Kinh Văn: Ư thị Di-lặc Bồ-tát tại đại chúng trung tức tùng tòa khởi, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, trường quỳ xoa thủ, nhi bạch Phật ngôn: Đại bi Thế Tôn, quảng vị Bồ-tát khai bí mật tạng, linh chư đại chúng thâm ngộ luân hồi, phân biệt tà chánh, năng thí mạt thế, nhất thiết chúng sanh vô úy đạo nhãn, ư đại Niết-bàn, sanh quyết định tín. Vô phục, trùng tùy luân chuyển cảnh giới, khởi tuần hoàn kiến.
Thế Tôn, nhược chư Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh dục du Như Lai đại tịch diệt hải, vân hà đương đoạn luân hồi căn bổn, ư chư luân hồi hữu kỷ chủng tánh, tu Phật Bồ-đề, kỷ đẳng sai biệt, hồi nhập trần lao, đương thiết kỳ chủng giáo hóa phương tiện, độ chư chúng sanh, duy nguyện bất xả cứu thế đại bi, linh chư tu hành nhất thiết Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh tuệ mục túc thanh chiếu diệu tâm kính, viên ngộ Như Lai vô thượng tri kiến. Tác thị ngữ dĩ, ngũ thể đầu địa. Như thị tam thỉnh chung nhi phục thủy.
Việt Văn: Khi ấy Di Lặc Bồ Tát ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, đảnh lễ chân phật, chấp tay quỳ gối bạch Phật rằng:
-Đại bi Thế Tôn! Đã vì Bồ Tát khai thị pháp tạng bí mật, khiến đại chúng thấu ngộ lý luân hồi, phân biệt được tà chánh, hay bố thí cho chúng sanh đời mạt pháp được đạo nhãn vô úy, đối với Đại Niết Bàn sanh lòng tin quyết định, chẳng còn tùy theo cảnh giới luân hồi mà sanh khởi tri kiến luân hồi.
- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát và chúng sanh đời mạt pháp muốn vào biển Đại Tịch Diệt của Như Lai, nên dứt cội gốc luân hồi như thế nào?
- Nơi các luân hồi có bao nhiêu chủng tánh?
- Người tu đến Bồ Đề của Phật có mấy bậc sai biệt?
- Bồ Tát trở vào trần lao nên thiết lập mấy thứ phương tiện để giáo hoá chúng sanh?
Xin Phật rũ lòng từ bi cứu thế, khiến tất cả Bồ Tát và chúng sanh đời mạt pháp theo đó tu hành, được huệ nhãn trong sạch, tâm gương sáng tỏ, viên mãn ngộ nhập vô thượng tri kiến của Như Lai .
Ngài Di Lặc Bồ Tát nói xong, năm vóc gieo sát đất, đảnh lễ thưa thỉnh ba lần như vậy.
Giảng: Vì trong chương Kim Cang Tạng, Phật dạy: “Trước phải đoạn gốc rễ của luân hồi từ vô thỉ”, nên chương này Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi: “… Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi? Và có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
Đại ý đoạn này Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi:
- Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi để vào biển Đại Niết Bàn của Như Lai?
- Có mấy loại chúng sanh luân hồi?
- Có mấy hạng người tu đạo Bồ Đề của Phật?
- Khi Bồ Tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì thể giáo hóa chúng sanh?
Biển Đại Tịch Diệt. Tức là Niết Bàn của Đại thừa, rộng rãi bao la như biển cả, đã thanh tịnh mà yên lặng nên gọi rằng “Tịch diệt”. Đủ cả bốn đức là: Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã và Chơn tịnh. Cũng là một cái tên khác Viên Giác hay chơn tâm.
Đức Di Lặc Bồ Tát. -Tiền thân: Trong vô số kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Đại Thông Trí Thắng Như Lai, lúc bấy giờ Ngài (đức Di Lặc) và đức Phật Thích Ca (tiền thân) đồng phát tâm Bồ Đề. Đến khi đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh ra đời, thì Ngài mới phát tâm xuất gia nhưng tánh hay giải đãi, quen theo lối phong lưu đài các, phóng túng, chẳng chịu thúc liểm tu hành, nên thành Phật trễ sau đức Thích Ca, vào tiểu kiếp thứ mười.
Về sau nhờ đức Phật Thích Ca dạy cho pháp tu Duy Thức, Ngài quán thấy “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.”
Vì nhận thấy giàu sang phú quý, danh vọng quyền tước… đều như bóng trong gương như trăng dưới nước, do thức tâm biến hiện, nên Ngài tảo trừ hết vọng tưởng say mê về hư vọng giả cảnh, trừ tánh “biến kế sở chấp” trên “y tha”, ngộ được tánh “viên thành thật” nên được Phật Thích Ca thọ ký cho Ngài sau sẽ thành Phật ở thế giới Ta Bà này.
Thân hiện tại của đức Di Lặc: Cách đây 2500 năm (544, trước T.L), khi Phật Thích Ca giáng sanh tại Ấn Độ, thì Ngài hiện thân vào nhà của Bà La Môn trên là Ba Bà Lợi ở về Nam Thiên Trúc, nhằm ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Họ của Ngài là A Dật Đa (không ai hơn), tên Di Lặc (Từ Thị). Tên họ này tiêu biểu lòng từ bi, hỷ xả vô biên của Ngài. Từ bao nhiêu kiếp cho đến ngày thành Phật, Ngài cũng vẫn lấy hiệu là Di Lặc.
Kinh Di Lặc thượng sanh có nói: Ngày rằm tháng 2 (tháng tư ta) sau khi nói kinh này 12 năm, thì Ngài nhập diệt tại chỗ bản sanh, rồi Ngài sanh lên nội viện cõi trời Đâu Suất để chờ khi thế giới này giảm rồi tăn trở lại trong khoảng kiếp tăng, loài người hưởng thọ tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng xuống cõi này, rồi sau đến ngồi gốc cây Long Hoa tu thành ngôi Chánh Giác. Ngài thành Phật rồi hóa độ chúng sanh vô lượng đến sáu vạn năm mới nhập diệt.
Hóa thân của đức Di Lặc. Kinh chép “Bồ Tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài”. Bồ Tát lấy việc cứu độ làm lợi ích cho chúng sanh làm bổn phận của mình. Ngài hiện ra nhiều thân để lẫn lộn với từng lớp người đặng hóa độ chúng sanh. Trong các hóa thân của Ngài, các Phật tử ở Tàu cùng ở Việt nam hiểu nhiều và thờ nhiều hơn hết là thân Ngài Bố Đại Hòa Thượng. Ngài hiện thân làm một vị hòa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa bên Tàu. Ngài thường quảy cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai cho vật chi Ngài đều bỏ hết vào đãy mang đi. Ngài tụ họp các trẻ con lại, rồi phân phát cho chúng bánh kẹo, giảng dạy Phật pháp, trò chuyện rất vui thú, nên Ngài đi đến đâu thì các em tụ họp đông đảo đến đó.
Ngài thường giảng kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm lạ thường. Lúc bấy giờ thiên hạ không ai hiểu đặng Ngài là người như thế nào cả, chỉ cùng nhau kêu là vị Bố Đại Hòa Thượng (ông hòa thượng mang đãy bằng vải). Đến đời Lương niên hiệu Trịnh Minh năm thứ ba, tháng ba, Ngài nhóm chúng lại tại chùa Nhạc Lâm, rồi Ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc,
Hóa thân thiên bách ức.
Thời thời thị thời nhơn,
Thời nhơn giai bất thức.
(Di Lặc thật là Di Lặc, biến hóa trăm ngàn ức thân, thường hiện trong đời, mà người đời chẳng ai biết.) Nói xong kệ rồi, Ngài an nhiên nhập diệt. Kẻ tăng người tục đều cùng nhau đến lễ bái cúng dường và dựng tượng Ngài thờ tại điện ở phía Đông chùa Nhạc Lâm bên Tàu.
Vì căn cứ theo ứng thân này, nên trong các chùa ở Tàu hay Việt Nam thường thờ tượng Ngài Bố Đại Hòa Thượng với vẻ mặt hiền từ hân hoan, miệng cười vui vẻ, tượng trưng cho đức hoan hỷ. Người béo bụng to, hay cầm cái đãy. Chung quanh có sáu em bé đang leo trèo lên mình Ngài, là tượng trưng cho lục tặc (sáu giặc) khi đã bị Ngài hàng phục. Đây là hóa thân trong trăm ngàn hóa thân của đức Di Lặc Bồ Tát.
Tương lai của đức Di Lặc. Hiện nay đức Di Lặc là một vị Bổ Xứ Bồ Tát đang ở nội viện cung trời Đâu Suất, đợi đến khi thế giới này hết kiếp giảm thứ 9 rổi, đến kiếp tăng thứ 10, trong lúc nhơn loại hưởng thọ được trên tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới gián sanh xuống cõi này, trong nhà của một vị Bà La Môn tên là Tu Phạm Ma, thân mẫu của Ngài tên Phạm Ma Bạt Đề. Khi sanh ra Ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh quán chúng. Lớn lên Ngài xuất gia tu hành đến núi Kê Túc để nhận lãnh y bát của Đức Phật Thích Ca, do Ngài Ma Ha Ca Diếp trao lại, rồi sau Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long Hoa dùng Kim Cang trí trừ sạch vi tế Vô minh, chứng đạo Vô Thượng Bồ Đề.
Ngài thuyết pháp tại giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Hội thứ nhất độ được chính mươi sáu ức người thành A La Hán, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức người thành A La Hán, hội thứ ba độ chính mươi hai ức người thành A La Hán. Thế nên gọi là “Long Hoa Tam Hội”. Ngài thuyết pháp đến sáu vạn năm, hóa độ vô số chúng sanh.
Kinh Văn: Nhĩ thời Thế Tôn cáo Di-lặc Bồ-tát ngôn:
Thiện tai, thiện tai! Thiện nam tử, nhữ đẳng nãi năng vị chư Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh thỉnh vấn Như Lai thâm áo bí mật vi diệu chi nghĩa, linh chư Bồ-tát khiết thanh tuệ mục, cập linh nhất thiết mạt thế chúng sanh vĩnh đoạn luân hồi, tâm ngộ thật tướng, cụ vô sanh nhẫn, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.
Thời Di-lặc Bồ-tát phụng giáo hoan hỷ, cập chư đại chúng, mặc nhiên nhi thính.
Việt Văn: Bấy giờ Phật bảo Di Lặc Bồ Tát rằng:
-Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi khéo vì các Bồ Tát và chúng sanh đời mạt pháp, hỏi Như Lai về những nghĩa lý vi diệu, thâm sâu bí mật của chư Phật, khiến các Bồ Tát huệ nhãn trong sạch, và tất cả chúng sanh đời mạt pháp dứt hẳn luân hồi, tâm ngộ thật tướng, chứng vô sanh pháp nhẫn. Nay ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà thuyết .
Lúc ấy Di Lặc Bồ Tát và đại chúng hoan hỷ vâng lời Phật dạy, im lặng mà nghe.
Giảng: Đoạn này Phật khen Ngài Di Lặc Bồ Tát: Nhở lời ông hỏi, để Phật chỉ giáo, nên khiến các vị Bồ Tát hiện tại, mắt trí huệ được sáng tỏ và chúng sanh đời sau cũng nhờ câu hỏi này mà vĩnh viễn ra khỏi luân hồi.
Kinh Văn: Thiện nam tử, nhất thiết chúng sanh tùng vô thủy tế, do hữu chủng chủng ân ái tham dục, cố hữu luân hồi. Nhược chư thế giới nhất thiết chủng tánh: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh giai nhân dâm dục nhi chánh tánh mệnh, đương tri luân hồi, ái vi căn bản. Do hữu chư dục trợ phát ái tánh, thị cố năng linh sanh tử tương tục.
Việt Văn: Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay do có đủ thứ tham dục ân ái nên có luân hồi. Tất cả chủng tánh nơi các thế giới như noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hoá sanh, đều lấy dâm dục làm chánh nhân mới thành có sinh mạng, nên biết ái dục là cội gốc của luân hồi. Do có các dục làm trợ duyên, phát khởi tánh ân ái, vì thế khiến chúng sanh có sanh tử tương tục.
Giảng: Đoạn này Phật chỉ ngay gốc rể của sanh tử luân hồi là “ân ái và tham dục”. Chính như thân mạng của các chúng sanh đây, cũng đều do dâm dục tạo thành. Bởi thân mạng đã do ái dục sanh, nên thân mạng còn thì ái dục còn, ái dục còn thì thân mạng còn. Trong kinh Phật danh chép: “Có ái dục thì sanh, ái dục hết thì diệt; cho biết gốc rễ của sanh tử là tham ái (hữu ái tắc sanh, ái tận tắc diệt, cố tri sanh tử, tham ái vi bổn). Trong kinh Niết Bàn cũng nói: “nhơn ái sanh ưu, nhơn ưu sanh bố, nhược ly tham ái, hà ưu hà bố”. Nghĩa là: Vì tham ái nên mới sanh lo, nhơn lo mới sanh sợ, nếu nguời lìa được ái dục rồi, thì có lo gì và sợ gì?
Bốn loài:
- Noãn sanh: loài sanh trứng, như loài chim, cá v.v…
- Thai sanh: loài sanh con, như loài người và thú v..v…
- Thấp sanh: loài sanh chỗ ẩm ướt, như lăng quăng, vi trùng v.v…
- Hóa sanh: như loài nhộng hóa làm bướm, hoặc như loài địa ngục, ngạ quỷ và chư Thiên v.v…
Kinh Văn: Dục nhân ái sanh, mạng nhân dục hữu, chúng sanh ái mạng, hoàn y dục bản, ái dục vi nhân, ái mạng vi quả.
Việt Văn: Dục do ái mà sanh, mạng do dục mới có, chúng sanh tham ái thân mạng là dựa theo cội gốc tham dục, vậy tham dục là nhân, tham ái thân mạng là quả.
Giảng: Ngài Tôn Mật nói: “Do cảnh dục trần bên ngoài nó trêu ghẹo, làm cho tâm sanh ái luyến; do tấm ái luyến, cho nên mới sanh ra tham dục. Vì tham dục nên tạo nghiệp, do tạo nghiệp nên mới thọ quả. Khi thọ quả khổ rồi trở lại tạo nghiệp nữa. Vì thế nên sanh tử không cùng”.
Kinh Văn: Do ư dục cảnh khởi chư vi thuận, cảnh bối ái tâm nhi sanh tắng tật, tạo chủng chủng nghiệp, thị cố phục sanh địa ngục ngạ quỉ. Tri dục khả yểm, ái yếm nghiệp đạo, xả ác nhạo thiện, phục hiện thiên nhân. Hựu tri chư ái khả yểm ác cố, khả ái nhạo xả hoàn tư ái bản tiện hiện hữu vi tăng thượng thiện quả, giai luân hồi cố bất thành Thánh đạo. Thị cố chúng sanh dục thoát sanh tử miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục cập trừ ái khát.
Việt Văn: Do nơi cảnh dục mà sanh tâm yêu ghét; cảnh thuận với tâm ta thì yêu, cảnh nghịch với tâm ta thì ghét, nên theo đó tạo đủ thứ ác nghiệp thì sanh vào đạo địa ngục, ngạ qủy. Nếu bỏ ác mà ham thiện thì sanh vào cỏi trời cõi người.
Lại nữa, nếu biết nhàm chán những tham ái, ưa xả bỏ tham ái, nhưng cái ưa ấy vẩn là gốc của tham ái, nên hiện tăng thượng (tăng thêm) thiện quả, đó đều là pháp hữu vi, nên còn phải chịu luân hồi, chẳng thành thánh quả. Cho nên chúng sanh muốn giải thoát sanh tử luân hồi, trước tiên phải đoạn dứt tham dục và trừ bỏ ân ái.
Giảng: Đoạn trên là Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?” Đến đoạn này Phật trả lời có ba loại chúng sanh luân hồi:
- Ác nghiệp: Như Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh (nghiệp ác bực thượng thì đọa vào địa ngục, nghiệp ác bực trung thì đọa làm Ngạ quỉ, nghiệp ác bực hạ thì đọa làm Súc sanh).
- Thiện nghiệp: Đây là nói về hữu lậu thiện. Như: Thiên, Nhơn và Thần A Tu La (Nghiệp lành bực thượng thì sanh lên 6 cõi Trời về Dục giới, nghiệp lành bực trung thì sanh về cõi Người, nghiệp lành bực hạ thì sanh làm thần A Tu La).
- Bất động nghiệp (Thiền định): – Như cõi Trời Tứ Thiền và Tứ Không. Do tu thiền định mà được sanh về bốn cõi Thiền ở Sắc giới (1. Ly sanh hỷ lạc địa; 2. Định sanh hỷ lạc địa; 3. Ly hỷ diệu lạc địa; 4. Xả niệm thanh tịnh địa). Và bốn cõi Không, ở cõi Trời Vô sắc (1. Không vô xứ thiện; 2. Thức vô biên xứ thiên; 3. Vô sở hữu xứ thiên; 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên).
Ba loại chúng sanh này (ác nghiệp, thiện nghiệp và bất động nghiệp) tuy có cao thấy, sang hèn khác nhau, nhưng cũng đều còn ái và dục, chẳng qua thô hay tế đó thôi. Ái dục còn tức là phiền não hữu lậu còn; Vì phiền não hữu lậu còn nên phải còn sanh tử luân hồi.
Tóm lại, vì chúng sanh trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới) còn ái nhiễm nên đều còn luân hồi cả.
Kết thúc đoạn này, Phật dạy một câu: “…Thế nên chúng sanh, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi, thì trưóc hết phải đoạn trừ ân ái và tham dục” (Thị cố chúng sanh, dục thoát sanh tử, miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục, cập trừ ái khát).
Phật dạy Pháp tu ra khỏi sanh tử luân hồi, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi: “Phải đoạn ân ái và tham dục.”
Rất giản dị và rõ ràng vô cùng. Thật là “khuôn vàng thước ngọc”, đáng làm quy cũ cho muôn đời! Hành giả chỉ thực hành đúng như lời Phật dạy đây, đó là Tu, Tu là đó rồi. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy rằng:
“…Dâm Tâm bất trừ, Trần bất khả xuất…”
Nghĩa là: Tâm nghĩ ngợi đến việc tham dục, nếu không dứt trừ, thì cảnh hồng trần này không biết bao giờ ra khỏi.
Kinh Văn: Thiện nam tử, Bồ-tát biến hóa thị hiện thế gian, phi ái vi bản, đản dĩ từ bi linh bỉ xả ái, giả chư tham dục nhi nhập sanh tử. Nhược chư mạt thế nhất thiết chúng sanh năng xả chư dục cập trừ tắng ái vĩnh đoạn luân hồi, cần cầu Như Lai Viên giác cảnh giới, ư thanh tịnh tâm, tiện đắc khai ngộ.
Việt Văn: Thiện nam tử! Bồ Tát thị hiện đủ thứ biến hoá nơi thế gian chẳng từ cội gốc của tham ái, chỉ dùng tâm từ bi giả làm tham dục để vào sanh tử khiến chúng sanh xả bỏ ân ái. Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp chịu xả bỏ tham dục và trừ sạch yêu ghét thì được dứt hẳn luân hồi, nơi tâm trong sạch, rồi cầu cảnh giới Viên Giác của Như Lai mới được khai ngộ.
Giảng: Vì sợ có người hiểu lầm: Bồ Tát củng có phụ mẫu, thê tử, v.v… tất nhiên phải có ái dục, nhiễm ô và cũng thật sanh tử như chúng sanh, nên đoạn này Phật giải thích: Bồ Tát do lòng từ bi và đại nguyện cứu thế, nên hiện ra thân tham dục, để vào sanh tử, đặng hóa độ chúng sanh, chớ không phải thật có tham dục và sanh tử.
Kinh Văn: Thiện nam tử, nhất thiết chúng sanh do bản tham dục, phát huy vô minh, hiển xuất ngũ tánh sai biệt bất đẳng y nhị chủng chướng nhi hiện thâm thiển.
Việt Văn: Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh do cội gốc tham dục phát khởi vô minh; sanh ra năm thứ chủng tánh khác nhau, vô minh nương theo hai thứ chướng mà hiển hiện sâu cạn.
Giảng: Đoạn trên Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi: “Có mấy hạng người tu theo đạo Bồ Đề của Phật?” Đến đoạn này Phật trả lời có năm hạng. Song năm hạng này là căn cứ theo việc đoạn trừ hai chướng có cạn và sâu của hành giả mà phân định.
Kinh Văn: Vân hà nhị chướng?
Nhất giả lý chướng, ngại chánh tri kiến.
Nhị giả sự chướng, tục chư sanh tử.
Việt Văn: Thế nào là hai thứ chướng?
Một là lý chướng; làm chướng ngại chánh tri kiến;
Hai là sự chướng; do chướng này làm cho sanh tử tương tục.
Giảng: Hai thứ chướng: Pháp không sanh không diệt thuộc về pháp vô vi, gọi là Lý; tất cả pháp do nhân duyên sanh khởi đều thuộc về pháp hữu vi, gọi là Sự.
Tự tánh bất nhị chẳng có đối đãi, nên hữu vi vô vi đều tuyệt. Nếu kiến lập chơn lý thì phải có sự hợp lý và bất hợp lý; hợp với bất hợp là nhị, chẳng phải bản thể bất nhị của tự tánh, nên nói Chướng Ngại Chánh Tri Kiến, gọi là lý chướng. Vì chánh tri kiến là tri kiến bất nhị, tức là chẳng lập tri kiến gì cả.
Sự là sự tướng thực hành, bất cứ thực hành đúng lý hay không đúng lý đều gọi là sự chướng. Tại sao? Nếu chấp thật đúng với chơn lý thì làm cho biến dịch sanh tử tương tục; nếu thực hành không đúng lý thì làm cho phần đoạn sanh tử tương tục, hai thứ sanh tử này cùng gọi là sanh tử tương tục.
Bởi chấp ngã nên khởi ra các phiền não làm chướng ngại Bồ Đề. Bởi chấp ngã nên sanh ra Sở tri chướng, làm phát tâm tu hành, đối với hai món chướng này chưa đoạn được món nào, cho nên chỉ kêu là “chúng sanh” mà không liệt vào trong năm chủng tánh.
Kinh Văn: Vân hà ngũ tánh? Thiện nam tử,
Nhược thử nhị chướng, vị đắc đoạn diệt danh vị thành Phật.
Nhược chư chúng sanh vĩnh xả tham dục, tiên trừ sự chướng, vị đoạn lý chướng, đản năng ngộ nhập Thanh văn Duyên giác, vị năng hiển trụ Bồ-tát cảnh giới.
Việt Văn: Thiện nam tử! Thế nào là năm thứ chủng tánh?
- Phàm phu chủng tánh: Nếu hai thứ chướng kể trên chưa được đoạn diệt thì gọi là chưa thành Phật.
- Nhị thừa chủng tánh: Nếu những chúng sanh bỏ hẳn tham dục, đã trừ được sự chướng, chưa dứt lý chướng thì chỉ có thể ngộ nhập hàng Thanh Văn hay Duyên Giác, chưa thể trụ nơi cảnh giới Bồ Tát.
Giảng: Đoạn này nói về chủng tánh Thinh Văn và Duyên Giác, chung gọi là “nhị thừa chủng tánh”.
Đành rằng hai quả vị này đồng bỏ hẳn lòng tham dục, đồng phá được ngã chấp, trừ sự chướng, đồng đoạn được sanh tử và cũng đồng chưa trừ được lý chướng (pháp chấp) nhưng pháp tu của hai bên khác nhau.
– Một bên tu pháp Tứ Đế đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “thinh văn chủng tánh”.
– Một bên tu pháp Thập nhị nhơn duyên đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “Duyên giác chủng tánh”.
Ngài Tôn Mật giải rằng: “Biết được khổ sanh tử, dứt trừ tâm leo chuyền, thì gọi là trừ “sự chướng”, thật ra chưa có thể trừ được ba món Tế” (ba món Tế, xem trong quyển Đại Thừa Khởi Tín luận).
Kinh Văn: Thiện nam tử, nhược chư mạt thế nhất thiết chúng sanh dục phiếm Như Lai Đại viên giác hải; tiên đương phát nguyện cần đoạn nhị chướng. Nhị chướng dĩ phục tức năng ngộ nhập Bồ-tát cảnh giới. Nhược sự lý chướng dĩ vĩnh đoạn diệt, tức nhập Như Lai vi diệu Viên giác, mãn túc Bồ-đề cập Đại Niết-bàn.
Việt Văn: 3. Bồ Tát chủng tánh: Thiện nam tử! Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp muốn vào biển Đại Viên Giác của Như Lai, trước tiên phải phát nguyện siêng năng dứt trừ hai chướng, nếu hai chướng đã hàng phục thì được ngộ nhập cảnh giới Bồ Tát. Nếu hai chướng dứt hẳn thì được đến chỗ Đại Niết Bàn, Bồ Đề đầy đủ, thẳng vào Viên Giác vi diệu của Như Lai.
Giảng: Đoạn này nói về Bồ Tát chủng tánh. Có chia làm hai thời kỳ:
- Thời kỳ hai chướng mới nép phục.
- Thời kỳ đoạn tuyệt hai chướng.
Hành giả từ khi còn địa vị phàm phu, đang bị hai chướng (phiền não chướng và Sở tri chướng) hoành hành, rồi trải qua giai đoạn giằng co, cho đến lúc hai chướng bị nép phục, như thế mới vừa lên địa vị Bồ Tát. Khi lên địa vị Bồ Tát, tiếp tục đoạn chướng, đến lúc đoạn tuyệt được phiền não chướng (ngã chấp) thì đặng Bồ Đề (trí đức), đoạn tuyệt được Sở tri chướng (pháp chấp) thì đặng Đại Niết Bàn (đoạn đức). Hai chướng bị đoạn vĩnh viễn rồi, thì đặng vào quả “Phật”.
Tại sao lập Bồ Tát tánh mà không lập Như Lai tánh? Vì Bồ Tát tu hành đến lúc hoàn toàn rốt ráo, thì chứng quả vị Phật, nên không lập thêm Như Lai tánh.
Kinh Văn: Thiện nam tử, nhất thiết chúng sanh giai chứng Viên giác, phùng thiện tri thức y bỉ sở tác nhân địa pháp hạnh, nhĩ thời tu tập tiện hữu đốn tiệm, nhược ngộ Như Lai Vô thượng Bồ-đề, chánh tu hành lộ, căn vô đại tiểu, giai thành Phật quả.
Việt Văn: 4. Bất định chủng tánh: Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh đều chứng Viên Giác, được gặp thiện tri thức, tùy nơi nhân địa tự tu pháp gì hạnh gì của mỗi thiện tri thức để dạy bảo môn đồ, người theo đó tu tập bèn có chủng tánh đốn tiệm khác nhau. Nếu gặp đường lối tu đúng chánh hạnh, thẳng đến vô thượng Bồ Đề của Như Lai thì chẳng kể căn cơ lớn nhỏ, đều thành quả Phật.
Giảng: Đoạn này nói về “Bất định chủng tánh”. Nghĩa là chúng sanh này căn tánh không nhất định Đại thừa hay Tiểu thừa. Nếu gặp Thiện tri thức thuộc về Đại thừa giáo hóa, thì chúng thành Đại thừa; còn gặp Thiện tri thức thuộc về Tiểu thừa giáo hóa thì chúng thành Tiểu thừa.
Kinh Văn: Nhược chư chúng sanh tuy cầu thiện hữu ngộ tà kiến giả, vị đắc chánh ngộ, thị tắc danh vi ngoại đạo chủng tánh, tà sư quá mậu, phi chúng sanh cữu, thị danh chúng sanh ngũ tánh sai biệt.
Việt Văn: 5. Ngoại đạo chủng tánh: Nếu những chúng sanh muốn cầu chánh pháp mà lại gặp thầy bạn tà kiến thì tu hành chẳng được chánh ngộ, đây gọi là chủng tánh ngoại đạo, ấy là lỗi của tà sư, chẳng phải lỗi của chúng sanh. Những chủng tánh kể trên gọi chung là ngũ tánh sai biệt của chúng sanh.
Giảng: Đoạn này nói về “ngoại đạo chủng tánh”. Tuy chúng sanh này vẫn có tâm tu hành, nhưng không gặp “thiện tri thức” giáo hóa, lại gặp tà sư chỉ dạy, nên thành ngoại đạo.
Vì sự hiểu biết của chúng tà ngụy, không phải là chánh đạo, nên gọi là “ngoại đạo”. Ngoại đạo chủng tánh, ở kinh khác gọi là “Xiễn đệ chủng tánh”, nghĩa là “đoạn giống Phật”. Vì trong bốn chủng tánh trên, tuy có Đại thừa và Tiểu thừa khác nhau, nhưng cũng đều “chánh ngộ”, duy có Ngoại đạo chủng tánh, sanh các tà kiến, đoạn diệt chánh kiến, trái ngược với chánh nhơn thành Phật cho nên gọi là “chúng xiễn đề” (đoạn giống Phật).
Kinh Văn: Thiện nam tử, Bồ-tát duy dĩ đại bi phương tiện nhập chư thế gian khai phát vị ngộ, nãi chí thị hiện chủng chủng hình tướng nghịch thuận cảnh giới, dữ kỳ đồng sự hóa linh thành Phật, giai y vô thủy thanh tịnh nguyện lực.
Việt Văn: Thiện nam tử! Bồ Tát chỉ vì tâm đại bi, tùy sự phương tiện vào các cõi thế gian, khai thị cho kẻ chưa ngộ, cho đến thị hiện đủ thứ hình tướng, tùy theo cảnh giới thuận nghịch cộng sự với họ, giáo hoá cho đến thành Phật ấy đều nương theo nguyện lực trong sạch đã sẵn từ vô thỉ.
Giảng: Đoạn trên Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi Phật: “Khi Bồ Tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sanh?”
Đại ý đoạn này Phật trả lời: Bồ Tát do bản nguyên độ sanh từ vô thỉ (Bồ Tát dĩ lợi sanh vì bổn hoài), và lòng đại bi thanh tịnh thúc giục, nên mới nhập thế độ sanh; không đồng như chúng sanh do ái dục làm nhiễm ô và bị nghiệp lực lôi cuốn mà nhập thế.
Bồ Tát dùng phương tiên, thị hiện ra nhiều hình tướng để độ sanh. Như Ngài Quan Âm hiện 32 ứng thân, Đức Di Lặc Bồ Tát hiện thân Bố Đại Hòa thượng, hoặc có vị hiện thân Kim Cang, hiện thân Tiêu Diện, Thập Diện, Thập Điện Minh Vương, Ngưu Đầu, Mã Viện v.v… có lúc hiện “Từ”, có lúc hiện “Oai” nên có câu:
Kim Cang lộ mục sở dĩ hàng phục tứ ma.
Bồ Tát đê mi do thị ai từ ư lục đạo.
Nghĩa là: Thần Kim Cang trợn mắt là để hàng phục bốn ma. Bồ Tát xủ mày là vì thương chúng sanh trong 6 đạo. Bồ Tát khi thị hiện cảnh thuận: giảng dạy Pháp lành khuyên người tu học v.v… có lúc lại hiện cảnh nghịch như: hiện chảo dầu sôi, để độ ông Nan Đà tôn giả, hoặc dùng gọng xiềng đánh đập v.v… để cho người biết thức tỉnh hồi tâm. Cổ nhơn nói: “Người không gặp tai nạn, thì chẳng biết hồi tâm hướng thiện”. (Nhơn vô vạn họa, bất hồi đầu). Hay như Ngài Thiện Tài Đồng Tử đi tham học với Bà Tu Mật Nữ v.v…
Bồ Tát có khi thị hiện lân la ở chung cùng với chúng sanh và đồng làm các nghề nghiệp như chúng sanh (như Ngài Lục Tổ khi ở chung với bọn thợ săn v.v… để lần hồi dẫn dắt chúng sanh trở về Chánh Đạo).
Tóm lại, các Bồ Tát nhập thế độ sanh, đều do tâm đại bi làm chủ động, lấy đại nguyện làm căn bản, dùng phương tiện có nhiều môn, tuy không nhứt định, nhưng đại khái không ngoài thuận và nghịch. Hoặc dùng lời giảng dạy (khẩu giáo hóa) hoặc hiện thân hóa độ (thân giáo hóa), hoặc dùng đồng sự nhiếp, chung quy một mục đích là khiến cho chúng sanh được giải thoát và thành Phật.
Kinh Văn: Nhược chư mạt thế nhất thiết chúng sanh, ư Đại Viên giác khởi tăng thượng tâm đương phát Bồ-tát thanh tịnh đại nguyện, ưng tác thị ngôn:
Nguyện ngã kim giả trụ Phật Viên Giác, cầu thiện tri thức mạc trị ngoại đạo cập dữ nhị thừa, y nguyện tu hành tiệm đoạn chư chướng, chướng tận nguyện mãn tiện đăng giải thoát thanh tịnh pháp điện, chứng Đại Viên Giác diệu trang nghiêm vực.
Việt Văn: Nếu tất cả chúng sanh đời mạt pháp khởi tâm tăng thượng nơi Đại Viên Giác, nên phát đại nguyện trong sạch của Bồ Tát rằng:
“Nay ta phát nguyện trụ nơi Viên Giác của Phật, cầu thiện tri thức, chớ gặp ngoại đạo và nhị thừa, theo nguyện tu hành, các chướng dứt dần, chướng dứt sạch thì nguyện thoả mãn, bước lên pháp điện trong sạch giải thoát, đến cõi diệu trang nghiêm, chứng Đại Viên Giác “.
Giảng: Đại ý đoạn này Phật dạy các chúng sanh đời sau, muốn cầu Viên Giác, thì phải phát lời thệ nguyện: “Con nguyện chớ gặp tà sư ngoại đạo và Tiểu thừa chỉ lo tu ích kỷ tiêu cực không chịu hoằng pháp lợi sanh. Con nguyện gặp Thiện tri thức Đại thừa, tu lợi tha tích cực, dạy bảo con tu hành được thành quả Phật”.
Ngài Như Sơn nói: “Lý, tuy đốn ngộ, nhưng về phần sự tướng thì phải lần lần diệt trừ” (lý tuy đốn ngộ, sự nải tiệm trừ).
Khi các chướng hết rồi, thì đi, đứng nằm ngồi trong tất cả thời và tất cả chỗ, đều được giải thoát. Đó là cung điện giải thoát thanh tịnh và thành Viên Giác trang nghiêm của Như Lai.
Kinh Văn: Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
Việt Văn: Lúc ấy Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Di-lặc nhữ đương tri Di Lặc ngươi nên biết,
Nhất thiết chư chúng sanh Tất cả những chúng sanh,
Bất đắc đại giải thoát Chẳng được đại giải thoát,
Giai do tham dục cố Đều do tâm tham dục,
Đọa lạc ư sanh tử Sa đọa nơi sanh tử,
Nhược năng đoạn tắng ái Nếu dứt được yêu ghét,
Cập dữ tham sân si Và độc tham sân si,
Bất nhân sai biệt tánh Chẳng kể tánh sai biệt,
Giai đắc thành Phật đạo Đều được thành Phật đạo.
Nhị chướng vĩnh tiêu diệt Hai chướng tiêu diệt hẳn,
Cầu sư đắc chánh ngộ Cầu sư được chánh ngộ.
Tùy thuận Bồ-tát nguyện Tùy thuận nguyện Bồ Tát,
Y chỉ Đại Niết-bàn Y chỉ Đại Niết Bàn.
Thập phương chư Bồ-tát Tất cả các Bồ Tát,
Giai dĩ đại bi nguyện Đều theo nguyện đại bi,
Thị hiện nhập sanh tử Thị hiện vào sanh tử.
Hiện tại tu hành giả Người tu hành hiện tại,
Cập mạt thế chúng sanh Và chúng sanh mạt pháp,
Cần đoạn chư ái kiến Siêng dứt những ái kiến,
Tiện qui Đại Viên Giác. Bèn vào Đại Viên Giác