Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 9

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 9

— o0o —

35. DẠ THẦN TỊCH TĨNH ÂM HẢI
PHÓ THÁC THỨ 35 – NAN THẮNG ĐỊA

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ư phổ cứu chúng sanh diệu đức dạ Thần sở, văn Bồ Tát phổ hiện nhất thiết thế gian điều phục chúng sanh giải thoát môn, liễu tri tín giải, tự tại an trụ

Bấy giờ Thiện-Tài Đồng-Tử ở chỗ Dạ-Thần Phổ-Cứu-Chúng-Sanh-Diệu-Đức, nghe pháp-môn giải-thoát bồ-tát phổ-hiện-nhất-thiết-thế-gian-điều-phục-chúng-sanh. Thiện-Tài biết rõ tin hiểu tự-tại an-trụ trong môn giải-thoát đó.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử ở chỗ đạo tràng của vị Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức, nghe được môn giải thoát Bồ Tát phổ hiện tất cả thế gian điều phục chúng sinh, Ngài biết rõ tin hiểu, tự tại an trụ nơi pháp môn nầy.

Đây là Nan thắng địa thứ năm, là chân tục hai trí, hành tướng trái nhau, hợp khiến cho tương ưng, vì rất nan thắng. Vị Thần nầy tức là mẹ của Phổ Cứu, biểu thị chân tinh tấn, tức từ định sinh. Khởi tâm động niệm, vì là vọng không thể tiến. Thiền gọi là “Tịch tĩnh”. Nhập tục diễn pháp, hoá vật sâu rộng, nên gọi là “âm hải”.

 

Nhi vãng tịch tĩnh âm hải dạ Thần sở, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ư tiền hợp chưởng nhi tác thị ngôn:

Thiện-Tài đến chỗ Dạ-Thần Tịch-Tịnh-Ấm-Hải, đảnh lễ nơi chân Dạ-Thần hữu nhiễu vô-số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:

Giảng: Thiện-Tài đi đến chỗ đạo tràng của vị Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải và đảnh lễ vị Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải, rồi đi nhiễu quanh bên phải vô lượng vòng, sau đó ở trước vị Dạ Thần chắp tay lại, mà bạch rằng:

 

Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, ngã dục y thiện tri thức, học Bồ Tát hạnh, nhập Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát hạnh, trụ Bồ Tát hạnh. Duy nguyện từ ai, vi ngã tuyên thuyết: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?

Bạch đức Thánh ! Tôi đã phát tâm vô-thượng bồ-đề. Tôi muốn nương theo thiện-tri-thức để học bồ-tát-hạnh, nhập bồ-tát-hạnh, tu bồ-tát-hạnh, trụ bồ-tát-hạnh. Mong đức Thánh thương xót vì tôi mà tuyên nói Bồ-Tát thế nào học bồ-tát-hạnh, thế nào tu bồ-tát-đạo ?

Giảng: “Đại Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Con muốn nương thiện tri thức, học Bồ Tát hạnh, nhập vào Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát hạnh, an trụ Bồ Tát hạnh, xin Ngài hãy từ bi thương xót, vì con mà diễn nói: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?

 

Thời, bỉ dạ Thần cáo Thiện Tài ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ năng y thiện tri thức cầu Bồ Tát hạnh.

Dạ-Thần nói: Lành thay, lành thay ! Nầy thiện-nam-tử ! Ngươi có thể nương thiện-tri-thức cầu bồ-tát-hạnh.

Giảng: Lúc đó, vị Dạ Thần bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay ! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi có thể nương thiện tri thức mà cầu Bồ Tát hạnh.

 

Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát niệm niệm xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm giải thoát môn.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta được môn giải-thoát bồ-tát niệm-niệm-xuất-sanh-quảng-đại-hỉ-trang-nghiêm.

Giảng: Thiện nam tử! Ta đắc được pháp môn giải thoát Bồ Tát niệm niệm sinh ra hỉ trang nghiêm rộng lớn”. Môn giải thoát nầy có hai ý nghĩa:

1. Hoá sinh toại chí nên sinh hỉ, tức là phước đức trang nghiêm.

2. Quán Phật Bồ Tát thắng dụng nên hoan hỉ, tức là trí huệ trang nghiêm. Quán hoá tức không gián đoạn, nên hỉ cũng niệm niệm sinh ra.

 

Thiện Tài ngôn: đại thánh! thử giải thoát môn vi hà sự nghiệp? hành hà cảnh giới? khởi hà phương tiện? tác hà quan sát?

Thiện-Tài Thưa: Đại-Thánh ! Môn giải-thoát nầy sự nghiệp thế nào ? Cảnh-giới thế nào ? Khởi phương-tiện gì? Quán-sát thế nào ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử hỏi: “Đại Thánh! Phải làm tịnh đức sự nghiệp gì mới có thể thành tựu môn giải thoát nầy? Cảnh giới hạnh chứng như thế nào? Sinh khởi phương tiện gì? Quán sát suy gẫm như thế nào”?

 

Dạ Thần ngôn: Thiện nam tử! ngã phát khởi thanh tịnh bình đẳng lạc dục tâm, ngã phát khởi ly nhất thiết thế gian trần cấu thanh tịnh kiên cố trang nghiêm bất khả hoại lạc dục tâm, ngã phát khởi phàn duyên bất thoái chuyển vị vĩnh Bất-thoái-chuyển tâm, ngã phát khởi trang nghiêm công đức bảo sơn bất động tâm, ngã phát khởi vô trụ xứ tâm, ngã phát khởi phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh tiền cứu hộ tâm

Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-Tử ! ta phát khởi tâm nguyện bình-đẳng thanh-tịnh. Ta phát khởi tâm nguyện ly tất cả trần cấu thế-gian thanh-tịnh kiên-cố trang-nghiêm chẳng hư hại. Ta phát khởi tâm trọn chẳng thối chuyển phan-duyên địa-vị bất-thối-chuyển. Ta phát khởi tâm bất động trang-nghiêm công-đức bửu sơn. Ta phát khởi tâm vô-trụ-xứ. Ta phát khởi tâm cứu-hộ hiện thân trước khắp tất cả chúng-sanh.

Giảng: Vị Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải nói: Thiện nam tử! Ta phát khởi tâm ưa thích thanh tịnh bình đẳng. Ta phát khởi tâm ưa thích lìa tất cả thế gian bụi dơ, thanh tịnh kiên cố trang nghiêm không thể hoại. Ta lại phát khởi tâm phan duyên không thối chuyển, quả vị vĩnh viễn không thối chuyển. Ta phát khởi tâm trang nghiêm công đức núi báu bất động. Ta lại phát khởi tâm không trụ xứ. Ta lại phát khởi tâm hiện khắp cứu hộ trước tất cả các chúng sinh.

 

Ngã phát khởi kiến nhất thiết Phật hải Vô yếm túc tâm, ngã phát khởi cầu nhất thiết Bồ Tát thanh tịnh nguyện lực tâm, ngã phát khởi trụ Đại trí quang minh hải tâm, ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh siêu quá ưu não khoáng dã tâm, ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh xả ly sầu ưu khổ não tâm, ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh xả ly bất khả ý sắc, thanh, hương, vị, xúc, Pháp tâm

Ta phát khởi tâm không nhàm đủ thấy tất cả phật-hải. Ta phát khởi tâm nguyện-lực thanh-tịnh cầu tất cả Bồ-Tát. Ta phát khởi tâm trụ nơi đại-trí quang-minh hải. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh vượt khỏi đồng hoang lo buồn. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời sầu lo khổ não. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời sắc thanh hương vị xúc pháp chẳng vừa ý.

Giảng: Ta lại phát khởi tâm thấy tất cả biển chư Phật không nhàm đủ. Ta lại phát khởi tâm cầu tất cả nguyện lực thanh tịnh của Bồ Tát. Ta lại phát khởi tâm trụ biển đại trí quang minh. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh vượt qua đồng hoang lo buồn. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh xả lìa buồn rầu khổ não. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh xả lìa sắc thanh hương vị xúc pháp không vừa ý.

 

Ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh xả ly ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ tâm, ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh xả ly ác duyên, ngu si đẳng khổ tâm, ngã phát khởi dữ nhất thiết hiểm nan chúng sanh tác y hỗ tâm, ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh xuất sanh tử khổ xứ tâm, ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh xả ly sanh, lão, bệnh, tử đẳng khổ tâm, ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh thành tựu Như Lai vô thượng pháp lạc tâm, ngã phát khởi lệnh nhất thiết chúng sanh giai thọ thiện lạc tâm.

Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời ái-biệt-ly-khổ và oán-tắng-hội-khổ. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời những khổ ác duyên ngu si. Ta phát khởi tâm làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng-sanh bị hiểm nạn. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh thoát khỏi chỗ khổ sanh tử. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh bỏ rời những khổ sinh, lão, bệnh, tử. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh thành-tựu pháp-lạc vô-thượng của Như-Lai. Ta phát khởi tâm làm cho tất cả chúng-sanh đều thọ hỉ lạc.

Giảng: Chúng sinh đều chấp vào cảnh giới sáu trần, bị pháp nhiễm ô nầy làm thương hại huệ mạng của họ, một chút lợi ích cũng chẳng có. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh xả lìa khổ thương yêu mà xa lìa, ghét mà gặp nhau. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh xả lìa ác duyên ngu si các khổ. Ta lại phát khởi tâm làm chỗ nương nhờ cho tất cả chúng sinh bị hiểm nạn. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi nơi khổ sinh tử. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh xả lìa khổ sinh già bệnh chết. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu pháp vui vô thượng của Như Lai. Ta lại phát khởi tâm khiến cho tất cả chúng sinh đều thọ hoan hỉ vui thích.

Vị Dạ Thần dùng phương pháp thiện xảo phương tiện để trả lời bốn câu hỏi của Thiện Tài đồng tử. Trong 20 tâm nầy, 10 tâm trước là tâm đại trí trên cầu Phật đạo. 10 tâm sau là tâm đại bi hạ hoá chúng sinh.

 

Phát thị tâm dĩ, phục vi thuyết Pháp, lệnh kỳ tiệm chí nhất thiết trí địa.

Ta phát khởi những tâm như vậy rồi, lại vì chúng-sanh mà thuyết pháp, làm cho họ lần đến bực nhất-thiết-trí.

Giảng: Ta phát đủ thứ tâm ở trên như vậy rồi, lại vì họ diễn nói diệu pháp, khiến cho họ dần dần đạt đến bậc nhất thiết trí huệ.

 

Sở vị: nhược kiến chúng sanh lạc trước sở trụ cung điện, ốc trạch, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ liễu đạt chư pháp tự tánh, ly chư chấp trước

Như là, nếu thấy chúng-sanh mến luyến nhà cửa cung-điện của họ ở, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ thấu rõ tự tánh của các pháp lìa chấp trước.

Giảng: Đó là: Nếu thấy chúng sinh ưa chấp chỗ ở cung điện và nhà cửa, thì ta vì họ diễn nói diệu pháp, khiến cho họ thấu rõ thông đạt tự tánh tất cả các pháp, mà xa lìa mọi sự chấp trước.
Nếu thấy chúng sinh tham luyến chấp trước cha mẹ anh em chị em lục thân quyến thuộc, thì ta vì họ diễn nói diệu pháp, khiến cho họ được dự vào đại chúng hải hội thanh tịnh của chư Phật Bồ Tát.

 

Nhược kiến chúng sanh luyến trước phụ mẫu, huynh đệ, tỷ muội, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ đắc dự chư Phật Bồ-tát thanh tịnh chúng hội

Nhược kiến chúng sanh luyến trước thê tử, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ xả ly sanh tử ái nhiễm, khởi đại bi tâm, ư nhất thiết chúng sanh bình đẳng vô nhị

Nếu thấy chúng-sanh mến luyến cha mẹ anh em chị em, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được dự chúng-hội thanh-tịnh chư Phật Bồ-tát.

Nếu thấy chúng-sanh mến luyến vợ con, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ bỏ rời sanh tử ái nhiễm khởi tâm đại-bi, với tất cả chúng-sanh bình-đẳng vô-nhị.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tham luyến chấp trước vợ con, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ xả lìa ái nhiễm sinh tử, có ái nhiễm tức là sinh tử, xả lìa ái nhiễm thì sẽ chấm dứt sinh tử, sinh khởi tâm đại bi, do đó có câu: “Từ hay ban vui”, ban cho tất cả chúng sinh an lạc, đối với tất cả chúng sinh, bình đẳng không phân biệt.

 

Nhược kiến chúng sanh trụ ư vương cung, thải nữ thị phụng, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ đắc dữ chúng Thánh tập hội, nhập Như Lai giáo

Nếu thấy chúng-sanh ở vương-cung thể-nữ hầu hạ, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được hội họp với thánh-chúng vào giáo-pháp của Như-Lai.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh trụ nơi cung vua, có rất nhiều thể nữ hầu hạ, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được cùng nhau tập hội với Thánh chúng, nhập vào giáo pháp của Như Lai.

 

Nhược kiến chúng sanh nhiễm trước cảnh giới, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ đắc nhập Như Lai cảnh giới

Nếu thấy chúng-sanh nhiễm trước cảnh-giới, thời ta vì họ mà thuyết pháp, làm cho họ được nhập Như-Lai cảnh-giới.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tham nhiễm chấp trước cảnh giới, nhìn chẳng thấu, buông chẳng đặng tất cả cảnh giới, như người tu đạo gặp một thứ cảnh giới nào đó, thì tham đắm vào cảnh giới đó, kỳ thật tu đạo tức là tu hướng về trước, có cảnh giới gì hiện tiền, thì đó chỉ là một bộ phận thành tựu của sự tu hành, không cần nhiễm trước, mà cảm thấy cảnh giới thù thắng như thế nào, thì ta vì họ nói pháp, giáo hoá họ đừng tự phế bỏ giữa đường, phải dũng mãnh tinh tấn, tiến vào cảnh giới của Như Lai. (Đoạn nầy cả hai minh xả giới Ba La Mật, dùng xả tất cả tham trước, thì giữ giới thanh tịnh).

 

Nhược kiến chúng sanh đa sân khuể giả, ngã vi thuyết Pháp, lệnh trụ Như Lai nhẫn Ba-la-mật

Nếu thấy chúng-sanh nhiều sân hận, thời ta vì họ mà thuyết pháp, làm cho họ được Như-Lai nhẫn-nhục ba-la-mật.

Giảng: Nếu ta thấy chúng sinh nhiều sân hận, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ trụ nhẫn Ba La Mật của Phật. Giống như chúng ta tu đạo rất khổ, phải nhẫn lạnh, nhẫn nóng, nhẫn đói, nhẫn khát, tất cả đều phải nhẫn, không thể đối với cảnh giới bạn chẳng hoan hỉ, bèn nổi giận. Đạo lý trong Kinh nói, nhất định phải sử dụng, không thể gặp cảnh giới, mà không thể dùng pháp môn trong Kinh điển. Người nóng giận nhiều, nhất định phải thay đổi sự nóng giận của mình, phải tu hạnh nhẫn nhục, nhẫn nhục Ba La Mật, chứ chẳng có pháp nào khác.

 

Nhược kiến chúng sanh kỳ tâm giải đãi, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc thanh tịnh tinh tấn Ba-la-mật

Nếu thấy chúng-sanh có lòng giải-đãi, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được thanh-tịnh tinh-tấn ba-la-mật.

Giảng: Vị Dạ Thần lại nói: Nếu ta thấy chúng sinh tâm họ giải đãi, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được thanh tịnh tinh tấn Ba La Mật, không nên giải đãi, người nào giải đãi thì sẽ đoạ lạc.

 

Nhược kiến chúng sanh kỳ tâm tán loạn, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc Như Lai Thiền Ba-la-mật

Nếu thấy chúng-sanh tâm tán loạn, thời ta vì họ mà thuyết-pháp, làm cho họ được Như-Lai thiền ba-la-mật.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tâm họ tán loạn, cứ khởi vọng tưởng, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được thiền Ba La Mật của Phật, hồi quang phản chiếu, thì tự nhiên sẽ hàng phục được tâm mình.

 

Nhược kiến chúng sanh nhập kiến trù lâm vô minh ám chướng, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc xuất ly trù lâm hắc ám

Nếu thấy chúng-sanh vào rừng rậm kiến chấp vô-minh ám chướng, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ thoát khỏi si ám.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh vào rừng rậm tà tri tà kiến, bị vô minh ám chướng linh tánh của mình, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ thoát khỏi rừng rậm tà kiến đen tối.

 

Nhược kiến chúng sanh vô trí tuệ giả, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc Bát-nhã Ba-la-mật

Nếu thấy chúng-sanh không trí-huệ, thời ta vì họ thuyết pháp, cho họ được bát-nhã ba-la-mật.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh ngu si không có trí huệ, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được Bát Nhã Ba La Mật, có đại trí huệ.

 

Nhược kiến chúng sanh nhiễm trước tam giới, ngã vi thuyết Pháp, lệnh xuất sanh tử

Nếu thấy chúng-sanh nhiễm trước tam-giới, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ thoát khỏi sanh tử.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh nhiễm trước cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử.

 

Nhược kiến chúng sanh chí ý hạ liệt, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ viên mãn Phật Bồ-đề nguyện

Nếu thấy chúng-sanh chí ý hạ-liệt, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ viên-mãn Phật bồ-đề nguyện.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh thân tâm ý chí hạ liệt, chẳng cao thượng, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ phát tâm lớn, viên mãn nguyện Phật bồ đề.

 

Nhược kiến chúng sanh trụ tự lợi hạnh, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ phát khởi lợi ích nhất thiết chư chúng sanh nguyện

Nếu thấy chúng-sanh an-trụ hạnh tự-lợi, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ phát khởi tâm nguyện lợi ích tất cả chúng-sanh.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh trụ hạnh lợi mình, chỉ biết lợi ích chính mình, chẳng tu hạnh lợi tha, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ hồi tiểu hướng đại, phát khởi đại nguyện chẳng những lợi ích chính mình, mà còn muốn lợi ích tất cả chúng sinh.

 

Nhược kiến chúng sanh chí lực vi nhược, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc Bồ Tát lực ba-la-mật

Nếu thấy chúng-sanh chí lực kém yếu, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được bồ-tát lực-ba-la-mật.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh chí lực yếu kém, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được trí huệ lực Ba La Mật của Bồ Tát.

 

Nhược kiến chúng sanh ngu si ám tâm, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc Bồ Tát trí Ba-la-mật

Nếu thấy chúng-sanh tâm ngu si mê tối, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được bồ-tát trí-ba-la-mật.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tâm ngu si đen tối, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được trí huệ Ba La Mật của Bồ Tát (đây là dùng mười độ hoá trị mười che đậy).

 

Nhược kiến chúng sanh sắc tướng bất cụ, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc Như Lai thanh tịnh sắc thân

Nếu thấy chúng-sanh sắc tướng không đủ, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được Như-Lai thanh-tịnh sắc-thân.

Giảng: Nếu ta thấy chúng sinh nhan sắc hình tướng không đầy đủ, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được sắc thân thanh tịnh của Phật.

 

Nhược kiến chúng sanh hình dung xú lậu, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc vô thượng thanh tịnh Pháp thân

Nếu thấy chúng-sanh hình dung xấu-xí, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được pháp-thân thanh-tịnh vô-thượng.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh hình dung xấu xí, thì ta vì họ nói pháp, dạy họ tu hành như thế nào, khiến cho họ đắc được pháp thân thanh tịnh vô thượng của Phật, đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.

 

Nhược kiến chúng sanh sắc tướng thô ác, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc Như Lai vi diệu sắc thân.

Nếu thấy chúng-sanh sắc-tướng thô ác, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được Như-Lai vi-diệu sắc thân.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh sắc tướng thô ác, ai thấy cũng sợ, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được sắc thân vi diệu không thể nghĩ bàn của Như Lai.

 

Nhược kiến chúng sanh Tình đa ưu não, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc Như Lai tất cánh an lạc.

Nếu thấy chúng-sanh lòng nhiều ưu não, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được Như-Lai rốt ráo an lạc.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tình nhiều lo buồn, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được an ổn khoái lạc rốt ráo của Phật. Tại sao chúng sinh tình nhiều lo buồn? Vì cảm tình phong phú, cảm tình dụng sự, cho nên đa sầu thiện cảm, việc gì cũng lo buồn, việc không nên buồn, cũng sinh buồn.

 

Nhược kiến chúng sanh bần cùng sở khổ, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc Bồ Tát công đức Bảo Tạng.

Nếu thấy chúng-sanh khổ vì nghèo cùng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được bửu-tạng công-đức của Bồ-Tát.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh bần cùng khổ sở, thì ta vì họ nói pháp, dạy họ gieo phước trồng huệ trước cửa Tam Bảo, đắc được vô lượng công đức bảo tạng của Bồ Tát.

 

Nhược kiến chúng sanh trụ chỉ viên lâm, ngã vi thuyết Pháp, lệnh bỉ cần cầu Phật Pháp nhân duyên.

Nếu thấy chúng-sanh ở nơi núi rừng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ siêng cầu nhơn-duyên phật-pháp.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh trụ nơi vườn rừng (đây là chỉ những vị tu hành, tham trước tịch tĩnh, cũng chẳng hiểu Phật pháp), thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ siêng năng cầu nhân duyên Phật pháp.

 

Nhược kiến chúng sanh hành ư đạo lộ, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ thú hướng nhất thiết trí đạo.

Nếu thấy chúng-sanh đi nơi đường sá, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ xu-hướng đạo nhất-thiết-trí.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh đi trên đường, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ hướng về con đường nhất thiết trí.

 

Nhược kiến chúng sanh tại tụ lạc trung, ngã vi thuyết Pháp, lệnh xuất tam giới.

Nếu thấy chúng-sanh ở trong tụ-lạc thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ thoát khỏi tam giới.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh ở trong xóm làng, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ thoát khỏi ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc).

 

Nhược kiến chúng sanh trụ chỉ nhân gian, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ siêu việt nhị thừa chi đạo, trụ Như Lai địa.

Nếu thấy chúng-sanh ở nhơn-gian, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ siêu-việt nhị-thừa-đạo, an-trụ nơi như-lai-địa.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh ở tại nhân gian, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ vượt qua đạo hai thừa (Thanh Văn và Duyên Giác), mà trụ bậc Như Lai, tức là một thừa Phật đạo.

 

Nhược kiến chúng sanh cư trụ thành khuếch, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ đắc trụ pháp vương thành trung.

Nếu thấy chúng-sanh cư ngụ thành quách, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được ở trong thành Pháp-Vương.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh ở trong thành quách, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ ở trong thành Pháp Vương của Phật.

 

Nhược kiến chúng sanh trụ ư tứ ngung, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc tam thế bình đẳng trí tuệ.

Nếu thấy chúng-sanh ở nơi bốn hướng, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được trí-huệ tam-thế bình đẳng.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh ở nơi bốn hướng (đông tây nam bắc), thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được trí huệ ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) bình đẳng.

 

Nhược kiến chúng sanh trụ ư chư phương, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc trí tuệ kiến nhất thiết pháp.

Nếu thấy chúng-sanh ở các phương, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ có trí huệ thấy được tất cả pháp.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh ở tất cả các nơi mười phương, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được trí huệ, thấy tất cả Phật pháp tận hư không khắp pháp giới. (Trên đây có hai mươi môn, đều là giáo hoá chung sinh chưa tích luỹ công đức, khiến cho họ tu thắng huệ được nhân quả công đức của Phật).

 

Nhược kiến chúng sanh tham hành đa giả, ngã vi bỉ thuyết bất tịnh quán môn, lệnh kỳ xả ly sanh tử ái nhiễm.

Nếu thấy chúng-sanh nhiều tham, thời ta vì họ mà nói môn bất tịnh quán, cho họ lìa bỏ sự say mê sống chết.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh nhiều tham, tức là tham tài sắc danh ăn ngủ, thì ta vì họ nói pháp môn quán bất tịnh, người nhiều tham dục phải tu quán bất tịnh, quán tưởng chín lỗ trên thân người thường chảy ra đồ bất tịnh, chẳng có chỗ nào đáng ưa thích, khiến cho họ xả lìa tư tưởng ái nhiễm sinh tử.

 

Nhược kiến chúng sanh sân hành đa giả, ngã vi bỉ thuyết đại từ quán môn, lệnh kỳ đắc nhập cần gia tu tập.

Nếu thấy chúng-sanh nhiều sân hận, thời ta vì họ mà nói môn đại-từ-quán, cho họ được nhập siêng năng tu tập.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh nhiều sân, thì ta vì họ nói pháp môn quán đại từ bi, khiến cho họ được vào quán từ bi, mà siêng năng tu tập.

 

Nhược kiến chúng sanh si hành đa giả, ngã vi thuyết Pháp, lệnh đắc minh trí quán chư pháp hải.

Nếu thấy chúng-sanh nhiều si, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ được trí sáng quán-sát các pháp-hải.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh nhiều ngu si, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được trí huệ sáng suốt, để quán sát biển nguồn gốc tất cả các pháp. Tại sao con người ngu si? Vì chẳng minh bạch nhân quả.

 

Nhược kiến chúng sanh đẳng phần hành giả, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ đắc nhập chư thừa nguyện hải.

Nếu thấy chúng-sanh, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được vào chư thừa nguyện hải.

Giảng: Nếu họ quán được tiền nhân hậu quả của tất cả các pháp, hiểu rõ tất cả pháp đều do nhân duyên sinh ra, thì họ sẽ thông đạt thật tướng các pháp, chứng được trí sáng, chẳng còn ngu si nữa.

 

Nhược kiến chúng sanh lạc sanh tử lạc, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ yếm ly.

Nếu thấy chúng-sanh thích vui sanh tử, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ nhàm lìa.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tham sân si bằng nhau (đẳng phần), thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được vào tất cả biển đại nguyện các thừa, nhân thừa, thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, Phật thừa.

 

Nhược kiến chúng sanh yếm sanh tử khổ, ưng vi Như Lai sở hóa độ giả, ngã vi thuyết Pháp, lệnh năng phương tiện thị hiện thọ sanh.

Nếu thấy chúng-sanh nhàm khổ sanh tử đáng được Như-Lai hóa độ, thời ta vì họ mà thuyết pháp, cho họ có thể phương-tiện thị hiện thọ sanh.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh thích vui sinh tử, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ nhàm lìa sinh tử. Nếu thấy chúng sinh chán khổ não sinh tử, đáng được Như Lai hoá độ họ, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ có thể đủ thứ phương tiện thị hiện thọ sanh. Tuy ở trong dòng sinh tử, mà chẳng bị nghiệp duyên sinh tử trói buộc. Tuy thọ sinh, nhưng cũng rất tự tại.

 

Nhược kiến chúng sanh ái trước ngũ uẩn, ngã vi thuyết Pháp, lệnh kỳ đắc trụ vô y cảnh giới.

Nếu thấy chúng-sanh mến luyến ngũ-uẩn, thời ta vì họ mà thuyết pháp cho họ được an-trụ cảnh giới vô-y.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh có tình ái, chấp trước sắc pháp năm uẩn, thì ta vì họ nói pháp, khiến cho họ được trụ cảnh giới không chỗ nương tựa.

 

Nhược kiến chúng sanh kỳ tâm hạ liệt, ngã vi hiển thị thắng trang nghiêm đạo.

Nếu thấy chúng-sanh tâm họ hạ liệt, thời ta vì họ mà thị hiện đạo thắng trang nghiêm.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tâm họ hạ liệt, thì ta vì họ hiển bày đạo thù thắng trang nghiêm.

 

Nhược kiến chúng sanh tâm sanh kiêu mạn, ngã vi kỳ thuyết bình đẳng pháp nhẫn.

Nếu thấy chúng-sanh tâm sanh kiêu-mạn, thời ta vì họ mà nói pháp nhẫn bình-đẳng.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tâm sinh kiêu căn ngã mạn, thì ta vì họ nói pháp nhẫn bình đẳng, tu hạnh nhẫn nhục.

 

Nhược kiến chúng sanh kỳ tâm siểm khúc, ngã vi kỳ thuyết Bồ Tát trực tâm.

Nếu thấy chúng-sanh tâm siểm-khúc, thời ta vì họ mà nói Bồ-tát trực-tâm.

Giảng: Nếu thấy chúng sinh tâm họ quanh co, nói những lời không ngay thẳng, thì ta vì họ nói tâm ngay thẳng là đạo tràng của Bồ Tát, phải tâm ngay nói thẳng. (Ở trên có mười môn, nhưng dùng môn đối trị, để phá hoặc chướng của họ)

Hỏi: Trung đạo có phải là chẳng có cảnh giới vô không chăng?

Đáp: Trung đạo chẳng phải chẳng có vô không, nó cũng có có, cũng có không, nhưng bạn đừng rơi vào có, cũng đừng rơi vào không. Tức là bạn đừng chấp vào không, cũng đừng chấp vào có, đó tức là trung đạo. Đừng chấp trước, chứ chẳng phải nói nó chẳng có. Rơi vào không, là bạn thiên về không. Rơi vào có, là bạn thiên về có. Chẳng không, chẳng có, tức là trung đạo, đây là chẳng chấp trước. Nếu tìm trung đạo, mà bạn chấp vào trung vào, thì cũng chẳng phải là trung đạo.

 

Thiện nam tử! ngã dĩ thử đẳng vô lượng pháp thí nhiếp chư chúng sanh, chủng chủng phương tiện giáo hóa điều phục, lệnh ly ác đạo, thọ nhân Thiên nhạc, thoát tam giới phược, trụ nhất thiết trí

Nầy Thiện-nam-tử ! Ta dùng vô-lượng pháp-thí như vậy để nhiếp độ tất cả chúng-sanh, nhiều phương-tiện giáo-hóa điều-phục, cho họ khỏi ác đạo, hưởng vui nhân thiên, thoát sự trói buộc của tam giới, an-trụ nhất-thiết-trí.

Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng ba mươi bảy môn vô lượng pháp thí trên đây, nhiếp thọ tất cả chúng sinh, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện giáo hoá điều phục chúng sinh, khiến cho họ xa lìa thống khổ ba đường ác, hưởng thọ phước vui của trời người, thoát khỏi sự ràng buộc của ba cõi, trụ nơi nhất thiết trí.

 

Ngã thời tiện đắc quảng đại hoan hỉ pháp quang minh hải, kỳ tâm di sướng, an ổn Thích-duyệt.

Lúc đó ta bèn được đại-hoan-hỉ pháp-quang-minh-hải. Tâm ta vui vẻ an ổn thư thới.

Giảng: Lúc đó ta bèn đắc được biển pháp quang minh hoan hỉ rộng lớn, tâm ta rất sung sướng, an ổn thư thái. (Đây là thấy vật, nên đại hoan hỉ).

 

Phục thứ, Thiện nam tử! ngã thường quan sát nhất thiết Bồ Tát đạo trường chúng hội, tu chủng chủng nguyện hạnh, hiện chủng chủng tịnh thân, hữu chủng chủng thường quang, phóng chủng chủng quang minh; dĩ chủng chủng phương tiện, nhập nhất thiết trí môn, nhập chủng chủng tam muội, hiện chủng chủng thần biến, xuất chủng chủng âm thanh hải, cụ chủng chủng trang nghiêm thân, nhập chủng chủng Như Lai môn, nghệ chủng chủng quốc độ hải, kiến chủng chủng chư Phật hải, đắc chủng chủng biện tài hải, chiếu chủng chủng giải thoát cảnh, đắc chủng chủng trí quang hải, nhập chủng chủng tam muội hải, du hí chủng chủng chư giải thoát môn, dĩ chủng chủng môn thú nhất thiết trí, chủng chủng trang nghiêm hư không Pháp giới, dĩ chủng chủng trang nghiêm vân biến phước hư không, quan sát chủng chủng đạo tràng chúng hội, tập chủng chủng thế giới, nhập chủng chủng Phật sát, nghệ chủng chủng phương hải, thọ chủng chủng Như Lai mạng, tùng chủng chủng Như Lai sở, dữ chủng chủng Bồ Tát câu, vũ chủng chủng trang nghiêm vân, nhập Như Lai chủng chủng phương tiện, quán Như Lai chủng chủng pháp hải, nhập chủng chủng trí tuệ hải, tọa chủng chủng trang nghiêm tọa.

Lại nầy Thiện-nam-tử ! Ta thường quán-sát đạo tràng chúng-hội tất cả Bồ-Tát, tu những hạnh nguyện, hiện những tịnh-thân có những thường-quang, phóng những quang-minh, dùng những phương-tiện nhập môn nhất-thiết-trí, nhập những tam-muội, hiện những thần-biến, phát ra những âm-thanh-hải, đủ những thân trang-nghiêm, nhập những như-lai-môn, đến những quốc-độ-hải, thấy chư Phật-hải, được những biện-tài-hải, chiếu những cảnh giải-thoát, được những trí quang-hải, nhập những tam-muội-hải, du hí những môn giải-thoát, dùng những pháp-môn xu hướng nhất-thiết-trí, trang-nghiêm hư-không pháp-giới, dùng những mây trang-nghiêm che khắp hư-không, quán-sát những đạo tràng chúng-hội, họp những thế-giới, nhập những phật-sát, đến những phương-hải, thọ những như-lai mạng, theo những chỗ Như-Lai, cùng chư Bồ-Tát câu-hội, tuôn những mây trang-nghiêm, vào những phương-tiện Như-Lai, quán những pháp-hải Như-Lai, vào những trí-huệ-hải, ngồi những tòa trang-nghiêm.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Ta thường quán sát đạo tràng chúng hội của tất cả Bồ Tát, tu hành đủ thứ đại hạnh và đại nguyện. Ta lại thị hiện đủ thứ diệu sắc thân thanh tịnh, có đủ thứ thường quang, phóng ra đủ thứ quang minh. Dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, nhập vào môn nhất thiết trí. Lại nhập vào đủ thứ tam muội, ở trong tam muội thị hiện đủ thứ thần thông biến hoá. Lại vang ra đủ thứ biển âm thanh, đầy đủ các thứ thân trang nghiêm, nhập vào đủ thứ diệu pháp môn của Như Lai. Đi đến đủ thứ biển cõi nước của chư Phật, thấy đủ thứ biển chư Phật, đắc được đủ thứ biển biện tài vô ngại. Chiếu soi đủ thứ cảnh giới giải thoát. Đắc được đủ thứ biển trí huệ quang minh.

Nhập vào đủ thứ biển tam muội. Du hí đủ thứ các môn giải thoát. Dùng đủ thứ môn, hướng về nhất thiết trí. Đủ thứ trang nghiêm hư không pháp giới. Ta lại dùng đủ thứ mây trang nghiêm, che khắp hư không. Ta lại quán sát đủ thứ đạo tràng chúng hội, tích tụ đủ thứ thế giới, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc thanh tịnh, hoặc nhiễm ô, đều ở trong phạm vi của ta. Ta lại nhập vào đủ thứ cõi nước chư Phật. Đi đến đủ thứ biển phương hướng. Thọ đủ thứ sứ mạng của Như Lai. Theo đủ thứ đạo tràng của Như Lai. Cùng tụ hội đủ thứ Bồ Tát ở một chỗ. Mưa xuống đủ thứ mây trang nghiêm. Vào đủ thứ phương tiện của Như Lai. Quán sát đủ thứ biển pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai. Vào đủ thứ biển trí huệ. Ngồi đủ thứ toà báu trang nghiêm. (Đây là trước quán cảnh giới Bồ Tát).

 

Thiện nam tử! ngã quan sát thử đạo tràng chúng hội, tri Phật thần lực vô lượng vô biên, sanh đại hoan hỉ.

Nầy Thiện-nam-tử ! Ta quán-sát chúng-hội đạo-tràng nầy, biết Phật thần-lực vô-lượng vô-biên sanh lòng rất hoan-hỉ.

Giảng: Thiện nam tử! Ta quán sát đạo tràng chúng hội đó, biết thần lực của Phật vô lượng vô biên, ta bèn sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Thiện nam tử! ngã quán Tỳ Lô Giá Na Như Lai, niệm niệm xuất hiện bất khả tư nghị thanh tịnh sắc thân; ký kiến thị dĩ, sanh đại hoan hỉ.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta quán Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai, niệm niệm xuất hiện bất-tư-nghì sắc-thân thanh-tịnh. Thấy như vậy rồi lòng ta rất vui mừng.

Giảng: Thiện nam tử! Ta quán Tỳ Lô Giá Na Như Lai, niệm niệm xuất hiện sắc thân thanh tịnh không thể nghĩ bàn, ta thấy như vậy rồi, sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Hựu quán Như Lai ư niệm niệm trung, phóng đại quang minh sung mãn Pháp giới; ký kiến thị dĩ, sanh đại hoan hỉ.

Lại thấy đức Như-Lai trong mỗi niệm phóng đại-quang-minh sung-mãn pháp-giới. Thấy như vậy rồi, lòng ta rất vui mừng.

Giảng: Lại quán Như Lai ở trong niệm niệm, phóng đại quang minh, đầy khắp tận hư không pháp giới, ta thấy như vậy rồi, sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Hựu kiến Như Lai nhất nhất mao khổng, niệm niệm xuất hiện vô lượng Phật sát vi trần số quang minh hải, nhất nhất quang minh dĩ vô lượng Phật sát vi trần số quang minh nhi vi quyến thuộc, nhất nhất chu biến nhất thiết pháp giới, tiêu diệt nhất thiết chư chúng sanh khổ; ký kiến thị dĩ, sanh đại hoan hỉ.

Lại thấy đức Như-Lai, mỗi lỗ lông, niệm niệm xuất hiện vô-lượng phật-sát vi-trần-số quang-minh-hải. Mỗi quang-minh có vô-lượng phật-sát vi-trần-số quang-minh làm quyến thuộc, mỗi mỗi châu biến tất cả pháp giới, tiêu-diệt tất cả chúng-sanh khổ. Thấy như vậy rồi, lòng ta rất vui mừng.

Giảng: Ta lại thấy mỗi mỗi lỗ chân lông của Như Lai, niệm niệm xuất hiện biển quang minh nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật. Mỗi mỗi quang minh, lại dùng quang minh nhiều như số hạt bụi vô lượng cõi Phật làm quyến thuộc. Mỗi mỗi luồng quang minh đều khắp cùng tất cả hư không pháp giới, tiêu diệt tất cả thống khổ vô minh của các chúng sinh, ta thấy như vậy rồi, sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Hựu, Thiện nam tử! ngã quán Như Lai đảnh cập lưỡng kiên, niệm niệm xuất Hiện-Nhất-Thiết Phật sát vi trần số bảo diệm sơn vân, sung mãn thập phương nhất thiết pháp giới; ký kiến thị dĩ, sanh đại hoan hỉ.

Lại nữa thiện nam tử! Ta quán Như-Lai, đảnh đầu và chặng mày, niệm niệm xuất hiện phật-sát vi-trần-số mây bửu-diệm-sơn sung mãn tất cả pháp-giới mười phương. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Giảng: Lại nữa thiện nam tử! Ta quán sát tướng vô kiến đảnh của Như Lai và giữa lông mày, trong niệm niệm xuất hiện mây bảo diệm sơn nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, đầy khắp mười phương tất cả hư không pháp giới, ta thấy như vậy rồi, sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Hựu, Thiện nam tử! ngã quán Như Lai nhất nhất mao khổng, ư niệm niệm trung, xuất nhất thiết Phật sát vi trần số hương quang minh vân, sung mãn thập phương nhất thiết Phật sát; ký kiến thị dĩ, sanh đại hoan hỉ.

Lại nữa thiện nam tử! Ta quán Như-Lai, mỗi mỗi lỗ lông, niệm niệm xuất sanh phật-sát vi-trần số mây hương-quang-minh, sung mãn tất cả cõi Phật mười phương. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Ta quán sát mỗi mỗi lỗ chân lông của Như Lai, ở trong niệm niệm, xuất hiện mây hương quang minh nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, đầy khắp mười phương tất cả cõi Phật, ta thấy như vậy rồi, sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Hựu, Thiện nam tử! ngã quán Như Lai nhất nhất tướng, niệm niệm xuất nhất thiết Phật sát vi trần số chư tướng trang nghiêm Như Lai thân vân, biến vãng thập phương nhất thiết thế giới; ký kiến thị dĩ, sanh đại hoan hỉ.

Lại nữa thiện nam tử! Ta quán Như-Lai mỗi mỗi tướng, niệm niệm phát ra phật-sát vi-trần-số mây như-lai-thân đủ tướng trang-nghiêm, đến khắp tất cả thế-giới mười phương. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Ta quán sát mỗi mỗi tướng của Như Lai, niệm niệm xuất hiện mây thân Như Lai các tướng trang nghiêm nhiều như số hạt bụi tất cả cõi Phật, đến khắp mười phương tất cả thế giới, ta thấy như vậy rồi, sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Hựu, Thiện nam tử! ngã quán Như Lai nhất nhất mao khổng, ư niệm niệm trung, xuất bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật biến hóa vân, thị hiện Như Lai tùng sơ phát tâm, tu Ba-la-mật, cụ trang nghiêm đạo, nhập Bồ Tát địa; ký kiến thị dĩ, sanh đại hoan hỉ.

Lại nữa thiện nam tử! Ta quán Như-Lai mỗi mỗi lỗ lông trong niệm niệm xuất sanh phật-sát vi-trần-số mây phật-biến-hóa, thị-hiện đức Như-Lai từ sơ-phát-tâm, tu ba-la-mật, đủ đạo trang-nghiêm nhập bồ-tát-địa. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Ta quán sát mỗi mỗi lỗ chân lông của Như Lai, ở trong niệm niệm, xuất hiện mây Phật biến hoá nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, thị hiện Như Lai từ lúc ban đầu phát tâm tu Ba La Mật, đầy đủ đạo trang nghiêm phước trí, cho đến chứng được Bồ Tát địa, ta thấy như vậy rồi, sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Hựu, Thiện nam tử! ngã quán Như Lai nhất nhất mao khổng, niệm niệm xuất hiện bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Thiên Vương thân vân, cập dĩ Thiên Vương tự tại thần biến, sung biến nhất thiết thập phương Pháp giới, ưng dĩ Thiên Vương thân nhi đắc độ giả, tức hiện kỳ tiền nhi vi thuyết Pháp; ký kiến thị dĩ, sanh đại hoan hỉ.

Lại nữa thiện nam tử! Ta quán Như-Lai mỗi mỗi lỗ lông niệm niệm xuất hiện bất-khả-thuyết-bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số mây Thiên-Vương thân và tự-tại thần-biến đầy khắp tất cả thế-giới mười phương, người đáng do thân Thiên-Vương mà đắc độ thời hiện ra trước họ thuyết-pháp cho họ. Thấy như vậy rồi, ta rất vui mừng.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Ta quán sát mỗi mỗi lỗ chân lông của Như Lai, niệm niệm xuất hiện mây thân Thiên Vương nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, và dùng thần thông biến hoá tự tại của Thiên Vương, đầy khắp tất cả mười phương pháp giới. Chúng sinh nào đáng dùng thân Thiên Vương độ được, thì liền hiện thân Thiên Vương để vì họ nói pháp, ta thấy như vậy rồi, sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Như Thiên Vương thân vân, kỳ long Vương, dạ xoa Vương, càn thát bà vương, A-tu-la Vương, Ca Lâu La Vương, khẩn-na-la Vương, Ma hầu la già Vương, nhân Vương, Phạm Vương thân vân, mạc bất giai ư nhất nhất mao khổng, như thị xuất hiện, như thị thuyết Pháp;

Ngã kiến thị dĩ, ư niệm niệm trung, sanh đại hoan hỉ, sanh đại tín lạc, lượng dữ Pháp giới Tát bà nhã đẳng. tích sở vị đắc nhi kim thủy đắc, tích sở vị chứng nhi kim thủy chứng, tích sở vị nhập nhi kim thủy nhập, tích sở vị mãn nhi kim thủy mãn, tích sở vị kiến nhi kim thủy kiến, tích sở vị văn nhi kim thủy văn.

Giảng: Những thân-vân: Long-Vương, Dạ-Xoa-Vương, Càn-Thát-Bà Vương, A-Tu-La Vương, Ca-Lâu-La Vương, Khẩn-Na-La Vương, Ma-hầu-La-Già Vương, Nhơn-Vương, Phạm-Vương, đều trong mỗi lỗ lông của Như-Lai niệm niệm xuất hiện, thuyết pháp như thân-vân Thiên-Vương.

Thấy như vậy rồi, ta rất hoan-hỉ, rất tin mến, lượng bằng pháp-giới nhất-thiết-trí, chỗ xưa chưa được mà nay mới được, chỗ xưa chưa chứng mà nay mới chứng, chỗ xưa chưa nhập mà nay mới nhập, chỗ xưa chưa mãn mà nay mới mãn, chỗ xưa chưa thấy mà nay mới thấy, chỗ xưa chưa nghe mà nay mới nghe.

Lại như thân mây Thiên Vương, Long Vương, Dạ Xoa Vương, Càn Thát Bà Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương, Khẩn Na La Vương, Ma Hầu La Già Vương, nhân vương, thân mây Phạm Vương, thảy đều hiện ra ở trong mỗi mỗi lỗ lông của Phật như vậy, nói pháp như vậy. (Ở trên là quán Phật thắng dụng, có mười môn).

Ta thấy đủ thứ cảnh giới như vậy rồi, ở trong niệm niệm, ta sinh tâm đại hoan hỉ, sinh tâm đại tin ưa, tâm lượng ta bằng pháp giới nhất thiết trí. Phước huệ và pháp giới nhất thiết trí của ta bình đẳng. Chỗ xưa kia ta chưa đắc được, nay đều đã đắc được. Cảnh giới mà xưa kia chưa chứng, nay cũng đã chứng được. Tam muội mà xưa kia chưa nhập vào, nay đều đã ngộ nhập vào. Hạnh môn mà xưa kia chưa viên mãn, nay đều đã được viên mãn. Cảnh giới mà xưa kia chưa thấy, nay cũng đã thấy được cảnh giới đó. Chỗ xưa kia chưa nghe, nay đều đã nghe được.

 

Hà dĩ cố? dĩ năng liễu tri Pháp giới tướng cố, tri nhất thiết pháp duy nhất tướng cố, năng bình đẳng nhập tam thế đạo cố, năng thuyết nhất thiết vô biên Pháp cố.

Tại sao vậy ? Bởi có thể biết rõ tướng pháp-giới. Vì biết tất cả pháp chỉ một tướng. Vì có thể bình-đẳng nhập đạo tam-thế. Vì có thể nói tất cả vô-biên pháp.

Giảng: Tại sao vậy? Vì nhờ ta biết rõ được tướng hư không pháp giới. Lại biết tất cả pháp chỉ là một tướng tịch tĩnh, không có tướng nào khác. Bình đẳng vào được đường ba đời quá khứ hiện tại và vị lai. Lại diễn nói được tất cả Phật pháp vô biên.

 

Thiện nam tử! ngã nhập thử Bồ Tát niệm niệm xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm giải thoát quang minh hải.

Nầy thiện-nam-tử ! Ta nhập bồ-tát niệm niệm xuất sanh quảng-đại-hỉ trang-nghiêm giải-thoát quang-minh-hải nầy.

Giảng: Thiện nam tử! Ta nhập vào pháp môn Bồ Tát niệm niệm sinh ra biển quang minh giải thoát hỉ trang nghiêm rộng lớn. (Đây là vị Dạ Thần dùng đại trí năng quán, gọi thể tướng pháp giới, nên sở sinh tin đẳng, đẳng nhất thiết trí).

 

Hựu, Thiện nam tử! thử giải thoát vô biên, phổ nhập nhất thiết pháp giới môn cố;

Nầy thiện-nam-tử ! Giải-thoát nầy vô-biên, vì vào khắp tất cả pháp-giới môn.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Pháp môn giải thoát nầy vô lượng vô biên, vì vào được khắp tất cả môn pháp giới.

 

Thử giải thoát vô tận, đẳng phát nhất thiết trí tánh tâm cố;

Giải-thoát nầy vô-tận, vì khắp pháp tâm nhất-thiết-trí-tánh.

Giảng: Môn giải thoát nầy vô cùng vô tận, vì phát khởi tâm nhất thiết trí tánh, bảo tạng trí huệ của tất cả chúng sinh.

 

Thử giải thoát vô tế, nhập vô tế bạn nhất thiết chúng sanh tâm tưởng trung cố

Giải-thoát nầy vô-tế, vì vào trong tâm tất cả chúng-sanh không giới hạn.

Giảng: Môn giải thoát nầy không bờ mé, vì vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh không giới hạn. Tư tưởng của chúng sinh không có bờ mé, mà môn giải thoát nầy cũng không có bờ mé, bao hàm tư tưởng của tất cả chúng sinh.

 

Thử giải thoát thậm thâm, tịch tĩnh trí tuệ sở tri cảnh cố.

Giải-thoát nầy thậm-thâm, vì là cảnh sở-tri của trí huệ tịch-tịnh.

Giảng: Môn giải thoát nầy rất thâm sâu, vì chỉ có trí huệ tịch tĩnh mới biết được cảnh giới.

 

Thử giải thoát quảng đại, chu biến nhất thiết Như Lai cảnh cố

Giải-thoát nầy quảng đại, vì châu biến tất cả Như-Lai cảnh.

Giảng: Môn giải thoát nầy rộng lớn, vì khắp cùng tất cả cảnh giới của Như Lai.

 

Thử giải thoát vô hoại, Bồ Tát trí nhãn chi sở tri cố.

Giải-thoát nầy vô-hoại, vì là cảnh sở-tri của Bồ-Tát trí-nhãn.

Giảng: Môn giải thoát nầy không hoại, vì là mắt trí huệ của Bồ Tát biết được.

 

Thử giải thoát vô để, tận ư Pháp giới chi nguyên để cố

Giải-thoát nầy không đáy, vì tận nguồn đáy nơi pháp-giới.

Giảng: Môn giải thoát nầy không đáy, vì tận đáy nguồn nơi pháp giới, chẳng có khi nào cùng tận.

 

Thử giải thoát giả tức thị Phổ môn, ư nhất sự trung phổ kiến nhất thiết chư thần biến cố.

Giải-thoát nầy chính là phổ-môn, vì trong một sự thấy khắp tất cả thần-biến.

Giảng: Môn giải thoát nầy tức là phổ môn, vì ở trong một việc thấy khắp tất cả các thần thông biến hoá, do đó có câu: “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”.

 

Thử giải thoát giả chung bất khả thủ, nhất thiết pháp thân đẳng vô nhị cố.

Giải-thoát nầy trọn chẳng thể lấy, vì tất cả pháp-thân bình-đẳng không hai.

Giảng: Môn giải thoát nầy trọn không thể thủ lấy, cũng không thể bỏ, vì pháp thân của tất cả chư Phật đều bình đẳng, không hai, không phân biệt.

 

Thử giải thoát giả chung vô hữu sanh, dĩ năng liễu tri như huyễn Pháp cố.

Giải-thoát nầy trọn không có sanh, vì rõ biết được pháp như huyễn.

Giảng: Môn giải thoát nầy trọn không sanh, cũng không diệt, vì nhờ ta biết rõ được tất cả pháp như mộng huyễn bọt bóng, như sương, cũng như điện.

 

Thử giải thoát giả do như ảnh tượng, nhất thiết trí nguyện quang sở sanh cố.

Giải-thoát nầy như ảnh tượng, vì nhất-thiết-trí nguyện-quang sanh ra.

Giảng: Môn giải thoát nầy như hình bóng, vì nhất thiết trí huệ, nguyện lực và quang minh sinh ra.

 

Thử giải thoát giả do như biến hóa, hóa sanh Bồ Tát chư thắng hành cố.

Giải-thoát nầy dường như biến hóa, vì hóa sanh những thắng-hạnh bồ-tát.

Giảng: Môn giải thoát nầy như biến hoá, chẳng có thật thể, vì hoá sinh các hạnh thù thắng của Bồ Tát.

 

Thử giải thoát giả do như Đại địa, vi nhất thiết chúng sanh sở y xứ cố.

Giải-thoát nầy dường như đại-địa vì là chỗ sở-y của tất cả chúng sanh.

Giảng: Môn giải thoát nầy như đại địa, vì là chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh.

 

Thử giải thoát giả do như Đại thủy, năng dĩ đại bi nhuận nhất thiết cố.

Giải-thoát nầy dường như đại-thủy, vì có thể dùng đại-bi nhuận tất cả.

Giảng: Môn giải thoát nầy như nước lớn, vì hay dùng nước đại bi thấm nhuần căn tánh của tất cả chúng sinh.

 

Thử giải thoát giả do như Đại hỏa, càn kiệt chúng sanh tham ái thủy cố.

Giải-thoát nầy dường như đại-hỏa, vì khô cạn nước tham ái của tất cả chúng-sanh.

Giảng: Môn giải thoát nầy như lửa lớn, vì làm khô cạn nước tham ái và dục niệm của chúng sinh. Nếu tu môn giải thoát nầy, thì dục niệm sẽ dứt.

 

Thử giải thoát giả do như Đại phong, lệnh chư chúng sanh tốc tật thú ư nhất thiết trí cố.

Giải-thoát nầy dường như đại-phong, vì làm cho chúng-sanh mau đến nhất-thiết-trí.

Giảng: Môn giải thoát nầy như gió lớn, vì khiến cho các chúng sinh mau chóng hướng về đạo nhất thiết trí.

 

Thử giải thoát giả do như đại hải, chủng chủng công đức trang nghiêm nhất thiết chư chúng sanh cố.

Giải-thoát nầy dường như đại-hải, vì những công-đức trang- nghiêm tất cả chúng-sanh.

Giảng: Môn giải thoát nầy như biển lớn, vì có đủ thứ công đức tạng để trang nghiêm tất cả các chúng sinh.

 

Thử giải thoát giả Như-Tu-Di-Sơn, xuất nhất thiết trí pháp bảo hải cố

Giải-thoát nầy như núi Tu-Di, vì xuất hiện biển pháp nhất-thiết-trí.

Giảng: Môn giải thoát nầy như núi Tu Di, vì sinh ra nhất thiết trí biển pháp bảo.

 

Thử giải thoát giả như đại thành khuếch, nhất thiết diệu pháp sở trang nghiêm cố.

Giải-thoát nầy như thành quách lớn, vì tất cả pháp được trang-nghiêm.

Giảng: Môn giải thoát nầy như thành quách lớn thời xưa (quách ở bên ngoài thành), vì dùng để trang nghiêm tất cả diệu pháp.

 

Thử giải thoát giả do như hư không, phổ dung tam thế Phật thần lực cố.

Giải-thoát nầy như hư không, vì dung khắp thần-lực của tất cả Phật tam thế.

Giảng: Môn giải thoát nầy như hư không, vì bao dung khắp thần lực của chư Phật ba đời quá khứ hiện tại và vị lai.

 

Thử giải thoát giả do như đại vân, phổ vi chúng sanh vũ Pháp vũ cố.

Giải-thoát nầy như mây lớn, vì mưa pháp-vũ cho khắp chúng-sanh.

Giảng: Môn giải thoát nầy như mây lớn, vì khắp chúng sinh mưa đại pháp vũ, để thấm nhuần căn tánh của chúng sinh.

 

Thử giải thoát giả do như tịnh nhật, năng phá chúng sanh vô tri ám cố.

Giải-thoát nầy như mặt nhật, vì phá được tối ngu-si của chúng-sanh.

Giảng: Môn giải thoát nầy như mặt trời chiếu sáng, vì phá được đen tối vô tri của chúng sinh.

 

Thử giải thoát giả do như mãn nguyệt, mãn túc quảng đại phước đức hải cố.

Giải-thoát nầy như mặt trăng tròn, vì mãn túc biển phước-đức quảng đại.

Giảng: Môn giải thoát nầy như trăng rằm, vì đầy đủ biển phước đức rộng lớn.

 

Thử giải thoát giả do như chân như, tất năng chu biến nhất thiết xứ cố.

Giải-thoát nầy dường chơn-như, vì đều có thể cùng khắp tất cả chỗ.

Giảng: Môn giải thoát nầy như chân như, vì đều khắp cùng tất cả mọi nơi. Chân như chỗ nào cũng có, chẳng có chỗ nào mà chẳng có, tận hư không khắp pháp giới đều không ra khỏi bản thể của chân như.

 

Thử giải thoát giả do như tự ảnh, tùng tự thiện nghiệp sở hóa xuất cố.

Giải-thoát nầy như bóng của mình, vì do thiện-nghiệp của mình hóa xuất ra.

Giảng: Môn giải thoát nầy như bóng của mình, vì từ thiện nghiệp của mình hoá sinh ra.

 

Thử giải thoát giả do như hô hưởng, tùy kỳ sở ưng vi thuyết Pháp cố.

Giải-thoát nầy như tiếng vang, vì tùy nghi mà thuyết pháp.

Giảng: Môn giải thoát nầy như tiếng vang, như vang theo tiếng, vì tuỳ căn cơ của chúng sinh mà diễn nói tất cả diệu pháp.

 

Thử giải thoát giả do như ảnh tượng, tùy chúng sanh tâm nhi chiếu hiện cố.

Giải-thoát nầy như ãnh tượng, vì tùy tâm chúng-sanh mà chiếu hiện.

Giảng: Môn giải thoát nầy như hình bóng, vì tuỳ tâm chúng sinh mà chiếu hiện.

 

Thử giải thoát giả như Đại thọ Vương, khai phu nhất thiết thần thông hoa cố.

Giải-thoát nầy như đại-thọ-vương vì nở xòe tất cả hoa thần-thông.

Giảng: Môn giải thoát nầy như đại thụ vương, vì nở hoa tất cả thần thông.

 

Thử giải thoát giả do như Kim cương, tùng bổn dĩ lai bất khả hoại cố.

Giải-thoát nầy như kim-cang, vì bổn lai bất-khả-hoại.

Giảng: Môn giải thoát nầy như kim cang, vì bổn lai không thể hoại.

 

Thử giải thoát giả như như ý châu, xuất sanh vô lượng tự tại lực cố.

Giải-thoát nầy như châu ma-ni, vì xuất sanh vô-lượng sức tự-tại.

Giảng: Môn giải thoát nầy như châu như ý, vì sinh ra vô lượng sức tự tại. Bạn nghĩ muốn cái gì, thì liền có cái đó, toại tâm mãn nguyện.

 

Thử giải thoát giả như ly cấu tạng, ma-ni bảo vương thị Hiện-Nhất-Thiết tam thế Như Lai chư thần lực cố

Giải-thoát nầy như ly-cấu-tạng ma-ni-vương, vì thị-hiện tất cả tam-thế Như-Lai thần-lực.

Giảng: Môn giải thoát nầy như ly cấu tạng ma ni bảo vương, vì hay thị hiện các thần lực của tất cả Như Lai ba đời.

 

Thử giải thoát giả như hỉ tràng ma-ni bảo, năng bình đẳng xuất nhất thiết chư Phật Pháp luân thanh cố

Giải-thoát nầy như hỉ-tràng ma-ni-bửu, vì có thể bình-đẳng phát ra tiếng phát-luân của tất cả chư phật.

Giảng: Môn giải thoát nầy như hỉ tràng ma ni báu, vì có thể bình đẳng vang ra tiếng pháp luân của tất cả chư Phật. (Ở trên đây có hai mươi hai môn, dụ nói nhờ tướng sâu rộng, vì khó biết được).

 

Thiện nam tử! ngã kim vi nhữ thuyết thử thí dụ, nhữ ưng tư tánh, tùy thuận ngộ nhập

Nầy thiện-nam-tử ! Nay ta vì ngươi mà nói những ví-dụ nầy. Ngươi nên tư-duy tùy thuận ngộ nhập.

Giảng: Thiện nam tử! Nay ta vì ngươi nói đủ thứ những ví dụ nầy, ngươi nên thường thọ trì nơi tâm, hành trì nơi thân, phải quán sát suy gẫm, tuỳ thuận ngộ nhập.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử bạch tịch tĩnh âm hải dạ Thần ngôn: đại thánh! vân hà tu hành, đắc thử giải thoát?

Lúc đó, Thiện-Tài đồng tử bạch Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải rằng: Bạch Đại-Thánh! Tu hành thế nào để được môn giải thoát nầy.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bạch Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải rằng: “Đại Thánh! Làm thế nào tu hành đắc được môn giải thoát nầy”?

 

Dạ Thần ngôn: Thiện nam tử! Bồ Tát tu hành thập Đại Pháp tạng, đắc thử giải thoát. Hà đẳng vi thập?

Dạ-Thần nói: Nầy thiện-nam-tử ! Bồ-Tát tu hành mười đại-pháp-tạng được giải thoát nầy. Những gì là mười pháp tạng?

Giảng: Vị Dạ Thần nói: “Thiện nam tử! Bồ Tát tu hành mười đại pháp tạng nầy, thì sẽ đắc được môn giải thoát nầy. Những gì là mười pháp tạng?

 

Nhất tu bố thí quảng đại Pháp tạng, tùy chúng sanh tâm tất lệnh mãn túc

Một là tu bố-thí quảng-đại-pháp-tạng, tùy tâm chúng-sanh đều khiến đầy đủ.

Giảng: Một là pháp tạng tu bố thí rộng lớn, tức là tu tài thí, pháp thí, vô uý thí. Tài thí bao gồm nội tài và ngoại tài. Ngoại tài là đất nước vợ con, đều có thể bố thí. Trong Kinh có nói qua, có người bố thí vợ con cho người khác. Mấy năm trước, có vị cư sĩ phát tâm muốn đem ông chồng bố thí, nhưng bố thí như thế nào, cũng chẳng có ai nhận, chẳng có ai muốn. Đủ thấy người chồng không dễ gì bố thí cho người ngoài! Nội thí là đầu mắt tuỷ não và hết thảy những gì trên thân của mình, đều có thể bố thí. Nhưng có những người tu đạo nghe người khác mắng mình, cũng cảm thấy chịu không được, bị người khác đánh, càng chịu không được. Nếu bạn muốn đem chính mình bố thí cho nhân loại toàn thế giới, vốn chẳng còn chính mình, không nghĩ tới mình, thì còn có nóng giận gì sinh ra chớ! Người khác đến mắng bạn, hoặc nói xấu bạn, đó đều là đại thiện tri thức của bạn! Tại sao họ nói bạn không tốt? Vì họ cảm thấy bạn nên tốt, không nên không tốt, cho nên họ phải nói. Họ nói bạn, họ đúng là thiện tri thức của bạn. Ngược lại bạn phải tìm chỗ tốt của họ, đừng có khi nghe những lời trái tai, thì nổi nóng. Cho nên bất cứ các vị đến chỗ nào, nếu nghe có người mắng chửi sư phụ của bạn, thì bạn đừng có biện luận với họ, đừng có tranh luận với họ. Tại sao? Vì một khi tranh luận thì sẽ có thị phi, do đó có câu:

“Tranh là tâm hơn thua
Trái ngược lại với đạo
Sẽ sinh tâm bốn tướng
Làm sao được tam muội”?

Khi bạn tranh với người khác, thì sẽ có sự thắng bại, đây là trái ngược lại với đạo. Khi biện luận với người khác, thì sẽ sinh ra tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Làm sao bạn đắc được tam muội? Khi bạn tranh luận với người khác, thì sẽ có thị phi, do đó có câu:
“Thị phi suốt ngày có
Không nghe tự nhiên không”.

Hơn nữa, có người mắng chửi sư phụ của bạn, thì bạn nên thế ta lạy họ mấy lạy, và cảm ơn họ, vì họ đặc biệt quan tâm đến ta, mới muốn dạy dỗ ta. Người dạy dỗ mình là thiện tri thức của mình. Do đó, không nên tranh dài luận ngắn với người khác. Chẳng phải mấy ngày trước ta đã nói với các vị mấy câu kệ rồi chăng? Các vị nên đặc biệt chú ý, mấy câu kệ đó rất nông cạn, nhưng rất có sự thọ dụng đối với sự tu đạo. Bài kệ đó là:
“Thị phi hà tu biện?
Chân nguỵ cửu tự minh
Trí giả kiến chân thật
Ngu giả hành hư nguỵ
Thiện giả học Bồ Tát
Ác giả cảm mã Phật
Bình đẳng đại nhân từ
Phổ nhiếp chư hàm thức”.

Nghĩa là:
Thị phi không cần nói
Thật giả lâu sẽ rõ
Người trí thấy chân thật
Kẻ ngu làm việc quấy
Người thiện học Bồ Tát
Kẻ ác dám mắng Phật
Bình đẳng đại nhân từ
Nhiếp khắp các hàm thức.

Người ta nói bạn đúng, hoặc không đúng, đều không cần biện luận. Thật và giả, thời gian lâu sau thì tự nhiên nước cạn đá bày. Người có trí huệ thì gặp việc gì cũng đều minh bạch chân lý. Kẻ ngu si cứ làm những chuyện sai quấy, cho rằng mắng chửi người cho đã, nhưng không biết rằng đó cũng chẳng khác nào bịt tai ăn cắp chuông, tự mình lừa dối mình. Làm những chuyện hồ đồ, gây ra những lỗi lầm. Người hiền lương thì cử chỉ hành động đều học tập theo từ bi hỉ xả của Bồ Tát, lợi ích tất cả chúng sinh. Kẻ ác thì chẳng nói gì đến nhân quả, bát vô nhân quả, cho đến Phật mà họ cũng dám mắng chửi, thì huống gì chúng ta là những người bình thường! Cho nên chúng ta phải học tập đại từ bi bình đẳng của Phật, kẻ oán người thân đều bình đẳng. Ai đối với ta tốt, cũng phải dùng tâm bình đẳng đối đãi; ai đối với ta không tốt, cũng phải dùng tâm bình đẳng để đối đãi. Phải dùng tâm bình đẳng đại từ bi, để nhiếp thọ khắp tất cả các chúng sinh, đây gọi là làm “Bố thí pháp tạng rộng lớn”.

Pháp thí tức là diễn nói diệu pháp, để lợi ích tất cả chúng sinh. Vô uý thí, tức là nếu người nào đó sợ hãi, thì bạn hãy an ủi họ, khiến cho họ hết sợ hãi, đó đều là bố thí.

 

Nhị tu tịnh giới quảng đại Pháp tạng, phổ nhập nhất thiết Phật công đức hải

Hai là tu tịnh-giới quảng-đại pháp-tạng vào khắp tất cả biển phật công-đức.

Giảng: Thứ hai là pháp tạng tu tịnh giới rộng lớn, vào khắp biển công đức kim cang quang minh bảo kiếm của tất cả chư Phật. Các vị phải chú ý “Tịnh giới” nầy, tịnh là gì? Tức là thanh tịnh không nhiễm ô. Một niệm không sinh, gọi là tịnh, tức là tịnh niệm. Nếu bạn chỉ có giữ giới biểu hiện bên ngoài, nói: “Tôi chẳng sát sinh”, nhưng trong tâm của bạn bất mãn người khác, nóng giận, đó đều là phạm giới sát. Hoặc bạn nói: “Tôi không trộm cắp”, nhưng trong tâm của bạn thường hâm mộ tài vật của người khác, hoặc đố kị tài cán của người khác. Hoặc bạn nói: “Tôi không tà dâm”, nhưng trong tâm của bạn thường khởi vọng tưởng đến người khác tính, đó đều là phạm giới tà dâm, chẳng thanh tịnh. Tịnh giới là phải thật thanh tịnh, chẳng có chút niệm nhiễm ô nào, thì đó mới gọi là thanh tịnh.

 

Tam tu kham nhẫn quảng đại Pháp tạng, năng biến tư tánh nhất thiết pháp tánh

Ba là tu kham-nhẫn quảng đại pháp-tạng, có thể khắp tư-duy tất cả pháp-tánh.

Giảng: Thứ ba là pháp tạng tu kham nhẫn rộng lớn, có thể suy gẫm khắp tất cả pháp tánh. Nhẫn nhục chẳng dễ dàng tu tí nào, nếu dễ tu thì chẳng biểu hiện được chân tâm của bạn. Cho nên trong Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia Đại Sư có nói rằng: “Chẳng vì chê bai khởi oán thân”. Đừng vì người khác chê cười mình, phỉ báng mình, thì mình bất mãn họ, có sự cừu hận. Hoặc có người khen ngợi mình, nói mình một câu tốt, thì mình rất cao hứng. Đó đều là bị tám ngọn gió (Xưng, cơ, khổ, lạc, lợi suy, đắc, thất) thổi động tâm mình. Ví như có người khen ngợi bạn, bạn cũng chẳng hoan hỉ. Có người quở trách bạn, bạn cũng chẳng buồn phiền. Gặp việc khổ sở như thế nào, cũng đều nhẫn thọ được. Gặp việc vui cũng nhẫn thọ được.

Lợi, tức là đắc được lợi ích. Suy, tức là gặp sự việc không thuận lợi. Đắc thất, tức là được điều gì đó, hoặc mất mát điều gì đó. Đó là tám gió. Chúng ta giảng về vấn đề nầy là phải vận dụng, chứ chẳng phải nghe rồi thì thôi. Chúng ta minh bạch đạo lý nầy, gặp những cảnh giới nầy đến, thì phải có một chút định lực. Chẳng phải nói tôi biết, nhưng khi đến lúc thì không thể vận dụng được, đó cũng chẳng có ích gì. Pháp thì phải thực hành, bạn nói hay, nói giỏi, mà chẳng thực hành thì chẳng phải là đạo. Đạo thì phải hành, không hành thì có đạo gì?

Đức thì phải làm, không làm sao có đức? Miệng bạn nói đạo đức, mà chẳng hành đạo đức, thì chẳng có ích gì. Cho nên phải cung hành thực tiễn, thì đó mới là công đức. Kham nhẫn, tức là không thể nhẫn cũng phải nhẫn. Nhẫn được thì không cần nói, vì bạn không thọ được, nên mới phải thọ. Bạn nhẫn không được, mới phải nhẫn. Có người nói: “Tôi không thể nhẫn”, không thể nhẫn cũng phải nhẫn. Đến lúc đó mới có thể qua được cửa ải. Nếu bạn qua không được cửa ải, thì bạn không thể đắc được pháp hỉ sung mãn, chẳng đắc được lợi ích của pháp, thì không thể đạt được Ba La Mật viên mãn dùng trí huệ đến bờ kia.

 

Tứ tu tinh tấn quảng đại Pháp tạng, thú nhất thiết trí hằng Bất-thoái-chuyển

Bốn là tu tinh-tấn quảng-đại pháp-tạng, vì xu hướng nhất-thiết-trí hằng chẳng thối-chuyển.

Giảng: Thứ tư là pháp tạng tu tinh tấn rộng lớn, hướng về biển nhất thiết trí, luôn không thối chuyển. Tinh tấn tức là lúc nào cũng phải tinh tấn, ngày đêm sáu thời chẳng có lúc nào nghỉ ngơi, thường tinh tấn, tu tinh tấn độ, thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, thân chẳng mệt mỏi, tâm chẳng lười biếng, thời khắc lúc nào cũng từ từ dũng mãnh tinh tấn tiến về trước.

 

Ngũ tu Thiền định quảng đại Pháp tạng, năng diệt nhất thiết chúng sanh nhiệt não

Năm là tu thiền-định quảng-đại pháp-tạng, vì có thể diệt trừ tất cả chúng-sanh nhiệt-não.

Giảng: Thứ năm là pháp tạng tu thiền định rộng lớn, có thể diệt trừ nhiệt não của tất cả chúng sinh. Thiền định tức là tư duy tu, hiện tại chúng ta đang đả thiền thất, là tu thiền định độ. Thiền định độ và tư duy tu, là dạy bạn tham ngộ “Niệm Phật là ai?” Một cửa thâm nhập, một niệm chẳng sinh. Do đó có câu:
“Một niệm không sinh toàn thể hiện
Sáu căn hốt động bị mây che”.

Khi sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý động, thì giống như bầu trời nổi mây lên. Khi căn mắt động, thì bị sắc trần lay chuyển. Khi căn tai động thì bị thanh trần lay chuyển. Khi căn mũi động thì khi ngửi mùi thơm bị hương trần lay chuyển. Khi căn lưỡi động, lưỡi nếm vị thì bị vị trần lay chuyển. Thân súc giác thì bị súc trần lay chuyển. Ý duyên pháp thì bị pháp trần lay chuyển. Cho nên khi bạn chấp trước vào sáu trần, thì sẽ “hốt động”, bị vô minh che đậy, cho nên tu thiền định thì sáu căn phải thanh tịnh.
“Mắt quán hình sắc bên trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay”.

“Thấy việc tỉnh việc thoát thế gian
Thấy việc mê việc đoạ trầm luân”.

Đó đều là tại con mắt. Đạo lý trước mắt đều rất nông cạn, nếu bạn không thể làm được, thì chẳng có ích gì. Cho nên tôi vì các vị giảng Kinh, các vị đừng cho rằng nghe qua rồi thì cho rằng mình đã hiểu đạo lý của Kinh điển. Kinh điển dạy chúng ta chiếu theo đạo lý mà thực hành, nếu bạn chẳng thực hành, thì dù có hiểu biết nhiều, cũng chẳng có lợi ích gì. Nếu bạn biết một chút mà thực hành một chút, thì sẽ có một chút thọ dụng. Ví như bạn nghe được pháp tạng bố thí rộng lớn, liền tu hành bố thí. Khi nghe được tịnh giới, liền tịnh giới độ. Đừng có khởi những vọng tưởng tà tri tà kiến. Đừng có khi gặp những cảnh giới nào đó, thì bị cảnh giới lay chuyển.

Tóm lại, phải giữ gìn định lực của mình. Nếu biết kham nhẫn, thì phải tu nhẫn nhục. Biết tinh tấn thì phải tu tinh tấn. Chẳng phải nói: “Tôi hiểu rồi, trong Phật pháp có tinh tấn Ba La Mật”, chỉ là niệm một niệm, hoặc nghe một nghe, nếu như vậy thì bạn chẳng có chút lợi ích gì hết, chính bạn phải thực hành. Cho nên tôi hy vọng, các vị biết một chút, làm một chút, đừng có nghe kinh rồi, tâm sân của mình vẫn nặng nề như trước, tâm tham của mình cũng lớn như xưa, tâm si của mình vẫn lợi hại như lúc trước. Nếu chẳng nghĩ cách thay đổi, thì dù có nghe bao nhiêu kinh cũng chẳng có ích lợi gì.

Tu đạo nhất định phải cung hành thực tiễn, nếu chẳng cung hành thực tiễn, thì chẳng bằng không nghe. Không nghe, thì trong tâm chẳng có nhiều cặn bã, vẫn sạch sẽ một chút. Bạn nghe rồi, nếu không thực hành thì trong tâm nhiều vọng tưởng. Cho nên tôi hy vọng các vị đều phải tự mình chân thật tu hành, mới không có lỗi với cha mẹ tổ tiên từ vô thuỷ kiếp đến nay, họ đều đang đợi bạn tu hành, bạn tu hành thành công, thì họ cũng được lìa khổ được vui. Cho nên tu hành thiền định, chẳng những diệt trừ nhiệt não của mình, mà cũng diệt trừ nhiệt não của tất cả chúng sinh. Nhiệt não cũng tức là phiền não, cũng tức là vô minh. Có vô minh thì chẳng có trí huệ. Tu thiền định sẽ sinh ra trí huệ, cho nên sẽ diệt trừ tất cả phiền não.

 

Lục tu Bát-nhã quảng đại Pháp tạng, năng biến liễu tri nhất thiết pháp hải

Sáu là tu bát-nhã quảng-đại pháp-tạng, vì có thể biết rõ khắp tất cả pháp-hải.

Giảng: Thứ sáu là pháp tạng tu Bát Nhã rộng lớn, có thể biết rõ khắp tất cả biển pháp. Chúng ta phải tu hành Bồ Tát hạnh, trước hết phải tu hành mười pháp tạng rộng lớn. Mười pháp tạng rộng lớn nầy cũng là mười độ, mười môn Ba La Mật. Tại sao nói “Rộng lớn”? Vì trong một độ có đủ đạo lý mười độ. Trong mười độ cũng do mỗi một độ thành tựu. Phân ra là mười độ, hợp lại trong mỗi một độ, đều có mười độ, đều đầy đủ lý mười độ.

Cho nên nói tu hành pháp tạng Bát Nhã rộng lớn. Nếu chẳng phải pháp môn một độ đầy đủ mười độ, thì không cần phải nói đến hai chữ “Rộng lớn”, chỉ nói Bát Nhã độ là được. Pháp tạng rộng lớn, chẳng những đầy đủ mười độ, mà cũng đầy đủ trăm độ, ngàn độ, vạn độ, vô lượng độ, đều bao quát ở trong mỗi một độ. Cho nên nói “Biết rõ khắp tất cả biển pháp” – Từ Bát Nhã độ, bèn có thể thâm nhập tất cả biển pháp, mới đắc được trí huệ như biển.

 

Thất tu phương tiện quảng đại Pháp tạng, năng biến thành thục chư chúng sanh hải

Bảy là tu phương-tiện quảng-đại pháp-tạng, có thể thành-thục khắp những chúng-sanh-hải.

Giảng: Thứ bảy là pháp tạng tu phương tiện rộng lớn, có thể khắp thành thục biển tất cả chúng sinh. “Phương tiện” cũng tức là một quyền pháp, quyền giáo. Quyền là quyền xảo phương tiện, thông quyền đạt biến. Pháp phương tiện, cũng có thể nói là pháp đặc biệt. Pháp nầy thường chẳng ở trong khuôn phép, chẳng có nhất định, nên nói là phương tiện. Có lúc giáo hoá chúng sinh, phải dùng đủ thứ thông quyền đạt biến, thiện xảo phương tiện, lâm thời đặt nghi: Do sự đặt nghi, do thời đặt nghi, do cảnh đặt nghi. Vì cảnh giới khác nhau, nên thời gian chế định, phương pháp cũng khác nhau, cho nên gọi là “phương tiện”. Phương tiện chẳng phải là luôn luôn, mà là tạm thời, đến lúc sẽ dùng một thứ phương pháp, do môn phương tiện quyền xảo, mà dẫn vào Phật đạo.

“Khắp thành thục biển tất cả các chúng sinh”,

Tức cũng là quán căn cơ vì người nói pháp, tức cũng là theo bệnh cho thuốc, vì người thí giáo, để cứu độ khắp biển tất cả các chúng sinh.

 

Bát tu chư nguyện quảng đại Pháp tạng, biến nhất thiết Phật sát, nhất thiết chư chúng sanh hải, tận vị lai kiếp tu Bồ Tát hạnh

Tám là tu những nguyện quảng-đại pháp-tạng, vì tận vị-lai kiếp tu bồ-tát-hạnh khắp tất cả cõi phật, tất cả chúng-sanh.

Giảng: Thứ tám là pháp tạng tu các nguyện rộng lớn. Pháp nguyện lực đến bờ kia, khắp tất cả cõi Phật, biển tất cả chúng sinh, hết kiếp thuở vị lai tu Bồ Tát lục độ vạn hạnh, mười độ vạn hạnh.

 

Cửu tu chư lực quảng đại Pháp tạng, niệm niệm hiện ư nhất thiết Pháp giới hải, nhất thiết Phật quốc độ, thành đẳng chánh giác thường bất hưu tức

Chín là tu những lực quảng đại pháp-tạng, vì niệm niệm hiện thành Đẳng-Chánh-Giác nơi tất cả pháp-giới, nơi tất cả quốc-độ thường chẳng thôi dứt.

Giảng: Thứ chín là pháp tạng tu các lực rộng lớn. Do sức lực nầy, mà niệm niệm thị hiện ra nơi tất cả biển pháp giới, tất cả cõi Phật, thành Đẳng Chánh Giác, thường không ngừng nghỉ. Đây là nhờ có sức lực nầy ở phía sau chi trì, cho nên lúc nào cũng đều dũng mãnh tinh tấn.

 

Thập tu tịnh trí quảng đại Pháp tạng, đắc Như Lai trí, biến tri tam thế nhất thiết chư pháp vô hữu chướng ngại.

Mười là tu tịnh-trí quảng-đại pháp-tạng, được như-lai-tri biết khắp tất cả pháp tam-thế không có chướng ngại.

Giảng: Thứ mười là pháp tạng tu trí huệ thanh tịnh rộng lớn. Tịnh trí thì chẳng có tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Cũng không có tâm ích kỷ lợi mình, cũng chẳng có tâm tham, tâm sân và tâm si. Đây là trí huệ thanh tịnh, không có chút cặn đục nào. Cho nên đắc được trí huệ của Phật, biết khắp các pháp của tất cả chư Phật ba đời, không có chướng ngại, đạt đến cảnh giới viên dung vô ngại, không tu không chứng.

 

Thiện nam tử! nhược chư Bồ-tát an trụ như thị thập Đại Pháp tạng, tức năng hoạch đắc như thị giải thoát, thanh tịnh tăng trưởng, tích tập kiên cố, an trụ viên mãn.

Thiện nam tử! Nếu chư Bồ-Tát an-trụ mười pháp-tạng nầy thời có thể chứng được giải-thoát thanh tịnh như vậy, tăng trưởng tích tụ kiên cố, an trụ viên mãn.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu tất cả Bồ Tát an trụ mười đại pháp tạng như vậy, thì sẽ đắc được trí huệ thanh tịnh giải thoát như vậy, tăng trưởng thần thông, tích tụ hết thảy căn lành, kiên cố không hoại, an trụ nơi quả vị bồ đề, khiến cho được viên mãn.

 

Thiện tài đồng tử ngôn: Thánh Giả! nhữ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, kỳ dĩ cửu như?

Thiện-Tài thưa : Đại-Thánh phát tâm vô-thượng bồ-đề đã bao lâu ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử nói: “Đức Thánh! Ngài phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, đã được bao lâu rồi”? Đây là hỏi về phát tâm bao lâu, vì muốn hiển bày nguồn gốc đạo thâm sâu.

 

Dạ Thần ngôn: Thiện nam tử! thử hoa tạng trang nghiêm thế giới hải Đông, qua thập thế giới hải, hữu thế giới hải, danh: nhất thiết Tịnh Quang bảo. Thử thế giới hải trung, hữu thế giới chủng, danh: nhất thiết Như Lai nguyện quang minh âm; trung hữu thế giới, danh: thanh Tịnh Quang kim trang nghiêm, nhất thiết hương Kim cương ma-ni Vương vi thể, hình như lâu các, chúng diệu Bảo Vân dĩ vi kỳ tế, trụ ư nhất thiết bảo anh lạc hải, diệu cung điện vân nhi phước kỳ thượng, tịnh uế tướng tạp.

Dạ-Thần nói : Nầy thiện-nam-tử ! Phía đông của Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm-Thế-Giới-Hải nầy, qua khỏi mười thế-giới-hải, có thế-giới-hải tên là Nhất-Thiết-Tịnh-Quang-Bửu. Trong thế-giới-hải nầy có thế-giới-chủng tên là Nhất-Thiết-Như-Lai-Nguyện-Quang-Minh-Ấm, trong đó có thế-giới tên là Thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm, thể chất bằng hương-kim-cang ma-ni-vương, hình như lâu các. Diệu-bửu-vân làm biên-tế, ở trong biển nhất-thiết-bửu-anh-lạc. Mây diệu-cung-điện che trên. Tịnh-uế lẫn lộn.

Giảng: Vị Dạ Thần đáp: “Thiện nam tử! Phía đông biển thế giới Hoa Tạng Trang Nghiêm nầy, qua khỏi mười biển thế giới, có biển thế giới tên là Nhất Thiết Tịnh Quang Bảo. Trong biển thế giới đó, lại có thế giới chủng, tên là Nhất Thiết Như Lai Nguyện Quang Minh Âm. Trong đó lại có thế giới, tên là Thanh Tịnh Quang Kim Trang Nghiêm, thế giới đó dùng tất cả hương kim cang ma ni vương làm thể, hình tướng như lầu các. Dùng các mây báu đẹp làm bờ mé, trụ ở biển tất cả báu anh lạc, có mây cung điện đẹp che phủ ở phía trên thế giới. Thế giới đó sạch dơ xen tạp lẫn nhau.

 

Thử thế giới trung, nãi vãng cổ thế, hữu kiếp danh: phổ quang tràng, quốc danh: phổ mãn diệu tạng, đạo tràng danh: nhất thiết Bảo Tạng diệu nguyệt quang minh, hữu Phật danh: Bất-thoái-chuyển Pháp giới âm, ư thử thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề;

Trong thế-giới đó, thuở xưa có kiếp tên là Phổ-Quang-Tràng. Nước tên là Phổ Mãn-Diệu-Tạng. Đạo-tràng tên là Nhứt-Thiết-Bửu-Tạng-Diệu Nguyệt-Quang-Minh. Có Phật tên là Bất-Thối-Chuyển-Pháp-Giới-Ấm, thành Đẳng-Chánh-Giác nơi đạo tràng này.

Giảng: Trong thế giới đó, đời quá khứ xa xưa có kiếp tên là Phổ Quang Tràng, nước tên là Phổ Mãn Diệu Tạng, đạo tràng tên là Nhất Thiết Bảo Tạng Diệu Nguyệt Quang Minh. Có đức Phật hiệu là Bất Thối Chuyển Pháp Giới Âm, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở thế giới đó.

 

Ngã ư Nhĩ thời, tác Bồ-đề thụ Thần, danh: cụ túc phước đức đăng quang minh tràng, thủ hộ đạo tràng

Thuở đó ta làm Bồ-đề Thọ-Thần tên là Cụ-Túc-Phước-Đức-Đăng-Quang-Minh-Tràng. Ta thủ hộ đạo tràng ấy.

Thánh nhân ở thế giới thanh tịnh, còn phàm phu thì ở thế giới dơ bẩn, mà thế giới đó có Thánh nhân, cũng có phàm phu, cho nên sạch dơ xen tạp lẫn nhau.

Giảng: Lúc đó ta làm Bồ Đề Thụ Thần, tên là Cụ Túc Phước Đức Đăng Quang Minh Tràng, để giữ gìn đạo tràng đại thụ vương

 

Ngã kiến bỉ Phật thành đẳng chánh giác, thị hiện thần lực, phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam-Bồ-đề tâm, tức ư thử thời, hoạch đắc tam muội, danh: phổ chiếu Như Lai công đức hải.

Ta thấy đức Phật Pháp-Giới-Ấm thành Đẳng-Chánh-Giác thị-hiện thần lực, ta phát tâm vô-thượng bồ-đề. Liền lúc đó ta được tam-muội tên là Phổ-chiếu-như-lai công-đức-hải.

Giảng: Ta nhìn thấy đức Phật Bất Thối Chuyển Pháp Giới Âm đó thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác, thị hiện đủ thứ thần thông lực. Ta bèn phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lập tức lúc đó ta đắc được tam muội, tên là Phổ Chiếu Như Lai Công Đức Hải.

(Đoạn nầy hiển bày lúc gặp Phật đầu tiên phát tâm đắc được định, đây cũng là lúc ban đầu phát tâm, cũng hỏi đắc được pháp đã bao lâu. Thần tên là Cụ Túc Phước Đức Đang Quang Minh Tràng, cũng biểu đạt ngũ địa nhập tục, phước trí cao thắng).

 

Thử đạo tràng trung, thứ hữu Như Lai xuất hưng ư thế, danh: pháp thụ uy đức sơn

Kế đó, trong đạo-tràng ấy có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Thọ-Oai Đức-Sơn.

Giảng: Ở trong đạo tràng Nhất Thiết Bảo Tạng Diệu Nguyệt Quang Minh đó, lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Pháp Thụ Oai Đức Sơn.

 

Ngã thời mạng chung, hoàn sanh thử trung, vi đạo tràng chủ dạ thần, danh: thù diệu phước trí quang, kiến bỉ Như Lai chuyển chánh Pháp luân, hiện đại thần thông, tức đắc tam muội, danh: phổ chiếu nhất thiết ly tham cảnh giới.

Bây giờ ta mạng chung sanh trở lại làm đạo-tràng Chủ-Dạ-Thần, tên là Thù-Thắng-Phước-Trí-Quang. Ta thấy đức Oai-Đức-Sơn Như-Lai hiện đại thần-thông chuyển chánh pháp-luân, liền được tam-muội tên là Phổ-chiếu-nhất-thiết-ly-tham-cảnh-giới.

Giảng: Khi ta mạng chung rồi, vẫn sinh ra lại ở trong đó, làm đạo tràng Chủ Dạ Thần, tên là Thù Diệu Phước Trí Quang. Ta thấy đức Phật Pháp Thụ Oai Đức Sơn đó chuyển bánh xe chánh pháp, thị hiện đại thần thông, ta lập tức đắc được tam muội, tên là Chiếu khắp tất cả cảnh giới lìa tham. Chẳng còn dục niệm nữa, đã khử dục đoạn ái.

 

Thứ hữu Như Lai xuất hưng ư thế, danh: nhất thiết pháp hải âm thanh Vương

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Nhứt-Thiết-Pháp-Hải-Ấm-Thanh-Vương.

Giảng: Lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Nhất Thiết Pháp Hải Âm Thanh Vương.

 

Ngã ư bỉ thời, thân vi dạ Thần, nhân đắc kiến Phật thừa sự cúng dường, tức hoạch tam muội, danh: sanh trưởng nhất thiết thiện pháp địa.

Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là sanh-trưởng-nhất-thiết-thiện-pháp-địa.

Giảng: Lúc đó ta làm Dạ Thần, nhờ thấy được Phật, hầu hạ cúng dường, lập tức đắc được tam muội, tên là Sinh trưởng tất cả thiện pháp địa.

 

Thứ hữu Như Lai xuất hưng ư thế, danh: bảo quang minh đăng tràng Vương; ngã ư bỉ thời, thân vi dạ Thần, nhân đắc kiến Phật thừa sự cúng dường, tức hoạch tam muội, danh: phổ hiện thần thông quang minh vân.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Bửu-Quang-Minh-Đăng-Tràng-Vương. Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Phổ-Hiện-Thần-Thông-Quang-Minh-Vân.

Giảng: Lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Bảo Quang Minh Đăng Tràng Vương. Lúc đó ta làm Dạ Thần, nhờ thấy được Phật, hầu hạ cúng dường, lập tức đắc được tam muội, tên là Khắp hiện thần thông mây quang minh.

 

Thứ hữu Như Lai, xuất hưng ư thế, danh: công đức Tu-Di-Quang; ngã ư bỉ thời, thân vi dạ Thần, nhân đắc kiến Phật thừa sự cúng dường, tức hoạch tam muội, danh: phổ chiếu chư Phật hải.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Công-Đức-Tu-Di-Quang. Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Phổ-Chiếu-Chư-Phật-Hải.

Giảng: Lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Công Đức Tu Di Quang. Lúc đó ta làm Dạ Thần, nhờ thấy được Phật, hầu hạ cúng dường, lập tức đắc được tam muội, tên là Chiếu khắp biển chư Phật.

 

Thứ hữu Như Lai xuất hưng ư thế, danh: pháp vân âm thanh Vương; ngã ư bỉ thời, thân vi dạ Thần, nhân đắc kiến Phật thừa sự cúng dường, tức hoạch tam muội, danh: nhất thiết pháp hải đăng.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Vân-Ấm-Thanh-Vương. Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Nhất-Thiết-Pháp-Hải-Đăng.

Giảng: Lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Pháp Vân Âm Thanh Vương. Lúc đó ta làm Dạ Thần, nhờ thấy được Phật, hầu hạ cúng dường, lập tức đắc được tam muội, tên là Tất cả pháp hải đăng.

 

Thứ hữu Như Lai xuất hưng ư thế, danh: trí đăng chiếu diệu Vương; ngã ư bỉ thời, thân vi dạ Thần, nhân đắc kiến Phật thừa sự cúng dường, tức hoạch tam muội, danh: diệt nhất thiết chúng sanh khổ thanh Tịnh Quang minh đăng.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Trí-Đăng-Chiếu-Diệu-Vương. Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Diệt-Nhất-Thiết-Chúng-Sanh-Khổ-Thanh-Tịnh-Quang-Minh-Đăng.

Giảng: Lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Trí Đăng Chiếu Diệu Vương. Lúc đó ta làm Dạ Thần, nhờ thấy được Phật, hầu hạ cúng dường, lập tức đắc được tam muội, tên là Diệt khổ tất cả chúng sinh đèn quang minh thanh tịnh.

 

Thứ hữu Như Lai xuất hưng ư thế, danh: Pháp dũng diệu đức tràng; ngã ư bỉ thời, thân vi dạ Thần, nhân đắc kiến Phật thừa sự cúng dường, tức hoạch tam muội, danh: tam thế Như Lai quang minh tạng.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Pháp-Dũng-Diệu-Đức-Tràng. Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là Tam-Thế Như-Lai-Quang-Minh-Tạng.

Giảng: Lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Pháp Dũng Diệu Đức Tràng. Lúc đó ta làm Dạ Thần, nhờ thấy được Phật, hầu hạ cúng dường, lập tức đắc được tam muội, tên là Ba đời Như Lai quang minh tạng.

 

Thứ hữu Như Lai xuất hưng ư thế, danh: sư tử dũng mãnh Pháp trí đăng; ngã ư bỉ thời, thân vi dạ Thần, nhân đắc kiến Phật thừa sự cúng dường, tức hoạch tam muội, danh: nhất thiết thế gian vô chướng ngại trí tuệ luân.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Sư-Tử-Dũng-Mãnh-Pháp-Trí-Đăng. Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là nhất thiết-thế-gian-vô-chướng-ngại-trí-huệ-luân.

Giảng: Lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Sư Tử Dũng Mãnh Pháp Trí Đăng. Lúc đó ta làm Dạ Thần, nhờ thấy được Phật, hầu hạ cúng dường, lập tức đắc được tam muội, tên là Tất cả thế gian không chướng ngại trí huệ luân.

 

Thứ hữu Như Lai xuất hưng ư thế, danh: trí lực sơn vương; ngã ư bỉ thời, thân vi dạ Thần, nhân đắc kiến Phật thừa sự cúng dường, tức hoạch tam muội, danh: phổ chiếu tam thế chúng sanh chư căn hạnh.

Kế đó có Như-Lai xuất thế hiệu là Trí-Lực-Sơn-Vương. Bấy giờ ta làm Dạ-Thần được gặp Phật và kính thờ cúng-dường. Ta liền được tam-muội tên là phổ-chiếu-chúng-sanh-chư-căn-hạnh.

Giảng: Lại có một vị Phật xuất hiện ra đời, hiệu là Phật Trí Lực Sơn Vương. Lúc đó ta làm Dạ Thần, nhờ thấy được Phật, hầu hạ cúng dường, lập tức đắc được tam muội, tên là Chiếu khắp các căn hạnh chúng sinh ba đời. Vì ta hầu hạ cúng dường rất nhiều vị Phật, cho nên đắc được rất nhiều đủ thứ tam muội khác nhau.

 

Thiện nam tử! thanh Tịnh Quang kim trang nghiêm thế giới phổ quang minh tràng kiếp trung, hữu như thị đẳng Phật sát vi trần số Như Lai xuất hưng ư thế.

Nầy thiện-nam-tử ! Trong thế-giới Thanh-Tịnh-Quang-Kim-Trang-nghiêm, thuở kiếp Phổ-Quang-Minh-Tràng, có phật-sát vi-trần số Như-Lai xuất thế như vậy.

Giảng: Thiện nam tử! Trong kiếp Phổ Quang Minh Tràng, thế giới Thanh Tịnh Quang Kim Trang Nghiêm, có các đức Phật nhiều như số hạt bụi cõi Phật ra đời như vậy.

 

Ngã ư bỉ thời, hoặc vi Thiên Vương, hoặc vi long Vương, hoặc vi dạ xoa Vương, hoặc vi càn thát bà vương, hoặc vi A-tu-la Vương, hoặc vi Ca Lâu La Vương, hoặc vi khẩn-na-la Vương, hoặc vi Ma hầu la già Vương, hoặc vi nhân Vương, hoặc vi Phạm Vương, hoặc vi Thiên thân, hoặc vi nhân thân, hoặc vi nam tử thân, hoặc vi nữ nhân thân, hoặc vi đồng nam thân, hoặc vi đồng nữ thân, tất dĩ chủng chủng chư cúng dường cụ, cúng dường ư bỉ nhất thiết Như Lai, diệc văn kỳ Phật sở thuyết chư Pháp.

Trong thời-gian đó, ta hoặc làm Thiên-Vương, Long-Vương, hoặc làm Dạ-Xoa-Vương, Càn-Thát-Bà-Vương, A-Tu-La-Vương, Ca-Lâu-La-Vương, Khẩn-Na-La-Vương, Ma-Hầu-La-Già-Vương, hoặc làm Nhân-Vương, Phạm-Vương, hoặc làm Thiên-Thân, Nhân-Thân, làm nam-tử, nữ-nhân, làm đồng-nam, đồng-nữ. Nơi tất cả thân, ta đều kính thờ cúng-dường tất cả Như-Lai, nghe Phật thuyết-pháp.

Giảng: Lúc đó ta làm Thiên Vương, hoặc làm Long Vương, hoặc làm Dạ Xoa Vương, hoặc làm Càn Thát Bà Vương, hoặc làm A Tu La Vương, hoặc làm Ca Lâu La Vương, hoặc làm Khẩn Na La Vương (Nhạc Thần), hoặc làm Ma Hầu La Già Vương (đại mãng xà), hoặc làm Nhân Vương, hoặc làm Phạm Vương, hoặc làm thân Trời, hoặc làm thân người, hoặc làm thân người nam, hoặc làm thân người nữ, hoặc làm thân đồng nam, hoặc làm thân đồng nữ. Đều dùng đủ thứ các đồ cúng dường, để cúng dường tất cả các đức Phật đó. Ta cũng nghe các đức Phật đó nói đủ thứ các pháp.

(Đoạn này nói trong một kiếp, có các đức Phật nhiều như số hạt bụi cõi Phật, đều cúng dường)

 

Tòng thử mạng chung, hoàn tức ư thử thế giới trung sanh, Kinh Phật sát vi trần số kiếp tu Bồ Tát hạnh

Khi mạng-chung, ta sanh trở lại trong thế-giới đó, trải qua phật-sát vi-trần-số kiếp tu bồ-tát-hạnh.

Giảng: Vị Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải nói: “Ta từ đó mạng chung, vẫn sinh ra ở trong thế giới Thanh Tịnh Quang Kim Trang Nghiêm đó. Trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi hai cõi Phật tu Bồ Tát hạnh”.

 

Nhiên hậu mạng chung, sanh thử hoa tạng trang nghiêm thế giới hải Ta Bà thế giới, trị Ca la cưu tôn Đà Như Lai, thừa sự cúng dường, đắc tam muội, danh: ly nhất thiết trần cấu quang minh.

Sau đó, ta mạng-chung sanh nơi Ta-Bà thế-giới trong Hoa-Tạng-Trang-Nghiêm-Thế-Giới-Hải nầy, gặp và cúng-dường đức Câu-Lưu-Tôn-Đà Như-Lai. Ta được tam-muội tên là ly-nhất-thiết-trần-cấu-quang-minh.

Giảng: Sau đó lại mạng chung, sinh vào thế giới Ta Bà trong biển thế giới Hoa Tạng Trang Nghiêm nầy, gặp đức Như Lai Câu Lưu Tôn (Ngài là vị Phật thứ nhất trong kiếp Hiền), hầu hạ Phật, cúng dường Phật, đắc được tam muội tên là Lìa tất cả trần cấu quang minh.

 

Thứ trị Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai, thừa sự cúng dường, đắc tam muội, danh: phổ Hiện-Nhất-Thiết chư sát hải.

Kế đó gặp đức Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni Như-Lai, ta kính thờ cúng-dường, được tam-muội tên là Phổ-Hiện-Nhất-Thiết-Chư-Sát-Hải.

Giảng: Kế lại gặp đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (vị Phật thứ hai trong kiếp Hiền), hầu hạ Phật, cúng dường Phật, đắc được tam muội tên là Hiện khắp tất cả biển chư Phật.

 

Thứ trị Ca-diếp Như Lai, thừa sự cúng dường, đắc tam muội, danh: diễn nhất thiết chúng sanh ngôn âm hải.

Kế đó gặp đức Ca-Diếp Như-Lai, ta kính thờ cúng-dường, được tam-muội tên là Diễn-Nhất-Thiết-chúng-Sanh-Ngôn-Ấm-Hải.

Giảng: Kế lại gặp đức Phật Ca Diếp (vị Phật thứ ba trong kiếp Hiền), hầu hạ Phật, cúng dường Phật, đắc được tam muội tên là Diễn nhất thiết chúng sinh ngôn âm hải. Đây là lúc tu hành ở thế giới Ta Bà, đắc được pháp nơi ba vị Phật đầu tiên trong kiếp Hiền.

 

Thứ trị Tỳ Lô Giá Na Như Lai, ư thử đạo tràng thành chánh đẳng giác, niệm niệm thị hiện đại thần thông lực; ngã thời đắc kiến, tức hoạch thử niệm niệm xuất sanh quảng đại hỉ trang nghiêm giải thoát.

Kế đó gặp đức Tỳ-Lô-Giá-Na Như Lai thành Đẳng-Chánh-Giác nơi đạo-tràng nầy niệm niệm thị-hiện đại-thần-thông-lực. Do đó ta được môn giải-thoát niệm-niệm-xuất-sanh-quảng-đại-hỉ-trang-nghiêm.

Giảng: Kế đó, nay lại gặp đức Phật Tỳ Lô Giá Na Như Lai (vị Phật thứ tư trong kiếp Hiền, tức là pháp thân của Phật Thích Ca Mâu Ni), ở tại đạo tràng nầy, thành Chánh Đẳng Chánh Giác. Niệm niệm thị hiện sức đại thần thông. Lúc đó ta (Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải) thấy được Phật, lập tức đắc được môn giải thoát tam muội Niệm niệm sinh ra hỉ trang nghiêm rộng lớn nầy.

 

Đắc thử giải thoát dĩ, năng nhập thập bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Pháp giới an lập hải, kiến bỉ nhất thiết pháp giới an lập hải nhất thiết Phật sát sở hữu vi trần, nhất nhất trần trung hữu thập bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật quốc độ.

Được giải thoát nầy rồi, ta có thể nhập mười bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết phật-sát vi-trần-số pháp-giới an-lập hải.MTa thấy trong tất cả pháp-giới an lập-hải, bao nhiêu vi-trần của tất cả phật-sát. Trong mỗi vi-trần có mười bất-khả-thuyết bất khả-thuyết phật sát vi-trần-số phật-độ.

Giảng: Đắc được môn giải thoát nầy rồi, vào được biển pháp giới an lập, nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, an trụ ở đó. Thấy được tất cả biển pháp giới an lập đó, hết thảy hạt bụi tất cả cõi Phật. Trong mỗi hạt bụi, có cõi nước chư Phật nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. (Đây là cõi trong hạt bụi).

 

Nhất nhất Phật thổ giai hữu Tỳ Lô Giá Na Như Lai tọa ư đạo tràng, ư niệm niệm trung, thành chánh đẳng giác, hiện chư thần biến; sở hiện thần biến, nhất nhất giai biến nhất thiết pháp giới hải.

Mỗi phật-độ đều có Tỳ-Lô-Giá-Na Như-Lai ngồi đạo-tràng, trong mỗi niệm thành Đẳng-Chánh-Giác hiện đại-thần-biến. Những thần-biến của Như-Lai hiện đều khắp pháp-giới-hải.

Giảng: Trong mỗi cõi Phật, đều có Tỳ Lô Giá Na Như Lai (biến nhất thiết xứ) ngồi nơi đạo tràng. Trong niệm niệm đều thành Chánh Đẳng Giác, hiện ra đủ thứ thần thông biến hoá. Sở hiện thần thông biến hoá, mỗi thứ thần biến đều khắp cùng tất cả biển pháp giới.

 

Diệc kiến tự thân tại bỉ nhất thiết chư Như Lai sở, hựu diệc văn kỳ sở thuyết diệu pháp; hựu diệc kiến bỉ nhất thiết chư Phật nhất nhất mao khổng, xuất biến hóa hải, hiện thần thông lực, ư nhất thiết Pháp giới hải, nhất thiết thế giới hải, nhất thiết thế giới chủng, nhất thiết thế giới trung, tùy chúng sanh tâm, chuyển chánh Pháp luân.

Ta cũng thấy thân mình ở tại chỗ của tất cả Như-Lai, cũng nghe Phật nói diệu-pháp. Ta cũng thấy tất cả chư Phật, nơi mỗi lỗ lông xuất hiện, thần-thông biến hóa khắp tất cả pháp-giới-hải, khắp tất cả thế-giới hải, khắp tất cả thế-giới chủng, trong tất cả thế giới tùy tâm chúng-sanh mà chuyển chánh-pháp-luân.

Giảng: Chẳng những thấy được Phật tình hình như vậy, mà cũng thấy thân mình ở chỗ đạo tràng của tất cả các Như Lai đó. Lại cũng nghe tất cả các Như Lai đó nói diệu pháp. (Đây là Phật ở trong cõi nước). Ta cũng lại thấy tất cả chư Phật đó, trong mỗi mỗi lỗ chân lông, đều hiện ra đủ thứ biển biến hoá, thị hiện sức thần thông. Trong tất cả biển pháp giới, tất cả biển thế giới, tất cả thế giới chủng, tất cả thế giới, tuỳ thuận tâm của tất cả chúng sinh, mà chuyển bánh xe chánh pháp.

 

Ngã đắc tốc tật Đà-la-ni lực, thọ trì tư tánh nhất thiết văn nghĩa; dĩ minh liễu trí, phổ nhập nhất thiết thanh tịnh Pháp tạng; dĩ tự tại trí, phổ du nhất thiết thậm thâm pháp hải; dĩ chu biến trí, phổ tri tam thế chư quảng đại nghĩa; dĩ bình đẳng trí, phổ đạt chư Phật vô sái biệt Pháp.

Nhơn đó ta được sức tốc-tật đà-la-ni, thọ trì tư-duy tất cả văn nghĩa. Dùng trí minh-liễu vào khắp tất cả pháp-tạng thanh-tịnh. Dùng trí tự-tại dạo khắp tất cả thậm thâm pháp-hải. Dùng trí châu-biến biết khắp những nghĩa quảng-đại trong tam thế. Dùng trí bình-đẳng đạt khắp pháp vô-sai-biệt của chư Phật.

Giảng: Ta đắc được lực đà la ni mau chóng, thọ trì suy gẫm tất cả văn nghĩa của pháp. Dùng trí huệ sáng tỏ, vào khắp tất cả pháp tạng thanh tịnh vi diệu. Dùng trí huệ như ý tự tại, du khắp tất cả biển pháp thâm sâu vi diệu. Dùng trí huệ khắp cùng ngang dọc, biết khắp tất cả nghĩa lý của pháp rộng lớn ba đời. Dùng trí huệ bình đẳng rộng lớn, thông đạt khắp diệu pháp không khác biệt của tất cả chư Phật.

 

Như thị ngộ giải nhất thiết pháp môn; nhất nhất Pháp môn trung, ngộ giải nhất thiết tu-đa-la vân; nhất nhất tu-đa-la vân trung, ngộ giải nhất thiết pháp hải; nhất nhất pháp hải trung, ngộ giải nhất thiết pháp phẩm; nhất nhất pháp phẩm trung, ngộ giải nhất thiết pháp vân; nhất nhất pháp vân trung, ngộ giải nhất thiết pháp lưu; nhất nhất pháp lưu trung, xuất sanh nhất thiết Đại hỉ hải; nhất nhất Đại hỉ hải, xuất sanh nhất thiết địa; nhất nhất địa, xuất sanh nhất thiết tam muội hải; nhất nhất tam muội hải, đắc nhất thiết kiến Phật hải; nhất nhất kiến Phật hải, đắc nhất thiết trí quang hải; nhất nhất trí quang hải, phổ chiếu tam thế, biến nhập thập phương.

Ta hiểu rõ tất cả pháp-môn như vậy. Trong mỗi mỗi pháp-môn, hiểu rõ tất cả tu-đa-la-vân. Trong mỗi mỗi tu-đa-la-vân, ta hiểu rõ tất cả pháp-hải. Trong mỗi mỗi pháp-hải, ta hiểu rõ tất cả pháp-phẩm. Trong mỗi mỗi pháp-phẩm, ta hiểu rõ tất cả pháp-vân. Trong mỗi mỗi pháp-vân, ta hiểu rõ tất cả pháp-lưu. Trong mỗi mỗi pháp-lưu xuất sanh tất cả đại-hỉ-hải. Mỗi đại-hỉ-hải xuất sanh tất cả địa. Mỗi địa xuất sanh tất cả tam-muội-hải. Mỗi tam-muội-hải được tất cả kiến-phật-hải. Mỗi kiến-phật-hải được tất cả trí-quang-hải. Mỗi trí-quang-hải chiếu khắp tam-thế, vào khắp mười phương.

Giảng: Ngộ hiểu tất cả pháp môn như vậy. Trong mỗi mỗi pháp môn, giác ngộ thấu hiểu tất cả mây Tu Đa La (khế Kinh). Trong mỗi mỗi mây Tu Đa La, ngộ hiểu tất cả biển pháp thâm sâu vi diệu. Trong mỗi mỗi biển pháp, ngộ hiểu phẩm loại của tất cả pháp. Trong mỗi mỗi phẩm pháp, ngộ hiểu tất cả mây pháp. Mây thì lúc có, lúc không, lúc hiển, lúc ẩn. Có lúc đột nhiên giăng đầy khắp hư không. Có lúc, không có chút mây nào, bầu trời xanh bao la. Mây pháp có lý diệu không thể tả. Trong mỗi mỗi mây pháp, ngộ hiểu tất cả dòng pháp. Dòng nghĩa là dòng nước. Pháp chảy thì không có hình tướng, vì không có hình tướng, cho nên mới chảy, tức cũng là chẳng có chỗ nào mà chẳng có. Ví như nước biển cả, tháo hướng đông thì nước chảy về hướng đông; tháo hướng tây, thì nước chảy về hướng tây. Trong mỗi mỗi dòng pháp, sinh ra tất cả biển đại hỉ. Biển nghĩa là nhiều, hình dung vô lượng vô biên, không cách chi đo lường được. Trong mỗi mỗi biển đại hỉ, sinh ra tất cả địa. Địa ở đây là không hình tướng, giống như đất, đất hay sinh trưởng tất cả vạn vật. Sau đó hay sinh ra tất cả pháp địa, cũng hay sinh ra tất cả Thánh Hiền. Trong mỗi mỗi địa, sinh ra tất cả biển tam muội. Trong mỗi mỗi biển tam muội, thấy được tất cả biển chư Phật. Trong mỗi mỗi biển thấy chư Phật, lại đắc được biển nhất thiết trí huệ quang. Trong mỗi biển nhất thiết trí huệ quang, chiếu khắp ba đời, vào khắp mười phương.

 

Tri vô lượng Như Lai vãng tích chư hạnh hải; tri vô lượng Như Lai sở hữu bổn sự hải;

Biết những hạnh-hải thuở xưa của vô-lượng Như-Lai, biết những bổn-sự hải của vô-lượng Như-Lai,

Giảng: Biết được biển các hạnh thuở xưa của vô lượng Như Lai tu. Biết được biển hết thảy bổn sự của vô lượng Như Lai.

Biết được biển khó xả mà xả được của vô lượng Như Lai. Phật thành Chánh Đẳng Giác, nhất định phải trải qua hạnh môn khó xả mà xả được, khó thí mà thí được. Tóm lại, nếu muốn thành Phật, phải có tinh thần xả không được cũng phải xả. Nếu xả không được, thì còn có sự chấp trước. Có sự chấp trước thì không thể viên mãn lục độ vạn hạnh. Cho nên không xả được cũng phải xả. Người ta xả được, bạn cũng xả được; người ta làm được, bạn cũng làm được, đó chẳng phải là kỳ lạ gì! Người ta không xả được, mà bạn xả được; người ta không làm được, mà bạn làm được, đó mới chân thật. Tức là việc mình không làm được, cũng phải làm cho được. Chẳng những làm được, mà còn phải viên mãn rốt ráo, đó mới là chân chánh Phật pháp. Đây là hạnh bố thí Ba La Mật.

 

Tri vô lượng Như Lai nan xả năng thí hải; tri vô lượng Như Lai thanh tịnh giới luân hải;

Biết năng-xả nan-thí-hải của vô-lượng Như-Lai, biết thanh-tịnh giới-luân-hải của vô-lượng Như-Lai,

Giảng: Biết được biển giới luân thanh tịnh của vô lượng Như Lai, đây là hạnh môn trì giới Ba La Mật.

 

Tri vô lượng Như Lai thanh tịnh kham nhẫn hải; tri vô lượng Như Lai quảng đại tinh tấn hải

Biết thanh-tịnh kham-nhẫn-hải của vô-lượng Như-Lai, biết quảng-đại-tinh-tấn hải của vô-lượng Như-Lai,

Giảng: Biết được biển kham nhẫn thanh tịnh của vô lượng Như Lai, đây là hạnh môn nhẫn nhục Ba La Mật.

 

Tri vô lượng Như Lai thậm thâm Thiền định hải; tri vô lượng Như Lai Bát-nhã Ba-la-mật hải

Biết thậm-thâm thiền-định hải của vô-lượng Như-Lai, biết bát-nhã ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai,

Giảng: Biết biển tinh tấn rộng lớn của vô lượng Như Lai, đây là hạnh môn tinh tấn Ba La Mật. Biết được biển thiền định thâm sâu của vô lượng Như Lai, đây là hạnh môn thiền định Ba La Mật. Biết được biển Bát Nhã Ba La Mật của vô lượng Như Lai.

 

Tri vô lượng Như Lai phương tiện ba la mật hải; tri vô lượng Như Lai nguyện Ba-la-mật hải

Biết phương-tiện ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết nguyện ba-la-mật hải của vô lượng Như-Lai,

Giảng: Biết được biển phương tiện Ba La Mật của vô lượng Như Lai. Biết được biển nguyện Ba La Mật của vô lượng Như Lai. Biết được biển lực Ba La Mật của vô lượng Như Lai.

 

Tri vô lượng Như Lai lực ba-la-mật hải; tri vô lượng Như Lai trí Ba-la-mật hải

Biết lực ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai, biết trí ba-la-mật hải của vô-lượng Như-Lai,

Giảng: Biết được biển trí Ba La Mật của vô lượng Như Lai. Đây là nói về mười độ như biển cả, thâm sâu không thể dò, rộng không thể lường, hình dùng không có bờ mé.

 

Tri vô lượng Như Lai vãng tích siêu Bồ Tát địa; tri vô lượng Như Lai vãng tích trụ  Bồ Tát địa vô lượng kiếp hải hiện thần thông lực;

Biết vô-lượng Như-Lai thuở xưa siêu bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, hiện thần-thông lực trong vô-lượng kiếp hải.

Giảng: Biết vượt qua Bồ Tát địa thuở xưa của vô lượng Như Lai. Biết an trụ Bồ Tát địa thuở xưa của vô lượng Như Lai. Trong vô lượng biển kiếp hiện sức thần thông.

 

Tri vô lượng Như Lai vãng tích nhập Bồ Tát địa; tri vô lượng Như Lai vãng tích tu Bồ Tát địa

Cũng biết vô-lượng Như-Lai thuở xưa nhập bồ-tát-địa, tu bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, tu bồ-tát-địa.

Giảng: Biết nhập vào Bồ Tát địa thuở xưa của vô lượng Như Lai. Biết tu trì Bồ Tát địa thuở xưa của vô lượng Như Lai. Biết tịnh trị Bồ Tát địa thuở xưa của vô lượng Như Lai. Biết quán sát Bồ Tát địa thuở xưa của vô lượng Như Lai.

 

Tri vô lượng Như Lai vãng tích trì Bồ Tát địa; tri vô lượng Như Lai vãng tích quán  Bồ Tát địa

Cũng biết vô-lượng Như-Lai thuở xưa nhập bồ-tát-địa, tu bồ-tát-địa, trụ bồ-tát-địa, quán bồ-tát-địa.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai thuở xưa khi tu hành Bồ Tát hạnh, thì thường thấy mười phương ba đời tất cả chư Phật.

 

Tri vô lượng Như Lai tích vi Bồ Tát thời, thường kiến chư Phật;  tri vô lượng Như Lai tích vi Bồ Tát thời, tận kiến Phật hải, kiếp hải đồng trụ

Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát thường thấy chư Phật-hải, kiếp-hải đồng-trụ.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai thuở xưa khi tu hành Bồ Tát hạnh, thì thấy hết biển chư Phật cõi chư Phật đồng trụ.

 

Tri vô lượng Như Lai tích vi Bồ Tát thời, dĩ vô lượng thân biến sanh sát hải

Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa, lúc làm Bồ-Tát, dùng vô-lượng thân sanh khắp sát-hải.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai thuở xưa khi tu hành Bồ Tát hạnh, thì dùng vô lượng thân khắp sinh trong vô lượng biển cõi.

 

Tri vô lượng Như Lai tích vi Bồ Tát thời, chu biến pháp giới tu quảng đại hạnh

Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa lúc làm Bồ-Tát, cùng khắp pháp-giới tu hạnh quảng-đại.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai thuở xưa khi tu hành Bồ Tát hạnh, thì tu hạnh rộng lớn, khắp cùng pháp giới.

 

Tri vô lượng Như Lai tích vi Bồ Tát thời, thị hiện chủng chủng chư phương tiện môn, điều phục thành thục nhất thiết chúng sanh

Biết vô-lượng Như-Lai, thuở xưa lúc làm Bồ-Tát, thị-hiện những phương-tiện-môn điều phục thành-thục tất cả chúng-sanh.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai thuở xưa khi tu hành Bồ Tát hạnh, thì thị hiện đủ thứ các môn phương tiện, để điều phục thành thục tất cả chúng sinh.

 

Tri vô lượng Như Lai phóng đại quang minh, phổ chiếu thập phương nhất thiết sát hải;

Biết vô-lượng Như-Lai phóng đại quang-minh chiếu khắp tất cả sát-hải mười phương.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai phóng đại quang minh, chiếu sáng khắp mười phương tất cả biển cõi chư Phật.

 

Tri vô lượng Như Lai hiện đại thần lực, phổ Hiện-Nhất-Thiết chư chúng sanh tiền

Biết vô-lượng Như-Lai hiện đại-thần-lực ra trước tất cả chúng-sanh.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai hiện ra đại thần lực, khắp hiện ở trước tất cả chúng sinh, để vì chúng sinh thuyết pháp.

 

Tri vô lượng Như Lai quảng đại trí địa

Biết trí quảng-đại của vô-lượng Như-Lai.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai bậc trí huệ rộng lớn.

 

Tri vô lượng Như Lai chuyển chánh Pháp luân

Biết vô-lượng Như-Lai chuyển chánh-pháp-luân.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai chuyển bánh xe chánh pháp. .

 

Tri vô lượng Như Lai thị hiện tướng hải

Biết vô-lượng Như-Lai thị-hiện tướng-hải.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai thị hiện tất cả biển tướng

 

Tri vô lượng Như Lai thị hiện thân hải

Biết vô-lượng Như-Lai thị-hiện thân hải.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai thị hiện thân tướng, như biển cả.

 

Tri vô lượng như lai quảng đại lực hải.

Biết vô-lượng Như-Lai quảng-đại lực hải.

Giảng: Biết vô lượng Như Lai đại lực rộng lớn, như biển cả.

 

Bỉ chư Như Lai, tùng sơ phát tâm, nãi chí pháp diệt; ngã ư niệm niệm, tất đắc tri kiến.

Tất cả chư Như-Lai đó từ sơ phát tâm nhẩn đến pháp-diệt, trong mỗi niệm ta đều thấy biết.

Giảng: Các Như Lai đó, từ lúc ban đầu phát tâm, cho đến pháp diệt cuối cùng, ta ở trong niệm niệm đều thấy biết được cảnh giới đó, rất rõ ràng.

 

Thiện nam tử! nhữ vấn ngã ngôn: nhữ phát tâm lai, kỳ dĩ cửu như?

Nầy thiện-nam-tử ! Ngươi hỏi ta phát tâm đã bao lâu ?

Giảng: Vị Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải nói: Thiện nam tử! Ngươi đến hỏi ta rằng: Ngài phát tâm bồ đề cho đến hiện tại đã được bao lâu?

 

Thiện nam tử! ngã ư vãng tích, qua nhị Phật sát vi trần số kiếp, như thượng sở thuyết, ư thanh Tịnh Quang kim trang nghiêm thế giới trung, vi Bồ-đề thụ Thần, văn Bất-thoái-chuyển Pháp giới âm Như Lai thuyết Pháp, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm; ư nhị Phật sát vi trần số kiếp trung tu Bồ Tát hạnh, nhiên hậu nãi sanh thử Ta Bà thế giới hiền kiếp chi trung. Tùng Ca la cưu tôn Đà Phật chí Thích Ca Mâu Ni Phật, cập thử kiếp trung vị lai sở hữu nhất thiết chư Phật, ngã giai như thị thân cận cúng dường.

Nầy thiện-nam-tử ! Thuở xưa quá hai phật sát vi-trần-số kiếp như đã nói ở trên, trong thế-giới thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm, ta làm Bồ-Đề-Thọ thần nghe đức Bất-Thối-Chuyển-Pháp-Giới Ấm Như-Lai thuyết pháp, ta phát tâm vô-thượng bồ-đề, tu bồ-tát hạnh suốt hai phật-sát vi-trần-số kiếp sau đó mới sanh trong Hiền-Kiếp nơi Thế Giới Ta-Bà nầy, từ Câu-Lưu-Tôn-Đà Phật, đến Thích-Ca-Mâu-Ni Phật, và tất cả Phật vị-lai trong kiếp nầy, ta đều thân-cận cúng dường như vậy.

Giảng: Thiện nam tử! Thuở xưa, ta trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi hai cõi Phật, như tình hình đã nói ở trên, trong thế giới Thanh Tịnh Quang Kim Trang Nghiêm, làm Bồ Đề Thụ Thần. Lắng nghe Như Lai Bất Thối Chuyển Pháp Giới Âm diễn nói diệu pháp, mà ta phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức cũng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ở trong số kiếp nhiều như số hạt bụi hai cõi Phật, tu Bồ Tát hạnh, sau đó mới sinh vào thế giới Ta Bà trong kiếp Hiền nầy. Từ đức Phật Câu Lưu Tôn, cho đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Vị Phật thứ tư trong kiếp Hiền).

Tại sao gọi là kiếp Hiền? Vì trong kiếp nầy, có một ngàn vị Phật xuất hiện ra đời, nên gọi là kiếp Hiền. Trong Kinh Đại Bi có nói rằng : “Đức Phật nói với Ngài A Nan rằng: Tại sao gọi là kiếp Hiền? A Nan! Ba ngàn đại thiên thế giới nầy, khi kiếp sắp thành, thì nước dâng lên ngập hết. Bấy giờ, Trời Tịnh Cư dùng thiên nhãn thấy thế giới nầy, toàn là nước lớn, thấy có một ngàn đoá hoa sen đẹp. Mỗi mỗi hoa sen, đều có ngàn cánh, màu vàng ròng, ánh sáng vàng ròng, chói sáng chiếu khắp, hương thơm toả ra, rất đáng ưa thích. Trời Tịnh Cư đó, do thấy như vậy rồi, tâm sinh hoan hỉ, nhảy nhót vô lượng, mà hoan hỉ nói rằng: Lạ thay lạ thay! Ít có ít có, như trong kiếp nầy, sẽ có một ngàn vị Phật xuất hiện ra đời. Bởi nhân duyên đó, nên kiếp nầy tên là Hiền”.

Và trong kiếp nầy, hết thảy tất cả chư Phật vị lai, ta đều gần gũi cúng dường chư Phật như vậy.

 

Như ư thử thế giới hiền kiếp chi trung, cúng dường vị lai nhất thiết chư Phật; nhất thiết thế giới nhất thiết kiếp trung, sở hữu vị lai nhất thiết chư Phật, tất diệc như thị thân cận cúng dường.

Trong tất cả thế-giới tất cả kiếp vị-lai đây có tất cả chư Phật, ta cũng đều thân-cận cúng-dường như vậy.

Giảng: Như trong kiếp Hiền thế giới nầy, cúng dường tất cả chư Phật vị lai. Trong tất cả thế giới, tất cả kiếp, hết thảy chư Phật vị lai, cũng đều như vậy, ta đều gần gũi cúng dường.

 

Thiện nam tử! bỉ thanh Tịnh Quang kim trang nghiêm thế giới, kim do hiện tại, chư Phật xuất hiện tướng tục bất đoạn.

Nầy thiện-nam-tử ! Thế-giới Thanh-tịnh-Quang-Kim-Trang-Nghiêm hiện nay vẫn còn, chư Phật nối tiếp xuất hiện không dứt.

Giảng: Thiện nam tử! Thế giới Thanh Tịnh Quang Kim Trang Nghiêm đó, nay vẫn còn tồn tại. Chư Phật vẫn xuất hiện ra đời, liên tục không ngừng.

 

Nhữ đương nhất tâm tu thử Bồ Tát đại dũng mãnh môn. Nhĩ thời, tịch tĩnh âm hải chủ dạ thần, dục trọng tuyên thử giải thoát nghĩa, vi Thiện tài đồng tử nhi thuyết tụng ngôn:

Ngươi nên nhứt tâm tu môn bồ-tát-đại-dũng-mãnh nầy. Bấy giờ Chủ-Dạ-Thần Tịch-Tịnh-Ấm-Hải muốn tuyên lại nghĩa giải-thoát nầy, vì Thiện-Tài Đồng-Tử mà nói kệ rằng :

Giảng: Ngươi nên phát tâm đại bồ đề, một lòng chuyên nhất tu pháp môn Bồ Tát đại dũng mãnh nầy. (Đây là khuyên siêng tu tập). Lúc đó, vị Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải, Ngài muốn thuật lại nghĩa giải thoát nầy, vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

 

Thiện Tài thính ngã thuyết                       Thiện-Tài nghe ta nói
Thanh tịnh giải thoát môn,                       Môn thanh-tịnh giải thoát
Văn dĩ sanh hoan hỉ                                  Nghe rồi sanh vui mừng
Cần tu lệnh cứu cánh                                Siêng tu cho rốt ráo

Thiện Tài ! Ngươi hãy chú ý lắng nghe lời ta nói, ta sẽ nói cho ngươi biết pháp môn giải thoát thanh tịnh, khiến cho ngươi nghe rồi, nhất định sẽ sinh tâm đại hoan hỉ, ngươi phải siêng năng tu học pháp môn giải thoát nầy cho minh bạch, hiểu biết rốt ráo.

 

Ngã tích ư kiếp hải,                                   Xưa, vi-trần kiếp hải.
Sanh Đại tín lạc tâm                                  Ta phát tính nguyện lớn
Thanh tịnh như hư không                         Thanh-tịnh như hư-không
Thường quán nhất thiết trí                       Thường quán nhất-thiết-trí

Thuở xưa, ta ở trong biển kiếp, phát tâm đại bồ đề, sinh tâm tín ngưỡng Phật, tâm hoan hỉ học Phật pháp. Trong tâm thanh tịnh không nhiễm, như hư không, thường quán sát nghiên cứu tu hành pháp nhất thiết trí huệ.

 

Ngã ư tam thế Phật                                   Ta nơi tam thế Phật
Giai sanh tín lạc tâm                                 Đều có lòng tin mến
Tinh cập kỳ chúng hội,                              Cùng chúng-hội đạo-tràng
Tất nguyện thường thân cận.                   Đều nguyện thường thân-cận.

Ta đối với chư Phật mười phương ba đời, đều sinh tâm tín ngưỡng và hoan hỉ. Bất cứ vị Phật nào ra đời, ta đều đến gần gũi cúng dường. Đạo tràng của chư Phật, như có pháp hội, ta nhất định tham gia, lắng nghe diệu pháp của chư Phật nói, lúc nào cũng đều muốn gần gũi chư Phật.

 

Ngã tích tằng kiến Phật,                           Xưa tôi từng thấy Phật
Vi chúng sanh cúng dường                       Vì chúng-sanh cúng-dường
Đắc văn thanh tịnh Pháp                          Được nghe pháp thanh-tịnh
Kỳ tâm đại hoan hỉ.                                   Tâm mình rất hoan-hỉ

Thuở xưa, ta đã từng thấy tất cả chư Phật. Ta đại biểu cho tất cả chúng sinh cúng dường tất cả chư Phật, nghe được diệu pháp của chư Phật nói – môn giải thoát thanh tịnh. Nghe rồi, tâm sinh đại hoan hỉ.

 

Thường tôn trọng phụ mẫu                      Thường tôn trọng phụ mẫu
Cung kính nhi cúng dường                       Cung-kính mà cúng-dường
Như thị vô hưu giải,                                   Không thôi trễ như vậy
Nhập thử giải thoát môn.                          Vào môn giải-thoát nầy.

Ta thường tôn trọng cha mẹ của ta, lúc nào cũng cung kính, cúng dường, chẳng khi nào ngừng nghỉ và giải đãi. Ta luôn luôn tôn trọng chư Phật, giống như tôn trọng cha mẹ. Ta cung kính Phật, gần gũi Phật, hầu hạ Phật, cúng dường Phật. Trong vô lượng kiếp, ta đều phát tâm như vậy, không ngừng nghỉ giải đãi, cho nên mới đắc được môn giải thoát hỉ trang nghiêm rộng lớn nầy. (Chẳng có mọi sự chướng ngại, đắc được chân chánh tự tại, vô câu vô thúc, không quái không ngại, chẳng có mọi sự phiền não, nên gọi là môn giải thoát.

 

Lão bệnh bần cùng nhân                          Người già bệnh nghèo cùng
Chư căn bất cụ túc                                   Căn thân chẳng toàn vẹn
Nhất thiết giai mẫn tế                                Đều thương giúp tất cả
Lệnh kỳ đắc an ổn.                                    Cho họ được an-ổn.

Đối với người già, người bệnh, người bần cùng, người sáu căn không đầy đủ, phải thương xót họ, cứu giúp họ, khiến cho họ được an ổn. Khôi phục lại tự tánh vốn có, sinh hoạt lại bình thường. Phật giáo đồ phải có tinh thần từ bi làm hoài bảo, phương tiện làm cửa.

 

Thủy hỏa cập vương tặc                           Nước, lửa và vua, giặc
Hải trung chư khủng bố                           Trong biển có khủng bố
Ngã tích tu chư hạnh                                Xưa ta tu các hạnh
Vi cứu bỉ chúng sanh.                               Vì cứu chúng-sanh đó.

Người có tam tai và bát nạn, do nghiệp lực đưa đến. Tam tai là gì? Tức là nạn nước, nạn lửa, nạn gió. Bát nạn là gì? Tức là nạn vua, nạn cướp, nạn rồng độc, nạn thuốc độc, nạn ác quỷ, nạn thú dữ, nạn Dạ Xoa, nạn La Sát, và tất cả sự sợ hãi ở trong biển. Vị Dạ Thần nói: Thuở xưa ta tu tất cả các hạnh, là vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Phàm là chúng sinh có tam tai bát nạn, thì ta nhất định sẽ cứu họ thoát khỏi hiểm cảnh dầu sôi lửa bỏng.

 

Phiền não hằng sí nhiên                            Phiền-não hằng hẩy hừng
Nghiệp chướng sở triền phước                 Nghiệp-chướng luôn ràng buộc
Đọa ư chư hiểm đạo,                                 Sa vào các đường hiểm
Ngã cứu bỉ chúng sanh.                            Ta cứu chúng-sanh đó.

Phiền não tức là phiền thân não tâm, đau khổ giống như lửa lớn đốt thân. Tại sao có sự nóng bức như vậy? Vì bị nghiệp chướng trói buộc và che đậy, cho nên chẳng được giải thoát, do đó mà đoạ vào trong các đường hiểm, tức cũng là đường A tu la, đường súc sinh, đường ngạ quỷ, đường địa ngục, đây là bốn đường ác. Ta phải cứu những chúng sinh đó, thoát khỏi biển khổ, đến được bờ bên kia.

 

Nhất thiết chư ác thú                                Tất cả các ác-thú
Vô lượng sở độc khổ                                  Vô-lượng sự khốn khổ
Sanh lão bệnh tử đẳng                              Sanh già bệnh chết thảy
Ngã đương tất trừ diệt.                             Ta sẽ đều trừ diệt.

Chúng sinh trong tất cả các cõi ác, thọ vô lượng đủ thứ sự khổ não và độc hại. Còn có thọ khổ sinh, già, bệnh, chết, thương nhau mà xa lìa, ghét mà gặp nhau, cầu mà không được, năm ấm thiêu đốt. Ta đều sẽ trừ diệt hết khổ cho họ.

 

Nguyện tận vị lai kiếp                                Nguyện tận kiếp vị-lai
Phổ vi chư quần sanh                                Vì khắp các chúng-sanh
Diệt trừ sanh tử khổ                                  Diệt trừ khổ sanh tử
Đắc Phật cứu cánh lạc                              Được Phật rốt ráo vui.

Ta phát đại thệ nguyện, hết kiếp thuở vị lai, khắp vì tất cả chúng sinh, tiêu diệt hết sạch tất cả khổ sinh tử, khiến cho họ được an vui rốt ráo thường lạc ngã tịnh bốn đức Niết Bàn của Phật.

Mười bài kệ ở trên, bài kệ đầu tiên nói về nghe bảo siêng tu. Kế tám bài kệ sau là thấu rõ hạnh xưa. Bốn bài kệ trước, là trí hạnh thượng cúng. Bốn bài kệ sau là bi tâm hạ cứu. Bài kệ cuối cùng là kết hạnh phân đều.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử niệm niệm sanh quảng đại hỉ trang nghiêm giải thoát. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, thâm nhập nhất thiết pháp giới hải, tất tri nhất thiết chư kiếp số, phổ kiến nhất thiết sát thành hoại; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Nầy thiện-nam-tử ! Ta chỉ biết môn giải-thoát niệm-niệm-sanh-quảng-đại-trí-trang-nghiêm nầy. Như chư đại Bồ-Tát thâm-nhập tất cả pháp-giới-hải, đều biết tất cả những kiếp-số, thấy khắp tất cả cỏi thành hoại. Ta thế nào biết được nói được công-đức-hạnh đó.

Giảng: Vị Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải gọi một tiếng thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát niệm niệm sinh ra hỉ trang nghiêm rộng lớn nầy mà thôi. Còn như các đại Bồ Tát, làm thế nào vào sâu tất cả biển pháp giới? Làm thế nào biết tất cả các kiếp số? Làm thế nào thấy khắp tất cả cõi thành trụ hoại không? Những vấn đề đó, ta làm sao biết được! Ta làm sao nói được những hạnh công đức đó?

 

Thiện nam tử! thử Bồ-đề trường Như Lai hội trung, hữu chủ dạ thần, danh: thủ hộ nhất thiết thành tăng trưởng uy lực.

Nầy thiện-nam-tử ! Trong hội bồ-đề-tràng của đức Như-Lai đây có Chủ-Dạ-Thần tên là Thủ-Hộ-Nhất-Thiết-Thành-Tăng-Trưởng-Oai-Lực.

Giảng: Thiện nam tử! Ở trong pháp hội Như Lai bồ đề đạo tràng nầy, có vị Chủ Dạ Thần, tên là Thủ Hộ Nhất Thiết Thành Tăng Trưởng Oai Lực.

 

Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo? Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm quan sát tịch tĩnh âm hải chủ dạ thần thân, nhi thuyết tụng ngôn:

Ngươi đến đó hỏi Bồ-Tát thế nào học bồ-tát hạnh, tu bồ-tát-đạo. Thiện-Tài nhứt-tâm quan-sát thân của Chủ-Dạ-Thần-Tịch-Tịnh-Ấm-Hải rồi nói kệ rằng :

Giảng: Ngươi nên đến đó hỏi Ngài: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Ngài sẽ giải thích, chỉ bày minh bạch rõ ràng.

Một số người học Phật, hoan hỉ học theo Thiện Tài đồng tử, cho rằng bái sư càng nhiều thầy càng tốt, đây là tư tưởng hoàn toàn sai lầm! Phải biết Thiện Tài đồng tử tuy đi tham phương 53 vị thiện tri thức, đó là vâng lời thầy, chẳng phải tự nhiên đi bái sư, mà là trải qua sự giới thiệu của thiện tri thức. Thiện Tài đồng tử vì pháp quên mình, leo núi lội nước, dãi nắng dầm mưa, trải qua năm tháng, tinh tấn tiến về trước, thứ lớp tham phương thiện tri thức, cuối cùng đạt thành chí nguyện của Ngài, do đó có câu:
“Xuất gia chẳng tham phương
Như Phật tổ chưa khai quang”.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng quán sát thân của vị Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải, mà nói kệ rằng:

 

Ngã nhân thiện hữu giáo                          Tôi do Thiện-Hữu dạy
Lai nghệ thiên thần sở,                              Đến chỗ Chủ-Dạ-Thần
Kiến Thần xứ bảo tọa                               Thấy Thần ngồi bửu-tòa
Thân lượng vô hữu biên.                           Thân lượng lớn vô-biên.

Thiện Tài đồng tử nói với vị Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải: Con nhờ người bạn lành Chủ Dạ Thần Phổ Cứu Chúng Sinh Diệu Đức giới thiệu, đi đến chỗ Ngài Thiên Thần. Con thấy Thiên Thần ngồi nơi toà báu sư tử, thân lượng của Ngài rộng lớn vô lượng vô biên không có bờ mé, khiến cho con vô cùng cung kính.

 

Phi thị trước sắc tướng                             Những người chấp sắc-tướng
Kế hữu ư chư Pháp                                   Chấp các pháp là có
Liệt trí thiển thức nhân                             Kẻ trí kém hiểu cạn
Năng tri tôn cảnh giới.                              Chẳng biết cảnh-giới Thần.

Chẳng phải con chấp vào sắc tướng thân thể, cho các pháp là có, là không, tuyệt đối chẳng phải như thế. Những người trí kém cỏi, hiểu biết nông cạn, họ không cách gì biết về cảnh giới của Ngài.

 

Thế gian thiên cập nhân                           Trời và người thế gian
Vô lượng kiếp quan sát,                            Quan-sát vô-lượng kiếp
Diệc bất năng trắc độ,                              Cũng chẳng tính lường được
Sắc tướng vô biên cố.                                Vì sắc-tướng vô-biên

Chư Thiên và người thế gian, họ ở trong vô lượng kiếp quán sát cảnh giới của Ngài, cũng không thể nào dò lường được cảnh giới của Ngài. Tại sao vậy? Vì sắc tướng của Ngài vô biên, vô cùng vô tận, không cách chi dò lường được.

 

Viễn ly ư ngũ uẩn                                      Xa lìa nơi năm uẩn
Diệc bất trụ ư xứ,                                      Cũng chẳng trụ nơi xứ
Vĩnh đoạn thế gian nghi,                           Dứt hẳn thế-gian nghi
Hiển hiện tự tại lực.                                   Hiển hiện sức tự tại

Thân Ngài chẳng phải thành tựu bởi sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn, cũng không trụ chỗ nào, dứt hẳn tất cả nghi hoặc thế gian, hiển hiện sức tự tại vi diệu không thể nghĩ bàn.

 

Bất thủ nội ngoại Pháp,                            Chẳng chấp pháp nội ngoại
Vô động vô sở ngại,                                   Không động không chướng ngại
Thanh tịnh trí Tuệ-nhãn,                          Mắt trí-huệ thanh-tịnh
Kiến Phật thần thông lực.                        Thấy Phật thần-thông-lực

Cũng chẳng chấp pháp trong, cũng chẳng chấp pháp ngoài. Không lay động, không chướng ngại. Mắt trí huệ thanh tịnh của Ngài, thấy được tất cả thần thông lực của chư Phật, thiên biến vạn hoá.

 

Thân vi chánh pháp tạng,                         Thân là chánh-pháp-tạng
Tâm thị vô ngại trí,                                    Tâm là trí vô-ngại
Ký đắc trí quang chiếu,                            Đã được trí quang chiếu
Phục chiếu chư quần sanh.                      Lại chiếu các quần-sanh

Thân của Ngài là chánh pháp tạng, tâm của Ngài là trí vô ngại. Liền được trí huệ quang minh chiếu sáng, lại chiếu sáng tất cả quần sinh, quần sinh tức cũng là chúng sinh, bao quát phi tiềm động thực.

 

Tâm tập vô biên nghiệp,                            Tâm nhóm vô-biên nghiệp
Trang nghiêm chư thế gian                       Trang-nghiêm các thế gian
Liễu thế giai thị tâm                                  Biết thế-gian là tâm
Hiện thân đẳng chúng sanh                      Hiện thân khắp chúng-sanh

Trong tâm tích tập vô biên công đức nghiệp, trang nghiêm tất cả thế gian pháp hữu vi và pháp vô vi. Thấu rõ hết thảy tất cả thế gian đều do tâm hiện. Do đó có câu: “Tất cả do tâm tạo”. Thân thị hiện ra nhiều đồng số chúng sinh.

 

Tri thế tất như mộng,                                Biết thế-gian như mộng
Nhất thiết Phật như ảnh,                          Tất cả phật như bóng
Chư Pháp giai như hưởng                        Các pháp đều như vang
Lệnh chúng vô sở trước.                           Khiến người không chấp trước

Biết tất cả tướng thế gian, thảy đều như mộng huyễn. Tất cả chư Phật như bọt bóng. Tất cả các pháp đều như tiếng vang, đều là hư vọng không thật, khiến cho tất cả chúng sinh không chấp trước.

Người tu hành, trước hết phải minh bạch tất cả pháp, hoàn toàn do vọng tâm của mình biến hiện, đều là giả không. Nếu vọng tâm nầy không chấp trước vào tất cả cảnh giới, thì trong tâm sẽ thanh tịnh, còn có gì gọi là người? gì gọi là pháp? có gì để phân biệt? có gì để chấp trước? Nếu trừ sạch hai thứ chấp người và chấp pháp, thì có thể chứng được giải thoát. Giải thoát tức là chấm dứt sinh tử, chẳng còn thọ khổ luân hồi nữa.

 

Vi tam thế chúng sanh,                             Vì tam-thế chúng-sanh
Niệm niệm thị hiện thân,                           Niệm niệm thị-hiện thân
Nhi tâm vô sở trụ,                                      Mà tâm vô-sở trụ
Thập phương biến thuyết Pháp.              Mười phương khắp nói pháp

Vì hết thảy chúng sinh ba đời, ở trong niệm niệm thị hiện tất cả sắc tướng, tất cả thân, mà tâm chẳng chỗ trụ, mà đi đến mười phương thế giới, khắp vì tất cả chúng sinh nói pháp, độ thoát họ phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo.

 

Vô biên chư sát hải,                                   Vô-biên những sát-hải
Phật hải chúng sanh hải,                          Phật-hải chúng-sanh-hải
Tất tại nhất trần trung,                            Đều ở trong một trần
Thử tôn giải thoát lực.                               Là giải-thoát của Thần.

Có vô lượng vô biên các biển cõi, biển Phật, biển chúng sinh, hoàn toàn đều ở trong một hạt bụi, đây là sức giải thoát của Ngài Thiên Thần, thật là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Mười bài kệ trên, bài kệ thứ nhứt rõ nhân hữu được thấy. Bài kệ thứ hai ký đối hiển thắng. Sáu bài kệ kế tiếp đương tướng hiển thắng. Bài kệ cuối tổng kết viên dung.
Thời, Thiện tài đồng tử thuyết thử kệ dĩ, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.

Nói kệ xong, Thiện-Tài đảnh lễ Dạ-Thần hữu-nhiễu vô-số vòng ân-cần chiêm-ngưỡng từ tạ mà đi.

Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói bài kệ nầy rồi, bèn đảnh lễ vị Chủ Dạ Thần, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng dung nhan vị Chủ Dạ Thần Tịch Tĩnh Âm Hải, mắt không tạm rời, từ tạ mà đi, tham phương vị thiện tri thức khác.