Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 12

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 12

— o0o —

QUYỂN BẢY MƯƠI BA

38. DẠ THẦN ĐẠI NGUYỆN TINH TẤN
LỰC CỨU HỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SINH

PHÓ THÁC THỨ 38 – BẤT ĐỘNG ĐỊA

Đây là Bất động địa thứ tám, là trí không phân biệt, thế vận liên tục. Tương ưng phiền não, vì không thể động, là Bất động địa. Vô công dụng đạo, thừa đại nguyện lực, vì khắp cứu hộ. Là đại nguyện tinh tấn lực cứu hộ tất cả chúng sinh.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử vãng đại nguyện tinh tấn lực cứu hộ nhất thiết chúng sanh dạ Thần sở, kiến bỉ dạ Thần tại Đại chúng trung, tọa phổ Hiện-Nhất-Thiết cung điện ma-ni Vương tạng sư tử chi tọa

Thiện-Tài đến chỗ Dạ-Thần Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh. Thấy Dạ-Thần nầy ở trong đại-chúng ngồi tòa sư-tử Phổ-Hiện-Nhứt-Thiết-Cung-Điện-Ma-Ni-Vương-Tạng. Lưới ma-ni-bửu che phía trên.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ biệt vị Dạ Thần Khai Phu Nhất Thiết Thụ Hoa, để đi đến chỗ vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, thấy vị Dạ Thần đó ở trong đại chúng, ngồi toà sư tử Hiện khắp tất cả cung điện ma ni vương tạng,

 

Phổ hiện Pháp giới quốc độ ma-ni bảo võng di phước kỳ thượng,

hiện nhật, nguyệt, tinh tú ảnh tượng thân,

hiện tùy chúng sanh tâm phổ lệnh đắc kiến thân,

hiện đẳng nhất thiết chúng sanh hình tướng thân,

hiện vô biên quảng đại sắc tướng hải thân,

hiện phổ Hiện-Nhất-Thiết uy nghi thân,

hiện phổ ư thập phương thị hiện thân,

hiện phổ điều nhất thiết chúng sanh thân,

hiện quảng vận tốc tật thần thông thân,

hiện lợi ích chúng sanh bất tuyệt thân,

hiện thường du hư không lợi ích thân,

Lưới báu ma ni phổ hiện pháp giới quốc độ che phủ phía trên.

Dạ-Thần nầy hiện thân nhựt nguyệt tinh tú ảnh tượng.

Hiện thân tùy tâm chúng-sanh khiến tất cả đều thấy.

Hiện thân đồng hình tướng của tất cả chúng-sanh.

Hiện thân sắc-tướng-hải rộng lớn vô-biên.

Hiện thân khắp tất cả oai nghi.

Hiện thân thị-hiện khắp mười phương.

Hiện thân đều phục khắp tất cả chúng-sanh.

Hiện thân vận thần-thông quảng đại nhanh chóng.

Hiện thân lợi ích chúng sanh chẳng dứt.

Hiện thân thường đi trên hư-không để làm lợi ích.

Lưới báu ma ni phổ hiện pháp giới quốc độ che phủ phía trên toà báu để nghiêm sức. Vị Dạ Thần thị hiện hai mươi bốn thứ thân, đều có sự hiển bày của mỗi thân. Đầu tiên hiện mười thứ thân, là hoá thân ứng cơ nhiếp hoá. Kế đến hiện sáu thứ thân, là ứng pháp thành hạnh thân. Sau đó hiện tám thứ thân, là ly chướng khế lý thân.

1. Thị hiện thân hình bóng như mặt trời, mặt trăng, tinh tú.

2. Thị hiện thân tuỳ tâm chúng sinh, khắp khiến cho được thấy.

3. Thị hiện thân đồng với tất cả hình tướng chúng sinh.

4. Thị hiện thân vô biên biển sắc tướng rộng lớn.

5. Thị hiện thân khắp hiện tất cả oai nghi.

6. Thị hiện thân thị hiện khắp trong mười phương.

7. Thị hiện thân điều phục khắp tất cả chúng sinh.

8. Thị hiện thân rộng vận thần thông mau chóng.

9. Thị hiện thân lợi ích chúng sinh không dứt.

10. Thị hiện thân thường du hành hư không để làm lợi ích.

 

Hiện-Nhất-Thiết Phật sở đảnh lễ thân,

hiện tu tập nhất thiết thiện căn thân,

hiện thọ trì Phật Pháp bất vong thân,

hiện thành mãn Bồ Tát Đại nguyện thân,

hiện quang minh sung mãn thập phương thân,

hiện pháp đăng phổ diệt thế ám thân,

Hiện thân đảnh lễ tại chỗ tất cả Phật.

Hiện thân tu tập tất cả thiện-căn.

Hiện thân thọ-trì phật-pháp chẳng quên.

Hiện thân thành mãn đại-nguyện bồ-tát.

Hiện thân quang-minh sung mãn mười phương.

Hiện thân pháp-đăng khắp dứt tối tăm thế-gian.

Giảng: 1. Thị hiện thân đảnh lễ tất cả chư Phật.

2. Thị hiện thân tu tập tất cả căn lành.

3. Thị hiện thân thọ trì Phật pháp không quên.

4. Thị hiện thân thành tựu viên mãn đại nguyện Bồ Tát.

5. Thị hiện thân quang minh sung mãn mười phương.

6. Thị hiện thân ngọn đèn pháp khắp diệt đen tối thế gian.

 

hiện liễu Pháp như huyễn tịnh trí thân,

hiện viễn ly trần ám pháp tánh thân,

hiện phổ trí chiếu pháp minh liễu thân,

hiện cứu cánh vô hoạn vô nhiệt thân,

hiện bất khả tự hoại kiên cố thân,

hiện vô sở trụ Phật lực thân,

hiện vô phân biệt ly nhiễm thân,

hiện bổn thanh tịnh pháp tánh thân.

Hiện thân tịnh-trí biết pháp như huyễn.

Hiện thân pháp-tánh xa lìa trần nhiễm.

Hiện thân phổ-trí chiếu pháp rõ ràng.

Hiện thân rốt ráo không khổ không nóng.

Hiện thân kiên-cố chẳng bị ngăn trở phá hoại.

Hiện thân phật-lực vô-sở-trụ.

Hiện thân vô-phân-biệt ly nhiễm.

Hiện thân pháp-tánh bổn thanh-tịnh.

Giảng: 1. Thị hiện thân trí huệ thanh tịnh rõ pháp như huyễn.

2. Thị hiện thân pháp tánh xa lìa bụi trần đen tối.

3. Thị hiện thân phổ trí chiếu pháp thấu rõ.

4. Thị hiện thân rốt ráo không hoạn nạn không nóng bứt.

5. Thị hiện thân kiên cố không thể trở ngại phá hoại.

6. Thị hiện thân Phật lực không chỗ trụ.

7. Thị hiện thân không phân biệt lìa nhiễm.

8. Thị hiện thân pháp tánh vốn thanh tịnh.

 

Thời, Thiện tài đồng tử kiến như thị đẳng Phật sát vi trần số sái biệt thân, nhất tâm đảnh lễ, cử thể đầu địa, lương cửu nãi khởi, hợp chưởng chiêm ngưỡng. Ư thiện tri thức sanh thập chủng tâm.

Thiện-Tài thấy phật-sát vi-trần-số thân sai-biệt như vậy, liền nhất tâm đảnh lễ mọp đầu giây lâu mới đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng, nơi thiện-tri-thức phát khởi mười tâm.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy thân khác biệt như vậy, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, một lòng đảnh lễ rất kiền thành, năm thể sát đất rất cung kính, trải qua thời gian rất lâu mới đứng dậy, cung kính chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan vị Chủ Dạ Thần mắt chẳng tạm rời.

 

Hà đẳng vi thập? sở vị: ư thiện tri thức sanh đồng kỷ tâm, lệnh ngã tinh cần biện nhất thiết trí trợ đạo Pháp cố

Một là nơi thiện-tri-thức sanh tâm đồng với mình, vì làm cho mình siêng năng làm xong pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí.

Giảng: Thiện Tài đồng tử đối với thiện tri thức, sinh ra mười thứ tâm cung kính: Những gì là mười thứ tâm? Đó là:
1. Đối với thiện tri thức, sinh tâm đồng như chính mình, chẳng có phân biệt đó đây, vì thiện tri thức khiến cho ta không giải đãi, tinh cần biện lý pháp trợ đạo nhất thiết trí.

 

Ư thiện tri thức sanh thanh tịnh tự nghiệp quả tâm, thân cận cúng dường sanh thiện căn cố

Hai là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thanh-tịnh tự nghiệp quả, vì thân cận cúng-dường sanh thiện căn.

Giảng: 2. Đối với thiện tri thức sinh tâm thanh tịnh tự nghiệp quả, vì thấy được thiện tri thức, thì giống như thiện tri thức tu nghiệp thanh tịnh, đắc được quả thanh tịnh, ta gần gũi thiện tri thức, cúng dường thiện tri thức, khiến cho ta sinh ra tất cả căn lành.

 

Ư thiện tri thức sanh trang nghiêm Bồ Tát hạnh tâm, lệnh ngã tốc năng trang nghiêm nhất thiết Bồ Tát hạnh cố

Ba là nơi thiện-tri-thức sanh tâm trang-nghiêm bồ-tát-hạnh, vì khiến tôi có thể mau trang-nghiêm tất cả bồ-tát-hạnh.

Giảng: 3. Đối với thiện tri thức sinh tâm trang nghiêm Bồ Tát hạnh, vì thiện tri thức tu pháp môn lục độ vạn hạnh, khiến cho ta mau được trang nghiêm tất cả Bồ Tát hạnh.

 

Ư thiện tri thức sanh thành tựu nhất thiết Phật Pháp tâm, dụ hối ư ngã lệnh tu đạo cố

Bốn là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thành-tựu tất cả phật-pháp, vì dạy dỗ tôi tu hành đạo hạnh.

Giảng: 4. Đối với thiện tri thức, sinh tâm thành tựu tất cả Phật pháp, vì thiện tri thức dạy dỗ ta, giáo hoá ta, khiến cho ta tu hành đạo Vô Thượng Giác, đắc được giải thoát.

 

Ư thiện tri thức sanh năng sanh tâm, năng sanh ư ngã vô thượng pháp cố

Năm là nơi thiện-tri-thức sanh tâm năng sanh, vì có thể sanh pháp vô-thượng cho tôi.

Giảng: 5. Đối với thiện tri thức, sinh tâm hay sinh, vì khiến cho ta sinh tâm pháp bồ đề vô thượng.

 

Ư thiện tri thức sanh xuất ly tâm, lệnh ngã tu hành Phổ Hiền Bồ Tát sở hữu hạnh nguyện nhi xuất ly cố

Sáu là nơi thiện-tri-thức sanh tâm xuất ly, vì khiến tôi tu hành những hạnh nguyện của Phổ-Hiền Bồ-Tát mà xuất ly.

Giảng: 6. Đối với thiện tri thức, sinh tâm xuất ly, vì khiến cho ta tu hành hết thảy hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền mà được thoát khỏi ba cõi.

 

Ư thiện tri thức sanh cụ nhất thiết phước trí hải tâm, lệnh ngã tích tập chư bạch pháp cố

Bảy là nơi thiện-tri-thức sanh tâm tròn đủ tất cả phước trí, vì khiến tôi chứa nhóm những pháp lành.

Giảng: 7. Đối với thiện tri thức, sinh tâm đầy đủ tất cả biển phước trí, vì thiện tri thức khiến cho ta tích tập các pháp trắng tịnh (pháp thanh tịnh).

 

Ư thiện tri thức sanh tăng trưởng tâm, lệnh ngã tăng trưởng nhất thiết trí cố

Tám là nơi thiện-tri-thức sanh tâm tăng trưởng, vì khiến tôi tăng trưởng nhất-thiết-trí.

Giảng: 8. Đối với thiện tri thức, sinh tâm tăng trưởng, vì hay khiến cho ta tăng trưởng nhất thiết trí.

 

Ư thiện tri thức sanh cụ nhất thiết thiện căn tâm, lệnh ngã chí nguyện đắc viên mãn cố

Chín là nơi thiện-tri-thức sanh tâm đầy đủ tất cả thiện-căn, vì khiến tôi được viên mãn chí nguyện.

Giảng: 9. Đối với thiện tri thức, sinh tâm đầy đủ tất cả căn lành, vì hay khiến cho ta chí nguyện mau chóng được viên mãn.

 

Ư thiện tri thức sanh năng thành biện Đại lợi ích tâm, lệnh ngã tự tại an trụ nhất thiết Bồ Tát Pháp cố, thành nhất thiết trí đạo cố, đắc nhất thiết Phật Pháp cố.

Mười là nơi thiện-tri-thức sanh tâm thành xong lợi ích lớn, vì khiến tôi tự-tại an trụ tất cả bồ-tát pháp, được thành đạo nhất-thiết-trí, được thành tất cả phật pháp.

Giảng: 10. Đối với thiện tri thức, sinh tâm thành tựu làm được lợi ích lớn, vì hay khiến cho ta tự tại an trụ tất cả Bồ Tát pháp, đắc được vô sinh pháp nhẫn, thành tựu đạo nhất thiết trí, đắc được tất cả Phật pháp.

 

Thị vi thập. Phát thị tâm dĩ, đắc bỉ dạ Thần dữ chư Bồ-tát Phật sát vi trần số đồng hành. Sở vị:

Thiện-Tài phát mười tâm nầy rồi, thời được phật-sát vi-trần-số đồng hạnh với Dạ-Thần cùng chư Bồ-Tát. Những là :

Giảng: Đó là mười thứ tâm mà Thiện Tài đồng tử sinh ra. Đó là:

Thiện Tài đồng tử phát tâm như vậy rồi, đắc được đồng hạnh vị Dạ Thần đó với các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Lược nói có tám mươi bốn thứ đồng hạnh. Đồng có bốn ý nghĩa:

1. Người, pháp, không hai, đồng với tất cả pháp giới.

2. Nhân, quả, không hai, đồng với tất cả chư Phật.

3. Ta, người, không hai, đồng với tất cả Bồ Tát.

4. Nhiễm, tịnh, không hai, đồng với tất cả chúng sinh.

 

Đồng niệm, tâm thường ức niệm thập phương tam thế nhất thiết Phật cố

Đồng niệm, vì tâm thường ghi nhớ thập phương tam thế tất cả chư Phật.

Giảng: 1. Đồng niệm, vì trong tâm thường nghĩ nhớ mười phương ba đời tất cả chư Phật.

 

Đồng tuệ, phân biệt quyết liễu nhất thiết pháp hải sái biệt môn cố

Đồng huệ, vì phân-biệt quyết rõ tất cả pháp-hải sai-biệt-môn.

Giảng: 2. Đồng huệ, vì phân biệt quyết rõ tất cả biển pháp môn khác nhau.

 

Đồng thú, năng chuyển nhất thiết chư Phật Như Lai diệu pháp luân cố

Đồng xu hướng, vì có thể chuyển tất cả diệu-pháp-luân của chư Phật Như-Lai.

Giảng: 3. Đồng hướng về, vì hay chuyển bánh xe pháp vi diệu của tất cả chư Phật Như Lai.

 

Đồng giác, dĩ đẳng không trí phổ nhập nhất thiết tam thế gian cố

Đồng giác ngộ, vì dùng trí khắp hư-không vào khắp tất cả ba thế-gian.

Giảng: 4. Đồng giác, vì dùng trí huệ đồng hư không vào khắp tất cả ba đời, khiến cho ba đời bình đẳng.

 

Đồng căn, thành tựu Bồ Tát thanh Tịnh Quang minh trí tuệ căn cố

Đồng căn, vì thành-tựu bồ-tát thanh-tịnh quang-minh trí-huệ-căn.

Giảng: 5. Đồng căn, vì thành tựu Bồ Tát thanh tịnh quang minh trí huệ căn.

 

Đồng tâm, thiện năng tu tập vô ngại công đức, trang nghiêm nhất thiết Bồ Tát đạo cố

Đồng tâm, vì khéo tu tập được công-đức vô-ngại trang-nghiêm tất cả bồ-tát-đạo.

Giảng: 6. Đồng tâm, vì khéo tu tập vô ngại công đức trang nghiêm, hay trang nghiêm tịnh đạo của tất cả Bồ Tát tu hành.

 

Đồng cảnh, phổ chiếu chư Phật sở hạnh cảnh cố

Đồng cảnh, vì chiếu khắp cảnh sở hành của chư Phật.

Giảng: 7. Đồng cảnh, vì chiếu khắp cảnh sở hành của tất cả chư Phật.

 

Đồng chứng, đắc nhất thiết trí chiếu thật tướng hải Tịnh Quang minh cố

Đồng chứng, vì được nhất-thiết-trí chiếu thiệt-tướng-hải tịnh-quang-minh.

Giảng: 8. Đồng chứng, vì chứng được nhất thiết trí, chiếu khắp biển thật tướng thanh tịnh quang minh.

 

Đồng nghĩa, năng dĩ trí tuệ liễu nhất thiết pháp chân thật tánh cố

Đồng nghĩa, vì có thể dùng trí-huệ biết tánh chân thiệt của tất cả pháp.

Giảng: 9. Đồng nghĩa, vì hay dùng trí huệ thấu rõ tánh chân thật của tất cả pháp.

 

Đồng dũng mãnh, năng hoại nhất thiết chướng ngại sơn cố

Đồng dũng-mãnh, vì có thể phá hoại tất cả núi chướng-ngại.

Giảng: 10. Đồng dũng mãnh, vì phá hoại được tất cả núi lớn chướng ngại.

 

Đồng sắc thân, tùy chúng sanh tâm thị hiện thân cố

Đồng sắc-thân, vì tùy chúng-sanh tâm mà hiện thân.

Giảng: 11. Đồng sắc thân, vì tuỳ thuận tâm ý chúng sinh thị hiện tất cả sắc thân trang nghiêm.

 

Đồng lực, cầu nhất thiết trí Bất-thoái-chuyển cố

Đồng lực, vì cầu nhất-thiết-trí chẳng thối-chuyển.

Giảng: 12. Đồng lực, vì cầu nhất thiết trí chẳng thối chuyển tâm bồ đề.

 

Đồng vô úy, kỳ tâm thanh tịnh như hư không cố

Đồng vô-úy, vì tâm thanh-tịnh như hư-không.

Giảng: 13. Đồng vô uý, vì tâm thanh tịnh như hư không.

 

Đồng tinh tấn, ư vô lượng kiếp hành Bồ Tát hạnh vô giải quyện cố

Đồng tinh-tấn, vì trong vô-lượng kiếp thật hành bồ-tát-hạnh không mỏi lười.

Giảng: 14. Đồng tinh tấn, vì trong vô lượng kiếp hành Bồ Tát hạnh không khi nào giải đãi mệt mỏi.

 

Đồng biện tài, đắc pháp vô ngại trí quang minh cố

Đồng biện-tài, vì được pháp vô-ngại trí quang-minh.

Giảng: 15. Đồng biện tài, vì đắc được pháp vô ngại trí, quang minh chiếu khắp tất cả chúng sinh.

 

Đồng vô đẳng, thân tướng thanh tịnh siêu thế gian cố

Đồng vô-đẳng, vì thân-tướng thanh-tịnh siêu thế-gian.

Giảng: 16. Đồng vô đẳng, vì thân tướng thanh tịnh hơn trời người thế gian.

 

Đồng ái ngữ, lệnh nhất thiết chúng sanh giai hoan hỉ cố

Đồng ái-ngữ, vì làm cho tất cả chúng-sanh đều hoan-hỉ.

Giảng: 17. Đồng ái ngữ, vì khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, xa lìa phiền não.

 

Đồng Diệu-Âm, phổ diễn nhất thiết pháp môn hải cố

Đồng diệu-âm, vì diễn nói khắp tất cả pháp-môn.

Giảng: 18. Đồng diệu âm, vì khắp diễn tất cả biển pháp môn.

 

Đồng mãn âm, nhất thiết chúng sanh tùy loại giải cố

Đồng mãn-âm, vì tất cả chúng-sanh tùy theo loài mà đều hiểu.

Giảng: 19. Đồng mãn âm, vì pháp âm viên mãn nầy, tất cả chúng sinh tuỳ loài đều hiểu được.

 

Đồng tịnh đức, tu tập Như Lai tịnh công đức cố

Đồng tịnh-đức, vì tu tập công-đức thanh-tịnh của Như-Lai.

Giảng: 20. Đồng tịnh đức, vì tu tập công đức thanh tịnh của Như Lai.

 

Đồng trí địa, nhất thiết Phật sở thọ pháp luân cố

Đồng trí-địa, vì lãnh thọ pháp-luân nơi tất cả Phật.

Giảng: 21. Đồng trí địa, vì tất cả chư Phật sở thọ pháp luân, hay y pháp thọ trì.

 

Đồng phạm hạnh, an trụ nhất thiết Phật cảnh giới cố

Đồng phạm-hạnh, vì an-trụ cảnh-giới của tất cả Phật.

Giảng: 22. Đồng phạm hạnh, vì an trụ cảnh giới thanh tịnh của tất cả chư Phật.

 

Đồng đại từ, niệm niệm phổ phước nhất thiết quốc độ chúng sanh hải cố

Đồng đại-từ, vì niệm niệm che khắp tất cả quốc-độ chúng-sanh hải.

Giảng: 23. Đồng đại từ, vì niệm niệm che khắp tất cả cõi nước biển chúng sinh.

 

Đồng đại bi, phổ vũ Pháp vũ nhuận trạch nhất thiết chư chúng sanh cố

Đồng đại-bi, vì khắp mưa pháp-vũ thấm nhuần tất cả chúng-sanh.

Giảng: 24. Đồng đại bi, vì khắp mưa xuống tất cả pháp vũ, thấm nhuần tất cả chúng sinh.

 

Đồng thân nghiệp, dĩ phương tiện hành giáo hóa nhất thiết chư chúng sanh cố

Đồng thân nghiệp, vì dùng phương-tiện hạnh giáo-hóa tất cả chúng-sanh.

Giảng: 25. Đồng thân nghiệp, vì dùng hạnh phương tiện khéo léo, giáo hoá tất cả chúng sinh.

 

Đồng ngữ nghiệp, dĩ tùy loại âm diễn thuyết nhất thiết chư pháp môn cố

Đồng ngữ-nghiệp, vì dùng tùy loại âm diễn nói tất cả pháp-môn.

Giảng: 26. Đồng lời nghiệp, vì dùng loại âm thanh tuỳ thuận chúng sinh, diễn nói tất cả các pháp môn, điều phục tất cả chúng sinh.

 

Đồng ý nghiệp, phổ nhiếp chúng sanh trí nhất thiết trí cảnh giới trung cố

Đồng ý-nghiệp, vì nhiếp khắp chúng-sanh để trong cảnh-giới nhất-thiết-trí.

Giảng: 27. Đồng ý nghiệp, vì khắp nhiếp trì tất cả chúng sinh để trong cảnh giới nhất thiết trí.

 

Đồng trang nghiêm, nghiêm tịnh nhất thiết chư Phật sát cố

Đồng trang-nghiêm, vì nghiêm-tịnh tất cả cõi Phật.

Giảng: 28. Đồng trang nghiêm, vì hay trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật.

 

Đồng thân cận, hữu Phật xuất thế giai thân cận cố

Đồng thân-cận, vì có Phật xuất-thế đều gần-gũi.

Giảng: 29. Đồng gần gũi, vì phàm là có Phật xuất hiện ra đời, đều đến gần gũi Phật, cúng dường Phật.

 

Đồng khuyến thỉnh, thỉnh nhất thiết Phật chuyển pháp luân cố

Đồng khuyến thỉnh, vì thỉnh tất cả phật chuyển pháp-luân.

Giảng: 30. Đồng thỉnh mời, vì thỉnh mời tất cả chư Phật mười phương ba đời, thường chuyển bánh xe pháp.

 

Đồng cúng dường, thường lạc cúng dường nhất thiết Phật cố

Đồng cúng-dường, vì thường thích cúng-dường tất cả Phật.

Giảng: 31. Đồng cúng dường, vì thường thích cúng dường tất cả chư Phật.

 

Đồng giáo hóa, điều phục nhất thiết chư chúng sanh cố

Đồng giáo-hóa, vì điều phục tất cả chúng-sanh.

Giảng: 32. Đồng giáo hoá, vì giáo hoá điều phục tất cả các chúng sinh.

 

Đồng quang minh, chiếu liễu nhất thiết chư pháp môn cố

Đồng quang-minh, vì chiếu rõ tất cả pháp-môn.

Giảng: 33. Đồng quang minh, vì chiếu rõ tất cả các pháp môn.

 

Đồng tam muội, phổ tri nhất thiết chúng sanh tâm cố

Đồng tam-muội, vì biết khắp tất cả tâm chúng-sanh.

Giảng: 34. Đồng tam muội, vì khắp biết tất cả tâm niệm chúng sinh.

 

Đồng sung biến, dĩ tự tại lực sung mãn nhất thiết chư Phật sát hải tu chư hạnh cố

Đồng sung mãn cùng khắp, vì dùng sức tự-tại sung mãn tất cả phật-độ tu những công hạnh.

Giảng: 35. Đồng khắp cùng, vì dùng sức tự tại, đầy khắp tất cả biển cõi nước chư Phật, tu hành các hạnh.

 

Đồng trụ xứ, trụ chư Bồ-tát đại thần thông cố

Đồng trụ xứ, vì an trụ đại thần-thông của chư Bồ-Tát.

Giảng: 36. Đồng trụ xứ, vì có thể trụ trong cảnh đại thần thông của tất cả Bồ Tát.

 

Đồng quyến thuộc, nhất thiết Bồ Tát cọng chỉ trụ cố

Đồng quyến-thuộc, vì tất cả Bồ-Tát đồng ở chung.

Giảng: 37. Đồng quyến thuộc, vì cùng ở chung với tất cả Bồ Tát.

 

Đồng nhập xứ, phổ nhập thế giới vi tế xứ cố

Đồng nhập xứ, vì vào khắp chỗ vi-tế của thế-giới.

Giảng: 38. Đồng nhập xứ, vì khắp vào tất cả chỗ vi tế của thế giới.

 

Đồng tâm lự, phổ tri nhất thiết chư Phật sát cố

Đồng tâm lự, vì biết khắp tất cả những Phật-sát.

Giảng: 39. Đồng tâm lự, vì biết khắp tất cả cõi nước của chư Phật.

 

Đồng vãng nghệ, phổ nhập nhất thiết Phật sát hải cố

Đồng qua đến, vì vào khắp tất cả phật-sát-hải.

Giảng: 40. Đồng đi đến, vì vào khắp biển cõi của tất cả chư Phật.

 

Đồng phương tiện, tất hiện nhất thiết chư Phật sát cố

Đồng phương-tiện, vì đều hiện tất cả những phật-sát.

Giảng: 41. Đồng phương tiện, vì đều hiện tất cả cõi nước chư Phật.

 

Đồng siêu thắng, ư chư Phật sát giai vô bỉ cố

Đồng siêu-thắng, vì nơi những phật-sát đều vô-tỉ.

Giảng: 42. Đồng siêu thắng, vì đối với cõi nước chư Phật đều không thể sánh bằng.

 

Đồng bất thoái, phổ nhập thập phương vô chướng ngại cố

Đồng bất-thối, vì vào khắp mười phương không chướng-ngại.

Giảng: 43. Đồng bất thối, vì vào khắp mười phương thế giới không chướng ngại, vĩnh viễn không thối bồ đề tâm.

 

Đồng phá ám, đắc nhất thiết Phật thành Bồ-đề trí đại quang minh cố

Đồng phá ám, vì được tất cả Phật thành bồ-đề trí đại quang-minh.

Giảng: 44. Đồng phá tối, vì đắc được trí đại quang minh thành bồ đề của tất cả chư Phật.

 

Đồng vô sanh nhẫn, nhập nhất thiết Phật chúng hội hải cố

Đồng vô-sanh-nhẫn, vì nhập tất cả phật chúng-hội-hải.

Giảng: 45. Đồng vô sinh nhẫn, vì vào trong đạo tràng chúng hải hội của tất cả chư Phật.

 

Đồng biến nhất thiết chư Phật sát võng, cung kính cúng dường bất khả thuyết sát chư Như Lai cố

Đồng cùng khắp, vì cung kính cúng-dường chư Như-Lai trong bất-khả-thuyết cõi khắp tất cả những phật-sát-võng.

Giảng: 46. Đồng khắp tất cả lưới cõi chư Phật, vì cung kính cúng dường các Như Lai nhiều bất khả thuyết cõi Phật.

 

Đồng trí chứng, liễu tri bỉ bỉ Pháp môn hải cố

Đồng trí chứng, vì biết rõ những pháp-môn-hải.

Giảng: 47. Đồng trí chứng, vì biết rõ hết thảy biển pháp môn.

 

Đồng tu hành, thuận hành nhất thiết chư pháp môn cố

Đồng tu hành, vì thuận hành tất cả những pháp-môn.

Giảng: 48. Đồng tu hành, vì thuận hành tất cả nghĩa lý pháp môn, y pháp tu hành.

 

Đồng hy cầu, ư thanh tịnh Pháp thâm lạc dục cố

Đồng mong cầu, vì nơi pháp thanh-tịnh rất thích muốn.

Giảng: 49. Đồng mong cầu, vì đối với pháp thanh tịnh rất ưa muốn, y giáo phụng hành.

 

Đồng thanh tịnh, tập Phật công đức nhi dĩ trang nghiêm thân, khẩu, ý cố

Đồng thanh-tịnh, vì họp phật-công-đức mà trang nghiêm thân khẩu ý.

Giảng: 50. Đồng thanh tịnh, vì tích tập công đức của Phật để trang nghiêm thân miệng ý ba nghiệp của chính mình.

 

Đồng Diệu ý, ư nhất thiết Pháp trí minh liễu cố

Đồng diệu-ý, vì trí biết rõ tất cả pháp.

Giảng: 51. Đồng diệu ý, vì đối với tất cả pháp trí đều thấu rõ, chẳng chướng ngại.

 

Đồng tinh tấn, phổ tập nhất thiết chư thiện căn cố

Đồng tinh-tấn, khắp vì nhóm tất cả thiện-căn.

Giảng: 52. Đồng tinh tấn, vì khắp tích tập tất cả các căn lành, hồi hướng cho pháp giới chúng sinh.

 

Đồng tịnh hạnh, thành mãn nhất thiết Bồ Tát hạnh cố;

Đồng tịnh-hạnh, vì thành mãn tất cả bồ-tát-hạnh.

Giảng: 53. Đồng tịnh hạnh, vì thành tựu viên mãn tất cả Bồ Tát hạnh.

 

Đồng vô ngại, liễu nhất thiết pháp giai vô tướng cố

Đồng vô-ngại, vì rõ biết tất cả pháp đều vô-tướng.

Giảng: 54. Đồng vô ngại, vì thấu rõ tất cả pháp đều vô tướng.

 

Đồng thiện xảo, ư chư Pháp trung trí tự tại cố

Đồng thiện-xảo, vì trí tự-tại trong tất cả pháp.

Giảng: 55. Đồng thiện xảo, vì trong tất cả các pháp, trí huệ nhậm vận tự tại, chẳng có mọi chướng ngại.

 

Đồng tùy lạc, tùy chúng sanh tâm hiện cảnh giới cố;

Đồng tùy-lạc, vì tâm chúng-sanh mà hiện cảnh-giới.

Giảng: 56. Đồng tuỳ thích, vì tuỳ tâm tất cả chúng sinh, mà hiện tất cả cảnh giới.

 

Đồng phương tiện, thiện tập nhất thiết sở ưng tập cố

Đồng phương-tiện, vì khéo tu tập tất cả điều nên tập.

Giảng: 57. Đồng phương tiện, vì khéo học tập tất cả pháp môn đáng tu tập.

 

Đồng hộ niệm, đắc nhất thiết Phật sở hộ niệm cố;

Đồng hộ-niệm, vì được tất cả Phật hộ-niệm.

Giảng: 58. Đồng hộ niệm, vì được tất cả chư Phật thường hộ niệm căn lành.

 

Đồng nhập địa, đắc nhập nhất thiết Bồ Tát địa cố

Đồng nhập-địa, vì được vào tất cả bồ-tát-địa.

Giảng: 59. Đồng nhập địa, vì vào được tất cả Bồ Tát địa.

 

Đồng sở trụ, an trụ nhất thiết Bồ Tát vị cố

Đồng sở-trụ, vì an-trụ tất cả bồ-tát-vị.

Giảng: 60. Đồng sở trụ, vì an trụ tất cả Bồ Tát vị.

 

Đồng kí biệt, nhất thiết chư Phật thọ kỳ kí cố

Đồng ký-biệt, vì tất cả chư Phật thọ ký cho.

Giảng: 61. Đồng thọ ký, vì được tất cả chư Phật đến thọ ký.

 

Đồng tam muội, nhất sát-na trung phổ nhập nhất thiết tam muội môn cố

Đồng tam-muội, vì trong một sát-na vào khắp tất cả môn tam-muội.

Giảng: 62. Đồng tam muội, vì trong một sát na vào khắp tất cả môn tam muội.

 

Đồng kiến lập, thị hiện chủng chủng chư Phật sự cố

Đồng kiến-lập, vì thị-hiện những phật-sự.

Giảng: 63. Đồng kiến lập, vì thị hiện đủ thứ các Phật sự.

 

Đồng chánh niệm, chánh niệm nhất thiết cảnh giới môn cố

Đồng chánh-niệm, vì chánh-niệm tất cả cảnh giới-môn.

Giảng: 64. Đồng chánh niệm, vì chánh niệm tất cả môn cảnh giới.

 

Đồng tu hành, tận vị lai kiếp tu hành nhất thiết Bồ Tát hạnh cố

Đồng tu hành, vì tận vị-lai kiếp tu hành bồ-tát-hạnh.

Giảng: 65. Đồng tu hành, vì hết kiếp thuở vị lai, tu hành tất cả Bồ Tát hạnh.

 

Đồng tịnh tín, ư chư Như Lai vô lượng trí tuệ cực hân lạc cố

Đồng tịnh-tín, vì rất mến thích vô-lượng trí-huệ của đức Như-Lai.

Giảng: 66. Đồng tịnh tín, vì rất vui mừng đối với vô lượng trí huệ của các Như Lai.

 

Đồng xả ly, diệt trừ nhất thiết chư chướng ngại cố

Đồng xả-ly, vì diệt trừ tất cả những chướng-ngại.

Giảng: 67. Đồng xả lìa, vì diệt trừ hết tất cả nhân duyên các ám chướng.

 

Đồng bất thoái trí, dữ chư Như Lai trí tuệ đẳng cố

Đồng trí bất-thối, vì trí-huệ đồng với chư Như-Lai.

Giảng: 68. Đồng bất thối trí, vì trí bất thối A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, trí huệ bình đẳng với các Như Lai.

 

Đồng thọ sanh, ưng hiện thành thục chư chúng sanh cố

Đồng thọ-sanh, vì ứng hiện thành thục các chúng-sanh.

Giảng: 69. Đồng thọ sinh, vì đáng dùng thân gì độ được họ, liền ứng hiện thân đó để vì họ thuyết pháp.

 

Đồng sở trụ, trụ nhất thiết trí phương tiện môn cố

Đồng chỗ an trụ, vì an trụ môn phương-tiện nhứt thiết-trí.

Giảng: 70. Đồng sở trụ, vì trụ nhất thiết trí pháp môn phương tiện.

 

Đồng cảnh giới, ư Pháp giới cảnh đắc tự tại cố

Đồng cảnh-giới, vì nơi pháp-giới cảnh được tự-tại.

Giảng: 71. Đồng cảnh giới, vì đối với cảnh giới của pháp giới, đều được nhậm vận tự tại, chẳng có tơ hào miễn cưỡng.

 

Đồng vô y, vĩnh đoạn nhất thiết sở y tâm cố

Đồng vô-y, vì dứt hẳn tâm sở-y.

Giảng: 72. Đồng không nương tựa, vì dứt hẳn tất cả chỗ tâm nương tựa.

 

Đồng thuyết Pháp, dĩ nhập chư pháp bình đẳng trí cố

Đồng thuyết pháp, vì đã nhập trí bình-đẳng của các pháp.

Giảng: 73. Đồng thuyết pháp, vì đã vào các pháp môn trí huệ bình đẳng.

 

Đồng cần tu, thường mông chư Phật sở hộ niệm cố

Đồng siêng tu, thường được chư Phật hộ niệm.

Giảng: 74. Đồng siêng tu, vì thường được chư Phật hộ niệm và gia trì.

 

Đồng thần thông, khai ngộ chúng sanh lệnh tu nhất thiết Bồ Tát hạnh cố

Đồng thần-thông, vì khai ngộ chúng-sanh khiến tu tất cả bồ-tát-hạnh.

Giảng: 75. Đồng thần thông, vì khai ngộ tất cả chúng sinh khiến cho họ tu hành tất cả Bồ Tát hạnh.

 

Đồng thần lực, năng nhập thập phương thế giới hải cố;

Đồng thần-lực, vì có thể nhập thập phương thế-giới-hải.

Giảng: 76. Đồng thần lực, vì hay vào biển mười phương thế giới, không có chướng ngại.

 

Đồng Đà-la-ni, phổ chiếu nhất thiết tổng trì hải cố

Đồng đà-la-ni, vì chiếu khắp tất cả tổng-trì-hải.

Giảng: 77. Đồng Đà La Ni, vì chiếu khắp tất cả biển tổng trì.

 

Đồng bí mật pháp, liễu tri nhất thiết tu-đa-la trung diệu Pháp môn cố

Đồng pháp bí-mật, vì biết rõ diệu-pháp-môn trong tất cả tu-đa-la.

Giảng: 78. Đồng bí mật pháp, vì biết rõ nghĩa lý áo diệu pháp môn trong tất cả Tu Đa La.

 

Đồng thậm thâm Pháp, giải nhất thiết pháp như hư không cố

Đồng pháp thậm thâm, vì hiểu tất cả pháp như hư-không.

Giảng: 79. Đồng pháp thâm sâu, vì thấu hiểu tất cả pháp như hư không, không chẳng chỗ có.

 

Đồng quang minh, phổ chiếu nhất thiết chư thế giới cố

Đồng quang-minh, vì chiếu khắp tất cả thế-giới.

Giảng: 80. Đồng quang minh, vì khắp chiếu tất cả các thế giới.

 

Đồng hân lạc, tùy chúng sanh tâm nhi vi khai thị lệnh hoan hỉ cố;

Đồng ưa thích, vì tùy tâm chúng-sanh mà khai-thị khiến họ hoan-hỉ.

Giảng: 81. Đồng vui mừng, vì tuỳ tâm chúng sinh mà vì họ khai thị, khiến cho họ hoan hỉ.

 

Đồng chấn động, vi chư chúng sanh hiện thần thông lực phổ động thập phương nhất thiết sát cố;

Đồng chấn động, vì các chúng-sanh hiện thần-thông-lực động khắp tất cả cõi mười phương.

Giảng: 82. Đồng chấn động, vì tất cả chúng sinh thị hiện sức thần thông, chấn động khắp mười phương tất cả cõi Phật.

 

Đồng bất hư, kiến văn ức niệm giai tất lệnh kỳ tâm điều phục cố;

Đồng chẳng luống uổng, vì thấy nghe nghĩ nhớ đều làm cho tâm được điều phục.

Giảng: 83. Đồng bất hư, vì phàm là thấy nghe, hoặc nghĩ nhớ, thảy đều khiến cho tâm được điều phục, thanh tịnh không vọng niệm.

 

Đồng xuất ly, mãn túc nhất thiết chư Đại nguyện hải, thành tựu Như Lai thập lực trí cố.

Đồng xuất ly, vì đầy đủ tất cả những đại-nguyện-hải, thành tựu mười trí-lực của Như-Lai.

Giảng: 84. Đồng xuất ly, thoát khỏi ba cõi, vì đầy đủ tất cả các biển đại nguyện, thành tựu mười lực trí huệ của Như Lai.

 

Thời, Thiện tài đồng tử quan sát đại nguyện tinh tấn lực cứu hộ nhất thiết chúng sanh dạ Thần, khởi thập chủng thanh tịnh tâm, hoạch như thị đẳng Phật sát vi trần số đồng Bồ Tát hạnh; ký hoạch thử dĩ, tâm chuyển thanh tịnh, thiên đản hữu kiên, đảnh lễ kỳ túc, nhất tâm hợp chưởng, dĩ kệ tán viết:

Thiện-Tài đồng-tử quán-sát Chủ-Dạ-Thần Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh, Phát khởi mười tâm thanh-tịnh, được phật-sát vi-trần-số đồng bồ-tát-hạnh như vậy, tâm càng thanh-tịnh hơn, trịch vai áo phía hữu, đảnh lễ chắp tay nói kệ rằng :

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử quán sát vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, bèn sinh khởi mười thứ tâm thanh tịnh, đắc được đồng Bồ Tát hạnh như vậy nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Đắc được đồng hạnh như vậy rồi, tâm càng thanh tịnh hơn, y bày vai bên phải, đảnh lễ vị Dạ Thần đó, một lòng chắp tay, mà dùng kệ để khen ngợi vị Dạ Thần rằng:

 

Ngã phát kiên cố ý                                     Tôi phát ý kiên-cố
Chí cầu vô thượng giác                             Chí cầu vô-thượng-giác
Kim ư thiện tri thức                                  Nay nơi thiện-tri-thức
Nhi khởi tự kỷ tâm.                                    Khởi tâm là chính mình.

Thiện Tài đồng tử nói: Con phát đạo tâm kiên cố, chí nguyện cầu đạo Vô Thượng Giác. Nay con đối với thiện tri thức, mà sinh khởi tâm đồng thiện tri thức như đồng tâm của chính mình, chẳng có sự phân biệt đó đây.

 

Dĩ kiến thiện tri thức                                 Bởi thấy thiện-tri-thức
Tập vô tận bạch pháp,                              Họp vô-tận pháp lành
Diệt trừ chúng tội cấu,                              Diệt trừ những tội nhơ
Thành tựu Bồ-đề quả.                              Thành tựu quả bồ-đề.

Nhờ con gặp được thiện tri thức, tu tập vô tận pháp trắng tịnh. Diệt trừ được tất cả pháp nhiễm ô các tội dơ, thành tựu quả bồ đề.

 

Ngã kiến thiện tri thức,                             Tôi thấy thiện-tri-thức
Công đức trang nghiêm tâm,                    Tâm công-đức trang-nghiêm
Tận vị lai sát kiếp,                                      Tận trần kiếp vị-lai
Cần tu sở hạnh đạo.                                  Siêng tu đạo bồ-tát.

Con thấy thiện tri thức rồi, bèn sinh công đức trang nghiêm tâm. Con nguyện hết kiếp cõi vị lai, siêng tu đạo pháp mà thiện tri thức tu hành, vĩnh viễn không thối chuyển.

 

Ngã niệm thiện tri thức,                            Tôi nhớ thiện-tri-thức
Nhiếp thọ nhiêu ích ngã                            Nhiếp thọ lợi ích tôi
Vi ngã tất thị hiện,                                     Vì tôi mà thị hiện
Chánh giáo chân thật Pháp                      Giáo-pháp chánh chơn thiệt.

Con nghĩ nhớ thiện tri thức, nhiếp thọ con, lợi ích cho con, đối với con có lợi ích rất lớn. Vì con mà thị hiện tất cả pháp môn phương tiện, dạy con chánh giáo pháp môn chân thật, khiến cho con minh bạch nghĩa lý chân thật.

 

Quan bế chư ác thú,                                 Đóng bít các ác-thú
Hiển thị nhân thiên lộ,                               Mở bày đường nhơn thiên
Diệc thị chư Như Lai,                                Cũng chỉ đường đại-trí
Thành nhất thiết trí đạo.                          Của chư Phật đã thành.

Đóng chặt tất cả các đường ác, hiển bày đường cõi trời và cõi người. Cũng bày đạo thành tựu nhất thiết trí huệ của tất cả các Như Lai.

 

Ngã niệm thiện tri thức,                            Tôi nghĩ thiện-tri-thức
Thị Phật công đức tạng,                           Là phật-công-đức-tạng
Niệm niệm năng xuất sanh                       Niệm niệm hay xuất sanh
Hư không công đức hải.                            Biển hư-không công-đức.

Con nhớ thiện tri thức, là công đức tạng sở thành tựu của Phật. Trong niệm niệm hay sinh ra biển công đức nhiều như hư không.

 

Dữ ngã Ba-la-mật,                                     Cho tôi ba-la-mật
Tăng ngã nan tư phước,                           Thêm tôi phước vô-tận
Trưởng ngã tịnh công đức                        Lớn tôi tịnh công-đức
Lệnh ngã quan Phật tăng.                        Khiến tôi đội mão phật.

Thiện tri thức cho con pháp Ba La Mật, tăng thêm cho con phước báo không thể nghĩ bàn. Tăng trưởng công đức thanh tịnh của con, khiến cho con đội mão của Phật.

 

Ngã niệm thiện tri thức,                            Tôi nghĩ thiện-tri-thức
Năng mãn Phật trí đạo                             Hay mãn đạo phật-trí,
Thệ nguyện thường y chỉ,                         Thệ nguyện thường y-chỉ
Viên mãn bạch tịnh Pháp                         Viện-mãn pháp bạch tịnh.

Con nhớ thiện tri thức, hay viên mãn đạo trí huệ của Phật. Con thệ nguyện thường y chỉ thiện tri thức, tu hành viên mãn pháp trắng tịnh.

 

Ngã dĩ thử đẳng cố,                                   Tôi do những sự nầy
Công đức tất cụ túc                                  Công-đức điều đầy đủ
Phổ vi chư chúng sanh,                             Vì khắp các chúng-sanh
Thuyết nhất thiết trí đạo.                         Nói đạo nhất-thiết-trí.

Con nhờ nhân duyên nầy, nên công đức đều đầy đủ. Khắp vì tất cả chúng sinh, diễn nói đạo nhất thiết trí huệ.

 

Thánh Giả vi ngã sư                                  Đức Thánh là thầy tôi
Dữ ngã vô thượng pháp                            Cho tôi pháp vô-thượng
Vô lượng vô số kiếp,                                  Vô-lượng vô-số kiếp
Bất năng báo kỳ ân.                                  Chẳng báo được ơn ngài.

Bậc Thánh Ngài làm sư phụ của con, ban cho con Phật pháp vô thượng. Dù trong vô lượng vô số kiếp, con cũng không thể báo đáp được đại ân đại đức của thiện tri thức.

 

Nhĩ thời, Thiện Tài thuyết thử kệ dĩ, bạch ngôn: đại thánh! nguyện vi ngã thuyết, thử giải thoát môn danh vi hà đẳng? phát tâm dĩ lai vi kỷ thời da? cửu như đương đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề?

Nói kệ xong, Thiện-Tài thưa rằng :Bạch Đại-Thánh ! Xin vì tôi mà nói môn giải-thoát nầy tên là gì ? Ngài phát tâm đã được bao lâu ? Chừng nào ngài sẽ chứng vô-thượng bồ-đề ?

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài nói bài kệ nầy rồi, bèn bạch Chủ Dạ Thần rằng: Đức Thánh! Xin Ngài từ bi vì con nói, môn giải thoát nầy tên là gì? Ngài phát tâm đã được bao lâu rồi? Thời gian còn bao lâu nữa Ngài sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề?

 

Dạ Thần cáo ngôn: thiện nam tử! thử giải thoát môn, danh: giáo hóa chúng sanh lệnh sanh thiện căn.

Dạ-Thần nói : Nầy thiện-nam-tử ! Môn giải-thoát nầy gọi là giáo-hóa chúng sanh khiến sanh thiện-căn.

Giảng: Vị Dạ Thần nói với Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Môn giải thoát nầy, tên là Giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành.

 

Ngã dĩ thành tựu thử giải thoát cố, ngộ nhất thiết pháp tự tánh bình đẳng, nhập ư chư Pháp chân thật chi tánh, chứng vô y Pháp, xả ly thế gian, tất tri chư Pháp sắc tướng sái biệt, diệc năng liễu đạt thanh, hoàng, xích, bạch, tánh giai bất thật, vô hữu sái biệt, nhi hằng thị hiện vô lượng sắc thân.

Vì ta thành-tựu môn giải-thoát nầy nên ngộ tất cả pháp tự-tánh bình-đẳng, vào nơi tánh chơn-thiệt của các pháp, chứng pháp vô-y, bỏ rời thế-gian, đều biết các pháp sắc tướng sai biệt, cũng có thể thấu rõ tánh của xanh vàng đỏ trắng đều chẳng thiệt. Vẫn vô sai-biệt mà hằng thị-hiện vô-lượng sắc thân những là :

Giảng: Ta nhờ thành tựu môn giải thoát nầy, mà ngộ tự tánh của tất cả các pháp đều bình đẳng, nhập vào tánh chân thật của các pháp, chứng được pháp không chỗ nương. Xả lìa tất cả pháp thế gian, đều biết sắc tướng của tất cả các pháp, có đủ thứ sự khác nhau, cũng thấu đạt được tự tánh xanh vàng đỏ trắng đều không thật, không có sự khác biệt. Mà luôn luôn thị hiện vô lượng đủ thứ sắc thân. Lược nói ra có chín mươi tám thứ sắc thân, đó là:

 

Sở vị: chủng chủng sắc thân, phi nhất sắc thân, vô biên sắc thân, thanh tịnh sắc thân, nhất thiết trang nghiêm sắc thân, phổ kiến sắc thân, đẳng nhất thiết chúng sanh sắc thân, phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh tiền sắc thân, quang minh phổ chiếu sắc thân, kiến Vô yếm túc sắc thân, tướng hảo thanh tịnh sắc thân, ly chúng ác quang minh sắc thân, thị hiện đại dũng mãnh sắc thân, thậm nan đắc sắc thân, nhất thiết thế gian vô năng ánh tế sắc thân, nhất thiết thế gian cọng xưng thán vô tận sắc thân, niệm niệm thường quan sát sắc thân, thị hiện chủng chủng vân sắc thân, chủng chủng hình hiển sắc sắc thân, hiện vô lượng tự tại lực sắc thân,

Nhiều loại sắc-thân, chẳng phải một sắc-thân, vô-biên sắc-thân, sắc-thân, thanh-tịnh, sắc-thân tất cả trang-nghiêm, sắc-thân thấy khắp, sắc-thân đồng tất cả chúng-sanh, sắc-thân hiện trước khắp tất cả chúng-sanh, sắc-thân quang-minh chiếu khắp, sắc-thân thấy không nhàm, sắc-thân tướng hảo thanh-tịnh, sắc-thân chói sáng rời lìa những ác tướng, sắc-thân thị-hiện đại dũng-mãnh, sắc-thân rất khó được, sắc-thân tất cả thế-gian không che chướng được, sắc-thân tất cả thế-gain đồng tán dương vô-tận, sắc-thân niệm-niệm thường quán sát, sắc-thân thị-hiện các thứ mây, sắc-thân nhiều loài hình mạo và hiển sắc, sắc-thân hiện vô-lượng sức tự-tại,

Giảng: 1. Sắc thân đủ thứ.
2. Sắc thân chẳng phải một.
3. Sắc thân vô biên.
4. Sắc thân thanh tịnh.
5. Sắc thân tất cả trang nghiêm.

6. Sắc thân khắp thấy.
7. Sắc thân đồng tất cả chúng sinh.
8. Sắc thân khắp hiện trước tất cả chúng sinh.
9. Sắc thân quang minh chiếu khắp.
10. Sắc thân thấy không nhàm đủ.

11. Sắc thân tướng tốt thanh tịnh.
12. Sắc thân quang minh lìa các ác.
13. Sắc thân thị hiện đại dũng mãnh.
14. Sắc thân rất khó được.
15. Sắc thân tất cả thế gian không thể che khuất được.

16. Sắc thân thế gian cùng khen ngợi vô tận.
17. Sắc thân niệm niệm thường quán sát.
18. Sắc thân thị hiện đủ thứ mây.
19. Sắc thân đủ thứ hình hiển sắc.
20. Sắc thân hiện vô lượng tự tại lực.

 

Diệu quang minh sắc thân, nhất thiết tịnh diệu trang nghiêm sắc thân, tùy thuận thành thục nhất thiết chúng sanh sắc thân, tùy kỳ tâm lạc hiện tiền điều phục sắc thân, vô chướng ngại phổ quang minh sắc thân, thanh tịnh vô trược uế sắc thân, cụ túc trang nghiêm bất khả hoại sắc thân, bất tư nghị Pháp phương tiện quang minh sắc thân, vô năng ánh đoạt nhất thiết sắc thân, vô chư ám phá nhất thiết ám sắc thân, tập nhất thiết bạch tịnh Pháp sắc thân, đại thế lực công đức hải sắc thân, tùng quá khứ cung kính nhân sở sanh sắc thân, như hư không thanh tịnh tâm sở sanh sắc thân, tối thắng quảng đại sắc thân. Vô đoạn vô tận sắc thân, quang minh hải sắc thân, ư nhất thiết thế gian vô sở y bình đẳng sắc thân, biến thập phương vô sở ngại sắc thân,

Sắc-thân diệu-quang-minh, sắc-thân tất cả tịnh diệu trang-nghiêm, sắc-thân tùy thuận thành thục tất cả chúng-sanh, sắc-thân tùy tâm mình thích hiện-tiền điều-phục, sắc-thân không chướng-ngại khắp chói sáng, sắc-thân thanh-không trược-uế, sắc-thân đầy đủ trang-nghiêm không hư-hoại, sắc-thân quang minh bất-tư-nghì pháp phương-tiện, tất cả sắc-thân không gì chói khuất được, sắc-thân không tối phá được tất cả tối, sắc-thân họp tất cả pháp bạch-tịnh, sắc-thân biển công-đức đại thế-lực, sắc-thân do nhơn-hạnh cung-kính thuở quá-khứ mà sanh, sắc-thân do tâm thanh-tịnh như hư-không sanh ra, sắc-thân tối-thắng quảng-đại, Sắc-thân vô-đoạn vô tận, sắc-thân biển quang-minh, sắc-thân nơi tất cả thế-gian đều bình-đẳng không y-tựa, sắc-thân khắp mười phương vô-ngại,

Giảng:

21. Sắc thân diệu quang minh.

22. Sắc thân tất cả thanh tịnh diệu trang nghiêm.

23. Sắc thân tuỳ thuận thành thục tất cả chúng sinh.

24. Sắc thân tuỳ tâm họ ưa thích hiện ra trước để điều phục.

25. Sắc thân phổ quang minh không chướng ngại.

26. Sắc thân thanh tịnh không uế trược.

27. Sắc thân đầy đủ trang nghiêm không thể hoại.

28. Sắc thân pháp phương tiện quang minh không nghĩ bàn.

29. Sắc thân tất cả không chói khuất được.

30. Sắc thân chói khuất được tất cả.

31. Sắc thân không tối phá được tất cả tối.

32. Sắc thân tập tất cả pháp trắng tịnh.

33. Sắc thân biển công đức đại thế lực.

34. Sắc thân do nhờ thuở quá khứ cung kính mà sinh ra.

35. Sắc thân tâm thanh tịnh như hư không sinh ra.

36. Sắc thân tối thắng rộng lớn.

37. Sắc thân vô tận không dứt.

38. Sắc thân biển quang minh.

39. Sắc thân bình đẳng nơi tất cả thế gian không chỗ nương.

40. Sắc thân khắp mười phương vô ngại.

 

Niệm niệm hiện chủng chủng sắc tướng hải sắc thân, tăng trưởng nhất thiết chúng sanh hoan hỉ tâm sắc thân, nhiếp thủ nhất thiết chúng sanh hải sắc thân, nhất nhất mao khổng trung thuyết nhất thiết Phật công đức hải sắc thân, tịnh nhất thiết chúng sanh dục giải hải sắc thân, quyết liễu nhất thiết pháp nghĩa sắc thân, vô chướng ngại phổ chiếu diệu sắc thân, đẳng hư không Tịnh Quang minh sắc thân, phóng quảng đại Tịnh Quang minh sắc thân, chiếu hiện vô cấu Pháp sắc thân, vô bỉ sắc thân, sái biệt trang nghiêm sắc thân. Phổ chiếu thập phương sắc thân, tùy thời thị hiện ưng chúng sanh sắc thân, tịch tĩnh sắc thân, diệt nhất thiết phiền não sắc thân, nhất thiết chúng sanh phước điền sắc thân, nhất thiết chúng sanh kiến bất hư sắc thân, đại trí tuệ dũng mãnh lực sắc thân, vô chướng ngại phổ chu biến sắc thân,

sắc-thân niệm niệm hiện những sắc-tướng-hải, sắc-thân tăng-trưởng tâm hoan-hỉ của tất cả chúng-sanh, sắc-thân nhiếp thú chúng-sanh-hải, sắc-thân nơi mỗi lỗ lông diễn nói công-đức-hải của tất cả Phật, sắc-thân làm thanh-tịnh dục-giải-hải của tất cả chúng-sanh, sắc-thân quyết rõ tất cả pháp-nghĩa, sắc-thân không chướng-ngại khắp soi sáng, sắc-thân thanh-tịnh sáng suốt khắp hư-không, sắc-thân phóng tịnh quang-minh quảng đại, sắc-thân chiếu hiện pháp vô-cấu, sắc-thân vô-tỉ, sắc-thân sai-biệt trang-nghiêm. Sắc-thân chiếu khắp mười phương, sắc-thân tùy thời thị-hiện ứng chúng-sanh, sắc-thân tịch-tịnh, sắc-thân diệt tất cả phiền-não, sắc-thân phước-điền của tất cả chúng-sanh, sắc-thân tất cả chúng-sanh thấy chẳng luống uổng, sắc-thân sức trí-huệ dũng-mãnh, sắc-thân cùng khắp vô-ngại,

Giảng:

41. Sắc thân niệm niệm hiện đủ thứ biển sắc tướng.

42. Sắc thân tăng trưởng tâm hoan hỉ tất cả chúng sinh.

43. Sắc thân nhiếp lấy biển tất cả chúng sinh.

44. Sắc thân trong mỗi lỗ chân lông nói biển công đức tất cả chư Phật.

45. Sắc thân tịnh biển dục giải tất cả chúng sinh.

46. Sắc thân quyết rõ tất cả pháp nghĩa.

47. Sắc thân chiếu sáng khắp không chướng ngại.

48. Sắc thân tịnh quang minh đồng hư không.

49. Sắc thân phóng tịnh quang minh rộng lớn.

50. Sắc thân chiếu hiện pháp vô cấu.

51. Sắc thân không gì sánh bằng.

52. Sắc thân trang nghiêm khác biệt.

53. Sắc thân chiếu khắp mười phương.

54. Sắc thân tuỳ thời thị hiện ứng chúng sinh.

55. Sắc thân tịch tĩnh.

56. Sắc thân diệt tất cả phiền não.

57. Sắc thân ruộng phước tất cả chúng sinh.

58. Sắc thân tất cả chúng sinh thấy không luống qua.

59. Sắc thân đại trí huệ sức dũng mãnh.

60. Sắc thân khắp cùng không chướng ngại.

 

Diệu thân vân phổ hiện thế gian giai mông ích sắc thân, cụ túc đại từ hải sắc thân, Đại phước đức bảo sơn vương sắc thân, phóng quang minh phổ chiếu thế gian nhất thiết thú sắc thân, đại trí tuệ thanh tịnh sắc thân, sanh chúng sanh chánh niệm tâm sắc thân, nhất thiết bảo quang minh sắc thân, phổ quang tạng sắc thân, hiện thế gian chủng chủng thanh tịnh tướng sắc thân, cầu nhất thiết trí xứ sắc thân, hiện vi tiếu lệnh chúng sanh sanh tịnh tín sắc thân, nhất thiết bảo trang nghiêm quang minh sắc thân, bất thủ bất xả nhất thiết chúng sanh sắc thân, vô quyết định vô cứu cánh sắc thân, hiện tự tại gia trì lực sắc thân, Hiện-Nhất-Thiết thần thông biến hóa sắc thân, sanh Như Lai gia sắc thân. Viễn ly chúng ác biến Pháp giới hải sắc thân, phổ hiện nhất thiết Như Lai đạo tràng chúng hội sắc thân, cụ chủng chủng chúng sắc hải sắc thân,

sắc-thân diệu-vân hiện khắp thế-gian đều nhờ lợi ích, sắc-thân đầy đủ biển đại-từ, sắc-thân đại-phước-đức bửu-sơn-vương, sắc-thân phóng quang-minh chiếu khắp tất cả loài ở thế-gian, sắc-thân đại-trí-huệ thanh-tịnh, sắc-thân sanh chánh-niệm cho chúng-sanh, sắc-thân tất cả bửu-quang-minh, sắc-thân tạng sáng khắp, sắc-thân hiện những tướng thanh-tịnh thế-gian, sắc-thân cầu nhất-thiết-trí, sắc-thân hiện vi-tiếu khiến chúng-sanh phát khởi lòng tin thanh-tịnh, sắc-thân quang-minh tất cả bửu-trang-nghiêm, sắc-thân chẳng lấy chẳng bỏ tất cả chúng-sanh, sắc-thân không quyết định không rốt ráo, sắc-thân hiện sức gia-trì tự-tại, sắc-thân hiện tất cả thần-thông biến-hóa, sắc-thân sanh nhà Như-Lai, Sắc-thân xa lìa những ác khắp pháp-giới hải, sắc-thân hiện khắp trong đạo-tràng chúng-hội của tất cả Như-Lai, sắc-thân đủ những sắc-hải,

Giảng:

61. Sắc thân thân mây đẹp khắp hiện thế gian nhờ lợi ích.

62. Sắc thân đầy đủ biển đại từ.

63. Sắc thân đại phước đức bảo sơn vương.

64. Sắc thân phóng quang minh chiếu khắp tất cả cõi thế gian.

65. Sắc thân đại trí huệ thanh tịnh.

66. Sắc thân sinh chúng sinh tâm chánh niệm.

67. Sắc thân tất cả bảo quang minh.

68. Sắc thân phổ quang tạng.

69. Sắc thân hiện đủ thứ tịnh tướng thế gian.

70. Sắc thân cầu nơi nhất thiết trí.

71. Sắc thân hiện mỉm cười khiến chúng sinh sinh niềm tin thanh tịnh.

72. Sắc thân thân tất cả báu trang nghiêm quang minh.

73. Sắc thân chẳng lấy chẳng bỏ tất cả chúng sinh.

74. Sắc thân không quyết định không rốt ráo.

75. Sắc thân hiện sức tự tại gia trì.

76. Sắc thân hiện tất cả thần thông biến hoá.

77. Sắc thân sinh vào nhà Như Lai.

78. Sắc thân xa lìa các ác khắp biển pháp giới.

79. Sắc thân khắp hiện tất cả Như Lai đạo tràng chúng hội.

80. Sắc thân đủ các thứ biển các sắc.

 

Tùng thiện hạnh sở lưu sắc thân, tùy sở ưng hóa thị hiện sắc thân, nhất thiết thế gian kiến Vô yếm túc sắc thân, chủng chủng Tịnh Quang minh sắc thân, Hiện-Nhất-Thiết tam thế hải sắc thân, phóng nhất thiết quang minh hải sắc thân, hiện vô lượng sái biệt quang minh hải sắc thân, siêu chư thế gian nhất thiết hương quang minh sắc thân, hiện bất khả thuyết nhật luân vân sắc thân, hiện quảng đại nguyệt luân vân sắc thân, phóng vô lượng Tu-di sơn hương khí vân sắc thân, xuất chủng chủng man vân sắc thân, Hiện-Nhất-Thiết bảo liên hoa vân sắc thân, hưng nhất thiết thiêu hương vân biến Pháp giới sắc thân, tán nhất thiết mạt hương tạng vân sắc thân, hiện nhất thiết Như Lai Đại nguyện thân sắc thân, Hiện-Nhất-Thiết ngữ ngôn âm thanh diễn pháp hải sắc thân, hiện Phổ Hiền Bồ Tát tượng sắc thân.

Sắc-thân từ thiện-hạnh lưu xuất, sắc-thân tùy chỗ đáng hóa độ mà thị-hiện, sắc-thân tất cả thế-gian nhìn xem không chán, sắc-thân những tịnh quang-minh, sắc-thân hiện tất cả tam-thế-hải, sắc-thân phóng tất cả quang-minh-hải, sắc-thân hiện vô-lượng sai-biệt quang-minh-hải, sắc-thân siêu thế-gian tất cả hương quang-minh, sắc-thân hiện bất-khả-thuyết nhựt-luân-vân, sắc-thân hiện quảng-đại nguyệt-luân-vân, sắc-thân phóng vô-lượng tu-di-sơn diệu-hoa-vân, sắc-thân xuất sanh những mây tràng-hoa, sắc-thân hiện tất cả bửu-liên-hoa-vân, sắc-thân nổi tất cả mây hương đốt khắp pháp-giới, sắc-thân rải mây tạng hương bột, sắc-thân hiện thân đại-nguyện của tất cả Như-Lai, sắc-thân hiện tất cả ngữ ngôn âm thanh diển pháp-hải, sắc-thân hiện tượng Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Giảng:

81. Sắc thân từ hạnh lành sinh ra.

82. Sắc thân tuỳ sở ứng hoá thị hiện.

83. Sắc thân tất cả thế gian thấy không nhàm đủ.

84. Sắc thân đủ thứ tịnh quang minh.

85. Sắc thân hiện tất cả biển ba đời.

86. Sắc thân phóng tất cả biển quang minh.

87. Sắc thân hiện vô lượng biển quang minh khác biệt.

88. Sắc thân tất cả hương quang minh hơn các thế gian.

89. Sắc thân hiện bất khả thuyết mây vòng mặt trời.

90. Sắc thân hiện mây vòng mặt trăng rộng lớn.

91. Sắc thân phóng vô lượng núi Tu Di mây hoa đẹp.

92. Sắc thân xuất hiện đủ thứ mây tràng hoa.

93. Sắc thân hiện tất cả mây hoa sen báu.

94. Sắc thân nổi tất cả mây hương đốt khắp pháp giới.

95. Sắc thân rải tất cả mây tạng hương bột.

96. Sắc thân hiện thân đại nguyện tất cả Như Lai.

97. Sắc thân hiện tất cả lời nói âm thanh diễn nói biển pháp.

98. Sắc thân hiện tượng Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Niệm niệm trung, hiện như thị đẳng sắc tướng thân sung mãn thập phương, lệnh chư chúng sanh hoặc kiến, hoặc niệm, hoặc văn thuyết Pháp, hoặc nhân thân cận, hoặc đắc khai ngộ, hoặc kiến thần thông, hoặc đổ biến hóa, tất tùy tâm lạc, ưng thời điều phục, xả bất thiện nghiệp, trụ ư thiện hạnh.

Trong mỗi niệm hiện những sắc-tướng-thân như vậy sung mãn mười phương, khiến các chúng-sanh hoặc thấy, hoặc nhớ, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc nhơn thân-cận, hoặc được khai ngộ, hoặc thấy thần-thông, hoặc thấy biến-hóa, đều tùy tâm sở thích liền được điều phục bỏ nghiệp bất-thiện, an trụ nơi thiện-hạnh.

Giảng: Trong niệm niệm, hay thị hiện đủ thứ thân sắc tướng như vậy, đầy khắp mười phương thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh, hoặc thấy được, hoặc nghĩ nhớ, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc do gần gũi, hoặc được khai ngộ, hoặc thấy được thần thông, hoặc gặp được biến hoá, tuỳ theo tâm ưa thích, tức là muốn gì, thì liền có cảm ứng điều đó, ứng thời điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh xả bỏ nghiệp bất thiện, trụ nơi hạnh lành.

 

Thiện nam tử! đương tri thử do đại nguyện lực cố, nhất thiết trí lực cố, Bồ Tát giải thoát lực cố, đại bi lực cố, Đại từ lực cố, tác như thị sự.

Nầy thiện-nam-tử ! Phật biết đây là do sức đại-nguyện, do sức nhất thiết-trí, do sức bồ-tát giải-thoát, do sức đại-bi, do sức đại-từ, mà làm những sự như vậy.

Giảng: Chủ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, lại gọi một tiếng thiện nam tử ! Nên biết đó là do nhờ đại nguyện lực nầy, lực nhất thiết trí huệ, lực Bồ Tát giải thoát, lực đại bi, lực đại từ, mà có những việc như vậy.

 

Thiện nam tử! ngã nhập thử giải thoát, liễu tri pháp tánh vô hữu sái biệt, nhi năng thị hiện vô lượng sắc thân, nhất nhất thân hiện vô lượng sắc tướng hải, nhất nhất tướng phóng vô lượng quang minh vân, nhất nhất quang hiện vô lượng Phật quốc độ, nhất nhất độ hiện vô lượng Phật hưng thế, nhất nhất Phật hiện vô lượng thần thông lực, khai phát chúng sanh tú thế thiện căn, vị chủng giả lệnh chủng, dĩ chủng giả lệnh tăng trưởng, dĩ tăng Trưởng-giả lệnh thành thục; niệm niệm trung, lệnh vô lượng chúng sanh, ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta nhập môn giải-thoát nầy biết rõ pháp-tánh không sai-khác mà có thể thị-hiện vô-lượng sắc-thân. Mỗi thân thị-hiện vô lượng sắc-tướng-hải. Mỗi tướng phóng vô-lượng quang-minh-vân. Mỗi quang-minh hiện vô-lượng phật-độ. Mỗi cõi hiện vô-lượng Phật xuất thế. Mỗi Phật hiện vô-lượng thần thông-lực khai phát thiện-căn đời trước của chúng-sanh. Kẻ chưa gieo thời khiến họ gieo. Kẻ đã gieo thời làm cho tăng trưởng. Đã tăng trưởng thời làm cho thành-thục. Trong mỗi niệm làm cho vô-lượng chúng-sanh chẳng thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.

Giảng: Thiện nam tử! Ta nhập vào môn giải thoát nầy, thì biết rõ thật tướng của tất cả các pháp, không có sự khác biệt, mà hay thị hiện vô lượng sắc thân. Mỗi mỗi thân, lại có thể hiện ra vô lượng biển sắc tướng. Mỗi mỗi tướng, lại có thể phóng ra vô lượng mây quang minh. Mỗi mỗi mây quang minh, lại có thể hiện ra vô lượng cõi Phật. Mỗi mỗi cõi Phật, lại có thể hiện ra vô lượng đức Phật xuất hiện ra đời. Mỗi mỗi đức Phật, lại có thể hiện ra vô lượng sức thần thông, lại có thể khai phát căn lành đời trước của tất cả chúng sinh. Chúng sinh chưa trồng căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành. Đã trồng căn lành, thì khiến cho tăng trưởng. Căn lành đã tăng trưởng, thì khiến cho thành thục. Chúng sinh căn lành đã thành thục, thì khiến cho được giải thoát. Trong niệm niệm, khiến cho vô lượng chúng sinh, đều được cảnh giới bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Thiện nam tử! như nhữ sở vấn: tùng kỷ thời lai, phát Bồ-đề tâm, tu Bồ Tát hạnh?

Nầy thiện-nam-tử ! Như ngươi hỏi ta phát tâm bồ-đề tu bồ-tát-hạnh đã bao lâu ?

Giảng: Thiện nam tử! Như lời ngươi hỏi, ta đã phát tâm bồ đề, tu Bồ Tát hạnh được bao lâu?

 

Như thị chi nghĩa, thừa Phật thần lực, đương vi nhữ. Thiện nam tử! Bồ Tát trí luân viễn ly nhất thiết phân biệt cảnh giới, bất khả dĩ sanh tử trung trường đoản, nhiễm tịnh, quảng hiệp, đa thiểu, như thị chư kiếp phân biệt hiển thị.

Ta thừa thần-lực của Phật sẽ vì ngươi mà nói những nghĩa ấy. Nầy thiện-nam-tử ! Bồ-Tát trí-luân xa rời tất cả cảnh-giới sai-biệt. Chẳng nên đem những kiếp dài ngắn rộng hẹp nhiễm tịnh nhiều ít trong sanh tử để phân-biệt hiển bày.

Giảng: Ta nương oai thần lực gia trì của chư Phật, bây giờ sẽ vì ngươi nói nghĩa đạo lý nầy.

Thiện nam tử! Trí huệ của Bồ Tát, xa lìa tất cả cảnh giới phân biệt. Không thể đem các kiếp dài ngắn, hoặc nhiễm tịnh, hoặc rộng hẹp như vậy, ở trong sinh tử, để phân biệt hiển bày cảnh giới của Bồ Tát.

 

Hà dĩ cố? Bồ Tát trí luân bổn tánh thanh tịnh, ly nhất thiết phân biệt võng, siêu nhất thiết chướng ngại sơn, tùy sở ưng hóa nhi phổ chiếu cố.

Tại sao vậy ? Vì trí-luân của Bồ-Tát bổn-tánh thanh-tịnh, rời tất cả lưới phân-biệt, siêu tất cả núi chướng ngại. Tùy chỗ nên hóa độ mà chiếu khắp.

Giảng: Tại sao? Vì trí huệ của Bồ Tát, bản tánh thanh tịnh, lìa khỏi tất cả lưới phân biệt, vượt qua tất cả núi chướng ngại, tuỳ chúng sinh được ứng hoá mà vòng trí huệ quang chiếu khắp.

 

Thiện nam tử! thí như nhật luân, vô hữu trú dạ; đãn xuất thời danh: trú, một thời danh: dạ. Bồ Tát trí luân diệc phục như thị, vô hữu phân biệt, diệc vô tam thế; đãn tùy tâm hiện, giáo hóa chúng sanh, ngôn kỳ chỉ trụ tiền kiếp, hậu kiếp.

Nầy thiện-nam-tử ! Ví như mặt nhựt không có ngày đêm, chỉ có lúc mọc gọi là ngày, lúc lặn gọi là đêm. Cũng vậy, trí-luân của Bồ-Tát không có phân-biệt, cũng không tam thế, chỉ tùy tâm hiện giáo-hóa chúng-sanh, mà nói Bồ-Tát ở kiếp trước kiếp sau.

Giảng: Thiện nam tử! Ví như mặt trời, vốn không có phân biệt ngày đêm. Nhưng tâm chúng sinh có sự phân biệt ngày đêm. Khi mặt trời mọc lên thì gọi là ban ngày, khi mặt trời lặn xuống thì gọi là ban đêm. Trí huệ của Bồ Tát cũng như thế, không có sự phân biệt, cũng không có quá khứ, hiện tại, và vị lai ba thời. Chỉ tuỳ tâm chúng sinh sở hiện, vì giáo hoá chúng sinh, mà nói Bồ Tát ở kiếp trước, hoặc ở kiếp sau.

 

Thiện nam tử! thí như nhật luân, trụ Diêm-phù không, kỳ ảnh tất Hiện-Nhất-Thiết bảo vật cập dĩ hà hải chư tịnh thủy trung, nhất thiết chúng sanh mạc bất mục kiến, nhi bỉ tịnh nhật bất lai chí thử.

Nầy thiện-nam-tử ! Ví như mặt nhựt ở không-trung, bóng nó hiện trong tất cả bửu-vật và trong nước trong lặng của ao hồ sông biển. Chúng-sanh đều thấy bóng mặt nhật. Nhưng mặt nhật chẳng đến các chỗ ấy.

Giảng: Thiện nam tử! Ví như mặt trời, ở trong hư không cõi Diêm Phù Đề, hình bóng mặt trời đều chiếu đến tất cả báu vật, tất cả sông biển, và trong các chỗ có nước sạch, tất cả chúng sinh chẳng ai mà chẳng nhìn thấy (trừ người mù), mà mặt trời chẳng đến những chỗ đó, vẫn ở trong hư không.

 

Bồ Tát trí luân diệc phục như thị, xuất chư hữu hải, trụ Phật thật Pháp, tịch tĩnh không trung vô hữu sở y, vi dục hóa độ chư chúng sanh cố, nhi ư chư thú tùy loại thọ sanh; thật bất sanh tử, vô sở nhiễm trước, vô trường đoản kiếp chư tưởng phân biệt.

Trí-luân của Bồ-Tát cũng vậy, ra khỏi biển hữu-lậu, an-trụ nơi không trung, phật-thiệt-pháp tịch-tịnh không có sở-y. Vì muốn hóa-độ chúng-sanh nên tùy loại thọ sanh trong các loài, mà thiệt ra thời không sanh-tử, không nhiễm trước, không kiếp dài vắn, không tưởng phân biệt.

Giảng: Trí huệ của Bồ Tát cũng lại như thế, thoát khỏi biển tam giới hai mươi lăm cõi, trụ nơi Phật chân thật pháp của chư Phật, vắng lặng trong hư không, không có nương tựa. Vì muốn hoá độ tất cả chúng sinh, mà cam tâm tình nguyện, tuỳ loại mà thọ sinh, hoặc làm người, hoặc làm súc sinh, hoặc làm ngạ quỷ, hoặc đoạ địa ngục.

Tóm lại, tuỳ căn cơ của chúng sinh mà thọ sinh, chẳng có hạn chế nhất định. Nói về bản thân của Bồ Tát, đã chấm dứt sinh tử. Vậy tại sao Bồ Tát lại đi thọ sinh? Vì Bồ Tát độ chúng sinh, mới trở lại bằng con thuyền từ bi, để đến các cõi thọ sinh. Bồ Tát đã không còn sinh tử. Tại sao Bồ Tát không còn sinh tử? Vì không còn nhiễm trước, không còn các nghĩ tưởng phân biệt về kiếp dài kiếp ngắn, không có hiện tại, không có vị lai. Tóm lại, không còn tất cả mọi sự phân biệt.

 

Hà dĩ cố? Bồ Tát cứu cánh ly tâm tưởng, kiến nhất thiết điên đảo, đắc chân thật kiến, kiến Pháp thật tánh, tri nhất thiết thế gian như mộng, như huyễn; vô hữu chúng sanh, đãn dĩ đại bi đại nguyện lực cố, hiện chúng sanh tiền giáo hóa điều phục.

Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát rốt ráo rời tâm tưởng kiến chấp tất cả điên-đảo, được chân thiệt-kiến thấy pháp thiệt-tánh, biết tất cả thế-gian như mộng như huyễn, không có chúng-sanh, chỉ do sức đại-bi đại nguyện mà hiện ra trước chúng-sanh để giáo-hóa điều-phục họ.

Giảng: Tại sao? Vì Bồ Tát rốt ráo lìa tâm tưởng thấy tất cả sự điên đảo, do đó có câu: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”. Đã lìa khỏi tưởng thấy, lìa khỏi thấy điên đảo. Đắc được cái thấy chân thật, thấy được thật tánh của pháp – bản thể chân thật vắng lặng. Lại biết tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm dục của thế gian, như mộng như huyễn, trong tâm không còn chúng sinh để độ. Nhưng tuỳ thuận cảnh giới chúng sinh, để giáo hoá chúng sinh, mà dùng sức đại bi đại nguyện, thị hiện ra trước chúng sinh, để giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh.

 

Phật tử! thí như thuyền sư, thường dĩ đại thuyền, ư hà lưu trung bất y thử ngạn, bất trước bỉ ngạn, bất trụ trung lưu, nhi độ chúng sanh vô hữu hưu tức.

Nầy thiện-nam-tử ! Vì như nhà lái thuyền thường dùng thuyền lớn ở trong sông, chẳng đậu bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia, chẳng dừng ở giữa dòng, nên có thể đưa mọi người không thôi nghỉ.

Giảng: Phật tử! Ví như thuyền sư, thường dùng chiếc thuyền lớn chạy ở trong sông lớn, chẳng đậu ở bờ nầy, cũng chẳng neo ở bờ kia, cũng chẳng trụ ở giữa dòng, mà độ chúng sinh, không có ngừng nghỉ.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ Ba-la-mật thuyền, ư sanh tử lưu trung bất y thử ngạn, bất trước bỉ ngạn, bất trụ trung lưu, nhi độ chúng sanh vô hữu hưu tức; tuy vô lượng kiếp tu Bồ Tát hạnh, vị tằng phân biệt kiếp số trường đoản.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng thuyền ba-la-mật ở trong biển sanh tử, chẳng tấp bờ bên nầy, chẳng ghé bờ bên kia chẳng dừng ở giữa dòng nên độ được chúng-sanh không thôi dứt. Dầu tu bồ-tát hạnh vô-lượng kiếp, nhưng chưa từng phân biệt kiếp số dài vắn.

Giảng: Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng thuyền Ba La Mật, ở trong dòng sinh tử, chẳng đậu ở bờ nầy, chẳng neo ở bờ kia, chẳng ở lại giữa dòng, mà độ chúng sinh, không có ngừng nghỉ. Tuy trải qua vô lượng kiếp tu tập Bồ Tát hạnh, mà chưa từng tính đếm đã tu bao nhiêu kiếp? Hoặc là kiếp dài, hoặc kiếp ngắn, vốn chẳng có sự phân biệt như thế.

 

Phật tử! như Đại hư không, nhất thiết thế giới ư trung thành hoại nhi vô phân biệt, bổn tánh thanh tịnh, vô nhiễm vô loạn, vô ngại vô yếm, phi trường phi đoản, tận vị lai kiếp trì nhất thiết sát.

Phật tử ! Như thái-hư-không, tất cả thế-giới thành hoại trong đó, mà hư-không vẫn chẳng phân biệt, bổn tánh thanh-tịnh không nhiễm không loạn, không ngại không nhàm, chẳng dài chẳng vắn, tận vị-lai kiếp giữ-gìn tất cả cõi.

Giảng: Phật tử! Như thái hư không, tất cả thế giới ở trong sự thành trụ hoại không bốn hiện tượng nầy, mà hư không chẳng có sự phân biệt. Tại sao? Vì bản tánh của hư không là thanh tịnh, không nhiễm ô, không tạp loạn, không chướng ngại, không nhàm đủ, cũng chẳng dài, cũng chẳng ngắn. Hết kiếp thuở vị lai, giữ tất cả cõi, đều tồn tại ở trong hư không. Vì hư không sum la vạn tượng, chẳng có gì mà chẳng bao dung, chẳng có gì mà chẳng dung nạp.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ đẳng hư không giới quảng đại thâm tâm, khởi đại nguyện phong luân, nhiếp chư chúng sanh, lệnh ly ác đạo, sanh chư thiện thú, tất lệnh an trụ nhất thiết trí địa, diệt chư phiền não sanh tử khổ phược, nhi Vô ưu hỉ, bì yếm chi tâm.

Đại Bồ-Tát cũng vậy, dùng thâm tâm rộng lớn khắp cõi hư-không khởi gió đại nguyện nhiếp các chúng-sanh khiến lìa ác-đạo sanh các đường lành, đều khiến an-trụ bực nhất-thiết-trí, diệt những dây phiền-não sanh tử khổ não, mà không có lòng lo mừng mỏi nhàm.

Giảng: Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng tâm thâm sâu rộng lớn đồng cõi hư không, khởi phong luân đại nguyện, giữ gìn tất cả chúng sinh, khiến cho lìa khỏi ba đường ác, sinh về ba đường lành, đều khiến cho tất cả chúng sinh an trụ nơi bậc nhất thiết trí huệ. Diệt trừ tất cả phiền não, khổ sinh tử ràng buộc, mà không có tâm vui mừng, cũng chẳng có tâm lo buồn, cũng chẳng có tâm mỏi nhàm.

 

Thiện nam tử! như huyễn hóa nhân, chi thể tuy cụ, nhi vô nhập tức cập dĩ xuất tức, hàn, nhiệt, cơ, khát, ưu, hỉ, sanh, tử thập chủng chi sự.

Nầy thiện-nam-tử ! Như người huyễn hóa, dầu chi tiết thân thể đầy đủ mà không có mười sự : thở ra, hít vào, lạnh, nóng, đói, khát, lo, mừng, sanh, tử.

Giảng: Thiện nam tử! Ví như người huyễn hoá, tứ chi đều đủ, mà không có sự hít vào thở ra, không có sự hô hấp. Tuy có tứ chi, mà không có linh hồn. Tại sao? Vì nó là huyễn biến ra! Nó không sợ lạnh nóng, cũng không biết đói, cũng không biết khát, cũng không biết buồn, cũng không biết vui, cũng không thọ sinh, cũng không tử vong, chẳng có mười thứ việc nầy.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ như huyễn trí bình đẳng pháp thân hiện chúng sắc tướng, ư chư hữu thú trụ vô lượng kiếp giáo hóa chúng sanh, ư sanh tử trung nhất thiết cảnh giới, vô hân vô yếm, vô ái vô nhuế, vô khổ vô lạc, vô thủ vô xả, vô an vô phố.

Cũng vậy, đại Bồ-Tát dùng như-huyễn-trí bình-đẳng pháp-thân hiện các sắc-tướng, nơi các loài trụ vô-lượng kiếp giáo-hóa chúng-sanh ở trong sanh tử, nơi tất cả cảnh-giới, không ưa, không nhàm, không thương, không giận, không khổ, không vui, không lấy, không bỏ, không an, không sợ.

Giảng: Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng pháp thân trí huệ bình đẳng như huyễn, thị hiện các sắc tướng trong tam giới hai mươi lăm cõi, trụ vô lượng kiếp, giáo hoá hết thảy chúng sinh. Ở trong sinh tử khổ sở ràng buộc, đối với tất cả cảnh giới, không mến thích, không nhàm chán, không thương yêu, không sân giận, không khổ sở, không vui vẻ, cũng không lấy, cũng không bỏ, không có bình an, không có sợ hãi. Tại sao? Vì Bồ Tát chẳng còn cảnh giới cái ta, đến cảnh giới không còn cái ta, cho nên chẳng còn tâm ích kỷ lợi mình. Do đó, chẳng có những thứ tâm phân biệt nầy.

 

Phật tử! Bồ Tát trí tuệ tuy phục như thị thậm thâm nan trắc, ngã đương thừa Phật uy thần chi lực vi nhữ giải thuyết, lệnh vị lai thế chư Bồ-tát đẳng mãn túc đại nguyện, thành tựu chư lực.

Nầy thiện-nam-tử ! Trí-huệ của Bồ-Tát dầu lại như vậy mà rất sâu khó lường, ta sẽ thừa sức oai-thần của đức Phật mà nói cho ngươi, cũng làm cho chư Bồ-Tát vị-lai viên-mãn đại-nguyện thành-tựu trí-lực.

Giảng: Phật tử! Trí huệ Bồ Tát, tuy thâm sâu khó dò, nhìn lên không thấy đỉnh, nhìn xuống không thấy đáy. Nhưng ta sẽ nương oai thần lực của mười phương chư Phật, vì ngươi giải thích nói, khiến cho các Bồ Tát ở đời vị lai, đầy đủ đại nguyện đã phát ra, thành tựu các thần thông lực. Bạn, tôi, họ, chúng sinh, hiện tại ở trong pháp hội Hoa Nghiêm, lắng nghe đoạn kinh văn Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, phải cảm kích ân điển của vị Chủ Dạ Thần, tuy Ngài không phải trực tiếp nói với chúng ta, nhưng vẫn gián tiếp nói với chúng ta, cho nên mới đắc được lợi ích của pháp nầy.

 

Phật tử! nãi vãng cổ thế, qua thế giới hải vi trần số kiếp, hữu kiếp danh: thiện quang, thế giới danh: Bảo quang. ư kỳ kiếp trung, hữu nhất vạn Phật xuất hưng vu thế.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa, quá thế-giới vi-trần số kiếp, có kiếp tên là Thiện-Quang, thế-giới tên là Bửu-Quang. Trong kiếp đó có một vạn đức Phật xuất thế :

Giảng: Phật tử! Vào đời quá khứ, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi biển thế giới, có một kiếp tên là Thiện Quang, có thế giới tên là Bảo Quang. Trong kiếp đó, có một vạn vị Phật xuất hiện ra đời.

 

Kỳ tối sơ Phật, hiệu: Pháp luân âm hư không đăng Vương Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, thập hiệu viên mãn. Bỉ Diêm-phù-đề, hữu nhất Vương đô, danh: bảo trang nghiêm; kỳ Đông bất viễn, hữu nhất Đại lâm, danh viết: diệu quang; trung hữu đạo tràng, danh vi: bảo hoa. Bỉ đạo tràng trung, hữu phổ quang minh ma-ni liên hoa tạng sư tử chi tọa.

Đức Phật tối-sơ hiệu là Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai. Nơi Diêm-Phù-Đề có Vương-Đô tên là Bửu-Trang-Nghiêm. Phía đông Đô-Thành, cách không xa, có một khu rừng lớn tên là Diệu-Quang, trong rừng có đạo-tràng tên là Bửu-Hoa. Trong đạo-tràng có tòa sư-tử Phổ-Quang-Minh-Ma-Ni-Liên-Hoa-Tạng.

Giảng: Vị Phật ra đời đầu tiên, hiệu là Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mười hiệu (Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn) viên mãn.

Cõi Diêm Phù Đề đó, có một cung vua, tên là Bảo Trang Nghiêm. Cách phía đông không xa, có một khu rừng lớn, tên là Diệu Quang, trong đó có một đạo tràng, tên là Bảo Hoa. Trong đạo tràng đó, có toà sư tử Phổ Quang Minh Ma Ni Liên Hoa Tạng.

 

Thời, bỉ Như Lai ư thử tọa thượng, thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, mãn nhất bách niên tọa ư đạo tràng, vi chư Bồ-tát, chư Thiên, thế nhân cập Diêm-phù-đề tú thực thiện căn dĩ thành thục giả diễn thuyết chánh pháp.

Đức Pháp-Luân-Ấm Như-Lai thành Đẳng-Chánh-Giác trên tòa sư-tử nầy. Phật ngồi nơi đạo-tràng mãn một trăm năm, vì chư Bồ-Tát và hàng nhơn thiên cùng những kẻ đã thành-thục thiện-căn ở Diêm-Phù-Đề mà diển nói chánh-pháp.

Giảng: Bấy giờ đức Như Lai Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, ngồi trên toà sư tử đó, thành A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mãn một trăm năm, ngồi nơi đạo tràng, vì tất cả Bồ Tát, chư Thiên và người đời với những người Diêm Phù Đề xưa kia đã từng trồng căn lành thành thục, diễn nói chánh pháp.

Trong kiếp Hoa Quang có một vạn vị Phật ra đời. Hiện tại ở Vạn Phật Thánh Thành cũng có một vạn vị Phật, từ trên trời giáng lâm xuống, từ dưới đất vọt lên, để đến Vạn Phật bảo điện, đây là hạt bụi của kiếp Thiện Quang thế giới Bảo Quang, bay đến Vạn Phật Thánh Thành, cho nên mới có cảnh giới nầy xuất hiện. Chúng ta phải thương tiết cơ hội vạn lần khó gặp, dũng mãnh tinh tấn tu hành, thời gian nào đó phải khai ngộ. Bằng không, thì cô phụ tâm đại bi của vạn vị Phật từ quang phổ chiếu. Chúng ta vì báo ân Phật, nhất định phải nỗ lực tu hành, sớm thành tựu chí nguyện mà mình đã phát ra.

 

Thị thời, Quốc Vương danh viết: thắng quang. Thời thế nhân dân thọ nhất vạn tuế, kỳ trung đa hữu sát, đạo, dâm dật, vọng ngữ, khỉ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, tham, sân, tà kiến, bất hiếu phụ mẫu, bất kính sa môn Bà la môn đẳng.

Lúc bây giờ, Quốc-Vương tên là Thắng-Quang. Thuở ấy nhơn-dân thọ một vạn tuổi, trong đó phần đông phạm nghiệp ác : sát sanh, trộm cướp, dâm-dật, nói-dối, nói thô, hai lưởi, thêu dệt, tham-lam, giận thù, tà-kiến, bất hiếu, bất kính.

Giảng: Lúc đó, thành Bảo Trang Nghiêm đó, có một vị vua tên là Thắng Quang, lúc đó tuổi thọ của người dân lên đến một vạn tuổi, nhưng phần đông người dân phạm các tội sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng, tham sân tà kiến, bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sa Môn, Bà La Môn…

 

Thời, Vương vi dục điều phục bỉ cố, tạo lập linh ngữ, gia tỏa cấm bế, vô lượng chúng sanh ư trung thọ khổ. Vương hữu Thái-Tử, danh vi: thiện phục, đoan chánh Thù đặc, nhân sở hỉ kiến, cụ nhị thập bát đại nhân chi tướng.

Nhà vua vì muốn sửa trị họ nên thiết lập nhà ngục, giam nhốt vô-lượng người phạm tội hành hạ khổ sở. Thái-Tử tên là Thiện-Phục, đoan chánh đẹp lạ đủ hai mươi tám tướng đại-nhơn.

Giảng: Lúc đó, ông vua Thắng Quang vì muốn điều phục những người đó, nên tạo lập ngục tù, giam nhốt vô lượng chúng sinh chịu khổ ở trong đó. Ông vua Thắng Quang đó, có vị thái tử tên là Thiện Phục, tướng mạo đoan chánh, rất là đặc thù, ai cũng hoan hỉ muốn ngắm nhìn mãi. Tại sao? Vì vị thái tử đó, có đủ ba mươi hai tướng đại nhân, rất là trang nghiêm.

 

Tại cung điện trung, dao văn ngục tù sở độc âm thanh, tâm hoài thương mẫn. Tùng cung điện xuất, nhập lao ngục trung, kiến chư tội nhân nữu giới, gia tỏa đệ tướng liên hệ, trí u ám xứ, hoặc dĩ hỏa chích, hoặc dĩ yên huân, hoặc bị bảng si, hoặc tao tẫn cát, lỏa hình loạn phát, cơ khát luy sấu, cân đoạn cốt hiện, hiệu khiếu khổ kịch.

Thái-Tử ở trong cung vẳng nghe tiếng kêu khóc ở chốn ngục tù, động lòng trắc ẩn, liền vào nhà ngục, thấy tù nhơn bị gông xiềng tối tăm, có kẻ bị đốt, có kẻ bị xông khói, có kẻ bị đánh, có kẻ bị thẻo lóc, tóc rối mình trần, đói khát ốm gầy, rên-rỉ khóc la.

Giảng: Ở trong cung điện của Ngài, xa nghe tiếng kêu khóc của phạm nhân ở chốn ngục tù, Ngài động lòng thương xót những tội nhân đó. Thái tử liền vào ngục tù, thì thấy các tội nhân đó, tay chân bị gông cùm xiềng xích, trói buộc nhốt họ ở chỗ tối tăm, không thấy được ánh sáng mặt trời. Những tội nhân đó thọ sự thống khổ địa ngục ở chốn nhân gian, có người bị họ dùng lửa đốt, có người bị họ dùng khói xông, hoặc bị họ dùng cây đánh đập, hoặc bị họ thẻo lóc da thịt, khổ không thể tả, rất thảm thiết. Những tội nhân đó, đầu tóc rối bời, mình trần, đói khát gầy ốm, gân đứt bày xương, do đó có câu: “Ốm gầy như que củi”, những tội nhân đó thống khổ, khóc lóc kêu gào thảm thiết.

 

Thái-Tử kiến dĩ, tâm sanh bi mẫn, dĩ vô úy thanh an uý chi ngôn: nhữ mạc ưu não! nhữ vật sầu phố! ngã đương lệnh nhữ tất đắc giải thoát.

Quá xót thương, Thái-Tử an-ủi tội-nhơn : các ngươi chớ lo sầu kinh sợ. Ta sẽ cứu thoát các ngươi.

Giảng: Thái tử thấy những cảnh đó rồi, sinh lòng thương xót, dùng lời vô uý an ủi họ rằng: “Các ngươi đừng có lo buồn! Các ngươi chớ có kinh sợ! Ta sẽ tìm cách giải thoát các ngươi, để cho các ngươi được thả ra, tự do đi lại”.

 

Tiện nghệ Vương sở nhi bạch Vương ngôn: ngục trung tội nhân khổ độc nan xứ, nguyện thùy khoan hựu, thí dĩ vô úy. Thời, Vương tức tập ngũ bách đại thần nhi vấn chi ngôn: thị sự vân hà?chư Thần đáp ngôn: bỉ tội nhân giả, tư thiết quan vật, mưu đoạt Vương vị, đạo nhập cung vi, tội ưng hình lục. Hữu ai cứu giả, tội diệc chí tử.

Thái-Tử liền đến tâu Phụ-Vương xin tha tội nhơn. Nhà Vua hội các quan lại để hỏi ý. Các quan luận rằng tội-nhơn là những kẻ gian ác cướp trộm của công, mưu toan cướp ngôi lén vào cung cấm, tội đáng hành hình. Có ai thương cứu cũng bị tử-hình.

Giảng: Do đó, thái tử bèn đến chỗ vua Thắng Quang, bạch với vua rằng: “Tội nhân trong ngục, rất là thống khổ không thể tả được. Con khẩn cầu đại vương, xin hãy tha thứ cho họ, hãy dùng bố thí vô uý tha cho họ”!

Lúc đó, vua Thiện Quang nghe lời thỉnh cầu của thái tử muốn thả những tội nhân đó rồi, bèn tập họp năm trăm vị đại thần, để hỏi ý về việc đó. Bèn hỏi năm trăm vị đại thần rằng: “Việc nầy nên làm thế nào”?

Năm trăm vị đại thần khác miệng cùng lời đều đáp rằng: “Những tội nhân đó, trộm cắp của công, âm mưu muốn cướp ngôi vua, muốn giết đại vương, tội đáng hành hình, nên chém đầu thị chúng, không có lý do nào lại phóng thích. Nếu có ai thương muốn cứu những tội nhân đó, cũng bị tội tử hình”.

 

Thời, bỉ Thái-Tử bi tâm chuyển thiết, ngữ đại thần ngôn: như nhữ sở thuyết, đãn phóng thử nhân; tùy kỳ sở ưng, khả dĩ trì ngã. Ngã vi bỉ cố, nhất thiết khổ sự tất giai năng thọ, phấn thân một mạng, vô sở cố tích, yếu lệnh tội nhân giai đắc miễn khổ.

Thái-Tử buồn thương bảo các quan rằng : xin thả những người ấy, tôi đành chịu tội, dầu nát thân mất mạng tôi cũng cam, miễn tội-nhơn được thoát khổ.

Giảng: Lúc đó, lòng thái tử càng kiên cố, nói với các đại thần rằng: “Xin các ông hãy thả những người đó ra, tôi xin thay thế tánh mạng của tôi để chịu tội. Tôi vì cứu chúng sinh, tất cả hình phạt khổ sở, dù nát thân mất mạng, tôi cũng cam chịu, không hối tiếc, miễn sao những tội nhân đó đều được thoát khổ.

 

Hà dĩ cố? ngã nhược bất cứu thử chúng sanh giả, vân hà năng cứu tam giới lao ngục chư khổ chúng sanh? nhất thiết chúng sanh tại tam giới trung, tham ái sở phược, ngu si sở tế, bần vô công đức, đọa chư ác thú, thân hình bỉ lậu, chư căn phóng dật, kỳ tâm mê hoặc, bất cầu xuất đạo, thất trí tuệ quang, lạc trước tam hữu, đoạn chư phước đức, diệt chư trí tuệ, chủng chủng phiền não trược loạn kỳ tâm, trụ khổ lao ngục, nhập ma quyến võng, sanh lão bệnh tử ưu bi não hại, như thị chư khổ thường sở bức bách.

Tại sao vậy ? Vì nếu tôi không cứu được những tội nhơn nầy thời làm sao cứu được chúng-sanh trong nhà ngục tam giới. Tất cả chúng-sanh trong ba cõi bị tham ái buộc ràng, nghèo thiếu công đức, ngu-si che đậy, đọa trong ác-đạo, thân hình xấu-xí, thân căn phóng dật, tâm họ mê loạn chẳng cầu đạo xuất-ly, mất ánh sáng trí-huệ, ưa mến ba cõi, dứt các phước đức, diệt những trí-huệ, phiền-não làm tâm họ nhơ đục, ở trong ngục khổ, vào rọ của ma. Thường bị những khổ sanh lão bịnh tử ưu-bi não hại bức bách mãi.

Giảng: Tại sao vậy? Vì nếu tôi không cứu được những chúng sinh nầy, thì làm sao cứu được các chúng sinh khổ trong ngục tù ba cõi? Tất cả chúng sinh ở trong ba cõi, bị tham ái ràng buộc, ngu si che đậy. Họ đều là những người nghèo cùng, không biết làm việc có công đức, nên bị đoạ trong ba đường ác, thân hình rất xấu xí. Vì các căn phóng dật, không giữ quy cụ, nên tâm bị mê hoặc, không cầu đạo thoát khỏi nhà lửa ba cõi. Mất đi trí huệ quang minh, ưa chấp cảnh giới ba cõi, dứt các phước đức, diệt các trí huệ, có đủ thứ vô minh phiền não, tâm ý nhơ đục tán loạn. Ở trong lao ngục khổ sở, nhập vào lưới ma, sinh già bệnh chết, lo buồn não hại, đủ thứ các khổ như vậy, luôn bị bức bách.

 

Ngã đương vân hà lệnh bỉ giải thoát? ưng xả thân mạng nhi bạt tế chi! thời, chư đại thần cọng nghệ Vương sở, tất cử kỳ thủ cao thanh xướng ngôn: Đại Vương đương tri, như Thái-Tử ý, hủy hoại vương pháp, họa cập vạn nhân. Nhược Vương ái niệm bất trách trì giả, Vương chi bảo tộ diệc bất cửu lập. Vương văn thử ngôn, hách nhiên Đại nộ, lệnh tru Thái-Tử cập chư tội nhân.

Tôi phải làm thế nào cho họ được giải-thoát ? Tôi phải xả thân mạng để cứu họ. Lúc đó các quan đồng đến chỗ Vua giơ tay nói lớn rằng : Đại-Vương nên biết, như ý của Thái-Tử là hủy-hoại vương-pháp, họa đến nhơn-dân. Nếu Đại-Vương không trị tội Thái-Tử thời ngôi báu của Đại-Vương tất khó được bền lâu. Vua nghe các quan tâu liền nổi giận truyền giết Thái-Tử và các tội-nhơn.

Giảng: Tôi phải làm cách nào khiến cho họ được giải thoát, tôi phải xả thân mạng của tôi để cứu họ thoát khỏi biển khổ.

Lúc đó, năm trăm vị đại thần cùng đến chỗ ông vua, mọi người đều giơ tay phải lớn tiếng nói rằng: “Đại vương nên biết! Như ý của thái tử là muốn thả hết những tội nhân đó, tức là huỷ hoại vương pháp quốc gia. Nếu mà thả những tội nhân đó, thì hoạ sẽ đến vạn dân. Nếu đại vương thương mến thái tử, không trừng trị thái tử, thì ngôi báu của vua, chẳng bao lâu nữa sẽ mất. Xin đại vương hãy nghĩ lại”. Lúc đó, vua Thắng Quang nghe lời của năm trăm vị đại thần, bèn nổi giận lôi đình, hạ lệnh giết thái tử và các tội nhân.

 

Vương hậu văn chi, sầu ưu hiệu khốc, hủy hình hàng phục, dữ thiên thải nữ trì nghệ Vương sở, cử thân đầu địa đảnh lễ Vương túc, câu tác thị ngôn: duy nguyện Đại Vương, xá Thái-Tử mạng! Vương tức hồi cố, ngữ Thái-Tử ngôn: mạc cứu tội nhân. Nhược cứu tội nhân, tất đương sát nhữ!

Vương-Hậu hay tin kinh hãi gào khóc, cùng ngàn thể-nữ chạy đến chỗ vua mọp lạy cầu vua tha tội Thái-Tử. Vua ngó Thái-Tử mà bảo rằng : ngươi chớ cứu tội-nhơn, nếu cứu họ ta sẽ giết ngươi.

Giảng: Hoàng hậu nghe được tin tức thái tử sẽ bị giết, sầu thương gào khóc, cùng với một ngàn thể nữ cấp tốc cùng đi đến chỗ vua, quỳ lạy sát đất, đảnh lễ vua Thắng Quang, đều nói rằng: “Xin đại vương từ bi, hãy tha mạng cho thái tử”.

Lúc đó, vua bèn hướng về thái tử nói: “Con đừng cứu những tội nhân đó, họ phạm tội đáng chết, phải chịu sự trừng phạt. Nếu con nhất định muốn thả những tội nhân đó, thì ta sẽ giết ngươi. Ngươi nên lập tức thay đổi ý định, bằng không thì chẳng có ai có thể cứu được mạng sống của ngươi”.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử vi dục chuyên cầu nhất thiết trí cố, vi dục lợi ích chư chúng sanh cố, vi dĩ đại bi phổ cứu nhiếp cố, kỳ tâm kiên cố vô hữu thoái khiếp, phục bạch Vương ngôn: nguyện thứ bỉ tội, thân đương thọ lục!

Thái-Tử vì muốn chuyên cầu nhất-thiết-trí, vì muốn lợi ích chúng-sanh, vì lòng đại-bi phổ cứu, nên trong lòng vững chắc không khiếp sợ, lại tâu rằng : xin thả tội-nhơn, con đành chịu chết.

Giảng: Lúc đó, thái tử Thiện Phục càng kiên cường hơn, vì muốn chuyên cầu được nhất thiết trí huệ. Vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh. Vì muốn dùng đại bi cứu khắp nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Tâm thái tử rất kiên cố, không lùi bước, cũng không sợ hãi, quyết tâm muốn cứu những tội nhân đó, dù phải tan thân mất mạng cũng cam chịu. Dù sống hay chết cũng không màng đến, chỉ muốn cứu những tội nhân đó thoát khỏi ngục tù thống khổ. Đó là tinh thần của Bồ Tát, xả mình vì người. Chúng ta nên kiến hiền tư tề (thấy người hơn mình, phải có gắng làm cho bằng họ), học tập theo gương thái tử Thiện Phục.

Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, đức Phật nói đạo lý Bồ Tát đạo của bậc pháp thân Đại Sĩ tu hành. Hành Bồ Tát đạo, thì phải quên mình, tất cả vì lợi ích chúng sinh mà nghĩ đến, chẳng có tư tưởng ích kỷ lợi mình. Tất cả đều buông bỏ được, chẳng có chấp trước, mới đắc được sự giải thoát.

Thái tử Thiện Phục lại bạch với vua Thắng Quang rằng: “Con khẩn cầu đại vương từ bi, hãy tha cho những tội nhân đó, hãy thả họ ra hết! Con xin chịu chết thay thế cho những tội nhân đó”.

 

Vương ngôn: tùy ý!

Vua bảo tùy ý.

Giảng: Vua Thắng Quang nói: “Được, tuỳ ý ngươi, ta cho ngươi mãn nguyện. Thả tội nhân, ngươi chết thế cho tội nhân, không có nói chơi, nói ra phải giữ lời”.

 

Nhĩ thời, Vương hậu bạch ngôn: Đại Vương! nguyện thính Thái-Tử, bán nguyệt hành thí, tứ ý tu phước, nhiên hậu trì tội.

Vương-Hậu tâu xin cho Thái-Tử tùy ý bố-thí nửa tháng để tu phước, sau đó sẽ trị tội.

Giảng: Lúc đó, hoàng hậu bạch với vua rằng: “Đại vương! Tôi muốn xin cho thái tử bố thí nửa tháng, để tu phước, sau đó trị tội”.

 

Vương tức thính hứa. Thời, đô thành Bắc hữu nhất Đại viên, danh viết: nhật quang, thị tích thí trường. Thái-Tử vãng bỉ, thiết đại thí hội; ẩm thực, y phục, hoa man, anh lạc, đồ hương, mạt hương, tràng phan, bảo cái, chư trang nghiêm cụ, tùy hữu sở cầu, mị bất châu cấp.

Vua liền phê chuẩn. Phía bắc Đô-Thành có khu vườn lớn tên là Nhựt-Quang, là hội-trường bố-thí thuở xưa. Thái-Tử đến đó lập đại-thí-hội. Tất cả những đồ uống ăn, y-phục, thuốc men, hoa hương, phan cái, vàng bạc châu ngọc đều cung cấp cho người cầu xin.

Giảng: Vua liền hứa khả lời thỉnh cầu của hoàng hậu. Hoàng hậu rất thương mến thái tử, không muốn thái tử bị giết, nên tha thiết thỉnh cầu, muốn quốc vương tha tội cho thái tử. Quốc vương sao lại muốn giết con? Do đó có câu: “Hổ mẹ không ăn thịt con”, nhưng đứng trên lập trường quốc pháp, thì không được như vậy, cho nên đáp ứng thỉnh cầu của hoàng hậu, đây là lẽ thường tình của con người.

 

Kinh bán nguyệt dĩ, ư tối hậu nhật, Quốc Vương, đại thần, Trưởng-giả, Cư-sĩ, thành ấp nhân dân cập chư ngoại đạo, tất lai tập hội. Thời, Pháp luân âm hư không đăng Vương Như Lai, tri chư chúng sanh điều phục thời chí, dữ Đại chúng câu, Thiên Vương vi nhiễu, long Vương cúng dường, dạ xoa Vương thủ hộ, càn thát bà vương tán thán, A-tu-la Vương khúc cung đảnh lễ, Ca Lâu La Vương dĩ thanh tịnh tâm tán chư bảo hoa, khẩn-na-la Vương hoan hỉ khuyến thỉnh, Ma hầu la già Vương nhất tâm chiêm ngưỡng, lai nhập bỉ hội.

Đến ngày thứ mười lăm, Vua cùng các quan, trưởng-giả, cư-sĩ, nhân-dân và các nhà ngoại-đạo đều hội họp. Bấy giờ đức Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai biết chúng-sanh đã đến lúc được điều-phục nên cùng đại-chúng câu hội: Thiên-Vương hầu hạ, Long-Vương cúng-dường, Dạ-Xoa-Vương thủ hộ, Càn-Thát-Bà-Vương ca-ngợi, A-Tu-La Vương cúi mình đảnh lễ, Ca-Lâu La-Vương lòng thanh-tịnh rải hoa báu, Khẩn Na-La-Vương hoan-hỉ khuyến thỉnh, Ma-Hầu-La-Già Vương nhất tâm chiêm ngưỡng, đồng đến hội-trường bố-trí.

Giảng: Lúc đó, ở phía bắc thành đô Bảo Trang Nghiêm, có một khu vườn lớn, tên là Nhựt Quang, là đạo tràng đại bố thí lúc xưa kia. Thái tử Thiện Phục đến vườn hoa đó, thiết lập pháp hội bố thí lớn: Bố thí thức ăn uống, y phục, hoa, tràng hoa, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, tràng, phan, lọng báu, các đồ trang nghiêm. Tuỳ theo sự mong cầu của chúng sinh, đều chu cấp đầy đủ, khiến cho chúng sinh đều toại tâm mãn nguyện.

Bố thí như vậy, trải qua được nửa tháng, đến ngày cuối cùng, quốc vương và đại thần, trưởng giả cùng cư sĩ, thành ấp nhân dân, và tất cả các ngoại đạo, đều vân tập đến đại hội bố thí vườn hoa Nhựt Quang, để tham quan tình huống bố thí.

Lúc bấy giờ, đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, biết thời điều phục tất cả chúng sinh đã đến, nghĩa là cơ duyên của chúng sinh đã thành thục. Do đó, Ngài cùng với đại chúng tụ hội lại, có các Thiên Vương vây quanh, Long Vương cúng dường, Dạ Xoa Vương thủ hộ, Càn Thát Bà Vương khen ngợi, A Tu La Vương khom mình đảnh lễ, Ca Lâu La Vương dùng tâm thanh tịnh rải các hoa báu, Khẩn Na La Vương hoan hỉ khuyến thỉnh, Ma Hầu La Già Vương một lòng chiêm ngưỡng, đại chúng cùng nhau đi đến đạo tràng đại bố thí vườn hoa Nhựt Quang.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử cập chư Đại chúng, dao kiến Phật lai, đoan nghiêm Thù đặc, chư căn tịch định như điều thuận tượng, tâm vô cấu trược như thanh tịnh trì, hiện đại thần thông, thị đại tự tại, hiển đại uy đức, chủng chủng tướng hảo trang nghiêm kỳ thân, phóng đại quang minh phổ chiếu thế giới, nhất thiết mao khổng xuất hương diệm vân, chấn động thập phương vô lượng Phật sát, tùy sở chí xứ phổ vũ nhất thiết chư trang nghiêm cụ; dĩ Phật uy nghi, dĩ Phật công đức, chúng sanh kiến giả, tâm tịnh hoan hỉ, phiền não tiêu diệt.

Thái-Tử và đại-chúng thấy đức Phật sắp đến. Thân Phật đoan-nghiêm thù đặc, các căn tịch tịnh, tâm không nhơ đục như ao nước sạch trong, hiện đại thần-thông tự-tại, hiển đại oai-đức, những tướng hảo trang-nghiêm, phóng đại quang-minh chiếu khắp thế-giới, tất cả lỗ lông phát ra mây sáng thơm, chấn động vô-lượng phật-độ mười phương, chỗ nào phật đến đều mưa những đồ trang-nghiêm. Do oai-nghi và công-đức nên chúng-sanh nào thấy Phật thời tâm thanh-tịnh hoan-hỉ phiền-não tiêu-diệt.

Giảng: Lúc đó, thái tử Thiện Phục và tất cả đại chúng, từ xa trông thấy đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương đến, tướng mạo đoan chánh trang nghiêm rất đặc thù. Vì đức Phật đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp. Các căn tịch định, tức là mắt không nhìn cảnh không đáng nhìn, tai không nghe chuyện không đáng nghe, miệng không nói lời không đáng nói, tâm không nghĩ điều không nên nghĩ. Sáu căn nhập thiền định, như voi lớn điều thuận, tâm không có tư tưởng cấu trược, như mặt hồ thanh tịnh, vật đến thì chiếu, vật đi thì lặng, không có mọi sự chấp trước. Thị hiện sức đại thần thông, thị hiện cảnh giới đại tự tại, hiển hiện sức đại oai đức, có đủ thứ tướng tốt trang nghiêm thân.
Đức Phật phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới. Trong tất cả lỗ chân lông, hiện ra mây sáng thơm, chấn động mười phương vô lượng cõi Phật. Tuỳ chỗ Phật đến, đều khắp mưa tất cả các đồ trang nghiêm. Nhờ oai nghi của Phật, nhờ công đức của Phật, chúng sinh ai thấy được những cảnh giới đó, tâm đều thanh tịnh mà sinh hoan hỉ, mọi phiền não đều tiêu diệt không còn.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử cập chư Đại chúng ngũ thể đầu địa, đảnh lễ kỳ túc, an thí sàng tọa, hợp chưởng bạch ngôn: thiện lai Thế Tôn! thiện lai Thiện-Thệ! duy nguyện ai mẩn, nhiếp thọ ư ngã, xứ vu thử tọa! dĩ Phật thần lực, tịnh cư chư Thiên tức biến thử tọa vi hương ma-ni liên hoa chi tọa.

Thái-Tử và đại-chúng đảnh lễ chân đức Phật, dọn tòa cao đẹp, chắp tay bạch Phật: Thiện-lai đấng Thế-Tôn ! Thiện-lai đấng Thiện Thệ ! Xin đức Như-Lai từ mẫn nhiếp thọ chúng-tôi mà ngự trên tòa nầy. Do thần-lực của Phật, nên Tịnh-Cư-Thiên liền biến tòa ấy thành tòa sen hương-ma-ni.

Giảng: Lúc đó, thái tử và tất cả đại chúng, năm thể sát đất, đảnh lễ đức Phật. Bày toà ngồi, biểu thị cung nghinh. Đại chúng cùng chắp tay cung kính bạch đức Phật rằng: Lành thay đức Thế Tôn! Lành thay đấng Thiện Thệ! Xin Ngài thương xót nhiếp thọ chúng con, xin cung thỉnh Ngài ngồi lên bảo toà nầy.  Nhờ thần lực của Phật, chư Thiên Tịnh Cư (trời Ngũ Bất Hoàn thuộc về sắc giới) cũng đến, liền biến toà báu đó, thành toà sen hương ma ni

 

Phật tọa kỳ thượng, chư Bồ-tát chúng diệc giai tựu tọa châu táp vi nhiễu.

Đức Phật ngồi trên tòa sen ấy. Chư Bồ-Tát cũng ngồi xung quanh Phật.

Giảng: Đức Phật ngồi trên toà đó, tất cả các chúng Bồ Tát cũng đều ngồi chung quanh đức Phật.

 

Thời, bỉ hội trung nhất thiết chúng sanh, nhân kiến Như Lai, khổ diệt chướng trừ, kham thọ thánh pháp. Nhĩ thời, Như Lai tri kỳ khả hóa, dĩ viên mãn âm, thuyết tu-đa-la, danh: phổ chiếu nhân luân, lệnh chư chúng sanh tùy loại các giải.

Tất cả mọi người trong hội-trường ấy nhơn thấy đức Như-Lai nên dứt khổ trừ chướng, có thể lãnh thọ thánh-pháp.

Giảng: Đức Như-Lai biết họ đáng được hóa độ, bèn dùng âm thanh viên-mãn nói khế-kinh tên là Phổ-Chiếu-Nhơn-Luân, khiến các chúng-sanh tùy theo loài mà nhận hiểu.

Lúc đó, đại chúng trong đại pháp hội bố thí đó, nhờ thấy đức Như Lai Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, khổ não liền tiêu diệt, nghiệp chướng lập tức tiêu trừ sạch, có tư cách kham thọ được Thánh pháp.

Lúc bấy giờ, đức Như Lai biết căn cơ của tất cả chúng sinh đã thành thục, có thể giáo hoá được, bèn dùng âm viên mãn, diễn nói Tu Đa La (khế kinh), tên là Kinh Phổ Chiếu Nhân Luân, khiến cho tất cả chúng sinh, tuỳ loài đều hiểu được.

 

Thời, bỉ hội trung hữu bát thập na-do-tha chúng sanh, viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh; vô lượng na-do-tha chúng sanh, đắc vô học địa; thập thiên chúng sanh, trụ Đại thừa đạo, nhập Phổ Hiền hạnh, thành mãn đại nguyện.

Lúc đó có tám mươi na-do-tha chúng-sanh xa trần lìa cấu được pháp-nhãn thanh-tịnh. Vô-lượng na-do-tha chúng-sanh được bậc vô-học. Mười ngàn chúng-sanh trụ đạo đại-thừa nhập phổ-hiền-hạnh, thành-mãn đại-nguyện.

Giảng: Lúc bấy giờ, trong pháp hội bố thí đó, có tám mươi Na do tha chúng sinh, xa lìa tất cả bụi dơ, đắc được con mắt pháp thanh tịnh. Lại có vô lượng Na do tha chúng sinh, đắc được bậc vô học. Do đó có câu: “Các lậu đã sạch, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa”. Đã chứng được quả vị tứ quả A La Hán. Lại có mười ngàn chúng sinh, trụ đạo đại thừa, học tập pháp đại thừa. Nhập vào hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu viên mãn đại nguyện Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Đương nhĩ chi thời, thập phương các bách Phật sát vi trần số chúng sanh, ư Đại-Thừa trung, tâm đắc điều phục; vô lượng thế giới nhất thiết chúng sanh, miễn ly ác thú, sanh ư Thiên thượng.

Đồng thời mỗi phương trong mười phương đều có trăm phật-sát vi-trần số chúng-sanh ở trong đại-thừa tâm được điều-phục. Tất cả chúng-sanh trong vô-lượng thế-giới thoát khỏi ác-đạo sanh lên trời, cõi người.

Giảng: Lúc bấy giờ, mỗi phương trong mười phương đều có các chúng sinh nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, trụ ở trong pháp đại thừa, tâm được điều phục, không quái không ngại. Tất cả chúng sinh trong vô lượng thế giới, được lìa khỏi tất cả cõi ác, được sinh về cõi trời, hưởng phước trời an vui.

 

Thiện phục Thái-Tử tức ư thử thời, đắc Bồ Tát giáo hóa chúng sanh lệnh sanh thiện căn giải thoát môn.

Thái-Tử Thiện-Phục liền được môn giải thoát Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh khiến sanh thiện-căn.

Giảng: Lúc đó, thái tử Thiện Phục lập tức, đắc được môn giải thoát Bồ Tát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành. Ở trên là vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, tường thuật lại thời quá khứ, tại gia tu hành. Đây là trả lời câu hỏi của Thiện Tài đồng tử hỏi phát tâm đã được bao lâu.

 

Thiện nam tử! Nhĩ thời Thái-Tử khởi dị nhân hồ? Ngã thân thị dã. Ngã nhân vãng tích khởi đại bi tâm, xả thân mạng tài cứu khổ chúng sanh, khai môn Đại thí cúng dường ư Phật, đắc thử giải thoát. Phật tử đương tri, ngã ư

Nầy thiện-nam-tử ! Thái-Tử Thiện Phục xưa kia chính là thân ta. Vì thuở xưa ta phát tâm đại-bi bỏ thân mạng của cải cứu khổ chúng-sanh mở cửa đại-thí, cúng-dường đức phật, nên được môn giải-thoát nầy.

Giảng: Thiện nam tử! Thái tử lúc bấy giờ, ngươi có biết là ai chăng? Đâu phải là người nào khác, chính là thân ta vậy (Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực). Do ta thuở xưa sinh khởi tâm đại bi, xả thân mạng của ta, xả tài vật của ta, cứu giúp tất cả chúng sinh khổ, mở cửa pháp hội đại bố thí, bố thí cho tất cả chúng sinh, cúng dường tất cả chư Phật, mới đắc được môn giải thoát nầy.

Chúng ta nghe Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, nghe được đoạn Kinh văn nầy, nên hồi quang phản chiếu, chúng ta có xả bỏ được thân mạng và tài vật để cứu giúp tất cả chúng sinh chưa? Hết thảy Bồ Tát quá khứ, đều xả thân mạng để giáo hoá chúng sinh. Chúng ta hãy phản tỉnh lại xem, có làm được như vậy chăng? Nếu được, thì tiếp tục hướng về trước làm, không thể bỏ dở giữa chừng. Nếu không làm được, thì phải phát tâm đại bồ đề, học tập Bồ Tát quá khứ phát nguyện, xả thân mạng, xả tài vật, để cứu giúp tất cả chúng sinh, để giáo hoá tất cả chúng sinh. Càng phải dũng mãnh, càng phải tinh tấn, không thể giải đãi, không thể phóng dật. Người tu đạo, không tinh tấn thì thối lùi, tức cũng là thối chuyển tâm bồ đề. Phải chú ý! Lười biếng tức là đá cột chân sự tu đạo.

 

Nhĩ thời, đãn vi lợi ích nhất thiết chúng sanh, bất trước tam giới, bất cầu quả báo, bất tham danh xưng, bất dục tự tán khinh hủy ư tha, ư chư cảnh giới vô sở tham nhiễm, vô sở bố úy, đãn trang nghiêm Đại-Thừa xuất yếu chi đạo, thường lạc quan sát nhất thiết trí môn, tu hành khổ hạnh, đắc thử giải thoát.

Nầy thiện-nam-tử ! Nên biết rằng thuở ấy ta chỉ vì lợi ích tất cả chúng-sanh, chẳng luyến tam-giới, chẳng cầu quả báo, chẳng tham danh tiếng, chẳng muốn tự khen mà kinh hủy người khác. Nơi các cảnh-giới không chút tham nhiểm không hề e sợ. Chỉ trang-nghiêm đạo đại-thừa xuất yếu. Thường thích quán-sát môn nhất thiết-trí, tu hành khổ-hạnh, nên được môn giải-thoát nầy.

Giảng: Phật tử! Người nên biết ta lúc đó, phát tâm đại bồ đề, chỉ vì lợi ích tất cả chúng sinh, chẳng chấp vào cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, ba cõi. Chẳng cầu quả báo lành, chẳng tham danh thơm tiếng tốt, chẳng muốn tự khen mình, cũng chẳng khinh chê kẻ khác. Đối với tất cả cảnh giới, không sinh tâm tham nhiễm, cũng không sinh tâm sợ hãi. Tại sao? Vì không còn cái ta, hết thảy tất cả chẳng vì mình mà cầu. Chỉ trang nghiêm đạo đại thừa thoát khỏi ba cõi. Thường thích quán sát môn nhất thiết trí huệ, tu hành khổ hạnh không dễ gì tu được, nên ta mới đắc được môn giải thoát nầy.

 

Phật tử! ư nhữ ý vân hà, bỉ thời ngũ bách đại thần, dục hại ngã giả, khởi dị nhân hồ? kim Đề bà đạt đa đẳng ngũ bách đồ đảng thị dã. Thị chư nhân đẳng, mông Phật giáo hóa, giai đương đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, ư vị lai thế, qua Tu-di sơn vi trần số kiếp, Nhĩ thời hữu kiếp, danh: thiện quang, thế giới danh: Bảo quang, ư trung thành Phật. kỳ ngũ bách Phật thứ đệ hưng thế, tối sơ Như Lai, danh viết: đại bi; đệ nhị, danh: nhiêu ích thế gian; đệ tam, danh: đại bi sư tử; đệ tứ, danh: cứu hộ chúng sanh; nãi chí tối hậu, danh viết: y vương.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa năm trăm quan đại-thần muốn hại Thái-Tử Thiện-Phục, nay là năm trăm đồ đảng của Đề-Bà-Đạt-Đa. Những người nầy nhờ đức Phật giáo-hóa, sẽ được thành Phật. Đời vị-lai quá tu-di-sơn vi-trần số kiếp, có kiếp tên là Thiện-Quang thế-giới tên là Bửu-Quang, năm trăm người nầy sẽ thứ đệ thành Phật trong đó. Đức Phật tối-sơ hiệu là Đại-Bi, thứ hai hiệu là Nhiêu-Ích-Thế-gian, thứ ba hiệu là Đại-Bi-Sư-Tử, thứ tư hiệu là Cứu-Hộ-Chúng-Sanh, đức Phật tối-hậu hiệu là Y-Vương.

Giảng: Phật tử! Ý ngươi nghĩ như thế nào? Năm trăm vị đại thần muốn hại ta thuở đó, đâu phải là người nào khác. Nay chính là Đề Bà Đạt Đà và năm trăm đồ đảng của y. Những người đó, nhờ đức Phật giáo hoá, đều sẽ đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Ở đời vị lai, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di. Lúc bấy giờ, có kiếp tên là Thiện Quang, trong kiếp đó có thế giới tên là Bảo Quang. Các Ngài sẽ thành Phật ở trong thế giới đó. Năm trăm vị Phật đó, sẽ thứ tự xuất hiện ra đời. Vị Phật đầu tiên hiệu là Phật Đại Bi. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Nhiêu Ích Thế Gian. Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Đại Bi Sư Tử. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Cứu Hộ Chúng Sinh. Cho đến vị Phật cuối cùng hiệu là Phật Y Vương.

 

Tuy bỉ chư Phật đại bi bình đẳng, nhiên kỳ quốc độ, chủng tộc, phụ mẫu, thọ sanh, đản sanh, xuất gia, học đạo, vãng nghệ đạo tràng, chuyển chánh Pháp luân, thuyết tu-đa-la, ngữ ngôn, âm thanh, quang minh, chúng hội, thọ mạng, pháp trụ cập kỳ danh hiệu, các các sái biệt.

Dầu năm trăm đức Phật vị-lai ấy đại-bi bình-đẳng, nhưng quốc-độ, chủng-tộc, cha mẹ, thọ sanh, đản sanh, xuất gia học đạo, đến đạo-tràng, chuyển pháp-luân, nói kinh, ngữ ngôn âm thanh, quang-minh, chúng-hội, thọ-mạng, pháp trụ và danh-hiệu của các ngài đều sai khác.

Giảng: Tuy tất cả các đức Phật đó, đại bi bình đẳng, nhưng cõi nước, chủng tộc, cha mẹ, thọ sinh, tuổi thọ, xuất gia, học đạo, đi đến đạo tràng, chuyển bánh xe pháp, nói Tu Đa La, lời nói, âm thanh, quang minh, chúng hội, thọ mạng, pháp trụ, và danh hiệu của các vị Phật đó, thảy đều khác biệt.

 

Phật tử! bỉ chư tội nhân, ngã sở cứu giả, tức câu lưu tôn đẳng hiền kiếp thiên Phật, cập bách vạn a-tăng-kì chư đại Bồ-tát ư vô lượng tinh tấn lực danh xưng công đức tuệ như lai sở, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, kim ư thập phương quốc độ, hành Bồ Tát đạo, tu tập tăng trưởng thử Bồ-đề, giáo hóa chúng sanh, lệnh sanh thiện căn giải thoát giả thị.

Nầy thiện-nam-tử ! Những người tội được ta cứu thuở xưa ấy, nay là đức Câu-Lưu-Tôn Như-Lai và ngàn đức Phật trong Hiền-Kiếp nầy, cùng trăm vạn a-tăng-kỳ đại Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề nơi chỗ đức Vô-Lượng Tinh-Tấn-Lực Danh-Xưng Công-Đức-Huệ Như-Lai, hiện nay ở thập phương quốc-độ tu tập tăng trưởng bồ-tát-đạo, giáo-hóa chúng-sanh khiến sanh thiện-căn giải-thoát.

Giảng: Phật tử! Các tội nhân mà ta cứu thuở đó, tức là ngàn vị Phật trong kiếp Hiền vậy. Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Câu Lưu Tôn. Vị Phật thứ hai hiệu là Câu Na Hàm Mâu Ni. Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Ca Diếp. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Vị Phật thứ năm hiệu là Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật (Phật vị lai), và trăm vạn A tăng kỳ các đại Bồ Tát, ở chỗ đạo tràng của Như Lai Vô Lượng Tinh Tấn Lực Danh Xưng Công Đức Huệ, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Hiện nay đang ở trong cõi nước mười phương thế giới hành Bồ Tát đạo, tu tập tăng trưởng môn giải thoát Bồ Tát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành nầy.

 

Thời thắng quang Vương, kim tát già ni kiền tử đại luận sư thị.

Vua Thắng-Quang thuở xưa ấy, nay là đại Luận-Sư Tát-Giá-Ni-Kiền-Tử.

Giảng: Vua Thắng Quang thuở đó, hiện nay là đại luận sư Tát Giá Ni Kiền Tử (một trong sáu đại luân sư của Ấn Độ lúc Phật còn tại thế). Ông ta tu khổ hạnh, loã thể, nhịn đói chịu khát.

 

Thời vương cung nhân cập chư quyến chúc, tức bỉ Ni-kiền lục vạn đệ-tử dữ sư câu lai, kiến đại luận tràng, cọng Phật luận nghị, tất hàng phục chi, thọ A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề kí giả thị. Thử chư nhân đẳng, giai đương tác Phật, quốc độ trang nghiêm, kiếp số, danh hiệu, các các hữu dị.

Cung-nhơn và quyến-thuộc thuở xưa ấy, nay là sáu vạn đệ-tử của Tát-Giá Ni-Kiền theo thầy đồng đến luận nghị với đức Phật, bị đức Phật hàng phục và đều được thọ ký sẽ thành Phật đời vị-lai, cõi nước trang-nghiêm, kiếp số, danh hiệu riêng khác.

Giảng: Các cung nhân và quyến thuộc của vua thuở đó, tức là sáu vạn đệ tử của đại luận sư Tát Giá Ni Kiền Tử, thầy trò họ cùng đến chỗ đức Phật, kiến đại luận tràng, luận nghị với đức Phật, cuối cùng đều bị đức Phật hàng phục, được đức Phật thọ ký A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Những người ngoại đạo đó, tương lai đều sẽ thành Phật, cõi nước trang nghiêm, kiếp số danh hiệu, thảy đều khác nhau.

 

Phật tử! ngã ư Nhĩ thời cứu tội nhân dĩ, phụ mẫu thính ngã xả ly quốc độ, thê tử, tài bảo, ư Pháp luân âm hư không đăng Vương Phật sở xuất gia học đạo.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa ấy, lúc ta cứu tội-nhơn rồi, cha mẹ cho ta xuất gia học đạo với đức Phật Pháp-Luân-Ấm-Hư-Không-Đăng-Vương Như-Lai.

Giảng: Phật tử! Lúc đó ta cứu các tội nhân rồi, cha mẹ nghe lời ta yêu cầu, cho ta xuất gia tu đạo. Ta xả lìa cõi nước, vợ con, tài sản, ở chỗ đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, xuất gia học đạo.

 

Ngũ bách tuế trung, tịnh tu phạm hạnh, tức đắc thành tựu bách vạn Đà-la-ni, bách vạn thần thông, bách vạn pháp tạng, bách vạn cầu nhất thiết trí dũng mãnh tinh tấn, tịnh trì bách vạn kham nhẫn môn, tăng trưởng bách vạn tư tánh tâm, thành tựu bách vạn Bồ Tát lực, nhập bách vạn Bồ Tát trí môn, đắc bách vạn Bát-nhã Ba-la-mật môn, kiến thập phương bách vạn chư Phật, sanh bách vạn Bồ Tát đại nguyện; niệm niệm trung, thập phương các chiếu bách vạn Phật sát; niệm niệm trung, ức niệm thập phương thế giới tiền hậu tế kiếp bách vạn chư Phật; niệm niệm trung, tri thập phương thế giới bách vạn chư Phật biến hóa hải; niệm niệm trung, kiến thập phương bách vạn thế giới sở hữu chúng sanh chủng chủng chư thú, tùy nghiệp sở thọ sanh thời, tử thời, thiện thú, ác thú, hảo sắc, ác sắc, kỳ chư chúng sanh chủng chủng tâm hành, chủng chủng dục lạc, chủng chủng căn tánh, chủng chủng nghiệp tập, chủng chủng thành tựu, giai tất minh liễu.

Ta tu tịnh-hạnh trong năm trăm năm liền thành-tựu trăm vạn đà-la-ni, trăm vạn thần-thông, trăm vạn pháp-tạng, trăm vạn cầu nhất-thiết-trí dũng-mãnh tinh-tấn, tịnh trị trăm vạn môn kham nhẫn, tăng trưởng trăm vạn tâm tư-duy, thành-tựu trăm vạn bồ-tát-lực, nhập trăm vạn bồ-tát trí-môn, được trăm vạn bát-nhã ba-la-mật môn, thấy thập phương trăm vạn chư Phật, sanh trăm vạn bồ-tát đại-nguyện, trong mỗi niệm mười phương đều chiếu trăm vạn phật độ, trong mỗi niệm tiền-tế hậu-tế đều nhớ trăm vạn chư Phật, trong mỗi niệm đều biết thập-phương thế-giới trăm vạn chư Phật biến-hóa-hải, trong mỗi niệm thấy thập phương trăm vạn thế-giới có bao nhiêu chúng-sanh, bao nhiêu loài theo nghiệp mà sanh mà tử thiện-đạo ác-đạo sắc tốt sắc xấu, những chúng-sanh ấy có bao nhiêu tâm hành, dục lạc, căn tánh, nghiệp tập, thành tựu đều biết rõ tất cả.

Giảng: Trong năm trăm năm tịnh tu phạm hạnh, liền được thành tựu trăm vạn pháp môn Đà La Ni, trăm vạn pháp môn thần thông, trăm vạn pháp môn pháp tạng, trăm vạn pháp môn cầu nhất thiết trí dũng mãnh tinh tấn. Tịnh trị trăm vạn pháp môn kham nhẫn. Tăng trưởng trăm vạn pháp môn tâm tư duy. Thành tựu trăm vạn pháp môn Bồ Tát lực. Vào trăm vạn pháp môn Bồ Tát trí. Đắc được trăm vạn pháp môn Bát Nhã Ba La Mật. Thấy được mười phương trăm vạn chư Phật. Sinh ra trăm vạn Bồ Tát đại nguyện. Trong niệm niệm chiếu đến trăm vạn cõi Phật mười phương. Trong niệm niệm nghĩ nhớ thuở trước sau trăm vạn chư Phật mười phương thế giới. Trong niệm niệm biết được biển biến hoá của trăm vạn chư Phật mười phương thế giới. Trong niệm niệm thấy được hết thảy chúng sinh trăm vạn thế giới mười phương, đủ thứ các cõi, theo nghiệp thọ báo. Hết thảy chúng sinh, lúc sinh ra như thế nào, chẳng biết. Lúc chết như thế nào, rất hồ đồ. Hoặc sinh về cõi lành, hoặc sinh về cõi ác, đều tuỳ theo nghiệp thọ báo. Sắc tốt, tướng mạo đoan chánh. Sắc xấu, tướng mạo xấu xí, đây là theo nghiệp mà quyết định.

Tóm lại, tu phước thì được sắc đẹp, tạo nghiệp thì được sắc xấu. Đức Phật còn phải trải qua ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng tướng tốt, hà huống là chúng ta phàm phu, càng phải tu phước, tu huệ, mới đầy đủ tướng tốt trang nghiêm. Hết thảy chúng sinh có đủ thứ tâm tư, đủ thứ hành vi. Có đủ thứ sự ham muốn, có đủ thứ ưa thích, lại có đủ thứ căn tánh. Tu nghiệp lành thì căn tánh lành, tu nghiệp ác thì căn tánh ác. Ví như, quá khứ tạo nghiệp sát sinh, thì đời nầy thần khí thô bạo, vô duyên vô cớ tìm người khác làm phiền họ, không thể lý dụ. Căn tánh nhất định là ác liệt. Lại có đủ thứ nghiệp tập, lại có đủ thứ thành tựu. Đủ thứ những tình hình nầy, ta đều thấu rõ.

 

Phật tử! ngã ư Nhĩ thời mạng chung chi hậu, hoàn phục ư bỉ vương gia thọ sanh, tác Chuyển luân Vương, bỉ Pháp luân âm hư không đăng Vương Như Lai diệt hậu, thứ tức ư thử trị pháp không Vương Như Lai, thừa sự cúng dường.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa ấy, sau khi chết, ta thọ sanh trở lại tại cung vua làm chuyển-Luân-Vương.

Giảng: Sau khi đức Pháp-Luân-Ấm-Hư Không Đăng-Vương Như-Lai diệt độ, ta gặp đức Pháp-Không-Vương Như-Lai xuất thế, ta kính thờ cúng-dường.

Phật tử! Lúc bấy giờ sau khi ta mạng chung, lại sinh vào trong nhà vua đó, làm Chuyển Luân Thánh Vương. Sau khi đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương vào Niết Bàn rồi, kế đó ở đây, ta lại gặp đức Phật Pháp Không Vương xuất hiện ra đời, ta hầu hạ cúng dường Phật.

 

Thứ vi Đế Thích, tức thử đạo tràng trị Thiên Vương tạng Như Lai, thân cận cúng dường.

Kế đó ta làm Đế-Thích, cũng trong đạo-tràng ấy, ta gặp Thiên-Vương-Tạng Như-Lai.

Giảng: Kế đó, ta làm Đế Thích, tại đạo tràng nầy, ta lại gặp đức Phật Thiên Vương Tạng xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

 

Thứ vi dạ ma thiên Vương, tức ư thử thế giới trị Đại địa uy lực sơn Như Lai, thân cận cúng dường.

Kế đó ta làm Dạ-Ma Thiên-Vương, ở thế-giới ấy ta gặp đức Đại-Địa-Oai-Lực-Sơn Như-Lai.

Giảng: Kế đó, ta làm Dạ Ma Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Đại Địa Oai Lực Sơn xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

 

Thứ vi Đâu suất thiên Vương, tức ư thử thế giới trị Pháp luân quang âm thanh Vương Như Lai, thân cận cúng dường.

Kế đó ta làm Đâu-Suất Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Pháp-Luân-Quang-Ấm-Thanh-Vương Như-Lai.

Giảng: Kế đó, ta làm Đâu Suất Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Pháp Luân Quang Âm Thanh Vương xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

 

Thứ vi Hoá Lạc Thiên Vương, tức ư thử thế giới trị hư không trí Vương Như Lai, thân cận cúng dường

Kế đó ta làm Hóa-Lạc-Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Hư-Không-Trí-Vương Như-Lai.

Giảng: Kế đó, ta làm Hoá Lạc Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Hư Không Trí Vương xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

 

Thứ vi tha hóa tự tại thiên Vương, tức ư thử thế giới trị vô năng hoại tràng Như Lai, thân cận cúng dường.

Kế đó ta làm Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Vô-Năng-Hoại-Tràng Như-Lai.

Giảng: Kế đó, ta làm Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Vô Năng Hoại Tràng xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

 

Thứ vi A-tu-la Vương, tức ư thử thế giới trị nhất thiết pháp lôi âm Vương Như Lai, thân cận cúng dường.

Kế đó ta làm A-Tu-La Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Nhứt-Thiết-Pháp-Lôi-Ấm-Vương Như-Lai.

Giảng: Kế đó, ta làm A Tu La Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Nhất Thiết Pháp Lôi Âm Vương xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

Các vị xem! Đại Bồ Tát hoá thân ngàn vạn ức, tuỳ loài thọ sinh. Loại chúng sinh nào đáng được độ, thì Bồ Tát liền thọ sinh vào trong loài đó. Hiện thân đồng loại, thì dễ dàng giáo hoá. Các vị đừng bao giờ hiểu lầm, cho rằng làm A Tu La Vương tức là hoại vương (ông vua xấu), điều nầy không nhất định được, không thể một lời giải thích được. Có rất nhiều A Tu La Vương là hoá thân của pháp thân Đại Sĩ. Có lúc Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, cố ý thị hiện thân A Tu La Vương.

 

Thứ vi Phạm Vương, tức ư thử thế giới trị phổ hiện hóa diễn pháp âm Như Lai, thân cận cúng dường.

Kế đó ta làm Phạm-Vương, ở thế-giới ấy, ta gặp đức Phổ-Hiền-Hóa-Diễn-Pháp-Ấm Như-Lai.

Giảng: Kế đó, ta làm Phạm Vương, nơi thế giới nầy, ta lại gặp đức Phật Phổ Hiện Hoá Diễn Pháp Âm xuất hiện ra đời, ta gần gũi cúng dường Phật.

 

Phật tử! thử Bảo quang thế giới thiện quang kiếp trung, hữu nhất vạn Phật xuất hưng vu thế, ngã giai thân cận thừa sự cúng dường.

Nầy thiện-nam-tử ! Trong kiếp Thiện-Quang nơi thế-giới Bửu-Quang ấy, có một vạn đức Như-Lai xuất thế ta đều được gặp và thân cận kính thờ cúng-dường như vậy.

Giảng: Phật tử! Trong kiếp Thiện Quang thế giới Bảo Quang đó, có một vạn vị Phật xuất hiện ra đời, ta đều đến chỗ Phật, gần gũi Phật, hầu hạ Phật, cúng dường Phật. Mỗi vị Phật quán triệt thuỷ chung, chẳng khi nào nhàm mỏi.

 

Thứ phục hữu kiếp, danh viết: nhật quang, hữu lục thập ức Phật xuất hưng ư thế, tối sơ Như Lai, danh: diệu tướng sơn,

Sau kiếp Thiện-Quang, có kiếp tên là Nhựt-Quang có sáu mươi ức Phật xuất thế. Đức Như-Lai tối-sơ hiệu là Diệu-Tướng-Sơn.

Giảng: Kế lại có một kiếp tên là Nhựt Quang, trong kiếp đó, có sáu mươi ức vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Diệu Tướng Sơn.

 

Ngã thời vi Vương, danh viết: đại tuệ, ư bỉ Phật sở thừa sự cúng dường.

Bấy giờ ta làm Quốc-Vương tên là Đại-Huệ, kính thờ cúng-dường đức Phật ấy.

Giảng: Lúc đó ta làm vua, tên là Đại Huệ. Ta ở chỗ đức Phật đó, hầu hạ cúng dường.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: viên mãn kiên, ngã vi Cư-sĩ, thân cận cúng dường.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu Viên-Mãn-Kiên. Bấy giờ ta làm Cư-Sĩ thân cận cúng-dường đức Phật ấy.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Viên Mãn Kiên. Lúc đó ta làm cư sĩ, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: ly cấu Đồng tử, ngã vi đại thần, thân cận cúng dường.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu Ly-Cấu-Đồng-Tử. Bấy giờ ta làm quan-đại-thần thân cận cúng-dường đức Phật ấy.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Ly Cấu Tràng. Lúc đó ta làm đại thần, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: dũng mãnh trì, ngã vi A-tu-la Vương, thân cận cúng dường.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Dũng-Mãnh-Trì. Bấy giờ ta làm A-Tu-La-Vương thân cận cúng-dường Phật.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Dũng Mãnh Trì. Lúc đó ta làm A Tu La Vương, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: Tu-Di-Tướng, ngã vi thọ Thần, thân cận cúng dường.

Kế đó có đức Phật xuất thế hiệu là Tu-Di-Tướng bấy giờ ta làm thọ thần thân cận cúng-dường Phật.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tu Di Tướng. Lúc đó ta làm Thọ Thần, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: ly cấu tý, ngã vi thương chủ, thân cận cúng dường.

Kế đó có đức Phật xuất thế hiệu là Ly Cấu-Tý. Bấy giờ ta làm chủ thương-gia thân cận cúng-dường Phật.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Ly Cấu Tí. Lúc đó ta làm thương chủ, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: sư tử du bộ, ngã vi thành Thần, thân cận cúng dường.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Sư-Tử-Du-Bộ. Bấy giờ ta làm Thành-Thần thân cận cúng-dường Phật.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Sư Tử Du Bộ. Lúc đó ta làm thành Thần, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh vi: bảo kế, ngã vi Tì sa môn Thiên Vương, thân cận cúng dường.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Bửu Kế. Bấy giờ ta làm Tỳ-Sa-Môn Thiên-Vương thân cận cúng-dường Phật.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Bảo Kế. Lúc đó ta làm Tỳ Sa Môn Thiên Vương, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: tối thượng Pháp xưng, ngã vi càn thát bà vương, thân cận cúng dường.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Tối-Thượng-Pháp-Xưng. Bấy giờ ta làm Càn-Thát-Bà Vương thân cận cúng-dường đức Phật.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Tối Thượng Pháp Xưng. Lúc đó ta làm Càn Thát Bà Vương, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: quang minh quan, ngã vi Cưu bàn trà Vương, thân cận cúng dường.

Kế có đức Phật xuất thế hiệu là Quang-Minh-Quan. Bấy giờ ta làm Cưu-Bàn-Trà Vương thân cận cúng-dường đức Phật.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Phật Quang Minh Quan. Lúc đó ta làm Cưu Bàn Trà Vương, ta gần gũi cúng dường vị Phật đó.

 

Ư bỉ kiếp trung, như thị thứ đệ hữu lục thập ức Như Lai xuất hưng ư thế.

Ở trong kiếp Nhựt-Quang đó thứ đệ có sáu mươi ức Như-Lai xuất thế.

Giảng: Ở trong kiếp Nhựt Quang đó, thứ tự như vậy, có sáu mươi ức vị Phật xuất hiện ra đời.

 

Ngã thường ư thử thọ chủng chủng thân, nhất nhất Phật sở thân cận cúng dường, giáo hóa thành tựu vô lượng chúng sanh; ư nhất nhất Phật sở, ắc chủng chủng tam muội môn, chủng chủng đà-la-ni môn, chủng chủng Thần thông môn, chủng chủng biện tài môn, chủng chủng nhất thiết trí môn, chủng chủng pháp minh môn, chủng chủng trí tuệ môn, chiếu chủng chủng thập phương hải, nhập chủng chủng Phật sát hải, kiến chủng chủng chư Phật hải, thanh tịnh thành tựu, tăng trưởng quảng đại.

Thuở ấy ta thường thọ nhiều loại thân, ở chỗ mỗi đức Phật ta đều thân-cận cúng-dường, giáo-hóa thành-tựu vô-lượng chúng-sanh. Ở chỗ mỗi đức Phật ta được vô-lượng môn tam-muội, những môn đà-la-ni, những môn thần-thông, những môn biện-tài, những môn nhất-thiết-trí, những môn pháp minh, những môn trí-huệ, chiếu những thập-phương-hải, nhập những phật-sát-hải thấy chư Phật-hải, thanh-tịnh thành-tựu tăng-trưởng quảng đại.

Giảng: Ta ở trong thế giới đó, thường thọ đủ thứ thân như vậy, ở chỗ đạo tràng của mỗi vị Phật, ta đều gần gũi cúng dường, giáo hoá thành thục vô lượng chúng sinh. Ở chỗ mỗi vị Phật, ta đắc được đủ thứ môn tam muội, đủ thứ môn Đà La Ni, đủ thứ môn thần thông, đủ thứ môn biện tài, đủ thứ môn nhất thiết trí, đủ thứ môn pháp minh, đủ thứ môn trí huệ. Chiếu đủ thứ biển mười phương, vào đủ thứ biển cõi Phật, thấy đủ thứ biển chư Phật, thanh tịnh thành tựu, tăng trưởng rộng lớn.

 

Như ư thử kiếp trung thân cận cúng dường nhĩ sở chư Phật, ư nhất thiết xứ, nhất thiết thế giới hải vi trần số kiếp, sở hữu chư Phật xuất hưng vu thế, thân cận cúng dường, thính văn thuyết Pháp, tín thọ hộ trì, diệc phục như thị.

Như ở trong kiếp Nhật-Quang đó thân-cận cúng-dường bao nhiêu đức Phật như vậy, ở tất cả xứ, tất cả thế-giới-hải vi-trần-số kiếp có bao nhiêu đức Phật xuất thế, ta đều thân cận cúng-dường, nghe pháp hộ trì cũng như vậy cả.

Giảng: Như ở trong kiếp Nhựt Quang đó, ta gần gũi cúng dường hết thảy các đức Phật như vậy. Ở trong những kiếp khác, cũng gần gũi cúng dường hết thảy các đức Phật. Tất cả mọi nơi, số kiếp nhiều như số hạt bụi tất cả biển thế giới, hết thảy chư Phật, xuất hiện ra đời, ta đều gần gũi Phật, cúng dường Phật, lắng nghe Phật thuyết pháp, tin thọ Phật pháp, hộ trì Phật pháp. Hết thảy pháp của chư Phật nói, cũng đều như thế.

 

Như thị, nhất thiết chư Như Lai sở, giai tất tu tập thử giải thoát môn, phục đắc vô lượng giải thoát phương tiện. Nhĩ thời, cứu hộ nhất thiết chúng sanh chủ dạ thần, dục trọng tuyên thử giải thoát nghĩa, tức vi Thiện Tài nhi thuyết tụng ngôn:

Ở chỗ tất cả Như-Lai như vậy, ta đều tu tập môn giải-thoát nầy, ta lại được vô-lượng phương-tiện giải-thoát.

Bấy giờ Cứu-Hộ-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh Chủ-Dạ-Thần muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-Tử mà nói kệ rằng:

Giảng: Ở chỗ đạo tràng của tất cả các đức Phật như vậy, ta đều tu tập môn giải thoát nầy. Lại đắc được vô lượng giải thoát phương tiện. Ở trên là vị Chủ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, tường thuật lại hạnh môn tu hành thuở xưa.

Lúc đó, vị Chủ Dạ Thần Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, muốn tường thuật lại nghĩa lý môn giải thoát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành, liền vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

 

Nhữ dĩ hoan hỉ tín lạc tâm                             Ngươi dùng tâm hoan-hỉ tin ưa
Vấn thử nan tư giải thoát Pháp                     Hỏi pháp giải-thoát khó nghĩ nầy
Ngã thừa Như Lai hộ niệm lực,                     Ta thừa sức hộ-niệm của Phật.
Vi nhữ tuyên thuyết ưng thính thọ.               Vì ngươi tuyên nói, phải nghe nhận.

Ngươi dùng tâm hoan hỉ tin ưa, thưa hỏi pháp giải thoát không thể nghĩ bàn nầy. Ta nương sức hộ niệm của mười phương chư Phật, nay vì ngươi tuyên nói nghĩa lý nầy, hy vọng ngươi nên chú ý lắng nghe lãnh thọ pháp nầy.

 

Quá khứ vô biên quảng đại kiếp                    Quá khứ vô-biên kiếp quảng đại
Qua ư sát hải vi trần số,                                 Quá hơn sát-hải vi-trần-số
Thời hữu thế giới danh Bảo quang               Lúc ấy có cõi tên Bửu-Quang
Kỳ trung hữu kiếp hiệu thiện quang.            Trong ấy có kiếp tên Thiện-Quang.

Bây giờ ta nhớ lại, trong quá khứ vô biên đại kiếp rộng lớn, trải qua số hạt bụi nhiều như biển cõi. Lúc đó có thế giới tên Bảo Quang, trong thế giới đó, có một kiếp tên là kiếp Thiện Quang.

 

Ư thử thiện quang Đại kiếp trung                 Ở trong đại kiếp Thiện-Quang nầy
Nhất vạn Như Lai xuất hưng thế,                 Một vạn Như-Lai nối xuất thế
Ngã giai thân cận nhi cúng dường                Ta đều thân-cận cúng-dường Phật
Tùng kỳ tu học thử giải thoát.                       Theo Phật tu học giải-thoát nầy.

Ở trong đại kiếp Thiện Quang đó, có một vạn vị Phật xuất hiện ra đời. Ta đều đến chỗ Phật, gần gũi Phật, cúng dường Phật. Ta theo một vạn vị Phật tu học pháp môn giải thoát nầy.

 

Thời hữu Vương đô danh hỉ nghiêm             Có Vương-Kinh-Đô tên Hỉ-Nghiêm
Túng quảng khoan bình cực thù lệ,              Ngang dọc rộng bằng rất tráng lệ.
Tạp nghiệp chúng sanh sở cư trụ                  Chúng-sanh tạp nghiệp ở trong đó
Hoặc tâm thanh tịnh hoặc tác ác.                 Người tâm thanh-tịnh, kẻ làm ác.

Lúc đó, có một cung vua tên là Bảo Trang Nghiêm, ngang dọc rộng lớn, bằng phẳng rất đặc thù đẹp đẽ tráng lệ. Thành đó là nơi chúng sinh tạp nghiệp ở, có chúng sinh tâm thanh tịnh, có chúng sinh tâm ác liệt. Người tâm thanh tịnh thì phụng hành năm giới tu trì pháp thập thiện. Người tâm ác liệt thì chẳng giữ năm giới, chuyên sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chửi mắng, tham lam, sân hận, si mê, mười điều ác.

 

Nhĩ thời hữu Vương danh thắng quang       Quốc-Vương trị nước tên Thắng-Quang.
Hằng dĩ chánh Pháp ngự quần sanh            Hằng dùng chánh-pháp ngự quần-sanh
Kỳ Vương Thái-Tử danh thiện phục             Thái-Tử của vua tên Thiện-Phục.
Hình thể đoan chánh bị chúng tướng.          Thân hình đoan chánh đủ tướng tốt.

Lúc bấy giờ, có một ông vua tên là Thắng Quang. Luôn luôn tuyên dương Phật pháp, dùng chánh pháp trị lý tất cả chúng sinh. Vua Thắng Quang có một vị thái tử, tên là Thiện Phục. Thái tử có thân hình đoan chánh, đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân.

 

Thời hữu vô lượng chư tội nhân                    Bấy giờ vô-lượng người phạm tội
Hệ thân lao ngục đương thọ lục                    Giam trong ngục tối sẽ hành hình
Thái-Tử kiến dĩ sanh bi mẫn                          Thái-Tử xem thấy lòng xót thương
Thượng khải ư Vương thỉnh khoan hựu.      Tâu lên Phụ-Vương xin ân xá.

Lúc đó, có vô lượng người phạm tội, bị giam ở trong lao ngục tối tăm, tay chân bị gông cùm, đi lại chẳng được tự do, chờ đợi sẽ đem ra hành hình. Thái tử Thiện Phục ở trong cung điện, nghe tiếng kêu cứu, bèn sinh tâm trắc ẩn, đến lao ngục xem thử, thì thấy các tội nhân thọ đủ thứ hình phạt, rất là đáng thương, bèn sinh tâm đại bi thương xót những tội nhân đó. Trở về cung, liền đi gặp vua Thắng Quang, tâu rằng: “Xin đại vương từ bi, hãy tha thứ cho những tội nhân ngu si, hãy thả họ ra! Để cho họ sửa lỗi làm mới”.

 

Nhĩ thời chư Thần cọng bạch Vương           Các quan đại-thần tâu Quốc-Vương
Kim thử Thái-Tử nguy Vương quốc             Nay Thái-Tử này phá vương-pháp
Như thị tội nhân ưng thọ lục,                        Tội-nhơn như vậy phải gia hình
Như hà tất cứu lệnh trừ miễn?                      Thái-Tử sao lại cầu ân xá.

Lúc đó năm trăm vị đại thần đều phản đối hành vi của thái tử, đều cùng nhau đến tâu với vua rằng: “Đại vương! Hiện tại lời yêu cầu của thái tử là trái với luật pháp quốc gia, không thể phê chuẩn. Bằng không, sẽ nguy hại đến sự an toàn của Ngài. Hy vọng đại vương hãy nghĩ kỹ lại. Những tội nhân nầy đáng xử theo pháp luật, phải chém đầu thị chúng. Sao lại ân xá cho họ, không trừng phạt họ, không thể được”.

 

Thời thắng quang Vương ngữ Thái-Tử        Thắng-Quang Quốc-Vương bảo Thái-Tử
Nhữ cứu bỉ tội tự đương thọ!                        Nếu cứu tội-nhơn ngươi phải chết.
Thái-Tử ai niệm Tình chuyển thâm               Thái-Tử lòng thương càng mạnh hơn
Thệ cứu chúng sanh vô thoái khiếp.             Thề cứu chúng-sanh không thối khiếp.

Lúc đó, vua Thắng Quang bảo thái tử Thiện Phục rằng: “Ngươi hãy đổi ý định đi. Nếu ngươi muốn cứu những tội nhân đó, thì ngươi phải thay thế họ chịu hành hình. Đây là quốc pháp, mọi người đều bình đẳng, chẳng có tư tình để nói. Ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ, không thể dụng việc cảm tình”. Thái tử nghe lời đó rồi, lòng thương người càng sâu nặng hơn. Tâm đồng tình đó, vĩnh viễn không lui sợ, nhất định muốn cứu những tội nhân đó thoát khỏi khổ ngục tù.

 

Thời Vương phu nhân thải nữ đẳng,            Quốc mẫu Phu-Nhơn cùng Thể-Nữ
Câu lai Vương sở bạch Vương ngôn             Đồng đến triều đường tâu Quốc-Vương
Nguyện phóng Thái-Tử bán nguyệt trung,   Tạm tha Thái-Tử trong nửa tháng
Bố thí chúng sanh tác công đức.                   Bố-thí chúng-sanh tạo công đức.

Lúc bấy giờ, hoàng hậu cùng với tất cả thể nữ, cùng nhau đi đến chỗ vua, cùng bạch với vua rằng: “Xin đại vương hãy tạm tha cho thái tử trong vòng nửa tháng, để cho thái tử bố thí cho tất cả chúng sinh, tu tập các công đức”.

 

Thời Vương văn dĩ tức thính hứa,                 Quốc-Vương nghe tâu liền chuẩn cho
Thiết đại thí hội tế bần phạp,                        Lập hội đại-thí giúp nghèo thiếu,
Nhất thiết chúng sanh mị bất trăn,               Những kẻ khốn cùng đều đến hội
Tùy hữu sở cầu hàm cấp dữ.                         Tùy chỗ nhu cầu đều cấp đủ.

Bấy giờ, vua Thắng Quang nghe lời cầu xin của hoàng hậu rồi, bèn hứa khả yêu cầu đó. Khiến cho thái tử lập pháp hội bố thí lớn, để cứu giúp những chúng sinh nghèo thiếu. Tất cả chúng sinh đều đến pháp hội bố thí lớn đó, tuỳ ý họ cần gì, đều bố thí cho họ cái đó, chẳng khiến cho chúng sinh thất vọng.

 

Như thị bán nguyệt nhật vân mãn,               Thấm thoát đến ngày thứ mười lăm
Thái-Tử tựu lục thời tướng chí,                     Giờ xử Thái-Tử đã sắp đến,
Đại chúng bách thiên vạn ức nhân,               Đại chúng trăm ngàn muôn ức người
Đồng thời chiêm ngưỡng câu hiệu khấp.      Đồng thời chiêm ngưỡng đều than khóc

Bố thí như vậy, trải qua được nửa tháng, thời kỳ đã mãn, giờ xử thái tử đã sắp đến. Đại chúng có hàng trăm ngàn vạn ức người, đồng thời chiêm ngưỡng dung nhan thái tử, mắt chẳng tạm rời, cùng kêu gào khóc than. Tại sao? Vì họ cảm động tâm nhân từ của thái tử, mà kêu gào khóc than như vậy.

 

Bỉ Phật tri chúng căn tướng thục,                Đức Phật biết chúng căn gần thục
Nhi lai thử hội hóa quần sanh,                       Bèn đến thí-hội độ quần-sanh,
Hiển hiện thần biến đại trang nghiêm,          Hiển hiện thần-biến đại trang-nghiêm
Mị bất thân cận nhi cung kính.                     Đại-chúng thân cận và cung kính.

Lúc đó, đức Phật Pháp Luân Âm Hư Không Đăng Vương, biết căn tánh của đại chúng sắp thành thục, cho nên đến hội thí đó, khắp giáo hoá những chúng sinh đó, hiển hiện thần thông biến hoá đại trang nghiêm. Hết thảy chúng sinh đều đến gần gũi, đều đến cung kính cúng dường đức Phật.

 

Phật dĩ nhất âm phương tiện thuyết,            Phật dùng nhứt âm phương-tiện nói
Pháp đăng phổ chiếu tu-đa-la,                      Pháp-đăng chiếu khắp những khế kinh
Vô lượng chúng sanh ý nhu nhuyễn             Vô-lượng chúng-sanh ý nhu nhuyến
Tất mông dữ thọ Bồ-đề kí.                            Đều được đức Phật thọ ký biệt.

Phật dùng một thứ âm thanh, phương tiện vì chúng sinh nói pháp. Đèn pháp chiếu khắp Tu Đa La, pháp môn khế kinh nầy. Vô lượng chúng sinh nghe được bộ kinh nầy rồi, tâm ý mềm mại. Chúng sinh cang cường, tâm sinh từ bi, cải ác hướng thiện. Đại chúng phát tâm bồ đề, được Phật thọ ký bồ đề.

 

Thiện phục Thái-Tử sanh hoan hỉ                 Thiện-Phục Thái-Tử sanh hoan-hỉ
Phát hưng vô thượng chánh giác tâm,         Phát khởi tâm bồ-đề vô-thượng
Thệ nguyện thừa sự ư Như Lai,                    Thệ nguyện kính thờ đức Như-Lai
Phổ vi chúng sanh tác y xứ.                           Khắp vì chúng-sanh làm chỗ tựa.

Lúc đó, thái tử Thiện Phục được đức Phật thương xót, sinh đại hoan hỉ, phát hưng tâm bồ đề chánh giác vô thượng, phát đại thệ nguyện đời đời kiếp kiếp hầu hạ Phật. Khắp vì tất cả chúng sinh làm chỗ nương tựa, khiến cho chúng sinh chuyên tâm nhất chí tu trì Phật pháp.

 

Tiện tức xuất gia y Phật trụ,                          Theo Phật xuất gia trì tịnh-giới
Tu hành nhất thiết chủng trí đạo,                 Tu hành nhất-thiết-chủng-trí-đạo
Nhĩ thời tiện đắc thử giải thoát                      Bấy giờ bèn được giải-thoát nầy
Đại bi quảng tế chư quần sanh.                     Đại bi rộng độ các quần-sanh

Thái tử Thiện Phục phát đại thệ nguyện rồi, lập tức xuất gia tu đạo, nương tựa Phật mà trụ. Tu hành pháp môn nhất thiết trí huệ. Lúc bấy giờ, thái tử liền đắc được môn giải thoát nầy. Phát tâm đại bi rộng cứu giúp tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ ba cõi, đắc được vui Niết Bàn.

 

Ư trung chỉ trụ Kinh kiếp hải,                       Trong đó nương ở trải kiếp hải
Đế quán chư Pháp chân thật tánh                Xem kỹ các pháp chân-thiệt-tánh
Thường ư khổ hải cứu chúng sanh,              Thường ở biển khổ cứu chúng-sanh
Như thị tu tập Bồ-đề đạo.                              Như vậy tu tập bồ-đề-đạo.

Trụ ở trong đó, trải qua thời gian biển kiếp lâu dài, quán sát kỹ càng tự tánh chân thật của tất cả các pháp. Thường ở trong biển khổ cứu giúp tất cả chúng sinh. Tu tập đạo bồ đề như vậy, chẳng khi nào mỏi nhàm.

 

Kiếp trung sở hữu chư Phật hiện,                 Trong kiếp có những Như-Lai hiện
Tất giai thừa sự vô hữu dư,                           Thảy đều kinh thờ không để sót
Hàm dĩ thanh tịnh tín giải tâm                      Đều dùng tâm tin hiểu thanh-tịnh
Thính văn trì hộ sở thuyết pháp.                   Lắng nghe, trì, hộ phật thuyết pháp.

Trong biển kiếp đó, khi hết thảy tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều đến chỗ đức Phật, hầu hạ Phật. Ta dùng tâm tin hiểu thanh tịnh, lắng nghe chánh pháp của Phật nói, tu trì chánh pháp của Phật nói, hộ trì chánh pháp của Phật nói.

 

Thứ ư Phật sát vi trần số,                              Kế ở phật-sát vi-trần-số
Vô lượng vô biên chư kiếp hải,                       Vô-lượng vô-biên những kiếp-hải
Sở hữu chư Phật hiện thế gian,                     Bao nhiêu chư Phật hiện thế-gian
Nhất nhất cúng dường giai như thị.              Mỗi mỗi cúng-dường đều như vậy.

Kế vô lượng vô biên các biển kiếp, số bụi nhiều như cõi Phật, khi hết thảy tất cả chư Phật xuất hiện nơi thế gian. Bất cứ vị Phật nào, ta cũng đều đi đến chỗ đức Phật hầu hạ cúng dường, chẳng có bỏ sót không hầu hạ cúng dường một vị Phật nào. Tóm lại, hết thảy chư Phật ta đều cúng dường.

 

Ngã niệm vãng tích vi Thái-Tử,                     Ta nhớ thuở xưa làm Thái-Tử
Kiến chư chúng sanh tại lao ngục,                Thấy các chúng-sanh ở lao ngục
Thệ nguyện xả thân nhi cứu hộ,                    Thệ nguyện xả thân để cứu hộ
Nhân kỳ chứng thử giải thoát môn.              Nhơn đó chứng môn giải-thoát nầy.

Ta nhớ thuở xưa khi làm thái tử, đã từng thấy rất nhiều chúng sinh thọ khổ hình trong lao ngục. Ta sinh tâm trắc ẩn, phát thệ nguyện xả thân mạng của ta, để cứu hộ những tội nhân đó, được thoát khỏi khổ sở ngục tù. Bởi nguyên nhân đó, cho nên ta chứng được pháp môn giải thoát nầy. Pháp môn nầy là pháp môn không thể nghĩ bàn.

 

Kinh ư Phật sát vi trần số,                             Trải qua phật-sát vi-trần-số
Quảng đại kiếp hải thường tu tập,                Kiếp-hải rộng lớn thường tu tập
Niệm niệm lệnh kỳ đắc tăng trưởng,             Niệm niệm khiến họ được tăng trưởng
Phục hoạch vô biên xảo phương tiện.           Lại được vô-biên xảo phương-tiện.

Trải qua biển đại kiếp rộng lớn nhiều như số bụi cõi Phật, ta thường tu tập pháp môn giải thoát nầy. Trong mỗi một niệm, đều khiến cho môn giải thoát nầy được cơ hội tăng trưởng. Lại đắc được vô biên pháp môn phương tiện khéo léo, tăng trưởng sức lực môn giải thoát.

 

Bỉ trung sở hữu chư Như Lai,                       Trong đó có chư Phật Như-Lai
Ngã tất đắc kiến mông khai ngộ,                   Ta điều thấy Phật nhờ khai ngộ
Lệnh ngã tăng minh thử giải thoát,               Khiến ta thêm sáng giải-thoát nầy
Cập dĩ chủng chủng phương tiện lực.           Và cùng những môn phương-tiện-lực

Trong đó hết thảy tất cả chư Phật đó, ta đều thấy được, lại được chư Phật khai thị, mà được giác ngộ. Khiến cho ta hiểu thêm nghĩa lý môn giải thoát nầy, và đủ thứ sức phương tiện.

 

Ngã ư vô lượng thiên ức kiếp,                        Ta ở vô-lượng ngàn ức kiếp
Học thử nan tư giải thoát môn                      Học môn giải-thoát nan-tư nầy
Chư Phật Pháp hải vô hữu biên                    Chư Phật pháp-hải không có bờ
Ngã tất nhất thời năng phổ ẩm.                    Trong nhứt thời ta đều uống khắp.

Ta ở trong vô lượng ngàn ức đại kiếp, tu học môn giải thoát không thể nghĩ bàn nầy. Tất cả biển pháp của chư Phật không bờ mé, nhưng ta có thể một thời uống được khắp biển pháp của chư Phật.

 

Thập phương sở hữu nhất thiết sát,             Mười phương đều có tất cả cõi
Kỳ thân phổ nhập vô sở ngại;                       Thân ta vào khắp không chướng-ngại
Tam thế chủng chủng quốc độ danh,           Tam thế danh-hiệu các quốc-độ
Niệm niệm liễu tri giai tất tận.                        Niệm niệm biết rõ hết tất cả.

Mười phương hết thảy tất cả cõi, thân ta đều có thể vào khắp không chướng ngại. Ba đời đủ thứ tên cõi nước, ta ở trong niệm niệm biết được hết rất rõ ràng.

 

Tam thế sở hữu chư Phật hải,                       Tam thế có những chư Phật-hải
Nhất nhất minh kiến tận vô dư                      Mỗi mỗi thấy rõ không sót thừa
Diệc năng thị hiện kỳ thân tướng                  Cũng hiện được thân tướng Như-Lai
Phổ nghệ ư bỉ Như Lai sở.                             Đến khắp chỗ của chư Phật đó.

Mười phương ba đời hết thảy biển chư Phật, khi hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều thấy rõ hết, đến gần gũi cúng dường, không bỏ sót một vị Phật nào. Bất cứ có bao nhiêu vị Phật, ta lần lược thị hiện thân tướng, đến khắp chỗ đức Phật, gần gũi Phật, hầu hạ Phật, cúng dường Phật.

 

Hựu ư thập phương nhất thiết sát                Lại ở mười phương tất cả cõi
Nhất thiết chư Phật Đạo sư tiền                    Nơi tất cả chư Phật Đạo-Sư
Phổ vũ nhất thiết trang nghiêm vân              Khắp mưa tất cả mây trang-nghiêm
Cúng dường nhất thiết vô thượng giác.        Cúng-dường tất cả Vô-Thượng-Giác.

Ta lại ở nơi mười phương tất cả cõi, trước tất cả chư Phật đạo sư, khắp mưa tất cả mây trang nghiêm, cúng dường tất cả mười phương Vô Thượng Giác, tức cũng là Phật, cũng là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Hựu dĩ vô biên Đại vấn hải,                            Lại dùng vô-biên đại vấn hải
Khải thỉnh nhất thiết chư Thế Tôn               Khải thỉnh tất cả chư Thế-Tôn
Bỉ Phật sở vũ diệu pháp vân                          Đức Phật đã mưa mây diệu pháp
Giai tất thọ trì vô vong thất.                          Thảy đều thọ trì không quên mất

Lại dùng vô biên biển thưa hỏi, thưa thỉnh mười phương ba đời tất cả các Thế Tôn, xin phát tâm từ bi, vì con nói Phật pháp nghĩa chân thật. Phật đó mưa xuống mây diệu pháp, ta đều thọ trì không khi nào quên mất. Do đó có câu: “Một khi lọt qua tai, vĩnh viễn hạt giống đạo”.

 

Hựu ư thập phương vô lượng sát                  Lại ở mười phương vô-lượng cõi
Nhất thiết Như Lai chúng hội tiền                 Trước tất cả chúng hội Như-Lai
Tọa ư chúng diệu trang nghiêm tọa,             Ngồi trên tòa những diệu trang-nghiêm
Thị hiện chủng chủng thần thông lực.          Thị-hiện các thứ thần-thông-lực.

Lại ở nơi mười phương vô lượng cõi, trước chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai, ngồi nơi toà sư tử trang nghiêm vi diệu, thị hiện đủ thứ sức thần thông biến hoá, nhậm vận tự tại, tuỳ theo ý muốn, chẳng bị sự hạn chế nào.

 

Hựu ư thập phương vô lượng sát,                 Lại ở mười phương vô-lượng cõi
Thị hiện chủng chủng chư thần biến,           Thị hiện các thứ những thần-thông
Nhất thân thị hiện vô lượng thân,                 Một thân thị hiện vô-lượng thân
Vô lượng thân trung hiện nhất thân.            Trong vô-lượng thân hiện một thân

Lại ở nơi mười phương vô lượng cõi, thị hiện đủ thứ các thần thông biến hoá. Một thân thị hiện vô lượng thân, trong vô lượng thân thị hiện làm một thân. Do đó có câu: “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”. Đây là cảnh giới viên dung vô ngại của Kinh Hoa Nghiêm.

 

Hựu ư nhất nhất mao khổng trung               Lại ở trong mỗi mỗi lỗng lông
Tất phóng vô số đại quang minh                   Đều phóng vô-số đại-quang-minh
Các dĩ chủng chủng xảo phương tiện           Đều dùng nhiều thứ xảo phương-tiện
Trừ diệt chúng sanh phiền não hỏa.             Diệt trừ chúng-sanh lửa phiền-não.

Lại ở trong mỗi lỗ chân lông, đều phóng ra vô số đại quang minh. Đều dùng đủ thứ phương tiện khéo léo, trừ diệt lửa phiền não của tất cả chúng sinh. Chúng sinh có tám vạn bốn ngàn bệnh nhiệt phiền não, cho nên Phật thiết lập tám vạn bốn ngàn pháp môn mát mẻ, chuyên trị tất cả bệnh phiền não.

 

Hựu ư nhất nhất mao khổng trung               Lại ở trong mỗi mỗi lỗ lông
Xuất hiện vô lượng hóa thân vân,                 Xuất hiện vô-phương mây hóa thân
Sung mãn thập phương chư thế giới,            Đầy khắp mười phương các thế-giới
Phổ vũ Pháp vũ tế quần phẩm.                     Khắp mưa pháp vũ cứu quần-phẩm

Lại ở trong mỗi lỗ chân lông, xuất hiện vô lượng mây hoá thân. Đầy khắp trong mười phương tất cả các thế giới, khắp mưa tất cả pháp vũ cứu tế tất cả chúng sinh, được uống nước cam lồ, giải trừ nhiệt phiền não.

 

Thập phương nhất thiết chư Phật tử            Mười phương tất cả những phật-tử
Nhập thử nan tư giải thoát môn                    Vào môn giải-thoát nan-tư nầy
Tất tận vị lai vô lượng kiếp                             Đều tận vị-lai vô-lượng kiếp
An trụ tu hành Bồ Tát hạnh.                         An trụ tu hành hạnh bồ-tát.

Mười phương tất cả các Phật tử, vào môn giải thoát khó nghĩ bàn nầy, đều hết thuở vị lai vô lượng đại kiếp, an trụ tu hành Bồ Tát hạnh, tức cũng là pháp lục độ vạn hạnh. Pháp môn xả mình vì người, tức là Bồ Tát hạnh.

 

Tùy kỳ tâm lạc vi thuyết Pháp                       Tùy tâm sở-thích mà thuyết pháp
Lệnh bỉ giai trừ tà kiến võng,                         Khiến họ đều trừ lưới tà-kiến,
Thị dĩ thiên đạo cập nhị thừa,                        Dạy họ thiện-đạo và nhị-thừa.
Nãi chí Như Lai nhất thiết trí                        Nhẫn đến tất cả trí Như-Lai.

Tuỳ tâm ưa thích của chúng sinh mà thuyết pháp, khiến cho họ đều trừ diệt lưới tà kiến. Chỉ bày thiên đạo và nhị thừa (Thanh Văn và Duyên Giác), cho đến Phật thừa nhất thiết trí, đương nhiên Bồ Tát thừa cũng ở trong đó. Bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy, đều nói về đạo lý Bồ Tát làm thế nào phát bồ đề tâm, làm thế nào hành Bồ Tát đạo.

 

Nhất thiết chúng sanh thọ sanh xứ               Tất cả chúng-sanh chỗ thọ sanh
Thị hiện vô biên chủng chủng thân               Thị hiện vô-biên nhiều loại thân
Tất đồng kỳ loại hiện chúng tượng                Đều đồng loại họ hiện thân tượng
Phổ ưng kỳ tâm nhi thuyết Pháp.                 Ứng khắp tâm họ mà thuyết pháp.

Nơi tất cả chúng sinh thọ sinh, thị hiện vô biên đủ thứ sắc thân. Khi ở nơi chúng sinh nào, thì hiện ra thân hình chúng sinh đó, tại sao? Vì khắp ứng tâm của chúng sinh mà vì họ thuyết pháp. Bằng không, không dễ gì giáo hoá. Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, thường dùng bốn pháp nhiếp (Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), để nhiếp thọ chúng sinh khó điều, khó phục, khiến cho tâm họ nhu hoà, có tâm đồng tình, ái hộ tất cả hữu tình chúng sinh, dù con kiến, con muỗi, cũng không làm hại.

 

Nhược hữu đắc thử giải thoát môn,              Nếu ai được môn giải-thoát nầy
Tức trụ vô biên công đức hải                         Thời trụ vô-biên biển công-đức
Thí như sát hải vi trần số,                              Thí như sát-hải vi-trần số
Bất khả tư nghị vô hữu lượng.                       Chẳng thể nghĩ bàn không số lượng.

Nếu có ai đắc được môn giải thoát nầy, thì sẽ trụ ở trong vô biên biển công đức. Ví như số hạt bụi biển cõi, không thể nghĩ bàn vì vô số lượng. Biển công đức nầy, cũng chẳng có bờ mé, sâu không thể dò được, rộng không thể lường được.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử giáo hóa chúng sanh lệnh sanh thiện căn giải thoát môn.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết môn giải-thoát giáo-hóa chúng-sanh khiến sanh thiện-căn nầy.

Giảng: Vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực lại gọi một tiếng thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát giáo hoá chúng sinh khiến sinh căn lành nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, siêu chư thế gian, hiện chư thú thân, bất trụ phàn duyên, vô hữu chướng ngại, liễu đạt nhất thiết chư pháp tự tánh, thiện năng quan sát nhất thiết chư pháp, đắc vô ngã trí, chứng vô ngã Pháp, giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh hằng vô hưu tức, tâm thường an trụ vô nhị Pháp môn, phổ nhập nhất thiết chư ngôn từ hải; ngã kim vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hải, bỉ dũng mãnh trí, bỉ tâm hành xứ, bỉ tam muội cảnh, bỉ giải thoát lực?

Như chư đại Bồ-Tát siêu thế-gian hiện thân các loài, chẳng trụ phan-duyên không có chướng-ngại, thấu rõ tự-tánh của các pháp, khéo quán sát tất cả pháp được trí vô-ngã, chứng pháp vô-ngã, giáo-hóa đều-phục tất cả chúng-sanh hằng không thôi nghỉ, tâm thường an trụ pháp-môn vô-nhị, vào khắp tất cả biển ngôn từ. Nay ta thế nào biết được nói được biển công-đức đó, trí dũng mãnh đó, chỗ tâm hành đó, cảnh tam-muội đó, sức giải-thoát đó.

Giảng: Như các đại Bồ Tát vượt khỏi các thế gian, hiện thân các cõi, chẳng trụ phan duyên, không có chướng ngại, thấu đạt tự tánh tất cả các pháp. Khéo quán sát tất cả các pháp, đắc được trí huệ vô ngã, chứng pháp môn vô ngã, giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục được tất cả chúng sinh, luôn không ngừng nghỉ. Tâm thường an trụ pháp môn không hai, tức cũng là tư duy đệ nhất nghĩ đế. Vào khắp tất cả các biển lời lẽ. Những vấn đề đó, ta nay làm sao biết được những đạo lý đó? Làm sao nói được biển công đức đó? Trí dũng mãnh đó? Tâm hành xứ đó? Cảnh tam muội đó? Sức giải thoát đó? Ta thật không cách chi nói ra được.

 

Thiện nam tử! thử Diêm-phù-đề, hữu nhất viên lâm, danh: Lâm-tỳ ni; kỳ viên hữu Thần, danh: diệu đức viên mãn.

Nầy thiện-nam-tử ! Diêm-Phù-Đề nầy có một viên lâm tên là Lâm-Tỳ-Ni. Trong vườn ấy có thần tên là Diệu-Đức-Viên-Mãn.

Giảng: Thiện nam tử! Tại cõi Diêm Phù Đề nầy, có một khu rừng, tên là Lam Tỳ Ni. Trong khu vườn rừng đó có vị Thần, tên là Thần Diệu Đức Viên Mãn.

 

Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà tu Bồ Tát hạnh, sanh Như Lai gia, vi thế quang minh, tận vị lai kiếp nhi vô yếm quyện?

Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào tu bồ-tát-hạnh sanh nhà Như-Lai, làm ánh sáng cho đời tận kiếp vị-lai mà không nhàm mỏi ?

Giảng: Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Làm thế nào sinh vào nhà Như Lai? Làm thế nào ánh sáng chiếu cho đời? Hết kiếp thuở vị lai, mà không khi nào nhàm mỏi?

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, hợp chưởng chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử đảnh lễ chân Chủ-Dạ-Thần, hữu nhiểu vô-lượng vòng, chắp tay chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe sự khai thị của vị Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh rồi, thọ được pháp ích, bèn đảnh lễ vị Dạ Thần, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, chắp tay chiêm ngưỡng vị Dạ Thần, sau đó từ tạ vị Dạ Thần mà đi đến khu vườn rừng Lam Tỳ Ni, tham phương vị Thần Diệu Đức Viên Mãn, để thưa hỏi vấn đề cần muốn biết.