Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 13

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 13

— o0o —

QUYỂN BẢY MƯƠI BỐN

39. LÂM THẦN LAM TỲ NI
PHÓ THÁC THỨ 39 – THIỆN HUỆ ĐỊA

Lam Tỳ Ni Lâm dịch là “lạc thắng viên mãn”. Vì thuở xưa có một vị Thiên nữ hạ sinh xứ nầy, nên theo đây đặc tên. Vườn Lam Tỳ Ni cách thành Ca Tỳ La hai mươi dặm ở hướng đông, là nơi Ma Gia phu nhân hạ sinh thái tử, vì biểu thị Cửu địa tổng trì quang minh chẳng có chỗ nào mà chẳng chiếu, nên biểu thị Cửu địa sẽ được thọ chức sinh vào nhà Phật.

Lâm Thần Lam Tỳ Ni, tên là Thần Diệu Đức Viên Mãn, vì Ngài thiện huệ không khuyết. Thiện Huệ Địa, là thành tựu bốn vô ngại biện vi diệu, vì khéo thuyết pháp khắp mười phương.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ư đại nguyện tinh tấn lực cứu hộ nhất thiết chúng sanh dạ Thần sở, đắc Bồ Tát giải thoát dĩ, ức niệm tu tập, liễu đạt tăng trưởng. Tiệm thứ du hành, chí Lâm-tỳ ni lâm, chu biến tầm mịch bỉ diệu đức Thần, kiến tại nhất thiết bảo thụ trang nghiêm lâu các trung, tọa bảo liên hoa sư tử chi tọa, nhị thập ức na-do-tha chư Thiên cung kính vi nhiễu, vi thuyết Bồ Tát thọ sanh hải Kinh, lệnh kỳ giai đắc sanh Như Lai gia, tăng trưởng Bồ Tát Đại công đức hải.

Thiện-Tài đã được môn bồ-tát giải thoát nơi Chủ-Dạ-Thần Đại-Nguyện-Tinh-Tấn-Lực-Cứu-Hộ Nhứt-Thiết Chúng-Sanh, ghi nhớ tu tập thấu rõ tăng trưởng, đi lần đến vườn Lam-Tỳ-Ni tìm Thần Diệu-Đức-Viên-Mãn. Thấy Thần nầy ở trong lâu các Nhất-Thiết-Bửu-Thọ-Trang-nghiêm, ngồi trên tòa sư-tử Bửu-Liên-Hoa, có hai mươi ức na-do-tha chư Thiên cung kính vây quanh. Thần Diệu-Đức vì chư Thiên mà nói kinh Bồ-Tát-Thọ-Sanh-Hải, khiến chư Thiên đều được sanh nhà Như-Lai, thêm lớn biển đại công-đức của Bồ-Tát.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh, đắc được Bồ Tát giải thoát tam muội rồi, nghĩ nhớ pháp đó, tu tập pháp đó, thấu đạt nghĩa lý giải thoát đó, tăng trưởng lực giải thoát đó. Từ từ đi du hành, đến khu vườn rừng Lam Tỳ Ni, đi khắp nơi tìm kiếm vị Thần Diệu Đức Viên Mãn, thì thấy Ngài đang ở trong lầu các Nhất Thiết Bảo Thụ Trang Nghiêm, ngồi trên toà sư tử Bảo Liên Hoa. Vị Thần đó là pháp thân Đại Sĩ thị hiện, có hai mươi ức Na do tha chư Thiên cung kính vây quanh. Vị Thần đó, vì họ nói Kinh Bồ Tát Thọ Sinh Hải. Khiến cho hết thảy chúng sinh, đều được sinh vào nhà Như Lai, tăng trưởng biển đại công đức của Bồ Tát.

 

Thiện Tài kiến dĩ, đảnh lễ kỳ túc, hợp chưởng tiền lập, bạch ngôn: đại thánh! ngã dĩ tiên phát A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề tâm, nhi vị năng tri Bồ Tát vân hà tu Bồ Tát hạnh, sanh Như Lai gia, vi thế Đại Minh?

Thiện-Tài đến đảnh lễ chân Thần Diệu-Đức, cung kính chắp tay bạch rằng: Đại-Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết được Bồ-Tát thế nào tu bồ-tát-hạnh sanh nhà Như-Lai làm ánh sáng cho đời ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy vị Thần đó rồi, bèn đảnh lễ vị Dạ Thần, chắp tay đứng ở trước vị Dạ Thần, bạch rằng: Đại Thánh! Trước con đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Làm thế nào được sinh vào nhà Như Lai? Làm thế nào để làm ánh sáng cho đời? Xin đại Thánh từ bi, khai thị để cho con đắc được sự lợi ích của pháp.

 

Bỉ Thần đáp ngôn: Thiện nam tử! Bồ Tát hữu thập chủng thọ sanh tạng, nhược Bồ Tát thành tựu thử pháp, tức sanh Như Lai gia, niệm niệm tăng trưởng Bồ Tát thiện căn, bất bì bất giải, bất yếm bất thoái, vô đoạn vô thất, ly chư mê hoặc, bất sanh khiếp liệt, não hối chi tâm, thú nhất thiết trí, nhập Pháp giới môn, phát quảng đại tâm, tăng trưởng chư độ, thành tựu chư Phật vô thượng Bồ-đề, xả thế gian thú, nhập Như Lai địa, hoạch thắng thần thông, chư Phật chi Pháp thường hiện tại tiền, thuận nhất thiết trí chân thật nghĩa cảnh.

Thần Diệu-Đức đáp : Nầy thiện-nam-tử ! Bồ-Tát có mười tạng thọ sanh. Nếu Bồ-Tát thành-tựu pháp nầy thời sanh nhà Như-Lai, niệm niệm tăng trưởng thiện-căn của Bồ-Tát, chẳng mỏi, chẳng lười, chẳng nhàm, chẳng thối, không dứt, không mất, rời những mê lầm, chẳng sanh lòng khiếp hèn não hối, đến nhứt-thiết-trí, nhập môn pháp-giới, phát tâm quảng-đại, tăng trưởng những ba-la-mật thành-tựu vô-thượng bồ-đề, rời thế-gian, vào bực Như-Lai, được thắng thần-thông, phật-pháp thường hiện-tiền, thuận cảnh nhứt-thiết-trí chơn-thiệt.

Giảng: Vị Dạ Thần nghe lời thưa thỉnh khẩn cầu của Thiện Tài rồi, bèn đáp rằng: Thiện nam tử! Bồ Tát có mười thứ tạng thọ sanh. Nếu Bồ Tát thành tựu viên mãn pháp nầy, thì sẽ sinh vào nhà Như Lai. Niệm niệm tăng trưởng căn lành Bồ Tát. Nếu không mệt mỏi, không giải đãi, không nhàm đủ, không thối lùi, không dứt hẳn, không quên mất tạng pháp thọ sinh nầy, thì sẽ xa lìa tất cả sự chướng ngại mê hoặc, chẳng sinh tâm sợ hãi, hạ liệt, phiền não, hối tiếc. Hướng về nhất thiết trí huệ, nhập vào môn pháp giới, phát tâm bồ đề rộng lớn, tăng trưởng pháp mười độ, thành tựu vô thượng bồ đề của mười phương ba đời tất cả chư Phật. Xả lìa bốn cõi ác của thế gian, nhập vào bậc Như Lai, đắc được thần thông thù thắng, pháp của tất cả chư Phật thường hiện ra ở trước, thuận cảnh nhất thiết trí chân thật nghĩa.

 

Hà đẳng vi thập?

Đây là mười tạng thọ-sanh của Bồ-Tát :

Giảng: Những gì là mười tạng thọ sanh?

 

Nhất giả, nguyện thường cúng dường nhất thiết chư Phật thọ sanh tạng

Một là tạng thọ-sanh nguyện thường cúng-dường tất cả chư Phật.

Giảng: Một là tạng thọ sanh nguyện thường cúng dường tất cả chư Phật.

 

Nhị giả, phát Bồ-đề tâm thọ sanh tạng

Hai là tạng thọ-sanh phát bồ-đề-tâm.

Giảng: Hai là tạng thọ sanh phát tâm bồ đề.

 

Tam giả, quán chư Pháp môn cần tu hành thọ sanh tạng

Ba là tạng thọ-sanh quán các pháp-môn siêng tu hành.

Giảng: Ba là tạng thọ sanh quán các pháp môn siêng tu hành.

 

Tứ giả, dĩ thâm tịnh tâm phổ chiếu tam thế thọ sanh tạng

Bốn là tạng thọ-sanh dùng tâm thanh-tịnh chiếu khắp tam thế.

Giảng: Bốn là tạng thọ sanh dùng tâm thanh tịnh thâm sâu chiếu khắp ba đời.

 

Ngũ giả, bình đẳng quang minh thọ sanh tạng

Năm là tạng thọ-sanh bình-đẳng quang-minh.

Giảng: Năm là tạng thọ sanh bình đẳng quang minh.

 

Lục giả, sanh Như Lai gia thọ sanh tạng

Sáu là tạng thọ-sanh sanh nhà Như-Lai.

Giảng: Sáu là tạng thọ sanh sanh vào nhà Như Lai.

 

Thất giả, Phật lực quang minh thọ sanh tạng

Bảy là tạng thọ-sanh phật-lực quang-minh.

Giảng: Bảy là tạng thọ sanh Phật lực quang minh.

 

Bát giả, quán phổ trí môn thọ sanh tạng

Tám là tạng thọ-sanh quán môn phổ-trí.

Giảng: Tám là tạng thọ sanh quán môn phổ trí.

 

Cửu giả, phổ hiện trang nghiêm thọ sanh tạng

Chín là tạng thọ-sanh khắp hiện trang-nghiêm.

Giảng: Chín là tạng thọ sanh phổ hiện trang nghiêm.

 

Thập giả, nhập Như Lai địa thọ sanh tạng.

Mười là tạng thọ-sanh nhập Như Lai-địa.

Giảng: Mười là tạng thọ sanh vào bậc Như Lai.

Đây là pháp môn mười tạng thọ sanh của Bồ Tát.

 

1. Thiện nam tử! vân hà danh: nguyện thường cúng dường nhất thiết Phật thọ sanh tạng?

1. Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ-sanh nguyện thường cúng-dường tất cả chư Phật ?

Giảng: Thiện nam tử! Thế nào gọi là tạng thọ sanh nguyện thường cúng dường tất cả chư Phật?

 

Thiện nam tử! Bồ Tát sơ phát tâm thời, tác như thị nguyện: ngã đương tôn trọng, cung kính, cúng dường nhất thiết chư Phật, kiến Phật vô yếm, ư chư Phật sở, thường sanh ái lạc, thường khởi thâm tín, tu chư công đức, hằng vô hưu tức.

Nầy thiện-nam-tử ! Lúc Bồ-Tát sơ-phát-tâm phát nguyện như vầy : Tôi phải tôn trọng cung kính cúng-dường tất cả chư phật, thấy Phật không nhàm, ở chỗ chư Phật thường mến ưa, thường tin sâu chắc, tu những công-đức không thôi nghỉ.

Giảng: Thiện nam tử! Khi Bồ Tát ban đầu phát tâm, thì trước hết phát nguyện như vầy: Tôi sẽ tôn trọng cung kính cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời. Tôi nguyện thường gặp Phật, bất cứ gặp bao nhiêu vị Phật, tâm cũng không bao giờ nhàm đủ. Tôi ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, thường sinh tâm ưa mến. Hoan hỉ đạo tràng nầy, giữ gìn đạo tràng nầy. Tôi thường sinh khởi niềm tin thâm sâu không nghi, tu hành tất cả công đức, luôn luôn không ngừng nghỉ.

 

Thị vi Bồ Tát vi nhất thiết trí thủy tập thiện căn thọ sanh tạng.

Đây là tạng thọ sanh của Bồ Tát vì nhất thiết trí bắt đầu tích tập căn lành.

Giảng: Đây là pháp môn Bồ Tát vì nhất thiết trí huệ, bắt đầu tích tập căn lành tạng thọ sanh.

 

2. Vân hà danh: phát Bồ-đề tâm thọ sanh tạng?

2. Thế nào gọi là tạng thọ sanh phát tâm bồ đề?

Giảng: Thế nào gọi là tạng thọ sanh phát tâm bồ đề?

 

Thiện nam tử! thử Bồ Tát phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam-Bồ-đề tâm. Sở vị: khởi đại bi tâm, cứu hộ nhất thiết chúng sanh cố; khởi cúng dường Phật tâm, cứu cánh thừa sự cố; khởi phổ cầu chánh pháp tâm, nhất thiết vô lận cố; khởi quảng đại thú hướng tâm, cầu nhất thiết trí cố; khởi từ vô lượng tâm, phổ nhiếp chúng sanh cố; khởi bất xả nhất thiết chúng sanh tâm, bị cầu nhất thiết trí kiên thệ giáp cố; khởi vô siểm cuống tâm, đắc như thật trí cố; khởi như thuyết hạnh tâm, tu Bồ Tát đạo cố; khởi bất cuống chư Phật tâm, thủ hộ nhất thiết Phật đại thệ nguyện cố; khởi nhất thiết trí nguyện tâm, tận vị lai hóa chúng sanh bất hưu tức cố.

Bồ Tát nầy phát tâm vô-thượng bồ-đề, những là phát khởi tâm đại-bi vì cứu hộ tất cả chúng-sanh; phát tâm cúng-dường Phật, vì rốt ráo kính thờ; khởi tâm cầu khắp chánh pháp, vì tất cả không lẫn tiếc, khởi tâm quảng-đại xu-hướng, vì cầu nhất-thiết-trí; khởi tâm từ vô-lượng, vì nhiếp khắp chúng-sanh; khởi tâm chẳng bỏ tất cả chúng-sanh, vì mặc giáp kiên-thệ cầu nhất-thiết-trí; khởi tâm không siểm cuống, vì được như-thiệt-trí; khởi tâm làm đúng như lời, vì tu bồ-tát-đạo; khởi tâm chẳng dối chư Phật, vì thú-hộ đại thệ nguyện của Phật; khởi tâm nguyện nhất-thiết-trí, vì tận vị-lai giáo hóa chúng-sanh không thôi dứt.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát nầy phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Đó là: Phát khởi tâm đại bi, vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Phát khởi tâm cúng dường Phật, vì rốt ráo hầu hạ chư Phật. Phát khởi tâm khắp cầu chánh pháp, vì tất cả đều thí xả, không xẻn tiếc. Phát khởi tâm Phật đạo thú hướng rộng lớn, vì cầu nhất thiết trí huệ. Phát khởi tâm từ vô lượng, vì nhiếp khắp tất cả chúng sinh. Phát khởi tâm chẳng bỏ tất cả chúng sinh, vì mặc giáp kiên thệ cầu nhất thiết trí. Phát khởi tâm không xiểm dối, vì được trí huệ chân như thật tướng. Phát khởi tâm như lời nói thực hành, vì tu hành Bồ Tát đạo. Phát khởi tâm không dối chư Phật, vì giữ gìn đại thệ nguyện của tất cả chư Phật. Phát khởi tâm nguyện nhất thiết trí, vì hết thuở vị lai giáo hoá tất cả chúng sinh không ngừng nghỉ.

 

Bồ Tát dĩ như thị đẳng Phật sát vi trần số Bồ-đề tâm công đức cố, đắc sanh Như Lai gia.

Bồ-Tát dùng công-đức của Phật-sát vi-trần-số bồ-đề-tâm như vậy được sanh nhà Như-Lai.

Giảng: Bồ Tát dùng tâm bồ đề công đức như vậy, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, nên được sinh vào nhà Như Lai.

 

Thị vi Bồ Tát đệ nhị thọ sanh tạng.

Đây là tạng thọ sanh thứ hai của Bồ Tát.

Giảng: Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ hai của Bồ Tát.

 

3. Vân hà danh: quán chư Pháp môn cần tu hành thọ sanh tạng?

3. Thế nào là tạng-thọ-sanh quán các pháp-môn siêng tu hành ?

Giảng: Thế nào gọi là tạng thọ sanh quán các pháp môn siêng tu hành?

 

Thiện nam tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát, khởi quán nhất thiết pháp môn hải tâm, khởi hồi hướng nhất thiết trí viên mãn đạo tâm, khởi chánh niệm vô quá thất nghiệp tâm, khởi nhất thiết Bồ Tát tam muội hải thanh tịnh tâm, khởi tu thành nhất thiết Bồ Tát công đức tâm, khởi trang nghiêm nhất thiết Bồ Tát đạo tâm, khởi cầu nhất thiết trí đại tinh tấn hạnh, tu chư công đức như kiếp hỏa sí nhiên vô hưu tức tâm, khởi tu Phổ Hiền hạnh giáo hóa nhất thiết chúng sanh tâm, khởi thiện học nhất thiết uy nghi, tu Bồ Tát công đức, xả ly nhất thiết sở hữu, trụ vô sở hữu chân thật tâm.

Đại Bồ-Tát nầy phát khởi tâm quán tất cả pháp-môn-hải, phát khởi tâm hồi-hướng nhất-thiết-trí viên-mãn đạo, phát khởi tâm chánh-niệm không nghiệp lỗi lầm, phát khởi tâm tất cả bồ-tát tam-muội-hải thanh-tịnh, phát khởi tâm tu thành công-đức của tất cả Bồ-Tát, phát khởi tâm trang-nghiêm tất cả đạo bồ-tát, phát khởi tâm cầu nhất-thiết-trí hạnh đại tinh-tấn tu các công-đức như kiếp-hỏa hẩy hừng không thôi dứt, phát khởi tâm tu hạnh phổ-hiền giáo-hóa chúng-sanh. Phát khởi tâm khéo học tất cả oai-nghi, tu công-đức của Bồ-Tát bỏ lìa tất cả sở-hữu an-trụ nơi chân-thiệt vô-sở-hữu.

Giảng: Thiện nam tử! Đại Bồ Tát nầy, phát khởi tâm quán sát biển tất cả pháp môn. Phát khởi tâm hồi hướng đạo nhất thiết trí viên mãn. Phát khởi tâm chánh niệm nghiệp ác không lỗi lầm. Phát khởi tâm biển tam muội thanh tịnh của tất cả Bồ Tát. Phát khởi tâm tu thành công đức của tất cả Bồ Tát. Phát khởi tâm trang nghiêm tất cả Bồ Tát đạo. Phát khởi tâm cầu nhất thiết trí hành đại tinh tấn, tu hành tất cả công đức, như kiếp lửa thiêu đốt không ngừng nghỉ. Phát khởi tâm tu hạnh Phổ Hiền, giáo hoá tất cả chúng sinh. Phát khởi tâm khéo học tất cả oai nghi, tu hành công đức của Bồ Tát, xả lìa hết thảy tất cả chấp trước, trụ chân thật không chỗ có.

 

Thị vi Bồ Tát đệ tam thọ sanh tạng.

Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ ba của Bồ Tát.

Giảng: Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ ba của Bồ Tát.

 

4. Vân hà danh: dĩ thâm tịnh tâm phổ chiếu tam thế thọ sanh tạng?

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ-sanh dùng tâm thanh-tịnh chiếu khắp tam-thế ?

Giảng: Thế nào gọi là tạng thọ sanh dùng tâm thâm sâu thanh tịnh chiếu khắp ba đời?

 

Thiện nam tử! thử Bồ Tát cụ thanh tịnh tăng thượng tâm, đắc Như Lai Bồ-đề quang, nhập Bồ Tát phương tiện hải, kỳ tâm kiên cố do nhược Kim cương, bối xả nhất thiết chư hữu thú sanh, thành tựu nhất thiết Phật tự tại lực, tu thù thắng hạnh, cụ Bồ Tát căn, kỳ tâm minh khiết, nguyện lực bất động, thường vi chư Phật chi sở hộ niệm, phá hoại nhất thiết chư chướng ngại sơn, phổ vi chúng sanh tác sở y xứ.

Đại Bồ-Tát nầy đủ tâm thanh-tịnh tăng thượng được ánh sáng bồ-đề của Như-Lai, nhập biển phương-tiện của Bồ-Tát, tâm họ kiên-cố như kim-cang trái bỏ tất cả loài sanh các cõi, thành-tựu tất cả sức tự-tại của Phật, tu hạnh thù-thắng, đủ căn bồ-tát, tâm sáng sạch, nguyện lực bất động, thường được chư Phật hộ-niệm, phá hoại tất cả núi chướng ngại, khắp vì chúng-sanh làm chỗ sở y.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát nầy đầy đủ tâm thanh tịnh tăng thượng, đắc được bồ đề quang minh của Như Lai, vào biển phương tiện của Bồ Tát. Tâm kiên cố như kim cang, trái bỏ tất cả loài sinh vào hai mươi lăm cõi. Thành tựu sức nhậm vận tự tại của tất cả chư Phật. Tu hành hạnh thù thắng, đầy đủ căn lành của Bồ Tát. Tâm trong sáng, chẳng có bụi trần tạp nhiễm, nguyện lực bất động, chẳng bị cảnh giới làm giao động. Thường được tất cả chư Phật hộ niệm, phá trừ tất cả các núi chướng ngại, khắp vì tất cả chúng sinh làm chỗ nương tựa.

 

Thị vi Bồ Tát đệ tứ thọ sanh tạng.

Đây là tạng thọ sanh thứ tư của Bồ Tát.

Giảng: Đây là tạng thọ sanh thứ tư của Bồ Tát.

 

5. Vân hà danh: bình đẳng quang minh thọ sanh tạng?

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ-sanh quang-minh bình-đẳng ?

Giảng: Thế nào gọi là tạng thọ sanh bình đẳng quang minh?

 

Thiện nam tử! thử Bồ Tát cụ túc chúng hạnh, phổ hóa chúng sanh; nhất thiết sở hữu, tất giai năng xả; trụ Phật cứu cánh tịnh giới cảnh giới; cụ túc nhẫn pháp, thành tựu chư Phật Pháp nhẫn quang minh; dĩ đại tinh tấn, thú nhất thiết trí, đáo ư bỉ ngạn; tu tập chư Thiền, đắc Phổ môn định; tịnh trí viên mãn, dĩ trí tuệ nhật, minh chiếu chư Pháp; đắc vô ngại nhãn, kiến chư Phật hải, ngộ nhập nhất thiết chân thật Pháp tánh; nhất thiết thế gian, kiến giả hoan hỉ, thiện năng tu tập như thật Pháp môn.

Đại Bồ-Tát nầy đầy đủ công-hạnh hóa độ khắp chúng-sanh, tất cả sở-hữu đều có thể bỏ, an-trụ nơi cảnh-giới-hạnh thanh-tịnh rốt ráo của Phật, đầy đủ pháp-nhẫn, thành-tựu quang-minh pháp-nhẫn của Phật, dùng đại tinh-tấn đến nhất-thiết-trí, đến nơi bỉ-ngạn, tu tập các môn thiền được phổ-môn định, tịnh trí viên-mãn, dùng trí-huệ-nhật chiếu rõ các pháp, được vô-ngại-nhãn thấy biển chư Phật, ngộ nhập tất cả pháp-tánh chân thiệt, tất cả thế-gian người thấy hoan-hỉ, khéo tu tập được pháp-môn như thiệt.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát nầy đầy đủ tất cả các hạnh, giáo hoá khắp tất cả chúng sinh. Tất cả hết thảy tài vật đều xả bỏ được. Trụ trong cảnh giới bảo giới quang minh thanh tịnh rốt ráo của chư Phật. Đầy đủ tất cả pháp nhẫn, thành tựu vô sinh pháp nhẫn quang minh của chư Phật, dùng sức đại tinh tấn hướng về bậc nhất thiết trí. Đến nơi bờ Niết Bàn bên kia, tu tập các thiền định, đắc được định lực phổ môn. Trí huệ thanh tịnh đã viên mãn, dùng trí huệ mặt trời, chiếu sáng tất cả các pháp. Đắc được mắt pháp vô ngại, thấy biển pháp của chư Phật. Ngộ nhập tất cả pháp tánh chân thật. Tất cả chúng sinh thế gian ai nghe thấy được vị Bồ Tát nầy, đều sinh tâm hoan hỉ, khéo tu tập pháp môn như thật.

 

Thị vi Bồ Tát đệ ngũ thọ sanh tạng.

Đây là tạng thọ sanh thứ năm của Bồ Tát.

Giảng: Đây là tạng thọ sanh thứ năm của Bồ Tát.

 

6. Vân hà danh: sanh Như Lai gia thọ sanh tạng?

Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào gọi là thọ sanh tạng sanh nhà Như-Lai ?

Giảng: Thế nào gọi là tạng thọ sanh sanh vào nhà Như Lai?

 

Thiện nam tử! thử Bồ Tát sanh Như Lai gia, tùy chư Phật trụ, thành tựu nhất thiết thậm thâm pháp môn, cụ tam thế Phật thanh tịnh đại nguyện, đắc nhất thiết Phật đồng nhất thiện căn, dữ chư Như Lai cọng nhất thể tánh, cụ xuất thế hạnh bạch tịnh thiện Pháp, an trụ quảng đại công đức Pháp môn; nhập chư tam muội, kiến Phật thần lực; tùy sở ưng hóa, tịnh chư chúng sanh; như vấn nhi đối, biện tài vô tận.

Đại Bồ-Tát nầy sanh nhà Như-Lai, theo chư Phật mà an trụ, thành-tựu tất cả pháp-môn thậm-thâm, đủ đại nguyện thanh-tịnh của tam thế chư Phật, được đồng một thiện-căn với tất cả chư Phật, cùng một thể-tánh với chư Như-Lai, đủ hạnh xuất thế pháp lành bạch tịnh, an trụ pháp-môn công-đức quảng đại, nhập những tam-muội thấy thần-lực của Phật, tùy chỗ đáng hóa độ mà tịnh trị chúng-sanh, đáp đúng lời hỏi biện-tài vô-tận.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát nầy sinh vào nhà Như Lai, theo chư Phật mà trụ, thành tựu tất cả pháp môn thâm sâu. Đầy đủ đại nguyện thanh tịnh của chư Phật ba đời. Đắc được đồng một căn lành với tất cả chư Phật, cùng một thể tánh với chư Phật. Đầy đủ hạnh xuất thế pháp lành trắng tịnh. An trụ pháp môn công đức rộng lớn. Nhập vào tất cả các tam muội, thấy thần lực của tất cả chư Phật. Tuỳ chúng sinh đáng được giáo hoá, mà thanh tịnh tâm họ, khiến cho họ phát bồ đề tâm. Nếu có ai hỏi pháp thì theo lời hỏi mà đáp, như nước chảy thao thao bất tận, có cảnh giới biện tài vô ngại.

 

Thị vi Bồ Tát đệ lục thọ sanh tạng.

Đây là tạng thọ sanh thứ sáu của Bồ Tát.

Giảng: Đây là tạng thọ sanh thứ sáu của Bồ Tát.

 

7. Vân hà danh: Phật lực quang minh thọ sanh tạng?

Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào là thọ sanh tạng phật-lực quang-minh ?

Giảng: Thế nào gọi là tạng thọ sanh Phật lực quang minh?

 

Thiện nam tử! thử Bồ Tát thâm nhập Phật lực, du chư Phật sát tâm vô thoái chuyển, cúng dường thừa sự Bồ Tát chúng hội vô hữu bì yếm, liễu nhất thiết pháp giai như huyễn khởi, tri chư thế gian như mộng sở kiến, nhất thiết sắc tướng do như quang ảnh, thần thông sở tác giai như biến hóa, nhất thiết thọ sanh tất giai như ảnh, chư Phật thuyết Pháp giai như cốc hưởng, khai thị Pháp giới hàm lệnh cứu cánh.

Đại Bồ-Tát nầy thâm nhập phật-lực, du hành các phật-độ lòng không thối chuyển, cúng-dường thừa sự chúng hội Bồ-Tát không có mỏi nhàm, rõ tất cả pháp đều như huyển mà sanh khởi, biết các thế-gian như cảnh trong mộng, tất cả sắc tướng dường như quang ảnh, thần-thông hiện ra đều như biến hóa, tất cả thọ sanh đều như bóng, chư Phật thuyết pháp đều như tiếng vang nơi hang núi, khai thị pháp-giới đều rốt ráo.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát nầy vào sâu mười lực của Phật, du hành đến tất cả cõi nước chư Phật, gần gũi chư Phật. Tâm đối với Phật pháp rất kiền thành, vĩnh viễn không thối chuyển. Cúng dường hầu hạ chúng hội Bồ Tát không khi nào mỏi nhàm đầy đủ. Thấu rõ tất cả pháp, đều là hư vọng, như huyễn hoá mà sinh khởi. Biết tất cả thế gian vô thường, như cảnh giới thấy trong mộng, tánh chẳng chân thật. Hết thảy tất cả sắc tướng như quang ảnh, chẳng thật tại. Thần thông hiện ra đều như biến hoá. Tất cả thọ sanh đều như hình bóng. Pháp của tất cả chư Phật nói, đều như tiếng vang nơi hang núi. Khai thị pháp giới tất cả chúng sinh, đều khiến được an lạc rốt ráo.

 

Thị vi Bồ Tát đệ thất thọ sanh tạng.

Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ bảy của Bồ Tát.

Giảng: Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ bảy của Bồ Tát.

 

8. Vân hà danh: quán phổ trí môn thọ sanh tạng?

Nầy thiện-nam-tử ! Thế nào tạng thọ-sanh quán môn phổ-trí ?

Giảng: Thế nào gọi là thọ sanh tạng quán môn phổ trí?

 

Thiện nam tử! thử Bồ-tát trụ đồng chân vị, quán nhất thiết trí nhất nhất trí môn, tận vô lượng kiếp khai diễn nhất thiết Bồ Tát sở hạnh, ư chư Bồ-tát thậm thâm tam muội tâm đắc tự tại, niệm niệm sanh ư thập phương thế giới chư Như Lai sở, ư hữu sái biệt cảnh nhập vô sái biệt định, ư vô sái biệt pháp hiện hữu sái biệt trí, ư vô lượng cảnh tri vô cảnh giới, ư thiểu cảnh giới nhập vô lượng cảnh, thông đạt pháp tánh quảng đại vô tế, tri chư thế gian tất giả thí thiết, nhất thiết giai thị thức tâm sở khởi.

Đại Bồ-Tát nầy trụ đồng-chân-vị quán nhất-thiết-trí, mỗi mỗi trí môn tận vô-lượng kiếp, khai diễn sở-hành của tất cả Bồ-Tát, nơi tam-muội thậm-thâm của chư Bồ-Tát tâm được tự-tại, niệm niệm sanh chỗ chư Như-Lai trong thế-giới mười phương, nơi cảnh có sai-biệt nhập định vô-sai-biệt, nơi pháp vô-sai-biệt hiện trí có sai-biệt, nơi vô-lượng cảnh biết không cảnh-giới, nơi cảnh-giới ít, nhập cảnh vô-lượng, thông đạt pháp-tánh rộng lớn không ngằn mé, biết các thế-gian đều là giả thi-thiết, tất cả đều là thức-tâm phát khởi.

Giảng: Thiện nam tử! Vị Bồ Tát nầy trụ bậc đồng chân, quán sát nhất thiết trí huệ. Mỗi một trí môn, hết vô lượng kiếp, khai diễn hạnh tu của tất cả Bồ Tát. Đối với tam muội thâm sâu của tất cả Bồ Tát, tâm được nhậm vận tự tại. Trong niệm niệm sinh ra ở trong đạo tràng của chư Phật trong mười phương thế giới. Nơi cảnh giới có sự khác biệt, nhập định không khác biệt. Nơi pháp không khác biệt, hiện ra trí huệ có sự khác biệt. Nơi cảnh giới vô lượng, biết không có cảnh giới. Nơi ít cảnh giới, nhập vô lượng cảnh giới. Thông đạt tất cả pháp tánh rộng lớn không bờ mé. Biết tất cả thế gian có hình có tướng, đều là hư vọng, là giả thi thiết, tất cả đều do tâm thức phân biệt sinh khởi.

 

Thị vi Bồ Tát đệ bát thọ sanh tạng.

Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ tám của Bồ Tát.

Giảng: Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ tám của Bồ Tát.

 

9. Vân hà danh: phổ hiện trang nghiêm thọ sanh tạng?

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ-sanh khắp hiện trang-nghiêm ?

Giảng: Thế nào gọi là tạng thọ sanh phổ hiện trang nghiêm?

 

Thiện nam tử! thử Bồ Tát năng chủng chủng trang nghiêm vô lượng Phật sát, phổ năng hóa Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh cập chư Phật thân, đắc vô sở úy, diễn thanh tịnh Pháp, châu lưu Pháp giới, vô sở chướng ngại; tùy kỳ tâm lạc, phổ sử tri kiến, thị hiện chủng chủng thành Bồ-đề hạnh, lệnh sanh vô ngại nhất thiết trí đạo; như thị sở tác bất thất kỳ thời, nhi thường tại tam muội Tỳ Lô Giá Na trí tuệ chi tạng.

Đại Bồ-Tát nầy có thể nhiều cách trang-nghiêm vô-lượng cõi Phật, có thể khắp hóa hiện tất cả chúng-sanh và những thân Phật được vô-sở-úy, diễn pháp thanh-tịnh châu-lưu pháp-giới không chướng-ngại, tùy tâm sở-thích khiến thấy biết tất cả, thị-hiện những hạnh thành bồ-đề, khiến sanh đạo nhất-thiết-trí vô-ngại, việc làm như vậy chẳng lỗi thời, mà thường ở nơi tạng tam-muội tỳ-lô-giá-na trí-huệ.

Giảng: Thiện nam tử! Vị Bồ Tát nầy hay trang nghiêm đủ thứ vô lượng cõi Phật. Hay hoá hiện khắp tất cả thân chúng sinh và thân tất cả chư Phật. Đắc được vô sở uý, diễn nói diệu pháp âm thanh tịnh, lưu khắp mười phương, tận hư không khắp pháp giới, không có gì có thể chướng ngại hành động của Ngài được. Tuỳ thuận tâm ưa thích của chúng sinh, khắp khiến cho tất cả chúng sinh đều thấy biết vị Bồ Tát nầy. Lại thị hiện đủ thứ hạnh thành tựu bồ đề, khiến cho tất cả chúng sinh, đều sinh đạo nhất thiết trí vô ngại. Những việc làm như vậy chẳng lỗi thời, nghĩa là đúng thời đúng lúc. Thường ở trong tam muội trí huệ Tỳ Lô Giá Na. Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ chín của Bồ Tát.

 

Thị vi Bồ Tát đệ cửu thọ sanh tạng.

Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ chín của Bồ Tát.

Giảng: Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ chín của Bồ Tát.

 

10. Vân hà danh: nhập Như Lai địa thọ sanh tạng?

Nầy Thiện-nam-tử ! Thế nào là tạng thọ sanh nhập như-lai-địa ?

Giảng: Thế nào gọi là tạng thọ sanh vào bậc Như Lai?

 

Thiện nam tử! thử Bồ Tát tất ư tam thế chư Như Lai sở thọ quán đảnh Pháp, phổ tri nhất thiết cảnh giới thứ đệ. Sở vị: tri nhất thiết chúng sanh tiền tế hậu tế một sanh thứ đệ, nhất thiết bồ tát tu hành thứ đệ, nhất thiết chúng sanh tâm niệm thứ đệ, tam thế Như Lai thành Phật thứ đệ, thiện xảo phương tiện thuyết Pháp thứ đệ, diệc tri nhất thiết sơ, trung, hậu tế sở hữu chư kiếp nhược thành nhược hoại danh hiệu thứ đệ. Tùy chư chúng sanh sở ưng hóa độ, vi hiện thành đạo công đức trang nghiêm, thần thông thuyết Pháp, phương tiện điều phục.

Đại Bồ-Tát nầy đều thọ pháp quán đảnh ở chỗ chư Phật tam thế, biết khắp tất cả cảnh-giới thứ đệ, nghĩa là biết tất cả chúng-sanh thứ đệ thọ sanh ở tiền-tế hậu tế, biết chư Bồ-Tát tu hành thứ đệ, biết tâm niệm thứ đệ của tất cả chúng-sanh, biết tam thế Như-Lai thành Phật thứ đệ, biết phương-tiện thuyết pháp thiện-xảo thứ đệ, cũng biết tất cả sơ-tế trung-tế hậu-tế có bao nhiêu kiếp hoặc thành hoặc hoại danh hiệu thứ đệ, tùy những chúng-sanh chỗ đáng hóa độ vì hiện thành đạo công-đức trang-nghiêm thần-thông thuyết pháp phương-tiện điều-phục.

Giảng: Thiện nam tử! Vị Bồ Tát nầy đều ở chỗ đạo tràng của chư Phật ba đời, tiếp thọ pháp quán đảnh, nhập vào bậc Pháp Vương. Biết khắp tất cả cảnh giới trước sau thứ tự. Đó là: Biết thứ tự tất cả chúng sinh thuở trước chết, thuở sau thọ sinh, nghĩa là đời trước chết như thế nào? Vị lai sinh như thế nào? Thấy biết rất rõ ràng. Lại biết tất cả Bồ Tát tu hành thứ tự, nghĩa là vị Bồ Tát nào trước tu hạnh nào đó, về sau tu hạnh nào đó, thảy đều biết hết. Lại biết tất cả chúng sinh tâm niệm thứ tự, nghĩa là ý niệm của chúng sinh nầy, niệm nào sinh trước, niệm nào sinh sau, đều biết rõ ràng. Lại biết ba đời chư Phật thành Phật thứ tự. Chư Phật quá khứ, chư Phật hiện tại, chư Phật vị lai, vị Phật nào thành Phật trước, vị Phật nào thành Phật sau, đều thấy biết rõ ràng. Lại biết chư Phật Bồ Tát phương tiện thiện xảo thuyết pháp thứ tự. Nói pháp phải đối cơ mới có hiệu quả, nếu chẳng đối cơ, thì chẳng được thọ dụng. Do đó, có câu: “Quán cơ thí giáo, vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc”. Phải thấu rõ cơ duyên nói pháp, đối với chúng sinh nào nói pháp gì, thì mới có hiệu quả. Bằng không, chẳng có hiệu quả, đối phương chẳng tiếp thọ được, sẽ uống phí thời gian và công sức. Lại biết hết thảy tất cả các kiếp thuở ban đầu, giữa và sau, thành thư thế nào, trụ như thế nào, hoại như thế nào, không như thế nào? Đều thấu hiểu được. Danh hiệu của kiếp thứ tự, đều biết rõ ràng. Tuỳ thuận căn tánh của tất cả chúng sinh, tuỳ ứng mà hoá độ, vì chúng sinh thị hiện công đức thành đạo, trang nghiêm cõi nước. Dùng thần thông diệu dụng để thuyết pháp, dùng phương tiện khéo léo để điều phục.

 

Thị vi Bồ Tát đệ thập thọ sanh tạng.

Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ mười của Bồ Tát.

Giảng: Đây là pháp môn tạng thọ sanh thứ mười của Bồ Tát.

Phật tử! nhược Bồ-Tát Ma-ha-tát, ư thử thập pháp tu tập tăng trưởng viên mãn thành tựu, tức năng ư nhất trang nghiêm trung, hiện chủng chủng trang nghiêm; như thị trang nghiêm nhất thiết quốc độ, khai đạo thị ngộ nhất thiết chúng sanh, tận vị lai kiếp vô hữu hưu tức; diễn thuyết nhất thiết chư Phật pháp hải chủng chủng cảnh giới, chủng chủng thành thục, triển chuyển truyền lai vô lượng chư Pháp; hiện bất tư nghị Phật tự tại lực, sung mãn nhất thiết hư không Pháp giới; ư chư chúng sanh tâm hành hải trung nhi chuyển pháp luân, ư nhất thiết thế giới thị hiện thành Phật, hằng Vô gián đoạn; dĩ bất khả thuyết thanh tịnh ngôn âm thuyết nhất thiết pháp, trụ vô lượng xứ thông đạt vô ngại; dĩ nhất thiết pháp trang nghiêm đạo tràng, tùy chư chúng sanh dục giải sái biệt nhi hiện thành Phật, khai thị vô lượng thậm thâm Pháp tạng, giáo hóa thành tựu nhất thiết thế gian.

Nầy Thiện-nam-tử!  Nếu Ðại Bồ-Tát nơi mười pháp nầy tu tập tăng trưởng viên-mãn thành-tựu, thời có thể ở trong một trang-nghiêm hiện nhiều thứ trang-nghiêm.  Như vậy trang-nghiêm  tất cả quốc-độ, khai ngộ tất cả chúng-sanh, tận vị-lai kiếp không thôi dứt, diễn nói tất cả phật-pháp, những cảnh-giới, những thành thục, xoay vần truyền đến vô-lượng pháp, hiện bất-tư-nghì phật-tự-tại lực sung mãn tất cả hư-không pháp-giới, ở trong biển tâm hành của các chúng-sanh mà chuyển pháp-luân, thị-hiện thành Phật ở tất cả thế-giới hằng không gián-đoạn, dùng bất-khả-thuyết ngôn âm thanh-tịnh để nói tất cả pháp, trụ vô-lượng-xứ thông-đạt vô-ngại, dùng tất cả pháp trang-nghiêm đạo-tràng, tùy các chúng-sanh dục giải sai-biệt mà hiện thành Phật, khai thị vô-lượng pháp-tạng thậm-thâm, giáo hóa thành tựu tất cả thế-gian.

Giảng: Vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni gọi một tiếng Phật tử! Nếu như vị đại Bồ Tát nầy, nơi mười pháp tạng thọ sinh nầy, tu tập, tăng trưởng, thành tựu, viên mãn, thì sẽ ở trong một thứ trang nghiêm, hiện ra đủ thứ trang nghiêm. Trang nghiêm tất cả cõi nước như vậy, khai đạo chỉ bày giác ngộ tất cả chúng sinh. Dù hết kiếp thuở vị lai, cũng không ngừng nghỉ, diễn nói biển pháp của tất cả chư Phật. Có đủ thứ cảnh giới, có đủ thứ thành thục, triển chuyển truyền đến vô lượng các pháp. Hiện ra sức tự tại của Phật không thể nghĩ bàn, đầy khắp tất cả hư không pháp giới. Chuyển bánh xe pháp ở trong biển tâm hạnh của các chúng sinh. Thị hiện thành Phật ở trong tất cả thế giới, luôn không gián đoạn, không ngừng nghỉ. Dùng bất khả thuyết lời nói thanh tịnh, để diễn nói tất cả diệu pháp. Trụ vô lượng nơi, toại tâm mãn nguyện, thông đạt vô ngại. Dùng tất cả pháp, trang nghiêm hết thảy đạo tràng. Tuỳ sự ưa muốn hiểu biết khác nhau của tất cả chúng sinh, mà thị hiện thân thành Phật. Khai thị vô lượng pháp tạng thâm sâu, giáo hoá thành tựu tất cả chúng sinh thế gian.

 

Nhĩ thời, Lâm-tỳ ni lâm Thần, dục trọng minh kỳ nghĩa, dĩ Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Lâm-Tỳ-Ni Lâm-Thần muốn tuyên lại nghĩa nầy, dùng phật thần-lực quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni muốn thuật lại nghĩa lý ở trên, bèn nương đại oai thần lực của chư Phật mười phương, quán sát khắp hết thảy nhân duyên của chúng sinh mười phương, mà nói kệ rằng:

Tối thượng ly cấu thanh tịnh tâm,                      Tâm thanh-tịnh ly-cấu tối-thượng
Kiến nhất thiết Phật Vô yếm túc,                       Thấy tất cả Phật không nhàm đủ
Nguyện tận vị lai thường cúng dường,               Nguyện tận vị-lai thường cúng-dường
Thử minh tuệ giả thọ sanh tạng.                        Là tạng thọ sanh của bậc trí.

Dùng tâm thanh tịnh lìa cấu tối thượng (chẳng có sự nhiễm ô, chẳng có dục niệm), để thấy tất cả chư Phật, nhưng không khi nào nhàm đủ. Phàm là người tu Bồ Tát đạo, nhất định phải phát đại thệ nguyện, hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã. Phải có tinh thần xả mình vì người. Phát nguyện ở trong kiếp thuở vị lại thường cúng dường tất cả chư Phật. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của bậc đại Bồ Tát thông minh có trí huệ.

 

Nhất thiết tam thế quốc độ trung,                     Trong tất cả tam thế quốc-độ
Sở hữu chúng sanh cập chư Phật,                     Có những chúng-sanh và chư Phật
Tất nguyện độ thoát hằng chiêm phụng,           Ðều nguyện độ thoát, hằng kính thờ
Thử nan tư giả thọ sanh tạng.                            Là tạng sanh bậc nan-tư.

Trong cõi nước của tất cả chư Phật mười phương ba đời, hết thảy tất cả chúng sinh và tất cả chư Phật, thảy đều phát nguyện độ thoát tất cả chúng sinh, luôn thờ phụng tất cả chư Phật. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của đại Bồ Tát không thể nghĩ bàn.

 

Văn Pháp vô yếm lạc quan sát,                          Nghe pháp không nhàm thích quán-sát
Phổ ư tam thế vô sở ngại,                                   Ở khắp tam thế không chướng ngại
Thân tâm thanh tịnh như hư không,                 Thân tâm thanh-tịnh như hư-không
Thử danh xưng giả thọ sanh tạng.                     Là tạng thọ sanh bậc danh-xưng.

Hoan hỉ lắng nghe tất cả pháp, không khi nào nhàm đủ. Ưa thích quán sát tất cả cảnh giới, không khi nào ngừng. Khắp trong ba đời đều vô ngại. Thân tâm thanh tịnh như hư không. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của đại Bồ Tát có đại danh xưng.

 

Kỳ tâm hằng trụ đại bi hải,                                 Tâm đó hằng trụ biển đại-bi
Kiên như Kim cương cập bảo sơn,                     Cứng như kim-cang và Bửu-Sơn
Liễu đạt nhất thiết chủng trí môn,                     Thấu tỏ tất cả những trí-môn
Thử tối thắng giả thọ sanh tạng.                        Là tạng thọ sanh bậc tối-thắng.

Tâm của vị Bồ Tát nầy, luôn luôn trụ trong biển đại từ bi, kiên cố hơn kim cang và núi báu, thấu rõ thông đạt môn nhất thiết chủng trí. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của bậc đại Bồ Tát tối thắng.

 

Đại từ phổ phước ư nhất thiết,                           Ðại-từ trùm khắp ở tất cả
Diệu hạnh thường tăng chư độ hải,                   Diệu-hạnh thường tăng biển các độ
Dĩ pháp quang minh chiếu quần phẩm,             Dùng pháp quang-minh chiếu mọi loài
Thử hùng mãnh giả thọ sanh tạng.                    Là tạng thọ sanh bậc hùng-mãnh.

Tâm đại từ bi che khắp hết tất cả chúng sinh. Tu trì diệu hạnh thường tăng biển sáu độ. Dùng pháp quang minh chiếu chúng sinh trong đen tối. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của bậc Bồ Tát đại hùng đại lực đại dũng mãnh.

 

Liễu đạt Pháp tánh tâm vô ngại,                        Tỏ thấu pháp-tánh tâm vô-ngại
Sanh ư tam thế chư Phật gia,                             Sanh ở nhà chư Phật tam thế
Phổ nhập thập phương Pháp giới hải,               Vào khắp biển pháp-giới mười phương
Thử minh trí giả thọ sanh tạng.                          Là tạng thọ sanh bậc minh-trí.

Thấu rõ thông đạt tự tánh của tất cả các pháp, thì trong tâm chẳng có mọi sự chướng ngại. Sinh trong nhà của tất cả chư Phật mười phương ba đời. Vào khắp mười phương biển pháp giới. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của bậc đại Bồ Tát quang minh trí huệ.

 

Pháp thân thanh tịnh tâm vô ngại                     Pháp thân thanh-tịnh tâm vô-ngại
Phổ nghệ thập phương chư quốc độ,                Ðến khắp mười phương các quốc độ
Nhất thiết Phật lực mị bất thành                       Tất cả phật-lực đều được thành
Thử bất tư nghị thọ sanh tạng.                          Là tạng thọ sanh bất-tư-nghì.

Pháp thân thanh tịnh như hư không, trong tâm không có chướng ngại. Đến khắp mười phương tất cả cõi nước của chư Phật, giáo hoá tất cả chúng sinh, gần gũi tất cả chư Phật. Mười lực trí huệ của tất cả chư Phật, đều đã thành tựu. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của đại Bồ Tát không thể nghĩ bàn.

 

Nhập thâm trí tuệ dĩ tự tại,                                Vào trí-huệ sâu đã tự-tại
Ư chư tam muội diệc cứu cánh,                         Nơi các tam-muội cũng rốt ráo
Quán nhất thiết trí như thật môn,                     Quán môn nhất-thiết-trí như thiệt
Thử chân thân giả thọ sanh tạng.                      Là tạng thọ sanh bậc chân-thân.

Vào sâu trí huệ Bát Nhã, đã đắc được tự tại. Đối với tất cả tam muội, đã được rốt ráo. Quán pháp môn nhất thiết trí như thật. Đây là pháp môn tạng thọ sanh bậc đại Bồ Tát thân chân thật.

 

Tịnh trì nhất thiết chư Phật độ                          Tịnh trị tất cả những phật-độ
Cần tu phổ hóa chúng sanh pháp,                     Siêng tu pháp khắp hóa chúng-sanh
Hiển hiện Như Lai tự tại lực,                              Hiển hiện Như-Lai sức tự-tại
Thử Đại danh giả thọ sanh tạng.                        Là tạng thọ sanh bậc đại-danh.

Hay tịnh trị cõi nước của tất cả chư Phật, hay trang nghiêm cõi nước của tất cả chư Phật. Siêng tu pháp môn giáo hoá khắp chúng sinh. Hiển hiện đại oai thần lực tự tại của Như Lai. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của bậc đại Bồ Tát có đại danh xưng.

 

Cữu dĩ tu hành Tát bà nhã,                                Lâu đã tu hành đại trí-huệ
Tật năng thú nhập Như Lai vị,                           Mau xu nhập được bậc Như-Lai
Liễu tri Pháp giới giai vô ngại,                            Biết rõ pháp-giới đều vô-ngại
Thử chư Phật tử thọ sanh tạng.                         Là tạng thọ sanh của Phật-Tử.

Thuở xưa rất lâu xa, đã tu hành pháp môn nhất thiết trí (Tát Bà Nhạ). Sớm sẽ hướng nhập bậc Như Lai. Biết rõ pháp giới đều vô ngại. Đây là pháp môn tạng thọ sanh của đại Bồ Tát thọ chư Phật quán đảnh.

 

Thiện nam tử! Bồ Tát cụ thử thập pháp, sanh Như Lai gia, vi nhất thiết thế gian thanh tịnh quang minh.

Nầy Thiện-nam-tử!  Bồ-Tát đủ mười pháp nầy thời sanh nhà Như-Lai, làm quang-minh thanh-tịnh của tất cả thế-gian.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát đầy đủ mười pháp tạng thọ sanh nầy, thì sẽ sinh vào nhà Như Lai, là thanh tịnh quang minh của tất cả thế gian.

 

Thiện nam tử! ngã tùng vô lượng kiếp lai, đắc thị tự tại thọ sanh giải thoát môn.

Ta từ vô-lượng kiếp đến nay được môn giải-thoát thọ sanh tự-tại nầy.

Giảng: Thiện nam tử! Ta từ vô lượng kiếp đến nay, đắc được môn giải thoát thọ sanh tự tại nầy.

 

Thiện Tài bạch ngôn: Thánh Giả! thử giải thoát môn cảnh giới vân hà?

Thiện-Tài thưa: Bạch đức Thánh!  Cảnh-giới của môn giải-thoát nầy thế nào?

Giảng: Thiện Tài đồng tử đối với vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni bạch rằng: Đức Thánh! Cảnh giới môn giải thoát nầy như thế nào? Xin đại Thánh hãy từ bi vì con mà giải thích.

 

Đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã tiên phát nguyện: nguyện nhất thiết Bồ Tát thị thọ sanh thời giai đắc thân cận; nguyện nhập Tỳ Lô Giá Na Như Lai vô lượng thọ sanh hải. Dĩ tích nguyện lực, sanh thử thế giới Diêm-phù-đề trung Lâm-tỳ ni viên, chuyên niệm Bồ Tát hà thời hạ sanh; Kinh ư bách niên, Thế Tôn quả tùng Đâu-Xuất-Đà Thiên nhi lai sanh thử.

Lâm-Thần nói: Nầy Thiện-nam-tử!  Trước kia ta phát nguyện, nguyện lúc tất cả Bồ-Tát thị-hiện thọ sanh đều được thân-cận.  Nguyện nhập biển vô-lượng thọ sanh của Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai. Do nguyện lực thuở xưa ấy, nên nay ta sanh nơi vườn Lam-Tỳ-Ni trong thế-giới nầy, chuyên nghĩ tưởng Bồ-Tát lúc nào hạ sanh?

Giảng: Vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni đáp rằng: Thiện nam tử! Trước kia ta phát nguyện: Nguyện khi tất cả Bồ Tát thị hiện thọ sanh, thì ta đều được gần gũi. Nguyện vào biển vô lượng thọ sanh của Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Tỳ Lô Giá Na dịch là “biến nhất thiết xứ” (khắp tất cả mọi nơi), tức cũng là thanh tịnh pháp thân. Trước khi thụ trai chúng ta thường đọc bài cúng dường là: “Cúng dường thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật. Viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật. Thiên bách ức hoá thân Thích Ca Mâu Ni Phật”. Pháp thân của Phật chẳng có chỗ nào mà chẳng có, nghĩa là chỗ nào cũng có. Pháp thân của Phật như hư không, đầy khắp tất cả mọi nơi. Vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni nói: Ta nhờ nguyện lực phát ra xưa kia, nên sinh vào thế giới Diêm Phù Đề trong vườn Lâm Tỳ Ni, ta chuyên nhớ lúc nào Bồ Tát sẽ thọ sanh xuống nhân gian nầy?

 

Thời, thử lâm trung hiện thập chủng tướng. Hà đẳng vi thập?

Qua một trăm năm quả nhiên Thế-Tôn từ Trời Ðâu-Xuất đản sanh tại đây. Lúc ấy, vườn Lâm-Tỳ-Ni nầy hiện mười tướng: Những gì là mười thứ tướng điềm lành? 

Giảng: Chuyên tâm nghĩ nhớ như vậy, trải qua một trăm năm sau, quả nhiên đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni từ cõi trời Đâu Suất hạ sinh xuống trong vườn Lâm Tỳ Ni. Lúc đó, trong vườn nầy, hiện ra mười thứ tướng điềm lành: Những gì là mười thứ tướng điềm lành?

 

Nhất giả, thử viên trung địa hốt tự bình thản, khanh khảm, đôi phụ tất giai bất hiện.

Một là trong vườn nầy mặt đất bỗng nhiên bằng phẳng không còn hầm hố gò nổng.

Giảng: Một là trong vườn nầy, mặt đất hốt nhiên bằng phẳng, hầm hố lồi lõm đều không còn nữa.

 

Nhị giả, Kim cương vi địa, chúng bảo trang nghiêm, vô hữu ngõa lịch, kinh cức, chu ngột.

Hai là kim-cang làm đất, các báu trang-nghiêm, không có ngói sạn gai gốc.

Giảng: Hai là đất trong vườn đều bằng kim cang, các báu trang nghiêm, không có ngói sỏi gai gốc.

 

Tam giả, bảo Ta-la thụ châu táp hàng liệt, kỳ căn thâm thực chí ư thủy tế.

Ba là cây bửu-đa-la bày hàng giáp vòng, rễ sâu đến thủy-tế.

Giảng: Ba là cây bảo đa la (cây rất cao) thẳng hàng khắp nơi, rễ cây nầy rất sâu, đến thuỷ tế.

 

Tứ giả, sanh chúng hương nha, hiện chúng hương tạng, bảo hương vi thọ, phù 踈ấm ánh, kỳ chư hương khí giai du thiên hương.

Bốn là những chồi hương mọc lên, những hương-tạng hiện ra, cây bửu-hương tàng to rậm rợp, mùi thơm đều hơn thiên-hương.

Giảng: Bốn là sinh ra rất nhiều cây hương thơm, hiện ra rất nhiều hương tạng, hương báu làm cây, tàng cây sum sê rậm rợp, toả ra các hương thơm, hơn hương thơm cõi trời.

 

Ngũ giả, chư hương khí man bảo trang nghiêm cụ, hàng liệt phân bố, xứ xứ sung mãn.

Năm là những tràng hoa đẹp, đồ bửu-trang-nghiêm thành hàng đầy khắp mọi nơi.

Giảng: Năm là tất cả tràng hoa đẹp, tất cả đồ báu trang nghiêm, thẳng hàng đầy khắp mọi nơi.

 

Lục giả, viên trung sở hữu nhất thiết chư thọ, giai tự nhiên khai ma-ni bảo hoa.

Sáu là trong vườn có bao nhiêu cây đều tự-nhiên nở hoa ma-ni-bửu.

Giảng: Sáu là hết thảy tất cả các cây trong vườn, đều tự nhiên nở hoa báu ma ni.

 

Thất giả, chư trì chiểu trung, giai tự sanh hoa, tùng địa dũng xuất, châu bố thủy thượng.

Bảy là trong các ao hồ, đều tự nhiên sinh ra hoa. Từ dưới đất vọt lên, đầy khắp mặt nước.

Giảng: Bảy là trong các ao hồ, đều tự nhiên sinh ra hoa sen báu, từ dưới đất vọt lên, đầy khắp mặt nước.

 

Bát giả, thời thử lâm trung, Ta Bà thế giới dục sắc sở trụ Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn na La, Ma hầu la già, nhất thiết chư Vương, mạc Bất-lai tập, hợp chưởng nhi trụ.

Tám là cõi sắc cõi dục của Ta-Bà Thế-Giới, tất cả hàng Thiên, Long, Bát-bộ, các Quốc-Vương đều hội đến vườn Lâm-Tỳ-Ni nầy đứng chắp tay.

Giảng: Tám là lúc bấy giờ trong vườn nầy ở thế giới Ta Bà, cõi dục giới, chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, tất cả các vua, đều vân tập đến trong vườn nầy, đứng chắp tay.

 

Cửu giả, thử thế giới trung sở hữu Thiên nữ, nãi chí Ma hầu la già nữ giai sanh hoan hỉ, các các phủng trì chư cúng dường cụ, hướng tất lạc xoa thọ tiền, cung kính nhi lập.

Chín là trong thế-giới nầy có bao nhiêu Thiên-Nữ, nhẫn đến Ma-Hầu-La-Già-Nữ đều rất hoan-hỉ tay cầm những đồ cúng dường cung kính đứng hướng về phía cây Vô-Ưu.

Giảng: Chín là trong thế giới Ta Bà nầy, hết thảy các Thiên nữ, cho đến Ma Hầu La Già nữ, đều sinh tâm hoan hỉ. Ai nấy đều cầm các đồ trang nghiêm cúng dường Phật, cung kính đứng hướng về phía cây Vô Ưu.

 

Thập giả, thập phương nhất thiết chư Phật tề trung, giai phóng quang minh, danh: Bồ Tát thọ sanh tự tại đăng, phổ chiếu thử lâm; nhất nhất quang trung, tất hiện chư Phật thọ sanh, đản sanh sở hữu thần biến, cập nhất thiết Bồ Tát thọ sanh công đức, hựu xuất chư Phật chủng chủng ngôn âm.

Mười là chư Phật mười phương, nơi rốn đều phóng quang-minh tên là Bồ-Tát thọ sanh tự-tại-đăng chiếu sáng khắp khu vườn nầy.  Trong mỗi quang-minh đều hiện chư Phật thọ-sanh, đản-sanh, thần-biến, và công đức thọ-sanh của tất cả Bồ-Tát.  Lại phát ra những ngôn âm của chư Phật.

Giảng: Mười là nơi rốn của tất cả chư Phật mười phương, đều phóng quang minh, tên là Bồ Tát thọ sinh tự tại đăng, quang minh đó chiếu khắp khu vườn Lâm Tỳ Ni nầy. Trong mỗi quang minh đó, đều hiện ra hết thảy thần biến của chư Phật thọ sanh và đản sanh, cùng với công đức của tất cả Bồ Tát thọ sanh. Lại vang ra đủ thứ lời nói của chư Phật.

 

Thị vi lâm trung thập chủng thụy tướng. Thử tướng hiện thời, chư Thiên Vương đẳng tức tri đương hữu Bồ Tát hạ sanh;

Trên đây là mười thoại-tướng trong vườn Lâm-Tỳ-Ni. Lúc mười thoại-tướng nầy hiện ra, các Thiên-Vương liền biết sẽ có Bồ-Tát Hạ sanh.

Giảng: Trên đây là mười tướng điềm lành trong vườn Lâm Tỳ Ni. Khi tướng nầy hiện thì chư Thiên Vương .v.v… liền biết sẽ có Bồ Tát hạ sanh thành Phật.

 

Ngã kiến thử thụy, hoan hỉ vô lượng.

Thấy thoại-tướng, ta hoan-hỉ vô-lượng.

Giảng: Vị Lâm Thần nói: Ta thấy điềm lành nầy rồi, rất hoan hỉ vô cùng.

 

Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân xuất Ca-tỳ la thành, nhập thử lâm thời, phục hiện thập chủng quang minh thụy tướng, lệnh chư chúng sanh đắc pháp quang minh.

Nầy Thiện-nam-tử!  Lúc Ma-Gia Phu-Nhân ra khỏi thành Ca-Tỳ-La đi vào khu vườn nầy, lại hiện mười quang-minh thoại-tướng, khiến các chúng-sanh được pháp-quang-minh.

Giảng: Thiện nam tử! Khi bà Ma Gia phu nhân ra khỏi thành Ca Tỳ La, đi vào vườn Lâm Tỳ Ni nầy, lại hiện ra mười điềm tướng quang minh, khiến cho các chúng sinh, đắc được pháp quang minh chiếu khắp.

 

Hà đẳng vi thập?

Ðây là mười thoại-tướng quang-minh:

Giảng: Những gì là mười điềm tướng quang minh?

 

Sở vị:

Nhất thiết bảo hoa tạng quang,

Bảo hương tạng quang,

Bảo liên hoa khai diễn xuất chân thật diệu âm thanh quang,

Thập phương Bồ Tát sơ phát tâm quang,

Nhất thiết Bồ Tát đắc nhập chư địa hiện thần biến quang,

Quang-minh của tất cả tạng bửu-hoa.

Quang-minh của tạng bửu-hương.

Quang-minh của bửu-liên-hoa khai diễn âm-thanh vi-diệu chân thiệt.

Quang-minh của thập phương Bồ-Tát sơ phát tâm.

Quang-minh của tất cả Bồ-Tát được nhập chư địa mà hiện thần-biến.

Giảng: Đó là:

1. Điềm tướng quang minh tất cả bảo hoa tạng.

2. Điềm tướng quang minh bảo hương tạng.

3. Điềm tướng quang minh bảo liên hoa khai diễn xuất diệu âm thanh chân thật.

4. Điềm tướng quang minh thập phương Bồ Tát ban đầu phát tâm.

5. Điềm tướng quang minh tất cả Bồ Tát được vào các địa hiện thần biến.

 

Nhất thiết Bồ Tát tu Ba-la-mật viên mãn trí quang,

Nhất thiết Bồ Tát đại nguyện trí quang,

Nhất thiết Bồ Tát giáo hóa chúng sanh phương tiện trí quang,

Nhất thiết Bồ Tát chứng ư Pháp giới chân thật trí quang,

Nhất thiết Bồ Tát đắc Phật tự tại thọ sanh xuất gia thành chánh giác quang.

Quang-minh của tất cả Bồ-Tát tu ba-la-mật viên-mãn trí.

Quang-minh đại nguyện trí của tất cả Bồ-Tát.

Quang-minh phương-tiện-trí của tất cả Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh.

Quang-minh chân-thiệt-trí của tất cả Bồ-Tát chứng pháp-giới.

Quang-minh của tất cả Bồ-Tát được Phật tự-tại thọ-sanh xuất-gia thành chánh-giác.

Giảng: 6. Điềm tướng quang minh tất cả Bồ Tát tu Ba La Mật viên mãn trí.

7. Điềm tướng quang minh tất cả Bồ Tát đại nguyện trí.

8. Điềm tướng quang minh tất cả Bồ Tát giáo hoá chúng sinh phương tiện trí.

9. Điềm tướng quang minh tất cả Bồ Tát chứng nơi pháp giới chân thật trí.

10. Điềm tướng quang minh tất cả Bồ Tát đắc được Phật tự tại thọ sinh xuất gia thành Chánh Giác.

 

Thử thập quang minh, phổ chiếu vô lượng chư chúng sanh tâm.

Mười quang-minh nầy chiếu khắp tâm của vô-lượng chúng-sanh.

Giảng: Mười quang minh nầy, chiếu khắp tâm vô lượng các chúng sinh, đắc được đại lợi ích.

Có người hỏi: Thế nào là ngũ nhãn?

Hoà thượng đáp: Ngũ nhãn tức là: Phật nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, nhục nhãn, thiên nhãn. Có bài kệ rằng:
“Thiên nhãn thông phi ngại
Nhục nhãn ngại phi thông
Pháp nhãn duy quán tục
Huệ nhãn liễu chân không
Phật nhãn như thiên nhựt
Chiếu dị thể hoàn đồng
Viên minh pháp giới nội
Vô xứ bất hàm dung”.
Giải thích sơ lược bài kệ nầy như sau:

“Thiên nhãn thông phi ngại”: Nếu người nào đắc được thiên nhãn thông, thì thấy được tất cả mọi vật không có sự chướng ngại. Dưới có thể nhìn thấy được vô gián địa ngục, chúng sinh đang ở trong đó thọ khổ không gián đoạn; trên có thể nhìn thấy chư Thiên ở cõi trời Tam Thập Tam, đang ở đó, ngồi, hoặc đi, hoặc nói, hoặc cười, hoặc tu thiền định, hoặc đang nhìn biểu diễn, thấy rất rõ ràng, giống như xem truyền hình vậy, màng nầy qua rồi, màng khác lại hiện ra. Cảnh giới xa ngoài ngàn vạn dặm, giống như xuất hiện ở trước mắt. Người đắc được thiên nhãn thông, chẳng những thấy được cảnh giới trên trời, mà trong hư không có những tình hình gì, đều nhìn thấy được rất rõ ràng, cho nên nói thiên nhãn thông phi ngại.

“Nhục nhãn ngại phi thông”: Nhục nhãn không nhìn thấy được vật bị chướng ngại, tức là nhìn thấy vật có hình, có tướng. Nhưng hai con mắt thịt nầy (chẳng phải cặp mặt thịt của chúng ta, mà con mắt khác), chuyên môn nhìn vật có hình chất, có chướng ngại. Người cũng nhìn thấy, quỷ cũng nhìn thấy, thần cũng nhìn thấy, Phật cũng nhìn thấy, cho nên nói nhục nhãn ngại phi thông.

“Pháp nhãn duy quán tục”: Người có pháp nhãn thông, lúc tụng kinh không cần quyển kinh, họ niệm vô tự chân kinh. Tận hư không khắp pháp giới, ở đâu cũng có tam tạng mười hai bộ. Dù ở trong một hạt bụi, cũng có tam tạng mười hai bộ. Chúng ta chỉ biết niệm kinh trên giấy có chữ, mà chẳng biết trong hư không có pháp tạng chân chánh. Tại sao? Vì chưa khai mở pháp nhãn. Pháp nhãn là quán tục đế. Hay quán mười phương chư Phật đang ở đó thuyết pháp, vẫn chưa ngừng. Do đó: “Pháp hội Linh Sơn, vẫn còn chưa tan”. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn đang ở tại Linh Sơn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho đến hiện tại, vẫn còn chưa tan.

“Huệ nhãn liễu chân không”: Người đắc được trí huệ nhãn, thấu rõ được đạo lý thật tướng chân không. Do đó: “Thấu triệt nguồi gốc của pháp”, không có nơi nào mà chẳng thấu rõ. Tam tạng mười hai bộ kinh, thấu hiểu thông đạt hết. Tóm lại, chẳng gì mà không biết, chẳng gì mà không hiểu. Trong chân không có gì, họ có thể nhìn một cái thì biết rõ, lại có thể thấy được mọi sự vật vị lai.

“Phật nhãn như thiên nhựt”: Phật nhãn sáng giống như ngàn mặt trời, chiếu sáng khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Thậm chí cõi Phật nhiều như số hạt bụi, đều biết, đều thấy hết. Sở chiếu vạn sự vạn vật, tuy khác nhau, nhưng bản thể là một. Phật nhãn quán thấy hết tất cả, bất cứ là chân đế và tục đế, có hình và vô hình. Tận hư không khắp pháp giới, không có gì mà không bao dung, nhìn thấy rất rõ ràng.

Ngũ nhãn phân làm ngũ nhãn của Phật, ngũ nhãn của Bồ Tát, ngũ nhãn của A La Hán, ngũ nhãn của phàp phu, ngũ nhãn của đồng chân. Ngũ nhãn của phàm phu là ngũ nhãn báo đắc thông. Người nầy kiếp trước tu pháp môn đại bi 42 thủ nhãn, do gieo trồng nhân nầy, nên đời nầy tuy chưa chứng quả, nhưng ở địa vị phàm phu, được báo đắc thông. Ngũ nhãn của đồng chân, tức là từ lúc còn đồng nam, đồng nữ, bắt đầu tu đạo, một lòng một dạ tu hành, chẳng có dục niệm, chẳng có vọng tưởng. Do sự tu đạo, đến lúc chín mùi, thì sẽ đắc được ngũ nhãn thanh tịnh. Đồng chân tu đạo, dễ khai mở ngũ nhãn nhất. Người khai mở ngũ nhãn, thấy cảnh giới hoàn toàn khác nhau. Có người nhìn thấy cảnh giới rất thanh tịnh, có đại trí huệ, mà minh bạch tất cả cảnh giới. Do đó có câu:
“Thấy việc tỉnh việc vượt thế gian”.
Có người thấy cảnh giới không minh bạch lắm, còn phải nghiên cứu suy gẫm rồi, mới minh bạch được. Cho nên nói ngũ nhãn cũng không giống nhau.

Có người nói: “Tôi không tin có ngũ nhãn”! Vì bạn không tin, cho nên bạn mới không có! Nếu bạn tin, nỗ lực tu hành, từng chút, từng chút thì sẽ có. Đây là bạn không nhận thức được thứ trí huệ đối với Thánh giáo, do đó có câu: “Thiểu kiến đa quái”, nghĩa là ít thấy nhiều việc lạ, mình chẳng có cảnh giới nầy, cũng không tin người khác có cảnh giới nầy. Bất quá, người có ngũ nhãn, có xử dụng, không xử dụng. Người xử dụng, thì hay thu, hay phóng, nhậm vận tự tại. Người không xử dụng, thì thấy cảnh giới gì, cũng chẳng biết là gì? Điểm nầy, chẳng phải là việc dễ dàng.

Các vị chú ý! Khi nghe đến cảnh giới khi khai mở ngũ nhãn, thật là diệu không thể tả, bèn sinh khởi tâm tham, tôi muốn khai mở ngũ nhãn! Tôi muốn khai mở ngũ nhãn! Thì khai mở ngũ nhãn, vậy bạn có ăn cơm không? Có mặc y phục không? Vẫn phải ăn cơm, vẫn phải mặc y phục, cả hai đâu khác gì. Do bạn tham mà khai mở ngũ nhãn, thì chẳng lợi ích bao nhiêu. Người tu hành không còn tâm tham, tu hành thì tu hành, không có xí đồ gì khác. Đến thời, thì tự nhiên sẽ thành tựu. Nếu có tư tưởng, tôi mau khai mở ngũ nhãn, tôi mau chứng quả, thì dù khai ngộ, dù chứng quả, như vậy có ích gì! Tu hành so với chuyện ăn cơm, chẳng màng như thế nào, tôi vẫn thường tu hành, thường ăn cơm. Bụng no thì ngừng, không có nhiều tâm tham. Tham mà không biết chán, ngược lại sẽ có hại. Tu hành chỉ cần tinh tấn tiến về trước, đừng lùi về sau. Chẳng màng khai ngộ, hay không khai ngộ, vẫn phải dứt tuyệt vọng tưởng, đừng để nhiễu loạn định lực. Nếu trong đầu vẫn còn vọng tưởng chữ khai ngộ, thì đáng lý khai ngộ, cũng bị chướng ngại, vì có niệm thứ hai ngăn lại. Nếu hay hành sở vô sự, niệm thứ hai tự nhiên sẽ tiêu mất, thì đó mới thật là khai ngộ.

 

Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân ư tất lạc xoa thụ hạ tọa thời, phục hiện Bồ Tát tướng dục đản sanh thập chủng thần biến.

Nầy Thiện-nam-tử!  Lúc Ma-Gia Phu-Nhân ngồi dưới cây Vô-Ưu lại hiện mười thứ thần-biến của Bồ-Tát sắp đản-sanh

Giảng: Thiện nam tử! Khi bà Ma Gia phu nhân ngồi dưới cây Vô ưu, lại hiện ra mười thứ cảnh giới thần thông biến hoá lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

Hà đẳng vi thập?

1.  Thiện nam tử! Bồ Tát tướng dục đản sanh chi thời, dục giới chư Thiên Thiên Tử, Thiên nữ, cập dĩ sắc giới nhất thiết chư Thiên, chư long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già tinh kỳ quyến thuộc, vi cúng dường cố, tất giai vân tập.

Những gì là mười thứ thần biến? Thiện nam tử! Lúc Bồ-Tát sắp đản sanh, chư Thiên cõi Sắc, và cõi dục chư Thiên-Tử, Thiên-nữ, chư Long, Dạ-Xoa Càn-Thát-Bà, A-Tu-La, Ca-Lâu-la, Khẩn-Na-La, Ma-Hầu-La-Già, cùng quyến-thuộc vì để cúng-dường nên đều vân tập.

Giảng: Những gì là mười thứ thần biến? Ở dưới đây sẽ nói rõ. Thiện nam tử! Khi Bồ Tát (Phật Thích Ca Mâu Ni) sắp đản sanh, thì chư Thiên cõi dục giới, Thiên tử, Thiên nữ, cùng với tất cả chư Thiên cõi sắc giới, chư Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, với quyến thuộc của họ, vì cúng dường đức Phật, nên đều vân tập đến trong vườn Lâm Tỳ Ni.

 

Ma Da Phu nhân uy đức thù thắng, thân chư mao khổng hàm phóng quang minh, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới vô sở chướng ngại, nhất thiết quang minh tất giai bất hiện, trừ diệt nhất thiết chúng sanh phiền não cập ác đạo khổ.

Ma-Gia Phu-Nhơn oai-đức thù-thắng, các lỗ lông nơi thân đều phóng quang-minh chiếu khắp Ðại-Thiên thế-giới không chướng-ngại, chói lấn tất cả quang-minh khác, diệt trừ tất cả phiền-não và khổ ác-đạo.

Giảng: Lúc đó, bà Ma Gia phu nhân oai đức đặc biệt thù thắng, tất cả các lỗ chân lông trên thân, đều phóng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, không có sự chướng ngại. Tất cả quang minh khác đều bị che khuất, không thể hiển hiện, quang minh đó trừ diệt được phiền não và thống khổ đường ác của tất cả chúng sinh.

 

Thị vi Bồ Tát tướng dục đản sanh đệ nhất thần biến.

Ðây là thần-biến thứ nhứt của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh.

Giảng: Đây là thần biến thứ nhất lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

2. Hựu, Thiện nam tử! đương nhĩ chi thời, Ma Da Phu nhân phước trung tất hiện tam thiên thế giới nhất thiết hình tượng, kỳ bách ức Diêm-phù-đề nội, các hữu đô ấp, các hữu viên lâm, danh hiệu bất đồng, giai hữu Ma Da Phu nhân ư trung chỉ trụ, Thiên Chúng vi nhiễu, tất vi hiển hiện Bồ Tát tướng sanh bất khả tư nghị thần biến chi tướng. Thị vi Bồ Tát tướng dục đản sanh đệ nhị thần biến.

Lúc ấy, trong bụng của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện tất cả hình tượng của Ðại-Thiên Thế-giới, trong trăm ức Diêm-Phù-Ðề những đô ấp, vườn rừng, danh hiệu riêng khác đều có Ma-Gia Phu-Nhơn ở và Thiên-Chúng vây quanh, đều hiển hiện tướng thần-biến bất-tư-nghì của Bồ-Tát sắp đản-sanh. Ðây là tướng thứ hai.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Lúc đó, trong bụng bà Ma Gia phu nhân, đều hiện ra tất cả hình ảnh ba ngàn đại thiên thế giới. Trong trăm ức Diêm Phù Đề, đều có thành ấp, vườn rừng, danh hiệu khác nhau, đều có Ma Gia phu nhân ở trong đó. Có rất nhiều chư Thiên chúng vây quanh, đều hiển hiện tướng thần biến không thể nghĩ bàn Bồ Tát sắp sanh. Đây là thần biến thứ hai lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

3. Hựu, Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân nhất thiết mao khổng, giai hiện Như Lai vãng tích tu hành Bồ Tát đạo thời, cung kính cúng dường nhất thiết chư Phật, cập văn chư Phật thuyết Pháp âm thanh. Thí như minh kính cập dĩ thủy trung, năng hiện hư không nhật nguyệt, tinh tú, vân lôi đẳng tượng; Ma Da Phu nhân thân chư mao khổng diệc phục như thị, năng hiện Như Lai vãng tích nhân duyên. Thị vi Bồ Tát tướng dục đản sanh đệ tam thần biến.

Tất cả lổ lông nơi thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện cảnh tượng thuở xưa lúc Bồ-Tát tu hành công hạnh cúng-dường cung-kính chư Phật và nghe tiếng nói pháp của chư Phật như ảnh tượng hiện rõ trong gương sáng. Ðây là thần biến thứ ba của Bồ-Tát lúc sắp đản sanh.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Tất cả lỗ chân lông trên thân của Ma Gia phu nhân, đều hiện ra thuở xưa lúc Phật tu hành Bồ Tát đạo, cung kính cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời, và nghe âm thanh của tất cả chư Phật thuyết pháp. Ví như tấm gương sáng, và nước trong, có thể hiện ra các hình bóng mặt trời, mặt trăng, sao, mây, sấm sét, trong hư không. Các lỗ chân lông trên thân của bà Ma Gia phu nhân, cũng lại như thế, có thể hiện ra nhân duyên thuở xưa của Phật. Đó là thần biến thứ ba lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

4. Hựu, Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân thân chư mao khổng, nhất nhất giai hiện Như Lai vãng tu Bồ Tát hạnh thời, sở trụ thế giới, thành ấp tụ lạc, sơn lâm hà hải, chúng sanh kiếp số, trị Phật xuất thế, nhập tịnh quốc độ, tùy sở thọ sanh, thọ mạng trường đoản, y thiện tri thức tu hành thiện Pháp, ư nhất thiết sát tại tại sanh xứ, Ma Da Phu nhân thường vi kỳ mẫu; như thị nhất thiết, ư mao khổng trung mị bất giai hiện. Thị vi Bồ Tát tướng dục đản sanh đệ tứ thần biến.

Lại trong mỗi lỗ lông nơi thân của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện thuở xưa lúc Bồ-Tát tu bồ-tát-hạnh, ở thế-giới,  thành ấp, tụ lạc, núi rừng, sông biển, chúng-sanh, kiếp số, gặp Phật xuất thế, nhập tịnh quốc-độ, y-chỉ thiện-tri-thức, tu hành pháp lành, thọ mạng dài vắn, Ma-Gia Phu-Nhơn thường là sanh-mẫu của Bồ-Tát.  Ðây là thần biến thứ tư của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Các lỗ chân lông trên thân của bà Ma Gia phu nhân, trong mỗi lỗ chân lông đều hiện ra thuở xưa lúc Phật tu Bồ Tát hạnh, ở thế giới, thành ấp, xóm làng, núi rừng, sông biển, chúng sinh kiếp số, gặp Phật ra đời, vào cõi nước thanh tịnh. Tuỳ chỗ thọ sanh, thọ mạng dài ngắn, nương thiện tri thức, tu hành tất cả pháp lành. Trong tất cả cõi, tại nơi sinh ra, bà Ma Gia phu nhân thường làm mẹ của Bồ Tát. Tất cả cảnh giới như vậy, thảy đều hiện ra, ở trong mỗi lỗ chân lông. Đó là thần biến thứ tư lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

5. Hựu, Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân nhất nhất mao khổng, hiển hiện Như Lai vãng tích tu hành Bồ Tát hạnh thời, tùy sở sanh xứ, sắc tướng hình mạo, y phục ẩm thực, khổ lạc đẳng sự, nhất nhất phổ hiện, phân minh biện liễu. Thị vi Bồ Tát tướng dục đản sanh đệ ngũ thần biến.

Lại trong mỗi lỗ lông của Ma-Gia Phu-Nhơn hiển hiện thuở xưa lúc Bồ-Tát tu bồ-tát-hạnh, tùy sanh tại xứ nào, hình mạo sắc tướng, y phục ăn uống, những sự khổ vui đều hiện rõ ràng.  Ðây là thần biến thứ năm của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Ở trong mỗi lỗ chân lông trên thân của bà Ma Gia phu nhân, đều hiển hiện ra thuở xưa lúc Phật tu hành Bồ Tát hạnh, tuỳ chỗ sinh ra, sắc tướng thân hình của Ngài, y phục ăn uống, khổ vui các việc, thảy đều khắp hiện, phân minh rõ ràng. Đó là thần biến thứ năm lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

6. Hựu, Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân thân chư mao khổng, nhất nhất giai hiện Thế Tôn vãng tích tu thí hạnh thời, xả sở nan xả đầu mục nhĩ tỳ, thần thiệt nha xỉ, thân thể thủ túc, huyết nhục cân cốt, nam nữ thê thiếp, thành ấp cung điện, y phục anh lạc, kim ngân bảo hóa. Như thị nhất thiết nội ngoại chư vật, diệc kiến thọ giả hình mạo, âm thanh cập kỳ xứ sở. Thị vi Bồ Tát tướng dục đản sanh đệ lục thần biến.

Lại trong mỗI lỗ lông của Ma-Gia Phu-Nhơn đều hiện thuở xưa lúc Bồ-Tát tu hạnh bố-thí, xả thí cả những vật khó xả như đầu, mắt, tai, mũi, môi, lưỡi, răng, tay, chân, máu, thịt, gân, xương, vợ, con, thành ấp, cung điện, y-phục, anh-lạc, vàng bạc, châu báu. Cũng thấy hình mạo của những người thọ thí và chỗ nơi của họ.  Ðây là thần-biến thứ saú của Bồ-Tát lúc sắp đản-sanh.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Trong mỗi lỗ chân lông trên thân của bà Ma Gia phu nhân, đều hiện ra thuở xưa lúc Phật tu hạnh bố thí, xả được việc khó xả nội tài và ngoại tài. Nội tài là đầu mắt tai mũi, môi lưỡi răng, thân thể tay chân, máu thịt gân cốt. Ngoại tài là nam nữ thê thiếp, thành ấp cung điện, y phục chuỗi ngọc, vàng bạc bảo bối, tất cả các vật trong ngoài như vậy, thảy đều bố thí cho người cần, chẳng có gì mà xả bỏ chẳng được. Tâm không tham sẻn, cũng không có xí đồ, đó mới là tinh thần của Bồ Tát xả mình vì người. Cũng thấy người thọ nhận, thân hình, âm thanh, và xứ sở của họ. Đó là thần biến thứ sáu lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

7. Hựu, Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân nhập thử viên thời, kỳ lâm phổ hiện quá khứ sở hữu nhất thiết chư Phật nhập mẫu thai thời quốc độ, viên lâm, y phục, hoa man, đồ hương, mạt hương, phiên tăng, tràng cái nhất thiết chúng bảo trang nghiêm chi sự, kĩ nhạc ca vịnh thượng diệu âm thanh, lệnh chư chúng sanh phổ đắc kiến văn. Thị vi Bồ Tát tướng đản sanh thời đệ thất thần biến.

Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn đi vào khu vườn nầy, thời khu vườn nầy hiện khắp tất cả chư Phật quá khứ lúc nhập mẫu-thai, cõi nước nơi chỗ, y phục, tràng hoa, hương thoa, hương bột, phan cái, đồ trang-nghiêm, kỹ nhạc ca ngâm âm thanh thượng diệu, làm cho chúng-sanh đều được nghe thấy.  Ðây là thần biến thứ bảy của Bồ-Tát sắp đản-sanh.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Khi bà Ma Gia phu nhân đi vào vườn Lâm Tỳ Ni, thì vườn đó khắp hiện ra cảnh giới hết thảy tất cả chư Phật lúc nhập thai mẹ, đất nước, vườn rừng, y phục, tràng hoa, hương thoa, hương bột, phan lụa, tràng lọng, việc tất cả báu trang nghiêm, âm nhạc ca ngâm, âm thanh thượng diệu, khiến cho tất cả chúng sinh, khắp được thấy nghe. Đó là thần biến thứ bảy lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

8. Hựu, Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân nhập thử viên thời, tùng kỳ thân xuất Bồ Tát sở trụ ma-ni bảo vương cung điện, lâu các, siêu quá nhất thiết Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già cập chư nhân Vương chi sở trụ giả, bảo võng phước thượng, diệu hương phổ huân, chúng bảo trang nghiêm, nội ngoại thanh tịnh, các các sái biệt, bất tướng tạp loạn, châu táp biến mãn Lâm-tỳ ni viên. Thị vi Bồ Tát tướng đản sanh thời đệ bát thần biến.

Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn vào vườn nầy, từ nơi thân của Phu-Nhơn xuất hiện cung điện lâu các Ma-Ni-Vương hơn hẳn tất cả cung điện của Thiên, Long, Bát-Bộ và cung-điện của Nhơn-Vương.  Cung-điện Ma-Ni-Vương nầy có lưới báu giăng phía trên, hương thơm ngào ngạt, các báu trang-nghiêm, trong ngoài nghiêm-tịnh, chẳng tạp loạn, bao khắp cả vườn Lâm-Tỳ-Ni, Ðây là thần biến thứ tám của Bồ-Tát sắp đản-sanh.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Khi bà Ma Gia phu nhân đi vào vườn Lâm Tỳ Ni, thì từ trong thân hiện ra Bồ Tát trụ ở cung điện lầu các Ma ni bảo vương, hơn hẳn cung điện của tất cả cõi trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già và chỗ ở của vua. Có lưới báu che phía trên, hương thơm toả khắp. Lại có tất cả các báu trang nghiêm, trong ngoài đều thanh tịnh, đều khác biệt, không tạp loạn nhau, đầy khắp chung quanh vườn Lâm Tỳ Ni. Đó là thần biến thứ tám lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

9. Hựu, Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân nhập thử viên thời, tùng kỳ thân xuất thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số Bồ Tát, kỳ chư Bồ-tát thân hình dung mạo, tướng hảo quang minh, tiến chỉ uy nghi, thần thông quyến thuộc, giai dữ Tỳ Lô Giá Na Bồ Tát đẳng vô hữu dị, tất cộng đồng thời tán thán Như Lai. Thị vi Bồ Tát tướng đản sanh thời đệ cửu thần biến.

Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn vào vườn nầy, từ nơi thân của Phu-Nhơn xuất hiện mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát. Những Bồ-Tát nầy, thân hình dung mạo, tướng hảo quang-minh, oai-nghi đi đứng, thần-thông, quyến thuộc đều đồng như Tỳ-Lô-Giá-Na Bồ-Tát, tất cả đồng thời tán thán Như-Lai.  Ðây là thần-biến thứ chín của Bồ-Tát sắp đản-sanh.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Khi bà Ma Gia phu nhân đi vào vườn Lâm Tỳ Ni, thì từ trong thân hiện ra các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật. Các Bồ Tát đó, thân hình, dung mạo, tướng tốt, quang minh, oai nghi, đi đứng, thần thông, quyến thuộc, đều đồng với Bồ Tát Tỳ Lô Giá Na không khác, đều đồng thời cùng nhau khen ngợi Như Lai. Đó là thần biến thứ chín lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

10. Hựu, Thiện nam tử! Ma Da Phu nhân tướng dục đản sanh Bồ Tát chi thời, hốt ư kỳ tiền, tùng Kim cương tế xuất đại liên hoa, danh vi: nhất thiết bảo trang nghiêm tạng. Kim cương vi hành, chúng bảo vi tu, như ý bảo vương dĩ vi kỳ đài, hữu thập Phật sát vi trần số diệp, nhất thiết giai dĩ ma-ni sở thành bảo võng, bảo cái dĩ phước kỳ thượng.

Lúc Ma-Gia Phu-Nhơn sắp đản-sanh Bồ-Tát, ở trước mặt Phu-Nhơn bỗng từ kim-cang-tế mọc lên hoa sen lớn tên là Nhất-Thiết-Bửu-Trang-Nghiêm-Tạng, kim-cang làm cọng, các báu làm tua, như-ý châu-vương làm đài, có phật-sát vi-trần-số cánh, tất cả đều bằng châu ma-ni. Lưới báu, lọng báu che phía trên.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Khi bà Ma Gia phu nhân sắp đản sanh Bồ Tát (Phật Thích Ca Mâu Ni), thì hốt nhiên ở trước mặt bà Ma Gia phu nhân, từ bờ mé kim cang, mọc lên hoa sen lớn, tên là Nhất Thiết Bảo Trang Nghiêm Tạng, kim cang làm cọng, các báu làm tua, như ý bảo vương làm đài, cánh hoa sen nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, tất cả đều làm bằng ma ni. Lại có lưới báu, lọng báu che phía trên.

 

Nhất thiết Thiên Vương sở cọng chấp trì; nhất thiết long Vương hàng chú hương vũ; nhất thiết dạ xoa Vương cung kính vi nhiễu, tán chư thiên hoa; nhất thiết càn thát bà vương xuất vi diệu âm, Ca tán Bồ Tát vãng tích cúng dường chư Phật công đức; nhất thiết A-tu-la Vương xả kiêu mạn tâm, khể thủ kính lễ; nhất thiết Ca Lâu La Vương thùy bảo tăng phiên, biến mãn hư không; nhất thiết khẩn-na-la Vương hoan hỉ chiêm ngưỡng, ca vịnh tán thán Bồ Tát công đức; nhất thiết Ma hầu la già Vương giai sanh hoan hỉ, ca vịnh tán thán, phổ vũ nhất thiết bảo trang nghiêm vân. Thị vi Bồ Tát tướng đản sanh thời đệ thập thần biến.

Tất cả Thiên-Vương cầm giữ.  Tất cả Long-Vương mưa hương-vũ.  Tất cả Dạ-Xoa-Vương cung kính rải thiên hoa.  Tất cả Càn-Thát-Bà-Vương dùng âm thanh vi-diệu ca ngợi công-đức của Bồ-Tát thuở xưa cúng-dường chư Phật. Tất cả A-Tu-La Vương bỏ tâm kiêu mạn mà cúi đầu kính lễ.  Tất cả Ca-Lâu-La Vương thòng phan báu khắp hư-không.  Tất cả Khẩn-Na-La-Vương hoan-hỉ chiêm-ngưỡng ca ngâm khen ngợi công-đức của Bồ-Tát. Tất cả Ma-Hầu-La-Già Vương đều hoan-hỉ tán thán mưa tất cả mây bửu trang-nghiêm. Ðây là thần biến thứ mười của Bồ-Tát sắp đản-sanh.

Giảng: Tất cả Thiên Vương cầm giữ. Tất cả Long Vương mưa xuống nước thơm. Tất cả Dạ Xoa Vương cung kính vây quanh, rải các hoa trời. Tất cả Càn Thát Bà Vương vang ra diệu âm, ca khen ngợi công đức Bồ Tát thuở xưa cúng dường chư Phật. Tất cả A Tu La Vương bỏ tâm kiêu mạn, cúi đầu kính lễ. Tất cả Ca Lâu La Vương thòng rũ phan lụa báu, đầy khắp hư không. Tất cả Khẩn Na La Vương hoan hỉ chiêm ngưỡng, ca ngâm khen ngợi công đức Bồ Tát. Tất cả Ma Hầu La Già Vương đều sinh hoan hỉ, ca ngâm khen ngợi, khắp mưa xuống tất cả mây báu trang nghiêm. Đó là thần biến thứ mười lúc Bồ Tát sắp đản sanh.

 

Thiện nam tử! Lâm-tỳ ni viên thị hiện như thị thập chủng tướng dĩ, nhiên hậu Bồ Tát kỳ thân đản sanh. Như hư không trung hiện tịnh nhật luân, như cao sơn đảnh xuất ư khánh vân, như mật vân trung nhi diệu điện quang, như dạ ám trung nhi nhiên Đại cự;

Nầy Thiện-nam-tử!  Vườn Lam-Tỳ-Ni thị hiện mười thần-biến như vậy rồi, sau đó Bồ-Tát đản-sanh, như mặt nhựt hiện ra nơi hư-không. Như mây lành hiện ở đảnh núi cao. Như làn chớp sáng giữa cụm mây dầy. Như ngọn đuốc sáng lớn giữa đêm tối.

Giảng: Thiện nam tử! Khi vườn Lâm Tỳ Ni thị hiện mười thứ tướng như vậy rồi, sau đó Bồ Tát đản sanh. Giống như vầng mặt trời ở trong hư không, như mây lành hiện ra trên đỉnh núi cao, như ánh chớp trong đám mây dày, như ngọn đuốc sáng trong đêm tối. Lúc bấy giờ, Bồ Tát từ hông phải mẹ sanh ra đời, thân tướng quang minh, cũng lại như thế, quang minh giống như ở trước đã nói.

 

Nhĩ thời, Bồ Tát tùng mẫu hiếp sanh, thân tướng quang minh diệc phục như thị. Thiện nam tử! Bồ Tát Nhĩ thời, tuy hiện sơ sanh, tất dĩ liễu đạt nhất thiết chư pháp, như mộng như huyễn, như ảnh như tượng, vô lai vô khứ, bất sanh bất diệt.

Bấy giờ Bồ-Tát từ hông bên hữu của Phu-Nhơn mà đản-sanh, thân tướng quang-minh đủ các tướng hảo. Nầy Thiện-nam-tử!  Lúc đó dầu hiện sơ sinh, nhưng Bồ-Tát đã tỏ thấu tất cả pháp như mộng, như huyễn, như ảnh, như tượng, không đến không đi, chẳng sanh chẳng diệt.

Giảng: Thiện nam tử! Lúc đó tuy Bồ Tát hiện sơ sinh, nhưng đều đã thấu rõ thông đạt nghĩa lý thật tướng của tất cả các pháp, như huyễn, như mộng, như hình, như bóng, đều là hư vọng chẳng thật. Cũng không đến, cũng không đi, cũng không sinh, cũng không diệt. Nếu chúng ta minh bạch cảnh giới nầy, thì tất cả đều không chấp trước, nghĩ tưởng thông suốt, buông bỏ tất cả, liền được giải thoát.

 

Thiện nam tử! đương ngã kiến Phật ư thử tứ thiên hạ Diêm-phù-đề nội Lâm-tỳ ni viên thị hiện sơ sanh chủng chủng thần biến thời, diệc kiến Như Lai ư tam thiên đại thiên thế giới bách ức tứ thiên hạ Diêm-phù-đề nội Lâm-tỳ ni viên trung thị hiện sơ sanh chủng chủng thần biến; diệc kiến tam thiên đại thiên thế giới nhất nhất trần trung vô lượng Phật sát, diệc kiến bách Phật thế giới, thiên Phật thế giới nãi chí thập phương nhất thiết thế giới nhất nhất trần trung vô lượng Phật sát, như thị nhất thiết chư Phật sát trung, giai hữu Như Lai thị hiện thọ sanh chủng chủng thần biến. Như thị niệm niệm, thường Vô gián đoạn.

Thiện nam tử! Khi ta thấy Phật, nơi vườn Lâm Tỳ Ni ở trong bốn thiên hạ cõi Diêm Phù Đề, thị hiện sơ sinh đủ thứ thần biến, thì ta cũng thấy Như Lai ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, trăm ức bốn thiên hạ, trong cõi Diêm Phù Đề ở trong vườn Lâm Tỳ Ni, cũng thị hiện sơ sinh đủ thứ thần biến. Ta cũng thấy trong mỗi hạt bụi trong ba ngàn đại thiên thế giới, vô lượng cõi Phật. Ta cũng thấy trong mỗi hạt bụi, trăm Phật thế giới, ngàn Phật thế giới, cho đến mười phương tất cả thế giới, vô lượng cõi Phật. Trong tất cả cõi Phật như vậy, đều có Như Lai thị hiện thọ sinh đủ thứ thần biến, niệm niệm như vậy không có gián đoạn.

Giảng: Thiện nam tử! Khi ta thấy Phật, nơi vườn Lâm Tỳ Ni ở trong bốn thiên hạ cõi Diêm Phù Đề, thị hiện sơ sinh đủ thứ thần biến, thì đồng thời ta cũng thấy Phật ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, trăm ức bốn thiên hạ, trong cõi Diêm Phù Đề ở trong vườn Lâm Tỳ Ni, cũng thị hiện sơ sinh đủ thứ thần biến. Đồng thời ta cũng thấy trong mỗi hạt bụi trong ba ngàn đại thiên thế giới, vô lượng cõi Phật. Đồng thời ta cũng thấy trong mỗi hạt bụi, trăm Phật thế giới, ngàn Phật thế giới, cho đến mười phương tất cả thế giới, vô lượng cõi Phật. Trong tất cả cõi Phật như vậy, đều có Phật thị hiện thọ sinh đủ thứ thần biến, niệm niệm như vậy không có khi nào gián đoạn, thường có cảnh giới như vậy hiện ra.

 

Thời, Thiện tài đồng tử bạch bỉ Thần ngôn: đại thiên đắc thử giải thoát, kỳ dĩ cửu như?

Thiện-Tài thưa: Bạch đức Thánh!  Ngài được môn giải-thoát nầy được bao lâu?

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bạch vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni rằng: Đại Thiên! Ngài đắc được pháp môn giải thoát nầy đã được bao lâu? Xin Ngài từ bi nói cho con biết được chăng!

 

Đáp ngôn: Thiện nam tử! nãi vãng cổ thế, qua ức Phật sát vi trần số kiếp, phục qua thị số. Thời, hữu thế giới danh vi: phổ bảo, kiếp danh: duyệt lạc, bát thập na-do-tha Phật ư trung xuất hiện; kỳ đệ nhất Phật, danh: tự tại công đức tràng, thập hiệu cụ túc.

Lâm-Thần nói: Nầy Thiện-nam-tử!  Thuở xưa quá ức phật-sát vi-trần-số kiếp, có kiếp tên là Duyệt-Lạc, thế-giới tên là Phổ-Bửu. Có tám mươi na-do-tha Phật xuất hiện trong đó. Tối-sơ Phật hiệu là Tự-Tại-Công-Ðức-Tràng.

Giảng: Vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni đáp rằng: Thiện nam tử! Vào đời xa xưa, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi ức cõi Phật, lại qua khỏi số kiếp đó (gấp đôi). Lúc bấy giờ có thế giới, tên là Phổ Bảo. Trong thế giới đó, có kiếp tên là Duyệt Lạc. Trong kiếp đó, có tám mươi Na do tha đức Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhất, hiệu là Phật Tự Tại Công Đức Tràng, đầy đủ mười hiệu. Mười hiệu là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

 

Bỉ thế giới trung, hữu tứ thiên hạ, danh: diệu quang trang nghiêm; kỳ tứ thiên hạ Diêm-phù-đề trung, hữu nhất Vương đô, danh: Tu-Di trang nghiêm tràng; kỳ trung hữu Vương, danh: bảo diệm nhãn; kỳ Vương phu nhân, danh viết: Hỉ Quang.

Trong thế-giới Phổ-Bửu có tứ-thiên-hạ tên là Diệu-Quang-Trang-Nghiêm. Trong Diêm-Phù-Ðề có một Vương-Ðô tên là Tu-Di-Trang-Nghiêm-Tràng, Quốc-Vương tên là Bửu-Diệm-Nhãn, Phu-Nhơn tên là Hỉ-Quang.

Giảng: Trong thế giới Phổ Bảo đó, có bốn thiên hạ, tên là Diệu Quang Trang Nghiêm. Trong cõi Diêm Phù Đề bốn thiên hạ đó, có một vương đô, tên là Tu Di Trang Nghiêm Tràng, có ông vua tên là Bảo Diệm Nhãn. Phu nhân của vua đó, tên là Hỉ Quang.

 

Thiện nam tử! như thử thế giới Ma Da Phu nhân, vi Tỳ Lô Giá Na Như Lai chi mẫu; bỉ thế giới trung hỉ quang phu nhân, vi sơ Phật mẫu, diệc phục như thị.

Thiện nam tử! Như thế giới nầy, bà Ma Gia phu nhân làm mẹ của Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Phu nhân Hỉ Quang trong thế giới đó, làm mẹ của vị Phật đầu tiên, cũng lại như thế.

Giảng: Thiện nam tử! Như thế giới nầy, bà Ma Gia phu nhân làm mẹ của Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Phu nhân Hỉ Quang trong thế giới đó, làm mẹ của vị Phật đầu tiên, cũng lại như thế.

 

Thiện nam tử! kỳ hỉ quang phu nhân tướng dục đản sanh Bồ Tát chi thời, dữ nhị thập ức na-do-tha thải nữ nghệ kim hoa viên; viên trung hữu lâu, danh: diệu bảo phong; kỳ biên hữu thọ, danh: nhất thiết thí.

Lúc Phu-Nhơn sắp đản-sanh Bồ-Tát, cùng hai mươi ức na-do-tha thể-nữ đến vườn Kim-Hoa.  Trong vườn có lầu tên là Diệu-Bửu-Phong, cạnh lầu có cội cây tên là Nhất-Thiết-Thí.

Giảng: Thiện nam tử! Khi phu nhân Hỉ Quang sắp đản sinh Bồ Tát, thì cùng với hai mươi ức Na do tha thể nữ, đi đến vườn Kim Hoa. Trong vườn đó có toà lầu các, tên là Diệu Bảo Phong, bên cạnh lầu các có cây, tên là Nhất Thiết Thí.

 

Hỉ quang phu nhân phàn bỉ thọ chi nhi sanh Bồ Tát, chư Thiên Vương chúng các trì hương thủy cọng dĩ tẩy mộc.

Phu-Nhơn Hỉ-Quang vói vịn nhánh cây Nhất-Thiết-Trí mà đản-sanh Bồ-Tát. Chư Thiên-Vương đem nước thơm đến tắm gội Bồ-Tát.

Giảng: Phu nhân Hỉ Quang với cây đó, mà sinh ra Bồ Tát. Chúng chư Thiên Vương, đều dùng nước thơm, cùng nhau tắm gội cho Bồ Tát.

 

Thời, hữu nhũ mẫu danh vi: Tịnh Quang, thị lập kỳ trắc. Ký tẩy mộc dĩ, chư Thiên Vương chúng thụ dữ nhũ mẫu. Nhũ mẫu kính thọ, sanh đại hoan hỉ, tức đắc Bồ Tát phổ nhãn tam muội; đắc thử tam muội dĩ, phổ kiến thập phương vô lượng chư Phật, phục đắc Bồ Tát ư nhất thiết xứ thị hiện thọ sanh tự tại giải thoát. Như sơ thụ thai thức, tốc tật vô ngại; đắc thử giải thoát cố, kiến nhất thiết Phật thừa bản nguyện lực thọ sanh tự tại, diệc phục như thị.

Bấy giờ, có nhũ mẫu tên là Tịnh Quang đứng hầu kế bên. Chư Thiên Vương tắm gội Bồ Tát xong rồi, bồng Bồ Tát đưa cho nhũ mẫu. Nhũ mẫu ẵm bồng Bồ Tát, sinh tâm đại hoan hỉ, liền đắc được tam muội Bồ Tát phổ nhãn. Đắc được tam muội nầy rồi, thấy khắp mười phương vô lượng chư Phật. Lại đắc được giải thoát Bồ Tát ở tại tất cả mọi nơi thị hiện thọ sanh tự tại. Như thần thức lúc ban đầu thọ thai, mau chóng vô ngại. Nhờ đắc được giải thoát nầy, nên thấy được tất cả chư Phật nương nguyện lực xưa, thọ sanh tự tại, cũng lại như thế.

Giảng: Lúc đó, có bà nhũ mẫu tên là Tịnh Quang đứng hầu kế bên. Chư Thiên Vương tắm gội Bồ Tát xong rồi, bồng Bồ Tát đưa cho nhũ mẫu. Nhũ mẫu ẵm bồng Bồ Tát, sinh tâm đại hoan hỉ, liền đắc được tam muội Bồ Tát phổ nhãn. Đắc được tam muội nầy rồi, thấy khắp mười phương vô lượng chư Phật. Nhũ Mẫu đó lại đắc được giải thoát Bồ Tát ở tại tất cả mọi nơi thị hiện thọ sanh tự tại. Giống như thần thức lúc ban đầu thọ thai, mau chóng không chướng ngại. Nhờ đắc được giải thoát nầy, nên thấy được tất cả chư Phật nương nguyện lực xưa, thọ sanh nhậm vận tự tại, cũng lại như thế.

 

Thiện nam tử! ư nhữ ý vân hà? bỉ nhũ mẫu giả, khởi dị nhân hồ? Ngã thân thị dã.

Nầy Thiện-nam-tử!  Thuở đức Tự-Tại-Công-Ðức-Tràng Như-Lai, nhũ mẫu Tịnh-Quang chính là thân ta đây.

Giảng: Thiện nam tử! Ý ngươi thế nào? Nhũ mẫu đó đâu phải là người nào khác, chính là thân ta vậy.

 

Ngã tùng thị lai, niệm niệm thường kiến Tỳ Lô Giá Na Phật thị hiện Bồ Tát thọ sanh hải điều phục chúng sanh tự tại thần lực. Như kiến Tỳ Lô Giá Na Phật thừa bản nguyện lực, niệm niệm ư thử tam thiên Đại Thiên, nãi chí thập phương nhất thiết thế giới vi trần chi nội, giai hiện Bồ Tát thọ sanh thần biến; kiến nhất thiết Phật tất diệc như thị, ngã giai cung kính thừa sự cúng dường, thính sở thuyết pháp, như thuyết tu hành.

Từ đó đến nay, niệm niệm ta thường thấy đức Tỳ-Lô-Giá-Na Phật thị-hiện Bồ-Tát thọ-sanh-hải, thần-lực tự-tại điều-phục chúng-sanh. Nhẫn đến tất cả chư Phật ở trong vi-trần của tất cả thế-giới khắp mười phương thị hiện Bồ-Tát thọ sanh thần-biến, ta đều niệm niệm thấy cả, và đều cung kính phụng thờ cúng dường nghe thuyết pháp, như thuyết tu hành.

Giảng: Ta từ đó đến nay, trong niệm niệm thường thấy Phật Tỳ Lô Giá Na thị hiện biển Bồ Tát thọ sanh, dùng thần lực tự tại để điều phục tất cả chúng sinh. Giống như thấy Phật Tỳ Lô Giá Na nương nguyện lực xưa, trong niệm niệm ở trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy, cho đến trong hạt bụi mười phương tất cả thế giới, đều thị hiện thần biến Bồ Tát thọ sanh. Thấy tất cả chư Phật cũng đều là cảnh giới như vậy. Ta đều đến đạo tràng của chư Phật, gần gũi, cung kính, hầu hạ, cúng dường Phật, lắng nghe chư Phật nói diệu pháp, theo đó mà tu hành.

 

Thời, Lâm-tỳ ni lâm Thần, dục trọng tuyên thử giải thoát nghĩa, thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ Lam-Tỳ-Ni Lâm-Thần muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, thừa thần-lực của Phật quán sát mười phương mà nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni muốn tường thuật lại nghĩa lý giải thoát nầy, bèn nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, quán sát khắp hết thảy nhân duyên của chúng sinh trong mười phương tất cả thế giới mà nói kệ rằng:

 

Phật tử nhữ sở vấn,                                             Ðồng-Tử ngươi đã hỏi
Chư Phật thậm thâm cảnh;                               Cảnh thậm thâm của Phật
Nhữ kim ưng thính thọ,                                      Nay ngươi phải lắng nghe
Ngã thuyết kỳ nhân duyên.                                 Ta nói nhơn-duyên ấy.

Phật tử ! Điều ngươi hỏi cảnh giới thâm sâu của tất cả chư Phật mười phương ba đời. Nay người nên thành tâm lắng nghe lãnh thọ pháp nầy. Ta vì ngươi mà nói nhân duyên môn giải thoát thâm sâu nầy.

 

Qua ức sát trần kiếp,                                          Quá ức sát-trần kiếp
Hữu kiếp danh duyệt lạc;                                   Có kiếp tên Duyệt-Lạc
Bát thập na-do-tha,                                            Tám mươi na-do-tha
Như Lai xuất hưng thế.                                       Như-Lai xuất thế-gian.

Trong quá khứ, trải qua số kiếp nhiều hơn số hạt bụi ức kiếp, có kiếp tên là Duyệt Lạc. Trong kiếp đó có tám mươi Na do tha vị Phật xuất hiện ra đời, để giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh.

 

Tối sơ Như Lai hiệu,                                            Tối-sơ Như-Lai hiệu
Tự tại công đức tràng;                                        Tự-Tại-Công-Ðức-Tràng
Ngã tại kim hoa viên,                                           Ta ở vườn Kim-Hoa
Kiến bỉ sơ sanh nhật.                                          Thấy Bồ-Tát sơ sanh.

Vị Phật đầu tiên thị hiện ra đời, hiệu là Phật Tự Tại Công Đức Tràng. Khi ta ở tại vườn Kim Hoa, thì thấy cảnh giới vị Phật Tự Tại Công Đức Tràng sơ sinh, thật là không thể nghĩ bàn.

 

Ngã thời vi nhũ mẫu,                                           Lúc ấy ta làm nhũ-mẫu
Trí tuệ cực thông lợi;                                          Trí-huệ rất thông lẹ
Chư Thiên thụ dữ ngã,                                        Chư Thiên trao cho ta
Bồ Tát kim sắc thân.                                           Thân Bồ-Tát kim sắc.

Lúc đó ta làm nhũ mẫu, trí huệ của ta rất thông minh lanh lợi. Chư Thiên bồng Bồ Tát đưa cho ta, ta thấy sắc thân vàng Bồ Tát như vàng ròng, phóng ra quang minh, chiếu khắp đại địa.

 

Ngã thời tật phủng trì,                                        Ta liền vội ẵm bồng
Đế quán bất kiến đảnh,                                       Nhìn kỹ vô-kiến-đảnh
Thân tướng giai viên mãn,                                  Thân tướng đều viên-mãn
Nhất nhất vô biên tế.                                           Mỗi tướng vô-biên-tế.

Lúc đó ta liền vội ẵm bồng Bồ Tát, nhìn xem vô kiến đảnh. Thân tướng của Bồ Tát rất viên mãn, đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Mỗi mỗi tướng đều có tướng tốt không bờ mé.

 

Ly cấu thanh tịnh thân,                                      Thân thanh-tịnh ly-cấu
Tướng hảo dĩ trang nghiêm,                               Trang-nghiêm với tướng-hảo
Thí như diệu bảo tượng,                                     Ví như tượng diệu-bửu
Kiến dĩ tự hân khánh.                                         Thấy xong tự vui mừng

Thân thanh tịnh lìa khỏi trần cấu, tướng tốt dùng trang nghiêm thân. Ví như tượng báu đẹp, ai ai thấy rồi tự vui mừng, rất may mắn thấy được Bồ Tát.

 

Tư tánh bỉ công đức,                                           Tư-duy công-đức đó
Tật tăng chúng phước hải;                                 Mau thêm những biển phước,
Kiến thử thần thông sự,                                      Thấy sự thần-thông nầy
Phát đại Bồ-đề tâm.                                            Ta phát tâm bồ-đề.

Suy gẫm công đức của Bồ Tát, thì sẽ mau chóng tăng thêm biển phước đức. Thấy việc thần thông biến hoá của Bồ Tát đó rồi, ta bèn phát đại bồ đề tâm.

 

Chuyên cầu Phật công đức,                               Chuyên cầu phật công-đức
Tăng quảng chư đại nguyện,                              Thêm rộng những đại-nguyện,
Nghiêm tịnh nhất thiết sát,                                 Nghiêm-tịnh tất cả cõi
Diệt trừ tam ác đạo.                                            Diệt trừ ba ác-đạo.

Chuyên tâm cầu công đức của Phật, sẽ thêm rộng lớn các đại thệ nguyện. Trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật, diệt trừ ba đường ác trong luân hồi, khiến cho tất cả chúng sinh tạo mười nghiệp lành, không còn tạo mười nghiệp ác nữa, thì ba đường ác đó tự nhiên sẽ tiêu diệt.

 

Phổ ư thập phương độ,                                       Khắp ở mười phương cõi
Cúng dường vô số Phật,                                     Cúng-dường vô-số Phật,
Tu hành bổn thệ nguyện,                                    Tu hành bổn thệ nguyện
Cứu thoát chúng sanh khổ.                                Cứu thoát khổ chúng-sanh.

Khắp trong mười phương tất cả cõi nước chư Phật, cúng dường vô lượng tất cả chư Phật. Bất cứ có bao nhiêu vị Phật, thì ta đều đến cúng dường Phật, không khi nào nhàm mỏi. Đây là vì tu hành thệ nguyện xưa, cứu thoát tất cả chúng sinh khổ.

 

Ngã ư bỉ Phật sở,                                                 Ta ở chỗ Phật ấy
Văn Pháp đắc giải thoát,                                    Nghe pháp được giải-thoát
Ức sát vi trần số,                                                  Ức cõi vi-trần-số
Vô lượng kiếp tu hành.                                        Vô-lượng kiếp tu hành.

Vị Lâm Thần Lam Tỳ Ni nói: Lúc đó, ta ở chỗ vị Phật đó, lắng nghe chánh pháp của Phật nói, mà được giải thoát. Trong số kiếp nhiều như số hạt bụi ức cõi Phật, tu hành pháp môn giải thoát nầy.

 

Kiếp trung sở hữu Phật,                                     Có bao nhiêu đức Phật
Ngã tất tằng cúng dường,                                   Ta đều từng cúng-dường
Hộ trì kỳ chánh pháp,                                         Hộ trì Phật chánh-pháp
Tịnh thử giải thoát hải.                                        Tu biển giải-thoát nầy.

Trong vô lượng kiếp đó, hết thảy tất cả chư Phật xuất hiện ra đời. Ta đều từng đến đạo tràng của Phật, gần gũi Phật, hầu hạ Phật, cúng dường Phật. Ta lại hộ trì chánh pháp của mỗi vị Phật nói, tu hành thanh tịnh pháp môn biển giải thoát nầy.

 

Ức sát vi trần số,                                                  Ức cõi vi-trần-số
Quá khứ thập lực tôn,                                         Ðức thập-lực quá-khứ
Tận trì kỳ Pháp luân,                                          Thọ trì Phật pháp-luân
Tăng minh thử giải thoát.                                   Thêm sáng giải-thoát nầy.

Có các đấng Thập Lực (Phật) trong quá khứ, nhiều như số hạt bụi ức cõi Phật, bánh xe pháp của các Ngài chuyển, ta thọ trì hết, dũng mãnh tinh tấn tu hành, làm tăng thêm sức giải thoát nầy, minh bạch thêm nghĩa lý giải thoát nầy.

 

Ngã ư nhất niệm khoảnh,                                   Ta trong khoảng một niệm
Kiến thử sát trần trung,                                      Thấy trong sát-trần nầy
Nhất nhất hữu Như Lai,                                     Mỗi trần có Như-Lai
Sở tịnh chư sát hải.                                              Nghiêm-tịnh những sát-hải.

Ta trong khoảng một niệm, thấy được ở trong hạt bụi vô lượng cõi Phật, trong mỗi hạt bụi đều có Phật đang ở trong đó thuyết pháp. Thanh tịnh trang nghiêm biển cõi nước chư Phật.

 

Sát nội tất hữu Phật,                                           Trong cõi đều có Phật
Viên trung thị đản sanh,                                     Hiện đản-sanh trong vườn
Các hiện bất tư nghị,                                           Ðều hiện bất-tư-nghì
Quảng đại thần thông lực.                                  Sức thần-thông quảng đại.

Trong mỗi biển cõi, đều có Phật ở trong vườn Kim Hoa, thị hiện đản sanh, xuất hiện ra đời. Mỗi vị Phật, đều hiện sức thần thông không thể nghĩ bàn, cảnh biến hoá rộng lớn.

 

Hoặc kiến bất tư nghị,                                         Hoặc thấy bất-tư-nghì
Ức sát chư Bồ-tát,                                               Ức cõi chư Bồ-Tát
Trụ ư Thiên cung thượng                                   Ở tại trên Thiên-Cung
Tướng chứng Phật Bồ-đề.                                  Sắp chứng Phật bồ-đề.

Hoặc thấy các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi ức cõi Phật không thể nghĩ bàn. Trụ ở nội viện cung trời Đâu Suất, sắp chứng đắc Phật bồ đề giác đạo, hậu bổ Phật vị, sắp thành Phật.

 

Vô lượng sát hải trung,                                       Trong vô-lượng sát-hải
Chư Phật hiện thọ sanh,                                     Chư Phật hiện thọ sanh
Thuyết Pháp chúng vi nhiễu,                              Thuyết pháp giữa đại chúng
Ư thử ngã giai kiến.                                             Nơi đây ta đều thấy.

Trong vô lượng biển cõi, tất cả chư Phật thị hiện cảnh giới tám tướng thành đạo. Một là từ cung trời Đâu Suất hàng sinh. Hai là nhập thai. Ba là đản sinh. Bốn là xuất gia. Năm là tu đạo. Sáu là thành Phật. Bảy là chuyển bánh xe pháp. Tám là vào Niết Bàn. Khi Phật thuyết pháp thì đại chúng vây quanh đức Phật. Cảnh giới nầy ta đều nhìn thấy.

 

Nhất niệm kiến ức sát,                                        Một niệm thấy ức cõi
Vi trần số Bồ Tát,                                                Vi-trần số Bồ-Tát
Xuất gia thú đạo tràng,                                       Xuất gia đến đạo-tràng
Thị hiện Phật cảnh giới.                                      Thị hiện cảnh-giới Phật.

Ta có thể trong khoảng một niệm, thấy được các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi ức cõi Phật, thị hiện xuất gia tu đạo, cho đến hướng về bồ đề đạo tràng, thị hiện cảnh giới thành Phật.

 

Ngã kiến sát trần nội,                                          Ta thấy trong sát-trần
Vô lượng Phật thành đạo,                                  Vô-lượng Phật thành đạo
Các hiện chư phương tiện,                                 Ðều hiện những phương-tiện
Độ thoát khổ chúng sanh.                                   Ðộ thoát khổ chúng-sanh.

Ta thấy được Phật ở trong bụi cõi, có vô lượng Phật thành đạo. Các vị Phật đều thị hiện tất cả pháp môn phương tiện thiện xảo, độ thoát những chúng sinh thọ khổ. Khiến cho họ phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo, mới có thể lìa khổ được vui, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.

 

Nhất nhất vi trần trung,                                     Trong mỗi mỗi vi-trần
Chư Phật chuyển pháp luân,                              Chư Phật chuyển pháp-luân
Tất dĩ vô tận âm,                                                 Ðều dùng tiếng vô-tận
Phổ vũ cam lộ pháp.                                            Khắp mưa pháp cam-lộ.

Trong mỗi hạt bụi, đều có chư Phật đang chuyển pháp luân ở trong đó. Phật thuyết pháp đều dùng diệu âm vô cùng tận, để giáo hoá chúng sinh. Khắp vì tất cả chúng sinh nói pháp môn cam lồ, khiến cho chúng sinh giác ngộ, chuyên tâm tu đạo.

 

Ức sát vi trần số,                                                  Ức cõi vi-trần-số
Nhất nhất sát trần nội,                                        Trong mỗi một sát-trần
Tất kiến ư Như Lai,                                             Ðều thấy chư Như-Lai
Thị hiện Bát Niết Bàn.                                        Thị hiện nhập niết-bàn.

Có số hạt bụi ức cõi Phật, trong mỗi hạt bụi, đều thấy tất cả chư Phật, đang ở trong đó thị hiện thành Phật, thị hiện chuyển bánh xe pháp, thị hiện vào Niết Bàn đủ thứ cảnh giới.

 

Như thị vô lượng sát,                                           Vô-lượng cõi như vậy
Như Lai thị đản sanh;                                         Như-Lai hiện đản-sanh
Nhi ngã tất phần thân,                                        Khắp nơi ta phân-thân
Hiện tiền hưng cúng dường.                               Hiện tiền cúng dường Phật.

Vô lượng cõi như vậy, Phật đều ở nơi đó thị hiện đản sanh. Ta cũng đều phân thân vô lượng, hiện ra ở trước Phật, cúng dường Phật, lắng nghe Phật nói diệu pháp.

 

Bất tư nghị sát hải,                                              Bất-tư-nghì sát-hải
Vô lượng thú sái biệt;                                          Vô-lượng loài sai khác
Ngã tất hiện kỳ tiền,                                            Ta đều hiện trong đó
Vũ ư đại pháp vũ.                                                Khắp mưa đại pháp-vũ.

Biển cõi không nghĩ bàn, có vô lượng loài khác biệt, đủ thứ chúng sinh khác nhau, ta đều hiện ra ở trước họ, vì họ mưa xuống đại pháp vũ, để thấm nhuần tâm bồ đề của họ.

 

Phật tử ngã tri thử,                                             Phật-Tử!  Ta biết môn
Nan tư giải thoát môn,                                        Nan-tư giải-thoát nầy
Vô lượng ức kiếp trung,                                      Trong vô-lượng ức kiếp
Xưng dương bất khả tận.                                    Tán dương không hết được.

Phật tử! Ta biết môn giải thoát nầy khó nghĩ bàn. Trong vô lượng ức kiếp, khen ngợi pháp môn giải thoát nầy, cũng không thể nào nói hết được.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát ư vô lượng kiếp biến nhất thiết xứ thị hiện thọ sanh tự tại giải thoát.

Nầy Thiện-nam-tử!  Ta chỉ biết môn giải-thoát Bồ-Tát trong vô-lượng kiếp khắp tất cả chỗ thị hiện thọ sanh tự-tại nầy.

Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát, Bồ Tát trong vô lượng kiếp, khắp tất cả chúng sinh, thị hiện thọ sanh tự tại nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, năng dĩ nhất niệm vi chư kiếp tạng, quán nhất thiết pháp, dĩ thiện phương tiện nhi hiện thọ sanh; chu biến cúng dường nhất thiết chư Phật, cứu cánh thông đạt nhất thiết Phật Pháp; ư nhất thiết thú giai hiện thọ sanh, nhất thiết Phật tiền tọa liên hoa tọa; tri chư chúng sanh ưng khả độ thời, vi hiện thọ sanh phương tiện điều phục; ư nhất thiết sát hiện chư thần biến, do như ảnh tượng tất hiện kỳ tiền.

Như chư đại Bồ-Tát có thể đem một niệm làm những kiếp tạng, quán tất cả pháp, dùng phương tiện khéo mà hiện thọ sanh, cúng-dường cùng khắp tất cả chư Phật.  Thông đạt rốt ráo tất cả phật-pháp, nơi tất cả loài đều hiện thọ sanh, ngồi tòa liên-hoa ở trước tất cả Phật. Biết các chúng-sanh lúc đáng được độ, vì hiện thọ sanh phương-tiện điều-phục, ở tất cả cõi hiện những thần-biến, dường như ảnh tượng đều hiện ra trước họ.

Giảng: Như các đại Bồ Tát, có thể dùng một niệm kéo dài làm vô lượng kiếp, vô lượng kiếp chẳng khởi một niệm. Lại quán sát pháp nhân duyên tất cả chúng sinh. Dùng phương tiện khéo léo mà hiện thọ sanh. Khắp cúng dường tất cả chư Phật trong mười phương thế giới. Rốt ráo thông đạt tất cả Phật pháp, thấu rõ không chướng ngại, chiếu rõ lý thể thật tướng của tất cả các pháp. Trong tất cả loài chúng sinh đều thị hiện cảnh giới thọ sanh. Ở trước tất cả chư Phật, ngồi toà sen báu. Biết cơ duyên của các chúng sinh, khi nào đúng thời có thể độ họ, vì họ hiện thọ sanh, phương tiện điều phục tất cả chúng sinh. Tóm lại, quán cơ thí giáo, vì người nói pháp. Chúng sinh đáng được độ, thì đi đến độ họ, chúng sinh đáng được nghe pháp, thì vì họ nói diệu pháp. Trong tất cả biển cõi, khắp hiện đủ thứ thần biến. Giống như hình bóng, đều thị hiện ở trước chúng sinh. Đây là cảnh giới du hí tam muội,

 

Ngã đương vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Ta thế nào biết được nói được công-đức hạnh đó.

Giảng: Ta làm sao biết được và nói được những hạnh công đức đó!

 

Thiện nam tử! thử Ca-tỳ la thành, hữu Thích chủng nữ, danh viết: Cồ ba.

Nầy Thiện-nam-tử!  Thành Ca-Tỳ-La nầy có cô gái họ Thích tên là Cù-Ba.

Giảng: Thiện nam tử! Trong thành Ca Tỳ La nầy, có cô gái dòng họ Thích, tên là Cù Ba.

 

Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà ư sanh tử trung giáo hóa chúng sanh?

Ngươi đến đó hỏi:  Bồ-Tát thế nào ở trong sanh tử giáo hóa-chúng-sanh.

Giảng: Ngươi hãy đi đến đó hỏi cô ta rằng: Bồ Tát làm thế nào ở trong sinh tử, có thể giáo hoá tất cả chúng sinh?

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Thiện-Tài Ðồng-Tử đảnh lễ chân Lam-Ty-Ni Lâm-Thần, hữu nhiễu vô-số vòng, ân cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Lâm Thần, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi đến thành Ca Tỳ La, tìm kiếm cô gái dòng họ Thích tên là Cù Ba, thỉnh giáo pháp môn mà Ngài muốn biết.

 

=========================

QUYỂN BẢY MƯƠI LĂM

40. THÍCH NỮ CÙ BA
PHÓ THÁC THỨ 40 – PHÁP VÂN ĐỊA

Cù Ba dịch là “thủ hộ đại địa”. Tại gia làm cha mẹ thủ hộ. Thái tử đầy đủ, thủ hộ quốc địa. Tức là kỳ phi, nương chủ được tên. Phó thác pháp vân địa nầy, là đại trí pháp vân, hàm gia đức thuỷ. Tế như không thô trọng, vì sung mãn pháp thân.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử hướng Ca-tỳ la thành, tư tánh tu tập thọ sanh giải thoát, tăng trưởng quảng đại, ức niệm bất xả. Tiệm thứ du hành, chí Bồ Tát tập hội phổ hiện Pháp giới quang minh giảng đường, kỳ trung hữu Thần, hiệu: Vô ưu đức, dữ nhất vạn chủ cung điện Thần câu, lai nghênh Thiện Tài, tác như thị ngôn:

Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử tư-duy tu tập môn thọ-sanh giải-thoát, tăng trưởng quảng-đại ghi nhớ chẳng bỏ.  Hướng về phía thành Ca-Tỳ-La, Thiện-Tài đi lần đến giảng-đường Bồ-Tát Tập-Hội Phổ-Hiện Pháp-Giới Quang-Minh. Trong giảng đường nầy có thần hiệu Vô-Ưu-Ðức cùng một vạn Chủ-Cung-Ðiện Thần câu hội đồng nghinh tiếp Thiện-Tài và nói rằng:

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử y chiếu theo sự chỉ thị của Lâm Thần Lam Tỳ Ni, đi hướng về thành Ca Tỳ La (quê hương của đức Phật Thích Ca), lúc trên đường đi, Ngài suy gẫm, tu tập môn giải thoát thọ sanh. Bồ Tát thọ sanh như thế nào, có cảnh giới gì? Làm thế nào giáo hoá chúng sinh? Suy gẫm như vậy, tăng trưởng rộng lớn, nghĩ nhớ không bỏ. Ngài từ từ đi du hành, đến giảng đường Bồ Tát tập hội phổ hiện pháp giới quang minh, trong thành Ca Tỳ La.

Trong giảng đường Phổ Hiện Pháp Giới Quang Minh đó, có vị hộ pháp thiện thần, hiệu là Vô Ưu Đức, cùng với một vạn Chủ Cung Điện Thần tụ hội, đến nghinh tiếp Thiện Tài, bèn nói như vầy:

 

Thiện lai trượng phu! hữu đại trí tuệ, hữu đại dũng mãnh, năng tu Bồ Tát bất khả tư nghị tự tại giải thoát, tâm hằng bất xả quảng đại thệ nguyện, thiện năng quan sát chư pháp cảnh giới; an trụ pháp thành, nhập ư vô lượng chư phương tiện môn, thành tựu Như Lai công đức đại hải; đắc diệu biện tài, thiện điều chúng sanh, hoạch Thánh trí thân, hằng thuận tu hành, tri chư chúng sanh tâm hành sái biệt, lệnh kỳ hoan hỉ thú hướng Phật đạo.

Thiện lai Trượng-Phu!  Có trí-huệ lớn, có dũng-mãnh lớn khéo tu môn giải thoát tự-tại bất-tư-nghì, tâm không bao giờ bỏ thệ nguyện rộng lớn, khéo quán-sát cảnh-giới của các pháp, an-trụ nơi pháp-thành, nhập vô-lượng môn phương-tiện, thành-tựu biển công-đức rộng lớn, được biện-tài vi-diệu, khéo điều-phục chúng-sanh, được thân thánh-trí hằng thuận tu hành, biết các chúng-sanh tâm hành sai khác làm cho họ hoan-hỉ xu-hướng phật-đạo.

Giảng: Lành thay bậc đại trượng phu! Ngài có đại trí huệ, Ngài đầy đủ tinh thần đại dũng mãnh, có thể tu hành môn giải thoát Bồ Tát tự tại không thể nghĩ bàn. Trong tâm luôn luôn không bỏ thệ nguyện rộng lớn. Khéo quán sát cảnh giới các pháp. An trụ thành pháp vương. Vào được vô lượng các môn phương tiện thiện xảo. Lại thành tựu biển công đức của Như Lai. Đắc được diệu biện tài vô ngại không thể nghĩ bàn. Khéo điều phục chúng sinh cang cường. Đắc được thân Thánh nhân trí huệ. Luôn thuận công đức của mình để tu hành. Biết tâm hạnh khác biệt của tất cả chúng sinh, hay thuận cơ duyên chúng sinh, vì họ nói pháp, khiến cho họ hoan hỉ mà hướng về Phật đạo.

 

Ngã quán nhân giả tu chư diệu hạnh tâm vô tạm giải, uy nghi sở hạnh tất giai thanh tịnh, nhữ đương bất cửu đắc chư Như Lai thanh tịnh trang nghiêm vô thượng tam nghiệp, dĩ chư tướng hảo trang nghiêm kỳ thân, dĩ thập lực trí oánh sức kỳ tâm, du chư thế gian.

Chúng tôi xem ngài tu các diệu-hạnh tâm không tạm lười, oai-nghi cử chỉ thảy đều thanh-tịnh. Chẳng bao lâu ngài sẽ được ba nghiệp vô-thượng trang-nghiêm thanh-tịnh của Như-Lai. Dùng những tướng-hảo trang-nghiêm thân mình. Dùng mười trí-lực trau sáng tâm mình, du hành nơi thế-gian.

Giảng: Vị Thần Vô Ưu Đức nói với Thiện Tài đồng tử rằng: Ta quán thấy ngươi tu các diệu hạnh của Bồ Tát tu, lúc nào cũng siêng năng tinh tấn, tâm không khi nào tạm thời giải đãi. Oai nghi đi đứng hành động của ngươi đều thanh tịnh. Đối với ba nghiệp thân miệng ý, chẳng có tư tưởng nhiễm ô. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ đắc được quả vị ba nghiệp thanh tịnh trang nghiêm vô thượng của Như Lai. Dùng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân. Dùng mười trí lực tô điểm tâm mình, du hành mười phương tất cả thế gian, giáo hoá hết thảy chúng sinh.

 

Ngã quán nhân giả dũng mãnh tinh tấn nhi vô hữu bỉ, bất cửu đương đắc phổ kiến tam thế nhất thiết chư Phật thính thọ kỳ Pháp, bất cửu đương đắc nhất thiết Bồ Tát Thiền định giải thoát chư tam muội lạc, bất cửu đương nhập chư Phật Như Lai thậm thâm giải thoát.

Chúng tôi quán ngài dũng-mãnh tinh-tấn không ai sánh bằng.  Chẳng bao lâu sẽ được thấy khắp tất cả chư Phật tam-thế và nghe lãnh chánh-pháp. Chẳng bao lâu sẽ được những sự vui tam-muội thiền-định giải-thoát của tất cả Bồ-Tát. Chẳng bao lâu sẽ nhập môn giải-thoát thậm-thâm của chư Phật Như-Lai.

Giảng: Vị Thần Vô Ưu Đức nói: Ta quán thấy ngươi dũng mãnh tinh tấn tu tập không ai sánh bằng. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ thấy được khắp mười phương ba đời tất cả chư Phật, nghe thọ pháp của chư Phật nói. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ đắc được vui thiền định giải thoát tam muội của tất cả Bồ Tát. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ vào môn giải thoát thâm sâu của tất cả chư Phật Như Lai.

 

Hà dĩ cố? kiến thiện tri thức thân cận cúng dường, thính thọ kỳ giáo, ức niệm tu hành, bất giải bất thoái, Vô ưu vô hối, vô hữu chướng ngại, ma cập ma dân bất năng vi nan, bất cửu đương thành vô thượng quả cố.

Tại sao vậy? Vì ngài được thấy thiện-tri-thức, thân-cận cúng-dường, nghe lãnh lời chỉ dạy ghi nhớ tu hành, chẳng lười, chẳng thối, không lo, không e ngại, ma và dân ma không làm ngăn trở được, chẳng bao lâu ngài sẽ được thành quả vô-thượng.

Giảng: Tại sao vậy? Vì nhờ gặp được thiện tri thức, gần gũi cúng dường thiện tri thức, nghe thọ lời dạy của các Ngài, nghĩ nhớ tu hành, cũng không giải đãi, cũng không thối lùi, không lo buồn, không hối hận, không chướng ngại, không có mọi sự phiền não. Ma vương không thể cản trở được ngươi và dân ma không thể hại ngươi được. Tương lai chẳng bao lâu nữa, ngươi sẽ thành tựu quả Phật vô thượng.

 

Thiện tài đồng tử ngôn: Thánh Giả! như hướng sở thuyết, nguyện ngã giai đắc.

Thiện-Tài nói: Như lời của chư Thánh vừa nói, nguyện tôi sẽ đều được như vậy.

Giảng: Thiện Tài đồng tử bạch với vị Thần Vô Ưu Đức rằng: Đức Thánh! Như lời Ngài nói, nguyện tôi sẽ đều được như vậy.

 

Thánh Giả! ngã nguyện nhất thiết chúng sanh, tức chư nhiệt não, ly chư ác nghiệp, sanh chư an lạc, tu chư tịnh hạnh.

Thánh Giả! nhất thiết chúng sanh, khởi chư phiền não, tạo chư ác nghiệp, đọa chư ác thú, nhược thân nhược tâm hằng thọ sở độc, Bồ Tát kiến dĩ tâm sanh ưu não.

Giảng: Đức Thánh! Tôi nguyện cho tất cả chúng-sanh dứt những nhiệt-não, rời những ác nghiệp, sanh những an-lạc, tu những tịnh-hạnh.

 

Bạch chư Thánh!  Tất cả chúng-sanh khởi phiền-não tạo ác nghiệp đọa ác thú, nơi thân nơi tâm hằng chịu đau khổ. Bồ-Tát thấy như vậy trong lòng rất đau xót.

Đức Thánh! Tôi nguyện tất cả chúng sinh dứt trừ tất cả nhiệt não, lìa khỏi tất cả nghiệp ác, sinh ra tất cả sự an lạc, tu tất cả tịnh hạnh.

Giảng: Đức Thánh! Tất cả chúng sinh khởi các phiền não, tạo các nghiệp ác, đoạ vào các cõi ác. Hoặc thân, hoặc tâm, luôn thọ khổ độc, Bồ Tát thấy như vậy rồi, tâm sinh lo buồn phiền não. Đây là lòng đại bi, Bồ Tát vốn không buồn không phiền, nhưng thấy chúng sinh thọ khổ mà sinh ra buồn phiền. Đây là biểu hiện tâm từ bi của Bồ Tát.

 

Thánh Giả! thí như hữu nhân, duy hữu nhất tử, ái niệm Tình chí, hốt kiến bị nhân cát tiệt chi thể, kỳ tâm thống thiết bất năng tự an. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, kiến chư chúng sanh dĩ phiền não nghiệp đọa tam ác thú thọ chủng chủng khổ, tâm Đại ưu não.

Ví như người chỉ có một con, nên rất thương yêu.  Bỗng thấy con mình bị người chặt tay chân, thời trong lòng đau đớn biết ngần nào. Cũng vậy, đại Bồ-Tát thấy các chúng-sanh vì nghiệp phiền não mà đọa ba ác-thú chịu khổ, thời trong lòng rất đau xót.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại nói: Đức Thánh! Ví như có người, chỉ có một người con, thương yêu vô cùng, bỗng thấy con mình bị người ta chặt tay chân, lòng rất đau đớn, như đức ruột, không cách chi tả được, không an vui được. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thấy các chúng sinh do nghiệp phiền não, đoạ vào ba đường ác, thọ đủ thứ khổ, tâm rất buồn rầu, tìm cách cứu các chúng sinh, thoát khỏi biển khổ.

 

Nhược kiến chúng sanh khởi thân, ngữ, ý tam chủng thiện nghiệp, sanh Thiên Nhân thú thọ thân tâm lạc, Bồ Tát Nhĩ thời sanh đại hoan hỉ.

Nếu thấy chúng-sanh phát khởi thân-ngữ-ý ba nghiệp lành sanh lên trời cõi  người, được an vui, thời lòng Bồ-Tát rất hoan-hỉ.

Giảng: Nếu thấy tất cả chúng sinh khởi thân miệng ý tạo ba nghiệp thiện, được sinh về cõi trời, hưởng thọ phước trời, hoặc sinh về cõi người, làm người giàu sang phú quý, thân tâm đều được an vui, thì lúc đó Bồ Tát sinh đại hoan hỉ.

 

Hà dĩ cố? Bồ Tát bất tự vi cố cầu nhất thiết trí, bất tham sanh tử chư dục khoái lạc, bất tùy tưởng đảo, kiến đảo, tâm đảo, chư kết, tùy miên, ái kiến lực chuyển, bất khởi chúng sanh chủng chủng lạc tưởng, diệc bất vị trước chư Thiền định lạc, phi hữu chướng ngại, bì yếm, thoái chuyển trụ ư sanh tử.

Tại sao vậy?  Vì Bồ-Tát chẳng tự vì mình mà cầu nhất-thiết-trí. Vì Bồ-Tát chẳng tham những dục lạc trong vòng sanh tử, chẳng theo thế-lực của tưởng-đảo, kiến-đảo, tâm-đảo kiết-sử tùy-miên ái-kiến mà chuyển, chẳng khởi những quan-niệm vui của chúng-sanh, chẳng ham say nơi sự vui của thiền-định, chẳng phải vì có chướng-ngại mỏi nhọc thối chuyển mà trụ tại sanh tử.

Giảng: Tại sao vậy? Vì Bồ Tát tâm bi tha thiết, tất cả đều chẳng nghĩ đến mình, mà vì chúng sinh mưu cầu hạnh phúc, cho nên Bồ Tát thấy chúng sinh thọ khổ thì Bồ Tát ưu phiền. Nhìn thấy chúng sinh vui, thì Bồ Tát hoan hỉ. Bồ Tát vì cầu nhất thiết trí, mà siêng tinh tấn, tu tập Phật pháp.

Do đó có câu: “Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển”. Có trí huệ rồi, thì mới có thể cứu độ chúng sinh, lìa khổ được vui, chấm dức sinh tử.

Bồ Tát chẳng tham sanh tử các dục khoái lạc. Chẳng theo vọng tưởng của mình mà điên đảo. Tại sao con người thấy cảnh giới liền điên đảo? Vì có kiến hoặc và tư hoặc tác quái. Tức cũng là đối với cảnh giới nhận thức chẳng rõ ràng mà sinh ra tâm tham ái, đây là kiến hoặc; đối với lý luận chẳng rõ ràng, sinh ra tâm phân biệt, đây là tư hoặc; chẳng rõ thiện ác, chẳng rõ trắng đen, tuỳ ý làm càn, tạo thành nghiệp ác, đây là tâm điên đảo. Các kết sử tức là thân, biên, giới, kiến, tà và tham, sân, si, mạn, nghi, mười sử. Bồ Tát chẳng tuỳ lực miên ái kiến mà chuyển. Chẳng khởi đủ thứ tưởng vui của chúng sinh. Cũng chẳng đắm trước vui các thiền định. Chẳng có chướng ngại, mệt mỏi, thối chuyển, mà an trụ trong sinh tử, Bồ Tát vì độ chúng sinh, thường trụ nơi sinh tử, nhưng chẳng nhàm sinh tử.

 

Đãn kiến chúng sanh ư chư hữu trung, cụ thọ vô lượng chủng chủng chư khổ, khởi đại bi tâm, dĩ đại nguyện lực nhi phổ nhiếp thủ. Bi nguyện lực cố, tu Bồ Tát hạnh, vi đoạn nhất thiết chúng sanh phiền não, vi cầu Như Lai nhất thiết trí trí, vi cúng dường nhất thiết chư Phật Như Lai, vi nghiêm tịnh nhất thiết quảng đại quốc độ, vi tịnh trì nhất thiết chúng sanh lạc dục cập kỳ sở hữu thân tâm chư hạnh, ư sanh tử trung vô hữu bì yếm.

Chỉ vì thấy chúng-sanh ở trong tam-hữu chịu đủ mọi sự khổ nên khởi tâm đại-bi, dùng sức đại-nguyện để nhiếp thủ chúng-sanh. Vì sức bi nguyện mà tu hạnh Bồ-Tát, vì dứt tất cả phiền não của chúng-sanh, vì cầu nhất-thiết-chủng-trí của Như-Lai, vì cúng-dường tất cả chư Phật, vì nghiêm tịnh tất cả quốc-độ quảng đại, vì tịnh trị tất cả dục lạc của chúng-sanh và những hạnh nghiệp nơi thân nơi tâm cuả họ, nên Bồ-Tát ở trong sanh tử không mỏi nhàm.

Giảng: Bồ Tát thấy tất cả chúng sinh, ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, thọ vô lượng đủ thứ các khổ, mà sinh tâm đại bi. Dùng đại nguyện lực mà nhiếp lấy khắp tất cả chúng sinh. Vì từ bi nguyện lực, mà tu Bồ Tát hạnh. Vì dứt trừ khổ não của tất cả chúng sinh. Vì cầu nhất thiết trí của chư Phật. Vì cúng dường tất cả chư Phật Như Lai. Vì nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật rộng lớn. Vì tịnh trị dục lạc của tất cả chúng sinh. Những gì chúng sinh hoan hỉ, ước muốn, đều là điên đảo chẳng thanh tịnh. Cho nên Bồ Tát tịnh trị tâm của chúng sinh, chẳng còn vọng tưởng, chẳng còn nhiễm ô, tất cả đều thanh tịnh. Tất cả tập khí mao bệnh để lại hết quá khứ, những tập quán không tốt sửa đổi thành tập quán tốt. Giống như người nghiện rượu, họ rất thích uống rượu. Hoặc giống như người ghiền thuốc lá, họ rất thích hút thuốc lá. Thậm chí người ham tài sắc danh ăn ngủ, cũng đều là sự ham muốn. Tóm lại, phàm là có sự ham thích đều là sự ham muốn dục lạc. Chúng ta nên đem những thứ dục lạc không chánh đáng nầy, tịnh trị cho thanh tịnh, chẳng còn tạp nhiễm nữa. Bồ Tát chẳng những tịnh trị dục lạc của chúng sinh, mà cũng tịnh trị thân tâm của chúng sinh. Những hành động làm gì cũng đều thanh tịnh. Vì đủ thứ nhân duyên nầy, nên Bồ Tát hành Bồ Tát đạo. Tuy Bồ Tát ở trong sinh tử, nhưng chẳng mỏi nhàm. Bồ Tát vì hành Bồ Tát đạo, vào sinh tử mà chẳng chấp trước sinh tử, vào Niết Bàn mà chẳng chấp trước Niết Bàn.

 

Thánh Giả! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư chư chúng sanh, vi trang nghiêm, lệnh sanh nhân thiên phú quý lạc cố; vi phụ mẫu, vi kỳ an lập Bồ-đề tâm cố; vi dưỡng dục, lệnh kỳ thành tựu Bồ Tát đạo cố; vi vệ hộ, lệnh kỳ viễn ly tam ác đạo cố; vi thuyền sư, lệnh kỳ đắc độ sanh tử hải cố; vi quy y, lệnh xả chư ma phiền não phố cố; vi cứu cánh, lệnh kỳ vĩnh đắc thanh lương lạc cố; vi tân tế, lệnh nhập nhất thiết chư Phật hải cố; vi Đạo sư, lệnh chí nhất thiết pháp bảo châu cố; vi hương khí, khai phu chư Phật công đức tâm cố; vi nghiêm cụ, thường phóng phước đức trí tuệ quang cố; vi khả lạc, phàm hữu sở tác tất đoan nghiêm cố; vi khả tôn, viễn ly nhất thiết chư ác nghiệp cố; vi Phổ Hiền, cụ túc nhất thiết đoan nghiêm thân cố; vi Đại Minh, thường phóng trí tuệ tịnh quang minh cố; vi đại vân, thường vũ nhất thiết cam lộ pháp cố.

Bạch chư thánh!  Ðại Bồ-Tát đối với chúng-sanh: là trang-nghiêm, vì khiến họ sanh làm trời, làm người giàu sang vui sướng. Là cha mẹ, vì an lập tâm bồ-đề cho họ. Là dưỡng dục, vì làm cho họ thành-tựu đạo Bồ-Tát. Là vệ-hộ, vì làm cho họ xa rời ba ác-đạo. Là lái thuyền, vì đưa họ qua biển sanh tử. Là quy y, vì làm cho họ khỏi sợ ma phiền-não.  Là cứu-cánh, vì làm cho họ vĩnh-viễn được vui thanh-lương.  Là bờ bến, vì làm cho họ vào biển chư Phật. Là đạo-sự, vì đưa họ đến xứ pháp-bửu. Là diệu-hoa, vì làm nở tâm công-đức của chư Phật. Là đồ trang-nghiêm, vì thường phóng quang-minh phước đức trí-huệ. Là đáng mến, vì chỗ làm ra đều đoan chánh trang-nghiêm. Là đáng tôn trọng, vì xa rời tất cả ác-nghiệp. Là Phổ-Hiền, vì đầy đủ tất cả thân đoan-nghiêm. Là sáng lớn, vì thường phóng trí-huệ quang-minh.  Là mây lớn, vì thường mưa tất cả pháp cam-lộ.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại gọi một tiếng: Đại Thánh nhân! Đại Bồ Tát đối với các chúng sinh là trang nghiêm, vì khiến cho họ sinh về cõi trời người được vui giàu sang phú quý. Là cha mẹ, vì chúng sinh an lập bồ đề tâm. Là dưỡng dục, vì khiến cho chúng sinh thành tựu Bồ Tát đạo. Là hộ vệ, vì khiến cho chúng sinh sớm lìa khỏi ba đường ác. Là thuyền sư, vì khiến cho chúng sinh được qua khỏi biển sinh tử, thẳng đến bờ Niết Bàn bên kia. Là nơi nương tựa, vì khiến cho chúng sinh xả bỏ các ma nghiệp, cùng với phiền não và sợ hãi. Là rốt ráo, vì khiến cho chúng sinh vĩnh viễn được an vui mát mẻ. Là bờ bến, hoặc là cầu đò, vì khiến cho chúng sinh vào biển trí huệ của tất cả chư Phật. Là đạo sư, vì khiến cho chúng sinh đến nơi tất cả pháp bảo. Là hoa đẹp, vì nở hoa tâm công đức của chư Phật. Là đồ trang nghiêm, vì thường phóng trí huệ quang phước đức. Là đáng ưa, vì phàm làm gì cũng đều đoan chánh trang nghiêm. Là đáng tôn kính, vì xa lìa tất cả mười nghiệp ác. Là Phổ Hiền, vì tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, mới được thân đầy đủ tất cả sự đoan nghiêm thanh tịnh. Là đại minh, vì thường phóng trí huệ quang thanh tịnh. Là mây lớn, vì thường mưa xuống tất cả pháp vũ cam lồ.

 

Thánh Giả! Bồ Tát như thị tu chư hạnh thời, lệnh nhất thiết chúng sanh giai sanh ái lạc, cụ túc Pháp lạc.

Bạch chư Thánh!  Lúc Bồ-Tát tu các hạnh như vậy, làm cho tất cả chúng-sanh đều mến thích đầy đủ pháp-lạc.

Giảng: Đại Thánh nhân! Khi Bồ Tát tu tất cả các hạnh như vậy, vì khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh mến thích hành vi của Bồ Tát như vậy, đầy đủ tất cả pháp vui.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tướng thăng pháp đường, kỳ Vô ưu đức cập chư Thần chúng, dĩ xuất qua chư Thiên thượng diệu hoa man, đồ hương, mạt hương, cập dĩ chủng chủng bảo trang nghiêm cụ, tán Thiện Tài thượng, nhi thuyết tụng ngôn:

Lúc đó Thiện-Tài sắp bước lên pháp-đường, Chủ-Cung-Ðiện Thần Vô-Ưu-Ðức và chúng Thần đem những hương hoa và đồ trang-nghiêm quý hơn cõi trời rải trên Thiện-Tài mà nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử sắp lên pháp đường, vị Thần Vô Ưu Đức và các chúng Thần, dùng tràng hoa đẹp, hương thoa, hương bột, cùng với đủ thứ đồ báu trang nghiêm, quý hơn trên các cõi trời, rải trên Thiện Tài, sau đó nói bài kệ khen ngợi rằng:

 

Nhữ kim xuất thế gian,                            Nay Ngài xuất thế-gian
Vi thế Đại minh đăng,                              Làm đèn sáng cho đời
Phổ vi chư chúng sanh,                           Vì khắp các chúng-sanh
Cần cầu vô thượng giác.                          Mà cầu vô-thượng-giác.

Vị Thần Vô Ưu Đức nói với Thiện Tài đồng tử: Nay Ngài xuất hiện nơi thế gian, làm đèn sáng lớn cho đời, phá tan tất cả sự đen tối. Khắp vì các chúng sinh, siêng năng tu tập, cầu đạo Vô Thượng giác.

 

Vô lượng ức thiên kiếp,                            Vô-lượng ức ngàn kiếp
Nan khả đắc kiến nhữ;                            Khó được gặp thấy Ngài
Công đức nhật kim xuất,                         Công-đức-nhật nay mọc
Diệt trừ chư thế ám.                                Trừ những tối thế-gian.

Dù trong vô lượng ức ngàn kiếp, rất khó được thấy Ngài. Công đức nhựt (Phật) nay đã mọc nơi thế gian, phóng đại quang minh, diệt trừ đen tối tất cả thế gian.

 

Nhữ kiến chư chúng sanh,                       Ngài thấy các chúng-sanh
Điên đảo hoặc sở phước,                         Bị điên-đảo che đậy
Nhi hưng đại bi ý,                                     Mà khởi lòng đại-bi
Cầu chứng vô sư đạo.                              Cầu chứng đạo vô-sư.

Ngài thấy các chúng sinh, bị điên đảo mê hoặc che lấp, nên Ngài mới sinh tâm đại bi. Dũng mãnh tinh tấn tu tập, không giải đãi, cũng không mệt mỏi, một lòng một dạ cầu chứng Phật đạo vô thượng.

 

Nhữ dĩ thanh tịnh tâm,                            Ngài dùng tâm thanh-tịnh
Tầm cầu Phật Bồ-đề,                               Tầm cầu Phật bồ-đề
Thừa sự thiện tri thức,                             Kính thờ thiện-tri-thức
Bất tự tích thân mạng.                            Chẳng tự tiếc thân mạng.

Ngài dùng tâm thanh tịnh không nhiễm, đến các nơi học hỏi, tìm cầu Phật bồ đề. Hầu hạ thiện tri thức, vì pháp quên mình, dù hy sinh thân mạng cũng chẳng tiếc.

 

Nhữ ư chư thế gian,                                 Ngài ở các thế-gian
Vô y vô sở trước,                                      Không tựa không chấp lấy
Kỳ tâm phổ vô ngại,                                 Tâm ngài khắp vô-ngại
Thanh tịnh như hư không.                      Thanh-tịnh như hư-không.

Ngài đối với tất cả thế gian, không nương tựa vào đâu, cũng không chấp trước. Trong tâm Ngài chẳng có mọi sự chướng ngại, thanh tịnh như hư không. Nếu tâm thanh tịnh, chẳng có mọi tạp niệm, thì tuyệt đối chẳng làm việc điên đảo.

 

Nhữ tu Bồ-đề hạnh,                                 Ngài tu hạnh bồ-đề
Công đức tất viên mãn,                           Công-đức đều viên-mãn
Phóng đại trí tuệ quang,                          Phóng sáng lớn trí-huệ
Phổ chiếu nhất thiết thế.                         Chiếu khắp cả thế-gian.

Ngài tu hạnh bồ đề, công đức và trí huệ đều đạt đến sự viên mãn. Phóng đại trí huệ quang minh, chiếu sáng khắp tất cả thế gian, trở thành ngọn đèn sáng lớn của thế gian.

 

Nhữ bất ly thế gian,                                 Ngài chẳng rời thế-gian
Diệc bất trước ư thế,                               Cũng chẳng vướng thế-gian
Hành thế vô chướng ngại,                       Ði trong đời vô-ngại
Như phong du hư không.                        Như gió thổi hư-không.

Ngài chẳng lìa khỏi thế gian, cũng chẳng chấp trước thế gian. Ngài ở tại thế gian mà tâm xuất thế gian. Tuy ở trong sinh tử, mà dứt sinh tử. Giống như gió thổi trong hư không, chẳng có chướng ngại, chẳng có dấu vết.

 

Thí như hỏa tai khởi,                               Ví như hoả-tai khởi
Nhất thiết vô năng diệt;                           Không gì làm tắt được
Nhữ tu Bồ-đề hạnh,                                 Ngài tu hạnh bồ-tát
Tinh tấn hỏa diệc nhiên.                          Lửa tinh-tấn cũng vậy.

Ví như nạn lửa lớn khởi lên, không có nước gì dập tắt được. Ngài tu hạnh bồ đề, lửa tinh tấn cũng như thế, bất cứ nước gì cũng dập tắt không được.

 

Dũng mãnh đại tinh tấn,                          Dũng-mãnh đại tinh-tấn
Kiên cố bất khả động,                              Kiên-cố chẳng lay động
Kim Cương tuệ sư tử,                              Kim-cang-huệ sư-tử
Du hành vô sở úy.                                    Du hành vô-sở-úy.

Ngài dũng mãnh đại tinh tấn, rất kiên cố, bất cứ cảnh giới gì cũng không lay động, đã đạt đến cảnh giới như như bất động. Đến được trí huệ kim cang, dũng mãnh như sư tử, du hành bất cứ nơi nào, cũng không có cảm giác sợ hãi.

 

Nhất thiết pháp giới trung,                      Trong tất cả pháp-giới
Sở hữu chư sát hải,                                  Có bao nhiêu sát-hải
Nhữ tất năng vãng nghệ,                         Ngài đều qua đến được
Thân cận thiện tri thức.                           Thân cận thiện-tri-thức

Trong tất cả pháp giới, hết thảy tất cả biển cõi của chư Phật. Ngài đều đã đi đến, gần gũi tất cả thiện tri thức, thỉnh giáo các Ngài: Làm thế nào phát bồ đề tâm? Làm thế nào hành Bồ Tát đạo?

 

Nhĩ thời, Vô ưu đức Thần thuyết thử tụng dĩ, vi ái lạc Pháp cố, tùy trục Thiện Tài, hằng bất xả ly.

Thần Vô-Ưu-Ðức nói kệ xong, vì mến thích chánh-pháp nên theo luôn bên Thiện-Tài Ðồng-Tử.

Giảng: Lúc đó, vị Thần Vô Ưu Đức nói mười bài kệ nầy rồi, vì Ngài ưa mến Phật pháp, nên đi theo Thiện Tài đồng tử làm pháp lữ, đi các nơi học tập Phật pháp, vĩnh viễn không xả lìa Thiện Tài đồng tử.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhập phổ hiện Pháp giới quang minh giảng đường, chu biến thôi cầu bỉ thích thị nữ, kiến tại đường nội, tọa bảo liên hoa sư tử chi tọa, bát vạn tứ thiên thải nữ sở cọng vi nhiễu.

Thiện-Tài vào trong giảng-đường Phổ-Hiện-Pháp-Giới-Quang-Minh tìm cô gái họ Thích.  Thấy cô ấy ngồi trên tòa sư-tử bửu liên-hoa, có tám vạn bốn ngàn thể-nữ vây quanh.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đi vào giảng đường Phổ Hiện Pháp Giới Quang Minh, đi khắp nơi tìm cô gái họ Thích, thì thấy cô ta đang ngồi trên toà sư tử Bảo Liên Hoa làm bằng bảy báu ở trong giảng đường. Có tám vạn bốn ngàn thể nữ cùng vây quanh.

 

Thị chư thải nữ, mị bất giai tùng Vương chủng trung sanh, tất ư quá khứ tu Bồ Tát hạnh đồng chủng thiện căn, bố thí, ái ngữ phổ nhiếp chúng sanh; dĩ năng minh kiến nhất thiết trí cảnh, dĩ cọng tu tập Phật Bồ-đề hạnh; hằng trụ chánh định, thường du đại bi, phổ nhiếp chúng sanh do như nhất tử; từ tâm cụ túc, quyến thuộc thanh tịnh; dĩ ư quá khứ thành tựu Bồ Tát bất khả tư nghị thiện xảo phương tiện, giai ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển, cụ túc Bồ Tát chư Ba-la-mật; ly chư thủ trước, bất lạc sanh tử; tuy hành chư hữu, tâm thường thanh tịnh, hằng cần quan sát nhất thiết trí đạo; ly chướng cái võng, siêu chư trứ xứ, tùng ư Pháp thân nhi thị hóa hình; sanh Phổ Hiền hạnh, trưởng Bồ Tát lực, trí nhật tuệ đăng tất dĩ viên mãn.

Những thể-nữ nầy đều là dòng vua, thuở quá khứ đã tu hạnh bồ-tát, đồng gieo căn lành, bố-thí ái-ngữ nhiếp khắp chúng-sanh, đã thấy rõ được cảnh nhứt-thiết-trí, đã chung tu tập hạnh Phật Bồ-Ðề, hằng trụ chánh-định, thường dùng đại-bi nhiếp khắp chúng-sanh như đối với con một, đầy đủ từ-tâm, quyến-thuộc thanh-tịnh, quá-khứ đã thành-tựu phương-tiện thiện-xảo bất-tư-nghì của Bồ-Tát, đều không thối chuyển vô-thượng bồ-đề, đầy đủ những ba-la-mật của Bồ-Tát, rời những chấp trước, chẳng thích sanh tử, dầu đi trong các cõi hữu-lậu mà lòng hằng thanh-tịnh, thường siêng quán-sát đạo nhất-thiết-trí, lìa lưới chướng cái, vượt khỏi chỗ chấp nhiễm, từ pháp-thân mà hiện hóa-thân, sanh hạnh Phổ-Hiền, lớn sức bồ-tát, trí-nhựt huệ-đăng đều đã viên-mãn.

Giảng: Những thể nữ xinh đẹp đó, đều sinh ra trong hoàng tộc, họ đều đã từng tu Bồ Tát hạnh trong quá khứ, đồng trồng căn lành. Giống như chúng ta đang cùng nghe Kinh, nghe pháp, nghiêng cứu Phật pháp, đây có thể là trong quá khứ đã từng gieo trồng căn lành với nhau, đều là người có duyên với nhau, cho nên mọi người cùng nhau tu hành. Những thể nữ đó, khi tu hành thì dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp, để nhiếp khắp chúng sinh. Đã thấy rõ cảnh giới nhất thiết trí, đã cùng tu tập hạnh Phật bồ đề. Luôn an trụ trong chánh định. Thường dùng đại bi nhiếp khắp chúng sinh, giống như thương con một. Tâm từ bi đã đầy đủ, hay ban vui cho chúng sinh, hay cứu chúng sinh khổ. Hết thảy quyến thuộc đều là người thanh tịnh tu đạo, vì chí đồng đạo hợp, cho nên hoà thuận với nhau. Những thể nữ đó, trong quá khứ đã từng thành tựu phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đều được cảnh giới bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Những thể nữ đó, đã đầy đủ các Ba La Mật của Bồ Tát. Đã lìa khỏi mọi sự chấp trước, chẳng còn tâm phan duyên, chẳng hoan hỉ lưu chuyển trong sinh tử. Tuy ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, mà tâm thường thanh tịnh, không còn tư tưởng nhiễm ô. Luôn siêng quán sát đạo nhất thiết trí, thoát khỏi tất cả lưới nghiệp chướng, vượt khỏi tất cả chỗ chấp trước. Từ nơi pháp thân, mà thị hiện hoá thân. Sinh hạnh nguyện Phổ Hiền, tăng trưởng Bồ Tát lực. Đèn sáng mặt trời trí huệ, quang minh chiếu khắp, đều đã viên mãn.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nghệ bỉ Thích nữ Cồ ba chi sở, đảnh lễ kỳ túc, hợp chưởng nhi trụ, tác như thị ngôn:

Thiện-Tài đến đảnh lễ nơi chân của Thích-Nữ Cù-Ba, chắp cung kính thưa rằng:

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đến chỗ Thích nữ Cù Ba, đảnh lễ rồi đứng chắp tay lại mà bạch rằng:

 

Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà ư sanh tử trung, nhi bất vi sanh tử quá hoạn sở nhiễm? liễu pháp tự tánh, nhi bất trụ Thanh văn, Bích Chi Phật địa? cụ túc Phật Pháp, nhi tu Bồ Tát hạnh? trụ Bồ Tát địa, nhi nhập Phật cảnh giới? siêu quá thế gian, nhi ư thế thọ sanh? thành tựu pháp thân, nhi thị hiện vô biên chủng chủng sắc thân? chứng vô tướng Pháp, nhi vi chúng sanh thị hiện chư tướng? tri Pháp vô thuyết, nhi quảng vi chúng sanh diễn thuyết chư Pháp? tri chúng sanh không, nhi hằng bất xả hóa chúng sanh sự? tuy tri chư Phật bất sanh bất diệt, nhi cần cúng dường vô hữu thoái chuyển? tuy tri chư Pháp vô nghiệp vô báo, nhi tu chư thiện hành hằng bất chỉ tức?

Bạch đức Thánh!  Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề, mà chưa biết Bồ-Tát thế nào ở trong sanh tử mà chẳng bị lỗi sanh tử làm nhiễm? Thế nào rõ pháp tự-tánh mà chẳng trụ hàng Thanh-Văn Bích-Chi-Phật? Thế nào đầy đủ phật-pháp mà tu hạnh bồ-tát? Thế nào trụ bậc Bồ-Tát mà nhập cảnh-giới Phật? Thế nào siêu quá thế-gian mà thọ sanh nơi thế-gian? Thế nào thành-tựu pháp-thân mà thị-hiện vô-biên sắc-thân? Thế nào chứng pháp vô-tướng mà vì chúng sanh thị-hiện các tướng? Thế nào biết pháp vô-thuyết mà rộng vì chúng-sanh diễn thuyết các pháp? Thế nào biết chúng-sanh không mà hằng chẳng bỏ sự giáo-hóa chúng-sanh? Thế nào dầu biết chư Phật bất sanh bất diệt mà siêng cúng-dường không có thối-chuyển? Thế nào dầu biết các pháp không nghiệp không báo mà tu những hạnh lành luôn không thôi nghỉ.

Giảng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào ở trong sinh tử, mà chẳng nhiễm hoạ hoạn sinh tử? Tuy thấu rõ tự tánh của tất cả các pháp, mà chẳng trụ bậc Thanh Văn Bích Chi Phật quả vị của hàng nhị thừa. Tuy đầy đủ tất cả Phật pháp, mà vẫn phải tu Bồ Tát hạnh. Tuy trụ bậc Bồ Tát, mà vào cảnh giới của tất cả chư Phật. Tuy vượt qua tất cả thế gian, mà vẫn thọ sinh nơi thế gian. Tuy thành tựu pháp thân, mà vẫn thị hiện vô biên đủ thứ sắc thân. Tuy chứng được pháp vô tướng, mà vẫn vì chúng sinh thị hiện các tướng. Biết pháp vốn không thể nói, mà vì giáo hoá tất cả chúng sinh, rộng nói tất cả các pháp. Biết chúng sinh vốn là không, mà không bỏ chúng sinh, thường giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Tuy biết tất cả chư Phật không sinh, không diệt, mà siêng năng cúng dường tất cả chư Phật không có thối chuyển. Tuy biết tất cả các pháp, không có kẻ tạo, không có kẻ thọ, cũng không có nghiệp, cũng không có báo, mà vẫn phải tu tất cả hạnh lành, luôn không ngừng nghỉ. Con đối với những cảnh giới nầy chưa thấu rõ, xin đức Thánh Ngài chỉ giáo.

 

Thời, Cồ ba nữ cáo Thiện Tài ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ kim năng vấn Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị hành Pháp, tu tập Phổ Hiền chư hạnh nguyện giả năng như thị vấn.

Nàng Cù-Ba nói: Lành thay! Lành Thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nay ngươi có thể hỏi những việc làm của đại Bồ-Tát như vậy. Người tu tập những hạnh nguyện Phổ-Hiền mới có thể hỏi như vậy.

Giảng: Lúc đó, cô gái Cù Ba bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Nay ngươi có thể hỏi pháp môn tu hành của đại Bồ Tát như vậy. Ai tu tập các đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, mới có thể hỏi như vậy, thật là quý lắm thay.

 

Đế thính đế thính! thiện tư niệm chi! ngã đương thừa Phật thần lực, vi nhữ tuyên thuyết.

Ngươi lắng nghe và khéo suy gẫm ghi nhớ. Ta sẽ thừa thần-lực của Phật mà nói cho ngươi.

Giảng: Xin Ngài hãy chú ý lắng nghe, khéo nghĩ nhớ đừng quên, ta sẽ nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, vì ngươi mà diễn nói nghĩa lý nầy.

 

Thiện nam tử! nhược chư Bồ-tát thành tựu thập pháp, tức năng viên mãn nhân đà la võng phổ trí quang minh Bồ Tát chi hành.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu các Bồ-Tát thành-tựu mười pháp thời có thể viên-mãn hạnh bồ-tát nhơn đà-la-võng phổ-trí quang-minh.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu các Bồ Tát thành tựu mười pháp, thì sẽ viên mãn hạnh Bồ Tát Nhơn Đà La võng phổ trí quang minh.

 

Hà đẳng vi thập? sở vị: y thiện tri thức cố, đắc quảng đại thắng giải cố, đắc thanh tịnh dục lạc cố, tập nhất thiết phước trí cố, ư chư Phật sở thính văn Pháp cố, tâm hằng bất xả tam thế Phật cố, đồng ư nhất thiết Bồ Tát hạnh cố, nhất thiết Như Lai sở hộ niệm cố, đại bi diệu nguyện giai thanh tịnh cố, năng dĩ trí lực phổ đoạn nhất thiết chư sanh tử cố.

Ðây là mười pháp: Vì nương thiện-tri-thức. Vì được thắng-giải quảng đại. Vì được dục lạc thanh-tịnh. Vì nhóm tất cả phước trí. Vì nghe chánh-pháp nơi chư Phật. Vì tâm hằng chẳng bỏ tam thế Phật. Vì đồng với tất cả bồ-tát hạnh. Vì được tất cả Như-Lai hộ-niệm. Vì đại bi diệu-nguyện đều thanh-tịnh. Vì có thể dùng trí-lực khắp dứt tất cả những sanh tử.

Giảng: Những gì là mười pháp? Đó là:

1. Nhờ nương theo thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức. Thiện tri thức có đại trí huệ, có thể chỉ bày bến mê.

2. Nhờ đắc được sự hiểu biết thù thắng rộng lớn.

3. Nhờ đắc được dục lạc thanh tịnh.

4. Nhờ tích tập tất cả phước đức trí huệ.

5. Nhờ lắng nghe chánh pháp của chư Phật nói ở chỗ đạo tràng chư Phật trong mười phương.

6. Nhờ tâm luôn không bỏ ba đời chư Phật, luôn luôn nghĩ nhớ chư Phật ba đời.

7. Nhờ tu đồng hạnh với tất cả Bồ Tát.

8. Nhờ được tất cả chư Phật hộ niệm.

9. Nhờ đại bi diệu quán đều được thanh tịnh.

10. Nhờ hay dùng sức kiếm trí huệ, chặt đứt tất cả khổ luân sinh tử.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát thành tựu thử pháp, tức năng viên mãn nhân đà la võng phổ trí quang minh Bồ Tát chi hành.

Đó là mười pháp. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ viên mãn hạnh Bồ Tát Nhân Đà La võng phổ trí quang minh.

Giảng: Đó là mười pháp của Bồ Tát tu. Nếu các Bồ Tát thành tựu những pháp nầy, thì sẽ viên mãn hạnh Bồ Tát Nhân Đà La võng phổ trí quang minh.

 

Phật tử! nhược Bồ Tát thân cận thiện tri thức, tức năng tinh tấn bất thoái tu tập xuất sanh vô tận Phật Pháp.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu thân-cận thiện-trí-thức thời Bồ-Tát có thể tinh-tấn bất thối tu tập xuất sanh vô-tận phật pháp

Giảng: Phật tử! Nếu Bồ Tát gần gũi thiện tri thức, thì sẽ tinh tấn hướng về trước, không thối lùi về sau, nỗ lực tu tập, sẽ sinh ra Phật pháp vô tận.

 

Phật tử! Bồ Tát dĩ thập chủng Pháp, thừa sự thiện tri thức.

Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát dùng mười pháp để thừa sự thiện-tri-thức.

Giảng: Phật tử! Bồ Tát nên dùng mười pháp nầy, để hầu hạ thiện tri thức.

 

Hà đẳng vi thập? sở vị: ư tự thân mạng vô sở cố tích, ư thế lạc cụ tâm bất tham cầu, tri nhất thiết pháp tánh giai bình đẳng, vĩnh bất thoái xả nhất thiết trí nguyện, quan sát nhất thiết pháp giới thật tướng, tâm hằng xả ly nhất thiết hữu hải, tri Pháp như không tâm vô sở y, thành tựu nhất thiết Bồ Tát đại nguyện, thường năng thị Hiện-Nhất-Thiết sát hải, tịnh tu Bồ Tát vô ngại trí luân.

Ðây là mười pháp: không đoái tiếc thân mạng mình. Lòng chẳng tham cầu sự vui thế-gian. Biết tất cả pháp-tánh đều bình-đẳng. Trọn chẳng lui bỏ nguyện nhất-thiết-trí. Quán sát thiệt-tướng pháp giới. Tâm hằng bỏ rời tất cả biển hữu-lậu. Biết pháp như không, tâm không chỗ nương. Thành-tựu tất cả đại-nguyện bồ-tát. Thường có thể thị-hiện tất cả sát-hải. Tịnh tu trí-luận vô-ngại của Bồ-Tát.

Giảng: Những gì là mười pháp? Đó là:

1. Đối với thân mạng mình, không đoái tiếc. Vì gần gũi thiện tri thức, dù tán thân mất mạng cũng không từ nan.

2. Đối với đồ vui thế gian, tâm không tham cầu. Đối với vinh hoa phú quý, danh văn lợi dưỡng, đều không tham cầu.

3. Biết tất cả pháp tánh đều bình đẳng, không có cao thấp.

4. Vĩnh viễn không lùi bỏ nguyện nhất thiết trí.

5. Quán sát thật tướng tất cả pháp giới.

6. Tâm luôn xả lìa tất cả biển cõi, cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.

7. Biết pháp như hư không, chẳng chỗ có, tâm không nương tựa nơi pháp.

8. Thành tựu viên mãn tất cả Bồ Tát đại nguyện.

9. Thường hay thị hiện biển cõi tất cả chư Phật.

10. Thanh tịnh tu hành trí luân vô ngại của Bồ Tát.

 

Phật tử! ưng dĩ thử pháp thừa sự nhất thiết chư thiện tri thức, vô sở vi nghịch.

Nầy Thiện-nam-tử! Nên dùng pháp nầy để kính thờ tất cả thiện-tri-thức không trái nghịch.

Giảng: Phật tử! Nên dùng mười pháp nầy để hầu hạ tất cả thiện tri thức, nhưng không trái nghịch lời dạy của thiện tri thức, càng không thể trái nghịch tâm ý của thiện tri thức. Thiện tri thức có trí huệ chánh tri chánh kiến, chỉ dẫn con đường chánh nên đi. Thiện tri thức là đèn sáng, chiếu sáng tâm tham của phàm phu. Nếu ai ai cũng không có tâm tham thì thiên hạ sẽ thái bình.

 

Nhĩ thời, Thích Ca Cồ ba nữ, dục trọng minh thử nghĩa, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương, Nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ nàng Thích-Ca Cù-Ba muốn tuyên lại nghĩa nầy, thừa thần-lực của Phật, quán-sát mười phương mà nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, Thích nữ Cù Ba muốn thuật rõ lại ý nghĩa nầy, bèn nương đại oai thần lực gia trì của mười phương chư Phật, quán sát nhân duyên của hết thảy chúng sinh trong mười phương, mà nói ra bài kệ mười hai hạnh môn dưới đây.

 

Bồ Tát vi lợi chư quần sanh,                              Bồ-Tát vì lợi các quần-sanh
Chánh niệm thân thừa thiện tri thức,               Chánh-niệm thân thừa thiện-tri-thức
Kính chi như Phật tâm vô đãi,                          Kính xem như Phật tâm không lười
Thử hành ư thế đế võng hạnh.                          Là hạnh đế-võng đi trong đời.

Tại sao Bồ Tát phải tu Bồ Tát đạo? Vì chứng được thần thông diệu dụng, muốn giáo hoá chúng sinh, lợi ích chúng sinh, cho nên lòng ôm hoài niệm, đi đến các nơi tìm thiện tri thức học hỏi. Tâm thành cung kính thiện tri thức, giống như cung kính chư Phật không khác. Bất cứ trải qua thời gian dài bao lâu, cũng không có tâm giải đãi mỏi nhàm. Hạnh môn nầy là hạnh môn lưới La Tràng của trời Đế Thích nơi thế gian.

 

Thắng giải quảng đại như hư không,                Thắng-giải rộng lớn như hư-không
Nhất thiết tam thế tất nhập trung,                   Tất cả tam-thế đều vào trong
Quốc độ chúng sanh Phật giai nhĩ,                   Quốc-độ, chúng-sanh, Phật đều vậy
Thử thị phổ trí quang Minh Hạnh.                   Ðây là phổ-trí quang-minh hạnh.

Thắng giải rộng lớn vô biên nầy như hư không, có thể nói bao quát hết thảy, dung chứa hết thảy. Tất cả ba đời đều vào trong đó. Quốc gia và hư không như nhau. Chúng sinh và hư không như nhau. Chư Phật và hư không như nhau. Đây là hạnh môn phổ trí quang minh.

 

Chí lạc như không vô hữu tế,                            Chí nguyện như không chẳng ngằn mé
Vĩnh đoạn phiền não Ly chư cấu,                     Dứt hẳn phiền-não, lìa trần cấu
Nhất thiết Phật sở tu công đức,                        Tất cả chỗ Phật tu công-đức
Thử hành ư thế thân vân hạnh.                        Là hạnh thân-vân đi thế-gian.

Chí nguyện và an vui của Bồ Tát, như hư không chẳng có bờ mé. Vĩnh viễn dứt trừ tất cả phiền não, vĩnh viễn xa lìa tất cả sự bụi trần. Ở trong đạo tràng của tất cả chư Phật, tu hành đủ thứ công đức. Hạnh môn nầy là hạnh thân mây trong thế giới.

 

Bồ Tát tu tập nhất thiết trí,                               Bồ-Tát tu tập nhất-thiết-trí
Bất khả tư nghị công đức hải,                           Biển công-đức chẳng thể nghĩ bàn
Tịnh chư phước đức trí tuệ thân,                     Tịnh những thân phước-đức trí-huệ
Thử hành ư thế bất nhiễm hạnh.                      Là hạnh chẳng nhiễm đi thế-gian.

Bồ Tát tu tập nhất thiết trí, có công đức không thể nghĩ bàn như biển cả, có thân phước đức trí huệ thanh tịnh. Hạnh môn nầy là hạnh không nhiễm nơi thế gian.

 

Nhất thiết chư Phật Như Lai sở,                       Chỗ tất cả chư Phật Như-Lai
Thính thọ kỳ Pháp Vô yếm túc,                        Nghe lãnh phật-pháp không nhàm đủ
Năng sanh thật tướng trí tuệ đăng,                  Hay sanh đèn trí-huệ thiệt-tướng
Thử hành ư thế phổ chiếu hạnh.                      Là hạnh phổ-chiếu đi thế-gian.

Ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, lắng nghe nhiếp thọ pháp của Phật nói, không khi nào nhàm đủ. Lắng nghe chánh pháp, thì sẽ sinh ra thật tướng đèn trí huệ. Đây là hạnh chiếu khắp ở trong đời.

 

Thập phương chư Phật vô hữu lượng,             Mười phương chư Phật vô-số-lượng
Nhất niệm nhất thiết tất năng nhập,                Một niệm tất cả đều vào được
Tâm hằng bất xả chư Như Lai,                         Tâm hằng chẳng bỏ các Như-Lai
Thử hướng Bồ-đề Đại nguyện hạnh.                Là hạnh nguyện lớn hướng chánh-giác.

Mười phương ba đời tất cả chư Phật vô lượng số, rốt ráo có bao nhiêu vị Phật? Nói đơn giản là có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu thân Phật. Tại sao vậy? Vì chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể làm Phật. Tuy có thể trong một niệm, đi đến khắp cùng đạo tràng của mười phương chư Phật. Nhưng bổn thân không động. Trong tâm luôn luôn nghĩ nhớ chư Phật, không bỏ Phật. Đây là hạnh môn đại nguyện hướng về bồ đề.

 

Năng nhập chư Phật Đại chúng hội,                Vào đại chúng hội của chư Phật
Nhất thiết Bồ Tát tam muội hải,                       Biển tam-muội của chư Bồ-Tát
Nguyện hải cập dĩ phương tiện hải,                  Nguyện-hải nhẫn đến phương-tiện hải
Thử hành ư thế đế võng hạnh.                          Là hạnh đế-võng đi thế-gian.

Bồ Tát hay dùng thần thông trí huệ, vào khắp trong đại chúng hội của tất cả chư Phật. Hay vào trong biển tam muội của tất cả Bồ Tát, hay vào trong biển đại nguyện của Bồ Tát, hay vào trong biển phương tiện của Bồ Tát. Đây là hạnh Đế võng nơi thế gian.

 

Nhất thiết chư Phật sở gia trì,                           Tất cả chư Phật chỗ gia-trì
Tận vị lai tế vô biên kiếp,                                    Tận thuở vị-lai vô-biên kiếp
Xứ xứ tu hành Phổ Hiền đạo,                            Xứ xứ tu hành đạo phổ-hiền
Thử thị Bồ Tát phần thân hạnh.                       Là hạnh phân-thân của Bồ-Tát.

Được tất cả chư Phật gia trì và hộ niệm, hết thuở vị lai vô biên kiếp, bất cứ ở thế giới nào, nơi đạo tràng nào, cũng đều tu hành đạo của Bồ Tát Phổ Hiền tu. Đây là hạnh Bồ Tát phân thân.

 

Kiến chư chúng sanh thọ đại khổ,                    Thấy các chúng-sanh chịu nhiều khổ
Khởi đại từ bi hiện thế gian,                              Khởi đại từ-bi hiện thế-gian
Diễn pháp quang minh trừ ám minh,               Diễn nói quang-minh trừ tối tăm
Thử thị Bồ Tát trí nhật hạnh.                           Là hạnh trí-nhựt của Bồ-Tát.

Bồ Tát thấy các chúng sinh thọ khổ lớn sinh tử, bèn sinh khởi tâm đại từ bi, thị hiện nơi thế gian. Diễn nói Phật pháp, phóng đại quang minh trí huệ, phá trừ tất cả đen tối thế gian. Đây là hạnh Bồ Tát trí nhựt.

 

Kiến chư chúng sanh tại chư thú,                     Thấy những chúng-sanh tại các loài
Vi tập vô biên diệu pháp luân,                           Vì nhóm vô-biên diệu-pháp luân
Lệnh kỳ vĩnh đoạn sanh tử lưu,                        Khiến họ dứt hẳn dòng sanh tử
Thử thị tu hành Phổ Hiền hạnh.                       Ðây là tu hành Phổ-Hiền hạnh.

Bồ Tát thấy các chúng sinh thọ khổ ở trong sáu cõi, vì rộng tập vô biên diệu pháp luân, cho nên siêng tu pháp môn lục độ vạn hạnh, thành tựu viên mãn đạo nghiệp của mình. Tuy giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi, vĩnh dứt dòng sinh tử. Đây là hạnh môn tu hành của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Bồ Tát tu hành thử phương tiện,                      Bồ-Tát tu tập phương-tiện này
Tùy chúng sanh tâm nhi hiện thân,                  Tùy tâm chúng-sanh mà hiện thân
Phổ ư nhất thiết chư thú trung,                        Ở khắp tất cả trong các loài
Hóa độ vô lượng chư hàm thức.                       Hóa độ vô-lượng những hàm-thức.

Bồ Tát tu hành pháp phương tiện nầy, tuỳ tâm niệm của chúng sinh mà hiện đủ thứ thân. Do đó có câu: “Quán căn cơ chúng sinh, vì người nói pháp, theo bệnh cho thuốc”. Khắp ở trong tất cả các cõi, giáo hoá độ thoát vô lượng các hàm thức, tức cũng là tất cả chúng sinh.

 

Dĩ đại từ bi phương tiện lực,                              Dùng sức phương-tiện đại từ-bi
Phổ biến thế gian nhi hiện thân,                       Hiện thân cùng khắp các thế-gian
Tùy kỳ giải dục vi thuyết Pháp,                         Tùy họ hiểu muốn mà thuyết pháp
Giai lệnh thú hướng Bồ-đề đạo.                        Ðều khiến xu-hướng bồ-đề-đạo.

Dùng đại từ đại bi đại nguyện sức phương tiện nầy, khắp cùng tất cả thế gian mà hiện thân. Tuỳ sự hiểu biết ưa thích của chúng sinh mà thuyết pháp. Chúng sinh căn cơ lanh lợi, có thể thấu hiểu đạo lý thâm sâu, thì vì họ diễn nói pháp nghĩa thâm sâu. Chúng sinh căn tánh chậm lụt, có thể tiếp thọ đạo lý nông cạn, thì vì họ nói pháp nghĩa nông cạn. Tóm lại, vì căn cơ của họ mà nói pháp, mới đắc được lợi ích của pháp. Mục đích cuối cùng là đều khiến chúng sinh hướng về đạo bồ đề, tương lai sẽ thành Phật.

 

Thời, Thích Ca Cồ ba thuyết thử tụng dĩ, cáo Thiện tài đồng tử ngôn:

Nói kệ xong, Thích-Ca Cù-Ba bảo Thiện-Tài.

Giảng: Lúc đó, Thích nữ Cù Ba nói mười hai bài kệ nầy rồi, bảo Thiện Tài đồng tử rằng:

 

Thiện nam tử! ngã dĩ thành tựu quan sát nhất thiết Bồ Tát tam muội hải giải thoát môn.

Nầy Thiện-nam-tử!  Ta đã thành-tựu môn giải-thoát quán-sát nhất-thiết Bồ-Tát tam-muội-hải.

Giảng: Thiện nam tử! Hiện tại ta đã thành tựu môn giải thoát quán sát biển tam muội của tất cả Bồ Tát. Tam muội nầy sâu rộng như biển. Như pháp giới vì thâm sâu, như chúng sinh vì rộng lớn. Dùng trí thù diệu, niệm niệm quán sát, nên được tên nầy.

 

Thiện Tài ngôn: đại thánh! thử giải thoát môn cảnh giới vân hà? đáp ngôn:

Thiện-Tài thưa: Bạch đức Thánh!  Cảnh-giới của môn giải-thoát nầy thế nào?

Giảng: Thiện Tài đồng tử nói với Thích nữ Cù Ba rằng: Đại Thánh! Cảnh giới môn giải thoát nầy như thế nào? Xin đại Thánh từ bi vì con nói, để cho con tăng thêm sự thấy nghe, nương theo pháp mà tu hành.

 

Thiện nam tử! ngã nhập thử giải thoát, tri thử Ta Bà thế giới Phật sát vi trần số kiếp, sở hữu chúng sanh ư chư thú trung, tử thử sanh bỉ, tác thiện tác ác, thọ chư quả báo, hữu cầu xuất ly, bất cầu xuất ly, chánh định, tà định cập dĩ ất định, hữu phiền não thiện căn, vô phiền não thiện căn, cụ túc thiện căn, bất cụ túc thiện căn, bất thiện căn sở nhiếp thiện căn, thiện căn sở nhiếp bất thiện căn; như thị sở tập thiện, bất thiện pháp, ngã giai tri kiến.

Thích-Ca Cù-Ba nói: Nầy Thiện-nam-tử!  Ta nhập môn giải-thoát nầy, biết trong cõi Ta-Bà, trải qua phật-sát vi-trần-số kiếp có bao nhiêu chúng-sanh ở trong các loài chết đây sanh kia, làm lành làm dữ, chịu những quả báo, có cầu xuất ly, chẳng cầu xuất ly, chánh-định tà-định và bất-định, thiện-căn có phiền-não, thiện-căn không phiền-não, thiện-căn đầy đủ, thiện-căn không đầy đủ, bất-thiện-căn nhiếp lấy thiện-căn, thiện-căn nhiếp lấy bất-thiện-căn. Chúng-sanh chứa nhóm những pháp thiện và bất-thiện như vậy ta đều biết thấy.

Giảng: Thích nữ Cù Ba đáp rằng: Thiện nam tử! Ta chứng nhập môn giải thoát nầy rồi, biết số kiếp của hết thảy chúng sinh thế giới Ta Bà nầy, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, ở trong sáu cõi (trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục), chết đây sinh kia, chết kia sinh đây, trôi nổi không ngừng, vĩnh viễn không có kỳ hạn. Hoặc làm việc thiện, liền sinh về trời. Hoặc làm việc ác, liền đoạ địa ngục. Làm thiện được thiện báo, làm ác được ác báo. Đây là luật nhân quả, tơ hào không sai. Người học Phật, phải tin nhân quả, không thể bát nhân quả, không thể nói sai nhân quả. Hoặc có chúng sinh, ở trong ba cõi, cảm thấy rất khổ, muốn thoát khỏi nhà lửa ba cõi. Hoặc có chúng sinh, ở trong ba cõi, không cảm thấy khổ, không muốn thoát khỏi ba cõi. Có chúng sinh tu tập chánh định (chánh tri chánh kiến).

Có chúng sinh tu tập tà định (tà tri tà kiến). Thế nào gọi là chánh định? Tức là nghiêm trì năm giới, tuyệt đối không phạm. Thế nào gọi là tà định? Tức là chẳng giữ năm giới, biết rõ mà cố phạm. Biết rõ sát sinh là không đúng, hoặc kêu người khác sát sinh, hoặc tự mình sát sinh. Những giới khác trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, cũng như thế. Hoặc định chẳng chánh chẳng tà, tức là nửa chánh nửa tà, gọi là bất định. Tóm lại, cũng chẳng thiện, cũng chẳng ác. Hoặc trồng căn lành có phiền não. Ví như trồng căn lành là bổn phận của con người, không thể có xí đồ. Phàm là có tư tưởng cầu danh lợi, làm việc lành cố ý để hơn người khác, và làm việc lành để cạnh tranh với người khác, đây tức là căn lành có phiền não. Hoặc trồng căn lành không có phiền não. Ví như, làm việc thiện mà không cầu mong điều gì. Do đó có câu:

“Thiện mà muốn người biết, chẳng phải chân thiện
Ác mà sợ người biết, là đại ác”.

Phàm là làm việc thiện, chẳng muốn người biết, đó là âm đức, thần minh tự nhiên biết rõ. Đây tức là căn lành không có phiền não. Hoặc đầy đủ căn lành. Hoặc không đầy đủ căn lành. Hoặc không căn lành nhiếp căn lành. Tức là gieo trồng căn lành chẳng thuần tạp, mà nhiếp thọ căn lành thuần tạp. Hoặc căn lành nhiếp không căn lành. Tức là gieo trồng căn lành, mà được quả báo chẳng phải là căn lành. Tích tập pháp thiện và pháp bất thiện như vậy, ta đều thấy biết rất rõ ràng.

 

Hựu bỉ kiếp trung sở hữu chư Phật danh hiệu, thứ đệ, ngã tất liễu tri.

Lại trong những kiếp ấy, có bao nhiêu đức Phật danh hiệu thử đệ ta đều biết rõ.

Giảng: Lại nữa, trong số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, hết thảy danh hiệu của tất cả chư Phật thứ tự trước sau xuất hiện ra đời, ta đều biết rõ.

 

Bỉ Phật Thế tôn tùng sơ phát tâm, cập dĩ phương tiện cầu nhất thiết trí, xuất sanh nhất thiết chư Đại nguyện hải, cúng dường chư Phật, tu Bồ Tát hạnh, thành đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, hiện đại thần thông, hóa độ chúng sanh, ngã tất liễu tri.

Chư Phật Thế-Tôn ấy từ sơ-phát-tâm, dùng phương-tiện cầu nhất-thiết-trí xuất sanh tất cả những biển đại-nguyện, cúng-dường chư Phật tu hạnh bồ-tát, thành đẳng chánh-giác, chuyển diệu pháp-luân, hiện đại thần-thông hóa độ chúng-sanh, ta đều biết rõ.

Giảng: Chư Phật Thế Tôn đó, từ lúc ban đầu phát tâm, dùng pháp phương tiện để cầu nhất thiết trí. Sinh ra tất cả các biển đại nguyện. Cúng dường tất cả chư Phật, tu tập Bồ Tát hạnh, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, hiện đại thần thông, giáo hoá chúng sinh. Những cảnh giới đó, ta đều biết rõ ràng.

 

Diệc tri bỉ Phật chúng hội sái biệt, kỳ chúng hội trung hữu chư chúng sanh y Thanh văn thừa nhi đắc xuất ly, kỳ Thanh văn chúng quá khứ tu tập nhất thiết thiện căn, cập kỳ sở đắc chủng chủng trí tuệ, ngã tất liễu tri.

Ta cũng biết chúng-hội sai biệt của chư Phật ấy. Trong đó có chúng-sanh y nơi thanh-văn-thừa mà được xuất ly. Chúng Thanh-Văn nầy quá-khứ tu tập tất cả thiện-căn, và được những trí-huệ ta đều biết rõ.

Giảng: Thích nữ Cù Ba lại nói: Ta cũng biết trong chúng hội của chư Phật đó, có đủ thứ sự khác nhau. Trong chúng hội đó, có các chúng sinh, nương pháp môn Thanh Văn thừa (khổ, tập, diệt,đạo) tu hành mà được thoát khỏi nhà lửa ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc). Do đó có câu: “Ba cõi như nhà lửa, sinh tử như ngục tù”. Đây là tư tưởng của người nhị thừa. Họ chứng được tứ quả A la hán, liền hoá thành tự khốn, chẳng cầu tiến bộ. Cho rằng các lậu đã sạch, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa. Tuy nhiên dứt được phần đoạn sinh tử, chứng được Hữu Dư Niết Bàn; nhưng chưa dứt được biến dịch sinh tử, chưa chứng được Vô Dư Niết Bàn. Chúng sinh trong Thanh Văn thừa, trong quá khứ cũng đã từng tu tập tất cả căn lành và đắc được đủ thứ trí huệ, ta đều biết rõ ràng.

 

Hữu chư chúng sanh y độc giác thừa nhi đắc xuất ly, kỳ chư độc giác sở hữu thiện căn, sở đắc Bồ-đề, tịch diệt giải thoát, thần thông biến hóa, thành thục chúng sanh, nhập ư niết bàn, ngã tất liễu tri.

Có những chúng-sanh y nơi độc-giác-thừa mà được xuất ly. Những Ðộc-Giác nầy có bao nhiêu thiện-căn, được bồ-đề tịch-diệt giải-thoát, thần-thông biến-hóa thành-thục chúng-sanh, nhập niết-bàn ta đều biết rõ.

Giảng: Có những chúng sinh, nương theo pháp môn Duyên Giác thừa (quán 12 nhân duyên) tu hành mà được thoát khỏi ba cõi. Chúng sinh trong Duyên Giác thừa, hết thảy căn lành, đắc được bồ đề, tịch diệt giải thoát, thần thông biến hoá, thành thục chúng sinh, vào Niết Bàn, những cảnh giới đó, ta đều biết rõ ràng.

 

Diệc tri bỉ Phật chư Bồ-tát chúng, kỳ chư Bồ-tát tùng sơ phát tâm, tu tập thiện căn, xuất sanh vô lượng chư Đại nguyện hạnh, thành tựu mãn túc chư Ba-la-mật chủng chủng trang nghiêm Bồ Tát chi đạo, dĩ tự tại lực, nhập Bồ Tát địa, trụ Bồ Tát địa, quán Bồ Tát địa, tịnh Bồ Tát địa,  Bồ Tát địa tướng,  Bồ Tát địa trí, Bồ Tát nhiếp trí, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh trí, Bồ Tát kiến lập trí, Bồ Tát quảng đại hạnh cảnh giới, Bồ Tát thần thông hạnh, Bồ Tát tam muội hải, Bồ Tát phương tiện, Bồ Tát ư niệm niệm trung sở nhập tam muội hải, sở đắc nhất thiết trí quang minh, sở hoạch nhất thiết trí điện quang vân, sở đắc thật tướng nhẫn, sở thông đạt nhất thiết trí, sở trụ sát hải, sở nhập pháp hải, sở tri chúng sanh hải, sở trụ phương tiện, sở phát thệ nguyện, sở hiện thần thông, ngã tất liễu tri.

Ta cũng biết chư Bồ-Tát trong chúng-hội ấy, từ sơ-phát-tâm tu tập thiện-căn xuất sanh vô-lượng hạnh nguyện lớn, thành tựu đầy đủ những môn ba-la-mật, trang-nghiêm đạo bồ-tát, dùng sức tự-tại nhập bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, quán bồ-tát-địa, tịnh bồ-tát-địa, tướng của bồ-tát-địa, trí của bồ-tát-địa, trí của bồ-tát-nhiếp, trí của Bồ-Tát giáo-hóa chúng-sanh, trí của Bồ-Tát kiến lập, cảnh-giới hạnh rộng lớn của Bồ-Tát, thần-thông hạnh của Bồ-Tát, biển tam-muội của Bồ-Tát, phương-tiện của Bồ-Tát, Bồ-Tát trong mỗi niệm nhập tam-muội-hải, được quang-minh nhất-thiết-trí, được điển-quang-vân nhất-thiết-trí, được thiệt-tướng-nhẫn, thông đạt nhất-thiết-trí, trụ sát-hải, nhập-pháp-hải, biết chúng-sanh-hải, trụ phương-tiện, phát thệ nguyện, hiện thần-thông.  Ta đều biết rõ cả.

Giảng: Thích nữ Cù Ba lại nói: Ta cũng biết trong đạo tràng của chư Phật đó, có các chúng Bồ Tát. Các Bồ Tát đó, từ lúc ban đầu phát bồ đề tâm, tu tập căn lành, sinh ra vô lượng các đại hạnh nguyện. Thành tựu viên mãn đầy đủ các pháp Ba La Mật, đủ thứ trang nghiêm Bồ Tát đạo. Dùng sức tự tại, mà vào bậc Bồ Tát, trụ bậc Bồ Tát, quán bậc Bồ Tát, tịnh bậc Bồ Tát, tướng trạng bậc Bồ Tát, trí huệ bậc Bồ Tát, trí huệ Bồ Tát nhiếp thọ, trí huệ Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, trí huệ Bồ Tát kiến lập, cảnh giới Bồ Tát hạnh rộng lớn, thần thông diệu hạnh của Bồ Tát, biển tam muội tu hành của Bồ Tát, pháp môn phương tiện thiện xảo của Bồ Tát. Bồ Tát ở trong niệm niệm, nhập vào biển tam muội, đắc được nhất thiết trí quang minh. Đắc được mây ánh chớp nhất thiết trí. Đắc được đạo lý thật tướng nhẫn. Thông đạt nhất thiết trí, an trụ đủ thứ biển cõi, nhập vào biển Phật pháp, biết biển chúng sinh, an trụ phương tiện, phát thệ nguyện, hiện thần thông, ta đều biết rõ ràng.

 

Thiện nam tử! thử Ta Bà thế giới, tận vị lai tế, sở hữu kiếp hải, triển chuyển bất đoạn, gã giai liễu tri.

Nầy Thiện-nam-tử! Cõi Ta-Bà nầy, tận thuở vị-lai có những kiếp-hải xoay vần chẳng dứt ta đều biết rõ.

Giảng: Thiện nam tử! Hết thuở vị lai ở thế giới Ta Bà nầy, hết thảy biển kiếp, chuyển động không dứt, ta đều biết rõ ràng.

 

Như tri Ta Bà thế giới, diệc tri Ta Bà thế giới nội vi trần số thế giới, diệc tri Ta Bà thế giới nội nhất thiết thế giới, diệc tri Ta Bà thế giới vi trần nội sở hữu thế giới, diệc tri Ta Bà thế giới ngoại thập phương Vô gián sở trụ thế giới, diệc tri Ta Bà thế giới thế giới chủng sở nhiếp thế giới, diệc tri Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn thử hoa tạng thế giới hải trung thập phương vô lượng chư thế giới chủng sở nhiếp thế giới,

Như biết cõi Ta-Bà, ta cũng biết vi-trần-số tất cả thế-giới trong cõi Ta-Bà, ta cũng biết những thế-giới trong vi-trần của cõi Ta-Bà, cũng biết mười phương thế-giới ở ngoài cõi Ta-Bà, cũng biết những thế-giới của Ta-Bà thế-giới-chủng sở-chiếp, cũng biết những thế-giới của thập phương vô-lượng thế-giới chủng sở-nhiếp trong Hoa-Tạng Thế-giới-Hải nầy:

Giảng: Như biết thế giới Ta Bà, cũng biết số thế giới nhiều như số hạt bụi trong thế giới Ta Bà. Cũng biết tất cả thế giới trong thế giới Ta Bà. Cũng biết hết thảy thế giới nhiều như số hạt bụi trong thế giới Ta Bà. Cũng biết các thế giới trong mười phương ở ngoài thế giới Ta Bà không gián đoạn. Cũng biết thế giới chủng nhiếp thế giới của thế giới Ta Bà. Cũng biết Phật Tỳ Lô Giá Na ở trong biển thế giới Hoa Tạng nầy, mười phương vô lượng các thế giới chủng nhiếp thế giới.

 

Sở vị: thế giới quảng bác, thế giới an lập, thế giới luân, thế giới trường, thế giới sái biệt, thế giới chuyển, thế giới liên hoa, thế giới Tu-Di, thế giới danh hiệu.

Những là thế-giới rộng-rãi, thế-giới an lập, thế-giới luận, thế-giới-tràng, thế-giới sai biệt, thế-giới chuyển, thế-giới liên-hoa, thế-giới tu-di, thế-giới danh hiệu.

Giảng: Tướng trạng thế giới, có mười thứ khác nhau, đó là:
1. Thế giới rộng lớn.
2. Thế giới an lập.
3. Thế giới luân.
4. Thế giới tràng.
5. Thế giới khác biệt.
6. Thế giới chuyển.
7. Thế giới liên hoa.
8. Thế giới tu di.
9. Thế giới danh hiệu.
10. Kết quả thế quả.

 

Tận thử thế giới hải nhất thiết thế giới, do Tỳ Lô Giá Na Thế Tôn bản nguyện lực cố, ngã tất năng tri, diệc năng ức niệm. Diệc niệm Như Lai vãng tích sở hữu chư nhân duyên hải.

Tất cả những thế-giới trong thế-giới-hải nầy, do bổn-nguyện-lực của Tỳ-Lô-Giá-Na Thế-Tôn nên ta đều biết rõ và ghi nhớ cả. Ta cũng nhớ những nhơn-duyên-hải thuở xưa của đức Như-Lai:

Giảng: Hết tất cả thế giới biển thế giới nầy, do nguyện lực xưa của Phật Tỳ Lô Giá Na,  mà ta đều biết được, ta cũng nghĩ nhớ được cảnh giới nầy.

 

Sở vị: tu tập nhất thiết chư thừa phương tiện, vô lượng kiếp trung, trụ Bồ Tát hạnh, tịnh Phật quốc độ, giáo hóa chúng sanh, thừa sự chư Phật, tạo lập trụ xứ, thính thọ thuyết Pháp, hoạch chư tam muội, đắc chư tự tại; tu đàn ba-la-mật nhập Phật công đức hải, trì giới khổ hạnh, cụ túc chư nhẫn, dũng mãnh tinh tấn, thành tựu chư Thiền, viên mãn tịnh tuệ; ư nhất thiết xứ thị hiện thọ sanh, Phổ Hiền hạnh nguyện tất giai thanh tịnh, phổ nhập chư sát, phổ tịnh Phật độ, phổ nhập nhất thiết Như Lai trí hải, phổ nhiếp nhất thiết chư Phật Bồ-đề, đắc ư Như Lai Đại trí quang minh, chứng ư chư Phật nhất thiết trí tánh, thành đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân; cập kỳ sở hữu đạo tràng chúng hội, kỳ chúng hội trung nhất thiết chúng sanh, vãng thế dĩ lai sở chủng thiện căn, tùng sơ phát tâm, thành thục chúng sanh, tu hành phương tiện, niệm niệm tăng trưởng, hoạch chư tam muội thần thông giải thoát. Như thị nhất thiết, ngã tất liễu tri.

Như là tu tập phương-tiện của tất cả thừa, trụ bồ-tát-hạnh trong vô-lượng kiếp, tịnh phật quộc-độ, giáo-hóa chúng-sanh, kính thờ chư Phật, tạo lập trụ xứ, nghe pháp, được tam-muội, được tự-tại, tu đàn-ba-la-mật, nhập Phật công-đức, trì giới khổ hạnh, đầy đủ nhẫn lực, dũng mãnh tinh-tấn, thành-tựu thiền-định, viên-mãn tịnh-huệ, thị hiện thọ sanh khắp mọi nơi, hạnh nguyện Phổ-Hiền thảy đều thanh-tịnh, vào khắp các cõi, tịnh khắp phật-dộ, vào khắp phật-trí, nhiệp khắp  phật bồ-đề, được đại-trí quang-minh của Như-Lai, chứng phật-trí-tánh, thành đẳng-chánh-giác, chuyển diệu-pháp-luân.  Nhẫn đến tất cả đạo tràng chúng-hội của Phật, từ trước đến nay đã gieo thiện-căn, từ sơ phát tâm thành thục chúng-sanh tu hành phương-tiện, niệm niệm tăng trưởng, được những tam-muội thần-thông giải-thoát, ta đều biết rõ tất cả.

Giảng: Thích nữ Cù Ba lại nói: Ta cũng nhớ hết thảy các biển nhân duyên thuở xưa của Như Lai. Đó là: Phương tiện tu tập tất cả các thừa. Trong vô lượng kiếp trụ Bồ Tát hạnh. Thanh tịnh trang nghiêm cõi nước chư Phật mười phương. Giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh. Hầu hạ cúng dường tất cả chư Phật. Kiếp lập tất cả trụ xứ. Lắng nghe nhiếp thọ pháp của chư Phật nói. Đắc được tất cả các tam muội. Đắc được sức nhậm vận tự tại. Tu hành hạnh bố thí Ba La Mật. Vào biển công đức của Phật. Tu hành pháp môn trì giới, học tập mười hai điều khổ hạnh. Tu hành pháp môn nhẫn nhục, nhẫn nại được tất cả những việc khó nhẫn, các nhẫn đều đầy đủ. Tu hành pháp môn tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày đêm sáu thời, dũng mãnh tinh tấn, không giải đãi. Tu hành pháp môn thiền định, thành tựu bốn thiền tám định. Tu hành pháp môn Bát Nhã, viên mãn nhất thiết trí huệ thanh tịnh. Thị hiện thọ sinh ở tất cả mọi nơi. Hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền thảy đều thanh tịnh. Khắp vào tất cả cõi Phật. Khắp tịnh tất cả cõi Phật. Khắp vào biển trí huệ của tất cả chư Phật. Nhiếp khắp tất cả chư Phật bồ đề đạo.

Lại đắc được đại trí huệ quang minh của Như Lai. Chứng được tánh nhất thiết trí huệ của chư Phật. Thành Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, cùng với hết thảy đạo tràng chúng hội. Tất cả chúng sinh trong chúng hội đó, từ xưa đến nay, gieo trồng căn lành, từ lúc ban đầu phát tâm, thành thục tất cả chúng sinh, tu hành tất cả phương tiện, trong niệm niệm liên tục tăng trưởng, đắc được các tam muội, thần thông giải thoát. Tất cả cảnh giới như vậy, ta đều biết rõ.

 

Hà dĩ cố? ngã thử giải thoát, năng tri nhất thiết chúng sanh tâm hành, nhất thiết chúng sanh tu hành thiện căn, nhất thiết chúng sanh tạp nhiễm thanh tịnh, nhất thiết chúng sanh chủng chủng sái biệt, nhất thiết Thanh văn chư tam muội môn, nhất thiết duyên giác tịch tĩnh tam muội thần thông giải thoát, nhất thiết Bồ Tát nhất thiết Như Lai giải thoát quang minh, giai liễu tri cố.

Tại sao vậy? Vì môn giải-thoát của ta đã được đây, có thể biết tâm hành của tất cả chúng-sanh, tất cả thiện-căn của chúng-sanh tu hành, tất cả chúng-sanh tạp nhiễm thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh sai biệt, tất cả môn tam-muội của Thanh-Văn, tất cả tam-muội thần-thông giải-thoát của Duyên-Giác, giải-thoát quang-minh của tất cả Bồ-Tát, của tất cả Như-Lai, ta đều biết rõ.

Giảng: Tại sao vậy? Vì ta hoàn toàn biết rõ giải thoát nầy. Biết được tâm hạnh của tất cả chúng sinh. Biết được căn lành tất cả chúng sinh. Biết được tạp nhiễm thanh tịnh của tất cả chúng sinh. Biết được đủ thứ khác biệt của tất cả chúng sinh. Biết được các môn tam muội của tất cả Thanh Văn. Biết được tịch tĩnh tam muội thần thông giải thoát của tất cả Duyên Giác. Biết được giải thoát quang minh của tất cả Bồ Tát và tất cả Như Lai. Những cảnh giới nầy ta đều thấu rõ biết được.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử bạch Cồ ba ngôn: Thánh Giả đắc thử giải thoát, kỳ dĩ cửu như?

Bây giờ, Thiện-Tài thưa với Cổ Ba Ngôn: Ngài được môn giải-thoát nầy đã bao lâu?

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thưa với Thích nữ Cù Ba rằng: Đức Thánh! Ngài đắc được môn giải thoát nầy đã bao lâu? Có thể nói cho con biết được chăng!

 

Đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã ư vãng thế, qua Phật sát vi trần số kiếp, hữu kiếp danh: thắng hành, thế giới danh: vô úy.

Cù-Ba nói: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở xưa, quá phật-sát cực-vi-trần số kiếp, có kiếp tên là Thắng-hạnh, thế-giới tên là Vô-Úy,

Giảng: Thích nữ Cù Ba trả lời câu hỏi của Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Thuở xưa, trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, có kiếp tên là kiếp Thắng Hạnh. Có thế giới tên là thế giới Vô Uý.

 

Bỉ thế giới trung, hữu tứ thiên hạ, danh vi: An ổn. Kỳ tứ thiên hạ Diêm-phù-đề trung, hữu nhất vương thành, danh: cao thắng thọ, ư bát thập vương thành trung tối vi thượng thủ. Bỉ thời, hữu Vương danh viết: tài chủ, kỳ Vương cụ hữu lục vạn thải nữ, ngũ bách đại thần, ngũ bách Vương tử;

Trong thế-giới ấy có tứ thiên-hạ tên là An-Ổn. Trong Diêm-Phù- Ðề có thành vua tên là Cao-Thắng-Thọ, vương-thành nầy là thượng-thủ trong tám mươi Vương-thành. Quốc-Vương tên là Tài-Chủ, có sáu vạn Thể-Nữ, năm trăm Vương-Tử, năm trăm Ðại-Thần.

Giảng: Ở trong thế giới đó, có bốn thiên hạ, tên là An Ổn. Trong bốn thiên hạ Diêm Phù Đề đó, có một thành vua, tên là thành Cao Thắng Thụ, là thượng thủ trong tám mươi thành vua. Lúc bấy giờ, có ông một vị vua tên là Tài Chủ. Ông vua đó, có sáu vạn thể nữ, năm trăm đại thần, năm trăm vương tử.

 

Kỳ chư Vương tử giai tất dũng kiện, năng phục oán địch. kỳ Vương Thái-Tử, danh: uy đức chủ, đoan chánh Thù đặc, nhân sở lạc kiến, túc hạ bình mãn, luân tướng bị cụ, túc phu long khởi, thủ túc chỉ gian giai hữu võng man, túc cân tề chánh, thủ túc nhu nhuyễn, y ni da lộc Vương 腨,thất xứ viên mãn, uẩn tạng ẩn mật, kỳ thân thượng phần như Sư tử Vương, lưỡng kiên bình mãn, song tý dong trưởng, thân tướng đoan trực, cảnh văn tam đạo, giáp như sư tử, cụ tứ thập xỉ tất giai tề mật, tứ nha tiên bạch, kỳ thiệt trưởng quảng xuất Phạm Âm thanh, nhãn mục cám thanh, tiệp như ngưu vương, my gian hào tướng, đảnh thượng nhục kế, bì phu tế nhuyễn như chân kim sắc, thân mao thượng mĩ, phát đế thanh sắc, kỳ thân hồng mãn như Ni câu đà thọ.

Các Vương-Tử nầy đều dũng-mãnh dẹp được oán-địch. Thái-Tử tên là Oai-Ðức-Chủ, thân tướng đầy đủ đoan chính xinh đẹp, mọi người đều thích thấy. Vương-Tử nầy dưới bàn chân bằng đầy, đủ luân-tướng, lưng bàn chân vun cao, ngón tay ngón chân đều có màn mỏng, gót chân ngay bằng tay chân dịu mềm, bắp chân lộc-vương, bảy chỗ viên-mãn, âm-tàng ẩn kín, phần trên của thân mình như sư-tử-vương, hai vai bằng đầy, hai tay suông dài, thân tướng ngay thẳng, cổ ba ngấn, má như sư-tử, đủ bốn mươi cái răng tất cả đều bằng kín, bốn răng nanh trắng bóng, lưỡi dài rộng vang phạm âm thanh, tròng mắt xanh biếc, lông mắt như ngưu-vương, chặng mày có bạch-hào, trên đỉnh đầu có nhục-kế, da thứa mịn nhuyễn màu chơn kim, lông trên thân đều xoắn lên trên, tóc màu đế-thanh, thân tròn đầy ngay thẳng như cây ni-câu-đà.

Giảng: Các vương tử đó, thân thể khoẻ mạnh, dũng mãnh thiện chiến, bách chiến bách thắng, hàng phục được tất cả oán địch. Thái tử của vị vua Tài Chủ đó tên là Oai Đức Chủ, Ngài đầy đủ 32 tướng đại nhân trang nghiêm thân. Tướng mạo của thái tử rất đoan chính thù đặc, mọi người ai cũng muốn nhìn Ngài, có cảm giác nhìn hoài không chán. Dưới chân của Ngài bằng đầy (dưới bàn chân không có chỗ lõm), đầy đủ luân tướng (tức cũng là tướng bánh xe ngàn căm, dưới bàn chân có hình bánh xe). Lưng bàn chân nhô cao, giữa ngón tay, ngón chân, đều có màng lưới. Gót chân bằng phẳng, tay chân mềm mại. Bắp chân lộc vương, bảy chỗ tròn đầy (tức là dưới hai bàn chân, lòng hai bàn tay, hai vai, và đỉnh đầu, bảy chỗ). Âm tàng ẩn kín (nam căn của đàn ông), phần trên thân như sư tử chúa (thân thể oai nghi rất oai phong như sư tử chúa). Hai vai bằng đầy (hai vai rộng mà còn bằng đầy), hai tay thon dài (hai tay dài quá gối). Thân tướng ngay thẳng, cổ ba ngấn, má như sư tử. Đủ bốn mươi cái răng, tất cả đều ngay kín (đức Phật có 40 cái răng, Ngài Thanh Lương quốc sư cũng có 40 cái răng, người bình thường chỉ có 32 cái răng), bốn răng nanh trắng bóng. Lưỡi rộng dài (lưỡi vừa dài, vừa mềm, thè ra có thể liếm tới mũi và trán), vang ra tiếng phạm âm (lời nói rất thanh cao). Mắt xanh biếc, lông nheo như ngưu chúa. Chặng mày có tướng bạch hào (ruỗi ra dài khoảng một trượng năm thước, phóng đại quang minh. Thu vào ẩn tàng giữa lông mày), trên đỉnh đầu có nhục kế (tướng vô kiến đỉnh). Da mịn màn như màu vàng ròng. Lông trên thân đều xoắn lên trên, tóc màu xanh đen. Thân thể của thái tử tròn đầy cao thẳng như cây Ni Câu Đà.

Thuở xưa, đức Thế Tôn đã từng ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng tướng tốt. Cho nên đầy đủ 32 tướng, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Nay nói về 32 tướng, 80 vẻ đẹp trong sớ sao, để khảo nghiệm. 32 tướng:

1. Dưới chân đức Thế Tôn có tướng bằng đầy, khéo an trụ, giống như đáy hộp, tuy đất cao thấp, tuỳ chân đạp lên, đều bằng phẳng, đồng đều.

2. Dưới chân đức Thế Tôn tròn đầy, có tướng bánh xe ngàn căm, các tướng chằng chịt.

3. Tay chân của đức Thế Tôn đều mềm mại, như lụa đâu la miên, hơn hết tất cả.

4. Ở giữa ngón tay, ngón chân của đức Thế Tôn, có màng lưới như ngỗng chúa, sắc vàng quấn nhau.

5. Tất cả các ngón tay chân của đức Thế Tôn tròn đầy thon dài, rất đáng ưa thích.

6. Gót chân của đức Thế Tôn dài rộng tròn đầy, tướng vun tròn của mu bàn chân đặt biệt hơn các cõi hữu tình.

7. Mu bàn chân của đức Thế Tôn, nổi cao đầy đặn, mềm mại tốt đẹp, tương xứng với gót.

8. Hai bắp đùi của đức Thế Tôn tròn trĩnh thon đẹp, như đùi nai chúa Y Ni Na Tiên.

9. Hai cánh tay của đức Thế Tôn thẳng dài tròn đầy, như voi chúa, đứng thẳng thòng quá đầu gối.

10. Tướng âm tàng của đức Thế Tôn ẩn kín, như rồng ngựa, cũng như voi chúa.

11. Mỗi lỗ chân lông của đức Thế Tôn, đều mọc ra một lông, tươi nhuận mềm mại xanh biết, vòng về bên phải.

12. Tóc của đức Thế Tôn đều mềm mịn xanh biếc, vòng về bên phải, toàn thân đều màu vàng ròng, rất đáng ưa thích.

13. Da trên thân của đức Thế Tôn đều mịn màn tươi nhuận, nước và bụi bặm đều không đọng dính trên da.

14. Da trên thân của đức Thế Tôn đều màu vàng ròng, lóng lánh sáng rỡ, như đài vàng đẹp, các báu trang nghiêm, ai cũng muốn nhìn.

15. Hai bàn chân, hai lòng bàn tay, cổ và hai vai của đức Thế Tôn, bảy chỗ đều đầy đặn.

16. Trán và vai của đức Thế Tôn tròn đầy thù diệu.

17. Hai nách của đức Thế Tôn đều đầy đặn.

18. Dung mạo và oai nghi của đức Thế Tôn đoan chính viên mãn.

19. Tướng thân của đức Thế Tôn to lớn đoan nghiêm.

20. Thể tướng của đức Thế Tôn các bề cao rộng, thật cân đối viên mãn, như cây Ni câu đà.

21. Phần trên thân của đức Thế Tôn từ ngực tới cằm, uy dung rộng lớn, như sư tử chúa.

22. Vầng ánh sáng chung quanh đầu mặt của đức Thế Tôn, thường sáng là một trượng.

23. Hàm răng của Ðức Thế Tôn đủ 40 cái, bằng đều không so le, sít kín nhau, chân sâu và trong trắng như ngọc “Kha Tuyết”.

24. Bốn răng cửa của đức Thế Tôn, trắng tươi và bén nhọn.

25. Tất cả hương vị khi đến với đức Thế Tôn đều trở thành “Thượng Vị”. Sở dĩ có như vậy, vì ngay nơi hầu mạch (mạch tại cổ) có công năng dẫn thẳng đến các mạch chi tiết của toàn thân. Các bịnh đàm ấm phong nhiệt, đều bị vô hiệu với cơ thân của đức Thế Tôn. Cơ thể miễn nhiễm tuyệt vời đó, làm tiêu hoại tất cả sự xâm tổn đến các mạch, nổi chìm co giãn trong thân của Ngài.

26. Tướng lưỡi của đức Thế Tôn, trong sạch dài rộng và mỏng, công năng của lưỡi có thể che trùm cả mặt cho đến mé tóc trán và đến mang tai.

27. Phạm âm từ vận giọng nói củađứcThế Tôn, lan rộng hòa nhã dịu dàng, bất luận thính chúng nhiều ít, xa gần độ nghe được, đều bình đẳng giống nhau. Chấn âm của giọng như tiếng trống trời, điệu uyển chuyển của thanh âm mềm như “tiếng Tần già” (giống chim nói pháp cõi Tịnh Ðộ).

28. Ðôi chân mày của đức Thế Tôn, xanh biếc như ngưu chúa, xếp lớp nằm nghiêng chỉnh tề không rối.

29. Ðôi tròng mắt của đức Thế Tôn, xanh biếc trắng tươi, trong xanh tươi trắng phân minh, chỗ giáp màu hơi ửng hồng.

30. Khuôn mặt của đức Thế Tôn, tròn sáng như trăng rằm, chân mày cong như cánh cung của trời Thiên Ðế.

31. Giữa hai chân mày của đức Thế Tôn có tướng bạch hào, xoay vòng về bên phải, mềm mại như tơ Đâu la miên (tơ cõi trời), tươi trắng sáng suốt như ngọc “Kha-tuyết”.

32. Trên đỉnh đầu của đức Thế Tôn nổi lên một cục tròn gọi là Ô-sắc-nị-ca (Nhục kế), cao hiển tròn trịa, giống như lọng trời).

80 vẻ đẹp:
1. Không thấy đỉnh tướng: chòm đỉnh đầu của Đức Phật càng nhìn càng cao, nên chẳng thấy đỉnh.
2. Mũi cao, lỗ mũi không lộ.
3. Lông mày như trăng non.
4. Dái tai rủ xuống.
5. Thân rắn chắc như na-la-diên.
6. Khớp xương chắc như móc khoá.
7. Một khi dở mình, xoay người thì như voi chúa.
8. Lúc đi chân cách mặt đất bốn tấc và hiện ấn văn.
9. Móng như màu đồng đỏ, mỏng và láng bóng.
10. Xương đầu gối rắn chắc tròn và đẹp.
11. Thân trong sạch.
12. Thân mềm mại.
13. Thân chẳng cong vẹo.
14. Ngón tay tròn mà thon nhỏ.
15. Vân ngón tay ẩn kín.
16. Mạch sâu chẳng hiện.
17. Mắt cá ẩn.
18. Thân bóng bẩy mượt mà.
19. Thân chẳng uốn éo.
20. Thân đầy đủ.
21. Dung nghi đầy đủ.
22. Dung nghi hoàn toàn.
23. Trụ xứ yên không động.
24. Oai chấn hết thảy.
25. Mọi chúng sanh thấy đều vui mừng.
26. Mặt chẳng dài to.
27. Dung mạo ngay thẳng không lệch lạc.
28. Mặt mũi đầy đặn.
29. Môi đỏ như quả Tần-bà.
30. Tiếng nói vang trầm.
31. Rốn sâu tròn đẹp.
32. Lông xoăn theo chiều bên phải.
33. Tay chân tròn trịa.
34. Tay chân như ý.
35. Vân tay sáng thẳng.
36. Vân tay dài.
37. Vân tay chẳng đứt.
38. Chúng sanh có ác tâm thấy Ngài thì đều hoà nhã vui vẻ.
39. Mặt rộng và rất đẹp.
40. Mặt mũi thanh tịnh và đầy đặn như vầng trăng tròn.
41. Nói năng hoà nhã với chúng sanh đúng theo ý thích của họ.
42. Lỗ chân lông toả ra mùi thơm.
43. Miệng toả mùi thơm tuyệt vời.
44. Dáng điệu, cử chỉ, dung mạo như sư tử.
45. Đi đứng oai vệ như voi chúa.
46. Tướng đi như ngỗng chúa.
47. Đầu như quả Ma-đà-na.
48. Mọi thành phần đều đầy đủ.
49. Bốn răng cửa trắng và sắc.
50. Lưỡi màu đỏ.
51. Lưỡi mỏng.
52. Lông màu hồng.
53. Lông mềm mại sạch sẽ.
54. Mắt rộng dài.
55. Tướng tử môn đầy đủ.
56. Tay chân trắng đỏ như màu hoa sen.
57. Rốn chẳng lồi.
58. Bụng chẳng lộ.
59. Bụng thon.
60. Thân chẳng khuynh động.
61. Thân trì trọng.
62. Thân lớn.
63. Thân dài.
64. Tay chân mềm mại, sạch sẽ bóng bẩy.
65. Xung quanh có hào quang dài một trượng.
66. Khi đi có hào quang chiếu trên thân.
67. Coi chúng sanh bình đẳng như nhau.
68. Chẳng khinh chúng sanh.
69. Âm thanh tuỳ theo chúng sanh, chẳng tăng chẳng giảm.
70. Thuyết pháp chẳng chấp trước.
71. Tuỳ theo ngôn ngữ của chúng sanh mà thuyết giảng.
72. Pháp âm ứng với tiếng của chúng sanh.
73. Tuần tự ứng với nhân duyên mà thuyết pháp.
74. Hết thảy chúng sanh ngắm thân tướng Phật mà chẳng ngắm hết.
75. Ngắm mãi không chán.
76. Tóc dài và đẹp.
77. Tóc chẳng rối.
78. Tóc xoăn đẹp.
79. Màu tóc như ngọc xanh.
80. Tay chân là tướng bậc có đức.

Do đó có câu “Tướng theo tâm chuyển”. Người tâm tốt, tướng tuy chẳng tốt, cũng chẳng khởi tác dụng, mà sẽ bình an vô sự. Người tâm không tốt, tướng tuy tốt, cũng bị xung phá, chẳng có ứng nghiệm. Tóm lại, hãy làm việc tốt, đừng hỏi kết quả sẽ ra sao (mạc vấn tiền trình). Ở trong sự minh minh đó, hộ pháp thiện thần sẽ trợ giúp, gặp hung hoá cát, tai qua nạn khỏi.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử thọ Phụ Vương giáo, dữ thập thiên thải nữ nghệ hương nha viên du quán hí lạc. Thái-Tử Thị thời, thừa diệu bảo xa, kỳ xa cụ hữu chủng chủng nghiêm sức, trí Đại ma-ni sư tử chi tọa nhi tọa kỳ thượng; ngũ bách thải nữ các chấp bảo thằng khiên ngự nhi hành, tiến chỉ hữu độ, bất trì bất tốc; bách thiên vạn nhân trì chư bảo cái, bách thiên vạn nhân trì chư bảo tràng, bách thiên vạn nhân trì chư bảo phiên, bách thiên vạn nhân tác chư kĩ lạc, bách thiên vạn nhân thiêu chư danh hương, bách thiên vạn nhân tán chư hương khí, tiền hậu vi nhiễu nhi vi dực tòng.

Lúc đó Thái-Tử tuân lịnh Phụ-Vương cùng một ngàn thể-nữ vào vườn hương-nha du ngoạn. Thái-Tử ngồi trên tòa sư-tử đại-ma-ni trong xe, năm trăm thể-nữ cầm dây báu kéo xe. Trăm ngàn vạn người cầm bửu-cái. Trăm ngàn muôn người cầm bửu-tràng. Trăm ngàn muôn người cầm bửu-phan. Trăm ngàn muôn người trổi nhạc. Trăm ngàn muôn người xông hương thơm. Trăm ngàn muôn người rải hoa đẹp. Tùy tùng trước sau theo xe Thái-Tử.

Giảng: Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ vâng lời phụ vương, cùng với mười ngàn thể nữ đi đến vườn Hương Nha du ngoạn, vui chơi, ngắm cảnh, hoặc ca ngâm, hoặc khiêu vũ, hoặc bơi lội, hoặc đá cầu. Thái tử lúc bấy giờ ngồi trên toà sư tử đại ma ni trong xe báu đẹp làm bằng bảy báu, xe đó có đủ các thứ châu báu dùng để nghiêm sức. Năm trăm thể nữ cầm dây báu bảy màu kéo xe, khi tiến, khi lùi đều có chừng mực, không chậm, không nhanh. Có trăm ngàn vạn người cầm các lọng báu. Có trăm ngàn vạn người cầm các tràng báu. Có trăm ngàn vạn người cầm các phan báu. Có trăm ngàn vạn người tấu lên các kỹ nhạc. Có trăm ngàn vạn người đốt lên các hương thơm. Có trăm ngàn vạn người rải các hoa đẹp. Những người tuỳ tùng đó trước sau đi theo thái tử.

 

Đạo lộ bình chánh, vô hữu cao hạ, chúng bảo Tạp hoa tán bố kỳ thượng; bảo thụ hàng liệt, bảo võng di phước, chủng chủng lâu các duyên mậu kỳ gian. Kỳ lâu các trung, hoặc hữu tích tụ chủng chủng trân bảo, hoặc hữu trần liệt chư trang nghiêm cụ, hoặc hữu cung thiết chủng chủng ẩm thực, hoặc hữu huyền bố chủng chủng y phục, hoặc hữu bị nghĩ chư tư sanh vật, hoặc phục an trí đoan chánh nữ nhân, cập dĩ vô lượng đồng bộc thị tòng; tùy hữu sở tu, tất giai thí dữ.

Ðường xá bằng phẳng, rải đầy những hoa đẹp. Hai bên đường cây báu thành hàng, lưới báu giăng che, nhiều lầu các chứa những châu báu, hoặc trần thiết những vật trang-nghiêm, hoặc chưng dọn những thức uống ăn, hoặc treo y-phục, hoặc sắm đủ những vật tư-sanh, tùy ai cần gì đều ban cho.

Giảng: Đường xá bằng phẳng, không có chỗ cao thấp, có rải các thứ hoa báu đẹp trên đường. Cây báu bên đường thẳng hàng, có đủ thứ lưới báu che phủ phía trên để nghiêm sức. Có đủ thứ lầu các hình dáng khác nhau, có lầu các cao, có lầu các thấp, có lầu các hình dài, có lầu các hình vuông, bên trong lầu các hoặc chứa đủ thứ châu báu, hoặc trần thiết đủ thứ đồ trang nghiêm, hoặc chưng bày đủ thứ thức ăn uống, hoặc treo đủ thứ y phục, hoặc sắm đủ những vật tư sanh, hoặc có người nữ đoan chánh xinh đẹp, hoặc có tôi tớ thông minh lanh lợi. Tuỳ ai cần gì, thảy đều thí cho họ, tuyệt đối không xẻn tiếc, tất cả đều xả bỏ được hết.

 

Thời, hữu mẫu nhân danh vi: thiện hiện, tướng nhất đồng nữ danh: cụ túc diệu đức, nhan dung đoan chánh, sắc tướng nghiêm khiết, hồng tiêm đắc sở, tu đoản hợp độ, mục phát cám thanh, thanh như Phạm Âm, thiện đạt công xảo, tinh thông biện luận, cung cần phỉ giải, từ mẫn bất hại, cụ túc tàm quý, nhu hòa chất trực, ly si quả dục, vô chư siểm cuống, thừa diệu bảo xa, thải nữ vi nhiễu, cập dữ kỳ mẫu tùng vương thành xuất, tiên Thái-Tử hạnh.

Bấy giờ có bà mẹ tên là Thiện-Hiện dắt một Ðồng-nữ tên là Cụ-Túc-Diệu-Ðức. Ðồng-nữ nầy dung nhan đoan chánh, mắt và tóc xanh biếc, tiếng nói như phạm-âm, nghề khéo, luận giỏi, siêng năng kính nhường, đủ lòng từ mẫn, hổ thẹn, nhu hòa, chất trực, lìa ngu si, ít tham dục, không siểm nịnh dối phỉnh. Ðồng-nữ cùng mẫu-thân ngồi xe, các thể-nữ theo hầu, đi trước xe Thái-Tử.

Giảng: Lúc đó, có một người mẹ, bà ta tên là Thiện Hiện, dắt theo một đồng chân thiếu nữ, cô ta tên là Cụ Túc Diệu Đức, dung nhan đoan chánh, đặc biệt xinh đẹp, sắc tướng trang nghiêm, rất là thanh khiết, thân thể đầy đặn, tay thon dài, tứ chi hợp với nhau, thân cao vừa phải, không cao, không thấp, không mập, không ốm, rất vừa vặn, có thể nói là thập toàn thập mỹ, tìm không ra khuyết điểm, rất hợp tiêu chuẩn của người đẹp. Mắt và tóc của cô ta đều xanh biếc, tiếng nói của cô ta như phạm âm, rất là êm tai. Cô ta có nghiên cứu tinh thông về xảo công minh, chẳng có gì mà không biết làm. Xảo công minh là gì? Tức là đối vói toán pháp, mỹ thuật, thư số, hội hoạ, kiến trúc v.v… đều hiểu biết mà còn giỏi nữa.

Ấn Độ có ngũ minh học, tức là:
1. Nội minh.
2. Thanh minh.
3. Nhân minh.
4. Y dược minh.
5. Công xảo minh.

Cô ta có trí huệ vô ngại, khéo biện luận. Cô ta biết cung kính, siêng làm các việc, không lười biếng. Cô ta có lòng thương xót chúng sinh, không có tâm hại chúng sinh. Cô ta đầy đủ sự hổ thẹn, tuyệt đối không làm việc trái với đạo. Cô ta tánh tình nhu hoà, dù bị chịu đựng sự áp bức, cũng đều có tâm nhẫn nại, chẳng nổi giận. Cô ta chỉ nói lời chân chánh, không nói dối. Cô ta lìa khỏi sự ngu si, thanh tâm quả dục, biết đủ không tham. Cô ta không có tánh xiểm nịnh, là thiếu nữ điển hình. Cô ta và mẹ cô ta ngồi xe báu đẹp, có rất nhiều thể nữ vây quanh đi theo, từ thành vua Cao Thắng Thụ đi ra, đi đến vườn Hương Nha du ngoạn, xe cô ta đi trước xe thái tử Oai Đức Chủ.

 

Kiến kỳ Thái-Tử ngôn từ phúng vịnh, tâm sanh ái nhiễm, nhi bạch mẫu ngôn: ngã tâm nguyện đắc kính sự thử nhân, nhược bất toại Tình, đương tự vẫn diệt. mẫu cáo nữ ngôn: mạc sanh thử niệm.

Ðồng-nữ ấy thấy Thái-Tử bèn sanh lòng yêu mến, nói với mẹ rằng nàng muốn kính thờ người nầy, nếu không toại nguyện quyết sẽ tự vẫn. Mẹ bảo chớ có vọng niệm.

Giảng: Đồng nữ Diệu Đức ở trên xe trông thấy thái tử Oai Đức Chủ ở phía sau, ngồi trên toà sư tử, nghe được tiếng nói của thái tử, rất êm tai giống như tiếng ca hát ngâm thơ. Cô ta lập tức như bị tiếng sét ái tình, sinh tư tưởng ái nhiễm, bèn nói với mẹ của cô ta rằng: Con muốn trọn đời được kính thờ người nầy, nếu không được toại nguyện thì con quyết định sẽ tự vẫn. Người mẹ thấy cô ta điên đảo như thế, rất là đáng thương, bèn bảo con gái rằng: Diệu Đức! Con đừng sinh vọng tưởng không thể được nầy

 

Hà dĩ cố? thử thậm nan đắc. Thử nhân cụ túc luân Vương chư tướng, hậu đương tự vị tác Chuyển luân Vương, hữu bảo nữ xuất, đằng không tự tại.

Ðây là Thái-Tử đủ tướng Luân-Vương. Sau đây lên ngôi sẽ làm Chuyển-Luân-Vương, có Bửu-Nữ xuất hiện, bay trên không tự tại.

Giảng: Tại sao? Vì người ta là thái tử, đầy đủ các tướng Chuyển Luân Thánh Vương, sau này sẽ lên làm Chuyển Luân Vương, có bảy báu xuất hiện. Thế nào là bảy báu?
1. Bánh xe báu, so với hoả tiễn bây giờ còn nhanh hơn nhiều, nội trong một giờ thì có thể đi khắp bốn thiên hạ.
2. Châu báu: Tức là châu như ý, muốn gì có nấy, lấy không hết, dùng không cạn, xứng tâm như ý, không có thất vọng.
3. Voi báu: Voi chúa trắng lớn, khéo hiểu ý người.
4. Ngựa báu: Là long mã, chẳng những chạy dưới đất, mà còn chạy trên nước, thậm chí bay trên không.
5. Binh báu: Bình thường không cần huấn luyện quân đội, đến lúc tác chiến thì tự nhiên hiện ra voi binh, ngựa binh, xe binh, bộ binh.
6. Chủ tạng Thần báu: Khi Chuyển Luân Thánh Vương cần vàng bạc, thì bất cứ ở chỗ nào, cũng đều có mỏ vàng bạc, tuỳ thời tuỳ lúc đều có vàng bạc.
7. Ngọc nữ báu: Trên có con gái của trời Đế Thích, dưới có con gái của Càn Thát Bà, tuỳ ý hiện thân.
Bảy báu nầy có cảnh giới không thể nghĩ bàn. Khi Chuyển Luân Thánh Vương chết rồi, nếu không có thái tử tiếp tục kế vị, thì trong bảy ngày, bảy báu sẽ tự nhiên biến mất.

Bà mẹ của cô ta lại nói: Khi thái tử làm vua, thì tự nhiên có ngọc nữ xuất hiện, ngồi trên bánh xe mà bay trong hư không, tiêu dao tự tại.

 

Ngã đẳng ti tiện, phi kỳ thất ngẫu. Thử xứ nan đắc, vật sanh thị niệm.

Chúng ta là hàng ti-tiện chớ sanh vọng niệm, vì sự ấy khó đạt thành.

Giảng: Chúng ta là người thấp hèn, làm sao sánh với thái tử? Việc nầy không dễ gì đạt được, con chớ sinh vọng tưởng ngu si nầy.

 

Bỉ hương nha viên trắc, hữu nhất đạo tràng, danh: pháp vân quang minh. Thời, hữu Như Lai danh: thắng nhật thân, thập hiệu cụ túc, ư trung xuất hiện dĩ Kinh thất nhật.

Bên cạnh khu vườn Hương-Nha có một đạo-tràng tên là Pháp-Vân Quang-Minh. Có đức Như-Lai hiệu là Thắng-Nhựt-Thân, đủ mười hiệu, xuất hiện trong đó đã được bảy ngày.

Giảng: Bên cạnh vườn Hương Nha, có một đạo tràng, tên là đạo tràng Pháp Vân Quang Minh. Lúc đó, có vị Phật hiệu là Phật Thắng Nhựt Thân, đầy đủ mười hiệu, xuất hiện trong đạo tràng Pháp Vân Quang Minh, đã được bảy ngày rồi.

 

Thời, bỉ đồng nữ tạm thời giả mị, mộng kiến kỳ Phật; tùng mộng giác dĩ, không trung hữu Thiên nhi cáo chi ngôn: thắng nhật thân Như Lai, ư pháp vân quang minh đạo tràng thành đẳng chánh giác dĩ Kinh thất nhật, chư Bồ-tát chúng tiền hậu vi nhiễu.

Ðồng-Nữ Diệu-Ðức ngủ gật mộng thấy Phật. Khi thức dậy, trên không có Thiên-Thần bảo Ðồng-Nữ rằng Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai thành Ðẳng-Chánh-Giác nơi đạo-tràng Pháp-Vân Quang-Minh đã được bảy ngày, chúng Bồ-Tát vây quanh

Giảng: Lúc bấy giờ, đồng nữ Diệu Đức ngủ gật, nằm mộng thấy đức Phật Thắng Nhựt Thân đó. Khi tỉnh dậy, trong hư không có vị Trời bảo đồng nữ rằng: Đức Phật Thắng Nhựt Thân, đã thành Phật trong đạo tràng Pháp Vân Quang Minh, đã được bảy ngày rồi. Tất cả chúng đại Bồ Tát vây quanh đức Phật trước sau.

 

Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, phạm thiên nãi chí Sắc cứu kính Thiên, chư địa thần, Phong Thần, hỏa thần, thủy thần, hà Thần, hải Thần, sơn Thần, thọ Thần, viên Thần, dược Thần, chủ thành Thần đẳng, vi kiến Phật cố, giai lai tập hội.  Thời, diệu đức đồng nữ mộng đổ Như Lai cố, văn Phật công đức cố, kỳ tâm an ẩn, vô hữu phố úy, ư Thái-Tử tiền nhi thuyết tụng ngôn:

Trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Phạm Thiên, cho đến Trời Sắc Cứu Cánh, các Thần đất, Thần gió, Thần lửa, Thần nước, Thần sông, Thần biển, Thần núi, Thầy cây, Thần vườn, Thần nhạc, Thần chủ thành .v.v… vì gặp đức Phật, nên đều đến tụ hội.

Ðồng-Nữ Diệu-Ðức do mộng thấy Phật, lại nghe công đức của Phật, nên lòng nàng an-ổn không khiếp sợ, ở trước Thái-Tử mà nói kệ rằng:

Giảng: Có chư Thiên, các rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Phạm Thiên, cho đến Trời Sắc Cứu Cánh, các Thần đất, Thần gió, Thần lửa, Thần nước, Thần sông, Thần biển, Thần núi, Thầy cây, Thần vườn, Thần nhạc, Thần chủ thành .v.v… vì muốn gặp đức Phật, nên đều đến tụ hội, làm hộ pháp thiện thần.

Lúc đó, đồng nữ Diệu Đức nhờ mộng thấy Như Lai, và nghe công đức Phật, nên tâm rất an ổn, không còn sợ hãi, ở trước thái tử mà nói mười kệ sau đây:

Ngã thân tối đoan chánh,                         Thân tôi rất đoan chánh
Danh văn biến thập phương,                    Tiếng đồn khắp mười phương
Trí tuệ vô đẳng luân,                                 Trí-huệ không ai sánh
Thiện đạt chư công xảo.                           Khéo giỏi đủ các nghề.

Diệu Đức đồng nữ tự giới thiệu, bèn nói với thái tử Oai Đức Chủ rằng: Thân tôi viên mãn nhất, ngũ quan của tôi đoan chánh nhất. Tiếng đồn của tôi khắp mười phương, chẳng có ai mà không biết, chẳng có ai mà không thấy. Trí huệ của tôi cao thâm, không ai sánh bằng. Đối với tất cả các nghề, tôi đều khéo léo làm được hết. Tóm lại, các nghề như thêu thùa, nấu ăn, hội hoạ, âm nhạc, văn học .v.v… tôi đều thông đạt đến chỗ tinh xảo.

 

Vô lượng bách thiên chúng,                      Vô-lượng trăm ngàn chúng
Kiến ngã giai tham nhiễm;                        Thấy tôi đều tham nhiễm
Ngã tâm bất ư bỉ,                                      Lòng tôi đối với họ
Nhi sanh thiểu ái dục.                                Không một niệm ái dục.

Có vô lượng trăm ngàn chúng sinh, thấy tôi xinh đẹp mà sinh tâm tham nhiễm. Tôi có diện mạo đẹp chim sa cá lặn (Cô ta là hoa sen hoá sinh, cho nên xinh đẹp hơn người), nhưng lòng tôi đối với họ không giao động, không bị họ dẫn dụ, tuyệt đối không sinh tơ hào tâm ái dục.

Nếu ai ở trước cô gái xinh đẹp mà tâm không động, thì người đó có định lực, không bị cảnh giới lay chuyển, họ sẽ khai ngộ trong tương lai gần. Làm thế nào khiến cho tâm không khởi vọng tưởng, chẳng có phi phi tưởng? Phương pháp rất đơn giản, có thể quán tưởng thân thể chỉ là túi da hôi thối, bên trong toàn là những thứ máu mủ bất tịnh. Quán như vậy, nghĩ như vậy, thì tự nhiên sẽ tiêu diệt vọng tưởng khởi tâm động niệm. Nói thì ai cũng nói được, nhưng làm thì không ai làm được, cho nên ông Vương Minh Dương đề xướng học thuyết tri hành hợp nhất. Biết được làm được là người giỏi.

 

Vô sân diệc vô hận,                                   Không sân cũng không hận
Vô hiềm diệc vô hỉ,                                    Không ghét cũng không mừng
Đãn phát quảng đại tâm,                          Chỉ phát tâm quảng đại
Lợi ích chư chúng sanh.                            Lợi ích các chúng-sanh.

Những người tham nhiễm đó, tuy sinh tâm tham nhiễm đối với tôi, nhưng tôi tha thứ cho họ những người ngu si vô tri vô thức, cũng không sinh tâm sân hận, cũng không sinh tâm oán hận, cũng không hiềm ghét họ, cũng không vui mừng họ. Tôi chỉ phát tâm bồ đề rộng lớn, lợi ích cho họ, giáo hoá họ, khiến cho họ lìa khổ được vui, phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo.

 

Ngã kim kiến Thái-Tử,                              Nay tôi thấy Thái-Tử
Cụ chư công đức tướng,                           Ðủ những tướng công-đức
Kỳ tâm Đại hân khánh,                             Tâm tôi rất vui mừng
Chư căn hàm duyệt lạc.                            Khắp thân đều thơ thới.

Diệu Đức đồng nữ nói với thái tử: Nay tôi thấy tướng mạo thái tử, đặc biệt trang nghiêm, đầy đủ các tướng công đức, khiến cho tôi sinh tâm ái mộ. Tôi cảm thấy rất may mắn gặp được Ngài, tôi rất là vui mừng. Sáu căn của tôi, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đều thơ thới, không cách nào hình dung được. Tóm lại, Ngài rất đẹp, Ngài có đức tướng, khiến cho tôi thần hồn điên đảo, chỉ muốn gả cho Ngài thôi.

 

Sắc như quang minh bảo,                         Màu da như minh-bửu
Phát mỹ nhi hữu toàn,                              Tóc đẹp xoắn phía hữu
Ngạch quảng my tiêm khúc,                     Trán rộng, mày nhỏ cong
Ngã tâm nguyện sự nhữ.                           Lòng tôi nguyện thờ Ngài.

Sắc tướng của Ngài rất sáng sạch, giống như quang minh ngọc báu. Tóc của Ngài rất đẹp, xanh biếc, xoắn về bên phải. Trán của Ngài rất rộng, lông mày của Ngài rất nhỏ cong tựa trăng non. Tôi thấy Ngài rồi, lòng tôi nguyện suốt đời kính thờ Ngài, hầu hạ phục vụ cho Ngài.

 

Ngã quán Thái-Tử thân,                           Tôi xem thân Thái-Tử
Thí nhược chân kim tượng,                      Giống như tượng chân-kim
Diệc như đại bảo sơn,                                Cũng như đại-bửu-sơn
Tướng hảo hữu quang minh.                    Tướng tốt có quang-minh.

Tôi thấy thân của thái tử, chẳng có chút thiếu khuyết nào, không có chút nào dư, không có chút nào thiếu, giống như pho tượng vàng ròng, đạt đến chỗ chân thiện mỹ, lại cũng giống như núi báu lớn, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, đều có đại quang minh.

 

Mục quảng cám thanh sắc,                      Mắt rộng màu xanh biếc
Nguyệt diện sư tử giáp,                             Mặt tròn như trăng sáng
Hỉ nhan mỹ diệu âm,                                 Vui-vẻ giọng nói hay
Nguyện thùy ai nạp ngã!                           Xin thương nạp thọ tôi.

Mắt của Ngài rộng dài, mà còn xanh biếc. Mặt của Ngài tròn đầy, má của Ngài như đầy đặn như sư tử. Ngài rất vui vẻ và dễ gần gũi, giọng nói của Ngài rất hay, thật là êm tai. Xin thái tử hãy thương xót tôi, nạp thọ tôi làm bạn, tôi khẩn cầu Ngài.

 

Thiệt tướng quảng trường diệu,               Tướng lưỡi rộng dài đẹp
Do như xích đồng sắc;                              Ðỏ như màu xích đồng
Phạm Âm khẩn na thanh,                        Phạm-âm tiếng Khẩn-Na
Văn giả giai hoan hỉ.                                  Ai nghe cũng vui đẹp.

Tướng lưỡi của Ngài rộng dài, thường vang ra âm thanh vi diệu, giống như màu đồng đỏ. Âm thanh của Ngài như Phạm âm, rất thanh tịnh trang nghiêm, như tiếng Khẩn Na La (Thần ca). Khiến cho ai nghe được đều sinh khởi tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, đều sinh tâm hoan hỉ, phát tâm tu hành Bồ Tát đạo, cứu hộ chúng sinh thọ khổ.

 

Khẩu phương bất khiên súc,                    Miệng vuông chẳng co rút
Xỉ bạch tất tề mật,                                     Răng trắng đều kín bằng
Phát ngôn hiện tiếu thời,                           Lúc phát ngôn, hiện cười
Kiến giả tâm hoan hỉ.                                Người thấy lòng hoan-hỉ.

Miệng của Ngài hình vuông, hai môi phối hợp tương xứng với nhau, rất quân bình. Răng của Ngài rất trắng sạch, không những bằng đều, mà còn kín, đầy đủ bốn mươi răng. Lúc Ngài nói chuyện, hiện mỉm cười, nhất cử nhất động, đều khiến cho ai thấy cũng sinh tâm hoan hỉ.

 

Ly cấu thanh tịnh thân,                            Thân ly cấu thanh-tịnh
Cụ tướng tam thập nhị,                            Ðủ ba mươi hai tướng
Tất đương ư thử giới,                                Tất sẽ ở cõi nầy
Nhi tác chuyển luân vị.                              Mà làm Chuyển-Luân-Vương.

Thân của Ngài là thể lìa cấu thanh tịnh, đã đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân, chắc chắn sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương trong cõi nầy, thống trị bốn thiên hạ, vì chúng sinh mưu cầu phúc lợi, vì chúng sinh tạo hạnh phúc. Chuyển Luân Thánh Vương phân ra làm bốn:
1. Kim Luân Vương, quản hạt: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lưu Châu.
2. Ngân Luân Vương, quản hạt ba châu.
3. Đồng Luân Vương, quản hạt hai châu.
4. Thiết Luân Vương, quản hạt một châu.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử cáo bỉ nữ ngôn: nhữ thị thùy nữ? vi thùy thủ hộ? nhược tiên chúc nhân, ngã tức bất ưng khởi ái nhiễm tâm.

Thái-Tử bảo Ðồng-Nữ rằng: Nàng là con gái của ai? Ai thủ hộ nàng? Nếu trước đã thuộc người khác, thời ta không nên sanh lòng ái nhiễm.

Giảng: Lúc bấy giờ, thái tử Oai Đức Chủ nói với Diệu Đức đồng nữ rằng: Nàng là con gái nhà ai? Ai bảo hộ nàng? Nếu trước kia nàng đã đính hôn với người khác, thì ta không nên sanh lòng ái nhiễm.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử dĩ tụng vấn ngôn:

Thái-Tử nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, thái tử dùng kệ hỏi đồng nữ rằng:

 

Nhữ thân cực thanh tịnh,                         Thân nàng rất thanh-tịnh
Công đức tướng cụ túc;                            Ðầy đủ tướng công-đức
Ngã kim vấn ư nhữ,                                   Nay ta có lời hỏi
Nhữ ư thùy sở trụ?                                    Hiện nàng ở với ai?

Thái tử Oai Đức Chủ hỏi Diệu Đức đồng nữ rằng: Thân thể của nàng rất thanh tịnh, nàng đã đầy đủ tướng công đức. Nay ta hỏi về nàng, hiện nay nàng ở với ai? Gia đình nàng ở đâu? Nàng tên họ là gì?

 

Thùy vi nhữ phụ mẫu?                              Cha mẹ nàng tên gì?
Nhữ kim hệ chúc thùy?                             Nay nàng hệ thuộc ai?
Nhược dĩ chúc ư nhân,                             Nếu đã thuộc người khác
Bỉ nhân nhiếp thọ nhữ.                             Người đó nhiếp thọ nàng.

Cha mẹ nàng là ai? Hiện tại nàng đã đính hôn với ai chưa? Nàng đã có ý trung nhân chưa? Nếu đã có và đính hôn với họ rồi, thì người đó sẽ nhiếp thọ nàng, cưới nàng làm vợ.

 

Nhữ bất đạo tha vật,                                 Nàng chẳng trộm của người,
Nhữ bất hữu hại tâm,                                Nàng không lòng giết hại
Nhữ bất tác tà dâm,                                  Nàng chẳng phạm tà-dâm,
Nhữ y hà ngữ trụ?                                     Nàng nương lời nói nào

Nàng có trộm tài vật của người chăng? Nàng có lòng hại người chăng? Nàng có ý phạm tà dâm chăng? Nàng nương lời nói nào mà trụ? Những vấn đề nầy xin nàng hãy nói rõ tỉ mỉ.

 

Bất thuyết tha nhân ác,                            Chẳng nói xấu người khác,
Bất hoại tha sở thân,                                 Chẳng phá thân thuộc người,
Bất xâm tha cảnh giới,                              Chẳng xâm cảnh giới người,
Bất ư tha khuể nộ.                                    Chẳng giận hờn người khác

Nàng nhất định không nói xấu kẻ khác chứ. Nàng nhất định không phá hoại thân thuộc người khác chứ. Nàng nhất định không xâm phạm cảnh giới người khác chứ. Nàng nhất định không giận hờn người khác chứ.

 

Bất sanh tà hiểm kiến,                               Chẳng sanh tà-hiểm-kiến,
Bất tác tướng vi nghiệp,                            Chẳng làm nghiệp trái nhau
Bất dĩ siểm khúc lực,                                 Chẳng dùng sức siểm-khúc
Phương tiện cuống thế gian.                     Phương-tiện gạt thế-gian.

Nàng không sinh tà tri kiến giải hiểm ác chứ. Nàng không làm nghiệp trái nhau chứ. Nàng không dùng sức xiểm nịnh quanh co để hãm hại người khác chứ. Nàng càng không dùng phương tiện dối trá để lường gạt người, uy hiếp người chứ.

 

Tôn trọng phụ mẫu bất?                          Tôn trọng cha mẹ chăng?
Kính thiện tri thức bất?                            Kính thiện-tri-thức chăng?
Kiến chư bần cùng nhân,                         Thấy những người nghèo cùng
Năng sanh nhiếp tâm bất?                        Phát tâm giúp đỡ chăng?

Nàng có tôn trọng cha mẹ nàng chăng? Nàng có cung kính thiện tri thức chăng? Nàng thấy những người cô độc bần cùng nghèo khổ, có sinh tâm từ bi, tâm thương xót, nhiếp thọ họ, lìa khổ được vui chăng?

 

Nhược hữu thiện tri thức,                         Nếu có thiện-tri-thức
Hối thị ư nhữ Pháp,                                   Dạy bảo những điều hay
Năng sanh kiên cố tâm,                             Nàng phát tâm kiên cố
Cứu cánh tôn trọng bất?                          Hoàn toàn tôn trọng chăng?

Nếu có thiện tri thức, dạy bảo nàng, khai thị cho nàng, vì nàng mà nói diệu pháp. Nàng nghe rồi, có sinh tâm kiên cố bất hoại chăng? Có nhớ ở trong đầu, vĩnh viễn không quên, rốt ráo tôn trọng thiện tri thức chăng?

 

Ái lạc ư Phật bất?                                     Có kính mến Phật chăng?
Liễu tri Bồ Tát bất?                                  Có biết Bồ-Tát chăng?
Chúng tăng công đức hải,                        Chúng tăng biển công-đức
Nhữ năng cung kính bất?                         Nàng có tôn kính chăng?

Nàng có kính mến Phật chăng? Nàng biết rõ pháp Bồ Tát tu chăng? Tất cả biển công đức đầy đủ của hiền Thánh Tăng, nàng có cung kính chăng? Nàng có gần gũi Tam Bảo chăng? Nàng có phụng sự Tam Bảo chăng? Nàng có cúng dường Tam Bảo chăng?

 

Nhữ năng tri Pháp bất?                            Nàng có biết pháp chăng?
Năng tịnh chúng sanh bất?                      Dạy được chúng-sanh chăng?
Vi trụ ư Pháp trung,                                 Nàng ở trong chánh-pháp
Vi trụ ư phi pháp?                                     Hay ở trong phi-pháp?

Nàng biết tất cả Phật pháp chăng? Nàng có thể thanh tịnh tất cả chúng sinh chăng? Nàng có trụ ở trong Phật pháp chăng? Hoặc trụ ở nơi phi pháp, chẳng phải Phật Pháp chăng? Những việc nầy nàng có làm được chăng?

 

Kiến chư cô độc giả,                                  Thấy những người cô-độc
Năng khởi từ tâm bất?                              Nàng có thương xót chăng?
Kiến ác đạo chúng sanh,                           Thấy chúng-sanh ác đạo
Năng sanh đại bi bất?                               Nàng có bi-mẫn chăng?

Nàng thấy những người cô độc không nơi nương tựa, có sinh khởi tâm từ bi thương xót họ chăng? Nàng thấy chúng sinh ba đường ác, ở đó chịu đói, chịu khát, nàng có sinh tâm đại bi, cứu vớt họ thoát khỏi biển khổ chăng?

 

Kiến tha đắc vinh lạc,                                Thấy người được vinh hạnh
Năng sanh hoan hỉ bất?                            Nàng có hoan hỉ chăng?
Tha lai bức bách nhữ,                               Người đến bức hại nàng
Nhữ vô sân não bất?                                 Nàng có phiền giận chăng?

Khi nàng thấy người ta được vinh hạnh và an vui, có sinh tâm hoan hỉ chăng? Tuỳ hỉ mà khen ngợi, không sinh tâm đố kị! Nếu có người đến bức bách nàng, nàng có sinh tâm sân hận não hại chăng?

 

Nhữ phát Bồ-đề ý,                                     Nàng phát tâm bồ-đề
Khai ngộ chúng sanh bất?                        Khai ngộ chúng-sanh chăng?
Vô biên kiếp tu hành,                                Vô-biên kiếp tu hành
Năng vô bì quyện bất?                              Ðược không mỏi nhàm chăng?

Nàng có phát tâm bồ đề chăng? Nàng khai ngộ chúng sinh chăng? Khiến cho họ cũng phát tâm bồ đề. Ở trong vô biên kiếp tu hành Bồ Tát hạnh, nàng không mệt mỏi có được chăng?

 

Nhĩ thời, nữ mẫu vi kỳ Thái-Tử nhi thuyết tụng ngôn:

Thân-mẩu của Ðồng-Nữ nói kệ trả lời Thái-Tử:

Giảng: Ở trên là những câu hỏi của thái tử Oai Đức Chủ hỏi đồng nữ Diệu Đức, bà bảo mẫu Thiện Hiện trả lời thế. Lúc đó, bảo mẫu của nàng trả lời cho thái tử mà nói ra ba mươi mốt bài kệ dưới đây rằng:

 

Thái-Tử nhữ ưng thính,                            Thái-Tử ngài lắng nghe
Ngã kim thuyết thử nữ,                             Nay tôi nói Ðồng-Nữ
Sơ sanh cập thành trưởng,                       Sơ-sanh đến trưởng-thành
Nhất thiết chư nhân duyên.                      Tất cả những nhơn-duyên:

Bà bảo mẫu Thiện Hiện nói: Thái tử! Ngài hãy chú ý lắng nghe. Nay tôi nói tỉ mỉ về quá trình nàng nầy, đồng nữ Diệu Đức từ lúc mới sinh ra cho đến trưởng thành, hết thảy tất cả các nhân duyên.

 

Thái-Tử thủy sanh nhật,                           Ngày Thái-Tử mới sanh
Tức tùng Liên-hoa-sanh,                          Nàng từ liên-hoa sanh,
Kỳ mục tịnh tu quảng,                              Mắt nàng sáng dài rộng
Chi tiết tất cụ túc.                                     Tay chân đều hoàn mỹ.

Thái tử! Cảnh giới Diệu Đức nàng sinh ra, thật là không thể tả được. Nàng chẳng phải từ bụng mẹ sinh ra, mà từ hoa sen hoá sinh. Cho nên cặp mắt của nàng thanh tịnh sáng rỡ, đặc biệt dài rộng. Do đó, diện mạo của nàng rất đẹp thù thắng. Tứ chi tay chân đều đầy đủ viên mãn, tìm không ra chỗ không hợp tiêu chuẩn.

 

Ngã tằng ư xuân nguyệt,                          Tôi từng ở mùa xuân
Du quán Ta-la viên,                                   Du ngoạn vườn Ta-La
Phổ kiến chư dược thảo,                           Thấy khắp những dược-thảo
Chủng chủng giai vinh mậu.                     Mọ thứ đều tươi tốt.

Vào một mùa xuân năm nọ, tôi đi du ngoạn vườn Sa La, thấy khắp tất cả cỏ thuốc, sinh trưởng rất tươi tốt, khắp mặt đất đều là kỳ hoa dị thảo, có thể chữa bách bệnh.

 

Kì thọ phát hương khí,                             Cây lạ trổ hoa đẹp
Vọng chi như khánh vân;                         Trông đó như khánh-vân,
Hảo điểu tướng hòa minh,                        Chim đẹp cùng hòa hót
Lâm gian cọng hoan lạc.                           Trong rừng đồng hoan lạc.

Trong vườn Sa La đó, có những cây lạ trổ hoa rất đẹp, trông như áng mây lành, lại có đủ thứ chim đẹp cùng hoà hót ở trên cây, âm thanh thật là vô cùng êm tai. Tôi và thể nữ ở trong vườn Sa La cùng vui chơi, thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên, quên hết phiền não của thế gian, cảm giác thật là tiêu dao tự tại, vui vẻ vô cùng, khiến cho con người hoà quyện vào cảnh giới đẹp thiên nhiên núi rừng, có cảm giác vui vẻ không câu thúc.

 

Đồng du bát bách nữ,                               Cùng đi tám trăm cô
Đoan chánh đoạt nhân tâm,                     Ðoan chánh chiếm lòng người
Bị phục giai nghiêm lệ,                              Y phục đều nghiêm lệ
Ca vịnh tất thù mỹ.                                   Ca ngâm đều rất hay.

Có tám trăm thể nữ cùng đi du ngoại với tôi, tướng mạo của họ rất đoan chánh xinh đẹp, khiến cho người thấy mà động tâm, chiếm được lòng người. Y phục của họ mặc, chuỗi ngọc của họ mang, đều trang nghiêm đẹp đẽ. Họ đều khéo ca ngâm và khiêu vũ, âm thanh đặc biệt thù thắng rất hay, có cảm giác muốn nghe hoài, muốn thưởng thức hoài không biết chán.

 

Kỳ viên hữu dục trì,                                  Vườn đó có ao tắm
Danh viết liên hoa tràng;                          Tên là Liên-Hoa-Tràng,
Ngã ư trì ngạn tọa,                                    Tôi ngồi trên bờ ao
Thải nữ chúng vi nhiễu.                            Thể-nữ hầu chung-quanh.

Trong vườn Sa La đó, có ao tắm tên là Liên Hoa Tràng. Trong ao có hoa sen thù thắng. Tôi ngồi nghỉ ngơi nơi bờ ao, các thể nữ đại chúng vây quanh tôi.

 

Ư bỉ liên trì nội,                                          Trong ao sen lớn ấy
Hốt sanh thiên diệp hoa,                           Bỗng sanh hoa ngàn cánh
Bảo diệp lưu ly hành,                                Cánh báu, cọng lưu-ly,
Diêm-phù kim vi đài.                                  Vàng Diêm-Phù làm đài.

Trong ao Liên Hoa Tràng đó, bỗng sinh ra một đoá hoa sen nghìn cánh, cánh hoa sen làm bằng các báu, cọng hoa sen làm bằng lưu ly. Dùng vàng Diêm Phù đàn làm đài, rất là thanh tịnh trang nghiêm.

 

Nhĩ thời dạ phần tận,                                Bấy giờ là hừng sáng
Nhật quang sơ xuất hiện,                          Mặt nhụt mới ló mọc,
K liên chánh khai phẩu,                            Hoa ấy đương nở ra
Phóng đại thanh Tịnh Quang.                  Phóng ánh sáng thanh-tịnh.

Lúc bấy giờ mới sáng sớm, mặt trời mới mọc lên ở phương đông. Lúc đó, hoa sen nghìn cánh nở ra, phóng đại quang minh thanh tịnh, chiếu khắp pháp giới.

 

Kỳ quang cực sí thịnh,                              Ánh sáng ấy rất mạnh
Thí như nhật sơ xuất,                                Dường như mặt trờ mọc
Phổ chiếu Diêm-phù-đề,                           Chiếu khắp Diêm-Phù-Ðề
Chúng thán vị tằng hữu.                           Mọi người đều khen lạ.

Ánh sáng thanh tịnh ấy rất mạnh, ví như lúc mặt trời mới mọc lên ở phương đông, chiếu khắp thế giới nam Diêm Phù Đề, hết thảy mọi người được cảnh giới vui chưa từng có.

 

Thời kiến thử ngọc nữ,                              Bấy giờ thấy Ðồng-Nữ
Tòng bỉ Liên-hoa-sanh,                             Từ hoa sen đó sanh
Kỳ thân thậm thanh tịnh,                         Thân nàng rất thanh-tịnh
Chi phần giai viên mãn.                             Chi Phần đều viên-mãn.

Lúc đó, nhìn thấy ngọc nữ Diệu Đức từ hoa sen nở sinh ra, thân thể của cô ta rất thanh tịnh thuần khiết, tứ chi xương cốt, hết thảy thân tướng đều viên mãn, chẳng có thiếu khuyết, là ngọc nữ thập toàn thập mỹ.

Giảng đến đây, nhất định sẽ có người hoài nghi: “Đâu có lý nào, hoa sen lại sinh ra em bé? Đây là nói việc tầm bậy, là chuyện thần thoại. Tôi không tin có sự việc như vậy”. Bạn phải biết, sự việc kỳ diệu trong thế gian biến hoá khó dò, phàm phu không cách chi có thể biết rõ được. Con mắt tuy sáng, nhưng vạn sự vạn vật tận hư không khắp pháp giới, không thể hoàn toàn nhìn thấy hết được. Lỗ tai tuy thính, nhưng không thể nghe hết âm thanh tận hư không khắp pháp giới, không thể hoàn toàn nghe rõ hết được. Những cảnh giới nầy, phàm phu không thể nào thấu hiểu được, vậy ai có thể thấu hiểu được? Chỉ có những người tu hành, đắc được ngũ nhãn lục thông rồi, mới thấy rõ như thấy quả Am ma la trong lòng bàn tay.

Từ chỗ nầy mà nhìn thì, người tu hành nhất định phải nghiêm trì giới luật, nhất định phải học tập chánh pháp, không thể tu pháp giống như đúng mà sai, càng không thể tu pháp tự lừa dối người. Người tu hành phải có con mắt chọn pháp, không thể tu mù luyện đui, phải gần gũi bậc thiện tri thức, phải nghe lời thiện tri thức chỉ dạy, phải đặc biệt nhận chân tu hành, phải cước đạp thật địa tu hành. Tu hành chánh pháp, không tu tà pháp. Chánh pháp là lợi người, lợi mình, tà pháp là hại mình, hại người.

Các vị chú ý! Phàm là người không giữ giới luật, thì thân thể của họ, thường toả ra một thứ mùi hôi, thậm chí hôi hơn là mùi nhà vệ sinh. Nếu người giữ giới luật, thì tuy không tắm rửa, nhưng thân thể vẫn sạch sẽ, không có mùi hôi, có lúc sẽ toả ra mùi hương lạ ngát mũi, khiến cho ai ngửi được, có cảm giác thư thới, thường có hộ pháp thiện thần đến thủ hộ, thường có Thiên nữ đến rải hoa, có đủ thứ cảnh giới đặc biệt thù thắng, không thể nghĩ bàn, không thể nghĩ bàn!

Ngàn lời vạn từ nói không hết được, quy nạp một câu nói: Nếu giữ giới, thì thân có mùi thơm; nếu không giữ giới, thì thân có mùi hôi. Ví như: Bạn ăn thịt bò, thịt dê, thì thân có mùi tanh hôi giống như dê. Nếu bạn ăn rau quả, thì thân có mùi thơm. Tóm lại, ăn cái gì thì toả ra mùi đó; bạn giữ giới, không ăn thịt chúng sinh, thì thân thể tuyệt đối không toả ra mùi hôi. Đây là hiện tượng sinh lý, tuyệt đối không phải mê tín, tuyệt đối hợp với luận lý khoa học.

Do đây có thể biết, chìa khoá thân hôi, hay thân thơm, là do giữ giới hay không giữ giới. Các vị! Tuỳ ý lựa chọn. Nếu muốn thân có mùi thơm, thì phải giữ giới. Nếu muốn thân có mùi hôi, thì không cần giữ giới. Hy vọng các vị phải đặc biệt chú ý về điểm nầy. Các vị hãy nhìn xem! Tại sao thân thể đồng nữ Diệu Đức thanh tịnh toả ra hương thơm? Vì cô ta trong quá khứ, giữ gìn giới luật, tu tập chánh pháp.

 

Thử thị nhân gian bảo,                              Ðây là báu nhơn-gian
Tùng ư tịnh nghiệp sanh,                          Từ nơi tịnh-nghiệp sanh
Tú nhân vô thất hoại,                                Nhơn trước không hư mất
Kim thọ thử quả báo.                                Nay thọ quả báo nầy.

Vị ngọc nữ nầy, là bảo bối của nhân gian. Thuở xưa cô ta đã từng tu nghiệp thiện thanh tịnh, cho nên từ hoa sen thanh tịnh hoá sinh ra. Những việc cô ta làm trong những kiếp xưa không hư mất, do đó, đời nầy thọ quả báo tốt nầy.

 

Cám phát thanh liên nhãn,                       Tóc biếc, mắt sen xanh,
Phạm thanh kim sắc quang,                     Phạm-Thinh, da chân-kim,
Hoa man chúng bảo kế,                            Tràng hoa, những bửu-kế
Thanh tịnh vô chư cấu.                             Thanh-tịnh không chút nhơ.

Tóc của cô ta xanh biếc, mắt của cô ta thanh tịnh như hoa sen xanh. Tiếng của cô ta là phạm âm, thân thể của cô ta toả ra ánh sáng vàng ròng. Búi tóc của cô ta rất thanh tịnh, dùng các báu kết thành tràng hoa, để trang nghiêm, không chút dơ bẩn nào.

 

Chi tiết tất cụ túc,                                     Chi tiết đều đầy đủ
Kỳ thân vô khuyết giảm,                           Thân nàng không khuyết giảm
Thí như chân kim tượng,                          Dường như tượng chơn-kim
An xứ bảo hoa trung.                                Ðặt ở trong bửu hoa.

Ngũ quan của cô ta đoan chánh, tứ chi đều đầy đủ, thân nàng viên mãn không thiếu khuyết. Giống như dùng vàng ròng tạc thành tượng, để ở trong hoa sen báu. Ai thấy cũng mến thích, nên nói là báu trong nhân gian, còn gọi là ngọc nữ.

 

Mao khổng chiên đàn hương,                   Chân lông mùi chiên-đàn
Phổ huân ư nhất thiết;                              Xông khắp cả mọi nơi,
Khẩu xuất thanh liên hương,                    Miệng phát mùi thanh-liên
Thường diễn Phạm Âm thanh.                 Thường diễn tiếng phạm-âm.

Hết thảy những lỗ chân lông trên thân của cô ta, đều toả ra hương chiên đàn, xông khắp hết mọi nơi. Trong miệng toả ra hương hoa sen xanh. Âm thanh của cô ta nói ra như tiếng phạm âm, khiến ai nghe được, cũng đều sinh tâm thanh tịnh.

 

Thử nữ sở trụ xứ,                                      Chỗ của nàng nầy ở
Thường hữu Thiên âm nhạc;                    Thường có âm nhạc trời,
Bất ưng hạ liệt nhân,                                 Chẳng nên để kẻ hèn
Nhi đương như thị ngẫu.                           Sánh đôi với nàng nầy.

Chỗ của ngọc nữ nầy ở, thường có các Thiên nữ diễn tấu âm nhạc, nghe rất hay êm tai vô cùng. Vị ngọc nữ nầy, tánh tình nhu hoà, không nên để kẻ hèn không có trí huệ, sánh đôi với nàng nầy.

 

Thế gian vô hữu nhân,                              Thế-gian không người nào
Kham dữ thử vi phu,                                 Kham làm chồng nàng nầy,
Duy nhữ tướng nghiêm thân,                   Duy ngài đủ tướng tốt
Nguyện thùy kiến nạp thọ!                       Xin nạp thọ nàng nầy.

Vị ngọc nữ nầy, trên thế gian không người nào có thể làm chồng nàng nầy, chỉ có mình thái tử có tư cách làm chồng cô ta. Ngài có tướng thân trang nghiêm, tướng công đức, đầy đủ điều kiện của Chuyển Luân Thánh Vương. Hy vọng thái tử hãy nạp thọ cô ta làm đệ nhất phu nhân.

 

Phi trường diệc phi đoản,                         Chẳng cao cũng chẳng thấp,
Phi thô diệc phi tế,                                     Chẳng thô cũng chẳng tế,
Chủng chủng tất đoan nghiêm,                Toàn thân đều đoan-nghiêm
Nguyện thùy kiến nạp thọ!                       Xin Ngài nạp thọ nàng.

Đồng nữ Diệu Đức thân thể quân bình, cũng chẳng cao, cũng chẳng thấp, cũng chẳng thô, cũng chẳng tế, rất vừa vặn. Bất cứ bộ phần nào, cũng đều đoan chánh trang nghiêm. Xin thái tử hãy nạp thọ nàng làm chánh phi.

 

Văn tự toán số Pháp,                                Văn tự pháp toán số
Công xảo chư kỹ nghệ,                             Tất cả những nghề khéo
Nhất thiết giai thông đạt,                          Nàng đều thông suốt cả
Nguyện thùy kiến nạp thọ!                       Xin Ngài nạp thọ nàng.

Cô ta không những tướng mạo trang nghiêm, mà văn tự, pháp toán số, đều thông thạo. Đối với các nghề nghiệp, kỹ thuật, đều rất khéo léo, tất cả đều thông đạt. Xin thái tử hãy nạp thọ nàng làm bạn.

 

Thiện liễu chư binh pháp,                         Biết rành những binh pháp
Xảo đoạn chúng tranh tụng,                    Khéo phán đoán kiện tụng
Năng điều nan khả điều,                           Ðều được kẻ khó điều
Nguyện thùy kiến nạp thọ!                       Xin Ngài nạp thọ nàng.

Cô ta là cô gái đặc biệt, văn võ song toàn. Không những tinh thông cầm kỳ thi hoạ, mà còn biết rành các binh pháp. Lại còn khéo phán đoán kiện tụng, khéo điều phục được kẻ khó điều phục, khiến cho họ sinh tâm nhu hoà. Xin thái tử hãy nạp thọ nàng, cô ta sẽ là người vợ hiền, hãy cưới nàng làm vợ.

 

Kỳ thân thậm thanh tịnh,                         Thân nàng rất thanh-tịnh
Kiến giả Vô yếm túc,                                 Người thấy không nhàm đủ
Công đức tự trang nghiêm,                      Công-đức tự trang-nghiêm
Nhữ ưng thùy nạp thọ!                             Ngài nên nạp thọ nàng.

Thân thể nàng Diệu Đức rất thanh tịnh, trang nghiêm vạn phần. Bất cứ ai nhìn thấy cô ta đều không có cảm giác nhàm chán. Công đức tự trang nghiêm của nàng, xin thái tử Ngài hãy nạp thọ nàng.

 

Chúng sanh sở hữu hoạn,                         Chúng-sanh có họa hoạn
Thiện đạt bỉ duyên khởi,                           Khéo rõ duyên khởi đó
Ưng bệnh nhi dữ dược,                             Ðúng bịnh mà cho thuốc
Nhất thiết năng tiêu diệt.                          Tất cả diệt trù được.

Tất cả chúng sinh có những hoạ hoạn gì, cô ta đều khéo biết duyên khởi từ đâu, tuỳ theo bệnh mà cho thuốc, bệnh gì dùng thuốc gì để chữa trị, tất cả bệnh tham sân si đều diệt trừ. Người nào không có bệnh tham sân si ba độc, thì thân tâm đều khoẻ mạnh. Làm thế nào để không có bệnh ba độc? Tức là phải siêng tu pháp môn giới định huệ ba học vô lậu.

 

Diêm-phù ngữ ngôn Pháp,                        Những ngôn ngữ Diêm-Phù
Sái biệt vô lượng chủng,                            Vô-lượng thứ sai khác
Nãi chí kĩ nhạc âm,                                    Nhẫn đến tiếng kỹ nhạc
Mị bất giai thông đạt.                                Nàng thông suốt tất cả.

Trí huệ của cô ta rất cao thâm, có thiên tài ngôn ngữ.Đối với các ngôn ngữ của tất cả các quốc gia trên thế giới xử dụng, tuy có đủ thứ sự khác nhau, nhưng cô ta đều hiểu biết được, chẳng những nói được, mà còn viết được, cho đến âm nhạc các nước, cô ta chẳng những ca được, mà còn tấu được, tự đàn tự hát, chẳng có gì mà không biết, thật là một thiếu nữ đa tài đa nghệ.

 

Phụ nhân chi sở năng,                              Những nghề của phụ nữ
Thử nữ nhất thiết tri,                                Nàng nầy biết tất cả,
Nhi vô nữ nhân qua,                                  Mà không lỗi phụ nữ
Nguyện thùy tốc nạp thọ!                         Ngài nên mau nạp nàng.

Phàm là nghề nghiệp của phụ nữ làm, cô ta đều biết tất cả một cách tường tận. Cô ta chẳng nói thị phi, chẳng nhiều chuyện, chẳng nói chuyện của thiên hạ. Cô ta có lòng nhân từ, có lòng thương xót. Cô ta là người phụ nữ có tài hoa, cô ta có mỹ đức cần kiệm. Xin thái tử hãy nạp thọ nàng, cô ta có thể là một tay đắc lực, trợ giúp Ngài trí lý bốn thiên hạ.

 

Bất tật diệc bất xan,                                  Chẳng ganh cũng chẳng tiếc,
Cô tham diệc vô nhuế,                              Không tham cũng không giận,
Chất trực tánh nhu nhuyễn,                     Tánh nhu nhuyến chất trực
Ly chư thô quánh ác.                                Rời bỏ những thô ác.

Cá tính của cô ta lượng thiện, không đố kị bất cứ người nào, cũng không xẻn tiếc bất cứ vật gì, cho rằng giúp người là việc an vui. Cô ta không có lòng tham dục, cũng không có tâm sân hận, đối với bất cứ người nào chân thành. Tánh tình cô ta nhu hoà, có mỹ đức của nữ tánh, chẳng có hành vi thô lỗ, độc ác. Tóm lại, điều kiện ưu việt của người nữ cô ta đều đầy đủ.

 

Cung kính ư Tôn-Giả,                               Cung kính bực tôn-túc
Phụng sự vô vi nghịch,                              Phụng thờ không trái nghịch
Lạc tu chư thiện hạnh,                              Thích tu những hạnh lành
Thử năng tùy thuận nhữ.                         Có thể tùy thuận ngài.

Cô ta biết hiếu thuận cung kính bậc đáng kính, cho nên rất cung kính người già, phụng thờ người già, mà không có tâm ý trái nghịch người già. Cô ta thích tu các hạnh lành, không làm các điều ác. Hành vi của cô ta, chắc chắn có thể tuỳ thuận làm việc theo ý Ngài. Ngài nhất định sẽ thương yêu cô ta.

 

Nhược kiến ư lão bệnh,                             Nếu nàng thấy già bịnh
Bần cùng tại khổ nạn,                               Nghèo cùng và hoạn nạn
Vô cứu vô sở y,                                          Không ai cứu không nương
Thường sanh đại từ mẫn.                         Nàng sanh lòng xót thương.

Cô ta có lòng từ bi thương xót chúng sinh, nếu thấy người sinh già bệnh chết, hoặc người bần cùng khổ nạn, hoặc người không có ai cứu giúp, hoặc người không có chỗ nương tựa, cô ta thường sinh tâm đại từ bi, tìm cách cứu giúp họ thoát khỏi biển khổ, thân tâm được an lạc.

 

Thường quán đệ nhất nghĩa,                    Thường quán đệ-nhất-nghĩa
Bất cầu tự lợi lạc,                                      Chẳng cầu tự lợi lạc
Đãn nguyện ích chúng sanh,                    Chỉ nguyện lợi chúng-sanh
Dĩ thử trang nghiêm tâm.                         Dùng đây trang-nghiêm tâm.

Cô ta thường quán đệ nhất nghĩa đế, cô ta chẳng cầu lợi ích và khoái lạc cho riêng mình, chỉ muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh được an lạc. Cô ta dùng tư tưởng nầy nầy để trang nghiêm tâm mình.

 

Hành trụ dữ tọa ngọa,                              Ði đứng cùng ngồi nằm
Nhất thiết vô phóng dật;                           Tất cả không phóng dật
Ngôn thuyết cập mặc nhiên,                     Nói năng và yên lặng
Kiến giả hàm hân lạc.                                Ai thấy cũng vui mừng.

Đối với bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm, cô ta thường cẩn thận, chẳng khi nào phóng dật. Lúc cô ta nói, hoặc im lặng, đều có sự hài hoà, khiến cho người thấy cô ta đều sinh tâm vui mừng, mà chẳng có tâm tưởng tà, tại sao? Vì nghi dung của cô ta rất khả ái, trang nghiêm khả ái.

 

Tuy ư nhất thiết xứ,                                  Dầu ở tất cả chỗ
Giai vô nhiễm trước tâm;                          Ðều không lòng nhiễm trước
Kiến hữu công đức nhân,                         Thấy người có công-đức
Lạc quán Vô yếm túc.                               Hoan-hỉ không biết nhàm.

Tuy cô ta ở tại tất cả mọi nơi, thấy được bất cứ cảnh giới gì, nhưng tâm kim cang của cô ta không bị cảnh giới chuyển, trong tâm chẳng sinh ý niệm nhiễm trước. Cô ta thấy người có công đức, hoặc thiện tri thức, đều vui quán không nhàm đủ.

 

Tôn trọng thiện tri thức,                           Tôn trọng thiện-tri-thức
Lạc kiến ly ác nhân;                                  Thích thấy người rời ác
Kỳ tâm bất táo động,                                Tâm nàng không tháo động
Tiên tư hậu tác nghiệp.                             Xét trước sau mới làm.

Cô ta tôn kính thiện tri thức, xa lìa ác tri thức. Tâm của cô ta rất nhu hoà vui vẻ, tuyệt đối không giao động, đối với bất cứ người nào cũng không nóng giận, hàm dưỡng công phu đến trình độ viên mãn. Bất cứ làm gì, đều suy nghĩ trước rồi sau mới làm.

 

Phước trí sở trang nghiêm,                       Trang-nghiêm với phước trí
Nhất thiết vô oán hận,                              Tất cả không oán hận
Nữ nhân trung tối thượng,                       Hơn hết trong hàng nữ
Nghi ưng sự Thái-Tử.                                Ðáng người thờ Thái-Tử.

Tuy cô ta có phước báo, lại có trí huệ, phước huệ đều trang nghiêm. Cô ta có tâm từ ái, chẳng có tâm oán hận. Đối với tất cả người nữ, cô ta cao thượng hơn hết, không có người nữ nào bằng cô ta được. Cô ta tài sắc song toàn, phẩm học ưu tú,đáng làm phu nhân thờ thái tử.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử nhập hương nha viên dĩ, cáo kỳ diệu đức cập thiện hiện ngôn:

Lúc đã vào vườn Hương-Nha, Thái-Tử bảo Ðồng-Nữ Diệu-Ðức và bà Thiện-Hiện rằng:

Giảng: Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ đi vào vườn Hương Nha rồi, liền bảo đồng nữ Diệu Đức và bà bảo mẫu Thiện Hiện rằng:

 

Thiện nữ! ngã thú cầu A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, đương ư tận vị lai tế vô lượng kiếp, tập nhất thiết trí trợ đạo chi Pháp, tu vô biên Bồ Tát hạnh, tịnh nhất thiết Ba-la-mật, cúng dường nhất thiết chư Như Lai, hộ trì nhất thiết chư Phật giáo, nghiêm tịnh nhất thiết Phật quốc độ, đương lệnh nhất thiết Như Lai chủng tánh bất đoạn, đương tùy nhất thiết chúng sanh chủng tánh nhi phổ thành thục, đương diệt nhất thiết chúng sanh sanh tử khổ trí ư cứu cánh an lạc xứ, đương tịnh trì nhất thiết chúng sanh trí Tuệ-nhãn, đương tu tập nhất thiết Bồ Tát sở tu hành, đương an trụ nhất thiết Bồ Tát bình đẳng tâm, đương thành tựu nhất thiết Bồ Tát sở hạnh địa, đương lệnh nhất thiết chúng sanh phổ hoan hỉ; đương xả nhất thiết vật, tận vị lai tế hành đàn ba-la-mật, lệnh nhất thiết chúng sanh phổ đắc mãn túc y phục ẩm thực, thê thiếp nam nữ, đầu mục thủ túc, như thị nhất thiết nội ngoại sở hữu, tất đương xả thí, vô sở lận tích.

Nầy Thiện-Nữ! Ta cầu vô-thượng bồ-đề, sẽ tột vô-lượng kiếp thuở vị-lai chứa nhóm pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí, tu tập vô-biên bồ-tát-hạnh, tịnh tất cả ba-la-mật, cúng-dường tất cả Như-Lai, hộ trì tất cả phật-giáo, nghiêm tịnh tất cả phật-độ, sẽ làm cho phật-chủng của tất cả Như-Lai chẳng mất, sẽ theo chủng-tánh của tất cả chúng-sanh để thành-thục họ, sẽ diệt khổ sanh tử cho chúng-sanh được ở chỗ rốt ráo an lạc, sẽ tịnh tri mắt trí-huệ cho tất cả chúng-sanh, sẽ tu tập tất cả công-hạnh của Bồ-Tát, sẽ an trụ nơi tâm bình-đẳng của tất cả Bồ-Tát, sẽ thành-tựu hành-địa của tất cả Bồ-Tát, sẽ làm cho tất cả chúng-sanh đều hoan-hỉ, sẽ xả thí tất cả vật để thật hành đàn ba-la-mật tột thuở vị-lai, làm cho tất cả chúng-sanh đều được đầy đủ, những vật uống ăn, y phục, vợ con đến đầu mặt tay chân ta đều sẽ xả thí không hề tiếc.

Giảng: Thiện nữ! Ta chỉ hướng về cầu pháp A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Hết thuở vị lai vô lượng kiếp, ta sẽ tích tập pháp môn trợ đạo nhất thiết trí. Ta phải tu vô lượng vô biên Bồ Tát hạnh. Ta phải thanh tịnh tất cả pháp Ba La Mật. Ta phải cúng dường mười phương chư Phật. Ta phải hộ trì tất cả giáo pháp của chư Phật. Ta phải nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Ta sẽ khiến cho giống tánh của tất cả Như Lai không đoạn tuyệt. Ta sẽ tuỳ thuận giống tánh tất cả chúng sinh, khiến cho họ khắp thành thục. Ta sẽ diệt trừ khổ sinh tử của tất cả chúng sinh, đặt để họ ở nơi rốt ráo an lạc. Ta sẽ tịnh trị mắt trí huệ của tất cả chúng sinh. Ta sẽ an trụ tâm bình đẳng của tất cả Bồ Tát. Ta sẽ thành tựu các quả vị tu hành của tất cả Bồ Tát. Ta sẽ khiến khắp tất cả chúng sinh đều hoan hỉ. Ta sẽ xả bỏ tất cả mọi tài vật, hết thuở vị lai hành pháp môn bố thí Ba La Mật. Ta sẽ khiến cho khắp tất cả chúng sinh đều được đầy đủ những vật chất họ mong cầu, bố thí các y phục, thức ăn uống, thê thiếp, nam nữ, đầu mắt, tay chân .v.v… tất cả như vậy, hết thảy tài vật trong ngoài, ta đều sẽ bố thí, không có tâm xẻn tiếc, không có tư tưởng xả bỏ chẳng được.

 

Đương ư Nhĩ thời, nhữ hoặc ư ngã nhi tác chướng nan: thí tài vật thời, nhữ tâm lận tích; thí nam nữ thời, nhữ tâm thống não; cát chi thể thời, nhữ tâm ưu muộn; xả nhữ xuất gia, nhữ tâm hối hận.

Lúc đó nàng sẽ cản trở ta, lúc thí của cải nàng sẽ lẫn tiếc, lúc thí con cái nàng sẽ buồn khổ, lúc cắt tay chân nàng sẽ sầu muộn, lúc bỏ nàng để xuất gia lòng nàng sẽ hối hận.

Giảng: Lúc đó nàng sẽ không toại ý của ta, sẽ cản trở ta việc ta làm, khi ta bố thí tài vật, thì tâm nàng xẻn tiếc. Khi ta bố thí con cái, thì tâm nàng đau khổ. Khi ta cắt tứ chi, thì tâm nàng sầu muộn. Khi ta bỏ nàng xuất gia tu đạo, thì tâm nàng hối hận. Nàng có phát sinh những việc khó khăn, chướng ngại ta tu đạo nầy chăng.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử tức vi diệu đức nhi thuyết tụng ngôn:

Thái-Tử nói kệ bảo nàng Diệu-Ðức rằng:

Giảng: Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ liền vì Diệu Đức đồng nữ thuật lại nghĩa lý trên đây mà nói kệ rằng:

 

Ai mẩn chúng sanh cố,                                   Vì thương xót chúng-sanh
Ngã phát Bồ-đề tâm,                                      Ta phát tâm bồ-đề
Đương ư vô lượng kiếp,                                  Ở trong vô-lượng kiếp
Tập hành nhất thiết trí.                                 Tu Tập nhất-thiết-trí.

Thái tử Oai Đức Chủ nói với Diệu Đức đồng nữ rằng: Ta vì thương xót tất cả chúng sinh, cho nên ta phát tâm bồ đề. Ta sẽ ở trong vô lượng kiếp, tu tập pháp môn nhất thiết trí. Có trí huệ mới có thể giáo hoá tất cả chúng sinh, bằng không, chẳng có ích lợi gì hết.

 

Vô lượng Đại kiếp trung,                                Trong vô-lượng đại-kiếp
Tịnh tu chư nguyện hải,                                 Tịnh tu những nguyện-hải
Nhập địa cập trì chướng,                               Nhập địa và trừ chướng
Tất Kinh vô lượng kiếp.                                 Ðều trải vô-lượng kiếp.

Trong vô lượng đại kiếp quá khứ, ta dùng tâm thuần thanh tịnh không nhiễm, chuyên tu tất cả biển đại nguyện. Từ Sơ địa cho đến Thập địa, tịnh trị phiền não chướng và sở tri chướng, cùng với đủ thứ chướng ngại. Đều phải trải qua vô lượng kiếp, mới có sự thành tựu.

 

Tam thế chư Phật sở,                                     Chỗ tam thế chư Phật
Học lục Ba la mật,                                          Học lục ba-la-mật
Cụ túc phương tiện hạnh,                              Ðầy đủ hạnh phương-tiện
Thành tựu Bồ-đề đạo.                                    Thành-tựu đạo bồ-đề.

Ta ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật mười phương ba đời, học tập sáu pháp Ba La Mật. Pháp Ba La Mật là gì? Tức là pháp môn đến bờ bên kia. Tu bố thí, tu đến lúc viên mãn, thì sẽ đến bờ bên kia. Cho đến tu Bát Nhã, tu đến lúc viên mãn, thì sẽ đến bờ bên kia. Bờ bên kia là bờ nào? Tức là bờ bất sinh bất diệt, tức cũng là Niết Bàn. Niết Bàn có bốn đức: Tức là: Thường, lạc, ngã, tịnh. Pháp môn của Bồ Tát tu là lục độ vạn hạnh. Đầy đủ hạnh phương tiện, thì sẽ thành tựu bồ đề giác đạo.

 

Thập phương cấu uế sát,                               Cõi cấu uế mười phương
Ngã đương tất nghiêm tịnh;                          Ta sẽ đều nghiêm tịnh
Nhất thiết ác đạo nan,                                   Tất cả nạn ác-đạo
Ngã đương lệnh vĩnh xuất.                            Ta sẽ khiến thoát hẳn.

Trong mười phương có vô lượng cõi cấu uế, ta phát nguyện sẽ trang nghiêm thanh tịnh. Tất cả chúng sinh ba đường ác, cùng với chúng sinh trong tám nạn, ta sẽ khiến cho họ vĩnh viễn thoát khỏi biển khổ.

 

Ngã đương dĩ phương tiện,                            Ta sẽ dùng phương-tiện
Quảng độ chư quần sanh,                             Rộng độ các quần-sanh
Lệnh diệt ngu si ám,                                       Khiến diệt tối ngu-si
Trụ ư Phật trí đạo.                                         Trụ nơi phật-trí-đạo.

Ta sẽ dùng pháp môn phương tiện khéo léo, rộng độ tất cả chúng sinh. Khiến cho họ diệt trừ ngu si tối tăm, trụ nơi đạo trí huệ của Phật. Tại sao con người có sự ngu si? Vì bị vô minh che đậy; nếu phá được vô minh, thì sẽ đắc được trí huệ quang minh. Làm thế nào phá được vô minh? Phương pháp rất đơn giản là không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi. Cho nên trở thành năm đại tông chỉ của Vạn Phật Thánh Thành. Nếu ai ai cũng triệt để thực hành, đến được lư hoả trừng thanh, thì trở thành bậc Thánh nhân.

 

Đương cung nhất thiết Phật,                         Sẽ cúng tất cả Phật,
Đương tịnh nhất thiết địa,                             Sẽ tịnh tất cả địa,
Khởi đại từ bi tâm,                                         Khởi đại từ-bi tâm
Tất xả nội ngoại vật.                                       Ðều bỏ vật trong ngoài.

Ta sẽ cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời, ta sẽ thanh tịnh quả vị của tất cả địa; ta sẽ sinh khởi tâm đại từ bi, thương xót tất cả chúng sinh; ta sẽ đem hết nội tài, ngoại tài, bố thí cho chúng sinh cần, chẳng có tư tưởng xả bỏ không được.

 

Nhữ kiến lai khất giả,                                     Nàng thấy người đến xin
Hoặc sanh xan lận tâm;                                 Hoặc sanh lòng tham tiếc,
Ngã tâm thường lạc thí,                                 Tâm ta thường thích thí
Nhữ vật vi ư ngã.                                            Nàng chớ trái lòng ta.

Nàng thấy người đến chỗ ta cầu xin, hoặc nàng sinh tâm tham sẻn không xả bỏ được, nhưng tâm ta thì luôn luôn muốn bố thí, nàng có trái ý ta chăng. Hiện tại ta phải nói rõ cho nàng biết, chớ đến lúc đó, tâm nàng không vui thì không tốt, nàng phải biết cảnh giới vui nhất là làm việc thiện.

 

Nhược kiến ngã thí đầu,                                Nếu thấy ta thí đầu
Thận vật sanh ưu não;                                   Chớ có sanh buồn khổ,
Ngã kim tiên ngữ nhữ,                                    Nay ta bảo nàng trước
Lệnh nhữ tâm kiên cố.                                   Cho lòng nàng kiên-cố.

Nếu nàng thấy ta thí đầu của ta, nàng phải cẩn thận, chớ có sinh lo buồn, chướng ngại tâm bố thí của ta. Nay ta nói trước cho nàng biết, khiến cho tâm nàng kiên cố, ta nguyện bố thí nội tài đầu mắt tuỷ não và ngoại tài đất nước vợ con.

 

Nãi chí tiệt thủ túc,                                         Nhẫn đến chặt tay chân
Nhữ vật hiềm khất giả;                                  Nàng chớ trách người xin,
Nhữ kim văn ngã ngữ,                                    Nay nàng nghe lời ta
Ưng khả đế tư tánh.                                       Cần phải suy nghĩ kỹ.

Nếu có người muốn tay chân của ta, thì ta cam tâm tình nguyện chặt tay chân cho họ, không có tơ hào xẻn tiếc, nàng đừng có hiềm trách người đến xin. Nay nàng nghe lời ta nói, nàng hãy suy nghĩ cho thật kỹ, không nên dùng tình cảm làm việc.

 

Nam nữ sở ái vật,                                           Tất cả vật sở hữu
Nhất thiết ngã giai xả;                                    Ta đều xả tất cả,
Nhữ năng thuận ngã tâm,                             Nếu nàng thuận lòng ta
Ngã đương thành nhữ ý.                               Ta sẽ toại ý nàng.

Ta sẽ đem con cái và tài vật mà ta ưa mến, thảy đều bố thí cho người cần. Nếu nàng thuận tâm ý của ta, không phản đối nguyện lực bố thí của ta, thì ta sẽ toại ý của nàng, cùng nàng kết hôn làm vợ chồng.

 

Nhĩ thời, đồng nữ bạch Thái-Tử ngôn: kính phụng lai giáo. Tức thuyết tụng ngôn:

Ðồng-nữ thưa với Thái-Tử: Kính vâng lời dạy của Ngài. Ðồng-nữ liền nói kệ đáp lời Thái-Tử:

Giảng: Lúc đó, đồng nữ Diệu Đức bạch thái tử Oai Đức Chủ rằng: Tôi xin kính vâng lời dạy của Ngài, suốt đời theo ý của Ngài, liền nói kệ rằng:

 

Vô lượng kiếp hải trung,                                Trong vô-lượng kiếp-hải
Địa ngục hỏa phần thân.                               Lửa địa-ngục đốt thân
Nhược năng quyến nạp ngã,                         Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ thử khổ.                                    Cam tâm chịu khổ nầy.

Đồng nữ Diệu Đức nói: Trong vô lượng biển kiếp, dù bị lửa địa ngục đốt thân, nếu Ngài thương nạp tôi làm quyến thuộc, tôi cam tâm thọ khổ nầy, mà không một lời oán trách.

 

Vô lượng thọ sanh xứ,                                    Vô-lượng chỗ thọ sanh
Toái thân như vi trần.                                    Nát thân như vi-trần
Nhược năng quyến nạp ngã,                         Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ thử khổ.                                    Cam tâm thọ khổ nầy.

Vô lượng nơi thọ sinh, dù thân tôi nát thành như hạt bụi, chỉ cần thái tử thương nạp tôi làm quyến thuộc, thì tôi cam tâm thọ khổ nầy. Tóm lại, nếu chấp nhận sự yêu cầu của tôi, thì bất cứ khổ gì, tôi cũng đều chịu hết.

 

Vô lượng kiếp đảnh đái,                                 Vô-lượng kiếp đầu đội
Quảng đại Kim Cương sơn.                           Núi kim-cang lớn rộng
Nhược năng quyến nạp ngã,                         Nếu Ngài thương nạp tôi
Cam tâm thọ thử khổ.                                    Cam tâm thọ khổ nầy.

Trong vô lượng kiếp, đầu tôi đội núi kim cang rộng lớn, nếu Ngài thương nạp tôi làm quyến thuộc, thì tôi cam tâm thọ khổ nầy, tuyệt đối không có nửa lời oán trách.

 

Vô lượng sanh tử hải,                                     Vô-lượng biển sanh tử
Dĩ ngã thân nhục thí;                                     Ðem thịt tôi bố thí
Nhữ đắc pháp vương xứ,                               Chỗ Ngài thành Pháp-Vương
Nguyện lệnh ngã diệc nhiên!                          Nguyện cho tôi cũng vậy.

Trong vô lượng biển sinh tử, nếu dùng thân tôi và thịt của tôi bố thí cho người cần, mà có thể khiến cho Ngài đến được nơi Pháp Vương, thì tôi nguyện hy sinh thân thể của tôi, trợ giúp Ngài thành Phật đạo, nguyện khiến cho tôi cũng được như vậy. Từ chỗ nầy mà nhìn, thì đồng nữ đối với thái tử tình sâu như biển cả, vì ái tình mà chịu hy sinh thân mạng. Nhưng mọi người hãy chú ý! Thứ ái tình nầy là thuần khiết, chẳng phải sự mê luyến của một số người.

 

Nhược năng quyến nạp ngã,                         Nếu Ngài thương nạp tôi
Dữ ngã vi chủ giả,                                           Cho tôi làm chủ đó
Sanh sanh hạnh thí xứ,                                  Ðời đời Ngài bố thí
Nguyện thường dĩ ngã thí!                             Nguyện thường đem tôi thí.

Nếu thái tử Ngài thương tiếp nhận yêu cầu của tôi, cho tôi làm chủ nhân, thì đời đời Ngài hành bố thí, xin hãy thường đem thân tôi bố thí.

 

Vi mẫn chúng sanh khổ,                                Vì thương chúng-sanh khổ
Nhi phát Bồ-đề tâm;                                      Mà phát tâm bồ-đề
Ký dĩ nhiếp chúng sanh,                                Ðã nhiếp chúng-sanh rồi
Diệc đương nhiếp thọ ngã.                             Cũng sẽ nhiếp thọ tôi.

Ngài vì thương xót chúng sinh thống khổ, mới phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, giải cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ sinh tử. Tức Ngài đã nhiếp thọ tất cả chúng sinh, mà tôi cũng là một chúng sinh, hy vọng Ngài cũng làm cho tôi toại nguyện, nhiếp thọ tôi làm quyến thuộc của Ngài.

 

Ngã bất cầu hào phú,                                     Tôi chẳng cầu giầu sang
Bất tham ngũ dục lạc,                                    Chẳng tham vui ngũ-dục
Đãn vi cọng hành Pháp,                                 Chỉ vì cùng tu hành
Nguyện dĩ nhân vi chủ!                                  Nguyện dùng Ngài làm chủ.

Tôi không phải vì cầu giàu sang phú quý, mà kết hôn với Ngài, cũng không phải vì tham vui năm dục mà kết hôn với Ngài. Mục đích của tôi, chỉ vì cùng tu hành chánh pháp với Ngài, cho nên nguyện dùng Ngài làm chủ nhân của tôi, chỉ dẫn tôi, khuyến khích tôi.

 

Cám thanh tu quảng nhãn,                           Mắt rộng dài xanh biếc
Từ mẫn quán thế gian,                                   Từ mẫn nhìn thế-gian
Bất khởi nhiễm trước tâm,                            Chẳng móng tâm nhiễm trước
Tất thành Bồ Tát đạo.                                   Quyết thành đạo Bồ-Tát.

Mắt của Ngài rộng dài xanh biếc, thương xót quán sát tất cả chúng sinh thế gian, mà chẳng khởi tâm nhiễm trước. Tương lai Ngài sẽ thành tựu Bồ Tát đạo, tức cũng là viên mãn lục độ vạn hạnh. Bồ Tát là tự giác giác tha, tự độ độ tha, tự lợi lợi tha, dùng chúng sinh làm đại tiền đề, có tinh thần xả mình vì người.

 

Thái-Tử sở hạnh xứ,                                       Chỗ Thái-Tử bước đi
Địa xuất chúng bảo hoa,                                Ðất mọc những bửu-hoa
Tất tác Chuyển luân Vương,                         Tất làm Chuyển-Luân-Vương
Nguyện năng quyến nạp ngã!                        Xin Ngài thương nạp tôi.

Thái tử! Vì Ngài tu đủ thứ pháp môn Ba La Mật, cho nên chỗ Ngài đi qua, do sự cảm ứng đạo giao, từ dưới đất mọc lên đủ thứ các hoa báu. Cảnh giới nầy, báo hiệu tương lai Ngài sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, tôi xin thái tử thương nạp thọ tôi làm quyến thuộc.

 

Ngã tằng mộng kiến thử,                               Tôi vừa mộng thấy Phật
Diệu pháp Bồ-đề trường,                               Diệu-pháp bồ-đề tràng
Như Lai thụ hạ tọa,                                        Ðức Phật ngồi dưới cây
Vô lượng chúng vi nhiễu.                               Vô-lượng chúng vây quanh.

Tôi từng mộng thấy cảnh giới nầy, ở tại đạo tràng Pháp Vân Quang Minh, đức Phật Thắng Nhựt Thân đang ngồi dưới cội bồ đề, thành Chánh Đẳng Giác, có vô lượng vô số Bồ Tát và đại chúng vây quanh đức Phật.

 

Ngã mộng bỉ Như Lai,                                    Tôi mộng thấy Như-Lai
Thân như chân kim sơn,                                Thân như núi Chơn-kim
Dĩ thủ ma ngã đảnh,                                      Tay Phật xoa đầu tôi
Ngụ dĩ tâm hoan hỉ.                                       Thức dậy lòng hoan-hỉ.

Trong mộng tôi thấy Phật Thắng Nhựt Thân đó, thân Phật quang minh như núi vàng ròng. Đức Phật dùng tay rờ đầu tôi (đây là sự gia trì, khiến cho khai mở trí huệ), khi tôi tỉnh dậy cảm giác rất mát mẻ, tâm sinh đại hoan hỉ.

 

Vãng tích quyến thuộc Thiên,                       Trời quyến-thuộc thuở xưa
Danh viết hỉ quang minh;                              Tên là Hỉ-Quang-Minh
Bỉ Thiên vi ngã thuyết,                                   Trời đó vì tôi nói
Đạo tràng Phật hưng thế.                              Ðạo tràng Phật xuất thế.

Thuở xưa có quyến thuộc Trời, tên là Hỉ Quang Minh. Vị Trời đó nói với tôi: Đức Phật ra đời tại đạo tràng Diệu Pháp Bồ Đề, tôi đã nghe được tin nầy, rất là hớn hở vui mừng.

 

Ngã tằng sanh thị niệm:                                 Tôi từng nghĩ như vậy
Nguyện kiến Thái-Tử thân.                            Nguyện thấy thân Thái-Tử,
Bỉ Thiên báo ngã ngôn:                                  Trời ấy bảo tôi rằng
Nhữ kim đương đắc kiến.                               Nay nàng sẽ được thấy.

Tôi từng sinh ra ý niệm nầy, tôi muốn thấy được thân thái tử. Quyến thuộc Trời đó bảo tôi rằng: Nay nàng sẽ được thấy vị thái tử đó, đừng bỏ qua cơ hội nầy.

 

Ngã tích sở chí nguyện,                                  Chí nguyện trước của tôi
Ư kim tất thành mãn;                                    Hôm nay đều thành mãn
Duy nguyện câu vãng nghệ,                          Xin cùng ngài đồng đến
Cúng dường bỉ Như Lai!                                Cúng-dường đức Như-Lai

Chí nguyện xưa của tôi, nay đều được thành tựu viên mãn. Tôi chỉ có một nguyện vọng, muốn cùng thái tử đi đến chỗ đức Phật, cúng dường đức Phật Thắng Nhựt Thân.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử văn thắng nhật thân Như Lai danh, sanh đại hoan hỉ, nguyện kiến bỉ Phật, dĩ ngũ bách ma-ni bảo tán kỳ nữ thượng, quan dĩ diệu tạng quang minh bảo quán, bị dĩ hỏa diệm ma-ni bảo y.

Thái-Tử nghe danh hiệu Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai, rất hoan-hỉ muốn được thấy Phật. Thái-Tử đem năm trăm châu ma-ni rải trên Ðồng-Nữ, ban mão Diệu-Tạng-Quang-Minh-Bửu và áo Hỏa-Diệm-Ma-Ni-Bửu.

Giảng: Lúc đó, thái tử nghe đến danh hiệu Phật Thắng Nhựt Thân, bèn sinh đại hoan hỉ, muốn cùng đồng nữ Diệu Đức đi đến gặp đức Phật, liền dùng năm trăm ma ni châu báu rải lên trên đầu đồng nữ Diệu Đức, còn ban cho nàng mão Diệu tạng quang minh bảo và ban cho nàng áo Hoả diệm ma ni bảo.

 

Kỳ nữ Nhĩ thời, tâm bất động dao, diệc vô hỉ tướng; đãn hợp chưởng cung kính, chiêm ngưỡng Thái-Tử, mục bất tạm xả. kỳ mẫu thiện hiện, ư Thái-Tử tiền nhi thuyết tụng ngôn:

Ðồng-Nữ Diệu-Ðức lòng chẳng rung động cũng không lộ vẻ mừng, chỉ chắp tay cung-kính chiêm-ngưỡng Thái-Tử mắt chẳng tạm rời. Bà Thiện-Hiện ở trước Thái-Tử nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, tâm của đồng nữ Diệu Đực chẳng có giao động, cũng chẳng sinh tâm vui mừng, nàng chỉ chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng thái tử, mắt chẳng tạm rời, đây là biểu thị sự sùng bái.  Lúc đó, bà bảo mẫu Thiện Hiện (mẹ nuôi của đồng nữ Diệu Đức) ở trước thái tử Oai Đức Chủ nói ra mười bài kệ, tường thuật lại mỹ đức khen ngợi đồng nữ:

 

Thử nữ cực đoan chánh,                               Con tôi rất đoan chánh
Công đức trang nghiêm thân;                       Thân công-đức trang-nghiêm
Tích nguyện phụng Thái-Tử,                         Xưa nguyện thờ Thái-Tử
Kim ý dĩ mãn túc.                                           Nay đã được toại ý.

Tướng mạo của đồng nữ Diệu Đức rất đoan chánh, rất viên mãn; đó là do quả báo trong quá khứ đã từng cúng dường Tam Bảo, trang nghiêm đạo tràng, cho nên có đủ thứ công đức trang nghiêm thân. Xưa kia cô ta phát nguyện một đời thờ thái tử, hiện nay đã gặp được thái tử, tâm ý của nàng đã đầy đủ.

 

Trì giới hữu trí tuệ,                                         Trì giới có trí huệ
Cụ túc chư công đức;                                    Ðầy đủ các công-đức
Phổ ư nhất thiết thế,                                      Khắp tất cả thế-gian
Tối thắng vô luân thất.                                   Tối-thắng không ai bằng.

Cô ta giữ giới thanh tịnh, cho nên có trí huệ, đầy đủ tất cả công đức. Khắp trong các thế gian, cô ta tối thắng nhất, trang nghiêm nhất, không ai bằng cô ta được.

 

Thử nữ Liên-hoa-sanh,                                  Từ liên-hoa hóa sanh
Chủng tính vô ky xú,                                      Chủng tánh không hèn xấu
Thái-Tử đồng hành nghiệp,                           Thái-Tử đồng hạnh nghiệp
Viễn ly nhất thiết qua.                                    Xa lìa tất cả lỗi.

Nàng Diệu Đức nầy từ hoa sen sanh ra, dòng dõi của cô ta không thấp hèn. Cô ta và thái tử cùng nhau tu hành thiện nghiệp, thì sẽ xa lìa tất cả lỗi lầm.

 

Thử nữ thân nhu nhuyễn,                              Con tôi thân nhu nhuyến
Do như Thiên tăng khoáng;                           Dường như lụa cõi trời
Kỳ thủ sở xúc ma,                                          Tay nàng rờ chạm đến
Chúng hoạn tất trừ diệt.                                Bịnh đau đều trừ diệt.

Nàng Diệu Đức nầy thân thể rất mềm mại, dường như lụa cõi trời. Chỗ tay nàng chạm đến, có công năng chữa trị các bệnh, đều có thể trừ diệt. Do đó có câu: “Tay đến thì bệnh khỏi”, có cảnh giới không thể nghĩ bàn.

 

Mao khổng xuất diệu hương,                        Lỗ lông phát hương thơm
Phân hinh tối vô bỉ;                                        Ngào ngạt không gì bằng
Chúng sanh nhược văn giả,                           Nếu ai được ngửi đến
Tất trụ ư tịnh giới.                                          Ðều ở nơi tịnh-giới.

Lỗ lông trên thân của nàng, toả ra hương thơm vi diệu, ngào ngạt không gì bằng. Nếu chúng sinh ngửi được mùi thơm nầy, thì đều trụ nơi tịnh giới, tuyệt đối không phạm giới.

 

Thân sắc như chân kim,                                 Màu da như chơn-kim
Đoan tọa hoa đài thượng;                              Ngồi ngay trên hoa-đài
Chúng sanh nhược kiến giả,                          Chúng-sanh nếu được thấy
Ly hại cụ từ tâm.                                            Hết oán phát tâm từ.

Sắc thân của nàng như vàng ròng. Cô ta ngồi ngay thẳng trên đài hoa sen. Nếu chúng sinh thấy được hình tướng của cô ta, thì sẽ lìa khỏi tâm thù oán, đầy đủ tâm từ bi.

 

Ngôn âm cực nhu nhuyễn,                             Lời nói rất dịu dàng
Thính chi vô bất hỉ;                                        Ai nghe cũng hoan-hỉ
Chúng sanh nhược đắc văn,                          Chúng-sanh nếu được nghe
Tất ly chư ác nghiệp.                                      Ðều rời những ác-nghiệp.

Tiếng nói của nàng rất dịu dàng, hoà nhã êm tai. Ai nghe được tiếng nói của nàng đều hoan hỉ. Nếu chúng sinh nghe được tiếng nói của cô ta, thì sẽ lìa khỏi các nghiệp ác.

 

Tâm tịnh vô hà cấu,                                       Tâm tịnh không vết nhơ
Viễn ly chư siểm khúc,                                    Xa lìa những siểm khúc
Xưng tâm nhi phát ngôn,                               Xứng tâm mà phát ngôn
Văn giả giai hoan hỉ.                                       Người nghe đều hoan-hỉ.

Tâm của cô ta rất thanh tịnh không vết nhơ, xa lìa các hành vi nịnh bợ, xa lìa các hành vi xiểm khúc, xứng tâm mà nói ra, lời nói ra đều hợp cơ với chúng sinh, cho nên người nghe đều sinh tâm hoan hỉ.

 

Điều nhu cụ tàm quý,                                     Ðiều nhu lòng hổ thẹn
Cung kính ư tôn tú,                                        Cung kính bậc tôn túc
Vô tham diệc vô cuống                                   Không tham cũng không dối
Liên mẫn chư chúng sanh.                             Thương xót các chúng-sanh.

Tánh tình của cô ta rất điều nhu, mà còn đầy đủ tâm hổ thẹn. Mỗi ngày ba lần phản tỉnh, có lỗi thì sửa đổi, không có lỗi thì thôi. Cung kính bậc tôn túc (thiện tri thức). Cô ta không có tâm tham, cũng không có tật xấu lừa dối. Cô ta có lòng từ bi, thương xót tất cả chúng sinh. Giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ cải ác hướng thiện, lìa khổ được vui.

 

Thử nữ tâm bất thị,                                        Lòng con tôi chẳng ỷ
Sắc tướng cập quyến thuộc;                          Sắc tướng và quyến-thuộc
Đãn dĩ thanh tịnh tâm,                                   Chỉ dùng tâm thanh-tịnh
Cung kính nhất thiết Phật.                            Cung Kính tất cả Phật.

Tâm của cô ta chẳng có sự ỷ lại. Cô ta chẳng ỷ sắc tướng của mình xinh đẹp hơn tất cả mọi người, cũng chẳng ỷ lại quyến thuộc của mình mỹ mãn hơn tất cả mọi người, chẳng phải vì có hoàn cảnh như vậy, mà sinh tâm tự hào. Cô ta chẳng có tâm kiêu ngạo, chẳng có tâm vọng tưởng, chỉ dùng tâm thanh tịnh, cung kính cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời.

Nhĩ thời, Thái-Tử dữ diệu đức nữ cập thập thiên thải nữ tinh kỳ quyến thuộc, xuất hương nha viên, nghệ pháp vân quang minh đạo tràng. Chí dĩ hạ xa, bộ tấn nghệ Như Lai sở.

Lúc đó Thái-Tử và nàng Diệu-Ðức đem một ngàn thể-nữ cùng quyến-thuộc, ra khỏi vườn Hương-Nha, đến đạo-tràng Pháp-Vân Quang-Minh, xuống xe đi bộ đến chỗ đức Phật.

Giảng: Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ và đồng nữ Diệu Đức với mười ngàn thể nữ, cùng tất cả quyến thuộc ra khỏi vườn Hương Nha, đi đến đạo tràng Pháp Vân Quang Minh.

 

Kiến Phật thân tướng đoan nghiêm tịch tĩnh, chư căn điều thuận, nội ngoại thanh tịnh, như Đại long trì vô chư cấu trược; giai sanh tịnh tín, dõng dược hoan hỉ, đảnh lễ Phật túc, nhiễu vô số tạp.

Thấy đức Phật Thắng-Nhựt-Thân đoan-nghiêm tịch-tịnh, căn thân điều thuận trong ngoài đều thanh-tịnh, như ao Ðại-Long không có cặn nhơ, Thái-Tử và quyến-thuộc sanh lòng kính tin vui mừng hớn-hở đảnh lễ chân đức Phật, hữu-nhiễu vô-số vòng.

Giảng: Đến đạo tràng rồi, xuống xe đi bộ đến chỗ đức Phật, thấy thân tướng đức Phật Thắng Nhựt Thân, đoan chánh trang nghiêm, rất tịch tĩnh, các căn của Phật rất điều thuận, trong ngoài thanh tịnh như hồ Đại Long, không có chút dơ đục nào. Thái tử và đồng nữ đều sinh tín tâm thanh tịnh, vui mừng hớn hở, đảnh lễ đức Phật, rồi đi nhiễu quanh đức Phật vô lượng vòng.

 

Vu thời, Thái-Tử cập diệu đức nữ, các trì ngũ bách diệu bảo liên hoa cung tán bỉ Phật. Thái-Tử vi Phật tạo ngũ bách Tịnh Xá, nhất nhất giai dĩ hương mộc sở thành, chúng bảo trang nghiêm, ngũ bách ma-ni dĩ vi gian thác.

Thái-Tử và nàng Diệu-Ðức, mỗi người cầm năm trăm bông sen báu cúng-dường đức Phật. Thái-Tử vì Phật mà kiến tạo năm trăm tinh xá bằng gỗ thơm, trang-nghiêm với những diệu-bửu xen châu ma-ni.

Giảng: Lúc bấy giờ, thái tử Oai Đức Chủ và đồng nữ Diệu Đức, mỗi người đều cầm năm trăm hoa sen báu đẹp, cúng dường đức Phật đó. Thái tử lại vì đức Phật tạo dựng năm trăm tinh xá, đều làm bằng gỗ thơm, dùng bảy báu để trang nghiêm tinh xá, lại dùng năm trăm ma ni báu xen lẫn với nhau để nghiêm sức.

 

Thời, Phật vi thuyết phổ nhãn đăng môn tu-đa-la; văn thị Kinh dĩ, ư nhất thiết pháp trung đắc tam muội hải,

Ðức Phật thuyết kinh Phổ-Nhãn-Ðăng-Môn. Thái-Tử nghe xong, ở trong tất cả pháp được tam-muội-Hải

Giảng: Lúc đó, đức Phật Thắng Nhựt Thân vì thái tử và đồng nữ cùng với thể nữ và quyến thuộc, nói Kinh Phổ Nhãn Đăng Môn, họ nghe Kinh đó rồi, ở trong tất cả pháp, đắc được biển tam muội.

 

Sở vị: đắc phổ chiếu nhất thiết Phật nguyện hải tam muội, phổ chiếu tam thế tạng tam muội, hiện kiến nhất thiết Phật đạo tràng tam muội, phổ chiếu nhất thiết chúng sanh tam muội, phổ chiếu nhất thiết thế gian trí đăng tam muội, phổ chiếu nhất thiết chúng sanh căn trí đăng tam muội, cứu hộ nhất thiết chúng sanh quang minh vân tam muội, phổ chiếu nhất thiết chúng sanh Đại minh đăng tam muội, diễn nhất thiết Phật Pháp luân tam muội, cụ túc Phổ Hiền thanh tịnh hạnh tam muội.

Như là Phổ-chiếu-nhứt-thiết-phật-nguyện-hải tam-muội, phổ-chiếu tam-thế-tạng tam-muội, hiện-kiến-nhứt-thiết-phật-đạo-tràng tam-muội, phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh tam-muội, phổ-chiếu-nhứt-thiết-thế-gian-trí-đăng tam-muội, Phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh-căn-trí-đăng tam-muội, cứu-hộ-nhứt-thiết-chúng-sanh-quang-minh-vân tam-muội, phổ-chiếu-nhứt-thiết-chúng-sanh-đại-minh-đăng tam-muội, diễn-nhất-thiết-phật-pháp-luân tam-muội, cụ-túc-phổ-hiền-thanh-tịnh-hạnh tam-muội.

Giảng: Đó là:
1. Tam muội Biển nguyện chiếu khắp tất cả Phật.
2. Tam muội Tạng chiếu khắp ba đời.
3. Tam muội Hiện thấy đạo tràng tất cả chư Phật.
4. Tam muội Chiếu khắp tất cả chúng sinh.
5. Tam muội Đèn trí huệ chiếu khắp tất cả thế gian.
6. Tam muội Đèn trí huệ chiếu khắp căn tất cả chúng sinh.
7. Tam muội Mây quang minh cứu hộ tất cả chúng sinh.
8. Tam muội Đèn sáng lớn chiếu khắp tất cả chúng sinh.
9. Tam muội Diễn tất cả Phật pháp luân.
10. Tam muội Đầy đủ hạnh Phổ Hiền thanh tịnh.

 

Thời, diệu đức nữ đắc tam muội, danh: nan thắng hải tạng, ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề vĩnh Bất-thoái-chuyển.

Nàng Diệu-Ðức được nan-thắng-hải-tạng tam-muội, trọn chẳng thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.

Giảng: Lúc đó, đồng nữ Diệu Đức đắc được tam muội tên là Nan Thắng Hải Tạng, vĩnh viễn không thối chuyển nơi quả vị A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Thời, bỉ Thái-Tử dữ diệu đức nữ tinh kỳ quyến thuộc, đảnh lễ Phật túc, nhiễu vô số tạp, từ thoái hoàn cung; nghệ Phụ Vương sở, bái quỵ tất dĩ, phụng bạch Vương ngôn: Đại Vương đương tri, thắng nhật thân Như Lai xuất hưng ư thế, ư thử quốc nội pháp vân quang minh Bồ-đề trường trung thành đẳng chánh giác, vu kim vị cửu.

Thái-Tử và Diệu-Ðức cùng quyến thuộc đảnh lễ chân Phật, hữu nhiễu vô-số vòng từ tạ trở về cung, tâu cùng Phụ-Vương rằng: Ðức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai gần đây xuất thế thành Ðẳng-Chánh-Giác tại đạo-tràng bồ-đề Pháp-Vân Quang-Minh nơi vườn Hương-Nha.

Giảng: Lúc đó, thái tử Oai Đức Chủ và đồng nữ Diệu Đức, thể nữ cùng với quyến thuộc, đảnh lễ đức Phật, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, từ tạ trở về cung, đi đến chỗ vua cha, quỳ lạy rồi tâu với vua cha rằng: Đại Vương nên biết, hiện tại có đức Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Thắng Nhựt Thân, thành Đẳng Chánh Giác không bao lâu, ở tại bồ đề tràng Pháp Vân Quang Minh, trong đất nước của chúng ta.

 

Nhĩ thời, Đại Vương ngữ Thái-Tử ngôn: thị thùy vi nhữ thuyết như thị sự? Thiên da? nhân da?

Phụ-Vương hỏi Thái-Tử: Ai nói cho con hay sự ấy.

Giảng: Lúc đó, đại vương Tài Chủ hỏi thái tử Oai Đức Chủ rằng: Ai nói cho con biết tin nầy?

 

Thái-Tử bạch ngôn: thị thử cụ túc diệu đức nữ thuyết.

Thái-Tử tâu: Nàng Cụ-Túc Diệu-Ðức nói cho con hay, và chúng con đã đến đảnh lễ cúng-dường đức Phật.

Giảng: Thái tử tâu: Nàng Cụ Túc Diệu Đức nầy nói.

 

Thời, Vương văn dĩ, hoan hỉ vô lượng, thí như bần nhân đắc Đại phục tạng, tác như thị niệm: Phật vô thượng bảo nan khả trực ngộ, nhược đắc kiến Phật, vĩnh đoạn nhất thiết ác đạo bố úy. Phật như y vương, năng trì nhất thiết chư phiền não bệnh, năng Cứu nhất thiết sanh tử đại khổ; Phật như Đạo sư, năng lệnh chúng sanh chí ư cứu cánh an ổn trụ xứ.

Phụ-Vương hoan hỉ vô-lượng như người nghèo được của báu. Nhà vua tự nghĩ: đức Phật là vô-thượng-bửu khó được gặp. Nếu được thấy Phật thời. dứt hẳn sự sợ ác-đạo. Ðức Phật như Y-Vương trị lành tất cả bịnh phiền-não, có thể cứu tất cả khổ lớn sanh-tử. Ðức Phật như Ðạo-Sư, có thể làm cho chúng-sanh đến nơi an-ổn rốt ráo.

Giảng: Lúc bấy giờ, vua cha nghe rồi, hoan hỉ vô lượng, ví như người nghèo được kho báu lớn, vui mừng khôn tả, bèn nghĩ như vầy: Đức Phật là báu vô thượng, khó có thể gặp được Phật xuất hiện ra đời. Nếu được thấy Phật, sẽ vĩnh viễn dứt trừ sợ hãi tất cả các đường ác. Đức Phật như đại y vương, hay chữa lành tất cả các bệnh phiền não, cứu được tất cả khổ lớn sinh tử. Đức Phật là bậc Đạo Sư, hay khiến cho chúng sinh đến được nơi rốt ráo an ổn, tức cũng là bờ Niết Bàn bên kia.

 

Tác thị niệm dĩ, tập chư Tiểu Vương, quần thần, quyến thuộc, cập dĩ sát lợi, Bà-la-môn đẳng nhất thiết Đại chúng, tiện xả Vương vị, thụ dữ Thái-Tử; quán đảnh cật dĩ, dữ vạn nhân câu, vãng nghệ Phật sở; đáo dĩ lễ túc, nhiễu vô số tạp, tinh kỳ quyến thuộc tất giai thoái tọa.

Nhà vua suy nghĩ xong, liền hội chư tiểu-vương, các quan, quyến thuộc và các sát-đế-lợi, bà-la-môn cùng tất cả quốc-dân. Nhà vua tuyên bố thối vị, nhường ngôi cho Thái-Tử. Sau khi làm lễ quán-đảnh cho Thái-Tử, quốc-vương Tài-Chủ cùng một vạn người đến chỗ đức Phật, đảnh lễ nơi chân đức Phật, hữu nhiễu vô-số vòng, rồi cùng quyến-thuộc lui ngồi một phía.

Giảng: Đại vương Tài Chủ nghĩ như vậy rồi, lập tức tập hợp các ông vua nhỏ, quần thần quyến thuộc, cùng với Sát đế lợi, Bà La Môn, tất cả đại chúng .v.v… liền tuyên bố: xả bỏ ngôi vua, nhường ngôi cho thái tử, làm lễ quán đảnh rồi, thái tử trở thành quốc vương, trị lý thiên hạ. Đại vương Tài Chủ và hàng vạn người tụ hội, cùng đi đến chỗ đức Phật Thắng Nhựt Thân, đến rồi đảnh lễ đức Phật, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi cùng với quyến thuộc ngồi lui về một bên, chờ đức Phật thuyết pháp.

 

Nhĩ thời, Như Lai quan sát bỉ Vương cập chư Đại chúng, bạch hào tướng trung phóng đại quang minh, danh: nhất thiết thế gian tâm đăng, phổ chiếu thập phương vô lượng thế giới, trụ ư nhất thiết thế chủ chi tiền, thị hiện Như Lai bất khả tư nghị đại thần thông lực, phổ lệnh nhất thiết ưng thọ hóa giả tâm đắc thanh tịnh.

Ðức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai quán-sát quốc-vương và đại-chúng, rồi phóng bạch hào quang-minh tên là nhất-thiết-thế-gian-tâm-đăng chiếu khắp vô-lượng thế-giới mười phương. Quang-minh ấy dừng ở trước tất cả Thế-Chủ, thị-hiện Như-Lai bất-khả-tư-nghì đại-thần-thông-lực, làm cho tất cả kẻ đáng được hóa-độ thân tâm thanh-lương.

Giảng: Lúc đó, đức Phật Thắng Nhựt Thân quán sát nhân duyên ông vua Tài Chủ và tất cả đại chúng. Từ trong tướng hào quang trắng, phóng ra đại quang minh, tên là Đèn tâm tất cả thế gian, chiếu sáng khắp mười phương vô lượng thế giới, trụ ở trước tất cả các ông vua, thị hiện sức đại thần thông của Phật không thể nghĩ bàn. Khiến cho khắp tất cả mọi người đáng được giáo hoá, tâm được thanh tịnh.

 

Nhĩ thời, Như Lai dĩ ất tư nghị tự tại thần lực, hiện thân siêu xuất nhất thiết thế gian, dĩ viên mãn âm phổ vi Đại chúng thuyết Đà-la-ni, danh: nhất thiết pháp nghĩa ly ám đăng, Phật sát vi trần số Đà-la-ni nhi vi quyến thuộc.

Lúc đó đức Như-Lai hiện thân siêu xuất tất cả thế-gian, dùng viên-mãn-âm vì khắp đại chúng mà nói đà-la-ni tên là nhất thiết-pháp-nghĩa-ly-ám-đăng, có phật-sát vi-trần-số đà-la-ni làm quyến-thuộc.

Giảng: Lúc bấy giờ, đức Phật Thắng Nhựt Thân dùng thần lực tự tại không thể nghĩ bàn, hiện thân hơn hẳn tất cả thế gian, dùng tiếng viên mãn, khắp vì đại chúng nói Đà La Ni, tên là Đèn tất cả pháp nghĩa lìa tối, có các Đà La Ni nhiều như số hạt bụi cõi Phật làm quyến thuộc.

 

Bỉ Vương văn dĩ, tức thời hoạch đắc Đại trí quang minh; kỳ chúng hội trung, hữu Diêm-phù-đề vi trần số Bồ Tát, câu thời chứng đắc thử Đà-la-ni; lục thập vạn na-do-tha nhân, tận chư hữu lậu, tâm đắc giải thoát; thập thiên chúng sanh, viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh; vô lượng chúng sanh, phát Bồ-đề tâm.

Quốc-Vương nghe xong liền được đại-trí quang-minh. Trong chúng-hội có diêm-phù-đề vi-trần số Bồ-Tát đồng thời chứng được môn đà-la-ni nầy. Sáu mươi vạn na-do-tha người, sạch hữu-lậu tâm được giải-thoát. Mười ngàn chúng-sanh xa lìa trần cấu được pháp-nhãn tịnh. Vô-lượng chúng-sanh phát tâm bồ-đề.

Giảng: Ông vua Tài Chủ đó nghe Đà La Ni đó rồi, lập tức đắc được đại trí huệ quang minh. Trong chúng hội đó, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, đều đồng thời chứng được Đà La Ni đó. Sáu mươi vạn Na do tha người, sạch hết tất cả pháp hữu lậu, tâm được giải thoát. Mười ngàn chúng sinh, xa lìa tất cả bụi trần, đắc được con mắt pháp thanh tịnh, có vô lượng chúng sinh đều phát tâm bồ đề.

 

Thời, Phật hựu dĩ ất tư nghị lực quảng hiện thần biến, phổ ư thập phương vô lượng thế giới diễn tam thừa pháp hóa độ chúng sanh.

Ðức Phật lại hiện thần-biến khắp mười phương vô-lượng thế-giới diễn pháp tam-thừa hóa độ chúng-sanh.

Giảng: Lúc đó, đức Phật Thắng Nhựt Thân lại dùng lực không thể nghĩ bàn, rộng hiện thần thông biến hoá, khắp trong mười phương vô lượng thế giới, diễn nói pháp Phật thừa, Bồ Tát thừa, Thanh Văn Duyên Giác thừa, giáo hoá tất cả chúng sinh, độ thoát tất cả chúng sinh.

 

Thời, bỉ Phụ Vương tác như thị niệm: ngã nhược tại gia, bất năng chứng đắc như thị diệu pháp. Nhược ư Phật sở xuất gia học đạo, tức đương thành tựu. Tác thị niệm dĩ, tiền bạch Phật ngôn: nguyện đắc tùng Phật xuất gia tu học! Phật ngôn: tùy ý, nghi tự tri thời.

Quốc-Vương tự nghĩ: Nếu tại-gia, ta chẳng thể chứng được diệu-pháp như vậy. Nếu ta xuất-gia tu học bên Phật thời sẽ được thành-tựu. Suy nghĩ xong, quốc-vương đến bạch Phật xin xuất gia. Ðức Phật hứa khả.

Giảng: Lúc bấy giờ, phụ vương Tài Chủ đó bèn nghĩ như vầy: Nếu ta tại gia, thì không thể chứng được diệu pháp như vậy. Nếu ở chỗ đức Phật, theo Phật xuất gia tu đạo, thì sẽ có sự thành tựu. Đại vương Tài Chủ nghĩ như vậy rồi, bèn ở trước đức Phật bạch rằng: Con phát nguyện xin được theo Phật xuất gia, tu vô thượng bồ đề đạo, xin cầu Phật từ bi, thu nhận con làm đệ tử.

Đức Phật Thắng Nhựt Thân nói: Tuỳ ý nhà ngươi, ngươi hãy tự biết thời, cơ duyên xuất gia đã thành thục chăng. Nếu đã thành thục, thì có thể xuất gia? Nếu thời cơ chưa đến, thì có thể chờ đợi thêm một thời gian.

 

Thời, tài chủ Vương dữ thập thiên nhân, giai ư Phật sở đồng thời xuất gia. Vị cửu chi gian, tất đắc thành tựu nhất thiết pháp nghĩa ly ám đăng Đà-la-ni, diệc đắc như thượng chư tam muội môn, hựu đắc Bồ Tát thập Thần thông môn, hựu đắc Bồ Tát vô biên biện tài, hựu đắc Bồ Tát vô ngại tịnh thân, vãng nghệ thập phương chư Như Lai sở thính thọ kỳ Pháp, vi đại pháp sư diễn thuyết diệu pháp; phục dĩ thần lực biến thập phương sát, tùy chúng sanh tâm nhi vi hiện thân, tán Phật xuất hiện, thuyết Phật bổn hạnh, thị Phật bản duyên, xưng dương Như Lai tự tại thần lực, hộ trì ư Phật sở thuyết giáo pháp.

Quốc-Vương Tài-Chủ cùng một vạn quyến thuộc đồng xuất gia. Không bao lâu, nhà vua và quyến-thuộc đồng thành-tựu nhất-thiết-pháp-nghĩa-lý-ám đăng đà-la-ni, và các môn tam-muội như trên, lại được Bồ-Tát mười môn thần-thông, lại được Bồ-Tát vô biên biện-tài, lại được Bồ-Tát vô-ngại tịnh-thân đến chỗ chư Phật mười phương để nghe pháp, làm đại pháp-sư diễn nói diệu-pháp. Quốc-Vương lại dùng thần-lực đến mười phương thế-giới tùy tâm chúng-sanh mà vì hiện thân, tán thán Phật xuất thế, nói bổn hạnh của Phật, bày bổn-duyên của Phật, tán dương thần-lực tự-tại của Như-Lai, hộ-trì phật-pháp.

Giảng: Lúc đó, ông vua Tài Chủ cùng với mười ngàn người, đều ở chỗ đức Phật, đồng thời xuất gia. Trải qua thời gian chẳng bao lâu, họ đều được thành tựu Đà la ni Đèn tất cả pháp nghĩa lìa tối, cũng đắc được các môn tam muội như ở trên đã nói. Lại đắc được mười môn thần thông của Bồ Tát. Lại đắc được vô biên biện tài của Bồ Tát. Lại đắc được tịnh thân vô ngại của Bồ Tát, có thể đi đến đạo tràng của chư Phật trong mười phương, lắng nghe thọ trì pháp của chư Phật nói. Làm đại pháp sư có đạo đức, có trí huệ, diễn nói diệu pháp. Lại dùng thần lực khắp mười phương cõi nước chư Phật, tuỳ tâm chúng sinh mà vì họ hiện thân thuyết pháp, khen ngợi chư Phật xuất hiện ra đời. Diễn nói hạnh thuở xưa của chư Phật tu, khai thị nhân duyên thuở xưa của chư Phật, khen ngợi thần lực tự tại của chư Phật, hộ trì giáo pháp của chư Phật nói.

 

Nhĩ thời, Thái-Tử ư thập ngũ nhật tại chánh điện thượng, thải nữ vi nhiễu, thất bảo tự chí nhất giả, luân bảo, danh:

Bấy giờ, vào ngày rằm, thái tử ở tại chánh điện, thể nữ vây quanh, bảy báu tự đến.

Giảng: Lúc bấy giờ, vào ngày rằm, thái tử Oai Đức Chủ ở tại chánh điện, có các thể nữ vây quanh, bảy báu tự động đến.

 

Vô ngại hạnh;

Nhị giả, tượng bảo, danh: Kim Cương thân;

Tam giả, mã bảo, danh: tấn tật phong;

Tứ giả, châu bảo, danh: nhật quang tạng;

Ngũ giả, nữ bảo, danh: cụ diệu đức;

Lục, tạng Thần bảo, danh vi: Đại tài;

Thất, chủ binh bảo, danh: ly cấu nhãn.

Một là luân-bửu tên là Vô-Ngại-Hành.
Hai là tượng-bửu tên là kim-Cang-Thân.
Ba là mã-bửu tên là Tốc-Tật-Phong.
Bốn là châu-bửu tên là Quang-Tạng.
Năm là nữ-bửu tên là Cụ-Túc Diệu-Ðức.
Sáu là tạng-thần-bửu tên là Ðại-Tài.
Bảy là chủ-binh-bửu tên là Ly-Cấu-Nhãn.

Giảng:

– Một là bánh xe báu, tên là Vô ngại hành.
– Hai là voi báu, tên là Kim cang thân.
– Ba là ngựa báu, tên là Tốc tật phong.
– Bốn là châu báu, tên là Nhựt quang tạng.
– Năm là nữ báu, tên là Cụ Túc Diệu Đức.
– Sáu là tạng thần báu, tên là Đại tài.
– Bảy là chủ binh báu, tên là Ly cấu nhãn.

 

Thất bảo cụ túc, vi Chuyển luân Vương, Vương Diêm-phù-đề, chánh pháp trì thế, nhân dân khoái lạc. Vương hữu thiên tử, đoan chánh dũng kiện, năng phục oán địch.

Ðã đủ bảy báu, Thái-Tử làm Chuyển-Luân-Vương cai trị Diêm-Phù-Ðề, nhân-dân được an lạc. Luân-Vương có ngàn Vương-Tử đoan chánh dũng kiện, có thể dẹp oán địch.

Giảng: Bảy báu đầy đủ, làm Chuyển Luân Thánh Vương, làm vua cõi Diêm Phù Đề, dùng chánh pháp trị thế, nhân dân cơm no áo ấm, khoái lạc an vui. Vua có ngàn người con, tướng mạo đoan chánh, thân thể dũng mãnh khoẻ mạnh, khéo tác chiến, bách chiến bách thắng, đến chỗ nào thì vô địch chỗ đó, cho nên hàng phục được oán địch.

 

Kỳ Diêm-phù-đề trung hữu bát thập vương thành, nhất nhất thành trung hữu ngũ bách tăng phường, nhất nhất tăng phường lập Phật chi đề, giai tất cao quảng, dĩ chúng diệu bảo nhi vi giáo sức; nhất nhất vương thành giai thỉnh Như Lai, dĩ ất tư nghị chúng diệu cung cụ nhi vi cúng dường.

Trong Diêm-Phù-Ðề có tám mươi Vương-Thành. Trong mỗi thành có năm trăm tăng-phường. Mỗi tăng-phường đều lập tinh-xá cao rộng xinh đẹp, trang-nghiêm với những diệu-bửu. Mỗi Vương-Thành đều thỉnh đức Thắng-Nhựt-Thân-Như-Lai đến để cúng dường.

Giảng: Trong cõi Diêm Phù Đề đó, có tám mươi thành vua. Trong mỗi thành vua, có năm trăm tăng phường. Trong mỗi tăng phường, đều lập tịnh xá cho Phật, thảy đều cao rộng, dùng các thứ báu đẹp để nghiêm sức. Trong mỗi thành vua, đều thỉnh đức Phật đến, dùng các đồ cúng tốt đẹp để dâng cúng đức Phật.

 

Phật nhập thành thời, hiện đại thần lực, lệnh vô lượng chúng sanh chủng chư thiện căn, vô lượng chúng sanh tâm đắc thanh tịnh, kiến Phật hoan hỉ, phát Bồ-đề ý, khởi đại bi tâm, lợi ích chúng sanh, cần tu Phật Pháp, nhập chân thật nghĩa, trụ ư pháp tánh, liễu pháp bình đẳng, hoạch tam thế trí, đẳng quán tam thế, tri nhất thiết Phật xuất hưng thứ đệ, thuyết chủng chủng Pháp nhiếp thủ chúng sanh, phát Bồ Tát nguyện, nhập Bồ Tát đạo, tri Như Lai Pháp, thành tựu pháp hải, năng phổ hiện thân biến nhất thiết sát, tri chúng sanh căn cập kỳ tánh dục, lệnh kỳ phát khởi nhất thiết trí nguyện.

Lúc nhập thành đức Như-Lai hiện đại thần-lực khiến vô-lượng chúng-sanh gieo những căn lành, vô-lượng chúng-sanh tâm được thanh-tịnh, thấy Phật hoan-hỉ, phát tâm bồ-đề, khởi lòng đại-bi lợi ích chúng-sanh, siêng tu phật-pháp chứng nhập thật-nghĩa, trụ nơi pháp-tánh rõ pháp bình-đẳng, được tam-thế-trí bình-đẳng xem xét tam-thế biết tất cả Phật thứ đệ xuất thế thuyết pháp độ sanh, phát bồ-tát-nguyện, nhập bồ-tát-đạo, biết Như-Lai pháp, thành-tựu pháp-hải, có thể khắp hiện thân khắp tất cả cõi, biết căn tánh dục lạc của chúng-sanh khiến họ phát khởi chí nguyện nhất-thiết-trí.

Giảng: Khi đức Phật vào thành, hiện đại sức đại thần thông, khiến cho vô lượng chúng sinh, đều gieo trồng các căn lành. Vô lượng chúng sinh, tâm được thanh tịnh, chúng sinh thấy được Phật hoan hỉ, phát tâm bồ đề, khởi tâm đại bi, lợi ích tất cả chúng sinh, siêng tu tất cả Phật pháp, vào chân thật nghĩa lý, trụ nơi tự tánh của pháp, thấu rõ pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp, đắc được trí huệ ba đời, bình đẳng quán sát ba đời. Biết tất cả chư Phật ra đời trước sau thứ tự, diễn nói đủ thứ diệu pháp, nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Phát nguyện Bồ Tát, vào Bồ Tát đạo, biết pháp của chư Phật nói, thành tựu pháp như biển. Hay khắp thị hiện thân, khắp cùng tất cả các cõi. Biết căn tánh của tất cả chúng sinh, và tánh dục của họ, khiến cho họ phát khởi nguyện nhất thiết trí.

 

Phật tử! ư nhữ ý vân hà, bỉ thời Thái-Tử đắc luân Vương vị cúng dường Phật giả, khởi dị nhân hồ? kim Thích Ca Mâu Ni Phật thị dã. Tài chủ Vương giả, bảo hoa Phật thị. kỳ bảo hoa Phật, hiện tại Đông phương qua thế giới hải vi trần số Phật sát hữu thế giới hải, danh: hiện Pháp giới hư không ảnh tượng vân, trung hữu thế giới chủng, danh: phổ hiện tam thế ảnh ma-ni Vương, bỉ thế giới chủng trung hữu thế giới, danh: viên mãn quang, trung hữu đạo tràng, danh: Hiện-Nhất-Thiết thế chủ thân, bảo hoa Như Lai ư thử thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Bồ-tát chúng tiền hậu vi nhiễu nhi vi thuyết Pháp.

Nàng Cù-Ba bảo Thiện-Tài rằng: Nầy Thiện-nam-tử! Xưa kia, Thái-Tử được ngôi Chuyển-Luân-Vương cúng-dường đức Phật Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai chính là đức Thích-Ca-Mâu-Ni Thế-Tôn hiện nay. Quốc-Vương Tài-Chủ thuở xưa, nay là đức Bửu-Hoa-Phật hiện ngự đạo-tràng Hiện-Nhất-Thiết-Thế-Chủ-Thân ở Thế-giới Viên-Mãn-Quang trong thế-giới-chủng Phổ-Hiện-Tam-Thế-Ảnh-Ma-Ni-Vương tại thế-giới-hải Hiện-Pháp-Giới-Hư-Không-Ảnh-Tượng-Vân cách đây về phương đông quá thế-giới-hải vi-trần-số cõi Phật. Có bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số chúng Bồ-Tát vây quanh nghe pháp.

Giảng: Cô gái Thích Ca Cù Ba nói với Thiện Tài đồng tử: Phật tử! Ý ngươi như thế nào? Thái tử thuở đó, được ngôi Chuyển Luân Thánh Vương, cúng dường đức Phật Thắng Nhựt Thân, đâu phải là người nào khác, ngươi có biết là ai chăng? Chính là đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày nay vậy. Ông vua Tài Chủ đó, chính là đức Phật Bảo Hoa. Đức Phật Bảo Hoa đó, hiện tại ở phương đông, qua khỏi các cõi Phật nhiều như số hạt bụi biển cõi Phật, có biển thế giới, tên là Hiện pháp giới hư không ảnh tượng vân. Trong đó có thể giới chủng, tên là Phổ hiện tam thế ảnh ma ni vương. Trong thế giới chủng đó, có thế giới tên là Viên Mãn Quang. Chủng là chủng loại (giống loại), trái cây có giống loại trái cây, rau cải có giống loại rau cải, ngũ cốc có giống loại ngũ cốc, hoa cỏ có giống loại hoa cỏ. Nếu chẳng có giống loại thì chẳng cách gì tiếp nối sau này, chẳng cách gì truyền tông tiếp đại, mà đoạn tuyệt đời sau. Cho nên thế giới cũng có chủng loại. Thế giới là hoá thân của Bồ Tát, Bồ Tát biến thành thế giới, cúng dường hết thảy chúng sinh. Bất cứ là hữu tình chúng sinh, hoặc là vô tình chúng sinh, đều sinh tồn trong thế giới.

Trong thế giới Viên Mãn Quang đó, có đạo tràng, tên là Hiện nhất thiết thế chủ thân. Trong đạo tràng đó, có đức Phật hiệu là Phật Bảo Hoa. Ngài ở tại đạo tràng nầy, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề ở nơi đó, có các chúng Bồ Tát nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, vây quanh trước sau đức Phật Bảo Hoa. Đức Phật Bảo Hoa vì các đại Bồ Tát đó mà diễn nói diệu pháp.

 

Bảo hoa Như Lai vãng tích tu hành Bồ Tát đạo thời, tịnh thử thế giới hải; kỳ thế giới hải trung khứ, lai, kim Phật xuất hưng thế giả, giai thị bảo hoa Như Lai vi Bồ Tát thời giáo hóa lệnh phát A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề tâm. Bỉ thời nữ mẫu thiện hiện giả, kim ngã mẫu thiện mục thị.

Lúc Bửu-Hoa Như-Lai tu bồ-tát-hạnh, đức Phật nghiêm-tịnh thế-giới-hải nầy. Nơi đây chư Phật quá-khứ, hiện-tại, vị-lai xuất thế, đều là những vị do Bửu-Hoa Như-Lai, lúc còn làm Bồ-Tát, giáo-hóa khiến phát tâm vô-thượng bồ-đề. Bà Thiện-Hiện, thân-mẫu của Ðồng-Nữ Diệu-Ðức, nay là thân-mẫu của ta, bà Thiện-Mục đấy.

Giảng: Thuở xưa, khi đức Phật Bảo Hoa tu hành Bồ Tát đạo, thì đã từng trang nghiêm thanh tịnh biển thế giới đó. Trong biển thế giới đó, có Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai, xuất hiện ra đời, đều do Phật Bảo Hoa lúc còn làm Bồ Tát, đã từng giáo hoá các Ngài, khiến cho họ phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Bà Thiện Hiện, mẹ của đồng nữ Diệu Đức xưa kia, nay là mẹ của ta, bà Thiện Mục.

 

Kỳ Vương quyến thuộc, kim Như Lai sở chúng hội thị dã, giai cụ tu hành Phổ Hiền chư hạnh thành mãn đại nguyện, tuy hằng tại thử chúng hội đạo tràng nhi năng phổ hiện nhất thiết thế gian, trụ chư Bồ-tát bình đẳng tam muội, thường đắc hiện kiến nhất thiết chư Phật, nhất thiết Như Lai dĩ đẳng hư không diệu âm thanh vân diễn chánh Pháp luân tất năng thính thọ, ư nhất thiết Pháp tất đắc tự tại, danh xưng phổ văn chư Phật quốc độ, phổ nghệ nhất thiết đạo tràng chi sở, phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh chi tiền, tùy kỳ sở ưng giáo hóa điều phục, tận vị lai kiếp tu Bồ Tát đạo hằng Vô gián đoạn, thành mãn Phổ Hiền quảng đại thệ nguyện.

Quyến thuộc của nhà vua xưa kia, nay là chúng-hội của đức Như-Lai, đều tu hành đủ những hạnh phổ-hiền, thành-mãn đại nguyện. Dầu hằng ở tại đạo-tràng của đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế-Tôn, mà có thể hiện khắp tất cả thế-gian, trụ bồ-tát bình-đẳng tam-muội, thường được hiện thấy tất cả chư Phật, đều nghe lãnh được pháp-luân của tất cả Như-Lai, đều được tự-tại nơi tất cả pháp, tiếng đồn khắp các phật-độ, đến chỗ tất cả đạo-tràng, hiện trước tất cả chúng-sanh, tùy nghi giáo hóa điều phục, tu bồ-tát-đạo tận vị-lai kiếp không gián đoạn, thành mãn những thệ nguyện quảng đại của Phổ-Hiền.

Giảng: Quyến thuộc của vua Tài Chủ và Chuyển Luân Vương Oai Đức Chủ xưa kia, nay là chúng hội của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vậy, đều tu hành đầy đủ tất cả đại hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu viên mãn tất cả đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Tuy thường ở trong chúng hội đạo tràng nầy, mà hay hiện khắp tất cả thế gian. Trụ tam muội bình đẳng của tất cả Bồ Tát. Thường được hiện thấy tất cả chư Phật. Tất cả chư Phật dùng mây âm thanh vi diệu đồng hư không, diễn nói chánh pháp, đại chúng nầy thảy đều nghe được, y pháp tu hành. Nơi tất cả pháp, đều được nhậm vận tự tại, danh đồn vang khắp cõi nước chư Phật mười phương, ai ai cũng đều biết. Đến khắp chỗ tất cả đạo tràng, hiện khắp ở trước tất cả chúng sinh. Tuỳ theo căn cơ mà hiện thân giáo hoá điều phục họ, khiến cho họ phát tâm bồ đề, tu đạo bồ đề. Hết kiếp thuở vị lai tu hành Bồ Tát đạo, luôn luôn không gián đoạn, dũng mãnh siêng tinh tấn, vĩnh viễn không giải đãi, mới có thể thành tựu viên mãn đại thệ nguyện rộng lớn của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Phật tử! kỳ diệu đức nữ dữ uy đức chủ Chuyển luân Thánh Vương dĩ tứ sự cung dưỡng thắng nhật thân Như Lai giả, Ngã thân thị dã. Bỉ Phật diệt hậu, kỳ thế giới trung, lục thập ức bách thiên na-do-tha Phật xuất hưng ư thế, ngã giai dữ Vương thừa sự cúng dường.

Nầy Thiện-nam-tử! Nàng Diệu-Ðức xưa kia, chính là thân ta ngày nay. Ðức Thắng-Nhựt-Thân Như-Lai diệt độ, sau đó, trong thế-giới ấy có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha đức Phật xuất thế, ta cùng Luân-Vương đều kính thờ cúng-dường.

Giảng: Phật tử! Đồng nữ Diệu Đức xưa kia, cùng với Chuyển Luân Thánh Vương Oai Đức Chủ, đem thức ăn uống, y phục, toạ cụ, thuốc thang, tứ sự cúng dường, chính là thân ta ngày nay vậy.  Sau khi đức Phật Thắng Nhựt Thân đó diệt độ rồi, trong thế giới Vô Uý đó, có sáu mươi ức trăm ngàn Na do tha đức Phật xuất hiện ra đời. Lúc bấy giờ, Ta đều cùng với vua thừa sự cúng dường tất cả chư Phật.

 

Kỳ đệ nhất Phật, danh: thanh tịnh thân.

Tối-sơ Phật hiệu là Thanh-Tịnh-Thân,

Giảng: Vị Phật thứ nhất, hiệu là Phật Thanh Tịnh Thân.

 

Thứ danh: nhất thiết trí nguyệt quang minh thân.

theo thứ đệ có Phật Nhất-Thiết-Trí-Nguyệt-Quang-Minh-Thân

Giảng: Vị Phật thứ hai, hiệu là Phật Nhất Thiết Trí Nguyệt Quang Minh Thân.

 

Thứ danh: diêm phù đàn kim Quang minh vương.

Phật Diêm-Phù-Ðàn-Kim-Quang-Minh-Vương

Giảng: Vị Phật thứ ba, hiệu là Phật Diêm Phù Đàn Kim Quang Minh Vương.

 

Thứ danh: chư tướng trang nghiêm thân.

Phật Chư-Tướng-Trang-Nghiêm-Thân

Giảng: Vị Phật thứ tư, hiệu là Phật Chư Tướng Trang Nghiêm Thân

 

Thứ danh: diệu nguyệt quang.

Phật Diệu-Nguyệt-Quang

Giảng: Vị Phật thứ năm, hiệu là Phật Diệu Nguyệt Quang.

 

Thứ danh: trí quán tràng.

Phật Trí-Quán-Tràng

Giảng: Vị Phật thứ sáu, hiệu là Phật Trí Quang Tràng.

 

Thứ danh: Đại trí quang.

Phật Ðại-Trí-Quang

Giảng: Vị Phật thứ bảy, hiệu là Phật Đại Trí Quang.

 

Thứ danh: Kim cương Na-la-diên tinh tấn.

Phật Kim-Cang-Na-La-Diên-Tinh-Tấn

Giảng: Vị Phật thứ tám, hiệu là Phật Kim Cang Na La Diên Tinh Tấn.

 

Thứ danh: trí lực vô năng thắng.

Phật Trí-lực-Vô-Năng-Thắng

Giảng: Vị Phật thứ chín, hiệu là Phật Trí Lực Vô Năng Thắng

 

Thứ danh: phổ an tường trí.

Phật Phổ-An-Tường-Trí

Giảng: Vị Phật thứ mười, hiệu là Phật Phổ An Tường Trí.

 

Thứ danh: ly cấu thắng trí vân.

Phật Ly-Cấu-Thắng-Trí-Vân

Giảng: Vị Phật thứ mười một, hiệu là Phật Ly Cấu Thắng Trí Vân.

 

Thứ danh: sư tử trí quang minh.

Phật Sư-Tử-Trí-Quang-Minh

Giảng: Vị Phật thứ mười hai, hiệu là Phật Sư Tử Trí Quang Minh.

 

Thứ danh: quang minh kế.

Phật Quang-Minh-Kế

Giảng: Vị Phật thứ mười ba, hiệu là Phật Quang Minh Kế.

 

Thứ danh: công đức quang minh tràng;

Phật Công-Ðức-Quang-Minh-Tràng

Giảng: Vị Phật thứ mười bốn, hiệu là Phật Công Đức Quang Minh Tràng.

 

Thứ danh: trí nhật tràng.

Phật Trí-Nhựt-Tràng

Giảng: Vị Phật thứ mười lăm, hiệu là Phật Trí Nhựt Tràng.

 

Thứ danh: bảo liên hoa khai phu thân.

Phật Bửu-Liên-Hoa-Khai-Phu-Thân

Giảng: Vị Phật thứ mười sáu, hiệu là Phật Bảo Liên Hoa Khai Phu Thân.

 

Thứ danh: phước đức nghiêm Tịnh Quang.

Phật Phước-Ðức-Nghiêm-Tịnh-Quang

Giảng: Vị Phật thứ mười bảy, hiệu là Phật Phước Đức Nghiêm Tịnh Quang

 

Thứ danh: trí diệm vân.

Phật Trí-Diệm-Vân

Giảng: Vị Phật thứ mười tám, hiệu là Phật Trí Diễm Vân

 

Thứ danh: phổ chiếu nguyệt.

Phật Phổ-Chiếu-Nguyệt

Giảng: Vị Phật thứ mười chín, hiệu là Phật Phổ Chiếu Nguyệt.

 

Thứ danh: trang nghiêm cái diệu âm thanh.

Phật Trang-Nghiêm-Cái-Diệu-Âm-Thanh

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi, hiệu là Phật Trang Nghiêm Cái Diệu Âm Thanh.

 

Thứ danh: sư tử dũng mãnh trí quang minh.

Phật Sư-Tử-Dũng-Mãnh-Trí-Quang-Minh

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi mốt, hiệu là Phật Sư Tử Dũng Mãnh Trí Quang Minh.

 

Thứ danh: Pháp giới nguyệt.

Phật Pháp-Giới-Nguyệt

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi hai, hiệu là Phật Pháp Giới Nguyệt.

 

Thứ danh: hiện hư không ảnh tượng khai ngộ chúng sanh tâm.

Phật Hiện-Hư-Không-Ảnh-Tượng-Khai-Ngộ-Chúng-Sanh-Tâm

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi ba, hiệu là Phật Hiện Hư Không Ảnh Tượng Khai Ngộ Chúng Sinh Tâm.

 

Thứ danh: hằng khứu tịch diệt hương.

Phật Hằng-Khứu-Tịch-Diệt-Hương,

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi bốn, hiệu là Phật Hằng Khứu Tịch Diệt Âm.

 

Thứ danh: phổ chấn tịch tĩnh âm.

Phật Phổ-Chấn-Tịch-Tịnh-Âm

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi lăm, hiệu là Phật Phổ Chấn Tịch Tĩnh Âm.

 

Thứ danh: cam lồ sơn.

Phật Cam-Lộ-Sơn,

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi sáu, hiệu là Phật Cam Lộ Sơn.

 

Thứ danh: pháp hải âm.

Phật Pháp-Hải-Âm

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi bảy, hiệu là Phật Pháp Hải Âm.

 

Thứ danh: kiên cố võng.

Phật Kiên-Cố-Võng

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi tám, hiệu là Phật Kiên Cố Võng.

 

Thứ danh: Phật ảnh kế.

Phật Ảnh-Kế Như-Lai

Giảng: Vị Phật thứ hai mươi chín, hiệu là Phật Ảnh Kế Như Lai.

 

Thứ danh: nguyệt quang hào.

Phật Nguyệt-Quang-Hào

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi, hiệu là Phật Nguyệt Quang Hào.

 

Thứ danh: biện tài khẩu.

Phật Biện-Tài-Khẩu

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi mốt, hiệu là Phật Biện Tài Khẩu.

 

Thứ danh: giác hoa trí.

Phật Giác-Hoa-Trí

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi hai, hiệu là Phật Giác Hoa Trí.

 

Thứ danh: bảo diệm sơn.

Phật Bửu-Diệm-Sơn

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi ba, hiệu là Phật Bảo Diệm Sơn.

 

Thứ danh: công đức tinh.

Phật Công-Ðức-Tịnh

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi bốn, hiệu là Phật Công Đức Tinh.

 

Thứ danh: Bảo nguyệt tràng.

Phật Bửu-Nguyệt-Tràng

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi lăm, hiệu là Phật Bảo Nguyệt Tràng.

 

Thứ danh: tam muội thân.

Phật Tam-Muội-Thân

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi sáu, hiệu là Phật Tam Muội Thân.

 

Thứ danh: Bảo quang Vương.

Phật Bửu-Quang-Vương

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi bảy, hiệu là Phật Bảo Quang Vương.

 

Thứ danh: phổ trí hành.

Phật Phổ-Trí-Hành

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi tám, hiệu là Phật Phổ Trí Hạnh.

 

Thứ danh: diệm hải đăng.

Phật Diệm-Hải-Ðăng

Giảng: Vị Phật thứ ba mươi chín, hiệu là Phật Diễm Hải Đăng.

 

Thứ danh: ly cấu pháp âm Vương.

Phật Ly-Cấu-Pháp-Âm-Vương

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi, hiệu là Phật Ly Cấu Pháp Âm Vương.

 

Thứ danh: vô bỉ đức danh xưng tràng.

Phật Vô-Tỷ Ðức-Danh-Xưng-Tràng

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi mốt, hiệu là Phật Vô Tỉ Đức Danh Xưng Tràng.

 

Thứ danh: tu tý.

Phật Tu-Tý

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi hai, hiệu là Phật Tu Tí.

 

Thứ danh: Bổn Nguyện thanh tịnh nguyệt.

Phật Bổn-Nguyện-Thanh-Tịnh-Nguyệt

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi ba, hiệu là Phật Bổn Nguyện Thanh Tịnh Nguyệt.

 

Thứ danh: chiếu nghĩa đăng.

Phật Chiếu-Nghĩa-Ðăng

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi bốn, hiệu là Phật Chiếu Nghĩa Đăng.

 

Thứ danh: thâm viễn âm.

Phật Thâm-Viễn-Âm

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi lăm, hiệu là Phật Thâm Viễn Âm.

 

Thứ danh: Tỳ Lô Giá Na thắng tạng Vương.

Phật Tỳ-Lô-Giá-Na-Thắng-Tạng-Vương

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi sáu, hiệu là Phật Tỳ Lô Giá Na Thắng Tạng Vương.

 

Thứ danh: chư thừa tràng.

Phật Chư-Thừa-Tràng

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi bảy, hiệu là Phật Chư Thừa Tràng.

 

Thứ danh: pháp hải diệu liên hoa.

Phật Pháp-Hải-Diệu-Liên-Hoa.

Giảng: Vị Phật thứ bốn mươi tám, hiệu là Phật Pháp Hải Diệu Liên Hoa.

 

Nêu ra sơ lượt bốn mươi tám vị Phật.

 

Phật tử! bỉ kiếp trung, hữu như thị đẳng lục thập ức bách thiên na-do-tha Phật xuất hưng vu thế, ngã giai thân cận thừa sự cúng dường. kỳ tối hậu Phật, danh: quảng đại giải, ư bỉ Phật sở, đắc tịnh trí nhãn.

Có sáu mươi ức trăm ngàn na-do-tha đức Phật như vậy xuất thế trong thế-giới ấy, ta đều kính thờ cúng-dường. Tối-Hậu Phật hiệu là Quảng-Ðại-Giải. Nơi đức Phật nầy ta được trí-nhãn thanh-tịnh.

Giảng: Phật tử! Trong kiếp Thắng Hạnh đó, có sáu mươi ức trăm ngàn Na do tha vị Phật xuất hiện ra đời như vậy, ta đều gần gũi Phật, hầu hạ Phật, cúng dường Phật. Hết thảy chư Phật, ta đều đến đạo tràng của Phật, lắng nghe chánh pháp, tu vô thượng đạo.

Vị Phật cuối cùng, hiệu là Phật Quảng Đại Giải. Ta ở chỗ đức Phật đó, chứng được mắt trí huệ thanh tịnh.

 

Nhĩ thời, bỉ Phật nhập thành giáo hóa. Ngã vi Vương phi, dữ Vương lễ cận, dĩ chúng diệu vật nhi vi cúng dường, ư kỳ Phật sở văn thuyết xuất sanh nhất thiết Như Lai đăng Pháp môn, tức thời hoạch đắc quan sát nhất thiết Bồ Tát tam muội hải cảnh giới giải thoát.

Lúc đó, đức Phật Quảng-Ðại-Giải vào thành giáo-hóa, ta làm Vương-Phi, cùng Quốc-Vương kính lễ Phật, đem những diệu-vật dâng lên cúng-dường, nghe đức Phật nói pháp-môn xuất-sanh-nhật-thiết-như-lai-đăng ta liền chứng được môn giải-thoát quán-sát-nhất-thiết-bồ-tát-tam-muội-hai-cảnh-giới.

Giảng: Lúc bấy giờ, đức Phật Quảng Đại Giải đi vào thành giáo hoá chúng sinh. Lúc đó, ta làm vương phi, cùng với quốc vương đảnh lễ đức Phật, đem các đồ vật tốt đẹp, cúng dường đức Phật. Ở trong đạo tràng của Phật, lắng nghe đức Phật đó nói pháp môn sinh ra tất cả Như Lai đăng, lập tức ta chứng được cảnh giới giải thoát biển tam muội quán sát tất cả Bồ Tát.

 

Phật tử! ngã đắc thử giải thoát dĩ, dữ Bồ Tát ư Phật sát vi trần số kiếp cần gia tu tập, ư Phật sát vi trần số kiếp trung thừa sự cúng dường vô lượng chư Phật; hoặc ư nhất kiếp thừa sự nhất Phật, hoặc nhị, hoặc tam, hoặc bất khả thuyết, hoặc trị Phật sát vi trần số Phật, tất giai thân cận thừa sự cúng dường, nhi vị năng tri Bồ Tát chi thân hình lượng sắc mạo cập kỳ thân nghiệp tâm hành trí tuệ tam muội cảnh giới.

Nầy Thiện-nam-tử! Khi ta đã được môn giải-thoát nầy, cùng với Bồ-Tát trong phật-sát vi-trần-số kiếp siêng năng tu tập, kính thờ cúng-dường vô-lượng chu Phật. Hoặc trong một kiếp kính thờ một đức Phật, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bất-khả-thuyết đức Phật, hoặc gặp phật-sát vi-trần-số đức Phật, ta đều thân cận kính thờ cúng-dường, mà chưa biết được thân hình sắc mạo thân-nghiệp tâm-hành trí-huệ cảnh-giới tam-muội của Bồ-Tát.

Giảng: Phật tử! Ta đắc được môn giải thoát nầy rồi, ta cùng với Bồ Tát ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, siêng năng tu tập pháp môn nầy. Ở trong kiếp số nhiều như số hạt bụi cõi Phật, thừa sự cúng dường vô lượng chư Phật. Hoặc trong một kiếp, thừa sự một vị Phật, hai vị Phật, ba vị Phật, hoặc bất khả thuyết vị Phật, hoặc gặp chư Phật nhiều như số hạt bụi cõi Phật, ta đều gần gũi Phật, thừa sự Phật, cúng dường Phật, không khi nào mệt mỏi, mà ta vẫn chưa biết được thân, hình lượng, sắc tướng, cùng với thân nghiệp, tâm hạnh, trí huệ, tam muội, cảnh giới của Bồ Tát.

 

Phật tử! nhược hữu chúng sanh, đắc kiến Bồ Tát tu Bồ-đề hạnh, nhược nghi nhược tín; Bồ Tát giai dĩ thế, xuất thế gian chủng chủng phương tiện nhi nhiếp thủ chi, dĩ vi quyến thuộc, lệnh ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh được thấy Bồ-Tát tu hạnh bồ-đề, hoặc nghi, hoặc tin, Bồ-Tát đều dùng những phương-tiện thế-gian xuất-thế-gian để nhiếp thủ họ, dùng họ làm quyến-thuộc, khiến họ không thối-chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.

Giảng: Phật tử! Nếu có chúng sinh thấy được Bồ Tát tu hạnh bồ đề, hoặc nghi, hoặc tin, thì Bồ Tát đều dùng đủ thứ pháp môn phương tiện thế xuất thế gian, để nhiếp lấy họ, dùng làm quyến thuộc, khiến cho họ được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Phật tử! ngã kiến bỉ Phật đắc thử giải thoát dĩ, dữ Bồ Tát ư bách Phật sát vi trần số kiếp nhi cọng tu tập; ư kỳ kiếp trung, sở hữu chư Phật xuất hưng vu thế, ngã giai thân cận thừa sự cúng dường, thính sở thuyết pháp độc tụng thọ trì.

Nầy Thiện-nam-tử! Nơi đức Phật Quảng-Ðại-Giải sau khi được môn giải-thoát nầy, ta cùng Bồ-Tát chung tu tập trong thời gian trăm phật-sát vi-trần-số kiếp, trong những kiếp ấy có bao nhiêu đức Phật xuất thế, ta đều thân cận kính thờ cúng dường, nghe Phật thuyết pháp đọc tụng thọ trì.

Giảng: Phật tử! Ta thấy được đức Phật Quảng Đại Giải, đắc được môn giải thoát nầy rồi, cùng với Bồ Tát ở trong đại kiếp nhiều như số hạt bụi trăm cõi Phật, cùng nhau tu tập. Ở trong những kiếp đó, hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều đến đạo tràng của Phật, gần gũi, hầu hạ, cúng dường Phật, lắng nghe chư Phật nói chánh pháp, đọc tụng tất cả pháp, thọ trì tất cả pháp.

 

Ư bỉ nhất thiết chư Như Lai sở, đắc thử giải thoát chủng chủng Pháp môn, tri chủng chủng tam thế, nhập chủng chủng sát hải, kiến chủng chủng thành chánh giác, nhập chủng chủng Phật chúng hội, phát Bồ Tát chủng chủng đại nguyện, tu Bồ Tát chủng chủng diệu hạnh, đắc Bồ Tát chủng chủng giải thoát, nhiên vị năng tri Bồ Tát sở đắc Phổ Hiền giải thoát môn.

Ở chỗ chư Như-Lai đó, ta được những môn giải-thoát nầy, biết những tam-thế, nhập những sát-hải, thấy chư Phật thành Ðẳng-Chánh-Giác, vào những chúng hội, phát những đại nguyện của Bồ-Tát, tu những diệu-hạnh của Bồ-Tát, được những giải-thoát của Bồ-Tát, nhưng chưa biết được môn phổ-hiền giải-thoát mà Bồ-Tát đã dược.

Giảng: Ở chỗ đạo tràng tất cả chư Phật đó, đắc được đủ thứ pháp môn giải thoát nầy, biết đủ thứ ba đời, vào đủ thứ biển cõi, thấy đủ thứ Phật thành Chánh Giác, vào đủ thứ Phật chúng hội đạo tràng, phát đủ thứ đại nguyện Bồ Tát, tu đủ thứ diệu hạnh Bồ Tát, đắc được đủ thứ giải thoát Bồ Tát, mà vẫn chưa biết được môn giải thoát Bồ Tát Phổ Hiền của Bồ Tát đắc được.

 

Hà dĩ cố? Bồ Tát Phổ Hiền giải thoát môn, như thái hư không, như chúng sanh danh, như tam thế hải, như thập phương hải, như Pháp giới hải, vô lượng vô biên.

Tại sao vậy? Vì môn phổ-hiền giải-thoát của Bồ-Tát như thái-hư-không, như tên của chúng-sanh, như tam-thế-hải, như thập-phương-hải, như pháp-giới-hải, vô-lượng vô-biên.

Giảng: Tại sao vậy? Vì môn giải thoát của Bồ Tát Phổ Hiền, như hư không, vì chẳng có bờ mé. Như tên chúng sinh, vì vô lượng vô biên. Như biển ba đời, như biển mười phương, như biển pháp giới, đều vô lượng vô biên.

 

Phật tử! Bồ Tát Phổ Hiền giải thoát môn, dữ Như Lai cảnh giới đẳng.

Môn phổ-hiền giải-thoát của Bồ-Tát đồng với cảnh giới của Như-Lai.

Giảng: Phật tử! Môn giải thoát Bồ Tát Phổ Hiền, đồng với cảnh giới Như Lai, cho nên ta không thể nào biết hết tỉ mỉ được, càng không thể nào thấu rõ được.

 

Phật tử! ngã ư Phật sát vi trần số kiếp, quán Bồ Tát thân vô hữu yếm túc. Như đa dục nhân nam nữ tập hội, đệ tướng ái nhiễm, khởi ư vô lượng vọng tưởng tư giác.

Nầy Thiện-nam-tử! Trong phật-sát vi-trần-số kiếp ta quán thân Bồ-Tát không biết nhàm. Như người đa dục nam nữ hội họp ái-nhiễm nhau sanh vô-lượng vọng-tưởng

Giảng: Phật tử! Ta ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, quán sát thân Bồ Tát không khi nào nhàm đủ. Giống như người nhiều dục, nam nữ tập hội, ái nhiễm với nhau, khởi vô lượng vọng tưởng tư giác.

 

Ngã diệc như thị, quán Bồ Tát thân nhất nhất mao khổng, niệm niệm kiến vô lượng vô biên quảng đại thế giới chủng chủng an trụ, chủng chủng trang nghiêm, chủng chủng hình trạng, hữu chủng chủng sơn, chủng chủng địa, chủng chủng vân, chủng chủng danh, chủng chủng Phật hưng, chủng chủng đạo tràng, chủng chủng chúng hội, diễn chủng chủng tu-đa-la, thuyết chủng chủng quán đảnh, chủng chủng chư thừa, chủng chủng phương tiện, chủng chủng thanh tịnh.

Cũng vậy, ta quán thân của Bồ-Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô-lượng vô-biên thế-giới rộng lớn, những sự an-trụ, trang-nghiêm, hình trạng, những núi, đất, mây, danh hiệu, Phật xuất thế, những đạo-tràng, chúng-hội, diễn thuyết những khế-kinh, những sự quán-đảnh, các thừa, những phương tiện, những thanh-tịnh.

Giảng: Ta cũng như thế, quán sát mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ Tát, trong niệm niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn, có đủ thứ an trụ, có đủ thứ trang nghiêm, có đủ thứ hình tướng, có đủ thứ núi, có đủ thứ đất, có đủ thứ mây, có đủ thứ tên, có đủ thứ Phật ra đời, có đủ thứ đạo tràng, có đủ thứ chúng hội, diễn nói đủ thứ Kinh, nói đủ thứ pháp quán đảnh, nói đủ thứ các thừa pháp, nói đủ thứ pháp phương tiện, nói đủ thứ pháp thanh tịnh.

 

Hựu ư Bồ Tát nhất nhất mao khổng, niệm niệm thường kiến vô biên Phật hải, tọa chủng chủng đạo tràng, hiện chủng chủng thần biến, chuyển chủng chủng Pháp luân, thuyết chủng chủng tu-đa-la, hằng bất đoạn tuyệt.

Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ lông của Bồ-Tát thường thấy vô-biên phật-hải, những sự ngồi đạo-tràng, những thần-biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn.

Giảng: Lại nữa, ở trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, niệm niệm thường thấy vô biên biển chư Phật, ngồi đủ thứ đạo tràng, hiện đủ thứ thần biến, chuyển đủ thứ bánh xe pháp, nói đủ thứ Tu đa la (Kinh), luôn luôn không đoạn tuyệt.

 

Hựu ư Bồ Tát nhất nhất mao khổng, kiến vô biên chúng sanh hải chủng chủng trụ xứ, chủng chủng hình mạo, chủng chủng tác nghiệp, chủng chủng chư căn.

Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ-Tát thấy vô-biên chúng-sanh-hải: những trụ-xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn tánh.

Giảng: Lại nữa, ở trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, thấy vô biên biển chúng sinh, có đủ thứ chỗ ở, có đủ thứ hình tướng, có đủ thứ việc làm, có đủ thứ các căn, thảy đều khác nhau, có cảnh giới ngàn sai vạn biệt.

 

Hựu ư Bồ Tát nhất nhất mao khổng, kiến tam thế chư Bồ-tát vô biên hạnh môn, sở vị: vô biên quảng đại nguyện, vô biên sái biệt địa, vô biên Ba-la-mật, vô biên vãng tích sự, vô biên Đại từ môn, vô biên đại bi vân, vô biên đại hỉ tâm, vô biên nhiếp thủ chúng sanh phương tiện.

Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ-Tát thấy vô-biên công-hạnh của tam-thế Bồ-Tát: vô-biên nguyện quảng đại vô-biên bậc sai biệt, vô biên ba-la-mật, vô-biên sự thuở xưa, vô-biên môn đại-từ, vô-biên mây đại-bi, vô-biên tâm đại-hỉ, vô-biên phương-tiện nhiếp thủ chúng-sanh.

Giảng: Lại nữa, trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, thấy vô biên hạnh môn của các Bồ Tát ba đời. Đó là: Vô biên nguyện rộng lớn, vô biên địa khác nhau, vô biên Ba La Mật, vô biên việc thuở xưa, vô biên môn đại từ, vô biên mây đại bi, vô biên tâm đại hỉ, vô biên phương tiện nhiếp lấy chúng sinh.

 

Phật tử! ngã ư Phật sát vi trần số kiếp, niệm niệm như thị quán ư Bồ Tát nhất nhất mao khổng, dĩ sở chí xứ nhi bất trọng chí, dĩ sở kiến xứ nhi bất trọng kiến, cầu kỳ biên tế cánh bất khả đắc, nãi chí kiến bỉ Tất đạt Thái-Tử trụ ư cung trung, thải nữ vi nhiễu.

Nầy Thiện-nam-tử! Trong phật-sát vi-trần-số kiếp mỗi niệm xem thấy nơi mỗi chân lông của Bồ-Tát như vậy, chỗ đã đến không còn lại đến, chỗ đã thấy không còn lại thấy, tìm biên-tế đó trọn không thể được. Nhẫn đến thấy Thái-Tử Tất-Ðạt ở trong hoàng-cung, thể-nữ vây quanh

Giảng: Phật tử! Ta ở nơi kiếp số nhiều như hạt bụi cõi Phật, trong niệm niệm quán sát mỗi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát như vậy, chỗ đã đến thì ta không đến nữa, chỗ đã thấy thì ta không thấy nữa, muốn tìm cầu bờ mé trên thân Bồ Tát, rốt ráo không thể được, cho đến thấy được thái tử Tất Đạt ở trong cung, có thể nữ vây quanh.

 

Ngã dĩ giải thoát lực, quán ư Bồ Tát nhất nhất mao khổng, tất kiến tam thế Pháp giới trung sự.

Ta dùng sức giải-thoát xem nơi mỗi chân lông của Bồ-Tát, thấy tất cả sự trong tam-thế pháp-giới.

Giảng: Ta dùng sức giải thoát, quán sát mỗi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, đều thấy sự việc trong pháp giới ba đời, tất cả sự việc đều rõ ràng.

 

Phật tử! ngã duy đắc thử quan sát Bồ Tát tam muội hải giải thoát.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta chỉ được môn giải-thoát quán-sát bồ-tát tam-muội-hải nầy.

Giảng: Phật tử! Ta chỉ đắc được pháp môn giải thoát quán sát biển tam muội Bồ Tát nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, cứu cánh vô lượng chư phương tiện hải, vi nhất thiết chúng sanh hiện tùy loại thân, vi nhất thiết chúng sanh thuyết tùy lạc hạnh, ư nhất nhất mao khổng hiện vô biên sắc tướng hải; tri chư pháp tánh Vô tánh vi tánh, tri chúng sanh tánh đồng hư không tướng vô hữu phân biệt, tri Phật thần lực đồng ư như như, biến nhất thiết xứ thị hiện vô biên giải thoát cảnh giới; ư nhất niệm trung, năng tự tại nhập quảng đại Pháp giới, du hí nhất thiết chư địa Pháp môn.

Như chư đại Bồ-Tát rốt ráo vô-lượng những phương-tiện-hải vì tất cả chúng-sanh mà hiện tùy-loại-thân, vì tất cả chúng-sanh mà nói tùy-lạc-hạnh, nơi mỗi chân lông hiện vô-biên sắc-tướng-hải, biết các pháp-tánh lấy vô-tánh làm tánh, biết tánh chúng-sanh đồng tướng hư-không, chẳng có phân-biệt, biết thần-lực của Phật đồng với như-như, khắp tất cả chỗ thị-hiện vô-biên cảnh-giới giải-thoát. Trong một niệm có thể tự-tại nhập pháp-giới quảng đại, du hí tất cả pháp-môn của các bậc Bồ-Tát.

Giảng: Như nói đến các vị đại Bồ Tát, rốt ráo vô lượng các biển phương tiện, vì tất cả chúng sinh hiện tuỳ loại thân, vì tất cả chúng sinh nói tuỳ lạc hạnh. Chúng sinh hoan hỉ pháp gì, thì nói pháp đó, khiến cho họ tin thọ, y pháp phụng hành. Trong mỗi mỗi lỗ chân lông, thị hiện vô biên biển sắc tướng. Biết tánh của tất cả các pháp, dùng không tánh làm tánh. Biết tánh chúng sinh đồng tướng hư không, không có phân biệt. Biết thần lực của Phật, đồng với như như, khắp tất cả mọi nơi. Thị hiện vô biên cảnh giới giải thoát. Ở trong một niệm, nhậm vận tự tại vào pháp giới rộng lớn. Du hí tất cả pháp môn các địa. Bồ Tát có đủ thứ cảnh giới như vậy,

 

Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Giảng: Mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?

Cảnh giới mà trong Kinh Hoa Nghiêm nói, đa số là cảnh giới thấy ở trong định. Những cảnh giới nầy, với chỗ thấy của hàng phàm phu hoàn toàn khác nhau, vì trí huệ của phàm phu tưởng không đến được. Hiện tại chúng ta đang nghe Kinh Hoa Nghiêm, phải biết rằng đây là chư Phật Bồ Tát ở trong định diễn nói diệu pháp, hết thảy cảnh giới, sâu rộng khó biết được, chẳng phải là hí luận, mà là trí huệ của chúng ta quá nông cạn, chưa đạt đến được trình độ thấu hiểu.

 

Thiện nam tử! thử thế giới trung, hữu Phật mẫu Ma Da. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà tu Bồ Tát hạnh, ư chư thế gian vô sở nhiễm trước, cúng dường chư Phật hằng vô hưu tức, tác Bồ Tát nghiệp vĩnh Bất-thoái-chuyển, ly nhất thiết chướng ngại, nhập Bồ Tát giải thoát bất do ư tha, trụ nhất thiết Bồ Tát đạo, nghệ nhất thiết Như Lai sở, nhiếp nhất thiết chúng sanh giới, tận vị lai kiếp tu Bồ Tát hạnh, phát Đại thừa nguyện, tăng trưởng nhất thiết chúng sanh thiện căn thường vô hưu tức?

Nầy Thiện-nam-tử! Trong thế-giới nầy có Phật-Mẫu Ma Gia. Người đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh ở trong thế-gian không nhiễm trước. Cúng-dường chư Phật không thôi nghỉ. Tu Bồ-tát-nghiệp trọn chẳng thối chuyển. Lìa tất cả chướng ngại, nhập bồ-tát giải-thoát. Chẳng do người khác mà trụ tất cả bồ-tát-đạo. Ðến chỗ tất cả Như-Lai. Nhiếp tất cả chúng-sanh-giới. Tận kiếp vị-lai tu bồ-tát-hạnh, phát đại-thừa-nguyện. Tăng trưởng thiện-căn cho tất cả chúng-sanh thường không thôi nghỉ.

Giảng: Cô gái Thích Nữ Cù Ba nói với Thiện Tài đồng tử: Thiện nam tử! Trong thế giới Ta Bà nầy, có vị Phật mẫu, tên là Ma Gia phu nhân, ngươi hãy đi đến chỗ Ngài đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào tu hành Bồ Tát hạnh? Nơi các pháp thế gian, không có tư tưởng nhiễm trước. Pháp thế gian là gì? tức là cảnh giới: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đối với cảnh giới sáu trần, tâm không sinh tơ hào nhiễm trước. Cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời, luôn luôn không ngừng nghỉ. Làm nghiệp lành của Bồ Tát, vĩnh viễn không thối chuyển. Thế nào là nghiệp của Bồ Tát? Tức là lục độ vạn hạnh. Lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Vạn hạnh tức là tu hành tất cả. Xa lìa tất cả chướng ngại, vào môn tam muội giải thoát của Bồ Tát, đều do mình nỗ lực tu hành, chứ không do người khác chứng được. Trụ tất cả Bồ Tát đạo, đến chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật. Nhiếp thọ tất cả cõi chúng sinh, hết kiếp thuở vị lai tu Bồ Tát hạnh, phát tâm thệ nguyện đại thừa, tăng trưởng căn lành của tất cả chúng sinh, thường thường tinh tấn, không lúc nào giải đãi, vĩnh viễn không ngừng nghỉ, vĩnh viễn không mệt mỏi.

 

Nhĩ thời, Thích Ca Cồ ba nữ, dục trọng minh thử giải thoát nghĩa, thừa Phật thần lực tức thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ nàng Thích-Ca Cù-Ba muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, thừa thần-lực của Phật mà nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, cô gái Thích Ca Cù Ba muốn tường thuật lại nghĩa môn giải thoát nầy, bèn nương thần lực gia trì của mười phương chư Phật, nói ra ba mươi mốt bài kệ dưới đây:

 

Nhược hữu kiến Bồ Tát,                              Nếu ai thấy Bồ-Tát
Tu hành chủng chủng hạnh,                       Tu hành những công-hạnh
Khởi thiện bất thiện tâm,                            Khởi tâm thiện bất-thiện
Bồ Tát giai nhiếp thủ.                                  Bồ-Tát đều nhiếp thủ.

Nếu có chúng sinh nào thấy được Bồ Tát tu hành đủ thứ hạnh. Dù khởi tâm thiện, hoặc tâm bất thiện, Bồ Tát đều nhiếp lấy họ. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát có tư tưởng vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.

 

Nãi vãng cửu viễn thế,                                 Thuở lâu xa về trước
Qua bách sát trần kiếp,                               Quá trăm sát-trần kiếp
Hữu kiếp danh thanh tịnh,                          Có kiếp tên Thanh-Tịnh
Thế giới danh quang minh.                         Thế-giới tên Quang-Minh.

Thuở rất lâu xa về trước, trải qua đại kiếp nhiều như số hạt bụi trăm bụi cõi Phật, có kiếp tên Thanh Tịnh. Trong kiếp đó, có thế giới tên là Quang Minh.

 

Thử kiếp Phật hưng thế,                             Kiếp nầy Phật xuất thế
Lục thập thiên vạn ức;                                Sáu mươi ngàn muôn ức
Tối hậu Thiên Nhân chủ,                             Ðức Như-Lai tối-hậu
Hiệu viết Pháp-Tràng đăng.                        Hiệu là Pháp-Tràng-Ðăng.

Trong đại kiếp Thanh Tịnh, có sáu mươi ngàn vạn ức vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật cuối cùng, hiệu là Phật Pháp Tràng Đăng.

 

Bỉ Phật Niết-Bàn hậu,                                 Sau khi Phật niết-bàn
Hữu Vương danh trí sơn,                            Có vua tên Trí-Sơn
Thống lĩnh Diêm-phù-đề,                            Thống lãnh Diêm-Phù-Ðề
Nhất thiết vô oán địch.                                Thần phục không oán địch.

Sau khi đức Phật Pháp Tràng Đăng vào Niết Bàn rồi, có ông vua tên là Trí Sơn. Vị vua nầy thống lãnh thế giới nam Diêm Phù Đề, với các quốc gia khác hoà bình với nhau, cho nên không có tất cả oán địch.

 

Vương hữu ngũ bách tử,                             Có năm trăm Vương-Tử
Đoan chánh năng dũng kiện,                      Thân đoan-chánh dũng-kiện
Kỳ thân tất thanh tịnh,                                Tất cả đều thanh-tịnh
Kiến giả giai hoan hỉ.                                   Ai thấy cũng hoan hỉ.

Vua Trí Sơn có năm trăm người con, ai cũng đều có tướng mạo đoan chính, thân thể khoẻ mạnh, dũng mãnh thiện chiến. Những vương tử đó, thân thể rất thanh tịnh, phàm là ai thấy được họ, đều sinh đại hoan hỉ.

 

Bỉ Vương cập Vương tử,                             Quốc-Vương và Vương-Tử
Tín tâm cúng dường Phật,                          Kính tin cúng-dường Phật
Hộ trì kỳ Pháp tạng,                                    Hộ trì phật-pháp-tạng
Diệc lạc cần tu pháp.                                   Cũng thích siêng tu tập.

Vua Trí Sơn và năm trăm vương tử, tín tâm kiên cố, kiền thành cúng dường Phật. Hộ trì pháp tạng của Phật nói. Họ rất hoan hỉ siêng tu pháp của tất cả chư Phật nói, y pháp tu hành, y giáo phụng hành.

 

Thái-Tử danh thiện quang,                         Thái-Tử tên Thiện-Quang
Ly cấu đa phương tiện,                               Thanh-tịnh nhiều phương-tiện
Chư tướng giai viên mãn,                            Thân tướng đều viên-mãn
Kiến giả Vô yếm túc.                                    Người thấy không biết nhàm.

Thái tử tên là Thiện Quang, đã lìa khỏi tất cả trần cấu, chẳng có tư tưởng tạp nhiễm, thực hành nhiều pháp phương tiện, có trí huệ vô thượng, có các tướng tốt, thảy đều viên mãn, khiến cho người thấy sinh tâm vui mừng, không có tâm nhàm đủ, cho nên chiêm ngưỡng dung nhan của bậc Thánh, mắt không tạm rời.

 

Ngũ bách ức nhân câu,                               Năm trăm ức người câu hội
Xuất gia hành học đạo,                                Xuất gia cùng học đạo
Dũng mãnh kiên tinh tấn,                            Dũng-mãnh rất tinh-tấn
Hộ trì kỳ Phật Pháp.                                   Hộ-trì phật-chánh-pháp.

Thái tử Thiện Quang và năm trăm ức người tụ hội lại với nhau, xuất gia tu đạo. Mỗi người đều phát tâm bồ đề, trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, do đó dũng mãnh kiên cố siêng năng tinh tấn, tu tập tất cả Phật pháp, hộ trì tất cả Phật pháp.

 

Vương đô danh trí thọ,                                Vương-Ðô tên Trí-thọ
Thiên ức thành vi nhiễu;                              Ngàn ức thành bao quanh
Hữu lâm danh tĩnh đức,                              Có rừng tên Tịnh-Ðức
Chúng bảo sở trang nghiêm.                       Nhiều châu báu trang-nghiêm.

Vương đô của vua Trí Sơn ở, tên là Trí Thụ. Chung quanh thành, có ngàn ức thành bao quanh, phía ngoài thành, có khu rừng lớn tên là Tĩnh Đức, dùng các báu đẹp để trang nghiêm.

 

Thiện quang trụ bỉ lâm,                               Thiện-Quang ngụ rừng nầy
Quảng tuyên Phật chánh pháp,                  Tuyên thuyết phật-chánh-pháp
Biện tài trí tuệ lực,                                       Sức biện-tài trí-huệ
Lệnh chúng tất thanh tịnh.                         Khiến chúng đều thanh-tịnh.

Sau khi thái tử Thiện Quang xuất gia rồi, ở trong khu rừng đó, tinh tấn tu đạo, rộng tuyên dương chánh pháp của Phật nói. Ngài có sức trí huệ biện tài vô ngại, hay khiến cho người nghe pháp, tâm được thanh tịnh, chẳng có tư tưởng hoặc hành vi không chánh đáng.

 

Hữu Thời nhân khất thực,                          Có lúc nhơn khất-thực
Nhập bỉ Vương đô thành,                           Vào Vương-Ðô Trí-Thọ
Hành chỉ cực an tường,                               Ði đứng rất an tường
Chánh tri tâm bất loạn.                                  Tâm chánh-tri chẳng loạn.

Có lúc, Tỳ Kheo Thiện Quang vì khất thực mà đi vào thành vua Trí Thụ để khất thực, chẳng phân biệt giàu nghèo, cho chúng sinh cơ hội gieo trồng ruộng phước. Tỳ Kheo Thiện Quang đi đứng rất an tường, chẳng những giới luật đoan nghiêm, mà oai nghi cũng đầy đủ. Bất cứ gặp cảnh giới gì, tâm cũng chánh niệm, chẳng bị cảnh giới nhiễu loạn.

 

Thành trung hữu Cư-sĩ,                              Trong thành có Cư-Sĩ
Hiệu viết thiện danh xưng;                          Hiệu là Thiện-Danh-Xưng,
Ngã thời vi bỉ nữ,                                         Ta là con gái ông
Danh vi tịnh nhật quang.                             Tên là Tịnh-Nhựt-Quang.

Lúc đó, trong thành Trí Thụ có vị cư sĩ, tên là Thiện Danh Xưng. Lúc bấy giờ, ta là con gái ông Thiện Danh Xưng, tên là Tịnh Nhựt Quang.

 

Thời ngã ư thành trung,                              Ta ở trong Ðô-Thành
Ngộ kiến thiện quang minh,                        Gặp Thái-Tử Thiện-Quang
Chư tướng cực đoan nghiêm,                     Thấy thân tướng đoan nghiêm
Kỳ tâm sanh nhiễm trước.                          Lòng ta sanh luyến mến.

Lúc đó, ta ở trong thành đó, gặp được Tỳ Kheo Thiện Quang Minh. Ngài có tướng mạo đoan chánh, rất trang nghiêm, khiến cho người khởi lòng cung kính, lúc đó ta bèn sinh tư tưởng nhiễm trước đối với Ngài.

 

Thứ khất chí ngã môn,                                Khi Ngài khất nhà ta
Ngã tâm tăng ái nhiễm,                               Lòng ta càng ái nhiễm
Tức giải thân anh lạc                                   Liền cổi ngay chuỗi ngọc
Tinh châu trí bát trung.                              Chân-châu để vào bát.

Tỳ Kheo Thiện Quang Minh thứ tự đi khất thực đến cửa nhà ta. Tâm ái nhiễm của ta càng tăng thêm. Ta liền cởi xâu chuỗi anh lạc và một số đồ trang sức, bỏ vào trong bát của Tỳ Kheo Thiện Quang Minh, biểu thị sự cúng dường kiền thành của ta.

 

Tuy dĩ ái nhiễm tâm,                                    Dầu vì tâm ái nhiễm
Cúng dường bỉ Phật tử;                              Cúng-dường Phật-Tử ấy
Nhị bách ngũ thập kiếp,                              Hai trăm năm mươi kiếp
Bất đọa tam ác thú.                                     Cũng chẳng đọa ác-đạo.

Tuy ta dùng tâm ái nhiễm, cúng dường Phật tử đó. Nhưng trải qua hai trăm năm mươi kiếp, không đoạ lạc vào ba đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

 

Hoặc sanh thiên vương gia,                         Hoặc sanh nhà Thiên-Vương
Hoặc tác nhân Vương nữ,                           Hoặc làm con Nhơn-Vương
Hằng kiến thiện quang minh,                      Hằng gặp Ngài Thiện-Quang
Diệu tướng trang nghiêm thân.                   Thấy thân tướng diệu-nghiêm.

Ta ở trong hai trăm năm mươi đại kiếp, hoặc sinh nhà Thiên Vương, hoặc sinh vào trong nhà vua, làm con gái của vua. Ta luôn gặp Tỳ Kheo Thiện Quang Minh, tướng tốt trang nghiêm thân.

 

Thử hậu sở Kinh kiếp,                                 Sau đó quá hai trăm
Nhị bách hữu ngũ thập,                              Năm mươi kiếp kế tiếp
Sanh ư thiện hiện gia,                                  Ta sanh nhà Thiện-Hiện
Danh vi cụ diệu đức.                                    Tên Cụ-Túc Diệu-Ðức.

Lúc đó, ta thấy thái tử Oai Đức Chủ trang nghiêm, bèn sinh tâm tôn trọng. Ta phát nguyện muốn được theo hầu hạ, phục vụ cho thái tử. Ta rất là may mắn được thái tử thương tình mà nạp thọ ta làm vợ.

 

Thời ngã kiến Thái-Tử,                                Ta được thấy Thái-Tử
Nhi sanh tôn trọng tâm,                              Sanh lòng rất tôn trọng
Nguyện đắc bị chiêm thị,                             Muốn được theo hầu hạ
Hạnh mông ai nạp thọ.                                May mắn được nạp thọ.

Từ đó về sau, lại trải qua hai trăm năm mươi đại kiếp, sinh vào nhà bảo mẫu Thiện Hiện (Hoa sen hoá sinh, bà Thiện Hiện làm bảo mẫu), tên của ta là Cụ Túc Diệu Đức.

 

Ngã thời dữ Thái-Tử,                                   Ta cùng với Thái-Tử
Cận Phật thắng nhật thân,                         Ðến lễ Phật Thắng-Nhựt
Cung kính cúng dường tất,                         Cung kính cúng-dường xong
Tức phát Bồ-đề ý.                                        Ta phát tâm bồ-đề.

Đương thời ta với thái tử cùng đi đến gặp đức Phật Thắng Nhựt Thân, đảnh lễ, cung kính cúng dường Phật. Ta và thái tử lập tức phát tâm bồ đề, tu đạo bồ đề.

 

Ư bỉ nhất kiếp trung,                                   Ở trong một kiếp đó
Lục thập ức Như Lai,                                  Có sáu mươi ức Phật
Tối hậu Phật Thế tôn,                                 Ðức Thế-Tôn tối-hậu
Danh vi quảng đại giải.                                Hiệu là Quảng-Ðại-Giải.

Ở trong một kiếp đó, có sáu mươi ức vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật cuối cùng, hiệu là Phật Quảng Đại Giải.

 

Ư bỉ đắc Tịnh nhãn,                                     Ta được thanh-tịnh-nhãn
Liễu tri chư Pháp tướng,                             Biết rõ các pháp-tướng
Phổ kiến thọ sanh xứ,                                  Thấy khắp chỗ thọ sanh
Vĩnh trừ điên đảo tâm.                                Trừ hẳn tâm điên đảo.

Ta ở chỗ đạo tràng Phật Quảng Đại Giải, đắc được mắt thanh tịnh, biết rõ thật tướng các pháp. Ta khắp thấy nơi mình thọ sinh, từ đó ta vĩnh viễn diệt trừ tâm điên đảo mộng tưởng.

 

Ngã đắc quán Bồ Tát,                                 Ta được môn giải-thoát
Tam muội cảnh giải thoát,                           Quán-bồ-tát-tam-muội
Nhất niệm nhập thập phương,                    Một niệm nhập mười phương
Bất tư nghị sát hải.                                      Bất-tư-nghì sát-hải.

Ta đắc được môn giải thoát quán sát cảnh giới tám muội của Bồ Tát. Trong một niệm, vào biển cõi chư Phật trong mười phương không thể nghĩ bàn, chẳng có mọi sự chướng ngại, có thể nói là nhậm vận tự tại, toại tâm mãn nguyện. Muốn đến đâu thì đến đó, chẳng bị hạn chế.

 

Ngã kiến chư thế giới,                                  Ta thấy các thế giới
Tịnh uế chủng chủng biệt,                           Tịnh uế nhiều sai khác
Ư tịnh bất tham lạc,                                     Nơi tịnh chẳng tham ưa
Ư uế bất tăng ác.                                         Nơi uế chẳng ghét bỏ.

Ta thấy hết thảy các thế giới, có đủ thứ sự khác biệt. Có thế giới tịnh, có thế giới uế, có thế giới tịnh uế xen tạp. Ta ở trong thế giới tịnh, cũng chẳng tham trước tịnh. Ta ở trong thế giới cấu uế, cũng chẳng chán ghét cấu uế.

 

Phổ kiến chư thế giới,                                  Thấy khắp các thế-giới
Như Lai tọa đạo tràng,                                Ðức Phật ngồi đạo-tràng
Giai ư nhất niệm trung,                               Ðều ở trong một niệm
Tất phóng Vô Lượng Quang.                      Phóng vô-lượng quanhg-minh.

Ta thấy khắp trong tất cả thế giới, bất cứ là thế giới ngửa, hoặc là thế giới úp, hoặc là thế giới tròn, hoặc là thế giới vuông, đều có chư Phật đang ngồi tại đạo tràng. Đều ở trong một niệm, phóng ra vô lượng đại quang minh, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Nhất niệm năng phổ nhập,                          Một niệm vào được khắp
Bất khả thuyết chúng hội;                           Bất-khả-thuyết chúng-hội
Diệc tri bỉ nhất thiết,                                    Cũng biết những tam muội
Sở đắc tam muội môn.                                 Của chúng-hội đã được.

Ta có thể ở trong một niệm, vào khắp bất khả thuyết chúng hội. Cũng biết tất cả Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, đắc được môn giải thoát tam muội.

 

Nhất niệm năng tất tri,                                Một niệm đều biết rõ
Bỉ chư quảng đại hạnh,                               Những hạnh nguyện quảng-đại
Vô lượng địa phương tiện,                           Cùng vô-lượng phương-tiện
Cập dĩ chư nguyện hải.                               Của tất cả chúng-hội.

Ta có thể trong khoảng một niệm, đều biết được tất cả Bồ Tát tu hạnh môn rộng lớn. Đắc được vô lượng địa pháp môn phương tiện thiện xảo, cùng với các biển đại nguyện phát ra, những cảnh giới đó ta đều biết rõ.

 

Ngã quán Bồ Tát thân,                                Ta quán thân Bồ-Tát
Vô biên kiếp tu hành,                                   Vô-biên kiếp tu hành
Nhất nhất mao khổng lượng,                      Mỗi mỗi lỗ chân lông
Cầu chi bất khả đắc.                                    Cầu đó chẳng thể dược.

Ta quán sát thân Bồ Tát, ở trong vô biên kiếp, dũng mãnh tinh tấn, siêng năng tu hành. Lượng mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, dù có tìm cầu cũng không thể được, không thể đến được bờ mé.

 

Nhất nhất mao khổng sát,                           Nơi mỗi mỗi chân lông
Vô số bất khả thuyết,                                   Hiện bất-khả-thuyết cõi
Địa thủy hỏa phong luân,                            Ðịa, thủy, hỏa, phong-luân
Mị bất tại kỳ trung.                                      Ðều đủ cả trong đó.

Cõi mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát, vô số vô lượng bất khả thuyết. Địa luân, thuỷ luân, hoả luân, phong luân, đều ở trong một lỗ chân lông, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn.

 

Chủng chủng chư kiến lập,                         Bao nhiêu sự kiến lập
Chủng chủng chư hình trạng,                    Bao nhiêu thứ hình trạng
Chủng chủng thể danh hiệu,                       Bao nhiêu thân, danh hiệu
Vô biên chủng trang nghiêm.                      Vô-biên thứ trang-nghiêm.

Có đủ thứ kiến lập, có đủ thứ hình trạng, có đủ thứ thể tướng, có đủ thứ danh hiệu, có vô biên đủ thứ sự trang nghiêm.

 

Ngã kiến chư sát hải,                                   Ta thấy các sát-hải
Bất khả thuyết thế giới;                               Bất-khả-thuyết thế-giới
Cập kiến kỳ trung Phật,                              Cũng thấy Phật trong đó
Thuyết Pháp hóa chúng sanh.                    Thuyết pháp dạy chúng-sanh.

Ta thấy tất cả biển cõi chư Phật, có bất khả thuyết thế giới. Trong mỗi thế giới, đều có Phật đang ở trong đó, giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, khiến cho tâm họ nhu hoà không cang cường.

 

Bất liễu Bồ Tát thân,                                   Chẳng biết thân Bô-Tát
Cập bỉ thân chư nghiệp;                             Và tất cả thân-nghiệp
Diệc bất tri tâm trí,                                      Cũng chẳng biết tâm-trí
Chư kiếp sở hạnh đạo.                                 Hành đạo trong nhiều kiếp.

Thân của Bồ Tát không biết có bao nhiêu. Thân nghiệp tạo ra, cũng không biết có bao nhiêu. Tâm trí của Bồ Tát cũng không biết bao nhiêu. Trong tất cả các kiếp, hành Bồ Tát đạo, cũng không biết được.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, từ thoái nhi khứ.

Thiện-Tài Ðồng-Tử đảnh lễ chân nàng Thích-Ca Cù-Ba, hữu nhiễu vô-số vòng, từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc bấy giờ, Thiện Tài đồng tử lắng nghe cô gái Thích nữ Cù Ba nói kệ rồi, bèn đảnh lễ, đi nhiễu vô lượng vòng, rồi từ tạ mà lui ra, đi tìm Phật mẫu Ma Gia phu nhân.