Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Như Lai Xuất Hiện 1

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 37

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

PHẨM NHƯ LAI XUẤT HIỆN 1

 

Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật. Mười danh hiệu tức là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Thế nào là Như Lai? Tức là thừa như thật đạo, lai thành chánh giác. Trong Kinh Kim Cang có nói :

Như Lai giả
Vô sở tùng lai
Diệc vô sở khứ
Cố danh Như Lai

Vô sở tùng lai, tức là chẳng sinh, diệc vô sở khứ, tức là chẳng diệt. Cũng có thể nói phiền não chẳng sinh, giác ngộ chẳng diệt.

Xuất hiện tức là ý nghĩa Như Lai xuất hiện ra đời. Như Lai đến thế giới Ta Bà để vì chúng sinh diễn nói diệu pháp, giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ giác ngộ, thoát khỏi ba cõi, đến được bờ bên kia. Phẩm nầy là Phẩm ba mươi bảy trong ba mươi chín phẩm của Kinh Hoa Nghiêm.

 

Nhĩ thời, Thế Tôn tùng my gian bạch hào tướng trung phóng đại quang minh, danh: Như Lai xuất hiện, vô lượng bách thiên ức na-do-tha a-tăng-kì quang minh dĩ vi quyến thuộc. Kỳ quang phổ chiếu thập phương tận hư không Pháp giới nhất thiết thế giới, hữu nhiễu thập tạp, hiển hiện Như Lai vô lượng tự tại, giác ngộ vô số chư Bồ-tát chúng, chấn động nhất thiết thập phương thế giới, trừ diệt nhất thiết chư ác đạo khổ, ánh tế nhất thiết chư ma cung điện, hiển thị nhất thiết chư Phật Như Lai tọa Bồ-đề tọa thành đẳng chánh giác cập dĩ nhất thiết đạo tràng chúng hội; tác thị sự dĩ, nhi lai hữu nhiễu Bồ Tát chúng hội, nhập Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ Tát đảnh

Bấy giờ đức Thế Tôn từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng đại quang minh tên là Như Lai xuất hiện. Có vô lượng trăm ngàn ức na do tha a tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc. Quang minh đó chiếu khắp mười phương tất cả thế giới tận hư không pháp giới, hữu nhiễu bảy vòng, hiển hiện Như Lai vô lượng tự tại, giác ngộ vô số chúng Bồ Tát, chấn động tất cả thập phương thế giới, trừ diệt tất cả khổ ác đạo, chói che tất cả cung điện ma, hiển thị tất cả chư Phật Như Lai ngồi tòa Bồ Ðề thành Ðẳng Chánh Giác và cùng tất cả đạo tràng chúng hội. Quang minh đó làm những sự như vậy rồi trở lại hữu nhiễu chúng Bồ Tát nhập vào đảnh đầu của Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát.

Giảng: Lúc đó, trong tướng hào quang trắng, giữa lông mày của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng ra đại quang minh, tên là quang minh Như Lai xuất hiện. Có vô lượng trăm ngàn ức na do tha A tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc, chiếu sáng khắp mười phương, tận hư không khắp pháp giới tất cả thế giới. Quang minh đó nhiễu quanh bên phải mười vòng. Tại sao phải nhiễu bên phải mười vòng ? Vì vòng bên phải là thuận hành. Mười vòng là ý nghĩa đại biểu vô lượng vô tận, vô tận trùng trùng. Hiển hiện vô lượng tự tại của Như Lai, giác ngộ vô số tất cả chúng Bồ Tát. Bồ Tát tu hành đến Sơ địa, chẳng biết cảnh giới của bậc Nhị địa, cho đến Bồ Tát Thập địa cũng chẳng biết cảnh giới của bậc Đẳng Giác. Do đó, tuy Bồ Tát đắc được quang minh trí huệ Thập lực của Như Lai, nhưng chỉ có thể tương tự Phật mà thôi, kỳ thật còn cách xa Phật rất xa. Đó là lý do tại sao Bồ Tát chưa gọi là Phật. Cho nên Bồ Tát Đẳng Giác vẫn chưa biết cảnh giới của bậc Diệu Giác (Phật).

Lúc đó, đại địa trong mười phương thế giới có sáu thứ chấn động. Biểu thị cảnh giới chư Phật sắp muốn nói diệu pháp, hoặc chư Bồ Tát, hoặc Thánh nhân chứng quả, khi thuyết pháp thì có sự kiện đất chấn động, nhưng không có tai hại, đó là khiến cho chúng sinh khai ngộ.

Khi Như Lai chuẩn bị nói pháp thì có sự chấn động, tuy chấn động tất cả mười phương thế giới, nhưng chẳng có tai nạn, đều bình an vô sự. Chúng sinh thấy được quang minh đó của Như Lai, sẽ trừ diệt được tất cả các khổ đường ác, đắc được an lạc.

Chúng ta mỗi ngày nghe Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, ai thân tâm thanh tịnh, chẳng có nhiễm ô, thì người đó thấy được quang minh của Phật. Vì quang minh của Phật chiếu khắp, chỉ cần người có căn lành, thì bất cứ lúc nào cũng đều có cơ hội thấy được quang minh của Phật. Nếu vọng tưởng lăn xăn, tà kiến đa đoan, thì sẽ không thấy được quang minh của Phật.

Quang minh đó, chiếu sáng tất cả các cung ma. Tuy ma có quang minh, nhưng không bằng quang minh của Phật. Khi quang minh của ma gặp quang minh của Phật, thì quang minh của ma ẩn tàng mất, không dám hiển hiện, vì tà không thắng chánh.

Khi tôi còn ở tại quê hương đông bắc Trung Quốc, thường có một nhóm người đệ tử quy y theo tôi đi khắp nơi hoằng dương Phật pháp, giáo hoá người có duyên. Trong những đệ tử đó, có người lúc nào cũng xuất thần nhập hoá, không bị giới hạn. Chẳng giống như người tu hành Đạo Giáo, trước hết phải ngồi ở đó, mới có thể xuất thần nhập hoá. Trong nhóm đệ tử, có người đệ tử rất trẻ tuổi ham chơi. Cậu ta có thể hoá thân bay lên trời, đi vào đất. Một lần nọ, gặp thiên ma ở trên trời, thiên ma rủ cậu ta lên thiên cung ma dạo chơi xem cho biết. Cậu ta bị tâm háo kỳ sai khiến, bèn theo thiên ma đi, ai ngờ bị thiên mà trói nhốt lại, cậu ta chẳng làm gì được.

Lúc đó, cậu ta sinh tâm sợ hãi, bèn đến nói với tôi : – Sư phụ ơi ! Con bị thiên ma trói nhốt lại ở trong cung điện của chúng, không cho con trở về.

Tôi nói với cậu ta : – Con có muốn ở lại đó chăng ?»

Cậu ta nói : – Con không muốn ở lại đây.

Tôi nói : – Nếu con không muốn, thì ta sẽ đưa con trở về đây.

Lúc đó, tôi bèn dùng Chú Lăng Nghiêm phá lưới ma la, hàng phục được pháp thuật của ma, đập tan cung điện của ma, cậu ta được bình an trở về. Lần đó dạy dỗ rồi, cậu ta không dám đi lên trời chơi nữa, từ đó giữ gìn quy cụ tu đạo. Do đó có thể thấy, nếu người tu đạo không cẩn thận, lập tức gặp sự nguy hiểm.

Tại sao thiên ma nhốt cậu ta ở lại trong cung điện ma ? Vì cậu đệ tử này có thần thông, thiên ma muốn cậu ta biến thành quyến thuộc của ma vương, có thể tăng thêm thế lực của chúng. Ma vương quỷ kế đa đoan, dùng trăm phương ngàn kế, muốn bắt người tu đạo, để làm quyến thuộc của chúng. Cho nên người tu hành phải cẩn thận, tu hành chân chánh thì mới phá được pháp thuật của ma.

Ở trong đại quang minh nầy, hiển bày tất cả chư Phật ngồi dưới cội bồ đề, trên toà báu sư tử, thành Chánh Đẳng Chánh Giác, và tất cả chúng hội đạo tràng thuyết pháp của Như Lai. Làm những cảnh giới đó rồi, quang minh lại đến đạo tràng, nhiễu vòng bên phải chúng hội Bồ Tát. Sau đó nhập vào đỉnh Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ Tát. Diệu Đức tức là Bồ Tát Văn Thù. Dùng Bồ Tát Đại Trí Văn Thù làm năng hiển, Bồ Tát Phổ Hiền pháp giới làm sở hiển, cộng thành xuất hiện Tỳ Lô Giá Na, cho nên gọi là Hoa Nghiêm Tam Thánh.

 

Thời, thử đạo tràng nhất thiết Đại chúng thân tâm dõng dược, sanh đại hoan hỉ, tác như thị niệm: thậm kì hy hữu! kim giả Như Lai phóng đại quang minh, tất đương diễn thuyết thậm thâm đại pháp. Nhĩ thời.

Như Lai tánh khởi diệu đức Bồ Tát ư liên hoa tọa thượng, thiên đản hữu kiên, hữu kị hợp chưởng, nhất tâm hướng Phật nhi thuyết tụng ngôn:

Lúc đó tất cả đại chúng trong đạo tràng này, thân tâm hớn hở rất hoan hỷ mà nghĩ rằng : Rất lạ ít có nay đây đức Như Lai phóng đại quang minh tất sẽ diễn nói thậm thâm đại pháp.

Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát, ở trên tòa liên hoa trịch bày vai hữu, quỳ gối hữu, chắp tay nhứt tâm hướng lên Phật mà nói kệ rằng :

Giảng: Lúc đó, hết thảy tất cả chúng hội trong đạo tràng, thân tâm của các Ngài rất hớn hở vui mừng, đều sinh tâm đại hoan hỉ, đều nghĩ như vầy : Rất kỳ lạ thay ! Rất là hi hữu, hôm nay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra vô lượng đại quang minh, chắc sẽ diễn nói pháp lớn vi diệu thâm sâu vô thượng.

Lúc đó, Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ Tát, ngồi trên hoa sen, hở bày vai bên phải, biểu thị cung kính Phật. Quỳ gối bên phải chắp tay lại, một lòng hướng về Đức Phật mà nói ra mười bài kệ dưới đây. Năm bài kệ trước là tán thán khen ngợi Phật, năm bài kệ sau là hướng về Đức Phật thỉnh pháp.

 

Chánh giác công đức đại trí xuất                       Chánh giác công đức đại trí hiện
Phổ đạt cảnh giới đáo bỉ ngạn,                           Khắp đạt cảnh giới đến bĩ ngạn
Đẳng ư tam thế chư Như Lai,                            Ðồng với tam thế chư Như Lai
Thị cố ngã kim cung kính lễ.                               Vì thế nay tôi cung kính lễ

Giảng: Như Lai là bậc Chánh giác đại trí huệ, tức cũng là người có đại công đức. Thông đạt khắp cảnh giới, đến được bờ bên kia. Đồng với tất cả Như Lai mười phương ba đời, bởi nhân duyên đó, cho nên con (Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ Tát) nay cung kính lễ Phật.

 

Dĩ thăng vô tướng cảnh giới ngạn                      Ðã lên bờ cảnh giới vô tướng
Nhi hiện diệu tướng trang nghiêm thân,         Mà hiện thân diệu tướng trang nghiêm
Phóng ư ly cấu thiên quang minh,                      Phóng ra ngàn quang minh ly cấu
Phá ma quân chúng hàm lệnh tận.                    Phá dẹp quân ma đều hết sạch

Giảng: Như Lai đã thăng đến bờ cảnh giới vô tướng lìa tướng, thân tướng của Như Lai hiện tại vi diệu không thể nghĩ bàn – pháp thân trang nghiêm. Phóng ra ngàn luồng quang minh thanh tịnh chẳng có cấu bẩn. Quang minh đó, hay phá trừ tất cả chúng ma quân, hoàn toàn tiêu diệt sạch thế lực của ma.

 

Thập phương sở hữu chư thế giới,                     Mười phương bao nhiêu những thế giới
Tất năng chấn động vô hữu dư,                         Ðều hay chấn động không có thừa
Vị tằng khủng bố nhất chúng sanh,                   Chưa từng kinh sợ một chúng sanh
Thiện-Thệ uy thần lực như thị.                           Thần lực đức Thiện Thệ như vậy

Giảng: Mười phương hết thảy tất cả thế giới, đều chấn động, chẳng có nơi nào mà chẳng chấn động. Tuy chấn động, nhưng chẳng có sự tai hại, không làm cho tất cả chúng sinh sợ hãi, cho đến một chúng sinh cũng không sinh tâm sợ hãi. Tại sao? Vì đó là sức oai thần của đấng Thiện Thệ, nên không thể gây ra tai hại.

 

Hư không pháp giới tánh bình đẳng,                Hư không pháp giới tánh bình đẳng
Dĩ năng như thị nhi an trụ                                  Ðã được như vậy mà an trụ
Nhất thiết hàm sanh vô số lượng,                    Tất cả quần sanh vô số lượng
Hàm lệnh diệt ác trừ chúng cấu.                        Ðều khiến dứt ác trừ những lỗi

Giảng: Tánh Như Lai và hư không pháp giới đều bình đẳng, chẳng trong chẳng ngoài, chẳng lớn chẳng nhỏ. Như Lai với pháp giới là một thể, hay an trụ trong tất cả thế giới. Hết thảy tất cả chúng sinh nhiều chẳng có số lượng, nhưng Như Lai hay khiến cho tất cả chúng sinh, không làm các điều ác, mà làm các việc lành, tiêu diệt tất cả các ác, trừ sạch tất cả sự cấu bẩn.

 

Khổ hạnh cần lao vô số kiếp,                              Khổ hạnh siêng nhọc vô số kiếp
Thành tựu tối thượng Bồ-đề đạo,                     Thành tựu tối thượng đạo Bồ Ðề
Ư chư cảnh giới trí vô ngại,                                Ở các cảnh giới trí vô ngại
Dữ nhất thiết Phật đồng kỳ tánh.                      Cùng tất cả Phật đồng thể tánh

Giảng: Tại sao Phật đã được thành Phật? Vì siêng tu khổ hạnh, chẳng có khi nào giải đãi lười biếng. Trải qua vô số đại kiếp, thành tựu bồ đề giác đạo tối thượng. Đối với tất cả cảnh giới, dùng trí huệ vô ngại để giải quyết mọi vấn đề. Đồng một thể tánh với mười phương ba đời tất cả chư Phật, do đó có câu: “Phật Phật đạo đồng”, tức cũng là đồng một pháp thân.

 

Đạo sư phóng thử đại quang minh,                    Ðạo sư phóng ra quang minh này
Chấn động thập phương chư thế giới,              Chấn động mười phương các thế giới
Dĩ hiện vô lượng thần thông lực                         Ðã hiện vô lượng sức thần thông
Nhi phục hoàn lai nhập ngã thân.                      Rồi lại trở vào nhập thân tôi

Giảng: Đạo Sư phóng đại quang minh nầy, chấn động mười phương tất cả thế giới, đã hiện ra vô lượng vô biên sức thần thông. Quang minh đó lại trở lại, nhập vào đỉnh đầu của con (Bồ Tát Diệu Đức).

 

Quyết định pháp trung năng thiện học,         Trong pháp quyết định khéo học được
Vô lượng Bồ Tát giai lai tập                                Vô lượng Bồ Tát đều đến nhóm
Lệnh ngã phát khởi vấn Pháp tâm,                   Khiến tôi phát khởi lòng vấn pháp
Thị cố ngã kim thỉnh pháp vương.                    Thế nên nay tôi thỉnh Pháp Vương

Giảng: Như Lai quyết định ở trong pháp đại bồ đề, hay khéo học. Có vô lượng vô biên Bồ Tát, từ bốn phương tám hướng đều đến tụ tập. Sức lực của họ khiến cho con sinh khởi tâm thỉnh hỏi Phật pháp. Nhờ vậy, cho nên hiện tại con thỉnh bậc Pháp Vương, vì đại chúng nói diệu pháp, khai thị để khiến cho người nghe có cơ hội khai ngộ.

 

Kim thử chúng hội giai thanh tịnh                     Nay chúng hội này đều thanh tịnh
Thiện năng độ thoát chư thế gian,                     Khéo độ thoát được các thế gian
Trí tuệ vô biên vô nhiễm trước,                          Trí huệ vô biên không nhiễm trước
Như thị hiền thắng hàm lai tập.                          Những bực Hiền này đều về nhóm

Giảng: Hiện tại đại chúng ở trong chúng hội, đều được thanh tịnh, khéo độ thoát hết thảy chúng sinh thế gian. Trí huệ của Như Lai không có bờ mé, không có nhiễm ô, không có chấp trước. Hiện tại Bố Tát đến tụ tập cũng là bậc có trí huệ không bờ mé, không nhiễm trước, đều là bậc Hiền nhân, đều có đạo quả thù thắng, đều là Thánh nhân chứng quả, đều đến tụ hội ở đây.

 

Lợi ích thế gian tôn Đạo sư,                                Lợi ích thế gian đấng Ðạo Sư
Trí tuệ tinh tấn giai vô lượng,                            Trí huệ tinh tấn đều vô lượng
Kim dĩ quang minh chiếu Đại chúng,                Nay đem quang minh chiếu đại chúng
Lệnh ngã vấn ư vô thượng pháp.                       Khiến tôi thỉnh hỏi pháp vô thượng

Giảng: Các Ngài là đấng Đạo Sư lợi ích thế gian, trí huệ vô lượng, tinh tấn vô lượng. Hiện tại Như Lai dùng đại quang minh để chiếu khắp đại chúng, khiến cho con thỉnh hỏi Phật pháp vô thượng. Xin Đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con mà diễn nói diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật.

 

Thùy ư đại tiên thâm cảnh giới,                          Ai ở cảnh giới của Như Lai
Nhi năng chân thật cụ khai diễn                        Mà hay chơn thiệt khai diễn đủ ?
Thùy thị Như Lai Pháp trưởng tử?                    Ai là Pháp Trưởng Tử của Phật ?
Thế gian tôn đạo nguyện hiển thị!                    Thế Tôn Ðạo Sư xin hiển thị

Giảng: Ai có thể thấu rõ cảnh giới thâm sâu của Đại Giác Kim Tiên, chân thật không hư, đầy đủ viên mãn, đến khai thị tất cả chúng sinh, diễn nói tất cả Phật pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được giác ngộ, ai tức là pháp trưởng tử của Như Lai. Đấng Đạo Sư thế gian, nguyện vì chúng con đại chúng hiển bày.

 

Nhĩ thời, Như Lai tức ư khẩu trung phóng đại quang minh, danh: vô ngại vô úy, bách thiên ức a-tăng-kì quang minh dĩ vi quyến thuộc. Phổ chiếu thập phương tận hư không đẳng Pháp giới nhất thiết thế giới, hữu nhiễu thập tạp, hiển hiện Như Lai chủng chủng tự tại, khai ngộ vô lượng chư Bồ-tát chúng, chấn động nhất thiết thập phương thế giới, trừ diệt nhất thiết chư ác đạo khổ, ánh tế nhất thiết chư ma cung điện, hiển thị nhất thiết chư Phật Như Lai tọa Bồ-đề tọa thành đẳng chánh giác cập dĩ nhất thiết đạo tràng chúng hội; tác thị sự dĩ, nhi lai hữu nhiễu Bồ Tát chúng hội, nhập Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát khẩu. kỳ quang nhập dĩ, Phổ Hiền Bồ Tát thân cập sư tử tọa, qua ư bản thời cập chư Bồ-tát thân tọa bách bội, duy trừ Như Lai sư tử chi tọa.

Bấy giờ đức Như Lai liền ở trong miệng phóng ra đại quang minh tên là Vô ngại vô úy, có trăm ngàn ức a tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới tận hư không pháp giới, hữu nhiễu mười vòng, hiển hiện Như Lai các thứ tự tại, khai ngộ vô lượng những chúng Bồ Tát, chấn động tất cả mười phương thế giới, diệt trừ tất cả những khổ ác đạo, chói che tất cả những cung điện ma, hiển thị tất cả chư Phật Như Lai ngồi tòa Bồ Ðề thành Ðẳng Chánh Giác và đến tất cả chúng hội đạo tràng. Ðại quang minh này làm những sự như vậy rồi trở lại hữu nhiễu chúng hội Bồ Tát, nhập vào miệng của Phổ Hiền đại Bồ Tát. Ðại quang minh nhập xong thời thân và tòa sư tử của Phổ Hiền Bồ Tát hơn lúc trước và hơn thân tòa của chư Bồ Tát gấp trăm lần, chỉ trừ toà sư tử của Như Lai.

Giảng: Lúc đó, ở trong miệng của Như Lai liền phóng ra đại quang minh, tên là quang minh Vô ngại vô uý. Có trăm ngàn ức A tăng kỳ quang minh dùng làm quyến thuộc. Chiếu sang khắp mười phương, tận hư không khắp cùng pháp giới tất cả thế giới. Nhiễu bên phải mười vòng, hiển hiện đủ thứ tự tại của Như Lai. Khai ngộ vô lượng các chúng Bồ Tát. Chấn động tất cả mười phương thế giới. Diệt trừ tất cả các khổ não đường ác, chiếu sáng tất cả các cung điện ma. Hiển bày tất cả chư Phật Như Lai ngồi dưới toà bồ đề, trên toà kim cang báu, thành Đẳng Chánh Giác, cùng với tất cả chúng hội đạo tràng. Làm những việc đó rồi, đến nhiễu bên phải chúng hội Bồ Tát, rồi nhập vào trong miệng của đại Bồ Tát Phổ Hiền. Quang minh đó nhập vào trong miệng của Bồ Tát Phổ Hiền rồi, thân và toà sư tử của Bồ Tát Phổ Hiền trang nghiêm hơn lúc bình thường, gấp trăm lần so với thân và toà của tất cả các Bồ Tát khác, ngoại trừ toà sư tử của Như Lai.

 

Nhĩ thời, Như Lai tánh khởi diệu đức Bồ Tát vấn Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát ngôn:

Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát hỏi Phổ Hiền đại Bồ Tát :

Giảng: Lúc đó, Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ Tát, hỏi đại Bồ Tát Phổ Hiền rằng:

 

Phật tử! Phật sở thị hiện quảng đại thần biến, lệnh chư Bồ-tát giai sanh hoan hỉ, bất khả tư nghị, thế mạc năng tri, thị hà thụy tướng

Thưa Phật tử ! Ðức Thế Tôn đã thị hiện thần biến quảng đại làm cho chúng Bồ Tát đều sanh hoan hỷ chẳng thể nghĩ bàn, thế gian chẳng biết được. Ðó là thoại tướng gì ?

Giảng: Phật tử! Đức Phật thị hiện tướng luồng hào quang trắng phóng quang minh và trong miệng phóng quang minh. Đại thần thông biến hoá rộng lớn đó, khiến cho tất cả Bồ Tát đều sinh hoan hỉ. Cảnh giới đó thật không thể nghĩ bàn. Chúng sinh thế gian không thể biết được, đó là tướng tốt lành gì?

 

Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát ngôn:

Phật tử! ngã ư vãng tích kiến chư Như Lai, ưng, chánh đẳng giác thị hiện như thị quảng đại thần biến, tức thuyết Như Lai xuất hiện Pháp môn. Như ngã duy thốn, kim hiện thử tướng, đương thuyết kỳ Pháp. Thuyết thị ngữ thời, nhất thiết Đại địa tất giai chấn động, xuất sanh vô lượng vấn pháp quang minh.

Phổ Hiền đại Bồ Tát nói :

Phật tử ! Thưở xưa, tôi thấy chư Như Lai Ứng Ðẳng Chánh Giác thị hiện thần biến quảng đại như vậy, liền nói pháp môn Như Lai xuất hiện. Cứ theo tôi suy gẫm : nay đức Như Lai hiện tướng này tất sẽ nói pháp môn đó. Lúc Phổ Hiền Bồ Tát nói lời trên xong, tất cả đại địa thảy đều chấn động, xuất sanh vô lượng quang minh vấn pháp.

Giảng: Đại Bồ Tát Phổ Hiền đáp rằng: “Phật tử! Lúc thuở xưa, tôi đã từng thấy tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đều thị hiện thần thông biến hoá rộng lớn như vậy, lập tức diễn nói pháp môn Như Lai xuất hiện. Như chỗ tôi nghĩ kỹ càng, thì nay Như Lai thị hiện tướng này, sẽ nói diệu pháp”.

Khi Bồ Tát Phổ Hiền nói lời đó, thì tất cả mặt đất thảy đều chấn động, sinh ra vô lượng quang minh hỏi pháp. Quang minh đó hay tăng thêm trí huệ, trợ giúp thưa hỏi.

 

Thời, tánh khởi diệu đức Bồ Tát vấn Phổ Hiền Bồ Tát ngôn:

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà tri chư Phật Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện chi Pháp? nguyện vi ngã thuyết!

Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát hỏi Phổ Hiền Bồ Tát :

Thưa Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải thế nào để biết pháp xuất hiện của chư Phật Như Lai ? Xin Phật tử nói cho.

Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Tánh Khởi Diệu Đức, lại hỏi Bồ Tát Phổ Hiền rằng: “Phật tử! Đại Bồ Tát làm sao biết pháp của tất cả chư Phật Như Lai xuất hiện? Xin Ngài hãy vì tôi nói rõ.

 

Phật tử! thử chư vô lượng bách thiên ức na do tha Bồ Tát chúng hội, giai cửu tu tịnh nghiệp, niệm tuệ thành tựu, đáo ư cứu cánh đại trang nghiêm ngạn, cụ nhất thiết Phật uy nghi chi hành, chánh niệm chư Phật vị tằng vong thất, đại bi quan sát nhất thiết chúng sanh, quyết định liễu tri chư đại Bồ-tát thần thông cảnh giới, dĩ đắc chư Phật thần lực sở gia, năng thọ nhất thiết Như Lai diệu pháp; cụ như thị đẳng vô lượng công đức, giai dĩ lai tập.

Phật tử! Vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng hội Bồ Tát này đều tu tịnh nghiệp đã lâu, niệm huệ thành tựu, đã đến bờ rốt ráo đại trang nghiêm, đủ tất cả hạnh oai nghi của Phật, chánh niệm chư Phật chưa từng quên mất, lòng đại bi quán sát tất cả chúng sanh, quyết định biết rõ thần thông cảnh giới của chư đại Bồ Tát, đã được thần lực của chư Phật gia hộ, hay thọ tất cả diệu pháp của Như Lai, đủ vô lượng công đức như vậy đều đến nhóm họp tại đây.

Giảng: Phật tử! Các đại Bồ Tát ở trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha chúng hội Bồ Tát nầy, ở trong vô lượng kiếp về trước, đều đã tu hành nghiệp thanh tịnh, cho nên niệm huệ thành tựu. Đạt đến nơi bờ rốt ráo đại trang nghiêm. Đầy đủ tất cả hạnh oai nghi của chư Phật. Chánh niệm chư Phật chưa từng quên mất. Dùng tâm đại bi để quán sát tất cả chúng sinh, quyết định biết rõ cảnh giới thần thông của tất cả các đại Bồ Tát. Đã được đại oai thần lực của chư Phật gia trì, tiếp thọ được diệu pháp của tất cả Như Lai, đầy đủ vô lượng công đức như vậy, đều đến tụ tập ở trong Bồ Tát chúng hội đạo tràng.

 

Phật tử! nhữ dĩ tằng ư vô lượng bách thiên ức na-do-tha Phật sở thừa sự cúng dường, thành tựu Bồ Tát tối thượng diệu hạnh, ư tam muội môn giai đắc tự tại, nhập nhất thiết Phật bí mật chi xứ, tri chư Phật Pháp, đoạn chúng nghi hoặc, vi chư Như Lai thần lực sở gia, tri chúng sanh căn, tùy kỳ sở lạc vi thuyết chân thật giải thoát chi Pháp, tùy thuận Phật trí diễn thuyết Phật Pháp đáo ư bỉ ngạn, hữu như thị đẳng vô lượng công đức.

Phật tử đã từng ở chỗ vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phật, thừa sự cúng dường, thành tựu diệu hạnh tối thượng của Bồ Tát, nơi môn tam muội đều được tự tại, vào chỗ bí mật của tất cả chư Phật, biết các Phật pháp, dứt những nghi lầm, được thần lực của Phật gia hộ, biết căn khí của chúng sanh tùy theo sở thích của họ mà nói pháp chơn thiệt giải thoát, tùy thuận Phật trí, diễn nói Phật pháp đến nơi bĩ ngạn, có vô lượng công đức như vậy.

Giảng: Phật tử! Ngài đã từng ở tại vô lượng trăm ngàn ức Na do tha chỗ đức Phật, thừa sự Phật, cúng dường Phật, thành tựu diệu hạnh tối thượng của Bồ Tát. Đối với pháp môn tam muội (chánh định chánh thọ), đều được nhậm vận tự tại, có thể nhập vào nơi bí mật của tất cả chư Phật. (Tức là nơi chúng sinh không thể biết được, đây chẳng phải là chư Phật không cho chúng sinh biết, mà do chúng sinh chẳng có đại trí huệ, nên không minh bạch được cảnh giới của Phật, kỳ thật Phật chẳng có gì bí mật để nói). Có thể biết tất cả các pháp của Phật nói, hay dứt trừ các nghi hoặc của chúng sinh. Đó là nhờ đại oai thần lực của tất cả chư Phật gia trì cho Ngài, khiến cho Ngài biết được căn tánh của tất cả chúng sinh, tuỳ theo sự hoan hỉ của chúng sinh, mà vì chúng sinh nói pháp chân thật giải thoát. Tuỳ thuận trí huệ của Phật, diễn nói Phật pháp, đến được bờ bên kia. Có vô lượng công đức như vậy.

 

Thiện tai Phật tử! nguyện thuyết Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện chi Pháp, thân tướng, ngôn âm, tâm ý cảnh giới, sở hạnh chi hành, thành đạo chuyển Pháp, nãi chí thị hiện nhập Bát Niết Bàn, kiến văn thân cận sở sanh thiện căn; như thị đẳng sự, nguyện giai vi thuyết!

Lành thay Phật tử ! Xin nói pháp xuất hiện của Như Lai Ðẳng Chánh Giác, những thân tướng, ngôn âm, tâm ý, cảnh giới, hạnh đã làm, thành đạo, chuyển pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Ðại Niết Bàn, thấy nghe thân cận được sanh thiện căn. Những sự như vậy xin Phật tử nói cho.

Giảng: Lành thay! Phật tử! Xin Ngài hãy vì chúng tôi đại chúng nói pháp sau khi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
1. Pháp tướng Như Lai xuất hiện.
2. Thân tướng Như Lai xuất hiện.
3. Tướng tiếng nói của Như Lai xuất hiện.
4. Tướng tâm ý Như Lai xuất hiện.
5. Cảnh giới Như Lai xuất hiện.
6. Hạnh tu Như Lai xuất hiện.
7. Như Lai xuất hiện thành đạo.
8. Như Lai xuất hiện chuyển pháp luân.
9. Như Lai xuất hiện vào Bát Niết Bàn.
10. Thấy được thân Như Lai, nghe được tiếng của Như Lai, gần gũi Như Lai, cúng dường Như Lai sinh ra căn lành.
Mười thứ tướng việc như vậy, xin Ngài Bồ Tát Phổ Hiền hãy vì đại chúng nói rõ ràng.

 

Thời, Như Lai tánh khởi diệu đức Bồ Tát dục trọng minh thử nghĩa, hướng Phổ Hiền Bồ Tát nhi thuyết tụng viết:

Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát muốn tuyên rõ nghĩa này bèn hướng về Phổ Hiền Bồ Tát mà nói kệ rằng :

Giảng: Lúc đó, Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ Tát, muốn thuật rõ lại nghĩa nầy, bèn hướng về Bồ Tát Phổ Hiền mà nói mười bài kệ dưới đây.

 

Thiện tai vô ngại đại trí tuệ,                                Lành thay vô ngại đại trí huệ
Thiện giác vô biên bình đẳng cảnh,                    Khéo tỏ vô biên cảnh bình đẳng
Nguyện thuyết vô lượng Phật sở hạnh            Nguyện nói công hạnh của chư Phật
Phật tử văn dĩ giai hân khánh!                           Ðại chúng được nghe đều mừng rỡ

Giảng: Lành thay! Lành thay! Ngài là vị đại Bồ Tát đại trí huệ vô ngại, khéo giác ngộ vô biên cảnh giới bình đẳng. Xin Ngài hãy nói vô lượng hạnh của chư Phật tu hành. Phật tử trong chúng hội lắng nghe rồi, thì chắc chắn sẽ rất vui mừng.

 

Bồ Tát vân hà tùy thuận nhập                           Bồ Tát thế nào tùy thuận nhập
Chư Phật Như Lai xuất hưng thế?                    Chư Phật Như Lai hiện ra đời
Vân hà thân ngữ tâm cảnh giới?                        Cảnh giới thân, ngữ, ý thế nào
Cập sở hạnh xứ nguyện giai thuyết!                   Và chỗ thật hành xin đều nói

Giảng: Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo như thế nào? Làm thế nào có thể tuỳ thuận nhập vào Phật pháp? Nhân duyên mười phương chư Phật Như Lai hiện ra đời như thế nào? Cảnh giới thân miệng ý của Như Lai như thế nào? Cùng với hạnh của Như Lai tu hành, xin Ngài hãy vì chúng tôi nói rõ.

 

Vân hà chư Phật thành chánh giác?                 Thế nào chư Phật thành Chánh Giác ?
Vân hà Như Lai chuyển pháp luân?                  Thế nào Như Lai chuyển pháp luân ?
Vân hà Thiện-Thệ Bát Niết Bàn?                       Thế nào Thiện Thệ nhập Niết Bàn ?
Đại chúng văn dĩ tâm hoan hỉ.                           Ðại chúng được nghe lòng hoan hỉ

Giảng: Mười phương chư Phật thành Chánh Giác như thế nào? Như Lai chuyển bánh xe pháp như thế nào? Như Lai vào Niết Bàn như thế nào? Đại chúng nghe rồi nhất định sẽ sinh tâm hoan hỉ.

 

Nhược hữu kiến Phật đại pháp vương               Nếu có thấy Phật đại Pháp Vương
Thân cận tăng trưởng chư thiện căn,                Thân cận thêm lớn các thiện căn
Nguyện thuyết bỉ chư công đức tạng,                Xin nói những tạng công đức kia
Chúng sanh kiến dĩ hà sở hoạch?                        Chúng sanh thấy rồi được những gì ?

Giảng: Nếu chúng sinh thấy Phật (đại Pháp Vương), hay gần gũi Phật, hay cúng dường Phật, thì sẽ tăng trưởng tất cả căn lành. Xin hãy nói tất cả tạng công đức của Phật đã làm. Chúng sinh thấy rồi sẽ đắc được trí huệ gì?

 

Nhược hữu đắc văn Như Lai danh                    Nếu ai được nghe tên Như Lai
Nhược hiện tại thế nhược Niết-Bàn,                Hoặc hiện tại thế hoặc Niết Bàn
Ư bỉ phước tạng sanh thâm tín,                         Nơi phước tạng kia sanh thâm tín
Hữu hà đẳng lợi nguyện tuyên thuyết!            Có những lợi gì xin tuyên nói

Giảng: Nếu chúng sinh nghe được danh hiệu của Như Lai, hoặc đời hiện tại, hoặc đời vị lai, đối với phước huệ hai tạng của Phật sinh tâm tin sâu. Chúng sinh thấy được thân Phật, nghe được tiếng của Phật, rốt ráo có lợi ích gì? Xin Ngài hãy vì đại chúng diễn nói.

 

Thử chư Bồ-tát giai hợp chưởng,                       Chúng Bồ Tát đây đều chắp tay
Chiêm ngưỡng Như Lai nhân cập ngã,            Chiêm ngưỡng Như Lai, Ngài và tôi
Đại công đức hải chi cảnh giới,                           Cảnh giới biển công đức quảng đại
Tịnh chúng sanh giả nguyện vi thuyết!            Bực tịnh chúng sanh xin vì nói

Giảng: Tất cả Bồ Tát ở trong pháp hội Hoa Nghiêm, đều đã chắp tay lại, chiêm ngưỡng Như Lai, chiêm ngưỡng Ngài, chiêm ngưỡng tôi (Bồ Tát Diệu Đức), cảnh giới biển đại công đức, khiến cho tất cả chúng sinh thanh tịnh, xin Ngài hãy vì đại chúng diễn nói.

 

Nguyện dĩ nhân duyên cập thí dụ,                     Xin dùng nhơn duyên và thí dụ
Diễn thuyết diệu pháp tướng ứng nghĩa,         Diễn nói diệu pháp nghĩa tương ưng
Chúng sanh văn dĩ phát đại tâm,                       Chúng sanh nghe rồi phát đại tâm
Nghi tận trí tịnh như hư không.                         Hết nghi trí sạch như hư không

Giảng: Xin Ngài hãy dùng đủ thứ nhân duyên và đủ thứ ví dụ, để diễn nói nghĩa lý diệu pháp Như Lai xuất hiện ra đời, và đạo lý tương ưng, khiến cho chúng sinh nghe rồi, phát tâm đại bồ đề. Nghi hoặc của họ diệt trừ sạch, trí huệ thanh tịnh như hư không.

 

Như biến nhất thiết quốc độ trung                   Như khắp trong tất cả cõi nước
Chư Phật sở hiện trang nghiêm thân,              Chư Phật đã hiện thân trang nghiêm
Nguyện dĩ Diệu-Âm cập nhân dụ,                      Nguyện dùng diệu âm và nhơn dụ
Thị Phật Bồ-đề diệc như bỉ                                 Dạy Phật Bồ Ðề cũng như kia

Giảng: Như khắp cùng trong tất cả cõi nước, chư Phật thị hiện thân tướng tốt trang nghiêm, xin Ngài hãy dùng âm thanh vi diệu và pháp nhân duyên ví dụ, cũng như chỉ bày giác đạo của Phật và nhân duyên thành Phật.

 

Thập phương thiên vạn chư Phật thổ,             Mười phương mười muôn những cõi nước
Ức na-do-tha vô lượng kiếp,                               Ức na do tha vô lượng kiếp
Như kim sở tập Bồ Tát chúng,                           Như nay Bồ Tát chúng tập họp
Ư bỉ nhất thiết tất nan kiến.                               Nơi kia tất cả đều khó thấy

Giảng: Mười phương ngàn vạn cõi nước chư Phật, trải qua ức Na do tha vô lượng kiếp. Hiện tại Bồ Tát từ mười phương thế giới đến tụ tập, đối với pháp Như Lai xuất hiện, chưa từng gặp qua.

 

Thử chư Bồ-tát hàm cung kính,                         Chư Bồ Tát đây đều cung kính
Ư vi diệu nghĩa sanh khát ngưỡng,                   Nơi nghĩa vi diệu sanh khát ngưỡng
Nguyện dĩ tịnh tâm cụ khai diễn,                      Nguyện dùng tịnh tâm khai diễn đủ
Như Lai xuất hiện quảng đại Pháp!                   Pháp quảng đại Như Lai xuất hiện

Giảng: Các Bồ Tát nầy đều cung kính đợi Ngài diễn nói diệu pháp Như Lai xuất hiện ra đời. Đối với nghĩa lý vi diệu thâm sâu vô thượng, sinh tâm khát ngưỡng. Xin Ngài hãy dùng tâm thanh tịnh, để khai thị diễn nói pháp rộng lớn Như Lai xuất hiện.

 

Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát cáo Như Lai tánh khởi diệu đức đẳng chư Bồ-tát Đại chúng ngôn:

Phổ Hiền đại Bồ Tát bảo Như Lai Tánh Khởi Diệu Ðức Bồ Tát và đại chúng chư Bồ Tát :

Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền bảo Bồ Tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức và các đại chúng Bồ Tát trong pháp hội Hoa Nghiêm rằng:

 

Phật tử! thử xứ bất khả tư nghị, sở vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác dĩ vô lượng Pháp nhi đắc xuất hiện. Hà dĩ cố? phi dĩ nhất duyên, phi dĩ nhất sự, Như Lai xuất hiện nhi đắc thành tựu; dĩ thập vô lượng bách thiên a-tăng-kì sự nhi đắc thành tựu. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Chỗ này chẳng thể nghĩ bàn. Nghĩa là đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, do vô lượng pháp mà được xuất hiện. Vì chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự, Như Lai xuất hiện được thành tựu, mà do mười vô lượng trăm ngàn vô số sự mới được thành tựu. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền bảo Bồ Tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức và các đại chúng Bồ Tát trong pháp hội Hoa Nghiêm rằng: Các vị Phật tử! Nơi nầy không thể nghĩ bàn, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, nhờ vô lượng pháp mà được xuất hiện ra đời. Tại sao? Vì Như Lai xuất hiện ra đời, chẳng phải nhờ một nhân duyên, chẳng phải nhờ một thứ việc, mà là rất nhiều sự việc, cho nên Như Lai mới xuất hiện ra đời, để thành Phật. Nhờ mười vô lượng trăm ngàn A tăng kỳ việc mà thành tựu được. Những gì là mười vô lượng trăm ngàn A tăng kỳ việc ? Đó là:

 

1. Quá khứ vô lượng nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh Bồ-đề tâm sở thành cố

Một là do quá khứ vô lượng Bồ Ðề tâm nhiếp thọ tất cả chúng sanh làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng nhiếp thọ tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề mà thành tựu.

 

2. Quá khứ vô lượng thanh tịnh thù thắng chí lạc sở thành cố,

Hai là do quá khứ vô lượng chí nguyện thanh tịnh thù thắng làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng thanh tịnh ý chí ưa thích thù thắng mà thành tựu.

 

3. Quá khứ vô lượng cứu hộ nhất thiết chúng sanh đại từ đại bi sở thành cố,

Ba là do quá khứ vô lượng đại từ đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng cứu hộ tất cả chúng sinh đại từ đại bi mà thành tựu.

 

4. Quá khứ Vô-Lượng-Tướng tục hạnh nguyện sở thành cố,

Bốn là do quá khứ vô lượng hạnh nguyện tương tục làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng hạnh nguyện liên tục không gián đoạn mà thành tựu.

 

5. Quá khứ vô lượng tu chư phước trí tâm Vô yếm túc sở thành cố,

Năm là do quá khứ vô lượng tu các phước trí tâm không nhàm đủ làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng tu các phước trí tâm không nhàm đủ mà thành tựu.

 

6. Quá khứ vô lượng cúng dường chư Phật giáo hóa chúng sanh sở thành cố,

Sáu là do quá khứ vô lượng cúng dường chư Phật giáo hóa chúng sanh làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng cúng dường chư Phật và giáo hoá chúng sinh mà thành tựu.

 

7. Quá khứ vô lượng trí tuệ phương tiện thanh tịnh đạo sở thành cố,

Bảy là do quá khứ vô lượng trí huệ phương tiện thanh tịnh đạo làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng trí huệ phương tiện để tu thanh tịnh đạo mà thành tựu.

 

8. Quá khứ vô lượng thanh tịnh công đức tạng sở thành cố,

Tám là do quá khứ vô lượng thanh tịnh công đức tạng làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng thanh tịnh công đức tạng mà thành tựu.

 

9. Quá khứ vô lượng trang nghiêm đạo trí sở thành cố,

Chín là do quá khứ vô lượng trang nghiêm đạo trí làm thành.

Giảng: Vì quá khứ vô lượng trí huệ trang nghiêm đạo mà thành tựu.

 

10. Quá khứ vô lượng thông đạt pháp nghĩa sở thành cố

Mười là do quá khứ vô lượng thông đạt pháp nghĩa làm thành.

Vì quá khứ vô lượng thông đạt nghĩa lý của pháp mà thành tựu.

 

Phật tử! như thị vô lượng a-tăng-kì Pháp môn viên mãn, thành ư Như Lai.

Vô lượng a tăng kỳ pháp môn viên mãn như vậy làm thành Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử! Vô lượng A tăng kỳ pháp môn viên mãn như vậy, tu hành viên mãn, mới thành tựu Như Lai.

 

Phật tử! thí như tam thiên đại thiên thế giới, phi dĩ nhất duyên, phi dĩ nhất sự, nhi đắc thành tựu, dĩ vô lượng duyên, vô lượng sự, phương nãi đắc thành. sở vị: Hưng bố đại vân, hàng trì đại vũ, tứ chủng phong luân tướng tục vi y. kỳ tứ giả hà?

Chư Phật tử ! Ví như Ðại Thiên thế giới này, chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự mà được thành tựu, phải do vô lượng duyên, vô lượng sự mới được thành. Những là nổi giăng mây lớn, tuôn xối mưa lớn, bốn thứ phong luân nối tiếp làm sở y. Gì là bốn thứ ?

Giảng: Các vị Phật tử! Ví như ba ngàn đại thiên thế giới, chẳng phải nhờ một nhân duyên, cũng chẳng phải nhờ một việc, mà thành tựu được ba ngàn đại thiên thế giới. Mà là nhờ vô lượng nhân duyên, vô lượng sự việc, mới thành tựu được ba ngàn đại thiên thế giới. Đó là: Nổi mây bủa khắp, mưa lớn xuống. Phải có bốn thứ Phong luân liên tục chi trì. Bốn phong luân đó là gì

 

1. Nhất danh: năng trì, năng trì Đại thủy cố

Một tên là năng trì, vì hay trì đại thủy

Giảng: Một thứ Phong luân tên là Năng Trì, vì hay giữ gìn nước lớn.

 

2. Nhị danh: năng tiêu, năng tiêu Đại thủy cố

Hai tên là năng tiêu, vì hay tiêu đại thủy

Giảng: Phong Luân thứ hai tên là Năng Tiêu, vì hay tiêu nước lớn.

 

3. Tam danh: kiến lập, kiến lập nhất thiết chư xứ sở cố

Ba tên là kiến lập, vì kiến lập tất cả xứ sở

Giảng: Phong luân thứ ba tên là Kiến Lập, vì hay kiến lập tất cả các xứ sở.

 

4. Tứ danh: trang nghiêm, trang nghiêm phân bố hàm thiện xảo cố.

Bốn tên là trang nghiêm, vì trang nghiêm phân bố đều thiện xảo.

Giảng: Phong luân thứ tư tên là Trang nghiêm, vì hay trang nghiêm phân bố đều khéo léo. Phong luân tức là chúng ta thường gọi là Địa tâm hấp dẫn lực (sức hút địa tâm). Nhưng chúng ta chỉ có thể nhìn thấy đất (địa), cho rằng sức hút từ địa tâm sinh ra, kỳ thật là từ phong luân hoá ra.

 

Như thị giai do chúng sanh cọng nghiệp cập chư Bồ-tát thiện căn sở khởi, lệnh ư kỳ trung nhất thiết chúng sanh các tùy sở nghi nhi đắc thọ dụng.

Như trên đây đều do cộng nghiệp của chúng sanh và thiện căn của chư Bồ Tát phát khởi, làm cho tất cả chúng sanh trong đó đều tùy sở nghi mà được thọ dụng.

Giảng: Đủ thứ nhân duyên và sự tướng đã nói ở trên, đều do cộng nghiệp của tất cả chúng sinh, và căn lành của tất cả Bồ Tát tu hành sinh ra. Khiến cho tất cả chúng sinh ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, đều đắc được lợi ích đáng đắc được. Giống như mưa nước xuống, cây lớn thì hút lượng nước nhiều, cỏ nhỏ thì hút lượng nước ít. Phật pháp cũng như vậy, đều tuỳ nghi của mình mà được thọ dụng.

 

Phật tử! như thị đẳng vô lượng nhân duyên nãi thành tam thiên đại thiên thế giới, pháp tánh như thị, vô hữu sanh giả, vô hữu tác giả, vô hữu tri giả, vô hữu thành giả, nhiên bỉ thế giới nhi đắc thành tựu.

Phật tử! Vô lượng nhơn duyên như vậy mới thành Ðại Thiên thế giới. Pháp tánh như vậy không có sanh giả, không có tác giả, không có tri giả, không có thành giả, nhưng Ðại Thiên thế giới vẫn được thành tựu.

Giảng: Các vị Phật tử! Vô lượng nhân duyên như vậy, mới thành tựu ba ngàn đại thiên thế giới. Bản tánh của pháp, phải như vậy. Chẳng có ai sinh ra ba ngàn đại thiên thế giới hoặc chủ nhân, cũng chẳng có ai làm ra ba ngàn đại thiên thế giới, cũng chẳng có ai biết được ba ngàn đại thiên thế giới là như thế nào? Cũng chẳng có ai có thể thành ba ngàn đại thiên thế giới. Song, ba ngàn đại thiên thế giới, nó tự nhiên được thành tựu, chẳng phải miễn cưỡng mà thành tựu.

 

Như Lai xuất hiện diệc phục như thị, phi dĩ nhất duyên, phi dĩ nhất sự, nhi đắc thành tựu; dĩ vô lượng nhân duyên, vô lượng sự tướng, nãi đắc thành tựu. Sở vị: tằng ư quá khứ Phật sở thính văn thọ trì Đại pháp vân vũ, nhân thử năng khởi Như Lai tứ chủng đại trí phong luân. Hà đẳng vi tứ?

Cũng vậy, Như Lai xuất hiện chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự mà được thành tựu, phải do vô lượng duyên vô lượng sự mới thành tựu được. Những là từng ở chỗ Phật quá khứ lắng nghe thọ trì đại pháp vân, đại pháp võ. Do đây có thể khởi Như Lai bốn thứ đại trí phong luân :

Giảng: Như Lai xuất hiện ra đời cũng lại như thế, chẳng phải nhờ một nhân duyên, cũng chẳng phải nhờ một sự việc, mà được thành tựu. Mà là nhờ vô lượng nhân duyên, và vô lượng sự tướng, mới được thành tựu. Đó là quá khứ đã từng ở chỗ chư Phật, lắng nghe Kinh Hoa Nghiêm, nghe pháp Hoa Nghiêm, nghiên cứu Kinh Hoa Nghiêm, thọ trì Kinh Hoa Nghiêm, cho nên đắc được sự thấm nhuần mây mưa pháp lớn. Nhờ đó, mà mới sinh ra được bốn thứ Đại trí phong luân của Như Lai. Những gì là bốn thứ Đại trí phong luân?

 

1. Nhất giả niệm trì bất vong Đà-la-ni đại trí phong luân, năng trì nhất thiết Như Lai Đại pháp vân vũ cố

Một là đại trí phong luân đà la ni niệm trì chẳng quên, vì hay trì tất cả đại pháp vân đại pháp võ của Như Lai.

Giảng: Một là Đại trí phong luân nhớ thọ trì không quên đà la ni (tổng trì : tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa). Vì hay thọ trì tất cả mây mưa pháp lớn của tất cả Như Lai nói.

 

2. Nhị giả xuất sanh chỉ quán đại trí phong luân, năng tiêu kiệt nhất thiết phiền não cố

Hai là đại trí phong luân xuất sanh chỉ quán, vì hay tiêu diệt tất cả phiền não

Giảng: Hai là Đại trí phong luân sinh ra chỉ quán (Chỉ là ngừng tất cả vọng, quán là quán tất cả chân), vì hay tiêu sạch tất cả phiền não của chúng sinh, hay cạn sạch sông nước ái dục của chúng sinh.

 

3. Tam giả thiện xảo hồi hướng đại trí phong luân, năng thành tựu nhất thiết thiện căn cố

Ba là đại trí phong luân hồi hướng thiện xảo, vì hay thành tựu tất cả thiện căn.

Giảng: Ba là Đại trí phong luân khéo léo hồi hướng (phương tiện khéo léo, hồi tiểu hướng đại), vì hay thành tựu tất cả căn lành của chúng sinh.

 

4. Tứ giả xuất sanh ly cấu sái biệt trang nghiêm đại trí phong luân, lệnh quá khứ sở hóa nhất thiết chúng sanh thiện căn thanh tịnh, thành tựu Như Lai vô lậu thiện căn lực cố.

Bốn là đại trí phong luân xuất sanh ly cấu sai biệt trang nghiêm, vì khiến quá khứ những chúng sanh được hóa độ, thiện căn của họ thanh tịnh, thành tựu sức thiện căn vô lậu của Như Lai.

Giảng: Bốn là Đại trí phong luân sinh ra lìa cấu trang nghiêm khác biệt (lìa khỏi tất cả trần cấu, phân biệt trang nghiêm trí luân), vì khiến cho tất cả chúng sinh căn lành thanh tịnh, đã giáo hoá trong quá khứ, thành tựu sức căn lành vô lậu của Như Lai.

Vô lậu là gì ? Nói đơn giản là chẳng còn dục niệm. Nếu còn một phần dục niệm, thì là hữu lậu. Chân chánh vô lậu thì đoạn trừ được phiền não, trừ khử được dục niệm. Làm thế nào để được vô lậu ? Thì phải nhiếp thọ thân tâm, đừng khởi vọng tưởng dục niệm. Phương pháp tốt nhất là ngồi thiền tập định, hoặc tu chỉ quán. Trạo cử đến thì tu pháp môn chỉ, dừng lại tất cả ác. Hôn trầm đến thì tu pháp môn quán, quán tất cả thiện. Tu pháp như vậy thì mới có thể khiến cho thân tâm phát triển bình thường, đó là trung đạo, do đó : Thân tại trần, mà tâm xuất trần, trong giếng trồng hoa không nhiễm trần. Phải có cảnh giới như vậy, mới có sự thành tựu.
Như Lai như thị thành đẳng chánh giác, pháp tánh như thị, vô sanh vô tác nhi đắc thành tựu.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ nhất tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác như vậy, pháp tánh như vậy, vô sanh vô tác mà được thành tựu.

Giảng: Ðây là tướng xuất hiện thứ nhứt của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Như Lai thành Đẳng Chánh Giác là như vậy. Pháp tánh là như vậy, cũng chẳng có ai sinh ra, cũng chẳng có ai làm ra, mà là tự nhiên được thành tựu. Chẳng phải Thượng đế tạo ra ba ngàn đại thiên thế giới.

Các vị Phật tử ! Đó là tướng xuất hiện ra đời thứ nhất của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các vị đại Bồ Tát, các Ngài nên biết rõ ràng Như Lai xuất hiện ra đời như thế nào.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như tam thiên đại thiên thế giới tướng dục thành thời, đại vân hàng vũ, danh viết: hồng chú, nhất thiết phương xứ sở bất năng thọ, sở bất năng trì, duy trừ Đại Thiên giới tướng dục thành thời.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Ðại Thiên thế giới lúc sắp thành, mây lớn tuôn mưa gọi là hồng chú. Tất cả phương xứ chẳng thể thọ, chẳng thể trì, chỉ trừ Ðại Thiên thế giới lúc sắp thành.

Giảng: Lại nữa, các vị Phật tử ! Ví như khi ba ngàn đại thiên thế giới sắp thành, thì trong hư không nổi mây lớn, mưa xuống như trút nước, tên là Hồng chú. Tất cả phương hướng xứ sở, đều không thể thọ được, không thể giữ được, chỉ trừ khi ba ngàn đại thiên thế giới sắp thành.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, hưng Đại pháp vân, vũ đại pháp vũ, danh: thành tựu Như Lai xuất hiện, nhất thiết nhị thừa tâm chí hiệp liệt sở bất năng thọ, sở bất năng trì, duy trừ chư đại Bồ-tát tâm tướng tục lực.

Phật tử! Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, gọi là thành tựu Như Lai xuất hiện, tất cả hàng Nhị thừa tâm chí hẹp kém không thọ được, không trì được, chỉ trừ sức tâm tương tục của chư đại Bồ Tát.

Giảng: Các vị Phật tử ! Khi Như Lai sắp thành Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Nổi mây pháp lớn, mưa xuống pháp lớn, tên là Thành tựu Như Lai xuất hiện. Tất cả người nhị thừa, tâm chí của họ nhỏ hẹp hạ liệt, chẳng phải chí nguyện lớn, nên họ không thể tiếp thọ được, không thể tu trì được pháp lớn nầy. Chỉ trừ tất cả đại Bồ Tát, nhờ tu lục độ vạn hạnh, căn lành sâu dày, có sức tâm liên tục không gián đoạn, để tu hành pháp lớn nầy.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ nhị tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Phật tử! Ðây là tướng xuất hiện thứ hai của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ hai xuất hiện ra đời của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các vị đại Bồ Tát, các Ngài nên biết Như Lai xuất hiện ra đời như thế nào.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như chúng sanh dĩ nghiệp lực cố, đại vân hàng vũ, lai vô sở tùng, khứ vô sở chí. Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, dĩ chư Bồ-tát thiện căn lực cố, hưng Đại pháp vân, vũ đại pháp vũ, diệc vô sở tòng lai, vô sở chí khứ.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như chúng sanh vì do nghiệp lực, mây lớn tuôn mưa, đến không từ đâu, đi không về đâu. Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, do sức thiện căn của chư Bồ Tát, nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, cũng đến không từ đâu, đi chẳng đến đâu.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như tất cả chúng sinh do nghiệp lực, nổi mây lớn mưa xuống, mây đó chẳng biết từ đâu đến ? Cũng chẳng biết đi về đâu ? Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cũng lại như thế. Vì nhờ sức căn lành của các Bồ Tát, nổi mây pháp lớn, mưa xuống pháp lớn, cũng chẳng biết từ đâu đến ? Cũng chẳng biết đi về đâu ?

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ tam tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Phật tử! Ðây là tướng xuất hiện thứ ba của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng xuất hiện ra đời thứ ba của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các vị đại Bồ Tát, các Ngài nên biết như vậy, Như Lai xuất hiện ra đời như thế nào.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như đại vân hàng tuôn đại vũ, Đại Thiên thế giới nhất thiết chúng sanh, vô năng tri số, nhược dục toán kế, đồ lệnh phát cuồng; duy Đại Thiên thế giới chủ Ma hề thủ la, dĩ quá khứ sở tu thiện căn lực cố, nãi chí nhất tích vô bất minh liễu.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như mây lớn tuôn xối mưa lớn. Trong Ðại Thiên thế giới tất cả chúng sanh không biết được số. Nếu muốn tính đếm, chỉ luống phát cuồng. Duy có Ma Hê Thủ La, chủ của Ðại Thiên thế giới, do sức thiện căn đã tu từ quá khứ, nhẫn đến một giọt đều biết rõ cả.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như mây lớn, đổ mưa lớn xuống. Tất cả chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới không biết được số giọt nước mưa. Nếu như có người muốn tính toán biết rốt ráo có bao nhiêu giọt nước mưa, thì sẽ khiến cho họ phát cuồng. Chỉ có Ma Hê Thủ La chủ của ba ngàn đại thiên thế giới, vì nhờ sức căn lành đã tu trong quá khứ, mới tính biết được số lượng từng giọt nước mưa.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, hưng Đại pháp vân, vũ đại pháp vũ, nhất thiết chúng sanh, Thanh văn, độc giác sở bất năng trai, nhược dục tư lượng, tâm tất cuồng loạn; duy trừ nhất thiết thế gian chủ Bồ-Tát Ma-ha-tát, dĩ quá khứ sở tu giác tuệ lực cố, nãi chí nhất văn nhất cú, nhập chúng sanh tâm, vô bất minh liễu.

Phật tử! Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, tất cả chúng sanh, Thanh Văn, Duyên Giác đều không biết được. Nếu muốn nghĩ lường tâm ắt cuồng loạn. Chỉ trừ đại Bồ Tát, chủ của tất cả thế gian, do sức giác huệ đã tu từ quá khứ, nhẫn đến một văn một câu nhập vào tâm chúng sanh đều biết rõ cả.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế. Nổi mây pháp lớn, mưa pháp lớn. Tất cả chúng sinh, Thanh Văn và Duyên Giác không thể biết được. Họ muốn biết Như Lai xuất hiện ra đời như thế nào ? Thuyết pháp giáo hoá chúng sinh ra sao ? Nếu họ suy lường về những vấn đề nầy, tâm của họ cũng sẽ cuồng loạn. Chỉ có đại Bồ Tát chủ của tất cả thế gian, vì nhờ sức tu giác quán trí huệ trong quá khứ, do đó, cho đến một câu văn của Phật nói, nhập vào tâm chúng sinh như thế nào, khiến cho chúng sinh minh bạch Phật pháp, đại Bồ Tát thảy đều thấu rõ.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ tứ tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Phật tử! Ðây là tướng xuất hiện thứ tư của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác. Ðại Bồ Tát phải biết như vậy

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng xuất hiện ra đời thứ tư của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các vị đại Bồ Tát, các Ngài nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như đại vân hàng vũ chi thời, hữu đại vân vũ, danh vi: năng diệt, năng diệt hỏa tai; hữu đại vân vũ, danh vi: năng khởi, năng khởi Đại thủy; hữu đại vân vũ, danh vi: năng chỉ, năng chỉ Đại thủy; hữu đại vân vũ, danh vi: năng thành, năng thành nhất thiết ma-ni chư bảo; hữu đại vân vũ, danh vi: phân biệt, phân biệt tam thiên đại thiên thế giới.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như lúc mây lớn tuôn mưa, có mây lớn mưa lớn tên là năng diệt, diệt được hỏa tai. Có mây lớn mưa lớn tên là năng khởi, hay khởi đại thủy. Có mây lớn mưa lớn tên là năng chỉ, hay ngăn đại thủy. Có mây lớn mưa lớn tên là năng thành, hay tất cả các báu ma ni. Có mây lớn mưa lớn tên phân biệt, hay phân biệt Tam thiên Ðại thiên thế giới.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như khi mây lớn mưa xuống. Có mây lớn mưa, tên là Năng diệt. Hay tiêu diệt tất cả nạn lửa lớn của thế gian. Có mây lớn mưa, tên là Năng khởi. Hay khởi tất cả nước lớn của thế gian. Có mây lớn mưa, tên là Năng chỉ. Hay dừng lại tất cả nạn nước lớn của thế gian, khiến cho nó không tăng thêm. Có mây lớn mưa, tên là Năng thành. Hay thành tựu tất cả ma ni các báu. Có mây lớn mưa, tên là Phân biệt. Hay phân biệt cảnh giới của ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Phật tử! Như Lai xuất hiện diệc phục như thị, hưng Đại pháp vân, vũ đại pháp vũ, hữu đại pháp vũ, danh vi: năng diệt, năng diệt nhất thiết chúng sanh phiền não; hữu đại pháp vũ, danh vi: năng khởi, năng khởi nhất thiết chúng sanh thiện căn; hữu đại pháp vũ, danh vi: năng chỉ, năng chỉ nhất thiết chúng sanh kiến hoặc; hữu đại pháp vũ, danh vi: năng thành, năng thành nhất thiết trí tuệ pháp bảo; hữu đại pháp vũ, danh vi: phân biệt, phân biệt nhất thiết chúng sanh tâm lạc.

Phật tử! Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ. Có đại pháp vũ tên là năng diệt, hay diệt tất cả phiền não chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là năng khởi, hay khởi tất cả thiện căn của chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là năng chỉ, hay ngăn kiến hoặc của tất cả chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là năng thành, hay thành tất cả trí huệ pháp bửu. Có đại pháp bửu tên là phân biệt, phân biệt tất cả tâm sở thích của chúng sanh.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai xuất hiện ra đời cũng lại như thế. Nổi mây pháp lớn, mưa xuống pháp lớn. Có mưa pháp lớn, tên là Năng diệt. Hay tiêu diệt phiền não của tất cả chúng sinh. Muốn diệt trừ phiền não, thì trước hết phải minh bạch Phật pháp, do đó có câu: Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, diệt trừ hết phiền não, thì tâm sẽ được thanh tịnh. Lại có mưa pháp lớn, tên là Năng khởi. Hay khởi căn lành của tất cả chúng sinh, người chẳng có căn lành thì khiến cho họ sinh ra căn lành, người đã có căn lành thì khiến cho tăng trưởng căn lành, người căn lành đã tăng trưởng thì khiến cho căn lành thành thục, người căn lành đã thành thục thì khiến cho được giải thoát. Lại có mưa pháp lớn, tên là Năng chỉ. Hay dừng lại kiến hoặc và tư hoặc của tất cả chúng sinh.

Kiến hoặc là gì ? Tức là đối cảnh khởi tham ái. Giống như mắt nhìn thấy sắc đẹp, thì bị dính vào sắc đẹp. Ví dụ như tại sao người nam thích nhìn người nữ ? Tại sao người nữ thích nhìn người nam ? Đó là bị dính vào sắc đẹp. Con mắt nhìn thấy sắc đẹp, lập tức nói với tâm, còn nhanh hơn là điện, nói rằng : Ô ! Đẹp quá ! Đó là sinh ra hoặc. Khởi hoặc thì sinh ra tham, có tham thì có ái. Đối với cảnh giới liền sinh ra tâm tham ái, tâm dục niệm, đó tức là kiến hoặc.

Tư hoặc là gì ? Tức là mê lý khởi phân biệt. Dù cảnh giới đã qua rồi, tình ái vẫn lăn xăn, tư tưởng trong tâm vẫn chưa dứt, suy nghĩ rồi suy nghĩ, đối với lý luận chẳng rõ ràng. Tại sao chẳng rõ ràng ? Vì dùng Vô minh làm chủ, nó chỉ huy bạn chạy về hướng đông, cũng chẳng hợp lý, chỉ huy bạn chạy về hướng tây cũng chẳng hợp lý, vì mê lý luận nầy, bèn sinh ra một thứ tâm phân biệt, đó tức là tư hoặc.

Lại có mưa pháp lớn, tên là Năng thành. Hay thành tựu nhất thiết trí huệ pháp bảo của tất cả chúng sinh. Lại có mưa pháp lớn, tên là Phân biệt. Hay phân biệt sự vui thích trong tâm của tất cả chúng sinh là gì ?

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ ngũ tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Phật tử! Ðây là tướng xuất hiện thứ năm của đức Như Lai, đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ năm xuất hiện ra đời của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các vị đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như đại vân vũ nhất vị thủy, tùy kỳ sở vũ, vô lượng sái biệt. Như Lai xuất hiện diệc phục như thị, vũ ư đại bi nhất vị pháp thủy, tùy nghi thuyết pháp, vô lượng sái biệt.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như mây lớn tuôn nước đồng một vị mà tùy những chỗ mưa có vô lượng sai biệt. Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện tuôn đại bi pháp thủy đồng một vị mà tùy sở nghi thuyết pháp có vô lượng sai biệt.

Giảng:  Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như vầng mây lớn, mưa xuống nước một vị. Tuỳ theo sự mưa xuống, có vô lượng sự khác nhau. Như Lai xuất hiện cũng lại như thế. Mưa nước pháp đại bi một vị. Tuỳ theo tâm nguyện của chúng sinh, diễn nói tất cả pháp, có vô lượng sự khác nhau.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ lục tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Phật tử! Ðây là tướng xuất hiện thứ sáu của đức Như Lai, đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ sáu xuất hiện ra đời của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đại Bồ Tát các Ngài nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như tam thiên đại thiên thế giới sơ thủy thành thời, tiên thành sắc giới chư Thiên cung điện, thứ thành dục giới chư Thiên cung điện, thứ thành ư nhân cập dư chúng sanh chư sở trụ xứ.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Ðại Thiên thế giới, lúc mới bắt đầu thành, trước hết thành cung điện của trời cõi Sắc, kế đến thành cung điện của trời cõi Dục, kế đến thành chỗ ở của loài người và những loài khác.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như lúc ban đầu ba ngàn đại thiên thế giới thành tựu, thì trước hết tạo thành các cung điện cõi trời sắc giới. Sau đó tạo thành các cung điện cõi trời dục giới. Tiếp theo tạo thành người nhân gian, và cung điện của vua, và các chỗ ở của các chúng sinh khác.

 

Phật tử! Như Lai xuất hiện diệc phục như thị, tiên khởi Bồ Tát chư hạnh trí tuệ, thứ khởi duyên giác chư hạnh trí tuệ, thứ khởi Thanh văn thiện căn chư hạnh trí tuệ, thứ khởi kỳ dư chúng sanh hữu vi thiện căn chư hạnh trí tuệ.

Phật tử! Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện, trước hết khởi những hạnh trí huệ Bồ Tát, kế khởi những hạnh trí huệ Duyên Giác, kế khởi những hạnh trí huệ thiện căn Thanh Văn, kế khởi những hạnh trí huệ thiện căn hữu vi của các chúng sanh khác.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai xuất hiện cũng lại như thế. Trước hết khởi các hạnh trí huệ của Bồ Tát, lần lượt khởi các hạnh trí huệ của Duyên Giác. Sau đó khởi các hạnh trí huệ căn lành của Thanh Văn. Tiếp theo khởi các hạnh trí huệ căn lành hữu vi của các chúng sinh khác.

 

Phật tử! thí như đại vân vũ nhất vị thủy, tùy chư chúng sanh thiện căn dị cố, sở khởi cung điện chủng chủng bất đồng. Như Lai đại bi nhất vị Pháp vũ, tùy chúng sanh khí nhi hữu sái biệt.

Phật tử! Như mây lớn tuôn nước một vị, vì theo thiện căn của chúng sanh sai khác nên khởi các loại cung điện chẳng đồng. Ðại bi pháp vũ nhứt vị của Như Lai tùy căn khí của chúng sanh mà có sai khác.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như vầng mây lớn, mưa xuống nước một vị. Tuỳ theo căn lành của tất cả chúng sinh khác nhau, nên khởi đủ thứ cung điện khác nhau. Như Lai mưa nước pháp đại bi một vị, tuỳ theo khí huyết của chúng sinh kháu nhau, mà có sự khác biệt.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ thất tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Phật tử! Ðây là tướng xuất hiện thứ bảy của đức Như Lai, đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ bảy xuất hiện của Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác. Đại Bồ Tát các Ngài nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như thế giới sơ dục thành thời, hữu Đại thủy sanh, biến mãn tam thiên đại thiên thế giới; sanh đại liên hoa, danh: Như Lai xuất hiện công đức bảo trang nghiêm, biến phước thủy thượng, quang chiếu thập phương nhất thiết thế giới. Thời, Ma hề thủ la, tịnh cư thiên đẳng kiến thị hoa dĩ, tức quyết định tri ư thử kiếp trung hữu nhĩ sở Phật xuất hưng vu thế.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như lúc thế giới ban đầu sắp thành, có đại thủy khởi đầy khắp Ðại Thiên thế giới, sanh hoa sen lớn tên là Như Lai xuất hiện công đức bửu trang nghiêm, che khắp trên mặt nước, ánh sáng chiếu tất cả thế giới mười phương. Lúc đó Ma Hê Thủ La và Tịnh Cư Thiên thấy hoa sen đó, liền quyết định biết trong kiếp này có bao nhiêu đức Phật như vậy xuất thế.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như khi thế giới ban đầu sắp thành, thì có nước lớn sinh ra, đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến tận hư không khắp pháp giới đều có nước lớn. Trong nước lớn đó, sinh ra hoa sen lớn, tên là Như Lai Xuất Hiện Công Đức Bảo Trang Nghiêm. Phủ đầy khắp trên nước, hoa sen đó, phóng ra ánh sáng chiếu mười phương tất cả thế giới. Lúc đó, Ha Hê Thủ La Thiên Vương và Thiên Vương Trời Tịnh Cư, thấy đoá hoa sen đó rồi, liền biết chắc chắn rằng, trong kiếp nầy sẽ có nhiều vị Phật xuất hiện ra đời.

 

Phật tử! nhĩ thời, kỳ trung hữu phong luân khởi, danh: thiện Tịnh Quang minh, năng thành sắc giới chư Thiên cung điện. Hữu phong luân khởi, danh: Tịnh Quang trang nghiêm, năng thành dục giới chư Thiên cung điện. Hữu phong luân khởi, danh: kiên mật vô năng hoại, năng thành đại tiểu chư luân vi sơn cập Kim Cương sơn. Hữu phong luân khởi, danh: thắng cao, năng thành Tu Di Sơn Vương.

Bấy giờ trong đó có phong luân nổi lên tên là Thiên tịnh quang minh hay làm thành cung điện chư Thiên cõi Sắc. Lại có phong luân tên là Tịnh quang trang nghiêm hay thành cung điện chư Thiên cõi Dục. Lại có phong luân tên là Kiên mật vô năng hoại hay thành những đại và tiểu Luân Vi Sơn cùng Kim Cang Sơn. Lại có phong luân tên là Thắng cao hay thành núi Tu Di.

Giảng: Các vị Phật tử ! Lúc đó trong đoá hoa sen báu lớn, có phong luân sinh khởi, tên là Thiện Tịnh Quang Minh, hay thành tựu các cung điện cõi trời sắc giới. Lại có phong luân sinh khởi, tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm, hay thành tựu các cung điện cõi trời dục giới. Lại có phong luân sinh khởi, tên là Kiên Mật Vô Năng Hoại, hay thành tựu các núi đại Luân Vi, núi tiểu Luân Vi, và núi Kim Cang. Lại có phong luân sinh khởi, tên là Thắng Cao, hay thành tựu núi Chúa Tu Di.

 

Hữu phong luân khởi, danh: bất động, năng thành thập Đại sơn vương. Hà đẳng vi thập? sở vị: Khư-đà-la sơn, Tiên nhân sơn, phục ma sơn, Đại phục ma sơn, trì song sơn, ni dân Đà-la sơn, mục chân lân đà sơn, Ma-ha mục chân lân đà sơn, hương sơn, tuyết sơn. Hữu phong luân khởi, danh vi: an trụ, năng thành Đại địa. Hữu phong luân khởi, danh vi: trang nghiêm, năng thành địa Thiên cung điện, long cung điện, Càn thát bà cung điện. Hữu phong luân khởi, danh: vô tận tạng, năng thành tam thiên đại thiên thế giới nhất thiết đại hải. Hữu phong luân khởi, danh: phổ quang minh tạng, năng thành tam thiên đại thiên thế giới chư ma-ni bảo. Hữu phong luân khởi, danh: kiên cố căn, năng thành nhất thiết chư như ý thọ.

Lại có phong luân tên là Bất động hay thành mười núi lớn là núi Khư Ðà la, núi Tiên Nhơn, núi Phục Ma, núi Ðại Phục Ma, núi Trì Song, núi Di Dân Ðà La, núi Mục Chơn Lân Ðà, núi Ma Ha Mục Chơn Lân Ðà, Hương Sơn và Tuyết Sơn. Có phong luân tên là An trụ hay thành đại địa. Có phong luân khởi tên là Trang Nghiêm hay thành cung điện của Ðịa thiên, Long cung, Càn Thát bà cung. Có phong luân khởi tên là Vô tận tạng hay thành tất cả đại hải trong Ðại thiên thế giới. Có phong luân khởi tên là Phổ quang minh tạng hay thành những ma ni bửu trong Ðại Thiên thế giới. Có phong luân khởi tên là Kiên cố căn hay thành tất cả Như Ý thọ.

Giảng: Lại có phong luân khởi lên, tên là Bất Động, hay thành tựu mười núi chúa lớn. Những gì là mười núi chúa? Đó là : Núi Chúa Khư Đà La, núi Chúa Tiên Nhân, núi Chúa Phục Ma, núi Chúa Đại Phục Ma, núi Chúa Trì Song, núi Chúa Ni Dân Đà La, núi Chúa Mục Chân Lân Đà, núi Chúa Ma Ha Mục Chân Lân Đà, núi Chúa Hương, núi Chúa Tuyết.

Trong hoa sen báu lớn, lại có phong luân khởi lên, tên là An Trụ, hay thành đại địa (địa cầu). Lại có phong luân khởi lên, tên là Trang Nghiêm, hay thành tựu cung điện nhân gian, cung điện trên trời, cung điện rồng trong biển, cung điện Càn Thát Bà. Lại có phong luân khởi lên, tên là Vô Tận Tạng, hay thành tựu tất cả biển cả của ba ngàn đại thiên thế giới. Lại có phong luân khởi lên, tên là Phổ Quang Minh Tạng, hay thành tựu tất cả báu ma ni của ba ngàn đại thiên thế giới. Lại có phong luân khởi lên, tên là Kiên Cố Căn, hay thành tựu tất cả cây Như ý.

 

Phật tử! đại vân sở vũ nhất vị chi thủy, vô hữu phân biệt; dĩ chúng sanh thiện căn bất đồng cố, phong luân bất đồng; phong luân sái biệt cố, thế giới sái biệt. Phật tử! Như Lai xuất hiện diệc phục như thị, cụ túc nhất thiết thiện căn công đức, phóng ư vô thượng Đại trí quang minh, danh: bất đoạn Như Lai chủng bất tư nghị trí, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới, dữ chư Bồ-tát nhất thiết Như Lai quán đảnh chi kí: đương thành chánh giác xuất hưng ư thế.

Phật tử! Mây lớn tuôn mưa một thứ nước đồng một vị không có sai khác. Do chúng sanh thiện căn chẳng đồng nên phong luân chẳng đồng. Phong luân sai khác nên thế giới sai khác. Phật tử! cũng vậy, Như Lai xuất hiện đầy đủ thiện căn công đức, phóng quang minh đại trí vô thượng tên là trí bất tư nghì chẳng dứt Như Lai chủng, chiếu khắp tất cả thế giới mười phương, thọ Như Lai quán đảnh ký cho chư Bồ Tát sẽ thành Chánh Giác xuất hiện ra đời.

Giảng: Các vị Phật tử ! Vầng mây lớn mưa xuống nước chỉ có một vị, không có sự phân biệt. Vì căn lành của chúng sinh khác nhau, có người đã phát bồ đề tâm, có người chưa phát bồ đề tâm, có người bồ đề tâm đã tăng trưởng, có người bồ đề tâm chưa tăng trưởng, có người bồ đề tâm đã thành thục, có người bồ đề tâm chưa thành thục, có người đã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có người chưa chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sở dĩ chúng sinh mỗi người có căn lành khác nhau, nên mỗi người nhân duyên khác nhau. Làm sao chứng minh sự khác nhau ? Chỉ cần nhìn mặt mỗi người thì đủ biết sự khác nhau. Con cái cùng một cha mẹ sinh ra, mà có đứa thông minh, đứa ngu si, có đứa đẹp, có đứa xấu. Quả trên cùng một cây, mà có chua có ngọt, có lớn có nhỏ. Vì căn tánh của chúng sinh khác nhau, cho nên nước từ một vị, đều đắc được lợi ích khác nhau. Do đó, phong luân cũng khác nhau. Vì phong luân khác nhau, nên thế giới khác nhau.

 

Phật tử! Như Lai xuất hiện phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: thanh tịnh ly cấu, năng thành Như Lai vô lậu vô tận trí.

Chư Phật tử ! Như Lai xuất hiện lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Thanh tịnh ly cấu hay thành Phật trí vô lậu vô tận.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai xuất hiện ra đời, lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Thanh Tịnh Ly Cấu, hay thành tựu trí huệ vô tận vô lậu của Như Lai. Con người hữu lậu là vì còn vô minh, vô lậu vì không còn vô minh. Vô minh tức là chẳng hiểu biết, tức cũng là hồ đồ, chẳng rõ thị phi, chẳng rõ trắng đen. Lậu lớn nhất tức là dục lậu. Nếu còn dục niệm, thì giống như bọn cướp đi trộm cướp, tài sản châu báu vị cướp đi mất. Lại giống như trong lõi cây bị mọt ăn, chẳng còn dùng được nữa. Lại giống như bỏ phân vào thức ăn ngon, khiến cho mọi người phải ói ba ngày. Có người nói : Ai ai cũng đều còn dục niệm mà ! Bởi vì nguyên nhân nầy, cho nên mới phải tu hành. Nếu không còn dục niệm, thì trí huệ quang minh mới hiện ra, cho nên Vô lậu là châu báu mà người tu hành mong cầu đạt được.

Các vị ! Phải đặc biệt chú ý, trong sáu thần thông, tại sao có lậu tận thông ? Vì chẳng còn hữu lậu, tức cũng là hoàn toàn chẳng còn dục niệm, do đó có câu : Đoạn dục khử ái. Người tu hành đến lư hoả thuần thanh, thì đắc được tự tại. Nếu chẳng đoạn dục khử ái, thường bị vô minh chi phối, thì khiến cho bạn làm việc điên đảo, suốt ngày đến tối chẳng được tự tại, chẳng thoải mái, đó là dục niệm đang tác quái.

Các vị thiện tri thức ! Ở tại đây phải đặc biệt dụng công, trở về nguồn cội, khôi phục lại bộ mặt thật vốn có của mình. Lúc đó, sẽ đắc được trí huệ vô tận, từ nguồn gốc mà ra, dùng không cạn, lấy không hết. Các vị phải phát bồ đề tâm, thì mới vượt qua cửa ải sinh tử được. Mình phải phản tỉnh, tử hỏi mình rằng: Tại sao phải tin Phật ? Tại sao phải xuất gia ? Tại sao xuất gia chẳng tu hành ? Tại sao xuất gia rồi, vẫn còn khởi nhiều vọng tưởng như thế ? Những vấn đề nầy không nên bỏ qua, phải nghĩ nó cho thông suốt, thì sẽ thoát khỏi được ba cõi, chấm dứt sinh tử, đắc được ai vui Niết Bàn.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: phổ chiếu, năng thành Như Lai phổ nhập Pháp giới bất tư nghị trí.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Phổ Chiếu hay thành Trí bất tư nghì Như Lai khắp vào pháp giới.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Phổ Chiếu, hay thành tựu trí huệ vào khắp pháp giới của Như Lai không thể nghĩ bàn.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: trì Phật chủng tánh, năng thành Như Lai bất khuynh động lực.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Trì Phật chủng tánh hay thành Sức chẳng khuynh động của Như Lai.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Giữ Giống Tánh Phật, hay thành tựu sức không khuynh động của Như Lai.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: huýnh xuất vô năng hoại, năng thành Như Lai vô úy vô hoại trí.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Hoánh xuất vô năng hoại hay thành Trí vô úy vô hoại của Như Lai.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Hồi Xuất Không Thể Hoại, hay thành tựu trí huệ không sợ hãi không hoại của Như Lai.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: nhất thiết thần thông, năng thành Như Lai chư bất cộng pháp, nhất thiết trí trí.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Nhứt thiết thần thông hay thành Những pháp bất cộng nhứt thiết chủng trí của Như Lai.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Tất Cả Thần Thông, hay thành tựu trí huệ Nhất Thiết Trí và mười tám pháp bất cộng của Như Lai.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: xuất sanh biến hóa, năng thành Như Lai lệnh kiến văn thân cận sở sanh thiện căn bất thất hoại trí.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Xuất sanh biến hóa hay thành Trí chẳng hư mất của Như Lai khiến người thấy nghe thân cận sanh thiện căn.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Sinh Biến Hoá, hay thành tựu trí huệ, khiến cho người thấy nghe gần gũi Như Lai, sinh ra căn lành vĩnh viễn không bị hư hoại.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: phổ tùy thuận, năng thành Như Lai vô tận phước đức trí tuệ chi thân, vi nhất thiết chúng sanh nhi tác nhiêu ích.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Phổ tùy thuận hay thành Thân trí huệ phước đức của Như Lai, vì tất cả chúng sanh mà làm lợi ích.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Phổ tuỳ thuận, tức là tuỳ thuận khắp chúng sinh. Hay thành tựu thân Như Lai vô tận phước đức trí huệ, vì tất cả chúng sinh mà làm lợi ích.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: bất khả cứu cánh, năng thành Như Lai thậm thâm diệu trí, tùy sở khai ngộ, lệnh Tam Bảo chủng vĩnh bất đoạn tuyệt.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Bất khả cứu cánh hay thành Diệu trí thậm thâm của Như Lai, tùy chỗ khai ngộ làm cho Tam bảo chủng vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Không thể rốt ráo, hay thành tựu trí huệ vi diệu thâm sâu của Như Lai, tuỳ sự khai ngộ, khiến cho hạt giống Tam Bảo vĩnh viễn không đoạn tuyệt.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: chủng chủng trang nghiêm, năng thành Như Lai tướng hảo nghiêm thân, lệnh nhất thiết chúng sanh giai sanh hoan hỉ.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Chủng chủng trang nghiêm hay thành Thân tướng hảo trang nghiêm của Như Lai, khiến tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Đủ thứ trang nghiêm, hay thành tựu thân Như Lai tướng tốt trang nghiêm, khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Phục hưũ vô thượng Đại trí quang minh, danh: bất khả hoại, năng thành Như Lai Pháp giới, hư không giới đẳng thù thắng thọ mạng vô hữu cùng tận.

Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Bất khả hoại hay thành Thọ mạng thù thắng vô tận đồng với hư không giới pháp giới của Như Lai.

Giảng: Lại có đại trí quang minh vô thượng, tên là Không thể hoại, hay thành tựu thọ mạng của Như Lai thù thắng cõi hư không pháp giới, không khi nào cùng tận.

 

Phật tử! Như Lai đại bi nhất vị chi thủy vô hữu phân biệt, dĩ chư chúng sanh dục lạc bất đồng, căn tánh các biệt, nhi khởi chủng chủng đại trí phong luân, lệnh chư Bồ-tát thành tựu Như Lai xuất hiện chi Pháp. Phật tử! nhất thiết Như Lai đồng nhất thể tánh, đại trí luân trung xuất sanh chủng chủng trí tuệ quang minh.

Chư Phật tử nước một vị đại bi của Như Lai không có phân biệt, vì các chúng sanh sở thích chẳng đồng căn tánh đều khác nên khởi nhiều thứ phong luân sai khác, khiến các Bồ Tát thành tựu pháp Như Lai xuất hiện. Tất cả Như Lai đồng một thể tánh, trong đại phong luân xuất sanh các thứ trí huệ quang minh.

 

Phật tử! nhữ đẳng ứng tri, Như Lai ư nhất giải thoát vị xuất sanh vô lượng bất khả tư nghị chủng chủng công đức, chúng sanh niệm ngôn, thử thị Như Lai thần lực sở tạo.

Chư Phật tử phải biết, đức Như Lai ở nơi một vị giải thoát, xuất sanh vô lượng bất tư nghì các thứ công đức. Chúng sanh nghĩ rằng đây là thần lực của Như Lai tạo ra.

Giảng: Các vị Phật tử ! Nước đại bi một vị của Như Lai, không có sự phân biệt. Vì sự ưa thích của các chúng sinh khác nhau, căn tánh mỗi người khác nhau, mà khởi lên đủ thứ đại trí phong luân. Khiến cho hết thảy Bồ Tát thành tựu pháp Như Lai xuất hiện ra đời.

Các vị Phật tử ! Tất cả chư Phật đồng một pháp thân. Từ trong đại trí luân, sinh ra đủ thứ trí huệ quang minh.

Phật tử ! Các ông nên biết trong một vị giải thoát của Như Lai, hay sinh ra vô lượng đủ thứ công đức không thể nghĩ bàn.

 

Phật tử! thử phi Như Lai thần lực sở tạo.

Chư Phật tử ! Ðây chẳng phải thần lực của Như Lai tạo ra.

Giảng: Tất cả chúng sinh đều nghĩ rằng : Đó là nhờ thần lực của Như Lai tạo ra.

 

Phật tử! nãi chí nhất Bồ Tát, bất ư Phật sở tằng chủng thiện căn, năng đắc Như Lai thiểu phần trí tuệ, vô hữu thị xứ. đãn dĩ chư Phật uy đức lực cố, lệnh chư chúng sanh cụ Phật công đức, nhi Phật Như Lai vô hữu phân biệt, vô thành vô hoại, vô hữu tác giả, diệc vô tác Pháp.

Chư Phật tử ! Chẳng bao giờ có nhẫn đến một Bồ Tát chẳng ở nơi chỗ Phật từng gieo căn lành mà có thể được ít phần trí huệ của Như Lai. Chỉ do sức oai đức của chư Phật khiến các chúng sanh đủ công đức của Phật. Mà đức Phật Như Lai không phân biệt, không thành, không hoại, không có tác giả, cũng không có pháp làm.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó chẳng phải là thần lực Như Lai tạo ra. Phật tử ! Cho đến một Bồ Tát, không từng ở trong đạo tràng của Phật trồng căn lành, mà đắc được chút phần trí huệ của Như Lai, thì không có lý nào. Nếu có thì không đúng, Đó đều do nhờ đại oai thần lực của mười phương chư Phật gia trì, khiến cho các chúng sinh đầy đủ công đức của Phật, mà Phật Như Lai không có sự phân biệt, không thành, cũng không hoại, không có người tạo, cũng không có pháp tạo tác.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ bát tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Chư Phật tử ! Ðây là tướng xuất hiện thứ tám của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ tám xuất hiện ra đời của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Đại Bồ Tát nên biết Như Lai xuất hiện ra đời là như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! như y hư không khởi tứ phong luân, năng trì thủy luân. Hà đẳng vi tứ?

Nhất danh: an trụ,

Nhị danh: thường trụ,

Tam danh: cứu cánh,

Tứ danh: kiên cố.

Lại nữa, chư Phật tử ! Như y hư không khởi bốn phong luân hay giữ lấy thủy luân : Những gì là bốn ?

Một tên là an trụ,

Hai tên là thường trụ,

Ba tên là cứu cánh,

Bốn tên là kiên cố.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Như nương hư không mà sinh khởi bốn thứ phong luân. Phong luân hay giữ gìn thuỷ luân. Những gì là bốn thứ phong luân?

Một là An trụ.

Hai là Thường trụ.

Ba là Cứu kính. Bốn là Kiên cố.

Bốn phong luân nầy hay nhiếp trì thuỷ luân.

 

Thử tứ phong luân năng trì thủy luân, thủy luân năng trì Đại địa lệnh bất tán hoại. Thị cố thuyết: địa luân y thủy luân, thủy luân y phong luân, phong luân y hư không, hư không vô sở y. Tuy vô sở y, năng lệnh tam thiên đại thiên thế giới nhi đắc an trụ.

Bốn phong luân này hay giữ lấy thủy luân. Thủy luân hay giữ lấy đại địa cho khỏi tan hư. Vì thế nên nói địa luân y nơi thủy luân, thủy luân y nơi phong luân, phong luân y nơi hư không, hư không không chỗ y. Dầu không chỗ y mà hư không có thể làm cho Ðại Thiên thế giới được an trụ.

Giảng: Thuỷ luân hay nhiếp trì đại địa (địa cầu), khiến cho đại địa không tan hoại. Bởi vậy, cho nên nói địa luân nương thuỷ luân. Thuỷ luân nương phong luân, phong luân nương hư không. Hư không không chỗ nương. Tuy không chỗ nương tựa, mà hư không hay làm cho ba ngàn đại thiên thế giới được an trụ.

 

Phật tử! Như Lai xuất hiện diệc phục như thị, y vô ngại tuệ quang minh khởi Phật tứ chủng đại trí phong luân, năng trì nhất thiết chúng sanh thiện căn. Hà đẳng vi tứ? sở vị:

Cũng vậy, Như Lai xuất hiện y nơi quang minh vô ngại huệ phát khởi bốn thứ đại trí phong luân của Phật hay giữ lấy thiện căn của tất cả chúng sanh.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai xuất hiện ra đời cũng lại như thế. Nương huệ quang minh vô ngại, sinh khởi bốn thứ đại trí huệ phong luân của Phật, hay nhiếp trì căn lành của tất cả chúng sinh. Những gì là bốn thứ phong luân ? Đó là :

 

1. Phổ nhiếp chúng sanh giai lệnh hoan hỉ đại trí phong luân

Một là đại trí phong luân nhiếp khắp chúng sanh đều làm cho hoan hỷ.

Giảng: Thứ nhất là đại trí phong luân Nhiếp trì khắp tất cả chúng sinh, đều khiến cho đại hoan hỉ.

 

2. Kiến lập chánh Pháp lệnh chư chúng sanh giai sanh ái lạc đại trí phong luân

Hai là đại trí phong luân kiến lập chánh pháp khiến các chúng sanh đều sanh ưa thích.

Giảng: Thứ hai là đại trí phong luân Kiến lập tất cả chánh pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh ái lạc.

 

3. Thủ hộ nhất thiết chúng sanh thiện căn đại trí phong luân,

Ba là đại trí phong luân giữ gìn thiện căn của tất cả chúng sanh.

Giảng: Thứ ba là đại trí phong luân Giữ gìn căn lành của tất cả chúng sinh.

 

4. Cụ nhất thiết phương tiện thông đạt vô lậu giới đại trí phong luân

Bốn là đại trí phong luân đủ tất cả phương tiện thông đạt vô lậu giới.

Giảng: Thứ tư là đại trí phong luân Đủ tất cả phương tiện thông đạt cõi vô lậu.

 

Thị vi tứ.

Đó là bốn

Giảng: Đó là bốn thứ đại trí phong luân.

 

Phật tử! chư Phật Thế tôn, đại từ cứu hộ nhất thiết chúng sanh, đại bi độ thoát nhất thiết chúng sanh, đại từ đại bi phổ biến nhiêu ích. Nhiên đại từ đại bi y Đại phương tiện thiện xảo, Đại phương tiện thiện xảo y Như Lai xuất hiện, Như Lai xuất hiện y vô ngại tuệ quang minh, vô ngại tuệ quang minh vô hữu sở y.

Chư Phật Thế Tôn đại từ cứu hộ tất cả chúng sanh, đại bi độ thoát tất cả chúng sanh, đại từ đại bi lợi ích khắp cả. Nhưng đại từ đại bi y đại phương tiện thiện xảo. Phương tiện thiện xảo y Như Lai xuất hiện. Như Lai xuất hiện y vô ngại huệ quang minh. Vô ngại huệ quang minh không chỗ y.

Giảng: Các vị Phật tử ! Mười phương chư Phật Thế Tôn đại bi cứu hộ tất cả chúng sinh, đại bi độ thoát tất cả chúng sinh, đại từ đại bi lợi ích khắp cùng tất cả chúng sinh. Đại từ đại bi nương đại phương tiện thiện xảo, nương Như Lai xuất hiện mà sinh ra. Như Lai xuất hiện là nương trí huệ quang minh vô ngại mà sinh ra. Trí huệ quang minh vô ngại không có chỗ nương.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ cửu tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng xuất hiện thứ chín của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác. Ðại Bồ Tát phải biết như vậy

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng xuất hiện thứ chín của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các vị đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như tam thiên đại thiên thế giới ký thành tựu dĩ, nhiêu ích vô lượng chủng chủng chúng sanh. sở vị: thủy tộc chúng sanh đắc thủy nhiêu ích, lục địa chúng sanh đắc địa nhiêu ích, cung điện chúng sanh đắc cung điện nhiêu ích, hư không chúng sanh đắc hư không nhiêu ích.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Ðại Thiên thế giới đã thành tựu rồi, nhiêu ích vô lượng chúng sanh. Những loài thủy tộc được lợi ích nơi nước. Lục địa chúng sanh được lợi ích nơi đất liền. Cung điện chúng sanh được lợi ích nơi cung điện. Hư không chúng sanh được lợi ích nơi hư không.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như Ðại Thiên thế giới đã thành tựu rồi, thì lợi ích vô lượng đủ thứ chúng sinh. Những loài thủy tộc được lợi ích nơi nước. Lục địa chúng sanh được lợi ích nơi đất liền. Cung điện chúng sanh được lợi ích nơi cung điện. Hư không chúng sanh được lợi ích nơi hư không.

 

Như Lai xuất hiện diệc phục như thị, chủng chủng nhiêu ích vô lượng chúng sanh. Sở vị: kiến Phật sanh hoan hỉ giả, đắc hoan hỉ ích; trụ tịnh giới giả, đắc tịnh giới ích; trụ chư Thiền định cập vô lượng giả, đắc Thánh xuất thế đại thần thông ích; trụ pháp môn quang minh giả, đắc nhân quả bất hoại ích; trụ vô sở hữu quang minh giả, đắc nhất thiết pháp bất hoại ích. Thị cố thuyết ngôn: Như Lai xuất hiện, nhiêu ích nhất thiết vô lượng chúng sanh.

Cũng vậy, Như Lai xuất hiện nhiều thứ lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Những là người thấy Phật sanh hoan hỷ thời được lợi ích nơi sự hoan hỷ. Kẻ an trụ nơi tịnh giới thời được lợi ích nơi tịnh giới. Kẻ trụ nơi các thiền định và môn vô lượng thời được lợi ích nơi Thánh xuất thế đại thần thông. Kẻ trụ pháp môn quang minh thời được lợi ích nhơn quả chẳng hoại. Kẻ trụ vô sở hữu quang minh thời được lợi ích tất cả pháp chẳng hoại. Vì thế nên nói rằng đức Như Lai xuất hiện lợi ích tất cả vô lượng chúng sanh.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như khi ba ngàn đại thiên thế giới thành tựu rồi, thì lợi ích vô lượng đủ thứ chúng sinh. Như chúng sinh sống dưới nước, thì đều được lợi ích của nước. Chúng sinh sống trên đất, thì đều được lợi ích của đất đai. Chúng sinh sống trong cung điện, thì đều được lợi ích của cung điện. Chúng sinh sống trong hư không, thì đều được lợi ích của hư không.

Như Lai xuất hiện cũng lại như thế, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện khéo léo, lợi ích vô lượng vô biên chúng sinh. Phàm là người thấy được Phật, mà sinh tâm hoan hỉ, thì đều được lợi ích của sự hoan hỉ. Chúng sinh tu trụ giới thanh tịnh, thì được lợi ích của giới thanh tịnh. Chúng sinh an trụ tại các thiền định và bốn vô lượng tâm, thì được lợi ích của Thánh nhân xuất thế đại thần thông. Chúng sinh an trụ pháp môn quang minh, thì được lợi ích nhân quả bất hoại. Chúng sinh trụ vô sở hữu quang minh, thì được lợi ích tất cả pháp bất hoại. Vì vậy, cho nên nói Như Lai xuất hiện, thì lợi ích tất cả vô lượng chúng sinh.

 

Phật tử! thị vi Như Lai, ưng, chánh đẳng giác xuất hiện đệ thập tướng, Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị tri.

Ðây là tướng xuất hiện thứ mười của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác, đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng xuất hiện ra đời thứ mười của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Các vị đại Bồ Tát nên biết như vậy.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tri Như Lai xuất hiện, tức tri vô lượng; tri thành tựu vô lượng hạnh cố, tức tri quảng đại; tri chu biến thập phương cố, tức tri vô lai khứ; tri ly sanh trụ diệt cố, tức tri vô hành, vô sở hành; tri ly tâm, ý, thức cố, tức tri vô thân; tri như hư không cố, tức tri bình đẳng; tri nhất thiết chúng sanh giai vô ngã cố, tức tri vô tận; tri biến nhất thiết sát vô hữu tận cố, tức tri vô thoái; tri tận hậu tế vô đoạn tuyệt cố, tức tri vô hoại; tri Như Lai trí vô hữu đối cố, tức tri vô nhị; tri bình đẳng quán sát vi, vô vi cố, tức tri nhất thiết chúng sanh giai đắc nhiêu ích, Bổn Nguyện hồi hướng tự tại mãn túc cố.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát biết Như Lai xuất hiện thời biết vô luợng, vì biết thành tựu vô lượng. Thời biết quảng đại, vì biết cùng khắp mười phương. Thời biết không lai khứ, vì biết lìa sanh, trụ, diệt. Thời biết vô hành, vô sở hành, vì biết lìa tâm ý thức. Thời biết không thân, vì biết như hư không. Thời biết bình đẳng, vì biết tất cả chúng sanh đều vô ngã. Thời biết vô tận, vì biết khắp tất cả cõi vô tận. Thời biết vô thối, vì biết tận hậu tế không đoạn tuyệt. Thời biết vô hoại, vì biết Như Lai trí không có đối đãi. Thời biết vô nhị, vì biết bình đẳng quán sát hữu vi và vô vi. Thời biết tất cả chúng sanh đều được lợi ích, vì bổn nguyện hồi hướng tự tại đầy đủ.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát biết được nhân duyên Như Lai xuất hiện, liền biết vô lượng sự việc. Vì biết thành tựu vô lượng hạnh, liền biết cảnh giới rộng lớn. Vì biết khắp cùng mười phương, liền biết không chỗ đến, cũng không chỗ đi. Vì biết lìa sinh trụ dị diệt, liền biết không làm không chỗ làm. Vì biết lìa tâm ý thức, liền biết không có thân. Vì biết như hư không, liền biết bình đẳng. Vì biết tất cả chúng sinh đều vô ngã, liền biết vô cùng tận. Vì biết khắp tất cả cõi không cùng tận, liền biết không thối chuyển. Vì biết hết thuở vị lai không đoạn tuyệt, liền biết không hoại. Vì biết trí Như Lai không đối đãi, liền biết pháp môn không hai. Vì biết bình đẳng quán sát tất cả pháp hữu vi và vô vi, liền biết tất cả chúng sinh đều được lợi ích. Vì Phật thuở xưa đã phát nguyện, hồi hướng chúng sinh, nên tự tại đầy đủ.

 

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dục trọng minh thử nghĩa nhi thuyết tụng ngôn:

Phổ Hiền đại Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng :

Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật rõ lại ý nghĩa trên, bèn dùng ba mươi bảy bài kệ để nói ra.

 

Thập lực Đại hùng tối vô thượng,                      Thập Lực Ðại Hùng vô thượng nhứt
Thí như hư không vô đẳng đẳng,                       Ví như hư không vô đẳng đẳng
Cảnh giới quảng đại bất khả lượng,                   Cảnh giới quảng đại chẳng lường được
Công đức đệ nhất siêu thế gian.                         Công đức thứ nhứt siêu thế gian

Giảng: Thập Lực Đại Hùng (Phật) vô thượng nhất, ví như hư không, chẳng có gì có thể bằng hư không. Cảnh giới hư không rộng lớn không có bờ mé, không thể dò lường được. Công đức của Phật là bậc nhất, vượt qua thế gian. Tóm lại, công đức thế gian không thể nào so sánh với công đức của Phật. Thập lực chỉ có Phật mới có đủ, Bồ Tát tựa như có, nhưng chẳng phải thật có, chỗ khác của các Ngài bất quá là mười thứ trí huệ mà thôi. Phải đạt đến quả vị Phật, mới xưng là Thập lực. Thập lực tức là :

1. Trí lực biết xứ phi xứ.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội.
4. Trí lực biết căn thắng liệt.
5. Trí lực biết đủ thứ sự hiểu biết của chúng sinh.

6. Trí lực biết đủ thứ cõi.
7. Trí lực biết tất cả chỗ tái sinh.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu.
10. Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.

 

Thập lực công đức vô biên lượng,                      Thập Lực công đức vô biên lượng
Tâm ý tư lượng sở bất cập,                                 Tâm ý tư lương chẳng đến được
Nhân trung sư tử nhất Pháp môn,                     Một pháp môn của đức Thế Tôn
Chúng sanh ức kiếp mạc năng tri.                     Chúng sanh ức kiếp chẳng biết được

Giảng: Công đức của đấng Thập Lực (Phật) chẳng có bờ mé, chẳng có số lượng. Dùng tâm ý để suy lường, cũng nghĩ không được rốt ráo, thật là không thể nghĩ bàn. Phật là Pháp chủ của tất cả pháp môn. Chúng sinh trải qua thời gian ức kiếp, cũng không biết được cảnh giới của Phật.

 

Thập phương quốc độ toái vi trần                     Mười phương quốc độ nghiền làm trần
Hoặc hữu toán kế tri kỳ số;                                Hoặc có tính đếm biết số đó
Như Lai nhất mao công đức lượng,                   Công đức bằng một lông của Phật
Thiên vạn ức kiếp vô năng thuyết.                     Ngàn muôn ức kiếp không nói được

Giảng: Nếu đem mười phương tất cả thế giới nghiền nát ra làm bụi, hoặc còn có người có thể tính toán được số lượng hạt bụi, rốt ráo có bao nhiêu? Nhưng lượng công đức của một chân lông của Phật, dù trải qua ngàn vạn ức kiếp thời gian, cũng không thể nói hết được.

 

Như nhân trì xích lượng hư không,                    Như người cầm thước đo hư không
Phục hưũ tùy hành kế kỳ số,                              Lại có người theo tính số thước
Hư không biên tế bất khả đắc                            Biên tế hư không chẳng thể được
Như Lai cảnh giới diệc như thị.                          Cảnh giới Như Lai cũng như vậy

Giảng: Giả như có người cầm thước để đo lường hư không, có người ở phía sau chuyên ghi đếm số thước đo đạt. Nhưng vì hư không chẳng có bờ mé, cho nên không thể biết được số lượng. Cảnh giới của Như Lai cũng giống như hư không, chẳng có ai có thể độ lường được bờ mé của Ngài.

 

Hoặc hữu năng ư sát-na khoảnh,                       Hoặc có người trong khoảng sát na
Tất tri tam thế chúng sanh tâm                         Biết được tâm chúng sanh ba thuở
Thiết Kinh chúng sanh số đẳng kiếp                  Dầu nhiều kiếp bằng số chúng sanh
Bất năng trai Phật nhất niệm tánh.                   Chẳng biết được một niệm của Phật

Giảng: Hoặc có người, ở trong khoảng thời gian rất ngắn, hoàn toàn biết được đủ thứ tâm của tất cả chúng sinh ba đời. Giả như trải qua số kiếp nhiều bằng số chúng sinh, thì người đó tuy biết được nhiều cảnh giới như vậy, nhưng họ không biết được tánh trong một niệm của Phật.

 

Thí như Pháp giới biến nhất thiết,                     Ví như pháp giới khắp tất cả
Bất khả kiến thủ vi nhất thiết;                            Chẳng thấy lấy được, làm tất cả
Thập lực cảnh giới diệc phục nhiên,                   Cảnh giới thập lực cũng như vậy
Biến ư nhất thiết phi nhất thiết.                         Khắp tất cả, chẳng phải tất cả

Giảng: Ví như pháp giới khắp cùng tất cả, nhưng không thể thấy lấy làm tất cả, tức cũng là không thể nói pháp giới tức là tất cả. Cảnh giới mười lực của Phật cũng như vậy, khắp cùng tất cả, nhưng nó chẳng phải tất cả.

 

Chân như ly vọng hằng tịch tĩnh                        Chơn như ly vọng hằng tịch tịnh
Vô sanh vô diệt phổ chu biến;                            Không sanh không diệt khắp tất cả
Chư Phật cảnh giới diệc phục nhiên                  Cảnh giới của Phật cũng như vậy
Thể tánh bình đẳng bất tăng giảm.                    Thể tánh bình đẳng chẳng tăng giảm

Giảng: Bản thể chân như là lìa hư vọng, thường thường tịch tĩnh. Nó cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt, nhưng khắp cùng tất cả mọi nơi. Cảnh giới mười phương chư Phật cũng như vậy, thể tánh bình đẳng, cũng chẳng tăng, cũng chẳng giảm.

 

Thí như thật tế nhi phi tế,                                   Như thiệt tế mà chẳng phải tế
Phổ tại tam thế diệc phi phổ;                             Khắp tại tam thế cũng chẳng khắp
Đạo sư cảnh giới diệc như thị,                            Cảnh giới Như Lai cũng như vậy
Biến ư tam thế giai vô ngại.                                Khắp tại tam thế đều vô ngại

Giảng: Như vậy mà không phải là vậy. Tràn khắp mọi nơi nhưng chẳng tràn khắp. Cảnh giới mười phương chư Phật cũng như vậy. Tràn khắp mọi nơi đều không bị trở ngại

 

Pháp tánh vô tác vô biến dịch                            Pháp tánh không làm không biến đổi
Do như hư không bổn thanh tịnh;                     Dường như hư không vốn thanh tịnh
Chư Phật tánh tịnh diệc như thị                        Chư Phật tánh tịnh cũng như vậy
Bổn tánh phi tánh ly hữu vô.                              Bổn tánh phi tánh rời có không

Giảng: Tánh của pháp chẳng có một tác giả nào, cũng chẳng có sự biến đổi nào. Giống như hư không, vốn thanh tịnh. Tánh của mười phương chư Phật là thanh tịnh, cũng như vậy. Bản tánh của Phật là vô tánh, đã lìa khỏi có, không, hai bên, tức cũng là đoạn, thường, hai bên.

 

Pháp tánh bất tại ư ngôn luận,                           Pháp tánh chẳng ở nơi ngôn luận
Vô thuyết ly thuyết hằng tịch diệt                      Rời hẳn ngôn thuyết hằng tịch diệt
Thập lực cảnh giới tánh diệc nhiên                    Cảnh giới thập lực tánh cũng vậy
Nhất thiết văn từ mạc năng biện.                       Tất cả văn từ chẳng biện được

Giảng: Pháp tánh chẳng ở tại lời nói, do đó có câu:

“Lìa tướng lời nói,
Lìa tướng văn tự,
Lìa tâm duyên tướng”.

Vốn chẳng có nói, cho nên lìa khỏi nói, thường là tịch diệt. Do đó có câu:
“Các pháp từ xưa nay,
Thường là tướng tịch diệt,
Không thể dùng lời nói”.

Tánh cảnh giới Thập lực của Phật cũng như vậy, tất cả văn từ và lời lẽ không cách chi hình dung được, không cách chi biện luận.

 

Liễu tri chư pháp tánh tịch diệt,                         Biết rõ các pháp tánh tịch diệt
Như điểu phi không vô hữu tích                         Như chim bay không chẳng có dấu
Dĩ ản nguyện lực hiện sắc thân,                         Do bổn nguyện lực hiện sắc thân
Lệnh kiến Như Lai Đại thần biến.                      Khiến thấy Như Lai đại thần biến

Giảng: Thấu rõ các pháp bản tánh là tịch diệt, giống như chim bay ở trong hư không, chẳng có dấu đường chim bay, khi bay qua rồi, chẳng để lại dấu vết. Do đó có câu:
“Chim bay hư không chẳng có dấu vết
Đao bén chém nước nước không vết”.

Nguyện lực thuở xưa của Phật đã phát ra, nên mới thị hiện sắc thân, khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được cảnh giới đại thần thông biến hoá của Như Lai.

 

Nhược hữu dục tri Phật cảnh giới,                     Có ai muốn biết Phật cảnh giới
Đương tịnh kỳ ý như hư không,                         Phải tịnh ý mình như hư không
Viễn ly vọng tưởng cập chư thủ                         Xa lìa vọng tưởng rời chấp lấy
Lệnh tâm sở hướng giai vô ngại.                        Khiến tâm hướng đến đều vô ngại

Giảng: Nếu có ai muốn biết cảnh giới của Phật, nên thanh tịnh tâm ý của mình như hư không. Xa lìa tất cả vọng tưởng và tất cả chấp lấy, khiến cho chỗ tâm hướng đến chẳng có chướng ngại, nếu không khởi vọng tưởng, thì bản tánh chân như sẽ hiện tiền.

 

Thị cố Phật tử ưng thiện thính,                          Vì thế Phật tử phải khéo nghe
Ngã dĩ thiểu thí minh Phật cảnh,                       Tôi dùng chút dụ rõ Phật cảnh
Thập lực công đức bất khả lượng,                     Thập lực công đức chẳng lường được
Vi ngộ chúng sanh kim lược thuyết.                   Vì ngộ chúng sanh nay luợc nói

Giảng: Bởi vậy cho nên các vị Phật tử! Nên dụng tâm để nghe. Hiện tại tôi dùng chút ít ví dụ để nói rõ cảnh giới của Phật. Phật có công đức mười lực, không thể nào độ lượng được. Nhưng vì khiến cho tất cả chúng sinh, đều được giác ngộ, cho nên mới lược nói một phen.

 

Đạo sư sở hiện ư thân nghiệp,                            Ðạo sư đã hiện nơi thân nghiệp
Ngữ nghiệp tâm nghiệp chư cảnh giới,              Ngữ nghiệp, tâm nghiệp các cảnh giới
Chuyển diệu pháp luân Bát Niết Bàn,               Chuyển diệu pháp luân nhập Niết Bàn
Nhất thiết thiện căn ngã kim thuyết.                  Tất cả căn lành nay tôi nói

Giảng: Đạo Sư thị hiện tất cả cảnh giới nghiệp thân, nghiệp lời, nghiệp ý. Hoặc chuyển bánh xe pháp vi diệu, hoặc thị hiện vào Niết Bàn. Hết thảy tất cả căn lành của Phật, hiện tại tôi nói ít phần.

 

Thí như thế giới sơ an lập,                                  Ví như thế giới mới an lập
Phi nhất nhân duyên nhi khả thành,                  Chẳng phải một duyên mà thành được
Vô lượng phương tiện chư nhân duyên,            Vô lượng phương tiện nhiều nhơn duyên
Thành thử tam thiên Đại Thiên giới.                  Làm thành Ðại Thiên thế giới này

Giảng: Giống như khi ba ngàn đại thiên thế giới mới thành lập, chẳng phải do một nhân duyên mà được thành lập, mà là do đủ thứ nhân duyên mà được thành lập. Chẳng phải do một sự việc, mà là nhờ đủ thứ sự việc mới thành tựu. Nhờ có vô lượng vô biên phương tiện, mới thành tựu ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Như Lai xuất hiện diệc như thị,                          Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Vô lượng công đức nãi đắc thành,                     Vô lượng công đức mới được thành
Sát trần tâm niệm thượng khả tri,                     Sát trần tâm niệm còn biết được
Thập lực sanh nhân mạc năng trắc.                  Thập lực sanh nhơn chẳng lường được

Giảng: Như Lai xuất hiện ra đời cũng như thế, vì thuở xưa tu vô lượng công đức, mới được thành tựu. Cõi nước mười phương chư Phật, nghiền nát ra làm bụi, số lượng còn có thể biết được, nhưng nhân duyên của Phật Thập Lực sinh, chẳng có ai dò lường được.

Các vị hãy nghĩ xem, thuở xưa đức Phật tu vô lượng vô biên công đức, mới thành Phật được. Tại sao chúng ta chẳng thành Phật? Vì chẳng tu vô lượng vô biên công đức. Sự khác biệt công đức của chúng ta quá xa, vì một mặt tu hành, một mặt thì tạo nghiệp, tu chẳng được bao nhiêu, ngược lại từ sáng đến tối tạo nghiệp thân, tạo nghiệp miệng, tạo nghiệp ý.

Trong ý niệm, thường nghĩ người khác chẳng tốt, nghĩ người khác đối với mình không tốt, nghĩ người khác chẳng bằng mình, đủ thứ vọng tưởng. Ở trong ý niệm tạo biết bao là nghiệp ác tham sân si. Miệng cũng tạo nghiệp, thường nói thị phi, cứ nói dối, thêu dệt, chưởi mắng, hai lưỡi. Có những người, nếu ngày nào đó không nói thị phi, thì ngày đó không thể sống được. Ngày nào không khởi vọng tưởng, thì chẳng được tự tại giống như chẳng ăn cơm. Suốt ngày đến tối dựa vào nói thị phi khởi vọng tưởng để sinh tồn, chúng ta nói có kỳ quái chăng!

Có người có những mao bệnh, mà chính mình không thừa nhận, vẫn cứ muốn che đậy nó, còn nói mình chẳng khởi vọng tưởng, chẳng có dục niệm, đeo mặt nạ, đi khắp nơi lường gạt người. Kỳ thật, ở trên thế giới nầy, sao có thể lường gạt được người? Chẳng những lường gạt chẳng được người, mà cũng chẳng lường gạt được chính mình. Tại sao? Vì mình khởi vọng tưởng, tự hỏi mình có biết chăng? Nếu biết, thì chẳng thể lường gạt được mình rồi đó. Tức nhiên chẳng lường gạt được mình, sao lại lường gạt người! Người ngu si mới có những hành vi như thế. Người chẳng tu hành, đeo mặt nạ lên, tâm ngu muội chuyên làm những việc chẳng giữ quy cụ, chẳng quang minh chánh đại, tự mình còn không thừa nhận. Do đó, suốt ngày sống say chết mộng, chẳng tu chút công đức nào cả, thì làm sao mà thành Phật? Xa cách biệt Phật mười vạn tám ngàn dặm.

Tóm lại, công đức của chúng ta tu, chẳng bằng tạo nghiệp. Cũng có thể nói: “Những gì đắc được chẳng bằng sự mất mác đi”, thì làm sao có sự thành tựu?

 

Thí như kiếp sơ vân chú vũ,                                Ví như kiếp sơ mây tuôn mưa
Nhi khởi tứ chủng Đại phong luân,                    Mà khởi bốn thứ đại phong luân
Chúng sanh thiện căn Bồ Tát lực,                      Chúng sanh thiện căn Bồ Tát lực
Thành thử tam thiên các an trụ.                        Thành Ðại Thiên này đều an trụ

Giảng: Giống như lúc kiếp sắp thành, thì khởi mây lớn tuôn mưa lớn xuống, tự nhiên khởi lên bốn thứ đại phong luân. Đây là nguyên nhân gì? Vì cảm ứng của tất cả chúng sinh tạo nghiệp và thần lực thành tựu của các Bồ Tát, cho nên mới thành Ba ngàn đại thiên thế giới, đều an trụ sống với nhau.

 

Thập lực pháp vân diệc như thị,                         Thập lực pháp vân cũng như vậy
Khởi trí phong luân thanh tịnh ý,                      Khởi trí phong luân ý thanh tịnh
Tích sở hồi hướng chư chúng sanh,                   Xưa các chúng sanh đã hồi hướng
Phổ đạo lệnh thành vô thượng quả.                   Ðạo Sư khiến thành quả vô thượng

Giảng: Mây pháp của Thập Lực cũng lại như thế. Sinh khởi đại trí phong luân, thanh tịnh tâm ý. Thuở xưa Phật tu tất cả căn lành, hoàn toàn hồi hướng cho tất cả chúng sinh, dẫn dắt khắp, khiến cho hết thảy chúng sinh đều thành tựu quả Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Như hữu Đại vũ danh hồng chú,                        Như có mưa to hiệu hồng chú
Vô hữu xứ sở năng dung thọ,                             Không có nơi nào dung thọ được
Duy trừ thế giới tướng thành thời,                     Chỉ trừ thế giới lúc sắp thành
Thanh tịnh hư không đại phong lực.                  Hư không thanh tịnh sức gió lớn

Giảng: Giống như có một trận mưa lớn, tên là Hồng Chú, không có chỗ nào có thể dung chứa được lượng nước mưa nầy. Chỉ trừ lúc thế giới sắp thành tựu, mới dung chứa được trận mưa lớn đó, dùng trận mưa lớn đó để thanh tịnh sức gió lớn trong hư không. Sức gió lớn đó thổi bay tiêu diệt hết khí độc nhiễm ô trong hư không, sinh ra không khí mới tươi mát, vạn vật bắt đầu sinh ra.

 

Như Lai xuất hiện diệc như thị,                          Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Phổ vũ Pháp vũ sung Pháp giới,                         Khắp mưa pháp vũ đầy pháp giới
Nhất thiết liệt ý vô năng trì,                                Những kẻ ý liệt không thọ được
Duy trừ thanh tịnh quảng đại tâm.                    Chỉ trừ tâm thanh tịnh quảng đại

Giảng: Như Lai xuất hiện cũng như vậy, mưa xuống khắp cùng, đầy khắp pháp giới. Đức Phật chuyển bánh xe pháp khắp cùng, diễn nói diệu pháp, giống như mưa xuống, chúng sinh đều được pháp hỷ sung mãn. Pháp vũ nầy, có người căn lành lập chí, mới tu trì được. Người chẳng có trí huệ, không thể tu trì được. Chỉ có người có tâm thanh tịnh rộng lớn, mới có thể tu trì pháp đại thừa này.

 

Thí như không trung chú Đại vũ,                       Ví như trên không tuôn mưa lớn
Vô sở tòng lai vô sở khứ,                                     Không từ đâu đến không đi đâu
Tác giả thọ giả tất diệc vô,                                  Tác giả, thọ giả cũng đều không
Tự nhiên như thị phổ sung hiệp.                         Như vậy tự nhiên khắp thấm ướt

Giảng: Giống như trong hư không đổ mưa lớn xuống, mây mưa đó từ đâu đến? Lại đi về đâu? Chẳng biết. Chẳng có kẻ làm, chẳng có kẻ thọ, đó là sức tự nhiên, thấm ướt khắp hết thảy pháp giới.

 

Thập lực Pháp vũ diệc như thị,                          Thập lực pháp vũ cũng như vậy
Vô khứ vô lai vô tạo tác,                                      Không khứ, không lai, không tạo tác
Bổn hạnh vi nhân Bồ Tát lực,                             Bổn hạnh làm nhơn sức Bồ Tát
Nhất thiết Đại tâm hàm thính thọ.                     Tất cả đại tâm đều nghe lãnh

Giảng: Thập Lực (Phật) mưa pháp cũng như vậy, không từ đâu đến, cũng không về đâu, chẳng có kẻ tạo tác. Nhờ hạnh tu thuở xưa là nhân duyên, cũng là đại oai thần lực của Bồ Tát, hết thảy tất cả Bồ Tát tâm rộng lớn, đều nghe thọ pháp nầy.

 

Thí như không vân chú đại vũ                            Ví như mây to tuôn mưa lớn
Nhất thiết vô năng số kỳ tích,                             Không ai đếm được số giọt mưa
Duy trừ tam thiên Tự tại Vương                        Chỉ trừ Ma Hê Thủ La Thiên
Cụ công đức lực tất minh liễu.                            Ðủ sức công đức đều biết rõ

Giảng: Giống như mây trong hư không tuông mưa xuống, bất cứ người nào, cũng không thể đếm được số giọt nước mưa. Chỉ trừ chủ của tam thiên đại thiên thế giới là Đại Tự Tại Thiên Vương, ông ta đầy đủ sức lực công đức, mới biết rõ được bao nhiêu số giọt nước mưa.

 

Thiện-Thệ Pháp vũ diệc như thị,                        Thiện Thệ pháp vũ cũng như vậy
Nhất thiết chúng sanh mạc năng trắc,              Tất cả chúng sanh không lường được
Duy trừ ư thế tự tại nhân,                                  Chỉ trừ đấng Tự Tại thế gian
Minh kiến như quán chưởng trung bảo.           Như trong bàn tay xem thấy rõ

Giảng: Đấng Thiện Thệ mưa pháp cũng như vậy. Hết thảy tất cả chúng sinh, không cách chi dò lường được có bao nhiêu giọt nước mưa. Chỉ trừ chủ của đại thiên thế giới, mới biết được cảnh giới nầy, như xem báu ở trong lòng bàn tay.

 

Thí như không vân chú đại vũ                            Ví như mây to tuôn mưa lớn
Năng diệt năng khởi diệc năng đoạn,                 Hay diệt, hay khởi, cũng hay dứt
Nhất thiết trân bảo tất năng thành,                   Tất cả trân bửu đều hay thành
Tam thiên sở hữu giai phân biệt.                        Ðại Thiên mọi vật đều sai khác

Giảng: Giống như mây ở trong hư không, đổ xuống một trận mưa lớn, hay diệt tất cả sự khô khan, hay sinh khởi căn lành của chúng sinh, lại hay đoạn tuyệt tất cả tà kiến. Nhất thiết trí báu đều được thành tựu. Trong tâm chúng sinh hoan hỉ, họ có căn lành đó, loại chúng sinh đó, ứng dụng pháp môn nào để độ, Phật đều phân biệt được rất rõ ràng.

 

Thập lực Pháp vũ diệc như thị,                          Thập lực pháp vũ cũng như vậy
Diệt hoặc khởi thiện đoạn chư kiến,                   Diệt ác, khởi lành, dứt kiến chấp
Nhất thiết trí bảo giai sử thành,                         Báu nhứt thiết trí đều khiến thành
Chúng sanh tâm lạc tất phân biệt.                     Chúng sanh sở thích đều sai khác

Giảng: Thập Lực của Phật mưa pháp cũng như vậy, hay diệt trừ nghi hoặc của chúng sinh, hay sinh ra căn lành của chúng sinh, lại hay đoạn tuyệt tất cả tà kiến. Báu nhất thiết trí huệ đều được thành tựu. Trong tâm chúng sinh hoan hỉ gì, thì họ có căn lành đó. Loài chúng sinh nào, đáng dùng pháp môn gì độ được, thì Phật đều phân biệt được rõ ràng, biết được rõ ràng.

 

Thí như không trung vũ nhất vị,                        Ví như trên không mưa một vị
Tùy kỳ sở vũ các bất đồng,                                 Tùy chỗ được mưa đều chẳng đồng
Khởi bỉ vũ tánh hữu phân biệt,                          Tánh của mưa kia không phân biệt
Nhiên tùy vật dị pháp như thị.                            Nhưng tùy vật khác, tất như vậy

Giảng: Ví như hư không mưa xuống, vốn là một vị. Nhưng tuỳ theo mỗi loài sinh vật, tiếp thụ lượng nước đều khác nhau. Đó chẳng phải là bản tánh của mưa có sự phân biệt, ở đây cho nhiều, ở kia cho ít, mà là tuỳ theo mỗi vật khác nhau, nên có sự phân biệt, pháp cũng như vậy.

 

Như Lai Pháp vũ phi nhất dị                              Như Lai pháp vũ chẳng một khác
Bình đẳng tịch tĩnh ly phân biệt,                        Bình đẳng tịnh tịnh lìa phân biệt
Nhiên tùy sở hóa chủng chủng thù,                   Nhưng tùy sở hóa nhiều loại khác
Tự nhiên như thị vô biên tướng.                         Tự nhiên vô biên tướng như vậy

Giảng: Như Lai mưa pháp cũng như vậy, cũng chẳng phải một, cũng chẳng phải nhiều. Vốn là bình đẳng mà tịch tĩnh, lìa khỏi tất cả sự phân biệt. Tuỳ theo sự giáo hoá đủ thứ sự khác nhau, tự nhiên có vô biên tướng như vậy.

 

Thí như thế giới sơ thành thời,                           Ví như thế giới lúc mới thành
Tiên thành sắc giới Thiên cung điện,                  Trước thành Sắc giới thiên cung điện
Thứ cập dục thiên thứ nhân xứ,                         Kế Dục thiên cung, kế đến người
Càn thát bà cung tối hậu thành.                        Cung Càn thát bà thành sau rốt

Giảng: Giống như lúc thế giới mới thành tựu, trước hết thành tựu cung điện chư Thiên cõi trời sắc giới, kế tiếp thành tựu cung điện chư Thiên cõi trời dục giới, sau đó thành tựu cung điện nhân gian, kế tiếp thành tựu cung điện Càn Thát Bà, tóm lại, lần lượt mà thành tựu.

 

Như Lai xuất hiện diệc như thị,                          Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Tiên khởi vô biên Bồ Tát hạnh,                           Trước khởi vô biên Bồ Tát hạnh
Thứ hóa lạc tịch chư duyên giác,                        Kế độ Duyên Giác ưa tịch diệt
Thứ Thanh văn chúng hậu chúng sanh.            Kế chúng Thanh Văn, đến chúng sanh

Giảng: Như Lai xuất hiện cũng như vậy, trước hết khởi vô biên hạnh môn của Bồ Tát tu, nghĩa là trước hết diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, sau đó giáo hoá tất cả Duyên Giác hoan hỉ thanh tịnh, kế đó giáo hoá chúng Thanh Văn, cuối cùng giáo hoá tất cả chúng sinh.

 

Chư Thiên sơ kiến liên hoa thụy,                        Chư Thiên mới thấy điềm liên hoa
Tri Phật đương xuất sanh hoan hỉ;                    Vui mừng biết Phật sẽ xuất thế
Thủy duyên phong lực khởi thế gian                  Do nước, sức gió khởi thế gian
Cung điện sơn xuyên tất thành lập.                   Cung điện núi sông đều thành lập

Giảng: Tất cả chư Thiên ban đầu mới thấy được điềm hoa sen, liền biết được sẽ có Phật xuất hiện ra đời, mà sinh đại hoan hỉ. Nhờ nước duyên với sức gió, tạo thành được thế gian. Hết thảy cung điện, hết thảy đất đai núi sông, hoàn toàn được thành lập nên.

 

Như Lai tú thiện đại quang minh,                      Như Lai thiện lực đại quang minh
Xảo biệt Bồ Tát dữ kỳ kí;                                    Khéo thọ ký cho chư Bồ Tát
Sở hữu trí luân thể giai tịnh,                               Bao nhiêu trí luân thể đều sạch
Các năng khai thị chư Phật Pháp.                     Ðều hay khai thị các Phật pháp

Giảng: Thuở xưa Như Lai tu căn lành, trí huệ quang minh, hay khéo léo phân biệt được tất cả căn tánh và nhân duyên của đại Bồ Tát, thọ ký bồ đề cho các Ngài. Hết thảy trí huệ luân thể, đều thanh tịnh, đều có thể khai thị hết thảy Phật pháp.

 

Thí như thụ lâm y địa hữu,                                 Ví như rừng cây nương đất có
Địa y ư thủy đắc bất hoại,                                   Ðất nương nơi nước chẳng tan hư
Thủy luân y phong phong y không,                    Nước nương phong luân, phong nương không
Nhi kỳ hư không vô sở y.                                     Mà hư không kia không nương dựa

Giảng: Ví như hết thảy rừng cây, đều nương đất mà có. Đất đai nương tựa nước để chi trì, cho nên không thể bị phá hoại. Nước nương gió, gió thì nương hư không, hư không thì chẳng có chỗ nương, tại sao ? Vì hư không là không, chẳng có một vật gì hết.

 

Nhất thiết Phật Pháp y từ bi,                             Tất cả Phật pháp nương từ bi
Từ bi phục y phương tiện lập,                            Từ bi lại nương phương tiện lập
Phương tiện y trí trí y tuệ,                                  Phương tiện nương trí, trí nương huệ
Vô ngại tuệ thân vô sở y.                                     Thân vô ngại huệ không chỗ nương

Giảng: Hết thảy tất cả Phật pháp, đều nương từ bi mà sinh khởi. Từ bi lại nương phương tiện mà thành lập, phương tiện khéo léo nương tựa trí Bát Nhã, trí Bát Nhã nương tựa huệ. Trí huệ là gì ? Chưa nghĩ mà biết là huệ, nghĩ rồi mà biết là trí, tức là văn tư tu. Cầu trí huệ có ba bước : Văn thành tựu huệ, tư thành tựu huệ, tu thành tựu huệ. Đầy đủ trí huệ, thì có thần thông, cho nên gọi là trí huệ giải thoát. Lại có thể nói tư duy tu (thiền định), tư duy tức là khiến cho trí phát sinh ra, mà huệ là theo tự nhiên mà sinh ra. Do đó, huệ thân vô chướng ngại không chỗ nương.

 

Thí như thế giới ký thành lập,                            Ví như thế giới đã thành lập
Nhất thiết chúng sanh hoạch kỳ lợi,                   Tất cả chúng sanh được lợi ích
Địa thủy sở trụ cập không cư,                            Loài ở đất, ở nước, hư không
Nhị túc tứ túc giai mông ích.                              Hai chân, bốn chân đều được lợi

Giảng: Ví như thế giới vừa thành lập rồi, thì tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích. Chúng sinh ở tại đất, chúng sinh ở trong nước, chúng sinh ở trong hư không, hoặc là loài hai chân, hoặc chúng sinh bốn chân, đều đắc được lợi ích của họ.

 

Pháp vương xuất hiện diệc như thị                    Pháp Vương xuất hiện cũng như vậy
Nhất thiết chúng sanh hoạch kỳ lợi,                   Tất cả chúng sanh đều được nhờ
Nhược hữu kiến văn cập thân cận                     Nếu có thấy nghe và thân cận
Tất sử diệt trừ chư hoặc não.                             Ðều khiến trừ diệt những hoặc não

Giảng: Đấng Pháp Vương (Phật) xuất hiện ra đời, cũng như vậy. Tất cả chúng sinh đều đắc được lợi ích của Phật, hoặc có người thấy được thân Phật, hoặc nghe được tiếng của Phật, hoặc gần gũi Phật. Vì Phật thấy được tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc, rất là minh bạch. Nếu tất cả chúng sinh thấu hiểu được tất cả hoặc, thì chẳng còn điên đảo nữa, chẳng còn điên đảo thì chẳng còn phiền não, chẳng còn phiền não thì sẽ đắc được giải thoát.

 

Như Lai xuất hiện Pháp vô biên,                        Như Lai xuất hiện pháp vô biên
Thế gian mê hoặc mạc năng tri,                         Thế gian mê lầm chẳng biết được
Vi dục khai ngộ chư hàm thức,                          Vì muốn khai ngộ những hàm thức
Vô thí dụ trung thuyết kỳ thí.                             Trong không ví dụ mà nó dụ

Giảng: Như Lai xuất hiện ra đời, diễn nói diệu pháp vô biên vô lượng. Người thế gian mê chẳng ngộ, khởi hoặc tạo nghiệp, chẳng ai biết được diệu pháp của Phật nói. Phật muốn khai ngộ tất cả chúng sinh, vốn chẳng có vị dụ nào có thể nói được, cũng chẳng có gì có thể giảng được. Tuy nhiên không cách gì để nói, nhưng miễn cưỡng ở trong không ví dụ nói đủ thứ ví nhứ, nói đủ thứ pháp. Dùng pháp phương tiện khéo léo để giáo hoá chúng sinh.

Chúng ta giảng đến đoạn Kinh văn nầy, đáng khóc lóc rơi lệ ! Thấy Phật tâm từ bi tha thiết, dần dần khéo dạy để tiến lên, để khiến cho chúng ta chúng sinh phát tâm bồ đề, nhưng chúng ta vẫn ở đây lãng phí thời gian, chẳng biết tu hành, do đó có câu :
Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na,
Có tai chẳng nghe giáo viên đốn.

Vẫn ở đây giải đãi, chẳng chịu dụng công tu hành, không biết khi nào mới được giải thoát giác ngộ.

Phật tử! chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng vân hà kiến Như Lai, ưng, Chánh đẳng giác thân?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải như thế nào mà thấy thân của đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác ?

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị Phật tử ! Các đại Bồ Tát, các vị nên biết, làm thế nào thấy được thân Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ? Xin các vị lắng nghe cho kỹ, gồm có mười pháp thân tướng.

 

Phật tử! chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng ư vô lượng xứ kiến như lai thân. Hà dĩ cố? chư Bồ-Tát Ma-ha-tát bất ưng ư nhất pháp, nhất sự, nhất thân, nhất quốc độ, nhất chúng sanh kiến ư Như Lai, ưng biến nhất thiết xứ kiến ư Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát phải ở vô lượng xứ mà thấy thân Như Lai. Tại sao ? Vì chư đại Bồ Tát chẳng nên ở một pháp, một sự, một thân, một quốc độ, một chúng sanh mà thấy Như Lai. nên khắp tất cả mọi nơi thấy Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử ! Hết thảy các đại Bồ Tát, các vị nên ở nơi vô lượng xứ thấy được thân Như Lai. Thân Như Lai là vô tại vô bất tại (chẳng có chỗ nào mà chẳng có); bất cứ ở chỗ nào cũng đều là thân Như Lai ở tại chỗ đó. Tại sao vậy ? Các đại Bồ Tát ! Đừng nên ở nơi một pháp, một sự việc, một thân, một cõi nước, và một chúng sinh, mà thấy Như Lai. Nên khắp tất cả mọi nơi thấy được chân thân của Như Lai, hết thảy mọi nơi, tất cả pháp, đều hay hiện tiền. Mười phương tất cả chư Phật cũng hay hiện tiền.

Nếu chúng ta minh bạch Phật pháp, thì vạn sự vạn vật đều đang nói pháp, chỉ vì chúng ta bị vô minh che đậy, cho nên chẳng nhận thức được. Phật càng nói pháp thì chúng ta càng chẳng nghe pháp, do đó mà bị đoạ lạc. Đoạ lạc ! Đoạ lạc ! Một đời so với một đời đoạ lạc hơn ! Một đời so với một đời ngu si hơn ! Cho đến gì cũng chẳng biết.

 

Phật tử! thí như hư không biến chí nhất thiết sắc, phi sắc xử, phi chí, phi bất chí. Hà dĩ cố? hư không vô thân cố. Như Lai thân diệc như thị, biến nhất thiết xứ, biến nhất thiết chúng sanh, biến nhất thiết pháp, biến nhất thiết quốc độ, phi chí, phi bất chí. Hà dĩ cố? Như Lai thân vô thân cố, vi chúng sanh cố thị hiện kỳ thân.

Ví như hư không đến khắp tất cả chỗ sắc phi sắc, chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì hư không chẳng có thân. Cũng vậy, thân Như Lai khắp tất cả chỗ, khắp tất cả chúng sanh, khắp tất cả pháp, khắp tất cả quốc độ, chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì thân Như Lai là không có thân. Vì chúng sanh mà thị hiện thân Phật.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như hư không, khắp cùng hết thảy tất cả chỗ có sắc và chỗ không có sắc, chẳng có cái đến, cũng chẳng có cái không đến. Tại sao vậy ? Vì hư không vốn chẳng có thân, cho nên hư không chẳng thể đến, cũng chẳng có tình hình phát sinh không thể đến.

Thân Như Lai cũng như vậy. Khắp cùng tất cả mọi nơi, khắp cùng tất cả tâm chúng sinh, khắp cùng tất cả pháp, khắp cùng tất cả cõi nước, nhưng cũng chẳng đến, cũng chẳng không đến. Tại sao vậy ? Vì pháp thân của Như Lai không có hình tướng để thấy. Chỉ vì chúng sinh nên Như Lai thị hiện pháp thân, báo thân, ứng thân.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ nhất tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ nhứt của thân Như Lai. Chư Ðại Bồ Tát phải thấy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ nhất của thân Như Lai. Các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân của Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như hư không khoan quảng phi sắc, nhi năng hiển Hiện-Nhất-Thiết chư sắc, nhi bỉ hư không vô hữu phân biệt diệc vô hí luận. Như Lai thân diệc phục như thị, dĩ trí quang minh phổ chiếu minh cố, lệnh nhất thiết chúng sanh thế, xuất thế gian chư thiện căn nghiệp giai đắc thành tựu, nhi Như Lai thân vô hữu phân biệt diệc vô hí luận. Hà dĩ cố? tùng bổn dĩ lai, nhất thiết chấp trước, nhất thiết hí luận giai vĩnh đoạn cố.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như hư không rộng rãi chẳng phải sắc mà hay hiển hiện tất cả sắc. Nhưng hư không kia không có phân biệt cũng không hý luận. Thân của Như Lai cũng vậy. Vì do trí quang minh khắp chiếu sáng làm cho tất cả chúng sanh, thế gian, xuất thế gian, các nghiệp thiện căn đều được thành tựu. Nhưng thân Như Lai không có phân biệt cũng không hý luận. Vì từ xưa đến nay, tất cả chấp trước, tất cả hý luận đều đã dứt hẳn.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như hư không rất rộng lớn, tuy nhiên hư không chẳng phải sắc, mà hay hiển hiện tất cả chúng sinh và sự vật có sắc. Bản thân hư không chẳng có sự phân biệt, cũng chẳng có hí luận. Thân của Như Lai cũng lại như thế, dùng trí huệ quang minh chiếu sáng khắp, khiến cho tất cả nghiệp căn lành của tất cả chúng sinh thế gian, hoặc xuất thế gian, đều được thành tựu, mà thân Như Lai không có sự phân biệt, cũng không có hí luận. Tại sao vậy ? Vì từ xưa đến nay, chẳng chấp trước về người, cũng chẳng chấp trước về pháp, cũng chẳng chấp về cái ta, cũng chẳng chấp về của ta, tất cả hí luận không thật, đều đã vĩnh viễn dứt trừ.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ nhị tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ hai của thân Như Lai. Chư Ðại Bồ Tát phải thấy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ hai của thân Như Lai. Các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như nhật xuất ư Diêm-phù-đề, vô lượng chúng sanh giai đắc nhiêu ích. Sở vị: phá ám tác minh, biến thấp lệnh táo, sanh trưởng thảo mộc, thành thục cốc giá, khuếch triệt hư không, khai phu liên hoa, hành giả kiến đạo, cư giả biện nghiệp. Hà dĩ cố? nhật luân phổ phóng Vô Lượng Quang cố.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như mặt nhựt mọc lên, vô lượng chúng sanh ở Diêm Phù Ðề được lợi ích. Những là phá tối làm sáng, biến ướt thành khô, sanh trưởng cỏ cây, thành thục lúa mạ, chói suốt hư không, hoa sen nở xoè, người đi thấy đường, kẻ ở nhà xong công việc. Tại sao? Vì mặt nhựt khắp phóng vô lượng quang minh.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như khi mặt trời mọc lên, đối với vô lượng chúng sinh ở cõi Diêm Phù Đề, đều đắc được lợi ích. Như phi tiềm động thực, hết thảy hữu tình chúng sinh và vô tình chúng sinh, đều đắc được lợi ích. Khi mặt trời mọc lên thì chiếu phá tối tăm, hiển hiện ra sự vật, ướt thành khô ráo, hay khiến cho các thứ cỏ cây, đều được sinh trưởng, lại hay thành thục lúa mạ. Khi mặt trời mọc lên rồi, thì hư không chói sáng trong suốt, hiển hiện ra rất thanh tịnh. Hoa sen được mặt trời chiếu đến, nở ra rất đẹp. Người đi bộ thì thấy rõ đường xá, người sĩ nông công thương rất thuận lợi lập nghiệp làm ăn. Tại sao vậy ? Vì mặt trời toả khắp vô lượng ánh sáng, lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều đắc được lợi ích, đều được sinh trưởng.

 

Phật tử! Như Lai trí nhật diệc phục như thị, dĩ vô lượng sự phổ ích chúng sanh. sở vị: diệt ác sanh thiện, phá ngu vi trí, đại từ cứu hộ, đại bi độ thoát; lệnh kỳ tăng trưởng căn, lực, giác phần; lệnh sanh thâm tín, xả ly trược tâm; lệnh đắc kiến văn, bất hoại nhân quả; lệnh đắc Thiên nhãn, kiến một sanh xứ; lệnh tâm vô ngại, bất hoại thiện căn; lệnh trí tu minh, khai phu giác hoa; lệnh kỳ phát tâm, thành tựu bổn hạnh. Hà dĩ cố? Như Lai quảng đại trí tuệ nhật thân, phóng Vô Lượng Quang phổ chiếu diệu cố.

Như Lai trí nhựt cũng như vậy, dùng vô lượng sự khắp lợi ích chúng sanh. Những là diệt ác sanh lành, phá ngu làm trí, đại từ cứu hộ, đại bi độ thoát, làm cho họ tăng trưởng căn, lực, giác phần, khiến sanh lòng tin sâu chắc, bỏ lìa tâm ô trược, khiến kẻ thấy nghe chẳng hư nhơn quả, khiến được thiên nhãn thấy chỗ thọ sanh sau khi chết, khiến tâm vô ngại chẳng hư căn lành, khiến trí tỏ sáng mau nở giác hoa, khiến họ phát tâm thành tựu bổn hạnh. Vì thân mặt nhựt trí huệ quảng đại của Như Lai phóng vô lượng quang minh chiếu sáng khắp nơi.

Giảng: Các vị Phật tử ! Trí huệ của Như Lai giống như mặt trời, cho nên gọi là Trí huệ mặt trời của Như Lai, cũng lại như thế. Dùng vô lượng sự việc lợi ích khắp tất cả chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh không làm các điều ác (diệt ác), làm các điều lành (sinh thiện). Phá trừ ngu si chướng ngại, biến thành bồ đề trí huệ. Phật dùng tâm đại từ để cứu hộ tất cả chúng sinh, dùng tâm đại bi để độ thoát, khiến cho họ lìa khổ được vui, khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng năm căn – Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn, khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng năm lực : Tín lực, tấn lực, niệm lực, huệ lực. Năm căn là nguồn gốc sinh trưởng pháp lành, năm lực hay trợ giúp năm căn sinh trưởng.

Khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng bảy giác phần : Trạch pháp giác phần, tinh tấn giác phần, hỉ giác phần, khinh an giác phần, xả giác phần, định giác phần, niệm giác phần. Khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng Bát Chánh Đạo : Chánh kiến, chánh ngữ, chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh niềm tin thâm sâu, phát nguyện cung hành thực tiễn. Xả lìa tâm ích kỷ lợi mình, xả lìa tâm cống cao ngã mạn, xả lìa tâm đố kị chướng ngại.

Tóm lại, xả lìa tất cả tâm ô trượt. Khiến cho tất cả chúng sinh tuỳ theo chỗ được thấy nghe, tin sâu nhân quả, chẳng hư hoại nhân quả, chẳng sai nhân quả, càng không thể bát vô nhân quả. Khiến cho tất cả chúng sinh đắc được thiên nhãn thông, chiếu thấu tất cả. Thấy được chỗ mình sẽ đi thọ sinh, lại chết ở chỗ nào, lại sinh ra ở chỗ nào ? Sinh sinh chết chết, chết chết sinh sinh, chuyển qua chuyển lại ở trong sáu nẻo luân hồi, xương cốt chồng chất như núi, khổ không thể nào tả được.

Khiến cho tất cả chúng sinh trong tâm chẳng có chướng ngại, chẳng phá hoại căn lành của mình tu. Khiến cho tất cả chúng sinh trí huệ viên mãn, tu được thành tựu, phóng đại quang minh sáng suốt, nở hoa sen giác ngộ. Khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm đại bồ đề, thành tựu bổn hạnh của mình tu. Tại sao vậy ? Vì thân Như Lai có trí huệ mặt trời rộng lớn, phóng ra vô lượng quang minh, chiếu sáng khắp tận cùng hư không pháp giới.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ tam tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ ba của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ ba pháp thân của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân của Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như nhật xuất ư Diêm-phù-đề, tiên chiếu nhất thiết Tu-di sơn đẳng chư Đại sơn vương, thứ chiếu hắc sơn, thứ chiếu cao nguyên, nhiên hậu phổ chiếu nhất thiết Đại địa. Nhật bất tác niệm: Ngã tiên chiếu thử, hậu chiếu ư bỉ. Đãn dĩ sơn địa hữu cao hạ cố, chiếu hữu tiên hậu.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như mặt nhựt mọc lên, trước hết chiếu những núi lớn như núi Tu Di v.v… , kế chiếu hắc sơn, kế chiếu cao nguyên, sau rốt chiếu khắp đại địa. Mặt nhựt chẳng nghĩ rằng ta trước chiếu đây rồi sau sẽ chiếu nơi kia. Chỉ do núi và mặt đất có cao và thấp nên chiếu có trước và sau.

Giảng: Lại nữa Phật tử ! Ví như mặt trời mọc lên, ở cõi Diêm Phù Đề, trước hết chiếu đến tất cả núi Tu Di và các núi chúa lớn, kế đó chiếu đến núi đen, sau đó chiếu đến vùng cao nguyên, cuối cùng chiếu đến khắp tất cả đại địa. Mặt trời chẳng nghĩ rằng : Trước hết tôi chiếu đến núi cao, sau chiếu đến đồng bằng. Chỉ vì núi cao và đồng bằng có sự cao thấp khác nhau, nên sự chiếu đến có sự khác biệt chiếu trước chiếu sau.

 

Như Lai, ưng, chánh đẳng giác diệc phục như thị, thành tựu vô biên pháp giới trí luân, thường phóng vô ngại trí tuệ quang minh, tiên chiếu Bồ-Tát Ma-ha-tát đẳng chư Đại sơn vương, thứ chiếu duyên giác, thứ chiếu Thanh văn, thứ chiếu quyết định thiện căn chúng sanh, tùy kỳ tâm khí thị quảng đại trí, nhiên hậu phổ chiếu nhất thiết chúng sanh, nãi chí tà định diệc giai phổ cập, vi tác vị lai lợi ích nhân duyên lệnh thành thục cố. Nhi bỉ Như Lai đại trí nhật quang bất tác thị niệm: ngã đương tiên chiếu Bồ Tát Đại hạnh, nãi chí hậu chiếu tà định chúng sanh. Đãn phóng quang minh bình đẳng phổ chiếu, vô ngại Vô chướng, vô sở phân biệt.

Ðức Như Lai Ðẳng Chánh Giác cũng như vậy. Thành tựu vô biên pháp giới trí luân, thường phóng vô ngại trí huệ quang minh. Trước chiếu chư đại Bồ Tát, kế chiếu Duyên Giác, kế chiếu Thanh Văn, kế chiếu chúng sanh có thiện căn quyết định, tùy theo tâm khí của họ mà thị hiện trí quảng đại, sau rốt chiếu khắp tất cả chúng sanh, nhẫn đến kẻ tà định cũng chiếu đến để làm nhơn duyên lợi ích thưở vị lai khiến họ được thành thục. Nhưng đức Như Lai Ðại Trí Nhựt Quang Bồ Tát đại hạnh, nhẫn đến sau rốt sẽ chiếu tà định chúng sanh. Chỉ phóng trí quang bình đẳng chiếu khắp, vô ngại, vô chướng, vô phân biệt.

Giảng: Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng lại như thế, thành tựu vô biên pháp giới trí luân. Thường phóng trí huệ quang minh vô ngại, trước hết chiếu đến các đại Bồ Tát các núi chúa lớn. Kế đó chiếu đến Duyên Giác, kế đó chiếu đến Thanh Văn, sau đó chiếu đến chúng sinh căn lành quyết định. Tuỳ theo tâm khí của họ, thị hiện trí huệ rộng lớn. Cuối cùng chiếu đến khắp tất cả chúng sinh, cho đến chúng sinh tà định, cũng đều chiếu đến. Vì nhân duyên vị lai được lợi ích, khiến cho họ tương lai cũng sẽ có cơ hội thành thục, mà đại trí huệ quang minh mặt trời của Như Lai, chẳng nghĩ như vầy : Trước hết tôi sẽ chiếu đến đại hạnh Bồ Tát, cho đến sau cùng chiếu đến chúng sinh tà định. Chỉ phóng quang minh bình đẳng chiếu khắp tất cả chúng sinh, do đó có câu : Phật quang phổ chiếu, không có sự chướng ngại, không có sự phân biệt.

 

Phật tử! thí như nhật nguyệt tùy thời xuất hiện, Đại sơn, u cốc phổ chiếu vô tư. Như Lai trí tuệ diệc phục như thị, phổ chiếu nhất thiết vô hữu phân biệt, tùy chư chúng sanh căn dục bất đồng, trí tuệ quang minh chủng chủng hữu dị.

Chư Phật tử ! Ví như mặt nhựt, mặt nguyệt, tùy thời xuất hiện, núi lớn, hang tối chiếu khắp không riêng tư. Như Lai trí huệ cũng như vậy, chiếu khắp tất cả không có phân biệt. Tùy theo chúng sanh căn khí, sở thích không đồng mà trí huệ quang minh có nhiều thứ khác nhau.

Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như mặt trời mặt trăng, tuỳ thời xuất hiện. Núi lớn hang cốc, đều được ánh sáng mặt trời mặt trăng chiếu khắp, không có tâm riêng tư. Trí huệ quang minh của Như Lai cũng lại như thế, chiếu khắp tất cả, không có sự phân biệt. Tuỳ theo căn tánh và dục lạc của chúng sinh khác nhau, mà trí huệ quang minh của Phật, có đủ thứ sự khác biệt, chiếu đến chúng sinh cũng có sự khác biệt.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ tứ tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ tư của thân Như Lai, Ðại Bồ Tát phải thấy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ tư của thân Như Lai, các vị đại Bồ Tát, các Ngài nên thấy pháp thân của Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như nhật xuất, sanh manh chúng sanh vô nhãn căn cố, vị tằng đắc kiến. Tuy vị tằng kiến, nhiên vi nhật quang chi sở nhiêu ích. Hà dĩ cố? nhân thử đắc tri trú dạ thời tiết, thọ dụng chủng chủng y phục, ẩm thực, lệnh thân điều thích ly chúng hoạn cố.

Lại nữa, Chư Phật tử ! Ví như mặt nhựt mọc lên, những kẻ sanh manh vì không nhãn căn nên trọn không thấy. Dầu không thấy, nhưng vẫn được ánh sáng mặt nhựt làm lợi ích. Vì do mặt nhựt mà biết thời tiết ngày đêm, thọ dụng các thứ y phục, ẩm thực, khiến thân mạnh khỏe khỏi tật bịnh.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như mặt trời mọc lên, chúng sinh sinh ra mù loà không có căn mắt, nên chừa từng thấy được mặt trời. Tuy chưa từng thấy được mặt trời, nhưng vẫn được lợi ích của ánh sáng mặt trời. Tại sao vậy ? Vì họ biết được ban ngày, ban đêm, và thời tiết, cũng biết mặt quần áo và ăn uống, khiến cho thân thể được điều hoà, lìa khỏi các bệnh hoạn.

 

Như Lai trí nhật diệc phục như thị, vô tín, vô giải, hủy giới, hủy kiến, tà mạng tự hoạt sanh manh chi loại vô tín nhãn cố, bất kiến chư Phật trí tuệ nhật luân. Tuy bất kiến Phật trí tuệ nhật luân, diệc vi trí nhật chi sở nhiêu ích. Hà dĩ cố? dĩ Phật uy lực, lệnh bỉ chúng sanh sở hữu thân khổ cập chư phiền não, vị lai khổ nhân giai tiêu diệt cố.

Như Lai trí nhựt cũng như vậy. Những kẻ không tin, không hiểu, phá giới, phá kiến tà mạng sanh sống, vì không tín nhãn nên chẳng thấy chư Phật trí huệ. Dầu không thấy, nhưng vẫn được sự lợi ích nơi trí huệ của Phật. Tại sao? Vì do oai lực của Phật làm cho những chúng sanh đó, các sự khổ nơi thân và những phiền nảo nhơn khổ vị lai đều đựơc tiêu diệt.

Giảng: Trí huệ mặt trời của Như Lai cũng lại như thế, hay lợi ích chúng sinh không có niềm tin, chúng sinh không có sự hiểu biết, thậm chí chúng sinh huỷ giới, hoặc huỷ sự thấy, chúng sinh tà mạng tự sống. Loại chúng sinh đó, giống như sinh ra mù loà, chẳng có tín tâm, chẳng có con mắt.

Tuy nhiên họ gặp được Như Lai xuất hiện ra đời, nhưng chẳng gặp Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng thấy Tăng, chẳng thấy được trí huệ mặt trời của chư Phật. Tuy chẳng thấy trí huệ mặt trời của chư Phật, nhưng cũng đắc được lợi ích của trí huệ mặt trời chiếu đến, cũng được trí huệ mặt trời gia bị. Tại sao vậy ? Vì nhờ đại oai lực của Phật, khiến cho chẳng tin Phật, hết thảy các sự khổ về thân, và tất cả phiền não của những chúng sinh đó, vị lai sẽ tiêu diệt hết nhân của khổ, đắc được thanh tịnh.

 

Phật tử! Như Lai hữu quang minh, danh: tích tập nhất thiết công đức; hữu quang minh, danh: phổ chiếu nhất thiết; hữu quang minh, danh: thanh tịnh tự tại chiếu; hữu quang minh, danh: xuất Đại Diệu-Âm; hữu quang minh, danh: phổ giải nhất thiết ngữ ngôn Pháp lệnh tha hoan hỉ; hữu quang minh, danh: thị hiện vĩnh đoạn nhất thiết nghi tự tại cảnh giới; hữu quang minh, danh: vô trụ trí tự tại phổ chiếu; hữu quang minh, danh: vĩnh đoạn nhất thiết hí luận tự tại trí; hữu quang minh, danh: tùy sở ưng xuất diệu âm thanh; hữu quang minh, danh: xuất thanh tịnh tự tại âm trang nghiêm quốc độ thành thục chúng sanh.

Chư Phật tử ! Ðức Như Lai có quang minh tên là tích tập tất cả công đức. Có quang minh tên là chiếu khắp tất cả. Có quang minh tên là thanh tịnh tự tại chiếu. Có quang minh tên là xuất đại diệu âm. Có quang minh tên là hiểu khắp tất cả ngữ ngôn khiến sanh hoan hỷ. Có quang minh tên là thị hiện cảnh giới tự tại dứt hẳn tất cả nghi ngờ. Có quang minh tên là trí vô trụ tự tại chiếu khắp. Có quang minh tên là trí tự tại dứt hẳn tất cả hý luận. Có quang minh tên là tùy sở nghi xuất diệu âm. Có quang minh tên là xuất âm thanh tự tại thanh tịnh trang nghiêm quốc độ thành thục chúng sanh.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai có quang minh trí huệ nhật luân, tên là Tích tập tất cả công đức. Lại có quang minh tên là Chiếu khắp tất cả. Lại có quang minh tên là Thanh tịnh tự tại chiếu. Lại có quang minh tên là Xuất đại diệu âm. Lại có quang minh tên là Hiểu khắp tất cả pháp ngôn ngữ, khiến cho họ đều sinh hoan hỉ. Lại có quang minh tên là Thị hiện cảnh giới tự tại vĩnh viễn đoạn trừ tất cả nghi hoặc. Lại có quang minh tên là Trí vô trụ tự tại chiếu khắp. Lại có quang minh tên là Trí tự tại vĩnh viễn đoạn trừ tất cả hí luận. Lại có quang minh tên là Tuỳ sở ứng vang diệu âm thanh. Lại có quang minh tên là Vang âm thanh tự tại thanh tịnh, trang nghiêm cõi nước, thành thục chúng sinh.

 

Phật tử! Như Lai nhất nhất mao khổng phóng như thị đẳng thiên chủng quang minh, ngũ bách quang minh phổ chiếu hạ phương, ngũ bách quang minh phổ chiếu thượng phương. Chủng chủng sát trung chủng chủng Phật sở chư Bồ-tát chúng, kỳ Bồ Tát đẳng kiến thử quang minh, nhất thời giai đắc Như Lai cảnh giới, thập đầu, thập nhãn, thập nhĩ, thập tỳ, thập thiệt, thập thân, thập thủ, thập túc, Thập Địa, thập trí, giai tất thanh tịnh.

Bỉ chư Bồ-tát tiên sở thành tựu chư xứ chư địa, kiến bỉ quang minh chuyển canh thanh tịnh, nhất thiết thiện căn giai tất thành thục, thú nhất thiết trí; trụ nhị thừa giả, diệt nhất thiết cấu; kỳ dư nhất phân sanh manh chúng sanh, thân ký khoái lạc, tâm diệc thanh tịnh, nhu nhuyễn điều phục, kham tu niệm trí; địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh chư thú sở hữu chúng sanh, giai đắc khoái lạc, giải thoát chúng khổ, mạng chung giai sanh Thiên thượng, nhân gian.

Chư Phật tử ! Mỗi lỗ lông của đức Như Lai phóng ra ngàn thứ quang minh như vậy. Năm trăm quang minh chiếu khắp hạ phương, năm trăm quang minh chiếu khắp thượng phương các chúng Bồ Tát ở chỗ chư Phật trong tất cả cõi. Những Bồ Tát đó thấy quang minh này đồng thời đều được cảnh giới Như Lai : mười đầu, mười mắt, mười tai, mười mũi, mười lưỡi, mười thân, mười tay, mười chân, mười địa, mười trí đều thanh tịnh tất cả.

Chư Bồ Tát đó trước đã thành tựu những xứ, những địa, khi thấy quang minh này thời lại thanh tịnh hơn, tất cả thiện căn thảy đều thành thục, hướng đến nhứt thiết trí. Hạng trụ ở Nhị thừa thời diệt tất cả phiền não. Ngoài ra một phần sanh manh chúng sanh, nhờ quang minh này, thân đã an lạc nên tâm họ cũng thanh tịnh nhu nhuyến điều phục kham tu niệm trí. Các chúng sanh nơi ác đạo : địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều được khoái lạc giải thoát những khổ, khi mạng chung đều được sanh lên cõi trời hoặc nhơn gian.

Giảng: Các vị Phật tử ! Trong mỗi lỗ chân lông của Như Lai, đều phóng ra ngàn thứ quang minh như vậy, có năm trăm thứ quang minh chiếu sáng khắp phương dưới; có năm trăm quang minh chiếu sáng khắp phương trên. Đủ thứ cõi nước, đủ thứ chỗ đức Phật, các chúng Bồ Tát. Các Bồ Tát đó thấy quang minh đó rồi, đồng thời đều được cảnh giới Như Lai : Có mười đầu, mười mắt, mười tai, mười mũi, mười lưỡi, mười thân, mười tay, mười chân, mười địa, và mười trí, thảy đều thanh tịnh.

Các Bồ Tát đó, trước đã thành tựu tất cả xứ, và tất cả địa. Bồ Tát căn lành đã sâu dày, thấy được quang minh đó, lại càng thêm thanh tịnh. Tất cả căn lành thảy đều thành thục, hướng về bậc nhất thiết trí. Khiến cho bậc nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác, diệt trừ được tất cả trần cấu, nghĩa là hoàn toàn tiêu diệt sạch tư tưởng tâm nhỏ lượng nhỏ ích kỷ lợi mình. Ngoài ra một phần chúng sinh sinh ra mù loà, thì thân cũng đắc được an vui, tâm cũng đắc được thanh tịnh. Rất mềm mại, rất điều phục, kham tu niệm trí. Chúng sinh trong ba đường ác : Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hết thảy chúng sinh các cõi, đều được an vui, giải thoát tất  cả khổ. Khi mạng chung đều được sinh lên cõi trời, hoặc sinh vào nhân gian.

 

Phật tử! bỉ chư chúng sanh bất giác bất tri, dĩ hà nhân duyên, dĩ hà thần lực nhi lai sanh thử? bỉ sanh manh giả tác như thị niệm: ngã thị phạm thiên! ngã thị phạm hóa! Thị thời, Như Lai trụ phổ tự tại tam muội, xuất lục thập chủng Diệu-Âm nhi cáo chi ngôn: nhữ đẳng phi thị phạm thiên, diệc phi phạm hóa, diệc phi Đế Thích hộ thế sở tác, giai thị Như Lai uy thần chi lực.

Chư Phật tử ! Những chúng sanh đó chẳng biết do nhơn duyên gì, do thần lực nào mà sanh về đây. Hàng sanh manh kia nghĩ rằng ta là Phạm Thiên, ta là Phạm Hoá. Bấy giờ đức Như Lai trụ trong phổ tự tại tam muội, phát ra sáu mươi thứ diệu âm mà bảo họ rằng các ngươi, chẳng phải là Phạm Thiên, Phạm Hóa, cũng chẳng phải là Ðế Thích, Hộ Thế làm ra, mà đều do thần lực của Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử ! Các chúng sinh đó, chẳng biết, chẳng hay được sinh về cõi trời, bởi nhân duyên gì, do thần lực gì, mà sinh đến cõi trời ? Phát sinh những nghi vấn đó. Chúng sinh sinh ra mù loà đó, bèn nghĩ như vầy : Tôi là Phạm Thiên, tôi là Phạm Thiên Vương hoá hiện, cho nên tôi mới có thể đến được cõi trời.

Lúc đó, Như Lai trụ tam muội Phổ tự tại, vang ra sáu mươi thứ diệu âm (âm các tướng, âm mềm mại, âm đáng ưa thích, âm vừa ý thanh tịnh, âm lìa cấu, âm hiển sáng, âm vi diệu, âm minh đức, âm không loạn, âm không hội, âm sư phụ, âm không ương nghạnh, âm không thô dữ, âm thuận lành, âm an trọng, âm thân sở cát lợi, âm tuỳ tâm tuỳ thời, âm như như vừa ý, âm thiên ái an tưởng, âm không nhiệt não, âm phương chánh, âm thức đạt, âm gần gũi, âm ý tốt, âm vui mừng, âm hoà nhã, âm sáng tỏ, âm tinh cần, âm hoà nhẫn, âm trọng liễu, âm tiếng vang khử uế, âm ứng sư tử, âm tiếng rồng, âm hảo vũ, âm hải lôi long vương, âm chân đà la chi, âm ai loan, âm ưng xướng, âm hạc kêu v.v…), mà bảo tất cả những người sinh về cõi trời rằng : Các ông chẳng phải là Phạm Thiên, cũng chẳng phải là Phạm Thiên hoá hiện ra, cũng chẳng phải Trời Đế Thích hoá hiện, càng chẳng phải Trời Tứ Thiên Vương hộ đời làm ra, các ông đều do đại oai thần lực của Như Lai, mới được sinh về cõi trời.

 

Bỉ chư chúng sanh văn thị ngữ dĩ, dĩ Phật thần lực giai tri tú mạng, sanh đại hoan hỉ; tâm hoan hỉ cố, tự nhiên nhi xuất ưu-đàm hoa vân, hương vân, âm nhạc vân, y vân, cái vân, tràng vân, phiên vân, mạt hương vân, Bảo Vân, Sư-tử-tràng bán nguyệt lâu các vân, ca vịnh tán thán vân, chủng chủng trang nghiêm vân, giai dĩ tôn trọng tâm cúng dường Như Lai. Hà dĩ cố? thử chư chúng sanh đắc Tịnh nhãn cố, Như Lai dữ bỉ thọ A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề kí.

Những chúng sanh đó nghe lời trên đây liền đều được biết đời trước và đều rất hoan hỷ. Vì tâm hoan hỷ nên tự nhiên hiện ra mây hoa ưu đàm, mây hương, mây âm nhạc, mây y phục, mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương bột, mây châu báu, tràng sư tử lầu các bán nguyệt, mây ca ngâm khen ngợi, mây những đồ trang nghiêm, đều cúng dường đức Như Lai với lòng tôn trọng. Vì những chúng sanh đó được tịnh nhãn. Ðức Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ Ðề cho họ.

Giảng: Các chúng sinh sinh ra mù loà đó, sinh về cõi trời rồi, nghe những lời đó rồi, nhờ thần lực của Phật gia trì, mới biết được túc mạng đời trước của mình, bèn sinh đại hoan hỉ. Vì tâm sinh đại hoan hỉ, nên tự nhiên hiện ra mây hoa ưu đàm, mây hương, mây âm nhạc, mây y, mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương bột, mây báu, mây lầu các tràng sư tử bán nguyệt, mây ca ngâm khen ngợi, mây đủ thứ trang nghiêm. Đều dùng tâm kiền thành tôn trọng nhất, cúng dường Như Lai. Tại sao ? Vì các chúng sinh đó, đã được mắt pháp thanh tịnh. Như Lai thọ ký cho họ A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

 

Phật tử! Như Lai trí nhật như thị lợi ích sanh manh chúng sanh, lệnh đắc thiện căn, cụ túc thành thục.

Chư Phật tử ! Như Lai trí nhựt lợi ích cho hàng sanh manh chúng sanh như vậy, làm cho họ được thiện căn thành thục đầy đủ

Giảng: Các vị Phật tử ! Trí huệ mặt trời của Như Lai lợi ích chúng sinh sinh ra mù loà như vậy, khiến cho họ đắc được căn lành đầy đủ thành thục.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ ngũ tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ năm của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ năm thân của Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân của Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như nguyệt luân hữu tứ kì đặc vị tằng hữu Pháp. Hà đẳng vi tứ?

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như mặt nguyệt có bốn pháp kỳ đặc vị tằng hữu. Những gì là bốn ?

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như mặt trăng, có bốn pháp kỳ đặc chưa từng có. Những gì là bốn ?

 

1. Nhất giả, ánh tế nhất thiết tinh tú quang minh

Một là che chói quang minh của tất cả tinh tú.

Giảng: Một là ánh sáng che khuất tất cả ánh sáng của tất cả tinh tú.

 

2. Nhị giả, tùy trục ư thời thị hiện khuy doanh

Hai là theo dõi thời gian mà hiện tròn khuyết.

Giảng: Hai là tuỳ theo thời thị hiện tròn khuyết, đầu tháng thì khuyết, giữa tháng (ngày rằm) thì tròn.

 

3. Tam giả, ư Diêm-phù-đề trừng tịnh thủy trung ảnh vô bất hiện

Ba là trong nước đứng trong ở đại địa đều hiện bóng cả.

Giảng: Ba là bóng đều hiện vào trong nước ở cõi Diêm Phù Đề.

 

4. Tứ giả, nhất thiết kiến giả giai đối mục tiền, nhi thử nguyệt luân vô hữu phân biệt, vô hữu hí luận.

Bốn là tất cả người thấy mặt nguyệt đều đối trước mắt họ, mà nguyệt luân không phân biệt không hý luận.

Giảng: Bốn là tất cả mọi người thấy mặt trăng, đều có cảm giác mặt trăng ở trước mặt mình, mà mặt trăng không có sự phân biệt, không có sự hí luận, đều như nhau, chiếu khắp tất cả, không phân biệt đó đây, một luật đều bình đẳng như nhau.

 

Phật tử! Như Lai thân nguyệt diệc phục như thị, hữu tứ kì đặc vị tằng hữu Pháp. Hà đẳng vi tứ? sở vị:

Chư Phật tử ! Thân của Như Lai cũng vậy, có bốn pháp kỳ đặc vị tằng hữu. Những gì là bốn ? Đó là :

Giảng: Các vị Phật tử ! Thân mặt trăng của Như Lai cũng lại như thế, có bốn pháp kỳ đặc chưa từng có. Những gì là bốn pháp ? Đó là :

 

1. Ánh tế nhất thiết Thanh văn, độc giác, học, vô học chúng

Một là che chói tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác, những chúng hữu học, vô học.

Giảng: Thứ nhất là trí huệ chiếu sáng che khuất tất cả Thanh Văn và Duyên Giác hàng nhị thừa, trí huệ lại chiếu sáng che khuất bậc hữu học và vô học. Thế nào là bậc hữu học ? Phàm là chứng được sơ quả, nhị quả, tam quả A la hán, còn phải học tập đoạn tư hoặc, đó gọi là bậc hữu học.

Thế nào gọi là bậc vô học ? Tức là chứng được tứ quả A la hán. Do đó có câu : Những việc cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa. Kiến, tư hoặc đều đã đoạn trừ, không còn phải học tập nữa, nên gọi là bậc vô học.

 

2. Tùy kỳ sở nghi, thị hiện thọ mạng tu đoản bất đồng, nhi Như Lai thân vô hữu tăng giảm

Hai là tùy theo sở nghi mà thị hiện thọ mạng dài vắn chẳng đồng, nhưng thân Như Lai không tăng giảm.

Giảng: Tuỳ theo căn cơ của họ mà thị hiện thọ mạng dài ngắn khác nhau, hoặc là thọ mạng lâu dài, hoặc là thọ mạng ngắn ngủi, nhưng thân Như Lai không có tăng thêm, chẳng có giảm bớt.

 

3. Nhất thiết thế giới tịnh tâm chúng sanh Bồ-đề khí trung, ảnh vô bất hiện

Ba là trong căn khí Bồ Ðề chúng sanh tâm tịnh nơi tất cả thế giới đều hiện bóng trong đó.

Giảng: Tâm chúng sinh thanh tịnh trong tất cả thế giới, đều hiện ra bóng bồ đề.

 

4. Nhất thiết chúng sanh hữu chiêm đối giả giai vi Như Lai duy hiện ngã tiền, tùy kỳ tâm lạc nhi vi thuyết Pháp, tùy kỳ địa vị lệnh đắc giải thoát, tùy sở ưng hóa lệnh kiến Phật thân, nhi Như Lai thân vô hữu phân biệt, vô hữu hí luận, sở tác lợi ích giai đắc cứu cánh.

Bốn là tất cả chúng sanh có ai thấy Như Lai đều cho rằng đức Như Lai chỉ hiện trước tôi. Như Lai theo sở thích của họ mà thuyết pháp, theo địa vị của họ khiến được giải thoát, theo chỗ đáng độ khiến thấy thân Phật. Nhưng thân Như Lai vẫn không phân biệt không hý luận. Những điều lợi ích làm ra đều được rốt ráo.

Giảng: Hết thảy chúng sinh, nếu có ai chiêm ngưỡng Như Lai, đều nói Như Lai chỉ hiện ở trước mặt mình. Tuỳ tâm ưa thích của họ, mà vì họ thuyết pháp. Tuỳ theo địa vị của họ, khiến cho họ được giải thoát. Tuỳ theo sự giáo hoá, mà khiến cho họ thấy được thân Phật, mà thân Như Lai không có sự phân biệt, không có sự hí luận. Việc làm lợi ích đều được rốt ráo.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ lục tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ sáu của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải biết như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ sáu của thân Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân của Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như tam thiên đại thiên thế giới Đại phạm Thiên Vương, dĩ thiểu phương tiện ư Đại Thiên thế giới phổ hiện kỳ thân, nhất thiết chúng sanh giai kiến Phạm Vương hiện tại kỷ tiền, nhi thử Phạm Vương diệc bất phần thân, vô chủng chủng thân.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như Ðại Phạm Thiên Vương dùng chút phương tiện hiện thân khắp Ðại Thiên thế giới. Tất cả chúng sanh đều thấy Ðại Phạm Vương hiện ở trước mình. Nhưng Ðại Phạm Vương này chẳng phân thân, cũng không các thứ thân.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như Đại Phạm Thiên Vương trong ba ngàn đại thiên thế giới, dùng chút phương tiện, hiện thân mình khắp trong đại thiên thế giới. Khiến cho tất cả chúng sinh đều thấy được Đại Phạm Thiên Vương, hiện tại ở trước mặt mình, mà vị Đại Phạm Thiên Vương đó, cũng chẳng phân thân, cũng không có đủ thứ thân.

 

Phật tử! chư Phật Như Lai diệc phục như thị, vô hữu phân biệt, vô hữu hí luận, diệc bất phần thân, vô chủng chủng thân, nhi tùy nhất thiết chúng sanh tâm lạc thị hiện kỳ thân, diệc bất tác niệm hiện nhược can thân.

Cũng vậy, chư Phật Như Lai không có phân biệt không hý luận, cũng chẳng phân thân, không các thứ thân. Nhưng tùy sở thích của tất cả chúng sanh mà thị hiện Phật thân, cũng vẫn chẳng nghĩ rằng hiện ngần ấy thân.

Giảng: Các vị Phật tử ! Chư Phật Như Lai cũng lại như thế, không có phân biệt, không có hí luận. Cũng chẳng phân thân, không có đủ thứ thân, mà tuỳ thuận tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, thị hiện thân mình. Cũng chẳng nghĩ rằng, mình hiện bao nhiêu thân ?

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ thất tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ bảy của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ bảy của thân Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như y vương thiện tri chúng dược cập chư chú luận, Diêm-phù-đề trung chư sở hữu dược dụng vô bất tận, phục dĩ tú thế chư thiện căn lực, Đại minh chú lực, vi phương tiện cố, chúng sanh kiến giả bệnh vô bất dũ. bỉ đại y vương tri mạng tướng chung, tác thị niệm ngôn: ngã mạng chung hậu, nhất thiết chúng sanh vô sở y hỗ, ngã kim nghi ưng vi hiện phương tiện. Thị thời, y vương hợp dược đồ thân, minh chú lực trì, lệnh kỳ chung hậu thân bất phần tán, bất nuy bất khô, uy nghi thị thính dữ bổn vô biệt, phàm sở liệu trì tất đắc trừ sái.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như y vương khéo biết các thứ thuốc và những chú luận, đều dùng được tất cả những thứ thuốc có ở Diêm Phù Ðề. Lại do năng lực của những thiện căn đời trước và sức đại minh chú làm phương tiện, nên chúng sanh được thấy y vương đều được lành mạnh. Y vương này biết mạng sắp chết, nghĩ rằng sau khi ta chết, tất cả chúng sanh không nơi nương dựa. Nay ta phải nên vì họ mà hiện phương tiện. Lúc đó y vương chế thuốc thoa thân mình dùng sức minh chú gia trì, nên dầu đã chết mà thân chẳng rã, chẳng héo, chẳng khô, cử chỉ nhìn nghe không khác lúc còn sống, phàm có chữa trị đều được lành mạnh.

Giảng: Lại nữa Phật tử ! Ví như vị y vương, khéo biết tất cả tánh thuốc. Lại minh bạch tất cả lý luận chú thuật. Ở trong cõi Diêm Phù Đề, hết thảy tất cả thứ thuốc, vị y vương nầy đều biết sử dụng, dùng chữa bệnh cho mọi người. Dù rễ cỏ, vỏ cây, cũng có thể trị bệnh. Lại do nhờ sức các căn lành lớn đời trước, có sức trì tụng chú đại minh làm phương tiện, nên người bệnh nào thấy được vị đại y vương đó rồi, thí mọi bệnh đều lành khỏi.

Vị đại y vương đó, biết mình sắp mạng chung, bèn nghĩ như vầy : Ta mạng chung rồi, tất cả chúng sinh không có chỗ nương nhờ. Nay ta nên vì họ hiện phương tiện. Lúc đó, vị đại y vương phối hợp thành đủ thứ thuốc, thoa lên thân mình, sau cùng tụng trì chú đại minh, dùng sức lực để gia trì, khiến cho sau khi ông ta mạng chung, thân thể không tan rã, không héo, không khô, oai nghi của ông ta, thấy nghe của ông ta, chẳng khác gì lúc còn sống. Phàm có ai chữa trị, thấy được thân thể ông ta, bất cứ bệnh gì không thuốc mà khỏi, khôi phục lại sức khoẻ bình thường.

Các vị mọi người biết bác sĩ là làm gì chăng ? Có người nói : Bác sĩ là cứu người sống. Không sai ! Nhưng đó chỉ là một số tận tình của bác sĩ. Ngoài ra còn có một số bác sĩ chuyên môn giết người, nhưng giết người không thấy máu. Họ chẳng có y đức, dùng bệnh nhân để thử nghiệm, chẳng màng biết chứng bệnh, hay không biết chứng bệnh, cho bệnh nhân uống thứ thuốc nào đó, hoặc chích thứ thuốc nào đó cho bệnh nhân, xem thử phản ứng thế nào ? Phản ứng tốt thì chứng minh thuốc có hiệu lực, liền biết thuốc đó, chuyên trị bệnh đó. Nếu phản ứng không tốt thì đối với họ chẳng có liên quan gì, còn bệnh nhân thì nguy hiểm, hoặc có thể chết. Tuy chẳng phải trực tiếp giết người, nhưng gián tiếp giết người. Còn có một số bác sĩ, có tác phong trộm cắp, chứng bệnh của bệnh nhân rất nhẹ, vốn chỉ khám một hai lần thì sẽ khỏi, nhưng vì muốn kiếm tiền thuốc, cứ cố ý nghĩ cách kéo dài thời gian, loại bác sĩ này chuyên môn nghĩ lợi ích cho chính mình, chẳng nghĩ đến cứu chữa cho bệnh nhân. Tuy không thể nói từng chi tiết, nhưng đại khái là như vậy.

 

Phật tử! Như Lai, ưng, chánh đẳng giác vô thượng y vương diệc phục như thị, ư vô lượng bách thiên ức na-do-tha kiếp, luyện trì pháp dược dĩ đắc thành tựu, tu học nhất thiết phương tiện thiện xảo Đại minh chú lực giai đáo bỉ ngạn, thiện năng trừ diệt nhất thiết chúng sanh chư phiền não bệnh cập trụ thọ mạng; Kinh vô lượng kiếp, kỳ thân thanh tịnh vô hữu tư lự, vô hữu động dụng, nhất thiết Phật sự vị thường hưu tức, chúng sanh kiến giả chư phiền não bệnh tất đắc tiêu diệt.

Cũng vậy, đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác vô thượng y vương trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp tu luyện pháp dược đã được thành tựu, tu học tất cả phương tiện thiện xảo đại minh chú lực đều được viên mãn đến bĩ ngạn. Khéo trừ diệt được tất cả bịnh phiền não của chúng sanh, và trụ thọ mạng trải qua vô lượng kiếp. Thân Phật thanh tịnh không tư lự, không động dụng, tất cả Phật sự không hề thôi nghỉ. Chúng sanh được thấy, các bịnh phiền não đều được tiêu diệt.

Giảng: Các vị Phật tử ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, là vô thượng đại y vương, cũng lại như thế. Trong vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, luyện trị đủ thứ phẩm dược Phật pháp, đã được thành tựu, để chữa trị bệnh phiền não của tất cả chúng sinh. Lại tu học tất cả pháp môn phương tiện khéo léo, lại tụng trì sức chú đại minh, tức là trí huệ quang minh, đều đến được bờ rốt ráo bên kia. Khéo hay trừ diệt bệnh phiền não của tất cả chúng sinh. Lại hay khiến cho thọ mạng lâu dài, trải qua vô lượng kiếp. Thân Phật thanh tịnh không có mọi tư lự, không có tất cả động dụng, siêng làm Phật sự, chưa từng ngừng nghỉ. Thời thời giảng kinh thuyết pháp, thời thời tụng kinh bái sám, mỗi ngày làm khoá lễ sáng tối, mỗi ngày phiên dịch kinh điển, cũng không giải đãi, không phóng dật. Hết thảy chúng sinh, phàm là thấy được Phật, thì tất cả bệnh phiền não, đều được tiêu diệt. Giống như chúng ta học Phật, tất cả bệnh đố kị chướng ngại, và tập khí mao bệnh, đều chẳng còn nữa.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ bát tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ tám của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ tám của thân Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như đại hải hữu đại ma ni bảo, danh: tập nhất thiết quang minh Tỳ Lô Giá Na tạng; nhược hữu chúng sanh xúc kỳ quang giả, tất đồng kỳ sắc; nhược hữu kiến giả, nhãn đắc thanh tịnh. Tùy bỉ quang minh sở chiếu chi xứ, vũ ma-ni bảo, danh vi: an lạc, lệnh chư chúng sanh ly khổ điều thích.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như đại hải có châu đại ma ni tên là Tạng Tỳ lô giá na họp tất cả quang minh. Nếu có chúng sanh nào chạm phải quang minh của châu này thời đồng một màu với bửu châu. Nếu ai được thấy châu này thời mắt được thanh tịnh. Tùy quang minh này chiếu đến chỗ nào thời mưa ma ni bửu tên là an lạc, làm cho chúng sanh khỏi khổ và được vừa ý.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như biển cả, ở trong biển có báu ma ni lớn, tên là Tập tất cả quang minh tỳ lô giá na tạng. Nếu có chúng sinh xúc chạm được quang minh nầy, thì đều đồng với màu sắc báu ma ni lớn đó. Nếu có chúng sinh thấy được quang minh nầy, thì mắt được thanh tịnh. Tuỳ chỗ quang minh báu ma ni lớn đó chiếu đến, mưa xuống báu ma ni, tên là An lạc. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi phiền não, được điều hoà vui thích.

 

Phật tử! chư Như Lai thân diệc phục như thị, vi đại bảo tụ nhất thiết công đức đại trí tuệ tạng; nhược hữu chúng sanh xúc Phật thân bảo trí tuệ quang giả, đồng Phật thân sắc; nhược hữu kiến giả, pháp nhãn thanh tịnh. tùy bỉ quang minh sở chiếu chi xứ, lệnh chư chúng sanh ly bần cùng khổ, nãi chí cụ túc Phật Bồ-đề lạc.

Chư Phật tử ! Thân của chư Như Lai cũng như vậy, là đại bửu tụ, là tạng đại trí huệ tất cả công đức. Nếu có chúng sanh nào chạm phải quang minh của thân Phật thời đồng màu với thân Phật. Nếu ai được thấy thân Phật thời được pháp nhãn thanh tịnh. Tùy chỗ nào mà quang minh của thân Phật chiếu đến đều làm cho các chúng sanh khỏi khổ bần cùng, nhẫn đến đầy đủ sự vui Phật Bồ Ðề.

Giảng: Các vị Phật tử ! Hết thảy thân Như Lai đều giống như báu ma ni lớn. Thân Như Lai tức là báu lớn tụ, tất cả công đức tạng đại trí huệ. Nếu có chúng sinh xúc chạm được trí huệ quang minh báu thân Phật, thì cũng đồng với sắc thân Phật. Nếu ai thấy được quang minh đó, thì đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Tuỳ theo chỗ quang minh đó chiếu đến, khiến cho các chúng sinh lìa khổ bần cùng, cho đến đầy đủ an vui Phật bồ đề.

 

Phật tử! Như Lai pháp thân vô sở phân biệt diệc vô hí luận, nhi năng phổ vi nhất thiết chúng sanh tác Đại Phật sự.

Chư Phật tử ! Như Lai pháp thân không phân biệt, cũng không hý luận mà hay vì khắp tất cả chúng sanh làm Phật sự lớn.

Giảng: Các vị Phật tử ! Pháp thân Như Lai không có phân biệt, cũng không có hí luận. Phật thì không nói lời giả dối, là Thánh nhân nói lời chân thật, hay khắp vì tất cả chúng sinh làm đại Phật sự.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ cửu tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ chín của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ chín của thân Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân Như Lai như vậy.

 

Phục thứ, Phật tử! thí như đại hải hữu Đại như ý ma-ni bảo vương, danh: nhất thiết thế gian trang nghiêm tạng, cụ túc thành tựu bách vạn công đức, tùy sở trụ xứ, lệnh chư chúng sanh tai hoạn tiêu trừ, sở nguyện mãn túc; nhiên thử như ý ma-ni bảo vương phi thiểu phước chúng sanh sở năng đắc kiến.

Lại nữa, chư Phật tử ! Ví như đại hải có đại như ý ma ni bửu vương tên là tạng trang nghiêm tất cả thế gian. Thành tựu đầy đủ trăm vạn công đức. Tùy bửu vương này ở chỗ nào thời làm cho các chúng sanh tai hoạn tiêu trừ sở nguyện đầy đủ. Nhưng chẳng phải chúng sanh ít phước mà được thấy như ý bửu vương này.

Giảng: Lại nữa các vị Phật tử ! Ví như biển cả, có đại châu báu ma ni như ý, tên là Tất cả thế gian trang nghiêm tạng. Ma ni dịch là châu báu, hoặc dịch là ly cấu, hoặc dịch là như ý. Nó thành tựu đầy đủ trăm vạn công đức. Tuỳ theo chỗ của nó ở, khiến cho tất cả chúng sinh tiêu trừ sạch tai hoạn, sở nguyện đều được đầy đủ. Mà châu báu ma ni như ý đó, chẳng phải chúng sinh ít phước có thể thấy được.

 

Như Lai thân như ý bảo vương diệc phục như thị, danh vi: năng lệnh nhất thiết chúng sanh giai tất hoan hỉ, nhược hữu kiến thân, văn danh, tán đức, tất lệnh vĩnh ly sanh tử khổ hoạn; giả sử nhất thiết thế giới nhất thiết chúng sanh, nhất thời chuyên tâm dục kiến Như Lai, tất lệnh đắc kiến, sở nguyện giai mãn.

Cũng vậy, thân Như Lai tên là hay làm cho tất cả chúng sanh đều được hoan hỷ. Nếu có ai thấy thân Như Lai, nghe danh hiệu Như Lai, khen công đức Như Lai thời đều làm cho thoát hẳn khổ hoạn sanh tử. Giả sử tất cả thế giới tất cả chúng sanh đồng thời chuyên tâm muốn thấy đức Như Lai, đều làm cho được thấy, sở nguyện được đầy đủ.

Giảng: Thân châu báu như ý của Như Lai cũng lại như thế, tên là Vì hay khiến tất cả chúng sinh thảy đều được hoan hỉ. Nếu có ai thấy được thân Phật, hoặc nghe danh hiệu Phật, hoặc khen ngợi công đức Phật, thì đều khiến cho họ vĩnh viễn lìa khổ hoạn sinh tử. Giả sử tất cả chúng sinh trong tất cả thế giới, đồng thời chuyên tâm muốn thấy được Như Lai, thì đều khiến cho họ được thấy, nguyện cầu gì, thì được cái đó. Do đó : Cầu phú quý thì được phú quý, cầu trí huệ thì được trí huệ, cầu sống lâu thì được sống lâu, cầu con cái thì được con cái, đều được toại tâm mãn nguyện.

 

Phật tử! Phật thân phi thị thiểu phước chúng sanh sở năng đắc kiến, duy trừ Như Lai tự tại thần lực sở ưng điều phục; nhược hữu chúng sanh nhân kiến Phật thân tiện chủng thiện căn nãi chí thành thục, vi thành thục cố, nãi lệnh đắc kiến Như Lai thân nhĩ.

Chư Phật tử ! Chẳng phải chúng sanh ít phước đức mà thấy được thân Như Lai, chỉ trừ thần lực tự tại của Phật gia hộ cho kẻ đáng được điều phục. Nếu có chúng sanh nhơn thấy thân Phật bèn gieo căn lành nhẫn đến thành thục, vì thành thục nên mới khiến thấy thân Như Lai.

Giảng: Các vị Phật tử ! Thân Phật chẳng phải chúng sinh ít phước báo có thể thấy được. Chỉ trừ thần lực tự tại của Như Lai đáng được điều phục chúng sinh đó, mới khiến cho họ có cơ hội thấy được thân Phật, do đó : Cảm ứng đạo giao. Nếu có chúng sinh do thấy được thân Phật, liền trồng căn lành, cho đến căn lành thành thục. Vì được căn lành thành thục, Phật mới khiến cho họ thấy thân Phật.

 

Phật tử! thị vi Như Lai thân đệ thập tướng, chư Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng như thị kiến.

Ðây là tướng thứ mười của thân Như Lai, chư đại Bồ Tát phải thấy như vậy.

Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là tướng thứ mười của thân Như Lai, các vị đại Bồ Tát nên thấy pháp thân Như Lai như vậy.