Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm – 3

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm – Phần 3

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

 

Phục thứ, trì quốc càn thát bà vương, đắc tự tại phương tiện nhiếp nhất thiết chúng sanh giải thoát môn.

Lại nữa, Trì Quốc Càn Thác Bà Vương, được môn giải thoát, phương tiện tự tại nhiếp tất cả chúng sinh.

Giảng: Nay giảng tiếp theo. Vị Trì Quốc Càn Thác Bà Vương. Càn Thác Bà dịch là “hương thần”, hoặc là “nhạc thần”. Vị nầy đắc được pháp môn tự tại phương tiện, tức là môn giải thoát nhiếp thọ tất cả chúng sinh.

Tự tại tức là tự do tự tại, tuyệt đối không miễn cưỡng. Phương tiện tức là quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp, theo bệnh cho thuốc. Nhiếp tức là nhiếp thọ, giống như nam châm hút sắt. Nhiếp có hai lối giải thích :

  1. Triết nhiếp : là dùng pháp môn mãnh liệt để triết phục những chúng sinh khó điều khó phục.
  2. Từ nhiếp : là dùng tâm từ bi đi nhiếp thọ, khiến cho chúng sinh tự động đến tín ngưỡng Phật pháp, đến thấu hiểu Phật pháp, đến thực hành Phật pháp mà chứng đắc Phật quả.

 

Thụ Quang càn thát bà vương, đắc phổ kiến nhất thiết công đức trang nghiêm giải thoát môn.

Thụ Quang Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, thấy khắp tất cả công đức trang nghiêm.

Giảng: Vị Thụ Quang Càn Thát Bà Vương, thấy hết thảy tất cả chư Phật, dùng tất cả công đức tu hành, để tang nghiêm pháp thân. Pháp thân là thân của Phật không hình không tướng, chẳng thể thấy đặng, trái ngược với sắc thân, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Tịnh mục càn thát bà vương, đắc vĩnh đoạn nhất thiết chúng sanh ưu khổ xuất sanh hoan hỉ tạng giải thoát môn.

Tịnh Mục Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, xuất sinh hoan hỉ tạng, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả ưu khổ của chúng sinh.

Giảng: Vị Tịnh Mục Càn Thác Bà Vương vĩnh viễn đoạn trừ tất cả ưu khổ của chúng sinh. Chúng sinh có những ưu khổ gì ? Căn bản chẳng có ưu khổ, mà tự vì phiền não của chính mình, chẳng có việc tìm việc để làm. Vị nầy không những khiến chúng sinh đoạn trừ ưu khỏ, mà còn khiến cho chúng sinh, sinh ra tâm vui mừng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Hoa Quan Càn thát bà Vương, đắc vĩnh đoạn nhất thiết chúng sanh tà kiến hoặc giải thoát môn.

Hoa Quan Càn Thát Bà Vương được môn giải thoát, vĩnh viễn đoạn trừ tà kiến hoặc, của tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Hoa Quan Càn Thát Bà Vương, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tà kiến và nghi hoặc của chúng sinh. Chúng sinh đều có tà tri tà kiến. Tà tri tà kiến là gì ? Tức là chủ trương không tu hành giới định huệ ba học vô lậu, có thứ tư tưởng nầy tức là tà tri tà kiến. Trên thế giới nầy, có rất nhiều người có học vấn, đều có tà tri tà kiến. Vì chánh tri chánh kiến cần phải có người dạy đạo mới có, mà tà tri tà kiến chẳng cần ai dạy mình vẫn có, họ tu cho rằng là đúng, nhưng thực ra là sai lầm, kiến giải của họ không những chính mình lầm lẫn, mà còn lầm lẫn đến kẻ khác.

Vị Hoa Quan Càn Thác Bà Vương nầy, minh bạch nghĩa lý nầy mà đắc được môn giải thoát, vĩnh viễn đoạn trừ tà kiến và nghi hoặc của chúng sinh.

 

Hỉ bộ phổ âm càn thát bà vương, đắc như vân quảng bố phổ ấm trạch nhất thiết chúng sanh giải thoát môn

Hỉ Bộ Phổ Âm Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, như mây giăng che rộng lớn, che khắp đượm nhuần tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Hỉ Bộ Phổ Âm Càn Thác Bà Vương, thích chạy bộ vận động và thích phổ khúc sáng tác nhạc, không những là kiện tướng vận động, mà còn là nhà âm nhạc, văn võ song toàn. Vị nầy đắc được môn giải thoát, giống như vừng mây lớn che khắp ba ngàn thế giới, bố thí lợi ích pháp vũ khắp chúng sinh, đượm nhuần căn lành chúng sinh, khiến cho sinh trưởng thành thục mà đắc được giải thoát.

 

Lạc dao động mỹ mục càn thát bà vương, đắc hiện quảng đại diệu hảo thân lệnh nhất thiết hoạch an lạc giải thoát môn.

Lạc Giao Ðộng Mỹ Mục Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, hiện thân tốt rộng lớn vi diệu, khiến cho tất cả chúng sinh hoạch được an lạc.

Giảng: Vị Lạc Giao Ðộng Mỹ Mục Càn Thác Bà Vương, đắc được thân tốt rộng lớn vi diệu, vị nầy không những con mắt rất đẹp, mà thân thể cũng rất mỹ lệ. Tất cả chúng sinh đều sinh tâm cung kính, tâm ái mộ và tâm an lạc đối với vị nầy. Vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được an lạc, đắc được môn giải thoát nầy.

 

Diệu-Âm Sư-tử-tràng kiền thát bà Vương, đắc phổ tán thập phương nhất thiết Đại danh xưng bảo giải thoát môn.

Diệu Âm Sư Tử Tràng Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, phổ tán đại danh xưng bảo khắp mười phương.

Giảng: Vị Diệu Âm Sư Tử Tràng Càn Thác Bà Vương, có âm thanh rất vi diệu êm tai, truyền khắp được trong mười phương. Tất cả chúng sinh trong mười phương, đều biết vị nầy danh tiếng lừng lẫy, nghe được tên của vị nầy, thì có thể khai ngộ, khai mở trí huệ mà liễu sinh thoát tử, đạt đến bờ kia.

 

Phổ Phóng bảo quang minh càn thát bà vương, đắc Hiện-Nhất-Thiết đại hoan hỉ quang minh thanh tịnh thân giải thoát môn.

Phổ Phóng Bảo Quang Minh Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, hiện tất cả thân thanh tịnh quang minh đại hoan hỉ.

Giảng: Vị Phổ Phóng Bảo Quang Minh Càn Thát Bà Vương, có quang minh báu, chiếu sáng khắp tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được trí huệ. Quang minh đại biểu cho trí huệ, khiến cho chúng sinh đều sinh tâm đại hoan hỉ. Vị nầy đắc được môn giải thoát pháp thân quang minh thanh tịnh.

 

Kim cương thọ hoa tràng càn thát bà vương, đắc phổ tư vinh nhất thiết thọ lệnh kiến giả hoan hỉ giải thoát môn.

Kim Cang Thụ Hoa Tràng Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, từ nhuận tất cả cây cối, khiến cho người thấy đều hoan hỉ.

Giảng: Vị Kim Cang Thụ Hoa Tràng Càn Thác Bà Vương, đắc được cảnh giới từ nhuận khắp tất cả cây cối, khiến cho tất cả cây cối cành lá hân hân, cũng khiến cho chúng sinh, thấy được những cây nầy, thì sinh vui mừng chẳng có ưu sầu. Thứ cây nầy có tát dụng chuyển khổ làm vui, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Phổ hiện trang nghiêm càn thát bà vương,  đắc thiện nhập nhất thiết Phật cảnh giới dữ chúng sanh an lạc giải thoát môn.

Phổ Hiện Trang Nghiêm Càn Thát Bà Vương, được môn giải thoát, khéo nhập vào tất cả cảnh giới của Phật, khiến cho chúng sinh được an lạc.

Giảng: Vị Phổ Hiện Trang Nghiêm Càn Thát Bà Vương, khéo về sự hiện ra đủ thứ sự trang nghiêm, để trang nghiêm tất cả cõi nước hoặc đạo tràng, và còn khéo nhập vào tất cả cảnh giới của Phật, đồng thời hiện ra tất cả cảnh giới của Phật, vừa trang nghiêm vừa thanh tịnh. Vị nầy lại ban cho tất cả chúng sinh an lạc, trừ khử tất cả ưu khổ của chúng sinh. Vị nầy có tâm đại từ đại bi, tâm từ ban vui, tâm bi cứu khổ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Nhĩ thời, trì quốc càn thát bà vương, thừa Phật uy lực, phổ quán nhất thiết Càn thát bà chúng nhi thuyết tụng ngôn:

Lúc đó, Trì Quốc Càn Thát Bà Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Càn Thát Bà, mà nói ra bài kệ.

Giảng: Khi vị Phổ Hiện Trang Nghiêm Càn Thát Bà Vương, nói xong môn giải thoát đã đắc được, thì vị Trì Quốc Càn Thác Bà Vương, (Càn Thác Bà Vương thuộc về Ðông phương Trì Quốc Thiên Vương cai quản) nương đại oai thần lực gia bị của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Càn Thát Bà mà nói kệ để tán thán công đức của Phật.

Quán sát phân làm hai thứ :

  1. Quán sát trong định : Tức là ở trong thiền định quán sát nhân duyên chúng Càn Thác Bà, nên nói pháp gì để khiến cho họ đắc được lợi ích.
  2. Quán sát khi xuất định : Tức là dùng trí huệ để quán sát chúng Càn Thác Bà, nên dùng pháp phương tiện gì để giáo hóa ? Thì dùng pháp phương tiện đó. Trước thì dùng sức thần thông để quán sát, sau thì dùng sức trí huệ để quán sát, hai thứ quán sát nầy phải là người đã chứng được quả vị mới làm được.

 

Chư Phật cảnh giới vô lượng môn,           Cảnh giới chư Phật vô lượng môn
Nhất thiết chúng sanh mạc năng nhập,    Tất cả chúng sinh chẳng vào được
Thiện-Thệ như không tánh thanh tịnh,    Thiện Thệ như không tánh thanh tịnh
Phổ vi thế gian khai chánh đạo.       Khắp vì thế gian mở chánh đạo.

Cảnh giới chư Phật vô lượng môn“. Vị Trì Quốc Càn Thác Bà Vương ở trong định, quán sát quả của chúng sinh trong quá khứ, xuất định thì lại quán sát quả của chúng sinh trong hiện tại. Thấy quả thì biết nhân, quán nhân thì biết quả. Và còn biết ba đời tất cả chư Phật có vô lượng pháp môn.

Tất cả chúng sinh chẳng vào được“. Cảnh giới của chúng sinh và cảnh giới của chư Phật giống nhau. Nhưng cảnh giới của chúng sinh thì phiền não, tịnh náo, điên đảo. Cảnh giới của chư Phật thì thanh tịnh, vô vi mà vô bất vi, gì cũng chẳng có, nhưng có hết thảy. Cảnh giới nầy chúng sinh chẳng hiểu biết được, cho nên chúng sinh không thể đạt đến cảnh giới của chư Phât. Vậy làm thế nào có thể đạt đến được ? Duy chỉ một pháp môn, đó là học tập Phật pháp, tu hành Phật pháp.

Thiện Thệ như không tánh thanh tịnh“. Thiện Thệ tức là một trong mười hiệu của Phật. Phật thực hành bát chánh đạo mà chứng nhập cứu kính Niết Bàn, tánh của Ngài thanh tịnh như hư không.

Khắp vì thế gian mở chánh đạo“. Khắp vì tất cả chúng sinh thế gian, mà mở ra con đường chánh đại quang minh, khiến cho chúng sinh từ con đường khang trang bằng phẳng, thẳng đến cõi nước Phật.

 

Như Lai nhất nhất mao khổng trung,       Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Công đức đại hải giai sung mãn,               Biển lớn công đức đều sung mãn
Nhất thiết thế gian hàm lợi lạc,                 Tất cả thế gian đều lợi lạc
Thử Thụ Quang Vương sở năng kiến.      Giải thoát nầy Thụ Quang Vương thấy.

Trong mỗi lỗ lông của Như Lai“. Trong mỗi lỗ chân lông của Phật đều có công đức vô lượng.

Biển lớn công đức đều sung mãn“. Công đức nầy so với biển còn lớn hơn. Tất cả công đức trong lỗ long, không thể đo lường được, không thể nghĩ bàn.

Tất cả thế gian đều lợi lạc“. Công đức của Phật không những lợi lạc cho chính mình, mà còn hoàn toàn vì lợi lạc của chúng sinh thế gian.

Giải thoát này Thụ Quang Vương thấy“. Cảnh giới nầy vị Thụ Quang Càn Thát Bà Vương ngộ được, thấy được.

 

Thế gian quảng đại ưu khổ hải,                Biển ưu khổ thế gian rộng lớn
Phật năng tiêu kiệt tất vô dư,                    Phật tiêu trừ sạch hết không còn
Như Lai từ mẫn đa phương tiện,              Như Lai thương xót nhiều phương tiện
Tịnh mục ư thử năng thâm giải.               Tịnh Mục hiểu rõ pháp môn nầy.

Biển ưu khổ thế gian rộng lớn“. Chúng sinh hữu tình thế gian ưu sầu khổ não, nhiều như nước trong biển lớn, vừa rộng lớn vừa thâm sâu, do đó “Biển khổ vô biên, quay đầu là bến”. Biển khổ vô biên phải làm như thế nào ? Phải quay đầu tức là giác ngộ, giác ngộ tức là đến bờ kia. Bờ kia tức là cảnh giới của Phật, đến được cảnh giới của Phật thì chẳng còn biển ưu khổ nữa.

Làm thế nào để quay đầu ? Tức là buông xả. Buông xả hết tất cả, buông xả được thì đắc được tự tại. Tại sao có ưu khổ ? Vì buông bỏ chẳng đặng. Tại sao buông bỏ chẳng đặng ? Vì nhìn không thấu được. Tại sao nhìn không thấu được ? Vì chẳng có trí huệ. Tại sao chẳng có trí huệ ? Vì chẳng tu đạo. Cho nên trước hết phải tu đạo, sau mới có trí huệ, có trí huệ rồi thì nhìn thấu hết mọi sự mọi vật, nhìn thấu rồi thì buông bỏ đặng. Buông bỏ được thì chẳng còn ưu bi khổ não nữa.

Phật tiêu diệt sạch hết không còn“. Phật hoàn toàn tiêu diệt trừ sạch biển ưu khổ của chúng sinh, một chút ưu sầu khổ não cũng chẳng còn.

Như Lai thương xót nhiều phương tiện“. Phật dùng từ bi giáo hóa chúng sinh, thương xót độ khắp chúng sinh, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để giúp đỡ chúng sinh.
Chúng ta người tu đạo, đối với tất cả chúng sinh nên có tâm từ bi, ban vui cho chúng sinh, cứu khổ chúng sinh, và nên có tâm thương xót, đồng khổ với chúng sinh, đáng thương nỗi khổ của chúng sinh, tìm cách giải trừ nỗi khổ của chúng sinh. Người tu đạo trước hết phải có tâm từ bi thương xót, nếu không, bất cứ tu hành gì cũng không thể thành tựu, bất quả chỉ là liễu hán mà thôi.

Tịnh Mục hiểu rõ pháp môn này“. Vị Tịnh Mục Càn Thác Bà Vương hiểu thấu cảnh giới nầy của Phật.

 

Thập phương sát hải vô hữu biên,             Mười phương cõi nước không bờ mé
Phật dĩ trí quang hàm chiếu diệu,             Phật dùng trí quang đều chiếu sáng
Phổ sử địch trừ tà ác kiến,                         Quét sạch tất cả tà ác kiến
Thử Thụ Quang Vương sở nhập môn.      Môn nầy Thụ Hoa Vương ngộ được.

“Mười phương cõi nước không bờ mé“. Cõi nước của mười phương chư Phật chẳng có bờ mé. Không những mười phương cõi nước không có bờ mé, mà một phương cõi nước cũng chẳng có bờ mé. Ðừng nói chi đến một phương cõi nước chẳng có bờ mé, mà một thân cõi nước cũng chẳng có bờ mé. Cõi nước mỗi thân người với mười phương cõi nước hổ tương thông với nhau. Thân của mình tức là cõi nước của mình, thân của họ tức là mười phương cõi nước, nếu phân tích tỉ mỉ thì vô lượng vô biên, cho nên nói mười phương cõi nước chẳng bờ mé.

Phật dùng trí quang đều chiếu sáng“. Phàm phu chúng ta không biết có bao nhiêu biển cõi ? Vì chúng ta chẳng có trí huệ quang, nếu khai mở mắt trí huệ thì “Sát trần tâm niệm khả sổ tri” (tâm niệm nhiều như hạt bụi cõi nước đều đếm biết được). Phật là bậc đại giác viên mãn, dùng trí huệ quang minh đồng thời chiếu sáng biển cõi mười phương, do đó “Phật quang chiếu khắp”.

Quét sạch tất cả tà ác kiến“. Quét sạch tất cả tà tri tà kiến, của hết thảy chúng sinh biển cõi trong mười phương. Tri kiến tà ác không những lầm người mà còn lầm chính mình.

Môn nầy Thụ Hoa Vương ngộ được“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Thụ Hoa Càn Thác Bà Vương lãnh ngộ được.

 

Phật ư vãng tích vô lượng kiếp,                Phật trong quá khứ vô lượng kiếp
Tu tập đại từ phương tiện hành                Tu tập đại từ hành phương tiện
Nhất thiết thế gian hàm úy an,                  Tất cả thế gian đều yên vui
Thử đạo phổ âm năng ngộ nhập.              Môn nầy Phổ Âm Vương chứng được.

Phật trong quá khứ vô lượng kiếp“. Phật trong vô lượng kiếp về trước, cũng thành tâm cung kính nghe pháp, một chút tâm cống cao ngã mạn cũng chẳng có, ở trong pháp hội đều giữ quy cụ, không cười nói cẩu thả, chuyên tâm nghe giảng, lĩnh hội được nghĩa lý.

Tu tập đại từ hành phương tiện“. Phật tu tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm không người không ta, pháp môn thiện xảo phương tiện. Phật nói pháp đúng với căn cơ người nghe, cho nên người nghe pháp càng nghe càng hoan hỉ, do đó “hoan hỉ tin thọ, làm lễ mà lui ra”.

Tất cả thế gian đều yên vui“. Yên vui cũng là an lạc. Ví như có người tâm không thoải mái, hoặc có việc chẳng may xảy đến, lúc đó có người đến an ủi họ, khuyên họ, họ hiểu được chuyển buồn thành vui.
Phật khiến cho tất cả chúng sinh hữu tình thế gian, đều được yên vui, làm cho họ chẳng còn ưu sầu, chẳng còn khổ não. Phật vì khiến cho chúng sinh khoái lạc, mà không nghỉ ngơi, đó là đại từ đại bi.

Môn nầy Phổ Âm Vương chứng được“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Hỉ Bộ Phổ Âm Càn Thác Bà Vương minh bạch, hiểu rõ, chứng ngộ được.

 

Phật thân thanh tịnh giai lạc kiến,            Thân Phật thanh tịnh đều ưa thấy
Năng sanh thế gian vô tận lạc,                  Sinh ra vui thế gian vô tận
Giải thoát nhân quả thứ đệ thành,            Giải thoát nhân quả thứ tự thành
Mỹ mục ư tư thiện khai thị.                       Mỹ Mục minh bạch cảnh giới nầy.

Thân Phật thanh tịnh đều ưa thấy“. Thân của Phật thanh tịnh không gì sánh bằng. Vì Phật trừ hết sạch mọi nhiễm ô, cũng trừ khử sạch tham sân si, chỉ tồn tại giới định huệ, cho nên thân Phật thanh tịnh. Chúng sinh đều hoan hỉ thấy pháp thân thanh tịnh.
Thân chúng sinh thì ô trược. Tại sao ? Vì chẳng trừ khử tam độc tham sân si, cho nên không thanh tịnh. Thân Phật thanh tịnh, do đó chúng sinh không những thích thấy pháp thân của Phật, mà còn cung kính cúng dường thân Phật.

Phật trong vô lượng kiếp tu hành, còn chúng sinh trong vô lượng kiếp tạo nghiệp. Từ vô thủy kiếp đến hiện tại, vẫn không biết ngừng tạo nghiệp, cho nên thân không thanh tịnh. Thân không thanh tịnh thì chẳng có ai muốn thấy. Tại sao ? Vì không thanh tịnh ! Có ai muốn thấy người không thanh tịnh chăng ?

Sinh ra vui thế gian vô tận“. Ðức Phật ở tại hữu tình thế gian sinh ra vô tận khoái lạc, lúc cuối cùng trong pháp hội giảng Kinh nói : đều đại hoan hỉ, y giáo phụng hành, vì Ðức Phật hay sinh ra vô tận an vui trong thế gian.

Giải thoát nhân quả thứ tự thành” Giải Thoát phải trải qua một đoạn thời gian, mới có thể đắc được giải thoát, chớ chẳng phải lập tức mà đắc được giải thoát. Thứ tự giải thoát là như vầy : Người chưa trồng căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành. Người đã trồng căn lành rồi, thì khiến cho tăng trưởng. Người đã tăng trưởng, thì khiến cho thành thục. Người đã thành thục, thì khiến cho được giải thoát. Ðó là nói phải có nhân giải thoát mới có quả giải thoát. Tóm lại, tại nhân địa trồng nhân giải thoát, thì đến lúc sẽ kết quả giải thoát. Bốn quá trình nầy sẽ thành tựu từng bước một chứ chẳng phải hốt nhiên mà thành tựu.

Mỹ Mục minh bạch cảnh giới này“. Vị Lạc Giao Ðộng Mỹ Mục Càn Thác Bà Vương, khéo khai thị cho tất cả chúng sinh về đạo lý nầy, khiến cho họ minh bạch cảnh giới nầy, mới có thể y pháp tu hành.

 

Chúng sanh mê hoặc thường lưu chuyển,      Chúng sinh mê hoặc thường lưu chuyển
Ngu si chướng cái cực kiên mật,                        Ngu si chướng che rất kiên cố
Như Lai vì thuyết quảng đại Pháp,                   Như Lai vì nói pháp rộng lớn
Sư-tử-tràng Vương năng diễn sướng.                Sư Tử Tràng Vương diễn xướng được.

Chúng sinh mê hoặc thường lưu chuyển“. Mê là không giác ; “hoặc” là không rõ. Mê hoặc tức là không nhận thức rõ ràng về chính mình, tức cũng là cảm thấy mình có trí huệ, cảm thấy mình giỏi hơn kẻ khác, đó tức là mê hoặc. Chúng sinh mê hoặc quá sâu nặng, chính mình còn không thừa nhận, không biết rằng mê tức là không giác, có hoặc thì chẳng sáng suốt. Có mê hoặc rồi thì không rõ lý. Có người đang giảng Phật pháp mà họ nghĩ là thật chăng ? Có Phật chăng ? Có pháp chăng ? Khởi lên nghi hoặc cho rằng việc không thể được.

Nếu như có người dạy họ pháp tà, thì họ chẳng hoài nghi, ngược lại còn cho đó là diệu pháp, là pháp diệu không thể tả. Nếu có người dạy họ pháp thiện, thì họ khởi nghi vấn, không tin là pháp thật, đó tức là mê hoặc. Vì nghiệp chướng ràng buộc, lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Bị nghiệp chuyển, càng lưu chuyển càng xa, càng xa càng mê. Lưu chuyển đi lưu chuyển lại, lưu chuyển đến nơi nào ? Lưu chuyển đến trong sự ngu si.

Ngu si chướng che rất kiên cố“. Sự ngu si chướng che kiên cố phi thường, chẳng cách chi phá được, chẳng cách chi tháo mở được. Che lấp trí huệ khiến cho người biến thành ngu si. Vì quá ngu si cho nên có người bảo họ học chút trí huệ, mà họ cũng chẳng thừa nhận mình có trí huệ. Ai ai cũng đều cho rằng mình thông minh, có trí huệ hơn người. Nhưng nếu họ bị mắc trong lưới, hoặc bị vây hãm trong hầm, thì chẳng biết thoát thân. Vậy đó là có trí huệ hay là ngu si ?

Như Lai vì nói pháp rộng lớn“. Phật vì loại chúng sinh nầy, nói pháp môn rộng lớn, vì họ mà phá mê hiển chánh, khiến cho họ hết ngu si, mà đắc được trí huệ bát nhã của mình vốn có.

Sư Tử Tràng Vương diễn xướng được“. Vị Diệu Âm Sư Tử Tràng Càn Thác Bà Vương, diễn xướng được pháp môn nầy.

 

Như Lai phổ hiện diệu sắc thân,                        Diệu sắc thân Như Lai hiện khắp
Vô lượng sái biệt đẳng chúng sanh,                 Vô lượng khác biệt đồng chúng sinh
Chủng chủng phương tiện chiếu thế gian,     Ðủ thứ phương tiện chiếu thế gian
Phổ phóng Bảo quang như thị kiến.                Phổ Phóng Bảo Quang thấy như vậy.

Diệu sắc thân Như Lai hiện khắp“. Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Không từ đâu đến, cũng không đi về dâu, cho nên gọi là Như Lai. Hoặc là, nương đạo như thật, đến (lai) thành chánh giác. Hiện khắp là chẳng chỗ nào mà không đến gọi là khắp, chẳng chỗ nào mà không đi gọi là hiện. Trên đến cõi Trời Phi Phi Trưởng, dưới đến địa ngục, đều có diệu sắc thân của Phật. Diệu sắc thân là sắc thân diệu tốt đẹp, tức cũng là ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Diệu sắc thân nầy khắp cùng pháp giới.

Vô lượng sai biệt đồng chúng sinh“. Chúng sinh có vô lượng vô biên giống loài, tổng quát có bốn loài : Thai, noãn, thấp, hóa.

  1. Thai sinh : Thai do tình mà có, chúng sinh trong thai sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
  2. Noãn sinh : Noãn do tưởng mà sinh. Chúng sinh ở trong noãn sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
  3. Thấp sinh : Thấp sinh do hợp mà cảm. Chúng sinh trong thấp sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt.
  4. Hóa sinh : Hóa dùng sức mà ứng. Chúng sinh trong hóa sinh có vô lượng vô biên sự khác biệt. Vô lượng những chúng sinh khác biệt nầy đều thấy được diệu sắc thân của Như Lai.

Ðủ thứ phương tiện chiếu thế gian“. Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được bát nhã trí huệ quang. Trí huệ quang minh nầy chiếu khắp hữu tình thế gian.

Phổ Phóng Bảo Quang thấy như vậy“. Vị Phổ Phóng Bảo Quang Minh Càn Thát Bà Vương, thấy rõ được cảnh giới nầy.

 

Đại trí phương tiện vô lượng môn,            Ðại trí phương tiện vô lượng môn
Phật vi quần sanh phổ khai xiển,              Phật vì quần sinh khai xiển khắp
Nhập thắng Bồ-đề chân thật hạnh            Vào thắng bồ đề hạnh chân thật
Thử Kim cương tràng thiện quan sát.      Kim Cang Tràng Vương khéo quán sát.

Ðại trí phương tiện vô lượng môn“. Ðại trí tức là trí huệ Bát nhã. Phương tiện cũng là trí huệ Bát nhã. Phương tiện pháp môn có vô lượng vô biên. Tuy nhiên có nhiều pháp môn, nhưng mỗi pháp môn đối với mỗi căn cơ của chúng sinh, có bao nhiêu loại chúng sinh thì có bấy nhiêu loại pháp môn. Những phương tiện pháp môn này là đạo giáo hóa tất cả chúng sinh, giáo hóa chúng sinh phải xem nhân duyên chúng sinh. Loại chúng sinh nào, thì dùng phương tiện pháp môn đó để giáo hóa, do đó “theo bệnh cho thuốc”, thì mới có công hiệu. “Vì người thuyết pháp”, pháp vốn không pháp, căn bản chẳng có pháp để nói, nhưng cuối cùng thì, chẳng có một pháp nào mà không nói, tất cả đều phải nói. Chỉ cần nói hết tất cả các pháp, mà không cần chấp trước nơi pháp. Cho nên nói chẳng có pháp để nói. Tâm niệm tư tưởng của chúng sinh đều khác nhau, cho nên nói pháp cũng khác nhau.

Phật vì quần sinh khai xiển khắp“. Phật vì tất cả chúng sinh, mà khai xiển đại trí phương tiện pháp môn, khai xiển vô lượng môn, khiến cho chúng sinh vào đại trí huệ của Phật.

Vào thắng bồ đề hạnh chân thật“. Khiến cho chúng sinh vào giác đạo thù thắng, tu hành hạnh môn chân thật. Chẳng phải nói ở đầu miệng mà là thật hành. Có người giảng được vài quyển Kinh, hoặc là ngồi thiền, hoặc là dịch Kinh bèn cống cao ngã mạn, cho rằng ta có sự tu hành ! Tư tưởng nầy là sai lầm, nên biết chân thật tu hành thì phải đạo đức chân thật, học vấn chân thật, do đó, phẩm học khiêm ưu thì người mới bội phục bạn, mới sùng kính bạn. Bằng không, chẳng có đạo đức, thì thuyết pháp chẳng có người nghe, cũng chẳng ai bội phục. Nếu có đạo đức, bất cứ đi đến đâu cũng có người biết, không tuyên truyền ai ai cũng đều biết, ai ai cũng đều bảo cho biết.

Kim Cang Tràng Vương khéo quán sát”. Ðạo lý nầy vị Kim Cang Hoa Thụ Tràng Càn Thác Bà Vương khéo quán sát thấy rõ được.

 

Nhất sát-na trung bách thiên kiếp,           Trong một Sát na trăm ngàn kiếp
Phật lực năng hiện vô sở động,                 Phật lực hiện được chẳng lay động
Đẳng dĩ an lạc thí quần sanh,                    Ðồng đem an lạc thí quần sinh
Thử Lạc trang nghiêm chi giải thoát.       Giải thoát này của Lạc Trang Nghiêm.

Trong một Sát na trăm ngàn kiếp“. Một Sát na nghĩa là hình dung thời gian rất ngắn. Trong kinh Nhân Vương nói : “Chín chục sát na làm một niệm, một sát na có chín trăm lần sinh diệt”. Trăm ngàn kiếp rút lại làm một sát na, một sát na lại có thể kéo dài thành trăm ngàn kiếp. Thời gian tại phàm phu có dài có ngắn, tại địa vị Phật thì không dài không ngắn. Dài có thể ngắn, ngắn có thể dài, dài ngắn không hai, dài ngắn nhứt như.

Trong một đời chúng ta cảm thấy thời gian rất dài, từ nhỏ đến lớn, trưởng thành rồi già, già rồi chết. Sự sinh già bệnh chết, sinh trụ dị diệt, thành trụ hoại không, phải trải qua thời gian mấy chục năm. Tại địa vị Phật mà nhìn, thì chỉ là một sát na. Trong khoảng thời gian trong một sát na nầy, chúng ta rất nhận chân tình hình vui buồn ly hợp, đợi đến khi nhắm mắt thì, gì cũng chẳng có, đó chẳng phải là một giấc xuân mộng chăng ?

Phật lực hiện được chẳng lay động“. Ðại oai thần lực của Phật, đem trăm ngàn kiếp thu lại làm một sát na, và kéo dài một sát na làm vô lượng kiếp, có những diệu dụng như vậy, mà như như bất động.

Ðồng đem an lạc thí quần sanh“. Phật dùng đại oai thần lực đem an lạc bố thí cho chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đắc được khoái lạc chẳng gì sánh bằng.

Giải thoát nầy của Lạc Trang Nghiêm“. Khoái lạc môn giải thoát nầy vị Phổ Hiện Trang Nghiêm Càn Thác Bà Vương đắc được.

 

Phục thứ, tăng trưởng Cưu bàn trà Vương, đắc diệt nhất thiết oán hại lực giải thoát môn.

Lại nữa, Tăng Trưởng Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, diệt tất cả oán hại lực.

Giảng: Tiếp theo Kinh văn ở trước. Vị Tăng Trưởng Cưu Bàn Trà Vương (Cưu Bàn Trà là tên loài quỷ, dịch là “úng hình quỷ”, “đông qua quỷ”), vị nầy đắc được môn giải thoát : diệt tất cả oán hại lực.

Loại quỷ nầy chuyên môn hoành hành bá đạo, không giữ quy cụ. Nhất là người mà âm thạnh dương suy, thì chúng tìm đến nhiễu hại, không bị bệnh nặng thì cũng bị tai ương. Có vị Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương quản lý. Vua trong tám chúng đều là Bồ Tát hóa thân đến thống trị bọn chúng. Nếu không thì hậu quả không tưởng tượng nổi, tất cả chúng sinh đều phải chiu tai ương.

Oán là oán hận, hại là thương hại. Vì có oán hận cho nên có thương hại. Oán hận không có thì thương hại cũng không. Làm thế nào thì không có oán hận ? Thì phải tu pháp môn từ bi, không những từ bi đối với người, mà cũng phải từ bi với loài súc sinh, dù con muỗi con trùng cũng phải thương tiếc sinh mạng của chúng.

 

Long chủ Cưu bàn trà Vương, đắc tu tập vô biên hạnh môn hải giải thoát môn.

Long Chúa Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, tu tập vô biên biển hạnh môn.

Giảng: Vị Long Chúa Cưu Bàn Trà Vương nầy, tu hành vô lượng vô biên pháp môn. Vì pháp môn quá nhiều như biển cả. Biển cả thì không cách chi lường được sự rộng lớn, không cách chi dò được sự sâu của nó, cho nên Kinh Phật thường dùng chữ biển, để miêu tả nghĩa Kinh rộng lớn ra sao, thâm diệu ra sao. Vị Thiên Vương nầy đắc được môn giải thoát nầy.

 

Trang nghiêm tràng Cưu bàn trà Vương, đắc tri nhất thiết chúng sanh tâm sở Lạc giải thoát môn.

Trang Nghiêm Tràng Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, biết tâm ưa thích của tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Trang Nghiêm Tràng Cưu Bàn Trà Vương, thường trang nghiêm cõi nước của Phật, trang nghiêm tất cả đạo tràng, trang nghiêm cõi nước mười phương. Vị nầy đắc được cảnh giới : biết được sự hoan hỉ trong tâm chúng sinh là pháp gì ? Thì sau đó tùy thuận tâm ý chúng sinh mà nói pháp gì. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Nhiêu ích hạnh Cưu bàn trà Vương, đắc phổ thành tựu thanh tịnh đại quang minh sở tác nghiệp giải thoát môn.

Nhiêu Ích Hạnh Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, thành tựu đại quang minh sở tác nghiệp thanh tịnh.

Giảng: Vị Nhiêu Ích Hạnh Cưu Bàn Trà Vương, thường lợi ích chúng sinh. Phàm là chúng sinh cần gì, thì vị nầy đều không bỏn sẻn, mà sẵn sàng bố thí, giúp đỡ chúng sinh giải quyết sự khốn khổ. Vị nầy thành tựu khắp tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được Bát Nhã đại quang minh tạng và thành tựu tất cả thiện nghiệp của chúng sinh làm, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Khả bố úy Cưu bàn trà Vương, đắc khai thị nhất thiết chúng sanh an ổn vô úy đạo giải thoát môn.

Khả Bố Úy Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, khai thị đạo an ổn không sợ sệt cho tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Khả Bố Úy Cưu Bàn Trà Vương, tướng mạo rất đáng sợ, tất cả chúng sinh thấy được vị nầy, đều sinh tâm sợ hãi. Tướng mạo của vị nầy tuy nhiên đáng sợ, nhưng tâm của vị nầy rất từ bi, chuyên giúp đỡ chúng sinh, chuyên khai thị chúng sinh, mong muốn chúng sinh lìa khổ được vui, liễu sinh thoát tử. Và còn khiến chúng sinh tiêu trừ sợ hãi, đắc được an ổn. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Diệu trang nghiêm Cưu bàn trà Vương, đắc tiêu kiệt nhất thiết chúng sanh ái dục hải giải thoát môn.

Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, trừ sạch biển ái dục của tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương, tiêu diệt được ái dục của tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đoạn dục khử ái. Ðoạn dục khử ái tức là giải quyết vấn đề sinh tử. Duyên thứ nhất của mười hai nhân duyên đó là : vô minh. Một niệm vô minh khởi thì đọa lạc. Ðọa lạc đi về đâu ? Ðọa lạc trong sáu nẻo luân hồi.

Vô minh thì gì cũng chẳng biết, không biết thì làm việc hồ đồ, không giữ quy cụ, do đó bèn dinh ra tâm dục niệm. Dục tức là mình tưởng đến, bèn sinh ra tâm ái niệm, ái tức là những gì mình thích, tâm tư dục và tình ái giống như biển cả, không cách chi đầy đủ được, không cách chi lấp bằng được. Nếu triệt để trừ sạch ái dục, thì sẽ chấm dứt sinh tử, đắc được giải thoát. Vị Cưu Bàn Trà Vương nầy làm khô cạn biển tâm ái dục của tất cả chúng sinh, khiến cho họ chứng đắc thanh tịnh pháp thân. Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.

 

Cao phong tuệ Cưu bàn trà Vương, đắc phổ hiện chư thú quang minh vân giải thoát môn.

Cao Phong Huệ Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, mây quang minh hiện khắp trong các pháp giới.

Giảng: Vị Cao Phong Huệ Cưu Bàn Trà Vương, trí huệ cao vô cùng, đạt đến đỉnh cao nhất, đắc được cảnh giới, biến hiện khắp trong pháp giới của Bồ Tát, pháp giới của Duyên Giác, pháp giới của Thanh Văn, pháp giới của trời, pháp giới của người, pháp giới của A tu la, pháp giới của súc sinh, pháp giới của ngạ quỷ, pháp giới của địa ngục. Hóa hiện đủ thứ mây quang minh trong chín pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh trong các pháp giới, đắc được mây quang minh chiếu sáng, khai mở đại trí huệ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Dũng Kiện tý Cưu bàn trà Vương, đắc phổ phóng quang minh diệt như sơn trọng chướng giải thoát môn.

Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, phóng quang minh khắp, tiêu diệt nghiệp chướng nặng như núi.

Giảng: Vị Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, không những dũng mãnh phi thường, mà còn khéo về chiến đấu. Vì sức cánh tay của vị nầy rất khoẻ mạnh và cứng chắt, thậm chí đao chặt không đứt, cho nên làm Cưu Bàn Trà Vương, đắc được cảnh giới phóng quang minh khắp. Quang minh chiếu khắp, khiến cho tất cả nghiệp chướng nặng như núi, tiêu diệt chẳng còn sót, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

Tâm người tu đạo chúng ta, tại sao không kiên cố ? Vì nghiệp chướng quá nặng, cho nên chướng ngại tâm tu đạo. Chướng có bốn thứ :

1. Nghiệp chướng.
2. Báo chướng.
3. Phiền não chướng.
4. Sở tri chướng.

Nghiệp chướng tức là : nghiệp ác tạo ra, che lấp chướng ngại trí huệ. Báo chướng tức là : nghiệp tạo ra trong quá khứ, cho đến đời nay phải thọ quả báu. Phiền não chướng tức là : khởi nóng giận, không nhẫn nhục và chẳng có định lực. Tại sao chẳng khai ngộ ? Vì sao không thể giải thoát ? Vì có phiền não chướng. Sở tri chướng tức là : mình cảm thấy sự hiểu biết của mình nhiều hơn so với người khác, việc làm đều đúng so với người khác, đó là sở tri chướng.

Bất cứ là phiền não chướng hoặc là sở tri chướng đều nặng như núi, che lấp chướng ngại sự khai ngộ, cho nên không thể được giải thoát. Vị Cưu Bàn Trà Vương nầy hiểu được đạo lý nầy, đắc được môn giải thoát nầy.

 

Vô biên tịnh hoa nhãn Cưu bàn trà Vương, đắc khai thị Bất-thoái-chuyển đại bi tạng giải thoát môn.

Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, khai thị đại bi tạng không thối chuyển.

Giảng: Vị Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn Cưu Bàn Trà Vương, thường khai thị chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được cảnh giới tâm đại bi bất thối chuyển. Tâm đại bi tức là : phổ độ chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều lìa khổ được vui, cho nên gọi là đại bi tạng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Quảng đại diện cưu bàn đồ Vương, đắc phổ hiện chư thú lưu chuyển thân giải thoát môn.

Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương, được môn giải thoát, hiện thân lưu chuyển khắp các pháp giới.

Giảng: Vị Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương quản lý diện tích rất rộng lớn. Vị Cưu Bàn Trà nào không giữ quy cụ, làm việc hại người, thì vị nầy đều tha thứ, đi khuyên giải họ đừng làm hại người nữa. Vị nầy đắc được cảnh giới thân lưu chuyển, tức là sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh, sinh sinh chết chết, luân hồi không ngừng, lưu chuyển bất tận. Vị nầy đắc được môn giải thoát hiện thân khắp trong các pháp giới, độ hóa chúng sinh trong các pháp giới, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.

 

Nhĩ thời, tăng trưởng Cưu bàn trà Vương, thừa Phật uy lực, phổ quán nhất thiết Cưu bàn trà chúng nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Tăng Trưởng Cưu Bàn Trà Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Cưu Bàn Trà, mà nói ra bài kệ.

Giảng: Lúc đó, vị Tăng Trưởng Cưu Bàn Trà Vương (Cưu Bàn Trà thuộc về sự quản lý của Tăng Trưởng Thiên Vương ở phương nam), vị nầy nương đại oai thần lực gia bị của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Cưu Bàn Trà mà nói kệ để tán thán công đức của Phật.

 

Thành tựu nhẫn lực thế Đạo sư,               Thành tựu nhẫn lực thế Ðạo sư
Vì vật tu hành vô lượng kiếp,                    Vì người tu hành vô lượng kiếp
Vĩnh ly thế gian kiêu mạn hoặc,        Vĩnh lìa kiêu mạn hoặc thế gian
Thị cố kỳ thân tối nghiêm tịnh.                 Cho nên thân Phật nghiêm tịnh nhất.

Thành tựu nhẫn lực thế Ðạo sư“. Ðức Phật thành tựu được sức nhẫn nhục, mà làm Ðạo sư thế gian và làm Ðạo sư của chư thiên. Chúa trời cung trời Ðao Lợi, chán nãn sự sinh hoạt ở cung trời, bèn quán sát mình quá khứ có nhân duyên gì mà được làm chúa trời ? Sau khi quán sát thì thấy mình trong quá khứ đã từng nghe Phật pháp, đã làm công đức, cho nên được làm chúa trời, do đó phát tâm từ bi, mong muốn trời người đều nghe được Phật pháp mà trồng căn lành, tương lai sẽ sinh về cõi trời, không còn lẩn quẩn trong sáu nẽo luân hồi, mới thỉnh Phật đến cung trời Ðao Lợi vì chư thiên mà thuyết pháp. Ðức Phật theo sự thỉnh cầu mà đến, rộng nói diệu pháp. Có tám vạn bốn ngàn chúng đắc được lợi ích, đều chứng được không thối chuyển. Cho nên được xưng là thầy của trời người. Phật không những đến cung trời vì chúng sinh thuyết pháp mà còn xuống cung rồng vì chúng sinh thuyết pháp.

Vì người tu hành vô lượng kiếp“. Phật thấy chúng sinh rất đáng thương, suốt ngày sinh sống trong danh lợi, lẩn quẩn trong luân hồi sinh tử. Phật thương chúng sinh như con, mới phát nguyện lớn, nhất định phải tu hành, khai ngộ rồi mới có trí huệ, mới liễu sinh thoát tử. Có thần thông rồi mới đem pháp môn đã chứng đắc để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng đắc được liễu sinh thoát tử, tức là tu hành Phật pháp. Nhưng pháp môn liễu sinh thoát tử, không dễ gì hiểu được. Phật muốn minh bạch thứ pháp môn nầy, cho nên trong vô lượng kiếp đến nay, không trốn tránh sự khổ, không sợ mọi khó khăn nào, tu đủ thứ khổ hạnh để cứu chúng sinh lìa khổ được vui.

Vĩnh lìa kiêu mạn hoặc thế gian“. Vĩnh viễn xa rời tất cả kiêu ngạo, ngã mạn, mê hoặc .v.v.. Chúng ta người tu đạo, nếu diệt trừ được ba thứ ác tập, thì sẽ thành tựu đạo nghiệp.

Cho nên thân Phật nghiêm tịnh nhất“. Vì Chẳng có kiêu ngạo, ngã mạn, mê hoặc những thứ nhiễm ô nầy, cho nên thân thể của Phật trang nghiêm thanh tịnh nhất.

 

Phật tích phổ tu chư hạnh hải,                  Xưa kia Phật tu các biển hạnh
Giáo hóa thập phương vô lượng chúng,   Giáo hóa mười phương vô lượng chúng
Chủng chủng phương tiện lợi quần sanh, Ðủ thứ phương tiện lợi quần sinh
Thử giải thoát môn long chủ đắc.             Môn giải thoát nầy Long Chúa được.

Xưa kia Phật tu các biển hạnh“. Ðức Phật trong vô lượng kiếp về trước, tu hết thảy đủ thứ hạnh môn, bất cứ pháp gì Ngài cũng đều tu. Phàm là pháp Ngài đều tu hành, tuyệt đối không bỏ qua pháp nào dù nhỏ như sợi tóc, huống chi là pháp lớn lục độ Ba la mật. Ðời này Phật tu bố thí Ba la mật, đời sau tu trì giới Ba la mật, đời sau nữa tu nhẫn nhục ba la mật, đời kế tiếp tu tinh tấn Ba la mật, đời kế tiêp tu thiền định Ba la mật, đời kế tiếp tu trí huệ Bát nhã Ba la mật. Tuy nhiên trong một đời tu một Ba la mật nhưng năm Ba la mật kia cũng tu, bất quá là phụ mà thôi. Vì pháp môn lục độ vạn hạnh pháp quá nhiều, trước hết tu một ba la mật chính yếu, và tu các hạnh môn kia khác, cho nên xưng là các biển hạnh.

Giáo hóa mười phương vô lượng chúng“. Ðức Phật tu các biển hạnh thành tựu rồi, sau đó dùng các pháp môn đã chứng đắc, để giáo hóa vô lượng chúng sinh trong mười phương, khiến cho họ chiếu theo đó mà tu các biển hạnh. Phật pháp là kim chỉ nam, là bản đồ tìm kho báu, tìm báu gì ? Tìm Phật Pháp Tăng Tam Bảo.

Ðủ thứ phương tiện lợi quần sinh“. Ðức Phật dùng đủ thứ pháp phương tiện, để lợi ích tất cả chúng sinh, mỗi cử chỉ hành động, mỗi lời nói mỗi hạnh của Phật đều là pháp, làm mô phạm cho chúng sinh tu hành. Ðức Phật ngàn hạnh vạn khổ tu thành đạo nghiệp, chẳng giữ lại chút nào cho mình, hoàn toàn bày hết ra để giáo hóa chúng sinh, để lợi ích chúng sinh.

Ðức Phật có vị đệ tử tên là Châu Lợi Bàn Ðà, trong quá khứ là một vị đại thiện tri thức, có năm trăm vị đệ tử, nhưng vị này rất bỏn xẻn về pháp, không muốn giảng pháp. Vì vị nầy không đem pháp của mình đã hiểu biết để nói với đệ tử, cho nên tái sinh làm Châu Lợi Bàn Ðà, thì biến thành ngu si nhất. Ðó là quả báu không nói pháp. Muốn có trí huệ thì phải đem pháp của mình biết (chẳng phải là tà tri kiến mà là chánh tri chánh kiến) giảng giải cho chúng sinh biết, dù một câu, cũng được vô lượng công đức. Do đó “một lời hưng bang, một lời tán bang”. Phật pháp cũng như thế, một câu chánh pháp có thể làm cho người lầm đường lạc lối quay trở về với con đường chân chánh.

Môn giải thoát nầy Long Chúa được“. Môn giải thoát nầy vị Long Chúa Cưu Bàn Trà Vương đắc được.

 

Phật dĩ đại trí cứu chúng sanh,                 Phật dùng đại trí cứu chúng sinh
Mạc bất minh liễu tri kỳ tâm,                    Rõ biết tất cả tâm chúng sinh
Chủng chủng tự tại nhi điều phục,            Ðủ thứ tự tại mà điều phục
Nghiêm tràng kiến thử sanh hoan hỉ.       Nghiêm Tràng thấy được sinh vui mừng.

Phật dùng đại trí cứu chúng sinh“. Ðức Phật là bậc đại giác, không gì mà chẳng biết, không gì mà chẳng làm được, cho nên Phật dùng đại trí huệ để cứu chúng sinh. Muốn cứu chúng sinh gì thì dùng pháp môn đó. Chúng sinh đáng dùng thân gì để độ được, thì hiện ra thân đó để vì chúng sinh thuyết pháp, do đó quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp. Vì căn tính chúng sinh khác nhau, do đó dùng pháp môn cũng khác nhau. Người có đại trí huệ thì cứu hộ được chúng sinh.

Biết rõ tất cả tâm chúng sinh“. Phật hoàn toàn biết rõ tâm ý của chúng sinh, do đó “Tất cả bao nhiêu thứ tâm của chúng sinh, Như Lai đều biết đều thấy”. Phật dùng phương pháp đó để giáo hóa, khiến cho chúng sinh được đầy đủ mà tin thọ.

Ðủ thứ tự tại mà điều phục“. Phật dùng đủ thứ thần thông lực, để điều phục chúng sinh. Có những chúng sinh khó điều phục, thì Phật nói đủ thứ pháp môn, khiến cho chúng sinh cang cường phát tâm tín niệm, tin Phật pháp là cứu thế độ người. Gặp chúng sinh xan tham, thì vì họ nói pháp môn bố thí, khiến cho họ sinh tâm từ bi. Gặp chúng sinh không giữ quy cụ, thì vì họ nói pháp môn trì giới, khiến cho họ giữ gìn quy cụ, tiêu diệt tất cả ác tập khí, tu hành tất cả pháp lành, do đó :”đừng làm ác, hãy làm các điều lành”. Gặp chúng sinh thích nóng giận, thì dạy họ pháp môn nhẫn nhục, dạy họ lửa vô minh thiêu hủy tất cả công đức. Khiến cho họ bồi dưỡng tính nhẫn nhục, và sống trong sự hòa hợp với mọi người, tha thứ hết thảy, bỏ qua hết mọi sự, do đó :

“Nhẫn được thì yên,
Biết đủ thì an vui”.

Cho nên tinh tấn, thiền định, Bát nhã cũng đều như thế. Phải quán sát tất cả chúng sinh, nên dùng pháp nào độ được, thì dùng pháp đó, dùng đủ thứ thần thông diệu dụng, để điều phục chúng sinh, khiến cho họ cải lỗi làm con người mới lại.

Nghiêm Tràng thấy được sinh vui mừng“. Vị Trang Nghiêm Tràng Cưu Bàn Trà Vương, đắc được cảnh giới nầy thì sinh tâm hoan hỉ.

 

Thần thông ưng hiện như quang ảnh,       Thần thông ứng hiện như quang ảnh
Pháp luân chân thật đồng hư không,        Pháp luân chân thật đồng hư không
Như thị xứ thế vô ương kiếp,                     Xử thế như vậy vô lượng kiếp
Thử nhiêu ích Vương chi sở chứng.          Nhiêu Ích Vương chứng được môn nầy.

Thần thông ứng hiện như quang ảnh“. Thần thông của Phật là ứng cơ hiện khắp. Trí huệ của Phật là chiếu khắp chúng sinh. Vì Phật có đại trí huệ, có đại thần thông, cho nên tùy loại ứng hiện giáo hóa chúng sinh. Giống như quang và ảnh, nghiệp chướng của chúng sinh là hình, thần thông trí huệ của Phật là quang. Ví như nghiệp chướng của chúng sinh là băng, thần thông trí huệ quang của Phật là mặt trời. Ánh sáng mặt trời chiếu xuống băng, thì băng lập tức tan thành nước, hoặc là bốc thành hơi. Băng tan ra tức là phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn cội). Chúng sinh tuy nhiên là có nghiệp chướng, nhưng qua sự thần thông trí huệ quang của Phật chiếu, thì nghiệp chướng hoàn toàn tiêu diệt. Mục đích chúng ta nghiên cứu Phật pháp tức là tiêu trừ nghiệp chướng.

Pháp luân chân thật đồng hư không“. Chuyển đại pháp luân là chân thật, nhưng đừng chấp trước có pháp luân để chuyển, có chúng sinh để độ. Nếu có sự chấp trước thì biến thành pháp chấp. Tuy nhiên pháp luân là chân thật, nhưng giống như hư không, không thể đắc được

Xử thế như vậy vô lượng kiếp“. Những gì Phật làm, đều chẳng chấp trước, như vậy đến thế giới nầy xử lý thế giới giáo hóa chúng sinh. Phật trong vô lượng vô số đại kiếp, làm Phật sự mà chẳng chấp trước.

Nhiêu Ích Vương chứng được môn này“. Cảnh giới nầy, vị Nhiêu Ích Hạnh Cưu Bàn Trà Vương, chứng đắc được. Vì vị nầy minh bạch hiểu rõ được đạo lý nầy, mới chứng được môn giải thoát nầy.

 

Chúng sanh si ế thường mông hoặc,         Chúng sinh ngu si thường mê hoặc
Phật quang chiếu hiện an ổn đạo,             Phật quang chiếu khắp khiến an ổn
Vì tác cứu hộ lệnh trừ khổ,                        Vì cứu chúng sinh khiến trừ khổ
Khả úy năng quán thử pháp môn.            Khả Úy quán được pháp môn nầy.

Chúng sinh ngu si thường mê hoặc“. Tại sao lại làm chúng sinh ? Vì một niệm vô minh. Một niệm vô minh không giác cho nên đọa lạc làm chúng sinh. Chúng sinh tuy nhiên không giác, nhưng vẫn đầy đủ Phật tánh vốn có, chỉ không giác mà thôi. Không giác tức là ngu si, che lấp trí huệ. Ngu si giống như màn che trong con mắt, nhìn sự vật chẳng rõ ràng. Vì nhìn không rõ nên làm những việc điên đảo hồ đồ. Vì hồ đồ điên đảo, nên sinh ra nhiều mê hoặc. Nghi Phật không tin Phật, nghi Pháp không học Pháp, nghi Tăng không tin Tăng. Không tin, không học, không kính đối với Tam Bảo, cho nên gọi thường mê hoặc.

Phật quang chiếu khắp khiến an ổn“. Vì quang minh của chiếu khắp, cho nên chẳng có tai nạn, chẳng có nguy hiểm, khiến cho chúng sinh an ổn tín ngưỡng Tam Bảo, cung kính Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo.

Vì cứu chúng sinh khiến trừ khổ“. Phật là từ phụ của chúng sinh, là đạo sư của chúng sinh, là hộ sĩ của chúng sinh, giải trừ tất cả khổ của chúng sinh, trừ khổ rồi thì đắc được sự an lạc.

Khả Úy quán được pháp môn này“. Vị Khả Bố Úy Cưu Bàn Trà Vương, quán sát được pháp môn nầy, minh bạch được pháp môn nầy, cho nên chứng được môn giải thoát nầy.

 

Dục hải phiêu luân cụ chúng khổ,             Biển dục trôi nổi đầy sự khổ
Trí quang phổ chiếu diệt vô dư,                Trí quang chiếu khắp diệt không còn
Ký trừ khổ dĩ vi thuyết Pháp,                      Dứt trừ khổ rồi vì thuyết pháp
Thử diệu trang nghiêm chi sở ngộ.            Diệu Trang Nghiêm Vương ngộ môn nầy.

Biển dục trôi nổi đầy sự khổ“. Dục niệm của chúng sinh vô lượng như biển lớn. Có người muốn làm thủ lãnh, đó là dục thủ lãnh, có người muốn làm phú ông, đó là dục phú ông, hai thứ dục nầy là dục giàu sang. Có người muốn có danh vọng tốt, đó là dục danh vọng tốt. Có người khen họ, thì trong tâm họ cảm thấy ngọt hơn so với mật ong; có người phỉ báng họ, thì trong tâm cảm thấy đắng hơn là huỳnh liên. Có người muốn có đời sống tốt, đó là dục đời sống; và muốn có y phục tốt mặc, có vật ngon ăn, có nhà tốt ở, có xe mới chạy. Tóm lại, phàm là tất cả sự mong muốn đều là lạc dục. Còn có một thứ dục nữa không dễ gì đoạn trừ, đó là dục nam nữ. Do đó, trôi đi trôi lại ở trong biển dục, trôi từ đây sang kia, từ đó lại trôi đến đây. Từ bờ sinh tử bên nầy trôi vào trong dòng phiền não, trôi lạc đến đáy biển không dễ gì đến được bờ Niết Bàn bên kia.

Ví như, chúng sinh nầy vốn ở trên cõi trời. Vì quan hệ dục niệm quá nặng, từ cõi trời trôi lạc xuống nhân gian, từ nhân gian trôi lạc vào cõi A tu la, cho đến địa ngục. Mỗi lần trôi lạc, thì càng sâu hơn, trôi lạc xa hơn, tức cũng là rời tự tính sâu hơn, rời Phật pháp xa hơn. Trôi nổi ở trong biển dục, chịu vô lượng sự thống khổ. Chúng ta tu đạo là đoạn trừ năm dục (tài, sắc, danh, ăn, và ngủ). Tu hành viên mãn thì thăng đi lên; không viên mãn thì đọa đi xuống, tơ hào không sai được, chẳng đếm xỉa gì đế nhân tình, đại công vô tư, mọi người đều bình đẳng. Cho nên nói tài, sắc, danh, ăn, và ngủ là năm tầng địa ngục.

Trí quang chiếu khắp diệt không còn“. Trí huệ quang minh của Phật chiếu khắp các pháp giới, khiến cho sự khổ của chúng sinh, đều diệt sạch không còn, làm cho chúng sinh đều được an lạc.

Dứt trừ khổ rồi vì thuyết pháp“. Không những Phật vì chúng sinh, trừ tất cả mọi sự thống khổ, mà còn diễn nói diệu pháp.

Diệu Nghiêm Tràng Vương ngộ môn nầy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Diệu Trang Nghiêm Cưu Bàn Trà Vương ngộ được.

 

Phật thân phổ ưng vô bất kiến,                 Thân Phật ứng khắp thảy đều thấy
Chủng chủng phương tiện hóa quần sanh,        Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh
Âm như lôi chấn vũ Pháp vũ,                    Âm như sấm sét mưa pháp vũ
Như thị pháp môn cao tuệ nhập.               Cao Huệ vào được pháp môn nầy.

Thân Phật ứng khắp thảy đều thấy“. Thân Phật giống như mặt trăng mát mẻ, thường lơ lửng trên hư không, nếu trong tâm nước chúng sinh thanh tịnh, thì ánh sáng mặt trăng của Phật, sẽ chiếu vào trong tâm ảnh bồ đề của chúng sinh. Và giống như ngàn vũng ao đều có mặt trăng. Chỉ cần chỗ nào có nước lắng trong, thì mặt trăng sẽ hiện bóng. Mặt trăng chẳng có tâm phân biệt, trong nước nhiều cũng có mặt trăng, trong nước ít cũng có mặt trăng. Do đó :

“Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy,
Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp”.

Nghĩa là : một mặt trăng hiện khắp tất cả chỗ nào có nước, mặt trăng trong tất cả chỗ nào có nước, chỉ phản ảnh bởi một mặt trăng. Chúng sinh không chỗ nào chẳng thấy thân Phật, vì thân Phật hiện khắp tất cả . Chỗ nầy có người thắc mắc : “Tại sao tôi không thấy thân của Phật”? Vì tâm nước của bạn không thanh tịnh, có tư tưởng nhiễm ô, cho nên ánh sáng mặt trăng Phật không hiện ra.

Ðủ thứ phương tiện hóa quần sinh“. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để giáo hóa chúng sinh. Vì người bố thí giáo pháp, với người lợi căn, thì nói pháp chân không diệu hữu, đối với người độn căn, thì nói pháp nhân quả báo ứng. Theo bệnh cho thuốc, bệnh nhiệt thì dùng thuốc mát giải nhiệt, bệnh hàn thì dùng thuốc nhiệt, như vậy thì mới có hiệu quả và thuốc có công năng chữa hết bệnh.

Phật thuyết pháp, thì tùy người tùy thời tùy nơi mà nói pháp, cho nên một pháp có đủ thứ sự giải thích khác nhau. Ví như bậc tiểu học thì nói đạo lý, bậc trung học thì nói tri thức, bậc đại học thì giảng lý luận. Phật là đạo sư của thế gian, hiểu tâm lý chúng sinh. Pháp của Phật giáo hóa hoàn toàn thành công và triệt để. Chỉ có Khổng Tử và Phật được gọi là nhà giáo dục, là thầy tiêu biểu cho muôn đời, nhưng Khổng Tử chẳng phải là nhà tôn giáo.

Âm như sấm sét mưa pháp vũ“. Âm thanh của Phật thuyết pháp, giống như tiếng sấm sét, bất cứ chúng sinh ở đâu, cũng đều nghe rõ ràng. Và còn mưa pháp vũ thấm nhuần khắp tất cả vạn vật. Phật vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh đắc được ích lợi pháp vũ. Người lợi căn, thì được lợi ích pháp nhiều, người độn căn thì được lợi ích pháp ít, tóm lại đều được lợi ích . Chỉ cần thành tâm tin thọ, thì chắc chắn đắc sẽ được diệu dụng. Sự diệu dụng nầy diệu không thể tả, như uống nước, nóng lạnh tự mình biết. Phật pháp không phải ở lời nói, mà là ở việc làm, làm được thì có công đức, có công đức thì sẽ thành tựu.

Cao Huệ vào được pháp môn này“. Pháp môn nầy vị Cao Phong Huệ Cưu Bàn Trà Vương thâm nhập được.

 

Thanh Tịnh Quang minh bất đường phát,        Quang minh thanh tịnh chiếu hết thảy
Nhược ngộ tất lệnh tiêu trọng chướng,     Nếu ai gặp được tiêu chướng nặng
Diễn Phật công đức vô hữu biên,              Nói công đức Phật không bờ mé
Dũng tý năng minh thử thâm lý.               Dũng Tí thâm nhập pháp môn nầy.

Quang minh thanh tịnh chiếu hết thảy“. Trí huệ của Phật là quang minh thanh tịnh, nhưng không phát ra bậy bạ, không phát ra thì thôi, mà phát ra thì sẽ trúng, có công năng như thế. Công năng gì ? Công năng diệt trừ được chướng ngũ nghịch thập ác.

Nếu ai gặp được tiêu chướng nặng“. Nếu ai gặp được trí huệ quang minh thanh tịnh của Phật chiếu, thì bất cứ nghiệp chướng nặng bao nhiêu cũng đều tiêu trừ.
Chướng nặng tức là : giết cha, giết mẹ, giết bậc A la hán, phá hoại Tăng đoàn, làm thân Phật chảy máu. Ðó là năm tội nặng nhất. Căn bản không thể sám hối tiêu tội, nhưng quang minh của Phật chiếu đến, thì đều tiêu trừ. Ví như chướng nặng như núi băng, quang minh của Phật như mặt trời. Mặt trời chiếu đến thì núi băng cũng tiêu tan.

Nói công đức Phật không bờ mé“. Nếu nói tỉ mỉ về công đức của Phật, thì chẳng cách chi diễn nói được, vì công đức của Phật chẳng có bờ mé. Do đó :

“Hư không khả lượng phong khả khế,
Vô năng thuyết tận Phật công đức”.

Nghĩa là:
Hư không có thể lường được, gió buộc được,
Không thể nói hết công đức của Phật.

Dũng Tí thâm nhập pháp môn này“. Vị Dũng Kiện Tí Cưu Bàn Trà Vương, minh bạch thâm sâu vi diệu đạo lý nầy.

 

Vì dục an lạc chư chúng sanh,                   Vì muốn an lạc các chúng sinh
Tu tập đại bi vô lượng kiếp,                      Tu tập đại bi vô lượng kiếp
Chủng chủng phương tiện trừ chúng khổ,        Ðủ thứ phương tiện trừ các khổ
Như thị tịnh hoa chi sở kiến.                     Tịnh Hoa thấy được pháp môn nầy.

Vì muốn an lạc các chúng sinh“. Vì chúng sinh ở trong sự ưu bi khổ não, chấp trước mê hoặc quá sâu nặng, không muốn ra khỏi biển khổ. Phật vì muốn cứu chúng sinh đắc được an lạc, mới hy sinh sự sung sướng an vui của chính mình, đảo giá từ thuyền đến thế giới Ta Bà nầy độ tất cả chúng sinh.

Tu tập đại bi vô lượng kiếp“. Phật tự mình chịu khổ, muốn cho chúng sinh hết khổ, cho nên trong vô lượng kiếp về trước phát nguyện lớn, tu đủ thứ khổ hạnh. Tại sao phải tu khổ hạnh ? Vì tu khổ hạnh thì có thể khai ngộ, khai ngộ thì có trí huệ, có trí huệ mới cứu được chúng sinh, ra khỏi biển khổ tam giới. Phật trong vô lượng kiếp dưỡng thành tâm đại bi, lấy sự phổ độ chúng sinh làm bổn hoài.

Ðủ thứ phương tiện trừ các khổ“. Phật tu hạnh đại bi, dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để trừ khử khổ não của chúng sinh, khiến cho tiêu trừ hết các khổ, thì tự nhiên sẽ đắc được an lạc.

Tịnh Hoa thấy được pháp môn này“. Cảnh giới nầy vị Vô Biên Tịnh Hoa Nhãn Cưu Bàn Trà Vương thấy và biết rõ.

 

Thần thông tự tại bất tư nghị,                   Thần thông tự tại không nghĩ bàn
Kỳ thân phổ hiện biến thập phương,        Thân Phật hiện khắp trong mười phương
Nhi ư nhất thiết vô lai khứ,                       Mà khắp các chỗ chẳng đến đi
Thử quảng diện Vương tâm sở liễu.          Quảng Ðại Diện Vương ngộ môn nầy.

Thần thông tự tại không nghĩ bàn“. Sức thần thông tự tại của Phật vô lượng vô biên, là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Thần thông là thành tựu trí huệ rất tự nhiên. Tự tại tức là do thành tựu định lực. Thần thông tự tại từ đâu mà tu được ? Là từ khổ hạnh và trong thiền định đắc được. Có trí huệ chân chánh, thì sẽ có thần thông. Có định lực chân chánh thì sẽ đắc tự tại. Bất cứ là thần thông hoặc tự tại đều là diệu không thể tả.

Thân Phật hiện khắp trong mười phương“. Vì Phật có thần thông tự tại không thể nghĩ bàn, cho nên Thân Phật hiện khắp trong mười phương thế giới, do đó “tận hư không khắp pháp giới “. Pháp thân của Phật vô sở bất tại (chẳng có chỗ nào mà không có).

Mà khắp các chỗ chẳng đến đi“. Phật chẳng đến đi trong mười phương, cho nên nói không đến không đi. Vì có cảnh giới :”một hiện nhiều, nhiều hiện một”, cho nên một nhiều hổ tương vô ngại. Tóm lại, một tức là nhiều, nhiều tức là một, một nhiều không hai.

Trong kinh Kim Cang nói :
“Như Lai giả,
Vô sở tùng lai,
Diệc vô sở khứ”.

Nghĩa là :
“Ðức Như Lai !
Không từ đâu đến
Cũng không đi về đâu”.

Không giống như chúng ta, nếu ở chỗ nầy thì chỗ kia chẳng có ; nếu ở chỗ kia thì chỗ nầy chẳng có. Thần thông tự tại diệu dụng của Phật, ở trong đạo tràng không động chỗ ngồi, mà đến được mười phương thế giới diễn nói Kinh Hoa Nghiêm. Tất cả chúng sinh trong mười phương đều thấy được Ðức Phật, đều nghe pháp được.

Quảng Ðại Diện Vương ngộ môn nầy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Quảng Ðại Diện Cưu Bàn Trà Vương đắc được và thấy rõ được.

 

Phục thứ, tỳ lâu bác xoa long Vương, đắc tiêu diệt nhất thiết chư long thú sí nhiên khổ giải thoát môn.

Lại nữa, Tì Lâu Bác Xoa Long Vương, được môn giải thoát, tiêu diệt tất cả sự thống khổ của loài rồng.

Giảng: Nói tiếp theo Kinh văn ở trước. Vị Tì Lâu Bác Xoa Long Vương (Rồng là một trong tứ linh, có thần thông, biến hóa bay được, nổi mây làm mưa ). Vị nầy đắc được cảnh giới tiêu diệt được tất cả sự khổ của loài rồng. Rồng có những khổ gì? Có bốn thứ khổ, thống khổ giống như lửa. Bốn thứ khổ là :

  1. Khổ về làm thức ăn của chim Kim Sí Ðiểu (chim đại bàng cánh vàng) : Chim Kim Sí chuyên bắt rồng ăn thịt, rồng gần chết thì bị chim bắt ăn.
  2. Khổ về khi hành dâm thì biến thân thể : Khi rồng đực rồng cái giao nhau thì phải hiện thân rắn, sự biến hóa nầy thống khổ vô cùng.
  3. Khổ về côn trùng ở trong vảy rúc rỉa : Ở trong vảy có rất nhiều trùng nhỏ, rúc rỉa toàn thân phát ngứa, khổ khó tả được.
  4. Khổ về nóng đốt thân : Vì toàn thân ngứa ngáy, do đó lên bờ lăn trên các nóng, nhưng cá bị ánh nắng mặt trời, đốt nóng như lửa, bị phỏng mà phát đau.

Tại sao bị đọa làm rồng ? Nếu tâm sân hận quá nặng, thích nóng giận, không có hàm dưỡng công phu, thì sẽ biến làm rồng. Nếu tâm đố kị quá nặng, không có tâm từ bi, thì đọa làm loài trăn. Nếu tâm siểm nịnh quá nặng, chẳng có tâm từ bi, thì đọa làm rắn. Tâm nóng giận của rồng quá lớn, thích phun độc để hại sinh linh. Bất cứ việc gì chúng cũng đều nóng giận. Nhưng rồng tu hành thì rất dụng công, dũng mãnh tinh tấn, không sợ khổ không sợ khó, nhưng chúng không giữ giới luật, không chú trọng về giới luật, do không giữ giới luật cho nên đọa làm súc sinh. Vị Long Vương nầy đắc được môn giải thoát : tiêu diệt sự thiêu đốt nhiệt não của loài rồng.

 

Sa kiệt la long Vương, đắc nhất niệm trung chuyển tự long hình thị hiện vô lượng chúng sanh thân giải thoát môn.

Sa Kiệt La Long Vương, được môn giải thoát, trong một niệm tự chuyển hình rồng, thị hiện vô lượng thân chúng sinh.

Giảng: Vị Sa Kiệt La Long Vương, là Long Vương ở trong biển nước mặn, chỉ trong một niệm tự chuyển hình rồng mà thị hiện tất cả thân chúng sinh. Gặp chúng sinh phi hành thì hiện thân chúng sinh phi hành. Gặp chúng sinh ẩn nổi thì hiện thân chúng sinh ẩn nổi, gặp chúng sinh thai hình thì hiện thân chúng sinh thai hình, gặp chúng sinh noãn hình thì hiện thân chúng sinh noãn hình. Tóm lại, gặp chúng sinh thân hình gì, thì hiện chúng sinh thân hình đó, để giáo hoá chúng sinh, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Vân âm tràng long Vương, đắc ư nhất thiết chư hữu thú trung dĩ thanh tịnh âm thuyết Phật vô biên danh hiệu hải giải thoát môn.

Vân Âm Tràng Long Vương, được môn giải thoát, trong tất cả các cõi, dùng âm thanh thanh tịnh, diễn nói vô biên danh hiệu Phật nhiều như biển.

Giảng: Vị Vân Âm Tràng Long Vương có âm thanh biến mãn trang nghiêm như mây, như tràng. Vị nầy đắc được cảnh giới, ở trong tất cả loài chúng sinh, vì chúng sinh mà diễn nói danh hiệu của chư Phật.

Các cõi tức là : tam giới hai mươi lăm cõi. Vị nầy ở trong tam giới, dùng âm thanh thanh tịnh để thuyết pháp. Mỗi một vị Phật có một vạn danh hiệu, một vạn vị Phật có vạn vạn danh hiệu, cho nên gọi là biển danh hiệu.

Từ trước mỗi vị Phật có một vạn danh xưng. Vì chúng sinh nhớ không hết, cho nên sau đó bớt còn một ngàn danh xưng, nhưng chúng sinh cũng nhớ cũng không hết, về sau bớt còn một trăm danh xưng, chúng sinh cũng nhớ không hết, cuối cùng bớt xuống còn mười danh xưng, như vậy mới nhớ hết.

Mười danh hiệu là : Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Trong đó danh hiệu “Thiện Thệ Thế Gian Giải” đáng lý là hai danh hiệu. Ðầy đủ mười danh hiệu nầy mới xưng là Thế Tôn. Thế Tôn là tổng đại biểu mười danh hiệu. Vị Long Vương nầy đắc được môn giải thoát biển danh hiệu của chư Phật.

 

Diệm khẩu long Vương, đắc phổ hiện vô biên Phật thế giới kiến lập sái biệt giải thoát môn.

Diệm Khẩu Long Vương, được môn giải thoát, hiện khắp vô biên thế giới của Phật, kiến lập đều khác nhau.

Giảng: Vị Diệm Khẩu Long Vương trong miệng phun ra lửa được, biến thành núi lửa. Vị nầy đắc được pháp môn biến khắp trong mười phương thế giới của chư Phật. Thế giới của chư Phật kiến lập, thành tựu, đều khác nhau. Thế giới Ta Bà là Phật Thích Ca kiến lập, hoằng dương Phật pháp ở thế giới nầy. Thế giới Cực Lạc là Phật Di Ðà kiến lập, diễn nói Phật pháp ở thế giới nầy. Thế giới Lưu Ly là Phật Dược Sư kiến lập, đang giảng Kinh thuyết pháp. Vì chư Phật kiến lập thế giới, cho nên mỗi thế giới đều khác nhau, do đó mới nói môn giải thoát khác nhau.

Thế giới của Chư Phật kiến lập hoặc là thời gian kiến lập dài một chút, hoặc ngắn một chút, hoặc thế giới kiến lập trang nghiêm, đều là mười phương chư Phật, đối căn cơ của chúng sinh, mà thị hiện ra loại thế giới nầy, để cứu loại chúng sinh nầy, đó là môn giải thoát của vị Long Vương nầy đắc được.

 

Diệm long Vương, đắc nhất thiết chúng sanh sân si cái triền Như Lai từ mẫn lệnh trừ diệt giải thoát môn.

Diễm Nhãn Long Vương, được môn giải thoát, tất cả chúng sinh bị sân si ràng buộc, Như Lai thương xót khiến cho họ trừ diệt.

Giảng: Vị Diễm Nhãn Long Vương trong con mắt phóng ra hỏa quang. Sự biết được của vị nầy là : tất cả chúng sinh đều có sân hận, đều có vô minh, đều có phiền não, đều có nóng giận. Nhưng Như Lai có lòng từ bi thương xót chúng sinh, khiến cho tất cả sân si che trói đều diệt trừ.

Tâm sân hận quá nặng thì che lấp từ bi. Tâm ngu si quá nặng thì che lấp trí huệ. Bị sân si che quá sâu dày gọi là trói buộc, không được tự tại, sân si của chúng sinh bị che trói, làm chướng ngại sự tu đạo. Phật phát tâm đại từ bi, khiến cho sân si che trói chúng sinh diệt trừ. Khiến cho người tu đạo tiêu diệt tham sân si ba độc, tu thành giới định huệ ba học vô lậu, như thế thì mới có sự thành tựu.

 

Vân tràng long Vương, đắc khai thị nhất thiết chúng sanh Đại thiện lạc phước đức hải giải thoát môn.

Vân Tràng Long Vương được môn giải thoát, khai thị biển phước đức đại hỉ lạc cho tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Vân Tràng Long Vương đắc được cảnh giới : khai thị tất cả chúng sinh. Chúng sinh không minh bạch, khi vị nầy khai thị thì minh bạch. Chúng sinh có sự ngu si chướng ngại, khi vị nầy khai thị thì tiêu diệt. Chúng sinh có ưu sầu khổ não, khi vị nầy khai thị rồi thì chẳng còn ưu sầu. Sự khai thị cùa vị nầy có đủ thứ lợi ích. Chúng sinh nghe được vị nầy khai thị thì sinh tâm đại hoan hỉ, sinh tâm đại khoái lạc. Tại sao ? Vì đắc được phước đức và trí huệ. Sự hỉ lạc phước đức nầy, vô lượng vô biên rộng lớn như biển lớn, cho nên sinh đại hỉ lạc, đó là môn giải thoát vị long vương nầy đắc được.

 

Đức xoa ca long Vương, đắc dĩ thanh tịnh cứu hộ âm diệt trừ nhất thiết bố úy giải thoát môn.

Ðức Xoa Ca Long Vương đươc môn giải thoát, dùng âm thanh thanh tịnh cứu hộ diệt trừ tất cả sợ hãi.

Giảng: Vị Ðức Xoa Ca Long Vương, đắc được một thứ âm thanh : thanh tịnh cứu hộ, bất cứ loài chúng sinh nào nghe được âm thanh của vị nầy, thì sẽ diệt trừ tất cả tâm sợ hãi, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Vô biên bộ long Vương, đắc thị Hiện-Nhất-Thiết Phật sắc thân cập trụ kiếp thứ đệ giải thoát môn.

Vô Biên Bộ Long Vương được môn giải thoát, thị hiện tất cả sắc thân của Phật và thứ tự trụ kiếp.

Giảng: Vị Vô Biên Bộ Long Vương thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn, hốt lớn hốt nhỏ, hốt có hốt không. Vị nầy đắc được cảnh giới: thị hiện được tất cả sắc thân của Phật và tám tướng thứ tự khi Phật ở đời, đó là môn giải thoát vị Long Vương nầy đắc được.

Tám tướng tức là :
1. Hàng sinh : Từ cung trời Ðâu Xuất cõi voi trắng lớn sáu ngà xuống trần gian.
2. Trụ thai : Lựa chọn vua Tịnh Phạn làm cha, Hoàng Hậu Ma Gia làm mẹ. .
3. Xuất thai : Sinh ra dưới cây Vô Ưu trong vườn Lâm Tì Ni, tay trái chỉ trời tay phải chỉ đất mà nói :”Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.
4. Xuất gia : Vì cầu pháp môn liễu sinh thoát tử mà tu đạo.
5. Hàng ma : Dưới cội bồ đề sắp thành chánh giác thì ma nữ hiện ra ba mươi hai sắc đẹp; nhưng Phật chẳng động tâm, cho nên ma nữ thối lui.
6. Thành Chánh Giác : Ðêm thấy sao mai mọc mà chứng giác đạo.
7. Chuyển pháp luân : Lúc ban đầu tại vườn Lộc Uyển chuyển bánh xe pháp bốn Thánh Ðế, cuối cùng nói Kinh Niết Bàn trong rừng Sa La Long Thọ.
8. Vào Niết Bàn : Vào cứu kính Niết Bàn dưới cây Sa La Song Thọ tại thành Câu Thi Na .

 

Thanh tịnh sắc tốc tật long Vương, đắc xuất sanh nhất thiết chúng sanh Đại ái lạc hoan hỉ hải giải thoát môn.

Thanh Tịnh Sắc Tốc Tật Long Vương, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, sinh ra biển tâm đại ưa thích hoan hỉ.

Giảng: Vị Thanh Tịnh Sắc Tốc Tật Long Vương, phi hành biến hóa rất mau chóng. Vị nầy đắc được cảnh giới : khiến cho tất cả chúng sinh đắc được đại ưa thích đại hoan hỉ. Ưa thích gì ? Ưu thích Phật pháp. Hoan hỉ gì ? Hoan hỉ Phật pháp. Sự ưa thích và hoan hỉ nầy lớn như biển, chẳng cùng tận, đó là môn giải thoát của vị nầy.

 

Phổ hành Đại âm long Vương, đắc thị Hiện-Nhất-Thiết bình đẳng duyệt ý vô ngại âm giải thoát môn.

Phổ Hành Ðại Âm Long Vương, được môn giải thoát, thị hiện tất cả âm thanh bình đẳng vừa ý vô ngại.

Giảng: Vị Phổ Hành Ðại Âm Long Vương, khắp cùng pháp giới, phát ra đại pháp âm, thị hiện tất cả pháp âm bình đẳng vừa ý, chẳng có chướng ngại. Bất cứ loại chúng sinh nào, nghe được pháp âm nầy, thì đều sinh ra tâm khoái lạc, tiêu diệt tất cả ưu sầu khổ não, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Vô nhiệt não long Vương, đắc dĩ đại bi phổ phước vân diệt nhất thiết thế gian khổ giải thoát môn.

Vô Nhiệt Não Long Vương được môn giải thoát, dùng mây đại bi che khắp, để diệt trừ tất cả sự khổ thế gian.

Giảng: Vị Vô Nhiệt Não Long Vương, do thành tựu đại bi nguyện lực mây đại bi, che khắp tất cả chúng sinh trong hư không, diệt trừ được tất cả sự khổ trong thế gian, đó là môn giải thoát của vị nầy đắ được.

 

Nhĩ thời, tỳ lâu bác xoa long Vương, thừa Phật uy lực, phổ quán nhất thiết chư long chúng dĩ, tức thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Tì Lâu Bác Xoa Long Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán khắp tất cả các chúng rồng mà nói ra bài kệ.

Giảng: Lúc đó, vị Tì Lâu Bác Xoa Long Vương, (Rồng thuộc về sự quản lý của Quảng Mục Thiên Vương ở hướng tây) nương đại oai thần lực của chư Phật gia trì, quán sát khắp tất cả loài rồng mà tán thán công đức của Phật.

 

Nhữ quán Như Lai Pháp thường nhĩ,       Quán thấy pháp Phật thường như vậy
Nhất thiết chúng sanh hàm lợi ích,           Tất cả chúng sinh đều lợi ích
Năng dĩ đại từ ai mẫn lực,                         Thường dùng sức từ bi thương sót
Bạt bỉ úy đồ luân trụy giả.                         Cứu họ thoát khỏi khổ tam đồ.

Quán thấy pháp Phật thường như vậy“. Quán sát thấy pháp của Phật luôn luôn là như thế. Tức là tùy duyên không đổi, không đổi mà tùy duyên.

Tất cả chúng sinh đều lợi ích“. Mục đính Phật thuyết pháp, là lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên chúng sinh đều đắc được thấm nhuần pháp vị, để lợi ích pháp thân huệ mạng.

Thường dùng sức từ bi thương xót“. Phật dùng tâm đại từ bi thương xót tất cả chúng sinh, không quên tất cả sự đau khổ của chúng sinh, luôn luôn cứu họ ra khỏi biển khổ.

Cứu họ thoát khỏi khổ tam đồ“. Dùng sức đại bi cứu họ ra khỏi khổ trong tam đồ (súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục). Tam đồ là nơi đáng sợ đáng hãi, chẳng an lạc, chẳng tự tại. Phật khiến cho họ đều lìa khổ được an lạc.

 

Nhất thiết chúng sanh chủng chủng biệt,   Tất cả chúng sinh đều khác biệt
Ư nhất mao đoan giai thị hiện,                      Trong một sợi lông đều thị hiện
Thần thông biến hóa mãn thế gian,              Thần thông biến hóa đầy thế gian
Sa kiệt như thị quán ư Phật.                           Sa Kiệt quán nơi Phật như vậy.

Tất cả chúng sinh đều khác biệt“. Tất cả chúng sinh gồm có : thai, noãn, thấp, hóa bốn sự sinh. Nghiệp báo của họ đủ thứ sự khác biệt. Có nghiệp báo nhiều sự khổ, có nghiệp báo nhiều sự vui. Có nghiệp báo không khổ không vui. Những thứ nghiệp báo nầy làm sao có ? Tức là do khởi cảm, tạo nghiệp, thọ báo. Khởi cảm là gì ? Tức là thấy cảnh giới bèn sinh nghi hoặc, không phân biệt rõ ràng là thiện hay ác. Tạo nghiệp là gì ? Vì bị mê hoặc, sáu căn thấy sáu trần bèn khởi tâm tham muốn mà đi tạo nghiệp. Thọ báo là gì ? Vì có định luật nhân trước quả sau, trồng nhân gì thì gặt quả đó. Có công đức thiện thì có quả báo vui. Có hành vi ác thì có quả khổ, đó là đạo lý tự nhiên, tơ hào chẳng sai.

Trong một sợi lông đều thị hiện“. Trong một sợi lông của Phật, đều hiện ra đủ thứ nghiệp báo của tất cả chúng sinh.

Thần thông biến hóa đầy thế gian“. Vì Phật có thần thông, cho nên hiện ra được đủ thứ cảnh giới. Một hiện nhiều, nhiều hiện một, lớn dung nhỏ, nhỏ dung lớn, hổ tương vô ngại, quán nhiếp viên dung. Sự thần thông diệu dụng nầy biến hóa vô cùng, đầy khắp tất cả cõi nước trong ba ngàn đại thiên thế giới.

Sa Kiệt quán nơi Phật như vậy“. Vị Sa Kiệt La Long Vương minh bạch được Phật có cảnh giới nầy, tam muội nầy.

 

Phật dĩ thần thông vô hạn lực,                  Phật dùng thần thông không hạn lượng
Quảng diễn danh hiệu đẳng chúng sanh,  Rộng nói danh hiệu đồng chúng sinh
Tùy kỳ sở Lạc phổ sử văn,                         Tùy sở thích khiến họ đều nghe
Như thị vân âm năng ngộ giải.                  Vân Âm Tràng Vương ngộ môn nầy.

Phật dùng thần thông vô hạn lượng“. Phật có sức thần thông không thể nghĩ bàn. Sức thần thông nầy chẳng có hạn lượng, có thể dời núi lấp biển, sáng tạo thế giới.

Rộng nói danh hiệu đồng chúng sinh“. Danh hiệu của Phật nhiều vô cùng. Ít nhất là vạn danh hiệu, sau bớt còn một ngàn, lại bớt xuống còn một trăm, cuối cùng còn mười danh hiệu. Do đó, chư Phật đều có mười danh hiệu nầy, nhưng nếu nói tỉ mỉ, thì danh hiệu của chư Phật đồng với chúng sinh. Những danh hiệu nầy là khiến cho chúng sinh giác ngộ, khi họ nghe được danh hiệu Phật thì bèn phát tâm bồ đề, trồng xuống căn lành.

Tùy sở thích khiến họ đều nghe“. Tùy thuận căn tính chúng sinh, nói pháp chúng sinh ưa muốn nghe. Khiến cho hết thảy tất cả chúng sinh, đều được cơ hội nghe Phật thuyết pháp.

Vân Âm Tràng Vương ngộ môn nầy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Vân Âm Tràng Long Vương ngộ được.

 

Vô lượng vô biên quốc độ chúng,              Vô lượng vô biên các cõi nước
Phật năng lệnh nhập nhất mao khổng,     Phật khiến vào được một lỗ lông
Như Lai an tọa bỉ hội trung,                     Như Lai ngồi yên trong hội đó
Thử diệm khẩu long chi sở kiến.               Diễm Khẩu Long Vương thấy môn nầy.

Vô lượng vô biên các cõi nước“. Chúng sinh trong cõi nước của chư Phật vô lượng vô biên, tư tuởng của chúng sinh, trong cõi nước của chư Phật cũng vô lượng vô biên, chúng sinh thành tựu cõi nước chư Phật cũng vô lượng vô biên.

Phật khiến vào được một lỗ lông“. Phật khiến cho tất cả những chúng sinh nầy, đều vào được trong một lỗ lông. Vì thần thông nhiếp trì của Phật, làm cho trí huệ ngấm vào trong chúng sinh.

Như Lai ngồi yên trong hội đó“. Phật dung nạp được vô lượng vô biên chúng sinh trong một lỗ lông, nhưng Phật vẫn an nhiên tự tại, ngồi trong cõi nước của chư Phật trong mười phương, không cần động đậy chỗ ngồi, mà đi đến được các cõi chư Phật trong mười phương để thuyết diệu pháp.

Diễm Khẩu Long Vương thấy môn nầy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Diễm Khẩu Long Vương thấy được, hiểu được. Cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, chẳng phải phàm phu hiểu thấu được.

 

Nhất thiết chúng sanh sân khuể tâm,     Tất cả chúng sinh tâm sân hận
Triền cái ngu si thâm nhược hải,              Ngu si ràng buộc sâu như biển
Như Lai từ mẫn giai diệt trừ,                    Như Lai thương xót đều diệt trừ
Diệm long quán thử năng minh kiến.      Diễm Nhãn quán thấy rõ môn nầy.

Tất cả chúng sinh tâm sân hận“. Tất cả chúng sinh trong thế giới, đều có tâm sân hận phẫn nộ. Tại sao ? Vì không thể nhẫn nại, không thể nhẫn nhục, cho nên thích nóng giận.

Ngu si trói che sâu như biển“. Có tâm sân hận phẫn nộ đó là trói che. Trói buộc che đậy quang minh tự tánh. Tức cũng là tự mình dùng dây thừng trói buộc mình, chính mình làm cho mình không tự do, như tằm làm kén tự trói mình ở trong đó.
Chúng sinh dùng tham sân si ba độc, trói chặt thân thể của mình. Tại sao bị ba độc trói chặt ? Vì ngu si, cho nên bị ba độc trói buộc, sâu tợ như biển lớn, chẳng có cơ hội giải thoát.

Như Lai thương xót đều diệt trừ” Phật dùng tâm từ bi thương xót, để cứu độ tất cả chúng sinh, làm cho tham sân si đều trừ sạch.

Diễm Nhãn quán thấy rõ môn nầy“. Vị Diễm Nhãn Long Vương thấy được, hiểu được cảnh giới nầy.
Tất cả chúng sinh nhìn thấu suốt được tham sân si, buông xả được thì đắc được tự tại. Nếu không nhìn thấu suốt được tham sân si, không buông xả được thì chẳng được tự tại. Chúng ta tu đạo phải nhận thức rõ ràng, ba độc là đá buộc chân sự tu hành, có tư tưởng tam độc là quãng đường vực thẳm gập gềnh nguy hiểm; nếu không có tư tưởng ba độc thì là con đường lớn bằng thẳng. Con đường lớn gì ? Con đường trí huệ chánh giác.

 

Nhất thiết chúng sanh phước đức lực,      Tất cả phước đức của chúng sinh
Phật mao khổng trung giai hiển hiện,       Ðều hiển hiện trong lỗ lông Phật
Hiện dĩ lệnh quy Đại phước hải,               Hiện rồi đồng vào biển đại phước
Thử cao vân tràng chi sở quán.                 Cao Vân Tràng Vương quán thấy được.

Tất cả phước đức của chúng sinh” Tất cả chúng sinh vừa có phước vừa có tội. Phước là từ công đức thiện mà có. Tội là từ làm việc ác quấy mà ra. Nếu làm công đức lành, thì có phước báu, hoặc sinh về cõi trời, cõi người, cõi A tu la, đó là lữ khách trong ba đường lành. Nếu làm lỗi quấy thì có ác báo, hoặc đọa địa ngục, làm ngạ quỷ, làm súc sinh, đó là lữ khách trong ba đường ác. Song, luân hồi trong sáu nẻo chẳng phải là chủ nhân.

Phước là từ công đức lành tích tụ mà có. Ðức cũng từ công đức lành tích tụ mà có. Phật thì đầy đủ phước và huệ, cho nên xưng là Lưỡng Túc Tôn. Phước là do tu, huệ là do nghe. Phước huệ song tu thì công đức mới viên mãn. Nếu tu phước không tu huệ, hoặc tu huệ không tu phước, đó là tu pháp không cân bình, công đức đắc được cũng không quân bình. Chẳng phải phước nhiều thì huệ nhiều, đó vẫn không viên mãn.

Phước đức tu nhiều rồi thì có một sức mạnh. Tu được nhiều rồi thì sức lực càng lớn. Tu được ít thì sức lực nhỏ. Không tu thì chẳng có. Bất cứ là sức mạnh của phước, hoặc sức mạnh của đức, đều cần phải tu mới có được.

Ðều hiển hiện trong lỗ lông Phật“. Ở trong một lỗ chân lông của Phật, tất cả phước đức của chúng sinh, trong tận cùng hư không khắp pháp giới, đều hoàn toàn hiển hiện ra.

Hiện rồi đồng vào biển đại phước“. Ở trong lỗ lông của Phật, hiện ra mười phương pháp giới chúng sinh, khiến cho họ đều quy vào biển đại phước.

Cao Vân Tràng Vương quán thấy được“. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Cao Vân Tràng Long Vương quán sát được, đắc được.

 

Phật thân mao khổng phát trí quang,       Lỗ lông thân Phật phát trí quang
Kỳ quang xứ xứ diễn Diệu-Âm,                 Quang nầy nơi nơi diễn diệu âm
Chúng sanh văn giả Trừ ưu úy,                Chúng sinh nghe được trừ lo sợ
Đức xoa ca long ngộ tư đạo.                      Ðức Xoa Ca ngộ được môn nầy.

Lỗ lông thân Phật phát trí quang“. Trong lỗ chân lông của Phật đều phát ra trí huệ quang thanh tịnh.

Quang này nơi nơi diễn diệu âm“. Ở trong trí huệ quang minh tạng của Phật chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Khắp mọi nơi đều bị trí quang của Phật chiếu, đều nghe được diệu pháp không thể nghĩ bàn.

Chúng sinh nghe được trừ lo sợ“. Chúng sinh nghe được diệu âm diệu pháp nầy, thì mọi sự lo âu sợ sệt đều trừ sạch.

Ðức Xoa Ca Ngộ được môn nầy“. Vị Ðức Xoa Ca Long Vương hiểu ngộ được đạo lý nầy, minh bạch được tam muội nầy.

 

Tam thế nhất thiết chư Như Lai,              Ba đời tất cả các Như Lai
Quốc độ trang nghiêm kiếp thứ đệ,           Cõi nước trang nghiêm kiếp thứ tự
Như thị giai ư Phật thân hiện,                   Như vậy đều hiện nơi thân Phật
Quảng bộ kiến thử thần thông lực.           Quảng Bộ thấy được thần thông nầy.

Ba đời tất cả các Như Lai” Ðời quá khứ có vô lượng vô biên chư Phật, đời hiện tại cũng có vô lượng vô biên chư Phật, đời vị lai cũng có vô lượng vô biên chư Phật.

Cõi nước trang nghiêm kiếp thứ tự“. Mỗi cõi nước của mỗi vị Phật, đều dùng các châu báu để trang nghiêm. Thế giới Ta Bà của chúng ta dùng : ngói, đá, đất, gỗ, để trang nghiêm. Phương đông thế giới Lưu Ly Quang dùng lưu ly để trang nghiêm. Tây phương thế giới Cực Lạc dùng bảy báu để trang nghiêm. Các đạo tràng đều dùng các thứ báu trang nghiêm. Mỗi vị Phật nào thành Phật, thì trên thế giới đó chánh pháp trụ thế, phải trải qua mấy đại kiếp, hoặc trải qua mấy tiểu kiếp, cái gì trước, cái gì sau, tát cả đều thứ tự tương tục, không rối loạn.

Như vậy đều hiện nơi thân Phật“. Cảnh giới như vậy, chẳng hiện ở nơi khác, mà chỉ hiện ra ở trong lỗ chân lông của Phật.

Quảng Bộ thấy được thần thông này“. Vị Quảng Bộ Long Vương, thấy được thần thông diệu dụng nầy của Phật, cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn.

 

Ngã quán Như Lai vãng tích hạnh,           Tôi quán hạnh xưa kia của Phật
Cúng dường nhất thiết chư Phật hải,        Cúng dường tất cả biển chư Phật
Ư bỉ hàm tăng thiện lạc tâm,                     Nơi đó đều tăng tâm vui thích
Thử tốc tật long chi sở nhập.                     Tốc Tật Long Vương vào môn nầy.

Tôi quán hạnh xưa kia của Phật“. Vị Thanh Tịnh Sắc Tốc Tật Long Vương nói :”Tôi quán sát hạnh môn của Phật tu hành trong quá khứ, là cúng dường chư Phật, tăng thêm tâm vui thích”.

Cúng dường tãt cả biển chư Phật“. Hạnh môn của Phật tu là : cúng dường chư Phật trong mười phương ba đời. Chư Phật nhiều như biển, cho nên gọi biển chư Phật.

Nơi đó đều tăng tâm vui thích“. Phật xưa kia cúng dường chư Phật, thì ở trước mỗi vị Phật đều tăng thêm tâm vui mừng ưa thích.

Tốc Tật Long Vương vào môn nầy“. Cảnh giới nầy vị Tốc Tật Long Vương chứng nhập minh bạch được.

 

Phật dĩ phương tiện tùy loại âm,               Phật dùng phương tiện tùy loại âm
Vì chúng thuyết Pháp lệnh hoan hỉ,          Vì họ nói pháp khiến vui mừng
Kỳ âm thanh nhã chúng sở duyệt,             Âm đó thanh nhã họ thích nghe
Phổ hành văn thử tâm hân ngộ.                Phổ Hành nghe rồi tâm khai ngộ.

Phật dùng phương tiện tùy loại âm“. Phật dùng pháp quyền xảo phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Vì thật thí quyền, vì Bồ Tát mà nói pháp đại thừa, vì Thanh Văn Duyên Giác mà nói pháp tiểu thừa, do đó :

“Phật dùng một âm diễn nói pháp,
Chúng sinh theo loài đều hiểu được”.

Ðó là Phật từ bi nói pháp, dùng pháp môn phương tiện.

Vì họ nói pháp khiến vui mừng“. Phật vì tất cả chúng sinh mà nói pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được pháp hỉ sung mãn, minh tâm kiến tánh.

Âm đó thanh nhã họ thích nghe“. Ðừng nói nghe đến ngôn ngữ của Phật, dù nghe đến âm thanh của Phật cũng khai ngộ. Âm thanh của Phật không những trong trẻo mà còn vang xa, không những hay đẹp mà còn tao nhã, đều khiến cho người nghe sinh tâm vui thích.

Phổ Hành nghe rồi tâm khai ngộ“. Vị Phổ Hành Ðại Âm Long Vương, nghe được diệu âm nầy trong tâm yên vui mà tỏ ngộ, vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.

 

Chúng sanh bức bách chư hữu trung,          Chúng sinh bức bách trong các cõi
Nghiệp hoặc phiêu chuyển vô nhân cứu,    Nghiệp hoặc trôi nổi không ai cứu
Phật dĩ đại bi lệnh giải thoát,                    Phật dùng đại bi khiến giải thoát
Vô nhiệt Đại long năng ngộ thử.               Vô Nhiệt Long Vương ngộ môn nầy.

Chúng sinh bức bách trong các cõi“. Các cõi tức là : cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới. Tất cả chúng sinh do duyên giả hòa hợp mà sinh, đều luân hồi trong tam giới, phiêu bạc lưu lãng chẳng khi nào dừng, cho nên bị các cõi bức bách.

Nghiệp hoặc trôi nổi không người cứu“. Chúng sinh thọ biển nghiệp, phiêu bạc trôi nổi ở trong tam giới, do đó : “ra bụng ngựa, vào thai lừa”. Tại sao ? Vì khởi cảm, tạo nghiệp, thọ báu. Ðó là định luật nhân quả tuần hoàn không thay đổi.
Khởi hoặc : Vì có ba thứ hoặc, mà đi tạo nghiệp :

  1. Kiến tư hoặc : Kiến hoặc là những kiến giải không chánh đáng, do đó “Thấy cảnh sinh ra tham ái”, người tham tiền tài thì thích tiền tài, tham sắc đẹp thì thích sắc đẹp, tham danh lợi thì thích danh lợi. Tư hoặc là những tâm tư phiền não, do đó “mê lý thì sinh phân biệt”, đối với lý không minh bạch, sinh ra tâm phân biệt.
  2. Trần sa hoặc : Không rõ sự lý, không biết trái phải tức là mê hoặc. Thứ mê hoặc nầy nhiều như vi trần hà sa, cho nên gọi là trần sa hoặc.
  3. Vô minh hoặc : Vì vô minh mới có mê hoặc, thứ mê hoặc nầy chướng ngại đạo lý chân thật, vô minh hoặc là hoặc căn bản.
    Tạo nghiệp : Vì không minh bạch đạo lý, cho nên đi sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Như vậy đã phạm giới sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượi rồi, thì đã tạo ba nghiệp thân, khẩu, ý, cũng tạo nghiệp mười điều ác.

Thọ báo : Tạo nghiệp sát sinh thì phải chịu quả báo sát sinh, tạo nghiệp trộm cắp thì phải chịu quả báu trộm cắp, tạo nghiệp tà dâm, nói dối, uống rượu thì phải chịu quả báu tà dâm, nói dối, uống rượu. Tóm lại, tạo nghiệp gì thì phải chịu quả báu đó, tơ hào không sai được.

Sự tạo nghiệp của mỗi người, trong một đời rất phức tạp nhiều như biển, cho nên bị sóng gió nghiệp, thổi đi thổi lại ở trong biển nghiệp, trôi bên đông dạt bên tây, khi thì làm ngạ quỷ, khi thì làm súc sinh, khi thì đọa địa ngục, chuyển đi chuyển lại ở trong tam đồ, lúc nầy chẳng có ai cứu ra khỏi biển nghiệp, cũng chẳng ai cứu vớt ra khỏi tam giới.

Phật dùng đại bi khiến giải thoát“. Chỉ có thuyền đại bi trí huệ của Phật, mới cứu vớt được chúng sinh ra khỏi biển nghiệp, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát.

Vô Nhiệt Long Vương ngộ môn nầy“. Vị Vô Nhiệt Não Long Vương, ngộ hiểu minh bạch được cảnh giới nầy.

 

Phục thứ, Tỳ sa môn dạ xoa Vương, đắc dĩ vô biên phương tiện cứu hộ ác chúng sanh giải thoát môn.

Lại nữa, Tì Sa Môn Dạ Xoa Vương được môn giải thoát, dùng vô biên phương tiện cứu hộ chúng sinh ác.

Giảng: Vị Tì Sa Môn Dạ Xoa Vương (Dạ Xoa dịch là khinh tiệp, hành động rất mau chóng, tính tình rất bạo ác). Vị nầy đắc được cảnh giới : quán sát tất cả căn tánh của chúng sinh, mà dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để cứu hộ. Nếu có chúng sinh ác, thì khiến cho họ cải ác hướng thiện, sửa lỗi sám hối. Âm thanh thuyết pháp của vị nầy, rất vi diệu khiến cho người nghe, đắc được tự tại, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

Dạ Xoa có ba thứ : Thiên hành, không hành và địa hành. Dạ Xoa và La Sát là quỷ dữ, quỷ La Sát nữ rất đẹp. Người nam mà định lực không đủ thì sẽ bị hại, làm thức ăn cho bọn chúng. Nay kể một câu chuyện để mượn làm gương.

Tại đông nam Ấn Ðộ có hòn đảo gọi là nước Sư Tử tức là Tích Lan, toàn quốc đều tin theo Phật giáo tiểu thừa. Xưa kia người ta thường gọi là Ðộ Quốc, có năm người đi buôn, tìm châu báu ở trong biển, thuyền bị hắc phong (gió đen) thổi đến nước quỷ La Sát. Nữ Vương của nước nầy, thấy một người buôn trong năm người nầy tên là Sư Tử, bèn muốn kết hôn với y, nhưng người buôn nầy có huệ căn, không bị nữ sắc mê hoặc, dưới sự an bài của Bồ Tát, mới trốn về bổn quốc (Nam Ấn Ðộ). Còn bốn người buôn kia đều kết hôn với nữ La Sát, vì tham sắc đẹp mà quên mất quê hương xứ sở, sau đó đều bị nữ La Sát ăn thịt.

Người buôn tên Sư Tử sau khi về nước, vị nữ La Sát nầy cũng đến. Y thị nói với quốc vương rằng người buôn tên Sư Tử bỏ y, xin quốc vương khiến cho người buôn tên Sư Tử trở lại sống với y thị. Vị quốc vương nầy cũng là đồ háo sắc, thấy La Sát nữ đẹp bèn động lòng dâm dục, do đó quyết định kết hôn với y thị. Người buôn tên Sư Tử khuyên can quốc vương rằng : “Người nữ nầy là quỷ, dung mạo đẹp mà tâm địa ác độc, chuyên ăn thịt người, đừng nên gần gũi y thị”! Nhưng quốc vương vì sắc đệp mê hoặc, không nghe lời khuyên can, bèn cử hành hôn lễ, tối đêm đó bị La Sát nữ ăn thịt.

Ngày thứ hai, quan đại thần biết quốc vương bị quỷ ăn thịt, bèn tôn người buôn tên Sư Tử lên làm vua, đem binh lính tiêu diệt nước quỷ La Sát, đổi tên là Sư Tử Quốc tức là Tích Lan ngày nay, ra lệnh cho toàn quốc đều tín ngưỡng Phật giáo, lấy Phật giáo làm quốc giáo tức là Phật giáo nam truyền, đó là câu chuyện cảnh tỉnh người tham sắc đẹp, đừng vì sắc đẹp mà mất mạng.

 

Tự tại âm dạ xoa Vương, đắc phổ quan sát chúng sanh phương tiện cứu hộ giải thoát môn.

Tự Tại Âm Dạ Xoa Vương, đắc được phương tiện cứu hộ quán sát khắp tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Tự Tại Dạ Xoa Vương có âm thanh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh đắc được giải thoát, và còn quán sát được căn tánh của tất cả chúng sinh. Căn tánh gì thì dùng pháp môn phương tiện đó để cứu hộ, khiến cho họ đắc được an lạc, đó là môn giải thoát của vị này đắc được.

 

Nghiêm trì khí trượng dạ xoa Vương, đắc năng tư ích nhất thiết thậm luy ác chúng sanh giải thoát môn.

Nghiêm Trì Khí Trượng Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, thường làm lợi ích cho tất cả chúng sinh gầy ác.

Giảng: Vị Nghiêm Trì khí Trượng Dạ Xoa Vương thường dùng vàng bạc hoặc vật chất, để cứu giúp những chúng sinh nghèo khổ, đó gọi là tài thí. Và còn dùng trí huệ và tri thức để bố thí cho chúng sinh, đó gọi là pháp thí. Và còn dùng sức lực hoặc tài năng, để tiêu trừ tất cả khốn khổ hoạn nạn của chúng sinh, đó gọi là vô úy thí. Vị nầy luôn luôn có ba thứ tâm bố thí nầy.
Vị Dạ Xoa Vương nầy cứu hộ những chúng sinh gầy ác. Gầy tức là gầy ốm. Những chúng sinh nầy vừa nghèo vừa ốm yếu, lại tạo nghiệp ác, cần người để giúp đỡ, cho nên vị nầy luôn luôn giúp đỡ những chúng sinh nầy, khiến cho họ cải ác hướng thiện, bỏ mê về giác. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Đại trí tuệ dạ xoa Vương, đắc xưng dương nhất thiết Thánh công đức hải giải thoát môn.

Ðại Trí Huệ Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, ca ngợi tán thán biển công đức của tất cả các bậc Thánh.

Giảng: Vị Ðại Trí Huệ Dạ Xoa Vương nầy có đại trí huệ, quản lý quỷ Dạ Xoa không giữ quy cụ. Những quỷ Dạ Xoa nầy, vì có chút thần thông nên luôn luôn làm những việc không hợp pháp, không nói dối thì cũng lường gạt người.

Vị Dạ Xoa Vương nầy thường hằng thuận chúng sinh, vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho họ đắc được an lạc, khiến cho họ khen ngợi tán thán biển công đức của tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh văn, tất cả những người tu hành, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Diệm nhãn chủ dạ xoa Vương, đắc phổ quan sát nhất thiết chúng sanh đại bi trí giải thoát môn.

Diệm Nhãn Chúa Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, đại bi trí quán sát khắp tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Diệm Nhãn Chúa Dạ Xoa quán sát khắp tất cả tâm chúng sinh, tất cả thân chúng sinh và tất cả tính của chúng sinh. Vì vị nầy dùng đại bi trí để quán sát, cho nên đắc được môn giải thoát nầy.

 

Kim cương nhãn dạ xoa Vương, đắc chủng chủng phương tiện lợi ích an lạc nhất thiết chúng sanh giải thoát môn.

Kim Cang Nhãn Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, đủ thứ phương tiện lợi ích an lạc tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Kim Cang Nhãn Dạ Xoa Vương nầy, mắt luôn luôn phóng ra quang minh kim cang, chiếu khắp tất cả chúng sinh, và còn dùng đủ thứ phương tiện pháp môn để lợi ích chúng sinh, để an lạc chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được lợi ích Phật pháp. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Dũng kiện tý dạ xoa Vương, đắc phổ nhập nhất thiết chư pháp nghĩa giải thoát môn.

Dũng Kiện Tí Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, vào khắp tất cả nghĩa của các pháp.

Giảng: Vị Dũng Kiện Tí Dạ Xoa Vương nầy, thân thể khỏe mạnh và dũng mãnh. Vị nầy minh bạch được nghĩa lý của các pháp và thâm nhập Kinh tạng, đắc được trí huệ như biển, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Dũng địch Đại quân dạ xoa Vương, đắc thủ hộ nhất thiết chúng sanh lệnh trụ ư đạo vô không quá giả giải thoát môn.

Dũng Ðịch Ðại Quân Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, giữ gìn bảo hộ tất cả chúng sinh, khiến cho họ đi trên con đường chân chánh.

Giảng: Vị Dũng Ðịch Ðại Quân Dạ Xoa Vương, rất dũng cảm vô cùng, một mình mà địch vạn quân. Cho nên vị nầy bảo vệ tất cả chúng sinh an toàn. Và còn khiến cho chúng sinh, có tư tưởng tà tri tà kiến, đều theo con đường chân chánh, suy nghĩ diệu pháp, luôn luôn đi trên con đường chân chánh, không lạc vào bàng môn tả đạo, để học những tà pháp hoang đường, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Phú tài dạ xoa Vương, đắc tăng trưởng nhất thiết chúng sanh phước đức tụ lệnh hằng thọ khoái lạc giải thoát môn.

Phú Tài Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, tăng trưởng tụ tập phước đức của tất cả chúng sinh, khiến cho họ luôn luôn thọ khoái lạc.

Giảng: Vị Phú Tài Dạ Xoa Vương nầy có tài sản rất phong phú. Tuy nhiên tài sản rất nhiều nhưng không keo kiệt, thường bố thí cứu giúp những chúng sinh, nghèo cùng khốn khổ không nơi nương tựa, không giống như một số người bỏn xẻn, không chịu cứu giúp, chẳng có tâm thương người. Phải biết tiền tài là vật ngoài thân, sinh ra không mang đến, chết đi cũng không mang theo được. Do đó :”Làm việc thiện là điều sung sướng nhất”. Bạn muốn làm một công trình từ thiện có ích cho xã hội, thì sự sung sướng trong tâm của bạn không cách chỉ nói ra được. Ðừng ngại hãy thử xem, giúp người là gốc sung sướng khoái lạc.

Vị Dạ Xoa Vương nầy, khiến cho chúng sinh đều đắc được sự tu tập phước đức, đều đắc được vô biên khoái lạc. Vị nầy chứng được môn giải thoát nầy.

Bây giờ kể một câu chuyện về một phú ông tiếc tài sản mà không tiếc phước. Khi Ðức Phật còn tại thế, tại thành Xá Vệ, có người giữ tiền tài tên là Lô Chí. Y không những keo kiệt với người ngoài, mà cũng keo kiệt với vợ con của mình. Một ngày nọ, y muốn chính mình hưởng thụ một phen, bèn đi mua hai cái bánh. Trong tâm nghĩ, không thể đem về nhà ăn, vì vợ con thấy được thì phải chia ăn. Do đó, bèn đi vào trong rừng ăn hết một mình. Chim trong rừng thấy người đến bèn bay đi, y cho rằng chim đến để chia bánh ăn, do đó đi đến bờ sông để ăn hết một mình. Thình lình chuộc bên bờ sông hoảng sợ bèn chạy tán loạn. Y lại cho rằng chuộc muốn đến chia ăn. Vì quá sợ người khác đến chia ăn, cho nên lập tức bỏ vào miệng nuốt. Ðó là biểu hiện của sự keo kiệt bỏn xẻn.

Lúc đó, Trời Ðế Thích thấy người nầy rất ngu si, sinh ra tâm thương xót tìm cách làm thay đổi tư tưởng của y, bèn hóa ra hình dạng giống như Lô Chí, bèn đến nhà Lô Chí, nói với vợ của Lô Chí :”Tôi trước kia rất keo kiệt với bà và các con, bây giờ tôi đã thức tỉnh. Người giàu có thì phải làm việc có ý nghĩa, nếu không tức là khinh khi tiền bạc. Chúng ta hôm nay phải ăn uống no say”. Ông Lô Chí thật sau khi nuốt hai cái bánh ở bờ sông rồi, rất đắc ý trở về nhà. Vào trong nhà thì thấy tình hình như vậy ! Hai ông Lô Chí thật và giả gây lộn, ai cũng nói mình đúng, không cách chi giải quyết được, mọi người cũng đều bó tay, không biết ai thật ai giả. Do đó, cùng nhau đi đến chốn Phật. Phật nói với Trời Ðế Thích :”Người nầy bỏn xẻn quá độ, không chịu làm việc công đức, không lâu sẽ đọa địa ngục, dù có khuyên can y như thế nào, y cũng không nghe sự giáo hóa, ngươi hà tất hao phí tâm cơ, y là người thành tính bỏn xẻn”. Phàm là thương tiết gia tài như mạng sống, một sợi lông cũng không giúp người, đều phải phản tỉnh, làm nhiều chút việc có ích cho xã hội, làm nhà đại từ thiện.

 

Lực hoại cao sơn dạ xoa Vương, đắc tùy thuận ức niệm xuất sanh Phật lực trí quang minh giải thoát môn.

Lực Hoại Cao Sơn Dạ Xoa Vương, được môn giải thoát, tùy thuận nghĩ nhớ, mà sinh ra sức trí huệ quang minh của Phật.

Giảng: Vị Lực Hoại Cao Sơn Dạ Xoa Vương, sức lực rất lớn có thể xô ngã núi, cũng nhờ sức gia bị của Phật. Vị nầy thường tùy thuận chúng sinh, nghĩ nhớ việc quá khứ, mà sinh ra sức trí huệ quang minh của Phật, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Nhĩ thời, đa văn đại dạ xoa Vương, thừa Phật uy lực phổ quán nhất thiết dạ xoa chúng hội nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Ða Văn Ðại Dạ Xoa Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng hội Dạ Xoa, mà nói ra bài kệ.

Giảng: Lúc đó, vị Ða Văn Ðại Dạ Xoa Vương (Dạ Xoa dưới sự cai quản của Ða Văn Thiên Vương ở hướng bắc), nương sức đại oai đức của chư Phật gia bị, quán sát khắp tất cả chúng Dạ Xoa mà nói kệ để tán thán công đức của Phật.

 

Chúng sanh tội ác thâm khả phố,             Tội ác chúng sinh sâu đáng sợ
Ư bách thiên kiếp bất kiến Phật,               Trong trăm ngàn kiếp không thấy Phật
Phiêu lưu sanh tử thọ chúng khổ,       Trôi nổi sinh tử thọ khổ nhiều
Vì cứu thị đẳng Phật hưng thế.                 Vì cứu chúng sinh Phật xuất thế.

Tội ác chúng sinh sâu đáng sợ“. Chúng sinh vì tạo nghiệp quá nhiều, cho nên chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng thấy Tăng. Bị trôi nổi trong biển sinh tử, thọ đủ thứ quả báo. Phật muốn cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ mới xuất hiện ra đời. Vì chúng sinh có vô minh nên khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo. Tội nghiệp của chúng sinh vừa nhiều vừa sâu rất đáng kinh, đáng sợ.

Trong trăm ngàn kiếp chẳng thấy Phật“. Vì sự quan hệ tội nghiệp của chúng sinh, quá nặng quá sâu cho nên không thấy được Phật, do đó :

“Thân người khó được,
Phật pháp khó nghe,
Thiện tri thức khó gặp”.

Bây giờ chúng ta rất may mắn, đều gặp được những việc mà trên thế gian khó gặp, cũng thấy Phật, cũng nghe Pháp, cũng thấy Tăng. Ðó là nhân lành sở cảm đã trồng trong quá khứ.

Trôi nổi sinh tử thọ khổ nhiều“. Chẳng thấy được Phật, chẳng nghe được pháp, chẳng gặp được Tăng, những chúng sinh nầy, đều trôi nổi trong biển sinh tử, lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi. Có lúc làm người trời, làm A tu la, làm người, cho đến đọa địa ngục, phải chịu đủ thứ khổ.

Vì cứu chúng sinh Phật xuất thế“. Vì cứu chúng sinh lìa khổ được vui, Phật mới xuất hiện ra đời.

 

Như Lai cứu hộ chư thế gian,                    Như Lai cứu hộ các thế gian
Tất Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh tiền,      Ðều hiện trước tất cả chúng sinh
Tức bỉ úy đồ luân chuyển khổ,                  Dứt trừ lo sợ khổ luân hồi
Như thị pháp môn âm chủ nhập.              Môn giải thoát nầy Âm Vương ngộ.

Như Lai cứu hộ các thế gian“. Phật xuất hiện ra đời là vì cứu hộ tất cả chúng sinh thế gian. Trong kinh Pháp Hoa có nói : Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất nhiện ra đời. Đại sự nhân duyên gì? Ðó là việc sinh tử.

Ðều hiện trước tất cả chúng sinh“. Phật như mặt trăng trong hư không. Bạn nhìn thấy mặt trăng ở trên đầu của bạn, tôi cũng nhìn thấy mặt trăng ở trên đầu của tôi. Bất cứ đi ngàn dặm, mặt trăng đều ở trên đầu của mình. Phật cũng như thế, cho nên nói Phật đều ở trước mặt tất cả chúng sinh.

Dứt trừ lo sợ khổ luân hồi“. Tại sao Phật phải hiện ra trước chúng sinh ? Vì muốn dứt trừ khổ trong sáu nẻo luân hồi. Tin Phật pháp, hiểu Phật pháp, hành Phật pháp, chứng Phật pháp; nếu thực hành được như thế thí chắc chắn sẽ ra khỏi tam giới, chứng được quả vị Niết Bàn.

Môn giải thoát nầy Âm Vương ngộ“. Môn giải thoát nầy vị Tự Tại Âm Dạ Xoa Vương minh bạch, hiểu ngộ được.

 

Chúng sanh ác nghiệp vì trọng chướng,   Ác nghiệp chúng sinh là chướng nặng
Phật thị diệu lý lệnh khai giải,                  Phật bày diệu lý khiến khai ngộ
Thí dĩ minh đăng chiếu thế gian,               Như dùng đèn sáng chiếu thế gian
Thử pháp nghiêm trượng năng quán kiến.       Nghiêm Trượng quán thấy pháp môn nầy.

Ác nghiệp chúng sinh là chướng nặng“. Tại sao chúng sinh không khai ngộ ? Tại sao không thành Phật ? Vì nghiệp chướng quá nặng quá sâu. Nghiệp chướng từ đâu đến ? Từ thân khẩu ý ba nghiệp. Thân có ba nghiệp ác, tức là : sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Miệng có bốn ác là : nói dối, thêu dệt, chưởi mắng, hai lưỡi. Ý có ba nghiệp ác là : tham sân si.

  1. Sát sinh : Tức là giết hại sinh mạng chúng sinh, tạo tội trong ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì mạng sống rất ngắn bị chết yểu.
  2. Trộm cắp : Không được sự đồng ý của người mà đi lấy vật của họ, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì luôn luôn bần cùng khốn khổ.
  3. Tà dâm : Tức là hành vi không chánh đáng ngoài vợ chồng, tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì con gái không trinh lương, vợ không có tiết hạnh.
  4. Nói dối : Tức là nói không thật, chuyện không nói có, chuyện có nói không, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì gặp người phỉ báng hoặc bị người lừa dối.
  5. Thêu dệt : Tức là lời dơ bẩn, nói về việc nam nữ không chánh đáng, khiến cho người khởi tưởng đâu đâu, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì lời nói không rõ hoặc bị câm.
  6. Chưởi mắng : Tức là chưởi mắng người, hoặc là dùng phương tiện khéo léo để chưởi người; khiến cho người không thể chưởi lại, tạo tội ba đường ác. Nếu được sinh làm người thì suốt đời gặp nhiều việc tranh tụng.
  7. Hai lưỡi : Tức là gặp người nầy nói xấu người kia, gặp người kia nói xấu người nọ, làm cho hai bên chia rẽ. Tạo nhân ba đường ác. Nếu được làm người thì quyến thuộc chống đối nhau.
  8. Tham : Tức là xan tham, tham không biết chán, càng tham càng tốt, tuyệt đối không bố thí, tuyệt đối không làm việc lợi ích cho người. Tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì tâm thường không biết đủ, được một tất muốn một thước.
  9. Sân : Tức là sân hận, phát nóng giận, xem tất cả mọi người đều chẳng đúng. Tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì thường bị người não hại.
  10. Si : Tức là ngu si, không rõ trái phải, lấy giả làm thật, thường làm những việc hồ đồ điên đảo, tạo tội ba đường ác. Nếu được làm người thì tâm siểm khúc không ngay thẳng.

Phật bày diệu lý khiến khai ngộ“. Vì chúng sinh có mười nghiệp ác, mà trôi nổi ở trong biển sinh tử, không đến được bờ bên kia. Phật lấy từ bi làm bổn hoài, phương tiện làm gốc, mà mở bày đạo lý diệu không thể tả. Diệu lý nầy là phương pháp đối trị tất cả nghiệp ác, khiến cho tất cả chúng sinh đều khai ngộ hiểu rõ.

Như dùng đèn sáng chiếu thế gian“. Phương pháp diệu lý nầy giống như đèn sáng, chiếu sáng những nơi tối tăm thành sáng sủa. Phật xuất hiện ra đời giống như mặt trời, chiếu sáng thế gian tối tăm.

Nghiêm Trượng Quán Thấy Pháp Môn Này“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Nghiêm Trì Khí Trượng Dạ Xoa Vương quán sát và minh bạch được.

 

Phật tích kiếp hải tu chư hạnh,                 Phật xưa biển kiếp tu các hạnh
Xưng tán thập phương nhất thiết Phật,    Tán thán tất cả Phật mười phương
Cố hữu cao viễn Đại danh văn,                 Cho nên danh vang dội cao xa
Thử trí tuệ Vương chi sở liễu.                   Trí Huệ Vương thấu rõ môn nầy.

Phật xưa biển kiếp tu các hạnh“. Ðức Phật trong vô lượng kiếp quá khứ, tu lục độ vạn hạnh. Trong lục độ, dùng bố thí độ tham lam, trì giới độ phạm giới, nhẫn nhục sân hận, tinh tấn độ giải đãi, thiền định độ tán loạn, Bát nhã độ ngu si. Vạn hạnh tức là tất cả hạnh lợi ích chúng sinh.

Tán thán tất cả Phật mười phương“. Trong quá khứ Phật tu các hạnh thì tán thán ca ngợi tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, dùng đủ thứ kệ để tán thán chư Phật, dùng đủ thứ bài ca để ca ngợi chư Phật.

Cho nên danh vang dội cao xa“. Vì Phật tán thán ca ngợi tất cả chư Phật mười phương, ca ngợi danh hiệu tất cả chư Phật trong mười phương, cho nên bổn danh Phật cũng vang danh cao Xa. Cao đến chư thiên đều nghe danh hiệu của Phật, xa đến tận hư không khắp pháp giới, đều nghe thấy danh hiệu của Phật.

Trí Huệ Vương thấu rõ môn này“. Cảnh giới nầy vị Ðại Trí Huệ Dạ Xoa Vương thấu rõ được.

 

Trí tuệ như không vô hữu biên,                Trí huệ như không chẳng bờ mé
Pháp thân quảng đại bất tư nghị,             Pháp thân rộng lớn không nghĩ bàn
Thị cố thập phương giai xuất hiện,           Cho nên xuất hiện khắp mười phương
Diệm mục ư thử năng quan sát.                Diễm Mục quán sát được môn nầy.

Trí huệ như không chẳng bờ mé“. Trí huệ có hình tướng gì ? Trí huệ chẳng có hình tướng, như hư không. Hư không chẳng có bờ mé, cho nên trí huệ cũng chẳng có bờ mé.

Pháp thân rộng lớn không nghĩ bàn“. Pháp thân của Phật rộng lớn vô biên, không thể nghĩ bàn, như hư không, không cách chi đo lường được hư không lớn cỡ nào.

Cho nên xuất hiện khắp mười phương“. Vì thân của Phật rộng lớn vô biên, cho nên trong mười phương thế giới đều có pháp thân của Phật xuất hiện. Pháp thân của Phật là vô tại vô bất tại.

Diễm Mục quán sát được môn này“. Vị Diễm Nhãn Dạ Xoa Vương quán sát thâm sâu được đạo lý nầy.

 

Nhất thiết thú trung diễn Diệu-Âm,          Trong tất cả loài diễn diệu âm
Thuyết Pháp lợi ích chư quần sanh,         Thuyết pháp lợi ích các quần sinh
Kỳ thanh sở kiêm chúng khổ diệt,             Nơi nào nghe được diệt các khổ
Nhập thử phương tiện Kim cương nhãn.   Kim Cang Nhãn vào phương tiện nầy.

Trong tất cả cõi diễn diệu âm“. Phật diễn nói pháp âm vi diệu trong sáu nẻo luân hồi. Tất cả chúng sinh nghe được diệu âm nầy thì đắc được lợi ích.

Thuyết pháp lợi ích các quần sinh“. Phật thì theo căn cơ mà thuyết pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích. Lợi ích gì ? Thoát khỏi khổ trong tam giới lục đạo, đắc được thường lạc ngã tịnh.

Nơi nào nghe được diệt các khổ“. Diệu âm thuyết pháp của Phật đến nơi nào, thì khổ của chúng sinh nơi đó đều tiêu diệt, tóm lại, nghe được âm thanh của Phật thì được độ.

Kim Cang Nhãn vào phương tiện này“. Vị Kim Cang Nhãn Dạ Xoa Vương, vào được phương tiện môn giải thoát nầy.

 

Nhất thiết thậm thâm quảng đại nghĩa,    Tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn
Như Lai nhất cú năng diễn thuyết,           Phật dùng một câu nói hết được
Như thị giáo lý đẳng thế gian,                   Giáo lý như vậy đồng thế gian
Dũng kiện tuệ Vương chi sở ngộ.              Dũng Kiện Huệ Vương ngộ môn nầy.

Tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn“. Pháp có nghĩa lý vô lượng vô biên, do đó “pháp vi diệu thâm sâu vô thượng”, pháp nầy chí cao vô thượng, càng không so sánh thì càng sâu, càng không so sánh thì càng vi diệu. “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được”, pháp nầy trải qua thời gian lâu dài mới gặp được, chớ không dễ gì gặp được. Giống như các nước tây phương, đã bao nhiêu năm mà chẳng có ai chân chánh nghe được Phật pháp, thấy được Phật, thấy được Tăng, bây giờ mới bắt đầu. Cho nên nói thời gian lâu dài không dễ gì gặp được. “Con nay thấy nghe được thọ trì”. Bây giờ con đã thấy được Phật pháp, nghe được Phật pháp, được thọ trì, thật là người may mắn !

Kiếp trước đã gieo trồng căn lành, đời nầy mới được thọ trì, chẳng phải là việc dễ dàng. Cho nên phải lễ kính Tam Bảo, phải cúng dường Tam Bảo. Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó nghe nay đã nghe. “Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai”. Phật nói Tam Tạng (kinh, luật, luận), mười hai bộ (trường hàng, trùng tụng, cô khởi, ví dụ, nhân duyên, tự thuyết, bổn sự, bổn sinh, vị tăng hữu, phương quảng, luận nghị, thọ ký.) Nghĩa lý nầy thật rộng lớn, vi diệu không thể tả. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý chân chánh thật tại của Như Lai.

Như Lai một câu nói hết được“. Trong một câu pháp, Phật nói hết được tất cả các pháp, và trong một câu pháp nói ra tất cả nghĩa thâm sâu rộng lớn. Ý nghĩa nầy là một làm vô lượng, vô lượng làm một, tức cũng là đạo lý một gốc tán làm vạn thù, vạn thù quy về một gốc.

Giáo lý như vậy đồng thế gian“. Ở trên đã nói về nghĩa thâm sâu rộng lớn, Phật một câu thì nói hết được. Giáo nghĩa nầy đầy khắp thế gian, cho nên giáo nghĩa Phật giáo là viên dung vô ngại. Không phân biệt chủng tộc, quốc tịch, tất cả mọi người đều là Phật giáo đồ. Bạn tin Phật cũng là Phật giáo đồ, bạn không tin Phật cũng là Phật giáo đồ. Tại sao ? Vì Phật giáo là tận hư không khắp pháp giới, mà tất cả chúng sinh đều đầy đủ Phật tánh, đều có thể thành Phật. Bây giờ bạn không tin Phật, thì tương lai sẽ tin Phật. Tương lai không tin Phật, thì đời sau nữa sẽ tin Phật. Không những chắc chắn tin Phật, mà còn có thể thành Phật. Pháp môn của Phật giáo là bao la vạn tượng, chẳng có một chúng sinh nào ở ngoài Phật giáo, cho nên nói giáo lý đồng thế gian.

Dũng Kiện Thệ Vương ngộ môn này“. Vị Dũng Kiện Huệ Dạ Xoa Vương, hiểu ngộ và minh bạch được đạo lý môn giải thoát nầy.

 

Nhất thiết chúng sanh trú tà đạo,             Tất cả chúng sinh theo tà đạo
Phật thị chánh đạo bất tư nghị,                 Phật bày chánh đạo không nghĩ bàn
Phổ sử thế gian thành Pháp khí,               Khiến khắp thế gian thành pháp khí
Thử dũng địch quân năng ngộ giải.          Dũng Ðịch Quân Vương chứng môn nầy.

Tất cả chúng sinh theo tà đạo“. Tất cả chúng sinh tức là : Thai, noãn, thấp, hóa mười hai loài. Tính tình chúng sinh rất kỳ quái. Nói pháp chánh đạo với họ, thì họ hoài nghi chẳng tin, nếu nói pháp tà đạo với họ, thì họ tin không hoài nghi. Vì pháp chánh đạo phải giữ giới luật, không thể sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, còn pháp tà đạo thì không giữ giới luật, có thể sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Cho nên chúng sinh đối với chánh đạo chẳng biết thật hoặc là giả mà khởi nghi hoặc, còn đối với tà đạo thì cho là thật, không nghi hoặc, cho nên đi theo tà đạo.

Phật bày chánh đạo không nghĩ bàn“. Phật muốn cứu chúng sinh không giữ quy cụ, tức là chỉ bày cảnh giới chánh đạo, khiến cho chúng sinh tu học. Cảnh giới chánh đạo là gì ? Tức là quy y Tam Bảo, Phát tâm bồ đề (trên cầu Phật đạo, dưới độ muôn loài), cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, khiến cho tội diệt phước sinh, nghiệp tịnh tình không, có diệu dụng như vậy.

Khiến khắp thế gian thành pháp khí“. Pháp khí tức là tài năng. Ngài Lục Tổ là thành tựu pháp khí. Hám Sơn Ðại Sư cũng là thành tựu pháp khí. Các ngài tu đắc được thân kim cang bất hoại, nhập diệt rồi mà nhục thể không rữa không thối, trở thành nhục thân Bồ Tát đó là pháp khí.

Ðức Phật khiến cho chúng sinh thế gian đều thành pháp khí, do đó “mượn cái giả tu cái thật”, túi da hôi thối nầy là căn phòng tạm thời, chúng ta ở trong căn phòng tu đạo. Ðó là mượn thân giả (sắc thân) tu chân thân (pháp thân). Ðừng xem căn phòng quá quan trọng, nhưng cũng đừng cố ý làm tổn hoại nó. Nếu có chút hư hỏng gì cũng phải sửa lại, nếu không thì chẳng có phòng để ở, không nơi để tu. Bây giờ người ở trong phòng đều có bệnh. Có bệnh gì ? Có bệnh tham, bệnh sân, bệnh si, bệnh đố kị, bệnh ích kỷ. Chúng ta phải mời bác sĩ đến chữa trị. Vì bác sĩ có thuốc hay, thuốc đến thì lành bệnh. Thuốc hay nầy tức là siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si. Cho nên Phật pháp là “vạn linh đan”.

Dũng Ðịch Quân Vương chứng môn nầy“. Vị Dũng Ðịch Ðại Quân Dạ Xoa Vương chứng đắc được, hiểu được pháp môn nầy.

 

Thế gian sở hữu chúng phước nghiệp,      Tất cả các phước nghiệp thế gian
Nhất thiết giai do Phật quang chiếu,        Hết thảy đều do Phật quang chiếu
Phật trí tuệ hải nan trắc lượng,         Biển trí của Phật khó dò được
Như thị phú tài chi giải thoát.                   Phước Tài đắc được giải thoát nầy.

Tất cả các phước nghiệp thế gian“. Phật là do làm các việc thiện mà thành tựu, do đó : “tích tụ các điều lành thì gặt hái quả báu tốt đẹp, tích tụ các điều ác thì gặt hái quả báu tai ương”. Ðó là đạo lý thiên kinh địa nghĩa, định luật vạn cổ không thay đổi. Chúng ta là người tu đạo, phải lấy “thọ khổ thì hết khổ, hưởng phước thì hết phước”, khắc vào tâm khảm..

Hết thảy đều do Phật quang chiếu“. Phật quang phổ chiếu tức là ban phước. Phước từ đâu đến ? Là do Phật gia bị mới có phước nghiệp như thế, cho nên nói hết thảy đều do Phật quang chiếu.

Biển trí của Phật khó dò được“. Trí huệ của Phật như biển cả. Biển thì rộng lớn vô biên, khó dò khó lường, không cách chi biết được nó lớn cỡ nào.

Phước Tài đắc được giải thoát này“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Phước Tài Dạ Xoa Vương đắc được.

 

Ức niệm vãng kiếp vô ương số,                  Nghĩ nhớ quá khứ vô biên kiếp
Phật ư thị trung tu thập lực,                      Phật thảy đều tu mười trí lực
Năng lệnh chư lực giai viên mãn,              Khiến các trí lực đều viên mãn
Thử cao tràng Vương sở liễu tri.               Cao Tràng Vương biết rõ môn nầy.

Nghĩ nhớ quá khứ vô số kiếp“. Hồi tưởng nhớ lại chư Phật tu hành trong quá khứ, đều trải qua vô số kiếp. Tuy trải qua thời gian lâu dài như thế, nhưng Phật rất dũng mãnh tinh tấn, chẳng có tơ hào giải đãi phóng dật, cho nên mới thành tựu ngày hôm nay.

Phật thảy đều tu mười trí lực“. Phật trong vô số kiếp đều tinh tấn tu mười thứ trí lực :

  1. Tri xứ phi xứ trí lực (trí lực biết xứ phi xứ).
    2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực (trí lực biết nghiệp báo ba đời).
    3. Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực (trí lực biết thiền giải thoát tam muội).
    4. Tri chư căn thắng liệt trí lực (trí lực biết cá căn thắng liệt).
    5. Tri chủng chủng giải trí lực.
    6. Tri chủng chủng giới trí lực.
    7. Tri nhất thiết chí sở đạo trí lực.
    8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực.
    9. Tri túc mạng vô lậu trí lực.
    10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.

Khiến các trí lực đều viên mãn“. Mười trí lực nầy viên mãn thành tựu tất cả sức lực.

Cao Tràng Vương biết rõ môn nầy“. Cảnh giới nầy vị Cao Tràng Dạ Xoa Vương hiểu biết rõ được.

 

Phục thứ, thiện tuệ Ma hầu la già Vương, đắc dĩ nhất thiết thần thông phương tiện lệnh chúng sanh tập công đức giải thoát môn.

Lại nữa, Thiện Huệ Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, dùng tất cả thần thông phương tiện, khiến cho chúng sinh tích tập công đức.

Giảng: Vị Thiện Huệ Ma Hầu La Già Vương (Ma Hầu La Già dịch là “đại phục hành”, tức là thần mãn xà, còn gọi là địa long, nhưng rồng chẳng có thần thông). Vị nầy đắc được cảnh giới : biết được Phật dùng thần thông phương tiện pháp môn, khiến cho chúng sinh tích tập công đức, từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn. Công đức tích tụ nhiều rồi, thì đắc được giải thoát. Ðó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

Thần thông có sáu thứ :
1. Thiên nhãn thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Túc mạng thông.
4. Tha tâm thông
5. Thần túc thông
6. Lậu tận thông.

Thần thông của Phật, thần thông của Bồ Tát, thần thông của A La Hán đều khác nhau. Ví như thần thông của A La Hán, chỉ quán sát được nhân quả trong tám vạn đại kiếp, mà không thể quán sát được nhân duyên ngoài tám vạn đại kiếp. Thần thông của Bồ Tát quán sát được nhân quả ngoài tám vạn đại kiếp, nhưng không quán sát được nhân duyên trăm vạn đại kiếp. Thần thông của Phật quán sát được nhân quả vô lượng đại kiếp.

 

Tịnh uy âm Ma hầu la già Vương, đắc sử nhất thiết chúng sanh trừ phiền não đắc thanh lương duyệt Lạc giải thoát môn.

Tịnh Oai Âm Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, khiến cho tất cả chúng sinh, diệt trừ phiền não, đắc được mát mẻ an vui.

Giảng: Vị Tịnh Oai Âm Ma Hầu La Già Vương, biết được cảnh giới của Phật, khiến cho tất cả chúng sinh giải nhiệt phiền não. Nhiệt phiền não là gì ? Tức là vọng tưởng phiền thân não tâm. Phiền não có phiền não lớn, phiền não vừa, phiền não nhỏ. Phiền não lớn có tám thứ, phiền não vừa có hai thứ, phiền não nhỏ có mười thứ. Vị Ma Hầu La Già Vương nầy, khiến cho tất cả chúng sinh, đều được mát mẻ an vui, tinh tấn nỗ lực tu hành, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Thắng tuệ trang nghiêm kế Ma hầu la già Vương, đắc phổ sử nhất thiết thiện bất thiện tư giác chúng sanh nhập thanh tịnh Pháp giải thoát môn.

Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, khiến khắp tất cả chúng sinh, suy nghĩ thiện hoặc bất thiện, đều vào pháp thanh tịnh.

Giảng: Vị Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế Ma Hầu La Già Vương, khiến khắp tất cả chúng sinh, suy nghĩ thiện và bất thiện, đều đắc được thanh tịnh. Những chúng sinh nầy minh bạch rất nhiều đạo lý; đạo lý thiện cũng minh bạch, đạo lý bất thiện cũng minh bạch. Nhưng loại chúng sinh nầy rất dễ đi lầm đường. Vì chính mình cảm thấy đã minh bạch. Thật ra họ chẳng minh bạch chân chánh, cho nên rất dễ lầm đường lạc lối. Vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh vào pháp thanh tịnh vô vi, đi trên con đường chân chánh, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Diệu mục chủ ma hầu La già Vương, đắc liễu đạt nhất thiết vô sở trước phước đức tự tại bình đẳng tướng giải thoát môn.

Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, thấu đạt tất cả chẳng chấp trước tướng phước đức, tự tại bình đẳng.

Giảng: Vị Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương thấy rõ thông đạt, đức Phật đối với tất cả cảnh giới chẳng có chỗ chấp trước, cũng chẳng chấp trước tất cả tướng, không rời tất cả tướng. Không chấp trước nơi phước đức, cũng chẳng chấp trước nơi tự tại, cũng chẳng chấp trước nơi bình đẳng, cho nên gọi là tất cả chẳng có chỗ chấp trước. Phật là ruộng phước của chúng sinh, Tăng cũng là ruộng phước của chúng sinh. Do đó:

“Rồng tuy không thể mưa xuống,
Nhưng cầu mưa phải nhờ rồng;
Phàm Tăng tuy không thể trồng phước,
Nhưng cầu phước phải nhờ Tăng”.

Người tu phước phải luôn luôn tiếc phước, thì phước không tổn giảm. Có phước đức thì được tự tại, có tự tại thì được bình đẳng, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Đăng tràng Ma hầu la già Vương, đắc khai thị nhất thiết chúng sanh lệnh ly hắc ám bố úy đạo giải thoát môn.

Ðăng Tràng Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho xa lìa con đường đen tối sợ hãi.

Giảng: Vị Ðăng Tràng Ma Hầu La Già Vương, thường hiện quang minh. Quang minh nầy từ trí huệ hiện ra, giống như đèn tràng, năm quang mười màu, sáng lạn chói mắt. Vị nầy đắc được cảnh giới của Phật, khai thị tất cả chúng sinh. Khai là khai Phật tri kiến, thị là thị Phật tri kiến, khiến cho chúng sinh ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến. Vị nầy khiến cho tất cả chúng sinh, rời khỏi con đường đen tối sợ hãi, tức cũng là ba đường ác, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Trong ba đường ác đầy dẫy đen tối và sợ hãi. Ðen tối là biểu thị chẳng có trí huệ. Một khi gặp được quang minh trí huệ đăng tràng, thì chẳng còn sợ hãi, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Tối thắng quang minh tràng ma hầu La già Vương, đắc liễu tri nhất thiết Phật công đức sanh hoan hỉ giải thoát môn.

Tối Thắng Quang Minh Tràng Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, biết rõ tất cả công đức của Phật sinh hoan hỉ.

Giảng: Vị Tối Thắng Quang Minh Tràng Ma Hầu La Già Vương, biết rõ tất cả công đức của Phật, là do vạn đức trang nghiêm mà thành Phật. Vị nầy hiểu được cảnh giới nầy, cũng khiến cho tất cả chúng sinh, đều minh bạch cảnh giới nầy, chúng sinh minh bạch rồi, thì cũng sinh tâm hoan hỉ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Sư tử ức Ma hầu la già Vương, đắc dũng mãnh lực vi nhất thiết chúng sanh cứu hộ chủ giải thoát môn.

Sư Tử Ức Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, sức dũng mãnh làm chủ cứu hộ tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Sư Tử Ức Ma Hầu La Già Vương. Ức tức là bộ ngực, vị nầy sức lực dũng mãnh nhất, được làm chủ nhân cứu hộ tất cả chúng sinh. Nếu có một chúng sinh nào không thành Phật, thì vị nầy thề không nghỉ ngơi. Bất cứ chúng sinh có tai nạn gì, vị nầy đều đi cứu hộ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Chúng diệu trang nghiêm âm Ma hầu la già Vương, đắc lệnh nhất thiết chúng sanh tùy ức niệm sanh vô biên thiện lạc giải thoát môn.

Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, khiến tất cả chúng sinh, tùy sự nghĩ nhớ mà sinh ra vô biên vui thích.

Giảng: Vị Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm Ma Hầu La Già Vương, âm thanh do chúng diệu trang nghiêm, cho nên âm thanh của vị nầy rất hay đẹp êm tai, khiến cho người nghe quên hết tất cả mọi ưu sầu phiền não. Tùy theo sự nghĩ nhớ của chúng sinh, mà khiến cho họ sinh ra vô biên vui thích, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Tu-Di ức Ma hầu la già Vương, đắc ư nhất thiết sở duyên quyết định bất động đáo bỉ ngạn mãn túc giải thoát môn.

Tu Di Ức Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, nơi tất cả sở duyên, quyết định không động và được đầy đủ đến bờ kia.

Giảng: Vị Tu Di Ức Ma Hầu La Già Vương đắc được cảnh giới : tất cả sở duyên, vị nầy quyết định không bị cảnh giới làm lay động, mà đạt đến bờ kia cứu kính làm mãn túc, đó là cảnh giới của vị nầy đắc được.

 

Khả ái Lạc quang minh ma hầu la già Vương, đắc vi nhất thiết bất bình đẳng chúng sanh khai thị bình đẳng đạo giải thoát môn.

Khả Ái Lạc Quang Minh Ma Hầu La Già Vương, được môn giải thoát, vì tất cả chúng sinh không bình đẳng, mà khai thị con đường bình đẳng.

Giảng: Vị Khả Ái Lạc Quang Minh Ma Hầu La Già Vương, được cảnh giới : vì tất cả chúng sinh không bình đẳng mà khai thị pháp bình đẳng. Ðạo lý cứu kính thành Phật là bình đẳng, chẳng khác biệt, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Nhĩ thời, thiện tuệ uy quang Ma hầu la già Vương, thừa Phật uy lực, phổ quán nhất thiết Ma hầu la già chúng nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Thiện Huệ Oai Quang Ma Hầu La Già Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ma Hầu La Già, mà nói ra bài kệ.

Giảng: Lúc đó, Vị Thiện Huệ Oai Quang Ma Hầu La Già Vương, nương đại oai thần lực gia bị của chư Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ma Hầu La Già mà nói kệ, để tán thán công đức của Phật.

 

Nhữ quán Như Lai tánh thanh tịnh,         Ông quán Như Lai tánh thanh tịnh
Phổ hiện uy quang lợi quần phẩm,           Oai quang hiện khắp lợi quần sanh
Thị cam lồ đạo sử thanh lương,                Khai thị cam lồ khiến mát mẻ
Chúng khổ vĩnh diệt vô sở y.                     Các khổ diệt hẳn không chỗ nương.

Ông quán Như Lai tánh thanh tịnh“. Thiện Huệ Oai Quang Vương nói với quyến thuộc Ma Hầu La Già rằng :”Các vị hãy xem Phật tánh là thanh tịnh, không nhiễm ô, thanh tịnh như hư không”.

Oai quang hiện khắp lợi quần sanh“. Phật từ bi phóng ra quang minh đại oai đùc, khiến cho chúng sinh nhờ quang minh của Phật chiếu sáng, mà đắc được lợi ích. Sự lợi ích nầy có thể khai mở trí huệ.

Khai thị cam lồ khiến thanh lương“. Vị nầy khai thị chúng sinh đều đắc được vị cam lồ thơm ngon. Chúng sinh đói khác mà được cam lồ, thì lập tức no đủ. Chúng sinh tội nghiệp nặng mà được cam lồ, thì tội nghiệp tiêu trừ. Dù chúng sinh ở trong địa ngục, nếu được cam lồ thì chảo dầu than hồng cũng biến thành hồ sen, bất cứ việc gì không như ý nếu được cam lồ thì đều mát mẻ.

Các khổ vĩnh diệt không chỗ nương“. Bất cứ có bao nhiêu nghiệp khổ, nếu đắc được oai quang của Phật chiếu sáng, thì tất cả nghiệp khổ đều tiêu diệt. Vì nghiệp chướng tiêu diệt rồi, cho nên tất cả sự khổ cũng chẳng còn. Khổ là do nghiệp chướng mà đến. Có nghiệp chướng khổ thì có chỗ nương tựa, không có nghiệp chướng khổ, thì chẳng có chỗ nương tựa.

 

Nhất thiết chúng sanh cư hữu hải,            Tất cả chúng sinh trong biển cõi
Chư ác nghiệp hoặc tự triền phước,          Các ác nghiệp hoặc tự ràng buộc
Thị bỉ sở hạnh tịch tĩnh pháp,                   Bày họ thực hành pháp tịch tĩnh
Ly trần uy âm năng thiện liễu.                  Tịnh Oai Âm Vương thấu môn nầy.

Tất cả chúng sinh trong biển cõi“. Chúng sinh trong tam giới ở trong biển lớn hai mươi lăm cõi, tức cũng là ba cõi. Ba cõi là gì ? Vì chúng sinh trong ba cõi đều có nghiệp nhân quả báo, cho nên gọi là ba cõi.

Các ác nghiệp hoặc tự che đậy“. Chúng sinh ở trong tam giới hai mươi lăm cõi, các nghiệp ác đều khác nhau. Dục giới thì có nghiệp của dục giới, sắc giới thì có nghiệp của sắc giới, vô sắc giới thì có nghiệp của vô sắc giới. Do các ác mà tạo ra các nghiệp, có các nghiệp rồi thì mê hoặc càng sâu. Nghiệp hoặc giống như xiềng xích trói người, không được giải thoát, lại còn che đậy chúng sinh ở trong biển nghiệp, cho nên không thấy quang minh; không thấy quang minh thì sinh ngu si; ngu si thì chẳng có trí huệ; chẳng có trí huệ thì làm việc điên đảo mê hoặc.

Chúng sinh tạo các nghiệp ác, nhất định phải sám hối mới tiêu diệt được. Do đó:
“Tội lỗi tày trời, sám hối tiêu sạch”.

Song, nghiệp ác của chúng sinh quá sâu, còn không biết sinh tâm sám hối. Người xưa nói :”
Tội từ tâm khởi đem tâm sám,
Nếu tâm diệt thì tội cũng mất,
Tâm mất tội diệt cả hai đều không,
Ðó mới gọi là thật sám hối”.

Nghĩa là, chỉ cần chí thành khẩn thiết sám hối, thì tội nghiệp đã tạo ra chắc chắn sẽ tiêu diệt. Nhưng chẳng phải nói, hôm nay sám hối ở trước đức Phật, ngày mai lại tái phạm nữa. Không chân chánh sửa đổi lỗi lầm, thì không những chẳng có ích gì, mà còn có tội thêm, vì biết mà cố phạm thì tội sẽ gia tăng.

Bày họ thực hành pháp tịch tĩnh“. Khai thị chỉ bày chúng sinh có nghiệp ác, dạy họ pháp tịch tĩnh của Phật tu hành, thì chẳng còn phiền não, bỏ nghiệp ác mà lựa nghiệp thiện.

Tịnh Oai Âm Vương thấu môn nầy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Tịnh Oai Âm Ma Hầu La Già Vương hiểu biết rõ.

 

Phật trí vô đẳng phả tư nghị,                    Trí Phật như biển không nghĩ bàn
Tri chúng sanh tâm vô bất tận,                 Biết tâm chúng sinh vô bất tận
Vì bỉ xiển minh thanh tịnh Pháp,              Vì họ xiển minh pháp thanh tịnh
Như thị nghiêm kế tâm năng ngộ.             Thắng Huệ Nghiêm Kế ngộ môn nầy.

Trí Phật như biển không nghĩ bàn“. Trí huệ của Phật như biển cả, rộng lớn vô biên, không thể đo lường, không thể nghĩ bàn, cho nên chẳng có gì mà không biết, chẳng chỗ nào mà không thấy.

Biết tâm chúng sinh vô bất tận“. Vì nguyên nhân nầy, cho nên tâm của chúng sinh Phật đều biết đều thấy. Chúng sinh khởi vọng tưởng gì Phật đều hiểu biết rõ ràng.

Vì họ xiển minh pháp thanh tịnh“. Vì tâm của chúng sinh, bị danh lợi trói che mà sinh ra vô minh. Phật vì giáo hóa độ cho họ lìa khổ được an vui, mà nói pháp thanh tịnh cho họ nghe. Dạy họ thế nào tu giới, định, huệ ba học vô lậu, làm thế nào dứt trừ tham, sân, si ba độc.

Thắng Huệ Nghiêm Kế ngộ môn nầy“. Pháp môn nầy vị Thắng Huệ Trang Nghiêm Kế Ma Hầu La Già Vương hiểu ngộ được.

 

Vô lượng chư Phật hiện thế gian,              Vô lượng chư Phật hiện thế gian
Phổ vì chúng sanh tác phước điền,           Vì khắp chúng sinh làm ruộng phước
Phước hải quảng đại thâm nan trắc,        Biển phước rộng lớn sâu khó dò
Diệu mục Đại Vương năng tất kiến.          Diệu Mục Ðại Vương thấy môn nầy.

Vô lượng chư Phật hiện thế gian“. Có mười phương ba đời vô lượng Phật, do đó :”đồng với số chúng sinh”, có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu đức Phật, đó là chủ trương của Phật giáo. Vì ai ai cũng có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Chỉ cần tu hành thì có cơ hội thành Phật. Giống như một số người, đều có tư cách làm tổng thống hoặc chủ tịch, nhưng phải có đủ điều kiện, có học thức phong phú, có khả năng làm việc, có tinh thần phục vụ, có thân thể cường tráng, thì sẽ có cơ hội làm tổng thống hoặc chủ tịch.

Khắp vì chúng sinh làm ruộng phước“. Vô lượng vô biên tất cả chư Phật, xuất hiện khắp trong thế gian, để vì chúng sinh làm ruộng phước, khiến cho tất cả chúng sinh, đều có cơ hội trồng phước. Cúng dường Tam Bảo, có công đùc không thể nghĩ bàn, nhưng phải làm đừng có xí đồ mới có công đức lớn, dùng tâm thanh tịnh cúng dường một trái cây hoặc một cành hoa, thì công đức không thể tính đếm được.

Biển phước rộng lớn sâu khó dò“. Dùng tâm kiền thành không mong cầu, để cúng dường Tam Bảo, thì biển phước tích tập vừa rộng vừa sâu, không cách chi đo lường được. Công đức càng nhiều thì biển phước càng sâu. Chư Phật đều ở trong ba A tăng kỳ tu phước huệ, cúng dường tất cả chư Phật. Khi phước huệ đầy đủ thì mới thành tựu.

Diệu Mục Ðaị Vương thấy môn nầy“. Cảnh giới nầy, vị Diệu Mục Chúa Ma Hầu La Già Vương hoàn toàn thấy được.

 

Nhất thiết chúng sanh ưu úy khổ,             Tất cả chúng sinh lo sợ khổ
Phật phổ hiện tiền nhi cứu hộ,                  Phật hiện ra trước để cứu hộ
Pháp giới hư không mị bất châu,         Khắp hết thảy pháp giới hư không
Thử thị đăng tràng sở hạnh cảnh.             Môn giải thoát nầy Ðăng Tràng chứng.

Tất cả chúng sinh lo sợ khổ“. Tất cả chúng sinh lo âu mà sợ haỉ đó là quả khổ. Vì tham vui nhất thời mà trồng xuống nhân ác, thì chắt chắn không thể tránh khỏi quả báo khổ. Bồ tát thì sợ nhân không sợ quả, lúc trồng nhân thì đặc biệt rất cẩn thận, không khởi chút vọng niệm nào, nhưng khi thọ quả báo khổ thì tâm vẫn an nhiên tiếp thọ, chẳng oán trời trách người, tất cả đều là nhân quả, chẳng sai lầm.

Phật hiện ra trước để cứu hộ“. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều hiện ra trước tất cả chúng sinh, để cứu hộ chúng sinh giữa đường. Vì vô minh tác quái, che lấp tâm thanh tịnh, mất đi trí tuệ, bỏ con đường chân chánh, mà đi trên con đường nhỏ hẹp nguy hiểm. Phật thương xót những chúng sinh nầy, cho nên nương thuyền từ bi đến thế giới nầy, để cứu hộ chúng sinh ra khỏi biển khổ.

Khắp hết thảy pháp giới hư không“. Pháp thân của Phật là khắp tất cả mọi nơi, cho nên nói tận hư không biến pháp giới khắp hết thảy. Phàm là chỗ nào có chúng sinh, bất cứ là chúng sinh cang cường hoặc là chúng sinh khó điều phục, đều cứu hộ khiến cho họ lìa khổ được an lạc.

Môn giải thoát nầy Ðăng Tràng chứng“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Ðăng Tràng Ma Hầu La Già Vương chứng đắc được.

 

Phật nhất mao khổng chư công đức,         Công đức nơi một lỗ lông Phật
Thế gian cọng độ bất năng liễu,                Thế gian đo lường không biết được
Vô biên vô tận đồng hư không,                 Vô lượng vô biên đồng hư không
Như thị quảng đại quang tràng kiến.        Quảng Ðại Quang Tràng thấy như vậy

Công đức nơi một lỗ lông Phật“. Trong một lỗ chân lông của đức Phật có vô lượng vô biên công đức. Những công đức nầy từ đâu đến ? Khi Phật tại nhân địa phát tâm bồ đề, thì luôn luôn làm việc có ích lợi cho chúng sinh. Vì có ích lợi cho chúng sinh, cho nên mới thành tựu công đức.

Tu công đức như thế nào ? Trước hết phải ủng hộ Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, cung kính Tam Bảo. Tam Bảo tức là ruộng phước của chúng sinh. Làm công đức tức là trồng vào ruộng phước. Phàm là Phật giáo đồ đều phải hết sức mình để làm công đức, đến khi công đức viên mãn, thì chắc chắn sẽ đắc được phước báu.

Khi Phật tại nhân địa thì gần gũi Tam Bảo, quy y Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo, phàm là công đức lớn nhỏ Ngài cũng đều làm. Cho nên trong một lỗ chân lông của Phật đầy đủ các công đức. Vì trong một lỗ chân lông của Phật, dung nạp được vô lượng chúng sinh, tận hư không khắp pháp giới, và ở trong lỗ chân lông chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh.

Thế gian đo lường không biết được“. Tất cả chúng sinh thế gian, cùng chung lại để nghiên cứu vấn đề nầy, cũng không lường được đức Phật có bao nhiêu công đức, cũng chẳng cách chi hiểu biết được cứu kính có bao nhiêu ?

Vô biên vô tận đồng hư không” Công đức của Phật chỉ có thể nói là vô biên cô tận. Ví như sự rộng lớn của hư không, không cách chi hình dung được. Cổ đức có nói :

“Tâm niệm hạt bụi đếm biết được,
Nước trong biển lớn uống hết được,
Hư không lường được gió buộc được,
Không thể nói hết công đức của Phật”.

Ðó là sự thuyết minh thích hợp nhất.

Quảng Ðại Quang Tràng thấy như vậy“. Công đức như vậy chỉ có vị Quảng Ðại Quang Tràng Ma Hầu La Già Vương thấy được cảnh giới nầy.

 

Như Lai thông đạt nhất thiết pháp,          Như Lai thông đạt tất cả pháp
Ư bỉ pháp tánh giai minh chiếu,                Nơi pháp tánh kia đều chiếu rõ
Như-Tu-Di-Sơn bất khuynh động,            Như núi Tu Di không lay động
Nhập thử pháp môn sư tử ức.                    Sư Tử Ức Vương vào môn nầy.

Như Lai thông đạt tất cả pháp“. Phật muốn lợi ích chúng sinh, muốn cứu hộ chúng sinh, cho nên Ngài tu đủ thứ công đức. Mỗi mỗi công đức viên mãn rồi, thì vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển, mới thông đạt được tất cả các pháp, mới hiểu được tất cả các pháp.

Nơi pháp tánh kia đều chiếu rõ“. Ở trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp tính trong mỗi môn đều thấu triệt thông đạt vô ngại, đều hiểu biết vô ngại. Tóm lại, tức là trí huệ quang minh chiếu sáng thật tướng của các pháp.

Như núi Tu Di chẳng lay động“. Pháp tánh giống như núi Diệu Cao, không lay động, bốn vị Thiên Vương ở giữa núi Tu Di (dịch là Diệu Cao), trên đỉnh núi là trời Ðao Lợi. Phật dùng sức dũng mãnh tinh tấn, để cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên gọi là chúa cứu hộ tất cả chúng sinh. Pháp tánh của Phật có định lực như núi Tu Di.

Sư Tử Ức Vương vào môn nầy“. Vị Sư Tử Ức Vương minh bạch được, chứng nhập được pháp môn giải thoát nầy.

 

Phật ư vãng tích quảng đại kiếp,              Phật trong quá khứ kiếp xa xưa
Tập hoan hỉ hải thâm vô tận,                    Tập biển hoan hỉ sâu vô tận
Thị cố kiến giả mị bất hân,                         Nên ai thấy được đều vui mừng
Thử pháp nghiêm âm chi sở nhập.          Pháp nầy Nghiêm Âm chứng nhập được.

Phật trong quá khứ kiếp xa xưa“. Khi đùc Phật ở trong vô lượng vô biên đại kiếp xa xưa, chưa từng sinh một chút phiền não.

Tập biển hoan hỉ sâu vô tận“. Phật ở trong vô lượng kiếp tích tập hoan hỉ, sâu rộng không bờ bến như biển cả. Khi Phật ở taị nhân điạ thì, bất cứ thấy ai cũng đều sinh tâm hoan hỉ. Ngài phát tâm độ tất cả chúng sinh.

Nên ai thấy được đều vui mừng“. Vì quan hệ như vậy, cho nên chúng sinh thấy được Phật thì chẳng có một chúng sinh nào mà chẳng sinh tâm hoan hỉ.

Pháp nầy Nghiêm Âm chứng nhập được“. Môn giải thoát nầy vị Chúng Diệu Trang Nghiêm Âm Ma Hầu La Già Vương chứng nhập được.

 

Liễu tri Pháp giới vô hình tướng,              Biết rõ pháp giới không hình tướng
Ba-la-mật hải tất viên mãn,                       Biển Ba la mật đều viên mãn
Đại quang phổ cứu chư chúng sanh,        Ðại quang cứu khắp các chúng sinh
Sơn ức năng tri thử phương tiện.             Sơn Ức biết được phương tiện nầy.

Biết rõ pháp giới không hình tướng“. Thấy biết rõ pháp giới chẳng có hình tướng. Pháp Giới tức là chân tâm của chúng sinh. Chân tâm thì khắp cùng pháp giới, pháp giới cũng chẳng lìa khỏi chân tâm của chúng ta. Cho nên mới nói :”

“Nếu ai muốn biết rõ,
Tất cả Phật ba đời.
Hãy quán tánh pháp giới,
Tất cả do tâm tạo”.

Giống như làm văn, trước hết phải nhận thức rõ ràng chủ đề. Chân tâm thì chẳng có hình tướng, là tận hư không khắp pháp giới, do đó :”Mười pháp giới không lìa một tâm niệm”. Pháp giới là do pháp hóa mà thành giới. Phật pháp giới có vô lượng chư Phật, là do Phật pháp mà hóa thành. Bồ Tát pháp giới, Duyên Giác pháp giới, Thanh Văn pháp giới .v.v., đều do đủ thứ pháp mà hóa thành, cho nên gọi là pháp giới. Nếu phân ra mà nói thì có mười pháp giới, nói chung lại thì một pháp giới, tức cũng là một niệm chân tâm.

Biển Ba La Mật đều viên mãn“. Biết được pháp giới là vô tướng, thì thông đạt bổn thể, là như như bất động, rõ ràng sáng suốt, là minh bạch tự tánh bổn thể.

Tất cả biển Ba la mật gồm có sáu Ba la mật, mười Ba la mật, trăm Ba la mật, ngàn Ba la mật, vạn Ba la mật, cũng có thể nói có tám vạn bốn ngàn Ba la mật. Nếu minh bạch được pháp giới là vô tướng, thì tấ cả Ba La Mật đều viên mãn đầy đủ.

Ðại quang cứu khắp các chúng sinh“. Ðại quang tức là đại quang minh tạng. Ðại quang chiếu khắp tất cả chúng sinh, cứu hộ tất cả chúng sinh. Chúng simh nào được đại quang minh tạng chiếu đến, thì chúng sinh đó được cứu, được hết khổ. Ðại quang là từ trí huệ quang tu được. Trí huệ quang nầy là vô lượng vô biên, chẳng có chỗ nào mà không chiếu đến, chiếu khắp pháp giới, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng.

Sơn Ức biết được phương tiện nầy“. Vị Tu Di Ức Ma Hầu La Già Vương biết được pháp môn phương tiện nầy.

 

Nhữ quán Như Lai tự tại lực,                       Ông quán Như Lai sức tự tại
Thập phương hàng hiện võng bất quân,   Mười phương hóa hiện thảy đồng đều
Nhất thiết chúng sanh hàm chiếu ngộ,      Chúng sinh được chiếu đều khai ngộ
Thử diệu quang minh năng thiện nhập.    Diệu Quang Minh Vương thâm nhập được.

Ông quán Như Lai sức tự tại“. Bạn hãy xem sức tự tại của Phật, diệu không thể tả. Sức tự tại tức là sức thần thông. Sức thần thông của Phật là không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.

Mười phương hóa hiện thảy đồng đều“. Phật hóa hiện pháp thân trong mười phương pháp giới, chẳng có chỗ nào mà không có. Cho nên tất cả chúng sinh đắc được lợi ích cũng khác nhau. Người đại căn thì được thấm nhuần lớn, người tiểu căn thì được sự thấm nhuần ít.

Chúng sinh được chiếu đều khai ngộ“. Chúng sinh được đaị quang minh tạng của Phật chiếu đến, thì đều khai ngộ, đắc được trí huệ giải thoát.

Diệu Quang Minh Vương thâm nhập được“. Cảnh giới nầy vị Khả Ái Lạc Quang Minh Ma Hầu La Già Vương thâm nhập được, thấy rõ quang minh của Phật chiếu sáng chúng sinh, thì tội nghiệp của chúng sinh đều tiêu diệt.

 

Phục thứ, thiện tuệ quang minh Thiên khẩn-na-la Vương, đắc phổ sanh nhất thiết thiện lạc nghiệp giải thoát môn.

Lại nữa, Thiện Huệ Quang Minh Thiên Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, sinh khắp tất cả nghiệp vui thích.

Giảng: Tiếp theo kinh văn ở trên. Vị Thiện Huệ Quang Minh Thiên Khẩn Na La Vương ( Khẩn Na La dịch là Nghi thần, thần nầy khéo ca ngâm pháp âm trang nghiêm khiến cho người nghe sinh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng), khiến cho khắp tất cả chúng sinh, sinh ra nghiệp hoan hỉ khoái lạc, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Hương khí tràng khẩn-na-la Vương, đắc năng sanh vô thượng pháp hỉ lệnh nhất thiết thọ an lạc giải thoát môn.

Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, sinh vô thượng pháp hỉ, khiến cho tất cả chúng sinh được an lạc.

Giảng: Vị Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương, minh bạch cảnh giới của Phật, khiến cho tất cả chúng sinh sinh ra vô thượng pháp hỉ. Nghe Kinh tâm vui mừng, dù không ăn cơm cũng không cảm thấy đói, cho nên nói : pháp hỉ sung mãn. Cảnh giới pháp hỉ tức là phấn khởi quên ăn, vui vẻ quên mất lo âu. Vị nầy đắc được pháp hỉ, cũng khiến cho chúng sinh đắc được pháp hỉ an lạc. Tư tưởng nầy là tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Tóm lại, mình vui sướng cũng khiến cho người khác vui sướng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Chủng chủng trang nghiêm khẩn na La Vương, đắc nhất thiết công đức mãn túc quảng đại thanh tịnh tín giải tạng giải thoát môn.

Chủng Chủng Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, đầy đủ tất cả công đức tín giải tạng thanh tịnh rộng lớn.

Giảng: Vị Chủng Chủng Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, đầy đủ đủ thứ sự trang nghiêm. Sự trang nghiêm nầy, biểu thị sự tốt đẹp, thù thắng, đặc biệt để trang nghiêm cõi Phật. Vì tu đủ thứ phước, mới có đủ thứ công đức. Có công đúc rồi, thì tất cả công đức đều đầy đủ viên mãn, vừa rộng lớn vừa thanh tịnh, do đó sinh ra tạng tin hiểu thanh tịnh. Vị nầy đặc được môn giải thoát nầy.
Thanh tịnh tức là không phát cuồng, phát cuồng thì không thanh tịnh. Thanh tịnh tức cũng chẳng có tư tưởng ô nhiễm, tâm đối với cảnh giới mà chẳng chấp trước cảnh giới, tức là :

“Mắt thấy hình sắc trong tâm chẳng có,
Tai nghe âm thanh tâm chẳng biết”.

Tạng tin hiểu : Trước hết giải thích chữ tin. Tin làm tăng trưởng rừng công đức. Do đó :
“Tin là gốc đạo, mẹ công đức,
Dưỡng lớn tất cả các pháp lành”.

Nhứt xiển đề dịch là “niềm tin không đủ”, là người không tin Phật Pháp. Song, họ vẫn có Phật tánh nhưng tạm thời không thể thành Phật. Vì họ không tin nhân quả. Hiểu là hiểu rõ, hiểu rõ nghĩa chân thật của Kinh điển. Tin hiểu tụ tập nhiều thì thành tạng. Ví như Tam Tạng : Tạng Kinh, Tạng Luật, Tạng luận.

Ðạo lý Kinh Hoa Nghiêm, phân làm bốn giai đoạn, tức là : Tin, hiểu, hành, chứng. Trước hết phải tin, nhất định phải sinh ra tâm tin. Có tâm tin rồi, mới hứng thú với Phật Pháp. Thứ hai là phải hiểu, phải nghiên cứu giáo lý, hiểu rõ giáo lý. Thứ ba là phải hành, hiểu rồi thì phải theo pháp mà tu hành. Nếu không, chỉ tin Phật Pháp, hiểu rõ Phật Pháp, mà không tu thì chẳng ích gì. Thứ tư là phải chứng, tu hành mới có chứng quả, chứng quả mới giải thoát, giải thoát khỏi sự trói buộc nghiệp chướng mê hoặc, thoát khỏi đau khổ trong ba cõi.

 

Duyệt ý hống thanh khẩn-na-la Vương, đắc hằng xuất nhất thiết duyệt ý thanh lệnh văn giả ly ưu bố giải thoát môn.

Duyệt Ý Hống Thanh Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, luôn luôn phát ra tất cả âm thanh rất êm tai, khiến cho người nghe lìa lo sợ.

Giảng: Vị Duyệt Ý Hống Thanh Khẩn Na La Vương, thường khiến cho tâm của bạn sinh hoan hỉ. Tiếng hống của vị nầy rất êm tai, khiến cho người nghe sinh vui mừng. Vị nầy luôn luôn phát ra âm thanh chúng sinh thích nghe, khiến cho người nghe được tiếng hống nầy, đều lìa khỏi tất cả sự lo âu sợ hãi, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Bảo thụ quang minh khẩn-na-la Vương, đắc đại bi an lập nhất thiết chúng sanh lệnh giác ngộ sở duyên giải thoát môn.

Bảo Thụ Quang Minh Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, đại bi an lập tất cả chúng sinh, khiến cho họ giác ngộ nhân duyên.

Giảng: Vị Bảo Thụ Quang Minh Khẩn Na La Vương, minh bạch được Phật khiến cho tất cả chúng sinh nghe pháp, mà khai ngộ, hiểu rõ giác ngộ nguồn gốc nhân duyên, mà tự tánh của tất cả chúng sinh là thanh tịnh, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Phổ Lạc kiến khẩn-na-la Vương, đắc thị Hiện-Nhất-Thiết diệu sắc thân giải thoát môn.

Phổ Lạc Kiến Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, thị hiện tất cả sắc thân tốt đẹp.

Giảng: Vị Phổ Lạc Kiến Khẩn Na La Vương, minh bạch được, Phật thị hiện tất cả sắc thân tốt đẹp, để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, đắc được tâm thanh tịnh, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Tối thắng quang trang nghiêm khẩn-na-la Vương, đắc liễu tri nhất thiết thù thắng trang nghiêm quả sở tùng sanh nghiệp giải thoát môn.

Tối Thắng Quang Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, biết rõ tất cả quả thù thắng trang nghiêm từ nghiệp sinh ra.

Giảng: Vị Tối Thắng Quang Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, minh bạch tất cả Phật quả thù thắng trang nghiêm, do từ nghiệp sinh ra mà thành tựu, đó là môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Vi diệu hoa tràng khẩn na La Vương, đắc thiện quan sát nhất thiết thế gian nghiệp sở sanh báo giải thoát môn.

Vi Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, khéo quán sát tất cả nghiệp quả báo ứng của thế gian.

Giảng: Vị Vi Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương, đắc được cảnh giới khéo quán sát tất cả nghiệp quả báo ứng của thế gian. Chúng sinh trồng nhân gì thì kết qủa đó. Trồng nhân thiện thì kết quả thiện, trồng nhân ác thì kết qủa ác. Tóm lại, kết quả thiện thì thọ báo ứng thiện, kết qủa ác thì thọ báo ứng ác, đó là đạo lý về luật nhân qủa.

Chúng sinh trong chín pháp giới, Bồ Tát tu pháp lục độ vạn hạnh cho nên làm Bồ Tát. Duyên Giác tu pháp mười hai Nhân Duyên cho nên làm Duyên Giác. Thanh văn tu pháp bốn Thánh Ðế cho nên làm Thanh Văn. Do đó, nhân gì thì kết quả đó. Nếu bạn làm công đức lành, thì sinh về ba đường lành. Nếu bạn tạo tội ác, thì đoạ vào ba đường ác. Sở sinh báo tức là sở thọ quả báo. Do đó:

“Trồng dưa được dưa,
Trồng đậu được đậu”.

Vị nầy đắc được môn giải thoát nầy.

 

Động địa lực khẩn-na-la Vương, đắc hằng khởi nhất thiết lợi ích chúng sanh sự giải thoát môn.

Ðộng Ðịa Lực Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, luôn luôn khởi tất cả việc lợi ích cho chúng sinh.

Giảng: Vị Ðộng Ðịa Lực Khẩn Na La Vương, có sức lực chấn động đại địa, Vị nầy có thể khiến cho đất chấn động. Vị nầy có sức lực lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều được an lạc và hoan hỉ, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Uy mãnh chủ khẩn-na-la Vương, đắc thiện tri nhất thiết khẩn-na-la tâm xảo nhiếp ngự giải thoát môn.

Oai Mãnh Chúa Khẩn Na La Vương, được môn giải thoát, biết rõ và khéo nhiếp phục tâm của tất cả Khẩn Na La.

Giảng: Vị Oai Mãnh Chúa Khẩn Na La Vương, rất oai đức và dũng mãnh, cho nên làm Khẩn Na La Vương. Vị nầy khéo biết tâm tư của Khẩn Na La. Nếu những vị Khẩn Na La, không giữ quy cụ, thì vị nầy dùng phương tiện khéo léo để quản lý, khiến cho chúng giữ quy cụ, an phận giữ mình. Giáo hóa chúng sinh có hai môn : triết và nhiếp. Triết tức là pháp triết phục, điều trị hàng phục những chúng sinh cang cường. Nhiếp tức là pháp nhiếp thọ, nhiếp tất cả chúng sinh vào trong Phật pháp. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Nhĩ thời, thiện tuệ quang minh Thiên khẩn-na-la Vương, thừa Phật uy lực, phổ quán nhất thiết khẩn-na-la chúng nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Thiện Huệ Quang Minh Thiên Khẩn Na La Vương, nương oai lực của Ðức Phật, quán khắp tất cả chúng Khẩn Na La mà nói ra bài kệ.

Giảng: Lúc đó, Vị Thiện Huệ Quang Minh Thiên Khẩn Na La Vương, nương oai lực gia bị của chư Phật, quán sát tất cả chúng Khẩn Na La mà nói kệ rằng.

 

Thế gian sở hữu an lạc sự,                         Tất cả sự an lạc thế gian
Nhất thiết giai do kiến Phật hưng,            Ðều do thấy được Phật ra đời
Đạo sư lợi ích chư chúng sanh,                 Ðạo sư lợi ích các quần sinh
Phổ tác cứu hộ quy y xứ.                            Khắp làm nơi cứu hộ nương tựa.

Tất cả sự an lạc thế gian“. Chúng sinh hữu tình thế gian, có sự vui sướng và khổ não. Bây giờ là nói tất cả việc an lạc. Làm thế nào có được sự an lạc ? Vì gần gũi Tam Bảo, quy y Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, cung kính Tam Bảo.

Ðều do thấy được Phật ra đời“. Chúng sinh không những được bình an và còn vui sướng. Sự an lạc nầy, là do thấy Phật, nghe Pháp, thấy Tăng mà có.

Ðạo sư lợi ích các quần sinh“. Phật luôn luôn lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được diệu dụng. Diệu dụng gì ? tức là lìa sự khổ thế gian, được an vui xuất thế gian.

Khắp làm nơi cứu hộ nương tựa“. Phật cứu hộ khắp tất cả chúng sinh. Chúng sinh có tai nạn gì, Ngài đều không sợ khổ mà đi cứu hộ, cho nên Phật là nơi nương tựa chân chánh của tất cả chúng sinh.

 

Xuất sanh nhất thiết chư thiện lạc,           Sinh ra tất cả sự vui thích
Thế gian hàm đắc vô hữu tận,                   Thế gian đều được vô cùng tận
Năng lệnh kiến giả bất đường quyên,       Khiến người thấy được chẳng luống uổng
Thử thị hoa tràng chi sở ngộ.                    Ðây là sở ngộ của Hoa Tràng.

Sinh ra tất cả sự vui thích“. Phật khiến cho chúng sinh, đắc được pháp hỷ sung mãn, nghe được Phật Pháp mà sinh tâm hoan hỉ vui sướng.

Thế gian đều được vô cùng tận“. Sự pháp hỉ nầy, tất cả chúng sinh thế gian đều đắc được. Sự pháp hỉ nầy giống như nước chảy, chẳng hết được.

Khiến người thấy được chẳng luống uổng“. Phật khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được Phật đều có công đức, không thể nào thấy được Phật mà chẳng có ích gì. Tóm lại, ai thấy được Phật thì người đó đắc được pháp ích. Ai đắc được pháp ích, thì người đó y pháp tu hành, ai y pháp tu hành thì người đó chứng được Phật quả.

Ðây là sở ngộ của Hoa Tràng“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Diệu Hoa Tràng Khẩn Na La Vương minh bạch được.

 

Phật công đức hải vô hữu tận,                   Biển công đức Phật không cùng tận
Cầu kỳ biên tế bất khả đắc,                       Muốn tìm bờ mé không thể được
Quang minh phổ chiếu ư thập phương,    Quang minh chiếu khắp trong mười phương
Thử Trang nghiêm Vương chi giải thoát.          Giải thoát nầy của Trang Nghiêm Vương.

“Biển công đức Phật không cùng tận”. Công đức của Phật như biển cả, vô lượng vô biên chẳng cùng tận. Không cần nói hết công đức toàn bộ thân của Phật, mà công đức một lỗ chân lông của Phật cũng vô cùng vô tận. Do đó :”

Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỉ,
Nhất thiết sở hữu ngã tận kiến,
Nhất thiết vô hữu như Phật giả”.

Nghĩa là :
Trên trời nhân gian không ai bằng Phật
Mười phương thế giới cũng chẳng sánh
Tất cả hết thảy Phật đều thấy
Tất cả chẳng ai như đức Phật.

Ðó là nói sự bất khả tư nghì của Phật

Muốn tìm bờ mé không thể đựơc”. Vì công đức của Phật quá lớn, cho nên muốn tìm bờ mé không thể nào được. Vì cảnh giới của Phật cao sâu khó dò, so với núi Tu- Di còn cao hơn, so với biển Hương-Thủy còn sâu hơn, cho nên tìm không được bờ mé.

Quang minh chiếu khắp trong mười phương“. Quang Minh của Phật chiếu sáng khắp mười phương thế giới. Tất cả chúng sinh trong mười phương, đắc được quang minh của Phật gia bị, đều bỏ mê về giác, cải tà quy chánh.

Giải thoát nầy của Trang Nghiêm Vương“. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Chủng Chủng Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương đắc được.

 

Như Lai Đại âm thường diễn sướng,        Âm thanh Như Lai thường diễn xướng
Khai thị ly ưu chân thật Pháp,                  Khai thị pháp chân thật lìa khổ
Chúng sanh văn giả hàm hân duyệt,         Chúng sinh nghe được đều vui mừng
Như thị hống thanh năng tín thọ.              Như vậy Hống Thanh tin thọ được.

Âm thanh Như Lai thường diễn xướng“. Phật dùng âm thanh rộng lớn để thuyết pháp, âm thanh nầy liên tục không ngừng, luôn luôn đang nói pháp. Trí Giả Ðại Sư tụng kinh Pháp Hoa liên tục, thì đắc được Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh Sơn vẫn còn đó, Phật Thích Ca còn đang thuyết pháp tại đó.

Ðó là chứng minh Phật pháp, có thể đem quá khứ vô lượng kiếp dời đến hiện taị, cũng có thể đem vị lai vô lượng kiếp dời đến hiện taị. Do đó, quá khứ chẳng quá khứ, vị lai chẳng vị lai, tức hiện tại cũng thế, không thể đắc được. Cho nên nói : tâm quá khứ không thể được, tâm hiện taị không thể được, tâm vị lai không thể được. Diễn xướng tức là muốn nói pháp thì nói, muốn nói đạo lý thì nói, tuôn chảy như nước, chảy mãi không ngừng.

Khai thị pháp chân thật lìa khổ“. Khai thị tất cả chúng sinh, dạy họ làm thế nào lìa khỏi lo sầu khổ não, làm thế nào lìa khổ được vui. Phật khai thị tất cả chúng sinh phải tu giới, định, huệ. Có giới định huệ rồi, thì chẳng còn lo âu, chẳng còn quái ngại. Pháp chân thật, tức là pháp môn giới định huệ, do đó :”Siêng tu giới đinh huệ, diệt trừ tham sân si”, Câu nầy tuy nhiên tôi thường nói, song, người làm được chẳng bao nhiêu.

Chúng sinh nghe được đều vui mừng“. Chúng sinh nghe được pháp chân thật của Phật nói, đều sinh tâm vui mừng, do đó, đều đại hoan hỉ tín thọ phụng hành, như thế Phật Pháp mới lưu thông.

Như vậy Hống Thanh tin thọ được“. Pháp chân thật như vậy, Vị Duyệt Ý Hống Thanh Khẩn Na La Vương, tin thọ được môn giải thoát nầy.

 

Ngã quán Như Lai tự tại lực,                    Tôi quán sức tự tại của phật
Giai do vãng tích sở tu hành,                    Ðều do quá khứ đã tu hành
Đại bi cứu vật lệnh thanh tịnh,                 Ðại bi cứu độ khiến thanh tịnh
Thử bảo thụ Vương năng ngộ nhập.         Bảo Thụ Quang Vương ngộ vào được.

Tôi quán sức tự taị của Phật“. Vị Bảo Thụ Quang Minh Khẩn Na La Vương nói :”Tôi quán sát Như Lai đắc được thần lực tự tại nầy, chẳng phải dễ dàng, nếu không trải qua một phen tu khổ hạnh”.

Ðều do quá khứ đã tu hành“. Ðức Phật thành tựu là do quá khứ đã tu hành. Nếu không tu hành, thì chẳng có sức thần thông tự tại như thế.

Ðại bi cứu độ khiến thanh tịnh“. Ðức Phật đầy đủ tâm đại bi, cứu độ tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều trở về cội nguồn, cải tà theo chánh.

Bảo Thụ Quang Vương ngộ nhập được“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Bảo Thụ Quang Minh Khẩn Na La Vương, minh bạch chứng nhập được.

 

Như Lai nan khả đắc kiến văn,              Khó thấy nghe được đức Như Lai
Chúng sanh ức kiếp thời nãi ngộ,         Chúng sinh ức kiếp mới được gặp
Chúng tướng vi nghiêm tất cụ túc,      Các tướng trang nghiêm đều đầy đủ
Thử Lạc kiến Vương chi sở đổ.               Cảnh giới nầy Lạc Kiến Vương thấy.

Khó thấy nghe được đức Như Lai“. Chẳng dễ gì thấy được Phật, không biết phải trải qua bao nhiêu đại kiếp, mới gặp được Phật, nghe được Pháp, thấy được Tăng. Pháp thân của Phật tuy nhiên khắp mọi nơi, song, chúng sinh không đắc được năm nhãn (Phật nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn, thiên nhãn, và nhục nhãn) thì không thể thấy được pháp thân của Phật. Sắc thân của Phật, cũng chẳng dễ gì thấy được. Dù danh hiệu của Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng không dễ gì nghe được. Cho nên nói khó thấy nghe được đức Như Lai.

Chúng sinh ức kiếp mới được gặp“. Nếu chúng sinh có duyên với Phật, cũng phải trải qua ức kiếp mới gặp được, song, cũng chẳng dễ. Muốn thấy Phật, thì phải tu hành. Pháp môn tham thiền là khai mở năm nhãn.

Các tướng trang nghiêm đều đầy đủ“. Các tướng tức là : ba mươi hai tướng tám mươi vẽ đẹp, mỗi tướng đều đầy đủ trang nghiêm. Chúng sinh thấy được các tướng sắc thân tốt đẹp của Phật, vừa viên mãn vừa trang nghiêm.

Cảnh giới nầy Lạc Kiến Vương thấy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Phổ Lạc Kiến Khẩn Na La Vương thấy, hiểu rõ được.

 

Nhữ quán Như Lai đại trí tuệ,                  Ông quán trí huệ của Như Lai
Phổ ưng quần sanh tâm sở dục,                Ứng khắp sở thích của quần sinh
Nhất thiết trí đạo mị bất tuyên,                Tất cả trí đạo đều nói hết
Tối thắng trang nghiêm thử năng liễu.     Tối Thắng Trang Nghiêm rõ môn nầy.

Ông Quán Trí huệ của Như Lai“. Tối Thắng Quang Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, nói : “Bạn hãy Quán sát đại trí huệ của Phật như biển cả, không thể đo lường, không thể nghĩ bàn”.

Ứng khắp sở thích của quần Sinh“. Trong tâm của chúng sinh nghĩ gì, cầu gì ? Phật đều làm cho họ được đầy đủ. Dục vọng nầy chẳng phải là năm dục (tài, sắc, danh, ăn ngủ), mà là trí huệ dục.

Tất cả trí đạo đều nói hết“. Hết thảy tất cả đạo lý, đều khiến cho chúng sinh sinh ra trí huệ, chẳng có gì mà không nói. Nói gì? Nói đạo lý thật tướng của các pháp. Tướng chân thật là vĩnh viễn không biến đổi. Tướng năm uẩn hòa hợp là hư vọng không thật. Trong kinh Kim Cang nói : “Phàm cái gì có hình tướng đều là giả dối”.

Tối Thắng Trang Nghiêm rõ môn nầy“. Vị Tối Thắng Quang Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương, hiểu rõ môn giải thoát nầy.

 

Nghiệp hải quảng đại bất tư nghị,             Biển nghiệp rộng lớn không nghĩ bàn
Chúng sanh khổ Lạc giai tùng khởi,         Chúng sinh khổ vui do tạo nghiệp
Như thị nhất thiết năng khai thị,              Phật vì tất cả mà khai thị
Thử hoa tràng Vương sở liễu tri.              Hoa Tràng Vương biết rõ môn nầy.

Biển nghiệp rộng lớn không nghĩ bàn“. Nghiệp tức là những gì tạo ra bởi : thân, miệng và ý ba nghiệp. Nguyên nhân tạo nghiệp là do hoặc mà khởi, thấy cảnh thì sinh tham ái. Nghiệp gồm có thiện nghiệp và ác nghiệp. Làm nghiệp thiện thì được quả vui, làm nghiệp ác thì được quả khổ. Nghiệp thiện tức là duyên tịnh, nghiệp ác tức là duyên nhiễm. Nghiệp là như bóng theo hình, luôn luôn theo bạn mà không tách rời. Nghiệp thiện cũng theo bạn, nghiệp ác cũng theo bạn, luôn luôn không lìa bạn. Ví như bạn tạo nghiệp sát sinh, thì tương lai quả báo bị người giết lại, thọ tội khổ ở trong địa ngục trên thì núi đao, dưới thì chảo dầu. Phạm nghiệp trộm cắp, thì ở trong địa ngục bị chặt đứt hai tay. Phạm nghiệp dâm dục, thì bị nướng ở trong địa ngục, thứ hình cụ nầy là ống đồng tròn, bên trong lửa nung đến khi ống đồng đỏ rực thì kẻ phạm nghiệp dâm ôm lấy, đó là những kẻ thích đàn bà hoặc những kẻ thích đàn ông. Trong khoảnh khắc thì nướng cháy đen như than. Phạm nghiệp nói dối thì chịu khổ trong đia ngục bạt thiệt ngục tốt kéo lưỡi người tội ra, đến đời sau thì bị câm. Phạm nghiệp uống rượu, thì bị tống vào trong ao rượu, dùng lửa rượu thiêu thân. Ở trên là cảnh giới tạo nghiệp thọ báo, cho nên nói biển nghiệp rộng lớn không nghĩ bàn.

Chúng sinh khổ vui do tạo nghiệp“. Chúng sinh hưởng thụ sung sướng, hoặc chịu đau khổ đều do tạo nghiệp mà sinh ra. Chấp trước tướng là tạo nghiệp, không chấp trước tướng là giải thoát. Ðạo lý nầy rất đơn giản dễ hiểu, nhưng trí huệ của phàm phu bị vô minh che lấp trong sự mê hoặc. Phàm là việc gì, hoặc là pháp gì, mà chúng ta làm đều là tạo nghiệp, còn các bậc Thánh làm là giải thoát. Vì chúng ta khởi tâm vọng đi làm, là có tâm mà làm. Các bậc Thánh dùng một phiến tâm thanh tịnh đi làm, chẳng có tâm vọng mà làm.

Phật vì tất cả mà khai thị“. Về vấn đề nầy, cho nên Phật khai thị chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh, đều hiểu rõ nhân qủa. Có nhân trước rồi có quả sau. Nhân quả tuần hoàn báo ứng, không sai mảy may.

Hoa Tràng Vương biết rõ môn nầy“. Ðạo lý nầy vị Hoa Tràng Khẩn Na La Vương biết và hiểu rõ.

 

Chư Phật thần thông Vô gián hiết,           Thần thông chư Phật không dừng nghỉ
Thập phương Đại địa hằng chấn động,    Mười phương đại địa thường chấn động
Nhất thiết chúng sanh mạc năng tri,         Tất cả chúng sinh chẳng biết được
Thử quảng đại lực hằng minh kiến.          Quảng Ðại Lực thấy rõ môn nầy.

Thần thông chư Phật không dừng nghỉ“. Mười phương chư Phật có đại oai đức thần thông lực, chuyển đại pháp luân trong cõi nước mười phương, giáo hóa chúng sinh. Chư Phật dùng đủ thứ trí huệ, khiến cho chúng sinh đắc được sự giác ngộ, nhưng Phật vĩnh viễn chẳng khi nào nghỉ ngơi, đó là tinh thần đại từ đại bi.

Mười phương đại địa thường chấn động“. Mười phương đại địa thường thường chấn động, có lúc chư Phật hiển hiện thần thông, khiến cho chúng sinh giác ngộ, biết ba cõi là khổ, ra khỏi ba cõi là vui. Pháp thế gian là : vô thường, khổ, không, vô ngã. Pháp xuất thế gian là : thường, lạc, ngã, tịnh. Có lúc ma hiển hiện thần thông mà phóng quang, khiến cho chúng sinh mê hoặc điên đảo, mê trong sinh tử, lìa đạo Bồ Ðề.

Tất cả chúng sinh chẳng biết được“. Cảnh giới nầy, đạo lý nầy, tất cả chúng sinh không thể biết được. Tuy nhiên chư Phật luôn luôn lợi ích chúng sinh, nhưng chúng sinh không nhận thức được tâm từ bi của chư Phật.

Quảng Ðại Lực thấy rõ môn nầy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Quảng Ðại Lực Khẩn Na La Vương hiểu biết được.

 

Xứ ư chúng hội hiện thần thông,               Phật trong chúng hội hiện thần thông
Phóng đại quang minh lệnh giác ngộ,       Phóng đại quang minh khiến giác ngộ
Hiển thị nhất thiết Như Lai cảnh,             Hiển bày tất cả cảnh Như Lai
Thử uy mãnh chủ năng quan sát.              Oai Mãnh Chúa Vương quán sát được.

Phật trong chúng hội hiện thần thông“. Cõi nước chư Phật trong mười phương, đều có Phật đang chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Tất cả hải hội chúng sinh đều đang nghe pháp ở trong đó, Phật ở trong pháp hội hiện ra đủ thứ thần thông khiến cho chúng sinh tự giác tự ngộ.

Phóng đại quang minh khiến giác ngộ“. Phật phóng quang minh trí huệ Bát Nhã, chiếu soi tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được đại trí huệ quang minh, và chánh tri chánh kiến, khiến cho họ đều được giác ngộ.

Hiển thị tất cả cảnh Như Lai“. Phật dùng đủ thứ thần thông, hiển hiện ra cảnh giới của Phật. Cảnh giới của Phật như hư không, khó đo lường được.

Oai Mãnh Chúa Vương quán sát được“. Cảnh giới nầy vị Oai Mãnh Chúa Khẩn Na La Vương quán sát được, hiểu được.

 

Phục thứ, Đại tốc tật lực Ca Lâu La Vương, đắc Vô Trước vô ngại nhãn phổ quan sát chúng sanh giới giải thoát môn.

Lại nữa, Ðại Tốc Tật Lực Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, cặp mắt vô trước vô ngại, quán sát khắp tất cả chúng sinh.

Giảng: Tiếp theo ở trên. Vị Ðại Tốc Tật Lực Ca Lâu La Vương (Ca Lâu La dịch là “Ðại Bàng Kim Sí điểu”, vì cánh của nó dài ba trăm ba chục do tuần). Vị nầy đắc được cặp mắt vô trước vô ngaị của Phật, đều quán sát được tận hư không khắp pháp giới. Vị nầy quán sát được nhân duyên cuả tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

Ðại Bàng Kim Sí điểu hàng phục được rồng. Khi rồng thấy đại bàng thì hết lối thoát, chỉ chờ bị bắt ăn. Trên thế giới nầy, một vật hàng phục được một vật. Khi sư tử hống lên thì trăm loài đều sợ. Chim đại bàng hiện lên thì rồng run sợ. Cánh chim đại bàng không những rộng lớn, mà còn có sức mạnh, chỉ cần quạt một cái, thì nước biển rẽ làm hai, rồng hết số thì lộ nguyên hình, bị chim đại bàng hớp một cái, thì chạy tuột vào bụng. Một ngày chim đại bàng ăn một con rồng lớn, và trăm con rồng nhỏ, ngày nào cũng thế, cho nên loài rồng sớm bị tuyệt nòi. Lúc đó, Long Vương sinh tâm sợ hãi, nếu kéo dài như thế nầy, thì quyến thuộc của ta chẳng phải là bị ăn sạch chăng ? Làm sao mà truyền tông tiếp đại ? Rồng con rồng cháu không cách chi tiếp nối lâu dài. Do đó, Long Vương bèn đến chốn Phật cầu cứu, xin Phật từ bi. Phật bèn cho một tấm y cà sa, nói với Long Vương rằng : “Ông đem tấm y cà sa nầy về, rút ra từng sợi tơ, cột vào mỗi con rồng thì không còn bị chim đại bàng bắt ăn nữa”. Quả nhiên hiệu nghiệm, do đó, Long Vương vui mừng, quy y Tam Bảo, làm thần hộ pháp.

Nhờ vậy loài rồng được sinh tồn, nhưng chim đại bàng bị đói, cũng đến chốn Phật cầu cứu, nói với Phật : “Thế Tôn ! Ngài từ bi đối với loài rồng, mà không từ bi đối với chim đại bàng. Bây giờ chúng tôi chẳng có gì ăn, chắt sớm phải chết mất”. Phật nói : “Ngươi phải phát nguyện, đừng ăn rồng nữa, mỗi ngày ăn cơm thì ta dạy đệ tử thí cho nhà ngươi ít cơm”. Cho nên bây giờ ăn quả đường thì phải thí ít cơm cho đại bàng, đọc rằng :

“Ðaị bàng Kim Sí điểu,
Khoáng dã quỷ thần chúng,
La Sát qủy tử mẫu,
Cam lồ tất sung mãn”.
Ðó là nhân duyên về Ca Lâu La.

 

Bất khả hoại bảo kế Ca Lâu La Vương, đắc phổ an trụ pháp giới giáo hóa chúng sanh giải thoát môn.

Bất Khả Hoại Bảo Kế Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, an trụ khắp pháp giới giáo hoá chúng sinh.

Giảng: Vị Bất Khả Hoại Bảo Kế Ca Lâu La Vương, khiến cho tất cả pháp giới chúng sinh, đều đắc được bình an và khoái lạc, chẳng có chút phiền não âu lo. Ðó là đức Phật ở dưới cội Bồ Ðề đạo tràng, trong mười phương pháp giới, để giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được cảnh giới lìa khổ được vui. Mục đích của bậc Thánh nhân thiết giáo, là độ chúng sinh. Các Ngài đem đạo lý sở ngộ của mình, nói với chúng sinh, khiến cho chúng sinh y pháp tu hành, thì chắc chắn được giải thoát. Vị Ca Lâu La Vương nầy đắc được môn giải thoát nầy.

 

Thanh tịnh tốc tật Ca Lâu La Vương, đắc phổ thành tựu Ba-la-mật tinh tấn lực giải thoát môn.

Thanh Tịnh Tốc Tật Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, khắp thành tựu sức tinh tấn Ba la mật.

Giảng: Vị Thanh Tịnh Tốc Tật Ca Lâu La Vương nầy, khiến khắp tất cả chúng sinh đều được thành tựu. Vị nầy không ích kỷ lợi mình, cũng chẳng có tư tưởng người tiểu thừa, mà muốn đem môn giải thoát thành tựu Ba La Mật tinh tấn lực, của mình đắc được để giáo hóa chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh cũng đắc được sự thành tựu nầy.

Ba La Mật dịch là “đến bờ kia”. Bờ kia là gì ? Tức là từ bờ sinh tử bên nầy, qua dòng phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia. Hoặc có thể nói cách khác; tập quán người Ấn Ðộ là bất cứ làm việc gì xong, cũng đều gọi là Ba La Mật.

Người tu hành, tu thành công rồi cũng gọi là Ba La Mật. Bổn lai có phiền não nhưng bây giờ không còn phiền não nữa, cũng gọi là Ba La Mật. Ba La Mật nầy, phải có sức tinh tấn để trợ giúp mới thành tựu được, bằng không chẳng đắc được Ba La Mật. Bạn muốn đắc được Ba La Mật chăng ? Bạn muốn thành tựu chăng ? Vậy phải dũng mãnh tinh tấn tu hành. Vị Ca Lâu Na Vương nầy, đắc được môn giải thoát nầy, làm thế nào đắc được ? Là do thấy Phật nghe pháp tu hành mà đắc được.

Chúng ta nghe mỗi câu Kinh Hoa Nghiêm rồi, phải hồi quang phản chiếu, kiểm thảo chính mình, có tương ưng với pháp môn nầy chăng ? tu được pháp môn nầy chăng ? tu pháp môn nầy đắc được giải thoát chăng ? ta muốn được môn giải thoát hay là muốn được môn phiền não ? Ðừng nên suốt ngày đến tối, mở cửa phiền não mà đóng cửa giải thoát, nếu như vậy thì chẳng bao giờ đắc được môn giải thoát.

Nghe pháp nghe Kinh thì phải y theo pháp mà tu hành. Nếu không y theo pháp tu hành, thì nghe Kinh nghe pháp chẳng ích lợi gì. Pháp không cần nghe nhiều, nghe nhiều ngược lại không chú trọng. Phải có mắt chọn pháp, lựa pháp môn nào hợp với mình, thì tu môn giải thoát đó, do đó :”chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán”. Ở trên đã giảng qua rất nhiều môn giải thoát, nghe càng nhiều thì càng không muốn giải thoát, đó là hoàn toàn sai lầm, cô phụ tông chỉ cuả chư Phật diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật.

 

Bất thoái tâm trang nghiêm Ca Lâu La Vương, đắc dũng mãnh lực nhập Như Lai cảnh giới giải thoát môn.

Bất Thối Tâm Trang Nghiêm Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, sức dũng mãnh nhập vào cảnh giới của Như Lai.

Giảng: Vị Bất Thối Tâm Trang Nghiêm Khẩn Na La Vương nầy, bất cứ gặp cảnh giới gì, đều không thối tâm, có người đối với vị nầy không tốt, vị nầy cũng không sinh phiền não, hoặc là phỉ báng, vị nầy cũng không thối bồ đề tâm. Không những chẳng thối tâm, ngược lại còn tinh tấn dũng mãnh, còn trang nghiêm cõi nước chư Phật. Vị nầy đắc được sức dũng mãnh, nếu thiên ma ngoại đạo đến đấu tranh với vị nầy, thì vị nầy nhất định sẽ thắng. Vị nầy có tâm bất thối, toại tâm mãn nguyện, nhập vào cảnh giới của Phật, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Đại hải xứ nhiếp trì lực Ca Lâu La Vương, đắc nhập Phật hạnh quảng đại trí tuệ hải giải thoát môn.

Ðại Hải Xứ Nhiếp Trì Lực Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, vào biển trí huệ hạnh rộng lớn của phật.

Giảng: Vị Ðại Hải Xứ Nhiếp Trì Lực Ca Lâu La Vương nầy, trí huệ như biển cả, nhiếp chúng sinh vào trong pháp giới cuả Phật. Vì thâm nhập hạnh môn của Phật, tu pháp môn biển trí huệ hạnh rộng lớn, cho nên đắc được môn giải thoát, cạn sạch biển phiền não của chúng sinh.

 

Kiên pháp Tịnh Quang Ca Lâu La Vương, đắc thành tựu vô biên chúng sanh sái biệt trí giải thoát môn.

Kiên Pháp Tịnh Quang Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, thành tựu vô biên trí sai biệt của chúng sinh.

Giảng: Vị Kiên Pháp Tịnh Quang Ca Lâu La Vương nầy, tại nhân địa, thì tâm cầu pháp rất kiên cố, do đó những gì khó thực hành mà làm được, việc khó nhẫn mà nhẫn được, dùng tâm kiên cố để cầu phật pháp, đắc được quang minh thanh tịnh, cho nên gọi là kiên cố tịnh quang. Vị nầy đắc được cảnh giới : bất cứ một loài chúng sinh nào có cầu thì tất ứng, không những thành tựu được một chúng sinh mà thành tựu được tất cả chúng sinh.

Trí sai biệt là gì ? Tức là mỗi một loài chúng sinh đều có trí huệ của họ, giống loại chúng sinh khác nhau, cho nên trí huệ của họ cũng khác nhau. Hoặc có thể nói, mỗi một loài chúng sinh, có thể đắc được trí huệ sai biệt, mà mình đáng đắc được, nghĩa là tùy loại chúng sinh đắc được sự hiểu biết của mỗi loài. Hoặc có thể nói trí huệ sai biệt, tức là trạch pháp nhãn, dùng trí huệ sai biệt để lựa chọn pháp môn mà mình thích, và pháp môn tương ưng với mình. Tóm lại, trí sai biệt tức là trí huệ khác nhau. Vị Ca Lâu La Vương nầy, đắc được môn giải thoát nầy.

 

Diệu nghiêm quan kế Ca Lâu La Vương, đắc trang nghiêm Phật Pháp thành giải thoát môn.

Diệu Nghiêm Quan Kế Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, trang nghiêm pháp thành của Phật.

Giảng: Vị Diệu Nghiêm Quan Kế Ca La Vương nầy, đội mão không những tốt đẹp mà còn trang nghiêm, khiến cho người thấy sinh tâm hoan hỉ, cho nên chúng sinh đều muốn thấy vị nầy đội mão. Vị nầy khéo trang nghiêm tất cả đạo tràng của chư Phật, đạo tràng có nhiều loại khác nhau. Có đạo tràng giảng Kinh, đạo tràng tụng Kinh, đạo tràng dịch Kinh, đạo tràng phát hành Kinh sách .v.v. Tóm lại, phàm là nơi trụ xứ cuả chư Phật đều là pháp thành của Phật. Vị Khẩn Na La Vương nầy, trang nghiêm pháp thành của Phật đặc biệt thanh tịnh, đặc biệt trang nghiêm, đặc biệt thù thắng, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Phổ tiệp thị hiện Ca Lâu La Vương, đắc thành tựu bất khả hoại bình đẳng lực giải thoát môn.

Phổ Tiệp Thị Hiện Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, thành tựu sức bình đẳng không thể hoại.

Giảng: Vị Phổ Tiệp Thị Hiện Ca Lâu La Vương, thành tựu được sức đại từ bình đẳng, không thể phá hoại được, kiên cố như kim cang. Vị nầy có tư tưởng vô duyên đaị từ, đồng thể đại bi. Nơi nào vị nầy đến, đều khai thị chúng sinh, tương lai đều sẽ thành Phật,đó là môn giải thoát vị nầy được.

 

Phổ quán hải Ca lâu La Vương, đắc liễu tri nhất thiết chúng sanh thân nhi vi hiện hình giải thoát môn.

Phổ Quán Hải Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, biết rõ tất cả thân chúng sinh mà vì họ hiện hình.

Giảng: Vị Phổ Quán Hải Ca Lâu La Vương, quán sát khắp biển phiền não, biển trí huệ, biển nghiệp lực, biển phước báu cuả chúng sinh, tức cũng là quán sát khắp tất cả biển của chúng sinh.

Vị nầy còn biết rõ tất cả thân của chúng sinh, y theo loài mà hiện hình, để giáo hóa các loài chúng sinh. Ví như thấy thân chư thiên, thì hiện thân chư thiên để vì họ thuyết pháp. Thấy thân người thì hiện thân người, mà vì họ thuyết pháp. Thấy thân A Tu La, thì hiện thân A Tu La, mà vì họ thuyết pháp, cho đến thấy thân chúng sinh địa ngục, thì hiện thân chúng sinh điạ ngục, mà vì họ thuyết pháp. Tóm lại, thấy thân chúng sinh nào thì hiện ra thân đó, để vì họ mà thuyết pháp, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ đươc vui, bỏ mê về giác, tu đạo Bồ Ðề, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Long âm Đại mục tinh Ca Lâu La Vương, đắc phổ nhập nhất thiết chúng sanh một sanh hạnh trí giải thoát môn.

Long Âm Ðại Mục Tinh Ca Lâu La Vương, được môn giải thoát, trí hạnh vào khắp sinh tử của tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Long Âm Ðại Mục Tinh Ca Lâu La Vương nầy, vì ăn rồng quá nhiều, cho nên âm thanh biến thành âm thanh của rồng, do đó âm thanh rất vang dội. Mắt của vị nầy cũng biến thành mắt rồng. Nhãn châu của rồng sinh ở bên ngoài, cho nên gọi là Long Âm Ðại Mục Tinh.

Vị nầy biết rõ tất cả chúng sinh, lúc sinh tạo nghiệp gì thì chết rồi thọ quả đó. Vị nầy đắc được trí huệ quán sát, biết đuợc nhân duyên quả báo của tất cả chúng sinh, vì vị nầy hiểu được đạo lý nầy, cho nên khéo vì chúng sinh nói pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đồng thời cũng đắc được môn giải thoát của vị nầy đắc được.

 

Nhĩ thời, Đại tốc tật lực Ca Lâu La Vương, thừa Phật uy lực, phổ quán nhất thiết Ca Lâu La chúng nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, Ðại Tốc Tật Lực Ca Lâu La Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ca Lâu La mà nói ra bài kệ.

Giảng: Khi vị Long Âm Ðại Mục Tinh Ca Lâu La Vương, nói xong môn giải thoát của mình đắc được, thì vị Ðại Tốc Tật Lực Ca Lâu La Vương, mới nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả chúng Ca Lâu La mà nói kệ rằng.

 

Phật nhãn quảng đại vô biên tế,                Mắt Phật rộng lớn không bờ mé
Phổ kiến thập phương chư quốc độ,         Thấy khắp các cõi nước mười phương
Kỳ trung chúng sanh bất khả lượng,        Chúng sinh trong đó không thể lường
Hiện đại thần thông tất điều phục.           Hiện đại thần thông để điều phục.

Mắt Phật rộng lớn không bờ mé“. Mắt của Phật rộng lớn chẳng có bờ mé. Trong bài tán Di Ðà có nói : “Cám mục trừng thanh tứ đại hải”. Nghĩa là mắt của Phật Di Ðà màu sắc xanh biết, thấu suốt nước trong bốn biển, cũng có thể nói là : bốn biển rộng lớn như thế, mà mắt của Phật còn lớn hơn so với bốn biển, nói thật ra tìm chẳng được bờ mé.

Hiện khắp các cỏi nước mười phương“. Vì mắt Phật rộng lớn, cho nên thấy khắp các cõi Phật trong mười phương. Chúng sinh trong mỗi cõi nước đang làm gì, Phật đều thấy rõ ràng.

Chúng sinh trong đó không thể lường“. Chúng sinh trong mười phương cõi Phật nhiều chẳng có số lượng, không thể tính được.

Hiện đại thần thông để điều phục“. Tuy nhiên là vô lượng, nhưng Phật dùng đại thần thông để điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều quy y Tam Bảo, phát tâm Bồ Ðề, thì tương lai sẽ thành tựu quả Bồ Ðề.

 

Phật thần thông lực vô sở ngại,                 Thần thông của Phật chẳng gì ngại
Biến tọa thập phương giác thụ hạ,            Ngồi cội bồ đề khắp mười phương
Diễn Pháp như vân tất sung mãn,             Nói pháp như mây đều đầy khắp
Bảo kế thính văn tâm bất nghịch.             Bảo Kế nghe rồi tâm dứt nghi.

Thần thông của Phật không gì ngại“. Sức thần thông diệu dụng cuả tất cả chư Phật trong mười phương, chẳng có chướng ngại mảy may nào, tùy theo tâm thích mà vận động tự tại.

Ngồi cội Bồ Ðề khắp mười phương“. Phật thì ngồi dưới cội Bồ Ðề, trong các cõi Phật trong mười phương mà ngộ đạo, giác ngộ nghiã chân thật cuả tất cả pháp, là do duyên mà sinh, do duyên mà diệt mà thành quả vị Phật.

Nói pháp như mây đều đầy khắp“. Phật diễn nói diệu pháp, giống như mây trong hư không, đầy khắp pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đượm nhuần mây pháp, đắc được mát mẻ, an vui, tự tại, pháp mà chúng sinh đáng đắc được đều đắc được.

Bảo Kế nghe rồi tâm dứt nghi“. Vị Bất Khả Hoại Bảo Kế Ca Lâu La Vương, nghe rồi thì trong tâm không còn hoài nghi nữa, cũng chẳng trái với đạo lý nầy, mà thấy rõ pháp môn nầy.

 

Phật ư vãng tích tu chư hạnh,                   Phật trong quá khứ tu các hạnh
Phổ tịnh quảng đại Ba-la-mật,                  Tịnh khắp Ba la mật rộng lớn
Cúng dường nhất thiết chư Như Lai,        Cúng dường tất cả các Như Lai
Thử tốc tật Vương thâm tín giải.               Thanh tịnh Tốc Tật tin hiểu sâu.

Phật trong quá khứ tu các hạnh“. Phật thuở xa xưa tu đủ thứ khổ hạnh, tức là khó thực hành, mà thực hành được, khó nhẫn mà nhẫn được, khó chịu mà chịu được, khó ăn mà ăn được. Những pháp môn nầy Ngài đều tu được.

Tịnh khắp Ba La Mật rộng lớn“. Phật tu khắp các môn Ba La Mật thanh tịnh rộng lớn. Ba La Mật làm được viên mãn, cứu kính rồi, thì đạt được bờ bên kia tịnh khắp rộng lớn.

Cúng dường tất cả các Như Lai“. Phật cúng dường mười phương tất cả chư Phật, dùng thân tâm tánh mạng để cúng dường chư Phật, khi Phật tại nhân điạ thì tu đủ thứ công đức cúng dường.

Thanh Tịnh Tốc Tật tin hiểu sâu“. Pháp môn giải thoát nầy, vị Thanh Tịnh Tốc Tật Ca Lâu La Vương, tin hiểu thâm sâu.

 

Như Lai nhất nhất mao khổng trung,       Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Nhất niệm phổ hiện vô biên hạnh,            Một niệm hiện khắp vô biên hạnh
Như thị nan tư Phật cảnh giới,                  Như vậy khó nghĩ cảnh giới Phật
Bất thoái trang nghiêm tất minh đổ.         Bất Thối Trang Nghiêm đều thấy rõ.

Trong mỗi lỗ lông của Như Lai“. Trong mỗi lỗ lông của Như Lai, có thể dung nạp mười phương vô lượng vô biên thế giới, đó là đạo lý : trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ.

Một niệm hiện khắp vô biên hạnh“. Tức trong khoảng một niêm, hiện khắp mười phương thế giới. Vô biên hạnh môn của Phật tu đều hiện ra.

Như vậy khó nghĩ cảnh giới Phật“. Như ở trên có nói : nhỏ dung lớn được, lớn dung nhỏ được, lớn nhỏ hổ tương vô ngại ; nhiều ít hổ tương vô ngại, thời gian dài ngắn hổ tương vô ngại, đó đều là đạo lý không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là khó nghĩ. Cảnh giới nầy không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả. Cảnh giới nầy vi diệu khó nghĩ, tức là cảnh giới của Phật.

Bất Thối Trang Nghiêm đều thấy rõ“. Vị Bất Thối Tâm Trang Nghiêm Ca Lâu La Vương nầy, hoàn toàn thấy rõ cảnh giới nầy, hoàn toàn chứng nhập môn giải thoát nầy.

 

Phật hạnh quảng đại bất tư nghị,              Hạnh Phật rộng lớn không nghĩ bàn
Nhất thiết chúng sanh mạc năng trắc,      Tất cả chúng sinh chẳng dò được
Đạo sư công đức trí tuệ hải,                       Ðạo sư biển công đức trí huệ
Thử chấp trì Vương sở hạnh xứ.                Là nơi tu hành của Chấp Trì.

Hạnh Phật rộng lớn không nghĩ bàn“. Phật tu hành đủ thứ hạnh môn, gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn, Phật đều tu hành viên mãn, cho nên nói : khắp đại đîa, chẳng có một hạt bụi nào, chẳng phải là chỗ xả bỏ thân mạng của chư Phật, tức cũng là nơi chư Phật hành Bồ Tát đạo. Phật hành Bồ Tát đạo, là lợi ích chúng sinh. Dù chúng sinh ác, Phật cũng nguyện cứu độ họ, lợi ích họ.

Khi Phật trong quá khứ tu Bồ Tát đạo, thì gặp con chim ưng đang diệt con chim cáp, con chim cáp bay đến trước người tu hành khẩn cầu người tu hành bảo hộ (người tu hành đó là tiền thân của Phật Thích Ca tại nhân địa hành Bồ tát đạo). Phật từ bi giấu che chở cho con chim cáp. Lúc đó, chim ưng bay đến trước mặt Phật, nói với đức Phật : “Ngài cứu tính mạng con chim cáp, nhưng tôi chẳng có thịt ăn, chắt phải chết đói. Ngài làm như thế là từ bi bình đẳng chăng” ? Vị tu hành nghe chim ưng nói, mới đáp lại : “Ngươi muốn ăn thịt chăng ? Ðược, ta sẽ lóc thịt thân của ta cho ngươi ăn”. Nói xong, vị tu hành lấy dao lóc thịt thân của mình để cho chim ưng ăn, ăn xong miếng nầy đến miếng khác, ăn hết thịt thân của vị tu hành cũng chẳng no. Vị tu hành lóc hết thịt toàn thân của mình, nhưng tơ hào chẳng đổi ý, đến khi chẳng còn thịt để lóc nữa, thì chim ưng bay vụt lên không trung, hiện ra thân trời Ðế Thích mà đi. Nguyên lai là trời Ðế Thích đến thử thách đạo hạnh của vị tu hành như thế nào !

Lão tu hành lúc đó vì hành Bồ Tát đạo mà lóc thịt thí cho chim ưng, chẳng có xí đồ ích kỷ lợi mình, cho nên thịt cắt đi khôi phục lại như cũ. Chúng ta là người tu đạo, phải học tinh thần của Phật xả mình vì người. Hành Bồ Tát đạo là lợi ích chúng sinh, chớ chẳng phải lợi mình. Tóm lại, làm lợi ích cho chúng sinh tức là Bồ Tát, còn lợi ích cho mình là ma quỷ.

Còn có một chuyện nữa, thuở xưa khi Phật tu Bồ Tát đạo, thì xả thân cứu cọp đói. Tinh thần vì pháp quên mình nầy, khiến cho người kính phục vô cùng ! Câu chuyện như thế nầy, một ngày nọ trời rơi tuyết phủ trắng xoá khắp nơi. Cho nên động vật bị tuyết làm khốn khổ, không cách chi tìm vật ăn được. Lúc đó, Phật Thích Ca đang tĩnh tọa dưới gốc cây, xa thấy dưới núi có con cọp mẹ dẫn hai cọp con đi khắp nơi tìm vật ăn, đói đến kiệt sức, đi cũng chẳng còn sức để đi. Hai con cọp con theo bên cọp mẹ, thật đáng thương xót ! Phật thấy hoàn cảnh như vậy, phát tâm từ bi, nguyện đem thân mình bố thí cho cọp mẹ cọp con làm thức ăn, do đó chẳng nghĩ gì nữa, bèn chạy đến trước mặt cọp, cúng dường cho cọp. Vì nguyên nhân như vậy, mới nói hạnh của Phật rộng lớn, không thể nghĩ bàn.

Tất cả chúng sinh không dò được“. Tất cả hết thảy chúng sinh, đều không thể đo lường được hạnh của Phật tu hành như thế nào. Vì chúng sinh chẳng khai mở mắt trí hụê, cho nên chẳng thấu suốt được việc qúa khứ. Nếu ai khai mở ngũ nhãn thì biết rõ, thấy rõ.

Ðạo Sư biển công đức trí huệ“. Phật là đại Ðạo sư tiếp dẫn chúng sinh, không những là Ðạo sư chúng sinh nhân gian, mà còn là Ðạo sư của chúng sinh các cõi trời, cho nên được xưng là Thiên Nhân Sư. Công đức và trí huệ cuả Phật rộng lớn vô biên như biển cả.

Là nơi tu hành của Chấp Trì“. Cảnh giới nầy là nơi tu hành cuả Ðại Hải Xứ Chấp Trì Lực Ca Lâu La Vương, vị nầy chứng nhập môn giải thoát nầy.

 

Như Lai vô lượng trí tuệ quang,               Như Lai vô lượng trí huệ quang
Năng diệt chúng sanh si hoặc võng,          Diệt lưới si hoặc của chúng sinh
Nhất thiết thế gian hàm cứu hộ,                Cứu hộ hết thảy các thế gian
Thử thị kiên pháp sở trì thuyết.                Kiên Pháp Tịnh Quang được môn nầy.

Như Lai vô lượng trí huệ quang“. Trí huệ quang minh của Phật vô lượng vô biên, chiếu khắp tất cả, do đó : “Phật quang phổ chiếu”. Trí huệ quang minh của Phật, siêu hơn ánh sáng mặt trời, quang minh của Phật, không có nơi nào mà chẳng chiếu, chẳng có nơi nào mà không có, tận hư không khắp pháp giới.

Diệt lưới si hoặc của chúng sinh“. Phật dùng vô lượng trí huệ quang, để tiêu diệt lưới ngu si và hoặc nghiệp của chúng sinh. Chúng sinh tại thế gian bị lưới ngu si, lưới phiền não, lưới tạo nghiệp trói chặt, không cách chi thoát khỏi ba cõi.

Cứu hộ hết thảy các thế gian“. Phật đại từ bi, dùng vô lượng trí huệ quang minh, cứu tất cả hữu tình chúng sinh thế gian, khiến cho họ đều được giải thoát, vĩnh viễn lìa khỏi lưới sinh tử.

Kiên Pháp Tịnh Quang được môn này“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Kiên Pháp Tịnh Quang đắc được.

 

Pháp thành quảng đại bất khả cùng,        Pháp thành rộng lớn không cùng tận
Kỳ môn chủng chủng vô số lượng,            Ðủ thứ pháp môn không số lượng
Như Lai xứ thế Đại khai xiển,                    Phật ở nơi đời đại khai xiển
Thử diệu quan kế năng minh nhập.          Diệu Quan Kế thấu rõ môn nầy.

Pháp thành rộng lớn không cùng tận“. Pháp thành tức là thành hoằng dương Phật pháp. Pháp thành nầy là chỉ tất cả đạo tràng. Tất cả đạo tràng là pháp thành cuả Phật. Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng Kinh hơn ba trăm hội. Kiến lập pháp thành khắp nơi, khắp nơi thổi pháp loa lớn, đánh trống pháp lớn, kiến pháp tràng lớn, chuyển đại pháp luân. “Kiến pháp tràng ư xứ xứ, phá võng nghi ư trùng trùng”. Cho nên nói pháp thành rộng lớn không cùng tận.

Ðủ thứ pháp môn không số lượng“. Pháp thành nầy cứu kính có bao nhiêu môn ? chẳng có số lượng. Nói tổng quát, có tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng thẳng đến quả vị Phật.

Phật ở nơi đời đại khai xiển“. Phật ở tại thế giới nầy, kiến lập đại pháp thành, khai xiển pháp yếu rộng lớn, khiến cho chúng sinh liễu sinh thoát tử, cứu kính thành Phật.

Diệu Nghiêm Quan Kế rõ môn nầy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy vị Diệu Nghiêm Quan Kế Ca Lâu La Vương thấy rõ được.

 

Nhất thiết chư Phật nhất Pháp thân,        Tất cả chư Phật một pháp thân
Chân như bình đẳng vô phân biệt,           Chân như bình đẳng chẳng phân biệt
Phật dĩ thử lực thường an trụ,                  Phật dùng lực nầy thường an trụ
Phổ tiệp hiện Vương tư cụ diễn.                Phổ Tiệp diễn nói đủ môn nầy.

Tất cả chư Phật một pháp thân“. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều cùng một pháp thân. Pháp thân của Phật chẳng có phân biệt. Giống như tất cả ánh sáng của đèn đều là một tên. Tên với tên đó đây chẳng phân biệt. Tóm lại, tên của bạn là tên của tôi, tên của tôi là tên của bạn, cho nên nói tất cả chư Phật một pháp thân.
Pháp thân của Phật giống như tên đèn không khác. Trí huệ quang của Phật đều là một, âm thanh của Phật cũng là một, cho nên Phật với Phật, đó đây chẳng có phân biệt.

Chân như bình đẳng không phân biệt“. Tánh của Phật là chân như, cũng là bình đẳng. Chân như bình đẳng chẳng có phân biệt, đều là một. Phật chẳng giống chúng ta, phân này chia nọ, có người, có ta, có chúng sinh, có thọ mạng. Phật thì tất cả đều bình đẳng.

Phật dùng lực nầy thường an trụ“. Phật dùng sức lực chân như bình đẳng, chẳng có cảnh giới phân biệt, thường an trụ vào trong cảnh giới nầy.

Phổ Tiệp diễn nói đủ môn nầy“. Vị Phổ Tiệp Thị Hiện Ca Lâu La Vương, diễn nói đầy đủ được môn giải thoát nầy.

 

Phật tích chư hữu nhiếp chúng sanh,        Phật trong các cõi nhiếp chúng sinh
Phổ phóng quang minh biến thế gian,      Khắp phóng quang minh chiếu thế gian
Chủng chủng phương tiện thị điều phục,  Ðủ thứ phương tiện hiện điều phục
Thử thắng Pháp môn quán hải ngộ.         Quán Hải ngộ được thắng pháp nầy.

Phật trong các cõi nhiếp chúng sinh“. Phật trong quá khứ cũng dùng : cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, pháp phương tiện các cõi, để nhiếp hóa chúng sinh.

Khắp phóng quang minh chiếu thế gian“. Phật khắp phóng đại quang minh, soi sáng tất cả thế gian. Taị sao ? Vì Phật muốn phổ độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ, mà đắc được an lạc vĩnh cửu.

Ðủ thứ phương tiện hiện điều phục“. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để điêù phục tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh cải tà quy chánh, khử vọng tồn chân, bỏ mê về giác, đồng quy về đại đạo Bồ Ðề.

Quán Hải ngộ được thắng pháp nầy“. Pháp môn thù thắng đặc biệt nầy, vị Phổ Quán Hải Ca Lâu La Vương ngộ nhập được.

 

Phật quán nhất thiết chư quốc độ,            Phật quán tất cả các cõi nước
Tất y nghiệp hải nhi an trụ,                       Ðều nương biển nghiệp mà an trụ
Phổ vũ Pháp vũ ư kỳ trung,                       Khắp mưa pháp vũ ở trong đó
Long âm giải thoát năng như thị.              Giải thoát nầy của Long Âm Vương.

Phật quán tất cả các cõi nước“. Phật dùng mắt trí huệ, để quán sát tất cả cõi nước cuả chư Phật trong mười phương. Tất cả chúng sinh trong cõi nước, đều trôi nổi trong biển sinh tử, không biết đạo lý : “biển khổ vô biên, hồi đầu là bờ”.

Ðều nương biển nghiệp mà an trụ“. Tất cả cõi nước, đều nương biển nghiệp mà an trụ, đều do nghiệp của chúng sinh tạo thành, chúng sinh trôi nổi bất định ở trong biển nghiệp, trôi nổi theo nghiệp mà chịu sinh tử. Sinh rồi lại chết, chết rồi lại sinh. Nay sinh ra là họ Trương, sau sinh ra là họ Lý, chẳng khi nào dứt, luôn luôn chuyển đi chuyển lại ở trong luân hồi. Làm việc thiện, thì sinh vào ba đường lành. Làm việc ác thì sinh vào ba đường ác.

Khắp mưa pháp vũ ở trong đó“. Phật khắp vì chúng sinh mà thuyết pháp, giống như mưa, khiến cho chúng sinh đều đắc được sự thấm nhuần của pháp vũ, hoặc là biển nghiệp như lửa, mưa Phật Pháp khiến cho chúng sinh đắc được mát mẻ.

Giải thoát nầy cuả Long Âm Vương“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Long Âm Ðại Mục Tinh Ca Lâu La Vương, hiểu rõ biết được.

 

Phục thứ, La-hầu A-tu-la Vương, đắc hiện vi đại hội tôn thắng chủ giải thoát môn.

Lại nữa, La Hầu A Tu La Vương, được môn giải thoát, hiện làm chủ tôn thắng trong đại hội.

Giảng: Vị La Hầu A Tu La Vương nầy, La Hầu dịch là “nhiếp não”. Vì vị nầy dấu tay che mặt trời mặt trăng, khiến cho chư Thiên buồn bực. Vị nầy minh bạch được, đức Phật thị hiện làm chủ thuyết pháp, trong tất cả pháp hội, vị nầy đắc được cảnh giới nầy, và cũng nhập vào môn giải thoát nầy.

Môn giải thoát chỉ là ví dụ, giống như là có môn giải thoát, thật ra chẳng phải thật sự có môn giải thoát. Nếu có môn (cửa), thì chẳng phải là giải thoát, vì có sự chấp trước. Do đó, vào môn giải thoát là vào mà không vào, không vào mà vào. Môn giải thoát là chẳng có gì để chấp trước, tất cả đều không chấp trước, mới thật sự là môn giải thoát. Nếu như vào cửa (môn) giải thoát thì phải ra cửa (môn) giải thoát, nếu vào được mà không ra được, vậy thì lại bị nhốt, thì cũng không đắc được giải thoát.

A Tu La dịch ra có nhiều nghĩa. Có khi dịch là “phi thiên”, vì chúng có phước trời mà không có đức trời. Lại có lối giải thích khác, phi thiên chẳng phải thần cũng chẳng phải quỷ. Có khi dịch là “vô tửu”, chẳng phải chúng không có rượu uống, mà là uống không đủ, bất cứ uống bao nghiêu cũng không đủ. Có khi dịch là ỡ “vô đoan chánh”, vì nam A Tu La tướng mạo rất xấu xí, mũi thì dài hai thước rưởi, miệng thì rất nhỏ, mắt thì rất to. Tóm lại, rất xấu xí vô cùng, khiến cho người thấy mà sợ hãi, nếu ai thấy được chúng, đều bị dọa nạt phát run hồn bay phách tán, cho nên ai cũng không giám nhìn tôn dung của chúng. Nữ A Tu La thì rất đẹp vô cùng, chúa trời Ðế Thích cõi trời Ðao Lợi, vì tham sắc đẹp mà cầu hôn con gái của vua A Tu La. Vua A Tu La vốn không muốn gả con gái cho trời Ðế Thích, vì giữa họ thường phát sinh chiến tranh, cho nên phản đối về việc nầy, nhưng con gái của vua A Tu La muốn sống với Trời Ðế Thích, cho nên Vua A Tu La đành phải gả cho Trời Ðế Thích làm vợ.

Kết hôn rồi, vợ chồng rất hạnh phúc, nhưng Ðế Thích thường đi các nơi để nghe giảng Kinh thuyết pháp. Có vị tu hành ở trong núi thuyết pháp, Ðế Thích thường đến để nghe pháp, về nhà thì hơi muộn một chút. Vợ của y hoài nghi chồng chẳng trung thực, bèn truy hỏi “Ông đi đâu mà ngày nào cũng đi”? Ðế Thích nói : “Có vị tu hành thuyết pháp, tôi đi nghe pháp”. Vợ của y không tin nói : “Ông chẳng phải đi nghe pháp, chắc chắn có bạn gái, hẹn hò chăng ? lần sau ông đi, tôi cũng đi theo xem thử cứu kính việc như thế nào”? Ðế Thích nói :”Bà đừng đi ! Vì bà quá đẹp, dễ khiến cho người nghe pháp nghĩ tưởng đâu đâu”. Ðế Thích nói thế, càng làm cho vợ sinh tâm nghi ngờ, vợ của y nói : “Ông nhất định có bạn gái, nếu không, tại sao không cho tôi đi “? Do đó vợ của Ðế Thích quyết tâm đi để xem tình hình ra sao.

Ngày thứ hai, Ðế Thích vẫn đến núi nghe pháp, vợ của y là nữ A Tu La có thần thông, do đó dùng pháp ẩn thân đi tham gia pháp hội, Ðế Thích cũng chẳng biết, vợ của y đến đạo tràng, thấy có nam có nữ nhưng nữ nhiều hơn nam mà toàn là phụ nữ đẽp ! cho nên vợ của Ðế Thích đố kị bèn hiện ra nguyên hình. Ðế Thích quay đầu lại nhìn thấy vợ mình theo đến, rất bực mình hỏi y : “Tại sao bà đến đây ? tôi dạy bà đừng đến đây mà”. Nữ A Tu La nóng giận nói : “Tôi đương nhiên phải đến, ở đây có nhiều phụ nữ đẹp, tôi không an tâm cho nên phải đến xem thử”. Lúc đó, Ðế Thích nổi giận mất đi lý trí, bèn cầm mấy cộng hoa sen đánh y thị, không ngờ lần đó bèn khởi đại chiến.

Sau khi vợ cuả Ðế Thích bị đánh, bèn trở về nhà của vua A Tu La khóc, kể lại sự việc xảy ra, vua A Tu La nổi giận, điều binh khiển tướng tấn công Ðế Thích báo cừu cho con gái. Vì binh A Tu La thiện chiến, cho nên binh trời tướng trời của Ðế Thích bị bại. Ðế Thích mới cầu cứu Dức Phật, Phật dạy niệm câu : “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða”. Ðế Thích trở về dạy hết toàn quân niệm câu nầy, quả nhiên đánh bại A Tu La, vua A Tu La đầu hàng, bèn đem con gái trở lại trong cung Ðế Thích.

Chủng loại A Tu La rất nhiều, trên trời có A Tu La, nhân gian có A Tu La, súc sinh có A Tu La, ngạ quỷ cũng có A Tu La. A Tu La có bốn thứ Sinh : A Tu La hóa sinh ở cõi trời, A Tu La thai sinh ở cõi nhân gian, A Tu La noãn sinh ở cõi súc sinh, A Tu La thấp sinh ở cõi ngạ quỷ.

Có khi A Tu La liệt vào trong ba đường lành, vì chúng tu hạ phẩm năm giới thập thiện, cho nên có căn lành. Có khi liệt A Tu La vào bốn đường ác, vì tâm của chúng đố kị quá nặng, tâm đấu tranh quá mạnh. A Tu La trên trời là kẻ trộm trên trời, A Tu La ở nhân gian là kẻ cường hào ác bá ở nhân gian. A Tu La cõi súc sinh là ngựa hại bầy, thứ ngựa A Tu La chẳng giữ quy cụ, chuyên phá hoại ngựa khác, không cắn thì đá, khiến cho bầy ngựa không được yên. Tóm lại, phàm là kẻ thích đấu tranh đều là A Tu La.

 

Tỳ ma chất đa la A-tu-la Vương, đắc thị hiện vô lượng kiếp giải thoát môn.

Tì Ma Chất Ða La A Tu La Vương, được môn giải thoát, thị hiện vô lượng kiếp.

Giảng: Vị Tì Ma Chất Ða La A Tu La Vương nầy, Tì Ma dịch là “tơ”, Chất Ða La dịch là “chủng chủng”. Vị A Tu La Vương nầy, dùng một sợi chỉ tơ mà huyễn hoá làm đủ thứ cảnh giới, vị nầy đắc được môn giải thoát, thị hiện vô lượng vô biên kiếp. Tóm lại, Môn giải thoát nầy, bất cứ trong bao nhiêu kiếp, đều tự tại mà không chướng ngại, chẳng có chướng ngại tức là giải thoát.

 

Xảo huyễn thuật A-tu-la Vương, đắc tiêu diệt nhất thiết chúng sanh khổ lệnh thanh tịnh giải thoát môn.

Xảo Huyễn Thuật A Tu La Vương, được môn giải thoát, tiêu diệt tất cả khổ của chúng sinh, khiến cho họ đắc được thanh tịnh.

Giảng: Vị Xảo Huyễn Thuật A Tu La Vương, khéo về thuật xảo huyễn biến hóa, huyễn hóa đủ thứ cảnh giới, để tiêu diệt tất cả thống khổ của chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được thanh tịnh an vui, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Đại quyến thuộc A-tu-la Vương, đắc tu nhất thiết khổ hạnh tự trang nghiêm giải thoát môn.

Ðại Quyến Thuộc A Tu La Vương, được môn giải thoát, tu tất cả khổ hạnh để tự trang nghiêm.

Giảng: Vị Ðại Quyến thuộc A Tu La Vương, có rất nhiều công đức, cứu khắp chúng sinh thế gian, cho nên có rất nhiều quyến thuộc, chúng sinh đều nguyện theo vị nầy, được vị nầy bảo hộ. Vị nầy ở tại nhân đîa, thì tu đủ thứ khổ hạnh, hành đủ thứ Bồ Tát đạo, việc người không nhẫn được vị nầy đều nhẫn được. Vị nầy có công đức như thế, không những tự trang nghiêm, mà còn trang nghiêm cho tất cả. Ðó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Bà trĩ A-tu-la Vương, đắc chấn động thập phương vô biên cảnh giới giải thoát môn.

Bà Trĩ A Tu La Vương, được môn giải thoát, chấn động mười phương vô biên thế giới.

Giảng: Vị Bà Trĩ A Tu La Vương có oai lực lớn, có thể chấn động mười phương, khiến cho chúng sinh ở trong mộng tỉnh dậy, không còn làm việc điên đảo hồ đồ nữa, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Biến chiếu A-tu-la Vương, đắc chủng chủng phương tiện an lập nhất thiết chúng sanh giải thoát môn.

Biến Chiếu A Tu La Vương, được môn giải thoát, đủ thứ phương tiện an lập tất cả chúng sinh.

Giảng: Vị Biến Chiếu A Tu La Vương nầy, trí huệ quang chiếu khắp tất cả. Vị nầy đắc được đủ thứ phương tiện pháp môn, an lập tất cả chúng sinh, vì có trí huệ của Phật, cho nên quyền, (thiền xảo phương tiện) thật (chân thật) không mê hoặc, đó là môn giải thoát vị nầy đắc được.

 

Kiên cố hạnh diệu trang nghiêm A-tu-la Vương, đắc phổ tập bất khả hoại thiện căn tịnh chư nhiễm trước giải thoát môn.

Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm A Tu La Vương, được môn giải thoát, phương tiện phổ tập căn lành, bất khả hoại thanh tịnh các sự nhiễm ô chấp trước.

Giảng: Vị Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm A Tu La Vương, kiên cố hạnh tức là chuyên tu một hạnh môn, vĩnh viễn không thối chuyển. Kiên cố tức là tùy duyên không thay đổi, không thay đổi mà tùy duyên. Kiên cố tức là dù bị đả kích hoặc nghịch cảnh như thế nào cũng chẳng thối chuyển. Cảnh giới là để khảo nghiệm định lực của người tu đạo. Chỉ tiến về trước, tuyệt đối không thể : một ngày nóng mười ngày lạnh, nếu không thì chẳng khi nào được thành tựu, đừng nói đến kiên cố hạnh.

Vì có kiên cố hạnh rồi, mới có diệu trang nghiêm, không có hạnh kiên cố, thì không có diệu trang nghiêm. Diệu trang nghiêm nầy, là do hạnh kiên cố trang nghiêm mà thành tựu.

Vị A Tu La Vương nầy đắc được phổ tập căn lành bất khả hoại. Phổ tập là phổ biến tích tập hạnh kiên cố. Vì tu hạnh kiên cố, cho nên căn lành không thể hoại, ngày nào cũng tu, lúc nào cũng tu, niệm niệm không bỏ, như thế thì căn lành tăng trưởng, sẽ tiêu diệt căn ác.

Căn ác là gì ? Tức là nhiễm trước. Nhiễm là nhiễm ô, trước là chấp trước. Có tư tưởng không thanh tịnh, thì buông chẳng đặng chấp trước. Chấp trước : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sáu trần. Tại sao phải chấp trước sáu trần ? Vì : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý sáu căn bị nhiễm ô, bên trong thì nhiễm ô, bên ngoài thì chấp trưóc. Bây giờ làm cho các nhiễm trước thanh tịnh, buông xả đặng thì đắc được môn giải thoát.

 

Quảng đại nhân tuệ A-tu-la Vương, đắc đại bi lực vô nghi hoặc chủ giải thoát môn.

Quảng Ðại Nhân Huệ A Tu La Vương, được môn giải thoát, sức đại bi không nghi hoặc.

Giảng: Vị Quảng Ðại Nhân Huệ A Tu La Vương, được sức lực đại bi, có sự quán sát chánh quyết đối với tất cả sự lý, mà chẳng hoài nghi, vì vị nầy có trí huệ, do đó : “Bi là mẹ của Phật, trí là cha của Phật. Ba đời chư Phật, đều từ đại bi sinh ra”. Chúng ta học Phật Pháp thì trước hết phải học bi, kế tiếp thì học trí, bi trí đầy đủ mới thành tựu. Bi là tâm đồng tình, trí là về kỷ thuật. Ví như có người rớt xuống sông, có tâm đồng tình mà không có kỹ thuật (không biết bơi), ở trên bờ la cứu người thì chẳng ích gì, phải có kỹ thuật biết bơi, mới cứu được người rớt xuống nước. Có người chẳng có tâm trắc ẩn, song, biết bơi nhưng không động lòng. Tư tưởng như thế chẳng làm gì được. Cho nên, chúng ta phải có bi trí song toàn, mới lợi ích người được. Nên nhớ ! Tương lai phải hoằng pháp lợi sinh, đừng tham sí đồ danh văn lợi dưỡng.

 

Hiện Thắng đức A-tu-la Vương, đắc phổ lệnh kiến Phật thừa sự cúng dường tu chư thiện căn giải thoát môn.

Hiện Thắng Ðức A Tu La Vương, được môn giải thoát, khiến khắp chúng sinh thấy Phật, thừa sự cúng dường tu các căn lành.

Giảng: Vị Hiện Thắng A Tu La Vương, thực hành pháp môn cúng dường tu thiện, có công đức thù thắng. Vị nầy trong quá khứ, hay khiến cho chúng sinh thấy được Phật, phát nguyện thừa sự cúng dường, mười phương ba đời tất cả chư Phật, tu tất cả căn lành, làm tất cả công đức, căn lành càng tu thì càng sâu, công đức càng làm thì càng nhiều, căn sâu đức nhiều thì thành Phật. Vị nầy minh bạch đạo lý nầy mà vào môn giải thoát nầy.

 

Thiện Âm a tu La Vương, đắc phổ nhập nhất thiết thú quyết định bình đẳng hạnh giải thoát môn.

Thiện Âm A Tu La Vương, được môn giải thoát, hạnh quyết định bình đẳng vào khắp tất cả các cõi.

Giảng: Vị Thiện Âm A Tu La Vương, vì khéo thuyết pháp, có âm thanh rất hay, khiến cho người nghe vui mừng, y pháp phụng hành, cho nên vị nầy vào được khắp tất cả các cõi. Vì chúng sinh đều có Phật tánh, cho nên đều bình đẳng, vị nầy hành môn giải thoát nầy, mà đắc được giải thoát.

 

Nhĩ thời, La-hầu A-tu-la Vương, thừa Phật uy lực, phổ quán nhất thiết A-tu-la chúng nhi thuyết tụng ngôn:

Bấy giờ, La Hầu A Tu La Vương, nương oai lực của đức Phật, quán khắp tất cả chúng A Tu La mà nói kệ.

Giảng: Lúc đó, vị Nhiếp Não A Tu La Vương, nương đại oai thần lực gia bị của chư Phật, quán sát khắp tất cả chúng A Tu La, mà nói kệ tán thán công đức cuả Phật.

 

Thập phương sở hữu quảng đại chúng,    Mười phương tất cả chúng rộng lớn
Phật tại kỳ trung tối Thù đặc,                       Phật ở trong đó thù đặc nhất
Quang minh biến chiếu đẳng hư không,   Quang minh chiếu khắp đồng hư không
Phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh tiền.       Hiện khắp trước tất cả chúng sinh.

Mười phương tất cả chúng rộng lớn“. Mười phương là : Ðông, tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên và dưới, cộng thành mười phương. Mười phương tất cả chúng sinh rộng lớn, bao quát : Thai, noãn, thấp, hóa, phi, tiềm, động, thực, tất cả hữu tình và vô tình. Chúng sinh hữu tình là động vật có huyết khí, chúng sinh vô tình là sơn hà đại điạ, hoa cỏ thụ mộc.

Phật ở trong đó thù đặc nhất“. Ðức Phật ở trong tất cả chúng sinh, khắp mười phương rộng lớn thù thắng đặc biệt nhất. Vì chỉ có Phật mới minh bạch được đạo lý cứu kính thật tướng của các pháp.

Quang minh chiếu khắp đồng hư không“. Quang minh của Phật chiếu sáng khắp mười phương thế giới. Quang của Phật là bình đẳng, Phật chẳng có tâm phân biệt. Bất cứ chúng sinh thiện hay ác, hoặc chúng sinh không thiện không ác, Phật đều không bỏ, đều chiếu khắp, do đó Phật quang phổ chiếu, cứu hộ chúng sinh. Quang minh của Phật đồng hư không, vì trong hư không bao la vạn tượng, chẳng có gì mà không có, chẳng có gì mà không bao, chẳng có gì mà không dung, chẳng có gì mà không nạp.

Hiện khắp trước tất cả chúng sinh“. Quang minh của Phật, hiện khắp trước tất cả chúng sinh. Chúng sinh thấy được quang cuả Phật, bèn phát tâm bồ đề mà được độ, chúng sinh nhờ quang minh của Phật tiếp dẫn, mà lìa khổ được vui, thẳng đến bờ kia, đắc được giải thoát.

 

Bách thiên vạn kiếp chư Phật thổ,            Trăm ngàn vạn kiếp các cõi Phật
Nhất sát-na trung tất minh hiện,               Trong một Sát na đều hiện rõ
Thư quang hóa vật mị bất châu,              Phóng quang hóa độ khắp hết thảy
Như thị tỳ ma thâm tán hỉ.                        Tỳ Ma vui khen cảnh giới nầy.

Trăm ngàn vạn kiếp các cõi Phật“. Thời gian trăm ngàn vạn kiếp rất dài, Phật ở trong vô lượng các cõi Phật, thành Phật giáo hóa chúng sinh mà không ngừng nghỉ.

Trong một Sát na đều hiện rõ“. Thời gian rất ngắn trong một Sát na, Phật làm cho thời gian dài vô lượng kiếp, và vô lượng các cõi Phật đều hiện ra, do đó :

“Thu vô lượng kiếp làm một niệm,
Kéo dài một niệm làm vô lượng kiếp”.

Mười phương các cõi Phật, hiện ở trong một hạt bụi, đó là cảnh giới :
“Nhỏ dung được lớn,
Lớn vào được nhỏ,
Lớn nhỏ vô ngại,
Một nhiều vô ngại”.

Ðạo lý nầy, chẳng phải một số người phàm phu hiểu biết được, khi người khai mở ngũ nhãn rồi, thì thấy sự việc rõ ràng, là cảnh giới bình đẳng, chẳng có gì kỳ lạ hết.

Phóng quang hóa độ khắp hết thảy“. Phật phóng quang minh, chiếu soi tất cả chúng sinh, hóa độ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được quang minh của Phật gia bị, bỏ mê về giác. Quang minh của Phật, đến khắp cùng mười phương, chẳng có chỗ nào mà không chiếu đến.

Tỳ Ma vui khen cảnh giới nầy“. Cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Tỳ Ma A Tu La Vương vui mừng khen ngợi.

 

Như Lai cảnh giới vô dữ đẳng,                  Cảnh giới Như Lai chẳng ai bằng
Chủng chủng Pháp môn thường lợi ích,   Ðủ thứ pháp môn thường lợi ích
Chúng sanh hữu khổ giai lệnh diệt,          Chúng sinh có khổ khiến diệt trừ
Khổ mạt la Vương thử năng kiến.             Xảo Thuật La Vương thấy môn nầy.

Cảnh giới Như Lai chẳng ai bằng“. Cảnh giới của Như Lai và cảnh giới của bất cứ ai, đều hoàn toàn khác nhau. Cảnh giới của Như Lai không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận. Cảnh giới của bất cứ ai, cũng không thể so sánh được, cũng không thể đồng được. Cảnh giới của Phật là độc nhất vô nhị, thù thắng nhất, đặc biệt nhất.

Ðủ thứ pháp môn thường lợi ích“. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh cải tà qui chánh. Phật thấy tất cả chúng sinh, với Phật không hai không khác. Tại sao ? Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể thành Phật. Quá khứ không làm Phật, thì hiện tại có thể làm Phật. Hiện tại không thể làm Phật, thì vị lai sẽ làm Phật. Tóm lại, sẽ có một ngày làm Phật, song, chỉ là vấn đề sớm hay muộn mà thôi.

Phật giáo là nhân giáo, là tông giáo của tất cả mọi người. Phật giáo còn là chúng sinh giáo, là tôn giáo của tất cả chúng sinh. Cho nên đức Phật mới nói :

“Tất cả chúng sinh đều có Phật tính,
Ðều có thể thành Phật”.

Phàm là động vật có huyết khí, đều gọi là chúng sinh. Ðã là chúng sinh, thì đều có Phật tánh. Phật tánh tức là tự tánh, tức là chân như tự tánh, tức là tánh Như Lai Tạng, tức là tánh đại quang minh tạng, tức là thật tánh viên thành. Tóm lại, tức là tự tánh tâm thanh tịnh, tánh giác ngộ. Có người nói : “Tôi không cần cái Phật tánh nầy, bỏ nó đi cho rồi”, nhưng bỏ chẳng được. Vì bạn là chúng sinh, chẳng cách chi tách Phật tánh ra, cho nên bỏ chẳng đặng Phật tánh vốn có sẵn.
Nói về Phật giáo, bất cứ bạn tin hay không tin Phật, đều là Phật giáo đồ, chỉ bất quá bạn tin Phật thì gần Phật một chút, bạn không tin Phật thì xa Phật một chút. Chẳng phải Phật gần bạn là bạn gần Phật, cũng chẳng phải Phật xa bạn mà là bạn xa Phật, cho nên nói tin hoặc không tin đều là Phật giáo đồ, đều có Phật tánh, sớm muộn đều sẽ thành Phật.

Phật giáo bao quát tánh pháp giới, bao quát toàn nhân loại, bao quát mọi loài chúng sinh, tất cả hết thảy đều ở trong Phật giáo. Bạn không tin Phật giáo, cũng là Phật giáo đồ. Vì bạn không chạy ra khỏi ngoài pháp giới. Phật giáo là tận hư không, khắp pháp giới, rộng chẳng có bờ mé, không màng là bạn chưởi Phật hoặc mắng Phật, cũng là Phật giáo đồ. Cho nên nói cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn, dùng đủ thứ pháp môn thường lợi ích chúng sinh.

Chúng sinh có khổ khiến diệt trừ“. Phật thương xót chúng sinh, khiến cho tất cả khổ cuả chúng sinh đều tiêu diệt, vì Phật dạy chúng sinh tu pháp môn liễu sinh thoát tử, tức cũng là pháp mười hai Nhân Duyên.

Xảo Thuật La Vương thấy môn nầy“. Vị Xảo Huyễn Thuật A Tu La Vương, minh bạch thấy được cảnh giới nầy.

 

Vô lượng kiếp trung tu khổ hạnh,             Phật vô lượng kiếp tu khổ hạnh
Lợi ích chúng sanh tịnh thế gian,              Lợi ích chúng sinh tịnh thế gian
Do thị Mâu Ni trí phổ thành,                    Nhờ vậy trí Phật trọn thành tựu
Đại quyến thuộc Vương tư kiến Phật.       Ðại Quyến Thuộc Vương thấy như vậy.

Phật vô lượng kiếp tu khổ hạnh“. Khi Phật Thích Ca tại nhân địa, thì tu đủ thứ sự khổ hạnh trải qua vô lượng kiếp, mới viên mãn công đức mà thành Phật. Do đó :

“Ba A tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt”.

Ðức Phật trong vô lượng kiếp tu khổ hạnh, chỉ tinh tấn mà chẳng thối lùi. Chẳng giống như chúng ta tọa thiền, tu được mấy ngày, thì sinh tâm thối chuyển, cảm thấy không được thoải mái bằng nằm ra. Hoặc tu ngày ăn một bữa, cảm thấy ăn nhiều bữa, thì có ích lợi cho thân thể. Tự mình thế mình làm luật sư biện hộ. Có tư tưởng nầy, làm sao yên tâm tu đạo được ? Tu khổ hạnh là cước đạp thật địa mà tu hành, chẳng phải chỉ nói suông là được. Do đó :

“Không trải qua một phen lạnh thấu xương,
Sao được hoa mai thơm ngát mũi” ?

Lợi ích chúng sinh tịnh thế gian“. Ðức Phật vì lợi ích chúng sinh mà tu khổ hạnh, chỉ cần có ích cho chúng sinh, thì bất cứ khổ như thế cũng đều chịu được. Phật tu khổ hạnh là lợi ích chúng sinh, là thanh tịnh thế gian, khiến cho chúng sinh, chẳng có tư tưởng không thanh tịnh và hành vi ô nhiễm. Như vậy thì thế gian sẽ thanh tịnh chẳng ô nhiễm.

Nhờ vậy trí Phật trọn thành tựu”. Nhờ vậy mà Phật trong vô lượng kiếp tu khổ hạnh, lợi ích chúng sinh, thanh tịnh thế gian, làm đủ thứ công đức, hành đủ thứ sự khổ hạnh, là do trí của Phật khắp cùng thành tựu.

Ðại Quyến Thuộc Vương thấy như vậy“. Vị Ðại Quyến Thuộc A Tu La Vương, hiểu biết và thấy được cảnh giới của Phật, tu khổ hạnh và lợi ích chúng sinh.

 

Vô ngại vô đẳng đại thần thông,               Vô ngại vô đẳng đại thần thông
Biến động thập phương nhất thiết sát,      Ðộng khắp mười phương tất cả cõi
Bất sử chúng sanh hữu kinh phố,              Chẳng khiến chúng sinh sinh sợ hãi
Đại lực ư thử năng minh liễu.                    Ðại Lực thấu rõ pháp môn nầy.

Vô ngại vô đẳng đại thần thông“. Vô ngại tức là chẳng có gì chướng ngại, tức cũng là thông đạt vô ngại. Vô đẳng là chẳng có gì sánh bằng, tức cũng chẳng có gì bằng được. Thần thông có lớn có nhỏ, đều khác nhau. Thần thông nhỏ là thần thông của bàng môn tả đạo, chúng cũng có một thứ tiên tri tiên giác. Nếu trên thân bị động thì chúng nghĩ : hôm nay sẽ có ai đến ? Nếu mắt bị giựt thì chúng tưởng nghĩ : hôm nay phải phát sinh sự việc gì ? có khi cũng có chút linh nghiệm. Ðó là thần thông của kẻ chẳng khai mở ngũ nhãn lục thông.

Ðại thần thông là thần thông của bậc đã khai mỡ ngũ nhãn lục thông, các Ngài không cần suy nghĩ, cũng không cần khởi ý niệm, thì lập tức biết muốn phát sinh sự việc gì, hoặc là có cảnh giới gì muốn xảy ra, các Ngài đều thấy rõ ràng, biết được nhân quả ngoài tám vạn đại kiếp.

Ðộng khắp mười phương tất cả cõi“. Thần thông của Phật quảng đại không thể so sánh được, có thể làm cho mười phương tất cả cõi, khắp đều giao động, nhưng chẳng tổn thất tai hại gì.

Chẳng khiến chúng sinh sinh sợ hãi“. Tuy nhiên tại một cõi nước có biến động, động biến động, cho đến mười phương thế giới cũng biến động, cũng có động biến động. Nhưng không làm cho chúng sinh, có cảm giác kinh hãi sợ sệt. Tuy nhiên có động, nhưng chẳng nguy hiểm, đó là vì thần lực của Phật làm cho biến động.

Ðại Lực thấu rõ pháp môn này“. Vị Ðại Lực A Tu La Vương thấy rõ được cảnh giới nầy, vì vị nầy thấy được cảnh giới của Phật.

 

Phật xuất ư thế cứu chúng sanh,               Phật hiện ra đời cứu chúng sinh
Nhất thiết trí đạo hàm khai thị,                Tất cả trí đạo đều khai thị
Tất lệnh xả khổ đắc an lạc,                        Khiến cho lìa khổ được an lạc
Thử nghĩa biến chiếu sở hoằng xiển.         Biến Chiếu khai xiển được nghĩa nầy.

Phật hiện ra đời cứu chúng sinh“. Chư Phật ở tại Thường Tịch Quang tịnh độ, vừa thanh tịnh vừa an vui, vậy tại sao phải hiện ra nơi đời ác năm trược ? Phật thấy chúng sinh trôi nổi ở trong biển dục, thật đáng thương xót, cho nên khởi tâm thương xót đến thế giới Ta Bà nầy, để cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ.

Tất cả trí đạo đều khai thị“. Phật dùng tất cả trí huệ, để diễn nói đạo lý vượt ra khỏi hồng trần, tức cũng là pháp môn thoát khỏi ba cõi. Phật thấy người hạ căn, thì nói pháp về nhân quả nhân duyên, người trung căn thì nói pháp ba mươi bảy Ðạo Phẩm, thấy người thượng căn thì nói pháp Bồ Tát đạo lục độ vạn hạnh, đó là vì người thuyết pháp, pháp bình đẳng độ khắp ba căn, không phân biệt đó đây, đó là chỗ vĩ đại của Phật giáo, chỗ mà hơn các tôn giáo khác cũng tại chỗ nầy.

Khiến cho lìa khổ được an lạc“. Ðức Phật xuất hiện ra đời, duy chỉ một mục đích là : “Khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ mà đắc được an lạc”. Do đó : “Thân thư vô hiểm, tâm minh vô ưu”. Nghĩa là : “Thân thư thái thì chẳng nguy hiểm, tâm sáng suốt thì chẳng sầu lo”, tức cũng là thân tâm kiện khang. Phật giáo chú trọng về mặt tu dưỡng tinh thần, mà không chú trọng về mặt hưởng thụ vật chất. Cho nên người xuất gia vứt bỏ năm dục : 1. Không tham tài. 2. Không kết hôn. 3. Không cầu danh. 4. Không ăn thịt. 5. Không ngủ nhiều. Sống đời đạm bạc, đó là lối sống thanh tâm quả dục, chẳng phải phàm phu tục tử làm được. Vua Ðường Thái Tông có nói : “Xuất gia là việc của bậc đại trương phu”. Cho nên Phật giáo đề xướng tinh thần hơn hẳn vật chất, tinh thần là tư lương tu đạo, còn vật chất là nguồn gốc tạo nghiệp.

Biến Chiếu khai xiển được nghĩa này“. Ðạo lý nầy, vị Biến Chiếu A Tu La Vương khai thị xiển minh được.

 

Thế gian sở hữu chúng phước hải,            Tất cả biển phước của thế gian
Phật lực năng sanh phổ lệnh tịnh,            Phật lực sinh được khắp khiến tịnh
Phật năng khai thị giải thoát xứ,               Phật khai thị được nơi giải thoát
Kiên hạnh trang nghiêm nhập thử môn.   Kiên Hạnh Trang Nghiêm vào môn nầy.

Tất cả biển phước của thế gian“. Thế gian là tất cả chúng sinh thế gian, tức cũng là hữu tình thế gian. Phước do tu mà có, tu nghiệp thiện, làm công đức, tích tụ các thành tháp. Có đủ thứ công đức rồi, thì sau đó mới có đủ thứ phước báo, phước báo rộng lớn như biển cả. Cho nên, Ðức Phật gọi là phước đủ huệ đủ xưng là Lưỡng Túc Tôn. Phải phước huệ song tu, do đó :

“Tu phước không tu huệ, làm voi mang anh lạc,
Tu huệ không tu phước, La Hán ôm bát không”.

Phước là từng chút từng chút tích tập mà thành, giống như biển cả. Bất cứ nước sông lớn, hoặc nước sông nhỏ, đều chảy vào biển, cho nên mới thành biển cả. Tu phước cũng như thế, bất cứ phước bao nhiêu cũng phải tu, dù phước nhỏ như hạt bụi cũng đừng bỏ qua, do đó phước không tổn mất, tập ít thành nhiều, mới thành tựu biển phước.

Phật lực sinh được khắp khiến tịnh“. Sức lực của Phật không thể nghĩ bàn, sinh được tất cả phước thanh tịnh, khiến khắp tất cả chúng sinh đều đắc được phước báo thanh tịnh.

Phật khai thị được nơi giải thoát“. Ðức Phật khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh minh bạch đạo lý nầy, đắc được nơi giải thoát.

Kiên Hạnh Trang Nghiêm vào môn nầy“. Vị Kiên Cố Hạnh Diệu Trang Nghiêm A Tu La Vương, minh bạch được đạo lý nầy, do đó vào được môn giải thoát nầy. Ai vào được môn nầy, là nội hán môn, vào không được môn nầy là ngọai hán môn.

 

Phật đại bi thân vô dữ đẳng,                     Thân Phật đại bi không gì bằng
Châu hành vô ngại tất lệnh kiến,              Ði khắp vô ngại đều khiến thấy
Do như ảnh tượng hiện thế gian,               Ví như hình bóng hiện thế gian
Nhân tuệ năng tuyên thử công đức.          Nhân Huệ nói được công đức nầy.

Thân Phật đại bi không gì bằng“. Ðại bi tức là cứu khổ, giải trừ tất cả thống khổ của chúng sinh, do đó đồng thể đại bi, thấy người khổ giống như nỗi khổ của mình, thấy người vui giống như niềm vui của mình. Thân đại bi của Phật, trên thế gian chẳng có người nào có thể so sánh được. Phật là vô thượng, cho nên khi đức Phật đản sinh dưới cây Vô Ưu bèn nói : “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”.

Ði khắp vô ngại đều khiến thấy“. Chúng sinh trong mười phương thế giới, đều thấy được thân đại bi của Phật. Vì thân đại bi của Phật đi khắp pháp giới mà chẳng chướng ngại.

Giống như hình bóng hiện thế gian“. Thân đại bi của Phật, giống như hình và bóng, không lìa với nhau, hình không lìa bóng. Tóm lại, thân người bất cứ đến đâu, bóng cũng đều theo, mà không phân ly. Hình bóng thân đại bi hiện khắp trong hữu tình thế gian.

Nhân Huệ nói được công đức này“. Vị Quảng Ðại Nhân Huệ A Tu La Vương, diễn nói được công đức nầy, vào được môn giải thoát nầy.

 

Hy hữu vô đẳng đại thần thông,                Hi hữu vô đẳng đại thần thông
Xứ xứ hiện thân sung Pháp giới,               Nơi nơi hiện thân khắp pháp giới
Các tại Bồ-đề thụ hạ tọa,                           Thảy đều ngồi dưới cội bồ đề
Thử nghĩa Thắng đức năng tuyên thuyết.         Nghĩa này Thắng Ðức diễn nói được.

Hi hữu vô đẳng đại thần thông“. Hi hữu tức là hi kỳ ít có. Vô đẳng là chẳng gì sánh được. Sự thần thông hi kỳ ít có không thể sánh, chỉ có Phật mới có thần thông không thể suy nghĩ, không thể luận bàn.

Nơi nơi hiện thân khắp pháp giới“. Pháp thân của Phật, là tận hư không khắp pháp giới, nơi nơi đều hiện pháp thân. Pháp thân nầy chẳng thể sánh, chẳng chướng ngại.

Thảy đều ngồi dưới cội bồ đề“. Mỗi vị Phật đều ngồi dưới cội bồ đề ở thế gian của các Ngài, để làm gì ? tĩnh tọa tư duy pháp liễu sinh thoát tử.

Chúng ta đã trồng xuống hạt giống bồ đề, đợi cây bồ đề lớn lên, hy vọng cũng có Phật ngồi dưới cây bồ đề thành chánh giác. Phật pháp từ phương đông truyền đến phương tây, tại phương đông là thời đại mạt pháp, tại phương tây là thời đại chánh pháp, vì Phật pháp mới bắt đầu ở tây phương, cho nên các bạn học Phật pháp phải tinh tấn tu hành, nỗ lực nghiên cứu, trách nhiệm tục Phật huệ mạng là ở trên vai những người thanh niên các bạn, các bạn phải gánh lấy xứ mạng, làm cho Phật pháp phát dương quang đại, hoằng dương toàn thế giới. Trách nhiệm của các bạn trọng đại, đừng cô phụ kì vọng của Phật giáo !

Nghĩa nầy Thắng Ðức diễn nói được“. Nghĩa lý, cảnh giới môn giải thoát nầy, vị Hiện Thắng Ðức A Tu La Vương, diễn nói được đạo lý cảnh giới nầy. Cảnh giới nầy là cảnh giới của Phật, cảnh giới của Phật là vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả, vị A Tu La Vương nầy, minh bạch được cảnh giới nầy, còn cảnh giới khác của Phật thì chẳng biết.

 

Như Lai vãng tu tam thế hạnh,                 Ba đời Như Lai tu các hạnh
Chư thú Luân-hồi mị bất Kinh,                Các cõi luân hồi đều trải qua
Thoát chúng sanh khổ vô hữu dư,            Ðộ chúng sinh khổ không xót thừa
Thử Diệu-Âm Vương sở xưng tán.            Thiện Âm tán thán pháp môn nầy.

Ba đời Như Lai tu các hạnh“. Như Lai là Phật, Phật là Như Lai. Xưa kia, trong vô lượng kiếp ba đời chư Phật tu hành tất cả các hạnh môn. Ba đời tức là : quá khứ, hiện tại, và vị lai. Ví như, năm ngoái phải tu hành, năm nay phải tu hành, sang năm cũng phải tu hành. Tháng vừa rồi phải tu hành, tháng nầy phải tu hành, tháng tới càng phải tu hành. Giống như chúng ta người tu đạo, hôm qua tu như thế nầy, hôm nay tu như thế nầy, ngày mai cũng tu như thế nầy, ngày mốt cũng tu như thế nầy, phải ngày nào cũng tu hành không gián đoạn, thì mới có sự thành tựu.

Ðức Phật tu đạo, thì bất cứ việc thiện nhỏ như thế nào, cũng đi làm, còn việc ác nhỏ như thế nào, cũng chẳng làm. Cho nên, dùng việc thiện nhỏ mà tích tụ thành việc thiện lớn, đức Phật trong quá khứ tu viên mãn tám vạn bốn ngàn pháp môn.

Các cõi luân hồi đều trải qua“. Các cõi là : Cõi trời, cõi người, cõi A tu la, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục. Trong sáu nẻo luân hồi, Phật đều bình đẳng đi thọ sinh. Trong cõi đó, đều bình đẳng giáo hóa chúng sinh cõi đó, cho nên nói các cõi luân hồi đều trải qua.

Luân hồi phân làm sáu cửa, tùy theo nghiệp lực của họ mà vào cửa, người tu nghiệp thiện, thì chuyển vào cửa ba đường lành; người tu nghiệp ác, thì chuyển vào của ba đường ác, đây chẳng có ai thẩm phán mà là tự động. Một số chúng sinh, lưu chuyển ở trong sinh tử, sinh rồi lại tử, tử rồi lại sinh, sinh sinh tử tử không thời hạn, trôi nổi ở trong biển khổ, không được giải thoát.

Phật vì cứu chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử, mới đến các cõi để giáo hóa, giáo hóa chúng sinh trong cõi trời, cõi người, cõi A Tu La, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục. Phật thị hiện đủ thứ thân chúng sinh để thuyết pháp, khiến cho chúng sinh liễu sinh thoát tử.

Ðộ chúng sinh khổ không xót thừa“. Phật làm thế nào để giáo hóa chúng sinh ? Tức là vào trong các cõi, hiện thân chúng sinh, mà vì chúng sinh thuyết pháp, khiến cho chúng sinh lià khổ được vui. Gặp chúng sinh không hiểu Phật Pháp, thì Phật dùng tâm nhẫn nhục, để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh tu hành, chúng sinh đã biết tu hành, thì Phật giúp cho họ thành tựu đạo nghiệp, chúng sinh đã thành tựu đạo nghiệp, thì Phật trợ giúp cho họ được giải thoát, khiến cho chúng sinh cầu đạo, tu đạo, hiểu đạo, thành đạo, đắc được quả giác viên mãn vốn có, làm cho chúng sinh hết khổ, một chút cũng không xót thừa.

Thiện Âm tán thán pháp môn nầy“. Vị Thiện Âm A Tu La Vương, tán thán ca ngợi cảnh giới vi diệu nầy, môn giải thoát nầy của Phật. Bây giờ đã giảng xong sở đắc môn giải thoát và kệ của tám bộ chúng trong dị sinh chúng. Dưới đây tiếp tục giảng các Thần mười chín chúng.