Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 38
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
PHẨM LY THẾ GIAN
Phần 1
Lìa tức là lìa khỏi. Lìa khỏi cái gì? Lìa khỏi thế gian. Thế gian là gì? Thế nghĩa là thiên lưu, gian nghĩa là gian cách. Thế gian tức là thế giới, tức cũng là thời gian với không gian mà được tên. Ba đời là thời gian, mười phương là không gian. Thế gian phân làm ba thế gian:
– Một là hữu tình thế gian (chúng sinh thế gian).
– Hai là khí thế gian (sơn hà đại địa, nhà cửa phòng ốc).
– Ba là trí chánh giác thế gian (giác ngộ pháp thế xuất thế gian, đầy đủ trí huệ của Như Lai).
Cho nên phải lìa hữu tình thế gian và khí thế gian, chứng nhập trí huệ chánh giác thế gian.
Thế gian có đủ thứ sự ăn uống vui chơi, tại sao phải lìa khỏi? Vì thế gian có cái vui của: Tài, sắc, danh, ăn và ngủ, năm dục, khiến cho con người sinh ra đủ thứ phiền não, làm cho con người gặp thọ quả khổ, chẳng đắc được sự giải thoát, cho nên phải lìa khỏi thế gian. Làm thế nào có thể lìa khỏi thế gian? Chỉ có một phương pháp, đó là phát bồ đề tâm, tu bồ đề đạo.
Bồ đề tâm là gì? Nói đơn giản là: “Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh”, đừng học phát bồ đề tâm của hàng tiểu thừa, chỉ biết trên cầu Phật đạo, chẳng biết dưới độ chúng sinh, cho nên gọi là “tự liễu hán”. Phải học phát bồ đề tâm của người đại thừa, chẳng những trên cầu Phật đạo, mà còn dưới độ chúng sinh. Tóm lại, một mặt cầu chân lý của Phật pháp, một mặt giáo hoá tất cả chúng sinh, cả hai mặt đồng thời tiến tu trung đạo.
Tu hành thì phải tinh tấn, không giải đãi. Tu hành đến cảnh giới viên mãn, thì tự nhiên đắc được giải thoát, sẽ thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử. Phẩm nầy là phẩm thứ ba mươi tám, nên gọi là Phẩm Lìa Thế Gian thứ ba mươi tám.
Phẩm kinh văn nầy, vẫn nói ở tại Điện Phổ Quang Minh. Bồ Tát Phổ Hiền vẫn là chủ thuyết pháp. Trong pháp hội Hoa Nghiêm, có vị đại Bồ Tát Phổ Huệ, Ngài đại biểu đại chúng trong pháp hội hướng về đại Bồ Tát Phổ Hiền, đưa ra hai trăm câu hỏi, liên quan đến hạnh Thập Tín có hai mươi câu hỏi, liên quan đến hạnh Thập Trụ có hai mươi câu hỏi, liên quan đến hạnh Thập Hạnh có hai mươi câu hỏi, liên quan đến hạnh thập Hồi Hướng có hai mươi chín câu hỏi, liên quan đến hạnh Thập Địa có năm mươi câu hỏi, liên quan đến nhân tròn quả đầy có năm mươi mốt câu hỏi (Ba mươi hai câu hỏi trước là nhân tròn rốt ráo – bậc Đẳng Giác Bồ Tát, mười chín câu hỏi sau là quả dụng viên mãn – bậc Diệu Giác Bồ Tát). Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền, từ bi tha thiết, hỏi một đáp mười, trả lời thẳng hai ngàn câu trả lời, khiến cho người nghe cảm giác mát mẻ.
Trong Kinh Hoa Nghiêm nói, Bồ Tát có năm mươi hai bậc, thứ tự đi lên (Sơ phát tâm bèn thành Chánh Giác, đó là riêng ngoài), cuối cùng tu đến bậc Diệu giác Bồ Tát, tức cũng là thành Phật vị. Y chiếu thứ tự tu đầy đủ hạnh Thập tín, sẽ phá được một phần vô minh (Bồ Tát có bốn mươi hai phần vô minh), thì chứng được một phần pháp thân (Bồ Tát có bốn mươi hai phần pháp thân). Khi tu đầy đủ hạnh sơ trụ (phát tâm trụ), lại phá được một phần vô minh, lại chứng được một phần pháp thân. Như vậy, trải qua Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, đã phá được bốn mươi mốt phần vô minh, chứng được bốn mươi mốt phần pháp thân, đến bậc Đẳng giác Bồ Tát. Nếu phá sạch một phần sinh tướng vô minh cuối cùng, thì sẽ đến bậc Diệu giác Bồ Tát – Thành Phật. Sau đây là năm mươi hai bậc:
Thập tín:
1. Tín tâm.
2. Niệm tâm.
3. Tinh tấn tâm.
4. Huệ tâm.
5. Định tâm.
6. Bất thối tâm.
7. Hộ pháp tâm.
8. Hồi hướng tâm.
9. Giới tâm.
10. Nguyện tâm.
Thập trụ:
1. Phát tâm trụ.
2. Trị địa trụ.
3. Tu hành trụ.
4. Sinh quý trụ.
5. Phương tiện cụ túc trụ.
6. Chánh tâm trụ.
7. Bất thối trụ.
8. Đồng chân trụ.
9. Pháp vương tử trụ.
10. Quán đảnh trụ.
Thập hạnh:
1. Hoan hỉ hạnh.
2. Nhiêu ích hạnh.
3. Vô vi nghịch hạnh.
4. Vô khuất nạo hạnh.
5. Ly si loạn hạnh.
6. Thiện hiện hạnh.
7. Vô trước hạnh.
8. Nan đắc hạnh.
9. Thiện pháp hạnh.
10. Chân thật hạnh.
Thập hồi hướng:
1. Cứu hộ chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi hướng.
2. Bất hoại hồi hướng.
3. Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng.
4. Chí nhất thiết xứ hồi hướng.
5. Vô tận công đức tạng hồi hướng.
6. Tuỳ thuận kiến cố nhất thiết thiện căn hồi hướng.
7. Đẳng tuỳ thuận nhất thiết chúng sinh hồi hướng.
8. Chân như tướng hồi hướng.
9. Vô phược giải thoát hồi hướng.
10. Pháp giới vô tận hồi hướng.
Thập địa:
1. Hoan hỉ địa.
2. Ly cấu địa.
3. Phát quang địa.
4. Diệm huệ địa.
5. Nan thắng địa.
6. Hiện tiền địa.
7. Viễn hành địa.
8. Bất động địa.
9. Thiện huệ địa.
10. Pháp vân địa.
Bậc Đẳng giác: Tự giác giác tha đã viên mãn, chỉ thiếu giác hạnh chưa viên mãn. Giác ngộ gần đồng với Phật.
Bậc Diệu giác: Ba giác đã viên mãn, vạn đức đã đầy đủ, tức là quả vị Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nhĩ thời, Thế Tôn tại Ma kiệt đề quốc A-lan-nhã Pháp Bồ-đề trường trung phổ quang minh điện, tọa liên hoa tạng sư tử chi tọa, diệu ngộ giai mãn, nhị hạnh vĩnh tuyệt, đạt vô tướng Pháp; trụ ư Phật trụ, đắc Phật bình đẳng, đáo Vô chướng xứ bất khả chuyển Pháp; sở hạnh vô ngại, lập bất tư nghị, phổ kiến tam thế; thân hằng sung biến nhất thiết quốc độ, trí hằng minh đạt nhất thiết chư pháp; liễu nhất thiết hành, tận nhất thiết nghi, vô năng trắc thân; nhất thiết Bồ Tát đẳng sở cầu trí, đáo Phật vô nhị cứu cánh bỉ ngạn, cụ túc Như Lai bình đẳng giải thoát, chứng vô trung biên Phật bình đẳng địa, tận ư Pháp giới đẳng hư không giới.
Bấy giờ đức Thế-Tôn ở nước Ma-Kiệt-Ðề trong đạo-tràng Bồ-Ðề A-Lan-Nhã điện Phổ-Quang-Minh, ngồi tòa Liên-Hoa-Tạng Sư-Tử diệu ngộ viên-mãn, tuyệt hẳn hai hạnh, đạt pháp vô-tướng, an trụ nơi chỗ trụ của Phật, được phật bình-đẳng, đến chỗ không chướng ngại pháp chẳng thể chuyển, chỗ làm vô-ngại lập bất-tư-nghì, thấy khắp tam-thế, thân hằng đầy khắp tất cả quốc độ, trí hằng sáng thấu tất cả pháp, rõ tất cả hạnh, hết tất cả nghi, thân không thể lường, trí đồng với chỗ cầu của tất cả Bồ-Tát, đến bỉ-ngạn rốt ráo không hai của Phật, đầy đủ bình-đẳng giải-thoát của Như-Lai, chứng bực Phật bình-đẳng không trung biên, tột nơi pháp-giới, khắp hư-không-giới,
Giảng: Sau khi đại Bồ Tát Phổ Hiền nói xong ba mươi bảy phẩm rồi, thì lúc đó, Đức Phật Thích Ca ở tại nước Ma Kiệt Đề, ở trong A Lan Nhã (nơi vắng lặng) Pháp Bồ Đề Tràng, Điện Phổ Quang Minh, ngồi kiết già trên toà sư tử Liên Hoa Tạng. Hội nầy Phật chẳng phóng quang minh, tại sao vậy? Vì trở lại điện Phổ Quang Minh nói pháp.
Diệu ngộ đều tròn đầy: Tức là chẳng có gì mà không ngộ, chẳng có gì mà không giác, đến được cảnh giới giác hạnh viên mãn. Hai hạnh dứt hẳn: Tức là kiến hạnh và ái hạnh, kiến ái hai hạnh vĩnh viễn dứt hẳn. Đạt được pháp vô tướng: Đã đạt được pháp vô tướng. Trụ chỗ trụ của Phật: Trụ ở chỗ trụ của Phật. Đắc được bình đẳng của Phật: Chứng được cảnh giới bình đẳng của Phật. Đến được nơi vô ngại: Đã đến được nơi chẳng còn chướng ngại. Pháp không thể chuyển: Bất cứ như thế nào, cũng không thối chuyển pháp nầy. Sở hành vô ngại: Những gì làm đều không có sự chướng ngại. Lập không nghĩ bàn: Thành lập cảnh giới không thể nghĩ bàn. Thấy khắp ba đời: Thấy khắp hết ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai. Thân luôn đầy khắp tất cả cõi nước: Pháp thân đầy khắp tất cả mọi nơi, cho nên đầy khắp tất cả mười phương cõi nước. Trí luôn sáng suốt thông đạt tất cả các pháp: Trí huệ thấu rõ thông đạt tất cả các pháp, đều là thật tướng mà vô tướng. Thấu rõ tất cả hạnh: Đã đến được cảnh giới vô tu vô chứng. Hết tất cả nghi hoặc: Chẳng còn sự nghi hoặc nữa. Thân không thể dò được: Cảnh giới đó, bất cứ ai cũng không thể dò được. Trí đồng với chỗ cầu của tất cả Bồ Tát: Trí huệ mà mười phương hết thảy tất cả Bồ Tát đều cầu. Đến được bờ bên kia rốt ráo không hai của Phật: Đã đến được bờ Niết Bàn bên kia rốt ráo giống như Phật. Đầy đủ giải thoát bình đẳng của Như Lai: Tu hành viên mãn đầy đủ giải thoát bình đẳng của Phật. Chứng được bậc bình đẳng của Phật không hai bên: Chứng được bậc bình đẳng của Phật, chẳng có hai bên, chỉ có trung đạo. Tận pháp giới: Tận cùng pháp giới. Đồng cõi hư không: Thân đồng với cõi hư không. Do đó có câu: “Tận hư không khắp pháp giới”.
Dữ bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số Bồ-Tát Ma-ha-tát câu. Giai nhất sanh đương đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, các tòng tha phương chủng chủng quốc độ nhi cọng lai tập, tất cụ Bồ Tát phương tiện trí tuệ.
Cùng bất-khả-thuyết trăm ngàn na-do-tha phật-sát vi-trần-số đại Bồ-Tát câu hội. Chư đại Bồ-Tát nầy đều là bực một đời sẽ được vô-thượng bồ-đề, đều từ những cõi nước phương khác mà đồng đến tập họp, đều đủ Bồ-Tát phương-tiện trí-huệ:
Giảng: Cùng với các đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật tụ lại, đều còn một đời nữa sẽ chứng được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). Các vị Bồ Tát đó, đều từ đủ thứ cõi nước phương khác, cùng đến thế giới Ta Bà tụ tập tại điện Phổ Quang Minh, các Ngài thảy đều đầy đủ trí huệ phương tiện của Bồ Tát.
Sở vị: thiện năng quan sát nhất thiết chúng sanh, dĩ phương tiện lực, lệnh kỳ điều phục, trụ Bồ Tát Pháp; thiện năng quan sát nhất thiết thế giới, dĩ phương tiện lực, phổ giai vãng nghệ; thiện năng quan sát Niết-Bàn cảnh giới, tư tánh trù lượng vĩnh ly nhất thiết hí luận phân biệt, nhi tu diệu hạnh vô hữu gian đoạn
Đó là: Những là khéo hay quán-sát tất cả chúng-sanh, dùng sức phương-tiện khiến họ điều-phục trụ nơi pháp Bồ-Tát. Khéo hay quan-sát tất cả thế-giới, dùng sức phương-tiện đều khắp qua đến. Khéo hay quán-sát cảnh-giới niết-bàn, tư duy suy lường lìa hẳn tất cả hí-luận phân-biệt mà tu diệu-hạnh không có gián-đoạn.
Giảng: Đó là: Những vị Bồ Tát đó, đều khéo hay quán sát căn tánh của tất cả chúng sinh, dùng sức phương tiện, khiến cho họ đều được điều phục, trụ pháp của Bồ Tát tu. Lại khéo hay quán sát tất cả thế giới, dùng sức phương tiện, đều đi đến khắp tất cả thế gian. Lại khéo hay quán sát cảnh giới Niết Bàn, tư duy suy lường, lìa hẳn tất cả hí luận và tâm phân biệt, chuyên tu diệu hạnh của Bồ Tát, không có khi nào gián đoạn.
Thiện năng nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh, thiện nhập vô lượng chư phương tiện Pháp, tri chư chúng sanh không vô sở hữu nhi bất hoại nghiệp quả; thiện tri chúng sanh tâm sử, chư căn cảnh giới phương tiện, chủng chủng sái biệt tất năng thọ trì; tam thế Phật Pháp, tự đắc giải liễu, phục vi tha thuyết; ư thế, xuất thế vô lượng chư Pháp, giai thiện an trụ, tri kỳ chân thật; ư hữu vi, vô vi nhất thiết chư pháp, tất thiện quan sát, tri vô hữu nhị;
Khéo hay nhiếp thọ tất cả chúng-sanh. Khéo vào vô-lượng pháp phương-tiện. Biết các chúng-sanh rỗng không chẳng có mà chẳng hoại nghiệp quả. Khéo biết tâm sử, chư căn, cảnh-giới, phương-tiện các loại sai-biệt của chúng-sanh. Ðều hay thọ-trì tam-thế phật-pháp, tự được hiểu rõ lại vì người giải-thuyết. Ðều khéo an-trụ nơi vô-lượng pháp thế và xuất-thế, biết tánh chơn-thiệt của tất cả pháp. Nơi tất cả pháp hữu-vi vô-vi đều khéo quán-sát biết không có hai.
Giảng: Lại khéo hay nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Lại khéo vào vô lượng các pháp phương tiện. Lại biết các chúng sinh, không chẳng chỗ có, tuy không chẳng chỗ có, mà có thể tạo nghiệp quả, vẫn tồn tại, không hoại nghiệp quả. Lại khéo biết tâm sử (tham, sân, si, mạn, nghi, thân, biên, giới, kiến, tà) của tất cả chúng sinh, và tất cả căn lành (mắt tai mũi lưỡi thân ý), cảnh giới và phương tiện, có đủ thứ sự khác biệt. Hoàn toàn thọ trì được pháp của chư Phật ba đời nói, tự mình đắc được giải thoát rồi, lại vì người khác nói. Đối với thế gian xuất thế gian vô lượng các pháp, đều khéo an trụ, đều biết rõ chân thật. Đối với tất cả các pháp hữu vi vô vi, đều khéo quán sát rốt ráo, biết pháp vốn chẳng có gì phân biệt.
U nhất niệm trung, tất năng hoạch đắc tam thế chư Phật sở hữu trí tuệ; ư niệm niệm trung, tất năng thị hiện thành đẳng chánh giác, lệnh nhất thiết chúng sanh phát tâm thành đạo; ư nhất chúng sanh tâm chi sở duyên, tất tri nhất thiết chúng sanh cảnh giới.
Tuy nhập Như Lai nhất thiết trí địa, nhi bất xả Bồ Tát hạnh chư sở tác nghiệp, trí tuệ phương tiện nhi vô sở tác; vi nhất nhất chúng sanh trụ vô lượng kiếp, nhi ư a-tăng-kì kiếp nan khả trực ngộ, chuyển chánh Pháp luân điều phục chúng sanh giai bất đường quyên, tam thế chư Phật thanh tịnh hạnh nguyện tất dĩ cụ túc; thành tựu như thị vô lượng công đức, nhất thiết Như Lai ư vô biên kiếp thuyết bất khả tận.
Ở trong một niệm, đều đắc được hết thảy trí huệ của chư Phật ba đời. Ở trong niệm niệm, đều thị hiện thành Đẳng Chánh Giác, khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm thành đạo. Chỗ tâm phan duyên của tất cả chúng sinh, đều biết cảnh giới của tất cả chúng sinh.
Dầu nhập Như-Lai nhứt-thiết-trí-địa mà chẳng bỏ hạnh bồ-tát, cũng chẳng bỏ sự nghiệp, trí-huệ, phương-tiện của Bồ-Tát, mà vẫn không sở-tác. Vì mỗi mỗi chúng-sanh trụ vô-lượng kiếp, mà trong vô-số kiếp khó gặp được. Chuyển chánh pháp-luân, điều phục chúng-sanh đều không bỏ luống. Hạnh nguyện thanh-tịnh của tam-thế chư Phật đều đã đầy đủ. Thành tựu vô-lượng công-đức như vậy. Tất cả Như-Lai trong vô-biên kiếp nói chẳng hết được.
Kỳ danh viết:
Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Nhãn Bồ Tát, Phổ Hóa Bồ-tát,
Phổ Tuệ Bồ Tát, Phổ Kiến Bồ Tát, Phổ quang Bồ Tát,
Phổ Quán Bồ Tát, Phổ Chiếu Bồ Tát, Phổ Tràng Bồ-tát, Phổ Giác Bồ Tát
Tên của các ngài là: Phổ-Hiền Bồ-Tát, Phỗ-Nhãn Bồ-Tát, Phổ-Hóa Bồ-Tát,
Phổ-Huệ Bồ-Tát, Phổ-Kiến Bồ-Tát, Phổ-Quang Bồ-Tát,
Phổ-Quán Bồ-Tát, Phổ-Chiếu Bồ-Tát, Phổ-Tràng Bồ-Tát, Phổ-Giác Bồ-Tát.
Danh hiệu của những vị đại Bồ Tát đó là: Bồ Tát Phổ Hiền. Bồ Tát Phổ Nhãn. Bồ Tát Phổ Hoá. Bồ Tát Phổ Huệ. Bồ Tát Phổ Kiến. Bồ Tát Phổ Quang. Bồ Tát Phổ Quán. Bồ Tát Phổ Chiếu. Bồ Tát Phổ Tràng. Bồ Tát Phổ Giác.
Như thị đẳng thập bất khả thuyết bách thiên ức na-do-tha Phật sát vi trần số, giai tất thành tựu Phổ Hiền hạnh nguyện, thâm tâm đại nguyện giai dĩ viên mãn; nhất thiết chư Phật xuất hưng thế xứ, tất năng vãng nghệ thỉnh chuyển pháp luân; thiện năng thọ trì chư Phật Pháp nhãn, bất đoạn nhất thiết chư Phật chủng tánh; thiện tri nhất thiết chư Phật hưng thế thọ kí thứ đệ, danh hiệu, quốc độ, thành đẳng chánh giác, chuyển ư Pháp luân; vô Phật thế giới hiện thân thành Phật, năng lệnh nhất thiết tạp nhiễm chúng sanh giai tất thanh tịnh; năng diệt nhất thiết Bồ Tát nghiệp chướng, nhập ư vô ngại thanh tịnh pháp giới.
Mười bất-khả-thuyết trăm ngàn ức na-do-tha phật-sát vi-trần-số chư đại Bồ-Tát như vậy, thảy đều thành-tựu hạnh nguyện Phổ-Hiền, thâm tâm đại-nguyện đều đã viên-mãn. Chỗ của tất cả chư Phật xuất thế đều có thể qua đến thỉnh chuyển pháp-luân. Khéo hay thọ-trì pháp-nhãn của chư Phật. Chẳng dứt chủng-tánh của tất cả chư Phật. Khéo biết tất cả chư Phật ra đời, thứ đệ thọ ký danh-hiệu, quốc-độ, thành Phật chuyển pháp-luân. Thế-giới không Phật hiện thân thành Phật. Hay khiến chúng-sanh tạp nhiễm đều được thanh-tịnh. Hay diệt tất cả nghiệp-chướng của Bồ-Tát, vào nơi pháp-giới thanh-tịnh vô-ngại.
Giảng: Đưa ra danh hiệu của mười vị đại Bồ Tát, mười là ý nghĩa đại biểu vô tận. Cảnh giới nói trong Kinh Hoa Nghiêm là trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng. Những vị đại Bồ Tát như vậy, nhiều như số hạt bụi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức Na do tha cõi Phật, đều đã thành tựu đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền tu, thâm tâm đại nguyện, đều đã tu đến trình độ viên mãn. Phàm là chỗ nào có chư Phật xuất hiện ra đời, các Ngài thảy đều đi đến đạo tràng của Phật, để thỉnh chuyển bánh xe pháp. Khéo hay thọ trì pháp nhãn của chư Phật nói, chẳng dứt giống tánh của tất cả chư Phật, có thể tục Phật huệ mạng. Khéo biết tất cả chư Phật xuất hiện ra đời, Phật thọ ký cho Bồ Tát nào, vị Bồ Tát nào được thọ ký trước, vị Bồ Tát nào thọ ký sau. Danh hiệu thành Phật và tên cõi nước, thành Đẳng Chánh Giác rồi, chuyển bánh xe pháp, giáo hoá chúng sinh. Thế giới không có Phật, thì hiện thân thành Phật. Hay khiến cho tất cả chúng sinh tạp nhiễm, đều được thanh tịnh. Diệt hết sạch nghiệp chướng của tất cả Bồ Tát, vào được pháp giới thanh tịnh vô ngại.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập quảng đại tam muội, danh: Phật hoa trang nghiêm; nhập thử tam muội thời, thập phương sở hữu nhất thiết thế giới lục chủng, thập bát tướng động, xuất Đại âm thanh mị bất giai văn; nhiên hậu tùng kỳ tam muội nhi khởi. Nhĩ thời, phổ tuệ Bồ Tát tri chúng dĩ tập, vấn Phổ Hiền Bồ Tát ngôn:
Bấy giờ Phổ-Hiền đại Bồ-Tát nhập quảng đại tam-muội tên là phật-hoa-trang-nghiêm. Lúc Bồ-Tát nhập tam-muội nầy, tất cả thế-giới mười phương chấn động sáu cách mười tám tướng, pháp âm-thanh lớn không đâu chẳng nghe. Sau đó Bồ-Tát mới từ tam-muội xuất định. Bấy giờ Phổ-Huệ Bồ-Tát biết đại-chúng đã vân tập, hỏi Phổ-Hiền Bồ-Tát rằng:
Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền, vào tam muội rộng lớn, tên là tam muội Phật hoa trang nghiêm. Khi đại Bồ Tát Phổ Hiền vào tam muội đó, thì mười phương hết thảy tất cả thế giới, đều có sáu thứ mười tám tướng chấn động. Sáu thứ tức là động, dũng, khởi (thuộc về hình tướng), chấn, hống, kích (thuộc về âm thanh). Mười tám tướng tức là mỗi thứ có ba tướng, ba lần sáu là mười tám tướng, vang ra âm thanh lớn, chẳng có chỗ nào mà không nghe. Sau đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền từ trong tam muội Phật hoa trang nghiêm mà xuất định. Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Huệ biết đại chúng Bồ Tát trong mười phương thế giới đã vân tập tại điện Phổ Quang Minh, bèn hỏi đại Bồ Tát Phổ Hiền rằng:
Phật tử! nguyện vi diễn thuyết:
Thưa Phật-tử ! Xin ngài diễn thuyết:
“Phật tử! Xin Ngài hãy vì chúng tôi diễn nói những pháp nầy. Như đưa ra hai trăm câu hỏi dưới đây, mỗi câu hỏi đều nên biết, nên học tập theo”.
— o0o —
HỎI VỀ PHÁP THẬP TÍN
Hà đẳng vi Bồ-Tát Ma-ha-tát y? Những gì là y-chỉ của đại Bồ-Tát ?
Hà đẳng vi kì đặc tưởng? Những gì là kỳ-đặc-tưởng ?
Hà đẳng vi hạnh? Những gì là hạnh ?
Hà đẳng vi thiện tri thức? Những gì là thiện-tri-thức ?
Hà đẳng vi cần tinh tấn? Những gì là siêng tinh-tấn ?
Hà đẳng vi tâm đắc an ổn? Những gì là tâm được an-ổn ?
Hà đẳng vi thành tựu chúng sanh? Những gì là thành-tựu chúng-sanh?
Hà đẳng vi giới? Những gì là giới ?
Hà đẳng vi tự tri thọ kí? Những gì là tự biết thọ ký ?
Hà đẳng vi nhập Bồ Tát? Những gì là nhập Bồ-Tát ?
Hà đẳng vi nhập Như Lai? Những gì là nhập Như-Lai ?
Hà đẳng vi nhập chúng sanh tâm hành? Những gì là nhập tâm hành của chúng-sanh ?
Hà đẳng vi nhập thế giới? Những gì là nhập thế-giới ?
Hà đẳng vi nhập kiếp? Những gì là nhập kiếp ?
Hà đẳng vi thuyết tam thế? Những gì là nói tam-thế ?
Hà đẳng vi nhập tam thế? Những gì là biết tam-thế ?
Hà đẳng vi phát vô bì yếm tâm? Những gì là phát tâm không mỏi nhàm ?
Hà đẳng vi sái biệt trí? Những gì là trí sai-biệt ?
Hà đẳng vi Đà-la-ni? Những gì là đà-la-ni ?
Hà đẳng vi diễn thuyết Phật? Những gì là diễn thuyết Phật ?
— o0o —
HỎI VỀ PHÁP THẬP TRỤ
Hà đẳng vi phát Phổ Hiền tâm? Những gì là phát tâm Phổ-Hiền ?
Hà đẳng vi Phổ Hiền hạnh Pháp? Những gì là Phổ-Hiền hạnh pháp ?
Dĩ Hà đẳng cố nhi khởi đại bi? Do những cớ gì mà sanh lòng đại-bi?
Hà đẳng vi phát Bồ-đề tâm nhân duyên? Những gì là nhơn-duyên phát bồ-đề tâm ?
Hà đẳng vi ư thiện tri thức khởi tôn trọng tâm? Những gì là sanh tâm tôn trọng đối với thiện-tri-thức ?
Hà đẳng vi thanh tịnh? Những gì là thanh-tịnh ?
Hà đẳng vi chư Ba-la-mật? Những gì là các ba-la-mật ?
Hà đẳng vi trí tùy giác? Những gì là trí tùy giác ?
Hà đẳng vi chứng tri? Những gì là chứng biết ?
Hà đẳng vi lực? Những gì là sức lực ?
Hà đẳng vi bình đẳng? Những gì là bình-đẳng ?
Hà đẳng vi Phật Pháp thật nghĩa cú? Những gì là phật-pháp thiệt-nghĩa cú ?
Hà đẳng vi thuyết Pháp? Những gì là thuyết-pháp ?
Hà đẳng vi trì? Những gì là thọ trì ?
Hà đẳng vi biện tài? Những gì là biện-tài ?
Hà đẳng vi tự tại? Những gì là tự-tại ?
Hà đẳng vi vô trước tánh? Những gì là tánh không chấp trước ?
Hà đẳng vi bình đẳng tâm? Những gì là tâm bình-đẳng ?
Hà đẳng vi xuất sanh trí tuệ? Những gì là sinh ra trí-huệ ?
Hà đẳng vi biến hóa? Những gì là biến hóa?
— o0o —
HỎI VỀ PHÁP THẬP HẠNH
Hà đẳng vi lực trì? Những gì là lực-trì ?
Hà đẳng vi đắc Đại hân úy? Những gì là được vui mừng lớn ?
Hà đẳng vi thâm nhập Phật Pháp? Những gì là thâm nhập phật-pháp ?
Hà đẳng vi y chỉ? Những gì là y-chỉ ?
Hà đẳng vi phát vô úy tâm? Những gì là phát tâm không sợ hãi ?
Hà đẳng vi phát vô nghi hoặc tâm? Những gì là phát tâm không nghi hoặc ?
Hà đẳng vi bất tư nghị? Những gì là không nghĩ bàn ?
Hà đẳng vi xảo mật ngữ? Những gì là khéo léo bí mật ?
Hà đẳng vi xảo phân biệt trí? Những gì là trí khéo phân biệt ?
Hà đẳng vi nhập tam muội? Những gì là vào tam-muội ?
Hà đẳng vi biến nhập? Những gì là vào khắp ?
Hà đẳng vi giải thoát môn? Những gì là môn giải-thoát ?
Hà đẳng vi thần thông? Những gì là thần-thông ?
Hà đẳng vi minh? Những gì là minh ?
Hà đẳng vi giải thoát? Những gì là giải thoát ?
Hà đẳng vi viên lâm? Những gì là vườn rừng ?
Hà đẳng vi cung điện? Những gì là cung-điện ?
Hà đẳng vi sở lạc? Những gì là sự ưa thích ?
Hà đẳng vi trang nghiêm? Những gì là trang-nghiêm ?
Hà đẳng vi phát bất động tâm? Những gì là phát tâm bất-động ?
Hà đẳng vi ất xả thâm Đại tâm? Những gì là chẳng bỏ tâm sâu lớn ?
Hà đẳng vi quan sát? Những gì là quán-sát ?
Hà đẳng vi thuyết Pháp? Những gì là thuyết pháp ?
Hà đẳng vi thanh tịnh? Những gì là thanh-tịnh ?
Hà đẳng vi ấn? Những gì là pháp ấn ?
Hà đẳng vi trí quang chiếu? Những gì là trí quang minh ?
Hà đẳng vi vô đẳng trụ? Những gì là vô-đẳng-trụ ?
Hà đẳng vi vô hạ liệt tâm? Những gì là tâm không hạ liệt?
Hà đẳng vi như sơn tăng thượng tâm? Những gì là tâm tăng thượng như núi ?
Hà đẳng vi nhập vô thượng Bồ-đề như hải trí? Những gì là vào trí huệ vô thượng bồ đề như biển ?
— o0o —
HỎI VỀ PHÁP THẬP HỒI HƯỚNG
Hà đẳng vi như bảo trụ? Những gì là trụ như thật ?
Hà đẳng vi phát như Kim cương Đại-Thừa thệ nguyện tâm? Những gì là phát tâm đại-thừa thệ nguyện như kim-cang ?
Hà đẳng vi Đại phát khởi? Những gì là đại phát khởi ?
Hà đẳng vi cứu cánh Đại sự? Những gì là đại sự rốt ráo ?
Hà đẳng vi bất hoại tín? Những gì là tin bất hoại ?
Hà đẳng vi thọ kí? Những gì là thọ-ký ?
Hà đẳng vi thiện căn hồi hướng? Những gì là thiện-căn hồi-hướng ?
Hà đẳng vi đắc trí tuệ? Những gì là được trí-huệ ?
Hà đẳng vi phát vô biên quảng đại tâm? Những gì là phát tâm rộng lớn vô biên ?
Hà đẳng vi phục tạng? Những gì là phục-tạng ?
Hà đẳng vi luật nghi? Những gì là luật-nghi ?
Hà đẳng vi tự tại? Những gì là tự-tại ?
Hà đẳng vi vô ngại dụng? Những gì là vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi chúng sanh vô ngại dụng? Những gì là chúng-sanh vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi sát vô ngại dụng? Những gì là quốc-độ vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi Pháp vô ngại dụng? Những gì là pháp vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi thân vô ngại dụng? Những gì là thân vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi nguyện vô ngại dụng? Những gì là nguyện vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi cảnh giới vô ngại dụng? Những gì là cảnh-giới vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi trí vô ngại dụng? Những gì là trí vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi thần thông vô ngại dụng? Những gì là thần-thông vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi thần lực vô ngại dụng? Những gì là thần-lực vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi lực vô ngại dụng? Những gì là lực vô-ngại dụng ?
Hà đẳng vi du hí? Những gì là du-hí ?
Hà đẳng vi cảnh giới? Những gì là cảnh-giới ?
Hà đẳng vi lực? Những gì là thập lực ?
Hà đẳng vi vô úy? Những gì là vô-úy ?
Hà đẳng vi bất cộng pháp? Những gì là pháp bất-cộng ?
Hà đẳng vi nghiệp? Những gì là nghiệp ?
Hà đẳng vi thân? Những gì là thân ?
— o0o —
HỎI VỀ PHÁP THẬP ĐỊA
Hà đẳng vi thân nghiệp? Những gì là thân-nghiệp ?
Hà đẳng vi thân? Những gì là thân ?
Hà đẳng vi ngữ? Những gì là lời ?
Hà đẳng vi tịnh tu ngữ nghiệp? Những gì là tịnh tu ngữ-nghiệp ?
Hà đẳng vi đắc thủ hộ? Những gì là được giữ gìn ?
Hà đẳng vi thành biện Đại sự? Những gì là thành xong việc lớn ?
Hà đẳng vi tâm? Những gì là tâm ?
Hà đẳng vi phát tâm? Những gì là phát tâm ?
Hà đẳng vi chu biến tâm? Những gì là tâm khắp cùng ?
Hà đẳng vi chư căn? Những gì là các căn ?
Hà đẳng vi thâm tâm? Những gì là tâm thâm sâu ?
Hà đẳng vi tăng thượng thâm tâm? Những gì là tâm thâm sâu tăng thượng ?
Hà đẳng vi cần tu? Những gì là siêng tu ?
Hà đẳng vi quyết định giải? Những gì là quyết định giải ?
Hà đẳng vi quyết định giải nhập thế giới? Những gì là quyết định giải vào thế-giới?
Hà đẳng vi quyết định giải nhập chúng sanh giới? Những gì là quyết định giải vào cõi chúng sinh ?
Hà đẳng vi tập khí? Những gì là tập-khí?
Hà đẳng vi thủ? Những gì là giữ lấy?
Hà đẳng vi tu? Những gì là tu ?
Hà đẳng vi thành tựu Phật Pháp? Những gì là thành tựu phật-pháp ?
Hà đẳng vi thoái thất Phật Pháp đạo? Những gì là thối thất phật-pháp-đạo ?
Hà đẳng vi ly sanh đạo? Những gì là ly-sanh-đạo ?
Hà đẳng vi quyết định pháp? Những gì là quyết-định-pháp ?
Hà đẳng vi xuất sanh Phật Pháp đạo? Những gì là sinh ra phật-pháp-đạo ?
Hà đẳng vi đại trượng phu danh hiệu? Những gì là đại-trượng-phu danh-hiệu ?
Hà đẳng vi đạo? Những gì là đạo ?
Hà đẳng vi vô lượng đạo? Những gì là vô-lượng-đạo ?
Hà đẳng vi trợ đạo? Những gì là trợ-đạo ?
Hà đẳng vi tu đạo? Những gì là tu đạo ?
Hà đẳng vi trang nghiêm đạo? Những gì là trang-nghiêm đạo ?
Hà đẳng vi túc? Những gì là chân ?
Hà đẳng vi thủ? Những gì là tay ?
Hà đẳng vi phước? Những gì là bụng ?
Hà đẳng vi tạng? Những gì là tạng ?
Hà đẳng vi tâm? Những gì là tâm ?
Hà đẳng vi bị giáp? Những gì là mặc giáp ?
Hà đẳng vi khí trượng? Những gì là khí trượng ?
Hà đẳng vi thủ? Những gì là đầu ?
Hà đẳng vi nhãn? Những gì là mắt ?
Hà đẳng vi nhĩ? Những gì là tai ?
Hà đẳng vi tỳ? Những gì là mũi ?
Hà đẳng vi thiệt? Những gì là lưỡi ?
Hà đẳng vi thân? Những gì là thân ?
Hà đẳng vi ý? Những gì là ý ?
Hà đẳng vi hành? Những gì là đi ?
Hà đẳng vi trụ? Những gì là đứng ?
Hà đẳng vi tọa? Những gì là ngồi ?
Hà đẳng vi ngọa? Những gì là nằm ?
Hà đẳng vi sở trụ xứ? Những gì là chỗ ở ?
Hà đẳng vi sở hạnh xứ? Những gì là chỗ đi ?
— o0o —
HỎI VỀ PHÁP ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ (BẬC ĐẲNG GIÁC)
Hà đẳng vi quán sát? Những gì là quán sát ?
Hà đẳng vi phổ quan sát? Những gì là khắp quán-sát ?
Hà đẳng vi phấn tấn? Những gì là phấn-tấn ?
Hà đẳng vi sư tử hống? Những gì là sư-tử-hống ?
Hà đẳng vi thanh tịnh thí? Những gì là thanh-tịnh thí ?
Hà đẳng vi thanh tịnh giới? Những gì là thanh-tịnh giới ?
Hà đẳng vi thanh tịnh nhẫn? Những gì là thanh-tịnh-nhẫn ?
Hà đẳng vi thanh tịnh tinh tấn? Những gì là thanh-tịnh tinh-tấn ?
Hà đẳng vi thanh tịnh định? Những gì là thanh-tịnh định ?
Hà đẳng vi thanh tịnh tuệ? Những gì là thanh-tịnh huệ ?
Hà đẳng vi thanh tịnh từ? Những gì là thanh-tịnh từ ?
Hà đẳng vi thanh tịnh bi? Những gì là thanh-tịnh bi ?
Hà đẳng vi thanh tịnh hỉ? Những gì là thanh-tịnh hỉ ?
Hà đẳng vi thanh tịnh xả? Những gì là thanh-tịnh xả ?
Hà đẳng vi nghĩa? Những gì là nghĩa ?
Hà đẳng vi Pháp? Những gì là pháp?
Hà đẳng vi phước đức trợ đạo cụ? Những gì là đủ phước-đức trợ-đạo cụ ?
Hà đẳng vi trí tuệ trợ đạo cụ? Những gì là đủ trí-huệ trợ-đạo cụ ?
Hà đẳng vi minh túc? Những gì là minh-túc ?
Hà đẳng vi cầu Pháp? Những gì là cầu pháp ?
Hà đẳng vi minh liễu Pháp? Những gì là thấu rõ pháp ?
Hà đẳng vi tu hành Pháp? Những gì là tu hành pháp?
Hà đẳng vi ma? Những gì là ma ?
Hà đẳng vi ma nghiệp? Những gì là ma-nghiệp ?
Hà đẳng vi xả ly ma nghiệp? Những gì là bỏ rời ma-nghiệp ?
Hà đẳng vi kiến Phật? Những gì là thấy Phật ?
Hà đẳng vi Phật nghiệp? Những gì là phật-nghiệp ?
Hà đẳng vi mạn nghiệp? Những gì là mạn-nghiệp ?
Hà đẳng vi trí nghiệp? Những gì là trí-nghiệp ?
Hà đẳng vi ma sở nhiếp trì? Những gì là ma nhiếp trì ?
Hà đẳng vi Phật sở nhiếp trì? Những gì là Phật nhiếp-trì ?
Hà đẳng vi Pháp sở nhiếp trì? Những gì là pháp nhiếp-trì ?
— o0o —
HỎI VỀ PHÁP QUẢ DỤNG VIÊN MÃN (BẬC DIỆU GIÁC)
Hà đẳng vi trụ Đâu suất thiên sở tác nghiệp? Những gì là nghiệp làm ở trời Đâu Suấ ?
Hà cố ư Đâu suất thiên cung một? Cớ gì nơi Ðâu-Suất-Thiên-Cung mất?
Hà cố hiện xứ thai? Cớ gì hiện ở thai ?
Hà đẳng vi hiện vi tế thú? Những gì là hiện vi-tế-thú ?
Hà cố hiện sơ sanh? Cớ gì hiện sơ-sanh ?
Hà cố hiện vi tiếu? Cớ gì hiện vi-tiếu ?
Hà cố thị hành thất bộ? Cớ gì hiện đi bảy bước ?
Hà cố hiện đồng tử địa? Cớ gì hiện đồng-tử ?
Hà cố hiện xứ nội cung? Cớ gì hiện ở nội-cung ?
Hà cố hiện xuất gia? Cớ gì hiện xuất-gia ?
Hà cố thị khổ hạnh? vân Cớ gì hiện khổ-hạnh ?
Hà vãng nghệ đạo tràng? Qua đến đạo-tràng thế nào?
Vân hà tọa đạo tràng? Ngồi đạo-tràng thế nào ?
Hà đẳng vi tọa đạo tràng thời kì đặc tướng? Những gì là tướng kỳ-đặc khi ngồi đạo-tràng ?
Hà cố thị hàng ma? Cớ gì hiện hàng ma ?
Hà đẳng vi thành Như Lai lực? Những gì thành Như-Lai lực?
Vân hà chuyển pháp luân? Chuyển pháp-luân thế nào ?
Hà cố nhân chuyển pháp luân đắc bạch tịnh Pháp? Cớ gì nhơn chuyển pháp-luân được pháp bạch tịnh?
Hà cố Như Lai, ưng, chánh đẳng giác thị Bát Niết Bàn? Cớ gì đức Như-Lai Ðẳng-Chánh-Giác hiện nhập niết-bàn?
Thiện tai! Phật tử! như thị đẳng Pháp, nguyện vi diễn thuyết!
Lành thay Phật-tử ! Những pháp như vậy xin ngài diễn nói cho.
Giảng: Lành thay Phật tử ! Những pháp như vậy, xin hãy vì chúng tôi tất cả Bồ Tát và đại chúng trong pháp hội, mà diễn nói.
— o0o —
TRẢ LỜI PHÁP THẬP TÍN
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát cáo phổ tuệ đẳng chư Bồ-tát ngôn: Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng y. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Bấy giờ Phổ-Hiền Bồ-Tát bảo Phổ-Huệ và chư Bồ-Tát rằng : Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười chỗ y-chỉ :
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền gọi một tiếng các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát tuy là đại Bồ Tát, nhưng vẫn phải nương tựa mười thứ pháp môn để tu hành. Những gì là mười ? Đó là :
Dĩ Bồ-đề tâm vi y, hằng bất vong thất cố
Dùng bồ-đề tâm làm y-chỉ, vì hằng chẳng quên mất.
Giảng: 1. Bồ Tát dùng bồ đề tâm để nương tựa, vì luôn chẳng quên mất bồ đề tâm. Luôn thường nương theo bồ đề tâm để tu hành. Bất cứ lúc nào, cũng không quên mất bồ đề tâm, lúc nào cũng phải phát đại bồ đề tâm.
Dĩ thiện tri thức vi y, hòa hợp như nhất cố
Dùng thiện-tri-thức làm y-chỉ, vì hòa hiệp như một.
Giảng: 2. Bồ Tát dùng thiện tri thức để nương tựa. Thế nào gọi là thiện tri thức ? Phàm là người có chánh tri chánh kiến, đều là thiện tri thức. Người có tà tri tà kiến là ác tri thức. Chúng ta người tu đạo, phải nương tựa thiện tri thức, phải xa lìa ác tri thức; thiện tri thức là người có đại trí huệ, không chỉ cho chúng sinh đi con đường sai lầm, nói tóm lại, thiện tri thức tức là người chỉ đường, mình biết rõ con đường đi như thế nào, mới bảo người khác tu hành theo. Nếu mình chẳng tu hành, cứ nói ngoài miệng thôi, nói được mà làm không được, thì làm sao chỉ dạy người khác tu hành, còn mình chẳng chịu tu hành, như vậy cũng chẳng có ích gì. Người tu hành nhất định phải gần gũi bậc thiện tri thức, dùng thiện tri thức để nương tựa. Bồ Tát còn phải nương tựa thiện tri thức, hà huống là phàm phu chúng ta, càng cần thiện tri thức khai thị và chỉ điểm, thì mới có thể tiến tới đại đạo quang minh, bằng không, tu mù luyện đui không thể nào đến cửa được, đi qua con đường nhỏ hẹp quanh quo, lãng phí thời gian một kiếp người, thật là đáng tiếc ! Do đó, nhất định phải nghe thiện tri thức dạy bảo, phải hoà hợp với thiện tri thức như một, giống như nước hoà với sữa, chẳng phân ra được nước hoặc sữa, tức cũng là đồng hoá.
Dĩ thiện căn vi y, tu tập tăng trưởng cố
Dùng thiện-căn làm y-chỉ, vì tu tập tăng-trưởng.
Giảng: 3. Bồ Tát dùng căn lành để nương tựa, gieo trồng tất cả căn lành, tích tập tất cả căn lành, tăng trưởng tất cả căn lành, tài bồi tất cả căn lành. Tóm lại, khiến cho căn lành thành thục.
Dĩ Ba-la-mật vi y, cụ túc tu hành cố
Dùng ba-la-mật làm y-chỉ, vì tu hành đầy đủ.
Giảng: 4. Bồ Tát dùng pháp Ba la mật (đến bờ kia) để nương tựa. Bất cứ làm việc gì, nhất định phải có trước có sau, làm cho được viên mãn, không thể bỏ dở giữa chừng, có trước chẳng có sau, như vậy thì công trước mất hết, càng không thể thấy cái khác thì thay đổi tư tưởng, hôm nay học tham thiền, ngày mai học trì chú, ngày mốt học niệm Phật, không thể luôn luôn thay đổi tông chỉ của mình, phải tu hành đầy đủ pháp Ba la mật.
Dĩ nhất thiết pháp vi y, cứu cánh xuất ly cố
Dùng nhứt-thiết pháp làm y-chỉ, vì rốt ráo xuất ly.
Giảng: 5. Bồ Tát dùng tất cả pháp để nương tựa, vì đến nơi rốt ráo, tức là thoát khỏi ba cõi.
Dĩ đại nguyện vi y, tăng trưởng Bồ-đề cố
Dùng đại-nguyện làm y-chỉ, vì tăng-trưởng bồ-đề.
Giảng: 6. Bồ Tát dùng đại nguyện để nương tựa, hay phát đại nguyện, thì sẽ tăng trưởng bồ đề tâm.
Dĩ chư hạnh vi y, phổ giai thành tựu cố
Dùng các hạnh làm y-chỉ, vì khắp đều thành-tựu.
Giảng: 7. Bồ Tát dùng các hạnh để nương tựa, các hạnh tức là lục độ vạn hạnh. Khiến cho các hạnh khắp đều thành tựu.
Dĩ nhất thiết Bồ Tát vi y, đồng nhất trí tuệ cố
Dùng tất cả Bồ-Tát làm y-chỉ, vì đồng một trí-huệ.
Giảng: 8. Bồ Tát dùng tất cả Bồ Tát để nương tựa, vì Bồ Tát và trí huệ của Bồ Tát tu đều là một, cho nên nương tựa với nhau.
Dĩ cúng dường chư Phật vi y, tín tâm thanh tịnh cố
Dùng cúng-dường chư Phật làm y-chỉ, vì tín tâm thanh-tịnh.
Giảng: 9. Bồ Tát dùng cúng dường tất cả chư Phật để nương tựa, vì khiến cho tín tâm thanh tịnh, chẳng còn ý niệm hoài nghi.
Dĩ nhất thiết Như Lai vi y, như Từ Phụ giáo hối bất đoạn cố.
Dùng tất cả Như-Lai làm y-chỉ, vì như từ-phụ dạy răn chẳng dứt.
Giảng: 10. Bồ Tát dùng tất cả Như Lai để nương tựa. Phật tức là cha lành của Bồ Tát, thường thường dạy bảo Bồ Tát, chẳng có khi nào gián đoạn.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc vi Như Lai vô thượng đại trí sở y xứ.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an trụ nơi pháp y-chỉ nầy thời được là chỗ sở-y đại trí vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười pháp môn nương tựa của Bồ Tát tu. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nơi nương tựa vô thượng đại trí huệ của Như Lai.
=======================================
Mười Tưởng Kỳ Đặc
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng kì đặc tưởng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ tưởng kỳ-đặc. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ nghĩ tưởng kỳ đặc chẳng bình thường. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết thiện căn sanh tự thiện căn tưởng
Nơi tất cả thiện-căn tưởng là tự thiện-căn.
Giảng: 1. Đối với tất cả căn lành, sinh nghĩ tưởng căn lành của mình. Tại sao ? Vì mình với chúng sinh là đồng một thể. Chúng sinh có căn lành, thì giống như mình có căn lành; chúng sinh có công đức, tức là mình có công đức, muốn căn lành của người khác làm căn lành của mình. Căn lành thì như thế, lỗi lầm cũng như vậy, người khác có lỗi lầm, cũng giống như mình có lỗi lầm. Công và lỗi giữa mình với người khác đồng một thể, chẳng có sự phân biệt với chúng sinh. Cho nên tất cả căn lành sinh nghĩ tưởng căn lành của mình.
Ư nhất thiết thiện căn sanh bồ Đề chủng tử tưởng
Nơi tất cả thiện-căn tưởng là chủng-tử bồ-đề.
Giảng: 2. Đối với tất cả căn lành nghĩ tưởng sinh hạt giống bồ đề, có căn lành thì có hạt giống bồ đề.
Ư nhất thiết chúng sanh sanh Bồ-đề khí tưởng
Nơi tất cả chúng-sanh tưởng là căn-khí bồ-đề.
Giảng: 3. Đối với tất cả chúng sinh, nghĩ tưởng bồ đề khí. Tất cả chúng sinh đều là khí chuyên chở đạo, tương lai đều có thể thành Phật.
Ư nhất thiết nguyện sanh tự nguyện tưởng
Nơi tất cả nguyện tưởng là tự-nguyện.
Giảng: 4. Đối với tất cả nguyện, sinh nghĩ tưởng nguyện của mình. Nguyện chúng sinh phát ra, tức là nguyện của mình phát ra. Mình với chúng sinh không hai không khác, hợp mà làm một.
Ư nhất thiết Pháp sanh xuất ly tưởng
Nơi tất cả pháp tưởng xuất ly.
Giảng: 5. Đối với tất cả pháp, sinh nghĩ tưởng thoát khỏi. Tất cả pháp đều là Phật pháp, đều bất khả đắc. Phải lìa khỏi chấp trước, lìa chấp ta, lìa chấp pháp, thì sinh ra nghĩ tưởng thoát khỏi ba cõi.
Ư nhất thiết hạnh sanh tự hạnh tưởng
Nơi tất cả hạnh tưởng là tư-hạnh.
Giảng: 6. Đối với tất cả hạnh, sinh nghĩ tưởng hạnh của mình. Chúng sinh tu lục độ vạn hạnh, giống như mình tu không khác.
Ư nhất thiết Pháp sanh Phật pháp tưởng
Nơi tất cả pháp tưởng là phật-pháp.
Giảng: 7. Đối với tất cả pháp, sinh nghĩ tưởng Phật pháp. Tất cả pháp hữu vi và vô vi của thế gian, đều đang nói pháp, giáo hoá chúng sinh. Hữu tình đang nói pháp, vô tình đang nói pháp, vạn sự vạn vật đều đang nói pháp.
Ư nhất thiết ngữ ngôn Pháp sanh ngữ ngôn đạo tưởng
Nơi tất cả pháp ngữ ngôn tưởng là đạo ngữ ngôn.
Giảng: 8. Đối với tất cả lời nói pháp, sinh nghĩ tưởng lời nói đạo. Vì lời khế lý, mà lý chẳng phải lời, cho nên là lời nói đạo.
Ư nhất thiết Phật sanh Từ Phụ tưởng
Nơi tất cả Phật tưởng là từ-phụ.
Giảng: 9. Đối với tất cả chư Phật, sinh nghĩ tưởng từ phụ, chư Phật dạy bảo, giống như từ phụ dạy dỗ con cái, nên sinh nghĩ tưởng như vậy.
Ư nhất thiết Như Lai sanh vô nhị tưởng.
Nơi tất cả Như-Lai tưởng không hai.
Giảng: 10. Đối với tất cả Như Lai, sinh nghĩ tưởng không hai, đều nghĩ tưởng là một, chẳng có hai.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc vô thượng thiện xảo tưởng.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi mười pháp tưởng nầy thời được tưởng thiện-xảo vô-thượng.
Giảng: Đó là mười nghĩ tưởng kỳ đặc. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nghĩ tưởng vô thượng phương tiện khéo léo.
=======================================
Mười Thứ Hạnh
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng hạnh. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ hạnh. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ hạnh. Những gì là mười ? Đó là :
Nhất thiết chúng sanh hạnh, phổ lệnh thành thục cố
Tất cả chúng-sanh hạnh, vì làm cho khắp được thành-thục.
Giảng: 1. Hạnh của tất cả chúng sinh, vì khắp khiến cho thành thục quả bồ đề.
Nhất thiết cầu Pháp hành, hàm tất tu học cố
Tất cả cầu-pháp hạnh, vì tu học tất cả.
Giảng: 2. Hạnh cầu tất cả pháp, vì thảy đều tu hành học tập.
Nhất thiết thiện căn hạnh, tất sử tăng trưởng cố
Tất cả thiện-căn hạnh, vì đều khiến tăng trưởng.
Giảng: 3. Hạnh tất cả căn lành, vì đề khiến cho tăng trưởng.
Nhất thiết tam muội hạnh, nhất tâm bất loạn cố
Tất cả tam-muội hạnh, vì nhứt tâm bất loạn.
Giảng: 4. Hạnh tất cả tam muội, vì đều đắc được cảnh giới nhất tâm bất loạn.
Nhất thiết trí tuệ hạnh, vô bất liễu tri cố
Tất cả trí-huệ hạnh, vì không chi chẳng biết rõ.
Giảng: 5. Hạnh nhất thiết trí huệ, vì chẳng có gì mà không biết rõ, biết khắp tất cả.
Nhất thiết thần thông hạnh, biến hóa tự tại cố
Tất cả thần-thông hạnh, vì biến-hóa tự-tại.
Giảng: 6. Hạnh tất cả thần thông, vì biến hoá tự như, nhậm vận tư tại.
Nhất thiết tu tập hạnh, vô bất năng tu cố
Tất cả tu tập hạnh, vì không chi chẳng tu được.
Giảng: 7. Hạnh tu tập tất cả, vì chẳng có gì mà không thể tu.
Nhất thiết Phật sát hạnh, giai tất trang nghiêm cố
Tất cả phật-sát hạnh, vì thảy đều trang-nghiêm.
Giảng: 8. Hạnh tất cả cõi Phật, vì thảy đều trang nghiêm thanh tịnh.
Nhất thiết thiện hữu hạnh, cung kính cúng dường cố;
Tất cả thiện-hữu hạnh, vì cung-kính cúng-dường.
Giảng: 9. Hạnh tất cả bạn lành, vì cung kính cúng dường.
Nhất thiết Như Lai hạnh, tôn trọng thừa sự cố.
Tất cả Như-Lai hạnh, vì tôn trọng thừa sự.
Giảng: 10. Hạnh tất cả Như Lai, vì tôn trọng thừa sự.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ hạnh.
Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi mười hạnh nầy thời được hạnh đại trí-huệ vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười thứ hạnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được hạnh đại trí huệ vô thượng của Như Lai.
=======================================
Mười Bực Thiện-Tri-Thức
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thiện tri thức. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười bực thiện-tri-thức. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười bậc thiện tri thức. Những gì là mười ? Đó là :
Lệnh trụ Bồ-đề tâm thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến an-trụ bồ-đề tâm.
Giảng: 1. Thiện tri thức khiến trụ bồ đề tâm.
Lệnh sanh thiện căn thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến sanh thiện-căn.
Giảng: 2. Thiện tri thức khiến sinh căn lành.
Lệnh hành chư Ba-la-mật thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến thật hành các môn ba-la-mật.
Giảng: 3. Thiện tri thức khiến thực hành các Ba la mật.
Lệnh giải thuyết nhất thiết pháp thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến giải-thoát tất cả pháp.
Giảng: 4. Thiện tri thức khiến hiểu nói tất cả các pháp.
Lệnh thành thục nhất thiết chúng sanh thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến thành-thục tất cả chúng-sanh.
Giảng: 5. Thiện tri thức khiến thành thục tất cả chúng sinh.
Lệnh đắc quyết định biện tài thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến được quyết định biện-tài.
Giảng: 6. Thiện tri thức khiến đắc được quyết định biện tài.
Lệnh bất trước nhất thiết thế gian thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến chẳng nhiễm trước tất cả thế-gian.
Giảng: 7. Thiện tri thức khiến chẳng chấp trước tất cả thế gian.
Lệnh ư nhất thiết kiếp tu hành vô yếm quyện thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến trong tất cả kiếp tu hành không nhàm mỏi.
Giảng: 8. Thiện tri thức khiến nơi tất cả kiếp tu hành không nhàm mỏi.
Lệnh an trụ Phổ Hiền hạnh thiện tri thức
Thiện-tri-thức khiến an-trụ hạnh phổ-hiền.
Giảng: 9. Thiện tri thức khiến an trụ hạnh Phổ Hiền.
Lệnh nhập nhất thiết Phật trí sở nhập thiện tri thức.
Thiện-tri-thức khiến nhập nơi trí của chư Phật đã nhập.
Giảng: 10. Thiện tri thức khiến vào trí huệ của tất cả chư Phật đã vào.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười bậc thiện tri thức.
=======================================
Mười Sự Siêng Tinh-Tấn
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng cần tinh tấn. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười sự siêng tinh-tấn. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ siêng tinh tấn. Những gì là mười ? Đó là :
Giáo hóa nhất thiết chúng sanh cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn giáo-hóa tất cả chúng-sanh.
Giảng: 1. Vì giáo hoá tất cả chúng sinh, nên siêng tinh tấn
Thâm nhập nhất thiết pháp cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn thâm nhập tất cả pháp.
Giảng: 2. Vì vào sâu tất cả pháp, nên siêng tinh tấn.
Nghiêm tịnh nhất thiết thế giới cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn nghiêm-tịnh tất cả thế-giới.
Giảng: 3. Vì nghiêm tịnh tất cả thế giới, nên siêng tinh tấn.
Tu hành nhất thiết Bồ Tát sở học cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn tu hành tất cả sở-học của Bồ-Tát.
Giảng: 4. Vì tu hành chỗ học của tất cả Bồ Tát, nên siêng tinh tấn.
Diệt trừ nhất thiết chúng sanh ác cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn diệt trừ tất cả ác của chúng-sanh.
Giảng: 5. Vì diệt trừ tất cả chúng sinh ác, nên siêng tinh tấn.
Chỉ tức nhất thiết tam ác đạo khổ cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn ngăn dứt tất cả ba ác-đạo khổ.
Giảng: 6. Vì dừng lại tất cả khổ ba đường ác, nên siêng tinh tấn.
Tồi phá nhất thiết chúng ma cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn dẹp phá tất cả quân ma.
Giảng: 7. Vì phá tan tất cả chúng ma, nên siêng tinh tấn.
Nguyện vi nhất thiết chúng sanh tác thanh Tịnh nhãn cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn nguyện vì tất cả chúng-sanh làm mắt thanh-tịnh.
Giảng: 8. Nguyện vì tất cả chúng sinh làm mắt thanh tịnh, nên siêng tinh tấn.
Cúng dường nhất thiết chư Phật cần tinh tấn
Siêng tinh-tấn cúng-dường tất cả chư Phật.
Giảng: 9. Vì cúng dường tất cả chư Phật, nên siêng tinh tấn.
Lệnh nhất thiết Như Lai giai tất hoan hỉ cần tinh tấn.
Siêng tinh-tấn khiến tất cả Như-Lai đều hoan-hỷ.
Giảng: 10. Vì khiến cho tất cả Như Lai thảy đều hoan hỉ, nên siêng tinh tấn.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc cụ túc Như Lai vô thượng tinh tấn Ba-la-mật.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an trụ nơi mười pháp siêng tinh-tấn nầy thời được đầy đủ tinh-tấn ba-la-mật vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười thứ tinh tấn. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được đầy đủ vô thượng tinh tấn Ba la mật của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Tâm Đắc an ổn
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tâm đắc an ổn. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ tâm được an-ổn. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ tâm được an ổn. Những gì là mười ? Đó là :
Tự trụ Bồ-đề tâm, diệc đương lệnh tha trụ Bồ-đề tâm, tâm đắc an ổn
Mình trụ bồ-đề tâm cũng phải khiến người trụ bồ-đề tâm, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 1. Mình trụ tâm bồ đề tự tại, cũng nên khiến cho người khác trụ tâm bồ đề, như vậy tâm mới được an ổn.
Tự cứu cánh ly phẫn tránh, diệc đương lệnh tha ly phẫn tránh, tâm đắc an ổn
Mình rốt ráo rời giận hờn đấu tranh cũng phải khiến người rời giận hờn đấu tranh, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 2. Mình rốt ráo lìa khỏi cảnh giới phẫn nộ đấu tranh, cũng khiến người khác lìa phẫn nộ tranh luận, như vậy tâm mới được an ổn. Thế nào là phẫn nỗ đấu tranh ? Vì tâm phân biệt quá nhiều, do đó : Phẫn hận bất bình. Vốn chẳng có đạo lý để nói, nhưng vẫn nói ra những điều chẳng có lý, do đó có câu : Cường từ đoạt lý. Nếu có phẫn nộ đấu tranh, thì tâm chẳng được an ổn.
Tự ly phàm ngu Pháp, diệc lệnh tha ly phàm ngu Pháp, tâm đắc an ổn
Mình rời pháp phàm ngu cũng khiến người rời pháp phàm ngu, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 3. Mình lìa pháp phàm ngu, nên cũng khiến người khác lìa pháp phàm ngu, như vậy tâm mới được an ổn.
Tự cần tu thiện căn, diệc lệnh tha cần tu thiện căn, tâm đắc an ổn
Mình siêng tu thiện-căn cũng khiến người siêng tu thiện-căn, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 4. Mình siêng tu căn lành, cũng khiến người khác siêng tu căn lành, như vậy tâm mới được an ổn.
Tự trụ Ba-la-mật đạo, diệc lệnh tha trụ Ba-la-mật đạo, tâm đắc an ổn
Mình trụ đạo ba-la-mật cũng khiến người trụ đạo ba-la-mật, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 5. Mình trụ đạo Ba la mật, cũng khiến người khác trụ đạo Ba la mật, như vậy tâm mới được an ổn.
Tự sanh tại Phật gia, diệc đương lệnh tha sanh ư Phật gia, tâm đắc an ổn
Mình sanh tại nhà Phật cũng phải khiến người sanh tại nhà Phật, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 6. Mình trụ tại nhà của Phật, cũng khiến người khác trụ tại nhà của Phật, như vậy tâm mới được an ổn.
Tự thâm nhập vô tự tánh chân thật Pháp, diệc lệnh tha nhập vô tự tánh chân thật Pháp, tâm đắc an ổn
Mình thâm nhập pháp chơn-thiệt không tự-tánh cũng khiến người nhập pháp chơn-thiệt không tự-tánh, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 7. Mình vào sâu pháp chân thật không tự tánh, cũng khiến người khác vào sâu pháp chân thật không tự tánh, như vậy tâm mới được an ổn.
Tự bất phỉ báng nhất thiết Phật Pháp, diệc lệnh tha bất phỉ báng nhất thiết Phật Pháp, tâm đắc an ổn
Mình không phỉ báng tất cả Phật-pháp, cũng khiến người không phỉ báng tất cả phật-pháp, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 8. Mình chẳng phỉ báng tất cả Phật pháp, cũng khiến người khác chẳng phỉ báng Phật pháp, như vậy tâm mới được an ổn.
Tự mãn nhất thiết trí Bồ-đề nguyện, diệc lệnh tha mãn nhất thiết trí Bồ-đề nguyện, tâm đắc an ổn
Mình viên-mãn nhứt-thiết-trí bồ-đề nguyện cũng khiến người viên-mãn nhứt-thiết-trí bồ-đề nguyện, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 9. Mình tròn đầy nhất thiết trí bồ đề nguyện, cũng khiến người khác tròn đầy nhất thiết trí bồ đề nguyện, như vậy tâm mới được an ổn.
Tự thâm nhập nhất thiết Như Lai vô tận Trí Tạng, diệc lệnh tha nhập nhất thiết Như Lai vô tận Trí Tạng, tâm đắc an ổn.
Mình thâm nhập trí-tạng vô-tận của tất cả Như-Lai cũng khiến người nhập trí-tạng vô-tận của tất cả Như-Lai, nên tâm được an-ổn.
Giảng: 10. Mình vào sâu vô tận trí tạng của tất cả Như Lai, cũng khiến người khác vào sâu vô tận trí tạng của tất cả Như Lai, như vậy tâm mới được an ổn.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí an ổn.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi tâm an-ổn nầy thời được sự an-ổn đại-trí vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được vô thượng đại trí an ổn của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Thành Tựu Chúng Sanh
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thành tựu chúng sanh. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười cách thành-tựu chúng sanh. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười cách thành tựu chúng sinh. Những gì là mười ? Đó là :
Dĩ ố thí thành tựu chúng sanh
Dùng bố-thí để thành-tựu chúng-sanh.
Giảng: 1. Dùng sự bố thí để thành tựu chúng sinh.
Dĩ sắc thân thành tựu chúng sanh
Dùng sắc-thân để thành-tựu chúng sanh.
Giảng: 2. Dùng sắc thân để thành tựu chúng sinh.
Dĩ thuyết pháp thành tựu chúng sanh
Dùng thuyết-pháp để thành-tựu chúng-sanh.
Giảng: 3. Dùng thuyết pháp để thành tựu chúng sinh.
Dĩ đồng hạnh thành tựu chúng sanh
Dùng đồng hạnh để thành-tựu chúng-sanh.
Giảng: 4. Dùng sự đồng hành để thành tựu chúng sinh.
Dĩ vô nhiễm trước thành tựu chúng sanh
Dùng không nhiễm trước để thành-tựu chúng sanh.
Giảng: 5. Dùng không nhiễm trước để thành tựu chúng sinh.
Dĩ khai thị Bồ Tát hạnh thành tựu chúng sanh
Dùng khai-thị bồ-tát hạnh để thành-tựu chúng-sanh.
Giảng: 6. Dùng sự khai thị Bồ Tát hạnh để thành tựu chúng sinh.
Dĩ sí nhiên thị Hiện-Nhất-Thiết thế giới thành tựu chúng sanh
Dùng thị-hiện rõ ràng tất cả thế-giới để thành-tựu chúng-sanh.
Giảng: 7. Dùng sự thị hiện tất cả thế giới rõ ràng để thành tựu chúng sinh.
Dĩ thị hiện Phật Pháp đại uy đức thành tựu chúng sanh
Dùng thị-hiện oai-đức lớn của phật-pháp để thành-tựu chúng-sanh.
Giảng: 8. Dùng sự thị hiện đại oai đức của Phật pháp để thành tựu chúng sinh.
Dĩ chủng chủng thần thông biến hiện thành tựu chúng sanh
Dùng những thần-thông biến hiện để thành-tựu chúng-sanh.
Giảng: 9. Dùng đủ thứ thần thông biến hiện để thành tựu chúng sinh.
Dĩ chủng chủng vi mật thiện xảo phương tiện thành tựu chúng sanh.
Dùng những phương-tiện vi-mật thiện-xảo để thành-tựu chúng-sanh.
Giảng: 10. Dùng đủ thứ phương tiện thiện xảo vi diệu bí mật để thành tựu chúng sinh.
Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử thành tựu chúng sanh giới.
Đó là mười. Bồ-Tát dùng mười pháp nầy để thành-tựu chúng-sanh-giới.
Giảng: Đó là mười. Bồ Tát dùng những cách nầy để thành tựu cõi chúng sinh.
=======================================
Thập Chủng Giới
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng giới. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười loại giới. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười loại giới. Những gì là mười ? Đó là :
Bất xả Bồ-đề tâm giới
Giới chẳng bỏ bồ-đề tâm.
Giảng: 1. Chẳng xả bỏ bồ đề tâm, mà tu giới luật nầy. Giới tức là Ngừng làm ác, ngừa lỗi lầm. Nếu không làm các điều ác, làm các điều thiện, thì mới tăng trưởng căn lành, mới được giải thoát. Giới là khuông phép của sự học Phật, không thể vượt ra ngoài phạm vi, mỗi cử chỉ hành động, phải hợp với pháp tắc của giới luật. Bằng không, thì tu hành vô lượng kiếp, cũng không thể nào thành tựu được. Tại sao ? Vì những gì mình làm, mình tu, đều trái ngược với giới luật. Bất cứ học tập tông phái nào, nhất định đều phải giữ gìn giới luật, ở đâu cũng lấy giới luật làm đầu. Giới luật của tôn giáo là phòng ngừa tâm ý trước khi phạm tội, còn pháp luật của thế gian thì trị thân thể đã phạm tội rồi. Do đó có thể thấy, giới luật hơn pháp luật.
Viễn ly nhị thừa địa giới
Giới xa lìa bực nhị-thừa.
Giảng: 2. Muốn xa lìa bậc nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác, mà tu giới luật nầy.
Quan sát lợi ích nhất thiết chúng sanh giới
Giới quán-sát lợi ích tất cả chúng-sanh.
Giảng: 3. Muốn quán sát lợi ích tất cả chúng sinh, mà tu giới luật nầy.
Lệnh nhất thiết chúng sanh trụ Phật Pháp giới
Giới khiến tất cả chúng-sanh an trụ nơi phật-pháp.
Giảng: 4. Muốn khiến cho tất cả chúng sinh trụ vào Phật pháp, mà tu giới luật nầy.
Tu nhất thiết Bồ Tát sở học giới
Giới tu tất cả sở-học của Bồ-Tát.
Giảng: 5. Muốn tu tất cả chỗ học của Bồ Tát, mà tu giới luật nầy.
Ư nhất thiết Pháp vô sở đắc giới
Giới nơi tất cả pháp vô-sở-sắc.
Giảng: 6. Muốn đối với tất cả pháp vô sở đắc, mà tu giới luật nầy.
Dĩ nhất thiết thiện căn hồi hướng Bồ-đề giới
Giới đem tất cả thiện-căn hồi-hướng bồ-đề.
Giảng: 7. Muốn đem tất cả căn lành hồi hướng bồ đề, mà tu giới luật nầy.
Bất trước nhất thiết Như Lai thân giới
Giới chẳng tham trước tất cả thân Như-Lai.
Giảng: 8. Muốn chẳng chấp vào tất cả thân Như Lai, mà tu giới luật nầy.
Tư tánh nhất thiết pháp ly thủ trước giới
Giới tư duy tất cả pháp lìa nhiễm trước.
Giảng: 9. Muốn tư duy tất cả pháp lìa chấp lấy, mà tu giới luật nầy.
Chư căn luật nghi giới.
Giới chư căn luật nghi.
Giảng: 10. Muốn các căn luật nghi, mà tu giới luật nầy.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại giới Ba-la-mật.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi giới nầy thời được giới quảng-đại ba-la-mật vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được giới Ba la mật vô thượng rộng lớn của Như Lai.
=======================================
Mười Pháp Thọ Ký
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thọ kí Pháp, Bồ Tát dĩ thử tự tri thọ kí. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp thọ ký, Bồ-Tát do đây mà biết mình thọ-ký. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp thọ ký. Bồ Tát nhờ nhân duyên đó mà tự biết thọ ký. Những gì là mười ? Đó là :
Dĩ thù thắng ý phát Bồ-đề tâm, tự tri thọ kí
Dùng ý thù-thắng phát bồ-đề tâm, tự biết thọ-ký.
Giảng: 1. Dùng ý thù thắng, phát bồ đề tâm. Nếu như vậy thì mười phương chư Phật ở trong tĩnh lặng để thọ ký. Tự biết thọ ký.
Vĩnh bất yếm xả chư Bồ-tát hạnh, tự tri thọ kí
Trọn chẳng nhàm bỏ hạnh bồ-tát, tự biết thọ ký.
Giảng: 2. Vĩnh viễn không nhàm bỏ các hạnh Bồ Tát, tự biết thọ ký.
Trụ nhất thiết kiếp hành Bồ Tát hạnh, tự tri thọ kí
Trụ tất cả kiếp thật hành hạnh bồ-tát, tự biết thọ ký.
Giảng: 3. Trụ ở trong tất cả kiếp, tu hành Bồ Tát hạnh, tự biết thọ ký.
Tu nhất thiết Phật Pháp, tự tri thọ kí
Tu tất cả phật-pháp, tự biết thọ ký.
Giảng: 4. Tu hành tất cả Phật pháp, từ từ dũng mãnh tinh tấn, tự biết thọ ký.
Ư nhất thiết Phật giáo nhất hướng thâm tín, tự tri thọ kí
Nơi tất cả phật-giáo một bề thâm tín, tự biết thọ ký.
Giảng: 5. Nơi giáo pháp của tất cả chư Phật nói, một lòng hướng về niềm tin sâu xa không có hoài nghi, tự biết thọ ký.
Tu nhất thiết thiện căn giai lệnh thành tựu, tự tri thọ kí
Tu tất cả thiện-căn đều khiến thành-tựu, tự biết thọ ký.
Giảng: 6. Tu hành hết thảy tất cả căn lành, do đó :
Đừng cho rằng việc lành nhỏ mà không làm,
Đừng cho rằng việc ác nhỏ mà làm.
Phải biết việc lành to lớn là do việc lành nhỏ tích tụ mà thành, còn việc ác to lớn cũng từ việc ác nhỏ tích tụ mà thành tựu, giống như núi Thái, vẫn do từng hạt bụi từng hạt bụi tích tụ mà thành, giống như biển cả, cũng do từng giọt từng giọt tích tụ mà thành biển. Tu căn lành, đều sẽ thành tựu, tự biết thọ ký.
Trí nhất thiết chúng sanh ư Phật Bồ-đề, tự tri thọ kí
Ðặt tất cả chúng-sanh nơi phật bồ-đề, tự biết thọ ký.
Giảng: 7. Để tất cả chúng sinh nơi Phật bồ đề, tự biết thọ ký.
Ư nhất thiết thiện tri thức hòa hợp vô nhị, tự tri thọ kí
Với tất cả thiện-tri-thức hòa hiệp không hai, tự biết thọ ký.
Giảng: 8. Nơi tất cả thiện tri thức, gần gũi cúng dường, hoà hợp không hai, tự biết thọ ký.
Ư nhất thiết thiện tri thức khởi Như Lai tưởng, tự tri thọ kí
Nơi tất cả thiện-tri-thức tưởng là Phật, tự biết thọ ký.
Giảng: 9. Nơi tất cả thiện tri thức, sinh khởi nghĩ tưởng Như Lai. Cung kính thiện tri thức, tức là cung kính chư Phật, tự biết thọ ký.
Hằng cần thủ hộ Bồ-đề Bổn Nguyện, tự tri thọ kí.
Hằng siêng thủ hộ bổn-nguyện bồ-đề, tự biết thọ ký.
Giảng: 10. Luôn luôn siêng năng giữ gìn bồ đề nguyện xưa, không quên mất, tự biết thọ ký.
Thị vi thập.
Đó là mười
Giảng: Đó là mười pháp tự biết thọ ký của Bồ Tát.
=======================================
Mười Pháp Nhập Bồ-Tát
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhập, nhập chư Bồ-tát. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp nhập Bồ-Tát. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười sự vào, hay vào cảnh giới của tất cả Bồ Tát. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập Bổn Nguyện; Nhập hạnh; Nhập tụ; Nhập chư Ba-la-mật; Nhập thành tựu; Nhập sái biệt nguyện; Nhập chủng chủng giải; Nhập trang nghiêm Phật thổ; Nhập thần lực tự tại; Nhập thị hiện thọ sanh.
Nhập bổn-nguyện. Nhập hạnh. Nhập tụ. Nhập ba-la-mật. Nhập thành-tựu. Nhập sai-biệt nguyện. Nhập các thứ tri giải. Nhập trang-nghiêm phật-độ. Nhập thần-lực tự-tại. Nhập thị-hiện thọ sanh.
Giảng:
1. Vào nguyện xưa của Bồ Tát.
2. Vào hạnh xưa của Bồ Tát.
3. Vào căn lành tích tụ của Bồ Tát.
4. Vào các pháp Ba la mật của Bồ Tát tu.
5. Vào công đức thành tựu của Bồ Tát.
6. Vào nguyện khác biệt của Bồ Tát đã phát.
7. Vào đủ thứ sự hiểu biết của Bồ Tát.
8. Vào cõi Phật trang nghiêm của Bồ Tát.
9. Vào thần lực tự tại của Bồ Tát.
10. Vào thị hiện thọ sinh của Bồ Tát.
Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử phổ nhập tam thế nhất thiết Bồ Tát.
Đó là mười. Bồ-Tát dùng mười pháp nầy nhập khắp tam-thế tất cả Bồ-Tát.
Giảng: Đó là mười sự vào của Bồ Tát vào cảnh giới của tất cả Bồ Tát. Bồ Tát nhờ vậy mà vào khắp hết thảy cảnh giới của tất cả Bồ Tát ba đời.
=======================================
Mười Pháp Nhập Như-Lai
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhập, nhập chư Như Lai. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp nhập Như-Lai. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười sự vào, vào tất cả cảnh giới của Như Lai. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập vô biên thành chánh giác; Nhập vô biên chuyển Pháp luân; Nhập vô biên phương tiện Pháp; Nhập vô biên sái biệt âm thanh; Nhập vô biên điều phục chúng sanh; Nhập vô biên thần lực tự tại; Nhập vô biên chủng chủng sái biệt thân; Nhập vô biên tam muội; Nhập vô biên lực, vô sở úy; Nhập vô biên thị hiện Niết-Bàn.
Nhập vô-biên thành chánh-giác. Nhập vô-biên chuyển pháp-luân. Nhập vô-biên pháp phương-tiện. Nhập vô-biên âm-thanh sai-biệt. Nhập vô-biên điều-phục chúng sanh. Nhập vô-biên thần-lực tự-tại. Nhập vô-biên những thân sai-biệt. Nhập vô-biên tam-muội. Nhập vô-biên lực vô-úy. Nhập vô-biên thị-hiện niết-bàn.
Giảng:
1. Vào cảnh giới vô biên mười phương ba đời tất cả chư Phật thành Chánh Giác.
2. Vào cảnh giới vô biên mười phương chư Phật chuyển bánh xe pháp.
3. Vào vô biên pháp môn phương tiện của mười phương chư Phật đã nói.
4. Vào vô biên âm thanh nói pháp khác biệt của mười phương chư Phật.
5. Vào vô biên pháp môn điều phục chúng sinh của mười phương chư Phật.
6. Vào vô biên pháp môn thần lực tự tại của mười phương chư Phật.
7. Vào vô biên cảnh giới đủ thứ thân khác biệt của mười phương chư Phật.
8. Vào vô biên cảnh giới tam muội của mười phương chư Phật.
9. Vào vô biên cảnh giới thập lực và bốn vô sở uý của mười phương chư Phật.
10. Vào vô biên cảnh giới thị hiện Niết Bàn của mười phương chư Phật.
Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử phổ nhập tam thế nhất thiết Như Lai.
Đó là mười. Bồ-Tát dùng mười pháp nầy nhập khắp tam-thế tất cả Như-Lai.
Giảng: Đó là mười sự vào của Bồ Tát vào tất cả cảnh giới của Như Lai. Bồ Tát nhờ đó mà vào khắp cảnh giới của tất cả Như Lai ba đời.
=======================================
Mười Pháp Nhập Chúng Sanh Hạnh
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhập chúng sanh hạnh. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp nhập chúng-sanh hạnh :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười sự vào hạnh chúng sinh. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập nhất thiết chúng sanh quá khứ hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh quá-khứ hạnh.
Giảng: 1. Vào hạnh quá khứ của tất cả chúng sinh đã tu.
Nhập nhất thiết chúng sanh vị lai hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh vị-lai hạnh.
Giảng: 2. Vào hạnh vị lai của tất cả chúng sinh sẽ tu.
Nhập nhất thiết chúng sanh hiện tại hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh hiện-tại hạnh.
Giảng: 3. Vào hạnh hiện tại của tất cả chúng sinh đang tu.
Nhập nhất thiết chúng sanh thiện hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh thiện-hạnh.
Giảng: 4. Vào hạnh lành của tất cả chúng sinh tu.
Nhập nhất thiết chúng sanh bất thiện hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh bất-thiện-hạnh.
Giảng: 5. Vào hạnh chẳng lành của tất cả chúng sinh tu.
Nhập nhất thiết chúng sanh tâm hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh tâm-hạnh.
Giảng: 6. Vào tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
Nhập nhất thiết chúng sanh căn hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh căn-hạnh.
Giảng: 7. Vào căn hạnh của tất cả chúng sinh.
Nhập nhất thiết chúng sanh giải hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh giải-hạnh.
Giảng: 8. Vào hạnh giải của tất cả chúng sinh.
Nhập nhất thiết chúng sanh phiền não tập khí hạnh
Nhập tất cả chúng-sanh phiền-não tập-khí hạnh.
Giảng: 9. Vào hạnh phiền não và tập khí của tất cả chúng sinh.
Nhập nhất thiết chúng sanh giáo hóa điều phục thời, phi thời hạnh.
Nhập tất cả chúng-sanh giáo-hóa điều-phục thời phi-thời hạnh.
Giảng: 10. Vào hạnh giáo hoá điều phục thời và phi thời của tất cả chúng sinh. Tức cũng là không lỗi thời, lúc nào đáng giáo hoá, thì đi giáo hoá; lúc nào đáng điều phục, thì đi điều phục. Chúng sinh thì khó điều khó phục, chẳng dễ gì giáo hoá, Bồ Tát từ bi tha thiết, chẳng sợ mệt mỏi, nhẫn nãi để giáo hoá chúng sinh cang cường.
Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử phổ nhập nhất thiết chư chúng sanh hạnh.
Đó là mười. Bồ-Tát dùng pháp nầy vào khắp hạnh của tất cả chúng-sanh.
Giảng: Đó là mười pháp vào hạnh chúng sinh của Bồ Tát. Bồ Tát nhờ đó mà vào khắp tất cả hạnh của tất cả chúng sinh tu.
=======================================
Mười Cách Nhập Thế Giới
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhập thế giới. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười cách nhập thế-giới. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười sự vào thế giới. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập nhiễm thế giới; Nhập tịnh thế giới; Nhập tiểu thế giới; Nhập Đại thế giới; Nhập vi trần trung thế giới; Nhập vi tế thế giới; Nhập phước thế giới; nhập ngưỡng thế giới; Nhập hữu Phật thế giới; Nhập vô Phật thế giới.
Nhập thế-giới nhiễm. Nhập thế-giới tịnh. Nhập thế-giới nhỏ. Nhập thế-giới lớn. Nhập thế-giới trong vi-trần. Nhập thế-giới vi-tế. Nhập thế-giới úp. Nhập thế-giới ngửa. Nhập thế-giới có Phật. Nhập thế-giới không Phật.
Giảng:
1. Vào thế giới nhiễm ô, để độ thoát tất cả chúng sinh nhiễm ô.
2. Vào thế giới thanh tịnh, để giáo hoá tất cả chúng sinh thanh tịnh.
3. Vào thế giới nhỏ, để tiếp dẫn chúng sinh thế giới nhỏ.
4. Vào thế giới lớn, để hồi hướng chúng sinh thế giới lớn.
5. Vào thế giới trong hạt bụi, để độ khắp chúng sinh trong thế giới hạt bụi.
6. Vào thế giới vi tế, để độ khắp chúng sinh thế giới vi tế.
7. Vào thế giới úp, để giáo hoá chúng sinh thế giới úp.
8. Vào thế giới ngửa, để giáo hoá chúng sinh thế giới ngửa.
9. Vào thế giới có Phật, để rộng độ chúng sinh có căn lành.
10. Vào thế giới không có Phật, để rộng độ chúng sinh không có căn lành.
Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử phổ nhập thập phương nhất thiết thế giới.
Đó là mười. Bồ-Tát dùng đây vào khắp tất cả thế-giới ở mười phương.
Giảng: Tóm lại, bất cứ chúng sinh căn tánh gì, đều độ thoát khỏi biển khổ. Đó là mười pháp môn vào thế giới của Bồ Tát. Bồ Tát nhờ đó mà vào khắp mười phương tất cả thế giới, để giáo hoá tất cả chúng sinh.
=======================================
Mười Thứ Nhập Kiếp
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhập kiếp. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ nhập kiếp. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười sự vào kiếp. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập quá khứ kiếp; Nhập vị lai kiếp; Nhập hiện tại kiếp; Nhập khả số kiếp; Nhập bất khả số kiếp; nhập khả số kiếp tức bất khả số kiếp; Nhập bất khả số kiếp tức khả số kiếp; Nhập nhất thiết kiếp tức phi kiếp; Nhập phi kiếp tức nhất thiết kiếp; Nhập nhất thiết kiếp tức nhất niệm.
Nhập kiếp quá-khứ. Nhập kiếp vị-lai. Nhập kiếp hiện-tại. Nhập kiếp đếm được. Nhập kiếp không đếm được. Nhập kiếp đếm được tức là kiếp không đếm được. Nhập kiếp không đếm được tức là kiếp đếm được. Nhập tất cả kiếp tức là phi-kiếp. Nhập phi-kiếp tức là tất cả kiếp. Nhập tất cả kiếp tức một niệm.
Giảng:
1. Vào tất cả kiếp quá khứ.
2. Vào tất cả kiếp vị lai.
3. Vào tất cả kiếp hiện tại.
4. Vào kiếp có thể đếm.
5. Vào kiếp không thể đếm.
6. Vào kiếp có thể đếm tức kiếp không thể đếm.
7. Vào kiếp không thể đếm tức kiếp có thể đếm.
8. Vào tất cả kiếp tức chẳng phải kiếp.
9. Vào chẳng phải kiếp tức tất cả kiếp.
10. Vào tất cả kiếp tức một niệm. Đây là cảnh giới một tức là nhiều, nhiều tức là một, nhiều một không hai, lớn nhỏ viên dung.
Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử phổ nhập nhất thiết kiếp.
Đó là mười. Bồ-Tát dùng pháp nầy vào khắp tất cả kiếp.
Giảng: Đó là mười pháp môn vào kiếp. Bồ Tát nhờ đó mà vào khắp tất cả kiếp, độ khắp tất cả chúng sinh.
=======================================
Mười Pháp Nói Ba Đời
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thuyết tam thế. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp nói tam-thế. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ nói ba đời. Những gì là mười ? Đó là :
Quá khứ thế thuyết quá khứ thế; Quá khứ thế thuyết vị lai thế; Quá khứ thế thuyết hiện tại thế; vị lai thế thuyết quá khứ thế; vị lai thế thuyết hiện tại thế; vị lai thế thuyết vô tận; hiện tại thế thuyết quá khứ thế; hiện tại thế thuyết vị lai thế; hiện tại thế thuyết bình đẳng; hiện tại thế thuyết tam thế tức nhất niệm.
Quá-khứ thế nói quá-khứ thế. Quá-khứ thế nói vị-lai thế. Quá-khứ thế nói hiện-tại thế. Vị-lai thế nói quá khứ thế. Vị-lai thế nói hiện-tại thế. Vị-lai thế nói vô-tận. Hiện-tại thế nói quá-khứ thế. Hiện-tại thế nói vị-lai thế. Hiện-tại thế nói bình-đẳng. Hiện-tại thế nói tam-thế tức một niệm.
Giảng:
1. Đời quá khứ lại nói đời quá khứ.
2. Đời quá khứ lại nói đời vị lai.
3. Đời quá khứ lại nói đời hiện tại.
4. Đời vị lai lại nói đời quá khứ.
5. Đời vị lai lại nói đời hiện tại.
6. Đời vị lai lại nói vô tận (vị lai là pháp tiếp tục khởi, nên vị lai vị lai, gọi là vô tận).
7. Đời hiện tại lại nói đời quá khứ.
8. Đời hiện tại lại nói đời vị lai.
9. Đời hiện tại lại nói bình đẳng.
10. Đời hiện tại nói ba đời tức một niệm.
Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử phổ thuyết tam thế.
Đó là mười. Bồ-Tát dùng pháp nầy nói khắp tam-thế.
Giảng: Quá khứ vị lai hiện tại chẳng rời khỏi một tâm niệm hiện tiền. Đó là pháp môn mười thứ nói ba đời của Bồ Tát. Bồ Tát nhờ đó mà nói khắp tất cả nhân duyên ba đời.
=======================================
Mười Pháp Môn Biết Ba Đời
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tri tam thế. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Ðại Bồ-Tát có mười pháp biết tam-thế. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp môn biết ba đời. Những gì là mười ? Đó là :
Tri chư an lập; Tri chư ngữ ngôn; Tri chư đàm nghị; Tri chư quỹ tắc; Tri chư xưng vị; Tri chư chế lệnh; Tri kỳ giả danh; Tri kỳ vô tận; tri kỳ tịch diệt; Tri nhất thiết không.
Biết những an lập. Biết những ngữ ngôn. Biết những luận nghi. Biết những quy tắc. Biết những xưng tán. Biết những chế lịnh. Biết kia giả-danh. Biết kia vô-tận. Biết kia tịch-diệt. Biết tất cả không.
Giảng:
1. Biết tất cả thế giới an lập.
2. Biết tất cả ngôn ngữ của thế giới.
3. Biết tất cả luận nghị của thế giới.
4. Biết tất cả quỹ tắc của thế giới.
5. Biết tất cả xưng tán của thế giới.
6. Biết tất cả chế lịnh của thế giới.
7. Biết tất cả thế giới là giả danh.
8. Biết tất cả thế giới là vô tận.
9. Biết tất cả thế giới là tịch diệt.
10. Biết tất cả thế giới là không.
Thị vi thập. Bồ Tát dĩ thử phổ tri nhất thiết tam thế chư Pháp.
Đó là mười. Bồ-Tát dùng đây biết khắp tất cả những pháp tam thế.
Giảng: Đó là mười pháp biết ba đời của Bồ Tát. Bồ Tát nhờ đó mà biết khắp tất cả các pháp ba đời.
=======================================
Mười Tâm Không Mỏi Nhọc Nhàm Chán
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phát thập chủng vô bì yếm tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát phát mười thứ tâm không mỏi nhọc nhàm chán. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát phát mười thứ tâm không nhàm mỏi. Những gì là mười ? Đó là :
Cúng dường nhất thiết chư Phật vô bì yếm tâm
Cúng-dường tất cả chư Phật tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 1. Cúng dường tất cả chư Phật tâm không nhàm mỏi.
Thân cận nhất thiết thiện tri thức vô bì yếm tâm
Gần-gũi tất cả thiện-tri-thức tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 2. Gần gũi tất cả thiện tri thức tâm không nhàm mỏi.
Cầu nhất thiết pháp vô bì yếm tâm
Cầu tất cả pháp tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 3. Cầu tất cả pháp tâm không nhàm mỏi.
Thính văn chánh pháp vô bì yếm tâm
Nghe chánh-pháp tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 4. Lắng nghe chánh pháp tâm không nhàm mỏi.
Tuyên thuyết Chánh Pháp vô bì yếm tâm
Tuyên nói chánh-pháp tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 5. Tuyên nói chánh pháp tâm không nhàm mỏi.
Giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh vô bì yếm tâm
Giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 6. Giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh tâm không nhàm mỏi.
Trí nhất thiết chúng sanh ư Phật Bồ-đề vô bì yếm tâm
Ðặt tất cả chúng-sanh nơi Phật bồ-đề tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 7. Đặc để chúng sinh nơi Phật bồ đề, tâm không nhàm mỏi.
Ư nhất nhất thế giới Kinh bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp hành Bồ Tát hạnh vô bì yếm tâm
Nơi mỗi mỗi thế-giới trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp thật hành bồ-tát hạnh tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 8. Nơi mỗi thế giới, trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, hành Bồ Tát hạnh, tâm không nhàm mỏi.
Du hành nhất thiết thế giới vô bì yếm tâm
Du hành tất cả thế-giới tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 9. Du hành tất cả thế giới tâm không nhàm mỏi.
Quan sát tư tánh nhất thiết Phật Pháp vô bì yếm tâm.
Quán-sát tư-duy tất cả phật-pháp tâm không mỏi nhàm.
Giảng: 10. Quán sát tư duy tất cả Phật pháp tâm không nhàm mỏi.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô bì yếm vô thượng đại trí.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được đại-trí vô-thượng không mỏi nhàm của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười thứ tâm không nhàm mỏi của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí vô thượng không nhàm mỏi của Như Lai.
=======================================
Mười Thứ Trí Khác Biệt
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng sái biệt trí. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ sai-biệt-trí. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ trí khác biệt. Những gì là mười ? Đó là :
Tri chúng sanh sái biệt trí; Tri chư căn sái biệt trí; Tri nghiệp báo sái biệt trí; Tri thọ sanh sái biệt trí; Tri thế giới sái biệt trí; Tri Pháp giới sái biệt trí; Tri chư Phật sái biệt trí; Tri chư Pháp sái biệt trí; Tri tam thế sái biệt trí; Tri nhất thiết ngữ ngôn đạo sái biệt trí.
Trí sai-biệt biết chúng-sanh. Trí sai-biệt biết các căn. Trí sai-biệt biết nghiệp báo. Trí sai-biệt biết thọ sanh. Trí sai-biệt biết thế-giới. Trí sai-biệt biết pháp-giới. Trí sai-biệt biết chư Phật. Trí sai-biệt biết các pháp. Trí sai-biệt biết tam-thế. Trí sai-biệt biết tất cả đạo ngữ ngôn.
Giảng:
1. Trí khác biệt biết chúng sinh.
2. Trí khác biệt biết các căn.
3. Trí khác biệt biết nghiệp báo.
4. Trí khác biệt biết thọ sanh.
5. Trí khác biệt biết thế giới.
6. Trí khác biệt biết pháp giới.
7. Trí khác biệt biết chư Phật.
8. Trí khác biệt biết các pháp.
9. Trí khác biệt biết ba đời.
10. Trí khác biệt biết tất cả ngôn ngữ.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại sai biệt trí.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời được trí sai-biệt quảng-đại vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười thứ trí huệ khác biệt của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được trí khác biệt rộng lớn vô thượng của Như Lai.
=======================================
Mười Pháp Đà La Ni
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Đà-la-ni. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ đà-la-ni. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp Đà la ni. Những gì là mười ? Đó là :
Văn trì đà la ni, trì nhất thiết pháp bất vong thất cố
Văn-trì đà-la-ni, vì trì tất cả pháp chẳng quên mất.
Giảng: 1. Văn trì đà la ni. Đà la ni dịch là tổng trì. Tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Hay nghe tất cả pháp, thọ trì tất cả pháp, thì vĩnh viễn không quên mất.
Tu hành Đà-la-ni, như thật xảo quán nhất thiết pháp cố
Tu-hành đà-la-ni, vì như thiệt khéo quán tất cả pháp.
Giảng: 2. Tu hành đà la ni, khéo quán tất cả pháp như thật.
Tư tánh Đà-la-ni, liễu tri nhất thiết chư pháp tánh cố
Tư-duy đà-la-ni, vì biết rõ tánh của tất cả pháp.
Giảng: 3. Tư duy đà la ni, biết rõ tánh của tất cả các pháp.
Pháp quang minh Đà-la-ni, chiếu bất tư nghị chư Phật Pháp cố
Pháp quang-minh đà-la-ni, vì chiếu bất-tư-nghì Phật pháp.
Giảng: 4. Pháp quang minh đà la ni, chiếu các Phật pháp không nghĩ bàn.
Tam muội Đà-la-ni, phổ ư hiện tại nhất thiết Phật sở thính văn chánh pháp tâm bất loạn cố
Tam-muội đà-la-ni, vì ở khắp chỗ hiện-tại tất cả Phật nghe chánh-pháp tâm chẳng loạn.
Giảng: 5. Tam muội đà la ni, khắp tất cả chỗ Phật hiện tại, lắng nghe chánh pháp tâm không tán loạn.
Viên âm Đà-la-ni, giải liễu bất tư nghị âm thanh ngữ ngôn cố
Viên-âm đà-la-ni, vì hiểu rõ bất-tư-nghì âm thanh ngữ ngôn.
Giảng: 6. Viên âm đà la ni, hiểu rõ âm thanh và ngôn ngữ không nghĩ bàn.
Tam thế Đà-la-ni, diễn thuyết tam thế bất khả tư nghị chư Phật Pháp cố
Tam-thế đà-la-ni, vì diễn nói tam thế những phật-pháp bất-tư-nghì.
Giảng: 7. Ba đời đà la ni, diễn nói các Phật pháp ba đời không nghĩ bàn.
Chủng chủng biện tài Đà-la-ni, diễn thuyết vô biên chư Phật Pháp cố
Chủng-chủng biện-tài đà-la-ni, vì diễn nói vô-biên những phật-pháp.
Giảng: 8. Đủ thứ biện tài đà la ni, diễn nói vô biên các Phật pháp.
Xuất sanh vô ngại nhĩ Đà-la-ni, bất khả thuyết Phật sở thuyết chi Pháp tất năng văn cố
Xuất sanh vô-ngại-nhĩ đà-la-ni, vì đều có thể nghe được pháp của bất-khả-thuyết chư Phật đã nói.
Giảng: 9. Sinh ra tai vô ngại đà la ni, bất khả thuyết pháp của Phật nói đều nghe được.
Nhất thiết Phật pháp đà la ni, an trụ Như Lai lực, vô úy cố.
Nhứt-thiết-phật-pháp đà-la-ni, vì an-trụ nơi lực vô-úy của Như-Lai.
Giảng: 10. Tất cả Phật pháp đà la ni, an trụ thập lực và bốn vô sở uý của Như Lai.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát dục đắc thử pháp, đương cần tu học.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát muốn được đà-la-ni nầy phải siêng tu học.
Giảng: Đó là mười pháp đà la ni của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát muốn được pháp nầy, thì phải siêng tu học tất cả Phật pháp.
=======================================
Thập Chủng Phật
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thuyết thập chủng Phật. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nói mười Phật. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nói mười thứ Phật. Những gì là mười ? Đó là :
Thành chánh giác Phật; Nguyện Phật; Nghiệp báo Phật; Trụ trì Phật; Niết Bàn Phật; pháp giới Phật; Tâm Phật; Tam Muội Phật; bổn tánh Phật; Tùy lạc Phật.
Thành chánh-giác Phật. Nguyện Phật. Nghiệp báo Phật. Trụ-trì Phật. Niết-bàn Phật. Pháp-giới Phật. Tâm Phật. Tam-muội Phật. Bổn-tánh Phật. Tùy nhạo Phật.
Giảng:
1. Phật thành Chánh Giác, tức là bồ đề thân.
2. Phật phát nguyện, tức là nguyện thân.
3. Phật nghiệp báo, tức là trang nghiêm thân.
4. Phật trụ trì, tức là lực trì thân.
5. Phật Niết Bàn, tức là hoá thân.
6. Phật pháp giới, tức là pháp thân.
7. Phật tâm, tức là oai thế thân.
8. Phật tam muội, tức là phước đức thân.
9. Phật bổn tánh, tức là trí thân.
10. Phật tuỳ lạc, tức là ý sinh thân.
Thị vi thập.
Đó là mười.
Giảng: Đó là Bồ Tát nói mười thứ Phật.
Ở trên là Bồ Tát Phổ Hiền trả lời hai mươi câu hỏi về pháp Thập tín hạnh của Bồ Tát Phổ Huệ hỏi. Vì hỏi một đáp mười, nên có hai trăm câu trả lời.
=======================================
TRẢ LỜI PHÁP THẬP TRỤ
— o0o —
Thập Chủng Phổ Hiền Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phát thập chủng Phổ Hiền tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát phát mười tâm Phổ-Hiền. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng, các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát phát mười thứ tâm Phổ Hiền. Những gì là mười ? Đó là :
Phát Đại từ tâm, cứu hộ nhất thiết chúng sanh cố
Phát tâm đại-từ, vì cứu hộ tất cả chúng-sanh.
Giảng: 1. Phát tâm đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui. Tâm đại từ tức là vô duyên đại từ, ban cho chúng sinh tất cả sự an vui.
Phát đại bi tâm, đại nhất thiết chúng sanh thọ khổ cố
Phát tâm đại-bi, vì chịu khổ thay cho tất cả chúng-sanh.
Giảng: 2. Phát tâm đại bi, vì thay thế tất cả chúng sinh chịu khổ, thọ nạn, tâm cam tình nguyện, mà không lời than oán. Tâm đại bi tức là đồng thể đại bi, nhổ sạch tất cả sự thống khổ của chúng sinh.
Phát nhất thiết thí tâm, tất xả sở hữu cố
Phát tâm thí tất cả, vì đều xả bỏ tất cả sở-hữu.
Giảng: 3. Phát tâm thí tất cả, vì đều xả bỏ hết thảy nội tài và ngoại tài, tuyệt đối không có tư tưởng xẻn tiếc, càng không có xí đồ cầu đền đáp.
Phát niệm nhất thiết trí vi thủ tâm, lạc cầu nhất thiết Phật Pháp cố
Phát tâm nhớ nhứt-thiết-trí làm trước nhứt, vì thích cầu tất cả phật-pháp.
Giảng: 4. Phát tâm nhớ nhất thiết trí làm đầu, vì thích cầu tất cả Phật pháp.
Phát công đức trang nghiêm tâm, học nhất thiết Bồ Tát hạnh cố
Phát tâm công-đức trang-nghiêm, vì học tất cả hạnh Bồ-Tát.
Giảng: 5. Phát tâm công đức trang nghiêm, vì học tất cả hạnh Bồ Tát tu.
Phát như Kim cương tâm, nhất thiết xứ thọ sanh bất vong thất cố
Phát tâm như kim-cang, vì tất cả chỗ thọ sanh không quên mất.
Giảng: 6. Phát tâm như kim cang, vì tất cả nơi thọ sinh không quên mất nhân duyên đời trước.
Phát như hải tâm, nhất thiết bạch tịnh Pháp tất lưu nhập cố
Phát tâm như biển, vì tất cả pháp trắng trong đều chảy vào.
Giảng: 7. Phát tâm như biển, vì tất cá pháp trắng tịnh đều chảy vào.
Phát như Đại sơn vương tâm, nhất thiết ác ngôn giai nhẫn thọ cố
Phát tâm như Tu-Di sơn, vì tất cả ác ngôn đều nhẫn thọ.
Giảng: 8. Phát tâm như núi chúa lớn, vì tất cả lời ác đều nhẫn thọ nơi tâm.
Phát an ổn tâm, thí nhất thiết chúng sanh vô bố úy cố
Phát tâm an-ổn, vì ban sự vô-úy cho tất cả chúng-sanh.
Giảng: 9. Phát tâm an ổn, vì bố thí cho tất cả chúng sinh không sợ hãi.
Phát Bát-nhã Ba-la-mật cứu cánh tâm, xảo quán nhất thiết pháp vô sở hữu cố.
Phát tâm bát-nhã ba-la-mật cứu-cánh, vì khéo quán sát tất cả pháp vô-sở-hữu.
Giảng: 10. Phát tâm Bát nhã ba la mật rốt ráo, vì khéo quán sát tất cả pháp không chỗ có.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử tâm, tật đắc thành tựu Phổ Hiền thiện xảo trí.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ tâm nầy thời mau được thành-tựu trí thiện-xảo của Phổ-Hiền.
Giảng: Đó là mười pháp phát tâm Phổ Hiền của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sớm được thành tựu trí Phổ Hiền khéo léo.
=======================================
Thập Chủng Phổ Hiền Hạnh
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Phổ Hiền hạnh Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười Phổ-Hiền hạnh pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp hạnh Phổ Hiền. Những gì là mười ? Đó là :
Nguyện trụ vị lai nhất thiết kiếp Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện trụ tất cả kiếp vị-lai.
Giảng: 1. Nguyện trụ tu pháp hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, ở trong tất cả kiếp vị lai.
Nguyện cúng dường cung kính vị lai nhất thiết Phật Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện cúng-dường cung kính tất cả Phật vị-lai.
Giảng: 2. Nguyện cúng dường cung kính tất cả chư Phật vị lai, tu hành pháp hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Nguyện an trí nhất thiết chúng sanh ư Phổ Hiền Bồ Tát hạnh Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện an-trí tất cả chúng-sanh nơi hạnh của Phổ-Hiền Bồ-Tát.
Giảng: 3. Nguyện đặc để tất cả chúng sinh nơi hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, tu hành pháp hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Nguyện tích tập nhất thiết thiện căn Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện chứa nhóm tất cả thiện căn.
Giảng: 4. Nguyện tích tập tất cả căn lành, vì hết thảy chúng sinh hồi hướng, dùng thân của chúng sinh làm thân, dùng tâm của chúng sinh làm tâm, dùng ý của chúng sinh làm ý, giống như đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền phát ra tận hư không khắp pháp giới, tu pháp vô tận nầy.
Nguyện nhập nhất thiết Ba-la-mật Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện nhập tất cả ba-la-mật.
Giảng: 5. Nguyện vào sâu tất cả Ba la mật, tu hành pháp hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Nguyện mãn túc nhất thiết Bồ Tát hạnh Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện đầy đủ tất cả Bồ-Tát hạnh.
Giảng: 6. Nguyện đầy đủ vạn hạnh của tất cả Bồ Tát tu, tu hành hạnh pháp của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Nguyện trang nghiêm nhất thiết thế giới Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện trang-nghiêm tất cả thế-giới.
Giảng: 7. Nguyện trang nghiêm tất cả thế giới, tu hành pháp hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Nguyện sanh nhất thiết Phật sát Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện sanh tất cả cõi Phật.
Giảng: 8. Nguyện sinh tất cả cõi Phật, tu hành pháp hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Nguyện thiện quan sát nhất thiết pháp Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện khéo quán-sát tất cả pháp.
Giảng: 9. Nguyện khéo quán sát tất cả pháp, chiếu rõ tất cả các pháp, tu hành pháp hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Nguyện ư nhất thiết Phật quốc độ thành vô thượng Bồ-đề Phổ Hiền hạnh Pháp
Phổ-Hiền hạnh pháp nguyện nơi tất cả Phật quốc-độ thành vô-thượng bồ-đề.
Giảng: 10. Nguyện ở tại tất cả cõi nước chư Phật, thành tựu vô thượng bồ đề, tu hành pháp hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát cần tu thử pháp, tật đắc mãn túc Phổ Hiền hạnh nguyện.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát siêng tu pháp nầy thời mau được viên-mãn hạnh nguyện Phổ-Hiền.
Giảng: Đó là mười pháp hạnh Phổ Hiền. Nếu tất cả Bồ Tát siêng tu pháp nầy, thì sớm sẽ được đầy đủ đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.
=======================================
Thập Chủng Quán Chúng Sanh
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thập chủng quán chúng sanh nhi khởi đại bi. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát dùng mười pháp quán sát chúng-sanh mà khởi đại-bi. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng mười pháp quán chúng sinh mà khởi đại bi. Những gì là mười ? Đó là :
Quan sát chúng sanh vô y vô hỗ nhi khởi đại bi
Quán-sát chúng-sanh không nương không dựa mà khởi đại-bi.
Giảng: 1. Quán sát chúng sinh không chỗ nương nhờ, chẳng có ai đến hộ trì họ, mà khởi tâm đại bi, nguyện làm chỗ nương nhờ của chúng sinh, đó là tâm đại bi khởi lên, tức cũng là biểu hiện của tâm bồ đề.
Quan sát chúng sanh tánh bất điều thuận nhi khởi đại bi
Quán-sát chúng-sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại-bi.
Giảng: 2. Quán sát chúng sinh tánh không điều thuận. Tại sao tánh không điều thuận ? Nói một cách đơn giản là không nghe lời. Dạy họ đi về hướng nam, họ lại đi về hướng bắc; kêu họ đi về hướng đông, họ lại đi về hướng tây. Lại có thể nói là tánh tình khó dạy, cứng đầu, chuyên môn làm phiền đến người khác, khiến cho họ không vui. Giống như trong đạo tràng, mọi người bình an vô sự, tĩnh tâm tu đạo, nhưng họ cố ý gây sự, làm cho mọi người khởi phiền não, hoặc vô duyên vô cớ nổi giận, hoặc làm chướng ngại người khác tu hành, những hành vi đó đều là tánh không điều thuận, tánh không điều thuận, tức là cang cường, nếu cang cường có lý trí, thì không có gì để nói, chỉ sợ rằng cang cường vô lý trí, thì chính mình mê còn không biết, còn cho rằng người khác cũng mê. Chính mình ngu si, chẳng muốn người khác có trí huệ, đó là tánh đố kị chướng ngại đang tác quái.
Chúng ta mọi người cùng tu ở tại Vạn Phật Thành, đó là nhân duyên nhiều đời, cùng nhau tụ lại một nơi để tu tập Phật pháp, nỗ lực siêng học, không nên bỏ qua cơ hội tốt, cho nên mọi sự đều làm cho tốt, làm lành, đừng giống như A tu la, thường nổi giận với mọi người, khiến cho mọi người khởi phản cảm. Phải biết rằng, nổi giận đối với người và mình đều không có ích lợi gì, chỉ có hại, do đó có câu:
Một niệm tâm sân nổi lên
Trăm vạn cửa chướng đều mở ra.
Tu đạo là tu cái gì ? Tức là tu tánh phải điều thuận, điều tức là điều hoà, thuận là nhu thuận, tức cũng là không ngỗ nghịch, không ngỗ nghịch tức là không nổi nóng, giống như con cái chẳng nghe lời cha mẹ dạy bảo, đó là con cái ngỗ nghịch bất hiếu. Làm đồ đệ không nghe lời thầy dạy bảo, thì gọi là nghịch đồ. Nếu tánh điều thuận thì những vấn đề nầy đều chẳng còn nữa. Nhưng Bồ Tát gặp chúng sinh tánh chẳng điều thuận, vẫn sinh khởi tâm đại bi, tha thứ cho chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh, bằng không thì, làm sao xưng là Bồ Tát !
Quan sát chúng sanh bần vô thiện căn nhi khởi đại bi
Quán-sát chúng-sanh nghèo không căn lành mà khởi đại-bi.
Giảng: 3. Bồ Tát lại quán sát tất cả chúng sinh, chẳng có một chút căn lành nào, loại chúng sinh đó chẳng dễ gì hoá độ, nhưng Bồ Tát vẫn sinh khởi tâm đại bi, vẫn đến cứu khổ chúng sinh đó, khiến cho họ được an lạc.
Quan sát chúng sanh trường dạ thụy miên nhi khởi đại bi
Quán-sát chúng-sanh mãi mãi ngủ mê mà khởi đại-bi.
Giảng: 4. Bồ Tát lại quán sát tất cả chúng sinh, ngủ mãi đêm dài, chẳng biết thức tỉnh. Luôn bị trôi nổi ở trong vô minh, cũng chẳng sinh trí huệ, ở trong đường mê bồi hồi, chẳng biết cách thoát khỏi, cho nên Bồ Tát sinh khởi tâm đại bi, cứu chúng sinh chẳng biết giác ngộ, thoát khỏi biển khổ, sớm lên bờ bên kia.
Quan sát chúng sanh hành bất thiện pháp nhi khởi đại bi
Quán-sát chúng-sanh làm pháp bất thiện mà khởi đại-bi.
Giảng: 5. Bồ Tát lại quán sát chúng sinh, chuyên làm pháp bất thiện, cho nên làm gì cũng đều là tạo nghiệp ác. Thường thường sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chưởi mắng, uống rượu, san tham, sân hận, ngu si .v.v… đó đều là pháp bất thiện. Bồ Tát thấy loại chúng sinh đó, mà khởi tâm đại bi, trợ giúp chúng sinh cải ác hướng thiện.
Quan sát chúng sanh dục phược sở phược nhi khởi đại bi
Quán-sát chúng-sanh bị trói bởi dục-phược mà khởi đại-bi.
Giảng: 6. Bồ Tát lại quán sát tất cả chúng sinh bị dục trói buộc, nhất là tư tưởng dâm dục là ác nhất. Mỗi cử chỉ hành động không lìa khỏi cảnh giới sáu trần, suốt ngày cứ lay chuyển ở trong sáu căn và sáu trần, chạy theo cảnh giới, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ. Có người cảm thấy mình rất là thông minh, bất cứ làm việc gì cũng đều hiểu biết. Nhưng chỉ có một việc không minh bạch, không rõ ràng. Đó là việc gì ? Tức là dục niệm của mình sinh ra. Có dục niệm tồn tại, thì không thể được giải thoát. Tại sao ? Vì bị dục ràng buộc, chẳng được tự tại. Lưới dục nầy, không dễ gì phá được. Do đó, nên bị chuyển tới chuyển lui ở trong sáu nẻo luân hồi, tìm chẳng được lối thoát ra, chẳng thoát khỏi vòng luân hồi, chẳng phá được cửa ải sinh tử, đó là bị dục trói buộc.
Các vị hãy xem trên thế gian nầy, có bao nhiêu người bị dục làm mê, có người bị dục niệm mà thân bại danh liệt, rồi tự tử, để cầu giải thoát, đó là quan niệm sai lầm. Tự tử rồi, có giải quyết được vấn đề chăng ? Không thể giải quyết, chẳng những không thể giải quyết, ngược lại càng trói buộc càng sâu. Tương lai biến thành chim bồ câu, biến thành chim uyên ương, còn chẳng biết giác ngộ, vẫn ở trong niệm dâm. Bạn hãy xem chim uyên ương, thường ở chung với nhau, không giây phút nào lìa nhau, do đó có câu :
Đi thì cùng đi
Ngủ thì cùng ngủ
Nhìn thì cùng nhìn
Nghe thì cùng nghe.
Đó là bị lưới dục trói buộc, nương tựa sống với nhau, mãi mãi không chia lìa. Bồ Tát thấy loại chúng sinh đó, rất là đáng thương ! Khi làm người thì không biết đoạn dục khử ái, bây giờ làm chim sẻ, vẫn còn mê muội như thế, cho nên sinh khởi tâm đại bi, khiến cho họ quay đầu, do đó có câu :
Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ.
Quan sát chúng sanh một sanh tử hải nhi khởi Đại bi
Quán-sát chúng-sanh chìm biển sanh-tử mà khởi đại-bi.
Giảng: 7. Bồ Tát lại quán sát chúng sinh trôi nổi trong biển sinh tử, nổi lên chìm xuống, không có kỳ hạn. Thoát cốt như núi, giải nhục như biển. Bồ Tát đối với loại chúng sinh nầy, sinh khởi tâm đại bi, để cứu độ họ thoát khỏi biển khổ.
Quan sát chúng sanh trường anh tật khổ nhi khởi đại bi
Quán-sát chúng-sanh mãi mang bịnh khổ mà khởi đại-bi.
Giảng: 8. Bồ Tát lại quán sát tất cả chúng sinh mãi mang bệnh khổ. Người già có bệnh của người già, người lớn có bệnh của người lớn, người trẻ có bệnh của người trẻ. Tóm lại, đều có bệnh khổ. Nhất là hiện tại chứng bệnh ung thư hoành hành, chẳng màng già trẻ bé lớn, mang chứng bệnh bất trị nầy, giống như mang án tử hình, khiến cho con người rất là lo sợ. Bồ Tát thấy loại chúng sinh nầy, mà sinh khởi tâm đại bi.
Quan sát chúng sanh vô thiện pháp dục nhi khởi đại bi
Quán-sát chúng-sanh không muốn pháp lành mà khởi đại-bi.
Giảng: 9. Bồ Tát lại quán sát tất cả chúng sinh, không muốn làm pháp lành, mà khởi tâm đại bi, khuyên bảo chúng sinh, đừng tham cầu khoái lạc năm dục. Phải thấu được tài, sắc, danh, ăn, và ngủ, là năm con đường vào địa ngục. Bất cứ tham ái một dục nào trong năm dục, đều là cửa hướng đến địa ngục.
Quan sát chúng sanh thất chư Phật Pháp nhi khởi đại bi.
Quán-sát chúng-sanh mất những phật-pháp mà khởi đại-bi.
Giảng: 10. Bồ Tát lại quán sát tất cả chúng sinh, quên mất tất cả Phật pháp mà chẳng chịu tu hành. Bồ Tát vì loại chúng sinh nầy mà khởi tâm đại bi, khiến cho chúng sinh y giáo phụng hành, y pháp tu hành.
Thị vi thập. Bồ Tát hằng dĩ thử tâm quan sát chúng sanh.
Đó là mười. Bồ-Tát hằng dùng tâm nầy quán-sát chúng-sanh.
Giảng: Đó là mười pháp khởi tâm đại bi của Bồ Tát. Bồ Tát luôn dùng tâm nầy để quán sát tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo.
=======================================
Mười Nhơn-Duyên Phát Bồ-đề Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phát Bồ-đề tâm nhân duyên. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười nhơn-duyên phát bồ-đề tâm. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười nhân duyên phát bồ đề tâm. Bồ đề là tiếng Phạn, dịch là giác đạo. Giác là giác ngộ, có trí huệ. Đạo là con đường, đi trên con đường của người có trí huệ tu hành. Người ngu si thì không giác, có tâm ích kỷ lợi mình. Người có trí huệ thì giác, có tâm tự lợi lợi tha. Bồ đề tâm tức là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh, tức cũng là học tập tâm giác ngộ. Những gì là mười ? Đó là :
Vi giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh cố, phát Bồ-đề tâm
Vì giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 1. Vì giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh, mà phát bồ đề tâm. Khiến cho chúng sinh chưa có căn lành, liền trồng căn lành. Chúng sinh đã gieo trồng căn lành, thì khiến cho tăng trưởng. Chúng sinh căn lành đã tăng trưởng, thì khiến cho thành thục. Chúng sinh căn lành đã thành thục, thì khiến cho được giải thoát. Do đó có câu :
Muốn làm công việc được tốt,
Thì trước hết phải có dụng cụ.
Dụng cụ của Bồ Tát giáo hoá điều phục chúng sinh, tức là trí huệ. Trước hết phải phát bồ đề tâm, phát rồi sẽ đắc được đại trí huệ. Có trí huệ rồi, thì mới có thể giáo hoá chúng sinh, mới có thể điều phục chúng sinh. Nếu không có trí huệ, thì không thể làm gì được, càng không thể nói đến điều phục chúng sinh khó giáo hoá.
Vi trừ diệt nhất thiết chúng sanh khổ tụ cố, phát Bồ-đề tâm
Vì trừ diệt tất cả khổ cho chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 2. Bồ Tát vì trừ diệt các khổ của tất cả chúng sinh, mà phát bồ đề tâm.
Vi dữ nhất thiết chúng sanh cụ túc an lạc cố, phát Bồ-đề tâm
Vì ban cho tất cả chúng-sanh đầy đủ sự an-lạc mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 3. Bồ Tát vì ban cho tất cả chúng sinh đầy đủ an lạc, mà phát bồ đề tâm.
Vi đoạn nhất thiết chúng sanh ngu si cố, phát Bồ-đề tâm
Vì dứt sự ngu-si của tất cả chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 4. Bồ Tát vì đoạn trừ ngu si của tất cả chúng sinh, mà phát bồ đề tâm.
Vi dữ nhất thiết chúng sanh Phật trí cố, phát Bồ-đề tâm
Vì ban phật-trí cho tất cả chúng-sanh mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 5. Bồ Tát vì ban cho tất cả chúng sinh Phật trí, mà phát bồ đề tâm.
Vi cung kính cúng dường nhất thiết chư Phật cố, phát Bồ-đề tâm
Vì cung-kíng cúng-dường tất cả chư Phật mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 6. Bồ Tát vì cung kính cúng dường tất cả chư Phật, là phát bồ đề tâm.
Vi tùy Như Lai giáo, lệnh Phật hoan hỉ cố, phát Bồ-đề tâm
Vì thuận theo phật-giáo cho chư Phật hoan-hỉ mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 7. Bồ Tát vì tuỳ thuận giáo pháp tu hành của Như Lai nói, khiến cho mười phương chư Phật hoan hỉ, mà phát bồ đề tâm.
Vi kiến nhất thiết Phật sắc thân tướng hảo cố, phát Bồ-đề tâm
Vì thấy sắc thân tướng hảo của tất cả Phật mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 8. Bồ Tát vì thấy tất cả chư Phật sắc thân tướng tốt, mà phát bồ đề tâm.
Vi nhập nhất thiết Phật quảng đại trí tuệ cố, phát Bồ-đề tâm
Vì nhập trí-huệ quảng-đại của tất cả Phật mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 9. Bồ Tát vì vào trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật, mà phát bồ đề tâm.
Vi hiển hiện chư Phật lực, vô sở úy cố, phát Bồ-đề tâm.
Vì hiển hiện lực vô-úy của tất cả Phật mà phát bồ-đề tâm.
Giảng: 10. Bồ Tát vì hiển hiện lực vô sở uý của chư Phật, mà phát bồ đề tâm.
Thị vi thập.
Đó là mười.
Giảng: Đó là mười nhân duyên phát bồ đề tâm của Bồ Tát.
=======================================
Thập Chủng Tâm
Phật tử! nhược Bồ Tát phát vô thượng Bồ-đề tâm, vi ngộ nhập nhất thiết trí trí cố, thân cận cúng dường thiện tri thức thời, ưng khởi thập chủng tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Phật tử! Nếu Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề để được ngộ nhập nhứt-thiết-chủng trí, lúc thân cận cúng-dường thiện-tri-thức phải khởi mười tâm. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Nếu như Bồ Tát phát vô thượng bồ đề tâm, để ngộ vào trí huệ Nhất thiết trí, khi gần gũi cúng dường thiện tri thức, nên sinh khởi mười thứ tâm. Những gì là mười ? Đó là :
Khởi cấp thị tâm, hoan hỉ tâm, vô vi tâm, tùy thuận tâm, vô dị cầu tâm, nhất hướng tâm, đồng thiện căn tâm, đồng nguyện tâm, Như Lai tâm, đồng viên mãn hạnh tâm.
Khởi tâm cung cấp hầu hạ. Tâm hoan-hỉ. Tâm không trái. Tâm tùy thuận. Tâm không cầu lạ. Tâm nhứt hướng. Tâm đồng thiện-căn. Tâm đồng-nguyện. Tâm Như-Lai. Tâm đồng viên-mãn hạnh.
Giảng:
1. Khởi tâm cung cấp hầu hạ : Tức là đem thân tâm của mình bố thí cho Phật giáo, tức cũng là hiến thân cho Phật giáo, hộ trì Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo, vì Phật giáo mà làm tất cả mọi sự việc.
2. Tâm hoan hỉ : Nếu muốn có trí huệ, thì phải sinh tâm hoan hỉ. Tâm có phiền não thì thì có ngu si.
3. Tâm không trái : Chẳng trái với Phật, chẳng trái với pháp, chẳng trái với Tăng. Phải tôn trọng Tam Bảo, cung kính Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, đó là tâm không trái.
4. Tâm tuỳ thuận : Tức là tuỳ thuận thiện tri thức mà mình tôn kính, chẳng có tơ hào tâm hoài nghi.
5. Tâm không cầu gì khác: Tức là chẳng có tâm xí đồ, chẳng phải cúng dường Tam Bảo, hy vọng tương lai thành Phật. Hoặc mong cầu Tam Bảo bảo hộ, vạn sự như ý. Hoặc khai đại trí huệ, hoặc được phước báo lớn. Tóm lại, phàm là có sở cầu, tức là có dục vọng nghĩ tưởng khác, những mong cầu nầy chẳng hợp lý. Những sự cầu mong đó chẳng có ích lợi gì.
6. Tâm một hướng : Tức là tâm chuyên nhứt tu học Phật pháp, bất cứ làm việc gì, đều chuyên tâm nhất chí, mới có sự thành tựu. Do đó có câu :
Chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán.
7. Tâm đồng căn lành : Tức là người khác có căn lành, giống như mình có căn lành. Người khác có trí nhớ tốt, có biện tài vô ngại, có đại trí huệ, cũng giống như mình có trí nhớ tốt, có biện tài vô ngại, có đại trí huệ. Phải có tư tưởng như thế, ta với người đồng thể, chẳng có tâm phân biệt. Không thể thấy người ta giỏi, bèn sinh tâm đố kị. Người học Phật pháp, kị nhất là có tâm đố kị. Nếu có tâm đố kị, thì căn lành không thể nào tăng trưởng, hạt giống bồ đề sẽ khô héo đi. Trong đạo tràng không thể sinh tâm đố kị, người tại gia không thể phê bình người xuất gia, nếu nói ra lỗi lầm của người khác, thì tương lai chắc chắn sẽ đoạ vào địa ngục cắt lưỡi. Nhất là người thọ Bồ Tát giới, chuyên nói lỗi của bốn chúng, đây là tập khí xấu nhất, không thể chấp nhận được. Bất cứ vị nào, nếu có mao bệnh nầy, thì phải mau sửa đổi, không thể đã sai lại càng sai, phải hồi quang phản chiếu. Nếu có thì phải mau sửa đổi lỗi trước, bằng không, chẳng cách chi cứu vãn.
8. Tâm đồng nguyện : Người nào đó phát đại nguyện, cảm thấy đồng với tâm nguyện của mình.
9. Tâm Như Lai : Phải thành tựu tâm Phật. Tâm Phật tức là từ bi hỉ xả bốn tâm vô lượng.
10. Tâm hạnh đồng viên mãn : Phải tu hạnh viên mãn. Có tâm nầy thì tất cả đều thành tựu viên mãn.
Thị vi thập.
Đó là mười.
Giảng: Đó là mười thứ tâm của Bồ Tát phát khởi.
=======================================
Thập Chủng Thanh Tịnh
Phật tử! nhược Bồ-Tát Ma-ha-tát khởi như thị tâm, tức đắc thập chủng thanh tịnh. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Nếu đại Bồ-Tát đã khởi tâm như vậy thời được mười thứ thanh-tịnh. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Nếu đại Bồ Tát sinh khởi tâm như vậy, thì sẽ được mười pháp thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :
Thâm tâm thanh tịnh, đáo ư cứu cánh vô thất hoại cố
Thâm-tâm thanh-tịnh, vì đến nơi rốt ráo không mất hư.
Giảng: 1. Thâm tâm thanh tịnh : Chẳng còn ý niệm nhiễm ô, đến nơi rốt ráo không thất bại, thành tựu quả vị Phật.
Sắc thân thanh tịnh, tùy kỳ sở nghi vi thị hiện cố
Sắc-thân thanh-tịnh, vì tùy sở-nghi để thị-hiện.
Giảng: 2. Sắc thân thanh tịnh : Sắc thân vốn là hạt giống bất tịnh mà sinh, nhưng khiến cho nó thanh tịnh, chẳng còn nhiễm ô xen tạp nữa, tuỳ theo sở nghi mà thị hiện.
Âm thanh thanh tịnh, liễu đạt nhất thiết chư ngữ ngôn cố
Âm-thanh thanh-tịnh, vì rõ thấu tất cả ngữ ngôn.
Giảng: 3. Âm thanh thanh tịnh : Người tu hành phải giữ gìn âm thanh thanh tịnh. Âm thanh có thanh tịnh hay không, thì hãy xem người đó có giữ giới thanh tịnh hay không, thấu rõ thông đạt tất cả các ngôn ngữ.
Biện tài thanh tịnh, thiện thuyết vô biên chư Phật Pháp cố
Biện-tài thanh-tịnh, vì khéo nói vô-biên phật-pháp.
Giảng: 4. Biện tài thanh tịnh : Biện tài có bốn :
a. Pháp vô ngại biện : Pháp là Phật pháp, pháp nói ra đều là đạo, khiến cho bạn không cách chi biện luận thắng lợi được.
b. Nghĩa vô ngại biện : Nghĩa là nghĩa lý. Ngài thấu rõ nghĩ chân thật của Như Lai nói, khiến cho bạn cam bái hạ phong, không thể nào vặn ngược nghĩa lý của Ngài.
c. Từ vô ngại biện : Lời của Ngài nói ra, câu câu đều là chân lý, chữ chữ khế hợp với đạo pháp, không cách chi biện luận với Ngài được.
d. Nhạo thuyết vô ngại biện : Nhạo thuyết nghĩa là hoan hỉ nói. Bất cứ nói pháp gì, cũng đều thao thao bất tuyệt. Có cảnh giới hoa trời rơi xuống, dưới đất vọt hoa sen, nhưng đều là pháp thanh tịnh, chẳng có sự cường từ đoạt lý, nói ra lời nào cũng có đạo lý, khiến cho người nghe có cảm giác hứng thú. Tuyệt đối chẳng nói ra những lời vô lý, dùng lý luận chánh quyết, để diễn nói vô biên pháp môn của tất cả chư Phật đã nói.
Trí tuệ thanh tịnh, xả ly nhất thiết ngu si ám cố
Trí-huệ thanh-tịnh, vì bỏ rời tất cả tối ngu-si.
Giảng: 5. Trí huệ thanh tịnh : Có trí huệ quang minh rồi, sẽ chiếu phá tất cả ngu si đen tối.
Thọ sanh thanh tịnh, cụ túc Bồ Tát tự tại lực cố
Thọ-sanh thanh-tịnh, vì đầy đủ sức tự-tại của Bồ-Tát.
Giảng: 6. Thọ sinh thanh tịnh : Giống như lão hoà thượng Hư Vân, khi Ngài sinh ra là một bọc thịt hình tròn, đó là mặc y phục để thọ sinh. Bồ Tát từ Bát địa trở lên, khi thọ sinh mới có cảnh giới đó, đầy đủ lực nhậm vận tự tại của Bồ Tát.
Quyến thuộc thanh tịnh, thành tựu quá khứ đồng hạnh chúng sanh chư thiện căn cố
Quyến-thuộc thanh-tịnh, vì thành-tựu những thiện-căn cho các chúng-sanh đồng hạnh thuở quá-khứ.
Giảng: 7. Quyến thuộc thanh tịnh : Người một nhà đều tin Phật, trở thành gia đình đệ tử Phật. Mọi người đều hoà thuận, chẳng có hiện tương tranh cãi, vì thành tựu chúng sinh đồng tu hành, gieo xuống các căn lành trong quá khứ.
Quả báo thanh tịnh, trừ diệt nhất thiết chư nghiệp chướng cố
Quả-báo thanh-tịnh, vì trừ diệt tất cả những nghiệp-chướng.
Giảng: 8. Quả báo thanh tịnh : Vì hay trừ diệt hết sạch tất cả các nghiệp chướng.
Đại nguyện thanh tịnh, dữ chư Bồ-tát tánh vô nhị cố
Ðại nguyện thanh-tịnh, vì cùng chư Bồ-Tát tánh không hai.
Giảng: 9. Đại nguyện thanh tịnh : Đại nguyện phát ra đặc biệt thanh tịnh và tự tại với tất cả Bồ Tát, đều là một.
Chư hạnh thanh tịnh, dĩ Phổ Hiền thừa nhi xuất ly cố.
Công-hạnh thanh-tịnh, vì dùng hạnh Phổ-Hiền mà xuất ly.
Giảng: 10. Các hạnh thanh tịnh : Tu lục độ vạn hạnh rất thanh tịnh, vì nhờ thừa của Bồ Tát Phổ Hiền mà thoát khỏi ba cõi.
Thị vi thập.
Đó là mười.
Giảng: Đó là mười pháp thanh tịnh của Bồ Tát.
=======================================
Thập Chủng Ba-La-Mật
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Ba-la-mật. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ ba-la-mật. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp Ba la mật. Những gì là mười ? Đó là :
Thí Ba-la-mật, tất xả nhất thiết chư sở hữu cố
Thí ba-la-mật, vì xả bỏ tất cả sở-hữu.
Giảng: 1. Bố thí Ba la mật : Bố thí có ba loại :
a. Bố thí tài : Gồm có nội tài (đầu mắt tuỷ não) và ngoại tài (đất nước vợ con).
b. Bố thí pháp : Tức là giảng kinh thuyết pháp, khiến cho người nghe thấu hiểu đại ý Phật pháp, y pháp tu hành, do đó :
Trong các sự bố thí, Pháp thí là hơn hết.
Đem pháp bố thí cho người khác, là bố thí cao thượng nhất.
c. Bố thí vô uý : Nếu có người phát sinh tâm sợ hãi, phải dùng lời hay tốt để an ủi họ, khiến cho họ chẳng còn cảm giác sợ hãi nữa, hy sinh tất cả để giúp đỡ họ, giải quyết mọi sự khó khăn. Bố thí tức là xả bỏ hết thảy tất cả tài vật, chẳng còn tư tưởng xả bỏ chẳng được.
Giới Ba-la-mật, tịnh Phật giới cố;
Giới ba-la-mật, vì thanh-tịnh phật-giới.
Giảng: 2. Trì giới Ba la mật : Giới có năm giới (giới cơ bản), tám giới (giới Bát quan trai), mười giới (giới Sa di), mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh (giới Bồ Tát), hai trăm năm mươi giới (giới Tỳ Kheo), ba trăm bốn mươi tám giới (giới Tỳ Kheo Ni). Tóm lại, giới là ngừa ác phòng quấy, dạy người đừng làm ác mà làm thiện. Người học Phật, nhất định phải giữ gìn giới luật. Hay giữ giới luật thì sẽ đến được cảnh giới vô ngã, tất cả đều thanh tịnh. Chúng ta người học Phật, phải luôn luôn giữ gìn thanh tịnh giới luật của Phật.
Nhẫn Ba-la-mật, trụ Phật nhẫn cố
Nhẫn ba-la-mật, vì an-trụ phật-nhẫn.
Giảng: 3. Nhẫn Ba la mật : Nhẫn gồm có sinh nhẫn, pháp nhẫn, vô sinh pháp nhẫn. Sinh nhẫn là gì ? Đối với tất cả chúng sinh phải nhẫn. Pháp nhẫn là gì ? Đối với tất cả pháp phải nhẫn. Vô sinh pháp nhẫn là gì ? Tức là chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt. Lúc đó, nhẫn nơi tâm, do đó có câu:
Miệng muốn nói mà lời đã bặc,
Tâm muốn duyên mà tư lự chẳng còn nữa.
Đến cảnh giới không còn lời gì để nói, không còn tướng văn tự. Lúc đó, cảnh giới không dễ gì nhẫn được, nhưng vẫn phải nhẫn, mới là thượng sách. Do đó có câu :
Nhẫn là báu vô giá
Mọi người xử không tốt
Nếu hay dùng được nó
Mọi việc đều sẽ tốt.
Đó là nhẫn Ba la mật, phải trụ ở trong nhẫn của Phật, Phật hay nhẫn được những điều mà người khác không nhẫn được.
Tinh tấn Ba-la-mật, nhất thiết sở tác Bất-thoái-chuyển cố
Tinh-tấn ba-la-mật, vì tất cả chỗ làm chẳng thối chuyển.
Giảng: 4. Tinh tấn Ba la mật : Ở trên đã nói về bố thí Ba la mật, trì giới Ba la mật, nhẫn nhục Ba la mật, dùng tinh tấn Ba la mật để làm tiên sách mới có công hiệu. Bất cứ làm việc gì, phải dũng mãnh tinh tấn hướng về trước, đừng thối lùi về sau. Không thể niệm trước muốn xuất gia, niệm sau thì muốn hoàn tục, đó chẳng phải là hành vi của đại trượng phu.
Thiền Ba-la-mật, niệm nhất cảnh cố
Thiền ba-la-mật, vì nhớ một cảnh.
Giảng: 5. Thiền định Ba la mật : Phải tu tứ thiền bát định.
Tứ thiền là :
– Sơ thiền
– Nhị thiền
– Tam thiền
– Tứ thiền.
Bát định là : Tứ thiền và Tứ không xứ.
Tứ không xứ là :
– Không vô biên xứ.
– Thức vô biên xứ.
– Không vô sở hữu xứ.
– Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Tứ thiền tại sắc giới, Tứ không xứ tại vô sắc giới. Thiền là chuyên nhất một cảnh, tâm chẳng duyên ngoài.
Bát-nhã Ba-la-mật, như thật quan sát nhất thiết pháp cố
Bát-nhã ba-la-mật, vì như thiệt quán sát tất cả pháp.
Giảng: 6. Bát nhã Ba la mật : Dùng diệu quán sát trí để quán sát tất cả các pháp.
Trí Ba-la-mật, nhập Phật lực cố
Trí ba-la-mật, vì nhập phật-lực.
Giảng: 7. Trí huệ Ba la mật : Bồ Tát có trí huệ, vào được mười lực của Phật.
Nguyện Ba-la-mật, mãn túc Phổ Hiền chư đại nguyện cố
Nguyện ba-la-mật, vì đầy đủ những đại-nguyện Phổ-Hiền.
Giảng: 8. Nguyện Ba la mật : Bồ Tát phát bồ đề nguyện, đầy đủ mười đại nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền.
Thần thông Ba-la-mật, thị Hiện-Nhất-Thiết tự tại dụng cố
Thần-thông ba-la-mật, vì thị-hiện tất cả công-dụng tự-tại.
Giảng: 9. Thần thông Ba la mật : Bồ Tát có đủ thứ thần thông lực, hay thị hiện tất cả thần thông diệu dụng tự tại.
Pháp Ba-la-mật, phổ nhập nhất thiết chư Phật Pháp cố.
Pháp ba-la-mật, vì sao khắp tất cả phật-pháp.
Giảng: 10. Pháp Ba la mật : Pháp tức là pháp phương tiện khéo léo, có thể vào khắp tất cả pháp của chư Phật nói, để giáo hoá tất cả chúng sinh.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc cụ túc Như Lai vô thượng Đại trí Ba-la-mật.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được đầy đủ đại-trí ba-la-mật vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười pháp ba la mật. Nếu tất cả Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được đầy đủ vô thượng đại trí huệ Ba la mật của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Trí Tùy Giác
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trí tùy giác. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười trí tùy-giác. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười trí tuỳ giác. Những gì là mười ? Đó là :
Nhất thiết thế giới vô lượng sái biệt trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả thế-giới vô-lượng sai-biệt.
Giảng: 1. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả thế giới có vô lượng khác biệt.
Nhất thiết chúng sanh giới bất khả tư nghị trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả chúng-sanh-giới bất-tư-nghì.
Giảng: 2. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả cõi chúng sinh không thể nghĩ bàn. Chúng sinh có thống khổ gì ? Thì ứng dụng cái đó để độ thoát họ.
Nhất thiết chư pháp nhất nhập chủng chủng chủng chủng nhập nhất trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả pháp, một vào nhiều pháp, nhiều vào một pháp.
Giảng: 3. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả các pháp, một vào đủ thứ, đủ thứ vào một. Do đó có câu : Một gốc tán làm vạn thù, vạn thù quy về một gốc.
Nhất thiết pháp giới quảng đại trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả pháp-giới rộng lớn.
Giảng: 4. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả pháp giới rộng lớn.
Nhất thiết hư không giới cứu cánh trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả hư-không-giới rốt ráo.
Giảng: 5. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả hư không giới rốt ráo.
Nhất thiết thế giới nhập quá khứ thế trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả thế-giới nhập quá-khứ thế.
Giảng: 6. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả thế giới vào đời quá khứ.
Nhất thiết thế giới nhập vị lai thế trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả thế-giới nhập vị-lai thế.
Giảng: 7. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả thế giới vào đời vị lai.
Nhất thiết thế giới nhập hiện tại thế trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả thế-giới nhập hiện-tại thế.
Giảng: 8. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả thế giới vào đời hiện tại. Cảnh giới nầy, có thể vào với nhau. Đời quá khứ có thể vào đời hiện tại, đời hiện tại có thể vào đời vị lai, đời vị lai có thể vào đời quá khứ, vào với nhau, hổ tương vô ngại.
Nhất thiết Như Lai vô lượng hạnh nguyện giai ư nhất trí nhi đắc viên mãn trí tùy giác
Trí tùy giác tất cả Như-Lai vô-lượng hạnh nguyện đều ở nơi một trí mà được viên-mãn.
Giảng: 9. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ tất cả Như Lai vô lượng hạnh nguyện, đều ở nơi một trí mà được viên mãn.
Tam thế chư Phật giai đồng nhất hạnh nhi đắc xuất ly trí tùy giác.
Trí tùy giác tam thế chư Phật đều đồng một hạnh mà được xuất-ly.
Giảng: 10. Trí huệ tuỳ sự giác ngộ ba đời chư Phật đều đồng một hạnh, mà được thoát khỏi.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết pháp tự tại quang minh, sở nguyện giai mãn, ư nhất niệm khoảnh tất năng giải liễu nhất thiết Phật Pháp thành đẳng chánh giác.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an trụ pháp nầy thời được tất cả pháp tự-tại quang-minh, sở-nguyện đều viên-mãn, trong khoảng một niệm đều hay hiểu rõ tất cả phật-pháp thành đẳng chánh-giác.
Giảng: Đó là mười trí huệ tuỳ sự giác ngộ của Bồ Tát. Nếu tất cả Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì được tất cả pháp tự tại quang minh, sở nguyện đều viên mãn. Trong khoảng một niệm, đều hiểu rõ tất cả Phật pháp, thành Đẳng Chánh Giác.
=======================================
Thập Chủng Chứng Tri
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng chứng tri. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười điều chứng tri. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp chứng biết. Những gì là mười ? Đó là :
Tri nhất thiết pháp nhất tướng
Biết tất cả pháp một tướng.
Giảng: 1. Biết tất cả pháp là một tướng, vắng lặng bất động.
Tri nhất thiết pháp Vô-Lượng-Tướng
Biết tất cả pháp vô-lượng tướng.
Giảng: 2. Biết tất cả pháp vô lượng tướng, lại có vô lượng tướng trạng khác nhau.
Tri nhất thiết pháp tại nhất niệm
Biết tất cả pháp tại một niệm.
Giảng: 3. Biết tất cả pháp trong một niệm, có thể ngộ nhập.
Tri nhất thiết chúng sanh tâm hành vô ngại
Biết tất cả chúng-sanh tâm hành vô-ngại.
Giảng: 4. Biết tất cả tâm hạnh chúng sinh vô ngại.
Tri nhất thiết chúng sanh chư căn bình đẳng
Biết tất cả chúng-sanh các căn bình-đẳng.
Giảng: 5. Biết tất cả chúng sinh các căn đều bình đẳng.
Tri nhất thiết chúng sanh phiền não tập khí hành
Biết tất cả chúng-sanh phiền-não tập-khí hiện hành.
Giảng: 6. Biết tất cả chúng sinh phiền não và tập khí hành, có sâu có cạn, có nhiều có ít, đủ thứ sự khác nhau.
Tri nhất thiết chúng sanh tâm sử hành
Biết tất cả chúng-sanh tâm sử hiện hành.
Giảng: 7. Biết tất cả tâm chúng sinh có mười triền và mười sử hành.
– Mười triền đó là : Vô tàm, vô quý, đố kị, xan tham, hối, thuỳ miên, trạo cử, hôn trầm, sân khuể, phú.
– Mười sử đó là : Thân kiến, biên kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến (đây là năm lợi sử), tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm mạn, tâm nghi (đây là năm độn sử).
Tri nhất thiết chúng sanh thiện, bất thiện hành
Biết tất cả chúng-sanh thiện và bất-thiện hiện hành.
Giảng: 8. Biết tất cả chúng sinh người nào có hạnh lành, người nào chẳng có hạnh lành.
Tri nhất thiết Bồ Tát nguyện hạnh tự tại trụ trì biến hóa
Biết tất cả Bồ-Tát nguyện hạnh tự tại trụ trì biến-hóa.
Giảng: 9. Biết tất cả Bồ Tát tu hành, nhậm vận tự tại, trụ trì giáo hoá.
Tri nhất thiết Như Lai cụ túc thập lực thành đẳng chánh giác.
Biết tất cả Như-Lai đầy đủ thập-lực thành Ðẳng-Chánh-Giác.
Giảng: 10. Biết tất cả Như Lai đầy đủ mười lực, thành Đẳng Chánh Giác.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết pháp thiện xảo phương tiện.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được tất cả phương-tiện thiện-xảo.
Giảng: Đó là mười pháp chứng biết. Nếu tất cả Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được tất cả pháp phương tiện khéo léo.
=======================================
Thập Chủng Lực
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng lực. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ năng-lực. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười lực. Những gì là mười ? Đó là :
Nhập nhất thiết pháp tự tánh lực
Năng-lực nhập tự-tánh của tất cả pháp.
Giảng: 1. Lực vào tự tánh của tất cả các pháp.
Nhập nhất thiết pháp như hóa lực
Năng-lực nhập tất cả pháp như hóa.
Giảng: 2. Lực vào tất cả các pháp như biến hoá.
Nhập nhất thiết pháp như huyễn lực
Năng-lực nhập tất cả pháp như huyễn.
Giảng: 3. Lực như huyễn vào tất cả pháp.
Nhập nhất thiết pháp giai thị Phật pháp lực
Năng-lực nhập tất cả pháp đều là phật-pháp.
Giảng: 4. Lực vào tất cả pháp đều là Phật pháp.
Ư nhất thiết Pháp vô nhiễm trước lực
Năng-lực nơi tất cả pháp không nhiễm-trước.
Giảng: 5. Lực nơi tất cả pháp không nhiễm trước.
Ư nhất thiết Pháp thậm minh giải lực
Năng-lực nơi tất cả pháp rất hiểu rõ.
Giảng: 6. Lực nơi tất cả pháp hiểu rõ thâm sâu.
Ư nhất thiết thiện tri thức hằng bất xả ly tôn trọng tâm lực
Năng-lực nơi tất cả thiện-tri-thức hằng chẳng bỏ rời tâm tôn trọng.
Giảng: 7. Lực nơi tất cả thiện tri thức luôn không xả lìa tâm tôn trọng.
Lệnh nhất thiết thiện căn thuận chí vô thượng trí Vương lực
Năng-lực làm cho tất cả thiện-căn thuận đến trí-vương vô-thượng.
Giảng: 8. Lực khiến cho tất cả căn lành thuận đến trí vương vô thượng.
Ư nhất thiết Phật Pháp thâm tín bất báng lực
Năng-lực nơi tất cả phật-pháp thâm tín chẳng hủy báng.
Giảng: 9. Lực đối với tất cả Phật pháp tin sâu không phỉ báng.
Lệnh nhất thiết trí tâm bất thoái thiện xảo lực.
Năng-lực làm cho nhứt-thiết-trí tâm bất thối thiện-xảo.
Giảng: 10. Lực khiến cho nhất thiết trí tâm không thối sự khéo léo.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức cụ Như Lai vô thượng chư lực.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời đủ những năng-lực vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười lực của Bồ Tát. Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đầy đủ các lực vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Bình Đẳng
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng bình đẳng. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ bình-đẳng. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp bình đẳng. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết chúng sanh bình đẳng, nhất thiết pháp bình đẳng, nhất thiết sát bình đẳng, nhất thiết thâm tâm bình đẳng, nhất thiết thiện căn bình đẳng, nhất thiết Bồ Tát bình đẳng, nhất thiết nguyện bình đẳng, nhất thiết Ba-la-mật bình đẳng, nhất thiết hành bình đẳng, nhất thiết Phật bình đẳng.
Nơi tất cả chúng-sanh bình-đẳng. Tất cả pháp bình-đẳng. Tất cả cõi bình-đẳng. Tất cả thâm tâm bình-đẳng. Tất cả thiện-căn bình-đẳng. Tất cả Bồ-Tát bình-đẳng. Tất cả nguyện bình-đẳng. Tất cả ba-la-mật bình-đẳng. Tất cả hạnh bình-đẳng. Tất cả Phật bình-đẳng.
Giảng:
1. Đối với tất cả chúng sinh cũng bình đẳng.
2. Đối với Tất cả pháp cũng bình đẳng.
3. Đối với tất cả cõi cũng bình đẳng.
4. Đối với tất cả thâm tâm cũng bình đẳng.
5. Đối với tất cả căn lành cũng bình đẳng.
6. Đối với tất cả Bồ Tát cũng bình đẳng.
7. Đối với tất cả nguyện cũng bình đẳng.
8. Đối với tất cả Ba la mật cũng bình đẳng.
9. Đối với tất cả hạnh cũng bình đẳng.
10. Đối với tất cả chư Phật cũng bình đẳng.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng bình đẳng pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được pháp vô-thượng bình-đẳng của chư Phật.
Giảng: Đó là mười. Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được pháp bình đẳng vô thượng của tất cả chư Phật.
=======================================
Thập Chủng Phật Pháp Thật Nghĩa Cú
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Phật Pháp thật nghĩa cú. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười câu thiệt nghĩa phật-pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười câu Phật pháp thật nghĩa. Những gì là mười ? Đó là :
Nhất thiết pháp đãn hữu danh; Nhất thiết pháp do như huyễn; Nhất thiết pháp do như ảnh; Nhất thiết Pháp đãn duyên khởi; Nhất thiết pháp nghiệp thanh tịnh; Nhất thiết pháp đãn văn tự sở tác; Nhất thiết pháp thật tế; Nhất thiết pháp vô tướng; Nhất thiết pháp đệ nhất nghĩa; Nhất thiết pháp Pháp giới.
Tất cả pháp chỉ có danh. Tất cả pháp dường như huyễn. Tất cả pháp dường như bóng. Tất cả pháp chỉ duyên-khởi. Tất cả pháp nghiệp thanh-tịnh. Tất cả pháp chỉ văn tự làm ra. Tất cả pháp thiệt-tế. Tất cả pháp vô-tướng. Tất cả pháp đệ nhứt nghĩa. Tất cả pháp là pháp-giới.
Giảng:
1. Tất cả pháp chỉ có là giả danh mà thôi, vốn chẳng có thật thể.
2. Tất cả pháp như huyễn hoá, hư vọng chẳng thật.
3. Tất cả pháp như hình bóng, chẳng phải là thể chân thật, do đó có câu:
Trăng trong nước, hoa trong gương.
4. Tất cả pháp đều do nhân duyên mà sinh khởi, duyên khởi là không tánh, do đó có câu:
Các pháp do duyên sinh,
Các pháp do duyên diệt.
5. Tất cả pháp nghiệp vốn là thanh tịnh, chẳng có sự nhiễm ô.
6. Tất cả pháp chỉ là văn tự sở tác.
7. Tất cả pháp là lý thể thật tế.
8. Tất cả pháp là vô tướng.
9. Tất cả pháp đều là đệ nhất nghĩa.
10. Tất cả pháp đều có pháp giới của nó.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức thiện nhập nhất thiết trí trí vô thượng chân thật nghĩa.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời khéo nhập nhứt-thiết-chủng trí vô-thượng chơn-thiệt nghĩa.
Giảng: Đó là mười pháp. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ khéo vào trí Nhất thiết trí vô thượng chân thật nghĩa.
=======================================
Thuyết Thập Chủng Pháp
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát thuyết thập chủng Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát nói mười pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nói mười thứ pháp. Những gì là mười ? Đó là :
Thuyết thậm thâm Pháp; Thuyết quảng đại Pháp; Thuyết chủng chủng Pháp; Thuyết nhất thiết trí Pháp; Thuyết tùy thuận Ba-la-mật Pháp; Thuyết xuất sanh Như Lai lực Pháp; Thuyết tam thế tướng ứng Pháp; Thuyết lệnh bồ tát bất thoái Pháp; Thuyết tán thán Phật công đức Pháp; Thuyết nhất thiết Bồ-tát học nhất thiết Phật bình đẳng, nhất thiết Như Lai cảnh giới tướng ứng Pháp.
Nói pháp thậm-thâm. Nói pháp quảng-đại. Nói các loại pháp. Nói pháp nhứt-thiết-trí. Nói pháp tùy thuận ba-la-mật. Nói pháp xuất sanh Như-Lai lực. Nói pháp tam-thế tương-ưng. Nói pháp làm cho Bồ-Tát chẳng thối. Nói pháp tán-thán Phật công-đức. Nói pháp tất cả Bồ-Tát học tất cả Phật bình-đẳng, tương-ưng với cảnh-giới của tất cả Như-Lai.
Giảng:
1. Bồ Tát hay nói pháp thâm sâu.
2. Bồ Tát hay nói pháp rộng lớn.
3. Bồ Tát hay nói pháp các thứ.
4. Bồ Tát hay nói pháp nhất thiết trí.
5. Bồ Tát hay nói pháp tuỳ thuận Ba la mật.
6. Bồ Tát hay nói pháp sinh ra mười lực của Như Lai.
7. Bồ Tát hay nói pháp ba đời liên tục.
8. Bồ Tát hay nói pháp khiến cho Bồ Tát chẳng thối chuyển.
9. Bồ Tát hay nói pháp khen ngợi công đức của Phật.
10. Bồ Tát hay nói pháp tất cả Bồ Tát học sự bình đẳng của tất cả chư Phật, cảnh giới tương ưng của tất cả Như Lai.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng xảo thuyết Pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được pháp xảo thuyết vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ được trí huệ khéo nói pháp vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thuyết Thập Pháp Trì
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trì. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp trì. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp trì. Những gì là mười ? Đó là :
Trì sở tập nhất thiết phước đức thiện căn
Trì tất cả phước-đức thiện-căn đã chứa nhóm.
Giảng: 1. Phải thọ trì tích tập tất cả căn lành phước đức.
Trì nhất thiết Như Lai sở thuyết pháp
Trì pháp của tất cả Như-Lai diễn-thuyết.
Giảng: 2. Phải thọ trì pháp của tất cả Như Lai nói.
Trì nhất thiết thí dụ
Trì tất cả ví-dụ.
Giảng: 3. Phải thọ trì tất cả ví dụ.
Trì nhất thiết pháp lý thú môn
Trì môn lý-thú của tất cả pháp.
Giảng: 4. Phải thọ trì tất cả thú môn pháp lý.
Trì nhất thiết xuất sanh đà-la-ni môn
Trì tất cả môn xuất sanh đà-la-ni.
Giảng: 5. Phải thọ trì tất cả môn xuất sinh đà la ni.
Trì nhất thiết trừ nghi hoặc Pháp
Trì tất cả trừ nghi hoặc.
Giảng: 6. Phải thọ trì tất cả pháp giải trừ nghi hoặc.
Trì thành tựu nhất thiết bồ Tát Pháp
Trì pháp thành-tựu tất cả Bồ-Tát.
Giảng: 7. Phải thọ trì pháp thành tựu tất cả Bồ Tát.
Trì nhất thiết Như Lai sở thuyết bình đẳng tam muội môn
Trì môn bình-đẳng tam-muội của tất cả Như-Lai nói.
Giảng: 8. Phải thọ trì tất cả môn tam muội bình đẳng của Như Lai nói.
Trì nhất thiết pháp chiếu minh môn
Trì môn chiếu minh của tất cả pháp.
Giảng: 9. Phải thọ trì tất cả môn pháp chiếu sáng.
Trì nhất thiết chư Phật thần thông du hí lực.
Trì năng-lực thần-thông du-hí của tất cả chư Phật.
Giảng: 10. Phải thọ trì sức thần thông du hí của tất cả chư Phật.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí trụ trì lực.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời được năng-lực trụ trì đại trí vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được sức trụ trì đại trí vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Biện Tài
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng biện tài. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ biện-tài. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ biện tài. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết Pháp vô phân biệt biện tài
Biện-tài vô-phân-biệt nơi tất cả pháp.
Giảng: 1. Biện tài đối với tất cả pháp không phân biệt. Pháp vốn là vắng lặng, chẳng có gì để phân biệt.
Ư nhất thiết Pháp vô sở tác biện tài
Biện-tài vô-sở-tác nơi tất cả pháp.
Giảng: 2. Biện tài đối với tất cả pháp không chỗ làm. Pháp tức nhiên là vắng lặng, là không chẳng có thể tánh, cho nên chẳng có một kẻ nào làm.
Ư nhất thiết Pháp vô sở trước biện tài
Biện-tài vô-sở-trước nơi tất cả pháp.
Giảng: 3. Biện tài đối với tất cả pháp không có mọi sự chấp trước.
Ư nhất thiết Pháp liễu đạt không biện tài
Biện-tài thấu rõ tánh không nơi tất cả pháp.
Giảng: 4. Biện tài đối với tất cả pháp thấu đạt đều là không.
Ư nhất thiết Pháp vô nghi ám biện tài
Biện-tài không nghi tối nơi tất cả pháp.
Giảng: 5. Biện tài đối với tất cả pháp không nghi hoặc và đen tối.
Ư nhất thiết pháp Phật gia bị biện tài
Biện-tài Phật gia-bị nơi tất cả pháp.
Giảng: 6. Biện tài đối với tất cả pháp được Phật gia bị.
Ư nhất thiết Pháp tự giác ngộ biện tài
Biện-tài tự giác-ngộ nơi tất cả pháp.
Giảng: 7. Biện tài đối với tất cả pháp tự mình giác ngộ, không do người khác dạy.
Ư nhất thiết Pháp văn cú sái biệt thiện xảo biện tài
Biện-tài văn cú sai biệt thiện xảo nơi tất cả pháp.
Giảng: 8. Biện tài khéo léo đối với tất cả pháp câu văn khác biệt.
Ư nhất thiết Pháp chân thật thuyết biện tài
Biện-tài nói chơn-thật nơi tất cả pháp.
Giảng: 9. Biện tài đối với tất cả pháp diễn nói đều chân thật.
Tùy nhất thiết chúng sanh tâm lệnh hoan hỉ biện tài.
Biện-tài tùy theo tâm của tất cả chúng-sanh làm cho họ hoan-hỷ.
Giảng: 10. Biện tài tuỳ theo tâm của tất cả chúng sinh, nói tất cả pháp, khiến cho tất cả đều hoan hỉ.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng xảo diệu biện tài.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được biện-tài xảo diệu vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười pháp biện tài. Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được biện tài khéo léo vi diệu vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Tự Tại
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tự tại. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ tự-tại. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp tự tại. Những gì là mười ? Đó là :
Giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh tự tại
Tự-tại giáo-hóa điều-phục tất cả chúng-sanh.
Giảng: 1. Tự tại giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh.
Phổ chiếu nhất thiết pháp tự tại
Tự-tại chiếu khắp tất cả pháp.
Giảng: 2. Tự tại chiếu khắp tất cả các pháp.
Tu nhất thiết thiện căn hạnh tự tại
Tự-tại tu tất cả hạnh thiện-căn.
Giảng: 3. Tự tại tu tất cả hạnh căn lành.
Quảng đại trí tự tại
Tự-tại trí quảng-đại.
Giảng: 4. Tự tại trí huệ rộng lớn vô biên.
Vô sở y giới tự tại
Tự-tại cấm giới vô-sở-ý.
Giảng: 5. Tự tại giới luật không chỗ nương tựa.
Nhất thiết thiện căn hồi hướng Bồ-đề tự tại
Tự-tại tất cả thiện-căn hồi-hướng bồ-đề.
Giảng: 6. Tự tại tất cả căn lành hồi hướng bồ đề.
Tinh tấn bất thoái chuyển tự tại
Tự-tại tinh-tấn bất-thối-chuyển.
Giảng: 7. Tự tại tinh tấn không thối chuyển.
Trí tuệ tồi phá nhất thiết chúng ma tự tại
Tự-tại trí-huệ dẹp phá tất cả chúng ma.
Giảng: 8. Tự tại trí huệ phá tan tất cả chúng ma.
Tùy sở lạc dục lệnh phát Bồ-đề tâm tự tại
Tự-tại tùy sở-thích khiến phát tâm bồ-đề.
Giảng: 9. Tự tại tuỳ theo sự ưa thích khiến cho phát bồ đề tâm.
Tùy sở ưng hóa hiện thành chánh giác tự tại.
Tự-tại tùy sở-ưng hóa hiện thành chánh-giác.
Giảng: 10. Tự tại tuỳ sự ứng hoá chúng sinh mà hiện thành chánh giác.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng Đại trí tự tại.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời được tự-tại đại-trí vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được đại trí tự tại vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Vô Trước
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Vô Trước. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp vô-trước. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp không chấp. Những gì là mười ? Đó là :
Ư nhất thiết thế giới vô trước Vô-trước nơi tất cả thế-giới.
Ư nhất thiết chúng sanh vô trước Vô-trước nơi tất cả chúng-sanh.
Ư nhất thiết Pháp vô trước Vô-trước nơi tất cả pháp.
Ư nhất thiết sở tác vô trước Vô-trước nơi tất cả sở-tác.
Ư nhất thiết thiện căn vô trước Vô-trước nơi tất cả thiện-căn.
Ư nhất thiết thọ sanh xứ vô trước Vô-trước nơi tất cả chỗ thọ sanh.
Ư nhất thiết nguyện vô trước Vô-trước nơi tất cả nguyện.
Ư nhất thiết hành vô trước Vô-trước nơi tất cả hạnh.
Ư nhất thiết Bồ Tát Vô Trước Vô-trước nơi tất cả Bồ-Tát.
Ư nhất thiết Phật vô trước Vô-trước nơi tất cả Phật.
Giảng:
1. Không chấp trước tất cả thế giới.
2. Không chấp trước tất cả chúng sinh.
3. Không chấp trước tất cả các pháp.
4. Không chấp trước tất cả việc làm.
5. Không chấp trước tất cả căn lành.
6. Không chấp trước tất cả nơi thọ sanh.
7. Không chấp trước tất cả các nguyện.
8. Không chấp trước tất cả các hạnh.
9. Không chấp trước tất cả Bồ Tát.
10. Không chấp trước tất cả chư Phật.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức năng tốc chuyển nhất thiết chúng tưởng, đắc vô thượng thanh tịnh trí tuệ.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ nơi pháp nầy thời có thể mau chuyển tất cả tưởng được trí-huệ thanh-tịnh vô-thượng.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sớm sẽ chuyển được tất cả các nghĩ tưởng, đắc được trí huệ thanh tịnh vô thượng.
=======================================
Thập Chủng Bình Đẳng Tâm
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng bình đẳng tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười thứ tâm bình-đẳng. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười tâm bình đẳng. Những gì là mười ? Đó là :
Tích tập nhất thiết công đức bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng chứa nhóm tất cả công-đức.
Giảng: 1. Tâm bình đẳng tích tập tất cả công đức.
Phát nhất thiết sái biệt nguyện bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng phát tất cả nguyện sai-biệt.
Giảng: 2. Tâm bình đẳng phát tất cả thệ nguyện khác biệt.
Ư nhất thiết chúng sanh thân bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng nơi tất cả thân chúng-sanh.
Giảng: 3. Tâm bình đẳng đối với thân của tất cả chúng sinh.
Ư nhất thiết chúng sanh nghiệp báo bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng nơi nghiệp báo của tất cả chúng-sanh.
Giảng: 4. Tâm bình đẳng đối với nghiệp báo của tất cả chúng sinh.
Ư nhất thiết pháp bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng nơi tất cả pháp.
Giảng: 5. Tâm bình đẳng đối với tất cả pháp.
Ư nhất thiết tịnh uế quốc độ bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng nơi tất cả quốc-độ tịnh-uế.
Giảng: 6. Tâm bình đẳng đối với tất cả cõi nước dơ bẩn và cõi nước sạch sẽ.
Ư nhất thiết chúng sanh giải bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng nơi tất cả tri-giải của chúng-sanh.
Giảng: 7. Tâm bình đẳng đối với sự hiểu biết của tất cả chúng sinh.
Ư nhất thiết hạnh vô sở phân biệt bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng nơi tất cả hạnh không phân-biệt.
Giảng: 8. Tâm bình đẳng đối với tất cả hạnh không phân biệt.
Ư nhất thiết Phật lực vô úy bình đẳng tâm
Tâm bình-đẳng nơi lực và vô-úy của tất cả Phật.
Giảng: 9. Tâm bình đẳng đối với lực và vô uý của tất cả chư Phật.
Ư nhất thiết như lai trí tuệ bình đẳng tâm.
Tâm bình-đẳng nơi trí-huệ của tất cả Như-Lai.
Giảng: 10. Tâm bình đẳng đối với trí huệ của tất cả Như Lai.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng Đại bình đẳng tâm.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ trong đây thời được tâm đại bình-đẳng vô-thượng của Như-Lai.
Giảng: Đó là mười. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ được tâm đại bình đẳng vô thượng của Như Lai.
=======================================
Thập Chủng Xuất Sanh Trí Tuệ
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng xuất sanh trí tuệ. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp xuất sanh trí-huệ. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp sinh ra trí huệ. Những gì là mười ? Đó là :
Tri nhất thiết chúng sanh giải xuất sanh trí tuệ
Biết tất cả chúng-sanh tri-giải xuất sanh trí-huệ.
Giảng: 1. Biết sự hiểu biết của tất cả chúng sinh sinh ra trí huệ.
Tri nhất thiết Phật sát chủng chủng sái biệt xuất sanh trí tuệ
Biết tất cả cõi Phật nhiều thứ sai-biệt xuất sanh trí-huệ.
Giảng: 2. Biết tất cả cõi Phật đủ thứ sự khác biệt sinh ra trí huệ.
Tri thập phương võng phần tề xuất sanh trí tuệ
Biết chừng ngằn mười phương xuất sanh trí-huệ.
Giảng: 3. Biết lưới mười phương phân đều sinh ra trí huệ.
Tri phước ngưỡng đẳng nhất thiết thế giới xuất sanh trí tuệ
Biết tất cả thế-giới úp ngửa vân vân xuất sanh trí huệ.
Giảng: 4. Biết tất cả thế giới úp ngửa sinh ra trí huệ.
Tri nhất thiết pháp nhất tánh, chủng chủng tánh quảng Đại trụ xuất sanh trí tuệ
Biết tất cả pháp một tánh, nhiều tánh, trụ rộng lớn xuất sanh trí-huệ.
Giảng: 5. Biết tất cả pháp một tánh, tánh rộng lớn sinh ra trí huệ.
Tri nhất thiết chủng chủng thân xuất sanh trí tuệ
Biết tất cả nhiều loại thân xuất sanh trí-huệ.
Giảng: 6. Biết tất cả các thứ thân sinh ra trí huệ.
Tri nhất thiết thế gian điên đảo vọng tưởng tất vô sở trước xuất sanh trí tuệ
Biết tất cả thế-gian điên-đảo vọng-tưởng đều vô-sở-trước xuất sanh trí-huệ.
Giảng: 7. Biết tất cả thế gian điên đảo vọng tưởng đều không chấp trước sinh ra trí huệ.
Tri nhất thiết pháp cứu cánh giai dĩ nhất đạo xuất ly xuất sanh trí tuệ
Biết tất cả pháp rốt ráo đều do một đạo xuất ly xuất sanh trí-huệ.
Giảng: 8. Biết tất cả pháp rốt ráo đều dùng một con đường thoát khỏi sinh ra trí huệ.
Tri Như Lai thần lực năng nhập nhất thiết pháp giới xuất sanh trí tuệ
Biết Như-Lai thần-lực hay nhập tất cả pháp-giới xuất-sanh trí-huệ.
Giảng: 9. Biết thần lực Như Lai hay vào tất cả pháp giới sinh ra trí huệ.
Tri tam thế nhất thiết chúng sanh Phật chủng bất đoạn xuất sanh trí tuệ.
Biết tam-thế tất cả chúng-sanh phật-chủng không dứt xuất sanh trí-huệ.
Giảng: 10. Biết ba đời tất cả chúng sinh, đều có giống Phật chẳng dứt sinh ra trí huệ.
Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức ư chư Pháp vô bất liễu đạt.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời nơi tất cả pháp đều hiểu thấu tất cả.
Giảng: Đó là mười pháp sinh ra trí huệ. Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì nơi các pháp thảy đều thấu rõ thông đạt.
=======================================
Thập Chủng Biến Hóa
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng biến hóa. Hà đẳng vi thập? sở vị:
Chư Phật-tử ! Ðại Bồ-Tát có mười pháp biến-hóa. Những gì là mười ? Đó là :
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười pháp biến hoá. Những gì là mười ? Đó là :
Nhất thiết chúng sanh biến hóa Tất cả chúng-sanh biến-hóa.
Nhất thiết thân biến hóa Tất cả thân biến-hóa.
Nhất thiết sát biến hóa Tất cả cõi biến-hóa.
Nhất thiết cúng dường biến hóa Tất cả cúng-dường biến-hóa.
Nhất thiết âm thanh biến hóa Tất cả âm-thanh biến-hóa.
Nhất thiết hành nguyện biến hóa Tất cả hạnh nguyện biến-hóa.
Nhất thiết giáo hóa điều phục chúng sanh biến hóa Tất cả giáo-hóa điều-phục chúng-sanh biến-hóa.
Nhất thiết thành chánh giác biến hóa Tất cả thành chánh-giác biến-hóa.
Nhất thiết thuyết Pháp biến hóa Tất cả thuyết pháp biến-hóa.
Nhất thiết gia trì biến hóa. Tất cả gia-trì biến-hóa.
Giảng: 1. Tất cả chúng sinh hổ tương biến hoá.
Tôi thường nói : Đời trước của người Mỹ, không nhất định là người Mỹ, cũng có thể là người Tàu, cũng có thể là người Nhật. Người Mỹ chết rồi, hoặc có thể sinh vào nước Trung Quốc, hoặc có thể sinh vào nước Nhật. Tóm lại, người tây phương có thể sinh vào đông phương ; người đông phương có thể sinh vào tây phương, đó là hổ tương biến hoá.
2. Tất cả thân hổ tương biến hoá.
3. Tất cả cõi Phật cũng biến hoá.
4. Tất cả sự cúng dường cũng biến hoá.
5. Tất cả âm thanh cũng biến hoá.
6. Tất cả hạnh nguyện cũng biến hoá.
7. Tất cả sự giáo hoá điều phục chúng sinh cũng biến hoá.
8. Tất cả thành chánh giác đều biến hoá.
9. Tất cả thuyết pháp đều biến hoá.
10. Tất cả sự gia trì đều biến hoá.
Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc cụ túc nhất thiết vô thượng biến hóa pháp.
Đó là mười. Nếu chư Bồ-Tát an-trụ pháp nầy thời được đầy đủ tất cả pháp biến-hóa vô-thượng.
Giảng: Đó là mười pháp biến hoá. Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp nầy thì, sẽ được đầy đủ tất cả pháp biến hoá vô thượng.
Ở trên là hai trăm câu trả lời của Bồ Tát Phổ Hiền trả lời hai mươi câu hỏi của Bồ Tát Phổ Huệ đã hỏi về Thập Trụ. Vì hỏi một đáp mười vậy.