Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 8

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 8

— o0o —

QUYỂN BẢY MƯƠI
PHÓ THÁC THẬP HOAN HỈ

— o0o —

34. DẠ THẦN PHỔ CỨU CHÚNG SINH DIỆU ĐỨC
PHÓ THÁC THỨ 34 – DIỆM HUỆ ĐỊA

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ư hỉ mục quan sát chúng sanh dạ Thần sở, văn phổ hỉ tràng giải thoát môn, tín giải thú nhập, liễu tri tùy thuận, tư tánh tu tập, niệm thiện tri thức sở hữu giáo hối, tâm vô tạm xả, chư căn bất tán, nhất tâm nguyện đắc kiến thiện tri thức, phổ ư thập phương cần cầu phỉ giải, nguyện thường thân cận sanh chư công đức, dữ thiện tri thức đồng nhất thiện căn, đắc thiện tri thức xảo phương tiện hạnh, y thiện tri thức nhập tinh tấn hải, ư vô lượng kiếp thường bất viễn ly.

Thiện Tài được nghe phổ hỉ Tràng giải thoát môn, thời tin hiểu xu nhập biết rõ tùy thuận tư duy tu tập. Nhớ lời dạy của thiện tri thức không tạm bỏ, chẳng tán động, nhứt tâm nguyện được gặp thiện tri thức, siêng tìm cầu khắp mười phương chẳng lười trễ. Nguyện thường được thân cận thiện tri thức để phát sanh những công đức. Cùng thiện tri thức đồng một thiện căn được công hạnh thiện xảo phương tiện của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử ở chỗ Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh, lắng nghe pháp môn giải thoát Phổ hỉ tràng, sinh tâm tin sâu, hiểu rõ mà hướng vào pháp môn nầy. Ngài biết rõ tuỳ thuận, suy gẫm tu tập pháp môn nầy. Ngài tưởng nhớ hết những lời dạy của thiện tri thức, tâm không lúc nào tạm xả lìa. Lúc đó các căn mắt tai mũi lưỡi thân ý của Ngài, đều chẳng bị ngoại trần lay chuyển, Ngài một lòng muốn gặp được thiện tri thức, siêng cầu khắp mười phương pháp giới mà không giải đãi. Ngài muốn thường gần gũi thiện tri thức, để sinh ra tất cả các công đức, muốn đồng một căn lành với thiện tri thức. Ngài đắc được pháp môn phương tiện thiện xảo của thiện tri thức. Nương thiện tri thức vào biển tinh tấn, trong vô lượng kiếp thường chẳng xa lìa thiện tri thức, đời đời kiếp kiếp đều muốn gần gũi thiện tri thức.

 

Tác thị nguyện dĩ, vãng nghệ phổ cứu chúng sanh diệu đức dạ Thần sở.

Phát nguyện như vậy rồi, Thiện Tài đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Ðức.

Giảng: Thiện Tài đồng tử nguyện như vậy rồi, bèn đi đến chỗ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức.

Đây là Diệm Huệ Địa thứ tư, là pháp bồ đề phần an trụ tối thắng, thiêu đốt củi phiền não, vì huệ diệm tăng. Thiện hữu là Chủ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức. Khởi hạnh tinh tấn, vì phổ cứu chúng sinh. Trí diệm cát tường, xưng là diệu đức.

 

Thời, bỉ dạ Thần vi Thiện tài đồng tử thị hiện Bồ Tát điều phục chúng sanh giải thoát thần lực, dĩ chư tướng hảo trang nghiêm kỳ thân, ư lưỡng my gian phóng đại quang minh, danh: trí đăng phổ chiếu thanh tịnh tràng, vô lượng quang minh dĩ vi quyến thuộc, kỳ quang phổ chiếu nhất thiết thế gian. Chiếu thế gian dĩ, nhập Thiện Tài đảnh, sung mãn kỳ thân.

Dạ Thần này vì Thiện Tài mà thị hiện Bồ Tát điều phục chúng sanh giải thoát thần lực, dùng những tướng hảo trang nghiêm thân mình. Giửa chặng mày phóng đại quanh minh tên là Trí đăng phổ chiếu thanh tịnh tràng, có vô lượng quang minh làm quyến thuộc. Quang minh này chiếu khắp tất cả thế gian, rồi xoay lại chiếu vào đảnh đầu Thiện Tài sung mãn cả thân.

Giảng: Lúc đó, vị Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức vì Thiện Tài đồng tử thị hiện thần lực giải thoát Bồ Tát điều phục chúng sinh.

Hôm trước có người nói: “Thiện Tài đồng tử đến chỗ thiện tri thức thưa hỏi, nhưng Bồ Tát chẳng trả lời câu hỏi của Ngài”. Đó đều là trả lời mà! Đây là mỗi vị pháp thân Đại Sĩ dùng thân làm khuông phép, đem pháp môn của Ngài tu thành như thế nào, ở trước vị Phật nào phát tâm bồ đề, để nói với Thiện Tài đồng tử. Đây là giải đáp Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh như thế nào? Tu Bồ Tát đạo như thế nào? Chỉ bày pháp môn tu hành của Ngài.

Sở dĩ vị Dạ Thần thị hiện thần lực Bồ Tát làm thế nào điều phục chúng sinh giải thoát. Ngài dùng đủ thứ tướng tốt để trang nghiêm thân của Ngài. Ở giữa lông mày của Ngài phóng ra đại quang minh, tên là Trí đăng phổ chiếu thanh tịnh tràng tam muội, có vô lượng quang minh dùng làm quyến thuộc của tam muội đó. Quang minh đó chiếu sáng khắp tất cả thế gian. Chiếu khắp thế gian rồi, quang minh bèn nhập vào đỉnh đầu của Thiện Tài đồng tử, sung mãn thân của Ngài (vị Dạ Thần hiện quang gia trì, Thiện Tài đồng tử nhờ quang minh mà được lợi ích).

 

Thiện Tài Nhĩ thời tức đắc cứu cánh thanh tịnh luân tam muội.

Liền đó Thiện Tài được cứu cánh thanh tịnh luân tam muội.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài lập tức đắc được tam muội Thanh tịnh luân. (Đây là do ba nghiệp sáu căn đều lìa chướng, nên rốt ráo thanh tịnh, tức tịnh trí viên mãn, diệt chướng là luân, nên chỗ thấy vô ngại).

 

Đắc thử tam muội dĩ, tất kiến nhị Thần lượng (lưỡng) xứ trung gian, sở hữu nhất thiết địa trần, thủy trần cập dĩ hỏa trần, Kim cương ma-ni chúng bảo vi trần, hoa hương, anh lạc, chư trang nghiêm cụ, như thị nhất thiết sở hữu vi trần, nhất nhất trần trung các kiến Phật sát vi trần số thế giới thành hoại. Cập kiến nhất thiết địa, thủy, hỏa, phong chư đại tích tụ. Diệc kiến nhất thiết thế giới tiếp liên, giai dĩ địa luân nhậm trì nhi trụ. Chủng chủng sơn hải, chủng chủng hà trì, chủng chủng thụ lâm, chủng chủng cung điện,

Bấy giờ, Thiện Tài lập tức đắc được tam muội Thanh tịnh luân. Được tam muội nầy rồi, đều thấy ở giữa hai nơi của hai vị Dạ Thần, hết thảy tất cả bụi đất, bụi nước và bụi lửa, hạt bụi kim cang ma ni các báu, hoa hương anh lạc các đồ trang nghiêm, tất cả hết thảy bụi như vậy. Trong mỗi hạt bụi, đều thấy các thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Phật thành hoại, và thấy tất cả đất nước gió lửa các đại tích tụ, cũng thấy tất cả thế giới vận hành với nhau, đều nhờ địa luân giữ gìn mà an trụ. Đủ thứ núi, biển, đủ thứ sông ngòi, đủ thứ cây rừng, đủ thứ cung điện.

Giảng: Đắc được tam muội nầy rồi, thì đều thấy ở giữa hai nơi của hai vị Dạ Thần Hỉ Mục Quán Sát Chúng Sinh và Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức, hết thảy tất cả bụi đất, bụi nước và bụi lửa, hạt bụi kim cang ma ni các báu, hoa hương anh lạc các đồ trang nghiêm, tất cả hết thảy bụi như vậy. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn!

Trong mỗi hạt bụi, Thiện Tài đồng tử đều thấy các thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Phật thành, trụ, hoại, không, lại thấy tất cả đất, nước, gió, lửa, các đại tích tụ, cũng thấy tất cả thế giới vận hành với nhau, đều nhờ địa luân giữ gìn mà an trụ. Lại thấy đủ thứ núi, biển, đủ thứ sông ngòi, đủ thứ cây rừng, đủ thứ cung điện.

 

Sở vị: Thiên cung điện, long cung điện, dạ xoa cung điện, nãi chí Ma hầu la già, nhân, phi nhân đẳng cung điện ốc trạch, địa ngục, súc sanh, Diêm la Vương giới nhất thiết trụ xứ, chư thú luân chuyển, sanh tử vãng lai, tùy nghiệp thọ báo, các các sái biệt, mị bất tất kiến.

Như là: Cung điện trời, cung điện rồng, cung điện Dạ Xoa, cho đến cung điện phòng ốc của Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người, địa ngục, súc sinh, cõi Diêm La Vương, tất cả chỗ ở. Các cõi luân chuyển, sinh tử đến đi, theo nghiệp thọ báo, thảy đều khác biệt, chẳng có gì mà chẳng thấy.

Giảng: Như là: Cung điện trời, cung điện rồng, cung điện Dạ Xoa, cho đến cung điện phòng ốc của Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người. Lại thấy địa ngục, súc sinh, cõi Diêm La Vương, tất cả chỗ ở. Các cõi luân chuyển, sinh tử đến đi, chúng sinh tuỳ theo nghiệp mình đã tạo mà thọ đủ thứ quả báo, thảy đều khác biệt, Thiện Tài đồng tử chẳng có gì mà chẳng thấy.

 

Hựu kiến nhất thiết thế giới sái biệt. Sở vị: hoặc hữu thế giới tạp uế, hoặc hữu thế giới thanh tịnh, hoặc hữu thế giới thú tạp uế, hoặc hữu thế giới thú thanh tịnh, hoặc hữu thế giới tạp uế thanh tịnh, hoặc hữu thế giới thanh tịnh tạp uế, hoặc hữu thế giới nhất hướng thanh tịnh, hoặc hữu thế giới kỳ hình bình chánh, hoặc hữu phước trụ, hoặc hữu trắc trụ.

Lại thấy tất cả thế giới sai biệt : những thế giới tạp uế, những thế giới thanh tịnh, những thế giới hướng về tạp uế, những thế giới hướng về thanh tịnh, những thế giới tạp uế thanh tịnh, những thế giới thanh tịnh tạp uế, những thế giới thuần thanh tịnh, những thế giới hoặc hình trạng bằng thẳng, hoặc úp xuống, hoặc ngược lên.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy tất cả đủ thứ thế giới khác nhau. Như là: Hoặc có thế giới tạp nhiễm ô uế, ví như thế giới Ta Bà đời ác năm trược chúng ta đang sống. Hoặc có thế giới thanh tịnh. Hoặc có thế giới dần dần hướng về tạp uế. Hoặc có thế giới dần dần hướng về thanh tịnh. Hoặc có thế giới tạp uế thanh tịnh lẫn nhau. Hoặc có thế giới thanh tịnh tạp uế. Hoặc có thế giới thuần thanh tịnh. Hoặc có thế giới hình bằng phẳng. Hoặc có thế giới úp. Hoặc có thế giới nghiêng.

 

Như thị đẳng nhất thiết thế giới nhất thiết thú trung, tất kiến thử phổ cứu chúng sanh dạ Thần, ư nhất thiết thời nhất thiết xứ, tùy chư chúng sanh hình mạo, ngôn từ, hạnh giải sái biệt, dĩ phương tiện lực phổ hiện kỳ tiền, tùy nghi hóa độ,

Lệnh địa ngục chúng sanh miễn chư khổ độc, lệnh súc sanh chúng sanh bất tướng thực đạm, lệnh ngạ quỷ chúng sanh vô hữu cơ khát, lệnh chư long đẳng ly nhất thiết phố, lệnh dục giới chúng sanh ly dục giới khổ, lệnh nhân thú chúng sanh ly ám dạ hố, hủy báng phố, ác danh phố, đại chúng phố, bất hoạt phố, tử phố, ác đạo phố, đoạn thiện căn phố, thoái Bồ-đề tâm phố, ngộ ác tri thức phố, ly thiện tri thức phố, đọa nhị thừa địa phố, chủng chủng sanh tử phố, dị loại chúng sanh đồng trụ phố, ác thời thọ sanh phố, ác chủng tộc trung thọ sanh phố, tạo ác nghiệp phố, nghiệp phiền não chướng phố, chấp trước chư tưởng hệ phược phố, như thị đẳng phố tất lệnh xả ly.

Giảng: Trong tất cả thế giới, tất cả xứ, tất cả loài như vậy, đều thấy Dạ Thần Phổ Cứu. Chúng sanh này trong tất cả thời gian khắp mọi nơi, tùy theo hình mạo ngôn từ hạnh giải sai khác của chúng sanh, mà dùng sức phương tiện hiện ở trước họ mà tùy nghi hóa độ.

Làm cho chúng sanh địa ngục khỏi khổ đau. Làm cho súc sanh chẳng ăn nuốt nhau. Làm cho ngạ quỷ hết đói khát. Làm cho loài rồng rời sợ sệt. Làm cho chúng sanh cõi Dục thoát khổ Dục giới, làm cho loài người rời sự sợ đêm tối, sự sợ mắng nhiếc, sự sợ tiếng xấu, sự sợ đại chúng, sự sợ chẳng đủ sống, sự sợ chết, sự sợ đọa ác đạo, sự sợ mất thiện căn, sự sợ thối Bồ đề tâm, sự sợ gặp ác tri thức, sự sợ lìa thiện tri thức, sự sợ sa vào Nhị thừa, sự sợ các thứ sanh tử, sự sợ cùng ở với chúng sanh dị loại, sự sợ thọ sanh thời kỳ ác, sự sợ thọ sanh trong dòng họ ác, sự sợ gây tạo nghiệp ác, sự sợ nghiệp chướng phiền não chướng, sự sợ vọng tưởng chấp trước ràng buộc. Tất cả những sự kinh sợ như vậy đều làm cho loài người đều được bỏ rời.

Tất cả thế giới như vậy, trong tất cả các cõi, Thiện Tài đồng tử đều thấy vị Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh, trong tất cả thời, tất cả mọi nơi, tuỳ theo hình tướng lời nói, hành vi hiểu biết khác nhau của các chúng sinh, mà dùng sức phương tiện, khéo hiện ra ở trước họ, tuỳ nghi căn cơ của chúng sinh để giáo hoá độ thoát họ.

Vị Dạ Thần khiến cho chúng sinh địa ngục, khỏi các thống khổ và độc hại. Khiến cho chúng sinh súc sinh, không tham ăn nuốt hại nhau. Khiến cho chúng sinh ngạ quỷ, không còn thống khổ đói khát. Khiến cho các loài rồng, lìa tất cả sự sợ hãi về cát nóng. Khiến cho chúng sinh dục giới, lìa khỏi đủ thứ thống khổ tham ái dục niệm của dục giới. Khiến cho chúng sinh cõi người, lìa khỏi sự sợ hãi đêm tối, sợ huỷ báng mắng nhiếc mình, sợ tiếng xấu mất danh tiếng, sợ oai đức của đại chúng, sợ mình phải chết chẳng còn sống, sợ chết mất, sợ đường ác, sợ mình dứt mất căn lành, sợ mình thối thất tâm bồ đề, sợ gặp ác tri thức, sợ xa lìa thiện tri thức có trí huệ, sợ rơi vào bậc nhị thừa (Thanh Văn và Duyên Giác chẳng phát tâm đại thừa Bồ Tát), sợ đủ thứ sinh tử, sợ chúng sinh khác loài cùng ở với nhau, sợ thọ sinh vào thời ác, như sợ thọ sinh vào thời chiến loạn chẳng thái bình. Hoặc lại sợ thọ sinh trong loài chủng tộc gia đình ác, sợ mình tạo nghiệp ác, sợ mình tạo nghiệp chướng phiền não, sợ chấp trước các vọng tưởng trói buộc, đủ thứ các sự sợ hãi như vậy, vị Dạ Thần đều khiến cho năm nẻo chúng sinh xả bỏ lìa khỏi.

 

Hựu kiến nhất thiết chúng sanh, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng, phổ hiện kỳ tiền, thường cần cứu hộ

Lại thấy Dạ Thần này hiện khắp trong tất cả chúng sanh : noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, để thường siêng cứu hộ.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy tất cả chúng sinh, ví như: noãn sinh (sinh bằng trứng, trứng do tưởng mà sinh), thai sinh (thai do tình mà có), thấp sinh (ẩm ướt do hợp mà cảm), hoá sinh (hoá do ly mà ứng), có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng.

Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói về thế giới điên đảo và chúng sinh điên đảo rằng: “A Nan! Thế nào gọi là thế giới điên đảo? Thị hữu sở hữu, phân đoạn vọng sinh, do đây mà thế giới thành lập. Chẳng phải nhân sở nhân, vô trụ sở trụ, dời đổi chẳng trụ, do đây mà thế giới thành. Ba đời bốn phương, hoà hợp tương bộ, biến hoá chúng sinh thành mười hai loài”.

Vị Dạ Thần khắp thị hiện ở trước chúng sinh mười loại nầy, thường siêng cứu hộ hết thảy điên đảo chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui.

 

Vi thành tựu Bồ Tát đại nguyện lực cố, thâm nhập Bồ Tát tam muội lực cố, kiên cố Bồ Tát thần thông lực cố, xuất sanh Phổ Hiền hạnh nguyện lực cố, tăng quảng Bồ Tát đại bi hải cố, đắc phổ phước chúng sanh vô ngại đại từ cố, đắc phổ dữ chúng sanh vô lượng thiện lạc cố, đắc phổ nhiếp nhất thiết chúng sanh trí tuệ phương tiện cố, đắc Bồ Tát quảng đại giải thoát tự tại thần thông cố, nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát cố, giác liễu nhất thiết chư pháp cố, cúng dường nhất thiết chư Phật cố, thọ trì nhất thiết Phật giáo cố, tích tập nhất thiết thiện căn tu nhất thiết diệu hạnh cố, nhập nhất thiết chúng sanh tâm hải nhi vô chướng ngại cố, tri nhất thiết chúng sanh chư căn giáo hóa thành thục cố, tịnh nhất thiết chúng sanh tín giải trừ kỳ ác chướng cố, phá nhất thiết chúng sanh vô tri hắc ám cố, lệnh đắc nhất thiết trí thanh Tịnh Quang minh cố.

Vì thành tựu sức đại nguyện của Bồ Tát. Vì thâm nhập sức tam muội của Bồ Tát. Vì kiên cố sức thần thông của Bồ Tát. Vì xuất sanh sức hạnh nguyện của Phổ Hiền. Vì tăng trưởng biển đại bi của Bồ Tát. Vì thành tựu đại từ vô ngại khắp che chở chúng sanh. Vì thành tựu vô lượng hỷ lạc ban cho chúng sanh. Vì thành tựu trí huệ phương tiện nhiếp khắp tất cả chúng sanh. Vì thành tựu thần thông tự tại giải thoát quảng đại của Bồ Tát. Vì nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Vì giác liễu tất cả pháp. Vì cúng dường tất cả Phật. Vì thọ trì tất cả Phật giáo. Vì chứa nhóm tất cả thiện căn, tu tất cả diệu hạnh. Vì nhập vào tâm hải của tất cả chúng sanh mà không chướng ngại. Vì biết căn tánh tất cả chúng sanh để giáo hóa thành thục. Vì thanh tịnh tín giải của tất cả chúng sanh để trừ ác chướng cho họ. Vì phá màn tối vô tri của tất cả chúng sanh. Vì làm cho chúng sanh được quang minh thanh tịnh Nhứt thiết trí.

Giảng: Tại sao vị Dạ Thần phải thị hiện trước các loài chúng sinh như đã nói ở trên? Là vì thành tựu đại nguyện lực của Bồ Tát. Vì thâm nhập sức tam muội của Bồ Tát. Vì kiên cố sức thần thông của Bồ Tát. Vì sinh ra sức hạnh nguyện của Phổ Hiền. Vì tăng trưởng rộng lớn biển đại bi của Bồ Tát. Vì đắc được đại từ vô ngại che khắp chúng sinh. Vì đắc được vô lượng hỉ lạc ban khắp cho chúng sinh. Vì đắc được trí huệ phương tiện nhiếp khắp tất cả chúng sinh. Vì đắc được thần thông tự tại giải thoát rộng lớn của Bồ Tát. Vì trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật. Vì giác ngộ thấu rõ tất cả các pháp. Vì cúng dường tất cả chư Phật. Vì thọ trì tất cả Phật giáo. Vì tích tụ tất cả căn lành, tu hành tất cả diệu hạnh. Vì vào biển tâm của tất cả chúng sinh, mà không chướng ngại. Vì biết các căn của tất cả chúng sinh giáo hoá thành thục. Vì thanh tịnh tin hiểu của tất cả chúng sinh, trừ diệt ác chướng của họ. Vì phá trừ vô tri đen tối của tất cả chúng sinh. Vì khiến cho đắc được nhất thiết trí thanh tịnh quang minh. Đoạn kinh nầy biểu rõ hoá hiện trong ý, vì thành tựu các pháp, thông năng sở hoá.

 

Thời, Thiện tài đồng tử kiến thử dạ Thần như thị thần lực bất khả tư nghị thậm thâm cảnh giới, phổ hiện điều phục nhất thiết chúng sanh Bồ Tát giải thoát dĩ, hoan hỉ vô lượng, đầu diện tác lễ, nhất tâm chiêm ngưỡng.

Thiện Tài thấy Dạ Thần này có thần lực quảng đại như vậy, hiện bày cảnh giới, thậm thâm bất tư nghì, hiện thị Bồ Tát điều phục chúng sinh giải thoát thần lực, thời hoan hỷ vô lượng, đảnh lễ nơi chân, nhất tâm chiêm ngưỡng.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy đại oai thần lực của vị Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức đó như vậy, cảnh giới thâm sâu không thể nghĩ bàn, khắp hiện điều phục tất cả chúng sinh Bồ Tát giải thoát tam muội rồi. Hoan hỉ vô lượng, bèn cuối đầu đảnh lễ vị Dạ Thần, một lòng chiêm ngưỡng thiện tri thức (đây là thân tâm kính trọng).

 

Thời, bỉ dạ Thần tức xả Bồ Tát trang nghiêm chi tướng, hoàn phục bổn hình, nhi bất xả kỳ tự tại thần lực. Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử cung kính hợp chưởng, khước trụ nhất diện, dĩ kệ tán viết:

Lúc đó Dạ thần liền xả tướng Bồ Tát trang nghiêm hoàn lại thân cũ, mà chẳng bỏ thần lực tự tại. Thiện Tài chắp tay cung kính nói kệ tán thán :

Giảng: Lúc đó, vị Dạ Thần đó lập tức xả bỏ tướng Bồ Tát trang nghiêm biến hoá, khôi phục lại thân hình như cũ, mà chẳng xả bỏ thần lực tự tại của mình.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cung kính chắp tay, bèn đứng qua một bên, dùng kệ khen ngợi vị Dạ Thần rằng:

 

Ngã Thiện Tài đắc kiến                                Tôi Thiện Tài được thấy
như thị đại thần lực,                                    Ðại thần lực như vậy
kỳ tâm sanh hoan hỉ,                                   Lòng hoan hỉ vô lượng
thuyết kệ nhi tán thán.                                 Nói kệ để tán thán.

“Con Thiện Tài đồng tử, thấy được đại thần lực như vậy, tâm con sinh đại hoan hỉ, cho nên nói bài kệ để khen ngợi công đức của Ngài”.

 

Ngã kiến tôn diệu thân,                                Tôi thấy thân của Ngài
chúng tướng dĩ trang nghiêm                      Tướng hảo trang nghiêm đẹp,
thí như không trung tinh,                            Như sao sáng hư không
nhất thiết tất nghiêm tịnh.                            Tất cả đều nghiêm tịnh.

Con nhìn thấy thân của tôn giả rất đẹp, dùng 32 tướng tốt để trang nghiêm, giống như những vì sao trong hư không, tất cả đều trang nghiêm thanh tịnh tốt đẹp.

 

Sở phóng thù thắng quang,                          Phóng quanh minh thù thắng
vô lượng sát trần số                                     Vô lượng sát trần số
chủng chủng vi diệu sắc,                             Nhiều màu sắc vi diệu
phổ chiếu ư thập phương.                           Chiếu khắp cả mười phương.

Ngài phóng ra quang minh thù thắng, nhiều vô lượng như số hạt bụi cõi Phật, chiếu soi chúng sinh, khiến cho họ nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng. Đủ thứ sắc tướng tốt đẹp của Ngài, chiếu soi khắp trong mười phương thế giới.

 

Nhất nhất mao khổng phóng                        Mỗi lỗ lông phóng ra
chúng sanh tâm số quang                            Chúng sanh tâm số quang
nhất nhất quang minh đoan,                        Mỗi mỗi đầu quang minh
giai xuất bảo liên hoa                                  Ðều hiện bửu liên hoa.

Trong mỗi mỗi lỗ chân lông của Ngài phóng ra quang minh nhiều như số tâm chúng sinh. Nơi đầu mỗi luồng quang minh, đều hiện ra đoá hoa sen báu.

 

Hoa trung xuất hóa thân                               Trong hoa hiện Hóa Phật
năng diệt chúng sanh khổ                           Diệt được khổ chúng sanh,
quang trung xuất diệu hương,                     Quang minh phát diệu hương
phổ huân ư chúng sanh                               Xông khắp các chúng sanh.

Trong mỗi đoá hoa sen báu, lại hiện ra hoá thân Phật, hay diệt khổ não của chúng sinh. Trong mỗi luồng quang minh, lại toả ra hương thơm, xông khắp tất cả chúng sinh.

 

Phục vũ chủng chủng hoa                           Lại mưa các thứ hoa
cúng dường nhất thiết Phật.                         Cúng dường tất cả Phật.
Lưỡng my phóng diệu quang                       Chặng mày phóng diệu quang
lượng dữ Tu-Di đẳng,                                 Lượng đồng núi Tu Di

Lại mưa xuống đủ thứ hoa sen báu, để cúng dường tất cả chư Phật. Giữa lông mi của Ngài phóng ra quang minh vi diệu, lượng lớn bằng núi Tu Di.

 

Phổ xúc chư hàm thức                                 Chiếu khắp các hàm thức
lệnh diệt ngu si ám.                                     Khiến dứt tối ngu si.
khẩu phóng thanh Tịnh Quang                   Miệng phóng thanh tịnh quang
thí như vô lượng nhật,                                 Như vô lượng mặt nhựt

Quang minh của Ngài chiếu soi khắp tất cả hàm thức thế giới, khiến cho họ diệt trừ ngu si đen tối. Trong miệng của Ngài phóng ra quang minh thanh tịnh, ví như vô lượng mặt trời.

 

Phổ chiếu ư quảng đại,                                Chiếu khắp cảnh quảng đại
Tỳ Lô Xá Na cảnh.                                      Của Tỳ Lô Giá Na.
nhãn phóng thanh Tịnh Quang                   Mắt phóng thanh tịnh quang
thí như vô lượng nguyệt,                             Như vô lượng mặt nguyệt

Ngài chiếu soi khắp mười phương thế giới rộng lớn, đó là cảnh giới của Tỳ Lô Giá Na (pháp thân Phật khắp tất cả mọi nơi). Mắt của Ngài phóng ra quang minh thanh tịnh, giống như ánh sáng vô lượng mặt trăng.

 

Phổ chiếu thập phương sát,                         Chiếu khắp mười phương cõi
tất diệt thế si ế.                                            Dứt si lòa thế gian.
hiện hóa chủng chủng thân,                        Hóa hiện nhiều loại thân
tướng trạng đẳng chúng sanh                      Tướng trạng đồng chúng sanh

Ngài chiếu khắp mười phương cõi Phật, hoàn toàn diệt trừ si loà đen tối của thế gian, hoá hiện đủ thứ thân, tướng trạng đồng với tất cả chúng sinh.

 

Sung mãn thập phương giới,                        Sung mãn mười phương cõi
độ thoát tam hữu hải.                                  Ðộ thoát biển tam hữu.
diệu thân biến thập phương                         Diệu thân khắp mười phương
Phổ hiện chúng sanh tiền                            Hiện khắp trước chúng sanh

Hoá thân của Ngài đầy khắp trong mười phương thế giới, cứu độ giải thoát biển khổ chúng sinh trong ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc). Thân tốt đẹp của Ngài đầy khắp mười phương thế giới, khắp thị hiện ở trước chúng sinh.

 

Diệt trừ thủy hỏa tặc,                                   Diệt trừ thủy, hỏa giặc,
Vương đẳng nhất thiết phố.                         Nạn, vua, những lo sợ.
ngã thừa hỉ mục giáo,                                  Tôi vâng theo Hỉ Mục
kim đắc nghệ tôn sở,                                   Nay được đến chỗ Ngài

Ngài diệt trừ những sợ hãi của nạn nước, nạn lửa, nạn đao binh, nạn vua. Con vâng theo lời dạy của vị Dạ Thần Hỉ Mục, khiến cho con đến được chỗ Ngài.

 

Kiến tôn my gian tướng                               Thấy tướng chặng mày Ngài
phóng đại thanh Tịnh Quang,                     Phóng quang minh thanh tịnh
phổ chiếu thập phương hải,                         Chiếu khắp mười phương cõi
tất diệt nhất thiết ám,                                   Diệt trừ tất cả tối.

Con nhìn thấy tướng giữa lông mi của Ngài, phóng ra đại quang minh thanh tịnh, chiếu khắp biển cõi chúng sinh trong mười phương, diệt đen tối của tất cả chúng sinh.

 

Hiển hiện thần thông lực,                             Hiển hiện thần thông lực
nhi lai nhập ngã thân.                                  Mà đến nhập thân tôi
ngã ngộ viên mãn quang,                            Tôi gặp được quang minh
tâm sanh đại hoan hỉ                                   Lòng hoan hỷ vô lượng

Ngài lại hiển hiện sức thần thông, để mà nhập vào thân con, con gặp được quang minh viên mãn của Ngài, trong tâm sinh đại hoan hỉ.

 

Đắc tổng trì tam muội,                                 Ðược tổng trì tam muội
phổ kiến thập phương Phật.                        Thấy khắp thập phương Phật.
ngã ư sở Kinh xứ,                                       Từ chỗ tôi đi qua
tất kiến chư vi trần,                                     Tôi đều thấy vi trần

Con đắc được sức tổng trì tam muội, mà nhìn thấy khắp mười phương chư Phật. Những chỗ con đi qua, đều nhìn thấy các thế giới nhiều như số hạt bụi.

 

Nhất nhất vi trần trung                                 Trong mỗi mỗi vi trần
các kiến trần số sát.                                     Ðều thấy trần số cõi.
hoặc hữu vô lượng sát,                                Hoặc có vô lượng cõi
nhất thiết hàm trược uế,                               Tất cả đều trược uế

chúng sanh thọ chư khổ,                             Chúng sanh thọ các khổ
thường bi thán hiệu khấp.                           Thường buồn than kêu khóc.

Ở trong mỗi mỗi hạt bụi, lại thấy các cõi Phật nhiều như số hạt bụi, hoặc có vô lượng cõi, tất cả đều ô trược tạp uế, như đời ác năm trược. Chúng sinh thọ đủ thứ các thống khổ, thường buồn rầu than thở kêu khóc, thật là đáng thương!

 

Hoặc hữu nhiễm tịnh sát,                             Hoặc có cõi nhiễm tịnh
thiểu lạc đa ưu khổ                                      Vui ít, nhiều đau khổ
thị hiện tam thừa tượng                               Thị hiện thân tam thừa
vãng bỉ nhi cứu độ                                      Qua đó mà cứu độ

Hoặc có cõi tạp nhiễm và thanh tịnh lẫn lộn, ít vui mà nhiều lo buồn khổ não, Ngài thị hiện thân ba thừa: Bồ Tát thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, đến những cõi nước đó để cứu độ chúng sinh thọ khổ.

 

Hoặc hữu tịnh nhiễm sát,                             Hoặc có cõi tịnh nhiễm
chúng sanh sở lạc kiến,                               Chúng sanh đều thích thấy
Bồ Tát thường sung mãn                             Bồ Tát thường sung mãn
trụ trì chư Phật Pháp.                                  Trụ trì những chánh pháp,

Hoặc có cõi thanh tịnh và tạp nhiễm, vì sở thích thấy của chúng sinh, Bồ Tát thường đầy dẫy trong đó, trụ trì tất cả các Phật pháp.

 

Nhất nhất vi trần trung                                 Trong mỗi mỗi vi trần
vô lượng tịnh sát hải                                    Vô lượng cõi thanh tịnh
Tỳ Lô Giá Na Phật                                      Do Tỳ Lô Giá Na
vãng kiếp sở nghiêm tịnh.                           Kiếp xưa đã nghiêm tịnh.

Trong mỗi mỗi hạt bụi, có vô lượng biển cõi Phật thanh tịnh, đó là hạnh môn của Phật Tỳ Lô Giá Na, thuở xưa trong đại kiếp đã trang nghiêm thanh tịnh. Cũng nhờ công đức của Phật, nên đắc được cõi Phật thanh tịnh đó.

 

Phật ư nhất thiết sát,                                    Phật ở tất cả cõi
tất tọa Bồ-đề thụ                                          Ðều ngồi cội Bồ đề
thành đạo chuyển pháp luân                        Thành đạo chuyển pháp luân
độ thoát chư quần sanh.                              Ðộ thoát các quần sanh.

Phật ở trong tất cả cõi, đều ngồi dưới cội bồ đề, thành tựu đạo nghiệp, sau đó chuyển bánh xe pháp, để độ thoát tất cả các quần sinh.

 

Ngã kiến phổ cứu Thiên,                             Tôi thấy Phổ Cứu Thần
ư bỉ vô lượng sát,                                        Ở chỗ tất cả Phật
nhất thiết chư Phật sở,                                 Trong vô lượng cõi kia
phổ giai vãng cúng dường.                         Ðều khắp đến cúng dường.

Con nhìn thấy Ngài Thiên Thần Phổ Cứu, ở trong vô lượng cõi Phật đó, và trong đạo tràng chỗ tất cả chư Phật, đều đến trước khắp cúng dường.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử thuyết thử tụng dĩ, bạch phổ cứu chúng sanh diệu đức dạ Thần ngôn:

Thiện Tài đồng tử nói kệ xong, thưa Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Ðức rằng :

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói bài kệ đó rồi, bèn bạch với vị Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức rằng:

 

Thiên thần! kim thử giải thoát thậm thâm hy hữu! kỳ danh hà đẳng? đắc thử giải thoát kỳ dĩ cửu như? tu hà đẳng hạnh nhi đắc thanh tịnh?

Bạch đại Thánh ! Môn giải thoát thậm thâm hi hữu này tên là gì ? Ngài được môn giải thoát này đã bao lâu ? Tu hạnh gì mà được thanh tịnh ?

Giảng: “Thiên Thần! Hiện tại môn giải thoát tam muội nầy rất là vi diệu hi hữu khó được, tên gọi là gì? Ngài đắc được môn giải thoát tam muội nầy đã bao lâu? Ngài tu hạnh gì mà được thanh tịnh”?

Thiện Tài đồng tử hỏi vị Dạ Thần đắc pháp lâu mau, là vì muốn hiển đức tu lâu xa. Hỏi tu nhân tịnh trị, là vì cầu đạo.

 

Thần ngôn: Thiện nam tử! thị xứ nan tri, chư Thiên cập nhân, nhất thiết nhị thừa sở bất năng trắc.

Dạ Thần nói : Này thiện nam tử ! Sự này khó biết. Tất cả Nhơn, Thiên và Nhị thừa không lường được.

Giảng: Vị Dạ Thần nói: “Thiện nam tử! Thứ đạo lý nầy không dễ gì hiểu biết được. Chư Thiên và loài người, tất cả hàng nhị thừa, không thể dò lường được.

 

Hà dĩ cố? thử thị trụ Phổ Hiền Bồ Tát hành giả cảnh giới cố, trụ đại bi tạng giả cảnh giới cố, cứu hộ nhất thiết chúng sanh giả cảnh giới cố, năng tịnh nhất thiết tam ác bát nạn giả cảnh giới cố, năng ư nhất thiết Phật sát trung thiệu long Phật chủng bất đoạn giả cảnh giới cố, năng trụ trì nhất thiết Phật Pháp giả cảnh giới cố, năng ư nhất thiết kiếp tu Bồ Tát hạnh thành mãn Đại nguyện hải giả cảnh giới cố, năng ư nhất thiết Pháp giới hải dĩ thanh tịnh trí quang diệt vô minh ám chướng giả cảnh giới cố, năng dĩ nhất niệm trí tuệ quang minh phổ chiếu nhất thiết tam thế phương tiện hải giả cảnh giới cố.

Tại sao vậy ? vì đây là cảnh giới của bậc an trụ Phổ Hiền hạnh. Là cảnh giới của bậc an trụ đại bi tạng. Là cảnh giới của bậc cứu hộ tất cả chúng sanh. Là cảnh giới của bậc có thể tịnh tất cả tam ác bát nạn. Là cảnh giới của bậc ở trong tất cả Phật độ nối thạnh Phật chủng chẳng dứt. Là cảnh giới của bậc có thể trụ trì được tất cả Phật pháp. Là cảnh giới của bậc có thể ở tất cả kiếp tu Bồ Tát hạnh thành mãn biển đại nguyện. Là cảnh giới của bậc có thể ở tất cả pháp giới dùng trí quang thanh tịnh diệt vô minh ám chướng. Là cảnh giới của bậc có thể dùng trí quang minh trong khoảng một niệm chiếu khắp tất cả phương tiện tam thế.

Giảng: Tại sao vậy? Vì đây là cảnh giới của bậc trụ hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền. Cũng là cảnh giới của bậc trụ đại bi tạng. Cũng là cảnh giới của bậc cứu hộ tất cả chúng sinh. Cũng là cảnh giới của bậc thanh tịnh được tất cả ba ác tám nạn. Cũng là cảnh giới của bậc có thể ở trong tất cả cõi Phật thiệu long giống Phật không dứt. Cũng là cảnh giới của bậc trụ trì được tất cả Phật pháp. Cũng là cảnh giới có thể ở trong tất cả kiếp tu Bồ Tát hạnh thành tựu viên mãn biển đại nguyện. Cũng là cảnh giới của bậc có thể ở trong biển pháp giới, dùng trí huệ quang thanh tịnh, diệt trừ vô minh ám chướng. Cũng là cảnh giới của bậc có thể dùng một niệm trí huệ quang minh, chiếu khắp tất cả biển phương tiện ba đời. Một người tu đạo nếu muốn đắc được pháp môn không thể nghĩ bàn nầy, thì phải viên mãn đủ thứ nhân duyên nầy.

 

Ngã thừa Phật lực, kim vi nhữ thuyết.

Nay ta thừa oai lực của Phật vì ngươi mà nói.

Giảng: Ta nương thần lực của Phật, nay vì ngươi mà diễn nói”.

 

Thiện nam tử! nãi vãng cổ thế, qua Phật sát vi trần số kiếp, Nhĩ thời hữu kiếp, danh: viên mãn thanh tịnh, thế giới danh: Tỳ Lô Giá Na đại uy đức, hữu Tu-di sơn vi trần số Như Lai ư trung xuất hiện.

Này thiện nam tử ! Thuở xưa, quá Phật sát vi trần số kiếp, có một kiếp tên là Viên Mãn Thanh Tịnh. Thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Ðại Oai đức. Có Tu Di Sơn vi trần số Như Lai xuất thế trong thế giới đó.

Giảng: Thiện nam tử! Vào thuở quá khứ, trải qua đại kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Lúc đó có kiếp, tên là Viên Mãn Thanh Tịnh. Thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Oai Đức. Có chư Phật nhiều như số hạt bụi núi Tu Di xuất hiện ra đời.

 

Kỳ Phật thế giới, dĩ nhất thiết Hương Vương ma-ni bảo vi thể, chúng bảo trang nghiêm, trụ vô cấu quang minh ma-ni Vương hải thượng.

Thế giới đó bằng chất nhất thiết hương vương ma ni bửu, châu báu trang nghiêm, trụ trên biển vô cấu quang minh ma ni vương.

Giảng: Phật thế giới đó, dùng tất cả hương vương ma ni báu làm thể, các báu trang nghiêm, trụ trên biển vô cấu quang minh ma ni vương,

 

Kỳ hình chánh viên, tịnh uế hợp thành, nhất thiết nghiêm cụ trướng vân nhi phước kỳ thượng, nhất thiết trang nghiêm ma-ni luân sơn thiên tạp vi nhiễu. Hữu thập vạn ức na-do-tha tứ thiên hạ giai diệu trang nghiêm, hoặc hữu tứ thiên hạ ác nghiệp chúng sanh ư trung chỉ trụ, hoặc hữu tứ thiên hạ tạp nghiệp chúng sanh ư trung chỉ trụ, hoặc hữu tứ thiên hạ thiện căn chúng sanh ư trung chỉ trụ, hoặc hữu tứ thiên hạ nhất hướng thanh tịnh chư đại Bồ-tát chi sở chỉ trụ.

Thế giới này hình chánh viên, tịnh uế hiệp thành, mây bửu trướng và tất cả trang nghiêm cụ giăng phía trên. Luân sơn ma ni trang nghiêm bao quanh ngàn vòng. Có mười ức na do tha tứ thiên hạ đều diệu trang nghiêm. Hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh ác nghiệp ở trong đó. Hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh tạp nghiệp ở trong đó. Hoặc có tứ thiên hạ chúng sanh thiện căn ở trong đó. Hoặc có tứ thiên hạ chư Bồ Tát thuần thanh tịnh ở trong đó.

Giảng: Thế giới đó hình tròn, sạch sẽ và dơ bẩn hợp thành. Tất cả đồ trang nghiêm trướng mây che phủ phía trên. Có tất cả trang nghiêm ma ni luân sơn bao quanh ngàn vòng. Có mười vạn ức Na do tha bốn thiên hạ đều trang nghiêm tốt đẹp. Hoặc có bốn thiên hạ, chúng sinh tạo ác nghiệp ở trong đó. Hoặc có bốn thiên hạ, chúng sinh tạp nghiệp thiện ác lẫn lộn ở trong đó. Hoặc có bốn thiên hạ, chúng sinh tạo căn lành ở trong đó. Hoặc có bốn thiên hạ, các đại Bồ Tát thuần thanh tịnh ở trong đó. (Đoạn nầy là tướng cõi thông hiển).

 

Thử giới Đông tế luân vi sơn trắc, hữu tứ thiên hạ, danh: bảo đăng hoa tràng. Quốc giới thanh tịnh, ẩm thực phong túc, bất tạ canh vân nhi sanh đạo lương; cung điện lâu các tất giai kì diệu; chư như ý thọ xứ xứ hàng liệt, chủng chủng hương thọ hằng xuất hương vân, chủng chủng man thọ hằng xuất man vân, chủng chủng hoa thọ thường vũ hương khí; chủng chủng bảo thụ xuất chư kì bảo, vô lượng sắc quang châu táp chiếu diệu; chư âm nhạc thọ xuất chư âm nhạc, tùy phong xuy động diễn diệu âm thanh; nhật nguyệt quang minh ma-ni bảo vương phổ chiếu nhất thiết, trú dạ thọ lạc vô thời gian đoạn.

Cạnh Luân Vi Sơn tột phía Ðông của thế giới này, có tứ thiên hạ tên là Bửu Ðăng Hoa Tràng, cõi nước thanh tịnh, ăn mặc sung túc. Chẳng cần canh tác mà lúa bắp tự mọc tốt. Cung điện lâu các thảy đều kỳ diệu. Những cây như ý thành hàng khắp nơi. Những hương thọ hằng thoảng hơi thơm. Những man thọ hằng xuất sanh mây tràng hoa. Những hoa thọ thường tuôn hoa đẹp. Những bửu thọ xuất sanh báu lạ. Quang minh vô lượng màu chiếu sáng bao vòng. Những âm nhạc thọ xuất sanh những âm nhạc theo gió thổi động phát âm thanh vi diệu. Ánh sáng mặt nhựt, mặt nguyệt và ma ni bửu vương chiếu khắp mọi nơi. Ðêm ngày thường có toàn những cảnh vui vẻ.

Giảng: Bên cạnh núi Luân Vi bờ mé phía đông thế giới Tỳ Lô Giá Na Đại Oai Đức đó, có một bốn thiên hạ, tên là Bảo Đăng Hoa Tràng, cõi nước thanh tịnh, thức ăn uống phong phú đầy đủ, đất đai không cần trồng trọt mà lúa ngũ cốc mọc lên tươi tốt, đây là hiện tượng nhân dân có phước báo. Cung điện lầu các, thảy đều tốt đẹp kỳ lạ. Tất cả các cây như ý, thẳng hàng khắp nơi. Đủ thứ cây thơm, luôn toả ra mây thơm. Đủ thứ cây tràng hoa, luôn sinh ra mây tràng hoa. Đủ thứ cây hoa, thường mưa xuống hoa đẹp. Đủ thứ cây báu, sinh ra các báu đẹp lạ, lại có vô lượng màu sắc ánh sáng, chiếu sáng chung quanh. Các cây âm nhạc, vang ra các thứ âm nhạc, tuỳ theo gió thổi động, mà phát ra âm thanh vi diệu. Lại có ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ma ni vương báu, chiếu sáng khắp tất cả. Nhân dân ngày đêm hưởng thọ an vui, không khi nào gián đoạn.

 

Thử tứ thiên hạ hữu bách vạn ức na-do-tha chư Vương quốc độ, nhất nhất quốc độ hữu thiên đại hà châu táp vi nhiễu, nhất nhất giai dĩ hương khí phước thượng, tùy lưu phiêu động, xuất Thiên nhạc âm, nhất thiết bảo thụ liệt thực kỳ ngạn, chủng chủng trân kì dĩ vi nghiêm sức, châu thuyền lai vãng xưng Tình hí lạc.

Trong tứ thiên hạ này có trăm vạn ức na do tha vương quốc. Mỗi nước có ngàn sông lớn chảy quanh. Mặt sông đều có hoa đẹp đua nở, lay động theo dòng nước chảy phát tiếng âm nhạc cõi trời. Nhiều bửu thọ mọc lên bên bờ sông. Nhiều thứ trân kỳ dùng để nghiêm sức. Ghe thuyền qua lại vui chơi thỏa tình.

Giảng: Bốn thiên hạ đó, có trăm vạn ức Na do tha các cõi nước vương quốc. Mỗi cõi nước đều có ngàn con sông lớn, chảy khắp chung quanh. Mỗi con sông đều có các hoa đẹp phủ trên mặt nước. Theo dòng chảy lưu động, mà vang ra âm nhạc trời. Tất cả cây báu mọc lên la liệt hai bên bờ sông, nghiêm sức đủ thứ các báu đẹp lạ. Ghe thuyền của nhân dân qua lại với nhau, vui chơi thoả thích.

 

Nhất nhất hà gian hữu bách vạn ức thành, nhất nhất thành hữu bách vạn ức na-do-tha tụ lạc; như thị nhất thiết thành ấp, tụ lạc, các hữu vô lượng bách thiên ức na-do-tha cung điện viên lâm châu táp vi nhiễu.

Khoảng giữa mỗi sông, có trăm vạn ức thành. Mỗi thành có trăm vạn ức na do tha tụ lạc. Tất cả thành ấp tụ lạc đều có trăm ngàn ức na do tha cung điện, bao bọc chung quanh.

Giảng: Ở giữa mỗi dòng sông, có trăm vạn ức thành thị. Mỗi thành thị đều có trăm vạn ức Na do tha xóm làng. Tất cả thành ấp xóm làng như vậy, đều có vô lượng trăm ngàn ức Na do tha cung điện vườn rừng, bao bọc chung quanh.

 

Thử tứ thiên hạ Diêm-phù-đề nội, hữu nhất quốc độ, danh: bảo hoa đăng, an ổn phong lạc, nhân dân sí thịnh; kỳ trung chúng sanh, cụ hành Thập thiện. Hữu Chuyển luân Vương ư trung xuất hiện, danh: Tỳ Lô Giá Na diệu bảo liên hoa kế, ư liên hoa trung hốt nhiên hóa sanh, tam thập nhị tướng dĩ vi nghiêm hảo, thất bảo cụ túc, Vương tứ thiên hạ, hằng dĩ chánh pháp giáo đạo quần sanh.

Trong tứ thiên hạ này, ở Diêm Phù Ðề có một nước tên là Bửu Hoa Ðăng an ổn phong phú, nhân dân đông đúc đều thật hành thập thiện. Trong nước có Chuyển Luân Vương xuất hiện hiệu là Tỳ Lô Giá Na Diệu Bửu Liên Hoa Kế, sanh từ trong hoa sen, đủ ba mươi hai tướng hảo, đủ thất bửu, cai trị tứ thiên hạ, hằng dùng chánh pháp giáo hóa chúng sanh. Nhà vua có ngàn Vương Tử đoan chánh dũng kiện hành phục được oán địch.

Giảng: Bốn thiên hạ đó trong Diêm Phù Đề, có một cõi nước, tên là Bảo Hoa Đăng, an ổn sung túc, nhân dân thịnh vượng, chúng sinh trong đó, đều tu hành thập thiện (Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không chửi mắng, không tham, không sân, không si). Có một vị Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện trong cõi nước Bảo Hoa Đăng đó, tên là Tỳ Lô Giá Na Diệu Bảo Liên Hoa Kế. Đột nhiên sinh ra trong hoa sen, có ba mươi hai tướng tốt, trang nghiêm thân, đầy đủ bảy báu (Bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, thần báu, ngọc nữ báu, binh báu). Vua thống trị bốn thiên hạ, luôn dùng chánh pháp giáo hoá quần sinh.

 

Vương hữu thiên tử, đoan chánh dũng kiện, năng phục oán địch; bách vạn ức na-do-tha cung nhân, thải nữ, giai tất dữ Vương đồng chủng thiện căn, đồng tu chư hạnh, đồng thời đản sanh, đoan chánh xu diệu do như Thiên nữ, thân chân kim sắc thường phóng quang minh, chư mao khổng trung hằng xuất diệu hương

Trăm vạn ức na do tha cung nữ đều cùng nhà vua đồng gieo thiện căn, đồng tu công hạnh, đồng thời đản sanh, xinh đẹp như Thiên nữ, thân màu chơn kim thường phóng quang minh. Trong lỗ lông hằng phát ra hơi thơm.

Giảng: Vua có một ngàn vương tử, đều đoan chánh dũng mãnh, hàng phục được tất cả oán địch. Lại có trăm vạn ức Na do tha cung phi thể nữ, thảy đều cùng trồng căn lành với vua Chuyển Luân Thánh Vương, cùng tu lục độ vạn hạnh, sinh ra đời cùng thời, đều rất đoan chánh xinh đẹp như Thiên nữ. Thân thể màu vàng ròng, thường phóng ra quang minh. Trong các lỗ chân lông, luôn toả ra hương thơm.

 

Lương Thần, mãnh tướng, cụ túc thập ức. Vương hữu chánh phi, danh: viên mãn diện, thị Vương nữ bảo, đoan chánh Thù đặc, bì phu kim sắc, mục phát cám thanh, ngôn đồng Phạm Âm, thân hữu thiên hương, thường phóng quang minh chiếu thiên do-tuần. kỳ hữu nhất nữ, danh: phổ trí diệm diệu đức nhãn, hình thể đoan nghiêm, sắc tướng thù mỹ, chúng sanh kiến giả Tình Vô yếm túc.

Quan hiền, tướng mạnh đủ mười ức. Chánh phi của nhà vua tên là Viên Mãn Diện, là bửu nữ đoan chánh đẹp lạ, da màu chơn kim, mắt tóc đều xanh biếc, tiếng nói như phạm âm, thân có mùi thơm cõi trời, thường phóng ánh sáng chiếu ngàn do tuần. Có một vương nữ tên là Phổ Trí Diệm Diệu Ðức Nhãn. Thân hình đoan nghiêm, sắc tướng xinh đẹp, mọi người đều thích thấy không chán.

Giảng: Vua có dân thần dũng tướng, đầy đủ mười ức người. Vua có bà chánh phi, tên là Viên Mãn Diện, là nữ báu của vua, rất đoan chánh xinh đẹp, da màu vàng ròng, mắt và tóc màu xanh biếc, tiếng nói rất thanh tịnh như Phạm âm, trên thân có hương trời. Thường phóng ra quang minh, chiếu sáng ngàn do tuần. (Đoạn nầy tên bổn sanh phụ mẫu). Bà chánh phi đó có một người con gái, tên là Phổ Trí Diệm Diệu Đức Nhãn, thân hình cô ta rất đoan nghiêm, sắc tướng rất xinh đẹp thù thắng. Chúng sinh ai thấy được, nhìn đều không nhàm chán. (Đoạn nầy rõ bổn thân).

 

Nhĩ thời, chúng sanh thọ mạng vô lượng, hoặc hữu bất định nhi trung yêu giả; chủng chủng hình sắc, chủng chủng âm thanh, chủng chủng danh tự, chủng chủng tộc tính, ngu, trí, dũng, khiếp, bần, phú, khổ, lạc, vô lượng phẩm loại giai tất bất đồng.

Thuở đó, loài người sống lâu vô lượng. Hoặc có kẻ bất định chết yểu giữa chừng. Nhiều hình sắc, nhiều âm thanh, nhiều danh tự, nhiều tộc tánh, ngu trí mạnh yếu, nghèo giàu khổ vui, vô lượng phẩm loại thảy đều chẳng đồng.

Giảng: Lúc đó, chúng sinh hưởng thụ thọ mạng vô lượng. Nhưng vẫn có những người chết yểu giữa chừng không nhất định. Những chúng sinh đó có đủ thứ hình mạo và sắc tướng, đủ thứ âm thanh, đủ thứ danh tự, đủ thứ chủng tộc, có những người ngu si, hoặc người trí huệ thông minh, hoặc người mạnh, kẻ yếu, người giàu, kẻ nghèo, người khổ, kẻ vui, vô lượng phẩm loại, thảy đều khác nhau.

 

Thời, hoặc hữu nhân ngữ dư nhân ngôn: ngã thân đoan chánh, nhữ hình bỉ lậu. Tác thị ngữ dĩ, đệ tướng hủy nhục, tập bất thiện nghiệp; dĩ thị nghiệp cố, thọ mạng, sắc lực, nhất thiết lạc sự tất giai tổn giảm.

Lúc đó có người nói với người khác rằng: Có kẻ nói thân tôi đẹp thân người xấu. Rồi sỉ nhục, gây ác nghiệp. Do đây nên thọ mạng sắc lực tất cả phước vui đều bị tổn giảm.

Giảng: Lúc đó có người nói với người khác rằng: “Thân tôi xinh đẹp, thân ngươi rất là xấu xí”. Đây là trên đầu lại thêm đầu, không việc tìm việc phiền não nói lời thị phi. Họ nói như vậy rồi, thì huỷ nhục phỉ báng lẫn nhau, cho nên tích tập nghiệp bất thiện chửi mắng, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi. Bởi vì có những nghiệp báo bất thiện đó, nên thọ mạng sắc tướng và sức lực của họ, tất cả việc phước lạc, thảy đều tổn hại giảm bớt. (Đoạn nầy là chúng sinh khởi ác, là nguyên nhân Phật xuất hiện)

 

Thời, bỉ thành Bắc hữu Bồ-đề thụ, danh: phổ quang pháp vân âm tràng, dĩ niệm niệm xuất hiện nhất thiết Như Lai đạo tràng trang nghiêm kiên cố ma-ni Vương nhi vi kỳ căn, nhất thiết ma-ni dĩ vi kỳ cán, chúng tạp diệu bảo dĩ vi kỳ diệp, thứ đệ phân bố, tịnh tướng xưng khả, tứ phương thượng hạ, viên mãn trang nghiêm; phóng bảo quang minh, xuất diệu âm thanh, thuyết nhất thiết Như Lai thậm thâm cảnh giới.

Thành Bắc có cây Bồ đề tên là Phổ quang pháp vân âm tràng. Gốc cây bằng ma ni vương kiên cố niệm niệm xuất sanh tất cả Như Lai đạo tràng trang nghiêm. Tất cả châu ma ni làm thân cây. Lá bằng tạp bửu. Nhánh lá đều có thứ tự xứng nhau, trên dưới bốn phía đều viên mãn trang nghiêm, phóng bửu quang minh, phát diệu âm thanh nói cảnh giới thậm thâm của Như Lai.

Giảng: Lúc đó, phía bắc thành đó có cây bồ đề, tên là Phổ Quang Pháp Vân Âm Tràng, rễ cây bằng ma ni vương kiên cố, niệm niệm xuất hiện tất cả Như Lai đạo tràng trang nghiêm. Tất cả ma ni dùng làm thân cây, các tạp báu đẹp dùng làm lá cây, phấn bố thứ tự, tương xứng với nhau, bốn phía trên dưới, viên mãn trang nghiêm. Phóng ra quang minh báu, vang ra âm thanh vi diệu, nói cảnh giới thâm sâu của tất cả Như Lai.

 

Ư bỉ thọ tiền, hữu nhất hương trì, danh: bảo hoa quang minh, diễn pháp lôi âm; diệu bảo vi ngạn, bách vạn ức na-do-tha bảo thụ vi nhiễu, nhất nhất thọ hình như Bồ-đề thụ, chúng bảo anh lạc châu táp thùy hạ, vô lượng lâu các giai bảo sở thành, chu biến đạo tràng dĩ vi nghiêm sức.

Trước đây Bồ đề có một ao nước thơm tên là bửu hoa quang minh diễn pháp lôi âm, bờ ao bằng diệu bửu. Xung quanh ao có trăm vạn ức na do tha bửu thọ. Hình dáng những cây này giống như cây Bồ đề. Những chuỗi ngọc rủ thòng bốn phía. Vô lượng lâu các đều bằng chất báu nghiêm sức khắp đạo tràng.

Giảng: Ở trước cây đó, có một ao thơm, tên là Bảo Hoa Quang Minh Diễn Pháp Lôi Âm, báu đẹp làm bờ, có trăm vạn ức Na do tha cây báu chung quanh. Mỗi mỗi thân cây, đều như cây bồ đề. Có các chuỗi báu thòng rũ chung quanh. Có vô lượng lầu các, đều làm bằng châu báu, khắp chung quanh đạo tràng, dùng để nghiêm sức.

 

Bỉ hương trì nội xuất đại liên hoa, danh: phổ hiện tam thế nhất thiết Như Lai trang nghiêm cảnh giới vân, Tu-di sơn vi trần số Phật ư trung xuất hiện.

Trong ao nước thơm xuất sanh hoa sen lớn tên là Phổ hiện tam thế nhất thiết Như Lai trang nghiêm cảnh giới vân. Có Tu Di Sơn vi trần số Phật xuất hiện trong đó.

Giảng: Trong ao thơm đó, mọc lên một đoá hoa sen lớn, tên là Phổ Hiện Ba Đời Tất Cả Như Lai Trang Nghiêm Cảnh Giới Vân. (Đoạn nầy tường thuật lại Phật hưng ích vật, minh đắc đạo chi tràng). Trong đoá hoa sen đó, có chư Phật xuất hiện nhiều như số hạt bụi núi Tu Di

 

Kỳ đệ nhất Phật, danh: Phổ Trí Bảo Diệm Diệu Đức Tràng, ư thử hoa thượng, tối sơ đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, vô lượng thiên tuế diễn thuyết Chánh Pháp thành thục chúng sanh.

Ðức Phật thứ nhứt hiệu là Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Tràng, thành Vô thượng Ðẳng Chánh Giác trước nhất nơi trên hoa sen lớn này. Ðức Phật diễn thuyết chánh pháp thành thục chúng sanh vô lượng ngàn năm.

Giảng: Vị Phật thứ nhứt, hiệu là Phổ Trí Bảo Diệm Diệu Đức Tràng. Ngài ở trong hoa sen đó, ban đầu đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Trong vô lượng ngàn năm, Ngài diễn nói chánh pháp, thành thục chúng sinh.

 

Kỳ bỉ Như Lai vị thành Phật thời, thập thiên niên tiền, thử đại liên hoa phóng Tịnh Quang minh, danh: hiện chư thần thông thành thục chúng sanh; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tâm tự khai ngộ, vô sở bất liễu, tri thập thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Lúc đức Như Lai Phổ Trí chưa thành Phật, trước đây mười ngàn năm, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Hiện chư thần thông thành thục chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào được quanh minh này chiếu đến thời tâm họ tự khai ngộ không gì chẳng biết rõ, biết mười ngàn năm sau có Phật xuất thế.

Giảng: Khi đức Như Lai Phổ Trí Bảo Diệm Diệu Đức Tràng đó chưa thành Phật, thì trước đó mười ngàn năm, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng ra quang minh thanh tịnh, tên là Hiện chư thần thông thành thục chúng sinh. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì trong tâm tự nhiên khai ngộ, chẳng có gì mà không thấu rõ. Họ biết mười ngàn năm sau, sẽ có Phật xuất hiện ra đời.

 

Cửu thiên niên tiền, phóng Tịnh Quang minh, danh: nhất thiết chúng sanh ly cấu đăng; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, đắc thanh Tịnh nhãn, kiến nhất thiết sắc, tri cửu thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Chín ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quanh minh tên là Nhứt thiết chúng sanh ly cấu đăng. Nếu có chúng sanh gặp quang minh này thời được thanh tịnh nhãn thấy tất cả màu sắc, biết chín ngàn năm sau, sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Chín ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Nhất thiết chúng sinh ly cấu đăng. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì đắc được con mắt pháp thanh tịnh, thấy tất cả sắc tướng. Họ biết chín ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Bát thiên niên tiền, phóng đại quang minh, danh: nhất thiết chúng sanh nghiệp quả âm; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tất đắc tự tri chư nghiệp quả báo, tri bát thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Tám ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Nhứt thiết chúng sanh nghiệp quả âm. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời đều tự biết những nghiệp quả báo. Biết tám ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Tám ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng ra quang minh, tên là Nhất thiết chúng sinh nghiệp quả âm. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì đều biết được mình tạo nghiệp gì, thì sẽ đắc được quả báo đó. Họ biết tám ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Thất thiên niên tiền, phóng đại quang minh, danh: sanh nhất thiết thiện căn âm; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, nhất thiết chư căn tất đắc viên mãn, tri thất thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Bảy ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quanh minh tên là Sanh Nhứt thiết thiện căn âm. Nếu có chúng sanh nào gặp quang minh này thời tất cả các căn thảy đều viên mãn. Biết bảy ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Bảy ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Sinh nhất thiết thiện căn âm. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì tất cả các căn của họ đều được viên mãn. Họ biết bảy ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Lục thiên niên tiền, phóng đại quang minh, danh: Phật bất tư nghị cảnh giới âm; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, kỳ tâm quảng đại, phổ đắc tự tại, tri lục thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Sáu ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quanh minh tên là Phật bất tư nghì cảnh giới âm. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời tâm họ quảng đại được tự tại khắp cả. Biết sáu ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Sáu ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Phật bất tư nghì cảnh giới âm. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì tâm họ rộng lớn, khắp được tự tại. Họ biết sáu ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Ngũ thiên niên tiền, phóng đại quang minh, danh: nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát âm; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tất kiến nhất thiết thanh tịnh Phật độ, tri ngũ thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Năm ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Nghiêm tịnh nhứt thiết Phật sát âm. Nếu có chúng sanh gặp quang minh này thời thấy tất cả Phật độ thanh tịnh. Biết năm ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Năm ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Nghiêm tịnh tất cả cõi Phật âm. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì đều thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh. Họ biết năm ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Tứ thiên niên tiền, phóng đại quang minh, danh: nhất thiết Như Lai cảnh giới vô sái biệt đăng; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tất năng vãng cận nhất thiết chư Phật, tri tứ thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Bốn ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Nhứt thiết Như Lai cảnh giới vô sai biệt đăng. Nếu có chúng sanh nào gặp quanh minh này thời đều có thể đến ra mắt tất cả chư Phật. Biết bốn ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Bốn ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Nhất thiết Như Lai cảnh giới vô sai biệt đăng. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì đều có thể đến hầu hạ thấy tất cả chư Phật. Họ biết bốn ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Tam thiên niên tiền, phóng đại quang minh, danh: tam thế minh đăng; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tất năng hiện kiến nhất thiết Như Lai chư bổn sự hải, tri tam thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Ba ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quang minh tên là Tam thế minh đăng. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời đều có thể hiện thấy những bổn sự của tất cả Như Lai. Biết ba ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Ba ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Tam thế minh đăng. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì đều hiện thấy được các biển bổn sự của tất cả Như Lai. Họ biết ba ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Nhị thiên niên tiền, phóng đại quang minh, danh: Như Lai ly ế trí tuệ đăng; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tức đắc phổ nhãn kiến nhất thiết Như Lai thần biến, nhất thiết chư Phật quốc độ, nhất thiết thế giới chúng sanh, tri nhị thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Hai ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng tịnh quanh minh tên là Như Lai ly ế trí huệ đăng. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời được phổ nhãn thấy thần biến của tất cả Như Lai, thấy tất cả Phật độ, thấy tất cả thế giới chúng sanh. Biết hai ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Hai ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Như Lai ly ế trí huệ đăng. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì liền được phổ nhãn, nhìn thấy được thần thông biến hoá của tất cả Như Lai, cõi nước của tất cả chư Phật, tất cả thế giới chúng sinh. Họ biết hai ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Nhất thiên niên tiền, phóng đại quang minh, danh: lệnh nhất thiết chúng sanh kiến Phật tập chư thiện căn; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tức đắc thành tựu kiến Phật tam muội, tri nhất thiên niên hậu Phật đương xuất hiện.

Một ngàn năm trước, hoa sen lớn này phóng đại quang minh tên là Linh nhất thiết chúng sanh kiến Phật tập chư thiện căn. Nếu có chúng sanh gặp quanh minh này thời được thành tựu kiến Phật tam muội. Biết một ngàn năm sau sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Một ngàn năm trước, đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Khiến tất cả chúng sinh thấy Phật tập các căn lành. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì liền được thành tựu thấy Phật tam muội. Họ biết một ngàn năm sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

 

Thứ thất nhật tiền, phóng đại quang minh, danh: nhất thiết chúng sanh hoan hỉ âm; nhược hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, đắc phổ kiến chư Phật sanh đại hoan hỉ, tri thất nhật hậu Phật đương xuất hiện.

Bảy ngày trước, hoa sen này phóng đại quanh minh tên là Nhứt thiết chúng sanh hoan hỷø âm. Nếu có chúng sanh gặp quang minh này thời được thấy khắp chư Phật sanh lòng rất hoan hỷ. Biết sau bảy ngày sẽ có Phật xuất thế.

Giảng: Bảy ngày trước khi Phật xuất hiện ra đời, thì đoá hoa sen lớn đó, lại phóng đại quang minh, tên là Nhất thiết chúng sinh hoan hỉ âm. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh đó, thì thấy được khắp chư Phật sinh đại hoan hỉ. Họ biết bảy ngày sau, Phật sẽ xuất hiện ra đời.

Đoạn nầy tường thuật lại tướng trước khi Phật thành đạo, hoa sen đó phóng quang điều cơ, tổng cộng có hai mươi mốt thứ, trong mỗi một thứ, đều có tên của quang minh. Mỗi một thứ quang minh đều hiển bày công dụng công đức của Phật không thể nghĩ bàn. Mười thứ quang minh ở trước, đều đại biểu mười Ba La Mật. Quang minh cuối cùng là viên dung mười độ quang, dùng đây chiếu tâm, thì tự trí xuất hiện.

Cảnh giới trong Phẩm Pháp Giới, đều không ra ngoài tự tánh của chúng ta. Pháp giới tức là tánh diệu giác của chúng ta. Cho nên nói:
“Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo”.

 

Mãn thất nhật dĩ, nhất thiết thế giới tất giai chấn động, thuần tịnh vô nhiễm, niệm niệm phổ hiện thập phương nhất thiết thanh tịnh Phật sát, diệc hiện bỉ sát chủng chủng trang nghiêm; nhược hữu chúng sanh căn tánh thuần thục, ưng kiến Phật giả, hàm nghệ đạo tràng.

Ðủ bảy ngày sau, tất cả thế giới thảy đều chấn động, thuần tịnh vô nhiễm, mỗi niệm hiện khắp mười phương tất cả cõi Phật thanh tịnh, cũng hiện những sự trang nghiêm của những cõi đó. Nếu có chúng sanh nào căn tánh thuần thục đáng được thấy Phật thời đều đến đạo tràng.

Giảng: Qua bảy ngày sau, tất cả thế giới đều phát sinh sáu thứ chấn động (điềm cát tường), biến thành thuần thanh tịnh không có nhiễm ô. Trong niệm niệm khắp thị hiện tất cả cõi Phật thanh tịnh trong mười phương, có bất khả thuyết cõi Phật hốt nhiên tự thị hiện, cũng thị hiện đủ thứ sự trang nghiêm trong các cõi đó, đó là sự biến hoá rất kỳ diệu. Nếu có chúng sinh nào căn tánh thành thục, đáng được gặp Phật, thì đều đi đến đạo tràng dưới cội bồ đề Phổ quang pháp vân âm tràng. (Đoạn nầy tường thuật lại động cõi tập chúng)

 

Nhĩ thời, bỉ thế giới trung nhất thiết luân vi, nhất thiết Tu-Di, nhất thiết chư sơn, nhất thiết đại hải, nhất thiết địa, nhất thiết thành, nhất thiết viên tường, nhất thiết cung điện, nhất thiết âm nhạc, nhất thiết ngữ ngôn, giai xuất âm thanh, tán thuyết nhất thiết chư Phật Như Lai thần lực cảnh giới

Bấy giờ trong thế giới Tỳ Lô Giá Na Ðại Oai Ðức đó, tất cả Luân Vi Sơn, Tu Di Sơn, tất cả núi biển, lục địa, thành quách, tường rào, cung điện, âm nhạc, ngữ ngôn đều vang ra âm thanh, khen nói cảnh giới thần lực của tất cả Như Lai.

Giảng: Lúc đó, trong thế giới Tỳ Lô Giá Na Đại Oai Đức, tất cả núi Luân Vi, tất cả núi Tu Di, tất cả các núi, tất cả biển cả, tất cả đất đai, tất cả thành thị, tất cả tường rào, tất cả cung điện, tất cả âm nhạc, tất cả ngôn ngữ, vô tình thế giới v.v… đều vang ra âm thanh, để khen ngợi diễn nói cảnh giới thần lực của tất cả chư Phật Như Lai.

 

Hựu xuất nhất thiết hương vân, nhất thiết thiêu hương vân, nhất thiết mạt hương vân, nhất thiết hương ma-ni hình tượng vân, nhất thiết bảo diệm vân, nhất thiết diệm tạng vân, nhất thiết ma-ni y vân, nhất thiết anh lạc vân, nhất thiết hương khí vân, nhất thiết Như Lai quang minh vân, nhất thiết Như Lai viên quang vân, nhất thiết âm nhạc vân, nhất thiết Như Lai nguyện thanh vân, nhất thiết Như Lai ngôn âm hải vân, nhất thiết Như Lai tướng hảo vân, hiển thị Như Lai xuất hiện thế gian bất tư nghị tướng.

Lại phát ra tất cả mây thơm : Hương xông, hương bột. Phát ra tất cả mây hương hình tượng ngọc ma ni, mây bửu diệm, mây diệm tạng, mây y phục ma ni, mây anh lạc, mây diệu hoa, mây Như Lai quanh minh, mây Như Lai viên quang, mây âm nhạc, mây Như Lai nguyện thanh, mây Như Lai ngôn âm, mây Như Lai tướng hảo, hiển thị tướng bất tư nghì của đức Như Lai xuất hiện thế gian.

Giảng: Lại hiện ra tất cả mây hương, tất cả mây hương đốt, tất cả mây hương bột, tất cả mây hương hình bóng ma ni, tất cả mây bảo diệm, tất cả mây diệm tạng, tất cả mây ma ni y phục, tất cả mây anh lạc, tất cả mây hoa đẹp, tất cả mây Như Lai quang minh, tất cả mây Như Lai viên quang, tất cả mây âm nhạc, tất cả mây tiếng nguyện của Như Lai, tất cả mây biển lời nói của Như Lai, tất cả mây tướng tốt của Như Lai. Đủ thứ mây đó đều hiển bày tướng Như Lai xuất hiện ra thế gian không thể nghĩ bàn. Đây cũng biểu thị người ở thế giới đó có căn lành và phước báo sâu dày, thiên thời, địa lợi, nhân hoà, mới có sự cảm ứng như vậy. (Đoạn nầy là hiện tướng hiển đức).

 

Thiện nam tử! thử phổ chiếu tam thế nhất thiết Như Lai trang nghiêm cảnh giới Đại bảo liên hoa Vương, hữu thập Phật sát vi trần số liên hoa châu táp vi nhiễu, chư liên hoa nội tất hữu ma-ni Bảo Tạng sư tử chi tọa, nhất nhất tọa thượng giai hữu Bồ Tát kết già phu tọa.

Này thiện nam tử ! Ðại bửu liên hoa này có mười Phật sát vi trần số liên hoa bao quanh. Trong những hoa sen này đều có tòa sư tử ma ni bửu tạng. Trên mỗi tòa đều có Bồ Tát ngồi kiết già.

Giảng: Thiện nam tử! Đoá hoa sen báu chúa lớn Phổ chiếu ba đời tất cả Như Lai trang nghiêm cảnh giới đó, có các hoa sen nhiều như số hạt bụi cõi Phật, khắp chung quanh tứ phía. Trong mỗi đoá hoa sen đó, đều có toà sư tử ma ni bảo tạng. Trên mỗi toà, đều có Bồ Tát ngồi kiết già. (Đoạn nầy biểu thị rõ thành đạo y chánh)

 

Thiện nam tử! bỉ phổ trí bảo diệm diệu đức tràng Vương Như Lai, ư thử thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề thời, tức ư thập phương nhất thiết thế giới trung thành A-nậu-đa-la-tam miểu tam bồ Đề;

Này thiện nam tử ! Lúc đức Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Tràng Như Lai thành vô thượng Ðẳng Chánh Giác tại trên đại bửu liên hoa này, đồng thời cũng hiện thành Phật trong thập phương tất cả thế giới.

Giảng: Thiện nam tử! Như Lai Phổ Trí Bảo Diệm Diệu Đức Tràng đó, lúc bấy giờ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì lập tức trong mười phương tất cả thế giới, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Trong Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện cũng có miêu tả cảnh giới nầy rằng: “Trong một bạt bụi có các cõi nhiều như số hạt bụi, mỗi mỗi cõi đều có chư Phật nhiều khó nghĩ bàn được, trong chúng hội của mỗi mỗi vị Phật, ta thấy luôn luôn diễn nói hạnh bồ đề”.

 

Tùy chúng sanh tâm, tất hiện kỳ tiền vi chuyển pháp luân. Ư nhất nhất thế giới, lệnh vô lượng chúng sanh ly ác đạo khổ, lệnh vô lượng chúng sanh đắc sanh thiên trung, lệnh vô lượng chúng sanh trụ ư Thanh văn, Bích Chi Phật địa, lệnh vô lượng chúng sanh thành tựu xuất ly Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh thành tựu dũng mãnh tràng Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh thành tựu pháp quang minh Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh thành tựu thanh tịnh căn Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh thành tựu bình đẳng lực Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh thành tựu nhập pháp thành Bồ-đề chi hạnh,

Tùy theo tâm của chúng sanh mà hiện ở trước họ để chuyển pháp luân. làm cho vô lượng chúng sanh khỏi khổ ác đạo. Làm cho vô lượng chúng sanh được sanh lên trời. Làm cho vô lượng chúng sanh ở bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề xuất ly. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề dũng mãnh tràng. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề pháp quanh minh. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề thanh tịnh căn. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề bình đẳng lực.

Giảng: Vị Phật đó tuỳ tâm chúng sinh, đều hiện ra ở trước chúng sinh, vì tất cả chúng sinh chuyển bánh xe pháp. Ngài lại ở trong mỗi mỗi thế giới, khiến cho vô lượng chúng sinh lìa khỏi thống khổ ba đường ác. Khiến cho vô lượng chúng sinh, được sinh về cõi trời (đầu tiên lợi ích phàm phu). Khiến cho vô lượng chúng sinh, trụ nơi bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật (kế lợi ích hai thừa). Khiến cho vô lượng chúng sinh, thành tựu hạnh bồ đề xuất ly ba cõi (sau lợi ích Bồ Tát). Khiến cho vô lượng chúng sinh, thành tựu hạnh bồ đề dũng mãnh tràng. Khiến cho vô lượng chúng sinh, thành tựu hạnh bồ đề pháp quang minh. Khiến cho vô lượng chúng sinh, thành tựu hạnh bồ đề sáu căn thanh tịnh. Khiến cho vô lượng chúng sinh, thành tựu hạnh bồ đề bình đẳng sức lực.

 

Lệnh vô lượng chúng sanh thành tựu biến chí nhất thiết xứ bất khả hoại thần thông lực Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh nhập Phổ môn phương tiện đạo Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh an trụ tam muội môn Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh thành tựu duyên nhất thiết thanh tịnh cảnh giới Bồ-đề chi hạnh, lệnh vô lượng chúng sanh phát Bồ-đề tâm, lệnh vô lượng chúng sanh trụ Bồ Tát đạo, lệnh vô lượng chúng sanh an trụ thanh tịnh Ba-la-mật đạo, lệnh vô lượng chúng sanh trụ Bồ Tát sơ địa, lệnh vô lượng chúng sanh trụ Bồ Tát nhị địa nãi chí Thập Địa, lệnh vô lượng chúng sanh nhập ư Bồ Tát thù thắng hạnh nguyện, lệnh vô lượng chúng sanh an trụ Phổ Hiền thanh tịnh hạnh nguyện.

Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề nhập pháp thành. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề nhập phổ môn phương tiện đạo. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ hạnh Bồ đề tam muội môn. Làm cho vô lượng chúng sanh thành tựu hạnh Bồ đề duyên tất cả cảnh giới sanh phát tâm Bồ đề. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ đạo Ba la mật thanh tịnh. Làm cho vô lượng chúng sanh trụ Bồ Tát Sơ địa. Làm cho vô lượng chúng sanh trụ Bồ Tát Nhị địa nhẫn đến Thập địa. Làm cho vô lượng chúng sanh nhập hạnh nguyện thù thắng của Bồ Tát. Làm cho vô lượng chúng sanh an trụ hạnh nguyện thanh tịnh của Phổ Hiền.

Giảng: Khiến cho vô lượng chúng sinh, thành tựu hạnh bồ đề vào pháp thành. Khiến cho vô lượng chúng sinh, thành tựu hạnh bồ đề sức thần thông đến khắp nơi không thể hoại. Khiến cho vô lượng chúng sinh, vào hạnh bồ đề phổ môn phương tiện đạo. Khiến cho vô lượng chúng sinh, an trụ hạnh bồ đề môn tam muội. Khiến cho vô lượng chúng sinh, thành tựu hạnh bồ đề duyên tất cả cảnh giới thanh tịnh. (Trước khiến Bồ Tát thành tựu đủ thứ hạnh môn, sau phát tâm bồ đề). Khiến cho vô lượng chúng sinh, phát tâm bồ đề (Đây là bậc Thập trụ). Khiến cho vô lượng chúng sinh, trụ Bồ Tát đạo (Đây là bậc Thập hạnh). Khiến cho vô lượng chúng sinh, an trụ đạo Ba La Mật thanh tịnh (Đây là bậc Thập hồi hướng). Khiến cho vô lượng chúng sinh, trụ Sơ địa Bồ Tát (Hoan hỉ địa). Khiến cho vô lượng chúng sinh, trụ Nhị địa Bồ Tát, cho đến Thập địa. Khiến cho vô lượng chúng sinh, vào nơi hạnh nguyện thù thắng của Bồ Tát. Khiến cho vô lượng chúng sinh, an trụ hạnh nguyện thanh tịnh của Phổ Hiền. (Đây là dùng biển đại nguyện, tịnh trị tiền độ, hai câu sau là bậc Đẳng Giác).

 

Thiện nam tử! bỉ phổ trí bảo diệm diệu đức tràng Như Lai, hiện như thị bất tư nghị tự tại thần lực chuyển pháp luân thời, ư bỉ nhất nhất chư thế giới trung, tùy kỳ sở ưng, niệm niệm điều phục vô lượng chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Ðức Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Tràng Như Lai hiện thần lực tự tại bất tư nghì như vậy, lúc đức Phật chuyển pháp luân, ở trong mỗi thế giới đó, tùy theo sở nghi, mỗi niệm điều phục vô lượng chúng sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Khi đức Như Lai Phổ Trí Bảo Diệm Diệu Đức Tràng đó, thị hiện đủ thứ thần thông lực tự tại không thể nghĩ bàn như vậy, chuyển bánh xe pháp, thì trong mỗi mỗi các thế giới đó, tuỳ thuận căn cơ chúng sinh đáng được giáo hoá, niệm niệm điều phục vô lượng chúng sinh.

 

Thời, Phổ Hiền Bồ Tát tri bảo hoa đăng vương thành trung chúng sanh, tự thị sắc mạo cập chư cảnh giới, nhi sanh kiêu mạn lăng miệt tha nhân; hóa hiện diệu thân, đoan chánh Thù đặc, vãng nghệ bỉ thành, phóng đại quang minh, phổ chiếu nhất thiết, lệnh bỉ Thánh Vương cập chư diệu bảo, nhật nguyệt tinh tú, chúng sanh thân đẳng nhất thiết quang minh tất giai bất hiện, thí như nhật xuất chúng cảnh đoạt diệu, diệc như tụ mặc đối Diêm-phù kim.

Lúc đó Phổ Hiền Bồ Tát biết trong thành của Bửu Hoa Ðăng Vương, chúng sanh tự ỷ thị nhan sắc và cảnh giới mà khinh mạn lăng miệt người khác, nên Bồ Tát hóa hiện thân hình đoan chánh đẹp lạ đến trong thành ấy phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả, làm cho ánh sáng của Thánh Vương, của dân chúng, của nhựt nguyệt tinh tú đều lu mờ. Dường như lúc mặt nhựt mọc lên cao chói sáng khắp nơi. Cũng như vàng diêm phù đàn để cạnh đống mực đen.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền biết chúng sinh trong thành Bảo Hoa Đăng Vương, ỷ cậy sắc tướng diện mạo xinh đẹp của mình và tất cả cảnh giới tốt đẹp, mà sinh ra tâm kiêu căn ngã mạn, lăng nhục miệt thị người nước khác. Do đó, Bồ Tát Phổ Hiền Ngài bèn hoá hiện ra thân tướng tốt đẹp, đoan chánh thù đặc hơn những người trong thành đó, mà đi đến thành Bảo Hoa Đăng Vương đó. Ở trong thành phóng đại quang minh, chiếu sáng khắp tất cả thế giới, khiến cho Chuyển Luân Thánh Vương và tất cả báu đẹp, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, thân chúng sinh, tất cả ánh sáng, thảy đều lu mờ, ẩn đi. Ví như mặt trời mọc trên cao chiếu sáng khắp nơi. Cũng như vàng Diêm Phù để gần đống mực đen. (Đây là hiện thân vượt trội hơn)

 

Thời, chư chúng sanh hàm tác thị ngôn: Thử vi thị thùy? vi Thiên? vi phạm? kim phóng thử quang, lệnh ngã đẳng thân sở hữu quang sắc giai bất hiển hiện. Chủng chủng tư tánh, vô năng giải liễu.

Bấy giờ, các chúng sinh đều nghĩ như vầy: Đây là ai vậy? Là Trời, hay là Phạm Thiên? Nay phóng quang minh nầy, khiến cho thân chúng ta và hết thảy ánh sáng màu sắc, đều chẳng hiển hiện. Suy nghĩ đủ thứ như vậy, cũng không thể hiểu rõ được.

Giảng: Bấy giờ, tất cả chúng sinh đều nghĩ như vầy: “Đây là ai vậy? Là người Trời, hay là Đại Phạm Thiên? Nay phóng quang minh nầy, khiến cho thân chúng ta và hết thảy ánh sáng màu sắc, đều chẳng hiển hiện”. Những chúng sinh đó suy nghĩ đủ thứ như vậy, cũng không cách chi có thể hiểu rõ được.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát tại bỉ luân Vương bảo cung điện thượng hư không trung trụ, nhi cáo chi ngôn: Đại Vương đương tri, kim nhữ quốc trung, hữu Phật hưng thế, tại phổ quang minh pháp vân âm tràng Bồ-đề thụ hạ.

Phổ Hiền Bồ Tát đứng trên hư không ngay cung điện của Thánh Vương mà bảo rằng : Này Ðại Vương ! Hiện nay trong nước của nhà vua có Phật xuất thế ngự tại cây Bồ đề Phổ Quang Minh Pháp Vân Âm Tràng.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền ngồi kiết già trụ trong hư không, trên cung điện báu của Chuyển Luân Thánh Vương đó, mà bảo với vua rằng: “Đại Vương nên biết! Nay trong nước của nhà ngươi, có vị Phật xuất hiện ra đời, ở dưới cội bồ đề Phổ quang minh pháp vân âm tràng”. (Đây là lời nói Phật hiện ra đời)

 

Thời, Thánh Vương nữ liên hoa diệu nhãn, kiến Phổ Hiền Bồ Tát sở hiện sắc thân quang minh tự tại, cập văn thân thượng chư trang nghiêm cụ sở xuất Diệu-Âm, tâm sanh hoan hỉ, tác như thị niệm:

Vương nữ Phổ Trí Diệu Nhãn thấy sắc thân và quanh minh tự tại của Phổ Hiền Bồ Tát, và nghe những vật trang nghiêm trên thân Bồ Tát phát âm thanh vi diệu, lòng rất vui mừng, tự nghĩ rằng:

Giảng: Lúc đó, vương nữ Liên Hoa Diệu Nhãn của vua Chuyển Luân Thánh Vương, nhìn thấy Bồ Tát Phổ Hiền thị hiện sắc thân quang minh tự tại, lại nghe các đồ trang nghiêm trên thân của Ngài vang ra diệu âm, sinh tâm đại hoan hỉ, bèn nghĩ như vầy:

 

Nguyện ngã sở hữu nhất thiết thiện căn, đắc như thị thân, như thị trang nghiêm, như thị tướng hảo, như thị uy nghi, như thị tự tại. kim thử đại thánh, năng ư chúng sanh sanh tử trường dạ hắc ám chi trung phóng đại quang minh, khai thị Như Lai xuất hưng ư thế; nguyện lệnh ư ngã diệc đắc như thị, vi chư chúng sanh tác trí quang minh, phá bỉ sở hữu vô tri hắc ám.

Nguyện tất cả căn lành của tôi có đều hồi hướng để được thân như vậy, được tướng tốt oai nghi tự tại như vậy. Nay đức Thánh này có thể ở trong chỗ sanh tử tối tăm của chúng sanh mà phóng đại quanh minh và báo tin đức Như Lai xuất thế. Nguyện tôi cũng được như vậy, vì các chúng sanh mà làm trí quang minh để phá sự vô tri đen tối của họ.

Giảng: “Nguyện cho hết thảy tất cả căn lành của con, đắc được thân giống như Ngài, trang nghiêm như vậy, có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp như vậy, oai đức nghi biểu như vậy, tự tại như vậy. Hiện nay vị đại Thánh nầy, ở trong đêm dài đen tối sinh tử của chúng sinh, phóng đại quang minh, khai thị chúng con, nói Như Lai đã xuất hiện ra đời. Nguyện khiến cho con cũng được như vậy, hay vì các chúng sinh tác trí huệ quang minh, phá tan hết thảy đen tối vô tri đó.

 

Nguyện ngã sở tại thọ sanh chi xứ, thường đắc bất ly thử thiện tri thức.

Nguyện tôi thọ sanh chốn nào cũng đều chẳng xa rời vị thiện tri thức này.

Giảng: Nguyện cho con ở chỗ chúng sinh, thường được không lìa khỏi vị thiện tri thức nầy.

(Đây là vương nữ phát tâm lớn, cũng là nhân đi vào pháp). Trong Hoa Nghiêm Sớ Sao của Ngài Thanh Lương Quốc Sư có nói : “Nhân bao quả chi hải, quả thông nhân chi nguyên”, do đó: “Lúc ban đầu phát tâm, liền thành Chánh Giác”.

 

Thiện nam tử! thời, Chuyển luân Vương dữ kỳ bảo nữ, thiên tử, quyến thuộc, đại thần, phụ tá, tứ chủng binh chúng, cập kỳ thành nội vô lượng nhân dân, tiền hậu vi nhiễu; dĩ Vương thần lực, câu thăng hư không, cao nhất do-tuần, phóng đại quang minh chiếu tứ thiên hạ, phổ sử nhất thiết hàm đắc chiêm ngưỡng, dục lệnh chúng sanh câu vãng kiến Phật, dĩ kệ tán viết:

Lúc đó, Thánh Vương cùng Bửu nữ và ngàn Vương Tử, quyến thuộc, các đại thần, bốn binh chủng, nhân dân trong thành, do thần lực của Thánh Vương đồng bay lên hư không cao một do tuần phóng đại quanh minh chiếu tứ thiên hạ, khiến khắp mọi người đều được chiêm ngưỡng. Vì muốn chúng sanh đều đến gặp Phật nên Thánh Vương nói kệ tán thán Phật.

Giảng: Thiện nam tử! Lúc đó, vua Chuyển Luân và nữ báu, quyến thuộc ngàn người con, đại thần phụ tá, bốn thứ binh chúng, cùng với vô lượng nhân dân trong thành, trước sau vây quanh hướng về đạo tràng của Phật. Nhờ thần lực của vua Chuyển Luân Thánh Vương, tất cả mọi người đều bay lên hư không, cao một do tuần (khoảng tám mươi dặm). Phóng đại quang minh, chiếu sáng bốn thiên hạ, khắp khiến cho tất cả chúng sinh đều được chiêm ngưỡng. Vua Chuyển Luân Thánh Vương muốn khiến cho chúng sinh đều đi đến gặp Phật, bèn dùng kệ khen rằng:

 

Như Lai xuất thế gian                                  Như Lai xuất thế gian
Phổ cứu chư quần sanh                               Cứu khắp các quần sanh
Nhữ đẳng ưng tốc khởi,                              Các người phải mau dậy
Vãng nghệ Đạo sư sở.                                 Ði đến chỗ Ðạo Sư

Đức Phật xuất hiện ra thế gian, là vì cứu độ khắp tất cả chúng sinh, các ngươi hãy mau lên, đi đến chỗ đạo tràng của đấng Đạo Sư (đức Phật).

 

Vô lượng vô số kiếp                                   Vô lượng vô số kiếp
Nãi hữu Phật hưng thế,                               Mới có Phật xuất thế
Diễn thuyết thâm diệu Pháp,                       Diễn nói pháp thâm diệu
Nhiêu ích nhất thiết chúng.                         Lợi ích tất cả chúng.

Trong vô lượng vô số đại kiếp, mới có Phật thị hiện ra đời, đây chẳng phải là một nhân duyên nhỏ, mà là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được một cơ hội tốt. Đức Phật diễn nói đại pháp thâm sâu vi diệu, để lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui.

 

Phật quán chư thế gian,                               Phật xem các thế gian
Điên đảo thường si hoặc,                            Ðiên đảo thường mê lầm
Luân-hồi sanh tử khổ,                                 Luân hồi khổ sanh tử
Nhi khởi đại bi tâm.                                    Mà khởi lòng đại bi.

Đức Phật quán sát tất cả chúng sinh thế gian, đều điên điên đảo đảo, chẳng rõ trắng đen, chẳng rõ thị phi, bị mê hoặc trong đen tối ngu si. Họ luân hồi trong sáu nẻo, lúc lên trời, lúc dưới đất, lúc làm ngạ quỷ, lúc làm súc sinh, lúc làm người, lúc làm A tu la, luân hồi thọ khổ như vậy. Cho nên đức Phật khởi tâm đại bi, đến cứu độ chúng sinh thọ khổ.

 

Vô số ức thiên kiếp                                     Vô số ức ngàn kiếp
Tu tập Bồ-đề hạnh                                      Tu tập hạnh Bồ đề
Vi dục độ chúng sanh                                 Vì muốn độ chúng sanh
Tư do đại bi lực.                                          Ðây do sức đại bi

Trong vô số ức ngàn đại kiếp, đức Phật tu tập hạnh bồ đề. Vì muốn cứu độ tất cả chúng sinh, đều do sức lực tâm đại bi.

 

Đầu mục thủ túc đẳng,                                Ðầu, mắt, tay, chân thảy
Nhất thiết tất năng xả,                                 Ðều xả được tất cả
Vi cầu Bồ-đề cố,                                         Vì cầu đạo Bồ đề
Như thị vô lượng kiếp.                                Vô lượng kiếp bố thí

Đức Phật hay nội thí xả đầu mắt tuỷ não tay chân, ngoại thí xả đất nước vợ con, tất cả đều xả bỏ được. Phật vì cầu đạo bồ đề, cho nên thân tâm tánh mạng đều chẳng cần. Đây chẳng phải phát tâm một ngày hai ngày, mà là vô lượng kiếp luôn phát đại nguyện như vậy.

 

Vô lượng ức thiên kiếp,                              Vô lượng ức ngàn kiếp
Đạo sư nan khả ngộ                                    Khó gặp được Như Lai
Kiến văn nhược thừa sự                              Thấy, nghe, hoặc thờ phụng
Nhất thiết vô không quá.                            Tất cả không luống qua.

Trong vô lượng ức ngàn đại kiếp, bậc Đạo Sư (Phật) rất khó gặp được. Nếu ai thấy được Phật, hoặc nghe được danh hiệu Phật, hoặc hầu hạ cúng dường Phật, thì tự nhiên sẽ có đại công đức, do đó: “Công chẳng tổn hao”, tất cả đều không luống qua.

 

Kim đương cọng nhữ đẳng                         Nay sẽ cùng đại chúng
Vãng quán điều ngự tôn                              Ðến gặp đấng Ðiều Ngự
Tọa ư Như Lai tọa,                                      Ngồi bửu tòa Như Lai
Hàng ma thành chánh giác.                         Hàng ma thành Chánh giác

Nay ta sẽ cùng các ngươi, cùng nhau đi đến gặp đấng Điều Ngự, lễ lạy Phật. Phật ngồi nơi toà báu sư tử, ở chỗ đó hàng phục thiên ma, chế các ngoại đạo, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Chiêm ngưỡng Như Lai thân                       Chiêm ngưỡng thân Như Lai
Phóng diễn Vô Lượng Quang                     Phóng ra vô lượng quang
Chủng chủng vi diệu sắc                             Nhiều thứ sắc vi diệu
Trừ diệt nhất thiết ám.                                 Diệt trừ tất cả tối

Chúng ta hiện đang chiêm ngưỡng sắc thân Như Lai, phóng ra diễn biến vô lượng quang minh, có đủ thứ nhan sắc vi diệu, trừ diệt được tất cả vô minh đen tối của chúng sinh.

 

Nhất nhất mao khổng trung                        Trong mỗi mỗi lỗ lông
Phóng quang bất tư nghị                             Phóng quang bất tư nghì
Phổ chiếu chư quần sanh                            Chiếu khắp các quần sanh
Hàm lệnh đại hoan hỉ.                                 Ðều khiến rất vui mừng.

Trong mỗi mỗi lỗ chân lông của Phật, đều phóng ra quang minh không thể nghĩ bàn, chiếu sáng khắp tất cả chúng sinh, đều khiến cho họ sinh đại hoan hỉ.

 

Nhữ đẳng hàm ưng phát                             Ðại chúng đều nên phát
Quảng đại tinh tấn tâm,                               Tâm tinh tấn quảng đại
Nghệ bỉ Như Lai sở,                                    Ðến chỗ đức Như Lai
Cung kính nhi cúng dường.                        Cung kính cúng dường Phật.

Các ông đều nên phát tâm rộng lớn tinh tấn dũng mãnh, đi đến chỗ đạo tràng của đức Như Lai đó, để cung kính cúng dường Phật.

 

Nhĩ thời, Chuyển luân Thánh Vương thuyết kệ tán Phật, khai ngộ nhất thiết chúng sanh dĩ, tùng luân Vương thiện căn, xuất thập thiên chủng Đại cúng dường vân, vãng nghệ đạo tràng, hướng Như Lai sở.

Chuyển Luân Thánh Vương nói kệ khen Phật khai ngộ tất cả chúng sanh rồi, do thiện căn của Luân Vương xuất hiện mười ngàn thứ mây đại cúng dường, thẳng đến phía đạo tràng của Như Lai.

Giảng: Lúc đó, Chuyển Luân Thánh Vương nói kệ khen ngợi đức Phật, khai ngộ tất cả chúng sinh rồi. Từ căn lành của luân vương, hiện ra mười ngàn thứ mây đại cúng dường. Sau đó đi đến đạo tràng, hướng đến chỗ đức Phật.

 

Sở vị: nhất thiết bảo cái vân, nhất thiết hoa trướng vân, nhất thiết bảo y vân, nhất thiết bảo linh võng vân, nhất thiết hương hải vân, nhất thiết bảo tọa vân, nhất thiết bảo tràng vân, nhất thiết cung điện vân, nhất thiết hương khí vân, nhất thiết chư trang nghiêm cụ vân, ư hư không trung chu biến nghiêm sức.

Như là mây tất cả bửu cái, mây tất cả hoa trướng, mây tất cả bửu y, mây tất cả bửu linh võng, mây tất cả diệu hương, mây tất cả bửu tòa, mây tất cả bửu tràng, mây tất cả cung điện, mây tất cả diệu hoa , mây tất cả đồ trang nghiêm giăng đẹp khắp hư không.

Giảng: Như là: Mây tất cả lọng báu. Mây tất cả trướng hoa. Mây tất cả y báu. Mây tất cả lưới linh báu. Mây tất cả biển hương. Mây tất cả toà báu. Mây tất cả tràng báu. Mây tất cả cung điện. Mây tất cả hoa đẹp. Mây tất cả các đồ trang nghiêm. Đủ thứ mây đại cúng dường đó nghiêm sức khắp nơi ở trong hư không.

 

Đáo dĩ, đảnh lễ phổ trí bảo diệm diệu đức tràng Vương Như Lai túc, nhiễu vô lượng bách thiên tạp, tức ư Phật tiền tọa phổ chiếu thập phương bảo liên hoa tọa.

Thánh Vương đảnh lễ nơi chân đức Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Tràng Như Lai, hữu nhiễu vô lượng vòng, rồi ngồi trên tòa phổ chiếu thập phương bửu liên hoa phía trước đức Phật.

Giảng: Đến đạo tràng của đức Phật rồi, Chuyển Luân Thánh Vương đảnh lễ dưới chân Như Lai Phổ Trí Bảo Diệm Diệu Đức, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, lập tức ở trước đức Phật, ngồi trên toà hoa sen báu phổ chiếu thập phương. (Đoạn nầy tường thuật lại nổi mây cúng dường rộng lớn, sau đó đi đến đó tu kính)

 

Thời, Chuyển luân Vương nữ phổ trí diệm diệu đức nhãn, tức giải thân thượng chư trang nghiêm cụ, trì dĩ tán Phật. Thời, trang nghiêm cụ ư hư không trung biến thành bảo cái, bảo võng thùy hạ, long Vương chấp trì, nhất thiết cung điện ư trung gian liệt; thập chủng bảo cái châu táp vi nhiễu, hình như lâu các, nội ngoại thanh tịnh, chư anh lạc vân cập chư bảo thụ, hương hải ma-ni dĩ vi trang nghiêm.

Vương nữ Phổ Trí Diệm Diệu Ðức Nhãn cởi đồ trang sức trên thân cầm rải lên cúng dường Phật. Những đồ trang sức đó liền ở trên hư không biến thành lưới bửu cái thòng rủ xuống. Long Vương cầm giử bửu cái này. Những cung điện xen bày trong đó. Mười thứ bửu cái bao vòng hình như lâu các trong ngoài thanh tịnh, trang nghiêm với những chuỗi ngọc, bửu thọ, hương hải, ma ni. Trong bửu cái đó có cây Bồ đề nhánh lá sum suê che trùm cả pháp giới, mỗi niệm hiện ra vô lượng trang nghiêm.

Giảng: Lúc đó, vương nữ Phổ Trí Diệm Diệu Đức Nhãn của Chuyển Luân Vương, lập tức cởi tất cả các đồ trang nghiêm trên thân mình, cầm rải lên đức Phật, để cúng dường đức Phật. (Đồ trang nghiêm dâng cúng Phật, là biểu thị tu vạn hạnh, hướng về quả Phật)

Lúc đó, đồ trang nghiêm của nữ báu, biến thành lọng báu, ở trong hư không, lưới báu thòng rũ xuống, có Long Vương đứng cầm giữ. Tất cả cung điện xen bày la liệt trong đó. Có mười thứ lọng báu khác nhau, bày bố chung quanh, hình thù giống như lầu các, trong ngoài đều rất thanh tịnh. Có các mây chuỗi báu và tất cả các cây báu, hương hải ma ni, dùng để trang nghiêm. Ở trong những lọng báu đó, có cây bồ đề, cành lá rất sum sê, che phủ khắp pháp giới. Trong niệm niệm, thị hiện vô lượng sự trang nghiêm.

 

Ư thử cái trung, hữu Bồ-đề thụ, chi diệp vinh mậu, phổ phước Pháp giới, niệm niệm thị hiện vô lượng trang nghiêm. Tỳ Lô Giá Na Như Lai tọa thử thụ hạ, hữu bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát tiền hậu vi nhiễu, giai tùng Phổ Hiền hạnh nguyện xuất sanh, trụ chư Bồ-tát vô sái biệt trụ

Ðức Tỳ Lô Giá Na Như Lai ngự dưới cội Bồ đề này. Có bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát vây quanh. Chư Bồ Tát này đều xuất sanh từ nơi hạnh nguyện của Phổ Hiền, an trụ nơi vô sai biệt trụ của Bồ Tát.

Giảng: Tỳ Lô Giá Na Như Lai ngồi dưới cội bồ đề đó, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật vây quanh trước sau, các Ngài đều từ Phổ Hiền hạnh nguyện sinh ra, an trụ nơi pháp môn trụ không khác biệt của các Bồ Tát.

 

Diệc kiến hữu nhất thiết chư thế gian chủ, diệc kiến Như Lai tự tại thần lực, hựu kiến nhất thiết chư kiếp thứ đệ thế giới thành hoại, hựu diệc kiến bỉ nhất thiết thế giới nhất thiết chư Phật xuất hưng thứ đệ, hựu diệc kiến bỉ nhất thiết thế giới nhất nhất giai hữu Phổ Hiền Bồ Tát cúng dường ư Phật, điều phục chúng sanh, hựu diệc kiến bỉ nhất thiết Bồ Tát mạc bất giai tại Phổ Hiền thân trung, diệc kiến tự thân tại kỳ thân nội, diệc kiến kỳ thân tại nhất thiết Như Lai tiền, nhất thiết Phổ Hiền tiền, nhất thiết Bồ Tát tiền, nhất thiết chúng sanh tiền

Cũng thấy có tất cả Thế Gian Chủ. Cũng thấy thần lực tự tại của Như Lai. Cũng thấy những kiếp thứ đệ có thế giới thành hoại. Lại cũng thấy tất cả thế giới đó, mỗi mỗi thế giới đều có Phổ Hiền Bồ Tát cúng dường chư Phật điều phục chúng sanh. Lại cũng thấy tất cả Bồ Tát đó đều ở trong thân Phổ Hiền. Cũng thấy thân mình ở trong thân đó. Cũng thấy thân mình ở trước chỗ tất cả Như Lai, tất cả Phổ Hiền, tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sanh.

Giảng: Vương nữ Phổ Trí Diệm Diệu Đức Nhãn, cũng nhìn thấy có tất cả các thế gian chủ, cũng nhìn thấy sức thần thông tự tại của Như Lai. Lại nhìn thấy tất cả các kiếp thứ tự trước sau, thế giới thành trụ hoại không. Lại cũng nhìn thấy tất cả thế giới đó, tất cả chư Phật, xuất hiện ra đời thứ tự. Lại cũng nhìn thấy tất cả thế giới đó, mỗi thế giới đều có Bồ Tát Phổ Hiền cúng dường đức Phật, điều phục hết thảy chúng sinh. Lại cũng nhìn thấy tất cả Bồ Tát đó, đều ở trong pháp thân của Bồ Tát Phổ Hiền. Vương nữ cũng nhìn thấy thân mình ở trong pháp thân của Bồ Tát Phổ Hiền đó. Lại cũng nhìn thấy thân mình thị hiện ở trước tất cả chư Phật, ở trước tất cả Bồ Tát Phổ Hiền, ở trước tất cả các Bồ Tát và ở trước tất cả chúng sinh.

Đây là cảnh giới rất kỳ diệu, viên mãn vô ngại, trùng trùng vô tận, trong phẩm thứ hai Như Lai Hiện Tướng, có đoạn Kinh văn cũng tương tự như cảnh giới nầy: “Trong mỗi lỗ chân lông của Như Lai, có chư Phật ngồi nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, Bồ Tát chúng hội cùng vây quanh, diễn nói thắng hạnh của Phổ Hiền”; “Pháp giới nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, đều xuất hiện trong tất cả chúng, như vậy phân thân trí cảnh giới, kiến lập trong hạnh Phổ Hiền”; “Bồ Tát Phổ Hiền khai giác, tất cả Như Lai cùng khen ngợi hoan hỉ, đã đắc được đại thần thông của chư Phật, chảy khắp cùng pháp giới”. Vương nữ chẳng những nhìn thấy một vị Bồ Tát Phổ Hiền, mà ở trong mỗi hạt bụi, Ngài đều nhìn thấy Bồ Tát Phổ Hiền phân thân vô số, để cúng dường chư Phật, làm thượng thủ trong pháp hội, giáo hoá chúng sinh không nhàm mỏi.

 

Hựu diệc kiến bỉ nhất thiết thế giới nhất nhất các hữu Phật sát vi trần số thế giới chủng chủng tế bạn, chủng chủng nhậm trì, chủng chủng hình trạng, chủng chủng thể tánh, chủng chủng an bố, chủng chủng trang nghiêm, chủng chủng thanh tịnh, chủng chủng trang nghiêm vân nhi phước kỳ thượng, chủng chủng kiếp danh, chủng chủng Phật hưng, chủng chủng tam thế, chủng chủng phương xứ, chủng chủng trụ pháp giới, chủng chủng nhập Pháp giới, chủng chủng trụ hư không, chủng chủng Như Lai Bồ-đề trường, chủng chủng Như Lai thần thông lực, chủng chủng Như Lai sư tử tọa, chủng chủng Như Lai Đại chúng hải, chủng chủng Như Lai chúng sái biệt, chủng chủng Như Lai xảo phương tiện, chủng chủng Như Lai chuyển pháp luân, chủng chủng như lai diệu âm thanh, chủng chủng Như Lai ngôn thuyết hải, chủng chủng Như Lai khế Kinh vân; ký kiến thị dĩ, kỳ tâm thanh tịnh, sanh đại hoan hỉ.

Lại cũng thấy tất cả thế giới đó mỗi mỗi đều có Phật sát vi trần số thế giới, những ranh giới, những nhiệm trì, những hình trạng, những thể tánh, những sắp đặt, những trang nghiêm, những thanh tịnh, những mây trang nghiêm mà che trên đó, những tên kiếp, chư Phật xuất thế, những tam thế, những phương xứ, những trụ pháp giới, những nhập pháp giới, những trụ hư không, những Như Lai Bồ đề tràng, những Như Lai thần thông lực, những Như Lai sư tử tòa, những Như Lai đại chúng, những Như Lai chúng sai biệt. Những Như Lai xảo phương tiện, những Như Lai chuyển pháp luân, những Như Lai diệu âm thanh, những Như Lai ngôn thuyết, những Như Lai khế kinh. Thấy như vậy rồi, Vương nữ rất hoan hỷ lòng thanh tịnh.

Giảng: Vương nữ Phổ Trí Diệm Diệu Đức Nhãn lại cũng nhìn thấy tất cả thế giới đó, mỗi thế giới đều có các thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Phật, mỗi thế giới lại bao vô số thế giới. Mỗi thế giới có đủ thứ ranh giới khác nhau, có đủ thứ vận hành chi trì, có đủ thứ hình trạng, có đủ thứ thể tánh. Mỗi một thế giới đều có thể khác nhau, hình trạng và tính cách cũng khác nhau. Có đủ thứ sự an bày phân bố khác nhau. Có đủ thứ trang nghiêm, đủ thứ thanh tịnh, đủ thứ mây trang nghiêm che phủ phía trên. Có đủ thứ tên kiếp, đủ thứ Phật xuất hiện ra đời, đủ thứ ba đời khác nhau, đủ thứ phương hướng và xứ sở, đủ thứ trụ pháp giới, đủ thứ vào pháp giới, đủ thứ trụ hư không, đủ thứ bồ đề đạo tràng của Phật, đủ thứ trí huệ thần thông lực của Phật, đủ thứ toà báu sư tử của Phật, thăng toà thuyết pháp, đủ thứ biển đại chúng của Phật, đủ thứ đại chúng Như Lai khác biệt, đủ thứ phương tiện thiện xảo của Phật, đủ thứ chuyển bánh xe pháp của Phật, đủ thứ âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn của Phật, đủ thứ biển lời nói của Phật, đủ thứ mây khế kinh của Phật. Do đó:
“Trên khế với ý của chư Phật,
Dưới hoá độ căn cơ của chúng sinh”.

Vương nữ thấy đủ thứ cảnh giới như vậy rồi, tâm của Ngài rất thanh tịnh, mà sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Phổ trí bảo diệm diệu đức tràng Vương Như Lai, vi thuyết tu-đa-la, danh: nhất thiết Như Lai chuyển pháp luân, thập Phật sát vi trần số tu-đa-la nhi vi quyến thuộc. Thời, bỉ nữ nhân văn thử Kinh dĩ, tức đắc thành tựu thập thiên tam muội môn, kỳ tâm nhu nhuyễn, vô hữu thô cường, như sơ thụ thai, như thủy đản sanh, như Ta-la thọ sơ thủy sanh nha. Bỉ tam muội tâm diệc phục như thị,

Phổ Trí Bửu Diệm Diệu Ðức Trang Như Lai vì Vương nữ mà nói tu đa la tên là Nhất thiết Như Lai Chuyển pháp luân, có mười Phật sát vi trần số tu đa la làm quyến thuộc. Vương nữ nghe kinh xong, thời được thành tựu mười ngàn môn tam muội, tâm nhu nhuyến không cứng thô, như mới thọ thai, như mới đản sanh, như cây Ta La mới mọc mộng, tâm tam muội đó cũng như vậy.

Giảng: Đức Như Lai Phổ Trí Bảo Diệm Diệu Đức Tràng Vưong, vì vương nữ nói Tu Đa La, tên là Nhất Thiết Như Lai Chuyển Pháp Luân. Bộ Kinh đó, có các Tu Đa La nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật làm quyến thuộc. Khi người nữ đó nghe bộ Kinh Nhất Thiết Như Chuyển Pháp Luân đó rồi, liền được thành tựu mười ngàn môn tam muội. Tâm Ngài rất nhu hoà mềm mại, không cứng thô, mềm mại như mới thọ thai, mềm mại như đứa bé mới sinh ra, lại mềm mại như cây Sa La mới nảy mầm. Mười ngàn tam muội của đó trong tâm của Ngài, cũng lại như thế.

 

Sở vị: hiện kiến nhất thiết Phật tam muội, phổ chiếu nhất thiết sát tam muội, nhập nhất thiết tam thế môn tam muội, thuyết nhất thiết Phật Pháp luân tam muội, tri nhất thiết Phật nguyện hải tam muội, khai ngộ nhất thiết chúng sanh lệnh xuất sanh tử khổ tam muội, thường nguyện phá nhất thiết chúng sanh ám tam muội, thường nguyện diệt nhất thiết chúng sanh khổ tam muội, thường nguyện sanh nhất thiết chúng sanh lạc tam muội, giáo hóa nhất thiết chúng sanh bất sanh bì yếm tam muội, nhất thiết Bồ Tát vô chướng ngại tràng tam muội, phổ nghệ nhất thiết thanh tịnh Phật sát tam muội

Như là hiện kiến nhất thiết chư Phật tam muội phổ chiếu nhất thiết sát tam muội, nhập nhất thiết tam thế môn tam muội, thuyết nhất thiết Phật pháp luân tam muội, tri nhất thiết Phật nguyện hải tam muội, khai ngộ nhất thiết chúng sanh linh xuất sanh tử khổ tam muội, thường nguyện phá nhất thiết chúng sanh ám tam muội, thường nguyện diệt nhất thiết chúng sanh khổ tam muội, thường nguyện sanh nhất thiết chúng sanh lạc tam muội, giáo hóa nhất thiết chúng sanh bất sanh bì yểm tam muội, nhất thiết Bồ Tát vô chướng ngại tràng tam muội phổ nghệ nhất thiết thanh tịnh Phật sát tam muội …

Giảng: Đó là: Tam muội hiện thấy tất cả Phật. Tam muội chiếu sáng khắp tất cả cõi Phật. Tam muội vào tất cả môn ba đời. Tam muội diễn nói tất cả Phật pháp luân. Tam muội biết rõ biển đại nguyện của tất cả chư Phật. Tam muội khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi khổ sinh tử. Tam muội thường nguyện phá trừ đen tối của tất cả chúng sinh. Tam muội thường nguyện diệt trừ khổ của tất cả chúng sinh. Tam muội thường nguyện sinh an vui cho tất cả chúng sinh. Tam muội giáo hoá tất cả chúng sinh chẳng sinh mỏi nhàm. Tam muội tất cả Bồ Tát không chướng ngại tràng. Tam muội đến khắp tất cả cõi Phật thanh tịnh.

Đây là vừa bắt đầu đả thiền thất thứ hai, lần đả thiền thất nầy, rất nhiều người muốn dụng công phu, không muốn giải đãi, thậm chí có người không nói chuyện. Nhất là có một người mới đến, đến đây tham gia thiền thất chẳng nói chuyện, hôm nay người đó đã quy y. Lại có người ngồi thiền có thể nhập định, vị cư sĩ đó trong đời quá khứ, đã từng tu qua, cho nên lần nầy đến đây tham gia thiền thất, công phu của anh ta cũng rất có tiến bộ, rất tương ưng. Khi anh ta ngồi, liền có thể nhập định. Do đó, lúc chúng ta khai tĩnh, anh ta đứng dậy, hoặc không đứng dậy, đều tuỳ ý anh ta. Người ngồi thiền, khi nhập định rồi, có lúc cũng không biết đã khai tĩnh. Ở trong định không muốn đứng dậy, cũng không thể đứng lên. Cho nên các vị đừng kêu anh ta đứng dậy chạy hương. Bất cứ vị nào ngồi yên, không đứng lên đều được hết. Chỉ cần bạn không cảm thấy đau chân, đau lưng, thì có thể nhập định, đây đều là hiện tượng tốt. Về sau các vị thấy vị nào đã khai tĩnh rồi, mà chẳng đứng lên chạy hương, thì các vị đừng kêu họ.

Đả thiền thất lần nầy, có mấy người đắc được lợi ích rất lớn, cho nên có người đề nghị muốn tiếp tục đả thiền thất. Tôi nghĩ đây cũng là luật nghi rất tốt, có thể đả thêm một thiền thất nữa, có thêm ít người khai ngộ, rất có giá trị. Đả xong ba tuần thiền thất rồi, chúng ta sẽ tiếp tục đả Quan Âm thất, vì cầu nguyện cho người dân Đài Loan, khiến cho họ tiêu tai khỏi nạn, tất cả được thuận lợi, vạn sự cát tường. Chúng ta phải đem chân tâm ra, để dụng công tu đạo, đừng có bỏ ngang giữa chừng, để thời gian trôi qua một cách lãng phí.

 

Đắc như thị đẳng thập thiên tam muội dĩ, phục đắc diệu định tâm, bất động tâm, hoan hỉ tâm, an uý tâm, quảng đại tâm, thuận thiện tri thức tâm, duyên thậm thâm nhất thiết trí tâm, trụ quảng đại phương tiện hải tâm, xả ly nhất thiết chấp trước tâm, bất trụ nhất thiết thế gian cảnh giới tâm, nhập Như Lai cảnh giới tâm, phổ chiếu nhất thiết sắc hải tâm, vô não hại tâm, vô cao cứ tâm, vô bì quyện tâm, vô thoái chuyển tâm, vô giải đãi tâm, tư tánh chư pháp tự tánh tâm, an trụ nhất thiết pháp môn hải tâm, quan sát nhất thiết pháp môn hải tâm, liễu tri nhất thiết chúng sanh hải tâm, cứu hộ nhất thiết chúng sanh hải tâm, phổ chiếu nhất thiết thế giới hải tâm, phổ sanh nhất thiết Phật nguyện hải tâm, tất phá nhất thiết chướng sơn tâm, tích tập phước đức trợ đạo tâm, hiện kiến chư Phật thập lực tâm, phổ chiếu Bồ Tát cảnh giới tâm, tăng trưởng Bồ Tát trợ đạo tâm, biến duyên nhất thiết phương hải tâm.

Vương nữ được mười ngàn tam muội như vậy. Vương nữ lại được tâm diệu định, tâm bất động, tâm hoan hỷ, tâm an ủi, tâm quảng đại, tâm thuận thiện tri thức, tâm duyên thậm thâm nhất thiết trí, tâm, trụ quảng đại phương tiện hải, tâm xả ly tất cả chấp trước, tâm chẳng trụ thế gian cảnh giới, tâm nhập Như Lai cảnh giới, tâm phổ chiếu tất cả sắc hải, tâm không não hại, tâm không cao cứ, tâm không bì quyện, tâm không thối chuyển, tâm không giải đãi, tâm tư duy tự tánh của các pháp. Tâm an trụ tất cả pháp môn, tâm quán sát tất cả pháp môn, tâm biết rõ tất cả chúng sanh, tâm cứu hộ tất cả chúng sanh, tâm chiếu khắp tất cả thế giới, tâm khắp sanh tất cả Phật nguyện, tâm đều phá tất cả núi chướng, tâm chứa nhóm phước đức trợ đạo, tâm hiện thấy chư Phật thập lực, tâm chiếu khắp cảnh giới Bồ Tát, tâm tăng trưởng Bồ Tát trợ đạo, tâm duyên khắp tất cả phương, tâm tư duy Phổ Hiền đại nguyện. Vương nữ lại phát mười Phật sát vi trần số nguyện hải của Như Lai

Giảng: Vương nữ đắc được mười ngàn tam muội như vậy rồi, lại đắc được tâm định vi diệu, tâm bất động, tâm hoan hỉ, tâm an ủi, tâm rộng lớn, tâm thuận thiện tri thức, tâm duyên nhất thiết trí thâm sâu, tâm trụ biển phương tiện rộng lớn, tâm xả lìa tất cả chấp trước, tâm chẳng trụ tất cả cảnh giới thế gian, tâm vào cảnh giới Như Lai, tâm chiếu khắp tất cả biển sắc, tâm không não hại, tâm không cao ngạo, tâm không mệt mỏi, tâm không thối chuyển, tâm không giải đãi, tâm suy gẫm tự tánh các pháp, tâm an trụ tất cả biển pháp môn, tâm quán sát tất cả biển pháp môn. Tâm biết rõ tất cả biển chúng sinh. Tâm cứu hộ tất cả biển chúng sinh. Tâm chiếu khắp tất cả biển thế giới. Tâm khắp sinh biển nguyện của tất cả chư Phật. Tâm phá trừ tất cả núi chướng. Tâm tích tập phước đức trợ đạo. Tâm hiện thấy thập lực chư Phật. Tâm chiếu khắp cảnh giới Bồ Tát. Tâm tăng trưởng Bồ Tát trợ đạo. Tâm duyên khắp biển tất cả phương.

 

Nhất tâm tư tánh Phổ Hiền đại nguyện, phát nhất thiết Như Lai thập Phật sát vi trần số nguyện hải: nguyện nghiêm tịnh nhất thiết Phật quốc, nguyện điều phục nhất thiết chúng sanh, nguyện biến tri nhất thiết pháp giới, nguyện phổ nhập nhất thiết pháp giới hải, nguyện ư nhất thiết Phật sát tận vị lai tế kiếp tu Bồ Tát hạnh, nguyện tận vị lai tế kiếp bất xả nhất thiết Bồ Tát hạnh, nguyện đắc thân cận nhất thiết Như Lai, nguyện đắc thừa sự nhất thiết thiện hữu, nguyện đắc cúng dường nhất thiết chư Phật, nguyện ư niệm niệm trung tu Bồ Tát hạnh tăng nhất thiết trí vô hữu gian đoạn. Phát như thị đẳng thập Phật sát vi trần số nguyện hải, thành tựu Phổ Hiền sở hữu đại nguyện.

Nguyện nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, nguyện điều phục tất cả chúng sanh, nguyện biết khắp tất cả thế giới, nguyện vào khắp tất cả pháp giới, nguyện trong tất cả Phật độ tu Bồ Tát hạnh cùng tận thuở kiếp vị lai, nguyện tận thuở vị lai kiếp không bỏ hạnh Bồ Tát, nguyện được gần gũi tất cả Như Lai, nguyện được thừa sự tất cả thiện hữu, nguyện được cúng dường tất cả chư Phật, nguyện ở trong mỗi niệm tu Bồ Tát hạnh, tăng nhứt thiết trí không gián đoạn, phát mười Phật sát vi trần số nguyện hải như vậy, thành tựu đại nguyện Phổ Hiền.

Giảng: Vương nữ một lòng một dạ suy gẫm mười đại hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Do đó, cô ta cũng phát biển nguyện của tất cả Như Lai nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Cô ta nguyện trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật. Nguyện điều phục tất cả chúng sinh. Phát nguyện biết khắp tất cả pháp giới. Phát nguyện vào khắp tất cả biển pháp giới. Phát nguyện ở nơi tất cả cõi Phật, hết kiếp thuở vị lai, tu Bồ Tát hạnh. Phát nguyện hết kiếp thuở vị lai, chẳng xả bỏ tất cả Bồ Tát hạnh. Phát nguyện được gần gũi tất cả Như Lai. Phát nguyện được hầu hạ tất cả bạn lành. Phát nguyện được cúng dường tất cả chư Phật. Phát nguyện ở trong niệm niệm tu Bồ Tát hạnh, tăng trưởng nhất thiết trí, không có gián đoạn. Vương nữ phát biển nguyện nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật như vậy rồi, thành tựu hết thảy biển đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.

Đoạn nầy tường thuật lại sau khi vương nữ nghe đức Phật diễn nói Kinh Nhất Thiết Như Lai Chuyển Pháp Luân rồi, liền đắc được ba thứ lợi ích:
1. Trước hết được lợi ích tam muội.
2. Được lợi ích tâm lớn, tức tâm bi trí đẳng.
3. Lợi ích thành đại nguyện.
Ba việc đều là pháp điều phục.

Từ đoạn Kinh văn nầy, chúng ta biết được tất cả Bồ Tát phát nguyện đều không cùng tận, do đó: “Hư không hữu tận, ngã nguyện vô tận”. Lại nói: “Như vậy cõi hư không tận, cõi chúng sinh tận, nghiệp chúng sinh tận, phiền não chúng sinh tận, nguyện của con không cùng tận. Niệm niệm liên tục, không có gián đoạn. Thân lời ý nghiệp, không có nhàm mỏi”. Hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, làm cơ bản cho hết thảy tất cả các Bồ Tát. Chúng Bồ Tát hải hội trong Kinh Hoa Nghiêm đều tu hành hạnh nguyện giống nhau.

 

Thời, bỉ Như Lai phục vi kỳ nữ khai thị diễn thuyết phát tâm dĩ lai sở tập thiện căn, sở tu diệu hạnh, sở đắc đại quả, lệnh kỳ khai ngộ thành tựu Như Lai sở hữu nguyện hải, nhất tâm thú hướng nhất thiết trí vị.

Ðức Phổ Trí Như Lai lại vì Vương nữ mà nói những thiện căn đã chứa nhóm từ khi phát tâm tới nay, cùng những diệu hạnh đã tu, đại quả đã được. Làm cho Vương nữ khai ngộ thành tựu nguyện hải của Như Lai, nhất tâm hồi hướng bậc Nhất thiết trí. Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sanh Diệu Ðức nói tiếp :

Giảng: Lúc đó, đức Như Lai Phổ Trí Bảo Diệm Diệu Đức Tràng, lại vì vương nữ khai thị diễn nói căn lành tích tụ, tu diệu hạnh, đắc được đại quả, từ khi phát tâm từ đó đến nay, khiến cho vương nữ khai ngộ thành tựu hết thảy biển đại nguyện của Như Lai trong quá khứ, một lòng một dạ hướng về quả vị nhất thiết trí. Đoạn nầy hiển phát nhân xưa.

 

Thiện nam tử! phục ư thử tiền, qua thập Đại kiếp, hữu thế giới, danh: nhật luân quang ma-ni, Phật hiệu: Nhân-đà-la tràng diệu tướng.

Này thiện nam tử ! Lại quá đây mười đại kiếp về trước, có thế giới tên là Nhựt Luân Quang Ma Ni, Phật hiệu là Nhơn Ðà La Tràng Diệu Tướng.

Giảng: Thiện nam tử! Lại ở trước đó, trải qua mười đại kiếp, có thế giới tên là Nhựt Luân Quang Ma Ni, đức Phật hiệu là Nhân Đà La Tràng Diệu Tướng.

 

Thử diệu nhãn nữ, ư bỉ Như Lai di pháp chi trung, Phổ Hiền Bồ Tát khuyến kỳ tu bổ liên hoa tọa thượng cố hoại Phật tượng; ký tu bổ dĩ nhi phục thải họa, ký thải họa dĩ phục bảo trang nghiêm, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.

Vương nữ Diệu Nhãn ở trong di pháp của đức Như Lai đó, Phổ Hiền Bồ Tát khuyên nàng tu bổ tượng Phật cũ hư trên tòa liên hoa. Nàng đã tu bổ xong lại sơn vẽ. Sơn vẽ xong lại trang nghiêm các châu báu, rồi phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Giảng: Người nữ diệu nhãn đó, ở trong di pháp của đức Như Lai đó sau khi nhập Niết Bàn, Bồ Tát Phổ Hiền khuyên cô ta tu bổ tượng Phật hư hoại trên toà sen. Khi cô ta tu bổ tượng Phật rồi, lại còn sơn vẽ. Sơn vẽ rồi, lại còn dùng vàng bạc châu báu để trang nghiêm tượng Phật. Lúc đó, cô ta bèn phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Thiện nam tử! ngã niệm quá khứ, do Phổ Hiền Bồ Tát thiện tri thức cố, chủng thử thiện căn. Tùng thị dĩ lai, bất đọa ác thú, thường ư nhất thiết Thiên Vương, nhân Vương chủng tộc trung sanh, đoan chánh khả hỉ, chúng tướng viên mãn, lệnh nhân lạc kiến, thường kiến ư Phật, thường đắc thân cận Phổ Hiền Bồ Tát; nãi chí ư kim, thị đạo khai ngộ, thành thục ư ngã, lệnh sanh hoan hỉ.

Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ do Phổ Hiền Bồ Tát thiện tri thức mà Vương nữ gieo được thiện căn này, từ đó trở đi chẳng đọa ác thú thường thọ sanh trong dòng Thiên Vương, Nhân Vương, xinh đẹp khả ái, đủ những tướng tốt, khiến mọi người thích thấy, thường gặp Phật, thường được gần gũi Phổ Hiền Bồ Tát, được Bồ Tát chỉ dạy khai ngộ thành thục mãi đến ngày nay.

Giảng: Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ do nhờ thiện tri thức Bồ Tát Phổ Hiền, mà gieo trồng xuống căn lành nầy. Từ đó đến nay, chẳng đoạ vào đường ác. Thường được sinh vào trong tất cả dòng dõi vua chúa trên trời và nhân gian, tướng mạo của ta đoan chánh xinh đẹp, các tướng viên mãn, khiến cho mọi người ưa nhìn. Thường được gặp Phật, cho nên có những người sinh ra liền thường được gặp Phật, được mở ngũ nhãn, đó đều là người có căn lành. Ta lại thường được gần gũi Bồ Tát Phổ Hiền cho đến ngày hôm nay, Ngài chỉ lối dẫn đường, khiến cho ta khai ngộ thành thục, khiến cho ta sinh đại hoan hỉ. (Đoạn nầy biểu rõ bắt đầu phát tâm).

 

Thiện nam tử! ư ý vân hà? Nhĩ thời Tỳ Lô Giá Na tạng diệu bảo liên hoa kế Chuyển luân Thánh Vương giả, khởi dị nhân hồ? kim Di Lặc Bồ-tát thị.

Này thiện nam tử ! Chuyển Luân Thánh Vương Tỳ Lô Giá Na Tạng Diệu Bửu Liên Hoa Kế nay là Di Lặc Bồ Tát.

Giảng: Thiện nam tử! Ý ông thế nào? Lúc bấy giờ vị Chuyển Luân Thánh Vương Tỳ Lô Giá Na Tạng Diệu Bảo Hoa Kế, đâu phải là người nào khác, nay chính là Bồ Tát Di Lặc. Vị

 

Thời Vương phi viên mãn diện giả, tịch tĩnh âm hải dạ Thần thị, kim sở trụ xứ khứ thử bất viễn. Thời diệu đức nhãn đồng nữ giả, tức ngã thân thị.

Vương phi Viên Mãn Diện nay là Dạ Thần Tịch Tịnh Âm Hải đang ở gần đây. Vương nữ Diệu Ðức Nhãn chính là ta.

Giảng: Vương phi Viên Mãn Diện, tức là Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải, Ngài ở cách đây không xa. Vị đồng nữ Diệu Đức Nhãn thuở đó, tức là thân ta vậy.

 

Ngã ư bỉ thời, thân vi đồng nữ, Phổ Hiền Bồ Tát khuyến ngã tu bổ liên hoa tọa tượng, dĩ vi vô thượng Bồ-đề nhân duyên, lệnh ngã phát ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề tâm.

Thuở xưa ấy, ta làm đồng nữ, Phổ Hiền Bồ Tát khuyên ta tu bổ tượng Phật, dùng đó làm nhân duyên phát tâm Vô thượng Bồ. Ðó là lúc ta bắt đầu phát tâm.

Giảng: Lúc đó ta làm thân đồng nữ Diệu Đức Nhãn, Bồ Tát Phổ Hiền khuyên ta tu bổ tượng Phật ngồi trên toà sen, dùng làm nhân duyên vô thượng bồ đề, khiến cho ta phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Lúc đó, ta bắt đầu phát tâm

 

Ngã ư bỉ thời, sơ thủy phát tâm; thứ phục dẫn đạo, lệnh ngã đắc kiến diệu đức tràng Phật, giải thân anh lạc, tán Phật cung dưỡng, kiến Phật thần lực, văn Phật thuyết Pháp, tức đắc Bồ Tát phổ hiện nhất thiết thế gian điều phục chúng sanh giải thoát môn. ư niệm niệm trung, kiến Tu-di sơn vi trần số Phật, diệc kiến bỉ Phật đạo tràng, chúng hội, thanh tịnh quốc độ; ngã giai tôn trọng, cung kính cúng dường, thính văn thuyết Pháp, y giáo tu hành.

Sau đó Phổ Hiền Bồ Tát dẫn dắt ta thấy đức Diệu Ðức Tràng Phật, ta cởi chuỗi ngọc rải lên cúng dường,,thấy thần lực của Phật, nghe Phật thuyết pháp, liền được môn giải thoát ” Bồ Tát hiện khắp tất cả thế gian điều phục chúng sanh”. Trong mỗi niệm thấy Tu Di Sơn vi trần số Phật. Cũng thấy đạo tràng chúng hội và quốc độ thanh tịnh của chư Phật. Ta đều tôn trọng cung kính cúng dường nghe diễn chánh pháp, y giáo tu hành.

Giảng: Sau đó Bồ Tát Phổ Hiền lại dẫn dắt khiến cho ta được thấy đức Phật Diệu Đức Tràng. Ta cởi chuỗi ngọc trên thân, rải lên cúng dường đức Phật, nhìn thấy thần thông lực của đức Phật, nghe đức Phật thuyết pháp. Ta lập tức đắc được môn giải thoát Bồ Tát khắp hiện tất cả thế gian điều phục chúng sinh. Ở trong niệm niệm, ta thấy các đức Phật nhiều như số hạt bụi núi Tu Di. Ta cũng thấy đạo tràng chúng hội cõi nước thanh tịnh của các đức Phật đó. Ta đều tôn trọng cung kính cúng dường chư Phật, lắng nghe Phật nói diệu pháp, mà y giáo phụng hành.

 

Thiện nam tử! qua bỉ Tỳ Lô Giá Na đại uy đức thế giới viên mãn thanh tịnh kiếp dĩ, thứ hữu thế giới, danh: bảo luân diệu trang nghiêm, kiếp danh: đại quang, hữu ngũ bách Phật ư trung xuất hiện, ngã giai thừa sự cung kính cúng dường. kỳ tối sơ Phật, danh: đại bi tràng; sơ xuất gia thời, ngã vi dạ Thần, cung kính cúng dường.

Này thiện nam tử ! Qua khỏi thế giới Tỳ Lô Giá Na Ðại Oai Ðức, kiếp viên mãn thanh tịnh, có thế giới tên là Bửu Luân Diệu Trang Nghiêm, kiếp tên là Ðại Quang, có năm trăm đức Phật xuất hiện trong đó. Ta đều kính thờ cúng dường. Ðức Phật tối sơ hiệu là Ðại Bi Tràng, lúc mới xuất gia, ta làm Dạ Thần cung kính cúng dường.

Giảng: Thiện nam tử! Trải qua thế giới Tỳ Lô Giá Na Đại Oai Đức, kiếp Viên Mãn Thanh Tịnh rồi. Lại có thế giới, tên là Bảo Luân Diệu Trang Nghiêm, kiếp tên là Đại Quang, có năm trăm vị Phật, xuất hiện ra đời, ta đều hầu hạ cung kính cúng dường.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: Kim cương Na-la-diên tràng; ngã vi Chuyển luân Vương, cung kính cúng dường; kỳ Phật vi ngã thuyết tu-đa-la, danh: nhất thiết Phật xuất hiện, thập Phật sát vi trần số tu-đa-la dĩ vi quyến thuộc.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Kim Cang Na La Diên Tràng. Ta làm Chuyển Luân Thánh Vương cung kính cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Nhất Thiết Phật Xuất Hiện, mười Phật sát vi trần số tu đa la làm quyến thuộc

Giảng: Vị Phật đầu tiền, hiệu là Phật Đại Bi Tràng, lúc đức Phật mới xuất gia, ta làm Dạ Thần, để cung kính cúng dường vị Phật đó. Lại có vị Phật ra đời, hiệu là Kim Cang Na La Diên Tràng, ta làm Chuyển Luân Vương, để cung kính cúng dường vị Phật đó. Đức Phật đó vì ta diễn nói Tu Đa La, tên là Kinh Tất Cả Phật Xuất Hiện, có các Kinh điển nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật làm quyến thuộc.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: Kim cương vô ngại đức; ngã ư bỉ thời vi Chuyển luân Vương, cung kính cúng dường; kỳ Phật vi ngã thuyết tu-đa-la, danh: phổ chiếu nhất thiết chúng sanh căn, Tu-di sơn vi trần số tu-đa-la nhi vi quyến thuộc; ngã giai thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Kim Cang Vô Ngại Ðức. Ta làm Chuyển Luân Vương cung kính cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Phổ Chiếu Nhất Thiết Chúng Sanh Căn, Tu Di Sơn vi trần số tu đa la làm quyến thuộc, ta đều thọ trì.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Kim Cang Vô Ngại Đức. Lúc đó ta làm Chuyển Luân Vương, để cung kính cúng dường vị Phật đó. Đức Phật đó vì ta diễn nói Tu Đa La, tên là Chiếu Khắp Tất Cả Căn Chúng Sinh, có các Tu Đa La nhiều như số hạt bụi núi Tu Di làm quyến thuộc, ta đều thọ trì Kinh của Phật nói.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: hỏa diệm sơn diệu trang nghiêm; ngã ư bỉ thời vi Trưởng-giả nử; kỳ Phật vi ngã thuyết tu-đa-la, danh: phổ chiếu tam thế tạng, Diêm-phù-đề vi trần số tu-đa-la nhi vi quyến thuộc; ngã giai thính văn, như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế tên là Hỏa Diệm Sơn Diệu Trang Nghiêm. Ta thuở đó làm Trưởng giả nữ. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Phổ Chiếu Tam Thế Tạng, Diêm Phù Ðề vi trần số tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu y giáo thọ trì.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Hoả Diệm Sơn Diệu Trang Nghiêm. Lúc đó ta làm nữ trưởng giả. Đức Phật đó vì ta nói Tu Đa La, tên là Chiếu Khắp Tạng Ba Đời, có các Tu Đa La nhiều như số hạt bụi Diêm Phù Đề làm quyến thuộc, ta đều lắng nghe, như pháp thọ trì.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: nhất thiết pháp hải cao thắng Vương; ngã vi A-tu-la Vương, cung kính cúng dường; kỳ Phật vi ngã thuyết tu-đa-la, danh: phân biệt nhất thiết pháp giới, ngũ bách tu-đa-la nhi vi quyến thuộc; ngã giai thính văn, như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Nhất Thiết Pháp Hải Cao Thắng Vương. Thuở đó ta làm A Tu La Vương cung kính cúng dường Phật. Ðược Phật nói kinh tên là Phân Biệt Nhất Thiết Pháp Giới, năm trăm tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu như pháp thọ trì.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Nhất Thiết Pháp Hải Cao Thắng Vương. Ta làm A Tu La Vương, để cung kính cúng dường vị Phật đó. Đức Phật đó vì ta diễn nói Tu Đa La, tên là Kinh Phân Biệt Tất Cả Pháp Giới, có năm trăm Tu Đa La làm quyến thuộc, ta đều lắng nghe, như pháp thọ trì.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: hải nhạc pháp quang minh; ngã vi long Vương nữ, vũ như ý ma-ni Bảo Vân nhi vi cúng dường; kỳ Phật vi ngã thuyết tu-đa-la, danh: tăng trưởng hoan hỉ hải, bách vạn ức tu-đa-la nhi vi quyến thuộc; ngã giai thính văn, như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Hải Nhạc Pháp Quang Minh. Thuở đó ta làm Long Vương nữ mưa mây như ý ma ni bửu cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Tăng Trưởng Hoan Hỉ Hải, có trăm vạn ức tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu như pháp thọ trì.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Hải Nhạc Pháp Quang Minh. Ta làm nữ Long Vương, mưa xuống mây báu ma ni như ý để cúng dường. Đức Phật đó vì ta nói Tu Đa La, tên là Kinh Tăng Trưởng Biển Hoan Hỉ, có năm trăm ức Tu Đa La làm quyến thuộc, ta đều lắng nghe, như pháp thọ trì.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: bảo diệm sơn đăng; ngã vi hải Thần, vũ bảo liên hoa vân cung kính cúng dường; kỳ Phật vi ngã thuyết tu-đa-la, danh: Pháp giới phương tiện hải quang minh, Phật sát vi trần số tu-đa-la nhi vi quyến thuộc; ngã giai thính văn, như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Bửu Diệm Sơn Ðăng. Thuở đó ta làm Hải Thần mưa mây bửu liên hoa cung kính cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Pháp Giới Phương Tiện Hải Quảng Minh. Có Phật sát vi trần số tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu như pháp thọ trì.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Bảo Diệm Sơn Đăng. Ta làm Thần Biển, mưa xuống mây hoa sen báu, để cung kính cúng dường. Đức Phật đó vì ta nói Tu Đa La, tên là Kinh Pháp Giới Phương Tiện Hải Quang Minh, có các Tu Đa La nhiều như số hạt bụi cõi Phật làm quyến thuộc, ta đều lắng nghe, như pháp thọ trì.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: công đức hải quang minh luân; ngã ư bỉ thời vi ngũ thông tiên, hiện đại thần thông, lục vạn chư tiên tiền hậu vi nhiễu, vũ hương hoa vân nhi vi cúng dường; kỳ Phật vi ngã thuyết tu-đa-la, danh: Vô Trước pháp đăng, lục vạn tu-đa-la nhi vi quyến thuộc; ngã giai thính văn, như pháp thọ trì.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Công Ðức Hải Quang Minh Luân. Thuở đó ta làm Ngũ Thông Tiên hiện đại thần thông có sáu vạn Tiên Nhơn vây quanh, mưa mây hương hoa cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Vô Trước Pháp Ðăng, có sáu vạn tu đa la làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu như pháp thọ trì.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Công Đức Hải Quang Minh Luân. Lúc đó ta làm Tiên Ngũ Thông, thị hiện sức đại thần thông, có sáu vạn chư Tiên vây quanh ta trước sau, mưa xuống mây hương hoa để cúng dường. Đức Phật đó vì ta nói Tu Đa La, tên là Kinh Vô Trước Pháp Đăng, có sáu vạn Tu Đa La làm quyến thuộc, ta đều lắng nghe, như pháp thọ trì.

 

Thứ hữu Phật xuất, danh: Tỳ Lô Giá Na công đức tạng; ngã ư bỉ thời, vi chủ địa thần, danh: xuất sanh bình đẳng nghĩa, dữ vô lượng địa thần câu, vũ nhất thiết bảo thụ, nhất thiết ma-ni tạng, nhất thiết bảo anh lạc vân nhi vi cúng dường; kỳ Phật vi ngã thuyết tu-đa-la, danh: xuất sanh nhất thiết Như Lai Trí Tạng, vô lượng tu-đa-la nhi vi quyến thuộc; ngã giai thính văn, thọ trì bất vong.

Kế đó có Phật xuất thế hiệu là Tỳ Lô Giá Na Công Ðức Tạng. Thuở đó ta làm Chủ Ðịa Thần tên là Xuất Sanh Bình Ðẳng Nghĩa, cùng vô lượng Ðịa Thần đồng mưa tất cả bửu thọ, tất cả ma ni tạng, tất cả mây bửu anh lạc để cúng dường Phật. Ðức Phật đó vì ta mà nói kinh tên là Xuất Sanh Nhất Thiết Như Lai Trí Tạng, vô lượng khế kinh làm quyến thuộc. Ta đều nghe hiểu thọ trì chẳng quên.

Giảng: Kế lại có vị Phật ra đời, hiệu là Tỳ Lô Giá Na Công Đức Tạng. Lúc đó ta làm Chủ Địa Thần, tên là Xuất Sanh Bình Đẳng Nghĩa, ta với vô lượng Địa Thần cùng nhau tụ lại, cùng mưa xuống tất cả cây báu, tất cả tạng ma ni, tất cả mây chuỗi báu để cúng dường Phật. Đức Phật đó vì ta nói Tu Đa La, tên là Xuất Sanh Tất Cả Như Lai Trí Tạng, có vô lượng Tu Đa La làm quyến thuộc, ta đều lắng nghe, thọ trì nơi tâm, niệm niệm không quên.
Thiện nam tử! như thị thứ đệ, kỳ tối hậu Phật, danh: sung mãn hư không Pháp giới diệu đức đăng; ngã vi kĩ nữ, danh viết: mỹ nhan, kiến Phật nhập thành, ca vũ cúng dường; thừa Phật thần lực, dũng tại không trung, dĩ thiên kệ tụng tán thán ư Phật; Phật vi ư ngã, phóng my gian quang, danh: trang nghiêm Pháp giới đại quang minh, biến xúc ngã thân; ngã mông quang dĩ, tức đắc giải thoát môn, danh: Pháp giới phương tiện bất thoái tạng.

Này thiện nam tử ! Thứ đệ như vậy, đức Phật tối hậu hiệu là Sung Mãn Hư Không Pháp Giới Diệu Ðức Ðăng. Thuở đó ta là kỹ nữ tên là Mỹ Nhan. Ta thấy Phật vào thành liền ca vũ cúng dường. Ta thừa thần lực của Phật vọt mình lên hư không nói ngàn bài kệ tán thán Phật. Ðức Phật vì ta mà phóng ánh sáng chặng mày tên là Trang Nghiêm Pháp Giới Ðại Quang Minh chiếu khắp thân ta. Khi được quanh minh của Phật chiếu đến thân, ta được môn giải thoát tên là pháp giới phương tiện bất thối tạng.

Thiện nam tử! Thứ tự như vậy, vị Phật cuối cùng, hiệu là Phật Sung Mãn Hư Không Pháp Giới Diệu Đức Đăng. Lúc đó ta làm kỹ nữ, tên là Mỹ Nhan. Ta nhìn thấy đức Phật đi vào thành, bèn ca múa để cúng dường Phật. Nhờ sức thần thông của đức Phật, ta nhảy vọt lên hư không, dùng ngàn bài kệ, để khen ngợi đức Phật. Đức Phật liền vì ta, phóng ra quang minh giữa lông mày, tên là Trang nghiêm pháp giới đại quang minh, chiếu sáng đến khắp thân ta. Ta nhờ quang minh đó chiếu sáng rồi, lập tức đắc được môn giải thoát, tên là Pháp giới phương tiện bất thối tạng.

 

Thiện nam tử! thử thế giới trung, hữu như thị đẳng Phật sát vi trần số kiếp, nhất thiết Như Lai ư trung xuất hiện; ngã giai thừa sự, cung kính cúng dường; bỉ chư Như Lai sở thuyết Chánh Pháp, ngã giai ức niệm, nãi chí bất vong nhất văn nhất cú.

Này thiện nam tử ! Trong thế giới này có Phật sát vi trần số kiếp như vậy, tất cả Như Lai xuất hiện trong đó. Ta đều kính thờ cúng dường cả. Chư Phật đó có bao nhiêu chánh pháp ta đều ghi nhớ chẳng quên một câu một chữ.

Giảng: Thiện nam tử! Trong thế giới Bảo Luân Diệu Trang Nghiêm đó, có đại kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật như vậy. Tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều hầu hạ cung kính cúng dường. Chư Phật đó diễn nói chánh pháp, ta đều ghi nhớ, cho đến không quên một câu một chữ.

 

Ư bỉ nhất nhất chư Như Lai sở, xưng dương tán thán nhất thiết Phật Pháp, vi vô lượng chúng sanh quảng tác lợi ích; ư bỉ nhất nhất chư Như Lai sở, đắc nhất thiết trí quang minh, hiện tam thế Pháp giới hải, nhập nhất thiết Phổ Hiền hạnh.

Ở chỗ chư Phật đó ta tán dương tất cả Phật pháp, rộng làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Ở chỗ mỗi đức Như Lai ta được nhất thiết trí quang minh, hiện tam thế pháp giới hải, nhập tất cả Phổ Hiền hạnh.

Giảng: Ta ở chỗ đạo tràng của mỗi mỗi các đức Như Lai đó, tán thán khen ngợi tất cả Phật pháp, vì vô lượng chúng sinh rộng làm lợi ích. Ta ở chỗ đạo tràng mỗi mỗi các đức Như Lai đó, đắc được quang minh nhất thiết trí, thị hiện biển pháp giới ba đời, nhập vào tất cả hạnh Phổ Hiền (Đắc pháp tu hành).

 

Thiện nam tử! ngã y nhất thiết trí quang minh cố, ư niệm niệm trung kiến vô lượng Phật; ký kiến Phật dĩ, tiên sở vị đắc, tiên sở vị kiến Phổ Hiền chư hạnh, tất đắc thành mãn.

Này thiện nam tử ! Vì ta y cứ nhất thiết trí quang minh nên ở trong mỗi niệm thấy vô lượng Phật. Ðã thấy Phật rồi, trước chưa được chưa thấy Phổ Hiền hạnh, nay đều thành tựu viên mãn.

Giảng: Thiện nam tử! Vì ta y chiếu quang minh nhất thiết trí, nên ở trong niệm niệm, thấy được vô lượng chư Phật. Khi thấy được chư Phật rồi, những gì trước kia chưa đắc được, trước kia chưa thấy các hạnh Phổ Hiền, thì ta đều được thành tựu viên mãn.

 

Hà dĩ cố? dĩ đắc nhất thiết trí quang minh cố. Nhĩ thời, phổ cứu chúng sanh dạ Thần, dục trọng minh thử giải thoát nghĩa, thừa Phật thần lực, vi Thiện tài đồng tử nhi thuyết tụng ngôn:

Tại sao vậy ? Vì đã được nhất thiết trí quang minh vậy. Phổ Cứu Chúng Sanh Dạ Thần muốn tuyên lại nghĩa giải thoát này, thừa Phật thần lực, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng :

Giảng: Tại sao? Vì ta nhờ đắc được quang minh nhất thiết trí (Thấy Phật hạnh thành tựu). Lúc đó, Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh, vì muốn thuật rõ lại nghĩa lý pháp môn giải thoát nầy, bèn nương thần lực của Phật, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

 

Thiện Tài thính ngã thuyết                       Thiện Tài nghe ta nói
Thậm thâm nan kiến Pháp                       Pháp thậm thâm khó thấy
Phổ chiếu ư tam thế,                                 Chiếu khắp cả tam thế
Nhất thiết sái biệt môn.                             Tất cả môn sai biệt.

“Thiện Tài! Ngươi hãy nghe ta diễn nói, pháp thâm sâu vô thượng, trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, chiếu soi khắp cả ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả pháp môn khác nhau.

 

Như ngã sơ phát tâm,                               Như ta sơ phát tâm
Chuyên cầu Phật công đức,                     Chuyên cầu Phật công đức
Sở nhập chư giải thoát,                             Các giải thoát đã được
Nhữ kim ưng đế thính.                              Ngươi nay phải lóng nghe

Như xưa kia lúc ta mới bắt đầu phát tâm, chuyên tâm tìm cầu công đức của Phật. Chứng nhập vào các pháp môn giải thoát, nay ngươi nên lắng nghe cho kỹ!

 

Ngã niệm quá khứ thế,                              Ta nhớ thuở quá khứ
Qua sát vi trần kiếp,                                  Quá sát trần số kiếp
Thứ tiền hữu nhất kiếp,                            Trước đó có một kiếp
Danh Viên Mãn Thanh Tịnh.                   Tên Viên Mãn Thanh Tịnh

Ta nhớ đời quá khứ, trải qua đại kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Kế trước đó có một kiếp, tên là kiếp Viên Mãn Thanh Tịnh.

 

Thị thời hữu thế giới,                                 Thuở đó có thế giới
Danh vi biến chiếu đăng                            Tên là Biến Chiếu Ðăng
Tu-Di trần số Phật                                    Tu Di trần số Phật
Ư trung xuất hưng thế                              Xuất thế ở trong đó

Bấy giờ có một thế giới, tên là thế giới Biến Chiếu Đăng. Có các đức Phật nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, xuất hiện ra đời.

 

Sơ Phật danh trí diệm,                              Sơ Phật diệu Trí Diệm
Thứ Phật danh Pháp-Tràng                     Phật kế hiệu Pháp Tràng
Đệ tam Pháp Tu-Di,                                  Thứ ba Pháp tu Di,
Đệ tứ đức sư tử,                                        Thứ tư Ðức Sư Tử,

Đức Phật thứ nhứt hiệu là Phật Trí Diễm, kế đó đức Phật hiệu là Phật Pháp Tràng. Thứ ba là Phật Pháp Tu Di. Thứ tư là đức Phật Đức Sư Tử.

 

Đệ ngũ tịch tĩnh Vương,                           Thứ năm Tịch Tịnh Vương,
Đệ lục diệt chư kiến,                                  Thứ sáu Diệt Chư Kiến,
Đệ thất cao danh xưng,                            Thứ bảy Cao Danh Xưng,
Đệ bát đại công đức,                                 Thứ tám Ðại Công Ðức,

Thứ năm là đức Phật Tịch Tĩnh Vương. Thứ sáu là đức Phật Diệt Chư Kiến. Thứ bảy là đức Phật Cao Danh Xưng. Thứ tám là đức Phật Đại Công Đức.

 

Đệ cửu danh thắng nhật,                          Thứ chín Phật Thắng Nhựt,
Đệ thập danh nguyệt diện.                       Thứ mười Phật Nguyệt Diện,
Ư thử thập Phật sở,                                  Ta nơi mười Phật này
Tối sơ ngộ Pháp môn.                               Tối sơ ngộ pháp môn

Thứ chín hiệu là Phật Thắng Nhựt. Thứ mười hiệu là Phật Nguyệt Diện. Ta ở chỗ mười vị đức Phật đó, ban đầu lãnh ngộ được đại dụng của pháp môn nầy. (10 vị Phật nầy, hợp làm 1 vị Phật).

 

Tòng thử hậu thứ đệ,                                Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Lại có mười Như Lai
Sơ danh hư không xứ,                               Một là Hư Không Xử,
Đệ nhị danh phổ quang,                           Thứ hai Phật Phổ Quang,

Từ đó về sau, thứ tự lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhứt hiệu là Phật Hư Không Xứ. Thứ hai hiệu là Phật Phổ Quang.

 

Tam danh trụ chư phương,                      Thứ ba Trụ Chư Phương,
Tứ danh chánh niệm hải,                          Thứ tư Chánh Niệm Hải,
Ngũ danh cao thắng quang,                     Thứ năm Cao Thắng Quang,
Lục danh Tu-Di vân,                                 Thứ sáu Tu Di Vân,

Thứ ba hiệu là Phật Trụ Chư Phương. Thứ tư hiệu là Phật Chánh Niệm Hải. Thứ năm hiệu là Phật Cao Thắng Quang. Thư sáu hiệu là Phật Tu Di Vân.

 

Thất danh Pháp diệm Phật,                     Thứ bảy Pháp Diệm Phật,
Bát danh sơn Thắng Phật,                       Thứ tám Sơn Thắng Phật,
Cửu danh đại bi hoa,                                 Thứ chín Ðại Bi Hoa,
Thập danh Pháp giới hoa.                        Thứ mười Pháp Giới Hoa.

Thử thập xuất hiện thời,                           Lúc mười Phật xuất thế
Đệ nhị ngộ Pháp môn.                              Ta giác ngộ thứ hai.

Thứ bảy hiệu là Phật Pháp Diệm. Thứ tám hiệu là Phật Sơn Thắng. Thứ chín hiệu là Phật Đại Bi Hoa. Thứ mười hiệu là Phật Pháp Giới Hoa. Khi mười vị Phật đó xuất hiện, thì ta lãnh ngộ được diệu dụng của pháp môn thứ hai nầy. (Mười vị Phật nầy, hợp lại là 1 vị Phật)

 

Tòng thử hậu thứ đệ,                                Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Lại có mười đức Phật
Đệ nhất quang tràng Phật,                       Một là Phật Quang Tràng,
Đệ nhị trí tuệ Phật,                                   Thứ hai Trí Huệ Phật,

Từ đó về sau, thứ tự lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhứt hiệu là Phật Quang Tràng. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Trí Huệ.

 

Đệ tam tâm nghĩa Phật,                            Thứ ba Tâm Nghĩa Phật,
Đệ tứ đức chủ Phật,                                  Thứ tư Ðức Chủ Phật,
Đệ ngũ thiên tuệ Phật,                              Thứ năm Thiên Huệ Phật,
Đệ lục tuệ Vương Phật,                            Thứ sáu Huệ Vương Phật,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Tâm Nghĩa. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Đức Chủ. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Thiên Huệ. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Huệ Vương.

 

Đệ thất thắng trí Phật,                             Thứ bảy Thắng Trí Phật,
Đệ bát quang Vương Phật,                       Thứ tám Quang Vương Phật,
Đệ cửu dũng mãnh Phật,                          Thứ chín Dũng Mãnh Phật,
Đệ thập liên hoa Phật.                               Thứ mười Liên Hoa Phật.

Ư thử thập Phật sở,                                  Tại chỗ mười Phật này
Đệ tam ngộ Pháp môn.                             Ta thứ ba ngộ pháp.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Thắng Trí. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Quang Vương. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Dũng Mãnh. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Liên Hoa. Ta ở chỗ đạo tràng mười vị Phật đó, lãnh ngộ được diệu dụng của pháp môn thứ ba nầy.

 

Tòng thử hậu thứ đệ,                                Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Có mười Phật xuất thế
Đệ nhất bảo diệm sơn,                              Thứ nhất Bửu Diệm Sơn,
Đệ nhị công đức hải,                                 Thứ hai Công Ðức Hải,

Từ đó về sau, thứ tự lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Bảo Diệm Sơn. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Công Đức Hải.

 

Đệ tam pháp quang minh,                        Thứ ba Pháp Quang Minh,
Đệ tứ liên hoa tạng,                                   Thứ tư Liên Hoa Tạng,
Đệ ngũ chúng sanh nhãn,                         Thứ năm Chúng Sanh Nhãn,
Đệ lục Hương Quang bảo,                        Thứ sáu Hương Quang Bửu,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Pháp Quang Minh. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Liên Hoa Tạng. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Chúng Sinh Nhãn. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Hương Quang Bảo.

 

Thất Tu-Di công đức,                                Bảy, Tu Di Công Ðức,
Bát càn thát bà vương,                             Tám, Càn Thát Bà Vương
Đệ cửu ma-ni tạng,                                    Thứ chín Ma Ni Tạng,
Đệ thập tịch tĩnh sắc.                                Mười, Phật Tịch Tịnh Sắc.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Tu Di Công Đức. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Càn Thát Bà Vương. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Ma Ni Tạng. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Tịch Tĩnh Sắc.

 

Tòng thử hậu thứ đệ,                                Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Có mười Phật xuất thế
Sơ Phật quảng đại trí,                               Thứ nhất Quảng Ðại Trí,
Thứ Phật bảo quang minh,                       Kế Phật Bửu Quang Minh,

Từ đó về sau, thứ tự lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhất hiệu là Phật Quảng Đại Trí. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Bảo Quang Minh.

 

Đệ tam hư không vân,                               Thứ ba Hư Không Vân,
Đệ tứ thù thắng tướng,                             Thứ tư Thù Thắng Tướng,
Đệ ngũ viên mãn giới,                                Thứ năm Viên Mãn Giới,
Đệ lục Na-la-diên,                                      Thứ sáu Na La Diên,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Hư Không Vân. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Thù Thắng Tướng. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Viên Mãn Giới. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Na La Diên.

 

Đệ thất Tu-Di đức,                                    Thứ bảy Tu Di Ðức,
Đệ bát công đức luân,                               Thứ tám Công Ðức Luân,
Đệ cửu Vô thắng tràng,                            Thứ chín Vô Thắng Tràng
Đệ thập Đại thọ sơn.                                 Thứ mười Ðại Thọ Sơn.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Tu Di Đức. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Công Đức Luân. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Vô Thắng Tràng. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Đại Thụ Sơn.

 

Tòng thử hậu thứ đệ,                                Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Có mười Phật xuất thế
Đệ nhất Ta-la tạng,                                   Thứ nhất Bà La Tạng,
Đệ nhị thế chủ thân,                                  Thứ hai Thế Chủ Thần,

Kế sau đó thứ tự, lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhứt là Phật Bà La Tạng. Thứ hai là Phật Thế Chủ Thân.

 

Đệ tam cao hiển quang,                            Thứ ba Cao Hiển Quang,
Đệ tứ Kim cương chiếu                             Thư tư Kim Cang Chiếu,
Đệ ngũ địa uy lực                                       Thứ năm Ðịa Oai Lực,
Đệ lục thậm thâm Pháp,                           Thứ sáu Thậm Thâm Pháp,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Cao Hiển Quang. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Kim Cang Chiếu. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Địa Oai Lực. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Thậm Thâm Pháp.

 

Đệ thất pháp tuệ âm,                                Thứ bảy Pháp Huệ âm,
Đệ bát Tu-Di tràng,                                   Thứ tám Tu Di Tràng,
Đệ cửu thắng quang minh                        Thứ chín Thắng Quang Minh,
Đệ thập diệu Bảo quang.                          Thứ mười Diệu Bửu Quang.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Pháp Huệ Âm. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Tu Di Tràng. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Thắng Quang Minh. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Diệu Bảo Quang.

 

Tòng thử hậu thứ đệ,                                Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Có mười Phật xuất thế
Đệ nhất phạm quang minh                       Thứ nhất Phạm Quang Minh,
Đệ nhị hư không âm,                                 Thứ hai Hư Không Âm,

Kế sau đó thứ tự, lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhứt hiệu là Phật Phạm Quang Minh. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Hư Không Âm.

 

Đệ tam pháp giới thân,                             Thứ ba Pháp Giới Thân,
Đệ tứ quang minh luân,                            Thứ tư Quang Minh Luân,
Đệ ngũ trí tuệ tràng,                                 Thứ năm Trí Huệ Tràng,
Đệ lục hư không đăng,                              Thứ sáu Hư Không Ðăng,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Pháp Giới Thân. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Quang Minh Luân. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Trí Huệ Tràng. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Hư Không Đăng.

 

Đệ thất vi diệu đức,                                   Thứ bảy Vi Diệu Ðức,
Đệ bát biến chiếu quang,                          Thứ tám Biến Chiếu Quang,
Đệ cửu thắng phước quang,                     Thứ chín Thắng Phước Quang
Đệ thập đại bi vân.                                    Thứ mười Ðại Bi Vân.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Vi Diệu Đức. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Biến Chiếu Quang. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Thắng Phước Quang. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Đại Bi Vân.

 

Tòng thử hậu thứ đệ                                 Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Có mười Phật xuất thế
Đệ nhất lực quang tuệ,                             Thứ nhất Lực Quang Huệ,
Đệ nhị phổ hiện tiền,                                 Thứ hai Phổ Hiện Tiền,

Kế sau đó thứ tự, lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhứt hiệu là Phật Lực Quang Huệ. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Phổ Hiện Tiền.

 

Đệ tam cao hiển quang,                            Thứ ba Cao Hiển Quang,
Đệ tứ quang minh thân,                            Thứ tư Quang Minh Thân,
Đệ ngũ pháp khởi Phật,                            Thứ năm Phật Pháp Khởi,
Đệ lục Bảo-Tướng Phật,                           Thứ sáu Phật Bửu Tướng,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Cao Hiển Quang. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Quang Minh Thân. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Pháp Khởi. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Bảo Tướng.

 

Đệ thất tốc tật phong                                Thứ bảy Tốc Tật Phong,
Đệ bát dũng mãnh tràng,                         Thứ tám Dũng Mãnh Tràng,
Đệ cửu diệu bảo cái,                                  Thứ chín Diện Bửu Cái,
Đệ thập chiếu tam thế.                              Thứ mười Chiếu Tam Thế.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Tốc Tật Phong. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Dũng Mãnh Tràng. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Diệu Bảo Cái. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Chiếu Tam Thế.

 

Tòng thử hậu thứ đệ                                 Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Có mười Phật xuất thế
Đệ nhất nguyện hải quang,                       Ðệ nhất Nguyện Hải Quang,
Đệ nhị Kim Cương thân,                           Ðệ nhị Kim Cang Thân,

Kế sau đó thứ tự, lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhứt hiệu là Phật Nguyện Hải Quang. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Kim Cang Thân.

 

Đệ tam Tu-Di đức,                                    Thứ ba Tu Di Ðức,
Đệ tứ niệm tràng Vương                           Thứ tư Niệm Tràng Vương,
Đệ ngũ công đức tuệ,                                Thứ năm Công Ðức Huệ,
Đệ lục trí tuệ đăng                                    Thứ sáu Trí Huệ Ðăng,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Tu Di Đức. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Niệm Tràng Vương. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Công Đức Huệ. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Trí Huệ Đăng.

 

Đệ thất quang minh tràng                        Thứ bảy Quang Minh Tràng,
Đệ bát quảng đại trí,                                 Thứ tám Quảng Ðại Trí,
Đệ cửu Pháp giới trí,                                 Thứ chín Pháp Giới Trí,
Đệ thập pháp hải trí.                                 Thứ mười pháp Hải Trí.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Quang Minh Tràng. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Quảng Đại Trí. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Pháp Giới Trí. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Pháp Hải Trí.

 

Tòng thử hậu thứ đệ,                                Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Có mười Phật xuất thế
Sơ danh bố thí Pháp,                                Thứ nhất Bố Thí Pháp,
Thứ danh công đức luân,                          Thứ hai Công Ðức Luân,

Kế đó sau thứ tự, lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhứt hiệu là Phật Bố Thí Pháp. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Công Đức Luân.

 

Tam danh thắng diệu vân                         Thư ba Thắng Diệu Vân,
Tứ danh nhẫn trí đăng,                            Thứ tư Nhẫn Trí Ðăng,
Ngũ danh tịch tĩnh âm,                             Thứ năm Tịch Tịnh Âm,
Lục danh tịch tĩnh tràng,                          Thứ sáu Tịch Tịnh Tràng,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Thắng Diệu Vân. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Nhẫn Trí Đăng. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Tịch Tĩnh Âm. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Tịch Tĩnh Tràng.

 

Thất danh thế gian đăng,                         Thứ bảy Thế Gian Ðăng,
Bát danh thâm đại nguyện,                      Thứ tám Thâm Ðại Nguyện,
Cửu danh Vô thắng tràng,                       Thứ chín Vô Thắng Tràng,
Thập danh trí diệm hải.                            Thứ mười Trí Diệm Hải.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Thế Gian Đăng. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Thâm Đại Nguyện. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Vô Thắng Tràng. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Trí Diệm Đăng.

 

Tòng thử hậu thứ đệ,                                Thứ đệ kế sau đó
Phục hưũ thập Phật xuất:                        Có mười Phật xuất thế
Sơ Phật pháp tự tại,                                  Thứ nhất Pháp Tự Tại,
Nhị Phật vô ngại tuệ,                                 Thứ hai Vô Ngại Huệ,

Kế đó sau thứ tự, lại có mười vị Phật xuất hiện ra đời. Vị Phật thứ nhứt hiệu là Phật Pháp Tự Tại. Vị Phật thứ hai hiệu là Phật Vô Ngại Huệ.

 

Tam danh ý hải tuệ,                                  Thứ ba Ý Hải Huệ,
Tứ danh chúng Diệu-Âm,                         Thứ tư Chúng Diệu Âm,
Ngũ danh tự tại thí,                                   Thứ năm Tự Tại Thí,
Lục danh phổ hiện tiền,                            Thứ sáu Phổ Hiện Tiền,

Vị Phật thứ ba hiệu là Phật Ý Hải Huệ. Vị Phật thứ tư hiệu là Phật Chúng Diệu Âm. Vị Phật thứ năm hiệu là Phật Tự Tại Thí. Vị Phật thứ sáu hiệu là Phật Phổ Hiện Tiền.

 

Thất danh tùy lạc thân,                            Thứ bảy Tùy Lạc Thân,
Bát danh trụ Thắng đức,                          Thứ tám Trụ Thắng Ðức,
Đệ cửu bổn tánh Phật,                              Thứ chín Bổn Tánh Phật,
Đệ thập hiền đức Phật.                             Thứ mười Phật Hiền Ðức.

Vị Phật thứ bảy hiệu là Phật Tuỳ Lạc Thân. Vị Phật thứ tám hiệu là Phật Trụ Thắng Đức. Vị Phật thứ chín hiệu là Phật Bổn Tánh. Vị Phật thứ mười hiệu là Phật Hiền Đức.

 

Tu-Di trần số kiếp,                                    Tu Di trần số kiếp
Thử trung sở hữu Phật,                            Bao nhiêu Phật trong đó
Phổ tác thế gian đăng,                              Khắp làm đèn thế gian
Ngã tất tằng cúng dường.                         Ta đều từng cúng dường.

Đại kiếp nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, hết thảy chư Phật ở trong đó, khắp làm đèn sáng thế gian, ta đều từng cúng dường tất cả chư Phật.

 

Phật sát vi trần kiếp,                                 Phật sát vi trần kiếp
Sở hữu Phật xuất hiện                              Bao nhiêu Phật xuất thế
Ngã giai tằng cúng dường,                        Tôi đều từng cúng dường
Nhập thử giải thoát môn.                          Vào môn giải thoát này.

Trong đại kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật, hết thảy chư Phật xuất hiện ra đời, ta đều từng cúng dường mỗi vị Phật, cho nên ta vào được pháp môn giải thoát nầy.
Trong Kinh trường hàng nầy, có một trăm mười vị Phật, biểu thị Thập Địa và Đẳng Giác. Vị Phật thứ nhứt làm chủ, chín vị kia làm bạn. Hai bài kệ sau cùng, hiển bày tổng thể các kiếp, cũng biểu thị trí hạnh viên mãn.

 

Ngã ư vô lượng kiếp                                  Ta trong vô lượng kiếp
Tu hành đắc thử đạo;                               Ta tu được đạo này,
Nhữ nhược năng tu hành                         Nếu người tu hành được
Bất cửu diệc đương đắc.                           Chẳng lâu cũng sẽ được.

Ta ở trong vô lượng kiếp về trước, tu hành đắc được đạo quả nầy. Nếu ngươi tu hành pháp môn nầy, thì chẳng bao lâu nữa cũng sẽ đắc được môn giải thoát nầy. (Đây là cử nhân khuyến tu).

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát phổ hiện nhất thiết thế gian điều phục chúng sanh giải thoát.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thóat “Bồ Tát Phổ hiện nhất thiết thế gian điều phục chúng sánh”.

Thiện nam tử! Ta chỉ biết giải thoát Bồ Tát phổ hiện tất cả thế gian điều phục chúng sinh nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, tập vô biên hạnh, sanh chủng chủng giải, hiện chủng chủng thân, cụ chủng chủng căn, mãn chủng chủng nguyện, nhập chủng chủng tam muội, khởi chủng chủng thần biến, năng chủng chủng quán sát Pháp, nhập chủng chủng trí tuệ môn, đắc chủng chủng pháp quang minh

Như chư đại Bồ Tát tích tập vô biên hạnh, sanh những hiểu biết, hiện những thân mình, đủ những căn tướng, mãn những nguyện vọng, vào những tam muội, khởi những thần biến, hay quán sát pháp, nhập những trí huệ môn, được những pháp quang minh.

Như tất cả các đại Bồ Tát, tích tập vô biên hạnh, sinh ra đủ thứ sự hiểu biết, hiện đủ thứ sắc thân, đầy đủ các thứ căn, viên mãn đủ thứ đại nguyện, vào đủ thứ tam muội, khởi đủ thứ thần thông biến hoá, quán sát được đủ thứ pháp, vào đủ thứ pháp môn trí huệ, đắc được đủ thứ pháp quang minh,

 

Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Ta thế nào biết được, nói được công đức hạnh đó.

Mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó. Ngươi hãy đi tìm cầu một vị thiện tri thức khác!

 

Thiện nam tử! khứ thử bất viễn, hữu chủ dạ thần, danh: tịch tĩnh âm hải, tọa ma-ni quang tràng trang nghiêm liên hoa tọa, bách vạn a-tăng-kì chủ dạ thần tiền hậu vi nhiễu.

Này thiện nam tử ! Cách đây không xa, có Chủ Dạ Thần tên là Tịch Tịnh Âm Hải, ngồi trên tòa liên hoa ma ni quang tràng trang nghiêm. Có trăm vạn a tăng kỳ Chủ Dạ Thần vây quanh.

Thiện nam tử! Cách đây không xa, có một vị Chủ Dạ Thần, tên là Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải. Ngài đang ngồi trên toà sen ma ni quang tràng trang nghiêm, có trăm vạn A tăng kỳ vị Chủ Dạ Thần vây quanh trước sau Ngài.

 

Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Ngươi hãy đi đến đó thưa hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ vì ngươi diễn nói”.

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Dạ Thần, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ ta mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức, đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, sau đó ân cần chiêm ngưỡng thiện tri thức, rồi từ tạ mà đi.
Hỏi: Cảnh giới chứng được sáu căn dụng với nhau như thế nào?

Đáp: Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Công năng của chúng dụng với nhau không thể dùng tâm ý thức để trắc lường. Bạn không cần nghĩ đến tình hình chúng dụng với nhau. Một khi bạn nghĩ nói muốn kêu chúng dụng với nhau, đó tức là vọng tưởng. Nếu bạn chân chánh chứng được cảnh giới nầy, thì bạn không cần kêu nó đi làm việc, nó sẽ làm việc tự nhiên. Chúng chẳng phải là máy móc, phải mở nút chính, thì mới làm việc; nếu không mở, thì nó sẽ thành một vật chết. Người chứng được sáu căn dụng với nhau, chẳng phải bạn kêu chúng làm gì, thì chúng làm cái đó. Không cần bạn phát ra hiệu lệnh, mà nó tự động làm. Bạn không thể mạo xưng có cảnh giới nầy. Nếu mạo xưng, thì ai ai cũng đều có thể mạo xưng đã chứng được cảnh giới nầy, như vậy là ngư mục hỗn châu (mắt cá lầm tưởng hạt châu).

Phải dụng công mới có cảnh giới. Trong sự tu đạo, gặp cảnh giới gì, chẳng màng tốt, hoặc không tốt, vẫn tiếp tục dụng công, đừng chạy theo cảnh giới, cũng đừng đi tìm cảnh giới. Tức không chạy theo, cũng không hoan nghênh nó đến, coi như bình thường chẳng có việc gì. Nếu chấp trước vào cảnh giới, thì công phu sẽ mất đi. Giống như trồng trọt, bạn không biết hạt giống lúc nào sẽ mọc lên, nhưng có một ngày nó sẽ nảy mầm. Nhưng bạn không đợi được, muốn giúp mầm cao lớn hơn một chút, cho nên bạn nhổ nó lên một chút, chẳng những nó không lớn, mà còn khô héo rồi chết. Đây gọi là “Nhổ mầm giúp lớn”.

Chúng ta dụng công phải sống động, đừng có cứng ngắt, phải mở mắt cho thật lớn, đừng có suốt ngày đến tối mặt mày ủ rũ, chẳng có sự linh động. Như vậy gọi là “nước chết”, do đó có câu: “Nước chết không thành rồng”, bạn phải linh hoạt sống động.

Ngày thứ nhất đả thiền thất, tôi đã nói với các vị: “Mỗi người phải hồi quang phản chiếu, đừng nhìn ra bên ngoài, mà phải nhìn vào bên trong của chính mình. Lúc đó, bên trong quán tâm mà không có tâm, bên ngoài quán thân mà không có thân, ở xa quán tất cả vạn vật cũng chẳng tồn tại”. Đây tức là:
“Trong không thân tâm,
Ngoài không thế giới”.

Nhưng đây chẳng phải là chết, ngược lại càng sống lại, rất là hoạt bát thiên chân, giống như rồng sống, hổ sống. Đừng có mặt mày ủ rũ mắt mở không lên, như vậy thì tu hành chẳng tương ưng. Tóm lại, phải phấn chấn tinh thần lên, đấu tranh với sinh tử không thể giống như cỏ đầu tường, gió thổi thì ngã. Nhất là lúc chạy hương, tay phải hoạt động lên, đừng có cứng ngắt, như bị người ta trói. Khi chạy hương, tay trái phải co lên, tay phải phải dũi ra, chạy thì giống như rồng bay hổ đi, tóm lại, phải có oai nghi tinh thần. Tại sao? Vì bạn đấu tranh với sinh tử, nếu không đem tinh thần chân chánh ra, thì sẽ đấu không lại nó. Điểm nầy các vị nên chú ý!