Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Ly Thế Gian – 3

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 38

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

PHẨM LY THẾ GIAN

Phần 3

==================================

TRẢ LỜI VỀ PHÁP THẬP ĐỊA

— o0o —

Thập Chủng Thân Nghiệp

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thân nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Ðại Bồ Tát có mười thân nghiệp. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thân nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Nhất thân sung mãn nhất thiết thế giới thân nghiệp

Thân nghiệp nơi một thân tràn đầy tất cả thế giới.

Giảng: 1. Thân nghiệp một thân đầy khắp tất cả thế giới. Nghiệp mà chúng ta tạo ra, chẳng có hình tướng. Nếu có hình tướng thì nghiệp của một người tạo, sẽ đầy khắp tận hư không pháp giới, e rằng không có chỗ dung chứa, có thể đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Ư nhất thiết chúng sanh tiền tất năng thị hiện thân nghiệp

Thân nghiệp ở trước tất cả chúng sanh đều có thể thị hiện.

Giảng: 2. Thân nghiệp ở trước tất cả chúng sinh đều có thể thị hiện thân.

 

Ư nhất thiết thú tất năng thọ sanh thân nghiệp

Thân nghiệp nơi tất cả loài đều có thể thọ sanh.

Giảng: 3. Thân nghiệp ở trong tất cả cõi đều có thể thọ sanh.

 

Du hành nhất thiết thế giới thân nghiệp

Thân nghiệp du hành tất cả thế giới.

Giảng: 4. Thân nghiệp có thể du hành tất cả thế giới.

 

Vãng nghệ nhất thiết chư Phật chúng hội thân nghiệp

Thân nghiệp qua đến tất cả chúng hội của chư Phật.

Giảng: 5. Thân nghiệp có thể đi đến tất cả chúng hội của chư Phật.

 

Năng dĩ nhất thủ phổ phước nhất thiết thế giới thân nghiệp

Thân nghiệp dùng một tay có thể che khắp tất cả thế giới.

Giảng: 6. Thân nghiệp có thể dùng một tay che trùm khắp tất cả thế giới.

 

Năng dĩ nhất thủ ma nhất thiết thế giới Kim cương vi sơn toái như vi trần thân nghiệp

Thân nghiệp có thể dùng một tay chà tất cả thế giới kim cang vi sơn nát như vi trần.

Giảng: 7. Thân nghiệp có thể dùng một tay chà núi kim cang thiết vi của tất cả thế giới nát như hạt bụi.

 

Ư tự thân trung Hiện-Nhất-Thiết Phật sát thành hoại thị ư chúng sanh thân nghiệp

Thân nghiệp ở trong tự thân hiện tất cả cõi Phật thành hoại chỉ bày cho chúng sanh.

Giảng: 8. Thân nghiệp ở trong thân mình hiện ra tất cả cõi Phật, có cõi thành, có cõi trụ, có cõi hoại, có cõi không, thị hiện nơi chúng sinh những cảnh giới đó, khiến cho họ thấy.

 

Dĩ nhất thân dung thọ nhất thiết chúng sanh giới thân nghiệp

Thân nghiệp dùng một thân dung thọ tất cả chúng sanh giới.

Giảng: 9. Thân nghiệp dùng một thân dung thọ tất cả cõi chúng sinh.

 

Ư tự thân trung phổ Hiện-Nhất-Thiết thanh tịnh Phật sát, nhất thiết chúng sanh ư trung thành đạo thân nghiệp.

Thân nghiệp ở trong thân hiện khắp tất cả cõi Phật thanh tịnh tất cả chúng sanh, rồi ở trong đó hiện thành đạo.

Giảng: 10. Thân nghiệp ở trong thân mình khắp hiện tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả chúng sinh thành đạo quả ở trong đó.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng Phật nghiệp, tất năng giác ngộ nhất thiết chúng sanh.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được Phật nghiệp vô thượng của Như Lai. Ðều có thể giác ngộ tất cả chúng sanh.

Giảng: Đó là mười thứ thân nghiệp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được Phật nghiệp vô thượng của Như Lai, đều có thể giác ngộ tất cả chúng sinh, có thể thành Phật.

 

================================

Thập Chủng Thân

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát phục hưũ thập chủng thân. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát lại có mười thân. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát lại có mười thứ thân. Những gì là mười ? Đó là :

 

Chư Ba-la-mật thân, tất chánh tu hành cố

Ba la mật thân, vì đều chánh tu hành.

Giảng: 1. Thân các Ba la mật, vì đều tu hành chánh pháp. Ba la mật dịch là đến bờ kia. Phàm là việc gì xong xuôi đều gọi là đến bờ kia. Có mười thứ Ba la mật : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, phương tiện, nguyện, lực, trí.

 

Tứ nhiếp thân, bất xả nhất thiết chúng sanh cố

Tứ nhiếp thân, vì chẳng bỏ tất cả chúng sanh.

Giảng: 2. Thân bốn nhiếp, vì chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Bốn nhiếp tức là : Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Bố thí tức là bố thí nội tài và ngoại tài. Ái ngữ tức là nói lời ái ngữ đối với tất cả chúng sinh, khiến cho họ không sinh phiền não. Lợi hành tức là lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ sinh tâm tu hành. Đồng sự tức là thị hiện thân đồng với chúng sinh, cùng làm việc với chúng sinh, dùng phương tiện độ thoát tất cả chúng sinh.

 

Đại bi thân, đại nhất thiết chúng sanh thọ vô lượng khổ vô bì yếm cố

Ðại bi thân, vì thay tất cả chúng sanh chịu vô lượng khổ không mỏi nhàm.

Giảng: 3. Thân đại bi, vì hay thay thế tất cả chúng sinh thọ vô lượng khổ chẳng khi nào nhàm mỏi, đó là biểu hiện đồng thể đại bi.

 

Đại từ thân, cứu hộ nhất thiết chúng sanh cố

Ðại từ thân, vì cứu hộ tất cả chúng sanh.

Giảng: 4. Thân đại từ, vì hay cứu hộ tất cả chúng sinh, chẳng phân biệt kẻ oán người thân, đều bình đẳng như nhau, đó là biểu hiện vô duyên đại từ.

 

Phước đức thân, nhiêu ích nhất thiết chúng sanh cố

Phước đức thân, vì lợi ích tất cả chúng sanh.

Giảng: 5. Thân phước đức, vì hay lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ an vui.

 

Trí tuệ thân, dữ nhất thiết Phật thân đồng nhất tánh cố

Trí huệ thân, vì đồng một tánh với tất cả Phật thân.

Giảng: 6. Thân trí huệ, vì đồng một tánh với thân của tất cả chư Phật.

 

Pháp thân, vĩnh ly chư thú thọ sanh cố

Pháp thân, vì lìa hẳn thọ sanh các loài.

Giảng: 7. Thân pháp, vì vĩnh viễn lìa hẳn thọ sinh các cõi.

 

Phương tiện thân, ư nhất thiết xứ hiện tiền cố

Phương tiện thân, vì tất cả xứ hiện tiền.

Giảng: 8. Thân phương tiện, vì hiện tiền ở tất cả mọi nơi, để giáo hoá chúng sinh.

 

Thần lực thân, thị Hiện-Nhất-Thiết thần biến cố

Thần lực thân, vì thị hiện tất cả thần biến.

Giảng: 9. Thân thần lực, vì hay thị hiện tất cả thần thông biến hoá.

 

Bồ-đề thân, tùy lạc, tùy thời thành chánh giác cố.

Bồ đề thân, vì tùy thích tùy thời thành Chánh giác.

Giảng: 10. Thân bồ đề, vì hay tuỳ thích tuỳ thời khiến chúng sinh thành Chánh Giác.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ thân.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thân đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ pháp thân của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được thân đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

 

==================================

Thập Chủng Ngữ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng ngữ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười ngữ. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ lời. Những gì là mười ? Đó là :

 

Nhu nhuyễn ngữ, sử nhất thiết chúng sanh giai an ổn cố

Nhu nhuyến ngữ, vì làm cho tất cả chúng sanh đều an ổn.

Giảng: 1. Lời mềm mại, lời của Bồ Tát nói rất là nhu hoà, và nhỏ nhẹ, khiến cho chúng sinh nghe, trong tâm có cảm giác thoải mái, chẳng giống như lời nói của phàm phu chúng ta, như khúc gỗ, khiến cho người nghe chịu chẳng thấu, đau đớn vô cùng, giống như dùng gậy đánh lên đầu, khiến cho họ chịu không được.

Các vị ! Đừng cho rằng phải dùng phương pháp dùng gậy đánh là tốt. Dùng gậy đánh lên đầu là đánh người, dùng sức quá nặng, sẽ làm cho họ bễ đầu chảy máu, thậm chí đánh chết người, cho nên phải học lời nói mềm mại của Bồ Tát, đừng khiến cho chúng sinh phải chịu sự đau khổ. Chúng ta nói ra câu nào, đều khiến cho chúng sinh chịu sự cay đắng, thì không nên. Lời nói của Bồ Tát hay khiến cho tất cả chúng sinh đều được an ổn, chẳng sinh phiền não. Chúng ta nghe đến mười thứ lời nói nầy của Bồ Tát rồi, ít nhất là phải nhớ lời mềm mại nầy.

 

Cam lồ ngữ, lệnh nhất thiết chúng sanh tất thanh lương cố

Cam lồ ngữ, vì làm cho tất cả chúng sanh đều thanh lương.

Giảng: 2. Lời cam lồ, lời nói của Bồ Tát ngọt ngào như cam lồ, hay thấm nhuần tâm của tất cả chúng sinh. Chúng sinh đều có sự nóng bức, một khi nghe đến lời cam lồ nầy, thì trong tâm chúng sinh lập tức được mát mẻ.

 

Bất cuống ngữ, sở hữu ngôn thuyết giai như thật cố

Bất cuống ngữ, vì bao nhiêu lời nói đều chơn thiệt.

Giảng: 3. Lời không dối, lời nói của Bồ Tát đều là thật, tơ hào không hư nguỵ.

 

Chân thật ngữ, nãi chí mộng trung vô vọng ngữ cố

Chơn thiệt ngữ, vì nhẫn đến trong chiêm bao cũng không vọng ngữ.

Giảng: 4. Lời chân thật, lời nói của Bồ Tát đều là chân thật chẳng hư, dù ở trong mộng cũng không nói dối. Tại sao vậy ? Vì Bồ Tát cho đến ý nghĩ nói dối cũng chẳng có, cho nên ở trong mộng cũng chẳng nói dối.

 

Quảng đại ngữ, nhất thiết thích, phạm, Tứ Thiên Vương đẳng giai tôn kính cố

Quảng đại ngữ, vì tất cả Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương v.v… đều tôn kính.

Giảng: 5. Lời rộng lớn, lời nói của Bồ Tát rất rộng lớn. Tất cả Trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương, Trời Tứ Thiên Vương v.v… họ đều lắng nghe lời nói nầy, đều sinh tâm tôn kính.

 

Thậm thâm ngữ, hiển thị pháp tánh cố

Thậm thâm ngữ, vì hiển thị pháp tánh.

Giảng: 6. Lời thâm sâu, lời nói của Bồ Tát rất là thâm sâu vi diệu, hay hiển bày pháp tánh.

 

Kiên cố ngữ, thuyết Pháp vô tận cố;

Kiên cố ngữ, vì thuyết pháp vô tận.

Giảng: 7. Lời kiên cố, lời nói của Bồ Tát là lời quyết định, vĩnh viễn chẳng thay đổi, pháp nói ra không cùng tận.

 

Chánh trực ngữ, phát ngôn dịch liễu cố

Chánh trực ngữ, vì phát ngôn dễ hiểu.

Giảng: 8. Lời chánh trực, lời nói của Bồ Tát ngay thẳng, chẳng quanh co, do đó : Tâm thẳng là đạo tràng, chẳng nói lời bí mật khiến cho người chẳng minh bạch, mà nói lời chánh trực khiến cho người dễ hiểu.

 

Chủng chủng ngữ, tùy thời thị hiện cố

Chủng chủng ngữ, vì tùy thời thị hiện.

Giảng: 9. Lời đủ thứ, lời nói của Bồ Tát, có lúc vì giáo hoá chúng sinh khởi kiến, tuỳ thời tuỳ lúc thị hiện lời phương tiện.

 

Khai ngộ nhất thiết chúng sanh ngữ, tùy kỳ dục lạc lệnh giải liễu cố.

Khai ngộ tất cả chúng sanh ngữ, vì tùy theo chỗ dục lạc của họ mà làm cho họ được hiểu rõ.

Giảng: 10. Lời khai ngộ tất cả chúng sinh, lời nói của Bồ Tát hay khiến cho chúng sinh khai ngộ, tuỳ thuận sự ưa thích của chúng sinh, khiến cho họ được mãn nguyện, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, bỏ tà về chánh, hiểu rõ nghĩa chân thật của Phật pháp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng vi diệu ngữ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được vi diệu ngữ vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ lời của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được lời vi diệu vô thượng của Như Lai.

 

=======================================

Thập Chủng Tịnh Tu Ngữ Nghiệp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tịnh tu ngữ nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều tịnh tu ngữ nghiệp. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tịnh tu nghiệp lời. Những gì là mười ? Đó là :

 

Lạc thính văn Như Lai âm thanh tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, thích lắng nghe âm thanh của đức Như Lai.

Giảng: 1. Tịnh tu nghiệp lời, hoan hỉ thích lắng nghe âm thanh của Như Lai.

 

Lạc văn thuyết Bồ Tát công đức tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, thích nghe nói công đức của Bồ Tát.

Giảng: 2. Tịnh tu nghiệp lời, hoan hỉ thích nghe nói công đức của Bồ Tát.

 

Bất thuyết nhất thiết chúng sanh bất lạc văn ngữ tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, chẳng nói những lời mà tất cả chúng sanh chẳng thích nghe.

Giảng: 3. Tịnh tu nghiệp lời, bất cứ lúc nào cũng chẳng nói những lời mà chúng sinh chẳng thích nghe.

 

Chân thật viễn ly ngữ tứ quá thất tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, chơn thiệt xa lìa bốn lỗi lầm của lời nói.

Giảng: 4. Tịnh tu nghiệp lời, chân thật xa lìa bốn lỗi lầm của lời nói, đó là : Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chửi mắng.

 

Hoan hỉ dũng dược tán thán Như Lai tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, hoan hỷ hớn hở tán thán Như Lai.

Giảng: 5. Tịnh tu nghiệp lời, hoan hỉ vui mừng khen ngợi Như Lai.

 

Như Lai tháp sở cao thanh tán Phật như thật công đức tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, ở chỗ tháp Như Lai to tiếng khen ngợi công đức như thiệt của chư Phật.

Giảng: 6. Tịnh tu nghiệp lời, chỗ tháp của Như Lai lớn tiếng khen công đức như thật của Phật.

 

Dĩ thâm tịnh tâm thí chúng sanh pháp tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, dùng tâm thâm tịnh ban bố chánh pháp cho chúng sanh.

Giảng: 7. Tịnh tu nghiệp lời, dùng tâm tịnh thâm sâu, bố thí pháp cho chúng sinh.

 

Âm nhạc ca tụng tán thán Như Lai tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, âm nhạc ca tụng tán thán đức Như Lai.

Giảng: 8. Tịnh tu nghiệp lời, dùng âm nhạc, ca tụng, để khen ngợi Như Lai.

 

Ư chư Phật sở thính văn chánh pháp bất tích thân mạng tịnh tu ngữ nghiệp

Tịnh tu ngữ nghiệp, ở chỗ chư Phật lắng nghe chánh pháp chẳng tiếc thân mạng.

Giảng: 9. Tịnh tu nghiệp lời, ở chỗ đạo tràng của chư Phật, lắng nghe chánh pháp của Phật nói, nếu như có người muốn giết tôi, chẳng cho tôi học Phật pháp, tôi chẳng tiếc thân mạng, cũng muốn học Phật pháp, tu hành Phật pháp, bất cứ uy hiếp như thế nào, cũng không thay đổi được tâm cầu pháp của tôi.

 

Xả thân thừa sự nhất thiết Bồ Tát cập chư Pháp sư nhi thọ diệu pháp tịnh tu ngữ nghiệp.

Tịnh tu ngữ nghiệp, xả thân thừa sự tất cả Bồ Tát và các Pháp Sư để lãnh thọ diệu pháp.

Giảng: 10. Tịnh tu nghiệp lời, đem thân thể của tôi, cống hiến cho tất cả Bồ Tát, hầu hạ tất cả thiện tri thức, cúng dường pháp sư thuyết pháp, để tiếp thọ tất cả diệu pháp.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười pháp tịnh tu nghiệp lời của Bồ Tát.

 

===============================

Thập Sự Tịnh Tu Ngữ Nghiệp

Phật tử! Nhược Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thử thập sự tịnh tu ngữ nghiệp, tức đắc thập chủng thủ hộ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử! Nếu đại Bồ Tát đem mười việc này để tịnh tu ngữ nghiệp thời được mười điều thủ hộ. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Nếu như đại Bồ Tát dùng mười việc tịnh tu nghiệp lời nầy, thì sẽ đắc được mười thứ giữ gìn. Những gì là mười ? Đó là :

 

Thiên Vương vi thủ, nhất thiết Thiên Chúng nhi vi thủ hộ

Ðược Thiên Vương cầm đầu cùng tất cả Thiên chúng thủ hộ.

Giảng: 1. Thiên Vương làm thủ lãnh, tất cả thiên chúng đều giữ gìn vị Bồ Tát nầy.

 

Long Vương vi thủ, nhất thiết long chúng nhi vi thủ hộ

Ðược Thiên Vương cầm đầu cùng tất cả Long chúng thủ hộ.

Giảng: 2. Long Vương làm thủ lãnh, tất cả long chúng đều giữ gìn vị Bồ Tát nầy.

 

Dạ xoa Vương vi thủ, Ðược Dạ Xoa Vương,

Giảng: 3. Dạ Xoa Vương làm thủ lãnh.

 

Càn thát bà vương vi thủ, Ðược Càn Thát Bà Vương,

Giảng: 4. Càn Thát Bà Vương làm thủ lãnh.

 

A-tu-la Vương vi thủ, Ðược A Tu La Vương cầm đầu,

Giảng: 5. A Tu La Vương làm thủ lãnh.

 

Ca Lâu La Vương vi thủ, Ca Lâu La Vương cầm đầu,

Giảng: 6. Ca Lâu La Vương làm thủ lãnh.

 

Khẩn-na-la Vương vi thủ, Khẩn Na La Vương cầm đầu,

Giảng: 7. Khẩn Na La Vương làm thủ lãnh.

 

Ma hầu la già Vương vi thủ, Ma Hầu La Già Vương cầm đầu,

Giảng: 8. Ma Hầu La Già Vương làm thủ lãnh.

 

Phạm Vương vi thủ, nhất nhất giai dữ tự kỷ đồ chúng nhi vi thủ hộ

Phạm Vương cầm đầu. Mỗi Vương đều cùng chúng của mình để thủ hộ Bồ Tát này.

Giảng: 9. Phạm Vương làm thủ lãnh, mỗi mỗi đều với đồ chúng của mình đều giữ gìn vị Bồ Tát nầy.

 

Như Lai pháp vương vi thủ, nhất thiết pháp sư giai tất thủ hộ.

Ðược Như Lai Pháp Vương cầm đầu, tất cả Pháp Sư thảy đều thủ hộ.

Giảng: 10. Như Lai Pháp Vương làm thủ lãnh, tất cả pháp sư thảy đều giữ gìn vị Bồ Tát nầy. Chẳng những Thiên Long bát bộ tất cả quỷ thần đến giữ gìn, mà Như Lai Pháp Vương cùng với tất cả pháp sư cũng đến giữ gìn, vị Bồ Tát đó có mười thứ giữ gìn nầy, thì sẽ chuyên tâm hành Bồ Tát đạo, giáo hoá chúng sinh.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười thứ giữ gìn

 

=====================================

Thập Chủng Đại Sự

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc thử thủ hộ dĩ, tức năng thành biện thập chủng Đại sự. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát được sự thủ hộ này rồi thời có thể thành tựu mười đại sự. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát được sự giữ gìn nầy rồi, thì sẽ thành tựu mười việc lớn. Những gì là mười ? Đó là :

 

Nhất thiết chúng sanh giai lệnh hoan hỉ

Tất cả chúng sanh đều làm cho hoan hỷ.

Giảng: 1. Tất cả chúng sinh đều khiến cho sinh tâm đại hoan hỉ.

 

Nhất thiết thế giới tất năng vãng nghệ,

Tất cả thế giới đều có thể qua đến.

Giảng: 2. Tất cả thế giới đều có thể qua đến để giáo hoá chúng sinh.

 

Nhất thiết chư căn giai năng liễu tri

Tất cả căn tánh đều có thể rõ biết.

Giảng: 3. Tất cả các căn thảy đều biết rõ.

 

Nhất Thiết thắng giải tất lệnh thanh tịnh

Tất cả thắng giải đều làm cho thanh tịnh.

Giảng: 4. Tất cả thắng giải đều khiến thanh tịnh, đắc được trí huệ vô thượng.

 

Nhất thiết phiền não giai lệnh trừ đoạn

Tất cả phiền não đều làm cho đoạn trừ.

Giảng: 5. Tất cả phiền não đều khiến dứt trừ, biến phiền não thành bồ đề.

 

Nhất thiết tập khí giai lệnh xả ly

Tất cả tập khí đều làm cho xả ly.

Giảng: 6. Tất cả tập khí đều khiến lìa bỏ, trừ sạch những hành vi chẳng chánh đáng, giữ gìn những tập khí tốt.

 

Nhất thiết dục lạc giai lệnh minh khiết

Tất cả dục lạc đều làm cho sáng sạch.

Giảng: 7. Tất cả dục lạc đều khiến cho trong sáng sạch sẽ, chẳng còn tư tưởng tham nhiễm.

 

Nhất thiết thâm tâm tất sử tăng trưởng

Tất cả thâm tâm đều làm cho tăng trưởng.

Giảng: 8. Tất cả thâm tâm đều khiến tăng trưởng ý chí cầu pháp.

 

Nhất thiết pháp giới tất lệnh chu biến

Tất cả pháp giới đều làm cho cùng khắp.

Giảng: 9. Tất cả pháp giới đều khiến khắp cùng, chẳng có chỗ nào mà chẳng có.

 

Nhất thiết Niết-Bàn phổ lệnh minh kiến.

Tất cả Niết bàn khắp làm cho thấy rõ.

Giảng: 10. Tất cả Niết Bàn đều khiến thấy rõ khắp, cảnh giới nầy, khiến cho tất cả chúng sinh đều thấy được.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười việc lớn của Bồ Tát.

 

=====================================

Thập Chủng Tâm

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tâm. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tâm. Những gì là mười ? Đó là :

 

Như Đại địa tâm, năng trì, năng trưởng nhất thiết chúng sanh chư thiện căn cố

Tâm như đại địa, vì có thể gìn có thể lớn những thiện căn của tất cả chúng sanh.

Giảng: 1. Tâm như đại địa, vì hay giữ gìn, nuôi lớn tất cả vạn vật, hay khiến cho căn lành của tất cả chúng sinh, đều được thành thục.

 

Như đại hải tâm, nhất thiết chư Phật vô lượng vô biên đại trí pháp thủy tất lưu nhập cố

Tâm như đại hải, vì tất cả chư Phật vô lượng vô biên đại trí pháp thủy đều chảy vào.

Giảng: 2. Tâm như biển cả, vì vô lượng vô biên nước pháp đại trí của tất cả chư Phật mười phương, đều chảy vào trong biển cả.

 

Như Tu-Di sơn vương tâm, trí nhất thiết chúng sanh ư xuất thế gian tối thượng thiện căn xứ cố

Tâm như Tu Di Sơn Vương, vì đặt tất cả chúng sanh nơi chỗ thiện căn xuất thế gian vô lượng.

Giảng: 3. Tâm như núi chúa Tu Di, vì đặc để tất cả chúng sinh nơi căn lành tối thượng xuất thế gian.

 

Như ma-ni bảo vương tâm, lạc dục thanh tịnh vô tạp nhiễm cố

Tâm như Ma ni bửu vương, vì lạc dục thanh tịnh không tạp nhiễm.

Giảng: 4. Tâm như ma ni bảo vương, vì lạc dục rất thanh tịnh, không tạp nhiễm.

 

Như Kim cương tâm, quyết định thâm nhập nhất thiết pháp cố

Tâm như Kim Cang, vì quyết định thâm nhập tất cả pháp.

Giảng: 5. Tâm như kim cang, vì quyết định vào sâu tất cả pháp của Phật nói.

 

Như Kim cương vi sơn tâm, chư ma ngoại đạo bất năng động cố

Tâm như Kim Cang vi sơn, vì chư ma ngoại đạo chẳng có thể động.

Giảng: 6. Tâm như kim cang vi sơn, vì tất cả ma ngoại đạo không thể lay động được.

 

Như liên hoa tâm, nhất thiết thế Pháp bất năng nhiễm cố

Tâm như liên hoa, vì tất cả thế pháp chẳng nhiễm được.

Giảng: 7. Tâm như hoa sen, vì tất cả thế pháp không thể nhiễm được.

 

Như ưu-đàm-bát hoa tâm, nhất thiết kiếp trung nan trực ngộ cố

Tâm như hoa ưu đàm bát, vì trong tất cả kiếp khó gặp gỡ.

Giảng: 8. Tâm như hoa ưu đàm bát, vì trong tất cả kiếp khó gặp được hoa nầy nở.

 

Như tịnh nhật tâm, phá ám chướng cố

Tâm như tịnh nhựt, vì có thể phá trừ chướng tối tăm.

Giảng: 9. Tâm như mặt trời trong sáng, vì phá trừ tất cả ám chướng.

 

Như hư không tâm, bất khả lượng cố.

Tâm như hư không, vì chẳng lường được.

Giảng: 10. Tâm như hư không, vì không thể dò lường được.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng đại thanh tịnh tâm.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được tâm đại thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ tâm của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại tâm thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Phát Tâm

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phát tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ phát tâm. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười sự phát tâm. Những gì là mười ? Đó là :

 

Phát ngã đương độ thoát nhất thiết chúng sanh tâm

Phát tâm: Tôi sẽ độ thoát tất cả chúng sanh.

Giảng: 1. Tôi phát tâmsẽ độ thoát tất cả chúng sinh.

 

Phát ngã đương lệnh nhất thiết chúng sanh trừ đoạn phiền não tâm

Phát tâm: Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh dứt trừ phiền não.

Giảng: 2. Tôi phát tâmsẽ khiến cho tất cả chúng sinh dứt trừ tất cả phiền não.

 

Phát ngã đương lệnh nhất thiết chúng sanh tiêu diệt tập khí tâm

Phát tâm: Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh tiêu diệt tập khí.

Giảng: 3. Tôi phát tâmsẽ khiến cho tất cả chúng sinh tiêu diệt tất cả tập khí ác.

 

Phát ngã đương đoạn trừ nhất thiết nghi hoặc tâm

Phát tâm: Tôi sẽ dứt trừ tất cả tâm nghi hoặc.

Giảng: 4. Tôi phát tâmsẽ đoạn trừ tất cả nghi hoặc.

 

Phát ngã đương trừ diệt nhất thiết chúng sanh khổ não tâm

Phát tâm: Tôi sẽ diệt trừ khổ não cho tất cả chúng sanh.

Giảng: 5. Tôi phát tâmsẽ trừ diệt khổ não của tất cả chúng sinh.

 

Phát ngã đương trừ diệt nhất thiết ác đạo chư nạn tâm

Phát tâm: Tôi sẽ trừ diệt tất cả ác đạo chư nạn.

Giảng: 6. Tôi phát tâmsẽ trừ diệt các nạn của tất cả đường ác.

 

Phát ngã đương kính thuận nhất thiết Như Lai tâm

Phát tâm: Tôi sẽ kính thuận tất cả Như Lai.

Giảng: 7. Tôi phát tâmsẽ kính thuận tất cả Như Lai.

 

Phát ngã đương thiện học nhất thiết Bồ Tát sở học tâm

Phát tâm: Tôi sẽ khéo học tất cả sở học của Bồ Tát.

Giảng: 8. Tôi phát tâm sẽ khéo học chỗ học của tất cả Bồ Tát.

 

Phát ngã đương ư nhất thiết thế gian nhất nhất mao đoan xứ Hiện-Nhất-Thiết Phật thành chánh giác tâm

Phát tâm: Tôi sẽ ở chỗ mỗi đầu lông trong tất cả thế gian thị hiện tất cả Phật thành Chánh giác.

Giảng: 9. Tôi phát tâmsẽ ở nơi mỗi đầu sợi lông của tất cả thế gian, hiện tất cả Phật thành Chánh Giác.

 

Phát ngã đương ư nhất thiết thế giới kích vô thượng pháp cổ, lệnh chư chúng sanh tùy kỳ căn dục tất đắc ngộ giải tâm.

Phát tâm: Tôi sẽ ở nơi tất cả thế giới đánh đại pháp cổ làm cho các chúng sanh tùy theo căn dục của họ đều được ngộ hiểu.

Giảng: 10. Tôi phát tâmsẽ ở trong tất cả thế giới, đánh trống pháp vô thượng, khiến cho tuỳ theo căn dục của các chúng sinh, đều được ngộ hiểu.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng Đại phát khởi năng sự tâm.

Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được tâm đại phát khởi năng sự vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười sự phát tâm của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tâm đại phát khởi năng sự vô thượng của Như Lai.

 

=======================================

Thập Chủng Chu Biến Tâm

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng chu biến tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tâm cùng khắp. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tâm cùng khắp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Châu biến nhất thiết hư không tâm, phát ý quảng đại cố

Tâm cùng khắp tất cả hư không, vì phát ý rộng lớn.

Giảng: 1. Tâm cùng khắp tất cả hư không, vì phát ý rộng lớn.

 

Chu biến nhất thiết pháp giới tâm, thâm nhập vô biên cố;

Tâm cùng khắp tất cả pháp giới, vì thâm nhập vô biên.

Giảng: 2. Tâm cùng khắp tất cả pháp giới, vì vào sâu vô biên xứ.

 

Châu biến nhất thiết tam thế tâm, nhất niệm tất tri cố

Tâm cùng khắp tất cả tam thế, vì một niệm đều biết rõ.

Giảng: 3. Tâm cùng khắp tất cả ba đời, vì một niệm đều biết ba đời, ba đời không ngoài một niệm tâm.

 

Châu biến nhất thiết Phật xuất hiện tâm, ư nhập thai, đản sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, Bát Niết Bàn tất minh liễu cố

Tâm cùng khắp tất cả Phật xuất hiện, vì đều biết rõ nơi nhập thai, giáng sanh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn.

Giảng: 4. Tâm cùng khắp tất cả Phật xuất hiện, vì mỗi vị Phật, lúc nào nhập thai, đản sinh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, vào Niết Bàn, đều thấu rõ biết được.

 

Châu biến nhất thiết chúng sanh tâm, tất tri căn, dục, tập khí cố

Tâm cùng khắp tất cả chúng sanh, vì biết rõ căn dục tập khí.

Giảng: 5. Tâm cùng khắp tất cả chúng sinh, vì đều biết căn tánh và dục lạc, cùng với tập khí. Chúng sinh ích kỷ lợi mình, cho nên có vô lượng phiền não, Bồ Tát đều biết được. Tại sao vậy ? Vì tâm tâm thông đạt với nhau. Căn tánh của chúng sinh, hoặc lợi căn, hoặc độn căn. Dục lạc của chúng sinh, hoan hỉ hút thuốc, uống rượu, ăn thịt, bài bạc, hút thuốc phiện, nhảy đầm v.v…Bồ Tát nhìn là biết hết.

 

Chu biến nhất thiết trí tuệ tâm, tùy thuận liễu tri Pháp giới cố

Tâm cùng khắp tất cả trí huệ, vì tùy thuận biết rõ pháp giới.

Giảng: 6. Tâm cùng khắp nhất thiết trí huệ, vì tuỳ thuận tất cả chúng sinh, biết rõ pháp giới.

 

Châu biến nhất thiết vô biên tâm, tri chư huyễn võng sái biệt cố

Tâm cùng khắp tất cả vô biên, vì biết những huyễn vọng sai biệt.

Giảng: 7. Tâm cùng khắp tất cả vô biên, vì biết các lưới huyễn khác nhau, đều là hư vọng không thật.

 

Châu biến nhất thiết vô sanh tâm, bất đắc chư pháp tự tánh cố

Tâm cùng khắp tất cả vô sanh, vì các pháp tự tánh bất khả đắc.

Giảng: 8. Tâm cùng khắp tất cả vô sinh, tức cũng là vô sinh pháp nhẫn, vì tất cả các pháp chẳng sinh chẳng diệt, tự tánh đó không thể được.

 

Châu biến nhất thiết vô ngại tâm, bất trụ tự tâm, tha tâm cố

Tâm cùng khắp tất cả vô ngại, vì chẳng trụ tự tâm tha tâm.

Giảng: 9. Tâm cùng khắp tất cả vô ngại, vì đó đây hổ tương không chướng ngại, cũng là chẳng trụ tâm mình, cũng chẳng trụ tâm người khác.

 

Châu biến nhất thiết tự tại tâm, nhất niệm phổ hiện thành Phật cố.

Tâm cùng khắp tất cả tự tại, vì một niệm khắp hiện thành Phật.

Giảng: 10. Tâm cùng khắp tất cả tự tại, vì trong một niệm khắp thị hiện thành Phật.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc vô lượng vô thượng Phật Pháp chu biến trang nghiêm.

Đó là mượ Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được vô lượng Phật pháp vô thượng cùng khắp trang nghiêm.

Giảng: Đó là mười thứ tâm cùng khắp. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được cảnh giới Phật pháp vô lượng vô thượng trang nghiêm cùng khắp.

 

===============================

Thập Chủng Căn

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng căn. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười căn. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ căn. Những gì là mười ? Đó là :

 

Hoan hỉ căn, kiến nhất thiết Phật tín bất hoại cố

Hoan hỷ căn, vì thấy tất cả Phật lòng tin chẳng hư hoại.

Giảng: 1. Căn hoan hỉ, vì hoan hỉ thấy tất cả chư Phật, căn tin không dứt hoại.

 

Hy vọng căn, sở văn Phật Pháp giai ngộ giải cố

Hy vọng căn, vì những Phật pháp đã nghe đều tỏ ngộ tất cả.

Giảng: 2. Căn hy vọng, vì hy vọng nghe chánh pháp, nghe rồi đều ngộ hiểu.

 

Bất thoái căn, nhất thiết tác sự giai cứu cánh cố

Bất thối căn, vì tất cả tác sự đều rốt ráo.

Giảng: 3. Căn bất thối, vì chẳng thối căn lành bồ đề, tất cả việc làm đều được rốt ráo.

 

An trụ căn, bất đoạn nhất thiết Bồ Tát hạnh cố

An trụ căn, vì chẳng dứt tất cả Bồ Tát hạnh.

Giảng: 4. Căn an trụ, vì chẳng dứt hạnh của tất cả Bồ Tát tu.

 

Vi tế căn, nhập Bát-nhã Ba-la-mật vi diệu lý cố

Vi tế căn, vì nhập lý vi diệu Bát nhã Ba la mật.

Giảng: 5. Căn vi tế, vì vào sâu lý vi diệu chân như Bát nhã ba la mật.

 

Bất hưu tức căn, cứu cánh nhất thiết chúng sanh sự cố

Bất hưu tức căn, vì rốt ráo sự việc tất cả chúng sanh.

Giảng: 6. Căn không ngừng nghỉ, vì dũng mãnh tinh tấn, đắc được việc lớn của tất cả chúng sinh, rốt ráo đến nơi viên mãn.

 

Như Kim cương căn, chứng tri nhất thiết chư pháp tánh cố

Như kim cang căn, vì chứng biết tất cả những pháp tánh.

Giảng: 7. Căn như kim cang, căn lành kiên cố như kim cang, bất cứ sức lực gì cũng không thế phá hoại được, vì chứng biết tánh của tất cả các pháp.

 

Kim cương quang diệm căn, phổ chiếu nhất thiết Phật cảnh giới cố

Kim cang quang diệm căn, vì chiếu khắp tất cả Phật cảnh giới.

Giảng: 8. Căn kim cang quang diệm, vì chiếu sáng khắp tất cả cảnh giới của chư Phật.

 

Vô sái biệt căn, nhất thiết Như Lai đồng nhất thân cố

Vô sai biệt căn, vì tất cả Như Lai đồng một thân.

Giảng: 9. Căn không khác biệt, vì căn lành nầy không có gì khác biệt, là cảnh giới tất cả Như Lai đồng một pháp thân.

 

Vô ngại tế căn, thâm nhập Như Lai thập chủng lực cố.

Vô ngại tế căn, vì thâm nhập mười trí lực của Như Lai.

Giảng: 10. Căn bờ mé vô ngại, vì căn lành chẳng có sự chướng ngại, vào sâu được mười lực của Như Lai.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí viên mãn căn.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được căn đại trí viên mãn vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ căn của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được căn viên mãn đại trí vô thượng của Như Lai.

 

===================================

Thập Chủng Thâm Tâm

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thâm tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thâm tâm. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thâm tâm. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bất nhiễm nhất thiết thế gian Pháp thâm tâm;

Thâm tâm chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian.

Giảng: 1. Thâm tâm chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian, đối với : Tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm thứ dục lạc nầy, tuyệt đối không nhiễm trước. Có thâm tâm nầy, tức cũng là thích tu hành pháp xuất thế gian.

 

Bất tạp nhất thiết nhị thừa đạo thâm tâm

Thâm tâm chẳng tạp tất cả đạo Nhị thừa.

Giảng: 2. Thâm tâm chẳng tu pháp môn Thanh Văn và Duyên Giác nhị thừa, mà tu pháp môn Bồ Tát đại thừa. Pháp nhị thừa là pháp bốn đế và pháp mười hai nhân duyên. Pháp đại thừa là pháp lục độ vạn hạnh.

 

Liễu đạt nhất thiết Phật Bồ-đề thâm tâm;

Thâm tâm thấu rõ tất cả Phật Bồ đề.

Giảng: 3. Thâm tâm thấu rõ thông đạt bồ đề giác đạo của tất cả chư Phật.

 

Tùy thuận nhất thiết trí trí đạo thâm tâm

Thâm tâm tùy thuận đạo Nhứt thiết chủng trí.

Giảng: 4. Thâm tâm tuỳ thuận trí đạo nhất thiết trí.

 

Bất vi nhất thiết chúng ma ngoại đạo sở động thâm tâm

Thâm tâm chẳng bị tất cả chúng ma ngoại đạo làm động.

Giảng: 5. Thâm tâm chẳng động bởi tất cả chúng ma ngoại đạo.

 

Tịnh tu nhất thiết Như Lai viên mãn trí thâm tâm

Thâm tâm tịnh tu trí viên mãn của tất cả Như Lai.

Giảng: 6. Thâm tâm thanh tịnh tu hành trí huệ viên mãn của tất cả chư Phật.

 

Thọ trì nhất thiết sở văn Pháp thâm tâm

Thâm tâm thọ trì tất cả pháp đã được nghe.

Giảng: 7. Thâm tâm thọ trì tất cả pháp đã nghe được.

 

Bất trước nhất thiết thọ sanh xứ thâm tâm

Thâm tâm chẳng nhiễm trước tất cả chỗ thọ sanh.

Giảng: 8. Thâm tâm chẳng chấp vào tất cả nơi thọ sanh.

 

Cụ túc nhất thiết vi tế trí thâm tâm

Thâm tâm đầy đủ tất cả trí vi tế.

Giảng: 9. Thâm tâm đầy đủ tất cả trí huệ vi tế.

 

Tu nhất thiết chư Phật Pháp thâm tâm.

Thâm tâm tu tất cả Phật pháp.

Giảng: 10. Thâm tâm tu hành tất cả pháp của chư Phật nói.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc nhất thiết trí vô thượng thanh tịnh thâm tâm.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được thâm tâm thanh tịnh nhứt thiết trí vô thượng.

Giảng: Đó là mười thứ thâm tâm của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được thâm tâm bồ đề thanh tịnh vi diệu nhất thiết trí vô thượng.

 

=======================================

Thập Chủng Tăng Thượng Thâm Tâm

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tăng thượng thâm tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thâm tâm tăng thượng. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thâm tâm tăng thượng. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bất-thoái-chuyển tăng thượng thâm tâm, tích tập nhất thiết thiện căn cố

Thâm tâm tăng thượng bất thối chuyển, vì chứa nhóm tất cả thiện căn.

Giảng: 1. Thâm tâm tăng thượng chẳng thối chuyển bồ đề, vì tích tập tất cả căn lành để thành tựu nó.

 

Ly nghi hoặc tăng thượng thâm tâm, giải nhất thiết Như Lai mật ngữ cố

Thâm tâm tăng thượng rời nghi hoặc, vì hiểu mật ngữ của tất cả Như Lai.

Giảng: 2. Thâm tâm tăng thượng lìa nghi hoặc, vì hiểu pháp thâm mật ngữ của tất cả Như Lai.

 

Chánh trì tăng thượng thâm tâm, đại nguyện đại hạnh sở lưu cố

Thâm tâm tăng thượng chánh trì, vì đại nguyện đại hạnh lưu xuất.

Giảng: 3. Thâm tâm tăng thượng chánh trì, vì đại nguyện đại hạnh chảy ra.

 

Tối thắng tăng thượng thâm tâm, thâm nhập nhất thiết Phật Pháp cố

Thâm tâm tăng thượng tối thắng, vì thâm nhập tất cả Phật pháp.

Giảng: 4. Thâm tâm tăng thượng tối thắng, vì vào sâu tất cả pháp của Phật nói.

 

Vi chủ tăng thượng thâm tâm, nhất thiết Phật pháp tự tại cố

Thâm tâm tăng thượng làm chủ, vì tất cả Phật pháp đều tự tại.

Giảng: 5. Thâm tâm tăng thượng làm chủ, vì tất cả Phật pháp có thể nhậm vận tự tại diễn nói.

 

Quảng đại tăng thượng thâm tâm, phổ nhập chủng chủng Pháp môn cố

Thâm tâm tăng thượng quảng đại, vì vào khắp tất cả pháp môn.

Giảng: 6. Thâm tâm tăng thượng rộng lớn, vì vào khắp đủ thứ pháp môn.

 

Thượng thủ tăng thượng thâm tâm, nhất thiết sở tác thành biện cố

Thâm tâm tăng thượng thượng thủ, vì tất cả việc làm đều thành tựu.

Giảng: 7. Thâm tâm tăng thượng thượng thủ, vì tất cả việc làm đều thành tựu.

 

Tự tại tăng thượng thâm tâm, nhất thiết tam muội thần thông biến hóa trang nghiêm cố

Thâm tâm tăng thượng tự tại, vì tất cả tam muội thần thông biến hóa trang nghiêm.

Giảng: 8. Thâm tâm tăng thượng tự tại, vì tất cả tam muội thần thông biến hoá trang nghiêm.

 

An trụ tăng thượng thâm tâm, nhiếp thọ Bổn Nguyện cố

Thâm tâm tăng thượng an trụ, vì nhiếp thọ bổn nguyện.

Giảng: 9. Thâm tâm tăng thượng an trụ, vì nhiếp thọ đại nguyện phát ra thuở xưa.

 

Vô hưu tức tăng thượng thâm tâm, thành thục nhất thiết chúng sanh cố.

Thâm tâm tăng thượng không thôi nghỉ, vì thành thục tất cả chúng sanh.

Giảng: 10. Thâm tâm tăng thượng không ngừng nghỉ, vì thành thục đạo bồ đề của tất cả chúng sinh.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng thanh tịnh tăng thượng thâm tâm.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thâm tâm tăng thượng thanh tịnh vô thượng của tất cả chư Phật.

Giảng: Đó là mười thứ thâm tâm tăng thượng. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được thâm tâm bồ đề tăng thượng thanh tịnh vô thượng của tất cả chư Phật.

 

======================================

Thập Chủng Cần Tu

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng cần tu. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều siêng tu. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ siêng tu. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bố thí cần tu, tất xả nhất thiết, bất cầu báo cố;

Siêng tu bố thí, vì đều xả thí tất cả mà không cầu báo đáp.

Giảng: 1. Siêng tu bố thí, vì hoàn toàn xả bỏ tất cả mà chẳng cầu báo đáp. Nội tài như : Đầu, mắt, tuỷ, não. Ngoại tài như : Đất nước, vợ, con. Thảy đều bố thí hết cho chúng sinh cần. Do đó có câu :

 

Thi ân bất cầu báo, Trì giới cần tu, Đầu-đà khổ hạnh, thiểu dục tri túc, vô sở khi cố

Cho người chẳng hối tiếc. Siêng tu trì giới, vì đầu đà khổ hạnh thiểu dục tri túc không khi dối.

Giảng: 2. Siêng tu trì giới, vì tu hành khổ hạnh đầu đà. Đầu đà nghĩa là khổ hạnh. Đầu đà khổ hạnh có mười hai điều :

a. Ở chỗ vắng lặng.
b. Thường đi khất thực.
c. Khất thực có thứ tự.
d. Ngày ăn một bữa.

e. Ăn có tiết lượng.
f. Quá ngọ không ăn.
g. Mặc y phấn tảo.
h. Chỉ có ba y.

i. Ngồi giữa mộ cao.
j. Ở dưới gốc cây.
k. Ngồi ngoài trời.
l. Thường ngồi không nằm.

Tu mười hai điều khổ hạnh nầy, thì chẳng còn dục niệm. Gì cũng chẳng tham, đối với bất cứ thứ gì, cũng đều cảm giác đầy đủ. Bên trong chẳng khi dối mình, bên ngoài chẳng khi dối người khác. Tóm lại, hay thiểu dục thì tri túc, hay tri túc thì thiểu dục, có sự liên quan với nhau.

 

Nhẫn nhục cần tu, ly tự tha tưởng, nhẫn nhất thiết ác, tất cánh bất sanh khuể hại tâm cố

Siêng tu nhẫn nhục, vì rời quan niệm tự tha, nhẫn chịu tất cả điều khổ não trọn không sanh lòng sân hại.

Giảng: 3. Siêng tu nhẫn nhục, nhẫn nhục như thế nào ? Tức là chẳng có mình, chẳng có người, chẳng chấp vào tướng ta, người, thì là Bồ Tát. Lìa khỏi được tưởng ta, người, thì sẽ nhẫn thọ được tất cả cảnh giới ác, trọn chẳng sinh tâm sân hận thương hại.

 

Tinh tấn cần tu, thân, ngữ, ý nghiệp vị tằng tán loạn, nhất thiết sở tác giai Bất-thoái-chuyển, chí cứu cánh cố;

Siêng tu tinh tất, vì thân ngữ ý ba nghiệp chưa từng tán loạn, tất cả việc làm đều chẳng thối chuyển mãi đến rốt ráo.

Giảng: 4. Siêng tu tinh tấn, thân tinh tấn, miệng tinh tấn, ý tinh tấn, ba nghiệp đều tinh tấn. Chưa từng khi nào tán loạn, tất cả việc làm đều không thối chuyển bồ đề tâm, đến được nơi rốt ráo.

 

Thiền định cần tu, giải thoát tam muội, xuất hiện thần thông, ly nhất thiết dục phiền não đấu tranh chư quyến chúc cố

Siêng tu thiền định, vì giải thoát tam muội xuất hiện thần thông, rời lìa tất cả quyến thuộc dục lạc phiền não đấu tránh.

Giảng: 5. Siêng tu thiền định, trong pháp giải thoát tam muội, xuất hiện đủ thứ thần thông, vì hay lìa tất cả dục niệm, phiền não, đấu tranh, các quyến thuộc v.v…

 

Trí tuệ cần tu, tu tập tích tụ nhất thiết công đức vô yếm quyện cố

Siêng tu trí huệ, vì tu tập chứa nhóm tất cả công đức không mỏi nhàm.

Giảng: 6. Siêng tu trí huệ, vì tu tập tích tụ tất cả công đức, không khi nào nhàm mỏi.

 

Đại từ cần tu, tri chư chúng sanh vô tự tánh cố

Siêng tu đại từ, vì biết các chúng sanh không tự tánh.

Giảng: 7. Siêng tu đại từ, vì biết tất cả chúng sinh đều không có tự tánh.

 

Đại bi cần tu, tri chư pháp không, phổ đại nhất thiết chúng sanh thọ khổ vô bì yếm cố

Siêng tu đại bi, vì biết các pháp không, thay thế khắp tất cả chúng sanh thọ khổ không mỏi nhàm.

Giảng: 8. Siêng tu đại bi, vì biết tất cả các pháp vốn là vắng lặng, tức là không, nhưng Bồ Tát vẫn muốn thay thế khắp tất cả chúng sinh, tiếp thọ tất cả khổ não, không khi nào mỏi nhàm.

 

Giác ngộ Như Lai thập lực cần tu, liễu đạt vô ngại thị chúng sanh cố

Siêng tu giác ngộ Thập lực của Như Lai, vì rõ thấu vô ngại chỉ bày cho chúng sanh.

Giảng: 9. Siêng tu giác ngộ mười lực của Như Lai, vì thấu rõ thông đạt vô ngại thị hiện cho chúng sinh.

 

Bất thoái Pháp luân cần tu, chuyển chí nhất thiết chúng sanh tâm cố.

Siêng tu pháp luân bất thối, vì chuyển đến tâm của tất cả chúng sanh.

Giảng: 10. Siêng tu pháp luân bất thối, vì chuyển đến tâm của tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh minh bạch Phật pháp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ cần tu.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được siêng tu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp siêng tu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được siêng tu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

 

===================================

Thập Chủng Quyết Định Giải

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng quyết định giải. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ quyết định giải. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ quyết định giải. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tối thượng quyết định giải, chủng thực tôn trọng thiện căn cố;

Quyết định giải tối thượng, vì gieo trồng tôn trọng thiện căn.

Giảng: 1. Quyết định giải tối thượng, vì gieo trồng tôn trọng căn lành.

 

Trang nghiêm quyết định giải, xuất sanh chủng chủng trang nghiêm cố

Quyết định giải trang nghiêm, vì xuất sanh những thứ trang nghiêm.

Giảng: 2. Quyết định giải trang nghiêm, vì sinh ra đủ thứ sự trang nghiêm.

 

Quảng đại quyết định giải, kỳ tâm vị tằng hiệp liệt cố

Quyết định giải quảng đại, vì tâm chưa từng hèn kém.

Giảng: 3. Quyết định giải rộng lớn, vì trong tâm chưa từng hẹp hạ kiệt.

 

Tịch diệt quyết định giải, năng nhập thậm thâm pháp tánh cố

Quyết định giải tịch diệt, vì hay nhập pháp tánh thậm thâm.

Giảng: 4. Quyết định giải tịch diệt, vì hay vào pháp tánh thâm sâu.

 

Phổ biến quyết định giải, phát tâm vô sở bất cập cố

Quyết định giải phổ biến, vì phát tâm không chỗ nào chẳng đến.

Giảng: 5. Quyết định giải khắp cùng, vì phát tâm không chỗ nào mà chẳng đến.

 

Kham nhâm quyết định giải, năng thọ Phật lực gia trì cố

Quyết định giải kham nhiệm, vì hay thọ Phật lực gia trì.

Giảng: 6. Quyết định giải kham nhiệm, vì hay thọ Phật lực gia trì.

 

Kiên cố quyết định giải, tồi phá nhất thiết ma nghiệp cố

Quyết định giải kiên cố, vì dẹp phá tất cả nghiệp ma.

Giảng: 7. Quyết định giải kiên cố, vì phá tan tất cả nghiệp ma.

 

Minh đoạn quyết định giải, liễu tri nhất thiết nghiệp báo cố

Quyết định giải minh đoán, vì biết rõ tất cả nghiệp báo.

Giảng: 8. Quyết định giải minh đoạn, vì biết rõ tất cả nghiệp báo.

 

Hiện tiền quyết định giải, tùy ý năng hiện thần thông cố

Quyết định giải hiện tiền, vì tùy ý hay hiện thần thông.

Giảng: 9. Quyết định giải hiện tiền, vì tuỳ ý hiện thần thông.

 

Thiệu long quyết định giải, nhất thiết Phật sở đắc kí cố

Quyết định giải thiệu long, vì ở chỗ tất cả Phật được thọ ký.

Giảng: 10. Quyết định giải thiệu long, vì được tất cả Phật thọ ký.

 

Tự tại quyết định giải, tùy ý, tùy thời thành Phật cố

Quyết định giải tự tại, vì tùy ý tùy thời thành Phật.

Giảng: 11. Quyết định giải tự tại, vì tuỳ ý tuỳ thời thành Phật.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng quyết định giải.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được quyết định giải vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp quyết định giải của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được quyết định giải vô thượng của Như Lai.

 

=========================================

Thập Chủng Quyết Định Giải Tri Chư Thế Giới

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng quyết định giải tri chư thế giới. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười quyết định giải biết tất cả thế giới. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ quyết định giải, biết các thế giới. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tri nhất thiết thế giới nhập nhất thế giới;

Biết tất cả thế giới vào một thế giới.

Giảng: 1. Biết tất cả thế giới vào trong một thế giới.

 

Tri nhất thế giới nhập nhất thiết thế giới

Biết một thế giới vào tất cả thế giới.

Giảng: 2. Biết một thế giới vào trong tất cả thế giới.

 

Tri nhất thiết thế giới, nhất Như Lai thân, nhất liên hoa tọa giai tất chu biến

Biết tất cả thế giới, một thân Như Lai, một tòa liên hoa thảy đều cùng khắp.

Giảng: 3. Biết tất cả thế giới một thân Như Lai, một toà hoa sen, thảy đều khắp cùng pháp giới.

 

Tri nhất thiết thế giới giai như hư không

Biết tất cả thế giới đều như hư không.

Giảng: 4. Biết tất cả thế giới đều như hư không.

 

Tri nhất thiết thế giới cụ Phật trang nghiêm

Biết tất cả thế giới đủ Phật trang nghiêm.

Giảng: 5. Biết tất cả thế giới đầy đủ sự trang nghiêm của Phật.

 

Tri nhất thiết thế giới Bồ Tát sung mãn

Biết tất cả thế giới Bồ Tát đầy khắp.

Giảng: 6. Biết tất cả thế giới Bồ Tát đầy khắp.

 

Tri nhất thiết thế giới nhập nhất mao khổng

Biết tất cả thế giới vào một lỗ lông.

Giảng: 7. Biết tất cả thế giới vào một lỗ chân lông.

 

Tri nhất thiết thế giới nhập nhất chúng sanh thân

Biết tất cả thế giới vào một thân chúng sanh.

Giảng: 8. Biết tất cả thế giới vào trong một thân chúng sinh.

 

Tri nhất thiết thế giới, nhất Phật Bồ-đề thụ, nhất Phật đạo tràng giai tất chu biến

Biết tất cả thế giới, một cây Phật Bồ đề, một Phật đạo tràng thảy đều cùng khắp.

Giảng: 9. Biết tất cả thế giới, một cây bồ đề của Phật, một đạo tràng của Phật, thảy đều cùng khắp.

 

Tri nhất thiết thế giới nhất âm phổ biến, lệnh chư chúng sanh các biệt liễu tri, tâm sanh hoan hỉ.

Biết tất cả thế giới, một âm thanh cùng khắp làm cho các chúng sanh đều riêng hiểu biết lòng sanh hoan hỷ.

Giảng: 10. Biết tất cả thế giới, một âm thanh khắp cùng, khiến các chúng sinh đều biết rõ khác nhau, tâm sinh hoan hỉ.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng Phật sát quảng đại quyết định giải.

Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được quyết định giải Phật độ quảng đại vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp quyết định giải của Bồ Tát, biết tất cả thế giới. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được quyết định giải cõi Phật rộng lớn vô thượng của Như Lai.

 

===================================

Thập Chủng Quyết Định Giải Tri Chúng Sanh Giới

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng quyết định giải tri chúng sanh giới. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười quyết định giải biết chúng sanh giới. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ quyết định giải, biết cõi chúng sinh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới bổn tánh vô thật

Biết tất cả chúng sanh giới bổn tánh không thiệt.

Giảng: 1. Biết tất cả cõi chúng sinh tánh vốn không thật.

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới tất nhập nhất chúng sanh thân

Biết tất cả chúng sanh giới đều vào thân một chúng sanh.

Giảng: 2. Biết tất cả cõi chúng sinh đều vào trong một thân chúng sinh.

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới tất nhập Bồ Tát thân

Biết tất cả chúng sanh giới đều vào thân Bồ Tát.

Giảng: 3. Biết tất cả cõi chúng sinh đều vào trong thân Bồ Tát.

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới tất nhập Như Lai tạng

Biết tất cả chúng sanh giới đều vào Như Lai tạng.

Giảng: 4. Biết tất cả cõi chúng sinh đều vào trong Như Lai tàng.

 

Tri nhất chúng sanh thân phổ nhập nhất thiết chúng sanh giới

Biết một thân chúng sanh vào khắp tất cả chúng sanh giới.

Giảng: 5. Biết một thân chúng sinh vào khắp tất cả cõi chúng sinh.

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới tất kham vi chư Phật Pháp khí

Biết tất cả chúng sanh giới đều kham làm pháp khí của chư Phật.

Giảng: 6. Biết tất cả cõi chúng sinh đều kham làm pháp khí của tất cả chư Phật.

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới, tùy kỳ sở dục, vi hiện thích, phạm, hộ thế thân

Biết tất cả chúng sanh giới tùy theo sở thích của họ mà vì họ hiện thân Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương.

Giảng: 7. Biết tất cả cõi chúng sinh, tuỳ sở dục của họ, mà hiện thân Trời Đế Thích, hoặc hiện thân Đại Phạm Thiên Vương, hoặc hiện thân Trời Hộ Thế Tứ Đại Thiên Vương.

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới, tùy kỳ sở dục, vi hiện Thanh văn, độc giác tịch tĩnh uy nghi

Biết tất cả chúng sanh giới tùy theo sở thích của họ mà hiện oai nghi tịch tịnh của Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Giảng: 8. Biết tất cả cõi chúng sinh, tuỳ sở dục của họ, mà hiện oai nghi tịch tĩnh của bậc Thanh Văn Độc Giác.

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới, vi hiện Bồ Tát công đức trang nghiêm thân

Biết tất cả chúng sanh giới vì họ mà hiện thân công đức trang nghiêm của Bồ Tát.

Giảng: 9. Biết tất cả cõi chúng sinh, mà hiện thân Bồ Tát công đức trang nghiêm.

 

Tri nhất thiết chúng sanh giới, vi hiện Như Lai tướng hảo tịch tĩnh uy nghi, khai ngộ chúng sanh.

Biết tất cả chúng sanh giới vì họ mà hiện thân tướng hảo oai nghi tịch tịnh của Như Lai để khai ngộ họ.

Giảng: 10. Biết tất cả cõi chúng sinh, mà hiện Như Lai tướng tốt oai nghi tịch tĩnh, để khai ngộ chúng sinh.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại uy lực quyết định giải.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được quyết định giải đại oai lực vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp quyết định giải của Bồ Tát, biết cõi chúng sinh. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được quyết định giải đại oai lực vô thượng của Như Lai.

 

=======================================

QUYỂN NĂM MƯƠI BẢY

— o0o —

Thập Chủng Tập Khí

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tập khí. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ tập khí. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tập khí. Tập khí là gì ? Tập tức là tập nhiễm, học được từng chút từng chút. Khí là tư tưởng và hành vi. Tóm lại, tức là những gì mình muốn, những gì mình nói thành thói quen, trở thành tập quán, tập dần thành bình thường.

Giống như tôn giả Ca Lưu Đà Di, mỗi lần đến sông Hằng, liền nói với Thần sông rằng : Tiểu tì ngừng chảy ! Vị Thần sông đó là người nữ, trong quá khứ đã từng làm nô tỳ trong nhà của tôn giả Ca Lưu Đà Di. Vị Thần sông nghe những lời đó thì chẳng vui tí nào, thật là khó mà nhẫn nại được, bèn đi đến chỗ Đức Phật, nói tôn giả Ca Lưu Đà Di đối với cô ta chẳng lịch sự tí nào, cô ta bạch với Đức Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Đệ tử của Ngài Ca Lưu Đà Di, tuy chứng quả A La Hán, nhưng đối với người chẳng có lịch sự gì hết. Mỗi lần Ngài đến bên bờ sông, đều dùng thân phận A La Hán bức bách con, Ngài kêu con ‘Tiểu tỳ ngừng chảy’. Tuy con là nữ, cũng không nên kêu là Tiểu tỳ.

Do đó, Đức Phật kêu tôn giả Ca Lưu Đà Di đừng có gọi như thế nữa. Lúc đó, trong tâm của vị Thần sông rất vui, tôn giả Ca Lưu Đà Di cũng nhận điều không phải của mình. Sau đó, tôn giả Ca Lưu Đà Di đối với Thần sông nói : Tiểu tỳ đừng giận, vẫn gọi cô ta là Tiểu tỳ ! Thần sông không nói gì và bỏ đi, đó là câu chuyện về tập khí thành tự nhiên.

Thần sông rất buồn bã bỏ đi, có người chẳng minh bạch nguyên nhân bên trong, bèn hỏi Đức Phật rằng : Tại sao tôn giả Ca Lưu Đà Di khi gặp vị Thần sông thì gọi là Tiểu tỳ ? Đức Phật nói với chúng đệ tử trong pháp hội rằng : Vì đời quá khứ, cô ta là nô tỳ trong nhà của Ca Lưu Đà Di, ông ta kêu đã quen rồi, bất cứ ở đâu, cũng đều kêu cô ta là Tiểu tỳ. Cho đến hiện tại, cũng vẫn còn gọi cô ta là Tiểu tỳ. Đó là tập khí, do đó bất cứ cái gì tập lâu dần sẽ thành một thứ tập khí.

Những gì là mười ? Đó là :

 

Bồ-đề tâm tập khí; Tập khí của Bồ đề tâm.

Giảng: 1. Tập khí bồ đề tâm. Bồ Tát đều phát bồ đề tâm, tức cũng là : Trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh.

 

Thiện căn tập khí Tập khí của thiện căn.

Giảng: 2. Tập khí căn lành. Bồ Tát luôn luôn gieo trồng căn lành cho chính mình, tài bồi căn lành của chính mình, cũng khiến người khác tăng trưởng căn lành, thành thục căn lành.

 

Giáo hóa chúng sanh tập khí Tập khí giáo hóa chúng sanh.

Giảng: 3. Tập khí giáo hoá chúng sinh. Bồ Tát luôn luôn giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh. Tại sao ? Vì Bồ Tát coi mình và chúng sinh đều đồng một thể, có tâm đại từ bi.

 

Kiến Phật tập khí Tập khí thấy Phật.

Giảng: 4. Tập khí thấy Phật. Bồ Tát thường hoan hỉ thấy tất cả chư Phật, gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật.

 

Ư thanh tịnh thế giới thọ sanh tập khí Tập khí thọ sanh nơi thế giới thanh tịnh.

Giảng: 5. Tập khí thọ sinh nơi thế giới thanh tịnh. Bồ Tát có sinh tử, chẳng muốn dứt sinh tử. Tại sao ? Vì muốn hoá độ chúng sinh, cho nên nguyện thọ sinh trong thế giới thanh tịnh, để giáo hoá chúng sinh.

 

Hạnh tập khí Tập khí của công hạnh.

Giảng: 6. Tập khí hạnh. Bồ Tát muốn hành Bồ Tát đạo, nguyện đem công đức hồi hướng cho chúng sinh.

 

Nguyện tập khí Tập khí của thệ nguyện

Giảng: 7. Tập khí nguyện. Bồ Tát thường phát nguyện lớn, lúc nào cũng giữ gìn lời nguyện của mình, y theo lời nguyện mà tu hành. Chẳng giống như phàm phu chúng ta phát nguyện, hôm nay vừa mới phát nguyện, ngày mai thì không giữ lời nguyện của mình đã phát ra.

 

Ba-la-mật tập khí Tập khí của Ba la mật.

Giảng: 8. Tập khí Ba la mật. Bất cứ Bồ Tát làm gì, nhất định cũng làm đến nơi rốt ráo bờ bên kia.

 

Tư tánh bình đẳng pháp tập khí Tập khí tư duy pháp bình đẳng.

Giảng: 9. Tập khí tư duy pháp bình đẳng. Bồ Tát thường tư duy pháp bình đẳng, đối với tất cả chúng sinh đều bình đẳng như nhau.

 

Chủng chủng cảnh giới sái biệt tập khí Tập khí của những cảnh giới sai biệt.

Giảng: 10. Tập khí đủ thứ cảnh giới khác biệt. Bồ Tát thường quán sát đủ thứ cảnh giới khác nhau.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức vĩnh ly nhất thiết phiền não tập khí, đắc Như Lai đại trí tập khí phi tập khí trí.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời lìa hẳn tất cả tập khí phiền não, được trí đại trí tập khí phi tập khí của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ pháp tập khí của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì vĩnh viễn lìa khỏi tất cả tập khí phiền não, đắc được đại trí tập khí, trí huệ chẳng có tập khí của Như Lai.

 

===============================

Thập Chủng Thủ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thủ, dĩ thử bất đoạn chư Bồ-tát hạnh. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! đại Bồ Tát có mười điều thủ lấy, do đây nên không dứt hạnh Bồ Tát. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thủ, nhờ đó mà không dứt các Bồ Tát hạnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Thủ nhất thiết chúng sanh giới, cứu cánh giáo hóa cố

Thủ tất cả chúng sanh giới, vì rốt ráo giáo hoá.

Giảng: 1. Thủ tất cả cõi chúng sinh, vì giáo hoá rốt ráo hết thảy chúng sinh, khiến cho họ đều thành Phật, tuyệt đối chẳng bỏ một chúng sinh nào.

 

Thủ nhất thiết thế giới, cứu cánh nghiêm tịnh cố

Thủ tất cả thế giới, vì rốt ráo nghiêm tịnh.

Giảng: 2. Thủ tất cả thế giới, vì rốt ráo thành tựu thanh tịnh trang nghiêm thế giới, khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được khoái lạc.

 

Thủ Như Lai, tu Bồ Tát hạnh vi cúng dường cố

Thủ Như Lai, vì tu hạnh Bồ Tát để cúng dường.

Giảng: 3. Thủ Như Lai, vì tại nhân địa tu Bồ Tát hạnh là cúng dường các Như Lai.

 

Thủ thiện căn, tích tập chư Phật tướng hảo công đức cố

Thủ thiện căn, vì chứa nhóm tướng hảo công đức của chư Phật.

Giảng: 4. Thủ căn lành, vì tích tập tướng tốt công đức của chư Phật. Nghĩa là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm thân.

 

Thủ đại bi, diệt nhất thiết chúng sanh khổ cố

Thủ đại bi, vì diệt khổ cho tất cả chúng sanh.

Giảng: 5. Thủ đại bi, vì hay diệt trừ khổ đau của tất cả chúng sinh.

 

Thủ đại từ, dữ nhất thiết chúng sanh nhất thiết trí lạc cố

Thủ đại từ, vì cho tất cả chúng sanh những trí lạc.

Giảng: 6. Thủ đại từ, vì ban cho tất cả chúng sinh vui nhất thiết trí.

 

Thủ Ba-la-mật, tích tập Bồ Tát chư trang nghiêm cố

Thủ Ba la mật, vì tích tập những trang nghiêm của Bồ Tát.

Giảng: 7. Thủ Ba la mật, vì tích tập các trang nghiêm của Bồ Tát, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được đại trí huệ.

 

Thủ thiện xảo phương tiện, ư nhất thiết xứ giai thị hiện cố

Thủ thiện xảo phương tiện, vì đều thị hiện ở tất cả chỗ.

Giảng: 8. Thủ thiện xảo phương tiện, vì ở tất cả mọi nơi đều thị hiện giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.

 

Thủ Bồ-đề, đắc vô ngại trí cố

Thủ Bồ đề, vì được trí vô ngại.

Giảng: 9. Thủ bồ đề, vì đắc được trí huệ vô ngại.

 

Lược thuyết Bồ Tát thủ nhất thiết pháp, ư nhất thiết xứ tất dĩ minh trí nhi hiện liễu cố

Thủ tất cả pháp, vì ở tất cả chỗ đều dùng minh trí để hiện rõ.

Giảng: 10. Lược nói Bồ Tát thủ tất cả pháp, vì ở tất cả mọi nơi đều dùng trí huệ sáng suốt mà thị hiện rõ tất cả pháp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử thủ, tức năng bất đoạn chư Bồ-tát hạnh, đắc nhất thiết Như Lai vô thượng vô sở thủ Pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi mười điều thủ lấy này thời có thể chẳng dứt Bồ Tát hạnh, được pháp vô sở thủ vô thượng của tất cả Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp thủ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ không đoạn tuyệt các Bồ Tát hạnh, đắc được pháp không chỗthủ vô thượng của tất cả Như Lai.

 

===================================

Thập Chủng Tu

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tu. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều tu. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười pháp tu. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tu chư Ba-la-mật; Tu các môn Ba la mật

Tu học Tu học

Tu huệ Tu tuệ

Tu nghĩa Tu nghĩa

Tu pháp Tu pháp

Tu xuất ly Tu xuất ly

Tu thị hiện Tu thị hiện

Tu cần hành phỉ giải Tu siêng thật hành chẳng lười

Tu thành đẳng chánh giác Tu thành Ðẳng Chánh Giác

Tu chuyển chánh Pháp luân. Tu chuyển Chánh Pháp Luân.

Giảng:

1. Tu tất cả các Ba la mật.

2. Tu tất cả học thức.

3. Tu tất cả trí huệ.

4. Tu tất cả nghĩa lý.

5. Tu tất cả Phật pháp.

6. Tu pháp xuất ly ba cõi.

7. Tu thị hiện pháp thần thông.

8. Tu siêng thực hành pháp chẳng giải đãi.

9. Tu thành Đẳng Chánh Giác.

10. Tu chuyển bánh xe chánh pháp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc vô thượng tu tu nhất thiết pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được tu vô thượng tu tất cả pháp.

Giảng: Đó là mười pháp tu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tu vô thượng, tu tất cả pháp.

===================================

Thập Chủng Thành Tựu Phật Pháp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thành tựu Phật Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều thành tựu Phật pháp. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thành tựu Phật pháp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bất ly thiện tri thức thành tựu Phật Pháp

Chẳng rời thiện tri thức, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 1. Chẳng lìa thiện tri thức, gần gũi thiện tri thức, mới thành tựu Phật pháp.

 

Thâm tín Phật ngữ thành tựu Phật Pháp

Thâm tín Phật ngữ thành tựu Phật pháp.

Giảng: 2. Phải tin sâu lời của Phật dạy, mới thành tựu Phật pháp.

 

Bất báng chánh pháp thành tựu Phật Pháp

Chẳng hủy báng chánh pháp, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 3. Chẳng phỉ báng chánh pháp, mới thành tựu Phật pháp.

 

Dĩ vô lượng vô tận thiện căn hồi hướng thành tựu Phật Pháp

Dùng vô lượng vô tận thiện căn hồi hướng, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 4. Dùng vô lượng vô tận căn lành, hồi hướng pháp giới tất cả chúng sinh, mới thành tựu Phật pháp.

 

Tín giải Như Lai cảnh giới vô biên tế thành tựu Phật Pháp

Tin hiểu cảnh giới của đức Như Lai vô biên tế, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 5. Tin hiểu cảnh giới Như Lai không bờ mé, mới thành tựu Phật pháp.

 

Tri nhất thiết thế giới cảnh giới thành tựu Phật Pháp

Biết cảnh giới của tất cả thế giới, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 6. Biết cảnh giới của tất cả thế giới, mới thành tựu Phật pháp.

 

Bất xả Pháp giới cảnh giới thành tựu Phật Pháp

Chẳng bỏ cảnh giới pháp giới, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 7. Chẳng bỏ cảnh giới của pháp giới, mới thành tựu Phật pháp.

 

Viễn ly chư ma cảnh giới thành tựu Phật Pháp

Xa rời những cảnh giới ma, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 8. Xa lìa cảnh giới các ma, mới thành tựu Phật pháp.

 

Chánh niệm nhất thiết chư Phật cảnh giới thành tựu Phật Pháp

Chánh niệm cảnh giới của tất cả Phật, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 9. Chánh niệm cảnh giới của tất cả chư Phật, mới thành tựu Phật pháp.

 

Lạc cầu Như Lai thập lực cảnh giới thành tựu Phật Pháp

Thích cầu cảnh giới Thập lực của Như Lai, thành tựu Phật pháp.

Giảng: 10. Thích cầu cảnh giới thập lực của Như Lai, mới thành tựu Phật pháp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc thành tựu Như Lai vô thượng đại trí tuệ

Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thành tựu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp thành tựu Phật pháp. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ được thành tựu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

===================================

Thập Chủng Thoái Thất Phật Pháp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thoái thất Phật Pháp, ứng đương viễn ly. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều thối thất Phật pháp cần phải xa kìa. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thối thất Phật pháp, nên phải xa lìa. Những gì là mười ? Đó là :

 

Khinh mạn thiện tri thức thoái thất Phật Pháp

Khinh mạn thiện tri thức, thối thất Phật pháp.

Giảng: 1. Khinh mạn thiện tri thức, khinh thường người tu hành, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Úy sanh tử khổ thoái thất Phật Pháp

Sợ khổ sanh tử, thối thất Phật pháp.

Giảng: 2. Sợ khổ sinh tử, cảm thấy quá khổ, chẳng biết tu hành, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Yếm tu Bồ Tát hạnh thoái thất Phật Pháp

Nhàm tu hạnh Bồ Tát, thối thất Phật pháp.

Giảng: 3. Nhàm chán tu Bồ Tát hạnh, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Bất lạc trụ thế gian thoái thất Phật Pháp

Chẳng thích trụ thế gian, thối thất Phật pháp.

Giảng: 4. Chẳng thích trụ ở thế gian, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Đam trước tam muội thoái thất Phật Pháp

Say đắm tam muội, thối thất Phật pháp.

Giảng: 5. Đắm trước vị thiền của tam muội, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Chấp thủ thiện căn thoái thất Phật Pháp

Chấp lấy thiện căn, thối thất Phật pháp.

Giảng: 6. Chấp lấy căn lành, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Phỉ báng chánh Pháp thoái thất Phật Pháp

Hủy báng chánh pháp, thối thất Phật pháp.

Giảng: 7. Phỉ báng tất cả chánh pháp, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Đoạn Bồ Tát hạnh thoái thất Phật Pháp

Ðoạn Bồ Tát hạnh, thối thất Phật pháp.

Giảng: 8. Dứt Bồ Tát hạnh, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Lạc nhị thừa đạo thoái thất Phật Pháp

Thích đạo Nhị thừa, thối thất Phật pháp.

Giảng: 9. Thích đạo nhị thừa, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Hiềm hận chư Bồ-tát thoái thất Phật Pháp

Hiềm hận chư Bồ Tát, thối thất Phật pháp.

Giảng: 10. Hiềm hận các Bồ Tát, thì sẽ thối thất Phật pháp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát viễn ly thử pháp, tức nhập Bồ Tát ly sanh đạo.

Nếu chư Bồ Tát xa lìa pháp này, thời nhập đạo ly sanh của Bồ Tát.

Đó là mười pháp thối thất Phật pháp. Nếu các Bồ Tát xa lìa các pháp nầy, thì sẽ vào đạo lìa khỏi sanh tử của Bồ Tát.

 

===================================

Thập Chủng Ly Sanh Đạo

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng ly sanh đạo. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đạo ly sanh. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo lìa sanh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Xuất sanh Bát-nhã Ba-la-mật nhi hằng quan sát nhất thiết chúng sanh, thị vi nhất

Xuất sanh Bát nhã Ba la mật mà luôn quán sát tất cả chúng sanh. Ðây là đạo ly sanh thứ nhứt.

Giảng: 1. Thứ nhất : Sinh ra Bát Nhã Ba La Mật, mà luôn quán sát tất cả chúng sinh.

 

Viễn ly chư kiến nhi độ thoát nhất thiết kiến phược chúng sanh, thị vi nhị

Xa rời những kiến chấp mà độ thoát tất cả chúng sanh bị kiến chấp ràng buộc. Ðây là đạo ly sanh thứ hai.

Giảng: 2. Thứ hai : Xa lìa các kiến, tức là thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến. Phàm là tà tri tà kiến, đều phải xa lìa, mà hay độ thoát tất cả chúng sinh ràng buộc các kiến.

 

Bất niệm nhất thiết tướng nhi bất xả nhất thiết trước tướng chúng sanh, thị vi tam

Chẳng tưởng niệm tất cả tướng mà chẳng bỏ tất cả chúng sanh chấp tướng. Ðây là đạo ly sanh thứ ba.

Giảng: 3. Thứ ba : Chẳng niệm tất cả tướng, cũng chẳng bỏ tất cả chúng sinh chấp tướng.

 

Siêu quá tam giới nhi thường tại nhất thiết thế giới, thị vi tứ

Siêu quá tam giới mà thường ở tại tất cả thế giới. Ðây là đạo ly sanh thứ tư.

Giảng: 4. Thứ tư : Vượt qua ba cõi, nhưng vẫn thường ở tại tất cả thế giới.

 

Vĩnh ly phiền não nhi dữ nhất thiết chúng sanh cọng cư, thị vi ngũ

Rời hẳn phiền não mà ở chung với tất cả chúng sanh. Ðây là đạo ly sanh thứ năm.

Giảng: 5. Thứ năm : Vĩnh viễn lìa khỏi phiền não, nhưng cùng ở với tất cả chúng sinh trong ba cõi.

 

Đắc ly dục Pháp nhi thường dĩ đại bi ai mẫn nhất thiết trước dục chúng sanh, thị vi lục

Ðắc pháp ly dục mà thường dùng đại bi thương xót tất cả chúng sanh nhiễm trước dục lạc. Ðây là đạo ly sanh thứ sáu.

Giảng: 6. Thứ sáu : Đắc được pháp lìa dục, tức là chẳng còn tâm tham dục, chẳng còn tâm nhiễm ô, chỉ có tâm thanh tịnh, tu hạnh thanh tịnh. Bồ Tát tuy lìa khỏi cảnh giới các dục, nhưng thường dùng tâm đại bi thương xót tất cả chúng sinh chưa lìa được dục, giáo hoá chúng sinh chấp trước dục niệm, luôn chẳng bỏ chúng sinh.

 

Thường lạc tịch tĩnh nhi hằng thị Hiện-Nhất-Thiết quyến thuộc, thị vi thất

Thường thích tịch tịnh mà luôn thị hiện tất cả quyến thuộc. Ðây là đạo ly sanh thứ bảy.

Giảng: 7. Thứ bảy : Bồ Tát thường thích tịch tĩnh, thích tu hành ở trong rừng sâu núi thẳm, nhưng thường thị hiện tất cả quyến thuộc. Như Phật tử quy y một vị đại đức cao Tăng nào đó, là quyến thuộc của vị đại đức cao Tăng đó. Giống như Vạn Phật Thánh Thành, là Thánh địa Phật giáo, rất là tịch tịnh, là chỗ tu hành rất tốt, cho nên rất nhiều người đến tu hành, tức là quyến thuộc của Vạn Phật Thánh Thành.

 

Ly thế gian sanh nhi tử thử sanh bỉ khởi Bồ Tát hạnh, thị vi bát

Rời sanh thế gian mà chết đây sanh kia khởi hạnh Bồ Tát. Ðây là đạo ly sanh thứ tám.

Giảng: 8. Thứ tám : Tuy Bồ Tát đã lìa sinh tử của thế gian, nhưng Bồ Tát vẫn phải chết đây sinh kia, sinh khởi Bồ Tát hạnh.

 

Bất nhiễm nhất thiết thế gian Pháp nhi bất đoạn nhất thiết thế gian sở tác, thị vi cửu

Chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian mà chẳng dứt tất cả việc làm thế gian. Ðây là đạo ly sanh thứ chín.

Giảng: 9. Thứ chín : Chẳng nhiễm trước tất cả pháp thế gian, nhưng vẫn chẳng dứt tất cả việc làm của thế gian.

 

Chư Phật Bồ-đề dĩ hiện kỳ tiền nhi bất xả Bồ Tát nhất thiết nguyện hạnh

Chư Phật Bồ đề đã hiện ra trước mà chẳng bỏ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát. Ðây là đạo ly sanh thứ mười.

Giảng: 10. Thứ mười : Chư Phật bồ đề đã hiện ra ở trước mắt, chứng được quả vị giác đạo, nhưng chẳng xả bỏ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát đã phát ra.

 

Thị vi thập. Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng ly sanh đạo, xuất ly thế gian, bất dữ thế cọng, nhi diệc bất tạp nhị thừa chi hạnh. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Bồ Tát quyết định pháp.

Ðây là mười đạo ly sanh của Bồ Tát, xuất ly thế gian chẳng cùng chung với thế gian mà cũng chẳng tạp hạnh Nhị thừa. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp quyết định của Bồ Tát.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ đạo chẳng lìa sanh của Bồ Tát, hay lìa khỏi thế gian, chẳng cùng với pháp thế gian, mà cũng chẳng tạp với hạnh của nhị thừa tu. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp quyết định lìa khỏi ba cõi của Bồ Tát.

 

=======================================

Thập Chủng Quyết Định Pháp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng quyết định pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp quyết định. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp quyết định. Những gì là mười ? Đó là :

 

Quyết định ư Như Lai chủng tộc trung sanh

Quyết định sanh trong chủng tộc của đức Như Lai.

Giảng: 1. Quyết định sinh ra ở trong dòng dõi của Như Lai.

 

Quyết định ư chư Phật cảnh giới trung trụ

Quyết định an trụ trong cảnh giới của chư Phật.

Giảng: 2. Quyết định trụ trong cảnh giới của chư Phật.

 

Quyết định liễu tri Bồ Tát sở tác sự

Quyết định biết rõ việc làm của chư Bồ Tát.

Giảng: 3. Quyết định biết rõ việc làm của Bồ Tát.

 

Quyết định an trụ chư Ba-la-mật

Quyết định an trụ trong các môn Ba la mật.

Giảng: 4. Quyết định an trụ các Ba la mật.

 

Quyết định đắc dự Như Lai chúng hội

Quyết định được dự trong chúng hội của Như Lai.

Giảng: 5. Quyết định được dự chúng hội của Như Lai.

 

Quyết định năng hiển Như Lai chủng tánh

Quyết định có thể hiển bày chủng tánh của Như Lai.

Giảng: 6. Quyết định hayhiển giống tánh Như Lai.

 

Quyết định an trụ Như Lai lực

Quyết định an trụ trong trí lực của Như Lai.

Giảng: 7. Quyết định an trụ trong mười lực của Như Lai.

 

Quyết định thâm nhập Phật Bồ-đề

Quyết định thâm nhập Bồ đề của chư Phật.

Giảng: 8. Quyết định vào sâu Phật bồ đề.

 

Quyết định dữ nhất thiết Như Lai đồng nhất thân

Quyết định đồng một thân với tất cả chư Phật.

Giảng: 9. Quyết định với tất cả Như Lai đồng một pháp thân.

 

Quyết định dữ nhất thiết Như Lai sở trụ vô hữu nhị

Quyết định đồng một chỗ ở với tất cả chư Phật.

Giảng: 10. Quyết định chỗ trụ với tất cả Như Lai không hai.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười pháp quyết định của Bồ Tát.

 

=======================================

Thập Chủng Xuất Sanh Phật Pháp Đạo

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng xuất sanh Phật Pháp đạo. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đạo xuất sanh Phật pháp. Những gì là mười ? Đó là

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo sinh ra Phật pháp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tùy thuận thiện hữu thị xuất sanh Phật Pháp đạo, đồng chủng thiện căn cố;

Tùy thuận thiện hữu là đạo xuất sanh Phật pháp, vì đồng gieo căn lành.

Giảng: 1. Tuỳ thuận bạn lành (thiện tri thức), là đạo sinh ra Phật pháp, vì cùng bạn lành gieo trồng căn lành.

 

Thâm tâm tín giải thị xuất sanh Phật Pháp đạo, tri Phật tự tại cố

Thâm tâm tin hiểu là đạo xuất sanh Phật pháp, vì biết Phật tự tại.

Giảng: 2. Thâm tâm tin hiểu tất cả Phật pháp, là đạo sinh ra Phật pháp, vì biết tự tại của Phật là vô ngại.

 

Phát đại thệ nguyện thị xuất sanh Phật Pháp đạo, kỳ tâm khoan quảng cố

Phát thệ nguyện lớn là đạo xuất sanh Phật pháp, vì tâm rộng rãi.

Giảng: 3. Phát thệ nguyện lớn, là đạo sinh ra Phật pháp, vì tâm đó rộng lớn. Do đó : Tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới.

 

Nhẫn tự thiện căn thị xuất sanh Phật Pháp đạo, tri nghiệp bất thất cố

Nhẫn thọ thiện căn của mình là đạo xuất sanh Phật pháp, vì biết nghiệp chẳng mất.

Giảng: 4. Nhẫn nại tu căn lành của mình, là đạo sinh ra Phật pháp, vì biết làm công đức nghiệp lành, tuyệt đối chẳng mất đi.

 

Nhất thiết kiếp tu hành Vô yếm túc thị xuất sanh Phật Pháp đạo, tận vị lai tế cố

Tất cả kiếp tu hành không nhàm đủ là đạo xuất sanh Phật pháp, vì tột thưở vị lai.

Giảng: 5. Trong tất cả kiếp tu hành không nhàm đủ, là đạo sinh ra Phật pháp, vì hết thuở vị lai cũng chẳng ngừng nghỉ.

 

A-tăng-kì thế giới giai thị hiện thị xuất sanh Phật Pháp đạo, thành thục chúng sanh cố

Vô số thế giới đều thị hiện là đạo xuất sanh Phật pháp, vì thành thục chúng sanh.

Giảng: 6. Trong A tăng kỳ thế giới đều thị hiện, giáo hoá chúng sinh, là đạo sinh ra Phật pháp, vì thành thục tất cả chúng sinh, khiến cho họ sớm thành Phật đạo.

 

Bất đoạn Bồ Tát hạnh thị xuất sanh Phật Pháp đạo, tăng trường đại bi cố

Chẳng dứt Bồ Tát hạnh là đạo xuất sanh Phật pháp, vì tăng trưởng đại bi.

Giảng: 7. Chẳng dứt hạnh của Bồ Tát tu, là đạo sinh ra Phật pháp, vì tăng trưởng tâm đại bi, độ khắp tất cả chúng sinh, chấm dứt sinh tử.

 

Vô lượng tâm thị xuất sanh Phật Pháp đạo, nhất niệm biến nhất thiết hư không giới cố

Vô lượng tâm là đạo xuất sanh Phật pháp, vì một niệm khắp tất cả hư không giới.

Giảng: 8. Tâm từ vi vô lượng, là đạo sinh ra Phật pháp, vì một niệm đầy khắp tất cả cõi hư không.

 

Thù thắng hạnh thị xuất sanh Phật Pháp đạo, bổn sở tu hành vô thất hoại cố

Hạnh thù thắng là đạo xuất sanh Phật pháp, vì công hạnh đã tu không hư mất.

Giảng: 9. Hạnh thù thắng, là đạo sinh ra Phật pháp, vì gốc của sự tu hành căn lành, không khi nào mất hoại.

 

Như Lai chủng thị xuất sanh Phật Pháp đạo, lệnh nhất thiết chúng sanh lạc phát Bồ-đề tâm, dĩ nhất thiết thiện pháp tư trì cố

Như Lai chủng là đạo xuất sanh Phật pháp, vì làm cho tất cả chúng sanh thích phát tâm Bồ đề dùng tất cả pháp lành giúp đỡ giữ gìn.

Giảng: 10. Giống Như Lai, là đạo sinh ra Phật pháp, vì khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỉ phát bồ đề tâm, dùng tất cả pháp lành nương nhờ và giữ gìn.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc đại trượng phu danh hiệu.

Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được danh hiệu đại trượng phu

Giảng: Đó là mười thứ đạo sinh ra Phật pháp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được danh hiệu Đại Trượng Phu.

 

=========================================

Thập Chủng Đại Trượng Phu Danh Hiệu

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng đại trượng phu danh hiệu. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Phật tử! Các đại Bồ-Tát được danh hiệu đại trượng phu. . Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười danh hiệu Đại trượng phu. Những gì là mười ? Đó là :

 

Danh vi: Bồ-đề Tát-đỏa, Bồ-đề trí sở sanh cố

Hiệu là Bồ đề Tát Ðỏa, vì Bồ đề trí sanh ra.

Giảng: 1. Tên là Bồ đề toá đoả, vì do bồ đề trí huệ sinh ra.

 

Danh vi: Ma-ha Tát-đỏa, an trụ Đại-Thừa cố

Hiệu là Ma Ha Tát Ðoả, vì an trụ nơi Ðại thừa.

Giảng: 2. Tên là Ma ha tát đoả, vì do an trụ trong đại thừa.

 

Danh vi: đệ nhất Tát-đỏa, chứng đệ nhất pháp cố

Hiệu là Ðệ nhứt Tát Ðoả, vì chứng pháp đệ nhứt.

Giảng: 3. Tên là Đệ nhứt tát đoả, vì chứng đắc pháp môn đệ nhứt nghĩa.

 

Danh vi: thắng Tát-đỏa, giác ngộ thắng Pháp cố

Hiệu là Thắng Tát Ðoả, vì giác ngộ pháp thù thắng.

Giảng: 4. Tên là Thắng tát đoả, vì giác ngộ tất cả pháp thù thắng.

 

Danh vi: tối thắng Tát-đỏa, trí tuệ tối thắng cố

Hiệu là Tối Thắng Tát Ðỏa, vì trí huệ tối thắng.

Giảng: 5. Tên là Tối thắng tát đoả, vì đắc được trí huệ tối thắng.

 

Danh vi: thượng Tát-đỏa, khởi thượng tinh tấn cố

Hiệu là Thượng Tát Ðoả, vì phát khởi thượng tinh tấn.

Giảng: 6. Tên là Thượng tát đoả, vì hay sinh khởi tâm tinh tấn tối thượng.

 

Danh vi: vô thượng Tát-đỏa, khai thị vô thượng pháp cố

Hiệu là Vô Thượng Tát Ðỏa, vì khai thị pháp vô thượng.

Giảng: 7. Tên là Vô thượng tát đoả, vì hay khai thị Phật pháp vô thượng.

 

Danh vi: lực Tát-đỏa, quảng tri thập lực cố

Hiệu là Lực Tát Ðỏa, vì biết rộng Thập lực.

Giảng: 8. Tên là Lực tát đoả, vì rộng biết mười lực của Phật là không thể nghĩ bàn.

 

Danh vi: vô đẳng Tát-đỏa, thế gian vô bỉ cố

Hiệu là Vô Ðẳng Tát Ðỏa, vì thế gian không sánh được.

Giảng: 9. Tên là Vô đẳng tát đoả, vì hết thảy chúng sinh thế gian, không gì sánh bằng.

 

Danh vi: bất tư nghị Tát-đỏa, nhất niệm thành Phật cố

Hiệu là Bất Tư Nghì Tát Ðỏa, vì một niệm thành Phật.

Giảng: 10. Tên là Bất tư nghì tát đoả, vì trong một niệm lập tức có thể thành Phật.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát đắc thử danh hiệu, tức thành tựu Bồ Tát đạo.

Nếu chư Bồ Tát được danh hiệu này thời thành tựu Bồ Tát đạo.

Giảng: Đó là mười danh hiệu Đại trượng phu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ thành tựu đạo Bồ Tát.

 

================================

Thập Chủng Đạo

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng đạo. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đạo. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đạo. Những gì là mười ? Đó là :

 

Nhất đạo thị Bồ Tát đạo, bất xả độc nhất Bồ-đề tâm cố.

Nhứt đạo là Bồ Tát đạo, vì chẳng bỏ Bồ đề tâm độc nhứt.

Giảng: 1. Một đạo là Bồ Tát đạo. Một đạo là đạo gì ? Tức là Bồ Tát đạo, tức cũng là lục độ vạn hạnh của Bồ Tát tu. Phải phát tâm bồ đề, phải cầu đạo bồ đề. Đó là Phật thừa độc nhứt vô nhị. Bồ Tát giữ gìn tâm bồ đề, chẳng xả bỏ, cũng chẳng thối chuyển.

 

Nhị đạo thị Bồ Tát đạo, xuất sanh trí tuệ cập phương tiện cố

Nhị đạo là Bồ Tát đạo, vì xuất sanh trí huệ và phương tiện.

Giảng: 2. Hai đạo là Bồ Tát đạo. Hai đạo là đạo gì ? Tức là đạo phước huệ song tu. Tu phước tu huệ, phước huệ tròn đầy, mới có thể thành Phật đạo, sinh ra nhất thiết trí và tất cả phương tiện.

 

Tam đạo thị Bồ Tát đạo, hành không, vô tướng, vô nguyện, bất trước tam giới cố

Tam đạo là Bồ Tát đạo, vì thật hành không, vô tướng, vô nguyện, chẳng nhiễm trước tam giới.

Giảng: 3. Ba đạo là Bồ Tát đạo. Ba đạo là đạo gì ? Tức là hành không, vô tướng, vô nguyện. Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả không, cũng chẳng có tất cả tướng, cũng chẳng có mọi sự chấp trước. Chẳng chấp trước dục của dục giới, chẳng chấp trước sắc của sắc giới, chẳng chấp trước vô sắc của vô sắc giới. Tóm lại, tất cả đều không chấp trước.

 

Tứ hạnh thị Bồ Tát đạo, sám trừ tội chướng, tùy hỉ phước đức, cung kính tôn trọng khuyến thỉnh Như Lai, thiện xảo hồi hướng vô hưu tức cố.

Tứ hạnh là Bồ Tát đạo, vì sám trừ tội chướng, tùy hỉ phước đức, cung kính tôn trọng khuyế thỉnh Như Lai, thiện xảo hồi hướng không thôi nghỉ.

Giảng: 4. Bốn hạnh là Bồ Tát đạo. Bốn hạnh là gì ? Tức là bồ đề, phước đức, trí huệ, sám hối. Hay sám trừ nghiệp chướng thuở xưa, hay tuỳ hỉ phước đức vị lai, cung kính tôn trọng tất cả chư Phật hiện tại, khuyến thỉnh Như Lai, thiện xảo hồi hướng vĩnh viễn không ngừng nghỉ. Bốn hạnh lại có thể nói là bốn hoằng thệ nguyện : Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Lại có thể nói là bốn pháp nhiếp : Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Đó đều là đạo của Bồ Tát.

 

Ngũ căn thị Bồ Tát đạo, an trụ tịnh tín kiên cố bất động, khởi đại tinh tấn sở tác cứu cánh, nhất hướng chánh niệm vô dị phàn duyên, xảo tri tam muội nhập xuất phương tiện, thiện năng phân biệt trí tuệ cảnh giới cố.

Ngũ căn là Bồ Tát đạo, vì an trụ tịnh tín kiên cố bất động, khởi đại tinh tấn việc làm rốt ráo, một bề chánh niệm không phan duyên khác lạ, khéo biết tam muội nhập xuất phương tiện hay khéo phân biệt cảnh giới trí huệ.

Giảng: 5. Năm căn là Bồ Tát đạo. Năm căn là gì ? Tức là : Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn. An trụ nơi tín căn thanh tịnh, kiên cố bất động. Tại sao bất động ? Vì gốc rễ sinh ra tâm đại tinh tấn. Làm tất cả sự nghiệp đều rốt ráo, một hướng chánh niệm, tức là niệm. Chẳng đi phan duyên, tức là định. Khéo biết tam muội, tức là huệ. Nhập xuất phương tiện, khéo hay phân biệt cảnh giới nhất thiết trí huệ.

 

Lục thông thị Bồ Tát đạo. Sở vị; Thiên nhãn, tất kiến nhất thiết thế giới sở hữu chúng sắc, tri chư chúng sanh tử thử sanh bỉ cố; thiên nhĩ, tất văn chư Phật thuyết Pháp, thọ trì ức niệm, quảng vi chúng sanh tùy căn diễn sướng cố; tha tâm trí, năng tri tha tâm, tự tại vô ngại cố; tú mạng niệm, ức tri quá khứ nhất thiết kiếp số, tăng trưởng thiện căn cố; thần túc thông, tùy sở ưng hóa nhất thiết chúng sanh, chủng chủng vi hiện, lệnh lạc Pháp cố; lậu tận trí, hiện chứng thật tế, khởi Bồ Tát hạnh bất đoạn tuyệt cố.

Lục thông là Bồ Tát đạo, vì thiên nhãn thấy rõ những hình sắc của tất cả thế giới, biết các chúng sanh chết đây sanh kia. Thiên nhĩ nghe rõ chư Phật thuyết pháp thọ trì ghi nhớ, rộng vì chúng sanh tùy căn cơ để khai diễn. Tha tâm trí hay biết tâm người tự tại vô ngại. Túc mạng thông nhớ biết rõ tất cả kiếp số quá khứ thêm lớn căn lành. Thần túc thông tùy theo những chúng sanh đáng được quá độ, vì họ mà biến hiện nhiều thứ cho họ thích mến chánh pháp. Lậu tận trí hiện chứng thiệt tế khởi Bồ Tát hạnh chẳng đoạn tuyệt.

Giảng: 6. Sáu thông là Bồ Tát đạo. Sáu thông là gì ? Tức là : Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông.

– Thiên nhãn thông : Có thể nhìn thấy được hết thảy nhan sắc trong tất cả thế gian, biết được tất cả chúng sinh chết ở chỗ đây, rồi sinh về chỗ kia, nhìn thấy được rất rõ ràng.

– Thiên nhĩ thông : Mười phương chư Phật thuyết pháp đều nghe được, lại có thể thọ trì, và nghĩ nhớ, rộng vì tất cả chúng sinh tuỳ căn cơ mà diễn xướng tất cả Phật pháp.

– Tha tâm thông : Biết được hết thảy vọng tưởng trong tâm người khác, muốn nói gì. Tại sao biết được ? Vì tự tại vô ngại.

– Túc mạng thông : Chẳng những biết sự việc đời nầy, mà còn biết sự việc đời trước, có thể nhớ lại quá khứ tất cả kiếp số, tăng trưởng căn lành.

– Thần túc thông : Tuỳ sự ứng hoá tất cả chúng sinh, thị hiện đủ thứ, khiến cho họ hoan hỉ Phật pháp.

– Lậu tận thông : Hay hiện chứng thật tế, chẳng còn tất cả lậu, chẳng còn tất cả tập khí. Hay khởi Bồ Tát hạnh, vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt. Ngoại đạo chỉ có ngũ thông, chẳng có lậu tận thông, cho nên không thể chứng được Phật quả.

 

Thất niệm thị Bồ Tát đạo. Sở vị: niệm Phật, ư nhất mao khổng kiến vô lượng Phật, khai ngộ nhất thiết chúng sanh tâm cố; niệm Pháp, bất ly nhất Như Lai chúng hội, ư nhất thiết Như Lai chúng hội trung thân thừa diệu pháp, tùy chư chúng sanh căn tánh dục lạc nhi vi diễn thuyết, lệnh ngộ nhập cố; niệm Tăng, hằng tướng tục kiến vô hữu hưu tức, ư nhất thiết thế gian kiến Bồ Tát cố; niệm xả, liễu tri nhất thiết Bồ Tát xả hạnh, tăng trưởng quảng đại bố thí tâm cố; niệm giới, bất xả Bồ-đề tâm, dĩ nhất thiết thiện căn hồi hướng chúng sanh cố; niệm thiên, thường ức niệm Đâu-Xuất-Đà Thiên cung nhất sanh bổ xứ Bồ-tát cố; niệm chúng sanh, trí tuệ phương tiện giáo hóa điều phục, phổ cập nhất thiết Vô gián đoạn cố.

Thất niệm là Bồ Tát đạo. Vì niệm Phật, ở, một lỗ lông thấy vô lượng Phật khai ngộ tất cả tâm chúng sanh. Niệm Pháp, chẳng rời chúng hội của một đức Như Lai, ở trong chúng hội của tất cả Như Lai thân thừa diệu pháp, tùy căn tánh dục lạc của các chúng sanh mà vì họ diễn thuyết cho họ được ngộ nhập. Niệm Tăng luôn nối tiếp thấy không thôi dứt, nơi tất cả thế gian thấy Bồ Tát. Niệm xả, biết rõ tất cả Bồ Tát hạnh xả tăng trưởng, tâm bố thí rộng lớn. Niệm giới chẳng bỏ tâm Bồ đề, đem tất cả thiện căn hồi hướng chúng sanh. Niệm Thiên thường ghi nhớ Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ tại Ðâu Suất Thiên cung. Niệm chúng sanh, trí huệ phương tiện giáo hóa điều phục đến khắp tất cả không gián đoạn.

Giảng: 7. Bảy niệm là Bồ Tát đạo. Bảy niệm là gì ? Tức là : Niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm xả, niệm giới, niệm Thiên, niệm chúng sinh.

– Niệm Phật : Có thể ở trong một lỗ chân lông, thấy được vô lượng vô biên chư Phật, khai ngộ tâm của tất cả chúng sinh.

– Niệm Pháp : Chẳng lìa khỏi tất cả chúng hội của Như Lai, ở trong tất cả đạo tràng chúng hội của Như Lai, thân thừa diệu pháp, tuỳ thuận căn của chúng sinh, mà vì họ diễn nói diệu pháp, khiến cho chúng sinh ngộ nhập đạo bồ đề.

– Niệm Tăng : Thường luôn thấy tương tục không dứt, thấy tất cả Bồ Tát nơi thế gian không có ngừng nghỉ.

– Niệm xả : Biết rõ hạnh hỉ xả của tất cả Bồ Tát, tăng trưởng tâm bố thí rộng lớn.

– Niệm giới : Phải nghiêm trì giới luật, chẳng xả bỏ tâm bồ đề, đem tất cả căn lành hồi hướng cho chúng sinh.

– Niệm Thiên : Thường nghĩ nhớ Nhất Sinh Bổ Xứ Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất, tương lai sẽ đến nhân gian thành Phật.

– Niệm chúng sinh : Dùng pháp môn trí huệ phương tiện giáo để hoá điều phục tất cả chúng sinh, đến khắp tất cả, không khi nào gián đoạn.

 

Tùy thuận Bồ-đề bát Thánh đạo thị Bồ Tát đạo. Sở vị: hành chánh kiến đạo, viễn ly nhất thiết chư tà kiến cố; khởi chánh tư duy, xả vọng phân biệt, tâm thường tùy thuận nhất thiết trí cố; thường hành chánh ngữ, ly ngữ tứ quá, thuận Thánh ngôn cố; hằng tu chánh nghiệp, giáo hóa chúng sanh lệnh điều phục cố; an trụ chánh mạng, Đầu-đà tri túc, uy nghi thẩm chánh, tùy thuận Bồ-đề hành tứ thánh chủng, nhất thiết quá thất giai vĩnh ly cố; khởi chánh tinh tấn, cần tu nhất thiết Bồ Tát khổ hạnh, nhập Phật thập lực vô quái ngại cố; tâm thường chánh niệm, tất năng ức trì nhất thiết ngôn âm, trừ diệt thế gian tán động tâm cố; tâm thường chánh định, thiện nhập Bồ Tát bất tư nghị giải thoát môn, ư nhất tam muội trung xuất sanh nhất thiết chư tam muội cố.

Tùy thuận Bồ đề Bát thánh đạo là Bồ Tát đạo. Thật hành đạo chánh kiến xa lìa tất cả tà kiến. Khởi chánh tư duy bỏ vọng phân biệt tâm thường tùy thuận nhứt thiết trí. Thường thật hành chánh ngữ rời bốn lỗi của ngữ nghiệp tùy thuận thánh ngôn. Hằng tu chánh nghiệp giáo hóa chúng sanh cho họ được điều phục. An trụ chánh mạng, đầu đà tri túc oai nghi thẩm chánh, tùy thuận Bồ đề thật hành tứ thánh chủng, tất cả lỗi lầm đều rời hẳn. Khởi chánh tinh tần siêng tu tất cả khổ hạnh của Bồ Tát nhập Thập lực của Phật không chướng ngại. Tâm thường chánh niệm đều có thể ghi nhớ tất cả ngôn âm, trừ diệt tâm tán động của thế gian. Tâm thường chánh định, khéo nhập môn Bồ Tát bất tư nghì giải thoát, ở trong một tam muội xuất sanh tất cả môn tam muội. Nhập cửu thứ đệ định là Bồ Tát đạo. Rời dục nhiễm sân hại mà dùng tất cả ngữ nghiệp thuyết pháp vô ngại. Diệt trừ giác quán mà dùng tất cả trí giác quán giáo hóa chúng sanh. Xả ly hỷ ái mà thấy tất cả chư Phật lòng rất hoan hỷ. Rời thế gian lạc mà tùy thuận Bồ Tát đạo xuất thế lạc từ đây bất động. Nhập vô sắc định mà cũng chẳng bỏ thọ sanh nơi Dục giới và Sắc giới. Dầu trụ trong diệt thọ tưởng định mà cũng chẳng dứt Bồ Tát hạnh.

Giảng: 8. Tuỳ thuận bồ đề tám thánh đạo là Bồ Tát đạo. Tám thánh đạo là gì ? Tức là : Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

– Chánh kiến : Phải tu hành đạo chánh tri chánh kiến, xa lìa đạo tà tri tà kiến.

– Chánh tư duy : Thường khởi sự suy nghĩ chánh đáng, xả bỏ tâm vọng tưởng phân biệt. Trong tâm thường tuỳ thuận nhất thiết trí huệ, không tuỳ thuận tất cả ngu si.

– Chánh ngữ : Thường nói những lời chánh đáng, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không chửi mắng, đó là lìa khỏi bốn lỗi của lời nói, phải tuỳ thuận lời nói của bậc Thánh nhân.

– Chánh nghiệp : Luôn tu hành nghiệp chánh đáng, giáo hoá chúng sinh, điều phục chúng sinh, khiến cho chúng sinh cải tà quy chánh.

– Chánh mạng : An trụ tại chánh mạng, tu hành đầu đà khổ hạnh, luôn luôn biết đủ, chẳng khởi tâm tham, oai nghi chỉnh tề, theo đúng như pháp, tất cả phải đoan chánh, tuỳ thuận hạnh bồ đề giác đạo, tu hành bốn bậc Thánh, tức là : Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, tất cả lỗi lầm đều vĩnh viễn lìa khỏi.

– Chánh tinh tấn : Siêng tu tất cả khổ hạnh của Bồ Tát tu, chứng nhập vào cảnh giới mười lực không quái ngại của Phật.

– Chánh niệm : Trong tâm thường phải có ý niệm chánh đáng, đều ghi nhớ tất cả lời nói âm thanh, trừ diệt tâm niệm tán động của thế gian.

– Chánh định : Tâm thường nhập định chánh đáng, khéo nhập vào môn giải thoát không nghĩ bàn của Bồ Tát, ở trong một thứ tam muội sinh ra tất cả các tam muội.

 

Nhập cửu thứ đệ định thị Bồ Tát đạo. Sở vị; ly dục khuể hại, nhi dĩ nhất thiết ngữ nghiệp thuyết pháp vô ngại; diệt trừ giác quán, nhi dĩ nhất thiết trí giác quán giáo hóa chúng sanh; xả ly hỉ ái, nhi kiến nhất thiết Phật, tâm đại hoan hỉ; ly thế gian lạc, nhi tùy thuận xuất thế Bồ Tát đạo lạc; tòng thử bất động, nhập vô sắc định, nhi diệc bất xả dục, sắc thọ sanh; tuy trụ diệt nhất thiết tưởng thọ định, nhi diệc bất tức Bồ Tát hạnh cố.

Nhập chín thứ đệ định, là Bồ Tát đạo. Đó là : Lìa dục sân hại, mà dùng tất cả ngữ nghiệp nói pháp vô ngại. Diệt trừ giác quán, mà dùng nhất thiết trí giác quán giáo hoá chúng sinh. Xả lìa hỉ ái, mà thấy tất cả Phật, tâm đại hoan hỉ. Lìa vui thế gian, mà tuỳ thuận vui xuất thế Bồ Tát đạo. Từ đây bất động nhập vào vô sắc định, mà cũng chẳng bỏ dục sắc thọ sanh. Tuy trụ diệt tất cả tưởng thọ định, mà cũng chẳng ngừng Bồ Tát hạnh.

Giảng: 9. Nhập chín thứ đệ định, là Bồ Tát đạo. Chín thứ đệ định là gì ? Tức là : Tại sắc giới có định căn bản của Tứ Thiền, tại vô sắc giới có định căn bản của Tứ Không Xứ, và diệt thọ tưởng định, còn gọi là diệt tận định. Phải lìa khỏi tâm dục niệm, sân hận, thương hại, mà dùng tất cả lờinghiệp để nói pháp vô ngại. Diệt sạch tiêu trừ tất cả giác quán ác, mà dùng nhất thiết trí huệ giác quán, để giáo hoá tất cả chúng sinh. Xả lìa hoan hỉ và tình ái, mà thấy tất cả chư Phật, tâm sinh đại hoan hỉ. Lìa khỏi tất cả sự vui thế gian, mà tuỳ thuận sự vui xuất thế Bồ Tát đạo. Từ đây bất động nhập vào vô sắc định, mà cũng chẳng bỏ thọ sanh dục giới và sắc giới. Tuy nhiên trụ tại diệt tất cả tưởng thọ định, tư tưởng gì cũng không còn nữa, nhưng cũng chẳng ngừng hạnh của Bồ Tát tu.

 

Học Phật thập lực thị Bồ Tát đạo. Sở vị: thiện tri thị xứ, phi xứ trí; thiện tri nhất thiết chúng sanh, khứ, lai hiện tại nghiệp báo nhân quả trí; thiện tri nhất thiết chúng sanh thượng, trung, hạ căn bất đồng tùy nghi thuyết pháp trí; thiện tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng vô lượng tánh trí; thiện tri nhất thiết chúng sanh nhuyễn, trung, thượng giải sái biệt lệnh nhập Pháp phương tiện trí; biến nhất thiết thế gian, nhất thiết sát, nhất thiết tam thế, nhất thiết kiếp, phổ hiện Như Lai hình tướng uy nghi nhi diệc bất xả Bồ Tát sở hạnh trí; thiện tri nhất thiết chư Thiền giải thoát cập chư tam muội nhược cấu nhược tịnh, thời dữ phi thời, phương tiện xuất sanh chư Bồ-tát giải thoát môn trí; tri nhất thiết chúng sanh ư chư thú trung tử thử sanh bỉ sái biệt trí; ư nhất niệm trung tất tri tam thế nhất thiết kiếp số trí; thiện tri nhất thiết chúng sanh lạc dục, chư sử, hoặc tập diệt tận trí, nhi bất xả ly chư Bồ-tát hạnh.

Học Phật Thập lực là Bồ Tát đạo: Trí khéo biết thị xứ phi xứ. Trí khéo biết nghiệp báo nhơn quả quá khứ vị lai hiện tại của tất cả chúng sanh. Trí khéo biết tất cả chúng sanh căn thượng trung hạ chẳng đồng mà tùy cơ nghi thuyết pháp. Trí khéo biết tất cả chúng sanh có vô lượng tánh. Trí khéo biết tất cả chúng sanh kiến giải hạ trung thượng sai biệt làm cho họ nhập vào pháp phương tiện. Trí biết khắp tất cả thế gian, tất cả cõi, tất cả tam thế, tất cả kiếp, hiện khắp hình tướng oai nghi của Như Lai, mà cũng chẳng bỏ việc làm của Bồ Tát. Trí khéo biết tất cả các thiền giải thoát và các tam muội, hoặc cấu, hoặc tịnh, thời cùng phi thời, phương tiện xuất sanh những Bồ Tát giải thoát môn. Trí biết tất cả chúng sanh ở trong các loài chết đây sanh kia sai khác nhau. Trí ở trong một niệm đều biết tam thế tất cả kiếp số. Trí khéo biết tất cả chúng sanh lạc dục, phiền não hoặc tập đều diệt hết, mà chẳng bỏ rời hạnh Bồ Tát.

Giảng: 10. Học thập lực của Phật là Bồ Tát đạo. Thập lực là gì ? Tức là :

1 – Khéo biết về đạo lý nầy, đúng hay là không đúng.

2. Khéo biết về đủ thứ nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sinh quá khứ, hiện tại, vị lai.

3. Khéo biết về căn thượng, trung, hạ, khác nhau của tất cả chúng sinh, có thể tuỳ nghi thuyết pháp, giáo hoá chúng sinh.

4. Khéo biết về đủ thứ vô lượng tánh của tất cả chúng sinh.

5. Khéo biết về kiến giải phân biệt thượng, trung, hạ, của tất cả chúng sinh, khiến cho họ nhập vào pháp phương tiện.

6. Có thể đầy khắp tất cả thế gian tất cả cõi nước, tất cả ba đời tất cả cõi nước, khắp thị hiện hình tướng và oai nghi của Như Lai, những vẫn không xả bỏ hạnh của Bồ Tát tu.

7. Khéo biết tất cả các thiền giải thoát và tất cả tam muội, hoặc nhiễm cấu, hoặc là thanh tịnh, hoặc thời, hoặc phi thời. Phương tiện sinh ra tất cả các môn giải thoát của Bồ Tát.

8. Khéo biết về tất cả chúng sinh, ở trong sáu loài, sinh tử không kỳ chấm dứt. Chết ở đây lại sinh về kia, có đủ thứ sự khác nhau.

9. Ở trong một niệm, liền biết tất cả số kiếp ba đời.

10. Khéo biết tất cả chúng sinh, hoan hỉ các dục (tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm dục), các sử (thân, biên, giới, kiến, tà, năm lợi sử, và tham, sân, si, mạn, nghi, năm độn sử), hoặc (kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc), tập khí (tập quán chẳng chánh đáng), có thể diệt chúng sạch hết, nhưng cũng không xả bỏ tất cả hạnh của Bồ Tát tu.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết Như Lai vô thượng xảo phương tiện đạo.

Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi đây thời được đạo phương tiện thiện xảo vô thượng của tất cả Như Lai.

Giảng: Ở trên là mười thứ đạo của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tất cả đạo thiện xảo phương tiện trí huệ vô thượng của Như Lai.

 

Các vị thiện tri thức ! Hôm nay (05/05/1978) là ngày Phật Đản. Đức Phật đã thị hiện ra đời cách đây ba ngàn năm tại Ấn Độ. Vì lịch của các nước khác nhau, cho nên ngày tháng cũng có sự khác nhau, không cách gì khảo chứng. Có người chủ trương là ngày nầy, có người chủ trương là ngày kia, ai cũng cho mình đúng. Vậy cứu kính là ngày nào ? Chẳng ai biết rõ. Căn cứ vào chỗ nghĩ của tôi, thì không cần truy cứu ngày nào. Ngày nào chúng ta tưởng nhớ đến ngày Phật đản sinh thì là ngày đó. Bạn không cần phải chấp trước vào ngày đó, vì không dễ gì khảo chứng chắc chắn là ngày nào.

Giữa Nam Tông và Bắc Tông có sự bất đồng về ngày đản sanh của Ðức Phật. Tuy nhiên, bất luận ngày nào, chỉ cần mọi người thành kính tưởng nhớ, trang nghiêm lễ bái, thì ngày đó chính là ngày Ðức Phật đản sanh. Bởi lẽ “pháp vô định pháp,” cho nên dẫu có nghiên cứu riêng về một vấn đề này đến tóc bạc, mắt lòa, cũng vẫn không tìm ra được một đáp án đúng đắn, chỉ lãng phí thì giờ quý báu, như thế thì đáng tiếc biết bao!

Theo đạo Phật, mỗi người nói chung đều có chỗ chấp trước, câu nệ. Người thì chấp trước Phật Giáo Ấn Ðộ, kẻ thì chấp trước Phật Giáo Tích Lan, Phật Giáo Trung Hoa hoặc Phật Giáo Nhật Bản v.v… Chính vì sự chấp trước và quan điểm bất đồng đã khiến cho Phật Giáo trở thành có giới hạn, có ranh giới, và gây nên sự chia rẽ trong Phật Giáo.

Thật ra, Phật Giáo vô lượng vô biên, không hề có một phạm vi nhất định. Do đó, tôi trước sau vẫn chủ trương là không nên vạch ranh giới cho Phật Giáo, mà trái lại, tất cả phải đoàn kết nhất trí, “thế giới một nhà” mới đúng! Tôi vẫn thường nói: “Phật Giáo mà tôi giảng thì không phải là Phật Giáo Ấn Ðộ, cũng chẳng là Phật Giáo Trung Hoa, mà chính là thứ Phật Giáo ‘tận hư không, khắp Pháp Giới!'” Nói rõ hơn thì không có Phật Giáo nào có quốc tịch, không có Phật Giáo nào có chủng tộc, và cũng không có thứ Phật Giáo phân chia nhân, ngã hay ta, người! Không phải chỉ có kẻ tín ngưỡng Phật Giáo mới là đệ tử Phật, mà ngay cả những người không tín ngưỡng Phật Giáo cũng là đệ tử của Phật! Tại sao? Vì Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy rằng:

Nhất thiết chúng sinh,
Giai hữu Phật tánh,
Giai kham tác Phật!

Nghĩa là:
Tất cả chúng sinh,
Ðều có Phật tánh,
Ðều đặng thành Phật!

Ðiều này chứng tỏ rằng người tin Phật là chúng sinh, mà người không tin Phật cũng là chúng sinh!

– Có người nói: “Tôi không phải là chúng sinh!” Thế thì, thử hỏi: “Bạn không phải là chúng sinh; vậy thì bạn là gì?”

– Có người lại cả quyết: “Tôi tên là Thiên (trời), vậy thì tôi là trời!” Bạn nên biết rằng: “Trời” cũng là một chúng sinh!

– Cũng có người nói: “Tôi tên là Ðịa (đất), vậy thì tôi là đất!” Bạn nên nhớ rằng: “Ðất” cũng là chúng sinh và cũng không vượt ra ngoài vòng chúng sinh!

Tận cùng cõi hư không và khắp cả pháp giới đều là nơi cư ngụ của chúng sinh. Trong mười Pháp Giới, chỉ có Phật Pháp giới là vượt ra ngoài vòng chúng sinh; còn chín pháp giới còn lại (Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, Người, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Ðịa Ngục) đều thuộc trong vòng chúng sinh, nên đều được gọi là “chúng sinh.”

Chúng ta đều là chúng sinh, thế thì, nếu tôi xem những kẻ không tin theo đạo Phật cũng thuộc về Phật Giáo thì có gì là không công bằng chứ? Ðây chính là tánh cách “toàn thể đại dụng” của Phật Giáo. Ðức Phật dạy rằng:

Nhất thiết chúng sanh giai khả thành Phật!

Nghĩa là :

Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật!

Dù các bạn có tin theo Phật giáo hay không, trong tương lai, tất cả các bạn đều sẽ thành Phật! Tại sao? Vì các bạn chạy không khỏi cái vòng chúng sinh! Người nào hiện tại không tin Phật, thì tương lai sẽ tin Phật; đời này không tin Phật; thì đời sau có thể sẽ tin Phật, nói tóm lại là mọi người rồi sẽ tin Phật, do đó mà tất cả chúng sinh đều được xem như đệ tử của Phật.

Hiện nay có tôn giáo không giảng đạo lý, cứ quả quyết rằng: “Chỉ có một vị Thần độc nhất vô nhị, có thể làm chủ tể thế giới, sáng tạo thế giới, và khống chế vũ trụ mà thôi. Con người thì không có tư cách làm Thần, mà chỉ có thể làm nô lệ cho Thần và chịu sự chi phối của Thần!” Thứ lý luận này rất tương phản với tông chỉ của Phật Giáo!

Theo tông chỉ của Phật Giáo thì ai ai cũng có thể thành Phật được cả. Các chúng sanh đời hiện tại, chính là cha mẹ của chúng ta trong đời quá khứ và là những vị Phật trong tương lai. Nếu chúng ta sinh lòng sân hận đối với chúng sinh, thì cũng như sân hận đối với cha mẹ mình và chư Phật; và như thế tức là chúng ta trở thành những kẻ bất hiếu, đại nghịch! Do vậy, đối với chúng sinh thì chúng ta cần phải từ bi, kính trọng. Giữa người với người thì nên đối đãi một cách chân thành và sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau; chứ đừng chướng ngại, đố kỵ nhau. Ðó là điểm vĩ đại nhất của đạo Phật.

Hôm nay các bạn đến Vạn Phật Thánh Thành tham gia Lễ Tắm Phật, thì tôi xem các bạn như là đệ tử của Phật, mà không cần biết các bạn có tin Phật hay không, có tắm Phật hay không! Người tín ngưỡng Thiên Chúa tôi cũng kể như đệ tử của Phật, người tín ngưỡng Giê-su tôi cũng coi là đệ tử của Phật. Ngay cả những người tín ngưỡng Do Thái giáo, hoặc Hồi giáo v.v… Tôi cũng đều xem họ như đệ tử của Phật. Tôi tuyệt nhiên không hề xem các bạn là “người ngoài” đối với Phật giáo. Tất cả mọi người đều là một nhà, cùng chung một gia đình, không phân biệt người này kẻ nọ. Các bạn xem, Phật giáo hoàn toàn không có tư tưởng bài xích tôn giáo khác, thật là vĩ đại biết bao!

 

==================================

Thập Chủng Vô Llượng Đạo

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu vô lượng đạo, vô lượng trợ đạo, vô lượng tu đạo, vô lượng trang nghiêm đạo.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng vô lượng đạo. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có vô lượng đạo, vô lượng trợ đạo, vô lượng tu đạo, vô lượng trang nghiêm đạo.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng đạo. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có vô lượng vô biên đạo phải tu hành, lại có vô lượng vô biên trợ đạo phải tu hành, lại có vô lượng vô biên tu đạo phải tu hành, lại có vô lượng vô biên trang nghiêm đạo phải tu hành. Hai đạo ở trước là Ngũ địa (Nan Thắng Địa), tu đạo là Lục địa (Hiện Tiền Địa), trang nghiêm đạo là Thất địa (Viễn Hành Địa).

Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng đạo. Những gì là mười ? Đó là :

 

Hư không vô lượng cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì hư không vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 1. Vì hư không vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Pháp giới vô biên cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì pháp giới vô biên nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 2. Vì pháp giới vô biên, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Chúng sanh giới vô tận cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì chúng sanh giới vô tận nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 3. Vì cõi chúng sinh vô tận, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Thế giới vô tế cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì thế giới vô tế nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 4. Vì thế giới không bờ mé, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Kiếp số bất khả tận cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì kiếp số bất khả tận nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 5. Vì kiếp số không thể tận, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn Pháp vô lượng cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì pháp ngữ ngôn của tất cả chúng sanh vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 6. Vì pháp ngôn ngữ của tất cả chúng sinh vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Như Lai thân vô lượng cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì Như Lai thân vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 7. Vì thân Như Lai vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Phật âm thanh vô lượng cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì âm thanh vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 8. Vì âm thanh của Phật vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Như Lai lực vô lượng cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng

Vì Như Lai lực vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 9. Vì lực của Như Lai vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Nhất thiết trí trí vô lượng cố, Bồ Tát đạo diệc vô lượng.

Vì nhứt thiết chủng trí vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Giảng: 10. Vì trí huệ Nhất Thiết Trí vô lượng, nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

 

Thị vi thập.

Đó là mười

Giảng: Đó là mười thứ đạo vô lượng của Bồ Tát.

 

===============================

Thập Chủng Vô Lượng Trợ Đạo

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng vô lượng trợ đạo. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng trợ đạo. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng trợ đạo. Đó là :

 

Như hư không giới vô lượng, Bồ Tát tập trợ đạo diệc vô lượng

Như hư không giới vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng.

Giảng: 1. Như cõi hư không vô lượng, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo cũng vô lượng.

 

Như Pháp giới vô biên, Bồ Tát tập trợ đạo diệc vô biên

Như pháp giới vô biên, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô biên.

Giảng: 2. Như pháp giới vô biên, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo cũng vô biên.

 

Như chúng sanh giới vô tận, Bồ Tát tập trợ đạo diệc vô tận

Như chúng sanh giới vô tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tận.

Giảng: 3. Như cõi chúng sinh vô tận, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo cũng vô tận.

 

Như thế giới vô tế, Bồ Tát tập trợ đạo diệc vô tế

Như thế giới vô tế, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tế.

Giảng: 4. Như thế giới không bờ mé, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo cũng không bờ mé.

 

Như kiếp số thuyết bất khả tận, Bồ Tát tập trợ đạo diệc nhất thiết thế gian thuyết bất năng tận

Như kiếp số thuyết bất khả tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng là tất cả thế gian thuyết bất khả tận.

Giảng: 5. Như kiếp số nói không hết được, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo tất cả thế gian cũng nói không hết được.

 

Như chúng sanh ngữ ngôn Pháp vô lượng, Bồ Tát tập trợ đạo xuất sanh trí tuệ tri ngữ ngôn Pháp diệc vô lượng

Như pháp ngữ ngôn của chúng sanh vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo xuất sanh trí huệ biết pháp ngữ ngôn cũng vô lượng.

Giảng: 6. Như pháp lời nói của chúng sinh vô lượng, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo sinh ra trí huệ biết pháp lời nói cũng vô lượng.

 

Như Như Lai thân vô lượng, Bồ Tát tập trợ đạo biến nhất thiết chúng sanh, nhất thiết sát, nhất thiết thế, nhất thiết kiếp diệc vô lượng

Như thân Như Lai vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo khắp tất cả chúng sanh, tất cả cõi, tất cả đời, tất cả kiếp cũng vô lượng.

Giảng: 7. Như thân Như Lai vô lượng, Bồ Tát tích tập pháp trợ đạo khắp tất cả chúng sinh, tất cả cõi, tất cả thế giới, tất cả kiếp số, cũng vô lượng.

 

Như Phật âm thanh vô lượng, Bồ Tát xuất nhất ngôn âm chu biến pháp giới, nhất thiết chúng sanh vô bất văn tri cố, sở tập trợ đạo diệc vô lượng

Như âm thanh của Phật vô lượng, Bồ Tát phát một âm thanh cùng khắp pháp giới tất cả chúng sanh không ai chẳng nghe biết, trợ đạo đã tích tập cũng vô lượng.

Giảng: 8. Như âm thanh của Phật vô lượng, Bồ Tát vang ra một tiếng nói khắp cùng pháp giới, tất cả chúng sinh thảy đều nghe biết, tích tập pháp trợ đạo cũng vô lượng.

 

Như Phật lực vô lượng, Bồ Tát thừa Như Lai lực tích tập trợ đạo diệc vô lượng

Như Phật lực vô lượng, Bồ Tát thừa Như Lai lực tích tập trợ đạo cũng vô lượng.

Giảng: 9. Như Phật lực vô lượng, Bồ Tát thừa lực Như Lai tích tập trợ đạo cũng vô lượng.

 

Như nhất thiết trí trí vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo diệc như thị vô hữu lượng.

Như nhứt thiết chủng trí vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng như vậy.

Giảng: 10. Như trí Nhất thiết trí vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng như vậy.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô lượng trí tuệ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp này thời được vô lượng trí huệ của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ pháp vô lượng trợ đạo. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được vô lượng trí huệ của Như Lai.

 

==========================================

Thập Chủng Vô Lượng Tu Đạo

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng vô lượng tu đạo. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng đạo hạnh tu tập. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ vô lượng tu đạo. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bất lai bất khứ tu, thân, ngữ, ý nghiệp vô động tác cố;

Bất lai bất khứ, là hạnh tu của Bồ Tát, vì ba nghiệp thân, ngữ, ý không động tác.

Giảng: 1. Tu đạo chẳng đến, chẳng đi, vì thân miệng ý nghiệp không động tác.

 

Bất tăng bất giảm tu, như bổn tánh cố

Bất tăng bất giảm là hạnh tu của Bồ Tát, vì như bổn tánh.

Giảng: 2. Tu đạo chẳng tăng, chẳng giảm, vì như bổn tánh.

 

Phi hữu phi vô tu, vô tự tánh cố

Phi hữu phi vô là hạnh tu của Bồ Tát, vì không tự tánh.

Giảng: 3. Tu đạo chẳng có, chẳng không, vì không có tự tánh.

 

Như huyễn như mộng, như ảnh như hưởng, như kính trung tượng, như nhiệt thời diệm, như thủy trung nguyệt tu, ly nhất thiết chấp trước cố

Như huyễn như mộng, như ảnh, như hưởng, như tượng trong gương, như ánh nắng khi trời quá nóng, như mặt trăng trong nước, là hạnh tu của Bồ Tát, vì rời lìa tất cả các chấp trước.

Giảng: 4. Tu đạo như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như hình trong gương, như ánh nắng khi trời nóng, như trăng trong nước, vì lìa tất cả sự chấp trước.

 

Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác tu, minh kiến tam giới nhi tập phước đức bất hưu tức cố;

Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác là hạnh tu của Bồ Tát, vì thấy rõ ba cõi mà chứa phước đức chẳng thôi dứt.

Giảng: 5. Tu đạo không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vì thấy rõ ba cõi mà tích tập phước đức không ngừng nghỉ.

 

Bất khả thuyết, vô ngôn thuyết, ly ngôn thuyết tu, viễn ly thí thiết an lập Pháp cố

Bất khả thuyết, ly ngôn thuyết là hạnh tu của Bồ Tát, vì xa rời pháp thi thiết an lập.

Giảng: 6. Tu đạo bất khả thuyết, không lời nói, lìa lời nói, vì xa lìa pháp thi thiết an lập.

 

Bất hoại pháp giới tu, trí tuệ hiện tri nhất thiết pháp cố

Bất hoại pháp giới là hạnh tu của Bồ Tát, vì trí huệ hiện biết tất cả pháp.

Giảng: 7. Tu đạo chẳng hoại pháp giới, vì trí huệ hiện biết tất cả pháp.

 

Bất hoại chân như thật tế tu, phổ nhập chân như thật tế hư không tế cố

Bất hoại chơn như thiệt tế là hạnh tu của Bồ Tát, vì vào khắp chơn như thiệt tế hư không tế.

Giảng: 8. Tu đạo chẳng hoại chân như thật tế, vì vào khắp chân như thật tế và bờ mé hư không.

 

Quảng đại trí tuệ tu, chư hữu sở tác lực vô tận cố

Trí huệ quảng đại là hạnh tu của Bồ Tát, vì bao nhiêu việc làm năng lực vô tận.

Giảng: 9. Tu đạo trí huệ rộng lớn, vì hết thảy việc làm sức lực vô tận.

 

Trụ Như Lai thập lực, tứ vô sở úy, nhất thiết trí trí bình đẳng tu, hiện kiến nhất thiết pháp vô nghi hoặc cố

An trụ nơi Thập lực tứ vô ý của Như Lai, nhứt thiết chủng trí bình đẳng, là hạnh tu của Bồ Tát, vì hiện thấy tất cả pháp không nghi lầm.

Giảng: 10. Tu đạo trụ Như Lai thập lực và bốn vô sở uý, nhất thiết trí bình đẳng, vì hiện thấy tất cả pháp không nghi hoặc.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai nhất thiết trí vô thượng thiện xảo tu.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được hạnh tu thiện xảo vô thượng nhứt thiết trí của Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp vô lượng tu đạo của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tu nhất thiết trí vô thượng thiện xảo của Như Lai.

 

======================================

Thập Chủng Trang Nghiêm Đạo

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trang nghiêm đạo. Hà đẳng vi thập?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đạo trang nghiêm. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ trang nghiêm đạo. Những gì là mười ?

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bất ly dục giới, nhập sắc giới, vô sắc giới Thiền định giải thoát cập chư tam muội, diệc bất nhân thử nhi thọ bỉ sanh, thị vi đệ nhất trang nghiêm đạo.

Ðại Bồ Tát chẳng rời Dục giới mà nhập Sắc giới, Vô Sắc giới, thiền định giải thoát và các tam muội cũng chẳng nhơn đây mà thọ sanh. Ðây là đạo trang nghiêm thứ nhứt.

Giảng: 1. Phật tử ! Đại Bồ Tát không cần lìa khỏi dục giới, mà có thể nhập vào thiền định giải thoát và các tam muội của sắc giới và vô sắc giới, ở đó nhập vào thiền định giải thoát và các tam muội, cũng chẳng do vậy mà thọ sinh ở sắc giới và vô sắc giới. Đó là trang nghiêm đạo thứ nhất.

 

Trí tuệ hiện tiền, nhập Thanh văn đạo, bất dĩ thử đạo nhi thủ xuất ly, thị vi đệ nhị trang nghiêm đạo.

Trí huệ hiện tiền nhập Thanh Văn đạo, chẳng do đạo này mà chứng lấy quả xuất ly. Ðây là đạo trang nghiêm thứ hai.

Giảng: 2. Trí huệ hiện tiền nhập vào Thanh Văn đạo, nhưng chẳng dùng đạo nầy mà lấy xuất ly ba cõi. Đó là trang nghiêm đạo thứ hai.

 

Trí tuệ hiện tiền, nhập Bích Chi Phật đạo, nhi khởi đại bi vô hữu hưu tức, thị vi đệ tam trang nghiêm đạo.

Trí huệ hiện tiền nhập Bích Chi Phật đạo, mà phát khởi đại bi chẳng thôi dứt. Ðây là đạo trang nghiêm thứ ba.

Giảng: 3. Trí huệ hiện tiền nhập vào Bích Chi Phật đạo, mà sinh khởi tâm đại bi, phổ độ chúng sinh, không khi nào ngừng nghỉ. Đó là trang nghiêm đạo thứ ba.

 

Tuy hữu nhân, Thiên quyến thuộc vi nhiễu, bách thiên thải nữ ca vũ thị tòng, vị tằng tạm xả Thiền định giải thoát cập chư tam muội, thị vi đệ tứ trang nghiêm đạo.

Dầu có quyến thuộc Nhơn Thiên vây quanh, trăm ngàn thể nữ ca múa hầu hạ, mà chưa từng tạm bỏ thiền định giải thoát và các tam muội. Ðây là đạo trang nghiêm thứ tư.

Giảng: 4. Tuy có quyến thuộc trời người vây quanh, lại có trăm ngàn thể nữ, hoặc ca múa, hoặc hầu hạ, mà chưa từng tạm xả lìa thiền định giải thoát và các tam muội. Đó là trang nghiêm đạo thứ tư.

 

Dữ nhất thiết chúng sanh thọ chư dục lạc cộng tướng ngu lạc, nãi chí vị tằng ư nhất niệm gian xả ly Bồ Tát bình đẳng tam muội, thị vi đệ ngũ trang nghiêm đạo.

Cùng tất cả chúng sanh thọ những dục lạc, cùng nhau vui đùa mà vẫ chưa từng tạm trong một niệm rời bỏ Bồ Tát bình đẳng tam muội. Ðây là đạo trang nghiêm thứ năm.

Giảng: 5. Với tất cả chúng sinh thọ các dục lạc, đại chúng cùng vui chơi với nhau, mà vẫn chưa từng trong khoảng một niệm tạm xả lìa Bồ Tát tam muội bình đẳng. Đó là trang nghiêm đạo thứ năm.

 

Dĩ đáo nhất thiết thế gian bỉ ngạn, ư chư thế Pháp tất vô sở trước, nhi diệc bất xả độ chúng sanh hạnh, thị vi đệ lục trang nghiêm đạo.

Ðã đến bĩ ngạn, tất cả thế gian, nơi các thế pháp đều không chấp trước mà cũng chẳng bỏ hạnh độ chúng sanh. Ðây là đạo trang nghiêm thứ sáu.

Giảng: 6. Đã đến được bờ bên kia của tất cả thế gian, đối với tất cả pháp thế gian hoàn toàn không nhiễm trước, mà cũng chẳng bỏ hạnh độ chúng sinh. Đó là trang nghiêm đạo thứ sáu.

 

An trụ chánh đạo, chánh trí, chánh kiến, nhi năng thị nhập nhất thiết tà đạo, bất thủ vi thật, bất chấp vi tịnh, lệnh bỉ chúng sanh viễn ly tà pháp, thị vi đệ thất trang nghiêm đạo.

An trụ chánh đạo, chánh trí, chánh kiến mà hay thị hiện vào tất cả tà đạo, chẳng lấy làm thiệt, chẳng chấp làm tịnh, làm cho chúng sanh đó xa rời tà pháp. Ðây là đạo trang nghiêm thứ bảy.

Giảng: 7. An trụ trong chánh đạo, chánh trí, chánh kiến, mà hay thị hiện vào tất cả tà đạo, nhưng chẳng lấy làm thật, cũng chẳng chấp làm tịnh. Tại sao vậy ? Vì hiện thân thuyết pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đó xa lìa tà pháp. Đó là trang nghiêm đạo thứ bảy.

 

Thường thiện hộ trì Như Lai tịnh giới, thân, ngữ, ý nghiệp vô chư quá thất, vi dục giáo hóa phạm giới chúng sanh, thị hành nhất thiết phàm ngu chi hạnh, tuy dĩ cụ túc thanh tịnh phước đức trụ Bồ Tát thú, nhi thị sanh ư nhất thiết địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ cập chư hiểm nan, bần cùng đẳng xứ, lệnh bỉ chúng sanh giai đắc giải thoát, nhi thật Bồ Tát bất sanh bỉ thú, thị vi đệ bát trang nghiêm đạo.

Thường khéo hộ trì tịnh giới của Như Lai, ba nghiệp thân, khẩu, ý không lầm lỗi, vì muốn giáo hóa chúng sanh phạm giới nên thị hiện làm tất cả hạnh phàm ngu. Dầu đã đầy đủ phước đức thanh tịnh trụ bực Bồ Tát, mà thị hiện sanh nơi tất cả địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ cùng những chỗ hiểm nạn bần cùng, làm cho những chúng sanh đó đều được giải thoát. Nhưng thiệt ra Bồ Tát chẳng sanh vào những loài đó. Ðây là đạo tràng trang nghiêm thứ tám.

Giảng: 8. Thường khéo hộ trì tịnh giới của Như Lai, khiến cho thân lời ý ba nghiệp hoàn toàn không có các lỗi lầm. Vì muốn giáo hoá chúng sinh phạm giới, mà thị hiện làm tất cả việc làm của phàm phu ngu si. Tuy đã đầy đủ phước đức thanh tịnh, trụ trong cõi Bồ Tát, mà thị hiện thọ sinh nơi tất cả địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, và các nơi hiểm nạn bần cùng, khiến cho chúng sinh đều được giải thoát, mà thật Bồ Tát chẳng sinh ở trong cõi đó, bất quá chỉ là thị hiện thọ sinh mà thôi. Đó là trang nghiêm đạo thứ tám.

 

Bất do tha giáo, đắc vô ngại biện, trí tuệ quang minh phổ năng chiếu liễu nhất thiết Phật Pháp, vi nhất thiết Như Lai thần lực sở trì, dữ nhất thiết chư Phật đồng nhất Pháp thân, thành tựu nhất thiết kiên cố đại nhân minh tịnh mật pháp, an trụ nhất thiết bình đẳng chư thừa, chư Phật cảnh giới giai hiện kỳ tiền, cụ túc nhất thiết thế trí quang minh, chiếu kiến nhất thiết chư chúng sanh giới, năng vi chúng sanh tác tri Pháp sư, nhi thị cầu chánh pháp vị tằng hưu tức, tuy thật dữ chúng sanh tác vô thượng sư, nhi thị hành tôn kính Xà-lê hòa thượng. Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát thiện xảo phương tiện trụ Bồ Tát đạo, tùy kỳ sở ưng giai vi thị hiện. Thị vi đệ cửu trang nghiêm đạo.

Chẳng do người dạy mà được vô ngại biện, trí huệ quang minh có thể chiếu rõ khắp cả Phật pháp, được thần lực của tất cả Như Lai hộ trì đồng một pháp thân với tất cả chư Phật, thành tựu tất cả pháp kiên cố bí mật minh tịnh của bực đại nhơn, an trụ những thừa tất cả bình đẳng, cảnh giới chư Phật đều hiện ra trước đầy đủ tất cả thế trí quang minh, soi thấy tất cả chúng sanh giới, có thể vì chúng sanh mà làm tri pháp sư, thị hiện cầu chánh pháp không thôi dứt, dầu thiệt làm Vô Thượng Sư cho chúng sanh mà thị hiện tôn kính Hòa Thượng A Xà Lê. Tạo sao vậy ? Vì Ðại Bồ Tát thiện xảo phương tiện trụ Bồ Tát đạo, tùy theo sở nghi đều vì chúng sanh mà thị hiện. Ðây là đạo trang nghiêm thứ chín.

Giảng: 9. Chẳng do người khác dạy, mà được vô ngại biện tài, trí huệ quang minh, chiếu sáng khắp tất cả Phật pháp, được tất cả Như Lai thần lực gia trì, với tất cả chư Phật mười phương ba đời đồng một pháp thân. Thành tựu tất cả mật pháp kiên cố đại nhân minh tịnh. An trụ trong tất cả các thừa bình đẳng, cảnh giới của tất cả chư Phật đều hiện ở trước, đầy đủ tất cả trí huệ quang minh thế gian, chiếu thấy tất cả các cõi chúng sinh. Hay vì chúng sinh làm tri pháp sư, phàm là những sự lý mà chúng sinh không biết, thì Ngài đều biết, mà thị hiện cầu chánh pháp chưa từng khi nào ngừng nghỉ. Tuy thật tế làm vô thượng sư của chúng sinh, mà thị hiện tôn kính hoà thượng A xà lê. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát có trí huệ thiện xảo phương tiện trụ Bồ Tát đạo, tuỳ sự ứng hoá đều vì họ thị hiện. Đó là trang nghiêm đạo thứ chín.

 

Thiện căn cụ túc, chư hạnh cứu cánh, nhất thiết Như Lai sở cọng quán đảnh, đáo nhất thiết pháp tự tại bỉ ngạn, vô ngại Pháp tăng dĩ quan kỳ thủ; kỳ thân biến chí nhất thiết thế giới, phổ hiện Như Lai vô ngại chi thân, ư pháp tự tại tối thượng cứu cánh, chuyển ư vô ngại thanh tịnh Pháp luân; nhất thiết Bồ Tát tự tại chi Pháp giai dĩ thành tựu, nhi vi chúng sanh cố, ư nhất thiết quốc độ thị hiện thọ sanh; dữ tam thế chư Phật đồng nhất cảnh giới, nhi bất phế Bồ Tát hạnh, bất xả Bồ Tát Pháp, bất giải Bồ Tát nghiệp, bất ly Bồ Tát đạo, bất thỉ Bồ-tát nghi, bất đoạn Bồ Tát thủ, bất tức Bồ Tát xảo phương tiện, bất tuyệt Bồ Tát sở tác sự, bất yếm Bồ Tát sanh thành dụng, bất chỉ Bồ-tát trụ trì lực. Hà dĩ cố? Bồ Tát dục tật chứng A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, quán nhất thiết trí môn tu Bồ Tát hạnh vô hưu tức cố. Thị vi đệ thập trang nghiêm đạo.

Thiện căn đầy đủ, công hạnh rốt ráo, tất cả Như Lai cùng chung quán đảnh, đến bĩ ngạn tất cả pháp tự tại, lụa pháp vô ngại dùng đội trên đầu thân, hình đến khắp tất cả thế giới, hiện khắp thân vô ngại của Như Lai, nơi pháp tự tại rốt ráo tối thượng, chuyển pháp luân vô ngại thanh tịnh tất cả pháp tự tại của Bồ Tát đều đã thành tựu, mà vì chúng sanh nên thị hiện thọ sanh nơi tất cả quốc độ, đồng một cảnh giới với tất cả chư Phật trong ba đời. Nhưng vẫn chẳng phế hạnh Bồ Tát, chẳng bỏ pháp Bồ Tát, chẳng lười nghiệp Bồ Tát, chẳng rời đạo Bồ Tát, chẳng lơi oai nghi Bồ Tát, chẳng dứt bực Bồ Tát, chẳng thôi phương tiện thiện xảo Bồ Tát, chẳng tuyệt việc làm của Bồ Tát, chẳng nhàm sanh thành công dụng của Bồ Tát, chẳng dừng sức trụ trì của Bồ Tát. Tại sao vậy ? Vì Bồ Tát muốn mau chứng Vô thượng Bồ đề, quán môn nhứt thiết trí, tu hạnh Bồ Tát không thôi nghỉ. Ðây là đạo trang nghiêm thứ mười.

Giảng: 10. Căn lành của Bồ Tát đã đầy đủ, các hạnh của Bồ Tát đều đã rốt ráo. Được tất cả mười phương chư Phật cùng quán đảnh cho Ngài. Đến được bờ bên kia tất cả các pháp tự tại, dùng lụa pháp vô ngại làm mũ đội trên đầu. Thân của Bồ Tát đến khắp tất cả thế giới, khắp hiện thân vô ngại của Như Lai. Đối với tất cả pháp tự tại rốt ráo tối thượng, thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh vô ngại. Pháp tự tại của tất cả Bồ Tát, đều đã thành tựu. Vì hoá độ tất cả chúng sinh, mà ở trong tất cả cõi nước thị hiện thọ sinh. Với chư Phật ba đời đồng một cảnh giới, mà chẳng bỏ Bồ Tát hạnh, chẳng bỏ pháp của Bồ Tát, chẳng giải đãi nghiệp của Bồ Tát, chẳng lìa Bồ Tát đạo, chẳng thả lỏng oai nghi của Bồ Tát, chẳng đoạn tuyệt thủ lấy của Bồ Tát, chẳng ngừng thiện xảo phương tiện của Bồ Tát, chẳng dứt hẳn việc làm của Bồ Tát, chẳng nhàm chán sinh thành dụng của Bồ Tát, chẳng ngừng trụ trì lực của Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát muốn sớm chứng được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, quán tất cả môn trí huệ, tu Bồ Tát hạnh không ngừng nghỉ. Đó là trang nghiêm đạo thứ mười.

 

Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trang nghiêm đạo, diệc bất xả Bồ Tát đạo.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đạo đại trang nghiêm Vô thượng của Như Lai, cũng chẳng bỏ Bồ Tát đạo.

Giảng: Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trang nghiêm đạo vô thượng của Như Lai, cũng chẳng xả bỏ Bồ Tát đạo.

 

==================================

Thập Chủng Túc

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng túc. Hà đẳng vi thập?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chân. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ chân. Những gì là mười ? Đó là :

 

Sở vị trì giới túc, thù thắng đại nguyện tất thành mãn cố

Chân trì giới, vì đại nguyện thù thắng đều thành tựu viên mãn.

Giảng: 1. Chân trì giới, hết thảy đại nguyện thù thắng đều thành tựu viên mãn.

 

Tinh tấn túc, tập nhất thiết Bồ-đề phần Pháp Bất-thoái-chuyển cố

Chân tinh tấn, vì tích tập tất cả pháp Bồ đề phần không thối chuyển.

Giảng: 2. Chân tinh tấn, tích tập tất cả pháp bồ đề phần, tức là bảy giác chi : Trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỉ giác chi, khinh an giác chi, niệm giác chi, định giác chi, hạnh xả giác chi, tích tụ lại với nhau, chẳng thối chuyển pháp bồ đề phần.

 

Thần thông túc, tùy chúng sanh dục lệnh hoan hỉ cố

Chân thần thông, vì tùy theo dục lạc của chúng sanh làm cho hoan hỷ.

Giảng: 3. Chân thần thông, hay tuỳ thuận sự ham muốn của tất cả chúng sinh, khiến cho họ được đầy đủ, mà sinh hoan hỉ.

 

Thần lực túc, bất ly nhất Phật sát vãng nhất thiết Phật sát cố

Chân thần lực, vì chẳng rời một cõi Phật mà qua đến tất cả cõi Phật.

Giảng: 4. Chân thần lực, vì có sức thần lực, nên chẳng cần lìa khỏi một cõi Phật, mà có thể đi đến tất cả cõi Phật.

 

Thâm tâm túc, nguyện cầu nhất thiết thù thắng Pháp cố

Chân thân tâm, vì nguyện cầu tất cả pháp thù thắng.

Giảng: 5. Chân tâm sâu, phát đại thệ nguyện cầu tất cả pháp thù thắng, từ chỗ cạn mà vào chỗ sâu, từ chỗ sâu lại đến pháp môn thù thắng.

 

Kiên thệ túc, nhất thiết sở tác hàm cứu cánh cố

Chân kiên thệ, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.

Giảng: 6. Chân kiên thệ, bất cứ làm việc gì, phải có thệ nguyện kiên cố, mới có thể đến được nơi rốt ráo.

 

Tùy thuận túc, bất vi nhất thiết Tôn-Giả giáo cố

Chân tùy thuận, vì chẳng trái lời dạy của bực tôn túc.

Giảng: 7. Chân tuỳ thuận, phải tuỳ thuận lời dạy của tất cả bậc tôn túc, tuỳ thuận pháp môn của tất cả các vị tôn giả nói, y theo pháp mà tu hành, đừng trái với lời dạy của tất cả bậc Thánh nhân. Bao quát pháp của chư Phật nói, pháp của Bồ Tát nói, pháp của pháp sư nói, pháp của thiện tri thức nói.

 

Lạc Pháp túc, văn trì nhất thiết Phật sở thuyết pháp bất bì giải cố

Chân lạc pháp, vì nghe và thọ trì tất cả pháp của chư Phật nói không mỏi lười.

Giảng: 8. Chân lạc pháp, văn trì tất cả pháp của chư Phật nói, vĩnh viễn không giải đãi lười biếng.

 

Pháp vũ túc, vi chúng diễn thuyết vô khiếp nhược cố

Chân pháp vũ, vì đại chúng thuyết pháp không khiếp nhược.

Giảng: 9. Chân pháp vũ, vì tất cả chúng sinh diễn nói Phật pháp không khiếp nhược.

 

Tu hành túc, nhất thiết chư ác tất viễn ly cố

Chân tu hành, vì tất cả điều ác đều xa lìa.

Giảng: 10. Chân tu hành, đối với tất cả các điều ác đều xa lìa. Do đó có câu : Không làm các điều ác, hãy làm các điều lành. Đó là pháp căn bản tu hành. Đó là mười thứ chân của Bồ Tát.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng tối thắng túc, nhược nhất cử bộ, tất năng biến chí nhất thiết thế giới.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chân vô thượng tối thắng của đức Như Lai. Nếu cất chân một bước đều có thể đến khắp tất cả thế giới.

Giảng: Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được chân tối thù thắng vô thượng của Như Lai. Nếu một khi cất chân lên, đều có thể đến khắp tất cả thế giới.

 

=================================

Thập Chủng Thủ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thủ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tay. Những gì là mười ? Đó là:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tay. Những gì là mười ? Đó là :

 

Thâm tín thủ, ư Phật sở thuyết, nhất hướng nhẫn khả, cứu cánh thọ trì cố

Tay thâm tín, vì nơi lời nói của Phật đều tin sâu nhẫn thọ rốt ráo thọ trì.

Giảng: 1. Tay tin sâu, vì đối với lời của Phật nói, bất cứ pháp không hiểu như thế nào, vẫn một lòng nhẫn nại nơi tâm, thọ trì nơi thân.

 

Bố thí thủ, hữu lai cầu giả, tùy kỳ sở dục giai lệnh sung mãn cố

Tay bố thí, có người đến cầu, tùy chỗ họ muốn đều làm cho được đầy đủ.

Giảng: 2. Tay bố thí, vì có ai đến cầu xin tất cả tài vật, thì Bồ Tát đều tuỳ theo chỗ họ muốn, đều bố thí khiến cho được đầy đủ.

 

Tiên ý vấn tấn thủ, thư triển hữu chưởng tướng nghênh dẫn cố

Tay hỏi thăm trước, vì giơ tay mặt nghinh tiếp nhau.

Giảng: 3. Tay hỏi thăm trước, vì khi gặp người thì trước hết chào hỏi người đó, không đợi người đó chào hỏi mình. Chủ động dơ tay phải nghênh tiếp họ, dẫn dắt họ, biểu thị có sự lễ nghĩa. Giống như bây giờ, khi gặp nhau thì bắt tay với nhau.

 

Cúng dường chư Phật thủ, tập chúng phước đức vô bì yếm cố

Tay cúng dường chư Phật, vì chứa nhóm những phước đức không mỏi nhàm.

Giảng: 4. Tay cúng dường chư Phật, vì tích tập phước đức, để cúng dường chư Phật, không khi nào nhàm mỏi.

 

Đa văn thiện xảo thủ, tất đoạn nhất thiết chúng sanh nghi cố

Tay đa văn thiện xảo, vì đều dứt tất cả chúng sanh nghi.

Giảng: 5. Tay đa văn thiện xảo, vì bát học đa văn hay dứt trừ nghi hoặc của tất cả chúng sinh, giải đáp mọi vấn nạn.

 

Lệnh siêu tam giới thủ, thụ dữ chúng sanh bạt xuất dục nê cố

Tay khiến siêu tam giới, vì trao cho chúng sanh vớt họ ra khỏi bùn ái dục.

Giảng: 6. Tay khiến cho thoát ba cõi, vì hay trợ giúp chúng sinh vượt khỏi khổ bùn ái dục, thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử.

 

Trí ư bỉ ngạn thủ, tứ bạo lưu trung cứu nịch chúng sanh cố

Tay đặt nơi bĩ ngạn, vì cứu chúng sanh đắm trong bốn dòng nước cuộn.

Giảng: 7. Tay đặt để nơi bờ kia, vì cứu chúng sinh chìm trong bốn dòng nước xoáy (Kiến lưu, dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu), cứu ra khỏi biển khổ.

 

Bất lận chánh pháp thủ, sở hữu diệu pháp tất dĩ khai thị cố

Tay chẳng tiếc chánh pháp, vì có bao nhiêu diệu pháp đều đem khai thị.

Giảng: 8. Tay chẳng xẻn chánh pháp, vì hết thảy diệu pháp thảy đều khai thị cho chúng sinh, tuyệt đối chẳng xẻn tiếc pháp thí.

 

Thiện dụng chúng luận thủ, dĩ trí tuệ dược diệt thân tâm bệnh cố

Tay khéo dùng những luận nghị, vì dùng thuốc trí huệ trừ bịnh nơi thâm tâm.

Giảng: 9. Tay khéo dùng các luận, vì dùng thuốc trí huệ, diệt trừ bệnh thân tâm của chúng sinh.

 

Hằng trì trí bảo thủ, khai pháp quang minh phá phiền não ám cố.

Tay hằng chấp trì trí bửu, vì khai pháp quang minh phá tối phiền não.

Giảng: 10. Tay luôn giữ trí báu, vì khai pháp quang minh, phá tối phiền não của chúng sinh.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng thủ, phổ phước thập phương nhất thiết thế giới.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được tay vô thượng của Như Lai, che khắp tất cả thế giới mười phương.

Giảng: Đó là mười thứ tay của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tay vô thượng của Như Lai, che khắp mười phương tất cả thế giới.

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phước. Hà đẳng vi thập? sở vị;

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười bụng:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ bụng : Những gì là mười ? Đó là :

 

Ly siểm khúc phước, tâm thanh tịnh cố

Bụng lìa dua vạy, vì tâm thanh tịnh.

Giảng: 1. Bụng lìa dua vạy, dua là thấy người giàu thì nói lời nịnh bợ, vạy là gặp người chẳng nói lời ngay thẳng. Bồ Tát xa lìa thứ hành vi nầy, cho nên trong tâm rất thanh tịnh.

 

Ly huyễn ngụy phước, tánh chất trực cố

Bụng lìa huyễn ngụy, vì tánh chất trực.

Giảng: 2. Bụng lìa huyễn nguỵ, huyễn là hư huyễn chẳng thật, nguỵ là hư nguỵ chẳng chân. Bồ Tát xa lìa huyễn nguỵ, cho nên tâm tánh ngay thẳng.

 

Bất hư giả phước, vô hiểm bí cố

Bụng chẳng hư giả, vì không hiểm dối.

Giảng: 3. Bụng lìa hư giả, Bồ Tát chẳng có nguy hiểm khi dối, phàm nói ra lời gì cũng đều chân thật, khiến cho mọi người tin.

 

Vô khi đoạt phước, ư nhất thiết vật vô sở tham cố

Bụng không khi đoạt, vì không tham đối với tất cả vật.

Giảng: 4. Bụng không dối đoạt, Bồ Tát chẳng có tâm gian dối tranh đoạt, đối với tất cả tài vật, đều không có lòng tham cầu.

 

Đoạn phiền não phước, cụ trí tuệ cố

Bụng dứt phiền não, vì đầy đủ trí huệ.

Giảng: 5. Bụng dứt phiền não, vì đủ nhất thiết trí huệ, cho nên dứt được tất cả phiền não.

 

Thanh tịnh tâm phước, ly chư ác cố

Bụng thanh tịnh tâm, vì rời các điều ác.

Giảng: 6. Bụng tâm thanh tịnh, vì lìa tất cả ác niệm, sinh ra tất cả thiện niệm.

 

Quan sát ẩm thực phước, niệm như thật Pháp cố

Bụng quán sát uống ăn, vì nhớ pháp như thiệt.

Giảng: 7. Bụng quán sát ăn uống, vì niệm niệm chẳng quên pháp như thật, tức cũng là pháp chân thật liễu nghĩa.

 

Quan sát vô tác phước, giác ngộ duyên khởi cố

Bụng quán sát vô tác, vì giác ngộ duyên khởi.

Giảng: 8. Bụng quán sát không làm, vì hay giác ngộ tất cả pháp, đều từ duyên khởi. Do đó có câu :

Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt
Phật ta đại Sa Môn
Thường hay nói như thế.

 

Giác ngộ nhất thiết xuất ly đạo phước, thiện thành thục thâm tâm cố

Bụng ngộ tất cả đạo xuất ly, vì khéo thành thục thâm tâm.

Giảng: 9. Bụng giác ngộ tất cả đạo xuất ly, vì khéo thành tựu thâm tâm, khiến cho thân tâm của tất cả chúng sinh, đều được thành thục.

 

Viễn ly nhất thiết biên kiến cấu phước, lệnh nhất thiết chúng sanh đắc nhập Phật phước cố

Bụng xa rời tất cả cấu nhơ biên kiến, vì làm cho tất cả chúng sanh nhập vào bụng Phật.

Giảng: 10. Bụng xa lìa tất cả dơ bẩn biên kiến, vì hay khiến cho tất cả chúng sinh được vào trong bụng của Phật, tức cũng là hay xa lìa sự dơ bẩn của thân biên giới kiến tà, liền đắc được trí huệ của Phật.

 

Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại phước, tất năng dung thọ nhất thiết chúng sanh.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được bụng rộng lớn vô thượng của Như Lai, đều có thể dung thọ tất cả chúng sanh.

Giảng: Đó là mười thứ bụng của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được bụng rộng lớn vô thượng của Như Lai, đều có thể dung thọ tất cả chúng sinh. Chúng sinh vốn ở trong bụng của Phật, bất quá chúng sinh chẳng biết mà thôi.

 

=======================================

Thập Chủng Tạng

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tạng. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tạng:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tạng. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bất đoạn Phật chủng thị Bồ-tát tạng, khai thị Phật Pháp vô lượng uy đức cố

Chẳng dứt Phật chủng là Bồ Tát tạng, vì khai thị Phật pháp vô lượng oai đức.

Giảng: 1. Chẳng dứt hạt giống Phật là bảo tạng của Bồ Tát, vì tiếp tục huệ mạng của Phật, khai thị Phật pháp có vô lượng oai đức.

 

Tăng trưởng Pháp chủng thị Bồ-tát tạng, xuất sanh trí tuệ quảng đại quang minh cố

Tăng trưởng Pháp chủng là Bồ Tát tạng, vì xuất sanh trí huệ quang minh quảng đại.

Giảng: 2. Tăng trưởng hạt giống pháp là bảo tạng của Bồ Tát, vì sinh ra trí huệ quang minh rộng lớn.

 

Trụ trì tăng chủng thị Bồ-tát tạng, lệnh kỳ đắc nhập bất thoái Pháp luân cố

Trụ trì tăng trưởng là Bồ Tát tạng, vì làm cho họ được nhập pháp luân bất thối.

Giảng: 3. Trụ trì hạt giống Tăng là bảo tạng của Bồ Tát, vì khiến cho họ được vào bánh xe pháp không thối chuyển.

 

Giác ngộ chánh định chúng sanh thị Bồ-tát tạng, thiện tùy kỳ thời bất du nhất niệm cố

Giác ngộ chánh định chúng sanh là Bồ Tát tạng, vì khéo theo thời nghi không sai một niệm.

Giảng: 4. Giác ngộ chúng sinh chánh định là bảo tạng của Bồ Tát, vì khéo tuỳ thời vì tất cả chúng sinh thuyết pháp, không sai một niệm. Tóm lại, chúng sinh cơ duyên thành thục, đáng được hoá độ, thì liền độ thoát. Chúng sinh cơ duyên chưa thành thục, thì tạm thời không độ, tương lai sẽ độ.

 

Cứu cánh thành thục bất định chúng sanh thị Bồ-tát tạng, lệnh nhân tướng tục vô hữu gian đoạn cố

Rốt ráo thành thục bất định chúng sanh là Bồ Tát tạng, vì làm cho nhơn tương tục không gián đoạn.

Giảng: 5. Rốt ráo thành thục chúng sinh bất định là bảo tạng của Bồ Tát, vì khiến cho nhân liên tục không gián đoạn, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề.

 

Vi tà định chúng sanh phát khởi đại bi thị Bồ-tát tạng, lệnh vị lai nhân tất đắc thành tựu cố

Vì tà định chúng sanh phát sanh lòng đại bi là Bồ Tát tạng, vì làm cho nhơn vị lai đều được thành tựu.

Giảng: 6. Vì chúng sinh tà định. Tà định tức là định không chánh đáng. Hoan hỉ pháp ngoại đạo, thì có tư tưởng tà tri tà kiến. Như ở trong định, đi khắp nơi nghe người khác nói chuyện, lắng nghe rất rõ ràng. Hoặc ở trong định, đi khắp nơi trộm cắp đồ vật của người khác. Đó tức là tà định. Tóm lại, phàm là ở trong định có tư tưởng và hành vi nhiễm ô, tức là tà định. Bồ Tát phát khởi tâm đại bi thương xót chúng sinh hành vi bất chánh, là bảo tạng của Bồ Tát, vì khiến cho tất cả chúng sinh chưa trồng nhân bồ đề vị lai, đều được viên mãn thành tựu.

 

Mãn Phật thập lực bất khả hoại nhân thị Bồ-tát tạng, cụ hàng phục ma quân vô đối thiện căn cố

Viên mãn nhơn bất hoại nơi Phật thập lực là Bồ Tát tạng, vì đầy đủ vô đối thiện căn hàng phục ma quân.

Giảng: 7. Đủ mười lực của Phật nhân không thể hoại là bảo tạng của Bồ Tát, vì đủ căn lành vô đối hàng phục tất cả ma quân.

 

Tối thắng vô úy Đại sư tử hống thị Bồ-tát tạng, lệnh nhất thiết chúng sanh giai hoan hỉ cố

Tối thắng vô úy đại sư tử hống là Bồ Tát tạng, vì làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.

Giảng: 8. Tối thắng vô uý đại sư tử hống là bảo tạng của Bồ Tát, vì khiến cho tất cả chúng sinh nghe được đều sinh hoan hỉ.

 

Đắc Phật thập bát bất cộng pháp thị Bồ-tát tạng, trí tuệ phổ nhập nhất thiết xứ cố

Ðược Phật mười tám pháp bất cộng là Bồ Tát tạng, vì trí huệ vào khắp tất cả xứ.

Giảng: 9. Được mười tám pháp bất cộng của Phật là bảo tạng của Bồ Tát. Mười tám pháp bất cộng là: Thân không lỗi, miệng không lỗi, niệm không lỗi, vô dị tưởng, vô bất định tâm, vô bất tri kỷ xả, dục không giảm, tinh tấn không giảm, niệm không giảm, huệ không giảm, giải thoát không giảm, giải thoát tri kiến không giảm, tất cả thân nghiệp tuỳ trí huệ hành, tất cả miệng nghiệp tuỳ trí huệ hành, tất cả ý nghiệp tuỳ trí huệ hành, trí huệ biết đời quá khứ vô ngại, trí huệ biết đời vị lai vô ngại, trí huệ biết đời hiện tại vô ngại. Pháp nầy giữa Phật, Bồ Tát, và Thanh Văn khác nhau, nên gọi là bất cộng. Trí huệ vào khắp tất cả mọi nơi.

 

Phổ liễu tri nhất thiết chúng sanh, nhất thiết sát, nhất thiết pháp, nhất thiết Phật thị Bồ-tát tạng, ư nhất niệm trung tất minh kiến cố

Biết rõ khắp tất cả chúng sanh, tất cả cõi, tất cả Pháp, tất cả Phật là Bồ Tát tạng, vì ở trong một niệm đều thấy rõ.

Giảng: 10. Khắp biết rõ tất cả chúng sinh, tất cả cõi Phật, tất cả các pháp, tất cả chư Phật, là bảo tạng của Bồ Tát, vì ở trong một niệm đều thấy rõ mười phương ba đời Phật Pháp Tăng Tam Bảo.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng thiện căn bất khả hoại đại trí tuệ tạng.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thiện căn vô thượng, tạng đại trí huệ bất hoại của Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp bảo tạng của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được bảo tạng đại trí huệ vô thượng căn lành không thể hoại của Như Lai.

 

==================================

Thập Chủng Tâm

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tâm. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tâm:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát có mười thứ tâm. Những gì là mười? Đó là :

 

Tinh cần tâm, nhất thiết sở tác tất cứu cánh cố

Tâm tinh cần, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.

Giảng: 1. Tâm tinh cần, vì tất cả việc làm đều đến nơi rốt ráo.

 

Bất giải tâm, tích tập tướng hảo phước đức hạnh cố

Tâm chẳng lười, vì chứa nhóm hạnh tướng hảo phước đức.

Giảng: 2. Tâm chẳng giải đãi, vì tích tập tướng tốt, tu hành tất cả phước đức. Do đó:

Ba A tăng kỳ tu phước huệ
Trăm kiếp trồng tướng tốt.

 

Đại dũng kiện tâm, tồi phá nhất thiết chư ma quân cố

Tâm dũng kiện lớn, vì dẹp phá tất cả ma quân.

Giảng: 3. Tâm đại dũng kiện, vì phá tan tất cả các ma quân và quyến thuộc của chúng.

 

Như lý hành tâm, trừ diệt nhất thiết chư phiền não cố

Tâm thật hành đúng lý, vì trừ diệt tất cả phiền não.

Giảng: 4. Tâm như lý hành, vì trừ diệt tất cả các phiền não.

 

Bất-thoái-chuyển tâm, nãi chí Bồ-đề chung bất tức cố

Tâm chẳng thối chuyển, vì nhẫn đến quả Bồ đề trọn chẳng thôi dứt.

Giảng: 5. Tâm bất thối chuyển, vì từ lúc ban đầu phát tâm bồ đề, cho đến rốt ráo thành Phật, trọn không ngừng nghỉ.

 

Tánh thanh tịnh tâm, tri tâm bất động vô sở trước cố

Tâm tánh thanh tịnh, vì biết tâm bất động vô trước.

Giảng: 6. Tâm tánh thanh tịnh, vì Bồ Tát biết tự tánh thanh tịnh, gì cũng chẳng chấp trước, cho nên tâm bất động. Nếu có sự chấp trước thì tâm sẽ bị động.

 

Tri chúng sanh tâm, tùy kỳ giải dục lệnh xuất ly cố

Tâm biết chúng sanh, vì tùy theo chỗ hiểu biết và sở thích của họ mà làm cho được xuất ly.

Giảng: 7. Tâm biết chúng sinh, vì tuỳ thuận sự hiểu muốn của chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi ba cõi. Do đó :

Muốn khiến vào Phật trí
Trước dùng câu dục móc.

Phải hiểu rõ dục niệm của chúng sinh, mới có thể giáo hoá chúng sinh được. Cho nên Bồ Tát dùng bốn tâm vô lượng (Từ, bi, hỉ, xả) và bốn pháp nhiếp (Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) để giáo hoá chúng sinh, để điều phục chúng sinh.

 

Lệnh nhập Phật Pháp đại phạm trụ tâm, tri chư chúng sanh chủng chủng giải dục, bất dĩ biệt thừa nhi cứu hộ cố

Tâm đại phạm trụ khiến nhập Phật pháp, vì biết những chỗ hiểu biết và sở thích của chúng sanh, chẳng dùng thừa khác để cứu độ.

Giảng: 8. Tâm khiến vào Phật pháp đại phạm trụ, vì biết các chúng sinh đủ thứ sự hiểu biết và ham muốn, chẳng dùng thừa khác giáo hoá, mà dùng Bồ Tát thừa giáo hoá, để cứu hộ chúng sinh.

 

Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác tâm, kiến tam giới tướng bất thủ trước cố

Tâm không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vì thấy tướng tam giới không chấp trước.

Giảng: 9. Tâm không vô tướng vô nguyện vô tác, vì thấy tất cả tướng ba cõi, chẳng chấp lấy.

 

Vạn tự tướng Kim cương kiên cố thắng tạng trang nghiêm tâm, nhất thiết chúng sanh số đẳng ma lai nãi chí bất năng động nhất mao cố.

Tâm tướng chữ “vạn”, tạng thù thắng trang nghiêm kiên cố như kim cang, vì chúng ma đồng bằng số tất cả chúng sanh đến cũng chẳng động được một sợi lông của Bồ Tát.

Giảng: 10. Tâm tướng chữ vạn kim cang kiên cố thắng tạng trang nghiêm, tướng cát tường trang nghiêm nầy, dù số lượng của ma đến đồng số tất cả chúng sinh, để nhiễu loạn, cho đến không thể động một sợi lông.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng Đại trí quang minh tạng tâm.

Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được tâm vô thượng đại trí quang minh tạng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ pháp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tâm đại trí quang minh tạng vô thượng của Như Lai.

 

========================================

Thập Chủng Bị Giáp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng bị giáp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp:

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bị đại từ giáp, cứu hộ nhất thiết chúng sanh cố

Mặc giáp đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sanh.

Giảng: 1. Mặc giáp đại từ, mới có thể cứu hộ được tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui.

 

Bị đại bi giáp, kham nhẫn nhất thiết chư khổ cố

Mặc giáp đại bi, vì kham chịu tất cả sự khổ.

Giảng: 2. Mặc giáp đại bi, mới có thể kham nhẫn tất cả các sự khổ não, thoát khỏi biển khổ.

 

Bị đại nguyện giáp, nhất thiết sở tác cứu cánh cố

Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.

Giảng: 3. Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo viên mãn.

 

Bị hồi hướng giáp, kiến lập nhất thiết Phật trang nghiêm cố

Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả sự trang nghiêm của Phật.

Giảng: 4. Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả Phật trang nghiêm. Hồi hướng có năm thứ :

a. Hồi tự hướng tha.
b. Hồi tiểu hướng đại.
c. Hồi sự hướng lý.
d. Hồi nhân hướng quả.
e. Hồi sinh tử hướng Niết Bàn.

 

Bị phước đức giáp, nhiêu ích nhất thiết chư chúng sanh cố

Mặc giáp phước đức, vì lợi ích tất cả chúng sanh.

Giảng: 5. Mặc giáp phước đức, vì rộng tích tụ phước đức, lợi ích tất cả các chúng sinh.

 

Bị Ba-la-mật giáp, độ thoát nhất thiết chư hàm thức cố

Mặc giáp Ba la mật, vì độ thoát tất cả chúng sanh.

Giảng: 6. Mặc giáp Ba la mật, vì hay độ thoát tất cả các hàm thức.

 

Bị trí tuệ giáp, diệt nhất thiết chúng sanh phiền não ám cố

Mặc giáp trí huệ, vì dứt tối phiền não của tất cả chúng sanh.

Giảng: 7. Mặc giáp trí huệ, vì diệt trừ tất cả tối phiền não của tất cả chúng sinh.

 

Bị thiện xảo phương tiện giáp, sanh Phổ môn thiện căn cố

Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì xuất sanh thiện căn phổ môn.

Giảng: 8. Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì sinh pháp môn phổ môn, tích tập tất cả căn lành

 

Bị nhất thiết trí tâm kiên cố bất tán loạn giáp, bất lạc dư thừa cố

Mặc giáp nhứt thiết trí tâm kiên cố chẳng tán loạn, vì chẳng thích những thừa khác.

Giảng: 9. Mặc giáp nhất thiết trí tâm kiên cố không tán loạn, vì chỉ tu pháp đại thừa, chẳng tu pháp tiểu thừa.

 

Bị nhất tâm quyết định giáp, ư nhất thiết Pháp ly nghi hoặc cố

Mặc giáp nhứt tâm quyết định, vì nơi tất cả pháp lìa nghi hoặc.

Giảng: 10. Mặc giáp một lòng quyết định, vì nơi tất cả pháp chẳng có sự hoài nghi hoặc mê hoặc.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức bị Như Lai vô thượng giáp trụ, tất năng tồi phục nhất thiết ma quân.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, đều có thể xô dẹp tất cả quân ma.

Giảng: Đó là mười pháp mặc giáp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, phá tan được tất cả ma quân.

 

==========================================

Thập Chủng Khí Trượng

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng khí trượng. Hà đẳng vi thập? sở vị;

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ khí trượng. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ khí trượng. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tồi phá nhất thiết xan lận cố;

Bố thí là khí trượng của Bồ Tát, vì dẹp phá tất cả xan lẫn.

Giảng: 1. Bố thí là khí trượng của Bồ Tát, vì phá tan tất cả sự bỏn xẻn.

 

Trì giới thị Bồ Tát khí trượng, khí xả nhất thiết hủy phạm cố

Trì giới là khí trượng của Bồ Tát, vì vứt bỏ tất cả sự hủy phạm.

Giảng: 2. Trì giới là khí trượng của Bồ Tát, vì từ bỏ tất cả sự huỷ phạm giới.

 

Bình đẳng thị Bồ Tát khí trượng, đoạn trừ nhất thiết phân biệt cố

Bình đẳng là khí trượng của Bồ Tát, vì dứt trừ tất cả phân biệt.

Giảng: 3. Bình đẳng là khí trượng của Bồ Tát, vì đoạn trừ tất cả sự phân biệt.

 

Trí tuệ thị Bồ Tát khí trượng, tiêu diệt nhất thiết phiền não cố

Trí huệ là khí trượng của Bồ Tát, vì tiêu diệt tất cả phiền não.

Giảng: 4. Trí huệ là khí trượng của Bồ Tát, vì tiêu diệt tất cả phiền não.

 

Chánh mạng thị Bồ Tát khí trượng, viễn ly nhất thiết tà mạng cố

Chánh mạng là khí trượng của Bồ Tát, vì xa rời tất cả tà mạng.

Giảng: 5. Chánh mạng là khí trượng của Bồ Tát, vì xa lìa tất cả tà mạng. Tà mạng tức là tà tri tà kiến.

 

Thiện xảo phương tiện thị Bồ Tát khí trượng, ư nhất thiết xứ thị hiện cố

Thiện xảo phương tiện là khí trượng của Bồ Tát, vì thị hiện tất cả xứ.

Giảng: 6. Thiện xảo phương tiện là khí trượng của Bồ Tát, vì thị hiện ở tất cả mọi nơi, giáo hoá chúng sinh.

 

Lược thuyết tham, sân, si đẳng nhất thiết phiền não thị Bồ Tát khí trượng, dĩ phiền não môn độ chúng sanh cố

Lược nói tham, sân, si tất cả phiền não là khí trượng của Bồ Tát, vì dùng môn phiền não để độ chúng sanh.

Giảng: 7. Lược nói tham sân si tất cả phiền não là khí trượng của Bồ Tát, vì dùng môn phiền não để độ thoát chúng sinh.

 

Sanh tử thị Bồ Tát khí trượng, bất đoạn Bồ Tát hạnh giáo hóa chúng sanh cố

Sanh tử là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng dứt hạnh Bồ Tát luôn giáo hóa chúng sanh.

Giảng: 8. Sinh tử là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng dứt hạnh của Bồ Tát tu, để giáo hoá chúng sinh.

 

Thuyết như thật Pháp thị Bồ Tát khí trượng, năng phá nhất thiết chấp trước cố

Nói pháp như thật là khí trượng của Bồ Tát, vì hay phá tất cả chấp trước.

Giảng: 9. Nói pháp như thật là khí trượng của Bồ Tát, vì phá được tất cả sự chấp trước.

 

Nhất thiết trí thị Bồ Tát khí trượng, bất xả Bồ Tát hạnh môn cố

Nhứt thiết trí là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng bỏ hạnh môn của Bồ Tát.

Giảng: 10. Nhất thiết trí là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng bỏ hạnh môn của Bồ Tát tu.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức năng trừ diệt nhất thiết chúng sanh trưởng dạ sở tập phiền não kiết sử.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời có thể trừ diệt những phiền não kiết sử đã chứa nhóm từ lâu của tất cả chúng sanh.

Giảng: Đó là mười thứ pháp khí trượng của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ trừ diệt được tập phiền não kiết sử đêm dài của tất cả chúng sinh, tức cũng là thân biên giới định tà và tham sân si mạn nghi mười sử.

 

==================================

Thập Chủng Thủ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thủ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đầu. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ đầu. Những gì là mười ? Đó là :

 

Niết-Bàn thủ, vô năng kiến đảnh cố

Ðầu Niết bàn, vì không ai thấy được đảnh.

Giảng: 1. Đầu Niết Bàn, vì không thể thấy được đảnh. Do đó : Vô kiến đảnh tướng.

 

Tôn Kính thủ, nhất thiết nhân, Thiên sở kính lễ cố

Ðầu tôn kính, vì tất cả Nhơn Thiên đều kính lễ.

Giảng: 2. Đầu tôn kính, vì được tất cả trời người tôn kính đảnh lễ.

 

Quảng đại thắng giải thủ, tam thiên giới trung tối vi thắng cố

Ðầu thắng giải quảng đại, vì tối thắng trong Ðại Thiên thế giới.

Giảng: 3. Đầu thắng giải rộng lớn, vì thù thắng nhất trong ba ngàn đại thiên thế giới.

 

Đệ nhất thiện căn thủ, tam giới chúng sanh hàm cúng dường cố

Ðầu đệ nhứt thiện căn, vì tam giới chúng sanh đều cúng dường.

Giảng: 4. Đầu căn lành đệ nhứt, vì chúng sinh trong ba cõi đều đến cúng dường.

 

Hà đái chúng sanh thủ, thành tựu đảnh thượng nhục kế tướng cố

Ðầu gánh đội chúng sanh, vì thành tựu tướng nhục kế trên đảnh.

Giảng: 5. Đầu gánh đội chúng sinh, vì thành tựu tướng nhục kế trên đảnh (1 trong 32 tướng).

 

Bất khinh tiện tha thủ, ư nhất thiết xứ thường tôn thắng cố

Ðầu chẳng khinh tiện người, vì ở tất cả chỗ thường là bực tôn thắng.

Giảng: 6. Đầu chẳng khinh khi người khác, vì thường tôn thắng ở tất cả mọi nơi.

 

Bát-nhã Ba-la-mật thủ, trưởng dưỡng nhất thiết công đức Pháp cố

Ðầu Bát nhã Ba la mật, vì trưởng dưỡng tất cả pháp công đức.

Giảng: 7. Đầu Bát Nhã Ba La Mật, vì trưởng dưỡng tất cả công đức, tất cả Phật pháp.

 

Phương tiện trí tướng ứng thủ, phổ Hiện-Nhất-Thiết đồng loại thân cố

Ðầu tương ưng phương tiện trí, vì hiện khắp tất cả thân đồng loại.

Giảng: 8. Đầu phương tiện trí tương ưng, vì khắp hiện thân tất cả đồng loại.

 

Giáo hóa nhất thiết chúng sanh thủ, dĩ nhất thiết chúng sanh vi đệ-tử cố

Ðầu giáo hóa tất cả chúng sanh, vì dùng tất cả chúng sanh làm đệ tử.

Giảng: 9. Đầu giáo hoá tất cả chúng sinh, vì dùng tất cả chúng sinh làm đệ tử của Bồ Tát.

 

Thủ hộ chư Phật Pháp nhãn thủ, năng lệnh Tam Bảo chủng bất đoạn tuyệt cố

Ðầu thủ hộ pháp nhãn của chư Phật, vì làm cho Tam Bảo chủng chẳng đoạn tuyệt.

Giảng: 10. Đầu thủ hộ chư Phật pháp nhãn, vì hay khiến hạt giống Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ thủ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời, được đầu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ đầu của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đầu đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

 

================================

Thập Chủng Nhãn

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhãn. Sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười mắt. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ mắt. Đó là :

 

Nhục nhãn, kiến nhất thiết sắc cố

Nhục nhãn, vì thấy tất cả hình sắc.

Giảng: 1. Nhục nhãn, nhìn thấy được tất cả màu sắc sự vật.

 

Thiên nhãn, kiến nhất thiết chúng sanh tâm cố

Thiên nhãn, vì thấy tâm niệm của tất cả chúng sanh.

Giảng: 2. Thiên nhãn, nhìn thấy được trong tâm của tất cả chúng sinh.

 

Tuệ-nhãn, kiến nhất thiết chúng sanh chư căn cảnh giới cố

Huệ nhãn, vì thấy những căn cảnh giới của tất cả chúng sanh.

Giảng: 3. Huệ nhãn, nhìn thấy được cảnh giới các căn của tất cả chúng sinh.

 

Pháp nhãn, kiến nhất thiết pháp như thật tướng cố

Pháp nhãn, vì thấy tướng như thiệt của tất cả pháp.

Giảng: 4. Pháp nhãn, nhìn thấy được tất cả pháp như thật tướng.

 

Phật nhãn, kiến Như Lai thập lực cố;

Phật nhãn, vì thấy thập lực của Như Lai.

Giảng: 5. Phật nhãn, nhìn thấy được thập lực của Như Lai.

 

Trí nhãn, tri kiến chư Pháp cố

Trí nhãn, vì thấy biết các pháp.

Giảng: 6. Trí nhãn, thấy biết được bản thể của tất cả các pháp.

 

Quang minh nhãn, kiến Phật quang minh cố

Quang minh nhãn, vì thấy quang minh của đức Phật.

Giảng: 7. Quang minh nhãn, nhìn thấy được quang minh của tất cả chư Phật.

 

Xuất sanh tử nhãn, kiến Niết-Bàn cố

Xuất sanh tử nhãn, vì thấy Niết bàn.

Giảng: 8. Xuất sinh tử nhãn, nhìn thấy được cảnh giới Niết Bàn.

 

Vô ngại nhãn, sở kiến vô chướng cố

Vô ngại nhãn, vì chỗ thấy không chướng ngại.

Giảng: 9. Vô ngại nhãn, nhìn thấy được sự vật không có chướng ngại.

 

Nhất thiết trí nhãn, kiến Phổ môn Pháp giới cố

Nhứt thiết trí nhãn, vì thấy phổ môn pháp giới.

Giảng: 10. Nhất thiết trí nhãn, thấy được phổ môn pháp giới.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ nhãn

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ nhãn vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ mắt của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được mắt đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

 

=================================

Thập Chủng Nhĩ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nhĩ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tai. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát có mười thứ tai. Những gì là mười ? Đó là :

 

Văn tán thán thanh, đoạn trừ tham ái

Nghe tiếng khen ngợi thời dứt trừ tâm tham ái.

Giảng: 1. Nghe tiếng tán thán, thì dứt trừ được tất cả tham dục và tất cả ái tình.

 

Văn hủy báng thanh, đoạn trừ sân khuể

Nghe tiếng hủy báng thời dứt trừ tâm hờn giận.

Giảng: 2. Nghe tiếng huỷ báng, thì dứt trừ được tất cả tâm sân hận, chẳng có phiền não, chẳng có sự nóng giận.

 

Văn thuyết nhị thừa, bất trước bất cầu

Nghe nói Nhị thừa thời chẳng ham chẳng cầu.

Giảng: 3. Nghe nói nhị thừa, thì chẳng chấp vào nhị thừa, cũng chẳng cầu nhị thừa.

 

Văn Bồ Tát đạo, hoan hỉ dũng dược

Nghe đạo Bồ Tát thời vui mừng hớn hở.

Giảng: 4. Nghe đạo Bồ Tát, thì hớn hở vui mừng.

 

Văn địa ngục đẳng chư khổ nạn xứ, khởi đại bi tâm, phát hoằng thệ nguyện

Nghe địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, những chỗ khổ nạn thời phát tâm đại bi lập thệ nguyện rộng lớn.

Giảng: 5. Nghe đến địa ngục, các nơi khổ nạn, thì khởi tâm đại bi, phát hoằng thệ nguyện, cứu hộ chúng sinh.

 

Văn thuyết nhân, Thiên thắng diệu chi sự, tri bỉ giai thị vô thường chi Pháp

Nghe sự thắng diệu của thiên nhơn thời biết đó đều là những pháp vô thường.

Giảng: 6. Nghe nói đến việc trời người thù thắng vi diệu, thì biết đó đều là pháp vô thường.

 

Văn hữu tán thán chư Phật công đức, cần gia tinh tấn, lệnh tốc viên mãn

Nghe tán thán công đức của chư Phật thời siêng tu tinh tấn cho mau được viên mãn.

Giảng: 7. Nghe sự tán thán công đức của chư Phật, thì siêng năng học tập, dũng mãnh tinh tấn, khiến cho sớm được thành tựu viên mãn.

 

Văn thuyết lục độ, tứ nhiếp đẳng Pháp, phát tâm tu hành, nguyện đáo bỉ ngạn;

Nghe nói các pháp lục độ tứ nhiếp thời phát tâm tu hành nguyện đến bĩ ngạn.

Giảng: 8. Nghe nói pháp lục độ, bốn pháp nhiếp, thì phát tâm tu hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát Nhã, và bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, nguyện đến được bờ Niết Bàn bên kia.

 

Văn thập phương thế giới nhất thiết âm thanh, tất tri như hưởng, nhập bất khả thuyết thậm thâm diệu nghĩa

Nghe tất cả âm thanh trong thập phương thế giới, thời đều biết như vang, nhập bất khả thuyết diệu nghĩa thậm thâm.

Giảng: 9. Nghe tất cả âm thanh mười phương thế giới, thì đều biết như vang, nhập vào bất khả thuyết diệu nghĩa thâm sâu.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tùng sơ phát tâm nãi chí đạo tràng, thường văn chánh pháp vị tằng tạm tức, nhi hằng bất xả hóa chúng sanh sự.

Ðại Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đạo tràng thường nghe chánh pháp chưa từng tạm nghĩ, mà hằng chẳng bỏ việc giáo hóa chúng sanh.

Giảng: 10. Đại Bồ Tát từ lúc ban đầu phát tâm, cho đến Đạo Tràng, thường nghe chánh pháp, chưa từng tạm ngừng nghỉ, mà luôn không bỏ việc giáo hoá chúng sinh.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát thành tựu thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ nhĩ.

Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được đại trí huệ nhĩ vô thượng của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ tai của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thành tựu được pháp nầy, thì sẽ đắc được tai đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

 

===================================

Thập Chủng Tỳ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tỳ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười mũi. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ mũi. Những gì là mười ? Đó là :

 

Văn chư xú vật bất dĩ vi xú

Nghe những vật hôi, không cho đó là hôi.

Giảng: 1. Ngửi tất cả các mùi hôi, mà không có sự cảm giác là hôi.

 

Văn chư hương khí bất dĩ vi hương

Nghe những hơi thơm, không cho đó là thơm.

Giảng: 2. Ngửi tất cả các mùi thơm, mà không có sự cảm giác là thơm.

 

Hương xú câu văn, kỳ tâm bình đẳng

Thơm hôi đều nghe tâm Bồ Tát bình đẳng.

Giảng: 3. Thơm hôi đều ngửi, tâm đều bình đẳng, chẳng trụ vào mùi thơm, chẳng trụ vào mùi hôi.

 

Phi hương phi xú, an trụ ư xả

Chẳng thơm chẳng hôi thời an trụ nơi xả.

Giảng: 4. Chẳng thơm chẳng hôi, an trụ nơi xả, chẳng bị cảnh giới mùi thơm hôi làm lay chuyển.

 

Nhược văn chúng sanh y phục, ngọa cụ cập kỳ chi thể sở hữu hương xú, tức năng tri bỉ tham, nhuế, ngu si đẳng phần chi hành

Nếu nghe y phục, ngọa cụ và thân thể của chúng sanh có hơi thơm hôi, thời biết được họ khởi lòng tham hay sân, si đẳng phần.

Giảng: 5. Nếu ngửi mùi y phục toạ cụ và thân thể của chúng sinh có mùi thơm hôi, thì biết được chúng sinh đó có tham dục, sân hận, ngu si bằng nhau. Tóm lại, chẳng có mùi thơm thì có mùi hôi.

 

Nhược văn chư phục tạng thảo mộc đẳng hương, giai như đối mục tiền, phân minh biện liễu

Nếu nghe hơi của cỏ, cây, hầm mỏ v.v… thời biết rõ tàng như đối trước mắt.

Giảng: 6. Nếu ngửi tất cả mùi hương các hầm mỏ, hoặc cây, hoặc cỏ, thì đều phân minh rất rõ ràng, như ở trước mắt. Ngửi mùi hương gì thì biết được vật đó rất rõ ràng.

 

Nhược văn hạ chí A-tỳ địa ngục, thượng chí hữu đính chúng sanh chi hương, giai tri bỉ quá khứ sở hạnh chi hạnh

Nếu nghe mùi của chúng sanh trên đến trời Hữu Ðảnh, dưới đến địa ngục A Tỳ, thời đều biết hạnh nghiệp quá khứ của họ đã gây tạo.

Giảng: 7. Nếu ngửi mùi hương chúng sinh dưới đến địa ngục A tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đỉnh, thì đều biết được việc làm trong quá khứ của họ, sự tu hành của họ.

Có người khởi vọng tưởng rằng : Chúng sinh ở địa ngục, làm sao toả mùi hương ? Tôi không tin. Người trên trời thường toả ra mùi thơm, thì tôi tin. Vì Bồ Tát phát tâm đại bồ đề, thường đến địa ngục cứu chúng sinh, cam tâm tình nguyện cùng thọ khổ với chúng sinh, tuỳ cơ thuyết pháp, khiến cho chúng sinh thọ khổ cải ác hướng thiện. Đó là đồng sự trong bốn pháp nhiếp. Tuy Bồ Tát ở trong địa ngục, nhưng thân vẫn toả ra mùi thơm đặc biệt.

 

Nhược văn chư Thanh văn bố thí, trì giới, đa văn tuệ hương, trụ nhất thiết trí tâm, bất lệnh tán động

Nếu nghe hơi bố thí, trì giới, đa văn, trí huệ của hàng Thanh văn thời an trụ tâm nhứt thíêt trí chẳng cho tán động.

Giảng: 8. Nếu ngửi mùi hương các Thanh Văn bố thí trì giới đa văn trí huệ, thì trụ tâm nhất thiết trí, chẳng khiến cho tâm tán động, rất là kiên cố như kim cang.

 

Nhược văn nhất thiết Bồ Tát hạnh hương, dĩ ình đẳng tuệ nhập Như Lai địa

Nếu nghe hơi của tất cả Bồ Tát hạnh, thời dùng trí huệ bình đẳng nhập Phật địa.

Giảng: 9. Nếu ngửi mùi hương tất cả Bồ Tát hạnh, thì dùng trí huệ bình đẳng, vào bậc Như Lai.

 

Văn nhất thiết Phật trí cảnh giới hương, diệc bất phế xả chư Bồ-tát hạnh

Nghe hơi cảnh giới trí huệ của tất cả Phật, cũng chẳng phế bỏ những hạnh Bồ Tát.

Giảng: 10. Ngửi mùi hương cảnh giới trí huệ của tất cả chư Phật, thì cũng chẳng xả bỏ các hạnh Bồ Tát, vẫn tu Bồ Tát hạnh.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát thành tựu thử pháp, tức đắc Như Lai vô lượng vô biên thanh tịnh tỳ.

Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được vô lượng vô biên thanh tịnh tỷ của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ mũi của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thành tựu được pháp nầy, thì sẽ đắc được mũi thanh tịnh vô lượng vô biên của Như Lai.

 

=================================

Thập Chủng Thiệt

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thiệt. Hà đẳng vi thập? sở vị

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười lưỡi. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ lưỡi. Những gì là mười ? Đó là :

 

Khai thị diễn thuyết vô tận chúng sanh hạnh thiệt

Lưỡi khai thị diễn thuyết vô tận hạnh chúng sanh.

Giảng: 1. Lưỡi khai thị diễn nói hạnh chúng sinh vô tận.

 

Khai thị diễn thuyết vô tận Pháp môn thiệt

Lưỡi khai thị diễn thuyết vô tận pháp môn.

Giảng: 2. Lưỡi khai thị diễn nói pháp môn vô tận.

 

Tán thán chư Phật vô tận công đức thiệt

Lưỡi tán thán chư Phật vô tận công đức.

Giảng: 3. Lưỡi tán thán công đức chư Phật vô tận.

 

Diễn sướng từ biện vô tận thiệt

Lưỡi diễn xướng từ biện vô tận.

Giảng: 4. Lưỡi diễn xướng từ biện vô tận.

 

Khai xiển Đại-Thừa trợ đạo thiệt

Lưỡi khai xiển đại thừa trợ đạo.

Giảng: 5. Lưỡi khai xiển đại thừa trợ đạo.

 

Biến phước thập phương hư không thiệt

Lưỡi trùm khắp thập phương hư không.

Giảng: 6. Lưỡi trùm khắp mười phương hư không

 

Phổ chiếu nhất thiết Phật sát thiệt

Lưỡi chiếu khắp tất cả cõi Phật.

Giảng: 7. Lưỡi chiếu khắp tất cả cõi Phật.

 

Phổ sử chúng sanh ngộ giải thiệt

Lưỡi làm cho tất cả chúng sanh được tỏ ngộ.

Giảng: 8. Lưỡi khiến khắp chúng sinh ngộ hiểu.

 

Tất lệnh chư Phật thán hỉ thiệt

Lưỡi đều làm cho tất cả chư Phật hoan hỷ.

Giảng: 9. Lưỡi đều khiến chư Phật hoan hỉ.

 

Hàng phục nhất thiết chư ma ngoại đạo, trừ diệt nhất thiết sanh tử phiền não, lệnh chí Niết-Bàn thiệt

Lưỡi hàng phục tất cả chúng ma ngoại đạo, diệt trừ tất cả sanh tử phiền não làm cho đến Niết bàn.

Giảng: 10. Lưỡi hàng phục tất cả các thiên ma ngoại đạo, trừ diệt tất cả sinh tử phiền não, khiến cho đến Niết Bàn.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát thành tựu thử pháp, tức đắc Như Lai biến phước nhất thiết chư Phật quốc độ vô thượng thiệt

Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được lưỡi vô thượng trùm khắp tất cả Phật độ của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ lưỡi của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ đắc được lưỡi vô thượng của Như Lai trùm khắp tất cả cõi nước chư Phật.

 

===================================

Thập Chủng Thân

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thân. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thân. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thân. Những gì là mười ? Đó là :

 

Nhân thân, vi giáo hóa nhất thiết chư nhân cố

Thân người, vì giáo hoá tất cả loài người.

Giảng: 1. Thân người, vì giáo hoá tất cả mọi người.

 

Phi nhân thân, vi giáo hóa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ cố

Thân phi nhơn, vì giáo hoá địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.

Giảng: 2. Thân chẳng phải người, vì giáo hoá chúng sinh trong địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.

 

Thiên thân, vi giáo hóa dục giới, sắc giới, vô sắc giới chúng sanh cố

Thân trời, vì giáo hoá chúng sanh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc.

Giảng: 3. Thân trời, vì giáo hoá chúng sinh trong ba cõi : cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.

 

Học thân, thị hiện học địa cố

Thân hữu học, vì thị hiện bực hữu học.

Giảng: 4. Thân học, vì thị hiện bậc học sơ quả, nhị quả, tam quả A la hán, giáo hoá chúng sinh bậc hữu học.

 

Vô học thân, thị hiện A-la-hán địa cố

Thân vô học, vì thị hiện bực A la hán.

Giảng: 5. Thân vô học, vì thị hiện bậc A la hán, giáo hoá chúng sinh bậc vô học.

 

Độc giác thân, giáo hóa lệnh nhập Bích Chi Phật địa cố

Thân Duyên giác, vì giáo hoá cho được vào bực Bích Chi Phật.

Giảng: 6. Thân Độc Giác, vì giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho nhập vào bậc Bích Chi Phật.

 

Bồ Tát thân, lệnh thành tựu Đại-Thừa cố

Thân Bồ Tát, vì làm cho thành tựu đại thừa.

Giảng: 7. Thân Bồ Tát, vì giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho thành tựu bậc Bồ Tát đại thừa.

 

Như Lai thân, trí thủy quán đảnh cố

Thân Như Lai, vì trí thủy quán đảnh.

Giảng: 8. Thân Như Lai, vì dùng nước trí huệ quán đảnh cho Bồ Tát, thành bậc Pháp Vương tử.

 

Ý sanh thân, thiện xảo xuất sanh cố

Ý sanh thân, vì thiện xảo xuất sanh.

Giảng: 9. Ý sinh thân, tức là thân tác ý sinh ra, khéo léo sinh ra để giáo hoá chúng sinh.

 

Vô lậu Pháp thân, dĩ vô công dụng thị Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh thân cố.

Pháp thân vô lậu, vì dùng vô công dụng thị hiện thân tất cả chúng sanh.

Giảng: 10. Pháp thân vô lậu, vì dùng vô công dụng thị hiện thân của tất cả chúng sinh, để giáo hoá chúng sinh.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát thành tựu thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng chi thân

Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được thân vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ thân của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thành tựu pháp nầy, thì sẽ đắc được thân vô thượng của Như Lai.

 

==================================

Thập Chủng Ý

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng ý. Hà đẳng vi thập?

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười ý. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ ý. Những gì là mười ? Đó là :

 

Sở vị thượng thủ ý, phát khởi nhất thiết thiện căn cố

Ý thượng thủ, vì phát khởi tất cả thiện căn.

Giảng: 1. Ý thượng thủ, vì phát khởi tất cả căn lành, hồi hướng cho tất cả chúng sinh.

 

An trụ ý, thâm tín kiên cố bất động cố

Ý an trụ, vì tin sâu kiên cố bất động.

Giảng: 2. Ý an trụ, vì tâm bồ đề tin sâu kiến cố bất động.

 

Thâm nhập ý, tùy thuận Phật Pháp nhi giải cố

Ý thâm nhập, vì tùy thuận Phật pháp mà hiểu.

Giảng: 3. Ý thâm nhập, vì tuỳ thuận Phật pháp mà hiểu rõ chân thật nghĩa.

 

Nội liễu ý, tri chư chúng sanh tâm lạc cố

Ý rõ biết ở trong, vì biết rõ tâm sở thích của chúng sanh.

Giảng: 4. Ý thấu rõ bên trong, vì biết tâm ưa thích của các chúng sinh.

 

Vô loạn ý, nhất thiết phiền não bất tạp cố

Ý vô loạn, vì tất cả phiền não chẳng tạp.

Giảng: 5. Ý không loạn, vì tất cả phiền não không thể tạp loạn.

 

Minh tịnh ý, khách trần bất năng nhiễm trước cố

Ý minh tịnh, vì khách trần chẳng nhiễm trước được.

Giảng: 6. Ý sáng tịnh, vì khách trần không thể nhiễm trước, khách trần là hình dung phiền não.

 

Thiện quán chúng sanh ý, vô hữu nhất niệm thất thời cố

Ý khéo quán sát chúng sanh, vì không có một niệm lỗi thời.

Giảng: 7. Ý khéo quán chúng sinh, vì không có một niệm nào giáo hoá chúng sinh lỗi thời.

 

Thiện trạch sở tác ý, vị tằng nhất xứ sanh qua cố

Ý khéo lựa chỗ làm, vì chưa từng có một chỗ sanh lỗi lầm.

Giảng: 8. Ý khéo chọn việc làm, vì chưa từng có nơi nào tạo ra tội nghiệp.

 

Mật hộ chư căn ý, điều phục bất lệnh trì tán cố

Ý kính giữ gìn các căn, vì điều phục chẳng cho buông lung tán loạn.

Giảng: 9. Ý mật hộ các căn, vì điều phục mắt tai mũi lưỡi thân ý, chẳng khiến cho sáu căn buông lung tán loạn.

 

Thiện nhập tam muội ý, thâm nhập Phật tam muội vô ngã, ngã sở cố.

Ý khéo nhập tam muội, vì thâm nhập Phật tam muội, không ngã, không ngã sở.

Giảng: 10. Ý khéo vào tam muội, vì thâm nhập tam muội của Phật, không còn cái ta, cũng không còn của ta.

 

Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết Phật vô thượng ý.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được ý vô thượng của tất cả Phật.

Giảng: Đó là mười thứ ý của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được ý vô thượng của tất cả chư Phật.

 

==================================

Thập Chủng Hạnh

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng hạnh. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười hạnh. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ hạnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Văn Pháp hạnh, ái lạc ư Pháp cố

Hạnh nghe chánh pháp, vì ưa thích chánh pháp.

Giảng: 1. Hạnh nghe pháp, vì thọ sự ưa thích nơi pháp.

 

Thuyết Pháp hạnh, lợi ích chúng sanh cố

Hạnh thuyết pháp, vì lợi ích chúng sanh.

Giảng: 2. Hạnh thuyết pháp, vì đem pháp bố thí, lợi ích tất cả chúng sinh.

 

Ly tham, nhuế, si bố úy hạnh, điều phục tự tâm cố

Hạnh rời tham, sân, si, bố úy vì điều phục tự tâm.

Giảng: 3. Hạnh lìa tham sân si sợ hãi, vì điều phục được tâm mình.

 

Dục giới hạnh, giáo hóa dục giới chúng sanh cố

Hạnh dục giới, vì giáo hóa chúng sanh cõi dục.

Giảng: 4. Hạnh dục giới, vì giáo hoá chúng sinh trong dục giới.

 

Sắc, vô sắc giới tam muội hạnh, lệnh tốc chuyển hoàn cố

Hạnh chánh định Sắc giới, Vô Sắc giới, vì làm cho họ mau xoay trở lại.

Giảng: 5. Hạnh tam muội sắc giới vô sắc giới, vì khiến cho chúng sinh cõi sắc giới và chúng sinh vô sắc giới sớm quay trở về, hồi tiểu hướng đại, phát bồ đề tâm.

 

Thú hướng pháp nghĩa hạnh, tốc đắc trí tuệ cố

Hạnh xu hướng pháp nghĩa, vì mau được trí huệ.

Giảng: 6. Hạnh hướng về pháp nghĩa, vì sớm đắc được trí huệ, hiểu rõ tất cả pháp đều không, chẳng có sự tham chấp.

 

Nhất thiết sanh xứ hạnh, tự tại giáo hóa chúng sanh cố

Hạnh thọ sanh tất cả xứ, vì tự tại giáo hoá chúng sanh.

Giảng: 7. Hạnh tất cả nơi sanh, vì nhậm vận tự tại giáo hoá tất cả chúng sinh.

 

Nhất thiết Phật sát hạnh, lễ bái cúng dường chư Phật cố

Hạnh tất cả cõi Phật, vì lễ bái cúng dường chư Phật.

Giảng: 8. Hạnh tất cả cõi Phật, vì hay lễ bái cúng dường tất cả chư Phật.

 

Niết-Bàn hạnh, bất đoạn sanh tử tướng tục cố

Hạnh Niết bàn, vì chẳng dứt sanh tử tiếp nối.

Giảng: 9. Hạnh Niết Bàn, vì chẳng dứt sinh tử, chẳng bỏ Niết Bàn, sinh tử tiếp nối.

 

Thành mãn nhất thiết Phật Pháp hạnh, bất xả Bồ Tát Pháp hành cố

Hạnh thành tựu viên mãn tất cả Phật pháp, vì chẳng bỏ pháp hạnh của Bồ Tát.

Giảng: 10. Hạnh thành tựu viên mãn tất cả Phật pháp, vì chẳng bỏ pháp của Bồ Tát, chẳng bỏ hạnh của Bồ Tát.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô lai vô khứ hạnh.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được hạnh vô lai vô khứ của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ hạnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được hạnh không đến không đi của Như Lai.

 

==================================

Thập Chủng Trụ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trụ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ an trụ. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ trụ. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bồ-đề tâm trụ, tằng bất vong thất cố

An trụ tâm Bồ đề, vì chưa từng quên mất.

Giảng: 1. Trụ bồ đề tâm, vì chưa từng quên mất bồ đề tâm.

 

Ba-la-mật trụ, bất yếm trợ đạo cố

An trụ Ba la mật, vì chẳng nhàm trợ đạo.

Giảng: 2. Trụ Ba La Mật, vì chẳng nhàm lìa pháp trợ đạo.

 

Thuyết Pháp trụ, tăng trưởng trí tuệ cố

An trụ thuyết pháp, vì tăng trưởng trí huệ.

Giảng: 3. Trụ thuyết pháp, vì tăng trưởng nhất thiết trí huệ.

 

A-lan-nhã trụ, chứng Đại Thiền định cố

An trụ A lan nhã, vì chứng đại thiền định.

Giảng: 4. Trụ A Lan Nhã (nơi vắng lặng), vì chứng được đại thiền định.

 

Tùy thuận nhất thiết trí Đầu-đà tri túc tứ thánh chủng trụ, thiểu dục thiểu sự cố;

An trụ tùy thuận nhứt thiết trí đầu đà tri túc tứ thánh chủng, vì thiểu dục thiểu sự.

Giảng: 5. Trụ tuỳ thuận nhất thiết trí, đầu đà (khổ hạnh), tri túc, bốn Thánh chủng (Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn), vì ít dục, ít việc.

 

Thâm tín trụ, hà phụ chánh pháp cố;

An trụ thâm tín, vì gánh vác chánh pháp.

Giảng: 6. Trụ tin sâu, vì gánh vác chánh pháp nhãn tạng.

 

Thân cận Như Lai trụ, học Phật uy nghi cố

An trụ thân cận đức Như Lai, vì học Phật oai nghi.

Giảng: 7. Trụ gần gũi đức Như Lai, vì học tất cả oai nghi của Phật. Có ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.

 

Xuất sanh thần thông trụ, viên mãn đại trí cố

An trụ xuất sanh thần thông, vì viên mãn đại trí.

Giảng: 8. Trụ xuất sinh thần thông, vì viên mãn đại trí huệ, chứng được thần thông vô ngại.

 

Đắc nhẫn trụ, mãn túc thọ kí cố

An trụ đắc nhẫn, vì viên mãn thọ ký.

Giảng: 9. Trụ đắc được nhẫn, vì thọ ký đầy đủ cho tất cả chúng sinh.

 

Đạo tràng trụ, cụ túc lực, vô úy, nhất thiết Phật Pháp cố.

An trụ đạo tràng, vì đầy đủ Thập Lực, vô úy và tất cả Phật pháp.

Giảng: 10. Trụ đạo tràng, vì đầy đủ mười lực, bốn vô sở uý, tất cả Phật pháp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết trí vô thượng trụ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được an trụ nhứt thiết trí vô thượng.

Giảng: Đó là mười thứ trụ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được trụ vô thượng nhất thiết trí.

 

===================================

Thập Chủng Tọa

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tọa. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ ngồi. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ toà ngồi. Những gì là mười ? Đó là :

 

Chuyển luân Vương tọa, hưng thập thiện đạo cố

Chỗ ngồi Chuyển Luân Vương, vì phát khởi mười thiện đạo.

Giảng: 1. Toà ngồi Chuyển Luân Vương, vì hưng khởi mười đường lành. Tức là : Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lưỡi, không chửi mắng, không san tham, không sân hận, không si mê.

 

Tứ Thiên Vương tọa, ư nhất thiết thế gian tự tại an lập Phật Pháp cố

Chỗ ngồi Tứ Thiên Vương, vì tất cả thế gian tự tại an lập Phật pháp.

Giảng: 2. Toà ngồi Tứ Thiên Vương, vì nơi tất cả thế gian tự tại an lập tất cả Phật pháp.

 

Đế Thích tọa, dữ nhất thiết chúng sanh vi thắng chủ cố

Chỗ ngồi Ðế Thích, vì làm thắng chủ cho tất cả chúng sanh.

Giảng: 3. Toà ngồi Đế Thích, vì làm Thiên Chủ thù thắng chủ của tất cả chúng sinh.

 

Phạm thiên tọa, ư tự tha tâm đắc tự tại cố

Chỗ ngồi Phạm Vương, vì ở người và mình tâm đều được tự tại.

Giảng: 4. Toà ngồi Phạm Vương, vì đối với mình và người tâm đều được tự tại.

 

Sư tử tọa, năng thuyết Pháp cố

Chỗ ngồi sư tử, vì hay thuyết pháp.

Giảng: 5. Toà ngồi sư tử, vì hay diễn nói tất cả Phật pháp, khiến cho chúng sinh được lợi ích.

 

Chánh pháp tọa, dĩ tổng trì biện tài lực nhi khai thị cố

Chỗ ngồi chánh pháp, vì dùng sức tổng trì biện tài mà khai thị.

Giảng: 6. Toà ngồi chánh pháp, vì dùng sức tổng trì biện tài mà khai thị cho tất cả chúng sinh.

 

Kiên cố tọa, thệ nguyện cứu cánh cố

Chỗ ngồi kiên cố, vì thệ nguyện rốt ráo.

Giảng: 7. Toà ngồi kiên cố, vị thệ nguyện phát ra đều rốt ráo viên mãn.

 

Đại từ tọa, lệnh ác chúng sanh tất hoan hỉ cố

Chỗ ngồi đại từ, vì làm cho ác chúng sanh đều vui mừng.

Giảng: 8. Toà ngồi đại từ, vì khiến cho chúng sinh tội ác lớn, đều lìa khổ được vui, sinh đại hoan hỉ.

 

Đại bi tọa, nhẫn nhất thiết khổ bất bì yếm cố

Chỗ ngồi đại bi, vì nhẫn chịu tất cả khổ chẳng mỏi nhàm.

Giảng: 9. Toà ngồi đại bi, vì hay nhẫn chịu tất cả khổ, không bao giờ nhàm mỏi.

 

Kim cương tọa, hàng phục chúng ma cập ngoại đạo cố

Chỗ ngồi kim cang, vì hàng phục ma quân và ngoại đạo.

Giảng: 10. Toà ngồi kim cang, vì phá tan tất cả chúng ma, hàng phục tất cả ngoại đạo.

 

Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng chánh giác tọa.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ ngồi chánh giác vô thượng của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp toà ngồi của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được toà ngồi chánh giác vô thượng của Như Lai.

 

====================================

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng ngọa. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ nằm. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ nằm. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tịch tĩnh ngọa, thân tâm đảm phạ cố;

Chỗ nằm tịch tịnh, vì thân tâm yên lặng.

Giảng: 1. Nằm tịch tĩnh, vì điều hoà được thân tâm, khiến cho thân tâm đạm bạc. Tức là thanh cao, chẳng màng danh lợi. Tóm lại, chẳng cầu bất cứ thứ gì, cũng chẳng tham, cũng chẳng tranh, cũng chẳng ích kỷ, cũng chẳng tự lợi.

 

Thiền định ngọa, như lý tu hành cố

Chỗ nằm thiền định, vì tu hành đúng lý.

Giảng: 2. Nằm thiền định, vì thường ở trong tam muội, như lý mà tu hành.

 

Tam muội ngọa, thân tâm nhu nhuyễn cố

Chỗ nằm tam muội, vì thân tâm nhu nhuyến.

Giảng: 3. Nằm tam muội, vì thường ở trong định, thân tâm mềm mại, chẳng cang cường. Người tu đạo, thân cũng mềm mại, tâm cũng mềm mại, chẳng có nóng giận. Bất cứ người nào đối với mình không tốt, cũng phải nhẫn trong tâm, đừng nổi giận. Tu đạo là tu chữ nhẫn nầy, một nhẫn vạn sự hoà, cổ nhân thường nói :

Việc nhỏ không thể nhẫn
Thì việc lớn sẽ loạn.
Cho nên nói nhẫn là cao quý.

 

Phạm thiên ngọa, bất não tự tha cố

Chỗ nằm Phạm Thiên, vì chẳng não hại mình và người.

Giảng: 4. Nằm Phạm Thiên, vì chẳng não hại mình, chẳng não hại người.

 

Thiện nghiệp ngọa, ư hậu bất hối cố

Chỗ nằm thiện nghiệp, vì chẳng bị khuynh động.

Giảng: 5. Nằm thiện nghiệp, vì thường tu nghiệp thiện, chẳng tu nghiệp ác. Tu nghiệp thiện, thường hành bố thí. Bố thí rồi, thì tuyệt đối chẳng hối hận.

 

Chánh tín ngọa, bất khả khuynh động cố

Chỗ nằm chánh tín, vì thiện hữu khai giác.

Giảng: 6. Nằm chánh tín, vì có tâm chánh tín, bất cứ ai nói gì, cũng không thể khuynh động được ý chí của mình.

 

Chánh đạo ngọa, thiện hữu khai giác cố

Chỗ nằm chánh đạo, vì thiện hữu khai giác.

Giảng: 7. Nằm chánh đạo, vì gần gũi bạn lành, tức là thiện tri thức, khích lệ với nhau, khai thị lẫn nhau, giác ngộ lẫn nhau.

 

Diệu nguyện ngọa, thiện xảo hồi hướng cố

Chỗ nằm diệu nguyện, vì thiện xảo hồi hướng.

Giảng: 8. Nằm diệu nguyện, vì phát nguyện không thể nghĩ bàn, thiện xảo phương hồi hướng cho chúng sinh.

 

Nhất thiết sự tất ngọa, sở tác thành biện cố

Chỗ nằm tất cả việc đều xong, vì việc làm đều hoàn mãn.

Giảng: 9. Nằm tất cả việc xong rồi, vì việc làm đều đã thành tựu.

 

Xả chư công dụng ngọa, nhất thiết quán tập cố.

Chỗ nằm bỏ những công dụng, vì tất cả đều quen thuộc.

Giảng: 10. Nằm xả bỏ các công dụng, vì tu vô công dụng đạo, chẳng chấp vào tất cả công dụng. Vô công dụng đạo tức là một chút cũng không miễn cưỡng. Do đó : Tập quán thành tự nhiên.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại pháp ngọa, tất năng khai ngộ nhất thiết chúng sanh.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ nằm đại pháp vô thượng của Như Lai đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh.

Giảng: Đó là mười thứ nằm của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nằm đại pháp vô thượng của Như Lai, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều minh bạch, biết pháp thế gian là vô thường, khổ, không, vô ngã.

 

====================================

Thập Chủng Sở Trụ Xứ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng sở trụ xứ. Hà đẳng vi thập? sở vị;

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ sở trụ. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười chỗ trụ xứ. Những gì là mười ? Đó là :

 

Dĩ đại từ vi sở trụ xứ, ư nhất thiết chúng sanh tâm bình đẳng cố

Dùng đại từ làm chỗ sở trụ, vì tâm bình đẳng với tất cả chúng sanh.

Giảng: 1. Dùng đại từ làm chỗ trụ xứ, vì đối với tất cả chúng sinh tâm bình đẳng như nhau. Do đó : Từ hay ban vui, tức cũng là vô duyên đại từ, oán thân bình đẳng.

 

Dĩ đại bi vi sở trụ xứ, bất khinh vị học cố

Dùng đại bi làm chỗ sở trụ, vì chẳng khinh người chưa học.

Giảng: 2. Dùng đại bi làm chỗ trụ xứ, vì chẳng khinh mạn những người chưa học. Do đó : Bi hay cứu khổ, tức cũng là Đồng thể đại bi, ta, người một thể.

 

Dĩ Đại hỉ vi sở trụ xứ, ly nhất thiết ưu não cố

Dùng đại hỷ làm chỗ sở trụ, vì rời tất cả ưu não.

Giảng: 3. Dùng đại hỉ làm chỗ trụ xứ, vì lìa khỏi tất cả sự lo buồn, chẳng có mọi phiền não.

 

Dĩ đại xả vi sở trụ xứ, ư hữu vi, vô vi ình đẳng cố

Dùng đại xả làm chỗ sở trụ, vì nơi hữu vi vô vi đều bình đẳng.

Giảng: 4. Dùng đại xả làm chỗ trụ xứ, vì đối với hữu vi và vô vi đều bình đẳng.

 

Dĩ nhất thiết Ba-la-mật vi sở trụ xứ, Bồ-đề tâm vi thủ cố

Dùng tất cả Ba la mật làm chỗ sở trụ, vì Bồ đề tâm làm đầu.

Giảng: 5. Dùng tất cả Ba La Mật làm chỗ trụ xứ, vì bồ đề tâm làm đầu.

 

Dĩ nhất thiết không vi sở trụ xứ, thiện xảo quan sát cố

Dùng nhứt thiết không để làm chỗ sở trụ, vì thiện xảo quan sát.

Giảng: 6. Dùng tất cả không làm chỗ trụ xứ, vì khéo léo quán sát tất cả các pháp, đều do duyên khởi, rốt ráo là không.

 

Dĩ vô tướng vi sở trụ xứ, bất xuất chánh vị cố;

Dùng vô tướng làm chỗ sở trụ, vì chẳng ra khỏi chánh vị.

Giảng: 7. Dùng vô tướng làm chỗ trụ xứ, vì chẳng xuất chánh vị, thuỷ chung đều là tu đạo.

 

Dĩ vô nguyện vi sở trụ xứ, quan sát thọ sanh cố

Dùng vô nguyện làm chỗ sở trụ, vì quán sát thọ sanh.

Giảng: 8. Dùng vô nguyện làm chỗ trụ xứ, vì có thể quán sát tất cả chúng sinh, thọ sinh như thế nào ? Thọ tử như thế nào ?

 

Dĩ niệm tuệ vi sở trụ xứ, nhẫn pháp thành mãn cố

Dùng niệm huệ làm chỗ sở trụ, vì nhẫn pháp thành tựu viên mãn.

Giảng: 9. Dùng niệm huệ làm chỗ trụ xứ, vì thường niệm trí huệ, thì vô sinh pháp nhẫn sẽ thành tựu viên mãn.

 

Dĩ nhất thiết pháp bình đẳng vi sở trụ xứ, đắc thọ kí biệt cố.

Dùng tất cả pháp bình đẳng làm chỗ sở trụ, vì được thọ ký.

Giảng: 10. Dùng tất cả pháp bình đẳng làm chỗ trụ xứ, vì được chư Phật thọ ký.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng vô ngại sở trụ xứ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ sở trụ vô ngại vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười chỗ trụ xứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được chỗ trụ xứ vô ngại vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Sở Hạnh Xứ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng sở hạnh xứ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ sở hành. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười chỗ hành xứ. Những gì là mười ? Đó là :

 

Dĩ chánh niệm vi sở hạnh xứ, mãn túc niệm xứ cố

Dùng chánh niệm làm chỗ sở hành, vì đầy đủ niệm xứ.

Giảng: 1. Dùng chánh niệm làm chỗ hành xứ, vì viên mãn đầy đủ bốn niệm xứ. Tức là quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.

 

Dĩ chư thú vi sở hạnh xứ, chánh giác Pháp thú cố

Dùng những xu hướng làm chỗ sở hành, vì xu hướng pháp Chánh giác.

Giảng: 2. Dùng các cõi làm chỗ hành xứ, vì có thể dùng chánh giác pháp cõi hướng bồ đề.

 

Dĩ trí tuệ vi sở hạnh xứ, đắc Phật hoan hỉ cố

Dùng trí huệ làm chỗ sở hành, vì được Phật hoan hỷ.

Giảng: 3. Dùng trí huệ làm chỗ hành xứ, vì được chư Phật hoan hỉ, gia trì hộ niệm.

 

Dĩ Ba-la-mật vi sở hạnh xứ, mãn túc nhất thiết trí trí cố

Dùng Ba la mật làm chỗ sở hành, vì đầy đủ Nhứt thiết chủng trí.

Giảng: 4. Dùng Ba La Mật làm chỗ hành xứ, vì đầy đủ trí huệ nhất thiết trí.

 

Dĩ tứ nhiếp vi sở hạnh xứ, giáo hóa chúng sanh cố

Dùng tứ nhiếp làm chỗ sở hành, vì giáo hóa chúng sanh.

Giảng: 5. Dùng bốn pháp nhiếp làm chỗ hành xứ, vì dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp để giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ thoát khỏi biển khổ, do đó :

Biển khổ vô biên, hồi đầu là bờ.

 

Dĩ sanh tử vi sở hạnh xứ, tích tập thiện căn cố

Dùng sanh tử làm chỗ sở hành, vì chứa nhóm thiện căn.

Giảng: 6. Dùng sinh tử làm chỗ hành xứ, vì tích tập đủ thứ căn lành, chấm dứt sinh tử.

 

Dĩ dữ nhất thiết chúng sanh tạp đàm hí vi sở hạnh xứ, tùy ưng giáo hóa lệnh vĩnh ly cố

Dùng sự nói chuyện đùa tạp với chúng sanh làm chỗ sở hành, vì tùy nghi giáo hóa xa lìa hẳn.

Giảng: 7. Dùng sự nói chuyện tạp vui đùa với tất cả chúng sinh làm chỗ hành xứ, vì tuỳ cơ thuyết pháp, giáo hoá, khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ ba đường ác.

 

Dĩ thần thông vi sở hạnh xứ, tri nhất thiết chúng sanh chư căn cảnh giới cố

Dùng thần thông làm chỗ sở hành, vì biết cảnh giới các căn của tất cả chúng sanh.

Giảng: 8. Dùng thần thông làm chỗ hành xứ, vì biết cảnh giới các căn của tất cả chúng sinh.

 

Dĩ thiện xảo phương tiện vi sở hạnh xứ, Bát-nhã Ba-la-mật tướng ứng cố

Dùng thiện xảo phương tiện làm chỗ sở hành, vì tương ưng Bát nhã Ba la mật.

Giảng: 9. Dùng thiện xảo phương tiện làm chỗ hành xứ, vì tu pháp Bát Nhã Ba La Mật đến chỗ tương ưng, chẳng còn sự chướng ngại.

 

Dĩ đạo tràng vi sở hạnh xứ, thành nhất thiết trí nhi bất đoạn Bồ Tát hạnh cố.

Dùng đạo tràng làm chỗ sở hành, vì thành Nhứt thiết trí mà chẳng dứt hạnh Bồ Tát.

Giảng: 10. Dùng đạo tràng làm chỗ hành xứ, vì thành nhất thiết trí huệ mà chẳng dứt Bồ Tát hạnh.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ sở hạnh xứ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ sở hành đại trí huệ vô thượng của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp hành xứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được chỗ hành xứ đại trí huệ vô thượng của Như Lai.

Ở trên là Bồ Tát Phổ Hiền trả lời năm mươi câu hỏi của Bồ Tát Phổ Huệ hỏi về hạnh Thập địa. Vì hỏi một đáp mười, cho nên đáp án thành năm trăm.

 

====================================

TRẢ LỜI PHÁP NHÂN VIÊN CỨU KÍNH (BẬC ĐẲNG GIÁC)

— o0o —

Thập Chủng Quan Sát

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng quan sát. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ quán sát. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ quán sát. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tri chư nghiệp quan sát, vi tế tất kiến cố

Biết các nghiệp quán sát, vì vi tế đều thấy.

Giảng: 1. Quán sát biết các nghiệp, vì vi tế đều thấy.

 

Tri chư thú quan sát, bất thủ chúng sanh cố

Biết các loài quán sát, vì chẳng chấp chúng sanh.

Giảng: 2. Quán sát biết các cõi, vì chẳng chấp chúng sinh.

 

Tri chư căn quan sát, liễu đạt vô căn cố

Biết các căn quán sát, vì rõ thấu các căn.

Giảng: 3. Quán sát biết các căn, vì thấu đạt không căn.

 

Tri chư Pháp quan sát, bất hoại pháp giới cố

Biết các pháp quán sát, vì chẳng hoại pháp giới.

Giảng: 4. Quán sát biết các pháp, vì chẳng phá hoại pháp giới.

 

Kiến Phật Pháp quan sát, cần tu Phật nhãn cố

Thấy Phật pháp quán sát, vì siêng tu Phật nhãn.

Giảng: 5. Quán sát thấy Phật pháp, vì siêng tu Phật nhãn, quán sát chúng sinh.

 

Đắc trí tuệ quan sát, như lý thuyết Pháp cố

Ðược trí huệ quán sát, vì thuyết pháp đúng lý.

Giảng: 6. Quán sát đắc được trí huệ, vì y chiếu tướng thật thể, mà diễn nói diệu pháp.

 

Vô sanh nhẫn quan sát, quyết liễu Phật Pháp cố

Vô sanh nhẫn quán sát, vì quyết rõ Phật pháp.

Giảng: 7. Quán sát vô sinh pháp nhẫn, vì quyết định thấu rõ Phật pháp. Thế nào là vô sinh pháp nhẫn ? Tức là chẳng thấy có chút pháp sinh, chẳng thấy có chút pháp diệt, nhẫn thọ nơi tâm. Tóm lại, cảnh giới nầy phải thân tự chứng đắc, mình biết mà thôi.

 

Bất thoái địa quan sát, diệt nhất thiết phiền não, siêu xuất tam giới, nhị thừa địa cố

Bất thối địa quán sát vì diệt phiền não vượt khỏi tam giới Nhị thừa địa.

Giảng: 8. Quán sát bậc bất thối, vì diệt tất cả phiền não, thoát khỏi ba cõi và bậc nhị thừa.

 

Quán đảnh địa quan sát, ư nhất thiết Phật pháp tự tại bất động cố

Quán đảnh địa quán sát, nơi tất cả Phật pháp được tự tại bất động.

Giảng: 9. Quán sát bậc quán đảnh, vì đối với tất cả Phật pháp nhậm vận tự tại, đã đạt đến cảnh giới bất động.

 

Thiện giác trí tam muội quan sát, ư nhất thiết thập phương thí tác Phật sự cố

Thiện giác trí tam muội quán sát, vì ra làm Phật sự khắp mười phương.

Giảng: 10. Quán sát thiện giác trí tam muội, vì đối với tất cả mười phương thế giới, bố thí làm đại Phật sự.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng Đại quan sát trí.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được trí đại quán sát vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ quán sát của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại quán sát trí vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Phổ Quan Sát

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phổ quan sát. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười môn phổ quán sát. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ quán sát khắp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Phổ quán nhất thiết chư lai cầu giả, dĩ vô vi tâm mãn kỳ ý cố

Phổ quán sát tất cả những kẻ đến cầu xin, vì dùng tâm không trái nghịch để làm thỏa mãn ý của họ.

Giảng: 1. Quán khắp tất cả chúng sinh đến cầu, mà dùng tâm không trái với sở cầu của họ, làm mãn nguyện ý mong cầu của họ.

 

Phổ quán nhất thiết phạm giới chúng sanh, an trí Như Lai tịnh giới trung cố

Phổ quán sát tất cả những chúng sanh phạm giới, vì an trí họ trong giới thanh tịnh của đức Như Lai.

Giảng: 2. Quán khắp tất cả chúng sinh phạm giới, mà an trí họ trong tịnh giới của Như Lai.

 

Phổ quán nhất thiết hại tâm chúng sanh, an trí Như Lai nhẫn lực trung cố

Phổ quán sát tất cả những chúng sanh có tâm tổn hại, vì an trí họ trong nhẫn lực của đức Như Lai.

Giảng: 3. Quán khắp tất cả chúng sinh có tâm tổn hại, mà an trí họ trong sức nhẫn nhục của Như Lai.

 

Phổ quán nhất thiết giải đãi chúng sanh, khuyến lệnh tinh cần bất xả hà phụ Đại-Thừa đảm cố

Phổ quán sát tất cả những chúng sanh giải đãi, vì khuyên họ tinh cần chẳng bỏ gánh lấy gánh Ðại thừa.

Giảng: 4. Quán khắp tất cả chúng sinh giải đãi, mà khuyên nói khiến cho họ tinh tấn, không bỏ trách nhiệm gánh vác đại thừa.

 

Phổ quán nhất thiết loạn tâm chúng sanh, lệnh trụ Như Lai nhất thiết trí địa vô tán động cố

Phổ quán sát tất cả chúng sanh loạn tâm, vì làm cho họ an trụ nhứt thiết trí địa không tán động của đức Như Lai.

Giảng: 5. Quán khắp tất cả chúng sinh loạn tâm, vì khiến cho họ trụ bậc nhất thiết trí của Như Lai, không còn sự tán loạn giao động.

 

Phổ quán nhất thiết ác tuệ chúng sanh, lệnh trừ nghi hoặc phá hữu kiến cố

Phổ quán sát tất cả những chúng sanh ác huệ, vì làm cho họ trừ nghi hoặc phá kiến chấp hữu lậu.

Giảng: 6. Quán khắp tất cả chúng sinh ác huệ, vì khiến cho họ trừ nghi hoặc, phá tan sự chấp trước hữu kiến. Tóm lại, tiêu diệt tất cả tà tri tà kiến, tăng trưởng tất cả chánh tri chánh kiến.

 

Phổ quán nhất thiết bình đẳng thiện hữu, thuận kỳ giáo mạng trụ Phật Pháp cố

Phổ quán sát tất cả những thiện hữu bình đẳng, vì thuận giáo mạng của thiện hữu mà an trụ trong Phật pháp.

Giảng: 7. Quán khắp tất cả bạn lành bình đẳng, tức cũng là thiện tri thức, vì thuận theo giáo mạng của thiện tri thức, trụ ở trong Phật pháp, chẳng vượt ra ngoài Phật pháp.

 

Phổ quán nhất thiết sở văn chi Pháp, tật đắc chứng kiến tối thượng nghĩa cố

Phổ quán sát tất cả pháp đã được nghe, vì mau được chứng thấy nghĩa tối thượng.

Giảng: 8. Quán khắp tất cả pháp đã nghe được, vì sớm được chứng thấy nghĩa lý tối thượng.

 

Phổ quán nhất thiết vô biên chúng sanh, thường bất xả ly đại bi lực cố

Phổ quán sát tất cả chúng sanh vô biên, vì thường chẳng bỏ rời sức đại bi.

Giảng: 9. Quán khắp tất cả vô biên chúng sinh, vì thường chẳng lìa bỏ sức đại bi.

 

Phổ quán nhất thiết chư Phật chi Pháp, tốc đắc thành tựu nhất thiết trí cố.

Phổ quán sát tất cả Phật pháp, vì mau được thành tựu Nhứt thiết trí.

Giảng: 10. Quán khắp tất cả pháp của chư Phật, vì sớm được thành tựu viên mãn nhất thiết trí.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí tuệ phổ quan sát.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ phổ quán sát vô thượng của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ quán sát khắp. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ quán sát khắp vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Phấn Tấn

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phấn tấn. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều phấn tấn. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ phấn tấn. Những gì là mười ? Đó là :

 

Ngưu vương phấn tấn, ánh tế nhất thiết Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà đẳng chư đại chúng cố

Ngưu Vương phấn tấn, vì che chói tất cả đại chúng Thiên, Long, Bát Bộ v.v…

Giảng: 1. Ngưu vương phấn tấn, vì che chói tất cả các đại chúng : Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà v.v…

 

Tượng Vương phấn tấn, tâm thiện điều nhu, hà phụ nhất thiết chư chúng sanh cố

Tượng Vương phấn tấn, vì tâm khéo điều nhu gánh vác tất cả những chúng sanh.

Giảng: 2. Tượng vương phấn tấn, vì tâm khéo điều hoà nhu thuận, gánh vác tất cả các chúng sinh, từ bờ này độ qua dòng sinh tử phiền não, đến bờ bên kia.

 

Long Vương phấn tấn, hưng Đại pháp mật vân, diệu giải thoát điện quang, chấn như thật nghĩa lôi, hàng chư căn, lực, giác phần, Thiền định, giải thoát, tam muội cam lồ vũ cố

Long Vương phấn tấn, vì nổi mây dầy đại pháp, chiếu điển quang giải thoát, chấn sấm nghĩa như thật, rưới mưa cam lồ căn, lực, giác phần, thiền định, giải thoát, tam muội.

Giảng: 3. Long vương phấn tấn, vì nổi mây dày đại pháp, chiếu ánh chớp giải thoát, chấn tiếng sấm như thật nghĩa, mưa xuống nước cam lồ các căn lực, giác phần, thiền định, giải thoát, tam muội.

 

Đại kim-sí điểu Vương phấn tấn, kiệt tham ái thủy, phá noãn ngu si,bác toát phiền não chư ác độc long, lệnh xuất sanh tử đại khổ hải cố

Ðại Kim Sí Ðiểu Vương phấn tấn, vì cạn nước tham ái, phá vỏ ngu si, chụp bắt những ác độc long phiền não, khiến ra khỏi biển khổ lớn sanh tử.

Giảng: 4. Đại kim xí điểu vương phấn tấn, vì cạn nước tham ái, phá trừ vỏ ngu si, chụp bắt các rồng độc phiền não, khiến cho thoát khỏi biển lớn khổ sinh tử.

 

Đại Sư tử Vương phấn tấn, an trụ vô úy bình đẳng đại trí dĩ vi khí trượng, tồi phục chúng ma cập ngoại đạo cố

Ðại Sư Tử Vương phấn tấn, vì an trụ đại trí vô úy, bình đẳng dùng làm khí trượng, xô dẹp chúng ma và ngoại đạo.

Giảng: 5. Đại sư tử vương phấn tấn, vì an trụ vô uý bình đẳng đại trí huệ, dùng làm khí trượng, phá tan tất cả chúng ma và ngoại đạo.

 

Dũng kiện phấn tấn, năng ư sanh tử Đại chiến trận trung tồi diệt nhất thiết phiền não oán cố

Dũng kiện phấn tấn, vì có thể ở trong chiến trận lớn sanh tử, xô diệt tất cả phiền não oan thù.

Giảng: 6. Dũng mãnh phấn tấn, vì có thể ở trong đại chiến trận sinh tử, mà diệt tan tất cả oán địch phiền não.

 

Đại trí phấn tấn, tri uẩn, giới, xứ cập chư duyên khởi, tự tại khai thị nhất thiết pháp cố

Ðại Trí phấn tấn, vì biết uẩn, xứ, giới và các duyên khởi tự tại khai thị tất cả pháp.

Giảng: 7. Đại trí phấn tấn, vì biết uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức năm uẩn), biết giới (bên trong có : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý sáu căn; bên ngoài có : sắc, thanh, hương, vị, xúc sáu trần; giữa có : nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức sáu thức, cộng thành 18 giới), lại biết xứ (sáu căn và sáu trần cộng thành 12 xứ), và các duyên khởi, tự tại khai thị tất cả các pháp của chư Phật nói.

 

Đà-la-ni phấn tấn, dĩ niệm tuệ lực Trì Pháp bất vong, tùy chúng sanh căn vi tuyên thuyết cố

Ðà La Ni phấn tấn, dùng sức niệm huệ thọ trì chánh pháp chẳng quên, tùy theo căn của chúng sanh mà vì họ tuyên thuyết.

Giảng: 8. Đà la ni phấn tấn, vì dùng sức niệm huệ, để tu trì Phật pháp, vĩnh viễn không quên mất, tuỳ thuận căn cơ của tất cả chúng sinh, vì họ tuyên nói tất cả Phật pháp.

 

Biện tài phấn tấn, vô ngại tấn tật phân biệt nhất thiết, hàm lệnh thọ ích tâm hoan hỉ cố

Biện tài phấn tấn, vì vô ngại mau chóng phân biệt tất cả, đều làm cho được lợi ích tâm hoan hỷ.

Giảng: 9. Biện tài phấn tấn, vì không có mọi chướng ngại, tốc độ rất mau chóng, phân biệt được tất cả, khiến cho chúng sinh đắc được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ.

 

Như Lai phấn tấn, nhất thiết trí trí trợ đạo chi Pháp giai tất thành mãn, dĩ nhất niệm tướng ứng tuệ, sở ưng đắc giả nhất thiết giai đắc, sở ưng ngộ giả nhất thiết giai ngộ, tọa sư tử tọa hàng ma oán địch, thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề cố.

Như Lai phấn tấn, vì nhứt thiết chủng trí những pháp trợ đạo đều thành tựu viên mãn, dùng một niệm tương ưng huệ, những chỗ đáng được tất cả đều được, những chỗ đáng ngộ tất cả đều ngộ; ngồi tòa sư tử, hàng ma oán địch thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Giảng: 10. Như Lai phấn tấn, vì trí huệ nhất thiết trí, pháp trợ đạo thảy đều thành tựu viên mãn, dùng một niệm trí huệ tương ưng, người đáng đắc được, tất cả đều được. Người đáng được giác ngộ, tất cả đều được giác ngộ. Bồ Tát ngồi toà sư tử, hàng phục tất cả chúng ma và oán địch, thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc chư Phật ư nhất thiết Pháp vô thượng tự tại phấn tấn.

Đó là mười. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được nơi tất cả pháp phấn tấn tự tại vô thượng của chư Phật.

Giảng: Đó là mười thứ phấn tấn của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được tự tại phấn tấn vô thượng của chư Phật đối với tất cả các pháp.

 

====================================

Thập Chủng Sư Tử Hống

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng sư tử hống. Hà đẳng vi thập? sở vị: Xướng ngôn:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười sư tử hống: Ðại Bồ Tát xướng rằng. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ sư tử hống. Những gì là mười ? Đó là : Bồ Tát xướng lớn tiếng rằng :

 

Ngã đương tất định thành chánh đẳng giác. Thị Bồ-đề tâm Đại sư tử hống.

Tôi sẽ quyết định thành Ðẳng Chánh Giác. Ðây là đại bồ đề tâm đại sư tử hống.

Giảng: 1. Tôi chắc chắn sẽ thành Phật Chánh Đẳng Giác, là bồ đề tâm đại sư tử hống của Bồ Tát, làm kinh động tất cả thiên ma ngoại đạo, khiến cho chúng hàng phục, không thể nhiễu loạn tâm thanh tịnh của người tu đạo.

 

Ngã đương lệnh nhất thiết chúng sanh, vị độ giả độ, vị thoát giả thoát, vị an giả an, vị Niết-Bàn giả lệnh đắc Niết Bàn. Thị đại bi Đại sư tử hống.

Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh, người chưa được độ thời được độ, người chưa giải thoát được giải thoát, người chưa an được an, người chưa Niết bàn được chứng Niết bàn. Ðây là đại bi sư tử hống.

Giảng: 2. Tôi sẽ khiến cho tất cả chúng sinh chưa độ được độ, chưa được giải thoát được giải thoát, chưa được an lạc được an lạc, chưa được Niết Bàn được Niết Bàn, là đại bi đại sư tử hống của Bồ Tát.

 

Ngã đương lệnh Phật, Pháp, tăng chủng vô hữu đoạn tuyệt. Thị báo Như Lai ân Đại sư tử hống.

Tôi sẽ làm cho chủng tánh của Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng không đoạn tuyệt. Ðây là báo đáp ơn Như Lai đại sư tử hống.

Giảng: 3. Tôi sẽ khiến cho hạt giống Phật Pháp Tăng vĩnh viễn không khi nào đoạn tuyệt, tiếp tục thường trụ tại thế gian, là báo ân Như Lai đại sư tử hống.

 

Ngã đương nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát. Thị cứu cánh kiên thệ Đại sư tử hống.

Tôi sẽ nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Ðây là thệ nguyện rốt ráo kiên cố đại sư tử hống.

Giảng: 4. Tôi sẽ trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật, là thệ nguyện rốt ráo kiên cố đại sư tử hống của Bồ Tát.

 

Ngã đương trừ diệt nhất thiết ác đạo cập chư nạn xứ. Thị tự trì tịnh giới Đại sư tử hống.

Tôi sẽ trừ diệt tất cả ác đạo và các nạn xứ. Ðây là tự trì tịnh giới đại sư tử hống.

Giảng: 5. Tôi sẽ trừ diệt tất cả đường ác và các xứ nạn, là tự giữ tịnh giới đại sư tử hống.

 

Ngã đương mãn túc nhất thiết chư Phật thân, ngữ cập ý tướng hảo trang nghiêm. Thị cầu phước vô yếm Đại sư tử hống.

Tôi sẽ đầy đủ thân, ngữ, ý tướng hảo trang nghiêm của chư Phật. Ðây là cầu phước không nhàm đại sư tử hống.

Giảng: 6. Tôi sẽ đầy đủ thân lời ý ba nghiệp thanh tịnh, và đắc được tướng tốt trang nghiêm của tất cả chư Phật, là cầu phước không nhàm đại sư tử hống.

 

Ngã đương thành mãn nhất thiết chư Phật sở hữu trí tuệ. Thị cầu trí vô yếm Đại sư tử hống.

Tôi sẽ thành tựu viên mãn những trí huệ của tất cả chư Phật. Ðây là cầu trí không nhàm đại sư tử hống.

Giảng: 7. Tôi sẽ thành tựu viên mãn hết thảy trí huệ của tất cả chư Phật, là cầu trí không nhàm đại sư tử hống.

 

Ngã đương trừ diệt nhất thiết chúng ma cập chư ma nghiệp. Thị tu chánh hạnh đoạn chư phiền não Đại sư tử hống.

Tôi sẽ trừ diệt tất cả chúng ma và những nghiệp ma. Ðây là tu chánh hạnh dứt các phiền não đại sư tử hống.

Giảng: 8. Tôi sẽ diệt trừ tất cả chúng ma và các ma nghiệp, là tu chánh hạnh dứt các phiền não đại sư tử hống.

 

Ngã đương liễu tri nhất thiết chư pháp vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ mạng, vô bổ già la, không, vô tướng, vô nguyện, tịnh như hư không. Thị Vô sanh Pháp nhẫn Đại sư tử hống.

Tôi sẽ rõ biết tất cả pháp không ngã, không chúng sanh, không thọ mạng, không bổ đặc già la, trống không, vô tướng, vô nguyện, sạch như hư không. Ðây là vô sanh pháp nhẫn đại sư tử hống.

Giảng: 9. Tôi sẽ biết rõ tất cả các pháp : không cái ta, không chúng sinh, không thọ mạng, không người, không, vô tướng, vô nguyện, thanh tịnh như hư không, là vô sanh pháp nhẫn đại sư tử hống.

 

Tối hậu sanh Bồ Tát chấn động nhất thiết chư Phật quốc độ tất lệnh nghiêm tịnh, Thị thời, nhất thiết thích, phạm, tứ vương hàm lai tán thỉnh: duy nguyện Bồ Tát dĩ vô sanh pháp nhi hiện thọ sanh! Bồ Tát tức dĩ vô ngại Tuệ-nhãn phổ quán thế gian: nhất thiết chúng sanh vô như ngã giả. Tức ư vương cung thị hiện đản sanh, tự hành thất bộ Đại sư tử hống: ngã ư thế gian tối thắng đệ nhất, ngã đương vĩnh tận sanh tử biên tế. thị như thuyết nhi tác Đại sư tử hống.

Tối hậu sanh Bồ Tát chấn động tất cả Phật độ đều làm cho trang nghiêm thanh tịnh. Bấy giờ tất cả Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương đều đến tán thán khuyến thỉnh: “Ngưỡng mong Bồ Tát dùng pháp vô sanh mà thị hiện thọ sanh”. Bồ Tát liền dùng huệ nhãn vô ngại quán sát khắp thế gian tất cả chúng sanh không ai bằng ta. Liền thị hiện đản sanh ở vương cung tự đi bảy bước đại sư tử hống: Ta là tối thắng đệ nhứt ở thế gian. Ta sẽ hết hẳn biên tế sanh tử. Ðây là như thuyết mà làm đại sư tử hống.

Giảng: 10. Tối hậu sanh Bồ Tát chấn động tất cả cõi nước chư Phật, đều khiến cho trang nghiêm thanh tịnh. Lúc đó, tất cả trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, đều đến trước khen ngợi thỉnh cầu : Chúng con xin Bồ Tát dùng pháp vô sinh mà thị hiện thọ sinh. Bồ Tát liền dùng con mắt trí huệ vô ngại, quán sát khắp tất cả chúng sinh thế gian, không ai bằng ta. Liền thị hiện đản sinh ở nơi cung vua, tự đi bảy bước đại sư tử hống. Ta ở nơi thế gian là tối thắng đệ nhất, ta sẽ vĩnh viễn chấm dứt bờ mé sinh tử. Là như thuyết mà làm đại sư tử hống.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại sư tử hống.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại sư tử hống của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ sư tử hống. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại sư tử hống vô thượng của Như Lai.

 

====================================

QUYỂN NĂM MƯƠI TÁM

— o0o —

Thập Chủng Thanh Tịnh Thí

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh thí. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp thanh tịnh thí. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ bố thí thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Bình đẳng thí, bất giản chúng sanh cố

Bình đẳng bố thí, vì chẳng lựa chúng sanh.

Giảng: 1. Bình đẳng bố thí, vì chẳng lựa chúng sinh, bố thí bình đẳng như nhau.

 

Tùy nghi thí, tri thượng, trung, hạ cố

Tùy nghi bố thí, vì biết thượng trung hạ.

Giảng: 2. Tuỳ ý bố thí, vì làm mãn nguyện của họ, phàm là có người đến xin, thảy đều bố thí.

 

Tùy ý thí, mãn kỳ sở nguyện cố;

Tùy ý bố thí, vì thoả mãn chỗ nguyện cầu.

Giảng: 3. Chẳng loạn bố thí, vì chúng sinh có nhu cầu, đều bố thí, khiến cho họ được lợi ích.

 

Bất loạn thí, lệnh đắc lợi ích cố

Chẳng loạn bố thí, vì làm cho được lợi ích.

Giảng: 4. Tuỳ nghi bố thí, vì biết quán sát thời nghi, chúng sinh có thượng căn, trung căn và hạ căn, vì người mà bố thí.

 

Bất trụ thí, bất cầu quả báo cố

Chẳng trụ bố thí, vì chẳng cầu quả báo.

Giảng: 5. Chẳng trụ bố thí, vì bố thí chẳng cầu quả báo, cũng chẳng chấp vào sự bố thí, do đó có câu : Tam luân thể không, mới là thật bố thí.

 

Khai xả thí, tâm bất luyến trước cố;

Mở rộng xả thí, vì tâm chẳng luyến tiếc.

Giảng: 6. Khai xả bố thí, vì đại khai môn phương tiện, để hành bố thí, chẳng có tư tưởng : Bỏ một được vạn, cũng chẳng tham trước sau khi bố thí, rằng bố thí có được công đức gì không ?

 

Nhất thiết thí, cứu cánh thanh tịnh cố

Tất cả bố thí, vì rốt ráo thanh tịnh.

Giảng: 7. Tất cả bố thí, vì hết thảy nội tài và ngoại tài, đều bố thí hết, chẳng có tâm bỏn xẻn, cho nên đến được sự rốt ráo thanh tịnh.

 

Hồi hướng Bồ-đề thí, viễn ly hữu vi, vô vi cố

Hồi hướng bồ đề thí, vì xa rời hữu vi vô vi.

Giảng: 8. Hồi hướng bồ đề bố thí, vì đem hết thảy công đức bố thí, đều hồi hướng về bồ đề, xa lìa hữu vi và vô vi.

 

Giáo hóa chúng sanh thí, nãi chí đạo tràng bất xả cố

Giáo hoá chúng sanh bố thí, vì nhẫn đến đạo tràng chẳng bỏ.

Giảng: 9. Giáo hoá chúng sinh bố thí, vì sự bố thí nầy vĩnh viễn không đoạn tuyệt, cho đến khi thành Phật ngồi Đạo Tràng, vẫn không bỏ pháp môn bố thí.

 

Tam luân thanh tịnh thí, ư thí giả, thọ giả cập dĩ thí vật chánh niệm quan sát như hư không cố.

Tam luân thanh tịnh bố thí, vì chánh niệm quán sát người thí, kẻ thọ và vật thí như hư không.

Giảng: 10. Tam luân thanh tịnh bố thí, vì đối với người thí, kẻ nhận, và vật bố thí, dùng chánh niệm để quán sát như hư không.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng thanh tịnh quảng đại thí.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được bố thí quảng đại thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ bố thí thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được bố thí rộng lớn thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Giới

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh giới. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh giới. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ giới thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Thân thanh tịnh giới, hộ thân tam ác cố

Thân thanh tịnh giới, vì giữ gìn ba điều ác nơi thân.

Giảng: 1. Giới thân thanh tịnh, vì giữ ba điều ác nơi thân là : Giết, trộm, dâm.

 

Ngữ thanh tịnh giới, ly ngữ tứ quá cố

Ngữ thanh tịnh giới, vì xa lìa bốn lỗi nơi lời nói.

Giảng: 2. Giới lời thanh tịnh, vì xa lìa bốn lỗi lầm nơi lời là : Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, chửi mắng.

 

Tâm thanh tịnh giới, vĩnh ly tham, sân, tà kiến cố

Tâm thanh tịnh giới, vì xa lìa tham, sân, tà kiến.

Giảng: 3. Giới ý thanh tịnh, vì giữ gìn ý nghiệp thanh tịnh, vĩnh viễn lìa tham, sân, si.

 

Bất phá nhất thiết học xứ thanh tịnh giới, ư nhất thiết nhân, Thiên trung tác tôn chủ cố

Thanh tịnh giới chẳng phá tất cả học xứ, vì làm tôn chủ ở trong tất cả nhơn thiên.

Giảng: 4. Giới chẳng phá tất cả học xứ thanh tịnh, học xứ tức là bậc hữu học, đó là : Sơ quả, nhị quả, tam quả A la hán. Làm tôn chủ trong tất cả trời và người.

 

Thủ hộ Bồ-đề tâm thanh tịnh giới, bất lạc Tiểu thừa cố

Thanh tịnh giới thủ hộ tâm Bồ đề, vì chẳng thích Tiểu thừa.

Giảng: 5. Giới giữ gìn bồ đề tâm thanh tịnh, bồ đề tâm là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, tức cũng là tâm mong cầu giác ngộ Phật đạo vô thượng. Nội dung của bồ đề tâm là bốn hoằng thệ nguyện, bốn tâm vô lượng, bốn pháp nhiếp. Phát bồ đề tâm thì phải tu sáu độ vạn hạnh, mới có thể tự độ độ tha, mà chẳng thích học pháp tiểu thừa, tự độ chẳng độ tha.

 

Thủ hộ Như Lai sở chế thanh tịnh giới, nãi chí vi tế tội sanh Đại bố úy cố

Thanh tịnh giới giữ gìn điều chế của đức Như Lai, vì nhẫn đến tội vi tế cũng sanh lòng rất e sợ.

Giảng: 6. Giới giữ gìn quy chế của Như Lai thanh tịnh, Tỳ kheo có 250 giới và Tỳ kheo ni có 348 giới, nhất định phải giữ gìn và hộ trì, dù có giới rất nhỏ, cũng không được huỷ phạm. Nếu không cẩn thận mà lỡ phạm thì phải sinh sợ hãi, liền sám hối.

 

Ẩn mật hộ trì thanh tịnh giới, thiện bạt phạm giới chúng sanh cố

Thanh tịnh giới ẩn mật hộ trì, vì khéo cứu chúng sanh phạm giới.

Giảng: 7. Giới ẩn mật hộ trì thanh tịnh, tức là ở chỗ người không biết, quỷ không hay, cũng phải giữ gìn giới thanh tịnh, thậm chí vọng tưởng không chánh đáng, cũng không thể sinh khởi. Khéo cứu chúng sinh phạm giới, khiến cho họ có cơ hội sửa lỗi làm mới.

 

Bất tác nhất thiết ác thanh tịnh giới, thệ tu nhất thiết thiện pháp cố

Thanh tịnh giới chẳng làm tất cả điều ác, vì thệ tu tất cả pháp lành.

Giảng: 8. Giới thanh tịnh chẳng làm tất cả điều ác, vì thệ nguyện tu tất cả pháp lành.

 

Viễn ly nhất thiết hữu kiến thanh tịnh giới, ư giới vô trước cố

Thanh tịnh giới xa lìa tất cả kiến chấp hữu lậu, vì không chấp nơi giới.

Giảng: 9. Giới thanh tịnh xa lìa tất cả cõi kiến chấp, vì vĩnh viễn thoát khỏi ba cõi hữu kiến, đối với giới tướng không chấp trước.

 

Thủ hộ nhất thiết chúng sanh thanh tịnh giới, phát khởi đại bi cố.

Thanh tịnh giới thủ hộ tất cả chúng sanh, vì phát khởi đại bi.

Giảng: 10. Giới giữ gìn tất cả chúng sinh thanh tịnh, vì phát khởi tâm đại bi, cứu hộ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ ba cõi.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng vô quá thất thanh tịnh giới.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh giới vô thượng không lỗi lầm của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ giới thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các chúng sinh an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được giới thanh tịnh không lỗi vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Nhẫn

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh nhẫn. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh nhẫn. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ nhẫn thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

An thọ du nhục thanh tịnh nhẫn, hộ chư chúng sanh cố

Thanh tịnh nhẫn an thọ sự mắng nhục, vì thủ hộ các chúng sanh.

Giảng: 1. Nhẫn thanh tịnh an thọ sự mắng nhục, nếu có người vô cớ đến chửi bạn, hoặc làm nhục bạn, thì bạn phải nhẫn thọ, đừng nổi giận, còn phải thủ hộ tất cả chúng sinh, dùng thân làm khuông phép, hiện thân thuyết pháp, khiến cho họ học tu pháp môn nhẫn nhục Ba La Mật.

 

An thọ đao trượng thanh tịnh nhẫn, thiện hộ tự tha cố

Thanh tịnh nhẫn an thọ dao gậy, vì khéo hộ trì mình và người.

Giảng: 2. Nhẫn thanh tịnh an thọ đao gậy, vì khéo hộ mình, lại khéo hộ người khác.

 

Bất sanh khuể hại thanh tịnh nhẫn, kỳ tâm bất động cố

Thanh tịnh nhẫn chẳng sanh giận hại, vì nơi tâm chẳng động.

Giảng: 3. Nhẫn thanh tịnh chẳng sinh sân hại, bất cứ thọ sự thương hại như thế nào, tâm cũng bất động. Đó là tình hình không thể nhẫn mà nhẫn được, cũng chẳng sinh tâm báo thù. Do đó có câu : Lấy đức báo oán, dùng đức để cảm hoá kẻ địch, thì tự nhiên mọi sự sẽ tốt đẹp.

 

Bất trách ti tiện thanh tịnh nhẫn, vi thượng năng khoan cố

Thanh tịnh nhẫn chẳng trách kẻ ti tiện, vì người trên hay rộng lượng.

Giảng: 4. Nhẫn thanh tịnh chẳng trách kẻ ti tiện, tâm của người làm chủ phải khoan hồng độ lượng, có tâm từ bi đối đãi với kẻ dưới, phải có tâm thương xót, đừng trách mắng họ.

 

Hữu quy hàm cứu thanh tịnh nhẫn, xả tự thân mạng cố

Thanh tịnh nhẫn có ai về nương đều cứu độ, vì xả bỏ thân mạng mình.

Giảng: 5. Nhẫn thanh tịnh có ai trở về đều cứu độ, phàm là có người trở về nương tựa, hoặc là người có tai nạn, nhất định phải tìm cách cứu giúp, khiến cho họ được ấm no, hoặc cứu họ thoát khỏi cảnh nguy dầu sôi lửa bỏng, khiến cho họ được an lạc. Cảnh giới lâm nguy đó, dù có hy sinh thân mạng mình cũng không từ, đó là đại bố thí vô uý, cũng là tinh thần của Bồ Tát.

 

Viễn ly ngã mạn thanh tịnh nhẫn, bất khinh vị học cố

Thanh tịnh nhẫn xa lìa ngã mạn, vì chẳng khinh kẻ chưa học.

Giảng: 6. Nhẫn thanh tịnh xa lìa ngã mạn, chẳng có thái độ cống cao ngã mạn, đối với mọi người rất có lễ phép, chẳng khinh khi kẻ không có học thức, phải có tác phong hoà mục thân thiện.

 

Tàn hủy bất sân thanh tịnh nhẫn, quan sát như huyễn cố

Thanh tịnh nhẫn bị tàn hại hủy báng chẳng sân, vì quán sát như huyễn.

Giảng: 7. Nhẫn thanh tịnh bị tàn hại huỷ báng chẳng sân, nếu có người tàn hại thân thể của mình, hoặc huỷ báng danh dự của mình, cũng phải tha thứ cho họ, đừng có sinh tâm sân hận, không thể sinh tâm báo thù. Vì quán sát tất cả mọi sự vật, như huyễn như hoá, vốn chẳng chân thật.

 

Hữu phạm vô báo thanh tịnh nhẫn, bất kiến tự tha cố

Thanh tịnh nhẫn bị hại không báo oán, vì chẳng thấy mình và người.

Giảng: 8. Nhẫn thanh tịnh bị xâm hại không báo oán, nếu có người đến xâm phạm sự tự do của bạn, nhưng bạn không có tâm báo thù. Tại sao ? vì chẳng thấy tướng ta, cũng chẳng thấy tướng người, cho nên không ta, không người, thì vạn sự đều hanh thông, đều đại hoan hỉ.

 

Bất tùy phiền não thanh tịnh nhẫn, ly chư cảnh giới cố

Thanh tịnh nhẫn chẳng theo phiền não, vì lìa những cảnh giới.

Giảng: 9. Nhẫn thanh tịnh chẳng theo phiền não, vì lìa khỏi tất cả cảnh giới, thì làm gì có phiền não !

 

Tùy thuận Bồ Tát chân thật trí tri nhất thiết pháp vô sanh thanh tịnh nhẫn, bất do tha giáo, nhập nhất thiết trí cảnh giới cố.

Thanh tịnh nhẫn tùy thuận chơn thiệt trí của Bồ Tát biết tất cả vô sanh, vì chẳng do người dạy mà được nhập cảnh Nhứt thiết trí.

Giảng: 10. Nhẫn thanh tịnh tuỳ thuận chân thật trí của Bồ Tát, biết tất cả pháp không sanh, vì chẳng do người khác dạy, nhập vào cảnh giới nhất thiết trí.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc nhất thiết chư Phật bất do tha ngộ vô thượng pháp nhẫn.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp nhẫn vô thượng chẳng do tha ngộ của tất cả chư Phật.

Giảng: Đó là mười thứ nhẫn thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được vô thượng pháp nhẫn của tất cả chư Phật, không do người khác mà giác ngộ.

 

====================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Tinh Tấn

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh tinh tấn. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp tinh tấn thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ tinh tấn thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Thân thanh tịnh tinh tấn, thừa sự cúng dường chư Phật Bồ-tát cập chư sư trưởng, tôn trọng phước điền Bất-thoái-chuyển cố

Thân thanh tịnh tinh tấn, vì thừa sự cúng dường chư Phật, Bồ Tát và các sư trưởng, tôn trọng phước điền chẳng thối chuyển.

Giảng: 1. Thân thanh tịnh tinh tấn, vì thừa sự cúng dường chư Phật Bồ Tát và các sư trưởng, tôn trọng phước điền Tăng, chẳng thối chuyển tâm bồ đề.

 

Ngữ thanh tịnh tinh tấn, tùy sở văn Pháp quảng vi tha thuyết, tán Phật công đức vô bì quyện cố

Ngữ thanh tịnh tinh tấn, vì pháp đã nghe rộng vì người mà diễn thuyết, tán thán công đức của chư Phật không mỏi mệt.

Giảng: 2. Lời thanh tịnh tinh tấn, vì tuỳ sự nghe pháp bất cứ ở đâu, đều rộng vì người khác diễn nói, đem pháp bố thí cho người, khen ngợi công đức của chư Phật, không khi nào mệt mỏi.

 

Ý thanh tịnh tinh tấn, thiện năng nhập xuất từ, bi, hỉ, xả, Thiền định, giải thoát cập chư tam muội vô hưu tức cố

Ý thanh tịnh tinh tấn, vì khéo có thể nhập xuất từ, bi, hỷ, xả, thiền định, giải thoát và các tam muội không thôi nghỉ.

Giảng: 3. Ý thanh tịnh tinh tấn, vì khéo nhập xuất từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng, thiền định giải thoát, và các tam muội, không khi nào ngừng nghỉ.

 

Chánh trực tâm thanh tịnh tinh tấn, vô cuống vô siểm, vô khúc vô ngụy, nhất thiết cần tu vô thoái chuyển cố

Tâm chánh trực thanh tịnh tinh tấn, vì không dối, không dua bợ, không vạy vò, không hư giả tất cả siêng tu không thối chuyển.

Giảng: 4. Tâm ngay thẳng thanh tịnh tinh tấn, vì không nói dối, không xiểm nịnh, không cong vạy, không hư nguỵ, tinh tấn siêng tu tất cả, không thối chuyển bồ đề tâm.

 

Tăng thắng tâm thanh tịnh tinh tấn, chí thường thú cầu thượng thượng trí tuệ, nguyện cụ nhất thiết bạch tịnh Pháp cố

Tâm tăng thắng thanh tịnh tinh tấn, vì thường xu cầu thượng thượng trí huệ nguyện đủ tất cả pháp bạch tịnh.

Giảng: 5. Tâm tăng thắng thanh tịnh tinh tấn, vì chí nguyện thường hướng cầu trí huệ vô thượng, nguyện đầy đủ tất cả pháp trắng tịnh, tức cũng là pháp thanh tịnh.

 

Bất đường quyên thanh tịnh tinh tấn, nhiếp thủ bố thí, giới, nhẫn, đa văn cập bất phóng dật nãi chí Bồ-đề vô trung tức cố

Thanh tịnh tinh tấn chẳng luống bỏ vì nhiếp lấy bố thí, giới, nhẫn, đa văn và bất phóng dật nhẫn đến Bồ đề không nghỉ giữa chừng.

Giảng: 6. Chẳng luống bỏ thanh tịnh tinh tấn, vì nhiếp lấy bố thí, trì giới, nhẫn nhục, đa văn và không phóng dật, cho đến bồ đề, không khi nào nghỉ, hoặc ngừng ở giữa đường.

 

Tồi phục nhất thiết ma thanh tịnh tinh tấn, tất năng trừ diệt tham dục, sân khuể, ngu si, tà kiến, nhất thiết phiền não, chư triền cái cố

Dẹp phục tất cả ma thanh tịnh tinh tấn, vì đều có thể trừ diệt tham dục, sân hận, ngu si, tà kiến, tất cả phiền não, những cái triền.

Giảng: 7. Hàng phục tất cả ma thanh tịnh tinh tấn, ma là gì ? Tức là dứt huệ mạng của người tu đạo. Tóm lại, phàm là chướng ngại, nhiễu loạn, phá hoại tâm của người tu đạo, đều là ma. Hàng phục tất cả ma, là trừ diệt tham dục, sân hận, ngu si, tà kiến, tất cả phiền não, mười triền, năm cái. Hôm nay nói sơ lược về mười triền năm cái như sau :

Mười triền là gì ?

1. Vô tàm : Tàm tức là trước kia từng làm những việc sai lầm, bây giờ sửa đổi, không tái phạm nữa.

2. Vô quý : Quý tức là trong tâm cảm thấy xấu hổ, cảm thấy không thoải mái, lương tâm bảo mình làm những việc không đúng, trong tâm không thể hiện ra ánh sáng. Biết sai mà không sửa; biết không đúng, cũng chẳng thừa nhận, đó tức là biểu hiện vô tàm vô quý (không biết hổ thẹn)

3. Đố kị : Người ta tốt, họ cũng chẳng vui; người ta xảy ra tai nạn, thì họ vui mừng, có tâm lý hạnh tai lạc hoạ tác quái, bị tâm đố kị trói chặt, không được tự do, thì không có được sự hoan hỉ, suốt ngày hận đông oán tây.

4. Tham xẻn : Tức là chẳng bố thí xả bỏ được, chẳng chịu cứu giúp người khó khăn, do đó có câu : Tham xẻn thành tánh.

5. Hối : Tức là hậu hối, bố thí tài vật rồi, sau lại hối hận, cảm thấy không đáng bố thí, đáng giữ lại để mình dùng. Đó là chẳng có tâm từ bi cứu giúp.

6. Thuỳ miên (ngủ gục) : Đây cũng là một thứ triền (ràng buộc), đến lúc ngủ gục, nếu không ngủ thì con mắt mở chẳng lên. Người ham ngủ thì ngủ li bì suốt ngày, chiếm hết thời gian, thật đáng thương xót !

7. Trạo cử : Trong tâm không an ninh, vọng tưởng lăn xăn, tay chân loạn động, cử động chẳng chánh đáng.

8. Hôn trầm : Tức là muốn ngủ, tinh thần chẳng tập trung. Bất cứ làm gì, cũng đều cảm thấy chẳng hứng thú, xem kinh cũng hôn trầm, nghe kinh cũng hôn trầm. Tóm lại, đều ở trong sự hôn trầm.

9. Sân phẫn : Sân là sân hận, phẫn là phẫn nộ. Giống như có người bị hại thì họ nổi nóng lên, thật là oan uổn cho tôi, tôi chẳng phải là hạng người đó. Do đó bèn sinh tâm sân hận hoặc phẫn nộ.

10. Phú : Tức là phú cái (che đậy) hành vi xấu xa của mình, sợ người khác biết, cho nên tìm cách che đậy lại, không để người khác nhìn thấy.

 

Đó là nói sơ lược về mười triền. Chúng ta người học Phật, phải ghi nhớ mười thứ triền nầy cho rõ ràng, ngàn vạn đừng để bị nó trói buộc, không thể nào được giải thoát. Năm cái là gì ? Tức là nói về năm thứ cái, che đây tâm tánh, không thể sinh ra pháp lành.

1. Tham dục cái : Tham luyến khoái lạc : Tài, sắc, danh, ăn, ngủ, năm thứ dục lạc. Do đó có câu : Tài sắc danh ăn ngủ, năm lối vào địa ngục, bất cứ một thứ dục nào, cũng sẽ đoạ vào địa ngục thọ khổ. Người tu đạo phải xa lìa năm dục, sẽ đoạn tuyệt gốc rễ địa ngục.

2. Sân hận cái : Gặp việc không như ý, liền sinh tâm sân hận, đó là hòn đá cột chân người tu đạo. Do đó có câu:
Một niệm tâm sân khởi
Trăm vạn cửa chướng mở ra.

Tu đạo là tu cái gì ? Là tu nhẫn nhục Ba La Mật. Pháp môn nhẫn nhục tu đến nhà, thì bất cứ nghịch cảnh gì, cũng không động tâm, tức là không động lửa gan, không thương hại thể, cũng không phiền não tâm, nhất cử lưỡng đắc, còn vui nào bằng !

3. Thuỳ miên cái : Ngủ nhiều thì có hiện tượng đầu óc hôn mê mệt mỏi, giống như bệnh tật, chẳng muốn làm bất cứ việc gì. Đừng thái quá, cũng đừng bất cập, là trung đạo. Nếu ngủ nhiều, thì che lấp mất tâm tánh, không biết tinh tấn tu đạo.

4. Trạo cử cái : Vì tư tưởng chẳng thanh tịnh, cho nên tâm phiền ý loạn, thập phần náo động. Làm việc gì cũng khiến cho tâm sinh phiền não, thứ phiền não đó cũng che lấp tâm tánh.

5. Nghi pháp cái : Đối với tất cả Phật pháp, đều sinh tâm hoài nghi, hoặc bán tín bán nghi, hoặc do dự chẳng quyết định được, bồi hồi ở ngoài cửa, chẳng nhập môn được, có người học Phật nhiều năm, cuối cùng vẫn ở ngoài cửa. Tại sao vậy ? Vì đối với Phật pháp chẳng thấu hiểu triệt để, chẳng có vào sâu tạng Kinh, cho nên chẳng có trí huệ. Nếu có trí huệ, thì tuyệt đối sẽ tin pháp từ kim khẩu của Phật nói ra, tuyệt đối không nói dối. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng là đệ nhất, chỉ cần do một môn mà thâm nhập, thì sẽ đạt đến Niết Bàn rốt ráo, chấm dứt sinh tử, đắc được khoái lạc thường lạc ngã tịnh không gì bằng, đó mới thật là khoái lạc.

 

Thành mãn trí tuệ quang thanh tịnh tinh tấn, hữu sở thí vi tất thiện quan sát, hàm sử cứu cánh, bất lệnh hậu hối, đắc nhất thiết Phật bất cộng pháp cố

Thành tựu viên mãn trí huệ quang minh thanh tịnh tinh tấn, có làm việc chi đều khéo quán sát, đều khiến rốt ráo chẳng cho ăn năn về sau, được Phật bất cộng pháp.

Giảng: 8. Thành tựu viên mãn trí huệ quang thanh tịnh tinh tấn, vì có làm việc gì, đều khéo quán sát, đều khiến rốt ráo, chẳng khiến cho hậu hối, liền đắc được mười tám pháp bất cộng của Phật. Pháp bất cộng nầy chẳng giống như Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chỉ có Phật mới có pháp nầy, là pháp không thể nghĩ bàn.

 

Vô lai vô khứ thanh tịnh tinh tấn, đắc như thật trí, nhập Pháp giới môn, thân, ngữ cập tâm giai tất bình đẳng, liễu tướng phi tướng, vô sở trước cố

Vô lai vô khứ thanh tịnh tinh tấn, vì được trí như thiệt nhập môn pháp giới, thân ngữ và tâm thảy đều bình đẳng, rõ tướng tức là phi tướng không chấp trước.

Giảng: 9. Không đến không đi thanh tịnh tinh tấn, vì đắc được trí huệ như thật, vào môn pháp giới, thân lời và tâm thảy đều bình đẳng, thấu rõ tướng chẳng phải tướng, không chấp trước.

 

Thành tựu pháp quang thanh tịnh tinh tấn, siêu quá chư địa, đắc Phật quán đảnh, dĩ vô lậu thân nhi thị một sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết Pháp, diệt độ, cụ túc như thị Phổ Hiền sự cố.

Thành tựu pháp quang thanh tịnh tinh tấn, vì vượt quá các địa được Phật quán đảnh, dùng thân vô lậu mà thị hiện mất, thọ, sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, diệt độ, đầy đủ sự Phổ Hiền như vậy.

Giảng: 10. Thành tựu pháp quang thanh tịnh tinh tấn, vì vượt qua Thập địa, được chư Phật quán đảnh, dùng pháp thân vô lậu mà thị hiện mất, sinh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, diệt độ, đầy đủ việc Phổ Hiền như vậy.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng Đại thanh tịnh tinh tấn.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này, thời được đại thanh tịnh tinh tấn vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ tinh tấn thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại tinh tấn thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Thiền

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh Thiền. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh thiền. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Phật tử ! Đại Bồ Tát có mười thứ thiền thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Thường lạc xuất gia thanh tịnh Thiền, xả nhất thiết sở hữu cố;

Thanh tịnh thiền, thường thích xuất gia, vì rời bỏ tất cả sở hữu.

Giảng: 1. Thiền thanh tịnh thường thích xuất gia, vì xả bỏ được hết thảy tất cả tài vật, bố thí cho người khác.

 

Đắc chân thiện hữu thanh tịnh Thiền, thị giáo chánh đạo cố

Thanh tịnh thiền, được chơn thiện hữu, vì chỉ dạy chánh đạo.

Giảng: 2. Thiền thanh tịnh được bạn lành chân thật, bạn đồng tu đạo, khuyến khích lẫn nhau, động viên lẫn nhau, chỉ bày chánh pháp lẫn nhau, chỉ dạy chánh đạo lẫn nhau, cùng nhau tu hành, làm gương lẫn nhau.

 

Trụ A-lan-nhã nhẫn phong vũ đẳng thanh tịnh Thiền, ly ngã, ngã sở cố

Thanh tịnh thiền, ở a lan nhã nhẫn chịu mưa gió, vì lìa ngã và ngã sở.

Giảng: 3. Thiền thanh tịnh trụ A lan nhã chịu mưa gió .v.v… ở chỗ vắng lặng tham thiền đả toạ, rất dễ nhập định. Tu thiền như thế phải chịu đựng mưa gió, phải lìa khỏi cảnh giới cái ta và của ta. Chẳng có mọi sự chấp trước, mới có thể tĩnh tâm ngồi thiền.

 

Ly hội náo chúng sanh thanh tịnh Thiền, thường lạc tịch tĩnh cố

Thanh tịnh thiền, lìa chúng sanh ồn náo, vì thường thích tịch tịnh.

Giảng: 4. Thiền thanh tịnh lìa chúng sinh ồn náo, phải lìa khỏi sự ồn ào náo nhiệt, phải lìa khỏi chúng sinh thích nói thị phi. Phàm là khiến cho bạn tâm chẳng thanh tịnh, chẳng an lạc, tức là ồn náo. Giống như ở dưới nhà bếp, là nơi ồn náo, có những người chẳng dụng công tu đạo, thường chạy xuống nhà bếp, nhóm họp nói chuyện, chẳng thảo luận về chánh sự, mà chuyên môn nói chuyện thị phi.

Các vị chú ý ! Nếu có sự ồn náo, thì không thể nào đắc được thiền định thanh tịnh; nếu không có ồn náo, thì sẽ đắc được thiền định thanh tịnh. Do đó có câu : Sai một ly, đi ngàn dặm, tại sao chúng ta chẳng chứng quả ? Vì chẳng lìa khỏi chúng sinh ồn náo. Tại sao chúng ta chẳng có chứng quả ? Vì chẳng lìa khỏi tập khí mao bệnh. Nếu buông bỏ hết tập khí mao bệnh, thì không còn xuống nhà bếp nói đông, nói tây, nói nam, nói bắc, như vậy sẽ đắc được thiền định thanh tịnh. Tại sao phải lìa khỏi chúng sinh ồn náo ? Vì mình muốn sự vắng lặng, an tâm tu đạo.

 

Tâm nghiệp điều nhu thanh tịnh Thiền, thủ hộ chư căn cố

Thanh tịnh thiền, tâm nghiệp điều nhu, vì thủ hộ các căn.

Giảng: 5. Thiền thanh tịnh tâm nghiệp điều nhu, tâm nghiệp tức là sự nghiệp vọng tưởng tạo ra. Phải điều phục tánh cang cường của mình, phải nhu hoà tập khí của mình, thì mới có thể đắc được thiền định thanh tịnh. Phải giữ gìn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý sáu căn, đừng bị cảnh giới sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sáu trần làm lay chuyển.

 

Tâm trí tịch diệt thanh tịnh Thiền, nhất thiết âm thanh, chư Thiền định thứ bất năng loạn cố

Thanh tịnh thiền, tâm trí tịch diệt, vì tất cả âm thanh những chướng thiền định chẳng thể làm loạn.

Giảng: 6. Thiền thanh tịnh tâm trí vắng lặng, trí huệ trong tâm thường vắng lặng, chẳng có vọng tưởng. Tất cả âm thanh và các chướng thiền định, không thể bị nó làm lay chuyển, không thể tán loạn được. Nếu bị vọng tưởng làm lay chuyển, thì chắc chắn sẽ tán loạn. Tại sao trong tâm chúng ta không thể vắng lặng ? Vì chẳng có trí huệ, bị cảnh giới bên ngoài kích thích, mê hoặc, làm cho hồ đồ, tuỳ theo cảnh giới mà lay chuyển, mất đi định lực, mà làm những việc điên đảo phạm giới.

 

Giác đạo phương tiện thanh tịnh Thiền, quan sát nhất thiết giai hiện chứng cố

Thanh tịnh thiền, giác đạo phương tiện, vì quán sát tất cả đều hiện chứng.

Giảng: 7. Thiền thanh tịnh giác đạo phương tiện, vì quán sát nhất thiết trí huệ đều hiện chứng.

 

Ly ư vị trước thanh tịnh Thiền, bất xả dục giới cố

Thanh tịnh thiền, rời tham đắm, vì chẳng bỏ cõi dục.

Giảng: 8. Thiền thanh tịnh lìa chấp trước vị, tất cả chúng sinh đều chấp vào cảnh giới sáu trần, nhất là rất gần gũi với vị trần, rất dễ chấp vào mùi vị. Ví như, ngồi thiền thì chấp vào vị thiền, đó tức là chấp trước. Nếu lìa khỏi những sự chấp trước đó, thì mới có thể đắc được thiền định thanh tịnh. Thiền nầy chẳng bỏ cõi dục, tuy ở tại cõi dục, nhưng hay lìa khỏi cõi dục.

 

Phát khởi thông minh thanh tịnh Thiền, tri nhất thiết chúng sanh căn tánh cố

Thanh tịnh thiền, phát khởi thông minh, vì biết tất cả căn tánh chúng sanh.

Giảng: 9. Thiền thanh tịnh phát khởi thông minh, vì biết được căn tánh của tất cả chúng sinh. Chúng sinh nào có căn tánh gì, thì đều biết được rất rõ ràng.

 

Tự tại du hí thanh tịnh Thiền, nhập Phật tam muội, tri vô ngã cố.

Thanh tịnh thiền, tự tại du hý, vì nhập Phật tam muội biết vô ngã.

Giảng: 10. Thiền thanh tịnh tự tại du hí, thiền nhậm vận tự tại du hí nầy, chẳng tạo tác, cũng chẳng tác ý, tự nhiên mà có. Thiền thanh tịnh nầy, hay nhập vào tam muội của Phật biết không có cái ta.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng Đại thanh tịnh Thiền.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được đại thanh tịnh thiền vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ thiền thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại thiền thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Tuệ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh tuệ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh huệ. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ huệ thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tri nhất thiết nhân thanh tịnh tuệ, bất hoại quả báo cố

Thanh tịnh huệ, biết tất cả nhơn, vì chẳng hoại quả báo.

Giảng: 1. Huệ thanh tịnh biết tất cả nhân, vì khi ở tại nhân địa, tất cả đều làm thanh tịnh, cho nên mới có trí huệ thanh tịnh. Khi đến quả địa, thì đắc được quả báo chẳng hoại.

 

Tri nhất thiết duyên thanh tịnh tuệ, bất vi hòa hợp cố

Thanh tịnh huệ, biết tất cả duyên vì chẳng trái hòa hiệp.

Giảng: 2. Huệ thanh tịnh biết tất cả duyên, vì vạn pháp do duyên sinh, vạn pháp do duyên diệt, cho nên chẳng trái với đạo lý hoà hợp.

 

Tri bất đoạn bất thường thanh tịnh tuệ, liễu đạt duyên khởi giai như thật cố

Thanh tịnh huệ, biết chẳng đoạn chẳng thường, vì rõ thấu duyên khởi đều như thiệt.

Giảng: 3. Huệ thanh tịnh biết chẳng đoạn, chẳng thường, vì các pháp chẳng phải đoạn tuyệt, chẳng phải hằng thường, đó là trung đạo. Có thể thấu đạt được đạo lý duyên khởi, chẳng lìa khỏi lý thể thật tướng.

 

Bạt nhất thiết kiến thanh tịnh tuệ, ư chúng sanh tướng vô thủ xả cố

Thanh tịnh huệ, trừ tất cả kiến chấp, vì không thủ xả nơi tướng chúng sanh.

Giảng: 4. Huệ thanh tịnh trừ tất cả kiến chấp, khiến cho tà tri tà kiến chẳng còn nữa, đối với tướng chúng sinh cũng chẳng thủ lấy, cũng chẳng xả bỏ.

 

Quán nhất thiết chúng sanh tâm hành thanh tịnh tuệ, liễu tri như huyễn cố

Thanh tịnh huệ, quán tâm hành của tất cả chúng sanh, vì biết rõ như huyễn.

Giảng: 5. Huệ thanh tịnh quán tâm hạnh của tất cả chúng sinh, vì biết rõ tất cả hết thảy đều hư vọng chẳng thật, như huyễn như hoá.

 

Quảng đại biện tài thanh tịnh tuệ, phân biệt chư Pháp, vấn đáp vô ngại cố

Thanh tịnh huệ, biện tài quảng đại, vì phân biệt các pháp vấn đáp vô ngại.

Giảng: 6. Huệ thanh tịnh biện tài rộng lớn, vì phân biệt rõ ràng được các pháp của chư Phật, cho nên khi vấn đáp đều viên dung vô ngại, đối đáp như nước chảy, không có gì phải sợ hãi.

 

Nhất thiết chư ma, ngoại đạo, Thanh văn, độc giác sở bất năng trai thanh tịnh tuệ, thâm nhập nhất thiết Như Lai trí cố

Thanh tịnh huệ, tất cả ma, ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng biết được, vì thâm nhập Như Lai trí.

Giảng: 7. Huệ thanh tịnh tất cả các ma, ngoại đạo, Thanh Văn, Độc Giác, không thể biết được, vì vào sâu tất cả trí huệ của Như Lai.

 

Kiến nhất thiết Phật vi diệu Pháp thân, kiến nhất thiết chúng sanh bổn tánh thanh tịnh, kiến nhất thiết Pháp giai tất tịch diệt, kiến nhất thiết sát đồng ư hư không thanh tịnh tuệ, tri nhất thiết tướng giai vô ngại cố

Thanh tịnh huệ, thấy pháp thân vi diệu của Phật, thấy bổn tánh thanh tịnh của tất cả chúng sanh, thấy tất cả pháp đều tịch diệt, thấy tất cả cõi đồng như hư không, vì biết tất cả tướng đều vô ngại.

Giảng: 8. Huệ thanh tịnh thấy pháp thân vi diệu của tất cả chư Phật, thấy bổn tánh thanh tịnh của tất cả chúng sinh, thấy tất cả pháp đều vắng lặng, thấy tất cả cõi đồng với hư không, vì biết tất cả tướng đều vô ngại.

 

Nhất thiết tổng trì, biện tài, phương tiện ba La mật thanh tịnh tuệ, lệnh đắc nhất thiết tối thắng trí cố

Thanh tịnh huệ, tất cả tổng trì, biện tài, phương tiện đều đến bĩ ngạn, vì làm cho được nhứt thiết trí tối thắng.

Giảng: 9. Huệ thanh tịnh tất cả tổng trì, biện tài, phương tiện, Ba la mật, vì khiến cho đắc được tất cả trí huệ tối thù thắng.

 

Nhất niệm tướng ứng Kim Cương trí liễu nhất thiết pháp bình đẳng thanh tịnh tuệ, đắc nhất thiết pháp tối tôn trí cố.

Thanh tịnh huệ, nhứt niệm tương ưng kim cang trí, rõ tất cả pháp bình đẳng, vì được nhứt thiết pháp tối tôn trí.

Giảng: 10. Huệ thanh tịnh một niệm tương ưng kim cang trí, thấu rõ tất cả pháp bình đẳng, vì đắc được tất cả pháp tối tôn trí.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô chướng ngại đại trí tuệ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây, thời được đại trí huệ vô ngại của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ huệ thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ không chướng ngại của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Từ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh từ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh từ. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ từ thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Đẳng tâm thanh tịnh từ, phổ nhiếp chúng sanh vô sở giản trạch cố

Thanh tịnh từ, tâm bình đẳng, vì nhiếp khắp chúng sanh không lựa chọn.

Giảng: 1. Từ thanh tịnh tâm bình đẳng, vì nhiếp thọ khắp tất cả chúng sinh, chẳng có tâm phân biệt lựa chọn.

 

Nhiêu ích thanh tịnh từ, tùy hữu sở tác giai lệnh hoan hỉ cố

Thanh tịnh từ, lợi ích, vì tùy có chỗ làm đều làm cho hoan hỷ.

Giảng: 2. Từ thanh tịnh lợi ích, vì tuỳ theo việc làm đều khiến cho hoan hỉ.

 

Nhiếp vật đồng kỷ thanh tịnh từ, cứu cánh giai lệnh xuất sanh tử cố

Thanh tịnh từ, nhiếp người đồng như mình, vì rốt ráo đều làm cho ra khỏi sanh tử.

Giảng: 3. Từ thanh tịnh nhiếp vật đồng như mình, vì rốt ráo đều khiến cho tất cả chúng sinh, thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử.

 

Bất xả thế gian thanh tịnh từ, tâm thường duyên niệm tập thiện căn cố

Thanh tịnh từ, chẳng bỏ thế gian, vì tâm thường duyên niệm chứa nhóm thiện căn.

Giảng: 4. Từ thanh tịnh chẳng bỏ thế gian, chẳng bỏ pháp thế gian mà tu pháp xuất thế, vì tâm thường duyên niệm, cho nên tích tập đủ thứ căn lành. Tóm lại, tuy ở tại thế gian, mà trồng căn lành xuất thế.

 

Năng chí giải thoát thanh tịnh từ, phổ sử chúng sanh trừ diệt nhất thiết chư phiền não cố

Thanh tịnh từ, có thể đến giải thoát, vì khiến khắp chúng sanh trừ diệt tất cả phiền não.

Giảng: 5. Từ thanh tịnh hay đến giải thoát, vì khắp khiến cho tất cả chúng sinh trừ diệt tất cả các phiền não.

 

Xuất sanh Bồ-đề thanh tịnh từ, phổ sử chúng sanh phát cầu nhất thiết trí tâm cố

Thanh tịnh từ, xuất sanh Bồ đề, vì khiến khắp chúng sanh phát tâm cầu nhứt thiết trí.

Giảng: 6. Từ thanh tịnh sinh ra bồ đề, vì khắp khiến chúng sinh phát tâm cầu nhất thiết trí.

 

Thế gian vô ngại thanh tịnh từ, phóng đại quang minh bình đẳng phổ chiếu cố

Thanh tịnh từ, thế gian vô ngại, vì phóng đại quang minh bình đẳng chiếu khắp.

Giảng: 7. Từ thanh tịnh thế gian vô ngại, vì phóng đại quang minh bình đẳng chiếu khắp tất cả thế giới.

 

Sung mãn hư không thanh tịnh từ, cứu hộ chúng sanh vô xứ bất chí cố

Thanh tịnh từ, đầy khắp hư không, vì cứu hộ chúng sanh không xứ nào chẳng đến.

Giảng: 8. Từ thanh tịnh đầy dẫy hư không, vì cứu hộ tất cả chúng sinh, không nơi nào chẳng đến. Tâm từ bi của Bồ Tát đến khắp nơi cứu khổ cứu nạn.

 

Pháp duyên thanh tịnh từ, chứng ư như như chân thật Pháp cố

Thanh tịnh từ, pháp duyên, chúng pháp như như chơn thiệt.

Giảng: 9. Từ thanh tịnh pháp duyên, vì chứng đắc pháp của Phật như như chân thật.

 

Vô duyên thanh tịnh từ, nhập ư Bồ Tát ly sanh tánh cố.

Thanh tịnh từ, vô duyên vì nhập Bồ Tát ly sanh tánh.

Giảng: 10. Từ thanh tịnh vô duyên, vì vào được đạo tánh lìa sinh của Bồ Tát.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại thanh tịnh từ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh từ quảng đại vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ từ thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được từ thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Bi

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh bi. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh bi. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ bi thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Vô trù bạn thanh tịnh bi, độc phát kỳ tâm cố.

Thạnh tịnh bi, không bạn bè, vì riêng mình phát tâm đó.

Giảng: 1. Bi thanh tịnh không bạn bè, vì chỉ riêng mình phát tâm đại bồ đề, phát tâm đại bi, để cứu hộ tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui. Có người hỏi : Thanh tịnh là gì ? Thanh tịnh tức là trong sạch, chẳng có pháp nhiễm ô xen tạp vào, chỉ có pháp thanh tịnh. Đối với người phải có tâm đại bi, vì bi hay cứu khổ. Khi cứu chúng sinh khổ chẳng có xí đồ, chẳng có tư tưởng nhiễm ô xen tạp vào, thì đó mới là tâm đại bi thanh tịnh chân chánh.

 

Vô bì yếm thanh tịnh bi, đại nhất thiết chúng sanh thọ khổ, bất dĩ vi lao cố.

Thạnh tịnh bi, không mỏi nhàm, vì thay thế tất cả chúng sanh thọ khổ chẳng cho là nhọc.

Giảng: 2. Bi thanh tịnh chẳng nhàm mỏi, chẳng khi nào mỏi mệt và nhàm chán. Bồ Tát bi tâm tha thiết cam tâm tình nguyện, để thế tất cả chúng sinh thọ khổ, nhưng chẳng cho rằng cực nhọc. Tuy Ngài thế chúng sinh thọ khổ, nhưng chẳng cho rằng là cực nhọc, cũng chẳng cảm thấy mình có công lao, tại sao ? Vì Bồ Tát có tâm đại bi thanh tịnh.

 

Nan xứ thọ sanh thanh tịnh bi, vi độ chúng sanh cố.

Thạnh tịnh bi, thọ sanh ở xứ nạn, vì cứu độ chúng sanh nạn.

Giảng: 3. Bi thanh tịnh thọ sinh xứ nạn, Bồ Tát vì giáo hoá chúng sinh, nên chuyên đến những nơi khó khăn hoạn nạn để thọ sinh, đến những nơi chẳng có Phật pháp để giáo hoá chúng sinh, hoằng dương Phật pháp.

 

Thiện thú thọ sanh thanh tịnh bi, thị hiện vô thường cố.

Thạnh tịnh bi, thọ sanh ở đường lành, vì thị hiện vô thường.

Giảng: 4. Bi thanh tịnh thọ sinh cõi lành, Bồ Tát khéo thọ sinh ở trong bốn đường ác, tại sao ? Muốn vì chúng sinh thọ khổ, thị hiện đạo lý sinh diệt vô thường, cho nên thường thị hiện sinh, thường thị hiện chết, hiện thân thuyết pháp, khiến cho chúng sinh giác ngộ, sớm được thoát khỏi biển khổ.

 

Vi tà định chúng sanh thanh tịnh bi, lịch kiếp bất xả hoằng thệ cố.

Thạnh tịnh bi, vì tà định chúng sanh, vì nhiều kiếp chẳng bỏ hoằng thệ.

Giảng: 5. Bi thanh tịnh vì chúng sinh tà định, chúng sinh có chúng sinh chánh tri chánh kiến, có chúng sinh tà tri tà kiến. Có những chúng sinh, bạn giảng chánh pháp cho họ nghe, thì họ chẳng tin, còn nói tà pháp bàng môn ngoại đạo với họ, thì họ vui mừng, muốn tiếp thọ. Tại sao vậy ? Vì những thứ đó có chỗ tương đồng với họ, cho nên họ hoan hỉ tu tà định. Bồ Tát vì những chúng sinh tà định, mà khổ khẩu tâm bà khuyên răn họ cải tà quy chánh, trải qua số kiếp cũng chẳng bỏ. Tại sao vậy ? Vì thuở xưa đã từng phát bốn đại thệ nguyện, trong đó có một thệ nguyện rằng : Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, Bồ Tát nói ra là làm, do đó mà chẳng bỏ những chúng sinh đó, nhất định phải độ thoát họ, cho đến thành tựu quả giác bồ đề.

 

Bất trước kỷ lạc thanh tịnh bi, phổ dữ chúng sanh khoái lạc cố.

Thạnh tịnh bi, chẳng nhiễm trước sự vui của mình, vì cho khắp chúng sanh sự sung sướng.

Giảng: 6. Bi thanh tịnh chẳng chấp vui của mình, Bồ Tát đem niềm vui của mình, bố thí khắp cho tất cả chúng sinh. Tâm trạng của Bồ Tát rất từ bi, thấy chúng sinh vui, giống như mình vui; thấy chúng sinh khổ, giống như mình khổ. Một chút ích kỷ lợi mình cũng chẳng có, hoàn toàn đều nghĩ cho chúng sinh, chỉ cần chúng sinh an vui, thì mình sẽ được sự an ủi.

 

Bất cầu ân báo thanh tịnh bi, tu khiết kỳ tâm cố.

Thạnh tịnh bi, chẳng cầu báo ân, vì tu tâm trong sạch.

Giảng: 7. Bi thanh tịnh chẳng cầu báo ân, do đó có câu : Thi ân bất cầu báo, cho người chẳng hối tiếc. Bồ Tát đối đãi tốt với chúng sinh, chẳng cầu mong họ tương lai có quả báo tốt, lo tu tâm mình cho trong sạch, chẳng có vọng tưởng và tạp niệm.

 

Năng trừ điên đảo thanh tịnh bi, thuyết như thật Pháp cố.

Thạnh tịnh bi, có thể trừ điên đảo vì nói pháp như thiệt.

Giảng: 8. Bi thanh tịnh hay trừ điên đảo, có tâm đại bi thanh tịnh, thì thường diễn nói pháp như thật, khiến cho chúng sinh chẳng còn tưởng điên đảo.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tri nhất thiết pháp bổn tánh thanh tịnh, vô nhiễm trước, vô nhiệt não, dĩ khách trần phiền não cố nhi thọ chúng khổ; như thị tri dĩ, ư chư chúng sanh nhi khởi đại bi, danh: bổn tánh thanh tịnh, vi thuyết vô cấu thanh Tịnh Quang minh pháp cố.

Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh không nhiễm trước không nhiệt não, vì do khắp trần phiền não nên thọ những điều khổ. Biết như vậy rồi Bồ Tát ở nơi chúng sanh mà khởi đại bi gọi là bổn tánh thanh tịnh, vì họ mà diễn thuyết pháp vô cấu thanh tịnh, quang minh.

Giảng: 9. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp tánh vốn thanh tịnh, không có nhiễm trước, không có nhiệt não, chỉ vì dùng khách trần phiền não, mà thọ các khổ. Vì bị khách trần làm chủ nhân ông, cho nên tâm chúng sinh mới sinh ra phiền não, thọ đủ thứ khổ. Bồ Tát biết như vậy rồi, đối với các chúng sinh mà khởi tâm đại bi, tên là Bổn tánh thanh tịnh, vì họ thuyết pháp vô cấu quang minh thanh tịnh.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát tri nhất thiết pháp như không trung điểu tích, chúng sanh si ế bất năng chiếu liễu; quan sát ư bỉ, khởi đại bi tâm, danh: chân thật trí, vi kỳ khai thị Niết-Bàn Pháp cố.

Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp như dấu chim bay giữa không gian, chúng sanh si lòa chẳng thể quán sát biết rõ các pháp Bồ Tát phát khởi tâm đại bi tên là chơn thiệt trí, vì họ mà khai thị pháp Niết bàn.

Giảng: 10. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp như dấu chim bay trong hư không, nhưng chúng sinh bị màng ngu si che đậy, không thể chiếu rõ quán sát. Có người nói : Chim bay ở trong hư không, chẳng nhất định có dấu, tuy nhiên nói như thế, nhưng kỳ thật dấu chim bay ở trong hư không vẫn tồn tại, chỉ bất quá mắt thịt phàm phu chúng ta chẳng nhìn thấy mà thôi. Phải trải qua một thời gian, thì dấu tích đó mới bị mai một. Dù chim có bay xa bao nhiêu, cũng phải tìm đến sào huyệt của nó. Tại sao vậy ? Vì nó từng ở trong không khí, lưu lại vết tích những hạt bụi bố lập, chẳng tan ra. Xúc giác và khứu giác của chim rất là linh mẫn, cho nên chim có thể nhớ đường đi, trở về chỗ ở của mình.

Bồ Tát quán sát tất cả chúng sinh đều là ngu si, đều có tà kiến, chẳng minh bạch chân lý, cho nên Bồ Tát sinh khởi tâm đại bi, tên là Chân thật trí, vì chúng sinh mà khai thị pháp Niết Bàn.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại thanh tịnh bi.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh bi quảng đại vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ bi thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại bi thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

 

====================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Hỉ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh hỉ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh hỷ. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ hỉ thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Phát Bồ-đề tâm thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, phát Bồ đề tâm.

Giảng: 1. Hỉ thanh tịnh phát bồ đề tâm, tu hành pháp môn quan trọng nhất, đó là phát bồ đề tâm, nếu không phát bồ đề tâm, thì không thể nào đắc được tâm đại hỉ thanh tịnh.

 

Tất xả sở hữu thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, đều xả bỏ sở hữu.

Giảng: 2. Hỉ thanh tịnh đều xả bỏ hết thảy, Bồ Tát có thể xả bỏ hết thảy tài vật, bố thí cho tất cả chúng sinh, chẳng giữ lại cho mình bất cứ thứ gì.

 

Bất hiềm khí phá giới chúng sanh nhi giáo hóa thành tựu thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, chẳng ghét bỏ chúng sanh phá giới giáo hóa cho họ được thành tựu.

Giảng: 3. Hỉ thanh tịnh chẳng ghét bỏ chúng sinh phá giới, mà giáo hoá họ được thành tựu. Bất cứ chúng sinh phạm giới luật gì, Bồ Tát đều tha thứ cho họ, và còn giáo hoá họ, khiến cho họ thành tựu đạo nghiệp.

 

Năng nhẫn thọ tạo ác chúng sanh, thệ nguyện cứu độ thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, có thể nhẫn thọ chúng sanh tạo ác mà thệ nguyện cứu độ họ.

Giảng: 4. Hỉ thanh tịnh hay nhẫn thọ chúng sinh tạo ác thệ nguyện cứu độ họ. Bất cứ là chúng sinh thiện, hoặc là chúng sinh ác, Bồ Tát đều bình đẳng giáo hoá, khiến cho thành tựu Phật đạo. Bồ Tát đối đãi với tất cả chúng sinh, đặc biệt từ bi. Do đó : Mắt từ nhìn chúng sinh, biển phước tụ vô lượng. Bồ Tát đã từng phát đại thệ nguyện, phải nhẫn thọ những chúng sinh ác, phải cứu độ chúng sinh ác khổ nạn, khiến cho họ lập tức hồi đầu, cải ác hướng thiện.

 

Xả thân cầu Pháp bất sanh hối tâm thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, xả thân cầu pháp chẳng sanh lòng ăn năn.

Giảng: 5. Hỉ thanh tịnh xả thân cầu pháp, chẳng sinh tâm hối hận. Vì cầu chánh pháp, dù phải hi sinh thân mạng mình, cũng chẳng sinh tâm hối hận. Do đó có câu : Vì pháp quên mình. Thuở xưa khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn làm Bồ Tát, thì vì nửa câu kệ, mà xả thân mạng mình cho quỷ La Sát làm thức ăn, tinh thần đó thật là vĩ đại.

 

Tự xả dục lạc, thường lạc Pháp lạc thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, tự bỏ dục lạc thường thích pháp lạc.

Giảng: 6. Hỉ thanh tịnh tự bỏ dục lạc, thường thích pháp lạc. Bồ Tát thấy rằng học Phật pháp, mới là chân chánh khoái lạc, cho nên xả bỏ vui năm dục. Vui năm dục trong mắt của Bồ Tát chỉ là mây trôi, chuyển nháy mắt, gió thổi mây tan mất.

 

Lệnh nhất thiết chúng sanh xả tư sanh lạc, thường lạc Pháp lạc thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, làm cho tất cả chúng sanh bỏ tư sanh lạc thường thích pháp lạc.

Giảng: 7. Hỉ thanh tịnh khiến cho tất cả chúng sinh bỏ sự thích đồ tư sanh, thường thích pháp lạc. Bồ Tát chẳng những mình bỏ dục lạc, cũng giáo hoá chúng sinh bỏ sự vui thích đồ tư sanh, tại sao vậy ? Vì sự vui của thể gian đều là vô thường, chốc lát không còn nữa, không đáng để tham luyến, chỉ có pháp lạc, mới thật là niềm vui chân chánh không đổi. Giống như ăn thức ăn, mặc quần áo, ở trong nhà, những thứ đồ tư sanh đó, đừng nói nhiều quá, có dùng là được rồi. Phải chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp, tham thiền đả toạ, tụng Kinh niệm Phật, tu đến lúc lư hoả trừng thanh, thì vui sướng vô cùng.

 

Kiến nhất thiết Phật cung kính cúng dường vô hữu yếm túc, Pháp giới bình đẳng thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, thấy chư Phật thời cung kính cúng dường không nhàm đủ, an trụ nơi pháp giới bình đẳng.

Giảng: 8. Hỉ thanh tịnh thấy tất cả chư Phật cung kính cúng dường, không có nhàm đủ, pháp giới bình đẳng. Khi Bồ Tát gặp được mười phương tất cả chư Phật, thì nhất định cung kính, thành tâm cúng dường, dù trải qua vô số kiếp, cũng không khi nào nhàm đủ. Đối với chúng sinh trong pháp giới, đều đối đãi bình đẳng như nhau, không có sự phân biệt đó đây, không phân biệt kẻ oán người thân, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt quốc tịch.

 

Lệnh nhất thiết chúng sanh ái lạc Thiền định, giải thoát, tam muội du hí nhập xuất thanh tịnh hỉ

Thanh tịnh hỷ, làm cho tất cả chúng sanh ưa thích thiền định giải thoát tam muội du hý nhập xuất.

Giảng: 9. Hỉ thanh tịnh khiến cho tất cả chúng sinh ưa thích thiền định giải thoát tam muội, du hí nhập xuất. Du hí ở trong tam muội, muốn xuất định thì xuất định, muốn nhập định thì nhập định, toại tâm như ý, nhậm vận tự tại, chẳng bị bất cứ sự hạn chế nào.

 

Tâm lạc cụ hạnh thuận Bồ Tát đạo nhất thiết khổ hạnh, chứng đắc Mâu Ni tịch tĩnh bất động vô thượng định tuệ thanh tịnh hỉ.

Thanh tịnh hỷ, lòng ưa thích đầy đủ công hạnh thuận tất cả khổ hạnh của Bồ Tát đạo, chứng được định huệ tịch tịnh bất động của đức Mâu Ni.

Giảng: 10. Hỉ thanh tịnh tâm thích đủ hành tuỳ thuận Bồ Tát đạo tất cả khổ hạnh, chứng được mâu ni tịch tĩnh bất động định huệ vô thượng.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại thanh tịnh hỉ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh hỷ quảng đại vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ hỉ thanh tịnh của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại hỉ thanh tịnh vô thượng của Như Lai.

 

======================================

Thập Chủng Thanh Tịnh Xả

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng thanh tịnh xả. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh xả. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ xả thanh tịnh. Những gì là mười ? Đó là :

 

Nhất thiết chúng sanh cung kính cúng dường, bất sanh ái trước thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, tất cả chúng sanh cung kính cúng dường, Bồ Tát chẳng sanh lòng ái trước.

Giảng: 1. Xả thanh tịnh tất cả chúng sinh cung kính cúng dường chẳng sinh ái trước.

 

Nhất thiết chúng sanh khinh mạn hủy nhục, bất sanh sân khuể thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, tất cả chúng sanh khinh mạn hủy nhục, Bồ Tát chẳng sanh lòng giận hờn.

Giảng: 2. Xả thanh tịnh nếu tất cả chúng sinh khinh mạn Bồ Tát, huỷ nhục Bồ Tát, thì Bồ Tát cũng chẳng sinh sân hận. Phải xả được chính mình, mới gọi là đại xả, nếu xả chẳng được chính mình, thì không thể nói đến xả thanh tịnh. Bồ Tát làm được cảnh giới nầy, nên có xả thanh tịnh.

 

Thường hành thế gian, bất vi thế gian bát pháp sở nhiễm thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, thường đi trong thế gian chẳng bị tám pháp thế gian làm nhiễm.

Giảng: 3. Xả thanh tịnh Bồ Tát thường đi trong thế gian, chẳng lìa khỏi thế gian, nếu lìa khỏi thế gian, thì không thể giáo hoá chúng sinh. Tuy Bồ Tát thường ở tại thế gian, nhưng chúng sinh chẳng nhận biết, do đó có câu : Đối diện chẳng biết Quán Thế Âm, nghĩa là cùng ở với Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng chúng ta chẳng nhận ra Ngài là Bồ Tát Quán Thế Âm, tại sao vậy ? Vì mắt thịt của phàm phu chúng ta bị vô minh che đậy, chẳng đắc được con mắt pháp thanh tịnh. Bồ Tát ở tại thế gian, nhưng chẳng bị tám pháp thế gian làm làm nhiễm ô. Tám pháp là gì ? Tức là tám gió : Khen, chê, khổ, vui, lợi, suy, được, mất. Phàm phu tục tử dễ bị tám gió nầy làm mê hoặc, bị tám gió nầy mà sinh ra phiền não, chuyển theo cảnh giới.

I. Khen : Nghĩa là khen ngợi. Ví như : Được người ta khen, người chẳng có trí huệ, nghe rồi rất là vui mừng, giống như ăn mật ong ngọt vô cùng, nhận rằng mình không tệ, đó là bị gió khen thổi cho hồ đồ.

II. Chê : Nghĩa là chê bai. Khi chúng ta làm việc gì đó không được tốt lắm, liền bị họ chê bai, nói nầy nói nọ, khiến cho chúng ta nổi giận, đó là bị gió chê thổi làm cho hồ đồ.

III. Khổ : Nghĩa là phiền não : Giống như người xuất gia ở Vạn Phật Thành, mỗi ngày chỉ ăn một bữa trưa, tối thì ngồi ngủ không nằm. Có người nghĩ : Sự khổ nầy thật khó mà chịu được, bèn sinh phiền não. Đó là bị gió khổ thổi làm cho lay động.

IV. Vui : Nghĩa là hoan hỉ. Nếu như có chuyện gì vừa ý của mình, thì rất là hoan hỉ, do đó có câu : Vui quá quên lo, khi vui quá thì mình sẽ quên hết nỗi lo sầu, đó là bị gió vui thổi làm cho giao động.

V. Lợi : Lợi là lợi ích. Có những người thấy lợi thì quên nghĩa, chỉ biết có công lợi, chẳng biết có nghĩa, thậm chí vì mục đích mà bất chấp thủ đoạn, có thể rao bán bạn bè, có thể bán quốc gia, đó là bị gió lợi thổi làm cho hồ đồ.

VI. Suy : Suy là suy bại. Làm ăn lỗ vốn, thất bại, bị gió suy thổi làm cho mê hoặc.

VII. Dự : Dự là được tiếng khen, được mọi người khen ngợi có tài cán, có học vấn, thì vui mừng, đó là bị gió được làm lay động.

VIII. Huỷ : Huỷ là bị phỉ báng. Vô duyên vô cớ bị người phỉ báng, phá hoại đi thanh danh của mình, lúc đó trong tâm rất buồn rầu bất mãn, đó là bị gió huỷ thổi làm cho giao động. Tám gió nầy làm cho con người hồ đồ, chẳng phân biệt được đông, tây, nam, bắc rõ ràng, nhưng Bồ Tát chẳng bị tám gió nầy thổi động, nên có thứ xả thanh tịnh nầy.

Hôm nay giảng về xả thanh tịnh, khiến cho tôi có cảm xúc. Người học Phật pháp, vẫn xả chẳng được thanh tịnh. Dục niệm trong tâm đã hết chưa ? Vấn đề nầy, chúng ta người tu đạo, phải làm cho rõ ràng, phải minh bạch, bằng không, thuỷ chung sẽ không có sự thành tựu.

 

Ư Pháp khí chúng sanh đãi thời nhi hóa, ư vô Pháp khí diệc bất sanh hiềm thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, đối với pháp khí chúng sanh chờ thời mà hóa độ, với chúng sanh không pháp khí cũng chẳng hiềm ghét.

Giảng: 4. Xả thanh tịnh đối với pháp khí chúng sinh chờ thời cơ thành thục mà đi giáo hoá họ, độ thoát họ, trở thành pháp khí, thiệu long Tam Bảo. Đối với chúng sinh chẳng phải pháp khí, cũng chẳng sinh hiềm ghét họ, vẫn giáo hoá họ.

 

Bất cầu nhị thừa học, vô học Pháp thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, chẳng cầu pháp học và vô học của Nhị thừa.

Giảng: 5. Xả thanh tịnh chẳng cầu pháp nhị thừa bậc hữu học và vô học, chỉ học tập pháp đại thừa.

 

Tâm thường viễn ly nhất thiết dục lạc, thuận phiền não Pháp thanh tịnh xả;

Thanh tịnh xả, tâm thường xa lìa tất cả dục lạc thuận phiền não.

Giảng: 6. Xả thanh tịnh tâm thường xa lìa tất cả dục lạc, vì dục lạc là thuận pháp phiền não mà sinh ra, cho nên phải đoạn tuyệt quan hệ, xa lìa khỏi nó.

 

Bất thán nhị thừa, yếm ly sanh tử thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, chẳng khen hàng Nhị thừa nhàm lìa sanh tử.

Giảng: 7. Xả thanh tịnh chẳng khen ngợi Thanh Văn và Duyên Giác nhị thừa. Nhị thừa nhàm chán sinh tử, coi sinh tử là oan gia, cho nên lìa khỏi sinh tử. Người nhị thừa là độ mình chẳng độ người, độc thiện kỳ thân, chỉ lo cho mình thôi, chẳng có tư tưởng kiêm thiện thiên hạ, lo cho thiên hạ, nên làm tự liễu hán. Do đó có câu :

Ma ha tát bất quản tha,
A Di Đà các cố các

Mình tự lo cho mình, chẳng màng đến người khác, chẳng giáo hoá chúng sinh. Tác phong của Bồ Tát thì ngược lại, chuyên môn lo việc nhàn, nghe tiếng kêu cứu, thì bất cứ xa gần, lập tức hoá thân đến trước họ, cứu họ ra khỏi khổ nạn, mà chẳng cầu báo đáp.

 

Viễn ly nhất thiết thế gian ngữ, phi Niết-Bàn ngữ, phi ly dục ngữ, bất thuận lý ngữ, não loạn tha ngữ, thanh văn độc giác ngữ, lược thuyết nãi chí nhất thiết chướng Bồ Tát đạo ngữ giai tất viễn ly thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, xa lìa tất cả lời thế gian, lời phi Niết bàn, lời phi ly dục, lời chẳng thuận lý, lời não loạn người khác, lời Thanh Văn, lời Duyên Giác, nhẫn đến những chướng Bồ Tát đạo đều xa lìa tất cả.

Giảng: 8. Xả thanh tịnh lìa khỏi tất cả lời lẽ thế gian, lời lẽ chẳng phải Niết Bàn thì chẳng nói. Lời lẽ Niết Bàn là gì ? Tức là lời lẽ chẳng sinh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng giảm. Lời lẽ chẳng phải lìa dục thì chẳng nói. Thế nào là lời lẽ lìa dục ? Tức là chẳng nói lời nhiễm ô. Phàm là lời khiến cho người nghe sinh ra phi phi tưởng, tăng thêm dục niệm, thì tuyệt đối chẳng nói. Lời lẽ chẳng thuận lý thì chẳng nói, tức là lời lẽ chẳng hợp với tình lý thì tuyệt đối chẳng nói. Lời lẽ não loạn người khác thì chẳng nói, tức là lời lẽ khiến cho người sinh phiền não, thì tuyệt đối không nói. Lời lẽ Thanh Văn nói về tiểu thừa, lời lẽ Độc Giác nói về trung thừa, những lời nầy cũng không nói, lược nói cho đến tất cả lời lẽ chướng Bồ Tát đạo, thảy đều xa lìa.

 

Hoặc hữu chúng sanh, căn dĩ thành thục phát sanh niệm tuệ nhi vị năng tri tối thượng chi Pháp, đãi thời phương hóa thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, hoặc có chúng sanh căn đã thành thục phát sanh niệm huệ mà chưa biết được pháp tối thượng, chờ thời tiết mới hóa độ.

Giảng: 9. Xả thanh tịnh, hoặc có chúng sinh căn cơ của họ đã thành thục. Tuy nhiên sinh ra : Tín, tấn, niệm, định, huệ năm căn, mà chưa biết được pháp tối thượng bồ đề, thì phải đợi thời cơ đến mới hoá độ.

 

Hoặc hữu chúng sanh, Bồ Tát vãng tích dĩ tằng giáo hóa chí ư Phật địa phương khả điều phục, bỉ diệc đãi thời thanh tịnh xả

Thanh tịnh xả, hoặc có chúng sanh đã được Bồ Tát giáo hóa từ thưở trước, đến Phật địa mới điều phục được, Bồ Tát cũng chờ thời tiết.

Giảng: 10. Xả thanh tịnh, hoặc có chúng sinh, Bồ Tát thuở xưa đã từng giáo hoá họ, đến lúc Bồ Tát thành Phật, thì mới có thể điều phục được chúng sinh đó, thì Ngài cũng đợi thời cơ đến, mới giáo hoá chúng sinh đó

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát ư bỉ nhị nhân, vô cao vô hạ, vô thủ vô xả, viễn ly nhất thiết chủng chủng phân biệt, hằng trụ chánh định, nhập như thật Pháp, tâm đắc kham nhẫn thanh tịnh xả.

Thanh tịnh xả, đối với hai hạng chúng sanh trên Bồ Tát, không có quan niệm cao hạ thủ xả, xa lìa tất cả những phân biệt, hằng trụ chánh định, nhập pháp như thiệt, tâm được kham nhẫn.

Giảng: Xả thanh tịnh, đại Bồ Tát ở nơi hai hạng người đó, không có phân biệt là cao, cũng không phân biệt là thấp, cũng không chấp lấy, cũng không xả bỏ, xa lìa khỏi tất cả đủ thứ sự phân biệt, luôn trụ ở trong chánh định vào pháp chân thật, tâm được kham nhẫn xả thanh tịnh.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại thanh tịnh xả.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thanh tịnh xả quảng đại vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp xả thanh tịnh. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được xả thanh tịnh rộng lớn vô thượng của Như Lai.

 

==================================

Thập Chủng Nghĩa

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng nghĩa. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười nghĩa. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ nghĩa. Những gì là mười ? Đó là :

 

Đa văn nghĩa, kiên cố tu hành cố;

Ða văn nghĩa, vì kiên cố tu hành.

Giảng: 1. Nghĩa đa văn : Nghe kinh nhiều, nghe pháp nhiều, thì sẽ đắc được văn, tư, tu, ba huệ. Từ chỗ nghe pháp rồi, nhất định phải tư duy, nghiên cứu nghĩa lý của pháp. Sau khi hiểu rõ rồi, nhất định phải y theo pháp tu hành, thì mới có sự thọ dụng. Nếu nghe pháp mà chẳng tu hành, thì nghe pháp có ý nghĩa gì chứ ? Người tu hành, rất dễ gặp ma chướng, đó là đến để khảo nghiệm có định lực hay không ! Bất cứ gặp cảnh giới gì, đều phải kiên cố tu hành, đừng bị cảnh giới lay chuyển, do đó có câu : Do tu chẳng do nghe.

Giống như tôn giả A Nan, Ngài là bậc Đa văn đệ nhất, pháp của Phật nói ra, Ngài đều nhớ hết không sót một chữ, giống như máy thu âm, nhưng khi gặp nữ Ma đăng già, thì bị cô ta dụ dỗ, may không mất giới thể, cho nên nói Đa văn không bằng Đa tu, nghe nhiều không bằng tu nhiều.

 

Pháp nghĩa, thiện xảo tư trạch cố

Pháp nghĩa, vì khéo léo suy gẫm lựa chọn.

Giảng: 2. Nghĩa pháp : Đối với nghĩa lý của pháp, phải dùng phương pháp khéo léo để suy gẫm, phải dùng con mắt chọn pháp để lựa chọn.

 

Không nghĩa, đệ nhất nghĩa không cố

Không nghĩa, vì đệ nhứt nghĩa không.

Giảng: 3. Nghĩa không : Đối với nghĩa lý không, thì phải hiểu đạo lý chân không chẳng ngại diệu hữu, diệu hữu chẳng ngại chân không. Đó là đệ nhất nghĩa không.

 

Tịch tĩnh nghĩa, ly chư chúng sanh huyên hội cố

Tịch tịnh nghĩa, rời những chúng sanh ồn náo.

Giảng: 4. Nghĩa tịch tĩnh : Phải lìa khỏi tất cả chúng sinh ồn ào và náo nhiệt, đến chỗ yên tĩnh tu hành.

 

Bất khả thuyết nghĩa, bất trước nhất thiết ngữ ngôn cố

Bất khả thuyết nghĩa, vì chẳng chấp tất cả ngữ ngôn.

Giảng: 5. Nghĩa bất khả thuyết : Chẳng chấp vào tất cả lời nói, chẳng dùng tất cả lời lẽ để thuyết pháp, do đó có câu : Thuyết pháp không lời.

 

Như thật nghĩa, liễu đạt tam thế bình đẳng cố

Như thiệt nghĩa, vì rõ thấu tam thế bình đẳng.

Giảng: 6. Nghĩa như thật : Thấu rõ thông đạt ba đời đều là bình đẳng, chẳng có cao thấp.

 

Pháp giới nghĩa, nhất thiết chư pháp nhất vị cố

Pháp giới nghĩa, vì tất cả các pháp đồng một vị.

Giảng: 7. Nghĩa pháp giới : Tất cả các pháp là một vị, đều khuyên người cải ác hướng thiện, phát tâm tu hành, học vô thượng đạo.

 

Chân như nghĩa, nhất thiết Như Lai thuận nhập cố

Chơn như nghĩa, vì tất cả Như Lai thuận nhập.

Giảng: 8. Nghĩa chân như : Tất cả chư Phật đều thuận vào chân như thật tướng, mà thành Chánh Giác.

 

Thật tế nghĩa, liễu tri cứu cánh như thật cố

Thiệt tế nghĩa, vì biết rõ rốt ráo như thiệt.

Giảng: 9. Nghĩa thật tế : Thật tế tức là vô tướng, cũng có thể nói lìa tướng, biết rõ lý thể rốt ráo như thật.

 

Đại bát Niết Bàn nghĩa, diệt nhất thiết khổ nhi tu Bồ Tát chư hạnh cố.

Ðại Bát Niết bàn nghĩa, vì diệt tất cả khổ mà tu những hạnh Bồ Tát.

Giảng: 10. Nghĩa Đại Bát Niết Bàn : Hay diệt tất cả khổ thế gian, hay tu các hạnh của Bồ Tát.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc nhất thiết trí vô thượng nghĩa.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được Nhứt thiết trí vô thượng nghĩa.

Giảng: Đó là mười thứ nghĩa của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được nghĩa vô thượng nhất thiết trí.

 

====================================

Thập Chủng Pháp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Chân thật Pháp, như thuyết tu hành cố

Chơn thiệt pháp, vì như thuyết tu hành.

Giảng: 1. Pháp chân thật, vì y chiếu theo như pháp nói mà tu hành, bằng không, tu mù luyện đui, uổng phí công phu.

 

Ly thủ Pháp, năng thủ, sở thủ tất ly cố

Ly thủ pháp, vì đều lìa năng thủ và sở thủ.

Giảng: 2. Pháp lìa chấp, vì năng chấp và sở chấp đều lìa.

 

Vô tránh Pháp, vô hữu nhất thiết hoặc tránh cố

Vô tránh pháp, vì không có tất cả mê lầm gây gỗ.

Giảng: 3. Pháp không tranh, vì không có tất cả sự tranh luận mê hoặc. Do đó có câu :

Tranh là tâm hơn thua
Trái ngược lại với đạo
Liền sinh tâm bốn tướng
Làm sao được tam muội.

 

Tịch diệt pháp, diệt trừ nhất thiết nhiệt não cố

Tịch diệt pháp, vì trừ diệt tất cả nhiệt não.

Giảng: 4. Pháp tịch diệt, vì diệt trừ tất cả nhiệt phiền não, phiền não gì cũng chẳng còn.

 

Ly dục Pháp, nhất thiết tham dục giai đoạn cố

Ly dục pháp, vì tất cả tham dục đều dứt trừ.

Giảng: 5. Pháp lìa dục, vì tất cả tham dục : tài, sắc, danh, ăn, ngủ đều dứt, chẳng còn tâm tham, như vậy tâm sẽ thanh tịnh không nhiễm, do đó có câu : Tâm thanh thuỷ hiện nguyệt, trí huệ sẽ tự nhiên hiện tiền.

 

Vô phân biệt Pháp, phàn duyên phân biệt vĩnh tức cố

Vô phân biệt pháp, vì dứt hẳn phan duyên phân biệt.

Giảng: 6. Pháp không phân biệt, gì cũng không phân biệt, gì cũng không tồn tại, chẳng có tâm phan duyên. Bồ Tát đã vĩnh viễn diệt trừ tâm phan duyên và tâm phân biệt.

 

Vô sanh pháp, do như hư không bất động cố

Vô sanh pháp, vì dường như hư không bất động.

Giảng: 7. Pháp không sinh, vì bất động giống như hư không.

 

Vô vi Pháp, ly sanh, trụ, diệt chư tướng cố

Vô vi pháp, vì lìa những tướng sanh trụ diệt.

Giảng: 8. Pháp vô vi, vì đã lìa khỏi sinh trụ dị diệt bốn tướng, thành tựu pháp không chỗ làm.

 

Bổn tánh Pháp, tự tánh vô nhiễm thanh tịnh cố

Bổn tánh pháp, vì tự tánh vô nhiễm thanh tịnh.

Giảng: 9. Pháp bổn tánh, vì tự tánh thanh tịnh không nhiễm ô.

 

Xả nhất thiết ô ba đề Niết-Bàn Pháp, năng sanh nhất thiết Bồ Tát hạnh, tu tập bất đoạn cố.

Xả bỏ tất cả Ô ba đề Niết bàn pháp, vì hay sanh tất cả Bồ Tát hạnh tu tập chẳng dứt.

Giảng: 10. Pháp bỏ tất cả Hữu Dư Niết Bàn, vì hay sinh ra tất cả Bồ Tát hạnh, tu tập mà không gián đoạn, chẳng giống như hàng nhị thừa, được ít cho là đủ, trung đạo tự vẽ, chẳng tinh tấn tiến về trước, cuối cùng chẳng đến được chốn Bảo sở, chỉ chứng được Hữu Dư Niết Bàn. Bồ Tát thì tu pháp Vô Dư Niết Bàn. Thế nào là Hữu Dư Niết Bàn ? Tức là không có nhân sinh tử, mà có quả sinh tử. Thế nào là Vô Dư Niết Bàn ? Tức là không có nhân sinh tử, cũng không có quả sinh tử. Tóm lại, lúc thân A la hán còn, là Hữu Dư Niết Bàn. Lúc thân A la hán mất rồi, là Vô Dư Niết Bàn.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng quảng đại Pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp quảng đại vô thượng của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ pháp rộng lớn của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp rộng lớn vô thượng của Như Lai.

 

=================================

Thập Chủng Phước Đức Trợ Đạo Cụ

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng phước đức trợ đạo cụ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười công cụ trợ đạo phước đức. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ công cụ trợ đạo phước đức. Thế nào là công cụ trợ đạo ? Trợ là nhân duyên trợ giúp tu đạo, chẳng phải là chánh duyên, mà là phó duyên. Chẳng phải chủ, mà là khách. Những gì là mười thứ phước đức công cụ trợ đạo ? Đó là :

 

Khuyến chúng sanh khởi Bồ-đề tâm, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ, bất đoạn Tam Bảo chủng cố.

Khuyên chúng sanh phát khởi tâm Bồ đề là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì chẳng dứt ngôi Tam Bảo.

Giảng: 1. Khuyên chúng sinh phát khởi bồ đề tâm, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì chẳng dứt giống Tam Bảo.

 

Tùy thuận thập chủng hồi hướng, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; đoạn nhất thiết bất thiện pháp, tập nhất thiết thiện pháp cố.

Tùy thuận Thập hồi hướng là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì dứt tất cả pháp bất thiện, chứa nhóm tất cả thiện pháp.

Giảng: 2. Tuỳ thuận mười thứ hồi hướng, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì đoạn tuyệt tất cả pháp bất thiện, hay tích tập tất cả pháp lành. Mười thứ hồi hướng là :

I. Cứu hộ chúng sinh lìa tướng chúng sinh hồi hướng.

II. Bất hoại hồi hướng.

III. Đồng tất cả Phật hồi hướng.

IV. Đến tất cả mọi nơi hồi hướng.

V. Vô tận công đức tạng hồi hướng.

VI. Tuỳ thuận kiên cố tất cả thiện căn hồi hướng.

VII. Đồng tuỳ thuận tất cả chúng sinh hồi hướng.

VIII. Chân như tướng hồi hướng.

IX. Không ràng buộc giải thoát hồi hướng.

X. Pháp giới vô lượng hồi hướng.

 

Trí tuệ dụ hối, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; siêu quá tam giới phước đức cố.

Trí huệ dạy dỗ là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì vượt hơn phước đức tam giới.

Giảng: 3. Trí huệ dạy dỗ, là công cụ trợ đạo của Bồ Tát, vì vượt qua phước đức cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.

 

Tâm vô bì quyện, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; cứu cánh độ thoát nhất thiết chúng sanh cố.

Tâm không mỏi mệt là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì rốt ráo độ thoát tất cả chúng sanh.

Giảng: 4. Giáo hoá chúng sinh tâm không mệt mỏi, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì rốt ráo độ thoát tất cả chúng sinh.

 

Tất xả nội ngoại nhất thiết sở hữu, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; ư nhất thiết vật vô sở trước cố.

Xả bỏ tất cả sở hữu trong thân ngoài thân là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì nơi tất cả vật chẳng chấp trước.

Giảng: 5. Đều xả bỏ được tất cả nội tài và ngoại tài, hết thảy tất cả đều bố thí được hết, chẳng có gì mà không xả bỏ được, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì đối với tất cả tài vật đều không chấp trước, đều không tham luyến.

 

Vi mãn túc tướng hảo tinh tấn bất thoái, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; khai môn Đại thí vô sở hạn cố.

Vì đầy đủ tướng hảo mà tinh tấn bất thối là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì mở cử đại thí không hạn cuộc.

Giảng: 6. Vì đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, cho nên tinh tấn tu đạo, chẳng thối bồ đề tâm, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì mở cửa bố thí lớn, tuỳ thuận tâm ý của chúng sinh, thích cái gì thì lấy cái đó, cứ lấy mang đi, không có giới hạn.

 

Thượng, trung, hạ tam phẩm thiện căn, tất dĩ hồi hướng vô thượng Bồ-đề, tâm vô sở khinh, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; thiện xảo phương tiện tướng ứng cố.

Thượng, trung, hạ, ba phẩm thiện căn đều đem hồi hướng vô thượng Bồ đề tâm không khinh trọng là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì tương ứng với thiện xảo phương tiện.

Giảng: 7. Thượng trung hạ ba phẩm căn lành đều đem hồi hướng vô thượng bồ đề, tâm không chỗ khinh, là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì dùng pháp thiện xảo phương tiện, giáo hoá chúng sinh, khiến cho tương ưng.

 

Ư tà định, hạ liệt, bất thiện chúng sanh, giai sanh đại bi, bất hoài khinh tiện, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; thường khởi đại nhân hoằng thệ tâm cố.

Với chúng sanh tà định hạ liệt bất thiện đều sanh lòng đại bi chẳng khinh tiện là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì thường phát khởi tâm hoằng thệ của bực đại nhơn.

Giảng: 8. Bồ Tát đối với chúng sinh tà định, hạ liệt, bất thiện, đều sinh tâm đại bi, thương xót họ, khiến cho họ lìa khổ được vui. Ngài chẳng có tâm khinh tiện, đối với chúng sinh hạ liệt cũng đối đãi bình đẳng, chẳng giống như tâm lý của chúng ta, phân biệt quý tiện, gặp người tôn quý thì sinh tâm cung kính; còn gặp người bần tiện thì sinh tâm khinh khi. Bồ Tát chẳng có tâm lý như thế, đó là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì thường khởi tâm hoằng thệ của bậc đại nhân, tâm đại bi để giáo hoá chúng sinh, cứu hộ chúng sinh.

 

Cung kính cúng dường nhất thiết Như Lai, ư nhất thiết Bồ Tát khởi Như Lai tưởng, lệnh nhất thiết chúng sanh giai sanh hoan hỉ, thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; thủ bản chí nguyện cực kiên lao cố.

Cung kính cúng dường tất cả Như Lai với tất cả Bồ Tát khởi Như Lai tưởng làm cho chúng sanh đều hoan hỉ, đây là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì giữ bổn chí nguyện rất bền chắc.

Giảng: 9. Cung kính tất cả chư Phật, cúng dường tất cả chư Phật, đối với tất cả Bồ Tát, cũng cung kính cúng dường giống như Phật, chẳng những mình nghĩ tưởng như thế, mà cũng khiến cho tất cả chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ, đó là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì giữ chí nguyện xưa của mình rất vững bền, vĩnh viễn không thay đổi.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát ư a-tăng-kì kiếp tích tập thiện căn, tự dục thủ chứng vô thượng Bồ-đề như tại chưởng trung, nhiên tất xả dữ nhất thiết chúng sanh, tâm Vô ưu não diệc vô hối hận, kỳ tâm quảng đại đẳng hư không giới, thử thị Bồ Tát phước đức trợ đạo cụ; khởi đại trí tuệ chứng đại pháp cố.

Trong vô số kiếp, đại Bồ Tát tích tập thiện căn tự muốn được chứng vô thượng Bồ Ðề như ở trong bàn tay, nhưng đầu đem xả thí cho tất cả chúng sanh lòng không ưu não cũng không hối hận, tâm Bồ Tát rộng lớn đồng hư không giới. Ðây là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì phát khởi trí huệ chứng đại pháp.

Giảng: 10. Đại Bồ Tát ở trong A tăng kỳ kiếp, tích tập đủ thứ căn lành, mình muốn thủ chứng vô thượng bồ đề, dễ dàng như ở trong lòng bàn tay, tuy nhiên họ có thể thành Phật, nhưng mình chẳng thành Phật, đem Phật quả bố thí cho tất cả chúng sinh, tâm không lo buồn, cũng không hối hận, tâm của Bồ Tát rất rộng lớn đồng cõi hư không. Đó là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì khởi đại trí huệ, sẽ chứng được đại pháp tạng.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức cụ túc Như Lai vô thượng quảng đại phước đức tụ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời đầy đủ phước đức quảng đại vô thựơng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ công cụ trợ đạo phước đức. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đầy đủ phước đức tụ rộng lớn vô thượng của Như Lai. Do đó có câu :

Mắt từ trông chúng sinh
Biển phước tụ vô lượng.

Các vị hãy nghĩ xem ! Bồ Tát có thể thành Phật, nhưng Bồ Tát chẳng thành Phật, đem công đức thành Phật bố thí cho chúng sinh, tinh thần đó thật là vĩ đại. Tại sao chúng ta chẳng học theo tinh thần của Bồ Tát, xả mình vì người ? Vì tâm lượng của chúng ta quá nhỏ, chẳng lớn bằng tâm của Bồ Tát, có thể bao dung hư không. Nếu tâm có thể lớn như hư không, thì sẽ trở thành đại Bồ Tát. Chúng ta phải phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, dần dần tiến tu đến quả vị Đẳng giác Bồ Tát.

=====================================

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng trí tuệ trợ đạo cụ. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười công cụ trợ đạo trí huệ. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ trí huệ công cụ trợ đạo. Những gì là mười ? Đó là :

 

Thân cận đa văn chân thiện tri thức, cung kính cúng dường, tôn trọng lễ bái, chủng chủng tùy thuận, bất vi kỳ giáo, thị vi nhất; nhất thiết chánh trực vô hư kiểu cố.

Gần gũi chơn thiện tri thức đa văn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, lễ bái tùy thuận mọi việc chẳng trái lời dạy bảo. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ nhứt, vì tất cả chánh trực không hư dối.

Giảng: 1. Gần gũi bậc đa văn chân thiện tri thức, nên cung kính cúng dường thiện tri thức, nên tôn trọng lễ bái thiện tri thức, đủ thứ phương pháp tuỳ thuận sự chỉ dạy của thiện tri thức, chẳng trái lời dạy dỗ. Thế nào gọi là thiện tri thức ? Hay giáo hoá chúng sinh, xa lìa pháp thập ác, tịnh tu pháp thập thiện, là thiện tri thức. Hoặc là giáo hoá chúng sinh siêng tu giới định huệ ba học, tiêu diệt tham sân si ba độc, là thiện tri thức, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ nhất. Phải có thái độ nhu hoà, phải có hàm dưỡng nhẫn nhục. Tất cả phải chánh trực, chẳng có lời nói hư vọng không thật, chẳng có sự làm bộ. Thế nào là làm bộ ? Tức là không được tự nhiên, rất miễn cưỡng, việc làm không thái quá thì là bất cập, chẳng hợp với trung đạo. Tóm lại, bất cứ sự lý gì, nếu lìa khỏi trung đạo, là làm bộ. Thế nào là trung đạo ? Không chấp đoạn, không chấp thường, gọi là trung đạo. Chẳng rơi vào không, có, hai bên, gọi là trung đạo. Chân không diệu hữu, gọi là trung đạo.

 

Vĩnh ly kiêu mạn, thường hạnh khiêm kính, thân, ngữ, ý nghiệp vô hữu thô quánh, nhu hòa thiện thuận, bất ngụy bất khúc, thị vi nhị; kỳ thân kham tác Phật Pháp khí cố.

Lìa hẳn kiêu mạng thường có hạnh khiêm hạ cung kính, thân ngữ ý ba nghiệp không thô bạo, nhu hòa thiện thuận chẳng dối trá, chẳng vạy vò. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ hai, vì thân Bồ Tát kham làm pháp khí.

Giảng: 2. Vĩnh viễn lìa khỏi kiêu ngạo ngã mạn, thường hành trì hạnh khiêm cung hoà mục. Phải cung kính đối với người khác, không được vô lễ. Do đó có câu : Ý khí dụng sự. Bạn chẳng cung kính tôi, thì tôi chẳng cung kính bạn, đó đây hổ tương chẳng cung kính. Bồ Tát còn có tâm cung kính, hà huống là phàm phu chúng ta, càng phải có tâm cung kính, phàm là người có trí huệ, đều có tâm cung kính. Do đó có câu : Kính người thì người kính lại, người ngu si thì mới không có tâm cung kính. Thân lời ý ba nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát, không có hành vi thô bạo. Thân của Ngài chẳng thô bạo, cử chỉ hành động, lời nói việc làm, đều hợp với quy cụ, đó là thân nghiệp thanh tịnh. Lời cũng chẳng thô bạo, tuyệt đối chẳng nói những lời khiến cho người khác sinh phiền não, đó là lời nghiệp thanh tịnh. Ý cũng chẳng thô bạo, đối với việc không như ý, nhẫn chịu trong tâm, thì ý nghiệp cũng thanh tịnh. Phàm là đối với người khác chẳng nổi nóng để đàn áp người, tức là chẳng thô bạo. Bồ Tát rất nhu hoà, rất thiện thuận, cũng chẳng dối trá, làm gì cũng đều chân thật, chẳng quanh co, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ hai. Thân đó có thể kham làm Phật pháp khí.

 

Niệm tuệ tùy giác vị tằng tán loạn, tàm quý nhu hòa, tâm an bất động, thường ức lục niệm, thường hành lục kính, thường tùy thuận trụ lục kiên cố Pháp, thị vi tam; dữ thập chủng trí vi phương tiện cố.

Niệm huệ tùy giác chưa từng tán loạn, hổ thẹn, nhu hòa tâm an bất động, thường nhớ lục niệm, thường thật hành lục hòa kính, thường tùy thuận trụ sáu pháp kiên cố. Ðây là công cụ trí huệ thứ ba, vì làm phương tiện cho mười trí.

Giảng: 3. Hết thảy trí huệ tưởng niệm trong tâm, tuỳ khởi tuỳ giác, tuỳ sanh tuỳ diệt. Chuyển phiền não lớn thành phiền não nhỏ, chuyển phiền não nhỏ thành không còn nữa. Do đó có câu :

Niệm khởi liền giác, giác rồi tức không.

Tuỳ giác nầy chưa từng tán loạn, chẳng có lúc nào mà không giữ quy cũ. Thường sinh tâm tàm quý, cảm thấy có lỗi với mọi người. Tâm rất nhu hoà, lại rất bình an, không bị cảnh giới làm giao động. Thường thường nhớ pháp lục niệm, tức là :
1. Niệm Phật.
2. Niệm pháp.
3. Niệm Tăng.
4. Niệm giới.
5. Niệm thí.
6. Niệm thiên.

Thường thường hành trì pháp lục hoà kính, tức là :
1. Thân hoà kính
2. Miệng hoà kính.
3. Ý hoà kính.
4. Giới hoà kính.
5. Kiến hoà kính.
6. Lợi hoà kính.

Thường thường tuỳ thuận trụ tại pháp lục kiên cố, tức là :
1. Tin kiên cố.
2. Pháp kiên cố.
3. Tu kiên cố.
4. Đức kiên cố.
5. Đảnh kiên cố.
6. Giác kiên cố.

Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ ba, vì là phương tiện với mười thứ trí. Mười thứ trí tức là :
1. Pháp trí.
2. So sánh trí.
3. Tha tâm trí.
4. Thế trí.
5. Khổ đế trí.
6. Tập đế trí.
7. Diệt đế trí.
8. Đạo đế trí.
9. Tận đế trí.
10. Vô sanh trí.

Nếu muốn hiểu nội dung những danh từ ở trên, thì có thể tham khảo tự điện Phật học.

 

Lạc Pháp, lạc nghĩa, dĩ pháp vi lạc, thường lạc thính văn vô hữu yếm túc, xả ly thế luận cập thế ngôn thuyết, chuyên tâm thính thọ xuất thế gian ngữ, viễn ly Tiểu thừa, nhập Đại-Thừa tuệ, thị vi tứ; nhất tâm ức niệm vô tán động cố.

Thích pháp thích nghĩa, lấy pháp làm vui, thường thích lóng nghe chánh pháp không nhàm đủ, bỏ rời thế luận và thế ngôn thuyết, chuyên tâm nghe thọ lời xuất thế gian, xa lìa Tiểu thừa, nhập Ðại thừa huệ. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ tư, vì nhứt tâm ghi nhớ không tán động.

Giảng: 4. Pháp hoan hỉ, hoan hỉ nghĩa lý của pháp, lấy pháp làm việc vui nhất. Thường thường thích lắng nghe diệu pháp, không khi nào nhàm đủ. Xả lìa tất cả luận nghị và lời nói thế gian, chuyên tâm nghe thọ tất cả lời nói xuất thế gian. Xa lìa hàng nhị thừa Thanh Văn Duyên Giác, thâm nhập môn trí huệ đại thừa, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ tư, vì một lòng nghĩ nhớ pháp môn nầy, không khi nào tán loạn giao động.

 

Lục Ba la mật tâm chuyên hà phụ, tứ chủng phạm trụ hành dĩ thành thục, tùy thuận minh pháp tất thiện tu hành, thông mẫn trí nhân giai cần thỉnh vấn, viễn ly ác thú, quy hướng thiện đạo, tâm thường ái lạc, chánh niệm quan sát, điều phục kỷ Tình, thủ hộ tha ý, thị vi ngũ; kiên cố tu hành chân thật hạnh cố.

Tâm chuyên gánh vác sáu môn Ba la mật, thật hành đã thành thục bốn pháp phạm trụ, đều khéo tu hành tùy thuận minh pháp, điều siêng thỉnh hỏi người trí thông mẫn, xa lìa ác thú quy hướng đường lành tâm thường mến thích chánh niệm quán sát, điều phục lòng mình, thủ hộ ý người. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ năm, vì kiên cố tu hành chơn thiệt hạnh.

Giảng: 5. Đối với pháp lục độ Ba La Mật, Ba la mật dịch là đến bờ kia. Người Ấn Độ lấy sự việc làm xong rồi, gọi là Ba La Mật. Lục Ba La Mật tức là :

1. Bố thí.
2. Trì giới.
3. Nhẫn nhục.
4. Tinh tấn.
5. Thiền định.
6. Trí huệ.

Bồ Tát chuyên tâm tu hành pháp lục độ Ba La Mật, tức cũng là tu cho đến lúc viên mãn. Thực hành đã xong, đã thành thục, bốn thứ phạm trụ, tức là : Từ, Bi, Hỉ, Xả. Tuỳ thuận theo pháp trí sáng, tu hành đến cảnh giới chí thiện chí mỹ, tất cả đều viên mãn. Phàm là người trí huệ thông minh sáng suốt, đều siêng thỉnh vấn. Thỉnh vấn ở đây có hai ý nghĩa : Một là Bồ Tát hướng về người có trí huệ thỉnh vấn Phật pháp không minh bạch. Hai là người trí huệ hướng về Bồ Tát thỉnh vấn Phật pháp không minh bạch. Xa lìa bốn cõi ác, tức là :

1. A tu la.
2. Súc sinh.
3. Ngạ quỷ.
4. Địa ngục.

Hướng về đường lành, trong tâm thường ưa thích, dùng chánh niệm để quán sát. Chánh niệm tức là chánh tri chánh kiến, tà niệm tức là tà tri tà kiến. Dùng niệm chánh đáng để điều phục lòng mình, không để cho những tánh khác tuỳ ý phát sinh, phải an phận giữ mình. Do đó có câu : Lý trí khống chế tình cảm, thủ hộ ý người khác, chẳng khiến cho họ sinh phiền não, đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ năm, vì dùng tâm kiên cố để tu hành hạnh chân thật, chẳng phải miệng nói mà là thực hành. Nói đến độ hoa trời rơi xuống, mà không thực hành, thì cũng giống như khẩu đầu thiền, nói mà không thực hành, cũng chẳng có ích gì. Người tu đạo có một phần chân tâm, thì sẽ được một phần pháp ích ; có mười phần chân tâm, thì sẽ được mười phần pháp ích ; nếu không có nửa phần chân tâm, thì dù có nửa phần pháp ích cũng không đắc được. Tu đạo là phải chân tu thật luyện, mới có sự thành tựu, chẳng phải đầu cơ thủ xảo, cứ đi tìm tiện nghi, thì đó chỉ là vọng tưởng của kẻ ngu si.

 

Thường lạc xuất ly, bất trước tam hữu, hằng giác tự tâm, tằng vô ác niệm, tam giác dĩ tuyệt, tam nghiệp giai thiện, quyết định liễu tri tâm chi tự tánh, thị vi lục; năng lệnh tự tha tâm thanh tịnh cố.

Thường thích xuất ly chẳng chấp ba cõi, hằng giác tự tâm không bao giờ có ác niệm, ba giác quán đã tuyệt, ba nghiệp đều lành quyết định biết rõ tự tánh của tâm. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ sáu, vì có thể làm cho mình và người được tâm thanh tịnh.

Giảng: 6. Thường thích xuất ly, chẳng chấp vào ba cõi. Ba cõi là gì ? Đó là : Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc. Có nhân, có quả, có sanh tử, còn là hai mươi lăm cõi. Do đó có câu :

Bốn châu bốn cõi ác,
Phạm Thiên Lục Dục Thiên,
Vô Tưởng Ngũ Hàm Na,
Tứ Không và Tứ Thiền.

Luôn luôn giác tâm mình, không để cho vọng tưởng khởi lên, do đó có câu : Niệm khởi liền giác, giác rồi tức không, tức cũng là ý nghĩa tuỳ khởi tuỳ giác, tuỳ giác tuỳ không, chưa từng có chút niệm ác nào tồn tại, hoàn toàn thanh tịnh. Ba giác đã đoạn tuyệt, tức là đoạn tuyệt dục, sân, hại, cũng có thể nói các ác giác quán, tà giác, mạn giác. Giác là giác biết, nhưng giác không đúng. Bồ Tát thì ba nghiệp đều thiện. Thân của Ngài chẳng có sát, đạo, dâm. Lời nói chẳng có nói dối, thêu dệt, hai lưỡi, chửi mắng. Ý chẳng có tham, sân, si. Thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, tức là thập thiện ; thân miệng ý ba nghiệp chẳng thanh tịnh, tức là thập ác. Ngài quyết định chân thật nhận thức được tự tánh chân tâm của mình, cũng hiễu rõ nữa, cũng biết rõ nữa. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ sáu, vì hay khiến tâm của mình thanh tịnh, cũng khiến cho tâm của người khác thanh tịnh. Nếu không thanh tịnh, nghe được đạo lý nầy rồi, cũng sẽ thanh tịnh. Tóm lại, hay khiến cho trong tâm của mình chẳng còn tham sân si, cũng khiến cho người khác dứt trừ được tham sân si.

 

Quan sát ngũ uẩn giai như huyễn sự, giới như độc xà, xứ như không tụ, nhất thiết chư pháp như huyễn, như diễm, như thủy trung nguyệt, như mộng, như ảnh, như hưởng, như tượng, như không trung họa, như toàn hỏa luân, như hồng nghê sắc, như nhật nguyệt quang, vô tướng vô hình, phi thường phi đoạn, bất lai bất khứ, diệc vô sở trụ, như thị quan sát, tri nhất thiết pháp vô sanh vô diệt, thị vi thất; tri nhất thiết pháp tánh không tịch cố.

Quán sát ngủ uẩn đều như huyễn sự, thập bát giới như độc xà, thập nhị xứ như hư không, tất cả pháp như huyễn, như diệm, như trăng trong nước, như mộng, như ảnh, như hưởng, như tượng, như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quây, như màu mống rán, như ánh sáng mặt nhựt mặt nguyệt, vô tứơng vô hình, phi thừơng phi đoạn, chẳng đến chẳng đi, cũng không sở trụ, quán sát như vậy biệt tất cả pháp vô sanh vô diệt. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ bảy, vì biết tất cả pháp tánh không tịch.

Giảng: 7. Quán sát pháp năm uẩn (Sắc thọ tưởng hành thức), như huyễn, như hoá, đều là hư vọng không thật. Trong Tâm Kinh có nói : Thực hành sâu vào Bát Nhã Ba la mật đa thời, chiếu thấy năm uẩn đều không, qua khỏi tất cả khổ ách. Mười tám giới (trong sáu căn, ngoài sáu trần, giữa sáu thức) cũng chẳng chân thật, giống như như rắn độc, rất là đáng sợ. Mười hai xứ (Sáu căn và sáu trần) giống như không tụ, vì giữa không có người. Tất cả các pháp thế gian, bao quát sắc pháp, tâm pháp, tâm sở pháp, bất tương ưng pháp, vô vi pháp, cộng lại là một trăm pháp, đều là như huyễn không thật, giống như dương diệm, ở xa nhìn tựa như có, đến gần thì không có ; lại giống như trăng trong nước, nhìn thì có, lấy thì không có ; lại giống như mộng, như bóng, như tiếng vang, như hình tượng, đều là hư vọng. Như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quay, như màu sắc cầu vồng. Như ánh sáng mặt trời mặt trăng, đều là không tướng không hình, chẳng thuộc về thường, chẳng thuộc về đoạn, cũng chẳng đến, cũng chẳng đi, cũng không chỗ trụ. Quán sát như vậy, thì sẽ biết tất cả các pháp, cũng không sinh, cũng không diệt. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ bảy, vì biết tất cả pháp tánh vắng lặng.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát văn nhất thiết pháp vô ngã, vô chúng sanh, vô thọ giả, vô bổ già la, vô tâm, vô cảnh, vô tham sân si, vô thân, vô vật, vô chủ, vô đãi, vô trước, vô hành, như thị nhất thiết giai vô sở hữu, tất quy tịch diệt, văn dĩ thâm tín, bất nghi bất báng, thị vi bát; dĩ năng thành tựu viên mãn giải cố.

Ðại Bồ Tát nghe tất cả pháp không ngã, không chúng sanh, không thọ giã, không bổ đặc già la, không tâm, không cảnh, không tham sân si, không thân, không vật, không chủ, không đối đãi, không chấp trước, không hành động, như vậy, tất cả đều vô sở hữu, trọn về nơi tịch diệt. Nghe rồi tin sâu chẳng nghi chẳng hủy báng. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ tám, vì có thể thành tựu tri giải viên mãn.

Giảng: 8. Đại Bồ Tát nghe tất cả pháp chẳng có tướng ta, không có tướng chúng sinh, không có tướng thọ mạng, không có tướng người, không có tâm, không có cảnh, không có tham sân si, không có thân, không có vật, không có chủ, không có kẻ đãi, không có mọi sự chấp trước, không có mọi hành vi. Tất cả như vậy đều không chỗ có, thảy đều quy về tịch diệt. Ngài nghe pháp nầy rồi, tin sâu chẳng nghi, chẳng chê bai. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ tám, vì dùng sự thành tựu viên mãn sự hiểu biết.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát thiện điều chư căn, như lý tu hành, hằng trụ chỉ quán, tâm ý tịch tĩnh, nhất thiết động niệm giai tất bất sanh, vô ngã, vô nhân, vô tác, vô hành, vô kế ngã tưởng, vô kế ngã nghiệp, vô hữu sang vưu, vô hữu ban ngân, diệc vô ư thử sở đắc chi nhẫn, thân, ngữ, ý nghiệp vô lai vô khứ, vô hữu tinh tấn diệc vô dũng mãnh, quán nhất thiết chúng sanh, nhất thiết chư pháp, tâm giai bình đẳng nhi vô sở trụ, phi thử ngạn, phi bỉ ngạn, thử bỉ tánh ly, vô sở tòng lai, vô sở chí khứ, thường dĩ trí tuệ như thị tư duy, thị vi cửu; đáo phân biệt tướng bỉ ngạn xứ cố.

Ðại Bồ Tát khéo điều các căn như lý tu hành, hằng trụ chỉ quán tâm ý tịch tịnh, tất cả động niệm đều trọn chẳng phát khởi, vô ngã, vô nhơn, vô tác, vô hành, không chấp ngả tưởng, không chấp ngả nghiệp, không có tỳ vết, không có nứt rạn, cũng không đức nhẫn nơi đây, thân ngữ ý ba nghiệp không lai không khứ, không có tinh tấn cũng không dũng mãnh. Quán tất cả chúng sanh tất cả các pháp đều bình đẳng mà không sở trụ. Chẳng phải thử ngạn, chẳng phái bĩ ngạn, thử bĩ tánh ly, không từ đâu đến, đi không đến đâu. Thừơng dùng trí huệ tư duy như vậy. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ chín, vì đến chỗ bỉ ngạn phân biệt tướng.

Giảng: 9. Đại Bồ Tát khéo điều phục mắt tai mũi lưỡi thân ý sáu căn, khiến cho chúng đều nghe theo mình, không khởi cách mạng, sáu căn tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh. Nếu không khéo điều phục các căn, thì khi mắt thấy sắc đẹp, liền bị sắc đẹp làm lay chuyển, nếu không để cho nó chuyển theo sắc đẹp, thì nó sẽ chẳng khách sáo với bạn, muốn phản kháng lại sự độc lập chính mình, chẳng nghe sự chỉ huy của bạn, năm căn kia cũng như thế. Phải như lý tu hành, luôn trụ chỉ quán. Chỉ quán là một thứ thiền định, quán là một thứ huệ. Tóm lại, chỉ tất cả ác, quán tất cả thiện. Khi tham thiền đả toạ, trạo cứ đến thì phải dùng công phu chỉ để khống chế.

Khi hôn trầm đến, thì dùng công phu quán để đề khởi, tâm ý rất vắng lặng, chẳng sinh vọng tưởng, chẳng sinh phiền não. Bất cứ trong cảnh giới gì, có định lực, thì chẳng giao động, không bị vật bên ngoài mê hoặc, hết thảy vọng tưởng tạp niệm, một chút cũng không sinh. Lúc đó, mình mới được làm chủ, tâm ý vắng lặng, chẳng có giao động, thì chẳng còn cái ta tồn tại. Chúng ta phàm phu đều chấp trước vào cái ta, xem cái ta rất quan trọng, chẳng để cho nó bị thiệt thòi, chẳng để cho nó chịu khổ, chẳng để cho nó chịu mắng, chẳng để cho nó chịu nhẫn nại, tóm lại, để cái ta ở trước mặt. Vì có cái ta, mà sinh ra chúng sinh, thọ mạng, đủ thứ các pháp ; nếu chẳng có tư tưởng về cái ta, thì chẳng có mọi sự phiền não.

Cái ta là gì ? Tìm khắp toàn thân, cũng tìm chẳng được cái ta. Những bộ phận trên thân đều có tên của nó, đầu có tên đầu, tay có tên tay, chân có tên chân, mỗi bộ phận trên thân đều có tên của nó, tức là chẳng có tên cái ta, bất quá nó chỉ là cái tên tổng quá của cái thân mà thôi. Tức nhiên tìm chẳng được cái ta tồn tại, lại hà tất phải chấp trước vào nó ? Nếu chẳng chấp trước thì sẽ không có cái ta, không có cái ta thì không có người, không có tác giả, không có hành giả, không chấp vào tưởng cái ta, không chấp nghiệp của ta. Trong tự tánh không có phiền não, không có vô minh, nên không có tỳ vết, tất cả lỗi lầm đều chẳng có, cho nên không có rạn nứt, cũng không có đắc được nhẫn nơi đây. Thân lời ý ba nghiệp, cũng không đến, cũng không đi, không có tinh tấn, cũng không có dũng mãnh, tất cả đều ngừng lại.

Kinh văn ở trên đều là nói về chữ chỉ. Ở dưới đây là giải thích về chữ Quán. Bồ Tát dùng diệu quán sát trí để quán sát tất cả chúng sinh, quán sát tất cả các pháp, trong tâm chẳng có sự phân biệt, một luật bình đẳng, chẳng  có chỗ trụ, do đó có câu : Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm. Chẳng có gì gọi bờ nầy sinh tử, chẳng có gì gọi bờ kia Niết Bàn. Tánh bờ nầy, bờ kia, đã đều lìa khỏi. Không chỗ đến, không chỗ đi. Có thể nói tận hư không khắp pháp giới, vô tại vô bất tại. Thường dùng trí huệ tư duy như vậy. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ chín, vì đã đến được nơi bờ kia tướng phân biệt.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát kiến duyên khởi pháp cố kiến Pháp thanh tịnh, kiến Pháp thanh tịnh cố kiến quốc độ thanh tịnh, kiến quốc độ thanh tịnh cố kiến hư không thanh tịnh, kiến hư không thanh tịnh cố kiến Pháp giới thanh tịnh, kiến Pháp giới thanh tịnh cố kiến trí tuệ thanh tịnh. Thị vi thập; tu hành tích tập nhất thiết trí cố.

Ðại Bồ Tát thấy pháp duyên khởi nên thấy pháp thanh tịnh, vì thấy pháp thanh tịnh nên thấy quốc độ thanh tịnh, vì thấy quốc độ thanh tịnh nên thấy hư không thanh tịnh, vì thấy hư không thanh tịnh nên thấy pháp giới thanh tịnh, vì thấy pháp giới thanh tịnh nên thấy trí huệ thanh tịnh. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ mười của Bồ Tát, vì tu hành tích tập nhứt thiết trí.

Giảng: 10. Vì đại Bồ Tát thấy được tất cả pháp từ duyên sinh khởi, nên thấy bổn tánh của pháp là thanh tịnh. Vì thấy pháp thanh tịnh, nên thấy cõi nước cũng thanh tịnh. Vì thấy cõi nước thanh tịnh, nên thấy hư không cũng thanh tịnh. Vì thấy hư không thanh tịnh, nên thấy pháp giới cũng thanh tịnh. Vì thấy pháp giới thanh tịnh, nên thấy trí huệ cũng thanh tịnh. Bởi quan hệ đó, nên biết mình vốn là thanh tịnh. Đó là trí huệ công cụ trợ đạo thứ mười, vì tu hành tích tập tất cả căn lành, mới thành tựu nhất thiết trí huệ.

 

Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát thập chủng trí tuệ trợ đạo cụ. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai nhất thiết pháp vô chướng ngại thanh tịnh vi diệu trí tuệ tụ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười pháp này thời được trí huệ vi diệu thanh tịnh vô ngại nơi tất cả pháp của đức Như Lai.

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là mười thứ trí huệ công cụ trợ đạo của đại Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được trí huệ vi diệu thanh tịnh nơi tất cả các pháp của Như Lai.

 

=================================

Thập Chủng Minh Túc

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng minh túc. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười minh túc. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ minh túc, tức cũng là minh hạnh túc, một trong mười hiệu của Phật. Trí huệ cũng viên mãn, tu hành cũng viên mãn. Minh là ba minh, tức là : Thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh. Hạnh là năm hạnh, tức là : Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiên hạnh, anh nhi hạnh, bệnh hạnh. Ba minh thuộc về huệ, năm hạnh thuộc về phước. Đức Phật trải qua ba A tăng kỳ tu phước huệ, trí huệ Lưỡng Túc Tôn. Những gì là mười thứ minh túc ? Đó là :

 

Thiện phân biệt chư pháp minh túc

Minh túc, khéo phân biệt các pháp.

Giảng: 1. Minh túc khéo phân biệt các pháp, thứ trí huệ nầy tu hành đã đến chỗ viên mãn.

 

Bất thủ trước chư pháp minh túc

Minh túc, chẳng chấp trước các pháp.

Giảng: 2. Minh túc chẳng chấp trước các pháp, đối với các pháp chẳng chấp trước, chẳng thủ trước, tất cả đều chẳng có, thứ trí huệ nầy đã tu đến chỗ viên mãn.

 

Ly điên đảo kiến minh túc

Minh túc, lìa điên đảo kiến.

Giảng: 3. Minh túc lìa khỏi kiến điên đảo. Một số phàm phu lấy trái làm phải, lấy phải làm trái ; lấy đen làm trắng, lấy trắng làm đen, chẳng nhận thức lý lẽ rõ ràng, đó là thấy điên đảo. Tóm lại, thanh tịnh là phước, ai cũng chẳng chú ý nó ; phiền não là hoạ, ai cũng hoan hỉ nó, đó tức là thấy điên đảo. Bồ Tát đã tu hành viên mãn thứ trí huệ nầy.

 

Trí tuệ quang chiếu chư căn minh túc

Minh túc, trí huệ quang chiếu soi các căn.

Giảng: 4. Minh túc dùng trí huệ quang minh chiếu các căn, đã tu hành viên mãn thứ trí huệ nầy.

 

Xảo phát khởi chánh tinh tấn minh túc

Minh túc, khéo phát khởi chánh tinh tấn.

Giảng: 5. Minh túc khéo phát khởi chánh tinh tấn, thân cũng tinh tấn, tâm cũng tinh tấn, ngày cũng tinh tấn, đêm cũng tinh tấn, thứ trí huệ nầy cũng đã tu hành đến chỗ viên mãn.

 

Năng thâm nhập chân đế trí minh túc

Minh túc, hay thâm nhập chơn đế trí.

Giảng: 6. Minh túc hay vào sâu chân đế trí, chân đến tức là pháp xuất thế gian, tục đế tức là pháp thế gian. Chân đế là sự thấy lý tánh chân thật của thánh trí ; tục đế là sự thấy sự tướng thế gian mê tình, thứ trí huệ nầy tu hành đã đến chỗ viên mãn.

 

Diệt phiền não nghiệp thành tựu tận trí vô sanh trí minh túc

Minh túc, diệt nghiệp phiền não thành tựu tận trí vô sanh trí.

Giảng: 7. Minh túc diệt trừ tất cả phiền não nghiệp, thành tựu tận trí vô sanh trí. Phiền não có bao nhiêu ? Nếu nói rộng thì có tám vạn bốn ngàn, nếu nói ít thì chỉ có một niệm vô minh. Nếu diệt hết một niệm vô minh, thì phiền não tự nhiên sẽ chấm dứt. Do đó có câu :

Thanh tịnh là phước không ai hưởng,
Phiền não là tội ai cũng tham.

Thành tựu tận trí, tức là trí huệ rốt ráo. Thành tựu vô sanh trí, tức là trí huệ không chỗ nào sinh ra. Thứ trí huệ bình đẳng nầy rất là sáng đạt, Bồ Tát đã tu đến cảnh giới viên mãn.

 

Thiên nhãn trí phổ quan sát minh túc

Minh túc, thiên nhãn trí khéo quán sát.

Giảng: 8. Minh túc thiên nhãn trí khắp quán sát, có thể nhìn thấy được chư Thiên chúng sinh ba cõi đang làm gì ? Thứ trí huệ nầy đã tu đến chỗ viên mãn.

 

Tú trụ niệm tri tiền tế thanh tịnh minh túc;

Minh túc, túc trụ niệm biết thưở trước thanh tịnh.

Giảng: 9. Minh túc túc trụ niệm biết thuở xưa thanh tịnh, tức cũng là trí huệ túc mạng thông. Biết được khi nào đến thì thừa nguyện tái lai ; biết được khi nào đi, thì nhắm mắt mà đi. Biết được quá khứ vô lượng kiếp, biết được vị lai vô lượng kiếp, thông đạt vô ngại, thứ trí huệ nầy đã tu đến chỗ viên mãn.

 

Lậu tận thần thông trí đoạn chúng sanh chư lậu minh túc.

Minh túc, lậu tận thần thông trí dứt những lậu của chúng sanh.

Giảng: 10. Minh túc lậu tận thần thông trí đoạn chúng sinh các lậu. Lậu tận thông là một trong sáu thần thông, ngoại đạo có thể chứng được năm thần thông, nhưng không thể đắc được lậu tận thông, chỉ có tu hành Phật pháp, mới chứng được lậu tận thông, tức cũng là đoạn trừ tất cả tập khí mao bệnh. Thứ trí huệ nầy tu hành đã đến chỗ viên mãn.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai ư nhất thiết Phật Pháp vô thượng đại quang minh.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại quang minh vô thượng nơi tất cả Phật pháp của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ pháp minh túc. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được đại quang minh vô thượng  nơi tất cả Phật pháp của Như Lai.

 

======================================

Thập Chủng Cầu Pháp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng cầu Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều cầu pháp. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ cầu pháp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Trực tâm cầu Pháp, vô hữu siểm cuống cố

Trực tâm cầu pháp, vì không dua nịnh phỉnh phờ.

Giảng: 1. Chân tâm cầu pháp, vì không có xiểm nịnh hư dối. Tâm cầu pháp phải chánh trực, không thể cong vẹo quanh co để cầu pháp, đừng dùng tình người để cầu pháp, đừng dùng cảm tình để cầu pháp, đừng dùng tâm không ngay thẳng để cầu pháp. Vậy phải nên như thế nào để cầu pháp ? Nên dùng tâm ngay thẳng. Do đó có câu : Trực tâm là đạo tràng, dùng tâm ngay thẳng để cầu pháp, thì pháp đó sẽ ngay thẳng ; dùng tâm quanh co để cầu pháp, thì pháp đó sẽ quanh co. Do đó có câu :

Nhân địa chẳng thật,
Thì chiêu quả quanh co.

Tâm chẳng thật thì ý chẳng thật, như vậy thì cầu chẳng được pháp. Bồ Tát cầu pháp, chẳng có hành vi xiểm nịnh hư dối. Thế nào gọi là xiểm nịnh hư dối ? Nghĩa là giả nhân, giả nghĩa hướng về người khác cầu xin, cứ nói những lời vuốt ve, làm cho họ hoan hỉ. Do đó có câu : Xiểm phú kiêu bần, nhàm cố hỉ tân, nghĩa là : Đối với người giàu thì sinh tâm nịnh bợ, đối với người nghèo thì kiêu ngạo. Nhàm chán cái cũ, hoan hỉ cái mới, đó là tư tưởng không thể chấp nhận được. Bồ Tát cầu pháp, không dùng thủ đoạn lời lẽ dối trá. Thế nào là lời dối trá ? Đó là khinh khi người chẳng nói lời chân thật, dùng phương pháp nầy để cầu pháp, thì cầu chẳng được pháp.

 

Tinh tấn cầu Pháp, viễn ly giải mạn cố

Tinh tấn cầu pháp, vì xa lìa lười biếng khinh mạn.

Giảng: 2. Tinh tấn cầu pháp, vì xa lìa giải đãi. Cầu pháp không thể giải đãi, giải đãi cầu chẳng được pháp, thời thời tinh tấn, mới có thể cầu được pháp.

 

Nhất hướng cầu Pháp, bất tích thân mạng cố

Nhứt hướng cầu pháp, vì chẳng tiếc thân mạng.

Giảng: 3. Một hướng cầu pháp, vì chẳng tiếc thân mạng. Cầu pháp phải dũng mãnh hướng về trước, chỉ biết có pháp, chẳng biết có người. Do đó có câu : Vì pháp quên mình. Giống như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thuở xưa khi còn làm Bồ Tát, thì vì cầu nửa bài kệ mà hi sinh thân mạng của mình. Nhị Tổ Huệ Khả Đại Sư, vì cầu pháp mà chặt cánh tay, đó là tinh thần cầu pháp.

 

Vi đoạn nhất thiết chúng sanh phiền não cầu Pháp, bất vi danh lợi cung kính cố

Vì trừ phiền não cho tất cả chúng sanh mà cầu pháp, vì chẳng vì danh lợi cung kính.

Giảng: 4. Vì đoạn trừ phiền não của tất cả chúng sinh mà cầu pháp, bởi chẳng vì danh lợi cung kính. Bồ Tát vẫn còn một phần sinh tướng vô minh chưa phá, có thể hy vọng chúng sinh dứt trừ phiền não. Bồ Tát biết được phương pháp dứt trừ phiền não, cho nên mới có tư cách khiến cho chúng sinh dứt trừ phiền não, vì đã có đại trí huệ, cho nên mới có thể làm được viên mãn. Bồ Tát chẳng phải vì danh lợi và thích người cung kính mà cầu pháp, chỉ vì giáo hoá chúng sinh và độ thoát chúng sinh mà cầu pháp. Có người thiết lập pháp khiến cho người biết họ là lão tu hành, cho rằng có được danh tiếng, thì có người đến cúng dường, có người đến cung kính họ, đó là tư tưởng của kẻ phàm phu, Bồ Tát chẳng có tư tưởng như thế.

 

Vi nhiêu ích tự tha nhất thiết chúng sanh cầu Pháp, bất đãn tự lợi cố

Vì lợi ích mình và người tất cả chúng sanh mà cầu pháp, vì chẳng riêng tự lợi.

Giảng: 5. Vì lợi ích mình, người khác, tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì chẳng riêng tự lợi, mà vì lợi ích của chúng sinh. Bồ Tát chẳng có ý đồ vì ích kỷ lợi mình, chỉ biết có mình, chẳng biết có người khác.

 

Vi nhập trí tuệ cầu Pháp, bất lạc văn tự cố

Vì nhập trí huệ mà cầu pháp, vì chẳng thích văn tự.

Giảng: 6. Bồ Tát vì vào nhất thiết trí huệ mà cầu pháp, trí huệ chân chánh là lìa tướng văn tự, lìa tâm duyên tướng. Tuy là trên văn tự được Bát Nhã văn tự, nhưng tại văn tự Bát Nhã nếu khởi quán chiếu Bát Nhã, do quán chiếu Bát Nhã có thể khế hợp với thật tướng Bát Nhã, thật tướng tức là lìa khỏi văn tự.

 

Vi xuất sanh tử cầu Pháp, bất tham thế lạc cố

Vì thoát khỏi sanh tử mà cầu pháp, vì chẳng tham thế lạc.

Giảng: 7. Bồ Tát vì thoát khỏi sanh tử mà cầu pháp, vì chẳng tham trước tất cả danh văn lợi dưỡng, vinh hoa phú quý, và vui tài sắc danh ăn ngủ năm dục của thế gian.

 

Vi độ chúng sanh cầu Pháp, phát Bồ-đề tâm cố

Vì độ chúng sanh mà cầu pháp, vì phát Bồ đề tâm.

Giảng: 8. Vì độ thoát tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì giáo hoá chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, mà phát tâm bồ đề, tức là trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh.

 

Vi đoạn nhất thiết chúng sanh nghi cầu Pháp, lệnh vô do dự cố

Vì dứt nghi cho tất cả chúng sanh mà cầu pháp, vì làm cho họ không do dự.

Giảng: 9. Vì dứt sự hoài nghi của tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì khiến cho chúng sinh không có tư tưởng do dự không quyết định.

 

Vi mãn túc Phật Pháp cầu Pháp, bất lạc dư thừa cố.

Vì đầy đủ Phật pháp mà cầu pháp, vì chẳng thích những thừa khác.

Giảng: 10. Vì đầy đủ Phật pháp mà cầu pháp, chỉ cầu Phật thừa, chẳng cầu thừa khác.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc bất do tha giáo nhất thiết Phật Pháp đại trí tuệ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ tất cả Phật pháp chẳng do người khác dạy.

Giảng: Đó là mười thứ cầu pháp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí huệ của tất cả Phật pháp không do người khác dạy.

 

=======================================

Thập ChủngMinh Liễu Pháp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng minh liễu Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp minh liễu. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp thấu rõ. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tùy thuận thế tục sanh trưởng thiện căn, thị đồng mông phàm phu minh liễu Pháp

Tùy thuận thế tục sanh trưởng thiện căn, đây là đồng mông phàm phu minh liễu pháp.

Giảng: 1. Tuỳ thuận thế tục sinh trưởng bốn thứ căn lành, đó là : Noãn pháp, đỉnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp, tức cũng là bốn pháp gia hạnh. Đó là pháp thấu rõ của đồng mông phàm phu không thể xuất thế.

 

Đắc vô ngại bất hoại tín, giác pháp tự tánh, thị tùy tín hành nhân minh liễu Pháp

Ðược bất hoại tín vô ngại, tỏ ngộ tự tánh của các pháp, đây là tùy tín hành nhơn minh liễu pháp.

Giảng: 2. Đắc được tin vô ngại bất hoại, giác ngộ pháp nầy, minh bạch tự tánh của pháp, đó là chỉ người thuần căn, tin theo người khác nói mà hành đạo, đó là pháp thấu rõ của người theo tin thực hành.

 

Cần tu tập Pháp, tùy thuận pháp trụ, thị Tuỳ Pháp hành nhân minh liễu Pháp

Siêng tu tập chánh pháp, tùy thuận chánh pháp mà an trụ, đây là tùy pháp hành nhơn minh liễu pháp.

Giảng: 3. Siêng tu hành học tập pháp, tuỳ thuận tất cả pháp mà trụ, đó là chỉ người lợi căn, tự xem kinh điển mà hành đạo, đó là pháp thấu rõ của người theo pháp thực hành.

 

Viễn ly bát tà, hướng Bát Chánh Đạo, thị đệ bát nhân minh liễu Pháp

Xa lìa bát tà, hướng về bát chánh đạo, đây là đệ bát nhơn minh liễu pháp.

Giảng: 4. Xa lìa tám tà, tám tà tức là :

1. Tà kiến.
2. Tà tư duy.
3. Tà ngữ.
4. Tà nghiệp.
5. Tà mạng.
6. Tà phương tiện.
7. Tà niệm.
8. Tà định.

Trái ngược với tám chánh đạo, hướng về tám chánh đạo mà đi. Tám chánh đạo tức là :
1. Chánh kiến : Thấy biết chân chánh.
2. Chánh tư duy : Suy nghĩ chân chánh.
3. Chánh ngữ : Lời nói chân chánh.
4. Chánh nghiệp : Hành vi chân chánh.
5. Chánh mạng : Nghề nghiệp chân chánh.
6. Chánh tinh tấn : Học tập chân chánh.
7. Chánh niệm : Nghĩ nhớ chân chánh.
8. Chánh định : Thiền định chân chánh.

Đó là pháp thấu rõ của người thứ tám (Người hướng về sơ quả, chưa chứng được sơ quả A La Hán).

 

Trừ diệt chúng kiết, đoạn sanh tử lậu, kiến chân thật đế, thị Tu đà Hoàn nhân minh liễu Pháp

Trừ diệt những kiết sử, dứt lậu sanh tử thấy chơn thiệt đế, đây là tu đà hoàn nhơn chơn minh liễu pháp.

Giảng: 5. Trừ  diệt tất cả các kết, kết là phiền não. Do phiền não mà kết tập sinh tử, tức cũng là tám mươi tám sử, đoạn trừ được lậu sinh tử, tức cũng là vô minh, tức cũng là dục niệm. Dục tức là lậu sinh tử, dục tức là năm dục. Do đó có cầu : Tài sắc danh ăn ngủ, là năm gian địa ngục. Tại sao chẳng nói thiên đường năm gian ?

Tại sao chẳng nói là Phật quả năm gian ? Vì năm dục nầy là đoạ lạc, một khi đoạ lạc thì đi xuống địa ngục, sẽ thấy đế chân thật, lý thể chân thậy, đó là pháp thấu rõ của bậc Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn dịch là Nhập lưu, nhập vào dòng Thánh nhân pháp tánh, ngược lại dòng phàm phu sáu trần, chẳng nhập vào trong dòng sắc thanh hương vị xúc pháp sáu trần, chẳng bị sáu trần làm lay chuyển : Mắt thấy sắc chẳng bị sắc lay chuyển, tai nghe tiếng chẳng bị tiếng lay chuyển, mũi ngửi mùi chẳng bị mùi lay chuyển, lưỡi nếm vị chẳng bị vị lay chuyển, thân giác xúc, chẳng bị xúc lay chuyển, ý biết pháp chẳng bị pháp lay chuyển. Đã dứt được kiến hoặc tam giới tám mươi tám phẩm, chứng được sơ quả A La Hán, gọi là bậc hữu học.

 

Quán vị thị hoạn, tri vô vãng lai, thị Tư đà hàm nhân minh liễu Pháp

Quán sát ham muốn là họa hoạn biết không qua lại, đây là Tư Ðà Hàm nhơn minh liễu.

Giảng: 6. Quán vị thiền là hoạ hoạn, biết tất cả là vắng lặng, không đến không đi, là pháp thấu rõ của bậc Tư Đà Hàm. Tư Đà Hàm dịch là Nhất lai, tức là còn một lần sinh vào cõi trời dục giới và nhân gian, đã đoạn được kiến hoặc tam giới, và đoạn dục giới tư hoặc sáu phẩm trước (Tam giới có tám mươi mốt phẩm tư hoặc). Chứng được Tam quả A La Hán, gọi là bậc hữu học.

 

Bất lạc tam giới, cầu tận hữu lậu, ư thọ sanh Pháp nãi chí nhất niệm bất sanh ái trước, thị A-na-hàm nhân minh liễu Pháp

Chẳng luyến tam giới, cầu hết hữu lậu, đối với pháp thọ sanh, nhẫn đến chẳng sanh một niệm ái trước, đây là A Na Hàm nhơn minh liễu pháp.

Giảng: 7. Chẳng thích khoái lạc ba cõi, do đó có câu :
Ba cõi như nhà lửa,
Sinh tử như oan gia.

Cho nên cầu hết pháp hữu lậu, sẽ chấm dứt sinh tử. Đối với pháp thọ sanh, cho đến một niệm, cũng chẳng sanh ái trước. Xa lìa sinh tử pháp vô thường nầy, là pháp thấu rõ của bậc A Na Hàm. A Na Hàm dịch là Bất hoàn, tức là không trở lại dục giới thọ sinh tử nữa. Đã đoạn được kiến hoặc tam giới, và đoạn được tư hoặc dục giới ba phẩm sau (Dục giới có chín phẩm tư hoặc, sắc giới có ba mươi sáu phẩm tư hoặc, vô sắc giới có ba mươi sáu phẩm tư hoặc), chứng được Tam quả A La Hán, là bậc hữu học.

 

Hoạch lục Thần thông, đắc bát giải thoát, cửu định, tứ biện tất giai thành tựu, thị A-la-hán nhân minh liễu Pháp

Chứng lục thần thông, được bát giải thoát, cửu định, tứ biện tài thảy đều thành tựu, đây là A La Hán nhơn minh liễu pháp.

Giảng: 8. Do được sáu thần thông, tức là :
I. Thiên nhãn thông.
II. Thiên nhĩ thông.
III. Tha tâm thông.
IV. Túc mạng thông.
V. Thần túc thông.
VI. Lậu tận thông.

Lại đắc được tám giải thoát, tức là :
I. Trong có sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát.
II. Trong không sắc tưởng ngoại sắc giải thoát.
III. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ.
IV. Không vô biên xứ giải thoát.
V. Thức vô biên xứ giải thoát.
VI. Vô sở hữu xứ giải thoát.
VII. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát.
VIII. Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ.

Lại có chín định, tức cũng là chín thứ đệ định :
I. Sơ thiền thứ đệ định.
II. Nhị thiền thứ đệ định.
III. Tam thiền thứ đệ định.
IV. Tứ thiền thứ đệ định.
V. Không xứ thứ đệ định.
VI. Thức xứ thứ đệ định.
VII. Vô sở hữu xứ thứ đệ định.
VIII. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thứ đệ định.
IX. Diệt thọ tưởng thứ đệ định.

Lại đắc được bốn vô ngại biện, tức là :
I. Pháp vô ngại biện.
II. Nghĩa vô ngại biện.
III. Từ vô ngại biện.
IV. Nhạo thuyết vô ngại biện.

Đủ thứ những pháp đó, thảy đều thành tựu viên mãn, đó là pháp thấu rõ của bậc A La Hán. A La Hán dịch là Sát tặc, nghĩa là giết hết tặc phiền não. Còn dịch là Ứng cúng, vì đạo cao đức trọng, là ruộng phước của thế gian, xứng đáng thọ trời người cúng dường. Còn dịch là Bất sinh, chẳng thọ phần đoạn sinh tử nữa, đắc được Hữu Dư Niết Bàn. Do đó có câu : Các lậu đã sạch, Phạm hạnh đã vững, việc làm đã xong, chẳng thọ thân sau nữa. Đã đoạn tam giới kiến tư hai hoặc, chứng được Tứ quả A La Hán, gọi là bậc vô học.

 

Tánh lạc quan sát nhất vị duyên khởi, tâm thường tịch tĩnh, tri túc thiểu sự, giải nhân tự đắc, ngộ bất do tha, thành tựu chủng chủng thần thông trí tuệ, thị Bích Chi Phật nhân minh liễu Pháp

Tánh thích quán sát nhứt vị duyên khởi, tâm thường tịch tịnh, tri túc, ít việc, tỏ ngộ do mình được chẳng do người thành tựu các môn thần thông trí huệ, đây là Bích Chi Phật nhơn minh liễu pháp.

Giảng: 9. Tánh thích quán sát tất cả pháp, đều từ duyên khởi, do đó có câu :

Các pháp do duyên sanh
Các pháp do duyên diệt
Phật ta đại Sa Môn
Thường hay nói như thế.

Tâm thường vắng lặng bất động, biết đủ thì vui, ít việc thì an, thấu hiểu nhân duyên pháp, tự tánh tự chứng mà được khai ngộ, chẳng do người khác dạy mà khai ngộ. Mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi, thấu hiểu tất cả vạn vật, tự sinh tự diệt, mà ngộ đạo quả, thành tựu đủ thứ thần thông, viên mãn nhất thiết trí huệ, đó là pháp thấu rõ của bậc Bích chi Phật. Bích Chi Phật dịch là “Độc giác”, trước khi Phật chưa ra đời, tự tu tự chứng, là Độc giác. Sau khi Phật ra đời, nghe pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, gọi là Duyên Giác. Đó là tiểu thừa, tự tu tự ngộ, chẳng màng đến sinh tử của chúng sinh, làm tự liễu hán.

 

Trí tuệ quảng đại, chư căn minh lợi, thường lạc độ thoát nhất thiết chúng sanh, cần tu phước trí trợ đạo chi Pháp, Như Lai sở hữu thập lực, vô úy, nhất thiết công đức cụ túc viên mãn, thị Bồ Tát nhân minh liễu Pháp.

Trí huệ rộng lớn, các căn sáng lẹ, thường thích độ thoát tất cả chúng sanh, siêng tu phước trí các pháp trợ đạo, tất cả công đức thập lực tứ vô úy của Như Lai đều đầy đủ viên mãn, đây là Bồ Tát nhơn minh liễu pháp.

Giảng: 10. Trí huệ rộng lớn, các căn lanh lợi, thường thích độ thoát tất cả chúng sinh, thoát khỏi biển khổ, siêng tu phước đức và trí huệ pháp trợ đạo, hết thảy mười lực và bốn vô uý của Như Lai, tất cả công đức, hoàn toàn đầy đủ, viên mãn thành tựu, đó là pháp thấu rõ của bậc Bồ Tát. Bồ Tát dịch là “Hữu tình giác”, hay giác ngộ tất cả hữu tình chúng sinh. Bồ Tát có tinh thần tự giác giác tha.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức đắc Như Lai vô thượng đại trí minh liễu Pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí nhơn minh liễu pháp vô thượng của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười pháp thấu rõ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp thấu rõ vô thượng đại trí của Như Lai.

 

======================================

Thập Chủng Tu Hành Pháp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng tu hành Pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp tu hành. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ pháp tu hành. Tức là không làm các điều ác, hãy làm các việc lành, đừng cho rằng việc thiện nhỏ mà không làm, đừng cho rằng việc ác nhỏ mà đi làm. Những gì là mười ? Đó là :

 

Cung kính tôn trọng chư thiện tri thức tu hành Pháp;

Cung kính tôn trọng chư Thiện tri thức, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 1. Pháp tu hành : Cung kính tôn trọng tất cả các vị thiện tri thức.

 

Thường vi chư Thiên chi sở giác ngộ tu hành Pháp

Thường được chư Thiên giác ngộ, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 2. Pháp tu hành : Thường khiến cho chư Thiên được giác ngộ.

 

Ư chư Phật sở thường hoài tàm quý tu hành Pháp;

Ðối với chư Phật thường có lòng tàm quý, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 3. Pháp tu hành : Ở chỗ đạo tràng của mười phương chư Phật thường có lòng tám quý, cảm thấy chẳng bằng người, phải tinh tấn, đừng sinh tâm tự mãn, mà kiêu ngạo nói : Tôi hơn tất cả mọi người, tuyệt đối đừng có tư tưởng như thế.

 

Ai mẩn chúng sanh bất xả sanh tử tu hành Pháp

Thương xót chúng sanh chẳng bỏ sanh tử, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 4. Pháp tu hành : Vì thương xót tất cả chúng sinh, nên tự mình chẳng bỏ sinh tử, chẳng vào Niết Bàn.

 

Sự tất cứu cánh tâm vô biến động tu hành Pháp

Công việc tất làm đến rốt ráo tâm không biến động, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 5. Pháp tu hành : Bất cứ làm việc gì, nhất định phải đến nơi rốt ráo, đừng có bỏ phế giữa đường, lãng phí công lao. Bất cứ gặp cảnh giới gì, tâm cũng đừng biến động, dù núi Thái Sơn sập xuống phía trước cũng không sợ, mỹ nữ đứng ở trước mặt tâm cũng không động, định lực đầy đủ.

 

Chuyên niệm tùy trục phát Đại thừa tâm chư Bồ-tát chúng tinh cần tu học tu hành Pháp

Chuyên niệm theo dõi chúng Bồ Tát phát tâm Ðại thừa tinh cần tu học, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 6. Pháp tu hành : Chuyên một niệm theo đuổi phát tâm đại thừa, tất cả chúng Bồ Tát tinh tấn siêng tu học lục độ vạn hạnh.

 

Viễn ly tà kiến cần cầu chánh đạo tu hành Pháp;

Xa lìa tà kiến siêng cầu chánh đạo, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 7. Pháp tu hành : Xa lìa tất cả tà tri tà kiến, siêng cầu đạo chánh tri chánh kiến.

 

Tồi phá chúng ma cập phiền não nghiệp tu hành Pháp

Dẹp phá chúng ma và nghiệp phiền não, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 8. Pháp tu hành : Phá tan chúng ma và phiền não nghiệp chướng.

 

Tri chư chúng sanh căn tánh thắng liệt nhi vi thuyết Pháp lệnh trụ Phật địa tu hành Pháp

Biết các chúng sanh căn tánh thắng liệt mà vì họ thuyết pháp cho họ an trụ nơi Phật địa, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 9. Pháp tu hành : Biết căn tánh của tất cả chúng sinh, là thắng, hoặc là liệt. Thắng là thiện, liệt là ác, sau đó vì họ thuyết pháp, khiến cho họ trụ Phật địa. Phật địa có đại công đức lực, sau đó là trí huệ. Một niệm tương ưng huệ quán chân đế đến nơi rốt ráo, tập nhiễm rốt ráo hết sạch không còn.

 

An trụ vô biên quảng đại Pháp giới trừ diệt phiền não lệnh thân thanh tịnh tu hành Pháp.

An trụ pháp giới quảng đại vô biên, diệt trừ phiền não cho thân thanh tịnh, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Giảng: 10. Pháp tu hành : An trụ vô biên không bờ mé pháp giới rộng lớn, trừ diệt tất cả phiền não, khiến cho thân thanh tịnh, chẳng còn nhiễm ô.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai vô thượng tu hành Pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được pháp tu hành vô thượng của Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ pháp tu hành của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp tu hành vô thượng của Như Lai.

 

==================================

Thập Chủng Ma

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng ma. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ ma. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ ma. Ma hay chướng ngại người làm việc lành, hay đoạn trừ phá hoại huệ mạng của người tu đạo. Những gì là mười thứ ma ? Đó là :

 

Uẩn ma, sanh chư thủ cố

Ngũ uẩn ma, vì sanh các chấp thủ.

Giảng: 1. Uẩn ma, tức là : Sắc thọ tưởng hành thức năm uẩn, hay sinh ra đủ thứ khổ não, hay sinh ra tất cả chấp thủ, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Phiền não ma, hằng tạp nhiễm cố

Phiền não ma, vì hằng tạp nhiễm.

Giảng: 2. Phiền não ma, tức là : Tham sân si mạn nghi phiền não, hay mê hoặc sự lý, hay não hại thân tâm. Thường sinh tư tưởng tạp nhiễm bất tịnh, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Nghiệp ma, năng chướng ngại cố

Nghiệp ma, vì hay chướng ngại.

Giảng: 3. Nghiệp ma, tức là : Giết, trộm, dâm, dối, rượu, các nghiệp ác, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Tâm ma, khởi cao mạn cố

Tâm ma, vì khởi cao mạn.

Giảng: 4. Tâm ma, tức là tâm cống cao ngã mạn, đều cảm giác mình giỏi hơn người, trong mắt mình coi ai cũng chẳng ra gì, khinh thường tất cả mọi người, đây cũng chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Tử ma, xả sanh xứ cố

Tử ma, vì bỏ chỗ sanh.

Giảng: 5. Tử ma, thọ mạng có hạn, xả bỏ nơi sinh, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Thiên ma, tự kiêu túng cố

Thiên ma, vì tự kiêu căn phóng túng.

Giảng: 6. Thiên ma, Ma Vương Ba Tuần cõi trời Tha Hoá Tự Tại, rất là tự kiêu căn phóng túng, biến hoá đủ thứ chướng ngại, khiến cho người tu hành thối chuyển bồ đề tâm.

 

Thiện căn ma, hằng chấp thủ cố

Thiện căn ma, vì hằng chấp thủ.

Giảng: 7. Thiện căn ma, chấp trước vào mình đắc được căn lành, không chịu tu thêm nữa, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Tam muội ma, cửu đam vị cố

Tam muội ma, vì từ lâu say đắm.

Giảng: 8. Tam muội ma, đắm trước vào mình đắc được vị thiền, dừng lại ở cảnh giới Tứ thiền, chẳng cầu tiến lên, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Thiện tri thức ma, khởi trước tâm cố

Thiện tri thức ma, vì phát khởi tâm chấp trước.

Giảng: 9. Thiện tri thức ma, sinh tâm chấp trước vào pháp, chẳng chịu vì người thuyết pháp, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Bồ-đề Pháp trí ma, bất nguyện xả ly cố.

Bồ đề pháp trí ma, vì chẳng nguyện xả lìa.

Giảng: 10. Bồ đề pháp trí ma, đối với pháp bồ đề sinh khởi chấp trước trí, chẳng muốn xả lìa, chướng ngại chánh đạo, dứt hại huệ mạng.

 

Thị vi thập. Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng tác phương tiện, tốc cầu viễn ly.

Ðại Bồ Tát phải dùng phương tiện mau cầu xa rời mười thứ ma này.

Giảng: Đó là mười thứ ma của Bồ Tát. Đại Bồ Tát nên làm phương tiện, sớm cầu xa lìa khỏi mười thứ ma.

 

===================================

Thập Chủng Ma Nghiệp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng ma nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ ma nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ ma nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Vong thất Bồ-đề tâm tu chư thiện căn, thị vi ma nghiệp

Quên mất Bồ đề tâm tu các thiện căn đây là ma nghiệp.

Giảng: 1. Quên mất bồ đề tâm, tu tất cả căn lành, đó là ma nghiệp. Tại sao ? Vì có bồ đề tâm, thì mới có thể hồi hướng căn lành của mình tu tập được, đến pháp giới chúng sinh. Nếu quên mất bồ đề tâm, thì căn lành tu được, lưu lại cho chính mình, chẳng chịu hồi hướng, chỉ lợi mình mà chẳng lợi người.

 

Ác tâm bố thí, sân tâm trì giới, xả ác tánh nhân, viễn giải đãi giả, khinh mạn loạn ý, ky hiềm ác tuệ, thị vi ma nghiệp

Ác tâm bố thí, sân tâm trì giới, bỏ người tánh ác, xa kẻ lười biếng, khinh mạn kẻ loạn ý, cơ hiềm người ác huệ, đây là ma nghiệp.

Giảng: 2. Dùng ác tâm để bố thí, dùng sân tâm để trì giới, xả bỏ người tánh ác, xa lìa người giải đãi, khinh mạn kẻ loạn ý, chê hiềm người ác huệ, những hành vi đó đều trái với tâm từ bi, do đó có câu : Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ, đó là ma nghiệp.

 

Ư thậm thâm Pháp tâm sanh xan lận, hữu kham hóa giả nhi bất vi thuyết, nhược đắc tài lợi cung kính cúng dường, tuy phi pháp khí nhi cường vi thuyết, thị vi ma nghiệp

Nơi pháp thậm thâm tâm sanh xan lẫn, có người kham được hóa độ mà chẳng vì họ thuyết pháp. Nếu được tài lợi cung kính cúng dường, dầu chẳng phải pháp khí mà cũng gượng vì họ thuyết pháp. Ðây là ma nghiệp.

Giảng: 3. Nơi pháp thâm sâu vi diệu, sinh tâm tham sẻn, có người hoá độ được, mà chẳng chịu vì họ nói pháp. Tại sao vậy ? Vì có sí đồ, cầu danh văn lợi dưỡng. Nếu được người có tài lợi, hoặc được sự cung kính, hoặc khi cúng dường, tuy họ chẳng phải là pháp khí, nhưng lại vì họ nói pháp, đó là ma nghiệp.

 

Bất lạc thính văn chư Ba-la-mật, giả sử văn thuyết nhi bất tu hành, tuy diệc tu hành đa sanh giải đãi, dĩ giải đãi cố, chí ý hiệp liệt, bất cầu vô thượng Đại bồ-đề Pháp, thị vi ma nghiệp

Chẳng thích lắng nghe các môn Ba la mật, giả sử nghe nói mà chẳng tu hành, dầu cũng tu hành mà phần nhiều lười biếng. Vì lười biếng nên chí ý hèn kém chẳng cầu pháp đại Bồ đề Vô thượng. Ðây là ma nghiệp.

Giảng: 4. Chẳng thích lắng nghe mười pháp Ba La Mật : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, phương tiện, nguyện, lực, trí. Giả sử nghe nói đến mười pháp nầy, cũng chẳng chịu tu hành. Tuy cũng miễn cưỡng tu hành, nhưng phần nhiều sinh tâm giải đãi, chẳng muốn dũng mãnh tinh tấn. Do vì giải đãi, nên ý chí hẹp kém, chẳng cầu pháp vô thượng đại bồ đề, đó là ma nghiệp.

 

Viễn thiện tri thức, cận ác tri thức, lạc cầu nhị thừa, bất lạc thọ sanh, chí thượng Niết-Bàn ly dục tịch tĩnh, thị vi ma nghiệp

Xa thiện tri thức, gần ác tri thức, thích cầu Nhị thừa, chẳng thích thọ sanh, chỉ chuộng Niết bàn ly dục tịch tịnh. Ðây là ma nghiệp.

Giảng: 5. Xa thiện tri thức gần ác tri thức, thích cầu pháp nhị thừa, chẳng thích thọ sinh, chí nguyện chứng được Hữu Dư Niết Bàn, xa lìa dục niệm mà cầu tịch tĩnh, đó là ma nghiệp.

 

Ư Bồ Tát sở khởi sân khuể tâm, ác nhãn thị chi, cầu kỳ tội hấn, thuyết kỳ quá ác, đoạn bỉ sở hữu tài lợi cúng dường, thị vi ma nghiệp

Ở chỗ Bồ Tát, khởi tâm sân hận ác nhãn nhìn ngó tìm cầu tội hở để nói kể lỗi lầm, ngăn dứt tài lợi cúng dường. Ðây là ma nghiệp.

Giảng: 6. Ở chỗ Bồ Tát, sinh khởi tâm sân hận, nhìn với cặp mắt ác. Cố ý tìm tòi tội sơ hở, nói lỗi lầm của Bồ Tát, dứt hết thảy tài lợi và cúng dường của họ, đó là ma nghiệp.

 

Phỉ báng chánh pháp bất lạc thính văn, giả sử đắc văn tiện sanh hủy báng,kiến nhân thuyết Pháp bất sanh tôn trọng, ngôn tự thuyết thị, dư thuyết tất phi, thị vi ma nghiệp

Phỉ báng chánh pháp chẳng thích lắng nghe, giả sử được nghe liền sanh lòng chê bai, thấy người thuyết pháp chẳng sanh lòng tôn trọng, cho lời mình nói là phải, lời của người là quấy. Ðây là ma nghiệp.

Giảng: 7. Chẳng những phỉ báng chánh pháp, mà cũng chẳng thích lắng nghe. Giả sử được nghe, liền sinh chê bai thế nầy thế nọ, chỉ trích thế nọ thế kia. Thấy người giảng Kinh nói pháp, cũng chẳng sinh tâm tôn trọng. Tự tuyên truyền cho mình, nói mình nói pháp thì đúng, còn người khác nói pháp đều sai, đó là ma nghiệp.

 

Lạc học thế luận xảo thuật văn từ, khai xiển nhị thừa, ẩn phước thâm pháp, hoặc dĩ diệu nghĩa thọ phi kỳ nhân, viễn ly Bồ-đề trụ ư tà đạo, thị vi ma nghiệp

Thích học thế luận xảo thuật văn từ, khai xiển thâm pháp ẩn phú của Nhị thừa, hoặc dùng diệu nghĩa truyền dạy cho người chẳng đáng dạy, xa rời Bồ đề, trụ nơi tà đạo. Ðây là ma nghiệp.

Giảng: 8. Thích học ngôn luận thế gian, xảo thuật văn từ. Tán thán khai xiển pháp nhị thừa, che lấp pháp đại thừa thâm sâu. Hoặc đem nghĩa lý diệu pháp, truyền dạy cho người chẳng có tâm tin, xa lìa đạo bồ đề, trụ ở nhà tà đạo, đó là ma nghiệp.

 

Dĩ đắc giải thoát, dĩ an ổn giả thường lạc thân cận nhi cúng dường chi, vị đắc giải thoát, vị an ổn giả bất khẳng thân cận diệc bất giáo hóa, thị vi ma nghiệp;

Người đã được giải thoát đã được an ổn thời thường thích gần gũi mà cúng dường. Người chưa giải thoát chưa an ổn thời chẳng chịu thân cận, cũng chẳng giáo hoá. Ðây là ma nghiệp.

Giảng: 9. Người đã đắc được giải thoát, người đã được an ổn rồi, thường thích gần gũi thiện tri thức, hoan hỉ cúng dường Phật Pháp Tăng Tam Bảo. Người chưa được giải thoát và an ổn, chẳng chịu gần gũi thiện tri thức, cũng chẳng chịu giáo hoá chúng sinh, đó là ma nghiệp.

 

Tăng trưởng ngã mạn, vô hữu cung kính, ư chư chúng sanh đa hành não hại, bất cầu chánh pháp chân thật trí tuệ, kỳ tâm tệ ác nan khả khai ngộ, thị vi ma nghiệp

Thêm lớn ngã mạn không cung kính. Với các chúng sanh làm nhiều sự não hại, chẳng cầu chánh pháp trí huệ chơn thiệt. Tâm ý tệ ác khó khai ngộ được. Ðây là ma nghiệp.

Giảng: 10. Tăng trưởng ngã mạn, lúc nào cũng cảm thấy mình giỏi, buông bỏ mình chẳng đặng, sinh ra tâm cống cao ngã mạn, đối với Tam Bảo không sinh tâm cung kính. Đối với các chúng sinh, làm nhiều việc não hại. Chẳng cầu chánh pháp trí huệ chân thật, chuyên cầu tà pháp của tà tri thức, tâm ý của họ rất tệ ác, chẳng dễ giáo hoá, rất khó khiến cho họ khai ngộ được, đó là ma nghiệp.

 

Thị vi thập. Bồ-Tát Ma-ha-tát ưng tốc viễn ly, cần cầu Phật nghiệp.

Chư Bồ tát phải mau xa lìa mười ma nghiệp này mà siêng cầu Phật nghiệp.

Giảng: Đó là mười thứ ma nghiệp của Bồ Tát. Đại Bồ Tát nên sớm xa lìa mười thứ ma nghiệp, siêng cầu tất cả Phật nghiệp.

 

=======================================

Thập Chủng Xả Ly Ma Nghiệp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng xả ly ma nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ tát có mười điều bỏ rời ma nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ xả lìa ma nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

 

Cận thiện tri thức cung kính cúng dường, xả ly ma nghiệp

Gần thiện tri thức cung kính cúng dường. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 1. Gần gũi thiện tri thức, cung kính Tam Bảo, cúng dường Tam Bảo, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Bất tự tôn cử, bất tự tán thán, xả ly ma nghiệp

Chẳng tụ cao tự đại, chẳng tự khen ngợi. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 2. Chẳng tự cao tự đại, chẳng tự khen ngợi mình, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Ư Phật thâm pháp tín giải bất báng, xả ly ma nghiệp

Nơi thâm pháp của Phật tin hiểu chẳng chê. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 3. Nơi pháp Phật nói thâm sâu, tin hiểu chẳng nghi, chẳng sinh tâm phỉ báng, chẳng nói lời phỉ báng, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Vị tằng vong thất nhất thiết trí tâm, xả ly ma nghiệp

Chưa từng quên mất tâm nhứt thiết trí. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 4. Chưa từng quên mất tâm nhất thiết trí, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Cần tu diệu hạnh hằng bất phóng dật, xả ly ma nghiệp

Siêng tu diệu hạnh hằng chẳng phóng dật. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 5. Siêng tu diệu hạnh, thường giữ quy cụ, chẳng khi nào phóng dật, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Thường cầu nhất thiết Bồ-tát tạng Pháp, xả ly ma nghiệp

Thường cầu tất cả pháp Bồ Tát tạng. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 6. Thường cầu tạng pháp của tất cả Bồ Tát tu, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Hằng diễn thuyết Pháp, tâm vô bì quyện, xả ly ma nghiệp

Hằng diễn thuyết chánh pháp tâm không mỏi nhọc. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 7. Luôn diễn nói Phật pháp, tâm không mệt mỏi, cũng chẳng nhàm chán, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Quy y thập phương nhất thiết chư Phật, khởi cứu hộ tưởng, xả ly ma nghiệp

Quy y tất cả chư Phật mười phương, phát khởi tưởng niệm được cứu hộ. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 8. Nương tựa mười phương tất cả chư Phật, khởi tâm cứu hộ chúng sinh, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Tín thọ ức niệm nhất thiết chư Phật, thần lực gia trì, xả ly ma nghiệp

Tin thọ ức niệm tất cả chư Phật thần lực gia trì. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 9. Tin thọ tất cả chư Phật, nghĩ nhớ tất cả chư Phật, được đại oai thần lực của chư Phật gia trì, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Dữ nhất thiết Bồ Tát đồng chủng thiện căn, bình đẳng vô nhị, xả ly ma nghiệp.

Cùng tất cả Bồ Tát đồng gieo căn lành bình đẳng không hai. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Giảng: 10. Với tất cả Bồ Tát đồng gieo trồng tất cả căn lành, bình đẳng không hai, đó là xả lìa ma nghiệp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức năng xuất ly nhất thiết ma đạo.

Nếu chư Bồ tát an trụ mười pháp này thời có thể ra khỏi tất cả ma đạo.

Giảng: Đó là mười thứ xả lìa ma nghiệp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ lìa khỏi tất cả thiên ma ngoại đạo.

===================================

 

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng kiến Phật. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười môn kiến Phật. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ thấy Phật. Mười Phật tức là mười thân, mỗi một thứ Phật, đều có mười thứ công đức. Những gì là mười thứ thấy Phật ? Đó là :

 

Ư an trụ thế gian thành chánh giác Phật Vô Trước kiến

Vô trước kiến, đối với Phật thành Chánh giác an trụ thế gian.

Giảng: 1. An trụ thế gian thành Chánh Giác Phật, là thấy không chấp trước, tức là bồ đề thân. Có mười thứ không chấp :

I. Đối với tất cả thế gian không chấp.
II. Đối với tất cả chúng sinh không chấp.
III. Đối với tất cả pháp không chấp.
IV. Đối với tất cả việc làm không chấp.
V. Đối với tất cả căn lành không chấp.
VI. Đối với tất cả nơi sinh không chấp.
VII. Đối với tất cả nguyện không chấp.
VIII. Đối với tất cả hạnh không chấp.
IX. Đối với tất cả Bồ Tát không chấp.
X. Đối với tất cả Phật không chấp.

 

Nguyện Phật xuất sanh kiến;

Xuất sanh kiến, đối với nguyện Phật.

Giảng: 2. Nguyện Phật, là thấy xuất sinh, tức là nguyện thân. Có mười thứ xuất sinh :

I. Từ trời sinh xuống.
II. Bồ Tát thọ sinh.
III. Xuất gia học đạo.
IV. Dưới cội bồ đề thành Chánh Giác.
V. Chuyển bánh xe pháp.
VI. Giáo hoá chúng sinh, cúng dường chư Phật.
VII. Bất khả thuyết đủ thứ thân Phật.
VIII. Đủ thứ trang nghiêm, vô lượng trang nghiêm, Như Lai tự tại nhất thiết trí tạng.
IX. Vô lượng vô số thanh tịnh chúng sinh.

X. Ba đời chư Phật đủ thứ căn tánh, đủ thứ tinh tấn, đủ thứ hạnh giải, ở trong ba đời, thành Đẳng Chánh Giác.

 

Nghiệp báo Phật thâm tín kiến

Thâm tín kiến, đối với nghuệp báo Phật.

Giảng: 3. Nghiệp báo Phật, là thấy tin sâu, tức là trang nghiêm thân, có mười thứ tin sâu :

I. Tin tất cả pháp không.
II. Tin tất cả pháp vô tướng.
III. Tin tất cả pháp vô nguyện.
IV. Tin tất cả pháp vô tác.
V. Tin tất cả pháp không phân biệt.
VI. Tin tất cả pháp không chỗ nương.
VII. Tin tất cả pháp không thể lường.
VIII. Tin tất cả pháp vô hữu thượng.
IX. Tin tất cả pháp lìa siêu việt.
X. Tất cả pháp không sinh.

 

Trụ trì Phật tùy thuận kiến;

Tùy thuận kiến, đối với trụ trì Phật.

Giảng: 4. Trụ trì Phật, là thấy tuỳ thuận, tức là trụ trì thân, có mười thứ tuỳ thuận chúng sinh mà làm Phật sự:

I. Thị hiện sắc thân.
II. Vang diệu âm thanh.
III. Có sở thọ.
IV. Không sở thọ.
V. Dùng đất nước gió lửa.

VI. Thần lực tự tại thị hiện tất cả cảnh giới sở duyên.
VII. Đủ thứ danh hiệu.
VIII. Dùng cảnh giới cõi Phật.
IX. Nghiêm tịnh cõi Phật.
X. Yên lặng không nói.

 

Niết Bàn Phật thâm nhập kiến

Thâm nhập kiến, đối với Niết bàn Phật.

Giảng: 5. Niết Bàn Phật, là thấy vào sâu, tức là hoá thân. Biết rõ tức là vào sâu, có mười thứ biết rõ:

I. Biết rõ chân như Niết Bàn.
II. Biết rõ thật tế Niết Bàn
III. Biết rõ pháp giới Niết Bàn.
IV. Biết rõ hư không Niết Bàn.
V. Biết rõ pháp tánh Niết Bàn.

VI. Biết rõ ly dục tế Niết Bàn.
VII. Biết rõ vô tướng tế Niết Bàn.
VIII. Biết rõ ngã tánh tế Niết Bàn.
IX. Biết rõ nhất thiết pháp tánh tế Niết Bàn.
X. Biết rõ chân như tế Niết Bàn.

 

Pháp giới Phật phổ chí kiến;

Phổ chí kiến, đối với pháp giới Phật.

Giảng: 6. Pháp giới Phật, là thấy đến khắp, tức là pháp thân, đến khắp cùng tất cả mọi nơi, có mười thứ đến:

I. Đến tất cả vật.
II. Đến tất cả thế gian.
III. Đến tất cả chúng sinh.
IV. Đến tất cả cõi nước.
V. Đến tất cả pháp.

VI. Đến tất cả hư không.
VII. Đến tất cả ba đời.
VIII. Đến tất cả hữu vi.
IX. Đến tất cả vô vi.
X. Đến tất cả lời nói âm thanh.

 

Tâm Phật an trụ kiến

An trụ kiến, đối với tâm Phật.

Giảng: 7. Tâm Phật, là thấy an trụ, tức là oai thế thân, có mười thứ trụ :

I. Thường trụ đại bi.
II. Trụ đủ thứ thân, làm các Phật sự.
III. Trụ tâm bình đẳng, chuyển tịnh pháp luân.
IV. Trụ bốn biện tài, nói vô lượng pháp.
V. Trụ tất cả Phật pháp không nghĩ bàn.

VI. Trụ thanh tịnh âm.
VII. Trụ vô lượng cõi.
VIII. Trụ bất khả thuyết pháp giới thâm sâu.
IX. Trụ hiện tất cả thần thông tối thắng.
X. Trụ hay khai thị pháp rốt ráo không có chướng ngại.

 

Tam Muội Phật vô lượng vô y kiến

Vô lượng vô y kiến, đối với tam muội Phật.

Giảng: 8. Tam muội Phật, là thấy vô lượng vô y, tức là phước đức thân. Phật có mười thứ tam muội Phật vô lượng không thể nghĩ bàn, thường ở trong định, khắp tất cả mọi nơi, diễn nói diệu pháp:

I. Khắp vì chúng sinh, diễn nói diệu pháp.
II. Khắp vì chúng sinh, nói vô ngã tế.
III. Khắp vào ba đời.
IV. Khắp vào mười phương cõi Phật rộng lớn.
V. Khắp hiện vô lượng đủ thứ thân Phật

VI. Tuỳ các chúng sinh đủ thứ tâm hiểu biết, mà hiện thân thuyết pháp.
VII. Nói tất cả pháp, lìa dục chân tế.
VIII. Diễn nói tất cả duyên khởi tự tánh.
IX. Thị hiện vô lượng thế gian xuất thế gian, trang nghiêm rộng lớn, khiến các chúng sinh, thường được thấy Phật.
X. Khiến các chúng sinh, đều thông đạt được tất cả Phật pháp, vô lượng giải thoát, rốt ráo đến bờ bên kia vô thượng.

 

Bổn tánh Phật minh liễu kiến;

Minh liễu kiến, đối với bổn tánh Phật.

Giảng: 9. Bổn tánh Phật, là thấy thấu rõ. Thấu rõ tức là trí thân, có mười thứ biết hết tất cả pháp không thừa sót:

I. Biết tất cả pháp quá khứ.
II. Biết tất cả pháp vị lai.
III. Biết tất cả pháp hiện tại.
IV. Biết tất cả lời lẽ của pháp.
V. Biết tất cả tâm chúng sinh.

VI. Biết tất cả căn lành của Bồ Tát thượng trung hạ đủ thứ phần vị.
VII. Biết tất cả Phật viên mãn trí, và các căn lành, không tăng không giảm.
VIII. Biết tất cả pháp, đều do từ duyên khởi.
IX. Biết tất cả loại thế giới.
X. Biết tất cả các việc khác nhau trong pháp giới, như lưới Nhân đà la.

 

Tùy lạc Phật phổ thọ kiến.

Phổ thọ kiến, đối với tùy lạc Phật.

Giảng: 10. Tuỳ lạc Phật, là thấy thọ khắp, tức là ý sinh thân, tuỳ ý mình và người, chẳng có thân nào mà chẳng thọ. Có mười thứ Phật sự, khiến cho chúng sinh thấy thọ khắp:

I. Nếu có chúng sinh, chuyên tâm nghĩ nhớ, thì liền hiện ra trước họ.
II. Nếu có chúng sinh, tâm không điều thuận, thì vì họ thuyết pháp.
III. Nếu có chúng sinh, hay sinh tịnh tín, đều khiến cho họ đắc được vô lượng căn lành.
IV. Nếu có chúng sinh, vào được pháp vị, thảy đều hiện chứng.
V. Giáo hoá chúng sinh, chẳng có mỏi nhàm.

VI. Đến các cõi Phật, đến đi vô ngại.
VII. Đại bi chẳng bỏ tất cả chúng sinh.
VIII. Hiện thân biến hoá, luôn chẳng đoạn tuyệt.
IX. Thần thông tự tại, chưa từng nghỉ ngơi.
X. An trụ pháp giới, hay quán sát khắp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ thử pháp, tức thường đắc kiến vô thượng Như Lai.

Nếu chư Bồ tát an trụ mười môn kiến Phật này thời thường được thấy đức Như Lai vô thượng.

Giảng: Ở trên là mười thứ pháp thấy Phật. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ thấy được Như Lai vô thượng.

 

==================================

Thập Chủng Phật Nghiệp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Phật nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười Phật nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: ác vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ Phật nghiệp. Những gì là mười? Đó là:

 

Tùy thời khai đạo, thị Phật nghiệp, lệnh chánh tu hành cố.

Tùy thời tiết để khai đạo, là Phật nghiệp, vì làm cho tu hành Chánh pháp.

Giảng: 1. Tuỳ thời khai đạo tất cả chúng sinh, là Phật nghiệp, vì khiến cho chúng sinh chân chánh tu hành.

 

Mộng trung lệnh kiến, thị Phật nghiệp, giác tích thiện căn cố.

Trong chiêm bao khiến thấy, là Phật nghiệp, vì giác ngộ thiện căn thưở xưa.

Giảng: 2. Trong mộng khiến cho tất cả chúng sinh thấy Phật, là Phật nghiệp, vì có thể giác ngộ căn lành thuở xưa đã tu.

 

Vi tha diễn thuyết sở vị văn Kinh, thị Phật nghiệp; lệnh sanh trí đoạn nghi cố.

Vì người mà diễn thuyết kinh chưa được nghe, là Phật nghiệp, vì làm cho sanh trí dừt nghi.

Giảng: 3. Vì chúng sinh diễn nói Kinh điển chưa từng nghe qua, là Phật nghiệp, vì khiến cho họ sinh ra trí huệ dứt trừ nghi hoặc.

 

Vi hối triền sở triền giả thuyết xuất ly Pháp, thị Phật nghiệp; lệnh ly nghi tâm cố.

Vì người ăn năn bị kiết sử triền phược mà nói pháp xuất ly, là Phật nghiệp, vì làm cho lìa tâm nghi.

Giảng: 4. Vì người ăn năn ràng buộc của sự ràng buộc thân tâm bởi tập khí, chẳng được tự tại, đối với họ diễn nói pháp xuất ly thế gian, là Phật nghiệp, vì khiến cho họ lìa khỏi tâm nghi hoặc.

 

Nhược hữu chúng sanh khởi xan lận tâm, nãi chí ác tuệ tâm, nhị thừa tâm, tổn hại tâm, nghi hoặc tâm, tán động tâm, kiêu mạn tâm, vi hiện Như Lai chúng tướng trang nghiêm thân, thị Phật nghiệp; sanh trưởng quá khứ thiện căn cố.

Nếu có chúng sanh khởi tâm xan lẫn nhẫn đến khởi tâm ác huệ, tâm Nhị thừa, tâm tổn hại, tâm nghi hoặc, tâm tán động, tâm kiêu mạn, Bồ Tát vì họ hiện thân tướng hảo trang nghiêm của Như Lai, là Phật nghiệp, vì sanh trưởng quá khứ hiện căn.

Giảng: 5. Nếu có chúng sinh, khởi tâm tham sẻn, cho đến tâm ác huệ (thế trí biện thông), tâm nhị thừa (Thanh Văn và Duyên Giác), tâm tổn hại (tất cả chúng sinh), tâm nghi hoặc (chẳng tin Phật), tâm tán động (tinh thần chẳng tập trung), tâm kiêu mạn (cống cao ngã mạn), vì họ hiện thân Như Lai các tướng trang nghiêm, ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, là Phật nghiệp, vì sinh trưởng căn lành quá khứ.

 

Ư chánh pháp nan ngộ thời, quảng vi thuyết Pháp, lệnh kỳ văn dĩ, đắc Đà-la-ni trí, thần thông trí, phổ năng lợi ích vô lượng chúng sanh, thị Phật nghiệp; thắng giải thanh tịnh cố.

Lúc khó gặp Chánh pháp, vì họ mà rộng thuyết pháp, làm cho họ nghe xong được trí Ðà la ni, trí thần thông, khắp có thể lợi ích vô lượng chúng sanh, là Phật nghiệp, vì thắng giải thanh tịnh.

Giảng: 6. Khi lúc tất cả chánh pháp khó gặp, rộng vì tất cả chúng sinh, diễn nói diệu pháp, khiến cho họ nghe rồi, đắc được trí đà la ni (tổng trì), trí thần thông, hay lợi ích khắp vô lượng vô số chúng sinh, là Phật nghiệp, vì thù thắng liễu giải thanh tịnh.

 

Nhược hữu ma sự khởi, năng dĩ phương tiện hiện hư không giới đẳng thanh, thuyết bất tổn não tha Pháp dĩ vi đối trì, lệnh kỳ khai ngộ, chúng ma văn dĩ uy quang hiết diệt, thị Phật nghiệp; chí lạc thù thắng, uy đức Đại cố.

Nếu có ma sự khởi lên, có thể dùng phương tiện hiện tiếng khắp hư không giới thuyết pháp chẳng tổn não người khác, dùng đây để đối trị làm cho họ được khai ngộ. Chúng ma nghe xong, oai quang tắt mất. Ðây là Phật nghiệp, vì chí thích oai đức lớn thù thắng.

Giảng: 7. Nếu có ma sự sinh khởi, hay dùng phương tiện thị hiện âm thanh đồng cõi hư không, diễn nói pháp đừng tổn não ma, để đối trị ma sự, khiến cho ma cũng khai ngộ, chúng ma nghe pháp rồi, oai quang của ma diệt mất, là Phật nghiệp, vì chí thích rất thù thắng, oai đức đặc biệt rộng lớn.

 

Kỳ tâm Vô gián, thường tự thủ hộ, bất lệnh chứng nhập nhị thừa chánh vị, nhược hữu chúng sanh căn tánh vị thục, chung bất vi thuyết giải thoát cảnh giới, thị Phật nghiệp; Bổn Nguyện sở tác cố.

Tâm Bồ tát không xen hở thường tự giữ gìn, chẳng cho chứng nhập chánh vị Nhị thừa. Nếu có chúng sanh căn tánh chưa thành thục thời trọn chẳng vì họ mà nói cảnh giới giải thoát. Ðây là Phật nghiệp vì bổn nguyện mà làm.

Giảng: 8. Trong tâm không gián đoạn, thường tự giữ gìn, khiến cho thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, chẳng khiến cho chứng nhập chánh vị nhị thừa. Nếu có chúng sinh căn lành chưa thành thục, thì trọn không vì họ nói pháp cảnh giới giải thoát, là Phật nghiệp, vì làm theo nguyện xưa.

 

Sanh tử kết lậu nhất thiết giai ly, tu Bồ Tát hạnh tướng tục bất đoạn, dĩ đại bi tâm nhiếp thủ chúng sanh, lệnh kỳ khởi hạnh cứu cánh giải thoát, thị Phật nghiệp; bất đoạn tu hành Bồ Tát hạnh cố.

Sanh tử kiết lậu tất cả đều lìa, tu hạnh Bồ tát nối tiếp chẳng dứt, dùnh tâm đại bi nhiếp thủ chúng sanh làm cho họ khởi hạnh rốt ráo giải thoát. Ðây là Phật nghiệp, vì chẳng dứt tu hành hạnh Bồ tát.

Giảng: 9. Sinh tử kết lậu, tất cả đều lìa khỏi, tu Bồ Tát hạnh liên tục không ngừng. Dùng tâm đại bi nhiếp lấy chúng sinh, khiến cho họ khởi tâm tu hành, rốt ráo được giải thoát, là Phật nghiệp, vì tu hành Bồ Tát hạnh không dứt.

 

Bồ-Tát Ma-ha-tát liễu đạt tự thân cập dĩ chúng sanh bản lai tịch diệt bất kinh bất bố nhi cần tu phước trí vô hữu yếm túc, tuy tri nhất thiết pháp vô hữu tạo tác nhi diệc bất xả chư Pháp tự tướng, tuy ư chư cảnh giới vĩnh ly tham dục nhi thường lạc chiêm phụng chư Phật sắc thân, tuy tri bất do tha ngộ nhập ư Pháp nhi chủng chủng phương tiện cầu nhất thiết trí, tuy tri chư quốc độ giai như hư không nhi thường lạc trang nghiêm nhất thiết Phật sát, tuy hằng quan sát vô nhân vô ngã nhi giáo hóa chúng sanh vô hữu bì yếm, tuy ư Pháp giới bản lai bất động nhi dĩ thần thông trí lực hiện chúng biến hóa, tuy dĩ thành tựu nhất thiết trí trí nhi tu Bồ Tát hạnh vô hữu hưu tức, tuy tri chư Pháp bất khả ngôn thuyết nhi chuyển tịnh Pháp luân lệnh chúng tâm hỉ, tuy năng thị hiện chư Phật thần lực nhi bất yếm xả Bồ Tát chi thân, tuy hiện nhập ư Đại bát Niết Bàn nhi nhất thiết xứ thị hiện thọ sanh, năng tác như thị quyền thật song hành Pháp, thị Phật nghiệp.

Ðại Bồ tát thấu rõ tự thân cùng với chúng sanh bổn lai tịch diệt, chẳng kinh sợ, mà siêng tu phước trí không nhàm dủ. Dẫu biết tất cả Pháp không tạo ác mà cũng chẳng bỏ tự tướng của các pháp. Dầu nơi các vảnh giới lìa hẳn tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng phụng thờ sắc thân của chư Phật. Dầu biết ngộ nhập các pháp chẳng do nơi người, mà dùng nhiều phương tiện cầu nhứt thiết trí. Dầu biết các quốc độ đều như hư không mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Dầu hằng quán sát vô nhơn vô ngã, mà giáo hoá chúng sanh không có mỏi nhàm. Dầøu nơi pháp giới bổn lai bất động, mà dùng thần thông trí lục hiện những biến hoá. Dầøu đã thành tựu nhứt thiết chủng trí, mà không ngớt tu hạnh Bố tát. Dầøu biết các pháp bất khả ngôn thuyết, mà chuyển tịnh pháp luân làm cho đại chúng hoan hỷ. Dầu có thể thị hiện chư Phật thần lực, mà chẳng nhàm bỏ thân Bồ tát. Dầu hiện nhập đại Niết bàn, mà thị hiện thọ sanh Tất cả xứ. Có thể thật hành pháp quyền thiệt song hành như vậy là Phật nghiệp.

Giảng: 10. Đại Bồ Tát thấu đạt thân mình và chúng sinh vốn là tịch diệt, nghe được đạo lý đó rồi, chẳng sợ sệt, chẳng kinh hãi, mà siêng tu phước tu trí, không khi nào nhàm đủ. Tuy biết tất cả pháp không có tạo tác, mà cũng chẳng bỏ tự tướng các pháp. Tuy đối với các cảnh giới vĩnh viễn lìa tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng khen ngợi sắc thân chư Phật. Tuy biết chẳng do người khác ngộ nhập nơi pháp, mà vẫn dùng đủ thứ phương tiện, cầu nhất thiết trí huệ. Tuy biết các cõi nước đều như hư không, mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Tuy luôn quán sát không người, không ta, mà giáo hoá chúng sinh, không khi nào nhàm mỏi. Tuy nơi pháp giới vốn bất động, mà dùng thần thông trí lực, hay thị hiện các tướng biến hoá. Tuy đã thành tựu trí nhất thiết trí, mà tu Bồ Tát hạnh, không có ngừng nghỉ. Tuy biết các pháp không thể nói, mà vẫn chuyển tịnh pháp luân, khiến cho tất cả chúng sinh, sinh tâm hoan hỉ. Tuy hay thị hiện chư Phật thần lực, mà chẳng nhàm bỏ thân Bồ Tát. Tuy thị hiện nhập Đại Bát Niết Bàn, mà vẫn thị hiện thọ sinh tất cả mọi nơi. Hay làm pháp quyền thật song hành như thế, là Phật nghiệp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc bất do tha giáo vô thượng vô sư quảng đại nghiệp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười Phật nghiệp này, thời được nghiệp quảng đại vô thượng vô sư chẳng do người dạy.

Giảng: Đó là mười thứ Phật nghiệp của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được nghiệp rộng lớn, vô thượng vô sư, không do người khác dạy.

 

=================================

Thập Chủng Mạn Nghiệp

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng mạn nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười mạn nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ mạn nghiệp. Những gì là mười? Đó là:

 

Ư sư, tăng, phụ mẫu, Sa Môn, Bà-la-môn, trụ ư chánh đạo hướng chánh đạo giả, tôn trọng phước điền sở nhi bất cung kính, thị mạn nghiệp;

Ðối với Sư, Tăng, Cha, Mẹ, Sa Môn, Bà La Môn trụ nơi chánh đạo hoặc hướng chánh đạo, là những phước điền đáng tôn trọng, mà chẳng cung kính. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 1. Đối với sư phụ, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, cha mẹ, Sa Môn, Bà La Môn, trụ nơi chánh đạo, chuyên tâm tu hành. Phải hướng về người tu chánh đạo, tôn trọng cúng dường, là phước điền nên làm, mà chẳng cung kính họ, là mạn nghiệp.

Xin mọi người chú ý! Người tại gia đối với người xuất gia phải cung kính, không thể khinh thường xem ai cũng chẳng ra gì, phê bình người xuất gia. Phải cúng dường người xuất gia, phải khen ngợi người xuất gia, như vậy mới không có mạn nghiệp, bằng không, tức là cống cao ngã mạn, chẳng những chẳng đắc được công đức, ngược lại tạo thêm tội lỗi. Theo nhân quả mà nói, thì nhất định sẽ đoạ lạc vào ba đường ác.
Nói đi cũng phải nói lại, chúng ta là người xuất gia, tiếp thọ người tại gia cúng dường, thế họ trồng ruộng phước. Cũng phải hồi quang phản chiếu, hãy nghĩ xem, hằng ngày mình có chân thật tu hành không? Do đó có câu:

“Hạt gạo thí chủ cho
Nặng bằng núi Tu Di
Ăn xong chẳng tu đạo
Mang lông đội sừng trả”.

Chúng ta nhận sự cung kính của người, mình phải phản tỉnh lại xem, mình có xứng đáng thọ người cung kính chăng? Mình mặc áo của người xuất gia, có khác với người tại gia chăng? Phải chăng suốt ngày cứ vọng tưởng vô ích chăng? Phải chăng suốt ngày đến tối nóng giận, đố kị chăng? Hoặc làm hại người khác tu đạo? Nếu có những tình hình như thế, thì không xứng đáng thọ người tại gia cung kính và cúng dường. Nếu miễn cưỡng thọ nhận, phải có tâm hổ thẹn. Chúng ta người tu đạo, phải luôn luôn chú ý, không thể ở trong đạo tràng hồ đồ lãng phí thời gian, tiếp thọ sự cúng dường của người tại gia như thế, thật là việc sai lầm và hết sức sai lầm.

Tại sao người tại gia cúng dường người xuất gia? Vì người xuất gia chuyên tâm tu hành, không có nhiều vọng tưởng, nhiều phiền não, đố kị, như người thế tục. Nếu được như thế thì, mới xứng đáng thọ nhận người tại gia cung kính và cúng dường. Nếu không chân thật tu hành, thậm chí sự kiền thành không bằng người tại gia, thì chẳng có tư cách thọ nhận người tại gia cung kính cúng dường. Điểm nầy phải giác ngộ cho thật sâu, đừng có nhận lầm mắt cá làm hạt châu, trà trộn vào Phật giáo ăn cơm.

Khi người tại gia cúng dường người xuất gia, cũng đừng có tâm phân biệt, đừng có tâm lựa chọn, rằng vị pháp sư nầy có tu hành, tôi phải cúng dường họ, vị pháp sư kia không tu hành, tôi chẳng cúng dường họ, đừng có tâm không chánh đáng như thế. Bất cứ ở tại đâu, đều nên cúng dường Tam Bảo, đừng có tìm lỗi lầm của Tam Bảo, bới lông tìm vết. Nếu cứ chuyên tìm mao bệnh của Tam Bảo, thì đó là cống cao ngã mạn.

 

Hoặc hữu Pháp sư hoạch tối thắng Pháp, thừa ư Đại-Thừa, tri xuất yếu đạo, đắc Đà-la-ni, diễn thuyết khế Kinh quảng đại chi Pháp vô hữu hưu tức, nhi ư kỳ sở khởi cao mạn tâm, cập ư sở thuyết pháp bất sanh cung kính, thị mạn nghiệp

Hoặc có Pháp Sư được pháp tối thắng ngồi Ðại thừa, biết đạo xuất yếu đắc đà la ni, diễn thuyết pháp quảng đại trong khế kinh không thôi nghỉ. Mà đối với bực ấy phát khởi tâm cao mạn và đối với pháp của bực ấy giảng nói chẳng có lòng cung kính. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 2. Hoặc có vị pháp sư, đã đắc được diệu pháp tối thù thắng, tu hành pháp môn đại thừa, biết đạo xuất thế, đắc được pháp Đà La Ni. Đà La Ni dịch là “Tổng trì”, tức là tổng tất cả pháp, trì vô lượng nghĩa. Hay diễn nói pháp khế kinh điển rộng lớn, không khi nào ngừng nghỉ, mà có người ở trong đạo tràng của vị ấy, khởi tâm cống cao ngã mạn, chẳng cung kính Tam Bảo, hoặc đối với pháp của vị ấy nói, cũng chẳng sinh tâm cung kính, là mạn nghiệp.

 

Ư chúng hội trung văn thuyết diệu pháp, bất khẳng thán mỹ lệnh nhân tín thọ, thị mạn nghiệp;

Ở trong chúng hội nghe thuyết diệu pháp chẳng chịu khen là hay cho người khác tin thọ. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 3. Ở trong đại chúng hải hội, nghe pháp sư diễn nói diệu pháp, chẳng chịu khen hay, khiến cho người tin thọ, là mạn nghiệp.

 

Hảo khởi quá mạn, tự cao lăng vật, bất kiến kỷ thất, bất tri tự đoản, thị mạn nghiệp

Ưa sanh lòng quá mạn, tự cao ngạo lấn người, chẳng thấy mình lỗi, chẳng biết mình dở. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 4. Ưa khởi lỗi lầm cống cao ngã mạn, tự cao ngạo lấn người, tự thấy mình giỏi hơn người, chẳng thấy lỗi mình, chẳng biết mình dở, là mạn nghiệp.

 

Hảo khởi qua quá mạn, kiến hữu đức nhân ưng tán bất tán, kiến tha tán thán bất sanh hoan hỉ, thị mạn nghiệp;

Ưa sanh lòng quá quá mạn, thấy có người tốt ưng khen chẳng khen, thấy điều khen ngợi không sanh hoan hỉ, đây là mạn nghiệp

Giảng: 5. Ưa khởi lỗi lầm ngã mạn, thấy người có đức, vốn được đáng khen mà chẳng khen. Thấy người khác khen ngợi, ngược lại chẳng sinh tâm hoan hỉ, đó là tâm đố kị đang tác quái, là mạn nghiệp.

 

Kiến hữu Pháp sư vi nhân thuyết Pháp, tri thị pháp, thị luật, thị chân thật, thị Phật ngữ, vi hiềm kỳ nhân diệc hiềm kỳ Pháp, tự khởi phỉ báng diệc lệnh tha báng, thị mạn nghiệp

Thấy có Pháp Sư và người thuyết pháp, biết là pháp, là luật, là chơn thiệt, là lời Phật, mà vì ghét người nên cũng ghét pháp, tự mình hủy báng cũng bảo người hủy báng. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 6. Thấy có pháp sư, vì người thuyết pháp, biết đúng pháp, đúng luật, là chân thật, là lời của Phật. Pháp của vị pháp sư đó nói, đều là đúng, nhưng vì hiềm vị pháp sư đó, cũng hiềm pháp của người đó nói, tự sinh khởi lời lẽ phỉ báng, đi các nới tuyên truyền, cũng khiến cho người sinh tâm phỉ báng, là mạn nghiệp.

 

Tự cầu cao tọa, tự xưng pháp sư, ưng thọ cung cấp, bất ưng chấp sự, kiến hữu kì cựu cửu tu hành nhân bất khởi phùng nghênh, bất khẳng thừa sự, thị mạn nghiệp

Tự cầu tòa cao, tự xưng Pháp Sư, ưng thọ người cung cấp, chẳng ưng chấp sự. Thấy bực kỳ cựu người tu hành lâu, chẳng chịu đứng dậy tiếp rước, chẳng chịu hầu hạ. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 7. Tự cầu toà cao, tự xưng là pháp sư, các vị nên cúng dường cho tôi, các vị nên cung kính tôi. Tôi là pháp sư, chẳng nên làm bất cứ việc gì. Thấy người già cả có hiền đức, hoặc bậc tu hành đã lâu, chẳng đứng dậy nghinh tiếp, chẳng chịu hầu hạ vị ấy, là mạn nghiệp.

 

Kiến hữu đức nhân, tần túc bất hỉ, ngôn từ thô quánh, tý kỳ quá thất, thị mạn nghiệp;

Thấy người có đức thời nhíu mày chẳng vui, nói lời thô lỗ tìm tòi lỗi lầm của bực ấy. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 8. Thấy người có đạo đức, thì nhíu mày chẳng vui, nói lời thô lỗ đối với các bậc trưởng lão và thiện tri thức, chẳng có lễ phép, chuyên tìm lỗi lầm của họ, là mạn nghiệp.

 

Kiến hữu thông tuệ tri Pháp chi nhân, bất khẳng thân cận cung kính cúng dường, bất khẳng ti vấn: Hà đẳng vi thiện? Hà đẳng bất thiện? Hà đẳng ưng tác? Hà đẳng bất ưng tác? tác Hà đẳng nghiệp, ư trường dạ trung nhi đắc chủng chủng lợi ích an lạc? ngu si ngoan ngận, ngã mạn sở thôn, chung bất năng kiến xuất yếu chi đạo, thị mạn nghiệp

Thấy có người thông minh biết chánh pháp, chẳng chịu gần gũi cung kính cúng dường, chẳng chịu hỏi han gì là thiện, gì là bất thiện, những gì nên làm, những gì chẳng nên làm, làm những công hạnh gì mà được mãi mãi lợi ích an lạc. Là kẻ ngu si ngoan cố chìm trong ngã mạn, trọn không thấy được đạo xuất yếu. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 9. Thấy có người thông minh trí huệ biết Phật pháp, chẳng chịu gần gũi họ, chẳng cung kính họ, chẳng cúng dường cho họ, lại chẳng chịu thưa hỏi: Những gì gọi là pháp lành? Những gì không nên làm? Những gì nên làm, để mãi mãi đắc được đủ thứ lợi ích an lạc. Nếu ngu si ngoan cố, bị chìm trong ngã mạn, chẳng giữ quy cụ, chẳng nghe sự giáo hoá, thì trọn không thể thấy được đạo thoát khỏi ba cõi, là mạn nghiệp.

 

Phục hưũ chúng sanh mạn tâm sở phước, chư Phật xuất thế bất năng thân cận cung kính cúng dường, tân thiện bất khởi, cựu thiện tiêu diệt, bất ưng thuyết nhi thuyết, bất ưng tránh nhi tránh, vị lai tất đọa hiểm nan thâm khanh, ư bách thiên kiếp thượng bất trị Phật, hà huống văn Pháp! đãn dĩ tằng phát Bồ-đề tâm cố, chung tự tỉnh ngộ, thị mạn nghiệp

Lại có chúng sanh tâm khinh mạn che đậy, chư Phật xuất thế chẳng có thể thân cận cung kính cúng dường, thiện căn mới chẳng sanh, thiện căn cũ tiêu mất, chẳng nên nói lại nói, chẳng nên cãi lại cãi. Ở vị lai tất cả phải đọa hầm sâu hiểm nạn trong trăm ngàn kiếp còn chẳng gặp Phật huống là được nghe pháp. Chỉ do từ trước đã từng phát Bồ đề tâm nên trọn tự tỉnh ngộ. Ðây là mạn nghiệp.

Giảng: 10. Lại có chúng sinh, bị tâm ngã mạn che đậy, cho nên chư Phật ra đời, không được gần gũi chư Phật, không được cung kính chư Phật, không được cúng dường chư Phật. Việc thiện mới chẳng sinh khởi, còn việc thiện cũ tiêu diệt, chẳng nên nói mà nói, chẳng nên tranh mà tranh. Những hành vi đó, nếu không biết sửa đổi, thì vị lai sẽ bị đoạ lạc vào hố sâu nguy nan. Trong trăm ngàn kiếp, không gặp được Phật, hà huống là nghe pháp. Nhưng do quá khứ đã từng phát bồ đề tâm, cuối cùng vẫn sẽ có một ngày nào đó, tự tỉnh ngộ trước kia đã tạo đủ thứ mạn nghiệp, lập tức sám hối, lại phát bồ đề tâm, đó là mạn nghiệp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát ly thử mạn nghiệp

Nếu chư Bồ Tát lìa mười mạn nghiệp này thời được mười trí nghiệp.

Giảng: Đó là mười thứ mạn nghiệp.

 

Mười thứ mạn nghiệp nầy đã giảng xong, tôi có ý tưởng là, chúng ta ở trong đạo tràng đừng có tạo mạn nghiệp, phải làm nhiều công đức, mới có thể tiêu diệt mạn nghiệp quá khứ. Trước hết, nên nói về sám hối, do đó có câu : “ Tội lỗi tày trời, sám hối liền tiêu”. Sám hối như thế nào? Phải ở trước mặt bốn chúng, kể ra hết tội của mình, và phát nguyện từ nay về sau, tuyệt đối không tái phạm nữa. Như vậy thì Phật Bồ Tát sẽ tha thứ cho bạn, thay thế nghiệp của bạn, vì trước kia là vô tâm mà phạm, nhưng từ nay về sau, mới là cố ý. Do đó có câu : “Biết rõ cố phạm”, thì dù có sám hối, cũng chẳng dễ gì tiêu diệt, mà trở thành định nghiệp, tương lai chắc chắn sẽ thọ nhân quả. Có người đừng có nghĩ rằng: Ban ngày tạo tội, ban đêm cầu nguyện, cho rằng không có tội. Che đậy sự tạo nghiệp của mình, mà tiếp tục cầu nguyện. Tội nghiệp tương lai sẽ tích tụ nhiều như núi Tu Di, như vậy không đoạ địa ngục chăng!

Trong đạo tràng của chúng ta, có hoá thân của chư Phật mười phương, có hoá thân của chư Bồ Tát mười phương, cũng có hoá thân của các Thánh nhân A La Hán, còn có Thiên Long bát bộ hộ pháp. Chúng ta ở trong đạo tràng, nếu cứ quấy nhiễu người khác, cứ tìm lỗi lầm của người khác, thì cũng giống như tìm lỗi lầm của mười phương chư Phật Bồ Tát, cho đến cũng giống như tìm lỗi lầm không đúng của các vị Thánh nhân mười phương. Ở trong đạo tràng, một mặt thì tu hành, một mặt thì tạo nghiệp, tu thì ít mà tạo nghiệp thì nhiều, cũng giống như lấy và rút tiền trong ngân hang, lấy tiền thì nhiều, bỏ tiền vào thì ít, tương lai tín dụng sẽ bị phá sản. Do đó có câu:

“Thiện ác là hai con đường,
Tu thì tu, tạo thì tạo”.

Đừng có ở trong đạo tràng, chỉ biết tạo nghiệp ác, chẳng biết tạo nghiệp lành. Phải thường tìm chỗ nào mình không đúng, đừng có tìm chỗ không đúng của người khác. Nếu cứ chuyên đi tìm người khác quấy nhiễu, chướng ngại người khác tu đạo, thì chẳng những chẳng có ích lợi gì đối với mình, mà tương lai phải thọ quả báo, hậu quả không cần nói cũng biết.

 

==============================

Thập Chủng Trí Nghiệp

Tức đắc thập chủng trí nghiệp. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Ðây là mười trí nghiệp. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Nếu các Bồ Tát lìa khỏi nghiệp ngã mạn nầy, thì sẽ đắc được mười thứ trí nghiệp. Những gì là mười? Đó là:

 

Tín giải nghiệp báo, bất hoại nhân quả, thị trí nghiệp

Tin hiểu nghiệp báo chẳng hoại nhơn quả. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 1. Tin sâu nhân quả, hiểu rõ nhân quả, minh bạch đạo lý khởi hoặc tạo nghiệp thọ báo. Do đó, có câu: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”, luật nhân quả chẳng bao giờ sai, đó là trí nghiệp.

 

Bất xả Bồ-đề tâm, thường niệm chư Phật, thị trí nghiệp

Chẳng bỏ Bồ đề tâm, thường niệm chư Phật. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 2. Chẳng xả bỏ bồ đề tâm, thường niệm mười phương chư Phật, đó là trí nghiệp.

 

Cận thiện tri thức cung kính cúng dường, kỳ tâm tôn trọng chung vô yếm đãi, thị trí nghiệp

Gần thiện tri thức cung kính cúng dường hết lòng tôn trọng, trọn không chán không lười. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 3. Gần gũi thiện tri thức, xa lìa ác tri thức, đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Chẳng những gần gũi thiện tri thức, mà còn phải cung kính thiện tri thức, còn phải cúng dường thiện tri thức, sinh tâm tôn trọng, vĩnh viễn không nhàm mỏi giải đãi, đó là trí nghiệp.

 

Lạc Pháp, lạc nghĩa vô hữu yếm túc, viễn ly tà niệm, cần tu chánh niệm, thị trí nghiệp

Thích pháp thích nghĩa không nhàm đủ, xa lìa tà niệm, siêng tu chánh niệm. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 4. Hoan hỉ Phật pháp và nghĩa lý, không khi nào nhàm đủ, phải xa lìa tà niệm, chẳng sinh vọng niệm bất chánh, phải siêng tu chánh niệm, mà niệm thật tánh của các pháp, đó là trí nghiệp.

 

Ư nhất thiết chúng sanh ly ư ngã mạn, ư chư Bồ-tát khởi Như Lai tưởng, ái trọng chánh pháp như tích kỷ thân, tôn phụng Như Lai như hộ kỷ mạng, ư tu hành giả sanh chư Phật tưởng, thị trí nghiệp

Ðối với tất cả chúng sanh, lìa ngã mạn. Ðối với chư Bồ Tát tưởng như Phật. Mến trọng chánh pháp chẳng tiếc thân mình. Tôn thờ Như Lai như hộ mạng mình. Với người tu hành tưởng là Phật. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 5. Đối với tất cả chúng sinh, lìa khỏi tâm ngã mạn. Coi chúng sinh là cha mẹ của mình trong quá khứ, xem chúng sinh là những vị Phật tương lai, nên quán sát như thế, thì sẽ chẳng sinh tâm ngã mạn. Đối với tất cả Bồ Tát, sinh tâm nghĩ tưởng Như Lai. Ái trọng chánh pháp, như tiếc thân mạng của mình. Tôn kính phụng thờ Như Lai, giống như bảo hộ thân mạng của mình. Đối với tất cả những người tu hành, đều sinh tâm nghĩ tưởng như đối đãi với chư Phật, tại sao? Vì người tu hành, tương lai sẽ thành Phật, đó là trí nghiệp.

 

Thân, ngữ, ý nghiệp vô chư bất thiện, tán mỹ hiền thánh, tùy thuận Bồ-đề, thị trí nghiệp;

Ba nghiệp thân, khẩu và ý không có sự bất thiện, ca ngợi bực Hiền Thánh, tùy thuận Bồ đề. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 6. Thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, không có mười điều ác bất thiện, khen ngợi tất cả Hiền Thánh, tuỳ thuận bồ đề đạo, đó là trí nghiệp.

 

Bất hoại duyên khởi, ly chư tà kiến, phá ám đắc minh, chiếu nhất thiết pháp, thị trí nghiệp

Chẳng hoại duyên khởi, lìa những tà kiến phá si ám được sáng suốt chiếu rõ tất cả pháp. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 7. Chẳng phá hoại pháp duyên khởi, lìa khỏi tất cả tà kiến, tức là: Thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến, kiến thủ kiến, tà kiến. Phá trừ đen tối, đắc được ánh sáng, chiếu soi tất cả các pháp, đó là trí nghiệp.

 

Thập chủng hồi hướng tùy thuận tu hành, ư chư Ba-la-mật khởi từ mẫu tưởng, ư thiện xảo phương tiện khởi Từ Phụ tưởng, dĩ thâm tịnh tâm nhập bồ đề xá, thị trí nghiệp

Mười môn hồi hướng tùy thuận tu hành. Nơi các môn Ba la mật tưởng là từ mẫu. Nơi thiện xảo phương tiện tưởng là từ phụ. Dùng tâm thâm tịnh nhập nhà Bồ đề. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 8. Y chiếu mười thứ pháp hồi hướng, tuỳ thuận tu hành. Đối với tất cả các pháp môn Ba La Mật, sinh khởi tưởng mẹ hiền, giống như từ ái của người mẹ hiền. Đối với pháp thiện xảo phương tiện, sinh khởi tưởng cha lành. Dùng tâm tin thanh tịnh thâm sâu, vào nhà bồ đề, đó là trí nghiệp.

 

Thí, giới, đa văn, chỉ quán, phước tuệ, như thị nhất thiết trợ đạo chi Pháp thường cần tích tập vô hữu yếm quyện, thị trí nghiệp

Thí, giới, đa văn, chỉ, quán, phước và huệ, tất cả pháp trợ đạo như vậy thường siêng chứa nhóm không nhàm mỏi. Ðây là trí nghiệp.

Giảng: 9. Bố thí hoặc trì giới, hoặc đa văn, hoặc tu chỉ quán, hoặc tu phước huệ, tất cả pháp trợ đạo như vậy, thường siêng tích tập đủ thứ căn lành, không có nhàm mỏi, đó là trí nghiệp.

 

Nhược hữu nhất nghiệp vi Phật sở tán, năng phá chúng ma phiền não đấu tranh, năng ly nhất thiết chướng, cái, triền, phược, năng giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh, năng tùy thuận trí tuệ nhiếp thủ chánh pháp, năng nghiêm tịnh Phật sát, năng phát khởi thông minh, giai cần tu tập vô hữu giải thoái, thị trí nghiệp.

Nếu có một nghiệp được đức Phật khen ngợi có thể phá chúng ma trừ phiền não đấu tránh, có thể rời lìa tất cả chướng cái triền phược, có thể giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, có thể tùy thuận trí huệ nhiếp thủ chánh pháp, có thể nghiêm tịnh c

Giảng: 10. Nếu có một thứ nghiệp, được Phật khen ngợi, hay phá được tất cả các ma phiền não đấu tranh. Lìa được tất cả chướng nghiệp, che đậy, ràng buộc. Hay giáo hoá điều phục được tất cả chúng sinh. Hay tuỳ thuận nhất thiết trí huệ, nhiếp lấy tất cả chánh pháp, hay trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật. Hay phát khởi dũng mãnh, đều siêng tu tập, không khi nào giải đãi thối chuyển, đó là trí nghiệp.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc Như Lai nhất thiết thiện xảo phương tiện vô thượng đại trí nghiệp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười trí nghiệp này thời được tất cả thiện xảo phương tiện đại trí nghiệp vô thượng của đức Như Lai.

Giảng: Đó là mười thứ trí huệ. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được đại trí nghiệp vô thượng tất cả thiện xảo phương tiện của Như Lai.

 

===================================

Thập Chủng Ma Sở Nhiếp Trì

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng ma sở nhiếp trì. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều bị ma nhiếp trì. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật! Đại Bồ Tát có mười thứ ma nhiếp trì. Mỗi ngày chúng ta làm gì, có phải đều được Phật nhiếp trì chăng? Hay là ma nhiếp trì? Hãy xem đoạn kinh văn dưới đây, thì mình sẽ biết rõ về mình, sẽ nhận thức rõ về mình. Những gì là mười thứ ma nhiếp trì ? Đó là:

 

Giải đãi tâm, ma sở nhiếp trì;

Tâm lười biếng, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 1. Tâm giải đãi, là bị ma nhiếp trì.

 

Chí lạc hiệp liệt, ma sở nhiếp trì

Trí nguyện hèn kém, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 2. Chí nguyện hẹp kém, ưa thích hạ liệt. Có người nói : Tu hành là việc của bậc trượng phu, tôi chẳng phải là trượng phu, cho nên chẳng tu hành. Lại có người nói : Tu hành là việc của bậc Thánh nhân, tôi chẳng phải là Thánh nhân, tôi chẳng muốn tu hành. Người có những tư tưởng như thế, là bị ma nhiếp trì.

 

Ư thiểu hạnh sanh túc, ma sở nhiếp trì

Nơi công hạnh chút ít cho là đủ, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 3. Tu hành vừa mới có chút thành tựu, bèn sinh tâm biết đủ, trong tâm nghĩ : Chúng ta tu đến trình độ nầy là được rồi, không cần phải tinh tấn nữa, đó là bị ma nhiếp trì. Chúng ta phải phản tỉnh, phải kiểm tra lại, mỗi ngày tinh tấn nhiều, hay là giải đãi nhiều ?

 

Thọ nhất phi dư, ma sở nhiếp trì

Lãnh thọ một hạnh, từ chối những hạnh khác, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 4. Mình thọ trì một thứ pháp, mà phỉ báng các pháp khác, phê bình nói nó không đúng, chẳng phải Phật nói. Nếu chẳng phải bị ma nhiếp trì, thì có thể nói là biên kiến, nói tầm bậy ! Tự nói mình đúng, nói người khác sai, phàm là có biên kiến như thế, đều bị ma nhiếu trì. Nếu người bị ma nhiếp trì, hy vọng hãy mau thay đổi tư duy chẳng chánh đáng như thế. Do đó có câu : Tất cả do tâm tạo, tâm có thể thay đổi, thì tất cả đều có thể thay đổi ; nếu tâm không thay đổi, thì vĩnh viễn bị ma nhiếp trì.

 

Bất phát đại nguyện, ma sở nhiếp trì

Chẳng phát đại nguyện, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 5. Người tu hành mà chẳng phát thệ nguyện lớn, thì cũng giống như hoa nở mà chẳng kết trái, chẳng ích lợi gì, đó là bị ma nhiếp trì.

 

Lạc xứ tịch diệt, đoạn trừ phiền não, ma sở nhiếp trì

Thích ở tịch diệt dứt trừ phiền não, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 6. Mình thích nơi tịch tĩnh tu hành, đoạn trừ sinh tử phiền não, chẳng chịu giáo hoá chúng sinh, lìa khổ được vui, đó là tư tưởng của hàng nhị thừa, đó là bị ma nhiếp trì. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói về thức ấm ma rất rõ ràng.

 

Vĩnh đoạn sanh tử, ma sở nhiếp trì

Dứt hẳn sanh tử, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 7. Vĩnh viễn dứt hẳn sinh tử, đó là tư tưởng ích kỷ lợi mình, đó là bị ma nhiếp trì. Bồ Tát đại thừa ở trong sinh tử, mà chẳng giác có sinh tử, vốn có thể chứng được quả vị Vô Dư Niết Bàn, nhưng chẳng nhập Niết Bàn, tại sao vậy ? Vì muốn độ thoát chúng sinh, lìa khỏi bờ sinh tử bên nầy, qua dòng sông phiền não, đạt đến bờ bên kia rốt ráo, cho nên Bồ Tát Đảo giá từ thuyền, đến thế giới Ta Bà, giáo hoá chúng sinh.

 

Xả Bồ Tát hạnh, ma sở nhiếp trì;

Bỏ hạnh Bồ Tát, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 8. Người tu hành, luôn luôn tu hạnh Bồ Tát, lục độ vạn hạnh. Nếu xả bỏ Bồ Tát hạnh, là bị ma nhiếp trì.

 

Bất hóa chúng sanh, ma sở nhiếp trì

Chẳng giáo hoá chúng sanh, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 9. Chức nghiệp của Bồ Tát là giáo hoá chúng sinh, độ thoát chúng sinh, nếu chẳng làm là bị ma nhiếp trì.

 

Nghi báng chánh pháp, ma sở nhiếp trì

Nghi báng chánh pháp, bị ma nhiếp trì.

Giảng: 10. Nghi ngờ chánh pháp, hoặc phỉ báng chánh pháp, là bị ma nhiếp trì.

 

Thị vi thập. Nhược chư Bồ-tát năng khí xả thử ma sở nhiếp trì

Nếu chư Bồ Tát rời bỏ được mười điều bị ma nhiếp trì này thời được mười điều được chư Phật nhiếp trì.

Giảng: Đó là mười thứ pháp bị ma nhiếp trì.

 

=================================

Thập Chủng Phật Sở Nhiếp Trì

Tức đắc thập chủng Phật sở nhiếp trì. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Ðây là mười điều được Phật nhiếp trì. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Nếu các Bồ Tát xả bỏ pháp bị ma nhiếp trì nầy, thì sẽ đắc được mười thứ được Phật nhiếp trì. Những gì là mười ? Đó là :

 

Sơ thủy năng phát Bồ-đề chi tâm, Phật sở nhiếp trì

Ban sơ có thể phát tâm Bồ đề, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 1. Lúc ban đầu Bồ Tát phát bồ đề tâm, là được Phật nhiếp trì.

 

Ư sanh sanh trung trì Bồ-đề tâm bất lệnh vong thất, Phật sở nhiếp trì

Trong nhiều đời gìn giữ tâm Bồ đề không để quên mất, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 2. Bồ Tát ở trong đời đời kiếp kiếp gìn giữ bồ đề tâm, đừng để quên mất, là được Phật nhiếp trì.

 

Giác chư ma sự, tất năng viễn ly, Phật sở nhiếp trì

Rõ biết ma sự đều có thể xa lìa, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 3. Bồ Tát giác ngộ các việc ma, đều xa lìa tất cả ma nghiệp, là được Phật nhiếp trì.

 

Văn chư Ba-la-mật, như thuyết tu hành, Phật sở nhiếp trì

Nghe các môn Ba la mật, tu hành đúng pháp, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 4. Bồ Tát lắng nghe mười Ba La Mật, như thuyết tu hành, dũng mãnh tinh tấn, chẳng giải đãi, chẳng phóng dật, là được Phật nhiếp trì.

 

Tri sanh tử khổ nhi bất yếm ố, Phật sở nhiếp trì

Biết khổ sanh tử mà chẳng nhàm ghét, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 5. Bồ Tát biết sinh tử là khổ, mà vẫn chẳng nhàm chán, tại sao vậy, vì cứu độ chúng sinh, là được Phật nhiếp trì.

 

Quán thậm thâm Pháp, đắc vô lượng quả, Phật sở nhiếp trì

Quán pháp thậm thâm được vô lượng quả, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 6. Bồ Tát hoan hỉ pháp quán diệu pháp thâm sâu, đắc được vô lượng quả lành, được Phật nhiếp trì.

 

Vi chư chúng sanh thuyết nhị thừa Pháp, nhi bất chứng thủ bỉ thừa giải thoát, Phật sở nhiếp trì

Vì chúng sanh diễn thuyết pháp Nhị thừa mà chẳng chứng lấy quả giải thoát của Nhị thừa, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 7. Bồ Tát tuy vì các chúng sinh, nói pháp nhị thừa, nhưng mình chẳng chứng lấy giải thoát nhị thừa đó, là được Phật nhiếp trì.

 

Lạc quán vô vi Pháp nhi bất trụ kỳ trung, ư hữu vi, vô vi ất sanh nhị tưởng, Phật sở nhiếp trì

Thích quán pháp vô vi mà chẳng trụ trong đó, đối với hữu vi vô vi không tưởng là hai, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 8. Bồ Tát tuy hoan hỉ quán pháp vô vi, mà chẳng trụ trong pháp vô vi đó, đối với pháp hữu vi và pháp vô vi, chẳng sinh tưởng phân biệt, là được Phật nhiếp trì.

 

Chí vô sanh xứ nhi hiện thọ sanh, Phật sở nhiếp trì; tuy chứng đắc nhất thiết trí

Ðến chỗ vô sanh mà hiện thọ sanh, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 9. Bồ Tát chứng được vô sinh pháp nhẫn, mà chấm dứt sinh tử, nhưng vẫn thị hiện thọ sinh tử, là được Phật nhiếp trì.

 

Nhi khởi Bồ Tát hạnh, bất đoạn Bồ Tát chủng, Phật sở nhiếp trì.

Dầu chứng được nhứt thiết trí mà khởi hạnh Bồ Tát chẳng dứt giống Bồ đề, được Phật nhiếp trì.

Giảng: 10. Bồ Tát tuy chứng được quả vị nhất thiết trí, mà vẫn tu Bồ Tát hạnh, chẳng dứt giống Bồ Tát, là được Phật nhiếp trì.

 

Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc chư Phật vô thượng nhiếp trì lực.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười điều này thì được sức nhiếp trì vô thượng của chư Phật.

Giảng: Đó là mười pháp được Phật nhiếp trì. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được lực nhiếp trì vô thượng của chư Phật.

 

=====================================

Thập Chủng Pháp Sở Nhiếp Trì

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu thập chủng Pháp sở nhiếp trì. Hà đẳng vi thập? sở vị:

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều được pháp nhiếp trì. Những gì là mười ? Đó là :

Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát có mười thứ được pháp nhiếp trì. Những gì là mười ? Đó là :

 

Tri nhất thiết hành vô thường, Pháp sở nhiếp trì;

Biết tất cả hành pháp là vô thường, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 1. Bồ Tát biết tất cả hành là vô thường, được pháp nhiếp trì.

 

Tri nhất thiết hành khổ, Pháp sở nhiếp trì

Biết tất cả hành pháp là khổ, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 2. Bồ Tát biết tất cả hành là khổ, được pháp nhiếp trì.

 

Tri nhất thiết hành vô ngã, Pháp sở nhiếp trì

Biết tất cả hành pháp là vô ngã, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 3. Bồ Tát biết tất cả hành là vô ngã, được pháp nhiếp trì.

 

Tri nhất thiết pháp tịch diệt Niết-Bàn, Pháp sở nhiếp trì

Biết tất cả pháp tịch diệt Niết bàn, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 4. Bồ Tát biết tất cả pháp là tịch diệt Niết Bàn, được pháp nhiếp trì.

 

Tri chư Pháp tùng duyên khởi, vô duyên tức bất khởi, Pháp sở nhiếp trì

Biết tất cả pháp theo duyên mà phát khởi, không có duyên thời không khởi, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 5. Bồ Tát biết các pháp là từ duyên khởi, nếu không có duyên thì chẳng sinh khởi, được pháp nhiếp trì.

 

Tri bất chánh tư duy cố khởi ư vô minh, vô minh khởi cố nãi chí lão tử khởi, bất chánh tư duy diệt cố vô minh diệt, vô minh diệt cố nãi chí lão tử diệt, Pháp sở nhiếp trì

Biết vì do tư duy chẳng chánh nên sanh khởi vô minh. Vì do có vô minh khởi nên nhẫn đến có lão tử phát khởi. Vì tư duy chẳng chánh diệt nên vô minh diệt. Vì vô minh diệt nên nhẫn đến lão tử diệt. Ðược pháp nhiếp trì.

Giảng: 6. Bồ Tát biết tư duy bất chánh, là từ vô minh sinh khởi, vô minh khởi, hành khởi, thức khởi, danh sắc khởi, lục nhập khởi, xúc khởi, thủ khởi, thọ khởi, ái khởi, hữu khởi, sinh khởi, lão tử khởi, bèn có sinh tử. Tu duy bất chánh diệt, nên vô minh cũng diệt, nếu vô minh diệt hết, cho đến lão tử diệt hết, thì chẳng còn sinh tử. Đây là pháp mười hai nhân duyên, được pháp nhiếp trì.

 

Tri tam giải thoát môn xuất sanh Thanh văn thừa, chứng vô tránh Pháp xuất sanh độc giác thừa, Pháp sở nhiếp trì

Biết ba môn giải thoát xuất sanh Thanh Văn thừa, chứng pháp vô tránh xuất sanh Ðộc Giác thừa, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 7. Bồ Tát biết ba môn giải thoát (Không, vô tướng, vô nguyện) sinh ra Thanh Văn thừa. Chứng pháp không tranh, sinh ra Độc Giác thừa, được pháp nhiếp trì.

 

Tri lục Ba la mật, tứ nhiếp Pháp xuất sanh Đại-Thừa, Pháp sở nhiếp trì

Biết pháp Lục Ba la mật, pháp Tứ nhiếp xuất sanh Ðại thừa, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 8. Bồ Tát biết sáu Ba La Mật, bốn pháp nhiếp, sinh ra pháp đại thừa Bồ Tát, được pháp nhiếp trì.

 

Tri nhất thiết sát, nhất thiết pháp, nhất thiết chúng sanh, nhất thiết thế thị Phật trí cảnh giới, Pháp sở nhiếp trì

Biết tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả chúng sanh, tất cả thế là cảnh giới của Phật trí, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 9. Bồ Tát biết tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả chúng sinh, tất cả đời, là cảnh giới của Phật, được pháp nhiếp trì.

 

Tri đoạn nhất thiết niệm, xả nhất thiết thủ, ly tiền hậu tế, tùy thuận Niết-Bàn, Pháp sở nhiếp trì

Biết dứt tất cả niệm, bỏ tất cả thủ, rời tiền tế hậu tế, tùy thuận Niết bàn, được pháp nhiếp trì.

Giảng: 10. Bồ Tát biết dứt tất cả niệm, xả tất cả chấp, lìa khỏi thuở trước và thuở sau, tuỳ thuận pháp Niết Bàn, được pháp nhiếp trì.

 

Thị vi thập. nhược chư Bồ-tát an trụ kỳ trung, tức đắc nhất thiết chư Phật vô thượng pháp sở nhiếp trì.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười điều được pháp nhiếp trì này thời được pháp nhiếp trì vô thượng của tất cả chư Phật.

Giảng: Đó là mười thứ pháp được pháp nhiếp trì. Nếu các Bồ Tát an trụ trong pháp nầy, thì sẽ đắc được pháp nhiếp trí vô thượng của tất cả chư Phật.

 

Ở trên là Bồ Tát Phổ Hiền trả lời Bồ Tát Phổ Huệ hỏi ba mươi hai câu về nhân quả trong năm mươi mốt vấn đề ở trước, tức cũng là vấn đề của bậc Đẳng giác Bồ Tát. Vì hỏi một đáp mười, cho nên có ba trăm hai mươi câu trả lời.