Kinh Duy Ma Cật – Phẩm 7

KINH DUY MA CẬT

phụng chiếu dịch

Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập

— o O o —

Phẩm thứ bảy

QUÁN CHÚNG SINH

 

Nhĩ thời, Văn-thù-sư-lợi vấn Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát vân hà quán ư chúng sinh?

Lúc ấy, Văn-thù Sư Lợi hỏi Duy-ma-cật rằng: “Bồ Tát quán chúng sinh như thế nào?”

 

Duy-ma-cật ngôn: Thí như ảo sư kiến sở ảo nhân. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.

Duy-ma-cật đáp: “Ví như một nhà ảo thuật nhìn thấy người ảo hóa của mình. Bồ Tát quán chúng sinh cũng như vậy đó.

 

Như trí giả kiến thủy trung nguyệt. Như kính trung kiến kỳ diện tượng. Như nhiệt thời diệm. Như hô thinh hưởng. Như không trung vân. Như thủy tu mạt. Như thủy thượng bào. Như ba tiêu kiên. Như điện cửu trụ. Như đệ ngũ đại. Như đệ lục ấm. Như đệ thất tình. Như thập tam nhập. Như thập cửu giới.

“Như bậc trí giả nhìn thấy mặt trăng dưới nước, như người soi thấy mặt mình trong gương, như những dợn sóng tuôn ra khi trời nắng nóng, như tiếng vang dội khi mình hô lên, như đám mây trên trời, như bọt trên mặt nước, như bong bóng nổi, như sự bền chắc của cây chuối, như sự lâu dài của lằn chớp, như đại thứ năm, như ấm thứ sáu, như tình thức thứ bảy, như nhập thứ mười ba, như giới thứ mười chín.

 

Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử. Như vô sắc giới sắc. Như tiều cốc nha. Như Tu-đà-hoàn thân kiến. Như A-na-hàm nhập thai. Như A-la-hán tam độc. Như đắc nhẫn Bồ Tát tham nhuế hủy cấm. Như Phật phiền não tập. Như manh giả kiến sắc. Như nhập diệt tận định xuất nhập tức. Như không trung điểu tích. Như thạch nữ nhi. Như hóa nhân phiền não. Như mộng sở kiến dĩ ngộ. Như diệt độ giả thọ thân. Như vô yên chi hỏa. Bồ Tát quán chúng sinh vi nhược thử.

Bồ Tát quán chúng sinh như vậy đó. “Như hình sắc của cõi Vô sắc, như hạt giống bị hỏng, như người đắc quả Tu-đà-hoàn chấp có cái thân, như người đắc quả A-na-hàm vào thai, như người đắc quả A-la-hán vướng ba độc: tham lam, sân hận, ngu si, như Bồ Tát đắc nhẫn mà tham lam, giận hờn, phạm giới. Như tập khí phiền não của Phật, như kẻ đui nhìn thấy hình sắc, như người vào phép Diệt tận định có hơi thở ra vô, như dấu chân chim trên không, như đứa con của người đàn bà vô sinh, như người ảo hóa vướng phiền não, như những vật thấy trong mộng sau khi thức dậy, như vị thánh diệt độ lại thọ sinh, như lửa không có khói. Bồ Tát quán chúng sinh như vậy đó.”

 

Văn-thù-sư-lợi ngôn: Nhược Bồ Tát tác thị quán giả, vân hà hành từ?

Văn-thù Sư Lợi lại hỏi: “Nếu Bồ Tát làm phép quán như vậy thì người thực hành đức từ như thế nào?”

 

Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát tác thị quán dĩ, tự niệm: Ngã đương vị chúng sinh, thuyết như tư pháp, thị tức chân thật từ dã. Hành tịch diệt từ, vô sở sinh cố. Hành bất nhiệt từ, vô phiền não cố. Hành đẳng chi từ, đẳng tam thế cố.

Duy-ma-cật đáp: “Bồ Tát quán như vậy rồi, tự nghĩ rằng: ‘Ta nên thuyết với chúng sinh pháp như thế này, tức là đức từ chân thật: Nhờ hành từ tịch diệt, nên không có chỗ sinh. Nhờ hành từ chẳng nóng nảy, nên không có phiền não. Nhờ hành từ bình đẳng, nên ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai đều bình đẳng.

 

Hành vô tranh từ, vô sở khởi cố. Hành bất nhị từ, nội ngoại bất hiệp cố. Hành bất hoại từ, tất cánh tận cố. Hành kiên cố từ, tâm vô hủy cố. Hành thanh tịnh từ, chư pháp tánh tịnh cố. Hành vô biên từ, như hư không cố. Hành A-la-hán từ, phá kết tặc cố.

Nhờ hành từ không tranh chấp, nên không khởi ra việc cãi cọ. Nhờ hành từ duy nhất chẳng hai, nên căn trong và trần ngoài chẳng hiệp. Nhờ hành từ chẳng hoại, nên tất cánh tận diệt. Nhờ hành từ kiên cố, nên lòng không chê bỏ. Nhờ hành từ thanh tịnh, nên tính chất của pháp được trong sạch. Nhờ hành từ không bờ cõi, nên được như hư không. Nhờ hành từ A-la-hán, nên phá tan giặc phiền não trói buộc.

 

Hành Bồ Tát từ, an chúng sinh cố. Hành Như Lai từ, đắc như tướng cố. Hành Phật chi từ, giác chúng sinh cố. Hành tự nhiên từ, vô nhân đắc cố.

Nhờ hành từ Bồ Tát, nên an ủi được chúng sinh. Nhờ hành từ Như Lai, nên được tướng chân như. Nhờ hành từ Phật, nên giác ngộ chúng sinh. Nhờ hành từ tự nhiên, nên không nhân đâu mà đắc.

 

Hành Bồ-đề từ, đẳng nhất vị cố. Hành vô đẳng từ, đoạn chư ái cố. Hành đại bi từ, đạo dĩ Đại thừa cố. Hành vô yếm từ, quán không, vô ngã cố. Hành pháp thí từ, vô di tích cố. Hành trì giới từ, hóa hủy cấm cố. Hành nhẫn nhục từ, hộ bỉ ngã cố. Hành tinh tấn từ, hà phụ chúng sinh cố. Hành thiền định từ, bất thọ vị cố.

Nhờ hành từ Bồ-đề, nên được cái vị bình đẳng duy nhất. Nhờ hành từ không đẳng cấp, nên đoạn tuyệt các ái luyến. Nhờ hành từ đại bi, nên dắt dẫn chúng sinh bằng Đại thừa. Nhờ hành từ không chán ngán, nên quán lẽ không, lẽ vô ngã. Nhờ hành từ thí pháp, nên không tiếc mà để dành. Nhờ hành từ giữ giới, nên cải hóa kẻ hủy cấm. Nhờ hành từ nhẫn nhục, nên kiềm giữ kẻ khác và mình. Nhờ hành từ tinh tấn, nên gánh vác chúng sinh. Nhờ hành từ thiền định, nên chẳng thọ nhận mùi vị.

 

Hành trí huệ từ, vô bất tri thời cố. Hành phương tiện từ, nhất thiết thị hiện cố. Hành vô ẩn từ, trực tâm thanh tịnh cố. Hành thâm tâm từ, vô tạp hạnh cố. Hành vô cuống từ, bất hư giả cố. Hành an lạc từ, linh đắc Phật lạc cố. Bồ Tát chi từ vi nhược thử dã.

hờ hành từ trí huệ, nên biết được thời cơ. Nhờ hành từ phương tiện, nên thị hiện tất cả. Nhờ hành từ không ẩn khuất, nên lòng dạ được ngay thẳng trong sạch. Nhờ hành từ tâm trí sâu vững, nên không có những hành động hỗn tạp. Nhờ hành từ không dối trá, nên không có việc hư giả. Nhờ hành từ an lạc, nên khiến được cái vui của Phật. Đức từ của Bồ Tát là như vậy đó.”

 

Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Hà vị vi bi?

Đáp viết: Bồ Tát sở tác công đức, giai dữ nhất thiết chúng sinh cộng chi.

Văn-thù Sư Lợi lại hỏi: “Sao gọi là bi?”

Đáp rằng: “Bồ Tát tạo được bao nhiêu công đức đều chia sẻ hết thảy với tất cả chúng sinh.”

 

Hà vị vi hỷ?

Đáp viết: Hữu sở nhiêu ích, hoan hỷ vô hối.

“Sao gọi là hỷ?”

Đáp rằng: “Bồ Tát làm lợi ích chúng sinh thì vui vẻ không hối tiếc.”

 

Hà vị vi xả?

Đáp viết: Sở tác phước hữu, vô sở hy vọng.

“Sao gọi là xả?”

Đáp rằng: “Bồ Tát làm những việc lợi ích phước đức mà không hề hy vọng nhận được phước báo.”

 

Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Sinh tử hữu úy, Bồ Tát đương hà sở y?

Duy-ma-cật ngôn: Bồ Tát ư sinh tử úy trung, đương y Như Lai công đức chi lực.

Văn-thù Sư Lợi lại hỏi: “Ở chốn sinh tử có những điều ghê sợ, Bồ Tát nên nương vào đâu?”

Duy-ma-cật đáp: “Đối với những điều đáng sợ ở chốn sinh tử, Bồ Tát nên nương vào sức công đức của Như Lai.”

 

Văn-thù-sư-lợi hựu vấn: Bồ Tát dục y Như Lai công đức chi lực, đương ư hà trụ?

Đáp viết: Bồ Tát dục y Như Lai công đức lực giả, đương trụ độ thoát nhất thiết chúng sinh.

Văn-thù Sư Lợi lại hỏi: “Bồ Tát muốn nương vào sức công đức của Như Lai, nên trụ vào đâu?”

Đáp rằng: “Bồ Tát muốn nương vào sức công đức của Như Lai, nên trụ ở việc độ thoát tất cả chúng sinh.”

 

Hựu vấn: Dục độ chúng sinh, đương hà sở trừ?

Đáp viết: Dục độ chúng sinh, trừ kỳ phiền não.

Lại hỏi: “Muốn độ thoát chúng sinh, nên trừ bỏ những gì?”

Đáp rằng: “Muốn độ thoát chúng sinh, nên trừ bỏ những phiền não của mình.”

 

Hựu vấn: Dục trừ phiền não, đương hà sở hành?

Đáp viết: Đương hành chánh niệm.

Lại hỏi: “Muốn trừ bỏ phiền não, nên làm việc gì?”

Đáp rằng: “Nên thực hành chánh niệm.”

 

Hựu vấn: Vân hà hành ư Chánh niệm?

Đáp viết: Đương hành bất sinh bất diệt.

Lại hỏi: “Thực hành chánh niệm như thế nào?”

Đáp rằng: “Nên thực hành lẽ chẳng sinh chẳng diệt.”

 

Hựu vấn: Hà pháp bất sinh? Hà pháp bất diệt?

Đáp viết: Bất thiện bất sinh. Thiện pháp bất diệt.

Lại hỏi: “Pháp nào chẳng sinh? Pháp nào chẳng diệt?”

Đáp rằng: “Pháp bất thiện chẳng sinh. Pháp thiện chẳng diệt.”

 

Hựu vấn: Thiện bất thiện, thục vi bổn?

Đáp viết: Thân vi bổn.

Lại hỏi: “Pháp thiện và pháp bất thiện lấy chi làm gốc?”

Đáp rằng: “Cái thân là gốc.”

 

Hựu vấn: Thân, thục vi bổn?

Đáp viết: Dục tham vi bổn.

Lại hỏi: “Thân lấy chi làm gốc?”

Đáp rằng: “Tham dục là gốc.”

 

Hựu vấn: Dục tham, thục vi bổn?

Đáp viết: Hư vọng phân biệt vi bổn.

Lại hỏi: “Tham dục lấy chi làm gốc?”

Đáp rằng: “Phân biệt hư vọng là gốc.”

 

Hựu vấn: Hư vọng phân biệt, thục vi bổn?

Đáp viết: Điên đảo tưởng vi bổn.

Lại hỏi: “Phân biệt hư vọng lấy chi làm gốc?”

Đáp rằng: “Tư tưởng điên đảo là gốc.”

 

Hựu vấn: Điên đảo tưởng, thục vi bổn?

Đáp viết: Vô trụ vi bổn.

Lại hỏi: “Tư tưởng điên đảo lấy chi làm gốc?”

Đáp rằng: “Không có chỗ trụ là gốc.”

 

Hựu vấn: Vô trụ, thục vi bổn?

Đáp viết: Vô trụ tắc vô bổn.

Lại hỏi: “Không có chỗ trụ lấy chi làm gốc?”

Đáp rằng: “Không có chỗ trụ thì không có gốc.

 

Văn-thù-sư-lợi! Tùng vô trụ bổn lập nhất thiết pháp.

“Văn-thù Sư Lợi, do nơi gốc là không có chỗ trụ mà tạo ra tất cả các pháp.”

 

Thời, Duy-ma-cật thất, hữu nhất thiên nữ, kiến chư thiên nhân, văn sở thuyết pháp, tiện hiện kỳ thân. Tức dĩ thiên hoa, tán chư Bồ Tát, đại đệ tử thượng. Hoa chí chư Bồ Tát, tức giai đọa lạc, chí đại đệ tử, tiện trước bất đọa. Nhất thiết đệ tử thần lực khử hoa, bất năng linh khử.

Lúc ấy, nơi thất của Duy-ma-cật có một vị thiên nữ, thấy chư thiên và mọi người nghe thuyết pháp, bèn hiện hình ra, dùng hoa trời rảy lên cúng dường chư Bồ Tát và các đại đệ tử. Những đóa hoa chạm đến chư Bồ Tát rồi đều rơi xuống hết, nhưng chạm đến các vị đại đệ tử thì dính chắc vào người chẳng rơi. Tất cả các vị đại đệ tử đều dùng sức thần mà gỡ hoa ra, nhưng chẳng thể gỡ được.

 

Nhĩ thời, thiên nữ vấn Xá-lỵ-phất: Hà cố khử hoa?

Đáp viết: Thử hoa bất như pháp, thị dĩ khử chi.

Lúc ấy, thiên nữ hỏi Xá Lợi-phất: “Tại sao ông gỡ hoa?”

Đáp rằng: “Cài hoa này chẳng đúng theo pháp, nên tôi gỡ bỏ.”

 

Thiên viết: Vật vị thử hoa vi bất như pháp. Sở dĩ giả hà? Thị hoa vô sở phân biệt. Nhân giả tự sinh phân biệt tưởng nhĩ. Nhược ư Phật pháp xuất gia sở hữu phân biệt vi bất như pháp. Nhược vô sở phân biệt, thị tắc như pháp.

Thiên nữ nói: “Đừng bảo rằng hoa này chẳng đúng theo pháp. Hoa này vốn không có chỗ phân biệt, tự ngài khởi lên tư tưởng phân biệt. Người xuất gia theo Phật mà có tư tưởng phân biệt là không đúng như pháp. Nếu không có chỗ phân biệt, đó là đúng với pháp.

 

Quán chư Bồ Tát, hoa bất trước giả, dĩ đoạn nhất thiết phân biệt tưởng cố. Thí như nhân úy thời, phi nhân đắc kỳ tiện. Như thị đệ tử úy sinh tử cố, sắc, thanh, hương, vị, xúc đắc kỳ tiện dã. Dĩ ly úy giả, nhất thiết ngũ dục vô năng vi dã. Kết tập vị tận, hoa trước thân nhĩ. Kết tập tận giả, hoa bất trước dã.

Hãy nhìn các vị Bồ Tát kia, hoa chẳng dính vào thân, là vì các ngài đã đoạn tuyệt tất cả những tư tưởng phân biệt. Tỷ như người ta đương cơn sợ sệt, thời loài phi nhân dễ bề làm hại. Cũng như vậy, vị đệ tử nào sợ sệt cuộc sinh tử, thời hình sắc, âm thanh, hương vị, cảm xúc, sẽ dễ bề làm hại. Tự mình lìa khỏi sợ sệt, tất cả năm dục chẳng làm gì mình được. Phiền não trói buộc chưa hết thì hoa kia còn dính mắc vào thân. Như phiền não trói buộc đã hết, hoa ấy chẳng dính được vào.”

 

Xá-lỵ-phất ngôn: Thiên chỉ thử thất, kỳ dĩ cửu như?

Đáp viết: Ngã chỉ thử thất, như kỳ niên giải thoát.

Xá Lợi-phất hỏi: “Thiên nữ ở thất này đã bao lâu rồi?”

Đáp rằng: “Tôi ở trong thất này cũng lâu như thời gian ông được giải thoát.”

 

Xá-lỵ-phất ngôn: Chỉ thử cửu da?

Thiên viết: Kỳ niên giải thoát, diệc hà như cửu?

Xá Lợi-phất nói: “Ở đây lâu vậy sao?”

Thiên nữ hỏi lại: “Ông được giải thoát cũng lâu lắm rồi sao?”

 

Xá-lỵ-phất mặc nhiên bất đáp.

Xá Lợi-phất lặng thinh chẳng đáp.

 

Thiên viết: Như hà kỳ cựu đại trí nhi mặc?

Thiên nữ hỏi: “Bậc kỳ cựu đại trí, sao lại lặng thinh?”

 

Đáp viết: Giải thoát giả, vô sở ngôn thuyết. Cố ngô ư thị bất tri sở vân.

Đáp rằng: “Giải thoát đó, không thể dùng lời nói mà giải bày. Cho nên đối với việc ấy, tôi chẳng biết phải nói thế nào.”

 

Thiên viết: Ngôn thuyết, văn tự giai giải thoát tướng. Sở dĩ giả hà? Giải thoát giả, bất nội, bất ngoại, bất tại lưỡng gian. Văn tự diệc bất nội, bất ngoại, bất tại lưỡng gian.

Thiên nữ nói: “Ngôn ngữ, văn tự đều là tướng của giải thoát. Tại sao vậy? Giải thoát ấy là: chẳng ở bên trong, chẳng ở bên ngoài, chẳng ở khoảng giữa của hai bên. Văn tự cũng chẳng ở bên trong, chẳng ở bên ngoài, chẳng ở khoảng giữa của hai bên.

 

Thị cố, Xá-lỵ-phất! Vô ly văn tự thuyết giải thoát dã. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết chư pháp thị giải thoát tướng.

“Xá Lợi-phất! Chớ nên lìa văn tự mà nói giải thoát. Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều là tướng của giải thoát.”

 

Xá-lỵ-phất ngôn: Bất phục dĩ ly dâm, nộ, si vi giải thoát hồ?

Xá Lợi-phất hỏi: “Chẳng phải là nhờ lìa dâm, nộ, si mà được giải thoát sao?”

 

Thiên viết: Phật vị tăng thượng mạn nhân, thuyết: ly dâm nộ si vi giải thoát nhĩ. Nhược vô tăng thượng mạn giả, Phật thuyết: dâm nộ si tánh, tức thị giải thoát.

Thiên nữ nói: “Với những kẻ có lòng kiêu mạn, Phật dạy rằng: lìa dâm, nộ, si là giải thoát. Những ai không có lòng kiêu mạn, Phật dạy rằng: tánh của dâm, nộ, si là giải thoát.”

 

Xá-lỵ-phất ngôn: Thiện tai, thiện tai! Thiên nữ, nhữ hà sở đắc, dĩ hà vi chứng, biện nãi như thị?

Xá Lợi-phất nói: “Lành thay, lành thay! Thiên nữ, cô đắc quả chi, nhờ chứng bậc gì mà biện luận như thế?

 

Thiên viết: Ngã vô đắc, vô chứng, cố biện như thị. Sở dĩ giả hà? Nhược hữu đắc, hữu chứng giả, tắc ư Phật pháp vi tăng thượng mạn.

Thiên nữ nói: “Tôi không có chỗ đắc, không có chỗ chứng, nên biện luận như thế. Tại sao vậy? Nếu có chỗ đắc, có chỗ chứng, thời đối với Phật pháp là kẻ tăng thượng mạn.”

 

Xá-lỵ-phất vấn thiên: Nhữ ư tam thừa, vi hà chí cầu?

Xá Lợi-phất hỏi thiên nữ: “Đối với ba thừa, chí cô cầu thừa nào?”

 

Thiên viết: Dĩ Thanh văn pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Thanh văn. Dĩ nhân duyên pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Bích chi Phật. Dĩ đại bi pháp hóa chúng sinh cố, ngã vi Đại thừa.

Thiên nữ nói: “Nếu cần đem pháp Thanh văn mà giáo hóa chúng sinh, thì tôi làm Thanh văn. Nếu cần đem pháp nhân duyên mà giáo hóa chúng sinh, thì tôi làm Bích-chi Phật. Nếu cần đem pháp đại bi mà giáo hóa chúng sinh, thì tôi thực hành Đại thừa.

 

Xá-lỵ-phất! Như nhân nhập chiêm-bặc lâm, duy khứu chiêm-bặc, bất khứu dư hương. Như thị nhược nhập thử thất, đản văn Phật công đức chi hương, bất nhạo văn Thanh văn, Bích chi Phật công đức hương dã.

“Xá Lợi-phất! Như người vào rừng chiêm-bặc, chỉ ngửi thấy mùi hoa chiêm-bặc mà thôi chứ chẳng ngửi thấy mùi thơm nào khác. Cũng vậy, người vào thất này chỉ nghe hương thơm công đức Phật mà thôi, chứ chẳng thích nghe hương thơm công đức của Thanh văn và Bích chi Phật.

 

Xá-lỵ-phất! Kỳ hữu Thích, Phạm, Tứ thiên vương, chư thiên, long, quỷ thần đẳng, nhập thử thất giả, văn tư thượng nhân giảng thuyết chánh pháp, giai nhạo Phật công đức chi hương, phát tâm nhi xuất.

“Xá Lợi-phất! Những vị như Đế-thích, Phạm vương, Bốn thiên vương, chư thiên, rồng, quỷ thần, khi vào thất này nghe vị thượng nhân đây giảng thuyết chánh pháp, thảy đều ưa thích hương thơm công đức Phật, đều phát tâm cầu quả Phật và lui ra.

 

Xá-lỵ-phất! Ngô chỉ thử thất thập hữu nhị niên, sơ bất văn thuyết Thanh văn, Bích chi Phật pháp. Đản văn Bồ Tát đại từ đại bi, bất khả tư nghị chư Phật chi pháp.

“Xá Lợi-phất! Tôi ở tại thất này đã được mười hai năm, chẳng hề nghe thuyết diễn pháp Thanh văn và pháp Bích chi Phật, chỉ nghe thuyết Đại thừa đại bi của Bồ Tát và pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật.

 

Xá-lỵ-phất! Thứ thất thường hiện bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp.

“Xá Lợi-phất! Trong thất này thường hiện ra tám pháp chưa từng có và khó được. Tám pháp đó là gì?

 

Hà đẳng vi bát? Thử thất thường dĩ kim sắc quang chiếu, trú dạ vô dị. Bất dĩ nhật nguyệt sở chiếu vi minh. Thị vi nhất vị tằng hữu nan đắc chi pháp.

“Thất này thường dùng hào quang vàng ròng mà soi sáng, ban ngày cũng như ban đêm, chẳng dùng ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Đó là pháp thứ nhất chưa từng có và khó được.

 

Thử thất nhập giả, bất vi chư cấu chi sở não giã. Thị vi nhị vị tằng hữu nan đắc chi pháp. Thử thất thường hữu Thích, , Tứ thiên vương, tha phương Bồ Tát lai hội bất tuyệt. Thị vi tam vị tằng hữu nan đắc chi pháp.

“Thất này, khi người ta vào chẳng bị các cấu nhơ làm rối loạn. Đó là pháp thứ hai chưa từng có và khó được.“Thất này thường có Đế-thích, Phạm vương, bốn Thiên vương, chư Bồ Tát các phương khác hội đến chẳng dứt. Đó là pháp thứ ba chưa từng có và khó được.

 

Thử thất thường thuyết lục ba-la-mật, bất thối chuyển pháp. Thị vi tứ vị tằng hữu nan đắc chi pháp. Thử thất thường tác thiên nhân đệ nhất chi nhạc, huyền xuất vô lượng pháp hóa chi thanh. Thị vi ngũ vị tằng hữu nan đắc chi pháp. Thử thất hữu tứ đại tạng, chúng bảo tích mãn, chu cùng tế phạp, cầu đắc vô tận. Thị vi lục vị tằng hữu nan đắc chi pháp.

“Thất này là nơi thường thuyết diễn sáu ba-la mật, là những pháp chẳng thối chuyển. Đó là pháp thứ tư chưa từng có và khó được. “Thất này là nơi thường trỗi âm nhạc bậc nhất của chư thiên và nhân loại, từ nơi dây đàn phổ ra tiếng ca ngâm, diễn vô lượng pháp hóa. Đó là pháp thứ năm chưa từng có và khó được. Thất này có bốn kho tàng lớn, chứa đầy các của quý, chu cấp những kẻ bần cùng, cứu tế những người thiếu hụt, ai cầu thì được, dùng không hết. Đó là pháp thứ sáu chưa từng có và khó được.

 

Thử thất Thích-ca Mâu-ni Phật, A-di-đà Phật, A-súc Phật, Bảo Đức, Bảo Viêm, Bảo Nguyệt, Bảo Nghiêm, Nan Thắng, Sư Tử Hưởng, Nhất Thiết Lợi Thành, như thị đẳng thập phương vô lượng chư Phật, thị thượng nhân niệm thời, tức giai vị lai, quảng thuyết chư Phật bí yếu pháp tạng. Thuyết dĩ hoàn khứ. Thị vi thất vị tằng hữu nan đắc chi pháp.

“Tại thất này, Phật Thích-ca Mâu-ni, Phật A-di đà, Phật A-súc, Phật Bảo Đức, Phật Bảo Viêm, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử Hưởng, Phật Nhất Thiết Lợi Thành… vô lượng chư Phật mười phương như vậy đều hiện đến khi vị thượng nhân đây niệm tưởng các ngài. Các ngài thuyết rộng pháp tạng bí yếu của chư Phật. Thuyết xong, bèn trở về. Đó là pháp thứ bảy chưa từng có và khó được.

 

Thử thất, nhất thiết chư thiên nghiêm sức cung điện, chư Phật tịnh độ, giai ư trung hiện. Thị vi bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp.

“Trong thất này, cung điện nghiêm sức của tất cả chư thiên, các cõi tịnh độ của chư Phật đều hiện vào. Đó là pháp thứ tám chưa từng có và khó được.

 

Xá-lỵ-phất! Thử thất thường hiện bát vị tằng hữu nan đắc chi pháp. Thùy hữu kiến tư bất tư nghị sự, nhi phục nhạo ư Thanh văn pháp hồ?

“Xá Lợi-phất! Trong thất này, thường hiện ra tám pháp chưa từng có ấy. Ai là người đã thấy việc chẳng thể nghĩ bàn như vậy mà lại còn ưa thích pháp Thanh văn?”

 

Xá-lỵ-phất ngôn: Nhữ hà dĩ bất chuyển nữ thân?

Thiên viết: Ngã tùng thập nhị niên lai, cầu nữ nhân tướng, liễu bất khả đắc. Đương hà sở chuyển? Thí như ảo sư hóa tác ảo nữ. Nhược hữu nhân vấn: Hà dĩ bất chuyển nữ thân? Thị nhân vi chánh vấn phủ?

Xá Lợi-phất hỏi: “Sao cô chẳng chuyển thân nữ làm thân nam?”

Thiên nữ nói: “Từ mười hai năm nay, tôi vẫn cầu cái tướng người nữ mà chẳng được, lấy gì mà chuyển? Tỷ như một nhà ảo thuật hóa ra một ảo nữ. Nếu có người hỏi nhà ảo thuật ấy rằng: ‘Sao ông chẳng chuyển cái thân nữ này đi?’ Người ấy có đặt câu hỏi một cách chánh đáng không?”

 

Xá-lỵ-phất ngôn: Phất dã. Ảo vô định tướng, đương hà sở chuyển?

Thiên viết: Nhất thiết chư pháp diệc phục như thị, vô hữu định tướng. Vân hà nãi vấn: bất chuyển nữ thân?

Xá Lợi-phất nói: “Không. Việc ảo hóa không có tướng nhất định, lấy gì để chuyển?”

Thiên nữ nói: “Tất cả các pháp lại cũng như vậy, không có tướng nhất định. Sao ngài lại hỏi việc chẳng chuyển thân nữ?”

 

Tức thời, thiên nữ dĩ thần thông lực, biến Xá-lỵ-phất linh như thiên nữ. Thiên tự hóa thân như Xá-lỵ-phất, nhi vấn ngôn: Hà dĩ bất chuyển nữ thân?

Tức thời, thiên nữ dùng sức thần thông biến Xá Lợi Phất ra hình thiên nữ, còn thiên nữ lại hóa thân giống như Xá Lợi-phất, rồi hỏi rằng: “Tại sao ngài chẳng chuyển thân nữ?”

 

Xá-lỵ-phất dĩ thiên nữ tượng nhi đáp ngôn: Ngã kim bất tri hà chuyển nhi biến vi nữ thân.

Xá Lợi-phất khi ấy mang hình dáng thiên nữ, đáp rằng: “Nay tôi chẳng biết chuyển biến thế nào mà lại thành thân nữ?”

 

Thiên viết: Xá-lỵ-phất! Nhược năng chuyển thử nữ thân, tắc nhất thiết nữ nhân diệc đương năng chuyển. Như Xá-lỵ-phất, phi nữ nhi hiện nữ thân. Nhất thiết nữ nhân diệc phục như thị, tuy hiện nữ thân, nhi phi nữ dã. Thị cố Phật thuyết: Nhất thiết chư pháp phi nam phi nữ.

Thiên nữ nói: “Như Xá Lợi-phất có thể chuyển đổi thân nữ ấy, thì tất cả người nữ cũng sẽ chuyển được thân của họ. Như Xá Lợi-phất chẳng phải người nữ mà hiện ra thân nữ, tất cả người nữ lại cũng như vậy. Tuy hiện làm thân nữ, nhưng chẳng phải là nữ. Vậy nên Phật có dạy: Tất cả các pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ.”

 

Tức thời, thiên nữ hoàn nhiếp thần lực. Xá-lỵ-phất thân hoàn phục như cố.

Tức thời, thiên nữ thâu lại sức thần, Xá Lợi-phất trở lại hình dáng cũ.

 

Thiên vấn Xá-lỵ-phất: Nữ thân sắc tướng, kim hà sở tại?

Xá-lỵ-phất ngôn: Nữ thân sắc tướng vô tại, vô bất tại.

Thiên nữ hỏi Xá Lợi-phất: “Sắc tướng thân nữ hiện giờ tại đâu?”

Xá Lợi-phất đáp: “Sắc tướng thân nữ chẳng phải tại, chẳng phải chẳng tại.”

 

Thiên viết: Nhất thiết chư pháp diệc phục như thị, vô tại, vô bất tại. Phù vô tại, vô bất tại giả, Phật sở thuyết dã

Thiên nữ nói: “Tất cả các pháp cũng như vậy, đều chẳng phải tại, chẳng phải chẳng tại. Chẳng phải tại, chẳng phải chẳng tại, đó là thuyết của Phật vậy.”

 

Xá-lỵ-phất vấn Thiên: Nhữ ư thử một, đương sinh hà sở?

Thiên viết: Phật hóa sở sinh, ngô như bỉ sinh.

Xá Lợi-phất hỏi thiên nữ: “Khi thác ở chốn này, cô sẽ sinh về đâu?”

Thiên nữ đáp: “Phật hóa sinh như thế nào, tôi cũng sinh ra như thế ấy.”

 

Xá-lỵ-phất viết: Phật hóa sở sinh, phi một sinh dã.

Thiên viết: Chúng sinh do nhiên, vô một sinh dã.

Xá Lợi-phất nói: “Phật hóa sinh, chẳng phải thác rồi sinh.”

Thiên nữ nói: “Chúng sinh cũng vậy, đều chẳng phải thác rồi sinh.”

 

Xá-lỵ-phất vấn thiên: Nhữ cửu như đương đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?

Thiên viết: Như Xá-lỵ-phất hoàn vi phàm phu, ngã nãi đương thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Xá Lợi-phất hỏi thiên nữ: “Bao lâu nữa cô sẽ đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề?”

Thiên nữ đáp: “Như ngài Xá Lợi-phất trở lại làm kẻ phàm phu, khi ấy tôi sẽ thành A-nậu-đa-la Tam miệu Tam-bồ-đề.”

 

Xá-lỵ-phất ngôn: Ngã tác phàm phu, vô hữu thị xứ.

Thiên viết: Ngã đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, diệc vô thị xứ. Sở dĩ giả hà? Bồ-đề vô trụ xứ. Thị cố vô hữu đắc giả.

Xá Lợi-phất nói: “Tôi làm kẻ phàm phu, không thể có việc ấy.”

Thiên nữ nói: “Tôi đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, cũng không thể có. Tại sao vậy? Bồ-đề không có chỗ trụ, nên không có người chứng đắc.”

 

Xá-lỵ-phất ngôn: Kim chư Phật đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, dĩ đắc, đương đắc như Hằng hà sa. Giai vị hà hồ?

Thiên viết: Giai dĩ thế tục văn tự sổ cố, thuyết hữu tam thế. Phi vị Bồ-đề hữu khứ lai, kim.

Xá Lợi-phất nói: “Hiện nay, chư Phật đắc quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chư Phật đã đắc quả và chư Phật sẽ đắc quả nhiều như số cát sông Hằng. Những việc như vậy thì bảo sao?”

Thiên nữ đáp: “Thảy đều do văn tự thế tục ghi chép, nên nói có ba đời, chứ chẳng phải Bồ-đề lại có quá khứ, vị lai, hiện tại.”

 

Thiên viết: Xá-lỵ-phất! Nhữ đắc A-la-hán đạo da?

Viết: Vô sở đắc cố nhi đắc.

Thiên nữ hỏi: “Xá Lợi-phất! Ông có đắc quả A-la hán chăng?”

Đáp: “Vì không có chỗ đắc cho nên đắc.”

 

Thiên viết: Chư Phật, Bồ Tát diệc phục như thị: vô sở đắc cố nhi đắc.

Thiên nữ nói: “Chư Phật, Bồ Tát lại cũng như vậy. Vì các ngài không có chỗ đắc cho nên đắc.”

 

Nhĩ thời, Duy-ma-cật ngứ Xá-lỵ-phất: Thị thiên nữ dĩ tằng cúng dường cửu thập nhị ức chư Phật, dĩ năng du hý Bồ Tát thần thông, sở nguyện cụ túc, đắc vô sinh nhẫn, trụ bất thối chuyển. Dĩ bổn nguyện cố, tùy ý năng hiện, giáo hóa chúng sinh.

Lúc ấy, Duy-ma-cật bảo Xá Lợi-phất: “Vị thiên nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức chư Phật, đã thực hiện được những cuộc dạo chơi thần thông của Bồ Tát, sở nguyện đầy đủ, được đức nhẫn vô sinh, trụ ở địa vị chẳng thối chuyển. Vì bổn nguyện nên tùy ý mà hiện thân nữ để giáo hóa chúng sinh.”