Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 11

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 11

— o0o —

QUYỂN BẢY MƯƠI HAI

37. DẠ THẦN KHAI PHU NHẤT THIẾT THỤ HOA
PHÓ THÁC THỨ 37 – Y VIỄN HÀNH ĐỊA 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhập Bồ Tát thậm thâm tự tại Diệu-Âm giải thoát môn, tu hành tăng tiến. Vãng nghệ khai phu nhất thiết thọ hoa dạ Thần sở, kiến kỳ thân tại chúng bảo hương thọ lâu các chi nội diệu bảo sở thành sư tử tọa thượng, bách vạn dạ Thần sở cọng vi nhiễu.

Thiện-Tài đã nhập môn giải-thoát bồ-tát thậm-thâm tự-tại diệu-âm, tu hành tinh tấn, đi đến chỗ Dạ-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa.Thấy Dạ-Thần nầy ở trong lâu các chúng-bửu-hương-thọ, ngồi trên tòa sư-tử bằng những diệu-bửu. Trăm vạn Dạ-Thần vây quanh.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe vị Chủ Dạ Thần Thủ Hộ Nhất Thiết Thành chỉ bày cho Ngài pháp môn hành Bồ Tát đạo đó rồi, lập tức nhập vào môn giải thoát Bồ Tát diệu âm tự tại thâm sâu. Tuỳ theo sự tu hành mà tinh tấn đạo nghiệp, đi đến chỗ vị Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa. Đến chỗ vị Dạ Thần rồi, thấy thân của vị Dạ Thần ở trong lầu các Chúng bảo hương thụ, làm bằng báu đẹp, ngồi trên toà sư tử, có trăm vạn vị Dạ Thần cùng nhau vây quanh.

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, ư tiền hợp chưởng nhi tác thị ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà đắc nhất thiết trí? duy nguyện thùy từ, vi ngã tuyên thuyết!

Thiện-Tài đảnh lễ chân Dạ-Thần chắp tay cung kính thưa rằng :Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề mà chưa biết Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh, thế nào được nhất-thiết-trí ? Xin ngài từ mẫn vì tôi mà tuyên nói.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Dạ Thần, sau đó ở trước vị Dạ Thần chắp tay lại mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào mới đắc được nhất thiết trí? Xin Thiên Thần Ngài thuỳ từ, vì con mà nói đạo lý đó”.

Đây là Viễn Hành Địa thứ bảy, là đến phía sau công dụng trụ vô tướng, vì vượt qua thế gian đạo hai thừa (Thanh Văn, Duyên Giác), tức cũng là viễn ly hai thừa tự độ, cho nên gọi là Viễn Hành Địa. Bồ Tát địa nầy, đã đoạn trần sa hoặc, nhưng chưa đoạn vô minh hoặc.

Quả vị A La Hán, chỉ có xuất gia mới có thể chứng được. Các Ngài tự độ chẳng độ tha, chỉ tu huệ chẳng tu phước, cho nên có lúc ôm bát không, đi khất thực chẳng được thức ăn. Vì các Ngài phần nhiều chẳng có phước báo, nên tướng mạo của các Ngài, đa số là quái lạ.

Quả vị của Bồ Tát, người tại gia cũng có thể chứng đắc. Chỉ cần phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, tức là Bồ Tát. Tiến thêm bước nữa, có thể vô trụ làm nhà, dùng từ bi làm cha, tuỳ thuận làm mẹ, nhẫn nhục làm vợ, trí huệ làm con, phương tiện làm tôi tớ, như có cảnh giới nầy, thì là Bồ Tát. Bồ Tát dùng chuỗi anh lạc trang nghiêm thân mình, biểu thị có phước báo. Tướng mạo từ tường, đoan chánh trang nghiêm, cặp mắt từ bi, hoà mục dễ gần gũi, khiến cho người có cảm giác uy nghiêm khởi kính.

 

Dạ Thần ngôn: Thiện nam tử! ngã ư thử Ta Bà thế giới, nhật quang dĩ một, liên hoa phước hợp, chư nhân chúng đẳng bãi du quán thời, kiến kỳ nhất thiết nhược sơn, nhược thủy, nhược thành, nhược dã, như thị đẳng xứ chủng chủng chúng sanh, hàm tất phát tâm dục hoàn sở trụ; ngã giai mật hộ, lệnh đắc chánh đạo, đạt kỳ xứ sở, tú dạ an lạc.

Dạ-Thần nói : Nầy thiện-nam-tử ! Nơi Ta-Bà thế-giới nầy, lúc mặt nhựt lặn, hoa sen khép cánh, mọi người bãi du ngoạn, ta thấy những chúng-sanh muốn trở về chỗ họ ở hoặc núi, hoặc thành, hoặc đồng quê, ta đều mật hộ cho họ đi đúng đường đến nơi đến chốn, đêm nghỉ an ổn.

Giảng: Vị Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa nói: “Thiện nam tử! Ta ở thế giới Ta Bà nầy, lúc mặt trời lặn, hoa sen khép lại. Tất cả mọi người đều muốn về nhà nghỉ ngơi, không còn du ngoạn nữa. Lúc đó, ta thấy tất cả mọi người, hoặc ở trên núi, hoặc ở trên nước, hoặc ở nơi thành thị, hoặc ở nơi hoang vắng. Những nơi như vậy, đủ thứ chúng sinh, đều phát tâm muốn trở về chỗ ở của họ. Ta đều bí mật hộ trì họ, khiến cho họ đi con đường chánh đại quang minh, đi về đến nơi chỗ họ ở, không bị lạc mất phương hướng, đêm nghỉ được an vui”.

 

Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh, thịnh niên hảo sắc, kiêu mạn phóng dật, ngũ dục Tự Tứ. Ngã vi thị hiện lão, bệnh, tử tướng, lệnh sanh khủng bố, xả ly chư ác.

Nầy thiện-nam-tử ! Nếu có chúng-sanh tuổi trẻ háo sắc kiêu-mạn phóng-dật vui say ngũ dục, thời ta vì họ mà hiện tướng già bịnh chết, họ sợ sệt rời bỏ các điều ác. Lại vì họ mà khen ngợi những thiện-căn khiến họ tu tập.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh lúc tuổi còn trẻ háo sắc, rất kiêu mạn, lại rất phóng dật. Vui say tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm dục. Hoặc tham chấp vào cảnh giới sắc thanh hương vị xúc, chẳng giữ quy cụ, thì ta vì họ thị hiện tướng khổ sinh già bệnh chết bốn tướng, khiến cho họ sinh tâm sợ hãi, xả lìa các niệm ác. Lại vì họ khen ngợi đủ thứ căn lành, khiến cho họ tu tập những pháp lành.

 

Phục vi xưng thán chủng chủng thiện căn, sử kỳ tu tập: vi xan lận giả, tán thán bố thí; vi phá giới giả, xưng dương tịnh giới; hữu sân khuể giả, giáo trụ đại từ; hoài não hại giả, lệnh hành nhẫn nhục. Nhược giải đãi giả, lệnh khởi tinh tấn. Nhược tán loạn giả, lệnh tu Thiền định; trụ ác tuệ giả, lệnh học Bát-nhã

Vì người bỏn-sẻn khen ngợi bố-thí. Vì người phá giới khen ngợi tịnh giới. Với người sân hận dậy họ hạnh đại từ. Khiến người não hại thật hành nhẫn-nhục. Nếu người giải-đãi khiến họ tinh-tấn. Nếu người tán loạn khiến tu thiền định. Người trụ ác-huệ khiến học bát nhã.

Giảng: Ta lại vì những người bỏn xẻn, thì khen ngợi bố thí có công đức gì. Vì người phá giới, thì khen ngợi giữ giới thanh tịnh. Người có tâm sân hận, thì dạy họ trụ tâm đại từ bi. Người não hại (thích sát sinh), thì khiến cho họ tu hạnh nhẫn nhục Ba La Mật. Nếu người giải đãi, thì khiến cho họ tu hạnh tinh tấn Ba La Mật. Nếu người tán loạn (vọng tưởng lăn xăn), thì khiến cho họ tu pháp môn thiền định Ba La Mật. Người trụ ác huệ (tà tri tà kiến), thì khiến cho họ học tập pháp môn Bát Nhã Ba La Mật.

 

Lạc Tiểu thừa giả, lệnh trụ Đại-Thừa.  Lạc trước tam giới chư thú trung giả, lệnh trụ Bồ Tát nguyện Ba-la-mật. Nhược hữu chúng sanh, phước trí vi liệt, vi chư kết nghiệp chi sở bức bách đa lưu ngại giả, lệnh trụ Bồ Tát lực ba-la-mật. Nhược hữu chúng sanh, kỳ tâm ám muội, vô hữu trí tuệ, lệnh trụ Bồ Tát trí Ba-la-mật.

Người thích tiểu-thừa khiến trụ đại-thừa. Người đắm các loài trong tam-giới khiến họ trụ bồ-tát nguyện ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh phước trí kém yếu bị kiết nghiệp ràng buộc lưu ngại nhiều, thời làm cho họ trụ Bồ-tát lực ba-la-mật. Nếu có chúng-sanh tâm họ tối tăm không có trí-huệ, thời làm cho họ trụ bồ-tát trí ba-la-mật.

Giảng: Người thích tiểu thừa (Thanh Văn Duyên Giác), thì khiến cho họ trụ pháp đại thừa. Người thích chấp vào tam giới các cõi (sáu nẻo luân hồi), thì khiến cho họ trụ trong pháp Bồ Tát nguyện Ba La Mật. Nếu có chúng sinh phước trí nhỏ hẹp, vì sự bức bách các nghiệp kết (tham sân si mạn nghi, thân biên giới tà kiến mười sử), vì có sự chướng ngại không thể tu hành, thì khiến cho họ trụ trong pháp Bồ Tát lực Ba La Mật. Nếu có chúng sinh, tâm họ tối tăm, không có trí huệ, thì khiến cho họ trụ trong pháp Bồ Tát trí Ba La Mật. Đây là dùng phương pháp mười độ, để điều trị mười thứ che chướng.

 

Thiện nam tử! ngã dĩ thành tựu Bồ Tát xuất sanh quảng đại hỉ quang minh giải thoát môn.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta đã thành tựu môn giải thoát bồ-tát xuất sanh quảng-đại hỉ-quang-minh.

Giảng: Vị Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa lại gọi một tiếng: “Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát Bồ Tát sinh ra hỉ quang minh rộng lớn”. Ở đây có hai ý nghĩa, một là vọng về trước, tâm đã lợi ích vật đầy đủ bi trí, nên sinh đại hỉ. Hai là vọng về sau, chiếu theo Phật nhiếp chúng sinh khắp vận rộng lớn đại bi trí, nên sinh đại hỉ.

 

Thiện Tài ngôn: đại thánh! thử giải thoát môn cảnh giới vân hà?

Thiện-Tài thưa : Bạch đức Thánh ! Cảnh-giới của môn giải-thoát này thế nào ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử hỏi: “Đức Thánh! Cảnh giới môn giải thoát nầy như thế nào? Có thể nào vì con mà diễn nói đạo lý của môn giải thoát nầy được không”?

 

Dạ Thần ngôn: thiện nam tử! nhập thử giải thoát, năng tri Như Lai phổ nhiếp chúng sanh xảo phương tiện trí. Vân hà phổ nhiếp?

Dạ-Thần nói : Nầy thiện-nam-tử ! Nhập môn giải-thoát nầy có thể biết trí phương tiện thiện xảo của Như-Lai Phổ nhiếp chúng sanh. Phổ nhiếp thế nào ?

Giảng: Vị Dạ Thần nói: “Thiện nam tử! Chứng nhập môn giải thoát nầy, thì sẽ biết được trí huệ phương tiện thiện xảo của Như Lai khắp nhiếp thọ tất cả chúng sinh”.

Vị Dạ Thần bi tâm thiết thiết, sợ rằng chúng sinh vị lai không minh bạch, nên tự hỏi tự đáp. Khắp nhiếp thọ chúng sinh như thế nào?

 

Thiện nam tử! nhất thiết chúng sanh sở thọ chư lạc, giai thị Như Lai uy đức lực cố, thuận Như Lai giáo cố, hạnh Như Lai ngữ cố, học Như Lai hạnh cố, đắc Như Lai sở hộ lực cố, tu Như Lai sở ấn đạo cố, chủng Như Lai sở hạnh thiện cố, y Như Lai sở thuyết pháp cố, Như Lai trí tuệ nhật quang chi sở chiếu cố, Như Lai tánh tịnh nghiệp lực chi sở nhiếp cố.

Nầy thiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh hưởng vui đều là do sức oai-đức của Như-Lai. Vì thuận lời dạy của Như-Lai. Vì thật hành theo lời của Như-Lai. Vì học hạnh của Như-Lai. Vì được sức hộ-trì của Như-Lai. Vì tu tập đạo của Như-Lai ấn khả. Vì gieo điều lành của Như-Lai làm. Vì y theo pháp của Như-Lai nói. Vì trí-huệ nhựt-quang của Như-Lai chiếu đến. Vì được Như-Lai tánh tịnh nghiệp-lực nhiếp thọ.

Giảng: Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh thọ tất cả sư an vui, đều nhờ sức oai đức của Như Lai. Nhờ tuỳ thuận lời dạy của Như Lai, chuyên tâm nhất chí tu hành. Nhờ tu hành theo lời dạy của Như Lai. Nhờ học tập theo hạnh của Như Lai mà tu hành. Nhờ được sức hộ trì của Như Lai. Nhờ tu trì đạo ấn chứng của Như Lai. Nhờ trồng căn lành của Như Lai tu. Nhờ nương theo pháp của Như Lai nói. Nhờ được trí huệ quang mặt trời của Như Lai chiếu đến. Nhờ được tánh tịnh nghiệp lực của Như Lai nhiếp thọ. Đây là cảnh giới nhiếp khắp.

 

Vân hà tri nhiên? Thiện nam tử! ngã nhập thử xuất sanh quảng đại hỉ quang minh giải thoát, ức niệm Tỳ Lô Giá Na Như Lai, ưng, chánh đẳng giác vãng tích sở tu Bồ Tát hạnh hải, tất giai minh kiến.

Tại sao biết như vậy ? Ta nhập môn giải-thoát xuất sanh quảng-đại hỉ quang-minh nầy, nghĩ nhớ đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác, thuở xưa tu bồ-tát hạnh thảy đều thấy rõ.

Giảng: Vị Dạ Thần lại nói: Tại sao biết như vậy? Thiện nam tử! Ta chứng nhập môn giải thoát sinh ra hỉ quang minh rộng lớn nầy. Ta nghĩ nhớ đến biển hạnh Bồ Tát thuở xưa Tỳ Lô Giá Na Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tu hành, ta đều thấy rõ.

 

Thiện nam tử! Thế Tôn vãng tích vi Bồ Tát thời, kiến nhất thiết chúng sanh, trước ngã, ngã sở, trụ vô minh ám thất, nhập chư kiến trù lâm, vi tham ái sở phược, phẫn nộ sở hoại, ngu si sở loạn, xan tật sở triền, sanh tử luân hồi, bần cùng khốn khổ, bất đắc trực ngộ chư Phật Bồ-tát. kiến như thị dĩ, khởi đại bi tâm lợi ích chúng sanh.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát, đức Thế-Tôn thấy tất cả chúng-sanh chấp ngã, ngã-sở, trụ nhà tối vô-minh, vào rừng rậm kiến chấp, bị tham ái trói buộc, bị giận hờn làm hư, bị ngu-si làm loạn, bị bỏn-sẻn ganh ghét ràng rịt, nên sanh tử luân-hồi bần cùng khốn khổ, chẳng gặp được chư Phật Bồ-Tát. Thấy như vậy rồi khởi lòng đại-bi lợi ích chúng-sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Thuở xưa khi đức Thế Tôn làm Bồ Tát, thì thấy tất cả chúng sinh chấp cái ta và của ta. Đây là thân thể của ta, đó là sở hữu của ta. Ở trong nhà tối vô minh. Vào rừng rậm các kiến chấp (62 kiến). Bị tham và ái hai thứ ràng buộc, nên không được giải thoát. Các vị hãy nghĩ xem, tại sao chúng ta chẳng thành Phật? Vì bị tham ái mê hoặc. Bị sân hận phá hoại bồ đề trí huệ. Bị ngu si nhiễu loạn định lực sáng suốt, vì chẳng có trí huệ và định lực, nên làm gì cũng đều điên đảo, sự lý chẳng rõ. Bị tham sẻn đố kị trói buộc, nên ở trong sinh tử luân hồi, gặp bần cùng khốn khổ, cho nên chẳng gặp được tất cả chư Phật Bồ Tát. Ta thấy những cảnh giới như vậy rồi, bèn khởi tâm đại bi, lợi ích tất cả chúng sinh.

 

Sở vị: khởi nguyện đắc nhất thiết diệu bảo tư cụ nhiếp chúng sanh tâm; nguyện nhất thiết chúng sanh, giai tất cụ túc tư sanh chi vật vô sở phạp tâm,

Những là khởi tâm nguyện được tất cả diệu-bửu tư-cụ nhiếp lấy chúng-sanh. Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh đều được đầy đủ vật tư-sanh không thiếu thốn.

Giảng: Như là: Phát khởi tâm nguyện được tất cả báu đẹp, đồ đạc, để bố thí cho chúng sinh, để nhiếp thọ chúng sinh. Lại nguyện cho tất cả chúng sinh đều đầy đủ đồ vật cần dùng, khiến cho đời sống của họ được ấm no, không thiếu thốn.

 

Ư nhất thiết chúng sự ly chấp trước tâm,

Với tất cả sự rời tâm chấp trước.

Giảng: Đối với tất cả mọi việc đều lìa tâm chấp trước.

 

Ư nhất thiết cảnh giới vô tham nhiễm tâm

Nơi tất cả cảnh-giới không tâm tham-nhiễm.

Giảng: Đối với tất cả cảnh giới tâm không tham nhiễm.

 

Ư nhất thiết sở hữu vô xan lận tâm

Nơi tất cả sở-hữu không tâm tiếc nối.

Giảng: Đối với tất cả hết thảy tài vật của mình, tâm không bỏn sẻn.

 

Ư nhất thiết quả báo vô hy vọng tâm

Nơi tất cả quả báo không tâm hi-vọng.

Giảng: Đối với tất cả quả báo phước lạc, tâm không mong cầu.

 

Ư nhất thiết vinh hảo vô tiện mộ tâm

Nơi tất cả vinh hảo không tâm khen chuộng.

Giảng: Đối với tất cả vinh hoa phú quý tâm không hâm mộ.

 

Ư nhất thiết nhân duyên vô mê hoặc tâm;

Nơi tất cả nhơn-duyên không tâm mê hoặc.

Giảng: Đối với tất cả nhân duyên tâm không mê hoặc.

Tóm lại, Bồ Tát phát tâm, lúc nào cũng nghĩ đến chúng sinh, chẳng cầu cho chính mình.

 

Khởi quan sát chân thật Pháp tánh tâm

Khởi tâm quán-sát pháp-tánh chơn-thiệt.

Giảng: Lại phát khởi tâm quán sát pháp tánh chân thật.

 

Khởi cứu hộ nhất thiết chúng sanh tâm

Khởi tâm cứu hộ tất cả chúng-sanh.

Giảng: Lại phát khởi tâm cứu hộ tất cả chúng sinh, vì thấy chúng sinh ở trong biển khổ, chẳng thoát ra được ba cõi. Do đó có câu: “Biển khổ không bờ, hồi đầu là bến”, chúng sinh chẳng biết hồi đầu, suốt ngày sống trong say sưa, chết trong mộng mị, lấy khổ làm vui, cho nên Bồ Tát phát tâm cứu hộ họ.

 

Khởi thâm nhập nhất thiết pháp tuyền phúc tâm

Khởi tâm thâm nhập tất cả pháp.

Giảng: Lại phát khởi tâm thâm nhập vào tất cả dòng pháp trôi chảy, thấu rõ tất cả Phật pháp. Do đó có câu: “Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển”.

 

Khởi ư nhất thiết chúng sanh trụ bình đẳng Đại từ tâm

Khởi tâm trụ bình đẳng đại-từ đối với tất cả chúng-sanh.

Giảng: Lại phát khởi tâm trụ bình đẳng đại từ đối với tất cả chúng sinh. .

 

Khởi ư nhất thiết chúng sanh hành phương tiện đại bi tâm

Khởi tâm thật hành phương-tiện đại-bi đối với tất cả chúng-sanh.

Giảng: Lại phát khởi tâm phương tiện đại bi đối với tất cả chúng sinh

 

Khởi vi đại pháp cái phổ phước chúng sanh tâm

Khởi tâm làm lọng đại pháp che khắp chúng-sanh.

Giảng: Lại phát khởi tâm làm lọng pháp lớn, che khắp tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được lợi ích của pháp, tâm họ được mát mẻ, chẳng có sự nóng bức.

 

Khởi dĩ đại trí Kim Cương xử phá nhất thiết chúng sanh phiền não chướng sơn tâm

Khởi tâm chạy kim-cang đại-trí phá tất cả núi chướng phiền-não của tất cả chúng-sanh.

Giảng: Lại phát khởi tâm dùng gậy đại trí huệ kim cang, phá tan núi phiền não chướng của tất cả chúng sinh.

 

Khởi lệnh nhất thiết chúng sanh tăng trưởng thiện lạc tâm

Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh tăng-trưởng hỉ lạc.

Giảng: Lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng hỉ lạc.

 

Khởi nguyện nhất thiết chúng sanh cứu cánh an lạc tâm

Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo an-lạc.

Giảng: Lại phát khởi tâm nguyện cho tất cả chúng sinh được rốt ráo an lạc.

 

Khởi tùy chúng sanh sở dục vũ nhất thiết tài bảo tâm

Khởi tâm tùy chỗ muốn của tất cả chúng-sanh mà mưa tất cả của báu.

Giảng: Lại phát khởi tâm tuỳ sự ưa thích của chúng sinh, mưa xuống tất cả tiền tài châu báu, khiến cho họ toại tâm mãn nguyện.

 

Khởi dĩ bình đẳng phương tiện thành thục nhất thiết chúng sanh tâm

Khởi tâm dùng phương-tiện bình-đẳng thành thục tất cả chúng-sanh.

Giảng: Lại phát khởi tâm dùng phương tiện bình đẳng thành thục tất cả chúng sinh.

 

Khởi lệnh nhất thiết chúng sanh mãn túc Thánh tài tâm

Khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh đầy đủ thành tài.

Giảng: Lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh đầy đủ Thánh tài, nếu tu hành thì có đồ tư sanh.

 

Khởi nguyện nhất thiết chúng sanh cứu cánh giai đắc thập lực trí quả tâm

Khởi tâm nguyện tất cả chúng-sanh rốt ráo đều được thập-lực trí quả.

Giảng: Lại phát khởi tâm nguyện cho tất cả chúng sinh rốt ráo đều đắc được quả mười lực trí, tức cũng là thành Phật.

 

Khởi như thị tâm dĩ, đắc Bồ Tát lực, hiện Đại thần biến; biến Pháp giới, hư không giới, ư nhất thiết chúng sanh tiền, phổ vũ nhất thiết tư sanh chi vật, tùy kỳ sở dục tất mãn kỳ ý giai lệnh hoan hỉ, bất hối bất lận, Vô gián vô đoạn.

Khởi tâm như vậy rồi ta được bồ-tát-lực, hiện đại-thần-biến khắp pháp-giới hư-không-giới. Ở trước chúng-sanh mưa tất cả vật tư-sanh, tùy sở-thích của chúng-sanh đều được toại ý, đều làm cho họ hoan-hỉ, chẳng hối chẳng tiếc chẳng xen chẳng dứt.

Giảng: Khởi tâm như vậy rồi, đắc được Bồ Tát lực, hiện đại thần thông biến hoá. Khắp pháp giới hư không giới, ở trước tất cả chúng sinh, khắp mưa xuống tất cả đồ vật dùng hằng ngày. Tuỳ theo ý muốn, đều mãn nguyện của họ. Đều khiến cho họ hoan hỉ, chẳng hối tiếc, chẳng tham xẻn, vĩnh viễn chẳng khi nào gián đoạn.

 

Dĩ thị phương tiện, phổ nhiếp chúng sanh, giáo hóa thành thục, giai lệnh đắc xuất sanh tử khổ nan, bất cầu kỳ báo; tịnh trì nhất thiết chúng sanh tâm bảo, lệnh kỳ sanh khởi nhất thiết chư Phật đồng nhất thiện căn, tăng nhất thiết trí phước đức đại hải.

Dùng phương-tiện nầy nhiếp khắp chúng-sanh giáo-hóa thành-thục, đều làm cho họ ra khỏi khổ nạn sanh-tử chẳng cầu báo đáp. Rửa sạch tâm bửu của tất cả chúng-sanh, làm cho họ sanh khởi đồng một thiện-căn với tất cả chư Phật. Thêm biển lớn phước đức nhất-thiết-trí.

Giảng: Dùng pháp phương tiện đó, nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, giáo hoá thành thục tất cả, đều khiến cho thoát khỏi khổ nạn sinh tử. Tuy đối đãi tốt với tất cả chúng sinh như vậy, mà chẳng cầu họ báo đáp. Tịnh trị tâm báu của tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, sinh khởi đồng một căn lành với tất cả chư Phật, tăng trưởng nhất thiết trí, phước đức sâu rộng như biển cả.

 

Bồ Tát như thị niệm niệm thành thục nhất thiết chúng sanh, niệm niệm nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát, niệm niệm phổ nhập nhất thiết pháp giới, niệm niệm tất giai biến hư không giới, niệm niệm phổ nhập nhất thiết tam thế, niệm niệm thành tựu điều phục nhất thiết chư chúng sanh trí, niệm niệm hằng chuyển nhất thiết pháp luân, niệm niệm hằng dĩ nhất thiết trí đạo lợi ích chúng sanh, niệm niệm phổ ư nhất thiết thế giới chủng chủng sái biệt chư chúng sanh tiền tận vị lai kiếp Hiện-Nhất-Thiết Phật thành đẳng chánh giác, niệm niệm phổ ư nhất thiết thế giới, nhất thiết chư kiếp tu Bồ Tát hạnh bất sanh nhị tưởng.

Bồ-tát niệm niệm thành-thục tất cả chúng-sanh như vậy. Niệm niệm nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Niệm niệm vào khắp tất cả pháp-giới. Niệm niệm thảy đều khắp hư-không-giới. Niệm niệm vào khắp tất cả tam thế. Niệm niệm thành-tựu trí điều phục tất cả chúng-sanh. Niệm niệm hằng chuyển tất cả pháp luân. Niệm niệm hằng dùng đạo nhất thiết trí lợi ích chúng-sanh. Niệm niệm khắp tất cả thế giới ở trước các chúng-sanh, tận vị-lai kiếp hiện tất cả Phật thành Đẳng-Chánh-Giác. Niệm niệm khắp tất cả thế-giới, tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh chẳng sanh hai tưởng.

Giảng: Bồ Tát ở trong niệm niệm, thành thục tất cả chúng sinh như vậy. Ở trong niệm niệm nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Ở trong niệm niệm vào khắp tất cả pháp giới, giáo hoá tất cả chúng sinh. Ở trong niệm niệm đều khắp cùng cõi hư không, điều phục tất cả chúng sinh. Ở trong niệm niệm vào khắp tất cả ba đời. Ở trong niệm niệm thành tựu điều phục tất cả các chúng sinh trí. Ở trong niệm niệm luôn luôn chuyển tất cả bánh xe diệu pháp. Ở trong niệm niệm luôn luôn dùng nhất thiết trí đạo lợi ích tất cả chúng sinh. Ở trong niệm niệm ở trước khắp đủ thứ các chúng sinh khác nhau trong tất cả thế giới, hết kiếp thuở vị lai, thị hiện tất cả cảnh giới chư Phật thành Chánh Đẳng Giác. Ở trong niệm niệm khắp ở trong tất cả thế giới, tất cả các kiếp, tu Bồ Tát hạnh, chẳng sinh hai tưởng. Tuy hành Bồ Tát đạo, mà chẳng chấp trước vào hành Bồ Tát đạo. Do đó có câu: “Suốt ngày lợi ích chúng sinh, mà chẳng có chúng sinh được lợi ích”. Tại sao vậy? Vì phá tất cả sự chấp trước, tức cũng là hành sở vô sự. Tư tưởng của Bồ Tát là chúng sinh và mình đồng một thể, chẳng có phân biệt đó đây. Đây là đạo lý gì? Vì Bồ Tát không còn tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh và tướng thọ mạng. Nếu chẳng còn bốn tướng, thì còn có chúng sinh gì để lợi ích! Bồ Tát tu hành Bồ Tát hạnh, đó là tận hết hạnh đại nguyện của mình, chẳng có hai tưởng đối với chúng sinh

 

Sở vị: phổ nhập nhất thiết quảng đại thế giới hải nhất thiết thế giới chủng trung, chủng chủng tế bạn chư thế giới, chủng chủng trang nghiêm chư thế giới, chủng chủng thể tánh chư thế giới, chủng chủng hình trạng chư thế giới, chủng chủng phân bố chư thế giới,

Những là vào khắp tất cả thế-giới hải-quảng-đại, trong tất cả thế-giới-chủng, những ranh giới các thế-giới-những trang-nghiêm các thế-giới, những thể-tánh các thế-giới, những hình trạng các thế-giới, những phân bố các thế-giới.

Giảng: Đó là: Vào khắp tất cả biển thế giới rộng lớn (dùng một cõi Phật đập nát làm hạt bụi, một hạt bụi làm lại làm một cõi, tích tập các cõi nhiều như số hạt bụi đó, hợp lại làm một biển thế giới) trong tất cả thế giới chủng. Có đủ thứ ranh giới của các thế giới. Đủ thứ trang nghiêm của các thế giới. Đủ thứ thể tánh của các thế giới. Đủ thứ hình trạng của các thế giới. Đủ thứ phân bố của các thế giới.

 

Hoặc hữu thế giới uế nhi kiêm tịnh, hoặc hữu thế giới tịnh nhi kiêm uế, hoặc hữu thế giới nhất hướng tạp uế, hoặc hữu thế giới nhất hướng thanh tịnh, hoặc tiểu hoặc Đại, hoặc thô hoặc tế, hoặc chánh hoặc trắc, hoặc phước hoặc ngưỡng

Hoặc có thế- giới uế mà kiêm tịnh. Hoặc có thế-giới tịnh mà kiêm uế. Hoặc có thế-giới một bề tạp uế. Hoặc có thế-giới một bề thanh-tịnh. Hoặc nhỏ hoặc lớn, hoặc thô hoặc tế. Hoặc ngay hoặc nghiêng, hoặc úp hoặc ngửa.

Giảng: Hoặc có thế giới dơ mà có cả tịnh. Hoặc có thế giới thanh tịnh mà có cả dơ. Hoặc có thế giới một bề tạp dơ. Hoặc có thế giới một bề thanh tịnh. Có đủ thứ thế giới khác nhau: Hoặc nhỏ, hoặc lớn. Hoặc thô, hoặc tế. Hoặc thẳng, hoặc nghiêng. Hoặc úp, hoặc ngửa. Tại sao lại có những thế giới đó? Vì nghiệp cảm của chúng sinh mà thành tựu. Chúng sinh tạo nghiệp gì, thì cảm hiện ra thế giới đó, đây là do nghiệp hiện ra.

 

Như thị nhất thiết chư thế giới trung, niệm niệm tu hành chư Bồ-tát hạnh, nhập Bồ Tát vị, hiện Bồ Tát lực, diệc hiện tam thế nhất thiết Phật thân, tùy chúng sanh tâm phổ sử tri kiến.

Trong tất cả thế-giới như vậy niệm niệm tu hành những hạnh bồ-tát, nhập bồ-tát-vị, hiện bồ-tát-lực. Cũng hiện tất cả thân Phật tam-thế. Tùy tâm chúng-sanh khiến biết thấy khắp cả.

Giảng: Ở trong tất cả các thế giới như vậy, niệm niệm tu hành các Bồ Tát hạnh, vào quả vị trụ của Bồ Tát, thị hiện Bồ Tát lực. Cũng thị hiện tất cả thân chư Phật ba đời, tuỳ tâm niệm của chúng sinh, khắp khiến cho họ thấy biết được những cảnh giới đó.

 

Thiện nam tử! Tỳ Lô Giá Na Như Lai, ư quá khứ thế, như thị tu hành Bồ Tát hạnh thời, kiến chư chúng sanh bất tu công đức, vô hữu trí tuệ, trước ngã, ngã sở, vô minh ế chướng, bất chánh tư duy, nhập chư tà kiến, bất thức nhân quả, thuận phiền não nghiệp, đọa ư sanh tử hiểm nan thâm khanh, cụ thọ chủng chủng vô lượng chư khổ.

Nầy thiện-nam-tử ! Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, lúc tu hành hạnh bồ-tát như vậy, thấy các chúng-sanh chẳng tu công-đức, không có trí-huệ, chắp ngã ngã-sở vô-minh che chướng, chẳng chánh tư-duy, vào các tà kiến, chẳng biết nhân quả, thuận phiền-não nghiệp, sa vào hầm sâu hiểm nạn sanh tử. Thọ đủ vô-lượng những sự khổ,

Giảng: Thiện nam tử! Khi đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở trong đời quá khứ, tu hành Bồ Tát hạnh như vậy, thì thấy các chúng sinh, chẳng tu công đức. Tại sao chẳng tu công đức? Vì chẳng có trí huệ. Nếu muốn có trí huệ, thì nhất định phải tu công đức. Người ngu si thì chấp vào cái ta do bốn đại hoà hợp (đất nước gió lửa). Lại chấp vào tất cả tài sản của ta, đều là sở hữu của ta. Đó là bị màng vô minh chướng ngại che lấp, giống như con mắt bị màng che đậy, nhìn vật gì cũng không thấy được rõ ràng. Chẳng có chánh tư duy, nghĩ tưởng lung tung, bèn nhập vào các tà tri tà kiến. Chẳng rõ nhân quả, thậm chí bát vô nhân quả. Chẳng minh bạch đạo lý:
“Muốn biết nhân đời trước
Hãy xem mình đang có gì
Muốn biết quả đời sau
Hãy xem mình đang làm gì”.

Tuỳ ý tạo nghiệp, đó là thuận theo phiền não nghiệp, sẽ đoạ lạc vào hố sâu sinh tử hiểm nạn, thọ đủ thứ vô lượng các khổ.

 

Khởi đại bi tâm, cụ tu nhất thiết Ba-la-mật hạnh, vi chư chúng sanh xưng dương tán thán kiên cố thiện căn, lệnh kỳ an trụ viễn ly sanh tử, bần cùng chi khổ, cần tu phước trí trợ đạo chi Pháp; vi thuyết chủng chủng chư nhân quả môn, vi thuyết nghiệp báo bất tướng vi phản, vi thuyết ư Pháp chứng nhập chi xứ, vi thuyết nhất thiết chúng sanh dục giải, cập thuyết nhất thiết thọ sanh quốc độ, lệnh kỳ bất đoạn nhất thiết Phật chủng, lệnh kỳ thủ hộ nhất thiết Phật giáo, lệnh kỳ xả ly nhất thiết chư ác; hựu vi xưng tán thú nhất thiết trí trợ đạo chi Pháp, lệnh chư chúng sanh tâm sanh hoan hỉ, lệnh hành pháp thí phổ nhiếp nhất thiết, lệnh kỳ phát khởi nhất thiết trí hạnh, lệnh kỳ tu học chư đại Bồ-tát Ba-la-mật đạo, lệnh kỳ tăng trưởng thành nhất thiết trí chư thiện căn hải, lệnh kỳ mãn túc nhất thiết Thánh tài, lệnh kỳ đắc nhập Phật tự tại môn, lệnh kỳ nhiếp thủ vô lượng phương tiện, lệnh kỳ quán kiến Như Lai uy đức, lệnh kỳ an trụ Bồ Tát trí tuệ.

Khởi tâm đại-bi, tu đủ tất cả ba-la-mật hạnh. Vì các chúng-sanh mà tán dương thiện-căn kiên-cố, cho họ an-trụ xa rời khổ nghèo cùng sanh tử, siêng tu pháp trợ-đạo phước trí. Vì họ mà nói những môn nhân quả. Vì họ mà nói nghiệp báo chẳng trái nhau. Vì họ mà nói chỗ chứng nhập của pháp. Vì họ mà nói tất cả chúng-sanh hiểu biết và muốn thích, và nói tất cả quốc độ thọ sanh, khiến họ chẳng dứt tất cả phật-chủng, khiến họ thủ hộ tất cả phật-giáo, khiến họ rời bỏ tất cả các ác. Lại vì họ mà tán dương pháp trợ-đạo xu hướng nhất-thiết-trí, khiến các chúng-sanh hoan hỉ, khiến hành pháp-thí nhiếp khắp tất cả, khiến họ phát khởi hạnh nhất-thiết-trí, khiến họ tu học đạo ba-la-mật của chư đại Bồ-Tát, khiến họ tăng trưởng những thiện-căn-hải thành nhất-thiết-trí, khiến họ đầy đủ tất cả thánh-tài, khiến họ được nhập môn tự-tại của Phật. Khiến họ nhiếp-thủ vô-lượng phương-tiện, khiến họ quán thấy oai-đức của Như-Lai, khiến họ an-trụ bồ-tát trí-huệ.

Giảng: Vì những nhân duyên đó, cho nên sinh khởi tâm đại bi, tu đầy đủ tất cả hạnh Ba La Mật. Vì các chúng sinh tán thán khen ngợi căn lành kiên cố, khiến cho họ an trụ xa lìa khổ sinh tử và bần cùng. Siêng tu pháp phước trí trợ đạo. Vì chúng sinh diễn nói đủ thứ các môn nhân quả. do đó có câu: “Nhân nào quả đó”, tức cũng là đạo lý: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”. Vì chúng sinh diễn nói nghiệp báo chẳng trái ngược nhau. Ví như:
“Giết cha người ta,
Người ta cũng giết cha mình
Giết anh người ta,
Người ta cũng giết anh mình”.

Đây là quả báo tuần hoàn, chẳng sai mảy may nào. Vì chúng sinh diễn nói chỗ chứng nhập Thánh nhân tu hành của pháp. Vì chúng sinh diễn nói pháp ưa muốn hiểu biết của tất cả chúng sinh, và vì chúng sinh diễn nói tất cả cõi nước thọ sinh, tương lai đến cõi nước nào thọ sinh. Đương nhiên làm việc lành, thì có thể sinh về thế giới Cực Lạc; làm việc ác thì sẽ đoạ vào địa ngục vô gián thọ khổ, đây là việc đương nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa. Do đó có câu:
“Thiện có báo thiện,
Ác có ác báo.
Chẳng phải chẳng báo,
Thời khắc chưa đến”.

Bất cứ thiện ác, đều có báo ứng, bất quá thời gian sớm muộn mà thôi. Có người đời nầy chẳng có việc ác nào mà chẳng làm, nhưng họ lại hưởng phước; và có những người đời nầy làm nhiều việc thiện, mà chẳng được như ý. Đây là luật nhân quả an bài. Vị Dạ Thần lại lại khiến cho chúng sinh chẳng dứt tất cả giống Phật, thiệu long Tam Bảo, tục Phật huệ mạng. Khiến cho chúng sinh giữ gìn giáo pháp của tất cả chư Phật, ủng hộ đạo tràng, duy trì đạo tràng, trang nghiêm đạo tràng, thanh tịnh đạo tràng, đó đều là một bộ phận giữ gìn Phật giáo. Khiến cho chúng sinh xả bỏ tất cả các ác, nói tóm lại, tức là mười điều ác: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, hai lưỡi, thêu dệt, chửi mắng, tham lam, sân hận, si mê. Lại vì chúng sinh tán thán khen ngợi pháp hướng về nhất thiết trí trợ đạo, khiến cho chúng sinh hướng về pháp nầy mà tu hành.

Khiến cho hết thảy chúng sinh, sinh tâm hoan hỉ. Khiến cho hết thảy chúng sinh thực hành pháp môn pháp thí, có thể nhiếp khắp tất cả. Khiến cho hết thảy chúng sinh, phát khởi hạnh nhất thiết trí. Khiến cho hết thảy chúng sinh, tu học đạo Ba La Mật của tất cả các đại Bồ Tát tu. Khiến cho hết thảy chúng sinh, tăng trưởng thành tựu nhất thiết trí và tất cả căn lành như biển cả. Khiến cho hết thảy chúng sinh, đầy đủ tất cả Thánh tài (đạo pháp). Khiến cho hết thảy chúng sinh, vào được môn tự tại của Phật. Khiến cho hết thảy chúng sinh, nhiếp lấy vô lượng pháp môn phương tiện. Khiến cho hết thảy chúng sinh, quán thấy sức oai đức của Như Lai. Khiến cho hết thảy chúng sinh, an trụ hết thảy trí huệ đức tướng của Bồ Tát.

 

Thiện tài đồng tử ngôn: Thánh Giả phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, kỳ dĩ cửu như?

Thiện-Tài thưa : Đức Thánh phát tâm vô-thượng bồ-đề đã bao lâu ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử hỏi vị Chủ Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa rằng: “Đức Thánh! Ngài phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đã được bao lâu rồi”?

 

Dạ Thần ngôn: Thiện nam tử! thử xứ nan tín, nan tri, nan giải, nan nhập, nan thuyết, nhất thiết thế gian cập dĩ nhị thừa giai bất năng trai.

Dạ-Thần nói : Nầy thiện-nam-tử ! Việc nầy khó tin, khó hiểu, khó vào, khó nói, tất cả thế-gian và hàng Nhị-Thừa đều chẳng biết được,

Giảng: Vị Dạ Thần đáp: “Thiện nam tử! Ngươi hỏi vấn đề nầy, khiến cho người khó tin, khó biết, khó hiểu, khó vào, khó nói. Tại sao vậy? Vì pháp nầy chẳng dễ gì nghe được, lập tức khiến nghe thấy, cũng chẳng dễ gì tin được (đây là chẳng thấy nghe), cũng chẳng dễ gì biết pháp nầy (đây là chẳng có văn huệ), cũng chẳng dễ gì hiểu được cảnh giới pháp nầy (đây là chẳng có tư huệ), thời gian lâu dài không thể nghĩ bàn, cho nên chẳng dễ gì chứng được (đây là chẳng có tu huệ). Cảnh giới nầy, là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt, cho nên khó nói. Tất cả người thế gian, và hàng nhị thừa, đều không thể biết được cảnh giới nầy”.

 

Duy trừ chư Phật thần lực sở hộ, thiện hữu sở nhiếp, tập thắng công đức, dục lạc thanh tịnh, vô hạ liệt tâm, vô tạp nhiễm tâm, vô siểm khúc tâm, đắc phổ chiếu diệu trí quang minh tâm, phát phổ nhiêu ích chư chúng sanh tâm, nhất thiết phiền não cập dĩ chúng ma vô năng hoại tâm, khởi tất thành tựu nhất thiết trí tâm, bất lạc nhất thiết sanh tử lạc tâm, năng cầu nhất thiết chư Phật diệu lạc, năng diệt nhất thiết chúng sanh khổ não, năng tu nhất thiết Phật công đức hải, năng quán nhất thiết chư pháp thật tánh, năng cụ nhất thiết thanh tịnh tín giải, năng siêu nhất thiết sanh tử bạo lưu, năng nhập nhất thiết Như Lai trí hải, năng quyết định đáo vô thượng pháp thành, năng dũng mãnh nhập Như Lai cảnh giới, năng tốc tật thú chư Phật địa vị, năng tức thành tựu nhất thiết trí lực, năng ư thập lực dĩ đắc cứu cánh; như thị chi nhân, ư thử năng trì, năng nhập, năng liễu.

Chỉ trừ thần-lực của Phật gia-hộ, thiện-hữu nhiếp-thọ, chứa thắng công-đức, chí nguyện thanh-tịnh, không tâm hạ-liệt, không tâm tạp nhiễm, không tâm siểm khúc, được tâm trí quang-minh khắp soi sáng, phát tâm nhiêu ích khắp các chúng-sanh, tâm mà tất cả phiền-não nhẫn đến chúng ma không phá hoại được, khởi tâm quyết thành-tựu nhất-thiết-trí, tâm chẳng thích tất cả sự vui sanh tử, có thể cầu tất cả diệu-lạc của chư Phật, có thể diệt tất cả khổ-não của chúng-sanh, có thể tu công-đức của tất cả Phật, có thể quán thật tánh của tất cả pháp, có thể đủ tất cả tín-giải thanh-tịnh, có thể siêu tất cả nước độc sanh-tử, có thể nhập tất cả trí-hải của Như-Lai, có thể quyết định đến pháp-thành vô-thượng, có thể dũng-mãnh nhập cảnh-giới Như-Lai, có thể mau chóng đến địa vị chư Phật, có thể liền thành-tựu sức nhất-thiết-trí, có thể ở nơi thập-lực đã được rốt ráo. Người như vậy ở nơi đây có thể trì, có thể nhập, có thể rõ.

Giảng: Cảnh giới nầy, chỉ trừ được thần lực của tất cả chư Phật hộ trì, hoặc được tất cả Bồ Tát hộ niệm. Tích tập công đức thù thắng, ưa muốn thanh tịnh, không có tâm nhiễm ô. Không có tâm hạ liệt thấp kém bỉ ổi. Không có tâm thiện ác xen tạp. Không có tâm xiểm nịnh quanh co. Xiểm nịnh là gì? Chuyên nói lời mật ngọt, hư vọng không thật. Tóm lại, thấy người có tiền, có thế, thì cuối đầu như kẻ nô tài. Quanh co là gì? Tức là chẳng nói lời ngay thẳng, cứ nói lời quanh co lòng vòng, chẳng thành khẩn, chẳng trung thực, dụng tâm cơ nói những lời khẩu thị tâm phi. Nếu tâm chẳng có những bất chánh như thế, thì sẽ đắc được tâm trí huệ quang minh chiếu sáng khắp. Phát khởi tâm lợi ích khắp tất cả chúng sinh. Tâm tất cả phiền não và chúng ma không thể phá hoại được. Tâm sinh khởi tất thành tựu nhất thiết trí. Tâm không thích tất cả vui sinh tử. Có thể cầu vui vi diệu của tất cả chư Phật. Có thể diệt trừ khổ não của tất cả chúng sinh. Có thể tu hành biển công đức của tất cả chư Phật. Có thể quán sát thật tánh của tất cả các pháp. Có thể đầy đủ tất cả tin hiểu thanh tịnh. Có thể vượt qua tất cả dòng nước xoáy sinh tử. Có thể vào biển trí huệ của tất cả chư Phật. Có thể quyết định đạt đến pháp thành vô thượng. Có thể dũng mãnh vào cảnh giới của tất cả chư Phật. Có thể sớm hướng về quả vị của tất cả chư Phật. Có thể lập tức thành tựu nhất thiết trí lực. Có thể nơi mười lực của Phật đã được rốt ráo. Người như vậy, đối với những pháp môn nầy, mới thọ trì được, vào được, thấu rõ được.

 

Hà dĩ cố? thử thị Như Lai trí tuệ cảnh giới, nhất thiết Bồ Tát thượng bất năng trai, huống dư chúng sanh! Nhiên ngã kim giả, dĩ Phật uy lực, dục lệnh điều thuận khả hóa chúng sanh ý tốc thanh tịnh, dục lệnh tu tập thiện căn chúng sanh tâm đắc tự tại, tùy nhữ sở vấn, vi nhữ tuyên thuyết.

Tại sao vậy ? Vì đây là cảnh-giới trí-huệ của Như-Lai, tất cả Bồ-Tát còn chẳng biết được huống là những chúng-sanh khác. Nhưng nay ta do oai-lực của đức Phật, muốn khiến chúng-sanh điều thuận đáng được hóa độ, ý họ mau thanh-tịnh. Muốn khiến chúng-sanh tu tập thiện-căn, tâm họ được tự-tại. Nên theo chỗ hỏi của ngươi mà ta tuyên nói.

Giảng: Tại sao vậy? Vì đây là cảnh giới trí huệ của Như Lai, tất cả Bồ Tát còn không thể biết được. Do đó: “Sơ địa Bồ Tát chẳng biết cảnh giới của Nhị địa Bồ Tát. Thập địa Bồ Tát chẳng biết cảnh giới của bậc Đẳng Giác”, hà huống là hàng nhị thừa và phàp phu, càng không thể biết được. Nhưng hôm nay, ta nhờ nương đại oai thần lực của đức Phật, muốn khiến cho điều thuận chúng sinh đáng được hoá độ, ý sớm được thanh tịnh ý niệm của họ. Muốn khiến cho chúng sinh tu tập tất cả căn lành, tâm niệm của họ được tự tại. Vì tuỳ theo chỗ ngươi hỏi, nên ta vì ngươi mà tuyên nói.

 

Nhĩ thời, khai phu nhất thiết thọ hoa dạ Thần, dục trọng minh kỳ nghĩa, quan sát tam thế Như Lai cảnh giới nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ Dạ-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa muốn tuyên lại nghĩa nầy, quán-sát cảnh-giới của tam-thế Như-Lai mà nói kệ rằng :

Giảng: Bấy giờ, vị Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa muốn thuật rõ lại nghĩa lý trường hàng ở trên, bèn quán sát cảnh giới của tất cả Như Lai mười phương ba đời, dùng kệ để diễn nói lại. Khiến cho Thiện Tài đồng tử tăng thêm ấn tượng, vĩnh viễn tồn tại ở trong biển não, để khỏi quên mất. Đây là vị Chủ Dạ Thần dụng tâm lương khổ, khiến cho chúng sinh vị lai, thấy được bài kệ nầy, xem qua liền hiểu rõ.

 

Phật tử nhữ sở vấn,                                             Phật-tử ngươi đã hỏi
Thậm thâm Phật cảnh giới,                                Cảnh-giới Phật rất sâu
Nan tư sát trần kiếp,                                           Nam-tư sát-trần kiếp
Thuyết chi bất khả tận                                        Nói đó chẳng thể hết

Vị Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa nói: Phật tử! Chỗ ngươi hỏi cảnh giới môn giải thoát Bồ Tát sinh ra hỉ quang minh rộng lớn mà ta đã thành tựu như thế nào? Hiện tại ta nói cho ngươi biết, đó là cảnh giới của Phật thâm sâu. Dù ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi không thể nghĩ bàn, cũng chẳng có cách gì nói hết được.

 

Phi thị tham khuể si,                                            Chẳng phải tham sân si
Kiêu mạn hoặc sở phước,                                   Kiêu-mạn phiền-não che
Như thị chúng sanh đẳng,                                  Những chúng-sanh như vậy
Năng tri Phật diệu pháp.                                    Biết được Phật diệu-pháp.

Chẳng phải chúng sinh có tham sân si ba độc, họ có thể minh bạch đạo lý nầy. Tại sao? Vì bị kiêu ngạo, ngã mạn, nghi hoặc, che đậy, những chúng sinh như vậy, làm sao biết được diệu pháp của Phật?

 

Phi thị trụ xan tật,                                               Chẳng phải bỏn-sẻn ganh
Siểm cuống chư trược ý,                                     Siểm khúc những ý trược
Phiền não nghiệp sở phước,                               Nghiệp phiền-não che đậy
Năng tri Phật cảnh giới.                                      Mà biết được phật-cảnh.

Chẳng phải chúng sinh trụ tham sẻn và đố kị minh bạch được cảnh giới nầy. Càng không phải chúng sinh có xiểm nịnh và dối trá thấu hiểu được cảnh giới nầy. Hoặc chúng sinh có tư tưởng ô trược. Hoặc chúng sinh bị phiền não nghiệp che đậy, biết được cảnh giới nầy. Cảnh giới của Phật, tận hư không khắp pháp giới, chẳng có bờ mé.

 

Phi trước uẩn giới xứ,                                         Chẳng phải chấp uẩn xứ
Cập kế ư hữu thân,                                             Và chắp thân hữu-lậu
Kiến đảo tưởng đảo nhân,                                  Người kiến-đảo tưởng-đảo
Năng tri Phật sở giác                                          Biết được phật giác-ngộ.

Cũng chẳng phải chúng sinh chấp trước năm uẩn, mười tám giới, mười hai xứ, thấu hiểu được. Chúng sinh chấp ta có thân thể nầy và chúng sinh thấy điên đảo, cùng với tưởng điên đảo, họ không thể nào biết được cảnh giới giác ngộ của Phật.

 

Phật cảnh giới tịch tĩnh,                                      Phật cảnh-giới tịch-tịnh
Tánh tịnh ly phân biệt,                                        Tánh tịnh rời phân-biệt.
Phi trước chư hữu giả,                                        Chẳng phải chấp ba cõi
Năng tri thử pháp tánh.                                      Biết được pháp-tánh nầy.

Cảnh giới Phật thì tịch tĩnh (Lìa phiền não là tịch, dứt khổ hoạn là tĩnh. Tóm lại, chẳng có mọi chấp trước, tức là tịch tĩnh). Tự tánh của Phật là thanh tịnh, lìa khỏi mọi sự phân biệt. Chẳng phải chúng sinh chấp trước vào tam giới hai mươi lăm cõi, biết được pháp tánh nầy.

 

Sanh ư chư Phật gia,                                           Sanh nơi nhà chư Phật
Vi Phật sở thủ hộ,                                                Được chư Phật thủ hộ
Trì Phật pháp tạng giả                                        Người trì Phật pháp-tạng
Trí nhãn chi cảnh giới.                                        Cảnh-giới của trí-nhãn.

Sinh vào nhà mười phương chư Phật, được chư Phật thủ hộ, hay thọ trì pháp tạng của chư Phật nói. Chúng sinh có con mắt trí huệ mới biết được cảnh giới nầy.

 

Thân cận thiện tri thức,                                      Gần-gũi thiện-tri-thức
Ái lạc bạch tịnh Pháp,                                         Mến thích pháp bạch tịnh
Cần cầu chư Phật lực,                                        Siêng cầu chư Phật lực
Văn thử pháp hoan hỉ.                                        Nghe pháp nầy hoan-hỉ.

Người gần gũi thiện tri thức, ưa thích pháp trắng tịnh. Siêng cầu mười lực của tất cả chư Phật. Lắng nghe pháp vi diệu thâm sâu nầy rồi, trong tâm sinh đại hoan hỉ, y pháp phụng hành.

 

Tâm tịnh vô phân biệt,                                        Tâm tịnh vô-phân-biệt
Do như Đại hư không,                                         Dường như thái-hư-không
Tuệ đăng phá chư ám,                                        Đèn trí-huệ phá tối
Thị bỉ chi cảnh giới.                                             Cảnh-giới của người nầy.

Trong tâm rất thanh tịnh, không có tất cả tâm chấp trước phân biệt, thanh tịnh giống như thái hư không. Đèn trí huệ phá trừ được tất cả đen tối. Đây là cảnh giới của môn giải thoát.

 

Dĩ đại từ bi ý                                                        Dùng ý đại từ-bi
Phổ phước chư thế gian,                                     Che khắp các thế-gian
Nhất thiết giai bình đẳng                                    Tất cả đều bình-đẳng
Thị bỉ chi cảnh giới.                                             Cảnh-giới của người nầy.

Dùng tâm ý đại từ bi, che hộ khắp hết thảy chúng sinh thế gian, đối với họ đều là bình đẳng, chẳng có tất cả mọi phân biệt. Đây tức là cảnh giới môn giải thoát.

 

Hoan hỉ tâm Vô Trước,                                       Hoan-hỉ tâm vô-trước
Nhất thiết giai năng xả,                                       Tất cả đều xả được
Bình đẳng thí chúng sanh,                                  Bình-đẳng thí chúng-sanh
Thị bỉ chi cảnh giới                                              Cảnh-giới của người nầy.

Hoan hỉ Phật pháp, trong tâm không có sự chấp trước, hết thảy tất cả đều xả bỏ được, tuyệt đối không tham, không nhiễm, chẳng những xả được, mà còn chẳng có tâm phân biệt. Một luật bình đẳng bố thí cho chúng sinh cần, đây là cảnh giới của môn giải thoát.

 

Tâm tịnh ly chư ác                                               Tâm tịnh rời các ác
Cứu cánh vô sở hối,                                             Rốt ráo không hối hận
Thuận hành chư Phật giáo,                                Thuận hành chư Phật giáo
Thị bỉ chi cảnh giới.                                             Cảnh-giới của người nầy.

Trong tâm thanh tịnh, thì sẽ lìa khỏi tất cả các ác. Rốt ráo không có tội gì để sám hối. Thuận theo lời giáo hoá của tất cả chư Phật nói để tu hành. Đây là cảnh giới của môn giải thoát.

 

Liễu tri pháp tự tánh                                           Biết rõ pháp tự-tánh
Cập dĩ chư nghiệp chủng                                    Nhẫn đến các nghiệp-chủng
Kỳ tâm vô động loạn                                           Tâm họ không động loạn
Thị bỉ chi cảnh giới.                                             Cảnh-giới của người nầy.

Biết rõ tự tại của tất cả pháp, cùng với tất cả đủ thứ nhân duyên tạo nghiệp thọ báo. Vì tất cả đạo lý đều phải minh bạch rõ ràng, cho nên trong tâm không có sự động loạn, tức cũng là không có điên đảo vọng tưởng. Đây là cảnh giới của môn giải thoát.

 

Dũng mãnh cần tinh tấn                                     Dũng-mãnh siêng tinh-tấn
An trụ tâm bất thoái,                                          An-trụ tâm bất thối
Cần tu nhất thiết trí,                                           Siêng tu nhất-thiết-trí
Thị bỉ chi cảnh giới.                                             Cảnh-giới của người nầy.

Tu trì pháp môn nầy, phải dũng mãnh siêng tinh tấn, chẳng những thân tinh tấn, mà tâm cũng phải tinh tấn, mới có thể có sự thành tựu. An ổn trụ tâm nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển. Siêng tu nhất thiết trí huệ. Tu tập như thế nào? Tức là vào sâu tạng Kinh mà nghiên cứu, thì sẽ đắc được cảnh giới trí huệ như biển. Đây là cảnh giới của môn giải thoát.

 

Kỳ tâm tịch tĩnh trụ tam muội                            Tâm họ tịch-tịnh trụ tam-muội
Cứu cánh thanh lương vô nhiệt não,                 Rốt ráo thanh-lương không nhiệt não
Dĩ tu nhất thiết trí hải nhân,                               Đã tu thân nhất-thiết-trí hải
Thử chứng ngộ giả chi giải thoát                        Là giải-thoát của người chứng ngộ.

Người tu đạo, tâm ý tịch tĩnh, mới có thể an trụ trong cảnh giới tam muội. Tự tâm rốt ráo đắc được mát mẻ, không có mọi nhiệt não nào xâm hại. Nhiệt não tức là phiền não, do đó có câu: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, học Phật tức là học đoạn phiền não. Phiền não chẳng đoạn, thì tâm vĩnh viễn chẳng thanh tịnh, bóng bồ đề sẽ không hiện ra. Nhiệt não từ đâu đến? Truy tìm tông tích thì từ trong nhiệt tình mà ra. Nhiệt tình thái quá, sẽ thành phiền não. Nhưng người nầy đã tu hành biển nhân nhất thiết trí huệ, đây là người đã chứng đắc giác ngộ sự lý viên dung, đắc được môn giải thoát.

 

Thiện tri nhất thiết chân thật tướng                  Khéo biết tất cả tướng phân-biệt
Thâm nhập vô biên pháp giới môn                     Thâm nhập vô-biên môn pháp-giới
Phổ độ quần sanh mị hữu dư                             Độ khắp quần-sanh không sót thừa
Thử tuệ đăng giả chi giải thoát.                          Là giải-thoát của bậc trí-huệ.

Người có thể chứng ngộ, khéo biết tất cả tướng chân thật, vào sâu pháp môn tận hư không khắp pháp giới. Có thể độ khắp tất cả chúng sinh, không thừa sót chúng sinh nào. Người có đèn trí huệ quang minh, mới chứng đắc được cảnh giới nầy.

 

Liễu đạt chúng sanh chân thật tánh                  Rõ tánh chân thiệt của chúng-sanh
Bất trước nhất thiết chư hữu hải                       Chẳng chấp tất cả biển hữu-lậu
Như ảnh phổ hiện tâm thủy trung                     Như bóng hiện khắp trong tâm thủy
Thử chánh đạo giả chi giải thoát.                       Là giải thoát của người chánh-đạo.

Thấu rõ thông đạt tánh chân thật của tất cả chúng sinh, thì chẳng chấp trước vào biển nghiệp của tam giới hai mươi lăm cõi. Giống như bóng hiện khắp trong tâm nước. Người đắc được bồ đề giác đạo, mới đắc được môn giải thoát nầy.

 

Tùng ư nhất thiết tam thế Phật                         Từ nơi tất cả tam-thế Phật
Phương tiện nguyện chủng nhi xuất sanh         Phương-tiện nguyện-chủng mà xuất sanh
Tận chư kiếp sát cần tu hành                             Tận những kiếp sát siêng tu hành
Thử Phổ Hiền giả chi giải thoát.                         Là giải-thoát của bực Phổ-Hiền.

Hầu hạ cúng dường chư Phật ba đời, theo chư Phật học tập Phật pháp, do từ trong phương tiện nguyện lực hạt giống mà sinh ra, hết tất cả các kiếp cõi siêng tu hành không giải đãi. Đây là môn giải thoát của người tu mười đại hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền đắc được.

 

Phổ nhập nhất thiết pháp giới môn                    Vào khắp tất cả môn pháp-giới
Tất kiến thập phương chư sát hải                      Đều thấy mười phương những sát-hải
Diệc kiến kỳ trung kiếp thành hoại,                    Cũng thấy trong đó kiếp thành hoại
Nhi tâm tất cánh vô phân biệt.                           Mà tâm rốt ráo vô-phân-biệt.

Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, vào khắp tất cả môn pháp giới. Đều thấy được mười phương tất cả các biển cõi. Cũng thấy được tình hình kiếp biến hoá thành trụ hoại không trong biển cõi đó. Một cõi nước, tức là một ba ngàn đại thiên thế giới (có mười ức thế giới). Một thế giới tức là một địa cầu – thọ mạng của địa cầu thời gian là một đại kiếp, tức cũng là tám mươi tiểu kiếp. Đến lúc kiếp thành thì tự nhiên xuất hiện, trải qua hai mươi tiểu kiếp. Sau đó kiếp trụ tự nhiên xuất hiện (hiện tại là kiếp trụ thứ chín của diệt kiếp, tuổi thọ con người khoảng bảy mươi tuổi. Khi đức Phật Thích Ca xuất hiện ra đời thì tuổi thọ con người là một trăm tuổi). Kiếp trụ trải qua hai mươi tiểu kiếp, thì kiếp hoại xuất hiện. Kiếp hoại trải qua hai mươi tiểu kiếp, thì kiếp không xuất hiện. Kiếp không trải qua hai mươi tiểu kiếp, thì kiếp thành xuất hiện, cứ đi vòng như vậy, cuối rồi lại bắt đầu. Vì vô lượng kiếp đồng một niệm; một niệm đồng vô lượng kiếp, cho nên tâm thanh tịnh, rốt ráo không có mọi sự chấp trước và phân biệt.

 

Pháp giới sở hữu vi trần trung,                          Trong những vi-trần của pháp-giới
Tất kiến Như Lai tọa đạo thụ,                            Đều thấy Như-Lai ngồi đạo-thọ
Thành tựu Bồ-đề hóa quần phẩm                      Thành-tựu bồ-đề độ quần-sanh
Thử vô ngại nhãn chi giải thoát.                         Là giải-thoát của vô-ngại-nhãn.

Hết thảy hạt bụi trong pháp giới, đều có cõi nước chư Phật, trong mỗi cõi nước, có Phật đang ngồi ở dưới cội bồ đề thành tựu quả Phật. Sau đó vì chúng sinh thuyết pháp, giáo hoá chúng sinh. Tại sao Phật thị hiện thành Phật? Vì Phật tâm bi tha thiết, cho nên khiến cho chúng sinh biết cảnh giới thành Phật. Chúng sinh chưa thành Phật, thị hiện giáo hoá chúng sinh, chẳng bỏ chúng sinh. Đây là môn giải thoát của Bồ Tát chứng đắc pháp nhãn vô ngại đắc được.

 

Nhữ ư vô lượng Đại kiếp hải,                              Ngươi ở vô-lượng đại-kiếp-hải
Thân cận cúng dường thiện tri thức                  Thân-cận cúng-dường thiện-tri-thức
Vi lợi quần sanh cầu chánh pháp                       Vì lợi quần sanh cầu chánh-pháp
Văn dĩ ức niệm vô di vong.                                  Nghe rồi ghi nhớ không quên sót.

Thiện Tài ngươi đã ở trong vô lượng biển đại kiếp, gần gũi cúng dường thiện tri thức. Ngươi vì lợi ích chúng sinh vị lai, cho nên cầu chánh pháp vô thượng. Lắng nghe các pháp rồi, luôn luôn nghĩ nhớ không bao giờ quên mất.

 

Tỳ Lô Giá Na quảng đại cảnh,                           Tỳ-Lô-Giá-Na cảnh rộng lớn
Vô lượng vô biên bất khả tư,                              Vô-lượng vô-biên chẳng thể suy
Ngã thừa Phật lực vi nhữ thuyết,                       Ta thừa phật-lực nói với ngươi
Lệnh nhữ thâm tâm chuyển thanh tịnh             Cho ngươi thâm-tâm càng thanh-tịnh.

Cảnh giới của Tỳ Lô Giá Na rộng lớn, vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Ta hiện tại nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật gia trì, để vì ngươi nói pháp của môn giải thoát nầy, khiến cho ngươi phát tâm bồ đề rộng lớn thâm sâu, chuyển thành thanh tịnh.

 

Thiện nam tử! nãi vãng cổ thế, qua thế giới hải vi trần số kiếp, hữu thế giới hải, danh: phổ quang minh chân kim ma-ni sơn; kỳ thế giới hải trung, hữu Phật xuất hiện, danh: phổ chiếu Pháp giới trí tuệ sơn tịch tĩnh uy đức Vương.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa quá thế-giới-hải vi-trần-số kiếp, có thế-giới-hải tên là Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn. Trong thế-giới-hải nầy có Phật xuất hiện hiệu là Phổ-Chiếu-Pháp-Giới Trí-Huệ-Sơn-Tịch-Tịnh-Oai-Đức-Vương.

Giảng: Thiện nam tử! Vào thuở quá khứ, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi biển thế giới. Có biển thế giới, tên là Phổ Quang Minh Chân Kim Ma Ni Sơn. Trong biển thế giới đó, có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Phổ Chiếu Pháp Giới Trí Huệ Sơn Tịch Tĩnh Oai Đức Vương. Vị Phật đó xuất hiện ra đời để giáo hoá tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui.

 

Thiện nam tử! kỳ Phật vãng tu Bồ Tát hạnh thời, tịnh bỉ thế giới hải. Kỳ thế giới hải trung, hữu thế giới vi trần số thế giới chủng; nhất nhất thế giới chủng, hữu thế giới vi trần số thế giới; nhất nhất thế giới, giai hữu Như Lai xuất hưng ư thế; nhất nhất Như Lai, thuyết thế giới hải vi trần số tu-đa-la; nhất nhất tu-đa-la, thọ Phật sát vi trần số chư Bồ-tát kí, hiện chủng chủng thần lực, thuyết chủng chủng Pháp môn, độ vô lượng chúng sanh.

Nầy Thiện-nam-tử ! Lúc đức Phật ấy tu hạnh bồ-tát, nghiêm-tịnh thế-giới-hải đó. Trong thế-giới-hải đó có thế-giới vi-trần-số thế-giới-chủng. Mỗi thế-giới-chủng có thế-giới vi-trần-số thế-giới. Mỗi thế-giới đều có Như-Lai xuất thế. Mỗi Như-Lai diễn nói thế-giới vi-trần-số tu-đa-la. Mỗi tu-đa-la thọ-ký cho phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát, hiện những thần-lực, nói những pháp-môn, độ vô-lượng chúng-sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Thuở xưa khi đức Phật đó tu Bồ Tát hạnh thì, đã từng thanh tịnh biển thế giới đó. Trong biển thế giới đó, có thế giới chủng nhiều như số hạt bụi thế giới. Trong mỗi mỗi thế giới chủng, có thế giới nhiều như số hạt bụi thế giới. Trong mỗi mỗi thế giới, đều có một vị Phật xuất hiện ra đời. Mỗi một vị Phật, đều diễn nói Tu Đa La (khế kinh) nhiều như số hạt bụi biển thế giới. Trong mỗi bộ Kinh điển, đều thọ ký danh hiệu cho các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Thị hiện đủ thứ thần lực, nói đủ thứ pháp môn, rộng độ vô lượng chúng sinh.

 

Thiện nam tử! bỉ phổ quang minh chân kim ma-ni sơn thế giới hải trung, hữu thế giới chủng, danh: phổ trang nghiêm tràng.

Nầy Thiện-nam-tử ! Trong thế-giới-hải Phổ-Quang-Minh-Chơn-Kim-Ma-Ni-Sơn, có thế-giới-chủng tên là Phổ-Trang-Nghiêm-Tràng.

Giảng: Thiện nam tử! Trong biển thế giới Phổ Quang Minh Chân Kim Ma Ni Sơn đó, có thế giới chủng tên là Phổ Trang Nghiêm Tràng.

 

Thử thế giới chủng trung, hữu thế giới, danh: nhất thiết bảo sắc phổ quang minh, dĩ Hiện-Nhất-Thiết hóa Phật ảnh ma-ni Vương vi thể, hình như Thiên thành; dĩ hiện nhất thiết Như Lai đạo tràng ảnh tượng ma-ni Vương vi kỳ hạ tế, trụ nhất thiết bảo hoa hải thượng, tịnh uế tướng tạp.

Trong thế-giới-chủng ấy có thế-giới tên là Nhất-Thiết-Bửu-Sắc-Phổ-Quang-Minh. Thể chất bằng Hiện-Nhất-Thiết-Hóa-Phật-Ảnh-Ma-Ni-Vương, hình như thành quách cõi trời. Hạ-tế làm bằng Hiện-Nhất-Thiết-Như-Lai-Đạo-Tràng-Ảnh-Tượng-Ma-Ni-Vương, an-trụ trên biển Nhất-Thiết-Bửu-Hoa. Thế-giới ấy tịnh uế lẫn lộn.

Giảng: Trong thế giới chủng đó, lại có thế giới tên là Nhất Thiết Bảo Sắc Phổ Quang Minh. Dùng sự thị hiện tất cả hoá Phật ảnh ma ni vương làm thể, hình trạng như thành trên trời. Dùng sự thị hiện tất cả Như Lai đạo tràng ảnh tượng ma ni vương làm bờ mé phía dưới. Trụ ở trên biển tất cả hoa báu, sạch dơ xen tạp với nhau.

 

Thử thế giới trung, hữu Tu-di sơn vi trần số tứ thiên hạ, hữu nhất tứ thiên hạ tối xứ kỳ trung, danh: nhất thiết bảo sơn tràng. kỳ tứ thiên hạ, nhất nhất túng quảng thập vạn do-tuần, nhất nhất các hữu nhất vạn đại thành.

Trong thế-giới nầy có tu-di-sơn vi-trần-số tứ-thiên-hạ. Chính giữa có một tứ-thiên-hạ tên là Nhất-Thiết-Bửu-Sơn-Tràng, Tứ-thiên-hạ ấy, mỗi thiên-hạ ngang dọc đều một vạn do-tuần. Mỗi thiên-hạ đều có một vạn thành lớn.

Giảng: Trong thế giới đó, có bốn thiên hạ nhiều như hạt bụi núi Tu Di. Có một bốn thiên hạ ở chính giữa, tên là Nhất Thiết Bảo Sơn Tràng. Bốn thiên hạ đó, mỗi thiên hạ ngang dọc đều mười vạn do tuần. Trong mỗi thiên hạ đều có một vạn thành lớn.

 

Kỳ Diêm-phù-đề trung, hữu nhất Vương đô, danh: kiên cố diệu bảo trang nghiêm vân đăng, nhất vạn đại thành châu táp vi nhiễu. Diêm-phù-đề nhân thọ vạn tuế thời, kỳ trung hữu Vương, danh: nhất thiết pháp âm viên mãn cái, hữu ngũ bách đại thần, lục vạn thải nữ, thất bách Vương tử; kỳ chư Vương tử giai đoan chánh dũng kiện, hữu đại uy lực.

Trong Diêm Phù Đề ấy có một Vương-Đô tên là Kiên-Cố-Diệu-Bửu-Trang Nghiêm-Vân-Đăng, một vạn đại-thành rải-rác bao quanh. Thời kỳ người Diêm-Phù-Đề thọ-mạng vạn năm, có vua tên là Nhứt-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái. Có năm trăm Đại-Thần, sáu vạn thế-nữ, bảy trăm Vương-Tử. Những Vương-Tử nầy đều đoan-chánh dũng kiện có oai-lực lớn.

Giảng: Trong cõi Diêm Phù Đề đó, có một vương đô, tên là Kiên Cố Diệu Bảo Trang Nghiêm Vân Đăng, có một vạn thành lớn bao bọc chung quanh vương đô đó, người Diêm Phù Đề thọ tới một vạn tuổi. Trong vương đô Kiên Cố Diệu Bảo Trang Nghiêm Vân Đăng đó, có ông vua, tên là Nhất Thiết Pháp Âm Viên Mãn Cái, ông ta có năm trăm vị đại thần, sáu vạn thể nữ, lại có bảy trăm vị vương tử. Các vương tử đó, tướng mạo đều đoan chánh, thân thể dũng kiện, đều có đại oai lực.

 

Nhĩ thời, bỉ Vương uy đức phổ bị Diêm-phù-đề nội, vô hữu oán địch.

Thời bấy giờ, Đức Vua ấy có oai-đức ban bố khắp Diêm-Phù-Đề, không có kẻ oán địch.

Thời bấy giờ, ông vua đó đã từng tu hành căn lành có oai đức, cho nên phổ cáo khắp trong cõi Diêm Phù Đề, khiến cho nhân dân không có oán địch.

Giảng: Rất  ủng hộ ông vua, rất thương mến ông vua, chẳng có mọi sự đối địch gì, chẳng có cừu oán. Ông vua thương dân như con, nhân dân kính ông vua như cha. Ngũ cốc phong phú, thiên hạ thái bình. Nhân dân cơm no áo ấm, an cư lạc nghiệp. Quốc gia không có chiến tranh, do đó có câu: “Ngựa phóng nam sơn, mao tạng ư khố”. Nghĩa là: Ngựa thả ra đồng, đao cất vào kho”, mọi người sống trong cảnh thái bình thịnh vượng.

 

Thời, bỉ thế giới kiếp dục tận thời, hữu ngũ trược khởi. Nhất thiết nhân chúng, thọ mạng đoản xúc, tư tài phạp thiểu, hình sắc bỉ lậu, đa khổ thiểu lạc, bất tu Thập thiện, chuyên tác ác nghiệp, cánh tướng phẫn tránh, hỗ tương hủy nhục, ly tha quyến thuộc, đố tha vinh hảo, nhâm Tình khởi kiến, phi pháp tham cầu.

Thế-giới ấy, lúc kiếp sắp tận, có năm thứ trược phát khởi, nhơn chúng thọ-mạng ngắn-ngủi, của cải thiếu thốn, thân hình xấu xí, nhiều khổ ít vui, chẳng tu thập thiện, chuyên làm nghiệp ác. Giận gây hủy nhục nhau, làm quyến thuộc người xa lìa, ganh ghét hạnh phúc của người, kiến chấp tà vạy, tham cầu phi-pháp.

Giảng: Lúc đó, thế giới đó lúc kiếp sắp tận, có đời ác năm trược sinh khởi.

Năm trược tức là: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược. Trược tức là ô trược, chẳng thanh tịnh.

– Kiếp trược là gì? Tức là kiếp giảm từ tuổi thọ con người hai vạn tuổi bắt đầu là kiếp trược. Kiếp giảm có tám vạn bốn ngàn tuổi, kiếp tăng có tám vạn bốn ngàn tuổi, mỗi một trăm năm giảm một tuổi, hoặc tăng một tuổi. Một giảm, một tăng, là một kiếp.

– Thế nào là kiến trược? Tức là năm lợi sử. Năm lợi sử tức là: Thân kiến, biên kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến.

– Thân kiến: Cho rằng thân thể nầy là của ta, càng chấp vào thân nầy. Kỳ thật, thân thể nầy là do bốn đại (đất, nước, gió, lửa) và năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) giả hợp mà thành, bất quá là cái túi da hôi thối mà thôi, chẳng có gì tốt đẹp cả. Nhưng nói đi rồi cũng nói lại, chúng ta người tu hành mượn giả tu chân, lìa khỏi thân thể thì không thể nào tu đạo, phải giữ trung đạo.-

– Biên kiến: Chấp trước vào kiến giải thiên về một bên. Chẳng chấp không thì chấp có, chẳng phải trung đạo chân không diệu hữu. Ngoại đạo của Ấn Độ, có chấp đoạn, đề xướng học thuyết con người chết rồi như đèn tắt, do đó, mọi người chẳng tin nhân quả, bát vô nhân quả, chủ trương hưởng thụ. Nhưng chúng ta nên biết được làm thân người chẳng phải dễ, đừng cô phụ quyền lợi làm người. Có ngoại đạo chấp thường, đề xướng con người sau khi chết vẫn làm người, chó chết rồi vẫn làm chó. Chủ trương khổ hạnh, giả như nghiệp khổ tiêu hết thì không lại làm người. Hai học thuyết nầy đều là tà tri tà kiến, chẳng phải chánh tri chánh kiến. Họ đều là những phần tử cực đoan. Cho nên lúc đức Phật còn tại thế, phản đối hành vi của họ, cho rằng chẳng hợp với trung đạo.

-Giới thủ: Nghiêm trì giới luật chẳng hợp với Phật giáo, cho rằng pháp quy của tà giáo là đúng đắn. Ví như học theo giới bò và giới chó. Những kẻ ngoại đạo nầy chỉ biết chó bò có thể sinh về cõi trời, nhưng chẳng biết nhân duyên tại sao phải làm chó, làm bò. Cho nên tu mù luyện đui, mà lầm mình, lầm người.

– Kiến thủ: Chấp trước vào kiến giải của mình, cho rằng mình đúng, chẳng chịu lắng nghe ý kiến của người khác, độc đoán độc hành, chẳng gần tình người.

– Tà kiến: Phàm là kiến giải chẳng chánh đáng, đều gọi là tà kiến. Phiền não trược là gì? Tức là năm độn sử. Năm độn sử tức là tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm mạn, tâm nghi. Tâm tham: Đối với tất cả cảnh giới thuận, bèn sinh khởi tâm tham ái, muốn chiếm lấy cho được, bằng không, dùng hết mọi tâm cơ, vì mục đích bất chấp thủ đoạn. Ngàn phương vạn kế, lấy cho bằng được để làm trò vui. Vì có tư tưởng đó, bèn làm ra đủ thứ nghiệp ác thương thiên hại lý. Đến lúc mạng chung thì ra đi hai bàn tay không, chỉ có nghiệp chướng theo họ xuống gặp vua Diêm Vương. Tâm sân: Đối với tất cả cảnh giới nghịch, bèn sinh khởi tâm sân hận. Tóm lại, cầu chẳng được thì sinh nổi giận, lý trí chẳng không chế được tình cảm. Thường dùng ý khí dụng sự, do đó mà hồ đồ, chẳng minh bạch đạo lý tất cả sự lý chánh đáng. Tâm mạn: Tức là cống cao ngã mạn, trong mắt không xem ai ra gì. Tâm nghi: Tức là nghi hoặc trùng trùng, đối với sự lý gì cũng đều không tin. Chẳng những đối với sự lý chánh đáng, không tin mà còn khởi nghi hoặc, nghĩa là đối với pháp của thiện tri thức nói, cũng chẳng tin, mà khởi nghi vấn. Lợi sử là phiền não cấp tính. Độn sử là phiền não mãn tính. Mười sử nầy chi phối con người điên điên đảo đảo, nhận thức chẳng rõ ràng tất cả cảnh giới. Như vậy đồng lưu hợp ô, thì sẽ bỏ giác mà hợp với trần lao, rời xa đạo, lìa khỏi nhà vốn có càng ngày càng xa.

Chúng sinh trược là gì? Tức là quả báo của lợi độn mười sử.

Mạng trược là gì? Tức là thân tâm ốm yếu, mạng sống ngắn ngủi, nên gọi là mạng trược.

Trong đất nước đó, khi năm trược sinh khởi lên, thì thọ mạng của tất cả mọi người sẽ ngắn ngủi. Tất cả tài vật dùng hằng ngày sẽ thiếu thốn. Thân hình của con người sẽ xấu xí. Đời sống của con người, nhiều khổ ít vui, suốt ngày lam lũ mà chẳng được no. Tại sao có tình hình như vậy? Vì chúng sinh chẳng tu pháp thập thiện, chuyên làm mười pháp ác. Giữa người với người chẳng hoà thuận với nhau, giữa nước này với nước kia, chẳng hoà bình sống với nhau. Tóm lại, hổ tương phân tranh, huỷ nhục lẫn nhau, bạn phỉ báng tôi, tôi công kích bạn. Chẳng nhường nhịn nhau, tạo thành không khí xấu đầy dẫy hư không. Thậm chí có người làm những việc không có đạo đức, chuyên môn làm việc ly gián, khiến cho con người giao hảo không hoà thuận, làm cho mẹ con người chẳng hiếu thuận, khiến cho vợ chồng người ly hôn, khiến cho lục thân người chẳng được đoàn tụ. Làm cho những gia đình hạnh phúc người khác tan nát, phân ly mỗi người một phương, những người làm ác như vậy, chết đi chắc chắn sẽ đoạ vào địa ngục cắt lưỡi. Lại có những người đố kị thành tánh, thấy nhà người khác tốt đẹp hơn họ, thì trong tâm chẳng vui, tìm cách phá hoại, do đó có câu tâm lý tác quái: “Rủi may vui khổ”. Thấy người có tiền, thì sinh tâm đố kị chướng ngại; thấy người nghèo thì sinh tâm kiêu ngạo tự đại. Tóm lại, hận người khác có, hận mình không, đây là hành vi tâm lý biến thái.

Các vị hãy nghĩ xem, hiện tại trên thế gian tình huống như vậy. Tông chỉ của Phật giáo là dùng từ bi làm hoài bảo, phương tiện làm cửa. Thanh tâm quả dục, chẳng tranh với đời. Nhưng hiện tại cũng phạm mao bệnh nầy, chạy theo dục niệm, sinh ra tà tri tà kiến, cứ làm những việc phi pháp, tham cầu tài bất nghĩa.

 

Dĩ thị nhân duyên, phong vũ bất thời, lúa mạ bất đăng, viên lâm, thảo thọ nhất thiết khô cảo, nhân dân quỹ phạp, đa chư dịch bệnh, trì tẩu tứ phương, mị sở y hỗ, hàm lai cọng nhiễu Vương đô đại thành, vô lượng vô biên bách thiên vạn ức, tứ diện châu táp cao thanh đại hô; hoặc cử kỳ thủ, hoặc hợp kỳ chưởng, hoặc dĩ đầu khấu địa, hoặc dĩ thủ trùy hung, hoặc khuất tất trưởng hiệu, hoặc dũng thân Đại khiếu; đầu phát bồng loạn, y thường tệ ác, bì phu thuân liệt, diện mục vô quang, nhi hướng Vương ngôn:

Do nhơn duyên ấy nên mưa gió bất thường, lúa mạ chẳng tốt, vườn tược cây cối khô cằn, nhơn dân đói kém, nhiều bệnh tật, tản cư bốn phương không biết nương tựa vào đâu nên đều đến ở quanh Vương Đô số đông đến trăm ngàn vạn ức, to tiếng kêu gào, hoặc giơ tay, hoặc chắp tay, hoặc cuối đầu, hoặc quì gối, hoặc nhảy nhót, đầu tóc rối tung y phục rách rưới, da thứa nhăn nứt, mặt mắt mất thần, đồng hướng về cung vua kêu van rằng :

Giảng: Vì những nguyên nhân đó, cho nên mưa gió chẳng đúng thời. Nên nổi gió mà chẳng nổi gió, nên mưa xuống mà chẳng mưa xuống, lúc không cần nổi gió, thì lại nổi cuồng phong, đây là hiện tượng gió mưa thất thường.

Tại sao? Vì nghiệp lực của chúng sinh sở cảm, vì sự quan hệ gió mưa chẳng điều thuận, cho nên ngũ cốc chẳng phong phú. Cây cỏ trong vườn rừng, thảy đều khô héo, chẳng có sinh khí. Nhân dân nghèo khổ, không có quần áo mặc, không có lúa gạo ăn, không có nhà để ở. Khắp nơi bị ôn dịch, người bệnh chẳng có thuốc cứu chữa, chờ đợi cái chết, rất là đáng sợ. Vì cầu sinh tồn, chẳng màng tánh mạng, bỏ chạy bôn ba khắp nơi. Giống như người Việt tị nạn hiện nay, họ bị đàn áp mà phải bỏ chạy đi bốn phương, nghèo khổ gia tăng, khổ không thể tả. Đời sống của những người tị nạn, khó khăn vô cùng. Họ muốn khóc mà không còn nước mắt, không còn lời nào để nói. Cầu nguyện Bồ Tát che chở, đến được đất nước toàn. Những thuyền nhân tị nạn trôi nổi trên biển, sung sướng khi thoát khỏi miệng cọp, nhưng đến nơi không ai thu nhận, chẳng cho người tị nạn lên bờ, đây có thể nói là mất đi đạo nghĩa nhân quyền. Thuyền nhân tị nạn trôi nổi trên biển, tánh mạng của họ chẳng được an toàn, tài sản không được bảo đảm. Có lúc bị bọn hải tặc cướp lấy. Họ ở trong hoàn cảnh nước sâu lửa bỏng, hy vọng nguyên thủ các nước phát tâm từ bi, ra tay trợ giúp, cứu họ lìa khổ được vui. Tại đạo tràng Vạn Phật Thánh Thành thành lập uỷ ban hội cứu tế người tị nạn, mỗi tháng có rất nhiều người tị nạn đến đi không ngừng, khiến cho họ có chỗ nương tựa.

Những người đó đều cùng nhau đến ở khắp chung quanh thành lớn vương đô, nhiều vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức người. Lớn tiếng kêu gào, hoặc giơ tay lên, hoặc chắp tay lại, hoặc cuối đầu, hoặc quỳ xuống đất, hoặc dùng tay đánh bụng, hình dung tình hình rất là thống khổ. Hoặc co đầu gối kêu lớn, hoặc nhảy nhót la hét. Đầu tóc của những người nghèo khổ đó rối tung lên, giống như ngạ quỷ, y phục rách rưới hôi hám, da thịt nhăng nứt, mặt mắt mất thần. Những người nghèo đó, đồng hướng về ông vua nói rằng:

 

Đại Vương! Đại Vương! ngã đẳng kim giả, bần cùng cô lộ, cơ khát hàn đống, tật bệnh suy luy, chúng khổ sở bức, mạng tướng bất cửu, vô y vô cứu, vô sở khống cáo. Ngã đẳng kim giả lai quy Đại Vương

Đại-Vương ! Đại-Vương ! Chúng tôi ngày nay nghèo cùng đói rách, bệnh tật khốn khổ, không chỗ nương tựa, không biết kêu cứu vào đâu. Chúng tôi đồng về nương với Đại-Vương.

Giảng: “Đại vương! Đại vương! Cuộc sống của chúng tôi ngày nay, nghèo khổ đến đường cùng, vừa đói khát, vừa lạnh rét, bệnh tật suy yếu, bị đủ thứ khổ hành hạ. Mạng sống chẳng còn bao lâu, tiền đồ không dám nghĩ đến, rất là sợ hãi. Hiện nay ở trong hoàn cảnh tuyệt vọng, không chỗ nương tựa, không biết kêu cứu vào đâu, không cách gì nói hết sự khốn khổ. Chúng tôi ngày nay trở về nương tựa đại vương.

 

Ngã quán Đại Vương nhân từ trí tuệ, ư Đại Vương sở sanh đắc an lạc tưởng, đắc sở ái tưởng, đắc hoạt mạng tưởng, đắc nhiếp thọ tưởng, đắc Bảo Tạng tưởng, ngộ tân lương tưởng, phùng đạo lộ tưởng, trị thuyền phiệt tưởng, kiến bảo châu tưởng, hoạch tài lợi tưởng, thăng Thiên cung tưởng.

Đại-Vương là bực nhơn-từ trí-huệ, chúng tôi mong được Đại-Vương ban cho an lạc, ban cho sự sống. Xin Đại-Vương thương xót chúng tôi, nhiếp thọ chúng tôi. Đại-Vương là bửu-tạng, là cầu đò, là đường sá, là thuyền bè, là hòn đảo châu báu, là tài lợi, là thiên-cung của chúng tôi.

Giảng: Chúng tôi thấy đại vương là người nhân từ, cũng là người có đại trí huệ. Ở chỗ đại vương, chúng tôi có cảm giác được an toàn, không bị mọi sự uy hiếp. Cuộc sống được an vui, được sự thương yêu, được sống, được nhiếp thọ, được bảo tạng. Giống như được cầu đò, được đường sá, được thuyền bè, thấy được hòn đảo châu báu, được tài lợi, được thăng lên cung trời. Chúng tôi có đủ thứ sự hy vọng, được nhiều lợi ích, ân cần chờ đợi, trở thành hiện thực”.

 

Nhĩ thời, Đại Vương văn thử ngữ dĩ, đắc bách vạn a-tăng-kì đại bi môn, nhất tâm tư tánh, phát thập chủng đại bi ngữ.

Nhà vua nghe lời kêu than của dân-chúng liền được trăm vạn vô-số môn đại-bi. Nhứt tâm tư-duy phát khởi mười thứ đại-bi-ngữ :

Giảng: Lúc đó, ông vua Nhất Thiết Pháp Âm Viên Mãn Cái, nghe những lời thống khổ của những người nghèo khổ đó rồi, đắc được trăm vạn A tăng kỳ môn đại bi. Một lòng một dạ suy gẫm, phát ra mười lời đại bi, để an ủi những chúng sinh đó, khiến cho họ dũng cảm để sống, không vì những đồ dùng hằng ngày mà lo lắng, phát tâm đại bi cứu tế họ, sống một cuộc sống an vui không lo buồn, đây là biểu hiện của người hành nhân chánh. Những gì là mười lời đại bi? Đó là:

 

Kỳ thập giả hà? sở vị: Ai tai chúng sanh! đọa ư vô để sanh tử Đại khanh; ngã đương vân hà nhi tốc miễn tế, lệnh kỳ đắc trụ nhất thiết trí địa?

Một là : Thương thay chúng-sanh sa vào hố lớn sanh tử không đáy, ta phải làm cách nào để cứu họ, cho họ an trụ nơi bực nhứt-thiết-trí.

Giảng: 1. Thương thay chúng sinh! Các vị rất đáng thương! Vì các vị đã tạo ra nghiệp ác quá nhiều, cho nên mới bị đoạ vào trong hầm lớn sinh tử không đáy. Tôi sẽ tìm cáchđể sớm cứu vớt các vị, khiến cho các vị được an trụ bậc nhất thiết trí.

 

Ai tai chúng sanh! vi chư phiền não chi sở bức bách; ngã đương vân hà nhi tác cứu hộ, lệnh kỳ an trụ nhất thiết thiện nghiệp?

Hai là : Thương thay chúng-sanh bị bức ngặt bởi phiền-não, ta phải làm cách nào cứu hộ họ, cho họ an trụ nơi tất cả nghiệp lành.

Giảng: 2. Thương thay chúng sinh! Vì các phiền não bức bách. Tôi sẽ tìm cách để cứu hộ các vị, khiến cho các vị an ổn trụ nơi đạo tất cả nghiệp thiện.

 

Ai tai chúng sanh! sanh lão bệnh tử chi sở khủng bố; ngã đương vân hà vi tác quy y, lệnh kỳ vĩnh đắc thân tâm an ổn?

Ba là: Thương thay chúng-sanh bị khủng bố bởi sanh lão bệnh tử, ta phải làm cách nào cho họ về nương, cho họ vĩnh viễn được thân tâm an lạc.

Giảng: 3. Thương thay chúng sinh! Bị sinh già bệnh chết khủng bố. Tôi sẽ tìm cáchđể làm chỗ trở về nương tựa của các vị, khiến cho các vị ở trong biển khổ, lập tức quay đầu thì sẽ đến được bờ bên kia, vĩnh viễn thân tâm được an ổn.

 

Ai tai chúng sanh! thường vi thế gian chúng phố sở bức; ngã đương vân hà nhi vi hữu trợ, lệnh kỳ đắc trụ nhất thiết trí đạo?

Bốn là: Thương thay chúng-sanh thường bị thế-gian đại-chúng làm ngặt làm khiếp, ta phải làm thế nào hộ trợ họ, cho họ an trụ đạo nhứt-thiết-trí.

Giảng: 4. Thương thay chúng sinh! Các vị thường bị các khủng bố thế gian bức bách. Tôi sẽ tìm cáchđể trợ giúp các vị, khiến cho các vị được an ổn trụ nơi đạo nhất thiết trí.

 

Ai tai chúng sanh! vô hữu trí nhãn, thường vi thân kiến nghi hoặc sở phước; Ngã đương vân hà vi tác phương tiện, lệnh kỳ đắc quyết nghi kiến ế mô?

Năm là : Thương thay chúng-sanh không có trí-nhãn thường bị thân-kiến nghi lầm che đậy, ta phải dùng phương-tiện gì cho họ mau giải quyết kiến chấp.

Giảng: 5. Thương thay chúng sinh! Các vị không có con mắt trí huệ, thường bị thân kiến nghi hoặc che đậy. Tôi sẽ tìm cách để phương tiện, khiến cho các vị được giải quyết kiến chấp.

 

Ai tai chúng sanh! thường vi si ám chi sở mê hoặc; Ngã đương vân hà vi tác minh cự, lệnh kỳ chiếu kiến nhất thiết trí thành?

Sáu là : Thương thay chúng-sanh thường bị si tối làm mê lầm, ta phải thế nào để làm đèn sáng cho họ soi thấy thành nhứt-thiết-trí.

Giảng: 6. Thương thay chúng sinh! Các vị thường bị vô minh tối ngu si mê hoặc. Tôi sẽ tìm cáchđể làm đuốc sáng, khiến cho các vị chiếu thấy thành nhất thiết trí.

 

Ai tai chúng sanh! thường vi xan tật siểm cuống sở trược; Ngã đương vân hà nhi vi khai hiểu, lệnh kỳ chứng đắc thanh tịnh Pháp thân?

Bảy là : Thương thay chúng-sanh thường bị xan tật siểm cuống làm nhơ đục, ta phải thế nào để khai hiểu họ, cho họ chứng được pháp-thân thanh-tịnh.

Giảng: 7. Thương thay chúng sinh! Các vị thường bị tham sẻn, đố kị, xiểm nịnh, dối trá, làm mờ đục. Tôi sẽ tìm cách để khai hiểu, khiến cho các vị chứng được pháp thân thanh tịnh.

 

Ai tai chúng sanh! trường thời phiêu một sanh tử đại hải; Ngã đương vân hà nhi phổ vận độ, lệnh kỳ đắc thượng Bồ-đề bỉ ngạn?

Tám là : Thương thay chúng-sanh mãi trôi chìm trong biển lớn sanh tử, ta phải vớt đưa họ thế nào cho họ được lên bờ bồ-đề.

Giảng: 8. Thương thay chúng sinh! Các vị mãi trôi chìm ở trong biển sinh tử. Tôi sẽ tìm cáchđể cứu vớt, khiến cho các vị lên được bờ bồ đề bên kia.

 

Ai tai chúng sanh! chư căn cương cường, nan khả điều phục; Ngã đương vân hà nhi vi điều ngự, lệnh kỳ cụ túc chư Phật thần lực?

Chín là : Thương thay chúng-sanh các căn cang cường khó điều khó phục, ta phải điều-ngự họ thế nào cho họ được đầy đủ thần-lực của Phật.

Giảng: 9. Thương thay chúng sinh! Các căn của các vị rất cang cường, không dễ gì điều phục. Tôi sẽ tìm cáchđể làm điều ngự, khiến cho các vị đầy đủ thần lực của tất cả chư Phật.

 

Ai tai chúng sanh! do như manh cổ, bất kiến đạo lộ; Ngã đương vân hà nhi vi dẫn đạo, lệnh kỳ đắc nhập nhất thiết trí môn?

Mười là : Thương thay chúng-sanh như kẻ mù lòa chẳng thấy đường sá, ta phải dẫn dắt họ thế nào cho họ được vào cửa nhất-thiết-trí.

Giảng: 10. Thương thay chúng sinh! Các vị như kẻ mù loà chẳng thấy đường. Tôi sẽ tìm cáchđể dẫn dắt các vị, khiến cho các vị vào môn nhất thiết trí.

 

Tác thị ngữ dĩ, kích cổ tuyên lệnh: ngã kim phổ thí nhất thiết chúng sanh, tùy hữu sở tu tất lệnh sung túc.

Nói như thế xong, đức vua truyền đánh trống ban lịnh : Nay đức vua bố-thí khắp tất cả chúng-sanh, tùy theo nhu cầu đều làm cho đầy đủ cả.

Giảng: Ông vua đó, nói những lời đại bi đó rồi, bèn đánh trống tuyên cáo rằng: Nay tôi muốn bố thí khắp cho tất cả chúng sinh. Tuỳ theo họ cần dùng những vật dụng hằng ngày, đều khiến cho họ được đầy đủ.

 

Tức thời ban hạ Diêm-phù-đề nội đại tiểu chư thành cập chư tụ lạc, tất khai khố tạng, xuất chủng chủng vật, trí tứ cù đạo. Sở vị: kim, ngân, lưu ly, ma-ni đẳng bảo; y phục, ẩm thực, hoa hương, anh lạc, cung điện, ốc trạch, sàng tháp, phu cụ; kiến đại quang minh ma-ni bảo tràng, kỳ quang xúc thân, tất sử an ổn

Lập tức vua hạ lệnh cho các thành lớn nhỏ trong cõi Diêm Phù Đề và các xóm làng, đều mở kho tàng, đem đủ thứ tài vật, để ở ngã tư đường. Nào là vàng, bạc, lưu ly, ma ni, các thứ châu báu, quần áo, thức ăn uống, hương hoa, chuỗi ngọc, cung điện, nhà cửa, giường ghế, đồ dùng, kiến lập tràng báu đại quang minh ma ni, quang minh đó chiếu đến thân, thì đều khiến cho an ổn.

Giảng: Vua lập tức hạ lệnh cho tất cả các thành lớn nhỏ trong cõi Diêm Phù Đề và các xóm làng, đều mở kho tàng, đem ra đủ thứ tài vật, để ở ngã tư đường. Nào là vàng bạc, lưu ly, ma ni, các thứ báu, quần áo, thức ăn uống, hương hoa, chuỗi ngọc, cung điện, nhà cửa, giường ghế, đồ dùng. Lại kiến lập tràng báu đại quang minh ma ni, tràng báu đại phóng quang minh, quang minh đó chiếu đến thân, thì đều khiến cho an ổn.

 

Diệc thí nhất thiết bệnh duyên thang dược; chủng chủng bảo khí thịnh chúng tạp bảo, Kim cương khí trung thịnh chủng chủng hương, bảo hương khí trung thịnh chủng chủng y; liễn dư, xa thừa, tràng phan, tăng cái. Như thị nhất thiết tư sanh chi vật, tất khai khố tạng nhi dĩ cấp thí. Diệc thí nhất thiết thôn doanh, thành ấp, sơn trạch, lâm tẩu, thê tử, quyến thuộc cập dĩ Vương vị, đầu, mục, nhĩ, tỳ, thần, thiệt, nha, xỉ, thủ, túc, bì, nhục, tâm, thận, can, phế, nội ngoại sở hữu, tất giai năng xả.

Cũng bố thí tất cả thuốc men, đủ thứ đồ châu báu, đầy các tạp báu. Trong thau kim cương, thì đầy đủ thứ hương. Trong thau báu hương, thì đầy đủ thứ y phục. Xe kiệu tràng phan lọng lụa. Tất cả đồ dùng hằng ngày như vậy, đều mở kho tàng mà bố thí. Cũng bố thí tất cả thôn làng thành ấp, núi đầm rừng cỏ, vợ con quyến thuộc, và ngôi vua, đầu mắt tai mũi, môi lưỡi răng, tay chân da thịt, tim gan phổi thận, hết thảy trong ngoài, thảy đều xả được.

Giảng: Cũng bố thí tất cả thuốc men, người có bệnh, uống vào liền khỏi bệnh. Có đủ thứ đồ châu báu, đầy đủ thứ các tạp báu. Trong thau kim cương, thì đầy đủ thứ hương báu. Trong thau báu hương, thì đầy đủ thứ y phục. Lại có xe kiệu, lại có tràng phan lọng lụa. Tất cả đồ dùng hằng ngày như vậy, đều mở kho tàng mà bố thí cho những người nghèo khổ. Ông vua đó, thật là một ông vua nhân từ, đem hết thảy tiền tài châu báu, bố thí cho hết thảy chúng sinh cầu xin, chẳng có tư tưởng xả bỏ không được.

Cũng bố thí tất cả thôn làng thành ấp, núi đầm rừng cỏ, đều đem bố thí, tuyết đối không có biểu thị hối tiếc. Cho đến vợ đẹp thiếp xinh, con cái và lục thân quyến thuộc của mình. Thậm chí ngôi vua của mình, cũng có thể bố thí. Tóm lại, có gì thì bố thí đó! Chúng sinh cần gì thì bố thí cái đó, trừ khi vật không có thì không thể bố thí, đây là ngoại tài, do đó có câu: “Đất nước vợ con”. Ông vua đó, chẳng những xả bỏ được ngoại tài, mà nội tài : Đầu mắt tuỷ não, tai mũi, môi lưỡi răng, tay chân da thịt, tim gan phổi thận, hết thảy trong ngoài, thảy đều xả được, bố thí hết thảy.

 

Kỳ kiên cố diệu bảo trang nghiêm vân đăng thành, Đông diện hữu môn, danh: ma-ni sơn quang minh. ư kỳ môn ngoại, Hữu thí hội xứ. Kỳ địa quảng bác, thanh tịnh bình thản, vô chư khanh khảm, kinh cức, sa lịch, nhất thiết giai dĩ diệu bảo sở thành, tán chúng bảo hoa, huân chư diệu hương, nhiên chư bảo đăng, nhất thiết hương vân sung mãn hư không, vô lượng bảo thụ thứ đệ hàng liệt, vô lượng hoa võng, vô lượng hương võng di phước kỳ thượng, vô lượng bách thiên ức na-do-tha chư âm nhạc khí hằng xuất Diệu-Âm.

Phía đông thành Kiên Cố Diệu Bảo Trang Nghiêm Vân Đăng đó, có cửa thành tên là Ma Ni Sơn Quang Minh. Phía ngoài cửa thành đó, có hội trường bố thí, mặt đất rộng lớn, thanh tịnh bằng phẳng, không có hầm hố, cây gai cát sỏi. Tất cả đều dùng báu đẹp làm thành. Rải các hoa đẹp, xông các hương thơm, đốt các đèn báu. Tất cả mây hương, đầy khắp hư không. Có vô lượng cây báu, thứ tự thẳng hàng. Có vô lượng lưới hoa, vô lượng lưới hương, giăng che phía trên. Có vô lượng trăm ngàn ức Na do tha các âm nhạc cụ, luôn vang ra diệu âm.

Giảng: Phía đông thành Kiên Cố Diệu Bảo Trang Nghiêm Vân Đăng đó, có cửa thành tên là Ma Ni Sơn Quang Minh. Phía ngoài cửa thành đó, có hội trường bố thí, mặt đất hội thí đó rộng lớn bằng phẳng, không có hầm hố, thanh tịnh lại trang nghiêm. Không có những cây gai, cũng không có cát sỏi. Tất cả đều dùng báu đẹp làm thành. Trên hội thí rải đủ thứ các hoa đẹp, xông đủ thứ các hương thơm, thắp lên đủ thứ các đèn báu. Tất cả mây hương, đầy khắp hư không. Lại có vô lượng cây báu, thứ tự từng hàng thẳng tắp. Lại có vô lượng lưới hoa, vô lượng lưới hương, giăng che phía trên hội thí. Lại có vô lượng trăm ngàn ức Na do tha các âm nhạc cụ, luôn vang ra pháp âm vi diệu không thể nghĩ bàn.

 

Như thị nhất thiết, giai dĩ diệu bảo nhi vi trang nghiêm, tất thị Bồ Tát tịnh nghiệp quả báo. Ư bỉ hội trung, trí sư tử tọa, thập bảo vi địa, thập bảo lan thuẫn, thập chủng bảo thụ châu táp vi nhiễu, Kim cương bảo luân dĩ thừa kỳ hạ, dĩ nhất thiết bảo vi long thần tượng nhi cọng phủng trì, chủng chủng bảo vật dĩ vi nghiêm sức, tràng phan gian liệt, chúng võng phước thượng, vô lượng bảo hương thường xuất hương vân, chủng chủng bảo y xứ xứ phân bố, bách thiên chủng nhạc hằng tấu mỹ âm.

Tất cả như vậy, đều dùng báu đẹp để trang nghiêm, đều do quả báo tịnh nghiệp của Bồ Tát. Ở giữa hội thí đó, có để một toà sư tử, dùng mười thứ báu làm đất, mười thứ báu làm lan can, mười thứ cây báu bao bọc chung quanh. Có kim cang bảo luân ở phía dưới, dùng tất cả báu làm các tượng rồng thần, cùng nhau đứng cầm kim luân. Đủ thứ báu vật dùng làm nghiêm sức, tràng phan bày hàng, các lưới giăng che phía trên. Có vô lượng hương báu, thường toả ra mây hương. Đủ thứ y phục báu, phân bố các nơi. Trăm ngàn thứ nhạc, luôn tấu tiếng hay.

Giảng: Tất cả như vậy, đều dùng báu đẹp để trang nghiêm. Cảnh giới đó, đều do Bồ Tát tu nghiệp thanh tịnh, mà đắc được quả báo. Ở giữa hội trường bố thí đó, có để một toà báu sư tử, dùng mười thứ báu làm đất, dùng mưới thứ báu làm lan can, mười thứ cây báu, bao bọc chung quanh. Có kim cang bảo luân ở phía dưới, dùng tất cả báu đẹp làm các tượng rồng thần, cùng nhau đứng cầm kim luân. Dùng đủ thứ báu vật dùng làm nghiêm sức, tràng phan bày hàng la liệt. Lại có đủ thứ các lưới báu, giăng che phía trên. Lại có vô lượng hương báu, thường toả ra mây hương. Lại có đủ thứ y phục báu trời, phân bố các nơi. Lại có trăm ngàn thứ âm nhạc, luôn tấu lên tiếng hay vi diệu.

 

Phục ư kỳ thượng trương thí bảo cái, thường phóng vô lượng bảo diệm quang minh, như Diêm-phù kim sí nhiên thanh tịnh; phước dĩ ảo võng, thùy chư anh lạc, ma-ni bảo đái châu hồi gian liệt, chủng chủng bảo linh hằng xuất Diệu-Âm, khuyến chư chúng sanh tu hành thiện nghiệp.

Lại ở phía trên hội thí, có treo lọng báu. Thường phóng ra vô lượng quang minh bảo diệm như vàng Diêm Phù, rực rỡ thanh tịnh. Lưới báu giăng che, anh lạc thòng rũ xuống. Dải ma ni báu, bày hàng chung quanh. Đủ thứ linh báu, luôn vang ra diệu âm, khuyên các chúng sinh, tu các thiện nghiệp.

Giảng: Lại ở phía trên hội thí, có treo lọng báu. Thường phóng ra vô lượng quang minh bảo diệm, giống như vàng Diêm Phù, rực rỡ thanh tịnh. Lưới báu giăng che, anh lạc thòng rũ xuống. Lại có dải ma ni báu, bày hàng chung quanh để nghiêm sức. Lại có đủ thứ linh báu, luôn vang ra diệu âm, khuyên tất cả chúng sinh, siêng tu mười nghiệp lành.

 

Thời, bỉ Đại Vương xứ sư tử tọa, hình dung đoan chánh, nhân tướng cụ túc, quang minh diệu bảo dĩ vi kỳ quan, Na-la-diên thân bất khả tự hoại, nhất nhất chi phần tất giai viên mãn, tánh Phổ Hiền thiện, Vương chủng trung sanh, ư tài cập Pháp tất đắc tự tại, biện tài vô ngại, trí tuệ minh đạt, dĩ chánh trì quốc, vô vi mạng giả.

Bấy giờ, ông vua đó, ngồi trên toà sư tử, tướng mạo đoan chánh, nhân tướng đầy đủ. Quang minh báu đẹp dùng làm mão. Thân Na la diên không thể phá hoại được. Mỗi mỗi chi phần, thảy đều viên mãn. Tánh tình từ thiện như Phổ Hiền, sinh vào trong dòng dõi vua chúa. Đối với tài và pháp đều được tự tại, biện tài vô ngại, trí huệ thông đạt, dùng lương thiện tốt trị lý quốc gia, không có ai trái lệnh vua.

Giảng: Lúc bấy giờ, ông vua đó, ngồi trên toà sư tử, tướng mạo rất đoan chánh, đầy đủ ba mươi hai tướng. Dùng quang minh báu đẹp làm mão đội trên đầu, rất thù thắng trang nghiêm. Có thân Na la diên (kiên cố) bất hoại, không có gì có thể phá hoại được. Mỗi chi phần, thảy đều viên mãn tốt đẹp. Tánh tình từ thiện giống như Bồ Tát Phổ Hiền, sinh vào trong dòng dõi vua chúa. Đối với tài và pháp đều được tự tại, không bị hạn chế. Có biện tài vô ngại, trí huệ thông đạt, dùng lương thiện tốt để trị lý quốc gia, không có người dân nào trái lệnh vua.

 

Nhĩ thời, Diêm-phù-đề vô lượng vô số bách thiên vạn ức na-do-tha chúng sanh chủng chủng quốc độ, chủng chủng tộc loại, chủng chủng hình mạo, chủng chủng y phục, chủng chủng ngôn từ, chủng chủng dục lạc, câu lai thử hội, quan sát bỉ Vương, hàm ngôn: Thử Vương thị đại trí nhân, thị phước Tu-Di, thị công đức nguyệt, trụ Bồ Tát nguyện, hành quảng đại thí.

Bấy giờ, vô lượng vô số trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh cõi Diêm Phù Đề, đủ thứ quốc gia, đủ thứ dân tộc, đủ thứ hình dáng, đủ thứ y phục, đủ thứ lời nói, đủ thứ dục lạc, đều đến hội trường bố thí đó. Quán sát ông vua đó, đều nói ông vua đó là người đại trí, là người có phước lớn như núi Tu Di, là người công đức như mặt trăng, trụ nơi nguyện Bồ Tát, thực hành bố thí rộng lớn.

Giảng: Lúc đó, vô lượng vô số trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh cõi Diêm Phù Đề, đủ thứ quốc gia, đủ thứ dân tộc, đủ thứ hình dáng, đủ thứ y phục, đủ thứ lời nói, đủ thứ dục lạc, đều đến hội trường đại bố thí đó. Quán sát ông vua đó, đều nói ông vua đó là người có đại trí huệ. Phước báo của ông ta cao lớn như núi Tu Di. Trí huệ của ông ta như công đức ánh sáng mặt trăng. Ông ta trụ nơi nguyện của Bồ Tát. Ông ta tu trì hội đại bố thí bình đẳng rộng lớn.

 

Thời, Vương kiến bỉ chư lai khất giả, sanh bi mẫn tâm, sanh hoan hỉ tâm, sanh tôn trọng tâm, sanh thiện hữu tâm, sanh quảng đại tâm, sanh tướng tục tâm, sanh tinh tấn tâm, sanh bất thoái tâm, sanh xả thí tâm, sanh chu biến tâm.

Bấy giờ, ông vua thấy những người cầu xin đó, bèn sinh tâm thương xót, sinh tâm hoan hỉ, sinh tâm tôn trọng, sinh tâm bạn lành, sinh tâm rộng lớn, sinh tâm liên tục, sinh tâm tinh tấn, sinh tâm bất thối, sinh tâm xả thí, sinh tâm khắp cùng.

Giảng: Lúc đó, ông vua thấy những người cầu xin đó, bèn sinh tâm từ bi thương xót. Ông vua đó thấy chúng sinh đến cầu xin tất cả sự bố thí như vậy, lại sinh tâm đại hoan hỉ. Tuy chúng sinh nhiều như vậy, đến cầu xin Ngài bố thí tất cả những vật dùng hằng ngày, nhưng ông vua vẫn không sinh tâm kiêu ngạo, ngược lại sinh tâm tôn trọng. Ngài cảm thấy tất cả chúng sinh đều là bạn bè tốt, cho nên sinh tâm bạn lành. Ông ta nghĩ có thể đem vật chất của mình bố thí cho chúng sinh cần, vì chúng sinh và mình là một thể. Đây là cảnh giới rộng lớn, cho nên sinh tâm rộng lớn. Ông ta lại nghĩ hiện tại thành tích bố thí của ta không sai, phải bảo trì kỷ lục, bố thí liên tục không gián đoạn, cho nên sinh tâm liên tục. Ông ta lại nghĩ việc làm bố thí cho chúng sinh, rất có ý nghĩa. Ta phải dũng mãnh tinh tấn để bố thí, cho nên sinh tâm tinh tấn. Ông ta lại nghĩ tâm bồ đề bố thí nầy, vĩnh viễn không thể thối chuyển, cho nên sinh tâm bất thối chuyển. Lại sinh tâm xả thí nội tài và ngoại tài. Lại sinh tâm khắp cùng cứu tế chúng sinh khắp cùng.

 

Thiện nam tử! Nhĩ thời, bỉ Vương kiến chư khất giả, tâm đại hoan hỉ Kinh tu du khoảnh; giả sử Đao Lợi Thiên Vương, dạ ma thiên Vương, Đâu-Xuất-Đà Thiên Vương, tận bách thiên ức na-do-tha kiếp sở thọ khoái lạc, diệc bất năng cập Thiện hóa Thiên Vương ư vô số kiếp sở thọ khoái lạc, Tự tại Thiên Vương ư vô lượng kiếp sở thọ khoái lạc, Đại phạm Thiên Vương ư vô biên kiếp sở thọ phạm lạc, Quang âm Thiên Vương ư nan tư kiếp sở thọ Thiên nhạc, biến tịnh Thiên Vương ư vô tận kiếp sở thọ Thiên nhạc, tịnh cư thiên Vương bất khả thuyết kiếp trụ tịch tĩnh lạc, tất bất năng cập.

Thiện nam tử! Bấy giờ, ông vua đó thấy những người cầu xin, tâm đại hoan hỉ, trải qua thời gian khảy móng tay, còn hơn sự khoái lạc của vua trời Đao Lợi, vua trời Dạ Ma, vua trời Đâu Suất Đà, trải qua trăm ngàn ức Na do tha kiếp. Cho đến hơn sự khoái lạc trong vô số kiếp của vua trời Thiện Hoá, trong vô lượng kiếp của vua trời Tự Tại, trong vô biên kiếp của vua trời Đại Phạm, trong nan tư kiếp của vua trời Quang Âm, trong vô tận kiếp của vua trời Biến Tịnh, trong bất khả thuyết kiếp của vua trời Tịnh Cư trụ vui tịch tĩnh.

Giảng: Thiện nam tử! Lúc đó, ông vua đó thấy tất cả những người đến cầu xin, trong tâm sinh đại hoan hỉ. Tuy trải qua thời gian khảy móng tay, còn hơn sự hưởng thọ khoái lạc của vua trời Đao Lợi, vua trời Dạ Ma, vua trời Đâu Suất Đà, trải qua trăm ngàn ức Na do tha kiếp. Cho đến hơn sự hưởng thọ khoái lạc trong vô số kiếp của vua trời Thiện Hoá, trong vô lượng kiếp của vua trời Tự Tại, trong vô biên kiếp của vua trời Đại Phạm, trong nan tư kiếp của vua trời Quang Âm, trong vô tận kiếp của vua trời Biến Tịnh, trong bất khả thuyết kiếp của vua trời Tịnh Cư trụ vui tịch tĩnh. Tại sao vậy, vì sự khoái lạc nầy là chân khoái lạc, còn khoái lạc của chư Thiên là khoái lạc giả tạm, vì có lúc sẽ hết, khi hưởng hết phước trời, thì sau đó sẽ hiện ra năm tướng suy, rất mau chóng sẽ sinh vào trong sáu nẻo luân hồi.

 

Nầy Thiện nam tử! thí như hữu nhân nhân từ hiếu hữu, tao phùng thế nan, phụ mẫu, thê tức, huynh đệ, tỷ muội tịnh giai tán thất, hốt ư khoáng dã đạo lộ chi gian nhi tướng trực ngộ, chiêm phụng phủ đối, Tình Vô yếm túc. Thời, bỉ Đại Vương kiến lai cầu giả, tâm sanh hoan hỉ, diệc phục như thị.

Thiện nam tử! Ví như có người nhân từ hiếu thuận, gặp thời loạn lạc, đều thất lạc cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, tình cờ gặp lại nhau ở giữa đường hoang vắng, vui mừng vô hạn. Bấy giờ, ông vua đó thấy người cầu xin, tâm sinh hoan hỉ, cũng lại như thế

Giảng: Thiện nam tử! Ví như có người nhân từ hiếu thuận, gặp thời thế loạn lạc. Cha mẹ, chồng vợ, con cái, anh em, chị em, thảy đều thất lạc. Tình cờ gặp lại nhau ở giữa đường, hoặc ở nơi hoang vắng, vui mừng vô hạn, không thể hình dung được, đó là tình cảm chẳng khi nào nhàm đủ.

Lúc đó, ông vua đó thấy người đến cầu xin, cũng tình hình như vậy, do đó có câu: “Làm thiện vui nhất”. Bố thí phải có tư tưởng tam luân thể không, thì mới gọi là bố thí. Thế nào là “Tam luân thể không”? Đó là chẳng thấy người thí, chẳng thấy người nhận, và chẳng thấy vật thí.

Vua Lương Võ Đế thấy Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến bèn hỏi rằng: “Tôi kiến tạo rất là nhiều chùa chiền, độ hoá rất nhiều chư Tăng, lại biên chép rất nhiều Kinh điển, công đức như vậy có nhiều chăng?

Tổ Bồ Đề Đạt Ma đáp: “Chẳng có công đức”.

Tại sao nói như vậy? Vì vua Lương Võ Đế vì cầu công đức mà tu bố thí, có tâm xí đồ, cho nên nói không có công đức. Nếu có thì chỉ là phước trời, chẳng được rốt ráo.

 

Thiện nam tử! kỳ Vương Nhĩ thời, nhân thiện tri thức, ư Phật Bồ-đề, giải dục tăng trưởng, chư căn thành tựu, tín tâm thanh tịnh, hoan hỉ viên mãn.

Nầy thiện-nam-tử ! Nhà vua ấy nhờ thiện-tri-thức nên được tăng trưởng tri-giải và chí nguyện nơi phật bồ-đề, các căn thành-tựu, tín tâm thanh-tịnh hoan-hỉ viên mãn.

Giảng: Thiện nam tử! Ông vua đó lúc bấy giờ do nhờ thuở xưa đã từng gần gũi thiện tri thức, mà tăng trưởng muốn hiểu biết về Phật bồ đề. Các căn đã thành tựu, tín tâm cũng thanh tịnh, hoan hỉ cũng viên mãn.

 

Hà dĩ cố? thử Bồ Tát cần tu chư hạnh, cầu nhất thiết trí, nguyện đắc lợi ích nhất thiết chúng sanh, nguyện hoạch Bồ-đề vô lượng diệu lạc, xả ly nhất thiết chư bất thiện tâm, thường lạc tích tập nhất thiết thiện căn, thường nguyện cứu hộ nhất thiết chúng sanh, thường lạc quan sát Tát bà nhã đạo, thường lạc tu hành nhất thiết trí Pháp, mãn túc nhất thiết chúng sanh sở nguyện, nhập nhất thiết Phật công đức đại hải, phá nhất thiết ma nghiệp hoặc chướng sơn, tùy thuận nhất thiết Như Lai giáo hạnh, hành nhất thiết trí vô chướng ngại đạo, dĩ năng thâm nhập nhất thiết trí lưu, nhất thiết pháp lưu thường hiện tại tiền, đại nguyện vô tận, vi đại trượng phu, trụ Đại nhân pháp, tích tập nhất thiết Phổ môn thiện tạng, ly nhất thiết trước, bất nhiễm nhất thiết thế gian cảnh giới, tri chư pháp tánh do như hư không.

Tại sao vậy ? Vì nhà vua là bực Bồ-Tát siêng tu các công-hạnh cầu nhứt-thiết-trí. Nguyện được lợi-ích tất cả chúng-sanh. Nguyện được bồ-đề vô-lượng diệu-lạc. Rời bỏ tất cả những tâm bất-thiện. Thường thích chứa nhóm tất cả thiện-căn. Thường nguyện cứu hộ tất cả chúng-sanh. Thường thích quán-sát đạo trí-huệ. Thường ham tu hành pháp nhứt thiết-trí. Làm thỏa mãn nguyện vọng của tất cả chúng-sanh. Vào biển lớn công-đức của tất cả Phật. Phá tất cả núi ma nghiệp hoặc chướng. Tùy thuận giáo-hạnh của tất cả Như-Lai. Thật hành đạo nhất-thiết-trí vô-ngại. Đã có thể thâm nhập dòng nhất-thiết-trí. Tất cả pháp-lưu thường hiện tiền. Đại nguyện vô-tận làm Đại-Trượng-Phu, trụ pháp đại-nhân. Chứa nhóm tất cả tạng lành phổ-môn, lìa tất cả chấp, chẳng nhiễm tất cả cảnh-giới thế-gian. Biết các pháp-tánh dường như hư-không.

Giảng: Tại sao vậy? Vì vị Bồ Tát đó siêng tu vạn hạnh, cầu được nhất thiết trí. Nguyện được lợi ích tất cả chúng sinh. Nguyện cứu hộ tất cả chúng sinh. Nguyện đắc được bồ đề vô lượng diệu lạc. Xả lìa tất cả các tâm bất thiện (mười điều ác). Thường ưa tích tập tất cả căn lành. Thường nguyện cứu hộ tất cả chúng sinh. Thường ưa quán sát đạo nhất thiết trí. Thường ưa tu hành pháp nhất thiết trí. Đầy đủ sở nguyện của tất cả chúng sinh. Nhập vào biển cả công đức của tất cả chư Phật. Phá tan núi chướng tất cả ma nghiệp hoặc. Tuỳ thuận giáo hạnh của tất cả Như Lai. Tu hành đạo nhất thiết trí không chướng ngại. Đã thâm nhập vào được dòng nhất thiết trí. Dòng tất cả pháp, thường hiện ra ở trước. Phát đại nguyện vô tận. Làm đại trượng phu. Trụ nơi pháp đại nhân. Tích tập tất cả phổ môn thiện tạng. Lìa khỏi tất cả sự chấp trước. Chẳng nhiễm tất cả cảnh giới thế gian. Ông vua đó biết tự tánh của tất cả các pháp vắng lặng như hư không.

 

Ư lai khất giả, sanh nhất tử tưởng, sanh phụ mẫu tưởng, sanh phước điền tưởng, sanh nan đắc tưởng, sanh ân ích tưởng, sanh kiên cố tưởng, sư tưởng, Phật tưởng. Bất giản phương xứ, bất trạch tộc loại, bất tuyển hình mạo

Với những người đến xin xem như con một, xem như cha mẹ, xem là phước-điền, xem là khó được, xem là ân-nhân, xem là chỗ bền chắc, xem là Thầy, là Phật. Chẳng chọn xứ sở, chẳng lựa chủng tộc, chẳng phân hình mạo.

Giảng: Đối với chúng sinh đến hội trường bố thí cầu xin, nghĩ tưởng như con một của mình. Lại nghĩ tưởng như cha mẹ đời quá khứ, chư Phật đời vị lai. Lại nghĩ tưởng như ruộng phước. Lại nghĩ tưởng khó được. Có khi muốn bố thí, mà chẳng có ai đến tiếp nhận sự bố thí của ông ta. Tại sao? Vì họ chẳng cần người khác cứu giúp. Hiện tại có chúng sinh đến cầu xin bố thí, thật là cơ hội khó được. Lại nghĩ tưởng những chúng sinh đó, ở trong đời quá khứ có ân đức đối với mình, có lợi ích. Hiện tại mình bố thí cho họ, thí ân cho họ, lợi ích cho họ, đó là việc nên làm. Lại nghĩ tưởng kiên cố. Hiện tại ta bố thí, phải có chân tâm kiên cố để bố thí, không thể bỏ dở giữa đường, có đầu không có cuối, phải làm cho đến nơi đến chốn. Lại nghĩ tưởng như sư trưởng. Những chúng sinh đó, đều là sư trưởng của mình trong đời quá khứ, đã từng dạy dỗ mình. Lại nghĩ tưởng như đức Phật. Hết thảy chúng sinh đều là hoá thân của chư Phật quá khứ, đến thành tựu tâm bố thí của ta.

Ông vua đó, tâm rất bình đẳng, chẳng lựa chọn những chúng sinh từ xứ sở nào tới, có quan hệ gì với mình? Cũng chẳng lựa chọn những chúng sinh da trắng, da đen, da vàng, hoặc da đỏ, chẳng có tâm phân biệt như vậy, mà xem mọi người đều như nhau.

 

Tùy hữu lai chí, như kỳ sở dục, dĩ Đại từ tâm, bình đẳng vô ngại, nhất thiết phổ thí, giai lệnh mãn túc: cầu ẩm thực giả, thí dữ ẩm thực; cầu y phục giả, thí dữ y phục; cầu hương hoa giả, thí dữ hương hoa; cầu man cái giả, thí dữ man cái; tràng phan, anh lạc, cung điện, viên uyển, tượng mã, xa thừa, sàng tọa, bị nhục, kim, ngân, ma-ni, chư trân bảo vật, nhất thiết khố tạng, cập chư quyến chúc, thành ấp, tụ lạc, giai tất như thị phổ thí chúng sanh.

Tùy theo chỗ muốn của họ, nhà vua vẫn một tâm từ-bi bình-đẳng vô-ngại cung cấp đầy đủ cho tất cả. Người cầu lương thực thời cho lương thực. Người xin y phục thời cho y-phục. Người xin vàng bạc thời cho vàng bạc. Nhẫn đến những người cầu xin xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa, voi ngựa, châu báu, phan lọng, hương hoa, quyến-thuộc vân-vân, nhà vua đều cấp cho tất cả.

Giảng: Cũng chẳng lựa chọn dung mạo của người đến xin, hoặc tốt, hoặc xấu, đều bố thí như nhau. Phàm là chúng sinh đến hội bố thí, tất cả đều tuỳ hỉ. Muốn gì thì bố thí cái đó, khiến cho họ toại tâm như ý, đều đại hoan hỉ. Dùng tâm đại từ, bình đẳng vô ngại, bố thí khắp tất cả, đều khiến cho họ được đầy đủ sự mong cầu. Phàm là người cầu xin thức ăn uống, thì bố thí cho thức ăn uống. Người cầu xin quần áo, thì bố thí cho quần áo. Người cầu xin hương hoa, thì bố thí cho hương hoa. Người cầu xin lọng tràng hoa, thì bố thí cho lọng tràng hoa. Cầu xin tràng phan, anh lạc, cung điện, vườn tược, voi ngựa, xe cộ, giường toà, mền nệm, vàng bạc, ma ni, tất cả các đồ châu báu, tất cả kho tàng và tất cả quyến thuộc, tất cả thành ấp, tất cả xóm làng, thảy đều bố thí khắp cho chúng sinh cần.

 

Thời, thử hội trung hữu Trưởng-giả nử, danh: bảo quang minh, dữ lục thập đồng nữ câu, đoan chánh xu diệu, nhân sở hỉ kiến, bì phu kim sắc, mục phát cám thanh, thân xuất diệu hương; khẩu diễn Phạm Âm, thượng diệu bảo y dĩ vi trang nghiêm, thường hoài tàm quý, chánh niệm bất loạn, cụ túc uy nghi, cung kính sư trưởng, thường niệm thuận hành, thậm thâm diệu hạnh, sở văn chi Pháp ức trì bất vong, tú thế thiện căn lưu nhuận kỳ tâm, thanh tịnh quảng đại do như hư không, đẳng an chúng sanh, thường kiến chư Phật, cầu nhất thiết trí.

Trong thí-hội nầy có Trưởng-Giả-Nữ tên là Bửu-Quang-Minh cùng sáu mươi đồng-nữ câu hội, hình dung đoan chánh đẹp lạ, mọi người thích thấy da màu chơn-kim, tóc và mắt màu xanh biếc thân phát mùi thơm, miệng diễn phạm-âm, bửu-y thượng diệu trang-nghiêm trên thân, thường có lòng tàm quý chánh-niệm chẳng loạn, đầy đủ oai nghi cung-kính sư-trưởng, thường nhớ thuận hành công hạnh vi-diệu thậm-thâm, những pháp đã nghe ghi nhớ chẳng quên, thiện-căn đời trước chảy nhuầu nơi tâm, thanh-tịnh quảng-đại dường như hư-không, khắp an lợi chúng-sanh, thường thấy chư Phật cầu nhất-thiết-trí.

Giảng: Lúc đó, trong hội đại bố thí đó, có người nữ trưởng giả tên là Bảo Quang Minh. Nàng ta cùng với sáu mươi đồng nữ cùng nhau đến đại hội bố thí. Diện mạo của cô ta rất đoan chánh xinh đẹp, mọi người đều thích thấy cô ta. Da của cô ta màu vàng thật, cặp mắt và tóc xanh biếc. Trên thân toả hương thơm, miệng diễn nói Phạm âm. Thân mặc y báu đẹp trang nghiêm. Cô ta thường có lòng hổ thẹn, chánh niệm thanh tịnh, chẳng có tà niệm dâm dục, nhờ đó mà tâm chẳng loạn, chẳng có vọng tưởng. Đầy đủ mọi oai nghi, rất cung kính sư trưởng. Thường hiếu thuận cha mẹ, tu hành pháp môn diệu hạnh thâm sâu của Phật nói. Pháp nghe được nhớ giữ không quên. Do nhờ căn lành đời trước, tuôn chảy thấm nhuần trong tâm, thanh tịnh rộng lớn như hư không. Bình đẳng an ổn tất cả chúng sinh, thường thấy được tất cả chư Phật, cầu nhất thiết trí.

 

Thời, bảo quang minh nữ khứ Vương bất viễn, hợp chưởng đảnh lễ, tác như thị niệm: ngã hoạch thiện lợi! ngã hoạch thiện lợi! ngã kim đắc kiến đại thiện tri thức.

Bấy giờ nàng Bửu-Quang-minh cách đức Vua không xa, chắp tay đảnh lễ, tự nghĩ rằng : Tôi được lợi lành tôi được lợi lành. Nay tôi được thấy bực thiện-tri-thức.

Giảng: Lúc đó, người nữ Bảo Quang Minh ở trước cách chỗ ông vua Nhất Thiết Pháp Âm Viên Mãn Cái không xa, chắp tay đảnh lễ, bèn nghĩ như vầy: Tôi được lợi lành lớn! Tôi được lợi lành lớn! Nay tôi gặp được vị đại thiện tri thức, thật là may mắn!

 

Ư bỉ Vương sở,  sanh Đại sư tưởng, thiện tri thức tưởng, cụ từ bi tưởng, năng nhiếp thọ tưởng. kỳ tâm chánh trực, sanh đại hoan hỉ, thoát thân anh lạc, trì phụng bỉ Vương, Tác thị nguyện ngôn:

Nơi nhà vua, nàng nghĩ là Đại-Sư, là thiện-tri-thức, là đủ từ-bi, là hay nhiếp thọ. Tâm nàng chánh-trực rất vui mừng, liền cổi anh-lạc dâng lên vua mà nguyện rằng:

Giảng: Ở chỗ ông vua đó, nghĩ tưởng như đại sư. Đại vương Ngài là sư phụ của tôi. Lại nghĩ tưởng thiện tri thức – Đại vương Ngài là thiện tri thức của tôi. Nghĩ tưởng đủ đại bi – Đại vương Ngài có tâm đại từ đại bi. Lại nghĩ tưởng được nhiếp thọ chúng sinh. Tâm nàng ngay thẳng, sinh đại hoan hỉ, bèn cởi chuỗi ngọc trên thân nàng, cầm dâng lên cho ông vua đó, nguyện nói rằng:

 

Kim thử Đại Vương vi vô lượng vô biên vô minh chúng sanh tác sở y xứ, nguyện ngã vị lai diệc phục như thị.

Nay Đại-Vương nầy làm chỗ nương cho vô-lượng vô-biên chúng sanh mê tối, nguyện ngày sau tôi cũng như vậy.

Giảng: Hiện nay đại vương đây, làm chỗ nương tựa cho vô lượng vô biên vô minh chúng sinh. Tôi nguyện ở đời vị lai, cũng được như đại vương vậy.

 

Như bỉ Đại Vương sở tri chi Pháp, sở tái chi thừa, sở tu chi đạo, sở cụ sắc tướng, sở hữu tài sản, sở nhiếp chúng hội, vô biên vô tận, nan thắng nan hoại, nguyện ngã vị lai tất đắc như thị.

Như đại-Vương đây, những pháp đã biết, thừa đã theo, đạo đã tu, sắc tướng đã đủ, tài sản đã có, chúng-hội đã nhiếp vô-biên, vô-tận, khó hơn khó hoại nguyện ngày sau tôi đều được như vậy.

Giảng: Như đại vương đây, những pháp Ngài đã biết, thừa đã theo, đạo đã tu, sắc tướng đầy đủ, hết thảy tài sản, nhiếp thọ chúng hội, hoá độ chúng sinh, vô biên vô tận, nan thắng nan hoại. Nguyện tôi ở đời vị lai, đều đắc được như vậy.

 

Tùy sở sanh xứ, giai tùy vãng sanh.

Đức vua đây sanh ở đâu tôi đều theo sanh nơi đó.

Giảng: Tuỳ chỗ đại vương sinh ra ở đâu, tôi đều sinh ra theo ở đó.

 

Nhĩ thời, Đại Vương tri thử đồng nữ phát như thị tâm, nhi cáo chi ngôn:Đồng nữ! tùy nhữ sở dục, ngã giai dữ nhữ. Ngã kim sở hữu, nhất thiết giai xả; lệnh chư chúng sanh, phổ đắc mãn túc. Thời, bảo quang minh nữ, tín tâm thanh tịnh, sanh đại hoan hỉ, tức dĩ kệ tụng nhi tán Vương ngôn:

Đức vua biết nàng ấy phát tâm như vậy nên bảo rằng : Nầy Đồng-Nữ ! Tùy ý nàng muốn ta đều cấp cho. Tất cả sở-hữu nay ta đều xả cả, cho các chúng-sanh đều được đầy đủ. Nghe đức vua nói, nàng Bửu-Quang-Minh rất hoan-hỷ tín tâm thanh-tịnh, liền nói kệ ca ngợi đức vua :

Giảng: Lúc đó, đại vương biết đồng nữ đó, phát tâm như vậy, bèn bảo rằng: Đồng nữ! Tuỳ sự mong muốn của nàng, ta đều ban tặng cho nàng. Nay ta đều thí xả hết thảy tất cả, khiến cho tất cả chúng sinh khắp được đầy đủ.

Lúc đó, nữ Bảo Quang Minh tín tâm thanh tịnh, sinh đại hoan hỉ, lập tức dùng kệ, khen ngợi công đức của đại vương rằng:

 

Vãng tích thử thành ấp                             Thuở xưa thành ấp nầy
Đại Vương vị xuất thời                              Lúc chưa có Đại-Vương
Nhất thiết bất khả lạc,                              Không có mảy-may vui
Do như ngạ quỷ xứ                                    Dường như xứ ngạ-quỷ.

Thuở xưa thành ấp nầy, khi chưa có đại vương ra đời. Thành nầy chẳng có chút vui nào, chỉ chịu đựng mọi sự thống khổ. Cuộc sống của con người giống như ở trong địa ngục, ngạ quỷ, khổ không thể tả.

 

Chúng sanh tướng sát hại,                        Chúng-sanh sát hại nhau
Thiết đạo túng dâm dật,                           Cướp trộm và dâm dật,
Lưỡng thiệt bất thật ngữ,                         Lưỡng-thiệt nói dối trá
Vô nghĩa thô ác ngôn,                               Lời thô ác vô nghĩa,

Giữa chúng sinh với nhau, không thể sống trong hoà bình, mà hổ tương giết hại lẫn nhau. Lại trộm cướp và tà dâm phóng dật, chẳng giữ quy cụ. Người với người chẳng trung hậu, chẳng nói lời chân thật, chuyên nói hai lưỡi làm cho ly gián, tạo ra thị phi, lời nói chẳng có đạo nghĩa, nói những lời vô nghĩa thô ác.

 

Tham ái tha tài vật                                    Tham lam tài vật người
Sân khuể hoài độc tâm,                             Sân hận lòng độc ác,
Tà kiến bất thiện hành,                             Tà-kiến làm điều quấy
Mạng chung đọa ác đạo.                          Chết rồi đọa ác-đạo.

Ai ai cũng đều không giữ đạo đức, tham ái tài vật của người khác. Lại có tâm sân hận, ôm lòng độc ác. Các vị chú ý! Học Phật phải minh bạch nhân quả báo ứng, không thể có tâm sân hận độc hại. Tà tri tà kiến làm nhiều điều bất thiện, khi chết đi sẽ bị đoạ vào trong ba đường ác.

 

Dĩ thị đẳng chúng sanh,                            Bởi những chúng-sanh nầy
Ngu si sở phước tế,                                    Bị ngu si che đậy
Trụ ư điên đảo kiến,                                  Ở trong điên-đảo kiến
Thiên hạn bất hàng trạch.                        Trời ít khi ban lành.

Những chúng sinh đó bị ngu si che đậy, chưa chứng mà họ đều nói đã chứng, chưa đắc mà nói đã đắc. Chẳng thường mà cho là thường, chẳng vui mà cho là vui, chẳng phải ngã mà cho là ngã, chẳng tịnh mà cho là tịnh, trụ nơi thấy điên đảo. Cho nên cảm ứng trời không mưa xuống, mưa gió thất thường, nhân dân thất thu ngũ cốc, nên không cách chi sống được, chỉ chờ đợi cái chết, đoạ lạc vào ba đường ác. Tại sao có hiện tượng nầy? Vì nghiệp lực của chúng sinh sở cảm, mà phát sinh ba nạn nhỏ hoặc ba nạn lớn. Ba nạn nhỏ là đói khát, ôn dịch, đao binh. Ba nạn lớn là lửa, nước, gió. Do đó có câu: “Lửa thiêu Sơ thiền, nước ngập Nhị thiền, gió thổi Tam thiền”. Có bài kệ rằng:
“Sáu cõi trời dục có năm tướng suy
Trên cõi tam thiền có nạn gió
Nếu tu đến cõi Phi Phi Tưởng
Chẳng bằng được vãng sinh Tây Phương”.

Trong kiếp trụ, mỗi một tiểu kiếp có ba nạn nhỏ. Khi nạn đói khát xảy đến, thì khắp nơi đều khô cằn, cây cỏ chẳng mọc, con người ăn đất để đỡ đói, hoặc ăn cỏ, rễ cây, vỏ cây, thậm chí người ăn người, đói chết vô số. Trải qua bảy năm, bảy tháng, bảy ngày, người còn sống sót không bao nhiêu. Thảm cảnh tai nạn nầy qua rồi, lại phát sinh bệnh ôn dịch, trải qua bảy tháng, bảy ngày mới ngừng, nhưng thi thể chết đầy đồng, không có thuốc gì chữa được, thậm chí bác sĩ chữa bệnh cho bệnh nhân, rồi cũng chết. Đến lúc nạn đao binh thì càng thê thảm hơn, nhìn thấy cốt nhục như kẻ thù, dùng cỏ lá làm vũ khí, gặp người giết người, gặp vật giết vật, người người tàn sát lẫn nhau, thành thế giới phong cuồng, trải qua thời gian bảy ngày, tự nhiên thanh tịnh, không còn giết nhau nữa. Những người còn lại không bao nhiêu, mọi người phát tâm hướng thiện. Lúc đó là thời kỳ kiếp giảm, tuổi thọ con người chỉ còn mười tuổi, thân cao khoảng mười tất. Bắt đầu kiếp tăng lên (một tăng một giảm là một trụ kiếp), khôi phục lại quan niệm luân lý, đạo đức nghĩa vụ. Từ từ đời sống của con người thịnh vượng, có cơm no áo ấm, an cư lạc nghiệp.

 

Dĩ vô thời vũ cố,                                         Vì không mưa phải mùa
Bách cốc tất bất sanh,                              Ngũ cốc đều chẳng mọc
Thảo mộc giai khô cảo,                             Cỏ cây nhiều khô héo
Tuyền lưu diệc càn kiệt.                            Sông suối cũng khô cạn.

Tâm con người có thể chi phối tất cả, cho nên đức Phật nói: “Tất cả do tâm tạo”. Khi tâm của con người chúng ta không tốt, thì giữa trời đất có luồng khí u ám. Nếu tâm địa lương thiện, thì giữa trời đất có một luồng khí cát tường. Đây là đạo lý tự nhiên, chứ chẳng phải là mê tín, cũng chẳng phải là nói càng, nói bậy. Cho nên mỗi cử chỉ hành động của chúng ta, đều có sự thông đạt lẫn nhau với nghiệp cảm của chúng sinh thế giới. Chúng ta tạo nghiệp thiện và nghiệp ác, giống như cái võng. Ở trong hư không giao thức với nhau, vận hành với nhau không ngừng. Tại sao trời không mưa xuống? Vì tâm người quá xấu xa, dẫn đến trời rồng nổi giận bèn bãi công, ngừng mưa xuống, cho nên không có mưa xuống.

Vì tâm con người ác đến cực điểm, chẳng có khí cát tường, chỉ có khí u ám hiện ra. Khí u ám là gì? Tôi nói lại cho rõ ràng một chút, đó là khí xấu, làm cho trời không mưa xuống, đất cũng không thể sinh cây cỏ được. Do đó: “Trời đất không mưa xuống, vạn vật cũng không sinh”. Vì chẳng có mưa xuống, nên ngũ cốc gieo trồng cũng không sinh trưởng, tất cả cây cỏ đều khô héo, biến thành củi khô. Các dòng nước cũng đều khô cạn.

 

Đại Vương vị hưng thế,                             Lúc chưa có Đại-Vương
Tân trì tất khô hạc,                                   Sông ao đều khô cạn
Viên uyển đa hài cốt,                                 Thây chết chật trong vườn
Vọng chi như khoáng dã                           Nhìn đó như đồng hoang.

Trước khi đại vương Ngài chưa ra đời, tất cả ao hồ đều khô cạn. Vườn tược rất nhiều thây cốt, nhìn giống như đồng hoang, chẳng có chút sinh khí gì.

 

Đại Vương thăng bảo vị,                           Đại-Vương lên ngôi báu
Quảng tế chư quần sanh,                         Rộng cứu những quần-sanh
Du vân bị bát phương,                              Mây mát che tám phương
Phổ vũ giai sung hiệp.                               Khắp nơi đều mưa xuống.

Từ khi đại vương lên ngôi báu, rộng cứu tế tất cả chúng sinh, như mây lành che tám phương. Do đó: “Trước trời nổi mây lên, sau đó mới mưa xuống”. Hiện tại đều tiếp thọ được sự giáo hoá của nhà vua. Cứu tế chúng sinh, giống như mưa cam lồ, tất cả mọi nơi đều được thấm nhuần. Khắp nơi mưa xuống, tất cả vạn vật đều sinh trưởng.

 

Đại Vương lâm thứ phẩm,                        Đại-Vương cai trị dân
Phổ đoạn chư bạo ngược,                         Dứt hết những ngược ác
Hình ngục giai chỉ thố,                              Hình ngục đều dẹp bỏ
Quỳnh độc tất an ổn.                                Kẻ côi cùng được an

Đại Vương Ngài dùng từ bi hỉ xả để giáo hoá nhân dân. Dứt hết tất cả các bạo ngược. Hình phạt và ngục tù đều dẹp bỏ hết, không xử dụng nữa. Những kẻ mồ côi nghèo khổ, họ đều được an ổn. Người nam goá vợ gọi là quan phu, người nữ chồng mất gọi là quả phụ, già mà không con gọi là độc, trẻ mà cha gọi là cô.

Thời kỳ Chu Văn Vương rất nhân từ, thương dân, lo cho dân, do đó có câu: “Xót thương những người cô độc bệnh tật, đều nuôi dưỡng họ”. Quốc gia thiết lập những chỗ cứu tế khắp nơi, chuyên trợ giúp những vật dụng hằng ngày cho những người nầy, khiến cho đời sống của họ được ấm no, đây là bổn phận của người làm vua vậy.

 

Vãng tích chư chúng sanh,                       Ngày trước các chúng-sanh
Các các tướng tàn hại,                              Thường tàn sát lẫn nhau
Ẩm huyết nhi đạm nhục,                           Uống máu và ăn thịt.
Kim tất khởi từ tâm.                                  Nay đều sanh lòng từ.

Ngày trước các chúng sinh, thường giết hại lẫn nhau. Lúc nạn đao binh thì dù cỏ, lá cây, cũng có thể làm vũ khí giết người được. Lúc nạn đói khát, thì chúng sinh ăn cỏ, rễ cây, vỏ cây, thậm chí ăn bùn đất, để duy trì mạng sống. Có lúc uống máu người, có lúc ăn thịt người. Cha mẹ của mình, không nhẫn tâm ăn thịt đứa con mình, mà đổi với người khác để làm thức ăn. Hiện tại thuyền nhân Việt Nam nổi trôi trên biển, lúc hết nước uống, hết thức ăn, cũng xảy ra những thảm cảnh bất nhẫn nầy, đó là địa ngục nhân gian vậy. Nhờ lòng từ bi cảm hoá của Đại Vương, mà những người ác nầy cải tà quy chánh, cũng sinh lòng từ bi.

 

Vãng tích chư chúng sanh,                       Ngày trước các chúng-sanh
Bần cùng thiểu y phục                              Nghèo cùng thiếu y-phục
Dĩ thảo tự già tế,                                        Dùng cỏ tự che thân
Cơ luy như ngạ quỷ                                   Gầy xấu như ngạ-quỷ.

Ngày trước tất cả chúng sinh, đều rất nghèo cùng, không có y phục mặc. Dùng cỏ và lá cây làm y phục để che thân. Gầy còm xấu xí giống như ngạ quỷ.

 

Đại Vương ký hưng thế                             Khi Đại-Vương trị vì
Canh mễ tự nhiên sanh,                            Lúa tốt tự-nhiên sanh
Thọ trung xuất diệu y,                              Trong cây sanh y-phục
Nam nữ giai nghiêm sức.                           Nam Nữ đều xinh đẹp

Từ khi Đại Vương ra đời, ngũ cốc lúa thóc tự nhiên sinh ra dồi dào, nhân dân an cư lạc nghiệp. Trong cây có thể hiện ra y phục đẹp, nam nữ đều có y phục mặc, mà còn trang nghiêm đẹp đẽ. Do đó: “Phong y túc thực”, mọi người đều hoan hỉ vui mừng, hết khổ hết lo, không có bệnh tật.

 

Tích nhật cạnh vi lợi,                                 Ngày trước người tham lam
Phi pháp tướng lăng đoạt                         Phi pháp lấn đoạt nhau,
Kim thời tịnh phong túc                            Nay thời đều giàu đủ
Như du Đế Thích viên.                              Như khu vườn Đế-Thích.

Ngày trước mọi người tranh nhau từng chút lợi ích. Dùng thủ đoạn bất hợp pháp, bạn tranh tôi đoạt, chẳng nói gì đến đạo đức. Ngày nay họ đều cơm no áo ấm, hết đói khát, an vui giống như đi dạo trong vườn hoa của trời Đế Thích.

 

Tích thời nhân tác ác                                Ngày trước người làm ác
Phi phần sanh tham nhiễm,                      Dâm dật sanh tham nhiễm
Tha thê cập đồng nữ                                 Vợ người và đồng-nữ
Chủng chủng tướng xâm bức.                  Cùng xâm bức lẫn nhau.

Ngày trước mọi người hoan hỉ làm việc ác, có thể nói là chẳng có điều ác nào mà chẳng làm. Đều nghĩ lung tung, sinh tâm tham nhiễm. Thấy vợ và con gái của người khác, bèn dùng đủ thứ thủ đoạn để xâm hại, bức bách, khiến cho người phẫn hận không dám nói. Những người ác đó, làm những việc thương thiên hại lý, không sợ ai, xem thường pháp luật.

 

Kim kiến tha phụ nhân                             Nay thấy vợ con người
Đoan chánh diệu nghiêm sức                    Xinh đẹp trang sức khéo
Nhi tâm vô nhiễm trước,                           Mà lòng không nhiễm trước
Do như Tri túc Thiên                                Giống như trời Tri-Túc.

Người gian dâm trước kia, nay thấy vợ con người khác, đều đoan chánh xinh đẹp nghiêm sức, trong tâm không còn tư tưởng nhiễm trước. Thấy phụ nữ lớn tuổi, thì cho rằng đó là mẹ của mình. Thấy phụ nữ trẻ trung, thì cho rằng là chị em của mình. Thấy con gái mới lớn, thì cho rằng là con gái của mình. Mọi người đều xem như vậy, thì chẳng có phiền não gì, an vui giống như cõi Trời Tri Túc. Thiên chúng cõi trời nầy, luôn luôn biết đủ, chẳng có mọi dục niệm.

 

Tích nhật chư chúng sanh                        Ngày trước các chúng-sanh
Vọng ngôn bất chân thật,                         Nói dối chẳng chơn thiệt
Phi pháp vô lợi ích,                                    Phi-pháp không lợi ích
Siểm khúc thủ nhân ý                               Nịnh hót lấy lòng người.

Ngày trước các chúng sinh, chuyên môn thích nói dối, chẳng nói lời chân thật. Chuyên môn làm những việc phi pháp, gian dâm, giết hại, trộm cướp, chẳng có gì mà không làm. Tuyệt đối không làm việc có lợi ích cho người, dùng hành vi xiểm nịnh lấy lòng người khác.

 

Kim nhật quần sanh loại,                          Nay tất cả mọi người
Tất ly chư ác ngôn,                                    Đều bỏ lời nói ác
Kỳ tâm ký nhu nhuyễn                             Lòng họ rất nhu nhuyến
Phát ngữ diệc điều thuận.                         Lời nói cũng điều thuận.

Ngày nay tất cả chúng sinh, đều đã lìa khỏi các lời nói ác. Tâm họ rất mềm mại, cũng chẳng cang cường. Lời nói cũng rất điều thuận, chẳng làm thương hại người khác. Tóm lại, chẳng phạm bốn điều ác về nghiệp miệng.

 

Tích nhật chư chúng sanh                        Ngày trước các chúng-sanh
Chủng chủng hạnh tà pháp                      Làm nhiều hạnh tà vạy
Hợp chưởng cung kính lễ,                        Chắp tay cung kính lạy
Ngưu dương khuyển đồn loại.                  Những trâu, bò, heo, dê,

Ngày xưa các chúng sinh, hoan hỉ hành đủ thứ pháp tà. Chắp tay cung kính lễ các loại chúng sinh bò dê chó heo. Họ hành theo pháp tà tri tà kiến, chẳng biết gì là chánh pháp! Ở trong bóng tối, tìm chẳng được ánh sáng trí huệ.

 

Kim văn Vương chánh pháp,                   Nay theo pháp của vua
Ngộ giải trừ tà kiến,                                   Tổ ngộ trừ tà-kiến
Liễu tri khổ lạc báo,                                  Biết rõ báo khổ vui
Tất tùng nhân duyên khởi                        Đều từ nhơn duyên khởi.

Hiện tại họ đều nghe chánh pháp nhãn tạng của đại vương Ngài nói, đều giác ngộ thấu hiểu, cho nên trừ khử hết đi tà tri tà kiến. Biết rõ luật nhân quả báo ứng khổ vui, do đó có câu:
“Trồng nhân lành kết quả lành
Trồng nhân ác kết quả ác”.

Khổ vui là do mình chiêu đến, tức cũng có nghĩa là tự làm tự chịu. Tạo ác thì thọ ác báo; làm lành thì thọ báo lành, tơ hào không sai. Tất cả hết thảy đều do nhân duyên sinh ra. Do đó có câu:
“Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt”.

Lại có thể nói:
“Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói thảy đều không”.
Tóm lại, tất cả đều không.

 

Đại Vương diễn Diệu-Âm,                         Đại-Vương diễn diệu-âm
Văn giả giai hân lạc                                   Người nghe đều vui mừng
Phạm Thích âm thanh đẳng,                    Ấm thanh của Thích, Phạm
Nhất thiết vô năng cập                              Tất cả không bằng được.

Đại Vương Ngài diễn nói pháp âm vi diệu, khiến cho người nghe đều sinh tâm vui mừng. Âm thanh của Ngài nói pháp rất thanh tịnh, giống như tiếng của Phạm Vương Đế Thích, thậm chỉ còn hơn tất cả mọi âm thanh, dù là âm thanh của Phạm Vương, Đế Thích cũng không bằng được âm thanh của Đại Vương.

 

Đại Vương chúng bảo cái,                        Đại-Vương những bửu-cái
Huýnh xứ hư không trung                        Ở cao trên không-trung
Kình dĩ lưu ly cán,                                     Cán bằng ngọc lưu-ly
Phước dĩ ma-ni võng.                                Trùm bằng lưới ma-ni,

Nữ Bảo Quang Minh nói: Các lọng báu của Đại Vương Ngài, ở cao trong hư không, giống như cái lọng trắng lớn. Cán lọng báu làm bằng lưu ly. Phía trên lọng báu che phủ lưới ma ni để nghiêm sức.

 

Kim linh tự nhiên xuất,                              Linh vàng tự nhiên phát
Như Lai hòa nhã âm,                                Tiếng Phật rất hòa nhã
Tuyên dương vi diệu Pháp                        Tuyên dương pháp vi-diệu
Trừ diệt chúng sanh hoặc.                        Diệt trừ chúng-sanh mê

Chung quanh lọng báu, có vô số linh vàng, khi gió thổi tự nhiên vang pháp âm vi diệu không thể nghĩ bàn. Âm thanh đó tức là tiếng hoà nhã trong tám âm của Như Lai. Tuyên dương pháp môn thâm sâu vi diệu, trừ diệt được nghi hoặc của tất cả chúng sinh. Trừ diệt được điên đảo của tất cả chúng sinh. Trừ diệt được phiền não của tất cả chúng sinh. Trừ diệt được tập khí của tất cả chúng sinh.

 

Thứ phục quảng diễn thuyết,                   Kế lại rộng diễn thuyết
Thập phương chư Phật sát                       Mười phương các cõi phật
Nhất thiết chư kiếp trung,                        Trong tất cả những kiếp
Như Lai tinh quyến thuộc.                        Như-Lai và quyến-thuộc.

Kế lại rộng diễn nói vô lượng pháp môn, các cõi nước chư Phật trong mười phương. Trong tất cả các kiếp, làm quyến thuộc của Như Lai, gần gũi Như Lai, cúng dường Như Lai.

 

Hựu phục thứ đệ thuyết,                          Và lại thứ đệ nói
Quá khứ thập phương sát,                       Quá-khứ mười phương cõi
Cập bỉ quốc độ trung,                               Và trong quốc-độ đó
Nhất thiết chư Như Lai.                            Tất cả các Như Lai.

Kế lại diễn nói thứ tự tất cả pháp môn, cõi nước trong quá khứ của tất cả mười phương chư Phật. Lại trong các nước đó, xuất hiện tất cả các Như Lai, giáo hoá tất cả chúng sinh.

 

Hựu xuất vi diệu âm,                                 Lại phát tiếng diệu-âm
Phổ biến Diêm-phù giới,                            Khắp cõi Diêm-Phù-Đề
Quảng thuyết nhân thiên đẳng,                Nói rộng về Nhơn Thiên
Chủng chủng nghiệp sái biệt.                   Những nghiệp làm sai khác.

Trong linh báu lại vang ra âm thanh vi diệu, khắp cùng cõi Diêm Phù. Rộng diễn nói giáo pháp của các trời người, khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ đủ thứ việc nhân quả báo ứng. Tạo đủ thứ nghiệp, thì thọ đủ thứ quả báo khác nhau.

 

Chúng sanh thính văn dĩ,                         Chúng-sanh nghe tiếng nầy
Tự tri chư nghiệp tạng,                             Tự biết những hạnh nghiệp
Ly ác cần tu hành,                                    Bỏ ác siêng tu hành
Hồi hướng Phật Bồ-đề.                             Hồi-hướng Phật bồ-đề.

Chúng sinh lắng nghe pháp nầy rồi, thì tự mình biết tất cả nghiệp tạng. Đạo lý chẳng tạo nghiệp thì chẳng thọ báo. Do đó có câu:
“Tuỳ duyên tiêu nghiệp cũ
Đừng tạo thêm nghiệp mới”.
Họ lìa khỏi tất cả các điều ác, siêng tu tất cả các điều lành. Đem căn lành tích tập hồi hướng về Phật bồ đề. Các điều ác tức là nói thị, nói phi, nói dài, nói ngắn. Do đó có câu: “Khẩu trung vô đức”, miệng chẳng có đức. Suốt ngày không việc gì làm, nói dối, nói hai lưỡi, chửi mắng, thêu dệt. Đó tức là ác nghiệp.

 

Vương phụ Tịnh Quang minh,                 Vương-phụ: Tịnh-Quang-Minh,
Vương mẫu Liên Hoa Quang,                  Vương-Mẫu: Liên-Hoa-Quang,
Ngũ trược xuất hiện thời,                         Thuở ngũ trược xuất hiện
Xứ vị trì thiên hạ.                                       Ở ngôi trị thiên-hạ.

Nữ Bảo Quang Minh nói: Vua cha của đại vương tên là Tịnh Quang Minh. Mẹ của vua tên là Liên Hoa Quang. Lúc năm trược (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược) xuất hiện, thì ở ngôi vua trị lý thiên hạ.

 

Thời hữu quảng đại viên,                          Bấy giờ có vườn rộng.
Viên hữu ngũ bách trì,                              Vườn có năm trăm ao
Nhất nhất thiên thọ nhiễu,                        Mỗi ao ngàn cây lớn
Các các hoa di phước.                              Trên cây đầy những hoa.

Lúc đó, vua có vườn rừng rộng lớn, trong vườn có năm trăm ao nước. Mỗi ao nước có ngàn cây bao quanh ao. Trên mỗi ao nước, đều có hoa sen lớn che phủ.

 

Ư kỳ trì ngạn thượng,                               Ở trên bờ ao ấy
Kiến lập thiên trụ đường,                          Xây dựng nhà ngàn cột
Lan thuẫn đẳng trang nghiêm                  Lan-can rất trang-nghiêm
Nhất thiết vô bất bị.                                  Không gì là chẳng đủ.

Trên bờ ao nước đó, có kiến lập một cái đình lớn ngàn cột trụ, hết thảy lan can đều dùng các thứ báu làm thành, đặc biệt trang nghiêm, năm quang mười màu, chói sáng loà mắt. Tất cả thiết bị đều đầy đủ, không thiếu thứ gì.

 

Mạt thế ác pháp khởi,                               Mạt-thế khởi ác-pháp
Tích niên bất hàng vũ,                              Nhiều năm chẳng có mưa
Trì lưu tất càn kiệt,                                   Sông ao đều khô cạn
Thảo thọ giai khô cảo.                               Cỏ cây cũng héo rũ.

Vào thời đại mạc pháp, sẽ có ác pháp sinh khởi, do nghiệp của chúng sinh sở cảm, nhiều năm không có mưa xuống. Nước ao hồ sông ngòi đều khô cạn hết. Tất cả cây cỏ đều khô héo. Chúng sinh không có quần áo, không có thức ăn, sự thống khổ khó tả được.

 

Vương sanh thất nhật tiền,                       Bảy ngày trước vua sanh
Tiên hiện linh thụy tướng                          Trước hiện tướng linh thoại,
Kiến giả hàm tâm niệm                             Người thấy đều nghĩ rằng
Cứu thế kim đương xuất                           Bực cứu thế sẽ hiện.

Trước bảy ngày đại vương sinh ra đời, trước hết thị hiện tướng báu điềm lành. Nhất là ai thấy được tướng điềm lành nầy, đều nghĩ rằng: Bậc cứu thế chủ sẽ xuất hiện ra đời, giải cứu khổ nạn cho chúng ta.

 

Nhĩ thời ư trung dạ                                   Bấy giờ vào giữa đêm
Đại địa lục chủng động                             Đại-địa động sáu cách
Hữu nhất bảo hoa trì                                Có một ao bửu-hoa
Quang minh do nhật hiện                         Quang-minh như trời sáng.

Lúc đó, giữa đêm khuya, đại địa có sáu thứ chấn động (chấn hống kích, thuộc về âm thanh; động dũng khởi, thuộc về hình tướng). Có một ao hoa sen báu, hiện ra ánh sáng lớn như mặt trời.

 

Ngũ bách chư trì nội,                                Trong vườn năm trăm ao
Công đức thủy sung mãn,                         Đầy nước bát công-đức,
Khô thọ tất sanh chi,                                 Cây khô đều đâm chồi
Hoa diệp giai vinh mậu.                             Hoa lá đều tươi tốt.

Trong năm trăm ao nước đó, nước công đức tràn đầy. Cây khô đều sống lại, sinh ra cành lá, hoa lá đều rất tươi tốt, trái cũng rất nhiều. Giống như hoa cỏ cây cối trong Vạn Phật Thành, không những tươi tốt, mà còn đặc biệt sum sê. Đây là cảnh giới “Vật hoa thiên bảo”.

 

Trì thủy ký doanh mãn,                            Nước ao đã đầy tràn
Lưu diễn nhất thiết xứ                              Chảy lan tất cả xứ
Phổ cập Diêm-phù địa,                              Khắp cả cõi Diêm-Phù
Mị bất giai triêm hiệp.                               Không đâu chẳng nhuần ướt.

Nước trong ao đều tràn đầy, chảy ra ngoài tất cả mọi nơi. Khắp cùng cõi Nam Diêm Phù Đề, tất cả đều thấm ướt. Trong phần đất của Vạn Phật Thánh Thành, trước kia không có nguồn nước, thật là một điều hết sức khó khăn. Hiện tại vạn Phật vân tập về Thánh thành, thì mạch nước vọt ra nước ngon ngọt, lấy không cạn, dùng không hết, thật là việc kỳ lạ không thể nghĩ bàn.

 

Dược thảo cập chư thọ,                            Dược thảo và cây cối
Bách cốc giống giá đẳng,                          Trăm thứ lúa đậu thảy
Chi diệp hoa quả thật                               Nhánh lá bông trái hột
Nhất thiết giai phồn thịnh.                        Tất cả đều sum-sê

Tất cả dược thảo và tất cả cây cối, trăm thứ lúa thóc và đậu thảy, cành lá hoa quả thật đặc biệt sum sê tươi tốt. Quả chẳng những lớn, mà cũng ngon ngọt.
Hôm nay (ngày 28/01/1979) là ngày tiết xuân âm lịch, tức cũng là ngày Tết nguyên đán. Mọi người được thêm một tuổi, thời gian cứ tăng thêm một tuổi, một tuổi, làm cho con người từ từ già đi, từ nhỏ đến lớn, trưởng thành rồi già đi. Đến lúc tuổi già, mới biết tầm quan trọng học tập Phật pháp.

Một đời người tốt nhất về chữ cần, một năm tốt nhất là mùa xuân, một ngày tốt nhất vào lúc sáng sớm. Hôm nay bắt đầu năm mới, tất cả bắt đầu làm mới. Phải phản tỉnh những việc làm xưa kia của mình, có đúng với giới luật chăng? Nếu đúng thì tiếp tục làm; nếu không đúng thì lập tức sửa đổi, do đó có câu: “Trừ cựu hoán tân”. Nghĩa là: “Sửa cũ làm mới”.
Trong Phật giáo có câu:
“Di thiên đại tội,
Nhất sám liền tiêu”.

Nghĩa là: Dù tội lỗi nhiều như núi Tu Di, một khi sám hối thì sẽ tiêu sạch. Phải kiểm tra năm vừa rồi, nếu có những lỗi lầm, thì hãy mau sám hối ở trước Phật, làm một con người mới. Do đó có câu: “Đủ thứ lỗi lầm trước kia, ví như ngày hôm qua đã chết rồi, đủ thứ về sau này, ví như ngày hôm nay mới sinh ra”. Và có câu rằng:
“Có lỗi mà không sửa, thì lỗi vẫn còn,
Có lỗi mà sửa đổi, thì sẽ hết sạch”.

Hôm nay là ngày khánh đản của Bồ Tát Di Lặc, hy vọng Bồ Tát Di Lặc sớm ngày hàng sinh xuống nhân gian. Cho nên năm mới bắt đầu ngày thứ nhất, là ngày sinh nhật của Bồ Tát Di Lặc, làm đại Phật sự, biểu thị hoan nghinh. Bồ Tát Di Lặc nhẫn nhục đệ nhứt, chúng ta phải học theo tinh thần của Bồ Tát Di Lặc, mở miệng thường cười, tuyệt đối không nóng giận. Có câu đối liễn nói rằng:
“Bụng bự hay chứa,
Chứa việc thiên hạ khó chứa.
Mở miệng liền cười,
Cười người thiên hạ đáng cười”.

Đây là mô tả về Bồ Tát Di Lặc. Bất cứ người nào, đều phải hồi quang phản chiếu, đừng cống cao ngã mạn, không thể tự đại tự mãn. Tự mình phong hoàng đế cho chính mình, coi mình cao như đỉnh núi Tu Di. Tư tưởng như thế không thể được, phải lập tức thu hồi lại. Vậy phải làm thế nào? Chúng ta phải học sự nhẫn nại, dùng sự nhẫn nại để khắc phục sự khó khăn, phải đối diện với hiện thực, tinh tấn tiến về trước, đây là sự hy vọng của tôi đối với tất cả mọi người.

 

Câu khanh cập đôi phụ                             Rãnh mương và gò nổng
Chủng chủng cao hạ xứ                            Những nơi cao và thấp
Như thị nhất thiết địa                                Tất cả những chỗ ấy
Mạc bất giai bình thản.                             Tự-nhiên bằng phẳng cả.

Đất đai trước kia, có nước giếng và nước hầm hào, có gò đồi, lồi lõm không bằng phẳng, có đủ thứ chỗ cao thấp. Tất cả những nơi như vậy, hiện tại đều bằng phẳng. Chẳng còn giếng hầm, chẳng còn gò đồi. Mưa thuận gió hoà, ngũ cốc dồi dào. Dân chúng cơm no áo ấm, an cư lạc nghiệp. Mọi người đều có lòng từ bi, quốc thái dân an.

 

Kinh cức sa lịch đẳng                                Gai gốc cát sỏi thảy
Sở hữu chư tạp uế                                     Bao nhiêu những tạp uế
Giai ư nhất niệm trung                              Đều ở trong một niệm
Biến thành chúng bảo ngọc.                     Biến thành những ngọc báu.

Cây gai cát sỏi, tất cả đủ thứ những thứ dơ bẩn, đều có thể ở trong một niệm, đều biến thành tất cả ngọc báu. Tại sao có những hiện tượng nầy? Vì nghiệp thiện sở cảm. Có cảnh giới “Năm ngày có gió, mười ngày có mưa”, gió thổi nhẹ nhàng, mưa xuống lất phất.

 

Chúng sanh kiến thị dĩ,                             Chúng-sanh thấy sự nầy
Hoan hỉ nhi tán thán,                                Hoan-hỉ mà ca ngợi
Hàm ngôn đắc thiện lợi,                            Đều nói mình được lợi
Như khát ẩm mỹ thủy                               Như khát uống nước ngọt.

Chúng sinh thấy cảnh giới đó rồi, hoan hỉ mà khen ngợi oai đức có được như vậy, đều nói đắc được lợi lành. Giống như lúc khát nước, uống được nước cam lồ ngon ngọt, chẳng những được giải khát, mà còn có thể trị bệnh.

 

Thời bỉ Quang minh vương,                      Bấy giờ vua Quang-Minh
Quyến thuộc vô lượng chúng,                  Cùng vô-lượng quyến-thuộc
Thiêm nhiên bị Pháp giá,                           Xe giá đồng du ngoạn
Du quán chư viên uyển                             Đi xem khắp khu vườn.

Lúc đó, vua Quang Minh và vô lượng quyến thuộc, đại chúng ngự xe giá cùng du ngoạn, thưởng thức xem khắp các vườn tược, để cho tinh thần sản khoái, đối với thân tâm đều có lợi ích.

 

Ngũ bách chư trì nội,                                Trong số năm trăm ao
Hữu trì danh khánh hỉ                              Có ao tên Khánh-Hỉ
Trì thượng hữu pháp đường                    Trên ao có Pháp-Đường
Phụ Vương ư thử trụ.                               Phụ-Vương ngự nơi đây.

Trong vườn tược có năm trăm ao nước, trong đó có cái ao tên là Khánh Hỉ. Phía trên ao nước có xây dựng một pháp đường. Vua cha Tịnh Quang Minh và hoàng hậu ở trong pháp đường đó.

 

Tiên Vương ngữ phu nhân:                      Tiên-Vương bảo Phu-Nhơn :
Ngã niệm thất dạ tiền,                               Ta nhớ bảy ngày trước
Trung tiêu địa chấn động                          Giữa đêm đất chấn động
Thử trung hữu quang hiện.                      Trong đây phát ánh sáng

Tiên vương Tịnh Quang Minh bảo phu nhân Liên Hoa Quang rằng: Ta nhớ bảy đêm trước, lúc nửa đêm mặt đất chấn động sáu thứ, khi chấn động, có đại quang minh hiện ra, chiếu khắp đại địa.

 

Thời bỉ hoa trì nội,                                     Bấy giờ trong ao đó
Thiên diệp liên hoa xuất,                           Mọc bông sen ngàn cánh
Quang như thiên Nhật chiếu,                   Sáng như ngàn mặt nhựt
Thượng triệt tu di đính.                            Chói đến đảnh Tu-di,

Lúc đó, từ trong ao hoa đó, sinh ra đoá hoa sen ngàn cánh. Phóng đại quang minh chiếu sáng như ngàn mặt trời. Quang minh đó, chiếu đến đỉnh núi Tu Di.

 

Kim cương dĩ vi hành,                               Cộng hoa bằng kim-cang,
Diêm-phù kim vi đài,                                  Đài hoa : vàng Diêm-Phù,
Chúng bảo vi hoa diệp,                             Cánh hoa bằng những báu
Diệu hương tác tu nhị.                              Diệu hương làm nhụy tua

Cộng hoa sen ngàn cánh đó làm bằng kim cang, đài hoa làm bằng vàng Diêm Phù Đề, lá hoa bằng các báu, hương thơm làm nhuỵ tua. Đặc biệt trang nghiêm, mà cũng rất mỹ quan.

 

Vương sanh bỉ hoa thượng,                      Đức Vua sanh trên hoa
Đoan thân kiết già tọa,                              Ngồi kiết-già đoan trang
Tướng hảo dĩ trang nghiêm                      Trang-nghiêm với tướng hảo
Thiên thần sở cung kính.                          Thiên-Thần đều cung kính.

Đồng nữ Bảo Quang Minh nói: Đại Vương Ngài sinh trên đoá hoa sen ngàn cánh. Thân ngồi kiết già rất đoan chánh, tướng tốt trang nghiêm thân (Có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp). Được Thiên Thần đều cung kính làm hộ pháp.

 

Tiên Vương đại hoan hỉ,                            Tiên-Vương rất hoan-hỉ
Nhập trì tự phủ cúc                                  Tự vào ao ẵm lên
Trì dĩ thọ phu nhân                                   Đem trao cho Phu-Nhơn
Nhữ tử ưng hân khánh                             Bà nên mừng được con.

Tiên vương thấy cảnh giới đó, sinh đại hoan hỉ. Đích thân vào trong ao nước, cung kính bồng ẵm lên, đem trao cho phu nhân nói: Con của nàng rất cát tường, nàng nên mừng được đứa con nầy.

 

Bảo Tạng giai dũng xuất,                          Liền đó tạng báu hiện,
Bảo thụ sanh diệu y,                                  Cây báu sanh diệu-y,
Thiên nhạc tấu mỹ thanh,                         Thiên-nhạc tấu mỹ-âm,
Sung mãn hư không trung.                       Sung-mãn trong hư-không.

Trong bảy báu của Chuyển Luân Thánh Vương, bảo tàng từ dưới đất vọt lên. Người có phước, do thiện nghiệp sở cảm, tất cả đều cát tường. Trên cây báu sinh ra đủ thứ y phục đẹp. Nhạc trời tấu lên tiếng hay rất êm tai, đầy khắp trong hư không.

 

Nhất thiết chư chúng sanh,                      Tất cả các chúng-sanh
Giai sanh đại hoan hỉ,                                Đều sanh lòng hoan hỉ
Hợp chưởng xưng hy hữu                         Chắp tay khen hi-hữu
Thiện tai cứu hộ thế!                                 Đấng cứu thế ra đời.

Tất cả hết thảy chúng sinh, thấy được cảnh giới đó, đều sinh tâm đại hoan hỉ. Chắp tay cung kính nói: Ít có! Ít có! Khó thấy được cảnh giới nầy. Lành thay! Đây là chủ cứu hộ thế giới, hàng sinh xuống nhân gian!

 

Vương thời phóng thân quang,                Thân vua phóng quang-minh
Phổ chiếu ư nhất thiết,                              Chiếu khắp cả mọi nơi
Năng lệnh tứ thiên hạ,                               Làm cho tứ thiên-hạ
Ám tận bệnh trừ diệt.                               Hết tối, trừ bệnh tật.

Lúc đó, thân của vua phóng ra đại quang minh, chiếu sáng khắp tất cả. Khiến cho bốn thiên hạ, những chỗ tối tăm đều không còn nữa. Lại khiến cho tất cả bệnh tật, thảy đều trừ diệt hết. Thân tâm được khoẻ mạnh, chẳng còn phiền não.

 

Dạ xoa tỳ xá đồ,                                         Dạ-Xoa, Tỳ-Xá-Xà,
Độc trùng chư ác thú,                               Độc-trùng các ác-thú
Sở dục hại nhân giả                                   Những thứ muốn hại người
Nhất thiết tự tạng nặc                               Tất cả đều ẩn trốn.

Dạ Xoa (quỷ mau lẹ) Tỳ Xá Xà (quỷ hút tinh) đều không còn nữa. Tất cả độc trùng và tất cả ác thú cũng chẳng còn nữa. Những yêu ma quỷ quái muốn hại người, lị mị vọng lượng, chúng đều tự động ẩn trốn, không dám độc hại người đời nữa.

 

Ác danh thất thiện lợi                               Tiếng xấu và thất lợi
Hoạnh sự bệnh sở trì                                Tai họa cùng bệnh tật
Như thị chúng khổ diệt,                            Tất cả khổ đều diệt
Nhất thiết giai hoan hỉ.                              Mọi người đều hoan hỉ.

Người có tiếng xấu do không làm việc thiện, thường phát sinh tai hoạ, hoặc bị bệnh tật. Những khổ hoạn như vậy, đều tiêu diệt hết sạch, được an lạc, tất cả chúng sinh đều sinh đại hoan hỉ.

 

Phàm thị chúng sanh loại,                         Phàm là chúng-sanh loại
Tướng thị như phụ mẫu,                           Xem nhau như cha mẹ
Ly ác khởi từ tâm,                                     Bỏ ác sanh lòng lành
Chuyên cầu nhất thiết trí.                         Chuyên cầu nhất-thiết-trí.

Phàm là loại chúng sinh, gặp được vua mừng rỡ như gặp được cha mẹ, sinh khởi lòng cung kính, sẽ lìa khỏi tất cả điều ác, làm tất cả điều thiện. Chuyên tâm cầu nhất thiết trí, phá trừ tất cả vô minh.

 

Quan bế chư ác thú,                                 Đóng bít các ác thú
Khai thị nhân thiên lộ,                               Mở bày đường nhân thiên
Tuyên dương Tát bà nhã,                         Tuyên dương đạo trí-huệ
Độ thoát chư quần sanh.                          Độ thoát các quần-sanh.

Đóng chặt tất cả cửa đường ác, mở bày con đường cõi người và cõi trời. Tuyên dương pháp nhất thiết trí (Tát Bà Nhạ), độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui, đến được bờ Niết Bàn bên kia.

 

Ngã đẳng kiến Đại Vương,                        Chúng tôi thấy Đại-Vương
Phổ hoạch ư thiện lợi,                               Được những lợi lành lớn
Vô quy vô đạo giả                                      Làm cho người cô cùng
Nhất thiết tất an lạc.                                 Tất cả đều an lạc.

Chúng tôi thấy được Đại Vương, khắp được tất cả lợi ích. Những kẻ nghèo cùng cô đơn không nơi nương tựa, không ai dẫn đường chỉ lối, hết thảy tất cả đều được an lạc.

 

Nhĩ thời, bảo quang minh đồng nữ, dĩ kệ tán thán nhất thiết pháp âm viên mãn cái Vương dĩ, nhiễu vô lượng tạp, hợp chưởng đảnh lễ, khúc cung cung kính, khước trụ nhất diện.

Bửu-Quang-Minh đồng-nữ nói kệ ca ngợi vua Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái rồi đi nhiễu vô-lượng vòng, cung kính đảnh lễ chắp tay đứng qua một bên.

Giảng: Lúc đó, đồng nữ Bảo Quang Minh dùng kệ khen ngợi vua Nhất Thiết Pháp Âm Viên Mãn Cái rồi, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, chắp tay đảnh lễ, cúi mình cung kính, bèn đứng qua một bên.

 

Thời, bỉ Đại Vương cáo đồng nữ ngôn: Thiện tai! đồng nữ! nhữ năng tín tri tha nhân công đức, thị vi hy hữu. Đồng nữ! nhất thiết chúng sanh, bất năng tín tri tha nhân công đức.

Đại-Vương bảo Đồng-Nữ : Lành thay ! Đồng-nữ có thể tin biết công-đức của người khác. Sự ấy rất là hi-hữu. Này Đồng-nữ ! Tất cả chúng-sanh chẳng thể tin biết công-đức của người khác.

Giảng: Lúc đó, Đại Vương bảo đồng nữ rằng: Lành thay ! Đồng nữ! Ngươi có thể tin và biết công đức của người khác, thật là ít có.
Đồng nữ! Tất cả chúng sinh, họ không thể tin biết công đức của người khác.

 

Đồng nữ! nhất thiết chúng sanh, bất tri báo ân, vô hữu trí tuệ, kỳ tâm trược loạn, tánh bất minh liễu, bản vô chí lực, hựu thoái tu hành; như thị chi nhân, bất tín bất tri Bồ Tát Như Lai sở hữu công đức thần thông trí tuệ.

Nầy đồng-nữ ! Tất cả chúng-sinh chẳng biết báo ân, không có trí-huệ, tâm họ trược loạn, tánh chẳng sáng tỏ, vốn không chí-lực lại thối thất sự tu hành. Những người như vậy chẳng tin chẳng biết thần thông trí-huệ và công-đức của Bồ-Tát và chư Phật.

Giảng: Đồng nữ! Tất cả chúng sinh không biết báo ơn cha mẹ, báo ơn sư trưởng, có ơn không biết báo đáp, thật là đáng thương, vì không có trí huệ, cho nên tâm họ trược loạn, chẳng thấu rõ tánh, lại không có chí lực, lại thối chí tu hành, thật đáng thương xót. Những người như vậy, không tin Phật pháp, không biết hết thảy công đức thần thông trí huệ của Bồ Tát và Như Lai.

 

Đồng nữ! nhữ kim quyết định cầu thú Bồ-đề, năng tri Bồ Tát như thị công đức. Nhữ kim sanh thử Diêm-phù-đề trung, phát dũng mãnh tâm, phổ nhiếp chúng sanh, công bất đường quyên, diệc đương thành tựu như thị công đức.

Nay đồng-nữ quyết định cầu đến bồ-đề, biết được công-đức của Bồ-Tát như vậy. Ngươi sanh trong Diêm-Phù-Đề này phát tâm dũng-mãnh nhiếp khắp chúng-sanh công chẳng uổng bỏ, rồi đây ngươi cũng sẽ thành-tựu công đức như vậy.

Giảng: Đồng nữ! Nay ngươi quyết định hướng về cầu bồ đề, biết được công đức của Bồ Tát như vậy. Nay ngươi sinh trong cõi Diêm Phù Đề nầy, phát tâm dũng mãnh, nhiếp khắp tất cả chúng sinh, công đức đó chẳng luống qua, ngươi cũng sẽ thành tựu công đức như vậy.

 

Vương tán nữ dĩ, dĩ vô giá bảo y, thủ tự thụ dữ Bảo quang đồng nữ tinh kỳ quyến thuộc, nhất nhất cáo ngôn: Nhữ trước thử y.

Đức Vua khen đồng-nữ xong, tự tay cầm bửu y vô-giá trao cho đồng-nữ và quyến-thuộc của đồng-nữ mà bảo từng người rằng : ngươi mặc y nầy.

Giảng: Vua Nhất Thiết Pháp Viên Mãn Cái khen ngợi đồng nữ Bảo Quang Minh rồi, bèn đem y báu vô giá, tự tay cầm đưa cho đồng nữ Bảo Quang Minh và quyến thuộc của đồng nữ. Sau đó bảo từng người rằng: “Các ngươi hãy mặc y nầy”.

 

Thời, chư đồng nữ song tất trước địa, lưỡng thủ thừa phủng, trí ư đảnh thượng, nhiên hậu nhi trước; ký trước y dĩ, hữu nhiễu ư Vương, chư bảo y trung phổ xuất nhất thiết tinh tú quang minh. Chúng nhân kiến chi, hàm tác thị ngôn: thử chư nữ đẳng, giai tất đoan chánh, như tịnh dạ Thiên tinh tú trang nghiêm.

Các đồng-nữ quỳ gối hai tay lãnh y để trên đầu rồi mới mặc. Mặc y xong đồng hữu nhiễu quanh đức Vua. Trong những bửu-y đó phát ra quang-minh tất cả tinh tú. Mọi người thấy thế đều nói rằng các đồng-nữ nầy đều đoan chánh như sao sáng trong đêm tốt trời.

Giảng: Lúc đó, tất cả các đồng nữ quỳ xuống, hai tay cầm lấy y báu, để trên đầu, biểu thị sự cung kính tiếp nhận, rồi mới mặc vào. Mặc y xong, mọi người đều đi nhiễu bên phải ông vua vô lượng vòng. Trong các y báu, đều phát ra quang minh tất cả tinh tú. Mọi người thấy rồi, đều nói như vầy: “Những người nữ nầy, đều rất đoan chánh trang nghiêm, như sao sáng trong bầu trời”.

 

Thiện nam tử! Nhĩ thời nhất thiết pháp âm viên mãn cái Vương giả, khởi dị nhân hồ? kim Tỳ Lô Giá Na Như Lai, ưng, chánh đẳng giác thị dã. Quang minh vương giả, Tịnh Phạn Vương thị.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa đó vua Nhất-Thiết-Pháp-Ấm-Viên-Mãn-Cái, chính là đức Tỳ-Lô Giá Na Như-Lai hiện nay vậy. Quang-Minh-Vương thuở xưa đó, nay là Tịnh-Phạn-Vương.

Giảng: Chủ Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa nói với Thiện Tài đồng tử: “Thiện nam tử! Vua Nhất Thiết Pháp Âm Viên Mãn Cái thuở đó, ngươi có biết là ai không? Ngài chính là Tỳ Lô Giá Na (pháp thân của Phật Thích Ca) Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ngày nay vậy. Vua Quang Minh, là vua Tịnh Phạn ngày nay.

 

Liên Hoa Quang phu nhân giả, Ma Da Phu nhân thị. Bảo quang đồng nữ giả, tức ngã thân thị.

Liên-Hoa-Quang Phu-Nhân, nay là Ma-Ha Ma-Gia Phu-Nhân. Bửu-Quang-Minh Đồng-nữ chính là thân ta đây.

Giảng: Phu nhân Liên Hoa Quang, là phu nhân Ma Gia ngày nay. Đồng nữ Bảo Quang Minh, tức là thân ta đây.

 

Kỳ Vương Nhĩ thời dĩ tứ nhiếp Pháp sở nhiếp chúng sanh, tức thử hội trung nhất thiết Bồ Tát thị, giai ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển, hoặc trụ sơ địa nãi chí Thập Địa, cụ chủng chủng đại nguyện, tập chủng chủng trợ đạo, tu chủng chủng diệu hạnh, bị chủng chủng trang nghiêm, đắc chủng chủng thần thông, trụ chủng chủng giải thoát, ư thử hội trung xứ ư chủng chủng diệu pháp cung điện.

Những chúng-sanh được đức Vua dùng pháp tứ nhiếp để nhiếp thọ, nay đây là những Bồ-Tát bất-thối-chuyển trong pháp-hội nầy, hoặc bậc sơ-địa nhẫn đến bậc thập-địa, đủ đại-nguyện, nhóm trợ-đạo, tu diệu-hạnh, đủ trang nghiêm, được thần-thông, trụ giải-thoát, nay ở trong hội nầy ở nơi những cung-điện diệu-pháp.

Giảng: Lúc đó, vua dùng bốn pháp nhiếp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) để nhiếp thọ tất cả chúng sinh, tức là tất cả Bồ Tát trong hội hiện tại nầy đây, đều được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Hoặc trụ Sơ địa (Hoan hỉ địa), cho đến Thập địa (Pháp vân địa). Đầy đủ các thứ đại nguyện. Tích tập đủ thứ trợ đạo. Tu đủ thứ diệu pháp. Đầy đủ các thứ trang nghiêm. Đắc được đủ thứ thần thông. An trụ đủ thứ giải thoát. Đang ở trong pháp hội nầy, ở nơi đủ thứ diệu pháp cung điện”.

 

Nhĩ thời, khai phu nhất thiết thọ hoa chủ dạ thần, vi Thiện tài đồng tử, dục trọng tuyên thử giải thoát nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Chủ-Da-Thần Khai-Phu-Nhất-Thiết-Thọ-Hoa, muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-tử mà nói kệ rằng :

Giảng: Lúc đó, Chủ Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa, vì Thiện Tài đồng tử, muốn tường thuật lại nghĩa giải thoát nầy, mà nói kệ rằng:

 

Ngã hữu quảng đại nhãn,                         Ta có quảng đại-nhãn
Phổ kiến ư thập phương,                          Thấy khắp cả mười phương
Nhất thiết sát hải trung                             Trong tất cả sát-hải
Ngũ thú Luân-hồi giả.                               Ngũ thú luân-hồi thảy

Chủ Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa nói: Ta có mắt trí huệ rộng lớn, thấy khắp tất cả chúng sinh mười phương. Lại thấy khắp trong tất cả biển cõi, chúng sinh thọ luân hồi trong năm cõi.

 

Diệc kiến bỉ chư Phật,                               Cũng thấy chư Phật đó
Bồ-đề thụ hạ tọa                                       Ngồi dưới cội bồ-đề
Thần thông biến thập phương                 Thần-thông khắp mười phương
Thuyết Pháp độ chúng sanh.                    Thuyết pháp độ chúng-sanh.

Cũng thấy được tất cả chư Phật, đang ngồi ở dưới cội bồ đề thành đạo. Thần thông rộng lớn đầy khắp mười phương, thuyết pháp độ thoát tất cả chúng sinh. Chứng được thiên nhãn thông, mới có được cảnh giới nầy.

 

Ngã hữu thanh tịnh nhĩ,                           Ta có thanh-tịnh-nhĩ
Phổ văn nhất thiết thanh,                         Nghe khắp tất cả tiếng
Diệc văn Phật thuyết Pháp                       Cũng nghe Phật thuyết pháp
Hoan hỉ nhi tín thọ.                                   Hoan-hỉ tin thọ-trì.

Ta có tai thanh tịnh viên mãn vô ngại, nghe khắp tất cả tiếng trong mười phương, cũng nghe tất cả chư Phật thuyết pháp, nghe rồi hoan hỉ mà tin thọ pháp của chư Phật nói, y pháp tu hành.

 

Ngã hữu tha tâm trí,                                 Ta có tha-tâm trí
Vô nhị vô sở ngại,                                      Không hai không chướng-ngại
Năng ư nhất niệm trung,                          Có thể trong một niệm
Tất liễu chư tâm hải.                                 Biết rõ tất cả tâm.

Ta có trí huệ tha tâm thông, không hai không chướng ngại. Có thể trong một niệm, hoàn toàn thấu rõ biển tâm của tất cả chúng sinh. Vọng tâm của chúng sinh như biển cả, không có bờ mé, lúc nào cũng sinh khởi sóng vọng tưởng, chẳng khi nào bình tĩnh.

 

Ngã đắc tú mạng trí                                  Ta được túc-mạng-trí
Năng tri nhất thiết kiếp,                            Biết được tất cả kiếp
Tự thân cập tha nhân,                              Thân mình và người khác
Phân biệt tất minh liễu.                             Phân biệt đều rõ ràng :

Ta đắc được trí huệ túc mạng thông, biết được trong tất cả kiếp. Thân mạng mình và người khác, rõ ràng phân biệt được. Túc mạng thông tức là biết tất cả nhân duyên trong quá khứ.

 

Ngã ư nhất niệm tri,                                  Khoảng một niệm ta biết
Sát hải vi trần kiếp,                                   Sát-hải vi-trần kiếp
Chư Phật cập Bồ Tát,                               Chư Phật và Bồ-Tát
Ngũ đạo chúng sanh loại.                          Chúng-sanh trong ngũ-đạo.

Ta một niệm biết được, biển cõi kiếp số nhiều như hạt bụi, tất cả chư Phật và tất cả Bồ Tát, cùng với loại chúng sinh năm đường, sự phát nguyện và hành đạo của các Ngài, tạo nghiệp chướng và thọ quả báo.

 

Ức tri bỉ chư Phật                                     Nhớ biết chư Phật kia
Thủy phát Bồ-đề nguyện                          Tối sơ phát đại-nguyện
Nãi chí tu chư hạnh,                                  Nhẫn đến tu các hạnh
Nhất nhất tất viên mãn                             Mỗi mỗi đều viên mãn.

Ta nhớ biết tất cả chư Phật đó, biết các Ngài thuở xưa phát đại nguyện bồ đề, cho đến tu tất cả các hạnh, mỗi mỗi thảy đều viên mãn, chẳng có gì mà chẳng thành công.

 

Diệc tri bỉ chư Phật                                   Cũng biết chư Phật kia
Thành tựu Bồ-đề đạo                                Thành-tựu bồ-đề đạo
Dĩ chủng chủng phương tiện,                   Dùng các môn phương-tiện
Vi chúng chuyển pháp luân.                     Vì chúng chuyển pháp-luân.

Ta cũng biết tất cả chư Phật đó, làm thế nào thành tựu đạo bồ đề! Dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, để vì chúng sinh chuyển đại pháp luân, diễn nói pháp vi diệu không thể nghĩ bàn.

 

Diệc tri bỉ chư Phật,                                  Cũng biết chư phật kia
Sở hữu chư thừa hải,                                Có bao nhiêu thừa-hải.
Chánh pháp trụ cửu cận,                         Chánh-pháp trụ lâu gần
Chúng sanh độ đa thiểu.                           Chúng-sanh độ nhiều ít.

Ta cũng biết tất cả chư Phật đó, hết thảy các biển thừa đại thừa và tiểu thừa. Lại biết chánh pháp trụ thế gian lâu mau? Chúng sinh độ được bao nhiêu?

 

Ngã ư vô lượng kiếp                                  Ta trong vô-lượng kiếp
Tu tập thử pháp môn                                Tu tập pháp-môn nầy
Ngã kim vi nhữ thuyết                               Nay ta vì ngươi nói
Phật tử nhữ ưng học.                                Phật-tử phải siêng học

Ta trong vô lượng kiếp, tu tập pháp môn nầy. Nay ta vì ngươi nói pháp môn nầy. Phật tử ! Hi vọng ngươi nên học pháp môn giải thoát nầy.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát xuất sanh quảng đại hỉ quang minh giải thoát môn. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, thân cận cúng dường nhất thiết chư Phật, nhập nhất thiết trí Đại nguyện hải, mãn nhất thiết Phật chư nguyện hải; đắc dũng mãnh trí, ư nhất Bồ Tát địa, phổ nhập nhất thiết Bồ Tát địa hải; đắc thanh tịnh nguyện, ư nhất Bồ Tát hạnh, phổ nhập nhất thiết Bồ Tát hạnh hải; đắc tự tại lực, ư nhất Bồ Tát giải thoát môn, phổ nhập nhất thiết Bồ Tát giải thoát môn hải.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết môn giải-thoát bồ-tát xuất-sanh-quảng đại-hỉ quang-minh nầy, như chư đại Bồ-Tát thân-cận cúng dường tất cả chư Phật vào biển nhất-thiết-trí đại-nguyện, viên mãn những nguyện-hải của chư Phật. Được trí dũng-mãnh nơi một bồ-tát-địa vào khắp tất cả bồ-tát-địa-hải. Được thanh-tịnh-nguyện nơi một bồ-tát hạnh vào khắp tất cả bồ-tát-hạnh hải. Được tự tại-lực nơi một bồ-tát giải thoát-môn vào khắp tất cả bồ-tát giải thoát-môn-hải.

Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát sinh ra quảng đại hỉ quang minh nầy. Như các đại Bồ Tát gần gũi cúng dường tất cả chư Phật. Vào biển đại nguyện nhất thiết trí. Viên mãn biển nguyện của tất cả chư Phật. Đắc được trí huệ dũng mãnh. Nơi một địa của Bồ Tát, vào khắp biển địa của tất cả Bồ Tát. Đắc được nguyện thanh tịnh. Nơi một hạnh của Bồ Tát hạnh, vào khắp biển hạnh của tất cả Bồ Tát. Đắc được lực tự tại. Nơi một môn giải thoát của Bồ Tát, vào khắp biển môn giải thoát của tất cả Bồ Tát.

 

Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Giảng: Những pháp môn nầy, ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó?

 

Thiện nam tử! thử đạo tràng trung, hữu nhất dạ Thần, danh: đại nguyện tinh tấn lực cứu hộ nhất thiết chúng sanh.

Nầy Thiện-nam-tử ! Trong đạo-tràng nầy có một Dạ-Thần tên là Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Trong đạo tràng nầy, có một vị Dạ Thần tên là Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh.

 

Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà giáo hóa chúng sanh, lệnh thú A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề? vân hà nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát? vân hà thừa sự nhất thiết Như Lai? vân hà tu hành nhất thiết Phật Pháp?

Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào giáo-hóa chúng-sanh khiến đến vô thượng bồ-đề ? Thế nào nghiêm-tịnh tất cả cõi phật ? Thế nào thừa sự tất cả Như-Lai ? Thế nào tu hành tất cả phật-pháp ?

Giảng: Ngươi hãy đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào giáo hoá chúng sinh? Khiến cho họ hướng về A nậu đa la tam miệu tam bồ đề? Làm thế nào nghiêm tịnh tất cả cõi Phật? Làm thế nào hầu hạ tất cả Như Lai? Làm thế nào tu hành tất cả Phật pháp?

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Thiện-Tài đồng-tử đảnh lễ chân Dạ-Thần, hữu nhiễu vô-số vòng, ân cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi tìm cầu vị thiện tri thức khác.