Kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích
Quyển Hạ
Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng thuật
— o0o —
Phẩm Thứ Mười Ba
GIAO PHÓ CHO TRỜI NGƯỜI
Đây là phẩm Giao Phó Cho Trời Người (Chúc Lụy Nhân Thiên), phẩm thứ mười ba và cũng là phẩm cuối cùng của bộ Kinh Địa Tạng.
Thế nào gọi là “chúc”? “Chúc” là chúc phó, có nghĩa là giao phó, ủy thác cho; “lụy” là lao lụy, tức là khó nhọc, mệt nhọc. “Chúc lụy nhân thiên” có nghĩa là phó thác cho loài người ở nhân gian và thiên nhân trên cõi trời công việc hoằng dương Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, làm cho bộ kinh này được truyền bá rộng rãi, khiến tất cả chúng sanh đều được thấm nhuần những lợi ích của pháp môn này.
Kinh văn: Nhĩ thời Thế Tôn cử kim sắc tý, hựu ma Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đảnh, nhi tác thị ngôn:
“Địa Tạng! Địa Tạng! Nhữ chi thần lực, bất khả tư nghị; nhữ chi từ bi, bất khả tư nghị; nhữ chi trí tuệ, bất khả tư nghị; nhữ chi biện tài, bất khả tư nghị. Chánh sử thập phương chư Phật, tán thán tuyên thuyết nhữ chi bất tư nghị sự, thiên vạn kiếp trung, bất năng đắc tận.
Địa Tạng! Địa Tạng! Ký ngô kim nhật tại Đao Lợi thiên trung, ư bách thiên vạn ức bất khả thuyết, bất khả thuyết nhất thiết chư Phật, Bồ Tát, thiên long bát bộ, đại hội chi trung. Tái dĩ nhân thiên chư chúng sanh đẳng, vị xuất tam giới, tại hỏa trạch trung giả, phó chúc ư nhữ.
Vô linh thị chư chúng sanh, đọa ác thú trung, nhất nhật nhất dạ, hà huống cánh lạc Ngũ Vô Gián, cập A Tỳ địa ngục, động kinh thiên vạn ức kiếp, vô hữu xuất kỳ.
Địa Tạng! Thị Nam Diêm Phù Đề chúng sanh, chí tánh vô định, tập ác giả đa,
Việt Văn: Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông không thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông không thể nghĩ bàn. Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được.
Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới, mà giao phó cho ông.
Ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi!
Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
Lược giảng:
Lúc đó, Đức Thế Tôn giơ cánh tay sắc vàng xoa đảnh Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát mà bảo rằng…”
Trong Phật Giáo, xoa đảnh là một cử chỉ biểu lộ lòng từ bi ái hộ. Ở phẩm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã xoa đảnh Bồ Tát Địa Tạng rồi, bây giờ Đức Phật lại đặc biệt xoa đảnh vị Đại Bồ Tát này thêm một lần nữa, rồi nói rằng: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! Thần lực của ông khó thể nghĩ bàn.” Thần thông của ông, năng lực của ông, thật không có vị Bồ Tát nào có thể sánh bằng! Sức thần thông này vốn chẳng thể suy lường, chẳng thể luận bàn—có thể nói rằng trội hơn tất cả và là một sự đặc biệt trong những sự đặc biệt—thần lực của Bồ Tát Địa Tạng thật chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được!
“Đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn.” Lòng từ bi của Bồ Tát Địa Tạng đối với chúng sanh cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được. Ngài từng phát nguyện rằng:
“Địa ngục chưa trống không, tôi thề chưa thành Phật,
Chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ Đề.”
Tâm lượng đại từ đại bi bao la như thế rất hiếm có. Các vị Bồ Tát khác, không có vị nào phát đại nguyện lực lớn lao dường ấy, chỉ có Bồ Tát Địa Tạng mới có nguyện lực đại từ đại bi như vậy.
“Trí huệ của ông không thể nghĩ bàn.” Trí huệ rộng lớn của Bồ Tát Địa Tạng cũng rất ít Bồ Tát có thể sánh kịp—cho đến đại trí đại huệ của Ngài cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được.
“Biện tài của ông không thể nghĩ bàn.” Có bốn loại biện tài vô ngại là Từ vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Nhạo thuyết vô ngại biện, và Pháp vô ngại biện. Tài biện luận không hề bị trở ngại của Bồ Tát Địa Tạng cũng chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn được.
“Dầu cho chư Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự không nghĩ bàncủa ông, trong ngàn vạn kiếp cũng chẳng nói hết được!” Giả sử có thỉnh mời chư Phật trong khắp mười phương ngợi khen những kỳ tích bất khả tư nghị cũng như những sự vi diệu về thần lực, đức từ bi, trí huệ, cùng biện tài của Bồ Tát Địa Tạng, thì cho dù trải qua một ngàn đại kiếp, một vạn đại kiếp cũng không thể nào kể cho xiết, nói cho cùng được!
“Này Địa Tạng! Địa Tạng! Ông hãy nhớ hôm nay Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, trong cung trời Đao Lợi, nơi đại hội có trăm ngàn vạn ức không thể nói hết, không thể nói hết tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, cùng Thiên Long Bát Bộ—trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, cùng nhân và phi nhân, một lần nữa đem các chúng sanh trong cõi trời, người—những chúng sanh ở cõi người và những chúng sanh trên cõi trời, những kẻ còn ở trong nhà lửa, chưa ra khỏi Tam Giới—Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, mà giao phó cho ông. Ta nay phó thác, gởi gắm những chúng sanh này cho ông!”
Vậy, “ông đừng để cho các chúng sanh đó bị đọa vào đường ác dù là một ngày một đêm, huống là để cho họ phải đọa lạc vào địa ngục Ngũ Vô Gián cùng địa ngục A-tỳ, trải đến ngàn vạn ức kiếp không lúc nào ra khỏi! Ông cần phải bảo hộ tất cả những chúng sanh đó, làm cho họ không bị đọa lạc vào ác đạo.”
“A-tỳ” cũng gọi là “vô gián”; địa ngục Đại A-Tỳ chính là địa ngục Đại Vô Gián.
Quý vị nên biết, một ngày một đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương dài bằng năm mươi năm ở cõi nhân gian của chúng ta; còn một ngày một đêm ở cõi nhân gian chúng ta thì dài bằng năm trăm năm ở chốn địa ngục. Tại sao như vậy? Bởi vì đời sống ở cõi trời vô cùng vui sướng, mà khi vui vẻ sung sướng thì người ta cảm thấy thời giờ trôi qua rất nhanh! Ở cõi nhân gian vì có khổ não, cho nên năm mươi năm của chúng ta là một thời gian rất dài, song đó chẳng qua chỉ bằng một ngày một đêm trên cõi trời mà thôi.
Lại nữa, một ngày một đêm ở cõi nhân gian của chúng ta thì tương đương với năm trăm năm ở chốn địa ngục. Nếu so với cõi nhân gian thì ở địa ngục còn thống khổ hơn nhiều, mà khi phải chịu thống khổ thì người ta cảm thấy thời giờ trôi qua rất chậm chạp. Như khi chúng ta phải làm một việc gì đó chẳng hạn, nếu trong lòng cứ đắn đo, phiền muộn, thì sẽ thấy ngày dài lê thê; còn nếu tâm trí thơ thới, vui vẻ, thì lại thấy thời giờ trôi qua vùn vụt, hết một ngày lúc nào không hay!
Sau khi căn dặn Bồ Tát Địa Tạng chớ để cho các chúng sanh đó bị đọa vào địa ngục Vô Gián dù chỉ trong một ngày một đêm, huống hồ là vĩnh viễn không có ngày được thoát ra, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi: “Này Địa Tạng! Chúng sanh ở cõi Nam Diêm Phù Đề này chí tánh không định, kẻ quen theo thói ác thì nhiều.”
Chí khí và tâm tánh của tất cả chúng sanh ở thế giới “kham nhẫn,” tức cõi Ta Bà ở Nam Thiệm Bộ Châu, đều không được an định, có lúc họ tin có lúc họ lại không tin, cứ luôn thay đổi. Đã thế, đa số lại tiêm nhiễm nhiều thói ác. Ví dụ có nhiều người, nếu quý vị mời họ đến nghe kinh, thì họ lại có vẻ không thích, không hăng hái lắm; đặc biệt là họ còn lo sợ rằng nghe kinh rồi thì bao nhiêu tội ác của họ sẽ biến mất hết!!! Vì sao ư? Đó là vì họ đã quen làm điều ác, lại còn tìm cách che đậy tội lỗi của mình, không muốn sửa đổi, chẳng chịu hối cải.
Ví dụ trò cờ bạc, nhiều người chẳng cần phải có ai bày vẽ cho cả, chỉ đến sòng bài nhìn lướt qua một lượt là tự nhiên biết cách bấm máy, thắng hay thua, được hay mất, thì từ từ tự rút kinh nghiệm. Những người thường đến các sòng bài ở Reno, Las Vegas, đều rất thông minh—họ chỉ nhìn thoáng qua là biết cách chơi ngay, chẳng cần ai chỉ dẫn mà vẫn rất thành thạo. Tuy nhiên, nếu quý vị bảo họ học điều hay lẽ phải, thì dù có tận tâm dạy dỗ đến thế nào đi nữa, họ cũng không lãnh hội được; cho nên nói “kẻ theo thói ác thì nhiều.”
Đức Phật đã sớm biết rõ mọi thói hư tật xấu của chúng sanh chúng ta; nhìn chúng sanh chúng ta, Ngài thấu rõ được đến tận xương tủy, biết được những gì đang tiềm ẩn trong tận cùng tâm tánh của chúng ta!
Kinh văn: Túng phát thiện tâm, tu du tức thoái, nhược ngộ ác duyên, niệm niệm tăng trưởng. Dĩ thị chi cố, ngô phân thị hình, bách thiên ức hóa độ, tùy kỳ căn tánh, nhi độ thoát chi.
Việt Văn: “Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất; nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng. Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ.”
Lược giảng:
“Dầu phát thiện tâm nhưng chốc lát liền thối thất.” “Chốc lát” là khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi—chỉ trong một thoáng là liền thối thất thiện tâm, không còn gì cả.
Có nhiều người phát tâm làm việc thiện nhưng chẳng được bao lâu lại hối tiếc: “Ôi! Tôi bố thí nhiều như vậy, chẳng biết có được đền bù cái gì không?” Như vua Lương Võ Đế cũng đã từng thắc mắc: “Tôi cất biết bao nhiêu là cảnh chùa, giúp độ được biết bao nhiêu là Tăng sĩ, lại từng bố thí cúng dường nhiều vô số kể; vậy chẳng hay công đức của tôi to lớn đến cỡ nào? Chẳng hay tôi có được công đức hay chăng?” Và sau đó thì nhà vua lại sanh lòng thối chuyển.
“Nếu gặp ác duyên thì niệm niệm tăng trưởng.” “Ác duyên” tức là duyên bất tịnh, mà duyên bất tịnh lại chính là nhân duyên đọa lạc! Phàm quý vị gây ra những nhân duyên đọa lạc thì đều được xem như là gây tạo ác duyên, chẳng hạn như làm những việc ngu xuẩn, khởi lòng sân hận, hoặc sanh lòng tham vậy. Nếu quý vị có tâm tham dục thì sẽ tham tài, tham sắc; có tâm sân hận thì sẽ muốn giết người, đốt nhà; có tâm ngu si thì sẽ muốn đạt được những điều không thể đạt được. Đó đều là những ác duyên. Một khi gặp phải ác duyên thì thói ác mỗi niệm mỗi tăng trưởng—cái niệm xấu ác, cái tâm xấu ác mỗi lúc mỗi lớn mạnh hơn.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Vì thế cho nên, Ta phải phân thân này ra làm trăm ngàn ức để hóa độ. Bởi chúng sanh khó độ như vậy, dầu họ có phát thiện tâm đi nữa thì cũng chỉ trong khoảnh khắc là liền thối thất, nếu lại gặp ác duyên thì tâm ác càng lúc càng tăng trưởng; cho nên Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, phải phân chia thân hình của Ta, dùng trăm ngàn vạn ức pháp môn phương tiện để giáo hóa chúng sanh, tùy theo căn tánh mà độ thoát cho họ, khiến cho tất cả đều được ly khổ đắc lạc.”
Kinh văn: Địa Tạng! Ngô kim ân cần dĩ thiên nhân chúng, phó chúc ư nhữ. Vị lai chi thế, nhược hữu thiên nhân, cập thiện nam tử, thiện nữ nhân. Ư Phật pháp trung, chủng thiểu thiện căn, nhất mao nhất trần, nhất sa nhất trích, nhữ dĩ đạo lực, ủng hộ thị nhân, tiệm tu Vô Thượng, vật linh thoái thất.
Việt Văn: “Này Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng trời, người giao phó cho ông. Vào đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam thiện nữ nào, ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, thì ông nên dùng Đạo lực mà ủng hộ người đó, làm cho lần lần tu Đạo Vô Thượng, chớ để thối thất.”
Lược giảng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói: “Này Địa Tạng! Nay Ta ân cần đem chúng trời, người giao phó cho ông. Ta kỳ vọng rất lớn nơi ông. Ta đem hết thảy chúng sanh trên cõi trời và ở cõi nhân gian mà phó thác, gởi gắm cho ông.”
“Vào đời vị lai, nếu có hàng trời, người cùng thiện nam thiện nữ nào …” “Đời vị lai” tức là chỉ cho thế hệ chúng ta, bao gồm tất cả quý vị và tôi hiện nay. Đương thời, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni “ký hiệp ước,” phó thác chúng sanh cho Bồ Tát Địa Tạng; trong số các chúng sanh đó thì có cả quý vị và tôi nữa, bởi Đức Phật có nói là các “thiện nam thiện nữ”!
Quý vị đều là những “thiện nam tử, thiện nữ nhân,” mà tôi cũng là một trong những “thiện nam tử, thiện nữ nhân”; chúng ta tuyệt đối không phải là các “ác nam tử, ác nữ nhân”! “Ác nam tử, ác nữ nhân” thì không thể nào ngồi yên ở đây được; bởi nếu đến đây, họ sẽ ngồi trên ghế nệm êm ái mà cứ thấy xốn xang như ngồi trên bàn đinh, chỉ chực nhổm dậy bỏ chạy. Còn quý vị là những “thiện nam tử, thiện nữ nhân,” hễ đến được chốn này thì ngồi xuống rồi là không muốn bỏ đi nữa, càng nghe giảng càng thấy thích thú, càng thấy thấm thía, có ý nghĩa, cho nên chẳng muốn ra về.
“Ở trong Phật Pháp mà trồng chút thiện căn …” Quý vị xem, chúng ta có hy vọng rồi đó! Tất cả chúng ta đều không nên lo lắng bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Địa Tạng đã “ký hiệp ước” với nhau rồi, đã “bàn giao” hết sức rõ ràng rồi! Đức Phật nói rằng: “Trong Phật Pháp, nếu có kẻ nào chỉ cần trồng một chút căn lành, chừng bằng một mảy lông, một hạt bụi, một hạt cát, một giọt nước, thì ông—Bồ Tát Địa Tạng—nên dùng Đạo lực mà ủng hộ người đó. Tuy rằng việc thiện mà họ làm được còn ít ỏi, nhưng đều phát xuất từ thiện tâm, ông phải dùng Đạo nhãn để quán sát, vận dụng Đạo lực—thần thông, thần lực, đức từ bi, trí huệ, biện tài—của mình để bảo vệ ủng hộ những người mới trồng được đôi chút thiện căn này, làm cho lần lần tu Đạo Vô Thượng, chớ để thối thất. Ông phải khiến cho họ mỗi ngày mỗi tu nhiều thêm một chút, mỗi ngày mỗi hiểu rõ về Đạo Vô Thượng hơn một chút, đừng để cho họ thối thất tâm Bồ Đề.”
Có người hoài nghi: “Trong kinh nói rằng mặc dù trồng ít căn lành như vậy mà vẫn được Bồ Tát Địa Tạng ủng hộ; song chúng con làm rất nhiều việc thiện mà sao lại không thấy có được sự ủng hộ của Ngài? Vì sao chúng con chưa thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát đến ủng hộ mình?”
Quý vị chưa thấy Bồ Tát Địa Tạng ủng hộ quý vị ư? Quý vị có biết được không? Quý vị thử nghĩ lại xem, quý vị có từng bị xe đụng đáng lẽ phải chết, thế mà quý vị chỉ bị thương xoàng thôi chứ không nguy đến tánh mạng? Đó chính là nhờ Bồ Tát Địa Tạng âm thầm che chở cho quý vị vậy! Hoặc là quý vị có lúc đang đau nặng thì bỗng dưng được thuyên giảm, bình phục; nếu không phải nhờ Bồ Tát Địa Tạng che chở thì quý vị có thể có được sự cảm ứng như thế chăng?
Lại có người nói: “Con chưa hề bị xe đụng, cũng chẳng hề đau ốm, thế thì Bồ Tát Địa Tạng không che chở cho con sao?” Ồ! Thế ông còn nhớ không, có một lần ông đi biển, thuyền chòng chành cơ hồ sắp lật úp vậy, nhưng Bồ Tát Địa Tạng đã phù hộ ông, khiến thuyền không bị lật, có điều là ông không hay không biết gì cả đó thôi!
Lại có người nói: “Con chưa hề đi thuyền!” Thì ông có đi máy bay rồi, và máy bay chẳng gặp rủi ro—đó cũng là nhờ được sự bảo hộ của Bồ Tát Địa Tạng đấy!
Lại cũng có nhiều người ngồi trên máy bay mà cứ nơm nớp lo sợ: “Chẳng biết máy bay có bị rớt hay không? Bay cao đến thế kia!” Tại sao họ sợ? Đó là do trong quá khứ họ đã gây tạo nghiệp chướng quá nặng nề, cho nên bây giờ sợ rằng nghiệp chướng này sẽ hại mình bị đọa thêm, vì thế mới sanh lòng sợ hãi. May thay, họ đã học Phật Pháp, cho nên phi cơ không bị rớt!
Có người lại nói: “Tôi không sợ gì cả!” Ông không sợ gì cả ư? Đó là nhờ Bồ Tát Địa Tạng phù hộ và ban cho ông lòng can đảm đấy!
Trên đây là một vài trường hợp điển hình về sự linh cảm của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bất luận quý vị là ai, tất cả quý vị đều nên tin tưởng Địa Tạng Vương Bồ Tát bởi vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài đã “ký hiệp ước” tại cung trời Đao Lợi—Ngài sẽ bảo hộ quý vị, tôi và tất cả chúng sanh đời hiện tại, bởi vì đó là trách nhiệm của Ngài, quý vị không thể không tin tưởng!
Kinh văn: Phục thứ Địa Tạng! Vị lai thế trung, nhược thiên nhược nhân, tùy nghiệp báo ứng, lạc tại ác thú, lâm đọa thú trung, hoặc chí môn thủ, thị chư chúng sanh, nhược năng niệm đắc nhất Phật danh, nhất Bồ Tát danh, nhất cú nhất kệ, Ðại Thừa kinh điển. Thị chư chúng sanh, nhữ dĩ thần lực, phương tiện cứu bạt, ư thị nhân sở, hiện vô biên thân, vi toái địa ngục, khiển linh sanh thiên, thọ thắng diệu lạc”.
Nhĩ thời Thế Tôn, nhi thuyết kệ ngôn:
Việt Văn: “Lại nữa, này Địa Tạng! Trong đời vị lai, hoặc trời hoặc người, phải tùy theo nghiệp mà thọ báo ứng, đọa lạc vào ác đạo; lúc sắp bị đọa ác đạo hoặc vừa đến ngưỡng cửa, những chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, cùng một câu kinh một bài kệ của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lực, phương tiện để cứu vớt các chúng sanh đó; ở chỗ của các người đó hiện thân vô biên, vì họ mà phá tan địa ngục, làm cho họ được sanh thiên, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng…
Lược giảng:
“Lại nữa, này Địa Tạng! Ta lại bảo thêm cho ông rõ một đôi điều nữa. Trong đời vị lai, hoặc trời hoặc người, phải tùy theo nghiệp mà thọ báo ứng, đọa lạc vào ác đạo; lúc sắp bị đọa ác đạo hoặc vừa đến ngưỡng cửa …”
Giả sử vào đời sau, có những thiên nhân trên cõi trời hoặc những người ở cõi nhân gian, vì nghiệp chướng mình trót gây tạo nên phải chịu quả báo bị đọa vào ba đường ác, thì ngay khi họ sắp sửa đọa lạc trong đường ác hoặc vừa đến trước cửa địa ngục, “những chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của một đức Phật, danh hiệu của một vị Bồ Tát, cùng một câu kinh một bài kệ của kinh điển Đại Thừa, thì ông hãy dùng thần lực, phương tiện để cứu vớt các chúng sanh đó. Ông hãy vận dụng sức thần thông của mình đồng thời khéo dùng các quyền xảo phương tiện để cứu độ họ.”
Đồng thời, “ở chỗ của các người đó hiện thân vô biên. Ngay tại nơi mà những người đó đang cư ngụ, ông hãy hiển bày thân vô biên, thị hiện thần thông với đại oai thần, đại oai đức vô biên của mình. Ông hãy vì họ mà phá tan địa ngục, làm cho họ được sanh thiên. Ông hãy vung tích trượng, mở toang cửa địa ngục, phóng thích loài ngạ quỷ, khiến những chúng sanh đang chịu tội khổ đều được sinh về cõi trời, hưởng sự vui thù thắng vi diệu.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng… Lúc đó, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dùng kệ tụng để trùng tuyên lại nghĩa trên như sau:
Kinh văn:
Hiện tại vị lai thiên nhân chúng,
Ngô kim ân cần phó chúc nhữ.
Dĩ đại thần thông phương tiện độ,
Vật linh đọa tại chư ác thú.
Nhĩ thời Ðịa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, hồ quỵ hiệp chưởng bạch Phật ngôn:
“Thế Tôn! Duy nguyện Thế Tôn! Bất dĩ vi lự. Vị lai thế trung, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, ư Phật pháp trung, nhất niệm cung kính. Ngã diệc bách thiên phương tiện, độ thoát thị nhân, ư sanh tử trung, tốc đắc giải thoát. Hà huống văn chư thiện sự, niệm niệm tu hành, tự nhiên ư Vô Thượng đạo, vĩnh bất thoái chuyển”.
Việt Văn: “Hiện tại, vị lai chúng thiên, nhân.
Nay Ta ân cần dặn bảo ông:
Dùng đại thần thông phương tiện độ,
Chớ để đọa vào các ác đạo.”
Bấy giờ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát quỳ gối, chắp tay bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Đức Thế Tôn chớ lo! Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào đối với trong Phật Pháp mà có một niệm cung kính, con cũng dùng trăm ngàn phương tiện để độ thoát người đó, làm cho mau được giải thoát trong đường sanh tử; huống nữa là nghe các thiện sự rồi niệm niệm tu hành, thì sẽ tự nhiên ở nơi Đạo Vô Thượng vĩnh viễn được không còn thối chuyển.”
Lược giảng:
Lúc bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói kệ rằng: “Hiện tại, vị lai chúng thiên, nhân,/ Nay Ta ân cần dặn bảo ông. Ta hiện nay, với lòng hy vọng to lớn nhất, rất ân cần, rất trịnh trọng giao phó cho ông một việc—Ta đem tất cả thiên nhân trên cõi trời, loài người ở nhân gian, cùng hết thảy chúng sanh trong đời hiện tại và vị lai, mà phó thác cho ông, Bồ Tát Địa Tạng.”
“Dùng đại thần thông phương tiện độ,/ Chớ để đọa vào các ác đạo. Ông hãy dùng sức thần thông vĩ đại nhất của mình, đồng thời khéo léo vận dụng các quyền xảo phương tiện, ngõ hầu có thể độ thoát hết thảy các chúng sanh đó; đừng để cho họ bị đọa lạc trong các đường ác của A-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.”
Lúc ấy, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát quỳ gối … Đây là một vị Đại Bồ Tát trong hàng Bồ Tát, là một vị Bồ Tát xuất chúng—Ngài có đại thần thông, đại từ bi, đại trí huệ, đại biện tài. “Đại” ở đây cũng chính là “không thể nghĩ bàn”; mà “không thể nghĩ bàn” cũng chỉ vì Ngài quá vĩ đại.
Vậy, lúc bấy giờ, vị Đại Bồ Tát này quỳ xuống trước mặt Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ba nghiệp thân khẩu ý đều thanh tịnh, chắp tay bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Đức Thế Tôn chớ lo! Con nay chỉ mong muốn Đức Thế Tôn đừng lo nghĩ, đừng bận tâm về các chúng sanh nữa. Xin hãy để cho con lo liệu cho các chúng sanh đó, con sẽ đảm đương tất cả. Con sẽ độ cho hết thảy chúng sanh đều được thành Phật; cho nên, con cúi xin Đức Phật hãy an tâm, đừng lo lắng về các chúng sanh hậu thế nữa!”
Địa Tạng Vương Bồ Tát bạch tiếp: “Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, bất luận là chúng sanh nào ở địa phương nào hoặc quốc gia nào vào đời sau, đối với trong Phật Pháp có một niệm cung kính—chỉ cần chắp tay, hoặc khi thấy tượng Phật thì khẽ cúi đầu, vái một vái, con cũng dùng trăm ngàn phương tiện để độ thoát người đó, từ từ dẫn dắt khiến cho người đó được ly khổ đắc lạc, làm cho mau được giải thoát trong đường sanh tử, không còn phải chịu nhiều thống khổ nữa.”
Chúng ta mỗi người đều nên tự hỏi chính mình: Trong đời này kiếp này, mình sanh ra ở cõi đời này, rốt ráo là để làm gì, vì cái gì? Mình cần phải làm những việc gì? Phải chăng mình đến thế giới này là để sống buông thả, sống lây lất, ăn no chờ chết, cứ ăn rồi ngủ, ngủ rồi lại ăn, ăn ngủ chán chê rồi thì chờ chết? Phải chăng ngày ngày mình đi làm kiếm tiền chỉ vì hai bữa cơm, dăm bộ quần áo? Có phải mình sống là vì những chuyện như thế không?
Nếu quý vị vì những chuyện đó mà sống thì hãy mau mau chết phứt đi cho xong, cho đỡ phiền phức! Bởi như thế thì sống ở thế gian này có ý nghĩa gì chứ? Ăn rồi ngủ, ngủ rồi ăn—cứ thế cho đến già đến chết, thì quả thật là một cuộc sống không có ý nghĩa gì cả! Nói “không có ý nghĩa” là bởi quý vị vì những vấn đề nhỏ nhặt như học thói lường gạt người khác để kiếm chút tiền, hầu duy trì cuộc sống của bản thân, mà đến thế giới này. Nếu chỉ đơn thuần vì các vấn đề nhỏ nhặt—cái ăn, cái mặc, nơi ăn chốn ở—mà lây lất sống ở thế gian này, thì thà là mau mau chết đi còn hơn! Chỉ vì để sinh tồn mà trên thế giới này mọi người đều tất tả bon chen, đầu tắt mặt tối; và do đó mà có rất nhiều phiền não, rất nhiều vấn đề nảy sanh. Những vấn đề này thì khổ não nhiều hơn là vui sướng, khốn khó nhiều hơn an nhàn, cho nên chi bằng chết phứt cho xong!
Thế thì, loài người chúng ta đến thế gian này để làm gì? Chúng ta đến thế gian này là để “tiên giác, giác hậu giác,” tức là đem các đạo lý mà mình đã hiểu được giảng giải lại cho những người chưa hiểu, để ai nấy đều được hiểu rõ; bởi nếu người người đều hiểu rõ đạo lý tu hành, thì sẽ không đến nỗi còn nhiều phiền não như thế. Do đó, đây là nghĩa vụ chân chánh của chúng ta.
Lại nữa, chúng ta đến thế giới này, thì cũng nên “hữu công ư thế,” đóng góp chút công sức với đời; đồng thời cũng cần phải “hữu đức ư dân,” phải có đức hạnh, phải mang lại lợi ích cho mọi người. Phải chính mình làm lợi cho người, chứ đừng đòi hỏi người khác làm lợi cho mình. Chớ nên chỉ biết chờ người ta đến giúp đỡ mình, mà chính mình phải biết giúp đỡ mọi người. Đừng cho rằng để người khác làm giúp thì mình đỡ mệt, và như thế là có lợi cho mình; kỳ thật, đó là bị hố to!
Quý vị giúp đỡ người khác, tức là làm việc tốt. Chúng ta nên làm những việc tốt, có ích cho thiên hạ, thậm chí lợi ích cho cả thiên hạ trong muôn đời sau nữa. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni toàn làm lợi lạc cho hết thảy chúng sanh chúng ta, và lịch đại Tổ Sư cùng chư Đại Bồ Tát cũng vậy—tất cả các ngài đều vì lợi ích của chúng sanh.
Chúng ta muốn học Phật Pháp thì nên học theo gương của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng như của chư Tổ Sư cùng chư Đại Bồ Tát. Đừng xem Phật Pháp như những lời nói suông, đưa đãi ngoài cửa miệng; mà nhất định phải làm cho tất cả mọi người đều hiểu rõ Phật Pháp, khiến cho ai nấy đều mau chóng được giải thoát—đây là việc quan trọng nhất!
“Huống nữa là nghe các thiện sự rồi niệm niệm tu hành.” Ví dụ quý vị nghe nói có người muốn in kinh thì trong lòng vô cùng hoan hỷ: “A! In kinh à? Tôi muốn góp in năm ngàn bộ. Để tôi bao tiền in luôn cho!” Hoặc lại nghe có người muốn tu bổ chùa chiền thì liền sốt sắng hưởng ứng: “Tôi sẽ đến làm công quả. Tôi thì không có tiền, song ai có tiền thì xuất tiền, ai có sức thì góp sức; tôi có thể làm những việc nặng nhọc.”
Hôm nay có người nói rằng anh ta dự tính sang năm nhất định sẽ giúp xây một ngôi chùa. Có được một người phát tâm như thế rồi, nếu có thêm mười người rồi hàng ngàn hàng vạn người đều phát tâm góp phần, thì việc cất chùa sẽ mau chóng hoàn thành. Đây là việc lợi ích cho mọi người.
“Niệm niệm tu hành” tức là trong từng niệm một đều không quên tu hành, luôn luôn tu hạnh thanh tịnh; chứ không phải là niệm niệm muốn đi tạo nghiệp chướng!
“Thì sẽ tự nhiên ở nơi Đạo Vô Thượng vĩnh viễn được không còn thối chuyển.” Nếu người thiện nam cùng kẻ thiện nữ đó nghe các việc lành rồi luôn luôn tu hành, thì tự nhiên họ sẽ không bao giờ còn thối chuyển đối với đạo quả Bồ Đề vô thượng.
Kinh văn: Thuyết thị ngữ thời, hội trung hữu nhất Bồ Tát, danh Hư Không Tạng, bạch Phật ngôn:
“Thế Tôn! Ngã tự chí Đao Lợi, văn ư Như Lai tán thán Địa Tạng Bồ Tát, oai thần thế lực, bất khả tư nghị. Vị lai thế trung, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, nãi chí nhất thiết thiên long, văn thử kinh điển, cập Địa Tạng danh tự, hoặc chiêm lễ hình tượng, đắc kỷ chủng phước lợi? Duy nguyện Thế Tôn! Vi vị lai hiện tại, nhất thiết chúng đẳng, lược nhi thuyết chi”.
Việt Văn: Lúc nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng bạch cùng Đức Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn! Con đến cung trời Đao Lợi nghe Đức Như Lai ngợi khen oai thần thế lực không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng. Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, cho đến tất cả hàng trời, rồng, nghe kinh điển này cùng danh tự của Ngài Địa Tạng, hoặc chiêm lễ hình tượng, thì sẽ được bao nhiêu điều phước lợi? Cúi mong Đức Thế Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà lược nói việc ấy cho.”
Lược giảng:
Lúc nói lời ấy xong, trong Pháp Hội có một vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng…
Đây là vị Bồ Tát mà trên đỉnh đầu có một bảo tạng—đó là một viên ngọc Như Ý; với viên ngọc Như Ý này, người ta có thể muốn cái gì thì được cái nấy. Bởi viên ngọc này ở trên đầu của Bồ Tát, cho nên Ngài được gọi là Bồ Tát Hư Không Tạng. Quý vị có nhận ra Ngài không? Vị Bồ Tát mà trên đầu có đính một viên ngọc quý—viên ngọc “tùy tâm như ý”—chính là Bồ Tát Hư Không Tạng. Đó là biểu thị rằng các bảo bối của Ngài đều ở trong hư không, được tồn giữ trong hư không. Nếu quen biết được vị Bồ Tát này, tôi tin rằng quý vị chắc chắn sẽ không bao giờ bị nghèo túng nữa. Tại sao ư? Vì vị Bồ Tát này sẽ đem các bảo vật trong “hư không tạng” tặng cho quý vị, và như thế đời đời kiếp kiếp quý vị sẽ không thể nào dùng cho hết được!
Vậy, lúc Bồ Tát Địa Tạng vừa dứt lời thì trong đại hội ở cung trời Đao Lợi có Bồ Tát Hư Không Tạng bước ra và bạch cùng Đức Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Con đến cung trời Đao Lợi nghe Đức Như Lai ngợi khen oai thần thế lực không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Địa Tạng. Từ cõi nước của mình, con vượt qua có đến tám vạn ức cõi nước để đến dự Pháp Hội tại cung trời Đao Lợi này. Con được nghe Đức Thế Tôn tấm tắc ngợi khen Bồ Tát Địa Tạng về oai đức thần thông cùng thế lực lớn lao chẳng thể nghĩ bàn. Đây là điều mà từ trước đến nay con chưa từng được nghe qua.”
Bồ Tát Hư Không Tạng bạch tiếp: “Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào, cho đến tất cả hàng trời, rồng, hoặc hết thảy tám bộ quỷ thần, nghe kinh điển này—Kinh Địa Tạng—cùng danh tự của Ngài Địa Tạng, hoặc chiêm lễ hình tượng, thành kính chiêm ngưỡng và lễ bái hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, thì sẽ được bao nhiêu điều phước lợi, bao nhiêu loại phước báo, bao nhiêu sự lợi ích? Cúi mong Đức Thế Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà lược nói việc ấy cho. Con nay thỉnh cầu Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy vì hết thảy chúng sanh đời hiện tại và đời vị lai mà nói sơ qua cho chúng con được rõ.”
Kinh văn: Phật cáo Hư Không Tạng Bồ Tát: “Đế thính! Đế thính! Ngô đương vị nhữ, phân biệt thuyết chi. Nhược vị lai thế, hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, kiến Địa Tạng hình tượng, cập văn thử kinh, nãi chí độc tụng, hương hoa ẩm thực, y phục trân bảo, bố thí cúng dường, tán thán chiêm lễ, đắc nhị thập bát chủng lợi ích:
Việt Văn: Đức Phật bảo Bồ Tát Hư Không Tạng: “Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói rõ. Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào trông thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe Kinh này, cho đến đọc tụng, dùng hương hoa, đồ ăn thức uống, y phục, châu báu, mà bố thí cúng dường, ngợi khen chiêm lễ, thì sẽ được hai mươi tám điều lợi ích.”
Lược giảng:
Đức Phật bảo Bồ Tát Hư Không Tạng: “Lắng nghe! Lắng nghe!” Đây là biểu thị của sự phải đặc biệt chú ý.
Vậy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Hư Không Tạng rằng: “Ông hãy thận trọng mà lắng nghe cho kỹ! Hãy chú ý lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói rõ. Ta sẽ vì các ông mà phân biệt giảng nói. Nay Ta sẽ nói cho ông rõ, nếu ông chẳng chú ý lắng nghe thì Ta sẽ không nói nữa. Ta sẽ giảng giải cặn kẽ, nhưng nếu ông chẳng chịu lắng nghe, thì nào có ích lợi gì?”
Cũng như hiện tại tôi đang giảng kinh ở đây vậy—quý vị cần phải chăm chú lắng nghe! Chú ý lắng nghe! Nếu chẳng lắng nghe, cứ ngồi ngủ gà ngủ gật, tôi giảng những gì quý vị đều không nghe thấy, thì chẳng khác nào tôi không giảng gì cả! Cho nên, yêu cầu đầu tiên của tôi đối với quý vị là đừng ngủ gật, đừng hôn trầm!
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy tiếp: “Vào đời vị lai, nếu có người thiện nam kẻ thiện nữ nào trông thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng cùng nghe kinh này—Kinh Địa Tạng, cho đến đọc tụng bộ Kinh Địa Tạng này …” Nhìn ngắm tượng của Bồ Tát Địa Tạng tức là biểu thị sự thành khẩn của căn mắt (nhãn căn), sự thành khẩn được biểu lộ bằng mắt. Nghe Kinh Địa tạng tức là tỏ sự thành khẩn của căn tai (nhĩ căn); đọc tụng là tỏ sự thành khẩn của căn lưỡi (thiệt căn).
“Dùng hương hoa, đồ ăn thức uống, y phục, châu báu …” Cúng dường hương hoa là biểu thị sự thành khẩn của căn mũi (tỷ căn); cúng dường các thức ăn uống cũng thuộc về sự thành khẩn của căn lưỡi; cúng dường y phục, đồ vật quý báu là sự thành khẩn của căn thân (thân căn).
“Mà bố thí cúng dường, ngợi khen chiêm lễ, thì sẽ được hai mươi tám điều lợi ích.” Sự “bố thí cúng dường, ngợi khen chiêm lễ” từ mắt, tai, mũi, lưỡi và thân là thuộc về sự thành khẩn của căn ý (ý căn). Do sự thành khẩn của sáu căn này hợp lại mà chúng ta có được hai mươi tám điều lợi ích. Hai mươi tám điều lợi ích đó là gì?
Kinh văn: Nhất giả, thiên long hộ niệm.
Nhị giả, thiện quả nhật tăng.
Tam giả, tập thánh thượng nhân.
Tứ giả, Bồ Đề bất thoái.
Ngũ giả, y thực phong túc.
Lục giả, tật dịch bất lâm.
Thất giả, ly thủy hỏa tai.
Bát giả, vô đạo tặc ách.
Cửu giả, nhân kiến khâm kính.
Thập giả, thần quỷ trợ trì.
“Một là thiên long thường hộ niệm;
Hai là thiện quả ngày càng tăng;
Ba là tích tập các nhân thánh thượng;
Bốn là tâm Bồ Đề không thối chuyển;
Năm là y phục, thực phẩm đầy đủ;
Sáu là dịch bệnh không đến nơi thân;
Bảy là xa lìa các tai nạn về nước và lửa;
Tám là không bị tai ách trộm cướp;
Chín là người khác thấy đều cung kính;
Mười là quỷ thần đều hộ trì.”
Lược giảng:
“Một là thiên long thường hộ niệm.” Khi quý vị tụng Kinh Địa Tạng thì loài rồng từ trên trời, và luôn cả loài A-tu-la trên cõi trời, cũng đến bảo hộ quý vị. Loài A-tu-la ở cõi trời tuy có phước trời (thiên phước) song không có quyền hành như một vị trời, và họ cũng phát nguyện muốn đến bảo hộ, che chở người tụng kinh.
Ngoài ra, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già … cũng đều đến để che chở những người tụng Kinh Địa Tạng. Càn-thát-bà là thần âm nhạc (nhạc thần), có nhiệm vụ tấu nhạc cho Ngọc Hoàng Đại Đế nghe, và còn được gọi là “thần ngửi mùi hương” (văn hương thần). Ngọc Hoàng Đại Đế có một loại hương, khi đem đốt thì tỏa mùi thơm ngào ngạt, thần Càn-thát-bà ngửi được mùi hương thì liền đến hầu. Càn-thát-bà cũng có nam, có nữ. Thần Càn-thát-bà nam thì trên đầu có một cái sừng, giống như con kỳ lân vậy. Khi thần ngửi được mùi hương đó thì sẽ vừa nhảy múa, vừa đàn ca hát xướng, tiếng nhạc réo rắt giữa không trung. Nghe quý vị tụng Kinh Địa Tạng, thì thần Càn-thát-bà cũng ở trên không trung khen ngợi.
Ca-lâu-la chính là đại bàng kim xí điểu, tức là chim đại bàng cánh vàng.
Khẩn-na-la cũng là nhạc thần.
Ma-hầu-la-già là con rắn lớn (đại mãng xà).
“Hai là thiện quả ngày càng tăng.” Nhiều người tu Đạo, có lúc thì phát tâm Bồ Đề rất dũng mãnh, làm công đức rất nhiều; song cũng có lúc thì lại thụt lùi, nhụt chí, cảm thấy mình ở trong Phật Giáo làm việc công đức dường như không có cảm ứng rõ rệt thật sự, nên tâm Bồ Đề liền thối chuyển. “Thiện quả ngày càng tăng” tức là ở trong Phật Giáo mà càng ngày càng tinh tấn hướng về phía trước, chăm chỉ vun bồi phước huệ, siêng năng làm việc thiện, làm công quả, lập công đức, mãi mãi không lùi về phía sau. Làm thế nào mà được như vậy? Đó là do thành tâm niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, lại còn lễ bái chiêm ngưỡng hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng nữa, cho nên có được cảm ứng là “thiện quả ngày càng tăng.”
“Ba là tích tập các nhân thánh thượng.” Thế nào là “tích tập các nhân thánh thượng”? Đó là làm đủ loại Phật sự, như in kinh, xây chùa, sửa cầu, đắp đường, chuyển Đại Pháp Luân… Tất cả những việc tốt, tu đạo Bồ Đề đều là “tích tập các nhân thánh thượng.”
“Bốn là tâm Bồ Đề không thối chuyển.” Chúng ta tu hành, có lúc thì siêng năng tinh tấn, có lúc lại lười biếng giải đãi. Lúc siêng năng thì đối với mọi việc đều rất hăng hái dũng mãnh, khi lười biếng thì cảm thấy ở trong Phật Giáo làm Phật sự mà chẳng có cảm ứng gì rõ rệt cả, bèn sanh ra chán nản, thối chuyển Đạo tâm. Nếu quý vị có thể tụng Kinh Địa Tạng, niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, lễ bái cúng dường Bồ Tát Địa Tạng, thì tâm Bồ Đề của quý vị sẽ không còn lùi sụt, tâm giác đạo mãi mãi hướng về phía trước, và càng ngày càng tăng trưởng, không bao giờ thối chuyển.
“Năm là y phục, vật thực đầy đủ.” Điều lợi ích thứ năm là không bao giờ bị thiếu thốn về cơm ăn áo mặc. Người đời chỉ vì ba bữa ăn mà làm lụng vất vả, chịu cực chịu khổ. Bởi sợ bị chết đói, chết lạnh, nên lúc nào họ cũng nghĩ đến việc kiếm thêm tiền. Trước kia, lúc chưa có tiền, thì ao ước có được mười ngàn đồng; song đến khi được toại nguyện, có được mười ngàn đồng trong tay rồi thì lại cảm thấy như thế vẫn còn chưa đủ. Bấy giờ lại nghĩ nếu mình có được một trăm ngàn đồng thì sẽ chẳng phải làm lụng gì nữa. Thế rồi, đến khi có được một trăm ngàn đồng, nghĩ tới học phí của con cái thì thấy không đủ, muốn sắm chiếc xe hơi thì thấy chẳng còn được bao nhiêu, mà tính tậu chiếc du thuyền thì lại thiếu trước hụt sau. Càng mơ ước những thứ to lớn hơn, như muốn mua chiếc máy bay chẳng hạn, thì một trăm ngàn đồng cũng chẳng thấm vào đâu! Và thế là lại phải lo kiếm tiền! Kiếm tiền! Phải kiếm cho được một triệu đồng. Đến khi có được một triệu đồng trong tay, những tưởng là phen này có thể làm chủ một chiếc máy bay, thì máy bay lại lên giá!
Ban đầu thì chỉ cần chín trăm chín chục ngàn là có thể mua được một chiếc máy bay, bây giờ giá cả leo thang, tăng vọt lên đắt gấp mười lần, tới chín triệu chín trăm ngàn một chiếc, lại mua không nổi nữa! Cho nên, cứ chạy theo không kịp, càng đeo đuổi thì lại càng cách xa. Đó đều là do lòng tham tác oai tác quái! Trước kia thì chỉ ao ước có được một triệu đồng là thấy đủ rồi, nhất định sẽ về hưu; song đến khi có được một triệu rồi thì lại “lùi mà chưa dứt”—vẫn chưa “tri túc,” vẫn không thấy đủ!
Vậy, điều lợi ích thứ năm là nếu quý vị có thể trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, tụng Kinh Địa Tạng, lễ bái cúng dường Bồ Tát Địa Tạng, thì quý vị sẽ được y phục, vật thực dồi dào, luôn luôn dư dả. Bấy giờ, quý vị chỉ muốn mua một chiếc máy bay, song tiền kiếm được lại nhiều đến nỗi mua hai chiếc cũng còn dư, kỳ diệu như thế đấy!
Có người nói: “Như thế thì tôi cũng mau mau niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng!” Dùng lòng tham lam, muốn mua hai chiếc máy bay để niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, thì e rằng sẽ không linh nghiệm, vì tham vọng quá lớn! Chúng ta chỉ nên hết lòng trì niệm, có được cảm ứng hay không thì cũng chẳng nên so đo, tính toán.
Có người lại nói: “Giảng kinh theo cách của Sư Phụ lại làm cho con bị hố nữa rồi!” Bị hố thì sao? Mà không bị hố thì sao? Cho nên, con người nếu biết đủ thì thường được an vui, biết nhẫn nhục thì luôn được yên ổn (tri túc thường lạc, năng nhẫn tắc an).
“Sáu là dịch bệnh không đến nơi thân.” “Dịch bệnh” tức là bệnh ôn dịch, bệnh truyền nhiễm. Đáng lẽ ra thì mọi người đều bị truyền nhiễm, mắc phải chứng bệnh nào đó, nhưng nhờ quý vị niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng nên giống như có một ranh giới vô hình, quý vị không bị lây bệnh.
Lúc tôi ở Đông Bắc, có lần bệnh ôn dịch lan tràn, có một gia đình nọ mười một người mà chỉ nội trong ba ngày đã có mười ba người bị chết! Tại sao gia đình mười một người mà lại có tới mười ba người chết? Tại sao lại có thêm hai người nữa? Đó là hai người “đưa tiễn”—bởi vì mười một người có lẽ là chưa đủ số, cho nên phải chết thêm hai người nữa vậy! Hai người này, một người thì làm công cho gia đình nọ, còn người kia là bà con từ xa đến thăm. Cả hai người cùng chết chung với gia đình nọ cho đủ số! Do đó, trong vòng ba ngày mà gia đình mười một người lại có tới mười ba người tử vong, và tất cả đều do bị lây bệnh truyền nhiễm mà ra.
Bấy giờ tôi đang ở địa phương đó, tôi bèn dẫn theo bốn đệ tử nhỏ tuổi và bảo họ rằng: “Chúng ta phải đi cứu người ngay!” Cứu như thế nào ư? Tôi căn dặn các đệ tử: “Chúng ta hãy trì niệm Chú Đại Bi để đối phó với thần ôn dịch!” Chúng tôi đến thôn làng đang có bệnh dịch hoành hành nọ, đi quanh làng ba vòng, vừa đi vừa niệm Chú Đại Bi. Sau khi chúng tôi niệm xong Chú Đại Bi và đi khỏi rồi, thì trong làng không còn bệnh dịch nữa. Thế nên, Chú Đại Bi thật vô cùng linh nghiệm, hết sức nhiệm mầu!
“Bảy là xa lìa các tai nạn về nước và lửa.” Quý vị trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng thì sẽ không gặp nạn nước, cũng chẳng mắc nạn lửa—vào nước không bị chìm, vào lửa không bị cháy. Thậm chí quý vị có bị té xuống biển, thì tự nhiên sẽ được gặp chỗ cạn, tấp vào bờ bình yên; và nếu bị lửa thiêu đốt thì tự nhiên sẽ có người đến cứu giúp.
“Tám là không bị tai ách trộm cướp.” Tại sao quý vị bị trộm, bị cướp? Đó là do khi trước quý vị đã bất chấp đạo lý, cưỡng đoạt tài sản của người khác làm của riêng mình. Bởi xưa kia đã từng lừa gạt người khác cho nên đời nay phải bị người ta cướp đoạt tài sản, phải trả nợ. Vì thế, chúng ta bị trộm cắp, cướp đoạt đều là có “tiền nhân hậu quả,” chẳng có gì là kỳ lạ cả. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ thì gặp bất cứ cảnh giới nào đều phải nhận ra nhân quả của nó; hễ nhận chân được nhân quả của vấn đề thì sẽ chấm dứt được sự tuần hoàn lẩn quẩn.
“Chín là người khác thấy đều cung kính.” Nếu quý vị thường cung kính niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Địa Tạng, thì những người khác khi gặp quý vị đều cảm thấy có thiện duyên với quý vị và đều tỏ ra kính trọng quý vị. Người ta trông thấy quý vị mà như gặp được người thân đã tám đời nay, có cảm giác thân thiết gần gũi như được về nhà vậy. Cảm giác ấy lại giống như kẻ sống ở hải ngoại đã lâu không có người quen, nay được gặp lại bạn cũ, trong lòng vô cùng hoan hỷ, mừng mừng tủi tủi, vừa khóc vừa cười! Khóc là vì bồi hồi xúc động được gặp lại người thân quen; còn cười ư? Bởi nghĩ rằng phen này quả thật có được sự an ủi, che chở rồi!
Quý vị niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng thì được mọi người kính trọng, không ai là không đối xử tốt với quý vị cả. Không cần quý vị phải tự giới thiệu: “Này, quý vị biết không, tôi là một cư sĩ tu hành tại gia đấy! Các ông các bà phải kính trọng tôi!”; hoặc là: “Tôi là một đại đức cao tăng, quý vị thấy tôi thì phải dập đầu cúi lạy đó!” Không phải như thế, không phải là mình biểu người ta phải kính trọng mình! Có câu:
Có xạ tự nhiên thơm,
Cần gì phải phô trương?
(Hữu xạ tự lai hương,
Hà nhu đương phong dương?)
Nếu quý vị quả thật có đức hạnh thì chẳng cần phải quảng cáo rao hàng như anh chàng bán thuốc cao dạo: “Thuốc cao dán của tôi là hay nhất, có thể trị phong thấp, trị đau khớp xương, trị tê bại… Bà con cô bác nào bị đau bị nhức chỉ cần dán một miếng là khỏi ngay! Mại dô! Mại dô!” Và rốt cuộc thì như thế nào? Dán rồi chẳng thấy bớt đau chút nào cả!
Quý vị đừng như tên “bán thuốc cao dán” đó; đừng tự quảng cáo cho chính mình, đừng sợ rằng người ta không biết đến mình mà phải tự rêu rao: “Quý vị đã biết gì về tôi chưa nhỉ? Đối với Phật Giáo, tôi là một vị hộ pháp đắc lực nhất đấy! Tôi còn là đại thí chủ, hộ pháp lâu năm của chùa nọ chùa kia. Còn nữa, tôi là giám đốc của cơ quan từ thiện…” Đừng nên làm như vậy, bởi đó là giả chứ không phải thật! Đó là quý vị tự động “bán chiêu bài,” bán quảng cáo; kẻ không có mắt mới không biết và bị mắc lừa, chứ người có mắt thì sẽ nhận ra ngay: “Hừ, thật là tội nghiệp! Thật là đáng thương!”
“Mười là quỷ thần đều hộ trì.” Nếu quý vị thật sự có công đức thì cần gì phải tự rêu rao cho chính mình? Bởi bấy giờ các quỷ thần hộ pháp đều sẽ hỗ trợ cho quý vị, bảo vệ quý vị; nếu quý vị gặp khó khăn gì thì vô hình trung họ sẽ đến để giúp quý vị giải quyết vấn đề ngay, quý vị bất tất phải rêu rao!
Vậy, điều lợi ích thứ mười là quý vị sẽ được sự giúp đỡ, phù hộ của loài quỷ (thiện quỷ sẽ đến giúp đỡ quý vị, ác quỷ cũng đến giúp đỡ quý vị), và các thần linh (thiện thần sẽ đến giúp đỡ quý vị, ác thần cũng đến giúp đỡ quý vị). Vì sao ác thần cũng giúp đỡ quý vị? Phải chăng đó là do oai lực của Bồ Tát Địa Tạng? Chính thế! Chính là nhờ oai lực của Bồ Tát Địa Tạng mà tất cả ác quỷ cùng ác thần đều biến thành những vị hộ pháp đắc lực cả!
Có người lại hoài nghi: “Thế tôi niệm danh hiệu của Địa Tạng Vương Bồ Tát, có thể nào Bồ Tát lại sai người đến trách mắng tôi không?” Không bao giờ! Quý vị thắc mắc vì sao ư?
Tôi nói thật cho quý vị biết: Quý vị chưa đủ trình độ đâu! Quý vị sách vở chưa học đủ, đi thi chắc chắn sẽ bị đánh hỏng; phải đến lúc tốt nghiệp đại học thì mới có thể thi đậu được. Nếu quý vị chưa tốt nghiệp, chỉ vừa mới tập tễnh bước chân vào ngưỡng cửa trường đại học, thì bắt quý vị khảo thí để làm gì? Cho nên, đừng cho rằng trách mắng là không tốt. Trách mắng cũng là một cách để khảo nghiệm, thử thách—chịu đựng được tức là đạt yêu cầu, được thông qua; còn không chịu đựng được tức là chưa đạt yêu cầu, cần phải tu học tinh tấn hơn nữa.
Nói như thế thì có phải là thi đậu, đạt yêu cầu rồi thì không cần phải tu học thêm nữa? Thi đậu rồi thì càng phải nỗ lực tu hành hơn nữa!
Có người hoài nghi: “Thế thì thi đậu có tác dụng gì đâu?”
Thế thì tôi hỏi lại: Quý vị học Tiến Sĩ có tác dụng gì? Đạo lý cũng như nhau thôi! Quý vị hiểu được thì hiểu; không hiểu được thì tôi cũng chẳng có biện pháp nào cả!
Kinh văn:
Thập nhất giả, nữ chuyển nam thân.
Thập nhị giả, vi vương thần nữ.
Thập tam giả, đoan chánh tướng hảo.
Thập tứ giả, đa sanh thiên thượng.
Thập ngũ giả, hoặc vi đế vương.
Thập lục giả, túc trí mạng thông.
Thập thất giả, hữu cầu giai tùng.
Thập bát giả, quyến thuộc hoan lạc.
Thập cửu giả, chư hoạnh tiêu diệt.
Nhị thập giả, nghiệp đạo vĩnh trừ.
Nhị thập nhất giả, khứ xứ tận thông.
Nhị thập nhị giả, dạ mộng an lạc.
Nhị thập tam giả, tiên vong ly khổ.
Nhị thập tứ giả, túc phước thọ sanh.
Nhị thập ngũ giả, chư thánh tán thán.
Nhị thập lục giả, thông minh lợi căn.
Nhị thập thất giả, nhiêu từ mẫn tâm.
Nhị thập bát giả, tất cánh thành Phật.
Phục thứ Hư Không Tạng Bồ Tát! Nhược hiện tại vị lai, thiên long quỷ thần, văn Địa Tạng danh, lễ Địa Tạng hình, hoặc văn Địa Tạng Bổn Nguyện sự hạnh, tán thán chiêm lễ, đắc thất chủng lợi ích:
Việt Văn: “Mười một là thân nữ chuyển thành thân nam;
Mười hai là làm con gái hàng vương giả, đại thần;
Mười ba là tướng mạo đoan chánh, tốt đẹp;
Mười bốn là phần nhiều được sanh lên cõi trời;
Mười lăm là có thể làm bậc đế vương;
Mười sáu là biết rõ việc đời trước;
Mười bảy là có mong cầu thì đều được toại ý;
Mười tám là quyến thuộc an vui;
Mười chín là các hoạnh sự đều dứt sạch;
Hai mươi là các nghiệp đạo đều trừ hẳn;
Hai mươi mốt là đi đâu cũng tới nơi cả;
Hai mươi hai là đêm nằm mộng được an ổn, vui vẻ;
Hai mươi ba là tổ tiên đã mất được lìa khổ;
Hai mươi bốn là nhờ phước đời trước mà thọ sanh;
Hai mươi lăm là chư thánh đều khen ngợi;
Hai mươi sáu là căn tánh thông minh, lanh lợi;
Hai mươi bảy là giàu lòng từ mẫn;
Hai mươi tám là rốt ráo thành Phật.
Lại nữa, này Hư Không Tạng Bồ Tát! Như hàng trời, rồng, quỷ thần ở hiện tại và vị lai, nghe danh hiệu của Địa Tạng, lễ bái hình tượng của Địa Tạng, hoặc nghe các việc về bổn nguyện tu hành của Địa Tạng, mà ngợi khen chiêm lễ, thì sẽ được bảy điều lợi ích.”
Lược giảng:
“Mười một là thân nữ chuyển thành thân nam.” Điều lợi ích thứ mười một là nếu có người nữ nào muốn mang thân nam, bèn chí tâm lễ bái, cúng dường, tán thán, trì tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện và xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thì đời sau sẽ được chuyển thành thân nam.
Sự chuyển thân nữ thành thân nam này là hoàn toàn không phải vì chán ghét thân nữ, mà chỉ vì tự cảm thấy làm thân nữ lắm lúc cũng bất tiện, cho nên muốn mang thân nam để được thuận tiện hơn, vì thế mới có nguyện vọng này. Những người có chí nguyện như thế chắc chắn sẽ được Bồ Tát Địa Tạng giúp cho tùy tâm toại ý, chí nguyện được thành tựu.
“Mười hai là làm con gái hàng vương giả, đại thần.” Nếu thân nữ có thể chuyển thành thân nam, thì thân nam muốn chuyển thành thân nữ cũng có thể được toại nguyện.
Nếu có người nam nào có thể một lòng trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, lễ bái cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, và đọc tụng Kinh Bồ Tát Địa Tạng Bổn Nguyện, mà phát nguyện muốn mang thân nữ để khéo léo giáo hóa chúng sanh (vì người nữ thường không nóng tánh lắm, có khi còn rất tế nhị nữa, nói chuyện với ai cũng rất hòa nhã, dịu dàng); thì đời sau sẽ được làm thân người nữ—và, đó là do nguyện lực của bậc Bồ Tát.
Những người vì muốn hoằng dương Phật Pháp, giáo hóa chúng sanh mà phát nguyện mang thân nữ, thì không sanh vào các gia đình tầm thường, mà thường sanh làm con gái của những kẻ có thế lực lớn như hàng vua chúa, đại thần; để nhờ đó mà họ có thể gây ảnh hưởng đến được nhiều người, khiến cho nhiều người sanh khởi tín tâm, dốc lòng tu hành. Cho nên, đây đều là “thừa nguyện tái lai,” theo nguyện lực mà tái sanh trở lại.
“Mười ba là tướng mạo đoan chánh, tốt đẹp.” Điều lợi ích thứ mười ba là không chỉ được làm người nữ, mà còn được thông minh, có trí huệ, tướng mạo đoan chánh viên mãn, chẳng có khuyết điểm—mũi thì có hình thù của mũi, mắt có hình dạng của mắt, tai thì giống tai, và miệng cũng giống miệng.
Có người thắc mắc: “Thế thì có trường hợp tai không giống tai, mắt chẳng giống mắt hay sao?” Quý vị nhìn xem, có những người nữ có cặp mắt hình tam giác, cứ láo liên đảo qua đảo lại, y như cặp mắt của kẻ dắt trộm trâu! Đó là con mắt có vẻ hơi thô kệch, cục mịch, không được thanh tú, không đoan chánh, không viên mãn. Có người thì mũi lại mọc trên trán, lỗ mũi ngước lên trời; quý vị nói như thế là giống cái gì? Chao ôi, thế nhưng lại có những người dị dạng như thế đấy! Có người thì một con mắt nằm ở trên, còn một con lại tụt xuống dưới; lỗ tai thì mọc tận đằng sau ót; miệng lại nằm dưới cằm—biến thành “dở ngô dở khoai”—người không ra người, quỷ không ra quỷ, mà khỉ cũng chẳng giống khỉ nữa!
Theo “tiến hóa luận” thì con người là từ loài khỉ tiến hóa thành, như thế trong trường hợp này thì sao? Vì sao mọi người lại không giống như vậy, chỉ có cá nhân người đó là như thế mà thôi? Vậy, đó là các trường hợp thí dụ về tướng mạo không đoan chánh, không viên mãn.
Thế thì, quý vị phát nguyện muốn làm người nữ thì tướng mạo cũng cần phải viên mãn, lại phải đoan chánh nữa. Nếu ngũ quan đoan chánh, thì vừa gặp mặt là người ta liền thấy có thiện cảm, có thiện duyên ngay; còn như ngũ quan không được đoan chánh, thì e rằng người ta vừa trông thấy thì như gặp phải quỷ mẫu dạ xoa, cuống cuồng chạy mất!
“Mười bốn là phần nhiều được sanh lên cõi trời.” Điều lợi ích thứ mười bốn thì lại hơn hẳn những điều trước nữa—đó là luôn được sanh lên cõi trời, được hưởng thiên phước, thọ hưởng sự an vui thù thắng vi diệu.
“Mười lăm là có thể làm bậc đế vương.” Điều lợi ích thứ mười lăm là có thể được làm vua hoặc hoàng đế. Người nào đọc tụng Kinh Địa Tạng, lễ bái hình tượng Bồ Tát Địa Tạng, trì niệm thánh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thì sẽ có cơ hội làm hoàng đế “dự khuyết”—điều lợi ích này quả thật không thể nghĩ bàn!
Có người nói: “Thầy ơi! Cho dù được làm hoàng đế, cao sang đẹp đẽ đến thế nào đi nữa, thì con đều không màng cả! Thế giới Ta Bà này thật là quá nhiều đau khổ; con cảm thấy đã ‘đủ’ lắm rồi!” Quý vị thật sự cảm thấy “đủ” rồi sao? Vậy thì quý vị vẫn có cơ hội được thành Phật, và đó chính là điều lợi ích cuối cùng (điều thứ hai mươi tám)—“rốt ráo thành Phật.”
“Mười sáu là biết rõ việc đời trước.” “Biết rõ việc đời trước” tức là nhớ biết được những gì mình đã làm trong đời trước—như làm quan, làm học trò, hoặc làm lái buôn… Ngoài ra, cũng biết được trong đời trước mình họ gì, tên gì, sinh quán ở đâu, bao nhiêu tuổi thì chết… Có thể nói bây giờ (đời này) thì giống như quý vị dọn sang một ngôi nhà mới, khác hẳn ngôi nhà khi trước (đời trước).
“Mười bảy là có mong cầu thì đều được toại ý.” Điều lợi ích thứ mười bảy là cầu chi được nấy—cầu giàu sang thì được giàu sang, cầu có con trai tất được con trai, cầu có con gái tất được con gái, cầu đồ ăn thức uống thì được đồ ăn thức uống. Nếu quý vị thích phát tài thì sẽ có được không biết cơ man nào là vàng, bạc, ngọc ngà châu báu, nhiều đến nỗi không thể nào đếm xuể!
Thế nhưng quý vị đừng bắt chước một người nọ, kiếm được rất nhiều tiền mà chẳng dám tiêu xài; rốt cuộc chưa hưởng thụ được chút nào thì đã chết rồi. Chết rồi, thì lại hai bàn tay không—thật là chẳng có ý nghĩa, chẳng có giá trị gì cả! Do đó, quý vị chớ nên bủn xỉn keo kiệt, đừng làm nô lệ cho đồng tiền; bởi quý vị có muốn cất giữ cũng không thể cất giữ mãi được!
“Mười tám là quyến thuộc vui vẻ.” Điều lợi ích thứ mười tám là trong gia đình, bà con quyến thuộc, bạn bè thân thích, đều êm ấm hạnh phúc, vui vẻ hòa thuận, không hề cãi cọ hoặc gây gỗ lẫn nhau.
Trong gia đình, mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa anh em, giữa chị em, hoặc giữa chị em dâu, lắm lúc cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Ở đời, thông thường thì thân tình nhất là cha với con, song cũng có những khi cha con bất đồng ý kiến, khiến người con nghĩ: “Ồ! Người già thì đầu óc cũng già, tri thức cũng xưa, cách làm việc lại vô cùng cổ hủ, không theo kịp thời đại tân tiến, không thể ứng phó với thế giới hiện đại hóa ngày nay”; và cho rằng người già là một “chướng ngại”! Tuy nhiên, suy nghĩ như thế là không tốt!
Còn người già thì sao? Đối với con cái, vì quan tâm quá đáng, cho nên dù biết rằng con cái không đúng, bậc cha mẹ vẫn sẵn sàng tha thứ, lấy lòng bao dung mà đối đãi với con cái. Song le, con cái chẳng biết ơn thì chớ, lại còn dám cho rằng cha mẹ mình không đúng nữa! Tại sao có nhiều người nuôi dưỡng con cái mà lại không dạy dỗ chúng cho đàng hoàng? Đó là bởi những kẻ làm cha làm mẹ này đều thiếu hiểu biết, không am tường đạo lý, cho nên không muốn để ý tới con cái; còn con cái thì lại không biết chăm sóc cho cha mẹ. Vì thế, giữa cha mẹ và con cái nảy sinh nhiều mâu thuẫn, có nhiều vấn đề không giải quyết được.
Quan hệ vợ chồng là một mối quan hệ tương thân tương ái hơn nữa. Khi chưa kết hôn, đôi bên nam nữ đều cố giữ cái “mặt nạ,” không dám cãi cọ cũng chẳng hề gây gỗ lẫn nhau; nhưng sau khi kết hôn rồi thì mỗi người đều để lộ tánh nết của mình—chồng bộc lộ tánh xấu của chồng cho vợ thấy, vợ bộc lộ tánh xấu của vợ cho chồng xem—và thế là cả hai bên đều sanh phiền não!
Thế nhưng, theo điều lợi ích thứ mười tám này, thì nếu quý vị thấy được hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, nghe được danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thì trong gia đình và quyến thuộc sẽ luôn được vui vẻ, hòa thuận.
“Mười chín là các hoạnh sự đều dứt sạch.” Tất cả những tai nạn rủi ro, những việc không như ý, những việc không tốt lành, … đều gọi là “hoạnh sự” (sự việc bất ngờ, đột ngột). “Hoạnh tử” tức là những cái chết đột ngột, rủi ro bất ngờ như treo cổ tự tử, bị chìm thuyền, máy bay rớt, bị xe đụng, hoặc uống thuốc độc tự sát… Thế nhưng, nhờ Bồ Tát Địa Tạng, “các hoạnh sự đều dứt sạch”—tất cả tai nạn đều tiêu tan, mọi sự cố bất ngờ hoặc nguy cơ bị thương tật cũng không còn.
“Hai mươi là các nghiệp đạo đều trừ hẳn.” “Nghiệp đạo” tức là ba đường ác—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Vậy, “các nghiệp đạo đều trừ hẳn” tức là nghiệp tội được tiêu trừ, không còn bị đọa lạc vào ba đường ác nữa.
“Hai mươi mốt là đi đâu cũng tới nơi cả.” Điều lợi ích thứ hai mươi mốt là quý vị đi đến nơi nào cũng đều được thông suốt thuận lợi, may mắn suông sẻ, đại kiết đại lợi, không hề gặp trở ngại.
“Hai mươi hai là đêm nằm mộng được an ổn, vui vẻ.” Có nhiều người thường chiêm bao thấy mình gặp những việc hung hiểm, đáng sợ—hễ không bị quỷ rượt đuổi thì cũng bị chó rượt cắn, hoặc bị cọp rình bắt để ăn thịt, … đó đều gọi là “ác mộng.” Có người lại bị quỷ đè trên mình khiến toàn thân cứng đơ, không nhúc nhích động đậy gì được, nên trong lòng vô cùng nôn nóng sợ hãi; đó gọi là bị “bóng đè.” Quý vị trì tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, thì đêm ngủ sẽ mộng thấy toàn những điềm an vui tốt lành.
“Hai mươi ba là tổ tiên đã mất được lìa khổ.” Điều lợi ích thứ hai mươi ba là cha mẹ, tổ tiên của quý vị từ đời quá khứ cùng lục thân quyến thuộc từ vô thỉ kiếp đến nay, đều được xa lìa khổ não, hưởng sự an vui, liễu thoát sanh tử.
Điều lợi ích này theo nguyên văn chữ Hán là “tiên vong ly khổ”; trong đó, “tiên” là tổ tiên, và “vong” là đã mất, đã chết rồi. Đa số người đã chết đều còn vướng nghiệp chướng, ắt hẳn phải đọa địa ngục chịu khổ báo. Tuy nhiên, nay nhờ quý vị trông thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, nghe danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, cho nên được hưởng hai mươi tám điều lợi ích, có thể khiến cho những người thân đã khuất được ly khổ đắc lạc.
“Tổ tiên đã mất” bao gồm tổ tiên đã mất của đời hiện tại, và tổ tiên đã mất của đời quá khứ của quý vị. Như vậy, tất cả cha mẹ và thân tộc của quý vị trong đời này mà đã chết rồi, đều có thể lìa khổ được vui; đồng thời, hết thảy cha mẹ và tổ tiên của quý vị từ vô lượng kiếp đến nay, trong đời đời kiếp kiếp, cũng đều được ly khổ đắc lạc.
“Hai mươi bốn là nhờ phước đời trước mà thọ sanh.” Điều lợi ích thứ hai mươi bốn là đời trước quý vị có trồng thiện căn, có được phước báo; cho nên đời này nương nhờ phước báo đó mà thọ sanh. “Nhờ phước đời trước mà thọ sanh” tức là đời trước đã từng làm rất nhiều việc công đức, thiện căn rất sâu dày, cho nên nhân phước báo của đời trước mà đời nay thọ sanh để thọ hưởng. Chúng ta,
Đời này do đâu được giàu sang?
Đời trước cúng chay, giúp người nghèo.
Đời này vì sao phải nghèo hèn?
Đời trước chẳng chịu giúp kẻ nghèo.
(Kim sanh phú quý thị hà nhân?
Tiền sanh trai tăng, tế cùng nhân.
Kim sanh bần tiện thị hà nhân?
Tiền sanh bất khẳng tế bần nhân.)
Quý vị đời này vì sao được giàu sang? Ấy là nhờ trong những đời trước quý vị đã từng thiết trai tăng, ủng hộ đạo pháp, cúng dường Tam Bảo, cứu giúp người nghèo…; cho nên đời này được phước báo hưởng sự giàu sang phú quý.
Còn đời này vì sao quý vị phải chịu cảnh nghèo hèn túng thiếu, nghèo đến nỗi không có cơm ăn, chẳng đủ áo mặc? Đó là bởi trong đời trước quý vị quá keo kiệt bủn xỉn, chẳng hề bố thí cứu giúp người nghèo, chẳng chịu xả bỏ cái gì cả. Nếu trước kia không ích kỷ, keo kiệt quá đáng, mà lại chăm chỉ tu phước tu huệ, thì đời này quý vị ắt hẳn sẽ được thọ hưởng phước báo tạo ra từ đời trước.
“Hai mươi lăm là chư thánh đều khen ngợi.” Điều lợi ích thứ hai mươi lăm là được tất cả chư Phật, chư Bồ Tát, chư thánh nhân, chư A-la-hán ở khắp mười phương đều tấm tắc ngợi khen: “Các con quả thật là những thiện nam, thiện nữ thuần thành!”
“Hai mươi sáu là căn tánh thông minh, lanh lợi.” Điều lợi ích thứ hai mươi sáu là quý vị sẽ rất thông minh mẫn tiệp, và có trí nhớ rất tốt. Mắt thì trong sáng tinh anh, có thể nhìn thấy rất xa; tai cũng rất thính, nghe được hết sức rõ ràng—nói chung, cả sáu căn đều rất tinh tường, nhạy bén.
“Hai mươi bảy là giàu lòng từ mẫn.” Điều lợi ích thứ hai mươi bảy là quý vị sẽ rất giàu lòng từ mẫn, có tâm lượng của bậc Bồ Tát—từ bi mang lại sự an vui và giải trừ bao nỗi thống khổ của người khác; và cho dù người ta có đối xử với mình như thế nào đi nữa thì quý vị cũng vẫn lấy lòng từ bi mà đãi người, không có tâm báo thù đối với bất kỳ một ai.
“Hai mươi tám là rốt ráo thành Phật.” Điều lợi ích thứ hai mươi tám là điều quan trọng nhất; đó là gì? “Rốt ráo thành Phật”! Tương lai nhất định sẽ được thành Phật, chắc chắn là như thế!
Trên đây là hai mươi tám điều lợi ích mà chúng ta có thể có được nhờ trông thấy hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, ngợi khen chiêm lễ Bồ Tát Địa Tạng, trì niệm danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, nghe Kinh Địa Tạng, đọc tụng Kinh Địa Tạng, hoặc cúng dường hương hoa, đồ ăn thức uống, y phục, châu báu… cho Bồ Tát Địa Tạng.
Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói tiếp: “Lại nữa, này Hư Không Tạng Bồ Tát! Ta lại nói với ông một lần nữa: Như hàng trời, rồng, quỷ thần ở hiện tại và vị lai, nghe danh hiệu của Địa Tạng, lễ bái hình tượng của Địa Tạng…”
Chúng ta cúi đầu quỳ lạy chư Phật cùng chư Bồ Tát, thì được lợi ích gì? Đảnh lễ chư Phật thì được lợi ích không gì sánh bằng: Quý vị ở trước Phật đảnh lễ, cung kính lạy Phật, thì nghiệp tội từ trước đến nay dù nhiều như cát sông Hằng cũng có thể được tiêu trừ!
“Hoặc nghe các việc về bổn nguyện tu hành của Địa Tạng—nghe được Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, tất cả nhân duyên quả báo và các sự tích, mà ngợi khen chiêm lễ, thì sẽ được bảy điều lợi ích.”
Kinh văn: Nhất giả, tốc siêu thánh địa.
Nhị giả, ác nghiệp tiêu trừ.
Tam giả, chư Phật hộ lâm.
Tứ giả, Bồ Đề bất thoái.
Ngũ giả, tăng trưởng bổn lực.
Lục giả,túc mạng giai thông.
Thất giả, tất cánh thành Phật”.
Nhĩ thời thập phương nhất thiết chư lai, bất khả thuyết, bất khả thuyết, chư Phật Như Lai, cập Đại Bồ Tát, thiên long bát bộ, văn Thích Ca Mâu Ni Phật, xưng dương tán thán Địa Tạng Bồ Tát, đại oai thần lực, bất khả tư nghị, thán vị tằng hữu.
Thị thời Đao Lợi thiên, vũ vô lượng hương hoa, thiên y, châu anh, cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật, cập Địa Tạng Bồ Tát dĩ, nhất thiết chúng hội, câu phục chiêm lễ, hiệp chưởng nhi thoái.
Việt Văn: “Một là mau vượt thánh địa;
Hai là ác nghiệp được tiêu trừ;
Ba là chư Phật đến ủng hộ;
Bốn là Bồ Đề không thối thất;
Năm là bổn lực được tăng trưởng;
Sáu là việc đời trước đều rõ biết;
Bảy là rốt ráo thành Phật.”
Bấy giờ không thể nói hết không thể nói hết tất cả chư Phật Như Lai cùng Đại Bồ Tát, Thiên Long Bát Bộ ở mười phương nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngợi khen tuyên bày sức đại oai thần không thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát, đều khen là việc chưa từng có.
Lúc đó, tại cung trời Đao Lợi mưa xuống vô lượng hương hoa, thiên y, châu báu để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Địa Tạng. Xong rồi, tất cả đại chúng trong Pháp Hội đều lại chiêm lễ, chắp tay mà lui ra.
Lược giảng:
Bảy điều lợi ích này là gồm những gì?
“Một là mau vượt thánh địa.” Thế nào gọi là “vượt”? Ví dụ từ địa vị thứ nhất tiến thẳng lên địa vị thứ ba, bỏ qua địa vị thứ nhì ở giữa; từ địa vị thứ ba nhảy vọt lên địa vị thứ năm; hoặc từ địa vị thứ năm tiến luôn đến địa vị thứ tám… –như thế gọi là “vượt,” bỏ quãng mà tiến lên. “Vượt” ngụ ý là tiến rất nhanh, rất mau.
“Hai là ác nghiệp được tiêu trừ.” Mọi người tại sao chưa thành Phật? Đều là vì có ác nghiệp không thanh tịnh. “Ác nghiệp” là nghiệp nhiễm ô, cũng chính là những nghiệp tội không trong sạch mà quý vị đã trót gây ra; và còn gọi là “hắc nghiệp.” “Ác nghiệp” chính là “hắc nghiệp”; “hắc nghiệp” là nghiệp hắc ám, rất đen tối, mờ ám. Phàm người làm việc gì cũng thường hay lén lén lút lút, không muốn cho ai biết đến, nên mới gây ra nghiệp này. Nếu quý vị thành tâm trì niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng thì ác nghiệp sẽ được tiêu trừ.
“Ba là chư Phật đến ủng hộ.” Điều lợi ích thứ ba là sẽ được chư Phật khắp mười phương giáng lâm đến trước mặt để che chở hộ trì.
“Bốn là Bồ Đề không thối thất.” Tâm Bồ Đề giác đạo của quý vị sẽ càng ngày càng tăng trưởng, càng ngày càng có tiến bộ—chỉ có tiến chứ không có lùi. Tâm Bồ Đề này vừa phát khởi thì quý vị liền hăng hái: “Hôm nay tôi sẽ thọ Ngũ Giới, ngày mai tôi phát nguyện xuất gia; còn ngày mốt ư? Tôi nhất định sẽ làm một vị cao tăng. Ngày kế nữa tôi nhất định sẽ thành vị Tổ Sư. Ngày kế tiếp nữa tôi sẽ hành trì đạo Bồ Tát, và chẳng bao lâu nữa thì tôi sẽ thành Phật!”
Tuy nhiên, điều thiết yếu ở đây là tâm Bồ Đề của quý vị phải không thối chuyển mới được! Quý vị chớ nên hôm nay phát tâm muốn thọ Ngũ Giới, song dùng dằng nghĩ tới nghĩ lui rồi đổi ý: “Thọ giới rồi mà lỡ phạm giới thì thật là xấu hổ. Người ta biết được mình phạm giới thì mất mặt quá! Chi bằng, tốt nhất là mình đừng thọ một giới nào cả!”; và thế là không muốn thọ giới nữa. Nếu lại nghe người ta kháo nhau là đời sống của người xuất gia rất khắc khổ, nên quý vị ngần ngừ, không muốn nghĩ tới chuyện xuất gia nữa; đó cũng là do quý vị chưa có được cái tâm “Bồ Đề không thối thất” vậy
“Năm là bổn lực được tăng trưởng.” “Bổn lực” tức là sức mạnh vốn có của mình, là sức mạnh của bổn lai Phật tánh, là năng lực thành Phật và cơ hội thành Phật vốn có trong mỗi chúng sanh. Thế nhưng, quý vị cứ ngăn che Phật tánh của mình, khiến sanh ra phiền não, vô minh. Bây giờ quý vị phá bỏ được bức màn vô minh rồi thì phiền não cũng đoạn dứt, cho nên bổn lực liền hiện ra và tăng trưởng thêm.
“Sáu là việc đời trước đều rõ biết.” Điều thứ sáu là biết được đời trước mình đã làm gì, đời trước nữa mình ra sao … Nói chung là quý vị có thể truy cứu và biết rõ được mọi việc xảy ra trong nhiều đời nhiều kiếp, thậm chí đến tám vạn đại kiếp về trước. Những thánh nhân đã chứng quả A-la-hán tuy biết được việc đời trước, nhưng ngoài phạm vi tám vạn đại kiếp thì các ngài không thể biết được. Ở đây, biết rõ được việc đời trước tức là đắc Túc Mạng Thông rồi.
Thí dụ, quý vị có thể biết được rằng: “Tôi đã từng có một đời sanh làm thân kiến! Lúc ấy thì thân thể vô cùng nhỏ bé, đến bây giờ làm thân người thì biến thành to lớn dềnh dàng như thế này. Có lẽ là tôi từ thân kiến biến thành con ong mật, từ ong mật biến thành bươm bướm, từ con bướm biến thành con chim nhỏ, từ con chim nhỏ lại biến thành con chim ưng lớn. Rồi nhờ lúc mang thân chim ưng lớn tôi lại ăn chay chứ không ăn thịt, do đó tu tạo được phước báo, có được cái nhân thành Phật nên nay được làm người—làm người thì trong tương lai sẽ được thành Phật.”
Người đã chứng đắc Túc Mạng Thông thì nếu mình từng làm thân kiến, hoặc làm loài trùng nào, loài cầm thú nào… cũng đều rõ biết được cả. Cho nên, đằng sau cái xác thân hiện tại này, còn có sự biến hóa vô cùng của rất nhiều thân thể.
“Bảy là rốt ráo thành Phật.” Sớm muộn gì rồi quý vị cũng đều được thành Phật cả. Điều này cũng tương tự như điều lợi ích thứ hai mươi tám đã nói ở trước.
Bấy giờ không thể nói hết không thể nói hết —không biết bao nhiêu, không có cách nào có thể nói được con số bao nhiêu—tất cả chư Phật Như Lai cùng Đại Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, Bích Chi Phật, người, trời, quỷ, thần, Thiên Long Bát Bộ ở mười phương nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngợi khen tuyên bày sức đại oai thần không thể nghĩ bàn của Địa Tạng Bồ Tát, tán thán phước đức bất khả tư nghị của Địa Tạng Bồ Tát, chưa có vị Bồ Tát nào có thể sánh bằng, đều khen là chưa từng có. Toàn thể đại chúng đều trầm trồ, tấm tắc ngợi khen rằng từ trước tới nay chưa có vị Bồ Tát nào thù thắng, hy hữu như thế.
Lúc đó, tại cung trời Đao Lợi—cõi trời Ba Mươi Ba—mưa xuống vô lượng hương hoa, thiên y, châu báu để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Địa Tạng.
Bấy giờ, ở cõi trời Đao Lợi, các thiên nữ rải vô số hoa mạn-đà-la (tiểu bạch hoa), hoa đại mạn-đà-la (đại bạch hoa), cùng rưới các loại hương thơm, các y phục của cõi trời—y phục trên cõi trời rất nhẹ, nhẹ hơn cả loại hàng nylon của chúng ta—và vô số chuỗi ngọc quý giá cùng các bảo bối trân quý nhất, hiếm có nhất, để cúng dường Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Bồ Tát Địa Tạng. Phải cúng dường cho Phật trước vì Phật là đấng tối cao.
Xong rồi, tất cả đại chúng trong Pháp Hội đều lại chiêm lễ, chắp tay mà lui ra. Sau khi cúng dường xong, tất cả đại chúng hiện diện trong Pháp Hội—chư Bồ Tát, A-la-hán, chư thiên nhân, quỷ, thần… đều chiêm ngưỡng Bồ Tát Địa Tạng, hướng về Bồ Tát mà đảnh lễ, rồi chắp tay và cung kính lui ra.
Hết phẩm thứ mười ba
_________________
Kệ tán:
Kinh Địa Tạng Bổn Thệ,
So sánh các nghiệp nhân,
Ốm đau, tàn tật, câm ngọng do đời trước,
Đời này đọc tụng Đại Thừa,
Được phước lợi vô cùng,
Quyết định sen báu vãng sanh.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng.
Lược giảng:
“Tán” tức là tán thán, trầm trồ khen ngợi.
Kinh Địa Tạng gồm có ba quyển—thượng, trung, hạ—được chia làm mười ba phẩm; và đây là phẩm cuối cùng của quyển hạ.
Kinh Địa Tạng Bổn Thệ,/ So sánh các nghiệp nhân. Trong Kinh Địa Tạng Bổn Thệ Nguyện có so sánh, cân nhắc về các nhân duyên công đức của bộ Kinh Địa Tạng này.
Ốm đau, tàn tật, câm, ngọng do đời trước. Có nhiều người thường ốm đau quặt quẹo, bị tật nguyền, khuyết tật, hoặc mắc bệnh bại liệt, chân tay tê dại. “Tàn tật” tức là người bị không có tay, không có chân, không có mũi, không có mắt, hoặc không có tai …; nói tóm lại là sáu căn không được đầy đủ, vẹn toàn. Vì sao họ lại bị bệnh tật, bị tàn phế, bị câm ngọng? Đó là bởi những người này đời trước đã gây nhiều nghiệp tội, cho nên đời nay phải chịu quả báo.
Đời này đọc tụng Đại Thừa. Nếu ngay trong đời này, những người đó thành tâm đọc tụng các kinh điển Đại Thừa—như Kinh Địa Tạng chẳng hạn—thì họ sẽ được phước lợi vô cùng. Những phước đức và lợi ích này thì vô cùng vô tận, không thể nào kể xiết.
Quyết định sen báu vãng sanh. Nếu họ thường xuyên đọc tụng Kinh Địa Tạng, hoặc trì niệm danh hiệu Địa Tạng Vương Bồ Tát, thì nhất định họ sẽ được sanh trong hoa sen báu, hóa sanh từ hoa sen.
Trên đây là bài kệ tán thán; phần cuối có quy mạng ba ngôi Thường Trụ trong mười phương: Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật, Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp, Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng.
Như vậy là hôm nay đã giảng xong bộ Kinh Địa Tạng. Tuy rằng kinh đã giảng xong rồi, song việc trì tụng thì không thể gọi là xong được. Quý vị nếu mỗi ngày đều trì tụng Kinh Địa Tạng, thì không những sẽ được hai mươi tám điều lợi ích, mà còn được hưởng thêm bảy điều lợi ích khác nữa—phước lợi lớn lao biết bao!
Cho nên, ngay trong thời Mạt Pháp này mà chúng ta có thể thường xuyên đọc tụng Kinh Địa Tạng là tốt nhất. Bởi vì nguyện lực của Bồ Tát Địa Tạng là nếu người nào tụng Kinh Địa Tạng thì Ngài sẽ đến hộ trì, và người ấy sẽ có được hai mươi tám điều lợi ích. Thế nên, sau khi nghe giảng rồi, quý vị cần phải nỗ lực, cố gắng y theo giáo pháp mà tu hành, đừng bỏ lỡ cơ hội. Biết được Phật Pháp mà chẳng thực hành thì cũng như không biết; cho nên, biết được Phật Pháp rồi thì phải biết trân quý mà “y pháp tu hành”—đây là điều rất thiết yếu!
Tuy rằng việc giảng bộ kinh này kể như hoàn tất rồi, nhưng việc tu hành thì không thể nói là xong được—phải đến khi nào quý vị tu thành Phật rồi thì lúc đó mới được gọi là xong! Có câu:
“Việc cần làm đã làm xong,
Hạnh thanh tịnh đã lập rồi,
Không còn phải trở lại nữa.”
(Sở tác giai biện,
Phạm hạnh dĩ lập,
Bất thọ hậu hữu.)
Những việc nên làm thì ta đã làm xong, hạnh thanh tịnh của ta đã thành tựu rồi—ta không còn phải chịu luân hồi sanh tử nữa. Vì vậy, chúng ta, những người được nghe thấy các đạo lý trong Kinh Địa Tạng, ắt hẳn đều là những người có thiện căn sâu dày. Những kẻ không có thiện căn thì dù muốn đến nghe Kinh Địa Tạng cũng không có cơ hội; họ không được phép tới nghe, thậm chí ngay chính bản thân họ cũng chẳng muốn nghe nữa. Vì sao họ không muốn nghe? Bởi vì nghiệp chướng của họ quá nặng nề; họ nói là: “Tôi không muốn thành Phật. Tôi muốn đến địa ngục gặp Bồ Tát Địa Tạng, chờ Bồ Tát Địa Tạng tới cứu tôi ra lần nữa. Bởi Bồ Tát Địa Tạng có nguyện lực từ bi, Ngài lại có chìa khóa mở được cửa địa ngục; hễ tôi bị sa vào địa ngục thì Ngài liền lấy chìa khóa mở cửa, bấy giờ tôi sẽ tẩu thoát và đi ăn cướp trở lại!”
Thế nên, quý vị xem, họ dự tính thoát khỏi địa ngục rồi thì lại đi làm kẻ cướp nữa! Song, Bồ Tát Địa Tạng có Tha Tâm Thông nên Ngài biết được ý đồ của họ: “A! Bọn này thật là quá quắt. Từ địa ngục thoát ra mà vẫn chưa chừa, vẫn còn muốn đi làm ăn cướp nữa ư? Thế thì Ta không mở cửa ngục cho các ngươi nữa!” Chúng ta không nên bắt chước theo hạng người như thế!
Vậy, hôm nay đã giảng xong bộ Kinh Địa Tạng rồi, chúng ta cần phải nương vào nguyện lực của Bồ Tát Địa Tạng mà tu hành, luôn luôn tinh tấn hướng về phía trước, không được chùn bước, không được bỏ cuộc!
_____________
(HẾT QUYỂN HẠ)