Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Kệ Tán Ðâu Suất
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thứ 24
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại cung trời Ðâu Suất, trong pháp hội Hoa Nghiêm Ðiện Bảo Trang Nghiêm, khi đối với đại chúng diễn nói pháp lớn Hoa Nghiêm, thì Bồ Tát từ mười phương thế giới đến, các Ngài ở tại mỗi phương lựa chọn một vị đại Bồ Tát, để làm thượng thủ, dùng kệ để tán thán công đức của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni. Phẩm nầy là phẩm thứ hai mươi bốn.
Nhĩ thời, Phật thần lực cố, thập phương các hữu nhất đại Bồ-tát, nhất nhất các dữ vạn Phật sát vi trần số chư Bồ-tát câu, tùng vạn Phật sát vi trần số quốc độ ngoại chư thế giới trung, lai nghệ Phật sở.
Bấy giờ, do thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát. Mỗi vị đều cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật tụ lại. Từ trong các thế giới ngoài số hạt bụi vạn cõi Phật, đến chỗ đức Phật.
Giảng: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở tại cung trời Ðâu Suất, vì đại chúng pháp hội Hoa Nghiêm, trước lúc muốn nói, thì hiện ra đủ thứ sự trang nghiêm, đủ thứ sự tốt đẹp, đủ thứ âm nhạc, đủ thứ mây báu, đủ thứ hoa báu .v.v… Lúc đó, do đại oai thần lực của Ðức Phật, mỗi phương trong mười phương, đều có một vị đại Bồ Tát, làm thượng thủ, làm lãnh tụ trong các Bồ Tát. Mỗi vị đại Bồ Tát cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật, các Ngài đều từ các thế giới ngoài số hạt bụi vạn cõi Phật, đến chỗ Ðức Phật, làm ảnh hưởng chúng.
Kỳ danh viết: Kim cương Tràng Bồ-tát, kiên cố Tràng Bồ-tát, dũng mãnh Tràng Bồ-tát, quang minh tràng Bồ Tát, trí Tràng Bồ-tát, bảo Tràng Bồ-tát, tinh tấn Tràng Bồ-tát, ly cấu Tràng Bồ-tát, tinh tú Tràng Bồ-tát, Pháp Tràng Bồ-tát.
Danh hiệu của các Ngài là: Bồ Tát Kim Cang Tràng. Bồ Tát Kiên Cố Tràng. Bồ Tát Dũng Mãnh Tràng. Bồ Tát Quang Minh Tràng. Bồ Tát Trí Tràng. Bồ Tát Bảo Tràng. Bồ Tát Tinh Tấn Tràng. Bồ Tát Ly Cấu Tràng. Bồ Tát Tinh Tú Tràng. Bồ Tát Pháp Tràng.
Giảng: Danh hiệu của mười vị đại Bồ Tát nầy, đều dùng chữ tràng. Tràng có năm ý nghĩa:
- Nghĩa cao xuất. Biểu thị Tam Bảo (Thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng).
- Nghĩa kiến lập. Ðại bi đại trí, kiến lập chúng sinh và bồ đề.
- Nghĩa quy hướng. Tức là đại bi nhiếp thọ chúng sinh, trí nguyện nhiếp thọ căn lành, quy hướng bồ đề và thực tế.
- Nghĩa thôi diễn. Giống như tràng báu mãnh tướng, hàng phục được tất cả mười đại quân ma.
- Nghĩa diệt bố uý. Giống như lưới La Tràng của trời Ðế Thích, chẳng sợ hoặc nghiệp, cho nên gọi là tràng.
Danh hiệu của mười vị đại Bồ Tát đó là:
- Phương đông Bồ Tát Kim Cang Tràng, Ngài là chủ thuyết pháp của bổn hội (hội thứ năm). Kim cang đại biểu cho kiên cố sắc bén. Kiên cố, hàng nhị thừa thật tế không thể hoại. Sắc bén, có thể dứt được nghi ngờ khó dứt. Do đó: “Ái kiến không thể động, gọi là kiên; không chỗ nào không cứu được, gọi là sắc bén”.
- Phương nam Bồ Tát Kiên Cố Tràng, tâm bồ đề của Ngài rất kiên cố, vì không hoại hồi hướng. Lại vì quán sát chiêm ngưỡng Phật không nhàm mỏi, cho nên gọi là Bồ Tát Kiên Cố Tràng.
- Phương tây Bồ Tát Dũng Mãnh Tràng, vị Bồ Tát nầy dũng mãnh tinh tấn, giáo hoá chúng sinh, tuyệt đối không nghỉ ngơi, cũng chẳng thối chuyển. Dũng là dũng về sửa đổi lỗi lầm, mãnh là mãnh tiến về trước. Vì dũng mãnh sửa lỗi, thương tiếc thời gian, cho nên gọi là Bồ Tát Dũng Mãnh Tràng.
- Phương bắc Bồ Tát Quang Minh Tràng, vị Bồ Tát nầy dùng sức đại bi, phóng trí huệ đại quang minh, chiếu phá tan sự đen tối ngu si. Ở trong quang minh, lại hiện ra tràng báu, khiến cho tất cả căn lành, không chỗ nào mà không đến được, cho nên gọi là Bồ Tát Quang Minh Tràng.
- Phương đông bắc Bồ Tát Trí Tràng, trí huệ của vị Bồ Tát nầy rất cao, không có gì sánh bằng. Dùng trí huệ chỉ đạo vạn hạnh, sinh ra vô tận, cho nên gọi là Bồ Tát Trí Tràng.
- Phương đông nam Bồ Tát Bảo Tràng, tâm từ bi của vị Bồ Tát nầy như tràng báu. Dùng trí huệ viên tịnh, chiếu rõ lý bình đẳng. Không ngại ứng hiện, tuỳ thuận tất cả. Quang minh giống như báu ma ni, cho nên gọi là Bồ Tát Bảo Tràng.
- Phương tây nam Bồ Tát Tinh Tấn Tràng, vị Bồ Tát nầy, thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, ngày cũng tinh tấn, đêm cũng tinh tấn, không giải đãi, không phóng dật, cho nên gọi là Bồ Tát Tinh Tấn Tràng.
- Phương tây bắc Bồ Tát Ly Cấu Tràng, vị Bồ Tát nầy lìa khỏi tất cả nhiễm ô, trong tâm rất thanh tịnh, thể chân như cũng thanh tịnh, lại thanh tịnh thế gian, cho nên gọi là Bồ Tát Ly Cấu Tràng.
- Phương dưới Bồ Tát Tinh Tú Tràng, trí huệ của vị Bồ Tát nầy giống như tinh tú, chiếu sáng trong hư không, cho nên gọi là Bồ Tát Tinh Tú Tràng.
- Phương trên Bồ Tát Pháp Tràng, vị Bồ Tát nầy, kiến lập pháp tràng khắp mọi nơi, phá lưới nghi trùng trùng, biết pháp chân thật, vào khắp pháp giới, tức sự tu hành chẳng có phân biệt, cho nên gọi là Bồ Tát Pháp Tràng.
Sở tòng lai quốc, vị: diệu bảo thế giới, diệu lạc thế giới, diệu ngân thế giới, diệu kim thế giới, diệu ma-ni thế giới, diệu Kim cương thế giới, diệu ba-đầu-ma thế giới, diệu ưu bát la thế giới, diệu chiên đàn thế giới, diệu hương thế giới.
Đến từ các cõi nước. Đó là: Thế giới Diệu Bảo. Thế giới Diệu Lạc. Thế giới Diệu Ngân. Thế giới Diệu Kim. Thế giới Diệu Ma Ni. Thế giới Diệu Kim Cang. Thế giới Diệu Ba Đầu Ma. Thế giới Diệu Bát La Hoa. Thế giới Diệu Chiên Đàn. Thế giới Diệu Hương.
Giảng: Những vị đại Bồ Tát đó đến từ thế giới nào ? Có vị đến từ thế giới Diệu Bảo. Có vị đến từ thế giới Diệu Ngân. Có vị đến từ thế giới Diệu Kim. Có vị đến từ thế giới Diệu Ma Ni. Có vị đến từ thế giới Diệu Kim Cang. Có vị đến từ thế giới Diệu Ba Ðầu Ma (hoa sen đỏ). Có vị đến từ thế giới Diệu Bát La Hoa (hoa sen xanh). Có vị đến từ thế giới Diệu Chiên Ðàn. Có vị đến từ thế giới Diệu Hương. Ðều từ trong những thế giới nầy, đến thế giới Ta Bà cung trời Ðâu Suất pháp hội Hoa Nghiêm, lắng nghe Ðức Phật Thích Ca diễn nói pháp lớn Hoa Nghiêm.
Các ư Phật sở, tịnh tu phạm hạnh, sở vị: Vô tận tràng Phật, phong tràng Phật, giải thoát tràng Phật, uy nghi tràng Phật, minh tướng tràng Phật, thường tràng Phật, tối thắng tràng Phật, tự tại tràng Phật, Phạm Tràng Phật, quan sát tràng Phật.
Mỗi vị đại Bồ Tát, đều ở chỗ đức Phật, tịnh tu phạm hạnh. Đó là: Phật Vô Tận Tràng. Phật Phong Tràng. Phật Giải Thoát Tràng. Phật Oai Nghi Tràng. Phật Minh Tướng Tràng. Phật Thường Tràng. Phật Tối Thắng Tràng. Phật Tự Tại Tràng. Phật Phạm Tràng. Phật Quán Sát Tràng.
Giảng: Mười vị đại Bồ Tát đó, từ mười phương thế giới đến. Trong mười phương thế giới, thường theo mười vị Phật học tập Phật Pháp, tịnh tu phạm hạnh (hạnh thanh tịnh), xa lìa tất cả pháp nhiễm ô. Có vị từ đạo tràng của Phật Vô Tận Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Phong Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Giải Thoát Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Oai Nghi Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Minh Tướng Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Thường Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Tối Thắng Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Tự Tại Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Phạm Tràng mà đến. Có vị từ đạo tràng của Phật Quán Sát Tràng mà đến.
Kỳ chư Bồ-tát, chí Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc. dĩ Phật thần lực, tức hóa tác diệu Bảo Tạng sư tử chi tọa, bảo võng di phước, châu táp biến mãn. chư Bồ-tát chúng, tùy sở lai phương, các ư kỳ thượng kết già phu tọa.
Các vị đại Bồ Tát đó, đến chỗ đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật. Nhờ thần lực của đức Phật, liền hoá làm toà sư tử Diệu Bảo Tạng. Có lưới báu giăng che đầy khắp chung quanh. Các chúng Bồ Tát, tuỳ theo phương của mình đến, ai nấy đều ngồi kiết già trên toà.
Giảng: Các vị đại Bồ Tát đó, đến chỗ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni rồi, thân tâm cung kính, đảnh lễ Ðức Phật. Nhờ đại oai thần lực của Phật, ở trước mặt mỗi vị Bồ Tát, liền hoá hiện ra toà sư tử Diệu Bảo Tạng. Ở trên mỗi toà, đều có lưới báu giăng che khắp đầy tất cả mọi nơi. Hết thảy các Bồ Tát, đều tuỳ theo phương hướng của mình đến, ai nấy đều ngồi kiết già trên toà sư tử.
Kỳ thân tất phóng bách thiên ức na-do-tha a-tăng-kì thanh Tịnh Quang minh, thử Vô Lượng Quang giai tùng Bồ Tát thanh tịnh tâm bảo ly chúng quá ác đại nguyện sở khởi, hiển thị nhất thiết chư Phật tự tại thanh tịnh chi Pháp. dĩ chư Bồ-tát bình đẳng nguyện lực, năng phổ cứu hộ nhất thiết chúng sanh, nhất thiết thế gian chi sở lạc kiến, kiến giả bất hư, tất đắc điều phục.
Thân của các vị đó, đều phóng ra trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ quang minh thanh tịnh. Vô lượng quang minh đó, đều từ tâm báu thanh tịnh của Bồ Tát, lìa các lỗi ác đại nguyện mà sinh ra. Hiển bày pháp thanh tịnh tự tại của tất cả chư Phật. Dùng nguyện lực bình đẳng của các Bồ Tát, có thể khắp cứu hộ tất cả chúng sinh. Tất cả sự ưa thấy của thế gian, kẻ thấy được đều không hư vọng, thảy đều được điều phục.
Giảng: Trên thân của mỗi vị đại Bồ Tát đó, phóng ra trăm ngàn ức Na do tha A tăng kỳ quang minh thanh tịnh. Vô lượng quang minh đó, đều từ tâm báu thanh tịnh của Bồ Tát, lìa các lỗi ác đại nguyện mà sinh ra. Gì là lỗi ác ? Tức là ích kỷ lợi mình, chẳng muốn kẻ khác nhìn thấy và biết lỗi lầm của mình. Bồ Tát chẳng có lỗi ác như thế. Bồ Tát thuở xưa trong đời đời kiếp kiếp, phát đủ thứ đại nguyện độ chúng sinh, cho nên sinh ra vô lượng quang minh.
Bồ Tát hiển rõ chỉ bày cho tất cả chúng sinh, làm thế nào để tu hành pháp thanh tịnh tự tại của chư Phật. Cho nên mới hiển bày pháp thanh tịnh tự tại của chư Phật, khiến cho tất cả chúng sinh y theo pháp mà tu hành. Bồ Tát dùng nguyện lực bình đẳng đã phát, chẳng lựa chọn, chẳng phân biệt, cứu hộ khắp tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh thế gian, đều hoan hỉ được thấy Phật Bồ Tát. Ai thấy được, thì người đó gieo xuống căn lành bồ đề. Hết thảy chúng sinh cang cường khó điều, khó phục, thấy được Phật Bồ Tát rồi, thì tự nhiên bị điều phục.
Kỳ Bồ Tát chúng, tất dĩ thành tựu vô lượng công đức. Sở vị: Biến du nhất thiết chư Phật quốc độ, vô sở chướng ngại, kiến vô y chỉ thanh tịnh Pháp thân. dĩ trí tuệ thân, hiện vô lượng thân, biến vãng thập phương thừa sự chư Phật.
Chúng Bồ Tát đó, đều đã thành tựu vô lượng công đức. Đó là: Du hí tất cả cõi nước chư Phật, chẳng có chướng ngại. Thấy pháp thân thanh tịnh không y chỉ. Dùng thân trí huệ, hiện vô lượng thân, đến khắp mười phương thừa sự chư Phật. Vào nơi vô lượng vô biên pháp tự tại không thể nghĩ bàn của chư Phật. Nhập ư chư Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghị tự tại chi Pháp
Giảng: Các chúng Bồ Tát đến từ mười phương thế giới, các Ngài đều đã thành tựu vô lượng vô biên công đức. Các Ngài hy vọng tất cả chúng sinh, cũng có thể thành tựu vô lượng vô biên công đức. Ðây tức là tinh thần của Bồ Tát, chẳng có tư tưởng ích kỷ lợi mình. Do đó:
“Tự giác giác tha
Tự độ độ tha
Tự lợi lợi tha”.
Bồ Tát thành tựu vô lượng vô biên công đức rồi, có thể đi đến khắp tất cả cõi nước chư Phật, chẳng có mọi sự chướng ngại nào, thấy được pháp thân thanh tịnh chẳng có chỗ y chỉ. Pháp thân là tận hư không khắp pháp giới, vô tại vô bất tại, Do đó: “Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật”. Tỳ Lô Giá Na dịch là “khắp tất cả mọi nơi”. Vì khắp tất cả mọi nơi, cho nên chẳng chỗ y chỉ. Không chỗ y chỉ mới là pháp thân thanh tịnh. Dùng thân trí huệ để hiện vô lượng thân, đến khắp mười phương thế giới thừa sự chư Phật, cúng dường chư Phật. Gần gũi chư Phật như vậy mới có thể chứng được vô lượng vô biên pháp nhậm vận tự tại không thể nghĩ bàn của chư Phật.
Trụ ư vô lượng nhất thiết trí môn, dĩ trí quang minh thiện liễu chư Pháp. ư chư Pháp trung đắc vô sở úy, tùy sở diễn thuyết, cùng vị lai tế. Biện tài vô tận, dĩ đại trí tuệ khai tổng trì môn, Tuệ-nhãn thanh tịnh nhập thâm pháp giới, trí tuệ cảnh giới vô hữu biên tế, cứu cánh thanh tịnh do nhược hư không.
Trụ nơi vô lượng tất cả môn trí huệ, dùng trí huệ quang minh, khéo thấu rõ các pháp. Ở trong các pháp, đắc được vô sở uý, tuỳ chỗ diễn nói, hết thuở vị lai, biện tài vô tận. Dùng đại trí huệ, khai môn tổng trì. Mắt huệ thanh tịnh, vào pháp giới thâm sâu. Trí huệ cảnh giới, không có bờ mé, rốt ráo thanh tịnh, giống như hư không.
Giảng: Bồ Tát đã thành tựu vô lượng công đức, mới có thể trụ ở môn vô lượng nhất thiết trí huệ, dùng trí huệ quang minh, khéo thấu rõ tất cả các pháp. Ở trong các pháp đắc được vô sở uý, tuỳ chỗ diễn nói, hết thuở vị lai, cũng nói không hết. Phương tiện biện tài khéo léo, cũng chẳng có chướng ngại, cũng chẳng cùng tận. Dùng trí huệ rộng lớn, khai diễn pháp môn tổng trì. Bồ Tát có mắt huệ thanh tịnh, vào khắp pháp giới thâm sâu. Dùng pháp giới làm tâm, dùng pháp giới làm thể, dùng pháp giới làm tánh. Cảnh giới trí huệ tối cao chẳng có bờ mé. Rốt ráo thanh tịnh giống như hư không, vật gì cũng chẳng có.
Như thử thế giới Đâu suất thiên cung, chư Bồ-tát chúng như thị lai tập. Thập phương nhất thiết Đâu suất thiên cung, tất hữu như thị danh hiệu Bồ Tát nhi lai tập hội, sở tòng lai quốc, chư Phật danh hiệu, diệc giai đồng đẳng, vô hữu sái biệt.
Như cung trời Đâu Suất ở thế giới nầy, các chúng Bồ Tát vân tập như vậy. Mười phương tất cả cung trời Đâu Suất, đều có danh hiệu Bồ Tát như vậy, mà vân tập đến. Từ cõi nước đến, danh hiệu chư Phật, cũng đều giống nhau, chẳng có khác biệt.
Giảng: Giống như ở thế giới Ta Bà, trong pháp hội Hoa Nghiêm Cung Trời Ðâu Suất, hết thảy tất cả Bồ Tát, vân tập như vậy, lắng nghe Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói pháp lớn Hoa Nghiêm. Tất cả cung trời Ðâu Suất trong mười phương thế giới, cũng giống tình hình như vậy, hoàn toàn giống nhau. Cũng có nhiều Bồ Tát danh hiệu giống như vậy, mà vân tập đến. Ðến từ các cõi nước, tên gọi cũng như vậy. Danh hiệu của chư Phật cũng như vậy. Tóm lại, tất cả hết thảy đều giống nhau, chẳng có gì khác biệt. Ðây tức là cảnh giới sự sự vô ngại “Một làm vô lượng, vô lượng làm một”, là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Thanh tịnh pháp thân đầy khắp tất cả mọi nơi, xứ nầy có Phật, xứ kia cũng có Phật, Phật Phật đạo đồng. Xứ nầy có Bồ Tát, xứ kia cũng có Bồ Tát. Danh hiệu của Bồ Tát và Bồ Tát cũng giống nhau. Có phải là một chăng ? Vốn cũng chẳng có hai. Giống như máy truyền hình, trong gia đình nầy cũng cảnh giới nầy, gia đình kia cũng cảnh giới nầy. Một số người dùng khoa học để phát ra cảnh giới nầy. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở cung trời Ðâu Suất thế giới Ta Bà diễn nói pháp lớn Hoa Nghiêm, ở tại cung trời Ðâu Suất trong mười phương thế giới, cũng đồng thời hiện ra cảnh giới Phật đang diễn nói pháp lớn Hoa Nghiêm. Ðây cũng giống như đạo lý truyền hình. Dùng truyền hình làm ví dụ để mọi người dễ hiểu. Song, cảnh giới của chư Phật Bồ Tát vượt trội hơn cảnh giới truyền hình, diệu không thể tả.
Nhĩ thời, Thế Tôn tùng lượng (lưỡng) tất luân, phóng bách thiên ức na-do-tha quang minh, phổ chiếu thập phương tận Pháp giới, hư không giới, nhất thiết thế giới.
Bấy giờ, từ hai đầu gối của đức Thế Tôn, phóng ra trăm ngàn ức Na do tha quang minh, chiếu khắp mười phương, tận pháp giới hư không giới, tất cả thế giới.
Giảng: Lúc đó, từ hai đầu gối của Ðức Thế Tôn, phóng ra trăm ngàn ức Na do tha quang minh, chiếu sáng khắp mười phương thế giới. Tận pháp giới, tận hư không giới, tận tất cả hết thảy thế giới.
Phóng quang minh ở hai đầu gối, là biểu thị Bồ Tát vị từ từ tăng lên cao. Biểu thị hồi nhân hướng quả. Cầu trên hướng dưới hồi hướng, tự tại vô ngại. Thăng lên cung trời Ðâu Suất nói pháp, hướng trên hướng dưới hành động tự do. Cho nên tại hội nầy, diễn nói pháp môn thập hồi hướng.
Bỉ chư Bồ-tát, giai kiến ư thử Phật thần biến tướng. Thử chư Bồ-tát, diệc kiến ư bỉ nhất thiết Như Lai thần biến chi tướng. Như thị Bồ Tát giai dữ Tỳ Lô Giá Na Như Lai, ư vãng tích thời, đồng chủng thiện căn, tu Bồ Tát hạnh.
Các Bồ Tát đó, đều thấy tướng thần thông biến hoá của Phật ở đây. Các Bồ Tát đó, cũng thấy tướng thần thông biến hoá của tất cả Như Lai đó. Như vậy các Bồ Tát, lúc thuở xưa, cùng gieo trồng căn lành, tu hạnh Bồ Tát, với Tỳ Lô Giá Na Như Lai.
Giảng: Các Bồ Tát trong mười phương thế giới, đều nhìn thấy tướng thần thông biến hoá của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà nầy. Các Bồ Tát trong thế giới Ta Bà, cũng đều nhìn thấy tướng thần thông biến hoá của tất cả Như Lai trong mười phương thế giới, hoàn toàn giống nhau. Thế giới nầy thế giới kia, mười phương các thế giới, hết thảy Bồ Tát, lúc thuở xưa cùng gieo trồng căn lành, cùng tu hành hạnh Bồ Tát với Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Phật Thích Ca Mâu Ni).
Tất dĩ ngộ nhập chư Phật tự tại thậm thâm giải thoát, đắc vô sái biệt Pháp giới chi thân, nhập nhất thiết độ nhi vô sở trụ. kiến vô lượng Phật, tất vãng thừa sự. ư nhất niệm trung, châu hàng Pháp giới, tự tại vô ngại. Tâm ý thanh tịnh, như vô giá bảo. vô lượng vô số chư Phật Như Lai, thường gia hộ niệm, cọng dữ Kỳ lực, đáo ư cứu cánh đệ nhất bỉ ngạn.
Đều đã ngộ nhập tự tại giải thoát thâm sâu của chư Phật, đắc được thân pháp giới không khác biệt. Vào tất cả cõi, mà chẳng chỗ trụ. Thấy vô lượng Phật, đều đến thừa sự. Ở trong một niệm, đi khắp pháp giới, tự tại vô ngại. Tâm ý thanh tịnh, như báu vô giá. Vô lượng vô số chư Phật Như Lai, thường gia trì hộ niệm, cùng ban cho sức lực, đến nơi rốt ráo bậc nhất bờ bên kia.
Giảng: Những vị Bồ Tát nầy, minh bạch tự tại và giải thoát của chư Phật rồi, chứng được thân pháp giới chẳng có phân biệt, tức cũng là pháp thân. Pháp thân nầy, vào được trong tất cả cõi nước, chẳng trụ đâu chẳng trụ (vô trụ vô bất trụ), chẳng tại đâu chẳng tại (vô tại vô bất tại). Ở trong pháp giới tất cả cõi nước, thấy được vô lượng vô số chư Phật. Bồ Tát đều đến trước thừa sự chư Phật, cúng dường chư Phật, gần gũi chư Phật. Ở trong một niệm đi khắp pháp giới. Tại sao Bồ Tát có được cảnh giới như thế ? Vì Bồ Tát đã chứng được thần thông tự tại vô ngại. Tâm ý của Bồ Tát thanh tịnh như hư không, chẳng có vật gì tồn tại, tôn trọng giống như báu vô giá. Ðược mười phương vô lượng vô số chư Phật, thường thường gia trì hộ niệm, cùng ban cho sức lực, đến được nơi rốt ráo bậc nhất bờ bên kia.
Hằng dĩ tịnh niệm trụ vô thượng giác, niệm niệm hằng nhập nhất thiết trí xứ. dĩ tiểu nhập Đại, dĩ Đại nhập tiểu, giai đắc tự tại, thông đạt vô ngại. dĩ đắc Phật thân, dữ Phật đồng trụ. Hoạch nhất thiết trí, tùng nhất thiết trí nhi sanh Kỳ thân. Nhất thiết Như Lai sở hạnh chi xứ, tất năng tùy nhập. khai xiển vô lượng trí tuệ Pháp môn, đáo Kim cương tràng đại trí bỉ ngạn
Luôn dùng tịnh niệm, trụ vô thượng giác. Niệm niệm luôn nhập vào nơi nhất thiết trí. Dùng nhỏ vào lớn, dùng lớn vào nhỏ, đều được tự tại, thông đạt vô ngại. Đã được thân Phật, đồng tánh với Phật, được nhất thiết trí. Từ nhất thiết trí mà sinh trí thân. Chỗ tu hành của tất cả Như Lai, đều có thể theo vào. Khai xiển vô lượng pháp môn trí huệ. Đến được kim cang tràng đại trí bờ bên kia.
Giảng: Bồ Tát thường dùng niệm thanh tịnh không nhiễm, trụ trong biển giác trí huệ vô thượng. Trong niệm niệm, thường vào nơi nhất thiết trí huệ. Cảnh giới nầy, dùng một hạt bụi mà nhiếp thế giới vào được, dùng thế giới mà vào được trong một hạt bụi. Ðây tức là cảnh giới dùng nhỏ vào lớn, dùng lớn vào nhỏ, viên dung vô ngại, nhậm vận tự tại, thông đạt vô ngại. Bồ Tát đã chứng được pháp thân của Phật, cho nên cùng ở với Phật, đắc được nhất thiết trí huệ. Thường phóng trí huệ quang minh, chẳng có vô minh. Từ trong nhất thiết trí huệ, sinh ra trí huệ thân. Pháp môn của tất cả chư Phật tu hành, hoàn toàn đều theo vào được. Ðã vào pháp môn trí huệ, sẽ khai xiển được pháp môn vô lượng trí huệ. Ðạt được giống như kim cang tràng đại trí đại huệ bờ bên kia.
Hoạch Kim Cương định, đoạn chư nghi hoặc. dĩ đắc chư Phật tự tại thần thông, phổ ư nhất thiết thập phương quốc độ, giáo hóa điều phục bách thiên vạn ức vô số chúng sanh. Ư nhất thiết số, tuy vô sở trước, thiện năng tu học, thành tựu cứu cánh phương tiện, an lập nhất thiết chư pháp.
Đắc được định kim cang, sẽ dứt trừ các nghi hoặc. Đã đắc được thần thông tự tại của chư Phật, thì sẽ ở khắp tất cả mười phương cõi nước, giáo hoá điều phục, trăm ngàn vạn ức vô số chúng sinh. Nơi tất cả số, tuy chẳng chấp trước, nhưng khéo tu học thành tựu rốt ráo, phương tiện an lập tất cả các pháp.
Giảng: Bồ Tát đắc được định kim cang rồi, thì sẽ đoạn trừ sạch tất cả hoài nghi và mê hoặc. Ðã đắc được sức thần thông tự tại của chư Phật, thì có thể ở khắp trong cõi nước chư Phật mười phương, để giáo hoá tất cả chúng sinh, điều phục tất cả chúng sinh. Rốt ráo có bao nhiêu chúng sinh bị giáo hoá và điều phục ? Có trăm ngàn vạn ức vô số chúng sinh. Bồ Tát đối với tất cả số (sắc tâm hữu vi, đều gọi là số), tuy nhiên chẳng chấp trước, nhưng khéo tu học thành tựu rốt ráo, phương tiện an lập tất cả các pháp.
Như thị đẳng bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết vô tận thanh tịnh tam thế nhất thiết vô lượng công đức tạng chư Bồ-tát chúng, giai lai tập hội, tại ư Phật sở. Nhân quang sở kiến, nhất thiết Phật sở, tất diệc như thị.
Như vậy thảy trăm ngàn ức Na do tha, bất khả thuyết vô tận tất cả vô lượng tạng công đức thanh tịnh ba đời, các chúng Bồ Tát, đều tập hội đến, ở chỗ đức Phật, Nhờ quang minh được thấy. Ở chỗ tất cả chư Phật, cũng đều như vậy.
Giảng: Giống như trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết vô cùng vô tận sự thanh tịnh, ba đời tất cả vô lượng tạng công đức của các chúng Bồ Tát, thảy đều tập hội đến cung trời Ðâu Suất thế giới Ta Bà. Ở tại đạo tràng của Phật, nhờ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni phóng ra trăm ngàn ức Na do tha quang minh từ hai đầu gối, mà thấy được đạo tràng của tất cả chư Phật trong mười phương thế giới, cũng đều giống như tình hình ở thế giới Ta Bà. Ở trong pháp hội của Phật, diễn xướng pháp lớn Hoa Nghiêm, vô lượng Bồ Tát ở trong pháp hội lắng nghe Phật nói diệu pháp, đắc được vô lượng lợi ích. Mười vị Bồ Tát đó, mỗi vị đều nói mười bài kệ, để khen ngợi công đức của Phật.
Nhĩ thời, Kim cương Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tràng, nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương đông Bồ Tát Kim Cang Tràng đại biểu, nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, tỉ mỉ quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương cõi nước, như có kẻ được độ thì liền vì họ nói pháp. Hiện tại dùng kệ đơn giản để vì chúng sinh đáng được độ nói pháp, để khen ngợi Ðức Phật.
Như Lai bất xuất thế Như Lai chẳng ra đời
Diệc vô hữu Niết-Bàn, Cũng chẳng có Niết Bàn
Dĩ bổn đại nguyện lực Dùng đại nguyện lực xưa
Thị hiện tự tại Pháp. Thị hiện pháp tự tại.
Thế nào là Như Lai ? Như là thừa đạo như thật, Lai là lai thành chánh giác. Vì đạo như thật, thì chẳng đến, cũng chẳng đi. Lai thành chánh giác, đối với chúng sinh mà nói, thì có đến, có đi. Kỳ thật, vốn chẳng có đến, cũng chẳng có đi. Trong Kinh Kim Cang có nói:
“Bậc Như Lai,
Chẳng từ đâu đến,
Cũng chẳng đi về đâu,
Nên gọi là Như Lai”.
Phật ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt. Do đó:
“Không lớn không nhỏ
Không trong không ngoài
Không đến không đi
Không đi không đến”.
Vì trụ ở cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, cho nên nói Như Lai chẳng ra đời. Tức nhiên Phật chẳng ra đời, tại sao chúng sinh lại nhìn thấy Phật được ? Vì cơ duyên của chúng sinh thành thục, cho nên hiện ra một thân Phật biến hoá, để đến thế giới nầy, giáo hoá tất cả chúng sinh. Do đó: “Thiên Bách Ức Hoá Thân Thích Ca Mâu Ni Phật”.
Vì Phật chẳng xuất hiện ra đời, cho nên cũng chẳng có tướng vào Niết Bàn. Vốn chẳng Niết Bàn, tức cũng là ứng cơ duyên của chúng sinh, mà thị hiện có Niết Bàn. Nếu chẳng thị hiện Niết Bàn, thì tất cả chúng sinh, đều sinh tâm ỷ lại, chờ đợi Phật đến giúp đỡ họ khai ngộ, chờ đợi Phật đến giúp đỡ họ thành Phật. Vì mối quan hệ đó, cho nên Phật thị hiện ra đời, thì hiện vào Niết Bàn.
Thuở xưa khi Phật tu hành, thì đã từng phát đại nguyện: “Tôi thành Phật rồi, nhất định sẽ dẫn dắt tất cả chúng sinh, đều cùng thành Phật đạo”. Do phát đại nguyện như thế, cho nên chẳng xả bỏ một chúng sinh. Thị hiện pháp tự tại nầy, tức cũng là cảnh giới ra đời mà không ra đời, vào Niết Bàn mà chẳng vào Niết Bàn.
Thị pháp nan tư nghị, Pháp đó khó nghĩ bàn
Phi tâm sở hành xử, Chẳng phải chỗ tâm hành
Trí tuệ đáo bỉ ngạn Trí huệ đến bờ kia
Nãi kiến chư Phật cảnh. Mới thấy các cảnh Phật.
Thị hiện pháp tự tại nầy, chẳng phải tất cả chúng sinh có thể dùng lời lẽ diễn đạt được, dùng tư tưởng có thể thể tưởng tượng ra được. Do đó:
“Ðường lời lẽ đã bặc
Chỗ tâm hành đã diệt”.
Pháp tự tại nầy không thể nghĩ bàn, chẳng phải chỗ tâm đạt đến nơi rốt ráo được. Mà là dùng trí huệ của Phật, mới đạt đến bờ bên kia được, mới thấy được cảnh giới của mười phương chư Phật.
Sắc thân phi thị Phật, Sắc thân chẳng phải Phật
Âm thanh diệc phục nhiên, Âm thanh cũng như thế
Diệc bất ly sắc thanh Cũng chẳng lìa sắc thanh
Kiến Phật thần thông lực. Thấy sức thần thông Phật.
Phật có thân tốt đẹp 32 tướng, 80 vẻ đẹp. Nhưng sắc thân nầy chẳng phải là chân Phật. Chân Phật chẳng có sắc thân. Trong Kinh Kim Cang có nói:
“Phàm tất cả tướng đều là hư vọng.
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng,
Tức thấy Như Lai”.
Ðây là dạy chúng sinh thấy tướng lìa tướng, chẳng chấp trước tướng. Vậy, tại sao Phật lại thị hiện 32 tướng, 80 vẻ đẹp ? Vì chúng sinh chấp trước tướng. Nếu lìa tướng, thì chúng sinh chẳng nhận thức được. Phải có tướng, thì chúng sinh mới biết đó là Phật.
Ở trong hư không pháp giới, đều là thân Phật. Do đó:
“Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật
Hãy tịnh ý mình như hư không”.
Hư không chẳng có mọi vật chướng ngại. Người tu đạo, tu đến trình độ chẳng có mọi sự chướng ngại, thì đó tức là thân Phật. Do đó:
Thân Phật chẳng đến, cũng chẳng đi.
Thân Phật chẳng sinh, cũng chẳng diệt.
Thân Phật chẳng dơ, cũng chẳng sạch.
Thân Phật chẳng tăng, cũng chẳng giảm.
Sắc thân chẳng phải Phật, âm thanh cũng chẳng phải Phật. Song, cũng không thể lìa khỏi sắc thân và âm thanh. Tại sắc thân và âm thanh, sẽ thấy được tất cả thần thông biến hoá của Phật. Nhưng, cũng đừng chấp trước tướng sắc âm. Trong Kinh Kim Cang có nói:
“Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó hành tà đạo
Chẳng thấy được Như Lai”.
Thiểu trí bất năng trai, Trí ít không biết được
Chư Phật thật cảnh giới, Cảnh thật của chư Phật
Cửu tu thanh tịnh nghiệp, Lâu tu nghiệp thanh tịnh
Ư thử nãi năng liễu. Lúc đó mới thấu được.
Chẳng có đại trí đại huệ, thì không biết được cảnh giới thật tại của chư Phật. Từ vô thuỷ kiếp đến nay, tu đạo nghiệp thanh tịnh, tức cũng là chẳng có tâm ô nhiễm. Lúc đó, mới thấu rõ được đạo lý “Sắc thân chẳng phải Phật, âm thanh cũng như thế, cũng chẳng lìa sắc thanh, thấy sức thần thông Phật”.
Chúng ta tu đạo, thì phải chân thật tu hành, không thể tự mình lừa dối mình. Hãy tự hỏi mình, rốt ráo có còn tâm dục chăng ? Bất cứ là vọng tưởng về người nữ, hoặc vọng tưởng về người nam. Hoặc vọng tưởng về ăn uống, hoặc vọng tưởng về quần áo. Hoặc vọng tưởng về danh lợi, hoặc vọng tưởng về hơn thua. Nói tóm lại, có vọng tưởng thì có dục vọng, có dục vọng thì chướng ngại sự tu đạo.
Phải biết rằng có lòng dục háo danh, thì sẽ bị danh làm nhiễm ô. Có dục háo lợi, thì sẽ bị lợi làm nhiễm ô. Bị nhiễm ô, thì chẳng thanh tịnh, không màng tu đến đâu, cũng sẽ chẳng có sự thành tựu. Hiện tại hãy phản tỉnh lại, kiểm điểm triệt để: Rốt ráo đã đoạn được dục vọng đó chưa ? Nếu dục vọng chưa đoạn trừ, thì phải thời khắc coi chừng. Nếu chạy theo dục vọng, thì sẽ chẳng được thanh tịnh. Do đó:
“Sai một ly, đi ngàn dặm”.
Ở tại chỗ nầy cần phải dụng công phu. Hằng ngày phải hồi quang phản chiếu: “Dục niệm của tôi tăng thêm hay giảm bớt ? Là thanh tâm quả dục ? Hay là vọng tưởng lăn xăn”. Nếu chẳng phải thanh tâm quả dục, thì là vọng tưởng lăn xăn. Như vậy hãy mau tu nghiệp thanh tịnh, đoạn dục khử ái. Bằng không, thì sẽ cách xa đạo mười vạn tám ngàn dặm. Thậm chí quay lưng lại với đạo mà bỏ chạy, cách xa nhà xưa (nhà Phật) của mình càng ngày càng xa.
Tu hạnh thanh tịnh, mới có trí huệ chân chánh, tức cũng là đến được trí huệ bờ bên kia. Chẳng tu hạnh thanh tịnh, tức là ngu si. Một khi thấy tiền tài thì phát cuồng, một khi thấy sắc đẹp thì phát cuồng, một khi thấy danh thì phát cuồng, một khi thấy lợi thì phát cuồng. Ðó tức là pháp nhiễm ô.
Các vị thiện tri thức ! Phải ở tại chỗ nầy mà dụng công. Nếu chẳng ở tại chỗ nầy dụng công thì dù có tu tám vạn đại kiếp, cũng không thanh tựu nghiệp thanh tịnh của bạn. Không thành tựu nghiệp thanh tịnh, thì không thể minh bạch cảnh giới của Phật.
Chánh giác vô lai xứ Chánh giác không chỗ đến
Khứ diệc vô sở tùng, Cũng chẳng có chỗ đi
Thanh tịnh diệu sắc thân, Thanh tịnh diệu sắc thân
Thần lực cố hiển hiện. Do thần lực hiển hiện.
Chánh giác tức là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, còn là danh hiệu của Phật. Tức cũng là chẳng chỗ nào mà không giác, không chỗ nào mà không ngộ. Còn gọi là đại giác, còn gọi là diệu giác. Phật chẳng có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi. Do đó:
“Không đến cũng không đi”.
Pháp thân của Phật là tận hư không khắp pháp giới, sung mãn tất cả cõi nước chư Phật. Tất cả cõi nước, đều là chỗ sở tại pháp thân của Phật. Pháp thân là vô tại vô bất tại. Chỗ sở tại, cũng là chỗ không sở tại. Diệu sắc thân của Phật là thanh tịnh, tức cũng là thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh. Thân chẳng giết hại, trộm cắp, tà dâm, ba điều ác. Miệng chẳng nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng, bốn điều ác. Ý chẳng tham, sân, si, ba điều ác. Phật cho đến mười thứ ý niệm nầy cũng chẳng có. Ba nghiệp thanh tịnh rồi, thì sẽ đắc được diệu sắc thân thanh tịnh. Phật dùng sức thần thông, mà hiển hiện ra diệu sắc thân trang nghiêm 32 tướng, 80 vẻ đẹp.
32 tướng: Tức là:
- Ðầu có quang minh tròn.
- Ðầu có nhục kế.
- Giữa mày có luồng quang trắng.
- Mắt xanh biếc.
- Mặt như trăng rằm.
- Răng trắng đều khít.
- Có 40 cái răng.
- Ðược hai răng.
- Lưỡi rộng dài.
- Trong miệng toả hương thơm.
- Tiếng Phạm loa.
- Tiếng mềm mại.
- Thân sắc vàng tía.
- Da mịn láng.
- Thân tròn đầy.
- Ngực có chữ vạn.
- Thân vuông thẳng.
- Lông thân tốt đẹp.
- Lông thân vòng qua phải.
- Khiểu tay thon nhỏ.
- Tay dài quá đầu gối.
- Ngón tay nhỏ dài.
- Tay chân có lưới màng.
- Tay chân mềm mại.
- Tướng mã âm tàng.
- Ngực như nai chúa.
- Mắt cá chân mập đầy.
- Dưới bàn chân bằng như đáy hộp.
- Dưới bàn chân có bánh xe ngàn căm.
- Mu bàn chân cao dày.
- Bảy nơi bằng và đầy.
- Khuyết cốt sung mãn.
80 vẻ đẹp: Tức là :
- Không thấy được tướng đảnh.
- Tóc dài tốt.
- Tóc không dối loạn.
- Tóc quắn về phía phải tốt.
- Màu tóc như thanh châu.
- Mi như trăng non.
- Mắt rộng dài.
- Mũi cao chẳng hiện lỗ.
- Môi đỏ như quả Tần Bà.
- Bốn răng to trắng bén nhọn.
- Lưỡi màu đỏ.
- Lưỡi quá mũi.
- Miệng toả hương thơm.
- Lời nói sâu xa.
- Phát âm ứng với các âm thanh.
- Thứ lớp dùng nhân duyên nói pháp.
- Tuỳ theo ngôn ngữ của chúng sinh mà nói pháp.
- Tuỳ theo ý hoà duyệt của chúng sinh mà nói.
- Tuỳ theo âm thanh của chúng sinh, không tăng không giảm.
- Tất cả âm thanh phân biệt đầy đủ.
- Nói pháp chẳng trước.
- Lỗ tai dài.
- Mặt sáng như trăng rằm.
- Mặt rộng tốt đẹp.
- Mặt chẳng dài lớn.
- Mặt đủ đầy đủ.
- Nghi dung đầy đủ.
- Nghi dung như sư tử.
- Dung mạo chẳng nhăn nhó.
- Dung nghi mãn túc.
- Ðầu như quả Ma Ðà Na.
- Lông vòng qua bên phải.
- Lông mềm sạch.
- Lông màu đỏ.
- Lỗ chân lông toả ra hương thơm.
- Thân cứng chắt như Na la diên.
- Thân thanh tịnh.
- Thân nhẵn trơn.
- Thân mềm mại.
- Thân đầy đủ.
- Thân chẳng cong.
- Thân trì nặng.
- Thân chẳng khuynh động.
- Thân tự trì chẳng đi liêng xiêng.
- Thân nhứt thời hồi lại như voi chúa.
- Thân có ánh sáng màu vàng.
- Thân dài.
- Rốn sâu mà tròn.
- Rốn chẳng lồi ra.
- Bụng chẳng hiện ra.
- Bụng nhỏ.
- Ngón tay tròn nhỏ.
- Vân tay ẩn che.
- Vân tay rõ thẳng.
- Vân tay dài.
- Vân tay không dứt.
- Móng tay như màu đồng đỏ, mỏng mà bóng mượt.
- Xương cốt giao nhau như vòng móc.
- Xương đầu gối cứng tròn đẹp.
- Tay chân đầy đủ.
- Tay chân như ý.
- Tay chân đỏ trắng, như màu hoa sen.
- Tay chân mềm sạch trơn nhẵn.
- Tay chân có đức tướng.
- Mạch máu sâu chẳng hiện.
- Mắt cá chân chẳng hiện.
- Khi đi chân cách đất bốn tất, mà hiện dấu chân dưới đất.
- Ði như ngỗng chúa.
- Tiến lùi như voi chúa.
- Trụ xứ yên không ai lay động được.
- Tướng cửa tử đầy đủ.
- Oai chấn tất cả.
- Tất cả chúng sinh thấy đều ưa thích.
- Tất cả chúng sinh ác tâm thấy đều vui mừng.
- Tất cả chúng sinh quát sát tướng không hết được.
- Quán sát không nhàm đủ.
- Bốn phía hào quang đều dài một trượng.
- Hào quang chiếu thân mà đi.
- Ðồng xem chúng sinh.
- Chẳng khinh chúng sinh.
Vô lượng thế giới trung, Trong vô lượng thế giới
Thị hiện Như Lai thân, Thị hiện thân Như Lai
Quảng thuyết vi diệu Pháp Rộng nói pháp vi diệu
Kỳ tâm vô sở trước. Tâm Phật chẳng chấp trước.
Thế giới có nhiều không cách chi nói hết được, Phật ở trong mỗi thế giới, đều thị hiện thân Như Lai, rộng nói pháp vi diệu thâm sâu vô thượng. Song, tâm của Phật chẳng chấp trước. Tức cũng chẳng chấp cái ta và chấp pháp, tất cả sự chấp trước chẳng còn nữa.
Trí tuệ vô biên tế, Trí huệ không bờ mé
Liễu đạt nhất thiết pháp, Thấu đạt tất cả pháp
Phổ nhập ư Pháp giới, Vào khắp nơi pháp giới
Thị hiện tự tại lực. Thị hiện sức tự tại.
Trí huệ của Phật chẳng có bờ mé, cho nên thấu rõ thông đạt tất cả các pháp thật tướng. Pháp thân của Phật vào khắp nơi pháp giới, Do đó: “Tận hư không khắp pháp giới”. Thị hiện sức thần thông tự tại, giáo hoá tất cả chúng sinh.
Chúng sanh cập chư Pháp, Chúng sinh và các pháp
Liễu đạt giai vô ngại, Thấu đạt đều vô ngại
Phổ hiện chúng sắc tượng, Khắp hiện các sắc tướng
Biến ư nhất thiết sát. Hết thảy tất cả cõi.
Phật đối với tất cả chúng sinh và tất cả các pháp, thảy đều thông đạt mà chẳng có chướng ngại. Tức cũng là thông đạt vô ngại, đến cảnh giới viên dung. Phật hay hiện ra đủ thứ tướng tốt đẹp, khắp tất cả cõi nước chư Phật.
Dục cầu nhất thiết trí, Muốn cầu nhất thiết trí
Tốc thành vô thượng giác, Sớm thành Vô Thượng Giác
Ưng dĩ tịnh diệu tâm, Nên dùng tâm tịnh diệu
Tu tập Bồ-đề hạnh Tu tập hạnh bồ đề.
Muốn cầu trí huệ chí cao vô thượng, sớm thành quả vị Phật Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì nên dùng diệu tâm thanh tịnh, để tu hạnh môn bồ đề. Diệu tâm thanh tịnh thì chẳng có tâm ô nhiễm, tâm điên đảo, tâm vô minh.
Nhược hữu kiến Như Lai, Nếu có thấy Như Lai
Như thị uy thần lực, Oai thần lực như vậy
Đương ư Tối thắng tôn, Ở nơi đấng Tối Thắng
Cúng dường vật sanh nghi. Cúng dường chớ sinh nghi.
Nếu như có chúng sinh thấy được Phật, đó là nhờ đại oai thần lực của Phật, nên ở trước đấng Tối Thắng (Phật), rộng tu cúng dường, đừng có sinh tâm hoài nghi. Ðây là khuyên nhủ chúng sinh, phải y pháp tu hành. Nếu không sinh nghi, thì thắng đức của Phật, nhất định sẽ gia bị cho bạn, khiến cho bạn đắc được đại trí huệ, tức cũng là cảnh giới khai ngộ, đắc được năm nhãn sáu thông.
Nhĩ thời, kiên cố Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Kiên Cố Tràng nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương nam Bồ Tát Kiên Cố Tràng, nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, dùng kệ để khen ngợi Ðức Phật.
Như Lai thắng vô bỉ, Phật hơn không ai bằng
Thậm thâm bất khả thuyết, Thâm sâu không thể nói
Xuất qua ngôn ngữ đạo, Vượt khỏi đường lời lẽ
Thanh tịnh như hư không. Thanh tịnh như hư không.
Ðức Phật là người thù thắng nhất, chẳng có ai sánh bằng. Tức là nói:
“Thiên thượng Thiên hạ
Duy ngã độc tôn”.
Nghĩa là:
“Trên trời dưới nhân gian,
Mình ta tôn quý hơn hết”.
Lại có thể nói:
“Thiên thượng thiên hạ vô như Phật,
Thập phương thế giới diệc vô tỉ
Thế gian sở hữu ngã tận kiến
Nhất thiết vô hữu như Phật giả”.
Nghĩa là:
“Trên trời dưới nhân gian không ai giống như Phật
Mười phương thế giới cũng chẳng sánh bằng
Hết thảy thế gian ta thấy hết
Tất cả chẳng có ai như Phật”.
Cảnh giới vi diệu của Phật, là thâm sâu vô lượng không thể nói không thể nào nói được, đã vượt khỏi tất cả con đường lời lẽ. Cảnh giới của Phật thanh tịnh như hư không.
Nhữ quán nhân sư tử, Ông quán Nhân Sư Tử
Tự tại thần thông lực, Sức thần thông tự tại
Dĩ ly ư phân biệt, Đã lìa sự phân biệt
Nhi lệnh phân biệt kiến. Mà khiến phân biệt thấy.
Hết thảy chúng sinh, các vị hãy nhìn Ðức Phật, Ngài có sức đại thần thông tự tại. Ðã lìa khỏi tất cả tâm phân biệt và tướng phân biệt. Mà khiến cho chúng sinh có tâm phân biệt, luôn luôn thấy được Nhân Sư Tử, tức cũng là Phật.
Đạo sư vi khai diễn, Đạo Sư vì khai diễn
Thậm thâm vi diệu Pháp, Pháp vi diệu thâm sâu
Dĩ thị nhân duyên cố, Do bởi nhân duyên đó
Hiện thử vô bỉ thân. Hiện thân không sánh nầy.
Phật vì chúng sinh khai diễn tất cả diệu pháp, tức cũng là pháp vi diệu thâm sâu vô thượng. Vì muốn khai diễn diệu pháp, mới thị hiện diệu sắc thân không thể sánh nầy.
Thử thị đại trí tuệ, Đây là đại trí huệ
Chư Phật sở hạnh xứ Nơi chư Phật tu hành
Nhược dục liễu tri giả, Nếu ai muốn biết rõ
Thường ưng thân cận Phật. Phải thường gần gũi Phật.
Kinh Hoa Nghiêm tức là đại trí huệ của chư Phật. Thứ trí huệ nầy, tức cũng là nơi chư Phật tu hành. Nếu ai muốn có đại trí huệ, thì phải đọc tụng Kinh Hoa Nghiêm, y chiếu đạo lý Kinh Hoa Nghiêm mà tu hành, tức cũng là hạnh của chư Phật tu. Muốn chân chánh thấu rõ triệt để minh bạch đạo lý của Kinh Hoa Nghiêm, thì phải luôn luôn gần gũi Phật, đừng lìa khỏi Phật pháp, phải siêng năng nghiên cứu đạo lý của Kinh Hoa Nghiêm. Nói tóm lại, gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật, tu hành hạnh của chư Phật tu. Chẳng những khi nghe Kinh, thì phải chuyên tâm để nghe Kinh Hoa Nghiêm, mà lúc bình thường cũng phải chuyên tâm thọ trì Kinh Hoa Nghiêm. Như đọc tụng, biên chép, phiên dịch, lễ lạy, ấn tống, truyền bá .v.v… Nói chung, thấy được Kinh Hoa Nghiêm, tức là thấy được chư Phật. Nếu muốn thấy Phật, thì phải tu trì Kinh Hoa Nghiêm.
Ý nghiệp thường thanh tịnh, Ý nghiệp thường thanh tịnh
Cúng dường chư Như Lai, Cúng dường các Như Lai
Chung vô bì yếm tâm, Tâm trọn chẳng nhàm chán
Năng nhập ư Phật đạo. Vào được nơi Phật đạo.
Ở trong ý chẳng có tham sân si ba độc, đó tức là ý thanh tịnh. Dùng thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh để cúng dường mười phương ba đời tất cả các Ðức Phật. Phát tâm bồ đề, rộng tu cúng dường, thuỷ chung chẳng có tâm nhàm chán mỏi mệt. Như vậy lâu dần, sẽ vào được Phật đạo, mới có cơ hội thành Phật.
Cụ vô tận công đức, Đủ vô lượng công đức
Kiên trụ Bồ-đề tâm, Vững trụ tâm bồ đề
Dĩ thị nghi võng trừ, Nhờ đó trừ lưới nghi
Quán Phật Vô yếm túc. Quán Phật không nhàm đủ.
Ðầy đủ viên mãn vô lượng công đức, mới trụ bền vững tâm bồ đề được. Như vậy mới tiêu trừ sạch được lưới nghi hoặc, sẽ quán thấy được Phật, mà chẳng bao giờ nhàm đủ. Ðây chẳng phải là tâm tham, mà là tâm thiết tha cầu pháp.
Người tu đạo, phải đời đời kiếp kiếp lập công, lập đức, lập ngôn. Lập công tức là kiến lập công tích. Lập đức tức là thụ lập đức nghiệp. Lập ngôn tức là phán lập ngôn luận. Từ ít thành nhiều, từ nhỏ lớn dần, do hữu tận biến thành vô tận. Có công đức như thế rồi, thì tâm bồ đề mới vững chắc. Bằng không, thì tâm bồ đề không thể vững bền được. Ví như có một người, hai tâm không cố định, một chân bước lên hai chiếc thuyền; lại muốn đến giang nam, lại muốn đến giang bắc. Ðây tức là tâm bồ đề chẳng kiên cố. Cũng có thể nói: “Một niệm trước muốn đi đến hướng tây, một niệm sau muốn đi đến hướng đông”. Tư tưởng như thế, tức là định lực không đủ, không thể lựa chọn con đường của mình đi. Ðây tức là trụ tâm bồ đề chẳng bền vững.
Gì là tâm bồ đề bền vững ? Tức là phát nguyện tu đạo, bất cứ gặp chướng ngại gì, nhất định cũng muốn tu đạo. Dù gặp khốn khổ hoạn nạn gì, nhất định cũng muốn tu đạo. Tuyệt đối chẳng thay đổi lời nguyện ban đầu đã phát, cũng chẳng thấy khác, nghĩ đổi thay, biến đổi tư tưởng. Bất cứ là cảnh giới thuận, hoặc là cảnh giới nghịch, nhất định phải tuỳ duyên không đổi, không đổi mà tuỳ duyên, bền vững tâm bồ đề.
Nếu bền vững trụ tâm bồ đề, thì tuyệt đói sẽ chẳng hoài nghi có Phật chăng ? Có Bồ Tát và A la hán chăng ? Pháp trong Kinh Phật nói có thật chăng ? Kiên quyết tin sâu không nghi. Ðó chẳng phải là mê tín, mà là chánh tín. Phật là người quá khứ, đã lưu truyền pháp bảo lại cho tất cả chúng sinh chẳng thiếu một chữ nào. Chúng sinh chỉ cần y pháp tu hành, thì nhất định sẽ thành Phật.
Một số người thường sinh tâm hoài nghi, tu đạo có thiệt thòi chăng ? Có hy vọng thành Phật chăng ? Do đó:
“Phá nghi võng ư trùng trùng,
Kiến pháp tràng ư xứ xứ”.
Tức nghĩa là phá sạch mọi nghi hoặc, nơi nơi chốn chốn kiến lập đại đạo tràng, đừng kiến lập đạo tràng nhỏ. Tôi chủ trường Phật giáo phải đoàn kết nhất chí, phải cùng nhau vì Phật giáo mà nỗ lực, đừng có phân biệt tông phái.
Thông đạt nhất thiết pháp, Thông đạt tất cả pháp
Thị nãi chân Phật tử, Đó là chân Phật tử
Thử nhân năng liễu tri, Người đó biết rõ được
Chư Phật tự tại lực. Sức tự tại chư Phật.
Nếu hay gần gũi Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, lễ lạy Tam Bảo, mới có thể thông đạt tất cả pháp. Thông đạt tất cả pháp, mới là Phật tử chân chánh. Người đó sẽ minh bạch biết rõ tất cả sức thần thông tự tại của chư Phật, là không thể nghĩ bàn.
Quảng đại trí sở thuyết, Bậc đại trí nói pháp
Dục vi chư pháp bản, Muốn vì các pháp bổn
Ưng khởi thắng hy vọng, Nên khởi thắng hy vọng
Chí cầu vô thượng giác. Chí cầu vô thượng giác.
Bậc trí huệ rộng lớn, tức là Phật. Pháp của Phật nói, muốn vì các pháp căn bản. Muốn tức là hy vọng, do đó: “Dục vọng vô chỉ cảnh”. Nghĩa là dục vọng không bao giờ ngừng. Tham tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, đủ thứ sự hưởng thụ, đó cũng là muốn (dục). Tham cầu tu hành, tham cầu trí huệ, tham cầu khai ngộ, tham cầu thành Phật, đây cũng là muốn (dục). Muốn có sự khác biệt thượng đạt (đạt đi lên) và hạ đạt (đạt đi xuống). Do đó: “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt”. Tóm lại, cầu Phật pháp là thượng đạt, cầu hưởng thụ là hạ đạt.
Muốn vì các pháp bổn, phải sinh khởi hy vọng thù thắng, hy vọng thanh tịnh, lập chí cầu được giác đạo vô thượng. Gì là giác đạo vô thượng ? Tức là cứu kính Niết Bàn, tức cũng là thành Phật. Phát tâm bồ đề kiên cố, mới đắc được quả vị vô thượng giác.
Nhược hữu tôn kính Phật, Nếu ai tôn kính Phật
Niệm báo ư Phật ân, Nhớ báo đáp ơn Phật
Bỉ nhân chung bất ly, Người đó trọn không lìa
Nhất thiết chư Phật trụ Chỗ trụ của chư Phật.
Nếu như có người tôn kính Ðức Phật, thì phải nhớ báo đáp ân đức của chư Phật. Báo đáp như thế nào ? Tức là phải thường theo Phật học, thuỷ chung không lìa khỏi đạo tràng của Phật. Gì là đạo tràng ? “Tâm thẳng là đạo tràng”. Người đó, sẽ không lìa khỏi nơi trụ xứ của tất cả chư Phật.
Hà hữu trí tuệ nhân, Sao người có trí huệ
Ư Phật đắc kiến văn, Nơi Phật được thấy nghe
Bất tu thanh tịnh nguyện, Chẳng tu nguyện thanh tịnh
Lý Phật sở hạnh đạo? Phải hành đạo Phật tu.
Tại sao người có trí huệ, thường thấy được thân Phật, lại hay nghe được Phật pháp, đây là nguyên nhân gì ? Vì tu nguyện thanh tịnh. Nếu chẳng tu hành nguyện thanh tịnh, cứ khởi vọng tưởng nhiễm ô, chẳng những chẳng thấy được Phật, mà cũng chẳng nghe được pháp. Phải làm thế nào ? Phải đi con đường của chư Phật tu hành, thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh.
Nhĩ thời, dũng mãnh Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Dũng Mãnh Tràng, nương thần lực của đức Phật, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương tây Bồ Tát Dũng Mãnh Tràng làm đại biểu, nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương, đối cơ nói pháp, dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật.
Thí như minh Tịnh nhãn, Ví như mắt thanh tịnh
Nhân nhật đổ chúng sắc, Nhờ mặt trời thấy sắc
Tịnh tâm diệc phục nhiên, Tâm tịnh cũng như vậy
Phật lực kiến Như Lai. Phật lực thấy Như Lai.
Ví như có người, họ có con mắt quang minh thanh tịnh, thì nhờ ánh sáng mặt trời, mới thấy được đủ thứ hình sắc. Tâm quang minh thanh tịnh, cũng tình hình như vậy. Tuy nhiên có mắt và tâm quang minh thanh tịnh, nhưng chẳng có Phật lực gia trì, cũng chẳng thấy được Phật. Khi tâm thanh tịnh và thật tướng lý thể của Phật hợp mà làm một, thì mới thấy được Phật.
Tâm của người tu đạo chúng ta, nếu thanh tịnh chẳng nhiễm, thì sẽ được Phật gia trì, mới có thế thấy được Phật. Tâm thanh tịnh ví như nước trong sạch, từ phía trên sẽ thấy được phía dưới, Do đó: “Thấu triệt nguồn đáy của pháp”. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, sẽ trở thành nước hỗn đục, gì cũng chẳng hiện ra. Lúc đó, Phật cũng chẳng có biện pháp giúp đỡ bạn. Bạn tu đạo là cảm, Phật hiện thần thông là ứng, tức là đạo lý “Cảm ứng đạo giao”. Hiện tại nói tâm linh cảm ứng tác dụng, kỳ thật đại đồng tiểu dị. Cổ đức có nói:
“Tâm thanh thuỷ hiện nguyệt
Ý định thiên vô vân”.
Nghĩa là:
“Nước tâm lắng trong sẽ hiện ra mặt trăng
Ý định như trời xanh chẳng có mây”.
Tức là đạo lý nầy.
Như dĩ tinh tấn lực, Như dùng sức tinh tấn
Năng tận hải nguyên để, Tột nguồn đáy biển pháp
Trí lực diệc như thị, Trí lực cũng như vậy
Đắc kiến vô lượng Phật. Được thấy vô lượng Phật.
Nếu dùng sức dũng mãnh tinh tấn, để tu hành các pháp, thì mới tận cùng được nguồn đáy của biển pháp, tức cũng là đến được nơi rốt ráo. Sức trí huệ cũng tình hình như vậy. Nếu có đại trí huệ, sẽ thấy được vô lượng vô biên chư Phật.
Thí như lương ốc điền, Ví như ruộng màu mỡ
Sở chủng tất tư trưởng, Gieo trồng sẽ tươi tốt
Như thị tịnh tâm địa Đất tâm tịnh như vậy
Xuất sanh chư Phật Pháp. Sinh ra các Phật pháp.
Giống như ruộng màu mỡ phì nhiêu, trồng trọt ngũ cốc, thì nhất định sẽ lớn lên tươi tốt. Cũng như vậy, đất thanh tịnh, hay sinh ra tất cả các Phật pháp. Tức cũng là nói, nếu tâm của bạn thanh tịnh, thì tất cả Phật pháp sẽ hiện tiền. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, không lìa khỏi một tâm niệm hiện tiền của bạn. Một niệm thanh tịnh là Phật, một niệm nhiễm ô là chúng sinh. Ðừng đi tìm Phật pháp bên ngoài, Phật pháp sẽ hiện ra trong tự tánh.
Như nhân hoạch Bảo Tạng Như người được tạng báu
Vĩnh ly bần cùng khổ, Lìa hẳn khổ bần cùng
Bồ Tát đắc Phật Pháp, Bồ Tát được Phật pháp
Ly cấu tâm thanh tịnh. Lìa tâm bẩn thanh tịnh.
Ví như có người lượm được kho tàng bảy báu ở dưới đất, thì họ sẽ vĩnh viễn lìa khỏi khốn khổ bần cùng, trở thành người giàu có. Bồ Tát đắc được Phật pháp, cũng giống như được tạng báu, vĩnh viễn xa lìa tâm nhiễm ô. Khôi phục lại sự thanh tịnh vốn có, thì trí huệ sẽ hiện tiền.
Thí như già đà dược, Ví như thuốc Già Đà
Năng tiêu nhất thiết độc, Tiêu được tất cả độc
Phật Pháp diệc như thị, Phật pháp cũng như vậy
Diệt chư phiền não hoạn. Diệt được các phiền não.
Giống như thuốc Già Ðà, Già Ðà dịch là “thuốc hay”. Thuốc hay nầy, trị lành tất cả tật bịnh, giải trừ tất cả chất độc, công hiệu giống như cam thảo. Do đó: “Cam thảo hợp các thứ thuốc mà giải được trăm độc”. Thảo dược Trung Quốc, phân ra : Quân, thần, tả, sử, bốn thứ. Cam thảo là tể tướng đại thần, bệnh gì cũng trị hết, độc gì cũng tiêu trừ hết. Tánh của cam thảo rất hoà bình, bất cứ hoà với thuốc gì, cũng đều hoà bình với nhau, chẳng khởi xung đột.
Pháp của Phật nói, giống như thuốc Già Ðà, hay tiêu trừ được tám vạn bốn ngàn bệnh phiền não của chúng sinh. Phật nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, là đối trị bệnh tham sân si của chúng sinh, cho nên nói Phật pháp tức là toa thuốc hay, tiêu trừ được tất cả các bệnh phiền não.
Chân thật thiện tri thức, Chân thật thiện tri thức
Như Lai sở xưng tán, Được Như Lai khen ngợi
Dĩ bỉ uy thần cố, Nhờ oai thần của Phật
Đắc văn chư Phật Pháp. Được nghe các Phật pháp.
Thiện tri thức là khéo giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ đắc được tri thức chánh tri chánh kiến. Chân thật thiện tri thức, chỉ có Ðức Phật; ngoài ra các Bồ Tát và A La Hán Thánh Hiền .v.v…tuy vẫn gọi là thiện tri thức, nhưng chẳng được chân thật thiện tri thức viên mãn. Hiện tại trong Kinh nói: Thiện tri thức, mới là thiện tri thức chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, chẳng vọng ngữ, thiện tri thức chẳng có tham sân si ba độc, thiện tri thức siêng tu giới định huệ ba học, đây là thiện tri thức được Phật khen ngợi, có thể làm sư biểu của trời người, có thể xứng đáng thọ nhận cúng dường của trời người. Nhờ đại oai thần lực của chư Phật, mà được nghe tất cả pháp của chư Phật nói.
Thiết ư vô số kiếp, Ví như vô số kiếp
Tài bảo thí ư Phật, Tài báu thí cho Phật
Bất tri Phật thật tướng, Chẳng biết Phật thật tướng
Thử diệc bất danh thí. Đây cũng chẳng gọi thí.
Giả sử có người, ở trong vô số đại kiếp, dùng tất cả tiền tài châu báu, bố thí cho Ðức Phật. Nếu chẳng biết được đạo lý thật tướng của Phật (vô tướng vô sở bất tướng), thì đây cũng chẳng cho là bố thí. Tại sao ? Vì chấp trước tướng bố thí, chỉ có phước báo sinh về cõi trời. Do đó:
“Trụ tướng bố thí sinh phước cõi trời,
Giống như ngửa mặt bắn tên lên hư không.
Lực hết tên sẽ rơi xuống,
Chiêu đến đời sau chẳng như ý”.
Nếu nhận thức được thật tướng của Phật, tâm bố thí, cũng chẳng có kẻ thí, cũng chẳng có kẻ nhận, ở giữa cũng chẳng vật bố thí. Ðó là thể ba vòng đều không. Tóm lại, lìa tướng bố thí, thì mới là thật bố thí. Công đức chấp tướng bố thí thì có hạn, công đức lìa tướng bố thí thì vô tận.
Vô lượng chúng sắc tướng, Vô lượng các sắc tướng
Trang nghiêm ư Phật thân, Trang nghiêm nơi thân Phật
Phi ư sắc tướng trung, Chẳng phải trong sắc tướng
Nhi năng kiến ư Phật. Mà thấy được đức Phật.
Thân Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, cho nên nói vô lượng các sắc tướng, trang nghiêm nơi thân Phật. Những tướng tốt trang nghiêm đó, bất quá là một bộ phận của thân Phật mà thôi. Bản thể của Phật chẳng phải là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Người chân chánh minh bạch Phật pháp, thì phải ở trong vô tướng mà cầu thấy Phật. Ở trong Kinh Kim Cang có nói:
“Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người đó hành tà đạo
Chẳng thấy được Như Lai”.
Phật dùng vô tướng làm tướng, dùng thật tướng làm tướng. Thật tướng tức là vô tướng, cho nên không thể dùng sắc để thấy Phật, không thể dùng âm thanh để cầu Phật. Nếu chấp trụ vào sắc và âm thanh, thì đó chẳng phải là chân chánh thấy được Phật. Nếu tại nơi sắc tướng cầu Phật, thì vua Chuyển Luân Thánh Vương tức cũng là Phật. Vì vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đầy đủ sắc tướng giống như Phật, cho nên không thể ở trong sắc tướng, mà thấy được Ðức Phật.
Như Lai đẳng chánh giác, Như Lai đẳng chánh giác
Tịch nhiên hằng bất động, Vắng lặng luôn chẳng động
Nhi năng phổ hiện thân, Mà hay hiện thân khắp
Biến mãn thập phương giới. Đầy khắp mười phương cõi.
Phật đã thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cho nên luôn luôn vắng lặng thanh tịnh. Tuy Phật vắng lặng chẳng động, nhưng lại hay cảm mà toại thông. Tuy cảm mà toại thông, nhưng vắng lặng chẳng động. Ðây là đạo lý tuỳ duyên không đổi, không đổi mà tuỳ duyên. Mà có thể hiện thân khắp, đây là tuỳ duyên; vắng lặng luôn chẳng động, đây là không đổi. Ðầy dẫy mười phương cõi, đây là tuỳ duyên không đổi, không đổi mà tuỳ duyên.
Thí như hư không giới, Ví như cõi hư không
Bất sanh diệc bất diệt, Chẳng sinh cũng chẳng diệt
Chư Phật Pháp như thị, Các Phật pháp như vậy
Tất cánh vô sanh diệt. Rốt ráo chẳng sinh diệt.
Pháp thân của Phật, đầy khắp hư không. Những hạt bụi ở trong hư không, chẳng có một hạt bụi nào, mà chẳng phải là nơi pháp thân của Phật ở tại đó, chẳng phải là nơi Phật pháp ở tại đó, chẳng phải là nơi mười phương hiền Thánh Tăng ở tại đó. Cho nên ở trong hư không đầy khắp Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Tức nhiên đầy khắp hư không, nhưng vẫn là chân không. Tức cũng là trong chân không có diệu hữu, trong diệu hữu đầy đủ chân không. Do đó:
“Chân không chẳng ngại diệu hữu
Diệu hữu chẳng ngại chân không”.
Tóm lại, chân không chẳng không mà sinh diệu hữu, diệu hữu chẳng hữu mà sinh chân không, đây tức là trung đạo.
Giống như cõi hư không, cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt. Khi nào sinh ra, chẳng có ai biết. Khi nào tiêu diệt, chẳng có ai hay. Nếu có thể đập vụn hư không ra, thì lúc đó, sự chấp trước sẽ phá tan. Nếu không thể đập vụn hư không, thì vẫn có cái “không” tồn tại. Không sinh không diệt tức là bản tánh của hư không. Pháp của chư Phật nói, cũng giống như hư không, cũng chẳng sinh chẳng diệt. Ðến lúc cứu kính cũng chẳng có sinh diệt.
Nhĩ thời, quang minh Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Quang Minh Tràng, nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương bắc Bồ Tát Quang Minh Tràng làm đại biểu, nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, dùng kệ khen ngợi Ðức Phật.
Nhân gian cập Thiên thượng, Nhân gian và trên trời
Nhất thiết chư thế giới, Tất cả các thế giới
Phổ kiến ư Như Lai, Khắp hiện diệu sắc thân
Thanh tịnh diệu sắc thân. Thanh tịnh của Như Lai.
Ở nhân gian và trên trời, cùng với trong mười phương tất cả thế giới, hết thảy chúng sinh, đều thấy được thanh tịnh diệu sắc thân của Phật, tức cũng là thân tướng tốt trang nghiêm 32 tướng, 80 vẻ đẹp.
Thí như nhất tâm lực, Ví như sức nhất tâm
Năng sanh chủng chủng tâm, Sinh ra đủ thứ tâm
Như thị nhất Phật thân, Như vậy một thân Phật
Phổ Hiện-Nhất-Thiết Phật. Khắp hiện tất cả Phật.
Nhất tâm là tâm vương, đủ thứ tâm là tâm sở. Một thân Phật tức là chân thân của Phật, tất cả Phật là hoá thân của Phật. Ví như một tâm vương, sức lực có thể sinh ra đủ thứ tâm sở pháp. Do đó, chân thân của Phật (pháp thân), có thể hiện ra tất cả ứng hoá thân Phật.
Bồ-đề vô nhị Pháp, Bồ đề chẳng hai pháp
Diệc phục vô chư tướng, Cũng chẳng có các tướng
Nhi ư nhị Pháp trung, Mà ở trong hai pháp
Hiện tướng trang nghiêm thân. Hiện tướng thân trang nghiêm.
Bồ đề chẳng có hai thứ pháp, tức là một pháp cũng chẳng lập. Bất quá, chỉ là danh từ mà thôi. Danh từ vốn cũng là không, cho nên nói:
“Một pháp chẳng lập
Vạn pháp đều không”.
Vì nguyên nhân đó, mà chẳng chấp trước vào bồ đề. Không thể ở trong “có không” đi tìm bồ đề. Bồ đề cũng chẳng có các tướng, nhưng ở trong hai pháp “có không”, có thể thị hiện thân trang nghiêm 32 tướng, 80 vẻ đẹp.
Liễu Pháp tánh không tịch, Rõ pháp tánh vắng lặng
Như huyễn nhi sanh khởi, Như huyễn mà sinh khởi
Sở hạnh vô hữu tận, Chỗ hành chẳng hết được
Đạo sư như thị hiện. Đạo sư hiện như vậy.
Nếu thấu hiểu pháp tánh của các pháp, vốn là vắng lặng. Do đó:
“Ðường lời lẽ đã dứt
Nơi tâm hành đã diệt”.
Là do hư vọng không thật như huyễn mà hoá sinh. Tuy nhiên do vắng lặng hiện ra tất cả các pháp, như huyễn, như hoá, nhưng giống như trong hư không hiện ra mây, trùng trùng vô tận. Ứng hoá thân của Phật, cũng là trùng trùng vô tận, biến hoá vô cùng, ứng hiện không ngừng.
Tam thế nhất thiết Phật, Ba đời tất cả Phật
Pháp thân tất thanh tịnh, Pháp thân đều thanh tịnh
Tùy Kỳ sở ưng hóa, Tuỳ theo sự ứng hoá
Phổ hiện diệu sắc thân. Khắp hiện diệu sắc thân.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, tuy nhiên danh hiệu khác nhau, nhưng bản thể là một. Do đó:
“Mười phương ba đời tất cả Phật
Đều cùng một pháp thân”.
Một pháp thân, tức là thanh tịnh pháp thân. Sự quan hệ giữa Phật với Phật là :
“Tâm tâm tương ấn,
Thân thân đồng thể”.
Cũng có thể nói quang quang chiếu với nhau, lỗ lỗ thông với nhau, chẳng có sự phân biệt đó đây. Một vị Phật đang giáo hoá chúng sinh, tức cũng là tất cả vị Phật đang giáo hoá chúng sinh. Tất cả vị Phật đang giáo hoá chúng sinh, tức cũng là một vị Phật đang giáo hoá chúng sinh. Pháp thân, báo thân, ứng hoá thân của Phật, đều đồng thể, chẳng có khác biệt. Cũng có thể nói tất cả vị Phật, tức là một vị Phật; một vị Phật tức là tất cả vị Phật. Phân chia mà chẳng phân chia, hợp mà chẳng hợp. Vì giữa Phật với Phật, chẳng co sự phân biệt, cho nên chẳng có giới hạn đó đây.
Phật là gì ? Nói đơn giản, Phật tức là chân lý, chân lý tức là Phật. Hiểu biết chân lý, tức là minh bạch Phật pháp; chẳng hiểu biết chân lý, thì chẳng minh bạch Phật pháp. Chân lý là do trí huệ mà tu, do tu trì mà vào. Tức cũng là có trí huệ rồi, y pháp tu hành, thì sẽ thâm nhập vào thể tánh của Phật. Chẳng có trí huệ, thì không thể tu hành, không thể vào thể tánh của Phật. Nhưng bạn cũng chẳng lìa khỏi thể tánh của Phật, vẫn ở trong chân lý.
Ở trước có nói không thể dùng sắc tướng thấy Phật. Vậy, thấy cái gì ? Tức là thấy chân lý. Chân lý thì chẳng có thể tướng, tức cũng là thật tướng, thật tướng tức là vô tướng. Vì chẳng có tướng, cho nên chẳng có phân biệt.
Tuy nhiên vô tướng, nhưng ở trong chân không, vẫn không ngại diệu hữu. Cho nên bản thể không biến đổi, lại có thể tuỳ duyên. Tuỳ duyên tức là tuỳ theo sự ứng hoá, ứng hoá tất cả chúng sinh. Do đó: “Người đáng dùng thân Phật độ được, liền hiện thân Phật, vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bồ Tát độ được, liền hiện thân Bồ Tát, vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Bích Chi Phật độ được, liền hiện thân Bích Chi Phật, vì họ nói pháp. Người đáng dùng thân Thanh Văn độ được, liền hiện thân Thanh Văn, vì họ nói pháp…” Tóm lại, Người đáng dùng thân gì độ được, liền hiện thân đó, để vì họ nói pháp. Cho nên khắp hiện diệu sắc thân, để vì tất cả chúng sinh nói pháp.
Như Lai bất niệm ngôn, Như Lai không nghĩ nói
Ngã tác như thị thân, Ta hiện thân như vậy
Tự nhiên nhi thị hiện, Tự nhiên mà thị hiện
Vị tằng khởi phân biệt. Chưa từng khởi phân biệt.
Phật chẳng nghĩ như vầy: Ta hiện thân Phật, Ta hiện thân Bồ Tát, Ta hiện thân Thanh Văn .v.v… Phật chẳng cần suy nghĩ, tự nhiên mà hiện ra đủ thứ thân biến hoá, chưa từng sinh khởi tâm phân biệt. Tại sao ? Vì do thuở xưa phát nguyện lực và tu hạnh môn, mà thành tựu. Chẳng cần phải có bất cứ sự tạo tác gì, bất cứ có việc gì khó khăn, đều nghênh nhận mà giải quyết.
Pháp giới vô sái biệt, Pháp giới chẳng khác biệt
Diệc vô sở y chỉ, Cũng chẳng chỗ y chỉ
Nhi ư thế gian trung, Mà ở trong thế gian
Thị hiện vô lượng thân. Thị hiện vô lượng thân.
Phật ở trong pháp giới, đối với trong mười phương thế giới, cảm thấy chẳng có sự phân biệt. Nhận rằng một thế giới, tức là tất cả thế giới. Tất cả thế giới, tức là một thế giới. Tận hư không khắp pháp giới hết thảy thế giới, đó đây chẳng có sự phân biệt. Pháp giới cũng chẳng có chỗ y chỉ. Pháp thân của Phật, cũng chẳng có chỗ y chỉ. Tuy nhiên chẳng có chỗ y chỉ, nhưng ở trong thế gian, vẫn thị hiện vô lượng vô biên thân.
Phật thân phi biến hóa, Thân Phật chẳng biến hoá
Diệc phục phi phi hóa, Chẳng phải chẳng biến hoá
Ư vô hóa pháp trung, Ở trong pháp không biến
Thị hữu biến hóa hình. Thị hiện hình biến hoá.
Thân Phật vốn không thể dùng sắc để cầu, nhưng không thể lìa khỏi sắc mà có thân Phật. Thân Phật chẳng phải biến hoá, nhưng không thể lìa khỏi sự biến hoá đi tìm Phật. Chẳng biến hoá tức là chẳng biến, tức là chân như. Chân như tức là pháp thân của Phật. Pháp thân thì chẳng biến. Tuy nhiên chẳng biến, nhưng hay tuỳ duyên. Tức nhiên tuỳ duyên, không thể nói nó chẳng phải biến hoá. Ở trong pháp chẳng biến tuỳ duyên, mà thị hiện có hình biến hoá tuỳ duyên.
Ví như có người ban đêm đi đường, ở xa phía trước, có một khúc gỗ. Vì nhìn chẳng rõ là cái gì, cho nên sinh ra tâm nghi hoặc:
– “Ồ ! Ðó là người chăng !”
– Người có trí huệ, thì mắt rất sáng suốt, nhìn thấy rõ ràng, mới nói với họ rằng: “Ðó chẳng phải là người”.
– Người ngu si đó lại hỏi: “Ðó chẳng phải là người, vậy chắc chắn là quỷ “.
Vốn là một khúc gỗ, mà nghĩ tưởng là quỷ. Chúng ta có biến kế chấp tánh, nương nó khởi tánh. Cho nên sinh ra đủ thứ vọng tưởng, nếu minh bạch đạo lý nầy, thì sẽ minh bạch thân Phật là biến hoá tuỳ duyên, tuỳ duyên biến hoá. Cho nên bốn câu kệ nầy, mới nói như vầy:
“Thân Phật chẳng biến hoá
Chẳng phải chẳng biến hoá
Ở trong pháp không biến
Thị hiện hình biến hoá”.
Chánh giác bất khả lượng, Chánh Giác không thể lường
Pháp giới hư không đẳng, Pháp giới hư không thảy
Thâm quảng vô nhai để, Sâu rộng không bờ đáy
Ngôn ngữ đạo tất tuyệt. Đường lời nói đều bặc.
Chánh Giác tức là Phật. Phật rốt ráo có bao nhiêu ? Có nhiều vô lượng vô biên. Nói tóm lại, có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu Phật. Tại sao ? Vì chúng sinh tức là phân thân của Phật, Phật tức là bản thể của chúng sinh. Phân ra thì vô lượng, hợp lại thì là một. Cho nên chúng sinh với Phật chẳng có sự phân biệt, Phật là Phật của chúng sinh, chúng sinh là chúng sinh của Phật. Vậy, chúng sinh làm thế nào có thể thành Phật ? Trước hết phải trừ sạch tham sân si, phải siêng tu giới định huệ.
Ai ai cũng đều có tâm tham, tham mà không biết chán. Tham cầu chẳng được, thì sinh vô minh. Vô minh khởi lên, thì có phiền não. Có phiền não rồi thì lý trí khống chế chẳng được tình cảm, thậm chí mất đi trí huệ, bèn tạo ra những việc ngu si, cho nên gọi tham sân si là ba độc.
Tham đó, bao gồm đủ thứ sự mong muốn hy vọng. Hoặc tham danh lợi, hoặc tham phú quý. Sự tham đó, chẳng có lúc nào biết đủ. Tham dục đó từ đâu đến ? Tức là từ trong sự ích kỷ mà sinh ra. Nếu chẳng có ích kỷ tác quái, thì chẳng có tâm tham dục lớn như thế. Chẳng có tham dục lớn, thì chẳng có phiền não lớn. Chẳng có phiền não, thì trí huệ sẽ hiện tiền, lúc đó chẳng còn ngu si nữa.
Chúng ta tu đạo tu cái gì ? Tức là :
“Siêng tu giới định huệ,
Diệt trừ tham sân si”.
Giới là ngừa ác phòng quấy, tức cũng là :
“Không làm các điều ác,
Làm hết các điều lành”.
Lại thường tu định, thì sẽ sinh ra trí huệ. Do đó:
“Do giới sinh định,
Do định sinh huệ”.
Có trí huệ rồi, thì sẽ phá tan vô minh phiền não.
Tại sao chúng ta chẳng thành Phật ? Vì có tham sân si, chưa thể siêng tu giới định huệ. Phật ở trong vô lượng kiếp, siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, tu hành từng chút từng chút, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp tinh tấn tu hành, mới ngồi ở dưới cội bồ đề thành Phật.
Phật với chúng ta chúng sinh đều giống nhau, nhưng vì Phật trừ khử sạch tất cả mao bệnh, tất cả tập khí chẳng còn nữa, cho nên mới thành Phật. Chúng ta người tu đạo, nếu trừ khử sạch các mao bệnh, chẳng còn tập khí, thì cũng sẽ sớm thành Phật.
Phật cứu kính là gì ? Phật là người đại giác ngộ. Ngài biết rõ đạo lý ai ai cũng đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, cho nên cực lực đề xướng sự tu hành, biến vô minh thành quang minh, biến phiền não thành bồ đề. Phật khổ nhọc thuyết pháp 49 năm, dạy dỗ chúng sinh ngu si, buông xả tham sân si, thì sẽ có sự hy vọng thành Phật. Phật chẳng phải chuyên lợi, chẳng phải độc quyền, mà là bình đẳng, vì ai ai cũng đều có thể thành Phật.
Phật ở dưới cội bồ đề, đêm thấy sao mai mọc mà ngộ đạo, câu thứ nhất bèn nói: “Lành thay ! Lành thay ! Tất cả chúng sinh, đều đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng vì vọng tưởng chấp trước, nên không chứng đắc”. Do đó, có thể biết chúng ta cũng là một loài chúng sinh, cũng có tư cách làm Phật, cũng có cơ hội thành Phật.
Phật và chúng sinh đều bình đẳng; bất quá, Phật đã đắc được đại trí huệ vốn có, mà chúng ta chúng sinh chưa đắc được, vẫn còn ngu si như vậy, vẫn còn chấp trước như thế, vẫn điên đảo như vậy, thật là đáng thương xót. Nếu chúng sinh hồi đầu, thì sẽ được cứu, do đó:
“Biển khổ không bờ
Hồi đầu là bến”.
Phật ban đầu tu đạo, là từ con người mà tu hành. Ngài nhẫn những điều mà người khác không nhẫn được, Ngài chịu đựng những điều mà người khác không chịu đựng được, Ngài nhường những điều mà người khác không thể nhường, Ngài ăn những thứ mà người khác không thể ăn. Tu đủ thứ sự khổ hạnh, cho nên mới siêu hơn tất cả mọi người, trở về nguồn cội, khôi phục lại trí huệ vốn có.
Khi thuở xưa Phật tu đạo Bồ Tát, thì xả mình vì người, từ bi cứu những chúng sinh khổ nạn. Ðã từng xả thân cứu cọp đói, lóc thịt cứu chim ưng. Hành khổ hạnh người khó làm được. Vì người mà phát tâm tu hành, sau trở thành A La Hán, về sau tu hành lục độ vạn hạnh Bồ Tát đạo, cứu giúp tất cả chúng sinh lìa khổ được vui. Ban đầu đắc được tự giác, tức cũng là tự mình đắc được đại trí huệ. Sau đắc được giác tha, khiến cho họ cũng đắc được đại trí huệ. Tự giác giác tha đều tu đến lúc viên mãn, thì sẽ được giác hạnh viên mãn. Ba thứ giác nầy viên mãn rồi, vạn thứ đức hạnh cũng đầy đủ, thì lúc đó sẽ thành Phật.
Phật tức là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cho nên xưng là bậc đại giác ngộ, tức cũng là bậc đại trí huệ. Mỗi vị Phật đều do chúng sinh mà thành tựu. Vì chúng sinh có nhiều vô lượng, cho nên Phật cũng không thể lường. Phật tức là chúng sinh chuyển thân lại. Phật là người thấy rõ tâm tánh, biết sinh như thế nào, biết chết như thế nào. Sinh từ đâu đến, chết đi về đâu, đây là chỗ Phật với chúng sinh khác nhau.
Chúng sinh quá ngu si, sinh ra chẳng biết từ đâu đến, chết rồi chẳng biết đi về đâu. Hồ đồ mà đến, hồ đồ mà đi. Ở trong thế giới nầy, chẳng phải tranh danh, thì tranh lợi, bận rộn bôn ba một đời, chẳng biết vì ai hạnh khổ, vì ai mà bận rộn. Khi sớm muốn minh bạch, thì lại chết đi, thật là đáng thương.
Pháp thân của Phật, với cõi hư không đều giống nhau, cũng có thể nói hư không pháp giới lớn bao nhiêu, thì pháp thân của Phật cũng lớn bấy nhiêu. Do đó: “Tận hư không biến pháp giới”. Pháp thân của Phật, nói sâu thì chẳng có đáy, nói rộng thì chẳng có bờ mé. Nói rốt ráo thì Phật như thế nào cũng nói không ra. Ðường lời lẽ đã dứt, không có cách gì có thể hình dung, do đó:
“Ðường lời lẽ đã dứt
Nơi tâm hành đã diệt”.
Tóm lại, pháp thân của Phật đầy khắp tất cả mọi nơi.
Như Lai thiện thông đạt, Như Lai khéo thông đạt
Nhất thiết xứ hành đạo, Tất cả nơi hành đạo
Pháp giới chúng quốc độ, Pháp giới các cõi nước
Sở vãng giai vô ngại. Chỗ đến đều vô ngại.
Phật khéo thông đạt tất cả đạo lý. Phật hành đạo ở tất cả mọi nơi, giáo hoá tất cả chúng sinh. Trong pháp giới, hết thảy các cõi nước chư Phật, đến đi tự do, chẳng bị hạn chế. Muốn đến cõi nước nào, thì đi đến cõi nước đó, tuyệt đối chẳng bị chướng ngại gì. Tại sao ? Vì pháp thân của Phật là vô tại vô bất tại, chẳng có một nơi nào mà chẳng phải là chỗ sở tại của Phật, cũng chẳng có một nơi nào là chỗ sở tại của Phật. Tận mười phương thế giới hết thảy hạt bụi, chẳng có một hạt bụi nào chẳng phải là nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, chư Phật xả thân giáo hoá chúng sinh. Phật vì giáo hoá chúng sinh, thà xả bỏ ngàn thân mà không tiếc. Tâm từ bi như thế, khiến cho chúng sinh cảm động rơi lệ.
Chúng ta không những không thể xả bỏ ngàn thân, dù xả bỏ một ngón tay để giúp đỡ người, cũng chẳng muốn. Thậm chí nhổ một sợi lông lợi ích thiên hạ, cũng chẳng làm. Do đó có thể thấy, chúng ta quá ích kỷ. Nếu không ích kỷ, thì sẽ khai mở đại trí huệ. Tại sao chúng ta chẳng có trí huệ ? Vì ích kỷ. Có tâm ích kỷ, thì vô minh sẽ tác quái, tâm địa đen tối, chấp đông, chấp tây, tất cả là của ta, là sở hữu của ta; chẳng chịu bố thí, chẳng chịu cứu giúp. Người có tâm lý như thế, thì trí huệ của họ sẽ bị vô minh che đậy, tuyệt đối chẳng hiện tiền. Hồ đồ mà đến, hồ đồ mà đi, uổng thay một giấc xuân mộng !
Nhĩ thời, trí Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tràng, nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương nam Bồ Tát Trí Tràng làm đại biểu, nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, dùng kệ để khen ngợi công đức của Phật.
Hôm nay có mấy vị học sinh đến, tôi có thể truyền thọ phương pháp học cho các vị. Phương pháp rất đơn giản, có ba thứ, tức là mắt, miệng, tâm. Mắt phải nhìn sách vở học, trong miệng phải niệm sách vở học, trong tâm phải nghĩ sách vở học. Có thể học hành như thế, thì rất mau sẽ ghi nhớ câu văn đã học, lại có thể đọc thuộc lòng nghĩa lý trong sách vở, và tâm của mình hợp thành một thể, đây tức là bí quyết học hành.
Còn có phương pháp “Ba đến”, tức là “mắt đến”, “miệng đến”, “tâm đến”. Công phu “ba đến” nầy làm được viên mãn, thì sẽ thành công. Học hành chẳng sợ ngu si, cũng chẳng sợ ngốc, chỉ sợ chẳng dụng công, công đáo tự nhiên thành. Học hành và tu hành đều giống nhau, do đó:
“Trồng trọt một phần,
Thì thu hoạch một phần”.
Thiên hạ chẳng có việc, không bỏ công sức mà thu hoạch bao giờ.
Còn có phương pháp “Ba trên”, tức là “trên đường”, “trên nhà cầu”, “trên gối”. Trên đường tức là lúc đi đường, có thể đọc bài vở đã học. Trên nhà cầu tức là lúc đi cầu, cũng phải suy gẫm bài vở đã học. Trên gối tức là lúc đi ngủ, đầu dựa trên gối, đừng khởi vọng tưởng bạn nam, hoặc bạn nữ, cũng đừng khởi vọng tưởng bạn bè. Lúc đó, tư tưởng lắng xuống suy gẫm đại ý bài vở đã học, thì rất dễ nằm lòng. Ðây là phương pháp học hành thứ ba.
Tại sao phải học hành ? Nói đơn giản là vì cầu trí huệ và tri thức mà học hành. Lúc còn đang đi học thì hãy chuyên tâm để nghiên cứu quá trình học. Học tập siêng năng, cần mẫn, thì nhất định sẽ thành tựu, rất mau sẽ khai mở đại trí huệ. Bằng không, cứ khởi những vọng tưởng điên đảo, thì sẽ lãng phí thời gian, tuyệt đối chẳng có sự thành tựu. Các vị bạn học ! Phải ở tại chỗ nầy mà hạ thủ công phu.
Các bạn hôm nay rất thành tâm đến Chùa Kim Sơn nghe Kinh, cho nên tôi nói ra những phương pháp học hành đơn giản, để cho các vị tham khảo. Chẳng những học hành là tình hình như vậy, mà dù làm người cũng phải như thế. Làm người phải có tông chỉ, phải có tâm trạng xót trời thương người, phải có tinh thần xả mình vì người. Hãy tự hỏi mình: “Tôi học hành là vì mình học ? Hay là vì mọi người mà học ?” Nếu vì mình; thì đó là ích kỷ; nếu vì mọi người, thì đó là lợi tha. Chỉ cần phóng tư tưởng cho rộng lớn, thì tiền đồ tương lai chẳng có hạn lượng. Vĩ nhân của thế giới đều là vì mọi người mưu hạnh phúc, do đó:
“Hy sinh tiểu ngã,
Để hoàn thành đại ngã” !
Nhược nhân năng tín thọ Nếu người hay tin thọ
Nhất thiết trí vô ngại, Nhất thiết trí vô ngại
Tu tập Bồ-đề hạnh Tu tập hạnh bồ đề
Kỳ tâm bất khả lượng. Tâm đó không thể lường.
Nếu như có người, hay tin thọ pháp của Phật nói. Pháp của Phật nói, là pháp viên dung vô ngại. Như vậy, nhất thiết trí huệ sẽ chẳng có sự chướng ngại. Tu hành học tập hạnh bồ đề, thì tâm đó chẳng có hạn lượng, do đó:
“Tâm bao quát thái hư,
Lượng bao khắp pháp giới”.
Tức cũng là tận hư không khắp pháp giới.
Nhất thiết quốc độ trung Trong tất cả cõi nước
Phổ hiện vô lượng thân, Khắp hiện vô lượng thân
Nhi thân bất tại xứ Mà thân chẳng tại xứ
Diệc bất trụ ư Pháp. Cũng chẳng trụ nơi pháp.
Phật ở trong mười phương hết thảy cõi nước, khắp thị hiện vô lượng diệu sắc thân. Tuy nhiên vô lượng, nhưng thân chẳng trụ tại xứ, cũng chẳng trụ tại pháp. Tức cũng là người và pháp đều không. Vì người không, cho nên chẳng trụ tại xứ. Vì pháp không, cho nên chẳng trụ nơi pháp. Ta và pháp hai chấp đã không, thì sẽ lìa khỏi tất cả sự chấp trước, đây tức là cảnh giới vô tại vô bất tại.
Nhất nhất chư Như Lai, Mỗi mỗi các Như Lai
Thần lực thị hiện thân, Thần lực thị hiện thân
Bất khả tư nghị kiếp, Kiếp không thể nghĩ bàn
Toán số mạc năng tận. Tính đếm không hết được.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, mỗi vị Phật đều có trăm ngàn ức hoá thân. Ðó là đại oai thần lực của chư Phật thị hiện thân, các thân thị hiện đều khác nhau. Ở trong số kiếp không thể nghĩ bàn, dùng toán số cũng không thể tính đếm được thân Phật rốt ráo có bao nhiêu?
Tam thế chư chúng sanh, Ba đời các chúng sinh
Tất khả tri Kỳ số, Đều biết được số đó
Như Lai sở thị hiện, Thân Như Lai thị hiện
Kỳ số bất khả đắc. Số đó không biết được.
Phật có ba đời chư Phật, chúng sinh cũng có ba đời chúng sinh. Ở trong ba đời, số lượng của hết thảy chúng sinh, có thể biết được rốt ráo số lượng bao nhiêu. Nhưng hoá thân của Phật thị hiện, rốt ráo có bao nhiêu ? Số mục nầy chẳng cách chi tính đếm được, cho nên nói số đó không biết được.
Hoặc thời thị nhất nhị, Lúc hiện một hai thân
Nãi chí vô lượng thân, Cho đến vô lượng thân
Phổ hiện thập phương sát, Khắp hiện mười phương cõi
Kỳ thật vô nhị chủng. Kỳ thật chẳng hai thứ.
Có lúc, Phật thị hiện một thân Phật, hoặc thị hiện hai thân Phật, cho đến vô lượng thân Phật, khắp thị hiện ở trong mười phương các cõi nước chư Phật. Kỳ thật, Phật chẳng có hai thân, thị hiện vô lượng thân, cũng là một pháp thân. Do đó:
“Một pháp thân thị hiện vô lượng thân
Vô lượng thân quy về một pháp thân”.
Cho nên nói “Kỳ thật chẳng hai thứ”.
Thí như tịnh mãn nguyệt Ví như trăng tròn sáng
Phổ Hiện-Nhất-Thiết thủy, Khắp hiện tất cả nước
Ảnh tượng tuy vô lượng, Hình bóng tuy vô lượng
Bổn nguyệt vị tằng nhị. Gốc trăng chưa từng hai.
Cảnh giới của Phật, giống như mặt trăng tròn sáng suốt, mặt trăng khắp hiện vào trong tất cả nơi có nước. Chẳng phải bản thể của mặt trăng phân ra vào trong nước, chỉ có vô lượng hình bóng, nhưng gốc mặt trăng chỉ có một, chẳng có hai.
Phật cũng như mặt trăng tròn sáng, tất cả chúng sinh đều cảm thấy mình đối diện ở trước Phật, nhưng Phật chỉ có một pháp thân. Ðây tức là đạo lý:
“Thiên đầm hữu thuỷ, thiên đầm nguyệt
Vạn lý vô vân, vạn lý thiên”.
Nghĩa là:
“Ngàn đầm có nước, ngàn đầm có trăng
Vạn dặm không mây, vạn dặm trời xanh.
Như thị vô ngại trí Như vậy trí vô ngại
Thành tựu đẳng chánh giác, Thành tựu Đẳng Chánh Giác
Phổ hiện nhất thiết sát Khắp hiện tất cả cõi
Phật thể diệc vô nhị. Thể Phật cũng không hai.
Phật có trí huệ viên dung vô ngại, có trí huệ như vậy, mới chứng được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Phật thành Phật rồi, ở thế giới nầy, ở thế giới khác, vô lượng các thế giới, thị hiện thành Phật. Bất cứ đến thế giới nào thị hiện thành Phật, thì bản thể của Phật vẫn là một, chẳng có hai.
Phi nhất diệc phi nhị, Chẳng một cũng chẳng hai
Diệc phục phi vô lượng, Cũng chẳng phải vô lượng
Tùy kỳ sở ưng hóa, Tuỳ theo sự ứng hoá
Thị hiện vô lượng thân. Thị hiện vô lượng thân.
Bản thể của Phật, chẳng những chẳng phải hai, mà cho đến một cũng chẳng có, cũng chẳng phải vô lượng. Chỉ là tuỳ theo sự ứng hoá mà thôi. Phật thì quán sát căn cơ của chúng sinh, vì họ nói pháp, tuỳ theo căn tánh của chúng sinh mà đến giáo hoá. Người chưa trồng căn lành, thì khiến cho trồng căn lành. Người đã trồng căn lành, thì khiến cho tăng trưởng. Người căn lành đã tăng trưởng, thì khiến cho thành thục. Người đã thành thục, thì khiến cho được giải thoát. Phật thì tuỳ thời tuỳ lúc giáo hoá chúng sinh đáng được giáo hoá, mới thị hiện vô lượng thân. Ðây là đến phá sự chấp trước của chúng sinh, khiến cho chúng sinh trở về cội nguồn, rốt ráo thành Phật, đây là bổn hoài của Phật.
Phật thân phi quá khứ Thân Phật chẳng quá khứ
Diệc phục phi vị lai, Cũng chẳng phải vị lai
Nhất niệm hiện xuất sanh Một niệm hiện sinh ra
Thành đạo cập Niết-Bàn. Thành đạo và Niết Bàn.
Bài kệ ở trước, là phá chấp trước của chúng sinh, đừng sinh vọng tưởng tính xem Phật có bao nhiêu thân, đây là không việc tìm việc làm, gây thêm phiền não cho chính mình. Hiện tại lại nói thân Phật, tức nhiên là vô lượng. Vậy, thân Phật là quá khứ, quá khứ có thân Phật chăng ? Chẳng phải. Thân Phật chẳng có quá khứ, chẳng có vị lai. Vậy, hiện tại có thân Phật chăng ? Cũng chẳng có. Phật tức là trong khoảng một niệm, có thể thị hiện sinh ra, thị hiện thành đạo, thị hiện Niết Bàn. Nói tóm lại, Phật thị hiện tám tướng thành đạo, chẳng lìa khỏi một tâm niệm hiện tiền.
Thế nào là tám tướng thành đạo ?
- Hàng sinh từ Trời Ðâu Suất: Bồ Tát một đời bổ xứ, trụ ở nội viện Ðâu Suất, đợi đến khi nhân duyên chín mùi, thì cưỡi voi trắng lớn mà xuống nhân gian.
- Nhập thai: Phật Thích Ca Mâu Ni, chọn lựa vua Tịnh Phạn làm cha, hoàng hậu Ma Gia làm mẹ.
- Xuất thai: Hoàng hậu Ma Gia mang Thánh thai rồi, thì thân thể khoẻ mạnh, tinh thần thoải mái. Mười tháng đã mãn, Phật hàng sinh dưới cội Vô Ưu. Bảy ngày sau, hoàng hậu Ma Gia qua đời.
- Xuất gia: Vì giải trừ sinh già bệnh chết bốn khổ lớn, mà từ bỏ hoàng cung, đi đến núi Tuyết tu hành. Tìm đạo sáu năm, tu khổ hạnh sáu năm, chẳng giải quyết được sinh tử, bèn tĩnh toạ ở dưới cội bồ đề, suy gẫm pháp môn sinh tử.
- Hàng ma: Ma vương biết Phật sắp thành Phật, bèn sai ma nữ đến nhiễu loạn tâm Ngài, khiến cho mất đạo nghiệp. Nhưng Phật có định lực kim cang kiên cố, không lay động tâm, ma nữ biết khó mà làm cho Ngài thối chuyển.
- Thành Chánh Giác: Phật chẳng bị vũ lực của ma vương uy hiếp, chẳng bị sắc đẹp của ma nữ dụ dỗ, bèn phát thệ nguyện: “Nếu không thành Chánh Giác, thì thề sẽ không đứng dậy”. Ðêm thấy sao mai mọc mà ngộ đạo, tức thành Chánh Giác.
- Chuyển Pháp luân: Ngộ đạo rồi, liền nói Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật, sau đến vường Lộc Uyển vì năm anh em Kiều Trần Như nói phát bốn Diệu Ðế. Về sau nói pháp bốn mươi chín năm, hơn ba trăm hội. Lưu lại Ba Tạng Kinh điển, mười hai bộ.
- Nhập Niết Bàn: Tám mươi tuổi, tại rừng Sa La song thọ, an tường thị hiện vào Niết Bàn.
Như huyễn sở tác sắc, Như huyễn hoá màu sắc
Vô sanh diệc vô khởi, Không sinh cũng không khởi
Phật thân diệc như thị, Thân Phật cũng như vậy
Thị hiện vô hữu sanh. Thị hiện chẳng có sinh.
Giống như huyễn hoá làm ra màu sắc, rốt ráo mà nói thì chẳng có sinh, cũng chẳng có khởi. Thân Phật cũng tình hình như vậy, chẳng có sinh khởi. Phật thì thị hiện, cho nên chẳng có sinh. Tức nhiên chẳng có sinh, thì đương nhiên chẳng có diệt. Do đó:
“Chẳng sinh chẳng diệt
Chẳng nhơ chẳng sạch
Chẳng tăng chẳng giảm”.
Ðây tức là bản thể của Phật, đã đến được cảnh giới “Như như chẳng động, rõ ràng sáng suốt”.
Nhĩ thời, bảo Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Bảo Tràng, nương thần lực của Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương đông nam Bồ Tát Bảo Tràng làm đại biểu, nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, mà nói kệ khen ngợi công đức của Phật.
Phật thân vô hữu lượng Thân Phật không số lượng
Năng thị hữu lượng thân Thị hiện thân có lượng
Tùy kỳ sở ưng đổ, Tuỳ theo người được thấy
Đạo sư như thị hiện. Đạo Sư hiện như vậy.
Chân thân của Phật là đầy khắp tất cả mọi nơi, không thể nói thân Phật là có lượng. Thân Phật tận hư không khắp pháp giới, thân Phật chẳng có số lượng. Tuy vô lượng, nhưng hay thị hiện thân có số lượng, hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân. Tuỳ theo nhân duyên của chúng sinh đáng được thấy, mà Phật hiện thân ở trước họ. Do đó:
“Phật như thanh lương nguyệt,
Thường du tất kính không
Chúng sinh tâm cấu tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung”.
Tức là đạo lý nầy. Bản thể của Phật là vô lượng, nhưng cảm ứng của chúng sinh thì có lượng, cho nên nói tuỳ theo người được thấy, Ðạo Sư hiện như vậy. Ðạo Sư tức là Phật. Chúng ta niệm Phật, tụng Kinh, trì Chú .v.v…đây tức là cảm. Nếu thành tâm đến cực điểm, thì sẽ cảm động chư Phật Bồ Tát, liền đáp ứng sở cầu của chúng ta. Do đó, cảnh giới “Cảm ứng đạo giao”. Nên nhớ ! Có tâm là vọng tưởng, vô tâm là cảm ứng. Ðốt hương lễ lạy, có sự mong cầu, thì chẳng có cảm ứng, vĩnh viễn chẳng thấy được Phật Bồ Tát.
Phật thân vô xứ sở Thân Phật chẳng xứ sở
Sung mãn nhất thiết xứ, Đầy dẫy khắp mọi nơi
Như không vô biên tế, Như không chẳng bờ mé
Như thị nan tư nghị. Như vậy khó nghĩ bàn.
Thân thể của Phật, chẳng có xứ sở nhất định. Phật là vô tại vô bất tại. Tuy nhiên không có xứ sở (vô tại), nhưng vẫn có thể đầy khắp tất cả mọi nơi (vô bất tại). Thân thể của Phật, đồng với hư không, chẳng có bờ mé. Cảnh giới nầy, không thể nghĩ bàn.
Phi tâm sở hành xử, Chẳng phải nơi tâm hành
Tâm bất ư trung khởi, Tâm chẳng ở trong khởi
Chư Phật cảnh giới trung, Trong cảnh giới chư Phật
Tất cánh vô sanh diệt. Rốt ráo chẳng sinh diệt.
Thân thể của Phật, chẳng phải ở trong tâm có thể tưởng tượng được. Ở trong tâm không thể sinh khởi thấu hiểu đạo lý. Tại sao phải nói “Chẳng phải nơi tâm hành, tâm chẳng ở trong khởi ?” Ở trong cảnh giới của chư Phật, rốt ráo chẳng sinh chẳng diệt, cho nên ở trong tâm làm sao sinh khởi ?
Như ế nhãn sở đổ, Như mắt sinh ra màng
Phi nội diệc phi ngoại, Chẳng trong cũng chẳng ngoài
Thế gian kiến chư Phật, Thế gian thấy chư Phật
Ứng tri diệc như thị. Nên biết cũng như vậy.
Giống như trong con mắt sinh ra màng, màng đó chẳng ở trong con mắt, cũng chẳng ở ngoài con mắt. Chúng sinh thế gian nhìn thấy chư Phật, nên biết thân Phật cũng như vậy. Cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài. Vậy, có phải ở giữa chăng ? Ðây cũng không nhất định. Chúng sinh thấy thân Phật, đó là hoá thân của Phật, ứng thân của Phật. Bản thể của Phật, chẳng phải hoá thân và ứng thân, mà là pháp thân. Pháp thân là đầy dẫy khắp mọi nơi.
Nhiêu ích chúng sanh cố, Vì lợi ích chúng sinh
Như Lai xuất thế gian, Như Lai hiện ra đời
Chúng sanh kiến hữu xuất, Chúng sinh thấy có hiện
Nhi thật vô hưng thế. Mà thật chẳng ra đời.
Tại sao Phật phải xuất hiện ra đời ? Vì muốn lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh thấy được Phật, mà phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng, thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cho nên Phật mới xuất hiện nơi thế gian. Chúng sinh đều chấp trước tướng huyễn, nhận giả làm chân, chẳng biết Phật ở trong cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, vắng lặng chẳng động. Thật ra Phật chẳng xuất hiện ra đời, cũng chẳng có vào Niết Bàn. Nhưng chúng sinh có tâm chấp trước, thấy Phật hiện ra đời, thấy Phật vào Niết Bàn.
Bất khả dĩ quốc độ, Không thể dùng cõi nước
Trú dạ nhi kiến Phật, Ngày đêm mà thấy Phật
Tuế nguyệt nhất sát-na, Năm tháng một sát na
Đương tri tất như thị. Nên biết đều như vậy.
Pháp thân của Phật, tận hư không khắp pháp giới. Không thể nói Phật ở cõi nước nầy ra đời, ở cõi nước kia chẳng ra đời. Sở dĩ Phật ra đời, là vì ứng duyên của chúng sinh. Cũng không thể ngày đêm mà thấy được Phật, hoặc một năm, hoặc một tháng, hoặc một sát na. Không thể dùng thời gian để tính đếm, cũng không thể dùng không gian để tưởng niệm. Phật là vượt thời gian và không gian. Phật có thể dung nạp vô lượng kiếp làm một niệm, lại có thể kéo dài một sát na làm vô lượng kiếp. Ðây là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Nên biết, hoàn toàn là tình hình như vậy. Không thể dùng cõi nước, ngày đêm, năm tháng, một sát na, để trắc lượng và minh bạch cảnh giới không thể nghĩ bàn nào của Phật.
Người học Phật pháp, nên lấy sự nghiên cứu thế giới làm trách nhiệm của mình. Cử chỉ, hành động, lời nói của mỗi người, nên tưởng nghĩ đến thế giới. Tại sao hiện tại trên thế giới có nhiều chiến tranh như thế ? Là vì ở trong tâm của mỗi người đặc biệt có nhiều chiến tranh. Chiến tranh trong tâm, tức là vọng tưởng ở trong tâm. Vọng tưởng ở trong tâm tức là chiến tranh lý và dục. Lý tức là thiên lý, chân lý tự nhiên. Dục là dục niệm, tham mà chẳng biết chán. Dục niệm thời thường chiến tranh lý trí, là vì dục niệm chinh phục lý trí, cho nên thế giới càng ngày càng xấu đi.
Nếu đầu óc của mỗi người đều tỉnh táo, tiêu diệt vọng tưởng của mình, thì trí huệ chân chánh sẽ hiện tiền. Một người có trí huệ chân chánh, thì một người được bình an. Mười người có trí huệ chân chánh, thì mười người được bình an. Nhân dân của một quốc gia, đều có lý trí, thì quốc gia đó sẽ được bình an. Cho đến thế giới cũng đều sẽ bình an.
Tại sao thế giới chẳng bình an ? Vì trong tâm ai ai cũng đều có tâm dâm dục hoành hành, trí huệ bớt đi. Cho nên thế giới càng ngày càng xấu đi. Nếu ai ai cũng hướng thiện, lấy việc cứu giúp thế giới làm trách nhiệm của mình, thì thế giới sẽ vĩnh viễn hoà bình, chẳng có chiến tranh.
Phải biết rằng chẳng phải thế giới chẳng tốt, mà là chính chúng ta chẳng tốt. Nếu muốn thế giới tốt đẹp, thì phải từ bản thân mà làm, giảm bớt đi tâm ích kỷ, tâm tự lợi, tâm tham dục, tâm sân hận, tâm ngu si, hoặc là quét sạch. Ðược như thế thì thế giới sẽ tốt đẹp.
Phật giáo cũng tình hình giống như vậy, chẳng phải là Phật giáo chẳng tốt, mà là ta chưa tốt. Nếu ta có thể thanh tâm quả dục, chẳng có mọi tập khí mao bệnh, chẳng nghe lời quỷ, mà nghe lời Phật, thì tự nhiên sẽ bình an vô sự.
Nghe lời quỷ, tức là con quỷ ích kỷ tác quái, kiến nghị với bạn rằng: Việc này, đối với bạn chẳng có lợi ích, bạn nên sửa đổi tư tưởng như vầy và như vầy, ra chủ ý thế bạn. Tóm lại, hoàn toàn vì lợi ích của mình mà tính toán.
Nghe lời Phật, tức là xả mình vì người, vì lợi ích của đại chúng mà nỗ lực. Vì hạnh phúc của mọi người mà phát triển, còn sự lợi hại của mình chẳng màng đến, thấy việc nghĩa là làm, thậm chí vào chỗ dầu sôi lửa bỏng cũng không từ. Có tinh thần hy sinh như vậy, đó là tư tưởng và hành vi chân chánh của Phật giáo đồ.
Muốn khiến cho Phật giáo tốt, thì mỗi Phật giáo đồ, chỉ cần quét sạch vọng tưởng của mình, chẳng còn ý niệm nhiễm ô tồn tại. Nếu còn một tơ hào ý niệm nhiễm ô, thì sẽ không đắc được trí huệ thanh tịnh, cảnh giới thanh tịnh sẽ chẳng hiện tiền. Vĩnh viễn hồ đồ, chỉ biết cầu danh, cầu lợi, cầu phước, cầu lộc, chỉ biết ích kỷ lợi mình, tất cả đều vì mình, chẳng nghĩ đến kẻ khác.
Chúng ta tu hành nhiều năm, tại sao vẫn còn ngu si ? Sự việc gì cũng chẳng minh bạch ? Là vì tâm nhiễm ô quá nặng, trí huệ thanh tịnh chẳng hiện tiền. Ai có thể “Tâm thanh thuỷ hiện nguyệt, ý định Thiên vô vân”. Tâm nước trong hiện trăng, ý định trời không mây, thì người đó chẳng có tư dục tạp niệm, trí huệ chân chánh sẽ hiện tiền.
Chúng ta muốn tu pháp môn nhẫn nhục, thì phải có công phu hàm dưỡng, nghe những lời chẳng thuận tai, cũng chẳng buồn. Cổ nhân có nói:
“Kiến ngô quá giả thị ngô sư”.
Nghĩa là:
“Người thấy lỗi tôi là thầy tôi”.
Ai thấy được lỗi lầm của tôi, thì người đó là thầy tôi. Tử Lộ thời xưa nghe qua liền hoan hỉ. Ðại Câu Vương nghe qua liền lạy. Ðó là người dũng mãnh sửa đổi lỗi lầm, có lỗi thì tự sửa, người khác không cách chi giúp bạn sửa đổi, người khác chỉ khuyên nói mà thôi, muốn cho bạn trừ khử sạch tập khí mao bệnh. Sửa hay không là do bạn, người khác chẳng có cách nào khác.
Chúng ta người tu đạo, nên nhớ ! Nên nhớ ! Ðừng chướng ngại người khác tu đạo. Mình chẳng tu đạo, thì đã phạm quy cụ, lại làm ảnh hưởng đến người khác không tu đạo, khiến cho tâm của họ chẳng được bình an, dấy khởi vọng tưởng, đó là một việc rất nguy hiểm. Nếu chẳng mau sửa đổi tư tưởng và hành vi như thế, thì tương lai đoạ vào địa ngục, nhất định bạn sẽ có phần.
Chúng sanh như thị thuyết, Chúng sinh nói như vầy
Mỗ nhật Phật thành đạo, Ngày đó Phật thành đạo
Như Lai đắc Bồ-đề, Như Lai được bồ đề
Thật bất hệ ư nhật. Thật chẳng liên hệ ngày.
Tướng thế gian và tướng xuất thế gian chẳng giống nhau. Thế gian thì có tướng, xuất thế gian thì không có tướng. Vì tuỳ thuận tất cả chúng sinh mà nói như vầy: Ngày đó là Phật ra đời, ngày nọ là Phật xuất gia, ngày đó là Phật thành đạo, ngày đó là Phật vào Niết Bàn. Ðó là tuỳ thuận thế gian tục đế mà nói. Nếu nói về chân đế, thì Phật thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thật chẳng có thời gian nhất định, chẳng có thời kỳ nhất định. Phật trong vô lượng kiếp về trước, đã chứng đạo thành Phật. Cho nên trong Kinh Phạm Võng có nói: “Ta đến thế giới nầy đã tám ngàn lần”. Tóm lại, Phật là tuỳ căn cơ của chúng sinh mà thị hiện, cho nên nói chẳng có thời kỳ nhất định.
Như Lai ly phân biệt, Như Lai lìa phân biệt
Phi thế siêu chư sổ, Vượt các số thế gian
Tam thế chư Đạo sư, Ba đời các Đạo Sư
Xuất hiện giai như thị. Xuất hiện đều như vậy.
Muốn minh bạch cảnh giới của Phật, thì không thể dùng tâm phân biệt để tưởng tượng, để tính lường, vì cảnh giới của Phật là không thể nghĩ bàn. Nếu dùng tâm suy nghĩ, dùng lời luận bàn, thì đã rơi vào đế thứ hai. Phật chẳng giống như chúng ta, chúng sinh, dùng tâm phân biệt để chấp trước, Phật lìa khỏi tâm phân biệt.
Phật vượt ra ngoài tất cả các số, lìa khỏi tất cả các số, chẳng ở trong tất cả các số. Ba đời tất cả chư Phật, xuất hiện ra đời, đều là tình hình như vậy. Lìa khỏi sự phân biệt, vượt khỏi các số.
Ba đời có thể nói là đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. Lại có thể nói là hôm qua, ngày nay, ngày mai, ba đời pháp chẳng định.
Mười phương ba đời tất cả các Đạo Sư (Phật), có thể nói là Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì Ngài là Ðạo Sư quá khứ, cũng là Ðạo Sư hiện tại, cũng là Ðạo Sư vị lai. Cho nên chữ “các” nầy, có thể dùng nói nhiều, lại có thể dùng nói một. Một là lời trợ từ, nhiều là hình dung từ. Bất cứ là nhiều, hoặc là một, Phật xuất hiện ra đời, đều là như vậy. Quét sạch tất cả pháp, lìa tất cả tướng, hành sở vô sự. Chúng ta đừng dùng tâm phàm phu, để trắc lượng trí huệ của Thánh nhân.
Thí như tịnh nhật luân, Ví như mặt trời sáng
Bất dữ hôn dạ hợp, Chẳng hợp với đêm tối
Nhi thuyết mỗ nhật dạ, Mà nói ngày đêm ấy
Chư Phật Pháp như thị. Các Phật pháp như vậy.
Giống như mặt trời lúc bầu trời không có mây, thì rất sáng, chẳng hợp với đêm tối. Tuy nhiên mặt trời sáng chẳng hợp với đêm tối, có ngày, có đêm, có đêm, có ngày, nhưng một số thế tục tập quán nói, ngày đó, đêm đó, ngày đêm vận hành với nhau. Pháp của ba đời chư Phật, cũng như vậy. Cho nên phải tức tướng lìa tướng, tức pháp lìa pháp, đừng chấp trước tất cả có hình có tướng.
Tam thế nhất thiết kiếp, Ba đời tất cả kiếp
Bất dữ Như Lai hợp, Chẳng hợp với Như Lai
Nhi thuyết tam thế Phật, Mà nói Phật ba đời
Đạo sư Pháp như thị. Pháp Đạo Sư như vậy.
Tất cả kiếp đời quá khứ, tất cả kiếp đời hiện tại, tất cả kiếp đời vị lai, thảy đều chẳng hợp với tướng Phật. Kiếp là kiếp, Phật là Phật. Tuy nhiên kiếp và Phật chẳng hợp nhau, nhưng một số người thế tục đều nói ba đời chư Phật. Pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni nói, cũng như vậy. Phật chẳng hợp với tướng ba đời tất cả kiếp, ba đời tất cả kiếp cũng chẳng hợp với tướng Phật.
Nhĩ thời, tinh tấn Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tấn Tràng, nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương tây nam Bồ Tát Tinh Tấn Tràng làm đại biểu, Ngài nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, dùng kệ để nói rõ tất cả Phật pháp.
Nhất thiết chư Đạo sư Tất cả các Đạo Sư
Thân đồng nghĩa diệc nhiên, Thân đồng nghĩa cũng vậy
Phổ ư thập phương sát, Khắp trong mười phương cõi
Tùy ưng chủng chủng hiện. Tuỳ ứng hiện đủ thân.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều đồng một pháp thân. Phật với Phật là một thể, chẳng có phân biệt đó đây. Tuy nhiên ở thế giới phương đông, có vị Phật A Súc. Ở thế giới phương nam có vị Phật Bảo Sinh. Ở thế giới phương tây có vị Phật A Di Ðà. Ở thế giới phương bắc, có vị Phật Yết Ma (Phật Bất Không Thành Tựu). Nhưng thật tế là một thể, cho nên nói Phật Phật đạo đồng. Chẳng những thân đồng, mà nghĩa cũng vậy. Hết thảy chư Phật, hiện khắp trong mười phương cõi nước, để tuỳ tâm cảm ứng của chúng sinh, mà hiện đủ thứ thân, vì chúng sinh nói pháp.
Nhữ quán Mâu Ni tôn, Ông quán đấng Mâu Ni
Sở tác thậm kì đặc, Chỗ làm rất kỳ đặc
Sung mãn ư Pháp giới Đầy dẫy nơi pháp giới
Nhất thiết tất vô dư. Tất cả đều không thừa.
Các vị hãy nhìn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, chỗ thực hành đều rất thù thắng kỳ đặc. Pháp thân của Ngài, đầy khắp nơi pháp giới. Hết thảy tất cả mọi nơi, Phật là vô tại vô bất tại, cũng có thể nói chẳng chỗ nào mà không có. Cảnh giới nầy diệu không thể tả.
Phật thân bất tại nội, Thân Phật chẳng ở trong
Diệc phục bất tại ngoại, Cũng chẳng ở bên ngoài
Thần lực cố hiển hiện, Vì thần lực hiển hiện
Đạo sư Pháp như thị. Pháp Đạo Sư như vậy.
Pháp thân của Phật, cũng chẳng ở bên trong, cũng chẳng ở bên ngoài, là đại oai thần lực tu từ thuở xưa hiển hiện. Pháp của Phật nói, cũng tình hình như vậy, chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài.
Tùy chư chúng sanh loại, Tuỳ các loại chúng sinh
Tiên thế sở tập nghiệp, Nghiệp đời trước tích tập
Như thị chủng chủng thân Đủ thứ thân như vậy
Thị hiện các bất đồng. Thị hiện đều khác nhau.
Phật là tuỳ thuận tất cả các loài chúng sinh. Chúng sinh thuở xưa tích tập đủ thứ nghiệp thiện và nghiệp ác, có đủ thứ sự khác nhau, cho nên Phật thị hiện đủ thứ thân khác nhau để giáo hoá. Ðây là pháp môn phương tiện khéo léo tuỳ loại ứng hoá.
Chư Phật thân như thị, Chư Phật thân như vậy
Vô lượng bất khả số, Vô lượng không thể đếm
Duy trừ đại giác tôn, Chỉ trừ đấng Đại Giác
Vô hữu năng tư nghị. Không thể nghĩ bàn được.
Ứng hoá thân của mười phương chư Phật, cũng như vậy. Có nhiều vô lượng vô biên, không thể tính đếm. Chỉ có Phật mới rốt ráo được các pháp thật tướng, mới thấu rõ được cảnh giới của Phật. Còn lại chín pháp giới chúng sinh kia, đều không thể trắc lường được cảnh giới của Phật, cho nên nói không thể nghĩ bàn được.
Như dĩ ngã nan tư, Như dùng ngã khó nghĩ
Tâm nghiệp mạc năng thủ, Tâm nghiệp không thể lấy
Phật nan tư diệc nhĩ, Phật khó nghĩ cũng vậy
Phi tâm nghiệp sở hiện. Chẳng tâm nghiệp sở hiện.
Giống như “ngã” khó nghĩ bàn, tâm cũng khó nghĩ bàn, nghiệp tạo ra, cũng không thể nghĩ bàn. Tâm và nghiệp chẳng cách chi thủ lấy được nó. Phật không thể dùng tướng để thấy, không thể dùng âm thanh để cầu, cũng không thể nghĩ bàn. Chẳng phải do tâm và nghiệp tạo ra, mà có thể hiện ra được.
Như sát bất khả tư, Như cõi không nghĩ bàn
Nhi kiến tịnh trang nghiêm, Mà thấy tịnh trang nghiêm
Phật nan tư diệc nhĩ, Phật khó nghĩ cũng vậy
Diệu tướng vô bất hiện. Diệu tướng không thể hiện.
Cõi Phật nhiều như số hạt bụi, cũng không thể nghĩ bàn. Có cõi nước thanh tịnh, cũng có cõi nhiễm ô. Có cõi trang nghiêm, cũng có cõi chẳng trang nghiêm, cũng là không thể nghĩ bàn. Cõi nước tuy nhiên không thể nghĩ, nhưng chỗ thấy thanh tịnh trang nghiêm. Phật là khó nghĩ bàn, cũng giống như vậy. Diệu sắc thân của Phật, chẳng có cõi nào mà chẳng hiện thân. Phàm là cõi nước, thì Phật đều hiện thân đi giáo hoá chúng sinh.
Thí như nhất thiết pháp Ví như tất cả pháp
Chúng duyên cố sanh khởi, Do các duyên sinh khởi
Kiến Phật diệc phục nhiên, Thấy Phật cũng như vậy
Tất giả chúng thiện nghiệp. Hà tất các nghiệp thiện.
Giống như tất cả các pháp, đều do đủ thứ nhân duyên mà sinh khởi. Do đó:
“Pháp do nhân duyên sinh
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo”.
Ðây là đạo lý duyên sinh vô tánh. Phật thì không sinh không diệt. Nếu muốn thấy Phật, thì thuở xưa phải trồng căn lành, phải tu nghiệp thiện, mới có thể thấy được Phật. Bằng không, thì chẳng thấy được Phật, chẳng nghe được Pháp, chẳng gặp được Tăng, chẳng có nhân duyên gần gũi Tam Bảo.
Người phải có căn lành, mới vào được cửa lớn của Chùa Kim Sơn, để nghe Kinh, nghe pháp. Nếu người chẳng có căn lành, thì muốn đến Chùa Kim Sơn cũng chẳng được. Tại sao ? Vì chẳng có nhân duyên. Phàm là người thấy Phật nghe Pháp gặp Tăng, đều phải có căn lành. Người đến Chùa Kim Sơn lạy Phật, niệm Phật, cúng dường Tam Bảo, hộ trì Tam Bảo, đều đã gieo trồng căn lành lớn thuở xưa, đời nầy nhân duyên chín mùi. Do đó:
“Vô phước nan đăng Tam Bảo địa,
Vô đức nan nhập đại thừa môn”.
Nghĩa là:
Không phước khó gặp được Tam Bảo
Không đức khó vào cửa đại thừa.
Tam Bảo tức là Phật, Pháp, Tăng. Chùa Kim Sơn có Phật, có Pháp, có Tăng, tức là Tam Bảo. Phàm là người đến được Chùa Kim Sơn, đều là người có phước báo lớn. Người chẳng có đức, thì sẽ chẳng vào được cửa Chùa Kim Sơn, cảnh giới nầy cũng là không thể nghĩ bàn.
Thí như tùy ý châu, Ví như châu như ý
Năng mãn chúng sanh tâm, Mãn nguyện tâm chúng sinh
Chư Phật Pháp như thị, Pháp chư Phật như vậy
Tất mãn nhất thiết nguyện. Đều mãn tất cả nguyện.
Ví như châu như ý. Bạn cần gì, thì châu liền hiện ra thứ ấy, khiến cho bạn toại tâm mãn nguyện. Do đó: “Tuỳ tâm mong muốn”. Châu như ý hay làm mãn nguyện tâm chúng sinh, muốn gì thì được đó. Pháp của chư Phật nói, cũng giống như châu như ý, hay mãn tâm nguyện của chúng sinh. Muốn được giải thoát, thì sẽ đắc được pháp môn liễu sinh thoát tử. Muốn đắc được đại trí huệ, thì sẽ đắc được đại trí huệ. Bất cứ hy vọng gì, cũng đều mãn tâm nguyện của bạn.
Vô lượng quốc độ trung, Trong vô lượng cõi nước
Đạo sư hưng ư thế, Đạo Sư hiện ra đời
Tùy kỳ nguyện lực cố, Vì tuỳ nguyện lực họ
Phổ ưng ư thập phương. Khắp ứng nơi mười phương.
Phật ở trong vô lượng vô biên cõi nước, thường thường thị hiện thân, xuất hiện ra đời. Do nguyện lực của chư Phật thuở xưa phát ra, do hạnh môn tu hành, mới có thể khắp hiện trong mười phương thế giới, mãn tâm nguyện của tất cả chúng sinh.
Nhĩ thời, ly cấu Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Ly Cấu Tràng nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương tây bắc Bồ Tát Ly Cấu Tràng làm đại biểu, Ngài nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương, dùng kệ để nói rõ tất cả Phật pháp.
Như Lai Đại trí quang Như Lai đại trí quang
Phổ tịnh chư thế gian, Khắp tịnh các thế gian
Thế gian ký tịnh dĩ, Thế gian đã tịnh rồi
Khai thị chư Phật Pháp. Khai thị các Phật pháp.
Phật có đại trí huệ quang minh, Phật quang chiếu khắp, khiến cho tất cả thế gian đều thanh tịnh, khiến cho tất cả chúng sinh đều tự tại, thảy đều đắc được giải thoát. Phật dùng đại trí quang minh, chiếu phá tất cả thế gian đen tối. Khiến cho thế gian thanh tịnh trang nghiêm rồi, mới khai thị tâm địa pháp môn của chư Phật.
Thiết hữu nhân dục kiến, Nếu có người muốn thấy
Chúng sanh số đẳng Phật, Số chúng sinh bằng Phật
Mị bất ưng Kỳ tâm, Thảy đều ứng tâm họ
Nhi thật vô lai xứ Mà thật chẳng chỗ đến.
Nếu như có người muốn thấy được Phật, số lượng của chúng sinh tuy nhiều, nhưng có thể đồng thời thấy được Phật. Bất cứ chúng sinh nào thấy được Phật, thì Phật đều thị hiện thân, khiến cho chúng sinh thấy được Phật, mà mãn tâm nguyện của họ, sẽ không khiến cho chúng sinh thất vọng. Nhưng Phật thật chẳng có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi.
Dĩ Phật vi cảnh giới, Dùng Phật làm cảnh giới
Chuyên niệm nhi bất tức, Chuyên niệm mà chẳng nghỉ
Thử nhân đắc kiến Phật, Người đó thấy được Phật
Kỳ số dữ tâm đẳng. Số đó bằng với tâm.
Gì là dùng Phật làm cảnh giới ? Tức là mặt đối diện với Phật, chuyên nhất niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, mà chẳng ngừng nghỉ. Tức cũng là thời thời niệm Phật, khắc khắc niệm Phật, chuyên tâm nhất chí niệm Phật không ngừng nghỉ. Niệm như vậy, lâu dần thì sẽ đắc được niệm Phật tam muội. Người đó mới có thể thấy được Phật, thấy được vô lượng Phật, nhiều đồng với số tâm niệm của chúng sinh.
Thành tựu bạch tịnh Pháp Thành tựu pháp bạch tịnh
Cụ túc chư công đức, Đầy đủ các công đức
Bỉ ư nhất thiết trí, Kia nơi nhất thiết trí
Chuyên niệm tâm bất xả. Chuyên niệm tâm chẳng xả.
Nếu có thể thành tựu pháp bạch tịnh, tức cũng là pháp thanh tịnh, tức cũng là pháp chẳng có ô nhiễm. Như vậy sẽ đầy đủ tất cả các công đức. Người đó, đối với nhất thiết trí huệ, chuyên niệm mà không ngừng nghỉ, tâm cũng chẳng xả bỏ. Phải tu pháp bạch tịnh như vậy, mới đầy đủ các công đức.
Đạo sư vi chúng sanh, Đạo Sư vì chúng sinh
Như ưng diễn thuyết Pháp, Như đáng diễn nói pháp
Tùy ư khả hóa xứ Tuỳ theo nơi giáo hoá
Phổ hiện tối thắng thân. Khắp hiện thân tối thắng.
Phật vì tất cả chúng sinh người đáng được độ, người nhân duyên thành thục, Phật bèn thị hiện ứng hoá thân, để vì họ nói pháp. Phật tuỳ thuận nơi có thể giáo hoá được chúng sinh, khắp thị hiện hoá thân thù thắng nhất. Bất cứ trong thế giới nào, Phật đều tuỳ cơ ứng hiện thân tối thắng.
Phật thân cập thế gian, Thân Phật và thế gian
Nhất thiết giai vô ngã Tất cả đều vô ngã
Ngộ thử thành chánh giác, Ngộ đây thành Chánh Giác
Phục vi chúng sanh thuyết. Lại vì chúng sinh nói.
Thân Phật và tất cả thế gian, đều không có tướng ta. Nếu chẳng chấp trước cái ta, mà ngộ được đạo lý nầy, thì sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lại có thể vì tất cả chúng sinh nói pháp môn thành Chánh Giác đó. Khiến cho chúng sinh không tướng ta, không tướng người, không tướng chúng sinh, không tướng thọ mạng, bốn tướng. Tóm lại, tâm có bốn tướng nầy, là chúng sinh. Tâm chẳng có bốn tướng nầy, là Phật, hoặc Bồ Tát.
Nhất thiết nhân sư tử, Tất cả Nhân Sư Tử
Vô lượng tự tại lực, Vô lượng sức tự tại
Thị hiện niệm đẳng thân, Thị hiện niệm đồng thân
Kỳ thân các bất đồng. Thân đó đều khác nhau.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, mỗi vị Phật, đều có vô lượng đại oai thần lực tự tại, tuy có thể thị hiện nhiều thân đồng với tâm niệm của chúng sinh, nhưng thân thị hiện đều khác nhau. Phật là ứng cơ duyên của chúng sinh mà hiện thân. Nói một cách tổng quát là, người đáng dùng thân gì độ được, liền hiện thân đó mà vì họ nói pháp.
Thế gian như thị thân, Thế gian thân như vậy
Chư Phật thân diệc nhiên, Thân chư Phật cũng thế
Liễu tri Kỳ tự tánh, Biết rõ tự tánh đó
Thị tắc thuyết danh Phật. Tức là nói danh Phật.
Thế gian có nhiều thân chúng sinh, thân của chư Phật cũng tương đồng với thân chúng sinh. Nếu biết rõ tánh của chúng sinh, tức là Phật tánh. Phật tánh tức là chúng sinh tánh. Phật tánh và chúng sinh tánh, hai mà chẳng phải hai, chẳng phải hai mà hai. Nếu minh bạch đạo lý đó, thì sẽ minh bạch bản nghĩa của Phật.
Như Lai phổ tri kiến, Như Lai khắp thấy biết
Minh liễu nhất thiết pháp, Thấu rõ tất cả pháp
Phật Pháp cập Bồ-đề, Phật pháp và bồ đề
Nhị câu bất khả đắc. Cả hai không thể được.
Phật biết khắp và thấy khắp. Do đó:
“Chẳng có gì mà không biết,
Chẳng có gì mà không thấy”.
Cho nên Phật thông đạt được bản thể thật tướng của tất cả các pháp. Phật pháp và bồ đề, là hai danh từ mà thôi. Muốn cầu bản thể của cả hai, đều không thể được.
Đạo sư vô lai khứ Đạo Sư không đến đi
Diệc phục vô sở trụ, Cũng lại chẳng chỗ trụ
Viễn ly chư điên đảo, Xa lìa các điên đảo
Thị danh đẳng chánh giác. Đó gọi Đẳng Chánh Giác.
Phật thì chẳng từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu, tức cũng là “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, cho nên cũng lại chẳng chỗ trụ. Phật xa lìa điên đảo mộng tưởng, vào cứu kính Niết Bàn. Phật chẳng có tất cả mọi phiền não, cũng chẳng có tất cả điên đảo, cho nên chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nhĩ thời, tinh tú Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Tinh Tú Tràng, nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương dưới Bồ Tát Tinh Tú Tràng làm đại biểu, Ngài nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, dùng kệ để nói rõ công đức và cảnh giới của Phật.
Như Lai vô sở trụ, Như Lai chẳng chỗ trụ
Phổ trụ nhất thiết sát, Khắp trụ tất cả cõi
Nhất thiết độ giai vãng, Tất cả cõi đều đến
Nhất thiết xứ hàm kiến. Tất cả nơi đều thấy.
Phật là vô tại vô bất tại, tức cũng là chẳng chỗ trụ, chẳng có chỗ nào mà chẳng trụ. Phật chẳng những trụ ở một cõi nước, mà còn trụ khắp ở tất cả cõi nước. Tất cả cõi nước chư Phật, đều có thể đi đến. Chúng sinh tất cả nơi đều thấy được Phật.
Phật tùy chúng sanh tâm, Phật tuỳ tâm chúng sinh
Phổ hiện nhất thiết thân, Khắp hiện tất cả thân
Thành đạo chuyển pháp luân, Thành đạo chuyển pháp luân
Cập dĩ Bát Niết Bàn. Và với Bát Niết Bàn.
Phật là tuỳ thuận tâm của chúng sinh, làm mãn nguyện của chúng sinh, mà khắp thị hiện tất cả thân. Chúng sinh muốn thấy thân gì, thì thị hiện thân đó. Phật từ Cung Trời Ðâu Suất hàng sinh, nhập thai, xuất thai, xuất gia, hàng ma, thành đạo, chuyển pháp luân, vào Niết Bàn, một đời tám tướng thành đạo, thị hiện ở trong chúng sinh, khiến cho phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng.
Chư Phật bất tư nghị, Chư Phật không nghĩ bàn
Thùy năng tư nghị Phật? Ai hay nghĩ bàn Phật
Thùy năng kiến chánh giác? Người đó thấy Chánh Giác
Thùy năng hiện tối thắng? Người đó hiện tối thắng.
Cảnh giới của mười phương ba đời tất cả chư Phật, không thể suy nghĩ, không thể luận bàn. Tức nhiên là không thể nghĩ bàn, vậy, ai có thể tư nghì Phật ? Ai có thể thấy được Phật ? Ai có thể thị hiện thân tối thù thắng ? Chỉ có Phật mới minh bạch nghĩa lý thật tướng của các pháp, mới thấy được thân Phật, mới có thể thị hiện thân tối thắng của Phật, mới có thể giáo hoá chúng sinh.
Nhất thiết pháp giai như, Tất cả pháp như vậy
Chư Phật cảnh diệc nhiên, Cảnh chư Phật cũng thế
Nãi chí vô nhất Pháp, Cho đến không một pháp
Như trung hữu sanh diệt. Như trong có sinh diệt.
Tất cả pháp, bao quát sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp, đều là vắng lặng không động. Bản thể của pháp là như. Như tức là vắng lặng. Vốn là như thế. Nó cũng chẳng sinh, cũng chẳng diệt, cũng chẳng nhơ, cũng chẳng sạch, cũng chẳng tăng, cũng chẳng giảm.
Tất cả pháp đều như, nhất như không hai. Cảnh giới của chư Phật, cũng là như, cũng chẳng thêm tạo tác. Cho đến ở trong đủ thứ pháp, phân tích tỉ mỉ, thì một pháp chẳng lập, vạn pháp đều không, đều là như, vốn chẳng động. Ở trong như chẳng có sinh diệt.
Chúng sanh vọng phân biệt, Chúng sinh vọng phân biệt
Thị Phật thị thế giới. Là Phật là thế giới
Liễu đạt pháp tánh giả, Người thấu đạt pháp tánh
Vô Phật vô thế giới. Không Phật không thế giới.
Pháp nầy vốn chẳng có sinh diệt. Bất quá, chúng sinh dùng vọng tâm để phân biệt, cho là có sinh diệt. Phân biệt đây là Phật ra đời, đó là Phật vào Niết Bàn. Ðây là thế giới của chúng sinh, đó là thế giới của Phật. Có nhiều phân biệt như thế.
Nếu thấu rõ thông đạt thật tướng lý thể của tất cả các pháp, căn bản mà nói xa, thì Phật cũng là như, chúng sinh cũng là như, thế giới cũng là như, đều là bổn lai chẳng động, cũng có thể nói bổn lai là chẳng có. Nói về rốt ráo thì không Phật, không chúng sinh, không thể giới. Vì chúng sinh có tâm chấp trước, nên mới hiện ra có Phật, có chúng sinh, có thế giới. Do đó:
“Chẳng phải gió động
Chẳng phải phướng động
Tâm các vị động”.
Tâm của chúng sinh có sự phân biệt, mới có hiện tượng như thế.
Như Lai phổ hiện tiền, Như Lai khắp hiện tiền
Lệnh chúng sanh tín hỉ, Khiến chúng sinh tin vui
Phật thể bất khả đắc, Phật thể bất khả đắc
Bỉ diệc vô sở kiến. Đó cũng không chỗ thấy.
Phật khắp hiện ở trước tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh sinh tâm tin và hoan hỉ. Ðừng chấp trước rằng Phật có tướng, bổn lai Phật thể không thể đắc được. Trong Kinh Kim Cang có nói:
“Phàm hết thảy tướng,
Đều là hư vọng.
Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng,
Tức thấy Như Lai”.
Chúng sinh đối với pháp thân của Phật, cũng không cách chi thấy được. Chúng sinh ở trong pháp thân của Phật, mà chẳng tự giác. Tại sao ? Vì pháp thân của Phật, là tận cùng hư không khắp pháp giới, vô tại vô bất tại.
Nhược năng ư thế gian, Nếu ở tại thế gian
Viễn ly nhất thiết trước Xa lìa mọi chấp trước
Vô ngại tâm hoan hỉ, Không ngại tâm hoan hỉ
Ư Pháp đắc khai ngộ. Nơi pháp được khai ngộ.
Nếu như ở tại hữu tình thế gian (chúng sinh thế gian), mà xa lìa tất cả mọi sự chấp trước, thì sẽ đạt đến cảnh giới viên dung vô ngại, lúc đó, tâm chẳng có mọi sự chấp trước, sẽ sinh tâm đại hoan hỉ, đắc được giải thoát. Sẽ minh bạch tất cả pháp, bổn lai tự tánh vốn có đủ. Do đó: “Hạt châu ở trong áo, chẳng từ bên ngoài mà có được”. Ðối với pháp liền đắc được khai ngộ.
Chấp trước tức là chấp giữ vào tất cả những điều tốt. Giống như người tham tiền tài, thì chấp trước vào tiền tài. Người tham sắc đẹp, thì chấp trước vào sắc đẹp. Người tham danh, thì chấp trước vào danh. Người tham ăn, thì chấp trước vào ăn. Người tham ngủ, thì chấp trước vào ngủ. Tóm lại, tham gì thì chấp trước vào đó; có chấp trước thì chẳng đắc được giải thoát.
Còn có chấp về cái ta, tất cả là ta đều tốt, đó tức là ích kỷ. Có ích kỷ, thì muốn lợi cho mình. Người học Phật pháp, lại có sự chấp trước về pháp. Tôi giảng được bộ Kinh nầy, thì có chấp trước về bộ Kinh nầy. Tôi giảng được bộ Kinh nọ, thì có chấp trước về bộ Kinh nọ. Tôi hiểu biết nhiều hơn anh, thì có pháp chấp. Tôi tu hành có công phu hơn anh, cũng là pháp chấp. Trước khi chưa học Phật, thì chẳng có pháp chấp. Học Phật rồi, thì nhìn ai chẳng ra gì, sinh ra đại ngã mạn, đó tức là chấp về pháp. Chúng ta chúng sinh, giống như tằm nhả tơ, tự ràng buộc mình, chẳng được giải thoát.
Thần lực chi sở hiện, Do thần lực hiện ra
Tức thử thuyết danh Phật, Tức nói đó là Phật
Tam thế nhất thiết thời, Ba đời tất cả thời
Cầu tất vô sở hữu. Cầu đều chẳng chỗ có.
Vì do đại oai thần lực thị hiện ra ứng hoá thân, cho nên nói đó là Phật. Kỳ thật, đó là biến hoá thân, chứ chẳng phải thân Phật thiệt. Ba đời tất cả thời, không thể đắc được. Tại sao ? Vì quá khứ đã qua rồi, hiện tại chẳng ngừng lại, vị lai thì chưa đến, cho nên nói không thể đắc được. Muốn tìm tòi thời gian quyết thật, hoặc ba thời, hoặc ba tâm, đều không thể đắc được. Vì chẳng chỗ có.
Nhược năng như thị tri, Nếu biết được như vậy
Tâm ý cập chư Pháp, Tâm ý và các pháp
Nhất thiết tất tri kiến, Tất cả đều thấy biết
Tật đắc thành Như Lai. Sớm được thành Như Lai.
Nếu minh bạch tất cả đều là vô thường, thì tất cả đều không thể đắc được. Tất cả đều chẳng chân thật, thì tất cả đều là hư vọng. Bất cứ tâm ý và các pháp, đều ở chỗ thấy biết dụng sự, rốt ráo chẳng có lìa khỏi tất cả sự thấy biết, chẳng lìa khỏi tất cả tâm ý, rốt ráo chẳng đến chỗ trí huệ, vẫn ở nơi sáu căn để dụng sự. Nếu biết tất cả đều là sự thấy biết, thì rất sớm sẽ đắc được trí huệ của Phật.
Ngôn ngữ trung hiển thị, Trong lời nói hiển bày
Nhất thiết Phật tự tại, Tất cả Phật tự tại
Chánh giác siêu ngữ ngôn Chánh Giác vượt lời nói
Giả dĩ ngữ ngôn thuyết. Giả dùng lời lẽ nói.
Là do ở trong lời nói, mà hiển bày tự tại thần lực của tất cả Phật. Chánh Giác (Phật) của sự cứu kính vượt khỏi tất cả lời nói. Do đó:
“Ðường lời lẽ đã dứt
Chỗ tâm hành đã bặc”.
Tức cũng là nói, con đường lời nói đã dứt hẳn, đã đến trình độ không có lời gì để nói. Chỗ trong tâm nghĩ tưởng đã chẳng còn nữa, nghĩ cũng nghĩ chẳng ra, tưởng cũng tưởng không đến. Ðến được trình độ nầy, thì mới là cảnh giới của bậc Chánh Giác.
Cảnh giới nầy, tức là:
“Miệng muốn nói mà lời lẽ đã tan mất,
Tâm muốn duyên mà tư lự chẳng còn nữa”.
Miệng muốn nói mà lời lẽ chẳng còn nữa, nói chẳng ra. Trong tâm muốn nghĩ tưởng, cũng chẳng cách chi tưởng nghĩ ra. Ðây tức là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Tuy nhiên Phật vượt khỏi tất cả lời lẽ, nhưng vẫn phải dùng lời lẽ để thuyết minh cảnh giới của Phật. Vốn dùng lời lẽ để nói, cũng nói chẳng minh bạch cảnh giới của Phật. Tuy nhiên nói chẳng minh bạch, nhưng vẫn phải miễn cưỡng nói ra. Nếu không nói, thì chẳng có chúng sinh biết được cảnh giới của Phật, cho nên lúc nói không ra cảnh giới chân thật của Phật, cảnh giới của Pháp, vẫn phải nhờ lời lẽ để nói. Song, suốt thuở vị lai cũng nói chẳng hết được.
Nhĩ thời, Pháp Tràng Bồ-tát thừa Phật thần lực, phổ quán thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Tràng, nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, phương trên Bồ Tát Pháp Tràng làm đại biểu, Ngài nương đại oai thần lực gia trì của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp hết thảy nhân duyên của chúng sinh trong mười phương, dùng kệ để thuyết minh công đức và cảnh giới của Phật.
Ninh khả hằng cụ thọ Thà luôn luôn thọ đủ
Nhất thiết thế gian khổ, Tất cả khổ thế gian
Chung bất viễn Như Lai Quyết không xa Như Lai
Bất đổ tự tại lực. Chẳng thấy sức tự tại.
Thà rằng có thể luôn luôn tiếp thọ đầy đủ tất cả khổ của thế gian. Khổ của thế gian có ba thứ khổ, tám thứ khổ, vô lượng thứ khổ. Tuy nhiên phải tiếp thọ tất cả thứ khổ, nhưng thuỷ chung chẳng muốn xa lìa Ðức Phật, chắc chắn phải tu trì Phật pháp. Nhưng muốn thấy Phật nghe Pháp gặp Tăng, thì bất cứ thứ khổ nào cũng cam tâm tình nguyện chịu đựng.
Nhược hữu chư chúng sanh Nếu có các chúng sinh
Vị phát Bồ-đề tâm, Chưa phát tâm bồ đề
Nhất đắc văn Phật danh, Khi được nghe danh Phật
Quyết định thành Bồ-đề. Chắc chắn thành bồ đề.
Giả sử có tất cả chúng sinh, chưa từng phát tâm bồ đề, chưa được gần gũi Tam Bảo, chưa được gặp bậc thiện tri thức. Một khi nghe được tên Phật, thì chắc chắn sẽ thành bồ đề. Tại sao ? Vì nghe tên Phật, một khi lọt qua tai, thì vĩnh viễn là hạt giống đạo. Nghe đến tên Phật, ở trong ruộng tám thức sẽ trồng xuống hạt giống kim cang, vĩnh viễn chẳng tiêu diệt, tương lai nhất định sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nhược hữu trí tuệ nhân Nếu có người trí huệ
Nhất niệm phát đạo tâm, Một niệm phát đạo tâm
Tất thành vô thượng tôn, Sẽ thành đấng Vô Thượng
Thận mạc sanh nghi hoặc. Đừng sinh tâm nghi hoặc.
Giả sử có người có trí huệ, ở trong một niệm, mà phát tâm bồ đề, thì tương lai nhất định sẽ thành đấng Vô Thượng, tức cũng là Phật. Tất cả chúng sinh nên phải cẩn thận, đừng sinh tâm nghi hoặc đối với đạo lý nầy. Tại sao ở trong một niệm phát đạo tâm, mà thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ? Vì có người trí huệ, chẳng những ở trong một niệm phát đạo tâm, mà còn ở trong niệm niệm đều phát đạo tâm, cho nên mới có cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế.
Như Lai tự tại lực, Như Lai tự tại lực
Vô lượng kiếp nan ngộ, Vô lượng kiếp khó gặp
Nhược sanh nhất niệm tín Nếu sinh một niệm tin
Tốc đăng vô thượng đạo. Sớm chứng vô thượng đạo.
Phật có oai thần lực đại tự tại. Sức tự tại đó, ở trong vô lượng đại kiếp, rất khó được gặp. Giả sử có người ở trong một niệm, sinh ra tâm tin, thì người đó rất sớm sẽ chứng được quả vị Vô Thượng, tức là quả vị Phật.
Thiết ư niệm niệm trung, Nếu như trong niệm niệm
Cúng dường vô lượng Phật, Cúng dường vô lượng Phật
Vị tri chân thật Pháp, Chưa biết pháp chân thật
Bất danh vi cúng dường. Chẳng gọi là cúng dường.
Giả sử có người ở trong niệm niệm, cúng dường mười phương ba đời tất cả chư Phật. Nhưng chẳng biết pháp chân thật, tức cũng là pháp chân như thật tướng, pháp rốt ráo Niết Bàn, thì đó không gọi là chân chánh cúng dường.
Gì là chân chánh cúng dường ? Tức là phải minh bạch đạo lý các pháp thật tướng, tức cũng là thật tướng vô tướng. Tất cả các pháp đều là không, không thể chấp trước vào tướng. Tức tướng lìa tướng chẳng chấp tướng, mới là chân thật cúng dường. Nếu chẳng lìa tướng mà cúng dường, tuy nhiên cúng dường vô lượng chư Phật, vẫn không gọi là cúng dường.
Nhược văn như thị Pháp, Nếu nghe pháp như vậy
Chư Phật tòng thử sanh, Chư Phật từ đây sinh
Tuy kinh vô lượng khổ, Tuy trải vô lượng khổ
Bất xả Bồ-đề hạnh Chẳng bỏ hạnh bồ đề.
Giả sử nghe được pháp chân thật. Pháp chân thật nầy, tức là lìa tướng pháp. Lìa tướng pháp, tức là tâm ấn pháp. Tâm ấn pháp, tức là lìa tướng lời nói, lìa tâm duyên tướng, lìa pháp tướng văn tự. Do đó:
“Lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp”.
Tức tất cả pháp là gì ? Nói một cách đơn giản, tức là pháp trung đạo liễu nghĩa. Gì là trung đạo liễu nghĩa ? Tức là chẳng thiên về không, chẳng thiên về có. Không, có, đều chẳng chấp trước, gọi là trung đạo. Nói chung, trung đạo tức là thật tướng diệu pháp, thật tướng diệu pháp tức là trung đạo.
Chư Phật là từ thật tướng (vô tướng, vô sở bất tướng) sinh ra. Tức cũng là từ tâm ấn diệu pháp, trung đạo liễu nghĩa diệu pháp, sinh ra. Trung đạo liễu nghĩa tức là pháp chân không diệu hữu, Do đó:
“Chân không chẳng ngại diệu hữu,
Diệu hữu chẳng ngại chân không”.
Cũng là:
“Chân không chẳng không,
Diệu hữu chẳng hữu”.
Thứ diệu pháp nầy không thể nghĩ bàn.
Thứ diệu pháp nầy, ai có thể đắc được ? Ai y pháp tu hành, thì người đó sẽ thành Phật. Nếu chẳng y chiếu theo pháp chân không diệu hữu của trung đạo liễu nghĩa mà tu hành, thì đó tức là chúng sinh. Người tu đạo, thì dụng công phu ở tại chỗ nầy. Bằng không, thì tu mù luyện đui, chẳng có ích lợi gì.
Tu pháp nầy, tuy nhiên trải qua vô lượng khổ, nhưng chẳng xả bỏ hạnh bồ đề. Tức cũng là tu diệu pháp trung đạo liễu nghĩa, Tu diệu pháp tâm ấn, tu diệu pháp thật tướng. Tu đến lúc viên mãn, thì sẽ thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tức là quả vị A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
Nhất văn đại trí tuệ Khi nghe sinh trí huệ
Chư Phật sở nhập Pháp, Pháp chỗ chư Phật vào
Phổ ư Pháp giới trung, Khắp ở trong pháp giới
Thành tam thế Đạo sư. Thành Đạo Sư ba đời.
Một khi nghe được thứ diệu pháp nầy, thì sinh đại trí huệ. Thứ pháp nầy, là nơi nầy chư Phật sinh ra, từ đây mà vào. Tức cũng là pháp của chư Phật tu, thực hành. Minh bạch thứ pháp nầy, tu hành thứ pháp nầy, mới có thể thành Phật. Thứ pháp nầy, tận cùng hư không khắp pháp giới, trở thành Đạo Sư ba đời (đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai).
Tuy tận vị lai tế, Tuy hết thuở vị lai
Biến du chư Phật sát, Đến khắp các cõi Phật
Bất cầu thử diệu pháp, Chẳng cầu diệu pháp nầy
Chung bất thành Bồ-đề. Quyết chẳng thành bồ đề.
Tuy nhiên hết thuở vị lai, du hành khắp hết thảy tất cả cõi nước chư Phật, nhưng chẳng cầu diệu pháp trung đạo liễu nghĩa, chẳng cầu diệu pháp tâm ấn, chẳng cầu diệu pháp thật tướng vô tướng, thì cuối cùng không thể thành Phật được. Nếu muốn thành Phật, thì nhất định phải minh bạch đạo lý diệu pháp nầy.
Trung đạo liễu nghĩa, là pháp Phật dùng tâm ấn tâm. Do đó: “Truyền Phật tâm ấn”. Chẳng đắc được diệu pháp tâm ấn, thì dù tu vô lượng kiếp, cũng không thể thành bồ đề. Pháp môn của thiền tông, là dùng tâm ấn tâm. Do đó: “Tâm tâm ấn nhau”. Tâm của vị thầy và tâm của đệ tử khế hợp với nhau, liền thừa y bát. Cho nên thiền tông có bốn đại tông chỉ là:
“Chẳng lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ chân tâm
Kiến tánh thành Phật”.
Nghĩa là chẳng thiết lập về văn tự, truyền ngoài giáo lý, chỉ thẳng chân tâm, thấy tánh thành Phật.
Tu pháp chân thật như thế nào ? Thứ nhất là dứt trừ tâm dâm dục. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói:
“Dâm tâm bất trừ,
Trần bất khả xuất”.
Tâm dâm dục chẳng đoạn trừ, thì không thể thoát khỏi ba cõi, tức cũng có nghĩa là không thể chấm dứt sinh tử. Do đó: “Nếu chẳng dứt dâm dục, thì kẻ tu thiền định, như nấu các đá, muốn biến thành cơm”, vĩnh viễn không thể nào thành công. Cho nên người tu đạo, phải tu pháp môn đoạn dục khử ái. Ban đầu vô minh chẳng khởi lên, thì chẳng có sinh tử.
Chúng sanh vô thủy lai, Chúng sinh xưa đến nay
Sanh tử cửu lưu chuyển, Sinh tử trôi nổi lâu
Bất liễu chân thật Pháp, Chẳng biết pháp chân thật
Chư Phật cố hưng thế. Nên chư Phật ra đời.
Chúng sinh từ vô thuỷ kiếp đến nay, lưu chuyển ở trong sinh tử luân hồi, chuyển tới chuyển lui, cũng chuyển chẳng ra khỏi ngoài sinh tử luân hồi. Giống như hạt bụi, trôi nổi không nhất định, hốt nhiên lên trời, hốt nhiên ở dưới đất, hốt nhiên ở loài người, hốt nhiên ở loài A tu la, hốt nhiên loài súc sinh, hốt nhiên loài ngạ quỷ. Ðây là chẳng có sự bắt đầu, cũng chẳng có sự kết thúc.
Khi nào chứng quả thành Phật, thì lúc đó sẽ thoát khỏi khổ của luân hồi. Trước khi chưa thành Phật, thì vẫn lưu chuyển ở trong sáu nẻo luân hồi. Bồ Tát còn có mê về sự cách ấm, A la hán còn hôn mê lúc trụ thai. Pháp thân Đại Sĩ, thị hiện nhân gian, phổ độ chúng sinh, có lúc cũng bị trôi theo dòng sinh tử, trôi nổi khiến cho đầu não hôn mê, chẳng biết làm thế nào chấm dứt sinh tử.
Vô thuỷ thì chẳng có bắt đầu, vô chung thì chẳng có kết thúc. Giống như số 0, chẳng có sự bắt đầu, cũng chẳng có sự kết thúc. Nó là một nguyên hoá. Nếu đập vỡ số 0, thì sẽ trở thành 1. Ðây tức là bắt đầu. Bắt đầu gì ? Bắt đầu số mục. Có số 1 rồi, lại thêm 1, sẽ thành 2. Lại thêm 1, thành 3. Cứ tiếp tục thêm một, sẽ thành 10, thành trăm, thành ngàn, thành vạn, từ vạn biến hoá thành ức, từ ức biến hoá thành triệu, cho đến số nhiều không thể đếm hết được.
Hiện tại là thời đại khoa học, có sức lực ngày đi ngàn dặm, ngày tháng đổi mới khác thường, tiến bộ không ngừng. Dùng hoả tiển bay vào vệ tinh, vận hành ở trong quỹ đạo hư không chẳng ngừng nghỉ. Thuyền không gian nầy, với thuyền không gian kia, tiếp hợp ở trong hư không, đây đều là bắt đầu tác dụng của số mục. Dùng số mục để tính toán chi phối hội hợp, dùng số mục để khống chế thời gian hội hợp. Cứ phát triển như vậy chẳng có khi nào kết thúc.
Khi nào có thể sẽ kết thúc ? Hiện tại vẫn chưa biết được. Khi kết thúc, thì sẽ đến kiếp không, trong bốn kiếp thành trụ hoại không. Kiếp thành là bắt đầu, kiếp không là kết thúc. Kiếp thành có hai mươi tiểu kiếp, kiếp trụ có hai mươi tiểu kiếp, kiếp hoại có hai mươi tiểu kiếp, kiếp không có hai mươi tiểu kiếp. Tám mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp. Bốn trung kiếp làm một đại kiếp. Tuổi thọ của trái đất thời gian chỉ là một đại kiếp.
Chúng sinh từ vô thuỷ kiếp đến nay, người nam có trước ? Hay người nữ có trước ? Nếu như nói người nam có trước, nhưng nếu chẳng có người nữ, thì làm sao có người nam ? Nếu như nói người nữ có trước, nhưng không có người nam, làm sao có người nữ ? Ðây tức là vô thuỷ (không có sự bắt đầu), chẳng biết từ lúc nào bắt đầu.
Hoặc là gà có trước ? Hay trứng có trước ? Vấn đề nầy, cũng là đạo lý nghiên cứu chẳng minh bạch được. Cứu kính thì sự việc như thế nào ? Có thể dùng một lời đơn gian để trả lời, đó đều là từ số 0 mà ra. Cho nên nói số 0 là vô thuỷ vô chung, chẳng có bắt đầu, chẳng có kết thúc, chẳng trong chẳng ngoài, chẳng lớn chẳng nhỏ. Thu nó lại, thì một hạt bụi, phóng nó ra, thì một pháp giới. Tận cùng hư không khắp pháp giới, chẳng vượt ra ngoài số 0 nầy. Số 0 nầy, là gốc sinh sinh hoá hoá, là chân không diệu hữu vô thuỷ cô chung. Số 0 nầy phóng lớn ra là chân không, thu nhỏ lại là diệu hữu.
Chân không diệu hữu, tức là chân không chẳng không, sinh ra diệu hữu. Diệu hữu chẳng hữu, chẳng ngại chân không. Không, có, chẳng hai, tức không, tức có, tức có, tức không, đây tức là trung đạo liễu nghĩa, tức cũng là pháp chân thật nghĩa của đại thừa.
Số 0 nầy, chẳng có lúc nào bắt đầu, tức là chân không diệu hữu. Chân không nầy chẳng phải ngoan không, diệu hữu nầy chẳng phải thật hữu, tức cũng là viên dung vô ngại, trung đạo chẳng thiên về một bên nào. Các vị ! Nếu minh bạch đạo lý nầy, thì sẽ minh bạch pháp chân thật. Nếu chẳng minh bạch pháp nầy, tức là người hồ đồ, người chẳng có trí huệ chân chánh.
Số 0 nầy, nếu là khai ngộ, thì nó là trí huệ đại quang minh. Nếu chẳng khai ngộ, thì nó là vô minh đại đen tối. Vô minh cũng là số 0 nầy, trí huệ cũng là số 0 nầy. Số 0 nầy, lớn mà chẳng ở ngoài, nhỏ mà chẳng ở trong. Nói rộng ra, thì chẳng có gì lớn bằng nó; nói hẹp lại, thì chẳng có gì nhỏ bằng nó. Số 0 nầy, lớn mà hoá, tức là nguồn gốc thanh tịnh, tánh diệu chân như; nhỏ mà ẩn tàng, tức là một niệm vô minh lúc ban đầu. Ðây là giải thích về vô thuỷ (không có bắt đầu).
Tại sao chúng sinh lưu chuyển ở trong sinh tử luân hồi ? Vì chẳng hiểu biết về pháp chân thật. Cho nên nhìn chúng sinh đáng thương xót, từ bi thương xót chúng sinh, bèn phát tâm đại bi, xuất hiện ra đời, để giáo hoá tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, phát tâm bồ đề (trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh), tu đạo vô thượng.
Chúng ta ở trong sáu nẻo luân hồi thọ quả báu, là vì trong tâm chúng sinh đã tạo thành thứ nghiệp nầy, mới thọ quả báo nầy. Tóm lại, thuở xưa khởi vọng tưởng thiên đàng, thì sinh lên trời; khởi vọng tưởng địa ngục, thì sẽ đoạ địa ngục. Nếu tạo tội nghiệt, thì sẽ đoạ vào trong ba đường ác. Nếu tạo công đức lành, thì sẽ sinh vào ba đường lành. Tình hình đại khái như vậy, chỉ nói một cách sơ lược. Nếu nói tỉ mỉ, thì hết thuở vị lai cũng nói chẳng hết được.
Thế giới nầy là do vọng tưởng của chúng sinh tạo thành. Nếu chúng sinh chẳng có vọng tưởng, thì thế giới nầy sẽ không có. Vì chúng sinh vẫn chưa minh bạch hiểu biết pháp chân như thật tướng, pháp chân không diệu hữu, cho nên thế giới nầy vẫn tồn tại.
Pháp chân không diệu hữu, tức là số 0. Thế giới do số 0 mà sinh, chúng sinh do số 0 mà sinh. Tất cả hết thảy, đều do số 0 mà sinh ra. Vì số 0 nầy, chẳng phải số nội, vượt ra số ngoại. Phóng ra thì di lục hợp, cuộn lại thì ẩn tàng nơi mật. Tức cũng là cảnh giới vô thuỷ vô chung, chẳng trong chẳng ngoài, chẳng lớn chẳng nhỏ.
Pháp chân thật nầy, tức là chân không diệu hữu. Chân không chẳng không. Tại sao chẳng không ? Vì nó có diệu hữu. Diệu hữu phi hữu, vẫn là chẳng hữu. Tại sao chẳng hữu ? Vì nó có chân không. Do đó:
“Chân không chẳng ngại diệu hữu
Diệu hữu chẳng ngại chân không”.
Ðạo lý nầy, có thể giải quyết được vấn đề người nam có trước ? Hay người nữ có trước ? Gà có trước ? Hay trứng có trước ? Những vấn đề nan giải nầy dùng số 0 để giải quyết, thì tất cả mọi vấn đề sẽ nghênh nhận mà giải.
Tại sao trong chân không hay sinh ra diệu hữu ? Hay hiện ra tất cả sự vật ? Mà trong diệu hữu vẫn chẳng lìa khỏi chân không ? Cảnh giới nầy, trước khi chưa được tâm ấn của chư Phật, thì không thể minh bạch được. Nếu minh bạch được pháp môn chư Phật dùng tâm ấn tâm, thì sẽ minh bạch pháp môn chân thật nầy.
Pháp chân thật nầy, ở trong tự tánh vốn có, chẳng cần tìm cầu bên ngoài. Nếu đi tìm bên ngoài, thì thì dù có tìm tám vạn đại kiếp, cũng tìm chẳng được. Nếu hồi quang phản chiếu, thì sẽ thấy được. Do đó:
“Biển khổ không bờ
Hồi đầu là bến”.
Tóm lại, hướng bên ngoài tìm cầu, tức là biển khổ không bờ. Hướng vào bên trong tìm cầu, ở trong tự tánh dụng công phu, tức là hồi đầu là bến.
Chúng ta suốt ngày đến tối, điên điên đảo đảo, theo đuổi vọng duyên, chạy theo sáu căn sáu trần, chẳng minh bạch pháp chân thật. Chư Phật ở trong cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, ngồi kiết già mà nhập định. Ở trong định quán sát tất cả chúng sinh, rất là ngu si, thật đáng thương xót, chấp đông chấp tây, lấy khổ làm vui, không biết bỏ mê về với giác ngộ, chẳng biết mượn cái giả tu cái thật, chẳng biết đi ngược lại cái vọng để chuyển thành cái thật, chẳng biết trở lại cầu nơi chính mình. Cho nên chư Phật từ bi, ở trong định đến thế giới chúng sinh nào có duyên đáng được độ, thì chỉ bày bến mê, khiến cho họ quay đầu trở lại. Ðáng tiếc là chúng ta cứ theo đuổi gốc không thật, chẳng nhận thức được pháp chân thật. Phật khổ nhọc vì chúng ta nói pháp, chẳng buồn phiền giáo hoá chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe lời, quá ngu si, chẳng những chẳng y pháp tu hành, mà ngược lại, thối lùi về sau, chẳng nghe lời vàng ngọc của Phật. Cho nên Phật lại muốn tìm biện pháp, để đến ở trước mặt chúng ta, điều phục giáo hoá chúng sinh cang cường. Ðây là nguyên nhân Phật xuất hiện ra đời.
Chư Pháp bất khả hoại, Các pháp không thể hoại
Diệc vô năng hoại giả, Cũng chẳng ai phá được
Tự tại đại quang minh, Tự tại đại quang minh
Phổ thị ư thế gian. Khắp hiện nơi thế gian.
Pháp chân thật nầy không thể nào phá hoại được. Thiên ma ngoại đạo cũng chẳng cách chi phá hoại được. Tại sao ? Vì chánh pháp kiên cố giống như kim cang. Cho nên không thể nào phá hoại được. Nếu phá hoại được, thì chẳng phải là pháp chân thật.
Ðại tự tại đại quang minh nầy, khắp thị hiện trong tất cả thế gian. Ðại quang minh tạng nầy, chỉ bày pháp môn chấm dứt sinh tử. Phá trừ vô minh, hiển hiện pháp môn pháp tánh quang minh vốn có.
Các vị ! Nếu không tin, thì có thể thử xem. Ðến lúc đó, bạn không cách chi mà không tin. Không tin cũng sẽ tin, vì nó là như vậy, có phương pháp gì không tin chăng ?
Ðại quang minh tạng nầy là mình vốn có, chẳng phải người khác bố thí cho bạn, cũng chẳng phải chư Phật gia bị cho bạn, mà là bạn tự có đầy đủ. Ðại quang minh tạng tức là chân như thật tánh. Nếu tu hành pháp chân thật nầy, thì thức A lại gia (thức thứ tám) sẽ chuyển thành đại viên cảnh trí, chấm dứt sinh tử. Nếu chẳng nhận chân tu hành, thì hạt giống của thức A lại gia, sẽ tuỳ theo nhân duyên của cha mẹ mà đi đầu thai, sinh sinh không ngừng, vĩnh viễn chẳng có lúc nào chấm dứt, như thế thì chẳng đắc được giải thoát