tấu chư âm nhạc,                  Trong miệng khéo tấu các âm nhạc
Nhất thanh năng xuất bách thiên âm                Một tiếng hay phát trăm ngàn tiếng
Nhất nhất âm trung phục bách thiên.               Trong mỗi tiếng lại có trăm ngàn

Giảng: Đại Tự Tại Thiên Vương có một nữ báu, tên của cô ta là Thiện Khẩu. Tại sao gọi là Thiện Khẩu? Vì khéo diễn tấu tất cả âm nhạc. Ở trong miệng của cô ta vang ra một thứ âm thanh, có thể biến hoá ra trăm ngàn thứ âm thanh; trong mỗi thứ âm thanh biến hoá đó, lại có thể biến hoá ra thành trăm ngàn thứ âm thanh.

 

Thiện-Thệ âm thanh diệc như thị,                      Thiện Thệ âm thanh cũng như vậy
Nhất thanh nhi xuất nhất thiết âm,                    Một tiếng mà phát tất cả tiếng
Tùy kỳ tánh dục hữu sái biệt,                             Tùy họ tánh dục có sai khác
Các lệnh văn dĩ đoạn phiền não.                        Ðều khiến nghe xong dứt phiền não

Giảng: Âm thanh của Như Lai cũng lại như thế. Ở trong một âm thanh mà có thể vang ra tất cả mọi âm thanh. Tuỳ theo căn tánh và sự ưa muốn của tất cả chúng sinh, mà có sự khác biệt. Khiến cho tất cả chúng sinh, nghe được pháp âm đó rồi, đều dứt trừ được tất cả phiền não.

 

Thí như Phạm Vương thổ nhất âm,                   Ví như Phạm Vương phát một tiếng
Năng lệnh phạm chúng giai hoan hỉ,                  Hay khiến Phạm Chúng đều hoan hỷ
Âm duy cập phạm bất xuất ngoại,                     Tiếng đến Phạm chúng chẳng ra ngoài
Nhất nhất giai ngôn kỷ độc văn.                         Mỗi người đều nói riêng mình nghe

Giảng: Ví như Phạm Vương nói một âm thanh, mà hay khiến cho Phạm chúng cõi sắc giới, đều sinh tâm hoan hỉ. Âm thanh đó, chỉ có Phạm chúng cõi trời Sơ Thiền, mới nghe được. Người ở ngoài Phạm chúng chẳng nghe được. Tất cả Phạm chúng đều nghĩ rằng: Đại Phạm Thiên Vương chỉ vì mình ta mà nói.

 

Thập lực Phạm Vương diệc phục nhiên,            Thập Lực Thế Tôn cũng như vậy
Diễn nhất ngôn âm sung Pháp giới,                   Diễn một ngôn âm đầy pháp giới
Duy triêm chúng hội bất viễn xuất,                    Chỉ nhuần chúng hội chẳng ra xa
Dĩ vô tín cố vị năng thọ                                       Bởi người chưa tin, chưa thọ được

Giảng: Âm thanh của Như Lai cũng lại như thế, diễn nói một âm thanh, mà khắp cùng pháp giới, biến hoá vô cùng, hiện ra đủ thứ âm thanh. Âm thanh đó, chỉ có đại chúng ở trong pháp hội mới nghe được. Vì âm thanh đó chẳng lọt ra xa. Tại sao? Vì chúng sinh chẳng có tín tâm, chẳng có căn tin, chẳng có sức tin, nên không thể nào tiếp thọ được pháp lớn.

 

Thí như chúng thủy đồng nhất tánh                  Như nước trong kia đồng một tánh
Bát công đức vị vô sái biệt,                                 Vị tám công đức không sai khác
Nhân địa tại khí các bất đồng,                            Nhơn đất, tại đồ, đều chẳng đồng
Thị cố lệnh kỳ chủng chủng dị.                           Vì thế khiến nước có sai khác

Giảng: Ví như hết thảy tất cả nước, đều đồng một tánh, nước có vị tám thứ công đức (Lắng trong, tươi mát, ngon ngọt, nhẹ nhàng, thấm nhuần, an hoà, trừ khát, tăng ích), chẳng có gì khác nhau. Vì tất cả chúng sinh trồng nhân, tại nhân địa đều khác nhau, cho nên đến lúc kết quả, liền có đủ thứ quả báo khác nhau.

 

Nhất thiết trí âm diệc như thị,                            Nhứt Thiết Trí âm cũng như vậy
Pháp tánh nhất vị vô phân biệt,                         Pháp tánh một vị không phân biệt
Tùy chư chúng sanh hạnh bất đồng,                 Tùy các chúng sanh hạnh chẳng đồng
Cố sử thính văn chủng chủng dị.                       Nên khiến người nghe nhiều sai khác

Giảng: Âm thanh của Như Lai Nhất Thiết Trí cũng như thế. Pháp tánh cùng một vị, chẳng có gì khác biệt. Tuỳ theo hành vi, căn tánh, của tất cả chúng sinh khác nhau, cho nên khiến cho người nghe được có đủ thứ sự khác nhau, đều được lợi ích khác nhau, đều đắc được trí huệ khác nhau.

 

Thí như vô nhiệt Đại Long Vương                       Như Vô Nhiệt Não đại Long Vương
Hàng vũ phổ hiệp Diêm-phù địa                         Tuôn mưa thấm khắp đất Diêm Phù
Năng lệnh thảo thọ giai sanh trưởng,                Hay khiến cỏ cây đều sanh trưởng
Nhi bất tùng thân cập tâm xuất.                        Nhưng nước chẳng từ thân rồng ra

Giảng: Ví như Vô Nhiệt Não Long Vương, có thể mưa xuống khắp đại địa cõi Nam Diêm Phù Đề. Hay khiến cho tất cả cây cỏ hoa quả, đều được sinh trưởng, hân hoan vui mừng. Mưa đó chẳng phải từ thân Long Vương ra, cũng chẳng phải từ tâm Long Vương ra.

 

Chư Phật Diệu-Âm diệc như thị,                        Chư Phật diệu âm cũng như vậy
Phổ vũ Pháp giới tất sung hiệp,                          Ban khắp pháp giới đều đầy thấm
Năng lệnh sanh thiện diệt chư ác,                      Hay khiến sanh thiện diệt các ác
Bất tùng nội ngoại nhi đắc hữu.                         Chẳng từ trong ngoài, mà được có

Giảng: Diệu âm của Thập Lực chư Phật cũng như thế. Giáo hoá khắp pháp giới chúng sinh, khiến cho họ đều được lợi ích của pháp vũ, giống như được sự thấm nhuần của nước, hay khiến cho tất cả chúng sinh, sinh trưởng tất cả căn lành, diệt trừ tất cả nghiệp ác. Đó chẳng phải từ trong ra, cũng chẳng phải từ ngoài đến.

 

Thí như Ma na tư Long Vương,                          Như Ma Na Tư đại Long Vương
Hưng vân thất nhật vị tiên vũ,                            Nổi mây bảy ngày chưa vội mưa
Đãi chư chúng sanh tác vụ cánh,                       Chờ các chúng sanh làm việc xong
Nhiên hậu thủy hàng thành lợi ích.                    Rồi sau mới mưa thành lợi ích

Giảng: Ví như Ma Na Tư Long Vương, tâm của Ngài rất từ bi. Khi sắp mưa xuống, thì trước hết ở trong hư không nổi mây lớn bảy ngày, mà chẳng mưa xuống liền. Tại sao ? Vì chờ đợi tất cả chúng sinh làm xong công việc, sau đó mưa nhỏ xuống dần dần, để thành tựu lợi ích chúng sinh, cho nên được gọi là Từ Tâm Long Vương.

 

Thập lực diễn nghĩa diệc như thị,                       Thập Lực diễn nghĩa cũng như vậy
Tiên hóa chúng sanh sử thành thục,                  Trước dạy chúng sanh khiến thành thục
Nhiên hậu vi thuyết thậm thâm Pháp,               Rồi sau vì nói pháp thậm thâm
Lệnh kỳ văn giả bất kinh phố.                            Khiến họ được nghe chẳng hãi sợ

Giảng: Như Lai nói pháp nghĩa cũng như thế, trước hết giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ sinh ra căn lành, khiến cho họ được thành thục, sau đó vì chúng sinh diễn nói diệu pháp thâm sâu. Khiến cho tất cả chúng sinh, nghe được pháp không thể nghĩ bàn đó, trong tâm chẳng còn sự sợ hãi.

 

Đại trang nghiêm long ư hải trung,                    Ðại Trang Nghiêm Long ở trong biển
Tuôn ư thập chủng trang nghiêm vũ,                Rưới mưa mười thứ đồ trang nghiêm
Hoặc bách hoặc thiên bách thiên chủng            Hoặc trăm, hoặc ngàn, trăm ngàn thứ
Thủy tuy nhất vị trang nghiêm biệt.                   Dầu nước một vị, trang nghiêm khác

Giảng: Đại Trang Nghiêm Long Vương ở trong biển, mưa xuống mười thứ mưa trang nghiêm, hoặc trăm thứ mưa trang nghiêm, hoặc ngàn thứ mưa trang nghiêm, hoặc trăm ngàn thứ mưa trang nghiêm. Tuy nước là một vị, nhưng trang nghiêm có sự khác biệt.

 

Cứu cánh biện tài diệc như thị,                          Vô Thượng Biện Tài cũng như vậy
Thuyết thập nhị thập chư Pháp môn,                Nói mười, hai mươi các pháp môn
Hoặc bách hoặc thiên chí vô lượng                    Hoặc trăm, hoặc ngàn đến vô lượng
Bất sanh tâm niệm hữu thù biệt.                        Chẳng sanh tâm niệm có sai khác

Giảng: Người có rốt ráo biện tài cũng như thế, Ngài nói mười thứ pháp môn, hoặc nói hai mươi thứ pháp môn, hoặc nói trăm thứ pháp môn, hoặc nói ngàn thứ pháp môn, cho đến nói vô lượng pháp môn, nhưng trong tâm chẳng sinh ra ý niệm khác nhau.

 

Tối thắng Long Vương sa kiệt la                          Tối thắng Long Vương Ta Kiệt La
Hưng vân phổ phước tứ thiên hạ,                      Nổi mây trùm khắp tứ thiên hạ
Ư nhất thiết xứ vũ các biệt,                                Ở tất cả xứ mưa đều khác
Nhi bỉ long tâm vô nhị niệm.                               Nhưng tâm Long Vương không hai niệm

Giảng: Tối Thắng Long Vương tên là Ta Kiệt La, ở trong hư không nổi mây lớn, che khắp bốn thiên hạ (bốn đại bộ châu), mưa xuống khắp tất cả mọi nơi, đều có sự khác nhau, nhưng tâm của Long Vương đó, vốn chẳng có hai niệm.

 

Chư Phật Pháp Vương diệc như thị                  Chư Phật Pháp Vương cũng như vậy
Đại bi thân vân biến thập phương,                     Ðại bi thân vân khắp mười phương
Vi chư tu hành vũ các dị,                                    Vì người tu hành ban pháp khác
Nhi ư nhất thiết vô phân biệt.                             Nhưng với tất cả vô phân biệt

Giảng: Thập Lực chư Phật là bậc Pháp Vương cũng như thế, nổi mây pháp thân đại bi, khắp cùng mười phương, vì hết thảy người tu hành, diễn nói mưa pháp, cũng đều khác nhau. Vì căn tánh của chúng sinh khác nhau, mà nói pháp môn khác nhau, nhưng bản tâm của Phật chẳng có sự phân biệt, là tự nhiên nói pháp, chúng sinh nghe được cũng khác nhau, được lợi ích cũng khác nhau.

 

Phật tử! chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri Như Lai, ưng, Chánh đẳng giác tâm?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết tâm của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác như thế nào ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị Phật tử ! Các đại Bồ Tát làm thế nào biết được tướng tâm của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ?

 

Phật tử! Như Lai tâm, ý, thức câu bất khả đắc, đãn ưng dĩ trí vô lượng cố, tri Như Lai tâm. Thí như hư không vi nhất thiết vật sở y, nhi hư không vô sở y. Như Lai trí tuệ diệc phục như thị, vi nhất thiết thế gian, xuất thế gian trí sở y, nhi Như Lai trí vô sở y.

Chư Phật tử ! Tâm, ý, thức của Như Lai đều bất khả đắc. Chỉ nên dùng trí vô lượng mà biết tâm Như Lai. Như hư không là chỗ nương dựa của tất cả vật, mà hư không không chỗ dựa. Như Lai trí huệ cũng như vậy, là chỗ sở y của tất cả trí thế gian và trí xuất thế, mà Như Lai trí không sở y.

Giảng: Phật tử ! Tâm ý thức của Như Lai đều bất khả đắc, tại sao ? Vì Như Lai chẳng dùng tâm ý thức, chẳng phải chẳng có tâm ý thức, nhưng nhờ trí huệ vô lượng, nên mới biết được tâm Như Lai.

Ví như hư không, tuy là không, nhưng dung nạp vạn vật, là chỗ nương tựa của tất cả sự vật. Hư không bao la vạn tượng, tất cả sự vật đều nương hư không mà kiến lập, mà hư không chẳng chỗ nương tựa. Trí huệ của Như Lai cũng lại như thế, là chỗ nương tựa trí huệ của tất cả thế gian và trí huệ xuất thế gian, mà trí huệ Như Lai chẳng nương tựa thế gian, cũng chẳng nương tựa xuất thế gian, mà là không chỗ nương.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ nhất tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ nhứt của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ nhất của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như Pháp giới thường xuất nhất thiết Thanh văn, độc giác, Bồ Tát giải thoát, nhi Pháp giới vô tăng giảm. Như Lai trí tuệ diệc phục như thị, hằng xuất nhất thiết thế gian, xuất thế gian chủng chủng trí tuệ, nhi Như Lai trí vô tăng giảm.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như pháp giới thường xuất sanh tất cả Thanh Văn, Ðộc Giác, Bồ Tát giải thoát, mà pháp giới không tăng không giảm. Như Lai trí huệ cũng như vậy, hằng xuất sanh tất cả trí huệ thế gian và xuất thế gian, mà Như Lai trí huệ không tăng không giảm.

Giảng: Lại nữa, các vị Phật tử ! Ví như pháp giới, thường sinh ra giải thoát của tất cả Thánh nhân Thanh Văn, Thánh nhân Độc Giác, Thánh nhân Bồ Tát, mà đắc được giải thoát, nhưng pháp giới không tăng, không giảm. Trí huệ Như Lai cũng lại như thế, luôn sinh ra đủ thứ trí huệ của tất cả thế gian và xuất thế gian, mà trí huệ Như Lai không tăng không giảm.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ nhị tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ hai của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ hai của Như Lai, các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như đại hải, kỳ thủy tiềm lưu tứ thiên hạ địa cập bát thập ức chư tiểu châu trung, hữu xuyên tạc giả vô bất đắc thủy, nhi bỉ đại hải bất tác phân biệt: ngã xuất ư thủy.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như đại hải, nước biển chảy ngầm khắp dưới đất của bốn châu thiên hạ và tám mươi ức tiểu châu, có ai đào đất đều được nước cả. Nhưng đại hải vẫn không có phân biệt là mình phát ra nước chảy ngầm khắp nơi.

Giảng: Lại nữa, các vị Phật tử ! Ví như biển cả, nước biển chảy ngầm dưới lòng đất trong bốn thiên hạ, và trong tám mươi ức các châu nhỏ. Bất cứ ai đào giếng thảy đều được nước, biển cả chẳng có phân biệt rằng: Nước của tôi cho bạn, chẳng có ý niệm như thế.

 

Phật trí hải thủy diệc phục như thị, lưu nhập nhất thiết chúng sanh tâm trung, nhược chư chúng sanh quan sát cảnh giới, tu tập Pháp môn, tức đắc trí tuệ thanh tịnh minh liễu, nhi Như Lai trí bình đẳng vô nhị, vô hữu phân biệt, đãn tùy chúng sanh tâm hành dị cố, sở đắc trí tuệ các các bất đồng.

Nước biển Phật trí cũng như vậy, chảy vào trong tâm của tất cả chúng sanh. Nếu có chúng sanh quán sát cảnh giới, tu tập pháp môn, thời được trí huệ thanh tịnh minh liễu. Nhưng Như Lai trí bình đẳng không hai, không phân biệt. Chỉ tùy theo tâm hành sai khác của chúng sanh mà trí huệ của họ được riêng khác chẳng đồng nhau.

Giảng: Nước biển trí huệ của Phật, cũng lại như thế, chảy vào trong tất cả tâm chúng sinh. Nếu các chúng sinh có diệu quán sát trí, quán sát tất cả cảnh giới, tu tập pháp môn hợp với mình, thì sẽ đắc được trí huệ thanh tịnh sáng suốt, mà trí huệ Như Lai bình đẳng không hai, chẳng có sự phân biệt. Chỉ vì tâm hạnh của chúng sinh tu hành khác nhau, nên đắc được trí huệ thảy đều khác nhau.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ tam tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ ba của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ ba của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như đại hải hữu tứ bảo châu, cụ vô lượng đức, năng sanh hải nội nhất thiết trân bảo; nhược đại hải trung vô thử bảo châu, nãi chí nhất bảo diệc bất khả đắc. Hà đẳng vi tứ? nhất danh: tích tập bảo, nhị danh: vô tận tạng, tam danh: viễn ly sí nhiên, tứ danh: cụ túc trang nghiêm.

Lại nữa, chư Thiện nam tử ! Ví như đại hải có bốn bửu châu đủ vô lượng công đức hay sanh tất cả trân bửu trong đại hải. Nếu trong đại hải không có bửu châu này, thời dầu là một trân bửu cũng không có được. Ðây là bốn bửu châu : một tên là Tích tập bửu, hai tên là Vô tận tạng, ba tên là Viễn ly xí nhiên, bốn tên là Cụ túc trang nghiêm.

Giảng: Lại nữa, các vị Phật tử ! Ví như biển cả có bốn bảo châu, đầy đủ vô lượng đức, hay sinh ra tất cả châu báu trong biển. Nếu trong biển không có bảo châu nầy, thì cho đến một châu báu cũng không có. Những gì là bốn bảo châu?
– Một tên là Tích tập bảo, vì tích tập đủ thứ căn lành thành tựu.
– Hai tên là Vô tận tạng, lấy không hết, dùng không cạn.
– Ba tên là Viễn ly sí nhiên, tức là lìa khỏi tất cả phiền não.
– Bốn tên là Cụ túc trang nghiêm, tức là đầy đủ các thứ báu trang nghiêm.

 

Phật tử! thử tứ bảo châu, nhất thiết phàm phu chư long thần đẳng tất bất đắc kiến. Hà dĩ cố? sa kiệt Long Vương dĩ thử bảo châu đoan nghiêm phương chánh trí ư cung trung thâm mật xứ cố.

Chư Phật tử ! Bốn bửu châu này, tất cả phàm phu, chư Long Thần đều chẳng thấy được. Vì Ta Kiệt La Long Vương cho bửu châu này xinh đẹp vuông vức nên cất chỗ thâm mật trong cung.

Giảng: Các vị Phật tử ! Bốn bảo châu nầy, tất cả phàm phu và các rồng thần, đều không thấy được. Tại sao ? Vì Ta Kiệt La Long Vương đem bảo châu nầy, để trong chỗ đoan nghiêm vuông vứt, cất giấu chỗ bí mật ở trong cung.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác Đại trí tuệ hải diệc phục như thị, ư trung hữu tứ đại trí bảo châu, cụ túc vô lượng phước trí công đức, do thử năng sanh nhất thiết chúng sanh Thanh văn, độc giác, học, vô học vị, cập chư Bồ-tát trí tuệ chi bảo.

Chư Phật tử ! Biển đại trí huệ của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, trong đó có bốn đại trí bửu châu đầy đủ vô lượng phước trí công đức. Do đây có thể sanh tất cả trí huệ của chúng sanh, của Thanh Văn, Ðộc Giác, bực hữu học, vô học và trí huệ của chư Bồ Tát.

Giảng: Các vị Phật tử ! Biển trí huệ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Có bốn đại trí bảo châu, đầy đủ vô lượng phước trí và vô lượng công đức. Nhờ đó, hay sinh ra châu báu tất cả chúng sinh, Thanh Văn và Độc Giác, bậc học và bậc vô học. Phàm là chứng được Sơ quả, Nhị quả, Tam quả A la hán, gọi là bậc hữu học. Chứng  được tứ quả A la hán, gọi là bậc vô học. Cùng với các Bồ Tát trí huệ.

 

Hà đẳng vi tứ? sở vị: vô nhiễm trước xảo phương tiện đại trí tuệ bảo, thiện phân biệt hữu vi vô vi Pháp đại trí tuệ bảo, phân biệt thuyết vô lượng Pháp nhi bất hoại pháp tánh đại trí tuệ bảo, tri thời phi thời vị tằng ngộ thất đại trí tuệ bảo.

Ðây là bốn đại trí bửu. Đó là: một tên là Ðại trí huệ bửu phương tiện thiện xảo không nhiễm trước. Hai là Ðại trí huệ bửu khéo phân biệt pháp hữu vi, vô vi. Ba là Ðại trí huệ bửu phân biệt nói vô lượng pháp mà chẳng hoại pháp tánh. Bốn là Ðại trí huệ bửu biết thời phi thời chưa từng lầm lỗi.

Giảng: Những gì là bốn thứ báu đại trí huệ ? Đó là :
– Bảo châu đại trí huệ thiện xảo phương tiện không nhiễm trước.
– Bảo châu đại trí huệ khéo phân biệt pháp hữu và pháp vi vô vi.
– Bảo châu đại trí huệ phân biệt nói vô lượng pháp mà không hoại pháp tánh.
– Bảo châu đại trí huệ biết thời phi thời chưa từng lầm lỗi.

 

Nhược chư Như Lai Đại trí hải trung vô thử tứ bảo, hữu nhất chúng sanh đắc nhập Đại-Thừa, chung vô thị xứ. Thử tứ trí bảo, bạc phước chúng sanh sở bất năng kiến. Hà dĩ cố? trí ư Như Lai thâm mật tạng cố.

Nếu trong biển đại trí huệ của đức Như Lai không có bốn đại trí huệ bửu này thời tất cả chúng sanh, không một ai vào được Ðại thừa. Những chúng sanh phước mỏng chẳng thể thấy được bốn đại trí bửu này. Vì để nơi tạng thâm mật của đức Như Lai.

Giảng: Nếu trong biển đại trí của các Như Lai không có bốn thứ báu nầy, thì sẽ không một chúng sinh nào được vào đại thừa. Bốn thứ báu trí nầy, chúng sinh phước mỏng không thể thấy được. Tại sao ?

 

Thử tứ trí bảo, bình quân chánh trực, đoan khiết diệu hảo, phổ năng lợi ích chư Bồ-tát chúng, lệnh kỳ tất đắc trí tuệ quang minh.

Bốn đại trí bửu này bình đẳng chánh trực đoan khiết diệu hảo, có thể lợi ích những chúng Bồ Tát, làm cho họ được trí huệ quang minh.

Giảng: Vì bốn báu trí nầy, để nơi tạng thâm mật của Như Lai, bình đẳng chánh trực, đoan khiết tốt đẹp, hay lợi ích khắp các chúng Bồ Tát, khiến cho các Bồ Tát đều đắc được trí huệ quang minh.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ tứ tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thư tư của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ tư của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như đại hải, hữu tứ sí nhiên quang minh đại bảo bố tại kỳ để, tánh cực mãnh nhiệt, thường năng ẩm súc bách xuyên sở chú vô lượng Đại thủy, thị cố đại hải vô hữu tăng giảm.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như đại hải có bốn đại bửu sáng chói rực rỡ bày ở đáy biển, tánh rất nóng, thường hay rút uống vô lượng dòng nước lớn của trăm sông chảy vào biển, vì thế nên đại hải không có tăng giảm.

Giảng: Lại nữa, các vị Phật tử ! Ví như trong biển, có bốn báu lớn ánh sáng hừng hực, để ở dưới đáy biển, tánh của báu lớn đó, cực nóng mãnh liệt. Thường hút uống vô lượng nước trăm sông đổ vào biển, bởi vậy, cho nên biển không có tăng giảm.

 

Hà đẳng vi tứ? nhất danh: nhật tạng, nhị danh: ly nhuận, tam danh: hỏa diệm quang, tứ danh: tận vô dư.

Ðây là bốn đại bửu : một tên là Nhựt tạng, hai tên là Ly nhuận, ba tên là Hỏa diệm quang, bốn tên là Tận vô dư.

Giảng: Những gì là bốn thứ báu lớn ánh sáng hừng hực ?

Một tên là Nhựt tạng, nóng giống như ánh sáng mặt trời.

Hai tên là Ly nhuận, hay khiến cho thấm nhuần mà lìa khỏi.

Ba tên là Hoả diệm quang, nóng mãnh liệt giống như lửa.

Bốn tên là Tận vô dư, hay nhiếp thọ hết thảy dòng nước đổ vào biển, không thừa sót.

 

Phật tử! nhược Đại hải trung vô thử tứ bảo, tùng tứ thiên hạ nãi chí hữu đính, kỳ trung sở hữu tất bị phiêu một.

Chư Phật tử ! Nếu trong đại hải không có bốn đại bửu này thời nước sẽ ngập tràn từ bốn châu thiên hạ lên đến Hữu Ðảnh.

Giảng: Các vị Phật tử! Nếu trong biển không có bốn thứ báu nầy, thì từ bốn thiên hạ, cho đến cõi trời Hữu Đỉnh (Trời Cứu Kính sắc giới), hết thảy chúng sinh trong đó đều bị nước lớn ngập chìm, không còn gì tồn tại.

 

Phật tử! thử nhật tạng đại bảo quang minh chiếu xúc, hải thủy tất biến vi nhũ; ly nhuận đại bảo quang minh chiếu xúc, kỳ nhũ tất biến vi lạc; hỏa diệm quang đại bảo quang minh chiếu xúc, kỳ lạc tất biến vi tô; tận vô dư đại bảo quang minh chiếu xúc, kỳ tô biến thành thể hồ; như hỏa sí nhiên, tất tận vô dư.

Chư Phật tử ! Quang minh của đại bửu Nhựt tạng nếu chiếu nhằm nước biển thời đều biến thành sữa. Quang minh của Ly nhuận đại bửu nếu chiếu nhằm sữa này thời liền biến thành lạc. Quang minh của Hỏa diệm quang đại bửu chiếu nhằm lạc này thời biến thành tô. Quang minh của tận vô dư đại bửu chiếu nhằm tô này thời biến thành đề hồ, như lửa cháy phừng đều không còn sót thừa.

Giảng: Các vị Phật tử! Ánh sáng báu lớn Nhựt Tạng đó, chiếu đến nước biển, thì đều biến thành sữa. Khi Phật còn trụ thế, nước uống bổ dưỡng còn hơn là sữa bò bây giờ. Tại sao vậy ? Vì con người thuở đó, phước báo sâu dày, cho nên có hiện tượng đó. Con người thời hiện đại, vì phước báo quá mỏng, cho nên chẳng có sự bổ dưỡng như vậy. Ánh sáng báu lớn Ly Nhuận, chiếu đến sữa đó, thì đều biến thành lạc. Ánh sáng báu lớn Hoả Diệm Quang, chiếu đến lạc đó, thì đều biến thành tô. Ánh sáng báu lớn Vô Tận Tạng chiếu đến tô đó, thì đều biến thành đề hồ. Giống như dùng lửa thiêu đốt, đều cháy sạch hết chỉ còn lại đề hồ, đến nơi rốt ráo.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác Đại trí tuệ hải diệc phục như thị, hữu tứ chủng đại trí tuệ bảo, cụ túc vô lượng uy đức quang minh; thử trí Bảo quang xúc chư Bồ-tát, nãi chí lệnh đắc Như Lai đại trí.

Chư Phật tử ! Cũng vậy, biển đại trí huệ của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác có bốn đại trí huệ bửu đầy đủ vô lượng oai đức quang minh. Trí quang minh này chạm đến chư Bồ Tát, nhẫn đến khiến được đại trí của Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử ! Biển đại trí huệ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Có bốn thứ đại trí huệ báu, đều đầy đủ vô lượng oai đức đại quang minh. Đại trí huệ quang minh báu đó, chiếu đến thân tất cả Bồ Tát, cho đến khiến cho đắc được đại trí huệ của Như Lai.

 

Hà đẳng vi tứ? sở vị: diệt nhất thiết tán thiện ba lãng đại trí tuệ bảo, trừ nhất thiết pháp ái đại trí tuệ bảo, tuệ quang phổ chiếu đại trí tuệ bảo, dữ Như Lai bình đẳng vô biên vô công dụng đại trí tuệ bảo.

Ðây là bốn đại trí bửu : một Ðại trí bửu diệt tất cả lượng sóng tán thiện. Hai là Ðại trí bửu trừ tất cả pháp ái. Ba là Ðại trí bửu huệ quang chiếu khắp. Bốn là Ðại trí bửu cùng với Như Lai bình đẳng vô biên vô công dụng.

Giảng: Những gì là bốn đại trí huệ quang minh báu ? Đó là :
1. Đại trí huệ báu hay tiêu diệt tất cả sóng tán thiện.
2. Đại trí huệ báu hay tiêu trừ tất cả pháp ái.
3. Đại trí huệ báu huệ quang chiếu khắp.
4. Đại trí huệ báu bình đẳng vô biên vô công dụng với Như Lai.

 

Phật tử! chư Bồ-tát tu tập nhất thiết trợ đạo Pháp thời, khởi vô lượng tán thiện ba lãng, nhất thiết thế gian Thiên, nhân, A-tu-la sở bất năng hoại; Như Lai dĩ diệt nhất thiết tán thiện ba lãng đại trí tuệ bảo quang minh xúc bỉ Bồ Tát, lệnh xả nhất thiết tán thiện ba lãng, trì tâm nhất cảnh, trụ ư tam muội; hựu dĩ trừ nhất thiết pháp ái đại trí tuệ bảo quang minh xúc bỉ Bồ Tát, lệnh xả ly tam muội vị trước, khởi quảng đại thần thông; hựu dĩ tuệ quang phổ chiếu đại trí tuệ bảo quang minh xúc bỉ Bồ Tát, lệnh xả sở khởi quảng đại thần thông, trụ Đại Minh công dụng hạnh; hựu dĩ dữ Như Lai bình đẳng vô biên vô công dụng đại trí tuệ bảo quang minh xúc bỉ Bồ Tát, lệnh xả sở khởi Đại Minh công dụng hạnh, nãi chí đắc Như Lai bình đẳng địa, tức nhất thiết công dụng, lệnh vô hữu dư.

Chư Phật tử ! Lúc chư Bồ Tát tu tập tất cả pháp trợ đạo phát khởi vô lượng tán thiện. Tất cả thế gian, Thiên, Nhơn, A tu la chẳng phá hư được. Ðức Như Lai dùng quang minh của đại trí bửu diệt tán thiện chiếu đến Bồ Tát này khiến bỏ tất cả tán thiện, chuyên tâm một cảnh trụ nơi chánh định. Lại dùng quang minh của đại trí bửu trừ pháp ái chiếu đến Bồ Tát này khiến trừ bỏ lòng tham đắm nơi tam muội, phát khởi đại thần thông. Lại dùng quang minh của đại trí bửu huệ quang phổ chiếu chạm đến Bồ Tát này, khiến bỏ thần thông quảng đại đã phát khởi, mà trụ nơi đại minh công dụng hạnh. Lại dùng quang minh của đại trí bửu cùng Như Lai bình đẳng vô biên vô công dụng chiếu đến Bồ Tát này, khiến bỏ đại minh công dụng hạnh đã phát khởi, nhẫn đến được bực Như Lai bình đẳng, dứt sạch tất cả công dụng không sót thừa.

Giảng: Các vị Phật tử ! Khi hết thảy tất cả Bồ Tát tu tập tất cả pháp trợ đạo (37 phẩm trợ đạo), thì sinh khởi sóng vô lượng tán thiện. Tất cả thế gian trời người A tu la không thế phá hoại được. Như Lai dùng đại trí huệ quang minh báu diệt tất cả sóng tán thiện, chiếu đến Bồ Tát, khiến cho xả bỏ tất cả sóng tán thiện, giữ tâm một cảnh, trụ nơi tam muội. Lại dùng đại trí huệ quang minh báu trừ tất cả pháp ái (tu hành tham trước tam muội, không biết cầu tiến bộ), chiếu đến Bồ Tát, khiến cho xả bỏ sự chấp trước vị tam muội, nghĩa là xả bỏ tham đắm vị thiền, đừng cảm giác có chút vị đạo, nếu chấp trước vào thì sẽ chẳng chịu buông bỏ, nếu lìa bỏ được, sẽ khởi thần thông rộng lớn.

Như Lai lại dùng đại trí huệ quang minh báu huệ quang chiếu khắp, chiếu đến Bồ Tát, khiến cho xả bỏ sự khởi thần thông rộng lớn, trụ vào đại minh công dụng hạnh. Lại dùng đại trí huệ quang minh báu bình đẳng vô biên vô công dụng với Như Lai, chiếu đến Bồ Tát, khiến cho xả bỏ sự khởi đại minh công dụng hạnh, cho đến đắc được bậc Như Lai bình đẳng, ngừng tất cả công dụng, khiến cho không thừa sót.

 

Phật tử! nhược vô Như Lai thử tứ trí bảo đại quang chiếu xúc, nãi chí hữu nhất Bồ Tát đắc Như Lai địa, vô hữu thị xứ.

Chư Phật tử ! Nếu không có quang minh của bốn đại trí bửu của đức Như Lai chiếu đến, thời tất không có một Bồ Tát nào được bậc Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử ! Nếu không có bốn đại trí quang minh báu nầy của Như Lai chiếu đến, thì sẽ không có một vị Bồ Tát nào đắc được cảnh giới của bậc Như Lai.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ ngũ tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ năm của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ năm của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! như tùng thủy tế, thượng chí phi tưởng phi phi tưởng thiên, kỳ trung sở hữu Đại Thiên quốc độ, dục, sắc, vô sắc chúng sanh chi xứ, mạc bất giai y hư không nhi khởi, hư không nhi trụ. Hà dĩ cố? hư không phổ biến cố; tuy bỉ hư không, phổ dung tam giới nhi vô phân biệt.

Lại nữa, chư Phật tử ! như từ thủy tế lên đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên, trong đó cả Ðại Thiên quốc độ, những chúng sanh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc, đều nương hư không mà khởi mà trụ. Vì hư không cùng khắp vậy. Dầu hư không đó dung khắp ba cõi mà không phân biệt.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Như từ mặt nước, lên đến cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng (cõi trời thứ tư vô sắc giới), trong đó hết thảy cõi nước đại thiên, nơi chúng sinh cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, thảy đều nương vào hư không mà sinh ra, nương vào hư không mà trụ. Tại sao vậy ? Vì hư không khắp cùng tất cả mọi nơi. Tuy hư không dung nạp khắp ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc), mà không có sự phân biệt.

 

Phật tử! Như Lai trí tuệ diệc phục như thị, nhược Thanh văn trí, nhược độc giác trí, nhược Bồ Tát trí, nhược hữu vi hạnh trí, nhược vô vi hạnh trí, nhất thiết giai y Như Lai trí khởi, Như Lai trí trụ. Hà dĩ cố? Như Lai trí tuệ biến nhất thiết cố; tuy phục phổ dung vô lượng trí tuệ nhi vô phân biệt.

Chư Phật tử ! Như Lai trí huệ cũng như vậy. Hoặn Thanh Văn trí, hoặc Ðộc Giác trí, hoặc Bồ Tát trí, hoặc hữu vi hạnh trí, hoặc vô vi hạnh trí, tất cả đều nương Như Lai trí mà khởi mà trụ. Vì trí huệ của Như Lai khắp tất cả. Dầu dung khắp tất cả vô lượng trí huệ, mà Như Lai trí huệ vẫn không phân biệt.

Giảng: Các vị Phật tử ! Trí huệ Như Lai cũng lại như thế. Hoặc trí huệ của Thanh Văn, hoặc trí huệ của Độc Giác, hoặc trí huệ của Bồ Tát, hoặc trí huệ hữu vi hành, tất cả trí huệ đều nương trí huệ của Như Lai mà sinh khởi, nương theo trí huệ của Như Lai mà trụ. Tại sao vậy ? Vì Trí huệ của Như Lai cùng khắp tất cả mọi nơi. Tuy lại có thể dung nạp khắp vô lượng trí huệ, mà không có sự phân biệt.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ lục tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ sáu của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ sáu của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! như tuyết sơn đảnh hữu dược vương thụ, danh: vô tận căn. bỉ dược thụ căn tùng thập lục vạn bát thiên do-tuần hạ tận Kim cương địa thủy luân tế sanh. Bỉ dược vương thụ nhược sanh căn thời, lệnh Diêm-phù-đề nhất thiết thọ căn sanh; nhược sanh hành thời, lệnh Diêm-phù-đề nhất thiết thụ hành sanh; chi, diệp, hoa, quả tất giai như thị. Thử dược vương thụ, căn năng sanh hành, hành năng sanh căn, căn vô hữu tận, danh: vô tận căn.

Lại nữa, chư Phật tử ! Như đảnh núi Tuyết có cây Dược Vương tên là Vô Tận Căn. Rễ cây Dược Vương này mọc từ thủy luân tế suốt thấu kim cang địa sâu mười sáu vạn tám ngàn do tuần. Lúc cây Dược Vương này mọc rễ thời tất cả ở Diêm Phù Ðề mọc rễ, lúc thân cây Dược Vương mọc lên thời tất cả thân cây ở Diêm Phù Ðề mọc lên, nhánh lá bông trái cũng như vậy. Cây Dược Vương này, gốc hay sanh cây, cây hay sanh gốc rễ. Gốc rễ không cùng tận nên gọi là Vô Tận Căn.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Như trên đỉnh núi Tuyết, có một cây dược vương, tên là Vô tận căn, rễ của cây thuốc đó, sinh ra từ mặt đất kim cang, sâu xuống tận thuỷ luân tế mười sáu vạn tám ngàn do tuần. Khi rễ cây dược vương đó sinh ra, thì khiến cho tất cả rễ cây Diêm Phù Đề sinh ra. Hoặc khi sinh thân, thì khiến cho tất cả thân cây cõi Diêm Phù Đề sinh ra, cành, lá, hoa, quả, thảy đều như vậy. Cây dược vương đó, rễ hay sinh thân, thân hay sinh rễ. Rễ không cùng tận, vĩnh viễn không ngừng, nên tên gọi là Vô tận căn.

 

Phật tử! bỉ dược vương thụ ư nhất thiết xứ giai lệnh sanh trưởng, duy ư nhị xứ bất năng vi tác sanh trưởng lợi ích, sở vị: địa ngục thâm khanh cập thủy luân trung; nhiên diệc ư bỉ sơ vô yếm xả.

Chư Phật tử ! Cây Dược Vương này hay làm cho những cây ở tất cả xứ đều được sanh trưởng, chỉ trừ hai nơi địa ngục và trong thủy luân không thể làm tăng trưởng. Nhưng cũng không nhàm bỏ hai nơi đó.

Giảng: Các vị Phật tử ! Cây dược vương đó, ở tất cả mọi nơi, đều khiến cho sinh trưởng. Chỉ có hai nơi không thể sinh trưởng lợi ích, đó là hố sâu địa ngục, và trong thuỷ luân. Nhưng cũng vẫn không nhàm bỏ hai nơi đó.

 

Phật tử! Như Lai trí tuệ Đại dược vương thụ diệc phục như thị, dĩ quá khứ sở phát thành tựu nhất thiết trí tuệ thiện Pháp, phổ phước nhất thiết chư chúng sanh giới, trừ diệt nhất thiết chư ác đạo khổ quảng đại bi nguyện nhi vi kỳ căn, ư nhất thiết Như Lai chân thật trí tuệ chủng tánh trung sanh kiên cố bất động thiện xảo phương tiện dĩ vi kỳ hành, biến Pháp giới trí, chư Ba-la-mật dĩ vi kỳ chi, Thiền định, giải thoát, chư Đại tam muội dĩ vi kỳ diệp, tổng trì, biện tài,  Bồ-đề phần Pháp dĩ vi kỳ hoa, cứu cánh vô biến chư Phật giải thoát dĩ vi kỳ quả.

Chư Phật tử ! Cây đại Dược Vương trí huệ của Như Lai cũng như vậy. Do quá khứ phát sanh thành tựu tất cả trí huệ pháp lành, trùm khắp tất cả chúng sanh giới, trừ diệt tất cả những khổ ác đạo. Bi nguyện quảng đại làm gốc rễ, sanh trong chủng tánh trí huệ chơn thiệt của tất cả Như Lai. Phương tiện thiện xảo kiên cố bất động dùng làm thân cây. Trí khắp pháp giới các Ba la mật dùng làm nhánh cây. Thiền định, giải thoát, các đại tam muội dùng làm lá cây. Tổng trì biện tài Bồ đề phần pháp dùng làm bông. Chư Phật giải thoát rốt ráo không biến đổi dùng làm trái.

Giảng: Các vị Phật tử ! Cây dược vương đại trí huệ Như Lai cũng lại như thế. Nhờ thành tựu thiện căn và thiện pháp nhất thiết trí đã phát ra trong quá khứ, che khắp tất cả các cõi chúng sinh, hay trừ diệt tất cả các khổ các đường ác, dùng bi nguyện rộng lớn mà làm rễ. Sinh ra trong giống tánh trí huệ chân thật của tất cả Như Lai, dùng thiện xảo phương tiện kiên cố bất động để làm thân. Dùng trí huệ khắp pháp giới và mười Ba la mật làm cành. Dùng thiền định giải thoát các đại tam muội làm lá. Dùng tổng trì biện tài pháp bồ đề phần làm hoa. Dùng giải thoát rốt ráo không biến đổi của chư Phật làm quả.

 

Phật tử! Như Lai trí tuệ Đại dược vương thụ, hà cố đắc danh vi: vô tận căn? dĩ cứu cánh vô hưu tức cố, bất đoạn Bồ Tát hạnh cố; Bồ Tát hạnh tức Như Lai tánh, Như Lai tánh tức Bồ Tát hạnh, thị cố đắc danh vi: vô tận căn.

Chư Phật tử ! Cây đại Dược Vương trí huệ của đức Như Lai cớ sao lại được gọi là Vô Tận Căn ? Vì rốt ráo không thôi dứt. Vì chẳng dứt Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hạnh tức là Như Lai tánh, Như Lai tánh tức là Bồ Tát hạnh nên được gọi là Vô Tận Căn.

Giảng: Các vị Phật tử ! Cây dược vương đại trí huệ của Như Lai, sao lại được tên là Vô tận căn ? Vì rốt ráo không ngừng nghỉ, vì không dứt hẳn Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hạnh tức là Phật tánh của Như Lai, tánh Như Lai tức là Bồ Tát hạnh, bởi vậy nên được tên là Vô tận căn.

 

Phật tử! Như Lai trí tuệ Đại dược vương thụ, kỳ căn sanh thời, lệnh nhất thiết Bồ Tát sanh bất xả chúng sanh đại từ bi căn

Chư Phật tử ! Lúc cây đại trí huệ của Như Lai mọc rễ thời làm cho tất cả Bồ Tát sanh rễ đại từ bi chẳng bỏ chúng sanh.

Giảng: Các vị Phật tử ! Cây dược vương đại trí huệ của Như Lai, khi sinh rễ thì, khiến cho tất cả Bồ Tát sinh rễ đại từ bi, không xả bỏ chúng sinh.

 

Kỳ hành sanh thời, lệnh nhất thiết Bồ Tát tăng trưởng kiên cố tinh tấn thâm tâm hành

Lúc thân cây đại trí huệ này sanh lên thời làm cho tất cả Bồ Tát tăng trưởng thân cây thâm tâm tinh tấn kiên cố.

Giảng: Khi sinh thân thì khiến cho tất cả Bồ Tát, tăng trưởng thân thâm tâm, tinh tấn, kiên cố.

 

Kỳ chi sanh thời, lệnh nhất thiết Bồ Tát tăng trưởng nhất thiết chư Ba-la-mật chi

Lúc nhánh của đại trí huệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ Tát tăng trưởng tất cả nhánh Ba la mật.

Giảng: Khi sinh cành thì khiến cho tất cả Bồ Tát, tăng trưởng cành tất cả các Ba la mật (đến bờ kia).

 

Kỳ diệp sanh thời, lệnh nhất thiết Bồ Tát sanh trưởng tịnh giới Đầu-đà công đức thiểu dục tri túc diệp

Lúc lá của đại trí huệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ Tát sanh trưởng lá công đức tịnh giới đầu đà thiểu dục tri túc.

Giảng: Khi sinh lá thì khiến cho tất cả Bồ Tát, sinh trưởng lá tịnh giới, khổ hạnh, công đức, ít dục, biết đủ.

 

Kỳ hoa sanh thời, lệnh nhất thiết Bồ Tát cụ chư thiện căn tướng hảo trang nghiêm hoa

Lúc bông đại trí huệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ Tát đầy đủ bông thiện căn tướng hảo trang nghiêm.

Giảng: Khi sinh hoa thì khiến cho tất cả tất cả Bồ Tát, đầy đủ các hoa căn lành, tướng tốt, trang nghiêm.

 

Kỳ quả sanh thời, lệnh nhất thiết Bồ Tát đắc vô sanh nhẫn nãi chí nhất thiết Phật quán đảnh nhẫn quả.

Lúc trái đại trí huệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ Tát được trái Vô sanh nhẫn cho đến quả chư Phật quán đảnh nhẫn.

Giảng: Khi sinh quả thì khiến cho tất cả Bồ Tát, đắc được vô sinh pháp nhẫn, cho đến đắc được quả tất cả chư Phật quán đỉnh nhẫn.

 

Phật tử! Như Lai trí tuệ Đại dược vương thụ duy ư nhị xứ bất năng vi tác sanh trưởng lợi ích, sở vị: nhị thừa đọa ư vô vi quảng đại thâm khanh cập hoại thiện căn phi khí chúng sanh nịch Đại tà kiến tham ái chi thủy; nhiên diệc ư bỉ tằng vô yếm xả.

Phật tử! Trí huệ của Như Lai chỉ không thể làm cho hai chỗ được lợi ích sanh trưởng : một là hàng nhị thừa sa vào hố sâu vô vi quảng đại, hai là những chúng sanh hư hoại thiện căn chìm trong nước đại tà kiến tham ái. Nhưng vẫn không hề nhàm bỏ hai chỗ đó.

Giảng: Các vị Phật tử ! Cây dược vương đại trí huệ Như Lai, chỉ ở hai nơi không thể sinh trưởng làm lợi ích. Đó là : Hàng nhị thừa đoạ vào hố sâu vô vi rộng lớn. Vì hàng nhị thừa được ít cho là đủ, trung đạo tự hoá, chẳng tiến về trước, vĩnh viễn chẳng đến được Bảo Sở. Và chúng sinh huỷ hoại căn lành, chẳng phải pháp khí, chìm đắm trong nước tham ái và đại tà kiến. Nhưng Phật có tâm từ bi, đối với những chúng sinh nầy, cũng không nhàm chán, cũng không bỏ rơi họ.

 

Phật tử! Như Lai trí tuệ vô hữu tăng giảm, dĩ căn thiện an trụ, sanh vô hưu tức cố.

Chư Phật tử ! Trí huệ của đức Như Lai không tăng giảm, vì gốc rễ khéo an trụ sanh trưởng không thôi dứt.

Giảng: Các vị Phật tử ! Trí huệ Như Lai không có tăng giảm, vì nhờ căn lành thuở xưa, để an trụ tất cả chúng sinh, không có khi nào ngừng nghỉ.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ thất tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ bảy của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ bảy của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như tam thiên đại thiên thế giới kiếp hỏa khởi thời, phần thiêu nhất thiết thảo mộc tùng lâm, nãi chí thiết vi, đại thiết vi sơn giai tất sí nhiên vô hữu di dư. Phật tử! giả sử hữu nhân thủ chấp kiền thảo đầu bỉ hỏa trung, ư ý vân hà, đắc bất thiêu bất? đáp ngôn: bất dã. Phật tử! bỉ sở đầu thảo dung khả bất thiêu; Như Lai trí tuệ phân biệt tam thế nhất thiết chúng sanh, nhất thiết quốc độ, nhất thiết kiếp số, nhất thiết chư pháp, vô bất tri giả; nhược ngôn bất tri, vô hữu thị xứ. Hà dĩ cố? trí tuệ bình đẳng tất minh đạt cố.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Ðại Thiên thế giới, lúc kiếp hỏa khởi đốt cháy tất cả cây cỏ lùm rừng, nhẫn đến núi Thiết Vi, núi Ðại Thiết Vi đều cháy không thừa sót. Giả sử có người cầm cỏ khô ném vào trong lửa đó tất là phải cháy hết. Nhưng cũng cho là cỏ đó được chẳng cháy. Chớ còn không thể nói rằng trí huệ của đức Như Lai phân biệt không biết hết tam thế tất cả chúng sanh, tất cả quốc độ, tất cả kiếp số, tất cả các pháp. Vì trí huệ Như Lai bình đẳng thấu rõ tất cả.

Giảng: Lại nữa, các vị Phật tử ! Ví như khi ba ngàn đại thiên thế giới nổi kiếp lửa, lửa đó lợi hại hơn lửa bình thường gấp trăm ngàn vạn lần. Lửa bình thường có thể dập tắt được, nhưng kiếp lửa thì chẳng có cách chi dập tắt được. Kiếp lửa đó, chẳng những thiêu cháy hết tất cả cỏ cây lùm rừng, mà cho đến núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, thảy đều thiêu sạch hết thành tro, không có nơi nào sót lại.

Các vị Phật tử ! Giả sử có người, tay cầm cỏ khô ném vào trong lửa đó. Ý các vị thế nào ? Cỏ khô đó có cháy chăng ? Đáp rằng : Không thể nào không bị lửa lớn cháy.

Các vị Phật tử ! Cỏ khô đó ném vào trong lửa, có thể không cháy. Trí huệ Như Lai, phân biệt biết được ba đời tất cả chúng sinh, tất cả cõi nước, tất cả kiếp số, tất cả các pháp, những nhân duyên cảnh giới đó, Như Lai chẳng có gì mà không biết. Nếu như có người nói rằng Như Lai không biết, thì không có lý nào. Tại sao ? Vì trí huệ Như Lai bình đẳng, hết thảy tất cả Như Lai đều thấu rõ thông đạt.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ bát tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ tám của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ tám của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như phong tai hoại thế giới thời, hữu Đại phong khởi, danh viết: tán hoại, năng hoại tam thiên đại thiên thế giới, Thiết vi sơn đẳng giai thành toái mạt. Phục hưũ Đại phong, danh vi: năng chướng, châu táp tam thiên đại thiên thế giới chướng tán hoại phong, bất lệnh đắc chí dư phương thế giới. Phật tử! nhược lệnh vô thử năng chướng Đại phong, thập phương thế giới vô bất hoại tận.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như phong tai lúc phá hoại thế giới, có gió lớn nổi lên tên là Tán Hoại, có thể phá hư Ðại Thiên thế giới, núi Thiết Vi v.v… đều nát thành bụi. Lại có gió lớn tên là Năng Chướng bao che xung quanh Ðại Thiên thế giới, ngăn gió Tán Hoại không cho thổi đến những thế giới khác. Nếu không có gió Năng Chướng này thời thập phương thế giới sẽ tan hư cả.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như khi nạn gió huỷ hoại thế giới, có gió lớn nổi lên, tên là Tán hoại, hay huỷ hoại ba ngàn đại thiên thế giới, núi Thiết Vi v.v… đều nát thành bụi. Lại có gió lớn, tên là Năng chướng, bao bọc chung quanh ba ngàn đại thiên thế giới, ngăn che gió Tán hoại, không để cho đến được thế giới phương khác.

Các vị Phật tử ! Nếu như, không có gió lớn Năng chướng đó, thì mười phương thế giới sẽ bị huỷ hoại hết.

 

Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, hữu đại trí phong, danh vi: năng diệt, năng diệt nhất thiết chư đại Bồ-tát phiền não tập khí; hữu đại trí phong, danh vi: xảo trì, xảo trì kỳ căn vị thục Bồ Tát bất lệnh năng diệt đại trí phong luân đoạn kỳ nhất thiết phiền não tập khí. Phật tử! nhược vô Như Lai xảo trì trí phong, vô lượng Bồ Tát giai đọa Thanh văn, Bích Chi Phật địa; do thử trí cố, lệnh chư Bồ-tát siêu nhị thừa địa, an trụ Như Lai cứu cánh chi vị

Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác có đại trí phong tên là Năng Diệt, có thể diệt trừ tập khí phiền não của tất cả chư đại Bồ Tát. Có đại trí phong tên là Xảo Trì, khéo giữ gìn chư Bồ Tát căn khí chưa thành thục chẳng cho đại trí phong Năng Diệt dứt tất cả tập khí phiền não. Nếu không có đại trí phong Xảo Trì của Như Lai, thời vô lượng Bồ Tát sẽ sa vào bực Thanh Văn, Bích Chi Phật. Do trí Xảo Trì này làm cho chư Bồ Tát vượt khỏi bực Nhị thừa an trụ nơi bực rốt ráo của Như Lai.

Giảng: Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Có gió đại trí huệ, tên là Năng diệt. Hay diệt phiền não và tập khí của tất cả các đại Bồ Tát. Diệt hết rồi, Bồ Tát mới có thể thành Phật. Lại có gió đại trí huệ, tên là Khéo giữ, hay khéo giữ Bồ Tát căn tánh chưa thành thục, không để cho gió đại trí Năng diệt, mà khiến cho Bồ Tát dứt trừ được tất cả phiền não tập khí.

Các vị Phật tử ! Nếu không có gió đại trí Khéo giữ của Như Lai, thì vô lượng Bồ Tát đều rơi vào bậc Thanh Văn, hoặc bậc Bích Chi Phật. Nhờ có gió đại trí đó, nên khiến cho các Bồ Tát vượt qua bậc nhị thừa, an trụ bậc rốt ráo của Như Lai.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ cửu tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ chín của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ chín của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! Như Lai trí tuệ vô xứ bất chí. Hà dĩ cố? vô nhất chúng sanh nhi bất cụ hữu Như Lai trí tuệ, đãn dĩ vọng tưởng điên đảo chấp trước nhi bất chứng đắc; nhược ly vọng tưởng, nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí tức đắc hiện tiền.

Lại nữa, chư Phật tử ! Trí huệ của đức Như Lai không chỗ nào là chẳng đến. Vì không một chúng sanh nào mà chẳng có đủ Như Lai trí huệ, chỉ do vọng tưởng điên đảo chấp trước nên không chứng được. Nếu rời vọng tưởng thời nhứt thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí liền hiện tiền.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Trí huệ Như Lai chẳng có nơi nào mà không đến. Tại sao ? Vì không có một chúng sinh nào mà chẳng đầy đủ trí huệ của Như Lai. Nhưng vì chúng sinh có vọng tưởng, điên đảo, chấp trước, nên không chứng đắc trí huệ Như Lai. Nếu lìa khỏi vọng tưởng, chấp trước, thì nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô ngại trí, sẽ hiện tiền, sẽ đắc được.

 

Phật tử! thí như hữu đại Kinh quyển, lượng đẳng tam thiên đại thiên thế giới, thư tả tam thiên đại thiên thế giới trung sự, nhất thiết giai tận. sở vị: thư tả đại thiết vi sơn trung sự, lượng đẳng đại thiết vi sơn; thư tả Đại địa trung sự, lượng đẳng Đại địa; thư tả Trung Thiên thế giới trung sự, lượng đẳng Trung Thiên thế giới; thư tả Tiểu Thiên thế giới trung sự, lượng đẳng Tiểu Thiên thế giới; như thị, nhược tứ thiên hạ, nhược đại hải, nhược Tu-di sơn, nhược địa Thiên cung điện, nhược dục giới không cư thiên cung điện, nhược sắc giới cung điện, nhược vô sắc giới cung điện, nhất nhất thư tả, kỳ lượng tất đẳng. Thử đại Kinh quyển tuy phục lượng đẳng Đại Thiên thế giới, nhi toàn trụ tại nhất vi trần trung; như nhất vi trần, nhất thiết vi trần giai diệc như thị.

Chư Phật tử ! Ví như có quyển sách lớn bằng Ðại Thiên thế giới biên chép hết cả những sự trong Ðại Thiên thế giới. Những là biên chép hết những sự trong Ðại Thiết Vi Sơn thời lượng bằng núi Ðại Thiết Vi, biên chép những sự trong đại địa thời lượng bằng đại địa, biên chép những sự trong Trung Thiên thế giới thời lượng bằng Trung Thiên thế giới, biên chép những sự trong Tiểu Thiên thế giới thời lượng bằng Tiểu Thiên thế giới. Như vậy nhẫn đến biên chép những sự trong bốn châu thiên hạ, trong đại hải, trong Tu Di Sơn, trong cung điện của Ðịa Cư Thiên, của Không Cư Thiên, của Sắc Giới Thiên, của Vô Sắc Giới Thiên, biên chép mỗi xứ thời lượng của sách cũng bằng như vậy. Quyển sách lớn này dầu lượng bằng Ðại Thiên thế giới mà toàn ở tại trong một vi trần. Như một vi trần, tất cả vi trần cũng đều như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như có quyển kinh lớn, số lượng lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới. Biên chép hết tất cả những sự việc trong ba ngàn đại thiên thế giới.

Đó là : Biên chép những sự việc trong núi Đại Thiết Vi, số lượng lớn bằng núi Đại Thiết Vi. Biên chép những sự việc trong đại địa, số lượng lớn bằng đại địa. Biên chép những sự việc trong trung thiên thế giới, số lượng lớn bằng trung thiên thế giới. Biên chép sự việc trong tiểu thiên thế giới, lượng bằng tiểu thiên thế giới.

Như vậy, hoặc bốn thiên hạ, hoặc biển cả, hoặc núi Tu Di, hoặc cung điện dưới đất trên trời, hoặc cung điện trời ở trên không của dục giới, hoặc cung điện sắc giới, hoặc cung điện vô sắc giới, thảy đều biên chép hết, lượng đều bằng như vậy. Quyển kinh lớn đó, tuy lượng bằng đại thiên thế giới, mà hoàn toàn ở trong một hạt bụi. Như một hạt bụi, tất cả hạt bụi, cũng đều có quyển kinh lớn.

 

Thời, hữu nhất nhân trí tuệ minh đạt, cụ túc thành tựu thanh tịnh thiên nhãn, kiến thử Kinh quyển tại vi trần nội, ư chư chúng sanh vô thiểu lợi ích, tức tác thị niệm: ngã đương dĩ tinh tấn lực, phá bỉ vi trần, xuất thử Kinh quyển, lệnh đắc nhiêu ích nhất thiết chúng sanh. Tác thị niệm dĩ, tức khởi phương tiện, phá bỉ vi trần, xuất thử Đại Nhật kinh, lệnh chư chúng sanh phổ đắc nhiêu ích. Như ư nhất trần, nhất thiết vi trần ứng tri tất nhiên.

Bấy giờ có một người trí huệ sáng suốt, thành tựu đầy đủ thiên nhãn thanh tịnh, thấy quyển sách này ở trong vi trần không chút lợi ích cho các chúng sanh, bèn nghĩ rằng tôi nên dùng sức tinh tấn phá vỡ vi trần đó để đem quyển sách lớn ra làm cho các chúng sanh được lợi ích. Nghĩ xong, người này liền dùng phương tiện phá vỡ vi trần đem quyển sách lớn ra, làm cho các chúng sanh được lợi ích. Như nơi một vi trần, tất cả vi trần cũng đều như vậy.

Giảng: Lúc đó, có một người, đủ đại trí huệ thấu rõ thông đạt, đầy đủ thành tựu thiên nhãn thanh tịnh. Thấy quyển kinh lớn đó ở trong một hạt bụi, đối với các chúng sinh lợi ích không ít. Bèn nghĩ rằng : Bây giờ ta phải dũng mãnh tu hành, dùng sức tinh tấn, để phá hạt bụi đó, lấy quyển kinh lớn ra, khiến cho tất cả chúng sinh đều được lợi ích của quyển kinh lớn đó. Nghĩ như vậy rồi, bèn sinh khởi pháp phương tiện, phá hạt bụi đó, lấy quyển kinh ra, khiến cho tất cả chúng sinh khắp được lợi ích. Như trong một hạt bụi là như vậy, trong tất cả hạt bụi, cũng đều như vậy.

 

Phật tử! Như Lai trí tuệ diệc phục như thị, vô lượng vô ngại, phổ năng lợi ích nhất thiết chúng sanh, cụ túc tại ư chúng sanh thân trung; đãn chư phàm ngu vọng tưởng chấp trước, bất tri bất giác, bất đắc lợi ích.

Chư Phật tử ! Cũng vậy, trí huệ của đức Như Lai vô lượng vô ngại có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh, đầy đủ ở trong thân chúng sanh. Chỉ vì hàng phàm phu vọng tưởng chấp trước nên chẳng biết chẳng hay, chẳng được lợi ích.

Giảng: Các vị Phật tử ! Trí huệ Như Lai cũng lại như thế, vô lượng vô ngại, hay lợi ích khắp tất cả chúng sinh. Trí huệ Như Lai đầy đủ ở trong thân chúng sinh. Nhưng tất cả phàm phu ngu si, có vọng tưởng và chấp trước, nhận giặc làm con, lấy giả làm thật, nhiễm khổ thành vui, lấy trái làm phải, lấy đen làm trắng, tri kiến điên đảo. Đối với tất cả tất đều có sự chấp trước, cho nên chẳng biết có trí huệ Như Lai ở trong thân mình, chẳng giác ngộ các hành vô thường, do đó, chẳng được lợi ích trí huệ của Như Lai.

 

Nhĩ thời, Như Lai dĩ vô chướng ngại thanh tịnh trí nhãn, phổ quán Pháp giới nhất thiết chúng sanh nhi tác thị ngôn: kì tai! kì tai! thử chư chúng sanh vân hà cụ hữu Như Lai trí tuệ, ngu si mê hoặc, bất tri bất kiến? ngã đương giáo dĩ Thánh đạo, lệnh kỳ vĩnh ly vọng tưởng chấp trước, tự ư thân trung đắc kiến Như Lai quảng đại trí tuệ dữ Phật vô dị. Tức giáo bỉ chúng sanh tu tập Thánh đạo, lệnh ly vọng tưởng; ly vọng tưởng dĩ, chứng đắc Như Lai vô lượng trí tuệ, lợi ích an lạc nhất thiết chúng sanh.

Bấy giờ đức Như Lai do trí nhãn thanh tịnh vô ngại xem khắp pháp giới tất cả chúng sanh mà nói rằng : Lạ thay ! Lạ thay ! Tại sao các chúng sanh này có đủ trí huệ Như Lai, mà ngu si mê lầm chẳng hay chẳng thấy. Ta nên đem thánh đạo dạy cho họ lìa hẳn vọng tưởng chấp trước. Từ trong thân, họ thấy được trí huệ Như Lai quảng đại, như Phật không khác. Nói xong, đức Như Lai liền đem thánh đạo dạy chúng sanh cho họ lìa vọng tưởng. Lìa vọng tưởng rồi thời chứng được Như Lai vô lượng trí huệ lợi ích an lạc tất cả chúng sanh.

Giảng: Bấy giờ, Như Lai dùng mắt trí huệ thanh tịnh không chướng ngại, quán sát khắp pháp giới tất cả chúng sinh mà nói rằng : Lành thay ! Lành thay ! Những chúng sinh nầy, sao đầy đủ trí huệ Như Lai mà chẳng biết ? Thật là ngu si mê hoặc ! Cũng chẳng biết, cũng chẳng thấy ! Ta sẽ dùng pháp môn thiện xảo phương tiện, để giáo hoá họ tu tập Thánh đạo, khiến cho tất cả chúng sinh, vĩnh viễn lìa khỏi vọng tưởng chấp trước. Khiến cho họ tự ở trong thân mình, thấy được trí huệ Như Lai rộng lớn, để cho họ biết rằng mình bằng với Phật không khác. Như Lai lập tức dạy tất cả chúng sinh đó tu tập Thánh đạo, khiến cho tất cả chúng sinh lìa tất cả vọng tưởng. Lìa khỏi tất cả vọng tưởng rồi, sẽ chứng được vô lượng trí huệ của Như Lai, lợi ích an lạc tất cả chúng sinh.

 

Phật tử! thị vi Như Lai tâm đệ thập tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng thứ mười của tâm Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Phật tử ! Đó là tướng tâm thứ mười của Như Lai. Các đại Bồ Tát nên biết như vậy.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng dĩ như thị đẳng vô lượng vô ngại bất khả tư nghị quảng đại tướng, tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác tâm. Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải dùng vô lượng vô ngại bất tư nghì tướng quảng đại như vậy để biết tâm của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác. Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn nói rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên dùng tướng rộng lớn vô lượng vô ngại không thể nghĩ bàn như vậy, để biết tâm ý của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền, muốn tường thuật lại ý nghĩa kinh văn vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói.

 

Dục tri chư Phật tâm                                          Muốn biết tâm chư Phật
Đương quán Phật trí tuệ,                                   Nên quán trí huệ Phật
Phật trí vô y xứ,                                                   Phật trí không chỗ nương
Như không vô sở y.                                              Như hư không vô y

Giảng: Chúng sinh muốn biết tâm của mười phương chư Phật, hãy quán sát trí huệ của chư Phật. Trí huệ của Phật chẳng có chỗ nương tựa, mà hay sinh ra nhất thiết chủng trí. Giống như hư không, hư không cũng chẳng chỗ nương tựa.

 

Chúng sanh chủng chủng lạc                             Chúng sanh mọi điều vui
Cập chư phương tiện trí,                                    Và những trí phương tiện
Giai y Phật trí tuệ                                                Ðều nương Phật trí huệ
Phật trí vô y chỉ.                                                  Phật trí không y chỉ

Giảng: Chúng sinh có đủ thứ sự vui thích, và tất cả phương tiện trí huệ, đều nương tựa vào trí huệ của Phật mà có. Nhưng trí huệ của Phật chẳng chỗ nương tựa.

 

Thanh văn dữ độc giác                                       Thanh Văn và Ðộc Giác
Cập chư Phật giải thoát                                      Cùng chư Phật giải thoát
Giai y ư Pháp giới,                                               Ðều nương nơi pháp giới
Pháp giới vô tăng giảm.                                       Pháp giới không tăng giảm

Giảng: Hết thảy tất cả Thanh Văn và Độc Giác, đó là bậc Thánh nhân hàng nhị thừa. Và pháp môn giải thoát của chư Phật, đều nương tựa pháp giới mà sinh, nhưng pháp giới không tăng không giảm.

 

Phật trí diệc như thị,                                           Phật trí cũng như vậy
Xuất sanh nhất thiết trí,                                      Xuất sanh nhứt thiết trí
Vô tăng diệc vô giảm,                                          Không tăng cũng không giảm
Vô sanh diệc vô tận.                                            Không sanh cũng không diệt

Giảng: Trí huệ của Phật cũng như vậy, hay sinh ra nhất thiết trí huệ, trí Phật là mẹ của nhất thiết trí huệ, nhưng trí Phật vốn không tăng không giảm, không sinh không diệt.

 

Như thủy tiềm lưu địa,                                        Như nước thường chảy ngầm
Cầu chi vô bất đắc,                                             Ai đào đều được nước
Vô niệm diệc vô tận                                             Nước không niệm, vô tận
Công lực biến thập phương.                               Công lực khắp mười phương

Giảng: Giống như nước ngầm chảy ở dưới lòng đất, bất cứ ai đào giếng cũng đều lấy được nước. Nhưng nước chẳng nghĩ rằng: Tôi phải lợi ích chúng sinh nào đó. Lợi ích của nước vô cùng vô tận, công dụng và sức lực của nước khắp cùng mười phương.

Trong phẩm nầy, nói về nước gió lửa ba nạn. Khi bắt đầu có nạn nước, thì sẽ ngập chìm ba ngàn đại thiên thế giới, do đó có câu: Nước ngập Sơ Thiền, lửa thiêu Nhị Thiền, gió thổi Tam Thiền”. Oai lực của nước không thể nghĩ bàn, oai lực của lửa cũng không thể nghĩ bàn, oai lực của gió càng không thể nghĩ bàn. Ba nạn lớn nầy có thể huỷ diệt tất cả thế giới.

Chúng ta ở trên thế giới nầy, phải mau tu hành, đừng chờ đợi nữa. Lúc còn trẻ chẳng tu hành, đợi đến lúc tóc bạc mới tu hành, thì e rằng lúc đó chẳng còn kịp nữa. Do đó có câu:

“Đừng đợi đến già mới tu đạo
Mộ phần đầy dẫy kẻ thiếu niên”.

Thanh niên cũng mau chết đi, quỷ vô thường chẳng màn già trẻ, đến thời, chẳng khách sáo đến bắt đem xuống gặp vua Diêm Vương, do đó có câu:

“Dương gian không già trẻ
Âm gian thường gặp nhau”.

Các vị hãy chú ý! Thời gian rất là quý báu, một tấc thời gian, là một tấc mạng sống, đừng tuỳ tiện để thời gian trôi qua lãng phí, đợi đến khi ba nạn lớn xảy đến, chúng ta có chịu được chăng? Bây giờ lúc còn trẻ, phải phát tâm tu hành, đừng đợi đến ngày mai mới tu hành. Hôm nay tu hành thì mới là thượng sách. Có người nghĩ: “Hôm nay không tu hành, đợi ngày mai mới tu hành”. Ngày mai lại đợi ngày mốt, đợi tới đợi lui, cho đến đầu bạc, mắt mờ, tai điếc, răng rụng, đến lúc đó mới nghĩ tới tu hành, thì thân thể hết chịu được nữa, tứ chi chẳng còn linh hoạt, lúc đó khổ không cách nào tả hết được.

Các vị phải biết! Chúng ta ở trên thế gian nầy, giống như cá thiếu nước. Chẳng còn thời gian bao lâu thì hơi thở sẽ chấm dứt! Do đó có câu:
“Ngày nay qua rồi
Mạng sống cũng giảm dần
Như cá thiếu nước
Nào có gì vui
Đại chúng!
Hãy siêng tinh tấn
Như cứu đầu lửa cháy
Hãy nhớ vô thường
Đừng có phóng dật”.
Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, vẫn chưa biết tu hành, sinh ra rồi chết đi, chết đi rồi sinh ra, như vậy rất khiến cho chúng ta đau lòng. Tại sao đến bây giờ còn muốn chờ đợi, chẳng chịu tu hành? Các vị hãy nghĩ xem, thời gian chẳng đợi chúng ta, nháy mắt thì chấm dứt một đời!

 

Phật trí diệc như thị,                                           Phật trí cũng như vậy
Phổ tại chúng sanh tâm,                                     Ở khắp tâm chúng sanh
Nhược hữu cần tu hành,                                     Nếu ai siêng tu hành
Tật đắc trí quang minh.                                      Mau được trí quang minh

Giảng: Trí huệ của Phật cũng như vậy, khắp cùng trong tâm của tất cả chúng sinh. Nếu có người siêng tu hành Phật đạo, thì sớm sẽ chứng được trí huệ quang minh của Phật.

 

Như long hữu tứ châu                                         Như rồng có bốn châu
Xuất sanh nhất thiết bảo,                                   Xuất sanh tất cả báu
Trí chi thâm mật xứ                                            Cất châu chỗ thâm mật
Phàm nhân mạc năng kiến                                 Kẻ phàm chẳng thấy được

Giảng: Giống như Long Vương có bốn bảo châu, bốn thứ bảo châu đó, hay sinh ra tất cả châu báu. Long Vương cất giữ bốn bảo châu đó ở nơi bí mật an toàn nhất, phàm phu tục tử không thể nhìn thấy được.

 

Phật tứ trí diệc nhiên,                                         Phật bốn trí cũng vậy
Xuất sanh nhất thiết trí,                                      Xuất sanh tất cả trí
Dư nhân mạc năng kiến,                                     Người khác không thấy được
Duy trừ đại Bồ-tát.                                              Chỉ trừ đại Bồ Tát

Giảng: Phật có bốn thứ trí huệ cũng như vậy, hay sinh ra nhất thiết trí huệ. Phàm phu và hàng nhị thừa, không thể thấy được. Chỉ có đại Bồ Tát mới thấy được bốn trí của Phật, đó là: Thành sở tác trí, diệu quán sát trí, bình đẳng tánh trí, và đại viên cảnh trí.

 

Như hải hữu tứ bảo,                                            Như biển có bốn châu
Năng ẩm nhất thiết thủy,                                    Hay rút tất cả nước
Lệnh hải bất lưu dật,                                           Khiến biển chẳng tràn đầy
Diệc phục vô tăng giảm.                                      Cũng lại không thêm bớt

Giảng: Giống như ở trong biển, có bốn thứ bảo châu, hay uống các dòng nước trăm sông đổ vào biển. Lại khiến cho nước trong biển không bị đầy tràn ra ngoài. Nhưng nước trong biển cũng không tăng, cũng không giảm.

 

Như Lai trí diệc nhĩ,                                            Trí Như Lai cũng vậy
Tức lãng trừ pháp ái,                                          Dứt sóng trừ pháp ái
Quảng đại vô hữu biên,                                       Rộng lớn không ngằn mé
Năng sanh Phật Bồ-tát.                                      Hay sanh Phật Bồ Tát

Giảng: Trí huệ của Như Lai cũng như vậy, hay tiêu diệt sóng tập khí, hay tiêu trừ pháp ái chấp trước. Trí huệ của Phật rộng lớn chẳng có bờ mé, hay sinh ra tất cả Như Lai và tất cả Bồ Tát.

 

Hạ phương chí hữu đính,                                   Hạ phương đến Hữu Ðảnh
Dục sắc vô sắc giới,                                             Dục, Sắc, Vô Sắc giới
Nhất thiết y hư không,                                        Tất cả nương hư không
Hư không bất phân biệt.                                     Hư không chẳng phân biệt

Giảng: Từ nhân gian ở phương dưới cho đến phương trên, có cõi trời Hữu Đỉnh, dục giới, sắc giới, vô sắc giới, tất cả ba cõi nầy, đều nương hư không mà trụ, nhưng hư không chẳng có tâm phân biệt.

 

Thanh văn dữ độc giác,                                      Thanh Văn và Ðộc Giác
Bồ Tát chúng trí tuệ,                                          Bồ Tát các trí huệ
Giai y ư Phật trí,                                                  Ðều nương nơi Phật trí
Phật trí vô phân biệt.                                          Trí Phật vô phân biệt

Giảng: Thánh nhân Thanh Văn và Thánh nhân Độc Giác, cùng với chúng Bồ Tát trí huệ, đều nương trí huệ của Phật mà trụ, nhưng trí huệ của Phật chẳng có phân biệt.

 

Tuyết sơn hữu Dược-Vương,                              Núi Tuyết có Dược Vương
Danh vi vô tận căn,                                             Tên là Vô Tận Căn
Năng sanh nhất thiết thọ,                                   Hay sanh tất cả cây
Căn hành diệp hoa thật.                                     Gốc, thân, nhánh, bông, trái

Giảng: Ở trên đỉnh núi Tuyết, có cây đại dược vương, tên là Vô tận căn. Hay sinh ra tất cả rễ, thân, cành, lá, hoa, quả của tất cả cây.

 

Phật trí diệc như thị                                            Phật trí cũng như vậy
Như Lai chủng trung sanh,                                Sanh trong Như Lai chủng
Ký đắc Bồ-đề dĩ,                                                 Ðã được Bồ Ðề rồi
Phục sanh Bồ Tát hạnh.                                     Lại sanh Bồ Tát hạnh

Giảng: Trí huệ của Phật cũng như vậy, ở trong giống Như Lai sinh ra, về sau đắc được bồ đề giác đạo rồi, lại sinh ra Bồ Tát hạnh.

 

Như nhân bả kiền thảo,                                      Như người cầm cỏ khô
Trí chi ư kiếp thiêu,                                             Ðể vào trong kiếp hỏa
Kim cương do đỗng nhiên,                                  Kim cang còn cháy đỏ
Thử vô bất thiêu lý.                                             Cỏ khô tất phải cháy

Giảng: Giống như có người cầm cỏ khô ném vào trong kiếp lửa, nhất định sẽ bị cháy. Cho dù đá kim cương ném vào trong kiếp lửa cũng sẽ bị cháy, hà huống là cỏ khô, không thể nào không cháy.

 

Tam thế kiếp dữ sát,                                           Tam thế kiếp và cõi
Cập kỳ trung chúng sanh,                                  Trong đó các chúng sanh
Bỉ thảo dung bất thiêu,                                       Cỏ khô cho chẳng cháy
Thử Phật vô bất tri.                                            Phật trí biết tất cả

Giảng: Kiếp ba đời và cõi ba đời, cùng chúng sinh ở trong đó, đều bị kiếp lửa thiêu sạch. Cỏ khô đó có thể cho rằng không cháy, nhưng trí huệ của Phật biết hết tất cả, chẳng có gì mà không biết.

 

Hữu phong danh tán hoại,                                  Có gió tên Tán Hoại
Năng hoại ư Đại Thiên                                        Hay phá hoại Ðại Thiên
Nhược vô biệt phong chỉ                                     Nếu không gió khác ngăn
Hoại cập vô lượng giới.                                        Sẽ hoại vô lượng cõi

Giảng: Khi ba ngàn đại thiên thế giới sắp hoại, thì nổi lên gió lớn, tên là Tán hoại. Hay thổi bay tan nát hết sơn hà đại địa của tất cả thế giới. Dù núi Thiết Vi cũng tan thành bụi. Vì có gió Năng chướng ngăn cản gió đó, không để cho huỷ hoại thế giới khác, bằng không, ba ngàn đại thiên thế giới đều bị tán hoại, vô lượng thế giới cũng không thể tồn tại.

 

Đại trí phong diệc nhĩ,                                        Gió đại trí cũng vậy
Diệt chư Bồ-tát hoặc                                           Diệt phiền não Bồ Tát
Biệt hữu thiện xảo phong                                    Lại có gió Thiện Xảo
Lệnh trụ Như Lai địa.                                         Khiến trụ bực Như Lai

Giảng: Gió đại trí của Như Lai cũng như vậy, hay tiêu diệt vô minh hoặc vi tế của tất cả Bồ Tát. Lại có một thứ gió Thiện xảo, hay khiến cho tất cả Bồ Tát, trụ nơi bậc Như Lai.

 

Như hữu đại Kinh quyển                                    Như có quyển sách lớn
Lượng đẳng tam thiên giới,                                 Lượng bằng Ðại Thiên giới
Tại ư nhất trần nội,                                             Ở trong một vi trần
Nhất thiết trần tất nhiên.                                    Tất cả trần cũng vậy

Giảng: Giống như có một quyển kinh lớn, số lượng bằng ba ngàn đại thiên thế giới, nhưng để ở trong một hạt bụi, trong hết thảy tất cả hạt bụi, đều có quyển kinh lớn như vậy.

 

Hữu nhất thông tuệ nhân                                   Có một người thông minh
Tịnh nhãn tất minh kiến,                                     Tịnh nhãn đều thấy rõ
Phá trần xuất Kinh quyển                                  Phá trần đem sách ra
Phổ nhiêu ích chúng sanh                                   Lợi ích khắp chúng sanh

Giảng: Có người thông minh có trí huệ, đắc được pháp nhãn thanh tịnh, đều thấy rõ tất cả sự việc, cho nên nhìn thấy trong hạt bụi có quyển kinh lớn, bèn dùng pháp phương tiện phá hạt bụi, lấy quyển kinh lớn ra, lợi ích khắp tất cả chúng sinh.

 

Phật trí diệc như thị,                                           Phật trí cũng như vậy
Biến tại chúng sanh tâm,                                    Ở khắp tâm chúng sanh
Vọng tưởng chi sở triền,                                     Bị vọng tưởng buộc ràng
Bất giác diệc bất tri.                                            Chẳng hay cũng chẳng biết

Giảng: Trí huệ của Phật cũng như vậy, đầy khắp tâm chúng sinh. Tâm chúng sinh tuy nhiên có trí huệ Phật, nhưng bị vọng tưởng chấp trước ràng buộc, nên chẳng giác ngộ, cũng chẳng hay biết mình có vọng tưởng chấp trước.

 

Chư Phật đại từ bi,                                              Chư Phật đại từ bi
Lệnh kỳ trừ vọng tưởng,                                     Khiến họ trừ vọng tưởng
Như thị nãi xuất hiện,                                          Phật trí bèn xuất hiện
Nhiêu ích chư Bồ-tát.                                          Lợi ích chư Bồ Tát

Giảng: Chư Phật có tâm đại từ bi, khiến cho tất cả chúng sinh tiêu trừ vọng tưởng chấp trước, như vậy mới hiện ra trí Phật, hay khiến cho tất cả Bồ Tát đều được lợi ích.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác cảnh giới

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết cảnh giới của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác như thế nào ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị Phật tử! Đại Bồ Tát làm thế nào biết cảnh giới của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ Vô chướng vô ngại trí tuệ, tri nhất thiết thế gian cảnh giới thị Như Lai cảnh giới, tri nhất thiết tam thế cảnh giới, nhất thiết sát cảnh giới, nhất thiết pháp cảnh giới, nhất thiết chúng sanh cảnh giới, chân như vô sái biệt cảnh giới, Pháp giới vô chướng ngại cảnh giới, thật tế vô biên tế cảnh giới, hư không vô phần lượng cảnh giới, vô cảnh giới cảnh giới thị Như Lai cảnh giới.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát dùng trí huệ vô ngại biết tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai. Biết tất cả tam thế cảnh giới, tất cả cõi cảnh giới, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sanh cảnh giới, chơn như vô sai biệt cảnh giới, pháp giới vô chướng ngại cảnh giới, thiệt tế vô biên tế cảnh giới, hư không vô phần lượng cảnh giới, cảnh giới không cảnh giới, đều là Như Lai cảnh giới.

Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát dùng trí huệ không chướng ngại, biết được pháp thế gian tức là pháp xuất thế gian. Do đó có câu:
“Phật pháp tại thế gian
Chẳng lìa thế gian giác
Lìa đời cầu bồ đề
Ví như tìm sứng thỏ”.

Cảnh giới của tất cả thế gian, tức là cảnh giới Như Lai. Cảnh giới Như Lai tức là cảnh giới của thế giới, chẳng có sự khác biệt. Lại biết cảnh giới của tất cả Phật, cảnh giới tất cả pháp, cảnh giới tất cả chúng sinh, cảnh giới chân như không khác biệt, cảnh giới pháp giới không chướng ngại, cảnh giới thật tế không bờ mé, cảnh giới hư không chẳng phân lượng, cảnh giới không có cảnh giới, đó đều là cảnh giới Như Lai.

Cho nên nói, vạn sự vạn vật đều đang thuyết pháp! Nếu bạn minh bạch, thì có thể chuyến bánh xe pháp. Nếu chẳng minh bạch thì bị bánh xe pháp chuyển. Tức là chuyển theo cảnh giới, mà chẳng chuyển được cảnh giới. Nếu thông đạt rõ lý, thì con người chuyển được cảnh giới, mà cảnh giới không chuyển được con người. Nếu mê hoặc không hiểu, thì con người tuỳ theo cảnh giới chuyển, mình làm chủ chẳng đặng, tuỳ gió thổi, như hạt bụi lơ lửng trong không. Nếu thấu hiểu, thì vạn sự vạn vật đều đang diễn nói pháp của Như Lai. Hữu tình chúng sinh hiện thân thuyết pháp, vô tình chúng sinh thị hiện thuyết pháp. Tóm lại, tất cả tất cả, đều đang thuyết diệu pháp.

 

Phật tử! như nhất thiết thế gian cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới diệc vô lượng; như nhất thiết tam thế cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới diệc vô lượng; nãi chí, như vô cảnh giới cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới diệc vô lượng; như vô cảnh giới cảnh giới nhất thiết xứ vô hữu, Như Lai cảnh giới diệc như thị nhất thiết xứ vô hữu.

Chư Phật tử ! Như tất cả thế gian cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Như tất cả tam thế cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Nhẫn đến như cảnh giới không cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Như cảnh giới không cảnh giới tất cả xứ không có, Như Lai cảnh giới cũng vậy, tất cả xứ không có.

Giảng: Các vị Phật tử! Giống như cảnh giới của tất cả thế gian, vô lượng vô biên, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng vô biên. Giống như cảnh giới của tất cả ba đời vô lượng vô biên, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng vô biên. Cho đến cảnh giới giống như không có cảnh giới vô lượng vô biên, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng vô biên. Cảnh giới giống như không có cảnh giới, tất cả mọi nơi đều không có, cảnh giới Như Lai cũng như vậy, tất cả mọi nơi đều không có.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri tâm cảnh giới thị Như Lai cảnh giới. Như tâm cảnh giới vô lượng vô biên, vô phược vô thoát, Như Lai cảnh giới diệc vô lượng vô biên, vô phược vô thoát. Hà dĩ cố? dĩ như thị như thị tư duy phân biệt, như thị như thị vô lượng hiển hiện cố.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết tâm cảnh giới là Như Lai cảnh giới. Như tâm cảnh giới vô lượng vô biên vô phược vô thoát, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng vô biên vô phược vô thoát. Vì do tư duy phân biệt như vậy như vậy, nên hiển hiện vô lượng như vậy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nên biết cảnh giới tâm, tức là cảnh giới Như Lai. Như cảnh giới của tâm vô lượng vô biên, không ràng buộc không giải thoát, cảnh giới Như Lai cũng vô lượng vô biên không ràng buộc không giải thoát. Tại sao vậy? Vì nhờ suy gẫm phân biệt như vậy như vậy, hiển hiện vô lượng như vậy như vậy.

 

Phật tử! như Đại Long Vương tùy tâm hàng vũ, kỳ vũ bất tùng nội xuất, bất tùng ngoại xuất. Như Lai cảnh giới diệc phục như thị, tùy ư như thị tư duy phân biệt, tức hữu như thị vô lượng hiển hiện, ư thập phương trung tất vô lai xứ.

Chư Phật tử ! Như đại Long Vương tùy tâm tuôn mưa, mưa đó chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài ra. Như Lai cảnh giới cũng như vậy. Tùy ở sự tư duy phân biệt như vậy thời có vô lượng hiển hiện như vậy, ở trong mười phương đều không chỗ đến.

Giảng: Các vị Phật tử! Như Đại Long Vương tuỳ theo ý muốn mưa xuống. Nhưng mưa đó chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài ra. Cảnh giới Như Lai cũng lại như vậy. Tuỳ theo sự suy gẫm phân biệt như vậy, liền có hiển hiện vô lượng như vậy. Ở trong mười phương đều không chỗ đến, cũng chẳng chỗ đi.

 

Phật tử! như đại hải thủy, giai tùng Long Vương tâm lực sở khởi. Chư Phật Như Lai nhất thiết trí hải diệc phục như thị, giai tùng Như Lai vãng tích đại nguyện chi sở sanh khởi.

Chư Phật tử ! Như nước đại hải đều từ tâm lực của Long Vương khởi ra. Biển nhứt thiết trí của chư Phật Như Lai cũng như vậy, đều từ đại nguyện thưở xưa của Như Lai mà sanh khởi.

Giảng: Các vị Phật tử! Như nước biển cả, đều chịu sức tâm Long Vương khống chế, đó là do một thứ sức thần thông của Long Vương sinh khởi mà thành tựu sự sinh khởi. Biển nhất thiết trí huệ của chư Phật Như Lai cũng lại như thế, đều từ nguyện lớn thuở xưa của Như Lai mà thành tựu sinh khởi.

Trước khi Phật chưa thành Phật, khi tu hành Bồ Tát đạo, đi các nơi để cầu pháp, ở đâu cũng tu hạnh nhẫn nhục. Bất cứ ai đối với Ngài không tốt, ngài đều nhẫn thọ, tuyệt đối không nổi giận. Nếu có người mắng ngài, hoặc đánh ngài, thì ngài đều nhẫn nại, cho rằng đó là thiện tri thức đến dạy bảo. Dùng công phu nhẫn nhục để khắc phục tất cả nghịch cảnh.

Lại dung pháp môn bố thí, tu tất cả phước đức. Lại tu pháp môn trì giới Ba la mật, mỗi ngày siêng tu giới định huệ, dùng nước ba học vô lậu, để tiêu diệt lửa ba độc tham sân si. Chân thật phát đạo tâm, chẳng sợ gian nan, chẳng sợ khốn khổ. Dũng mãnh tinh tấn hướng về trước, học tập Phật pháp. Lại tu tập thiền định, lại học tập Bát nhã. Dụng công tu hành từ từ, chẳng có lúc nào giải đãi, càng chẳng có hành vi phóng dật.

Thuở xưa Phật phát đại nguyện, nguyện vì pháp hy sinh tánh mạng của mình. Do đó có câu: “Vì pháp quên mình”. Đã từng trải qua xả thân cứu hổ đói, lóc thịt cho chim ưng. Phật tu hành tại núi Tuyết, vì cầu nửa câu kệ, mà hy sinh thân thể quý báu. Tinh thần đó thật là vĩ đại! Vì cầu Phật pháp, mà quên mất chính mình, chỉ ôm lòng cầu pháp.

Chúng ta là Phật giáo đồ, nên vì Phật pháp. Hiện tại phải hồi quang phản chiếu, hãy nghĩ xem, mình có giống Đức Phật chịu khổ chịu cực để tu hành chăng? Có khắc phục được tất cả cảnh giới khó khăn chăng? Có vì pháp quên mình chăng? Những vấn đề nầy, phải thời thời khắc khắc phản tỉnh ở trong đầu óc của mình, sách tấn mình, một lòng tu đạo, đừng có hai niệm.

 

Phật tử! nhất thiết trí hải vô lượng vô biên, bất khả tư nghị, bất khả ngôn thuyết; nhiên ngã kim giả lược thuyết thí dụ, nhữ ưng đế thính.

Chư Phật tử ! Biển nhứt thiết trí vô lượng vô biên bất tư nghì, chẳng thể ngôn thuyết. Nhưng nay tôi lược nói ví dụ, đại chúng nên lắng nghe.

Giảng: Các vị Phật tử! Biển nhất thiết trí huệ, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, không thể nói được. Bồ Tát Phổ Hiền nói: “Hôm nay tôi sẽ vì đại chúng lược nói những ví dụ, các vị nên chú ý lắng nghe, không nên bỏ lỡ cơ hội, đây là cơ hội trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được.

 

Phật tử! thử Diêm-phù-đề hữu nhị thiên ngũ bách hà lưu nhập đại hải, Tây câu da ni hữu ngũ thiên hà lưu nhập đại hải, Đông phất bà đề hữu thất thiên ngũ bách hà lưu nhập đại hải, Bắc uất đan việt hữu nhất vạn hà lưu nhập đại hải. Phật tử! thử tứ thiên hạ, như thị nhị vạn ngũ thiên hà tướng tục bất tuyệt lưu nhập đại hải. ư ý vân hà, thử thủy đa bất? đáp ngôn: thậm đa.

Nam Diêm Phù Ðề này có hai ngàn năm trăm con sông chảy vào đại hải. Tây Câu Gia Ni có năm ngàn con sông chảy vào đại hải. Ðông Phất Bà Ðề có bảy ngàn năm trăm con sông chảy vào đại hải. Bắc Uất Ðơn Việt có một vạn con sông chảy vào đại hải. Bốn châu thiên hạ có hai vạn năm trăm con sông như vậy luôn nối tiếp chảy vào đại hải, nước sông đó đã rất nhiều.

Giảng: Câu Gia Ni (Tây Ngưu Hoá Châu) có năm ngàn con sông chảy vào biển. Đông Phất Bà Đề (Đông Thắng Thần Châu) có bảy ngàn năm trăm con sông chảy vào biển. Bắc Uất Đơn Việt (Bắc Câu Lư Châu) có một vạn con sông chảy vào biển.

Các vị Phật tử! Bốn thiên hạ nầy có hai vạn năm ngàn con sông như vậy, chảy vào biển liên tục không ngừng. Ý các vị thế nào? Nước của hai vạn năm ngàn con sông đó chảy vào biển có nhiều chăng? Hết thảy Bồ Tát khác miệng cùng lời đáp rằng: “Rất nhiều! Rất nhiều”!

 

Phật tử! phục hưũ thập quang minh Long Vương, vũ Đại hải trung thủy bội quá tiền; bách quang minh Long Vương, vũ Đại hải trung thủy phục bội tiền; đại trang nghiêm Long Vương, Ma na tư Long Vương, lôi chấn Long Vương, Nan-đà Bạt-nan-đà Long Vương, vô lượng quang minh Long Vương, Liên Chú bất đoạn Long Vương, Đại thắng Long Vương, Đại phấn tấn Long Vương, như thị đẳng bát thập ức chư Đại Long Vương, các vũ đại hải, giai tất triển chuyển bội qua ư tiền; sa kiệt la Long Vương Thái-Tử, danh: Diêm-phù tràng, vũ Đại hải trung thủy phục bội tiền.

Trong đại hải lại có Thập Quang Minh Long Vương mưa nước nhiều gấp bội nước sông. Lại có Bá Quang Minh Long Vương mưa nước nhiều gấp bội nước mưa trên. Lại có Ðại Trang Nghiêm Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, Lôi Chấn Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Bạt Nan Ðà Long Vương, Vô Lượng Quang Minh Long Vương, Liên Chú Bất Ðoạn Long Vương, Ðại Thắng Long Vương, Ðại Phấn Tấn Long Vương, có tám mươi ức đại Long Vương như vậy đều làm mưa xuống đại hải và đều tuần tự nhiều gấp bội. Thái Tử của Ta Kiệt La Long Vương tên là Diêm Phù Tràng mưa xuống đại hải lại hơn gấp bội Long Vương trên.

Giảng: Các vị Phật tử! Lại có mười Long Vương Quang Minh, mưa xuống trong biển, so với nước của hai vạn năm ngàn con sông ở trước, nhiều gấp bội hơn. Lại có trăm Long Vương Quang Minh, mưa xuống trong biển, nước lại gấp bội hơn mười Long Vương Quang Minh ở trước. Có tám đại Long Vương: Long Vương Đại Trang Nghiêm, Long Vương Ma Na Tư, Long Vương Lôi Chấn, Long Vương Nan Đà Bạt Nan Đà, Long Vương Vô Lượng Quang Minh, Long Vương Liên Chú Bất Đoạn, Long Vương Đại Thắng, Long Vương Đại Phấn Tấn. Có tám mươi ức các đại Long Vương như vậy, mỗi vị Long Vương đều mưa xuống trong biển, nước mưa xuống của mỗi vị lần lượt nhiều gấp bội hơn trước. Thái Tử của Long Vương Ta Kiệt La, tên là Diêm Phù Đàn, mưa xuống trong biển, nước lại nhiều gấp bội hơn trước.

 

Phật tử! thập quang minh long vương cung điện trung thủy lưu nhập đại hải, phục bội quá tiền; bách quang minh long vương cung điện trung thủy lưu nhập đại hải, phục bội quá tiền; đại trang nghiêm long Vương, Ma na tư long Vương, lôi chấn long Vương, Nan-đà Bạt-nan-đà long Vương, Vô Lượng Quang minh long Vương, liên chú bất đoạn long Vương, Đại thắng long Vương, Đại phấn tấn long Vương, như thị đẳng bát thập ức chư Đại long Vương, cung điện các biệt, kỳ trung hữu thủy lưu nhập đại hải, giai tất triển chuyển bội qua ư tiền;

Nước trong cung điện của Thập Quang Minh Long Vương chảy vào đại hải gấp bội nước mưa trên. Nước trong cung điện của Bá Quang Minh Long Vương chảy vào đại hải lại gấp bội. Nhẫn đến cung điện của tám mươi ức đại Long Vương đều riêng khác và đều có nước chảy vào đại hải tuần tự gấp bội nhau.

Giảng: Các vị Phật tử! Nước trong cung điện của mười Long Vương Quang Minh, chảy vào biển, lại nhiều gấp bội hơn trước. Nước trong cung điện của trăm Long Vương Quang Minh, chảy vào biển, lại nhiều gấp bội hơn trước. Long Vương Đại Trang Nghiêm, Long Vương Ma Na Tư, Long Vương Lôi Chấn, Long Vương Nan Đà Bạt Nan Đà, Long Vương Vô Lượng Quang Minh, Long Vương Liên Chú Bất Đoạn, Long Vương Đại Thắng, Long Vương Đại Phấn Tấn. Có tám mươi ức các đại Long Vương như vậy, cung điện mỗi vị đều khác nhau, trong cung điện đều có nước, đều chảy vào biển, đều lần lượt nhiều gấp bội hơn trước. Nước trong cung điện của Diêm Phù Đàn, thái tử của Long Vương Ta Kiệt La, chảy vào biển, lại nhiều gấp bội hơn trước.

 

Sa kiệt la long Vương Thái-Tử Diêm-phù tràng cung điện trung thủy lưu nhập đại hải, phục bội quá tiền. Phật tử! sa kiệt la long Vương liên vũ đại hải, thủy phục bội tiền; kỳ sa kiệt la long vương cung điện trung thủy dũng xuất nhập hải, phục bội ư tiền; kỳ sở xuất thủy cám lưu ly sắc, dũng xuất Hữu Thời, thị cố đại hải triều bất thất thời.

Ta Liệt La Long Vương mưa vào đại hải nước nhiều hơn trên. Nước trong cung điện của Ta Kiệt La Long Vương chảy vào đại hải lại nhiều gấp bội. Nước này màu lưu ly xanh biếc, chảy ra có giờ, do đây nên nước triều của đại hải không lỗi giờ.

Giảng: Các vị Phật tử! Long Vương Ta Kiệt La mưa đổ xuống biển, lượng nước mưa xuống lại nhiều gấp bội hơn so với Thái tử. Nước trong cung điện của Long Vương Ta Kiệt La, chảy đổ ra biển, lại nhiều gấp bội hơn trước. Tóm lại, mỗi lần so với lần trước nhiều hơn. Nước đó chảy ra, màu sắc lưu ly xanh biếc, chảy ra có thời gian nhất định, bởi vậy cho nên hải triều cũng có thời gian nhất định, rất đúng thời, không thất thời.

 

Phật tử! như thị đại hải, kỳ thủy vô lượng, chúng bảo vô lượng, chúng sanh vô lượng, sở y Đại địa diệc phục vô lượng. Phật tử! ư nhữ ý vân hà, bỉ đại hải vi vô lượng bất? đáp ngôn: thật vi vô lượng, bất khả vi dụ. Phật tử! thử đại hải vô lượng ư Như Lai trí hải vô lượng, bách phân bất cập nhất, thiên phần bất cập nhất, nãi chí ưu ba ni sa đà phần bất cập kỳ nhất; đãn tùy chúng sanh tâm vi tác thí dụ, nhi Phật cảnh giới phi thí sở cập.

Chư Phật tử ! Như vậy đại hải : nước vô lượng, châu báu vô lượng, chúng sanh vô lượng, đại địa nương dựa cũng vô lượng. Ðại hải vô lượng như vậy so với trí hải vô lượng của đức Như Lai không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, nhẫn đến không bằng một phần ưu ba ni sa đà. Chỉ tùy tâm chúng sanh mà lập ví dụ. Nhưng Phật cảnh giới chẳng phải ví dụ đến được.

Giảng: Các vị Phật tử ! Có hai vạn năm ngàn con sông chảy ra biển. Lại có tám mươi ức đại Long Vương mưa xuống, chảy vào biển, lần lược nhiều hơn gấp bội, cho đến nước trong cung điện của Long Vương Ta Kiệt La, chảy vào biển, lại nhiều gấp bội hơn trước. Không cách gì tính toán được, lượng nước đó rốt ráo là bao nhiêu? Biển cả như vậy, nước biển vô lượng, các báu vô lượng, chúng sinh vô lượng. Chỗ nương của đại địa cũng lại vô lượng.

Các vị Phật tử ! Ý các vị thế nào ? Biển cả đó có vô lượng chăng ? Đáp rằng : Thật là vô lượng, không thể ví dụ được, không cách gì hình dung được, thật là không cách gì nói rõ được.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri Như Lai trí hải vô lượng, tùng sơ phát tâm tu nhất thiết Bồ Tát hạnh bất đoạn cố; ứng tri bảo tụ vô lượng, nhất thiết Bồ-đề phần Pháp, Tam Bảo chủng bất đoạn cố; ứng tri sở trụ chúng sanh vô lượng, nhất thiết học, vô học, Thanh văn, độc giác sở thọ dụng cố; ứng tri tứ trụ địa vô lượng, tùng sơ hoan hỉ địa nãi chí cứu cánh vô chướng ngại địa chư Bồ-tát sở cư cố.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết trí hải của Như Lai vô lượng, vì từ sơ phát tâm tu Bồ Tát hạnh không dứt. Phải biết bửu tụ của Như Lai vô lượng vì tất cả pháp Bồ Ðề phần Tam Bảo chủng chẳng dứt. Phải biết chúng sanh trụ trong đó vô lượng, vì tất cả hàng hữu học vô học Thanh Văn, Duyên Giác thọ dụng. Phải biết trụ địa vô lượng, vì chư Bồ Tát từ Sơ Hoan Hỷ địa đến bực Cứu Cánh Vô Ngại địa ở nơi đó.

Giảng: Các vị Phật tử ! Biển cả đó vô lượng, nhưng đối với biển trí vô lượng của Như Lai không thể sánh bằng, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, cho đến chẳng bằng một phần Ưu ba ni sa đà, chẳng bằng một chút phần nhỏ nhất biển trí của Phật. Đó chỉ là tuỳ thuận tâm ý của chúng sinh mà đưa ra những ví dụ ở trên, chứ cảnh giới của Phật chẳng phải dùng lời lẽ mà diễn nói hết được, chẳng phải dùng ví dụ mà hình dung hết được, chẳng phải dùng tâm ý có thể tưởng tượng hết được.

Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết biển trí của Như Lai vô lượng vô biên, vì từ lúc ban đầu phát tâm, tu tất cả Bồ Tát hạnh, vĩnh viễn không ngừng. Lại nên biết báu tụ vô lượng, vì tất cả pháp bồ đề phần và hạt giống Phật Pháp Tăng Tam Bảo không ngừng. Lại nên biết chỗ trụ của chúng sinh thế gian cũng vô lượng, vì chỗ thọ dụng của tất cả bậc hữu học và vô học, Thanh Văn và Độc Giác. Lại nên biết trụ địa vô lượng, địa tức là Thập Địa của Bồ Tát tu, vì là chỗ ở từ bậc Hoan Hỉ địa, cho đến bậc cứu kính không chướng ngại, tức là Phật địa.

Hữu học là gì? Tức là Thánh nhân Sơ quả, Nhị quả, Tam quả A la hán, còn phải học tập Phật pháp, đoạn tư hoặc, nên gọi là bậc hữu học.
Thánh nhân Sơ quả gọi là Tu Đà Hoàn, dịch là Dự lưu, nhập vào dòng Thánh nhân pháp tánh, ngược lại với dòng phàm phu sáu trần. Thánh nhân Nhị quả, gọi là Tư Đà Hàm, dịch là Nhất lai. Còn một lần đến cõi trời dục giới và xuống nhân gian thọ sinh. Thánh nhân Tam quả gọi là A Na Hàm, dịch là Bất lai, chẳng còn thọ sinh tử trong dục giới. Thánh nhân Tứ quả gọi là A la hán, dịch là Bất sinh. Chẳng còn phần đoạn sinh tử, đã vào Hữu dư Niết Bàn.

Thanh Văn tu pháp bốn đế mà ngộ đạo, bốn đế tức là : Khổ, tập, diệt, đạo. Duyên Giác tu mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, mười hai nhân duyên tức là : Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Bồ Tát tu lục độ vạn hạnh mà chứng đạo, lục độ tức là : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát vi nhập vô lượng trí tuệ lợi ích nhất thiết chúng sanh cố, ư Như Lai, ưng, chánh đẳng giác cảnh giới ưng như thị tri. Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát vì nhập vô lượng trí huệ lợi ích tất cả chúng sanh, ở nơi cảnh giới của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác phải biết như vậy. Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát vào vô lượng trí huệ, vì lợi ích tất cả chúng sinh. Nơi cảnh giới Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nên biết như vậy. Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn tường thuật lại nghĩa lý ở trên vừa nói, mà nói kệ rằng:

 

Như tâm cảnh giới vô hữu lượng,                       Như tâm cảnh giới vô biên lượng
Chư Phật cảnh giới diệc phục nhiên                  Chư Phật cảnh giới cũng như vậy
Như tâm cảnh giới tùng ý sanh                          Như tâm cảnh giới từ ý sanh
Phật cảnh như thị ưng quan sát.                        Phật cảnh như vậy phải quán sát

Giảng: Cảnh giới của Phật, tức là cảnh giới của chúng sinh. Cảnh giới của Phật vô lượng, cảnh giới của chúng sinh vô lượng. Do đó : Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không khác biệt. Cảnh giới của Phật và cảnh giới của chúng sinh, chẳng ngoài một tâm niệm hiện tiền. Cảnh giới của một tâm niệm, cũng là vô lượng. Cảnh giới của chư Phật, và cảnh giới của tâm giống nhau. Cảnh giới của tâm là từ thức thứ sáu sinh ra. Cảnh giới của Phật là từ nguyện xưa mà thành tựu. Nên quán sát kỹ càng như vậy.

 

Như long bất ly ư bổn xứ                                    Như Long chẳng rời khỏi cung điện
Dĩ tâm uy lực tuôn đại vũ,                                   Do tâm oai lực tuôn mưa lớn
Vũ thủy tuy vô lai khứ xứ                                    Nước mưa dầu không chỗ đến đi
Tùy long tâm cố tất sung hiệp.                           Tùy long tâm nên đều đầy đủ

Giảng: Giống như Long Vương ở trong Long cung, chẳng rời khỏi Long cung. Dùng oai thần lực của tâm, nổi mây lên ở trong hư không, rồi đổ mưa xuống. Nước mưa tuy chẳng phải từ nơi không có Long Vương ra, nhưng cũng chẳng phải từ nơi có Long Vương ra. Đó là từ oai thần lực của tâm Long Vương mà đổ mưa xuống. Mưa xuống khắp đại địa, khắp nơi đều thấm nhuần nước mưa.

 

Thập lực Mâu Ni diệc như thị                            Thập Lực Mâu Ni cũng như vậy
Vô sở tòng lai vô sở khứ                                      Không từ đâu đến chẳng đi đâu
Nhược hữu tịnh tâm tức hiện thân                    Nếu có tịnh tâm thời hiện thân
Lượng đẳng Pháp giới nhập mao khổng.          Lượng bằng pháp giới vào lỗ lông

Giảng: Phật Thích Ca Mâu Ni cũng như vậy, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Nếu tâm chúng sinh thanh tịnh, không có tư tưởng nhiễm ô, thì Như Lai sẽ hiện tiền ở trước họ, giống như nước lắng trong, thì mặt trăng sẽ hiện bóng vào. Cảnh giới Như Lai tận hư không khắp pháp giới, nhưng phóng ra thì di lục hợp, thu lại thì vào lỗ chân lông.

 

Như hải trân kì vô hữu lượng                             Như biển trân bửu vô biên lượng
Chúng sanh Đại địa diệc phục nhiên,                 Chúng sanh đại địa cũng như vậy
Thủy tánh nhất vị đẳng vô biệt                           Thủy tánh một vị đồng không khác
Ư trung sanh giả các mông lợi.                           Kẻ sanh trong đó đều được lợi

Giảng: Giống như châu báu trân quý ở trong biển, nhiều chẳng có số lượng. Chúng sinh cũng vô lượng, đại địa cũng vô lượng. Tánh nước chỉ là một vị, chẳng có sự phân biệt. Nhưng nước thấm nhuận vạn vật, khiến cho sinh trưởng, đều thọ được lợi ích.

 

Như Lai trí hải diệc như thị,                               Như Lai trí hải cũng như vậy
Nhất thiết sở hữu giai vô lượng,                         Tất cả chỗ có đều vô lượng
Hữu học vô học tứ trụ địa nhân                         Hữu học vô học trụ các địa
Tất tại kỳ trung đắc nhiêu ích.                           Ðều ở trong đó được lợi ích.

Giảng: Biển trí huệ của Như Lai cũng như vậy. Hết thảy tất cả ở trong biển trí huệ, đều vô lượng vô biên. Thánh nhân bậc hữu học, Thánh nhân bậc vô học, Thánh nhân bậc Thập Địa, đều ở trong biển đại trí huệ của Như Lai, được thấm nhuần lợi ích.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác hạnh? Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri vô ngại hạnh thị Như Lai hạnh, ứng tri chân như hạnh thị Như Lai hạnh

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết hạnh của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác như thế nào ? Ðại Bồ Tát phải biết vô ngại hạnh là Như Lai hạnh, phải biết chơn như hạnh là Như Lai hạnh.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng, các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên làm thế nào biết được hạnh của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ?

Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết pháp môn viên dung vô ngại, tức là hạnh của Như Lai. Nên biết hạnh chân như, tức là hạnh của Như Lai.

 

Phật tử! như chân như, tiền tế bất sanh, hậu tế bất động, hiện tại bất khởi; Như Lai hạnh diệc như thị, bất sanh, bất động, bất khởi.

Chư Phật tử ! Như chơn như : tiền tế bất sanh, hậu tế bất động, hiện tại bất khởi. Như Lai hạnh cũng vậy : chẳng sanh, chẳng động, chẳng khởi.

Giảng: Các vị Phật tử ! Giống như chân như, tiền tế chẳng sinh, hậu tế cũng chẳng động, hiện tại cũng chẳng khởi. Hạnh Như Lai cũng như vậy, tiền tế chẳng sinh, hậu tế chẳng động, hiện tại chẳng khởi.

 

Phật tử! như Pháp giới, phi lượng, phi vô lượng, vô hình cố; Như Lai hạnh diệc như thị, phi lượng, phi vô lượng, vô hình cố.

Chư Phật tử ! Như pháp giới : chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng, vì vô hình. Cũng vậy, Như Lai hạnh chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng, vì vô hình.

Giảng: Các vị Phật tử ! Giống như pháp giới, không thể nói có số lượng, cũng không thể nói chẳng có số lượng. Tại sao ? Vì chẳng có hình tướng. Hạnh của Như Lai tu cũng như vậy, chẳng có số lượng, chẳng phải không có lượng, vì không có hình tướng.

 

Phật tử! thí như điểu phi hư không, Kinh ư bách niên, dĩ Kinh qua xứ, vị Kinh qua xứ giai bất khả lượng. Hà dĩ cố? hư không giới vô biên tế cố. Như Lai hạnh diệc như thị, giả sử hữu nhân Kinh bách thiên ức na-do-tha kiếp phân biệt diễn thuyết, dĩ thuyết, vị thuyết giai bất khả lượng. Hà dĩ cố? Như Lai hạnh vô biên tế cố.

Chư Phật tử ! Như chim bay ngang hư không trải qua trăm năm, chỗ đã bay qua cùng chỗ chưa bay qua đều chẳng thể lường, vì hư không giới không biên tế. Cũng vậy, Như Lai hạnh, giả sử có người trải qua trăm ngàn ức na do tha kiếp phân biệt diễn thuyết đã nói chưa nói đều chẳng thể lường, vì Như Lai hạnh không ngằn mé.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như chim bay trong hư không, trải quả thời gian trăm năm, rốt ráo chim đã bay qua trong hư không bao nhiêu lần ? Nơi đã bay qua, nơi chưa bay qua, chẳng ai có thể biết được. Tại sao? Vì cõi hư không chẳng có bờ mé. Cho nên chim bay qua, bay lại, chẳng có dấu vết. Hạnh Như Lai tu viên mãn vô ngại, cũng như vậy. Chẳng có mọi sự chấp trước, chẳng chấp tất cả tướng, do đó có câu : Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, đã đến được cảnh giới nầy. Giả sử có người, trải qua trăm ngàn ức Na do tha kiếp, phân biệt diễn nói, hoặc đã nói, hoặc chưa nói, đều không thể lường. Tại sao? Vì hạnh Như Lai không có bờ mé, chẳng có hình tướng.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác trụ vô ngại hạnh, vô hữu trụ xứ, nhi năng phổ vi nhất thiết chúng sanh thị hiện sở hạnh, lệnh kỳ kiến dĩ, xuất qua nhất thiết chư chướng ngại đạo.

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác trụ hạnh vô ngại, không có chỗ trụ mà hay khắp vì tất cả chúng sanh thị hiện công hạnh. Làm cho họ thấy rồi được vượt hơn tất cả đạo chướng ngại.

Giảng: Các vị Phật tử! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, vì trụ hạnh vô ngại, nên chẳng có chỗ trụ, mà hay khắp vì tất cả chúng sinh, dùng phương tiện khéo léo thần thông diệu dụng, thị hiện sự tu hành. Khiến cho chúng sinh thấy rồi, vượt qua tất cả các đạo chướng ngại.

 

Phật tử! thí như kim-sí điểu Vương, phi hành hư không, hồi tường bất khứ, dĩ thanh Tịnh nhãn quan sát hải nội chư long cung điện, phấn dũng mãnh lực, dĩ tả hữu sí cổ dương hải thủy tất lệnh lưỡng tịch, tri long nam nữ mạng tướng tận giả nhi bác thủ chi.

Chư Phật tử ! Ví như Kim Sí Ðiểu Vương bay trên hư không, đảo liệng chẳng đi, dùng mắt thanh tịnh quán sát trong cung điện của chư Long, phấn khởi sức mạnh lấy hai cánh quạt nước biển rẽ ra làm hai, bắt rồng mạng sắp chết để ăn.

Giảng: Các vị Phật tử! Giống như chim chúa đại bàng cánh vàng, bay trong hư không, đảo liệng chẳng đi. Dùng mắt thanh tịnh để quán sát tất cả Long cung ở trong biển, nhìn thấy rất rõ ràng rồng con, rồng cháu. Cánh của chim đại bàng cánh vàng mở ra, rộng khoảng ba trăm đại do tuần (tiểu do tuần khoảng bốn mươi dặm, trung do tuần khoảng sáu mươi dặm, đại do tuần khoảng tám mươi dặm). Chim đại bàng phấn tấn sức dũng mãnh, dùng hai cánh, quạt nước biển rẽ làm hai. Khi thấy rồng nam, rồng nữ sắp chết, bèn bắt lấy ăn.

Làm sao biết được rồng nam, rồng nữ sắp chết ? Vì rồng cũng có thần thông quảng đại, có thể nổi mây làm mưa. Nhưng khi gặp được chim đại bàng cánh vàng, rồng nam rồng nữ sắp chết, không còn thần thông, toàn thân không thể động đậy, chỉ ở đó đợi làm thức ăn cho chim đại bàng cánh vàng.

 

Như Lai, ưng, chánh đẳng giác kim-sí điểu Vương diệc phục như thị, trụ vô ngại hạnh, dĩ tịnh Phật nhãn quan sát Pháp giới chư cung điện trung nhất thiết chúng sanh, nhược tằng chủng thiện căn dĩ thành thục giả, Như Lai phấn dũng mãnh thập lực, dĩ chỉ quán lượng sí cổ dương sanh tử Đại ái thủy hải, sử kỳ lưỡng tịch nhi toát thủ chi, trí Phật Pháp trung, lệnh đoạn nhất thiết vọng tưởng hí luận, an trụ Như Lai vô phân biệt vô ngại hạnh.

Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, an trụ hạnh vô ngại dùng Phật nhãn thanh tịnh quán sát pháp giới tất cả chúng sanh, nếu là hạng từng đã gieo thiện căn đã thành thục, dùng sức mạnh thập lực vỗ hai cánh chỉ quán quạt tách nước biển tham ái sanh tử ra làm hai mà bắt lấy họ vào trong Phật pháp, cho họ dứt tất cả vọng tưởng hí luận, an trụ nơi hạnh vô ngại vô phân biệt của Như Lai.

Giảng: Chim chúa cánh vàng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Trụ nơi hạnh vô ngại, dùng mắt Phật thanh tịnh, quán sát khắp pháp giới tất cả chúng sinh trong các cung điện. Nếu có chúng sinh nào đã từng trồng căn lành, hoặc chúng sinh nào căn lành đã thành thục, thì Như Lai dùng thập lực phấn tấn dũng mãnh, dùng hai cánh chỉ quán, quạt nước biển tham ái ra làm hai, cứu họ ra.

Biển sinh tử tham ái là nguồn gốc chướng đạo. Người tu hành, bất cứ đối đãi với người, hoặc loài vật, sinh ra tâm tham ái, thì sẽ phát triển chướng ngại sự tu đạo. Nói một cách đơn giản, ái dục tức là sinh tử, sinh tử tức là ái dục, ái dục tức là gốc rễ của sinh tử. Nếu chẳng phá được ái dục vô minh, thì trọn không thể lìa khỏi được biển tham ái sinh tử. Làm thế nào lìa khỏi được sinh tử ? Rất là đơn giản, nghĩa là đoạn dục khử ái, chứ chẳng có cách nào khác.

Người tu đạo, đừng có tư tưởng tình ái, càng không thể có hành vi tình ái. Đối với bất cứ ai, đừng có sinh ra tâm tình ái. Có tình ái rồi, thì gốc khổ không dứt được; có tình ái rồi, thì sinh tử không chấm dứt được. Có người nói : Con người là động vật có cảm tình, thực sắc tính vậy. Bởi vậy, cho nên mới phải tu đạo ! Trong Kinh 42 Chương có nói : Nghĩ người già như mẹ mình, người lớn tuổi như chị mình, người nhỏ tuổi như em gái mình, con nít như con mình, sinh tâm độ thoát, liền diệc được tâm ác. Chúng ta người tu đạo, phải quán tưởng như vậy

Nếu không tình, không ái, khi thấy người thì hống hách, chẳng xem ai ra gì chăng ? Như vậy cũng không đúng. Chúng ta đừng chấp trước tình ái, đừng sinh tâm tính ái. Nhưng cũng đừng chán ghét họ, cũng không thể nói tôi chẳng thương người, tôi ghét người, như vậy cũng không đúng. Vậy, phải làm sao mới đúng ? Tức là đừng thương, cũng đừng ghét. Không thương không ghét là trung đạo. Tu đạo là tu đạo gì ? Tức là tu trung đạo. Đối với bất cứ ai cũng đều đối đãi bình đẳng, từ bi, nhưng phải cẩn thận hành sự, đừng để rơi vào vòng tình ái. Các vị hãy chú ý ! Đừng để bị tình ái làm mê hoặc. Có người viết cho bạn một lá thư, thì trong lòng bạn cảm thấy hớn hở mừng rỡ, nhảy nhót vui mừng, cho rằng có người thương bạn, đó là việc tốt, kỳ thật, họ muốn ném bạn xuống địa ngục !

Các vị thiện tri thức ! Phải ở tại chỗ nầy dụng công phu, phải thấu hiểu rõ ràng, ái dục là một sự việc rất phiền não. Từ vô thuỷ đến nay, sinh tử không ngừng, tại sao vậy ? Vì bị hai chữ tình ái làm hại. Nếu đoạn dục khứ ái được, thì mới thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử.

Phàm là những gì bạn muốn, tức là ái, những gì bạn không thích, tức là ghét. Bạn thích cái nầy, thì sinh ra tâm ái; bạn không thích cái kia, thì sinh ra tâm ghét. Đó đều là dụng sự trên tình ái. Người tu hành không nên dùng tình cảm để xử lý mọi việc, nhưng cũng không thể giống như Quan Công, ngồi ở đó cầm kiếm, để cho bạn lạy, ông ta cũng chẳng để ý đến bạn. Đối với mọi người phải hoà mục, phải có sự lễ phép, đừng cống cao ngã mạn, trong mắt chẳng xem ai ra gì hết. Tóm lại, đối với mọi người phải từ bi làm bổn hoài, phương tiện làm cửa, ở đâu cũng nghĩ đến người khác, khiến cho mọi người sinh tâm hoan hỉ. Chúng ta còn hơi thở thì phải đối đãi tốt người khác, nhưng đừng có tư tưởng tình ái xem vào bên trong. Các vị ! Nên nhớ ! Pháp môn nầy rất quan trọng.

Như Lai cứu thoát những chúng sinh chìm đắm ở trong biển tham ái, để họ ở trong Phật pháp, khiến cho họ đoạn trừ tất cả vọng tưởng hí luận, an trụ nơi hạnh vô ngại không phân biệt của Như Lai.

 

Phật tử! thí như nhật nguyệt, độc vô đẳng lữ, châu hành hư không, lợi ích chúng sanh, bất tác thị niệm: ngã tùng hà lai, nhi chí hà sở.

Chư Phật tử ! Như mặt nhựt mặt nguyệt không gì sánh, riêng đi vòng giữa hư không làm lợi ích chúng sanh, mà không tự nghĩ từ đâu đến và đi đến đâu.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như mặt trời mặt trăng, một mình không bạn bè, đến một mình, đi một mình, đi khắp hư không, lợi ích chúng sinh, tuyệt đối chẳng nghĩ như vầy: Tôi từ phương đông đến, tôi phải đi về phương tây. Mặt trời mặt trăng chẳng có tư tưởng như thế!

 

Chư Phật Như Lai diệc phục như thị, tánh bổn tịch diệt, vô hữu phân biệt, thị hiện du hành nhất thiết pháp giới, vi dục nhiêu ích chư chúng sanh cố, tác chư Phật sự vô hữu hưu tức, bất sanh như thị hí luận phân biệt: ngã tòng bỉ lai, nhi hướng bỉ khứ.

Chư Phật Như Lai cũng như vậy, tánh vốn tịch diệt không phân biệt, thị hiện du hành khắp pháp giới, vì muốn làm lợi ích tất cả chúng sanh, mà làm Phật sự không thôi nghỉ, vẫn không sanh hí luận phân biệt là ta từ đó đến rồi đi qua kia.

Giảng: Chư Phật Như Lai giáo hoá chúng sinh, cũng lại như thế, đối với chúng sinh chẳng có kể công. Tánh của Như Lai vốn tịch diệt, không có phân biệt, mà thị hiện du hành tất cả pháp giới. Vì muốn lợi ích các chúng sinh, mà làm đại Phật sự, không có khi nào ngừng nghỉ. Chẳng sinh hí luận và phân biệt như vầy : Ta từ đâu đến, và đi về đâu! Phật tuyệt đối chẳng nghĩ như thế.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng dĩ như thị đẳng vô lượng phương tiện, vô lượng tánh tướng, tri kiến Như Lai, ưng, chánh đẳng giác sở hạnh chi hành. Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải dùng vô lượng phương tiện vô lượng tánh tướng như vậy, để thấy biết công hạnh của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác. Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên dùng vô lượng phương tiện vô lượng tánh tướng, vô lượng giải thoát, vô lượng ví dụ như vậy, để thấy biết hạnh của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tu hành.

Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền muốn tường thuật lại nghĩa lý vừa nói ở trên, mà nói kệ rằng :

 

Thí như chân như bất sanh diệt,                        Ví như chơn như chẳng sanh diệt
Vô hữu phương sở vô năng kiến                         Không có nơi chỗ không thể thấy
Đại nhiêu ích giả hạnh như thị                            Bực Ðại Nhiêu Ích, hạnh như vậy
Xuất qua tam thế bất khả lượng.                       Vượt hơn tam thế chẳng lường được

Giảng: Giống như hư không, chẳng sinh chẳng diệt, chẳng sạch chẳng dơ, chẳng tăng chẳng giảm, tại sao ? Vì chân như chẳng có phương sở nhất định, nhưng chân như tận hư không khắp pháp giới, chẳng có gì mà không bao dung. Chân như như hư không, cho nên chẳng có ai thấy được hư không hình tướng như thế nào ? Chẳng có ai nhìn thấy được chân như hình tướng như thế nào ? Hạnh của bậc Đại Lợi Ích (Phật) tu, cũng như thế, vượt qua ba đời, cho nên không thể lường, tức cũng là chẳng có số lượng.

 

Pháp giới phi giới phi phi giới                              Pháp giới : chẳng giới, chẳng không giới
Phi thị hữu lượng phi vô lượng                           Chẳng phải hữu lượng chẳng vô lượng
Đại công đức giả hạnh diệc nhiên                       Ðấng Ðại Công Ðức hạnh cũng vậy
Phi lượng vô lượng vô thân cố.                           Chẳng : lượng, vô lượng, vì vô thân

Giảng: Pháp giới và hư không như nhau, chẳng có giới hạn nhất định, cũng chẳng có chẳng phải giới hạn nhất định. Pháp giới cũng chẳng phải có số lượng, cũng chẳng phải chẳng có số lượng. Hạnh của bậc Đại Công Đức (Phật) tu, cũng như vậy, cũng chẳng có số lượng, cũng chẳng phải chẳng có số lượng. Tại sao ? Vì chẳng có thân hình có thể thấy được.

 

Như điểu phi hành ức thiên tuế                          Như chim bay đi ức ngàn năm
Tiền hậu hư không đẳng vô biệt                         Trước sau hư không chẳng không khác
Chúng kiếp diễn thuyết Như Lai hạnh               Nhiều kiếp diễn thuyết hạnh Như Lai
Dĩ thuyết vị thuyết bất khả lượng.                      Ðã nói chưa nói chẳng thể lường

Giảng: Giống như chim bay ở trong hư không, trải qua ức ngàn năm thời gian, cũng chẳng thấy được thuở trước sinh, cũng chẳng thấy được thuở sau sinh, ở giữa cũng chẳng có dấu tích gì có thể thấy. Đồng với hư không, chẳng có gì phân biệt. Trong trăm ngàn ức kiếp, diễn nói hạnh của Như Lai tu hành. Dù đã nói, hoặc chưa nói, đều không thể lường.

 

Kim sí tại không quán đại hải,                            Ðiễu Vương trên cao xem đại hải
Tịch thủy bác thủ long nam nữ                          Rẽ nước bắt lấy rồng để ăn
Thập lực năng bạt thiện căn nhân                     Thập Lực hay cứu người thiện căn
Lệnh xuất hữu hải trừ chúng hoặc.                   Khiến khỏi biển ải trừ phiền não

Giảng: Chim Đại bàng cánh vàng bay ở trên hư không, dùng mắt thanh tịnh quán sát rồng ở trong biển. Dùng hai cánh quạt nước biển rẽ làm hai, thấy rồng dưới đáy biển. Những con rồng sắp chết, đều bị chim đại bàng cánh vàng bắt lấy ăn. Đấng Thập Lực (Phật) hay cứu thoát những chúng sinh căn lành thành thục, khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi biển cõi tam giới, trừ sạch hết nghi hoặc phiền não.

 

Thí như nhật nguyệt du hư không,                    Ví như nhựt nguyệt đi hư không
Chiếu lâm nhất thiết bất phân biệt                    Chiếu đến tất cả chẳng phân biệt
Thế Tôn châu hành ư Pháp giới                         Thế Tôn đi khắp cả pháp giới
Giáo hóa chúng sanh vô động niệm.                  Giáo hóa chúng sanh chẳng động niệm

Giảng: Ví như mặt trời và mặt trăng du hành ở trong hư không, vẫn đến đi một mình, chẳng có bạn bè. Nhưng hay chiếu đến tất cả vạn vật, mà bổn thân chẳng có phân biệt. Thế Tôn du hành khắp pháp giới, giáo hoá tất cả chúng sinh, chẳng sinh khởi tâm phân biệt.

 

Phật tử! chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri Như Lai, ưng, Chánh đẳng giác thành chánh giác?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác như thế nào ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng, các vị Phật tử ! Các vị đại Bồ Tát nên làm thế nào, để biết được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thành Chánh Giác ?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri Như Lai thành chánh giác, ư nhất thiết nghĩa vô sở quan sát, ư pháp bình đẳng vô sở nghi hoặc, vô nhị vô tướng, vô hành, vô chỉ, vô lượng vô tế, viễn ly nhị biên, trụ ư trung đạo, xuất qua nhất thiết văn tự ngôn thuyết, tri nhất thiết chúng sanh tâm niệm sở hạnh, căn tánh dục lạc, phiền não nhiễm tập; cử yếu ngôn chi, ư nhất niệm trung tất tri tam thế nhất thiết chư pháp.

Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác nơi tất cả nghĩa không chỗ quán sát, nơi pháp bình đẳng không chỗ nghi lầm, không hai, không tướng, không làm, không thôi, không lượng, không mé, rời xa hai bên an trụ nơi trung đạo, vượt khỏi tất cả văn tự ngôn thuyết, biết tất cả chúng sanh tâm niệm nghĩ tưởng, căn tánh, ưa thích, phiền não nhiễm tập. Tóm lại, biết rõ tam thế tất cả pháp.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết khi Như Lai thành Đẳng Chánh Giác : Đối với tất cả nghĩa, không có sự quán sát. Đối với pháp bình đẳng, không có sự nghi hoặc, không hai, không tướng, không hành vi, không ngừng nghỉ, không có số lượng, không bờ mé, xa lìa hai bên không và có. Trụ nơi trung đạo liễu nghĩa, vượt qua tất cả văn tự và lời nói, do đó có câu :
Lìa tất cả tướng văn tự,
Lìa tất cả tướng lời nói,
Lìa tất cả tướng tâm duyên.

Như Lai biết tâm niệm, hành vi của tất cả chúng sinh. Lại biết căn tánh và ưa thích của chúng sinh, lại biết phiền não và nhiễm tập của chúng sinh. Ở trong một niệm, đều biết tất cả các pháp ba đời của chư Phật.

 

Phật tử! thí như đại hải phổ năng ấn hiện tứ thiên hạ trung nhất thiết chúng sanh sắc thân hình tượng, thị cố cọng thuyết dĩ vi đại hải; chư Phật Bồ-đề diệc phục như thị, phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh tâm niệm, căn tánh lạc dục nhi vô sở hiện, thị cố thuyết danh chư Phật Bồ-đề.

Chư Phật tử ! Ví như đại hải có thể ấn hiện tất cả hình tượng sắc thân của các chúng sanh trong bốn châu thiên hạ, thế nên mọi loài đều cùng gọi là đại hải. Chư Phật Bồ Ðề cũng như vậy, hiện khắp tất cả chúng sanh căn tánh ưa thích, mà không sở hiện, thế nên gọi là chư Phật Bồ Ðề.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như biển cả, hay ấn hiện sắc thân hình tượng của tất cả chúng sinh khắp trong bốn thiên hạ. Vì lẽ đó, cho nên mọi người đều cùng gọi là biển cả. Chư Phật bồ đề cũng lại như thế, hiện khắp tâm niệm, căn tánh, ưa thích, của tất cả chúng sinh, mà không chỗ hiện, bổn lai là như vậy, vì lẽ đó, cho nên gọi là chư Phật bồ đề.

 

Phật tử! chư Phật Bồ-đề, nhất thiết văn tự sở bất năng tuyên, nhất thiết âm thanh sở bất năng cập, nhất thiết ngôn ngữ sở bất năng thuyết, đãn tùy sở ưng phương tiện khai thị.

Chư Phật tử ! Phật Bồ Ðề; tất cả văn tự chẳng tuyên được, tất cả âm thanh chẳng đến được, tất cả ngôn ngữ chẳng nói được, chỉ tùy chỗ sở nghi mà phương tiện khai thị.

Giảng: Các vị Phật tử ! Chư Phật bồ đề : Tất cả văn tự không thể hình dung ra được, tất cả âm thanh không thể biểu đạt ra được, tất cả lời lẽ không thể nói ra được, chỉ tuỳ thuận cơ cảm của chúng sinh, mà dùng phương tiện để khai thị chúng sinh.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác thành chánh giác thời, đắc nhất thiết chúng sanh lượng đẳng thân, đắc nhất thiết pháp lượng đẳng thân, đắc nhất thiết sát lượng đẳng thân, đắc nhất thiết tam thế lượng đẳng thân, đắc nhất thiết Phật lượng đẳng thân, đắc nhất thiết ngữ ngôn lượng đẳng thân, đắc chân như lượng đẳng thân, đắc Pháp giới lượng đẳng thân, đắc hư không giới lượng đẳng thân, đắc vô ngại giới lượng đẳng thân, đắc nhất thiết nguyện lượng đẳng thân, đắc nhất thiết hành lượng đẳng thân, đắc tịch diệt Niết Bàn giới lượng đẳng thân.

Chư Phật tử ! Lúc đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác được thân lượng bằng tất cả chúng sanh, được thân lượng bằng tất cả pháp, được thân lượng bằng tất cả cõi, được thân lượng bằng tất cả tam thế, được thân lượng bằng tất cả Phật, được thân lượng bằng tất cả ngữ ngôn, được thân lượng bằng chơn như, được thân lượng bằng pháp giới, được thân lượng bằng hư không giới, được thân lượng bằng vô ngại giới, được thân lượng bằng tất cả nguyện, được thân lượng bằng tất cả hạnh, được thân lượng bằng tịch diệt Niết Bàn giới.

Giảng: Các vị Phật tử ! Khi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thành Chánh Giác. Vì pháp thân của Phật, chẳng có gì có thể độ lượng, cho nên đắc được thân lượng đồng tất cả chúng sinh. Đắc được thân lượng đồng tất cả pháp. Đắc được thân lượng đồng tất cả cõi. Đắc được tất cả thân lượng đồng tất cả ba đời. Đắc được thần lượng đồng tất cả Phật. Đắc được thân lượng đồng tất cả lời lẽ. Đắc được thân lượng đồng chân như. Đắc được thân lượng đồng pháp giới. Đắc được thân lượng đồng cõi hư không. Đắc được thân lượng đồng cõi vô ngại. Đắc được thân lượng đồng tất cả nguyện. Đắc được thân lượng đồng tất cả hạnh. Đắc được thân lượng đồng cõi tịch diệt Niết Bàn. Tóm lại, vũ trụ có gì thì lượng pháp thân của Phật cũng đồng như vậy.

 

Phật tử! như sở đắc thân, ngôn ngữ cập tâm diệc phục như thị, đắc như thị đẳng vô lượng vô số thanh tịnh tam luân.

Chư Phật tử ! Như thân đã được, ngôn ngữ và tâm đã được cũng như vậy. Ðược vô lượng vô số tam luân thanh tịnh như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Phật đắc được pháp thân như vậy, lời lẽ và tâm ý cũng lại như thế. Đắc được vô lượng vô số tam luân thanh tịnh như vậy, nghĩa là thân cũng thanh tịnh, miệng cũng thanh tịnh, ý cũng thanh tịnh.

 

Phật tử! Như Lai thành chánh giác thời, ư kỳ thân trung phổ kiến nhất thiết chúng sanh thành chánh giác, nãi chí phổ kiến nhất thiết chúng sanh nhập Niết Bàn, giai đồng nhất tánh, sở vị: Vô tánh. Vô hà đẳng tánh? sở vị: vô tướng tánh, vô tận tánh, vô sanh tánh, vô diệt tánh, vô ngã tánh, vô phi ngã tánh, vô chúng sanh tánh, vô phi chúng sanh tánh, vô Bồ-đề tánh, vô pháp giới tánh, vô hư không tánh, diệc phục vô hữu thành chánh giác tánh. Tri nhất thiết pháp giai Vô tánh cố, đắc nhất thiết trí, đại bi tướng tục, cứu độ chúng sanh.

Chư Phật tử ! Lúc đức Như Lai thành Chánh Giác, ở trong thân Như Lai, thấy khắp tất cả chúng sanh thành Chánh Giác. Nhẫn đến thấy khắp tất cả chúng sanh nhập Niết Bàn đều đồng một tánh. Một tánh đây chính là không tất cả tánh. Không những tánh gì ? Không tánh tướng, không tánh tận, không tánh sanh, không tánh diệt, không tánh ngã, không tánh phi ngã, không tánh chúng sanh, không tánh phi chúng sanh, không tánh Bồ Ðề, không tánh pháp giới, không tánh hư không, cũng lại không tánh thành Chánh Giác. Vì biết tất cả pháp đều không tánh nên được nhứt thiết trí đại bi tương tục cứu độ chúng sanh.

Giảng: Các vị Phật tử ! Khi Như Lai thành Chánh Giác, thì trong thân Như Lai thấy khắp tất cả chúng sinh thành Chánh Giác. Vì Như Lai đã thành Chánh Giác, cho nên thấy tất cả chúng sinh đều là Phật. Vì chúng ta chưa thành Chánh Giác, cho nên thấy mọi người đều là chúng sinh. Giống như mắt mang kính màu đỏ, thì nhìn thấy tất cả đều là màu đỏ; nếu mắt mang kính màu vàng, thì nhìn thấy tất cả đều là màu vàng, mắt mang kính chúng sinh, thì thấy tất cả đều là chúng sinh, đó là cảnh giới khác nhau của mỗi người. Như Lai chẳng những thấy hết thảy chúng sinh đều thành Chánh Giác, mà còn thấy khắp tất cả chúng sinh vào Niết Bàn.

Đều đồng một tánh chẳng có sự phân biệt, một tánh tức là vô tánh. Không tất cả tánh, đó là tánh vô tướng, tánh vô tận, tánh không sanh, tánh không diệt, tánh không ta, tánh chẳng phải ta, tánh không chúng sinh, tánh chẳng phải không chúng sinh, tánh không bồ đề, tánh không pháp giới, tánh chẳng hư không, tánh cũng lại không có thành Chánh Giác.

Vì biết tất cả pháp đều không thể tánh. Cho nên đắc được nhất thiết trí, tâm đại từ bi hỉ xả tương tục không ngừng, cứu độ hết thảy chúng sinh thọ khổ.

 

Phật tử! thí như hư không, nhất thiết thế giới nhược thành nhược hoại, thường vô tăng giảm. Hà dĩ cố? hư không vô sanh cố. Chư Phật Bồ-đề diệc phục như thị, nhược thành chánh giác, bất thành chánh giác, diệc vô tăng giảm. Hà dĩ cố? Bồ-đề vô tướng, vô phi tướng, vô nhất, vô chủng chủng cố.

Chư Phật tử ! Ví như hư không, tất cả thế giới hoặc thành hoặc hoại, hư không thường chẳng thêm bớt, vì hư không vốn vô sanh. Chư Phật Bồ Ðề cũng như vậy, hoặc thành Chánh Giác hay chẳng thành Chánh Giác, cũng không tăng giảm. Vì Bồ Ðề vốn không tướng, không phi tướng, không một, không nhiều.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như hư không, hết thảy tất cả thế giới, hoặc là thành, hoặc là hoại, đối với hư không chẳng tăng, chẳng giảm. Tại sao ? Hư không tức là hư không, hư không chẳng sinh, cũng chẳng diệt. Bồ đề của chư Phật, cũng lại như thế, giống như hư không, do đó có câu :
Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật
Hãy tịnh ý mình như hư không.

Hoặc thành Chánh Giác, hoặc chẳng thành Chánh Giác, đối với tánh bồ đề cũng không tăng, không giảm. Tại sao ? Vì tánh bồ đề như hư không, chẳng có hình tướng, cũng chẳng không hình tướng. Tất cả tất cả đều là biểu hiện của bồ đề. Tất cả tất cả vì bồ đề mà nói pháp, nó cũng chẳng phải một, cũng chẳng phải các thứ.

 

Phật tử! giả sử hữu nhân năng hóa tác hằng hà sa đẳng tâm, nhất nhất tâm phục hóa tác hằng hà sa đẳng Phật, giai vô sắc, vô hình, vô tướng, như thị tận hằng hà sa đẳng kiếp vô hữu hưu tức.

Chư Phật tử ! Giả sử có người hay hóa làm hằng hà sa tâm, mỗi mỗi tâm lại hóa làm hằng hà sa Phật, đều không sắc, không hình, không tướng. Hóa như vậy tột hằng hà sa kiếp không thôi nghỉ.

Giảng: Các vị Phật tử ! Giả sử có người, có thể biến hoá ra tâm của mình nhiều như số cát sông Hằng. Trong mỗi hoá tâm, lại biến hoá làm Phật nhiều như số cát sông Hằng. Đều không có sắc, không có hình trạng, không có tướng mạo, có thể tìm được. Như vậy hết số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, không có ngừng nghỉ.

 

Phật tử! ư nhữ ý vân hà? bỉ nhân hóa tâm, hóa tác Như Lai, phàm hữu kỷ hà? Như Lai tánh khởi diệu đức Bồ Tát ngôn: như ngã giải ư nhân sở thuyết nghĩa, hóa dữ bất hóa đẳng vô hữu biệt, vân hà vấn ngôn phàm hữu kỷ hà?

Này chư Phật tử ! Các Ngài nghĩ thế nào ? Người đó hóa tâm, hóa Phật, có tất cả là bao nhiêu ? Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát nói : Như theo tôi hiểu nghĩa của Ngài nói thời hóa cùng chẳng hóa đồng nhau không khác. Sao lại hỏi là có bao nhiêu ?

Giảng: Các vị Phật tử ! Ý các vị thế nào ? Tâm của người đó hoá ra, Phật của người đó hoá ra, rốt ráo có tất cả là bao nhiêu ?

Lúc đó, Bồ Tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức nói : Như chỗ tôi hiểu nghĩa lý của Ngài nói, hoá và không hoá, đồng nhau chẳng khác biệt, sao Ngài lại hỏi là có bao nhiêu ?

 

Phổ Hiền Bồ Tát ngôn: Thiện tai thiện tai! Phật tử! Như nhữ sở thuyết

Phổ Hiền Bồ Tát nói : Lành thay ! Lành thay ! Ðúng như lời Ngài nói.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền trả lời nói : Lành thay ! Lành thay ! Phật tử ! Như lời Ngài nói

 

Thiết nhất thiết chúng sanh, ư nhất niệm trung tất thành chánh giác, dữ bất thành chánh giác đẳng vô hữu dị. Hà dĩ cố? Bồ-đề vô tướng cố; nhược vô hữu tướng, tức vô tăng vô giảm.

Giả sử tất cả chúng sanh ở trong một niệm đều thành Chánh giác cùng chẳng thành Chánh giác đồng nhau không khác. Vì Bồ Ðề không có tướng. Nếu không tướng thời không tăng không giảm.

Giảng: Giả sử tất cả chúng sinh ở trong một niệm, đều thành Chánh Giác, và chẳng thành Chánh Giác, đồng nhau không khác. Tại sao vậy? Vì bồ đề là vô tướng. Nếu không có tướng, thì sẽ không tăng, không giảm.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri thành đẳng chánh giác đồng ư bồ Đề nhất tướng vô tướng. Như Lai thành chánh giác thời, dĩ nhất tướng phương tiện nhập thiện giác trí tam muội; nhập dĩ, ư nhất thành chánh giác quảng đại thân, Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh số đẳng thân trụ ư thân trung. Như nhất thành chánh giác quảng đại thân, nhất thiết thành chánh giác quảng đại thân tất diệc như thị.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết như vầy : Thành Ðẳng Chánh Giác đồng với Bồ Ðề một tướng không tướng. Lúc đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác dùng phương tiện nhứt tướng nhập tam muội thiện giác trí. Nhập rồi ở một thân quảng đại thành Chánh Giác hiện thân bằng số tất cả chúng sanh trụ ở trong thân. Như một thân quảng đại thành Chánh Giác tất cả thân quảng đại thành Chánh Giác đều như vậy cả.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết đạo lý thành Đẳng Chánh Giác như vậy, đồng với bồ đề, một tướng vô tướng. Khi Như Lai thành Chánh Giác, dùng một tướng phương tiện, vào tam muội Thiện giác trí. Vào tam muội rồi, nơi một thân rộng lớn thành Chánh Giác, hiện ra thân đồng số tất cả chúng sinh, hết thảy chúng sinh đều trụ ở trong pháp thân của Phật. Như một thân rộng lớn thành Chánh Giác, tất cả thân rộng lớn thành Chánh Giác, cũng đều như vậy.

 

Phật tử! Như Lai hữu như thị đẳng vô lượng thành chánh giác môn, thị cố ứng tri Như Lai sở hiện thân vô hữu lượng; dĩ vô lượng cố, thuyết Như Lai thân vi vô lượng giới, đẳng chúng sanh giới.

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai có vô lượng môn thành Chánh Giác như vậy, vì thế phải biết đức Như Lai hiện thân vô lượng. Vì vô lượng nên nói thân Như Lai là vô lượng giới đồng với chúng sanh giới.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai có pháp môn vô lượng môn thành Chánh Giác như vậy. Bởi vậy, nên biết Như Lai hiện thân chẳng có số lượng. Bởi vì vô lượng, nên nói thân Như Lai là cõi vô lượng, đồng với cõi chúng sinh.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri Như Lai thân nhất mao khổng trung, hữu nhất thiết chúng sanh số đẳng chư Phật thân. Hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác thân cứu cánh vô sanh diệt cố. Như nhất mao khổng biến Pháp giới, nhất thiết mao khổng tất diệc như thị, đương tri vô hữu thiểu hứa xứ không vô Phật thân. Hà dĩ cố? Như Lai thành chánh giác, vô xứ bất chí cố; tùy kỳ sở năng, tùy kỳ thế lực, ư đạo tràng Bồ-đề thụ hạ sư tử tọa thượng, dĩ chủng chủng thân thành đẳng chánh giác.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết thân Như Lai trong một lỗ lông có thân chư Phật bằng số tất cả chúng sanh. Vì đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác rốt ráo không sanh diệt. Như một lỗ lông khắp pháp giới, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. Phải biết chẳng có một chút chỗ nào là không có thân Phật. Vì đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác không chỗ nào chẳng đến. Tùy sở năng, tùy thế lực, ở dưới cây Bồ Ðề đạo tràng trên tòa sư tử, hiện nhiều thân thành Ðẳng Chánh Giác.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết, trong một lỗ chân lông trên thân Như Lai, có tất cả số lượng chúng sinh đồng với thân chư Phật. Tại sao ? Vì thân Như Lai thành chánh giác, rốt ráo không sinh không diệt.

Như một lỗ lông đầy khắp pháp giới, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. Nên biết không có chỗ nào mà chẳng có thân Phật. Thậm chí ở trong một hạt bụi, cũng có thân Phật ở trong đó. Tóm lại, bất cứ ở đâu, cũng đều có thân Phật. Tại sao vậy ? Vì pháp thân của Như Lai thành Chánh Giác, chẳng có nơi nào mà chẳng đến. Tuỳ sở năng của Ngài, tuỳ thế lực của Ngài, ngồi trên toà sư tử dưới cội bồ đề đạo tràng, dùng đủ thứ thân, thành Đẳng Chánh Giác. Cho nên pháp thân của Phật, vô tại vô bất tại, không thiếu cũng không thừa.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri tự tâm niệm niệm thường hữu Phật thành chánh giác. Hà dĩ cố? chư Phật Như Lai bất ly thử tâm thành chánh giác cố. Như tự tâm, nhất thiết chúng sanh tâm diệc phục như thị, tất hữu Như Lai thành đẳng chánh giác, quảng đại chu biến, vô xứ bất hữu, bất ly bất đoạn, vô hữu hưu tức, nhập bất tư nghị phương tiện Pháp môn.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết tâm mình, niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Vì chư Phật Thế Tôn chẳng rời tâm này mà thành Chánh Giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác, rộng lớn cùng khắp không chỗ nào chẳng có, chẳng rời, chẳng dứt, không thôi nghỉ, nhập pháp môn phương tiện bất tư nghì.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết tâm mình, niệm niệm thường có Phật thành Chánh Giác. Do đó có câu :
Một niệm giác tức là Phật
Một niệm mê tức là chúng sinh
Niệm niệm giác niệm niệm Phật
Niệm niệm mê niệm niệm chúng sinh.
Tại sao vậy ? Vì chư Phật Như Lai dùng tâm mình tu hành, cho nên mới được thành Phật. Tại sao chúng sinh chẳng thành Phật ? Vì chẳng dùng chân tâm tu hành. Nếu gặp chút cảnh giới nghịch, thì nhẫn chịu chẳng đặng, bị cảnh giới làm lay động. Nếu dùng tâm mình niệm niệm thành Phật, thì tâm của tất cả chúng sinh, cũng niệm niệm thành Phật.

Khắp cùng rộng lớn, chẳng có chỗ nào mà không có, niệm niệm liên tục, chẳng lìa chẳng dứt, không có tâm giác ngộ ngừng nghỉ, mới vào được pháp môn phương tiện không thể nghĩ bàn.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri Như Lai thành chánh giác. Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác như vậy. Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết đạo lý Như Lai thành Chánh Giác như vậy. Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa lý vừa nói ở trên. Vì Ngài từ bi tha thiết, cho nên dùng pháp môn kệ tụng quyền xảo phương tiện để nói, khiến cho đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm, đều minh bạch nghĩa lý trên.

 

Chánh giác liễu tri nhất thiết pháp                    Chánh Giác biết rõ tất cả pháp
Vô nhị ly nhị tất bình đẳng,                                Không hai lìa hai đều bình đẳng
Tự tánh thanh tịnh như hư không,                    Tự tánh thanh tịnh như hư không
Ngã dữ phi ngã bất phân biệt.                            Ngã cùng phi ngã chẳng phân biệt

Giảng: Tại sao gọi là Chánh Giác ? Vì thấu rõ tất cả pháp, đều là pháp môn không hai. Lìa khỏi không và có hai bên, đắc được bình đẳng trung đạo. Tự tánh của Phật, thanh tịnh như hư không. Tướng ta và chẳng phải tướng ta, vốn chẳng có sự phân biệt, cũng có thể nói chẳng có sự khác biệt.

 

Như hải ấn hiện chúng sanh thân                      Như biển ấn hiện thân chúng sanh
Dĩ thử thuyết kỳ vi đại hải;                                 Do đây gọi biển là đại hải
Bồ-đề phổ ấn chư tâm hành,                              Bồ Ðề ấn khắp các tâm hành
Thị cố thuyết danh vi chánh giác.                      Vì thế nên gọi là Chánh Giác

Giảng: Giống như hải ấn tam muội, ở trong biển hay hiện ra thân của tất cả chúng sinh. Tóm lại, thân của tất cả chúng sinh, ấn ở trong biển. Vì khắp tất cả đều ở trong hải ấn tam muội, cho nên gọi là biển cả. Bồ Tát khắp ấn trong tâm của tất cả chúng sinh. Bởi vậy, cho nên mới gọi là Chánh Giác. Chánh giác tức là bồ đề, bồ đề tức là Chánh giác, tên khác nhau mà nghĩa giống nhau, chẳng có gì khác biệt.

 

Thí như thế giới hữu thành bại,                          Ví như thế giới có thành hoại
Nhi ư hư không bất tăng giảm                            Mà ở hư không chẳng thêm bớt
Nhất thiết chư Phật xuất thế gian,                     Tất cả chư Phật hiện thế gian
Bồ-đề nhất tướng hằng vô tướng.                      Bồ Ðề một tướng thường không tướng

Giảng: Giống như thế giới có thành, thì cũng có hoại. Thế giới có: Thành trụ hoại không, nhưng hư không chẳng có thành trụ hoại không, cho nên chẳng tăng chẳng giảm. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, xuất hiện ở thế gian. Bồ đề một tướng cũng chẳng có. Tại sao? Vì vô tướng vậy!

 

Như nhân hóa tâm hóa tác Phật,                       Như người hóa tâm hóa làm Phật
Hóa dữ bất hóa tánh vô dị                                  Hóa cùng chẳng hóa tánh không khác
Nhất thiết chúng sanh thành Bồ-đề                   Tất cả chúng sanh thành Bồ Ðề
Thành dữ bất thành vô tăng giảm.                    Thành cùng chẳng thành không tăng giảm

Giảng: Giống như có người, có thể biến hoá ra tâm nhiều như số cát sông Hằng. Trong mỗi tâm, lại có thể biến hoá ra Phật nhiều như số cát sông Hằng, hoá và chẳng hoá, vốn chẳng có gì khác biệt. Khi hết thảy tất cả chúng sinh thành Phật, thành và chẳng thành, chẳng có vấn đề gì, đều không tăng không giảm.

 

Phật hữu tam muội danh thiện giác                   Phật có tam muội tên Thiện Giác
Bồ-đề thụ hạ nhập thử định,                              Dưới cây Bồ Ðề nhập định này
Phóng chúng sanh đẳng Vô Lượng Quang       Phóng vô lượng quang bằng chúng sanh
Khai ngộ quần phẩm như liên phu.                    Khai ngộ quần sanh như sen nở

Giảng: Phật có tam muội, tên là Thiện giác trí. Phật ngồi trên toà kim cương dưới cội bồ đề, nhập vào tam muội nầy. Phật phóng ra quang minh số lượng bằng số chúng sinh, khai ngộ hết thảy chúng sinh, như hoa sen nở.

 

Như tam thế kiếp sát chúng sanh                       Như tam thế kiếp sát, chúng sanh
Sở hữu tâm niệm cập căn dục,                           Có những tâm niệm và căn, dục
Như thị số đẳng thân giai hiện                            Thân bằng số ấy đều hiện ra
Thị cố chánh Giác danh vô lượng.                     Nên Chánh Giác gọi là vô lượng

Giảng: Giống như kiếp ba đời cõi chúng sinh, hết thảy tâm niệm và sự ưa thích, Phật đều biết đều thấy. Chúng sinh nhiều như vậy, tâm niệm, căn tánh, dục vọng, của họ. Phật đều hiện thân ra để giáo hoá họ. Bởi vậy, cho nên chánh giác tên là vô lượng, còn gọi là thân Vô lượng chánh giác.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác chuyển pháp luân?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác chuyển pháp luân như thế nào ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng, các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nên làm thế nào để biết được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chuyển bánh xe pháp?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri Như Lai dĩ tâm tự tại lực vô khởi vô chuyển nhi chuyển pháp luân, tri nhất thiết pháp hằng vô khởi cố; dĩ tam chủng chuyển đoạn sở ưng đoạn nhi chuyển pháp luân, tri nhất thiết pháp ly biên kiến cố; ly dục tế, phi tế nhi chuyển pháp luân, nhập nhất thiết pháp hư không tế cố; vô hữu ngôn thuyết nhi chuyển pháp luân, tri nhất thiết pháp bất khả thuyết cố; cứu cánh tịch diệt nhi chuyển pháp luân, tri nhất thiết pháp Niết-Bàn tánh cố

Ðại Bồ Tát phải biết như vầy : Ðức Như Lai dùng sức tâm tự tại không khởi không chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ chuyển dứt chỗ đáng dứt mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp lìa biên kiến. Lìa dục tế phi tế mà chuyển pháp luân. Vì nhập tất cả pháp hư không tế. Không có ngôn thuyết mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp chẳng thể nói. Rốt ráo tịch diệt mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp là tánh Niết Bàn.

Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nên biết như vầy: Như Lai dùng sức tâm tự tại, cũng không khởi, cũng không chuyển, mà chuyển bánh xe pháp, vì biết tất cả pháp tánh thường không khởi. Vì khiến cho tất cả chúng sinh dứt phiền não, dùng phương pháp ba thứ chuyển dứt, đáng dứt, mà chuyển bánh xe pháp.

Ba chuyển bánh xe pháp là: Thị chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển.

– Thị chuyển: “Đây là khổ, tánh bức bách. Đây là tập, tánh chiêu cảm. Đây là diệt, tánh có thể chứng. Đây là đạo, có thể tu”. Đó là tướng thị bốn đế.

– Khuyến chuyển: “Đây là khổ, ông nên biết. Đây là tập, ông nên dứt. Đây là diệt, ông nên chứng. Đây là đạo, ông nên tu”. Đó là khuyên tu hành.

– Chứng chuyển: “Đây là khổ, ta đã biết. Đây là tập, ta đã dứt. Đây là diệt, ta đã chứng. Đây là đạo, ta đã tu. Đó là Phật đã chứng. Phật biết tất cả pháp lìa không, có, hai bên, vì lìa khỏi tà kiến. Lìa khỏi dục tế chẳng phải dục tế, mà chuyến bánh xe pháp, vì vào tất cả pháp hư không tế. Không có lời nói mà chuyển bánh xe pháp, dùng không lời nói để nói tất cả pháp. Biết tất cả pháp vốn là không nói, không chuyển, nên quán sát như thế. Pháp là rốt ráo tịch diệt, mà chuyển bánh xe pháp, vì biết tất cả pháp tánh Niết Bàn.

 

Dĩ nhất thiết văn tự, nhất thiết ngôn ngữ nhi chuyển Pháp luân, Như Lai âm thanh vô xứ bất chí cố; tri thanh như hưởng nhi chuyển pháp luân, liễu ư chư Pháp chân thật tánh cố; ư nhất âm trung xuất nhất thiết âm nhi chuyển pháp luân, tất cánh vô chủ cố; vô di vô tận nhi chuyển pháp luân, nội ngoại Vô Trước cố.

Dùng tất cả văn tự, tất cả ngữ ngôn mà chuyển pháp luân, vì âm thanh của Như Lai không chỗ nào chẳng đến. Biết tiếng như vang mà chuyển pháp luân, vì rõ tánh chơn thiệt của các pháp. Trong một âm thanh phát ra tất cả âm thanh mà chuyển pháp luân, vì rốt ráo không chủ. Không sót không hết mà chuyển pháp luân, vì trong ngoài không nhiễm trước.

Giảng: Dùng tất cả văn tự và tất cả lời lẽ mà chuyển bánh xe pháp, vì âm thanh Như Lai không chỗ nào mà chẳng đến. Biết tiếng như vang mà chuyển bánh xe pháp, vì thấu rõ thật tánh của các pháp. Ở trong một tiếng, vang ra tất cả tiếng mà chuyển bánh xe pháp, vì rốt ráo không có chủ. Không sót không hết mà chuyển bánh xe pháp, vì không chấp trong, cũng không chấp ngoài.

 

Phật tử! thí như nhất thiết văn tự ngữ ngôn, tận vị lai kiếp thuyết bất khả tận; Phật chuyển pháp luân diệc phục như thị, nhất thiết văn tự an lập hiển thị, vô hữu hưu tức, vô hữu cùng tận.

Chư Phật tử ! Ví như tất cả văn tự ngữ ngôn tột kiếp vị lai nói chẳng hết được. Phật chuyển pháp luân cũng như vậy, tất cả văn tự an lập hiển thị không thôi nghỉ không cùng tận.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như tất cả văn tự và tất cả lời lẽ, dù hết kiếp thuở vị lai, cũng nói không hết được. Phật chuyển bánh xe pháp, cũng lại như thế. Phật nói tất cả kinh điển, hiển bày tất cả chân lý, không có ngừng nghỉ, bất cứ nói gì, cũng nói không cùng tận.

 

Phật tử! Như Lai Pháp luân tất nhập nhất thiết ngữ ngôn văn tự nhi vô sở trụ. Thí như thư tự, phổ nhập nhất thiết sự, nhất thiết ngữ, nhất thiết toán số, nhất thiết thế gian xuất thế gian xứ nhi vô sở trụ

Chư Phật tử ! Như Lai pháp luân đều nhập tất cả ngữ ngôn văn tự mà không chỗ trụ. Ví như viết chữ vào khắp tất cả sự, tất cả lời, tất cả toán số, tất cả chỗ thế gian và xuất thế gian mà không chỗ trụ.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai chuyển bánh xe pháp, đều vào tất cả lời lẽ và tất cả văn tự, mà không chỗ trụ, tức cũng là không chấp trước. Ví như viết chữ, vào khắp tất cả sự việc, tất cả lời lẽ, tất cả toán số, tất cả nơi thế gian và xuất thế gian, mà không chỗ trụ.

 

Như Lai âm thanh diệc phục như thị, phổ nhập nhất thiết xứ, nhất thiết chúng sanh, nhất thiết pháp, nhất thiết nghiệp, nhất thiết báo trung nhi vô sở trụ. Nhất thiết chúng sanh chủng chủng ngữ ngôn, giai tất bất ly Như Lai Pháp luân. Hà dĩ cố? ngôn âm thật tướng tức Pháp luân cố.

Âm thanh của đức Như Lai cũng như vậy, vào khắp tất cả xứ tất cả chúng sanh, tất cả pháp, tất cả nghiệp, tất cả báo, mà không chỗ trụ. Các thứ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh đều chẳng rời pháp luân của đức Như Lai, vì thiệt tướng của ngôn âm chính là pháp luân vậy. Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai chuyển pháp luân như vậy.

Giảng: Âm thanh của Như Lai cũng lại như thế, vào khắp trong tất cả mọi nơi, tất cả chúng sinh, tất cả pháp, tất cả nghiệp, tất cả báo, mà không chỗ trụ. Tất cả chúng sinh đủ thứ lời lẽ, đều không lìa khỏi bánh xe pháp Như Lai. Tại sao ? Vì lời lẽ thật tướng tức là bánh xe pháp.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư Như Lai chuyển pháp luân ưng như thị tri phục thứ. Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dục tri Như Lai sở chuyển pháp luân, ứng tri Như Lai Pháp luân sở xuất sanh xứ. Hà đẳng vi Như Lai Pháp luân sở xuất sanh xứ?

Lại nữa, chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát muốn biết đức Như Lai chuyển pháp luân, thời phải biết chỗ xuất sanh pháp luân của đức Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát đối với Như Lai chuyển bánh xe pháp, nên biết như vậy. Lại nữa, các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát muốn biết Như Lai chuyển bánh xe pháp, thì nên biết nơi sinh ra bánh xe pháp của Như Lai, tức cũng là biết căn bổn đạo lý của Như Lai chuyển bánh xe pháp. Thế nào là nơi sinh ra bánh xe pháp của Như Lai ?

 

Phật tử! Như Lai tùy nhất thiết chúng sanh tâm hành dục lạc vô lượng sái biệt, xuất nhược can âm thanh nhi chuyển pháp luân.

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai tùy theo tâm hành dục lạc vô lượng sai khác của tất cả chúng sanh, phát ra ngần ấy âm thanh mà chuyển pháp luân.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai tuỳ thuận tâm hạnh ưa thích vô lượng sự khác biệt của tất cả chúng sinh, mà phát ra bao nhiêu âm thanh để chuyển bánh xe pháp vô thượng.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác hữu tam muội, danh: cứu cánh vô ngại vô úy, nhập thử tam muội dĩ, ư thành chánh giác nhất nhất thân, nhất nhất khẩu, các xuất nhất thiết chúng sanh số đẳng ngôn âm, nhất nhất âm trung chúng âm cụ túc, các các sái biệt nhi chuyển pháp luân, lệnh nhất thiết chúng sanh giai sanh hoan hỉ.

Năng như thị tri chuyển pháp luân giả, đương tri thử nhân tức vi tùy thuận nhất thiết Phật Pháp; bất như thị tri, tức phi tùy thuận. Phật tử! chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri Phật chuyển pháp luân, phổ nhập vô lượng chúng sanh giới cố. Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai có tam muội tên là cứu cánh vô ngại vô úy. Nhập tam muội này rồi, ở mỗi mỗi thân mỗi mỗi miệng thành Ðẳng Chánh Giác, đều phát ra ngôn âm bằng số tất cả chúng sanh. Trong mỗi mỗi ngôn âm đầy đủ các ngôn âm đều riêng khác mà chuyển pháp luân, làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.

Người biết được đức Như Lai chuyển pháp luân như vậy, phải biết người này đã tùy thuận tất cả Phật pháp. Không biết như vậy thời chẳng phải là tùy thuận. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết đức Phật chuyển pháp luân như vậy, vì vào khắp vô lượng chúng sanh giới. Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, có một thứ tam muội tên là Rốt ráo vô ngại vô uý. Phật vào tam muội nầy rồi, thì thành Chánh Giác. Trong mỗi thân, và mỗi miệng, đều phát ra âm thanh bằng số tất cả chúng sinh. Trong mỗi âm thanh, đều đầy đủ các âm. Mỗi mỗi âm thanh đều khác biệt, mà chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ. Người biết được chuyển bánh xe pháp như vậy, thì nên biết người đó là tuỳ thuận tất cả Phật pháp. Nếu không biết như vậy, thì chẳng phải tuỳ thuận.

Các vị Phật tử ! Các đại Bồ Tát nên biết Phật chuyển bánh xe pháp như vậy, vì giáo hoá tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.

Các vị ! Nên hồi quang phản chiếu, hãy mau phát bồ đề tâm, cầu vô thượng đạo.

Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn tường thuật lại nghĩa nầy, mà nói bài kệ rằng.

 

Như Lai Pháp luân vô sở chuyển                       Như Lai pháp luân không sở chuyển
Tam thế vô khởi diệc vô đắc                               Tam thế vô khởi cũng vô đắc
Thí như văn tự vô tận thời                                  Như văn tự không thời gian hết
Thập lực Pháp luân diệc như thị.                       Thập Lực pháp luân cũng như vậy

Giảng: Như Lai chuyển bánh xe pháp, không chỗ chuyển, tất cả tất cả đều đang chuyển bánh xe pháp. Hữu tình chúng sinh, thì có nơi hữu tình chuyển bánh xe pháp; vô tình chúng sinh, thì có nơi vô tình chuyển bánh xe pháp. Cây cỏ vô tình, cành lá lớn lên, đơm hoa kết trái, cũng đang ở đó chuyển bánh xe pháp. Trăm hoa đua nở, xanh tươi tốt đẹp, đó là chuyển bánh xe pháp của hoa. Cỏ xanh mơm mởn tươi tốt, đó là chuyển bánh xe pháp của cỏ. Tất cả sinh sinh diệt diệt, biến hoá vô cùng, đều đang chuyển bánh xe pháp ở đó. Nhưng đó là vô công dụng đạo để chuyển bánh xe pháp, không chỗ chuyển mà đều chuyển, vô lượng chuyển mà không chỗ chuyển. Đó là cảnh giới không làm mà làm, làm mà không làm, đó là chuyển bánh xe pháp ba đời viên dung vô ngại, kết quả không khởi, cũng không đắc. Ví như văn tự chẳng có khi nào cùng tận, Phật chuyển bánh xe pháp, cũng chẳng có khi nào cùng tận.

 

Như tự phổ nhập nhi vô chí,                               Như chữ vào khắp mà không đến
Chánh giác Pháp luân diệc phục nhiên,             Chánh Giác pháp luân cũng như vậy
Nhập chư ngôn âm vô sở nhập                           Vào các ngôn âm không chỗ vào
Năng lệnh chúng sanh tất hoan hỉ.                    Hay khiến chúng sanh đều hoan hỷ

Giảng: Giống như viết chữ, vào khắp tất cả sự, tất cả lý, tất cả cảnh giới, mà bổn thân không chỗ đến. Như Lai chuyển bánh xe pháp, cũng như thế, vào khắp tất cả lời nói, mà không chỗ vào. Hay khiến cho tất cả chúng sinh, sinh đại hoan hỉ, do đó có câu : Lời thô hay lời vi tế, đều trở về đệ nhất nghĩa, đều được lợi ích. Chúng sinh muốn nghe pháp gì, thì nói pháp đó.

 

Phật hữu tam muội danh cứu cánh                   Phật có tam muội tên cứu cánh
Nhập thử định dĩ nãi thuyết Pháp                      Nhập định này rồi mới thuyết pháp
Nhất thiết chúng sanh vô hữu biên                    Tất cả chúng sanh vô lượng biên
Phổ xuất kỳ âm lệnh ngộ giải.                             Khắp pháp ngôn âm khiến tỏ ngộ

Giảng: Phật có một thứ tam muội, tên là Rốt ráo. Phật vào tam muội Rốt ráo vô ngại vô uý nầy rồi, mới diễn nói diệu pháp. Tất cả chúng sinh nhiều vô lượng vô biên, Phật nói pháp khắp cùng, phát ra một thứ âm thanh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều khai ngộ hiểu được. Do đó có câu :
Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu được.

Con người thì nói tiếng loài người, ngựa thì nói tiếng ngựa, bò thì nói tiếng bò, chó thì nói tiếng chó, mèo thì nói tiếng mèo. Tóm lại, loài chúng sinh gì, khi nghe pháp âm của Phật thì đều hiểu được.

 

Nhất nhất âm trung phục cánh diễn                  Trong mỗi ngôn âm lại còn diễn
Vô lượng ngôn âm các sái biệt,                           Vô lượng ngôn âm đều sai khác
Ư thế tự tại vô phân biệt                                     Thế gian tự tại vô phân biệt
Tùy kỳ dục lạc phổ sử văn.                                 Tùy họ sở thích khắp khiến nghe

Giảng: Ở trong mỗi âm thanh, lại phát ra vô lượng âm thanh. Nhưng trong vô lượng âm thanh, đều khác nhau. Đối với thế gian tất cả đều tự tại, chẳng có gì phân biệt. Tuỳ thuận sự ưa thích của chúng sinh, khắp khiến cho chúng sinh được nghe pháp âm.

 

Văn tự bất tùng nội ngoại xuất                           Văn tự chẳng từ trong ngoài ra
Diệc bất thất hoại vô tích tụ,                              Cũng chẳng hư mất, không chứa nhóm,
Nhi vi chúng sanh chuyển pháp luân                 Mà vì chúng sanh chuyển pháp luân
Như thị tự tại thậm kì đặc.                                 Tự tại như vậy rất kỳ đặc.

Giảng: Văn tự chẳng phải từ trong ra, cũng chẳng phải từ ngoài ra, cũng chẳng có thất hoại, cũng chẳng có tích tụ. Phật vì chúng sinh mà chuyển bánh xe pháp. Tự tại như vậy, rất là kỳ đặc, diệu không thể tả được.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác Bát Niết Bàn?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác nhập Niết Bàn như thế nào ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng, các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên làm thế nào biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vào Bát Niết Bàn ?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dục tri Như Lai đại Niết Bàn giả, đương tu liễu tri căn bổn tự tánh.

Như chân như Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Như thật tế Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Như Pháp giới Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Như hư không Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Như pháp tánh Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Ðại Bồ Tát muốn biết đại Niết Bàn của đức Như Lai, cần phải biết rõ căn bổn tự tánh.

Như chơn như Niết bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Như thiệt tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Như pháp giới Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Như hư không Niết Bàn, Như Lai Niết bàn cũng như vậy.

Như pháp tánh Niết Bàn. Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát muốn biết Như Lai vào đại Niết Bàn như thế nào, thì phải biết rõ nguồn gốc của tự tánh, mới minh bạch được vào Niết Bàn như thế nào ?

Giống như chân như Niết Bàn (không sinh không diệt), Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giống như thật tế lý thể Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giống như pháp giới Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giống như hư không Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giống như pháp tánh bất động Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

 

Như ly dục tế Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Như vô tướng tế Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Như ngã tánh tế Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Như nhất thiết pháp tánh tế Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị;

Như chân như tế Niết-Bàn, Như Lai Niết-Bàn diệc như thị.

Hà dĩ cố? Niết-Bàn vô sanh vô xuất cố; nhược Pháp vô sanh vô xuất, tức vô hữu diệt.

Như ly dục tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Như vô tướng tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Như ngã tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Như Nhứt thiết pháp tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Như chơn như tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Vì Niết Bàn vô sanh vô xuất. Nếu pháp vô sanh vô xuất thời vô diệt.

Giảng: Giống như lìa dục tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giống như vô tướng tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giống như ngã tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giống như tất cả pháp tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Giống như chân như tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng như vậy.

Tại sao ? Vì Niết Bàn không có sinh, không có xuất. Nếu pháp cũng không sinh, cũng không xuất, thì không có diệt. Tức không có sinh, sao lại có diệt ? Ở trên nói về các thứ Niết Bàn, đó là hình dung cảnh giới của Niết Bàn, chẳng sinh, chẳng diệt, không xuất, không nhập.

 

Phật tử! Như Lai bất vi Bồ-tát thuyết chư Như Lai cứu cánh Niết Bàn, diệc bất vi bỉ thị hiện kỳ sự. Hà dĩ cố? vi dục lệnh kiến nhất thiết Như Lai thường trụ kỳ tiền, ư nhất niệm trung kiến quá khứ, vị lai nhất thiết chư Phật sắc tướng viên mãn giai như hiện tại, diệc bất khởi nhị, bất nhị tưởng. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát vĩnh ly nhất thiết chư tưởng trước cố.

Chư Phật tử ! Như Lai chẳng vì Bồ Tát mà nói chư Phật cứu cánh Niết Bàn, cũng chẳng vì Bồ Tát mà thị hiện việc ấy. Vì muốn cho Bồ Tát thấy tất cả Như Lai thường ở trước, ở trong một niệm thấy quá khứ, vị lai sắc tướng viên mãn đều như hiện tại, cũng chẳng móng tưởng là hai chẳng hai. Vì đại Bồ Tát đã lìa hẳn tưởng chấp.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai chẳng vì Bồ Tát nói cảnh giới rốt ráo Niết Bàn của các Như Lai. Cũng chẳng vì Bồ Tát thị hiện cảnh giới đó. Tại sao ? Vì muốn khiến cho tất cả Bồ Tát khai ngũ nhãn, thấy tất cả Như Lai thường trụ ở trước họ.

Ở trong một niệm, thấy được tất cả chư Phật quá khứ và vị lai. Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, đều rất trang nghiêm và còn viên mãn, đều giống như hiện tại. Cũng chẳng khởi tưởng đó là quá khứ, hoặc đó là hiện tại, hoặc là vị lai, hoặc là hai thời gian, hoặc chẳng phải hai thời gian, chẳng có nghĩ tưởng như vậy. Tại sao vậy ? Vì đại Bồ Tát vĩnh viễn lìa khỏi tất cả các vọng tưởng, chẳng còn mọi sự chấp trước.

 

Phật tử! chư Phật Như Lai vi lệnh chúng sanh sanh hân lạc cố, xuất hiện ư thế; dục lệnh chúng sanh sanh luyến mộ cố, thị hiện Niết-Bàn; nhi thật Như Lai vô hữu xuất thế, diệc vô Niết-Bàn. Hà dĩ cố? Như Lai thường trụ thanh tịnh pháp giới, tùy chúng sanh tâm thị hiện Niết-Bàn.

Chư Phật Như Lai vì muốn làm cho chúng sanh có lòng mến thích nên xuất hiện ra đời. Vì muốn chúng sanh luyến mộ mà thị hiện Niết Bàn. Nhưng thiệt ra đức Như Lai không có xuất thế cũng không Niết Bàn. Vì đức Như Lai thường trụ thanh tịnh pháp giới, tùy theo tâm của chúng sanh mà thị hiện.

Giảng: Các vị Phật tử ! Chư Phật Như Lai vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh an vui, mà xuất hiện ra đời. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, sinh tâm luyến mộ, mà thị hiện vào Niết Bàn. Tại sao Phật phải vào Niết Bàn ? Vì dạy chúng sinh đừng có tâm ỷ lại. Nếu Phật chẳng vào Niết Bàn, thì đệ tử Phật cho rằng Phật còn ở đời, chẳng chịu tu hành, thời gian lâu dần, Phật có thể gia trì cho họ, cho họ giới lực, cho họ định lực, cho họ huệ lực. Giới định huệ đều có thể đắc được.

Giống như tôn giả A Nan, ở trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : Ngài A Nan với Phật là anh em chú bác, thân như ruột thịt. Do đó, Ngài cho rằng Ngài không cần tu hành, tương lai Phật sẽ ban cho Ngài tam muội. Vì sợ rằng chúng sinh có tâm ỷ lại như thế, cho nên Phật thị hiện vào Niết Bàn. Đó là chẳng có cảnh giới Niết Bàn, mà thị hiện cảnh giới Niết Bàn. Kỳ thật, Như Lai chẳng có ra đời, cũng chẳng vào Niết Bàn. Tại sao ? Vì Như Lai thường trụ pháp giới thanh tịnh, chỉ tuỳ thuận tâm của tất cả chúng sinh, mà thị hiện vào Niết Bàn.

 

Phật tử! thí như nhật xuất, phổ chiếu thế gian, ư nhất thiết tịnh thủy khí trung ảnh vô bất hiện, phổ biến chúng xứ nhi vô lai vãng, hoặc nhất khí phá tiện bất hiện ảnh.

Phật tử! ư nhữ ý vân hà, bỉ ảnh bất hiện vi nhật cữu bất?

Đáp ngôn: bất dã. Đãn do khí hoại, phi nhật hữu cữu.

Phật tử ! Ví như mặt trời mọc, chiếu khắp thế gian. Ở trong tất cả đồ có nước thanh tịnh, thì hình bóng đều hiện vào, khắp cùng nơi chúng sinh, mà không đến đi. Nếu đồ đựng bị bễ, thì sẽ không hiện hình bóng.

Phật tử ! Ý các vị thế nào ? Hình bóng đó chẳng hiện, là lỗi mặt trời chăng ?

Đáp rằng : Không vậy, vì do đồ đựng bị bễ, chứ chẳng phải lỗi của mặt trời.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như khi mặt trời mọc lên, thì chiếu sáng khắp thế gian. Ở trong tất cả đồ đựng nước lắng trong, thì hình bóng của mặt trời nhất định sẽ hiện ra. Bất cứ ở đâu, cũng đều như thế. Ánh sáng mặt trời tuy nhiên hiện ở trong nước, nhưng mặt trời chẳng có vào trong nước, bản thể của mặt trời chẳng đến, chẳng đi. Nhưng nếu đồ đựng bị bễ, thì hình bóng mặt trời sẽ không hiện ra.

Các vị Phật tử ! Ý các vị thế nào ? Hình bóng mặt trời chẳng hiện vào trong đó, là lỗi mặt trời chăng ?

Bồ Tát đáp rằng : Chẳng phải lỗi của mặt trời vậy, đó là do đồ đựng bị bễ, nên không hiện bóng.

 

Phật tử! Như Lai trí nhật diệc phục như thị, phổ hiện Pháp giới vô tiền vô hậu, nhất thiết chúng sanh tịnh tâm khí trung Phật vô bất hiện, tâm khí thường tịnh thường kiến Phật thân, nhược tâm trược khí phá tức bất đắc kiến.

Chư Phật tử ! Như Lai trí cũng như vậy, hiện khắp pháp giới không trước không sau. Trong tâm thanh tịnh của tất cả chúng sanh đức Như Lai đều hiện. Tâm thường thanh tịnh thời thường thấy thân Phật. Nếu tâm ô trược, hư bể thời không thấy Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử ! Mặt trời trí huệ của Như Lai cũng lại như thế. Hiện khắp pháp giới, cũng chẳng có trước, cũng chẳng có sau, trong tâm đồ đựng của tất cả chúng sinh thanh tịnh, thì Phật đều hiện ra. Do đó có câu :
Tâm tịnh nước hiện trăng
Ý định trời trời không mây.

Tâm đồ đựng thường thanh tịnh, thì thường thấy thân Phật. Nếu tâm đồ đựng dơ bẩn, bị bễ, thì không nhìn thấy được Phật.

 

Phật tử! nhược hữu chúng sanh ưng dĩ Niết-Bàn nhi đắc độ giả, Như Lai tức vi thị hiện Niết-Bàn, nhi thật Như Lai vô sanh, vô một, vô hữu diệt độ.

Phật tử! thí như hỏa đại, ư nhất thiết thế gian năng vi hỏa sự, hoặc thời nhất xứ kỳ hỏa tức diệt.

Ư ý vân hà, khởi nhất thiết thế gian hỏa giai diệt da?

Đáp ngôn: bất dã.

Phật tử ! Nếu có chúng sinh, nên dùng Niết Bàn độ được, thì Như Lai bèn vì họ thị hiện Niết Bàn, nhưng sự thật Như Lai chẳng sinh, chẳng mất, chẳng có diệt độ.

Phật tử ! Ví như lửa, trong tất cả thế gian, hay dùng lửa để làm việc, hoặc có lúc một nơi lửa tắt.

Ý các vị thế nào ? Lửa tất cả thế gian đều tắt hết chăng ?

Đáp rằng : Không vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Nếu có chúng sinh, nên dùng Niết Bàn độ được, thì Như Lai bèn vì họ thị hiện Niết Bàn. Kỳ thật, Như Lai cũng chẳng sinh, cũng chẳng mất, cũng chẳng có diệt độ.

Các vị Phật tử ! Ví như lửa, trong tất cả thế gian, hay dùng lửa để làm việc, hoặc có lúc một nơi lửa tắt.

Ý các vị thế nào ? Lửa tất cả thế gian đều tắt hết chăng ?

Bồ Tát đáp rằng : Không vậy, tại một nơi lửa tắt, nhưng lửa của tất cả thế gian không tắt.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, ư nhất thiết thế giới thí tác Phật sự, hoặc ư nhất thế giới năng sự dĩ tất thị nhập Niết Bàn, khởi nhất thiết thế giới chư Phật Như Lai tất giai diệt độ? Phật tử! Bồ Tát Ma-ha tát ưng như thị tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác Đại bát Niết Bàn.

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, ra làm Phật sự ở tất cả thế giới. Hoặc ở một thế giới việc làm đã xong hiện nhập Niết bàn, há lại tất cả thế giới chư Phật Như Lai đều diệt độ ! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác đại Niết Bàn như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Trong tất cả thế giới đều làm Phật sự. Hoặc ở thế giới nầy, chúng sinh đáng được độ, đều độ xong, cho nên mới vào Niết Bàn. Đâu phải tất cả thế giới hết thảy chư Phật Như Lai thảy đều diệt độ.

Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết cảnh giới Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Đại Bát Niết Bàn như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như huyễn sư thiện minh huyễn thuật, dĩ huyễn thuật lực, ư tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết quốc độ, thành ấp, tụ lạc thị hiện huyễn thân, dĩ huyễn lực trì Kinh kiếp nhi trụ; nhiên ư dư xứ, huyễn sự dĩ cật, ẩn thân bất hiện.

Phật tử! ư nhữ ý vân hà, bỉ đại huyễn sư khởi ư nhất xứ ẩn thân bất hiện, tiện nhất thiết xứ giai ẩn diệt da?

Đáp ngôn: bất dã.

Lại nữa Phật tử ! Ví như nhà huyễn thuật, khéo biết rõ huyễn thuật. Dùng sức huyễn thuật, ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả cõi nước thành ấp tụ lạc, thị hiện thân huyễn. Dùng sức huyễn để giữ gìn, trải qua suốt kiếp mà trụ. Nhưng ở xứ khác, việc huyễn đã xong, bèn ẩn thân chẳng hiện.

Phật tử ! Ý các vị thế nào ? Nhà đại huyễn thuật đó, có phải ở một nơi ẩn thân chẳng hiện, thì tất cả mọi nơi đều ẩn diệt ?

Đáp rằng : Không vậy.

Giảng: Lại nữa, các vị Phật tử ! Ví như nhà huyễn thuật, khéo biết rõ huyễn thuật. Dùng sức huyễn thuật, ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả cõi nước thành ấp tụ lạc, thị hiện thân huyễn không thật. Dùng sức huyễn để giữ gìn, trải qua thời gian lâu dài suốt kiếp mà trụ. Nhưng ở xứ khác, việc huyễn thuật đã làm xong, bèn ẩn thân huyễn chẳng hiện.

Các vị Phật tử ! Ý của các vị như thế nào ? Nhà đại huyễn thuật đó, có phải ở một nơi ẩn thân chẳng hiện, thì ở tất cả mọi nơi đều ẩn diệt chẳng hiện?

Bồ Tát đáp rằng : Không vậy.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, thiện tri vô lượng trí tuệ phương tiện chủng chủng huyễn thuật, ư nhất thiết Pháp giới phổ hiện kỳ thân, trì lệnh thường trụ tận vị lai tế; hoặc ư nhất xứ, tùy chúng sanh tâm, sở tác sự cật, thị hiện Niết-Bàn. khởi dĩ nhất xứ thị nhập Niết Bàn, tiện vị nhất thiết tất giai diệt độ?

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, giỏi biết vô lượng trí huệ phương tiện các thứ huyễn thuật, hiện thân khắp tất cả pháp giới, giữ gìn còn mãi tột thưở vị lai. Hoặc ở một xứ, tùy tâm của chúng sanh việc làm đã xong bèn thị hiện nhập Niết bàn. Há lại vì ở một xứ đức Phật nhập Niết bàn bèn cho rằng tất cả Phật đều diệt độ !

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Khéo biết vô lượng trí huệ phương tiện các thứ huyễn thuật. Trong tất cả pháp giới, khắp hiện thân Phật, và còn giữ gìn khiến cho thường trụ ở đời, hết kiếp thuở vị lai. Hoặc ở một nơi, tuỳ thuận tâm ý của tất cả chúng sinh mà làm Phật sự, khi Phật sự làm xong, bèn thị hiện vào Niết Bàn. Đâu phải một nơi thị hiện vào Niết Bàn, thì tất cả mọi nơi đều diệt độ !

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác Đại bát Niết Bàn.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác đại Niết Bàn như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nên biết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Đại Bát Niết Bàn như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác thị Niết-Bàn thời, nhập bất động tam muội; nhập thử tam muội dĩ, ư nhất nhất thân các phóng vô lượng bách thiên ức na-do-tha đại quang minh, nhất nhất quang minh các xuất a-tăng-kì liên hoa, nhất nhất liên hoa các hữu bất khả thuyết diệu bảo hoa nhị, nhất nhất hoa nhị hữu sư tử tọa, nhất nhất tọa thượng giai hữu Như Lai kết già phu tọa, kỳ Phật thân số chánh dữ nhất thiết chúng sanh số đẳng, giai cụ thượng diệu công đức trang nghiêm, tùng bản nguyện lực chi sở sanh khởi. Nhược hữu chúng sanh thiện căn thục giả, kiến Phật thân dĩ, tức giai thọ hóa. Nhiên bỉ Phật thân, tận vị lai tế cứu cánh an trụ, tùy nghi hóa độ nhất thiết chúng sanh vị tằng thất thời.

Lại nữa, chư Phật tử ! Lúc đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác thị hiện Niết bàn, bèn nhập bất động tam muội. Nhập tam muội này rồi, ở mỗi mỗi thân Phật đều phóng vô lượng trăm ngàn ức na do tha đại quang minh. Mỗi mỗi quang minh đều hiện vô số hoa sen. Mỗi mỗi hoa sen đều có bất khả thuyết nhị hoa diệu bửu. Mỗi mỗi nhị hoa đều có tòa sư tử. Trên mỗi mỗi toà đều có đức Như Lai ngồi kiết già. Số thân Phật bằng với số tất cả chúng sanh, đều đủ mọi sự công đức trang nghiêm thượng diệu, từ bổn nguyện lực mà sanh khởi. Nếu có chúng sanh thiện căn thành thục, thấy thân Phật rồi đều thọ hóa. Nhưng thân Phật kia tột vị lai tế rốt ráo an trụ tùy nghi hóa độ tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời.

Giảng: Lại nữa, các vị Phật tử ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, khi thị hiện Niết Bàn, thì vào tam muội Bất động. Vào tam muội đó rồi, thì nơi mỗi mỗi thân, đều phóng ra vô lượng trăm ngàn ức Na do tha đại quang minh. Trong mỗi mỗi quang minh, đều xuất hiện A tăng kỳ hoa sen.

Trong mỗi mỗi hoa sen, đều có bất khả thuyết nhuỵ hoa báu đẹp. Trong mỗi mỗi nhuỵ hoa, đều có toà sư tử. Trên mỗi toà sư tử, đều có Như Lai ngồi kiết già. Số thân Phật đó, đồng với số tất cả chúng sinh, đều đầy đủ công đức thượng diệu trang nghiêm, từ nguyện lực xưa sinh ra.

Nếu có chúng sinh căn lành thành thục, bèn thấy được thân Phật, thấy được thân Phật rồi, đều được giáo hoá. Nhưng thân Phật đó, hết thuở vị lai, rốt ráo an trụ tại thế gian, tuỳ thời tuỳ lúc, giáo hoá độ thoát tất cả chúng sinh.

 

Phật tử! Như Lai thân giả, vô hữu phương xứ, phi thật phi hư, đãn dĩ chư Phật bổn thệ nguyện lực, chúng sanh kham độ tức tiện xuất hiện. Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri Như Lai, ưng, chánh đẳng giác Đại bát Niết Bàn.

Chư Phật tử ! Thân của đức Như Lai không có phương xứ, chẳng thiệt chẳng hư, chỉ do bổn thệ nguyện lực của chư Phật, hễ chúng sanh đáng được độ thời bèn xuất hiện. Ðại Bồ Tát phải biết đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác đại Niết bàn như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Thân Như Lai không có phương xứ, cũng chẳng thật, cũng chẳng hư. Nhưng nhờ thệ nguyện lực xưa của chư Phật, có chúng sinh nào đáng được độ, thì Phật sẽ xuất hiện ra đời. Đại Bồ Tát nên biết cảnh giới Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Đại Bát Niết Bàn như vậy.

 

Phật tử! Như Lai trụ ư vô lượng vô ngại cứu cánh Pháp giới, hư không giới, chân như pháp tánh vô sanh vô diệt cập dĩ thật tế, vi chư chúng sanh tùy thời thị hiện; Bổn Nguyện trì cố, vô hữu hưu tức, bất xả nhất thiết chúng sanh, nhất thiết sát, nhất thiết pháp. Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai trụ nơi vô lượng vô ngại cứu cánh pháp giới, hư không giới, chơn như, pháp tánh, vô sanh, vô diệt và thiệt tế, vì các chúng sanh mà tùy thời thị hiện. Do bổn nguyện giữ gìn nên không thôi nghỉ. Chẳng bỏ tất cả chúng sanh, tất cả cõi, tất cả pháp. Phổ Hiền Ðại Bồ Tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai trụ nơi pháp giới rốt ráo vô lượng vô ngại, cõi hư không, chân như pháp tánh, không sinh không diệt, và thật tế. Vì tất cả chúng sinh, tuỳ thời tuỳ lúc có thể thị hiện. Vì giữ thệ nguyện xưa đã phát ra, nên chẳng có lúc nào ngừng nghỉ, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh, tất cả cõi Phật, tất cả pháp môn, để vì chúng sinh nói pháp đó.

Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền, muốn tường thuật lại nghĩa lý ở trên, mà nói bài kệ rằng.

 

Như nhật thư quang chiếu Pháp giới                 Mặt nhựt phóng sáng chiếu thế gian
Khí hoại thủy lậu ảnh tùy diệt                            Ðồ hư nước lọt bóng liền mất,
Tối thắng trí nhật diệc như thị                           Tối Thắng Thế Tôn cũng như vậy
Chúng sanh vô tín kiến Niết-Bàn.                      Chúng sanh không tin thấy nhập diệt

Giảng: Giống như ánh sáng của mặt trời, chiếu sáng khắp pháp giới. Nước ở trong tất cả đồ đựng, nếu lắng trong không đục, thì hình bóng mặt trời sẽ hiện ra. Nếu đồ đựng nước bị bễ, thì nước trong đó sẽ chảy ra hết, hình bóng mặt trời tuỳ theo cảnh giới sẽ diệt mất. Trí huệ mặt trời của đấng Tối Thắng (Phật) cũng như vậy. Phật quán sát căn cơ chúng sinh, nếu khi nào thành thục, thì nói pháp thành thục. Nếu chưa thành thục thì nói pháp chưa thành thục. Nhưng chúng sinh tâm tin không đủ, thì xiển đề sinh ra. Phật sợ rằng chúng sinh có tâm ỷ lại, mới vào Niết Bàn.

 

Như hỏa thế gian tác hỏa sự                               Như hỏa đại thành lửa thế gian
Ư nhất thành ấp hoặc thời tức;                          Hoặc một thành ấp có lúc tắt,
Nhân trung tối thắng biến Pháp giới                  Tối Thắng Thế Tôn khắp pháp giới
Hóa sự cật xứ thị chung tận.                              Xứ giáo hóa xong hiện nhập diệt

Giảng: Giống như lửa, trong thế gian hay dùng lửa để thiêu đốt. Trong một thành ấp, có lúc lửa bị tắt, nhưng không phải tất cả mọi nơi đều tắt. Nhân Trung Tối Thắng (Phật) khắp cùng pháp giới, giáo hoá chúng sinh, nơi nào giáo hoá xong, thì thị hiện vào Niết Bàn.

 

Huyễn sư hiện thân nhất thiết sát,                     Thuật sĩ hiện thân tất cả cõi
Năng sự tất xứ tức tiện tạ                                   Chỗ việc đã xong thời ẩn thân,
Như Lai hóa cật diệc phục nhiên                        Như Lai hóa xong cũng như vậy
Ư dư quốc độ thường kiến Phật.                        Ở cõi nước khác thường thấy Phật

Giảng: Nhà huyễn thuật dùng huyễn thuật hiện thân mình, khắp các cõi nước. Ông ta dùng huyễn thuật biến hoá rồi, bèn ẩn thân huyễn thuật. Như Lai giáo hoá tất cả chúng sinh, khi giáo hoá xong rồi, thì cũng như vậy. Ở trong cõi nước nầy, Phật vào Niết Bàn, nhưng ở cõi nước khác, thì Phật hiện ra đời.

 

Phật hữu tam muội danh bất động,                   Phật có tam muội tên bất động
Hóa chúng sanh cật nhập thử định,                   Hóa chúng sanh rồi nhập định này
Nhất niệm thân phóng Vô Lượng Quang          Một niệm thân phóng vô lượng quang
Quang xuất liên hoa hoa hữu Phật.                   Quang hiện liên hoa, hoa có Phật

Giảng: Phật có một thứ tam muội, tên là tam muội Bất động. Phật giáo hoá chúng sinh xong rồi, bèn nhập vào tam muội nầy. Ở trong một niệm, thân phóng ra vô lượng quang minh. Trong mỗi quang minh, hiện ra vô lượng hoa sen, trong mỗi hoa sen đều có toà sư tử, trên toà sư tử có Phật ngồi nhập định bất động.

 

Phật thân vô số đẳng Pháp giới,                         Phật thân vô số khắp pháp giới
Hữu phước chúng sanh sở năng kiến,               Chúng sanh có phước thời được thấy
Như thị vô số nhất nhất thân,                             Như vậy vô số mỗi mỗi thân
Thọ mạng trang nghiêm giai cụ túc.                  Thọ mạng trang nghiêm đều đầy đủ

Giảng: Thân Phật không có số lượng, đồng với pháp giới. Chúng sinh có phước đức, mới thấy được Phật. Thân Phật vô số lượng như vậy, thọ mạng và sự trang nghiêm của mỗi thân Phật, đều đầy đủ viên mãn.

 

Như vô sanh tánh Phật xuất hưng                     Như tánh vô sanh, Phật xuất thế
Như vô diệt tánh Phật Niết-Bàn,                        Như tánh vô diệt, Phật Niết bàn
Ngôn từ thí dụ tất giai đoạn                               Ngôn từ ví dụ thảy đều dứt
Nhất thiết nghĩa thành vô dữ đẳng.                   Tất cả nghĩa thành không cùng sánh.

Giảng: Tuy Phật xuất hiện ra đời, nhưng sinh mà chẳng sinh, tánh chẳng sinh. Tuy Phật thị hiện vào Niết Bàn, nhưng diệt mà chẳng diệt, tánh chẳng diệt. Nếu dùng lời lẽ ví dụ, đều không thể hình dung ra được, cũng không thể nào miêu tả ra được. Vì tất cả nghĩa lý thành tựu, chẳng khi nào bằng được.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri ư Như Lai, ưng, Chánh đẳng giác kiến văn thân cận sở chủng thiện căn?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải biết ở chỗ đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, thấy nghe thân cận gieo trồng thiện căn như thế nào ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại nói một tiếng, các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nên làm thế nào biết được: Hoặc thấy được thân Phật, hoặc nghe được tiếng Phật, hoặc gần gũi Phật, hoặc cúng dường Phật, hoặc gieo trồng căn lành nơi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ứng tri ư Như Lai sở kiến văn thân cận sở chủng thiện căn giai tất bất hư, xuất sanh vô tận giác tuệ cố, ly ư nhất thiết chướng nan cố, quyết định chí ư cứu cánh cố, vô hữu hư cuống cố, nhất thiết nguyện mãn cố, bất tận hữu vi hạnh cố, tùy thuận vô vi trí cố, sanh chư Phật trí cố, tận vị lai tế cố, thành nhất thiết chủng thắng hành cố, đáo vô công dụng trí địa cố.

Ðại Bồ Tát phải biết ở chỗ đức Như Lai, thấy nghe gần gũi gieo trồng thiện căn thảy đều chẳng luống, vì xuất sanh vô tận giác huệ, vì rời tất cả chướng nạn, vì quyết định đến nơi cứu cánh, vì không hư dối, vì tất cả nguyện viên mãn, vì chẳng hết hạnh hữu vi, vì tùy thuận trí vô vi, vì sanh Phật trí, vì tột vị lai tế, vì thành thắng hạnh nhứt thiết chủng, vì đến vô công dụng trí địa.

Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nên biết ở chỗ Như Lai, bất luận là thấy được Phật, hoặc nghe được danh hiệu Phật, hoặc gần gũi Phật, hoặc gieo trồng căn lành, phước đức thảy đều không luống qua, chắc chắn sẽ được lợi ích. Gieo trồng căn lành, tuyệt đối chẳng hư vọng, mà còn sinh ra giác ngộ và trí huệ vô tận. Vì sẽ thoát khỏi tất cả chướng nạn bồ đề đạo. Vì quyết định đến được quả Phật rốt ráo. Vì không có sự hư dối chẳng thật. Vì tất cả thệ nguyện thuở xưa đã phát ra, đều được đầy đủ. Vì hạnh hữu vi bất tận. Vì tuỳ thuận trí huệ vô vi. Vì sinh ra trí huệ chư Phật. Vì hết thuở vị lai, thành tựu tất cả giống hạnh thù thắng. Vì đến được bậc trí huệ vô công dụng. Nghĩa là Bồ Tát tu đến bậc Bát địa trở lên, không cần thêm dụng công, tự nhiên sẽ khế hợp với trí huệ chân lý.

 

Phật tử! thí như trượng phu, thực thiểu Kim cương, chung cánh bất tiêu, yếu xuyên kỳ thân, xuất tại ư ngoại. Hà dĩ cố? Kim cương bất dữ nhục thân tạp uế nhi đồng chỉ cố. ư Như Lai sở chủng thiểu thiện căn diệc phục như thị, yếu xuyên nhất thiết hữu vi chư hạnh phiền não thân qua, đáo ư vô vi cứu cánh trí xứ.

Hà dĩ cố? thử thiểu thiện căn bất dữ hữu vi chư hạnh phiền não nhi cộng trụ cố.

Chư Phật tử ! Ví như trượng phu ăn chút ít chất kim cang trọn không tiêu tất phải xuyên lủng thân lọt ra ngoài. Vì chất kim cang chẳng cùng ở chung với nhục thân tạp uế. Nơi đức Như Lai, gieo một ít căn lành cũng như vậy, tất phải xuyên thấu tất cả phiền não hữu vi hạnh đến nơi trí vô vi cứu cánh. Vì chút thiện căn này chẳng cùng ở chung với những hữu vi hạnh phiền não.

Giảng: Các vị Phật tử! Ví như đại trượng phu, tuy ăn chút đá kim cang, nhưng trọn không thể tiêu hoá được. Phải xuyên thủng thân mà lọt ra ngoài. Tại sao vậy? Vì đá kim cang không thể ở chung trong nhục thân tạp loài.

Ở chỗ Như Lai, gieo chút căn lành, cũng lại như thế. Phải xuyên lủng tất cả thân hữu vi các hạnh phiền não, đến nơi trí huệ vô vi rốt ráo.

Tại sao vậy? Vì chút căn lành đó, không thể ở chung với các hạnh hữu vi phiền não.

 

Phật tử! giả sử kiền thảo tích đồng Tu-Di, đầu hỏa ư trung như giới tử hứa, tất giai thiêu tận. Hà dĩ cố? hỏa năng thiêu cố. Ư Như Lai sở chủng thiểu thiện căn diệc phục như thị, tất năng thiêu tận nhất thiết phiền não, cứu cánh đắc ư Vô-Dư Niết-Bàn. Hà dĩ cố? thử thiểu thiện căn tánh cứu cánh cố.

Chư Phật tử ! Giả sử cỏ khô chất đống lớn bằng núi Tu Di, ném vào cỏ một đóm lửa nhỏ tất sẽ cháy hết cả. Vì lửa hay cháy vậy. Nơi đức Như Lai, gieo một ít thiện căn cũng như vậy, tất hay cháy hết tất cả phiền não rốt ráo đến Vô dư Niết bàn. Vì chút thiện căn tánh rốt ráo vậy.

Giảng: Các vị Phật tử! Giả sử cỏ khô, chất đống bằng núi Tu Di, nếu ném vào trong đó một chút lửa nhỏ, thì sẽ bị cháy sạch. Tại sao vậy? Vì lửa hay thiêu cháy tất cả sự vật.

Ở chỗ Như Lai, tuy gieo xuống chút căn lành, cũng lại như thế, sẽ thiêu sạch tất cả phiền não, rốt ráo đắc được Vô dư Niết Bàn. Tại sao vậy? Vì chút căn lành đó, tánh rốt ráo vậy.

 

Phật tử! thí như tuyết sơn hữu dược vương thụ, danh viết: thiện kiến. Nhược hữu kiến giả, nhãn đắc thanh tịnh; nhược hữu văn giả, nhĩ đắc thanh tịnh; nhược hữu khứu giả, tỳ đắc thanh tịnh; nhược hữu thường giả, thiệt đắc thanh tịnh; nhược hữu xúc giả, thân đắc thanh tịnh; nhược hữu chúng sanh thủ bỉ địa độ, diệc năng vi tác trừ bệnh lợi ích.

Chư Phật tử ! Ví như núi Tuyết có cây Dược vương tên là Thiện Kiếp. Nếu ai được thấy thời cặp mắt được thanh tịnh. Nếu ai được nghe thời tai được thanh tịnh. Nếu ai được ngửi thời mũi được thanh tịnh. Nếu ai được nếm thời lưỡi được thanh tịnh. Nếu ai được chạm đến thời thân thanh tịnh. Nếu có ai lấy đất nơi gốc cây ấy, cũng có thể dùng để trị bịnh được.

Giảng: Các vị Phật tử! Ví như trên núi Tuyết, có cây Dược vương, tên là Thiện kiến. Nếu ai thấy được cây Dược vương đó, thì mắt sẽ được thanh tịnh. Nếu ai nghe được tên cây Dược Vương đó, thì tai sẽ được thanh tịnh. Nếu ai ngửi được mùi vị của cây Dược vương đó, thì mũi sẽ được thanh tịnh. Nếu ai nếm được hương vị của cây Dược vương đó, thì lưỡi sẽ được thanh tịnh. Nếu ai xúc chạm được thân cây Dược vương đó, thì thân sẽ được thanh tịnh. Nếu có chúng sinh, lấy được đất ở dưới cây Dược vương đó, thì cũng được lợi ích tiêu trừ được mọi chứng bệnh.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác vô thượng Dược-Vương diệc phục như thị, năng tác nhất thiết nhiêu ích chúng sanh. Nhược hữu đắc kiến Như Lai sắc thân, nhãn đắc thanh tịnh; nhược hữu đắc văn Như Lai danh hiệu, nhĩ đắc thanh tịnh; nhược hữu đắc khứu Như Lai giới hương, tỳ đắc thanh tịnh; nhược hữu đắc thường Như Lai pháp vị, thiệt đắc thanh tịnh, cụ quảng trường thiệt, giải ngữ ngôn Pháp; nhược hữu đắc xúc Như Lai quang giả, thân đắc thanh tịnh, cứu cánh hoạch đắc vô thượng pháp thân; nhược ư Như Lai sanh ức niệm giả, tức đắc niệm Phật tam muội thanh tịnh; nhược hữu chúng sanh cúng dường Như Lai sở Kinh độ địa cập tháp miếu giả, diệc cụ thiện căn, diệt trừ nhất thiết chư phiền não hoạn, đắc hiền thánh lạc.

Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy, có thể làm tất cả sự lợi ích cho chúng sanh. Nếu có ai thấy sắc thân Như Lai thời mắt được thanh tịnh. Nếu ai được nghe danh hiệu Phật thời tai được thanh tịnh. Nếu ai ngửi được giới hương Như Lai thời mũi được thanh tịnh. Nếu ai nếm được pháp vị của Như Lai thời lưỡi được thanh tịnh, đủ tướng rộng dài, hiểu pháp ngữ ngôn. Nếu ai được chạm đến quang minh của Như Lai thời thân được thanh tịnh rốt ráo được pháp thân vô thượng. Nếu ai nhớ niệm đức Như Lai thời được niệm Phật tam muội thanh tịnh. Nếu ai cúng dường chỗ đất của đức Như Lai đi qua, và tháp miếu thờ Phật cũng được đủ thiện căn trừ diệt tất cả họa phiền não, được vui của Hiền Thánh.

Giảng: Các vị Phật tử! Dược vương vô thượng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế, hay dùng đủ thứ phương pháp để làm lợi ích tất cả chúng sinh. Nếu có chúng sinh nào thấy được sắc thân Như Lai, thì mắt được thanh tịnh. Nếu ai nghe được danh hiệu Như Lai, thì tai được thanh tịnh. Nếu ai ngửi được hương giới Như Lai, thì mũi được thanh tịnh. Nếu ai nếm được pháp vị Như Lai, thì lưỡi được thanh tịnh, có đủ tướng lưỡi rộng dài, hiểu biết tất cả lời lẽ của pháp. Nếu ai xúc chạm được quang minh Như Lai, thì thân được thanh tịnh, tương lai chắc chắn sẽ đắc được pháp thân vô thượng của Phật. Nếu ai nghĩ nhớ đến Như Lai, do đó có câu: “Nhớ Phật niệm Phật, tương lai nhất định thấy Phật”, thì đắc được niệm Phật tam muội, ý căn được thanh tịnh.

Nếu có chúng sinh cúng dường Như Lai, đi qua chỗ đất đai, và tháp miếu, cũng đầy đủ căn lành, diệt trừ tất cả các hoạn phiền não, được an vui của hiền Thánh.

 

Phật tử! ngã kim cáo nhữ, thiết hữu chúng sanh kiến văn ư Phật, nghiệp chướng triền phước bất sanh tín lạc diệc chủng thiện căn vô không quá giả, nãi chí cứu cánh nhập ư Niết-Bàn. Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri ư Như Lai sở kiến văn thân cận sở chủng thiện căn, tất ly nhất thiết chư bất thiện pháp, cụ túc thiện Pháp.

Chư Phật tử ! Nay tôi nói với các Ngài : Mặc dầu có chúng sanh vì nghiệp chướng che đậy nên thấy nghe nơi Phật mà chẳng có lòng mến tin, vẫn cũng gieo được căn lành không luống uổng, nhẫn đến rốt ráo nhập Niết bàn. Ðại Bồ Tát phải biết ở nơi đức Như Lai, thấy nghe gần gũi gieo trồng căn lành như vậy, đều lìa tất cả pháp bất thiện, đầy đủ thiện pháp.

Giảng: Các vị Phật tử! Nay tôi (Bồ Tát Phổ Hiền) bảo các vị đại chúng! Nếu có chúng sinh, thấy được thân Phật, nghe được tiếng Phật, dù nghiệp chướng ràng buộc che lấp, tâm cũng chẳng sinh tin ưa, người đó cũng sẽ trồng xuống căn lành, tương lai sẽ chứng được quả Phật, cho đến rốt ráo sẽ vào Niết Bàn.

Có người đến Chùa vào chánh điện, chẳng muốn lễ lạy Phật, đó là chẳng sinh tin ưa. Tuy nhiên chẳng sinh tin ưa, nhưng cũng gieo xuống chút căn lành, đừng bỏ lỡ cơ hội vào chánh điện một lần.

Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nên biết ở trong đạo tràng của Như Lai như vậy, thấy nghe Phật, gần gũi Phật, gieo trồng căn lành, đều lìa khỏi tất cả các pháp bất thiện, mà đầy đủ tất cả pháp lành.

 

Phật tử! Như Lai dĩ nhất thiết thí dụ thuyết chủng chủng sự, vô hữu thí dụ năng thuyết thử pháp. Hà dĩ cố? tâm trí lộ tuyệt, bất tư nghị cố. Chư Phật Bồ-tát đãn tùy chúng sanh tâm, lệnh kỳ hoan hỉ, vi thuyết thí dụ, phi thị cứu cánh.

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai dùng tất cả ví dụ nói nhiều sự, không có ví dụ nào nói được pháp này. Vì bất tư nghì, đường tâm trí tuyệt vậy. Chư Phật, chư Bồ Tát chỉ tùy tâm của chúng sanh khiến họ hoan hỷ mà nói ví dụ, chớ chẳng phải là rốt ráo.

Giảng: Các vị Phật tử! Tuy Như Lai nói rõ đạo lý các thứ sự việc, nhưng không có ví dụ nào nói được pháp nầy. Tại sao? Vì tâm trí tuyệt lộ, do đó có câu: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, đạo lý nầy, không thể dùng tâm suy lường được, cũng không thể nghĩ bàn được. Chư Phật Bồ Tát chỉ tuỳ thuận tâm ý của chúng sinh, khiến cho họ hoan hỉ, mới vì họ nói đủ thứ ví dụ. Phàm là pháp dùng ví dụ để hình dung, đều chẳng phải là pháp rốt ráo.

 

Phật tử! thử pháp môn danh vi: Như Lai bí mật chi xứ, danh: nhất thiết thế gian sở bất năng trai, danh: nhập Như Lai ấn, danh: khai Đại trí môn, danh: thị hiện Như Lai chủng tánh, danh: thành tựu nhất thiết Bồ Tát, danh: nhất thiết thế gian sở bất năng hoại, danh: nhất hướng tùy thuận Như Lai cảnh giới, danh: năng! tịnh nhất thiết chư chúng sanh giới, danh: diễn thuyết Như Lai căn bản thật tánh bất tư nghị cứu cánh Pháp.

Pháp môn này gọi là chỗ bí mật của đức Như Lai, gọi là chỗ mà tất cả thế gian chẳng biết được, gọi là nhập Như Lai ấn, gọi là khai cửa đại trí, gọi là thị hiện chủng tánh Như Lai, gọi là thành tựu tất cả Bồ Tát, gọi là tất cả thế gian không làm hư hoại được, gọi là một bề tùy thuận cảnh giới Như Lai, gọi là hay thanh tịnh tất cả chúng sanh giới, gọi là diễn thuyết Như Lai căn bổn thiệt tánh pháp bất tư nghì rốt ráo.

Giảng: Các vị Phật tử! Pháp môn nầy có mười tên:
1. Nơi bí mật của Như Lai.
2. Tất cả thế gian không thể biết được.
3. Vào ấn Như Lai.
4. Môn khai đại trí.
5. Thị hiện giống tánh Như Lai.
6. Thành tựu tất cả Bồ Tát.
7. Tất cả thế gian không thể hoại được.
8. Một hướng tuỳ thuận cảnh giới Như Lai.
9. Tịnh tất cả các cõi chúng sinh.
10. Diễn nói pháp căn bổn thật tánh Như Lai rốt ráo không nghĩ bàn.

 

Phật tử! thử pháp môn, Như Lai bất vi dư chúng sanh thuyết, duy vi thú hướng Đại-Thừa Bồ-tát thuyết, duy vi thừa bất tư nghị thừa Bồ-tát thuyết; thử pháp môn bất nhập nhất thiết dư chúng sanh thủ, duy trừ chư Bồ-Tát Ma-ha-tát.

Chư Phật tử ! Pháp môn này đức Như Lai chẳng nói với những chúng sanh khác. Chỉ nói với chư Bồ Tát xu hướng Ðại thừa, chỉ nói với chư Bồ Tát ngồi nơi bất tư nghì thừa. Pháp môn này chẳng vào tay của tất cả chúng sanh khác, chỉ trừ chư Ðại Bồ Tát.

Giảng: Các vị Phật tử ! Pháp môn nầy, Như Lai chẳng vì chúng sinh khác nói, chỉ vì Bồ Tát hướng đại thừa mà nói, chỉ vì tất cả Bồ Tát thừa không nghĩ bàn mà nói. Pháp môn nầy chẳng vào trong tay của tất cả chúng sinh khác, chỉ trừ đại Bồ Tát. Cho nên tất cả chúng sinh khác, không thể nghe được pháp đại thừa nầy, chỉ có Bồ Tát mới có tư cách nghe pháp môn nầy.

 

Phật tử! thí như Chuyển luân Thánh Vương sở hữu thất bảo, nhân thử bảo cố hiển thị luân Vương, thử bảo bất nhập dư chúng sanh thủ, duy trừ đệ nhất phu nhân sở sanh Thái-Tử, cụ túc thành tựu Thánh Vương tướng giả. Nhược Chuyển luân Vương vô thử Thái-Tử cụ chúng đức giả, Vương mạng chung hậu, thử chư bảo đẳng ư thất nhật trung tất giai tán diệt.

Chư Phật tử ! Ví như Chuyển Luân Thánh Vương có bảy báu. Nhơn bảy báu này mà hiển bày Luân Vương. Bảy báu này chẳng vào tay chúng sanh khác chỉ trừ Thái tử do Ðệ Nhất phu nhân sanh, đầy đủ trọn vẹn các tướng Thánh Vương. Nếu Chuyển luân Thánh Vương không có Thái tử đầy đủ đức tướng, thời sau khi Thánh Vương thăng hà trong vòng bảy ngày các báu đều tan mất.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như bảy báu mà Chuyển Luân Thánh Vương có là: Luân báu, châu báu, voi báu, ngựa báu, binh báu, thần báu, nữ báu. Do có bảy báu đó, mà hiển bày thế lực của Luân Vương. Ngài ở trên luân báu, thời gian trong một ngày, thì đi khắp bốn thiên hạ. Bảy báu đó chỉ có Chuyển Luân Thánh Vương mới có được, không thể nào vào tay người khác được. Chỉ có thái tử do đệ nhất phu nhân sinh ra, thành tựu đầy đủ tướng Thánh Vương, mới có tư cách thừa kế bảy báu. Nếu không có thái tử thừa kế ngôi vua, sau khi Chuyển Luân Thánh Vương mạng chung, thì bảy báu đó trong bảy ngày, sẽ tự nhiên diệt mất.

 

Phật tử! thử Kinh trân bảo diệc phục như thị, bất nhập nhất thiết dư chúng sanh thủ, duy trừ Như Lai pháp vương chân tử, sanh Như Lai gia, chủng Như Lai tướng chư thiện căn giả.

Cũng vậy, kinh này chẳng vào tay của các chúng sanh khác, chỉ trừ chơn tử của đức Như Lai Pháp Vương sanh nhà Như Lai, gieo căn lành Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử ! Bộ Kinh điển nầy là pháp môn đại thừa, nghĩa là Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật. Bộ kinh điển nầy trân quý giống như châu báu, danh quý cũng giống như bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương. Chỉ có Bồ Tát mới nhìn thấy được kinh nầy, còn các chúng sinh khác và hàng nhị thừa không thể nào nhìn thấy được. Chỉ có đệ tử chân chánh của Như Lai Pháp Vương, sinh vào nhà Như Lai, có đức tướng Như Lai, đầy đủ tất cả căn lành, mới đắc được.

 

Phật tử! nhược vô thử đẳng Phật chi chân tử, như thị pháp môn bất cửu tán diệt. Hà dĩ cố? nhất thiết nhị thừa bất văn thử Kinh, hà huống thọ trì, độc tụng, thư tả, phân biệt giải thuyết! duy chư Bồ-tát nãi năng như thị. Thị cố, Bồ-Tát Ma-ha-tát văn thử pháp môn ưng đại hoan hỉ, dĩ tôn trọng tâm cung kính đảnh thọ. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát tín lạc thử Kinh, tật đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề cố.

Nếu không có những chơn tử này, thời pháp môn đây chẳng bao lâu sẽ tan mất. Vì tất cả hàng nhị thừa chẳng được nghe kinh này huống là thọ trì, đọc tụng, biên chép, phân biệt giải thuyết. Chỉ có chư Bồ Tát mới có thể được như vậy. Do những cớ trên đây, chư Ðại Bồ Tát nghe pháp môn này nên rất vui mừng, dùng tâm tôn trọng cung kính đảnh lễ. Vì Ðại Bồ Tát tin ưa kinh này thời mau được Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Giảng: Các vị Phật tử ! Nếu như không có những đệ tử chân chánh của Phật, thì pháp môn đại thừa nầy, chẳng bao lâu sẽ diệt mất. Tại sao ? Vì tất cả hàng nhị thừa chẳng nghe Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, hà huống là thọ trì, càng không thể đọc tụng hoặc biên chép, cũng không thể phân biệt giải nói. Do đó có câu:
“Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na
Có tai chẳng nghe giáo viên đốn”.

Hàng nhị thừa tuy cũng ở trong pháp hội Hoa Nghiêm, nhưng như mù như điếc. Chỉ có các đại Bồ Tát mới có thể thọ trì, đọc tụng, biên chép, phân biệt giải nói bộ kinh điển đại thừa nầy.

Bởi vậy, cho nên đại Bồ Tát nghe được pháp môn nầy, nên sinh tâm đại hoan hỉ. Dùng tâm tôn trọng, cung kính đảnh lễ thọ trì bộ kinh nầy. Tại sao? Vì đại Bồ Tát tin ưa Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, sớm sẽ chứng được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Phật tử! thiết hữu Bồ Tát ư vô lượng bách thiên ức na-do-tha kiếp hành lục Ba la mật, tu tập chủng chủng Bồ-đề phần Pháp. Nhược vị văn thử như lai bất tư nghị đại uy đức Pháp môn, hoặc thời văn dĩ bất tín, bất giải, bất thuận, bất nhập, bất đắc danh vi chân thật Bồ Tát, dĩ bất năng sanh Như Lai gia cố. Nhược đắc văn thử như lai vô lượng bất khả tư nghị Vô chướng vô ngại trí tuệ Pháp môn, văn dĩ tín giải, tùy thuận ngộ nhập, đương tri thử nhân sanh Như Lai gia, tùy thuận nhất thiết Như Lai cảnh giới, cụ túc nhất thiết chư Bồ-tát Pháp, an trụ nhất thiết chủng trí cảnh giới, viễn ly nhất thiết chư thế gian pháp, xuất sanh nhất thiết Như Lai sở hạnh, thông đạt nhất thiết Bồ Tát pháp tánh, ư Phật tự tại tâm vô nghi hoặc, trụ vô sư Pháp, thâm nhập Như Lai vô ngại cảnh giới.

Chư Phật tử ! Giả sử có Bồ Tát trong vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp thật hành sáu môn ba la mật, tu tập những pháp Bồ Ðề phần, nếu chưa nghe pháp môn đại oai đức bất tư nghì củ Như Lai đây. Hoặc nghe rồi mà chẳng tin, chẳng hiểu, chẳng thuận, chẳng nhập, thời chẳng được gọi là chơn thiệt Bồ Tát. Vì chẳng được sanh nhà Như Lai. Nếu được nghe pháp môn vô chướng ngại trí huệ vô lượng bất tư nghì của Như Lai đây, nghe rồi tin hiểu tùy thuận ngộ nhập. Nên biết người này sanh nhà Như Lai, tùy thuận cảnh giới của tất cả Như Lai, đầy đủ pháp Bồ Tát, an trụ cảnh giới nhứt thiết chủng trí, xa lìa tất cả những pháp thế gian, xuất sanh tất cả công hạnh của Như Lai, thông đạt tất cả pháp tánh của Bồ Tát, nơi đức tự tại của Phật không lòng nghi lầm, trụ nơi pháp vô sư, thâm nhập cảnh giới vô ngại của Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử! Nếu như có vị Bồ Tát, trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, tu pháp lục độ ba la mật, tu tập ba mươi bảy pháp bồ đề phần. Nếu không nghe qua pháp môn đại oai đức không nghĩ bàn nầy của Như Lai. Hoặc đã nghe rồi, mà không sinh tâm tin, không hiểu nghĩa lý của kinh, cũng không tuỳ thuận, cũng không ngộ nhập, thì không phải là một vị Bồ Tát chân thật, cũng không thể sinh vào nhà Như Lai.

Nếu nghe được pháp môn trí huệ không chướng, không ngại, vô lượng không thể nghĩ bàn nầy của Như Lai. Nghe rồi, bèn sinh tâm tin hiểu, sau đó tuỳ thuận ngộ nhập pháp môn nầy, thì nên biết người đó, nhất định sẽ được sinh vào nhà Như Lai. Tuỳ thuận tất cả cảnh giới của Như Lai, đầy đủ tất cả các pháp môn của Bồ Tát, an trụ cảnh giới nhất thiết chủng trí, xa lìa tất cả các pháp thế gian, sinh ra tất cả hạnh của Như Lai tu, thông đạt pháp tánh của tất cả Bồ Tát. Đối với tự tại của Phật, tâm không nghi hoặc. Trụ nơi pháp không thầy mà tự thông, vào sâu cảnh giới vô ngại của Như Lai.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát văn thử pháp dĩ, tức năng dĩ ình đẳng trí tri vô lượng Pháp, tức năng dĩ chánh trực tâm ly chư phân biệt, tức năng dĩ thắng dục lạc hiện kiến chư Phật, tức năng dĩ tác ý lực nhập bình đẳng hư không giới, tức năng dĩ tự tại niệm hành vô biên pháp giới, tức năng dĩ trí tuệ lực cụ nhất thiết công đức, tức năng dĩ tự nhiên trí ly nhất thiết thế gian cấu, tức năng dĩ Bồ-đề tâm nhập nhất thiết thập phương võng, tức năng dĩ Đại quan sát tri tam thế chư Phật đồng nhất thể tánh, tức năng dĩ thiện căn hồi hướng trí phổ nhập như thị pháp, bất nhập nhi nhập; bất ư nhất pháp nhi hữu phàn duyên, hằng dĩ nhất pháp quán nhất thiết pháp.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát nghe pháp này rồi, thời có thể dùng bình đẳng trí biết vô lượng pháp, thời hay dùng tâm chánh trực lìa các phân biệt. Thời có thể dùng thắng dục lạc hiện tiền được thấy chư Phật. Thời có thể dùng sức tác ý nhập hư không giới bình đẳng. Thời có thể dùng niệm tự tại đi vô biên pháp giới. Thời có thể dùng sức trí huệ đủ tất cả công đức. Thời có thể dùng trí tự nhiên lìa tất cả cấu nhiễm thế gian. Thời có thể dùng tâm Bồ Ðề vào tất cả thế giới mười phương. Thời có thể dùng sức quán sát lớn biết tam thế chư Phật đồng một thể tánh. Thời có thể dùng trí thiện căn hồi hướng vào khắp pháp như vầy : chẳng vào mà vào, chẳng phan duyên nơi một pháp, hằng dùng một pháp quán sát tất cả pháp.

Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nghe Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật diệu pháp thâm sâu nầy rồi: Bèn hay dùng trí huệ bình đẳng, biết vô lượng pháp. Bèn hay dùng tâm chánh trực, lìa các phân biệt. Bèn hay dùng ưa thích thù thắng, hiện thấy mười phương tất cả chư Phật. Bèn hay dùng sức của ý, vào cõi hư không bình đẳng. Bèn hay dùng niệm nhậm vận tự tại, du hành vô biên pháp giới. Bèn hay dùng sức trí huệ, đầy đủ tất cả công đức. Bèn hay dùng trí huệ tự nhiên, lìa tất cả dơ bẩn thế gian. Bèn hay dùng bồ đề tâm, vào tất cả lưới mười phương. Bèn hay dùng diệu quán sát trí, biết chư Phật ba đời đồng một thể tánh. Do đó có câu:
“Mười phương Phật ba đời,
Cùng đồng một pháp thân”.

Bèn hay dùng căn lành thuở xưa đã tu, hồi hướng trí huệ, vào khắp tất cả pháp đại thừa. Tuy vào khắp, nhưng không chỗ vào, nhưng chẳng có chỗ nào mà không vào. Chẳng ở nơi một pháp mà có sự phan duyên, nghĩa là đối với hết thảy các pháp, đều không sinh tâm phan duyên, thường dùng một pháp để quán hết thảy tất cả các pháp

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu như thị công đức, thiểu tác công lực, đắc vô sư tự nhiên trí. Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát thành tựu công đức như vậy, dùng chút ít công lực liền được vô sư tự nhiên trí. Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát thành tựu công đức như vậy, Ngài làm rất ít công đức sức lực, mà đắc được lợi ích rất lớn, tức là trí huệ tự nhiên không thầy mà tự thông.

Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa lý kinh văn ở trên, mà dùng kệ để nói lại.

 

Kiến văn cúng dường chư Như Lai                    Thấy nghe cúng dường chư Như Lai
Sở đắc công đức bất khả lượng,                         Thời được công đức vô biên lượng
Ư hữu vi trung chung bất tận                             Ở trong hữu vi trọn không hết
Yếu diệt phiền não ly chúng khổ.                       Tất diệt phiền não lìa những khổ

Giảng: Nếu ai thấy được thân Phật, hoặc nghe được tiếng của Phật, hoặc cúng dường tất cả các Như Lai, thì công đức đắc được, đều không cách gì độ lượng được. Đối với công đức pháp hữu vi, trọn không thể hết được. Phải diệt trừ tất cả phiền não, phải lìa khỏi tất cả các khổ.

 

Thí nhân thôn phục thiểu Kim cương,               Như người nuốt chút ít kim cang
Chung cánh bất tiêu yếu đương xuất                 Tất không tiêu được phải ra ngoài
Cúng dường thập lực chư công đức                  Công đức cúng dường đấng Thập Lực
Diệt hoặc tất chí Kim Cương trí.                        Diệt phiền não đến kim cang trí

Giảng: Ví như có người, nuốt chút đá kim cang vào bụng, cuối cùng không thể nào tiêu hoá được, sẽ phải lọt ra ngoài. Cúng dường đấng Thập Lực tất cả công đức, sẽ diệt trừ được tất cả nghi hoặc, tương lai nhất định sẽ đến được cảnh giới kim cang trí bất hoại.

 

Như kiền thảo tích đẳng Tu-Di                           Như cỏ khô bằng núi Tu Di
Đầu giới tử hỏa tất thiêu tận                               Ném đóm lửa nhỏ đều cháy hết
Cúng dường chư Phật thiểu công đức               Chút ít công đức cúng dường Phật
Tất đoạn phiền não chí Niết-Bàn.                      Tất đoạn phiền não đến Niết bàn

Giảng: Giống như cỏ khô chất đống nhiều như núi Tu Di. Nếu ném vào một chút lửa nhỏ, thì nhất định sẽ cháy sạch hết. Cúng dường tất cả chư Phật, tuy nhiên chỉ có chút ít công đức, nhưng chắc chắn sẽ dứt trừ được tất cả phiền não, tương lai sẽ đắc được Niết Bàn bờ bên kia.

 

Tuyết sơn hữu dược danh thiện kiến                 Núi Tuyết có thuốc tên Thiện Kiến
Kiến văn khứu xúc tiêu chúng tật;                     Thấy nghe ngửi chạm tiêu các bịnh
Nhược hữu kiến văn ư thập lực                          Nếu ai thấy nghe đấng Thập Lực
Đắc thắng công đức đáo Phật trí.                      Ðược thắng công đức đến Phật trí

Giảng: Giống như trên đỉnh núi Tuyết, có cây Dược vương, tên là Thiện kiến. Nếu có chúng sinh nào thấy được hình trạng của cây đó, hoặc nghe được tên của cây đó, hoặc ngửi được mùi của cây đó, hoặc nếm được vị của cây đó, hoặc xúc chạm được cành lá của cây đó, đều tiêu trừ được tất cả bệnh tật. Nếu có chúng sinh thấy được sắc thân của Phật, nghe được danh hiệu của Phật, thì sẽ đắc được công đức thù thắng, sẽ đắc được trí huệ của Phật.

 

Nhĩ thời, Phật thần lực cố, Pháp như thị cố, thập phương các hữu thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha thế giới lục chủng chấn động, sở vị: Đông dũng Tây một, Tây dũng Đông một, Nam dũng Bắc một, Bắc dũng Nam một, biên dũng trung một, trung dũng biên một. Thập bát tướng động, sở vị: động, biến động, đẳng biến động, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích.

Bấy giờ do thần lực của Phật, do pháp như vậy, mười phương đều có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha thế giới sáu cách chấn động : những là Ðông vọt Tây lặn, Tây vọt Ðông lặn, Nam vọt Bắc lặn, Bắc vọt Nam lặn, mé vọt giữa lặn, giữa vọt mé lặn, Mười tám tướng động : những là động, biến động, đẳng biến động, dũng biến dũng, đẳng biến dũng, khởi biến khởi, đẳng biến khởi, chấn biến chấn, đẳng biến chấn, hống biến hống, đẳng biến hống, kích biến kích, đẳng biến kích.

Giảng: Lúc đó, do đại oai thần lực của Phật, do pháp phải như vậy. Mười phương đều có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha thế giới sáu thứ chấn động. Tại mỗi thế giới, đều có sáu thứ chấn động, đó là : Động dũng khởi, chấn hống kích. Đông vọt thì tây lặn, tây vọt thì đông lặn. Nam vọt thì bắc lặn, bắc vọt thì nam lặn. Mé vọt thì giữa lặn, giữa vọt thì mé lặn.

Mười tám tướng động, đó là : Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích.

Lại có mười tám thứ hình tướng chấn động, đó là :
1. Động : Tại một địa phương động.
2. Biến động : Tại một thế giới động, khắp nơi đều động.
3. Đẳng biến động : Hết thảy tất cả thế giới, khắp nơi đều động.
4. Khởi : Tại một địa phương khởi.
5. Biến khởi : Tại một thế giới khắp nơi đều khởi.
6. Đẳng biến khởi : Hết thảy tất cả thế giới, khắp nơi đều khởi.
7. Dũng : Tại một địa phương dũng.
8. Biến dũng : Tại một thế giới, khắp nơi đều dũng.
9. Đẳng biến dũng : Hết thảy tất cả thế giới, khắp nơi đều dũng.
10. Chấn : Tại một địa phương chấn.
11. Biến chấn : Tại một thế giới chấn, khắp nơi đều chấn.
12. Đẳng biến chấn: Hết thảy tất cả thế giới, khắp nơi đều chấn.
13. Hống : Tại một địa phương hống.
14. Biến hống : Tại một thế giới khắp nơi đều hống.
15. Đẳng biến hống: Hết thảy tất cả thế giới, khắp nơi đều hống.
16. Kích: Tại một địa phương kích.
17. Biến kích: Tại một thế giới, khắp nơi đều kích.
18. Đẳng biến kích: Hết thảy tất cả thế giới, khắp nơi đều kích.

Mười tám thứ chấn động nầy, khiến cho chúng sinh biết tất cả thế giới, đều là vô thường, khổ, không, vô ngã, cảnh tỉnh giác ngộ, đừng tham luyến dục lạc tài, sắc, danh, ăn, và ngủ nữa. Trong sáu thứ chấn động nầy, động dũng khởi ba thứ nầy thuộc về hình; chấn hống kích, ba thứ nầy thuộc về tiếng. Trong mỗi một thứ, lại phân ra làm ba thứ, nên có mười tám thứ chấn động.

 

Vũ xuất qua chư Thiên nhất thiết hoa vân, nhất thiết cái vân, tràng vân, phan vân, hương vân, man vân, đồ hương vân, trang nghiêm cụ vân, đại quang minh ma-ni bảo vân, chư Bồ-tát tán thán vân, bất khả thuyết Bồ Tát các sái biệt thân vân, vũ thành chánh giác vân, nghiêm tịnh bất tư nghị thế giới vân, vũ Như Lai ngôn ngữ âm thanh vân, sung mãn vô biên pháp giới.

Mưa mây hoa hơn cõi trời, mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương, mây tràng hoa, mây hương thoa, mây đồ trang nghiêm, mây đại quang minh ma ni bửu, mây chư Bồ Tát ca ngợi, mây thân sai khác của bất khả thuyết Bồ Tát. Mưa mây thành Chánh giác, mây nghiêm tịnh bất tư nghì thế giới, mây âm thanh ngữ ngôn của Phật đầy khắp vô biên thế giới.

Giảng: Sau khi thế giới chấn động rồi, trời mưa xuống tất cả mây hoa đẹp hơn các cõi trời, tất cả mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương, mây tràng hoa, mây hương thoa, mây đồ trang nghiêm, mây đại quang minh ma ni báu, mây các Bồ Tát tán thán, mây bất khả thuyết thân Bồ Tát đều khác biệt. Mưa mây thành Chánh Giác, mây nghiêm tịnh thế giới không nghĩ bàn. Mưa xuống mây âm thanh lời nói của Như Lai, những mây báu đó, đầy khắp vô biên thế giới.

 

Như thử tứ thiên hạ, Như Lai thần lực như thị thị hiện, lệnh chư Bồ-tát giai đại hoan hỉ; chu biến thập phương nhất thiết thế giới, tất diệc như thị. Thị thời, thập phương các qua bát thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số thế giới ngoại, các hữu bát thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số Như Lai, đồng danh: Phổ Hiền, giai hiện kỳ tiền nhi tác thị ngôn:

Như ở bốn châu thiên hạ này thần lực của đức Như Lai thị hiện như vậy, làm cho chư Bồ Tát rất hoan hỷ, cùng khắp mười phương tất cả thế giới đều cũng như vậy. Bấy giờ mười phương đều qua khỏi tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số thế giới, đều có tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số Như Lai đồng hiệu Phổ Hiền đều hiện ra trước Phổ Hiền Bồ Tát mà bảo rằng :

Giảng: Như bốn thiên hạ nầy, thần lực của Như Lai thị hiện như vậy, khiến cho các Bồ Tát đều đại hoan hỉ. Khắp cùng mười phương tất cả thế giới, cũng đều như vậy.

Lúc đó, mười phương đều qua khỏi các thế giới, nhiều như số hạt bụi tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều có các Như Lai nhiều như số hạt bụi tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều đồng danh hiệu là Phổ Hiền Như Lai, đồng thời đều hiện ra ở trước mặt Bồ Tát Phổ Hiền, mà nói với Bồ Tát Phổ Hiền rằng :

 

Thiện tai! Phật tử! nãi năng thừa Phật uy lực, tùy thuận pháp tánh, diễn thuyết Như Lai xuất hiện bất tư nghị Pháp. Phật tử! ngã đẳng thập phương bát thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số đồng danh chư Phật giai thuyết thử pháp; như ngã sở thuyết, thập phương thế giới nhất thiết chư Phật diệc như thị thuyết.

Lành thay Phật tử ! Nhà ngươi có thể thừa oai lực của Phật, tùy thuận pháp tánh mà diễn nói pháp Như Lai xuất hiện bất tư nghì. Này Phật tử ! Mười phương chúng ta tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật sát vi trần số chư Phật đồng hiệu Phổ Hiền đều nói pháp này.

Giảng: Lành thay Phật tử ! Đó là nhờ đại oai thần lực của Phật, tuỳ thuận pháp tánh, diễn nói pháp Như Lai xuất hiện không nghĩ bàn.

Phật tử ! Chúng tôi (Phổ Hiền Như Lai) mười phương chư Phật đồng danh hiệu, nhiều như số hạt bụi tám mươi bất khả thuyết Na do tha cõi Phật, đều nói Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật Phẩm Như Lai Xuất Hiện nầy. Như hiện tại chỗ tôi nói, tất cả chư Phật mười phương thế giới, cũng nói như vậy.

 

Phật tử! kim thử hội trung, thập vạn Phật sát vi trần số Bồ-Tát Ma-ha-tát, đắc nhất thiết Bồ Tát thần thông tam muội; ngã đẳng giai dữ thọ kí, nhất sanh đương đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề. Phật sát vi trần số chúng sanh, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm; ngã đẳng diệc dữ thọ kí, ư đương lai thế Kinh bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, giai đắc thành Phật, đồng hiệu: Phật thù thắng cảnh giới.

Này Phật tử ! Nay trong pháp hội này có mười vạn sát vi trần số đại Bồ Tát được tất cả thần thông tam muội của Bồ Tát, chư Phật chúng ta đều thọ ký họ một đời sẽ dược Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có Phật sát vi trần số chúng sanh phát Bồ đề tâm, chư Phật chúng ta cũng thọ ký họ ở đời vị lai trải qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, đều được thành Phật đồng hiệu là Phật Thù Thắng Cảnh Giới.

Giảng: Phổ Hiền Như Lai đồng danh hiệu lại nói : Phật tử ! Nay trong pháp hội Hoa Nghiêm nầy, có các đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười vạn cõi Phật, đồng thời đắc được tam muội Tất cả Bồ Tát thần thông. Chúng tôi đại chúng đều thọ ký cho họ, một đời nữa sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức cũng là thành tựu quả Phật. Có số chúng sinh nhiều như số hạt bụi cõi Phật, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, chúng tôi cũng thọ ký cho họ, ở đời vị lai, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, đều được thành Phật, đều đồng hiệu là Phật Thù Thắng Cảnh Giới.

 

Ngã đẳng vi lệnh vị lai chư Bồ-tát văn thử pháp cố, giai cộng hộ trì. Như thử tứ thiên hạ sở độ chúng sanh, thập phương bách thiên ức na-do-tha vô số vô lượng, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Pháp giới hư không đẳng nhất thiết thế giới trung sở độ chúng sanh, giai diệc như thị.

Chư Phật chúng ta vì muốn cho chư Bồ Tát vị lai được nghe pháp này, nên đều cùng hộ trì. Như hóa độ chúng sanh nơi bốn châu thiên hạ này, mười phương trăm ngàn ức na do tha vô số vô lượng, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết pháp giới hư không tất cả thế giới, hóa độ chúng sanh cũng đều như vậy.

Giảng: Chúng tôi vì khiến cho các Bồ Tát vị lai được nghe pháp nầy. Phàm là có đạo tràng nói Kinh Hoa Nghiêm Phẩm Như Lai Xuất Hiện, thì chúng tôi đều cùng đến để hộ trì. Giống như chỗ độ chúng sinh bốn thiên hạ nầy, mười phương trăm ngàn ức Na do tha vô số vô lượng, cho đến chỗ độ chúng sinh trong tất cả thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết pháp giới hư không giới, cũng đều giống như pháp hội nầy.

 

Nhĩ thời, thập phương chư Phật uy thần lực cố, Tỳ Lô Giá Na bản nguyện lực cố, Pháp như thị cố, thiện căn lực cố, Như Lai khởi trí bất việt niệm cố, Như Lai ưng duyên bất thất thời cố, tùy thời giác ngộ chư Bồ-tát cố, vãng tích sở tác vô thất hoại cố, lệnh đắc Phổ Hiền quảng đại hạnh cố, hiển Hiện-Nhất-Thiết trí tự tại cố,

Bấy giờ do thần lực của thập phương chư Phật, do nguyện lực của Tỳ Lô Giá Na, do pháp như vậy, do sức thiện căn, do Như Lai khởi trí chẳng vượt ngoài tâm niệm, do Như Lai ứng duyên chẳng lỗi thời, do tùy thời giác ngộ chư Bồ Tát, do thưở trước tu hành không hư mất, do làm cho được hạnh Phổ Hiền quảng đại, do hiển hiện tất cả trí tự tại

Giảng: Lúc đó, do oai thần lực của mười phương chư Phật, do nguyện lực xưa của Tỳ Lô Giá Na, do pháp như vậy, do sức căn lành, do Như Lai khởi trí chẳng vượt một niệm, do Như Lai ứng duyên chẳng lỗi thời, do tuỳ thời giác ngộ các Bồ Tát, do những gì đã làm thuở xưa không thất hoại, do khiến cho đắc được hạnh Phổ Hiền rộng lớn, do hiển hiện nhất thiết trí tự tại.

 

Thập phương các qua thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số thế giới ngoại, các hữu thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số Bồ Tát lai nghệ ư thử, sung mãn thập phương nhất thiết pháp giới,

Mười phương đều trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều đến chỗ nầy, đầy khắp mười phương tất cả pháp giới.

Giảng: Mười phương đều trải qua các thế giới, nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều đến Đạo Tràng Hoa Nghiêm nầy, đầy khắp mười phương tất cả pháp giới.

 

Thị hiện Bồ Tát quảng đại trang nghiêm, phóng đại quang minh võng, chấn động nhất thiết thập phương thế giới, hoại tán nhất thiết chư ma cung điện, tiêu diệt nhất thiết chư ác đạo khổ, hiển hiện nhất thiết Như Lai uy đức, ca vịnh tán thán Như Lai vô lượng sái biệt công đức Pháp, phổ vũ nhất thiết chủng chủng vũ, thị hiện vô lượng sái biệt thân, lĩnh thọ vô lượng chư Phật Pháp, dĩ Phật thần lực các tác thị ngôn:

, thị hiện sự quảng đại trang nghiêm của Bồ Tát, phóng lưới đại quang minh, chấn động tất cả mười phương thế giới, làm hư tan tất cả cung điện của các loài ma, tiêu diệt tất cả những khổ ác đạo, hiển hiện tất cả oai đức của Như Lai, ca ngâm khen ngợi vô lượng pháp công đức sai biệt của Như Lai, khắp mưa tất cả những thứ mưa, thị hiện vô lượng thân sai biệt, lãnh thọ vô lượng Phật pháp, do thần lực của Phật nên đồng nói rằng :

Giảng: Thị hiện Bồ Tát trang nghiêm rộng lớn. Phóng lưới đại quang minh. Chấn động tất cả mười phương thế giới. Phá tan tất cả các cung điện ma. Tiêu diệt tất cả khổ các đường ác. Hiển hiện tất cả oai đức của Như Lai. Ca ngâm khen ngợi pháp vô lượng công đức khác biệt của Như Lai. Khắp mưa xuống tất cả các thứ mưa. Thị hiện vô lượng thân khác nhau. Lãnh thọ vô lượng các Phật pháp.

Nhờ thần lực của Phật, đều nói như vầy:

 

Thiện tai! Phật tử! nãi năng thuyết thử như lai bất khả hoại pháp. Phật tử! ngã đẳng nhất thiết giai danh: Phổ Hiền, các tùng phổ quang minh thế giới phổ tràng tự tại Như Lai sở nhi lai ư thử, bỉ nhất thiết xứ diệc thuyết thị pháp, như thị văn cú, như thị nghĩa lý, như thị tuyên thuyết, như thị quyết định, giai đồng ư thử, bất tăng bất giảm.

Lành thay Phật tử ! Ngài có thể nói pháp bất khả hoại của Như Lai đây. Này Phật tử ! Chư Bồ Tát chúng tôi đều hiệu Phổ Hiền, đều từ thế giới Phổ Quang Minh chỗ của đức Như Lai Phổ Tràng Tự Tại mà đến đây. Tất cả thế giới đó đều nói pháp này. Văn cú như vậy, nghĩa lý như vậy, tuyên thuyết như vậy, quyết định như vậy, đều đồng ở đây chẳng thêm chẳng bớt.

Giảng: Lành thay Phật tử! Ngài có thể pháp không thể hoại của Như Lai nầy (Tức cũng là pháp thiên ma ngoại đạo không thể phá hoại được).

Phật tử! Chúng tôi tất cả đều danh hiệu là Phổ Hiền. Đều từ thế giới Phổ Quang Minh, chỗ Như Lai Phổ Tràng Tự Tại, mà đến pháp hội Hoa Nghiêm thế giới Ta Bà nầy. Tất cả mười phương những nơi đó, cũng đều nói diệu pháp Như Lai Xuất Hiền nầy. Cũng câu văn như vậy, nghĩa lý như vậy, tuyên nói như vậy, quyết định như vậy, đều giống như ở đây, chẳng thêm một câu, cũng chẳng bớt một chữ.

 

Ngã đẳng giai dĩ Phật thần lực cố, đắc Như Lai Pháp cố, lai nghệ thử xứ vi nhữ tác chứng. Như ngã lai thử, thập phương đẳng hư không biến Pháp giới nhất thiết thế giới chư tứ thiên hạ diệc phục như thị.

Chư Bồ Tát chúng tôi đều do thần lực của Phật, do được pháp Như Lai nên đến nơi đây để chứng minh cho Ngài. Như chúng tôi đến đây, mười phương khắp hư không khắp pháp giới tất cả thế giới bốn châu thiên hạ cũng như vậy.

Giảng: Chúng tôi đều nhờ đại oai thần lực của Phật, nhờ đắc được diệu pháp Như Lai, mà đến pháp hội Hoa Nghiêm nầy, để chứng minh cho Ngài (Bồ Tát Phổ Hiền). Giống như chúng tôi đến đây, mười phương hư không khắp pháp giới, tất cả thế giới các bốn thiên hạ, cũng đều giống như ở thế Ta Bà nầy vậy.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát thừa Phật thần lực, quan sát nhất thiết Bồ Tát Đại chúng, dục trọng minh Như Lai xuất hiện quảng đại uy đức, Như Lai chánh pháp bất khả tự hoại, vô lượng thiện căn giai tất bất không, chư Phật xuất thế tất cụ nhất thiết tối thắng chi Pháp, thiện năng quan sát chư chúng sanh tâm, tùy ưng thuyết Pháp vị tằng thất thời, sanh chư Bồ-tát vô lượng pháp quang, nhất thiết chư Phật tự tại trang nghiêm, nhất thiết Như Lai nhất thân vô dị, tùng bổn Đại hạnh chi sở sanh khởi, nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ Phổ Hiền Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát tất cả Bồ Tát đại chúng, muốn tuyên rõ lại oai đức quảng đại xuất hiện của Như Lai, chánh pháp chẳng thể trở hoại của Như Lai, vô lượng thiện căn đều chẳng luống, chư Phật xuất thế ắt đủ tất cả pháp tối thắng, giỏi quán sát được tâm chúng sanh tùy nghi thuyết pháp chưa từng lỗi thời, sanh Bồ Tát vô lượng pháp quang, tất cả chư Phật tự tại trang nghiêm, tất cả Như Lai một thân không khác sanh khởi do từ đại hạnh thuở trước. Nói kệ rằng :

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền nương đại oai thần lực của Phật, quán sát tất cả Bồ Tát đại chúng. Muốn thuật rõ lại oai đức rộng lớn của Như Lai xuất hiện. Chánh pháp không thể trở ngại phá hoại của Như Lai. Vô lượng căn lành thảy đều được thành tựu viên mãn. Chư Phật ra đời, đều đầy đủ tất cả pháp tối thắng. Khéo quán sát tâm các chúng sinh. Tuỳ cơ duyên thành thục, nên vì chúng sinh thuyết pháp, chưa từng lỗi thời. Sinh ra vô lượng pháp quang của các Bồ Tát. Tất cả chư Phật tự tại trang nghiêm. Tất cả Như Lai một thân không khác, do đó có câu:

“Ba đời tất cả chư Phật
Đều cùng một pháp thân”.

Đó là do đại hạnh thuở xưa sinh ra. Bèn nói bài kệ rằng:

 

Nhất thiết Như Lai chư sở tác,                           Tất cả Như Lai những công hạnh
Thế gian thí dụ vô năng cập,                              Thế gian ví dụ không kịp được
Vi lệnh chúng sanh đắc ngộ giải,                        Vì khiến chúng sanh được ngộ giải
Phi dụ vi dụ nhi hiển thị.                                     Chẳng dụ làm dụ mà hiển thị

Giảng: Hết thảy tất cả những gì Như Lai làm, dùng ví dụ của thế gian để hình dung, nói cũng không hết được. Vì khiến cho tất cả chúng sinh được ngộ hiểu, cho nên không thể ví dụ mà ví dụ, để hiển bày đạo lý bên trong.

 

Như thị vi mật thậm thâm Pháp                         Pháp thậm thâm vi mật như vậy
Bách thiên vạn kiếp nan khả văn                       Trăm ngàn muôn kiếp khó được nghe
Tinh tấn trí tuệ điều phục giả                             Người tinh tấn trí huệ điều phục
Nãi đắc văn thử bí áo nghĩa.                               Mới được nghe nghĩa bí áo này

Giảng: Pháp vi mật thâm sâu như vậy, trong trăm ngàn vạn kiếp, rất khó có cơ hội nghe được. Bồ Tát tu hành tinh tấn, có đại trí huệ, sẽ điều phục được tất cả phiền não, mới nghe được nghĩa lý bí mật áo diệu nầy.

 

Nhược văn thử pháp sanh hân khánh               Nếu nghe pháp này sanh hoan hỉ
Bỉ tằng cúng dường vô lượng Phật,                   Kia từng cúng dường vô lượng Phật
Vi Phật gia trì sở nhiếp thọ                                 Ðược Phật gia trì chỗ nhiếp thọ
Nhân thiên tán thán thường cúng dường.         Trời người ca ngợi thường cúng dường

Giảng: Nếu có người nghe được diệu pháp nầy, thì nhất định sẽ sinh tâm vui mừng. Người đó, thuở xưa đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Do nhân duyên đó, mới có nhân duyên nầy. Đó là nhờ được tất cả chư Phật gia trì và nhiếp thọ. Được tất cả người thế gian và chư Thiên khen ngợi, thường cúng dường.

 

Thử vi siêu thế đệ nhất tài                                   Ðây là pháp cứu thế đệ nhứt
Thử năng cứu độ chư quần phẩm                     Ðây hay cứu độ những quần phẩm
Thử năng xuất sanh thanh tịnh đạo                   Ðây hay xuất sanh đạo thanh tịnh
Nhữ đẳng đương trì mạc phóng dật.                 Các Ngài thọ trì chớ phóng dật.

Giảng: Pháp đó vượt qua thế gian đệ nhất tài báu. Pháp đó hay cứu độ tất cả chúng sinh. Pháp đó hay sinh ra đạo thanh tịnh. Các vị đệ tử của Phật! Nên đọc tụng thọ trì bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, đừng có phóng dật, đừng có giải đãi. Dũng mãnh tinh tấn đến nghiên cứu bộ Kinh Hoa Nghiêm, lễ lạy Kinh Hoa Nghiêm, chắc chắn sẽ có cảnh giới không nghĩ bàn. Kinh Hoa Nghiêm là do Đức Phật Thích Ca khi ngồi dưới cội bồ đề, được Đại Phạm Thiên Vương thỉnh pháp, trong vòng hai mươi mốt ngày, nói xong bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy.