Kinh Pháp Hoa – Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp

Phật Sở Hộ Niệm

— o0o —

Phụng chiếu dịch: Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập

Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá

— o0o —

Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai

Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Mười danh hiệu là gì? Tức là Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, đủ mười hiệu này nên gọi là Thế Tôn. Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều gọi là Như Lai. Như Lai là gì ? Tức là :

‘’Thừa như thật chi đạo,
Lai thành chánh giác.’’

Thừa là trí như như, lai là cảnh như như. Dùng trí như như để quán sát cảnh như như. Cảnh trí như như, cảnh trí hợp mà làm một. Tóm lại, cũng chẳng có cảnh, cũng chẳng có trí. Ðạo là nhân, giác là quả. Ðây là cảnh giới nhân viên quả mãn, cho nên gọi là ‘’Như Lai.’’ Như Lai có hai thân, tức là chân thân và ứng thân. Chân thân là pháp thân, ứng thân là hóa thân, tuy danh từ khác nhau, song thể dụng giống nhau. Theo căn cơ chúng sinh mà hiện thân, để vì chúng sinh nói pháp. Do đó :

‘’Bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến.’’
Ví dụ như : Chân thân cũng như mặt trăng sáng ở trong hư không, ứng thân giống như bóng mặt trăng ở trong nước. Do đó, có câu :

‘’Thiên đàm hữu thủy thiên đàm nguyệt.’’

Nghĩa là :
‘’Ngàn ao hồ có ngàn mặt trăng hiện vào.’’

Phàm là nơi nào có nước, chỉ cần lắng trong không đục, thì mặt trăng đều hiện bóng vào. Song, mặt trăng trong nước chẳng đi, mặt trăng trên trời cũng chẳng đến. Cho nên nói:

“Như Lai chẳng đến chẳng đi”.

Tuy Ðức Phật thị hiện đến thế giới này, song cũng chẳng sinh; tuy thị hiện nhập diệt, cũng chẳng có diệt. Tại sao ? Vì bổn thể của Ngài chẳng động. Ðó là cảnh giới không sinh mà thị hiện sinh, không diệt mà thị hiện diệt, khiến cho chúng sinh đừng chấp trước có sinh có diệt. Phật thì không sinh không diệt, huệ mạng của Phật cũng chẳng có hạn lượng, về thời gian là vô hạn, về không gian là vô lượng. Như Lai có ba thân, tức là :

1). Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, dịch là “Biến mãn nhất thiết xứ” (đầy khắp mọi nơi). Trí huệ quang của Ngài chiếu khắp hư không, tận hư không biến pháp giới. Pháp thân của Phật vô tại vô bất tại. Tại sao ? Vì pháp thân của Phật không hình không tướng, thuần nhất thanh tịnh, chân Phật vô hình, cho nên không có chỗ nào mà chẳng phải là pháp thân ở tại chỗ đó.

Có người khởi vọng tưởng : ‘’Ðại khái nơi chẳng thanh tịnh, thì chẳng có pháp thân của Phật‘’ ! Nói cho bạn biết ! Pháp thân của Phật chẳng có chỗ nào mà không có (vô sở bất tại). Thanh tịnh hay không thanh tịnh, là do tâm phân biệt của phàm phu mà nói. Tại cảnh giới của Phật mà nói, thì không thanh tịnh cũng biến thành thanh tịnh. Ở trước kinh này có nói về ba lần biến đất đai, tức là không thanh tịnh biến thành thanh tịnh.

2). Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật, dịch là “Tịnh mãn”. Tức là các hoặc đều tịnh, trí huệ viên mãn. Khi Ðức Phật chứng đạo dưới cội bồ đề, thì hiện thân Lô Xá Na ngàn trượng, để vì pháp thân Ðại sĩ (Bồ Tát) nói Kinh Hoa Nghiêm. Hàng tiểu thừa thấy Phật chỉ là tướng Tỳ Kheo một trượng sáu, do đó ‘’Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo viên đốn.’’ Ðây là hình dung hàng tiểu thừa chẳng có căn tánh đại thừa. Tuy nhiên ở tại hiện trường mà giống như kẻ mù kẻ điếc.

Có người hỏi : ‘’Hàng nhị thừa là bậc Thánh nhân, sao chẳng thấy Phật chẳng nghe pháp; chúng ta là phàm phu, sao lại thấy được Kinh Hoa Nghiêm‘’ ?

Ðáp : ‘’Vì hàng nhị thừa cơ duyên còn chưa thành thục, cho nên chẳng nghe pháp đại thừa. Chúng ta gặp được Kinh Hoa Nghiêm, phải cảm kích ân điển của Bồ Tát Long Thọ. Trong quá khứ chúng ta đã gieo trồng căn lành, kết pháp duyên với Kinh Hoa Nghiêm, cho nên đời này được nghe kinh điển này.’’

Sau khi Ðức Phật vào Niết Bàn, khoảng sáu trăm năm sau, Bồ Tát Long Thọ ra đời ở Ấn Ðộ, Ngài có trí huệ hơn người, bất cứ kinh gì sách gì, qua mắt rồi thì không bao giờ quên, thuộc lòng như nước chảy. Ngài đọc hết tất cả kinh sách thế gian, chẳng còn sách gì để đọc, Long Vương thỉnh Ngài xuống lầu tạng kinh ở dưới Long Cung, để đọc kinh điển đại thừa. Ngài phát hiện bộ Kinh Hoa Nghiêm, gồm có quyển thượng, trung, hạ ba quyển. Quyển thượng và quyển trung quá nhiều bài kệ, người thế gian không thể tiếp thọ được, chỉ có quyển hạ có mười vạn bài kệ. Ngài tốn ba ngày thời gian, mới đọc xong mười vạn bài kệ và nhớ vào trong não hải, rồi trở về Ấn Ðộ, viết ra trên lá bối chẳng xót một chữ, trở thành bộ kinh ‘’Không thể nghĩ bàn,’’ lưu truyền ở nhân gian. Kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta gặp là bộ kinh này. Nhân duyên của chúng ta thành thục, tương lai khi giảng xong bộ Kinh Pháp Hoa, thì chúng ta tiếp tục giảng bộ Kinh Hoa Nghiêm. Tôi ước lượng khoảng mười năm mới giảng xong bộ Kinh Pháp Giới này.

Nói đến đây lại có người khởi vọng tưởng : ‘’Bồ Tát Long Thọ làm sao mà xuống Long cung được ? Ngài lặn xuống nước chăng‘’ ? Phàm là người chứng quả, đều có thần thông, vào đất như vào nước, đi trong nước như đi trên đất. Ngài đến bờ biển thì nước biển tự nhiên rẽ ra thành đường đi, chân Ngài chẳng dính nước, bèn đi đến Long cung, bạn nói có diệu chăng ! Bạn có muốn xuống Long cung tham quan chăng ? Hãy mau ngồi thiền nhập định, đắc được ngũ nhãn lục thông, thì bất cứ muốn đến đâu, cũng đều toại tâm như ý, chẳng bị vật gì hạn chế.

3). Thiên Bách ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật, dịch là “Năng nhân tịch mặc”. Nghĩa là thân khẩu ý ba nghiệp, lìa các lỗi ác được vắng lặng. Phật tùy loại chúng sinh mà hiện thân để giáo hóa. Tóm lại, theo cơ của chúng sinh mà hiện thân nói pháp, chẳng những ở thế giới này nói pháp, mà còn nói pháp ở khắp mười phương vô lượng thế giới, để giáo hóa chúng sinh.

Phẩm này là vì giải quyết lòng nghi của chúng mà nói : ‘’Ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, thọ mạng của Như Lai vô lượng A tăng kỳ kiếp.’’ Phẩm này nói rõ công đức báo thân và trí huệ của Phật, trên thì hợp với thật tướng, dưới thì khế với chúng sinh.

 

Nhĩ thời, Phật cáo chư Bồ Tát cập nhất thiết Đại chúng: Chư Thiện nam tử! nhữ đẳng đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ. Phục cáo Đại chúng: “Nhữ đẳng đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ.” Hựu phục cáo chư Đại chúng: “Nhữ đẳng đương tín giải Như Lai thành đế chi ngữ.”

Lúc bấy giờ, Phật bảo các Bồ Tát  và tất cả đại chúng: “Các thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như Lai. Lại bảo đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như Lai”. Lại bảo các đại chúng: “Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thực của Như Lai”.

Sau khi Ðức Phật nói xong Phẩm Từ Dưới Ðất Vọt Lên rồi, bèn nói Phẩm Thọ Lượng của Như Lai. Lúc đó, Phật bảo tất cả Bồ Tát và đại chúng trong hội Pháp Hoa nói : ‘’Các vị thiện nam tử!

Các ông hãy thanh tịnh tâm của mình, thu nhiếp ý của mình, chú ý lắng nghe ! Nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.’’ Trước kia nói pháp ba thừa, là tùy phương tiện mà nói, bây giờ nói pháp một thừa, nên gọi là pháp chân thật.

Ðức Thế Tôn sợ rằng hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, trong pháp hội khởi vọng tưởng chẳng chú ý nghe pháp, cho nên lại nói lần nữa : ‘’Các ông nên tin hiểu lời nói chân thật của Như Lai.’’

 

Thị thời Bồ Tát Đại chúng, Di Lặc vị thủ, hợp chưởng bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! duy nguyện thuyết chi, ngã đẳng đương tín thọ Phật ngữ.” Như thị tam bạch dĩ, phục ngôn: “Duy nguyện thuyết chi, ngã đẳng đương tín thọ Phật ngữ.”

 Lúc đó đại chúng Bồ Tát , ngài Di Lặc làm đầu, chắp tay bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật”. Ba phen bạch như thế rồi lại nói: “Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật”.

Lúc đó, trong đại chúng Bồ Tát nghe Phật nói ba lần như thế. Bồ Tát Di Lặc đại biểu cho đại chúng, hướng về Ðức Phật cung kính chắp tay mà bạch rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Xin Ngài hãy vì chúng con mà nói lời chân thật, chúng con sẽ tin sâu tiếp thọ lời nói của Phật, tuyệt đối chẳng hoài nghi pháp của Phật nói.’’ Nói như thế ba lần, thì Phật yên lặng chẳng nói (ba lần thỉnh pháp để biểu thị chí thành khẩn thiết). Bồ Tát Di Lặc lại nói : ‘’Xin Ðức Thế Tôn hãy vì chúng con mà nói, chúng con nhất định tin nhận lời của Phật nói.’’

 

Nhĩ thời Thế Tôn  tri chư Bồ Tát tam thỉnh bất chỉ, nhi cáo chi ngôn: Nhữ đẳng đế thính, Như Lai bí mật thần thông chi lực. Nhất thiết thế gian Thiên, nhân cập A Tu La, giai vị: Kim Thích Ca Mâu Ni Phật, xuất thích thị cung, khứ già da thành bất viễn, tọa ư đạo tràng, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Bây giờ, đức Thế Tôn biết các vị Bồ Tát  ba phen thỉnh chẳng thôi, mà bảo đó rằng: “Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần thông của Như Lai, tất cả trong đời, trời, người và A tu la đều cho rằng nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo tràng được vô thượng chính đảng chính giác.

Lúc đó, Phật biết các vị Bồ Tát ba lần thỉnh pháp không ngừng, bèn nói với các vị Bồ Tát rằng : ‘’Các ông phải nghe cho kỹ ! Sức thần thông bí mật của Như Lai.’’ Tất cả thế gian trời người và A tu la đều nói rằng : ‘’Hiện tại Phật Thích Ca Mâu Ni, lìa khỏi cung điện của vua Tịnh Phạn, đi đến thành Già Gia chẳng bao xa, ngồi dưới cội bồ đề, chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.’’

 

Nhiên, Thiện nam tử! ngã thật thành Phật dĩ lai vô lượng vô biên bách Thiên vạn ức na do tha kiếp. Thí như ngũ bách Thiên vạn ức na do tha a tăng kì tam Thiên đại Thiên thế giới, giả sử hữu nhân mạt vị vi trần, qua ư Đông phương ngũ bách Thiên vạn ức na do tha a tăng kì quốc nãi hạ nhất trần, như thị Đông hành, tận thị vi trần.

“Nhưng, thiện nam tử! Thực ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô lượng  vô biên trăm nghin muôn ức na do tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi tam thiên, đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua phương đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi trần đó.

Thiện nam tử ! Thật ra, từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp. Ví như, năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ, ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người nghiền ra thành bụi, đi qua phương đông, năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, mới để xuống một hạt bụi, cứ theo hướng đông làm như thế, hết số hạt bụi đó.

Thiện nam tử ! Thật ra ta thành Phật đến nay, đã có vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha kiếp. Chứ chẳng phải hiện tại mới chứng được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Ví như, có năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ (vô lượng số), ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử, có người đem hết các thế giới đó nghiền ra thành bụi, đi thẳng về phương đông, qua năm trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, mới để xuống một hạt bụi, để hết số hạt bụi, chẳng còn hạt bụi nào cả.

 

Chư Thiện nam tử! Ư ý vân hà, thị chư thế giới, khả đắc tư tánh giáo kế tri kỳ số bất?

Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể suy gẫm so tính biết được số đó chăng?”

Các thiện nam tử ! Ý của các ông thế nào ? Những thế giới như thế có bao nhiêu ? Các ông có thể suy nghĩ, tính đếm cứu kính có bao nhiêu số mục, các ông có biết số chắc chắn là bao nhiêu chăng ?

 

Di Lặc Bồ Tát đẳng câu bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thị chư thế giới, vô lượng vô biên, phi toán số sở tri, diệc phi tâm lực sở cập, nhất thiết Thanh văn, Bích Chi Phật, dĩ vô lậu trí, bất năng tư tánh tri kỳ hạn số, ngã đẳng trụ A duy việt trí địa, ư thị sự trung diệc sở bất đạt. Thế Tôn! Như thị chư thế giới, vô lượng vô biên.”

 Di Lặc Bồ Tát , thảy đều bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng  vô biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm lực biết đến được. Tất cả Thanh văn, Duyên giác dùng trí vô lậu, chẳng có thể suy nghĩ biết được hạn số đó, chúng con trụ bậc bất thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt. Thế Tôn! Các thế giới như thế, nhiều vô lượng  vô biên”.

Bồ Tát Di Lặc và tất cả Bồ Tát đồng thời nói với Phật : ‘’Ðức Thế Tôn ! Những thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính toán mà biết được số mục, cũng chẳng phải dùng sức tâm của một số người, mà tưởng tượng đến được. Dù tất cả hàng Thanh Văn và Duyên Giác, dùng trí huệ vô lậu để suy nghĩ cũng chẳng biết được số mục. Chúng con hàng Bồ Tát đều trụ ở bậc bất thối, ở nơi việc này cũng chẳng biết được. Ðức Thế Tôn ! Những thế giới đó chẳng có số lượng, chẳng có bờ bến, không thể nói, không thể hình dung được.’’

 

Nhĩ thời Phật cáo đại Bồ Tát chúng: “Chư Thiện nam tử! kim đương phân minh tuyên ngữ nhữ đẳng.” Thị chư thế giới, nhược trước vi trần cập bất trước giả tận dĩ vị trần, nhất trần nhất kiếp, ngã thành Phật dĩ lai, phục qua ư thử bách Thiên vạn ức na do tha a tăng kì kiếp. Tự tùng thị lai, ngã thường tại thử Ta Bà thế giới thuyết Pháp giáo hóa, diệc ư dư xứ bách Thiên vạn ức na do tha a tăng kì quốc đạo lợi chúng sanh.

 Bây giờ, Phật bảo các chúng Bồ Tát : “Các Thiện nam tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành rõ cho các ông. Các thế giới đó, hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại, ta thường ở cõi Ta bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước khác dắt dẫn lợi ích chúng sinh.

Lúc đó, Ðức Phật bảo các đại Bồ Tát ở trong pháp hội rằng : ‘’Các vị thiện nam tử ! Nay ta sẽ phân minh nói rõ cho các ông nghe. Ði về hướng đông, trải qua vô lượng thế giới như thế, hoặc để một hạt bụi xuống, hoặc không để hạt bụi xuống, lại đem tất cả những thế giới đó, đều nghiền ra thành bụi. Một hạt bụi là một kiếp, từ khi ta thành Phật đến nay, đã trải qua nhiều hơn số kiếp hạt bụi đó, khoảng trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ đại kiếp. Từ đó đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta Bà này, thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, cũng ở những thế giới khác giáo hóa chúng sinh, tại trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ cõi nước, giáo hóa lợi ích tất cả chúng sinh.’’

 

Chư Thiện nam tử! ư thị trung gian, ngã thuyết Nhiên Đăng Phật đẳng, hựu phục ngôn kỳ nhập ư Niết Bàn, như thị giai dĩ phương tiện phân biệt.

Các thiện nam tử! Trong khoảng giữa đó, ta nói Phật Nhiên Ðăng, và còn nói đức Phật đó vào Niết Bàn. Như thế đều dùng phương tiện phân biệt.

Các vị thiện nam tử ! Từ lúc ban đầu ta thành Phật, đến hiện tại pháp hội Linh Sơn, trong khoảng giữa này ta đã từng nói qua : ‘’Ta ở vào thời Phật Nhiên Ðăng, tên là Bồ Tát Thiện Huệ. Sau gặp Phật Nhiên Ðăng thọ ký cho ta, vào thời kỳ Hiền Kiếp, sẽ được thành Phật hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.’’ Ta lại nói : ‘’Phật Nhiên Ðăng nhập Niết Bàn vào thời nào‘’? Những pháp ta nói đó, thật là pháp phương tiện, vì đối với căn tánh của chúng sinh mà nói ra nhân duyên đó, sự tích đó. Thật tế thì chẳng phải như thế, chẳng qua phương tiện phân biệt nói mà thôi. Các ông đừng cho nó là thật.

 

Chư Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh lai chí ngã sở, ngã dĩ Phật nhãn, quán kỳ tín đẳng chư căn lợi độn, tùy sở ưng độ, xứ xứ tự thuyết, danh tự bất đồng, niên kỉ đại tiểu, diệc phục hiện ngôn đương nhập Niết Bàn, hựu dĩ chủng chủng phương tiện thuyết vi diệu Pháp, năng lệnh chúng sanh phát hoan hỉ tâm.

 Các Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh nào đến chỗ ta, ta dùng Phật nhãn quan sát: Tín, v.v. . . các căn lợi độn của chúng, tùy theo chỗ đáng độ, nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồn, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng hại hiện nói sẽ nhập Niết bàn, lại dùng các trí phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho chúng sinh phát lòng vui mừng.

Các vị thiện nam tử ! Giả sử có chúng sinh đến chỗ ta, thì ta dùng mắt Phật để quán sát năm căn của họ, là lợi hay là độn, để thuyết pháp giáo hóa họ.

Nếu người có tín căn mà nghe Phật pháp, thì họ liền tin, chẳng sinh tâm hoài nghi, giữ quy cụ chẳng phóng dật. Sau khi tin Phật pháp rồi, thì còn phải tinh tấn nỗ lực tu hành. Bằng không, có tín căn mà chẳng tinh tấn thì đó là ‘’khẩu đầu thiền.’’ Nói mà chẳng làm thì cũng như không, chẳng ích lợi gì. Phải từ từ đi đứng nằm ngồi, niệm niệm không quên mới có công hiệu. Những pháp môn học được, chẳng thiết thực nghiên cứu, chẳng chuyên tâm đọc tụng, thậm chí một ngày nóng mười ngày lạnh, thì vĩnh viễn chẳng đắc được giải thoát. Niệm căn bất thối thì mới sinh ra định căn. Có định căn rồi thì mới sinh huệ căn. Năm căn này đều có mối quan hệ với nhau. Người chẳng có định căn, khi cảnh giới đến khảo nghiệm thì hồ đồ. Tại sao ? Vì chẳng có huệ căn, cho nên huệ căn rất là quan trọng. Do năm căn mà sinh ra năm lực, năm lực trợ giúp thành tựu đạo nghiệp.

Lợi căn là người thông minh, độn căn là người ngu si. Người thông minh thì không bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được cảnh giới. Cảnh giới ác chuyển thành cảnh giới thiện, cảnh giới nghịch chuyển thành cảnh giới thuận. Người ngu si thì ngược lại, việc tốt làm thành việc xấu, việc thiện làm thành việc ác, cứ làm việc điên đảo. Tại sao lại thông minh ? Vì làm nhiều công đức, chẳng làm việc thất đức. Tại sao lại ngu si ? Vì chẳng làm việc công đức, cứ muốn chiếm tiện nghi, chẳng chịu thiệt thòi. Phải hiểu rằng :

‘’Thiệt thòi là chiếm tiện nghi.’’

Ðạo lý này các vị hãy nghiên cứu thì sẽ biết nghĩa của nó. Lão Tử từng nói qua bài này rằng :

‘’Ðại đạo phế, hữu nhân nghĩa.
Trí huệ xuất, hữu đại ngụy.
Lục thân bất hòa, hữu hiếu tử,
Quốc gia hỗn loạn, hữu trung thần.’’

Nghĩa đại khái là : Ðại đạo chẳng còn, thì mới đi giảng về nhân nghĩa. Người có trí huệ xuất hiện, thì trên thế gian sẽ có việc gian ngụy phát sinh. Gia đình bất hòa thì mới hiển lộ người con có hiếu. Nước nhà hỗn loạn, thì mới xuất hiện trung thần. Tục ngữ có câu :

‘’Chẳng có núi cao thì không hiển lộ đất bằng.’’

Khi nước nhà thái bình, thì ai ai cũng đều là người tốt, chẳng phân biệt được người trung kẻ gian. Khi đất nước đại loạn, thì mới biết rõ trung thần báo quốc, gian thần bán nước, xưa nay đều rõ ràng.

Phật tùy theo chúng sinh nào độ được, thì thuyết pháp giáo hóa họ, cho nên nơi nơi chốn chốn, tự nói danh hiệu của mình, hoặc là nói Tỳ Lô Giá Na, hoặc nói Lô Xá Na, hoặc nói Thích Ca Mâu Ni. Tuy danh hiệu khác nhau, song đều là một người. Tuổi tác của Phật ở đời, hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc già, hoặc trẻ, đều khác nhau. Lại đối với hàng đệ tử nói : ‘’Hiện tại ta sẽ vào Niết Bàn.’’ Kỳ thật, Phật cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt, thường ở tại cõi Thường Tịch Quang thuyết pháp. Lại dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, diễn nói pháp vi diệu không thể nghĩ bàn, khiến cho chúng sinh hoan hỷ.

 

Chư Thiện nam tử! Như Lai kiến chư chúng sanh nhạo ư tiểu pháp, đức bạc cấu trọng giả, vị thị nhân thuyết: Ngã thiểu xuất gia, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhiên ngã thật thành Phật dĩ lai cửu viễn nhược tư, đãn dĩ phương tiện, giáo hóa chúng sanh, lệnh nhập Phật đạo, tác như thị thuyết.

 Các thiện nam tử! Như Lai thấy những chúng sinh ưa nơi pháp tiểu thừa, đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất gia được vô thượng chính đẳng chính giác, nhưng thực, từ ta thành Phật nhẫn lại, lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sinh, khiến vào Phật đạo, nên nói như thế.

Các vị thiện nam tử ! Như Lai quán sát căn cơ của tất cả chúng sinh, để vì họ nói pháp. Có chúng sinh thích pháp tiểu thừa, thì vì họ nói pháp tiểu thừa. Có chúng sinh hoan hỷ pháp đại thừa, thì vì họ nói pháp đại thừa. Ðối với chúng sinh phước mỏng đức cạn, hoặc phiền não cấu nặng, độn căn thì nói : ‘’Ta lúc thiếu niên xuất gia tu đạo, đã chứng quả giác Vô thượng chánh đẳng chánh giác.’’ Song, thật ta thành Phật đến nay rất là lâu xa, đã vượt hơn số bụi A tăng kỳ kiếp. Nhưng dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho họ cải tà quy chánh, hồi tiểu hướng đại, phát tâm bồ đề chứng nhập Phật đạo, cho nên mới nói pháp như thế.

 

Chư Thiện nam tử! Như Lai sở diễn Kinh điển, giai vị độ thoát chúng sanh, hoặc thuyết kỷ thân, hoặc thuyết tha thân, hoặc thị kỷ thân, hoặc thị tha thân, hoặc thị kỷ sự, hoặc thị tha sự, chư sở ngôn thuyết, giai thật bất hư.

 Các thiện nam tử! Kinh điển của đức Như Lai nói ra, đều vì độ thoát chúng sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân mình, hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người, các lời nói đều thực chẳng dối.

Các vị thiện nam tử ! Như Lai nói tất cả kinh điển, đều vì độ thoát tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui mà nói. Vì chúng sinh có tám vạn bốn ngàn trần lao, cho nên mới nói ra tám vạn bốn ngàn pháp môn. Mỗi pháp môn đối trị mỗi chứng bệnh. Ðối với chúng sinh tâm tham nặng, thì nói quán pháp bất tịnh; đối với chúng sinh tâm sân nặng, thì nói quán pháp từ bi; đối với chúng sinh tâm si nặng, thì nói quán pháp nhân duyên. Tóm lại, theo bệnh cho thuốc, thì mới có công hiệu. Phật dùng đủ thứ pháp môn, đối trị đủ thứ tập khí mao bệnh của chúng sinh.

Phật giáo hóa chúng sinh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân của chư Phật, dùng thân làm khuôn phép, làm mô phạm cho chúng sinh, hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân Phật khác, để làm mô phạm khiến cho chúng sinh học theo, hoặc nói nhân duyên bổn sinh bổn sự của chư Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật, A La Hán. Những lời nói ra đều chân thật không hư.

 

Sở dĩ giả hà?  Như Lai như thật tri kiến tam giới chi tướng, vô hữu sanh tử, nhược thoái nhược xuất, diệc vô tại thế cập diệt độ giả, phi thật phi hư, phi như phi dị, bất như tam giới kiến ư tam giới, như tư chi sự, Như Lai minh kiến, vô hữu thác mậu.

Vì sao? Vì đức Như Lai đúng như thực thấy biết tướng của tam giới, không có sinh tử, , hoặc thối, hoặc xuất, cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thực, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc như thế Như Lai thấy rõ, không có sai lầm.

Ðây là nguyên nhân gì ? Như Lai dùng tri kiến chân như thật trí, chiếu thấy tướng của ba cõi chẳng có sinh tử. Tại bổn thân của Phật mà nói, thì chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt, cũng chẳng có thối lùi, cũng chẳng có xuất hiện, cũng chẳng trụ thế, cũng chẳng diệt độ.

Một số phàm phu, quán tất cả pháp là thật có, hàng nhị thừa quán tất cả pháp là không tướng, Phật quán tất cả pháp là chẳng thật chẳng hư. Tóm lại, trung đạo mới là chân không diệu hữu; diệu hữu không ngại chân không. Cũng chẳng phải như, chẳng phải khác. Sao gọi là chẳng phải như ? Chẳng phải một. Sao gọi là chẳng phải khác ? Cũng chẳng phải hai. Chẳng giống như chúng sinh trong ba cõi, thấy ba cõi thì có ba cõi. Tại Phật mà nói, thì chẳng có sinh tử, chẳng có ba cõi. Những sự việc như thế chỉ có Như Lai mới thấy rõ chẳng có sai lầm.

 

Dĩ chư chúng sanh hữu chủng chủng tánh, chủng chủng dục, chủng chủng hạnh, chủng chủng ức tưởng phân biệt cố, dục lệnh sanh chư thiện căn, dĩ nhược can nhân duyên, thí dụ, ngôn từ chủng chủng thuyết Pháp, sở tác Phật sự, vị tằng tạm phế.

Bởi các chúng sinh có các món tính, các món dục, các món hạnh, các món nhớ tưởng phân biệt, muốn làm cho sinh các căn lành, nên dùng bao nhiêu nhân duyên, thí dụ ngôn từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật sự, chưa từng tạm bỏ.

Vì hết thảy chúng sinh đều có đủ thứ tập tánh, đủ thứ dục vọng, đủ thứ nghiệp hành, đủ thứ nghĩ nhớ phân biệt. Phật muốn khiến cho chúng sinh trồng tất cả căn lành, cho nên dùng đủ thứ nhân duyên, đủ thứ ví dụ, đủ thứ lời lẽ, đủ thứ thuyết pháp. Làm những Phật sự từ lâu xa đến nay, chưa từng tạm thời phế bỏ. Tóm lại, ngày ngày làm Phật sự chẳng có ngừng nghỉ.
Chúng sinh là gì ? Phàm là có huyết, có khí, có mạng sống, đều là chúng sinh, tức cũng là do chúng duyên hòa hợp mà sinh. Phi, tiềm, động, thực, đều là hữu tình chúng sinh, cây, cỏ, vàng, đá, là vô tình chúng sinh, hữu tình chúng sinh đang nói pháp, vô tình chúng sinh cũng đang nói pháp, bất quá chúng ta phàm phu chẳng thấu được mà thôi, bậc Thánh nhân chứng được ngũ nhãn lục thông, đều biết đều thấy.

 

Như thị, ngã thành Phật dĩ lai, thậm đại cửu viễn, thọ mạng vô lượng a tăng kì kiếp, thường trụ bất diệt.

Như thế, từ ta thành Phật nhẫn lại, thực là lâu xa, thọ mệnh vô lượng  a tăng kỳ kiếp, thường còn chẳng mất.

Như ở trên vừa nói, từ khi ta thành Phật đến nay, thời gian rất là lâu xa, tuổi thọ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, thường trụ ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt. Và chẳng phải chỉ chứng đạo ở dưới cội bồ đề, nhập diệt tại Sa La song thọ. Ðó bất quá là phương tiện thị hiện mà thôi.

 

Chư Thiện nam tử! ngã bổn hàng Bồ Tát đạo sở thành thọ mạng, kim do vị tận, phục bội thượng số. Nhiên kim phi thật diệt độ, nhi tiện xướng ngôn: Đương thủ diệt độ. Như Lai dĩ thị phương tiện, giáo hóa chúng sanh.

Các thiện nam tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ Tát , cảm thành thọ mệnh, nay vẫn chưa hết, lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thực diệt độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ. Ðức Như Lai dùng phương tiện đó, giáo hóa chúng sinh.

Các vị thiện nam tử ! Thuở xưa, khi ta hành Bồ Tát đạo, được tuổi thọ đến nay vẫn chưa hết. Còn lâu dài hơn hạt bụi số kiếp đã nói ở trên. Hiện tại ta muốn vào Niết Bàn, chẳng phải thật diệt độ, chỉ là phương tiện nói pháp, bèn nói là sẽ diệt độ. Như Lai vì phương tiện giáo hóa chúng sinh, mà nói như thế.

 

Sở dĩ giả hà? Nhược Phật cửu trụ ư thế, bạc đức chi nhân, bất chủng thiện căn, bần cùng hạ tiện, tham trước ngũ dục, nhập ư ức tưởng vọng kiến võng trung.

Vì sao? Vì nếu Phật ở lâu nơi đời, thời người đức mỏng, chẳng trồng gốc lành, nghèo cùng hèn hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới nhớ tưởng vọng kiến.

Tại sao Phật có diệt độ, mà nói là chẳng có diệt độ ? Phật vốn là chẳng sinh chẳng diệt. Nếu như Phật sống lâu ở đời chẳng vào Niết Bàn, thì người phước mỏng sinh tâm ỷ lại, chẳng muốn trồng căn lành. Tâm nghĩ : ‘’Phật còn ở đời, mình từ từ trồng căn lành cũng chưa muộn, còn có nhiều thời gian.’’ Cho nên, bổn ý của Phật thị hiện Niết Bàn, là khiến cho chúng sinh sớm trồng căn lành, sớm thành Phật đạo.

Giảng đến đây, tôi nhớ lúc ở đông bắc bên Tàu, đệ tử quy y với tôi thì rất đông, song đệ tử tu hành thì rất ít. Dạy họ tu hành thì có người nói : ‘’Tôi chẳng có thời giờ tu, khi về già tu cũng chưa muộn.’’ Sau khi tôi rời khỏi đông bắc đến Hương Cảng, thì có nhận thư của đệ tử gởi đến nói : ‘’Người đó bây giờ tu hành, rất là nỗ lực, chẳng giải đãi nữa.’’ Vì sư phụ không có ở đó, thì họ mới tu hành. Nếu sư phụ ở đó, thì họ chưa chịu tu hành. Sau khi tôi đến Hương Cảng, cũng có rất nhiều người quy y, song tu hành chẳng nhận chân. Tôi rời khỏi Hương Cảng đến nước Mỹ, thì lúc này họ mới biết chẳng có sư phụ, thì phát sinh những việc khó khăn, chẳng cách gì giải quyết được. Do đó, thơ này thì thỉnh sư phụ trở về, thư kia thì thỉnh sư phụ giúp đỡ. Tóm lại, ngày ngày gặp mặt, thì chẳng cảm thấy quan trọng, khi không gặp thì mới biết là quan trọng.

Nguyên nhân Phật chẳng ở lại đời, là vì chúng sinh bần cùng hạ tiện, tham trước năm dục, chẳng biết chẳng hay, đọa vào trong lưới vọng kiến nhớ tưởng điên đảo, làm che lấp đi trí huệ quang minh, cứ làm việc điên đảo.

Tại sao người lại bần cùng ? Vì kiếp trước chưa làm việc công đức, cũng chẳng trồng căn lành, cứ nghĩ muốn chiếm tiện nghi, cho nên đời này chẳng có phước báo.

 

Nhược kiến Như Lai thường tại bất diệt, tiện khởi kiêu tứ nhi hoài yếm đãi, bất năng sanh nan tao chi tưởng, cung kính chi tâm. Thị cố Như Lai dĩ phương tiện thuyết: “Tỳ kheo đương tri! chư Phật xuất thế, nan khả trực ngộ.”

Nếu thấy đức Như Lai thường còn chẳng mất, bèn sinh lòng buông lung nhàm trễ, chẳng có thể sinh ra ý tưởng khó gặp gỡ cùng lòng cung kính, cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng: “Tỳ Kheo phải biết, các đức Phật ra đời, khó có thể gặp gỡ”.

Chúng sinh tham luyến năm dục, nếu thấy Phật thường ở đời mà không nhập diệt, thì họ bèn sinh tâm kiêu mạn phóng túng, chẳng giữ quy cụ. Họ ngày ngày thấy Phật, thời thời gặp Phật, thì sinh tâm nhàm chán giải đãi, mà chẳng sinh tâm khó được gặp Phật ở đời, chẳng sinh tâm cung kính Tam Bảo. Do đó, cho nên Như Lai phương tiện nói : ‘’Này các Tỳ Kheo ! Các ông nên biết, mười phương chư Phật xuất hiện ra đời, chẳng dễ gì gặp được.’’

 

Sở dĩ giả hà? chư bạc đức nhân, qua vô lượng bách Thiên vạn ức kiếp, hoặc hữu kiến Phật, hoặc bất kiến giả, dĩ thử sự cố, ngã tác thị ngôn: “Chư Tỳ kheo! Như Lai nan khả đắc kiến.”

Tư chúng sanh đẳng Văn như thị ngữ, tất đương sanh ư nan tao chi tưởng, tâm hoài luyến mộ, khát ngưỡng ư Phật, tiện chủng thiện căn. Thị cố Như Lai tuy bất thật diệt, nhi ngôn diệt độ.

Vì sao? Những người đức mỏng, trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp, hoặc có người thấy Phật hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên ta nói rằng: “Tỳ Kheo! Ðức Như Lai khó có thể được thấy”.

Các chúng sinh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sinh ý tưởng khó gặp gỡ, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng gốc lành, cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt độ.

Vì sao nói rất khó được gặp Phật ? Vì tất cả những người phước mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, hoặc có gặp được Phật, hoặc không gặp được Phật. Vì lẽ đó, cho nên ta mới nói : ‘’Này các Tỳ Kheo ! Như Lai rất khó gặp được.’’ Những chúng sinh đó, nghe ta nói như thế, thì bèn sinh tâm khó gặp Phật ra đời, trong tâm bèn luyến mộ Phật, khát ngưỡng Phật, bèn trồng xuống căn lành. Vì lẽ đó, cho nên Như Lai tuy chẳng phải thật nhập diệt, mà phương tiện nói là nhập diệt. Kỳ thật, bây giờ Phật vẫn còn ở tại pháp hội Linh Sơn, diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chưa tan hội. Có gì chứng minh ?

Vào đời Tùy, Thiên Thai Trí Giả Ðại Sư, Ngài tụng Kinh Pháp Hoa đến Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự, bèn nhập định thấy được cảnh giới này, do Ngài Huệ Tư Ðại Sư ấn chứng rằng :

– ‘’Phi nhữ mạc thức, phi ngã mạc chứng.’’

Do đó có thể biết, thật có việc đó chứ chẳng hư cấu. Tổ Sư đại đức chẳng nói dối.

Lại nữa ! Thiện nam tử ! Pháp của chư Phật Như Lai đều như thế, vì độ chúng sinh, đều thật chẳng hư.

Các vị thiện nam tử ! Mười phương ba đời tất cả chư Phật đều nói pháp như thế, do đó ‘’Phật Phật đạo đồng.’’ Vì giáo hóa chúng sinh mà nói pháp, đều chân thật chẳng hư. Trước hết nói pháp ba thừa, đó là vì thật thí quyền; bây giờ nói pháp một thừa, đó là khai quyền hiển thật. Trước ba sau một, vì khai ngọn hiển gốc, gốc ngọn chẳng lìa. Ðây là pháp “hết ba về một, hết ngọn về gốc”.

 

Thí như lương y, trí tuệ thông đạt, minh luyện phương dược, thiện trì chúng bệnh. Kỳ nhân đa chư tử tức nhược thập, nhị thập nãi chí bách số, dĩ hữu sự duyên, viễn chí dư quốc. Chư tử ư hậu, ẩm tha độc dược, dược phát muộn loạn, uyển chuyển vu địa.

Ví như vị lương y, trí tuệ sáng suốt, khéo luyện phương thuốc trị các bệnh. Người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn loạn lăn lộn trên đất.

Phật vì nói rõ đạo lý này, mới đưa ra ba mươi ví dụ để giải thích. Ví dụ tuy chẳng phải là chân lý, nhưng có thể nói rõ chân lý, cho nên có kinh ví dụ truyền bá trên thế gian.

Ví như có vị lương y trí huệ rất thông minh, biết rõ tính thuốc khéo điều trị tất cả nghi nan tạp chứng. Vị lương y này (đại biểu cho Phật), có rất nhiều con (đại biểu cho chúng sinh), hoặc mười (thập địa Bồ Tát) người con, hoặc hai mươi (nhị thừa) người con, cho đến một trăm (đại biểu cho trăm pháp giới) người con. Vị lương y này, vì có bệnh nhân đặc biệt, nên đi xa đến nước khác, do đó chẳng cách chi chiếu cứ các người con ở nhà. Các người con ở nhà đều rất thơ bé, chẳng ai chăm sóc, bèn lấy thuốc độc uống, bị trúng độc. Trong tâm phiền muộn điên loạn, nằm lăn lóc trên đất, thống khổ không thể tả.

 

Thị thời kỳ phụ hoàn lai quy gia, chư tử ẩm độc, hoặc thất bản tâm, hoặc bất thất giả, dao kiến kỳ phụ, giai đại hoan hỉ, bái quỵ vấn tấn: “Thiện an ẩn quy, ngã đẳng ngu si, ngộ phục độc dược, nguyện kiến cứu liệu, cánh tứ thọ mạng.”

Bây giờ, người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc độc, hoặc làm mất bản tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về đều rất vui mừng, quỳ lạy hỏi thăm: “An lành về an ổn. Chúng con ngu si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ mệnh cho chúng con.”

Trong lúc khẩn cấp, thì người cha từ nước khác trở về. Những người con này đã uống thuốc độc, có người đã mất tri giác, có người còn tỉnh táo, trúng độc chẳng nặng lắm. Họ ở đằng xa nhìn thấy người cha trở về, ai nấy đều rất mừng rỡ : ‘’Ba Ba ! Ba được bình an trở về, không việc gì chứ ! Chúng con anh em quá ngu si, uống thuốc độc mà cứ tưởng là nước đường. Xin ba hãy tha thứ sự ngu si của chúng con, hãy cứu chữa khiến cho chúng con khỏi bệnh, để sống lâu trăm tuổi.’’

 

Phụ kiến tử đẳng khổ não như thị, y chư Kinh phương, cầu hảo dược thảo, sắc hương mỹ vị giai tất cụ túc, đảo si hòa hợp dữ tử lệnh phục, nhi tác thị ngôn” “Thử Đại lương dược, sắc hương mỹ vị giai tất cụ túc, nhữ đẳng khả phục, tốc trừ khổ não, vô phục chúng hoạn.”

 Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương, tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Ðâm nghiền hòa hợp, đưa bảo các con uống mà nói rằng: “Thuốc đại lương dược này mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ, các con nên uống, mau trừ khổ não, không còn lại có các bệnh hoạn”.

Người cha thấy các con đau khổ như thế, bèn y theo các phương pháp, tìm cỏ thuốc tốt, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, đâm giã sàng rồi hòa hợp cho các người con uống, mà nói rằng : Ðây là thuốc hay, sắc vị thơm ngon thảy đều đầy đủ, các con hãy uống đi, thì sớm sẽ hết khổ não, chẳng còn bị bệnh nữa.

Vị lương y đó từ nước ngoài trở về, phát hiện con của mình vì tham ăn mà trúng độc. Có người bất tỉnh nhơn sự, có người còn tỉnh, song đều rất đau khổ, thật đáng thương xót. Bèn y chiếu theo các phương pháp tìm cỏ thuốc giải độc hữu hiệu nhất, có màu sắc dễ nhìn, mùi vị ngon ngọt, cho nên nói là sắc vị thơm ngon đều đầy đủ, khiến các người con hoan hỷ uống thuốc giải độc này (Phật pháp). Vị lương y đem thuốc đâm giã rồi sàng lấy bột mịn, thêm mật ong hòa hợp làm thành viên. Các người con uống rồi bèn giải trừ độc tố, nhanh chóng khôi phục sức khoẻ.

Về sau người cha nói với các con rằng : ‘’Thuốc rất hay này, sắc cũng thơm, vị cũng ngon. Các con hãy mau uống vào, thì sẽ giải trừ được đau khổ lập tức hết bệnh, chẳng còn bị bệnh nữa, thứ thuốc này là vạn linh đan, trị được bá bệnh, có bệnh thì trị bệnh, không bệnh thì càng khoẻ.’’

Vị lương y đó tức là Phật, các người con tức là tất cả chúng sinh. Nói Phật đi đến nước khác, hoặc chẳng có Phật ra đời, hoặc đã vào Niết Bàn. Lúc đó, chúng sinh vì chẳng có trí huệ chân chánh, cho nên chẳng phân biệt được thức ăn có độc, hay không có độc, thấy là ăn, bèn ăn lầm thuốc độc. Thứ thuốc độc này, tức là tà kiến của bàng môn tả đạo, nói những đạo lý chẳng cứu kính. Chúng sinh vô tri nhận lầm thuốc độc, cho là thuốc trường sinh bất lão. Tại sao phân biệt chẳng rõ ràng ? Vì si mê quá sâu nặng, chẳng cách chi tự cứu.

Chúng sinh bị si mê quá sâu nặng, khi gặp Phật trở về, bèn cúi đầu đảnh lễ, thỉnh Phật từ bi thương xót cứu ra khỏi biển khổ. Vì có chúng sinh chịu uống thuốc, nên trừ sạch chất độc; có chúng sinh chẳng chịu uống thuốc, nên chất độc vẫn còn tồn tại. Cho nên, học Phật pháp quý tại thực hành, chẳng phải ở lời nói.

Lương y có thần hiệu ‘’Diệu thủ hồi xuân,’’ bằng ngược lại, ngụ ý tức là kẻ giết người chẳng thấy máu. Tại sao lại nói như thế ? Vì bác sĩ bây giờ, đa số dùng bệnh nhân để làm vật thí nghiệm, thành công thì y có tiếng tăm, thất bại thì bệnh nhân mất mạng.

Bây giờ kể một câu chuyện, tuy là chuyện tiếu, nhưng cũng có tính chất giáo dục, có thể cảnh giác cho bác sĩ. Một ngày nọ, vua Diêm Vương mắc bệnh, sai tiểu quỷ đến dương gian mời bác sĩ.

– Tiểu quỷ nói : ‘’Việc này tôi không thể đi‘’!

– Vua Diêm Vương hỏi : ‘’Tại sao‘’?

– Tiểu quỷ nói : ‘’Tôi không biết vị nào là lương y‘’?

– Diêm Vương nói : ‘’Việc này rất đơn giản, mày đến trước cửa bệnh viện, thấy chỗ nào hồn quỷ ít, tức là lương y, thì hãy mời đến âm gian chữa bệnh cho ta.’’

Tiểu quỷ vâng lời đến dương gian tìm khắp nơi, cũng chẳng được lương y. Nhìn trước cửa chỗ chẩn mạch, đều có vô số oan hồn khóc than đòi đền mạng. Tiểu quỷ thật chẳng có biện pháp, muốn trở về thì lại sợ Diêm Vương nóng giận, bèn đi về phía trước, phát hiện trước cửa một nhà chẩn mạch, chỉ có hai oan hồn. Tiểu quỷ bèn mời vị bác sĩ đó đến chỗ Diêm Vương, để chữa bệnh cho Diêm Vương.

Vị bác sĩ đó đến chỗ Diêm Vương được chiêu đãi rất ân cần, vừa mời thuốc, vừa mời trà, khiến cho ông ta chẩn mạch tử tế.
Vua Diêm Vương hỏi : ‘’Xin ông hãy chẩn mạch, tôi mắc bệnh gì‘’?

Bác sĩ trả lời : ‘’Không cần phải chẩn mạch, bất cứ bệnh gì, chỉ cần uống một viên thuốc đặc hiệu, thì sẽ khỏi bệnh.’’

Diêm Vương nghe rồi cảm thấy mạc danh kỳ diệu, tâm nghĩ đâu có lý này, không chẩn mạch mà uống thuốc, thì chẳng phải là “lang trung” chăng ? Lang trung tức là bác sĩ giả, chuyên môn gạt những người thôn quê vô tri vô thức.

– Bèn hỏi : ‘’Bác sĩ làm nghề y đã được bao lâu‘’?

– Bác sĩ nói : ‘’Sáng sớm hôm nay khai trương, thì bị quỷ đại ca mời đến chữa cho Ngài.’’

Diêm Vương nghe rồi bèn sinh hoài nghi, hỏi tiểu quỷ rằng : ‘’Trước cửa của ông ta có bao nhiêu oan hồn?‘’

– Tiểu quỷ đáp : ‘’Chỉ có hai, đang ở đó khóc kể, bị ông ta dùng thuốc độc làm chết, chết rất oan uổng.’’

– Diêm Vương bèn nói với bác sĩ rằng : ‘’Ông không cần trở về dương gian, hãy ở lại đây để khỏi hại độc người khác chết nữa.’’ Cho nên, vị bác sĩ đó cũng làm quỷ luôn.

 

Kỳ chư tử trung bất thất tâm giả, kiến thử lương dược, sắc hương câu hảo, tức tiện phục chi, bệnh tận trừ dũ. dư thất tâm giả, kiến kỳ phụ lai, tuy diệc hoan hỉ vấn tấn, cầu tác trì bệnh, nhiên dữ kỳ dược nhi bất khẳng phục.

 Trong các con, những người chẳng thất tâm, thấy thuốc lương dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết, được lành mạnh. Ngoài ra, những người thất tâm, thấy cha về dầu cũng vui mừng hỏi thăm, cầu xin trị bệnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống.

Trong số các người con, ai không mất bản tâm, thấy thuốc hay đó, sắc hương đều tốt bèn lấy uống, bệnh lành khỏi hẳn. Người mất đi bản tâm, thấy người cha về, tuy cũng vui mừng thăm hỏi, xin cha chữa bệnh, tuy cũng cho thuốc, mà chẳng chịu uống.

Trong số các người con, có người phát cuồng, có người tỉnh táo. Những người con chưa phát cuồng, thuốc hay sắc vị thơm ngon, thì lập tức uống vào. Chất độc trong người đều tiêu tan hết (tức là kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc đều phá trừ hết). Những người con trúng độc quá nặng, thấy người cha trở về, tuy cũng vui mừng thăm hỏi, cũng xin cha chữa bệnh. Nhưng người cha cho họ thuốc giải độc, mà họ chẳng chịu uống (biết Phật pháp là thuốc hay, chuyên trị tham sân si phiền não mà chẳng chịu y giáo phụng hành, giống như những đứa con thơ bé trúng độc, mà chẳng chịu uống thuốc).

 

Sở dĩ giả hà? độc khí thâm nhập, thất bản tâm cố, ư thử hảo sắc hương dược nhi vị bất mỹ. phụ tác thị niệm: “Thử tử khả mẫn, vị độc sở trung, tâm giai điên đảo. Tuy kiến ngã hỉ, cầu tác cứu liệu; như thị hảo dược nhi bất khẳng phục. Ngã kim đương thiết phương tiện, lệnh phục thử dược.”

Vì sao? Vì hơi độc đã thâm nhập làm mất bản tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không ngon. Người cha nghĩ rằng: “Người con này đáng thương, bị trúng độc, tâm đều điên đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như thế, mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện, khiến chúng uống thuốc này”.

Tại sao ? Vì chất độc vào sâu mất đi bản tâm. Do đó, thuốc hay thơm ngon, mà cho là không ngon. Người cha bèn nghĩ rằng : Những đứa con này thật đáng thương, vì trúng độc nên tâm điên đảo. Tuy thấy ta vui, xin ta cứu chữa, thuốc hay như thế, mà chẳng chịu uống. Nay ta sẽ bày phương tiện, khiến cho chúng uống thuốc này.

Ðây là đạo lý gì ? Vì trúng độc quá nặng, chất độc đã xâm nhập vào ngũ tạng lục phủ, cho nên mất đi bản tâm tỉnh táo, biến thành hồ đồ. Ðối với thứ thuốc hay sắc vị thơm ngon này, mà nói là chẳng ngon chẳng ngọt.

Phật là vị lương y, chuyên trị bệnh nhiệt não của chúng sinh, vì giải trừ khổ độc của chúng sinh, mà nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, song chúng sinh chẳng tin, Phật cũng chẳng có biện pháp. Phật bi tâm thiết thiết, khổ khẩu bà tâm, để giáo hóa chúng sinh: Ðừng tham, đừng sân, đừng si, đây là ba chất độc hại người, nhưng chúng sinh xem lời vàng ngọc của Phật như gió thoảng qua tai, qua rồi chẳng lưu lại, thật là cô phụ Phật, Bồ Tát một phen khổ tâm.

Người cha (Phật) thấy những người con trúng độc (chúng sinh), thật là đáng thương xót. Vì trúng độc (tin pháp của ngoại đạo) quá nặng, cho nên tâm điên đảo (tà tri tà kiến). Tuy nhiên thấy ta về thì rất vui mừng, xin ta chữa trị, nhưng ta vì họ lựa cỏ thuốc thượng hạng (Kinh Diệu Pháp Liên Hoa), mà họ chẳng chịu uống. Bây giờ, ta bày pháp môn phương tiện, khiến cho những người con trúng độc quá nặng phát tâm uống thuốc giải độc này.

 

Tức tác thị ngôn: “Nhữ đẳng đương tri! Ngã kim suy lão, Tử thời dĩ chí, Thị hảo lương dược, Kim lưu tại thử, Nhữ khả thủ phục, Vật ưu bất sái.” Tác thị giáo dĩ, phục chí tha quốc, khiển sử hoàn cáo, nhữ phụ dĩ tử.

 Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: “Các con phải biết, ta nay già suy, giờ chết đã đến, thuốc “lương dược” tốt này nay để ở đây, các con nên lấy uống, chớ lo không lành”. Bảo thế, rồi lạì đến nước khác, sai sứ về nói: “Cha các ngươi đã chết”.

Người cha từ bi đó, bèn nói với các người con không nghe lời rằng : ‘’Các con nên biết ta tuổi đã già, thân thể suy yếu, thời kỳ chết đã đến. Ta chế thuốc hay để lại đây cho các con, các con hãy tùy tiện mà lấy uống, đừng có lo lắng là bệnh sẽ không lành. Chỉ cần uống vào thì nhất định sẽ khỏi.’’

Dặn dò xong rồi, từ giã các con, lại đi đến nước khác. Chẳng bao lâu, cố ý sai sứ về nói với các người con : ‘’Cha của các ngươi đã chết ở nước khác.’’ Ðây là pháp phương tiện, khiến cho các người con phản tỉnh, biết người cha dụng tâm lương khổ.

 

Thị thời chư tử văn phụ bối tang, tâm Đại ưu não nhi tác thị niệm: “Nhược phụ tại giả, từ mẫn ngã đẳng, năng kiến cứu hộ, kim giả xả ngã viễn tang tha quốc.” Tự duy cô lộ, vô phục thị hỗ, thường hoài bi cảm, tâm toại tỉnh ngộ, nãi tri thử dược sắc vị hương mỹ, tức thủ phục chi, độc bệnh giai dũ.

 Bây giờ, các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng: “Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta xa chết ở nước khác”. Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chổ cậy nhờ, lòng thường bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bệnh độc đều lành.

Bấy giờ, các người con nghe tin cha mất rồi, tâm rất buồn rầu đau khổ, mà nghĩ như vầy : Nếu cha mình còn sống, thì sẽ thương xót chúng ta, cứu hộ chúng ta. Nay đã bỏ chúng ta mất ở xứ người, chúng ta cô độc, lại chẳng có chỗ nương tựa, thường ôm lòng bi cảm, tâm bèn tỉnh ngộ, mới biết thuốc này sắc vị thơm ngon, lập tức lấy uống, bệnh độc đều khỏi.

Lúc đó, các người con trúng độc, nghe tin người cha đã chết ở nước khác, thảy đều buồn rầu đau khổ, mà nghĩ như vầy : ‘’Nếu như cha mình còn ở đời, thì sẽ thương yêu chúng ta, cứu hộ chúng ta. Bây giờ, cha đã bỏ chúng ta đi qua đời ở nước khác. Bây giờ, chúng ta cô độc chẳng có chỗ nương tựa’’! Vì trong tâm bi cảm đến cực điểm, cho nên đã tỉnh lại, biết rằng khi cha ở đời, có để lại thuốc hay, đầy đủ sắc vị thơm ngon, lập tức lấy uống, tức thời chất độc giải trừ, thân tâm thanh tịnh, khôi phục lại diệu minh chân tâm vốn có.

 

Lúc đó, trừ khử sạch pháp của ngoại đạo, chuyên tâm nhất chí tu học Phật pháp. Phật pháp là thuốc hay, cũng là phương pháp duy nhất chữa lành tâm lý triệt để.
Kỳ phụ văn tử tất dĩ đắc sái, tầm tiện lai quy, hàm sử kiến chi.

Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.

Vị lương y này xử dụng kế này, để khiến cho các người con uống thuốc. Các người con sau khi uống thuốc vào, thì chất độc được giải trừ, khôi phục lại sức khoẻ. Người cha ở nước khác nghe tin rất là an ủi, do đó bèn trở về. Các người con lại thấy mặt cha mừng rỡ vô cùng, bèn phát nguyện từ nay về sau, nhất định phải nghe lời cha dạy bảo, làm người con hiếu thuận.

 

Chư Thiện nam tử! ư ý vân hà, pha hữu nhân năng thuyết thử lương y hư vọng tội bất? bất dã, Thế Tôn! Phật ngôn: “Ngã diệc như thị, thành Phật dĩ lai, vô lượng vô biên bách Thiên vạn ức na do tha a tăng kì kiếp, vị chúng sanh cố, dĩ phương tiện lực, ngôn đương diệt độ, diệc vô hữu năng như pháp thuyết ngã hư vọng qua giả.”

Các Thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Vả có người nào có thể nói ông lương y đó mắc tội hư dối chăng? Thưa Thế Tôn, không thể được!  Phật nói: “Ta cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô lượng  vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp, vì chúng sinh dùng sức phương tiện nói: “sẽ diệt độ”, cũng không ai có thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư dối.

Các thiện nam tử ! Ý các ông nghĩ sao ? Có người nào cho rằng, vị lương y đó phạm tội vọng ngữ chăng ? Không vậy, đức Thế Tôn !

Các vị thiện nam tử ! Ý của các ông thế nào ? Có ai nói : ‘’Vị lương y đó nói dối phạm tội vọng ngữ chăng ? ‘’Ðại chúng khác miệng cùng lời đáp : ‘’Không có tội, Ðức Thế Tôn ! Ông ta vì phương tiện dạy con, cho nên mới nói như thế, chẳng phải nói dối.’’

Ðức Phật nói : Ta cũng như thế, ta thành Phật đến nay, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp, vì chúng sinh mà dùng sức phương tiện, nói là sẽ diệt độ, cũng chẳng có ai có thể nói, ta có lỗi nói dối.

Ðức Phật nói : ‘’Pháp của ta nói cũng như thế. Trước hết nói Kinh A Hàm, Kinh Phương Ðẳng, Kinh Bát Nhã, cuối cùng nói Kinh Pháp Hoa, tình trạng cũng giống như vị lương y. Từ khi ta thành Phật đến nay, đã vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ kiếp. Vì phương tiện giáo hóa chúng sinh, vì thật thí quyền, mới nói với chúng sinh : Ta sẽ diệt độ, song không ai có thể nói : ‘’Phật nói dối, có lỗi hư vọng.’’ Ta nghĩ rằng, chẳng có ai có thể nói, ta có lỗi hư vọng không thật !‘’

 

Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Lúc đó, Ðức Phật muốn thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên, mới nói lại lần nữa, khiến cho chúng sinh tương lai hiểu rõ ràng, cho nên bèn dùng kệ để thuật lại.

 

Tự ngã đắc Phật lai,                             Từ ta thành Phật lại
Sở Kinh chư kiếp số,                           Trải qua các kiếp số
Vô lượng bách Thiên vạn,                   Vô lượng trăm nghìn muôn
Ức tái a tăng kì,                                   A tăng kỳ ức năm

Thường thuyết Pháp giáo hóa,             Thường nói pháp giáo hóa
Vô số ức chúng sanh,                          Vô số ức chúng sinh
Lệnh nhập ư Phật đạo.                         Khiến vào nơi Phật đạo

Ðức Phật nói : ‘’Từ khi ta chứng quả vị Phật đến nay, trải qua các kiếp số vô lượng trăm ngàn vạn ức Na do tha A tăng kỳ. Ta luôn luôn diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, giáo hóa vô số ức chúng sinh, khiến cho họ vào Phật đạo, chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác.’’

 

Nhĩ lai vô lượng kiếp,                          Ðến nay vô lượng  kiếp
Vị độ chúng sanh cố,                           Vì độ chúng sinh vậy
Phương tiện hiện Niết Bàn,                  Phương tiện hiện Niết bàn
Nhi thật bất diệt độ,                             Mà thực chẳng diệt độ
Thường trụ thử thuyết Pháp.                Thường trụ đây nói pháp

Ngã thường trụ ư thử,                          Ta thường trụ ở đây
Dĩ chư thần thông lực,                         Dùng các sức thần thông
Lệnh điên đảo chúng sanh,                  Khiến chúng sinh điên đảo
Tuy cận nhi bất kiến.                           Dầu gần mà chẳng thấy

Từ vô lượng kiếp đến nay, vì độ hóa chúng sinh, cho nên phương tiện thị hiện Niết Bàn. Kỳ thật, ta chẳng có diệt độ, vẫn ở tại thế giới Ta Bà này, vì chúng sinh nói pháp. Tuy nhiên ta thường trụ ở hội Pháp Hoa trên núi Linh Thứu, dùng tất cả sức thần thông để vì chúng sinh điên đảo nói pháp. Song, họ gần mà chẳng thấy thân của ta. Tại sao ? Vì họ bị vô minh che đậy, trí huệ chẳng hiện tiền, chẳng có pháp nhãn thanh tịnh, cho nên chẳng thấy ta.

 

Chúng kiến ngã diệt độ,                       Chúng thấy ta diệt độ
Quảng cúng dường xá lợi,                   Rộng cúng dường Xá lợi
Hàm giai hoài luyến mộ,                      Thảy đều hoài luyến mộ
Nhi sanh khát ngưỡng tâm.                  Mà sinh lòng khát ngưỡng,

Chúng sanh ký tín phục,                      Chúng sinh đã tín phục
Chất trực ý nhu nhuyễn,                      Ngay thực ý diệu hòa
Nhất tâm dục kiến Phật,                       Một lòng muốn thấy Phật
Bất tự tích thân mạng.                          Chẳng tự tiếc thân mệnh

Chúng sinh thấy ta diệt độ, đại chúng rộng cúng dường xá lợi (linh cốt), đều ôm lòng luyến mộ sinh tâm khát ngưỡng. Lúc đó, chúng sinh bèn tin, lại được điều phục, cá tính chất trực thật thà, tâm ý mềm dịu điều thuận, một lòng muốn gặp lại Phật, vì cầu Phật pháp, dù xả bỏ thân mạng cũng chẳng tiếc.
Người xuất gia có đốt liều ở trên đầu, đó là biểu hiện chẳng tiếc thân mạng, thành khẩn đồng như đốt thân cúng Phật, thành tâm một lòng quy y Tam Bảo. Khi đốt liều, thì tinh thần tập trung quán tưởng, suốt đời vì Tam Bảo cống hiến xác thân; vì độ chúng sinh mà hy sinh tất cả. Nếu tập trung tinh thần quán chiếu như thế, thì đau cũng chẳng biết đau.

Có người hỏi : ‘’Xá lợi là gì ?‘’ Vấn đề này rất có ý nghĩa, nói đơn giản là ‘’linh cốt‘’ cũng gọi là ‘’kiên cố tử’’, tinh thể từ tử thi thiêu ra, giống như hột xoàn, phát quang óng ánh, cứng chắc như kim cang. Bình thường có màu trắng, đó là cốt xá lợi, có màu đỏ là thịt xá lợi. Tóm lại, phàm là cao Tăng đại đức, tu hành đến cảnh giới viên mãn, sau khi viên tịch, thiêu đốt tử thi, từ cốt tro mà sàng ra xá lợi.

Xá lợi có hai thứ : Một là toàn thân xá lợi, như xá lợi của Phật Ða Bảo. Hai là vụn thân xá lợi, như xá lợi của Phật Thích Ca. Còn có sinh thân xá lợi, và pháp thân xá lợi hai thứ. Sinh thân xá lợi là do huân tu giới định huệ, pháp thân xá lợi là tất cả kinh điển. Cao Tăng đại đức thời xưa tụng kinh, thì từ trong miệng phun ra xá lợi, chép kinh thì từ ngòi bút nhả ra xá lợi, thật là không thể nghĩ bàn. Có khi đốt đèn cúng Phật, do đó có câu ‘’đăng hoa báo hỷ,’’ từ đèn hoa cũng hiện ra xá lợi, chỉ cần thành tâm thì sẽ cảm ứng xá lợi hiện ra.

 

Thời ngã cập chúng tăng,                    Giờ ta cùng chúng tăng
Câu xuất Linh Thứu sơn,                     Ðều ra khỏi Linh Thứu
Ngã thời ngữ chúng sanh,                    Ta nói với chúng sinh
Thường tại thử bất diệt,                       Thường ở đây chẳng diệt

Dĩ phương tiện lực cố,                         Vì dùng sức phương tiện
Hiện hữu diệt bất diệt.                         Hiện có diệt chẳng diệt.

Lúc đó, chúng sinh tâm thành sở chí, bèn có cảnh giới cảm ứng đạo giao. Ta và tất cả Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cùng xuất hiện tại pháp hội ở núi Linh Thứu. Ta thường nói với chúng sinh : ‘’Ta thường ở trên núi Linh Thứu, vì chúng sinh nói pháp, chứ chưa diệt độ. Vì sức quyền xảo phương tiện, cho nên có khi thị hiện diệt độ, có khi thị hiện chẳng diệt độ.’’ Do đó : ‘’Sinh mà chưa sinh, diệt mà chưa diệt,’’ tức là cảnh giới này.

 

Dư quốc hữu chúng sanh,                   Nước khác có chúng sinh
Cung kính tín nhạo giả,                       Lòng cung kính tín nhạo
Ngã phục ư bỉ trung,                           Ta ở lại trong đó
Vị thuyết vô thượng pháp.                   Vì nói pháp vô thượng

Ở trong cõi nước khác có chúng sinh, họ đều sinh tâm cung kính tin ưa Phật pháp đại thừa, thì ta ở trong họ để diễn nói pháp vi diệu thâm sâu Vô thượng, khiến cho họ phát bồ đề tâm, thành tựu quả giác ngộ vô thượng.

 

Nhữ đẳng bất văn thử,                         Ông chẳng nghe việc đó
Đãn vị ngã diệt độ.                              Chỉ nói ta diệt độ.
Ngã kiến chư chúng sanh,                   Ta thấy các chúng sinh
Một tại ư khổ não,                               Chìm ở trong khổ não

Cố bất vị hiện thân,                              Nên chẳng vì hiện thân
Lệnh kỳ sanh khát ngưỡng,                 Cho kia sinh khát ngưỡng
Nhân kỳ tâm luyến mộ,                       Nhân tâm kia luyến mộ
Nãi xuất vị thuyết Pháp.                      Hiện ra vì nói pháp

Các ông chẳng nghe nói qua đạo lý này, bèn cho rằng ta diệt độ rồi. Kỳ thật, ta chưa diệt độ. Ta thấy tất cả chúng sinh đều trôi lăn ở trong biển khổ năm dục, cho nên chẳng hiện thân Phật vì họ nói pháp, khiến cho họ sinh tâm khát ngưỡng luyến mộ, sau đó lại hiện thân thuyết pháp giáo hóa chúng sinh.

Như thế, khiến cho chúng sinh biết Phật pháp khó nghe, thân người khó được, mà đề cao cảnh giác, không thể bỏ qua cơ hội. Cho nên :

‘’Thân người khó được nay đã được
Phật pháp khó nghe nay đã nghe
Ðời này chẳng độ thân này
Còn đợi khi nào độ thân này’’!

Khi Phật còn tại thế, cùng chúng đệ tử đi qua làng nọ thuyết pháp, Phật bèn bốc lên một nắm đất hỏi đệ tử :

– ‘’Các con xem ! Ðất trong tay của ta nhiều, hay là đất ở ngoài đại địa nhiều ?‘’

– Chúng đệ tử đáp : ‘’Ðương nhiên đất đại địa nhiều.’’

– Phật nói : ‘’Ðược thân người như đất trong bàn tay của ta, mất đi thân người như đất ngoài đại địa.’’

Lúc đó, chúng đệ tử tỉnh ngộ, từ đó về sau, dụng công tu hành, chẳng bao lâu chứng được quả A La Hán. Thuyết pháp không nhất định ở trên pháp tòa thuyết pháp, mà tùy thời tùy lúc đều là nơi thuyết pháp.

 

Thần thông lực như thị,                       Sức thần thông như thế
Ư a tăng kì kiếp,                                  Ở trong vô số kiếp
Thường tại Linh Thứu sơn,                 Thường tại núi Linh Thứu
Cập dư chư trụ xứ.                              Và các trụ xứ khác.

Tại sao chúng sinh có thể gặp Phật, có chúng sinh không thể gặp Phật? Chúng sinh có duyên với Phật, thì tùy thời tùy lúc có thể gặp Phật; chúng sinh chẳng có duyên với Phật, thì chẳng gặp Phật. Có người nói : ‘’Tôi với Phật chẳng có duyên, vĩnh viễn chẳng được gặp Phật, vậy phải làm thế nào ?‘’ Bạn phải trồng căn lành, làm nhiều công đức, thì kết duyên với Phật. Trồng căn lành như thế nào ? Kết duyên với Phật như thế nào ? Tức là cúng dường Tam Bảo, đó là biện pháp duy nhất. Thời gian lâu thì tự nhiên sẽ kết duyên với Phật.

Tại sao diệt độ lại nói là chẳng diệt độ; chẳng diệt độ lại nói rằng diệt độ, đó là đạo lý gì ? Ðối với người chưa khai ngộ mà nói, thì cho rằng diệt độ; đối với người khai ngộ mà nói, thì chẳng có diệt độ. Vì người khai ngộ chứng được ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thông, thường ở một chỗ với Phật, luôn luôn ở cạnh Phật, cho nên thường gặp Phật. Chưa chứng được cảnh giới này, thì đương nhiên chẳng nhìn thấy Phật. Phật nói chẳng có diệt độ, là đối với người khai ngộ mà nói. Tóm lại, đó đều là sức thần thông của Phật biến hiện.

Vì sức thần thông như thế, cho nên trong A tăng kỳ kiếp, thường ở trong hội Pháp Hoa tại núi Linh Thứu và ở các nơi khác, vì chúng sinh nói nghĩa chân thật Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, sớm sinh về cõi Thường Tịch Quang, ở với chư Phật Bồ Tát.

 

Chúng sanh kiến kiếp tận,                   Chúng sinh thấy tận kiếp
Đại hỏa sở thiêu thời,                           Lúc lửa lớn thiêu đốt
Ngã thử độ an ổn,                                Cõi ta đây an ổn
Thiên Nhân thường sung mãn.            Trời người thường đông vầy

Viên lâm chư đường các,                      Vườn rừng các nhà gác
Chủng chủng bảo trang nghiêm,          Những món báu trang nghiêm
Bảo thụ đa hoa quả,                              Cây báu nhiều hoa trái
Chúng sanh sở du nhạo.                       Chỗ chúng sinh vui chơi

Khi chúng sinh thấy kiếp tận, thì phát sinh nạn lửa lớn, thiêu hủy đến cõi Sơ thiền. Lục dục thiên (trừ cõi trời Ðâu Suất ra, vì là nơi ở của Bồ Tát Bổ Xứ Phật vị), các nơi khác đều thiêu hủy hết. Trên từ trời Ðại Phạm, dưới đến địa ngục vô gián, chẳng tồn tại vật gì cả. Phật ở cõi Thường Tịch Quang rất an ổn, chẳng bị lửa lớn thiêu hủy, chư thiên và loài người đều đầy dẫy ở cõi đó, vườn rừng lầu các đều trang nghiêm bằng bảy báu, cây báu đơm hoa kết trái rất sum sê. Ðây là nơi dạo chơi của những chúng sinh đầy đủ căn lành.

 

Chư Thiên kích Thiên cổ,                     Các trời đánh trống trời
Thường tác chúng kỹ nhạc,                 Thường trổi những kỹ nhạc
Vũ Mạn đà la hoa,                                 Rưới hoa mạn đà la
Tán Phật cập Đại chúng.                      Cúng Phật và đại chúng.

Ngã tịnh thổ bất hủy,                           Tịnh độ ta chẳng hư
Nhi chúng kiến thiêu tận,                     Mà chúng thấy cháy rã.
Ưu bố chư khổ não,                              Lo sợ các khổ não
Như thị tất sung mãn.                          Như thế đều đầy dẫy

Chư Thiên trong ba cõi thường đánh trống trời, vì Phật mà tấu âm nhạc. Trên trời mưa xuống hoa Mạn đà la rất là xinh đẹp, để rải lên Phật và đại chúng, biểu thị trang nghiêm đạo tràng, chúc mừng pháp hội. Khi cao Tăng đại đức giảng kinh thuyết pháp, cũng có điềm tốt hoa trời rơi xuống, đất vọt lên hoa sen. Bất quá, phàm phu chẳng nhìn thấy cảnh giới này mà thôi. Nếu người chứng được pháp nhãn, thì nhìn thấy rất rõ ràng.

Phật lại nói : ‘’Cõi Tịnh Ðộ của ta vĩnh viễn chẳng bị hủy hoại, mà vọng kiến của chúng sinh và phiền não kiến, đều bị kiếp lửa thiêu sạch, lo sợ và tất cả tâm khổ não đều đầy dẫy.’’

 

Thị chư tội chúng sanh,                       Các chúng sinh tội đó
Dĩ ác nghiệp nhân duyên,                    Vì nhân duyên nghiệp dữ
Qua a tăng kì kiếp,                               Quá a tăng kỳ kiếp
Bất văn Tam Bảo danh.                       Chẳng nghe tên Tam bảo

Chư hữu tu công đức,                          Có tu các công đức
Nhu hòa chất trực giả,                         Người nhu hòa ngay thực
Tức giai kiến ngã thân,                        Thời đều thấy thân ta
Tại thử nhi thuyết Pháp.                      Ở tại đây nói pháp.

Những chúng sinh đó có tội, bởi nhân duyên nghiệp ác, dù trải qua số kiếp A tăng kỳ, cũng chẳng nghe được danh hiệu Phật, cũng chẳng nghe thấy được Pháp, cũng chẳng nghe được danh từ Tăng. Ở thế giới này, trước khi Phật ra đời, chẳng có ai biết về Phật pháp, cho nên chẳng nghe tên Tam Bảo. Giống như Tu Ðạt Ða (Cấp Cô Ðộc) trưởng giả, khi nghe được danh hiệu Phật, thì toàn thân dựng lông lên. Vì chưa bao giờ nghe đến danh từ Tam Bảo, cho nên có hiện tượng như thế.

Tất cả những người tu hành, hết thảy những người trồng căn lành, đều có công đức, tính tình của họ nhu hòa và chất trực. Những người như thế, mới có thể thấy được thân ta, đang ở tại pháp hội Linh Sơn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Phàm là chúng sinh có tội nghiệp, chẳng những chẳng thấy được thân Phật, mà cho đến tượng Phật cũng chẳng thấy đặng. Nếu có thể thấy được tượng Phật, thì cũng giảm bớt tội nghiệp. Tóm lại, tu hành có công đức, mới có thể thấy được Phật, nghe được Pháp, gặp được Tăng.

 

Hoặc thời vị thử chúng,                       Hoặc lúc vì chúng này
Thuyết Phật thọ vô lượng,                   Nói Phật thọ vô lượng,
Cửu nãi kiến Phật giả,                          Người lâu thấy Phật
Vị thuyết Phật nan trị.                          Vì nói Phật khó gặp.

Ngã trí lực như thị,                              Trí lực ta như thế
Tuệ quang chiếu vô lượng,                  Tuệ Quang soi vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp,                          Thọ mệnh vô số kiếp
Cửu tu nghiệp sở đắc.                          Tu hành lâu cảm được.

Hoặc có lúc, vì chúng sinh nói thọ mạng của Phật là vô lượng vô biên. Ðối với chúng sinh thường gặp Phật, thì nói Phật sống vô lượng. Ðối với chúng sinh lâu được gặp Phật, thì nói chẳng dễ gì được gặp Phật, khiến cho họ sinh tâm khát ngưỡng. Trí lực của ta là như thế, trí huệ quang chiếu khắp vô lượng chúng sinh, trong vô lượng thế giới, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo. Thọ mạng lâu dài vô lượng đại kiếp, đó là quả báo tu thiện nghiệp lâu dài.

Muốn tuổi thọ lâu dài, thì phải siêng làm thiện nghiệp phóng sinh. Có công đức đó, mới có thể sống lâu trăm tuổi, nếu giết hại sinh linh, thì tuổi thọ ngắn ngủi. Trong bài khuyên đời nhân quả ba đời có nói rằng :

‘’Ðời này trường thọ là nhân gì ?
Ðời trước giữ giới sát, nhiều phóng sinh.
Ðời này chết yểu là nhân gì ?
Ðời trước giết hại chúng sinh linh.’’

 

Nhữ đẳng hữu trí giả,                          Các ông người có trí
Vật ư thử sanh nghi,                            Chớ ở đây sinh nghi
Đương đoạn lệnh vĩnh tận,                  Nên dứt khiến hết hẳn
Phật ngữ thật bất hư.                            Lời Phật thật không dối.

Như y thiện phương tiện,                     Như lương y chước khéo
Vị trì cuồng tử cố,                                  Vì để trị cuồng tử
Thật tại nhi ngôn tử,                            Thực còn mà nói chết
Vô năng thuyết hư vọng.                     Không thể nói hư dối.

Các ông đều là người có đại trí huệ, đừng nên sinh hoài nghi đối với lời của ta nói, nên đoạn sạch tâm hoài nghi, khiến cho nó vĩnh viễn đừng sinh nữa. Các ông phải tin lời của Phật là chân thật không hư, Phật là bậc Thánh chẳng nói dối.

Giống như vị lương y, vì cứu bệnh điên cuồng của con, cho nên cố ý nói mình đã chết, vì khiến cho các con uống thuốc để giải trừ chất độc, đó là pháp phương tiện, chẳng có ai có thể nói vị lương y đó là người nói dối.

Một số người đều có tâm ỷ lại. Khi Phật còn ở đời, thì cho rằng chẳng cần nghe pháp. Sau khi Phật vào Niết Bàn, thì mới biết sự quan trọng của việc nghe pháp, mới bắt đầu học Phật pháp. Pháp của Phật để lại là thuốc hay, chuyên trị phiền não. Bây giờ, chúng sinh tu giữ giới luật, tham thiền đả tọa, tụng kinh lạy Phật, trì chú lễ sám, đó là chiếu theo toa thuốc mà uống, có thuốc đến thì bệnh tiêu trừ. Nếu như nghiên cứu Phật pháp mà chẳng tu hành, thì đó là khẩu đầu thiền, nói mà chẳng thực hành, thì giống như là người què. Nếu tu hành mà chẳng minh bạch Phật lý, thì thành là á dương Tăng, giống như người câm. Người tu hành bây giờ, chẳng chịu hợp tác với nhau, đều cho rằng pháp môn của mình là chánh tông, pháp môn của người khác tu chẳng phải là nghĩa chân thật của Phật. Tôi thì cho rằng đều là đệ tử của Phật, bất cứ pháp môn gì, cũng đều từ kim khẩu của Phật nói ra, đều khiến cho chúng sinh trừ chấp trước, bỏ tâm tham. Tôi đề xướng thiền, tịnh, giáo tam tu, như thế mới có thể thành pháp môn giới định huệ tam học.

 

Ngã diệc vị thế phụ,                             Ta là cha trong đời
Cứu chư khổ hoạn giả,                        Cứu các người đau khổ
Vị phàm phu điên đảo,                        Vì phàm phu điên đảo
Thật tại nhi ngôn diệt.                          Thực còn mà nói diệt,

Dĩ thường kiến ngã cố,                        Vì cớ thường thấy ta
Nhi sanh kiêu tứ tâm,                           Mà sinh lòng kiêu tứ
Phóng dật trước ngũ dục,                    Buông lung ham ngũ dục
Đọa ư ác đạo trung.                             Sa vào trong đường dữ.

Ðức Phật nói : ‘’Ta là cha của tất cả người thế gian, cho nên phải cứu hộ tất cả chúng sinh khổ nạn. Vì phàm phu đều có ý nghĩ điên đảo, cho nên mới nói diệt độ. Thật tế thì ta chẳng diệt độ.’’

Tại sao chúng sinh điên đảo ? Vì vô minh đang làm chủ nhân ông trong nhà, tống đuổi trí huệ đi, đúng mà nói là không đúng, không đúng mà nói là đúng. Tóm lại, tự tánh có đại quang minh tạng, thì đen tối sẽ biến thành quang minh. Tự tánh chẳng có đại quang minh tạng, thì quang minh biến thành đen tối. Ðại quang minh tạng là gì ? Tức là tướng chân như. Chân như là gì ? Tức là bổn thể của các pháp, lìa hư vọng là chân thật, thường trụ chẳng thay đổi, tức cũng là dọc cùng tam tế, ngang khắp mười phương, Phật tánh tại chư Phật chẳng tăng, tại chúng sinh chẳng giảm. Thật tướng là gì ? Tức là tướng như thật thanh tịnh. Tóm lại, chẳng có tâm chấp hai bên, chẳng có tâm bốn tướng tức là thật tướng.

Phật lại nói : ‘’Tại sao ta nói diệt độ ? Vì chúng sinh hằng ngày nhìn thấy ta, cho nên sinh tâm kiêu ngạo, chẳng y theo pháp tu hành, chẳng giữ quy cụ, chấp trước vào cảnh giới năm dục, tương lai phải đọa vào trong ba đường ác.’’

 

Ngã thường tri chúng sanh,                 Ta thường biết chúng sinh
Hành đạo bất hành đạo,                       Hành đạo chẳng hành đạo
Tùy sở ưng khả độ,                               Tùy chổ đáng độ được
Vị thuyết chủng chủng Pháp.              Vì nói các pháp môn

Mỗi tự tác thị ý,                                    Hằng tự nghĩ thế này:
Dĩ hà lệnh chúng sanh,                        Lãy gì cho chúng sinh
Đắc nhập vô thượng tuệ,                     Ðược vào tuệ vô thượng
Tốc thành tựu Phật thân.                   Mau thành tựu thân Phật.

Ta biết tâm niệm của tất cả chúng sinh, do đó trong kinh có câu :

‘’Tất cả chúng sinh, bao nhiêu thứ tâm,
Như Lai đều biết đều thấy.’’

Chúng sinh hành đạo chẳng hành đạo, ta hoàn toàn biết hết. Chúng sinh này đáng dùng thân Phật độ được, thì ta bèn thị hiện thân Phật, để vì họ nói pháp. Chúng sinh kia đáng dùng thân chúng sinh độ được, thì ta thị hiện thân chúng sinh, để vì họ nói pháp. Tóm lại, đáng dùng thân gì độ được, thì ta thị hiện thân đó, mà vì họ nói pháp.

Phật thường quán tưởng, dùng phương pháp gì để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh được vào vô thượng đạo ? Khiến cho chúng sinh sớm thành tựu pháp thân của Phật.