Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 3

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới

Phần 3

— o0o —

DI GIÀ – PHÓ THÁC THỨ 4 – SINH QUÝ TRỤ

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm chánh niệm pháp quang minh Pháp môn, thâm tín thú nhập, chuyên niệm ư Phật, bất đoạn Tam Bảo, thán ly dục tánh, niệm thiện tri thức phổ chiếu tam thế, ức chư đại nguyện phổ cứu chúng sanh, bất trước hữu vi, cứu cánh tư tánh chư pháp tự tánh, tất năng nghiêm tịnh nhất thiết thế giới, ư nhất thiết Phật chúng hội đạo tràng tâm vô sở trước.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử nhất tâm chánh niệm pháp môn pháp quang minh tin sâu xu nhập. Chuyên niệm Phật chẳng dứt ngôi Tam Bảo. Khen tánh ly dục. Nhớ thiện tri thức. Chiếu khắp tam thế. Nhớ những đại nguyện khắp cứu chúng sanh. Chẳng chấp hữu vi. Rốt ráo tư duy tự tánh của các pháp. Ðều có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới. Nơi chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật, lòng không chấp trước.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng chánh niệm pháp môn pháp quang minh, tin sâu hướng vào pháp môn nầy, không có chút nghi hoặc nào. Chuyên tâm niệm Phật, chẳng dứt giống tánh Tam Bảo, hoan hỉ lìa tâm dục thanh tịnh. Xưng niệm thiện tri thức, chiếu sáng khắp ba đời, nhớ lại các đại nguyện xưa đã phát ra, cứu khắp chúng sinh, chẳng chấp trước vào tướng hữu vi, suy gẫm rốt ráo tự tánh các pháp, đều trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới, trong chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật, trong tâm không có sự chấp trước nào.

 

Tiệm thứ Nam hành, chí tự tại thành, cầu mịch di già. Nãi kiến kỳ nhân ư thị tứ trung, tọa ư thuyết pháp sư tử chi tọa, thập thiên nhân chúng sở cọng vi nhiễu, thuyết luân tự trang nghiêm Pháp môn.

Thiện tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến thành Tự Tại tìm Di Già, thấy người này đang ngồi trên pháp tòa sư tử nơi chợ giảng thuyết pháp môn luân tự trang nghiêm . Có mười ngàn người vây quanh nghe pháp.

Giảng: Thiện Tài đồng tử dần dần đi về hướng nam, đến thành Tự Tại, tìm cầu Di Già đại sĩ. Bèn thấy Di Già đại sĩ ở giữa chợ, ngồi trên toà sư tử, vì đại chúng nói pháp, có mười ngàn người cùng vây quanh Ngài, lắng nghe Ngài nói pháp môn luân tự trang nghiêm.

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ư tiền hợp chưởng, nhi tác thị ngôn:

Thiện tài đồng tử đảnh lễ chân Di Già, hữu nhiễu vô lượng vòng , chắp tay cung kính bạch rằng:

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hướng về vị Di Già đảnh lễ, đi nhiễu bên phải vô lượng vòng. Ở trước Di Già chắp tay mà bạch rằng:

 

Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi ngã vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo? vân hà lưu chuyển ư chư hữu thú thường bất vong thất Bồ-đề chi tâm? vân hà đắc bình đẳng ý kiên cố bất động? vân hà hoạch thanh tịnh tâm vô năng tự hoại? vân hà sanh đại bi lực hằng bất lao bì? vân hà nhập Đà-la-ni phổ đắc thanh tịnh? vân hà phát sanh trí tuệ quảng đại quang minh, ư nhất thiết Pháp ly chư ám chướng? vân hà cụ vô ngại giải biện tài chi lực, quyết liễu nhất thiết thậm thâm nghĩa tạng? vân hà đắc chánh niệm lực, ức trì nhất thiết sái biệt Pháp luân? vân hà đắc tịnh thú lực, ư nhất thiết thú phổ diễn chư Pháp? vân hà đắc trí tuệ lực, ư nhất thiết Pháp tất năng quyết định phân biệt kỳ nghĩa?

Bạch đức Thánh ! Con đã pháp tâm Vô thượng Bồ đề, mà con chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ? Thế nào lưu chuyển trong các loài mà chẳng quên mất tâm Bồ đề? Thế nào được ý bình đẳng kiên cố bất động ? Thế nào được tâm thanh tịnh không gì trở ngại được ? Thế nào phát sanh sức đại bi hằng không mỏi nhọc ? Thế nào nhập đà la ni khắp được thanh tịnh ? Thế nào phát sanh trì huệ quảng đại quang minh nơi tất cả pháp lìa những ám chướng ? Thế nào đủ sức vô ngại giải biện tài quyết rõ tất cả nghĩa tạng thậm thâm ? Thế nào được sức chánh niệm ghi nhớ thọ trì tất cả pháp luân sai biệt ? Thế nào được sức tịnh đạo, nơi tất cả loài khắp diễn thuyết các pháp ? Thế nào được sức trí tuệ nơi tất cả pháp đều có thể quyết định phân biệt nghĩa đó ?

Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học hạnh của Bồ Tát tu hành? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Bồ Tát làm thế nào lưu chuyển nơi các cõi, mà luôn luôn không quên mất tâm bồ đề? Bồ Tát làm thế nào được tâm bình đẳng, kiên cố chẳng động? Bồ Tát làm thế nào để được tâm thanh tịnh, không gì trở ngại phá hoại được? Bồ Tát làm thế nào để sinh ra tâm đại bi, vĩnh viễn cũng không mệt nhọc? Bồ Tát làm thế nào mới có thể chứng nhập vào pháp môn đà la ni, khắp được thanh tịnh? Bồ Tát làm thế nào để phát sinh trí huệ, quang minh rộng lớn, nơi tất cả pháp, lìa các ám chướng đen tối. Bồ Tát làm thế nào đầy đủ sức hiểu biết và biện tài vô ngại, quyết định thấu rõ tất cả tạng nghĩa thâm sâu? Bồ Tát làm thế nào đắc được sức chánh niệm, nhớ trì tất cả pháp luân khác nhau? Bồ Tát làm thế nào để đắc được sức thanh tịnh các cõi ác, ở trong tất cả cõi khắp diễn nói các pháp? Bồ Tát làm thế nào để đắc được sức trí huệ, nơi tất cả pháp đều quyết định phân biệt được nghĩa lý của pháp”?

 

Nhĩ thời, di già cáo Thiện Tài ngôn:

Di Già bảo Thiện Tài rằng:

Giảng: Lúc đó, Di Già đại sĩ bảo Thiện Tài rằng:

 

Thiện nam tử! nhữ dĩ phát A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề tâm da?

Ngươi đã phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi ư ?

Giảng: “Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề chăng”?

 

Thiện Tài ngôn: duy! ngã dĩ tiên phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam Bồ-đề tâm.

Thiện Tài đáp: Vâng, con đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề rồi”.

Giảng: Thiện Tài đáp: “Vâng, con đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề rồi”.

 

Di già cự tức hạ sư tử tọa, ư Thiện Tài sở ngũ thể đầu địa, tán kim ngân hoa vô giá bảo châu, cập dĩ thượng diệu toái mạt chiên đàn, vô lượng chủng y dĩ phước kỳ thượng

Di Già liền vội vàng rời tòa sư tử mọp lạy Thiện Tài. Rồi lại rải bông kim ngân, bửu châu vô giá, cùng với bột mịn chiên đàn, vô lượng thứ y trùm trên mình Thiện Tài.

Giảng: Di Già đại sĩ liền xuống toà sư tử, đến chỗ Thiện Tài năm thể sát đất, sau đó lại rải vàng, bạc, hoa, và bảo châu vô giá, cùng với bột chiên đàn thượng diệu, và vô lượng thứ y phục dùng che phủ phía trên Thiện Tài đồng tử.

 

Phục tán vô lượng chủng chủng hương hoa, chủng chủng cung cụ dĩ vi cúng dường, nhiên hậu khởi lập nhi xưng thán ngôn:

Di Già lại rải vô lượng những thứ hương hoa, các thứ phẩm vật để cúng dường. Sau đó mới đứng dậy khen rằng:

Giảng: Lại rải vô lượng đủ thứ hương hoa, đủ thứ đồ cúng, dùng để cúng dường. Sau đó đứng lên mà khen ngợi Thiện Tài đồng tử rằng:

 

Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nãi năng phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam bồ Đề tâm.

Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Giảng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Đã có thể phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đây thật là việc khó”.

 

Thiện nam tử! nhược hữu năng phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, tức vi ất đoạn nhất thiết Phật chủng, tức vi nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát, tức vi thành thục nhất thiết chúng sanh, tức vi liễu đạt nhất thiết pháp tánh, tức vi ngộ giải nhất thiết nghiệp chủng, tức vi viên mãn nhất thiết chư hạnh, tức vi ất đoạn nhất thiết đại nguyện, tức như thật giải ly tham chủng tánh, tức năng minh kiến tam thế sái biệt, tức lệnh tín giải vĩnh đắc kiên cố.

Này thiện nam tử ! Nếu có ai phát được tâm Vô thượng Bồ đề thời là chẳng dứt mất tất cả Phật chủng. Thời là nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Thời là thành thục tất cả chúng sanh. Thời là thấu rỏ tất cả pháp tánh. Thời là tỏ ngộ tất cả ngiệp chủng. Thời là viên mãn tất cả các hạnh. Thời là chẳng dứt tất cả đại nguyện. Thời là thiệt hiểu chủng tánh ly tham. Thời có thể thấy rõ tam thế sai biệt. Thời làm cho tín giải trọn được kiên cố.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu như lại có ai có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì sẽ không dứt tất cả giống tánh Phật. Sẽ nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Sẽ thành thục tất cả chúng sinh. Sẽ thấu đạt tất cả pháp tánh. Sẽ ngộ hiểu tất cả các thứ nghiệp. Sẽ viên mãn tất cả các hạnh. Sẽ không dứt tất cả đại nguyện đã phát thuở xưa. Sẽ hiểu như thật giống tánh xa lìa tham. Sẽ thấy rõ được pháp ba đời khác biệt. Sẽ khiến cho tin hiểu của chúng sinh vĩnh viễn được  kiên cố.

 

Tức vi nhất thiết Như Lai sở trì, tức vi nhất thiết chư Phật ức niệm, tức dữ nhất thiết Bồ Tát bình đẳng, tức vi nhất thiết hiền thánh tán hỉ, tức vi nhất thiết Phạm Vương lễ cận, tức vi nhất thiết Thiên Chủ cúng dường, tức vi nhất thiết dạ xoa thủ hộ, tức vi nhất thiết La-sát thị vệ, tức vi nhất thiết long Vương nghênh tiếp, tức vi nhất thiết khẩn-na-la Vương ca vịnh tán thán, tức vi nhất thiết chư thế gian chủ xưng dương khánh duyệt, tức lệnh nhất thiết chư chúng sanh giới tất đắc an ổn.

Thời được tất cả Như Lai nhiếp trì. Thời được tất cả chư Phật ức niệm. Thời bình đẳng với tất cả Bồ Tát. Thời được tất cả Hiền Thánh khen mừng. Thời được tất cả Phạm Vương kính lễ. Thời được tất cả Thiên Vương cúng dường. Thời được tất cả Dạ Xoa thủ hộ. Thời được tất cả La Sát hầu hạ. Thời được tất cả Long Vương nghinh tiếp. Thời được tất cả Khẩn Na La Vương cạ ngâm khen ngợi. Thời được tất cả các Thế Chủ khen ngợi mừng vui. Thời làm cho tất cả chúng sanh giới đều được an ổn.

Giảng: Vị đã phát tâm bồ đề đó, sẽ được tất cả Như Lai nhiếp thọ hộ trì. Sẽ được tất cả chư Phật thường thường nghĩ nhớ. Sẽ bình đẳng với tất cả Bồ Tát. Sẽ được tất cả hiền Thánh khen ngợi hoan hỉ. Sẽ được tất cả Phạm Vương lễ kính. Sẽ được tất cả Thiên chủ cúng dường. Sẽ được tất cả Dạ Xoa giữ gìn. Sẽ được tất cả La Sát hầu hạ. Sẽ được tất cả Long Vương nghinh tiếp. Sẽ được tất cả Khẩn Na La Vương ca ngâm khen ngợi. Sẽ được tất cả các chủ thế gian khen ngợi vui mừng.

 

Sở vị: lệnh xả ác thú cố, lệnh xuất nan xứ cố, đoạn nhất thiết bần cùng căn bản cố, sanh nhất thiết Thiên Nhân khoái lạc cố, ngộ thiện tri thức thân cận cố, văn quảng đại Pháp thọ trì cố, sanh Bồ-đề tâm cố, tịnh Bồ-đề tâm cố, chiếu Bồ Tát đạo cố, nhập Bồ Tát trí cố, trụ Bồ Tát địa cố.

Những là làm cho họ bỏ ác thú. Làm cho họ ra khỏi chỗ nạn. Làm cho họ dứt tất cả cội gốc nghèo cùng. Làm cho họ sanh tất cả trời người vui sướng. Làm cho họ thân cận thiện tri thức. Làm cho họ được nghe và thọ trì pháp quảng đại. Làm cho họ sanh tâm Bồ đề. Làm cho họ tịnh tâm Bồ đề. Làm cho họ rõ Bồ Tát đạo. Làm cho họ nhập Bồ Tát trí. Làm cho họ trụ Bồ Tát địa.

Giảng: Vị đã phát tâm bồ đề đó, sẽ khiến cho tất cả các cõi chúng sinh đều được an ổn vui vẻ. Nghĩa là khiến cho chúng sinh bỏ cõi ác. Khiến cho chúng sinh thoát khỏi nơi tám nạn (Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Bắc Câu Lư Châu, trời Vô Tưởng, đui mù câm điết, thế trí biện thông, trước Phật sau Phật). Khiến cho chúng sinh dứt tất cả gốc rễ phiền não bần cùng. Khiến cho chúng sinh sinh về tất cả cõi trời người yên vui. Gặp được thiện tri thức gần gũi cúng dường. Lắng nghe thiện tri thức dạy pháp rộng lớn, thọ trì nơi tâm, sẽ sinh ra tâm bồ đề, sẽ thanh tịnh tâm bồ đề, sẽ chiếu sáng Bồ Tát đạo, sẽ nhập Bồ Tát trí huệ, sẽ trụ quả vị Bồ Tát.

 

Thiện nam tử! ứng tri Bồ Tát sở tác thậm nan, nan xuất nan trị, kiến Bồ Tát giả bội cánh nan hữu.

Này thiện nam tử ! Phải biết chỗ làm của Bồ Tát rất khó, khó ra, khó gặp. Người được thấy Bồ Tát lại còn khó có hơn.

Giảng: Thiện nam tử! Ngươi nên biết việc Bồ Tát làm rất khó, gặp được Bồ Tát xuất hiện ra đời cũng rất khó. Người thấy được Bồ Tát lại càng khó hơn.

 

Bồ Tát vi nhất thiết chúng sanh thị hỗ, sanh trưởng thành tựu cố; vi nhất thiết chúng sanh chửng tế, bạt chư khổ nạn cố; vi nhất thiết chúng sanh y xứ, thủ hộ thế gian cố; vi nhất thiết chúng sanh cứu hộ, lệnh miễn bố úy cố.

Vì Bồ Tát là chỗ tất cả chúng nương nhờ mà được sanh trưởng thành tựu. Là chỗ cứu tế của tất cả chúng sanh, vì Bồ Tát cứu họ khỏi khổ nạn. Là chỗ y tựa của tất cả chúng sanh, vì thủ hộ thế gian. Là người cứu hộ tất cả chúng sanh, vì làm cho họ khỏi sự kinh sợ.

Giảng: Bồ Tát là chỗ nương nhờ của tất cả chúng sinh, vì sinh trưởng thành tựu hết thảy chúng sinh. Ngài là chỗ cứu giúp của tất cả chúng sinh, vì nhổ sạch các thống khổ hoạn nạn. Là chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh, vì giữ gìn thế gian. Ngài là chỗ cứu hộ của tất cả chúng sinh, vì khiến cho không sợ hãi.

 

Bồ Tát như phong luân, trì chư thế gian bất lệnh đọa lạc ác thú cố

Bồ Tát như phong luân, vì gìn giữ các thế gian chẳng cho đọa lạc ác đạo.

Giảng: Bồ Tát như phong luân, vì giữ gìn tất cả thế giới, không khiến cho đoạ lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh các cõi ác.

 

Như Đại địa, tăng trưởng chúng sanh thiện căn cố

Bồ Tát như đại địa vì tăng trưởng thiện căn cho chúng sanh.

Giảng: Lại giống như đại địa, vì tăng trưởng căn lành của tất cả chúng sinh.

 

Như đại hải, phước đức sung mãn vô tận cố

Bồ Tát như đại hải, vì phước đức sung mãn vô tận.

Giảng: Lại giống như biển cả, vì phước đức sung mãn vô cùng tận.

 

Như tịnh nhật, trí tuệ quang minh phổ chiếu cố

Bồ Tát như mặt trời, vì trí huệ quang minh chiếu khắp nơi.

Giảng: Lại giống như mặt trời thanh tịnh, vì trí huệ quang minh của Ngài chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Như Tu-Di, thiện căn cao xuất cố

Bồ Tát như núi Tu Di, vì thiện căn cao xuất.

Giảng: Lại giống như núi Tu Di, vì căn lành của Ngài cao hơn tất cả chúng sinh.

 

Như minh nguyệt, trí quang xuất hiện cố

Bồ Tát như minh nguyệt, vì trí quang xuất hiện.

Giảng: Lại giống như mặt trăng sáng, vì trí huệ quang minh xuất hiện nơi đời.

 

Như mãnh tướng, tồi phục ma quân cố

Bồ Tát như mãnh tướng, vì xô dẹp ma quân.

Giảng: Lại giống như thiên tướng dũng mãnh, vì hàng phục được ma quân.

 

Như quân chủ, Phật Pháp thành trung đắc tự tại cố

Bồ Tát như quân chủ, vì được tự tại trong thành trì Phật pháp.

Giảng: Lại giống như ông vua, vì ở trong thành Phật pháp được tự tại.

 

Như mãnh hỏa, thiêu tận chúng sanh ngã ái tâm cố

Bồ Tát như ngọn lửa mạnh, vì cháy sạch tâm ngã ái của chúng sanh.

Giảng: Lại giống như lửa mạnh, vì thiêu sạch tâm ngã mạn và ái dục của chúng sinh.

 

Như đại vân, hàng vô lượng diệu Pháp vũ cố

Bồ Tát như mây lớn, vì mưa vô lượng diệu pháp.

Giảng: Lại giống như mây lớn, vì rưới xuống vô lượng mưa diệu pháp.

 

Như thời vũ, tăng trưởng nhất thiết tín căn nha cố

Bồ Tát như mưa phải thời, vì làm thêm lớn mầm tất cả tín căn.

Giảng: Lại giống như mùa mưa, vì tăng trưởng tất cả mầm tín căn.

 

Như thuyền sư, thị đạo pháp hải tân tế xứ cố

Bồ Tát như Thuyền sư, vì chỉ dẫn bờ mé pháp hải.

Giảng: Lại giống như thuyền sư, vì chỉ dẫn nơi bờ mé biển pháp.

 

Như kiều lương, lệnh kỳ đắc độ sanh tử hải cố.

Bồ Tát như cầu đò, vì làm cho chúng sanh qua khỏi biển sanh tử.

Giảng: Lại giống như cây cầu, vì khiến cho hết thảy chúng sinh qua được biển sinh tử.

 

Di già như thị tán thán Thiện Tài, lệnh chư Bồ-tát giai hoan hỉ dĩ, tùng kỳ diện môn xuất chủng chủng quang, phổ chiếu tam thiên đại thiên thế giới.

Di Già tán thán Thiện Tài như vậy, làm cho chư Bồ Tát hoan hỉ rồi, từ trên mặt phóng ra những ánh sáng chiếu khắp Ðại Thiên thế giới.

Giảng: Di Già đại sĩ khen ngợi Thiện Tài đồng tử như vậy, khiến cho các Bồ Tát đều hoan hỉ rồi. Từ trên mặt của Ngài phóng ra đủ thứ quang minh, chiếu sáng khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Kỳ trung chúng sanh ngộ tư quang dĩ, chư long thần đẳng nãi chí phạm thiên tất giai lai chí di già chi sở.

Chúng sanh trong cõi Ðại Thiên gặp ánh sáng này, từ Long Thần nhẫn đến Phạm Thiên đều đến chỗ Di Già.

Giảng: Chúng sinh trong đó gặp được quang minh đó rồi, tất cả trời rồng quỷ thần cho đến Phạm Thiên, thảy đều đi đến đạo tràng của Di Già.

 

Di già đại sĩ tức dĩ phương tiện, vi khai thị, diễn thuyết, phân biệt, giải thích luân tự phẩm trang nghiêm Pháp môn.

Di Già Ðại Sĩ liền dùng phương tiện vì họ mà khai thị giải thích pháp môn luân tự phẩm trang nghiêm.

Giảng: Di Già đại sĩ liền dùng pháp môn phương tiện, để vì họ khai ngộ diễn nói, phân biệt giải thích Phẩm luân tự pháp môn trang nghiêm.

 

Bỉ chư chúng sanh văn thử pháp dĩ, giai ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.

Ðại chúng nghe pháp xong, đều được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.

Giảng: Các chúng sinh đó nghe được pháp nầy rồi, đều đắc được không thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

Trong Kinh Tỳ Lô Xá Na thứ năm Phẩm Tự Luân có nói: “Nếu Bồ Tát trụ pháp môn tự luân nầy. Trước hết từ ban đầu phát diệu bồ đề tâm, cho đến thành Phật. Ở trong khoảng giữa đó, hết thảy tất cả tự lợi lợi tha đủ thứ sự nghiệp, đều được thành tựu”. Ví như lúc ban đầu chữ “A”, tức là tâm bồ đề. Nếu quán chữ nầy mà được tương ưng với nhau, thì liền đồng thể với pháp thân của Tỳ Lô Giá Na.

Lại có nói rằng: Tự luân “A” nầy, như vĩ luân quang minh của khổng tước, vây quanh hành giả mà trụ trong đó, tức là trụ nơi Phật vị. Lại nữa ba chữ “A Sa Phược”, là tổng nhiếp ba bộ, chữ “A” là Như Lai bộ, chữ “Sa” là Liên hoa bộ, chữ “Phược” là Kim cang bộ. Tuỳ trong một bộ đều có năm chữ. Đó là tự luân, là từ luân chuyển nầy mà sinh các chữ. Luân là sinh nghĩa. Ví như từ chữ A bồ đề tức chuyển sinh bốn chữ, gọi là một chữ A, đây là tu hành luân, tức đã phát tâm, sẽ tu các hạnh.

Chữ thứ hai là “Ám”, là thành bồ đề luân, tức tu hành rồi, sẽ chứng bồ đề. Chữ thứ ba là “Á”, là đại tịch diệt Niết Bàn luân, tức là đã đến được bồ đề. Chữ thứ tư là “Ác”, là phương tiện luân, mà đương ở trong chữ A, quanh bốn chữ nầy, từ dưới thứ lớp vòng qua phải, cũng như luân tướng. Đưa ra một ví dụ, ngoài chữ tập. Nếu hành giả có thể thấu đạt như vậy, thì sẽ nhập vào được môn đà la ni, chuyển vòng vô ngại, nên gọi là luân tự phẩm. Đủ thứ bày bố vòng tròn, nên gọi là trang nghiêm.

 

Di già ư thị hoàn thăng bổn tọa, cáo Thiện Tài ngôn:

Lúc bấy giờ Di Già trở lại lên bổn tòa bảo Thiện Tài rằng:

Giảng: Di Già đại sĩ bèn thăng lên toà ngồi, bảo Thiện Tài đồng tử rằng:

 

Thiện nam tử! ngã dĩ hoạch đắc Diệu-Âm Đà-la-ni, năng phân biệt tri tam thiên đại thiên thế giới trung chư thiên ngữ ngôn, chư long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, nhân dữ phi nhân cập chư phạm thiên sở hữu ngữ ngôn.

Thiện nam tử ! Ta đã được diệu âm đà la ni. Có thể phân biệt biết ngử ngôn của tất cả chúng sanh, chư Thiên, Long, Bát Bộ, trong cõi Ðại Thiên. Cũng như cõi Ðại Thiên này, vô số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khắp mười phương đều biết rõ ngữ ngôn cả.

Giảng: “Thiện nam tử! Ta đã đắc được pháp môn Diệu âm đà la ni, phân biệt biết được lời nói của tất cả chư Thiên trong ba ngàn đại thiên thế giới, và các tất cả các loài rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A tu la, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người, với các Phạm Thiên, hết thảy lời nói, ta cũng đều biết rõ phân biệt được.

 

Như thử tam thiên đại thiên thế giới, thập phương vô số nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, tất diệc như thị.

Như trong ba ngàn đại thiên thế giới, mười phương vô số vô số nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, cũng như vậy

Giảng: Như ba ngàn đại thiên thế giới nầy, mười phương vô số, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, cũng đều như vậy”.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát Diệu-Âm Đà-la-ni quang minh Pháp môn.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn Bồ Tát diệu âm đà la ni quang minh này.

Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ Tát diệu âm đà la ni quang minh nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, năng phổ nhập nhất thiết chúng sanh chủng chủng tưởng hải, chủng chủng thí thiết hải, chủng chủng danh hiệu hải, chủng chủng ngữ ngôn hải

Như Chư đại Bồ Tát có thể vào khắp biển những tư tưởng của tất cả chúng sanh, biển những sự thi thiết, biển những danh hiệu, biển những ngữ ngôn của tất cả chúng sanh.

Giảng: Như các đại Bồ Tát vào khắp được đủ thứ biển tư tưởng của tất cả chúng sinh, đủ thứ biển thi thiết, đủ thứ biển danh hiệu, đủ thứ biển lời nói.

 

Năng phổ nhập thuyết nhất thiết thâm mật Pháp cú hải, thuyết nhất thiết cứu cánh Pháp cú hải, thuyết nhất sở duyên trung hữu nhất thiết tam thế sở duyên Pháp cú hải, thuyết thượng Pháp cú hải, thuyết thượng thượng Pháp cú hải, thuyết sái biệt Pháp cú hải, thuyết nhất thiết sái biệt Pháp cú hải,

Có thể vào khắp diễn thuyết biển tất cả pháp cú thâm mật. Diễn thuyết biển tất cả pháp cú cứu cánh. Diễn thuyết biển pháp cú trong tất cả sở duyên có tất cả tam thế sở duyên. Diễn thuyết biển thượng pháp cú. Diễn thuyết biển thượng thượng pháp cú. Diễn thuyết biển pháp cú sai biệt. Diễn thuyết biển pháp cú tất cả sai biệt.

Giảng: Ngài có thể vào khắp nói biển tất cả câu pháp thâm mật, nói biển tất cả câu pháp rốt ráo, nói biển câu pháp trong một sở duyên có sở duyên tất cả ba đời, nói biển câu pháp thượng đẳng, nói biển câu pháp thượng thượng đẳng, nói biển câu pháp khác biệt, nói biển câu pháp tất cả khác biệt.

 

Năng phổ nhập nhất thiết thế gian chú thuật hải, nhất thiết âm thanh trang nghiêm luân, nhất thiết sái biệt tự luân tế; như thị công đức, ngã kim vân hà năng tri năng thuyết?

Có thể vào khắp tất cả thế gian chú thuật hải. Tất cả âm thanh trang nghiêm luân. Tất cả sai biệt tự luân tế. Những công đức như vậy, nay ta làm sao biết hết được, nói hết được.

Giảng: Ngài có thể vào khắp biển tất cả chú thuật thế gian, tất cả âm thanh trang nghiêm luân, tất cả bờ mé tự luân khác biệt. Đủ thứ những công đức như vậy, hiện nay ta làm sao biết được nói được?

 

Thiện nam tử! tòng thử Nam hành, hữu nhất tụ lạc, danh viết: trụ lâm; bỉ hữu Trưởng-giả, danh viết: giải thoát.

Này thiện nam tử ! Từ đây qua phương Nam có một tụ lạc tên là Trụ Lâm. Nơi đó có một Trưởng giả tên là Giải Thoát.

Giảng: Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, có một thôn xóm, tên là Trụ Lâm, nơi nầy là phương tiện cụ túc trụ, chúng đức sở kiến lập. Ở trong thôn xóm đó, có vị trưởng giả tuổi cao có đức tên là Giải Thoát. Trưởng giả đó tu căn lành đều vì giải thoát tất cả chúng sinh, cho đến khiến cho chúng sinh chứng đại Niết Bàn.

 

Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà tu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát vân hà thành Bồ Tát hạnh? Bồ Tát vân hà tập Bồ Tát hạnh? Bồ Tát vân hà tư Bồ Tát hạnh?

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào tu Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào thành Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào tích tập Bồ Tát hạnh ? Bồ Tát thế nào tư duy Bồ Tát hạnh?

Giảng: Ngươi đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào thành tựu Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào tích tập Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào suy gẫm tu hành Bồ Tát hạnh”?

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử dĩ thiện tri thức cố, ư nhất thiết trí Pháp, thâm sanh tôn trọng, thâm thực tịnh tín, thâm tự tăng ích; lễ di già túc, thế tứ bi khấp, nhiễu vô lượng tạp, luyến mộ chiêm ngưỡng, từ thoái nhi hành.

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử nhờ thiện tri thức nên đối với pháp nhứt thiết trí rất tôn trọng. Trồng sâu gốc tịnh tín. Thêm nhiều lợi ích. Thiện Tài đảnh lễ chân Di Già, rơi lệ buồn khóc nhiễu vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe lời giáo huấn của Di Già đại sĩ, nhờ hiểu biết rất nhiều về Phật pháp, nên Ngài đối với pháp môn nhất thiết trí, niệm niệm sinh vô lượng trí huệ, niệm niệm diệt vô lượng ngu si, sinh tâm tôn trọng thâm sâu, trồng niềm tin thanh tịnh thâm sâu, tự đắc được lợi ích thâm sâu, pháp hỉ sung mãn. Ngài bèn đảnh lễ Di Già đại sĩ, rơi lệ buồn rầu khóc lóc, đi nhiễu quanh Di Già vô lượng vòng, hâm mộ chiêm ngưỡng Di Già đại sĩ, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam, để tham vấn vị thiện tri thức khác.

 

— o0o —

TRƯỞNG GIẢ GIẢI THOÁT – PHÓ THÁC THỨ 5  – CỤ TÚC PHƯƠNG TIỆN TRỤ

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tư tánh chư Bồ-tát vô ngại giải Đà-la-ni quang minh trang nghiêm môn, thâm nhập chư Bồ-tát ngữ ngôn hải môn, ức niệm chư Bồ-tát tri nhất thiết chúng sanh vi tế phương tiện môn, quan sát chư Bồ-tát thanh tịnh tâm môn, thành tựu chư Bồ-tát thiện căn quang minh môn, tịnh trì chư Bồ-tát giáo hóa chúng sanh môn, minh lợi chư Bồ-tát nhiếp chúng sanh trí môn, kiên cố chư Bồ-tát quảng đại chí lạc môn, trụ trì chư Bồ-tát thù thắng chí lạc môn, tịnh trì chư Bồ-tát chủng chủng tín giải môn, tư tánh chư Bồ-tát vô lượng thiện tâm môn

Thiện Tài đồng tử tư duy pháp môn Bồ Tát vô ngại giải đà la ni quang minh trang nghiêm. Thâm nhập pháp môn Bồ Tát ngữ ngôn hải. Nghĩ nhớ pháp môn vi tế phương tiện Bồ Tát biết tất cả chúng sanh. Quán sát pháp môn Bồ Tát thanh tịnh tâm. Thành tựu pháp môn Bồ Tát thiện căn quang minh. Tịnh trị pháp môn Bồ Tát giáo hóa chúng sanh. Minh lợi trí môn Bồ Tát nhiếp chúng sanh. Kiên cố pháp môn Bồ Tát quảng đại chí nguyện. Nhiệm trì pháp môn Bồ Tát thù thắng chí nguyện. Tịnh trị pháp môn Bồ Tát tín giải. Tư duy pháp môn Bồ Tát vô lượng thiện tâm.

Giảng: Thiện Tài đồng tử từ biệt Di Già đại sĩ mà đi về hướng nam, giữa đường suy gẫm pháp môn trí huệ vô ngại giải thoát đà la ni và sinh ra quang minh trang nghiêm của tất cả Bồ Tát làm sao tu hành mà đắc được. Ngài thâm nhập biển môn lời nói của tất cả Bồ Tát mà thông đạt vô ngại. Ngài lại nghĩ nhớ môn tất cả Bồ Tát biết vọng tưởng vi tế và ý niệm vi tế của tất cả chúng sinh, mà dùng phương tiện để giáo hoá tất cả chúng sinh. Lại quán sát môn tâm thanh tịnh của các Bồ Tát làm sao tu hành mà đắc được. Ngài lại thành tựu pháp môn căn lành quang minh của tất cả Bồ Tát. Ngài lại tu hành viên mãn tịnh trị pháp môn giáo hoá chúng sinh của các Bồ Tát. Ngài lại minh bạch hiểu biết pháp môn nhiếp thọ chúng sinh trí huệ của tất cả Bồ Tát. Ngài lại kiên cố pháp môn chí nguyện ưa thích rộng lớn của tất cả Bồ Tát. Ngài lại quán sát làm thế nào mà trụ trì môn chí nguyện ưa thích thù thắng của các Bồ Tát. Làm thế nào mà tịnh trị pháp môn đủ thứ tin hiểu của tất cả Bồ Tát. Lại suy gẫm pháp môn vô lượng thiện tâm của tất cả Bồ Tát.

 

Thệ nguyện kiên cố, tâm vô bì yếm; dĩ chư giáp trụ nhi tự trang nghiêm, tinh tấn thâm tâm bất khả thoái chuyển, cụ bất hoại tín; kỳ tâm kiên cố, do như Kim cương cập Na-la-diên, vô năng hoại giả; thủ trì nhất thiết thiện tri thức giáo, ư chư cảnh giới đắc bất hoại trí; Phổ môn thanh tịnh, sở hạnh vô ngại; trí quang viên mãn, phổ chiếu nhất thiết; cụ túc chư địa tổng trì quang minh, liễu tri Pháp giới chủng chủng sái biệt, vô y vô trụ, bình đẳng vô nhị; tự tánh thanh tịnh nhi phổ trang nghiêm, ư chư sở hạnh giai đắc cứu cánh, trí tuệ thanh tịnh ly chư chấp trước

Thệ nguyện kiên cố, tâm không mỏi nhàm. Dùng những mão giáp để tự trang nghiêm. Thâm tâm tinh tấn chẳng thối chuyển. Ðủ đức tin bất hoại. Tâm kiên cố như kim cang và như na la diên không gì phá hoại được. Giữ gìn tất cả lời dạy của thiện tri thức. Nơi các cảnh giới được trí bất hoại. Phổ môn thanh tịnh việc làm vô ngại. Trí quang viên mãn chiếu khắp tất cả. Ðầy đủ tổng trì quang minh của các địa. Biết rõ pháp giới nhiều loại sai biệt, không y không trụ, bình đẳng không hai, tự tánh thanh tịnh, mà khắp trang nghiêm. Nơi các công hạnh đều được rốt ráo. Trí huệ thanh tịnh rời lìa chấp trước.

Giảng: Thiện Tài đồng tử phát thệ nguyện rất kiên cố, trong tâm cũng không cảm thấy nhàm mỏi, cho rằng mình đã đầy đủ. Dùng các áo giáp để trang nghiêm chính mình. Dùng thâm tâm tinh tấn để tu hành, vĩnh viễn cũng không thối chuyển, chỉ có tiến về trước mà không lùi về sau, đầy đủ niềm tin bất hoại. Tâm ý của Ngài kiên cố như kim cang, hoặc Na la diên, không gì phá hoại được. Ngài giữ gìn lời dạy của tất cả thiện tri thức để y giáo phụng hành. Đối với các cảnh giới, đắc được trí huệ bất hoại, phổ môn thanh tịnh, chỗ làm đều không có chướng ngại. Trí huệ quang minh viên mãn, chiếu sáng khắp tất cả, đầy đủ các địa tổng trì quang minh, biết rõ pháp giới đủ thứ cảnh giới khác biệt, không nương tựa, không chấp trước, tất cả bình đẳng không hai. Tự tánh luôn thanh tịnh, mà trang nghiêm khắp tất cả lục độ vạn hạnh. Đối với tất cả các chỗ làm, hoàn toàn đều được rốt ráo, đến được bờ kia. Trí huệ thanh tịnh, lìa khỏi tất cả chấp trước.

 

Tri thập phương sái biệt Pháp, trí vô chướng ngại; vãng thập phương sái biệt xứ, thân bất bì giải; ư thập phương sái biệt nghiệp, giai đắc minh liễu; ư thập phương sái biệt Phật, vô bất hiện kiến; ư thập phương sái biệt thời, tất đắc thâm nhập; thanh tịnh diệu Pháp sung mãn kỳ tâm, phổ trí tam muội minh chiếu kỳ tâm, tâm hằng phổ nhập bình đẳng cảnh giới; Như Lai trí tuệ chi sở chiếu xúc, nhất thiết trí lưu tướng tục bất đoạn, nhược thân nhược tâm bất ly Phật Pháp.

Biết pháp sai biệt mười phương trí không chướng ngại. Qua khắp xứ sai biệt ở mười phương thân không mỏi lười. Biết rõ những nghiệp sai biệt ở mười phương. Ðều hiện thấy Phật sai biệt ở mười phương. Ðều thâm nhập thời gian sai biệt ở mười phương. Diệu pháp thanh tịnh sung mãn nơi tâm. Phổ trí tam muội chiếu rõ nơi tâm. Tâm hằng vào khắp cảnh giới bình đẳng. Ðược trí huệ của Như Lai chiếu đến. Dòng Nhứt thiết trí tương tục chẳng dứt. Hoặc thân hoặc tâm đều chẳng rời Phật pháp.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại biết pháp mười phương khác biệt, đắc được trí huệ không chướng ngại. Lại đi đến cõi nước mười phương khác biệt, thân cũng không cảm thấy mỏi lười. Đối với hết thảy nghiệp báo mười phương khác biệt, Ngài đều thấu rõ được. Đối với chư Phật mười phương khác biệt, đều hiện thấy hết. Đối với thời gian mười phương khác biệt, đều minh bạch thâm nhập được. Ngài đắc được diệu pháp thanh tịnh, cảnh giới đầy dẫy trong tâm. Dùng định lực trí huệ thấy khắp, chiếu sáng tâm ý, thường thường hiện tiền. Trong tâm luôn khoái lạc bình đẳng, không sầu, không lo, không tham, không cầu, do đó có câu: “Đến chỗ không cầu, sẽ hết lo”. Đại quang minh tạng của Phật luôn chiếu đến thân tâm của Ngài. Dòng nhất thiết trí huệ, liên tục không dứt. Thân tâm thường ở trong Phật pháp, vĩnh viễn không lìa.

 

Nhất thiết chư Phật thần lực sở gia, nhất thiết Như Lai quang minh sở chiếu; thành tựu đại nguyện, nguyện thân châu biến nhất thiết sát võng, nhất thiết pháp giới phổ nhập kỳ thân. Tiệm thứ du hành, thập hữu nhị niên, chí trụ lâm thành, chu biến thôi cầu giải thoát Trưởng-giả.

Tất cả chư Phật thần lực gia hộ. Tất cả Như Lai quang minh chiếu đến. Thành tựu đại nguyện. Nguyện thân cùng khắp tất cả sát võng, tất cả pháp giới vào khắp thân mình. Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam, trải qua mười hai năm, đến thành Trụ Lâm tìm Giải Thoát Trưởng giả.

Giảng: Được thần lực của tất cả chư Phật gia bị cho Ngài. Được quang minh tất cả Như Lai chiếu đến Ngài. Thành tựu đại nguyện. Đại nguyện đó thân khắp cùng tất cả pháp giới, tất cả cõi Phật, và tất cả hạt bụi, giống như tấm lưới La. Hết thảy tất cả pháp giới đều vào khắp trong thân Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử đi về hướng nam, dần dần du hành khoảng mười hai năm, thì đến thành Trụ Lâm. Thiện Tài bèn đi các nơi để tìm kiếm trưởng giả Giải Thoát.

 

Ký đắc kiến dĩ, ngũ thể đầu địa, khởi lập hợp chưởng, bạch ngôn:

Lúc đã gặp được, Thiện Tài đảnh lễ chân Trưởng giả chắp tay cung kính thưa rằng:

Giảng: Khi thấy được trưởng giả Giải Thoát rồi, bèn đảnh lễ năm thể sát đất, sau đó đứng dậy chắp tay, mà nói với đức Thánh rằng:

 

Thánh Giả! ngã kim đắc dữ thiện tri thức hội, thị ngã hoạch đắc quảng đại thiện lợi. Hà dĩ cố?

Bạch đức Thánh ! Nay con được hội ngộ bực thiện tri thức. Con đã được lợi ích rộng lớn. Tại sao vậy ?

Giảng: “Bạch đức Thánh! Nay con được gặp thiện tri thức, là con đắc được lợi lành rộng lớn. Tại sao?

 

Thiện tri thức giả, nan khả đắc kiến, nan khả đắc văn, nan khả xuất hiện, nan đắc phụng sự, nan đắc thân cận, nan đắc thừa tiếp, nan khả phùng trị, nan đắc cọng cư, nan lệnh hỉ duyệt, nan đắc tùy trục. Ngã kim hội ngộ, vi đắc thiện lợi.

Vì với các bực thiện tri thức, khó được thấy, khó được nghe, khó được xuất hiện, khó được phụng sự, khó được gần gũi, khó được tiếp rước, khó được gặp gỡ, khó được ở chung, khó làm cho vui đẹp, khó được theo dõi. Mà nay con được gặp gỡ, nên con được lợi lành rộng lớn.

Giảng: Vì bậc thiện tri thức khó thấy được, trăm ngàn vạn kiếp cũng không dễ gì gặp được, trăm ngàn vạn kiếp cũng không dễ gì nghe được thiện tri thức nói pháp. Thiện tri thức trăm ngàn vạn kiếp cũng không dễ gì xuất hiện nơi thế gian, cũng không dễ gì được phụng sự thiện tri thức, người có căn lành lớn, mới gặp được thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức, người không có căn lành, tuy gặp thiện tri thức cũng không nhận ra. Gặp được thiện tri thức, cũng không thể gần gũi thiện tri thức, cũng không dễ gì tiếp nhận được lời dạy dỗ của thiện tri thức, cũng không dễ gì gặp gỡ được thiện tri thức, cũng không dễ gì ở cùng đạo tràng với thiện tri thức, cũng không dễ gì khiến cho thiện tri thức hoan hỉ vui mừng, vì Ngài thường ở trong định, không tham cũng không cầu, bất cứ việc gì cũng không động tâm. Cũng không dễ gì theo đuổi được nhất cử nhất động của thiện tri thức. Nay con được gặp thiện tri thức, là con được lợi lành lớn”!

 

Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm,

Bạch đức Thánh ! Con đã trước phát tâm Vô thượng Bồ đề,

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại nói: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Vi dục sự nhất thiết Phật cố,

vì muốn thờ tất cả chư Phật,

Giảng: Hiện tại con vì muốn phụng thờ tất cả chư Phật.

 

Vi dục trị nhất thiết Phật cố,

vì muốn gặp tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn gặp tất cả chư Phật.

 

Vi dục kiến nhất thiết Phật cố,

vì muốn thấy tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn thấy tất cả chư Phật.

 

Vi dục quán nhất thiết Phật cố,

vì muốn nhìn tất cả chư Phật,

Giảng: Vì muốn quán sát tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục tri nhất thiết Phật cố,

vì muốn biết tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn biết rõ cảnh giới tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục chứng nhất thiết Phật bình đẳng cố,

vì muốn chứng tất cả chư Phật bình đẳng,

Giảng: Con vì muốn chứng nhập quả vị bình đẳng của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục phát nhất thiết Phật đại nguyện cố,

vì muốn phát tất cả chư Phật đại nguyện,

Giảng: Con vì muốn phát đại nguyện của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục mãn nhất thiết Phật đại nguyện cố,

vì muốn thành mãn tất cả Phật đại nguyện,

Giảng: Con vì muốn viên mãn đại nguyện của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục cụ nhất thiết Phật trí quang cố,

vì muốn đầy đủ tất cả chư Phật trí quang,

Giảng: Con vì muốn đầy đủ trí huệ quang minh của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục thành nhất thiết Phật chúng hạnh cố,

vì muốn thành những hạnh của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn thành tựu các hạnh của tất cả chư Phật tu, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục đắc nhất thiết Phật thần thông cố,

vì muốn được thần thông của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn đắc được thần thông của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục cụ nhất thiết Phật chư lực cố,

vì muốn đầy đủ trí lực của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn đầy đủ các lực của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục hoạch nhất thiết Phật vô úy cố,

vì muốn được vô úy của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn đắc được vô uý của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

Ở trên là đủ thứ nhân duyên của Thiện Tài đồng tử muốn đạt được, mà phát bồ đề tâm

 

Vi dục văn nhất thiết Phật Pháp cố,

vì muốn nghe pháp của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn nghe hết thảy pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục thọ nhất thiết Phật Pháp cố,

vì muốn thọ pháp của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn thọ pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục trì nhất thiết Phật Pháp cố,

vì muốn trì pháp của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn trì pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục giải nhất thiết Phật Pháp cố,

vì muốn hiểu pháp của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn thấu hiểu pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

 

Vi dục hộ nhất thiết Phật Pháp cố,

vì muốn hộ pháp của tất cả chư Phật,

Giảng: Con vì muốn hộ trì pháp của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.

Ở trên là Thiện Tài đồng tử muốn nghe tất cả Phật pháp, nên muốn khánh tận nguồn pháp.

 

Vi dục dữ nhất thiết chư Bồ-tát chúng đồng nhất thể cố,

vì muốn đồng một thể với tất cả chúng Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn đồng một pháp thân với tất cả các chúng Bồ Tát, do đó “đồng thể đại bi”, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi dục dữ nhất thiết Bồ Tát thiện căn đẳng vô dị cố

vì muốn đồng thiện căn với tất cả Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn đồng căn lành không có gì khác với tất cả các Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề

 

Vi dục viên mãn nhất thiết Bồ Tát Ba-la-mật cố,

vì muốn viên mãn Ba la mật của tất cả Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn viên mãn pháp Ba la mật đến bờ kia của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề

 

Vi dục thành tựu nhất thiết Bồ Tát sở tu hành cố,

vì muốn thành tựu hạnh tu hành của tất cả Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn thành tựu pháp tu hành của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi dục xuất sanh nhất thiết Bồ Tát thanh tịnh nguyện cố,

vì muốn xuất sanh thanh tịnh nguyện của tất cả Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn sinh ra nguyện thanh tịnh của tất cả Bồ Tát đã phát, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi dục đắc nhất thiết chư Phật Bồ Tát uy thần tạng cố,

vì muốn được tạng oai thần của tất cả chư Phật, Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn đắc được tạng đại oai thần lực của tất cả chư Phật Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề

 

Vi dục đắc nhất thiết Bồ Tát Pháp tạng vô tận trí tuệ đại quang minh cố,

vì muốn được pháp tạng vô tận trí huệ đại quang minh của tất cả Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn đắc được pháp tạng vô tận trí huệ đại quang minh của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi dục đắc nhất thiết Bồ Tát tam muội quảng đại tạng cố,

vì muốn được tạng tam muội quảng đại của tất cả Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn đắc được tạng tam muội rộng lớn của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi dục thành tựu nhất thiết Bồ Tát vô lượng vô số thần thông tạng cố,

vì muốn thành tựu tạng vô lượng vô số thần thông của tất cả Bồ Tát,

Giảng: Con vì muốn thành tựu vô lượng vô số tạng thần thông của tất cả Bồ Tát, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi dục dĩ đại bi tạng giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh giai lệnh cứu cánh đáo biên tế cố,

vì muốn dùng tạng đại bi giáo hóa điều phục của tất cả chúng sanh đều làm cho họ rốt ráo đến biên tế,

Giảng: Con vì muốn dùng tạng đại bi giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ rốt ráo đến bờ mé, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi dục hiển hiện thần biến tạng cố,

vì muốn hiển hiện tạng thần biến

Giảng: Con vì muốn hiển hiện tạng thần thông biến hoá, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi ư nhất thiết tự tại tạng trung tất dĩ tự tâm đắc tự tại cố,

vì ở trong tất cả tạng tự tại đều dùng tự tâm được tự tại,

Giảng: Con vì ở trong tất cả tạng tự tại, hoàn toàn đều dùng tâm mình đắc được tự tại, mà phát tâm bồ đề.

 

Vi dục nhập ư thanh tịnh tạng trung dĩ nhất thiết tướng nhi trang nghiêm cố.

vì muốn nhập trong thanh tịnh tạng nên dùng tất cả tướng mà trang nghiêm.

Giảng: Con vì muốn chứng nhập trong tạng thanh tịnh, dùng tất cả tướng mà trang nghiêm cõi nước chư Phật, mà phát tâm bồ đề.

Ở trên là Thiện Tài đồng tử muốn bằng Bồ Tát hạnh, mà phát tâm bồ đề.

 

Thánh Giả! ngã kim dĩ như thị tâm, như thị ý, như thị lạc, như thị dục, như thị hy cầu, như thị tư duy, như thị tôn trọng, như thị phương tiện, như thị cứu cánh, như thị khiêm hạ, chí Thánh Giả sở.

Bạch đức Thánh ! Nay con đem tâm như vậy, ý như vậy, thích như vậy, muốn như vậy, trông mong như vậy, tư duy như vậy, tôn trọng như vậy, phượng tiện như vậy, cứu cánh như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đức Thánh.

Giảng: Đức Thánh! Nay con dùng tâm như vậy, ý như vậy, ưa thích như vậy, muốn như vậy, cầu mong như vậy, suy gẫm như vậy, tôn trọng như vậy, phương tiện như vậy, rốt ráo như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đạo tràng của đức Thánh.

 

Ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối chư Bồ-tát chúng, năng dĩ phương tiện xiển minh sở đắc, thị kỳ đạo lộ, dữ kỳ tân lương, thọ kỳ Pháp môn; lệnh trừ mê đảo chướng, bạt do dự tiến, tiệt nghi hoặc võng, chiếu tâm trù lâm, cán tâm cấu trược, lệnh tâm khiết bạch, sử tâm thanh lương, chánh tâm siểm khúc, tuyệt tâm sanh tử, chỉ tâm bất thiện, giải tâm chấp trước

Con nghe đức Thánh có thể khéo dạy bảo chúng Bồ Tát, có thể dùng phương tiện xiển minh chỗ sở đắc, chỉ cho đường sá, ban cho cầu đò, trao cho pháp môn, khiến trừ chướng mê đảo, nhổ mũi tên do dự, cắt lưới nghi hoặc, soi tâm rừng rậm, rửa tâm nhơ đục, khiến tâm trắng sạch, khiến tâm thanh tịnh, chánh tâm dua vậy, tuyệt tâm sanh tử, ngăn tâm bất thiện, mở tâm chấp trước.

Giảng: Con nghe có người nói đức Thánh khéo dạy dỗ tất cả đại chúng Bồ Tát. Hay dùng pháp môn phương tiện xiển minh sở đắc. Chỉ bày con đường. Ban cho cầu đò. Lại truyền thọ pháp môn, khiến cho hết thảy mọi người trừ diệt mê hoặc điên đảo chướng ngại. Nhổ mũi tên độc do dự. Cắt đứt lưới mê hoặc. Chiếu soi tâm rừng rậm. Rửa sạch tâm dơ đục, khiến cho tâm sạch trắng, làm cho tâm khôi phục lại thanh tịnh. Chánh tâm siểm khúc, do đó có câu: “Tâm thẳng là đạo tràng”, không còn tư tưởng nịnh bợ xiểm khúc. Tuyệt tâm sinh tử. Dừng tâm bất thiện, không làm các điều ác, làm các việc lành. Hiểu rõ đạo lý tâm chấp trước.

 

Ư chấp trước xứ lệnh tâm giải thoát, ư nhiễm ái xứ sử tâm động chuyển, lệnh kỳ tốc nhập nhất thiết trí cảnh, sử kỳ tật đáo vô thượng pháp thành; lệnh trụ đại bi, lệnh trụ đại từ, lệnh nhập Bồ Tát hạnh, lệnh tu tam muội môn, lệnh nhập chứng vị, lệnh quán pháp tánh, lệnh tăng trưởng lực, lệnh tu tập hạnh, phổ ư nhất thiết, kỳ tâm bình đẳng.

Nơi chỗ chấp trước làm cho tâm giải thoát, ở chỗ nhiễm ái làm cho tâm động chuyển. Khiền họ mau nhập cảnh nhứt thiết trí. Khiến họ mau đến thành vô thượng pháp. Khiến họ trụ đại bi. Khiến họ trụ đại từ. Khiến họ nhập Bồ Tát hạnh. Khiến họ tu môn tam muội. Khiến họ nhập chứng vị. Khiến họ quán pháp tánh. Khiến họ tăng trưởng lực. Khiến họ tu tập hạnh. Tâm họ bình đẳng khắp ở tất cả.

Giảng: Đối với chỗ chấp trước khiến tâm không còn chấp trước mà được giải thoát. Đối với chỗ nhiễm ái làm tâm động chuyển. Khiến cho họ sớm nhập vào cảnh giới nhất thiết trí. Khiến cho họ sớm đắc được pháp thành vô thượng. Khiến cho họ trụ tâm đại bi. Khiến cho họ trụ tâm đại từ. Khiến cho họ vào Bồ Tát hạnh. Khiến cho họ tu pháp môn tam muội. Khiến cho họ nhập chứng quả vị. Khiến cho họ quán sát tất cả pháp tánh, không giao động. Khiến cho họ tăng trưởng tất cả lực. Khiến cho họ tu tập tất cả hạnh. Khắp tất cả tâm được bình đẳng, không có phân biệt.

 

Duy nguyện Thánh Giả vi ngã tuyên thuyết: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? tùy sở tu tập, tật đắc thanh tịnh, tật đắc minh liễu!

Cúi xin đức Thánh vì con tuyên nói Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo. Theo chỗ tu tập mau được thanh tịnh, mau được minh liểu.

Giảng: Con xin nguyện đức Thánh, vì con tuyên nói đạo lý nầy: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Bồ Tát làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Tuỳ sự tu tập của họ, mau được thanh tịnh, mau được thấu rõ.

 

Thời, giải thoát Trưởng-giả dĩ quá khứ thiện căn lực, Phật uy thần lực, Văn-thù-sư-lợi Đồng tử ức niệm lực cố, tức nhập Bồ Tát tam muội môn, danh: phổ nhiếp nhất thiết Phật sát vô biên toàn Đà-la-ni.

Lúc đó Giải Thoát Trưởng giả do sức thiện căn quá khứ, sức oai thần của Phật, do niệm lực của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, mà nhập Bồ Tát tam muội môn tên là “vô biên triền đà la ni nhiếp khắp tất cả cõi Phật”.

Giảng: Lúc đó, trưởng giả Giải Thoát do nhờ sức căn lành quá khứ, oai lực của đức Phật, sức nghĩ nhớ của Văn Thù Sư Lợi đồng tử, nên lập tức chứng nhập vào môn tam muội Bồ Tát, tên là Phổ nhiếp tất cả cõi Phật vô biên toàn Đà La Ni. Đây là trưởng giả Giải Thoát phổ nhiếp các cõi ở trong thân, do tâm trí, xưng tánh tổng trì, khiến như thể dụng, toàn chuyển diệu dụng vô ngại.

 

Nhập thử tam muội dĩ, đắc thanh tịnh thân. ư kỳ thân trung, hiển hiện thập phương các thập Phật sát vi trần số Phật, cập Phật quốc độ, chúng hội, đạo tràng, chủng chủng quang minh, chư trang nghiêm sự, diệc hiện bỉ Phật vãng tích sở hạnh thần thông biến hóa, nhất thiết đại nguyện, trợ đạo chi Pháp, chư xuất ly hạnh, thanh tịnh trang nghiêm, diệc kiến chư Phật thành đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, giáo hóa chúng sanh. Như thị nhất thiết, ư kỳ thân trung tất giai hiển hiện, vô sở chướng ngại; chủng chủng hình tướng, chủng chủng thứ đệ, như bổn nhi trụ, bất tướng tạp loạn

Nhập tam muội này rồi được thân thanh tịnh. Ở trong thân mình hiển hiện mười phương, mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Phật và quốc độ, chúng hội đạo tràng, các thứ quang minh, các sự trang nghiêm. Cũng hiện những thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện, những pháp trợ đạo tu hành thuở xưa của chư Phật và những hạnh xuất ly thanh tịnh trang nghiêm. Cũng thấy chư Phật thành Ðẳng Chánh Giác chuyển diệu pháp luân giáo hóa chúng sanh. Tất cả những sự như vậy thảy đều hiển hiện trong phân thân không chướng ngại. Các thứ hình tướng, nhiều loại thứ đệ an trụ như cũ chẳng tạp loạn nhau.

Giảng: Trưởng giả Giải Thoát nhập vào tam muội đó rồi, liền đắc được thân thanh tịnh không nhiễm. Ở trong thân đó, hiển hiện mười phương, mỗi phương đều có các đức Phật nhiều như số hạt bụi cõi Phật, và cõi nước Phật, chúng hội đạo tràng, đủ thứ quang minh các việc trang nghiêm. Lại thị hiện các đức Phật đó, thuở xưa sở hành tất cả thần thông biến hoá, phát tất cả đại nguyện, pháp môn trợ đạo, các hạnh môn xuất ly ba cõi: cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Cũng tu pháp thanh tịnh trang nghiêm. Lại thị hiện chư Phật thành Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe diệu pháp, giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh chấm dứt sinh tử. Đủ thứ tất cả sự việc như vậy, ở trong thân trưởng giả Giải Thoát, thảy đều hiển hiện ra, không có bất cứ sự chướng ngại gì. Ở trong thân trưởng giả Giải Thoát, hiện ra đủ thứ hình tướng, đủ thứ lớp, y chiếu như xưa mà trụ, chẳng tạp loạn nhau.

 

Sở vị: chủng chủng quốc độ, chủng chủng chúng hội, chủng chủng đạo tràng, chủng chủng nghiêm sức.

Những là: các thứ quốc độ, các thứ chúng hội, các thứ đạo tràng, các thứ nghiêm sức.

Giảng: Đó là: Đủ thứ cõi nước, đủ thứ chúng hội, đủ thứ đạo tràng, đủ thứ nghiêm sức.

 

Kỳ trung chư Phật hiện chủng chủng thần lực, lập chủng chủng thừa đạo, thị chủng chủng nguyện môn, hoặc ư nhất thế giới xứ Đâu Suất cung nhi tác Phật sự, hoặc ư nhất thế giới một Đâu Suất cung nhi tác Phật sự; như thị, hoặc hữu trụ thai, hoặc phục đản sanh, hoặc xứ cung trung, hoặc phục xuất gia, hoặc nghệ đạo tràng, hoặc phá ma quân, hoặc chư Thiên, long cung kính vi nhiễu, hoặc chư thế chủ khuyến thỉnh thuyết Pháp, hoặc chuyển pháp luân, hoặc Bát Niết Bàn, hoặc phần xá lợi, hoặc khởi tháp miếu

Trong đó chư Phật hiện những thần lực, lập những thừa đạo, bày những nguyện môn. Hoặc nơi một thế giới, ở cung Ðâu Suất mà làm Phật sự. Hoặc nơi một thế giới, ẩn cung Ðâu Suất mà làm Phật sự. Như vậy, hoặc lại trụ thai, hoặc đản sanh, hoặc ở trong cung, hoặc xuất gia, hoặc đến đạo tràng, hoặc phá ma quân, hoặc chư Thiên Long cung kính vây quanh, hoặc các Thế Chủ khuyến thỉnh thuyết pháp, hoặc chuyển pháp luân, hoặc nhập Niết bàn, hoặc chia Xá lợi, hoặc xây tháp miếu.

Giảng: Trong đó, hết thảy tất cả chư Phật hiện ra đủ thứ thần lực, kiến lập đủ thứ thừa đạo, lại thị hiện đủ thứ môn đại nguyện. Hoặc ở nơi một thế giới cung Đâu Suất (trời Tri Túc) mà làm Phật sự. Hoặc ở nơi một thế giới ẩn cung Đâu Suất mà làm Phật sự. Thị hiện đủ thứ cảnh giới, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, cầu vô thượng đạo.

Phật thị hiện trụ thai, từ cung trời Đâu Suất hạ sinh xuống. Bất cứ một vị Phật nào, trước khi thành Phật, đều trụ ở nội viện Đâu Suất, hậu bổ Phật vị. Đợi vị Phật trước đó vào Niết Bàn, sau đó sẽ xuất thế làm Phật, từ cung trời Đâu Suất hạ sinh vào thai mẹ. Phật trụ ở trong thai mẹ cũng giống như ở trong cung điện, chẳng bị sự nhiễm ô.

Chúng ta một số người ở trong thai mẹ chẳng giống nhau, ở trong thai giống như ngủ, tất cả đều chẳng biết. Song, khi đức Phật trụ thai thì vẫn vì hết thảy quỷ thần thuyết pháp, giáo hoá tất cả quỷ thần. Cho nên cảnh giới của phàm phu và cảnh giới của chư Phật hoàn toàn khác nhau. Cảnh giới của người chẳng có trí huệ và cảnh giới của người có trí huệ hoàn toàn khác nhau. Người ngu si suốt ngày đến tối chỉ tạo nghiệp ngu si. Người trí huệ thì mỗi ngày đều tu hành nghiệp trí huệ, chẳng tạo nghiệp ngu si.

Sự trụ thai của con người, trong mười hai nhân duyên có nói rất rõ ràng. Trong mười hai nhân duyên, thứ nhất là vô minh. Vô minh thì che lấp đi trí huệ vốn có của chúng ta, không còn biết gì nữa. Cũng chẳng biết gì là đúng, gì không đúng. Có lúc điên điên đảo đảo, lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, hồ đồ. Vô minh tức là một cái tên khác của hồ đồ. Sự hồ đồ nầy, tức là nam tham nữ ái. Người nam thấy người nữ đẹp thị bị mê hoặc, người nữ thấy người nam đẹp thì cũng bị mê hoặc. Sau đó thì hổ tương sinh ra một thứ tâm ái, nếu hỏi họ rằng: “Tại sao lại có tâm ái”? thì họ sẽ trả lời nói : “Không biết”. Tại sao? Tức là vì vô minh. Khi vô minh khởi lên thì có hành vi, tức là tánh hành vi nam nữ. Một khi có tánh hành vi thì rơi vào thức. Tinh cha huyết mẹ kết hợp với nhau thì có thức. Có thức rồi, thì có danh sắc, tức là tên gọi, gọi nó là cái thai. Có danh sắc rồi, thì có lục nhập, tức là sinh ra: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Có lục nhập rồi, thì có xúc giác. Đứa bé ở trong bụng mẹ, thường có sự xúc chạm với thân thể người mẹ. Cho nên đứa bé thường hoan hỉ người đến vỗ về nó, đến ôm bế nó. Có xúc rồi, thì có thọ dụng. Có thọ dụng rồi, thì sinh ra một thứ ái. Có ái rồi thì sinh ra một thứ thủ. Có thủ rồi, thì sinh ra có (hữu). Có hữu (có) rồi thì có sinh. Có sinh thì có già chết. Cho nên mười hai nhân duyên nầy là tương nhân tương tục, hổ tương trợ giúp. Song, một số người chẳng minh bạch mười hai nhân duyên nầy, cho nên sinh tử không ngừng ở trong luân hồi. Đời nầy mê mỏng đi một chút, đời sau lại mê dày thêm một chút, càng mê thì càng sâu, càng sâu thì càng mê, sẽ không biết:

“Biển khổ không bờ, quay đầu là bến”.

Cho nên chuyển tới chuyển lui ở trong luân hồi, lúc lên, lúc xuống, sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, nhận giả làm thật, nhận giặc làm con, ở tại thế giới Ta Bà nầy, thật là đáng thương xót! Song, vẫn không muốn thoát khỏi, mê chẳng biết quay về, đây là một thứ phiền não của chúng ta chúng sinh.

Chư Phật tuy cũng trụ thai, nhưng chẳng mê hoặc hồ đồ như chúng ta. Ngài là vì giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác. Vì chúng ta mê mất quá lâu, cho nên phải hồi đầu lại, do đó:

“Biển khổ không bờ, quay đầu là bến”.

 

Bỉ chư Như Lai ư chủng chủng chúng hội, chủng chủng thế gian, chủng chủng thú sanh, chủng chủng gia tộc, chủng chủng dục lạc, chủng chủng nghiệp hành, chủng chủng ngữ ngôn, chủng chủng căn tánh, chủng chủng phiền não tùy miên tập khí chư chúng sanh trung

Chư Phật Như Lai đó ở các chúng hội, các thế gian, các loài, các chủng tộc, các dục lạc, các nghiệp hành, các ngữ ngôn, các căn tánh, các phiền não, tùy miên, tập khí, trong các chúng sanh.

Giảng: Đức Phật vì đây mà thị hiện trụ thai, hoặc thị hiện đản sinh, hoặc thị hiện ở trong cung làm thái tử. Hoặc thị hiện xuất gia tu đạo. Hoặc thị hiện xuất gia thành đạo, ngồi đạo tràng. Hoặc thị hiện phá chúng ma quân. Hoặc thị hiện chư Thiên Long đến cung kính vây quanh. Hoặc thị hiện tất cả các ông vua thế gian đến thỉnh cầu thuyết pháp. Hoặc thị hiện ở trong đạo tràng chuyển bánh xe pháp. Hoặc thị hiện vào Bát Niết Bàn. Hoặc vào Niết Bàn rồi, đốt thân thiêu ra xá lợi. Hoặc chúng sinh vì Phật xây dựng chùa tháp. Hoặc tất cả các Như Lai đó ở trong đủ thứ chúng hội đạo tràng thuyết pháp. Hoặc tại thế gian ngửa, thế gian úp, thế gian hình tròn, thế gian hình vuông, đủ thứ thế gian khác nhau, vì chúng sinh thuyết pháp. Hoặc đến thọ sinh vào tứ sinh lục đạo các cõi. Hoặc xuất thân ở trong đủ thứ gia tộc làm quý tộc, hoặc dân nghèo. Hoặc thị hiện đủ thứ dục lạc. Hoặc thị hiện đủ thứ nghiệp hạnh. Hoặc nói đủ thứ tiếng. Hoặc hiện đủ thứ căn tánh. Hoặc thị hiện đủ thứ phiền não, tuỳ miên tập khí.

 

Hoặc xứ vi tế đạo tràng, hoặc xứ quảng đại đạo tràng, hoặc xứ nhất do-tuần lượng đạo tràng, hoặc xứ thập do-tuần lượng đạo tràng, hoặc xứ bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số do-tuần lượng đạo tràng, dĩ chủng chủng thần thông, chủng chủng ngôn từ, chủng chủng âm thanh, chủng chủng Pháp môn, chủng chủng tổng trì môn, chủng chủng biện tài môn, dĩ chủng chủng thánh đế hải, chủng chủng vô úy Đại sư tử hống, thuyết chư chúng sanh chủng chủng thiện căn, chủng chủng ức niệm, thọ chủng chủng Bồ Tát kí, thuyết chủng chủng chư Phật Pháp.

Hoặc ở vi tế đạo tràng, hoặc ở quảng đại đạo tràng, hoặc ở đạo tràng lượng một do tuần, hoặc ở đạo tràng lượng mười do tuần, hoặc ở đạo tràng lượng bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số do tuần. Dùng các thứ thần thông, các thứ ngôn từ, các thứ âm thanh, các thứ pháp môn, các thứ tổng trì môn, các thứ biện tài môn. Dùng các thứ Thánh đế, các thứ vô úy đại sư tử hống mà diễn thuyết những thiện căn, những ức niệm của các chúng sanh. Thọ ký cho Bồ Tát. Nói những Phật pháp.

Giảng: Ở trong các chúng sinh, hoặc ở nơi đạo tràng vi tế cực nhỏ, hoặc ở nơi đạo tràng rộng lớn. Ví như Vạn Phật Thành là một đạo tràng lớn, đây là đạo tràng chư Phật dự bị cho chúng sinh tu hành, giảng kinh thuyết pháp. Hoặc ở nơi đạo tràng rộng một do tuần. Hoặc ở nơi đạo tràng rộng mười do tuần. Hoặc ở nơi đạo tràng rộng bất khả thuyết bất khả thuyết do tuần nhiều số hạt bụi cõi Phật. Đây là chư Phật thị hiện đủ thứ cảnh giới đạo tràng khác nhau, để giáo hoá chúng sinh, mà vận dụng đủ thứ thần thông.

Hiện tại là thời đại mạt pháp, một số người lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, mà nói người tu đạo không thể hiển thần thông. Nếu có thần thông tức là bàng môn tả đạo, hoặc là nha sơn. Cho nên làm cho làm cho một số người nhận lầm mắt cá tưởng hạt châu, tựa đúng mà sai, họ vâng cũng vâng, chẳng biết phải trái, chẳng biết đi đâu, theo đâu, do đó làm cho thế giới ngày càng hỗn đục. Vì đa số người xuất gia chẳng nhận thức được đạo lý nầy, lấy mù dẫn mù, cho nên cũng làm cho một số người tựa đúng mà sai.

Vậy, cứu kính thần thông có thể hiển hiện chăng? Có thể! Nếu bạn có thần thông, đừng ngại hiển thần thông. Nếu bạn chẳng có thần thông, thì đừng giả trang có thần thông. Nếu không thể hiển thần thông, thì tại sao Phật phải hiển thần thông? Tại sao Bồ Tát hiển thần thông? Tại sao A la hán hiển thần thông? Tức nhiên Phật, Bồ Tát, A la hán đều hiển thần thông, bạn là người có thần thông tại sao không thể hiển? Không có lý nào, đây là không đúng. Chỉ sợ bạn không có thần thông, nếu bạn có thần thông, thì có thể hiển cho đại chúng nhìn xem. Đây là chủ trương của tôi. Vì tôi chẳng có thần thông, hiển chẳng được thần thông, cho nên tôi muốn người có thần thông, hãy hiển thần thông. Người hiển thần thông chẳng phạm pháp. Người hiển thần thông, chẳng phải là trộm cướp, chẳng phải muốn tống họ vào trong ngục tù, đây là không hợp lý. Cho nên đức Phật chẳng cho bạn hiển thần thông, là vì bạn chẳng có thần thông mà giả trang có thần thông. Nếu bạn có thần thông, mà thần thông chẳng phải trộm về, chẳng phải đoạt được, thì tại sao không thể hiển? Nếu có thần thông, lại không thể hiển, vậy nó làm gì? Đây chẳng phải là biến thành phế vật chăng? Cho nên hy vọng các vị nhận thức cho rõ ràng, đừng có nói những lời lấy đen làm trắng như thế. Nếu không thể hiển thần thông, trong Kinh Phật không đáng có hai chữ “thần thông” nầy. Tức nhiên hai chữ nầy, tai sao lại không thể hiển? Nói nó để làm gì? Cho nên chúng ta phải nghiên cứu chân lý cho rõ ràng.

Chư Phật lại dùng đủ thứ lời lẽ để giáo hoá chúng sinh, đủ thứ âm thanh, đủ thứ pháp môn, đủ thứ môn tổng trì, đủ thứ pháp môn biện tài, đủ thứ biển Thánh đế (khổ tập diệt đạo). Bốn Thánh đế nầy nghiên cứu ra thì sâu rộng như biển. Lại dùng đủ thứ vô uý đại sư tử hống. Do đó có câu : “Bách thú văn chi giai não liệt”, để diễn nói đủ thứ căn lành của các chúng sinh, đủ thứ nghĩ nhớ của chúng sinh, thọ đủ thứ Bồ Tát ký biệt hiệu, nói đủ thứ pháp môn của chư Phật nói.

 

Bỉ chư Như Lai sở hữu ngôn thuyết, Thiện tài đồng tử tất năng thính thọ, diệc kiến chư Phật cập chư Bồ-tát bất khả tư nghị tam muội thần biến.

Chư Phật Như Lai có bao nhiêu ngôn thuyết, Thiện tài đồng tử đều nghe thọ được cả. Cũng thấy bất tư nghì tam muội thần biến của chư Phật và chư Bồ Tát.

Giảng: Tất cả những lời nói của các Như Lai đó, Thiện Tài đồng tử đều nghe được, lãnh thọ được. Lại thấy tam muội thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn của chư Phật và các Bồ Tát.

Các vị hãy nghĩ xem, nếu thần thông không thể hiển hiện, thì tại sao trong Kinh Phật thường có hai chữ “thần biến” nầy? Đây chẳng phải là biến thành phế vật chăng? dư thừa chăng? Cho nên chúng ta phải biết chân lý, hiểu cho rõ ràng, đừng có người sao, mình cũng vậy, mà chẳng nghiên cứu khảo nghiệm thêm. Ví như, nghe người ta nói lễ Phật tốt, có thể phát tài thăng quan tiến chức, làm ăn kiếm được nhiều tiền, đây nói thẳng ra là chửi người! Nếu bạn lễ Phật, Phật bảo hộ cho bạn phát tài, thăng quan tiến chức, kiếm được nhiều tiền, như vậy, chẳng phải Phật đã biến thành người tham ô hối lộ chăng? Nếu bạn lạy một lạy, thì Phật bảo hộ bạn, còn nếu bạn không lạy thì Phật không bảo hộ bạn, như vậy, chẳng phải Phật có tâm phân biệt chăng?

Phật rất là bình đẳng, bạn đối với Ngài tốt, Ngài cũng vậy; bạn đối với Ngài không tốt, Ngài cũng vậy. Ngài chẳng vì bạn lạy Ngài một lạy, thì Ngài bảo hộ bạn tất cả đều cát tường như ý. Đây nói thẳng là mắng Phật! Bạn cho rằng Phật cũng tham ô giống như bạn chăng? Đây là sai lầm!

Phật là cảnh giới không thể nghĩ bàn, Phật bảo hộ người thiện, mà chẳng bảo hộ người ác. Do đó có câu: “Đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành”. Nếu bạn cứ làm các điều ác, thì Phật cũng không thể bảo hộ bạn. Song, nói đi rồi nói lại, kỳ thật chẳng phải Phật bảo hộ bạn, mà là chính bạn tự bảo vệ mình. Chính bạn đi trên con đường lành, thì tự nhiên tất cả đều cát tường, gặp hung hoá cát. Chính bạn đi trên con đường ác, thì tự nhiên sẽ nhiều tai nhiều nạn, tất cả không thuận lợi. Cho nên người học Phật đừng có mê tín, đừng có nịnh bợ Phật.

 

Nhĩ thời, giải thoát Trưởng-giả tùng tam muội khởi, cáo Thiện tài đồng tử ngôn:

Lúc bấy giờ Giải Thoát Trưởng giả xuất tam muội, bảo Thiện Tài rằng:

Giảng: Lúc đó, trưởng giả Giải Thoát từ tam muội dậy, bảo Thiện Tài đồng tử rằng:

 

 

Thiện nam tử! ngã dĩ nhập xuất Như Lai vô ngại trang nghiêm giải thoát môn.

Thiện nam tử ! Ta đã nhập xuất môn vô ngại trang nghiêm giải thoát của Như Lai.

Giảng: “Thiện nam tử! Ta đã nhập xuất môn giải thoát Như Lai vô ngại trang nghiêm”.

Môn Như Lai vô ngại trang nghiêm, có năm ý nghĩa:
1. Tất cả Như Lai, đều đủ tất cả trang nghiêm.
2. Mỗi mỗi Như Lai, khắp vô ngại với nhau.
3. Tất cả Như Lai trang nghiêm, đều nhập vào thân trưởng giả.
4. Trưởng giả thấy triệt biển Phật mười phương.
5. Trưởng giả trí trì, chẳng lấy làm ngại.

 

Thiện nam tử! ngã nhập xuất thử giải thoát môn thời, tức kiến Đông phương diêm phù đàn kim quang minh thế giới, long Tự tại Vương Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, Tỳ Lô Giá Na tạng Bồ Tát nhi vi thượng thủ;

Thiện nam tử ! Lúc ta nhập xuất môn giải thoát này, liền thấy thế giới Diêm Phù Ðàn Kim Quang Minh ở phương Ðông, đức Long Tự Tại Vương Như Lai Ðẳng Chánh Giác, chúng hội đạo tràng vây quanh. Tỳ lô Giá Na Tạng Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Thiện nam tử! Khi ta nhập xuất môn giải thoát nầy, thì liền thấy thế giới Diêm Phù Đàn Kim Quang Minh ở phương đông, có vị Phật Long Tự Tại Vương, đang ở đó thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đạo tràng của Ngài có đại chúng hội vây quanh. Có vị Bồ Tát Tỳ Lô Giá Na Tạng làm thượng thủ pháp hội.

 

Hựu kiến Nam phương tốc tật lực thế giới, phổ hương Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, tâm Vương Bồ Tát nhi vi thượng thủ

Lại thấy thế giới Tốc Tật Lực ở phương Nam, Phổ Hương Như Lai Ðẳng Chánh Giác và đạo tràng chúng hội vây quanh. Tâm Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Lại thấy thế giới Tốc Tật Lực ở phương nam, có vị Phật Phổ Hương, đang ở đó thành Chánh Đẳng Chánh Giác, đang ở đó giảng kinh thuyết pháp, giáo hoá chúng sinh, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Có vị Bồ Tát Tâm Vương làm thượng thủ pháp hội.

 

Hựu kiến Tây phương Hương Quang thế giới, Tu-Di-Đăng Vương Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, vô ngại tâm Bồ Tát nhi vi thượng thủ

Lại thấy thế giới Hương Quang ở phương Tây, Tu Di Ðăng Vương Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Ngại Tâm Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Lại thấy thế giới Hương Quang ở phương tây, có vị Phật Tu Di Đăng Vương, cũng thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Vô Ngại Tâm làm thượng thủ trong pháp hội.

 

Hựu kiến Bắc phương ca sa tràng thế giới, bất khả hoại Kim cương Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, Kim cương bộ dũng mãnh Bồ Tát nhi vi thượng thủ

Lại thấy thế giới Ca Sa Tràng ở phương Bắc, Bất Khả Hoại Kim Cang Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim Cang Dũng Mãnh Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Lại thấy thế giới Ca Sa Tràng ở phương bắc, có vị Phật Bất Khả Hoại Kim Cang, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Kim Cang Bộ Dũng Mãnh làm thượng thủ trong pháp hội.

 

Hựu kiến Đông Bắc phương nhất thiết thượng diệu bảo thế giới, vô sở đắc cảnh giới nhãn Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, vô sở đắc thiện biến hóa Bồ-tát nhi vi thượng thủ

Lại thấy phương Ðông Bắc, thế giới Nhứt Thiết Thượng Diệu Bửu, đức Vô Sở Ðắc Cảnh Giới Nhãn Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Sở Ðắc Thiện Biến Hóa Bồ Tát làm thượng chủ.

Giảng: Trưởng giả Giải Thoát lại nói: “Lại thấy thế giới Nhất Thiết Thượng Diệu Bảo ở phương đông bắc, có vị Phật Vô Sở Đắc Cảnh Giới Nhãn, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong đạo tràng chúng hội có vô lượng đại chúng vây quanh Ngài. Bồ Tát Vô Sở Đắc Thiện Biến Hoá làm thượng thủ trong pháp hội.

 

Hựu kiến Đông Nam phương hương diệm quang âm thế giới, hương đăng Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, Kim cương diệm tuệ Bồ Tát nhi vi thượng thủ

Lại thấy phương Ðông Nam, thế giới Hương Diệm Quang Âm, đức Hương Ðăng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim cang Diệm Huệ Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Lại thấy thế giới Hương Diệm Quang Âm ở phương đông nam, có vị Phật Hương Đăng, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Kim Cang Diệm Huệ làm thượng thủ trong pháp hội.

 

Hựu kiến Tây Nam phương trí tuệ nhật phổ quang minh thế giới, Pháp giới luân tràng Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, Hiện-Nhất-Thiết biến hóa Tràng Bồ-tát nhi vi thượng thủ;

Lại thấy phương Tây Nam, thế giới Trí Huệ Nhựt Phổ Quang Minh, đức Pháp Giới Luân Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Hiện Nhứt Thiết Biến Hóa Tràng Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Lại thấy thế giới Trí Huệ Nhựt Phổ Quang Minh ở phương tây nam, có vị Phật Pháp Giới Luân Tràng, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Hiện Nhất Thiết Biến Hoá Tràng làm thượng thủ trong pháp hội.

 

Hựu kiến Tây Bắc phương phổ thanh tịnh thế giới, nhất thiết Phật bảo cao thắng tràng Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, Pháp-Tràng Vương Bồ Tát nhi vi thượng thủ

Lại thấy phương Tây Bắc, thế giới Phổ Thanh Tịnh, đức Nhứt Thiết Phật Bửu Cao Thắng Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Lại thấy thế giới Phổ Thanh Tịnh ở phương tây bắc, có vị Phật Nhất Thiết Phật Bảo Cao Thắng Tràng, đang ở đó thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Pháp Tràng Vương làm thượng thủ trong pháp hội.

 

Hựu kiến thượng phương Phật thứ đệ xuất hiện vô tận thế giới, vô biên trí tuệ quang viên mãn tràng Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, Pháp giới môn tràng Vương Bồ Tát nhi vi thượng thủ

Lại thấy Thượng phương, thế giới Phật Thứ Ðệ Xuất Hiện Vô Tận, đức Vô Biên Trí Huệ Quang Viên Mãn Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Giới Môn Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Lại thấy thế giới Phật Thứ Đệ Xuất Hiện Vô Tận ở phương trên, có vị Phật Vô Biên Trí Huệ Quang Viên Mãn Tràng, đang ở đó thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Pháp Giới Môn Tràng Vương làm thượng thủ trong pháp hội.

 

Hựu kiến hạ phương Phật quang minh thế giới, vô ngại trí tràng Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, đạo tràng chúng hội chi sở vi nhiễu, nhất thiết thế gian sát tràng Vương Bồ Tát nhi vi thượng thủ.

Lại thấy Hạ phương, thế giới Phật Quang Minh, đức Vô Ngại Trí Tràng Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Nhứt Thiết Thế Gian Sát Tràng Vương Bồ Tát làm thượng thủ.

Giảng: Lại thấy thế giới Phật Quang Minh ở phương dưới, có vị Phật Vô Ngại Trí Tràng, đang ở đó thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, có đạo tràng chúng hội vây quanh. Bồ Tát Nhất Thiết Thế Gian Sát Trang Vương làm thượng thủ trong pháp hội đại chúng.

 

Thiện nam tử! ngã kiến như thị đẳng thập phương các thập Phật sát vi trần số Như Lai. Bỉ chư Như Lai bất lai chí thử, ngã bất vãng bỉ.

Thiện nam tử ! Ta thấy mười phương như vậy. Mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Như Lai. Chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng chẳng qua đó.

Giảng: Thiện nam tử! Ta nhìn thấy mười phương như vậy, mỗi phương đều có các Như Lai nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Các Như Lai đó chẳng đi đến đây, ta cũng chẳng đến thế giới của đức Phật đó, vì thể tướng chẳng đến đi, chỉ tâm thấy.

 

Ngã nhược dục kiến an lạc thế giới A-Di-Đà Như Lai, tùy ý tức kiến

Nếu ta muốn thấy thế giới An Lạc, đức A Di Ðà Như Lai, thời tùy ý liền thấy.

Giảng: Tuy nhiên Phật cũng chẳng đến đây, mà ta cũng chẳng đến thế giới của các đức Phật đó, nhưng đó đây thấy nhau rõ ràng, chẳng có tơ hào chướng ngại. Nếu ta muốn thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, thì chỉ cần tác ý, tuỳ tâm tưởng, thì liền thấy ngay.

 

Ngã nhược dục kiến chiên đàn thế giới Kim cương quang minh Như Lai, diệu hương thế giới bảo quang minh Như Lai, liên hoa thế giới bảo Liên Hoa Quang minh Như Lai, diệu kim thế giới tịch tĩnh quang Như Lai, diệu hỉ thế giới bất động Như Lai, thiện trụ thế giới sư tử Như Lai, kính quang minh thế giới nguyệt giác Như Lai, bảo sư tử trang nghiêm thế giới Tỳ Lô Giá Na Như Lai, như thị nhất thiết, tất giai tức kiến.

Nếu ta muốn thấy Chiên Ðàn thế giới, Kim Cang Quang Minh Như Lai; Diệu Hương thế giới, Bửu Quang Minh Như Lai; Liên Hoa thế giới, Bửu Liên Hoa Quang Minh Như Lai; Diệu Kim thế giới; Tịch Tịnh Quang Như Lai; Diệu Hỉ thế giới, Bất Ðộng Như Lai, Thiện Trụ thế giới; Sử Tử Như Lai; Cảnh Quang Minh thế giới, Nguyệt Giác Như Lai; Bửu Sư Tử Trang Nghiêm thế giới, Tỳ Lô Giá Na Như Lai; tất cả chư Như Lai như vậy đều tùy ý liền thấy. Nhưng chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng không qua đó.

Giảng: Nếu ta muốn thấy thế giới Chiên Đàn của đức Phật Kim Cang Quang Minh. Thế giới Diệu Hương của đức Phật Bảo Quang Minh. Thế giới Liên Hoa của đức Phật Bảo Liên Hoa Quang Minh. Thế giới Diệu Kim của đức Phật Tịch Tĩnh Quang. Thế giới Diệu Hỉ của đức Phật Bất Động. Thế giới Thiện Trụ của đức Phật Sư Tử. Thế giới Kính Quang Minh của đức Phật Nguyệt Giác. Thế giới Bảo Sư Tử Trang Nghiêm của đức Phật Tỳ Lô Giá Na. Tất cả chư  Phật như vậy, thảy đều liền thấy ngay.

Do đó trong Kinh có câu:
“Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo”.
Đây tức là nói rõ tâm tức Phật. Lại trong Kinh có nói:
“Như tâm Phật cũng thế
Như Phật chúng sinh vậy
Nên biết Phật với tâm
Thể tánh đều vô tận”.

Tức cảnh tức là tâm, tâm tức là Phật. Không cảnh không Phật vậy!

Các đức Như Lai đó cũng chẳng đến chỗ ta, mà thân ta cũng chẳng đi đến chỗ các đức Phật đó.

 

Nhiên bỉ Như Lai bất lai chí thử, ngã thân diệc bất vãng nghệ ư bỉ. Tri nhất thiết Phật cập dữ ngã tâm, tất giai như mộng; tri nhất thiết Phật do như ảnh tượng, tự tâm như thủy; tri nhất thiết Phật sở hữu sắc tướng cập dĩ tự tâm, tất giai như huyễn; tri nhất thiết Phật cập dĩ kỷ tâm, tất giai như hưởng.

Biết tất cả chư Phật cùng tâm của ta đều như mộng. Biết tất cả chư Phật như ảnh tượng, còn tâm mình như nước. Biết tất cả sắc tướng của chư Phật và tâm mình đều như huyễn. Biết tất cả Phật và tâm mình thảy đều như vang.

Giảng: Ta biết tất cả chư Phật với tâm ta thảy đều như mộng, chỉ là một thứ cảnh giới, không chân thật, như huyễn, như hoá. Lại biết tất cả chư Phật giống như hình bóng, tâm mình như nước. Do đó có câu:
“Phật pháp thanh lương nguyệt
Thường du tất kính không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung”.

Lại biết hết thảy sắc tướng của tất cả chư Phật với tâm mình, thảy đều như huyễn, chẳng tồn tại. Đây là ví dụ đạo lý không có vô ngại. Lại biết tất cả chư Phật với tâm mình, thảy đều như tiếng vang, đó đây cảm ứng đạo giao. Do đó có câu: “Dùng tâm làm duyên, mà Phật vang ứng, Phật không phân biệt. Dùng Phật làm duyên, mà tâm thấy Phật, tâm đi đến đâu”.

 

Ngã như thị tri, như thị ức niệm: sở kiến chư Phật, giai do tự tâm

Ta biết như vậy, ức niệm như vậy. Chư Phật được thấy đều do tự tâm.

Giảng: Ta biết như vậy, nghĩ nhớ như vậy, mà thấy tất cả chư Phật, thảy đều do tâm mình mà hiện ra.

 

Thiện nam tử! đương tri Bồ Tát tu chư Phật Pháp, tịnh chư Phật sát, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sanh, phát đại thệ nguyện, nhập nhất thiết trí tự tại du hí bất khả tư nghị giải thoát chi môn, đắc Phật Bồ-đề, hiện đại thần thông, biến vãng nhất thiết thập phương Pháp giới, dĩ vi tế trí phổ nhập chư kiếp; như thị nhất thiết, tất do tự tâm.

Thiện nam tử ! phải biết Bồ Tát tu những Phật pháp, tịnh những Phật độ, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sanh, phát đại thệ nguyện, nhập nhứt thiết trí, tự tại du hí bất tư nghì môn giải thoát, được Phật Bồ đề, hiện đại thần thông, qua khắp tất cả mười phương pháp giới, dùng vi tế trí nhập khắp các kiếp, tất cả như vậy đều do tự tâm.

Giảng: Thiện nam tử! Ông nên biết tất cả Bồ Tát, tu hành tất cả Phật pháp, trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật, tích tập đủ thứ công đức diệu hạnh, dùng đủ thứ oai đức để điều phục hết thảy chúng sinh, đó đều do quá khứ họ đã phát đại thệ nguyện, và hiện tại phát đại thệ nguyện, họ nhập vào môn nhất thiết trí, du hí tự tại, ở tại thế giới nầy chẳng chấp trước, không có gì lưu luyến, chẳng có tư tưởng buông xả chẳng đặng. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn, môn giải thoát không thể nghĩ bàn. Họ đắc được Phật bồ đề, hiện ra đại thần thông. Đi đến khắp tất cả mười phương tận hư không khắp pháp giới. Họ dùng trí vi tế, vào khắp các kiếp quá khứ, kiếp hiện tại, và kiếp vị lai. Tất cả đủ thứ như vậy, đều do tâm mình hiện ra.

 

Thị cố, Thiện nam tử! ưng dĩ thiện Pháp phù trợ tự tâm, ưng dĩ pháp thủy nhuận trạch tự tâm, ưng ư cảnh giới tịnh trì tự tâm, ưng dĩ tinh tấn kiên cố tự tâm, ưng dĩ nhẫn nhục thản đãng tự tâm, ưng dĩ trí chứng khiết bạch tự tâm, ưng dĩ trí tuệ minh lợi tự tâm, ưng dĩ Phật tự tại khai phát tự tâm, ưng dĩ Phật bình đẳng quảng đại tự tâm, ưng dĩ Phật thập lực chiếu sát tự tâm.

Thiện nam tử ! Do đây nên phải dùng thiện pháp phò trợ tự tâm. Phải dùng pháp thủy thấm nhuần tự tâm. Phải ở cảnh giới trị sạch tự tâm. Phải dùng tinh tấn kiên cố tự tâm. Phải dùng nhẫn nhục san bằng tự tâm. Phải dùng trí chứng rửa sạch tự tâm. Phải dùng trí huệ minh tự tâm. Phải dùng Phật tự tại khai phát tự tâm. Phải dùng Phật bình đẳng quản đại tự tâm. Phải dùng Phật thập lực chiếu xét tự tâm.

Giảng: Bởi vậy, thiện nam tử! Ông nên dùng pháp lành “đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành” để phù trợ tâm mình, khiến cho tâm mình tăng trưởng từ bi hỉ xả. Đoạn Kinh văn nầy các vị nên chú ý, chúng ta tu hành nên chiếu theo kinh văn nói mà đi làm. Đây chẳng những chỉ vì Thiện Tài nói, mà là vì các bạn, tôi và họ, những người đang nghe Kinh Hoa Nghiêm mà nói. Người tu đạo nên dùng pháp lành để phù trợ tâm mình.

Nên dùng đạo lý Phật pháp và trí huệ để thấm nhuần tâm mình. Nên dùng tất cả cảnh giới để tịnh trị tâm mình. Phải thọ nhận khi cảnh nghịch đến, đương đầu với tất cả cảnh giới, phải tịnh trị tâm mình, tức cũng là “khắc kỷ phục lễ”, khắc phục được tư dục của chính mình; cách vật chí tri, cách trừ vật dục của chính mình. Nếu chúng ta tịnh trị được tâm mình, thì nhất định sẽ khai ngộ. “Tịnh trị tâm mình”, tức cũng là đừng khởi vọng tưởng, đừng có dục niệm, đừng có tà tri tà kiến, đừng có tự tư tự lợi, phải có tâm đại công vô tư. Nên dùng tinh tấn để kiên cố tâm mình, chúng ta tu đạo phải tinh tấn càng tinh tấn, đừng có tư tưởng thối lùi. Như vậy cần phải có sức lực kiên cố, có hoằng nguyện kim cang bất hoại. Nên dùng pháp môn nhẫn nhục để san bằng tâm mình, phải quang minh lỗi lạc, chẳng có đen tối.

Chúng ta người tu đạo, phải thân thể lực hành để tu pháp môn nhẫn nhục nầy, nhẫn điều mà người khác không nhẫn được, làm điều mà người khác không làm được, nhường cho người điều mà người khác không nhường được. Có người nói : “Hoà thượng! Tôi muốn nhẫn, nhưng khi cảnh giới đến thì tôi không chịu được”. Đó là vì bạn chẳng có công phu, nếu có công phu thì sao lại chẳng chịu được? Tu hành chẳng phải là nói ngoài miệng, phải cung hành thực tiễn. Nên dùng trí huệ chứng được đạo tâm, rửa tâm tịnh lự, chẳng còn chút dơ bẩn nào. Lại nên dùng kiếm bát nhã trí huệ để sáng lợi tâm mình, phá tất cả vô minh, đối với tất cả phiền não, đều có thể nghênh nhận mà giải. Nên dùng Phật tự tại vô ngại để khai phát trí huệ tâm mình. Nên dùng bình đẳng của Phật, để rộng lớn tâm mình.

Chúng ta đừng chỉ biết có mình, mà chẳng biết có người khác. Phải đối với tất cả hết thảy đều bình đẳng, phải chân chánh minh lý, chân chánh đại công vô tư, khiến cho tâm mình rộng lớn vô ngại. Nên dùng mười trí huệ lực của Phật để chiếu soi tâm mình, chẳng khiến cho tâm mình ngu si.

 

Thiện nam tử! ngã duy ư thử Như Lai vô ngại trang nghiêm giải thoát môn nhi đắc nhập xuất.

Thiện nam tử ! Ta chỉ nhập xuất được môn giải thoát “Như Lai vô ngại trang nghiêm” này.

Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ ở nơi môn giải thoát Như Lai vô ngại trang nghiêm nầy, đã minh bạch, mà được nhập vào tam muội nầy và xuất tam muội nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc vô ngại trí trụ vô ngại hạnh, đắc thường kiến nhất thiết Phật tam muội, đắc bất trụ Niết Bàn tế tam muội, liễu đạt tam muội Phổ môn cảnh giới, ư tam thế Pháp tất giai bình đẳng, năng thiện phần thân biến nhất thiết sát, trụ ư chư Phật bình đẳng cảnh giới, thập phương cảnh giới giai tất hiện tiền, trí tuệ quan sát vô bất minh liễu, ư kỳ thân trung tất Hiện-Nhất-Thiết thế giới thành hoại, nhi ư kỷ thân cập chư thế giới bất sanh nhị tưởng

Còn như chư đại Bồ Tát được vô ngại trí, trụ vô ngại hạnh, được tam muội “thường thấy tất cả Phật”, được tam muội “chẳng trụ niết bàn tế”, rõ thấu tam muội “Phổ môn cảnh giới”. Với những pháp tam thế thảy đều bình đẳng. Hay khéo phân thân khắp tất cả cõi. An trụ nơi cảnh giới bình đẳng của chư Phật. Cảnh giới mười phương đều hiện tiền. Trí huệ quán sát đều thấy biết rõ ràng tất cả. Ở trong thân mình đều hiện tất cả thế giới thành hoại, nhưng đối với thân mình và các thế giới không có tưởng nghĩ là hai.

Giảng: Như tất cả các đại Bồ Tát đắc được trí huệ vô ngại, trụ hạnh vô ngại, đắc được thường thấy tam muội của tất cả chư Phật, đắc được tam muội chẳng trụ bờ mé Niết Bàn. Thấu đạt cảnh giới tam muội phổ môn. Nơi pháp ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, thảy đều bình đẳng. Khéo phân thân khắp tất cả cõi. Trụ nơi cảnh giới bình đẳng của chư Phật. Cảnh giới mười phương thảy đều hiện tiền ở trước mắt. Dùng trí huệ quán sát thảy đều thấu rõ thật tướng của các pháp. Ở trong thân đều hiện tất cả thế giới thành trụ hoại không. Mà nơi bản thân mình và các thế giới không sinh hai tưởng.

 

Như thị diệu hạnh, nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết?

Những diệu hạnh như vậy, làm sao ta biết hết được, nói hết được.

Giảng: Những diệu hạnh như vậy, đủ thứ cảnh giới vô ngại của chư Phật Bồ Tát, mà ta làm sao biết được, diễn nói được? Cho nên ngươi hãy đi đến chỗ vị thiện tri thức khác để thưa hỏi, ngươi sẽ được lợi ích rất lớn.

 

Thiện nam tử! tòng thử Nam hành, chí Diêm-phù-đề bạn, hữu nhất quốc độ, danh: ma lợi già la; bỉ hữu Tỳ-kheo, danh viết: Hải Tràng.

Này thiện nam tử ! từ đây qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Ðề, có một nước tên là Ma Lợi Già La. Nước đó có Tỳ kheo tên là Hải Tràng.

Giảng: Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, đến bờ Diêm Phù Đề, có một cõi nước tên là Ma Lợi Già La. Ở đó có vị Tỳ Kheo tên là Hải Tràng,

 

Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Giảng: Ngươi đi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì người mà nói.

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ giải thoát Trưởng-giả túc, hữu nhiễu quan sát, xưng dương tán thán, tư tánh luyến ngưỡng, bi khấp lưu lệ nhất tâm ức niệm: y thiện tri thức, sự thiện tri thức, kính thiện tri thức, do thiện tri thức kiến nhất thiết trí; ư thiện tri thức bất sanh vi nghịch, ư thiện tri thức tâm vô siểm cuống, ư thiện tri thức tâm thường tùy thuận; ư thiện tri thức khởi từ mẫu tưởng, xả ly nhất thiết vô ích Pháp cố; ư thiện tri thức khởi Từ Phụ tưởng, xuất sanh nhất thiết chư thiện Pháp cố, từ thoái nhi khứ.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Giải Thoát Trưởng giả, hữu nhiễu quán sát xưng dương ca ngợi, tư duy chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ, nhứt tâm ghi nhớ y tựa thiện tri thức, thờ thiện tri thức, kính thiện tri thức, do thiện tri thức được thấy nhứt thiết trí. Với thiện tri thức chẳng có lòng chống trái, không dua dối. Với thiện trí thức tâm thường tùy thuận. Nơi thiện tri thức tưỡng là từ mẩu, vì bỏ rời tất cả pháp vô ích. Nơi thiện tri thức tưởng là từ phụ, vì xuấtc sanh tất cả pháp lành. Tư duy rồi, từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ trưởng giả Giải Thoát, đi nhiễu bên phải quán sát, tán thán khen ngợi, suy gẫm chiêm ngưỡng, buồn rầu rơi lệ. Lúc đó, Ngài một lòng nghĩ nhớ lời dạy của thiện tri thức rằng: “Ta phải làm thế nào nương theo lời dạy của thiện tri thức mà tu hành? Ta phải làm thế nào để phụng thờ thiện tri thức, để báo đáp ân huệ của thiện tri thức? Ta phải cung kính thiện tri thức. Ta nhờ thiện tri thức mà thấy được nhất thiết trí. Ta ở chỗ thiện tri thức không nên sinh tâm trái nghịch, hoặc lừa gạt thiện tri thức. Những gì ta thọ giáo ở chỗ thiện tri thức, trong tâm cũng không dua nịnh thiện tri thức, không thể nói dối đối với thiện tri thức. Ta đối với thiện tri thức, trong tâm thường tuỳ thuận lời dạy dỗ của thiện tri thức mà tu hành. Ta đối với thiện tri thức, nên sinh khởi tưởng là mẹ hiền, vì xả lìa tất cả pháp ác vô ích, mà tu hành pháp lành. Ta đối với thiện tri thức, nên sinh khởi tưởng là cha lành, vì nương tựa theo thiện tri thức mà sinh ra tất cả các pháp lành”. Lúc đó Thiện Tài đồng tử hướng về trưởng giả Giải Thoát rồi từ tạ mà đi, đi về hướng nam, đi tìm vị thiện tri thức khác.

 

====================================

TỲ KHEO HẢI TRÀNG – PHÓ THÁC THỨ SÁU CHÁNH TÂM TRỤ

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm chánh niệm bỉ Trưởng-giả giáo, quan sát bỉ Trưởng-giả giáo, ức niệm bỉ bất tư nghị Bồ Tát giải thoát môn, tư tánh bỉ bất tư nghị Bồ Tát trí quang minh, thâm nhập bỉ bất tư nghị Pháp giới môn, thú hướng bỉ bất tư nghị Bồ Tát phổ nhập môn, minh kiến bỉ bất tư nghị Như Lai thần biến, giải liễu bỉ bất tư nghị phổ nhập Phật sát, phân biệt bỉ bất tư nghị Phật lực trang nghiêm, tư tánh bỉ bất tư nghị Bồ Tát tam muội giải thoát cảnh giới phần vị, liễu đạt bỉ bất tư nghị sái biệt thế giới cứu cánh vô ngại, tu hành bỉ bất tư nghị Bồ Tát kiên cố thâm tâm, phát khởi bỉ bất tư nghị Bồ Tát đại nguyện tịnh nghiệp.

Thiện Tài Ðồng Tử nhất tâm chánh niệm lời dạy của Giải Thoát Trưởng giả, quán sát lời dạy của Trưởng giả. Ghi nhớ môn bất tư nghì Bồ Tát Giải Thoát của Trưởng giả. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát trí quang minh của Trưởng giả. Thâm nhập bất tư nghì pháp giới môn của Trưởng giả. Xu hướng bất tư nghì Bồ Tát phổ nhập môn của Trưởng giả. Thấy rõ bất tư nghì Như Lai thần biến của Trưởng giả. Hiểu rõ bất tư nghì phổ nhập Phật độ của Trưởng giả. Phân biệt bất tư nghì Phật lực trang nghiêm của Trưởng giả. Suy gẫm bất tư nghì Bồ Tát tam muội giải thoát cảnh giới phần vị của Trưởng giả. Rõ thấu bất tư nghì thế giới sai biệt cứu cánh vô ngại của Trưởng giả. Tu hành bất tư nghì Bồ Tát kiên cố thâm tâm của Trưởng giả. Phát khởi bất tư nghì Bồ Tát đại nguyện nghiệp của Trưởng giả.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng chánh niệm quán sát lời dạy của vị trưởng giả Giải Thoát. Lại nghĩ nhớ môn giải thoát Bồ Tát không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại suy gẫm Bồ Tát trí quang minh không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại thâm nhập môn pháp giới không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại xu hướng môn Bồ Tát vào khắp không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại thấy rõ Như Lai thần biến không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại hiểu rõ vào khắp cõi Phật không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại phân biệt Phật lực trang nghiêm không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại suy gẫm cảnh giới Bồ Tát tam muội giải thoát phần vị không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại thấu đạt thế giới rốt ráo vô ngại khác biệt không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại tu hành thâm tâm Bồ Tát kiên cố không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát. Lại phát khởi Bồ Tát đại nguyện tịnh nghiệp không thể nghĩ bàn của trưởng giả Giải Thoát.

Phó thác chánh tâm trụ, là chỉ Tỳ Kheo Hải Tràng, thành tựu Bát Nhã, thấu rõ pháp tánh là không tịch, là không trụ, không nương, không tà, không chánh. Cho nên dù Ngài nghe khen hay chê, tâm đều bất động.

 

Tiệm thứ Nam hành, chí Diêm-phù-đề bạn ma lợi tụ lạc, chu biến cầu mịch hải tràng Tỳ-kheo. Nãi kiến kỳ tại kinh hành địa trắc kết già phu tọa, nhập vu tam muội, ly xuất nhập tức, vô biệt tư giác, thân an bất động.

Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến bờ Diêm Phù Ðề, nước Ma Lợi, tìm Hải Tràng Tỳ Kheo. Bèn thấy Hải Tràng Tỳ Kheo ngồi kiết già ở bên chỗ đi kinh hành, đang nhập tam muội, bặt hơi thở, lìa tư giác, thân tâm bất động.

Giảng: Thiện Tài đồng tử từng bước, từng bước, từ từ đi về hướng nam, đến bờ Diêm Phù Đề, nước Để Đạt Ma Lợi Già La, Ngài bèn đi các nơi tìm kiếm Tỳ Kheo Hải Tràng.

Thiện Tài đồng tử bèn thấy vị Tỳ Kheo Hải Tràng, đang ngồi kiết già bên cạnh chỗ đi kinh hành, đang nhập tam muội. Lúc đó, Ngài đã bặc hơi thở, không còn thở ra, thở vào nữa, không còn tư lự và cảm giác, thân tâm an lạc như như bất động.

 

Tùng kỳ túc hạ, xuất vô số bách thiên ức Trưởng-giả, Cư-sĩ, Bà-la-môn chúng, giai dĩ chủng chủng chư trang nghiêm cụ trang nghiêm kỳ thân, tất trước bảo quán, đảnh hệ minh châu, phổ vãng thập phương nhất thiết thế giới, vũ nhất thiết bảo, nhất thiết anh lạc, nhất thiết y phục, nhất thiết ẩm thực như pháp thượng vị, nhất thiết hoa, nhất thiết man, nhất thiết hương, nhất thiết đồ hương, nhất thiết dục lạc tư sanh chi cụ, ư nhất thiết xứ cứu nhiếp nhất thiết bần cùng chúng sanh, an uý nhất thiết khổ não chúng sanh, giai lệnh hoan hỉ tâm ý thanh tịnh, thành tựu vô thượng Bồ-đề chi đạo.

Từ dưới chân của Tỳ Kheo ấy hiện ra vô số muôn ngàn ức Trưởng giả, Cư Sĩ, Bà La Môn. Ðại chúng này đều dùng nhiều đồ trang nghiêm để nghiêm sức thân mình. Tất ca đều đội bửu quan, đeo minh châu, qua khắp tất cả thế giới mười phương mưa tất cả châu bửu, tất cả chuỗi ngọc, tất cả y phục, tất cả đồ uống ăn thượng vị đúng pháp, tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ tư sanh theo sở thích. Ở tất cả chỗ cứu nhiếp những chúng sanh nghèo cùng, an ủi những chúng sanh khổ não, đều làm cho hoan hỷ. Tâm ý thanh tịnh. Thành tựu đạo Vô thượng Bồ Đề.

Giảng: Từ dưới chân của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức trưởng giả, cư sĩ, chúng Bà La Môn, đều dùng đủ thứ các đồ trang nghiêm, để trang nghiêm thân mình. Trên đầu đều đội mũ báu, trên mũ lại đeo một sợi minh châu. Các vị đó qua khắp mười phương tất cả thế giới, mưa xuống tất cả báu, tất cả chuỗi anh lạc, tất cả y phục, tất cả thức ăn uống, thượng vị như pháp. Lại mưa xuống tất cả hoa, tất cả man, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ dục lạc tư sanh. Họ ở tất cả mọi nơi, cứu hộ nhiếp thọ tất cả chúng sinh bần cùng, an ủi tất cả chúng sinh khổ não, đều khiến cho họ hoan hỉ, tâm ý thanh tịnh, mà thành tựu đạo bồ đề vô thượng.

Đủ có hai ý nghĩa: 1. Hiển thí hành vạn hạnh. 2. Lại biểu hạnh trụ nghĩa. Trưởng giả, là hạnh trưởng. Cư sĩ, là đắc được an xứ. Bà la môn nghĩa là tịnh hạnh. Thành tựu bồ đề nghĩa là lợi hành.

 

Tùng kỳ lưỡng tất, xuất vô số bách thiên ức Sát đế lợi, Bà-la-môn chúng, giai tất thông tuệ, chủng chủng sắc tướng, chủng chủng hình mạo, chủng chủng y phục thượng diệu trang nghiêm, phổ biến thập phương nhất thiết thế giới, ái ngữ, đồng sự nhiếp chư chúng sanh.

Từ hai gối của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Sát Ðế Lợi, Bà La Môn. Ðại chúng này đều thông huệ, nhiều sắc tướng, nhiều hình mạo, nhiều y phục thượng diệu trang nghiêm, cùng khắp tất cả thế giới mười phương, dùng ái ngữ và đồng sự nhiếp các chúng sanh.

Giảng: Từ hai đầu gối của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức chúng Sát Đế Lợi (quý tộc), Bà La Môn, họ thảy đều thông minh có trí huệ. Họ có đủ thứ sắc tướng rất viên mãn. Đủ thứ thân hình cũng rất đẹp đẽ. Đủ thứ y phục đều tốt đẹp trang nghiêm. Họ ở khắp cùng mười phương tất cả thế giới, dùng ái ngữ và đồng sự, để nhiếp thọ tất cả chúng sinh.

 

Sở vị: bần giả lệnh túc, bệnh giả lệnh dũ, nguy giả lệnh an, phố giả lệnh chỉ, hữu ưu khổ giả hàm sử khoái lạc; phục dĩ phương tiện nhi khuyến đạo chi, giai lệnh xả ác, an trụ thiện Pháp.

Những là làm cho người nghèo được đầy đủ, người bệnh được lành, người nguy được an, người kinh sợ được y tựa, người ưu sầu được sung sướng. Lại dùng phương tiện để khuyến dụ họ, lám cho họ đều bỏ ác làm lành.

Giảng: Đó là: Người nghèo thì khiến cho được giàu sang. Người bệnh thì khiến cho họ được lành. Người nguy hiểm thì khiến cho được bình an. Người sợ hãi thì khiến cho họ hết sợ. Người lo khổ đều khiến cho họ được được an vui. Sau đó lại dùng pháp môn phương tiện để khuyên bảo, đều khiến cho họ bỏ tà về chánh, cải ác hướng thiện, mà an trụ trong pháp lành.

Hai đầu gối hiện ra Sát Đế Lợi là vì thổ điền đế chủ, khuất thân tự tại. Lại vì hạnh do nơi đầu gối hiện ra tịnh hạnh.

 

Tùng kỳ yêu gian, xuất đẳng chúng sanh số vô lượng Tiên nhân, hoặc phục thảo y hoặc thọ bì y, giai chấp táo bình, uy nghi tịch tĩnh, chu toàn vãng phản thập phương thế giới, ư hư không trung, dĩ Phật Diệu-Âm, xưng tán Như Lai, diễn thuyết chư Pháp; hoặc thuyết thanh tịnh phạm hạnh chi đạo, lệnh kỳ tu tập, điều phục chư căn; hoặc thuyết chư Pháp giai vô tự tánh, sử kỳ quan sát, phát sanh trí tuệ; hoặc thuyết thế gian ngôn luận quỹ tắc, hoặc phục khai thị nhất thiết trí trí xuất yếu phương tiện, lệnh tùy thứ đệ các tu kỳ nghiệp.

Từ khoảng eo lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng vô số tiên nhân: hoặc mặc y phục bằng cỏ, bằng vỏ cây. Ðều cầm bình rửa, oai nghi tịch tịnh, du hành thế giới mười phương. Ở trên hư không, dùng diệu âm ca ngợi Như Lai. Diễn thuyết các pháp: hoặc diễn thuyết đạo thanh tịnh phạm hạnh, làm cho họ tu tập điều phục các căn tánh. Hoặc nói các pháp đều không tự tánh, cho họ quán sát phát sanh trí huệ. Hoặc nói pháp tắc ngôn luận thế gian. Hoặc lại khai thị nhứt thiết trí phương tiện xuất yếu, làm cho họ theo thứ đệ đều tu tập hạnh nghiệp của riêng mình.

Giảng: Từ giữa lưng của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô lượng Tiên nhơn đồng với số chúng sinh. Họ mặc y phục bằng cỏ, hoặc y phục bằng vỏ cây. Mỗi vị Tiên nhơn đều cầm bình rửa, oai nghi rất nghiêm lệ tịch tĩnh. Họ đi đến khắp cùng mười phương thế giới, ở trong hư không, dùng tám thứ diệu âm (tiếng rất hay, tiếng mềm mại, tiếng hoà thích, tiếng tôn huệ, tiếng chẳng phải người nữ, tiếng chẳng lầm, tiếng sâu xa, tiếng không khan) của Phật để khen ngợi Như Lai, diễn nói các pháp.

Hoặc nói làm thế nào tu đạo phạm hạnh thanh tịnh, khiến cho chúng sinh y pháp tu tập, điều phục các căn. Khiến cho con mắt chẳng bị sắc trần lay chuyển, lỗ tai không bị thanh trần lay chuyển, lỗ mũi không bị hương trần lay chuyển, cái lưỡi không bị vị trần lay chuyển, thân không bị xúc trần lay chuyển, ý không bị pháp trần lay chuyển. Điều phục các căn, tức cũng là: “Nhiếp lấy sáu căn, tĩnh niệm liên tục, nhập Tam ma địa, đó là đệ nhứt”. Nhiếp lấy sáu căn, tức là điều phục. Con người có thể chuyển cảnh, mà cảnh không thể chuyển người. Hoặc diễn nói tất cả các pháp, đều không có tự tánh, đều do nhân duyên sinh ra. Do đó có câu:

“Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt”.

Tức cũng là :
“Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo”.

Ngài hay khiến cho chúng sinh quán sát mà ngộ đạo, lãnh thọ được đạo lý tất cả các pháp, đều không tự tánh, mà sinh ra trí huệ chân chánh, khiến cho trí quang hiện tiền. Hoặc nói tất cả ngôn luận thế gian, tất cả quỹ tắc pháp luật thế gian. Hoặc lại vì chúng sinh khai thị trí nhất thiết trí, đạo lý phương tiện xuất ly tam giới, khiến cho chúng sinh tuỳ thuận thứ lớp, đều tuỳ theo căn tánh của mình, đều tu pháp môn của mình. Xem chúng sinh có nhân gì, tu thứ pháp gì. Đều tuỳ theo căn tánh của mình, mà tu đạo nghiệp của mình.

Trên lưng của trưởng giả hiện ra Tiên nhơn, lưng ở dưới tế luân, giữa biển khí, là chỗ hiện ra Tiên.

 

Tùng kỳ lưỡng hiếp, xuất bất tư nghị long, bất tư nghị Long nữ, thị hiện bất tư nghị chư long thần biến, sở vị: vũ bất tư nghị hương vân, bất tư nghị hoa vân, bất tư nghị man vân, bất tư nghị bảo cái vân, bất tư nghị bảo phiên vân, bất tư nghị diệu bảo trang nghiêm cụ vân, bất tư nghị đại ma ni bảo vân, bất tư nghị bảo anh lạc vân, bất tư nghị bảo tọa vân, bất tư nghị bảo cung điện vân, bất tư nghị bảo liên hoa vân, bất tư nghị bảo quán vân, bất tư nghị Thiên thân vân, bất tư nghị thải nữ vân, tất biến hư không nhi vi trang nghiêm, sung mãn nhất thiết thập phương thế giới, chư Phật đạo tràng nhi vi cúng dường, lệnh chư chúng sanh giai sanh hoan hỉ.

Từ hai bên hông của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện bất tư nghì Long, bất tư nghì Long nữ, thị hiện bất tư nghì thần biến của chư Long. Những là mưa những mây hương thơm, mây hoa, mây tràng hoa, mây bửu cái, mây bửu phan, mây diệu bửu trang nghiêm, mây như ý bửu, mây bửu anh lạc, mây bửu tọa, mây bửu cung điện, mây bửu liên hoa, mây bửu quan, mây thiên thân, mây thể nữ, tất cả đều bất tư nghì khắp hư không để trang nghiêm. Sung mãn chư Phật đạo tràng tất cả thế giới mười phương để cúng dường, làm cho các chúng sanh đều hoan hỷ.

Giảng: Từ hai bên hông của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra rồng trên trời không thể nghĩ bàn, rồng nữ không thể nghĩ bàn. Lại thị hiện thần thông biến hoá của tất cả các rồng trời không thể nghĩ bàn. Từ có hoá không, từ không hoá có, thần thông biến hoá, diệu dụng vô cùng. Như là: Rồng mưa xuống mây hương không thể nghĩ bàn. Mưa mây hoa không thể nghĩ bàn. Mưa mây tràng hoa không thể nghĩ bàn. Mưa mây lọng báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây phan báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây đồ trang nghiêm báu đẹp không thể nghĩ bàn. Mưa mây đại ma ni báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây chuỗi báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây toà báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây cung điện báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây hoa sen báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây mũ báu không thể nghĩ bàn. Mưa mây thân trời không thể nghĩ bàn. Mưa mây thể nữ không thể nghĩ bàn. Đử thứ mây như vậy, đều đầy khắp hư không để trang nghiêm đạo tràng. Đầy khắp cùng đạo tràng chư Phật trong tất cả mười phương thế giới để dâng lên cúng dường. Khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh hoan hỉ.

Từ hai bên hông hiện ra các rồng, là vì loài rồng thuộc về bàng sanh.

 

Tùng hung tiền vạn tự trung, xuất vô số bách thiên ức A-tu-la Vương, giai tất thị hiện bất khả tư nghị tự tại huyễn lực, lệnh bách thế giới giai Đại chấn động, nhất thiết hải thủy tự nhiên dũng phí, nhất thiết sơn vương hỗ tương xung kích, chư Thiên cung điện vô bất động dao, chư ma quang minh vô bất ẩn tế, chư ma binh chúng vô bất tồi phục; phổ lệnh chúng sanh, xả kiêu mạn tâm, trừ nộ hại tâm, phá phiền não sơn, tức chúng ác pháp, trường vô đấu tranh, vĩnh cọng hòa thiện; phục dĩ huyễn lực, khai ngộ chúng sanh, lệnh diệt tội ác, lệnh phố sanh tử, lệnh xuất chư thú, lệnh ly nhiễm trước, lệnh trụ vô thượng Bồ-đề chi tâm, lệnh tu nhất thiết chư Bồ-tát hạnh, lệnh trụ nhất thiết chư Ba-la-mật, lệnh nhập nhất thiết chư Bồ-tát địa, lệnh quán nhất thiết vi diệu Pháp môn, lệnh tri nhất thiết chư Phật phương tiện. Như thị sở tác, chu biến pháp giới.

Từ tướng chữ “vạn” trước ngực xuất hiện vô số trăm ngàn ức A Tu La Vương, thảy đều thị hiện bất tư nghì huyễn lực tự tại, làm chấn động cả trăm thế giới. Tất cả nước biển tự nhiên sôi trào. Tất cả Sơn Vương tự nhiên xung kích. Chư Thiên cung điện đều lay động. Quang minh của chư ma đều bị che khuất. Chúng ma quân đều bị xô dẹp. Khiến khắp chúng sanh bỏ tâm kiêu mạng, trừ tâm sân hại, phá núi phiền não, dứt các pháp ác, thêm lớn pháp vô tránh, hằng hòa lành nhau. Lại dùng huyễn lực khai ngộ chúng sanh, làm cho họ diệt tội ác, sợ sanh tử, khỏi các loài, lìa nhiễm trước. Khiến họ an trụ tâm Vô Thượng Bồ Ðề, khiến họ tu tất cả hạnh Bồ Tát, khiến mạnh các môn Ba la mật, khiến nhập tất cả bực Bồ Tát, khiến quán sát tất cả pháp môn vi diệu, khiến biết tất cả phương tiện của chư Phật. Những việc làm trên đây cùng khắp pháp giới.

Giảng: Từ trong tướng chữ vạn trước ngực của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức A Tu La Vương. Họ đều thị hiện sức thần thông huyễn hoá tự tại không thể nghĩ bàn, khiến cho trăm thế giới đều phát sinh đại chấn động. Tất cả nước biển tự nhiên sôi trào lên. Tất cả núi chúa hổ tương xung kích với nhau. Tất cả các cung điện chư Thiên đều lay động. Quang minh của tất cả chúng ma đều ẩn che lấp mất. Tất cả binh chúng các ma đều bị thôi phục, chúng đều bại phục mà bỏ chạy, hoàn toàn đầu hàng. Lại khiến cho hết thảy chúng sinh xả bỏ tâm kiêu mạn, trừ diệt tâm nộ hại người khác.

Phá trừ núi lớn phiền não, dứt trừ các pháp ác, nuôi lớn tâm không đấu tranh, lúc nào cũng dùng thái độ hoà thiện, để đối đãi tất cả chúng sinh. Lại dùng sức huyễn hoá, khiến cho tất cả chúng sinh đều khai ngộ, khiến cho chúng sinh diệt trừ tội ác, mà sinh ra tâm sợ hãi sinh tử. Khiến cho tất cả chúng sinh bỏ mê về giác, thoát khỏi tất cả các cõi ác. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi hết thảy pháp nhiễm ô và chấp trước pháp. Khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ tâm vô thượng bồ đề. Khiến cho tất cả chúng sinh đều tu tất cả các hạnh Bồ Tát. Khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ tất cả các Ba La Mật đến bờ kia. Khiến cho chúng sinh vào tất cả các quả vị chứng được của các Bồ Tát. Lại khiến cho chúng sinh quán tất cả pháp môn vi diệu của Phật. Khiến cho tất cả chúng sinh biết tất cả pháp môn phương tiện của chư Phật. Những cảnh giới làm như vậy, đều đầy khắp pháp giới.

Đức tướng trước ngực của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra A Tu La, vì ngực là nơi huyễn thuận, hay sinh, hay diệt kiêu mạn, còn là tướng minh đức, hay hàng phục chúng ma.

 

Tùng kỳ bối thượng, vi ưng dĩ nhị thừa nhi đắc độ giả, xuất vô số bách thiên ức Thanh văn, độc giác; vi trước ngã giả, thuyết vô hữu ngã; vi chấp thường giả, thuyết nhất thiết hành giai tất vô thường; vi tham hành giả, thuyết bất tịnh quán; vi sân hành giả, thuyết từ tâm quán; vi si hành giả, thuyết duyên khởi quán; vi đẳng phần hành giả, thuyết dữ trí tuệ tướng ứng cảnh giới Pháp; vi lạc trước cảnh giới giả, thuyết vô sở hữu Pháp; vi lạc trước tịch tĩnh xứ giả, thuyết phát đại thệ nguyện phổ nhiêu ích nhất thiết chúng sanh pháp. Như thị sở tác, chu biến pháp giới.

Từ trên lưng của Hải Tràng Tỳ Kheo, vì người đáng dùng Nhị thừa để độ, xuất hiện vô số trăm ngàn ức Thanh Văn và Ðộc Giác. Vì người chấp ngã mà nói pháp vô ngã. Vì người chấp thường mà nói tất cả thành pháp đều vô thường. Vì người tham mà nói bất tịnh quán. Vì người sân ma nói từ tâm quán. Vì người si mà nói duyên khởi quán. Vì người đẳng phần phiền não mà nói cảnh giới pháp cùng trí huệ tương ưng. Vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.

Giảng: Từ trên lưng của Tỳ Kheo Hải Tràng, vì người đáng dùng pháp nhị thừa mà được độ, thị hiện ra vô số trăm ngàn ức Thanh Văn và Duyên Giác. Vì người chấp trước ngã kiến, thì nói pháp vốn không có ngã. Vì người chấp trước thường kiến, thì nói tất cả hạnh đều vô thường. Cho nên gặp người căn cơ gì thì nói pháp đó. Vì người tâm tham dục nặng không tơ hào nhàm đủ, thì nói quán bất tịnh. Thân thể chúng ta, chín lỗ thường chảy ra đồ bất tịnh: Mắt thường có nghèn, tai thường có cức váy, mũi thường chảy mũi, miệng có nước miếng, lại có tiểu tiện và đại tiện. Chẳng màn bạn yêu thích nó như thế nào, nếu thời gian lâu mà không tắm rửa, thì nó sẽ toả ra mùi hôi. Thân thể con người thường toả ra mùi hôi, là vì họ chẳng giữ giới luật. Bất cứ là người quốc tịch nào, họ ăn cái gì, thì trên thân sẽ có thứ mùi vị đó. Người thích ăn cá, thì trên thân có mùi vị cá. Người thích ăn thịt bò, thì trên thân có mùi vị thịt bò. Người thích ăn thịt heo, thì trên thân có mùi vị thịt heo. Người thích ăn thịt dê, thì trên thân có mùi vị thịt dê. Mỗi thứ đều có mùi vị của nó, ăn gì thì sẽ phối hợp thành một công ty đó. Cho nên ăn thứ gì thì có mùi vị đó.

Nếu thọ giới rồi, ngược lại chẳng giữ giới, thì đời sau thân thể của bạn sẽ hôi, rất hôi dơ, toàn thân đều hôi hám. Ai ngửi được mùi đó, thì sẽ nhàm chán. Cũng giống như người thọ giới, mà chẳng giữ giới, khiến cho một số người đều nhàm chán, là cùng một đạo lý. Cho nên thọ giới rồi, thì nhất định nghiêm trì giới luật, tơ hào không thể huỷ phạm. Đừng có nương Phật mặc y, nương Phật ăn cơm, cứ làm những chuyện phạm giới, nhất là giới dâm. Tham dục ở đây là chỉ tham dâm, biết rõ đó là phạm giới, mà vẫn đi làm. Làm rồi, còn cho rằng người khác không biết. Nhưng đó là tự mình lừa gạt mình, xí đồ bịt tai ăn cắp chuông, là rất sai lầm! Cho nên chúng ta người xuất gia, nhất định phải giữ giới luật. Người giữ giới luật, trên thân thường toả ra một mùi thơm của giới. Dù có bao nhiêu ngày không tắm rửa, cũng không có mùi hôi. Tại sao vậy? Vì giữ giới thanh tịnh. Bạn không cần xịt nước thơm lên trên mình, nó tự nhiên có một mùi thơm, đó là hương giới của sự giữ giới. Bạn không giữ giới, thì có mùi hôi, sẽ đoạ lạc vào ba đường ác, tuy tương lai được tái sinh làm người, trên thân vẫn đầy dẫy mùi hôi. Trên thân phát ra mùi hôi, tức là do không giữ giới luật.

Vì chúng sinh nhiều tham, phải tu quán bất tịnh. Quán thân bất tịnh, chín lỗ thường chảy đồ bất tịnh. Khi chết rồi, thì toàn thân sình lên, lại có gì để tham luyến? Tại sao phải vì cái túi da hôi thối này mà điên đảo? Cho nên người học Phật, đối với điểm nầy phải nhận thức cho rõ ràng, đừng có nhiều tham dục, phải thanh tâm quả dục, rửa sạch vọng tưởng tạp niệm và tất cả ý niệm nhiễm ô. Luôn luôn phải tu quán bất tịnh, đừng chấp trước vào thân thể nầy, mà cứ lo cho nó tốt đẹp. Làm cho nó tốt đẹp là vì cái gì? Chỉ là muốn đi lường gạt người mà thôi. Làm cho nó tốt đẹp có thể hấp dẫn người khác phái, khiến cho người khác phái thích mình. Đây chẳng phải là quá điên đảo chăng? Cho nên phải tu quán bất tịnh, để không còn vì cái túi da hôi thối nầy mà điên đảo.

Vì người sân hận, thích sinh vô minh, nói quán từ tâm. Quán từ tâm, tức là phải có tâm tha thứ đối với tất cả chúng sinh. Bất cứ họ làm việc gì sai, chỉ cần họ sửa đổi, thì nên tha thứ cho họ. Cho nên chúng sinh nhiều sân, phải tu quán từ bi nầy. “Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ”. Muốn giáo hoá chúng sinh ngu si, thậm chí ngu si đến độ cho rằng tất cả sự việc không làm mà có được – không chịu đi làm mà muốn có tiền lương. Không học nghề, mà muốn trở thành nhà phát minh. Không học qua nghề y khoa, mà muốn làm bác sĩ. Đó đều là một lối nghĩ ngu si. Song, lối nghĩ ngu si nhất là nghĩ muốn “Hoa đẹp thường tươi hoài”: Người thích hoa thì muốn hoa ngày nào cũng nở tươi đẹp. Người háo sắc thì muốn vợ, hoặc chồng của mình luôn luôn trẻ trung cường tráng, mãi mãi không già. Đó đều là lỗi nghĩ ngu si. Còn có “Trăng sáng luôn luôn đêm đêm tròn”. Người thích ngắm trăng thì muốn mỗi đêm trăng tròn chiếu sáng. Ánh trăng chiếu soi mặt đất, do đó:
“Nguyệt bổn vô tư chiếu
Dạ dạ độc lãm ngâm”.

Họ muốn ban ngày đều trong sáng, đại địa đầy ánh sáng, cho nên đêm đêm ngắm trăng, là một sự kiện vui nhất của đời người! Lại nghĩ: “Đại địa các suối đều hoá rượu”: Người thích uống rượu, họ ngu si đến độ cứ nghĩ muốn nước của các con suối chảy ra, đều biến thành rượu, họ có thể tha hồ mà đi lấy về uống, muốn uống lúc nào thì đi múc uống. “Trường lâm vô thụ bất diêu tiền”: Người tham tài thì nghĩ ngày ngày làm công, kiếm được ít tiền, thật là khổ! Nếu hết thảy lá cây đều biến thành tiền. Khi tôi cần tiền, đến dưới gốc cây lượm tiền, thì tốt biết bao! Đó đều là  lối nghĩ ngu si. Thậm chí người thích đánh bạc, cũng không mua tờ vé số, mà muốn có tiền. Không làm ruộng, mà muốn thu hoạch. Chẳng có đi học, mà muốn có bằng bác sĩ. Đó đều là si tâm vọng tưởng. Do đó, vì loại chúng sinh nầy mà nói quán duyên khởi, tức là quán nhân duyên. Do đó :
“Các pháp do duyên sanh
Các pháp do duyên diệt”.

“Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không”.

Vì người tham sân si đồng nhau, thì nói pháp môn cảnh giới tương ưng với trí huệ. Tương ưng với trí huệ, thì chẳng bị ba độc đồng nhau che đậy, mà đắc được trí huệ. Vì người ngu si thích chấp trước cảnh giới, thì nói pháp không chỗ có. Vốn gì cũng chẳng có, sau khi chết rồi, còn chấp trước cái gì? Vì những người tu đạo một mình ở trong thâm sơn cùng cốc, chẳng muốn gặp người, họ chấp trước nơi tịch tĩnh, chỉ muốn làm tự liễu hán, thì lúc đó phải chỉ dẫn họ nói pháp phát đại thệ nguyện, để khắp lợi ích tất cả chúng sinh. Do đó:
“Nương tâm pháp giới
Tu hạnh pháp giới
Vào pháp giới chúng sinh
Thành Phật pháp giới”.
Những việc như vậy, đều đầy khắp pháp giới.

Từ trên lưng hiện ra Thanh Văn Duyên Giác, biểu thị hàng nhị thừa, quay lưng lại đại thừa giáo nghĩa.

 

Tùng kỳ lưỡng kiên, xuất vô số bách thiên ức chư dạ xoa, La-sát Vương, chủng chủng hình mạo, chủng chủng sắc tướng, hoặc trưởng hoặc đoản, giai khả bố úy, vô lượng quyến thuộc nhi tự vi nhiễu, thủ hộ nhất thiết hành thiện chúng sanh, tinh chư hiền thánh, Bồ Tát chúng hội, nhược hướng chánh trụ cập chánh trụ giả; hoặc thời hiện tác chấp Kim Cương thần, thủ hộ chư Phật cập Phật trụ xứ, hoặc biến thủ hộ nhất thiết thế gian. Hữu bố úy giả, lệnh đắc an ổn; hữu tật bệnh giả, lệnh đắc trừ sái; hữu khổ não giả, lệnh đắc miễn ly; hữu quá ác giả, lệnh kỳ yếm hối; hữu tai hoạnh giả, lệnh kỳ tức diệt. Như thị lợi ích nhất thiết chúng sanh, giai tất lệnh kỳ xả sanh tử luân chuyển chánh Pháp luân.

Từ hai vai của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Dạ Xoa Vương, La Sát Vương: những hình mạo, những sắc tướng, hoặc cao hoặc thấp đều đáng kinh sợ. Vô lượng quyến thuộc vây quanh. Chư Vương này thủ hộ tất cả chúng sanh làm lành và các Hiền Thánh chúng hội Bồ Tát, người hướng chánh trụ và người chánh trụ. Hoặc hiện làm thần Chấp Kim Cang thủ hộ chư Phật và chỗ chư Phật ngự. Hoặc khắp thủ hộ thế gian: làm cho người hãi sợ được an ổn. Người tật bệnh được lành. Người khổ não được hết khổ. Người có lỗi lầm thời ăn năn. Người bị tai nạn thời khổ nạn. Lợi ích tất cả chúng sanh như vậy đều làm cho họ bỏ sanh tử luân mà chuyển chánh pháp luân.

Giảng: Từ hai vai của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức các Dạ Xoa La Sát Vương. Vai hiện ra Dạ Xoa là biểu thị có đại dũng lực đáng sợ, lại có thể phụ giúp giữ gìn Phật pháp gia nghiệp. La Sát có đủ thứ hình dáng khác nhau, có La Sát sinh ra ba đầu, có La Sát trên đầu có mọc ra hai cái sừng, có La Sát trên đầu có ba con mắt. Có La Sát hình thù nhìn rất đáng sợ! Lại có đủ thứ sắc tướng khác nhau, hình thù rất ghê sợ, bạn mà nhìn thấy chúng, thì sợ toát mồ hôi, thậm chí là run lập cập. Có quỷ La Sát cao như cây tre, hoặc cao như khúc gỗ. Tóm lại, tướng mạo của chúng đều khiến cho người sợ hãi. Mỗi một quỷ La Sát, lại dẫn theo vô lượng quyến thuộc vây quanh mình, để giữ gìn tất cả chúng sinh hành thiện, hoặc tất cả hiền

Thánh và Bồ Tát chúng hội, vì những vị đó đi trên con đường Phật đạo, hoặc người đã chứng được quả vị Phật, họ thị hiện làm Thần Chấp Kim Cang để giữ gìn chư Phật và đạo tràng trụ xứ của Phật. Hoặc khắp giữ gìn hết thảy chúng sinh tất cả thế gian. Chúng sinh có sự sợ hãi, thì khiến cho được an ổn. Chúng sinh có bệnh tật, thì khiến cho được lành bệnh. Chúng sinh có khổ não, khiến cho được lìa khỏi. Chúng sinh có tội ác, khiến cho họ ăn năn hối cải. Người có tai nạn, thì khiến cho tiêu diệt, tất cả đều được thuận lợi. Những sự việc lợi ích tất cả chúng sinh như vậy, đều khiến cho họ xả bỏ luân hồi sinh tử, mà chuyển bánh xe chánh pháp.

 

Tùng kỳ phước, xuất vô số bách thiên ức khẩn-na-la Vương, các hữu vô số khẩn-na-la nữ tiền hậu vi nhiễu; hựu xuất vô số bách thiên ức càn thát bà vương, các hữu vô số Càn thát bà nữ tiền hậu vi nhiễu. Các tấu vô số bách thiên Thiên nhạc, ca vịnh tán thán chư Pháp thật tánh, ca vịnh tán thán nhất thiết chư Phật, ca vịnh tán thán phát Bồ-đề tâm, ca vịnh tán thán tu Bồ Tát hạnh, ca vịnh tán thán nhất thiết chư Phật thành chánh giác môn, ca vịnh tán thán nhất thiết chư Phật chuyển pháp luân môn, ca vịnh tán thán nhất thiết chư Phật hiện thần biến môn, khai thị diễn thuyết nhất thiết chư Phật bát Niết Bàn môn, khai thị diễn thuyết thủ hộ nhất thiết chư Phật giáo môn, khai thị diễn thuyết lệnh nhất thiết chúng sanh giai hoan hỉ môn, khai thị diễn thuyết nghiêm tịnh nhất thiết chư Phật sát môn, khai thị diễn thuyết hiển thị nhất thiết vi diệu Pháp môn, khai thị diễn thuyết xả ly nhất thiết chư chướng ngại môn, khai thị diễn thuyết phát sanh nhất thiết chư thiện căn môn. Như thị chu biến thập phương Pháp giới.

Từ nơi bụng của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Khẩn Na La Vương, đều có vô số Khẩn Na La nữ trước sau vây quanh. Lại xuất hiện vô số Càn Thát Bà Vương, đều có vô số Càn Thát Bà nữ trước sau vây quanh. Ðều trổi vô số trăm ngàn thiên nhạc ca ngâm tán thán những pháp bửu tánh. Ca ngâm tán thán chư Phật Bửu. Ca ngâm tán thán phát Bồ đề tâm. Ca ngâm tán thán tu Bồ Tát hạnh. Ca ngâm tán thán môn thành Ðẳng Chánh Giác của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn chuyển pháp luân của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn hiện thần biến của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn nhập Niết bàn của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn thủ hộ giáo pháp của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. Khai thị diễn thuyết môn nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Khai thị diễn thuyết môn hiển bài tất cả pháp vi diệu. Khai thị diễn thuyết môn bỏ lìa tất cả chướng ngại. Khai thị diễn thuyết môn phát sanh tất cả thiện căn. Tất cả như vậy đều cùng khắp thế giới mười phương.

Giảng: Từ trong bụng của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Khẩn Na La Vương. Mỗi vị Khẩn Na La Vương, đều có vô số Khẩn Na La nữ, vây quanh trước sau. Lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Càn Thát Bà Vương. Mỗi vị Càn Thát Bà Vương đều có vô số Càn Thát Bà Vương nữ, vây quanh trước sau. Ai nấy đều tấu lên vô số trăm ngàn thứ nhạc trời, để ca ngâm khen ngợi thật tánh của các pháp. Ca tức là ca xướng, ngâm tức là ngâm thơ. Khen ngợi là dùng lời lẽ tốt đẹp để khen ngợi. Các vị ấy ca ngâm khen ngợi tất cả chư Phật thành Chánh Giác. Lại ca ngâm khen ngợi chúng sinh phát bồ đề tâm như thế nào. Lại ca ngâm khen ngợi làm thế nào tu Bồ Tát hạnh. Lại ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật làm thế nào thành Chánh Giác.

Lại ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật sau khi thành Chánh Giác rồi, làm thế nào chuyển bánh xe pháp. Lại ca ngâm khen ngợi pháp môn tất cả chư Phật làm thế nào hiện thần thông biến hoá. Lại khai thị diễn nói pháp môn tất cả chư Phật làm thế nào vào Bát Niết Bàn. Lại khai thị diễn nói pháp môn giữ gìn tất cả giáo pháp của chư Phật. Lại khai thị diễn nói pháp môn, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được đại hoan hỉ. Lại khai thị diễn nói pháp môn, làm thế nào nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Lại khai thị diễn nói pháp môn, hiển bày tất cả pháp vi diệu không thể nghĩ bàn. Lại khai thị diễn nói pháp môn, làm thế nào xả lìa tất cả các phiền não chướng ngại. Lại khai thị diễn nói pháp môn, làm thế nào khiến cho tất cả chúng sinh, phát tâm tu hành tất cả các căn lành. Đủ thứ những sự việc ca ngâm khen ngợi, khai thị diễn nói như vậy, khắp cùng mười phương pháp giới.

 

Tùng kỳ diện môn, xuất vô số bách thiên ức Chuyển luân Thánh Vương, thất bảo cụ túc, tứ binh vi nhiễu, phóng đại xả quang, vũ vô lượng bảo; chư bần phạp giả tất sử sung túc, lệnh kỳ vĩnh đoạn bất dữ thủ hành; đoan chánh thải nữ vô số bách thiên, tất dĩ xả thí tâm vô sở trước, lệnh kỳ vĩnh đoạn tà dâm chi hành; lệnh sanh từ tâm, bất đoạn sanh mạng; lệnh kỳ cứu cánh thường chân thật ngữ, bất tác hư cuống vô ích đàm thuyết; lệnh nhiếp tha ngữ, bất hành ly gian; lệnh nhu nhuyễn ngữ, vô hữu thô ác; lệnh thường diễn thuyết thậm thâm quyết định minh liễu chi nghĩa, bất tác vô nghĩa khỉ sức ngôn từ; vi thuyết thiểu dục, lệnh trừ tham ái, tâm vô hà cấu; vi thuyết đại bi, lệnh trừ phẫn nộ, ý đắc thanh tịnh; vi thuyết thật nghĩa, lệnh kỳ quan sát nhất thiết chư pháp, thâm nhập nhân duyên, thiện minh đế lý, bạt tà kiến thứ, phá nghi hoặc sơn, nhất thiết chướng ngại tất giai trừ diệt. như thị sở tác, sung mãn Pháp giới.

Từ trên mặt của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Chuyển Luân Thánh Vương, thất bửu đầy đủ, bốn đội binh vây quanh, phóng ánh sáng đại xả, mưa vô lượng bửu làm cho người nghèo thiếu đều được no đủ và làm cho họ bỏ hẳn sự trộm cắp. Thể nữ sinh đẹp vô số trăm ngàn đều đem xả thí không tiếc, làm cho họ bỏ hẳn sự tà dâm; làm cho họ sanh lòng từ chẳng giết hại; làm cho họ rốt ráo thường nói lời chân thật, chẳng dối phỉnh, chẳng luận đàm vô ích; làm cho họ nói lời hòa giải vui thuận chẳng làm sự ly gián; làm cho họ nói lời diệu dàng không có thô ác; làm cho họ thường diễn thuyết những nghĩa thậm thâm nhất định minh liễu, chẳng nói lời vô nghĩa trau chuốt. Vì họ mà nói thiểu dục cho họ trừ tham ái lòng không nhơ bợn. Vì họ mà nói đại bi cho họ trừ sân hận tâm ý được thanh tịnh. Vì họ mà nói thật nghĩa khiến họ quán sát tất cả pháp thâm nhập nhơn duyên, khéo rõ đế lý, nhổ gai tà kiến, phá núi nghi hoặc, trừ diệt tất cả chướng ngại. Những việc làm như vậy đều đầy khắp pháp giới.

Giảng: Từ trên mặt của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Chuyển Luân Thánh Vương. Trên mặt hiện ra luân vương, biểu thị rộng bày thập thiện, khiến cho chúng sinh hướng về Phật pháp. Chuyển Luân Thánh Vương là người có phước bậc nhất thế gian, lúc con người thọ tám vạn bốn ngàn tuổi thì xuất hiện, thống trị bốn thiên hạ, có bốn thứ phước báu:
1. Đại phú, trân bảo, tài vật, ruộng nhà rất nhiều, là bậc nhất thiên hạ.
2. Tướng mạo đoan chánh trang nghiêm, đủ ba mươi hai tướng.
3. Thân thể mạnh khoẻ không bệnh, an ổn khoái lạc.
4. Thọ mạng lâu dài, bậc nhất thiên hạ.

Khi Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện, thì thiên hạ thái bình, nhân dân an lạc, chẳng có thiên tai nhân hoạ. Đó là do trong đời quá khứ, tu nhiều phước nghiệp, đáng tiếc không tu huệ nghiệp xuất thế, cho nên trở thành đại vương có phước báu thống trị thế gian, mà không thể tu hành ngộ đạo chứng quả.

Mỗi một vị Chuyển Luân Thánh Vương đều có đầy đủ bảy báu, có bốn binh vây quanh. Phóng ra quang minh đại thí xả, mưa xuống vô lượng châu báu, khiến cho người nghèo thiếu, đều được đầy đủ, khiến cho họ vĩnh viễn dứt hẳn hành vi trộm cắp. Lại có vô số trăm ngàn thể nữ xinh đẹp, đều đem xả thí cho hết, mà tâm không có chút chấp trước nào. Không có người thí, không có kẻ nhận, không có vật thí, đó là tam luân thể không. Khiến cho chúng sinh vĩnh viễn dứt hạnh tà dâm. Khiến cho chúng sinh sinh tâm từ, không giết hại sinh mạng kẻ khác. Khiến cho chúng sinh rốt ráo thường nói lời chân thật, không nói lời hư dối vô ích. Khiến cho họ nhiếp lời người khác, không nói lời ly gián.

Khiến cho chúng sinh nói lời nhu hoà, không nói lời thô ác. Khiến cho chúng sinh thường diễn nói nghĩa lý thâm sâu quyết định sáng tỏ, không nói lời lẽ thêu dệt vô nghĩa. Vì chúng sinh nói pháp môn ít dục, khiến cho họ trừ khử tham ái, trong tâm không còn cấu bẩn và nhiễm ô. Vì chúng sinh nói pháp đại bi, khiến cho họ tiêu trừ phẫn nộ, thân miệng ý ba nghiệp đều được thanh tịnh. Vì chúng sinh nói nghĩa lý chân thật, khiến cho hết thảy chúng sinh quán sát tất cả các pháp, vào sâu nhân duyên các pháp. Khéo thấu rõ đế lý chân thật, nhổ trừ gai tà kiến, phá núi nghi hoặc đối với chân lý, tất cả chướng ngại, thảy đều trừ diệt hết. Những việc làm như vậy, đều đầy khắp pháp giới.

 

Tùng kỳ lưỡng mục, xuất vô số bách thiên ức nhật luân, phổ chiếu nhất thiết chư đại địa ngục cập chư ác thú, giai lệnh ly khổ; hựu chiếu nhất thiết thế giới trung gian, lệnh trừ hắc ám; hựu chiếu nhất thiết thập phương chúng sanh, giai lệnh xả ly ngu si ế chướng; ư cấu trược quốc độ phóng thanh Tịnh Quang, bạch ngân quốc độ phóng hoàng kim sắc quang, hoàng kim quốc độ phóng bạch ngân sắc quang, lưu ly quốc độ phóng pha lê sắc quang, pha lê quốc độ phóng lưu ly sắc quang, xa cừ quốc độ phóng mã não sắc quang, mã não quốc độ phóng xa cừ sắc quang, đế thanh quốc độ phóng nhật tạng ma-ni Vương sắc quang, nhật tạng ma-ni Vương quốc độ phóng đế thanh sắc quang, xích trân châu quốc độ phóng nguyệt quang võng tạng ma-ni Vương sắc quang, nguyệt quang võng tạng ma-ni Vương quốc độ phóng xích trân châu sắc quang, nhất bảo sở thành quốc độ phóng chủng chủng bảo sắc quang, chủng chủng bảo sở thành quốc độ phóng nhất bảo sắc quang, chiếu chư chúng sanh tâm chi trù lâm, biện chư chúng sanh vô lượng sự nghiệp, nghiêm sức nhất thiết thế gian cảnh giới, lệnh chư chúng sanh tâm đắc thanh lương sanh đại hoan hỉ. Như thị sở tác, sung mãn Pháp giới.

Từ hai mắt của Hải Tràng tỳ kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức nhật luân chiếu khắp tất cả những đại địa ngục và những ác thú ,đều làm cho họ khỏi khổ. Lại chiếu chặng giữa tất cả thế giới để trừ tăm tối. Lại chiếu chúng sanh mười phương đều làm cho họ bỏ lìa ngu si ế chướng. Nơi quốc độ cấu trược phóng thanh tịnh quang. Cõi nước bạch ngân phóng ánh sáng màu huỳnh kim. Nơi cõi nước huỳnh kim phóng ánh sáng màu bạch ngân. Nơi cõi nước lưu ly phóng ánh sáng màu pha lê. Cõi nước pha lê phóng ánh sáng màu lưu ly. Cõi nước xa cừ phóng ánh sáng màu mã não. Cõi nước mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Cõi nước đế thanh phóng ánh sáng màu nhật tạng ma ni vương. Cõi nước nhật tạng ma ni vương phóng ánh sáng màu đế thanh. Cõi nước xích chơn châu phóng ánh sáng nguyệt quang võng tạng ma ni vương. Cõi nước nguyệt quang võng tạng ma ni vương phóng ánh sáng màu xích chơn châu. Cõi nước một thứ bửu làm thành phóng ánh sáng màu nhiều thứ báu. Cõi nước nhiều thứ báu làm thành phóng ánh sáng màu một thứ báu. Những ánh sáng này chiếu đến tâm rừng rậm của chúng sanh, làm xong vô lượng sự nghiệp của chúng sanh, nghiêm sức tất cả cảnh giới thế gian, làm cho các chúng sanh tâm được mát mẻ rất hoan hỷ. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.

Giảng: Từ hai mắt của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức vầng mặt trời, chiếu sáng khắp tất cả các đại địa ngục và tất cả các cõi ác, đều khiến cho chúng sinh trong cõi ác lìa khổ được vui. Lại chiếu đến tất cả thế giới, khiến cho diệt trừ đen tối. Lại chiếu đến tất cả mười phương chúng sinh, đều khiến cho họ xả lìa màng chướng ngu si. Lại ở cõi nước dơ đục, tức cũng là thế giới Ta Bà mà chúng ta đang sống, thì phóng đại quang minh thanh tịnh. Ở cõi nước bạc trắng, thì phóng quang minh màu vàng ròng. Cõi nước vàng ròng, thì phóng quang minh màu bạc trắng. Cõi nước lưu ly, thì phóng quang minh màu pha lê. Cõi nước pha lê, thì phóng quang minh màu lưu ly. Cõi nước xa cừ, thì phóng quang minh màu mã não. Cõi nước mã não, thì phóng quang minh màu xa cừ.

Cõi nước đế thanh, thì phóng quang minh màu nhựt tạng ma ni vương. Cõi nước nhựt tạng ma ni vương, thì phóng quang minh màu đế thanh. Cõi nước xích chân châu, thì phóng quang minh màu nguyệt quang võng tạng ma ni vương. Cõi nước nguyệt quang võng tạng ma ni vương, thì phóng quang minh màu xích chân châu. Cõi nước một báu làm thành, thì phóng quang minh đủ thứ sắc báu. Cõi nước đủ thứ báu làm thành, thì phóng quang minh một sắc báu. Dùng đủ thứ quang minh chiếu soi khắp tâm rừng rậm của tất cả các chúng sinh. Biện lý vô lượng sự nghiệp của tất cả các chúng sinh, nghiêm sức cảnh giới của tất cả thế gian, khiến cho tâm của tất cả các chúng sinh đều được mát mẻ, sinh đại hoan hỉ. Đủ thứ những cảnh giới việc làm như vậy, đều đầy khắp mười phương pháp giới.

 

Tùng kỳ my gian bạch hào tướng trung, xuất vô số bách thiên ức Đế Thích, giai ư cảnh giới nhi đắc tự tại, ma ni bảo châu hệ kỳ đảnh thượng, quang chiếu nhất thiết chư Thiên cung điện, chấn động nhất thiết Tu Di Sơn Vương, giác ngộ nhất thiết chư Thiên Đại chúng; thán phước đức lực, thuyết trí tuệ lực, sanh kỳ lạc lực, trì kỳ chí lực, tịnh kỳ niệm lực, kiên kỳ sở phát Bồ-đề tâm lực, tán lạc kiến Phật; lệnh trừ thế dục, tán lạc văn Pháp; lệnh yếm thế cảnh, tán lạc quán trí; lệnh tuyệt thế nhiễm, chỉ tu La chiến, đoạn phiền não tránh, diệt phố tử tâm, phát hàng ma nguyện, hưng lập chánh Pháp Tu Di Sơn Vương, thành biện chúng sanh nhất thiết sự nghiệp. Như thị sở tác, chu biến pháp giới.

Từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức Ðế Thích dều tự tại nơi cảnh giới, trên đảnh có ma ni bửu châu chiếu sáng tất cả các thiên cung điện. Chấn động tất cả Tu Di Sơn Vương, giác ngộ tất cả chư Thiên chúng, khen sức phước đức, nói sức trí huệ, sức sanh báo vui, sức trì chí, sức tịnh niệm, sức bền tâm Bồ đề đã phát, khen thích thấy Phật khiến trừ ham muốn thế gian, khen thích nghe pháp khiến nhàm cảnh thế gian, khen thích quán trí khiến tuyệt thế nhiễm, ngăn chiến trận của A Tu La, dứt phiền não đấu tranh, diệt tâm sợ chết, phát nguyện hàng ma, hưng lập chánh pháp, thành xong tất cả sự nghiệp của chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.

Giảng: Từ trong tướng bạch hào giữa lông mày của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức trời Đế Thích, tức là Thích Đề Hoàn Nhân, là Thiên chủ cõi trời Ba Mươi Ba. Trong Chú Lăng Nghiêm có nói đến là “Nhân Đà La Gia”, tức Nhân Đà La Vương, đều đắc được tự tại nơi tất cả cảnh giới. Giữa lông mày hiện ra trời Đế Thích, vì Đế Thích ở giữa địa cư thiên, là tối tôn thắng. Đây là biểu thị dùng trung đạo Bát Nhã, hoá đạo chúng sinh, khiến cho họ lìa năm dục, mà đắc được pháp trắng thanh tịnh. Trên đảnh của mỗi vị trời Đế Thích, đều có hạt ma ni bảo châu, ánh sáng chiếu sáng khắp tất cả cung điện chư Thiên. Chấn động tất cả núi chúa Tu Di, giác ngộ tất cả đại chúng chư Thiên, họ đều chẳng nhập định, mà cùng nhau tìm hỏi: “Đó là sự việc gì thế? Sao núi Tu Di lại giao động”?

Quang minh của bảo châu ma ni lại khen ngợi lực phước đức, diễn nói lực trí huệ, khiến cho chúng sinh đều sinh hoan hỉ, mà phát nguyện tu hành. Thanh tịnh lực niệm, trừ đi tất cả vọng tưởng. Họ kiên cố lực phát bồ đề tâm của mỗi chúng sinh. Khen ngợi chúng sinh ưa thích thấy Phật, khiến cho họ trừ khử tham dục, dâm dục và vật dục thế gian. Khen ngợi chúng sinh ưa thích nghe pháp, khiến cho họ nhàm chán cảnh thế gian. Khen ngợi chúng sinh ưa thích diệu quán sát trí, khiến cho họ dứt hẳn pháp ô nhiễm thế gian. Ngừng tư tưởng đấu tranh giống như A Tu La, dứt trừ tất cả phiền não tranh luận. Diệt trừ tâm sợ chết của chúng sinh, mà phát nguyện hàng phục tất cả các ma. Hưng lập đại tràng chánh pháp, cao vời nguy nga như núi chúa Tu Di. Họ thành tựu tất cả sự nghiệp của chúng sinh. Đủ thứ những cảnh giới sự việc như vậy, đều khắp cùng pháp giới.

 

Tùng kỳ ngạch thượng, xuất vô số bách thiên ức phạm thiên, sắc tướng đoan nghiêm, thế gian vô bỉ, uy nghi tịch tĩnh, ngôn âm mỹ diệu, khuyến Phật thuyết Pháp, thán Phật công đức, lệnh chư Bồ-tát tất giai hoan hỉ, năng biện chúng sanh vô lượng sự nghiệp, phổ biến nhất thiết thập phương thế giới.

Từ trên trán của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện trăm ngàn ức Phạm Thiên sắc tướng đoan nghiêm thế gian không sánh kịp oai nghi tịch tịnh, lời nói hay diệu, khuyên Phật thuyết pháp, khen Phật công đức làm cho các Bồ Tát đều hoan hỷ, có thể làm xong vô lượng sự nghiệp cho chúng sanh, cùng khắp tất cả thế giới mười phương.

Giảng: Từ trên trán của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra vô số trăm ngàn ức Đại Phạm Thiên Vương. Trên trán hiện Phạm Vương, vì Phạm Vương đã vượt qua dục giới. Hơn nữa trán kế trên lông mày, biểu thị sự thỉnh pháp. Sắc tướng của mỗi vị Phạm Thiên Vương, đều rất đoan chánh trang nghiêm, trên thế gian không ai có thể sánh bằng. Oai nghi của họ rất tịch tĩnh, lời nói rất hay đẹp. Họ khuyến thỉnh Phật vì chúng sinh thuyết pháp. Khen ngợi công đức của Phật, khiến cho các Bồ Tát thảy đều hoan hỉ. Họ hay biện lý vô lượng sự nghiệp của chúng sinh, khắp cùng trong tất cả mười phương thế giới.

 

Tùng kỳ đầu thượng, xuất vô lượng Phật sát vi trần số chư Bồ-tát chúng, tất dĩ tướng hảo trang nghiêm kỳ thân, phóng vô biên quang, thuyết chủng chủng hạnh. Sở vị:

Từ trên đầu của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô lượng Phật sát vi trần số chư Bồ Tát đều dùng tướng hảo trang nghiêm nơi thân, phóng vô biên quang nói các công hạnh. Đó là:

Giảng: Từ trên đầu của Tỳ Kheo Hải Tràng, lại hiện ra các chúng Bồ Tát nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Mỗi vị Bồ Tát đều dùng ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân mình. Phóng ra vô biên quang minh, diễn nói đủ thứ hạnh. Đầu hiện ra Bồ Tát, là vì Bồ Tát là tối thượng thủ. Sau đây diễn nói về hạnh mười độ của Bồ Tát. Đó là:

 

Tán thán bố thí, lệnh xả xan tham, đắc chúng diệu bảo trang nghiêm thế giới;

1. Những là tán thán bố thí khiến bỏ xan tham được các diệu bửu trang nghiêm thế giới,

Giảng: 1. Khen ngợi hạnh bố thí, khiến cho tất cả chúng sinh lìa bỏ xan tham, đắc được các diệu báu, để trang nghiêm thế giới.

 

Xưng dương tán thán trì giới công đức, lệnh chư chúng sanh vĩnh đoạn chư ác, trụ ư Bồ Tát đại từ bi giới; thuyết nhất thiết hữu tất giai như mộng,  thuyết chư dục lạc vô hữu tư vị, lệnh chư chúng sanh ly phiền não phược;

2. Xưng dương công đức trì giới khiến các chúng sanh dứt hẳn những điều ác mà an trụ nơi giới đại từ bi của Bồ Tát. Nói tất cả pháp hữu vi thảy đều như mộng, nói những dục lạc không có tư vị khiến các chúng sanh rời sự ràng buộc của phiền não.

Giảng: 2. Tán thán khen ngợi công đức trì giới, khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn dứt các điều ác. Do đó: “Đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành”, trụ nơi giới đại từ bi của Bồ Tát. Nói tất cả tam giới hai mươi lăm cõi, đều như mộng huyễn bọt bóng. Nói các dục lạc, đều không có từ vị, khiến cho hết thảy chúng sinh lìa khỏi phiền não ràng buộc, mà được tự tại.

 

Thuyết nhẫn nhục lực, lệnh ư chư Pháp tâm đắc tự tại; tán kim sắc thân, lệnh chư chúng sanh ly sân khuể cấu, khởi đối trì hạnh, tuyệt súc sanh đạo

3. Nói sức nhẫn nhục khiến các pháp tâm được tự tại. Khen thân kim sắc khiến các chúng sanh lìa nhơ sân hận, khởi hạnh đối trị tuyệt đường súc sanh.

Giảng: 3. Lại vì tất cả chúng sinh diễn nói pháp môn nhẫn nhục, khiến cho các chúng sinh nơi các pháp tâm được tự tại. Lại khen ngợi thân sắc vàng của Phật, khiến cho các chúng sinh lìa sân hận cấu bẩn. Lại phát khởi hạnh đối trị, ví như chúng sinh nhiều sân, thì dạy họ tu quán từ bi, sẽ dứt hẳn đoạ lạc vào con đường súc sinh.

 

Thán tinh tấn hạnh, lệnh kỳ viễn ly thế gian phóng dật, giai tất cần tu vô lượng diệu pháp;

4. Khen hạnh tinh tấn khiến họ xa lìa thế gian phóng dật, đều siêng tu vô lượng diệu pháp.

Giảng: 4. Khen hạnh tinh tấn, khiến cho tất cả chúng sinh xa lìa sự phóng dật của thế gian, đều siêng tu vô lượng diệu pháp.

 

Hựu vi tán thán Thiền Ba-la-mật, lệnh kỳ nhất thiết tâm đắc tự tại;

5. Lại tán thán Thiền Ba la mật khiến tất cả tâm được tự tại. \

Giảng: 5. Lại vì họ khen ngợi thiền định Ba La Mật, khiến cho hết thảy chúng sinh tâm đều được tự tại.

 

Hựu vi diễn thuyết Bát-nhã Ba-la-mật, khai thị chánh kiến, lệnh chư chúng sanh lạc tự tại trí bạt chư kiến độc;

6. Lại diễn thuyết Bát Nhã Ba la mật khai thị chánh kiến, khiến các chúng sanh thích trí tự tại trừ những kiến chấp.

Giảng: 6. Lại vì họ diễn nói Bát Nhã Ba La Mật, khai thị chánh tri chánh kiến, khiến cho các chúng sinh hoan hỉ tự tại trí huệ, nhổ trừ ác độc tất cả tà tri tà kiến.

 

Hựu vi diễn thuyết tùy thuận thế gian chủng chủng sở tác, lệnh chư chúng sanh tuy ly sanh tử, nhi ư chư thú tự tại thọ sanh;

7. Lại diễn thuyết những việc làm tùy thuận thế gian, khiến các chúng sanh dầu lìa sanh tử mà ở nơi các loài tự tại thọ sanh.

Giảng: 7. Lại vì họ diễn nói cảnh giới đủ thứ việc làm tuỳ thuận thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh tuy lìa sinh tử, mà ở trong các cõi tự tại thọ sinh.

 

Hựu vi thị hiện thần thông biến hóa, thuyết thọ mạng tự tại, lệnh chư chúng sanh phát đại thệ nguyện;

8. Lại hiện thần thông biến hóa nói thọ mạng tự tại, khiến các chúng sanh phát đại thệ nguyện.

Giảng: 8. Lại vì họ thị hiện thần thông biến hoá, diễn nói thọ mạng tự tại, khiến cho tất cả chúng sinh phát đại thệ nguyện Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Hựu vi diễn thuyết thành tựu tổng trì lực, xuất sanh đại nguyện lực, tịnh trì tam muội lực, tự tại thọ sanh lực;

9. Lại diễn thuyết thành tựu sức tổng trì, xuất sanh sức đại nguyện, sức tịnh trị tam muội, sức tự tại thọ sanh.

Giảng: 9. Lại vì họ diễn nói thành tựu sức tổng trì Đà La Ni, hay sinh ra sức đại nguyện, sức tịnh trị tam muội, sức tự tại thọ sinh.

 

Hựu vi diễn thuyết chủng chủng chư trí, sở vị: phổ tri chúng sanh chư căn trí, phổ tri nhất thiết tâm hành trí, phổ tri Như Lai thập lực trí, phổ tri chư Phật tự tại trí. Như thị sở tác, chu biến pháp giới.

10. Lại diễn thuyết các thứ trí: như là trí biết khắp căn tánh của các chúng sanh, trí biết khắp tất cả tâm hành, trí biết khắp Như Lai thập lực, trí biết khắp chư Phật tự tại, những sự như vậy cùng khắp pháp giới.

Giảng: 10. Lại vì họ diễn nói đủ thứ các trí huệ, đó là: Trí huệ biết khắp các căn của tất cả chúng sinh, trí huệ biết khắp tất cả tâm hạnh của tất cả chúng sinh, trí huệ biết khắp mười lực của Như Lai, trí biết khắp tự tại của chư Phật. Những việc như vậy, đều khắp cùng pháp giới.

 

Tùng kỳ đảnh thượng, xuất vô số bách thiên ức Như Lai thân, kỳ thân vô đẳng, chư tướng tùy hảo, thanh tịnh trang nghiêm, uy quang hách dịch như chân kim sơn, vô lượng quang minh phổ chiếu thập phương, xuất diệu âm thanh sung mãn Pháp giới, thị hiện vô lượng đại thần thông lực, vi nhất thiết thế gian phổ vũ Pháp vũ.

Từ trên đảnh của Hải Tràng Tỳ Kheo xuất hiện vô số trăm ngàn ức thân Như Lai. Thân đó không ai bằng, đủ các tướng hảo thanh tịnh trang nghiêm, oai quang rực rỡ như tòa núi vàng vô lượng quang minh chiếu khắp mười phương, pháp diệu âm thanh sung mãn pháp giới, thị hiện vô lượng sức thần thông. Vì tất cả thế gian mà mưa pháp vũ:

Giảng: Từ trên đỉnh của Tỳ Kheo Hải Tràng, hiện ra vô số trăm ngàn ức pháp thân Như Lai. Trên đỉnh hiện ra Phật, biểu thị Phật vô thượng nhất. Mỗi pháp thân của Như Lai, đều không gì sánh bằng, đều đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, thanh tịnh trang nghiêm, oai quang rực rỡ như núi vàng thật. Phóng ra vô lượng quang minh, chiếu khắp mười phương pháp giới. Lại vang âm thanh vi diệu, đầy khắp pháp giới. Lại thị hiện vô lượng sức đại thần thông, vì tất cả thế gian khắp mưa pháp vũ, thấm nhuần hết thảy chúng sinh.

 

Sở vị: vi tọa Bồ-đề đạo tràng chư Bồ-tát, vũ phổ tri bình đẳng pháp vũ; vi quán đảnh vị chư Bồ-tát, vũ nhập Phổ môn Pháp vũ; vi pháp vương tử vị chư Bồ-tát, vũ phổ trang nghiêm Pháp vũ; vi Đồng tử vị chư Bồ-tát, vũ kiên cố sơn Pháp vũ; vi ất thoái vị chư Bồ-tát, vũ hải tạng Pháp vũ; vi thành tựu chánh tâm vị chư Bồ-tát, vũ phổ cảnh giới Pháp vũ; vi phương tiện cụ túc vị chư Bồ-tát, vũ tự tánh môn Pháp vũ; vi sanh quý vị chư Bồ-tát, vũ tùy thuận thế gian Pháp vũ; vi tu hành vị chư Bồ-tát, vũ phổ bi mẫn Pháp vũ; vi tân học chư Bồ-tát, vũ tích tập tạng Pháp vũ; vi sơ phát tâm chư Bồ-tát, vũ nhiếp chúng sanh pháp vũ; vi tín giải chư Bồ-tát, vũ vô tận cảnh giới phổ hiện tiền Pháp vũ; vi sắc giới chư chúng sanh, vũ Phổ môn Pháp vũ; vi chư phạm thiên, vũ phổ tạng Pháp vũ; vi chư Tự tại Thiên, vũ sanh lực Pháp vũ; vi chư ma chúng, vũ tâm tràng Pháp vũ; vi chư Hoá Lạc Thiên, vũ tịnh niệm Pháp vũ; vi chư Đâu suất thiên, vũ sanh ý Pháp vũ; vi chư dạ ma thiên, vũ hoan hỉ Pháp vũ

Đó là: Vì chư Bồ Tát ngồi Bồ đề đạo tràng mà mưa pháp vũ bình đẳng biết khắp. Vì chư Bồ Tát ở ngôi quán đảnh mà mưa pháp vũ nhập phổ môn. Vì chư Bồ Tát Pháp Vương Tử vị mà mưa pháp vũ phổ trang nghiêm. Vì chư Bồ Tát đồng tử vị mà mưa pháp vũ kiên cố sơn. Vì chư Bồ Tát bất thối vị mà mưa pháp vũ hải tạng. Vì chư Bồ Tát thành tựu chánh tâm vị mà mưa pháp vũ phổ cảnh giới. Vì chư Bồ Tát phương tiện cụ túc vị mà mưa pháp vũ tự tánh môn. Vì chư Bồ Tát sanh quý vị mà mưa pháp vũ tùy thuận thế gian. Vì chư Bồ Tát tu hành vị mà mưa pháp vũ khắp bi mẫn. Vì chư Bồ Tát tân học mà mưa pháp vũ tích tập tạng. Vì chư Bồ Tát sơ phát tâm mà mưa pháp vũ nhiếp chúng sanh. Vì chư Bồ Tát tín giải mà mưa pháp vũ vô tận cảnh giới khắp hiện tiền. Vì Sắc giới các chúng sanh mà mưa pháp vũ phổ môn. Vì chư Phạm Thiên mà mưa pháp vũ sanh lực. Vì chư ma chúng mà mưa pháp vũ tâm tràng. vì chư Thiên Hóa Lạc mà mưa pháp vũ tịnh niệm. Vì chư Thiên Ðâu Suất ma mưa pháp vũ sanh ý. Vì chư Thiên Dạ Ma mà mưa pháp vũ hoan hỷ.

Giảng: Đó là:

1.     Vì các Bồ Tát ngồi Bồ đề đạo tràng, khắp mưa pháp vũ biết tất cả chúng sinh bình đẳng. Pháp vũ khắp biết bình đẳng có ba ý nghĩa:
a. Thuỷ giác là đồng bổn, chẳng có sự phân biệt thuỷ bổn.
b. Đồng chư Phật.
c. Chúng sinh và Phật là một tánh.

2.     Lại vì các Bồ Tát bậc quán đảnh (tức trụ thứ mười trong thập trụ), mưa pháp vũ nhập phổ môn. Phổ môn tức ba đời đồng mười thứ trí huệ. Khuyên Bồ Tát đó trụ nơi bậc quán đảnh, bèn thắng tấn tu.

3.     Lại vì các Bồ Tát bậc Pháp Vương tử (trụ thứ chín), mưa pháp vũ khắp trang nghiêm. Trụ nơi bậc Pháp Vương tử, là Bồ Tát sắp thành Phật, khiến cho các Ngài học tập khéo léo nơi an lập của bậc Pháp Vương, mà tự trang nghiêm.

4.     Lại vì các Bồ Tát bậc đồng tử (trụ thứ tám), mưa pháp vũ núi kiên cố, khiến cho các Ngài học tập biết cõi động, đều không thể hoại, như núi cao nhất.

5.     Lại vì các Bồ Tát bậc bất thối (trụ thứ bảy), mưa pháp vũ hải tạng, khiến cho các Ngài học tập một tức là nhiều, nhiều tức là một, mười thứ diệu pháp rộng lớn thâm sâu.

6.     Lại vì các Bồ Tát bậc thành tựu chánh tâm (trụ thứ sáu), mưa pháp vũ khắp cảnh giới, khiến cho các Ngài học tập tất cả pháp đều không tướng, không thể, tức tất cả đều bình đẳng.

7.     Lại vì các Bồ Tát bậc phương tiện đầy đủ (trụ thứ năm), mưa pháp vũ tự tánh môn, khiến cho các Ngài biết chúng sinh vô biên, cho đến biết chúng sinh không tự tánh, đều là tự tánh môn, mà dùng vô biên đồng vào tự tánh.

8.     Lại vì các Bồ Tát bậc sinh quý (trụ thứ tư), mưa pháp vũ tuỳ thuận thế gian, khiến cho các Ngài biết rõ Phật pháp viên mãn ba đời, đều là tuỳ thuận thế gian.

9.     Lại vì các Bồ Tát bậc tu hành (trụ thứ ba), mưa pháp vũ khắp thương xót, khiến cho các Ngài quán sát khắp cõi chúng sinh, mà sinh tâm thương xót.

10.                     Lại vì các Bồ Tát mới học (trụ thứ hai trị địa), mưa pháp vũ tích tập tạng, khiến cho các Ngài tụng tập đa văn, hư nhàn tịch tĩnh, gần gũi thiện tri thức, đều tích tập hàm tàng, mà nơi pháp tu hành, để trị tâm địa.

11.                     Lại vì các Bồ Tát mới phát tâm (trụ thứ nhất), mưa pháp vũ nhiếp thọ chúng sinh, khiến cho các Ngài siêng cúng dường Phật, chủ đạo thế gian, mà nhiếp thọ chúng sinh.

12.                     Lại vì các Bồ Tát tin hiểu (tức bậc thập tín), mưa pháp vũ cảnh giới vô tận khắp hiện tiền, khiến cho các Ngài khắp duyên cảnh giới vô tận của Như Lai và Phổ Hiền, mà sinh tín tâm, phân minh hiện tiền, mà tiến tu vào các bậc.

13.                     Tỳ Kheo Hải Tràng lại vì các chúng sinh cõi sắc, mưa pháp vũ phổ môn, khiến cho họ xả bỏ ngoại duyên, mà hồi quang phản chiếu, đắc được tâm cảnh vô ngại.

14.                     Lại vì các Phạm Thiên (tức trời sơ thiền), mưa pháp vũ phổ tạng, vì họ vốn tích tập nhiều từ bi, nhưng luyến ái quyến thuộc của mình. Hiện khiến cho họ từ bi tất cả, hàm chứa phước vô cùng.

15.                     Lại vì các trời Tự Tại (tức Tha Hoá Tự Tại), mưa pháp vũ sinh lực, khiến cho họ chuyển thế vô ngại, sinh mười lực tự tại.

16.                     Lại vì các chúng ma (tức từ trong trời Tha Hoá, phân ra chúng ma), mưa pháp vũ tâm tràng, vì ma hoan hỉ tự cao, hiện khiến cho họ đắc được tâm từ pháp tràng, diệt trừ tâm tà mạn của họ.

17.                     Lại vì các trời Hoá Lạc, mưa pháp vũ tịnh niệm. Vì tuy họ tuỳ niệm hoá lạc, nhưng ô nhiễm tự tâm, cho nên khiến cho họ chuyển nhiễm niệm thành tịnh niệm.

18.                     Lại vì các trời Đâu Suất, mưa pháp vũ sinh ý. Họ tuy nơi thế lạc đắc được đầy đủ, nhưng nên sinh ý xuất thế.

19.                     Lại vì các trời Dạ Ma, mưa pháp vũ hoan hỉ. Vì thế lạc thời phần tuy khen vui, nhưng chẳng bằng niềm vui của pháp.

 

Vi chư Đao Lợi Thiên, vũ tật trang nghiêm hư không giới Pháp vũ; vi chư dạ xoa Vương, vũ hoan hỉ Pháp vũ; vi chư càn thát bà vương, vũ Kim Cương luân Pháp vũ; vi chư A-tu-la Vương, vũ Đại cảnh giới Pháp vũ; vi chư Ca Lâu La Vương, vũ vô biên quang minh Pháp vũ; vi chư khẩn-na-la Vương, vũ nhất thiết thế gian thù thắng trí Pháp vũ; vi chư nhân Vương, vũ vô lạc trước pháp vũ; vi chư long Vương, vũ hoan hỉ tràng Pháp vũ; vi chư Ma hầu la già Vương, vũ Đại hưu tức Pháp vũ; vi chư địa ngục chúng sanh, vũ chánh niệm trang nghiêm Pháp vũ; vi chư súc sanh, vũ trí tuệ tạng Pháp vũ; vi Diêm la Vương giới chúng sanh, vũ vô úy Pháp vũ; vi chư ách nạn xứ chúng sanh, vũ phổ an uý Pháp vũ. tất lệnh đắc nhập hiền thánh chúng hội. Như thị sở tác, sung mãn Pháp giới.

Vì chư Thiên Ðao Lợi mà mưa pháp vũ mau trang nghiêm cõi hư không. Vì chư Dạ Xoa Vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư Càn Thát Ba Vương mà mưa pháp vũ kim cang luân. Vì chư A Tu La Vương mà mưa pháp vũ đại cảnh giới. Vì chư Ca Lâu La Vương mà mưa pháp vũ vô biên quang minh. Vì chư Khẩn Na La Vương mà mưa pháp vũ tất cả thế gian trí thù thắng. Vì chư Nhơn Vương mà mưa pháp vũ không say đắm. Vì chư Long Vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ tràng. Vì chư Ma Hầu La Già Vương mà mưa pháp vũ bất hưu tức. Vì các chúng sanh địa ngục mà mưa pháp vũ chánh niệm trang nghiêm. Vì các súc sanh mà mưa pháp vũ trí huệ tạng. Vì các chúng sanh cõi Diêm La Vương mà mưa pháp vũ vô úy. Vì các chúng sanh ở xứ ách nạn mà mưa pháp vũ phổ an ủy. Ðều làm cho tất cả chúng sanh được vào chúng hội Hiền Thánh. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.

Giảng:

20.                     Lại vì các trời Đao Lợi, mưa pháp vũ mau trang nghiêm cõi hư không. Vì địa cư thiên tuy cho rằng địa cư thiên là thù thắng, vẫn chẳng bằng phước đức trí huệ, không tịch trang nghiêm pháp tánh.

21.                     Lại vì các Dạ Xoa Vương, mưa pháp vũ hoan hỉ. Vì Dạ Xoa tánh tình rất tàn bạo, nay dùng phương pháp đối, khiến cho chúng sinh tâm hoan hỉ.

22.                     Lại vì các Càn Thát Bà Vương, mưa pháp vũ kim cang luân. Vì chúng khéo tấu âm nhạc. Thượng đức thanh văn, cũng vì thôi hoại. Hiện khiến cho chúng được trí kim cang, tức không gì mà không thôi phá được, không gì mà không viên mãn.

23.                     Lại vì các A Tu La Vương, mưa pháp vũ đại cảnh giới. Vì A Tu La cậy mình thân lớn mà sinh tâm kiêu mạn, hiện khiến cho chúng thấy được pháp thân, mà khen ngợi cảnh giới của pháp giới.

24.                     Lại vì các Ca Lâu La Vương, mưa pháp vũ vô biên quang minh. Vì khi chúng dùng mắt tịnh quán sát biển, thì ý muốn bắt rồng làm thức ăn. Hiện khiến cho họ dùng mắt từ trí quang, khắp chiếu cơ cảm.

25.                     Lại vì các Khẩn Na La Vương, mưa pháp vũ tất cả thế gian thù thắng trí, tuỳ thuận chúng khéo ca xướng, mà khiến cho chúng đắc được thế trí thù thắng tức không bộ hữu.

26.                     Lại vì các ông vua, mưa pháp vũ không thích chấp trước. Vì nhân vương chấp trước dục lạc thế gian, hiện dùng pháp đối trị mà khiến cho họ không thích chấp trước.

27.                     Lại vì các Long Vương, mưa pháp vũ hoan hỉ tràng. Vì Long Vương sân độc, nên vì chúng nói hoan hỉ. Lại vì chúng có sự sợ khổ cát nóng, mà nói pháp tràng, khiến cho chúng diệt trừ khổ của chúng.

28.                     Lại vì Ma Hầu La Già Vương, mưa pháp vũ đại hưu tức. Vì mãng xà nhiều độc hại, lại bị trùng ăn thịt mà không ngừng nghỉ. Nên vì chúng nói pháp bên trong dừng tâm độc, thì khổ bên ngoài sẽ dừng lại.

29.                     Lại vì các chúng sinh địa ngục, mưa pháp vũ chánh niệm trang nghiêm. Vì chúng sinh địa ngục, thân thọ vô biên khổ, tâm niệm vô biên ác. Nếu dùng chánh niệm Tam Bảo để trang nghiêm, thì sớm sẽ thoát khỏi các khổ.

30.                     Lại vì các súc sinh, mưa pháp vũ trí huệ tạng. Vì súc sinh nhiều ngu si.

31.                     Lại vì cõi Diêm La Vương, mưa pháp vũ vô uý. Vì quỷ tốt Diệm Ma đều hổ tương sợ hãi, mới sinh thân vương, cũng có sợ sắt nóng cột đồng chảy.

32.                     Lại vì các chúng sinh nơi hiểm nạn, mưa pháp vũ khắp an ủi. Các nạn tức là tám nạn, cùng với ngục tù địa ngục nhân gian các sự khổ thế gian, đều nhiều sự bất an, cho nên khắp mưa pháp vũ an ủi, khiến cho họ được vào chúng hội hiền Thánh và nhập vào dòng pháp tánh của Thánh nhân, để thoát khỏi các xứ nạn đó. Đủ thứ cảnh giới những việc như vậy, đều đầy khắp pháp giới.

 

Hải tràng Tỳ-kheo hựu ư kỳ thân nhất thiết mao khổng, nhất nhất giai xuất a-tăng-kì Phật sát vi trần số quang minh võng, nhất nhất quang minh võng cụ a-tăng-kì sắc tướng, a-tăng-kì trang nghiêm, a-tăng-kì cảnh giới, a-tăng-kì sự nghiệp, sung mãn thập phương nhất thiết pháp giới.

Lại nơi tất cả lỗ lông trên thân của Hải Tràng tỳ Kheo, mỗi mỗi đều phóng ra vô số Phật sát vi trần số quang minh võng. Mỗi mỗi quang minh võng đủ vô số sắc tướng, vô số trang nghiêm, vô cảnh giới, vô số sự nghiệp, sung mãn tất cả thế giới mười phương.

Giảng: Lại nữa, tất cả lỗ chân lông trên thân của Tỳ Kheo Hải Tràng, đều hiện ra lưới quang minh nhiều như số hạt bụi A tăng kỳ cõi Phật. Mỗi mỗi lưới quang minh, đều đầy đủ A tăng kỳ sắc tướng, A tăng kỳ trang nghiêm, A tăng kỳ cảnh giới, A tăng kỳ sự nghiệp, đầy khắp mười phương tất cả pháp giới.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm quan sát hải tràng Tỳ-kheo, thâm sanh khát ngưỡng, ức niệm bỉ tam muội giải thoát, tư tánh bỉ bất tư nghị Bồ Tát tam muội, tư tánh bỉ bất tư nghị lợi ích chúng sanh phương tiện hải, tư tánh bỉ bất tư nghị vô tác dụng phổ trang nghiêm môn, tư tánh bỉ trang nghiêm Pháp giới thanh tịnh trí, tư tánh bỉ thọ Phật gia trì trí, tư tánh bỉ xuất sanh Bồ Tát tự tại lực, tư tánh bỉ kiên cố Bồ Tát đại nguyện lực, tư tánh bỉ tăng quảng Bồ Tát chư hạnh lực.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử nhất tâm quán sát Hải Tràng Tỳ Kheo lòng rất khát ngưỡng. Ghi nhớ tam muội giải thoát của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì Bồ Tát tam muội của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì phương tiện lợi ích chúng sanh của Tỳ kheo. Tư duy bất tư nghì vô tác dụng phổ trang nghiêm môn của Tỳ kheo. Tư duy trí thanh tịnh trang nghiêm pháp giới của Tỳ kheo. Tư duy trí thọ Phật gia trì của Tỳ kheo. Tư duy sức tự tại xuất sanh Bồ Tát của Tỳ kheo. Tư duy sức đại nguyện kiên cố Bồ Tát của Tỳ kheo. Tư duy sức thêm rộng Bồ Tát hạnh của Tỳ Kheo Hải Tràng.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng quán sát cảnh giới tam muội của Tỳ Kheo Hải Tràng, rất khát ngưỡng đạo đức thần thông của Tỳ Kheo Hải Tràng. Do đó bèn suy gẫm nghĩ nhớ tam muội giải thoát của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm Bồ Tát tam muội không nghĩ bàn của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm biển phương tiện lợi ích chúng sinh không nghĩ bàn của Tỳ Kheo hải Tràng. Lại suy gẫm môn vô tác dụng phổ trang nghiêm không nghĩ bàn của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm trí thanh tịnh trang nghiêm pháp giới của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm trí thọ Phật gia trì của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm sinh ra Bồ Tát tự tại lực của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm Bồ Tát đại nguyện lực kiên cố của Tỳ Kheo Hải Tràng. Lại suy gẫm Bồ Tát các hạnh lực thêm rộng của Tỳ Kheo Hải Tràng.

 

Như thị trụ lập, tư tánh quan sát, Kinh nhất nhật nhất dạ, nãi chí Kinh ư thất nhật thất dạ, bán nguyệt, nhất nguyệt, nãi chí lục nguyệt, phục Kinh lục nhật. qua thử dĩ hậu, hải tràng Tỳ-kheo tùng tam muội xuất.

Thiện Tài đồng tử đứng tư duy quán sát như vậy qua một ngày đêm, nhẫn đến bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, đến sáu tháng, lại qua sáu ngày nữa Hải Tràng Tỳ Kheo mới xuất tam muội.

Giảng: Thiện Tài đồng tử đứng suy gẫm quán sát Tỳ Kheo Hải Tràng như vậy, trải qua một ngày một đêm, cho đến trải qua bảy ngày bảy đêm, nửa tháng một tháng, cho đến sáu tháng. Lại trải qua sáu ngày nữa, qua thời gian nầy rồi, Tỳ Kheo Hải Tràng mới từ tam muội dậy.
Sáu tháng sáu ngày, là viên mãn lục độ, trong trụ thứ sáu. Thiện Tài đồng tử nhờ dùng pháp vị tư thần, cho nên đều quên mất thân tâm, chẳng cảm thấy thời gian lâu.

 

Thiện tài đồng tử tán ngôn: Thánh Giả! hy hữu kì đặc! như thử tam muội tối vi thậm thâm, như thử tam muội tối vi quảng đại, như thử tam muội cảnh giới vô lượng, như thử tam muội thần lực nan tư, như thử tam muội quang minh vô đẳng, như thử tam muội trang nghiêm vô số, như thử tam muội uy lực nan chế, như thử tam muội cảnh giới bình đẳng, như thử tam muội phổ chiếu thập phương, như thử tam muội lợi ích vô hạn, dĩ năng trừ diệt nhất thiết chúng sanh vô lượng khổ cố.

Thiện Tài đồng tử khen rằng: Bạch đức Thánh ! Hy hữ kỳ đặc, tam muội như thế rất là sâu xa, tam muội như vậy rất là quảng đại, tam muội như vậy cảnh giới vô lượng, tam muội như vậy thần lực khó nghĩ, tam muội như vậy quang minh không gì bằng, tam muội như vậy trang nghiêm vô số, tam muội như vậy oai lực khó chế ngự, tam muội như vậy cảnh giới bình đẳng, tam muội như vậy chiếu khắp mười phương, tam muội như vậy lợi ích vô hạn, vì có thể trừ diệt vô lượng khổ cho tất cả chúng sanh.

Giảng: Thiện Tài đồng tử khen ngợi rằng: “Đức Thánh! Ngài thật là đặc biệt ít có, rất là đặc thù! Thâm sâu vi diệu, như tam muội nầy. Rộng lớn vô biên, như tam muội nầy. Cảnh giới vô lượng vô số, như tam muội nầy. Thần lực khó nghĩ bàn, như tam muội nầy. Quang minh không gì bằng, như tam muội nầy. Trang nghiêm vô số vô biên, như tam muội nầy. Oai lực khó chế ngự vô địch, như tam muội nầy. Cảnh giới bình đẳng vô ngại, như tam muội nầy. Chiếu khắp mười phương tất cả thế giới, như tam muội nầy. Lợi ích chúng sinh vô hạn lượng, như tam muội nầy. Vì có thể diệt trừ vô lượng khổ của tất cả chúng sinh”.

 

Sở vị: năng lệnh nhất thiết chúng sanh ly bần khổ cố, xuất địa ngục cố, miễn súc sanh cố, bế chư nạn môn cố, khai nhân, thiên đạo cố, lệnh nhân, Thiên Chúng sanh thiện lạc cố, lệnh kỳ ái lạc Thiền cảnh giới cố, năng lệnh tăng trưởng hữu vi lạc cố, năng vi hiển thị xuất hữu lạc cố, năng vi dẫn phát Bồ-đề tâm cố, năng sử tăng trưởng phước trí hành cố, năng lệnh tăng trưởng đại bi tâm cố, năng lệnh sanh khởi đại nguyện lực cố, năng lệnh minh liễu Bồ Tát đạo cố, năng sử trang nghiêm cứu cánh trí cố, năng lệnh thú nhập Đại-Thừa cảnh cố, năng lệnh chiếu liễu Phổ Hiền hạnh cố, năng lệnh chứng đắc chư Bồ-tát địa trí quang minh cố, năng lệnh thành tựu nhất thiết Bồ Tát chư nguyện hạnh cố, năng lệnh an trụ nhất thiết trí trí cảnh giới trung cố.

Như là làm cho tất cả chúng sanh lìa khổ do tham, khỏi khổ địa ngục, súc sanh, đóng cửa ách nạn, mở đường nhơn thiên, làm cho nhơn thiên hoan hỷ. Làm cho họ thích thiền cảnh giới. Có thể làm cho tăng trưởng sự vui hữu vi. có thể vì họ mà hiển bày sự vui giải thoát. Có thể vì họ dẫn phát tâm Bồ đề. Có thể khiến tăng trưởng hạnh phước trí. Có thể khiến tăng trưởng tâm đại bi. Có thể làm cho sanh khởi sức đại nguyện. Có thể làm cho minh liễu đạo Bồ Tát. Có thể làm cho trang nghiêm trí cứu cánh. Có thể làm cho xu nhập cảnh Ðại thừa. Có thể làm cho chiếu liễu hạnh Phổ Hiền. Có thể làm cho chứng được trí quang minh của các bậc Bồ Tát. Có thể làm cho thành tựu các hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát. Có thể làm cho an trụ trong cảnh giới Nhứt thiết chủng trí.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại nói: “Như tam muội nầy, hay khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi khổ bần cùng. Thoát khỏi khổ địa ngục. Khỏi khổ súc sinh. Đóng cửa các xứ ác nạn. Mở đường trời người. Khiến cho chúng sinh trời người vui thích. Khiến cho chúng sinh vui thích cảnh giới thiền định. Khiến cho họ tăng trưởng an vui hữu vi, mà chẳng bỏ hữu vi. Hay vì chúng sinh hiển bày an vui thoát khỏi ba cõi. Hay vì chúng sinh an vui dẫn phát bồ đề tâm. Hay khiến cho họ tăng tưởng hạnh phước đức trí huệ. Hay khiến cho họ tăng trưởng tâm đại bi. Hay khiến cho họ sinh khởi sức đại nguyện. Hay khiến cho họ thấu rõ pháp phương tiện Bồ Tát đạo. Hay khiến cho chúng sinh trang nghiêm trí huệ rốt ráo. Hay khiến cho chúng sinh nhập vào cảnh giới đại thừa. Hay khiến cho chúng sinh chiếu rõ hạnh Phổ Hiền. Hay khiến cho chúng sinh chứng được Bồ Tát địa trí huệ quang minh. Hay khiến cho thành tựu các hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát tu hành. Hay khiến cho chúng sinh an trụ trong cảnh giới trí huệ nhất thiết trí.

 

Thánh Giả! thử tam muội giả, danh vi hà đẳng?

Bạch đức Thánh ! Tam muội này tên là gì ?

Giảng: Đức Thánh! Tam muội nầy tên gọi là gì”?

 

Hải tràng Tỳ-kheo ngôn: Thiện nam tử! thử tam muội danh: phổ nhãn xả đắc, hựu danh: Bát-nhã Ba-la-mật cảnh giới thanh Tịnh Quang minh, hựu danh: phổ trang nghiêm thanh tịnh môn.

Hải Tràng Tỳ Kheo nói: Nầy thiện nam tử ! Tam muội đây tên là “Phổ nhãn xả đắc”. Lại tên là ” Bát Nhã Ba la mật cảnh giới thanh tịnh quang minh”. Lại gọi là “Phổ trang nghiêm thanh tịnh môn”.

Giảng: Tỳ Kheo Hải Tràng nói: “Thiện nam tử! Tam muội nầy tên là Phổ nhãn xả đắc. Lại tên là Bát Nhã Ba La Mật cảnh giới thanh tịnh quang minh. Lại tên là Phổ trang nghiêm thanh tịnh môn.

 

Thiện nam tử! ngã dĩ tu tập Bát-nhã Ba-la-mật cố, đắc thử phổ trang nghiêm thanh tịnh tam muội đẳng bách vạn a-tăng-kì tam muội.

Này thiện nam tử ! Ta do tu tập Bát Nhã Ba la mật nên được tam muội phổ trang nghiêm thanh tịnh này và trăm vạn vô số tam muội.

Giảng: Thiện nam tử! Ta nhờ tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà đắc được tam muội Phổ trang nghiêm thanh tịnh nầy, có trăm vạn A tăng kỳ tam muội”.

Trí huệ Bát Nhã chiếu rõ tất cả các pháp, cho nên gọi là Phổ nhãn. Tất cả đều vô sở đắc, nên gọi là xả đắc. Nếu có sở đắc, thì không thể tức tịch mà dụng. Dùng vô sở đắc, tức chẳng có gì mà chẳng đắc. Bồ Tát không đắc, thì tâm không quái ngại. Chư Phật không đắc, liền được bồ đề.

Cho nên, Bát Nhã thanh tịnh, tức cảnh giới thanh tịnh, cảnh thanh tịnh, đều là cảnh Bát Nhã.

 

Thiện tài đồng tử ngôn: Thánh Giả! thử tam muội cảnh giới cứu cánh duy như thị da?

Thiện Tài đồng tử thưa: Bạch đức Thánh ! Cảnh giới rốt ráo của tam muội này chỉ như vậy thôi ư ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại nói: Bạch đức Thánh! Cảnh giới tam muội nầy, rốt ráo chỉ có vậy thôi sao?

 

Hải tràng ngôn: Thiện nam tử! nhập thử tam muội thời, liễu tri nhất thiết thế giới, vô sở chướng ngại; vãng nghệ nhất thiết thế giới, vô sở chướng ngại; siêu quá nhất thiết thế giới, vô sở chướng ngại; trang nghiêm nhất thiết thế giới, vô sở chướng ngại; tu trì nhất thiết thế giới, vô sở chướng ngại; nghiêm tịnh nhất thiết thế giới, vô sở chướng ngại; kiến nhất thiết Phật, vô sở chướng ngại; quán nhất thiết Phật quảng đại uy đức, vô sở chướng ngại; tri nhất thiết Phật tự tại thần lực, vô sở chướng ngại; chứng nhất thiết Phật chư quảng đại lực, vô sở chướng ngại; nhập nhất thiết Phật chư công đức hải, vô sở chướng ngại; thọ nhất thiết Phật vô lượng diệu pháp, vô sở chướng ngại; nhập nhất thiết Phật Pháp trung tu tập diệu hạnh, vô sở chướng ngại; chứng nhất thiết Phật chuyển pháp luân bình đẳng trí, vô sở chướng ngại; nhập nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng hải, vô sở chướng ngại; quán thập phương Phật Pháp, vô sở chướng ngại; đại bi nhiếp thọ thập phương chúng sanh, vô sở chướng ngại; thường khởi đại từ sung mãn thập phương, vô sở chướng ngại; kiến thập phương Phật tâm Vô yếm túc, vô sở chướng ngại; nhập nhất thiết chúng sanh hải, vô sở chướng ngại; tri nhất thiết chúng sanh căn hải, vô sở chướng ngại; tri nhất thiết chúng sanh chư căn sái biệt trí, vô sở chướng ngại.

Hải Tràng Tỳ Kheo nói: Này thiện nam tử ! Lúc nhập tam muội này, thời rõ biết tất cả thế giới không chướng ngại. Qua đến tất cả thế giới không chướng ngại. Vượt qua tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm tất cả thế giới không chướng ngại. Tu trị tất cả thế giới không chướng ngại. Nghiêm tịnh tất cả thế giới không chướng ngại. Thấy tất cả Phật không chướng ngại. Quán tất cả chư Phật oai đức quảng đại không chướng ngại. Biết tất cả chư Phật thần lực tự tại không chướng ngại. Chứng tất cả chư Phật quảng đại lực không chướng ngại. Nhập tất cả chư Phật những công đức hải không chướng ngại. Thọ tất cả chư Phật vô lượng diệu pháp không chướng ngại. Nhập trong tất cả Phật pháp tu tập diệu hạnh không chướng ngại. Chứng trí tất cả chư Phật chuyển pháp luân bình đẳng không chướng ngại. Nhập tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng không chướng ngại. Quán Phật pháp mười phương không chướng ngại. Ðại bi nhiếp thọ chúng sanh mười phương không chướng ngại. Thường khởi đại từ sung mãn mười phương không chướng ngại. Thấy thập phương chư Phật lòng không nhàm đủ, không chướng ngại. Nhập tất cả chúng sanh hải không chướng ngại. Biết căn tánh hải của tất cả chúng sanh không chướng ngại. Biết những căn sai biệt trí của tất cả chúng sanh không chướng ngại.

Tỳ Kheo Hải Tràng nói: “Thiện nam tử! Khi nhập vào tam muội nầy, thì biết rõ tất cả thế giới không chướng ngại. Đi đến tất cả thế giới không chướng ngại. Vượt qua tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm tất cả thế giới không chướng ngại. Tu trị tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới không chướng ngại”. Ở trên đây là biểu thị trong khí thế gian, không có chướng ngại.

Tỳ Kheo Hải Tràng lại nói: “Thấy được tất cả chư Phật không chướng ngại. Quán sát được oai đức rộng lớn của tất cả chư Phật không chướng ngại. Biết được thần lực tự tại của tất cả chư Phật không chướng ngại. Chứng được lực rộng lớn của tất cả chư Phật không chướng ngại. Vào được biển công đức của tất cả chư Phật không chướng ngại. Thọ trì vô lượng diệu pháp của chư Phật không chướng ngại. Vào trong tất cả Phật pháp, tu tập diệu hạnh không chướng ngại. Chứng được trí huệ chuyển pháp luân, bình đẳng giáo hoá chúng sinh của tất cả chư Phật không chướng ngại. Vào biển chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật không chướng ngại. Quán sát được Phật pháp mười phương không chướng ngại”. Ở trên đây là biểu thị trí chánh giác thế gian, không có chướng ngại.

Tỳ Kheo Hải Tràng lại nói: “Tam muội nầy hay dùng tâm đại bi để nhiếp thọ chúng sinh mười phương không chướng ngại. Thường khởi đại bi đầy khắp mười phương không chướng ngại. Thấy được chư Phật mười phương tâm không nhàm đủ không chướng ngại. Vào biển tất cả chúng sinh không chướng ngại. Biết biển căn tánh của tất cả chúng sinh không chướng ngại. Biết các căn khác biệt của tất cả chúng sinh không chướng ngại”. Ở trên đây là biểu thị chúng sinh thế gian không có chướng ngại.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử nhất Bát-nhã Ba-la-mật tam muội quang minh. Như chư Bồ-tát nhập trí tuệ hải, tịnh pháp giới cảnh, đạt nhất thiết thú, biến vô lượng sát, tổng trì tự tại, tam muội thanh tịnh, thần thông quảng đại, biện tài vô tận, thiện thuyết chư địa, vi chúng sanh y; nhi ngã hà năng tri kỳ diệu hạnh, biện kỳ công đức, liễu kỳ sở hạnh, minh kỳ cảnh giới, cứu kỳ nguyện lực, nhập kỳ yếu môn, đạt kỳ sở chứng, thuyết kỳ đạo phần, trụ kỳ tam muội, kiến kỳ tâm cảnh, đắc kỳ sở hữu bình đẳng trí tuệ?

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết một Bát Nhã Ba la mật tam muội quang minh này. Còn như chư Bồ Tát nhập trí huệ hải, tịnh pháp giới cảnh, đạt tất cả thú, khắp vô lượng cõi, tổng trì tự tại, tam muội thanh tịnh, thần thông quảng đại, biện tài vô tận, khéo nói các địa, làm chỗ nương cho chúng sanh, ta làm sao biết được những diệu hạnh đó, biện được công đức đó, rõ được chỗ làm đó, tỏ được cảnh giới đó, tột được nguyện lực đó, nhập được yếu môn đó, đạt được sở chứng đó, nói được đạo phần đó, trụ được tam muội đó, thấy được tâm cảnh đó, chứng được bao nhiêu trí huệ bình đẳng đó.

Giảng: Tỳ Kheo Hải Tràng nói: “Thiện nam tử! Ta chỉ biết một tam muội Bát Nhã Ba La Mật quang minh nầy. Như các Bồ Tát vào tam muội biển trí huệ, thanh tịnh cảnh pháp giới. Tam muội đạt đến tất cả các cõi, đến khắp vô lượng cõi Phật. Tổng trì tự tại, đắc được tam muội thanh tịnh. Thần thông rộng lớn, tam muội biện tài vô tận. Tam muội khéo diễn nói các địa, giáo hoá chúng sinh, vì chúng sinh làm chỗ nương tựa. Mà ta làm sao biết được đủ thứ những diệu hạnh đó? Làm sao biện được những công đức đó? Làm sao thấu được những hạnh đó? Làm sao rõ được những cảnh giới đó? Làm sao rốt ráo được nguyện lực đó? Làm sao vào được yếu môn đó? Làm sao đạt được những sở chứng đó? Làm sao nói được đạo phần đó? Làm sao trụ được những tam muội đó? Làm sao thấy được tâm cảnh đó? Làm sao đắc được hết thảy những trí huệ bình đẳng đó”?

 

Thiện nam tử! tòng thử Nam hành, hữu nhất trụ xứ, danh viết: hải triều; bỉ hữu viên lâm, danh: phổ trang nghiêm; ư kỳ viên trung, hữu ưu-bà-di, danh viết: hưu xả. Nhữ vãng bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Này thiện nam tử ! Từ dây qua phương Nam có một xứ tên là Hải Triều. Xứ đó có khu viên lâm tên là Phổ Trang Nghiêm. Trong viên lâm đó có Ưu bà di tên là Hưu Xã. Ngươi đến đó hỏi Ưu bà di: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh ? Thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Giảng: Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam, sẽ có một trụ xứ, tên là Hải Triều. Ở đó có một khu vườn rừng, tên là Phổ trang nghiêm. Trong khu vườn rừng đó, có Ưu bà di (nữ cư sĩ), tên là Hưu Xả. Ngươi nên đi đến đó để thưa hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu hành Bồ Tát đạo”?

 

Thời, Thiện tài đồng tử ư hải tràng Tỳ-kheo sở, đắc kiên cố thân, hoạch diệu pháp tài, nhập thâm cảnh giới, trí tuệ minh triệt, tam muội chiếu diệu, trụ thanh tịnh giải, kiến thậm thâm Pháp, kỳ tâm an trụ chư thanh tịnh môn, trí tuệ quang minh sung mãn thập phương

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử ở chỗ Hải Tràng Tỳ Kheo được thân kiên cố, được của diệu pháp, nhập thâm cảnh giới, trí huệ sáng suốt, tam muội chiếu sáng, trụ thanh tịnh giải, thấy pháp thậm thâm, tâm an trụ trong các môn thanh tịnh, trí huệ quang minh sung mãn mười phương.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Tỳ Kheo Hải Tràng, đắc được thân kiên cố, đắc được tài bảo diệu pháp, chứng nhập được cảnh giới thâm sâu. Trí huệ của Ngài thấu triệt, thọ được sức tam muội chiếu soi khắp, mà trụ giải thoát thanh tịnh, thấy được pháp tạng thâm sâu. Tâm an trụ nơi các hạnh môn thanh tịnh, trí huệ quang minh, đầy khắp mười phương.

 

Tâm sanh hoan hỉ, dõng dược vô lượng; ngũ thể đầu địa, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, cung kính chiêm ngưỡng, tư tánh quan sát, ti ta luyến mộ, trì kỳ danh hiệu, tưởng kỳ dung chỉ, niệm kỳ âm thanh, tư kỳ tam muội cập bỉ đại nguyện sở hạnh cảnh giới, thọ kỳ trí tuệ thanh Tịnh Quang minh; từ thoái nhi hành.

Thiện Tài đồng tử rất vui mừng hớn hở vô lượng. Năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ chân Hải Tràng Tỳ Kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng tư duy quán sát ngậm ngùi luyến mộ. Nhớ danh hiệu của Hải Tràng Tỳ Kheo. Tưởng dung nhan cử chỉ của Hải Tràng Tỳ Kheo. Ghi âm thanh của Hải Tràng Tỳ Kheo. Suy gẫm tam muội của Hải Tràng Tỳ Kheo và đại nguyện cùng cảnh giới. Thọ lấy trí huệ quang minh thanh tịnh của Hải Tràng Tỳ Kheo, sao đó từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử tâm sinh đại hoan hỉ, vui mừng vô lượng, năm thể sát đất, đảnh lễ dưới chân Tỳ Kheo Hải Tràng, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng, suy gẫm quán sát, ngậm ngùi luyến mộ không muốn lìa xa. Ngài thọ trì danh hiệu Tỳ Kheo Hải Tràng, tưởng dung nhan của Ngài, niệm âm thanh của Ngài, suy gẫm tam muội và đại nguyện sở hành cảnh giới đó, thọ được trí huệ quang minh thanh tịnh chiếu soi. Sau đó, Thiện Tài đồng tử bèn từ tạ Tỳ Kheo Hải Tràng mà đi về hướng nam, đi tìm một vị thiện tri thức khác.