Kinh Duy Ma Cật – Phẩm 11

KINH DUY MA CẬT

phụng chiếu dịch

Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập

— o O o —

Phẩm thứ mười một

HẠNH BỒ TÁT

 

Thị thời, Phật thuyết pháp ư Am-la thọ viên. Kỳ địa hốt nhiên quảng bác nghiêm sự. Nhất thiết chúng hội giai tác kim sắc.

Lúc ấy, Phật đang thuyết pháp trong vườn cây Am-la. Cảnh đất ấy bỗng nhiên trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp. Tất cả chúng hội đều ánh lên màu vàng ròng.

 

A-nan bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Dĩ hà nhân duyên, hữu thử thụy ứng? Thị xứ hốt nhiên quảng bác nghiêm sự. Nhất thiết chúng hội giai tác kim sắc.

A-nan bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có điềm lành ứng hiện: Cảnh này bỗng trở nên rộng lớn, nghiêm đẹp. Tất cả chúng hội đều ánh lên màu vàng ròng?”

 

Phật cáo A-nan: Thị Duy-ma-cật, Văn-thù-sư-lợi, dữ chư Đại chúng cung kính vi nhiễu phát ý dục lai. Cố tiên vi thử thụy ứng.

Phật bảo A-nan: “Đó là Duy-ma-cật và Văn-thù Sư Lợi với đại chúng cung kính vây quanh, phát ý muốn đến đây, cho nên trước tiên ứng hiện ra điềm lành ấy.”

 

Ư thị, Duy-ma-cật ngứ Văn-thù-sư-lợi: Khả cộng kiến Phật, dữ chư Bồ Tát lễ sự cúng dường.

Bấy giờ, Duy-ma-cật nói với Văn-thù Sư Lợi: “Chúng ta nên cùng đến viếng Phật, cùng với chư Bồ Tát lễ kính và cúng dường Phật.”

 

Văn-thù-sư-lợi ngôn: Thiện tai! Hành hỹ! Kim chánh thị thời.

Văn-thù Sư Lợi nói: “Lành thay! Nên đi lắm, nay đã phải lúc lắm vậy.”

 

Duy-ma-cật tức dĩ thần lực, trì chư Đại chúng tinh sư tử tòa, trí ư hữu chưởng, vãng nghệ Phật sở. Đáo dĩ trước địa, khể thủ Phật túc, hữu nhiễu thất táp, nhất tâm hiệp chưởng, tại nhất diện lập.

Duy-ma-cật liền dùng sức thần nâng hết cả đại chúng với tòa sư tử của mỗi vị, đặt lên lòng bàn tay phải của mình, rồi đi đến chỗ Phật ngự. Tới nơi, người để đại chúng với tòa sư tử trên mặt đất, đỉnh lễ sát chân Phật, đi quanh Phật bảy vòng theo tay mặt, một lòng chắp tay cung kính, rồi đứng sang một bên.

 

Kỳ chư Bồ Tát tức giai tịch tòa, khể thủ Phật túc, diệc nhiễu thất táp, ư nhất diện lập. Chư đại đệ tử, Thích, Phạm tứ Thiên vương đẳng, diệc giai tịch tòa, khể thủ Phật túc, tại nhất diện lập.

Chư Bồ Tát mà người đưa đến, thảy liền rời khỏi chỗ ngồi, đỉnh lễ sát chân Phật, cũng đi quanh Phật bảy vòng theo tay mặt, rồi đứng sang một bên. Các vị đại đệ tử, Đế-thích, Phạm vương, Bốn thiên vương… cũng đều rời khỏi chỗ ngồi, đỉnh lễ sát chân Phật, rồi đứng sang một bên.

 

Ư thị, Thế Tôn như pháp ủy vấn chư Bồ Tát dĩ các linh phục tọa. Tức giai thọ giáo, chúng tọa dĩ định.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn y theo pháp mà hỏi han chư Bồ Tát, rồi bảo mọi người trở lại chỗ ngồi. Vâng lời Phật dạy, ai nấy đều ngồi lại chỗ sẵn định của mình.

 

Phật ngứ Xá-lỵ-phất: Nhữ kiến Bồ Tát đại sĩ tự tại thần lực chi sở vị hồ?

Phật bảo Xá Lợi-phất: “Ngươi có thấy Bồ Tát Đại sĩ hiện sức thần tự tại chăng?”

 

Duy nhiên, dĩ kiến.

“Dạ, con đã thấy.”

 

Nhữ ý vân hà?

“Ý ngươi thế nào?”

 

Thế Tôn! Ngã đổ kỳ vi bất khả tư nghị. Phi ý sở đồ, phi đạc sở trắc.

“Bạch Thế Tôn! Con thấy đúng là không thể nghĩ bàn, vượt quá sức tưởng tượng, vượt ngoài sự đo lường.”

 

Nhĩ thời, A-nan bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Kim sở văn hương, tự tích vị hữu. Thị vi hà hương?

Lúc ấy, A-nan bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay có một hương thơm chưa từng có. Đó là hương thơm gì vậy?”

 

Phật cáo A-nan: Thị bỉ Bồ Tát mao khổng chi hương.

Phật bảo A-nan: “Ấy là hương thơm nơi lỗ chân lông của các vị Bồ Tát kia tỏa ra.”

 

Ư thị, Xá-lỵ-phất ngứ A-nan ngôn: Ngã đẳng mao khổng diệc xuất thị hương.

Bấy giờ, Xá Lợi-phất bảo A-nan rằng: “Từ nơi các lỗ chân lông của chúng tôi, giờ cũng phát ra mùi thơm ấy.”

 

A-nan ngôn: Thử sở tùng lai?

A-nan hỏi: “Mùi thơm ấy từ đâu đến?”

 

Viết: Thị Trưởng giả Duy-ma-cật tùng Chúng Hương quốc, thủ Phật dư phạn. Ư xá thực giả, nhất thiết mao khổng giai hương nhược thử.

Xá Lợi-phất đáp: “Trưởng giả Duy-ma-cật đây đã xin món cơm thừa của Phật từ nước Chúng Hương mà đem về. Những ai đã ăn cơm ấy tại nhà ông thì từ nơi tất cả các lỗ chân lông đều có mùi thơm như vậy.”

 

A-nan vấn Duy-ma-cật: Thị hương khí trụ đương cửu như?

A-nan liền hỏi Duy-ma-cật: “Mùi thơm ấy sẽ còn được bao lâu?”

 

Duy-ma-cật ngôn: Chí thử phạn tiêu.

Duy-ma-cật đáp: “Cho đến khi cơm ấy tiêu hết.”

 

Viết: Thử phạn cửu như đương tiêu?

Lại hỏi: “Bao lâu cơm ấy sẽ tiêu hết?”

 

Viết: Thử phạn thế lực chí ư thất nhật, nhiên hậu nãi tiêu.

Đáp: “Hiệu lực của cơm ấy duy trì tới bảy ngày, sau đó mới tiêu hết.

 

Hựu, A-nan! Nhược Thanh văn nhân, vị nhập chánh vị, thực thử phạn giả, đắc nhập chánh vị, nhiên hậu nãi tiêu. Dĩ nhập chánh vị, thực thử phạn giả, đắc tâm giải thoát, nhiên hậu nãi tiêu. Nhược vị phát Đại thừa ý, thực thử phạn giả, chí phát ý nãi tiêu. Dĩ phát ý, thực thử phạn giả, đắc Vô sinh nhẫn, nhiên hậu nãi tiêu. Dĩ đắc vô sinh nhẫn, thực thử phạn giả, chí nhất sinh bổ xứ, nhiên hậu nãi tiêu. Thí như hữu dược, danh viết thượng vị. Kỳ hữu phục giả, thân chư độc diệt, nhiên hậu nãi tiêu. Thử phạn như thị, diệt trừ nhất thiết chư phiền não độc, nhiên hậu nãi tiêu.

“Lại nữa, A-nan! Vị Thanh văn nào chưa vào chánh vị, chưa đắc quả A-la-hán, nếu ăn cơm ấy thì sau khi đắc nhập chánh vị cơm mới tiêu hết. Người đã vào chánh vị, nếu ăn cơm ấy thì sau khi được tâm giải thoát, cơm mới tiêu hết. Người chưa phát ý Đại thừa, nếu ăn cơm ấy, cho tới khi phát ý rồi cơm mới tiêu hết. Người đã phát ý, nếu ăn cơm ấy, cho tới khi đắc Vô sinh nhẫn rồi cơm mới tiêu hết. Người đã đắc Vô sinh nhẫn, nếu ăn cơm ấy, đến khi được địa vị Nhất sinh bổ xứ rồi cơm mới tiêu hết. Tỷ như có một chất thuốc tên là Thượng vị, những ai uống thuốc ấy, chỉ khi các thứ độc trừ dứt thuốc mới tiêu hết. Cơm ấy cũng vậy, trừ dứt tất cả các độc phiền não xong, sau đó mới tiêu hết.”

 

A-nan bạch Phật ngôn: Vị tằng hữu dã! Thế Tôn, như thử hương phạn, năng tác Phật sự?

A-nan bạch Phật rằng: “Chưa từng có vậy! Thế Tôn, như thứ cơm ấy ắt có thể làm Phật sự?”

 

Phật ngôn: Như thị. Như thị. A-nan! Hoặc hữu Phật độ dĩ Phật quang minh nhi tác Phật sự. Hữu dĩ chư Bồ Tát nhi tác Phật sự. Hữu dĩ Phật sở hóa nhân nhi tác Phật sự. Hữu dĩ Bồ-đề thọ nhi tác Phật sự. Hữu dĩ Phật y phục ngọa cụ nhi tác Phật sự. Hữu dĩ phạn thực nhi tác Phật sự. Hữu dĩ viên lâm, đài quán nhi tác Phật sự. Hữu tam thập nhị tướng, bát thập tùy hình hảo nhi tác Phật sự. Hữu dĩ Phật thân nhi tác Phật sự. Hữu dĩ hư không nhi tác Phật sự, chúng sinh ưng dĩ thử duyên, đắc nhập luật hạnh. Hữu dĩ mộng ảo, ảnh hưởng, kính trung tượng, thủy trung nguyệt, nhiệt thời diệm, như thị đẳng dụ nhi tác Phật sự. Hữu dĩ âm thanh, ngữ ngôn, văn tự nhi tác Phật sự. Hoặc hữu thanh tịnh Phật độ, tịch mịch vô ngôn, vô thuyết vô thị, vô chí, vô tác, vô vi nhi tác Phật sự.

Phật dạy: “Đúng vậy, đúng vậy! A-nan, hoặc có cõi Phật dùng ánh sáng quang minh của Phật mà làm Phật sự. Có cõi dùng chư Bồ Tát mà làm Phật sự. Có cõi dùng người biến hóa của Phật mà làm Phật sự. Có cõi dùng cây Bồ-đề mà làm Phật sự. Có cõi dùng y phục của Phật mà làm Phật sự. Có cõi dùng cơm và đồ ăn của Phật mà làm Phật sự. Có cõi dùng vườn hoa, rừng cây, đền đài mà làm Phật sự. Có cõi dùng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp mà làm Phật sự. Có cõi dùng thân Phật mà làm Phật sự. Có cõi dùng hư không mà làm Phật sự, chúng sinh muốn nương theo duyên ấy mà vào luật hạnh. Có cõi dùng những ví dụ, như: chiêm bao, ảo hóa, bóng dáng, tiếng dội, hình lộ trong gương, mặt trăng dưới nước, dợn sóng khi trời nắng… mà làm Phật sự. Có cõi dùng âm thanh, lời nói, văn tự mà làm Phật sự. Hoặc có cõi Phật thanh tịnh dùng những việc: tịch mịch, không lời, không thuyết, không chỉ, không ghi, không làm, vô vi mà làm Phật sự.

 

Như thị, A-nan! Chư Phật oai nghi tấn chỉ, chư sở thi vi, vô phi Phật sự.

“A-nan! Như vậy đó, mọi cách đi đứng, nằm ngồi, tới lui của Phật, thảy thảy hành vi, không chi chẳng là Phật sự.

 

A-nan! Hữu thử tứ ma, bát vạn tứ thiên chư phiền não môn, nhi chư chúng sinh vi chi bì lao. Chư Phật tức dĩ thử pháp nhi tác Phật sự. Thị danh nhập nhất thiết chư Phật pháp môn.

“A-nan! Có bốn thứ ma, tám muôn bốn ngàn thứ phiền não, làm cho chúng sinh phải nhọc nhằn mệt mỏi. Chư Phật liền dùng những pháp ấy mà làm Phật sự. Đó gọi là vào pháp môn của tất cả chư Phật.

 

Bồ Tát nhập thử môn giả, nhược kiến nhất thiết tịnh hảo Phật độ, bất dĩ vi hỷ, bất tham bất cao. Nhược kiến nhất thiết bất tịnh Phật độ, bất dĩ vi ưu, bất ngại, bất một. Đản ư chư Phật, sinh thanh tịnh tâm, hoan hỷ cung kính, vị tằng hữu dã. Chư Phật Như Lai công đức bình đẳng, vị giáo hóa chúng sinh cố, nhi hiện Phật độ bất đồng.

“Bồ Tát đã vào pháp môn ấy, nếu thấy tất cả các Phật độ sạch đẹp thì chẳng vui, chẳng ham, chẳng kiêu. Nếu thấy tất cả Phật độ chẳng sạch, thời chẳng buồn, chẳng ngại, chẳng lui. Chỉ đối với chư Phật sinh lòng thanh tịnh, hoan hỷ cung kính, cho là chưa từng có vậy. Công đức của chư Phật Như Lai vẫn là bình đẳng, nhưng vì giáo hóa chúng sinh nên các ngài hiện ra những cõi Phật khác nhau.

 

A-nan! Nhữ kiến chư Phật quốc, thổ địa hữu nhược can, nhi hư không vô nhược can dã. Như thị kiến chư Phật sắc thân hữu nhược can nhĩ, kỳ vô ngại huệ vô nhược can dã.

“A-nan! Ngươi thấy các nước Phật, đất đai nhiều thứ khác nhau, nhưng hư không chẳng có nhiều thứ. Cũng như vậy, ngươi thấy chư Phật, sắc thân nhiều dạng khác nhau, nhưng cái huệ vô ngại của các ngài thì chẳng khác nhau.

 

A-nan! Chư Phật sắc thân, oai tướng, chủng tánh, giới, định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, lực vô sở úy, bất cộng chi pháp, đại từ, đại bi, oai nghi sở hành, cập kỳ thọ mạng, thuyết pháp giáo hóa, thành tựu chúng sinh, tịnh Phật quốc độ, cụ chư Phật pháp, tất giai đồng đẳng. Thị cố danh vi Tam-miệu Tam-phật-đà, danh vi Đa-đà-a-già-độ, danh vi Phật-đà.

“A-nan! Về sắc thân của chư Phật, với oai tướng, chủng tánh, giới, định, trí huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, lực vô sở úy, pháp bất cộng, đại từ, đại bi, các sở hành oai nghi như đi, đứng, nằm, ngồi, cùng là thọ mạng của chư Phật, thuyết pháp giáo hóa, thành tựu chúng sinh, làm cho trong sạch cõi Phật, đầy đủ các Phật pháp, thời các ngài đều bình đẳng như nhau. Cho nên gọi các ngài là Tam-miệu Tam phật-đà, cũng gọi là Đa-đà-a-già-độ, cũng gọi là Phật-đà.

 

A-nan! Nhược ngã quảng thuyết thử tam cú nghĩa, nhữ dĩ kiếp thọ, bất năng tận thọ. Chánh sử tam thiên đại thiên thế giới mãn trung chúng sinh giai như A-nan đa văn đệ nhất, đắc niệm tổng trì. Thử chư nhân đẳng dĩ kiếp chi thọ, diệc bất năng thọ.

“A-nan! Nếu ta nói rộng nghĩa ba danh xưng ấy, dầu cho người sống đến trọn kiếp cũng không thể nhận lãnh hết. Tỷ như trong cõi tam thiên đại thiên thế giới này, dẫy đầy các chúng sinh cũng đều đa văn bậc nhất như A-nan và được Niệm tổng trì, lại sống đến trọn kiếp, cũng không thể thọ nhận cho hết nghĩa lý trên!

 

Như thị, A-nan! Chư Phật A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề vô hữu hạn lượng, trí huệ biện tài bất khả tư nghị.

“A-nan! Như vậy, A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam bồ-đề của chư Phật là không có hạn lượng, trí huệ biện tài của các ngài là không thể nghĩ bàn.”

 

A-nan bạch Phật ngôn: Ngã tùng kim dĩ vãng, bất cảm tự vị dĩ vi đa văn.

A-nan bạch Phật rằng: “Từ nay con chẳng dám nhận mình là đa văn nữa.”

 

Phật cáo A-nan: Vật khởi thối ý. Sở dĩ giả hà? Ngã thuyết nhữ ư Thanh văn trung vi tối đa văn, phi vị Bồ Tát.

Phật dạy A-nan: “Đừng có ý nghĩ thối lui như vậy. Tại sao vậy? Ta nói ngươi đa văn bậc nhất, là đối với hàng Thanh văn, chứ chẳng phải với hàng Bồ Tát.

 

Thả chỉ, A-nan! Kỳ hữu trí giả, bất ưng hạn độ chư Bồ Tát dã. Nhất thiết hải uyên, thượng khả trắc lượng. Bồ Tát thiền định, trí huệ, tổng trì, biện tài, nhất thiết công đức, bất khả lượng dã.

“Thôi đi, A-nan! Những người có trí chẳng nên hạn độ chư Bồ Tát. Tất cả biển rộng vực sâu còn có thể đo lường, nhưng thiền định, trí huệ, tổng trì, biện tài, tất cả công đức của Bồ Tát đều chẳng thể đo lường cho xiết.

 

A-nan! Nhữ đẳng xả trí Bồ Tát sở hành. Thị Duy-ma-cật nhất thời sở hiện thần thông chi lực, nhất thiết Thanh văn, Bích chi Phật, ư bá thiên kiếp, tận lực biến hóa, sở bất năng tác.

“A-nan! Các ngươi hãy bỏ đi việc lượng định sở hành của hàng Bồ Tát. Duy-ma-cật đây, một khi hiện sức thần thông, dầu tất cả Thanh văn và Bích chi Phật dùng hết sức biến hóa trong trăm ngàn kiếp cũng chẳng làm được như người.”

 

Nhĩ thời, Chúng Hương thế giới Bồ Tát lai giả, hiệp chưởng bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã đẳng sơ kiến thử độ, sinh hạ liệt tưởng. Kim tự hối trách, xả ly thị tâm. Sở dĩ giả hà? Chư Phật phương tiện bất khả tư nghị. Vị độ chúng sinh cố, tùy kỳ sở ưng, hiện Phật quốc dị.

Lúc ấy, các vị Bồ Tát từ thế giới Chúng Hương đến đồng chắp tay bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Khi mới thấy cõi này, chúng con có ý cho là thấp kém. Bây giờ chúng con tự hối trách, lìa bỏ ý nghĩ ấy. Tại sao vậy? Pháp môn phương tiện của chư Phật là không thể nghĩ bàn. Vì độ chúng sinh, cho nên các ngài tùy theo chỗ thích hợp của họ mà hiện ra các nước Phật khác nhau.

 

Duy nhiên, Thế Tôn! Nguyện tứ thiểu pháp. Hoàn ư bỉ độ, đương niệm Như Lai.

“Dạ, kính bạch Thế Tôn! Xin ngài ban cho chút ít Phật pháp. Khi trở về, chúng con sẽ nhớ tưởng Như Lai.”

 

Phật cáo chư Bồ Tát: Hữu tận vô tận giải thoát pháp môn. Nhữ đẳng đương học. Hà vị vi tận? Vị hữu vi pháp. Hà vị vô tận? Vị vô vi pháp. Như Bồ Tát giả, bất tận hữu vi, bất trụ vô vi.

Phật dạy các vị Bồ Tát: Có pháp môn giải thoát gọi là Dứt và Không dứt, các ngươi nên tu học. Sao gọi là dứt? Đó là pháp hữu vi. Sao gọi là không dứt? Đó là pháp vô vi. Như Bồ Tát là chẳng dứt hữu vi, chẳng trụ vô vi.

 

Hà vị bất tận hữu vi? Vị bất ly đại từ, bất xả đại bi. Thâm phát nhất thiết trí tâm, nhi bất hốt vong. Giáo hóa chúng sinh, chung bất yếm quyện. Ư tứ nhiếp pháp, thường niệm thuận hành. Hộ trì Chánh pháp, bất tích thân mạng. Chủng chư thiện căn, vô hữu bì yếm. Chí thường an trụ, phương tiện hồi hướng. Cầu pháp bất giải, thuyết pháp vô lận.

Sao gọi là Bồ Tát chẳng dứt hữu vi? Đó là: chẳng lìa đức đại từ, chẳng bỏ đức đại bi. Phát khởi sâu vững tâm Nhất thiết trí, không hề xao lãng đối với chí quyết thành Phật. Giáo hóa chúng sinh chẳng hề mệt chán. Thường xét nghĩ việc tùy thuận thi hành bốn pháp thâu nhiếp. Hộ trì chánh pháp chẳng tiếc thân mạng. Gieo trồng các căn lành chẳng hề mệt chán. Tâm trí thường được an ổn, vững chãi, đem phương tiện hướng về Phật quả. Cầu pháp chẳng biếng nhác. Thuyết pháp chẳng hiểm tiếc.

 

Cần cúng chư Phật, cố nhập sinh tử, nhi vô sở úy. Ư chư vinh nhục, tâm vô ưu hỷ. Bất khinh vi học, kính học như Phật. Đọa phiền não giả, linh phát chánh niệm. Ư viễn ly lạc, bất dĩ vi quý. Bất trước kỷ lạc, khánh ư bỉ lạc. Tại chư thiền định, như địa ngục tưởng. Ư sinh tử trung, như viên quán tưởng. Kiến lai cầu giả, vi thiện sư tưởng. Xả chư sở hữu, cụ nhất thiết trí tưởng. Kiến hủy giới nhân, khởi cứu hộ tưởng.

Siêng cúng dường chư Phật. Vào chốn sinh tử nhưng không sợ sệt chi cả. Đối với sự vinh nhục lòng không lo buồn, không mừng vui. Chẳng khinh kẻ chưa tu học. Kính trọng người tu học như Phật. Đối với kẻ chìm đắm trong phiền não, khiến họ phát sinh chánh niệm. Lánh xa những cuộc vui chơi, chẳng cho đó là quý. Chẳng tham trước việc sung sướng cho riêng mình, mừng cho kẻ khác được sung sướng. Tại các cảnh thiền định, tưởng đó như các tầng địa ngục. Đối với cuộc sinh tử luân hồi, tưởng đó như vườn cảnh điện đài. Thấy kẻ đến thỉnh cầu, tưởng họ như bậc thầy hiền. Thí xả những vật sở hữu của mình, đủ đầy cái tâm tưởng cầu quả vị của đấng có trí hiểu biết tất cả. Thấy kẻ phá hủy giới cấm, khởi lên cái tư tưởng cứu hộ.

 

Chư ba-la-mật, vi phụ mẫu tưởng. Đạo phẩm chi pháp, vi quyến thuộc tưởng. Phát hành thiện căn, vô hữu tề hạn. Dĩ chư Tịnh quốc nghiêm sức chi sự, thành kỷ Phật độ. Hành vô hạn thí, cụ túc tướng hảo. Trừ nhất thiết ác, tịnh thân, khẩu, ý. Sinh tử vô số kiếp, ý nhi hữu dũng.

Đối với các ba-la-mật, tưởng như cha mẹ. Đối với các pháp đạo phẩm, tưởng như quyến thuộc. Nảy nở các căn lành, không hề có giới hạn. Lấy những việc nghiêm sức cõi nước trong sạch để thành tựu cõi Phật của mình. Làm việc bố thí không có kỳ hạn, đủ đầy những tướng chánh và tướng phụ trang nghiêm thân mình. Trừ bỏ mọi việc xấu ác, giữ sạch thân, miệng, ý. Trải vô số lần sinh tử, tâm ý vẫn dũng mãnh.

 

Văn Phật vô lượng đức, chí nhi bất quyện. Dĩ trí huệ kiếm, phá phiền não tặc. Xuất ấm nhập giới, hà phụ chúng sinh, vĩnh sử giải thoát. Dĩ đại tinh tấn, tồi phục ma quân. Thường cầu vô niệm, Thật tướng trí huệ. Hành thiểu dục tri túc, nhi bất xả thế pháp. Bất hoại oai nghi, nhi năng tùy tục khởi thần thông huệ, dẫn đạo chúng sinh. Đắc niệm tổng trì, sở văn bất vong. Thiện biệt chư căn, đoạn chúng sinh nghi.

“Nghe vô lượng công đức của Phật, chí quyết như vậy mà chẳng mệt mỏi. Dùng gươm trí huệ chém phá giặc phiền não. Đem ấm, nhập, giới ra gánh vác chúng sinh, khiến họ được giải thoát mãi mãi. Đem đức tinh tấn lớn, đánh dẹp binh ma. Thường cầu đức tánh vô niệm, trí huệ thật tướng. Thi hành lẽ biết đủ, ít tham cầu, nhưng chẳng bỏ pháp thế gian. Chẳng chê bỏ oai nghi cốt cách, nhưng có thể tùy tục mà khởi ra huệ thần thông, dìu dắt chúng sinh. Được Niệm tổng trì, nghe rồi chẳng quên. Khéo phân biệt các căn lanh lợi hoặc chậm lụt, dứt tuyệt chỗ nghi hoặc của chúng sinh.

 

Dĩ lạc thuyết biện, diễn pháp vô ngại. Tịnh thập thiện đạo, thọ thiên nhân phước. Tu tứ vô lượng, khai Phạm thiên đạo. Khuyến thỉnh thuyết pháp, tùy hỷ tán thiện, đắc Phật âm thanh. Thân, khẩu, ý thiện, đắc Phật oai nghi. Thâm tu thiện pháp, sở hành chuyển thắng. Dĩ Đại thừa giáo, thành Bồ Tát tăng. Tâm vô phóng dật, bất thất chúng thiện. Hành như thử pháp, thị danh Bồ Tát bất tận hữu vi.

Đem lòng vui vẻ mà biện thuyết, diễn giảng pháp giáo một cách không ngăn ngại. Mười điều lành được thanh tịnh, thọ hưởng phước lạc ở cõi trời và cõi người. Tu bốn tâm vô lượng, mở đường lên cảnh Phạm thiên. Khuyên thỉnh thuyết pháp, tùy hỷ xưng tán việc lành, được âm thanh của Phật. Thân, miệng, ý trở nên hiền lành, được oai nghi của Phật. Tu các pháp lành một cách sâu vững, sở hành ngày càng tốt đẹp. Nương giáo pháp Đại thừa thành Bồ Tát Tăng. Tâm ý không phóng dật, chẳng bỏ mất các việc lành. Thi hành những pháp như vậy, gọi là Bồ Tát chẳng hết hữu vi.

 

Hà vị Bồ Tát bất trụ vô vi? Vị tu học không, bất dĩ không vi chứng. Tu học vô tướng, vô tác, bất dĩ vô tướng, vô tác vi chứng. Tu học vô khởi, bất dĩ vô khởi vi chứng. Quán ư vô thường, nhi bất yếm thiện bổn. Quán thế gian khổ, nhi bất ố sinh tử. Quán ư vô ngã, nhi hối nhân bất quyện. Quán ư tịch diệt, nhi bất vĩnh tịch diệt. Quán ư viễn ly, nhi thân tâm tu thiện. Quán vô sở quy, nhi quy thú thiện pháp. Quán ư vô sinh, nhi dĩ sinh pháp hà phụ nhất thiết. Quán ư vô lậu, nhi bất đoạn chư lậu.

“Sao gọi là Bồ Tát chẳng trụ vô vi? Đó là, tu học lẽ không, nhưng chẳng lấy lẽ không làm chứng đắc. Tu học vô tướng, vô tác, nhưng chẳng lấy vô tướng, vô tác làm chứng đắc. Tu học vô khởi, nhưng chẳng lấy vô khởi làm chứng đắc. Quán lẽ vô thường, nhưng chẳng chán cội lành. Quán những nổi khổ thế gian, nhưng chẳng ghét việc sinh tử. Quán lẽ vô ngã, nhưng dạy người chẳng chán. Quán lẽ tịch diệt, nhưng chẳng tịch diệt mãi mãi. Quán lẽ xa lìa, nhưng thân tâm tu thiện. Quán lẽ không có chỗ về, nhưng quay về các pháp lành. Quán lẽ không sinh, nhưng đem việc sinh sống mà gánh vác tất cả chúng sinh. Quán lẽ không có phiền não, nhưng chẳng đoạn tuyệt các phiền não.

 

Quán vô sở hành, nhi dĩ hành pháp giáo hóa chúng sinh. Quán ư không vô, nhi bất xả đại bi. Quán chánh pháp vị, nhi bất tùy Tiểu thừa. Quán chư pháp hư vọng, vô lao vô nhân, vô chủ vô tướng. Bổn nguyện vị mãn, nhi bất hư phước đức, thiền định, trí huệ. Tu như thử pháp, thị danh Bồ Tát bất trụ vô vi.

Quán lẽ không có sở hành, nhưng đem việc hành pháp mà giáo hóa chúng sinh. Quán lẽ không không, nhưng chẳng bỏ đức đại bi. Quán chánh pháp vị, nhưng chẳng theo Tiểu thừa. Quán các pháp là hư vọng, không có bền chắc, không có ta và người, không có chủ tể, không có tướng trạng. Bổn nguyện chưa tròn, nhưng phước đức, thiền định, trí huệ chẳng phải là hư luống. Tu các pháp như vậy, gọi là Bồ Tát chẳng trụ vô vi.

 

Hựu, cụ phước đức, cố bất trụ vô vi. Cụ trí huệ cố, bất tận hữu vi. Đại từ bi cố, bất trụ vô vi. Mãn bổn, nguyện cố, bất tận hữu vi. Tập pháp dược cố, bất trụ vô vi. Tùy thọ dược cố, bất tận hữu vi. Tri chúng sinh bệnh cố, bất trụ vô vi. Diệt chúng sinh bệnh cố, bất tận hữu vi. Chư chánh sĩ Bồ Tát, dĩ tu thử pháp, bất tận hữu vi, bất trụ vô vi. Thị danh tận, vô tận giải thoát pháp môn. Nhữ đẳng đương học.

“Lại nữa, nhờ có đủ phước đức, nên Bồ Tát chẳng trụ vô vi. Nhờ có đủ trí huệ, nên chẳng dứt hữu vi. Nhờ đại từ bi, nên chẳng trụ vô vi. Nhờ tròn bổn nguyện, nên chẳng dứt hữu vi. Nhờ tụ hội các phương thuốc pháp, nên chẳng trụ vô vi. Nhờ khéo tùy bệnh mà cho thuốc, nên chẳng dứt hữu vi. Nhờ biết bệnh của chúng sinh, nên chẳng trụ vô vi. Nhờ trị dứt bệnh của chúng sinh, nên chẳng dứt hữu vi. Các vị chánh sĩ Bồ Tát, khi đã tu xong các pháp ấy thì chẳng dứt hữu vi, chẳng trụ vô vi. Đó là pháp môn giải thoát Dứt và Không dứt. Các ông nên tu học pháp môn ấy.”

 

Nhĩ thời, bỉ chư Bồ Tát, văn thuyết thị pháp, giai đại hoan hỷ. Dĩ chúng diệu hoa, nhược can chủng sắc, nhược can chủng hương, tán biến tam thiên đại thiên thế giới, cúng dường ư Phật cập thử kinh pháp, tinh chư Bồ Tát dĩ. Khể thủ Phật túc, thán vị tằng hữu, ngôn: Thích-ca Mâu-ni Phật nãi năng ư thử thiện hành phương tiện.

Lúc ấy, các vị Bồ Tát kia nghe Phật thuyết thời pháp ấy rồi, đều rất hoan hỷ. Liền dùng các hoa mầu nhiệm với nhiều thứ màu sắc, nhiều thứ mùi thơm, rảy khắp cõi thế giới tam thiên đại thiên, cúng dường Phật với kinh pháp này, cũng cúng dường chư Bồ Tát cõi này. Rồi đó, các ngài đỉnh lễ nơi chân Phật, khen là chưa từng có, và nói rằng: “Đức Phật Thích ca Mâu-ni đã có thể ở cõi này mà thực hành phương tiện một cách khéo léo.”

 

Ngôn dĩ, hốt nhiên bất hiện, hoàn đáo bỉ quốc.

Nói xong, bỗng nhiên các ngài mất dạng, trở về nước kia.