Kinh Pháp Hoa – Phẩm Công Ðức Pháp Sư

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp

Phật Sở Hộ Niệm

Phụng chiếu dịch: Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập

Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá

— o0o —

Phẩm Công Ðức Pháp Sư

 

Pháp sư là gì ? Nói đơn giản là tinh thông Phật pháp, vì người làm thầy. Pháp sư có năm loại :

1). Thọ trì pháp sư : Ðối với Phật pháp, thọ nơi tâm trì nơi thân, nghiêm cách thực tiễn.

2). Ðọc kinh pháp sư : Ðối với kinh điển, hằng ngày lấy sự đọc kinh làm sự tu trì.

3). Tụng kinh pháp sư : Học thuộc kinh điển, hằng ngày lấy sự tụng kinh làm sự tu trì.

4). Giải nói pháp sư : Vì chúng sinh mà giải thích nghĩa kinh, nói rõ đạo lý, khiến cho chúng sinh y pháp tu hành.

5). Biên chép pháp sư : Cung kính biên chép kinh điển, hoặc cúng nơi tháp miếu, khiến cho chúng sinh lễ bái, gieo trồng căn lành, hoặc ấn tống kinh điển, truyền bá cho đời, khiến cho chúng sinh đọc tụng, chiếu theo nghĩa kinh mà tu hành. Tay tự biên chép kinh điển mới có công đức không thể nghĩ bàn.

Ðầy đủ mười đức hạnh sau đây, thì là đại pháp sư :
1). Khéo biết nghĩa của pháp.
2). Rộng tuyên nói được.
3). Trong đại chúng chẳng sợ.
4). Biện tài vô ngại.
5). Khéo nói phương tiện.
6). Pháp tùy đức hạnh.
7). Oai nghi đầy đủ.
8). Dũng mãnh tinh tấn.
9). Thân tâm chẳng mệt.
10). Thành tựu nhẫn nhục.

Công đức là gì ? Hết việc ác là công, đầy việc lành là đức. Tức cũng là tu công đức có sở đắc. Lại có thể nói, công là chỉ hành vi thiện mà nói; đức là chỉ tâm lý thiện mà nói. Phẩm này nói rõ về công đức thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khiến cho sáu căn thanh tịnh, có công năng hổ dụng sáu căn.

 

Nhĩ thời Phật cáo Thường tinh tấn Bồ Tát Ma Ha Tát: “Nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, thọ trì thị Pháp Hoa Kinh, nhược độc, nhược tụng, nhược giải thuyết, nhược thư tả, thị nhân đương đắc bát bách nhãn công đức, Thiên nhị bách nhĩ công đức, bát bách tỳ công đức, Thiên nhị bách thiệt công đức, bát bách thân công đức, Thiên nhị bách ý công đức, dĩ thị công đức, trang nghiêm lục căn, giai lệnh thanh tịnh.”

Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thường Tinh Tấn đại Bồ Tát rằng: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh.

Ðức Phật nói xong Phẩm Tùy Hỷ Công Ðức, thì lúc đó, bảo đại Bồ Tát Thường Tinh Tấn rằng : ‘’Nếu người thiện nam, người thiện nữ, hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, thọ trì Kinh Pháp Hoa, hoặc là đọc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì người đó được tám trăm công đức nơi mắt, một ngàn hai trăm công đức nơi tai, được tám trăm công đức nơi mũi, được một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi, được tám trăm công đức nơi thân, được một ngàn hai trăm công đức nơi ý.’’

Sáu căn của chúng ta, mỗi một căn, đều có một ngàn hai trăm công đức, ở trước có ba trăm công đức, ở sau có ba trăm công đức, ở bên trái có ba trăm công đức, ở bên phải có ba trăm công đức, hợp lại có một ngàn hai trăm công đức. Có người hỏi : ‘’Tức nhiên mỗi một căn có một ngàn hai trăm công đức, tại sao con mắt chỉ có tám trăm công đức ?‘’ Vì cái thấy của con mắt chẳng viên mãn, thấy trước mà chẳng thấy sau, thấy bên trái chẳng thấy bên phải, cho nên chỉ có tám trăm công đức. Lỗ tai có thể nghe được âm thanh trước sau, bên trái bên phải, chẳng có chướng ngại, đầy đủ viên mãn, cho nên có một ngàn hai trăm công đức. Lỗ mũi giữa sự hít vào thở ra có chỗ ngừng nghỉ, cho nên chỉ có tám trăm công đức. Lưỡi nếm mùi vị công đức đầy đủ viên mãn, cho nên có một ngàn hai trăm công đức. Thân thể có xúc giác thuận nghịch hai duyên, nghịch thì chẳng thích xúc trần, thuận thì thích xúc trần. Giữa thuận và nghịch thiếu bốn trăm công đức. Ý thức có tư tưởng, có phân biệt, đầy đủ viên mãn cho nên có một ngàn hai trăm công đức.

Pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa có sáu ngàn công đức, để trang nghiêm sáu căn, khiến cho sáu căn đều được thanh tịnh. Mắt thấy rõ, tai thính, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tốt đẹp, ý thông đạt, đắc được phước báu thù thắng. Phẩm này, dùng Bồ Tát Thường Tinh Tấn làm đương cơ chúng. Nếu muốn có công đức, thì phải thường tinh tấn. Thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày tinh tấn, đêm tinh tấn, thời thời siêng tinh tấn. Nếu chẳng tinh tấn thì chẳng có công đức, cho nên người tu đạo, phải ngày đêm sáu thời thường tinh tấn.

 

Thị Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phụ mẫu sở sanh thanh tịnh nhục nhãn. Kiến ư tam Thiên đại Thiên thế giới nội ngoại sở hữu sơn lâm hà hải. Hạ chí A tỳ địa ngục, thượng chí hữu đính, diệc kiến kỳ trung nhất thiết chúng sanh cập nghiệp nhân duyên, quả báo sanh xứ, tất kiến tất tri.

 Thiện nam tử và thiện nữ nhơn đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sanh ra, thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A tỳ, trên đến cõi trời Hữu đảnh, cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhơn duyên quả báo chỗ sanh ra thảy đều thấy biết.

Người thiện nam, hoặc người thiện nữ đó, nhờ mắt thanh tịnh của cha mẹ sinh ra, thấy trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy núi rừng và sông biển. (Tứ quả A La Hán mới nhìn thấy được ba ngàn đại thiên thế giới. Một đại thiên thế giới là một cõi Phật. Sơ địa Bồ Tát thấy được một trăm cõi Phật).
Pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, có thể thấy dưới địa ngục A Tỳ. Ðịa ngục này, là ở tầng dưới nhất địa ngục bát nhiệt. Tại sao gọi là địa ngục vô gián ? Vì địa ngục này chẳng có không gian, một người cũng đầy chật ních, chẳng có lỗ trống; một vạn người cũng đầy chật ních.

Vô gián có năm thứ :

1). Thú quả vô gián.
2). Thọ khổ vô gián.
3). Thời vô gián.
4). Mạng vô gián.
5). Thân hình vô gián.

Tóm lại, đọa lạc vào địa ngục vô gián, thì thời gian thọ khổ chẳng có gián đoạn, trừ khi gặp hào quang của Phật chiếu đến, bằng không, thì chẳng cách chi có thể ra được.

Có người hỏi : ‘’Phạm tội nghiệp gì thì đọa lạc vào địa ngục này ?‘’ Chúng sinh phạm đại tội ngũ nghịch, thì sẽ đọa vào địa ngục này. Ngũ nghịch là gì ? Tức là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật chảy máu (phá hoại tượng Phật), và phá hòa hợp Tăng. Phạm một tội nghịch, thì sẽ đọa vào địa ngục vô gián.

Vị pháp sư đó, trên có thể nhìn thấy trời Hữu Ðỉnh (từng trời cao nhất trong tam giới), tức cũng là trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Dùng định lực để khống chế thức thứ tám. Tựa như hết gọi là phi tưởng, định lực giao động, thì thức thứ tám tựa như tồn tại, nên gọi là phi phi tưởng. Ngoại đạo cho rằng, cõi trời này là cảnh giới cao nhất, song chẳng cứu kính, vẫn còn sinh tử.

Vị pháp sư đó, có thể nhìn thấy địa ngục vô gián, và cõi trời Hữu Ðỉnh, hết thảy chúng sinh ở trong đó hành động làm gì, nghiệp nhân duyên quả báo, nơi sinh đều thấy biết rõ ràng. Vị pháp sư đó, tuy chưa chứng được thiên nhãn thông, nhưng nhờ mắt thịt của cha mẹ sinh ra, mà có thể thấy tất cả cảnh giới. Ðó là nguyên nhân gì ? Do thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

 

Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

Khi đó, đức Thế Tôn  muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Lúc đó, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa lý ở trên, bèn dùng kệ để nói ra.

 

“Nhược ư Đại chúng trung,                 Nếu người ở trong chúng
Dĩ vô sở úy tâm,                                  Dùng tâm không sợ sệt
Thuyết thị Pháp Hoa Kinh,                  Nói kinh Pháp Hoa này
Nhữ thính kỳ công đức.                       Ông nghe công đức đó

Nếu như ở trong đại chúng chẳng có tâm sợ sệt, mới có thể giảng giải Kinh Pháp Hoa cho đại chúng nghe. Nếu sinh tâm sợ sệt, thì không thể nào giảng được Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Ông phải lắng nghe công đức của vị pháp sư đó, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nay ta vì ông mà nói.

 

Thị nhân đắc bát bách,                         Người đó đặng tám trăm
Công đức thù thắng nhãn.                   Công đức thù thắng nhãn
Dĩ thị trang nghiêm cố,                        Do dùng đây trang nghiêm
Kỳ mục thậm thanh tịnh.                     Mắt kia rất thanh tịnh.

Vị pháp sư đó, đắc được tám trăm công đức nơi mắt, chứng được con mắt thù thắng, thấy được trong ngoài tất cả ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng cần có thiên nhãn thông. Vì có công đức này trang nghiêm, cho nên con mắt của vị đó rất thanh tịnh.

 

Phụ mẫu sở sanh nhãn,                        Mắt thịt cha mẹ sanh
Tất kiến tam Thiên giới.                       Thấy cả cõi tam thiên
Nội ngoại di lâu sơn,                           Trong ngoài núi Di Lâu
Tu Di cập thiết vi,                                Núi Tu Di, Thiết Vi

Tinh chư dư sơn lâm,                           Và các núi rừng khác
Đại hải giang hà thủy,                          Biển lớn nước sông ngòi

Mắt thịt do cha mẹ sinh ra, có thể thấy được cảnh giới trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới. Giống như núi Di Lâu (núi Quang Minh), núi Tu Di (núi Diệu cao), núi Thiết Vi (núi Vi ở ngoài bốn đại châu) và các núi rừng khác, nước biển cả sông ngòi, thảy đều nhìn thấy rất rõ ràng.

 

Hạ chí A tỳ ngục.                                Dưới đến ngục A tỳ
Thượng chí hữu đính xử,                     Trên đến trời Hữu đảnh

Kỳ trung chư chúng sanh,                   Chúng sanh ở trong đó
Nhất thiết giai tất kiến.                         Tất cả đều thấy rõ
Tuy vị đắc Thiên nhãn,                        Dầu chưa đặng thiên nhãn
Nhục nhãn lực như thị.                        Sức nhục nhãn như thế

Vì đắc được con mắt thanh tịnh, cho nên dưới có thể nhìn thấu địa ngục vô gián, trên có thể nhìn thấy cõi trời Hữu Ðỉnh, tất cả chúng sinh trong đó, từng cử chỉ nói năng hành động, đều thấy rất rõ ràng. Tuy chưa chứng được thiên nhãn thông, nhưng sức mắt thịt của cha mẹ sinh ra cũng được như thế.

 

Phục thứ, Thường tinh tấn! Nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, thọ trì thử Kinh, nhược độc, nhược tụng, nhược giải thuyết, nhược thư tả, đắc Thiên nhị bách nhĩ công đức. Dĩ thị thanh tịnh nhĩ. Văn tam Thiên đại Thiên thế giới, hạ chí A tỳ địa ngục, thượng chí hữu đính, kỳ trung nội ngoại chủng chủng ngữ ngôn âm thanh

Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có người Thiên nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, đặng một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa ngục Vô gián, trên đến trời Hữu đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng

Ðức Phật lại gọi một tiếng Thường Tinh Tấn ! Nếu như có người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hoặc đọc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì người đó đắc được một ngàn hai trăm công đức nơi tai, nhờ lỗ tai thanh tịnh, mà nghe được tất cả âm thanh, trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới, dưới đến địa ngục vô gián, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh, trong đó hết thảy các thứ âm thanh lời nói, thảy đều nghe được, chẳng những rõ ràng, mà còn có thể phân biệt được là âm thanh gì.

 

Tượng thanh, mã thanh, ngưu thanh, xa thanh. đề khốc thanh, sầu thán thanh. loa thanh, cổ thanh, chung thanh, linh thanh, tiếu thanh, ngữ thanh, nam thanh, nữ thanh, Đồng tử thanh, đồng nữ thanh, pháp thanh, phi pháp thanh, khổ thanh, nhạo thanh. phàm phu thanh, Thánh nhân thanh. hỉ thanh, bất hỉ thanh.

Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc; tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhơn, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa,

Giống như tiếng voi rống kêu, tiếng ngựa hí kêu, tiếng bò, tiếng xe, tiếng khóc lóc, tiếng buồn vui, tiếng pháp loa, tiếng trống pháp, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng người nam, tiếng người nữ, tiếng đồng nam, tiếng đồng nữ, tiếng như pháp, tiếng phi pháp, tiếng thống khổ, tiếng vui vẻ, tiếng phàm phu, tiếng Thánh nhân, tiếng hoan hỷ, tiếng bi ai. Những thứ tiếng như thế, vị pháp sư đó thụ trì Kinh Pháp Hoa, thảy đều nghe được, lại có thể phân biệt rõ ràng.

 

Thiên thanh, Long thanh, dạ xoa thanh, Càn thát bà thanh, A Tu La thanh, Ca Lâu La thanh, khẩn na la thanh, Ma hầu la già thanh. hỏa thanh, thủy thanh, phong thanh. địa ngục thanh, súc sanh thanh, ngạ quỷ thanh. Tỳ kheo thanh, Tỳ Kheo Ni thanh, thanh văn thanh, Bích Chi Phật thanh. Bồ Tát thanh, Phật thanh

Tiếng trời, tiếng rồng, tiếng dạ xoa, tiếng càn thát bà, tiếng a tu la, tiếng ca lâu la, tiếng khẩn na la, tiếng ma hầu na dà, tiếng lưả, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỉ, tiêng Tỳ Kheo, tiếng Tỳ kheo ni, tiếng Thanh văn, tiếng Bích chi Phật, tiếng Bồ tát, tiếng Phật.

Tiếng trời, tiếng rồng, tiếng Dạ Xoa, tiếng Càn Thát Bà, tiếng A Tu La, tiếng Ca Lâu La, tiếng Khẩn Na La, tiếng Ma Hầu La Già, tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ.

Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, có thể nghe được tiếng ở trên trời. Người tu hành pháp năm giới và thập thiện, thì sau khi chết sẽ được sinh về cõi trời, hưởng thọ khoái lạc sung sướng, song phước trời hết, thì phát hiện năm tướng suy, vẫn phải đọa lạc thọ sinh tử trong luân hồi.

Năm hiện tượng suy là gì? Tức là :

1). Mũ hoa trên đầu héo úa : Người trời đội cái mũ trên đầu được làm bằng hoa tươi, vĩnh viễn tươi tốt, thanh tịnh chẳng bụi bặm. Khi sắp hết tuổi thọ, thì mũ hoa tự nhiên héo úa.

2). Quần áo dơ bẩn : Quần áo của người trời mặc rất sạch sẽ, chẳng cần giặt. Vì ở trên trời sạch sẽ chẳng có bụi bặm. Khi tuổi thọ sắp hết, thì quần áo tự nhiên dơ bẩn.

3). Hai nách ra mồ hôi : Vì trên trời mát mẻ, người trời vĩnh viễn chẳng ra mồ hôi. Khi tuổi thọ sắp hết, thì dưới nách ra mồ hôi.

4). Thân thể tỏa mùi hôi : Thân của người trời thường tỏa mùi thơm, thiện nhiều thì tỏa mùi thơm nhiều, thiện ít thì tỏa mùi thơm ít, mùi thơm gấp mấy lần dầu thơm ở nhân gian. Khi tuổi thọ sắp hết thì tỏa ra mùi hôi, như mùi tử thi, khiến cho người trời khác không dám lại gần.

5). Ngồi chẳng yên : Người trời thường ngồi thiền, chẳng động chỗ ngồi, cơm áo một khi nghĩ đến là có liền, do đó có câu :

‘’Nghĩ quần áo thì quần áo đến
Nghĩ món ăn thì món ăn đến.’’

Quần áo chẳng lớn chẳng nhỏ, chẳng rộng chẳng chật, vừa với thân thể. Thức ăn chẳng nhiều chẳng ít, chẳng mặn chẳng lạt hợp với khẩu vị. Nghĩ muốn đi đến đâu thì sẽ đi đến đó. Vì người trời có thần túc thông, toại tâm sở dục, chẳng bị gì hạn chế. Nhưng khi tuổi thọ sắp hết, thì chẳng có định lực, biết đã phát sinh bốn thứ hiện tượng, tâm thần tán loạn, ngồi chẳng yên, ngồi xuống đứng dậy, bèn đọa lạc vào trong luân hồi, đi thọ sinh tử, hoặc đọa vào địa ngục, hoặc đầu thai làm người, chẳng nhất định mà tùy theo nghiệp lực quyết định.

Các bạn đừng cho rằng, sinh về cõi trời là có bảo hiểm, chẳng tu hành ngồi thiền, như thế thì rất dễ đọa lạc vào ba đường ác. Dù Thích Ðề Hoàn Nhân (Ky tô giáo xưng là Thượng Ðế, Ðạo giáo xưng là Ngọc Hoàng Ðại Ðế, Thiên Chúa giáo xưng là Thiên Chúa) cũng không thể tránh khỏi, chiếu theo nghiệp lực mà đi đầu thai.

Hôm nay, tôi kể một câu chuyện về Thiên Chúa cõi trời Ðao Lợi. Một ngày nọ phát hiện mình có năm tướng suy, buồn rầu vô hạn, đột nhiên nghĩ tới Ðức Phật Thích Ca có thể có biện pháp giải cứu. Bèn đến chỗ Ðức Phật nói rõ lai ý. Ðức Phật nói với ông ta : ‘’Ðịnh nghiệp đã tạo, chẳng cách chi cải được. Con phải quy y Tam Bảo, rồi đi đầu thai để tiêu nghiệp chướng, rồi trở về Thiên cung làm Thiên Chúa.’’ Thiên Chúa bèn đến nhân gian đầu thai làm lừa. Lừa mẹ mang thai rồi sơ ý đạp bể đồ sứ của chủ nhân. Chủ nhân nổi giận dùng gậy đánh con lừa, do đó mà sẩy thai. Thiên Chúa trở về thiên cung làm Thiên Chúa. Từ đó về sau kính tin Phật pháp, trở thành thần hộ pháp của Phật giáo.

Vị pháp sư đó lại nghe được tiếng rồng. Trong quá khứ, rồng tu hành vì “thừa cấp giới hoãn”, cho nên có thần thông, nhưng là súc sinh. Vị pháp sư đó, nghe đến tiếng người thì biết tiền nhân hậu quả, hoặc quá khứ là thân rồng, bây giờ là thân người, cũng có thể bây giờ là thân người, vị lai là thân rồng. Một khi nghe tiếng thì biết tiền nhân hậu quả.

Tiếng Dạ Xoa dịch là “Tiệp tật quỷ”, loài quỷ này có ba loại :

1). Ðịa hành Dạ Xoa : Không bay được nhưng chạy rất nhanh.

2). Không hành Dạ Xoa : Bay được.

3). Thiên hành Dạ Xoa : Cũng bay được. Chúng thường làm nhiễu loạn người. Sau khi chúng quy y Phật rồi, bèn trở thành thần hộ pháp, bảo vệ an toàn những người tu đạo.

Tiếng Càn Thát Bà : Dịch là “thần ngửi hương”, chúng chẳng ăn mặn mà ăn chay, thích ngửi mùi hương. Khi Trời Ðế Thích có pháp hội lớn, thì đốt hương ngưu đầu chiên đàn, chúng ngửi hương mà đến Diệu Pháp Ðường, để diễn tấu âm nhạc, biểu diễn ca múa, khiến cho chư thiên đều hoan hỷ.

Tiếng A tu la : Dịch là “vô đoan chánh”. Tướng mạo người nam A tu la, xấu xí vô cùng, ngũ quan chẳng đoan chánh, cho gọi là vô đoan chánh. Song, người nữ A tu la rất đẹp, cho nên vợ của Thích Ðề Hoàn Nhân, là con gái của vua A tu la. Do đó đủ thấy, người nữ A tu la rất đẹp, nếu không thì Thích Ðề Hoàn Nhân tuyệt đối chẳng cưới người nữ A tu la làm vợ. Chúng có phước trời, mà chẳng có đức trời, tính tình thích đấu tranh. Vị pháp sư đó, một khi nghe tiếng thì biết quả báo ba đời.

Tiếng Ca Lâu La : Dịch là “chim cánh vàng”. Vì cánh của nó màu vàng, chuyên ăn rồng.

Tiếng Khẩn Na La : Dịch là “nghi thần”, vì trên đầu có một sừng, khiến cho người hoài nghi, nên gọi là nghi thần. Chúng là thần nhạc của trời Ðế Thích, diễn tấu nhạc khúc trang nghiêm, khiến cho người nghe, sinh tâm niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng.

Tiếng Ma Hầu La Già : Dịch là “thần mãng xà”, còn gọi là “đại phục hành”. Trước khi chúng chưa quy y Phật, thì chuyên phóng khí độc để hại người, hại súc vật để làm thức ăn. Sau khi quy y Phật rồi, cải tà quy chánh, trở thành thần hộ pháp.

Ở trên là Thiên long bát bộ, ai nấy đều có nhân quả riêng. Các thứ tiếng đó, pháp sư giải nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều biết đều thấy rõ ràng. Tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió, vị pháp sư đó nghe, thì biết được nhân quả ba đời. Hoặc ở trong quá khứ đã phát sinh tai nạn gì ? Hoặc hiện tại muốn phát sinh tai nạn gì ? Hoặc vị lai sẽ phát sinh tai nạn gì ? Biết rất rõ ràng. Vì đắc được công đức thọ trì Kinh Pháp Hoa gia trì, nên mới có sức thần thông như thế.

Tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ, vị pháp sư đó, khi nghe đến âm thanh của người đó, thì biết kiếp trước là gì ? Hoặc vị lai là gì ? Ðều biết trước, tơ hào chẳng sai.

Trước khi chúng ta ăn cơm phải niệm :

‘’Phật chế Tỳ Kheo,
Thực tồn ngũ quán,
Tán tâm tạp thoại,
Tín thí nan tiêu.’’

Nghĩa là : ‘’Phật dạy hàng Tỳ Kheo, khi ăn phải quán năm điều, nếu phóng tâm nói bậy, thì thức ăn của đàn na thí chủ khó tiêu.’’

 

Năm điều quán tưởng là :

1). Kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ. Nghĩa là : Xem xét công lao bao nhiêu, thức ăn từ đâu đến !

2). Thổn kỷ đức hạnh, toàn khuyết ứng cúng. Nghĩa là : Tính xem đức hạnh của mình, có xứng đáng thọ dùng chăng !

3). Phòng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. Nghĩa là : Phòng ngừa tâm tạo tội, tham lam là gốc.

4). Chánh sự lương dược, vi liệu hình khô. Nghĩa là : Xem thức ăn như thuốc hay, để cho thân thể khỏi kiệt sức.

5). Vi thành đạo nghiệp, ứng thọ thử thực. Nghĩa là : Quyết thành đạo nghiệp, mới thọ cơm này. Nếu có sự quán tưởng năm điều này, thì thức ăn chắc chắn sẽ tiêu hóa. Nếu chẳng quán tưởng năm điều này, thì chắc khó mà tiêu hóa, do đó có câu :

‘’Tam tâm bất liễu thủy nan tiêu,
Ngũ quán nhược minh kim dịch hóa.’’

Nghĩa là : Nếu ba tâm chẳng rõ, thì dù uống một ly nước của thí chủ, cũng chẳng tiêu hóa đặng. Nếu minh bạch năm điều quán tưởng này, thì dù một bữa ăn đáng giá một cân vàng, cũng tiêu hóa dễ dàng. Cho nên người xuất gia khi ăn cơm trưa, thì phải niệm chú cúng dường.

Người xưa có câu rằng :
‘’Thí chủ nhất lạp mễ
Trọng như Tu Di sơn,
Thực hạ bất liễu đạo
Phi mao đãi giác hoàn.’’

Nghĩa là :
Hột gạo thí chủ cho,
Nặng như núi Tu Di,
Ăn xong chẳng tu đạo,
Mang sừng đội lông trả.

Các vị hãy xem ! Ăn cơm mà chẳng tu hành, thì tội lỗi lớn cỡ nào ! Tương lai phải biến làm trâu làm ngựa để trả nợ, thật là đáng sợ. Các vị phải nhận thức rõ ràng quả báo đó, không thể nương Phật mặc y, dựa Phật ăn cơm, tương lai tội lỗi không thể tưởng tượng được.

Tiếng Tỳ Kheo, tiếng Tỳ Kheo ni, tiếng Thanh Văn, tiếng Bích Chi Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng Phật.

Tiếng Tỳ Kheo : Tỳ Kheo dịch là “khất sĩ”, bên ngoài khất thực để (nuôi) dưỡng sắc thân, bên trong khất pháp để nuôi huệ mạng. Người Trung Quốc gọi Tỳ Kheo là hòa thượng. Ðời sống của hòa thượng làm những việc mà người không làm được, nhẫn những việc mà người chẳng nhẫn được, tu nhẫn nhục Ba la mật, tuyệt đối chẳng nóng giận, thanh tâm quả dục, đời sống đạm bạc, đối với đời chẳng tranh, đối với người chẳng cầu. Chỉ cầu giải thoát tự tại, cho nên chẳng tham tiền tài, chẳng kết hôn, chẳng cầu danh lợi, chẳng ăn thịt, chẳng ngủ nhiều, chẳng luyến ái năm dục, chuyên tâm tu đạo, thì dễ dàng thành tựu. Do đó, mới nói người xuất gia là làm việc của bậc trượng phu, chẳng phải một số người làm được.

Tiếng Tỳ Kheo Ni : Người nữ xuất gia tu hành gọi là Ni sư. Tôn giả A Nan khẩn cầu Ðức Phật cho phái nữ xuất gia tu đạo, nhưng phải giữ tám pháp kính. Vị pháp sư đó khi nghe tiếng của họ, thì biết nhân quả ba đời, hoặc trong quá khứ là người xuất gia, hoặc hiện tại là người xuất gia ? Hoặc vị lai muốn xuất gia? Thấu rõ tỷ mỉ.

Tiếng Thanh Văn : Các Ngài nghe Phật nói pháp tứ diệu đế mà ngộ đạo, cho nên gọi là Thanh Văn. Song, các Ngài tự độ mà chẳng độ kẻ khác, tự giác mà chẳng giác ngộ kẻ khác, tự lợi mà chẳng lợi ích kẻ khác, cho nên làm tự liễu hán. Tư tưởng của tiểu thừa là chẳng lo việc của kẻ khác, do đó có câu :

‘’Ma ha tát bất quản tha,
Di Ðà Phật các cố các.’’

Ðó là tác phong của người thiểu thừa.

Tiếng Bích Chi Phật : Tức cũng là Duyên Giác, quán sát mười hai nhân duyên mà giác ngộ, nên gọi là Duyên Giác. Khi có Phật ra đời gọi là Duyên Giác, lúc Phật không ra đời gọi là Ðộc Giác. Các Ngài ở trong thâm sơn cùng cốc, nghiên cứu lý vạn vật sinh diệt, mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi, giác ngộ tất cả là vô thường, chẳng có thầy dạy mà chứng được chân lý, liễu sinh thoát tử.

Tiếng Bồ Tát : Các Ngài tu lục độ vạn hạnh, hành Bồ Tát đạo, rộng cứu giúp chúng sinh lìa khổ được vui, mới đảo giá từ thuyền, từ cõi Thường Tịch Quang mà đến thế giới Ta Bà, để phổ độ chúng sinh, và còn phát đại nguyện :
“Chúng sinh độ hết mới chứng bồ đề”.

Lại nói :
‘’Ðịa ngục chưa trống không,
Thề không thành Phật.’’

Lại nói :
‘’Ta chẳng vào địa ngục thì ai vào ?‘’

Thật là tinh thần vĩ đại biết bao ! Chúng ta là người xuất gia, phải học theo Bồ Tát Ðịa Tạng, phải có tâm từ bi. Trong Phật giáo có hai câu rằng:
‘’Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi.’’

Phải hướng theo con đường này tiến tới, dù gặp gian nan khó khăn, cũng chẳng hồi đầu, phải đạt đến mục đích, chẳng còn chúng sinh để độ thì ngừng. Tư tưởng đại thừa là vì người mà chẳng vì mình do đó :
‘’Xả mình cứu người.’’

Có hành vi như thế, thì mới chân chánh là Phật giáo đồ. Bằng không, thì từ bi là khẩu đầu thiền, nói mà làm chẳng được, đi ngược lại trách nhiệm và nghĩa vụ của người xuất gia.

Tiếng Phật: Phật là người giác ngộ, vì ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng tướng tốt, cho nên đắc được ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Ðức Phật đã viên mãn ba giác, đầy đủ vạn đức, được hết thảy trời người tôn kính, cho nên gọi là Thế Tôn. Người xuất gia tu đạo, phải tu phước và tu huệ, không thể thiên lệch. Nếu chỉ chuyên tu một bên, thì công đức chẳng thể viên mãn, do đó có câu :

‘’Tu phước chẳng tu huệ,
Làm voi mang chuỗi hạt;
Tu huệ chẳng tu phước,
Khất thực ôm bát không.’’

Tu phước như thế nào ? Tức là làm nhiều công đức, cứu tế người khổ nạn. Tu huệ như thế nào ? Là giảng kinh thuyết pháp, ấn tống kinh điển lưu truyền. Vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, một khi nghe được tiếng này, thì biết nhân quả ba đời. Hoặc là tiếng Thanh Văn, hoặc là tiếng Bích Chi Phật, hoặc là tiếng Bồ Tát, hoặc là tiếng Phật. Ðây là tiếng của bốn bậc Thánh, hoàn toàn biết rõ và còn phân tích rất rõ ràng, tuyệt đối chẳng lầm.

 

Dĩ yếu ngôn chi, tam Thiên đại Thiên thế giới trung nhất thiết nội ngoại sở hữu chư thanh. Tuy vị đắc Thiên nhĩ, dĩ phụ mẫu sở sanh thanh tịnh thường nhĩ. giai tất văn tri. Như thị phân biệt chủng chủng âm thanh nhi bất hoại nhĩ căn.                                                               

Nói tóm đó, trong cõi tam thiên đại thiên, tất cã trong ngoài các thứ tiếng, dầu chưa đặng thiên nhĩ của cha mẹ sanh, thảy đều nghe biết, phân biệt các tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn.

Tóm lại, hết thảy tất cả các thứ tiếng trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới. Vị pháp sư đó, tuy chưa chứng được thiên nhĩ thông, song dùng tai bình thường thanh tịnh của cha mẹ sinh ra, đều hoàn toàn nghe biết. Phân biệt các thứ âm thanh như thế, mà chẳng phá hoại nhĩ căn. Vì chẳng bị thanh trần sở chuyển, cho nên chẳng hư nhĩ căn.

 

Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Lúc đó, Ðức Phật bi tâm thiết thiết, muốn dùng kệ nói lại nghĩa lý trường hàng ở trên.

 

Phụ mẫu sở sanh nhĩ.                           Tai cha mẹ sanh ra!
Thanh tịnh vô trược uế.                       Trong sạch không đục nhơ
Dĩ thử thường nhĩ văn,                        Dù tai này thường nghe
Tam Thiên thế giới thanh.                    Cả tiếng cõi tam thiên

Pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dùng tai thịt của cha mẹ sinh ra rất thanh tịnh, chẳng ô trược cấu uế. Dùng tai bình thường này, nghe các thứ tiếng trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới rất rõ ràng.

 

Tượng mã xa ngưu thanh.                   Tiếng voi, ngựa, trâu, xe
Chung linh loa cổ thanh.                      Tiếng chung linh loa cổ
Cầm sắt không hầu thanh.                   Tiếng cầm, sắc, không hầu
Tiêu địch chi âm thanh,                       Tiếng ống tiêu, ống dịch

Hoặc là tiếng voi, hoặc tiếng ngựa, hoặc tiếng xe, hoặc tiếng trâu. Hết thảy tiếng chuông, tiếng linh, tiếng loa, tiếng trống, cũng phân biệt được dễ dàng. Và tiếng cầm (đờn năm dây hoặc bảy dây), tiếng không hầu (đờn hai mươi ba dây), tiếng ống tiêu (sáo thổi dọc trước có năm lỗ, sau có một lỗ), tiếng ống địch (sáo thổi ngang có bảy lỗ), đủ thứ tiếng nhạc khí. Vị pháp sư đó, hoàn toàn đều nghe được, lại phân biệt được rõ ràng là tiếng khí cụ gì.

 

Thanh tịnh hảo Ca thanh,                     Tiếng ca hay thanh tịnh
Thính chi nhi bất trước,                       Nghe đó mà chẳng ham.
Vô số chủng nhân thanh.                     Tiếng vô số giống người
Văn tất năng giải liễu.                          Nghe đều hiểu rõ đặng

Tiếng ca thanh tịnh êm tai, nhưng sau khi nghe rồi, chẳng chấp vào tiếng ca. Bất cứ tiếng ca của loại người nào, vị pháp sư đó đều phân biệt hiểu rõ, chẳng có ngôn ngữ chướng ngại không thông.

 

Hựu văn chư Thiên thanh.                   Lại nghe tiếng các trời
Vi diệu chi Ca âm.                               Tiếng ca rất nhiệm mầu
Cập văn nam nữ thanh.                        Và nghe tiếng trai, gái
Đồng tử đồng nữ thanh.                      Tiếng đồng tử, đồng nữ

Vị pháp sư đó, lại nghe được âm thanh của chư Thiên, lại nghe được tiếng ca vi diệu, lại nghe được tiếng của con trai con gái, lại nghe được tiếng của đồng nam đồng nữ. Tóm lại, bất cứ là tiếng gì đều nghe được hết, và còn phân biệt được rất rõ ràng.

 

Sơn xuyên hiểm cốc trung,                  Trong núi sông hang hiểm
Ca lăng tần già thanh.                          Tiếng ca lăng tần dà
Mạng mạng đẳng chư điểu.                 Cọng mạng các chim thảy
Tất văn kỳ âm thanh.                           Ðều nghe tiếng của nó

Ở trong núi sông hang cốc, có tiếng của chim ca lăng tần già, tiếng hót rất là êm tai, còn gọi là tiên điểu (tiên của loài chim) phát ra âm thanh rất hay, chẳng phải một số người có thể nghe được. Chim cộng mệnh có hai cái đầu, hai cái mỏ, đồng thời ăn uống, đồng thời hót. Tất cả tiếng hót của mọi loài chim, vị pháp sư đó hoàn toàn nghe được hết.

 

Địa ngục chúng khổ thống.                 Ðịa ngục các đau đớn
Chủng chủng sở độc thanh.                 Các thứ tiếng độc khổ
Ngạ quỷ cơ khát bức.                          Ngạ quỉ đói khát bức
Cầu tác ẩm thực thanh.                        Tiếng tìm cầu uống ăn

Ðịa ngục có địa ngục bát nhiệt, địa ngục bát hàn, mười tám địa ngục .v.v… Trong địa ngục đủ thứ tiếng khổ sở, vị pháp sư đó đều nghe được. Tiếng ngạ quỷ đói khát bức bách, tiếng đi khắp nơi tìm cầu ăn uống, vị pháp sư đó đều nghe được. Ngạ quỷ vì nghiệp lực chiêu cảm, cổ nhỏ như kim, bụng to như trống, chẳng khi nào ăn no. Tại sao ? Vì thức ăn vào miệng, thì biến thành lửa than, thấy nước là máu, chẳng uống đặng, cho nên gọi là ngạ quỷ (quỷ đói). Nguyên nhân gì mà làm quỷ đói ? Vì người đó lúc còn sống, phỉ báng Tam Bảo, phá hoại Tam Bảo, cho nên chết rồi đọa làm quỷ đói. Tôn giả Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất.

Một ngày nọ, Ngài đi tìm mẹ của Ngài sau khi chết sinh về đâu ? Thì phát hiện mẹ của Ngài đọa làm ngạ quỷ, thân gầy như cây củi, rất đáng thương xót. Tôn giả mới mang bát cơm đến cho mẹ của Ngài dùng, bất hạnh cơm lại biến thành lửa than, chẳng cách chi nuốt xuống được. Tôn giả thấy như vậy đau đớn rơi lệ, đến hỏi Ðức Phật : ‘’Ðó là nhân duyên gì ?‘’ Phật bảo rằng : ‘’Vì mẹ của ông lúc còng sống, thì chẳng những chẳng tin Phật pháp, mà còn hủy báng, cho nên phải thọ khổ treo ngược.’’ Phật lại nói : ‘’Vào ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ, ông nên sắm trăm thứ vật để cúng dường chư Tăng, thỉnh chư Tăng tụng kinh trì chú. Nhờ công đức đó, chẳng những mẹ của ông được cứu, mà cha mẹ bảy đời quá khứ cũng được cứu.’’ Do đó, hàng năm mỗi chùa đều cử hành lễ Vu Lan (dịch là giải đảo huyền, mở trói treo ngược), siêu độ cha mẹ bảy đời, lìa khổ được vui.

 

Chư A Tu La đẳng,                              Các hàng a tu la
Cư tại đại hải biên.                               Ở nơi bên biển lớn
Tự cọng ngữ ngôn thời,                       Lúc cùng nhau nói năng
Xuất vu Đại âm thanh.                         Vang ra tiếng tăm lớn

Hết thảy A tu la, tính nóng giận rất lớn, chẳng có công phu hàm dưỡng; cho nên thích đấu tranh. Chúng ở ven cạnh bờ biển, khi cùng nhau nói chuyện, thì phát ra âm thanh rất lớn. Vì chẳng có tâm từ bi, chỉ có tâm cừu hận.

 

Như thị thuyết pháp giả,                      Như thế người nói pháp
An trụ ư thử gian,                                An trụ ở trong đây
Dao văn thị chúng thanh.                     Xa nghe các tiếng đó
Nhi bất hoại nhĩ căn.                            Mà chẳng hư nhĩ căn.

Vị pháp sư giải nói Kinh Pháp Hoa, an trụ nơi từ bi, hay nghe được tất cả các thứ tiếng rất xa, mà chẳng hư căn tai, vì nhờ công đức thuyết pháp gia trì.

 

Thập phương thế giới trung,                Trong cõi nước mười phương
Cầm thú minh tướng hô,                      Cầm thú kêu hô nhau
Kỳ thuyết Pháp chi nhân.                     Người nói kinh Pháp Hoa
Ư thử tất văn chi.                                 Ở đây đều nghe đó.

Trong mười phương tất cả thế giới, hết thảy loài phi cầm, và tẩu thú tranh nhau kêu la, vị pháp sư đó nói pháp, đều hoàn toàn nghe được hết mọi thứ tiếng rất rõ ràng.

 

Kỳ chư phạm Thiên thượng,                Trên các trời Phạm Thiên
Quang âm cập Biến tịnh,                     Quang âm cùng Biến Tịnh
Nãi chí hữu đính Thiên,                       Nhẫn đến trời Hữu đảnh
Ngôn ngữ chi âm thanh,                      Tiếng tăm của kia nói

Pháp sư trụ ư thử,                                Pháp sư ở nơi đây
Tất giai đắc văn chi.                             Thảy đều đặng nghe đó.

Sắc giới trời Ðại Phạm, đã lìa khỏi tâm dâm dục của dục giới, ở đó rất yên tĩnh lại thanh tịnh. Thiên chủ tên Thi Khí tin sâu chánh pháp. Mỗi khi có Phật ra đời, thì ông ta đầu tiên đến thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp. Bà la môn giáo sùng bái trời Phạm Thiên, cho rằng Bà la môn là từ miệng của trời Phạm Thiên sinh ra, là người tôn quý nhất, xưng là quý tộc. Sát đế lợi (vua chúa) là từ vai của trời Phạm Thiên sinh ra, cho nên thống trị nhân dân toàn quốc. Phệ xá (công thương nông) là từ ngực của trời Phạm Thiên sinh ra, hay sinh sản tất cả vật ứng dụng. Thủ đà (nô lệ) là người hạ tiện nhất, xưng là tiện tộc, chẳng có tự do tín ngưỡng tôn giáo, chẳng có quyền lực về chính trị, giáo dục, kinh tế, đối đãi đều bất bình đẳng.

Trời Quang Âm là trời thứ ba của nhị thiền, cõi trời này chẳng những thân tâm phóng quang thay thế cho lời nói, mà còn phóng trí huệ quang để giáo hóa chúng sinh. Truyền thuyết nói rằng, tổ tiên của địa cầu là từ Trời Quang Âm đến. Người ở cõi này thích đi du hành, đến khắp nơi tham quan. Một lần nọ, đến quả địa cầu (thời kiếp thành) phát hiện một thứ nước như sữa bò rất ngon ngọt thơm mát, giống như nước cam lồ. Nhất thời, khởi tâm tham mà uống quá lượng, do đó mà mất đi thần túc thông, không thể trở về trời Quang Âm, bèn ở lại quả địa cầu trở thành tổ tiên của nhân loại.

Trời Biến Tịnh là trời thứ ba của tam thiền. Cõi trời này, đã đắc được khoái lạc phổ biến thanh tịnh, tuy nhiên diệu lạc vô cùng nhưng là sự vui hữu lậu. Một số hành giả cho rằng đó là nơi an thân lập mạng, tham đồ khoái lạc, mà quên đi ngôi nhà thanh tịnh, dễ bị đọa lạc. Người chân chánh tu hành thì chẳng ở cõi trời này hưởng thụ, cấp tốc ra khỏi cõi trời này đến trời tứ thiền.

Ðến cõi Trời Hữu Ðỉnh có hai lối, một là con đường chánh : Người tu định vô lậu thì có thể chẳng đến Trời Quảng Quả mà tiến vào Trời Ngũ Bất Hoàn. Một lối nữa là đường tà : Người tu định vô tưởng thì có thể đến Trời Vô Tưởng (Trời Trường Thọ), đây là chỗ của ngoại đạo ở, chẳng phải là chỗ cứu kính. Tạm thời tịch nhiên bất động, khi định lực nhiếp trì chẳng đủ, thì tự nhiên sẽ đọa vào trong luân hồi thọ sinh tử. Giống như đạo lý “đá đè cỏ, băng phủ lên cá”.

 

Chư Phật đại thánh tôn,                       Các Phật đấng đại thánh
Giáo hóa chúng sanh giả,                    Giáo hóa hàng chúng sanh

Ư chư Đại hội trung,                           Ở trong các đại hội
Diễn thuyết vi diệu Pháp.                    Diễn nói pháp nhiệm mầu
Trì thử pháp hoa giả,                           Người trì Pháp hoa nầy
Tất giai đắc văn chi.                             Thảy đều đặng nghe đó.

Mười phương chư Phật là đấng Ðại Thánh, giáo hóa tất cả chúng sinh. Ở trong tất cả pháp hội diễn nói vi diệu pháp, vì thật thí quyền, khai quyền hiển thật. Vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều hoàn toàn nghe được.

 

Tam Thiên Đại Thiên giới.                   Cõi tam thiên đại thiên
Nội ngoại chư âm thanh,                     Các tiếng tăm trong ngoài
Hạ chí A tỳ ngục.                                Dưới đến ngục A tỳ
Thượng chí hữu đính Thiên,                Trên đến trời Hữu đảnh

Giai văn kỳ âm thanh,                          Ðều nghe tiếng tăm kia
Nhi bất hoại nhĩ căn,                            Mà chẳng hư nhĩ căn

Trong ba ngàn đại thiên thế giới trong và ngoài, hết thảy tất cả thứ tiếng, dưới đến địa ngục A Tỳ, trên đến cõi trời Hữu Ðỉnh. Vị pháp sư đó, đều nghe được các thứ tiếng đó, mà chẳng hư hoại căn tai.

 

Kỳ nhĩ thông lợi cố,                             Vì tai kia sáng lẹ
Tất năng phân biệt tri.                          Ðều hay phân biệt biết

Trì thị pháp hoa giả,                            Người trì kinh Pháp Hoa
Tuy vị đắc Thiên nhĩ,                          Dầu chưa đặng thiên nhĩ
Đãn dụng sở sanh nhĩ.                         Chỉ dùng tai sanh ra
Công đức dĩ như thị.                            Công đức đã như thế.

Vì căn tai của vị pháp sư đó rất thông lợi, cho nên phân biệt biết được. Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, tuy chưa chứng được thiên nhãn thông, nhưng dùng tai thịt cha mẹ sinh ra, có thể nghe được tất cả thứ tiếng. Tại sao ? Do công đức thọ trì Kinh Pháp Hoa.

Ngũ nhãn là: Nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Do đó có câu :

‘’Thiên nhãn thông phi ngại,
Nhục nhãn ngại phi thông,
Pháp nhãn duy quán tục,
Huệ nhãn liễu chân không,

Phật nhãn như thiên nhật,
Chiếu dị thể hoàn đồng,
Viên minh pháp giới nội,
Vô xứ bất hàm dung.’’

Trời Hữu Ðỉnh là vô sắc giới, cõi trời cao nhất, tức cũng là Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Lúc Ðức Phật tu ở tại núi Tuyết, thì vị thầy hướng dẫn Ngài tu, tu đến cảnh giới cõi trời này, Phật nhận rằng chẳng phải là pháp thoát khỏi sinh tử, bèn bỏ ông ta ra đi. Tự mình tu khổ hạnh sáu năm, vẫn chẳng đắc được pháp liễu sinh thoát tử, do đó bỏ tu khổ hạnh đến dưới cội bồ đề, tĩnh tọa tư duy, đến đêm thứ bốn mươi chín, Ngài nhìn thấy sao mai mọc mà ngộ đạo, chứng được lý mười hai nhân duyên, là bánh xe của sinh mạng.

Lời nói âm thanh của chư thiên, vị pháp sư ở tại đây hoàn toàn nghe được, thậm chí vị trời nói tiếng gì cũng phân biệt được rõ ràng.

 

Nhất thiết Tỳ kheo chúng.                   Tất cả chúng Tỳ Kheo
Cập chư Tỳ Kheo Ni,                           Và chúng Tỳ Kheo ni

Nhược độc tụng Kinh điển.                 Hoặc đọc tụng kinh điển
Nhược vi tha nhân thuyết,                   Hoặc vì người khác nói.
Pháp sư trụ ư thử,                                Pháp sư ở tại đây
Tất giai đắc văn chi.                             Hoàn toàn đều nghe được.

Tất cả Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni xuất gia, hoặc đọc tụng kinh điển, hoặc cung kính biên chép kinh điển. Vị pháp sư đó ở nơi đây, đều hoàn toàn nghe được họ tu trì pháp môn đó.

 

Phục hữu chư Bồ Tát,                          Lại có các Bỗ Tát
Độc tụng ư Kinh pháp,                        Ðọc tụng nơi kinh pháp
Nhược vi tha nhân thuyết,                   Hoặc vì người khác nói
Soạn tập giải kỳ nghĩa,                        Soạn tập giải nghiã kinh

Như thị chư âm thanh,                         Các tiếng tăm như thế
Tất giai đắc văn chi.                             Thảy đều đặng nghe đó.

Lại có tất cả Bồ Tát, hoặc đọc kinh này, hoặc tụng kinh này, hoặc vì người khác giải nói kinh này, hoặc tuyển chọn kinh này, hoặc tập giải nghĩa của kinh này. Các thứ âm thanh như thế, vị pháp sư đó hoàn toàn đều nghe được rất rõ ràng.

Tai cũng có căn tai. Vị pháp sư đó dùng tai thường của cha mẹ sinh ra. Vì giải nói Kinh Pháp Hoa có công đức, chẳng những nghe được tất cả các thứ tiếng, mà còn biết được tất cả các thứ tiếng.

 

Phục thứ, Thường tinh tấn! Nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, thọ trì thị Kinh. Nhược độc, nhược tụng, nhược giải thuyết, nhược thư tả, thành tựu bát bách tỳ công đức. Dĩ thị thanh tịnh Tỳ căn, văn ư tam Thiên đại Thiên thế giới

Lại nữa, Thường Tinh Tấn ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì kinh này, hoặc đọc tụng giải nói, hoặc biên chép, thì thành tựu tám trăm công đức nơi mũi. Dùng căn mũi thanh tịnh đó, ngửi được các thứ mùi hương trong ngoài, trên dưới trong ba ngàn đại thiên thế giới.

Ðức Phật gọi một tiếng Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Nếu như có người thiện nam, người thiên nữ, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa dù là đọc, là tụng, là giải nói, là biên chép, đều thành tựu tám trăm công đức nơi mũi. Dùng căn mũi thanh tịnh này, có thể ngửi được tất cả mùi hương trên dưới, trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Thượng hạ nội ngoại chủng chủng chư hương tu mạn na hoa hương, xà đề hoa hương, mạt lợi hoa hương, Chiêm bặc hoa hương, ba la la hoa hương, xích liên hoa hương, thanh liên hoa hương, bạch liên hoa hương. hoa thọ hương, quả thọ hương. Chiên đàn hương, trầm thủy hương, đa ma la bạt hương, đa già la hương, cập Thiên vạn chủng hòa hương. Nhược mạt, nhược hoàn, nhược đồ hương trì thị Kinh giả, ư thử gian trụ. Tất năng phân biệt.

 Dùng tỹ căn thanh tịnh đó nghe khắp cõi Tam thiên đại thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi: mùi bông tu mạn na, mùi bông xà đề, mùi bông mạt lợi, mùi bông chiêm bặc, mùi bông ba la la, mùi bông sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái, mùi chiên đàn, mùi trầm thủy, mùi đa ma la hạt, mùi đa dà la, đến trăm nghìn thứ hoà lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt.

Hương thơm hoa tu mạn na, dịch là “hoa duyệt ý”. Hoa này vừa thơm lại vừa đẹp, hình sắc rất là mỹ lệ, khiến cho tâm người hoan hỷ thích thú, cho nên được tên này. Lại có mùi hương của hoa xà đề, dịch là “hoa kim tiền”, hoa này màu vàng như là tiền vàng, cho nên được tên này. Lại có mùi hương của hoa mặc lợi, dịch là “hoa tóc mượt”, hoa này có thể chế biến thành hoa tóc mang trên thân, dùng để trang nghiêm. Hiện tại còn lưu hành ở vườn hoa, để tặng cho khách, biểu thị sự hoan nghênh; tặng cho người chết là biểu thị phúng điếu. Lại có mùi hương hoa thiềm bặc, dịch là “hoa kim sắc”, hoa nhỏ mà thơm, theo gió bay đi xa mà hương thơm chẳng tan. Lại có mùi hương ba la la, dịch là “hoa trọng sinh”, vì loài hoa này khi nở qua một lần rồi, thì lại nở qua một lần nữa, cho nên được tên này.

Mùi hương hoa sen đỏ tức là hoa ba đầu ma. Mùi hương hoa sen xanh tức là hoa ưu bát la. Mùi hương hoa sen trắng tức là hoa phân đà lợi. Mùi hương của cây có hoa, mùi hương của cây có quả. Lại có mùi hương của ngưu đầu chiên đàn, mọc ở núi Ngưu Ðầu bên Ấn Ðộ, cho nên được tên này. Mùi hương như xạ hương, cách bốn mươi dặm mà có thể ngửi được mùi hương. Tính của nó rất mát mẻ, có thể trị bệnh, dùng làm thuốc. Lại có mùi hương trầm thủy chiên đàn, vì chất cây cứng mà nặng như sắc thuộc về kim loại, bỏ vào trong nước thì lập tức chìm xuống, cho nên được tên này. Lại có mùi hương Ða ma la bạt, dịch là “hoắc hương”, rất thơm có thể dùng làm thuốc. Lại có mùi hương Ða già la, dịch là “căn hương”, rễ của nó rất thơm lạ thường, tụ lâu chẳng tan. Và hàng ngàn vạn mùi hương hòa hợp, hoặc là hương bột, hoặc hương viên tròn, hoặc hương xoa. Vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều hoàn toàn ngửi được và phân biệt được là mùi hương gì.

 

Hựu phục biệt tri chúng sanh chi hương tượng hương, mã hương, ngưu dương đẳng hương. Nam hương, nữ hương, Đồng tử hương, đồng nữ hương. Cập thảo mộc tùng lâm hương nhược cận, nhược viễn, sở hữu chư hương. Tất giai đắc văn, phân biệt bất thác.

Và lại rõ biết mùi chúng sanh: mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu v.v.. mùi trai, mùi gái, mùi đồng nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ có ra, thảy đều đặng nghe rõ biết chẳng lầm.

Lại có thể phân biệt biết được tất cả mùi hương của chúng sinh. Như mùi hương của voi, mùi hương của ngựa, mùi hương của bò, mùi hương của dê. Mùi hương của con trai, mùi hương của con gái, mùi hương của đồng tử, mùi hương của đồng nữ. Và mùi hương của cỏ, mùi hương của cây, mùi hương của lùm rừng. Bất cứ là gần hay xa, hết thảy tất cả các mùi hương đều hoàn toàn ngửi được, phân biệt được là mùi hương gì chẳng có sai lầm.

 

Trì thị Kinh giả, tuy trụ ư thử, diệc văn Thiên thượng chư Thiên chi hương ba lợi chất đa la, câu tỳ đà La thọ hương. Cập mạn đà la hoa hương, Ma ha mạn đà la hoa hương, mạn thù sa hoa hương, Ma ha mạn thù sa hoa hương, chiên đàn, trầm thủy, chủng chủng mạt hương. Chư Tạp hoa hương như thị đẳng Thiên hương hòa hợp sở xuất chi hương. Vô bất văn tri.

Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng nghe mùi trên các cõi trời: mùi cây ba lợi chất đa la, cây câu bệ đà la, cùng mùi bông mạn đà la, bông đại mạn đà la, bông mạn thù sa, mùi gỗ chiên đàn, trầm thuỷ các thứ hưong bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hiệp thoảng ra mùi thơm đều nghe biết.

Người trì kinh này, tuy ở nơi đây, mà cũng ngửi được mùi hương của chư Thiên ở trên trời, mùi hương cây ba lợi chất đa la, mùi hương cây câu tì đà la, và mùi hương hoa mạn đà la, mùi hương hoa ma ha mạn đà la, mùi hương hoa mạn thù sa, mùi hương hoa ma ha mạn thù sa, các thứ hương bột chiên đàn trầm thủy, các thứ hương của các loại hoa. Các mùi hương trời hòa hợp tỏa ra như thế, chẳng có mùi hương nào mà chẳng ngửi biết được.

Pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tuy nhiên ở tại nhân gian, nhưng cũng ngửi được mùi hương của chư Thiên. Mùi hương cây ba lợi chất đa la, dịch là “thiên thụ vương”. Ở ngoài thành Hỷ Kiến trời Ðao Lợi, các thiên chúng nghỉ ở dưới cây này, vì mùi hương thơm ngát mũi, có công hiệu mát mẻ cho phổi. Mùi hương cây câu tì đà la, dịch là “cây đại du hí”, chư thiên chúng du hí vui đùa ở dưới cây này. Lại có mùi hương hoa mạn đà la, dịch là “hoa tiểu bạch”. Lại có mùi hương hoa ma ha mạn đà la, dịch là “hoa đại bạch”. Lại có mùi hương hoa mạn thù sa, dịch là “hoa tiểu hồng”. Lại có mùi hương hoa ma ha mạn thù sa, dịch là “hoa đại hồng”. Lại có mùi hương ngưu đầu chiên đàn, lại có mùi hương trầm thủy chiên đàn, đủ thứ các hương bột, đủ thứ mùi hương của các loài hoa. Các thứ hương trời đó hòa hợp lại, tỏa ra mùi hương. Vị pháp sư đó, chẳng có mùi hương nào mà chẳng ngửi biết được là mùi hương gì.

 

Hựu văn chư Thiên thân hương Thích đề hoàn nhân tại thắng điện thượng, ngũ dục ngu lạc hi hí thời hương; nhược tại diệu pháp đường thượng, vị Đao Lợi chư Thiên thuyết Pháp thời hương; nhược ư chư viên du hí thời hương; cập dư Thiên đẳng nam nữ thân hương. giai tất dao văn.

Lại nghe mùi nơi thân của các vị trời: mùi của Thích Ðề Hoàn Nhơn lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên diệu pháp đường vì các vị trời Ðao lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân xác của cá vị trời nam, trời nử khác, thảy đều xa nghe biết.  

Vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, lại ngửi được mùi hương thân của chư thiên. Chư thiên vì trì giới rất tinh nghiêm, tơ hào chẳng phạm, cho nên thân tỏa ra mùi hương. Chúng ta người xuất gia tu đạo, nhất định phải giữ gìn giới luật, thì thân thể tự nhiên sẽ tỏa hương thơm, bằng không thì sẽ tỏa ra mùi hôi. Mùi hương đại biểu cho điều thiện, mùi hôi đại biểu cho điều ác. Muốn biết người nào đó có giữ giới không, ngửi mùi thân của họ thì sẽ biết.

Nếu làm việc thiện nhiều thì thơm, còn nếu làm việc ác nhiều thì hôi, tơ hào chẳng sai lầm. Phàm là người thân thể hôi thì phải mau giữ giới, làm nhiều công đức, từ từ thân sẽ biến thành thơm, tuyệt đối chẳng dọa người. Trong quá khứ, có vị Tỳ Kheo Ni tụng đọc chẳng biết bao nhiêu bộ Kinh Pháp Hoa, về sau miệng của vị đó tỏa ra hương thơm. Ðó là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Tóm lại, kiếp trước là người tu hành thì đời này thân thể chẳng có mùi hôi.

Thích Ðề Hoàn Nhân là thiên chúa trên cõi trời Ðao Lợi, ông ta quản hạt trời Tam Thập Tam. Mùi hương khi vui chơi đùa giỡn hưởng thụ năm dục ở tại Thắng Ðiện, hoặc mùi hương khi vì chư thiên nói pháp ở tại Diệu Pháp Ðường, hoặc mùi hương khi dạo chơi ở trong tất cả vườn hoa, hoặc mùi hương của tất cả người nam người nữ chư thiên khác. Vị pháp sư đó, đều ngửi được các mùi hương đó, và còn phân biệt biết được là mùi hương gì.

Chúng sinh ở cõi dục giới đều có tâm dâm dục, dù lục dục thiên cũng thế, bất quá tâm dâm dục giảm bớt hơn ở nhân gian mà thôi. Khi đến cõi sắc giới thì chẳng còn ăn và dâm hai thứ. Cho nên, sắc giới tuy có hình thể mà chẳng có phân biệt nam nữ, nhưng vẫn có dục niệm về vật chất, cho nên vẫn có lầu gác cung điện. Khi đến cõi vô sắc giới thì chẳng những chẳng có ăn uống và dâm dục, tức là hình thể cũng chẳng có, chỉ có tâm thức mà thôi. Do đó, có thể chứng minh người tu đạo nhất định phải đoạn dục khử ái, mới có thể ra khỏi tam giới. Chư thiên chưa đoạn dục niệm, cho nên vẫn còn sinh tử.

 

Như thị triển chuyển nãi chí phạm thế, thượng chí hữu đính chư Thiên thân hương. diệc giai văn chi, tinh văn chư Thiên sở thiêu chi hương. Cập thanh văn hương, Bích Chi Phật hương, Bồ Tát hương, chư Phật thân hương. diệc giai dao văn, tri kỳ sở tại. Tuy văn thử hương. Nhiên ư Tỳ căn bất hoại bất thố, nhược dục phân biệt vi tha nhân thuyết, ức niệm bất mậu.

Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời Hữu đảnh cũng đều nghe biết. Và nghe mùi hương của các vị trời đốt và mùi Thanh văn, mùi Bich chi Phật, mùi Bồ Tát, mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa nghe biết chỗ ở của đó. Dầu nghe biết hương ấy, nhưng nơi tỹ căn không hư không sai, nêú muốn phân biệt vì người khác nói, ghi nhớ không lầm.

Lần lượt như thế, đến sắc giới trời Ðại Phạm, trên đến trời Hữu Ðỉnh, mùi hương nơi thân của chư thiên cũng ngửi được. Chẳng những ngửi được, mà còn phân biệt được rất rõ ràng. Và cũng ngửi được mùi hương xông đốt của chư thiên. Và mùi hương đốt của Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật. Bậc Thanh Văn đốt hương Tứ Diệu Ðế, Bích Chi Phật đốt hương mười hai nhân duyên, Bồ Tát đốt hương lục độ vạn hạnh, chư Phật đốt hương giải thoát bồ đề. Những mùi hương đó, tuy ở xa (cõi Thường Tịch Quang), nhưng pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, đều ngửi được mùi hương của bốn bậc Thánh vừa nói ở trên, và cũng biết được mùi hương đó ở đâu. Tuy ngửi được mùi hương đó, cũng chẳng tổn hại căn mũi, cũng chẳng phán đoán sai lầm. Nếu như đem cảnh giới của mình thấy, phân biệt vì người khác nói, thì sẽ nhớ chẳng quên, nhớ rõ ràng ở trong đầu óc, chẳng có sai lầm.

 

Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng.

Lúc đó, Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa lý vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói.

 

Thị nhân tỳ thanh tịnh,                        Người đó mùi thanh tịnh
Ư thử thế giới trung,                            Ở trong thế giới này
Nhược hương nhược xú vật.               Hoặc vật thơm hoặc vật hôi
Chủng chủng tất văn tri.                      Các thứ đều nghe biết.

Vị pháp sư đó thọ trì Kinh Pháp Hoa, có căn mũi rất thanh tịnh. Ở trong thế giới này, hoặc là vật thơm, hay là vật hôi thối, các thứ mùi vị đều hoàn toàn ngửi được, chẳng có sai lầm.

Căn mũi chẳng bị hương trần làm ô nhiễm, thì sẽ có cảnh giới sáu căn hổ dụng với nhau. Sáu căn dụng với nhau như thế nào ? Tức là con mắt có thể nghe được, lỗ tai thấy được, lỗ mũi nếm được, lưỡi ngửi được mùi hương, thân thể biết các pháp, ý thức xúc giác. Ðó là cảnh giới sáu căn dụng với nhau. Mỗi một căn đều có tác dụng sáu căn, bạn nói có diệu chăng ? Kỳ thật, một chút cũng chẳng diệu, người tu đạo tu đến hỏa hầu, thì đều sinh ra tác dụng như thế, chẳng có thần bí gì cả, chỉ bất quá phương diện sinh lý khởi biến hóa mà thôi.

Một số người chỉ biết mắt thấy hình sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp. Nếu nói với họ cảnh giới sáu căn hổ dụng với nhau, thì họ cho rằng là người ngu nói mộng, việc chẳng thể nào có. Ðến khi họ tu đến cảnh giới này, thì chẳng nói họ cũng biết; cho nên Phật pháp chẳng phải ở lời nói, mà ở tại thực hành. Ðến lúc đó, thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe, ngửi mà chẳng ngửi, nếm mà chẳng nếm, xúc mà chẳng xúc, duyên mà chẳng duyên. Chẳng bị cảnh giới chuyển, mới có sự sáu căn hổ tương dụng với nhau.

 

Tu mạn na xà đề,                                 Tu mạn na xà đề
Đa ma la chiên đàn,                             Ða ma la, chiên đàn
Trầm thủy cập quế hương.                 Trầm thủy và mùi quế
Chủng chủng hoa quả hương.            Mùi các thứ bông trái

Hương hoa tu mạn na, hương hoa xà đề, hương đa ma la, mùi hương chiên đàn, mùi hương trầm thủy, mùi hương cây quế, các thứ hương của hoa, các thứ mùi hương của trái cây. Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa ngửi, thì sẽ biết được là mùi hương cây cỏ gì.

 

Cập tri chúng sanh hương.                  Và biết mùi chúng sanh
Nam tử nữ nhân hương.                      Mùi nam tử, nữ nhơn
Thuyết pháp giả viễn trụ.                     Người nói pháp ở xa
Văn hương tri sở tại.                            Nghe mùi biết chỗ nào.

Lại biết được mùi hương của chúng sinh, như mùi hương của ngựa, trâu, dê .v.v… lại biết được mùi hương của người nam người nữ. Vị pháp sư diễn nói Kinh Pháp Hoa, tuy ở nơi xa mà khi ngửi đến mùi hương, thì biết được mùi hương ở đâu.

 

Đại thế Chuyển luân Vương,               Ðại thế chuyển luân vương
Tiểu chuyển luân cập tử,                      Tiểu Chuyển luân và con
Quần thần chư cung nhân.                  Bầy tôi các cung nhơn
Văn hương tri sở tại.                             Nghe mùi biết chỗ nào.

Chuyển Luân Thánh Vương phân làm bốn loại : Kim luân vương cai trị bốn thiên hạ, Ngân luân vương cai trị ba thiên hạ, Ðồng luân vương cai trị hai thiên hạ, Thiết luân vương cai trị một thiên hạ. Kim Luân Vương là đại thế chuyển luân vương, có một ngàn thái tử, lại có bảy báu :

1). Bánh xe báu.
2). Voi báu.
3). Ngựa báu.
4). Châu báu.
5). Nữ báu.
6). Kho tàng báu.
7). Binh báu.

Còn ba luân kia đều là tiểu chuyển luân vương. Ðại chuyển luân vương, tiểu chuyển luân vương, ngàn người con, quần thần, cung nhân .v.v… Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi thì biết được chỗ nào. Do đó, có thể chứng minh lỗ mũi cũng có công năng của mắt.

 

Thân sở trước trân bảo,                       Trân bửu đeo nơi thân
Cập địa trung Bảo Tạng,                      Cùng tạng báu trong đất
Chuyển luân Vương bảo nữ,               Bửu nữ của luân vương
Văn hương tri sở tại.                            Nghe hương biết chỗ nào

Trên thân mang tất cả châu báu, tất cả kho tàng châu báu ẩn tàng dưới đất và hành tung của chuyển luân thánh vương và nữ báu ở đâu, khi vị pháp sư đó ngửi mùi hương thì sẽ biết rõ.

 

Chư nhân nghiêm thân cụ.                   Mọi người đều nghiêm thân
Y phục cập anh lạc,                               Y phục và chuỗi ngọc
Chủng chủng sở đồ hương,                 Các thứ hương xoa thân
Văn hương tri kỳ thân.                          Nghe mùi biết thân kia.

Những người ở trên trời và ở tại nhân gian, dùng đồ vật để trang sức, như quần áo, chuỗi ngọc, và các thứ hương xoa. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi thì sẽ biết thân họ trang sức đồ gì.

 

Chư Thiên nhược hạnh tọa.                 Các trời hoặc đi, ngồi
Du hí cập thần biến,                              Dạo chơi và thần biến
Trì thị pháp hoa giả,                              Người trì Pháp Hoa này
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết đặng.

Chư thiên trong ba cõi, hoặc đi, hoặc ngồi thiền, hoặc đùa giỡn, hoặc thân biến. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì sẽ biết được họ đang làm gì.

 

Chư thọ hoa quả thật.                          Các cây bông trái hột
Cập tô du hương khí,                            Và mùi thơm dầu tô
Trì Kinh giả trụ thử.                              Người trì kinh ở đây
Tất tri kỳ sở tại.                                      Ðều biết ở chỗ nào.

Hết thảy tất cả cây, hoa, quả thật và mùi hương dầu tô thắp đèn. Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa ở nơi đây, một khi ngửi mùi hương thì hoàn toàn biết được ở chỗ nào.

 

Chư sơn thâm hiểm xử,                        Các núi, chỗ sâu hiểm
Chiên đàn thọ hoa phu.                        Cây chiên đàn nở hoa
Chúng sanh tại trung giả,                     Chúng sanh ở trong đó
Văn hương giai năng tri.                       Nghe mùi đều biết đặng.

Ở chỗ thâm sơn cùng cốc rất nguy hiểm, có cây chiên đàn nở hoa rất sum sê rất thơm tho. Tất cả chúng sinh ở trong thâm sơn làm gì, vị pháp sư đó ngửi mùi hương thì hoàn toàn biết rõ.

 

Thiết vi sơn đại hải,                             Núi Thiết vi, biển lớn
Địa trung chư chúng sanh,                Các chúng sanh trong đất
Trì Kinh giả văn hương,                      Người trì kinh nghe mùi
Tất tri kỳ sở tại.                                    Ðều biết đó ở đâu

Núi Thiết Vi và biển cả, và tất cả chúng sinh ở trong đất. Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, một khi ngửi mùi hương thì hoàn toàn biết họ đang ở đâu, chẳng sai lầm.

 

A Tu La nam nữ,                                   Trai gái A tu la
Cập kỳ chư quyến chúc,                     Và quyến thuộc của chúng
Đấu tranh du hí thời,                          Lúc đánh ca”, dạo chơi
Văn hương giai năng tri.                     Nghe hương đều biết đặng.

Nam nữ A tu la đều có tâm thích đấu tranh. Nếu có việc bất như ý thì họ nổi giận, như phu nhân của Ðế Thích là con gái của vua A tu la, cô ta rất đố kỵ, thường nổi giận với Ðế Thích, thậm chí phát sinh chiến tranh. Nam nữ A tu la và quyến thuộc khi đùa giỡn, tranh đấu để làm trò chơi, nổi giận để làm tiêu khiển, vẫn làm thường xuyên chẳng thấy có gì quái lạ. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì biết được tình hình của họ.

 

Khoáng dã hiểm ải xử,                         Ðồng trống, chỗ hiểm trở
Sư tử tượng hổ lang.                            Sư tử, voi, hùm, sói
Dã ngưu thủy ngưu đẳng,                   Bò rừng, trâu nước thảy
Văn hương tri sở tại.                            Nghe hương biết chỗ ở.

Ở nơi khoáng dã không có người, hoặc ở nơi nguy hiểm. Hoặc có sư tử, voi, cọp, sài lang, hoặc bò hoang, trâu nước .v.v… Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì biết nơi của chúng ở.

 

Nhược hữu hoài nhâm giả,                 Nếu có người nghén chửa
Vị biện kỳ nam nữ,                                Chưa rõ trai hay gái
Vô căn cập phi nhân,                            Không phi căn và phi nhơn
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết đặng.

Nếu như có người nữ đã mang thai, mà chẳng biết được là trai hay gái, hoặc là quỷ thai hoặc là quái thai. Vị pháp sư đó vì thọ trì Kinh Pháp Hoa, một khi ngửi mùi hương thì sẽ biết được rõ ràng, chẳng phán đoán sai lầm.

 

Dĩ văn hương lực cố,                           Do vì sức nghe mùi
Tri kỳ sơ hoài nhâm.                            Biết người mới nghén chửa
Thành tựu bất thành tựu,                  Thành tựa hay chẳng thành
An lạc sản phước tử.                            An vui đẻ con phước

Vì nhờ sức ngửi hương mà biết được tình hình khi mang thai, thành tựu hay chẳng thành tựu, ngửi mùi hương thì sẽ biết. Giống như trái cây, chín thì sẽ rụng xuống, chưa chín thì không thể rụng xuống. Ðây là hiện tượng tự nhiên, không thể ép buộc để sinh ra thì rất nguy hiểm cho mẹ và con. Hiện tại sự phá thai rất là nhiều, đây là việc bất nhân đạo nhất. Những người đó đã gieo trồng xuống nhân quả rất là ác độc.

Thai nhi ở trong bụng mẹ mười tháng mới thành tựu, có thể sinh ra, mẹ con nhất định bình an. Nếu bảy tháng mà sinh ra thì chẳng thành tựu, đứa bé khó mà nuôi sống, người mẹ khi sinh con thì rất nguy hiểm. Nếu quy y Tam Bảo, đọc tụng kinh điển, thì sẽ an lạc sinh ra con có phước báu.

 

Dĩ văn hương lực cố,                           Do vì sức nghe mùi
Tri nam nữ sở niệm.                            Biết tâm niệm trai, gái
Nhiễm dục si khuể tâm,                      Lòng nhiễm dục ngu, hờn
Diệc tri tu thiện giả.                             Cũng biết người tu hành

Bởi nhờ sức ngửi mùi hương, nên biết được người nam nghĩ gì ? Và biết được người nữ nghĩ gì ? Chẳng ngoài những sự nghĩ tưởng là nhiễm dục. Vì ngu si mới nghĩ việc trai gái hoặc sân hận. Các tâm lý như thế, vị pháp sư đó hoàn toàn biết rõ và cũng biết người nào tu pháp lành.

 

Địa trung chúng phục tạng,                 Các phục tàng trong đất
Kim ngân chư trân bảo,                        Vàng, bạc, các trân bửu
Đồng khí chi sở thịnh,                           Ðồ đồng chỗ đựng chứa
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết được

Lại biết kho tàng châu báu ẩn tàng dưới lòng đất, hoặc là mỏ vàng, mỏ bạc, hoặc các châu báu. Trong đồ đồng đựng chứa những gì ? Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì đều biết được.

 

Chủng chủng chư anh lạc,                   Các thứ chuỗi ngọc báu
Vô năng thức kỳ giá.                            Không ai biết giá mấy
Văn hương tri quý tiện,                       Nghe mùi biết mắc rẻ
Xuất xử cập sở tại.                               Chỗ sản xuất ở đâu.

Ðủ các thứ chuổi ngọc, chuỗi ngọc dùng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não) chế thành, thường đeo ở trên cổ, là đồ trang sức. Lúc Phật còn tại thế, ở Ấn Ðộ nhà quý tộc đều mang, đó là biểu thị sự trang nghiêm. Các vị thấy đó ! Các vị Bồ Tát trên thân đều có chuỗi ngọc. Trong Phẩm Phổ Môn có nói : ‘’Bồ Tát Vô Tận Ý, cởi sâu chuỗi quý báu trên cổ, giá trị trăm ngàn lượng vàng, cúng dường cho Bồ Tát Quán Thế Âm !‘’

Giá trị của chuỗi ngọc, phàm phu chẳng biết được giá cả, chẳng biết là quý, cũng chẳng biết là chẳng quý, chẳng cách chi biết được giá là bao nhiêu. Nhưng vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì biết được là quý báu, hay tầm thường, hạt châu báu sinh sản ở đâu, và bây giờ ở đâu ?

 

Thiên thượng chư hoa đẳng,                Các thứ hoa trên
Mạn đà mạn thù sa,                               Mạn đà, Mạn thù sa
Ba lợi chất đa thọ.                                  Cây Ba lợi chất đa
Văn hương tất năng tri.                         Nghe mùi đều biết được.

Trên cõi trời Ðao Lợi có rất nhiều cây hoa, như hoa tiểu bạch và hoa tiểu hồng, hoặc cây thiên thụ vương .v.v… Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì hoàn toàn biết được.

 

Thiên thượng chư cung điện,               Các cung điện trên trời
Thượng trung hạ sái biệt,                     Thượng, trung, hạ sai khác
Chúng bảo hoa trang nghiêm,             Các hoa báu trang nghiêm
Văn hương tất năng tri                          Nghe hương đều biết được.

Trên cõi trời Ðao Lợi có rất nhiều cung điện, nhưng phân ra ba hạng, thượng trung và hạ khác nhau. Bất cứ cung điện gì, dùng thứ báu gì, và các thứ hoa gì để trang nghiêm. Vị pháp sư đó ngửi mùi hương thì sẽ biết được.

 

Thiên viên lâm thắng điện,                  Thắng điện vườn rừng trời
Chư quán diệu pháp đường,                Các nhà diệu pháp đường
Tại trung nhi ngu lạc,                            Ở trong đó vui chơi
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết được.

Trong vườn hoa trên trời Ðao Lợi, tất cả cây lớn đều dùng bảy báu trang nghiêm. Gốc cây dùng ngọc làm thành, lá dùng vàng bạc làm thành, hoa dùng trân châu làm thành, quả dùng mã não làm thành. Thắng Ðiện trong vườn là nơi vui đùa của người trời. Các quán và Diệu Pháp Ðường là nơi luận sự của người trời. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi, thì biết tình hình người trời đang vui đùa trong đó.

 

Chư Thiên nhược thính pháp,             Các trời hoặc nghe pháp
Hoặc thọ ngũ dục thời,                         Hoặc lúc hưởng ngũ dục
Lai vãng hành tọa ngọa.                      Lại, qua, đi, ngồi, nằm
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết được.

Chư thiên thường đến Diệu Pháp Ðường, nghe Thích Ðề Hoàn Nhân giảng Phật pháp, hoặc khi ở tại Thắng Ðiện hưởng thọ năm dục, hoặc đi, hoặc đến, hoặc ngồi thiền, hoặc nằm, các thứ tư thế. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi thì đều biết rõ.

 

Thiên nữ sở trước y,                              Thiên nữ mặc y phục
Hảo hoa hương trang nghiêm,            Hoa hương tốt tranh nghiêm
Chu toàn du hí thời,                              Lúc quanh khắp dạo chơi
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết được.

Y phục của thiên nữ mặc, vừa nhẹ lại rất đẹp, đều dùng hoa hương quý để trang nghiêm, hương thơm tỏa khắp, họ chẳng những xinh đẹp mà còn duyên dáng. Khi họ đi dạo, du hí nhảy múa, khoái lạc vô cùng. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương, thì hoàn toàn biết được tình hình khi họ du hí.

 

Như thị triển chuyển thượng,               Lần lựa lên như thế
Nãi chí ư phạm thế,                               Nhẫn đến trời Phạm thế
Nhập Thiền xuất Thiền giả,                  Nhập thiền cùng xuất thiền
Văn hương tất năng tri.                         Nghe mùi đều biết được.

Như vậy, lần lượt lên cho đến sắc giới trời Phạm Thế, hoặc người nhập thiền định, hoặc người xuất thiền định. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương, thì hoàn toàn biết được. Người trên cõi trời đều tu thiền định. Án chiếu theo sự thô tế sâu cạn của thiền định để quyết định, hoặc thăng đi lên, hoặc đi xuống. Trời sơ thiền gọi là Ly sinh hỷ lạc địa, tức là lìa khỏi sự khoái lạc của chúng sinh cõi dục giới, mà sinh ra khoái lạc đặc biệt. Trời nhị thiền gọi là Ðịnh sinh hỷ lạc địa, ở trong định đắc được sự hỷ lạc không gì sánh bằng. Ðây là thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn, chẳng đói chẳng khát. Trời tam thiền là Ly hỷ diệu lạc địa, lìa khỏi cảnh giới nhị thiền, đắc được sự khoái lạc không thể tả. Trời tứ thiền gọi là Xả niệm thanh tịnh địa, xả bỏ tâm niệm khoái lạc, đạt đến chỗ vô vi mà vô bất vi, trong tâm rất thanh tịnh, chẳng có tạp nhiễm. Ðây là cảnh giới sơ bộ của thiền định, vẫn còn là cảnh giới của phàm phu, chứ chẳng phải là cảnh giới của Thánh nhân. Nếu tiếp tục nỗ lực dụng công, thì khi đạt đến trời Ngũ Bất Hoàn, mới nhập vào dòng Thánh nhân pháp tính, ngược dòng phàm phu lục trần.

 

Quang âm biến tịnh Thiên,                  Trời Quang âm Biến tịnh
Nãi chí vu hữu đính,                              Nhẫn đến nơi Hữu đảnh
Sơ sanh cập thoái một,                         Mới sanh và lui chết
Văn hương tất năng tri.                        Nghe hương đều biết được.

Một số người chỉ biết trời ở trên đầu, mà chẳng biết ngoài cõi trời, lại có cõi trời khác, trong vũ trụ có vô lượng cõi trời. Trong kinh Phật có nói, tại dục giới có sáu cõi trời, tại sắc giới có mười tám cõi trời, tại vô sắc giới có bốn cõi trời, tổng cộng có hai mươi tám cõi trời, đó là nói theo nghĩa hẹp. Nếu nói theo nghĩa rộng, thì có vô lượng cõi trời. Trong mỗi cõi trời có một Thiên chúa. Ngoại đạo chỉ biết một Thiên chúa, kỳ thật có vô lượng Thiên chúa.

Thiên chúa ở trong Phật giáo, bất quá là một vị thần hộ pháp mà thôi, địa vị rất thấp, thân phận ở trước Phật chỉ có đứng, chứ chẳng có tư cách ngồi. Tại sao ? Vì ông ta là thần hộ pháp ! Giống như Bồ Tát Vi Ðà, Bồ Tát Già Lam, tay cầm chùy báu kim cang, đứng ở trước Phật để bảo hộ Phật.

Trời Quang Âm là từng trời thứ sáu của sắc giới. Người trời ở đây dùng ánh sáng (hào quang) để nói chuyện, đại biểu cho tiếng nói. Trời Biến Tịnh là từng trời thứ chín của sắc giới, người trời ở cõi này, biến khắp đắc được an lạc thanh tịnh. Trời Hữu Ðỉnh là từng trời thứ tư của vô sắc giới, cũng là từng trời thứ hai mươi tám của tam giới, là từng trời cao nhất, gọi là trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Tuổi thọ của cõi trời là tám vạn đại kiếp, song đến lúc đọa lạc thì chiếu theo sự thọ khổ luân hồi. Ngoại đạo cho rằng đây là cảnh giới cao nhất. Ra khỏi cõi trời này, mới có thể chấm dứt phân đoạn sinh tử, đến bực vô học thì chứng được tứ quả A La Hán, đoạn sạch kiến tư (thấy, nghĩ) hai hoặc. Do đó, có câu : ‘’Các lậu đã sạch, phạm hạnh đã vững, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa.’’ Ðây là cảnh giới A La Hán.

Cõi trời mà chúng ta thấy là trời Tứ Thiên Vương. Hướng đông là Trì Quốc Thiên Vương, hướng tây là Quảng Mục Thiên Vương, hướng nam là Tăng Trưởng Thiên Vương, hướng bắc là Ða Văn Thiên Vương. Mỗi vị Thiên vương có tám đại tướng quân, trấn giữ bốn hướng cõi trời Ðao Lợi, phòng giữ binh A tu la xâm phạm. Bồ Tát hộ pháp Vi Ðà, là một trong ba mươi hai đại tướng, Ngài ở trong một ngàn vị Phật ở Hiền kiếp, sẽ là vị Phật cuối cùng, danh hiệu là Lâu Chí Phật.

Thời gian một ngày đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương, thì đồng ở nhân gian năm mươi năm, tuổi thọ ở cõi trời này là năm trăm tuổi, như vậy tính theo ở nhân gian, tức là chín trăm hai mươi hai vạn năm ngàn năm. Còn tuổi thọ của các cõi trời khác cứ theo số này mà nhân lên.
Từ sơ sinh ban đầu đến cõi trời và đến lúc chết, năm tướng suy phát hiện là ngừng. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi hương thì hoàn toàn biết được rất rõ ràng chẳng có sai lầm.

 

Chư Tỳ kheo chúng đẳng,                    Các hàng Tỳ Kheo chúng
Ư Pháp Thường tinh tấn,                      Nơi pháp thường tinh tấn
Nhược tọa nhược kinh hành,               Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Cập độc tụng Kinh Pháp.                      Và đọc tụng kinh điển

Tất cả Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni .v.v… đối với Phật pháp rất dũng mãnh tinh tấn, tu trì học tập, chẳng có giải đãi, hoặc ngồi thiền, hoặc đi kinh hành, hoặc đọc tụng kinh điển, rất dụng công chẳng có lười biếng giải đãi, do đó :
‘’Siêng tu giới định huệ,
Diệt trừ tham sân si.’’

 

Hoặc tại lâm thụ hạ,                             Hoặc ở dưới rừng cây
Chuyên tinh nhi tọa Thiền,                  Chuyên ròng mà ngồi thiền
Trì Kinh giả văn hương,                       Người trì kinh nghe mùi
Tất tri kỳ sở tại.                                     Ðều biết ở tại đâu.

Họ ở dưới cây lớn trong rừng, chuyên nhất tinh tấn ngồi thiền. Vì trong rừng thanh tịnh, không khí mát mẻ, dễ đắc được tam muội khinh an. Có người hỏi : ‘’Nhập định và ngủ có gì khác nhau ?‘’ Khi nhập định thì trong tâm biết, ngồi ngay ngắn, thân chẳng lay động, đầu chẳng cúi chẳng nghiêng. Ðó là cảnh giới tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch. Khi ngủ thì gì cũng chẳng biết, thậm chí còn ngáy như sấm, tư thế ngược lại. Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, một khi ngửi mùi hương, thì biết họ đang ở đâu, tu trì pháp môn gì.

 

Bồ Tát chí kiên cố,                                 Bồ Tát  chí bền chắc
Tọa Thiền nhược độc tụng,                  Ngồi thiền hoặc đọc tụng
Hoặc vi nhân thuyết Pháp.                   Hoặc vì người nói pháp
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết được.

Bồ Tát phát bồ đề tâm hành Bồ Tát đạo, chí nguyện rất vững chắc, bất cứ gặp chướng ngại gì cũng chẳng sinh tâm thối chuyển. Bất cứ là ngồi thiền, hoặc đọc tụng kinh điển, hoặc vì người nói pháp. Vị pháp sư đó một khi ngửi mùi hương thì biết rõ.

 

Tại tại phương Thế Tôn ,                      Nơi nơi chỗ Thế Tôn
Nhất thiết sở cung kính,                       Ðược mọi người cung kính
Mẫn chúng nhi thuyết Pháp,                Thương chúng mà nói pháp
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết được.

Trong thế giới mười phương, bất cứ Ðức Thế Tôn ở phương nào, đều được tất cả chúng sinh cung kính. Vì thương xót chúng sinh, nên Phật vì chúng sinh mà diễn nói diệu pháp liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui. Vị pháp sư đó một khi ngửi mùi hương, thì biết được Ðức Phật đó ở phương nào.

 

Chúng sanh tại Phật tiền,                     Chúng sanh ở trước Phật
Văn Kinh giai hoan hỉ,                           Nghe kinh đều mừng vui
Như pháp nhi tu hành,                         Ðúng pháp mà tu hành
Văn hương tất năng tri.                        Nghe mùi đều biết đặng.

Hết thảy chúng sinh ở trước Phật, nghe Phật diễn nói kinh điển, đều hoan hỷ nhảy nhót vui mừng. Sau khi nghe kinh rồi, y theo pháp mà tu hành. Vị pháp sư đó, một khi ngửi mùi đều biết được người nào y theo pháp tu hành. Lỗ mũi thì có công năng của mắt và tai, thấy được nghe được. Bạn nói có diệu chăng ? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa diệu không thể tả !

 

Tuy vị đắc Bồ Tát,                                 Dầu chưa đặng vô lậu
Vô lậu Pháp sanh tỳ,                            Pháp sanh tỷ của Bồ tát
Nhi thị trì Kinh giả,                               Mà người trì kinh đây
Tiên đắc thử tỳ tướng.                         Trước đặng tướng mũi nàỵ

Vị pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, tuy chưa chứng được Bồ Tát vô lậu pháp sinh tỷ. Vì thọ trì kinh này nên trước hết đắc được tướng mũi này.

 

Phục thứ, Thường tinh tấn! Nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, thọ trì thị Kinh. Nhược độc, nhược tụng, nhược giải thuyết, nhược thư tả, đắc Thiên nhị bách thiệt công đức. Nhược hảo, nhược xú. Nhược mỹ, bất mỹ. Cập chư khổ sáp vật. Tại kỳ thiệt căn, giai biến thành thượng vị. Như Thiên cam lồ, vô bất mỹ giả.

Lại nữa Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, đặng một nghìn hai trăm công đức. Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon, hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, không món nào là chẳng ngon.

Ðức Phật gọi một tiếng Thường Tinh Tấn Bồ Tát ! Nếu người thiện nam, người thiện nữ, thọ trì bộ Kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc tụng kinh này, hoặc giải nói kinh này, hoặc biên chép kinh này. Y chiếu theo đạo lý của Kinh Pháp Hoa mà tu hành, thì sẽ chứng được một ngàn hai trăm công đức nơi lưỡi. Lưỡi chẳng những nói pháp được, mà còn nói diệu pháp viên dung vô ngại, cho nên công đức của lưỡi rất lớn, đầy đủ viên mãn.

Lưỡi có công đức nói pháp, cũng nói chuyện thị phi tạo tội nghiệp. Nếu không nói pháp mà nói thị phi, thì có một vạn hai ngàn tội lỗi. Tại sao ? Vì lưỡi có thể nói dối, nói lời thêu dệt, nói hai lưỡi, chưởi mắng, càng tạo càng nhiều, tạo thành vô lượng vô biên tội lỗi. Lưỡi tạo nghiệp ác, thì ăn đồ vật chẳng biết mùi vị, chẳng phân biệt được đắng cay chua mặn ngọt năm vị. Bất cứ hương vị đồ ăn như thế nào cũng chẳng biết. Nếu lưỡi tạo công đức lành, thì biết mùi vị của vật ăn ngon hay là dở. Bất cứ là tốt hoặc là xấu, chẳng màng là vị đắng, hay vị cay, một khi đến căn lưỡi, thì thức ăn thức uống đều biến thành vị ngon thượng diệu, hương thơm ngon ngọt như là cam lồ, chẳng có mùi vị không ngon.

Chữ đắng và chữ khổ tuy khác, song nghĩa vẫn là một, do đó có câu :
‘’Ăn khổ trong sự khổ,
Mới là người hơn mọi người khác.’’

Có hai câu thơ hình dung người siêng năng khổ sở học hành :
‘’Thọ tận thập niên hàn song khổ
Nhất cử thành danh thiên hạ tri.’’

Nghĩa là :
Mười năm khổ cực để học hành,
Một khi đỗ đạt thiên hạ đều biết.

Người thời xưa học hành là một người khổ học tại thư phòng, học Tứ Thư, Ngũ Kinh; ngày cũng học đêm cũng học, chẳng có nghỉ ngơi, chẳng có chơi lêu lổng với bạn bè, cũng chẳng vui đùa tiêu khiển, do đó có câu :
‘’Tam canh đăng hỏa ngũ canh kê,
Chánh thị nam nhi lập chí thời.’’

Dụng công như thế trải qua mười năm khổ sở lạnh lẽo, học vấn phong phú. Ðến khi thi cử thì tam nguyên cập đệ, bảng vàng đề danh tiếng trạng nguyên. Lúc đó, thiên hạ ai ai cũng biết người đó trúng trạng nguyên, sáng lạng tổ tông. Trước kia chẳng có ai biết là khổ, bây giờ thiên hạ biết là ngọt, do đó ‘’khổ tận cam lai.’’ Nghĩa là hết khổ đến sướng. Trước kia người nghèo thì học văn, người giàu thì học võ, cho nên mới nói hàn song khổ.

 

Nhược dĩ thiệt căn ư Đại chúng trung hữu sở diễn thuyết, xuất thâm diệu thanh. Năng nhập kỳ tâm, giai lệnh hoan hỉ khoái lạc. Hựu chư Thiên Tử, Thiên nữ, Thích Phạm chư Thiên, văn thị thâm diệu âm thanh, hữu sở diễn thuyết ngôn luận thứ đệ, giai tất lai thính.

Nếu dùng phương tiện đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích. Lại các vị Thiên tử, Thiện nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tâm thâm diệu này diễn nói ngôn luân thứ đệ, thảy đều đến nghe.

Hoặc dùng căn lưỡi ở trong đại chúng diễn nói pháp thâm sâu vi diệu, tiếng âm thanh vi diệu đó, nhập vào tâm của người nghe, khiến cho họ sinh tâm hoan hỷ, sung sướng đến cực điểm, tình chẳng tự chủ được bèn nhảy nhót lên. Lại có tất cả Thiên tử Thiên nữ, lại có trời Ðế Thích, trời Ðại Phạm và các thiên chủ của các cõi trời khác, họ nghe được âm thanh thâm diệu đó, thì tâm sinh hoan hỷ. Phàm là vị pháp sư đó, diễn nói trước sau đều có thứ lớp, phân môn biệt loại, chẳng phải tạp loạn lộn xộn, cho nên họ đều đến nghe giảng.

 

Cập chư Long, Long nữ, dạ xoa, Dạ xoa nữ, Càn thát bà, Càn thát bà nữ, A Tu La, A Tu La nữ, Ca Lâu La, Ca Lâu La nữ, khẩn na la, khẩn na la nữ, Ma hầu la già, Ma hầu la già nữ, vi thính pháp cố, giai lai thân cận cung kính cúng dường.

Và các hàng long, long nữ, dạ xoa, dạ xoa nữ, càn thát bà, càn thát bà nữ, A tu la, A tu la nữ, ca lầu la, ca lầu la nữ, khẩn na la, khẩn na la nữ, Ma hầu la dà, Ma hâù la dà nữ, vì để nghe pháp mà đều gần gũi cung kính cúng dường.

Lại có rồng và rồng nữ, lại có Dạ Xoa và Dạ Xoa nữ, lại có Càn Thát Bà và Càn Thát Bà nữ, lại có A tu la và A tu la nữ, lại có Ca Lâu Na và Ca Lâu Na nữ, lại có Khẩn Na La và Khẩn Na La nữ, lại có Ma Hầu La Già và Ma Hầu La Già nữ. Những vị trời rồng tám bộ đó, vì nghe vị pháp sư đó diễn nói Kinh Pháp Hoa, mà đến gần gũi cúng dường vị pháp sư đó.

 

Cập Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà tắc, Ưu Bà di, Quốc Vương, Vương tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển luân Vương, đại Chuyển luân Vương, thất bảo Thiên tử nội ngoại quyến thuộc, thừa kỳ cung điện, câu lai thính pháp, dĩ thị Bồ Tát thiện thuyết pháp cố.

Và Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, quốc vương, vương tữ, quần thần, quyến thuộc, tiểu Chuyển luân vương, đại Chuyển luân vương, bảy báu, nghìn người con cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện rồng đến nghe pháp. Vì vị Bồ Tát này khéo nói pháp.

Lại có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam cư sĩ nữ, ông vua, thái tử, quần thần quyến thuộc, tiểu chuyển luân vương, đại chuyển luân vương, bảy báu, ngàn người con, quyến thuộc nội ngoại, thảy đều ngồi cung điện đến để nghe pháp. Nghe pháp gì ? Nghe diệu pháp của Kinh Pháp Hoa.

 

Bà la môn, Cư sĩ, quốc nội nhân dân, tận kỳ hình thọ. Tùy thị cúng dường. Hựu chư Thanh văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật, thường nhạo kiến chi. Thị nhân sở tại phương diện. Chư Phật giai hướng kỳ xử thuyết Pháp, tất năng thọ trì nhất thiết Phật Pháp, hựu năng xuất ư thâm diệu pháp âm.

Nên hàng Bà la môn, cư sĩ, nhơn dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh văn, Bích chi Phật, Bồ tát các đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phiá đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật pháp. Lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu.

Vì vị pháp sư đó là Bồ Tát pháp sư, do khéo giải nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cho nên các Bà la môn (tu hạnh thanh tịnh) và cư sĩ (người tại gia tu đạo), cùng với nhân dân trong nước, họ suốt đời lúc nào cũng hầu hạ và cúng dường vị Bồ Tát pháp sư đó.

Lại tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Chư Phật bốn bậc Thánh đều hoan hỷ thấy vị pháp sư đó, bất cứ ở đâu, mười phương chư Phật đều hướng về chỗ của vị đó nói pháp. Vị pháp sư đó hoàn toàn thọ trì tất cả Phật pháp của chư Phật nói. Lại có thể nói ra pháp âm thâm sâu vi diệu.

 

Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng.

Lúc đó, Ðức Phật bi tâm thiết thiết, muốn tường thuật lại nghĩa lý ở trên, bèn nói ra bài kệ rằng:

 

Thị nhân thiệt căn tịnh.                        Người đó lưỡi thanh tịnh
Chung bất thọ ác vị.                             Trọn không thọ vị xấu
Kỳ hữu sở thực đạm,                           Người đó ăn uống chi
Tất giai thành cam lồ.                          Ðều biến thành cam lộ

Vị pháp sư đó, căn lưỡi đắc được thanh tịnh, tự tánh cũng thanh tịnh, chẳng bao giờ thọ vị dở, còn chuyển được vị dở thành vị thượng diệu. Bất luận là ăn vật gì, một khi vào căn lưỡi thì đều biến thành diệu vị cam lồ, tức cũng là diệu vị đề hồ vô thượng.

 

Dĩ thâm tịnh diệu thanh                       Dùng tiếng hay thanh tịnh
Ư Đại chúng thuyết Pháp,                   Ở trong chúng nói pháp
Dĩ chư nhân duyên dụ.                        Ðem các nhân duyên dụ
Dẫn đạo chúng sanh tâm,                    Dẫn dắt lòng chúng sanh

 

Văn giả giai hoan hỉ,                            Người nghe đều vui mừng
Thiết chư thượng cung dưỡng.            Bày đồ cúng dường tốt

Vị pháp sư đó, dùng lời nói thâm sâu thanh tịnh vi diệu, ở trong đại chúng diễn nói diệu pháp. Dùng đủ thứ nhân duyên và đủ thứ ví dụ dẫn dắt chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm thành tựu quả vị Phật. Chúng sinh nghe pháp đều hoan hỷ, chúng sinh sắm tất cả đồ cúng dường tối thượng, để cúng dường vị pháp sư đó.

 

Chư Thiên Long dạ xoa,                      Các trời, rồng, Dạ xoa
Cập A Tu La đẳng,                              Cùng A tu la thảy
Giai dĩ cung kính tâm.                        Ðều dùng lòng cung kính
Nhi cọng lai thính pháp,                      Mà đồng đến nghe pháp

Trời rồng tám bộ chúng vốn có tâm đấu tranh, nhưng sau khi quy y Phật rồi, thì tâm sân hận biến thành tâm từ bi, phát nguyện làm thiện thần hộ pháp. Họ đều dùng tâm cung kính để nghe vị pháp sư đó nói pháp.

 

Thị thuyết Pháp chi nhân.                    Người nói kinh pháp đó
Nhược dục dĩ Diệu Âm,                      Nếu muốn dùng tiếng mầu
Biến mãn tam Thiên giới.                     Khắp cùng cõi Tam thiên
Tùy ý tức năng chí.                              Tuỳ ý liền được đến

Vị pháp sư đó giải nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, muốn dùng pháp âm thâm sâu vi diệu, thì sẽ vang khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chỉ cần quán tưởng như thế, thì diệu âm sẽ tùy ý đến lỗ tai của hết thảy chúng sinh, trong ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Đại tiểu Chuyển luân Vương,              Ðại, tiểu Chuyển luân vương
Cập Thiên tử quyến thuộc,                  Và nghìn con quyến thuộc
Hợp chưởng cung kính tâm.                Chắp tay lòng cung kính
Thường lai thính thọ Pháp.                  Thường đến nghe thọ pháp

Vua đại chuyển luân và vua tiểu chuyển luân, cùng với ngàn người con và quyến thuộc, đều chắp tay cung kính đến pháp hội để nghe thọ Phật pháp của vị pháp sư đó giảng. Những người đó nghe vị pháp sư giảng kinh thuyết pháp, thì cảm thấy hơn là đọc kinh điển, do đó có câu:

‘’Thính quân nhất tịch thoại,
Thắng độc thập niên thư.’’

Nghĩa là :
Nghe một buổi giảng pháp,
Hơn mười năm đọc sách.

 

Chư Thiên Long dạ xoa,                      Các trời, rồng, Dạ xoa
La sát tỳ xá đồ,                                    La sát, Tỳ xá xà
Diệc dĩ hoan hỉ tâm.                             Cũng dùng lòng vui mừng
Thường nhạo lai cúng dường.             Thường ưa đến cúng dường

Chư thiên trong tam giới, Long vương trong bốn biển và Dạ Xoa, La sát, Tỳ xá xà .v.v… Loài quỷ vốn chẳng sinh tâm hoan hỷ, nhưng hiện tại cũng sinh tâm hoan hỷ, luôn luôn thích muốn đến cúng dường vị pháp sư đó.

 

Phạm Thiên Vương Ma Vương,          Phạm thiên vương, Ma vương,
Tự tại đại tự tại,                                   Tự tại, đại tự tại
Như thị chư Thiên Chúng,                   Các cúng trời như thế
Thường lai chí kỳ sở.                           Thường đến chỗ người đó

Trời Ðại Phạm Thiên (Thi Khí) và Ma vương (Ba Tuần) cùng với trời Tự Tại (trời Tha Hoá Tự Tại), trời Ðại Tự Tại (trời Cứu Kính), hết thảy các Thiên chúng thường đến chỗ vị pháp sư đó, nghe Phật pháp và cúng dường pháp sư.

 

Chư Phật cập đệ tử,                             Các Phật cùng đệ tử
Văn kỳ thuyết Pháp âm.                      Nghe người nói tiếng pháp
Thường niệm nhi thủ hộ,                     Thương nhớ giữ gìn cho
Hoặc thời vi hiện thân.                         Hoặc lúc vì hiện thân.

Mười phương chư Phật và hàng đệ tử (Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát), nghe âm thanh của vị pháp sư đó diễn nói diệu pháp, thì thường nghĩ nhớ vị pháp sư đó mà bảo vệ đạo tràng, hoặc có khi mười phương chư Phật, và chúng đệ tử hiện thân để cho vị đó thấy. Ðó là cảm ứng của sự thọ trì Kinh Pháp Hoa.

 

Phục thứ, Thường tinh tấn! Nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, thọ trì thị Kinh. Nhược độc, nhược tụng. Nhược giải thuyết, nhược thư tả, đắc bát bách thân công đức. Đắc thanh tịnh thân, như tịnh lưu ly, chúng sanh Hỉ Kiến. Kỳ thân tịnh cố, tam Thiên đại Thiên thế giới chúng sanh, sanh thời, tử thời, thượng hạ, hảo xú, sanh thiện xứ, ác xử, tất ư trung hiện.

Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chépđặng tám trăm thân công đức, đặng thân thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấỵ Vì thân đó trong sạch nên chúng sanh trong cõi Tam thiên đại thiên, lúc sanh lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ, v.v.. đều hiện rõ trong đó.

Ðức Phật lại gọi một tiếng Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Nếu như có người nam tu hành, và người nữ tu hành, hoặc thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hoặc đọc kinh này, hoặc tụng kinh này, hoặc giải nói kinh này, hoặc biên chép kinh này, thì đắc được tám trăm công đức nơi thân, được thân thể thanh tịnh như lưu ly. Hết thảy chúng sinh đều hoan hỷ thấy vị pháp sư đó.

Vì thân thể vị pháp sư đó thanh tịnh, cho nên chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, hoặc khi sinh, hoặc khi chết, hoặc ở trên trời, hoặc ở dưới địa ngục, tướng mạo tốt hay xấu, sinh về chỗ lành hay chỗ ác, thảy đều hiện ra trong thân thể thanh tịnh, rõ ràng chẳng tạp loạn. Thân thanh tịnh này là một tấm gương tròn lớn, hiện ra tất cả hình bóng.

 

Cập Thiết vi sơn, đại thiết vi sơn, di lâu sơn, Ma ha di lâu sơn đẳng chư sơn, cập kỳ trung chúng sanh, tất ư trung hiện. hạ chí A tỳ địa ngục, thượng chí hữu đính, sở hữu cập chúng sanh, tất ư trung hiện. Nhược Thanh văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật, thuyết Pháp, giai ư thân trung hiện kỳ sắc tượng.

Và núi Thiết vi, núi Ðại Thiết vi, núi Di lâu, núi Ðại Di lâu ..v.v.. các núi cùng chúng sanh ở trong đó đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A tỳ, trân đến trời Hữu đảnh cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân.

Và núi Thiết Vi (ngoài bốn đại châu có núi bao quanh), núi đại Thiết Vi (ngoài ba ngàn đại thiên thế giới có núi bao quanh), núi Di Lâu và núi đại Di Lâu, hết thảy các núi, chúng sinh ở trong đó hoàn toàn hiện ra ở trong thân thanh tịnh. Thân thanh tịnh đó lại giống như máy lôi đạt (radar), bất cứ máy bay ở đâu bay đến, đều nhìn thấy rất rõ ràng.

Dưới đến địa ngục vô gián, trên đến cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, hết thảy cảnh giới và hết thảy chúng sinh, hoàn toàn hiện ra ở trong thân thanh tịnh. Lại giống như máy truyền hình, chỉ cần bấm nút thì hình ảnh sẽ xuất hiện, người tu đạo mà nghiên cứu minh bạch Phật pháp, thì sẽ có cảnh giới như thế xuất hiện.

Hoặc hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, đều hiện ra hình bóng ở trong thân người đó.

Hoặc là hàng Thanh Văn, hoặc là Bích Chi Phật, hoặc là Bồ Tát, hoặc là chư Phật, ở trong mười phương thế giới thuyết pháp, đều hiện ra hình bóng ở trong thân thanh tịnh của vị pháp sư đó.

 

“Nhĩ thời Thế Tôn dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :

Lúc đó, Ðức Phật muốn tường thuật lại nghĩa ở trên vừa nói, bèn dùng kệ nói ra.

 

Nhược Trì Pháp hoa giả,                      Nếu người trì Pháp Hoa
Kỳ thân thậm thanh tịnh,                     Thân thể rất thanh tịnh
Như bỉ tịnh lưu ly,                               Như lưu ly sạch kia
Chúng sanh giai Hỉ Kiến.                     Chúng sanh đều ưa thấỵ

Nếu như vị pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thì sẽ được thân thể rất thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô, giống như lưu ly thanh tịnh sáng chói. Hết thảy chúng sinh đều hoan hỷ thấy vị pháp sư đó nói pháp.

 

Hựu như tịnh minh kính.                     Lại như gương sáng sạch
Tất kiến chư sắc tượng,                        Ðều thấy các sắc tượng
Bồ Tát ư tịnh thân,                               Bồ tát nơi tịnh thân
Giai kiến thế sở hữu,                            Thấy cả vật trong đời

Duy độc tự minh liễu,                          Chỉ riêng mình thấy rõ
Dư nhân sở bất kiến.                            Người khác không thấy được.

Thân thanh tịnh đó, lại giống như gương sáng, hoàn toàn thấy được tất cả hình bóng. Hình bóng đến thì hiện, đi thì chẳng có, chẳng lưu ảnh lại. Ở trong thân thanh tịnh của Bồ Tát, nhìn thấy được hình bóng toàn thế giới. Cảnh giới đó, chỉ riêng Bồ Tát tự mình thấy rõ, ngoài ra người khác chẳng thấy đặng.

 

Tam Thiên thế giới trung,                    Trong cõi nước Tam thiên
Nhất thiết chư quần manh,                   Tất cả các chúng sanh

Thiên Nhân A Tu La,                          Trời, người, A tu la
Địa ngục quỷ súc sanh,                        Ðiạ ngục, quỉ, súc sanh
Như thị chư sắc tượng,                        Các sắc tượng như thế
Giai ư thân trung hiện.                         Ðều hiện rõ trong thân.

Ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy tất cả chúng sinh và tất cả cảnh giới như người ở trên trời, người ở nhân gian và A tu la (đây là ba đường lành), và địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh (đây là ba đường ác). Tất cả hình bóng trong sáu đường như thế, đều hiện ra ở trong thân thanh tịnh lưu ly của Bồ Tát, chẳng những rõ ràng mà còn chẳng tạp loạn.

 

Chư Thiên đẳng cung điện,                 Cung điện của các trời
Nãi chí ư hữu đính,                              Nhẫn đến trời Hữu đảnh
Thiết vi cập di lâu,                               Núi Thiết vi, Di lâu
Ma ha di lâu sơn,                                 Núi Ma ha Di lâu

Chư đại hải thủy đẳng,                        Các biển nước lớn thảy
Giai ư thân trung hiện.                         Ðều hiện ở trong thân

Cung điện của chư Thiên trong ba cõi, cho đến cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, núi Thiết Vi và núi Di Lâu, núi đại Du Lâu. Hết thảy tất cả biển cả sông ngòi, đều hiện ra trong thân thanh tịnh của vị pháp sư trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

 

Chư Phật cập Thanh văn,                     Các Phật cùng Thanh văn
Phật tử Bồ Tát đẳng,                            Phật tử Bồ tát thảy
Nhược độc nhược tại chúng.                Hoặc riêng, hoặc tại chúng
Thuyết Pháp tất giai hiện.                    Nói pháp thảy dều hiện

Mười phương chư Phật và hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát thảy, hoặc độc thân một người, hoặc ở trong đại chúng, nói pháp giáo hóa chúng sinh, đều hoàn toàn hiện ra trong thân thanh tịnh như lưu ly. Cảnh giới đó thật là không thể nghĩ bàn; diệu không thể tả.

 

Tuy vị đắc vô lậu,                                Dầu chưa đặng diệu thân
Pháp tánh chi diệu thân,                       Pháp tánh sạch các lậu
Dĩ thanh tịnh thường thể.                     Dùng thân thanh tịnh thường
Nhất thiết ư trung hiện.                        Tất cả hiện trong đó

Người đó thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tuy chưa chứng được Thánh quả vô lậu, và diệu thân pháp tánh. Song, thân thường của cha mẹ sinh ra, mà hết thảy tất cả đều hiện ra ở trong thân thanh tịnh. Cảnh giới đó chỉ có vị đó mới biết được, còn người khác chẳng thấu được.

 

Phục thứ, Thường tinh tấn! Nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, Như Lai diệt hậu, thọ trì thị Kinh. Nhược độc, nhược tụng, nhược giải thuyết, nhược thư tả, đắc Thiên nhị bách ý công đức. Dĩ thị thanh tịnh ý căn, nãi chí văn nhất kệ nhất cú, thông đạt vô lượng vô biên chi nghĩa, giải thị nghĩa dĩ. Năng diễn thuyết nhất cú nhất kệ chí ư nhất nguyệt, tứ nguyệt nãi chí nhất tuế. Chư sở thuyết pháp, tùy kỳ nghĩa thú, giai dữ thật tướng bất tướng vi bội. Nhược thuyết tục gian Kinh thư, trì thế ngữ ngôn, tư sanh nghiệp đẳng, giai thuận chánh pháp.

Lại nữa Thường Tinh Tấn! Sau khi Ðức Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời đặng một nghìn hai trăm ý công đức. Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ, một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều thiệt tướng chẳng trái nhau. Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v. .. đều thuận chánh pháp

Ðức Phật lại gọi một tiếng Bồ Tát Thường Tinh Tấn ! Nếu như người nam, người nữ tu hành, sau khi Phật diệt độ, có ai thọ trì bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, hoặc đọc, học tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thì được một ngàn hai trăm công đức nơi ý. Nhờ căn ý thanh tịnh đó, cho đến nghe được dù một bài kệ, hoặc nghe được một câu kinh văn, thì có thể thông đạt được toàn bộ nghĩa lý kinh văn.

Thấu hiểu minh bạch nghĩa lý đó rồi, lại vì chúng sinh diễn nói diệu pháp, giải thích diệu lý dù một bài kệ, hoặc một câu kinh, mà phát huy được vô lượng vô biên đạo lý. Một câu kinh văn, một bài kệ, thậm chí giảng đến một tháng (đại biểu cho pháp một thừa thật tướng), hoặc giảng đến bốn tháng (đại biểu cho pháp tứ đế tiểu thừa), hoặc giảng đến một năm (đại biểu cho pháp mười hai nhân duyên). Tuy là một câu pháp, mà khiến cho hợp với tất cả các pháp. Tất cả pháp nói ra, đều tùy thuận nghĩa lý thú hướng. Ðạo lý nói ra đều hợp với thật tướng, hợp với đệ nhất nghĩa đế, tuyệt đối chẳng đi ngược lại nghĩa lý thật tướng.
Hoặc là giảng nói tất cả kinh sách của thế gian, như Tứ Thư Ngũ Kinh, hoặc lời lẽ trị thế, hoặc sinh sống làm ăn, thảy đều thuận với chánh pháp, chẳng trái ngược. Tất cả đều chiếu theo bát chánh đạo mà thực hành, dùng bát chánh đạo làm mô phạm.

 

Tam Thiên đại Thiên thế giới lục thú chúng sanh, tâm chi sở hạnh, tâm sở động tác, tâm sở hí luận, giai tất tri chi. Tuy vị đắc vô lậu trí tuệ. Nhi kỳ ý căn, thanh tịnh như thử. Thị nhân hữu sở tư tánh, trù lượng, ngôn thuyết, giai thị Phật Pháp, vô bất chân thật. diệc thị tiên Phật Kinh trung sở thuyết.

Sáu đường chúng sanh trong cõi Tam thiên đại thiên, lòng nghĩ, tưởng, lòng động tác, lòng hí luận, thảy đều biết đó. Dầu chưa đặng trí huệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như thế người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì là chẳng chơn thiệt, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói.

Hết thảy sáu đường chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới, trong tâm của họ nghĩ làm gì, khởi lên việc gì, vọng niệm sinh ra, hết thảy mọi hí luận, vị pháp sư đó đều biết rõ. Vị đó tuy chưa chứng được trí huệ vô lậu, nhưng thắng ý căn của vị đó đắc được thanh tịnh. Vị pháp sư đó nghĩ gì, tính toán, nói năng, đều là Phật pháp, diệu pháp, pháp không nghĩ bàn. Tại sao ? Vì vị đó thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, có nghĩ gì và làm gì, đều là chân thật không hư. Pháp nói ra và sự tu đạo, đều là pháp môn chân thật, đều là đạo lý trước kia Phật nói. Tuy toàn bộ kinh Phật chưa đọc hết, nhưng đã thấu rõ đại ý trong kinh. Vì đắc được cảnh giới diệu tam muội.

 

“Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng :

Lúc đó, Ðức Phật muốn tường thuật lại nghĩa lý kinh văn ở trên vừa nói, cho nên dùng kệ để diễn nói lại.

 

Thị nhân ý thanh tịnh,                         Ý người đó thanh tịnh
Minh lợi vô uế trược,                           Sáng lanh không đục nhơ
Dĩ thử diệu ý căn,                                Dùng ý căn tốt đó
Tri thượng trung hạ pháp,                    Biết pháp: Thượng, trung, hạ

Căn thắng ý của vị pháp sư đó rất thanh tịnh, chẳng những sáng mà còn suốt thấu, chẳng có vẩn đục ô uế. Nhờ thắng ý căn vi diệu đó, nên biết Phật pháp thượng trung hạ, do đó có câu : ‘’Vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.’’

 

Nãi chí văn nhất kệ.                             Nhẫn đến nghe một kệ
Thông đạt vô lượng nghĩa,                  Thông đạt vô lượng nghĩa
Thứ đệ như pháp thuyết,                     Thứ đệ nói đúng pháp
Nguyệt tứ nguyệt chí tuế.                    Tháng, bốn tháng, đến năm.

Dù chỉ nghe được một bài kệ, mà thông đạt được vô lượng nghĩa lý. Thứ lớp như pháp mà giải nói, tuyệt đối chẳng nói pháp lộn xộn, chẳng có đầu đuôi. Giải nói một bài kệ, hoặc giảng đến một tháng, hoặc giảng đến bốn tháng, hoặc giảng một năm, đắc được cảnh giới nhạo thuyết vô ngại.

 

Thị thế giới nội ngoại,                         Trong ngoài của cõi này
Nhất thiết chư chúng sanh,                  Tất cả các chúng sinh
Nhược Thiên Long cập nhân,              Hoặc trời rồng và người
Dạ xoa quỷ thần đẳng,                         Dạ xoa, quỉ, thần thảy

Trong ngoài ba ngàn đại thiên thế giới, hết thảy tất cả chúng sinh, hoặc người ở trên trời, hoặc người ở nhân gian, hoặc các loài rồng, Dạ Xoa, quỷ thần .v.v…

 

Kỳ tại lục thú trung,                             Kia ở trong sáu đường
Sở niệm nhược can chủng,                  Nghĩ tưởng bao nhiêu đều
Trì Pháp hoa chi báo.                           Phước báo trì Pháp Hoa
Nhất thời giai tất tri.                             Ðồng thời thảy đều biết

Tất cả chúng sinh luân hồi trong sáu đường, nghĩ nhớ những gì. Nhờ thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nên biết rõ tất cả chúng sinh khởi tâm động niệm. Chúng sinh nào phải làm bò, làm ngựa, chúng sinh nào phải làm cọp, sư tử, chúng sinh nào phải làm cá, rùa, tôm, cua, chúng sinh nào phải làm gà, vịt, ngỗng, chim, thì đều biết được, một khi nghĩ, thì biết tiền nhân hậu quả.

 

Thập phương vô số Phật,                     Vô số Phật mười phương
Bách phước trang nghiêm tướng,         Trăm phước tướng tranh nghiêm
Vị chúng sanh thuyết Pháp,                 Vì chúng sanh nói pháp
Tất văn năng thọ trì.                            Ðều nghe hay thọ trì

Mười phương thế giới có vô số ức chư Phật, vì thuở xưa các Ngài đã từng trải qua ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp gieo trồng tướng tốt, cho nên có tướng trăm phước trang nghiêm thân. Vì hết thảy chúng sinh diễn nói diệu pháp, khiến cho họ nghe rồi, thì thọ trì và y theo pháp mà tu hành.

 

Tư tánh vô lượng nghĩa,                      Suy gẫm vô lượng nghĩa
Thuyết Pháp diệc vô lượng,                 Nói pháp cũng vô lượng
Chung thủy bất vong thác,                   Sau trước chẳng quên lộn
Dĩ Trì Pháp hoa cố.                             Bởi thọ trì Pháp Hoa

Có thể từ một đạo lý, mà liên tưởng đến vô lượng đạo lý; từ vô lượng đạo lý, mà quy về viên ngộ một đạo lý, do đó có câu:

‘’Một gốc tán làm vạn thù,
Vạn thù quy về một gốc.’’

Thuyết pháp cũng vô lượng vô biên, thủy chung chẳng quên Phật pháp, hoặc giảng sai lầm, tuyệt đối chẳng có chuyện đó xảy ra. Bởi do thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

 

Tất tri chư Pháp tướng,                        Trọn biết các pháp tướng
Tùy nghĩa thức thứ đệ,                        Theo nghĩa rõ thứ đệ
Đạt danh tự ngữ ngôn,                         Suốt danh tự ngữ ngôn
Như sở tri diễn thuyết.                         Như chỗ biết diễn nói

Vì có đại trí huệ, nên thông đạt liễu ngộ đạo lý thật tướng của các pháp. Thật tướng là gì ? Tức là vô tướng : Chẳng có tướng ta, chẳng có tướng người, chẳng có tướng chúng sinh, chẳng có tướng thọ mạng. Có bốn tướng đó là phàm phu; chẳng có bốn tướng tức là Thánh nhân. Chẳng có bốn tướng này, cũng chẳng phải là chẳng có tướng như thật thanh tịnh, chỗ này phải hiểu cho rõ.

Tùy theo nghĩa kinh mà giảng pháp có thứ lớp, trước sau đều có thứ tự, khiến cho người nghe dễ hiểu. Thông đạt danh từ giải thích, lời lẽ khéo léo, đắc được văn tự Bát Nhã, ngôn ngữ tam muội, chiếu theo đạo lý mà mình liễu ngộ hiểu biết, để vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.

 

Thử nhân hữu sở thuyết,                      Người đó có nói ra
Giai thị tiên Phật Pháp,                        Là pháp của Phật trước
Dĩ diễn thử pháp cố,                            Vì diển nói pháp này
Ư chúng vô sở úy.                               Ở trong chúng không sợ

Pháp sư thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nói những pháp gì, đều là diệu pháp trước kia Ðức Phật đã nói, bất quá vị đó nói lại nữa mà thôi. Vì vị đó diễn nói diệu pháp, cho nên ở trước đại chúng chẳng có sợ sệt, mà thao thao bất tuyệt, vì chúng sinh nói pháp, đầu đầu thị đạo, phân tích rõ ràng, có cảnh giới hoa trời rải xuống, hoa sen từ dưới đất vọt lên.

 

Trì Pháp hoa Kinh giả,                         Người trì kinh Pháp Hoa
Ý căn tịnh nhược tư.                            Ý căn tịnh như thế
Tuy vị đắc vô lậu,                                Dầu chưa đặng vô lượng
Tiên hữu như thị tướng.                       Trước có tướng dường ấy.

Pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa được căn ý thanh tịnh. Tuy nhiên chưa chứng được trí huệ vô lậu, nhưng trước hết đắc được tình hình như thế.

 

Thị nhân trì thử Kinh,                          Người đó trì kinh này
An trụ hy hữu địa.                               An trụ bực hi hữu
Vi nhất thiết chúng sanh,                     Ðược tất cả chúng sanh
Hoan hỉ nhi ái kính.                             Vui mừng mà mến kính

Pháp sư thọ trì Kinh Pháp Hoa, an trụ ở nơi hy hữu nhất, được tất cả chúng sinh hoan hỷ thương mến và cung kính.

 

Năng dĩ Thiên vạn chủng,                   Hay dùng nghìn muôn ức
Thiện xảo chi ngữ ngôn,                      Lời lẽ rất hay khéo
Phân biệt nhi thuyết Pháp,                   Phân biệt mà nói pháp
Trì Pháp hoa Kinh cố.                          Bởi trì kinh Pháp Hoa.

Hay dùng hàng ngàn vạn thứ lời lẽ, ví dụ phương tiện khéo léo, phân tích rõ ràng để vì chúng sinh giải nói diệu pháp. Tại sao lại có trí huệ như thế ? Vì thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.