Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Ðế nhà Tấn. Cả song thân đều khuyết danh.
Thuở ấy, còn gọi là thời Ngũ Hồ, mặc dù có nhiễu nhương, nhưng các tư tưởng học thuyết Thánh Hiền lan rộng đã lâu, nên từ bé ngài đã thấm nhuần nề nếp thuần phong đạo đức.
Niên hiệu Hàm Hòa thứ 9, ngài lên mười ba tuổi, được song thân cho du học ở miền Hứa Lạc. Không bao lâu, từ Nho giáo đến các học thuyết Lão, Trang cùng bách gia chư tử, ngài đã thông biện đến mức siêu quần.
Trong niên hiệu Cảnh Bình, vừa 21 tuổi, cảm thấy các học thuyết sở đắc của mình không thể giải quyết được vấn đề sống chết luân hồi, mà trong tâm hằng thao thức, ngài cùng ẩn sĩ Phạm Tuyên Tử định du phương tìm đạo. Nhưng lúc ấy vì có loạn Thạch Hồ, đường giao thông bị trở ngại nên ý nguyện không thành.
Thời gian sau, có Ðạo An Pháp Sư trú tại chùa Nghiệp Trung ở núi Thái Hàng thuộc dãy Hằng Sơn, vân tập Tăng chúng giảng dạy kinh điển. Các hàng đạo tục, vua quan, sĩ thứ đều cảm hóa hướng về. Ngài nghe danh mến đức; tìm đến xin quy y, nương theo tu học.
Sau khi nghe Pháp Sư giảng kinh Bát Nhã, ngài suốt thông tỏ ngộ than rằng: “Phật pháp quả thật cao diệu bao la, xét lại học thuyết của Khổng Mạnh, Lão, Trang, khác nào như tro tàn, cặn bã!”. Từ đó, ngài chuyên tâm hôm sớm đọc tụng, suy nghĩ, tu tập. Ðạo An thấy biết khen ngợi: “Về sau Phật pháp lưu thông ở Ðộng Ðộ, âu là do Huệ Viễn này chăng?”
Niên hiệu Thái Nguyên thứ 6, Ðại Sư du hóa tới Tầm Dương, thuộc tỉnh Giang Tây, xa trông cảnh Lô Sơn rộng rãi thanh tú, phải nơi hành đạo, mới đến lập tinh xá nương ở. Thấy chỗ đó thiếu nước, vả lại bấy giờ tại bản xứ gặp cơn nắng hạn, các dòng suối đều cạn khô, ngài phát tâm từ bi đến khe núi tụng kinh Hải Long Vương; cầm tích trượng dộng xuống đất khấn nguyện. Bỗng có con Bạch Long từ dưới đất bay vọt lên hư không. Giây phút mưa to xối xả, mực nước các nơi đều trở lại bình thường, tại đó xuất hiện dòng suối mát mẻ trong xanh, quanh co tuôn chảy.
Vì hiện tượng này, ngày lấy hiệu tinh xá là Long Tuyền. Lúc ấy Pháp Sư Huệ Vĩnh, một bạn đồng môn, trước đã trụ chùa Tây Lâm bên phía tây Lô Sơn, muốn mời ngài về cùng ở. Nhưng pháp duyên của Huệ Viễn đại sư thạnh, học giả nương về ngài càng ngày càng đông, cạnh Tây Lâm đất hẹp, không thể lập đạo tràng dung chúng. Quan Thái sử Hoàn Y thấy thế, phát tâm cất chùa cho ngài bên phía Ðông Lô Sơn. Do uy đức của Ðại Sư, khi sắp khởi công kiến tạo, vào một đêm nọ bỗng có cơn mưa giông to lớn, sấm sét vang trời. Sáng ra, đại chúng thấy vật liệu xây cất, như các thứ gỗ to quí và cát đá chất thành đống. Bởi nhờ sức thần linh vận chuyển giúp công như thế nên ngôi chùa ấy có tên Ðông Lâm Thần Vận Tự.
Khi ngôi lan-nhã hoàn thành, Ðại Sư đốc xuất chùng ngày đêm tinh tấn hành đạo. Trước thời gian ấy, tại Quảng Châu có các ngư dân, vào buổi hoàng hôn, thấy ánh sáng xuất hiện trên mặt biển. Họ cùng đến tìm xem và vớt được một tôn tượng Văn Thù Bồ Tát rất đẹp, liền đem trình với qua Thái Thú sở tại là Ðào Khản. Tượng này được tôn trí tại chùa Hàn Khê. Sau đó, vị trụ trì nhân có việc xuống Hạ Khẩu, ban đêm mộng thấy ngôi bản tự bị hỏa hoạn, chỗ thờ đức Văn Thù có nhiều Long Thần ủng hộ vây quanh. Ông vội vã trở về, quả thật ngôi chùa đã bị lửa thiêu tàn rụi, chỉ có pho tượng là còn nguyên. Về sau Ðào Công sắp đi trấn nhậm nơi khác, nhân thấy tôn tượng rất linh thiêng muốn đem theo, nhưng dùng đủ mọi cách mà vẫn không di chuyển được. Nghe danh đức của ngài Huệ Viễn, ông đến viếng thăm, nhân tiện thuật lại mọi việc, và nhờ Ðại Sư chú nguyện để cung thỉnh tôn tượng về thờ tại chùa Ðông Lâm. Lần này, khác hơn trước, Long Thiên đều ủng hộ, một cơn gió nhẹ thổi đến làm cho tôn tượng bỗng nhiên lay động, cuộc di chuyển rất thuận tiện dễ dàng. Tượng được tôn trí một nơi trang nghiêm riêng biệt tại Ðông Lâm, gọi là Văn Thù Các.
Trước chùa, để cảnh trí thêm phần trang nhã và muốn phân định thời khắc, Ðại Sư cho đào ao trồng hoa sen trắng, trên mặt nước thả mười hai cánh sen gỗ, dẫn nước suối ra vào. Cứ mỗi giờ nước chảy đầy qua cánh sen gỗ. Ðại chúng y theo đó định thời khóa tu hành, gọi là Liên Lậu.
Lần lượt, các bậc cao Tang, những hành danh sĩ mến đạo phong của Huệ Viễn đại sư, đến xin dự chúng tu tập, mỗi ngày thêm nhiều. Trong đây có những vị lỗi lạc tài hoa, như nhóm ông Tạ Linh Vận, trước kia thường nhìn thiên hạ bằng đôi mắt trắng. Nhưng khi gặp Ðại Sư bỗng liền đổi thành thái độ khiêm cung trước đạo phong an điềm, giải thoát và lời luận biện cao nhã, thông suốt của ngài.
Khu vực Lô Sơn có rất nhiều rắn độc, từ trước đã làm nguy hại đến tánh mạng dân cư ở vùng ấy. Nhưng từ khi có chùa Ðông Lâm, các loài rắn dữ đều trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm thường vây quanh Ðại Sư để nghe giảng kinh. Bởi trường hợp này, Ðại Sư được người đương thời tôn hiệu là Bích Xà Thánh Giả.
Thỉnh thoảng lại có những bậc danh tài bá lâm tìm đến vấn nạn ngài. Trong ấy, đại để như Pháp Sư Huệ Nghĩa cho đến quan Thái Úy Hoàn Huyền. Nhưng khi tiếp kiến gương mặt rộng rãi uy nghiêm, phong thái trầm tĩnh tự tại của Ðại Sư, các vị ấy bỗng nhiên mất tự chủ, xuất hạn đầm đìa, rồi rút lui không dám tranh biện. Ra ngoài họ đều kinh ngạc than thở: “Huệ Viễn đại sư có uy lực nhiếp chúng rất lạ lùng, thật đáng nể phục!”.
Niên hiệu Long An thứ ba và đầu năm Nguyên Hưng đời Ðông Tấn, quan Phụ Chính Hoàn Huyền lần lượt gởi cho ngài hai văn kiện bãi đạo và thanh lọc hàng ngũ xuất gia. Nội dung của văn kiện gồm nhiều lý lẽ đề cập đến việc không lợi ích cho quốc gia và sự hoang đường thiếu thiết thật của Phật giáo. Thời gian ấy, Tăng chúng trong toàn quốc bị đạo luật này chi phối, nhiều vị phải hoàn tục. Ðại Sư đều tuần tự phúc đáp bằng lời lẽ vững mạnh thích đáng, khiến cho đạo luật đó không thể ứng dụng được tại tỉnh Giang Tây.
Trong niên hiệu Nghĩa Hy, An Ðế từ Giang Lăng xa giá đến Giang Tây, Trấn Nam tướng quân Hà Vô Kỵ yêu cầu ngài đích thân nghinh tiếp đức vua. Ðại Sư lấy cớ đau yếu từ khước không bái yết. Ðến năm Nguyên Hưng thứ hai, Hoàn Huyền lại gởi văn thư cho ngài, với nhiều lý luận bắt buộc hàng Sa-môn phải lễ bái quốc vương. Ðại Sư soạn văn thư phúc đáp và quyển Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận gồm năm thiên để hồi âm. Triều đình đều nể trọng và phải chấp nhận quan điểm của ngài.
Ðạo đức, sự linh cảm và công hộ trì Phật pháp của Ðại Sư còn rất nhiều, nơi đây chỉ thuật lại phần khái quát. Những điểm này trong vô hình đã khiến cho tỉnh Giang Tây biến thành trung tâm Phật hóa tại miền Nam
Ở Ðông Lâm, nhân khi rỗi rảnh, Ðại Sư họp chúng lại bảo: “Chư vị đến đây niệm Phật, phải chăng đều cùng quyết chí gieo nhân lành cầu về Tịnh Ðộ u’?” Nhân cơ duyên đó, ngài cùng đại chúng cho mời thợ khéo chiếu y theo kinh điển, tạo tượng Tây Phương Tam Thánh. Ba tôn tượng A Di Ðà, Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí khi tạo thành rất cao lớn tươi đẹp, có đủ nét tướng uy đức trang nghiêm. Tượng Tam Thánh ấy được phụng cúng ở Bát Nhã Ðài Ðông Lâm. Vào tiết Mạnh Thu năm Mậu Thìn, nhằm ngày lạc thành tôn thượng, Ðại Sư cùng tất cả chúng kết lập Bạch Liên Xã, nguyện đồng sanh về cõi Liên bang. Khi ấy, ông Lưu Di Dân làm bài văn phát nguyện khắc vào bia đá. Các danh sĩ như nhóm ông Vương Kiều Chi lại viết thành tập thơ, lấy tên Niệm Phật Tam Muội để tỏ bày ý chí. Ðại Sư vì làm lời tựa như sau:
“Tam muội là thế nào? Chính là nhớ chuyện, tưởng lặng vậy. Nhớ chuyện thì chí một tâm đồng. Tưởng lặng thì khí thanh thần sáng. Khí thanh thì trí soi ngộ đến lý nhiệm mầu. Thần sáng thì không chỗ u vi nào chẳng thấu. Hai điểm này tự nhiên thầm hợp nương về mà phát sanh ra diệu dụng.
Lại, các môn Tam Muội, danh mục rất nhiều, công cao dễ tu, Niệm Phật là thắng. Tại sao thế? Vì cùng nơi huyền tịch mới hiểu Như Lai, thể hợp với thần, mười phương ứng hiện. Thế nên, khi vào tam muội, lặng lẽ vong tri, trí sáng chiếu cảnh duyên, gương lòng bày muôn tượng. Chỗ mát ta không đến được, mà vẫn thấy vẫn nghe. Nơi linh trí lặng sáng thanh, nên hằng thông hằng suốt. Nếu chẳng phải bậc căn cơ linh mẫn, thì làm sao vào được cảnh diệu huyền ư?
Hôm nay, cùng chư hiền tu tập, đồng nương kết pháp duyên. Rửa lòng cửa Phật, những e còn kém duyên sen. Chuyên ý sớm hôm, cảm nỗi tháng ngày chẳng lại. Chí nguyện ba thừa thông suốt, bước đạo tiến cao. Lòng mong dìu dắt người sau, lối tranh tẩy sạch.
Xin xem thiên bài mà thấu ý, đừng theo văn vịnh để vui tâm”.
Ðại Sư vì thấy miền Ðông Nam kinh tạng còn thiếu nhiều, nên sai đệ tử là Pháp Tịnh, Pháp Lĩnh cùng nhiều vị khác vượt ngọn Thông Lãnh sang Tây Thiên, tìm thỉnh các thứ kinh Phạm bản. Trải nhiều năm vượt suối băng ngàn, dãi nắng dầm sương, chịu đủ mọi nỗi khó khăn trở ngại, đoàn thỉnh kinh từ Tây Vức mới trở về, mang lại nhiều kết quả mong muốn. Tuy nhiên, nguyên bản còn là chữ Phạm. Huệ Viễn đại sư phải cho người đến Trường An thỉnh Tôn Giả Phật Ðà Bạt Ðà La, họp cùng những vị khác đến Lô Sơn phiên dịch các kinh điển ấy. Ðại Sư lại viết thư thỉnh cầu Tôn Giả Ðàm Ma Lưu Chi, người Tây Trúc dịch thành bộ Thập Tụng Luật. Thời ấy, những kinh luật lưu hành từ Lô Sơn có gần đến trăm thứ.
Tuy xiển dương Tịnh Ðộ, Ðại Sư vẫn lưu tâm đến các pháp mnôn khác, viết nhiều bài tựa về kinh luận, và hoàn thành mấy tác phẩm như sau:
- Ðại Trí Luận Yếu Lược (20 quyển).
- Pháp Tánh Luận.
- Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận.
- Ðại Thừa Nghĩa Chương (3 quyển).
- Thích Tam Bảo Luận.
- Minh Báo Ứng Luận.
- Sa Môn Ðản Phục Luận.
- Biện Tâm Thức Luận.
- Phật Ảnh Tán.
- Du Lô Sơn Thi.
- Lô Sơn Lược Ký.
- Du Sơn Ký.
Ngoài ra còn nhiều văn thư biện luận về Phật pháp giữa Ðại Sư với ngài Cưu Ma La Thập, cùng các ông Lưu Di Dân, Ðới An và những hàng tấn thân, đều được người đương thời truyền tụng. Trong bộ Pháp Tánh Luận, Ðại Sư phát minh lý Niết Bàn Thường Trú. Khi bộ luận này truyền đến Quan Trung, Pháp Sư Cưu Ma La Thập xem được, khen rằng: “Lành thay! Huệ Viễn đại sư cư ngụ vùng biên phương, chưa đọc kinh Ðại Niết Bàn mà lời luận lại thầm hợp với chân lý. Ấy chẳng phải là điều kỳ diệu hay sao?”.
Bạch Liên Xã do Ðại Sư thành lập, quy tụ hơn ba ngàn người, trong đây có 123 vị được tôn là Hiền. Trong 123 vị Hiền này, lại có 18 bậc thượng thủ gọi là Ðông Lâm Thập Bát Ðại Hiền, gồm các ngài như sau:
- Huệ Viễn Ðại Sư.
- Huệ Vĩnh Pháp Sư.
- Huệ Trì Pháp Sư.
- Ðạo Sanh Pháp Sư.
- Phật Ðà Gia Xá Tôn Giả.
- Phật Ðà Bạt Ðà La Tôn Giả.
- Huệ Duệ Pháp Sư.
- Ðàm Thuận Pháp Sư.
- Ðạo Kính Pháp Sư.
- Ðàm Hằng Pháp Sư.
- Ðạo Bính Pháp Sư.
- Ðàm Tiên Pháp Sư.
- Danh sĩ Lưu Di Dân.
- Danh sĩ Lôi Thứ Tôn.
- Danh sĩ Tôn Bính.
- Danh sĩ Vương Dã.
- Danh sĩ Vương Thuyên.
- Danh sĩ Châu Tục Chi.
Ðại Sư ở Lô Sơn hơn ba mươi năm, chân không bước ra khỏi núi. Ngài khước từ mọi sự liên lạc không cần thiết với đời, nguyện giải quyết vấn đề sanh tử ngay trong kiếp hiện tại. Khi có khách đến viếng, lúc ra về, Ðại Sư chỉ tiễn chân tới cầu suối Hổ Khê trước chùa rồi trở vào. Có một lần, hai danh nhân là nho sĩ Ðào Uyên Minh và đạo gia Lục Tu Tĩnh tìm đến yết kiến. Vì cơ luận khế hợp, khi đưa khách ra về, bất giác Ðại Sư bước ra khỏi cầu suối hồi nào không hay. Vừa lúc ấy, ánh tịch dương chợt rọi đến, in bóng người bên vách núi. Cả ba như bừng tỉnh, đứng lại nhìn nhau cả cười, rồi chia tay tạm biệt. Người sau dựng Tam tiếu Ðình tại nơi đây để lưu niệm. Trong Tây phương bách vịnh, Nhất Nguyên đại sư có biên ký điều trên như sau:
Tây phương cổ giáo Thế Tôn tiên
Ðông Ðộ khai tông hiệu Bạch Liên
Thập bát đại hiền vi thượng thủ
Hổ Khê tam tiếu chí kim truyền.
Tạm dịch:
Tây phương Phật dạy trước tiên
Truyền sang Ðông Ðộ, Bạch Liên mở đàng
Mười tám hiền, học hạnh toàn
Hổ Khê dường hãy còn vang tiếng cười….
Ở Ðông Lâm, hôm sớm Ðại Sư hằng lặng lòng quán tưởng, chuyên chí về Tịnh Ðộ, đã ba phen thấy thánh tướng mà trầm hậu không nói ra.
Năm Nghĩa Hy thứ mười hai, đêm ba mươi tháng bảy, ngài ngồi tịnh nơi Bát Nhã Ðài. Lúc vừa mở mắt xuất định, bỗng thấy Phật A Di Ðà thân sắc vàng đầy khắp hư không. Trong ánh viên quang hiện vô số hóa Phật, mỗi vị đều có Quán Âm, Thế Chí hầu hai bên tả hữu. Lại thấy nước chảy chia thành mười bốn ngọn quanh lộn lên xuống, phóng ra những tia sáng đẹp, diễn nói các pháp: Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã. Ðức Phật bảo ngài rằng: “Ta dùng sức bản nguyện đến đây an ủi ngươi. Sau bảy ngày, ngươi sẽ được sanh về Cực Lạc”. Ðại Sư lại thấy các bạn đồng tu ở Liên Xã đã viên tịch trước, như các ông: Phật Ðà Da Xá, Huệ Trì, Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân… đều đứng phía sau Phật. Các vị ấy bước đến trước, chắp tay chào và nói: “Ngài pháp tâm sớm hơn chúng tôi nay sao lại về muộn như thế?”.
Hôm sau, Ðại Sư cảm bịnh nhẹ, gọi đệ tử là Pháp Tịnh, Huệ Bảo đến thuật lại và nói: “Ta ở Lô Sơn này, trong mười một năm đầu, đã ba lần thấy thánh tướng cùng các kỳ tích. Nay lại có điềm như thế, tất duyên sanh Tịnh Ðộ đã đến thời kỳ!” Rồi dặn bảo các việc sau, soạn quy chế để răn nhắc đại chúng cùng nhau sách tiến tu tập.
Trong thời gian Ðại Sư lâm bịnh, chư Tăng khuyên ngài phương tiện dùng thuốc rượu để điều trị. Ðại Sư khước từ bảo: “Thân người như huyễn, nguyện giữ giới luật hoàn toàn thanh tịnh”. Các Ðại Ðức lại thỉnh ngài dùng nước cơm, Ðại Sư nói không thể được vì đã quá ngọ. Chư Trưởng Lão yêu cầu ngài tạm dùng mật. Ðại Sư bảo hãy dở Luật tìm xem có đề cập đến điều này hay không? Các Luật Sư tra cứu chưa xong, ngài đã viên tịch. Lúc ấy nhằm ngày mùng 6 tháng 8 năm Bính Thìn, niên hiệu Nghĩa Hy thứ mười hai. Ðại Sư thọ 83 tuổi.
Quan Thái Thú Tầm Dương là Nguyễn Bảo cùng đại chúng làm lễ an táng và xây tháp ngài tại phía Tây Lô Sơn. Vua An Ðế nhà Tấn hay tin rất thương tiếc, sắc phong cho Ðại Sư thụy hiệu: “Lô Sơn Tôn Giả, Hồng Lô Ðại Khanh, Bạch Liên Xã Chủ”. Các vua đời sau đều có phong tặng để cảm niệm công đức hộ pháp an dân của ngài.