Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 16

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 16

— o0o —

BỒ TÁT TỪ THỊ
NHIẾP ĐỨC THÀNH NHÂN TƯỚNG

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử cung kính hữu nhiễu Di lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ, nhi bạch chi ngôn: duy nguyện đại thánh khai lâu các môn, lệnh ngã đắc nhập!

Thiện-Tài Ðồng-Tử cung kính hữu-nhiễu Di-Lặc Bồ-Tát, rồi thưa rằng: Xin Ðại-Thánh mở cửa lâu các cho tôi được vào.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe Bồ Tát Di Lặc nói với Ngài pháp yếu tu hành của Bồ Tát rồi, cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ Tát Di Lặc rồi, bèn hướng về Bồ Tát Di Lặc bạch rằng: Cầu xin đại Thánh, hãy mở cửa đại lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng nầy, để cho con được vào quán sát bên trong đại lầu các nầy, để biết rõ áo diệu của Phật pháp.

 

Thời, Di Lặc Bồ-tát tiền nghệ lâu các, đàn chỉ xuất thanh, kỳ môn tức khai, mạng Thiện Tài nhập. Thiện Tài tâm hỉ, nhập dĩ hoàn bế.

Lúc ấy Di-Lặc Bồ-Tát đến trước cửa lâu các đàn chỉ ra tiếng, cửa liền mở. Bồ-Tát bảo Thiện-Tài vào. Thiện-Tài rất hoan-hỷ đi vào trong lâu các, cửa liền đóng lại.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Di Lặc đến trước cửa đại lầu các, khảy móng tay ba cái vang ra tiếng, thì cửa đại lầu các liền tự động mở ra, giống như cửa bằng điện mở tự động, chỉ cần bấm nút, hoặc là bấm đúng số mật mã, thì cửa tự động mở ra. Bồ Tát Di Lặc khảy móng tay ba cái, tức là mật mã của cửa đại lầu các.

Lại giống như đồ bấm máy truyền hình, bấm nút đài số mấy thì đài đó liền mở lên, chuyển qua đài khác thì bấm nút khác, muốn mở đài nào lúc nào thì mở đài đó lúc đó. Đại lầu các nầy, cũng giống như máy truyền hình lớn. Bồ Tát Di Lặc dùng mật mã vô hình, không âm thanh lời nói, thì cửa lầu các liền mở ra, để cho Thiện Tài đồng tử đi vào, khai mở tầm mắt, có rất nhiều cảnh giới hi hữu, là chỗ chưa từng thấy, chưa từng nghe, đều khiến cho Thiện Tài đồng tử tha hồ thưởng thức, giống như hội chợ triển lãm, chẳng có chuyện lạ gì mà không có !

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử tâm vui mừng hớn hở, không cách gì tả được, hoan hỉ đi vào trong đại lầu các báu. Bên trong lầu các năm quang mười sắc, khiến cho Thiện Tài đồng tử nhìn hoa cả mắt. Khi Thiện Tài đồng tử đi vào trong đại lầu các rồi, cửa liền tự động đóng lại. Tại sao ? Vì dùng pháp giới tạng bí mật diệu môn, vào mà không có tướng vào.

 

Kiến kỳ lâu các quảng bác vô lượng đồng ư hư không, a-tăng-kì bảo dĩ vi kỳ địa; a-tăng-kì cung điện, a-tăng-kì môn thát, a-tăng-kì song dũ, a-tăng-kì giai bệ, a-tăng-kì lan thuẫn, a-tăng-kì đạo lộ, giai thất bảo thành;

Thiện-Tài thấy trong lâu các rộng vô-lượng đồng như hư-không. Vô-số chất báu làm đất. Vô-số cung điện, vô-số cửa cái, vô-số cửa sổ, vô-số thềm bậc, vô-số lan-can, vô-số đường sá, tất cả đều bằng thất-bửu.

Giảng: Thiện Tài đồng tử đi vào trong đại lầu các, thấy diện tích lầu các đó, rộng lớn vô lượng, không có bờ mé, đồng như hư không. Giống như vạn Phật bảo điện của Vạn Phật Thánh Thành, từ bên ngoài nhìn thì chẳng cảm thấy lớn, nhưng vào bên trong nhìn, thì rộng lớn vô cùng ! Tất cả hết thảy bên trong đại lầu các, đều dùng « A tăng kỳ » dịch là « vô lượng số » để hình dung, biểu thị ý nghĩa nhiều không thể nhiều hơn nữa.

Có A tăng kỳ châu báu dùng làm đất. Có A tăng kỳ cung điện, bên trong đại lầu các có cung điện để làm quyến thuộc của đại lầu các. Có A tăng kỳ cửa lớn và cửa nhỏ. Có A tăng kỳ cửa sổ, có A tăng kỳ thềm bậc, có A tăng kỳ lan can, có A tăng kỳ đường xá, những đường xá đó, đều làm bằng bảy báu. Những gì là bảy báu ? Tức là : Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Lại có A tăng kỳ phan báu, lại có A tăng kỳ tràng báu, lại có A tăng kỳ lọng báu, bày hàng la liệt xen lẫn khắp nơi, rất là trang nghiêm. Tức cũng là ở giữa phan báu thì có tràng báu, hoặc là lọng báu, thay đổi thứ lớp, rất hoành tráng đẹp mắt.

Thiện Tài đồng tử hoan hỉ ngắm nhìn những cảnh giới đó, cho nên Bồ Tát Di Lặc làm mãn nguyện Thiện Tài đồng tử, hiện ra những cảnh giới không thể nghĩ bàn đó, khiến cho Thiện Tài đồng tử biết được công phu chân thật, còn phải tu hành. Chẳng phải nhìn xong rồi, thì đắc được. Trong Kinh Kim Cang có nói :

« Phàm hết thảy tướng, đều là hư vọng
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng
Tức thấy Như Lai ».

Lại nói :
« Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó hành tà đạo
Chẳng thấy được Như Lai ».

Đây là dạy người đừng bị cảnh giới hư vọng không thật làm lay chuyển.

Nếu chuyển được cảnh giới, thì ở trong động tức là tĩnh; ở trong tĩnh tức là động, do đó có câu :

« Động chẳng ngại tĩnh, tĩnh chẳng ngại động ».

Mà đạt đến cảnh giới như như bất động, rõ ràng sáng suốt. Do đó có câu :
« Mắt thấy hình sắc trong chẳng có

Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay ».

 

A-tăng-kì phiên, a-tăng-kì tràng, a-tăng-kì cái, châu hồi gian liệt; a-tăng-kì chúng bảo anh lạc, a-tăng-kì trân châu anh lạc, a-tăng-kì xích trân châu anh lạc, a-tăng-kì sư tử châu anh lạc, xứ xứ thùy hạ;

Vô-số tràng, vô-số phan, vô-số lọng hàng liệt khắp nơi. Vô-số chuỗi báu, vô-số chuỗi chân châu, vô-số chuỗi xích-chân-châu, vô-số chuỗi sư-tử châu, thòng rũ khắp nơi.

Giảng: Lại có A tăng kỳ các chuỗi báu, chuỗi chân châu, chuỗi xích chân châu, chuỗi châu sư tử. Chuỗi dùng chân châu xâu thành, làm đồ nghiêm sức, treo thòng rũ khắp nơi, để trang nghiêm lầu các.

 

A-tăng-kì bán nguyệt, a-tăng-kì tăng đái, a-tăng-kì bảo võng, dĩ vi nghiêm sức; a-tăng-kì bảo đạc phong động thành âm, tán a-tăng-kì Thiên chư Tạp hoa, huyền a-tăng-kì Thiên bảo man đái, nghiêm a-tăng-kì chúng bảo hương lô, vũ a-tăng-kì tế mạt kim tiết, huyền a-tăng-kì bảo kính, nhiên a-tăng-kì bảo đăng, bố a-tăng-kì bảo y, liệt a-tăng-kì bảo trướng, thiết a-tăng-kì bảo tọa, a-tăng-kì bảo tăng dĩ phu tọa thượng;

Vô-số bán-nguyệt, vô-số dải lụa, vô-số lưới báu dùng đề trang-sức. Vô-số lục-lạc báu gió động thành tiếng. Treo vô-số dải tràng báu cõi trời. Vô-số lư-hương báu trang-nghiêm. Rưới vô-số bột chân kim. Treo vô-số gương báu. Thắp vô-số đèn báu. Trải vô-số y báu. Giăng vô-số trướng báu. Trần thiết vô-số tòa báu, vô-số lụa báu trải trên tòa.

Giảng: Lại có A tăng kỳ báu bán nguyệt, lại có A tăng kỳ dải lụa, lại có A tăng kỳ lưới báu, dùng để trang nghiêm đại lầu các. Lại có A tăng kỳ lục lạc báu, gió thổi động vang ra âm thanh diễn nói diệu pháp.

Lại rải xuống A tăng kỳ các thứ hoa trời đẹp, lại treo A tăng kỳ dải tràng báu cõi trời, lại nghiêm sức A tăng kỳ các lư hương báu, lại mưa xuống A tăng kỳ bột vàng, để trang nghiêm đại lầu các báu, khiến cho vi diệu không thể nghĩ bàn.

Lại treo A tăng kỳ linh báu, lại thắp lên A tăng kỳ đèn báu, lại giăng bày A tăng kỳ y báu, lại giăng A tăng kỳ trướng báu, lại bày A tăng kỳ toà báu, có A tăng kỳ lụa báu trải trên toà.

 

A-tăng-kì diêm phù đàn kim đồng nữ tượng, a-tăng-kì tạp bảo chư hình tượng, a tăng kì diệu bảo Bồ-tát tượng, xứ xứ sung biến; a-tăng-kì chúng điểu xuất hòa nhã âm; a-tăng-kì bảo ưu-bát-la hoa, a-tăng-kì bảo ba đầu ma hoa, a-tăng-kì bảo câu vật đầu hoa, a-tăng-kì bảo phân đà lợi hoa, dĩ vi trang nghiêm; a-tăng-kì bảo thụ thứ đệ hành liệt, a-tăng-kì ma-ni bảo phóng đại quang minh.

Vô-số tượng đồng-nữ bằng vàng diêm-phù-đàn. Vô-số hình tượng bằng chiều thứ báu. Khắp nơi có vô-số tượng Bồ-Tát bằng diệu-bửu. Vô-số chim hót tiếng hòa nhã. Vô-số hoa sen xanh báu, vô-số hoa sen vàng báu, vô-số hoa sen đỏ báu, vô-số hoa sen trắng báu, dùng để trang-nghiêm. Vô-số cây báu thứ đệ hàng liệt. Vô-số ma-ni-bửu phóng đại quang-minh.

Giảng: Có A tăng kỳ tượng đồng nữ bằng vàng Diêm Phù Đàn, có A tăng kỳ các thứ hình tượng báu, có A tăng kỳ tượng Bồ Tát báu đẹp, đầy khắp mọi nơi, để trang nghiêm đại lầu các báu.
Lại có A tăng kỳ các thứ chim, hót tiếng hoà nhã êm tai. Tại Vạn Phật Thành của chúng ta, có chim bạch hạc, và các thứ chim khác, quanh năm ở trong rừng của Vạn Phật Thánh Thành, không chịu đi. Ở Tây phương Cực Lạc thế giới, thường có đủ thứ chim đẹp lạ đủ thứ màu sắc, đó là các thứ chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, cộng mệnh. Các thứ chim đó, ngày đêm sáu thời, vang ra tiếng hoà nhã, tiếng đó diễn nói pháp năm căn, năm lực, bảy bồ đề phần, tám thánh đạo, các pháp như vậy. Trong Vạn Phật Thánh Thành cũng không biết có bao nhiêu chim thần, diễn nói diệu pháp.

Lại có A tăng kỳ hoa sen xanh báu, hoa sen hồng báu, hoa sen vàng báu, hoa sen trắng báu, dùng để trang nghiêm. Lại có A tăng kỳ cây báu, thứ tự thẳng hàng, bất cứ nhìn như thế nào cũng từng hàng, từng hàng ngay ngắn, chẳng lộn xộn. Lại có A tăng kỳ ma ni báu, phóng đại quang minh, chiếu sáng khắp đại lầu các.

 

Như thị đẳng vô lượng a-tăng-kì chư trang nghiêm cụ, dĩ vi trang nghiêm. Hựu kiến kỳ trung, hữu vô lượng bách thiên chư diệu lâu các, nhất nhất nghiêm sức tất như thượng thuyết; quảng bác nghiêm lệ giai đồng hư không, bất tướng chướng ngại diệc vô tạp loạn.

Lại thấy trong đó có vô-lượng trăm ngàn lâu các đẹp, đều nghiêm-sức như trên. Mỗi mỗi lâu các đều rộng rãi nghiêm-lệ, đồng như hư-không chẳng ngại nhau cũng chẳng tạp loạn nhau.

Giảng: Có vô lượng A tăng kỳ các thứ đồ trang nghiêm như vậy, dùng để trang nghiêm đại lầu các. Thiện Tài đồng tử thấy ở trong đại lầu các, lại có vô lượng trăm ngàn các lầu các đẹp, trong mỗi mỗi lầu các nghiêm sức, đều như đã nói ở trên, vừa rộng lớn, vừa trang nghiêm đẹp đẽ, đều đồng hư không, chẳng chướng ngại nhau, cũng không tạp loạn.

 

Thiện tài đồng tử ư nhất xứ trung kiến nhất thiết xứ, nhất thiết chư xứ tất như thị kiến.

Thiện-Tài ở một chỗ thấy tất cả chỗ. Nơi tất cả chỗ đều thấy như vậy.

Giảng: Thiện Tài đồng tử ở trong một nơi, mà nhìn thấy cảnh giới tất cả mọi nơi, chẳng những một nơi là như thế, mà tất cả mọi nơi cũng đều như thế, thảy đều nhìn thấy như vậy, chẳng có chướng ngại, chẳng có tạp loạn.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử kiến Tỳ Lô Giá Na trang nghiêm tạng lâu các như thị chủng chủng bất khả tư nghị tự tại cảnh giới, sanh đại hoan hỉ, dõng dược vô lượng, thân tâm nhu nhuyễn, ly nhất thiết tưởng, trừ nhất thiết chướng, diệt nhất thiết hoặc, sở kiến bất vong, sở văn năng ức, sở tư bất loạn, nhập ư vô ngại giải thoát chi môn.

Thiện-Tài thấy lâu các Tỳ-Lô-Giá-Na-Trang-Nghiêm-Tạng có bất-tư-nghì cảnh-giới tự-tại như vậy, lòng rất vui mừng hớn hở vô-lượng, thân tâm nhu nhuyến, rời tất cả tưởng, trừ tất cả chướng, diệt tất cả hoặc, chỗ thấy chẳng quên, chỗ nghe đều nhớ, chỗ nghĩ chẳng tạp, chứng nhập môn vô-ngại giải-thoát

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng, có đủ thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn như vậy, Ngài chưa từng thấy qua, cũng chưa từng nghe nói qua. Nay thấy được những cảnh giới đại tự tại như vậy, bèn sinh tâm đại hoan hỉ, hớn hở vui mừng vô lượng. Lúc đó thân tâm của Ngài rất mềm mại, cũng không cang cường, cũng không nổi giận. Chúng ta người tu đạo, ngàn vạn đừng nổi giận, đừng có lửa vô minh. Do đó có câu :

« Một chút lửa nhỏ,
Đốt sạch rừng công đức ».

Vừa mới gieo trồng chút căn lành, có chút công đức, nếu một khi nổi giận, thì sẽ thiêu hết sạch công đức. Nổi giận là khắc tinh của người tu đạo, công đức bị mất hết sạch. Làm thế nào để không nổi giận ? Rất là đơn giản, đó là tu nhẫn nhục Ba La Mật. Có người mắng bạn, thì coi như họ ca hát để thưởng thức, có người phỉ báng, thì coi như không nghe thấy, được như vậy, thì tự nhiên sẽ vô sự không có gì hết. Phải học công phu nhẫn nhục của Bồ Tát Di Lặc, tu đến lúc lư hoả trừng thanh, thì tự nhiên chẳng còn nổi giận nữa, do đó có câu : « Mở miệng thường cười », thấy ai cũng đều thuận mắt, đều là người tốt.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử lìa hết tất cả vọng tưởng, trừ sạch tất cả chướng ngại, đến được cảnh giới không vào mà chẳng tự được, tiêu diệt tất cả mê hoặc, thấy được cảnh giới tự tại, vĩnh viễn không quên mất. Đắc được tam muội nghĩ nhớ, những gì nghe được đều nhớ hết trong biển não, sự suy nghĩ chẳng tán loạn, rõ ràng sáng suốt, đã nhập vào môn giải thoát vô ngại, tâm vận dụng khắp cùng, thấy khắp tất cả, kính lễ cùng khắp.

 

Phổ vận kỳ tâm, phổ kiến nhất thiết, phổ thân kính lễ, tài thủy khể thủ, dĩ Di Lặc Bồ-tát uy thần chi lực, tự kiến kỳ thân biến tại nhất thiết chư lâu các trung, cụ kiến chủng chủng bất khả tư nghị tự tại cảnh giới.

Vận dụng tâm cùng khắp, thấy cùng khắp, kính lễ cùng khắp. Vừa mới cúi đầu, do thần-lực của Di-Lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài tự thấy thân của mình ở khắp trong tất cả lâu các, thấy đủ những cảnh-giới tự-tại bất-tư-nghì

Giảng: Thiện Tài đồng tử vừa mới đảnh lễ, do nhờ oai thần lực của Bồ Tát Di Lặc, Thiện Tài đồng tử tự thấy thân mình khắp cùng ở trong tất cả các lầu các. Tóm lại, ở trong vô lượng trăm ngàn các lầu các, đều có Thiện Tài đồng tử, thấy được đầy đủ các thứ cảnh giới tự tại không thể nghĩ bàn, đây tức là cảnh giới của Thiện Tài đồng tử chứng được.

 

Sở vị: hoặc kiến Di Lặc Bồ-tát sơ phát vô thượng Bồ-đề tâm thời như thị danh tự, như thị chủng tộc, như thị thiện hữu chi sở khai ngộ, lệnh kỳ chủng thực như thị thiện căn, trụ như thị thọ, tại như thị kiếp, trị như thị Phật, xứ ư như thị trang nghiêm sát độ, tu như thị hành, phát như thị nguyện;

Những là thấy Di-Lặc Bồ-Tát lúc mới phát tâm tên hiệu như vậy, chủng-tộc như vậy, thiện-hữu khai ngộ khiến gieo trồng căn lành như vậy, thọ mạng như vậy, ở kiếp như vậy, gặp Phật tại quốc-độ như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy.

Giảng: Đó là : Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc, lúc ban đầu phát tâm vô thượng bồ đề, họ tên như vậy, dòng dõi như vậy, bạn lành như vậy, vì Ngài thuyết pháp, khiến cho Ngài khai ngộ, khiến cho Ngài gieo trồng căn lành như vậy, sống thọ như vậy, tại kiếp như vậy, gặp chư Phật như vậy, ở trong cõi nước trang nghiêm như vậy, tu hành như vậy, phát nguyện như vậy

 

Bỉ chư Như Lai như thị chúng hội, như thị thọ mạng, Kinh nhĩ hứa thời thân cận cúng dường. Tất giai minh kiến.

Chư Phật Như-Lai ấy, những chúng-hội, thọ-mạng, thân-cận cúng-dường đều thấy rõ cả.

Giảng: chúng hội đạo tràng các Như Lai đó như vậy, thọ mạng như vậy, trải qua thời gian gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật, cảnh giới thuở xưa của Bồ Tát Di Lặc, Thiện Tài đồng tử thảy đều thấy rõ hết, không sót chỗ nào.

Thiện Tài đồng tử thấy được lịch sử quá khứ của Bồ Tát Di Lặc, giống như xem cuốn phim trên truyền hình, từng mục, từng mục, hiện ta trước mắt. Chúng ta nghe qua không cần xem trên máy truyền hình ! Thấy được cảnh giới nầy, còn phải phá cảnh giới nầy, đừng chấp trước cảnh giới nầy, đừng bị nó làm mê hoặc. Thấy được cảnh giới gì, thì giác ngộ cảnh giới đó; thấy được việc gì, thì minh bạch việc đó, đây mới là diệu pháp xuất thế.

 

Hoặc kiến Di lặc tối sơ chứng đắc từ tâm tam muội, tùng thị dĩ lai, hiệu vi từ thị;

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tối-sơ chứng được từ-tâm tam-muội, từ đó đến nay hiệu là từ-thị

Giảng: Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc lúc ban đầu chứng được tam muội từ tâm. Từ đó đến nay, Ngài hiệu là Từ Thị.

 

Hoặc kiến Di lặc tu chư diệu hạnh, thành mãn nhất thiết chư Ba-la-mật; hoặc kiến đắc nhẫn,

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát tu những diệu-hạnh, thành mãn tất cả môn ba-la-mật.

Giảng: Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc tu hành các diệu hạnh, thành tựu viên mãn tất cả các Ba La Mật.

 

Hoặc kiến tứ trụ địa, hoặc kiến thành tựu thanh tịnh quốc độ,

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát đắc nhẫn, trụ địa, thành-tựu quốc-độ thanh-tịnh

Giảng: Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc đắc được công phu thập nhẫn. Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc trụ ở bậc Thập địa. Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc thành tựu cõi nước thanh tịnh.

 

Hoặc kiến hộ trì Như Lai chánh giáo, vi đại pháp sư, đắc vô sanh nhẫn,

Hoặc hộ trì phật-pháp, làm đại Pháp-Sư, được vô-sanh-nhẫn.

Giảng: Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc hộ trì chánh giáo của Như Lai, làm đại pháp sư, đắc được vô sinh pháp nhẫn,

 

Mỗ thời, mỗ xứ, mỗ Như Lai sở thọ ư vô thượng Bồ-đề chi kí.

Hoặc thấy thời-gian ấy, tại xứ ấy, Ðức Phật ấy thọ ký thành Phật cho Di-Lặc Bồ-Tát.

Giảng: Hoặc ở chỗ đức Như Lai nào đó, được thọ ký vô thượng bồ đề, tương lai lúc nào sẽ thành tựu quả vị Phật, lúc nào ? Ở đâu !

 

Hoặc kiến Di lặc vi Chuyển luân Vương, khuyến chư chúng sanh trụ thập thiện đạo;

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm Chuyển-Luân-Vương khuyên các chúng-sanh an trụ nơi thập-thiện-đạo.

Giảng: Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc : Khi làm Chuyển Luân Thánh Vương, thì khuyên các chúng sinh tu hành pháp đạo thập thiện. Tức là thân không có hành vi : Giết hại, trộm cắp, tà dâm. Miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chửi mắng. Ý không có tư tưởng tham lam, sân hận, si mê.

 

Hoặc vi hộ thế, nhiêu ích chúng sanh;

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm Hộ-Thế lợi ích chúng sanh

Giảng: Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc khi làm Tứ Thiên Vương hộ đời, thì lợi ích tất cả chúng sinh, xua đuổi ma quỷ hại người.

 

Hoặc vi thích Thiên, ha trách ngũ dục

Hoặc làm Ðế-Thích quở trách ngũ-dục

Giảng: Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc khi làm trời Đế Thích, thì quở trách sắc thanh hương vị xúc năm trần làm đoạ lạc, khiến cho tất cả chúng sinh, biết tài sắc danh ăn ngủ năm dục, là nguyên nhân khiến đoạ vào địa ngục năm gian.

 

Hoặc vi diệm ma thiên Vương, tán bất phóng dật;

Hoặc làm Dạ-Ma Thiên-Vương tán dương hạnh bất-phóng-dật

Giảng: Hoặc làm Dạ Ma Thiên Vương, thì khen ngợi pháp không phóng dật, khiến cho tất cả Thiên chúng giữ gìn quy cụ.

 

Hoặc vi Đâu suất thiên Vương, xưng thán nhất sanh Bồ-tát công đức;

Hoặc làm Ðâu-Suất Thiên-Vương khen ngợi công-đức của Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ

Giảng: Hoặc làm Đâu Suất Thiên Vương, thì khen ngợi tán thán công đức Bồ Tát nhất sinh bổ xứ. Nội viện cung trời Đâu Suất là nơi Bồ Tát hậu bổ Phật vị ở. Bồ Tát Di Lặc Ngài là vị Phật vị lai, hiện đang ở tại nội viện, đang vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.

 

Hoặc vi Hoá Lạc Thiên Vương, vi chư Thiên Chúng hiện chư Bồ-tát biến hóa trang nghiêm;

Hoặc làm Hóa-Lạc Thiên-Vương vì chư thiên-chúng mà hiện những sự biến-hóa trang-nghiêm của chư Bồ-Tát

Giảng: Hoặc làm Hoá Lạc Thiên Vương, vì tất cả Thiên chúng, thị hiện tướng biến hoá trang nghiêm của các Bồ Tát.

 

Hoặc vi tha hóa tự tại thiên Vương, vi chư Thiên Chúng diễn thuyết nhất thiết chư Phật chi Pháp;

Hoặc làm Tha-Hóa-Tự-Tại Thiên-Vương vì chư thiên-chúng mà diễn thuyết tất cả phật-pháp

Giảng: Hoặc làm Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương, vì các Thiên chúng, diễn nói diệu pháp của tất cả chư Phật nói.

 

Hoặc tác Ma Vương, thuyết nhất thiết pháp giai tất vô thường;

Hoặc làm Ma-Vương tuyên nói tất cả pháp thảy đều vô-thường

Giảng: Hoặc làm ma vương (vì độ chúng sinh ác mà hiện tướng ma vương), diễn nói tất cả pháp đều là vô thường.

 

Hoặc vi Phạm Vương, thuyết chư Thiền định vô lượng thiện lạc; hoặc vi A-tu-la Vương, nhập Đại trí hải, liễu Pháp như huyễn, vi kỳ chúng hội thường diễn thuyết Pháp, đoạn trừ nhất thiết kiêu mạn túy ngạo.

Hoặc làm Phạm-Vương tuyên nói chư thiền-định có vô-lượng hỉ-lạc, hoặc làm A-Tu-La Vương vào biển đại-trí rõ pháp như huyễn vì chúng A-Tu-Ta mà thường thuyết pháp dứt trừ tất cả kiêu mạn ngạo nghễ.

Giảng: Hoặc làm Đại Phạm Thiên Vương, nói các thiền định, có vô lượng hỷ lạc. Hoặc làm A tu la vương, vào biển đại trí huệ, thấu rõ tất cả pháp như huyễn như hoá, vì chúng hội đó, thường diễn nói tất cả diệu pháp, khiến cho chúng sinh đoạn trừ tất cả kiêu mạn ngạo nghễ, xa lìa pháp bất thiện

 

Hoặc phục kiến kỳ xứ Diêm La giới, phóng đại quang minh, cứu địa ngục khổ; hoặc kiến tại ư ngạ quỷ chi xứ, thí chư ẩm thực, tế bỉ cơ khát; hoặc kiến tại ư súc sanh chi đạo, chủng chủng phương tiện, điều phục chúng sanh.

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát ở xứ Diêm-La cứu khổ địa-ngục, hoặc thấy ở xứ ngạ-quỷ bố-thí đồ uống ăn cứu sự đói khát, hoặc thấy ở đạo súc-sanh dùng những phương-tiện điều-phục chúng-sanh.

Giảng: Hoặc lại thấy Bồ Tát Di Lặc ở cõi Diêm La, phóng đại quang minh, vì cứu chúng sinh thọ khổ trong địa ngục. Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc ở cõi ngạ quỷ, bố thí các thức ăn uống, cứu giúp chúng sinh đói khát. Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc ở trong đường súc sinh, dùng đủ thứ phương tiện, để điều phục tất cả chúng sinh.

 

Hoặc phục kiến vi hộ thế Thiên Vương chúng hội thuyết Pháp, hoặc phục kiến vi Đao Lợi Thiên Vương chúng hội thuyết Pháp, hoặc phục kiến vi diệm ma thiên Vương chúng hội thuyết Pháp,

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát vì chúng hội Hộ-Thế Thiên-Vương mà thuyết pháp, hoặc thấy vì chúng-hội Ðao-Lợi Thiên-Vương mà thuyết pháp, Hoặc thấy vì chúng-hội Dạ-Ma Thiên-Vương mà thuyết pháp

Giảng: Hoặc lại thấy Bồ Tát Di Lặc, vì chúng hội Tứ Thiên Vương hộ đời, Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương mà thuyết pháp.

 

Hoặc phục kiến vi Đâu suất thiên Vương chúng hội thuyết Pháp, Hoặc phục kiến vi Hoá Lạc Thiên Vương chúng hội thuyết Pháp,

Hoặc thấy vì chúng-hội Ðâu-Suất Thiên-Vương mà thuyết pháp. Hoặc thấy vì chúng-hội Hóa-lạc Thiên-Vương mà thuyết pháp

Giảng: Hoặc lại thấy Bồ Tát Di Lặc vì Đâu Suất Thiên Vương mà thuyết pháp. Hoặc lại vì Hoá Lạc Thiên Vương mà thuyết pháp.

 

Hoặc phục kiến vi tha hóa tự tại thiên Vương chúng hội thuyết Pháp, Hoặc phục kiến vi Đại Phạm Vương chúng hội thuyết Pháp,

Hoặc thấy vì chúng-hội Tha-hóa Thiên-Vương mà thuyết pháp. Hoặc thấy vì chúng-hội Ðại-Phạm Thiên-Vương mà thuyết pháp

Giảng: Hoặc lại thấy Bồ Tát Di Lặc vì Tha-hóa Thiên-Vương mà thuyết pháp. Hoặc lại vì Đại Phạm Vương mà thuyết pháp.

 

Hoặc phục kiến vi long Vương chúng hội thuyết Pháp, Hoặc phục kiến vi dạ xoa, La-sát Vương chúng hội thuyết Pháp,

Hoặc thấy vì chúng-hội Long-Vương mà thuyết pháp. Hoặc thấy vì chúng-hội Dạ-Xoa-Vương, La-Sát-Vương mà thuyết pháp

Giảng: Hoặc lại thấy Bồ Tát Di Lặc vì chúng hội Long Vương, Dạ Xoa Vương, La Sát Vương mà thuyết pháp.

 

Hoặc phục kiến vi Càn thát bà, khẩn-na-la Vương chúng hội thuyết Pháp, Hoặc phục kiến vi A-tu-la, Đà na bà Vương chúng hội thuyết Pháp,

Hoặc thấy vì chúng-hội Càn-Thát-Bà Vương và Khẩn-Na-La Vương mà thuyết pháp. Hoặc thấy vì chúng-hội A-Tu-La Vương và Ðà-Na-Bà Vương mà thuyết pháp,

Giảng: Hoặc lại thấy Bồ Tát Di Lặc vì Càn Thát Bà Vương, Khẩn Na La Vương, A Tu La Vương, Đà Na Bà Vương, Ca Lâu La Vương, Ma Hầu La Già Vương, trời rồng tám bộ chúng nầy mà thuyết pháp.

 

Hoặc phục kiến vi Ca Lâu La, Ma hầu la già Vương chúng hội thuyết Pháp, Hoặc phục kiến vi kỳ dư nhất thiết nhân, phi nhân đẳng chúng hội thuyết Pháp,

Hoặc thấy vì chúng-hội Ca-Lâu-La Vương và Ma-Hầu-La-Già Vương mà thuyết pháp. Hoặc thấy vì những chúng-hội nhân phi-nhân khác mà thuyết pháp

Giảng: Hoặc lại thấy Bồ Tát Di Lặc vì chúng-hội Ca-Lâu-La Vương và Ma-Hầu-La-Già Vương mà thuyết pháp. Hoặc lại thấy vì chúng-hội người, chẳng phải người khác mà thuyết pháp.

 

Hoặc phục kiến vi Thanh văn chúng hội thuyết Pháp, Hoặc phục kiến vi duyên giác chúng hội thuyết Pháp,

Hoặc thấy vì chúng-hội Thanh-Văn mà thuyết pháp. Hoặc thấy vì chúng-hội Duyên-Giác mà thuyết pháp

Giảng: Hoặc lại thấy Bồ Tát Di Lặc, vì chúng hội Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát ban đầu phát tâm, cho đến nhứt sinh bổ xứ đã được quán đảnh mà diễn nói diệu pháp.

 

Hoặc phục kiến vi sơ phát tâm nãi chí nhất sanh sở hệ dĩ quán đảnh giả chư Bồ-tát chúng nhi diễn thuyết Pháp.

Hoặc thấy vì chúng-hội Bồ-Tát sơ-phát-tâm nhẫn đến Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ trụ quán-đảnh vị mà thuyết pháp.

Giảng: Lại thấy Bồ Tát Di Lặc nói Bồ Tát sơ địa cho đến Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ trụ quán-đảnh vị mà thuyết pháp.

 

Hoặc kiến tán thuyết sơ địa nãi chí Thập Địa sở hữu công đức, Hoặc kiến tán thuyết mãn túc nhất thiết chư Ba-la-mật, hoặc kiến tán thuyết nhập chư nhẫn môn,

Hoặc lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát khen nói những công đức của sơ-địa nhẫn đến thập-địa. Hoặc thấy khen nói đầy đủ tất cả ba-la-mật. Hoặc thấy khen nói pháp môn nhập các nhẫn.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy Bồ Tát Di Lặc, khen nói hết thảy công đức Bồ Tát sơ địa cho đến Thập địa Bồ Tát mà diễn nói diệu pháp. Hoặc thấy khen nói đầy đủ tất cả các Ba La Mật. Hoặc thấy khen nói nhập vào tất cả môn nhẫn.

 

Hoặc kiến tán thuyết chư Đại tam muội môn, hoặc kiến tán thuyết thậm thâm giải thoát môn, hoặc kiến tán thuyết chư Thiền tam muội thần thông cảnh giới,

Hoặc thấy khen nói những môn đại tam-muội. Hoặc thấy khen nói những môn giải-thoát thậm-thâm. Hoặc thấy khen nói cảnh-giới của những tam-muội thần-thông.

Giảng: Hoặc thấy khen nói các môn đại tam muội. Hoặc thấy khen nói các môn giải thoát thâm sâu. Hoặc thấy khen nói cảnh giới các thiền tam muội thần thông.

 

Hoặc kiến tán thuyết chư Bồ-tát hạnh, hoặc kiến tán thuyết chư đại thệ nguyện, Hoặc kiến dữ chư đồng hành Bồ Tát tán thuyết thế gian tư sanh công xảo chủng chủng phương tiện lợi chúng sanh sự,

Hoặc thấy khen nói những bồ-tát-hạnh. Hoặc thấy khen nói những thệ nguyện lớn. Hoặc thấy cùng với chư Bồ-Tát đồng hành khen nói những phương-tiện lợi ích chúng-sanh.

Giảng: Hoặc thấy khen nói các hạnh Bồ Tát. Hoặc thấy khen nói các đại thệ nguyện. Hoặc thấy với các Bồ Tát đồng hạnh, khen nói việc công xảo đủ thứ phương tiện lợi ích chúng sinh thế gian.

 

Hoặc kiến dữ chư nhất sanh Bồ-tát tán thuyết nhất thiết Phật quán đảnh môn. Hoặc kiến Di lặc ư bách thiên niên, kinh hành, độc tụng, thư tả Kinh quyển, cần cầu quan sát, vi chúng thuyết Pháp,

Hoặc thấy cùng với chư Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ khen nói tất cả môn Phật quán đảnh. Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát trong trăm ngàn năm kinh hành, đọc tụng, thơ tả kinh quyển, siêng cầu quán sát vì đại-chúng mà thuyết pháp.

Giảng: Hoặc thấy khen nói với các Bồ Tát nhứt sinh bổ xứ, pháp môn tất cả chư Phật quán đảnh. Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc ở trong trăm ngàn năm, kinh hành đọc tụng biên chép kinh điển, siêng cầu quán sát, vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp.

 

Hoặc nhập chư Thiền tứ vô lượng tâm, hoặc nhập biến xứ cập chư giải thoát, hoặc nhập tam muội dĩ phương tiện lực hiện chư thần biến. Hoặc kiến chư Bồ-tát nhập biến hóa tam muội, các ư kỳ thân nhất nhất mao khổng, xuất ư nhất thiết biến hóa thân vân; hoặc kiến xuất Thiên Chúng thân vân,

Hoặc nhập tứ-thiền, tứ vô-lượng tâm. Hoặc nhập biến-xứ và những giải-thoát. Hoặc nhập tam-muội dùng sức phương-tiện hiện những thần-biến. Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát nhập biến-hóa tam-muội, nơi mỗi lỗ lông trên thân hiện ra tất cả biến-hóa thân-vân.

Giảng: Hoặc nhập vào các thiền, bốn tâm vô lượng. Hoặc nhập vào khắp nơi và các giải thoát. Hoặc nhập vào tam muội, dùng đủ thứ sức phương tiện, thị hiện đủ thứ thần thông biến hoá. Hoặc thấy các Bồ Tát nhập vào tam muội biến hoá, mỗi vị đều ở trong lỗ chân lông của mình, hiện ra tất cả thân mây biến hoá. Hoặc thấy hiện ra thân mây chúng chư Thiên.

 

Hoặc kiến xuất long chúng thân vân, hoặc kiến xuất dạ xoa, Càn thát bà, khẩn-na-la, A-tu-la, Ca Lâu La, Ma hầu la già, thích, phạm, hộ thế, Chuyển luân Thánh Vương, Tiểu Vương, Vương tử, đại thần, quan chúc, Trưởng-giả, Cư-sĩ thân vân,

Hoặc hiện ra thiên-chúng thân-vân. Hoặc hiện ra long-chúng thân-vân. hoặc hiện ra bát-bộ-chúng thân-vân. Hoặc hiện ra Thích, Phạm, Hộ-Thế, Chuyển-Luân Thánh-Vương, Tiều-Vương, Vương-Tử, Ðại-Thần, Quan-Thuộc, Trưởng-Giả, Cư-Sĩ thân-vân.

Giảng: Hoặc thấy hiện ra thân mây chúng rồng. Hoặc thấy hiện ra thân mây Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, A Tu La, Ca Lâu La, Ma Hầu La Già, trời rồng tám bộ chúng. Hoặc thấy hiện ra thân mây chúng trời Đế Thích, trời Đại Phạm, Tứ Thiên Vương hộ thế, Chuyển Luân Thánh Vương, ông vua nhỏ, vương tử, đại thần, quan chức, trưởng giả, cư sĩ.

 

Hoặc kiến xuất Thanh văn, duyên giác cập chư Bồ-tát, Như Lai thân vân, hoặc kiến xuất nhất thiết chúng sanh thân vân. Hoặc kiến xuất Diệu-Âm, tán chư Bồ-tát chủng chủng Pháp môn.

Hoặc hiện ra Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát, Như-Lai thân-vân. Hoặc hiện ra tất cả chúng-sanh thân-vân. Hoặc phát ra tiếng vi-diệu khen những pháp-môn của chư Bồ-Tát.

Giảng: Hoặc thấy hiện ra thân mây Thanh Văn, Duyên Giác, và các Bồ Tát Như Lai. Hoặc thấy hiện ra thân mây tất cả chúng sinh. Hoặc thấy vang ra diệu âm, khen ngợi đủ thứ pháp môn của các Bồ Tát.

 

Sở vị: tán thuyết Bồ-đề tâm công đức môn; tán thuyết đàn ba-la-mật nãi chí trí Ba-la-mật công đức môn; tán thuyết chư nhiếp, chư Thiền, chư vô lượng tâm, cập chư tam muội, Tam Ma Bát Để, chư thông, chư minh, tổng trì, biện tài, chư đế, chư trí, chỉ quán, giải thoát, chư duyên, chư y, chư thuyết Pháp môn;

Hoặc khen nói môn công-đức của đàn-ba-la-mật nhẫn đến công-đức của trí-ba-la-mật. Khen nói các nhiếp pháp, các thiền, các vô-lượng-tâm, các tam-muội chánh-quán, các thông, các minh, tổng-trì, biện-tài, các đế, các trí, chỉ, quán, giải-thoát, các duyên, các y, các thuyết, các pháp-môn.

Giảng: Đó là : Khen nói môn công đức bồ đề tâm, khen nói pháp môn công đức bố thí Ba La Mật, cho đến môn trí huệ Ba La Mật. Đây là mười Ba La Mật. Khen nói các pháp nhiếp, tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp. Khen nói các thiền, tức là tứ thiền và tứ không xứ, thêm diệt tận định, tức là cửu thứ đệ định. Khen nói các vô lượng tâm, tức là từ, bì, hỉ, xả, bốn tâm vô lượng. Khen nói các tam muội, tức là chánh định chánh thọ. Khen nói tam ma bát đề, đây là một thứ thiền định, dịch là đẳng trụ. Khen nói các thông, tức là sáu thần thông :

1. Thiên nhãn thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Tha tâm thông.
4. Thần túc thông.
5. Túc mạng thông.
6. Lậu tận thông.

Khen nói các minh, tức là ba minh :
1. Thiên nhãn minh.
2. Túc mạng minh.
3. Lậu tận minh.

Khen nói tổng trì, tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Khen nói biện tài, tức là bốn vô ngại biện :
1. Pháp vô ngại biện.
2. Nghĩa vô ngại biện.
3. Từ vô ngại biện.
4. Lạc thuyết vô ngại biện.

Khen nói các đế, tức là : Khổ, tập, diệt, đạo, bốn đế. Khen nói các trí, tức là bốn trí :
1. Thành sở tác trí.
2. Diệu quán sát trí.
3. Bình đẳng tánh trí.
4. Đại viên cảnh trí.

Khen nói chỉ quán, tức là chỉ (ngừng) tất cả ác, quán tất cả thiện. Khen nói giải thoát, tức là tám giải thoát. Khen nói các duyên, tức là mười hai nhân duyên. Khen nói các y, tức là bốn y :
1. Hạnh bốn y.
2. Pháp bốn y.
3. Người bốn y.
4. Nói bốn y.

Khen nói đủ thứ những pháp môn nầy.

 

Tán thuyết niệm, xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, thất  Bồ-đề phần, bát thánh đạo phần, chư Thanh văn thừa, chư độc giác thừa, chư Bồ-tát thừa, chư địa, chư nhẫn, chư hạnh, chư nguyện, như thị đẳng nhất thiết chư công đức môn.

Khen nói niệm-xứ, chánh-cần, thần-túc, căn, lực, bảy phần bồ-đề, tám thánh-đạo, những thanh-văn-thừa, những duyên-giác-thừa, những bồ-tát-thừa, những địa, những nhẫn, những hạnh, những nguyện, tất cả những công-đức-môn như vậy.

Giảng: Lại khen nói bốn niệm xứ, tức là :
1. Thân niệm xứ.
2. Thọ niệm xứ.
3. Tâm niệm xứ.
4. Pháp niệm xứ.

Lại khen nói bốn chánh cần, tức là :
1. Đã sinh ác thì khiến cho dứt.
2. Chưa sinh ác thì khiến cho sinh ra.
3. Chưa sinh thiện thì khiến cho sinh ra.
4. Đã sinh thiện thì khiến cho tăng trưởng.

Lại khen nói thần túc, tức là bốn như ý túc :
1. Dục như ý túc.
2. Tâm như ý túc.
3. Cần như ý túc.
4. Huệ như ý túc.

Lại khen nói năm căn, tức là :
1. Tín căn.
2. Tấn căn.
3. Niệm căn.
4. Định căn.
5. Huệ căn.

Lại khen nói năm lực, tức là :
1. Tín lực.
2. Tấn lực.
3. Niệm lực.
4. Định lực.
5. Huệ lực.

Lại khen nói bảy bồ đề phần, còn gọi là bảy giác chi :
1. Chọn pháp.
2. Tinh tấn.
3. Hỉ.
4. Khinh an.
5. Xả.
6. Định.
7. Niệm.

Lại khen nói tám thánh đạo phần, tức là :
1. Chánh kiến.
2. Chánh ngữ.
3. Chánh tư duy.
4. Chánh nghiệp.
5. Chánh mạng.
6. Chánh tinh tấn.
7. Chánh niệm.
8. Chánh định.

Ở trên đây là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.

Lại khen nói các Thanh Văn thừa. Trước hết từ ngũ đình tâm quán khởi, sau tu pháp bốn đế. Chứng được tứ quả A La Hán. Lại khen nói các Duyên Giác thừa. Hành giả ở trong thâm sơn cùng cốc tĩnh toạ, mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi, cảm thấy vạn vật vô thường, quán pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, xưng là Bích Chi Phật. Lại khen nói các Bồ Tát thừa, tu lục độ vạn hạnh, phát bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Trải qua năm mươi bậc mà đến Đẳng Giác Bồ Tát, công đức và Phật tướng không khác xa bao nhiêu, chỉ còn một phần sinh tướng vô minh chưa phá mà thôi.

Lại khen nói các địa, tức là Thập địa :
1. Hoan hỉ địa.
2. Ly cấu địa.
3. Phát quang địa.
4. Diệm huệ địa.
5. Nan thắng địa.
6. Hiện tiền địa.
7. Viễn hành địa.
8. Bất động địa.
9. Thiện huệ địa.
10. Pháp vân địa.

Lại khen nói các nhẫn, tức là : Thập nhẫn :
1. Giới nhẫn.
2. Tri kiến nhẫn.
3. Định nhẫn.
4. Huệ nhẫn.
5. Giải thoát nhẫn.
6. Không nhẫn.
7. Vô nguyện nhẫn.
8. Vô minh nhẫn.
9. Vô thường nhẫn.
10. Vô sinh nhẫn.

Lại khen nói các hạnh, tức là Thập hạnh :
1. Hoan hỉ hạnh.
2. Nhiêu ích hạnh.
3. Vô sân hạnh.
4. Vô tận hạnh.
5. Ly si loạn hạnh.
6. Thiện hiện hạnh.
7. Vô tác hạnh.
8. Tôn trọng hạnh.
9. Thiện pháp hạnh.
10. Chân thật hạnh.

Lại khen nói các nguyện, tức là bốn hoằng thệ nguyện :
1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Tất cả các môn công đức như vậy, thảy đều hiện ra ở trong thân của Thiện Tài đồng tử, thấy được rất rõ ràng.

 

Hoặc phục ư trung, kiến chư Như Lai, đại chúng vi nhiễu; diệc kiến kỳ Phật sanh xứ, chủng tính, thân hình, thọ mạng, sát kiếp, danh hiệu, thuyết Pháp lợi ích, giáo trụ cửu cận, nãi chí sở hữu đạo tràng chúng hội chủng chủng bất đồng, tất giai minh kiến.

Hoặc ở trong đó lại thấy chư Như-Lai có đại-chúng vây quanh. Cũng thấy chư Phật nầy: chỗ sanh, chủng-tánh, thân hình, thọ-mạng, quốc-độ, kiếp-số, danh-hiệu, thuyết pháp lợi ích, chánh-pháp ở đời mau hay lâu, nhẫn đến đạo-tràng chúng-hội đều thấy rõ cả.

Giảng: Hoặc ở trong đó, lại thấy đại chúng vây quanh các đức Phật, cũng thấy nơi sinh của vị Phật đó và dòng dõi của đức Phật đó, thân hình trang nghiêm như thế nào, đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Thọ mạng bao lâu, ở cõi kiếp nào, danh hiệu là gì, thuyết pháp lợi ích chúng sinh, giáo hoá chúng sinh thời gian bao lâu, chánh pháp trụ ở đời bao lâu, cho đến hết thảy đạo tràng và chúng hội, đủ thứ sự khác nhau, Thiện Tài đồng tử đều thấy rất rõ ràng.

 

Hựu phục ư bỉ trang nghiêm tạng nội chư lâu các trung, kiến nhất lâu các, cao Quảng nghiêm sức, tối thượng vô bỉ; ư trung tất kiến tam thiên thế giới bách ức tứ thiên hạ, bách ức Đâu-Xuất-Đà Thiên, nhất nhất giai hữu Di Lặc Bồ-tát hàng thần đản sanh, thích phạm thiên vương phủng trì đảnh đái, du hành thất bộ, quan sát thập phương, Đại sư tử hống, hiện vi Đồng tử, cư xử cung điện, du hí viên uyển, vi nhất thiết trí xuất gia khổ hạnh, thị thọ nhũ mi, vãng nghệ đạo trường, hàng phục chư ma, thành đẳng chánh giác, quán Bồ-đề thụ, Phạm Vương khuyến thỉnh chuyển chánh Pháp luân, thăng Thiên cung điện nhi diễn thuyết Pháp, kiếp số thọ lượng, chúng hội trang nghiêm, sở tịnh quốc độ, sở tu hành nguyện, giáo hóa thành thục chúng sanh phương tiện, phân bố xá lợi, trụ trì giáo pháp, giai tất bất đồng.

Lại ở nơi những lâu các trong phạm-vi Trang-Nghiêm-Tạng nầy, mỗi lâu các đều cao rộng trang-nghiêm tối thượng, trong đó đều thấy Ðại-Thiên thế-giới, trăm ức Tứ-Thiên-Hạ, trăm ức Ðâu-Suất-Thiên. Mỗi mỗi đều có Di-Lặc Bồ-Tát giáng thần đản-sanh. Thích, Phạm và Thiên-Vương ẫm bồng cung kính. Bồ-Tát sơ sanh kinh hành bảy bước, nhìn xem mười phương, tuyên bố độc tôn, làm đồng-tử, ở cung-điện, dạo chơi viên-uyển, vì cầu nhất-thiết-trí mà xuất-gia khổ-hạnh, thị hiện thọ cháo sữa, đến ngồi đạo-tràng hàng phục ma-quân, thành Ðẳng-Chánh-Giác, quán-sát bồ-đề-thọ. Phạm-Vương thỉnh chuyển pháp-luân. Lên cung trời mà thuyết pháp. Kiếp số thọ-lượng, chúng-hội trang-nghiêm, nghiêm tịnh quốc-độ, thật hành hạnh nguyện, phương-tiện giáo-hóa thành-thục chúng-sanh, phân chia xá-lợi, trụ-trì giáo-pháp, những sự việc chẳng đồng như vậy thảy đều thấy rõ.

Giảng: Ở trong những lầu các trong đại lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng, Thiện Tài đồng tử lại thấy một lầu các, cao rộng nghiêm sức, tốt đẹp tối thượng không gì sánh bằng. Ở trong đó, đều thấy ba ngàn thế giới, trăm ức bốn thiên hạ, trăm ức trời Đâu Suất Đà, mỗi mỗi nơi đều có Bồ Tát Di Lặc, hàng thần đản sinh.

Trời Đế Thích và Đại Phạm Thiên Vương, đều dùng ẵm bồng cung kính. Bồ Tát sinh ra rồi, bèn bước đi bảy bước, quán sát mười phương. Sau đó đại sư tử hống, hiện làm thân hình hai nhi, lớn lên ở trong cung điện, đi dạo chơi trong vườn hoa. Vào lúc thiếu niên, vì cầu nhất thiết trí huệ, mà xuất gia tu khổ hạnh, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, để duy trì mạng sống. Sau đó, thị hiện cảnh giới thọ nhận cháo sữa của một tín nữ chăn dê cúng dường, khôi phục lại sức khoẻ. Rồi đi đến bồ đề đạo tràng, tĩnh toạ dưới gốc cây, hàng phục các ma quân và ma nữ dụ dỗ uy hiếp, thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đây là cảnh giới tám tướng thành đạo của Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật.

Quán cây bồ đề, Phạm Vương thỉnh cầu, chuyển bánh xe pháp. Thăng lên cung điện trời, mà diễn nói chánh pháp. Kiếp số và thọ lượng, chúng hội trang nghiêm, thanh tịnh cõi nước, tu các hạnh nguyện, phương tiện giáo hoá thành thục chúng sinh, phân chia xá lợi, trụ trì giáo pháp, đủ thứ cảnh giới thảy đều khác nhau.

 

Nhĩ thời, Thiện Tài tự kiến kỳ thân, tại bỉ nhất thiết chư Như Lai sở; diệc kiến ư bỉ nhất thiết chúng hội, nhất thiết Phật sự, ức trì bất vong, thông đạt vô ngại.

Thiện-Tài lại thấy thân mình ở tại chỗ chư Phật Như-Lai ấy, cũng dự trong chúng-hội ấy, đều nhớ rõ tất cả phật-sự và thông đạt vô-ngại.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử lại thấy thân mình, ở chỗ đạo tràng của tất cả các Như Lai đó, cũng thấy tất cả chúng hội, tất cả Phật sự đó, nhớ trì không quên, thấu rõ thông đạt vô ngại. Những cảnh giới nầy, thật là diệu không thể tả.

 

Phục văn nhất thiết chư lâu các nội, bảo võng linh đạc cập chư lạc khí, giai tất diễn sướng bất khả tư nghị vi diệu pháp âm, thuyết chủng chủng Pháp.

Lại nghe tất cả lưới, linh, nhạc-khí trong tất cả lâu-các ấy đều diễn sướng bất-tư-nghì pháp-âm vi-diệu không thể nghĩ bàn, nói đủ thứ diệu pháp, đây là vô tình chúng sinh thuyết pháp.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại nghe đủ thứ tiếng lưới linh báu và đủ thứ các tiếng nhạc cụ trong tất cả các lầu các, thảy đều diễn xướng pháp âm vi diệu không thể nghĩ bàn, nói đủ thứ diệu pháp, đây là vô tình chúng sinh thuyết pháp.

 

Sở vị: hoặc thuyết Bồ Tát phát Bồ-đề tâm, hoặc thuyết tu hành Ba-la-mật hạnh, hoặc thuyết chư nguyện, hoặc thuyết chư địa, hoặc thuyết cung kính cúng dường Như Lai, hoặc thuyết trang nghiêm chư Phật quốc độ, hoặc thuyết chư Phật thuyết Pháp sái biệt.

Hoặc nói Bồ-Tát phát bồ-đề-tâm, hoặc nói tu hành các môn ba-la-mật, hoặc nói các nguyện, các địa, hoặc nói cung kính cúng-dường Như-Lai, hoặc nói trang-nghiêm phật-độ, hoặc nói chư Phật thuyết pháp sai biệt.

Giảng: Đó là : Nói Bồ Tát lúc ban đầu phát bồ đề tâm như thế nào ? Hoặc nói Bồ Tát tu hành hạnh Ba La Mật ra sao ? Hoặc nói Bồ Tát phát các thệ nguyện như thế nào ? Hoặc nói Bồ Tát làm thế nào chứng được các địa ? Hoặc nói Bồ Tát cung kính cúng dường Như Lai như thế nào ? Hoặc nói Bồ Tát trang nghiêm và thanh tịnh các cõi Phật như thế nào ? Hoặc nói chư Phật thuyết pháp khác nhau, tất cả Phật pháp như vậy, đều nghe được hết, phân biệt được rất rõ ràng.

 

Như thượng sở thuyết nhất thiết Phật Pháp, tất văn kỳ âm, phu sướng biện liễu. Hựu văn mỗ xứ, hữu mỗ Bồ Tát, văn mỗ Pháp môn, mỗ thiện tri thức chi sở khuyến đạo phát Bồ-đề tâm, ư mỗ kiếp, mỗ sát, mỗ Như Lai sở, mỗ Đại chúng trung, văn ư mỗ Phật như thị công đức, phát như thị tâm, khởi như thị nguyện, chủng ư như thị quảng đại thiện căn;

Lại nghe xứ đó có Bồ-Tát nghe pháp-môn như vậy. Thiện-tri-thức ấy khuyên phát tâm bồ-đề ở cõi ấy, kiếp ấy, chỗ đức Phật ấy, trong đại-chúng ấy, phát tâm, khởi nguyện, gieo thiện-căn quảng đại như vậy,

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại nghe được ở xứ đó, có vị Bồ Tát đó, nghe pháp môn đó. Hoặc có vị thiện tri thức đó, khuyên dạy chúng sinh phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo. Ở trong kiếp đó, cõi đó, chỗ đức Phật đó, ở trong đại chúng pháp hội đó, nghe công đức của vị Phật đó như vậy. Phát tâm rộng lớn như vậy, khởi nguyện rộng lớn như vậy, trồng căn lành rộng lớn như vậy.

 

Kinh nhược can kiếp tu Bồ Tát hạnh, ư nhĩ hứa thời đương thành chánh giác, như thị danh hiệu, như thị thọ lượng, như thị quốc độ, cụ túc trang nghiêm, mãn như thị nguyện, hóa như thị chúng, như thị Thanh văn, Bồ Tát chúng hội; Bát Niết Bàn hậu, chánh pháp trụ thế, Kinh nhĩ hứa kiếp, lợi ích như thị vô lượng chúng sanh.

Trải qua bao nhiêu kiếp tu bồ-tát-hạnh, bao nhiêu thời gian sẽ thành chánh-giác danh hiệu như vậy, thọ lượng như vậy, quốc-độ trang-nghiêm như vậy, mãn nguyện như vậy, giáo-hóa chúng-sanh như vậy, chúng Thanh-Văn Bồ-Tát như vậy. Sau khi nhập niết-bàn, chánh-pháp ở đời bao lâu năm lợi ích vô-lượng chúng-sanh.

Giảng: Trải qua bao nhiêu kiếp, tu hành hạnh của Bồ Tát tu, mà chẳng khi nào giải đãi, nhàm mỏi.
Vào lúc nào đó, sẽ thành quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, danh hiệu như vậy, thọ lượng như vậy, cõi nước như vậy, đầy đủ trang nghiêm ra sao, viên mãn nguyện đã phát ra như thế nào ? Làm thế nào giáo hoá hết thảy chúng sinh ? Chúng hội Thanh Văn Bồ Tát như vậy. Hoặc vào Bát Niết Bàn rồi, chánh pháp trụ thế, trải qua bao nhiêu kiếp, lợi ích vô lượng chúng sinh như vậy, khiến cho họ lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử.

 

Hoặc văn mỗ xứ, hữu mỗ Bồ Tát, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, Thiền định, trí tuệ, tu tập như thị chư Ba-la-mật.

Hoặc nghe ở xứ đó, có vị Bồ Tát đó, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, tu tập các Ba La Mật như vậy.

Giảng: Hoặc lại nghe ở xứ đó, có vị Bồ Tát đó, đang ở đó bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, tu tập sáu pháp môn Ba La Mật đến bờ kia như vậy.

 

Hoặc văn mỗ xứ hữu mỗ Bồ Tát, vi cầu Pháp cố, khí xả Vương vị cập chư trân bảo, thê tử, quyến thuộc, thủ, túc, đầu, mục, nhất thiết thân phần giai vô sở lận.

Hoặc nghe xứ ấy có bồ-tát vì cầu pháp mà rời bỏ ngôi vua, cung-điện, vợ con quyến-thuộc, tài-sản, nhẫn đến xả thí tay, chân, đầu, mắt, thân thể.

Giảng: Hoặc lại nghe ở xứ đó, có vị Bồ Tát đó, vì cầu Phật pháp mà xả bỏ ngôi vua và hết thảy châu báu, bố thí cho người cần. Thậm chí, bố thí vợ đẹp, thiếp xinh, con trai, con gái và thân bằng quyến thuộc. Chẳng những bố thí ngoại tài, mà nội tài cũng đều đem bố thí. Như có người cần chân tay và đầu mắt, tất cả tứ chi thân thể, ngũ tạng lục phủ, đều bố thí hết, tuyệt đối không xẻn tiếc. Cho rằng giúp người là gốc của sự an vui, cho nên người xuất gia nên lấy lòng từ bi làm bổn hoài, phương tiện làm cửa, nơi nơi đồng tình với chúng sinh, thời thời trợ giúp chúng sinh, phải có tinh thần vô duyên đại từ, đồng thể đại bi. Lấy năm đại tông chỉ của Vạn Phật Thánh Thành làm kim châm cho sự tu đạo.

 

Hoặc văn mỗ xứ, hữu mỗ Bồ Tát, thủ hộ Như Lai sở thuyết Chánh Pháp, vi đại pháp sư, quảng hành pháp thí, kiến Pháp-Tràng, xuy pháp loa, kích pháp cổ, vũ Pháp vũ, tạo Phật tháp miếu, tác Phật hình tượng, thí chư chúng sanh nhất thiết lạc cụ.

Hoặc nghe xứ ấy có Bồ-Tát thủ hộ chánh-pháp làm đại Pháp-Sư rộng hành pháp-thí, dựng pháp-tràng, thổi pháp-loa đánh pháp-cổ, mưa pháp-vũ, xây phật tháp miếu, làm hình tượng Phật, bố-thí tất cả đồ an vui cho chúng-sanh.

Giảng: Hoặc lại nghe ở xứ đó, có vị Bồ Tát đó, giữ gìn chánh pháp của Phật nói, làm đại pháp sư, giảng kinh thuyết pháp khắp nơi, giúp Phật hoằng pháp, điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho thân tâm họ nhu hoà, không còn cang cường, đây là bố thí pháp, do đó :
« Trong các sự cúng dường,
Bố thí pháp là hơn hết ».

Kiến pháp tràng lớn, thổi loa pháp lớn, đánh trống pháp lớn, mưa pháp vũ cam lồ, tạo lập chùa tháp Phật, làm hình tượng Phật, bố thí tất cả đồ vui cho các chúng sinh.

 

Hoặc văn mỗ xứ, hữu mỗ Như Lai, ư mỗ kiếp trung, thành đẳng chánh giác, như thị quốc độ, như thị chúng hội, như thị thọ mạng, thuyết như thị pháp, mãn như thị nguyện, giáo hóa như thị vô lượng chúng sanh.

Hoặc nghe ở xứ đó, có vị Như Lai đó, ở trong kiếp đó thành Chánh Đẳng Giác, cõi nước như vậy, chúng hội như vậy, thọ mạng như vậy, nói pháp như vậy, viên mãn nguyện như vậy, giáo hoá vô lượng chúng sinh như vậy.

Giảng: Hoặc lại nghe ở xứ đó, có vị Phật đó, ở trong kiếp đó thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cõi nước như vậy, chúng hội như vậy, thọ mạng như vậy, nói pháp như vậy, viên mãn nguyện như vậy, giáo hoá vô lượng chúng sinh như vậy, điều phục vô lượng chúng sinh như vậy.

 

Thiện tài đồng tử Văn như thị đẳng bất khả tư nghị vi diệu pháp âm, thân tâm hoan hỉ, nhu nhuyễn duyệt trạch, tức đắc vô lượng chư tổng trì môn, chư biện tài môn, chư Thiền, chư nhẫn, chư nguyện, chư độ, chư thông, chư minh, cập chư giải thoát, chư tam muội môn.

Thiện-Tài nghe bất-tư-nghì vi-diệu pháp-âm như vậy, thân tâm hoan-hỉ nhu-nguyến liền được vô-lượng môn tổng-trì, vô-lượng môn biện-tài, các thiền, các nhẫn, các nguyện, các độ, các thông, các minh và các giải-thoát, các môn tam-muội.

Giảng: Thiện Tài đồng tử nghe pháp âm vi diệu không thể nghĩ bàn như vậy, thân tâm đều hoan hỉ, không cách gì có thể hình dung được. Mềm mại thơ thới, một chút tập khí cang cường cũng không còn. Lập tức đắc được vô lượng pháp môn tổng trì. Lại đắc được tất cả pháp môn biện tài vô ngại. Lại đắc được tất cả pháp môn các thiền. Lại đắc được tất cả pháp môn các nhẫn. Lại đắc được tất cả pháp môn các nguyện. Lại đắc được tất cả pháp môn các độ. Lại đắc được tất cả pháp môn các thông. Lại đắc được tất cả pháp môn các minh. Lại đắc được tất cả pháp môn giải thoát. Lại đắc được tất cả pháp môn tam muội.

 

Hựu kiến nhất thiết chư bảo kính trung chủng chủng hình tượng. Sở vị: hoặc kiến chư Phật chúng hội đạo tràng, hoặc kiến Bồ Tát chúng hội đạo tràng, hoặc kiến Thanh văn chúng hội đạo tràng, hoặc kiến duyên giác chúng hội đạo tràng, hoặc kiến tịnh thế giới, hoặc kiến bất tịnh thế giới, hoặc kiến tịnh bất tịnh thế giới, hoặc kiến bất tịnh tịnh thế giới, hoặc kiến hữu Phật thế giới, hoặc kiến vô Phật thế giới, hoặc kiến tiểu thế giới, hoặc kiến trung thế giới, hoặc kiến Đại thế giới, hoặc kiến nhân đà la võng thế giới, hoặc kiến phước thế giới, hoặc kiến ngưỡng thế giới, hoặc kiến bình thản thế giới, hoặc kiến địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ sở trụ thế giới, hoặc kiến Thiên Nhân sung mãn thế giới.

Lại thấy những hình tượng trong các gương báu: những là chư Phật chúng-hội đạo-tràng, Bồ-Tát chúng-hội đạo-tràng, Thanh-Văn chúng-hội đạo-tràng, Duyên-Giác chúng-hội đạo-tràng, những tịnh thế-giới, những uế thế-giới, hoặc những tịnh uế thế-giới, những thế-giới có Phật, những thế-giới không Phật, những tiểu thế-giới, những trung thế-giới, những đại thế-giới, những nhân-đà-la-võng thế-giới những thế-giới úp, những thế-giới ngửa, những thế-giới bình-thản, những thế-giới của địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh ở, những thế-giới đầy chúng nhân thiên.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy đủ thứ hình tượng trong tất cả các gương báu, có đủ thứ hình tượng. Đó là :
1. Hoặc thấy hình tượng chúng hội đạo tràng của chư Phật.
2. Hoặc thấy hình tượng đạo tràng chúng hội của Bồ Tát.
3. Hoặc thấy hình tượng chúng hội đạo tràng của Thanh Văn.
4. Hoặc thấy hình tượng chúng hội đạo tràng của Duyên Giác.
5. Hoặc thấy hình tượng thế giới thanh tịnh.
6. Hoặc thấy hình tượng thế giới bất tịnh.
7. Hoặc thấy hình tượng thế giới thanh tịnh lại bất tịnh.
8. Hoặc thấy hình tượng thế giới bất tịnh lại thanh tịnh.
9. Hoặc thấy hình tượng thế giới có Phật ra đời.
10. Hoặc thấy hình tượng thế giới không có Phật ra đời.
11. Hoặc thấy hình tượng thế giới nhỏ.
12. Hoặc thấy hình tượng thế giới vừa.
13. Hoặc thấy hình tượng thế giới lớn.
14. Hoặc thấy hình tượng thế giới lưới nhân đà la.
15. Hoặc thấy hình tượng thế giới úp.
16. Hoặc thấy hình tượng thế giới ngửa.
17. Hoặc thấy hình tượng thế giới bằng phẳng.
18. Hoặc thấy hình tượng thế giới chỗ ở của địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.
19. Hoặc thấy hình tượng thế giới đầy dẫy trời người.

 

Ư như thị đẳng chư thế giới trung, kiến hữu vô số đại Bồ-tát chúng, hoặc hành hoặc tọa tác chư sự nghiệp, hoặc khởi đại bi liên mẫn chúng sanh, hoặc tạo chư luận lợi ích thế gian, hoặc thọ hoặc trì, hoặc thư hoặc tụng, hoặc vấn hoặc đáp, tam thời sám hối,  hồi hướng phát nguyện.

Ở trong những thế-giới như vậy, thấy có vô-số chúng đại Bồ-Tát hoặc đi hoặc ngồi làm nhiều sự-nghiệp: Những là hoặc khởi đại-bi thương xót chúng sanh, hoặc soạn những bộ luận lợi ích chúng-sanh, hoặc thọ, hoặc trì, hoặc biên, hoặc tụng, hoặc hỏi, hoặc đáp, ba thời sám-hối hồi-hướng phát nguyện.

Giảng: 20. Ở trong các thế giới như vậy, thấy có vô số chúng đại Bồ Tát, hoặc đi, hoặc ngồi, làm các sự nghiệp. Hoặc khởi đại bi, thương xót tất cả chúng sinh. Hoặc tạo các luận nghị, lợi ích tất cả chúng sinh thế gian. Hoặc thọ khổ hạnh, hoặc trì giới luật.

Tóm lại, thọ nơi tâm, trì nơi thân, hoặc biên chép kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, hoặc tụng Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, hoặc hỏi chỗ nghi hoặc trong kinh điển, hoặc trả lời pháp yếu trong kinh điển. Mỗi ngày ba thời thường sám hối, do đó có câu : « Sám là sám những nghiệp đã tạo trước kia, hối là hối cải lỗi lầm sau này », hồi hướng về bồ đề, phát nguyện đại thừa.

 

Hựu kiến nhất thiết chư bảo trụ trung, phóng ma-ni Vương đại quang minh võng, hoặc thanh, hoặc hoàng, hoặc xích, hoặc bạch, hoặc pha lê sắc, hoặc thủy tinh sắc, hoặc đế thanh sắc, hoặc hồng nghê sắc, hoặc diêm phù đàn kim sắc, hoặc tác nhất thiết chư quang minh sắc.

Thiện-Tài lại thấy trong tất cả cột báu phóng lưới đại quang-minh ma-ni-vương, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc đỏ, hoặc trắng, hoặc màu pha-lê, hoặc màu thủy-tinh, hoặc màu đế-thanh, hoặc màu hồng-nghệ, hoặc màu vàng diêm-phù-đàn, hoặc làm thành màu tất cả quang-minh.

Giảng: Lại thấy trong tất cả các trụ báu, phóng ra lưới đại quang minh ma ni vương, hoặc màu xanh, hoặc màu vàng, hoặc màu đỏ, hoặc màu trắng, hoặc màu pha lê, hoặc màu thuỷ tinh, hoặc màu đế thanh, hoặc màu hồng nghệ, hoặc màu vàng Diêm Phù Đàn, hoặc màu làm tất cả các quang minh. Tóm lại, trụ báu phóng ra năm quang mười màu, quang minh chói sáng rực rỡ, khiến cho hoa cả mắt, biến hoá vô cùng, đủ thứ cảnh giới hiện ra ở trước mắt.

 

Hựu kiến bỉ diêm phù đàn kim đồng nữ cập chúng bảo tượng, hoặc dĩ kỳ thủ nhi chấp hoa vân, hoặc chấp y vân, hoặc chấp tràng phan, hoặc chấp man cái, hoặc trì chủng chủng đồ hương, mạt hương, hoặc trì thượng diệu ma-ni bảo võng, hoặc thùy kim tỏa, hoặc quải anh lạc, hoặc cử kỳ tý phủng trang nghiêm cụ, hoặc đê kỳ thủ thùy ma-ni quan, khúc cung chiêm ngưỡng, mục bất tạm xả.

Lại thấy những bửu-tượng và hình đồng-nữ bằng vàng diêm-phù-đàn, hoặc tay cầm hoa-vân, y-vân, tràng-phan, táng cái. Hoặc cầm những hương thoa, hương bột. Hoặc cầm thượng-diệu ma-ni-bửu võng. Hoặc thòng xích vàng, hoặc mang anh-lạc. Hoặc dơ cánh tay bưng đồ trang-nghiêm. hoặc cúi đầu trút mão ma-ni khom mình chiêm ngưỡng mắt chẳng tạm rời.

Giảng: Lại thấy tượng đồng nữ vàng Diêm Phù Đề và các tượng báu đó. Hoặc dùng tay cầm mây hoa, hoặc tay cầm mây y, hoặc tay cầm tràng báu và phan báu, hoặc tay cầm tràng hoa và lọng báu, hoặc tay cầm đủ thứ hương thoa và hương bột, hoặc tay cầm lưới báu ma ni thượng diệu, hoặc trên thân thòng rũ vòng vàng, hoặc mang chuỗi ngọc ở trước ngực, hoặc dơ cánh tay cầm đồ trang nghiêm, hoặc cúi đầu xuống, hoặc thòng rũ mão ma ni, hoặc khom mình, hoặc chiêm ngưỡng, hoặc mắt chẳng tạm rời, hoặc miệng tươi cười, đủ thứ hình trạng.

 

Hựu kiến bỉ trân châu anh lạc, thường xuất hương thủy, cụ bát công đức; lưu ly, anh lạc, bách thiên quang minh, đồng thời chiếu diệu; tràng, phiên, võng, cái, như thị đẳng vật, nhất thiết giai dĩ chúng bảo trang nghiêm.

Lại thấy chuỗi chân-châu thường xuất sanh nước thơm đủ tám công-đức. Thấy chuỗi lưu-ly phóng trăm ngàn quang-minh đồng thời chiếu sáng. Những tràng phan bửu-cái, bửu võng tất cả đều trang-nghiêm với những châu bửu.

Giảng: Lại thấy tượng đồng nữ và các tượng báu đó, mang chuỗi chân châu, thường chảy ra nước thơm, đủ tám thứ công đức. Chuỗi và lưu ly phóng ra trăm ngàn thứ quang minh, đồng chiếu sáng khắp. Tràng báu, phan báu, lưới báu, lọng báu, các thứ như thế, tất cả đều dùng các báu để trang nghiêm, rất đẹp đẽ, khiến cho nhìn hoài không chán.

 

Hựu phục kiến bỉ ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa, các các sanh ư vô lượng chư hoa, hoặc đại nhất thủ, hoặc trường nhất trửu, hoặc phục túng quảng do như xa luân, nhất nhất hoa trung giai tất thị hiện chủng chủng sắc tượng dĩ vi nghiêm sức.

Lại thấy hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi, mỗi thứ hoa sinh ra vô lượng hoa. Hoặc lớn một bàn tay, hoặc dài một cánh tay, hoặc lớn như bánh xe. Trong mỗi hoa, thảy đều thị hiện đủ thứ tượng màu sắc, dùng để nghiêm sức.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi, mỗi thứ hoa sinh ra vô lượng hoa. Hoặc lớn bằng một bàn tay, hoặc dài bằng một cánh tay, hoặc lớn như bánh xe. Trong mỗi hoa, thảy đều thị hiện đủ thứ tượng màu sắc, dùng để nghiêm sức.

 

Sở vị: nam sắc tượng, nữ sắc tượng, đồng nam sắc tượng, đồng nữ sắc tượng, thích, phạm, hộ thế, Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, a tu La, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, Thanh văn, duyên giác cập chư Bồ Tát.

Như là tượng nam, tượng nữ, tượng đồng-nam, tượng đồng-nữ, tượng Thích, Phạm, Hộ-Thế, Thiên, Long, Dạ-Xoa, Càn-Thát-Bà, A-Tu-La, Ca-Lâu-La, Khẩn-Na-La, Ma-Hầu-La-Già, tượng Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát.

Giảng: Đó là : Tượng màu sắc nam, tượng màu sắc nữ, tượng màu sắc đồng nam, tượng màu sắc đồng nữ, tượng màu sắc trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương Hộ Thế, trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ Tát,

 

Như thị nhất thiết chúng sanh sắc tượng, giai tất hợp chưởng, khúc cung lễ kính. Diệc kiến Như Lai kết già phu tọa, tam thập nhị tướng trang nghiêm kỳ thân. Hựu phục kiến bỉ tịnh lưu ly địa, nhất nhất bộ gian, hiện bất tư nghị chủng chủng sắc tượng.

Tất cả những sắc tượng trên đây đều khom mình chắp tay kính lễ. Cũng thấy đức Như-Lai ngồi kiết-già, thân ba mười hai tướng trang-nghiêm. Lại thấy nơi đất tịnh lưu-ly, trong khoảng mỗi bước hiện bất-tư-nghì những sắc-tượng

Giảng: Tất cả những tượng màu sắc như vậy, thảy đều chắp tay, cúi đầu kính lễ. Cũng thấy đức Như Lai ngồi kiết già trên toà sen báu lớn, có đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, trang nghiêm thân, khiến cho ai thấy cũng đều khởi kính, sinh tâm tôn trọng. Lại thấy đất tịnh lưu ly trong đại lầu các đó, giữa mỗi mỗi bước, hiện ra đủ thứ tượng màu sắc không nghĩ bàn.

 

Sở vị: thế giới sắc tượng, Bồ Tát sắc tượng, Như Lai sắc tượng cập chư lâu các trang nghiêm sắc tượng. Hựu ư bảo thụ chi, diệp, hoa, quả nhất nhất sự trung, tất kiến chủng chủng bán thân sắc tượng.

Như là sắc-tượng thế-giới, sắc-tượng Bồ-Tát, sắc-tượng Như-Lai, sắc-tượng những lâu các trang-nghiêm. Lại nơi nhưng nhánh lá bông-trái của bửu-thọ, đều thấy những sắc-tượng bán-thân

Giảng: Đó là : Tượng màu sắc thế giới, tượng màu sắc Bồ Tát, tượng màu sắc Như Lai và tượng màu sắc các lầu các trang nghiêm. Lại nơi những cành lá hoa quả cây báu đó, trong mỗi mỗi việc, đều thấy đủ thứ tượng màu sắc bán thân.

 

Sở vị: Phật bán thân sắc tượng, Bồ Tát bán thân sắc tượng, Thiên, long, dạ xoa, nãi chí hộ thế, Chuyển luân Thánh Vương, Tiểu Vương, Vương tử, đại thần, quan trưởng, cập dĩ Tứ Chúng bán thân sắc tượng. kỳ chư sắc tượng, hoặc chấp hoa man, hoặc chấp anh lạc, hoặc trì nhất thiết chư trang nghiêm cụ; hoặc hữu khúc cung hợp chưởng lễ kính, nhất tâm chiêm ngưỡng, mục bất tạm xả; hoặc hữu tán thán, hoặc nhập tam muội. Kỳ thân tất dĩ tướng hảo trang nghiêm, phổ phóng chủng chủng chư sắc quang minh,

Như là sắc-tướng bán-thân của Phật, của Bồ-Tát, của Thiên, Long, bát-bộ. Sắc tượng bán thân của Hộ-Thế Tứ-Thiên-Vương, của Chuyển-Luân-Vương, của Tiểu Vương, Vương Tử, Ðại-Thần, Quan-Trưởng và của tứ chúng. Những sắc-tượng bán-thân nầy hoặc cầm tràng hoa, hoặc cầm anh-lạc, hoặc cầm những đồ trang-nghiêm, hoặc khom mình chắp tay lễ kính, nhất tâm chiêm-ngưỡng mắt chẳng tạm rời. Hoặc ca ngợi, hoặc nhập tam-muội nơi thân đều dùng tướng hảo trang-nghiêm phóng những quang-minh nhiều màu

Giảng: Đó là : Tượng màu sắc Phật bán thân, tượng màu sắc Bồ Tát bán thân, tượng màu sắc bán thân trời, rồng, Dạ Xoa, tám bộ chúng, cho đến trời Tứ Thiên Vương hộ thế, Chuyển Luân Thánh Vương, ông vua nhỏ, vương tử, đại thần, quan trưởng, cùng với bốn chúng (Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ).
Các tượng màu sắc đó, hoặc cầm tràng hoa, hoặc cầm chuỗi ngọc, hoặc cầm tất cả đồ trang nghiêm, hoặc cúi đầu, hoặc chắp tay, hoặc kính lễ, hoặc một lòng chiêm ngưỡng, hoặc mắt chẳng tạm rời, hoặc khen ngợi, hoặc nhập tam muội. Những thân đó đều dùng tướng tốt trang nghiêm, khắp phóng ra đủ thứ quang minh màu sắc.

 

Sở vị: kim sắc quang minh, ngân sắc quang minh, san hô sắc quang minh, đâu Ta-la sắc quang minh, đế thanh sắc quang minh, Tỳ Lô Giá Na bảo sắc quang minh, nhất thiết chúng bảo sắc quang minh, Chiêm Ba Ca hoa sắc quang minh. Hựu kiến chư lâu các bán nguyệt tượng trung, xuất a-tăng-kì nhật nguyệt tinh tú chủng chủng quang minh phổ chiếu thập phương.

Như là quang-minh màu chân-kim, màu bạch-ngân, màu san-hô, màu đâu-sa-la, màu đế-thanh, màu tỳ-lô-giá-na bửu, màu châu bửu, màu bông chiêm-ba-ca. Lại thấy trong tượng bán nguyệt phóng ra vô-số quang-minh của nhật nguyệt tinh tú chiếu khắp mười phương.

Giảng: Đó là : Quang minh màu vàng, quang minh màu bạc, quang minh màu san hô, quang minh màu đâu sa la (sương băng), quang minh màu đế thanh, quang minh màu Tỳ lô giá na báu, quang minh màu tất cả các báu, quang minh màu hoa chiêm ba ca (sắc vàng). Thiện Tài đồng tử lại thấy tượng bán nguyệt trong các lầu các, phóng ra đủ thứ A tăng kỳ quang minh mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chiếu khắp mười phương thế giới.

 

Hựu kiến chư lâu các châu hồi tứ bích, nhất nhất bộ nội, nhất thiết chúng bảo dĩ vi trang nghiêm. Nhất nhất bảo trung, giai hiện Di lặc nẵng kiếp tu hành Bồ Tát đạo thời, hoặc thí đầu mục, hoặc thí thủ túc, thần thiệt, nha xỉ, nhĩ tỳ, huyết nhục, bì phu, cốt tủy nãi chí trảo phát, như thị nhất thiết, tất giai năng xả; thê thiếp, nam nữ, thành ấp, tụ lạc, quốc độ, Vương vị, tùy kỳ sở tu, tận giai thí dữ. xứ lao ngục giả, lệnh đắc xuất ly; bị hệ phược giả, sử kỳ giải thoát; hữu tật bệnh giả, vi kỳ cứu liệu; nhập tà kính giả, thị kỳ chánh đạo.

Lại thấy bốn phía vách trong mỗi bước đều dùng châu bửu để trang-nghiêm. Trong mỗi châu bửu đều hiện hình Di-Lặc Bồ-Tát thuở kiếp xưa tu hành bồ-tát-đạo: hoặc bố-thí đầu, mắt, tay, chân, môi, lưỡi, răng, nướu, tai, mũi, máu, thịt, da thứa, xương tủy, nhẫn đến móng, tóc. Hoặc bố-thí vợ con, thành ấp, tụ lạc, quốc-độ, ngôi vua. Làm cho người ở lao ngục thời được ra khỏi, kẻ bị trói buộc thời được  cởi mở, người bệnh tật thời được lành, người vào đường tà thời chỉ cho đương chánh.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy chung quanh bốn vách tường những lầu các, trong mỗi mỗi bước, đều dùng tất cả báu để trang nghiêm. Trong mỗi mỗi báu, đều hiện ra Bồ Tát Di Lặc thuở xưa vô lượng kiếp lúc tu hành Bồ Tát đạo. Hoặc bố thí đầu, mắt, tay, chân, môi, lưỡi, răng, tai, mũi, máu, thịt, da, xương, cho đến móng, tóc, tất cả như vậy, thảy đều xả được, không có gì mà chẳng xả bỏ không được. Đây là nội tài, không có sự xẻn tiếc. Đối với ngoại tài, càng xả bỏ được. Cho đến thê thiếp, con cái, thành ấp, xóm làng, đất nước, ngôi vua, tuỳ thuận chỗ chúng sinh cần dùng, đều bố thí cho hết, làm mãn nguyện chúng sinh, đây là hành Bồ Tát đạo.

Đối với chúng sinh bị nhốt trong lao ngục thì khiến cho họ được thoát khỏi lao ngục. Chúng sinh bị trói buộc, thì được mở ra. Chúng sinh bị bệnh tật thì được chữa khỏi, theo bệnh cho thuốc, thuốc đến thì bệnh lành. Đối với người đi theo đường tà, thì chỉ bày cho họ con đường chánh. Đường tà tức là tà tri tà kiến, có ý niệm dâm dục. Đường chánh tức là chánh tri chánh kiến, chẳng có tâm dâm dục. Do đó có câu: “Đoạn dục khử ái”, đây mới là Phật pháp chân chánh. Tóm lại, đoạn dục niệm, tức là chánh pháp; chẳng đoạn dục niệm, tức là tà pháp.

 

Hoặc vi thuyền sư, lệnh độ đại hải; hoặc vi mã Vương, cứu hộ ác nan; hoặc vi đại tiên, thiện thuyết chư luận; hoặc vi luân Vương, khuyến tu Thập thiện; hoặc vi y vương, thiện liệu chúng bệnh; hoặc hiếu thuận phụ mẫu, hoặc thân cận thiện hữu, hoặc tác Thanh văn, hoặc tác duyên giác, hoặc tác Bồ Tát, hoặc tác Như Lai, giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh; hoặc vi Pháp sư, phụng hành Phật giáo, thọ trì đọc tụng, như lý tư duy, lập Phật chi đề, tác Phật hình tượng, nhược tự cúng dường, nhược khuyến ư tha, đồ hương tán hoa, cung kính lễ bái. Như thị đẳng sự, tướng tục bất tuyệt.

Hoặc thấy Di-Lặc Bồ-Tát làm lái thuyền đưa qua biển lớn. Hoặc làm mã-vương cứu hộ ác nạn. Hoặc làm đại-tiên khéo giảng-luận. Hoặc làm Luân-Vương khuyên tu thập thiện. Hoặc làm y-vương khéo chữa các bệnh. Hoặc hiếu thuận cha mẹ. Hoặc thân cận thiện-hữu. Hoặc làm Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát. Hoặc làm Như-Lai giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh. Hoặc làm Pháp-Sư phụng hành phật-giáo, thọ-trì, độc tụng, tư-duy đúng lý. Lập phật-tháp, tạo phật-tượng. Hoặc mình cúng dường, hoặc khuyên người cúng, thoa hương, rải hoa, cung kính lễ bái. Những sự như trên thật hành luôn không dứt.

Giảng: Hoặc làm lái thuyền, đưa hết thảy chúng sinh qua biển khổ phiền não, đến được bờ bên kia bất sinh bất diệt. Hoặc làm ngựa chúa, cứu hộ tất cả ác nạn. Hoặc làm đại Tiên, khéo diễn nói tất cả pháp luận nghị. Hoặc làm Chuyển Luân Thánh Vương, khuyên dạy chúng sinh tu pháp mười điều lành. Hoặc làm đại y vương, khéo chữa trị tất cả bệnh tật. Hoặc làm hiếu tử, hiếu thuận với cha mẹ, hoặc gần gũi bạn lành, cung kính thừa sự, hoặc làm Thanh Văn, hoặc làm Duyên Giác, hoặc làm Bồ Tát, hoặc làm Như Lai, giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh. Hoặc làm đại pháp sư, phụng hành Phật giáo, thọ trì kinh điển, đọc tụng kinh điển, như lý suy gẫm, như pháp tu hành. Kiến lập chùa tháp, tạo hình tượng Phật. Hoặc tự mình cúng dường, hoặc khuyên người cúng dường. Hoặc thoa hương, hoặc rải hoa, hoặc cung kính, hoặc lễ bái. Đủ thứ những sự việc như vậy, liên tục không gián đoạn.

 

Hoặc kiến tọa ư sư tử chi tọa, quảng diễn thuyết Pháp, khuyến chư chúng sanh an trụ Thập thiện, nhất tâm quy hướng Phật, Pháp, tăng bảo, thọ trì ngũ giới cập bát trai giới, xuất gia thính pháp, thọ trì đọc tụng, như lý tu hành. Nãi chí kiến ư Di Lặc Bồ-tát, bách thiên ức na-do-tha a-tăng-kì kiếp, tu hành chư độ nhất thiết sắc tượng; hựu kiến Di lặc tằng sở thừa sự chư thiện tri thức, tất dĩ nhất thiết công đức trang nghiêm;

Hoặc  thấy Di-Lặc Bồ-Tát ngồi tòa sư-tử thuyết pháp khuyên chúng-sanh an-trụ thập-thiện, nhất tâm quy hướng Tam-Bửu, thọ-trì năm giới và tám giới, xuất gia nghe pháp, thọ-trì đọc tụng, tu hành đúng pháp. Nhẫn đến hoặc thấy những sắc-tượng của Di-Lặc Bồ-Tát tu hành các môn ba-la-mật trong trăm ngàn ức na-do-tha vô-số kiếp. Lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát từng kính thờ chư thiện-tri-thức đều dùng tất cả công-đức trang-nghiêm.

Giảng: Hoặc thấy Bồ Tát Di Lặc ngồi trên toà sư tử, rộng diễn nói diệu pháp, khuyên tất cả chúng sinh, an trụ nơi mười điều lành, một lòng hướng về Phật Pháp Tăng Tam Bảo, thọ trì năm giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) và Bát quan trai giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không mang đồ trang sức, không thoa ướp dầu thơm, không đàn ca múa hát cố ý xem nghe, không nằm ngồi giường cao tốt đẹp, không ăn phi thời, tức là quá ngọ không ăn). Xuất gia rồi, lắng nghe Phật pháp, thọ trì giới luật, đọc tụng tạng kinh, do đó có câu: “Vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển”. Như lý tu hành, do đó: “Tin, hiểu, hành, chứng”. Đây là bốn giai đoạn tu hành, sẽ đắc được giải thoát. Lại thấy tất cả sắc tượng Bồ Tát Di Lặc trong trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp, tu hành các độ. Lại thấy Bồ Tát Di Lặc từng hầu hạ các thiện tri thức, đều dùng tất cả công đức để trang nghiêm.

 

Diệc kiến Di lặc tại bỉ nhất nhất thiện tri thức sở, thân cận cúng dường, thọ hành kỳ giáo, nãi chí trụ ư quán đảnh chi địa.

Lại thấy Di-Lặc Bồ-Tát tại chỗ của mỗi thiện-tri-thức thân-cận cúng-dường, tuân hành lời dạy, nhẫn đến trụ bực Quán-Ðảnh.

Giảng: Cũng thấy Bồ Tát Di Lặc ở chỗ mỗi vị thiện tri thức đó, gần gũi thiện tri thức, cúng dường thiện tri thức, thọ trì sự giáo hoá, tu hành theo lời dạy của thiện tri thức, cho đến trụ nơi bậc quán đảnh.

 

Thời, chư tri thức cáo Thiện Tài ngôn: thiện lai Đồng tử! nhữ quán thử Bồ Tát bất tư nghị sự, mạc sanh bì yếm.

Bấy giờ chư thiện-tri-thức ấy bảo Thiện-Tài rằng: Lành thay Ðồng-Tử! Ngươi nhìn xem những sự bất-tư-nghì của Di-Lặc Bồ-Tát chớ có nhàm mỏi.

Giảng: Lúc đó, các vị tri thức bảo thiện tài rằng: Thiện lai đồng tử! Ngươi quán sát việc không thể nghĩ bàn của vị Bồ Tát nầy, đừng sinh tâm mỏi nhàm, đừng được ít cho là đủ, phải tiếp tục nỗ lực, phải tiếp tục đi các nơi học hỏi, cầu đạo bồ đề.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử đắc bất vong thất ức niệm lực cố, đắc kiến thập phương thanh Tịnh nhãn cố, đắc thiện quan sát vô ngại trí cố, đắc chư Bồ-tát tự tại trí cố, đắc chư Bồ-tát dĩ nhập trí địa quảng đại giải cố, ư nhất thiết lâu các nhất nhất vật trung, tất kiến như thị cập dư vô lượng bất khả tư nghị tự tại cảnh giới chư trang nghiêm sự.

Lúc đó vì được sức ghi nhớ  chẳng quên, vì được mắt thanh-tịnh thấy mười phương, vì được trí vô-ngại khéo quán-sát, vì được trí tự-tại của Bồ-Tát, vì được quảng-đại-giải của chư Bồ-Tát đã nhập trí-địa, nên Thiện-Tài ở trong mỗi vật của tất cả lâu các đều thấy vô-lượng cảnh-giới bất-tư-nghì như vậy.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhờ đắc được sức nghĩ nhớ không quên mất. Nhờ đắc được mắt thanh tịnh thấy khắp mười phương. Nhờ đắc được trí vô ngại khéo quán sát. Nhờ đắc được trí tự tại của các Bồ Tát. Nhờ đắc được hiểu rộng lớn của các Bồ Tát đã vào trí địa, cho nên nơi mỗi mỗi sự vật trong tất cả lầu các, đều thấy như vậy và vô lượng các việc trang nghiêm cảnh giới tự tại không thể nghĩ bàn.

 

Thí như hữu nhân, ư thụy mộng trung kiến chủng chủng vật, sở vị: thành ấp, tụ lạc, cung điện, viên uyển, sơn lâm, hà trì, y phục, ẩm thực nãi chí nhất thiết tư sanh chi cụ; hoặc kiến tự thân phụ mẫu huynh đệ, nội ngoại thân chúc; hoặc kiến đại hải Tu-Di sơn vương, nãi chí nhất thiết chư Thiên cung điện, Diêm-phù-đề đẳng tứ thiên hạ sự; hoặc kiến kỳ thân hình lượng quảng đại bách thiên do-tuần, phòng xá, y phục tất giai tướng xưng, vị ư trú nhật Kinh vô lượng thời bất miên bất tẩm thọ chư an lạc.

Ví như có người ở trong mộng, thấy đủ thứ sự vật. Như là: Thành ấp, xóm làng, cung điện, vườn tược, núi rừng, sông ngòi, y phục, thức ăn uống, cho đến tất cả đồ nữ trang. Hoặc thấy sự việc của cha mẹ mình, anh em quyến thuộc trong ngoài. Hoặc thấy biển cả, núi chúa Tu Di, cho đến tất cả các cung điện trời, Diêm Phù Đề bốn thiên hạ. Hoặc thấy những thân hình đó, lượng rộng lớn trăm ngàn do tuần, phòng xá y phục, thảy đều tương xứng. Ban ngày trải qua vô lượng thời, chẳng ngủ nghỉ, thọ các an vui.

Giảng: Ví như có người ở trong mộng, thấy đủ thứ sự vật. Như là: Thành ấp, xóm làng, cung điện, vườn tược, núi rừng, sông ngòi, y phục, thức ăn uống, cho đến tất cả đồ nữ trang. Ở trong mộng, hoặc thấy sự việc của cha mẹ mình, anh em, chị em, quyến thuộc trong ngoài. Hoặc thấy biển cả, núi chúa Tu Di, cho đến tất cả các cung điện trời, Diêm Phù Đề bốn thiên hạ. Hoặc thấy những thân hình đó lượng rộng lớn trăm ngàn do tuần, phòng xá và y phục, thảy đều tương xứng, lớn nhỏ hợp với nhau.

Ban ngày, trải qua vô lượng thời, cũng chẳng ngủ, cũng chẳng nghỉ, lúc nào cũng chẳng có phiền não, an trụ trong cảnh giới an lạc. Tóm lại, ngủ cũng an lạc, không ngủ cũng an lạc, đến cảnh giới ngủ mà không ngủ, không ngủ mà ngủ.

 

Tùng thụy giác dĩ, nãi tri thị mộng, nhi năng minh kí sở kiến chi sự. Thiện tài đồng tử diệc phục như thị, dĩ Di Lặc Bồ-tát lực sở trì cố, tri tam giới Pháp giai như mộng cố, diệt chư chúng sanh hiệp liệt tưởng cố, đắc vô chướng ngại quảng đại giải cố, trụ chư Bồ-tát thắng cảnh giới cố, nhập bất tư nghị phương tiện trí cố, năng kiến như thị tự tại cảnh giới.

Như người nằm mộng thấy những cảnh vật, khi thức dậy bèn biết là cảnh mộng, nhưng có thể nhớ rõ không quên mất. Cũng vậy, nhờ thần lực gia-trì của Di-Lặc Bồ-Tát, vì biết những pháp trong tam-giới như mộng, vì diệt được tâm tưởng hèn kém của chúng-sanh, vì được tri-giải rộng lớn vô-ngại, vì an trụ cảnh-giới thù-thắng của Bồ-Tát, vì nhập trí phương-tiện bất-tư-nghì, nên Thiện-Tài thấy được cảnh-giới tự-tại như vậy.

Giảng: Từ khi tỉnh dậy rồi, mới biết là nằm mộng, nhớ rõ tất cả những sự việc đã thấy. Thiện Tài đồng tử, cũng lại như thế, nhờ sức đại Bồ Tát Di Lặc gia trì, nên biết pháp ba cõi đều như mộng huyễn bọt bóng, như sương cũng như điện. Vì diệt trừ tưởng hẹp hòi của các chúng sinh, vì đắc được sự hiểu biết rộng lớn không chướng ngại, vì trụ cảnh giới thù thắng của các Bồ Tát, vì nhập vào trí phương tiện không nghĩ bàn, cho nên thấy được cảnh giới tự tại như vậy.

 

Thí như hữu nhân, tướng dục mạng chung, kiến tùy kỳ nghiệp sở thọ báo tướng: hành ác nghiệp giả, kiến ư địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ sở hữu nhất thiết chúng khổ cảnh giới, hoặc kiến ngục tốt thủ trì binh trượng hoặc sân hoặc mạ tù chấp tướng khứ, diệc văn hiệu khiếu, bi thán chi thanh, hoặc kiến hôi hà, hoặc kiến hoạch thang, hoặc kiến đao sơn, hoặc kiến kiếm thọ, chủng chủng bức bách, thọ chư khổ não; tác thiện nghiệp giả, tức kiến nhất thiết chư Thiên cung điện vô lượng Thiên Chúng, Thiên chư thải nữ, chủng chủng y phục cụ túc trang nghiêm, cung điện, viên lâm tận giai diệu hảo.

Như người sắp mạng-chung, thấy tướng thọ báo theo nghiệp của họ: người gây ác-nghiệp thời thấy tất cả cảnh-giới khổ nơi địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh. Hoặc thấy lính ngục tay cầm binh khí sân mắng trói bắt dẫn đi. Cũng nghe những tiếng kêu khóc than van. Hoặc thấy sông tro, vạc nước sôi, núi dao, cây gươm, rồi bị bức vào chịu khổ. Người làm lành thời thấy cung-điện trời, vô-lượng thiên-chúng, thiên-nữ, y-phục trang-nghiêm, cung-điện viên lâm đều đẹp tốt.

Giảng: Ví như có người, lúc sắp mạng chung, thấy được những sự việc lúc trước đã làm, tuỳ theo nghiệp cảm của họ mà thọ cảnh giới báo tướng. Người làm nghiệp ác, thì thấy hết thảy tất cả cảnh giới khổ ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Hoặc thấy ngục tốt tay cầm binh khí, hoặc sân hận kẻ phạm tội, hoặc mắng chửi kẻ phạm tội, hoặc trói bắt dẫn đi. Cũng nghe tiếng kêu khóc than ở địa ngục. Hoặc thấy địa ngục sông tro, hoặc thấy địa ngục vạc nước sôi, hoặc thấy địa ngục núi đao, hoặc thấy địa ngục rừng kiếm, đủ thứ sự hành hình bức bách thọ các khổ não.

Người làm nghiệp thiện, thì lập tức thấy tất cả các cung điện trời, có vô lượng Thiên chúng, vô lượng thể nữ, đủ thứ y phục tốt đẹp, đầy đủ trang nghiêm, cung điện và vườn rừng, thảy đều tốt đẹp.

 

Thân tuy vị tử, nhi do nghiệp lực kiến như thị sự. Thiện tài đồng tử diệc phục như thị, dĩ Bồ Tát nghiệp bất tư nghị lực, đắc kiến nhất thiết trang nghiêm cảnh giới. Thí như hữu nhân, vi quỷ sở trì, kiến chủng chủng sự, tùy kỳ sở vấn, tất giai năng đáp.

Dầu thân chưa chết, nhưng do nghiệp-lực thấy những sự như vậy. Cũng vậy, do sức bất-tư-nghì của bồ-tát-nghiệp nên Thiện-Tài được thấy tất cả cảnh-giới trang-nghiêm. Như có người bị quỷ nhiếp trì thấy các sự việc tùy nơi người hỏi đều đáp được cả.

Giảng: Tuy thân người chưa chết, mà do nghiệp lực, nên thấy được những cảnh giới như vậy.

Tóm lại, khi con người sắp lâm chung, thì thanh toán tính sổ cuộc đời của mình. Người làm thiện thì chẳng hổ với trời, chẳng thẹn với đất, chẳng làm những việc tang thiên hại lý, thì an tường mà đi. Người làm ác thì lương tâm phát hiện, có lỗi với trời đất, có lỗi với mọi người, thì ra đi không an vui.

Thiện Tài đồng tử, cũng lại như thế, nhờ nghiệp lực Bồ Tát không nghĩ bàn, mà thấy được tất cả cảnh giới trang nghiêm như thế. Ví như có người, bị quỷ làm mê hoặc, thấy đủ cảnh giới kỳ quái, tuỳ thời hỏi họ các thứ vấn đề, họ đều trả lời được.

 

Thiện tài đồng tử diệc phục như thị, Bồ Tát trí tuệ chi sở trì cố, kiến bỉ nhất thiết chư trang nghiêm sự, nhược hữu vấn giả, mị bất năng đáp. Thí như hữu nhân, vi long sở trì, tự vị thị long, nhập ư long cung, ư thiểu thời gian, tự vị dĩ Kinh nhật nguyệt niên tái.

Cũng vậy, do bồ-tát trí-huệ nhiếp-trì nên Thiện-Tài được thấy tất cả sự trang-nghiêm, nếu có ai hỏi đều đáp được cả. Như có người bị rồng nhiếp trì, tự cho mình là rồng rồi vào long-cung, trong thời-gian ngắn tự cho là đã trải qua nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm.

Giảng: Thiện Tài đồng tử, cũng lại như thế, nhờ trí huệ của Bồ Tát gia trì, thấy được tất cả các sự việc trang nghiêm ở trong lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng, nếu có ai hỏi Ngài, thì đều trả lời được. Ví như có người, được rồng gia trì, tự cho mình là rồng, vào trong cung điện rồng thời gian ngắn, mà tự cho rằng đã trải qua thời gian lâu dài, hoặc đã trải qua nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm.

 

Thiện tài đồng tử diệc phục như thị, dĩ trụ Bồ Tát trí tuệ tưởng cố, Di Lặc Bồ-tát sở gia trì cố, ư thiểu thời gian vị vô lượng kiếp. Thí như phạm cung, danh: trang nghiêm tạng, ư trung tất kiến tam thiên thế giới nhất thiết chư vật bất tướng tạp loạn.

Cũng vậy, vì trụ bồ-tát trí-huệ, vì Di-Lặc Bồ-Tát da-trì, nên trong một ít thời-gian mà Thiện-Tài cho là vô-lượng kiếp. Như Phạm-Thiên-Cung tên là Trang-Nghiêm-Tạng, trong đó hiện tất cả sự vật trong Ðại-Thiên thề-giới chẳng tạp loạn nhau.

Giảng: Thiện Tài đồng tử, cũng lại như thế, nhờ trụ trí huệ tư tưởng của Bồ Tát, nhờ Bồ Tát Di Lặc gia trì, nên trong thời gian ngắn, mà cảm giác rằng đã trải qua vô lượng kiếp. Ví như Phạm cung, tên là Trang nghiêm tạng, ở trong đó đều thấy tất cả sự vật ba ngàn thế giới, chẳng tạp loạn nhau.

 

Thiện tài đồng tử diệc phục như thị, ư lâu quán trung, phổ kiến nhất thiết trang nghiêm cảnh giới chủng chủng sái biệt bất tướng tạp loạn. Thí như Tỳ-kheo, nhập biến xứ định, nhược hành, nhược trụ, nhược tọa, nhược ngọa, tùy sở nhập định, cảnh giới hiện tiền.

Cũng vậy, Trong lâu các nầy, Thiện-Tài thấy khắp tất cả cảnh-giới trang-nghiêm, nhiều thứ sai khác chẳng tạp loạn nhau. Như Tỳ-Kheo nhập biến-xứ-định, khi đi đứng ngồi nằm, tùy theo định đã nhập, cảnh-giới ấy hiện tiền.

Giảng: Thiện Tài đồng tử, cũng lại như thế, ở trong lầu các, thấy khắp tất cả cảnh giới trang nghiêm, tuy đủ thứ sự khác biệt, mà chẳng tạp loạn nhau, đều ngay hàng thẳng lối rõ ràng.

Thế nào là ba ngàn đại thiên thế giới? Tức là một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một bốn đại bộ châu, đây là một thế giới. Tích tụ một ngàn thế giới thì gọi là một tiểu thiên thế giới. Tích tụ một ngàn tiểu thiên thế giới, thì gọi là một trung thiên thế giới. Tích tụ một ngàn trung thiên thế giới, thì gọi là một đại thiên thế giới. Vì ba lần nói ngàn cho nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới.

Con mắt thịt của phàm phu chúng ta, chỉ là hình trạng của một thế giới này mà thôi. Vốn có các thế giới nhiều vô lượng vô biên ở trong tận hư không khắp pháp giới. Hiện tại khoa học tuy đang nghiên cứu, có thể lên mặt trăng, có thể khám phá các hành tinh khác, nhưng không cách gì tính đếm được trong vũ trụ cứu kính có bao nhiêu hệ ngân hà? Người đắc được ngũ nhãn, quán sát trong hư không có nhiều thế giới nhiều như số hạt bụi, bất quá, kinh văn chỉ dùng ba ngàn đại thiên thế giới để đại biểu mà thôi.

Ví như Tỳ Khưu, nhập vào Biến Xứ định, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, tuỳ chỗ nhập định, cảnh giới liền hiện tiền.

 

Thiện tài đồng tử diệc phục như thị, nhập ư lâu quán, nhất thiết cảnh giới tất giai minh liễu. Thí như hữu nhân, ư hư không trung kiến càn thát bà thành cụ túc trang nghiêm, tất phân biệt tri, vô hữu chướng ngại; thí như dạ xoa cung điện dữ nhân cung điện, đồng tại nhất xứ nhi bất tướng tạp, các tùy kỳ nghiệp, sở kiến bất đồng; thí như đại hải, ư trung tất kiến tam thiên thế giới nhất thiết sắc tượng; thí như huyễn sư, dĩ huyễn lực cố, hiện chư huyễn sự chủng chủng tác nghiệp.

Cũng vậy, Thiện-Tài nhập lâu-các nầy, tất cả cảnh-giới đều hiện rõ. Như có người ở không-trung thấy thành Càn-Thát-Bà đủ sự trang-nghiêm đều thấy biết rõ không chướng ngại. Như cung-điện của thần Dạ-Xoa cùng cung-điện của người đồng ở một chỗ mà chẳng tạp loạn nhau, đều tùy theo nghiệp nên chỗ thấy chẳng đồng. Như nơi đại-hải, tất cả sắc tượng của thế-giới đều hiện trong đó. Như nhà ào-thuật, dùng ảo-lực hiện những ảo-sự.

Giảng: Thiện Tài đồng tử, cũng lại như thế, vào trong lầu các, thì tất cả cảnh giới thảy đều rõ ràng. Ví như có người, ở trong hư không, thấy thành Càn Thát Bà, đầy đủ sự trang nghiêm. Vạn sự vạn vật ở trong thành Càn Thát Bà, nhìn được rất rõ ràng, đều phân biệt biết rõ, không có chướng ngại. Lại ví như cung điện Dạ Xoa, với cung điện ở nhân gian, ở cùng một chỗ. Cung điện của Dạ Xoa chẳng chướng ngại cung điện nhân gian, cung điện nhân gian cũng chẳng chướng ngại cung điện Dạ Xoa, hổ tương chẳng chướng ngại, đó đây chẳng ngại nhau, đều tuỳ theo nghiệp mà thấy có sự khác nhau. Ví như biển cả, ở trong biển, đều thấy tất cả sắc tượng ba ngàn thế giới hiện ra.

Ví như nhà huyễn thuật, vì nhờ sức huyễn, hiện ra các việc huyễn, từ không mà hiện có, từ có mà hiện không, từ lớn biến thành nhỏ, từ nhỏ biến thành lớn, biến hoá vô cùng, đủ thứ sự tác nghiệp, đều tuỳ tâm ý mà hiện ra.

 

Thiện tài đồng tử diệc phục như thị, dĩ Di Lặc Bồ-tát uy thần lực cố, cập bất tư nghị huyễn trí lực cố, năng dĩ huyễn trí tri chư Pháp cố, đắc chư Bồ-tát tự tại lực cố, kiến lâu các trung nhất thiết trang nghiêm tự tại cảnh giới.

Cũng vậy, do sức oai-thần của Di-Lặc Bồ-Tát, do sức huyễn-trí bất-tư-nghì, do có thể dùng huyễn-trí biết các pháp, do được sức tự-tại của Bồ-Tát, nên Thiện-Tài thấy tất cả cảnh giới tự-tại trang-nghiêm trong lâu các.

Giảng: Thiện Tài đồng tử, cũng lại như thế, do nhờ oai thần lực của Bồ Tát Di Lặc, do sức trí huyễn không nghĩ bàn, do nhờ huyễn trí biết các pháp, do đắc được sức tự tại của các Bồ Tát, cho nên mới thấy được tất cả cảnh giới tự tại trang nghiêm trong đại lầu các báu, ở trong định của Ngài hiện ra.

 

Nhĩ thời, Di lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát tức nhiếp thần lực nhập lâu các trung, đàn chỉ tác thanh, cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử khởi! pháp tánh như thị, thử thị Bồ Tát tri chư Pháp trí nhân duyên tụ tập sở hiện chi tướng.

Bấy giờ Di-Lặc Bồ-Tát nhiếp thần-lực vào trong lâu-các, đàn-chỉ ra tiếng bảo Thiện-Tài rằng: Thiện-nam-tử dậy! Pháp-tánh như vậy. Ðây là những tướng của trí biết các pháp của Bồ-Tát làm nhơn-duyên tụ tập mà hiện ra.

Giảng: Lúc đó, ở trong định của Thiện Tài đồng tử, quán sát tất cả cảnh giới tự tại trang nghiêm, trong lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng. Đại Bồ Tát Di Lặc, liền nhiếp thần lực, vào trong đại lầu các báu, khảy móng tay ra tiếng, bảo Thiện Tài rằng: Thiện nam tử! Hãy dậy! Tức cũng là xuất định. Pháp tánh là như vậy, đây là sự hiện tướng của Bồ Tát biết các pháp trí nhân duyên tụ tập.

 

Như thị tự tánh, như huyễn, như mộng, như ảnh, như tượng, tất bất thành tựu. Nhĩ thời, Thiện Tài văn đàn chỉ thanh, tùng tam muội khởi.

Tự-tánh như vậy, như huyễn, như mộng, như-ảnh, như tượng, đều chẳng thành-tựu. Nghe tiếng đàn-chỉ, Thiện-Tài liền từ tam-muội dậy.

Giảng: Tự tánh là như vậy, như huyễn, như mộng, như bóng, như hình, những cảnh giới đó, hư vọng không thật, chẳng có thể chân thật, cho nên đều không thành tựu. Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nghe tiếng khảy móng tay của Bồ Tát Di Lặc, liền từ tam muội dậy.

 

Di lặc cáo ngôn: Thiện nam tử! nhữ trụ Bồ Tát bất khả tư nghị tự tại giải thoát, thọ chư Bồ-tát tam muội thiện lạc, năng kiến Bồ Tát thần lực sở trì, trợ đạo sở lưu, nguyện trí sở hiện chủng chủng thượng diệu trang nghiêm cung điện; kiến Bồ Tát hạnh, văn Bồ Tát Pháp, tri Bồ Tát đức, liễu Như Lai nguyện.

Di-Lặc Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi ở trong giải-thoát tự-tại bất-tư-nghì của Bồ-Tát thọ những hỉ-lạc tam-muội của Bồ-Tát, có thể thấy cung-điện trang-nghiêm của Bồ-Tát thần-lực gia-trì, của trợ-đạo lưu xuất, của nguyện-trí hiển hiện. Ngươi thấy bồ-tát-hạnh, nghe bồ-tát-pháp, biết bồ-tát-đức, rõ như-lai nguyện.

Giảng: Bồ Tát Di Lặc bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Ngươi trụ giải thoát tự tại không nghĩ bàn của Bồ Tát. Thọ tam muội hỷ lạc của các Bồ Tát. Đắc được cảnh giới thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn. Ngươi thấy được thần lực gia trì của Bồ Tát. Trợ đạo chảy ra, nguyện trí hiện ra, đủ thứ cung điện trang nghiêm tốt đẹp. Lại thấy được hạnh của Bồ Tát tu, lại nghe được diệu pháp của Bồ Tát nói, biết được đức của Bồ Tát tu, và căn lành của Bồ Tát gieo trồng. Lại thấu rõ nguyện của Như Lai phát ra và thông đạt hạnh của Như Lai tu.

 

Thiện Tài bạch ngôn: duy nhiên! Thánh Giả! thị thiện tri thức gia bị ức niệm uy thần chi lực.

Thiện-Tài thưa: Bạch Ðại-Thánh! Ðây là sức oai-thần gia hộ ghi nhớ của thiện-tri-thức.

Giảng: Thiện Tài đồng tử bạch với Bồ Tát Di Lặc rằng: Dạ vâng đức Thánh, đó là nhờ đại oai thần lực của thiện tri thức gia trì cho con, nghĩ nhớ tới con, nhờ sức từ bi mà thành tựu.

 

Thánh Giả! thử giải thoát môn, kỳ danh hà đẳng? Di lặc cáo ngôn: Thiện nam tử! thử giải thoát môn, danh: nhập tam thế nhất thiết cảnh giới bất vong niệm trí trang nghiêm tạng.

Bạch Ðại-Thánh! Môn giải-thoát nầy tên là gì? Di-Lặc Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Môn giải-thoát nầy tên là tạng trí trang-nghiêm nhập tất cả cảnh-giới ba đời chẳng quên mất.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại nói: Đức Thánh! Môn giải thoát nầy tên gọi là gì? Xin đại Thánh hãy vì con mà nói. Bồ Tát Di Lặc nói rằng: Thiện nam tử! Môn giải thoát nầy, tên là Niệm trí trang nghiêm tạng vào tất cả cảnh giới ba đời không quên.

 

Thiện nam tử! thử giải thoát môn trung, hữu bất khả thuyết bất khả thuyết giải thoát môn, nhất sanh Bồ-tát chi sở năng đắc.

Nầy Thiện-nam-tử! Trong môn giải-thoát nầy có bất-khả-thuyết bất khả-thuyết môn giải-thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ.

Giảng: Thiện nam tử! Trong môn giải thoát nầy, lại có bất khả thuyết bất khả thuyết môn giải thoát, nhứt sinh bổ xứ Bồ Tát mới đắc được môn giải thoát nầy.

 

Thiện Tài vấn ngôn: thử trang nghiêm sự, hà xứ khứ da?

Thiện-Tài hỏi: Sự trang-nghiêm nầy đi về đâu?

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại hỏi : Cảnh giới trang nghiêm đó đi về đâu?

Tại sao hiện tại con nhìn không thấy?

 

Di lặc đáp ngôn: ư lai xứ khứ.

Di-Lặc Bồ-Tát nói: Ði về nơi chỗ đến.

Giảng: Bồ Tát Di Lặc đáp rằng: Nó từ nơi nào đến, thì trở về chỗ đó.

 

Viết: tùng hà xứ lai?

Thiện-Tài hỏi: Từ chỗ nào đến?

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại hỏi: Nó từ chỗ nào đến?

 

Viết: tùng Bồ Tát trí tuệ thần lực trung lai, y Bồ Tát trí tuệ thần lực nhi trụ, vô hữu khứ xứ, diệc vô trụ xứ, phi tập phi thường, viễn ly nhất thiết.

Di-Lặc Bồ-Tát nói: Từ trong trí-huệ thần-lực của Bồ-Tát mà đến, nương thần-lực của Bồ-Tát mà an-trụ, không có chỗ đi, cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằng, xa rời tất cả.

Giảng: Bồ Tát Di Lặc đáp: Nó từ trong trí huệ thần lực của Bồ Tát đến, nó nương trí huệ thần lực của Bồ Tát mà trụ. Nó không đến, cũng không đi, cũng không chỗ trụ. Nó chẳng phải tích tập, cũng chẳng thường, xa lìa tất cả cảnh giới tâm tưởng, tất cả lời nói luận bàn.

 

Thiện nam tử! như long Vương hàng vũ, bất tùng thân xuất, bất tùng tâm xuất, vô hữu tích tập, nhi phi bất kiến; Đãn dĩ long Vương tâm niệm lực cố, bái nhiên hồng vũ, chu biến thiên hạ, như thị cảnh giới bất khả tư nghị.

Nầy Thiện-nam-tử! Như Long-Vương làm mưa: chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập, mà chẳng phải là chẳng thấy. Chỉ do sức tâm-niệm của Long-Vương mà mưa tuôn khắp thiên-hạ. Cảnh-giới như vậy chẳng thể nghĩ bàn.

Giảng: Thiện nam tử! Giống như Long Vương mưa xuống, mưa chẳng từ thân Long Vương ra, chẳng từ tâm Long Vương ra, Long Vương chẳng có tích tập mưa, mà chẳng phải chẳng nhìn thấy, vì mưa vẫn có hình, có tướng, cho nên nhìn thấy được, do nhờ sức tâm niệm của Long Vương, mà mưa xuống khắp thiên hạ. Cảnh giới như vậy, không thể nghĩ bàn.

 

Thiện nam tử! bỉ trang nghiêm sự diệc phục như thị, bất trụ ư nội, diệc bất trụ ngoại, nhi phi bất kiến; đãn do Bồ Tát uy thần chi lực, nhữ thiện căn lực, kiến như thị sự.

Nầy Thiện-nam-tử! Cũng vậy, những sự trang-nghiêm trong lâu-các nầy chẳng ở trong cũng chẳng ở ngoài, mà chẳng phải là không thấy. Chỉ do thần-lực của Bồ-Tát và sức thiện-căn của ngươi, mà ngươi được thấy như vậy.

Giảng: Thiện nam tử! Những việc trang nghiêm đó, cũng lại như thế. Chẳng trụ ở trong, cũng chẳng trụ ở ngoài, mà chẳng phải chẳng nhìn thấy cảnh giới đó, là do nhờ oai thần lực của Bồ Tát, sức căn lành của ngươi, cho nên mới thấy được những cảnh giới như vậy.

 

Thiện nam tử! thí như huyễn sư tác chư huyễn sự, vô sở tòng lai, vô sở chí khứ; tuy vô lai khứ, dĩ huyễn lực cố, phân minh khả kiến. Bỉ trang nghiêm sự diệc phục như thị, vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ; tuy vô lai khứ, nhiên dĩ quán tập bất khả tư nghị huyễn trí lực cố, cập do vãng tích đại nguyện lực cố, như thị hiển hiện.

Nầy Thiện-nam-tử! Như nhà ảo-thuật làm những ảo-sự: không từ đâu lại, không đi đến đâu. Dầu không lại không đi, nhưng do ảo-lực mà thấy rõ ràng. Cũng vậy, sự trang-nghiêm nầy không từ đâu lại, cũng không chỗ đi. Dầu không lại không đi, nhưng do quen tập sức huyễn-trí bất-tư-nghì và do sức đại-nguyện thuở xưa mà hiển- hiện như vậy.

Giảng: Thiện nam tử! Ví như nhà huyễn thuật, làm các việc ảo thuật huyễn hoá không thật, không chỗ đến, không chỗ đi. Tuy không đến không đi, mà do nhờ sức huyễn, nên phân minh thấy được cảnh giới đó rõ ràng. Những việc trang nghiêm đó, cũng lại như thế. Không chỗ đến, cũng không chỗ đi. Tóm lại, chẳng có từ nơi nào đến, cũng chẳng có nơi nào đi. Tuy không đến không đi, mà do nhờ tập quán sức huyễn trí không thể nghĩ bàn và do đại nguyện lực thuở xưa đã phát ra, mới hiển hiện được những cảnh giới không nghĩ bàn như vậy.

 

Thiện tài đồng tử ngôn: đại thánh tùng hà xứ lai?

Thiện-Tài thưa: Ðại-Thánh từ-xứ nào đến đây?

Giảng: Thiện Tài đồng tử thưa hỏi Bồ Tát Di Lặc rằng: Đại Thánh Ngài từ đâu đến?

 

Di lặc ngôn: Thiện nam tử! chư bồ tát vô lai vô khứ, như thị nhi lai; vô hành vô trụ, như thị nhi lai; vô xứ Vô Trước, bất một bất sanh, bất trụ bất Thiên, bất động bất khởi, vô luyến Vô Trước, vô nghiệp vô báo, vô khởi vô diệt, bất đoạn bất thường, như thị nhi lai.

Di-Lặc Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Chư Bồ-Tát không đến không đi, như vậy mà đến. Không đi không ở, như vậy mà đến. Không chỗ, không chấp, không mất, không sanh, chẳng ở, chẳng dời, chẳng động, chẳng khởi, không luyến, không nhiễm, không nghiệp, không báo, chẳng khởi, chẳng diệt, chẳng đoạn, chẳng thường, như vậy mà đến.

Giảng: Bồ Tát Di Lặc đáp: Thiện nam tử! Tất cả Bồ Tát không đến, không đi, các Ngài đều như vậy mà đến. Không chỗ đi, không chỗ ở, như vậy mà đến. Không xứ sở, không chấp trước, cũng không mất đi, cũng không sinh ra, cũng không trụ một chỗ, cũng không dời đổi chỗ khác, cũng không giao động, cũng không sinh khởi, cũng không lưu luyến, cũng không tham chấp, cũng không có nghiệp, cũng không có báo, vốn là vô tướng, cũng không có khởi, cũng không có diệt, cũng chẳng đoạn, cũng chẳng thường, như vậy mà đến.

 

Thiện nam tử! Bồ Tát tùng đại bi xứ lai, vi dục điều phục chư chúng sanh cố;

Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát từ chỗ đại-bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng-sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát từ nơi đại bi mà đến, vì muốn điều phục tất cả chúng sinh.

 

Tùng đại từ xứ lai, vi dục cứu hộ chư chúng sanh cố; tùng tịnh giới xứ lai, tùy kỳ sở lạc nhi thọ sanh cố; tùng đại nguyện xứ lai, vãng tích nguyện lực chi sở trì cố;

Từ chỗ đại-từ mà đến, vì muốn cứu hộ các chúng-sanh. Từ chỗ tịnh-giới mà đến, vì tùy sở-thích mà thọ sanh. Từ chỗ đại-nguyện mà đến, vì nguyện-lực thuở xưa gia-trì.

Giảng: Bồ Tát từ nơi đại từ mà đến, vì muốn cứu hộ tất cả chúng sinh. Bồ Tát từ nơi giới thanh tịnh mà đến, vì tuỳ sở thích của mình mà thọ sinh. Bồ Tát từ nơi đại nguyện mà đến, vì nguyện lực thuở xưa nhiếp trì.

 

Tùng thần thông xứ lai, ư nhất thiết xứ tùy lạc hiện cố; tùng vô động diêu xứ lai, hằng bất xả ly nhất thiết Phật cố; tùng vô thủ xả xứ lai, bất dịch thân tâm sử vãng lai cố;

Từ chỗ thần-thông mà đến, vì nơi tất cả xứ, tùy thích mà hiện. Từ chỗ không lay động mà đến, vì hằng chẳng bỏ rời tất cả Phật. Từ chỗ không thủ xả mà đến, vì chẳng bắt buộc thân tâm phải qua lại.

Giảng: Bồ Tát từ nơi thần thông mà đến, vì tất cả mọi nơi tuỳ sự ưa thích mà hiện. Bồ Tát từ nơi không giao động mà đến, vì luôn không xả lìa tất cả chư Phật. Bồ Tát từ nơi không lấy bỏ mà đến, vì chẳng bắt buộc thân tâm phải tạo tác qua lại.

 

Tùng trí tuệ phương tiện xứ lai, tùy thuận nhất thiết chư chúng sanh cố; tùng thị hiện biến hóa xứ lai, do như ảnh tượng nhi hóa hiện cố.

Từ chỗ phương-tiện trí-huệ mà đến, vì tùy thuận tất cả chúng-sanh. Từ chỗ thi-hiện biến-hóa mà đến, vì dường như ảnh tượng mà hóa hiện.

Giảng: Bồ Tát từ nơi trí huệ phương tiện mà đến, vì tuỳ thuận tất cả các chúng sinh. Bồ Tát từ nơi thị hiện biến hoá mà đến, vì giống như hình bong, chẳng có chẳng không mà hoá hiện.

 

Nhiên, Thiện nam tử! nhữ vấn ư ngã tùng hà xứ lai giả.

Nhưng nầy Thiện-nam-tử! Ngươi hỏi ta từ chỗ nào mà đến?

Giảng: Nhưng thiện nam tử! Ngươi hỏi ta từ đâu đến?

 

Thiện nam tử! ngã tùng sanh xứ ma la đề quốc nhi lai ư thử.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta từ sanh-quán, nước Ma-La-Ðề mà đến nơi đây.

Giảng: Thiện nam tử! Ta từ nơi sinh quán nước Ma La Đề mà đến chỗ lầu các báu Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng nầy.

 

Thiện nam tử! bỉ hữu tụ lạc, danh vi: phòng xá; hữu Trưởng-giả tử, danh: Cồ Ba la. Vi hóa kỳ nhân, lệnh nhập Phật Pháp, nhi trụ ư bỉ; hựu vi sanh xứ nhất thiết nhân dân tùy sở ưng hóa nhi vi thuyết Pháp, diệc vi phụ mẫu cập chư quyến chúc, Bà-la-môn đẳng diễn thuyết Đại-Thừa, lệnh kỳ thú nhập cố trụ ư bỉ. Nhi tòng bỉ lai.

Nầy Thiện-nam-tử! Nước ấy có tụ-lạc tên là Phòng-xá. Trong tụ-lạc có Trưởng-Giả-Tử tên là Cù-Ba-La, ta vì hóa độ người ấy vào phật-pháp mà ở nơi đó.  Lại vì tất cả nhân-dân đáng được hóa-độ nên sanh nơi đó để thuyết pháp. Lại cũng vì cha mẹ quyến thuộc nói pháp đại thừa cho được xu nhập nên ở nơi đó, rồi từ đó đến đây.

Giảng: Thiện nam tử ! Ở đó có xóm làng, tên là Phòng Xá, có vị trưởng giả tử, tên là Cù Ba La. Ta vì giáo hoá người đó, khiến cho họ vào Phật pháp, cho nên ta ở nơi đó. Ta lại vì tất cả nhân dân nơi chỗ ta sinh ra, tuỳ sự ứng hoá mà vì họ thuyết pháp, cũng vì cha mẹ và tất cả quyến thuộc Bà La Môn, mà diễn nói pháp đại thừa, khiến cho họ hướng về vào pháp môn đại thừa, do đó cho nên trụ ở nơi đó, ta từ chỗ đó mà đến đây.

 

Thiện tài đồng tử ngôn: Thánh Giả! hà giả thị Bồ Tát sanh xứ?

Thiện-Tài thưa: Bạch Ðại-Thánh! Những gì là sanh-xứ của Bồ-Tát?

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại hỏi Bồ Tát Di Lặc rằng : Đức Thánh ! Thế nào là nơi sinh của Bồ Tát ? Xin Ngài từ bi, vì con mà nói.

 

Đáp ngôn: Thiện nam tử! Bồ Tát hữu thập chủng sanh xứ. Hà giả vi thập?

Di-Lặc Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát có mười thứ sanh-xứ

Giảng: Bồ Tát Di Lặc đáp rằng : Thiện nam tử ! Bồ Tát có mười nơi sinh. Những gì là mười? Ngươi phải đặc biệt chú ý lắng nghe cho kỹ, nay ta sẽ vì ngươi mà nói mười nơi sinh của Bồ Tát.

 

Thiện nam tử! Bồ-đề tâm thị Bồ Tát sanh xứ, sanh Bồ Tát gia cố;

Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-dề-tâm là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh ra Bồ-Tát.

Giảng: Thiện nam tử! Lắng nghe cho kỹ:

1. Bồ đề tâm là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà Bồ Tát.

 

Thâm tâm thị Bồ Tát sanh xứ, sanh thiện tri thức gia cố;

Thâm-tâm là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh thiện-tri-thức.

Giảng: 2. Tâm tin sâu là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà thiện tri thức.

 

Chư địa thị Bồ Tát sanh xứ, sanh Ba-la-mật gia cố;

Chư-địa là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh các môn ba-la-mật.

Giảng: 3. Các địa là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà Ba La Mật.

 

Đại nguyện thị Bồ Tát sanh xứ, sanh diệu hạnh gia cố;

Ðại-nguyện là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh diệu-hạnh.

Giảng: 4. Đại nguyện là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà diệu hạnh.

 

Đại bi thị Bồ Tát sanh xứ, sanh tứ nhiếp gia cố;

Ðại-bi là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh tứ-nhiếp-pháp.

Giảng: 5. Đại bi là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà bốn pháp nhiếp.

 

Như lý quan sát thị Bồ Tát sanh xứ, sanh Bát-nhã Ba-la-mật gia cố;

Quán-sát đúng lý là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh bát-nhã ba-la-mật.

Giảng: 6. Như lý quán sát là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà Bát Nhã Ba La Mật.

 

Đại-Thừa thị Bồ Tát sanh xứ, sanh phương tiện thiện xảo gia cố;

Ðại-thừa là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh thiện-xảo phương-tiện.

Giảng: 7. Đại thừa là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà phương tiện khéo léo.

 

Giáo hóa chúng sanh thị Bồ Tát sanh xứ, sanh Phật gia cố;

Giáo-hóa chúng-sanh là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh chư Phật.

Giảng: 8. Giáo hoá chúng sinh là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà chư Phật.

 

Trí tuệ phương tiện thị Bồ Tát sanh xứ, sanh Vô sanh Pháp nhẫn gia cố;

Trí-huệ phương-tiện là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh vô-sanh pháp-nhẫn.

Giảng: 9. Trí huệ phương tiện là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà vô sinh pháp nhẫn.

 

Tu hành nhất thiết pháp thị Bồ Tát sanh xứ, sanh qua, hiện, vị lai nhất thiết Như Lai gia cố.

Tu hành tất cả pháp là sanh-xứ của Bồ-Tát, vì là nhà sanh tam thế tất cả Như-Lai.

Giảng: 10. Tu hành tất cả pháp là nơi sinh của Bồ Tát, vì sinh vào nhà tất cả Như Lai ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai.

 

Thiện nam tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát, dĩ Bát-nhã Ba-la-mật vi mẫu, phương tiện thiện xảo vi phụ, đàn ba-la-mật vi nhũ mẫu, thi Ba-la-mật vi dưỡng mẫu, nhẫn Ba-la-mật vi trang nghiêm cụ, cần Ba-la-mật vi dưỡng dục giả, Thiền Ba-la-mật vi cán trạc nhân, thiện tri thức vi giáo thọ sư, nhất thiết Bồ-đề phần vi ạn lữ, nhất thiết thiện pháp vi quyến thuộc, nhất thiết Bồ Tát vi huynh đệ, Bồ-đề tâm vi gia, như lý tu hành vi gia pháp, chư địa vi gia xứ, chư nhẫn vi gia tộc, đại nguyện vi gia giáo, mãn túc chư hạnh vi thuận gia pháp, khuyến phát Đại thừa vi thiệu gia nghiệp, pháp thủy quán đảnh nhất sanh sở hệ Bồ-tát vi Vương Thái-Tử, thành tựu Bồ-đề vi năng tịnh gia tộc.

Nầy Thiện-nam-tử!  Ðại Bồ-Tát dùng bát-nhã ba-la-mật làm mẹ, phương-tiện thiện-xảo làm cha, thí-ba-la-mật làm nhũ-mẫu, giới-ba-la-mật làm dưỡng-mẫu, nhẫn-ba-la-mật làm đồ-trang-nghiêm, tinh-tấn ba-la-mật làm ông gìa dưỡng-dục, thiền ba-la-mật làm người rửa giặt, thiện-tri-thức làm thầy dạy, tất cả phần bồ-đề làm bạn, tất cả pháp lành làm quyến-thuộc, tất cả Bồ-Tát làm huynh đệ, bồ-đề-tâm làm nhà, tu hành đúng lý làm gia-pháp, chư địa làm gia-xứ, chư nhẫn làm gia-tộc, đại-nguyện làm gia-giáo, đầy đủ các hạnh làm thuận gia-pháp, khuyên phát đại-thừa làm nối gia-nghiệp, pháp-thủy rưới đầu nhất-sanh bổ-xứ Bồ-Tát làm Thái-Tử, thành-tựu bồ-đề là hay tịnh gia-tộc.

Giảng: Thiện nam tử! Đại Bồ Tát dùng Bát Nhã Ba La Mật làm mẹ. Bát Nhã có ba thứ:
1. Văn tự Bát Nhã.
2. Quán chiếu Bát Nhã.
3. Thật tướng Bát Nhã.

Dùng phương tiện khéo léo làm cha. Pháp môn có tám vạn bốn ngàn, môn nào cũng là số một. Dùng bố thí Ba La Mật làm nhũ mẫu. Bố thí có ba thứ:
1. Tài thí.
2. Pháp thí.
3. Vô uý thí.

Dùng trì giới Ba La Mật làm dưỡng mẫu. Người tại gia phải giữ năm giới căn bản, tám giới. Sa di phải thọ mười giới. Người xuất gia phải thọ giới cụ túc, Tỳ kheo có hai trăm năm mươi giới; Tỳ kheo ni có ba trăm bốn mươi tám giới. Xuất gia Tỳ Kheo, Tỳ kheo ni và tại gia Ưu bà tắt, Ưu bà di phải thọ Bồ Tát giới, có mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh.

Dùng nhẫn Ba La Mật làm đồ trang nghiêm. Nhẫn có ba thứ:
1. Sinh nhẫn.
2. Pháp nhẫn.
3. Vô sinh pháp nhẫn.

Dùng tinh tấn Ba La Mật làm người dưỡng dục. Tinh tấn có hai thứ:
1. Thân tinh tấn.
2. Tâm tinh tấn. Thọ nơi thân, trì nơi tâm. Ngày đêm sáu thời thường tinh tấn.

Dùng thiền Ba La Mật làm người giặt rửa. Thiền tức là thiền na, dịch là tư duy tu, còn dịch là tĩnh lự. Tóm lại, làm cho vọng tưởng trong tâm sạch sẽ thanh tịnh. Thiền có nhiều thứ, nói một cách đơn giản gồm có:
1. Tứ thiền.
2. Tứ không định.
3. Cửu thứ đệ định.

Dùng thiện tri thức làm thầy giáo thọ. Dùng bảy bồ đề phần làm bạn lành. Dùng tất cả pháp lành làm quyến thuộc. Dùng tất cả Bồ Tát làm huynh đệ. Dùng bồ đề tâm làm nhà. Dùng như lý tu hành làm gia pháp. Dùng các địa làm gia xứ. Dùng các nhẫn làm gia tộc. Dùng đại nguyện làm gia giáo. Dùng đầy đủ các hạnh làm thuận gia pháp. Dùng khuyến chúng sinh phát tâm đại thừa làm hưng thịnh gia nghiệp Tam Bảo. Dùng nước pháp quán đảnh, nhứt sinh sở hệ Bồ Tát làm thái tử, thành tựu bồ đề làm hay tịnh gia tộc. Đây là cảnh giới của đại Bồ Tát.

 

Thiện nam tử! Bồ Tát như thị siêu phàm phu địa, nhập Bồ Tát vị, sanh Như Lai gia, trụ Phật chủng tánh, năng tu chư hạnh, bất đoạn Tam Bảo, thiện năng thủ hộ Bồ Tát chủng tộc, tịnh Bồ Tát chủng, sanh xứ tôn thắng, vô chư quá ác, nhất thiết thế gian Thiên, nhân, ma, phạm, Sa Môn, Bà-la-môn cung kính tán thán.

Nầy Thiện-nam-tử! Bồ-Tát siêu phàm-phu-địa, nhập bồ-tát-vị, sanh nhà Như-Lai, trụ chủng-tánh Phật như vậy, có thể tu các hạnh chẳng dứt Tam-Bảo, khéo giữ được chủng-tộc Bồ-Tát, tịnh bồ-tát-chủng, chỗ sanh tôn-thắng, không lỗi ác, tất cả thế-gian, thiên, nhơn, ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn cung-kính ngợi khen.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát vượt qua bậc phàm phu như vậy, chứng nhập bậc Bồ Tát, sinh vào nhà Như Lai, trụ giống tánh của Phật, hay tu hành các hạnh của Bồ Tát tu, tiếp nối huệ mạng của Phật, vĩnh viễn chẳng dứt Tam Bảo, khiến cho thường trụ ở đời, khéo hay giữ gìn chủng tộc của Bồ Tát, thanh tịnh hạt giống Bồ Tát, sinh vào nơi tôn quý thù thắng, thuỷ chung không có các lỗi lầm, cũng chẳng có tất cả hành vi ác, được tất cả thế gian trời, người, thiên ma, Đại Phạm Thiên, Sa Môn, Bà La Môn, cung kính khen ngợi.

 

Thiện nam tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát sanh ư như thị tôn thắng gia dĩ, tri nhất thiết pháp như ảnh tượng cố, ư chư thế gian vô sở ác tiện; tri nhất thiết pháp như biến hóa cố, ư chư hữu thú vô sở nhiễm trước; tri nhất thiết pháp vô hữu ngã cố, giáo hóa chúng sanh tâm vô bì yếm; dĩ đại từ bi vi thể tánh cố, nhiếp thọ chúng sanh bất giác lao khổ; liễu đạt sanh tử do như mộng cố, Kinh nhất thiết kiếp nhi vô bố úy; liễu tri chư uẩn giai như huyễn cố, thị hiện thọ sanh nhi Vô ưu yếm; tri chư giới, xứ đồng Pháp giới cố, ư chư cảnh giới vô sở hoại diệt; tri nhất thiết tưởng như dương diệm cố, nhập ư chư thú bất sanh đảo hoặc; đạt nhất thiết pháp giai như huyễn cố, nhập ma cảnh giới bất khởi nhiễm trước; tri Pháp thân cố, nhất thiết phiền não bất năng khi cuống; đắc tự tại cố, ư nhất thiết thú thông đạt vô ngại.

Nầy Thiện-nam-tử! Ðại Bồ-Tát sanh nhà tôn-thắng như vậy rồi, vì biết tất cả pháp như ảnh tượng nên đối với thế-gian không ghét chê. Vì biết tất cả pháp như biến-hóa nên không nhiễm trước các cõi hữu-lậu. Vì biết tất cả pháp không có ngã nên giáo-hóa chúng-sanh lòng không nhàm mỏi. Vì dùng đại-từ-bi làm thể tánh nên nhiếp thọ chúng-sanh chẳng biết lao khổ. Vì liễu đạt sanh tử dường như mộng nên trải qua tất cả kiếp mà không e sợ. Vì biết rõ các uẩn đều như huyễn nên thị hiện thọ sanh mà không nhàm mỏi. Vì biết các giới, xứ, đồng pháp-giới nên nơi các cảnh-giới không bi hoại diệt. Vì biết tất cả tưởng như dương-diệm nên vào trong các loài mà chẳng sanh điên-đảo mê hoặc. Vì đạt tất cả  pháp đều như huyễn nên vào cảnh-giới ma chẳng sanh nhiễm trước. Vì biết pháp-thân nên tất cả phiền-não chẳng khi dối được. Vì được tự-tại nên nơi tất cả loài đều thông đạt vô-ngại.

Giảng: Thiện nam tử! Đại Bồ Tát sinh vào nhà tôn quý thù thắng như vậy rồi, vì biết tất cả pháp như hình bóng, nên đối với tất cả thế gian vạn sự vạn vật, đều bình đẳng, không chán ghét chê bai, Bồ Tát chẳng thấy lỗi chúng sinh, bất cứ chúng sinh đối đãi với Bồ Tát chẳng cung kính như thế nào, nhưng Bồ Tát vẫn tha thứ cho chúng sinh vô tri, chẳng xét nét mà thương xót. Bồ Tát đối với tất cả hết thảy, đều biết đạt quả, lại biết tất cả pháp, tựa như biến hoá, minh bạch đạo lý nầy, thấu hiểu hữu tình vô tình trong trời đất đều đang nói pháp, đang giáo hoá tất cả chúng sinh, tuy nhiên thọ sinh trong tam giới hai mươi lăm cõi, vì giáo hoá chúng sinh, nhưng chẳng nhiễm ô tình ái, cũng chẳng chấp trước vào cái ta. Lại biết tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bọt bóng, như sương cũng như điện, chẳng có một cái ta tồn tại. Cho nên quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng. Do đó có câu:

“Thấy việc tỉnh việc vượt thế gian
Thấy việc mê việc đoạ trầm luân”.

Do nguyên nhân nầy, giáo hoá tất cả chúng sinh, trong tâm không khi nào nhàm mỏi.

Bồ Tát lúc nào cũng giáo hoá chúng sinh, nhưng Bồ Tát vĩnh viễn không có tâm lý mỏi nhàm. Tại sao? Vì Bồ Tát dùng vô duyên đại từ, đồng thể đại bi làm thể tánh. Bồ Tát tuyệt đối không dùng thủ đoạn cưỡng bức để đàn áp chúng sinh, chỉ dùng tâm từ bi để nhiếp thọ chúng sinh, bất cứ trải qua thời gian dài bao lâu, cũng không cảm thấy khổ nhọc.

Bồ Tát thấu rõ thông đạt cảnh giới sinh tử như giấc mộng, nên dù trải qua vô lượng kiếp cũng không có tư tưởng sợ sệt, chẳng có sự sợ hãi. Lại biết rõ sắc thọ tưởng hành thức pháp năm uẩn đều hư vọng, đều là không. Tức nhiên là không, còn có gì để chấp trước, có gì đáng sợ! Thị hiện sinh, sinh mà chưa sinh; thị hiện diệt, diệt mà chưa diệt. Ở trong sinh tử luân hồi, cũng chẳng cảm thấy mệt mỏi. Do đó có câu:

“Dù gặp đao nhọn vẫn ung dung,
Dù thấy thuốc độc cũng thản nhiên”.

Ở trong sinh tử mà dứt sinh tử, hết sinh tử mà thọ sinh tử. Chẳng giống như tác phong của hàng nhị thừa, “Xem ba cõi như ngục tù, thấy sinh tử như oan gia”. Vì đã vượt qua cảnh giới sinh tử của nhị thừa.

Bồ Tát lại biết mười tám giới, và mười hai xứ, như đồng pháp giới. Dùng pháp tánh làm thể, dùng hư không làm cõi, cho nên đối với tất cả cảnh giới, không hoại diệt, tức cũng là bất tất hoại cảnh giới, mà vượt khỏi cảnh giới. Dù ở trong cảnh giới, mà vượt khỏi cảnh giới.

Bồ Tát lại biết tất cả tưởng, như dương diệm, dương diệm thăng lên trời đất như nước, ở xa thì tựa như có, đến gần nhìn thì không có. Ở trong ba đường lành, hoặc ở trong ba đường ác, ở trong các loài mà vượt qua các loài, cho nên không sinh mộng tưởng điên đảo mê hoặc.

Bồ Tát lại đạt được tất cả pháp đều như huyễn, như hoá, cho nên vào cảnh giới ma, mà không sinh khởi tâm nhiễm trước. Lại biết pháp thân, nếu sinh ra phiền não, thì bị phiền não dối gạt. Nên sinh phiền não, mà chẳng sinh phiền não, được như vậy thì chẳng bị phiền não làm mê hoặc, cũng chẳng bị phiền não dối gạt. Lại đắc được tự tại, cho nên ở trong tất cả loài, thông đạt vô ngại, chẳng bị bất cứ thứ gì hạn chế.

 

Thiện nam tử! ngã thân phổ sanh nhất thiết pháp giới, đẳng nhất thiết chúng sanh sái biệt sắc tướng, đẳng nhất thiết chúng sanh thù dị ngôn âm, đẳng nhất thiết chúng sanh chủng chủng danh hiệu, đẳng nhất thiết chúng sanh sở lạc uy nghi, tùy thuận thế gian giáo hóa điều phục; đẳng nhất thiết thanh tịnh chúng sanh thị hiện thọ sanh, đẳng nhất thiết phàm phu chúng sanh sở tác sự nghiệp, đẳng nhất thiết chúng sanh tưởng, đẳng nhất thiết Bồ Tát nguyện, nhi hiện kỳ thân sung mãn Pháp giới.

Nầy Thiện-nam-tử! Thân ta sanh khắp tất cả pháp-giới, đồng sắc tướng sai-biệt với tất cả chúng-sanh, đồng ngôn âm sai khác với tất cả chúng-sanh, đồng những danh hiệu với tất cả chúng-sanh, đồng những cử chỉ sở thích của tất cả chúng-sanh để tùy thuận thế-gian giáo-hóa điều-phục, thị-hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng-sanh thanh-tịnh, những sự nghiệp làm ra đồng với tất cả phàm-phu chúng-sanh. Ðồng với tâm tưởng của tất cả chúng-sanh, đồng thệ nguyện với tất cả Bồ-Tát mà hiện thân mình đầy khắp pháp-giới.

Giảng: Thiện nam tử! Thân ta khắp sinh trong tất cả pháp giới. Sắc tướng khác biệt đồng với tất cả chúng sinh. Lời nói khác nhau đồng với tất cả chúng sinh. Đủ thứ danh hiệu đồng với tất cả chúng sinh. Sở thích oai nghi đồng với tất cả chúng sinh, tuỳ thuận pháp thế gian, giáo hoá điều phục chúng sinh. Thị hiện thọ sinh đồng với tất cả chúng sinh thanh tịnh, sinh mà chưa từng sinh, lại thị hiện nhập diệt, diệt mà chưa từng diệt. Làm các sự nghiệp đồng với tất cả phàm phu chúng sinh. Tư tưởng đồng với tất cả chúng sinh. Hạnh nguyện đồng với tất cả Bồ Tát, thảy đều như thế, chẳng có sự phân biệt, cho nên thị hiện thân, đầy dẫy tận hư không khắp pháp giới.

 

Thiện nam tử! ngã vi hóa độ dữ ngã vãng tích đồng tu chư hạnh, kim thời thoái thất Bồ-đề tâm giả; diệc vi giáo hóa phụ mẫu, thân chúc; diệc vi giáo hóa chư Bà-la-môn, lệnh kỳ ly ư chủng tộc kiêu mạn, đắc sanh Như Lai chủng tánh chi trung. Nhi sanh ư thử Diêm-phù-đề giới, ma la đề quốc, câu trá tụ lạc, Bà-la-môn gia.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì hóa độ những người thuở xưa cùng ta đồng tu công-hạnh mà nay thối thất tâm bồ-đề. Cũng vì giáo-hóa cha mẹ thân thuộc. Cũng vì giáo-hóa các Bà-La-Môn khiến họ bỏ tánh kiêu-mạn để được sanh trong chủng-tánh Như-Lai, nên ta sanh tại nhà bà-la-môn nơi tụ-lạc Phòng-Xá trong nước Ma-La-Ðề ở Diêm-Phù-Ðề nầy.

Giảng: Thiện nam tử! Ta vì giáo hoá độ thoát những người đồng tu các hạnh với ta thuở xưa, mà hiện tại thối thất tâm bồ đề. Cũng vì giáo hoá cha mẹ quyến thuộc, cũng vì giáo hoá các Bà La Môn, khiến cho họ lìa khỏi chủng tộc kiêu mạn, được sinh vào chủng tộc Như Lai. Chủng tộc Bà La Môn có cấp bậc, tất cả đều chẳng bình đẳng. Chủng tộc Như Lai chẳng có cấp bậc, thảy đều bình đẳng. Ta vì độ chúng sinh có duyên, cho nên ta mới sinh vào nhà Bà La Môn, xóm làng Phòng Xá, nước Ma La Đề, thế giới Ta Bà cõi Diêm Phù Đề nầy.

 

Thiện nam tử! ngã trụ ư thử Đại lâu các trung, tùy chư chúng sanh tâm chi sở lạc, chủng chủng phương tiện giáo hóa điều phục.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta ở trong đại-lâu-các nầy tùy tâm sở-thích của các chúng-sanh dùng nhiều phương-tiện để giáo-hóa đều-phục.

Giảng: Bồ Tát Di Lặc lại gọi Thiện Tài đồng tử một tiếng: Thiện nam tử! Ta ở trong đại lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng nầy, ta tuỳ thuận tâm ưa thích của các chúng sinh, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hoá và điều phục chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo.

Các vị! Bồ Tát Di Lặc dùng đại oai thần lực để giáo hoá chúng sinh, và còn dùng đủ thứ pháp môn phương tiện. Ngài dùng pháp môn phương tiện tam muội từ tâm, chẳng phải pháp môn triết phục, mà là pháp môn nhiếp thọ, khiến cho chúng sinh tâm vui vẻ thành phục, tuyệt đối không dùng thủ đoạn bức bách chúng sinh, như thế thì không thể nào giáo hoá chúng sinh.

Các vị! Các vị ở đây nghe tôi giảng Kinh, đừng có sợ tôi, tôi chẳng phải là yêu quái, không có ăn thịt người. Tôi hy vọng các vị có thể sửa lỗi làm mới, đừng có bảo hộ lỗi lầm của mình, có người vẫn chưa xả bỏ được lỗi lầm của mình, có người thì cứ ôm lòng cống cao ngã mạn, trong mắt không xem ai ra gì hết. Thứ vô mình phiền não nầy có ích gì chứ? Thuỷ chung sẽ không thể thành tựu được đạo nghiệp mà mình tu, phải buông bỏ những tập khí mao bệnh đó, thì mới có thể có sự thành tựu.

Hiện tại là thời đại nguyên tử, bị hoàn cảnh huân nhiễm, mọi người đều đang dụng công phu trên sự cầu danh cầu lợi. Bạn tranh tôi giành, chẳng nói gì đến đạo nghĩa, vì mục đích mà bất chấp thủ đoạn, vì lợi mà bán rẻ bạn bè, đủ thứ hành vi trái với đạo đức, thương trời hại lý, khiến cho người không lạnh mà run. Có người miệng thì nói lời ngon ngọt, trong bụng thì có mưu đồ riêng. Do đó có câu:
“Nói toàn là lời tốt,
Làm toàn là việc xấu”.

Chúng ta tu hành ở đây, chẳng cầu danh, cũng chẳng cầu lợi, cũng chẳng tranh quyền, cũng chẳng luận thắng. Chúng ta dùng tâm thanh tịnh để tu đạo, trợ giúp thế giới hoà bình. Thứ khí lành nầy, là khí cát tường, là chánh khí. Nếu ai ai cũng không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối, thì thế giới sẽ không có chiến tranh, trở thành thế giới đại đồng. Mọi người an cư lạc nghiệp, cơm no áo ấm, thế giới nầy chẳng phải là thế giới cực lạc chăng!

Các vị đại chúng cùng tu hành một chỗ với nhau, đây là ở trong vô lượng kiếp, đã được tiếp thọ sự giáo hoá của Bồ Tát Di Lặc. Ngài dùng đủ thứ phương tiện khéo léo, để giáo hoá chúng ta, để điều phục chúng ta, cho nên chúng ta đời nầy có thể cùng nhau nghiên cứu Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, y chiếu theo đạo lý chân chánh Phẩm Vào Pháp Giới để tu hành, có duyên mới có cơ hội nầy.

Các vị hãy nghĩ xem, đây chẳng phải ở chỗ một vị Phật, hai vị Phật, ba, bốn, năm vị Phật gieo trồng căn lành, mà là ở trong vô lượng kiếp gieo trồng căn lành, mới có sự thành tựu ở đời nầy. Bất quá, vì ăn nhiều cơm quá, mặc y phục nhiều quá, ngủ nhiều quá, cho nên đã quên hết sạch nhân duyên trong quá khứ, không còn nhớ nữa, cho nên bây giờ nghe Kinh Hoa Nghiêm, cảm thấy chẳng tự nhiên, nghe cũng nghe không hiểu, nhìn cũng nhìn không minh bạch, nhưng không sao, chỉ cần tinh tấn dũng mãnh, đến lúc nào đó tự nhiên sẽ thông đạt vô ngại, do đó có câu:   “Công đáo tự nhiên thành”.

Các vị! Phải biết nhân đạt quả, minh bạch nhân quả, đừng có sai lầm nhân quả, vấn đề của thế giới, tự nhiên sẽ tiêu diệt. Giống như hiện tại thuyền nhân Việt Nam, tại sao họ trôi nổi trên biển? các nước không cho nhập cảnh? Có những người bị chết trên biển, hoặc có những người bị cướp bóc, đánh đập v.v…Ở trong biển nguy hiểm vạn phần, mạng sống rất mong manh. Cầu trời trời không ứng, gọi đất đất không linh. Tại sao có bi kịch nầy? Vì họ ở trong quá khứ, đã từng giết người phóng lửa, cho nên đời nầy thọ quả báo nầy, nhân quả tơ hào không sai, do đó có câu: “Trồng nhân gì, được quả đó”.

 

Thiện nam tử! ngã vi tùy thuận chúng sanh tâm cố, ngã vi thành thục Đâu suất thiên trung đồng hành Thiên cố, ngã vi thị hiện Bồ Tát phước trí biến hóa trang nghiêm; siêu quá nhất thiết chư dục giới cố, lệnh kỳ xả ly chư dục lạc cố, lệnh tri hữu vi giai vô thường cố, lệnh tri chư Thiên thịnh tất suy cố, vi dục thị hiện tướng hàng sanh thời đại trí Pháp môn; dữ nhất sanh Bồ-tát cọng đàm luận cố, vi dục nhiếp hóa chư đồng hành cố, vi dục giáo hóa Thích-Ca Như Lai sở khiển lai giả lệnh như liên hoa tất khai ngộ cố, ư thử mạng chung, sanh Đâu suất thiên.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta vì tùy thuận tâm chúng-sanh, ta vì thành-thục chư Thiên đồng hành nơi cung Ðâu-Suất, ta vì thị-hiện bồ-tát phước trí biến-hóa trang-nghiêm siêu quá tất cả dục-giới cho họ bỏ rời những dục lạc, vì cho họ biết hữu-vi đều vô-thường, vì cho họ biết chư Thiên hễ thạnh tất có suy, vì muốn thị-hiện lúc sắp giáng sanh dùng đại-trí pháp-môn cùng chư Bồ-Tát nhất-sanh bổ-xứ cùng nhau đàm luận, vì muốn nhiếp hóa những người đồng hành, vì muốn giáo-hóa những kẻ mà đức Thích-Ca Như-Lai để sót lại cho họ đều được khai ngộ như hoa sen nở, nên khi mạng chung ta sẽ sanh lên trời Ðâu-Suất.

Giảng: Thiện nam tử! Ta vì tuỳ thuận tâm chúng sinh. Ta vì thành thục chư Thiên đồng tu hành trên cung trời Đâu Suất, khiến cho họ tin sâu Tam Bảo, hành Bồ Tát đạo. Ta thiết bày thân xứ địa để thị hiện, khiến cho chúng sinh biết Bồ Tát làm thế nào đắc được phước đức? Làm thế nào đắc được trí huệ? Làm thế nào mới có thần thông biến hoá? Làm thế nào mới có thể trang nghiêm cõi Phật? Làm thế nào vượt qua chư Thiên dục giới? Khiến cho họ buông bỏ hết thảy dục lạc, không tham cầu khoái lạc giả dối, vì làm như thế là bỏ giác hợp với trần lao nhiễm ô. Phải tìm cầu khoái lạc chân chánh, làm như thế là bỏ trần hợp với giác ngộ thanh tịnh. Vì khiến cho biết tất cả pháp hữu vi đều vô thường, vô ngã, khổ, không. Phải biết pháp vô vi là thường, lạc, ngã, tịnh. Vì khiến cho họ biết chư Thiên có năm hiện tượng suy, khi hưởng hết phước trời, thì phải đoạ lạc thọ khổ tron luân hồi sinh tử.

Bồ Tát Di Lặc lại nói: Ta vì muốn thị hiện sắp hàng sinh thời đại trí pháp môn, với nhứt sinh bổ xứ Bồ Tát cùng đàm luận hạnh của Bồ Tát tu. Ta vì muốn nhiếp thọ giáo hoá các bạn đồng tu hành cùng với ta thuở xưa, độ thoát họ thoát khỏi ba cõi, vĩnh viễn dứt sinh tử, không còn thọ khổ trong luân hồi nữa.

Ta vì giáo hoá những chúng sinh còn sót lại của thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ta vì chờ đợi họ, cho nên trụ ở trong đại lầu các báu nầy, khiến cho họ đều khai ngộ, đắc được đại trí huệ, như hoa sen nở, khi mạng chung thì đều sẽ sinh về cõi trời Đâu Suất.

Phàm là Phật Bồ Tát đều sinh ở trên hoa sen lớn, đây là biểu thị khai ngộ. Nếu chẳng khai ngộ, thì chẳng có tư cách ngồi trên toà sen. Bạn muốn ngồi trên toà sen chăng? Trước hết phải siêng năng tinh tấn, đừng có giải đãi, đừng có phóng dật. Sự chướng ngại lớn nhất của sự tu đạo là lười biếng. Do đó có câu: “Đừng sợ chậm, chỉ sợ dừng lại; dừng lại, dừng lại, làm sao mà đến đích được”. Các bạn hãy nghiên cứu kỹ xem, đây là đạo lý nói về kinh nghiệm.

Có người nghĩ: Tôi tu hành rất nhiều năm, tôi muốn nghỉ ngơi mấy ngày. Một khi bạn nghỉ ngơi, thì công đức tu lúc trước, hoàn toàn mất sạch. Cho nên người tu hành thời khắc không nên giải đãi lười biếng, phải từ từ luôn tinh tấn, do đó có câu: “Qua núi có con đường siêng là lối tắc, biển pháp không bờ khổ làm thuyền”. Nên nhớ! Trồng trọt một phần, thì có một phần thu hoạch; trồng trọt mười phần, thì có thu hoạch mười phần; chẳng chịu trồng trọt, thì chẳng có thu hoạch. Dùng một phần sức lực, thì đắc được một phần giá trị. Dùng mười phần sức lực thì đắc được mười phần giá trị. Sự việc trong trời đất, chẳng có gì không bỏ công sức mà có sự thu hoạch.
Có người nói: “Bạn muốn tu hành, thì nhất định phải đấu tranh với ma”. Kỳ thật không cần đấu tranh, chỉ cần nhẫn nại. Tôi thường nói với các vị rằng:
“Nhẫn là báu vô giá
Mọi người xử không tốt
Nếu hay dùng được nó
Mọi việc đều tốt đẹp ».

Cho nên người tu hành, phải tu nhẫn nhục Ba La Mật. Hay sinh nhẫn, hay pháp nhẫn, thì tự nhiên sẽ chứng được cảnh giới vô sinh pháp nhẫn.

Các vị ! Đừng có học Phật nhiều năm, toàn thân đều có bom nguyên tử, nổ bất cứ lúc nào. Phải dùng chữ nhẫn để khắc phục sự nóng giận, do đó có câu : « Nghịch đến thì thuận mà thọ nhận ». Nếu bạn có công phu nầy, thì bất cứ gặp sự việc gì không như ý, cũng đều nhẫn trong tâm, cổ nhân có nói : « Trên đầu tướng quân có ngựa đi, trong bụng tể tướng có ghe chạy ». Đây là biểu thị khoang hồng đại lượng, có công phu hàm dưỡng.

Các vị ! Đừng có quở trách người khác, đừng có đàn áp người khác, đều là sư huynh sư đệ với nhau, đời nầy có duyên với nhau, nên mọi người mới cùng tu hành với nhau tại một chỗ. Phải giữ vững tông chỉ, có người khinh thường tôi, tôi phải nhẫn nại. Tục ngữ có câu :
« Nhẫn phiến khắc phong bình lãng tịnh
Thối nhất bộ hải khoát thiên không ».

Ngàn vạn đừng có đâu tranh với người khác, đừng có học danh từ mới, đấu tranh ! Đấu tranh ! Đấu tranh mới có thể sinh tồn. Đây là quan niệm sai lầm. Đừng có tư tưởng như thế. Các bạn hãy nhìn xem ! A tu la suốt ngày đến tối đều đấu tranh. Hiện nay là thời đại đấu tranh kiên cố, tất cả đều đang đấu tranh, người với người đấu tranh, nhà với nhà đấu tranh, nước này với nước kia đấu tranh, thế giới với thế giới đấu tranh. Tóm lại, tất cả tất cả đều đang đấu tranh với nhau, đấu tranh thật là đáng thương xót ! Khiến cho nhà tan người mất, làm cho đất nước điêu tàn, cuối cùng không thể tưởng tượng được.

Chúng ta không những không nói đến hai chữ đấu tranh, mà tư tưởng đấu tranh cũng đừng sinh khởi. Tất cả đều phải nhẫn, chữ nhẫn thắng chữ đấu tranh trăm ngàn lần. Nếu không dùng nhẫn, thì sẽ đấu tranh với ma, đấu tranh tới đấu tranh lui, cả hai đều bại vong. Hãy xem và đối đãi ma giống như là Phật, có người nói : « Đây chẳng phải là hỗn tạp chăng ? Phật ma bất phân, làm sao được » ! Chẳng phải, nếu bạn xem ma là Phật, thì ma cũng không thể biến thành Phật. Vì tất cả do tâm tạo, tâm chuyển vật được, từng chút từng chút cảm hoá, khiến cho ma sửa lỗi làm mới. Ma vương cũng thọ sự giáo hoá của Phật, cho nên bất tất dùng cang cường vô minh để đấu tranh với ma, nếu đấu tranh với ma, thì bạn chắc chắn sẽ thất bại.

 

Thiện nam tử! ngã nguyện mãn túc, thành nhất thiết trí, đắc Bồ-đề thời, nhữ cập Văn Thù câu đắc kiến ngã.

Nầy Thiện-nam-tử! Lúc ta viên-mãn bổn-nguyện thành nhất-thiết-trí, chứng vô-thượng bồ-đề, thời ngươi và Văn-Thù Sư-Lợi đều được thấy ta.

Giảng: Thiện nam tử ! Khi nguyện của ta viên mãn đầy đủ, thành tựu nhất thiết trí, đắc được bồ đề (thành Phật), thì lúc đó ngươi và Bồ Tát Văn Thù đều được thấy ta.

 

Thiện nam tử! nhữ đương vãng nghệ Văn-thù-sư-lợi thiện tri thức sở nhi vấn chi ngôn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà nhi nhập Phổ Hiền hạnh môn? vân hà thành tựu? vân hà quảng đại? vân hà tùy thuận? vân hà thanh tịnh? vân hà viên mãn?

Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên qua đến chỗ Văn-Thù Sư-Lợi thiện-tri-thức mà hỏi rằng: Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào nhập Phổ-Hiền hạnh-môn, thế nào thành-tựu, thế nào quảng đại, thế nào tùy thuận, thế nào thanh-tịnh, thề nào viên-mãn?

Giảng: Thiện nam tử! Ngươi nên đi qua chỗ thiện tri thức Văn Thù Sư Lợi, mà hỏi rằng: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh ? Làm thế nào mà vào hạnh môn Bồ Tát Phổ Hiền ? Làm thế nào được thành tựu Bồ Tát đạo ? Làm thế nào phát được tâm bồ đề rộng lớn ? Làm thế nào tuỳ thuận được tất cả chúng sinh ? Làm thế nào được thanh tịnh thân tâm ? Làm thế nào được viên mãn hạnh nguyện ?

 

Thiện nam tử! bỉ đương vi nhữ phân biệt diễn thuyết.

Văn-Thù Sư-Lợi sẽ vì ngươi mà phân-biệt diễn nói.

Giảng: Thiện nam tử ! Bồ Tát Văn Thù sẽ vì ngươi phân biệt diễn nói.

 

Hà dĩ cố? Văn-thù-sư-lợi sở hữu đại nguyện, phi dư vô lượng bách thiên ức na-do-tha Bồ Tát chi sở năng hữu.

Tại sao vậy? Vì những đại-nguyện của Văn-Thù Sư-Lợi, chẳng phải vô-lượng trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát khác có được.

Giảng: Tại sao vậy? Vì Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi có đại nguyện, chẳng phải vô lượng trăm ngàn ức Na do tha Bồ Tát khác có được.

 

Thiện nam tử! Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, kỳ hạnh quảng đại, kỳ nguyện vô biên, xuất sanh nhất thiết Bồ Tát công đức vô hữu hưu tức.

Nầy Thiện-nam-tử! Văn-Thù Sư-Lợi có hạnh quảng đại, nguyện vô-biên, xuất sanh tất cả Bồ-Tát công-đức không thôi dứt.

Giảng: Thiện nam tử ! Văn Thù Sư Lợi đồng tử, hạnh nguyện của Ngài rộng lớn vô biên, sinh ra tất cả công đức của Bồ Tát, không ngừng nghỉ.

 

Thiện nam tử! Văn-thù-sư-lợi thường vi vô lượng bách thiên ức na-do-tha chư Phật mẫu, thường vi vô lượng bách thiên ức na-do-tha Bồ Tát sư, giáo hóa thành thục nhất thiết chúng sanh, danh xưng phổ văn thập phương thế giới; thường ư nhất thiết chư Phật chúng trung vi thuyết pháp sư, nhất thiết Như Lai chi sở tán thán; trụ thậm thâm trí, năng như thật kiến nhất thiết chư pháp, thông đạt nhất thiết giải thoát cảnh giới, cứu cánh Phổ Hiền sở hạnh chư hạnh.

Văn-Thù Sư-Lợi thường làm mẹ của vô-lượng trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật. Thường làm thầy của vô-lương trăm ngàn ức na-do-tha Bồ-Tát. Giáo hóa thành-tựu vô-lượng chúng-sanh. Tiếng đồn vang khắp mười phương thế-giới. Thường làm Thuyết-Pháp-Sư trong tất cả chúng hội của chư Phật. Ðược tất cả Như-Lai khen ngợi, trụ nơi trí thậm-thâm, có thể thấy tất cả pháp như thiệt, thông đạt tất cả cảnh-giới giải-thoát, rốt ráo những hạnh của Phổ-Hiền.

Giảng: Thiện nam tử ! Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thường làm mẹ của vô lượng trăm ngàn ức Na do tha chư Phật. Thường làm thầy của vô lượng trăm ngàn ức Na do tha Bồ Tát, giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh, cho nên danh đồn nghe khắp mười phương thế giới, hết thảy chúng sinh đều biết danh hiệu của Ngài, thường ở trong chúng của tất cả chư Phật, làm thuyết pháp sư, được tất cả Như Lai khen ngợi, Ngài trụ nơi trí huệ thâm sâu, thấu triệt đáy nguồn của pháp, biết nơi rốt ráo, thấy được thật tướng lý thể của tất cả các pháp như thật, thông đạt tất cả cảnh giới giải thoát, rốt ráo các hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu hành.

 

Thiện nam tử! Văn-thù-sư-lợi Đồng tử thị nhữ thiện tri thức, lệnh nhữ đắc sanh Như Lai gia, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn, phát khởi nhất thiết trợ đạo Pháp, trực ngộ chân thật thiện tri thức; lệnh nhữ tu nhất thiết công đức, nhập nhất thiết nguyện võng, trụ nhất thiết đại nguyện; vi nhữ thuyết nhất thiết Bồ Tát bí mật pháp, Hiện-Nhất-Thiết Bồ Tát nan tư hành; dữ nhữ vãng tích đồng sanh đồng hành.

Nầy Thiện-nam-tử! Văn-Thù Sư-Lợi là thiện-tri-thức của ngươi, làm cho ngươi được sanh nhà Như-Lai, trưởng dưỡng tất cả thiện-căn, phát khởi tất cả pháp trợ-đạo, gặp thiện-tri-thức chơn thiệt khiến người tu tất cả công-đức, nhập tất cả nguyện võng, trụ tất cả đại-nguyện, vì ngươi mà nói tất cả pháp bí-mật của Bồ-Tát, hiện tất cả hạnh bất-tư-nghì của bồ-tát, thuở xưa cùng người đồng sanh đồng hành.

Giảng: Thiện nam tử! Văn Thù Sư Lợi đồng tử, Ngài là thiện tri thức chân chánh của ngươi, là thầy giáo thọ của ngươi. Ngài khiến cho ngươi được sinh vào nhà Như Lai, dưỡng lớn tất cả các căn lành, phát khởi tất cả pháp trợ đạo, gặp được chân thật thiện tri thức, khiến cho ngươi tu hành tất cả công đức, vào được tất cả lưới đại nguyện, trụ nơi tất cả đại nguyện. Vì ngươi nói tất cả pháp bí mật của Bồ Tát, thị hiện tất cả hạnh khó nghĩ bàn của Bồ Tát, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là thiện tri thức của người, là bạn đồng tu, đồng sinh, đồng hạnh, với ngươi thuở xưa,

 

Thị cố, Thiện nam tử! nhữ ưng vãng nghệ Văn Thù chi sở mạc sanh bì yếm, Văn-thù-sư-lợi đương vi nhữ nhất thiết công đức.

Vì thế nên nguơi phải đến chỗ Văn-Thù Sư-Lợi chớ có nhàm mỏi. Văn-Thù Sư-Lợi sẽ vì ngươi mà nói tất cả công-đức.

Giảng: Vì vậy cho nên thiện nam tử! Ngươi hãy đi đến chỗ Bồ Tát Văn Thù, ngươi đừng sinh tâm nhàm mỏi. Kỳ thật, ngươi bỏ gần cầu xa, đi tới đây, tìm đến chỗ đại lầu các báu của ta, nhân duyên giữa ta với ngươi chẳng sâu bằng giữa ngươi với Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi sẽ vì ngươi nói tất cả công đức.

 

Hà dĩ cố? nhữ tiên sở kiến chư thiện tri thức văn Bồ Tát hạnh, nhập giải thoát môn, mãn túc đại nguyện, giai thị Văn Thù uy thần chi lực, Văn-thù-sư-lợi ư nhất thiết xứ hàm đắc cứu cánh.

Tại sao vậy? Vì trước kia ngươi thấy thiện-tri-thức, nghe bồ-tát-hạnh, nhập môn giải-thoát, đầy đủ đại-nguyện, đều do thần-lực của Văn-Thù Sư-Lợi. Văn-Thù Sư-Lợi đều được rốt ráo tất cả xứ.

Giảng: Tại sao vậy ? Vì trước hết ngươi gặp được các thiện tri thức, nghe được hạnh của Bồ Tát tu hành, vào được môn giải thoát, đầy đủ đại nguyện, đều nhờ oai thần lực của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, thị hiện ra cảnh giới, để giáo hoá ngươi. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở tất cả mọi nơi, đối với tất cả pháp, đều được nơi rốt ráo. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi trong quá khứ đã thành Phật. Bồ Tát Di Lặc là vị Phật tương lai.

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Lúc đó Thiện-Tài Ðồng-Tử đảnh lễ chân Di-Lặc Bồ-Tát, hữu-nhiễu vô-lượng vòng, ân-cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe Bồ Tát Di Lặc nói rồi, biết mình đã đi qua một trăm mười thành, tham phương nhiều vị thiện tri thức như vậy, nguyên lai đều là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thị hiện. Thiện Tài đồng tử biết mình háo cao vụ viễn, bỏ gốc tìm ngọn, đi qua rất nhiều con đường, đi khắp nơi tìm cầu thiện tri thức, thưa hỏi làm thế nào học Bồ Tát hạnh ? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo ? Nguyên lai thiện tri thức chân chánh, tức là vị thiện tri thức ban đầu đã gặp qua, đó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi.

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Bồ Tát Di Lặc, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, có cảm giác lưu luyến không nỡ rời xa, sau đó từ tạ mà đi, hướng về nước Phổ Môn, thành Tô Ma Na, lại tiếp tục tham phương Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, thỉnh giáo pháp yếu cần biết.

Ở trên là cảnh nhiếp đức thành nhân tướng, ở dưới bắt đầu giải thích sơ về tướng trí chiếu không hai. Trong Phẩm Vào Pháp Giới, phân làm năm tướng :

1. Phó thác bậc tu hành tướng, tính ra có 41 vị thiện tri thức (có cả Bồ Tát Văn Thù).

2. Hội duyên vào thật tướng, tính ra có 11 vị thiện tri thức (năm mươi tham Hữu Đức Sinh đồng nam và Hữu Đức Sinh đồng nữ hai người).

3. Nhiếp đức thành nhân tướng, tính ra có một vị thiện tri thức.

4. Trí chiếu không hai tướng, tính ra có một vị thiện tri thức.

5. Hiển nhân quảng đại tướng, tính ra có một vị thiện tri thức. Trong năm mươi ba tham, tổng cộng tham năm mươi lăm vị thiện tri thức.

Hôm nay nói với đại chúng về quy cụ trong tùng lâm, vì có người mới đến, không hiểu quy cụ của đạo tràng, cho nên nói sơ lược một chút, để cho người mới đến biết tính quan trọng của quy cụ, do đó có câu : « Vô quy cụ bất thành phương viên », biết đi đứng nằm ngồi bốn đại oai nghi, là đại biểu tư cách của người xuất gia. Gia có gia pháp, tự có tự quy. Quy cụ của đạo tràng lập lên, nhứt định phải tuân theo, không thể làm trái. Bằng không, phạm giới luật thì sẽ bị truật xuất ra khỏi cửa Phật.

Tùng lâm ở tại Trung Quốc, khi giảng kinh thuyết pháp, thì chẳng có nghi thức thỉnh pháp, cũng chẳng có quy cụ đảnh lễ pháp sư. Đại chúng đi vào trong giảng đường, ngồi vào chỗ ngồi. Có người muốn đảnh lễ Pháp sư giảng kinh, thì có thể từ chỗ ngồi đi xuống, đến trước mặt vị pháp sư, cung kính đảnh lễ.

 

=======================

QUYỂN TÁM MƯƠI

52. BỒ TÁT VĂN THÙ SƯ LỢI
TRÍ CHIẾU TƯỚNG KHÔNG HAI

Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, dịch là Diệu cát tường, hoặc là Diệu đức. Ngài sinh vào nhà Bà La Môn, nước Xá Vệ, tụ lạc Đa La, xứ Ấn Độ thời xưa. Khi Ngài sinh ra, thì có mười điềm lành cát tường, đó là :
1. Quang minh đầy nhà.
2. Cam lồ đầy sân.
3. Đất vọt lên bảy báu.
4. Thần mở bảo tàng.
5. Gà sinh phụng hoàng.
6. Heo sinh rồng con.
7. Ngựa sinh kỳ lân.
8. Trâu sinh bạch trạch.
9. Thóc biến thành vàng.
10. Voi đủ sáu ngà.

Cho nên là diệu cát tường. Bồ Tát Văn Thù thuở xưa, đã từng là Thầy của tám vị Phật, vị Phật thứ tám là Phật Nhiên Đăng. Phật Nhiên Đăng là thầy của Phật Thích Ca Mâu Ni, cho nên Bồ Tát Văn Thù cũng là thầy của Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong Kinh Xứ Thai có nói rằng : Xưa làm thầy của Phật, nay làm đệ tử Phật.

Trí chiếu tướng không hai, trí tức là căn bổn trí, chiếu tức là thuỷ giác trí. Thuỷ bổn hợp làm một, nên gọi là tướng không hai. Lại rằng : Hiện tiền nhân pháp sinh quả, vì tuyệt cảnh trí đẳng chư nhị tướng. Hơn nữa Thiện Tài chướng sạch hoặc trừ, chưa bắt đầu động niệm, cho nên phản chiếu, chỉ là tâm ban đầu, càng không khác lạ vậy, tức tín trí không hai.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử y Di lặc Bồ-Tát Ma-ha-tát giáo, tiệm thứ nhi hành, Kinh do nhất bách nhất thập dư thành dĩ, đáo Phổ môn quốc Tô ma na thành, trụ kỳ môn sở, tư tánh Văn-thù-sư-lợi, tùy thuận quan sát, chu toàn cầu mịch, hy dục phụng cận.

Y lời dạy của Di-lặc Bồ-Tát, Thiện-Tài đi qua hơn một trăm mười thành đến nước Phồ-Môn, thành Tô-Ma-Na, ở nơi cửa  thành suy tìm Văn-Thù Sư-Lợi, trông được gặp gỡ kính thờ.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử y chiếu theo lời dạy của đại Bồ Tát Di Lặc, từ từ mà đi, trải qua hơn một trăm mười thành rồi (một thành gặp được một vị thiện tri thức, hoặc gặp được nhiều vị thiện tri thức. Hoặc nhiều thành mới gặp được một vị thiện tri thức), đến nước Phổ Môn, thành Tô Ma Na, đứng ở cửa thành, suy gẫm Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, tuỳ thuận nhân duyên để quán sát, tìm cầu khắp nơi, mong muốn gặp được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, để gần gũi phụng thờ.

Số mục một trăm mười, là biểu thị Thập địa tu mười pháp Ba La Mật. Mỗi một địa, có đủ mười Ba La Mật, cho nên thành một trăm. Đẳng Giác một bậc, hàm đủ thập địa, cho nên thành mười. Tổng cộng là số một trăm mười.

 

Thị thời, Văn-thù-sư-lợi dao thân hữu thủ, qua nhất bách nhất thập do-tuần, án Thiện Tài đảnh, tác như thị ngôn:

Bây giờ Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát từ xa đưa tay hữu qua khỏi một trăm mười do-tuần áp trên đầu Thiện-Tài mà nói rằng:

Giảng: Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi là đại Thánh nhân, cho nên Ngài có trí huệ tha tâm thông. Ngài ở trong định quán sát Thiện Tài đồng tử tìm cầu Ngài khắp nơi. Lúc đó, Ngài đang ở nơi rất xa, dũi tay phải, trải qua một trăm mười do tuần, áp tay của Ngài trên đỉnh đầu Thiện Tài đồng tử, đây là Bồ Tát gia trì, truyền trao trí huệ cho Thiện Tài đồng tử, khiến cho Thiện Tài đồng tử đắc được đại trí huệ, mà nói với Thiện Tài rằng :

 

Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhược ly tín căn, tâm liệt ưu hối, công hành bất cụ, thoái thất tinh cần, ư nhất thiện căn tâm sanh trụ trước, ư thiểu công đức tiện dĩ vi túc, bất năng thiện xảo phát khởi hạnh nguyện, bất vi thiện tri thức chi sở nhiếp hộ, bất vi Như Lai chi sở ức niệm, bất năng liễu tri như thị pháp tánh, như thị lý thú, như thị pháp môn, như thị sở hạnh, như thị cảnh giới. Nhược chu biến tri, nhược chủng chủng tri, nhược tận nguyên để, nhược giải liễu, nhược thú nhập, nhược giải thuyết, nhược phân biệt, nhược chứng tri, nhược hoạch đắc, giai tất bất năng.

Lành thay! Lành thay! Nầy Thiện-nam-tử! Nếu rời tín-căn thời tâm yếu kém, lo sợ ăn-năn công-hạnh chẳng tròn đủ, thối thất tinh-cần, nơi một thiện-căn sanh lòng trụ trước, với chút ít công-đức đã cho là đủ. Chẳng thể phát khởi hạnh nguyện, chẳng được thiện-tri-thức nhiếp thọ, chẳng được Như-Lai ức niệm, chẳng biết được pháp-tánh như vậy, lý-thú như vậy, pháp-môn như vậy, công-hạnh như vậy, cảnh-giới như vậy, đều không thể biết khắp, biết nhiều, tột nguồn đáy, hiểu rõ, xu nhập giải-thoát, phân-biệt, chứng biết, chứng đắc, tất cả điều trên đây đều không thể được.

Giảng: Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ngươi muốn học tập Phật pháp, tu hành Bồ Tát đạo. Nếu lìa khỏi tín căn, thì không thể có sự thành tựu. Tín căn là một trong năm căn, những gì là năm căn ? Đó là : Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Người học Phật pháp, trước hết phải có tín căn, do đó có câu :
«Tín là nguồn đạo mẹ công đức
Dưỡng lớn tất cả các pháp lành ».

Nếu tín căn đoạn tuyệt, thì không thể nào tiếp thọ được Phật pháp, không thể nào học tập được Phật pháp. Tại sao ? Vì học Phật pháp, thì phải tin Phật pháp, phải y pháp tu hành.

Các vị hằng ngày giảng Kinh Hoa Nghiêm, hằng ngày nghe Kinh Hoa Nghiêm, nếu không y chiếu theo đạo lý trong kinh mà tu hành, thì không thể mở rộng tâm lượng của bạn rộng lớn được, cũng không thể hiện ra trí huệ của bạn được. Nghe Kinh Hoa Nghiêm đã nhiều năm, mà vẫn còn ích kỷ, lợi mình, chỉ biết lợi ích chính mình, không biết lợi ích cho người khác, đây là không có tín căn. Nếu muốn có tín căn, thì nhất định phải y chiếu theo cảnh giới Kinh Hoa Nghiêm mà tu trì. Nếu khi nào gặp cảnh giới đến khảo nghiệm, mới nghĩ tưởng đến Kinh Hoa Nghiêm, ta nên làm thế nào đây ? Ta nên phát tâm bồ đề như thế nào đây ? Suy nghĩ như thế, thì quá trễ. Đừng bị cảnh giới chuyển, mà phải chuyển được cảnh giới. Có định lực, thì dù :
« Núi Thái sập đổ trước mắt cũng không sợ
Vàng bạc trước mắt chẳng động tâm ».

Cảnh giới nầy, chẳng phải một số người có thể làm được, cho nên phải tu hành, thì mới có thể đến được trình độ:
« Mắt thấy hình sắc bên trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay ».

Bồ Tát Văn Thù đã nói với Thiện Tài đồng tử : « Nếu lìa tín căn, thì tâm sẽ yếu kém, lo sợ ăn năn », đây là đối với bạn, tôi, chúng sinh, hiện tại mà nói. Thiện Tài đồng tử đã có tín căn rồi, nếu chẳng có tín căn, thì Ngài không thể nào vì pháp quên mình, đi khắp nơi tìm cầu thiện tri thức, học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Ngài đã đầy đủ tín căn, còn chúng ta chưa có đầy đủ tín căn. Bồ Tát Văn Thù gián tiếp vì chúng ta thuyết pháp rằng : Các vị phải học tập tinh thần cầu pháp của Thiện Tài đồng tử, phải y chiếu theo đạo lý Kinh Hoa Nghiêm mà tu hành. Các vị phải biết, nếu lìa khỏi tín căn, thì tâm của các vị sẽ yếu kém, sẽ lo lắng ăn năn. Chỉ biết vì mình chẳng biết vì người, thì sẽ lo buồn. Lo buồn là gì ? « Chao ôi ! Việc nầy tôi làm sai rồi ! Tôi không nên làm.

Tại sao ? Vì đối với tôi chẳng có chút lợi ích gì. Tâm lượng như thế còn nhỏ hơn so với hạt bụi, việc lợi ích một chút cho người khác không chịu làm, đều muốn chiếm tiện nghi. Phải biết, thiệt thòi là chiếm tiện nghi. Học Phật pháp tức là ở đâu cũng chịu thiệt thòi, người khác không thể nhẫn được mà bạn nhẫn được. Người khác không thể nhường được mà bạn nhường được. Người khác không thể ăn mà bạn ăn được. Người khác không thể mặc mà bạn mặc được. Rõ ràng trước mắt thấy là thiệt thòi, nhưng về mặt nhân quả thấy là chiếm tiện nghi. Được như vậy, thì sẽ tăng trưởng phước báo, tích tập công đức. Học Phật pháp thì phải phóng tâm lượng cho rộng lớn. Do đó có câu :

« Tâm bao được thái hư
Lượng khắp cùng pháp giới ».

Giống như Vạn Phật Thành thành lập trường đại học Pháp Giới, trường trung học Bồi Đức, trường tiểu học Dục Lương. Mục đích là để lợi ích người khác, chẳng có tâm lợi ích chính mình. Nếu người nào chỉ muốn lợi ích cho mình, tức là tâm hạ liệt yếu kém, thì sẽ lo lắng ăn năn.

Nếu có tâm ích kỷ lợi mình, thì làm sao có công đức ? Làm sao tu hành ? Do đó, tất cả công đức chẳng viên mãn, tất cả sự tu hành chẳng đầy đủ. Vì có tâm ích kỷ lợi mình, cho nên lúc nào cũng tính toán cho túi da hôi thối của mình, lại còn sợ túi da hôi thối đói khát, bệnh tật, chết đi, vì nó mà lo lắng, suốt ngày đến tối ví nó mà lo sợ, sợ tai nạn nầy đến, lại sợ tai nạn kia đến, trong tâm đều bất an, đều lo lắng ăn năn.

Có những vấn đề nầy phát sinh ra rồi, thì sẽ thối thất tâm bồ đề, chẳng chịu tinh tấn tiến về trước, mà thối lùi về sau. Có tâm lý nầy tác quái, thì đối với sự tu hành là vật chướng ngại lớn nhất, sẽ không thể tiến bộ, đương nhiên làm gì nói đến có sự thành tựu.

Mình trồng một chút căn lành, bèn sinh ra một thứ chấp trước, tự mình tuyên truyền, tự hào nói : « Tôi làm được bao nhiêu việc thiện, Phật pháp mà tôi học được viên mãn hơn người khác », đi khắp nơi rao bán sự tu hành của mình, bạn học càng nhiều, thì tâm ích kỷ, tâm lợi mình, càng nặng bấy nhiêu, chẳng có chút lợi ích gì.

“Được chút công đức, bèn cho là đủ”, ví như bố thí cho người nào đó một đồng tiền, cũng sinh tâm chấp trước.

Gặp người nào đó nói : « Hôm nay tôi làm việc công đức, bố thí một đồng tiền », hoặc nói : « Hôm nay tôi không ăn cơm, tôi để dành bố thí cho người khác, không biết có bao nhiêu công đức ?», hoặc nói : « Hôm nay tôi lạy Phật, nhứt định có công đức » ! Sinh ra những tâm chấp trước không cần thiết như thế, làm được chút công đức, cho rằng mình ngon, độc nhứt trong thiên hạ, tư tưởng như thế thật là ấu trĩ đáng thương xót !

Không thể khéo léo phát khởi đại hạnh đại nguyện, học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Cứ tìm cầu danh lợi, có danh có lợi là tôi, không danh không lợi là bạn. Nếu có thứ tư tưởng nầy, thì sẽ chẳng được thiện tri thức nhiếp hộ, chẳng được chư Phật nghĩ nhớ. Phật sẽ chẳng nhớ tới bạn, chẳng nghĩ tới bạn, vì bạn quá kém hèn, đố kị người khác tu đạo, chướng ngại người khác học Phật pháp. Lại ích kỷ lại lợi mình, đó là biến thành tội nhân trong Phật giáo.

Bạn không thể biết rõ pháp tánh như vậy, lý thú như vậy, pháp môn như vậy, sở hành như vậy, cảnh giới như vậy. Đối với những pháp đó, hoặc biết khắp cùng, hoặc biết đủ thứ, hoặc tận đáy nguồn, biết chỗ rốt ráo, hoặc hiểu rõ tất cả Phật pháp, hoặc thú nhập tất cả Phật pháp, hoặc giải nói tất cả Phật pháp, hoặc phân biệt tất cả sự tướng, hoặc chứng biết tất cả quả vị, hoặc đắc được nhất thiết trí huệ, những sự việc trên đây, bạn đều không thể làm được.

 

Thị thời, Văn-thù-sư-lợi tuyên thuyết thử pháp, thị giáo lợi hỉ, lệnh Thiện tài đồng tử thành tựu a-tăng-kì Pháp môn, cụ túc vô lượng Đại trí quang minh, lệnh đắc Bồ Tát vô biên tế Đà-la-ni, vô biên tế nguyện, vô biên tế tam muội, vô biên tế thần thông, vô biên tế trí, lệnh nhập Phổ Hiền hạnh đạo tràng, cập trí Thiện Tài tự sở trụ xứ; Văn-thù-sư-lợi hoàn nhiếp bất hiện.

Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát tuyên nói pháp ấy cho Thiện-Tài được lợi ích hoan-hỷ thành-tựu vô-số pháp-môn, đầy đủ vô-lượng đại-trí quang-minh, khiến được Bồ-Tát vô-biên-tế đà-la-ni, vô-biên-tế nguyện, vô-biên-tế tam-muội, vô-biên-tế thần-thông, vô-biên-tế trí, khiến vào đạo-tràng phổ-hiền-hạnh. Lại để Thiện-Tài ở tại chỗ cũ, Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát nhiếp thần-lực chẳng hiện.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi tuyên nói pháp nầy, chỉ bày pháp môn, khuyên dạy tu hành, đắc được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ, khiến cho Thiện Tài đồng tử thành tựu A tăng kỳ pháp môn. Khiến cho Ngài đầy đủ vô lượng đại trí quang minh, khiến cho Ngài đắc được Bồ Tát Đà la ni không bờ mé, nguyện không bờ mé, tam muội không bờ mé, thần thông không bờ mé, trí huệ không bờ mé. Khiến cho Ngài nhập vào đạo tràng hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền và để Thiện Tài ở chỗ trụ xứ của mình.

Pháp thân của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi vẫn nhiếp chẳng hiện, biểu thị vào thật tướng, thì xa lìa tất cả tâm cảnh giới tướng. Cho nên gọi là đạo tràng hạnh Phổ Hiền, tức là lý pháp giới. Tự ở chỗ của mình, tức là trí pháp giới. Lý trí nhứt như, tín cùng trí cảnh, tín tướng liền mất. Cho nên nói chẳng hiện.

 

Ư thị, Thiện Tài tư tánh quan sát, nhất tâm nguyện kiến Văn-thù-sư-lợi, cập kiến tam thiên đại thiên thế giới vi trần số chư thiện tri thức, tất giai thân cận, cung kính thừa sự, thọ hành kỳ giáo, vô hữu vi nghịch;

Thiện-Tài tư-duy quán-sát nhất-tâm nguyện thấy Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, và muốn thấy Ðại-Thiên thế-giới vi-trần-số thiện-tri-thức để gần-gũi cung-kính phụng thờ tuân hành giáo-pháp không chống trái

Giảng: Do đó Thiện Tài nhìn chẳng thấy Bồ Tát Văn Thù, bèn suy gẫm quán sát, một lòng một dạ muốn thấy được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cùng với các thiện tri thức nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới. Thiện Tài đồng tử muốn được gần gũi, cung kính, hầu hạ, tiếp thọ, tu hành theo lời dạy của các Ngài, không khi nào trái nghịch.

Ban đầu Bồ Tát Văn Thù một người, vì tâm tin ban đầu. Kế đến sau Văn Thù, là trí mãn chung. Cho nên thấy hết ba ngàn vị bạn lành nầy, sau Phổ Hiền lý trí không hai. Lại nữa, trước các bạn lành, mỗi mỗi đều gặp nhau, tức là thuần môn. Các bạn lành trong đó, một thời đốn kiến, tức là hiển tạp môn. Sau Phổ Hiền một người, đủ trước các bạn lành, tức là thuần tạp vô ngại.

==================

53. BỒ TÁT PHỔ HIỀN
HIỂN NHÂN TƯỚNG RỘNG LỚN

Phổ Hiền (thể tánh khắp cùng là Phổ, tuy duyên thành đức là Hiền). Bồ Tát là chủ thuyết pháp Kinh Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm tam Thánh, tức là : Đức Phật Tỳ Lô Giá Na ở giữa, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên tay trái, Bồ Tát Phổ Hiền ở bên tay phải. Bồ Tát Phổ Hiền đã từng phát mười đại nguyện vương, là hạnh môn cùng tu hành của các Bồ Tát. Những gì là mười điều nguyện vương?  Đó là :

1. Lễ kính các đức Phật.
2. Khen ngợi Như Lai.
3. Rộng tu cúng dường.
4. Sám hối nghiệp chướng.
5. Tuỳ hỉ công đức.
6. Thỉnh chuyển bánh xe pháp.
7. Thỉnh Phật ở lại đời.
8. Thường theo Phật học.
9. Luôn thuận chúng sinh.
10. Thảy đều hồi hướng.
Mười điều nguyện vương nầy, cũng là pháp môn vì Thiện Tài đồng tử mà nói.

Ở Trung Quốc có bốn đại danh sơn, là bốn đạo tràng của bốn vị đại Bồ Tát. Núi Ngũ Đài ở Sơn Tây là đạo tràng của Bồ Tát Văn Thù. Núi Nga My ở Tứ Xuyên là đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền. Núi Phổ Đà ở Triết Giang là đạo tràng của Bồ Tát Quán Âm. Núi Cửu Hoa ở An Huy là đạo tràng của Bồ Tát Địa Tạng, do đó có câu: “Thiên hạ danh sơn tăng tu hộ”.

Đoạn nầy hiển nhân tướng rộng lớn, ở trước chiếu lý không hai, hiển bày thâm sâu, mới kham nhân thành Phật rộng lớn. Tuỳ mỗi mỗi nhân, nên đều xưng tánh pháp giới. Văn Thù bát nhã, tức nhiếp tướng quy về thể. Phổ Hiền pháp giới, tức bí mật trùng trùng.

 

Tăng trưởng thú cầu nhất thiết trí tuệ, quảng đại bi hải, ích Đại từ vân, phổ quán chúng sanh, sanh đại hoan hỉ, an trụ Bồ Tát tịch tĩnh pháp môn; phổ duyên nhất thiết quảng đại cảnh giới, học nhất thiết Phật quảng đại công đức, nhập nhất thiết Phật quyết định tri kiến, tăng nhất thiết trí trợ đạo chi Pháp, thiện tu nhất thiết Bồ Tát thâm tâm, tri tam thế Phật xuất hưng thứ đệ;

Tăng trưởng xu cầu tất cả trí-huệ, làm rộng biển đại-bi, thêm mây đại-từ, quán-sát khắp mọi loài sanh lòng hoan-hỷ, an-trụ pháp-môn tịch-tịnh của Bồ-Tát, duyên khắp tất cả cảnh-giới quảng-đại, học tất cả công-đức quảng đại của Phật, nhập tất cả tri-kiến quyết định của Phật, thêm pháp trợ-đạo cho nhất-thiết-trí, khéo tu thâm-tâm của tất cả Bồ-Tát, biết tam-thế Phật thứ đệ xuất thế

Giảng: Thiện Tài đồng tử tăng trưởng xu hướng cầu nhất thiết trí huệ, biển đại bi rộng lớn, mây đại từ tăng ích. Quán sát khắp tất cả chúng sinh, sinh tâm đại hoan hỉ. Ngài an trụ trong pháp môn tịch tĩnh của Bồ Tát, Ngài khắp duyên cầu tất cả cảnh giới rộng lớn. Ngài học tập công đức rộng lớn của tất cả chư Phật. Ngài nhập vào tri kiến quyết định của tất cả chư Phật. Có trí huệ chân chánh, mới có con mắt chọn pháp. Ngài hay tăng trưởng pháp trợ đạo nhất thiết trí. Ngài khéo tu tâm thâm sâu của tất cả Bồ Tát, tức là tâm cầu pháp sâu nặng. Ngài biết ba đời chư Phật xuất hiện ra đời có thứ lớp, vị Phật nào ra đời trước, vị Phật nào ra đời sau, Ngài đều biết rõ ràng, chẳng tán loạn.

 

Nhập nhất thiết pháp hải, chuyển nhất thiết pháp luân, sanh nhất thiết thế gian, nhập ư nhất thiết Bồ Tát nguyện hải, trụ nhất thiết kiếp tu Bồ Tát hạnh, chiếu minh nhất thiết Như Lai cảnh giới, trưởng dưỡng nhất thiết Bồ Tát chư căn; hoạch nhất thiết trí thanh Tịnh Quang minh, phổ chiếu thập phương, trừ chư ám chướng, Trí Chu Pháp giới; ư nhất thiết Phật sát, nhất thiết chư hữu, phổ hiện kỳ thân, mị bất chu biến; tồi nhất thiết chướng, nhập vô ngại Pháp, trụ ư Pháp giới bình đẳng chi địa; quan sát Phổ Hiền giải thoát cảnh giới, tức văn Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát danh tự, hạnh nguyện, trợ đạo, chánh đạo, chư địa địa, phương tiện địa, nhập địa, thắng tiến địa, tứ trụ địa, tu tập địa, cảnh giới địa, uy lực địa, đồng trụ khát ngưỡng.

Vào biển nhất-thiết-pháp, chuyển xe nhất-thiết-pháp, sanh trong tất cả thế-gian, nhập nơi tất cả bồ-tát nguyện-hải, trụ tất cả kiếp tu bồ-tát-hạnh, chiếu rõ tất cả cảnh-giới Như-Lai, trưởng dưỡng chư căn của tất cả Bồ-Tát, được quang-minh thanh-tịnh của nhất-thiết-trí, chiếu khắp mười phương, trừ hết tôi tăm chướng-ngại, biết khắp pháp-giới, hiện thân mình khắp tất cả cõi, tất cả loài, dẹp tất cả chướng, vào khắp vô-ngại, trụ nơi bực pháp-giới bình-đẳng, quán-sát cảnh-giới giải-thoát của Phổ-Hiền, được nghe danh tự hạnh nguyện của Phổ-Hiền đại Bồ-Tát, cũng nghe trợ-đạo, chánh-đạo, bậc chư địa, phương-tiện-địa, nhập-địa, thắng-tấn-địa, trụ-địa, tu-tập-địa, cảnh-giới-địa, oai-lực-địa, đồng-trụ khát ngưỡng.

Giảng: Ngài chứng nhập biển tất cả các pháp, Ngài hay chuyển tất cả bánh xe pháp, Ngài hay sinh ra tất cả thế gian, Ngài nhập vào biển đại nguyện của tất cả Bồ Tát. Ngài trụ trong tất cả kiếp, tu Bồ Tát hạnh, Ngài chiếu rõ tất cả cảnh giới của tất cả chư Phật, Ngài dưỡng lớn các căn lành của tất cả Bồ Tát. Ngài đắc được nhất thiết trí huệ quang minh thanh tịnh. Ngài chiếu sáng khắp mười phương trừ diệt các đen tối chướng ngại. Trí huệ của Ngài khắp cùng pháp giới, do đó có câu: “Trí vô bất chu, đức vô bất hoá”, Ngài ở nơi tất cả cõi Phật, trong tất cả hai mươi lăm cõi, khắp thị hiện hoá thân mình cùng khắp, để giáo hoá chúng sinh, chẳng có chỗ nào mà không có. Ngài hàng phục được tất cả ma chướng, Ngài nhập vào pháp vô ngại, Ngài trụ nơi pháp giới bậc bình đẳng, Ngài quán sát cảnh giới giải thoát của Bồ Tát Phổ Hiền. Thiện Tài đồng tử được Bồ Tát Văn Thù rờ đầu rồi, đắc được những cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế.

Thiện Tài đồng tử lập tức nghe danh tự của đại Bồ Tát Phổ Hiền, hạnh nguyện của Ngài, trợ đạo của Ngài, chánh đạo của Ngài, cùng với các địa của Ngài. Có địa phương tiện, địa vào, địa thắng tấn (không cần y thứ lớp mà tiến), địa trụ, địa tu tập, địa cảnh giới, địa oai lực, địa đồng trụ (đồng nương Phật trí mà trụ). Thiện Tài đồng tử nghe được đủ thứ cảnh giới như vậy.

 

Dục kiến Phổ Hiền Bồ Tát, tức ư thử Kim Cương tạng Bồ-đề trường, Tỳ Lô Giá Na Như Lai sư tử tọa tiền, nhất thiết bảo liên hoa tạng tọa thượng, khởi đẳng hư không giới quảng đại tâm, xả nhất thiết sát ly nhất thiết trước vô ngại tâm, phổ hành nhất thiết vô ngại pháp vô ngại tâm, biến nhập nhất thiết thập phương hải vô ngại tâm, phổ nhập nhất thiết trí cảnh giới thanh tịnh tâm, quán đạo tràng trang nghiêm minh liễu tâm, nhập nhất thiết Phật Pháp hải quảng đại tâm, hóa nhất thiết chúng sanh giới chu biến tâm, tịnh nhất thiết quốc độ vô lượng tâm, trụ nhất thiết kiếp vô tận tâm, thú Như Lai thập lực cứu cánh tâm.

Thiện-Tài muốn thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, liền ở trước tòa sư-tử của Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai nơi Kim-Cang-Tạng Bồ-Ðề-Tràng, trên tòa Bửu-Liên-Hoa-Tạng, phát tâm rộng lớn như hư-không-giới, khởi tâm vô-ngại, bỏ tất cả cõi rời tất cả chấp, tâm vô-ngại đi trong tất cả pháp vô-ngại, tâm vô-ngại vào khắp tất cả thập phương, tâm thanh-tịnh vào cảnh-giới của nhất-thiết-trí, tâm minh-liễu quán-sát đạo-tràng trang-nghiêm, tâm quảng-đại nhập tất cả phật-pháp-hải, tâm châu-biến hóa-độ tất cả chúng-sanh-giới, tâm vô-lượng tịnh tất cả phật-độ, tâm vô-tận trụ tất cả kiếp, tâm cứu-cánh xu hướng Như-Lai thập-lực.

Giảng: Thiện Tài đồng tử khát ngưỡng muốn thấy Bồ Tát Phổ Hiền. Lập tức ở tại kim cang tạng bồ đề tràng đó, trước toà sư tử Tỳ Lô Giá Na Như Lai, trên toà Nhất thiết bảo liên hoa tạng, sinh khởi mười một thứ tâm. Thiện Tài đồng tử, sinh khởi tâm rộng lớn đồng cõi hư không.

1. Tâm vô ngại, xả bỏ tất cả cõi, lìa tất cả mọi sự chấp trước.

2. Tâm vô ngại, tu hành khắp tất cả pháp vô ngại.

3. Tâm vô ngại, vào khắp tất cả biển mười phương.

4. Tâm thanh tịnh, vào khắp cảnh giới nhất thiết trí.

5. Tâm thấu rõ, quán sát đạo tràng trang nghiêm.

6. Tâm rộng lớn, vào được tất cả biển Phật pháp.

7. Tâm khắp cùng, giáo hoá tất cả cõi chúng sinh.

8. Tâm vô lượng, thanh tịnh tất cả cõi nước.

9. Tâm vô tận, trụ trong tất cả kiếp.

10. Tâm rốt ráo, hướng nhập thập lực của Như Lai.

 

Thiện tài đồng tử khởi như thị tâm thời, do tự thiện căn lực, nhất thiết Như Lai sở gia bị lực, Phổ Hiền Bồ Tát đồng thiện căn lực cố, kiến thập chủng thụy tướng. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Lúc Thiện-Tài phát khởi những tâm như vậy, do sức thiện-căn của mình, được sức-gia-hộ của tất cả Như-Lai, do sức đồng thiện-căn của Phổ-Hiền Bồ-Tát, nên Thiện-Tài thấy mười thứ thoại-tướng, như là:

Giảng: Khi Thiện Tài đồng tử khởi mười một thứ tâm như vậy, thì do nhờ sức căn lành của mình, được sức lực tất cả chư Phật mười phương ba đời gia bị, cùng với sức đồng căn lành của Bồ Tát Phổ Hiền, nên thấy được mười tướng điềm lành. Những gì là mười tướng điềm lành? Đó là:

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, nhất thiết Như Lai thành chánh đẳng giác;

Thấy tất cả  phật-độ thanh-tịnh, tất cả như-lai thành đẳng-chánh-giác.

Giảng: 1. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả chư Phật thành Chánh Đẳng Giác.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, vô chư ác đạo;

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh không các ác-đạo.

Giảng: 2. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, không có các đường ác.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, chúng diệu liên hoa dĩ vi nghiêm sức;

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh nghiêm-sức với những diệu-liên-hoa

Giảng: 3. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, dùng các hoa sen đẹp làm nghiêm sức.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, nhất thiết chúng sanh thân tâm thanh tịnh;

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh thân tâm thanh-tịnh

Giảng: 4. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả chúng sinh thân tâm đều thanh tịnh.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, chủng chủng chúng bảo chi sở trang nghiêm;

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, trang-nghiêm với những châu bửu.

Giảng: 5. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, trang nghiêm đủ thứ các báu.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, nhất thiết chúng sanh chư tướng nghiêm thân;

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tướng tốt nghiêm thân

Giảng: 6. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả chúng sinh các tướng nghiêm thân.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, chư trang nghiêm vân dĩ phước kỳ thượng;

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, những mây trang-nghiêm che phía trên.

Giảng: 7. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, các mây trang nghiêm dùng che phủ phía trên.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, nhất thiết chúng sanh hỗ khởi từ tâm, đệ tướng lợi ích, bất vi não hại;

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh mến yêu nhau, giúp ích nhau, chẳng hại nhau.

Giảng: 8. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả chúng sinh hổ tương khởi tâm từ, lợi ích nhau, chẳng não hại nhau.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, đạo tràng trang nghiêm;

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, đạo-tràng trang-nghiêm.

Giảng: 9. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả đạo tràng đều thanh tịnh trang nghiêm.

 

Kiến nhất thiết Phật sát thanh tịnh, nhất thiết chúng sanh tâm thường niệm Phật.

Thấy tất cả phật-độ thanh-tịnh, tất cả chúng-sanh tâm thường niệm Phật.

Giảng: 10. Thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả chúng sinh tâm thường niệm Phật.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười tướng điềm lành.

 

Hựu kiến thập chủng quang minh tướng.  Hà đẳng vi thập? sở vị:

Thiện-Tài lại thấy mười tướng quang-minh. Những gì là mười? Đó là:

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy mười thứ tướng quang minh cát tường. Những gì là mười tướng quang minh cát tường? Đó là:

 

Kiến nhất thiết thế giới sở hữu vi trần, nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số Phật quang minh võng vân, chu biến chiếu diệu;

Thấy bao nhiêu vi-trần của tất cả thế-giới, trong mỗi mỗi vi-trần xuất-sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật-quang-minh võng-vân chiếu sáng khắp nơi.

Giảng: 1. Ở trong định thấy hết thảy hạt bụi của tất cả thế giới, chẳng phải là một thế giới, mà là hết thảy thế giới. Do đó có câu : « Thế giới nầy, thế giới kia, vô lượng các thế giới ». Hết thảy hạt bụi trong tất cả thế giới, cứu kính có bao nhiêu hạt bụi ? Chẳng ai biết được, dù dùng máy vi tính cũng không thể nào tính đếm được số mục chính xác. Trong nhiều hạt bụi như vậy, mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây lưới quang minh của Phật nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới. Cảnh giới số mục nầy cũng không thể nghĩ bàn được, những mây lưới quang minh của Phật đó, chiếu sáng khắp cùng mười phương thế giới.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số Phật quang minh luân vân, chủng chủng sắc tướng chu biến pháp giới;

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật quang-minh luân-vân nhiều thứ sắc-tướng cùng khắp pháp-giới.

Giảng: 2. Trong mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây quang minh luân của Phật, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới. Có hình tướng không thực chất gọi là luân, mây thấy ở trước thì có, xúc chạm thì không gọi là mây. Có đủ thứ sắc tướng, tận hư không khắp pháp giới, chẳng chỗ nào mà chẳng khắp cùng.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số Phật sắc tượng Bảo Vân, chu biến pháp giới;

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật sắc-tượng bửu-vân cùng khắp pháp-giới.

Giảng: 3. Trong mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây Phật sắc tượng báu, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, cũng khắp cùng pháp giới.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số Phật quang diệm luân vân, chu biến pháp giới;

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số phật-quang-diệm luân-vân cùng khắp pháp-giới.

Giảng: 4. Trong mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây Phật quang diệm luân, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, cũng khắp cùng pháp giới.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số chúng diệu hương vân, chu biến thập phương, xưng tán Phổ Hiền nhất thiết hành nguyện Đại công đức hải;

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số những diệu-hương-vân cùng khắp mười phương khen ngợi tất cả hạnh nguyện đại công-đức-hải của Phổ-Hiền.

Giảng: 5. Trong mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây các hương thơm, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, cũng khắp cùng mười phương, trong đủ thứ các hương thơm đó, diễn diệu pháp âm, thè lưỡi rộng dài, khen ngợi tất cả hạnh nguyện biển đại công đức của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số nhật nguyệt tinh tú vân, giai phóng Phổ Hiền Bồ Tát quang minh, biến chiếu Pháp giới;

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trấn-số nhựt nguyệt tinh tú vân, đều phóng quang-minh của Phổ-Hiền Bồ-Tát chiếu khắp pháp-giới.

Giảng: 6. Trong mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây nhựt nguyệt tinh tú, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, đều phóng ra quang minh Bồ Tát Phổ Hiền, chiếu sáng pháp giới.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số nhất thiết chúng sanh thân sắc tượng vân, phóng Phật quang minh, biến chiếu Pháp giới;

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất cả chúng-sanh thân sắc tượng vân phóng phật-quang-minh chiếu khắp pháp-giới.

Giảng: 7. Trong mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây tất cả chúng sinh thân sắc tượng, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, phóng quang minh của Phật, chiếu sáng pháp giới.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số nhất thiết Phật sắc tượng ma-ni vân, chu biến pháp giới;

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số tất cả phật-sắc-tượng ma-ni-vân cùng khắp pháp-giới.

Giảng: 8. Trong mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây tất cả Phật sắc tượng ma ni, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, cũng khắp cùng pháp giới.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số Bồ Tát thân sắc tượng vân, sung mãn Pháp giới, lệnh nhất thiết chúng sanh giai đắc xuất ly, sở nguyện mãn túc;

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế giới vi-trần-số Bồ-Tát thân sắc-tượng-vân đầy khắp pháp-giới, khiến tất cả chúng-sanh đều được xuất ly, đều mãn sở-nguyện.

Giảng: 9. Trong mỗi mỗi hạt bụi, xuất hiện mây Bồ Tát thân sắc tượng, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, đầy dẫy pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh đều được thoát khỏi ba cõi, nguyện đã phát ra, đều được đầy đủ.

 

Nhất nhất trần trung, xuất nhất thiết thế giới vi trần số Như Lai thân sắc tượng vân, thuyết nhất thiết Phật quảng đại thệ nguyện, chu biến pháp giới.

Trong mỗi mỗi vi-trần xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số Như-Lai thân sắc-tượng-vân, nói thệ nguyện quảng đại của tất cả Phật cùng khắp pháp-giới.

Giảng: 10. Trong mỗi mỗi hạt bụi, lại xuất hiện mây Như Lai thân sắc tượng, nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, diễn nói thệ nguyện rộng lớn của tất cả chư Phật, cũng khắp cùng pháp giới.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười thứ tướng quang minh.

Đạo lý trong Kinh Hoa Nghiêm nói, diệu không thể tả. Đây là pháp thân Đại Sĩ ở trong định của Phật nói diệu pháp. Chúng ta phàm phu, có được cơ hội nầy, nghe được diệu pháp nầy, thật là do căn lành đã trồng thuở xưa. Bằng không, cho đến tên Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, e rằng cũng không nghe được, đừng nói là nghe được Kinh văn !

Chúng ta nghe được Kinh Hoa Nghiêm rồi, mỗi người nên mở tâm rộng lớn, rộng lớn đến tận hư không khắp pháp giới, đừng có tâm nhỏ hẹp như thế, chỉ biết có mình, chẳng biết có người khác. Chúng ta phóng tâm lượng nầy cho rộng lớn, dung được tất cả mọi việc, đừng có so đo tính toán. Ví như việc mè lẫn lộn với đậu, không thể dung chứa được, thì làm sao có sự thành tựu ! Phải có tinh thần xả mình vì người, phải vì tất cả chúng sinh mà phục vụ, phải vì tất cả chúng sinh mưu phước lợi, đó mới là bổn hoài của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Thời, Thiện tài đồng tử kiến thử thập chủng quang minh tướng dĩ, tức tác thị niệm: ngã kim tất kiến Phổ Hiền Bồ Tát, tăng ích thiện căn, kiến nhất thiết Phật; ư chư Bồ-tát quảng đại cảnh giới, sanh quyết định giải, đắc nhất thiết trí.

Thiện-Tài thấy mười thứ quang-minh nầy rồi, nghĩ rằng: nay tôi sẽ được thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát thêm lớn thiện-căn. Thấy tất cả Phật, nơi tất cả Bồ-Tát sanh tri giải quyết định, được nhất-thiết-trí.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy được mười thứ tướng quang minh đó rồi,  bèn nghĩ như vầy : Hiện tại chắc chắn tôi sẽ thấy được Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài hay tăng ích căn lành của tôi. Tại sao thấy được Bồ Tát Phổ Hiền thì sẽ tăng ích căn lành ? Vì thấy được oai lực, thần thông, trí huệ, từ bi, hỉ xả, đủ thứ sức lực của Bồ Tát Phổ Hiền, thật là không thể nghĩ bàn, nhờ đó mà phát khởi bồ đề tâm, hướng về Bồ Tát Phổ Hiền tu học, do đó có câu : « Kiến hiền tư tề », thấy người hiền thì nghĩ làm cho bằng được họ. Muốn làm được như Bồ Tát Phổ Hiền, dùng Bồ Tát Phổ Hiền làm mô phạm. Có căn lành rồi, mới thấy được tất cả chư Phật. Trong cảnh giới rộng lớn của các đại Bồ Tát, hay sinh ra sự hiểu biết quyết định, đắc được nhất thiết trí huệ chân thật.

Hiện tại tôi cảm thấy những việc làm trước kia, có nhiều chỗ không đúng. Sao lại không đúng ? Vì Phật giáo đề xướng « Vô ngã », không có cái ta, nhưng tôi thường có tư  tưởng về cái « Ta ». Vì tồn tại « cái ta », nên chẳng tồn tại có « người ». Bổn lai nên quên người, không có cái ta mới đúng, nhưng tôi có cái ta mà không có người, quên mất người. Không biết những người khác ở trong Phật giáo cũng làm rất nhiều việc, đây là quan niệm sai lầm, cũng là việc khiến cho tôi áy náy.

Hiện tại Phật giáo ở tây phương mới bắt đầu, mọi người phải cùng nhau nỗ lực, đoàn kết với nhau để ủng hộ Phật giáo, đồng tâm hiệp lực để ủng hộ Phật giáo, không thể phân tông chia phái, càng không thể phân biệt quốc tịch, chủng tộc. Phàm là Phật giáo, bất luận là đại thừa, hoặc là tiểu thừa, đều phải đoàn kết lại với nhau, cung hành thực tiễn để ủng hộ Phật giáo, khiến cho Phật giáo phát triển vững mạnh. Mọi người phải buông bỏ « cái ta », ta người một thể, chẳng phân biệt đó đây, việc của người khác làm, giống như chính mình làm. Việc của mình làm, giống như việc của người khác làm, chẳng có phân biệt ta, người, như vậy thì tiền đồ Phật giáo, sẽ không có hạn lượng.

Mọi người phải lấy thân làm khuông phép, vì Phật giáo làm mô phạm. Dùng mô phạm từng chút, từng chút, để cảm hoá người khác, ngàn vạn đừng có dùng thế lực để đàn áp người khác. Nên khiến cho họ kính trọng đức của mình, chứ chẳng phải là sợ thế lực của mình. Điểm nầy hy vọng mọi người nên ý thức rõ ràng.

Chúng ta phải y chiếu Phật lý mà đi làm, đừng biểu hiện tác phong tự đại, cho rằng mình giỏi hơn mọi người. Nếu có biểu hiện đó, tức là thấy cái ta, chấp cái ta, tướng ta, ngã mạn, đều chẳng không. Có thấy cái ta, chấp cái ta, tướng ta, ngã mạn, tồn tại, thì đó là chướng ngại vật của Phật giáo. Khiến cho Phật giáo dần dần suy yếu, trở thành tội nhân của Phật giáo.

Chúng ta phải lấy sự phục hưng Phật giáo làm trách nhiệm của mình, làm cho Phật giáo phát triển làm sứ mạng của mình, chịu khổ chịu cực vì Phật giáo mà nỗ lực. Cam tâm tình nguyện vì Phật giáo mà hy sinh, vì Phật giáo mà làm công việc, vì Phật giáo mà tuyên truyền, chẳng có tơ hào xí đồ, chẳng có chút kỳ thị. Mọi người ai ai cũng nghĩ như thế, thì Phật giáo làm gì mà chẳng phục hưng !

Chúng ta phải giữ gìn tông chỉ, người khác sai lầm, tức là mình sai lầm. Nếu nghĩ được như thế, thì sẽ không có tâm phân biệt, cũng không có tâm kỳ thị. Tôi thường nói :
« Hãy thật nhận lỗi mình
Đừng nói lỗi người khác
Lỗi người tức lỗi mình
Đồng thể gọi đại bi ».

Nếu các vị chiếu theo đó mà làm, thì nhất định sẽ hoà bình với nhau, tuyệt đối không có tâm đấu tranh. Do đó có câu :
«Mọi việc đều trôi qua
Nóng giận khó hoá giải
Thật không sinh nóng giận
Sẽ được báu vô giá.
Nếu lại không giận người
Mọi việc đều trôi qua
Phiền não sẽ không sinh
Oan nghiệt làm gì có
Thường nhìn người không đúng
Khổ mình vẫn chưa nguôi ».

Vì quá khứ mình thường thấy người không đúng, cho nên mình rất đau khổ. Hiện tại mình nhìn người đúng, cho nên mình rất an lạc. Khẩu đầu thiền của tôi là : « Tất cả đều O.K », thì sẽ đại cát đại lợi, vạn sự hanh thông.

 

Ư thời, Thiện Tài phổ nhiếp chư căn, nhất tâm cầu kiến Phổ Hiền Bồ Tát, khởi đại tinh tấn, tâm vô thoái chuyển. Tức dĩ phổ nhãn quan sát thập phương nhất thiết chư Phật, chư Bồ-tát chúng sở kiến cảnh giới, giai tác đắc kiến Phổ Hiền chi tưởng;

Thiện-Tài nhiếp khắp thiện-căn, nhứt tâm cầu thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát, khởi đại tinh-tấn tâm không thối chuyển, liền dùng phổ-nhãn quán-sát mười phương tất cả chư Phật và chúng Bồ-Tát. Bao nhiêu cảnh-giới đã thấy đều tưởng là đuợc thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài khắp nhiếp thân tâm, khiến cho các căn giữ quy cụ, không phóng dật, y chiếu Phật pháp để tu trì, một lòng một dạ muốn thấy Bồ Tát Phổ Hiền. Sinh khởi tâm đại tinh tấn, vĩnh viễn không thối chuyển. Liền dùng phổ nhãn, để quán sát khắp mười phương tất cả chư Phật, và các chúng Bồ Tát,  thấy được những cảnh giới vị Phật đó, vị Bồ Tát đó, tự nghĩ rằng đó đều là pháp thân của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Dĩ trí Tuệ-nhãn quán Phổ Hiền đạo, kỳ tâm quảng đại do như hư không, đại bi kiên cố do như Kim cương, nguyện tận vị lai thường đắc tùy trục Phổ Hiền Bồ Tát, niệm niệm tùy thuận, tu Phổ Hiền hạnh, thành tựu trí tuệ, nhập Như Lai cảnh, trụ Phổ Hiền địa.

Dùng trí-huệ-nhãn quán-sát phổ-hiền đạo, tâm quảng-đại dường như hư-không, đại-bi kiên-cố như Kim-Cang. Nguyện tận vị-lai thường được theo Phổ-Hiền, niệm niệm tùy thuận tu phổ-hiền-hạnh, thành-tựu trí-huệ, nhập như-lai-cảnh, trụ phổ-hiền-địa.

Giảng: Dùng mắt trí huệ, quán sát khắp đạo Bồ Tát Phổ Hiền, tâm Ngài rộng lớn, như hư không. Tâm đại bi kiên cố, như kim cang. Nguyện hết thuở vị lai, thường được đi theo Bồ Tát Phổ Hiền học tập. Niệm niệm tuỳ thuận Bồ Tát Phổ Hiền, tu học đại hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu đại trí huệ của Bồ Tát Phổ Hiền, nhập vào cảnh giới Như Lai, trụ bậc Phổ Hiền.

 

Thời, Thiện tài đồng tử tức kiến Phổ Hiền Bồ Tát, tại Như Lai tiền chúng hội chi trung, tọa bảo liên hoa sư tử chi tọa, chư Bồ-tát chúng sở cọng vi nhiễu, tối vi Thù đặc, thế vô dữ đẳng; trí tuệ cảnh giới vô lượng vô biên, nan trắc nan tư, đẳng tam thế Phật, nhất thiết Bồ Tát vô năng quan sát.

Bấy giờ Thiện-Tài Ðồng-Tử liền thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát ở trong chúng-hội trước đức Như-Lai, ngồi tòa sư-tử Bửu-Liên-Hoa, chúng Bồ-Tát vây quanh rất là tôn nghiêm, thế-gian không sánh được, cảnh-giới trí-huệ vô-lượng vô-biên khó lường khó nghĩ, đồng tam-thế Phật, tất cả Bồ-Tát không quán-sát được.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử liền thấy được Bồ Tát Phổ Hiền ở trong chúng hội trước đức Phật, ngồi toà sư tử hoa sen báu. Có các chúng Bồ Tát cùng vây quanh, hiện ra pháp tướng thù thắng đặc biệt nhất, trên thế gian không ai bằng Ngài được. Cảnh giới trí huệ của Ngài vô lượng vô biên, không dễ gì dò lường được, không dễ gì nghĩ bàn được, đồng với cảnh giới chư Phật ba đời, tất cả Bồ Tát không thể quán sát được cứu kính trí huệ của Bồ Tát Phổ Hiền như thế nào !

 

Kiến Phổ Hiền thân nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết thế giới vi trần số quang minh vân, biến Pháp giới, hư không giới, nhất thiết thế giới, trừ diệt nhất thiết chúng sanh khổ hoạn, lệnh chư Bồ-tát sanh đại hoan hỉ;

Thấy thân Phổ-Hiền, mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả thế-giới vi-trần-số quang-minh-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả thế-giới, trừ diệt tất cả chúng-sanh khổ hoạn, khiến các Bồ-Tát sanh đại hoan-hỷ.

Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy trên thân của Bồ Tát Phổ Hiền, hiện ra hai mươi thứ thân mây :
1. Trong mỗi mỗi lỗ chân lông, phóng ra mây quang minh nhiều như số hạt bụi tất cả thế giới, khắp pháp giới hư không giới tất cả thế giới. Trừ diệt khổ hoạn của tất cả chúng sinh, khiến cho các Bồ Tát sinh đại hoan hỉ.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số chủng chủng sắc hương diệm vân, biến Pháp giới, hư không giới nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng, nhi dĩ phổ huân;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số những sắc-hương-diệm-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng, để huân tập tất cả.

Giảng: 2. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, xuất hiện mây đủ thứ sắc hương diệm, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, xông khắp pháp giới hư không giới, tất cả chúng hội đạo tràng của chư Phật.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số Tạp hoa vân, biến Pháp giới, hư không giới nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng, vũ chúng hương khí;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tạp-hoa-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật chúng-hội đạo-tràng mưa những diệu-hoa.

Giảng: 3. Lại thấy mỗi mỗi lỗ chân lông, xuất hiện mây tạp hoa, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, mưa xuống các hoa đẹp, khắp pháp giới hư không giới, tất cả chúng hội đạo tràng của chư Phật.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số hương thọ vân, biến Pháp giới, hư không giới nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng, vũ chúng diệu hương;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số hương thọ vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư phật chúng-hội đạo-tràng mưa những diệu hương.

Giảng: 4. Lại thấy mỗi mỗi lỗ chân lông, xuất hiện mây hương thụ, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, mưa xuống các hương thơm, khắp pháp giới hư không giới, tất cả chúng hội đạo tràng của chư Phật.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số diệu y vân, biến Pháp giới, hư không giới nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng, vũ chúng diệu y;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số diệu-y vân, khắp pháp-giới hư-không-giới chư phật chúng-hội đạo tràng mưa những diệu-y.

Giảng: 5. Lại thấy mỗi mỗi lỗ chân lông, xuất hiện mây y đẹp, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, mưa xuống các y đẹp khắp pháp giới hư không giới, tất cả chúng hội đạo tràng của chư Phật.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số bảo thụ vân, biến Pháp giới, hư không giới nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng, vũ ma-ni bảo;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bửu-thọ-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư phật chúng-hội đạo tràng, mưa ma ni bửu.

Giảng: 6. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, xuất hiện mây cây báu, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, mưa xuống báu ma ni, khắp pháp giới hư không giới, tất cả chúng hội đạo tràng của chư Phật.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số sắc giới Thiên thân vân, sung mãn Pháp giới, thán Bồ-đề tâm;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số sắc-giới thiên-thân-vân sung-mãn pháp-giới, khen ngợi bồ-đề-tâm.

Giảng: 7. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, xuất hiện mây thân Trời sắc giới, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, đầy khắp pháp giới, khen ngợi bồ đề tâm.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số phạm thiên thân vân, khuyến chư Như Lai chuyển diệu pháp luân;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số phạm-thiên thân vân, khuyến thỉnh chư như lai chuyển diệu pháp luân.

Giảng: 8. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, xuất hiện mây thân Trời Phạm Thiên, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khuyến thỉnh tất cả chư Phật chuyển bánh xe pháp.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số dục giới thiên chủ thân vân, hộ trì nhất thiết Như Lai Pháp luân;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số dục-giới thiên vương thân vân, hộ trì pháp-luân của tất cả như-lai.

Giảng: 9. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, xuất hiện mây thân Thiên Chủ dục giới, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, hộ trì pháp luân của tất cả chư Phật.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số tam thế Phật sát vân, biến Pháp giới, hư không giới, vi chư chúng sanh, vô quy thú giả vi tác quy thú, vô phước hộ giả vi tác phước hộ, vô y chỉ giả vi tác y chỉ;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tam-thế phật-sát-vân, khắp pháp-giới hư-không-giới vì các chúng-sanh, những người không chỗ về nương mà làm chỗ về nương, những người không chỗ che chở mà làm chỗ che chở, những người không chỗ y-chỉ mà làm chỗ y chỉ.

Giảng: 10. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây cõi Phật ba đời, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, vì các chúng sinh những người không chỗ quay về, thì làm chỗ quay về, những người không chỗ che hộ, thì làm chỗ che hộ, những người không chỗ nương tựa, thì làm chỗ nương tựa.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số thanh tịnh Phật sát vân, biến Pháp giới, hư không giới, nhất thiết chư Phật ư trung xuất thế, Bồ Tát chúng hội tất giai sung mãn;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số thanh-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả chư Phật xuất thế trong đó, chúng hội Bồ-Tát thảy đều sung-mãn.

Giảng: 11. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây cõi Phật thanh tịnh, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, chư Phật xuất hiện ra đời ở trong đó, chúng hội Bồ Tát đều đầy dẫy.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số tịnh bất tịnh Phật sát vân, biến Pháp giới, hư không giới, lệnh tạp nhiễm chúng sanh giai đắc thanh tịnh;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số tịnh bất-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.

Giảng: 12. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây cõi Phật thanh tịnh chẳng thanh tịnh, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, khiến cho chúng sinh tạp nhiễm đều được thanh tịnh.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số bất tịnh tịnh Phật sát vân, biến Pháp giới, hư không giới, lệnh tạp nhiễm chúng sanh giai đắc thanh tịnh;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bất tịnh-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến tạp nhiễm chúng-sanh đều được thanh-tịnh.

Giảng: 13. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây cõi Phật bất tịnh thanh tịnh, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, khiến cho chúng sinh tạp nhiễm đều được thanh tịnh.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số bất tịnh Phật sát vân, biến Pháp giới, hư không giới, lệnh thuần nhiễm chúng sanh giai đắc thanh tịnh;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bất-tịnh phật-sát-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, khiến thuần nhiễm chúng-sanh đều  được thanh-tịnh.

Giảng: 14. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây cõi Phật bất tịnh, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, khiến cho chúng sinh thuần nhiễm đều được thanh tịnh.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số chúng sanh thân vân, biến Pháp giới, hư không giới, tùy kỳ sở ưng, giáo hóa chúng sanh, giai lệnh phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số chúng-sanh thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, tùy sở nghi giáo hóa chúng-sanh đều khiến phát tâm vô-thượng bồ-đề.

Giảng: 15. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây thân chúng sinh, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, tuỳ chúng sinh đáng được giáo hoá, đều khiến cho họ phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số Bồ Tát thân vân, biến Pháp giới, hư không giới, xưng dương chủng chủng chư Phật danh hiệu, lệnh chư chúng sanh tăng trưởng thiện căn.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân biến pháp-giới hư-không-giới tán dương những danh hiệu của chư Phật làm cho chúng-sanh tăng trưởng thiện-căn.

Giảng: 16. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây thân Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, khen ngợi đủ thứ danh hiệu của chư Phật, khiến cho các chúng sinh tăng trưởng căn lành.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số Bồ Tát thân vân, biến Pháp giới, hư không giới nhất thiết Phật sát, tuyên dương nhất thiết chư Phật Bồ Tát tùng sơ phát ý sở sanh thiện căn;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới tất cả phật-sát tuyên dương tất cả chư Phật Bồ-Tát, những thiện-căn sanh khởi từ khi sơ phát tâm.

Giảng: 17. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây thân Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, tuyên dương tất cả chư Phật và tất cả Bồ Tát từ lúc ban đầu phát bồ đề tâm sinh ra căn lành.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số Bồ Tát thân vân, biến Pháp giới, hư không giới, ư nhất thiết Phật sát nhất nhất sát trung, tuyên dương nhất thiết Bồ Tát nguyện hải cập Phổ Hiền Bồ Tát thanh tịnh diệu hạnh;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát thân-vân khắp pháp-giới hư-không-giới, trong mỗi phật-sát nơi tất cả phật-sát tuyên dương tất cả bồ-tát nguyện-hải và thanh-tịnh diệu-hạnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.

Giảng: 18. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây thân Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, trong mỗi mỗi cõi Phật tất cả cõi Phật, tuyên dương biển đại nguyện của tất cả Bồ Tát và diệu hạnh thanh tịnh của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, niệm niệm trung xuất Phổ Hiền Bồ Tát hạnh vân, lệnh nhất thiết chúng sanh tâm đắc mãn túc, cụ túc tu tập nhất thiết trí đạo;

Thấy mỗi mỗi lỗ lông, trong mỗi niệm xuất sanh Phổ-Hiền Bồ-Tát hạnh-vân khiến tâm tất cả chúng-sanh được mãn túc, tu tập đầy đủ đạo nhất-thiết-trí.

Giảng: 19. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, khiến cho tất cả chúng sinh tâm được đầy đủ, tu tập đầy đủ đạo nhất thiết trí.

 

Kiến nhất nhất mao khổng, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số chánh giác thân vân, ư nhất thiết Phật sát, hiện thành chánh giác, lệnh chư Bồ-tát tăng trường đại Pháp, thành nhất thiết trí.

Thấy mỗi mỗi lỗ lông xuất sanh tất cả phật-sát vi-trần-số chánh-giác thân-vân, nơi tất cả phật-sát hiện thành chánh-giác, khiến các Bồ-Tát thêm lớn pháp đại-thừa thành nhất-thiết-trí.

Giảng: 20. Lại thấy trong mỗi mỗi lỗ chân lông, trong niệm niệm, xuất hiện mây thân Chánh Giác, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, khắp pháp giới hư không giới, ở trong tất cả cõi Phật hiện thành Chánh Giác, khiến cho các Bồ Tát tăng trưởng đại pháp, thành tựu nhất thiết trí.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử kiến Phổ Hiền Bồ Tát như thị tự tại thần thông cảnh giới, thân tâm biến hỉ, dõng dược vô lượng; trọng quán Phổ Hiền nhất nhất thân phần, nhất nhất mao khổng, tất hữu tam thiên đại thiên thế giới. Phong luân, thủy luân, địa luân, hỏa luân, đại hải, giang hà cập chư bảo sơn, Tu-Di, thiết vi, thôn doanh, thành ấp, cung điện, viên uyển, nhất thiết địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Diêm la Vương giới, thiên long bát bộ, nhân dữ phi nhân, dục giới, sắc giới, vô sắc giới xứ, nhật nguyệt tinh tú, phong vân lôi điện, trú dạ nguyệt thời cập dĩ niên kiếp, chư Phật xuất thế, Bồ Tát chúng hội, đạo tràng trang nghiêm; Như thị đẳng sự, tất giai minh kiến.

Thiện-Tài thấy cảnh-giới thần-thông tự-tại của Phổ-Hiền Bồ-Tát như vậy, thân tâm hoan hỉ, hớn hở vô-lượng. Lại thấy mỗi mỗi thân phần, mỗi mỗi lỗ chân lông của Phổ-Hiền đều có Ðại-Thiên thế-giới phong-luân, thủy-luân, địa-luân, hỏa-luân, đại-hải, giang-hà và những Bửu-Sơn, Tu-Di, Thiết-vi, thành ấp, cung điện, viên lâm, tất cả xứ của địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, Diêm-La-Vương, những cung điện của Thiên, Long, Bát-Bộ, nhân và phi-nhân, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô-Sắc, nhật, nguyệt, tinh-tú, gió, mây, sấm, chớp, ngày, đêm, tháng, giờ đến năm, kiếp, chư Phật  xuất thế, chúng hội Bồ-Tát, đạo-tràng trang-nghiêm, những sự như vậy đều thấy rõ cả.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy cảnh giới thần thông tự tại trên thân của Bồ Tát Phổ Hiền như vậy, thân cũng hoan hỉ, tâm cũng hoan hỉ, vui mừng vô lượng.

Thiện Tài đồng tử lại quán sát mỗi mỗi phần thân Bồ Tát Phổ Hiền, trong mỗi mỗi lỗ chân lông, đều có ba ngàn đại thiên thế giới, phong luân, thuỷ luân, địa luân, hoả luân, biển cả, sông ngòi, và các núi báu, núi Tu Di, núi Thiết Vi, thôn xóm, thành ấp, cung điện, vườn tược, tất cả địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi Diêm La Vương, Thiên Long bát bộ, người, chẳng phải người, dục giới, sắc giới, vô sắc giới, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, gió mây, điện chớp, ngày đêm, tháng giờ, và năm kiếp, chư Phật ra đời, Bồ Tát chúng hội, đạo tràng trang nghiêm, đủ thứ những cảnh giới như vậy, Thiện Tài đồng tử thảy đều thấy rõ ràng, chẳng có sự tạp loạn.

 

Như kiến thử thế giới, thập phương sở hữu nhất thiết thế giới tất như thị kiến; như kiến hiện tại thập phương thế giới, tiền tế, hậu tế nhất thiết thế giới diệc như thị kiến, các các sái biệt, bất tướng tạp loạn.

Như thấy rõ tại thế-giới nầy, tất cả thế-giới ở mười phương đều thấy rõ cả. Như thấy thập phương thế-giới hiện-tại, tất cả thế-giới tiền-tế hậu-tế cũng thấy như vậy, nhưng vẫn chẳng tạp loạn nhau.

Giảng: Như thấy ở thế giới nầy, mười phương hết thảy tất cả thế giới, cũng đều thấy như vậy. Như thấy hiện tại mười phương thế giới, thuở trước thuở sau tất cả thế giới, cũng thấy như vậy, tuy nhiên mỗi thứ đều khác nhau, chẳng tạp loạn nhau.

 

Như ư thử Tỳ Lô Giá Na Như Lai sở, thị hiện như thị thần thông chi lực; ư Đông phương liên hoa đức thế giới Hiền Thủ Phật sở, hiện thần thông lực diệc phục như thị. Như Hiền Thủ Phật sở; như thị Đông phương nhất thiết thế giới.

Như ở chỗ Tỳ Lô Giá Na Như Lai nầy, thị hiện sức thần thông như vậy. Ở phương đông thế giới Liên Hoa Đức, chỗ đức Phật Hiền Thủ, hiện sức thần thông cũng lại như thế. Như chỗ đức Phật Hiền Thủ, như vậy phương đông tất cả thế giới.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền ở chỗ đạo tràng đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, thị hiện sức thần thông như vậy. Ở phương đông thế giới Liên Hoa Đức, chỗ đạo tràng của đức Phật Hiền Thủ, thị hiện sức thần thông cũng lại như thế. Như sức thần thông thị hiện ở chỗ đạo tràng đức Phật Hiền Thủ, như vậy ở phương đông tất cả thế giới, đạo tràng của tất cả chư Phật, cũng đều như thế.

 

Như Đông phương; Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, nhất thiết thế giới chư Như Lai sở, hiện thần thông lực đương tri tất nhĩ.

Như đông phương, nam, tây, bắc, bốn hướng, trên, dưới, tất cả thế giới chỗ các đức Như Lai, thị hiện sức thần thông, cũng đều như thế.

Giảng: Chẳng những phương đông như thế, mà ở phương nam, phương tây, phương bắc, phương đông nam, phương tây nam, phương đông bắc, phương tây bắc, phương trên, phương dưới, tất cả thế giới, chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, thị hiện sức thần thông, cũng đều như thế.

 

Như thập phương nhất thiết thế giới; như thị thập phương nhất thiết Phật sát, nhất nhất trần trung giai hữu Pháp giới chư Phật chúng hội, nhất nhất Phật sở Phổ Hiền Bồ Tát tọa bảo liên hoa sư tử tọa thượng hiện thần thông lực tất diệc như thị.

Mười phương tất cả thế-giới trong mỗi mỗi vi-trần đều có pháp-giới chư Phật chúng-hội. Chỗ mỗi đức Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát ngồi trên tòa Bửu-Liên-Hoa Sư-Tử hiện sức thần-thông cũng đều như vậy.

Giảng: Như mười phương tất cả thế giới, như vậy mười phương tất cả cõi Phật, trong mỗi mỗi hạt bụi, đều có pháp giới chư Phật chúng hội đạo tràng. Ở chỗ đạo tràng của mỗi mỗi vị Phật, đều có Bồ Tát Phổ Hiền ngồi trên toà sư tử hoa sen báu, hiện sức đại oai đức, sức đại thần thông, mười phương cũng đều như thế.

 

Bỉ nhất nhất Phổ Hiền thân trung, giai hiện tam thế nhất thiết cảnh giới, nhất thiết Phật sát, nhất thiết chúng sanh, nhất thiết Phật xuất hiện, nhất thiết Bồ Tát chúng, cập văn nhất thiết chúng sanh ngôn âm, nhất thiết Phật ngôn âm, nhất thiết Như Lai sở chuyển pháp luân, nhất thiết Bồ Tát sở thành chư hạnh, nhất thiết Như Lai du hí thần thông.

Trong thân của mỗi mỗi Phổ-Hiền đều hiện tất cả cảnh-giới tam-thế, tất cả cõi Phật, tất cả chúng-sanh, tất cả Phật xuất-hiện, tất cả bồ-tát-chúng, nghe ngôn âm của tất cả chúng-sanh, ngôn âm của tất cả Phật, pháp-luân của tất cả Như-Lai chuyển. Lại thấy công-hạnh của tất cả Bồ-Tát, thần-thông du-hí của tất cả Như-Lai.

Giảng: Trong mỗi mỗi thân của Bồ Tát Phổ Hiền đó, đều thị hiện tất cả cảnh giới ba đời, tất cả cõi Phật, tất cả chúng sinh, tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, tất cả chúng Bồ Tát, và nghe lời nói của tất cả chúng sinh, lời nói của tất cả chư Phật, tất cả Như Lai chuyển bánh xe pháp, tất cả Bồ Tát thành tựu các hạnh, tất cả Như Lai du hí thần thông. Những cảnh giới đó, đều hiện ra trong thân của Bồ Tát Phổ Hiền.

 

Thiện tài đồng tử kiến Phổ Hiền Bồ Tát như thị vô lượng bất khả tư nghị Đại thần thông lực, tức đắc thập chủng trí Ba-la-mật. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Thiện-Tài thấy vô-lượng đại-thần-thông-lực bất-tư-nghì của Phổ-Hiền Bồ-Tát như vậy, liền được mười thứ trí ba-la-mật. Như là:

Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy sức đại thần thông không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Phổ Hiền như vậy rồi, liền đắc được mười thứ trí Ba La Mật. Những gì là mười thứ trí Ba La Mật? Đó là :

 

Ư niệm niệm trung, tất năng châu biến nhất thiết Phật sát trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể đi khắp tất cả cõi Phật.

Giảng: 1. Trong niệm niệm, trí Ba la mật đều khắp cùng mười phương tất cả cõi Phật.

 

Ư niệm niệm trung, tất năng vãng nghệ nhất thiết Phật sở trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể qua đến tất cả chỗ Phật.

Giảng: 2. Trong niệm niệm, trí Ba la mật đều đi đến chỗ đạo tràng mười phương tất cả chư Phật.

 

Ư niệm niệm trung, tất năng cúng dường nhất thiết Như Lai trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm đều có thể cúng-dường tất cả Như-Lai.

Giảng: 3. Trong niệm niệm, trí Ba la mật đều cúng dường được tất cả chư Phật.

 

Ư niệm niệm trung, phổ ư nhất thiết chư Như Lai sở văn Pháp thọ trì trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm ở khắp chỗ của tất cả Như-Lai để nghe pháp và thọ trì.

Giảng: 4. Trong niệm niệm, trí Ba la mật khắp ở chỗ đạo tràng của tất cả chư Phật, nghe pháp thọ trì.

 

Ư niệm niệm trung, tư tánh nhất thiết Như Lai Pháp luân trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm tư-duy pháp-luân của tất cả Như-Lai.

Giảng: 5. Trong niệm niệm, trí Ba la mật suy gẫm pháp luân của tất cả chư Phật.

 

Ư niệm niệm trung, tri nhất thiết Phật bất khả tư nghị đại thần thông sự trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm biết sự đại thần-thông bất-tư-nghì của tất cả Phật.

Giảng: 6. Trong niệm niệm, trí Ba la mật biết việc đại thần thông không thể nghĩ bàn của tất cả chư Phật.

 

Ư niệm niệm trung, thuyết nhất cú pháp tận vị lai tế biện tài vô tận trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm nói một câu pháp tột thuở vị-lai biện-tài vô-tận.

Giảng: 7. Trong niệm niệm, trí Ba la mật nói một câu pháp, hết thuở vị lai, biện tài vô tận.

 

Ư niệm niệm trung, dĩ thâm Bát-nhã quán nhất thiết pháp trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm dùng thân bát-nhã quán tất cả pháp.

Giảng: 8. Trong niệm niệm, trí Ba la mật dùng Bát Nhã thâm sâu, quán tất cả pháp.

 

Ư niệm niệm trung, nhập nhất thiết pháp giới thật tướng hải trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm nhập tất cả pháp-giới thiệt-tướng-hải.

Giảng: 9. Trong niệm niệm, trí Ba la mật vào biển thật tướng của tất cả pháp giới.

 

Ư niệm niệm trung, tri nhất thiết chúng sanh tâm trí Ba-la-mật;

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm biết tâm của tất cả chúng-sinh.

Giảng: 10. Trong niệm niệm, trí Ba la mật biết tâm niệm của tất cả chúng sinh.

 

Ư niệm niệm trung, Phổ Hiền tuệ hạnh giai hiện tại tiền trí Ba-la-mật.

Trí ba-la-mật trong mỗi niệm huệ hạnh của Phổ-Hiền đều hiện-tiền.

Giảng: 11. Trong niệm niệm, trí Ba la mật huệ hạnh của Phổ Hiền đều hiện tại tiền.

 

Thiện tài đồng tử ký đắc thị dĩ, Phổ Hiền Bồ Tát tức thân hữu thủ ma xúc kỳ đảnh.

Thiện-Tài đã được mười trí ba-la-mật nầy rồi, Phổ-Hiền Bồ-Tát liền dơ tay hữu xoa đầu Thiện-Tài.

Giảng: Thiện Tài đồng tử đắc được mười một thứ trí huệ Ba La Mật như vậy rồi, Bồ Tát Phổ Hiền liền dũi tay phải, rờ đầu Thiện Tài đồng tử.

 

Ký ma đảnh dĩ, Thiện Tài tức đắc nhất thiết Phật sát vi trần số tam muội môn, các dĩ nhất thiết Phật sát vi trần số tam muội nhi vi quyến thuộc;

Ðược xoa đầu, Thiện-Tài liền được tất cả phật-sát vi-trần-số môn tam-muội, mỗi tam-muội lại dùng phật-sát vi-trần-số tam-muội làm quyến-thuộc.

Giảng: Rờ đầu rồi, Thiện Tài đồng tử liền đắc được môn tam muội nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, mỗi môn tam muội đều có các tam muội nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật làm quyến thuộc.

 

Nhất nhất tam muội, tất kiến tích sở vị kiến nhất thiết Phật sát vi trần số Phật đại hải, tập nhất thiết Phật sát vi trần số nhất thiết trí trợ đạo cụ, sanh nhất thiết Phật sát vi trần số nhất thiết trí thượng diệu Pháp, phát nhất thiết Phật sát vi trần số nhất thiết trí đại thệ nguyện, nhập nhất thiết Phật sát vi trần số Đại nguyện hải, trụ nhất thiết Phật sát vi trần số nhất thiết trí xuất yếu đạo, tu nhất thiết Phật sát vi trần số chư Bồ-tát sở tu hành, khởi nhất thiết Phật sát vi trần số nhất thiết trí đại tinh tấn, đắc nhất thiết Phật sát vi trần số nhất thiết trí Tịnh Quang minh.

Mỗi mỗi tam-muội đều thấy tất cả phật-sát vi-trần-số phật-đại-hải mà từ xưa chưa thấy, tích tập tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí trợ-đạo, sanh đủ tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí thượng-diệu-pháp, phát tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí đại-thệ-nguyện, nhập tất cả phật-sát vi-trần-số đại-nguyện-hải, trụ tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí xuất-yếu-đạo, tu tất cả phật-sát vi-trần-số bồ-tát-hạnh, khởi tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí đại-tinh-tấn, được tất cả phật-sát vi-trần-số nhất-thiết-trí tịnh-quang-minh.

Giảng: Trong mỗi mỗi tam muội, đều thấy biển chư Phật nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, mà xưa kia chưa từng thấy. Tích tập trợ đạo cụ nhất thiết trí, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật. Sinh ra pháp thượng diệu nhất thiết trí, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật. Phát khởi đại thệ nguyện nhất thiết trí, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật. Vào biển đại nguyện nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật. Trụ đạo xuất yếu nhất thiết trí, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật. Tu hành Bồ Tát hạnh nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật. Khởi đại tinh tấn nhất thiết trí, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật. Đắc được đại quang minh thanh tịnh nhất thiết trí, nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật.

Những vấn đề nầy rất quan trọng, mọi người phải chú ý lắng nghe, phải nghiên cứu kỹ càng. Thiện Tài đồng tử từ lúc bắt đầu học Phật pháp, tuy chẳng có ba bước một lạy, chín bước một lạy, nhưng cũng rất khổ cực, trải qua bao tháng ngày, trèo núi lội nước, chịu nắng chịu mưa, đi khắp nơi tìm cầu thiện tri thức. Thấy được thiện tri thức rồi, cuối đầu đảnh lễ, cung kính cầu pháp. Trải qua một trăm mười thành mới đến được chỗ Bồ Tát Phổ Hiền, hướng về Ngài cầu pháp.

Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền quán sát Thiện Tài đồng tử tham cảnh giới của thiện tri thức, giống như xem trên truyền hình, từng màng từng màng hiện ra ở trước mắt. Bồ Tát Phổ Hiền dùng con mắt pháp thanh tịnh để quán sát nội dung, hoàn toàn thấu hiểu hết. Bèn nghĩ như vầy : « Vị thiện nam tử nầy, tâm cầu pháp thật là chí thành đến cực điểm. Lành thay ! Vui thay »! Do đó bèn dùng tâm vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, để gia trì cho Ngài. Gia trì như thế nào ?

Tức là đem công đức của mình hồi hướng cho người khác. Bồ Tát Phổ Hiền hy vọng Thiện Tài đồng tử đắc được đầy đủ định lực của Ngài. Ban cho Ngài định lực đó, thần thông đó, sự biến hoá đó, trí huệ đó, hoàn toàn vô điều kiện.

Bồ Tát Phổ Hiền tâm từ bi tha thiết, đem hết thảy tất cả công đức, bố thí cho Thiện Tài đồng tử. Vậy tại sao dùng tay phải rờ đầu Thiện Tài đồng tử ? Nay đưa ra ví dụ rất nông cạn để nói rõ vấn đề nầy. Chúng ta hằng ngày dùng tay mở nút điện tắt mở. Khi dùng thì dùng tay bậc nút tắt mở, đèn sẽ sáng lên, chiếu sáng chỗ tối, nếu không có điện thì mất đi tác dụng, sẽ chẳng phát ra ánh sáng. Việc nầy mọi người tu đạo đều biết. Trí huệ của Bồ Tát Phổ Hiền giống như điện, Thiện Tài đồng tử giống như tay bấm nút điện, khi Bồ Tát Phổ Hiền rờ đầu, tức là ban cho Thiện Tài đồng tử trí huệ. Do đó, Thiện Tài đồng tử đắc được tam muội (tức là chánh định chánh thọ), là người khai mở đại trí huệ.

Thiện Tài đồng tử từ lúc ban đầu tham thiện tri thức, thì niệm niệm không thối chuyển, niệm niệm tinh tấn, chẳng giải đãi, chẳng mệt mỏi, cho nên hiện tại đắc được sự gia trì của Bồ Tát Phổ Hiền. Vì nhờ có sự cảm ứng đạo giao, cho nên đắc được nhiều môn tam muội nầy. Trong mỗi một thứ môn tam muội, đều đắc được cảnh giới chưa từng có.

 

Như thử Ta Bà thế giới Tỳ Lô Giá Na Phật sở, Phổ Hiền Bồ Tát ma Thiện Tài đảnh; như thị thập phương sở hữu thế giới, cập bỉ thế giới nhất nhất trần trung nhất thiết thế giới nhất thiết Phật sở, Phổ Hiền Bồ Tát tất diệc như thị ma Thiện Tài đảnh, sở đắc Pháp môn diệc giai đồng đẳng.

Như ở Ta-Bà thế-giới chỗ của Tỳ-Lô-Giá-Na Phật nầy, Phổ-Hiền Bồ-Tát xoa đầu Thiện-Tài Ðồng-Tử, khắp mười phương thế-giới, trong mỗi vi-trần nơi những thế-giới ấy, tất cả thế-giới, tất cả chỗ Phật, Phổ-Hiền Bồ-Tát cũng xoa đầu Thiện-Tài như vậy, những pháp-môn tam-muội chứng được cũng đồng.

Giảng: Như ở chỗ đạo tràng của đức Phật Tỳ Lô Giá Na, thế giới Ta Bà nầy, Bồ Tát Phổ Hiền rờ đầu Thiện Tài đồng tử. Như vậy, hết thảy mười phương thế giới và trong mỗi mỗi hạt bụi thế giới đó, chỗ tất cả chư Phật trong tất cả thế giới, Bồ Tát Phổ Hiền cũng đều rờ đầu Thiện Tài đồng tử như thế, các pháp môn đắc được, cũng đều giống nhau, không có sự khác biệt.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! nhữ kiến ngã thử thần thông lực bất? duy nhiên! dĩ kiến.

Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo Thiện-Tài rằng: Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi thấy thần-lực của ta chăng?

Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền bảo Thiện Tài đồng tử rằng : Thiện nam tử ! Ngươi thấy sức thần thông của ta chăng !

 

Đại thánh! thử bất tư nghị đại thần thông sự, duy thị Như Lai chi sở năng tri.

Thiện-Tài thưa: Bạch vâng! Những sự thần thông quảng đại bất-tư-nghì nầy chỉ đức Như-Lai mới biết được.

Giảng: Thiện Tài đồng tử đáp rằng : Dạ con đã thấy rồi ! Đại Thánh ! Việc Ngài thị hiện đại thần thông không thể nghĩ bàn, chỉ có đức Như Lai mới biết được cảnh giới đó.

 

Phổ Hiền cáo ngôn: Thiện nam tử! ngã ư quá khứ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, hành Bồ Tát hạnh, cầu nhất thiết trí; nhất nhất kiếp trung, vi dục thanh tịnh Bồ-đề tâm cố, thừa sự bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật;

Phổ-Hiền Bồ-Tát nói: Nầy Thiện-nam-tử! Thuở quá-khứ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp, ta thật hành bồ-tát-hạnh cầu nhất-thiết-trí. Trong mỗi mỗi kiếp vì muốn thanh-tịnh bồ-đề-tâm, nên kính thờ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Phật.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền nói với Thiện Tài đồng tử rằng : Thiện nam tử ! Ta ở trong quá khứ, trải qua số đại kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, tu hành Bồ Tát hạnh, vì cầu nhất thiết trí huệ, vì diệt trừ tất cả ngu si. Trong mỗi mỗi kiếp, vì muốn thanh tịnh bồ đề tâm, tức cũng là viên mãn bồ đề tâm, chứng được vô thượng bồ đề, cho nên hầu hạ các đức Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.

 

Nhất nhất kiếp trung, vi tập nhất thiết trí phước đức cụ cố, thiết ất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số quảng đại thí hội, nhất thiết thế gian hàm sử văn tri, phàm hữu sở cầu tất lệnh mãn túc;

Trong mỗi mỗi kiếp vì tích tập nhất-thiết-trí phước đức nên thiết lập bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thí-hội quảng đại, khiến tất cả thế-gian đều nghe biết, phàm ai đến cầu xin thời đều làm cho họ đầy đủ cả.

Giảng: Trong mỗi mỗi kiếp, vì tích tập nhất thiết trí phước đức viên mãn đầy đủ, cho nên đã thiết lập hội bố thí rộng lớn. Nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Đều khiến cho tất cả chúng sinh thế gian trong mười phương đều nghe biết, phàm ai có sự mong cầu, ta đều khiến cho họ được đầy đủ nguyện vọng của họ.

 

Nhất nhất kiếp trung, vi cầu nhất thiết trí Pháp cố, dĩ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số tài vật bố thí;

Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu pháp nhất-thiết-trí nên ta đem bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số tài vật bố-thí.

Giảng: Bất cứ cầu nội tài của ta (đầu mắt tuỷ não), hoặc là ngoại tài của ta (đất nước vợ con), ta đều bố thí, không có tơ hào tâm xẻn tiếc, tâm ích kỷ, tâm lợi mình. Chỉ biết bố thí, lợi ích tất cả chúng sinh, không có xí đồ, không có sở cầu.

 

Nhất nhất kiếp trung, vi cầu Phật trí cố, dĩ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thành ấp, tụ lạc, quốc độ, Vương vị, thê tử, quyến thuộc, nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân, nhục, thủ, túc nãi chí thân mạng nhi vi bố thí;

Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu phật-trí, nên ta đem bất-kha-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thành ấp, tụ lạc, quốc độ, vương vị, thê tử, quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt tay chân đến cả mạng sống để bố thí.

Giảng: Trong mỗi mỗi kiếp, vì cầu trí huệ của Phật, nên ta đã từng đem thành ấp, xóm làng, đất nước, ngôi vua, vợ con, quyến thuộc, mắt tai mũi lưỡi, thân thịt tay chân, cho đến thân mạng, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật mà bố thí.

Có người hỏi : « Hoá duyên là hoá vàng bạc châu báu, y phục thức ăn uống. Có người xin cái đầu người, xin cái đầu người để làm gì » ? Câu hỏi nầy rất có ý nghĩa, đây là từ giả sử, vì vật mà chúng ta khó xả bỏ nhất là cái đầu của mình, nhưng Bồ Tát Phổ Hiền Ngài đã phát được nguyện nầy, nếu có người cầu xin Ngài cái đầu, thì Ngài chẳng xẻn tiếc mà bố thí, đây là tinh thần của Bồ Tát, chúng ta phàm phu vốn làm chẳng được, ai mà cắt cái đầu của mình xuống để bố thí !

Bố thí là làm cho người khác mãn nguyện, chẳng phải làm cho mình mãn nguyện. Bố thí là xả bỏ không được, cũng phải xả bỏ được, do đó có câu : « Khó xả mà xả được », đây mới thật là bố thí. Bố thí phải có tư tưởng tam luân thể không, không có sự chấp trước, nếu có sự chấp trước thì sẽ có sự quái ngại; nếu có sự quái ngại thì không thể lìa khỏi cảnh giới điên đảo mộng tưởng; nếu muốn lìa khỏi điên đảo mộng tưởng, thì sẽ chứng được quả vị cứu kính Niết Bàn, nên phải buông bỏ quái ngại, phát bồ đề tâm, tu bồ đề giác đạo.

Nếu buông bỏ chẳng đặng tình ái, phải có tinh thần dứt khoát, dùng kiếm trí huệ chặt đứt con ma tình ái, thì sẽ chẳng còn phiền não tình ái nữa, chuyên tâm nhất chí tu hành, dũng mãnh tinh tấn tiến về trước, tuyệt đối đừng lùi về sau, thì sẽ tương ưng với đạo.

Các vị chú ý ! Chìa khoá tu hành tức là khai mở tư tưởng, buông bỏ được. Buông chẳng được thì càng phải buông; bỏ chẳng được thì càng phải bỏ. Tại sao ? Vì khiến cho bạn chẳng còn tâm tham, khiến cho bạn chẳng còn sự chấp trước. Nếu chẳng còn tâm tham, thì chẳng còn sự chấp trước. Như vậy thì mọi thứ tư tưởng đều sẽ khai thông, mọi thứ đều buông bỏ xuống đặng. Các vị phải nghiên cứu về vấn đề nầy. Khi nào nghiên cứu minh bạch, thì khi đó sẽ khai mở đại trí huệ.

Chúng ta phải tôn chiếu những gì các Bồ Tát tu hành trong quá khứ, làm mô phạm. Do đó có câu : « Lựa thiện mà theo, không thiện thì bỏ », điều mà con người xả bỏ không được là cái đầu, nhưng đầu cũng phải xả bỏ. Nếu xả bỏ bố thí đầu cho người khác, thì còn có gì để tranh, để tham, để mong cầu ? Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không lợi mình, tức là Phật giáo đồ chân chánh.

Bồ Tát Phổ Hiền Ngài phát nguyện bố thí đầu, có phải có người xin Ngài cái đầu ? Chắc chắn sẽ có. Tại sao ? Vì Ngài phát nguyện nầy, thì chắc chắn sẽ có người làm cho Ngài mãn nguyện, xem Ngài là thật hay là giả, để khảo nghiệm Ngài. Nếu trải qua được sự khảo nghiệm thì mới là thật; bằng không, nói mà làm không được, thì không có ích gì. Do đó có câu :
«Tất cả đều là thử thách
Xem bạn làm thế nào ?
Đối cảnh không nhận thức
Phải làm lại từ đầu ».

Có người nói : « Bồ Tát phát nguyện này thật là ngu », phải, bạn nghĩ như thế thật là thông minh hơn Bồ Tát Phổ Hiền, cho nên bạn làm chẳng được những điều Bồ Tát Phổ Hiền đã làm, bạn làm Bồ Tát Phổ chẳng Hiền ! Bạn phải biết Bồ Tát Phổ Hiền là vì cầu nhất thiết trí huệ. Bất cứ là đại trí huệ, là tiểu trí huệ, hoặc là thô trí huệ, hoặc là tế trí huệ, Ngài đều cầu chứng, cho nên Ngài chẳng có cái thông minh của bạn.

 

Nhất nhất kiếp trung, vi cầu nhất thiết trí thủ cố, dĩ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số đầu nhi vi bố thí;

Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất-thiết-trí-thủ, nên ta đem bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đầu để bố-thí.

Giảng: Trong mỗi mỗi kiếp, vì cầu pháp nhất thiết trí, nên ta đã từng đem tài vật bố thí cho người cần dùng, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Bất cứ họ mong cầu gì, ta đều bố thí cho họ, khiến cho họ toại tâm mãn nguyện đầy đủ.

Trong mỗi mỗi kiếp, vì cầu đầu nhất thiết trí, nên ta đã từng đem số đầu, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật mà bố thí. Bất cứ người cần gì, ta đều bố thí, tuyệt đối không có tư tưởng tham xẻn, bỏ chẳng đặng.

 

Nhất nhất kiếp trung, vi cầu nhất thiết trí cố, ư bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Như Lai sở, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường, y phục, ngọa cụ, ẩm thực, thang dược, nhất thiết sở tu tất giai phụng thí, ư kỳ Pháp trung xuất gia học đạo, tu hành Phật Pháp, hộ trì chánh giáo.

Trong mỗi mỗi kiếp vì cầu nhất-thiết-trí, nên ở chỗ bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số Như-Lai, ta cung kính tôn trọng, kính thờ cúng-dường, rồi xuất-gia học đạo, trong phật-pháp tu hành hộ giáo.

Giảng: Trong mỗi mỗi kiếp, vì cầu nhất thiết trí huệ, nên ta đã từng ở chỗ đạo tràng của chư Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, cung kính tôn trọng chư Phật, thừa sự cúng dường chư Phật, đem y phục, đồ dùng nằm ngồi, thức ăn uống, thuốc thang, tất cả vật cần dùng, thảy đều dâng cúng chư Phật. Ở trong pháp của các đức Phật đó, xuất gia học đạo, tu hành Phật pháp, hộ trì chánh giáo.

 

Thiện nam tử! ngã ư nhĩ sở kiếp hải trung, tự ức vị tằng ư nhất niệm gian bất thuận Phật giáo, ư nhất niệm gian sanh sân hại tâm, ngã ngã sở tâm, tự tha sái biệt tâm, viễn ly Bồ-đề tâm, ư sanh tử trung khởi bì yếm tâm, lại nọa tâm, chướng ngại tâm, mê hoặc tâm, duy trụ vô thượng bất khả tự hoại tập nhất thiết trí trợ đạo chi Pháp đại Bồ-đề tâm.

Nầy Thiện-nam-từ! Ta ở trong những số kiếp như vậy, tự nhớ chưa từng có một niệm chẳng thuận phật-giáo, chưa từng có một niệm sanh lòng sân hại, cũng chưa từng có một niệm sanh tâm ngã ngã-sở, tâm mình người sai biệt, tâm xa rời bồ-đề, tâm nhàm mỏi sanh tử, tâm lười biếng, tâm chướng ngại, tâm mê hoặc. Mà ta chỉ an trụ tâm đại bồ-đề vô-thượng chẳng thể trở hoại tích tập pháp trợ-đạo nhất-thiết-trí.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại nói: Thiện nam tử ! Ta ở trong biển đại kiếp lâu dài như vậy, ta tự nhớ lại, chưa từng trong khoảng một niệm, chẳng thuận theo lời dạy của chư Phật. Trong khoảng một niệm, chưa từng sinh tâm sân hại, chẳng có tâm cống cao và ngã mạn, hoặc sinh khởi tâm mình bất phàm, hoặc sinh khởi tâm ta và người khác biệt, mà là lúc nào cũng sinh tâm từ bi, tâm thương xót. Trong niệm niệm, chưa từng xa lìa tâm bồ đề, tuy ở trong sinh tử, mà chẳng khởi tâm mỏi nhàm. Bồ Tát đại thừa ở trong sinh tử mà chẳng nhàm chán sinh tử, lìa sinh tử mà chẳng dứt sinh tử. Tại sao? Vì cứu độ chúng sinh lìa khổ được vui. Chẳng giống như người nhị thừa, ích kỷ lợi mình, chỉ lo cho mình lìa sinh tử, chẳng màng đến sinh tử của chúng sinh. Cho nên người nhị thừa xem ba cõi như lao ngục, coi sinh tử như oan gia.

Bồ Tát đại thừa thì thấy việc tỉnh việc thoát khỏi thế gian, chẳng phải thấy việc mê việc đoạ trầm luân. Các Ngài tuy ở trong sáu nẻo luân hồi, mà chẳng mê, chẳng mất tâm bồ đề. Tuy thân ở trong địa ngục độ chúng sinh, mà tâm giống như ngồi trên toà hoa sen báu độ chúng sinh, chẳng có sự phân biệt đó đây.

Bồ Tát Phổ Hiền lại nói: Trong niệm niệm chưa từng sinh tâm lười biếng, chưa từng sinh tâm chướng ngại, chưa từng sinh tâm mê hoặc. Chỉ trụ tâm đại bồ đề vô thượng, kiên cố như kim cang, không thể trở ngại phá hoại được, tích tập nhất thiết trí pháp trợ đạo.

Các vị! Hãy phản tỉnh, chúng ta ở trong khoảng một niệm có tinh tấn tu hành như thế chăng! Ở trong một niệm có sinh tâm thối chuyển chăng! Ở trong một niệm có sinh tâm hoài nghi đối với Phật pháp chăng! Ở trong một niệm có sinh tâm giải đãi đối với Phật pháp chăng! Phải ở chỗ này mà dụng công phu, phải hồi quang phản chiếu, phải trở về cầu nơi chính mình. Nhìn xem mình Phật giáo đồ như thế nào? Hãy kiểm thảo một phen, rằng mình trong khoảng một niệm có siêng cầu vô thượng đạo, có phát tâm đại bồ đề chưa? Nếu có, thì nên tiếp tục nỗ lực, hướng về trước học tập, phải tranh thủ đi trước. Dẹp bỏ hết thói quen lười biếng, giải đãi, phải phát tâm dũng mãnh siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, đó là bổn phận của người tu hành.

 

Thiện nam tử! ngã trang nghiêm Phật thổ, dĩ đại bi tâm, cứu hộ chúng sanh, giáo hóa thành tựu, cúng dường chư Phật, sự thiện tri thức; vi cầu chánh pháp, hoằng tuyên hộ trì, nhất thiết nội ngoại tất giai năng xả, nãi chí thân mạng diệc vô sở lận.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta trang-nghiêm phật-độ, dùng tâm đại-bi cứu hộ chúng-sanh, giáo-hóa thành-tựu, cúng-dường chư Phật, thờ thiện-tri-thức, vì cầu chánh-pháp nên hoằng tuyên hộ-trì, trong thân ngoài vật đều có thể xả tất cả, đến mạng sống cũng không tiếc.

Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng công đức để trang nghiêm thanh tịnh cõi nước chư Phật, dùng tâm đại bi, cứu hộ tất cả chúng sinh, giáo hoá tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả chúng sinh, cúng dường tất cả chư Phật, hầu hạ tất cả thiện tri thức. Ta vì cầu chánh pháp, mới hoằng dương Phật pháp, tuyên truyền, hộ trì Phật pháp. Hết thảy tất cả nội tài và ngoại tài, thảy đều bố thí hết, cho đến thân mạng, cũng không xẻn tiếc.

 

Nhất thiết kiếp hải thuyết kỳ nhân duyên, kiếp hải khả tận, thử vô hữu tận.

Nếu dùng thời-gian kiếp-hải để nói nhơn-duyên đó, kiếp-hải còn có thể hết chớ nhơn duyên đó không cùng tận.

Giảng: Trong tất cả biển kiếp, diễn nói đủ thứ nhân duyên. Biển kiếp có thể hết, mà tâm bố thí của ta không khi nào hết được.

 

Thiện nam tử! ngã pháp hải trung, vô hữu nhất văn, vô hữu nhất cú, phi thị xả thí Chuyển luân Vương vị nhi cầu đắc giả, phi thị xả thí nhất thiết sở hữu nhi cầu đắc giả.

Nầy Thiện-nam-tử! Trong pháp-hải của ta, không có một chữ không có một câu, Chẳng phải thí xả ngôi Chuyển-Luân-Vương mà cầu được. Chẳng phải thí xả tất cả sở-hữu mà cầu được.

Giảng: Thiện nam tử! Ở trong biển pháp của ta, không có một chữ, không có một câu nào, chẳng phải do ta xả thí ngôi Chuyển Luân Vương mà cầu được, chẳng phải do ta xả thí tất cả hết thảy mà cầu được.

 

Thiện nam tử! ngã sở cầu Pháp, giai vi cứu hộ nhất thiết chúng sanh, nhất tâm tư tánh: nguyện chư chúng sanh đắc văn thị pháp, nguyện dĩ trí quang phổ chiếu thế gian, nguyện vi khai thị xuất thế gian trí, nguyện lệnh chúng sanh tất đắc an lạc, nguyện phổ xưng tán nhất thiết chư Phật sở hữu công đức.

Nầy Thiện-nam-tử! Pháp của ta cầu đều vì cứu hộ tất cả chúng-sanh. Một lòng suy nghĩ mong cho chúng-sanh đưọc nghe pháp nầy. Nguyện dùng trí-quang chiếu khắp thế-gian. Nguyện vì chúng-sanh mà khai thị trí xuất-thế-gian. Nguyện cho chúng-sanh đều được an lạc. Nguyện khắp tán dương những công-đức của chư Phật.

Giảng: Thiện nam tử! Pháp của ta cầu trí huệ, đều vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Ta một lòng suy gẫm, nguyện hết thảy chúng sinh được nghe pháp đó. Nguyện dùng trí huệ quang minh chiếu khắp tâm hết thảy chúng sinh của tất cả thế gian. Ta nguyện vì tất cả chúng sinh khai thị trí huệ xuất thế gian. Ta nguyện khiến cho hết thảy chúng sinh đều được an lạc, sớm chứng được bồ đề giác đạo. Ta nguyện tán thán khen ngợi khắp hết thảy công đức của chư Phật.

 

Ngã như thị đẳng vãng tích nhân duyên, ư bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp hải, thuyết bất khả tận.

Thuở xưa, nhơn-duyên của ta như vậy, trong bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp-hải nói không hết được.

Giảng: Đủ thứ nguyện ta đã phát ra, tu đủ thứ hạnh, cầu đủ thứ trí huệ, đó là nhân duyên thuở xưa của ta, trải qua trong biển kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, nói tỉ mỉ cũng không thể nào hết được.

 

Thị cố, Thiện nam tử! ngã dĩ như thị trợ đạo pháp lực, chư thiện căn lực, đại chí lạc lực, tu công đức lực, như thật tư duy nhất thiết pháp lực, trí Tuệ-nhãn lực, Phật uy thần lực, đại từ bi lực, tịnh thần thông lực, thiện tri thức lực cố, đắc thử cứu cánh tam thế bình đẳng thanh tịnh Pháp thân, phục đắc thanh tịnh vô thượng sắc thân, siêu chư thế gian, tùy chư chúng sanh tâm chi sở lạc nhi vi hiện hình, nhập nhất thiết sát, biến nhất thiết xứ, ư chư thế giới quảng hiện thần thông, lệnh kỳ kiến giả mị bất hân lạc.

Nầy Thiện-nam-tử! Vì thế nên ta dùng sức trợ đạo pháp như vậy, những sức thiện-căn, sức đại chí-nguyện, sức tu công-đức, sức như thiệt tư-duy tất cả pháp, sức trí-huệ-nhãn, sức phật-oai-thần, sức đại-từ-bi, sức tịnh-thần-thông, sức thiện-tri-thức như vậy nên ta được pháp-thân thanh-tịnh tam thế bình-đẳng rốt ráo nầy. Ta lại được sắc-thân thanh-tịnh vô-thượng siêu các thế-gian, tùy sở thích của tâm chúng-sanh mà hiện hình vào tất cả cõi khắp tất cả xứ, nơi các thế-giới rộng hiện thần-thông, làm cho người thấy đều vui mừng.

Giảng: Bởi nhân duyên đó, nầy thiện nam tử! Cho nên ta nhờ sức lực pháp trợ đạo, sức lực các căn lành, sức lực đại chí nguyện, sức lực tu công đức, sức lực suy gẫm tất cả pháp như thật, sức lực con mắt trí huệ, sức lực đại oai thần của Phật, sức lực đại từ bi, sức lực thanh tịnh thần thông, sức lực thiện tri thức, do những nhân duyên đó, nên chứng đắc được pháp thân thanh tịnh ba đời bình đẳng rốt ráo nầy.

Lại đắc được sắc thân thanh tịnh vô thượng, vượt qua các thế gian, tuỳ thuận tâm ưa thích của tất cả chúng sinh mà vì họ hiện thân, tuỳ loài giáo hoá, vào tất cả cõi, khắp tất cả mọi nơi. Nơi tất cả thế giới, thị hiện tất cả thần thông biến hoá rộng lớn, vì khiến cho ai thấy và nghe được cũng đều sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Thiện nam tử! nhữ thả quán ngã như thị sắc thân; ngã thử sắc thân, vô biên kiếp hải chi sở thành tựu, vô lượng thiên ức na-do-tha kiếp nan kiến nan văn.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi quan-sát sắc-thân của ta như vậy. Sắc-thân của ta đây đã thành-tựu từ vô-biên kiếp hải. Vô-lượng ngàn ức na-do-tha kiếp khó thấy khó nghe.

Giảng: Thiện nam tử! Ngươi hãy quán sắc thân của ta như vậy. Sắc thân của ta đây, đã thành tựu trong vô biên biển kiếp. Dù vô lượng ngàn ức Na do tha kiếp, cũng không dễ gì thấy được, cũng không dễ gì nghe được.

 

Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh vị chủng thiện căn, cập chủng thiểu thiện căn Thanh văn, Bồ Tát, do thượng bất đắc văn ngã danh tự, huống kiến ngã thân!

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh chưa gieo thiện-căn và gieo ít thiện-căn, Thanh-Văn, Bồ-Tát thời còn chẳng được nghe danh hiệu của ta huống là thấy được thân ta.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh chưa từng trồng căn lành, hoặc Thanh Văn Bồ Tát trồng chút ít căn lành, còn không nghe được danh hiệu của ta, hà huống là thấy được sắc thân của ta.

 

Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh đắc văn ngã danh, ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề bất phục thoái chuyển.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh được nghe danh hiệu của ta thời không còn thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh nghe được danh hiệu ta, thì sẽ không còn sinh tâm thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, ngày càng tinh tấn hơn, ngày càng phát tâm đại bồ đề.

 

Nhược kiến nhược xúc, nhược nghênh nhược tống, nhược tạm tùy trục, nãi chí mộng trung kiến văn ngã giả, giai diệc như thị.

Nếu ai hoặc thấy, hoặc chạm, hoặc rước, hoặc đưa, hoặc tạm theo dõi, nhẫn đến trong mộng được thấy nghe ta, thời đều cũng được bất thối chuyển cả

Giảng: Hoặc nếu thấy sắc thân của ta, hoặc xúc chạm quang minh của ta, hoặc nghinh đón ta, hoặc đưa rước ta, hoặc tạm thời theo ta, cho đến ở trong mộng thấy nghe được danh hiệu ta, thì cũng đều như thế, không còn thối chuyển tâm bồ đề.

 

Hoặc hữu chúng sanh, nhất nhật nhất dạ ức niệm ư ngã tức đắc thành thục;

Hoặc có chúng-sanh một ngày một đêm nhớ nghĩ đến ta thời liền được  thành-thục.

Giảng: Hoặc có chúng sinh, trong một ngày một đêm nghĩ nhớ đến ta, liền được thành thục A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức cũng là không thối chuyển tâm bồ đề.

 

Hoặc thất nhật thất dạ, bán nguyệt nhất nguyệt, bán niên nhất niên, bách niên thiên niên, nhất kiếp bách kiếp, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, ức niệm ư ngã nhi thành thục giả;

Hoặc bảy ngày bảy đêm, nửa tháng, một tháng, nửa năm, một năm, trăm năm, ngàn năm, một kiếp, trăm kiếp, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số kiếp nghĩ nhớ đến ta mà được thành-thục.

Giảng: Hoặc có chúng sinh, trong bảy ngày bảy đêm, hoặc nửa tháng một tháng, hoặc nửa năm một năm, hoặc trăm năm ngàn năm, hoặc một kiếp trăm kiếp, cho đến số kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, nghĩ nhớ đến ta mà thành thục A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, không thối chuyển tâm bồ đề.

 

Hoặc nhất sanh, hoặc bách sanh, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số sanh, ức niệm ư ngã nhi thành thục giả;

Hoặc một đời, hoặc trăm đời, nhẫn đến bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số đời nghĩ nhớ đến ta mà thành-thục.

Giảng: Hoặc một đời, hoặc trăm đời, cho đến số đời nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, nghĩ nhớ đến ta mà thành thục A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, không thối chuyển tâm bồ đề.

 

Hoặc kiến ngã phóng đại quang minh, hoặc kiến ngã chấn động Phật sát, hoặc sanh bố úy, hoặc sanh hoan hỉ, giai đắc thành thục.

Hoặc thấy ta phóng đại quang-minh, hoặc thấy ta chấn động cõi Phật, hoặc sanh e sợ, hoặc sanh hoan-hỉ thảy đều thanh-thục.

Giảng: Hoặc thấy được ta phóng đại quang minh, hoặc thấy được ta chấn động cõi Phật, hoặc sinh sợ hãi, hoặc sinh hoan hỉ, đều được thành thục quả vị A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Thiện nam tử! ngã dĩ như thị đẳng Phật sát vi trần số phương tiện môn, lệnh chư chúng sanh ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.

Nầy Thiện-nam-tử! Ta dùng phật-sát vi-trần-số môn phương-tiện như vậy, làm cho các chúng-sanh chẳng thối chuyển nơi vô-thượng bồ-đề.

Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng môn phương tiện nhiều như số hạt bụi cõi Phật như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh, được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh kiến văn ư ngã thanh tịnh sát giả, tất đắc sanh thử thanh tịnh sát trung.

Nầy Thiện-nam-tử! Nếu có chúng-sanh nào thấy nghe cõi thanh-tịnh của ta thời tất được sanh trong cõi thanh-tịnh nầy.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh, thấy nghe cõi nước thanh tịnh của ta, thì chắc chắn sẽ được sinh về cõi thanh tịnh đó.

 

Nhược hữu chúng sanh kiến văn ư ngã thanh tịnh thân giả, tất đắc sanh ngã thanh tịnh thân trung.

Nếu có chúng-sanh nào thấy nghe thân thanh-tịnh của ta thời tất được sanh trong thân thanh-tịnh của ta.

Giảng: Hoặc có chúng sinh, thấy nghe thân thanh tịnh của ta, thì chắc chắn sẽ được sinh trong sắc thân thanh tịnh của ta.

 

Thiện nam tử! nhữ ưng quán ngã thử thanh tịnh thân.

Nầy Thiện-nam-tử! Ngươi nên quan-sát thân thanh-tịnh của ta đây.

Giảng: Thiện nam tử! Ngươi nên quán sát sắc thân thanh tịnh nầy của ta, thì nhất định ngươi sẽ sinh trong pháp thân của ta.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử quán Phổ Hiền Bồ Tát thân, tướng hảo chi tiết, nhất nhất mao khổng trung, giai hữu bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát hải; nhất nhất sát hải, giai hữu chư Phật xuất hưng vu thế, đại Bồ-tát chúng sở cọng vi nhiễu.

Thiện-Tài quán-sát tướng-hảo chi tiết nơi thân Phổ-Hiền Bồ-Tát. Trong mỗi mỗi lỗ lông đều có bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát-hải. Mội mỗi sát-hải đều có chư Phật xuất thế và chúng-hội Bồ-Tát.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử quán sát thân Bồ Tát Phổ Hiền, chi tiết từng tướng tốt, trong mỗi mỗi lỗ chân lông, đều có bất khả thuyết bất khả thuyết biển cõi Phật. Trong mỗi mỗi biển cõi, đều có chư Phật xuất hiện ra đời, chúng đại Bồ Tát cùng vây quanh.

 

Hựu phục kiến bỉ nhất thiết sát hải, chủng chủng kiến lập, chủng chủng hình trạng, chủng chủng trang nghiêm, chủng chủng Đại sơn châu táp vi nhiễu, chủng chủng sắc vân di phước hư không, chủng chủng Phật hưng diễn chủng chủng Pháp; như thị đẳng sự, các các bất đồng.

Và lại thấy tất cả sát-hải đó: những kiến lập, những hình trạng, những trang-nghiêm, những đại-sơn bao quanh, những sắc mây che trùm hư-không, những Phật Như-Lai xuất thế thuyết những pháp-luân.

Giảng: Lại thấy tất cả biển cõi đó, có đủ thứ kiến lập, có đủ thứ hình trạng, có đủ thứ trang nghiêm, có đủ thứ núi lớn bao quanh khắp nơi, có đủ thứ mây màu sắc che phủ hư không, có đủ thứ chư Phật xuất hiện ra đời, diễn nói đủ thứ diệu pháp. Đủ thứ những việc như vậy, thảy đều khác nhau. Giống như tướng trạng thế giới, có thế giới hình tròn, có thế giới hình vuông, có thế giới ngửa, có thế giới úp, đủ thứ sự khác nhau.

 

Hựu kiến Phổ Hiền ư nhất nhất thế giới hải trung, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số Phật hóa thân vân, chu biến thập phương nhất thiết thế giới, giáo hóa chúng sanh, lệnh hướng A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.

Lại thấy ở trong mỗi mỗi thế-giới hải, Phổ-Hiền xuất hiện tất cả phật-sát vi-trần-số phật-hóa thân-vân, cùng khắp thập phương tất cả thế-giới giáo hóa chúng-sanh khiến hướng về vô-thượng bồ-đề.

Giảng: Lại thấy Bồ Tát Phổ Hiền ở trong mỗi mỗi biển thế giới, hiện ra thân mây hoá Phật, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, khắp cùng mười phương tất cả thế giới, giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ hướng về A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Thời, Thiện tài đồng tử hựu kiến tự thân tại Phổ Hiền thân nội, thập phương nhất thiết chư thế giới trung giáo hóa chúng sanh.

Bấy giờ Thiện-Tài lại thấy tự thân ở trong thân Phổ-Hiền giáo-hóa chúng-sanh trong mười phương tất cả thế-giới.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử lại thấy thân mình, ở trong thân Bồ Tát Phổ Hiền, ở trong mười phương tất cả thế giới, giáo hoá tất cả chúng sinh, chẳng những ở tại một thế giới giáo hoá chúng sinh, mà là ở trong mười phương hết thảy thế giới, đồng thời giáo hoá chúng sinh. Cảnh giới nầy thật là không thể nghĩ bàn.

Có người khởi vọng tưởng: “Thân của Bồ Tát Phổ Hiền, làm sao mà dung nạp Thiện Tài đồng tử”? Trong đoạn Kinh văn trước, chẳng phải có nói trong mỗi lỗ chân lông của Bồ Tát Phổ Hiền, có thể dung nạp các thế giới nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Tức nhiên được như thế, hiện tại Thiện Tài đồng tử vào trong thân Bồ Tát Phổ Hiền, thì đâu có gì là lạ? Là chuyện bình thường thôi, đừng có cho là quái lạ.

 

Hựu, Thiện tài đồng tử thân cận Phật sát vi trần số chư thiện tri thức sở đắc thiện căn, trí tuệ quang minh, bỉ kiến Phổ Hiền Bồ Tát sở đắc thiện căn, bách phân bất cập nhất, thiên phần bất cập nhất, bách thiên phần bất cập nhất, bách thiên ức phần nãi chí toán số thí dụ diệc bất năng cập thị.

Bao nhiêu thiện-căn trí-huệ quang-minh của Thiện-Tài đã được, khi thân cận phật-sát vi-trần-số chư thiện-tri-thức, sánh với thiện-căn khi thấy Phổ-Hiền Bồ-Tát mà được, thời không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần trăm ngàn ức, nhẫn đến không bằng một phần toán-số thí-dụ.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại gần gũi các vị thiện tri thức nhiều như số hạt bụi cõi Phật, đắc được căn lành trí huệ quang minh, so với căn lành thấy được Bồ Tát Phổ Hiền, không thể nào so sánh được, khác nhau một trời một vực, chẳng bằng một phần trăm, chẳng bằng một phần ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn, chẳng bằng một phần trăm ngàn ức, cho đến toán số ví dụ, cũng không bằng được.

 

Thiện tài đồng tử tùng sơ phát tâm, nãi chí đắc kiến Phổ Hiền Bồ Tát, ư kỳ trung gian sở nhập nhất thiết chư Phật sát hải, kim ư Phổ Hiền nhất mao khổng trung nhất niệm sở nhập chư Phật sát hải, quá tiền bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số bội; như nhất mao khổng, nhất thiết mao khổng tất diệc như thị.

Trong một niệm mà hiện nay Thiện-Tài nhập sát-hải của chư Phật ở trong một lỗ lông của Phổ-Hiền, sánh với thời-gian từ sơ phát tâm đến nay đã nhập sát-hải, thời nhiều hơn đến số bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần. Như nơi một lỗ lông, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy.

Giảng: Đó là do Thiện Tài đồng tử từ lúc ban đầu phát tâm, cho đến thấy được Bồ Tát Phổ Hiền, trong khoảng giữa thời gian đó vào tất cả biển cõi nước chư Phật. Nay ở trong một lỗ chân lông của Bồ Tát Phổ Hiền, khoảng một niệm vào biển cõi nước chư Phật, hơn số trước gấp bội nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Như một lỗ chân lông, tất cả lỗ chân lông cũng đều như thế.

 

Thiện tài đồng tử ư Phổ Hiền Bồ Tát mao khổng sát trung, hành nhất bộ, qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới; như thị nhi hành, tận vị lai kiếp, do bất năng trai nhất mao khổng trung sát hải thứ đệ, sát hải tạng, sát hải sái biệt, sát hải phổ nhập, sát hải thành, sát hải hoại, sát hải trang nghiêm sở hữu biên tế; diệc bất năng trai Phật hải thứ đệ, Phật hải tạng, Phật hải sái biệt, Phật hải phổ nhập, Phật hải sanh, Phật hải diệt sở hữu biên tế; diệc bất năng trai Bồ Tát chúng hải thứ đệ, Bồ Tát chúng hải tạng, Bồ Tát chúng hải sái biệt, Bồ Tát chúng hải phổ nhập, Bồ Tát chúng hải tập, Bồ Tát chúng hải tán sở hữu biên tế; diệc bất năng trai nhập chúng sanh giới, tri chúng sanh căn, giáo hóa điều phục chư chúng sanh trí, Bồ Tát sở trụ thậm thâm tự tại, Bồ Tát sở nhập chư địa chư đạo, như thị đẳng hải sở hữu biên tế.

Trong lỗ lông của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài bước một bước qua khỏi bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số thế-giới, đi mãi như vậy tột thuở vi-lai vẫn còn chẳng biết được thứ đệ sát-hải của trong một lỗ lông, cũng chẳng biết ngằn mé của sát-hải-tạng, sát-hải sai-biệt, sát-hải phổ-nhập, sát-hải-thành, sát-hải-hoại, sát-hải trang-nghiêm. Cũng chẳng biết được ngằn mé của phật-hải thứ đệ, phật-hải tạng, phật-hải sai-biệt, phật-hải phổ nhập, phật-hải sanh, phật-hải-diệt. Cũng chẳng biết được ngằn mé của bồ-tát-chúng-hải thứ đệ, bồ-tát-chúng-hải tạng, bồ-tát chúng-hải sai-biệt, bồ-tát chúng-hải phổ nhập, bồ-tát chúng-hải tập, bồ-tát chúng-hai tán. Cũng chẳng thể biết ngằn mé của trí nhập chúng-sanh-giới, biết căn chúng sanh, giáo-hóa điều-phục chúng-sanh, chỗ trụ thậm-thâm tự-tại của Bồ-Tát những địa những đạo của Bồ-Tát nhập.

Giảng: Thiện Tài đồng tử ở trong lỗ chân lông của Bồ Tát Phổ Hiền, đi một bước về phía trước, trải qua các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Đi như vậy, hết kiếp thuở vị lai, cũng không biết được biển cõi thứ lớp, biển cõi tạng, biển cõi khác biệt, biển cõi vào khắp, biển cõi thành, biển cõi hoại, biển cõi trang nghiêm, hết thảy bờ mé, trong một lỗ chân lông.

Cũng không biết được biển Phật thứ lớp, biển Phật tạng, biển Phật khác biệt, biển Phật vào khắp, biển Phật sinh, biển Phật diệt, hết thảy bờ mé.

Cũng không biết được biển chúng Bồ Tát thứ lớp, biển chúng Bồ Tát tạng, biển chúng Bồ Tát khác biệt, biển chúng Bồ Tát vào khắp, biển chúng Bồ Tát tập, biển chúng Bồ Tát tan, hết thảy bờ mé.

Cũng không biết được vào cõi chúng sinh, biết căn chúng sinh, giáo hoá điều phục các chúng sinh trí huệ, Bồ Tát trụ thâm sâu tự tại, Bồ Tát vào các địa các đạo, hết thảy biển bờ mé như vậy.

 

Thiện tài đồng tử ư Phổ Hiền Bồ Tát mao khổng sát trung, hoặc ư nhất sát Kinh ư nhất kiếp như thị nhi hành, nãi chí hoặc hữu Kinh bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp như thị nhi hành, diệc bất ư thử sát một, ư bỉ sát hiện, niệm niệm chu biến vô biên sát hải, giáo hóa chúng sanh, lệnh hướng A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.

Nơi sát hải trong lỗ lông của Phổ-Hiền Bồ-Tát, Thiện-Tài đi như vậy hoặc nơi một cõi trải qua một kiếp, nhẫn đến hoặc trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyệt phật-sát vi-trần-số kiếp mà đi như vậy, cũng chẳng mất nơi đây mà hiện nơi kia. Mỗi niệm Thiện-Tài cùng khắp vô-biên sát-hải giáo-hóa chúng-sanh khiến họ hướng về vô-thượng bồ-đề.

Giảng: Thiện Tài đồng tử ở trong cõi lỗ chân lông Bồ Tát Phổ Hiền, hoặc trong một cõi, trải qua một kiếp, đi như vậy, cho đến trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, đi như vậy, cũng chẳng phải kiếp nầy mất, thì kiếp kia hiện. Trong niệm niệm khắp cùng vô biên biển cõi, giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ hướng về quả Phật A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Đương thị chi thời, Thiện tài đồng tử tức thứ đệ đắc Phổ Hiền Bồ Tát chư hạnh nguyện hải, dữ Phổ Hiền đẳng, dữ chư Phật đẳng, nhất thân sung mãn nhất thiết thế giới, sát đẳng, hạnh đẳng, chánh giác đẳng, thần thông đẳng, Pháp luân đẳng, biện tài đẳng, ngôn từ đẳng, âm thanh đẳng, lực vô úy đẳng, Phật sở trụ đẳng, đại từ bi đẳng, bất khả tư nghị giải thoát tự tại tất giai đồng đẳng.

Ðương lúc đó, Thiện-Tài thứ đệ được những hạnh-nguyện-hải của Phổ-Hiền Bồ-Tát, đồng với Phổ-Hiền, đồng với chư Phật một thân sung-mãn tất cả thế-giới, đồng quốc-độ, đồng hạnh, đồng chánh-giác, đồng thần-thông, đồng pháp-luân, đồng biện-tài, đồng ngôn từ, đồng âm thanh, đồng lực vô-úy, đồng phật-sở-trụ, đồng đại từ-bi, bất-tư-nghì giải-thoát tự-tại đều đồng.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử liền thứ lớp đắc được các biển đại hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, đồng với Bồ Tát Phổ Hiền, đồng với chư Phật. Một thân đầy khắp tất cả thế giới. Tất cả cõi cũng như nhau, hạnh tu hành cũng như nhau, thành Phật cũng như nhau, thần thông cũng như nhau, chuyển bánh xe diệu pháp cũng như nhau, biện tài vô ngại cũng như nhau, lời nói cũng như nhau, âm thanh cũng như nhau, mười lực cũng như nhau, bốn vô uý cũng như nhau, chỗ trụ của Phật cũng như nhau, đại từ bi cũng như nhau, giải thoát tự tại không thể nghĩ bàn, thảy đều đồng nhau.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát tức thuyết tụng ngôn:

Lúc đó Phổ-Hiền đại Bồ-Tát liền nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền tâm bi tha thiết, bèn đối với đại chúng trong pháp hội nói bài kệ dưới đây rằng:

 

Nhữ đẳng ưng trừ chư hoặc cấu,                       Các ngài phải trừ những phiền-não
Nhất tâm bất loạn nhi đế thính;                         Nhất tâm bất loạn mà lắng nghe
Ngã thuyết Như Lai cụ chư độ,                          Tôi nói Như-Lai đủ các độ
Nhất thiết giải thoát chân thật đạo.                    Tất cả đạo chân-thiệt giải-thoát.

Bồ Tát Phổ Hiền nói với đại chúng rằng: Các ông nên trừ sạch tất cả bụi trần dơ bẩn và tất cả sự mê hoặc. Phải nhất tâm bất loạn chú ý lắng nghe ta nói pháp. Hiện tại ta nói Phật đầy đủ tất cả các độ, tất cả pháp môn giải thoát đạo chân thật.

 

Xuất thế điều nhu thắng trượng phu,                Xuất thế điều nhu Thắng-Trượng-Phu
Kỳ tâm thanh tịnh như hư không,                     Trong lòng thanh-tịnh như hư-không
Hằng phóng trí nhật đại quang minh,               Hằng phóng trí-nhật đại quang-minh
Phổ sử quần sanh diệt si ám.                              Khiến khắp quần-sanh diệt si ám

Vị đại trượng phu thù thắng xuất thế nầy, điều ngự chúng sinh ba cõi, khiến cho họ nhu hoà, không còn cang cường. Tâm của Ngài rất thanh tịnh như hư không, hoàn toàn không có tạp niệm. Ngài luôn phóng ra trí huệ đại quang minh như mặt trời, do đó có câu: “Trí Phật như ngàn mặt trời”. Chiếu khắp tâm chúng sinh, khiến cho chúng sinh diệt trừ tham sân sib a độc đen tối, hiện ra trí huệ đại quang minh.

 

Như Lai nan khả đắc kiến văn,                           Như-Lai rất khó được thấy nghe
Vô lượng ức kiếp kim nãi trị,                               Vô-lượng ức kiếp nay mới gặp
Như ưu-đàm hoa thời nhất hiện,                        Như hoa ưu-đàm một lần hiện
Thị cố ưng thính Phật công đức.                        Vì thế nên nghe Phật công-đức.

Phật chẳng dễ gì thấy được, cũng chẳng dễ gì nghe được pháp của Phật nói. Trải qua vô lượng ức kiếp rồi, đến nay mới gặp được Phật xuất hiện ra đời, giống như hoa ưu đàm một khi xuất hiện thì liền nở liền tàn. Bởi nhân duyên đó, nên tĩnh tâm lắng nghe công đức của Phật, đừng để mất đi cơ hội, đây là cơ hội tốt trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được.

 

Tùy thuận thế gian chư sở tác,                           Tùy thuận việc làm của thế-gian
Thí như huyễn sĩ hiện chúng nghiệp,                  Ví như thuật-sĩ hiện những sự
Đãn vi duyệt khả chúng sanh tâm,                     Chỉ để làm vui lòng chúng-sanh
Vị tằng phân biệt khởi tưởng niệm.                    Chưa từng phân-biệt khởi tưởng niệm.

Tuỳ thuận tất cả các việc làm thế gian, ví như nhà huyễn thuật, thị hiện ra tất cả cảnh giới, tất cả các nghiệp, chỉ vì khiến tâm của tất cả chúng sinh hoan hỉ, mà ông ta chưa từng phân biệt sinh khởi tưởng niệm, ông ta chỉ biết làm huyễn thuật biến hoá.

 

Nhĩ thời, chư Bồ-tát văn thử thuyết dĩ, nhất tâm khát ngưỡng, duy nguyện đắc văn Như Lai Thế Tôn chân thật công đức, hàm tác thị niệm:

Chư Bồ-Tát nghe lời kệ trên đây, tất cả đều khát ngưỡng mong được nghe công-đức chơn-thiệt của đức Thế-Tôn, đều nghĩ rằng:

Giảng: Lúc đó, tất cả các Bồ Tát đã nghe Bồ Tát Phổ Hiền nói rồi, đại chúng một lòng khát ngưỡng. Liền muốn được nghe công đức chân thật của Như Lai Thế Tôn, đại chúng đều nghĩ như vầy:

 

Phổ Hiền Bồ Tát cụ tu chư hạnh, thể tánh thanh tịnh, sở hữu ngôn thuyết giai tất bất hư, nhất thiết Như Lai cọng sở xưng thán. Tác thị niệm dĩ, thâm sanh khát ngưỡng.

Phổ-Hiền Bồ-Tát tu đủ các hạnh, thể tánh thanh-tịnh, những lời nói ra đều chẳng hư luống, tất cả Như-Lai đều khen ngợi ngài.

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền tu đầy đủ tất cả các hạnh, thể tánh của Ngài thanh tịnh, hết thảy lời nói của Ngài, đều là chân thật không hư. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều cùng khen ngợi Bồ Tát Phổ Hiền, đại chúng nghĩ như vậy rồi, sinh tâm khát ngưỡng thâm sâu, muốn Bồ Tát Phổ Hiền diễn nói ngay lập tức.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát công đức trí tuệ cụ túc trang nghiêm, do như liên hoa bất trước tam giới nhất thiết trần cấu, cáo chư Bồ-tát ngôn: nhữ đẳng đế thính, ngã kim dục thuyết Phật công đức hải nhất tích chi tướng. Tức thuyết tụng ngôn:

Phổ-Hiền Bồ-Tát công-đức trí-huệ trang-nghiêm đầy đủ, như hoa sen chẳng dính trần, cấu tam-giới. Ngài bảo chúng Bồ-Tát rằng: Các ngài lắng nghe! Nay tôi muốn nói tướng một giọt trong biển công-đức của Phật.Phổ-Hiền Bồ-Tát liền nói kệ rằng:

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền, công đức và trí huệ, đều đầy đủ trang nghiêm, giống như hoa sen, chẳng nhiễm tất cả bụi dơ của ba cõi, bảo các Bồ Tát rằng: Các vị đại chúng hãy chú ý lắng nghe! Nay ta vì các vị đại chúng mà nói tướng một giọt nước biển công đức của Phật, bèn nói kệ rằng.
Chín mươi lăm bài kệ dưới đây, chín mươi ba bài kệ trước là khen ngợi đức của Phật. Hai bài kệ cuối là kết đức vô tận, khuyên tin đừng nghi. Tám mươi kệ trước pháp nói. Mười ba bài kệ sau ví dụ thuyết minh. Khen ngợi mười thân viên mãn của Phật Tỳ Lô Giá Na, hai mươi mốt thứ công đức thù thắng.

 

Phật trí quảng đại đồng hư không,                Phật-trí rộng lớn đồng hư-không
Phổ biến nhất thiết chúng sanh tâm,              Khắp cùng tất cả tâm chúng-sanh
Tất liễu thế gian chư vọng tưởng,                   Ðều rõ thế-gian những vọng-tưởng
Bất khởi chủng chủng dị phân biệt.                Chẳng khởi những phân-biệt sai khác.

Trí huệ của Phật rộng lớn không bờ mé, đồng với hư không. Trí huệ quang minh của Phật khắp cùng tất cả tâm chúng sinh, do đó có câu: “Phật quang phổ chiếu”. Phật đều thấu rõ chúng sinh thế gian, khởi vọng tưởng gì, do đó có câu: “Tất cả chúng sinh, bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết đều thấy”. Phật chẳng cần sinh khởi đủ thứ tâm phân biệt khác nhau mới biết được, giống như tấm gương lớn sáng sạch, vật đến thì ứng, vật đi thì lặng.

 

Nhất niệm tất tri tam thế Pháp,                      Một niệm đều biết pháp tam thế
Diệc liễu nhất thiết chúng sanh căn,               Cũng rõ tất cả căn chúng-sanh
Thí như thiện xảo đại huyễn sư,                      Ví như nhà ảo-thuật thiện-xảo
Niệm niệm thị hiện vô biên sự.                         Mỗi niệm thị-hiện vô-biên sự.

Đức Phật trong một niệm, đều biết tất cả pháp ba đời, cũng thấu rõ căn tánh của tất cả chúng sinh. Ví như nhà huyễn thuật khéo léo biến hoá, ông ta trong niệm niệm, thị hiện vô biên việc huyễn, trong không hoá có, trong có hoá không.

 

Tùy chúng sanh tâm chủng chủng hạnh,       Tùy tâm chúng-sanh hiện những hạnh
Vãng tích chư nghiệp thệ nguyện lực,            Thuở xưa các nghiệp, sức thệ nguyện
Lệnh kỳ sở kiến các bất đồng,                         Khiến họ thấy biết đều chẳng đồng
Nhi Phật bản lai vô động niệm.                       Mà Phật bổn-lai không động niệm.

Tuỳ thuận tâm chúng sinh đủ thứ hành vi, thuở xưa tạo ra các nghiệp và phát thệ nguyện lực, khiến cho chúng sinh thấy được cảnh giới đều khác nhau, mỗi người có nghiệp lực của mỗi người, mỗi người có nguyện lực của mỗi người, do đó chỗ thấy cũng khác nhau, mà Phật vốn đối với chúng sinh chẳng có tâm phân biệt, chẳng khởi tâm động niệm.

 

Hoặc hữu xứ xứ kiến Phật tọa,                       Hoặc có xứ xứ thấy Phật ngồi
Sung mãn thập phương chư thế giới,             Sung mãn thập phương các thế-giới,
Hoặc hữu kỳ tâm bất thanh tịnh,                   Hoặc có chúng-sanh tâm bất tịnh
Vô lượng kiếp trung bất kiến Phật.                Trong vô lượng kiếp chẳng thấy Phật

Hoặc có người nơi nơi thấy Phật ngồi đạo tràng, đầy khắp mười phương tất cả thế giới; hoặc có người tâm chẳng thanh tịnh, có tư tưởng nhiễm ô, trong vô lượng kiếp, cũng chẳng thấy được Phật.

 

Hoặc hữu tín giải ly kiêu mạn,                         Hoặc có tín giải rời kiêu mạn
Phát ý tức đắc kiến Như Lai;                          Phát ý liền được thấy Như Lai,
Hoặc hữu siểm cuống bất tịnh tâm,                Hoặc kẻ siểm cuống tâm bất-tịnh
Ức kiếp tầm cầu mạc trực ngộ.                       Ức kiếp tìm cầu chẳng thấy Phật.

Hoặc có người tin Phật pháp, thấu hiểu Phật pháp, lìa khỏi sự kiêu ngạo ngã mạn. Ban đầu phát bồ đề tâm, liền thấy được Như Lai. Hoặc có người có hành vi xiểm nịnh, có tập quán nói dối, vì tâm họ chẳng thanh tịnh, cho nên trong ức kiếp, cũng chẳng gặp được Phật, cũng chẳng nghe được pháp, cũng chẳng gặp được thiện tri thức sáng suốt.

 

Hoặc nhất thiết xứ văn Phật âm,                    Hoặc người mọi xứ nghe tiếng Phật
Kỳ âm mỹ diệu lệnh tâm duyệt;                      Âm thanh mỹ Diệu làm tâm vui,
Hoặc hữu bách thiên vạn ức kiếp,                  Hoặc kẻ trăm ngàn muôn ức kiếp
Tâm bất tịnh cố bất văn giả.                           Vì tâm bất tịnh chẳng được nghe.

Hoặc có người, có thể ở tất cả mọi nơi, đều nghe được đức Phật diễn nói diệu pháp âm, pháp âm đó rất hay và êm dịu, khiến cho người nghe sinh tâm vui mừng. Hoặc có người, trong trăm ngàn vạn ức kiếp, cũng chẳng nghe được diệu âm Phật nói pháp. Tại sao? Vì tâm họ chẳng thanh tịnh, nên chẳng nghe được.

 

Hoặc kiến thanh tịnh đại Bồ-tát,                    Hoặc thấy thanh-tịnh Ðại Bồ-Tát
Sung mãn tam thiên Đại Thiên giới,                Ðầy khắp Tam-thiên đại-thiên giới
Giai dĩ cụ túc Phổ Hiền hạnh,                         Ðều đã đầy đủ hạnh Phổ-Hiền
Như Lai ư trung nghiễm nhiên tọa.                Trong đó Như-Lai nghiễm nhiên tọa.

Hoặc có người, thấy được đại Bồ Tát thanh tịnh, đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Các Ngài đều đã đầy đủ hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, Như Lai ở trong đó nghiễm nhiên ngồi trên pháp toà.

 

Hoặc kiến thử giới diệu vô bỉ,                          Hoặc thấy cõi nầy diệu vô-tỷ
Phật vô lượng kiếp sở nghiêm tịnh;                Phật vô-lượng kiếp đã nghiêm tịnh
Tỳ Lô Giá Na Tối thắng tôn,                           Tỳ-Lô-Giá-Na Tối-Thắng-Tôn
Ư trung giác ngộ thành Bồ-đề.                       Trong đây đại ngộ thành Chánh-Giác.

Hoặc có người, thấy thế giới nầy đẹp vô tỉ, đó là do Phật ở trong vô lượng kiếp trang nghiêm thanh tịnh. Đức Tỳ Lô Giá Na đấng Tối Thắng, ở trong đó giác ngộ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Hoặc kiến liên hoa thắng diệu sát,                  Hoặc-thấy Liên-Hoa cõi thắng-diệu
Hiền Thủ Như Lai trụ tại trung,                     Hiền-Thủ Như-Lai ở trong đó
Vô lượng Bồ Tát chúng vi nhiễu,                    Vô-lượng Bồ Tát chúng vi-nhiễu
Giai tất cần tu Phổ Hiền hạnh.                       Thảy đều siêng tu hạnh Phổ-Hiền.

Hoặc có người, thấy cõi Phật hoa sen thù thắng vi diệu, Hiền Thủ Như Lai ở trong đó, có vô lượng chúng Bồ Tát cùng vây quanh. Những vị Bồ Tát đó, đều siêng tu hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.

 

Hoặc hữu kiến Phật Vô-Lượng-Thọ,              Hoặc có thấy Phật Vô-lượng-thọ
Quán Tự Tại đẳng sở vi nhiễu,                        Quan Âm Thế-Chí hầu hai bên
Tất dĩ trụ ư quán đảnh địa,                             Ðều bậc quán-Ðảnh Bổ-xứ cả
Sung mãn thập phương chư thế giới.             Sung mãn mười phương các quốc độ.

Hoặc có người, thấy Phật Vô Lượng Thọ, tức cũng là Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc. Lại thấy Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí ở hai bên trái và phải, xưng là Tây Phương Tam Thánh. Cùng với vô lượng chúng Bồ Tát cùng vây quanh. Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí đều đã trụ nơi bậc quán đảnh. Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ là giáo chủ thế giới Cực Lạc Tây Phương trong tương lai, Ngài sẽ thay thế đức Phật A Di Đà, còn Bồ Tát Đại Thế Chí sẽ kế thừa Bồ Tát Quán Thế Âm trong tương lai, các Ngài có trăm ngàn ức hoá thân, đầy khắp mười phương các thế giới.

 

Hoặc hữu kiến thử tam thiên giới,                  Hoặc có thấy cõi Ðại-Thiên nầy
Chủng chủng trang nghiêm như diệu hỉ,       Thanh-tịnh trang-nghiêm như Diệu-Hỉ
A Súc Như Lai trụ tại trung,                           A-Súc Như-Lai ngự tại đây
Cập như hương tượng chư Bồ-tát.                 Chúng đại Bồ-Tát bao quanh Phật.

Hoặc có người, thấy ba ngàn đại thiên thế giới có đủ thứ sự trang nghiêm. Giống như thế giới Diệu Hỉ ở phương đông, tức cũng là thế giới Tịnh Lưu Ly ở phương đông. Phật A Súc, tức cũng là Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật. Ở trong thế giới đó, cùng với như hương tượng các Bồ Tát.

 

Hoặc kiến nguyệt giác Đại danh xưng,           Hoặc thấy Nguyệt-Giác Danh-Xưng Phật
Dữ Kim cương Tràng Bồ-tát đẳng,                Cùng Kim-Cang-Tràng chư Bồ-Tát
Trụ như viên kính diệu trang nghiêm,            Ở cõi Viên-Cảnh Diệu-Trang-Nghiêm
Phổ biến thập phương thanh tịnh sát.            Khắp đến mười phương các quốc-độ.

Hoặc có người, thấy đức Phật Nguyệt Giác và Bồ Tát Kim Cang Tràng Bồ Tát, trụ ở thế giới Như Viên Kính Diệu Trang Nghiêm, các Ngài du hành khắp cùng mười phương cõi Phật thanh tịnh, đến đi tự tại, chẳng bị hạn chế. Các Ngài ở trong định mà có thể khắp cùng tất cả mọi nơi.

 

Hoặc kiến nhật tạng thế sở tôn,                      Hoặc thấy Nhựt-Tạng Phật Thế-Tôn
Trụ thiện quang minh thanh tịnh thổ,            Ở cõi thanh-tịnh Thiện-Quang-Minh
Cập dữ quán đảnh chư Bồ-tát,                       Cùng với quán-đảnh chư Bồ-Tát
Sung biến thập phương nhi thuyết Pháp.      Sung mãn mười phương mà thuyết pháp.

Hoặc có người, thấy đức Phật Nhựt Tạng, trụ ở cõi nước Thiện Quang Minh thanh tịnh, cùng với các Bồ Tát quán đảnh, nhứt sinh bổ xứ, đầy khắp mười phương thế giới mà nói pháp giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo.

 

Hoặc kiến Kim cương Đại diệm Phật,            Hoặc thấy Kim-Cang-Ðại-Diệm Phật
Nhi dữ trí Tràng Bồ-tát câu,                           Câu hội với Trí-Tràng Bồ-Tát
Châu hành nhất thiết quảng đại sát,              Châu hành tất cả cõi quảng đại
Thuyết Pháp trừ diệt chúng sanh ế.               Thuyết pháp diệt trừ chúng-sanh-mê.

Hoặc có người, thấy đức Phật Kim Cang Đại Diệm và Bồ Tát Trí Tràng cùng câu hội, du hành khắp tất cả cõi Phật rộng lớn, diễn nói diệu pháp, trừ diệt màng nhiễm ô của hết thảy chúng sinh.

 

Nhất nhất mao đoan bất khả thuyết,             Mỗi mỗi đầu lông bất-khả-thuyết
Chư Phật cụ tướng tam thập nhị,                  Chư Phật tướng hảo ba mươi hai
Bồ Tát quyến thuộc cọng vi nhiễu,                 Bồ-Tát quyến-thuộc đồng vây quanh
Chủng chủng thuyết Pháp độ chúng sanh.   Vì độ chúng-sanh luôn thuyết pháp.

Mỗi mỗi đầu sợi lông, có chư Phật nhiều bất khả thuyết, đều đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Mỗi vị Phật đều có Bồ Tát quyến thuộc cùng vây quanh. Phật có thể quán căn cơ vì người mà thuyết pháp, theo bệnh mà cho thuốc, nói đủ thứ diệu pháp, độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khỏi khổ trong ba cõi, đắc được an vui Niết Bàn bốn đức.

 

Hoặc hữu quán kiến nhất mao khổng,           Hoặc có xem thấy một lỗ lông
Cụ túc trang nghiêm quảng đại sát,               Ðầy đủ cõi trang-nghiêm quảng đại
Vô lượng Như Lai tất tại trung,                      Vô-luợng Như-Lai đều ở trong
Thanh tịnh Phật tử giai sung mãn.                 Thanh-tịnh phật-tử đều sung-mãn.

Hoặc có người, quán thấy trong mỗi lỗ chân lông, cõi Phật rộng lớn đầy đủ vô lượng trang nghiêm. Có vô lượng chư Phật đều ở trong đó chuyển bánh xe pháp. Có Phật tử thanh tịnh (đại Bồ Tát) đều đầy dẫy ở trong một lỗ chân lông.

 

Hoặc hữu kiến nhất vi trần nội,                      Hoặc có thấy trong một vi-trần
Cụ hữu hằng sa Phật quốc độ,                       Có đủ hằng-sa Phật quốc-độ
Vô lượng Bồ Tát tất sung mãn,                       Vô-lượng Bồ-Tát đều sung-mãn
Bất khả thuyết kiếp tu chư hạnh.                   Bất-khả-thuyết kiếp tu các hạnh.

Hoặc có người, thấy được trong một hạt bụi, có đủ cõi nước chư Phật nhiều như số cát sông Hằng, có vô lượng Bồ Tát đều đầy dẫy ở trong đó, trong bất khả thuyết kiếp, tu hành lục độ vạn hạnh. Đây là cảnh giới trong nhỏ hiện lớn, lớn chẳng ngại nhỏ, nhỏ chẳng ngại lớn, cùng viên dung vô ngại. Đạo lý trong Kinh Hoa Nghiêm nói, tức là cảnh giới trong lớn hiện nhỏ, trong nhỏ hiện lớn.

 

Hoặc hữu kiến nhất mao đoan xứ,                 Hoặc có thấy chỗ một đầu lông
Vô lượng trần sa chư sát hải,                          Vô-lượng trần-sa những sát-hải
Chủng chủng nghiệp khởi các sái biệt,           Bao nhiêu nghiệp khởi đều sai khác
Tỳ Lô Giá Na chuyển pháp luân.                    Tỳ-Lô-Giá-Na chuyển pháp-luân.

Hoặc có người, thấy nơi đầu một sợi lông, có vô lượng biển cõi nhiều như cát bụi, vì chúng sinh tạo đủ thứ nghiệp, cho nên sinh khởi đủ thứ tướng khác nhau. Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, ở trong đó chuyển bánh xe diệu pháp, giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh.

 

Hoặc kiến thế giới bất thanh tịnh,                  Hoặc thấy thế-giới chẳng thanh-tịnh
Hoặc kiến thanh tịnh bảo sở thành,               Hoặc thấy thanh-tịnh báu làm thành
Như Lai trụ thọ vô lượng thời,                        Như-Lai trụ thọ lâu vô-lượng
Nãi chí Niết-Bàn chư sở hiện.                         Nhẫn đến niết-bàn đều hiện đủ.

Hoặc có người, thấy thế giới chẳng thanh tịnh, hoặc thấy thế giới thanh tịnh, đều do bảy báu làm thành, hoặc thấy Phật trụ thế thọ mạng lâu vô lượng, cho đến lúc vào Niết Bàn, chứng được thường lạc ngã tịnh, hiện ra đủ thứ cảnh giới.

 

Phổ biến thập phương chư thế giới,               Cùng khắp mười phương các thế-giới
Chủng chủng thị hiện bất tư nghị,                  Thị hiện nhiều thứ bất-tư-nghì
Tùy chư chúng sanh tâm trí nghiệp,              Tùy các chúng-sanh tâm trí nghiệp
Mị bất hóa độ lệnh thanh tịnh.                       Thảy đều hóa độ khiến thanh-tịnh.

Phật có thể đến khắp cùng mười phương tất cả thế giới, thị hiện đủ thứ cảnh giới đều không nghĩ bàn. Tại sao? Vì tuỳ thuận tâm niệm, trí huệ, nghiệp hoặc của tất cả chúng sinh, mà thị hiện cảnh giới. Chẳng có một chúng sinh nào mà không được chư Phật hoá độ, Phật đều khiến cho họ khôi phục lại bản thể thanh tịnh.

 

Như thị vô thượng đại đạo sư,                        Vô-Thượng Ðạo-Sư như vậy thảy
Sung mãn thập phương chư quốc độ,            Sung-mãn thập phương các quốc-độ
Thị hiện chủng chủng thần thông lực,            Thị-hiện nhiều loại thần-thông-lực
Ngã thuyết thiểu phần nhữ đương thính.      Tôi nói một ít ngài nên nghe.

Vô thượng đại Đạo Sư như vậy, đầy khắp mười phương tất cả cõi nước chư Phật, thị hiện đủ thứ sức thần thông. Tóm lại, chúng sinh nên dùng pháp gì hoá độ được, thì liền dùng pháp đó để hoá độ. Cho nên Phật thường dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để giáo hoá độ thoát chúng sinh có duyên. Công đức của Phật nhiều vô lượng vô biên, hiện tại ta chỉ nói ít phần mà thôi, các vị mọi người nên tụ tinh hội thần lại để nghe, trong tâm đừng khởi vọng tưởng.

 

Hoặc kiến Thích Ca thành Phật đạo,             Hoặc thấy Thích-Ca thành phật-đạo
Dĩ Kinh bất khả tư nghị kiếp;                         Ðã trải kiếp số bất-tư-nghì,
Hoặc kiến kim thủy vi Bồ Tát,                         Hoặc thấy nay mới làm Bồ-Tát
Thập phương lợi ích chư chúng sanh.            Mười phương lợi ích các chúng-sanh.

Hoặc có người thấy đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành tựu Phật đạo dưới cội bồ đề. Nhưng đức Phật Thích Ca Mâu Ni sớm đã thành Phật, đã trải số kiếp không thể nghĩ bàn. Hoặc có người thấy hiện tại mới làm Bồ Tát, còn đang hành Bồ Tát đạo, đến mười phương thế giới để lợi ích tất cả chúng sinh, giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, chẳng thọ khổ luân hồi.

Cảnh giới nói trong Kinh Hoa Nghiêm, giống như xem truyền hình. Có lúc chiếu lại đủ thứ sự việc trong quá khứ. Có lúc chiếu lại đủ thứ sự việc trong tương lai. Do đó có thể biết, quá khứ, hiện tại, vị lai ba thời, chẳng có gì khác biệt, có thể đem ba thời biến làm một thời, cũng có thể đem một thời biến thành ba thời, đây tức là cảnh giới viên dung vô ngại.

 

Hoặc hữu kiến thử thích sư tử,                       Hoặc người lại thấy Thích Sư-Tử
Cúng dường chư Phật tu hành đạo;              Cúng-dường chư Phật tu đạo hạnh,
Hoặc kiến nhân trung Tối thắng tôn,             Hoặc thấy Thế-Tôn đủ phước trí
Hiện chủng chủng lực thần thông sự.            Hiển hiện những sự đại thần-thông.

Hoặc có người thấy được Thích Sư Tử, cúng dường mười phương chư Phật tu hành Bồ Tát đạo, hoặc có người thấy được đấng Tối Thắng trong loài người, thị hiện đủ thứ lực và việc thần thông diệu dụng. Tại sao? Vì khiến cho chúng sinh cải tà quy chánh, buông bỏ tâm vọng tưởng ích kỷ lợi mình.

 

Hoặc kiến bố thí hoặc trì giới,                         Hoặc thấy bố-thí, hoặc trì giới,
Hoặc nhẫn hoặc tấn hoặc chư Thiền,            Hoặc nhẫn, tinh-tấn, hoặc thiền định,
Bát-nhã phương tiện nguyện lực trí,              Bát-nhã, phương-tiện, nguyện, lực, trí
Tùy chúng sanh tâm giai thị hiện.                   Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện

Hoặc có người thấy được Bồ Tát đang tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã, phương tiện, nguyện, lực, trí, mười pháp môn Ba La Mật đến bờ kia. Tuỳ thuận tâm chúng sinh, đều thị hiện để giáo hoá chúng sinh. Đức Phật giống như mặt trăng thanh tịnh, khi tâm nước chúng sinh thanh tịnh, thì ánh sáng của Phật sẽ hiện ra trong tâm nước của chúng sinh. Khi tâm nước của chúng sinh đục dơ, thì sẽ không hiện ra.

 

Hoặc kiến cứu cánh Ba-la-mật,                      Hoặc thấy rốt ráo ba-la-mật
Hoặc kiến an trụ ư chư địa,                            Hoặc thấy an trụ ở các địa
Tổng trì tam muội thần thông trí,                  Tổng-trì, tam-muội, thần-thông trí
Như thị tất hiện vô bất tận.                             Như vậy đều hiện đầy đủ cả.

Hoặc thấy được Bồ Tát tu hành viên mãn, đến được rốt ráo Ba La Mật bờ bên kia. Hoặc thấy được Bồ Tát an trụ nơi các địa, hoặc chứng được tổng trì, tam muội, thần thông, trí huệ, những cảnh giới đó, đều hiện tiền không cùng tận.

 

Hoặc hiện tu hành vô lượng kiếp,                   Hoặc hiện tu hành vô-lượng kiếp
Trụ ư Bồ Tát kham nhẫn vị;                           Trụ nơi bồ-tát, bậc kham-nhẫn
Hoặc hiện trụ ư bất thoái địa,                         Hoặc hiện trụ nơi bực bất-thối
Hoặc hiện pháp thủy quán kỳ đảnh.              Hoặc hiện pháp-thủy rưới trên đầu.

Hoặc thị hiện tu hành vô lượng kiếp, an trụ bậc Bồ Tát chịu kham nhẫn. Hoặc thị hiện trụ bậc không thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hoặc thị hiện nước pháp thọ Bồ Tát quán đảnh, trở thành con của đấng Pháp Vương.

 

Hoặc hiện Phạm Thích hộ thế thân,               Hoặc hiện thân Phạm, Thích Tứ Vương
Hoặc hiện sát lợi Bà-la-môn,                           Hoặc hiện Sát-Lợi, Bà-La-Môn,
Chủng chủng sắc tướng sở trang nghiêm,     Nhiều loại sắc tướng thân trang-nghiêm
Do như huyễn sư hiện chúng tượng.              Dường như thuật-sĩ hiện hình tượng.

Hoặc thị hiện thân Đại Phạm Thiên, trời Đế Thích, Tứ Thiên Vương hộ đời. Hoặc thị hiện thân Sát đế lợi (hoàng tộc), hoặc thị hiện thân Bà La Môn (hạnh thanh tịnh), có đủ thứ sắc tướng rất trang nghiêm, cảnh giới đó giống như huyễn sư biến hoá ra các hình tượng, đều là hư huyễn không thật.

 

Hoặc hiện Đâu Suất thủy hàng thần,             Hoặc hiện Ðâu-Suất mới giáng thần
Hoặc kiến cung trung thọ tần ngự,                Hoặc thấy trong cung thọ dục lạc
Hoặc kiến khí xả chư vinh lạc,                        Hoặc thấy rời bỏ những vinh hoa
Xuất gia ly tục hành học đạo.                          Xuất gia lìa tục đi học đạo.

Hoặc thị hiện cảnh giới từ  cung trời Đâu Suất nội viện, bắt đầu giáng thần xuống nhân gian. Hoặc thấy được thái tử ở trong cung thọ dục lạc, được cung nga, thể nữ, thê thiếp, hầu hạ. Hoặc thấy được thái tử từ bỏ tất cả vinh hoa phú quý, vợ đẹp thiếp xinh, xuất gia tu đạo, thành tựu Phật quả.

 

Hoặc kiến thủy sanh hoặc kiến diệt,               Hoặc thấy mới sanh, hoặc thấy chết,
Hoặc kiến xuất gia học dị hạnh,                      Hoặc thấy xuất gia học dị-hạnh
Hoặc kiến tọa ư Bồ-đề thụ,                             Hoặc thấy ngồi dưới cội Bồ-Ðề
Hàng phục ma quân thành chánh giác.         Hàng phục ma-quân thành Chánh-Giác.

Hoặc thấy được Phật mới sinh, ngồi nơi đạo tràng, nói pháp bốn mươi chín năm, giảng Kinh hơn ba trăm hội. Hoặc thấy được Phật vào Niết Bàn, hoặc thấy được Phật xuất gia tu khổ hạnh, ở tại núi Tuyết sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè để duy trì mạng sống. Hoặc thấy được Phật ngồi dưới cội bồ đề, dùng định lực kim cang để hàng phục ma quân, cảm hoá ma nữ dụ hoặc, cuối cùng chiến thắng, mà thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Hoặc hữu kiến Phật thủy Niết-Bàn,               Hoặc lại thấy Phật mới niết-bàn
Hoặc kiến khởi tháp biến thế gian,                 Hoặc thấy dựng tháp khắp thế-gian
Hoặc kiến tháp trung lập Phật tượng,           Hoặc thấy trong tháp thờ tượng Phật
Dĩ tri thời cố như thị hiện.                               Vì biết thời cơ hiện như vậy

Hoặc thấy được Phật mới Niết Bàn, hoặc thấy xây tháp thờ xá lợi khắp thế gian. Hoặc thấy ở trong tháp thờ tượng Phật, nhờ biết thời nên hiện ra như vậy, đúng thời đúng lúc, chẳng thất thời.

 

Hoặc kiến Như Lai Vô-Lượng-Thọ,                Hoặc thấy Như-Lai Vô-Lượng-Thọ
Dữ chư Bồ-tát thọ tôn kí,                                Thọ Phật ký cho chư Bồ-Tát
Nhi thành vô thượng đại đạo sư,                    Mà thành vô-thượng Ðại-Ðạo-Sư
Thứ bổ trụ ư an lạc sát.                                   Kế bổ nhậm ở cõi An-Lạc.

Hoặc thấy được Như Lai có vô lượng thọ mạng, thọ ký biệt hiệu cho tất cả Bồ Tát, sẽ thành tựu đại Đạo Sư vô thượng. Sau đó, bổ thừa kế cõi An Lạc, tức cũng là cõi Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Thế giới đó, có các sự vui mà không có các sự khổ, hoa sen hoá sinh, hoa nở thấy Phật. Hôm nay nói về ý nghĩa chữ nhục, tức là thịt. Có bài kệ rằng:

“Trong chữ thịt có hai người
Bên trong chiếu người bên ngoài
Chúng sinh còn ăn thịt chúng sinh
Suy gẫm kỹ thì người ăn người”.

Trong chữ thịt có hai người, một là người ăn thịt, một là người bị ăn. Người ăn thịt thì đầu ở ngoài thịt; người bị ăn thì đầu ở trong thịt. Đời này bạn ăn thịt tôi, đời sau tôi sẽ ăn thịt bạn, đó là nhân quả trả vay. Cho nên thế giới không có ngày nào hoà bình, khi nào oán cừu đến thì sẽ xảy ra chiến tranh; nhân cơ hội đó, chúng sinh tàn sát lẫn nhau, đó đây vay trả lẫn nhau, chẳng phải vay nợ, thì là trả nợ. Đây là nhân quả báo ứng, tơ hào không sai.

Người bên ngoài chữ thịt, thì ăn người bên trong chữ thịt. Người nầy cũng có thể là bạn bè của bạn trong đời trước, đời này đã thay hình đổi dạng, bạn ăn thịt của nó, liền kết thêm oán cừu. Tương lai, nó sẽ phục thù, chắc chắn sẽ đến ăn thịt của bạn, thì mới hả giận. Do đó có câu: “Oán oán tương báo”, vĩnh viễn không khi nào chấm dứt. Nếu bạn không ăn thịt, thì tất cả mọi oán cừu sẽ được hoá giải, hoá địch thành bạn.

Người ở trong thịt, cũng có thể là người thân của bạn trong quá khứ, hoặc là anh em chị em không chừng, hoặc là cha mẹ con cái. Tóm lại, có thể là người thân cốt nhục. Họ đã thay mắt đổi mày, bạn có thể nhẫn tâm ăn thịt của họ chăng? Cho nên Phật giáo đề xướng bình đẳng, từ bi, không nhẫn tâm ăn thịt chúng sinh. Vậy, làm thế nào để trở thành tập quán không ăn thịt? Phương pháp rất là đơn giản, khi nào bạn muốn ăn thịt, thì liền quán tưởng như vầy: “Đây là thịt tử thi, hôi quá không thể ngửi”. Quán tưởng như thế, thì ba ngày sau làm gì mà còn tâm hồn ăn thịt nữa! Người thích ăn thịt, đừng ngại hãy thử xem biện pháp nầy.

 

Hoặc kiến vô lượng ức thiên kiếp,                   Hoặc thấy vô-lượng ngàn ức kiếp
Tác Phật sự dĩ nhập Niết Bàn;                       Phật-sự đã xong nhập niết-bàn
Hoặc kiến kim thủy thành Bồ-đề,                   Hoặc thấy nay mới thành bồ-đề
Hoặc kiến chánh tu chư diệu hạnh.                Hoặc thấy chánh tu những diệu-hạnh.

Hoặc thấy được Phật ở trong vô lượng ức ngàn kiếp, làm đại Phật sự rồi vào Niết Bàn, giáo hoá hết những chúng sinh cần giáo hoá, việc cần làm đã làm xong, sau đó mới vào Niết Bàn. Hoặc thấy Phật hiện tại mới thành Phật, hoặc thấy Phật đang tu hành các diệu hạnh, diễn nói tất cả diệu pháp.

 

Hoặc kiến Như Lai thanh tịnh nguyệt,           Hoặc thấy Như-Lai Thanh-Tịnh Nguyệt
Tại ư phạm thế cập ma cung,                         Ở tại Phạm-Thế và Ma-Cung,
Tự tại Thiên cung hóa lạc cung,                      Tư-Tại Thiên-Cung, Hóa-Lạc-Cung
Thị hiện chủng chủng chư thần biến.             Thị-hiện thần-thông những biến-hóa

Hoặc thấy được đức Phật Thanh Tịnh Nguyệt, ở tại Đại Phạm thiên và cung ma, ở tại cung trời Tự Tại, cung trời Hoá Lạc, thị hiện đủ thứ các thần thông biến hoá, vì tất cả Thiên chúng cung điện diễn nói diệu pháp, khiến cho họ phát tâm tu đạo, sớm thành Phật quả.

 

Hoặc kiến tại ư Đâu Suất cung,                      Hoặc thấy ở tại cung Ðâu-Suất
Vô lượng chư Thiên cọng vi nhiễu,                 Vô-lượng chư Thiên-đồng vây quanh
Vi bỉ thuyết Pháp lệnh hoan hỉ,                      Vì họ thuyết pháp cho hoan-hỉ
Tất cọng phát tâm cúng dường Phật.            Chư Thiên phát tâm cúng-dường Phật.

Hoặc thấy được Phật ở tại cung trời Đâu Suất, có vô lượng chư Thiên cùng vây quanh. Phật vì họ nói diệu pháp, khiến cho họ đều đại hoan hỉ, đều cùng phát tâm cúng dường Phật, thừa sự, gần gũi Phật.

 

Hoặc kiến trụ tại dạ ma thiên,                         Hoặc thấy ở tại Dạ-Ma Thiên
Đao Lợi hộ thế long thần xứ,                          Ðao-Lợi, Tứ-Thiên, cung Long Thần,
Như thị nhất thiết chư cung điện,                   Nơi cung-điện Thiên, Long, Bát-Bộ
Mạc bất ư trung hiện kỳ tượng.                     Không chỗ nào Phật chẳng hiện thân.

Hoặc thấy Phật trụ ở cung trời Dạ Ma, hoặc trụ ở cung trời Đao Lợi, hoặc trụ ở cung trời Hộ Thế Tứ Thiên Vương và chỗ các Long thần. Trong tất cả các cung điện như vậy, thảy đều ở trong đó thị hiện thân, vì họ diễn nói pháp.

 

Ư bỉ Nhiên Đăng Thế Tôn sở,                         Ở chỗ Nhiên-Ðăng Phật Thế-Tôn
Tán hoa bố phát vi cúng dường,                     Rải hoa, trải tóc để cúng-dường
Tùng thị liễu tri thâm diệu Pháp,                    Từ đây biết rõ pháp thâm diệu
Hằng dĩ thử đạo hóa quần sanh.                    Hằng dùng đạo nầy độ quần-sanh.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuở xưa khi còn làm Bồ Tát, đã từng ở trước đức Phật Nhiên Đăng, rải hoa tươi, trải tóc trên bùn, để cúng dường Phật. Từ đó biết rõ nghĩa chân thật diệu pháp thâm sâu, về sau luôn luôn đem diệu pháp đó để giáo hoá chúng sinh.

 

Hoặc hữu kiến Phật cửu Niết-Bàn,                Hoặc người thấy Phật lâu niết-bàn,
Hoặc kiến sơ thủy thành Bồ-đề;                     Hoặc thấy Phật mới thành bồ-đề,
Hoặc hữu trụ ư vô lượng kiếp,                        Hoặc thấy Phật trụ vô-lượng kiếp
Hoặc kiến tu du tức diệt độ.                            Hoặc thấy giây lát liền nhập diệt.

Hoặc có người, thấy Phật rất lâu về trước, đã vào Niết Bàn. Hoặc có người, thấy Phật vừa mới thành tựu Phật đạo. Hoặc có người, thấy Phật trụ lâu vô lượng kiếp, hoặc thấy Phật trụ thế rất ngắn, khoảng một đêm thì vào Niết Bàn.

 

Thân tướng quang minh dữ thọ mạng,          Thân-tướng quang-minh cùng thọ-mạng
Trí tuệ Bồ-đề cập Niết-Bàn,                            Trí-huệ bồ-đề và niết-bàn
Chúng hội sở hóa uy nghi thanh,                    Chúng-hội được độ, tiếng oai-nghi
Như thị nhất nhất giai vô số.                           Mỗi mỗi như vậy đều vô-số.

Thân tướng, quang minh, thọ mạng, trí huệ, bồ đề, Niết Bàn của Phật, ở trong chúng hội biến hoá tiếng oai nghi, do đó “Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh”. Mỗi thứ như vậy đều nhiều vô số.

 

Hoặc hiện kỳ thân cực quảng đại,                  Hoặc hiện thân mình rất rộng lớn
Thí như Tu-Di đại bảo sơn;                             Như núi Tu-Di, Ðại-Bửu Sơn,
Hoặc kiến già phu bất động dao,                    Hoặc thấy Phật ngồi chẳng động lay
Sung mãn vô biên chư thế giới.                       Sung-mãn vô-biên những thế-giới.

Hoặc có người, thấy thân Phật thị hiện rất rộng lớn vô biên, cao lớn giống như núi Tu Di báu lớn. Hoặc thấy Phật ngồi kiết già, như như bất động, rõ ràng sáng suốt. Pháp thân Phật tận hư không khắp pháp giới, đầy khắp vô biên các thế giới mười phương.

 

Hoặc kiến viên quang nhất tầm lượng,           Hoặc thấy viên-quang lượng một tầm
Hoặc kiến thiên vạn ức do-tuần,                     Hoặc thấy ngàn vạn ức do-tuần
Hoặc kiến chiếu ư vô lượng độ,                       Hoặc thấy chiếu khắp vô-lượng cõi
Hoặc kiến sung mãn nhất thiết sát.                Hoặc thấy sung mãn tất cả cõi.

Hoặc có người, thấy viên quang của Phật, chu vi lượng một tầm. Thước đo của người xưa, tám thước là một tầm. Hoặc có người, thấy viên quang của Phật, chu vi ngàn vạn ức do tuần, hoặc có người thấy viên quang của Phật, chu vi chiếu sáng vô lượng cõi nước, hoặc có người thấy viên quang của Phật, chu vi đầy khắp tất cả cõi Phật.

 

Hoặc kiến Phật thọ bát thập niên,                  Hoặc thấy Phật thọ tám mươi năm
Hoặc thọ bách thiên vạn ức tuế,                     Hoặc thấy thọ ngàn muôn ức tuổi
Hoặc trụ bất khả tư nghị kiếp,                        Hoặc thọ bất-khả-tư-nghì kiếp
Như thị triển chuyển bội qua thử.                  Như vậy lần lượt bội hơn đây.

Hoặc có người, thấy Phật thọ có tám mươi năm, hoặc có người, thấy Phật thọ trăm ngàn vạn ức tuổi, hoặc có người thấy thân Phật trụ trong bất khả tư nghì kiếp, như vậy lần lược hơn gấp bội số trên đây.

 

Phật Trí Thông đạt tịnh vô ngại,                    Phật-trí thông đạt tịnh vô-ngại
Nhất niệm phổ tri tam thế Pháp,                    Một niệm biết khắp pháp tam-thế
Giai tùng tâm thức nhân duyên khởi,             Ðều từ tâm thức nhơn duyên sanh
Sanh diệt vô thường vô tự tánh.                     Sanh diệt vô-thường không tự-tánh.

Trí huệ thần thông thanh tịnh của Phật, chẳng có mọi sự chướng ngại nào, có thể ở trong một niệm, biết khắp tất cả pháp ba đời.Những pháp đó, đều từ tâm thức nhân duyên sinh khởi, hoặc là sinh, hoặc là diệt, đều là vô thường, không có tự tánh.

 

Ư nhất sát trung thành chánh giác,               Ở trong một cõi thành Chánh-Giác
Nhất thiết sát xứ tất diệc thành,                     Ở tất cả cõi cũng đều thành
Nhất thiết nhập nhất nhất diệc nhĩ,               Tất cả vào một, một vào khắp
Tùy chúng sanh tâm giai thị hiện.                   Tùy tâm chúng-sanh đều thị-hiện

Phật ở trong một cõi nước thành tựu Chánh Giác, hoặc ở trong tất cả nơi cõi cũng đều thành Chánh Giác. Tất cả vào một, một vào tất cả, tuỳ thuận tâm niệm của chúng sinh đều thị hiện đủ thứ cảnh giới.

 

Như Lai trụ ư vô thượng đạo,                         Như-Lai trụ nơi đạo vô thượng
Thành tựu thập lực tứ vô úy;                          Thành-tựu thập-lực, tứ vô-úy
Cụ túc trí tuệ vô sở ngại,                                 Ðầy đủ trí-huệ không chướng-ngại
Chuyển ư thập nhị hạnh Pháp luân.              Chuyển thập nhị hành chánh pháp-luận

Phật trụ nơi vô thượng bồ đề giác đạo, thành tựu mười lực và bốn vô uý, đầy đủ nhất thiết trí huệ không chướng ngại, chuyển bánh xe pháp mười hai hạnh, tức cũng là ba lần chuyển pháp bốn đế:

1. Thị chuyển: Đây là khổ, đây là tập, đây là diệt, đây là đạo.

2. Khuyến chuyển: Khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu.

3. Chứng chuyển: Khổ, ta đã biết. Tập, ta đã đoạn. Diệt ta đã chứng. Đạo, ta đã tu.

 

Liễu tri khổ tập cập diệt đạo,                          Biết rõ khổ, tập và diệt, đạo
Phân biệt thập nhị nhân duyên Pháp;            Phân biệt mười hai pháp nhơn duyên
Pháp nghĩa lạc thuyết từ vô ngại,                   Pháp, nghĩa, từ, nhạo-thuyết vô-ngại
Dĩ thị tứ biện quảng khai diễn.                        Dùng biện-tài đây khai diễn rộng

Thấu rõ được pháp môn bốn đế khổ tập diệt đạo, phân biệt được pháp môn mười hai nhân duyên, thì sẽ có pháp vô ngại biện, nghĩa vô ngại biện, từ vô ngại biện, nhạo thuyết vô ngại biện. Dùng bốn biện biện tài vô ngại nầy nầy, rộng khai diễn nói tất cả Phật pháp, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích lớn.

 

Chư pháp vô ngã vô hữu tướng,                     Các pháp không ngã, không có tướng
Nghiệp tánh bất khởi diệc vô thất,                  Nghiệp tánh chẳng sanh cũng chẳng mật
Nhất thiết viễn ly như hư không,                    Tất cả xa lìa như hư-không
Phật dĩ phương tiện nhi phân biệt.                 Phật dùng phương-tiện để phân biệt

Tất cả các pháp đều vô ngã không có tướng, nghiệp tánh chẳng sinh khởi, cũng chẳng mất. Tất cả đều xa lìa bụi trần, thanh tịnh như hư không, Phật dùng pháp môn phương tiện khéo léo, để vì chúng sinh phân biệt diễn nói diệu pháp.

 

Như Lai như thị chuyển pháp luân,                Như-Lai như vậy chuyển pháp-luân
Phổ chấn thập phương chư quốc độ,             Chấn khắp mười phương các quốc-độ
Cung điện sơn hà tất dao động,                      Cung-điện núi sông đều động lay
Bất sử chúng sanh hữu kinh phố.                   Chúng-sanh hoan-hỉ chẳng kinh sợ.

Đức Phật chuyển bánh xe diệu pháp như vậy, khắp chấn động mười phương các cõi nước chư Phật, hết thảy cung điện núi sông đều lay động. Tuy có sáu thứ chấn động, nhưng chẳng khiến chúng sinh có sự sợ hãi. Tại sao phải chấn động? Vì biểu thị Phật muốn diễn nói diệu pháp.

 

Như Lai phổ diễn quảng đại âm,                    Phật diễn pháp-âm khắp rộng lớn
Tùy kỳ căn dục giai lệnh giải,                          Tùy căn chúng-sanh đều khiến hiểu
Tất sử phát tâm trừ hoặc cấu,                        Ðều khiến phát tâm trừ hoặc cấu
Nhi Phật vị thủy sanh tâm niệm.                     Nhưng Phật chưa từng sanh tâm niệm.

Phật khắp diễn nói diệu pháp âm rộng lớn, tuỳ thuận căn dục của chúng sinh, đều khiến cho họ hiểu. Do đó có câu:
“Phật dùng một tiếng diện nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu được”.

Đều khiến cho chúng sinh phát khởi tâm bồ đề, diệt trừ hết tất cả sự nghi hoặc và trần cấu. Tuy Phật giáo hoá chúng sinh như vậy, mà chưa từng sinh tâm niệm, Ngài là vô vi mà vô bất vi.

 

Hoặc văn thí giới nhẫn tinh tấn,                     Hoặc nghe Phật diễn thí, giới, nhẫn,
Thiền định Bát-nhã phương tiện trí,              Tấn, định, bát-nhã, phương-tiện, trí,
Hoặc văn từ bi cập hỉ xả,                                 Hoặc nghe từ, bi và hỉ, xả,
Chủng chủng âm từ các sái biệt.                    Ngôn từ thuyết pháp đều sai khác.

Hoặc nghe được tiếng bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã, phương tiện, nguyện, lực, trí, pháp môn mười độ nầy. Hoặc nghe được tiếng từ, bi, hỉ, xả, pháp môn bốn tâm vô lượng nầy. Đủ thứ tiếng nói đều khác biệt nhau.

 

Hoặc văn tứ niệm tứ chánh cần,                     Hoặc nghe tứ niệm, tứ chánh-cần,
Thần túc căn lực cập giác đạo,                       Thần-túc, căn, lực và giác đạo,
Chư niệm thần thông chỉ quán đẳng,             Niệm, huệ, thần-thông và chỉ, quán
Vô lượng phương tiện chư Pháp môn.           Vô-lượng phương-tiện những pháp-môn

Hoặc nghe được tiếng bốn niệm xứ, tức là thân, thọ, tâm, pháp, bốn niệm xứ nầy. Hoặc nghe được tiếng bốn chánh cần, tức là: Đã sinh ác thì khiến cho đừng sinh nữa, chưa sinh ác thì đừng khiến cho sinh, chưa sinh thiện thì khiến cho sinh, thiện đã sinh thì khiến cho tăng trưởng. Hoặc nghe được bốn thần túc, tức là: Dục, tâm, cần, huệ, bốn như ý túc nầy. Hoặc nghe được tiếng năm căn, tức là: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. Hoặc nghe được tiếng năm lực, tức là: Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, huệ lực. Hoặc nghe được bảy giác chi, tức là: Trạch pháp, tinh tấn, hỉ, khinh an, xả, định, niệm. Hoặc nghe được bát chánh đạo, tức là: Chánh kiến, chánh ngữ, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Bát chánh đạo nầy, tuy là một trong ba mươi bảy phẩm hàng tiểu thừa tu, nhưng người đại thừa cũng phải tu hành, đầy là tám con đường chân chánh quang minh của Phật giáo đồ phải tu.

Hoặc tu chín định thứ lớp, hoặc tu mười thần thông, hoặc tu pháp môn chỉ quán, có vô lượng phương tiện tất cả pháp môn. Phật ở dưới cội bồ đề, đêm thấy sao mai mọc mà ngộ đạo. Sau khi thành đạo, câu đầu tiên Ngài thốt lên: “Lành thay! Lành thay! Tất cả chúng sinh đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước, nên không chứng đắc”. Do đó có thể thấy, ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Tại sao chúng ta không thành Phật? Vì có vọng tưởng chấp trước. Làm thế nào không còn vọng tưởng chấp trước? Thì phải xuất gia tu hành. Tu thiền định, tu chỉ quán, tu trì chú, tu niệm Phật, đó đều là những pháp môn không chế vọng tưởng chấp trước. Tu đến lúc lư hoả trừng thanh, thì sẽ hốt nhiên khai ngộ, trí huệ hiện tiền, liền chứng được thần thông diệu dụng, nhậm vận tự tại.

 

Long thần bát bộ nhân phi nhân,                   Long, Thần, Bát-Bộ, Nhơn, Phi-Nhơn,
Phạm Thích hộ thế chư Thiên Chúng,           Phạm, Thích, Hộ-Thế, các Thiên-Chúng
Phật dĩ nhất âm vi thuyết Pháp,                     Phật dùng nhất âm để thuyết pháp
Tùy kỳ phẩm loại giai lệnh giải.                       Chúng-sanh tùy loại đều được hiểu

Thiên Long bát bộ và người chẳng phải người, Đại Phạm Thiên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Tứ Thiên Vương hộ thế, cùng với tất cả Thiên chúng. Phật dùng một thứ âm thanh diễn nói diệu pháp, hết thảy chúng sinh, tuỳ theo loài đều hiểu được yếu nghĩa Phật nói pháp.

 

Nhược hữu tham dục sân khuể si,                  Nếu có tham dục, sân và si
Phẫn phước xan tật cập kiêu siểm,                 Phẩn, phú, xan, tật và kiêu, siểm

Bát vạn tứ thiên phiền não dị,                         Tám muôn bốn ngàn phiền não chướng
Giai lệnh văn thuyết bỉ trì Pháp.                     Ðều nghe Phật dạy pháp chữa trị

Nếu chúng sinh có tham dục, sân hận, ngu si, hoặc chúng sinh có phẫn hận, che đậy, đố kị, kiêu ngạo, xiểm nịnh. Chúng sinh có tám vạn bốn ngàn phiền não khác nhau, đều khiến cho họ nghe được pháp đó rồi, minh bạch làm thế nào để đối trị bệnh phiền não.

 

Nhược vị cụ tu bạch tịnh Pháp,                      Nếu chưa tu đủ pháp bạch-tịnh
Lệnh kỳ văn thuyết thập giới hạnh;                Khiến họ nghe nói mười giới-hạnh,
Dĩ năng bố thí điều phục nhân,                      Ðã hay bố-thí điều-phục người
Lệnh văn tịch diệt Niết-Bàn âm.                     Cho nghe tiếng niết-bàn tịch-diệt.

Nếu chúng sinh chưa tu hành đầy đủ pháp trắng tịnh, thì khiến cho họ nghe nói mười giới hạnh. Mười giới hạnh tức là:
1. Giới chẳng xả bỏ bồ đề tâm.
2. Giới xa lìa bậc nhị thừa.
3. Giới quán sát lợi ích tất cả chúng sinh.
4. Giới khiến tất cả chúng sinh trụ nơi Phật pháp.
5. Giới tu sở học của tất cả Bồ Tát.
6. Giới nơi tất cả pháp vô sở đắc.
7. Giới đem tất cả căn lành hồi hướng về bồ đề.
8. Giới chẳng chấp trước thân của tất cả chư Phật.
9. Giới lìa tư duy chấp lấy tất cả pháp.
10. Giới các căn luật nghi.
Như vậy thì đã có thể bố thí điều phục người, khiến cho nghe tiếng tịch diệt Niết Bàn.

 

Nhược nhân chí liệt vô từ mẫn,                       Nếu người chí kém, không từ mẫn
Yếm ố sanh tử tự cầu ly;                                 Nhàm ghét sanh-tử, tụ cầu lìa
Lệnh kỳ văn thuyết tam thoát môn,               Khiến họ nghe nói tam thoát-môn
Sử đắc xuất khổ Niết-Bàn lạc.                        Cho họ thoát khổ, hưởng tịch-diệt.

Nếu có người chí nguyện rất thấp kém, không có lòng từ bi cứu khổ chúng sinh, chẳng có lòng thương xót giáo hoá chúng sinh. Họ chán ghét sinh tử, tự cầu lìa khỏi ba cõi, mà chẳng muốn độ thoát chúng sinh. Phật khiến cho họ nghe nói pháp ba môn giải thoát (Không, vô tướng, vô nguyện), khiến cho họ được thoát khỏi biển khổ, hưởng thọ sự an vui bốn đức Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh. Phật giáo chủ trương về phương diện vật chất, là vô thường, khổ, không, vô ngã, tức cũng là pháp thế gian. Về phương diện tinh thần, là thường, lạc, ngã, tịnh, tức cũng là pháp xuất thế gian. Ở trước là pháp hữu vi, ở sau là pháp vô vi.

 

Nhược hữu tự tánh thiểu chư dục,                 Nếu người tự-tánh ít tham dục
Yếm bối tam hữu cầu tịch tĩnh;                      Nhàm bỏ ba cõi cầu tịch tịnh
Lệnh kỳ văn thuyết chư duyên khởi,              Khiến họ nghe nói các duyên-khởi
Y độc giác thừa nhi xuất ly.                             Theo độc-giác-thừa để xuất ly.

Nếu như có chúng sinh, trong tự tánh của họ có rất ít dục niệm, nhàm chán cảnh giới ba cõi, muốn cầu tịch tĩnh, thì khiến cho chúng sinh đó, nghe nói đạo lý tất cả pháp từ duyên khởi, tức cũng là pháp mười hai nhân duyên, do đó: “Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử”. Cuối rồi lại bắt đầu, vĩnh viễn không ngừng. Minh bạch đạo lý nầy, thì phải diệt trừ vô minh, vô minh hết thì cho đến già chết cũng hết, như vậy thì sẽ xa lìa sinh tử, đây là chân lý mà đức Phật đã giác ngộ dưới cội bồ đề.

Y chiếu theo pháp môn của Độc Giác thừa tu, thì sẽ thoát khỏi biển khổ, chứng được quả vị Bích Chi Phật. Độc Giác là khi không có Phật tại thế, các Ngài ở trong rừng sâu núi thẳm, tự mình tu hành một mình, ăn trái cây, uống nước suối, mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi, cảm thấy tất cả là vô thường, do đó mà ngộ đạo. Khi có Phật tại thế, thì các Ngài tu pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, xưng là Duyên Giác. Thanh Văn và Duyên Giác là bậc nhị thừa, đều là tự liễu hán. Tự lợi chẳng lợi tha, tự giác chẳng giác tha, tự độ chẳng độ tha, cho nên Phật quở họ là tiêu nha bại chủng, không thể tiếp nối huệ mạng của Phật.

 

Nhược hữu thanh tịnh quảng đại tâm,           Nếu người thanh-tịnh tâm quảng-đại
Cụ túc thí giới chư công đức,                          Ðầy đủ thí giới các công-đức
Thân cận Như Lai cụ từ mẫn,                         Thân-cận Như-Lai đủ từ bi
Lệnh kỳ văn thuyết Đại-Thừa âm.                  Khiến họ nghe tiếng đại-thừa-đạo.

Nếu có người thanh tịnh tâm rộng lớn, đầy đủ lục độ tất cả các công đức. Hay gần gũi mười phương ba đời tất cả chư Phật, đầy đủ lòng từ bi thương xót, khiến cho họ nghe nói diệu pháp âm đại thừa. Pháp đại thừa tức là không chấp đoạn, không chấp thường, chẳng chấp không, chẳng chấp có, pháp trung đạo liễu nghĩa, tức cũng là pháp môn chân không diệu hữu, chẳng rơi vào hai bên tức là trung đạo.

 

Hoặc hữu quốc độ văn nhất thừa,                  Hoặc có quốc-độ nghe nhất-thừa
Hoặc nhị hoặc tam hoặc tứ ngũ,                     Hoặc nhị, hoặc tam, hoặc tứ, ngũ
Như thị nãi chí vô hữu lượng,                         Như vậy nhẫn đến vô-lượng thừa
Tất thị Như Lai phương tiện lực.                    Ðều là Như-Lai phương-tiện-lực.

Hoặc có chúng sinh cõi nước nầy, nghe được một thừa Phật pháp, hoặc nghe được hai thừa Phật pháp, hoặc nghe được ba thừa, bốn thừa, năm thừa Phật pháp. Như vậy cho đến nhiều vô lượng, đó đều là sức phương tiện khéo léo của Phật dùng thị hiện ra.

 

Niết Bàn tịch tĩnh vị tằng dị,                           Niết-bàn tịch-tịnh chưa tùng khác,
Trí hành thắng liệt hữu sái biệt;                     Trí hạnh thắng liệt có sai khác,
Thí như hư không thể tánh nhất,                   Như hư-không thể tánh là một
Điểu phi viễn cận các bất đồng.                      Chim bay gần xa tự sai khác.

Niết Bàn và tịch tĩnh đều là một cảnh giới, bất quá, trí huệ và sự tu hành có cao thấp, có sự phân biệt. Ví như hư không là một thể tánh, nhưng có chim bay rất xa, có chim bay rất gần, đều khác nhau, nhưng chẳng lưu lại dấu vết nào ở trong hư không.

 

Phật thể âm thanh diệc như thị,                     Phật thể âm-thanh cũng duy nhứt
Phổ biến nhất thiết hư không giới,                  Phổ biến tất cả cõi hư-không,
Tùy chư chúng sanh tâm trí thù,                    Tùy tâm chúng-sanh sai khác nhau
Sở văn sở kiến các sái biệt.                              Nên nghe và thấy cũng tự khác.

Thân và âm thanh của Phật cũng như vậy, khắp cùng tất cả cõi hư không, do đó có câu: “Tận hư không khắp pháp giới”, đầy khắp tất cả mọi nơi. Tuỳ thuận tâm niệm và trí huệ đặc thù của tất cả chúng sinh, mà chỗ nghe chỗ thấy đều khác biệt.

 

Phật dĩ quá khứ tu chư hạnh,                         Do Phật quá-khứ tu công hạnh
Năng tùy sở lạc diễn Diệu-Âm,                       Hay theo sở-thích diễn diệu-âm
Vô tâm kế niệm thử dữ bỉ,                               Không lòng tính nghĩ đây và kia
Ngã vi thùy thuyết thùy bất thuyết.                Ai là đáng nói, ai thời không.

Do nhờ trong quá khứ, Phật tu hành pháp môn lục độ vạn hạnh, cho nên tuỳ sở thích tâm của chúng sinh, mà diễn nói diệu pháp âm. Phật chẳng có tâm niệm tính toán nghĩ đó đây, rằng ta nói pháp cho chúng sinh đó, ta chẳng nói pháp cho chúng sinh kia, Phật chẳng có tâm phân biệt như thế. Phật đối với chúng sinh đều bình đẳng, chẳng có quan niệm giai cấp. Phật đề xướng địa vị bình đẳng, kinh tế bình đẳng, chủng tộc bình đẳng, chánh trị bình đẳng. Bất cứ người nào xuất gia tu đạo, đều mang họ Thích, đều là đệ tử của Phật, trên là ông vua, dưới là kẻ ăn mày, chẳng phân biệt sang hèn, chẳng phân biệt trí ngu, ai chịu dùng công tu hành, thì người đó sẽ chứng quả A la hán. Ví như Ngài A Nan, chú trọng về đa văn, chẳng chú trọng về giới luật, chẳng chú trọng về sự tu trì, cho nên không thể chứng quả A la hán, về sau trước khi tập Kinh điển mới chứng quả A la hán. Do đó có thể thấy, Phật tuyệt đối đại công vô tư, đối đãi với bất cứ ai cũng đều bình đẳng, chẳng phân biệt người thân kẻ sơ, người gần kẻ xa, đều thương như con. Đây là chỗ vĩ đại của Phật.

 

Như Lai diện môn phóng đại quang,              Nơi mặt Như-Lai phóng đại quang
Cụ túc bát vạn tứ thiên số;                              Ðủ số tám muôn bốn ngàn sáng
Sở thuyết pháp môn diệc như thị,                   Pháp-môn Phật nói cũng như vậy
Phổ chiếu thế giới trừ phiền não.                    Chiếu khắp thế-giới trừ phiền-não.

Đức Phật phóng luồng đại quang minh trắng, đầy đủ số tám vạn bốn ngàn. Pháp môn nói ra cũng có tám vạn bốn ngàn pháp môn. Đại quang minh tạng đó, chiếu khắp mười phương thế giới, trừ hết sạch tám vạn bốn ngàn thứ phiền não của chúng sinh.

 

Cụ túc thanh tịnh công đức trí,                      Ðầy đủ thanh-tịnh công-đức trí
Nhi thường tùy thuận tam thế gian,               Mà thường tùy thuận tam thế Phật
Thí như hư không vô nhiễm trước,                 Ví như hư-không chẳng nhiễm trước
Vi chúng sanh cố nhi xuất hiện.                      Vì chúng-sanh nên Phật xuất hiện.

Phật đã đầy đủ thanh tịnh công đức trí huệ, thời thường tuỳ thuận tâm chúng sinh ba thế gian, mà chuyển bánh xe diệu pháp. Ví như hư không thanh tịnh, chẳng có chút nhiễm trước nào, vì giáo hoá điều phục chúng sinh mà thị hiện ra đời.

 

Thị hữu sanh lão bệnh tử khổ,                        Hiện có sanh lão bệnh tử khổ
Diệc thị trụ thọ xứ ư thế;                                 Cũng hiện trụ thọ ở thế-gian
Tuy thuận thế gian như thị hiện,                    Dầu thuận thế-gian hiện như vậy
Thể tánh thanh tịnh đồng hư không.             Thể tánh thanh-tịnh đồng hư-không.

Thị hiện có khổ sinh già bệnh chết, cũng thị hiện trụ thọ mạng lâu dài nơi thế gian. Tuy tuỳ thuận tâm chúng sinh thế gian, mà thị hiện như vậy, nhưng thể tánh của Phật thanh tịnh đồng hư không.

 

Nhất thiết quốc độ vô hữu biên,                      Tất cả quốc-độ vô-lượng biên
Chúng sanh căn dục diệc vô lượng;               Chúng-sanh căn dục cũng vô-lượng
Như Lai trí nhãn giai minh kiến,                     Trí-nhãn Như-Lai đều thấy rõ
Tùy sở ưng hóa thị Phật đạo.                          Tùy theo cơ nghi dạy phật-đạo.

Tất cả hết thảy cõi nước không có bờ mé, căn tánh và dục niệm của chúng sinh cũng vô lượng. Nhưng mắt trí huệ của Phật đều nhìn thấy rõ ràng, do đó Phật quán sát căn cơ của chúng sinh vì người mà nói pháp, tuỳ chúng sinh đáng được sự giáo hoá, thị hiện Phật đạo, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, siêng tu vô thượng đạo.

 

Cứu cánh hư không thập phương giới,          Cùng khắp hư-không mười phương cõi
Sở hữu nhân thiên Đại chúng trung,              Bao nhiêu Trời, Người, trong đại chúng
Tùy kỳ hình tướng các bất đồng,                    Theo thân hình họ đều chẳng đồng
Phật hiện kỳ thân diệc như thị.                       Phật hiện thân hình cũng như vậy.

Rốt ráo tận cùng mười phương cõi hư không pháp giới, vì hết thảy chư Thiên và nhân loại trong đại chúng, tuỳ thuận tất cả hình tướng khác nhau của chúng sinh, Phật bèn thị hiện thân tướng giống như họ, để giáo hoá chúng sinh, để điều phục chúng sinh.

 

Nhược tại Sa Môn Đại chúng hội,                  Nếu ở trong đại hội Sa-Môn
Cạo trừ tu phát phục ca sa,                            Cạo bỏ tóc râu mặc ca-sa
Chấp trì y bát hộ chư căn,                              Ðắp y, cầm bát nhiếp các căn
Lệnh kỳ hoan hỉ tức phiền não.                      Cho họ hoan-hỷ trừ phiền-não.

Hoặc trong đại chúng hội Sa Môn. Sa Môn dịch là cần tức, là biệt danh của người xuất gia, nghĩa là cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Cạo bỏ râu tóc mặc y Cà Sa. Thân làm Tỳ Kheo, ôm bát đi khất thực, chẳng lựa nhà giàu mà khất thực, cũng chẳng bỏ nhà nghèo chẳng khất thực, mà đi khất thực bình đẳng, khiến cho họ gieo trồng ruộng phước. Đi khất thực có thứ tự, chỉ khất thực bảy nhà, như vậy sẽ khống chế được tâm tham. Người xuất gia cầm giữ ba y một bát, hộ trì các căn, nghiêm trì giới luật, khiến cho chúng sinh thấy được đức tướng của Sa Môn, mà sinh tâm hoan hỉ, dứt trừ phiền não.

 

Nhược thời thân cận Bà-la-môn,                    Có lúc thân-cận Ba-La-Môn
Tức vi thị hiện luy sấu thân,                            Vì họ Phật hiện thân gầy ốm
Chấp trượng trì bình hằng khiết tịnh,            Chống gậy mang bình hằng trong sạch
Cụ túc trí tuệ xảo đàm thuyết.                        Ðầy đủ trí-huệ giảng nói giỏi.

Hoặc có lúc gần gũi Bà La Môn (tu hạnh thanh tịnh), liền vì họ thị hiện thân gầy ốm. Tay chống tích trượng, ôm bình bát luôn thanh tịnh trong sạch. Đầy đủ đại trí huệ khéo diễn nói pháp vi diệu.

 

Thổ cố nạp tân tự sung bão,                           Nhả cũ nuốt mới tự no đủ
Hấp phong ẩm lộ vô dị thực,                           Hớp gió uống sương không ăn nuốt
Nhược tọa nhược lập bất động dao,               Hoặc ngồi hoặc đứng chẳng động lay
Hiện tư khổ hạnh tồi dị đạo.                            Hiện tu khổ-hạnh dẹp ngoại-đạo.

Có người tu hành công phu nhả cũ, tức là thở hơi cũ ra, và hít hơi mới vào, ăn không khí tức là ăn no. Khiến cho người tu hành uống gió tây bắc thì sẽ no, không cần ăn cơm, hoặc hớp gió, uống sương, không ăn bất cứ vật gì. Hoặc ngồi, hoặc đứng, thân không lay động. Ngài thị hiện tu khổ hạnh như vậy, là để hàng phục kẻ ngoại đạo, khiến cho họ bỏ đỉ khổ hạnh vô ích, phải tu hành pháp môn chân chánh, đều có đại lợi ích đối với thân tâm.

 

Hoặc trì bỉ giới vi thế sư,                                 Hoặc trì giới cấm làm thế-sư
Thiện đạt y phương đẳng chư luận,               Khéo thông phương thuốc các môn luận
Thư số Thiên văn địa chúng tướng,                Toán số, thiên-văn, địa-lý, tướng
Cập thân hưu cữu vô bất liễu.                        Những điều lành dữ đều biết rõ.

Hoặc giữ giới luật thanh tịnh, làm luật sư thế gian, hoặc khéo trị bệnh, thông đạt y dược thuốc men, tất cả các thứ luận về y học đều biết rõ thông đạt. Về thư pháp, số học, thiên văn, địa lý, tướng số và những điều kiết hung đều biết rõ.

Người đi học thời xưa ở Trung Quốc, đều phải tinh thông lục nghệ, môn nào cũng biết cũng giỏi thì mới được tốt nghiệm có bằng cấp. Sau đó phục vụ cho xã hội, giúp ích cho đất nước, đem sở học kỹ thuật cống hiến cho quốc gia, lợi choc ho nhân dân an cư lạc nghiệp, ai ai cũng có cơm no áo ấm.
Thời đại Xuân Thu, đức Khổng Tử đề xướng giáo dục bình dân, cải cách chuyên lợi chế độ của tầng lớp quý tộc đương thời. Phương châm giáo dục của Đức KhổngTử là chủ trương giáo dục văn võ hợp nhất, con người phải có thân thể khoẻ mạnh, học thức phong phú, chẳng phải hạng thư sinh ốm yếu, ngũ cốc bất phân, tứ chi bất động. Đương thời đức Khổng Tử có ba ngàn học trò, phần đông là những người nghèo khổ. Trong số học trò, có bảy mươi hai người tinh thông lục nghệ. Lục nghệ là gì ?

1. Lễ : Tức là lễ tiết, lễ phép, lễ nghi. Phàm là lễ cưới, hoặc tang lễ đều phải hợp với quy cụ lễ nghi, không thể tán loạn được, bằng không thì sẽ thất lễ, khiến cho người ta chê cười.

2. Nhạc : Tức là âm nhạc, âm nhạc có thể làm ảnh hưởng đến tánh tình con người. Nghe được âm nhạc trang nghiêm, khiến cho con người khởi lòng cung kính, phát bồ đề tâm. Nếu nghe âm nhạc tình ái, thì làm cho lòng người nghĩ tưởng bông lung. Tóm lại, nghe âm nhạc chánh đáng, thì khiến cho con người từ xấu thành tốt. Còn nghe âm nhạc không chánh đáng, thì khiến cho con người từ tốt thành xấu. Âm nhạc có sự phát sinh tác dụng như thế.

Sự việc trên thế gian, chẳng có đạo lý nhất định. Chỉ nhìn bạn dùng được hay không dùng được mà quyết định. Nếu dùng được, thì không tốt cũng biến thành tốt ; nếu không dùng được, thì tốt cũng biến thành không tốt. Ví như tì sương, còn gọi là thạch tín, là thuốc cực độc. Khi người nào bị mụt nhọt độc, thì phải dùng nó để chữa trị, do đó: « Lấy độc trị độc », thì mới có thể chữa lành vết thương. Nhưng liều lượng phải đúng, nếu ăn uống nhiều quá, thì chất độc có thể làm chết người ; còn nếu uống ít quá thì trị không khỏi bệnh. Không nhiều không ít mới là thuốc hay. Nhân sâm, ai ai cũng đều biết là thuốc hay, nhưng uống nhiều quá, thì sẽ có hại. Tóm lại, thuốc có độc mà biết dùng, thì thành thuốc hay; còn thuốc hay không độc mà không biết dùng, thì sẽ biến thành thuốc độc. Công năng của âm nhạc cũng lại như thế.

Nếu như thường nghe âm nhạc nói về nhân từ đạo đức, thì rất tốt, có thể bồi dưỡng thể tánh thêm thuần thiện, do đó có câu : « Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng », hoặc là « nhuộm đỏ thành đỏ, nhuộm vàng thành vàng ». Cho nên âm nhạc có thể biến đổi tánh tình và khí chất con người. Ví như người ác sống với người thiện, lâu dần thì sẽ bị cảm hoá, tự nhiên sẽ sửa lỗi làm mới, trở thành con người mới. Do đó có câu : « Lãng tử hồi đầu kim bất hoán », thậm chí biến đổi còn thiện lương hơn là người thiện, vì họ phản tỉnh việc làm của họ trong quá khứ, trên có lỗi với trời, dưới có lỗi với đất; có lỗi với cha mẹ, lại có lỗi với sư trưởng, cho nên quyết định cải tà quy chánh, chuyên làm việc lợi ích cho mọi người.

Những vị hôn quân vô đạo thời xưa, rất thích nghe âm nhạc dâm dục, thứ âm nhạc nầy khiến cho họ phát điên cuồng. Những vị vua sáng suốt thì tuyệt đối không nghe thứ âm nhạc nầy.

3. Xạ : Tức là bắn cung. Học sinh thời xưa, nhất định phải học kỹ thuật bắn cung (tức là thể dục bây giờ), lúc vô sự thì giúp thân thể khoẻ mạnh, còn khi có việc thì bảo vệ đất nước. Thời xưa, có người bắn cung rất giỏi, có thể cách hàng trăm thước vẫn bắn trúng, do đó « bách phát bách trúng », thì mới gọi là giỏi được.

4. Ngự : Tức là đánh xe ngựa. Chẳng những minh bạch kỹ thuật đánh xe, mà còn phải hiểu tánh tình của con ngựa. Thời xưa tác chiến, hay dùng chiến thuật về chiến xa, một xe gồm hai con ngựa, trên xe có bốn người sĩ tốt, hướng tây tác chiến. Nếu không biết tình hình về ngựa, thì không cách chi cầm cương tiến về trước hoặc lùi về sau. Đây cũng là một trong lục nghệ. Cho nên đừng khinh thường người đánh xe, cũng có một chút đạo lý học vấn trong đó, nếu không nghiên cứu học hỏi thì không biết được.

5. Thư : Tức là viết chữ. Chữ ngày xưa hoặc dùng dao khắc trên cây tre, hoặc dùng mực viết trên cây tre, đây đều phải có kỹ thuật đặc biệt. Tuỳ theo thời đại thay đổi, sau này thì viết trên lá, rồi viết trên giấy. Viết chữ là chiêu bài của người đi học. Viết chữ phải ngay thẳng, khiến cho họ khi nhìn thấy thì biết ngay là có học vấn. Cho nên người đi học, phải một phen khổ công phu luyện tập viết chữ, đây cũng là một trong lục nghệ.

6. Số : Tức là toán số. Phương thức tính toán số mục. Trước kia hay dùng bảng cửu chương dùng để tính toán, cộng trừ nhân chia, đây là cách huấn luyện đầu óc linh hoạt của trẻ con. Bây giờ khoa học tiến bộ, học sinh không cần dùng đầu óc để tính toán đáp số, mà dùng máy tính để thay thế, cứ như vậy thì từ từ đầu óc của con người ít hoạt động. Bây giờ máy vi tính rất phổ biến, bất cứ việc gì, đều dùng máy vi tính để làm việc, con người dần dần sẽ biến thành con người đầu gỗ, chẳng còn tri giác, rất nhiều người còn không theo kịp sự linh hoạt của máy móc, tương lai e rằng sẽ trở thành người bị đào thải !

Lục nghệ nầy là quá trình đại học của thời xưa, học hết mới tốt nghiệp. Hiện nay quá trình đại học càng nhiều hơn. Quá trình thể dục bao quát chơi nhiều thứ như đá banh, bóng chuyền, bóng ném .v.v…, bơi lội, điền kinh v.v… Còn có chính trị học, kinh tế học, triết học, sử học, văn học, khí tượng học, địa chất học, pháp luật học, y dược học v.v… còn rất là nhiều môn khác nữa.

 

Thâm nhập chư Thiền cập giải thoát,            Thâm nhập các thiền và giải-thoát
Tam muội thần thông trí tuệ hạnh,                Tam-muội, thần-thông, trí-huệ, hạnh
Ngôn đàm phúng vịnh cọng hi hí,                   Luận bàn, ngâm vịnh và đùa vui
Phương tiện giai lệnh trụ Phật đạo.                Phương-tiện dẫn họ vào phật-đạo.

Thâm nhập tất cả thiền định và pháp môn giải thoát, tam muội, thần thông, trí huệ, hạnh môn. Luận đàm, ca ngâm, và vui đùa, Bồ Tát hay dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, đều khiến cho chúng sinh trụ nơi Phật đạo. Tức cũng là dạy người đi tìm gốc rễ, đừng bỏ gốc tìm ngọn, cầu pháp ngoài tâm. Nên biết sự việc trên thế gian, càng chạy thì càng xa, càng tìm thì càng nhiều. Nghiên cứu đạo lý là nghiên cứu không khi nào hết được, đạo lý nầy nghiên cứu minh bạch rồi, thì đạo lý khác lại đến, vĩnh viễn vô cùng tận.

Ví như nói về nhân loại, giống người trên thế giới, gồm có người da trắng, người da vàng, người da đen, người da đỏ. Trong số người da vàng thì có hơn năm mươi thứ dân tộc, phân tích kỹ ra thì có ngàn sai vạn biệt. Cho nên càng nghiên cứu thì càng nhiều, vĩnh viễn nghiên cứu không hết được. Nếu không tiến về trước thì lùi về sau, do đó chúng ta phải tiến về trước, không nghiên cứu vấn đề cái ngọn, phải trở về nguồn cội, nương tựa nơi Phật đạo.

 

Hoặc hiện thượng phục dĩ nghiêm thân,        Hoặc hiện thượng-phục để nghiêm thân
Thủ đái hoa quan ấm cao cái,                         Ðầu đội mão xinh, che lọng tốt
Tứ binh tiền hậu cọng vi nhiễu,                       Binh-chủng trước sau theo hộ vệ
Cảnh chúng tuyên uy phục Tiểu Vương.       Ra oai hùng mãnh phục Tiểu-Vương.

Bồ Tát hoặc hiện ra áo mặc tốt đẹp dùng trang nghiêm thân, đầu đội mũ hoa che lọng báu cao. Có bốn binh (binh voi, binh ngựa, binh xe, binh bộ) trước sau cùng vây quanh bốn phía. Lại có vệ sĩ bảo vệ, tuyên dương oai đức của Chuyển Luân Thánh Vương, để hàng phục tất cả những ông vua nhỏ.

 

Hoặc vi thính tụng đoạn ngục quan,              Hoặc làm quan tòa đoán kiện tụng
Thiện giải thế gian chư pháp vụ,                     Giải quyết thế-pháp đều hay giỏi
Sở hữu dữ đoạt giai minh thẩm,                     Hoặc thưởng hoặc phạt đều công minh
Lệnh kỳ nhất thiết tất hân phục.                    Cho họ tất cả đều vui phục.

Hoặc làm quan toà, phán đoán xử lý các việc kiện tụng, thiệt diện vô tư, khéo hiểu biết tất cả các vụ việc thế gian, hết thảy sự khen phạt đều công minh, tơ hào không có thiên vị một ai, khiến cho người bị hại cảm thấy công bằng, tâm ý đều vui mừng, tâm phục khẩu phục.

 

Hoặc tác đại thần chuyên bật phụ,                 Hoặc làm Ðại-Thần chuyên phụ bật
Thiện dụng chư Vương trì chánh Pháp,        Giỏi dùng chánh-trị an lê-dân
Thập phương lợi ích giai chu biến,                  Lợi ích mười phương đều cùng khắp
Nhất thiết chúng sanh mạc liễu tri.                 Tất cả chúng-sanh chẳng rõ biết.

Hoặc làm quan lớn, trợ giúp vua xử lý chuyện quốc gia đại sự, khéo dùng sự thống trị hợp lý của các vua nhỏ khác, để trị vì đất nước, hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới, đều được lợi ích, nhưng tất cả chúng sinh không nhất định biết rõ.

 

Hoặc vi túc tán chư Tiểu Vương,                    Hoặc làm Túc-Tán Tiểu-quốc-Vương
Hoặc tác phi hành chuyển luân đế,                Hoặc làm Ðại-Ðế Chuyển-Luân-Vương
Lệnh chư Vương tử thải nữ chúng,                Khiến các Vương-Tử cùng thể-nữ
Tất giai thọ hóa vô năng trắc.                         Ðều theo chánh-pháp, không ai biết.

Hoặc làm các ông vua nhỏ, hoặc làm Chuyển Luân Thánh Vương, ngồi trên kim luân bay đi bốn đại châu để tuần tra. Nội trong một ngày thì hoàn thành nhiệm vụ. Tốc độ bay nhanh của Chuyển Luân Vương, so với hoả tiển hiện tại bây giờ nhanh gấp vạn lần. Ngài có thể khiến cho các vương tử và cung phi, thể nữ, phi tần, cùng với các quan đại thần, hoàn toàn tiếp thọ được sự giáo hoá của Chuyển Luân Vương. Nhưng chẳng có ai có thể dò lường được cảnh giới không thể nghĩ bàn nầy.
Chuyển Luân Vương phân làm bốn thứ:
1. Kim Chuyển Luân: Thống trị bốn thiên hạ.
2. Ngân Luân Vương: Thống trị ba thiên hạ.
3. Đồng Luân Vương: Thống trị hai thiên hạ.
4. Thiết Luân Vương: Thống trị một thiên hạ.
Bốn thiên hạ tức là bốn đại bộ châu: Đông thắng thần châu, Bắc câu lư châu, Nam thiệm bộ châu, Tây ngưu hoá châu. Bốn đại châu dùng núi Tu Di làm trung tâm. Nếu như Kim Luân Vương tinh tấn tu hành, thì lập tức sẽ thành Phật, nếu không thì vẫn làm Chuyển Luân Thánh Vương.

 

Hoặc tác hộ thế tứ thiên vương,                     Hoặc làm Hộ-Thế Tứ-Thiên-Vương
Thống lĩnh chư long dạ xoa đẳng,                  Thống lãnh Dạ-Xoa, Long-Thần thảy
Vi kỳ chúng hội nhi thuyết Pháp,                    Vì chúng hội đó mà thuyết pháp
Nhất thiết giai lệnh Đại hân khánh.                Ðều khiến tất cả đồng vui thích.

Hoặc làm hộ thế Tứ đại Thiên Vương, tức là: Đông trì quốc Thiên Vương, Nam tăng trưởng Thiên Vương, Tây quảng mục Thiên Vương, Bắc đa văn Thiên Vương. Bốn vị Thiên Vương nầy giữ gìn bốn thiên hạ. Các Ngài thống trị các loài rồng, và Dạ Xoa .v.v… cùng với người và chẳng phải người. Vì chúng hội của họ mà diễn nói diệu pháp, khiến cho họ đều sinh tâm vui mừng lớn, hoan hỉ mà được cảnh giới chưa từng có.

 

Hoặc vi Đao Lợi Đại Thiên Vương,                 Hoặc làm Ðạo-Lợi Ðại-Thiên-Vương
Trụ thiện pháp đường hoan hỉ viên,               Ở Thiện-Pháp-Ðường, vườn Hoan-Hỉ
Thủ đái hoa quan thuyết diệu pháp               Ðầu đội thiên-quan diễn pháp mầu
Chư Thiên cận ngưỡng mạc năng trắc.         Chư Thiên ngưỡng mộ chẳng lường được.

Hoặc làm Đao Lợi đại Thiên Vương (trời Ba Mươi Ba), trụ ở Thiện Pháp đường trong vườn hoan hỉ, đầu đội mão hoa, ngồi trên toà báu, diễn nói diệu pháp. Tất cả chư Thiên chiêm ngưỡng dung nhan của Đao Lợi Thiên Vương, uy nghiêm khởi kính. Tại sao? Vì ông ta oai nghi trang nghiêm, và công đức của ông ta, không thể dò được.

Ông ta là trời Đế Thích, hoặc là Thích Đề Hoàn Nhân, ở trong Chú Lăng Nghiêm gọi là Nhân Đà La Gia, Đạo Giáo gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế, Thiên Chúa Giáo gọi là Thiên Chúa, Cơ Đốc Giáo gọi là Thượng Đế, tên gọi tuy khác nhau, nhưng kỳ thực là Thiên chủ cõi trời Tam Thập Tam.

Vị Thiên chủ nầy, thuở xưa là một người phụ nữ rất nghèo, cô ta làm việc trợ giúp khác để sinh sống. Một ngày nọ, cô ta đi ngang qua một ngôi chùa cổ, thấy chánh điện bị hư hoại. Chính giữa chánh điện chỗ đức Phật ngồi, mái ngói bị sập xệ hư hoại, nên mưa gió ập xuống thổi vào. Tượng Phật thì bị tróc sơn, cũ kỹ không trang nghiêm. Cô ta thấy vậy, bèn phát tâm trùng tu ngôi chùa cổ, sơn son thếp vàng lại tượng Phật. Nhưng cô ta rất nghèo, chẳng đủ khả năng để làm, bèn đi khắp nơi quyên góp. Đương thời có ba mươi hai người phụ nữ khác, thấy cô ta thành tâm quyên góp, cũng cảm động, cùng phát tâm tham gia, đồng tâm hiệp lực để làm việc công đức nầy. Chẳng bao lâu, công đức viên mãn, chánh điện làm mới lại rất khang trang, tượng Phật sơn sơn thếp vàng lại rất trang nghiêm đẹp đẽ, khiến cho ai thấy cũng đều sinh tín tâm.

Ba mươi ba người nữ đó, nhờ công đức trùng tu ngôi chùa cổ và sơn son thếp vàng lại tượng Phật, mà sau khi chết đi, được sinh về cõi trời Đao Lợi. Người phụ nữ đi quyên góp đó, làm Thiên chủ cõi trời Ba Mươi Ba, thống trị ba mươi hai trời kia. Còn ba mươi hai người phụ nữ cùng phát tâm, làm Ba Mươi Hai Thiên Vương. Nhờ công đức đó, cho nên được sinh về cõi trời hưởng phước, do đó có thể thấy, chúng ta xây dựng chùa chiền, có công đức không thể nghĩ bàn, tương lai đắc được vô lượng phước báo. Bất quá, thứ phước báo nầy, chỉ là hưởng phước trên cõi trời, mà không thể hưởng cảnh vui chân thật Niết Bàn bốn đức; khi phước trời hưởng hết, thì vẫn phải bị đoạ lạc vào trong sáu nẻo luân hồi thọ sinh tử. Do đó có câu:
“Chấp tướng bố thí sinh phước trời
Giống như mũi tên bắn vào hư không”.

Chấp trước tướng để bố thí, thì giống như dùng mũi tên bắn vào hư không, cuối cùng mũi tên cũng rơi xuống đất.

Trong Chứng Đạo Ca có nói: “Thế lực hết, mũi tên rơi xuống đất, chiêu lại đời sau chẳng như ý”. Khi phước trời hưởng hết rồi, lại phải đoạ lạc xuống nhân gian, chiêu thọ rất nhiều sự việc không như ý. Trên trời tuy là sung sướng, nhưng khiến cho con người chẳng biết tu hành, dễ bị mê hoặc. Nhân gian tuy có nhiều khổ, nhưng làm cho con người tinh tấn tu hành, thoát khỏi ba cõi, chấm dức sinh tử, vĩnh viễn không còn thọ khổ luân hồi nữa.

Trời Ba Mươi Ba như thế nào? Vì cõi trời nầy, là tầng trời thứ hai của dục giới, ở trên đỉnh núi Tu Di, chưa lìa khỏi đất, nên gọi là địa cư thiên. Chung quanh mỗi hướng có tám trời, chính giữa có một trời, cộng lại là trời Ba Mươi Ba.

 

Hoặc trụ Dạ-Ma Đâu suất thiên,                    Hoặc trụ Dạ-Ma, Ðâu-Suất thiên
Hóa lạc tự tại Ma Vương sở,                           Hóa-Lạc, Tự-Tại, cung Ma-Vương
Cư xử ma-ni bảo cung điện,                            Ngự cung Ma-Ni, điện trân-bửu
Thuyết chân thật hành lệnh điều phục.         Giảng pháp chơn thiệt khiến điều-phục.

Hoặc trụ ở cõi trời Dạ Ma, hoặc trụ ở cõi trời Đâu Suất, hoặc trụ ở cõi trời Hoá Lạc, hoặc trụ ở cõi trời Tha Hoá Tự Tại, hoặc trụ ở chỗ ma vương. Tóm lại, cung điện dùng để ở, đều làm bằng ma ni báu, Phật vì họ diễn nói đạo lý chân thật tu hành, khiến cho họ đều được điều phục, không còn cang cường.

 

Hoặc chí phạm Thiên Chúng hội trung,         Hoặc đến trong chúng hội Phạm-Thiên
Thuyết tứ vô lượng chư Thiền đạo,                Nói tứ-vô-lượng, các thiền định
Phổ lệnh hoan hỉ tiện xả khứ,                         Cho họ hoan-hỉ, bèn bỏ đi
Nhi mạc tri kỳ vãng lai tướng.                         Không ai biết được tướng qua lại.

Hoặc trụ ở trong chúng hội cõi trời Đại Phạm Thiên, nói đạo ý bốn tâm vô lượng. Hoặc nói đạo lý tứ thiền (sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền). Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, đều sinh tâm đại hoan hỉ, nhưng vẫn phải thoát khỏi sự hoan hỉ nầy, mà chẳng chấp vào sự hoan hỉ nầy, lại còn phải hướng tinh tấn hướng về trước, chẳng ai biết được tướng trạng đến đi nầy.

Thế nào là bốn tâm vô lượng?
1. Từ vô lượng tâm: Tức là ban vui cho tất cả chúng sinh. Do đó có câu: “Vô duyên đại từ”, chẳng phân biệt kẻ thân người xa, đều xem như nhau, đều ban vui cho họ.

2. Bi vô lượng tâm: Nhổ sự đau khổ của tất cả chúng sinh. Do đó có câu: “Đồng thể đại bi”, tức cũng là tinh thần người khác đói như mình đói, người ta khát nước như mình khát nước.

3. Hỉ vô lượng tâm: Thấy người khác có niềm vui, thì mình cũng vui. Không thể thấy người khác có chuyện vui thì mình thì đố kị không vui, còn thấy người khác có chuyện buồn thì mình vui.

4. Xả vô lượng tâm: Đối đãi với tất cả chúng sinh, kẻ oán người thân đều bình đẳng, chẳng sinh thương ghét. Làm việc công đức chẳng cầu quả báo, xả bỏ bố thí chẳng có tâm xí đồ, không xả bỏ được mà xả bỏ được, đó mới thật là xả bỏ. Bồ Tát vì cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ, mới xả bỏ sự an lạc đất nước thanh tịnh, để đến thế giới Ta Bà kham nhẫn nầy, cam tâm tình nguyện sống với tất cả chúng sinh, chịu cực chịu khổ, chẳng sinh tâm nhàm mỏi, đây tức là tinh thần từ bi hỉ xả.

Người hành Bồ Tát đạo, nhất định phải thực hành bốn pháp nhiếp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) và bốn tâm vô lượng, thì công đức mới có sự thành tựu. Bằng không, nói mà làm chẳng được thì chẳng có ích lợi gì.

Thế nào là trời Tứ Thiền?
1. Trời Sơ Thiền: Tại sắc giới (Trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Đại Phạm), tên là Ly sinh hỉ lạc địa. Vì lìa khỏi sự khoái lạc của chúng sinh, đắc được một thứ khoái lạc khác, ở trong tự tánh công phu.

2. Trời Nhị Thiền: (Trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm), tên là Định sinh hỉ lạc địa. Trời nầy ở trong định sinh ra một thứ khoái lạc không gì sánh bằng, do đó có câu: “Thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn”, đắc được sự khoái lạc nầy, thì không biết đói khát, dù bao nhiêu ngày không ăn không uống, cũng chẳng có quan hệ gì. Đến được cảnh giới nầy, không thể chấp trước, nếu chấp trước thì sẽ nhập vào cảnh giới ma, còn gọi là “tẩu hoả nhập ma”, mất hết sạch công phu lúc trước, cho nên không thể không cẩn thận!

3. Trời Tam Thiền: (Trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh), tên là Ly hỉ diệu lạc địa. Lìa khỏi Sơ thiền, hoan hỉ của Nhị thiền, đắc được sự khoái lạc diệu không thể tả. Cảm giác tất cả đều là Phật pháp, tất cả là khoái lạc.

4. Trời Tứ Thiền: (Trời Phước Sinh, trời Phước Ái, trời Quảng Quả), tên là Xả niệm thanh tịnh địa. Ý niệm về sự khoái lạc cũng xả bỏ, đạt đến giai đoạn vô vi mà vô bất vi. Đây bất quá vẫn là cảnh giới thiền định của phàm phu mà thôi, chứ chẳng phải là sự thành tựu chứng quả Thánh. Trời Tứ Thiền là con đường công phu tham thiền phải đi qua, chút nầy các vị nên hiểu cho rõ ràng.

 

Hoặc chí A Ca Ni Trá Thiên,                           Hoặc đến Sắc-Cứu-Cánh thiên-cung
Vi thuyết giác phần chư bảo hoa,                   Ðể giảng giác-phần những bửu-hoa
Cập dư vô lượng Thánh công đức,                 Cùng những vô-lượng thánh-công-đức
Nhiên hậu xả khứ vô tri giả.                            Sau đó bỏ đi chẳng ai biết.

Hoặc đến trên cõi trời Hữu Đỉnh, vì cõi trời nầy ở trên đỉnh cao nhất của thế giới hữu hình, thường gọi là trời Sắc Cứu Kính, vì chư Thiên nói pháp môn bảy giác phần, hoặc nói đủ thứ pháp môn các hoa báu, và vô lượng Thánh công đức khác, sau đó xả bỏ pháp đi, do đó có câu: “Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng”, lại bỏ đi kẻ vô tri (tức là vô minh).

 

Như Lai vô ngại trí sở kiến,                             Phật-trí vô-ngại thấy khắp nơi
Kỳ trung nhất thiết chư chúng sanh,             Trong đó tất cả những hàm-thức
Tất dĩ vô biên phương tiện môn                      Ðều dùng vô-biên phương-tiện môn
Chủng chủng giáo hóa lệnh thành thục.        Nhiều cách giáo-hóa khiến thành-tựu.

Cảnh giới nầy, trí huệ vô ngại của Phật thấy được, tất cả chúng sinh ở trong trí huệ Như Lai, Phật hoàn toàn dùng vô biên pháp môn phương tiện, đủ thứ giáo hoá, khiến cho tất cả chúng sinh thành thục quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Tám mươi bài kệ ở trên là cảnh giới thuyết pháp, mười ba bài kệ dưới đây là dùng ví dụ để nói rõ công đức của Phật.

 

Thí như huyễn sư thiện huyễn thuật,             Ví như thuật-sĩ giỏi ảo thuật
Hiện tác chủng chủng chư huyễn sự;             Hiện ra các thứ hình tượng huyễn,
Phật hóa chúng sanh diệc như thị,                 Phật hóa chúng-sanh cũng như vậy
Vi kỳ thị hiện chủng chủng thân.                    Vì họ mà hiện nhiều thân hình.

Ở trước nói Phật dùng vô biên pháp môn giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ thành tựu Phật quả. Ví như nhà huyễn thuật, khéo biến hoá các việc huyễn thuật. Phật cũng như thế, ở trong biển sinh tử, tuỳ theo nghiệp của chúng sinh, thị hiện đủ thứ thân để giáo hoá. Đáng dùng thân gì độ được, thì liền hiện thân đó để vị họ nói pháp.

 

Thí như tịnh nguyệt tại hư không,                  Ví như trăng sáng giữa hư-không
Lệnh thế chúng sanh kiến tăng giảm,             Thế-gian chúng-sanh thấy tròn khuyết
Thất thiết hà trì hiện ảnh tượng,                    Tất cả sông ao hiện bóng trăng
Sở hữu tinh tú đoạt quang sắc.                       Tất cả tinh tú bị khuất sáng.

Ví như trăng sáng ở trong hư không, khiến cho chúng sinh thế gian thấy được hình dáng của mặt trăng, có lúc tăng them, có lúc giảm bớt. Từ ngày mồng ba bắt đầu, hình dáng của mặt trăng mỗi ngày mỗi tăng thêm một chút. Qua khỏi ngày rằm, thì mỗi ngày giảm bớt một chút. Đây là sự thấy tướng phần của chúng sinh, cho nên có tăng có giảm. Tất cả sông ngòi và ao hồ, đều hiện hình bóng của mặt trăng, các ánh sáng tinh tú khác bị che khuất.

 

Như Lai trí nguyệt xuất thế gian,                   Như-Lai trí-nguyện hiện thế-gian
Diệc dĩ phương tiện thị tăng giảm,                  Cũng dùng phương-tiện hiện tăng giảm
Bồ Tát tâm thủy hiện kỳ ảnh,                         Tâm-thủy Bồ-Tát hiện bóng Phật
Thanh văn tinh tú vô quang sắc.                    Thanh-Văn, Duyên-Giác khuất quang sắc.

Trí huệ mặt trăng của Phật xuất hiện nơi thế gian, cũng dùng pháp môn phương tiện thị hiện có tăng có giảm, có sinh có diệt. Hoặc thị hiện đang tu hành, hoặc thị hiện vào Niết Bàn. Thị hiện đủ thứ cảnh giới, khiến cho chúng sinh thấy được, bèn phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo. Do đó có câu:

“Phật là mặt trăng sáng
Thường lơ lửng trên bầu trời
Tâm nước chúng sinh tịnh
Bóng bồ đề hiện ra”.

Trong tâm nước Bồ Tát hiện ra hình bóng Phật mặt trăng, Thanh Văn và Duyên Giác giống như là tinh tú, ánh sáng bị che khuất, biến thành không có ánh sáng.

 

Thí như đại hải bảo sung mãn,                       Như trong đại-hải đầy châu báu
Thanh tịnh vô trược vô hữu lượng;                Trong sạch không nhơ không hạn lượng
Tứ châu sở hữu chư chúng sanh,                   Bao nhiêu chúng-sanh ở bốn châu
Nhất thiết ư trung hiện kỳ tượng.                   Tất cả hiện bóng ở trong biển.

Ví như biển cả, đầy dẫy các thứ châu báu, thanh tịnh không có dơ đục, số nhiều vô lượng. Phật đều hiện thân ở trước hết thảy chúng sinh bốn đại châu, để giáo hoá chúng sinh.
Thế nào là bốn đại châu? Tức là: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lư Châu.

1. Đông Thắng Thần Châu: Ở hướng đông núi Tu Di, cõi nước đó hình bán nguyệt. Tuổi thọ con người là hai trăm tuổi. Cõi nầy dùng bông lụa làm sự giao dịch. Con người ăn cơm, ăn thịt, có lễ đám cưới, đám tang. Con người tín ngưỡng Phật pháp.

2. Nam Thiệm Bộ Châu: Ở hướng nam núi Tu Di, cõi nước đó phía nam thì hẹp, phía bắc thì rộng. Tuổi thọ con người là một trăm tuổi, con người ở cõi đó dục rất là nặng, tóc dài ngắn khác nhau, quần áo mặc khác nhau. Có sự siêng tu về phạm hạnh.

3. Tây Ngưu Hoá Châu: Ở hướng tây núi Tu Di, cõi nước đó hình tròn, con người ở đó mặt cũng hình tròn. Tuổi thọ con người là ba trăm tuổi, dùng trâu bò ngựa châu báu làm giao dịch. Ai cũng đều ăn thịt, con người sau khi chết đi, thì cử hành hoả tán hoặc thuỷ tán.

4. Bắc Câu Lư Châu: Ở hướng bắc núi Tu Di, cõi nước đó hình vuông. Tuổi thọ con người là một ngàn tuổi, chẳng thọ mười điều ác, rất là an lạc sung sướng. Ngũ cốc chẳng trồng, tự nhiên sinh ra, lúa gạo không cần nấu, tự nhiên mà chín. Khi uống nước thì suối từ dưới đất vọt nước lên, thơm tho ngon ngọt. Nhưng chúng sinh ở châu nầy chẳng thấy được Phật, chẳng nghe được pháp, chẳng gặp được Tăng, là một trong tám nạn.

 

Phật thân công đức hải diệc nhĩ,                    Phật-thân công-đức cũng như vậy
Vô cấu vô trược vô biên tế;                             Không nhơ không đục không ngằn mé
Nãi chí Pháp giới chư chúng sanh,                 Nhẫn đến pháp-giới các chúng-sanh
Mị bất ư trung hiện kỳ ảnh.                            Không ai chẳng hiện trong thân Phật.

Biển công đức thân Phật tích tụ cũng như thế, nhiều giống như chúng sinh bốn đại châu. Biển công đức đó, không có bụi dơ, không có nhiễm đục, không có bờ mé. Đây là cảnh giới đặc biệt của Phật, cho đến pháp giới hết thảy chúng sinh, Phật đều hiện thân ở trong đó.

Trong pháp giới có vô lượng thế giới. Thế nào là thế giới? Một mặt trời một mặt trăng, một núi Tu Di, một bốn đại châu, làm một thế giới. Trong Kinh có nói rằng : « Thế giới nầy, thế giới kia, vô lượng các thế giới. Cõi nước này, cõi nước kia, vô lượng các cõi nước ». Nhục nhãn của phàm phu, chỉ nhìn thấy được một thế giới (trái đất), những thế giới khác chẳng nhìn thấy được. Cứu kính có bao nhiêu thế giới ? Dùng máy vi tính để tính, cũng tính không ra đáp số chính xác được có bao nhiêu, nhưng ba ngàn năm về trước, đức Phật đã nhìn thấu rõ, như thấy rõ quả A ma la trong lòng bàn tay, cho nên Kinh văn thường dùng ba ngàn đại thiên thế giới để làm đại biểu, kỳ thực, nhiều như số cát sông Hằng. Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói : « Trong một hạt bụi, có các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, so với số thiên văn vẫn còn nhiều hơn vạn lần ». Cảnh giới nầy thật là không thể nghĩ bàn.

Tóm lại, hết thảy thế giới đều ở trong pháp giới. Do đó chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, vô lượng vô biên. Tuy vô lượng vô biên, nhưng mỗi chúng sinh đều thấy được Phật ở trước họ.

 

Thí như tịnh nhật phóng thiên quang,           Ví Như mặt nhật phóng quang-minh
Bất động bổn xứ chiếu thập phương;            Chẳng rời bổn-xứ chiếu mười phương,
Phật nhật quang minh diệc như thị,               Phật-quang chiếu khắp cũng như vậy
Vô khứ vô lai trừ thế ám.                                 Không khứ không lai trừ si tối.

Phật giống như mặt trời trong sáng, phóng ra trăm ngàn vạn ức quang minh. Chẳng động nơi bổn xứ mà chiếu khắp mười phương. Trí huệ quang minh mặt trời của Phật, cũng như thế, không đến, cũng không đi, chiếu phá trừ tất cả đen tối của thế gian.

 

Thí như long Vương hàng Đại vũ,                  Ví như Long-Vương tuôn mưa lớn
Bất tùng thân xuất cập tâm xuất,                   Chẳng từ thân ra, chẳng từ tâm
Nhi năng triêm hiệp tất chu biến,                   Mà mưa cùng khắp đều nhuần thấm
Địch trừ viêm nhiệt sử thanh lương.               Trừ hết viêm nhiệt được thanh-lương.

Ví như đại hải Long vương, tuôn đổ xuống trận mưa lớn, nhưng mưa chẳng phải từ thân của Long Vương ra, cũng chẳng phải từ tâm của Long Vương ra, mà mưa đó hay thấm nhuần tất cả vạn vật, khắp cùng tất cả mọi nơi, dập tắt sự nóng bức, khiến cho chúng sinh được mát mẻ.

 

Như Lai Pháp vũ diệc phục nhiên,                  Như-Lai pháp-vũ cũng như vậy
Bất tùng ư Phật thân tâm xuất,                      Chẳng từ thân tâm Phật phát ra
Nhi năng khai ngộ nhất thiết chúng,              Mà hay khai ngộ tất cả chúng
Phổ sử diệt trừ tam độc hỏa.                          Khiến khắp diệt trừ lửa tam độc.

Mưa pháp của Phật, cũng như thế, chẳng phải từ nơi thân của Phật ra, cũng chẳng phải từ tâm của Phật ra. Phật nói pháp môn phương tiện, là ứng với nhân duyên của chúng sinh. Do đó có câu: “Quán căn cơ thí giáo, vì người cho thuốc”, gặp người nào thì nói pháp đó, thấy người có tâm tham, thì dạy họ tu quán bất tịnh; thấy người có tâm sân, thì dạy họ quán từ bi; thấy người có tâm si, thì dạy họ tu quán nhân duyên; thấy người có ngã kiến, thì dạy họ tu quán cõi phân biệt; thấy người tâm tán loạn, thì dạy họ tu quán sổ tức. Diệu pháp của Phật nói, hay khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh sinh khởi nước giới định huệ ba học vô lậu, để diệt trừ lửa tham sân si ba độc.

Mục đích học Phật pháp là phá trừ mao bệnh ba độc. Tại sao thế giới có chiến tranh? Đều vì tham sân si tác quái, nếu ai ai cũng trừ hết sạch tham sân si, thì thế giới sẽ hoà bình, xã hội sẽ phồn vinh, gia đình sẽ mỹ mãn. Do đó: “Mọi việc đều ở tại con người”. Làm việc thiện thì phóng ra luồng chánh khí sáng rỡ, xông thẳng đến cung trời. Làm việc ác thì phóng ra luồng khí hôi hám đen tối, xông xuống địa ngục. Do đó có câu rằng: “Tất cả do tâm tạo”.

Người xuất gia, phải siêng tu giới định huệ, đây là bổn phận của người xuất gia. Người xuất gia vẫn còn tham sân si, giống như người tại gia, vậy xuất gia vì cái gì? Người có nước giới định huệ, thì ở mọi nơi mọi thời, đều nhu hoà, mà chẳng cang cường. Lúc nào cũng quản thúc mình, đi đứng nằm ngồi chẳng lìa khỏi nhà, chẳng lìa khỏi nhà tức là chẳng lìa khỏi bổn phận của mình, pháp môn tâm địa của mình.

 

Như Lai thanh tịnh diệu Pháp thân,               Như-Lai thanh-tịnh diệu-pháp-thân
Nhất thiết tam giới vô luân thất;                     Tất cả ba cõi không gì sánh
Dĩ xuất thế gian ngôn ngữ đạo,                       Vì ngoài đường ngôn ngữ thế-gian
Kỳ tánh phi hữu phi vô cố.                              Bởi tánh phi-hữu phi-vô vậy.

Pháp thân thanh tịnh của Như Lai, tất cả chúng sinh trong ba cõi không ai sánh bằng. Cảnh giới nầy của Phật, vượt ra ngoài ngôn ngữ của thế gian, ngôn ngữ của thế gian không thể nào nói được, chẳng phải trong tâm có thể tưởng đến được. Dùng lời lẽ xuất thế gian để nói đạo, vì bổn tánh của Phật chẳng có chẳng không có. Nói nó có chăng? Nhìn mà chẳng thấy. Nói nói không có chăng? Nó vẫn tồn tại. Chẳng phải tưởng nó có, thì nó có; cũng chẳng phải tưởng nó không có, thì nó không có. Nó thì lìa khỏi phạm vi tâm ý thức của bạn, tâm ý thức của bạn không minh bạch được. Bổn tánh của Phật, không thể dùng có để cầu, cũng không thể dùng không để cầu, có, không là hai bên chẳng phải là trung đạo. Trung đạo là chẳng có, chẳng không. Minh bạch đạo lý nầy, thì minh bạch Phật tánh.

Thế nào là “Như Lai”? Nghĩa là thừa đạo như thật, lai thành chánh giác. Trong Kinh Kim Cang có nói : « Bậc Như Lai, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai ». Như Lai giống như mặt trời trong hư không, chiếu khắp mười phương, tuy chiếu mười phương, nhưng bổn thể của mặt trời, cũng chẳng đến, cũng chẳng đi. Phật cũng như thế.

Thế nào là « thanh tịnh » ? Là chẳng có tất cả bụi dơ, chẳng có tất cả ô nhiễm. Nếu có một bụi trần, thì không thể gọi là thuần thanh tịnh. Thanh tịnh tức là chân tâm. Chỉ có một thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể, tóm lại, chẳng có vọng tưởng, chẳng có tự dục, chẳng có tạp nhiễm, tức là thanh tịnh.

Thế nào là « diệu pháp thân » ? Diệu là diệu không thể nói. Pháp thân tức là trí huệ thân, tận hư không khắp pháp giới, đầy khắp tất cả mọi nơi. Phật có ba thân, do đó : « Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật, Thiên Bách Ức Hoá Thân Thích Ca Mâu Ni Phật ». Một niệm không sinh toàn thể hiện, tức là thanh tịnh. Sáu căn hốt động bị mây che, tức là nhiễm ô ; chẳng có nhiễm ô tức là diệu pháp thân.

Ai không có nhiễm ô, thì chứng được diệu pháp thân ; ai có tranh, có tham, có mong cầu, có sự ích kỷ, có lợi mình, thì người đó chẳng đắc được diệu pháp thân.

Thế nào là « ba cõi » ? Tức là cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Cõi dục thì có tham dục, có hình sắc, có thức. Cõi sắc thì có hình sắc, có thức. Cõi vô sắc thì chỉ có thức tồn tại.

Cõi dục có sáu cõi trời, đó là :
1. Trời Tứ Thiên Vương.
2. Trời Đao Lợi.
3. Trời Dạ Ma.
4. Trời Đâu Suất.
5. Trời Hoá Lạc.
6. Trời Tha Hoá Tự Tại.
Cõi sắc có mười tám cõi trời, đó là :
1. Trời Phạm Chúng.
2. Trời Phạm Phụ.
3. Trời Đại Phạm.
4. Trời Thiểu Quang.
5. Trời Vô Lượng Quang.
6. Trời Quang Âm.
7. Trời Thiểu Tịnh.
8. Trời Vô Lượng Tịnh.
9. Trời Biến Tịnh.
10. Trời Phước Sanh.
11. Trời Phước Ái.
12. Trời Quảng Quả.
13. Trời Vô Tưởng.
14. Trời Vô Phiền.
15. Trời Vô Nhiệt.
16. Trời Thiện Hiện.
17. Trời Thiện Kiến.
18. Trời Sắc Cứu Kính.
Cõi vô sắc, có bốn cõi trời, đó là :
1. Trời Không Vô Biên Xứ.
2. Trời Thức Vô Biên Xứ.
3. Trời Vô Sở Hữu Xứ.
4. Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng.
Ba cõi cộng lại có hai mươi tám tầng trời.

 

Tuy vô sở y vô bất trụ,                                     Dầu không sở-y mà ở khắp,
Tuy vô bất chí nhi bất khứ;                             Dầu đến tất cả mà không đi,
Như không trung họa mộng sở kiến,              Như vẽ không trung, cảnh trong mộng,
Đương ư Phật thể như thị quán.                    Phải quán thân Phật là như vậy.

Thân Phật tuy không chỗ nương, cũng không chỗ trụ, nhưng chẳng có chỗ nào mà chẳng trụ, chẳng có chỗ nào mà chẳng có, không tướng mà thảy đều có tướng, cho nên thanh tịnh pháp thân đầy khắp tất cả mọi nơi.

Trong Kinh Kim Cang có nói rất rõ ràng:
« Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó hành đạo tà
Chẳng thấy được Như Lai ».

Phật không thể dùng sắc để thấy, không thể dùng âm thanh để cầu. Ở chỗ chẳng có sắc, chẳng có âm thanh, tức là thanh tịnh pháp thân của Phật ở tại chỗ đó.

Tuy nhiên chẳng chỗ nào mà chẳng đến, nhưng cũng chẳng đi. Tại sao không đến chẳng không đến ? Vì pháp thân của Phật đầy khắp pháp giới, không thể dùng có tướng để cầu, càng không thể dùng âm thanh để cầu. Không hình không tướng, chẳng sắc chẳng không, cho nên mới nói không có chỗ nào mà chẳng đến, cũng chẳng đi.

Pháp thân của Phật giống như vẽ ở trong hư không, lại giống như cảnh giới thấy ở trong mộng, lại giống như hoa ở trong gương. Phải quán sát pháp thân của Phật là như vậy. Đây là dạy bạn lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp, phá trừ mọi sự chấp trước, tức là chân như tự tánh. Có sự chấp trước, thì chẳng có trí huệ chân chánh.

Trong Kinh Kim Cang có nói: “Phàm hết thảy tướng, đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai ». Đây là phá chấp trước của bạn. Đừng có dụng công phu trên sự phân biệt tướng phần (thuộc về vật chất) và kiến phần (thuộc về tinh thần), phải lìa khỏi sự chấp trước tướng phần và kiến phần, chẳng phải nói là không có tướng phần và kiến phần, mà tướng phần và kiến phần vẫn thản nhiên tồn tại. Nếu bạn chẳng có sự chấp trước, thì sẽ thấy được thanh tịnh pháp thân của Phật.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : « Tâm cuồng hết rồi, hết rồi tức bồ đề ». Tâm chấp trước của bạn, nếu không còn nữa, tức là bồ đề. Đạo lý nói trong tất cả Kinh điển, tuy danh từ khác nhau, nhưng nghĩa lý là một, cho nên nói :
« Tự tánh như hư không
Chân vọng ở bên trong
Ngộ triết thể xưa nay
Một thông tất cả thông ».

Minh bạch được một thứ, thì mọi thứ đều minh bạch.

 

Tam giới hữu vô nhất thiết pháp,                   Những pháp có, không, trong ba cõi
Bất năng dữ Phật vi thí dụ;                            Chẳng thể ví-dụ cùng Phật được,
Thí như sơn lâm điểu thú đẳng,                      Ví như chim muông trong núi rừng
Vô hữu y không nhi trụ giả.                            Không nương không-gian mà ở được.

Pháp hữu vi và pháp vô vi ở trong ba cõi, hết thảy tất cả pháp, đều không thể ví dụ được với Phật. Tại sao ? Vì pháp của Phật nói, đã vượt qua ngoài phạm vi pháp hữu vi và pháp vô vi. Ví như núi rừng chim thú .v.v…thảy đều nương hư không mà tồn tại, tức cũng là nương hư không mà ở.

 

Đại hải ma-ni vô lượng sắc,                             Ðại hải ma-ni vô-lượng màu,
Phật thân sái biệt diệc phục nhiên;                 Thân Phật sai khác cũng như vậy,
Như Lai phi sắc phi phi sắc,                            Như-Lai phi-sắc phi-phi-sắc
Tùy ưng nhi hiện vô sở trụ.                             Tùy nghi mà hiện, không sở-trụ.

Biển cả ma ni báu, có vô lượng màu sắc. Do đó « Vạn tía ngàn hồng màu sắc chói mắt ». Thân Phật khác biệt cũng như thế, có vạn luồng hào quang, chiếu trời chiếu đất. Có vô lượng nhan sắc, quang minh hiển bày chiếu sáng. Pháp thân của Phật, không thể dùng sắc tướng cầu, ở trong chẳng sắc chẳng không sắc. Phật tuỳ thuận căn cơ của chúng sinh mà ứng hiện, vì chúng sinh thuyết pháp, nhưng không chỗ trụ.

Nếu chẳng có chúng sinh, thì cũng chẳng có pháp ; chẳng có pháp, thì cũng chẳng có Phật, do đó có câu : « Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba chẳng khác biệt ». Tâm pháp tức là Phật pháp, Phật pháp tức là chúng sinh pháp, chúng sinh pháp cũng là tâm pháp, tất cả pháp nầy đều là Phật pháp ; tuy đều là Phật pháp, nhưng đừng chấp trước tướng để cầu Phật pháp. Nếu dùng có tướng và vô tướng để cầu Phật pháp, thì dù có cầu đến khi nào, cũng không minh bạch được Phật pháp.

 

Hư không chân như cập thật tế,                     Hư-không, chơn-như và thiệt-tế,
Niết-Bàn pháp tánh tịch diệt đẳng;                Niết-bàn, pháp-tánh, tịch-diệt thảy
Duy hữu như thị chân thật Pháp,                   Chỉ có những pháp chơn thiệt nầy
Khả dĩ hiển thị ư Như Lai.                              Khả dĩ hiển thị được Như-Lai.

Hư không, chân như, thật tế, Niết Bàn, pháp tánh, tịch diệt v.v… những danh từ nầy, đều là pháp chân thật, là tuyệt đối, chẳng phải đối đãi. Những pháp nầy, mới hiển bày được trí huệ đức tướng, biển công đức chân thật không hư của Phật.

Thế nào là hư không ? Tức là chẳng có tất cả tướng, nếu có tất cả tướng, thì chẳng phải là hư không, do đó có câu :
« Không hình chất là hư
Không chướng ngại là không ».

Thế nào là chân như ? Tức là bổn thể của các pháp. Lìa hư vọng mà chân thật là chân. Thường trụ không đổi là như. Chẳng có gì mà chẳng như, vẫn còn chẳng như, thì chẳng phải là chân như.

Thế nào là thật tế ? Tức là vô tướng, cũng là lìa tướng, là lý thể hoàn toàn chân thật. Thật tế nầy là lìa lời nói tướng, lìa tâm duyên tướng.

Thế nào là Niết Bàn ? Tức là chẳng sinh chẳng diệt. Niết Bàn có thường lạc ngã tịnh bốn đức : Hai cái chết vĩnh viễn diệt hết là thường. Thọ dụng giải thoát là lạc. Chứng chân pháp thân là ngã. Tuyệt không nhiễm ô là tịnh.

Thế nào là pháp tánh ? Tức là bổn tánh của pháp. Tại nhiễm tại tịnh, tại có tình số, tại chẳng tình số, tánh đó chẳng đổi chẳng thay, nên gọi là pháp tánh, tức cũng là thật tướng chân như.

Thế nào là tịch diệt ? Thể tịch tĩnh, lìa tất cả tướng, chẳng có gì để nói. Niết Bàn tức là tướng tịch diệt.

 

Sát trần tâm niệm khả số tri,                          Sát-trần tâm niệm đếm biết được,
Đại hải trung thủy khả ẩm tận,                       Nước trong đại-hải uống hết được,
Hư không khả lượng phong khả hệ,               Hư-không lường được, gió buộc được,
Vô năng tận thuyết Phật công đức.                Không thể nói hết công-đức Phật.

Tâm niệm nhiều như bụi cõi, vốn không thể tính đếm được, mà bạn có thể tính đếm được. Nước trong biển lớn vốn không thể uống hết được, mà bạn có thể uống hết được. Hư không chẳng có bờ mé, vốn không thể nào dò lường được, mà bạn có thể dò lường được. Gió thì không hình không tướng, không cách gì có thể buộc nó được, mà bạn có thể buộc nó lại được. Những sự việc nầy không thể làm được, mà bạn có thể làm được. Nhưng công đức của Phật, bạn không có cách gì, có thể nói hết được, dù hết thuở vị lai, cũng nói không hết được.

 

Nhược hữu văn tư công đức hải,                    Nếu ai nghe biển công-đức nầy
Nhi sanh hoan hỉ tín giải tâm,                         Mà sanh lòng vui mừng xin tin hiểu
Như sở xưng dương tất đương hoạch,           Tất sẽ được những công-đức nầy
Thận vật ư thử hoài nghi niệm.                       Thận trọng chớ sanh lòng ngờ vực.

Nếu có người, nghe được biển đại công đức của Phật, mà trong tâm sinh đại hoan hỉ, sinh tâm tin hiểu. Do đó có câu:
“Tin là nguồn đạo mẹ công đức
Nuôi lớn tất cả các pháp lành”

Nếu hay khen ngợi tán thán công đức của Phật, thì bạn cũng sẽ đắc được công đức nầy, nhưng đừng có tồn tại tâm khen ngợi tán thán công đức của Phật, cho rằng mình sẽ đắc được công đức của Phật. Nếu có tâm xí đồ như thế để khen ngợi tán thán công đức của Phật, thì tuy không thể nói là không có công đức, nhưng công đức không được viên mãn.

Chúng sinh thế gian, vì nghiệp chướng sâu nặng, cho nên từ vô lượng kiếp đến nay, chẳng thấy được Phật, chẳng nghe được pháp, chẳng gặp được Tăng. Ở trong sáu nẻo luân hồi, trôi nổi không ngừng, không biết khi nào mới chấm dứt. Nhưng, “Biển khổ không bờ, hồi đầu là bến”. Chúng ta học Phật pháp, tức là dạy bạn tức thời hồi đầu, thì sẽ trở về nhà quê hương vốn có của mình, tức là cõi Thường Tịch Quang tịnh độ.

Chúng ta tu hành Phật pháp, tu hành Phật đạo, chỉ cần tinh tấn hướng về trước, đừng có tâm cầu xí đồ, hy vọng đắc được những gì? Do đó có câu: “Không trí cũng không đắc”. Nếu có tâm tham cầu, thì đó là tà tri tà kiến. Học Phật pháp phải đừng có sự tham cầu, làm mà không mong muốn gì hết (hành sở vô sự). Nên nhớ! Nên nhớ! Đừng có sinh tâm hoài nghi đối với Kinh điển, đừng có sự không tin nghĩa lý nói trong Kinh điển. Phàm là Kinh điển, đều là từ miệng đức Phật nói ra. Đức Phật là bậc Thánh nhân, tuyệt đối không nói dối. Bạn phải dứt nghi sinh niềm tin, đó là thái độ của người học Phật pháp phải có.

Bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật nầy, bắt đầu giảng vào tháng 6 năm 1971, đã giảng hơn tám năm, đến hôm nay là ngày 09 tháng 09 năm 1979, mới giảng xong Kinh Hoa Nghiêm. Một số pháp hội giảng Kinh, khi giảng kinh viên mãn, thông báo cho các cư sĩ họ Trương, hộ pháp họ Lý, tất cả đoàn thể Phật giáo biết, để kết thúc viên mãn công đức của sự giảng Kinh. Chúng ta giảng Kinh, chẳng có nghi thức nầy, nhưng từ San Fransico đến đây hơn mười vị thiện tín, đến đúng ngày kết thúc giảng Kinh, để viên mãn công đức.

Hôm nay đem công đức giảng Kinh Hoa Nghiêm, hồi hướng cho pháp giới chúng sinh, hồi hướng cho hết thảy chúng sinh đến nghe Kinh Hoa Nghiêm, hồi hướng cho tất cả chúng sinh hộ trì pháp hội Kinh Hoa Nghiêm. Nguyện pháp giới hữu tình, đồng viên chủng trí, đều cùng thành Phật đạo.