KINH DUY MA CẬT
phụng chiếu dịch
Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
— o O o —
Phẩm Thứ Tám
ĐẠO PHẬT
Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi vấn Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát vân hà thông đạt Phật đạo?
Duy-ma-cật ngôn: Nhược Bồ Tát hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.
Lúc ấy, Văn-thù Sư Lợi hỏi Duy-ma-cật rằng: “Bồ Tát làm sao thông đạt đạo Phật?
Duy-ma-cật nói: “Nếu Bồ Tát thi hành những việc trái đạo, đó là thông đạt đạo Phật.”
Hựu vấn: Vân hà Bồ Tát hành ư phi đạo?
Lại hỏi: “Thế nào là Bồ Tát thi hành những việc trái đạo?”
Đáp viết: Nhược Bồ Tát hành ngũ vô gián, nhi vô não nhuế. Chí ư địa ngục, vô chư tội cấu. Chí ư súc sinh, vô hữu vô minh kiêu mạn đẳng quá. Chí ư ngạ quỷ, nhi cụ túc công đức.
Duy-ma-cật đáp: “Nếu Bồ Tát thi hành năm tội vô gián nhưng không có giận hờn; đến cảnh địa ngục nhưng không có cấu uế; đến cảnh súc sinh nhưng không có những tội lỗi như vô minh, kiêu mạn; đến cảnh ngạ quỷ nhưng đầy đủ công đức;
Hành sắc, vô sắc giới đạo, bất dĩ vi thắng. Thị hành tham dục, ly chư nhiễm trước. Thị hành sân nhuế, ư chư chúng sinh, vô hữu nhuế ngại. Thị hành ngu si, nhi dĩ trí huệ điều phục kỳ tâm. Thị hành khan tham, nhi xả nội ngoại sở hữu, bất tích thân mạng. Thị hành hủy cấm, nhi an trụ tịnh giới, nãi chí tiểu tội, du hoài đại cụ. Thị hành sân nhuế, nhi thường từ, nhẫn. Thị hành giải đãi, nhi cần tu công đức. Thị hành loạn ý, nhi thường niệm định.
Đi lên các cõi trời Sắc giới và Vô sắc giới nhưng chẳng cho đó là hơn; thị hiện hành động tham dục nhưng lìa mọi nhiễm trước; thị hiện hành động sân nhuế, nhưng không có giận hờn ngăn trở đối với chúng sinh; Thị hiện hành động ngu si nhưng dùng trí huệ mà điều phục tâm mình; thị hiện hành động keo lận nhưng thí xả hết những vật sở hữu bên trong, bên ngoài của mình, chẳng tiếc cả thân mạng; thị hiện hành động hủy cấm, nhưng trụ yên nơi giới hạnh thanh tịnh, cho đến đối với tội nhỏ cũng rất sợ sệt; thị hiện như nóng giận, nhưng trong lòng thường từ hòa, nhẫn nhục; thị hiện ra bề giải đãi nhưng thật siêng tu công đức; thị hiện ra vẻ loạn động tâm ý, nhưng thường trụ nơi niệm và định;
Thị hành ngu si, nhi thông đạt thế gian, xuất thế gian huệ. Thị hành siểm ngụy, nhi thiện phương tiện, tùy chư kinh nghĩa. Thị hành kiêu mạn, nhi ư chúng sinh, du như kiều lương. Thị hành chư phiền não, nhi tâm thường thanh tịnh. Thị nhập ư ma, nhi thuận Phật Trí huệ, bất tùy tha giáo. Thị nhập Thanh văn, nhi vị chúng sinh thuyết vị văn pháp. Thị nhập Bích chi Phật, nhi thành tựu đại bi, giáo hóa chúng sinh.
Thị hiện hành động ngu si, nhưng thông đạt cả trí huệ thế gian và xuất thế gian; thị hiện hành động dua nịnh dối trá nhưng giỏi về phương tiện, tùy theo nghĩa lý các kinh; Thị hiện hành động kiêu mạn nhưng đối với chúng sinh cũng như chiếc cầu chịu cho người người giẫm đạp.Thị hiện các phiền não nhưng lòng thường trong sạch; Thị hiện vào chốn của ma nhưng thuận theo trí huệ Phật, chẳng theo thuyết khác; Thị hiện vào hàng Thanh văn nhưng giảng thuyết với chúng sinh những pháp mà họ chưa từng nghe; Thị hiện vào hàng Bích chi Phật, nhưng thành tựu đức đại bi, giáo hóa chúng sinh;
Thị nhập bần cùng, nhi hữu bảo thủ, công đức vô tận. Thị nhập hình tàn, nhị cụ chư tướng hảo dĩ tự trang nghiêm. Thị nhập hạ tiện, nhi sinh Phật chủng tánh trung, cụ chư công đức. Thị nhập luy liệt xú lậu, nhi đắc Na-la-diên thân, nhất thiết chúng sinh chi sở nhạo kiến.
Thị hiện vào chốn nghèo hèn cùng khổ nhưng có đôi tay quý, công đức vô tận; thị hiện vào bọn hình hài tàn tật nhưng có đủ các tướng chánh và tướng phụ trang nghiêm thân mình; thị hiện vào chốn hạ tiện nhưng vốn sinh trong dòng giống Phật, đầy đủ các công đức; thị hiện vào nhóm người gầy yếu xấu xí nhưng được cái thân lực sĩ cõi trời mà tất cả chúng sinh đều ưa nhìn;
Thị nhập lão bệnh, nhi vĩnh đoạn bệnh căn, siêu việt tử úy. Thị hữu tư sinh, nhi hằng quán vô thường, thật vô sở tham. Thị hữu thê thiếp thể nữ, nhi thường viễn ly ngũ dục ứ nê. Hiện ư nột độn, nhi thành tựu biện tài, tổng trì vô thất. Thị nhập tà tế, nhi dĩ chánh tế độ chư chúng sinh. Hiện biến nhập chư đạo, nhi đoạn kỳ nhân duyên. Hiện ư Niết-bàn, nhi bất đoạn sinh tử.
Thị hiện vào hàng già, bệnh nhưng đã đoạn tuyệt gốc bệnh, vượt khỏi sự lo sợ về cái chết; thị hiện có vốn liếng sản nghiệp, nhưng thường quán tưởng lẽ vô thường, thật không có chỗ tham; thị hiện có vợ chánh, vợ thứ và các nàng hầu, nhưng thường lìa xa cảnh bùn lầy năm dục; thị hiện ra kẻ chậm lụt ngu độn, nhưng thành tựu biện tài, tổng trì đầy đủ; thị hiện vào nơi bọn gian tà, nhưng dùng lẽ chánh mà độ chúng sinh; thị hiện vào khắp các nẻo, nhưng chặt đứt các nhân duyên với mình; thị hiện vào Niết bàn, nhưng chẳng đoạn tuyệt sinh tử.
Văn-thù-sư-lợi! Bồ Tát năng như thị hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.
“Văn-thù Sư Lợi! Nếu Bồ Tát có thể thi hành những việc trái đạo như vậy, đó là Bồ Tát thông đạt đạo Phật.”
Ư thị, Duy-ma-cật vấn Văn-thù-sư-lợi: Hà đẳng vị Như Lai chủng?
Lúc ấy, Duy-ma-cật hỏi Văn-thù Sư Lợi: “Những gì là hạt giống Như Lai?”
Văn-thù-sư-lợi ngôn: Hữu thân vi chủng. Vô minh hữu ái vi chủng. Tham, nhuế, si vi chủng. Tứ điên đảo vi chủng. Ngũ cái vi chủng. Lục nhập vi chủng. Thất thức xứ vi chủng. Bát tà pháp vi chủng. Cửu não xứ vi chủng. Thập bất thiện đạo vi chủng. Dĩ yếu ngôn chi, lục thập nhị kiến cập nhất thiết phiền não giai thị Phật chủng.
Văn-thù Sư Lợi đáp: “Có thân này là hạt giống Như Lai. Vô minh với ái là hạt giống Như Lai. Tham, sân, si là hạt giống Như Lai. Bốn điên đảo, năm triền cái, sáu nhập là hạt giống Như Lai. Bảy thức xứ, Tám tà pháp, Chín não xứ là hạt giống Như Lai. Mười bất thiện là hạt giống Như Lai. Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến với tất cả phiền não đều là hạt giống Như Lai.”
Viết: Hà vị dã?
Duy-ma-cật hỏi: “Tại sao vậy?”
Đáp viết: Nhược kiến vô vi nhập chánh vị giả, bất năng phục phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Thí như cao nguyên lục địa, bất sinh liên hoa. Ty thấp ứ nê, nãi sinh thử hoa. Như thị kiến vô vi pháp nhập chánh vị giả, chung bất phục năng sinh ư Phật pháp. Phiền não nê trung, nãi hữu chúng sinh khởi Phật pháp nhĩ.
Văn-thù Sư Lợi đáp: “Người hiểu lẽ vô vi và vào chánh vị, không còn có thể phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tỷ như ở nơi cao ráo đất liền, hoa sen chẳng sinh. Ở chỗ thấp ướt bùn lầy, hoa sen mới sinh. Cũng vậy đó, người thấy thấy pháp vô vi và vào chánh vị không còn có thể phát sinh Phật pháp. Ở nơi bùn lầy phiền não, mới có chúng sinh khởi lên Phật pháp.
Hựu như thực chủng ư không, chung bất đắc sinh. Phấn nhưỡng chi địa, nãi năng tư mậu. Như thị nhập vô vi chánh vị giả, bất sinh Phật pháp. Khởi ư ngã kiến như Tu-di sơn, du năng phát ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, sinh Phật pháp hỷ. Thị cố đương tri nhất thiết phiền não vi Như Lai chủng. Thí như bất há cự hải, bất năng đắc vô giá bảo châu. Như thị, bất nhập phiền não đại hải, tắc bất năng đắc nhất thiết trí bảo.
“Lại như gieo giống ở không trung, chẳng thể nảy mầm. Gieo giống trên đất phân, cây cối sinh trưởng tươi tốt. Cũng vậy, người vào vô vi và chánh vị chẳng thể phát sinh Phật pháp. Còn kẻ khởi ra ý kiến chấp có ta, dầu ý kiến sai lầm ấy có cao lớn như núi Tu-di, kẻ ấy vẫn còn có thể phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nảy sinh Phật pháp.Vậy nên biết rằng: tất cả các phiền não đều là hạt giống Như Lai. Cũng như không lặn xuống biển sâu thì không thể đặng châu báu vô giá. Cũng vậy, nếu không vào trong biển cả phiền não, tất không thể được của báu là cái Trí biết tất cả.”
Nhĩ thời, Đại Ca-diếp thán ngôn: Thiện tai, thiện tai! Văn-thù-sư-lợi! Khoái thuyết thử ngữ! Thành như sở ngôn. Trần lao chi trù vi Như Lai chủng. Ngã đẳng kim giả bất phục kham nhiệm phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Nãi chí ngũ vô gián tội du năng phát ý sinh ư Phật pháp. Nhi kim ngã đẳng vĩnh bất năng phát! Thí như căn bại chi sĩ, kỳ ư ngũ dục, bất năng phục lợi! Như thị, Thanh văn chư kết đoạn giả, ư Phật pháp trung, vô sở phục ích, vĩnh bất chí nguyện!
Lúc ấy, Đại Ca-diếp khen rằng: “Lành thay, lành thay! Văn-thù Sư Lợi, khoái thay những lời ấy! Đúng thật như lẽ mà ông đã nói. Đám trần lao là những hạt giống Như Lai. Nay chúng tôi chẳng còn đủ sức đảm nhận thi hành việc phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Cho đến những kẻ phạm năm tội vô gián còn có thể phát ý sinh nơi Phật pháp, nhưng nay chúng tôi đây lại chẳng có thể phát khởi tâm ý ấy! Tỷ như người căn cơ bại hoại, thì dù ở trong năm dục cũng chẳng còn thụ hưởng được gì. Cũng vậy, các vị Thanh văn đã dứt phiền não trói buộc, thì dù ở trong Phật pháp cũng không còn được lợi ích gì, chẳng còn chí nguyện gì nữa!
Thị cố, Văn-thù-sư-lợi! Phàm phu ư Phật pháp, hữu phản phục. Nhi Thanh văn vô dã. Sở dĩ giả hà? Phàm phu văn Phật pháp, năng khởi vô thượng đạo tâm, bất đoạn Tam bảo. Chánh sử Thanh văn chung thân văn Phật pháp, lực, vô úy đẳng, vĩnh bất năng phát vô thượng đạo ý.
“Văn-thù Sư Lợi! Vậy nên kẻ phàm phu đối với Phật pháp có chỗ trở lại, còn hàng Thanh văn thì không. Tại sao vậy? Kẻ phàm phu được nghe pháp Phật có thể phát tâm cầu đạo vô thượng, chẳng đoạn Tam bảo. Còn hàng Thanh văn dù có trọn đời nghe pháp Phật, oai lực, sức vô úy của Phật… thời cũng chẳng bao giờ có thể phát tâm cầu vô thượng đạo.”
Nhĩ thời, Hội trung, hữu Bồ Tát, danh Phổ Hiện Sắc Thân, vấn Duy-ma-cật ngôn: Cư sĩ! Phụ mẫu thê tử, thân thích quyến thuộc, lại dân tri thức, tất vi thị thùy? Nô tỳ đồng bộc, tượng mã xa thặng, giai hà sở tại?
Lúc ấy, trong pháp hội, có một vị Bồ Tát tên là Phổ Hiện Sắc Thân, hỏi Duy-ma-cật rằng: “Cha mẹ, vợ con, thân thích quyến thuộc, với những kẻ cộng tác cùng những người quen biết của ông là những ai? Tôi trai tớ gái, voi ngựa xe cộ của ông, những thứ ấy ở đâu?”
Ư thị, Duy-ma-cật dĩ kệ đáp viết:
Duy-ma-cật dùng kệ đáp rằng:
Trí độ: Bồ Tát mẫu,
Phương tiện dĩ vi phụ,
Nhất thiết chúng: đạo sư,
Vô bất do thị sinh.
Trí độ là mẹ Bồ Tát,
Tùy nghi phương tiện là cha,
Chúng tăng là thầy hướng dẫn,
Bồ Tát do đó mà sinh.
Pháp hỷ dĩ vi thê,
Từ bi tâm vi nữ,
Thiện tâm thành thật nam,
Tất cánh không tịch xá.
Pháp hỷ dùng làm vợ nhà,
Lòng từ bi là con gái,
Tâm thiện thật là con trai,
Không tịch rốt ráo là nhà.
Đệ tử chúng trần lao,
Tùy ý chi sở chuyển.
Đạo phẩm thiện tri thức,
Do thị thành chánh giác.
Trần lao là các đệ tử,
Tùy ý mình mà chuyển biến.
Đạo phẩm là bạn hiền lành,
Nhờ đó được thành chánh giác.
Chư độ pháp đẳng lữ,
Tứ nhiếp vi kỹ nữ,
Ca vịnh tụng pháp ngôn,
Dĩ thử vi âm nhạc.
Các pháp độ là bạn bè,
Bốn nhiếp là những ả đào,
Pháp ngôn là ca vịnh ngâm,
Lấy đó mà làm âm nhạc.
Tổng trì chi viên uyển,
Vô lậu pháp lâm thọ,
Giác ý tịnh diệu hoa,
Giải thoát trí huệ quả.
Tổng trì là cảnh vườn tược,
Pháp vô lậu là cây rừng,
Giác ý là hoa đẹp thơm,
Trí huệ giải thoát là quả.
Bát giải chi dục trì,
Định thủy trạm nhiên mãn,
Bố dĩ thất tịnh hoa,
Dục thử vô cấu nhân.
Tám giải thoát là ao tắm,
Tâm định là nước đầy trong,
Hoa bảy báu tịnh là vải,
Người vô cấu là: tắm gội.
Tượng mã ngũ thông trì,
Đại thừa dĩ vi xa,
Điều ngự dĩ nhất tâm,
Du ư bát chánh lộ.
Năm thông chạy là voi ngựa,
Đại thừa dùng làm xe cộ,
Nhất tâm là người điều ngự,
Tám chánh đạo đường dạo chơi.
Tướng cụ dĩ nghiêm dung,
Chúng hảo sức kỳ tư,
Tàm quý chi thượng phục,
Thâm tâm vi hoa man.
Tướng chánh đủ, dùng nghiêm thân,
Tướng phụ đẹp, trang sức hình,
Hổ thẹn là áo lớn ngoài,
Lòng sâu vững: hoa kết đơm.
Phú hữu thất tài bảo,
Giáo thọ dĩ tư tức,
Như sở thuyết tu hành,
Hồi hướng vi đại lợi.
Bảy tài bảo là giàu có,
Dạy truyền là việc gia tăng,
Theo như thuyết mà tu hành,
Hồi hướng là lợi to lớn.
Tứ thiền vi lâm tòa,
Tùng ư tịnh mạng sinh,
Đa văn tăng trí huệ,
Dĩ vi tự giác âm.
Bốn thiền là ghế trong rừng,
Do nơi đó tịnh mạng sinh,
Đa văn tăng thêm trí huệ,
Lấy đó làm tiếng tự giác.
Cam-lộ pháp chi thực,
Giải thoát vị vi tương,
Tịnh tâm dĩ tảo dục,
Giới phẩm vi đồ hương.
Pháp cam-lộ là thức ăn,
Vị giải thoát là nước tương,
Tâm tịnh là việc tẩy rửa,
Giới phẩm là món hương phết.
Tồi diệt phiền não tặc,
Dũng kiện vô năng du,
Hàng phục tứ chủng ma,
Thắng phan kiến đạo tràng.
Đánh tan lũ giặc phiền não,
Dũng kiện chẳng ai hơn nổi,
Hàng phục được bốn thứ ma
Cờ chiến thắng cắm đạo trường.
Tuy tri vô khởi diệt,
Thị bỉ cố hữu sinh,
Tất hiện chư quốc độ,
Như nhật vô bất kiến.
Tuy biết rằng không khởi diệt,
Nhưng thị hiện có sinh sống,
Hiện thân nơi các quốc độ,
Như mặt nhật ai cũng thấy.
Cúng dường ư thập phương,
Vô lượng ức Như Lai.
Chư Phật cập kỷ thân,
Vô hữu phân biệt tưởng.
Trải mười phương cúng dường khắp,
Vô lượng ức đấng Như Lai.
Chư Phật với thân mình đây,
Không khác chi đừng phân biệt.
Tuy tri chư Phật quốc,
Cập dữ chúng sinh không,
Nhi thường tu tịnh độ,
Giáo hóa ư quần sinh.
Tuy biết rằng các nước Phật,
Với chúng sinh đều là không,
Nhưng thường tu môn tịnh độ,
Siêng giáo hóa khắp quần sinh.
Chư hữu chúng sinh loại,
Hình, thanh cập oai nghi,
Vô úy lực Bồ Tát,
Nhất thời năng tận hiện.
Tất cả các loại chúng sinh,
Thân hình, tiếng nói, oai nghi,
Bồ Tát với sức không sợ,
Một lúc hiện ra hết thảy.
Giác tri chúng ma sự,
Nhi thị tùy kỳ hạnh.
Dĩ thiện phương tiện trí,
Tùy ý năng giai hiện.
Biết rõ các việc của ma,
Nhưng thị hiện theo hạnh ấy.
Dùng trí huệ phương tiện khéo,
Tùy ý hiện chi cũng được:
Hoặc thị lão, bệnh, tử,
Thành tựu chư quần sinh,
Liễu tri như ảo hóa,
Thông đạt vô hữu ngại.
Hoặc thị hiện già, bệnh, chết,
Giúp chúng sinh được thành tựu.
Hiểu rành như trò ảo hóa,
Thông đạt không chi ngăn ngại.
Hoặc hiện kiếp tận thiêu,
Thiên địa giai đỗng nhiên,
Chúng nhân hữu thường tưởng,
Chiếu linh tri vô thường.
Hoặc hiện kiếp tận lửa cháy,
Trời đất thảy đều trống rỗng,
Những kẻ có tư tưởng thường,
Soi khiến họ biết vô thường.
Vô số ức chúng sinh,
Câu lai thỉnh Bồ Tát,
Nhất thời đáo kỳ xá,
Hóa linh hướng Phật đạo.
Vô số ức các chúng sinh,
Cùng nhau đến thỉnh Bồ Tát,
Một khi người đến nhà họ,
Khiến họ hồi hướng Phật đạo.
Kinh thơ, cấm, chú thuật,
Công xảo chư kỹ nghệ,
Tận hiện hành thử sự,
Nhiêu ích chư quần sinh.
Kinh sách, giới cấm, chú thuật,
Công nghệ, kỹ thuật khéo léo,
Người hiện làm các việc ấy,
Giúp lợi ích cho quần sinh.
Thế gian chúng đạo pháp,
Tất ư trung xuất gia,
Nhân dĩ giải nhân hoặc,
Nhi bất đọa tà kiến.
Các đạo pháp ở thế gian,
Đều ở đó mà xuất gia,
Người nhân đó ngăn chỗ lầm,
Nhưng chẳng rơi vào tà kiến.
Hoặc tác nhật nguyệt thiên,
Phạm vương thế giới chủ,
Hoặc thời tác địa, thủy,
Hoặc phục tác phong, hỏa.
Hoặc làm nhật thiên, nguyệt thiên,
Hoặc Phạm vương chủ thế giới,
Có khi làm đất, làm nước,
Lại cũng làm gió, làm lửa.
Kiếp trung hữu tật dịch,
Hiện tác chư dược thảo,
Nhược hữu phục chi giả,
Trừ bệnh tiêu chúng độc.
Trong kiếp nếu có bệnh dịch,
Người hiện làm các dược thảo,
Như kẻ bệnh uống thuốc ấy,
Bệnh liền dứt, tiêu các độc.
Kiếp trung hữu cơ cẩn,
Hiện thân tác ẩm thực,
Tiên cứu bỉ cơ khát,
Khước dĩ pháp ngứ nhân.
Nếu trong kiếp có đói kém,
Hiện thân làm món ăn uống,
Trước cứu những kẻ đói khát,
Kế đem pháp dạy chúng nhân.
Kiếp trung hữu đao binh,
Vị chi khởi từ bi,
Hóa bỉ chư chúng sinh,
Linh trụ vô tranh địa.
Trong kiếp có những đao binh,
Vì đó người khởi từ bi,
Hóa độ những chúng sinh ấy,
Khiến họ trụ cảnh không tranh.
Nhược hữu đại chiến trận,
Lập chi dĩ đẳng lực,
Bồ Tát hiện oai thế,
Hàng phục sử hòa an.
Nếu xảy ra trận đại chiến,
Đứng lên dùng sức bình đẳng,
Bồ Tát hiện ra oai thế,
Hàng phục chúng, khiến yên hòa.
Nhất thiết quốc độ trung,
Chư hữu địa ngục xứ,
Triếp vãng đáo ư bỉ,
Miễn tế kỳ khổ não.
Hết thảy ở trong cõi nước,
Những nơi nào có địa ngục,
Người liền đến các chốn ấy,
Cứu giúp khỏi mọi khổ não.
Nhất thiết quốc độ trung,
Súc sinh tương thực hám,
Giai hiện sinh ư bỉ,
Vị chi tác lợi ích.
Hết thảy khắp trong cõi nước,
Súc sinh ăn thịt lẫn nhau,
Người thị hiện sinh nơi đó,
Làm lợi ích cho hạng ấy.
Thị thọ ư ngũ dục,
Diệc phục hiện hành thiền,
Linh ma tâm hội loạn,
Bất năng đắc kỳ tiện.
Người thị hiện thọ năm dục,
Lại cũng thị hiện hành thiền,
Làm cho lòng ma rối loạn,
Chúng chẳng được bề tiện lợi.
Hỏa trung sinh liên hoa,
Thị khả vị hy hữu,
Tại dục nhi hành thiền,
Hy hữu diệc như thị.
Trong lửa sinh ra hoa sen,
Đó gọi là việc ít có.
Tại năm dục mà hành thiền,
Lại cũng là việc ít có.
Hoặc hiện tác dâm nữ,
Dẫn chư háo sắc giả,
Tiên dĩ dục câu khiên,
Hậu linh nhập Phật trí.
Hoặc thị hiện làm dâm nữ,
Dẫn dụ những kẻ háo sắc,
Trước đem dục mà dẫn dắt,
Sau khiến họ vào Phật trí.
Hoặc vi ấp trung chủ,
Hoặc tác thương nhân đạo,
Quốc sư cập đại thần,
Dĩ hữu lợi chúng sinh.
Hoặc hiện làm chúa thành ấp,
Hoặc hiện làm chủ đoàn buôn,
Làm quốc sư, làm đại thần,
Để làm lợi ích chúng sinh.
Chư hữu bần cùng giả,
Hiện tác vô tận tạng,
Nhân dĩ khuyến đạo chi,
Linh phát Bồ-đề tâm.
Đối với những kẻ bần cùng,
Thị hiện làm kho vô tận,
Nhân đó bèn khuyên dắt họ,
Khiến họ phát tâm Bồ-đề.
Ngã tâm kiêu mạn giả,
Vị hiện đại lực sĩ,
Tiêu phục chư cống cao,
Linh trụ vô thượng đạo.
Với kẻ ngã mạn kiêu căng,
Thị hiện làm đại lực sĩ,
Khuất phục những kẻ cống cao,
Khiến trụ vào vô thượng đạo.
Kỳ hữu khủng cụ chúng,
Cư tiền nhi ủy an,
Tiên thí dĩ vô úy,
Hậu linh phát đạo tâm.
Nếu có những kẻ sợ sệt,
Đối diện họ, người an ủi,
Trước thí cho sự an ổn,
Sau khiến họ phát đạo tâm.
Hoặc hiện ly dâm dục,
Vi ngũ thông tiên nhân,
Khai đạo chư quần sinh,
Linh trụ giới, nhẫn, từ.
Hoặc thị hiện lìa dâm dục,
Làm vị tiên nhân năm thông,
Mở mang dắt dẫn quần sinh,
Khiến họ trụ giới, nhẫn, từ.
Kiến tu cung sự giả,
Hiện vị tác đồng bộc,
Ký duyệt khả kỳ ý,
Nãi phát dĩ đạo tâm.
Nếu ai cần kẻ cung phụng,
Người thị hiện làm tôi tớ.
Khi đã làm vừa ý chủ,
Bèn khiến phát khởi đạo tâm.
Tùy bỉ chi sở tu,
Đắc nhập ư Phật đạo,
Dĩ thiện phương tiện lực,
Giai năng cấp túc chi.
Như ai muốn đủ đồ dùng,
Mới chịu đắc nhập Phật đạo.
Người dùng sức phương tiện khéo,
Cấp cho đầy đủ món cần.
Như thị đạo vô lượng,
Sở hành vô hữu nhai,
Trí huệ vô biên tế,
Độ thoát vô số chúng.
Đạo vô lượng là như vậy,
Sở hành bao la không bến,
Trí huệ rộng rãi không bờ,
Độ thoát vô số chúng sinh.
Giả linh nhất thiết Phật,
Ư vô số ức kiếp,
Tán thán kỳ công đức,
Du thượng bất năng tận.
Ví như tất cả chư Phật,
Trải qua vô số ức kiếp,
Ngợi khen công đức của người,
Cũng không thể bày tỏ hết.
Thùy văn như thị pháp,
Bất phát Bồ-đề tâm?
Trừ bỉ bất tiếu nhân,
Si minh vô trí giả.
Ai nghe được pháp như vậy,
Mà chẳng phát tâm Bồ-đề?
Trừ ra những kẻ xuẩn ngốc,
Si mê không có trí huệ.