Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 26
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thập Địa 1
Đệ Nhất Địa – Hồi Hướng Địa
Bồ Tát Hoan Hỷ Ðịa
Kinh Văn: Phật tử! thử Bồ-tát thập địa, tam thế chư Phật dĩ thuyết, đương thuyết, kim thuyết.
Việt Văn: Phật tử ! Mười địa nầy của Bồ Tát, chư Phật ba đời đã nói, sẽ nói và đang nói.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Pháp môn Thập địa của Bồ Tát tu hành, chư Phật ba đời, Phật quá khứ đã nói, Phật vị lai sẽ nói, Phật hiện tại đang nói.
Kinh Văn: Phật tử! ngã bất kiến hữu chư Phật quốc độ, kỳ trung Như Lai bất thuyết thử Thập Địa giả.
Hà dĩ cố? thử thị Bồ-Tát Ma-ha-tát hướng Bồ-đề tối thượng đạo, diệc thị thanh tịnh pháp quang minh môn, sở vị: phân biệt diễn thuyết Bồ Tát chư địa.
Phật tử! thử xứ bất khả tư nghị, sở vị chư Bồ-tát tùy chứng trí.
Việt Văn: Phật tử ! Tôi chẳng thấy có cõi nước chư Phật nào, mà Như Lai ở trong đó không nói Thập địa nầy.
Tại sao ? Vì đây là đạo bồ đề tối thượng mà đại Bồ Tát hướng tới, cũng là môn pháp quang minh thanh tịnh, đó là sự phân biệt diễn nói các địa của Bồ Tát.
Phật tử ! Chỗ nầy không thể nghĩ bàn, đó là tuỳ chứng trí của các Bồ Tát.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Tôi chẳng thấy Như Lai ở trong cõi Phật nào, mà không nói đạo lý pháp Thập địa nầy.
Vì sao ? Vì đây là đạo bồ đề tối thượng mà đại Bồ Tát hướng tới, pháp nầy là con đường bồ đề tối thượng của đại Bồ Tát tu hành, cũng là môn pháp quang minh thanh tịnh, vì pháp Thập địa cũng là pháp tu hành thanh tịnh trí huệ quang minh. Nào là phân biệt diễn nói các địa của Bồ Tát, pháp Thập địa rất là chánh quyết, diễn nói tỉ mỉ quá trình Bồ Tát tu hành Thập địa, hiển bày pháp trí huệ và sự hiểu biết của tất cả Bồ Tát.
Các vị đệ tử của Phật ! Chỗ nầy không thể nghĩ bàn, đạo lý Thập địa nầy, chẳng có cách chi tưởng tượng đến được. Đó là tuỳ chứng trí của Bồ Tát, đạo lý nầy tuỳ theo công đức tu hành của các Ngài, mà chứng được trí huệ.
Kinh Văn: Nhĩ thời, Kim Cương tạng Bồ-tát thuyết thử Bồ-tát thập địa danh dĩ, mặc nhiên nhi trụ, bất phục phân biệt.
Thị thời, nhất thiết Bồ Tát chúng văn Bồ-tát thập địa danh, bất văn giải thích, hàm sanh khát ngưỡng, tác như thị niệm: hà nhân hà duyên, Kim Cương tạng Bồ Tát duy thuyết Bồ-tát thập địa danh nhi bất giải thích?
Việt Văn: Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng nói tên Thập địa của Bồ Tát rồi, yên lặng mà ngồi, lại không phân biệt.
Lúc đó, tất cả chúng Bồ Tát nghe tên Thập địa của Bồ Tát, mà không nghe giải thích, đều sinh tâm khát ngưỡng, bèn nghĩ như vầy : Do nhân duyên gì, mà Bồ Tát Kim Cang Tạng chỉ nói tên Thập địa của Bồ Tát, mà không giải thích ?
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng nói xong tên pháp môn Thập địa của Bồ Tát tu hành rồi, thì ngồi yên lặng không nói nữa, cũng không tiếp tục phân biệt giải thích nghĩa lý pháp môn Thập địa.
Lúc ấy, tất cả chúng Bồ Tát, các đại Bồ Tát từ mười phương đến, nghe Bồ Tát Kim Cang Tạng nói tên pháp môn Thập địa của Bồ Tát xong, mà không nghe sự giải thích đạo lý bên trong, mọi người đều khát ngưỡng muốn nghe Ngài giải thích, đồng thời trong tâm cũng khởi sự hoài nghi, đó là do nguyên nhân gì, mà Bồ Tát Kim Cang Tạng chỉ nói tên của pháp môn Thập địa, mà không giải thích thêm ?
Kinh Văn: Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát tri chư Đại chúng tâm chi sở niệm, dĩ tụng vấn Kim Cương tạng Bồ Tát viết:
Việt Văn: Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát biết tâm niệm của chúng Bồ Tát, liền nói kệ để hỏi Kim Cang Tạng Bồ Tát:
Giảng: Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt ở trong pháp hội, Ngài biết lúc đó trong tâm của các Bồ Tát khởi niệm nghi, do đó bèn dùng kệ để hỏi Bồ Tát Kim Cang Tạng rằng:
Hà cố tịnh giác nhân Cớ sao bực Tịnh Giác
Niệm trí công đức cụ, Ðủ niệm trí công đức
Thuyết chư thượng diệu địa, Nói tên mười Trí Ðịa
Hữu lực bất giải thích? Biết rõ chẳng giải thoát?
Giảng: Tại sao ? Ngài là vị Bồ Tát giác ngộ thanh tịnh ! Bồ Tát niệm thanh tịnh, trí huệ quang minh, tất cả công đức đều đầy đủ. Nói tên pháp Thập địa của Bồ Tát rồi, Ngài có khả năng mà không vì đại chúng giải thích ?
Nhất thiết hàm quyết định Tất cả đều quyết định
Dũng mãnh vô khiếp nhược, Dũng mãnh không khiếp nhược
Hà cố thuyết địa danh, Cớ sao nói tên Ðịa
Nhi bất vi khai diễn? Rồi im không giải thích ?
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng ! Đối với tất cả đạo lý, Ngài đều thấu rõ, cũng có tất cả trí huệ quyết định. Ngài lại là một vị đại Bồ Tát dũng mãnh tinh tấn, không có sự sợ hãi, tại sao chỉ nói tên Thập địa, mà không vì đại chúng giải thích cho họ biết ?
Chư địa diệu nghĩa thú, Nghĩa thú mười Trí Ðịa
Thử chúng giai dục văn, Trong chúng đều muốn nghe
Kỳ tâm vô khiếp nhược, Lòng chúng không khiếp nhược
Nguyện vi phân biệt thuyết! Vì chúng xin giải thích.
Giảng: Nghĩa lý mỗi một địa trong pháp Thập địa, chắc chắn đều vi diệu không thể nghĩ bàn. Hiện nay đại chúng trong pháp hội nầy, đều muốn nghe Ngài giải nói. Những vị đại Bồ Tát nầy, trong tâm của các Ngài cũng chẳng có gì sợ hãi, cho nên đều mong muốn Ngài phân biệt giải nói pháp Thập địa nầy cho họ nghe.
Chúng hội tất thanh tịnh, Chúng hội đều thanh tịnh
Ly giải đãi nghiêm khiết, Nghiêm khiết không lười biếng
Năng kiên cố bất động, Hay vững vàng bất động
Cụ công đức trí tuệ. Ðủ công đức trí huệ,
Giảng: Như các vị đại Bồ Tát ở trong đạo tràng chúng hội nầy, thân tâm các Ngài đều thanh tịnh, xa lìa hết tất cả bụi trần, dũng mãnh tinh tấn không giải đãi, oai nghi nghiêm cẩn, liêm khiết không tham danh lợi, không bị cảnh giới lay động, không tạp nhiễm tưởng khác, tâm bồ đề vĩnh viễn không thối chuyển hoặc giao động. Bởi vì các đại Bồ Tát nầy đều đã đầy đủ đại công đức, đại trí huệ.
Tướng thị hàm cung kính, Nhìn nhau đều cung kính
Nhất thiết tất chuyên ngưỡng, Tất cả đồng khát ngưỡng
Như phong niệm hảo mật, Như ong nhớ mật ngọt
Như khát tư cam lồ. Như khát tưởng cam lồ.
Giảng: Mọi người đều rất cung kính thành khẩn, chuyên tâm nhất chí ngưỡng vọng Ngài Bồ Tát Kim Cang Tạng, vì họ giải nói pháp Thập địa vi diệu thù thắng nầy. Trong tình huống nầy, giống như con ong một lòng nghĩ đến mật ngọt, lại giống như người khát nước, muốn có được nước cam lồ để giải khát.
Kinh Văn: Nhĩ thời, đại trí vô sở úy Kim Cương tạng Bồ Tát văn thuyết thị dĩ, dục lệnh chúng hội tâm hoan hỉ cố, vi chư Phật tử nhi thuyết tụng ngôn:
Việt Văn: Kim Cang Tạng Bồ Tát, bực đại trí vô úy nghe Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát nói kệ muốn cho lòng chúng hội hoan hỷ, liền nói kệ rằng:
Giảng: Lúc đó, vị Bồ Tát Kim Cang Tạng, bậc đại trí huệ không sỡ hãi, nghe Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói bài kệ rồi, vì muốn khiến cho các vị Bồ Tát ở trong pháp hội đều sinh tâm hoan hỉ, cũng dùng kệ để nói với các vị đại Bồ Tát.
Bồ Tát hạnh địa sự Hạnh địa của Bồ Tát
Tối thượng chư Phật bổn, Gốc tối thượng của Phật
Hiển thị phân biệt thuyết, Giải thích nói rõ ràng
Đệ nhất hy hữu nan. Hy hữu khó thứ nhứt.
Giảng: Việc Bồ Tát tại nhân địa tu hạnh Bồ Tát, tức là việc đáng làm ở trong Thập địa, những việc đó cao thượng không có gì sánh bằng. Tu hành ở trong Thập địa, thì pháp môn căn bản là thành Phật. Nếu muốn hiển rõ để phân biệt diễn nói, thật là tối thượng bậc nhất, ít có nhất, rất khó gặp.
Vi tế nan khả kiến, Vi tế khó thấy được
Ly niệm siêu tâm địa, Ly niệm siêu tâm địa
Xuất sanh Phật cảnh giới, Phát sanh cảnh giới Phật
Văn giả tất mê hoặc. Người nghe sẽ mê lầm.
Giảng: Hạnh Bồ Tát rất vi tế vi diệu, nghĩa lý thâm diệu, chẳng dễ gì minh bạch, rất khó suy gẫm. Muốn đạt được lìa niệm vượt qua cảnh giới pháp môn tâm địa nầy, thì ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt, vượt khỏi mọi tư lự, lúc nầy sinh ra tất cả đều là cảnh giới của Phật, nếu người chẳng có công đức tu hành tương đương, thì không thể nào hiểu được, nếu hốt nhiên nghe nói về cảnh giới nầy, thì dễ dàng làm cho họ hoài nghi và mê hoặc, huống chi nói đến việc tu trì.
Trì tâm như Kim cương, Gìn lòng như Kim Cang
Thâm tín Phật thắng trí, Tin chắc nơi Phật trí
Tri tâm địa vô ngã, Biết tâm địa vô ngã
Năng văn thử thắng Pháp. Thời nghe được pháp này.
Giảng: Sinh ra hoài nghi là vì chúng sinh chẳng có trí huệ, cho nên đối với pháp môn thù thắng nầy, không thể nào hiểu được. Nếu hay tu trì đến được niềm tin vững chắc như kim cang, tin sâu trí huệ thù thắng của Phật, đối với lời dạy của Phật – pháp môn Thập địa, lý giải được tướng vô ngã, thì sẽ nghe được tin thọ pháp môn thù thắng nầy.
Như không trung thải họa, Như màu vẽ trên không
Như không trung phong tướng, Như tướng gió trên không
Mâu Ni trí như thị, Phật trí cũng như vậy
Phân biệt thậm nan kiến. Phân biệt rất khó thấy
Giảng: Muốn nghe được pháp thù thắng nầy, mà minh bạch thọ dụng, là bậc có trí huệ, giống như vẽ màu sắc rực rỡ ở trong hư không, lại giống như hình tướng của gió ở trong không, phải biết đó đều là không thể nghĩ bàn, không nên chấp trước. Trí huệ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni thâm sâu vi diệu, cho nên khó phân biệt giải thích nói, cũng không dễ gì khiến cho người khác minh bạch tin thọ.
Ngã niệm Phật trí tuệ, Tôi nghĩ phật trí huệ
Tối thắng nan tư nghị, Tối thắng khó nghĩ bàn
Thế gian vô năng thọ Người đời không thọ được
Mặc nhiên nhi bất thuyết. Nên im lặng chẳng nói.
Giảng: Vì tôi nghĩ nhớ đến trí huệ của Phật, thật là thù thắng nhất, không thể nào tưởng tượng được. Trên thế gian khó có người minh bạch được diệu pháp nầy, càng ít người có thể lãnh thọ được Phật pháp chí lý, cho nên tôi im lặng không giải thích với các vị.
Kinh Văn: Nhĩ thời, giải thoát nguyệt Bồ Tát văn thị thuyết dĩ, bạch Kim Cương tạng Bồ Tát ngôn:
Phật tử! kim thử chúng hội giai tất dĩ tập, thiện tịnh thâm tâm, thiện khiết tư niệm, thiện tu chư hạnh, thiện tập trợ đạo, thiện năng thân cận bách thiên ức Phật, thành tựu vô lượng công đức thiện căn, xả ly si hoặc, vô hữu cấu nhiễm, thâm tâm tín giải, ư Phật Pháp trung bất tùy tha giáo.
Thiện tai Phật tử! đương thừa Phật thần lực nhi vi diễn thuyết, thử chư Bồ-tát ư như thị đẳng thậm thâm chi xứ giai năng chứng tri. Nhĩ thời, giải thoát nguyệt Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa nhi thuyết tụng viết:
Việt Văn: Bấy giờ, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nghe nói như vậy rồi, bạch Bồ Tát Kim Cang Tạng rằng :
Phật tử ! Nay chúng hội nầy thảy đều đã tụ tập, khéo tịnh thâm tâm, khéo trong sạch ý niệm, khéo tu các hạnh, khéo tập trợ đạo, khéo gần gũi trăm ngàn ức Phật, thành tựu vô lượng công đức căn lành, bỏ lìa si hoặc, không còn cấu nhiễm, thâm tâm tin hiểu, ở trong Phật pháp không tuỳ theo chỉ dạy của người khác.
Lành thay Phật tử ! Hãy nương thần lực của Phật mà vì diễn nói. Các Bồ Tát nầy đối với chỗ rất thâm sâu như vậy, thảy đều chứng biết. Bấy giờ, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nghe Bồ Tát Kim Cang Tạng nói kệ rồi, tiếp tục nói với Bồ Tát Kim Cang Tạng rằng :
Ngài là đại đệ tử của Phật ! Hiện tại các vị Bồ Tát ở trong đại chúng pháp hội nầy đã tụ tập, các Ngài đều đã khéo tịnh thâm tâm, vì đã tu được tất cả hạnh lành, cho đến chỗ thâm sâu của tâm đều đã thanh tịnh. Khéo trong sạch ý niệm, tư tưởng và ý niệm của các Ngài cũng đều đã thanh tịnh. Khéo tu các hạnh, về sự tu trì cũng biết tinh tấn dụng công như thế nào. Khéo tập trợ đạo, cũng minh bạch làm thế nào để dùng bi trí, thắng niệm để trợ giúp họ hành chánh đạo, cũng biết tăng trưởng trí huệ thì phải gần gũi nhiều vị Phật, phát nguyện đời đời thấy Phật, thọ trì diệu pháp, mới có thể thành tựu vô lượng căn lành. Vì đã từng gần gũi trăm ngàn ức vị Phật, mới thành tựu vô lượng căn lành, cũng mới bỏ lìa được ngu si và mê hoặc, càng không còn trần cấu nhiễm ô. Thâm tâm tin hiểu, dùng tâm thanh tịnh nhất, kiền thành của các Ngài, tin hiểu nghĩa lý Phật pháp thâm sâu. Một lòng học tập Phật pháp, không tin tà thuyết của bàng môn tả đạo.
Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng ! Ngài là đệ tử tốt của Phật ! Xin Ngài nương đại oai thần lực của Phật, để vì đại chúng diễn nói Phật pháp nầy ! Các vị Bồ Tát ở trong pháp hội nầy, đối với chỗ cực kỳ thâm sâu vi diệu của pháp Thập địa nầy, các Ngài đều chứng biết được. Lúc đó, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt vì muốn thuật lại nghĩa lý ở trên, bèn dùng kệ để nói.
Nguyện thuyết tối an ổn, Xin nói hạnh Bồ Tát
Bồ Tát vô thượng hạnh Vô thượng rất an ổn
Phân biệt ư chư địa, Phân biệt rõ các địa
Trí tịnh thành chánh giác. Trí tịnh thành Chánh giác.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói: Tôi xin thỉnh đại Bồ Tát Kim Cang Tạng ! Hiện tại Ngài hãy nói Phật pháp tốt nhất, an ổn nhất, pháp môn tối thượng của Bồ Tát tu hành. Phân biệt giải thích đạo lý Thập địa, khiến cho tất cả chúng sinh có thể đắc được trí huệ thanh tịnh, tương lai đều có thể thành Phật.
Thử chúng vô chư cấu, Chúng đây không cấu nhiễm
Chí giải tất minh khiết, Chí hiểu đều sáng sạch
Thừa sự vô lượng Phật Kính thờ vô lượng Phật
Năng tri thử địa nghĩa. Hiểu được nghĩa các địa.
Giảng: Các vị Bồ Tát ở trong đại pháp hội nầy, đều đã xa lìa hết thảy nhiễm ô và trần cấu, chí nguyện và lý giải của các Ngài, đều rất thanh tịnh và minh bạch. Các Ngài cũng đã từng thừa sự cúng dường vô lượng chư Phật, các Ngài cũng thấu hiểu được nghĩa lý Thập địa.
Kinh Văn: Nhĩ thời, Kim Cương tạng Bồ Tát ngôn: Phật tử! tuy thử chúng tập thiện tịnh tư niệm, xả ly ngu si cập dĩ nghi hoặc, ư thậm thâm Pháp bất tùy tha giáo. Nhiên hữu kỳ dư liệt giải chúng sanh, văn thử thậm thâm nan tư nghị sự, đa sanh nghi hoặc, ư trường dạ trung thọ chư suy não. Ngã mẫn thử đẳng, thị cố mặc nhiên. Nhĩ thời, Kim Cương tạng Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa nhi thuyết tụng viết:
Việt Văn: Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng nói : Phật tử ! Tuy chúng nầy đã tụ tập, khéo tịnh tư tưởng, xả lìa ngu si và nghi hoặc, ở chỗ pháp thâm sâu không theo sự chỉ dạy của người khác, nhưng có những chúng sinh khác kém hiểu biết, nghe việc thâm sâu không nghĩ bàn nầy, sinh ra nhiều nghi hoặc, sẽ thọ các khổ não lâu dài. Tôi thương những người nầy, cho nên im lặng. Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn thuật lại nghĩa trên, bèn dùng kệ nói rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng lại nói với Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt: Phật tử ! Tuy nhiên các vị Bồ Tát ở trong pháp hội nầy, đều đã khéo tịnh ý niệm, bỏ lìa nghi si và mê hoặc, đối với pháp thâm sâu vi diệu đã tin sâu không còn nghi ngờ nữa, cũng không chuyển theo bàng môn tả đạo. Song, vẫn có những chúng sinh khác căn cơ hạn hẹp, không minh bạch, nghe pháp lớn thâm sâu vi diệu không thể nghĩ bàn nầy rồi, rất dễ sinh ra nghi hoặc. Trong đêm dài vô minh ngu si – đây là ý nghĩa hình dung chúng sinh vô tri, không minh bạch pháp lớn, sinh tử mê muội, luân chuyển không ngừng – nhìn không thấu được, buông bỏ chẳng đặng, không đắc được tự tại, chính mình làm khổ não mình. Tôi vì thương xót loại chúng sinh nầy, cho nên im lặng không nói. Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng sợ đại chúng không minh bạch, lại dùng kệ để thuật lại.
Tuy thử chúng tịnh quảng trí tuệ, Dầu chúng đây trí rộng thanh tịnh
Thậm thâm minh lợi năng quyết trạch, Pháp sâu trí lẹ hay hiểu thấu
Kỳ tâm bất động như sơn vương Tâm họ bất động như Sơn Vương
Bất khả khuynh phước do đại hải. Chẳng thể úy nghiên dường đại hải.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng nói: Tuy nhiên các vị Bồ Tát ở trong đạo tràng nầy, đều thanh tịnh, chẳng còn nhiễm ô, cũng có trí huệ rộng lớn, càng có trí Bát nhã thâm sâu, thâm tâm tin hiểu, biết rõ chánh tà, tâm tin của các Ngài giống như núi chúa Tu Di, không bị cảnh bên ngoài giao động, cũng giống như biển lớn không có ai có thể lật nghiêng qua được.
Hữu hàng vị cửu giải vị đắc, Có hạng mới tu hiểu chưa tới
Tùy thức nhi hành bất tùy trí, Theo thức phân biệt chẳng theo trí
Văn thử sanh nghi đọa ác đạo, Nghe đây sanh nghi đọa ác đạo
Ngã mẫn thị đẳng cố bất thuyết. Tôi thương hạng này nên chẳng nói.
Giảng: Song, ở trong đại chúng nầy, cũng có Bồ Tát mới phát tâm bồ đề, tu hành chưa được bao lâu, trí huệ hiểu biết của họ không đủ, chỉ nương theo thức để phân biệt tất cả cảnh giới, chẳng có trí huệ chân chánh để nhận thức tất cả cảnh giới. Thức chỉ có thể phân biệt, trí mới nhận thức hiểu thấu được. Khi họ nghe pháp môn Thập địa nầy, e rằng sẽ sinh ra tâm hoài nghi mà không tu, không tin pháp lớn nầy, sẽ đoạ vào ba đường ác – ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục. Tôi thương xót những chúng sinh nầy, cho nên không nói.
Kinh Văn: Nhĩ thời, giải thoát nguyệt Bồ Tát trọng bạch Kim Cương tạng Bồ Tát ngôn: Phật tử! nguyện thừa Phật thần lực phân biệt thuyết thử bất tư nghị Pháp, thử nhân đương đắc Như Lai hộ niệm nhi sanh tín thọ. Hà dĩ cố? thuyết Thập Địa thời, nhất thiết Bồ Tát Pháp ưng như thị, đắc Phật hộ niệm. đắc hộ niệm cố, ư thử trí địa năng sanh dũng mãnh. Hà dĩ cố? thử thị Bồ Tát tối sơ sở hạnh, thành tựu nhất thiết chư Phật Pháp cố. Thí như thư tự, số thuyết, nhất thiết giai dĩ tự mẫu vi bổn, tự mẫu cứu cánh, vô hữu thiểu phần ly tự mẫu giả.
Phật tử! nhất thiết Phật Pháp giai dĩ Thập Địa vi bổn, Thập Địa cứu cánh tu hành thành tựu, đắc nhất thiết trí. thị cố, Phật tử! nguyện vi diễn thuyết! thử nhân tất vi Như Lai sở hộ, lệnh kỳ tín thọ.
Nhĩ thời, giải thoát nguyệt Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa nhi thuyết tụng viết:
Việt Văn: Bấy giờ, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt lại bạch Bồ Tát Kim Cang Tạng rằng : Phật tử ! Xin nương thần lực của Phật, phân biệt diễn nói pháp không thể nghĩ bàn nầy, người nầy sẽ được Như Lai hộ niệm mà sinh tâm tin thọ. Tại sao ? Vì khi nói Thập địa, thì tất cả pháp Bồ Tát phải như vậy, được Phật hộ niệm. Được hộ niệm nên nơi trí địa nầy, hay sinh sự dũng mãnh. Tại sao ? Vì đây là sự tu hành ban đầu của Bồ Tát, thành tựu tất cả các Phật pháp. Ví như viết chữ nói số, tất cả đều dùng tự mẫu làm gốc, tự mẫu rốt ráo, không có chút phần lìa khỏi tự mẫu.
Phật tử ! Tất cả Phật pháp đều dùng Thập địa làm gốc. Thập địa rốt ráo, thì tu hành thành tựu, được nhất thiết trí. Do đó, Phật tử ! Xin hãy diễn nói, người nầy sẽ được Như Lai hộ niệm, khiến cho họ tin thọ.
Bấy giờ, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói kệ rằng:
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt lại nói với Bồ Tát Kim Cang Tạng : Phật tử ! Xin Ngài hãy nương oai đức thần lực của mười phương chư Phật và Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, phân biệt nói pháp không nghĩ bàn nầy, phân tích giải nói tỉ mỉ pháp môn không thể nghĩ bàn nầy, khiến cho người nghe được pháp môn nầy, phá trừ nghi hoặc của họ, mà sinh niềm tin, sẽ đắc được sự hộ trì của chư Phật, mà sinh ra lòng tin. Vì sao ? Vì khi nói pháp môn Thập địa, thì tất cả Bồ Tát nghe pháp nầy, nhất định sẽ được chư Phật hộ niệm. Vì được hộ niệm: Vì được chư Phật hộ niệm, nên nghe được pháp Thập địa đại trí huệ nầy rồi, sẽ sinh ra sự dũng mãnh, sinh ra tâm dũng mãnh rất lớn. Vì sao ? Vì đây là sự thực hành ban đầu của Bồ Tát, vì pháp môn nầy là pháp môn tu hành của tất cả Bồ Tát. Vì thành tựu tất cả các Phật pháp, mà tu trì pháp môn nầy, sẽ thành tựu hết thảy pháp của Phật nói. Ví như vẽ chữ nói số, đưa ra ví dụ, giống như viết chữ, bắt đầu thì phải biết tự mẫu (chữ cái). Nói số, tức là liên hợp rất nhiều chữ đơn trở thành một câu có ý nghĩa. Tự mẫu rốt ráo, nếu bạn biết viết những chữ cái, thì tuyệt đối không có tờ hào sai lầm. Hết thảy chữ cũng không lìa khỏi chữ cái.
Phật tử ! Tất cả Phật pháp đều dùng Thập địa làm gốc, hết thảy pháp của chư Phật nói, đều dùng pháp Thập địa làm cơ bản. Thập địa rốt ráo, nếu tu hành viên mãn pháp Thập địa, thì có thể nói tu hành thành tựu, cũng sẽ đắc được nhất thiết trí huệ. Cho nên, muốn thỉnh Ngài Phật tử, vì các vị Bồ Tát trong pháp hội nầy, mà diễn nói pháp môn nầy, khiến cho người nghe được pháp nầy, nhất định sẽ được các Như Lai hộ niệm, cũng khiến cho họ sinh ra tâm tin, y giáo phụng hành.
Lúc đó, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt muốn thuật lại ý nghĩa vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói ra.
Thiện tai Phật tử nguyện diễn thuyết Lành thay Phật tử xin diễn thuyết
Thú nhập Bồ-đề chư địa hạnh Các trí địa đưa vào Bồ đề
Thập phương nhất thiết tự tại tôn Mười phương tất cả đấng Tự Tại
Mạc bất hộ niệm trí căn bản Thảy đều hộ niệm trí căn bổn.
Giảng: Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt lại khen Bồ Tát Kim Cang Tạng một tiếng nói : Ngài là đại đệ tử của Phật ! Hy vọng Ngài thương xót tất cả chúng sinh, vì chúng sinh diễn nói pháp môn Thập địa nầy, có thể khiến cho những vị Bồ Tát nầy đi vào trong bồ đề giác đạo, học tập tu trì pháp môn các địa trong Thập địa. Mười phương chư Phật Thế Tôn, đều đang gia trì, hộ niệm những người nghe pháp môn Thập địa nầy, và người tu hành pháp môn Thập địa, vì pháp Thập địa là trí huệ căn bản.
Thử an trụ trí diệc cứu cánh An trụ trí này cũng rốt ráo
Nhất thiết Phật Pháp sở tùng sanh, Tất cả Phật pháp từ đây sanh
Thí như thư số tự mẫu nhiếp, Ví như viết chữ do mẫu tự
Như thị Phật Pháp y ư địa. Cũng thế, Phật pháp y trí địa.
Giảng: “An trụ trí đây” là chỉ trí của pháp Thập địa, nghĩa là nói trí huệ của pháp Thập địa, là trí huệ triệt để nhất, chánh quyết nhất, viên mãn nhất, thù thắng nhất. Tại sao gọi là địa ? Vì pháp của chư Phật nói, đều từ Thập địa sinh ra. Ví như viết chữ, nhất định phải căn cứ theo tự mẫu (chữ cái), viết làm văn nhất định trước hết từng chữ. Tất cả Phật pháp nương vào Thập địa làm cơ sở mà sinh khởi, tu học Phật pháp cũng phải lấy pháp Thập địa làm chỗ nương tựa y cứ.
Kinh Văn: Nhĩ thời, chư đại Bồ-tát chúng nhất thời đồng thanh hướng Kim Cương tạng Bồ Tát nhi thuyết tụng ngôn:
Việt Văn: Lúc đó chúng đại Bồ Tát đồng thời ứng tiếng hướng về Kim Cang Tạng Bồ Tát mà nói kệ rằng:
Giảng: Khi Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt nói xong bài kệ ở trên, thì lúc đó, vô lượng các vị đại Bồ Tát trong mười phương, đồng thời đồng thanh, cùng nhau dùng kệ hướng về Bồ Tát Kim Cang Tạng thỉnh pháp, nói :
Thượng diệu vô cấu trí, Trí thượng diệu vô cấu
Vô biên phân biệt biện, Vô biên trí biện tài
Tuyên sướng thâm mỹ ngôn, Tuyên xướng lời sâu đẹp
Đệ nhất nghĩa tướng ứng. Tương ưng Ðệ nhứt nghĩa.
Giảng: Đại đệ tử của Phật ! Bồ Tát Kim Cang Tạng ! Ngài đã chứng được đại trí huệ thanh tịnh vô cấu vi diệu tối thượng. Biện tài của Ngài cũng vô lượng vô biên, nói rất là tỉ mỉ, rất có đạo lý. Hiện tại hi vọng Ngài đối với chúng tôi tuyên nói đạo lý vi diệu thâm sâu vô thượng, với pháp môn Thập địa nghĩa tương ưng bậc nhất.
Niệm trì thanh tịnh hạnh, Niệm trì hạnh thanh tịnh
Thập lực tập công đức, Thập lực chứa công đức
Biện tài phân biệt nghĩa, Biện tài phân biệt nghĩa
Thuyết thử tối thắng địa. Nói địa tối thắng này.
Giảng: Những vị Bồ Tát nầy đều là niệm và tu hành, tất cả đều là người thanh tịnh, các Ngài tu trì thập lực của Phật, tích tập đủ thứ công đức, trí huệ cũng đã phân biệt tất cả nghĩa lý và đại biện tài vô ngại. Xin thỉnh đại Bồ Tát Ngài nói pháp môn Thập địa thù thắng nầy.
Định giới tập chánh tâm, Ðịnh, giới chứa chánh tâm
Ly ngã mạn tà kiến, Lìa ngã mạn tà kiến
Thử chúng vô nghi niệm, Chúng đây không lòng nghi
Duy nguyện văn thiện thuyết! Cầu xin được nghe giảng.
Giảng: Những người ở trong pháp hội nầy nghe Ngài giải nói, đều là những bậc tu định giữ giới thanh tịnh, có chánh tri chánh kiến, các Ngài đã xa lìa cống cao ngã mạn, chẳng có tư tưởng tà kiến, các Ngài đối với pháp môn Thập địa không có ý niệm hoài nghi, đều rất thành tâm chuyên nhất lắng nghe Ngài tuyên nói pháp môn Thập địa.
Như khát tư lãnh thủy, Như khát tưởng nước mát
Như cơ niệm mỹ thực Như đói như món ngon
Như bệnh ức lương dược, Như bịnh cầu thuốc hay
Như phong tham hảo mật. Như ong tham mật tốt.
Giảng: Giống như người gặp lúc vừa nóng vừa khát, nghĩ đến muốn uống một ly nước mát lạnh. Lạnh: ý nghĩa là mát mẻ. Lại giống như người đói, tưởng nghĩ đến có chút thức ăn, để ăn cho đỡ đói. Lại giống như người bệnh, nghĩ đến tìm thuốc hay để trị bệnh. Lại giống như con ong hằng ngày đi tìm mật hoa, vì muốn làm một tổ ong mật tốt, lưu trữ qua mùa đông.
Ngã đẳng diệc như thị, Chúng tôi cũng như vậy.
Nguyện văn cam lộ pháp! Mong nghe pháp cam lồ
Thiện tai quảng đại trí, Lành thay bực đại trí
Nguyện thuyết nhập chư địa, Nguyện giải thoát Thập Ðịa,
Thành thập lực vô ngại, Thành Thập lực vô ngại
Thiện-Thệ nhất thiết hành! Tất cả hạnh của Phật
Giảng: Đại chúng ở trong pháp hội nầy, cũng giống như những tư tưởng vừa nói ở trên, hy vọng lắng nghe để được sự giải khát, được ăn no, chữa lành bệnh, diệu pháp xả lìa tất cả tham sân si. Bồ Tát Kim Cang Tạng ngài là bậc có trí huệ rộng lớn ! Xin Ngài nói làm sao để đi vào pháp môn Thập địa. Vì Ngài đã thành tựu Thập lực giống như Phật, đạt đến quả vị không chướng ngại, cũng đã tu chứng đến tất cả các hạnh đồng như Phật.
Kinh Văn: Nhĩ thời, Thế Tôn tùng my gian xuất thanh Tịnh Quang minh, danh: Bồ Tát lực diệm minh, bách thiên a-tăng-kì quang minh dĩ vi quyến thuộc, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới mị bất chu biến, tam ác đạo khổ giai đắc hưu tức. Hựu chiếu nhất thiết Như Lai chúng hội, hiển hiện chư Phật bất tư nghị lực. Hựu chiếu thập phương nhất thiết thế giới, nhất thiết chư Phật sở gia thuyết Pháp Bồ Tát chi thân. tác thị sự dĩ, ư thượng hư không trung thành đại quang minh vân võng đài nhi trụ.
Thời, thập phương chư Phật tất diệc như thị, tùng my gian xuất thanh Tịnh Quang minh, kỳ quang danh hiệu, quyến thuộc, tác nghiệp tất đồng ư thử, hựu diệc chiếu thử Ta Bà thế giới Phật cập Đại chúng, tinh Kim Cương Tạng Bồ Tát thân, sư tử tọa dĩ, ư thượng hư không trung thành đại quang minh vân võng đài.
Thời, quang đài trung, dĩ chư Phật uy thần lực cố nhi thuyết tụng ngôn:
Việt Văn: Bấy giờ, ở giữa chân mày của đức Thế Tôn phóng ra luồng quang minh thanh tịnh, tên là Bồ Tát Lực Diệm Minh. Có trăm ngàn A tăng kỳ quang minh dùng làm quyến thuộc, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới, không có chỗ nào mà không chiếu đến, khổ ba đường ác đều được ngừng nghỉ. Lại chiếu đến tất cả chúng hội của Như Lai, hiển hiện lực không nghĩ bàn của chư Phật. Lại chiếu đến tất cả thân Bồ Tát được chư Phật gia trì thuyết pháp trong mười phương tất cả thế giới. Làm như vậy rồi, trở thành đài lưới mây đại quang minh, trụ ở trên hư không.
Lúc đó, mười phương chư Phật, cũng đều như vậy, từ giữa chân mày phóng ra luồng quang minh thanh tịnh, quang minh đó tên là Quyến Thuộc Tác Nghiệp, đều đồng như đây. Lại cũng chiếu đến đức Phật và đại chúng ở thế giới Ta Bà nầy, cùng với thân Bồ Tát Kim Cang Tạng, toà sư tử, rồi trở thành đài lưới mây đại quang minh, trụ ở trong hư không.
Lúc đó, ở trong đài quang minh, nhờ oai thần lực của chư Phật, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Khi Bồ Tát nói bài kệ ở trên vừa xong, thì lúc đó, ở giữa chân mày của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, phóng ra luồng quang minh rất thanh tịnh, quang minh đó tên gọi là Bồ Tát Đại Trí Lực Diệm Quang Minh. Là quang minh lửa ngọn pháp lực của Bồ Tát. Có trăm ngàn A tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc, riêng ngoài còn có đủ thứ vô lượng quang minh, làm quyến thuộc cho quang minh nầy. Chiếu đến khắp mười phương hết thảy thế giới của chư Phật, chẳng có một nơi nào mà không chiếu đến. Khổ của ba đường ác đều ngừng nghỉ, khổ hình đang thọ ở trong ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cũng đều tiêu diệt. Lại chiếu đến hết thảy chư Phật ở trong đạo tràng pháp hội, hiển hiện lực không nghĩ bàn của chư Phật, dùng quang minh sáng chói đó để hiển bày pháp lực của chư Phật không thể tưởng tượng được. Lại chiếu đến thân Bồ Tát đang thuyết pháp, được Phật lực của chư Phật gia trì ở trong mười phương hết thảy thế giới. Làm việc đó rồi, chiếu như vậy rồi, bèn trụ ở trong hư không, kết thành đài lưới mây đại quang minh.
Lúc đó, chư Phật những phương khác trong mười phương cũng lại như vậy, cũng giống nhau, từ giữa chân mày phóng ra luồng quang minh thanh tịnh, cũng tên là Bồ Tát Đại Trí Lực Diệm Quang Minh. Quang minh đó tên là Quyến Thuộc Tác Nghiệp, tác dụng làm quyến thuộc quang minh của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tác dụng ủng hộ với nhau. Đều giống như ở đây, giống như quang minh của đức Thế Tôn, chiếu khắp mười phương thế giới, chiếu đến Phật, pháp hội đại chúng, thân Bồ Tát Kim Cang Tạng ở thế giới Ta Bà, cùng với toà sư tử của Ngài, rồi quang minh đó kết thành đài lưới đại quang minh trụ ở trong hư không.
Ở trong đài quang minh, nhờ sức đại oai đức thần thông của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Phật, mà nói ra bài kệ dưới đây.
Phật vô đẳng đẳng như hư không, Phật Vô đẳng đẳng như hư không
Thập lực vô lượng thắng công đức, Thập lực vô lượng thắng công đức
Nhân gian tối thắng thế trung thượng, Tối thắng vô thượng trong thế gian
Thích sư tử Pháp gia ư bỉ Thích Ca Như Lai gia hộ đó.
Giảng: Đức Phật, chẳng có ai có thể sánh được, vi diệu giống như hư không. Đức Phật có mười lực, lại có vô lượng công đức thù thắng. Ở nhân gian, đức Phật tối thắng nhất, cao thượng nhất. Phàm là người hay thuyết pháp độ sinh, Phật lực sẽ gia bị cho bạn.
Phật tử đương thừa chư Phật lực, Phật tử nên thừa thần lực Phật
Khai thử pháp Vương tối thắng tạng, Giải bày tạng tối thắng tối tôn
Chư địa quảng trí thắng diệu hạnh Trí địa quảng đại hạnh thắng diệu
Dĩ Phật uy thần phân biệt thuyết. Nương Phật oai thần phân biệt nói.
Giảng: Phật tử ! Bồ Tát Kim Cang Tạng : Ngài hãy nương sức oai thần của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và mười phương chư Phật, vì đại chúng khai diễn hạnh Bồ Tát thù thắng nhất của Pháp Vương có đủ. Vì ở trong pháp Thập địa, mỗi địa đều có trí huệ rộng lớn của mỗi địa, đều có pháp môn tu hành vi diệu khác nhau của mỗi địa, nhờ Phật lực gia trì, mới có thể phân biệt giải nói tỉ mỉ.
Nhược vi Thiện-Thệ lực sở gia, Nếu được Như Lai gia hộ cho
Đương đắc pháp bảo nhập kỳ tâm, Sẽ được pháp bửu vào tâm mình
Chư địa vô cấu thứ đệ mãn, Bồ Tát Thập Ðịa tuần tự đầy
Diệc cụ Như Lai thập chủng lực. Cũng đủ Chư Phật mười trí lực.
Giảng: Nếu như bạn được Phật lực gia trì (Thiện Thệ là một trong mười danh hiệu của Phật), thì vô lượng pháp bảo sẽ nhập vào trong biển não của bạn, khi diễn nói Phật pháp, thì nói rất viên dung vô ngại, nghĩa lý phân minh. Thập địa, mỗi địa đều thanh tịnh vô cấu, thêm vào có thể nương tựa thứ lớp tu trì, thì nhất định có thể chứng được quả vị viên mãn, cũng sẽ đầy đủ mười lực giống như đức Phật.
Tuy trụ hải thủy kiếp hỏa trung Dầu ở biển sâu hay kiếp hỏa
Kham thọ thử pháp tất đắc văn, Kham thọ pháp này tất được nghe
Kỳ hữu sanh nghi bất tín giả, Những ai sanh nghi không lòng tin
Vĩnh bất đắc Văn như thị nghĩa. Trọn không được nghe nghĩa như vậy.
: Tuy nhiên bạn trụ ở trong nước biển nhiều như vậy, sâu như vậy, ở trong kiếp lửa : thành, trụ, hoại, không, cũng nên nhẫn thọ kiếp khổ nạn đó, gặp lúc giảng về Thập địa, thì nhất định cũng muốn nghe (nghĩa là nói: thà chịu khổ Giảngở trong ba đường ác, cũng không bị tám nạn chướng ngại sự nghe pháp). Như có người đối với pháp Thập địa sinh nghi hoặc không tin, thì họ vĩnh viễn chẳng có cơ hội nghe được pháp thù thắng như vậy.
Ưng thuyết chư địa thắng trí đạo, Nói rộng Thập Ðịa: đạo Thắng Trí
Nhập trụ triển chuyển thứ tu tập, Nhập trụ tuần tự tu tập lần
Tùng hạnh cảnh giới Pháp trí sanh, Theo hạnh phát sanh cảnh giới trí
Lợi ích nhất thiết chúng sanh cố Vì lợi ích chúng sanh tất cả.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng ! Ngài nên đối với đại chúng giải nói đạo lý trí huệ thù thắng của Bồ Tát mỗi địa trong Thập địa. Khiến cho đại chúng vào được trong pháp Thập địa, lần lược khiến cho chúng sinh y theo thứ lớp tu tập, từ trong cảnh giới tu hành, sinh ra pháp trí, vượt qua tục trí, hy vọng có thể lợi ích tất cả chúng sinh trong pháp hội.
Kinh Văn: Nhĩ thời, Kim Cương tạng Bồ Tát quan sát thập phương, dục lệnh Đại chúng tăng tịnh tín cố nhi thuyết tụng viết:
Việt Văn: Kim Cang Tạng Bồ Tát quan sát mười phương muốn cho đại chúng thêm lòng tin thanh tịnh nên nói kệ rằng:
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng quán sát nhân duyên đại chúng trong pháp hội, hy vọng khiến cho tâm tin hiểu của đại chúng tăng trưởng thanh tịnh, lại dùng kệ để nói ra.
Như Lai đại tiên đạo Ðạo lớn của Như Lai
Vi diệu nan khả tri, Vi diệu khó biết được
Phi niệm ly chư niệm, Lìa niệm chẳng phải niệm
Cầu kiến bất khả đắc. Cầu thấy chẳng thể được
Giảng: Đức Phật giống như con đường lớn. Đại đạo tức là con đường của bậc Thánh. Chỗ vi diệu của Ngài không thể tưởng tượng được. Khi bạn đã lìa niệm rồi, còn phải tiến thêm một bước nữa, ý niệm lìa niệm cũng phải xả bỏ. Nếu bạn muốn dùng âm thanh, sắc tướng, cầu thấy Phật, dùng thanh sắc cầu thấy pháp, thấy sắc cầu thanh, như vậy không thể nào minh bạch pháp môn Thập địa nầy.
Vô sanh diệc vô diệt, Không sanh cũng không diệt
Tánh tịnh hằng tịch nhiên, Tánh tịnh thường vắng lặng
Ly cấu thông tuệ nhân, Người ly cấu thông huệ
Bỉ trí sở hạnh xứ. Ðang đi trong cảnh đó.
Giảng: Pháp môn Thập địa, tức là Phật tánh của chúng ta vốn có, trí huệ vốn có, bản tánh quang minh tạng vốn có. Bản tánh đó không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, luôn luôn thanh tịnh, vì thường thanh tịnh, cho nên luôn luôn vắng lặng không động. Bỏ một phần nhiễm ô, tăng thêm một phần thanh tịnh. Nhiễm ô và thanh tịnh là pháp đối đãi. Tăng thêm thanh tịnh tức là tăng thêm trí huệ; tăng thêm nhiễm ô, tức là tăng thêm ngu si. Có trí huệ thì dần dần thăng đi lên, ngu si thì càng ngày càng đoạ lạc. Cổ Thánh nhân có nói : “Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt”, tức là ý nghĩa nầy. Mục đích chúng ta tu hành là vì khai mở trí huệ, diệt ngu si. Pháp thế gian không thanh tịnh nhất, nhiễm ô nhất là nam tham hoan, nữ tham ái, đều do đây mà ràng buộc không thể vượt thoát được, nguyên nhân của nó là không thể học Thánh nhân chuyển nhiễm ô thành thanh tịnh. Phàm là lìa khỏi nhiễm ô, khôi phục lại thanh tịnh, thì sẽ đắc được thông minh trí huệ chân chánh, mới là Thánh nhân chân chánh thông minh có trí huệ. Các vị đều là đệ tử của Phật, đều đã lìa khỏi tất cả nhiễm ô, khôi phục lại sự thanh tịnh vốn có, trở thành Thánh nhân thật có trí huệ. Trí huệ của người thông minh có trí huệ và sự tu hành của Bồ Tát, tức là pháp môn Thập địa nầy.
Tự tánh bổn không tịch Tự tánh vốn không tịch
Vô nhị diệc vô tận, Vô nhị cũng vô tận
Giải thoát ư chư thú, Giải thoát khỏi các loài
Niết-Bàn bình đẳng trụ. Trụ Niết Bàn bình đẳng.
Giảng: Tự tánh của mỗi người chúng ta vốn là thanh tịnh, vốn là gì cũng chẳng có. Vì mình quay lưng giác ngộ hợp với trần lao, nhiễm khổ làm vui, vì tăng thêm nhiều phiền não. Tuy nhiên tự tánh không có một vật gì, không hình, không tướng, không người, không ta, không chúng sinh, không thọ mạng, nhưng cũng không thể nói không có, giống như hư không, không thể nói không có hư không. Trí huệ của Thập địa nầy hay đắc được thanh tịnh giải thoát tự tại, thoát khỏi bốn đường ác. Bốn đường ác là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la. Nếu bạn minh bạch pháp môn Thập địa, thì sẽ minh bạch sinh tử, Niết Bàn là bình đẳng. Do đó, sinh tử tức Niết Bàn, phiền não tức bồ đề. Nếu không minh bạch pháp môn Thập địa nầy, thì sinh tử vẫn là sinh tử, Niết Bàn vẫn là Niết Bàn, cả hai chẳng có tơ hào quan hệ để nói cả.
Phi sơ phi trung hậu, Chẳng phải sơ, trung, hậu
Phi ngôn từ sở thuyết, Chẳng phải ngôn từ đến được
Xuất qua ư tam thế, Vượt qua ngoài thời gian
Kỳ tướng như hư không. Tướng đó dường hư không.
Giảng: Trí huệ của pháp môn Thập địa, không thể phân làm giai đoạn ban đầu giữa cuối để nói. Bồ Tát phát tâm, được bồ đề, vĩnh viễn không thối chuyển, cũng không trước sau. Chẳng có lời lẽ để nói, cho nên tôi (Bồ Tát Kim Cang Tạng) không muốn giải nói. Vì pháp môn nầy, vượt qua khỏi tất cả pháp ba đời, hình trạng thật của nó giống như hư không.
Tịch diệt Phật sở hạnh, Cảnh giới Phật tịch diệt
Ngôn thuyết mạc năng cập. Lời nói không đến được
Địa hạnh diệc như thị, Cảnh Thập địa cũng vậy
Nan thuyết nan khả thọ. Khó nói cũng khó nhận.
Giảng: Pháp môn nầy là tướng tịch diệt, nhìn mà chẳng thấy, thính mà chẳng nghe, ngửi mà không mùi, đó là chỗ hành của Phật, vi diệu nhất. Nếu như tôi dùng ngôn ngữ để giải thích, thật không cách chi nói minh bạch được. Pháp môn tu hành nói ở trong Thập địa, cũng giống như ví dụ tôi đã nói ở trước, không dễ gì nói minh bạch được. Do đó, “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, chúng sinh cũng không dễ gì tin nhận, cũng không dễ gì tiếp thọ.
Trí khởi Phật cảnh giới, Trí phát sanh cảnh Phật
Phi niệm ly tâm đạo, Rời hẳn ngoài tâm niệm
Phi uẩn giới xứ môn Chẳng phải uẩn xứ giới
Trí tri ý bất cập. Trí biết, ý chẳng biết.
Giảng: Do trong trí huệ sinh ra cảnh giới, là cảnh giới của Phật chứng. Như ý nghĩa “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt” đã nói ở trên. Nên tức niệm lìa niệm, niệm mà không niệm, tức là chẳng niệm, lìa khỏi tất cả sự tưởng tượng ở trong tâm. Pháp môn nầy cũng chẳng phải từ tu năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), mười tám giới (sáu căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu trần : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu thức : nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức), mười hai xứ (sáu căn, sáu trần) có thể đắc được. Phải dùng trí huệ mới hiểu rõ được, dùng ý niệm và tư tưởng không cách chi minh bạch được.
Như không trung điểu tích, Như dấu chim bay qua
Nan thuyết nan khả thị. Khó chỉ cũng khó nói
Như thị Thập Địa nghĩa Nghĩa của mười trí địa.
Tâm ý bất năng liễu. Tâm ý không rõ được.
Giảng: Giống như chim bay ở trong hư không, có dấu tích gì để nói ? Có vết tích gì để biểu thị? Nghĩa lý bao hàm pháp Thập địa cũng không thể dùng tâm và ý niệm của chúng sinh có thể hiểu rõ được.
Từ bi cập nguyện lực, Từ bi và nguyện lực
Xuất sanh nhập địa hạnh Sanh hạnh vào Thập địa
Thứ đệ viên mãn tâm, Tuần tự tâm viên mãn
Trí hành phi lự cảnh. Chẳng phải cảnh tư lự.
Giảng: Bồ Tát hay diễn nói pháp môn Thập địa, đều nương vào từ bi và nguyện lực của chư Phật, sinh ra tại thế gian để tu hành pháp môn Thập địa nầy, nương tựa vào thứ tự của mỗi địa, khiến cho tâm trí huệ viên mãn, khiến cho đạo bồ đề giác ngộ thành tựu. Đây là do trí huệ tu hành pháp môn, chẳng phải dùng tâm suy nghĩ có thể minh bạch được cảnh giới.
Thị cảnh giới nan kiến, Cảnh giới này khó thấy
Khả tri bất khả thuyết, Biết được không nói được
Phật lực cố khai diễn, Do Phật lực nên nói
Nhữ đẳng ưng kính thọ. Ðại chúng phải kính nhận.
Giảng: Cảnh giới đó rất khó thấy được, biết pháp môn đó còn dễ hơn, nếu muốn giải thích diễn nói không dễ dàng chút nào. Phải nương vào sức thập lực của chư Phật gia trì, mới có thể diễn nói. Các vị Bồ Tát nghe được pháp môn nầy, đều phải cung kính nghe thọ pháp nầy.
Như thị trí nhập hàng, Cảnh giới của trí địa
Ức kiếp thuyết bất tận, Ức kiếp nói không hết
Ngã kim đãn lược thuyết Nay tôi chỉ nói lược
Chân thật nghĩa vô dư. Nghĩa chơn thiệt của kia.
Giảng: Pháp môn nầy dùng trí huệ để tu hành, tức là dùng thời gian vô lượng kiếp cũng nói không hết được. Hiện tại tôi (Bồ Tát Kim Cang Tạng) chỉ nói sơ lược, nghĩa lý chân thật vô cùng vô tận không thừa sót.
Nhất tâm cung kính đãi, Ðại chúng cung kính chờ
Ngã thừa Phật lực thuyết, Tôi thừa Phật lực nói
Thắng Pháp vi diệu âm, Tiếng pháp diệu thù thắng
Thí dụ tự tướng ứng. Tương ưng chữ ví dụ.
Giảng: Các vị Bồ Tát, một lòng một dạ cung kính đợi, tôi nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật, để diễn nói pháp âm vi diệu thù thắng nầy, pháp Thập địa chẳng có gì có thể tương ưng, chỉ dùng ý nghĩa chữ vẽ để làm ví dụ.
Vô lượng Phật thần lực, Thần lực vô lượng Phật
Hàm lai nhập ngã thân, Ðều đến vào thân tôi
Thử xứ nan tuyên thị, Nơi đây khó hiển bày
Ngã kim thuyết thiểu phần. Nay tôi nói phần ít.
Giảng: Vô lượng vô biên chư Phật, dùng sức thần thông của các Ngài, cùng nhau gia trì vào thân tôi. Vì pháp môn Thập địa rất vi diệu thâm sâu, khó tuyên nói, cho nên hiện tại tôi chỉ nói ít phần.
Kinh Văn: Phật tử! nhược hữu chúng sanh thâm chủng thiện căn, thiện tu chư hạnh, thiện tập trợ đạo, thiện cúng dường chư Phật, thiện tập bạch tịnh Pháp, vi thiện tri thức, thiện nhiếp thiện thanh tịnh thâm tâm, lập quảng đại chí, sanh quảng đại giải, từ bi hiện tiền, vi cầu Phật trí cố, vi đắc thập lực cố, vi đắc Đại vô úy cố, vi đắc Phật bình đẳng pháp cố, vi cứu nhất thiết thế gian cố, vi tịnh đại từ bi cố, vi đắc thập lực vô dư trí cố, vi tịnh nhất thiết Phật sát vô chướng ngại cố, vi nhất niệm tri nhất thiết tam thế cố, vi chuyển Đại Pháp luân vô sở úy cố.
Việt Văn: Phật tử ! Nếu có chúng sinh trồng căn lành sâu dày, khéo tu các hạnh, khéo tập trợ đạo, khéo cúng dường chư Phật, khéo tập pháp trắng tịnh, được thiện tri thức khéo nhiếp, khéo thanh tịnh thâm tâm, lập chí rộng lớn, sinh hiểu biết rộng lớn, từ bi hiện tiền, vì cầu trí của Phật, vì đắc được mười lực, vì được đại vô uý, vì được pháp bình đẳng của Phật, vì cứu tất cả thế gian, vì tịnh đại từ bi, vì được mười lực trí không thừa, vì tịnh tất cả cõi Phật không chướng ngại, vì một niệm biết tất cả ba đời, vì chuyển đại pháp luân vô sở uý.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Nếu như có chúng sinh đã gieo trồng căn lành thâm sâu, lại tu hành pháp môn lục độ hạnh rộng lớn. Lại tu tập pháp môn trợ giúp họ thành đạo. Lại cúng dường tất cả chư Phật mười phương ba đời. Lại hiểu biết tu tập hết thảy pháp môn tối thượng. Lại nhiếp thọ chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, làm đại thiện tri thức của chúng sinh. Lại biết hàng phục thân tâm, xa lìa trần cấu được thâm tâm thanh tịnh. Và còn lập chí khí rộng lớn vô biên, cứu độ chúng sinh không có tâm phân biệt. Phát đại nguyện không sợ gian nan. Sinh hiểu biết rộng lớn, đối với chánh pháp của Phật sinh ra tâm tin rộng lớn vô lượng vô biên, và sức lý giải vững chắc. Từ bi hiện tiền, người tu đạo đối với bất cứ người nào cũng phải có lòng từ bi. Vì cầu được trí huệ giống như Phật, vì tu được mười lực của Phật, vì muốn có trí dũng vô sở uý lớn nhất, vì muốn đắc được pháp môn bình đẳng của Phật, vì cứu bạt hết thảy chúng sinh của thế giới. Vì tịnh đại từ bi, nghĩa là muốn đắc được tâm từ bi thanh tịnh lớn nhất, tức chánh trí xuất thế gian. Vì được mười lực trí không thừa, vì muốn đắc được hết đại trí huệ của Phật, vì trang nghiêm thanh tịnh hết thảy cõi nước chư Phật, chẳng có chút gì chướng ngại, vì muốn được một động niệm thì biết được tất cả nhân quả ba đời, vì luôn luôn chuyển đại pháp luân vô thượng, mà chẳng có chút tâm sợ sệt nào, vì đủ thứ duyên như vậy, nên phải nghe thọ pháp môn Thập địa nầy.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ Tát khởi như thị tâm, dĩ đại bi vi thủ, trí tuệ tăng thượng, thiện xảo phương tiện sở nhiếp, tối thượng thâm tâm sở trì, Như Lai lực vô lượng, thiện quan sát phân biệt dũng mãnh lực trí, lực vô ngại trí, hiện tiền tùy thuận tự nhiên trí, năng thọ nhất thiết Phật Pháp, dĩ trí tuệ giáo hóa, quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế.
Phật tử! Bồ Tát thủy phát như thị tâm, tức đắc siêu phàm phu địa, nhập Bồ Tát vị, sanh Như Lai gia, vô năng thuyết kỳ chủng tộc quá thất, ly thế gian thú, nhập xuất thế đạo, đắc Bồ Tát Pháp, trụ Bồ Tát xứ, nhập tam thế bình đẳng, ư Như Lai chủng trung quyết định đương đắc vô thượng Bồ-đề. Bồ-tát trụ như thị pháp, danh: trụ Bồ Tát hoan hỉ địa, dĩ ất động tướng ứng cố.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát khởi tâm như vậy, dùng đại từ bi làm đầu, trí huệ tăng thượng, phương tiện khéo léo nhiếp thọ, thâm tâm tối thượng nhiếp trì, có vô lượng lực Như Lai, khéo quán sát phân biệt, có sức dũng mãnh, trí lực, trí vô ngại hiện tiền. Tuỳ thuận trí tự nhiên, thọ trì tất cả Phật pháp, dùng trí huệ giáo hoá. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai.
Phật tử ! Bồ Tát ban đầu phát tâm như vậy, liền vượt qua được địa vị phàm phu, nhập vào bậc Bồ Tát, sinh vào nhà Như Lai, không ai có thể nói chủng tộc của Ngài lỗi lầm, lìa cõi thế gian, nhập vào đạo xuất thế, được pháp Bồ Tát, trụ chỗ của Bồ Tát, vào ba đời bình đẳng, ở trong giống tánh Như Lai quyết định sẽ được vô thượng bồ đề. Bồ Tát trụ pháp như vậy, tên là trụ Bồ Tát Hoan Hỉ Địa, vì dùng bất động tương ưng.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Khi Bồ Tát sinh khởi đủ thứ tâm niệm ở trên, thì dùng đại bi làm đầu : Vì tâm đại bi hay cứu khổ chúng sinh, khiến chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên nói dùng đại bi làm đầu. Trí huệ tăng thượng: Tu pháp Bồ Tát thì đắc được trí huệ của Bồ Tát, tu nhiều hạnh Bồ Tát, thì trí huệ sẽ tăng thượng. Khi nói pháp, thì sẽ có trí huệ phương tiện khéo léo, sức biện tài vô ngại. Sở nhiếp trì là thâm tâm tối thượng vi diệu, sở trì là vô lượng sức oai thần của Phật. Lại có vô lượng trí huệ khéo quán sát tất cả và khả năng phân biệt tất cả cảnh giới, rất dũng mãnh hướng về trước tinh tất tu hành, bất luận cảnh giới gì hiện tiền, Ngài cũng đều có trí huệ ứng phó không bị chướng ngại. Thường có một thứ trí lực rất tự nhiên, khiến Ngài lãnh thọ tất cả pháp môn của chư Phật nói. Dùng trí huệ để giáo hoá tất cả chúng sinh, cảnh giới đó rộng lớn như pháp giới, khắp cùng tất cả mọi nơi. Rốt ráo triệt để như hư không không chướng ngại, có thể hết thuở kiếp vị lai.
Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, khi bắt đầu phát tâm đại bi, thì lập tức vượt khỏi được địa vị phàm phu, nhập vào địa vị Bồ Tát. Sinh vào trong gia tộc của Như Lai, chẳng có ai có thể tìm ra lỗi lầm của Bồ Tát và quyến thuộc của Phật. Lìa cõi thế gian: Lìa khỏi bốn đường ác của thế gian: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la. Chứng được Thánh đạo vượt qua ba cõi, được tất cả pháp môn của Bồ Tát tu trì, trụ nơi thanh tịnh của Bồ Tát trụ, không xả bỏ thế gian, cũng có thể phương tiện không nhiễm, càng đắc được trí huệ ba đời bình đẳng. Ở trong giống tánh Như Lai: Trong giống tánh thâm sâu của Phật, sẽ đắc được giác quả bồ đề cao thượng. Bồ Tát trụ pháp như vậy, tên gọi là trụ Bồ Tát Hoan Hỉ địa. Bồ Tát tu đến pháp môn nầy, tức là sơ địa trong Thập địa, gọi là Hoan Hỉ địa, vì Ngài đã chứng được sơ địa, sinh ra tâm đại hoan hỉ. Sự hoan hỉ đó, do định lực mà sinh ra, cho nên nói dùng tướng bất động và định tương ưng.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ-tát trụ hoan hỉ địa, thành tựu đa hoan hỉ, đa tịnh tín, đa ái lạc, đa Thích-duyệt, đa hân khánh, đa dõng dược, đa dũng mãnh, đa vô đấu tranh, đa vô não hại, đa vô sân hận.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát trụ Hoan Hỉ địa, thành tựu nhiều hoan hỉ, nhiều tịnh tín, nhiều ái lạc, nhiều vui thích, nhiều vui vẻ, nhiều mừng rỡ, nhiều dũng mãnh, nhiều không đấu tranh, nhiều không phiền não, nhiều không sân hận.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát trụ Hoan Hỉ địa, chứng được Hoan Hỉ địa rồi, thành tựu rất nhiều thứ được pháp lợi sinh hoan hỉ. Như nhiều tịnh tín, đối với Phật pháp tâm tin thanh tịnh, cũng sâu dày. Đối với Phật pháp càng sinh khởi vô lượng tâm ái lạc. Bất cứ lúc nào cũng đều cảm thấy thân tâm khoái lạc, rất an tường. Đến đâu cũng chẳng cảm thấy có sự chướng ngại, dù gặp người khác chướng ngại, cũng chẳng sinh phiền não, nói chung cảm thấy mãn túc như pháp. Nhiều vui vẻ, luôn luôn vui vẻ mình nghe được Phật pháp mà tu hành Bồ Tát đạo. Nhiều mừng rỡ, nhiều dũng mãnh: Các ngài lúc nào cũng đều dũng mãnh tinh tấn, tơ hào không giải đãi. Giao tiếp với người cũng chưa từng phát sinh đấu tránh và tranh luận. Không làm phiền hại tất cả chúng sinh, khắp khuyên người khác phát tâm tu hành. Bồ Tát sơ địa chứng nhập Hoan Hỉ địa, đối với bất cứ ai, bất cứ việc gì, cũng không sinh khởi tâm không vui hoặc tâm sân hận.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ-tát trụ thử hoan hỉ địa, niệm chư Phật cố sanh hoan hỉ, niệm chư Phật Pháp cố sanh hoan hỉ, niệm chư Bồ-tát cố sanh hoan hỉ, niệm chư Bồ-tát hạnh cố sanh hoan hỉ, niệm thanh tịnh chư Ba-la-mật cố sanh hoan hỉ, niệm chư Bồ-tát địa thù thắng cố sanh hoan hỉ, niệm Bồ Tát bất khả hoại cố sanh hoan hỉ, niệm Như Lai giáo hóa chúng sanh cố sanh hoan hỉ, niệm năng lệnh chúng sanh đắc lợi ích cố sanh hoan hỉ, niệm nhập nhất thiết Như Lai trí phương tiện cố sanh hoan hỉ.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát trụ Hoan hỉ địa nầy, nghĩ nhớ đến chư Phật, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến các Phật pháp, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến các Bồ Tát, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến các Bồ Tát hạnh, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến thanh tịnh các Ba la mật, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến các Bồ Tát địa thù thắng, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến Bồ Tát không thể hoại, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến Như Lai giáo hoá chúng sinh, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến khiến cho chúng sinh được lợi ích, nên sinh hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến nhập vào nhất thiết trí, phương tiện của Như Lai, nên sinh hoan hỉ.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát chứng đắc quả vị hoan hỉ địa rồi, tại sao hoan hỉ như thế ? Vì các Ngài luôn luôn nghĩ nhớ đến tất cả các đức Phật, cho nên sinh tâm hoan hỉ. Không giống như phàm phu tục tử, mỗi ngày đều sống trong sự đố kị chướng ngại, chẳng có đạo tâm. Bồ Tát chuyên tâm nghĩ nhớ đến các đức Phật, nên không sinh tâm đố kị chướng ngại. Lại nghĩ nhớ đến tất cả Phật pháp của chư Phật nói, y pháp tu hành, cho nên cũng sinh tâm hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến các Bồ Tát, chẳng những Ngài nghĩ nhớ đến chư Phật các pháp, mà còn luôn luôn nghĩ nhớ đến mười phương ba đời tất cả hiền Thánh Tăng và các đại Bồ Tát, cho nên sinh tâm hoan hỉ. Phàm là người tu đạo, đều phải thường sinh tâm nghĩ nhớ đến Tam Bảo.
Lại thường nghĩ nhớ đến tất cả pháp môn thành Phật của Bồ Tát tu hành, vì hết thảy đại Bồ Tát đều là chư Phật vị lai, các Ngài siêng tu lục độ vạn hạnh, không quên độ chúng sinh, cho nên sinh đại hoan hỉ. Lại nghĩ nhớ đến thanh tịnh các Ba la mật tương lai đều có thể thành tựu viên mãn trí huệ thanh tịnh và công đức thành Phật, đó cũng là gốc rễ của sự hoan hỉ. Lại nghĩ nhớ đến các địa vị của Bồ Tát, đặc biệt thù thắng, mà sinh đại hoan hỉ. Lại nghĩ nhớ đến Bồ Tát chứng được ba bất thối là: niệm bất thối, vị bất thối, hạnh bất thối. Càng không có thiên ma ngoại đạo nào có thể phá hoại được Ngài, nên sinh hoan hỉ.
Lại luôn luôn nghĩ nhớ đến Như Lai giáo hoá chúng sinh, ôm lòng từ bi, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui, mà sinh đại hoan hỉ. Lại nghĩ nhớ đến chư Phật thường khiến cho chúng sinh nghe pháp được độ, chấm dứt sinh tử, đó là khiến cho các chúng sinh được đại lợi ích pháp môn tốt nhất. Các Bồ Tát có những nhân duyên thù thắng như vậy, có thể làm được rất nhiều việc lớn, cho nên sinh tâm đại hoan hỉ. Nghĩ nhớ đến nhập vào nhất thiết trí phương tiện của Như Lai, Bồ Tát chứng được Hoan Hỉ địa, Ngài cũng còn sự nghĩ nhớ, bất quá sự nghĩ nhớ của các Ngài là thanh tịnh. Về phần nghĩ nhớ của chúng sinh là nhiễm ô – tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều – cảnh giới năm dục. Sự nghĩ nhớ của Bồ Tát là : Phật, Pháp, Tăng và lục độ vạn hạnh, đủ thứ cảnh giới thanh tịnh. Vì các Ngài biết mình đã chứng nhập nhất thiết trí huệ của Như Lai, đắc được đủ thứ phương tiện, cho nên sinh tâm đại hoan hỉ.
Kinh Văn: Phục tác thị niệm: ngã chuyển ly nhất thiết thế gian cảnh giới cố sanh hoan hỉ, thân cận nhất thiết Phật cố sanh hoan hỉ, viễn ly phàm phu địa cố sanh hoan hỉ, cận trí tuệ địa cố sanh hoan hỉ, vĩnh đoạn nhất thiết ác thú cố sanh hoan hỉ, dữ nhất thiết chúng sanh tác y chỉ xứ cố sanh hoan hỉ, kiến nhất thiết Như Lai cố sanh hoan hỉ, sanh Phật cảnh giới trung cố sanh hoan hỉ, nhập nhất thiết Bồ Tát bình đẳng tánh trung cố sanh hoan hỉ, viễn ly nhất thiết bố úy mao thụ đẳng sự cố sanh hoan hỉ.
Hà dĩ cố? thử Bồ Tát đắc hoan hỉ địa dĩ, sở hữu bố úy tất đắc viễn ly, sở vị: bất hoạt úy, ác danh úy, tử úy, ác đạo úy, Đại chúng uy đức úy, như thị bố úy giai đắc vĩnh ly.
Việt Văn: Lại nghĩ như vầy : Tôi đã chuyển biến tất cả cảnh giới thế gian, nên sinh hoan hỉ. Gần gũi tất cả chư Phật, nên sinh hoan hỉ. Xa lìa hạng phàm phu, nên sinh hoan hỉ. Gần bậc trí huệ, nên sinh hoan hỉ. Vĩnh viễn dứt trừ tất cả cõi ác, nên sinh hoan hỉ. Làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sinh, nên sinh hoan hỉ. Thấy tất cả Như Lai, nên sinh hoan hỉ. Sinh ở trong cảnh giới Phật, nên sinh hoan hỉ. Vào trong tánh bình đẳng của tất cả Bồ Tát, nên sinh hoan hỉ. Xa lìa tất cả sợ hãi rùng mình, nên sinh hoan hỉ.
Tại sao ? Vì Bồ Tát được Hoan Hỉ địa nầy rồi, hết thảy sự sợ hãi đều được xa lìa. Như là : Sợ không sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ đường ác, sợ oai đức của đại chúng, những sự sợ hãi nhu vậy, vĩnh viễn lìa khỏi.
Giảng: Bồ Tát đắc được quả vị Hoan Hỉ địa, lại nghĩ như vầy: Tôi đã chuyển biến tất cả cảnh giới thế gian, (chuyển biến tức là buông bỏ). Chuyển phàm thành Thánh, chuyển mê thành ngộ, chuyển ô nhiễm thành thanh tịnh, cho nên sinh đại hoan hỉ. Ví như người nghe pháp ở trong Chùa Kim Sơn, thanh tịnh nhiều hơn những người ở ngoài xã hội, đây tức là ví dụ sự chuyển biến. Bồ Tát chứng đắc quả vị sơ địa, thì thường thấy được Phật, do gần gũi Phật cho nên sinh hoan hỉ. Chỗ suy nghĩ, mong cầu của phàm phu, Bồ Tát đều chẳng nghĩ, chẳng mong cầu. Cho nên Ngài xa lìa địa vị phàm phu, chuyển phàm thành Thánh, nên sinh hoan hỉ. Xa lìa địa vị phàm phu, tức là xa lìa vô minh ngu si. Gần gũi thiện tri thức, tức là gần bậc trí huệ, cho nên sinh hoan hỉ. Chứng nhập Bồ Tát sơ địa, thì đã vĩnh viễn dứt trừ tất cả đường ác, chẳng còn đoạ lạc vào trong bốn đường ác nữa, trừ phi Ngài phát nguyện vào trong bốn đường ác để giáo hoá chúng sinh, đó là vì độ sinh, hành Bồ Tát đạo, chẳng phải làm hạnh ác mà đọa lạc. Bồ Tát giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ lìa khổ được vui, ban cho chúng sinh sự cảm thọ an ổn, vì chúng sinh đó mà Ngài làm chỗ y chỉ cho họ, nên sinh hoan hỉ. Luôn luôn thấy được Phật, lại thường sinh ở trong cảnh giới của Phật, đồng tánh bình đẳng hành Bồ Tát đạo với tất cả Bồ Tát. Lại hay xa lìa tất cả tất cả những việc khiến cho người sợ hãi rùng mình, cho nên sinh tâm đại hoan hỉ.
Vì sao ? Bồ Tát chứng được quả vị Hoan Hỉ địa rồi, đối với tất cả đều nhìn thấu triệt, buông bỏ hết, chẳng còn gì khiến cho Ngài sợ hãi, tất cả sự sợ hãi, tự nhiên xa lìa. (Sợ hãi tức là nghiệp khổ phiền não) sự sợ hãi của phàm phu như: Sợ không sống, sợ không sống được nữa. Sợ tiếng xấu, sợ người khác huỷ báng, mất tiếng tăm. Sợ chết, ai ai cũng đều sợ chết, đều muốn cầu sống lâu. Sợ đường ác, sợ đoạ vào trong bốn đường ác. Sợ oai đức của đại chúng, ở trong chỗ đại chúng đông người không dám nói, vì sợ khí thế uy hiếp của đại chúng. Những sự sợ hãi như vậy, đều phát ra từ trong tâm, nếu hay tu hành, có định lực thì không sợ gì hết.
Kinh Văn: Hà dĩ cố? Thử Bồ Tát ly ngã tưởng cố, thượng bất ái tự thân, hà huống tư tài, thị cố vô hữu bất hoạt úy. Bất ư tha sở hy cầu cúng dường, duy chuyên cấp thí nhất thiết chúng sanh, thị cố vô hữu ác danh úy.
Viễn ly ngã kiến, vô hữu ngã tưởng, thị cố vô hữu tử úy. tự tri tử dĩ, quyết định bất ly chư Phật Bồ-tát, thị cố vô hữu ác đạo úy. Ngã sở chí lạc, nhất thiết thế gian vô dữ đẳng giả, hà huống hữu thắng! thị cố vô hữu Đại chúng uy đức úy. Bồ Tát như thị viễn ly kinh phố mao thụ đẳng sự.
Phật tử! thử Bồ Tát dĩ đại bi vi thủ, quảng đại chí lạc vô năng tự hoại, chuyển canh cần tu nhất thiết thiện căn nhi đắc thành tựu
Việt Văn: Tại sao ? Vì Bồ Tát nầy lìa tưởng cái ta, thân mình còn không mến tiếc, huống gì của cải, cho nên chẳng sợ về sự không sống. Ngài chẳng mong cầu sự cúng dường, chỉ chuyên bố thí cho tất cả chúng sinh, cho nên chẳng sợ về tiếng xấu.
Xa lìa thấy cái ta, chẳng còn nghĩ về cái ta, cho nên không sợ chết. Tự mình biết chết rồi, chắc chắn không lìa chư Phật Bồ Tát, cho nên không sợ đường ác. Chí thích của ta, tất cả thế gian không ai bằng được, hà huống là hơn, cho nên không sợ oai đức của đại chúng. Bồ Tát xa lìa những sự sợ hãi rùng mình như vậy.
Phật tử ! Bồ Tát nầy dùng đại bi làm đầu, chí thích rộng lớn không ai cản trở phá hoại được, càng siêng tu tất cả căn lành mà được thành tựu.
Giảng: Tại sao Bồ Tát chẳng có những sự sợ hãi như vậy? Vì Ngài đã xa lìa tất cả những sự sợ hãi rùng mình, do sức lực gì khiến cho Ngài được xa lìa? Đó là do tu hành, chịu phát tâm bồ đề, nguyện hành Bồ Tát đạo, do đó chứng được Hoan Hỉ địa của Bồ Tát, đạt đến cảnh giới lìa khỏi nghĩ tưởng về cái ta.
Ngài chẳng còn cái ta, chẳng những chẳng còn cái ta, mà cho đến nghĩ tưởng về của ta cũng không còn nữa. Do đó, Ngài sớm đã đem thân nầy bố thí cho chúng sinh, vì chúng sinh mà làm việc, chẳng ích kỷ, chẳng lợi mình. Chẳng còn mến tiếc thân mình nữa, hà huống là của cải? Của cải – vàng bạc châu báu, đất nước vợ con, đều là vật ngoài thân, Ngài hoàn toàn nhìn thấu triệt, buông bỏ đặng, đắc được tự tại chân chánh, cho nên chẳng sợ chết. Do vậy, cho nên Bồ Tát chẳng sợ mình không còn sống được nữa, cũng chẳng sợ không sống. Không muốn lợi ích cho chính mình, căn bản Ngài chẳng có sự mong cầu, vì rằng đạt đến vô cầu phẩm tự cao, đương nhiên cũng không lo, tại sao chúng ta sầu lo? Vì có sự tham cầu, có tham cầu thì có sầu lo. Bồ Tát không tham cầu danh văn lợi dưỡng, cũng không tham cầu năm dục – tài, sắc, danh, ăn, ngủ. Bồ Tát đối với những thứ nầy đều giải thoát, càng không tham sự cúng dường. Chỉ chuyên bố thí cho tất cả chúng sinh, vì Ngài chuyên nhất tu bố thí, bất luận cúng dường gì, Ngài đều đem cho hết thảy chúng sinh. Cho đến người khác nghị luận tốt xấu đối với Ngài, Ngài cũng đều không cứ tới, không tham cầu hư danh, cũng không sinh hoan hỉ và phiền não. Vì Bồ Tát đã có trí huệ vượt qua cảnh giới tốt xấu, cho nên Ngài chẳng sợ tiếng xấu.
Bồ Tát chẳng còn cái ta, thì tự nhiên cũng chẳng thấy có cái ta, nghĩ về ta. Chẳng còn cái ta, vậy có nghĩ tưởng đến ai chết, ai không chết chăng ? cho nên chẳng sợ chết. Bồ Tát Ngài biết mình chết rồi, chẳng bị đoạ vào trong bốn đường ác, vì Ngài thường hành Bồ Tát đạo. Cũng chắc chắn không lìa khỏi chư Phật, nhất định cùng ở chung với tất cả Bồ Tát, cho nên chẳng sợ đường ác. Chí nguyện của tôi và việc mà tôi thích làm, chúng sinh thế gian thống khổ trầm luân, làm sao bằng tôi được, hoặc tu chứng trước hơn tôi được, cho nên chẳng sợ oai đức của đại chúng. Lối nghĩ nầy là tâm tư của Bồ Tát trên cầu dưới độ, Bồ Tát chẳng có tư tưởng cống cao ngã mạn, chỉ là Bồ Tát Kim Cang Tạng nói rõ sau khi Bồ Tát chứng được quả vị Hoan Hỉ địa, cảnh giới của Ngài là như vậy. Bồ Tát xa lìa năm điều sợ hãi ở trên, thì không phát sinh sự việc rùng mình dựng lông.
Các vị đệ tử của Phật ! Các vị Bồ Tát đó làm việc đều dùng tâm đại bi làm điểm xuất phát, vì bi hay cứu khổ, chí nguyện rộng lớn, Bồ Tát có chí nguyện rộng lớn – cứu độ chúng sinh, vô lượng khoái lạc. Không có bất cứ thiên ma ngoại đạo nào có thế phá hoại và nhiễu loạn được sự tu hành của Ngài, hoặc trở ngại Ngài hành Bồ Tát đạo. Cho nên Ngài càng thêm siêng tu, càng ngày càng tinh tấn, càng ngày càng dụng công, cho nên tất cả căn lành, hạt giống bồ đề, đều thành tựu viên mãn.
Kinh Văn: Sở vị: tín tăng thượng cố, đa tịnh tín cố, giải thanh tịnh cố, tín quyết định cố, phát sanh bi mẫn cố, thành tựu đại từ cố, tâm vô bì giải cố, tàm quý trang nghiêm cố, thành tựu nhu hòa cố, kính thuận tôn trọng chư Phật giáo Pháp cố, nhật dạ tu tập thiện căn Vô yếm túc cố, thân cận thiện tri thức cố, thường ái lạc Pháp cố, cầu đa văn Vô yếm túc cố, như sở văn Pháp chánh quan sát cố, tâm vô y trước cố, bất đam trước lợi dưỡng, danh văn, cung kính cố, bất cầu nhất thiết tư sanh chi vật cố, sanh như bảo tâm Vô yếm túc cố, cầu nhất thiết trí địa cố, cầu Như Lai lực, vô úy, bất cộng Phật Pháp cố,
Việt Văn: Đó là : Vì niềm tin tăng thêm, nhiều lòng tin thanh tịnh, hiểu thanh tịnh, tin quyết định, phát sinh thương xót, thành tựu đại bi, tâm không mệt mỏi, hổ thẹn trang nghiêm, thành tựu nhu hoà, kính thuận tôn trọng giáo pháp chư Phật, ngày đêm tu tập căn lành không nhàm đủ, gần gũi thiện tri thức, thường ưa thích pháp, cầu đa văn không nhàm đủ, như chỗ nghe pháp chánh quán sát, tâm không nương tựa, không đam trước danh văn, lợi dưỡng, cung kính, không cầu tất cả vật tư sanh, sinh tâm như thật không nhàm đủ, cầu tất cả trí địa, cầu sức vô uý của Như Lai, Phật pháp bất cộng.
Giảng: Sau khi Bồ Tát chứng được Hoan Hỉ địa rồi, không lúc nào không ở trong đại hoan hỉ. Vì Ngài siêng tu tất cả căn lành, nên sớm đã thành tựu tâm tin, càng ngày càng tăng thêm nhiều, không giảm bớt, đó là tin tăng thêm. Vì tâm tin tăng thêm, nên tâm niệm thanh tịnh cũng tăng thêm nhiều, chẳng giống như quá khứ chỉ có tâm tin, còn có chút nhiễm ô. Hiện tại tâm tin tăng thêm lại không có chút nhiễm ô nào, chỉ thuần thanh tịnh, trở về nguồn cội. Tại sao hay khiến cho tâm tin tăng thêm có cảnh giới thanh tịnh như vậy ?
Vì Bồ Tát Ngài biết như nay đã không còn chút hoài nghi nào nữa, tâm tin kiên cố quyết định. Tin mười phương Phật, tin pháp của mười phương chư Phật nói, tin tất cả hiền Thánh Tăng mười phương, đều là pháp hữu của mình. Vì mình là một trong Tam Bảo, thì sẽ sinh ra tâm thương xót chúng sinh, độ tất cả chúng sinh, thành tựu tâm đại từ bi. Tâm bi, khiến cho chúng sinh lìa khổ; tâm từ thương chúng sinh, khiến cho chúng sinh được tất cả an lạc.
Cầu Phật pháp ngày ngày tinh tấn tu hành, dũng mãnh hành đạo, cũng là càng ngày càng thù thắng hơn, không giảm bớt giải đãi. Hổ thẹn trang nghiêm : Thường sinh tâm hổ thẹn sám hối. Đem hết thảy công đức của mình để trang nghiêm cõi nước mười phương, thành tựu nhu hoà, tu nhẫn nhục Ba la mật, thành tựu sức nhẫn nhục, vì đối với bất cứ việc gì, đều có công phu nhẫn nại nghịch đến thuận thọ, quyết định không có tâm thắng phụ và thái độ cang cường với bất cứ ai. Cung kính chư Phật, thuận thọ lời dạy của chư Phật, tôn trọng phụng hành giáo pháp của chư Phật nói. Ngày đêm tu tập căn lành không nhàm đủ, ngày đêm sáu thời tinh tấn tu tập đủ thứ căn lành, không có tâm mệt mỏi đầy đủ.
Bồ Tát biết gần gũi thiện tri thức, thì sẽ được nghe nhiều học rộng, đắc được lợi ích lớn, pháp hỉ sung mãn, thường ở trong niềm vui của pháp, siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, chưa bao giờ tự mãn. Chánh pháp mà mình được nghe từ chỗ chư Phật, lúc nào cũng tư duy quán sát thật tướng các pháp. Trong tâm không có sự chấp trước nào, không chấp cái ta, không chấp pháp, không có chút nương tựa nào. Vì không đam trước lợi dưỡng, danh văn, cung kính, Bồ Tát tuyệt đối không mong cầu sự cúng dường, tham đồ danh văn, lợi dưỡng. Càng không mong cầu hưởng thụ vật chất, và tất cả vật phong phú ngoài thân thể. Sinh tâm như thật, Bồ Tát chỉ một lòng cầu tâm bồ đề, tâm kim cang, nên chẳng có lúc nào nhàm đủ. Cầu bậc nhất thiết trí, chỉ hy vọng cầu được quả vị nhất thiết trí huệ và đạt được địa vị trí huệ vô thượng. Cầu được bốn điều không sợ hãi của Như Lai, và cầu được mười tám Phật pháp bất cộng nơi nhị thừa, đủ thứ sự lợi ích như vậy.
Kinh Văn: Cầu chư Ba-la-mật trợ đạo Pháp cố, ly chư siểm cuống cố, như thuyết năng hành cố, thường hộ thật ngữ cố, bất ô Như Lai gia cố, bất xả Bồ-tát giới cố, sanh nhất thiết trí tâm như sơn vương bất động cố, bất xả nhất thiết thế gian sự thành tựu xuất thế gian đạo cố, tập trợ Bồ-đề phần Pháp Vô yếm túc cố, thường cầu thượng thượng thù thắng đạo cố.
Việt Văn: Vì cầu các Ba la mật, pháp trợ đạo, lìa các sự dối trá, như lời nói tu hành, thường hộ lời thật, không làm ô uế nhà Như Lai, không xả bỏ giới Bồ Tát, sinh tâm nhất thiết trí như núi chúa không động, không bỏ tất cả việc thế gian, thành tựu con đường xuất thế gian, tích tập pháp bồ đề phần không nhàm đủ, thường cầu đạo vô thượng thù thắng.
Giảng: Ở trước nói Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát, chứng được Hoan Hỉ địa rồi, đắc được sức lực của Phật, bốn điều không sợ hãi, và mười tám Phật pháp bất cộng, và tiếp tục truy cầu tu trì các Ba la mật, dùng để trợ giúp đạo nghiệp cho chính mình. Xả lìa tất cả ngôn hạnh không nên có như : dua nịnh người giàu và nói dối. Theo lời nói thực hành tôn phụng pháp của Phật nói, chân thật tu hành. Lời nói việc làm phải đi đôi, thường hộ lời thật, tức là mỗi lời nói, câu nói của mình nói ra, đều là lời chân thật, không làm ô uế nhà Như Lai, thân làm đệ tử của Phật, biết Bồ Tát là thanh tịnh cao thượng nhất, tuyệt đối không thể làm ra lời nói hành động ô uế gia phong Phật pháp, tức cũng là không thể có việc ô uế đạo tràng.
Càng không thể có sự biểu hiện xả bỏ giới luật Bồ Tát, phải giữ gìn thân, miệng, ý, luật nghi thanh tịnh, thì tự nhiên sẽ sinh ra nhất thiết trí huệ, giống như núi chúa Tu Di, vĩnh viễn không bị sự vật bên ngoài làm lay động. Đừng buông bỏ tất cả việc thế gian, cũng có thể thành tựu đạo pháp xuất thế gian. Tu hành tích tụ có thể trợ giúp mình thành tựu pháp môn và công đức pháp bồ đề phần, quyết không sinh ra tâm nhàm mỏi, và tâm kiêu ngạo công đức của mình viên mãn. Vì Bồ Tát thường tu trì tất cả Phật đạo tối vô thượng viên mãn, thù thắng nhất.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ Tát thành tựu như thị tịnh trì địa Pháp, danh vi: an trụ Bồ Tát hoan hỉ địa.
Phật tử! Bồ-tát trụ thử hoan hỉ địa, năng thành tựu như thị đại thệ nguyện, như thị đại dũng mãnh, như thị Đại tác dụng. Sở vị: sanh quảng đại thanh tịnh quyết định giải, dĩ nhất thiết cúng dường chi cụ, cung kính cúng dường nhất thiết chư Phật, lệnh vô hữu dư. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Hựu phát đại nguyện: nguyện thọ nhất thiết Phật Pháp luân, nguyện nhiếp nhất thiết Phật Bồ-đề, nguyện hộ nhất thiết chư Phật giáo, nguyện trì nhất thiết chư Phật Pháp. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Hựu phát đại nguyện: nguyện nhất thiết thế giới Phật hưng vu thế, tùng Đâu suất thiên cung một, nhập thai, trụ thai, sơ sanh, xuất gia, thành đạo thuyết Pháp, thị hiện Niết-Bàn, giai tất vãng nghệ, thân cận cúng dường, vi chúng thượng thủ, thọ hành chánh pháp, ư nhất thiết xứ nhất thời nhi chuyển. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát thành tựu pháp thanh tịnh trị địa như vậy, tên là An trụ Bồ Tát Hoan Hỉ địa.
Phật tử ! Bồ Tát trụ Hoan Hỉ địa nầy, thành tựu đại thệ nguyện như vậy, đại dũng mãnh như vậy, đại tác dụng như vậy. Đó là : Sinh hiểu biết rộng lớn thanh tịnh quyết định, đem tất cả đồ cúng dường cung kính cúng dường tất cả chư Phật, khiến không thiếu sót. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai, tất cả kiếp số không có ngừng nghỉ.
Lại phát nguyện lớn : Nguyện thọ tất cả Phật pháp, nguyện nhiếp tất cả Phật bồ đề, nguyện hộ tất cả Phật giáo, nguyện trì tất cả các Phật pháp. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai, tất cả kiếp số không có ngừng nghỉ.
Lại phát nguyện: Nguyện trong tất cả thế giới, khi đức Phật ra đời, từ cung trời Đâu Suất giáng trần, nhập thai, trụ thai, sơ sinh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, thị hiện Niết Bàn, thảy đều đi đến gần gũi cúng dường, làm thượng thủ trong chúng, thọ hành chánh pháp, đồng thời chuyển bánh xe pháp khắp tất cả mọi nơi, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai, tất cả kiếp số không ngừng nghỉ.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, thành tựu giống như ở trước đã nói, chứng được pháp môn thanh tịnh tu trị, tức là Bồ Tát tu chứng – quả vị Hoan Hỉ địa. Vì thành tựu pháp tịnh trị địa, vĩnh viễn không thối chuyển về hàng nhị thừa, cho nên nói từ đây an trụ tại Hoan Hỉ địa, lại tiếp tục tu chứng thứ lớp các pháp môn địa khác.
Các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát chứng được Hoan Hỉ địa, thành tựu đại thệ nguyện, đại dũng mãnh, tại nhân địa phát đại thệ nguyện, mà người khác không thể làm, Ngài hay dùng trí huệ dũng mãnh khéo léo để đạt đến mục đích, khiến cho chúng sinh có lợi ích sinh đại tác dụng. Đối với Phật pháp vi diệu, hay sinh ra trí huệ rộng lớn, thanh tịnh, có tánh lý giải và thấu hiểu quyết định không có tơ hào nghi hoặc. Đem hết thảy tất cả đồ cúng dường tốt nhất của Ngài có, cung kính cúng dường hết thảy chư Phật, chẳng có vị Phật nào mà không cúng dường. Tâm thành và pháp môn cúng dường rộng lớn đó, rộng đến khắp cùng pháp giới, không có một nơi nào mà không đến, rốt ráo giống như hư không. Bồ Tát chẳng phải ngẫu nhiên như vậy, hết thuở vị lai thời gian vô tận, vĩnh viễn đều không ngừng.
Bồ Tát lại phát nguyện lớn, nguyện tiếp thọ tất cả đại pháp luân mà đức Phật chuyển, tiếp tục thuyết pháp. Lại nguyện tiếp thọ tất cả giác đạo của Phật, thường thường tu tập. Lại nguyện đối với giáo pháp của chư Phật nói, thảy đều hộ trì. Lại nguyện thọ trì pháp môn của chư Phật nói. Bồ Tát phát nguyện lớn đó, rộng lớn đầy khắp pháp giới, rốt ráo giống như hư không. Về thời gian hết thuở vị lai vô cùng vô tận số kiếp, Ngài đều không ngừng nghỉ.
Bồ Tát lại phát nguyện lớn, hy vọng hết thảy thế giới, đều có Phật xuất hiện ra đời, nơi nơi Phật pháp hưng long. Đức Phật từ cùng trời Đầu Suất hàng sinh xuống nhân gian – từ lúc nhập thai mẹ, trụ thai mẹ, sinh ra, xuất gia tu hành, thành đạo rồi, thuyết pháp, vào Niết Bàn, thị hiện quá trình tám tướng thành đạo nầy. Ngài đều đi đến gần gũi, thừa sự cúng dường làm thượng thủ chúng sinh trong pháp hội, thọ hành chánh pháp, ở khắp mọi nơi đồng một thời gian chuyển bánh xe pháp. Rộng lớn đến khắp cùng pháp giới rốt ráo như hư không, tận cùng vô lượng kiếp số đều không ngừng nghỉ.
Kinh Văn: Hựu phát đại nguyện: nguyện nhất thiết Bồ Tát hạnh quảng đại vô lượng, bất hoại bất tạp, nhiếp chư Ba-la-mật, tịnh trì chư địa, tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, sở hữu Bồ Tát hạnh giai như thật thuyết, giáo hóa nhất thiết, lệnh kỳ thọ hành, tâm đắc tăng trưởng. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Hựu phát đại nguyện: nguyện nhất thiết chúng sanh giới hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, Phi hữu tưởng, Phi vô tưởng, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, tam giới sở hệ, nhập ư lục thú nhất thiết sanh xứ, danh sắc sở nhiếp, như thị đẳng loại ngã giai giáo hóa, lệnh nhập Phật Pháp, lệnh vĩnh đoạn nhất thiết thế gian thú, lệnh an trụ nhất thiết trí trí đạo. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Việt Văn: Lại phát nguyện lớn : Nguyện tất cả hạnh Bồ Tát, rộng lớn vô lượng, không hoại, không tạp, nhiếp thọ các Ba la mật, tịnh trị các địa, tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, hết thảy hạnh Bồ Tát, đều nói như thật, giáo hoá tất cả, khiến cho họ tiếp thọ tu hành, tâm được tăng trưởng, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai, tất cả kiếp số, không có ngừng nghỉ.
Lại phát nguyện lớn : Nguyện tất cả cõi chúng sinh : Có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng không tưởng, sinh bằng trứng, sinh bằng thai, sinh ẩm thấp, hoá sinh ra, thuộc về ba cõi, vào trong sáu nẻo, tất cả chỗ sinh, nhiếp các danh sắc, các loài như vậy, tôi đều giáo hoá, khiến cho họ vào trong Phật pháp, khiến cho họ vĩnh viễn dứt tất cả cõi thế gian, khiến cho họ an trụ trí đạo nhất thiết trí, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai, tất cả kiếp số, không có ngừng nghỉ.
Giảng: Bồ Tát lại phát nguyện lớn, nguyện tất cả hạnh của Bồ Tát tu, đều rộng lớn không thể nào lường được, bao quát tất cả, không bị thiên ma ngoại đạo phá hoại, cũng chẳng có nhân tố thiện ác xen tạp vào bên trong, đều nhiếp trì các Ba la mật với nhau, đem những công đức đó, trợ giúp tu hành pháp Thập địa thanh tịnh. Tất cả sự vật thành nhân, như tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, đạo lý chân thật như vậy, với tất cả hạnh của Bồ Tát tu, tôi đều giải nói cho chúng sinh, giáo hoá hết thảy chúng sinh, khiến cho họ tiếp thọ và lãnh ngộ được, tu hành chân thật, khiến cho tâm bồ đề thanh tịnh nhờ đó mà tăng trưởng. Tâm nguyện đó cũng rộng lớn đến khắp cùng pháp giới, rốt ráo giống như hư không, hết thuở vị lai kiếp số vô tận, tôi cũng không ngừng nghỉ.
Bồ Tát lại phát nguyện lớn : Nguyện tất cả cõi chúng sinh, như chúng sinh có sắc, như chúng sinh không có sắc, chúng sinh có tưởng, chúng sinh không tưởng, chúng sinh chẳng có tưởng, chúng sinh chẳng không tưởng, sinh bằng trứng, bằng thai, ẩm thấp, hoá sinh, đủ các loài chúng sinh khác nhau như vậy, phàm là thuộc về ba cõi, trong sáu nẻo luân hồi, nơi sinh các loài, cùng với sự nhiếp thọ danh sắc các loài chúng sinh đó, tôi đều phải đi giáo hoá họ, khiến cho họ thâm nhập Phật pháp, y giáo phụng hành, vĩnh viễn vượt khỏi sáu nẻo luân hồi, khiến cho họ an trụ trong thánh đạo trí huệ nhất thiết trí. Tâm nguyện đó, cũng rộng lớn đến khắp cùng pháp giới, rốt ráo giống như hư không, hết thuở vị lai tất cả kiếp thời gian, tôi cũng không ngừng nghỉ.
Kinh Văn: Hựu phát đại nguyện: nguyện nhất thiết thế giới quảng đại vô lượng, thô tế loạn trụ, đảo trụ, chánh trụ, nhược nhập, nhược hành, nhược khứ, như đế võng sái biệt, thập phương vô lượng chủng chủng bất đồng, trí giai minh liễu, hiện tiền tri kiến. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Việt Văn: Lại phát nguyện lớn : Nguyện tất cả thế giới rộng lớn vô lượng : Thô tế, loạn trụ, đảo trụ, chánh trụ, hoặc vào, hoặc đi, hoặc đến, khác nhau như lưới Đế Thích, mười phương vô lượng đủ thứ khác nhau, trí đều thấu rõ, hiện tiền thấy biết, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai, tất cả kiếp số không có ngừng nghỉ.
Giảng: Vì rộng biết các phá Bồ Tát lại phát nguyện lớn, nguyện mỗi thế giới, bất luận là ngửa, úp, dài, vuông, đều rộng lớn như vậy, bất luận có bao nhiêu; trong đó có thô, có tế, có loạn trụ, chẳng có thứ tự; lại có đảo trụ, điên đảo; có chánh trụ, ngay thẳng rất có quy cụ; có người, thường thường có hành động; có rất nhiều biến hoá, thảy đều khác nhau, giống như lưới La tràng trên cung điện của trời Đế Thích thảy đều khác nhau. Hình trạng đủ thứ sự khác biệt trong mười phương, nhưng trí huệ của Bồ Tát đều thấu rõ, minh bạch giống như hiện ra ở trước mắt. Trí huệ nguyện vọng đó, cũng rộng lớn khắp cùng pháp giới, rốt ráo giống như hư không, hết thuở vị lai tất cả kiếp số, vĩnh viễn không ngừng nghỉ.
Kinh Văn: Hựu phát đại nguyện: nguyện nhất thiết quốc độ nhập nhất quốc độ, nhất quốc độ nhập nhất thiết quốc độ, vô lượng Phật thổ phổ giai thanh tịnh, quang minh chúng cụ dĩ vi trang nghiêm, ly nhất thiết phiền não, thành tựu thanh tịnh đạo, vô lượng trí tuệ chúng sanh sung mãn kỳ trung, phổ nhập quảng đại chư Phật cảnh giới, tùy chúng sanh tâm nhi vi thị hiện, giai lệnh hoan hỉ. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Hựu phát đại nguyện: nguyện dữ nhất thiết Bồ Tát đồng nhất chí hạnh, vô hữu oán tật, tập chư thiện căn, nhất thiết Bồ Tát bình đẳng nhất duyên, thường cọng tập hội, bất tướng xả ly, tùy ý năng hiện chủng chủng Phật thân, nhâm kỳ tự tâm năng tri nhất thiết Như Lai cảnh giới uy lực trí tuệ, đắc bất thoái như ý thần thông, du hành nhất thiết thế giới, hiện hình nhất thiết chúng hội, phổ nhập nhất thiết sanh xứ, thành tựu bất tư nghị Đại-Thừa, tu Bồ Tát hạnh. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Việt Văn: Lại pháp tại nguyện: Nguyện tất cả quốc độ vào một quốc độ, một quốc độ vào tất cả quốc độ, vô lượng Phật độ đều khắp thanh tịnh. Những đồ vật sáng chói dùng để trang nghiêm. Lìa tất cả phiền não thành đạo thanh tịnh. Chúng sanh trí huệ số đông vô lượng ở đầy trong đó. Vào khắp cảnh giới quảng đại của Chư Phật, tùy thuận tâm chúng sanh để thị hiện cho họ đều hoan hỷ. Rộng lớn như pháp giới rốt ráo dường hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Giảng: Lại phát đại nguyện: Nguyện cùng tất cả Bồ Tát đồng một chí một hạnh không ganh thù, chứa nhóm các căn lành, tất cả Bồ Tát bình đẳng một duyên, thường tập hội không rời bỏ nhau, tùy ý có thể hiện nhiều thân Phật, tự tâm nhậm vận có thể biết cảnh giới của Chư Phật, oai lực trí huệ được thần thông bất thối tùy ý du hành tất cả thế giới, hiện thân trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ thác sanh, thành tựu đại thừa tu hạnh Bồ Tát bất tư nghì. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo dường như không suốt tất cả kiếp số vị lai không thôi nghỉ.
Kinh Văn: Hựu phát đại nguyện: nguyện thừa bất thoái luân hành Bồ Tát hạnh, thân, ngữ, ý nghiệp tất bất đường quyên, nhược tạm kiến giả tức tất định Phật Pháp, tạm văn âm thanh tức đắc thật trí tuệ, tài sanh tịnh tín tức vĩnh đoạn phiền não, đắc như Đại dược vương thụ thân, đắc như như ý bảo thân, tu hành nhất thiết Bồ Tát hạnh. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Hựu phát đại nguyện: nguyện ư nhất thiết thế giới thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề bất ly nhất mao đoan xứ, ư nhất thiết mao đoan xứ giai tất thị hiện sơ sanh, xuất gia, nghệ đạo tràng, thành chánh giác, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn, đắc Phật cảnh giới Đại trí tuệ lực, ư niệm niệm trung tùy nhất thiết chúng sanh tâm thị hiện thành Phật lệnh đắc tịch diệt, dĩ nhất tam-Bồ-đề tri nhất thiết pháp giới tức Niết-Bàn tướng, dĩ nhất âm thuyết Pháp lệnh nhất thiết chúng sanh tâm giai hoan hỉ, thị nhập đại Niết Bàn nhi bất đoạn Bồ Tát hạnh, thị đại trí tuệ địa an lập nhất thiết pháp, dĩ pháp Trí Thông, thần túc thông, huyễn thông tự tại biến hóa sung mãn nhất thiết pháp giới. quảng đại như Pháp giới, cứu cánh như hư không, tận vị lai tế nhất thiết kiếp số vô hữu hưu tức.
Việt Văn: Lại phát nguyện lớn: Nguyện thừa không thối chuyển, thực hành hạnh Bồ Tát, nghiệp thân miệng ý đều không tổn hại, nếu ai tạm thấy thì nhất định hiểu Phật pháp. Tạm nghe đến âm thanh thì được trí huệ chân thật. Nếu họ mới sinh niềm tin thanh tịnh, thì vĩnh viễn dứt phiền não, được thụ thân như đại Dược Vương, được thân như báu như ý, tu hành tất cả hạnh Bồ Tát, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai, tất cả kiếp số không ngừng nghỉ.
Lại phát nguyện lớn : Nguyện trong tất cả thế giới, thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không lìa nơi đầu sợi lông. Nơi tất cả đầu sợi lông, thảy đều thị hiện sơ sinh, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, vào Niết Bàn, được cảnh giới sức đại trí huệ của Phật. Ở trong niệm niệm, tuỳ theo tất cả tâm chúng sinh, thị hiện thành Phật, khiến cho họ được tịch diệt, dùng một thứ bồ đề, biết tất cả pháp giới tức tướng Niết Bàn. Dùng một âm thuyết pháp, khiến cho tất cả tâm chúng sinh đều hoan hỉ. Thị hiện vào đại Niết Bàn, mà không dứt hạnh Bồ Tát. Thị hiện bậc đại trí huệ an lập tất cả pháp. Dùng pháp trí thông, thần túc thông, huyễn thông, tự tại biến hoá, đầy khắp tất cả pháp giới. Rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không. Hết thuở vị lai, tất cả kiếp số không ngừng nghỉ.
Giảng: Bồ Tát lại phát nguyện lớn, hy vọng thừa pháp luân không thối chuyển, tu pháp môn của Bồ Tát tu hành. Thân miệng ý ba nghiệp đều thanh tịnh, không tạo nghiệp ác, chẳng có tội lỗi. Giả như có người tạm thời thấy được Bồ Tát, thì nhất định sẽ trồng xuống căn lành, minh bạch Phật pháp. Tạm thời nghe được âm thanh của Bồ Tát, thì sẽ đắc được trí huệ chân thật giống như bảo bối. Nếu tâm tin thanh tịnh của họ vừa mới phát sinh, thì có thể vĩnh viễn dứt trừ phiền não, đắc được thụ thân giống như Đại Dược Vương, hay trị bệnh chúng sinh, lại có thể đắc được thân thể giống như báu như ý, tu tất cả hạnh của Bồ Tát tu hành. Tâm nguyện đó cũng rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết kiếp thuở vị lai cũng không ngừng nghỉ.
Bồ Tát lại phát nguyện lớn : Hy vọng chúng sinh toàn thế giới, đồng thời đều chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Không lìa khỏi một đầu sợi lông, và tất cả nơi đầu sợi lông, đều có thể thị hiện từ cung trời Đâu Suất hàng sinh xuống nhân gian, xuất gia, học đạo, đến các đạo tràng, ở dưới cội bồ đề thành Đẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe pháp, thuyết pháp độ chúng sinh, cuối cùng vào Niết Bàn. Khắp trong pháp giới, nơi mỗi đầu sợi lông rất nhỏ, đều ở trong đó thị hiện tám tướng thành đạo. Đắc được cảnh giới như đức Phật, như lực đại trí huệ của Phật. Ở trong mỗi niệm, tuỳ theo tâm niệm chúng sinh, thị hiện thành Phật, khiến cho tất cả chúng sinh, cũng đắc được vui tịch diệt. Dùng một thứ chánh giác, thì biết tất cả pháp giới, giống như một tướng đại Niết Bàn. Dùng một thứ âm thanh thuyết pháp, khiến cho hết thảy chúng sinh đều sinh tâm hoan hỉ. Tuy thị hiện vào đại Niết Bàn, nhưng vẫn không dứt hành Bồ Tát đạo trên thế giới nầy. Thị hiện bậc đại trí huệ, bậc đại trí huệ tức là Phật trí, vì hay sinh vạn vật, hay lãnh vạn hạnh, cho nên hay an lập tất cả. Khiến cho chúng sinh biết tất cả nương vào đại trí huệ mà an lập. Dùng ý nghĩa pháp trí thông, biết rõ tướng pháp không tánh mà sinh trí huệ thần thông. Thần túc thông là nơi thân mình hiển hiện kiếp sinh, trụ, diệt, dài ngắn, tuỳ tâm tự tại. Huyễn thông là chuyển biến việc bên ngoài, đâu chẳng tuỳ theo ý muốn của tâm. Vận dụng tự tại, biến hoá vô cùng đầy khắp hết thảy pháp giới. Tâm nguyện đó cũng rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, hết thuở vị lai tất cả kiếp số cũng không ngừng nghỉ.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ-tát trụ hoan hỉ địa, phát như thị đại thệ nguyện, như thị đại dũng mãnh, như thị Đại tác dụng, dĩ thử thập nguyện môn vi thủ, mãn túc bách vạn a-tăng-kì đại nguyện. Phật tử! thử đại nguyện dĩ thập tận cú nhi đắc thành tựu.
Hà đẳng vi thập? sở vị: chúng sanh giới tận, thế giới tận, hư không giới tận, Pháp giới tận, Niết Bàn giới tận, Phật xuất hiện giới tận, Như Lai trí giới tận, tâm sở duyên giới tận, Phật trí sở nhập cảnh giới giới tận, thế gian chuyển Pháp chuyển trí chuyển giới tận.
Nhược chúng sanh giới tận, ngã nguyện nãi tận. Nhược thế giới nãi chí thế gian chuyển Pháp chuyển trí chuyển giới tận, ngã nguyện nãi tận. nhi chúng sanh giới bất khả tận, nãi chí thế gian chuyển Pháp chuyển trí chuyển giới bất khả tận cố, ngã thử đại nguyện thiện căn vô hữu cùng tận.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát trụ Hoan Hỉ địa phát thệ nguyện lớn như vậy, đại dũng mãnh như vậy, đại tác dụng như vậy. Dùng mười nguyện môn nầy làm đầu, đầy đủ trăm vạn A tăng kỳ đại nguyện.
Phật tử ! Đại nguyện nầy dùng mười câu tận mà được thành tựu. Những gì là mười ?
Đó là : Cõi chúng sinh tận, thế giới tận, cõi hư không tận, pháp giới tận, cõi Niết Bàn tận, cõi Phật xuất hiện tận, cõi Như Lai trí tận, cõi tâm sở duyên tận, cõi Phật trí vào cảnh giới tận.
Thế gian chuyển, pháp chuyển, cõi trí chuyển tận. Nếu cõi chúng sinh tận, nguyện của tôi mới tận. Nếu thế giới cho đến thế gian chuyển, pháp chuyển, cõi trí chuyển tận, thì nguyện của tôi mới tận. Mà cõi chúng sinh không thể tận, cho đến thế gian chuyển, cõi pháp luân trí chuyển không thể tận, nên đại nguyện căn lành nầy của tôi không cùng tận.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng e rằng các vị Bồ Tát có lúc phóng dật, hoặc không chú ý nghe Ngài nói pháp môn trong Kinh Hoa Nghiêm, lại xưng một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Các vị biết Bồ Tát tu chứng được Hoan Hỉ địa rồi, Ngài đã tu được đủ thứ căn lành, thành tựu đủ thứ công đức Ba la mật, đạt đến địa vị bờ bên kia, cho nên Ngài lúc nào cũng đều sinh tâm đại hoan hỉ, phát ra những đại nguyện như ở trước đã phát ra. Ngài hay dùng tâm đại dũng mãnh đã phát ra, pháp môn chúng sinh không dám tu hành, mà Ngài dám tu hành. Việc chúng sinh không dám làm, mà Ngài dám đi làm. Giống như đủ thứ đại tác đại dụng ở trước có nói, Ngài đều dùng mười đại nguyện làm hàng đầu, để đầy đủ, Ngài ở trong trăm vạn A tăng kỳ kiếp phát ra tất cả đại nguyện, tất cả đại nguyện cũng y vào mười đại nguyện nầy mà hoàn thành.
Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Đại nguyện nầy là Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, dùng mười câu tận mà được thành tựu (chữ tận ở đây nghĩa là không thể đoạn tận, mười câu nầy là dùng mười hạng không thể tận được làm ví dụ, mười đại nguyện không cùng tận làm tỉ lượng). Những gì là mười thứ ? Đó là cõi chúng sinh tận, thế giới cũng cùng tận, cõi hư không cũng tận (Ba điều nầy nói về thế gian). Pháp giới cũng tận, cõi Niết Bàn cũng chẳng còn, cõi Phật xuất hiện tận. Cũng chẳng có Phật xuất hiện ra đời (Ba điều nầy là nói về pháp). Trí huệ Như Lai cũng chẳng có, trong tâm cũng chẳng có sự tưởng tượng, chỗ nương tựa cũng chẳng có, trí huệ của Phật chứng được, sự thấu hiểu, minh bạch, cảnh giới đó cũng chẳng có (ba điều nấy nói về Phật trí) thế gian chuyển (chữ chuyển ở đây nghĩa cũng là ý nghĩa không thể tận) pháp chuyển, cõi trí chuyển tận, những điều nầy đều chuyển tận chẳng còn nữa. Cõi chúng sinh ở trên đều tận, thì tâm nguyện của tôi mới xong được. Nếu như thế giới cho đến thế gian chuyển, pháp chuyển, cõi trí chuyển tận, thì nguyện của tôi mới tận. Bởi chúng sinh và thế gian chuyển, pháp chuyển, cõi trí chuyển .v.v… không thể cùng tận, cho nên đại nguyện nầy của tôi cũng không thể cùng tận, vĩnh viễn tồn tại. Căn lành tu được, cũng không cùng tận.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ Tát phát như thị đại nguyện dĩ, tức đắc lợi ích tâm, nhu nhuyễn tâm, tùy thuận tâm, tịch tĩnh tâm, điều phục tâm, tịch diệt tâm, khiêm hạ tâm, nhuận trạch tâm, bất động tâm, bất trược tâm. thành tịnh tín giả, hữu tín công dụng: năng tín Như Lai bổn hạnh sở nhập, tín thành tựu chư Ba-la-mật, tín nhập chư thắng địa, tín thành tựu lực, tín cụ túc vô sở úy, tín sanh trưởng bất khả hoại bất cộng Phật Pháp, tín bất tư nghị Phật Pháp, tín xuất sanh vô trung biên Phật cảnh giới, tín tùy nhập Như Lai vô lượng cảnh giới, tín thành tựu quả. Cử yếu ngôn chi, tín nhất thiết Bồ Tát hạnh, nãi chí Như Lai trí địa thuyết lực cố.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát phát nguyện lớn như vậy rồi, liền được tâm lợi ích, tâm nhu nhuyến, tâm tuỳ thuận, tâm tịch tĩnh, tâm điều phục, tâm tịch diệt, tâm khiêm hạ, tâm nhuận trạch, tâm không động, tâm không trược.
Trở thành người có niềm tin thanh tịnh: Có niềm tin công dụng, tin bổn hạnh chỗ vào của Như lai. Tin thành tựu các Ba la mật, tin vào các bậc thù thắng, tin thành tựu lực, tin đầy đủ không sợ hãi, tin sinh trưởng Phật pháp bất cộng không thể hoại, tin Phật pháp không nghĩ bàn, tin sinh ra cảnh giới Phật trung đạo không rơi vào hai bên, tin tuỳ thuận vào vô lượng cảnh giới của Như Lai, tin thành tựu quả. Tóm lại, tin tất cả hạnh Bồ Tát, cho đến trí, địa, thuyết, lực, của Như lai.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát phát ra những nguyện lớn ở trên rồi, thì đắc được mười tâm tin :
Tâm lợi ích, trước khi Bồ Tát chưa phát nguyện lớn, muốn lợi ích chúng sinh, không phát tâm, muốn làm cũng làm không được, vì chẳng có sức lực. Sau khi phát những nguyện lớn đó rồi, trong vô hình Ngài tăng thêm sức lực trợ giúp chúng sinh.
Tâm nhu nhuyến, vì có sức lực tâm nguyện, biến tâm cang cường quá khứ thành tâm nhu nhuyến, đối với chúng sinh cũng nhẫn nại được, cũng hoà khí, giáo hoá chúng sinh thì tự nhiên thân tâm điều phục mà không sinh phiền não.
Tâm tuỳ thuận, người chưa phát tâm bồ đề, người không hành Bồ Tát đạo, đều ưa thích sai khiến người khác, muốn người khác phải nghe mình chỉ huy. Nhưng sau khi phát nguyện lớn rồi, thì biết phải tuỳ thuận chúng sinh, sau đó mới khiến cho chúng sinh tuỳ thuận. Không còn thành kiến về cái ta, thì chẳng còn chấp cái ta nữa.
Tâm tịch tĩnh, luôn luôn tâm bình khí hoà, chẳng có phiền não, không màng chỗ ồn ào, yên lặng, đều dụng công tu hành được, không bị ảnh hưởng hoàn cảnh bên ngoài.
Tâm điều phục, tại thế giới Ta Bà nầy, tất cả mọi người, mọi sự vật,đều khó điều phục, ở trong hoàn cảnh nầy, đừng nói đến điều phục chúng sinh, cho đến chính mình cũng khó điều phục. Sau khi Bồ Tát phát nguyện lớn rồi, thì tự nhiên điều phục được thân tâm, cũng khéo léo điều phục chúng sinh.
Tâm tịch diệt, các pháp từ xưa đến nay, thường vắng lặng. Nếu tâm mình không biết vắng lặng, thì làm sao vật bên ngoài vắng lặng được. Sau khi Bồ Tát phát nguyện lớn rồi, biết rõ các pháp vắng lặng.
Tâm khiêm hạ, trước khi chưa phát nguyện lớn, thì thường dễ phạm mao bệnh cống cao ngã mạn, sinh ra nhiều phiền não vô vị. Phát nguyện lớn đó rồi, thì những tập khí không tốt đó tự nhiên tiêu trừ, từ cống cao ngã mạn biến thành khiêm hoà.
Tâm nhuận trạch, vì có sức lực tâm nguyện lớn rồi, trong tâm thường cảm thấy thư thới như thấm nhuần cam lồ, chẳng còn cảm giác phiền muôn khô khan.
Tâm bất động, niệm động trăm sự có, niệm dừng vạn sự không. Không sinh tạp niệm thì chẳng còn vọng tưởng phiền não, tâm niệm thanh tịnh, thì trí huệ tự nhiên sinh ra trợ giúp vạn hạnh.
Tâm không trược, vì có nguyện lớn như vậy, tâm niệm thanh tịnh, thì còn có tâm trược, tâm ô nhiễm chăng ? Có những tâm tin nguyện lực ở trên, thì thành tựu một bậc đức hạnh có tâm tin thanh tịnh. Công dụng tâm tin đó, khiến cho nhập vào được hạnh bổn lai của Phật tu hành, do tin mà thành tựu mười Ba la mật, do tin vào được địa vi Thập địa thù thắng, do tin mà thành tựu sức thần thông, do tâm tin cũng đầy đủ tất cả sức không sợ hãi, trong Kinh nói niềm tin là mẹ nguồn gốc của công đức, nuôi lớn tất cả các pháp lành, tin hay sinh trưởng Phật pháp mà ngoại đạo không thể phá hoại được. Tin không thể dùng lời nói hình dung, không thể tưởng tượng được chân lý của Phật nói. Tin cảnh giới Phật nói ra, không rơi vào hai bên, vì cảnh giới của Phật, mọi thời mọi lúc, nơi nào chốn nào cũng không chấp vào không, không rơi vào không; không chấp vào có, không rơi vào có.
Đức Phật đề xướng trung đạo, hay tin thì tuỳ thuận nhập vào cảnh giới không hạn lượng của Phật, tin hay thành tựu tất cả quả vị. Tóm lại, đưa ra một điểm quan trọng là, tin tất cả pháp môn và nhân quả của Bồ Tát tu hành, cho đến đạt được bậc trí huệ của Như Lai, đó đều là do sức tin sinh ra.
Kinh Văn: Phật tử! thử Bồ Tát phục tác thị niệm: chư Phật chánh pháp, như thị thậm thâm, như thị tịch tĩnh, như thị tịch diệt, như thị không, như thị vô tướng, như thị vô nguyện, như thị vô nhiễm, như thị vô lượng, như thị quảng đại. Nhi chư phàm phu tâm đọa tà kiến, vô minh phước ế, lập kiêu mạn cao tràng, nhập khát ái võng trung, hành siểm cuống trù lâm bất năng tự xuất, tâm dữ xan tật tướng ứng bất xả, hằng tạo chư thú thọ sanh nhân duyên, tham, nhuế, ngu si tích tập chư nghiệp nhật dạ tăng trưởng, dĩ phẫn hận phong xuy tâm thức hỏa sí nhiên bất tức, phàm sở tác nghiệp giai điên đảo tướng ứng, dục lưu, hữu lưu, vô minh lưu, kiến lưu, tướng tục khởi tâm ý thức chủng tử, ư tam giới điền trung phục sanh khổ nha.
Sở vị: danh sắc cộng sanh bất ly, thử danh sắc tăng trưởng, sanh lục xứ tụ lạc, ư trung tướng đối sanh xúc, xúc cố sanh thọ, nhân thọ sanh ái, ái tăng trưởng cố sanh thủ, thủ tăng trưởng cố sanh hữu, hữu sanh cố hữu sanh lão tử ưu bi khổ não.
Hư thị chúng sanh sanh trưởng khổ tụ, thị trung giai không, ly ngã, ngã sở, vô tri, vô giác, vô tác, thị cố, như thảo mộc thạch bích, diệc như ảnh tượng. Nhiên chư chúng sanh bất giác bất tri.
Bồ Tát kiến chư chúng sanh ư như thị khổ tụ bất đắc xuất ly, thị cố tức sanh đại bi trí tuệ. phục tác thị niệm: thử chư chúng sanh ngã ưng cứu bạt, trí ư cứu cánh an lạc chi xứ. Thị cố tức sanh Đại từ quang minh trí.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát đó lại nghĩ như vầy : Chánh pháp của chư Phật thâm sâu như vậy, tịch tĩnh như vậy, tịch diệt như vậy, không như vậy, vô tướng như vậy, vô nguyện như vậy, không nhiễm như vậy, vô lượng như vậy, rộng lớn như vậy, mà các phàm phu, sa vào tà kiến, vô minh che lấp, dựng tràng cao kiêu mạn, vào trong lưới khát ái, đi vào rừng rậm dua dối không tự ra được. Tâm tương ưng với xan tham đố kị không xả bỏ được, luôn tạo nhân duyên thọ sinh trong các cõi. Tham sân si gây thành các nghiệp, ngày đêm tăng trưởng. Dùng gió phẫn hận thổi lửa tâm thức, cháy mạnh không ngừng. Phàm tạo ra các nghiệp, đều điên đảo tương ưng với dòng tham dục, dòng hữu lậu, dòng vô minh, dòng tà kiến, khởi hạt giống tâm ý thức liên tục, ở trong ruộng ba cõi, lại sinh mầm khổ.
Đó là : Danh sắc cùng sinh không lìa. Do danh sắc mà tăng trưởng sinh ra sáu xứ tụ lạc, ở trong sự tương đối sinh ra xúc, vì xúc nên sinh ra thọ, do thọ nên sinh ra ái, ái sinh trưởng nên sinh ra thủ, thủ tăng trưởng nên sinh ra hữu, hữu sinh nên có sinh, già, bệnh, chết, ưu bi khổ não.
Chúng sinh như vậy, sinh trưởng khổ tụ tập. Trong đó đều không, lìa cái ta, của ta, không biết, không giác, không làm, không thọ, như cỏ cây, đá vách, cũng như hình bóng. Rõ ràng các chúng sinh không giác, không biết.
Bồ Tát thấy các chúng sinh tụ tập khổ như vậy, không được thoát khỏi, cho nên bèn sinh đại bi trí huệ. Lại nghĩ như vầy : Các chúng sinh đó, tôi phải cứu họ, đặc để họ nơi an lạc rốt ráo, do đó bèn sinh đại từ trí huệ quang minh.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng đệ tử của Phật ! Bồ Tát chứng được Hoan Hỉ địa, lại nghĩ như vầy : Chánh pháp nhãn tạng của chư Phật là thâm sâu như vậy, sâu giống như biển cả không thấy được đáy. Tịch tĩnh như vậy, bổn thể của pháp là tịch tĩnh, chẳng bị bất cứ cảnh giới bên ngoài nào lay động, mà còn vắng lặng, chẳng có hình tướng có thể thấy. Cũng giống như hư không, vô lượng vô biên, chẳng có tướng trạng nhất định. Cũng chẳng có nguyện gì, tất cả đều không. Cũng không có bất cứ ô nhiễm và chỗ chấp, pháp thể không thể hạn lượng như vậy rộng lớn không có bờ mé. Rõ ràng một số phàm phu sa vào tư tưởng tà tri tà kiến, làm việc điên đảo, không biết tu hành. Vô minh giống như mây đen trong hư không, che lấp ánh sáng mặt trời. Tự mình dựng lên tràng cao kiêu mạn, vào sâu trong lưới khát ái, đi vào trong rừng rậm siểm nịnh dua dối, không biết cách nào thoát ra được. Tâm tánh ràng buộc với xan tham đố kị không buông bỏ được, vĩnh viễn tự tạo nhân duyên thọ sinh ở trong bốn đường ác. Vì vô minh, nên sinh ra tư tưởng tham vọng, sân hận, ngu si, làm ra đủ thứ nghiệp quả, ngày tháng tích luỹ tăng trưởng không ngừng. Sinh khởi gió tà phẫn hận, thổi động tâm thức lửa tà, thiêu đốt không ngừng. Phàm làm gì cũng đều điên đảo không hợp pháp lý, tuỳ thuận tham dục. Ở trong ba cõi thuận theo dòng hữu lậu, theo vô minh, chạy theo kiến hoặc. Những hạt giống đó ở trong tâm ý thức sinh khởi liên tục không ngừng. Đất nghiệp ba cõi lại sinh ra mầm thống khổ.
Đó là mười hai nhân duyên mà đức Phật đã nói, thứ nhất là vô minh. Do vô minh điên đảo mà sinh ra hành, tức là hành vi ái dục. Có hành vi rồi, thì sinh ra hạt giống ý thức. Do hạt giống ý thức gieo xuống ruộng ba cõi, bèn sinh ra mầm khổ. Mầm khổ đó tức là danh sắc (danh sắc ví như nam, nữ), do danh sắc mà sinh ra sáu nơi tụ lạc (sáu nơi tụ lạc là chỉ sáu căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý). Còn gọi là lục nhập, lục nhập vào trong sáu căn. Sáu căn, sáu trần cùng tiếp xúc nhau sinh ra sáu thức, nên còn gọi là lục xứ). Tụ lạc tức là lục nhập cùng lớn lên trong thai mẹ. Do đó sinh ra xúc trần. Do xúc trần lại sinh ra lãnh thọ. Do lãnh thọ mà sinh ra ái dục. Do ái dục tăng trưởng, lại sinh ra thủ. Do thủ sinh ra hữu. Do hữu sinh ra sinh. Do sinh nên có sinh, già, bệnh, chết, ưu bi khổ não theo đó mà ra.
Chúng sinh giống như vậy, sinh trưởng thành tụ lạc của khổ. Tuy nhiên thuyết pháp như vậy, nếu minh bạch được đạo lý nầy, thì tất cả đều không, cuối cùng trở về huyễn diệt, mà lìa khỏi cái ta và của ta, thì vô tri vô giác. Bổn thân của mười hai nhân duyên, tức là vô tri vô giác. Không có kẻ làm, cũng không có kẻ thọ, giống như cỏ cây đá vách, hiểu được đạo lý nầy tất cả như hình bóng. Song, chúng sinh ở giữa, họ cũng không giác không ngộ, không biết vốn là không.
Bồ Tát nhìn thấy chúng sinh sinh diệt ở trong mười hai nhân duyên, do ái dục ràng buộc, thọ khổ không thể thoát khỏi. Do đó, mà sinh khởi tâm đại bi trí huệ, lại nghĩ như vầy: tất cả chúng sinh, tôi phải cứu họ, đặt để họ ở nơi an vui khoái lạc không có khổ, cho nên sinh ra tâm đại từ mà phát ra trí huệ quang minh.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tùy thuận như thị đại bi, đại từ, dĩ thâm trọng tâm trụ sơ địa thời, ư nhất thiết vật vô sở lận tích, cầu Phật đại trí, tu hành đại xả, phàm thị sở hữu nhất thiết năng thí. Sở vị: tài cốc, thương khố, kim ngân, ma-ni, trân châu, lưu ly, kha bối, bích ngọc, san hô đẳng vật, trân bảo, anh lạc, nghiêm thân chi cụ, tượng mã, xa thừa, nô tỳ, nhân dân, thành ấp, tụ lạc, viên lâm, đài quán, thê thiếp, nam nữ, nội ngoại quyến chúc cập dư sở hữu trân ngoạn chi cụ, đầu mục, thủ túc, huyết nhục, cốt tủy, nhất thiết thân phần giai vô sở tích, vi cầu chư Phật quảng đại trí tuệ. thị danh: Bồ-tát trụ ư sơ địa đại xả thành tựu.
Việt Văn: Phật tử ! Khi đại Bồ Tát tuỳ thuận đại từ đại bi như vậy, dùng tâm sâu nặng trụ Sơ địa, thì tất cả mọi vật không xẻn tiếc, cầu đại trí huệ của Phật, tu hạnh đại xả.
Phàm là những gì mình có, tất cả đều bố thí được. Như là : Tiền tài, lúa gạo, kho tàng, vàng bạc, ma ni, châu báu, lưu ly, trang sức, ngọc ngà, san hô, các thứ vật, trân báu, chuỗi trang nghiêm thân, voi, ngựa, xe cộ, nô tì, nhân dân, thành ấp, tụ lạc, vườn rừng, lầu đài, thê thiếp, con cái, quyến thuộc trong ngoài, cùng với những đồ chơi quý báu khác. Đầu mắt, tay chân, máu thịt, xương tuỷ, tất cả bộ phận thân thể, đều không tiếc, vì cầu trí huệ rộng lớn của chư Phật.
Đó gọi là thành tựu hạnh đại xả của Bồ Tát trụ nơi Sơ địa.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng vì biết Bồ Tát thường trụ ở trong định, do đó lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Khi đại Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, tích tụ đủ thứ căn lành, Ngài luôn luôn tuỳ thuận tâm đại từ đại bi hành đạo. Vì đại bi cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ, đại từ ban cho chúng sinh an vui chân chánh. Dùng tâm thâm sâu không thể dò, tâm thận trọng nghiêm cẩn trụ nơi Sơ địa – Hoan Hỉ địa, đối với bất cứ vật chất quý trọng gì, cũng đều không có tâm tham luyến và xẻn tiếc, đều có thể tuỳ duyên bố thí cho người khác. Ngài chỉ nghĩ cầu được đại trí huệ giống như đức Phật, cho nên Ngài tu hành pháp môn bố thí, bố thí lớn. Phàm là những gì Ngài có, thảy đều xả bỏ bố thí hết. Bất luận tiền tài, lúa gạo, kho tàng, vàng bạc, châu ma ni, châu báu, lưu ly, đồ trang sức, đá quý, san hô, các thứ báu vật. Hoặc là vật trang sức chuỗi ngọc trang nghiêm thân thể, khiến cho người hiển bày sự cao quý. Cùng với những vật dùng hằng ngày như : voi, ngựa, xe cộ quý giá, người hầu thông minh lanh lẹ, và nhân dân, thành quách, nông thôn, tụ lạc thuộc về của mình. Vườn rừng, đình đài, lầu các chỗ ở, thậm chí vợ, thiếp, con trai, con gái, quyến thuộc trong ngoài của mình, cùng với hết thảy những đồ chơi quý giá khác, đều bố thí hết. Tức khiến cho có người đến xin nội tài của Ngài như : đầu, mắt, tay, chân, máu, thịt, xương cốt, phàm là những gì thuộc về thân, Ngài cũng đều không xẻn tiếc, tất cả đều xả bỏ được. Bồ Tát tu đại bố thí như vậy, chỉ vì cầu đại trí huệ rộng lớn của chư Phật, đó là thành tựu căn lành công đức hạnh đại xả của Bồ Tát lúc trụ nơi Sơ địa.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ Tát dĩ thử từ, bi, Đại thí tâm, vi dục cứu hộ nhất thiết chúng sanh, chuyển canh thôi cầu thế, xuất thế gian chư lợi ích sự vô bì yếm cố, tức đắc thành tựu vô bì yếm tâm.
Đắc vô bì yếm tâm dĩ, ư nhất thiết Kinh luận tâm vô khiếp nhược. Vô khiếp nhược cố, tức đắc thành tựu nhất thiết Kinh luận trí.
Hoạch thị trí dĩ, thiện năng trù lượng ưng tác, bất ưng tác, ư thượng, trung, hạ nhất thiết chúng sanh, tùy ưng, tùy lực, tùy kỳ sở tập, như thị nhi hành, thị cố Bồ Tát đắc thành thế trí.
Thành thế trí dĩ, tri thời tri lượng, dĩ tàm quý trang nghiêm cần tu tự lợi, lợi tha chi đạo, thị cố thành tựu tàm quý trang nghiêm, ư thử hạnh trung cần tu xuất ly, bất thoái bất chuyển, thành kiên cố lực.
Đắc kiên cố lực dĩ, cần cúng chư Phật, ư Phật giáo Pháp năng như thuyết hành
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát dùng tâm từ bi đó đại bố thí, vì muốn cứu hộ tất cả chúng sinh, cầu thêm các việc lợi ích thế gian và xuất thế gian, không nhàm mỏi, liền được thành tựu tâm không nhàm mỏi.
Được tâm không mỏi nhàm rồi, nơi tất cả Kinh luận, tâm không khiếp nhược, vì không khiếp nhược, nên liền được thành tựu nhất thiết trí Kinh luận.
Được trí đó rồi, khéo hay so lường việc nên làm, hay không nên làm. Nơi tất cả chúng sinh thượng trung hạ, tuỳ theo sự độ được, tuỳ sức lực, tuỳ theo tập quán của họ, mà thực hành như vậy. Cho nên Bồ Tát được thành tựu thế trí.
Thành tựu thế trí rồi, biết thời, biết lượng, dùng sự hổ thẹn trang nghiêm, siêng tu đạo tự lợi lợi tha, do đó thành tựu sự hổ thẹn trang nghiêm. Ở trong hạnh đó, siêng tu hạnh thoát khỏi ba cõi, không còn thối chuyển, thành tựu sức kiên cố.
Được sức kiên cố rồi, siêng cúng dường chư Phật, đối với pháp Phật dạy, theo lời nói mà thực hành.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát hoan hỉ địa phát đại tâm nguyện, đại từ, đại bi, đại bố thí, là vì cứu độ tất cả chúng sinh, khiến cho được lìa khổ, ái hộ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh được an vui. Do đó, Ngài lại cầu thêm một bước nữa, làm thế nào tại thế gian lợi ích chúng sinh, lại làm thế nào lợi ích chúng sinh xuất thế gian. Luôn luôn tu hạnh Bồ Tát nầy, chưa từng sinh tâm nhàm mỏi, như vậy lâu dần sẽ thành tựu tâm rất tự nhiên chẳng có sự nhàm mỏi.
Đắc được tâm không nhàm mỏi rồi, thì gieo xuống sức tinh tấn không giải đãi, đối với tất cả Kinh điển luận thuyết đại thừa, càng không có tâm sợ hãi khiếp nhược làm chướng ngại, cũng chẳng sợ Phật pháp như biển cả, không dám đi nhiếp thọ. Phàm là Kinh điển của Phật nói, một khi thấy thì mắt sẽ tỏ rõ, chiếu thấu thật tướng các pháp, vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển, thành tựu trí huệ nghiên cứu tất cả Kinh luận.
Bồ Tát đắc được trí huệ vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển rồi, đối với tất cả sự lý, kế hoạch đều rất tỉ mỉ, nghĩ việc gì đáng làm, việc gì không đáng làm, đều phân biệt nhận thức được rõ ràng. Gặp chúng sinh thượng căn thượng trí, chúng sinh trung căn trung trí, hạ căn ngu si, Ngài đều tuỳ theo sức của mình, hiểu rõ ưa thích chán ghét tập tánh của chúng sinh, nên dùng phương pháp và thân phận gì mới có thể độ được họ, đều tuỳ thuận giáo hoá chúng sinh. Vì Bồ Tát đã thành tựu trí huệ thế gian pháp.
Bồ Tát thành tựu trí huệ thế gian rồi, có lực quyết định “biết thời biết lượng”, biết rõ cơ duyên của tất cả chúng sinh đã thành thục chưa, những chúng sinh đó đáng được độ trước, nên dùng pháp gì, những chúng sinh cơ duyên chưa thành thục, thì chưa nên độ. Tuỳ thời Ngài đều cảnh sách chính mình, phát tâm hổ thẹn, dùng “sự hổ thẹn” để “trang nghiêm” chính mình, tu phước tu huệ, tích tụ phước đức. Tinh tấn siêng tu tất cả đạo lý thánh giáo lợi mình và lợi người. Do đó mà thành tựu hạnh tàm quý, tự trang nghiêm công đức. Trong sự tu hành hạnh môn đó, tinh tấn tu tập pháp môn thoát khỏi ba cõi, thì sẽ không thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thành tựu sự tu hành kiên cố thắng tấn không thối lùi.
Đắc được “sức kiên cố” đó rồi, thì ân cần cúng dường tất cả chư Phật, đối với tất cả giáo pháp của Phật nói, Ngài đều theo lời nói mà tu hành.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ Tát như thị thành tựu thập chủng tịnh chư địa Pháp, sở vị: tín, bi, từ, xả, vô hữu bì yếm, tri chư Kinh luận, thiện giải thế Pháp, tàm quý kiên cố lực, cúng dường chư Phật, y giáo tu hành.
Phật tử! Bồ-tát trụ thử hoan hỉ địa dĩ, dĩ đại nguyện lực đắc kiến đa Phật. Sở vị: kiến đa bách Phật, đa thiên Phật, đa bách thiên Phật, đa ức Phật, đa bách ức Phật, đa thiên ức Phật, đa bách thiên ức Phật, đa ức na-do-tha Phật, đa bách ức na-do-tha Phật, đa thiên ức na-do-tha Phật, đa bách thiên ức na-do-tha Phật. tất dĩ Đại tâm, thâm tâm, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường, y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược, nhất thiết tư sanh tất dĩ phụng thí, diệc dĩ cúng dường nhất thiết chúng tăng, dĩ thử thiện căn giai tất hồi hướng vô thượng Bồ-đề.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát thành tựu mười pháp tịnh các địa như vậy. Đó là : Tin bi từ xả không có nhàm mỏi. Biết các Kinh luận, khéo hiểu pháp thế gian. Sức hổ thẹn kiên cố, cúng dường chư Phật, y giáo phụng hành.
Phật tử ! Bồ Tát trụ Hoan Hỉ địa nầy rồi, nhờ đại nguyện lực thấy được nhiều đức Phật. Đó là: Thấy nhiều trăm vị Phật, nhiều ngàn vị Phật, nhiều trăm ngàn vị Phật, nhiều ức vị Phật, nhiều trăm ức vị Phật, nhiều ngàn ức vị Phật, nhiều trăm ngàn ức vị Phật, nhiều ức Na do tha vị Phật, nhiều trăm ức Na do tha vị Phật, nhiều ngàn ức Na do tha vị Phật, nhiều trăm ngàn ức Na do tha vị Phật. Đều dùng tâm lớn thâm sâu, cung kính tôn trọng, thừa sự cúng dường. Y phục, thức ăn uống, toạ cụ, thuốc men, tất cả vật tư sanh, đều đem dâng cúng. Cũng đem cúng dường đến tất cả chúng Tăng, đem căn lành nầy, thảy đều hồi hướng vô thượng bồ đề.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Tất cả những điều đã nói ở trên, Bồ Tát tu hành thành tựu mười pháp “tịnh trị các địa”. Đó là : phải “tin” tất cả đạo lý mà đức Phật đã nói, cứu độ chúng sinh trong khổ nạn, ban cho niềm an vui chân chánh mà thực hành đại bố thí, như đây tu hành, mà không sinh “nhàm mỏi”. Vào sâu tạng Kinh, thấu hiểu tam tạng mười hai bộ. Đối với pháp thế gian, cũng rất thông đạt mà khéo vận dụng phương tiện. Có sức “hổ thẹn kiên cố”, cúng dường tất cả chư Phật, y theo lời Phật nói, thiết thật tu hành.
Các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát tu chứng được Sơ địa – Hoan Hỉ địa, vì Ngài có đủ thứ đại nguyện lực, cho nên Ngài có thể thấy được rất nhiều vị Phật, nhiều đến không cách chi tính đếm được, đó là “thấy nhiều trăm vị Phật, nhiều ngàn vị Phật, nhiều trăm ngàn vị Phật, nhiều ức vị Phật, nhiều trăm ức vị Phật, nhiều ngàn ức vị Phật, nhiều trăm ngàn ức vị Phật, nhiều ức Na do tha vị Phật, nhiều trăm ức Na do tha vị Phật, nhiều ngàn ức Na do tha vị Phật, nhiều trăm ngàn ức Na do tha vị Phật”. Tóm lại, dù có tính toán cũng không biết được. Bồ Tát Sơ địa đã có tuỳ tâm tự tại như vậy, tuỳ thời có thể thấy được cảnh giới của Phật. Các Ngài tuỳ thời đều dùng tâm nguyện lớn nhất, tâm tin thâm sâu nhất, cung kính cẩn thận thừa sự ở trước các đức Phật, cúng dường: Y phục, thức ăn uống, toạ cụ, thuốc men, và tất cả vật tư sanh, cũng đều đem bố thí, và cúng dường đến các vị hiền Thánh Tăng. Đem căn lành công đức đó, hồi hướng diệu giác Phật đạo vô thượng.
Kinh Văn: Phật tử! thử Bồ Tát nhân cúng dường chư Phật cố, đắc thành tựu chúng sanh pháp, dĩ tiền nhị nhiếp nhiếp thủ chúng sanh, vị bố thí, ái ngữ. Hậu nhị nhiếp Pháp, đãn dĩ tín giải lực cố, hành vị thiện thông đạt.
Thị Bồ Tát, thập Ba la mật trung, đàn ba-la-mật tăng thượng. dư Ba-la-mật phi bất tu hành, đãn tùy lực tùy phần.
Thị Bồ Tát tùy sở cần tu, cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sanh, giai dĩ tu hành thanh tịnh địa Pháp, sở hữu thiện căn tất dĩ hồi hướng nhất thiết trí địa, chuyển chuyển minh tịnh, điều nhu thành tựu, tùy ý kham dụng.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát đó do cúng dường chư Phật, mà được thành tựu pháp chúng sinh. Dùng hai nhiếp trước bố thí và ái ngữ, để nhiếp lấy chúng sinh. Hai pháp nhiếp sau, chỉ dùng sức tin hiểu mà thực hành, chứ chưa thông đạt.
Bồ Tát nầy ở trong mười Ba la mật, thì Đàn Ba la mật được tăng thượng, còn các Ba la mật khác, cũng tu hành nhưng tuỳ sức tuỳ phần.
Bồ Tát nầy tuỳ theo sự siêng tu, cúng dường các đức Phật, giáo hoá chúng sinh, đều tu hành pháp thanh tịnh địa. Hết thảy căn lành, đềm đem hồi hướng về bậc nhất thiết trí, dần dần sáng tịnh, điều nhu thành tựu, tuỳ ý kham dùng.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Vị Bồ Tát nầy chứng được Hoan Hỉ địa, vì rộng tu cúng dường chư Phật, nên đắc được công đức, thành tựu bốn pháp nhiếp rộng độ chúng sinh. Hai phương pháp ở trước nhiếp lấy chúng sinh, tức là “bố thí, ái ngữ”. Bồ Tát rộng tu bố thí, bố thí tất cả nội tài ngoại bảo. Ái ngữ, tức là dùng tâm từ bi ái hộ chúng sinh, đối với họ nói những lời họ thích nghe. Chẳng có tâm thích ghét, khéo dùng phương pháp khéo léo, phát tâm bồ đề bình đẳng rộng độ chúng sinh. Còn hai phương pháp kia, tức là “lợi hành, đồng sự”, “lợi hành” là dùng thiện hạnh có lợi cho chúng sinh, như thân, miệng, ý, biểu hiện phương diện hành vi có lợi cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh nhờ đó mà sinh tâm gần gũi, mà thọ sự giáo hoá. “Đồng sự” tức là Bồ Tát dùng pháp nhãn quán sát căn tánh chúng sinh, tuỳ theo sự cần thiết mà thị hiện thân hình, khiến cho chúng sinh thọ được đồng hoá mà độ thoát. Bồ Tát dùng sức tin hiểu của Ngài mà hành, còn có chỗ tu hành chưa hoàn toàn thông đạt.
Trong mười pháp môn Ba la mật, Bồ Tát Sơ địa tu bố thí Ba la mật tăng thượng nhất (mười Ba la mật : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, phương tiện, nguyện, lực, trí), còn chín Ba la mật kia, cũng tu hành, nhưng chỉ tuỳ sức của mình và nhân duyên mà hành. “Bồ Tát nầy” là chỉ vị Bồ Tát Sơ địa,
Ngài một phương diện tu hành, đồng thời cũng ân cần cúng dường chư Phật, và giáo hoá chúng sinh, Ngài đều y cứ theo sự tu pháp môn thanh tịnh Thập địa. Căn lành công đức tích tụ, hoàn toàn hồi hướng về quả vị nhất thiết trí huệ. Dần dần sáng tịnh ngày càng tu hành tiến bộ từng bước từng bước. Thân tâm tự tại, trong ngoài điều nhu, tuỳ tâm ý của mình mà vận dụng Phật pháp, giáo hoá chúng sinh.
Kinh Văn: Phật tử! thí như kim sư thiện xảo luyện kim, sát sát nhập hỏa, chuyển chuyển minh tịnh, điều nhu thành tựu, tùy ý kham dụng.
Bồ Tát diệc phục như thị, cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sanh, giai vi tu hành thanh tịnh địa Pháp, sở hữu thiện căn tất dĩ hồi hướng nhất thiết trí địa, chuyển chuyển minh tịnh, điều nhu thành tựu, tùy ý kham dụng.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ ư sơ địa, ưng tùng chư Phật Bồ-tát thiện tri thức sở thôi cầu thỉnh vấn, ư thử địa trung tướng cập đắc quả, vô hữu yếm túc,
Vi dục thành tựu thử địa Pháp cố. diệc ưng tùng chư Phật Bồ-tát thiện tri thức sở thôi cầu thỉnh vấn, đệ nhị địa trung tướng cập đắc quả, vô hữu yếm túc,
Vi dục thành tựu bỉ địa Pháp cố. diệc ưng tùng chư Phật Bồ-tát thiện tri thức sở thôi cầu thỉnh vấn, đệ nhị địa trung tướng cập đắc quả, vô hữu yếm túc,
Vi dục thành tựu bỉ địa Pháp cố. diệc ưng như thị thôi cầu thỉnh vấn, đệ tam, đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục, đệ thất, đệ bát, đệ cửu, đệ Thập Địa trung tướng cập đắc quả, vô hữu yếm túc,
Vi dục thành tựu bỉ địa Pháp cố. thị Bồ Tát thiện tri chư địa chướng đối trì, thiện tri địa thành hoại, thiện tri địa tướng quả, thiện tri địa đắc tu, thiện tri địa Pháp thanh tịnh, thiện tri địa địa chuyển hàng, thiện tri địa địa xứ, phi xứ, thiện tri địa địa thù thắng trí, thiện tri địa địa Bất-thoái-chuyển, thiện tri tịnh trì nhất thiết Bồ Tát địa nãi chí chuyển nhập Như Lai địa.
Việt Văn: Phật tử ! Ví như thợ vàng, khéo léo luyện vàng, từ từ cho vào lửa, dần dần sáng tịnh, điều nhu thành tựu, tuỳ ý xử dụng.
Bồ Tát cũng lại như vậy. Cúng dường chư Phật, giáo hoá chúng sinh, đều vì tu hành pháp thanh tịnh địa. Hết thảy căn lành đều hồi hướng về bậc nhất thiết trí. Dần dần sáng tịnh, điều nhu thành tựu, tuỳ ý kham dùng.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ nơi Sơ địa, phải từ ở chỗ chư Phật Bồ Tát thiện tri thức, tìm cầu thưa hỏi ở tướng và đắc quả trong địa nầy, không có nhàm mỏi.
Vì muốn thành tựu pháp địa nầy, nên cũng phải từ ở chỗ chư Phật Bồ Tát thiện tri thức, tìm cầu thưa hỏi tướng và đắc quả trong địa thứ hai, không có nhàm mỏi.
Vì muốn thành tựu pháp địa nầy, nên cũng phải tìm cầu thưa hỏi tướng và đắc quả trong địa thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười, như vậy, không có nhàm mỏi.
Vì muốn thành tựu pháp địa nầy, nên Bồ Tát nầy khéo biết các địa chướng đối trị, khéo biết địa thành hoại, khéo biết địa tướng quả, khéo biết địa được tu, khéo biết địa pháp thanh tịnh, khéo biết địa địa chuyển hành, khéo biết địa địa xứ phi xứ, khéo biết địa địa thù thắng trí, khéo biết địa địa không thối chuyển, khéo biết tịnh trị tất cả Bồ Tát địa, cho đến chuyển nhập Như Lai địa.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bây giờ tôi đưa ra một ví dụ : giống như người thợ làm vàng, họ dùng đủ thứ phương pháp, cứ lần lượt đưa vàng vào trong lò lửa, mỗi lần thiêu đốt thì vàng càng sáng hơn một chút, càng đốt thì càng sáng, khử đi hết sạch những thứ tạp vật, thì mềm mại, không thể nào đứt gãy. Lúc đó, thì “tuỳ ý xử dụng”, tuỳ theo ý của mình muốn làm gì cũng được, trang nghiêm Phật sự và trang sức tất cả mọi thứ. Bồ Tát cũng giống như vậy,
Ngài tu trị tất cả pháp môn các địa, trước hết tu hạnh cúng dường chư Phật, và dùng từ bi, hỉ xả, nhẫn nhục, tinh tấn .v.v… các Ba la mật để giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều có thể tu hành pháp môn Thập địa thanh tịnh nầy. Tất cả căn lành tu hành, thảy đều đem hồi hướng về quả địa nhất thiết trí huệ. Công phu tu hành pháp môn Thập địa, càng ngày càng tiến bộ, càng ngày càng sáng tịnh. Lúc đó, Bồ Tát chẳng còn chút phiền não nào cả, lúc nào cũng từ bi hỉ xả, cũng nhẫn nhục được, thành tựu pháp môn điều nhu nhẫn nhục, tuỳ ý của mình, muốn dùng pháp môn nào cũng được.
Các vị đệ tử của Phật ! Tu Bồ Tát hạnh, đại Bồ Tát tích tụ đủ thứ căn lành, trong thời kỳ chứng được Hoan Hỉ địa, thì phải nương theo chư Phật, Bồ Tát và thiện tri thức, không ngừng nghiên cứu, tư duy, Sơ địa mà Ngài hiện tại đang tu tập, có những tướng trạng gì, và tương lai sẽ đắc được quả vị gì! Có sự liên quan đến việc tu hành pháp môn địa nầy, như có sự nghi nan, tuỳ thời thưa hỏi chư Phật, đại Bồ Tát, và thiện tri thức. Ngày ngày như vậy, tinh cần không giải đãi, cũng chẳng có tâm nhàm mỏi và tự mãn.
Vì muốn thành tựu pháp môn địa thứ hai, cũng phải nương theo chư Phật, đại Bồ Tát, và thiện tri thức, nghiên cứu tìm cầu tướng trạng trong pháp môn địa thứ hai mà tu hành phải đi qua, và tương lai sẽ đắc được quả vị gì, vì cầu được giải đáp những nghi nan nầy, chưa từng sinh tâm nhàm mỏi tự mãn.
Vì muốn thành tựu pháp môn Thập địa, càng phải thâm nhập nghiên cứu, hướng về chư Phật, đại Bồ Tát, và thiện tri thức thưa hỏi tướng trạng và sự tu hành phải đi qua, và quả vị các địa tu đắc được như thế nào về địa thứ ba, địa thứ tư, địa thứ năm, địa thứ sáu, địa thứ bảy, địa thứ tám, địa thứ chín, và địa thứ mười. Như vậy luôn luôn tinh cần tìm cầu, chưa từng nhàm mỏi và tự mãn, đó đều là vì muốn thành tựu pháp môn Thập địa. Vị Bồ Tát nầy, Ngài khéo hiểu biết sự tu hành pháp môn Sơ địa, có những chướng ngại gì, dùng phương pháp gì để đối trị; biết làm thế nào tu hành thành tựu pháp Thập địa, và nguyên nhân tại sao không thể tu chứng thành công; cũng minh bạch tất cả tướng trạng tu hành pháp môn Thập địa phải đi qua, và tương lai có thể chứng được quả vị; cũng biết phải tu hành như thế nào, mới có thể tiến vào địa thứ hai.
Cũng biết pháp môn Thập địa là vô thượng thanh tịnh; cũng thể hội được nương vào thứ tự từng địa, từng địa, tuần tự dần dần tu hành, từ sơ địa tiến vào pháp môn Thập địa. Cũng nhận thức được phương pháp tu hành của mỗi địa, làm thế nào mới là chánh quyết và dùng phương pháp gì có thể tránh được sự sai lầm. Cũng biết được trí huệ và hạnh môn đặc biệt của mỗi địa; cũng chú ý đến mỗi địa đều có bí quyết phòng tránh để người tu hành không sinh tâm thối chuyển, cũng khéo biết dùng trí huệ để đối trị các chướng ngại phát sinh trong lúc tu, để đắc được sự thanh tịnh, cho đến lần lược đi qua, chuyển vào Như Lai địa mà thành tựu quả vị Phật.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ Tát như thị thiện tri địa tướng, thủy ư sơ địa khởi hành bất đoạn, như thị nãi chí nhập đệ Thập Địa vô hữu đoạn tuyệt. do thử chư địa trí quang minh cố, thành ư Như Lai trí tuệ quang minh.
Phật tử! thí như thương chủ thiện tri phương tiện, dục tướng chư thương nhân vãng nghệ đại thành, vị phát chi thời, tiên vấn đạo trung công đức quá thất, cập trụ chỉ chi xứ an nguy khả bất, nhiên hậu cụ đạo tư lương, tác sở ưng tác.
Phật tử! bỉ Đại thương chủ tuy vị phát túc, năng tri đạo trung sở hữu nhất thiết an nguy chi sự, thiện dĩ trí tuệ trù lượng quan sát, bị kỳ sở tu lệnh vô phạp thiểu, tướng chư thương chúng nãi chí an ổn đáo bỉ đại thành, thân cập chúng nhân tất miễn ưu hoạn.
Phật tử! Bồ Tát thương chủ diệc phục như thị, trụ ư sơ địa, thiện tri chư địa chướng đối trì, nãi chí thiện tri nhất thiết Bồ Tát địa thanh tịnh, chuyển nhập Như Lai địa, nhiên hậu nãi cụ phước trí tư lương, tướng nhất thiết chúng sanh Kinh sanh tử khoáng dã hiểm nan chi xứ, an ổn đắc chí Tát bà nhã thành, thân cập chúng sanh bất Kinh hoạn nan. thị cố, Bồ Tát thường ưng phỉ giải cần tu chư địa thù thắng tịnh nghiệp, nãi chí thú nhập Như Lai trí địa.
Việt Văn: Phật tử ! Bồ Tát khéo biết tướng địa như vậy, ban đầu nơi Sơ địa, khởi tu hành không ngừng, như vậy cho đến vào Địa thứ mười, không có đoạn tuyệt. Nhờ đó các địa trí huệ quang minh, nên thành tựu trí huệ quang minh của Như Lai.
Phật tử ! Ví như chủ buôn, khéo biết phương tiện, muốn đem các người đi buôn, đi đến thành lớn, trước khi khởi hành, thì trước hết hỏi lỗi lầm công đức giữa đường, và chỗ trụ xứ có an nguy không, sau đó chuẩn bị đầy đủ tư lương, làm việc đáng làm.
Phật tử ! Đại chủ buôn đó, tuy chưa khởi hành, mà biết được hết thảy tất cả việc an nguy giữa đường. Khéo dùng trí huệ suy lường quán sát, chuẩn bị chu đáo, khiến cho không thiếu thốn, đem các thương gia đến thành lớn kia một cách an ổn, mình và mọi người đều không sầu lo hoạn nạn.
Phật tử ! Bồ Tát chủ buôn cũng lại như vậy, trụ nơi Sơ địa, khéo biết chướng các địa để đối trị, cho đến khéo biết tất cả địa thanh tịnh của Bồ Tát, chuyển vào Như Lai địa. Sau đó mới đủ phước trí tư lương, đem tất cả chúng sinh, đi qua nơi sinh tử hoang dã nguy hiểm, đến thành Tát Bà Nhạ an ổn, mình và chúng sinh không bị hoạn nạn. Cho nên Bồ Tát thường không giải đãi, siêng tu tịnh nghiệp thù thắng của các địa, cho đến nhập vào trí địa của Như Lai.
Giảng: Bồ Tát Kim Cang Tạng lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát tu hành như vậy, Ngài biết được mỗi địa có cảnh giới và tướng trạng khác nhau. Bắt đầu từ Sơ địa, phát tâm siêng tu pháp môn Thập địa, chưa từng gián đoạn. Như vậy liên tục tu hành không ngừng, thẳng đến tiến vào địa thứ mười, chưa từng ngừng nghỉ. Do đó, các địa đều tu chứng được trí huệ quang minh, nhờ đó mà thành tựu trí huệ quang minh giống như đức Phật không khác.
Các vị đệ tử của Phật ! Bây giờ tôi đưa ra một ví dụ để nói : Có một vị đại chủ buôn rất thông minh, cũng rất khéo léo vận dụng phương pháp phương tiện, ông ta mang theo rất nhiều người buôn, đi đến một thành lớn để buôn bán. Trước khi khởi hành, ông ta tìm hiểu biết được rõ ràng lộ trình sẽ đi qua, nơi nào bình an, và chỗ nào nguy hiểm, chỗ nào nên nghỉ ngơi, chỗ nào không nên ở lại. Ông ta thấu suốt tình hình an nguy như vậy rồi, mới kêu mọi người chuẩn bị tiền tài vật chất và dự bị tất cả những gì cần dự bị.
Các vị đệ tử của Phật ! Như vậy vị đại chủ buôn tuy nhiên chưa từng đi qua lộ trình đó, nhưng ông ta biết rõ hết những sự việc an nguy trên con đường đó, cho nên ông ta vận dụng trí huệ quan sát các phương, chuẩn bị chu toàn, để tránh xảy ra trở ngại thiếu sót phát sinh ở giữa đường, mới thuận lợi đưa những người buôn đó đến thành lớn. Như vậy, chính mình và mọi người đều tránh khỏi sự lo lắng và hoạn nạn.
Các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát cũng giống như người đại chủ buôn, khi trụ nơi Sơ địa, thì Ngài biết mỗi địa phải đầy đủ tin hiểu như vậy, nên dùng phương pháp gì để tu trị, tiến vào mà biết tất cả các địa của Bồ Tát, tu hành hạnh thanh tịnh như thế nào, mới có thể chuyển nhập vào quả vị của Phật. Sau đó, Ngài rộng tu các Ba la mật, tích tụ tư lương phước đức trí huệ, giáo hoá chúng sinh, độ chúng sinh thoát khỏi khoáng dã sinh tử luân hồi, lìa khỏi nơi nguy hiểm thống khổ, đạt đến thành bằng phẳng trí huệ an ổn. Chính bản thân mình và chúng sinh mọi người đều chẳng có sự khổ nạn. Cho nên Bồ Tát luôn luôn không giải đãi, tinh tấn siêng tu pháp môn thanh tịnh thù thắng của mỗi địa, và siêng tích tập các thứ đạo nghiệp, thẳng đến tiến vào quả vị trí huệ của Phật.
Kinh Văn: Phật tử! thị danh: lược thuyết Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập Bồ Tát sơ địa môn, quảng thuyết tức hữu vô lượng vô biên bách thiên a-tăng-kì sái biệt sự.
Việt Văn: Phật tử ! Đó là lược nói về đại Bồ Tát, vào môn Bồ Tát Sơ địa, nói rộng thì có vô lượng vô biên trăm ngàn A tăng kỳ sự việc khác biệt.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đó là sơ lược nói về đại Bồ Tát, chứng nhập tất cả thật tại tình cảnh trong pháp môn Bồ Tát Sơ địa, nếu như muốn nói tỉ mỉ, thì vô lượng vô biên sự tướng khác nhau, không cách chi nói hết được.
Kinh Văn: Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử sơ địa, đa tác Diêm-phù-đề Vương, hào quý tự tại, thường hộ chánh pháp, năng dĩ Đại thí nhiếp thủ chúng sanh, thiện trừ chúng sanh xan tham chi cấu, thường hành Đại thí vô hữu cùng tận. Bố thí, ái ngữ, lợi ích, đồng sự như thị nhất thiết chư sở tác nghiệp, giai bất ly niệm Phật, bất ly niệm Pháp, bất ly niệm Tăng, bất ly niệm đồng hạnh Bồ Tát, bất ly niệm Bồ Tát hạnh, bất ly niệm chư Ba-la-mật, bất ly niệm chư địa, bất ly niệm lực, bất ly niệm vô úy, bất ly niệm bất cộng Phật Pháp, nãi chí bất ly niệm cụ túc nhất thiết chủng, nhất thiết trí trí.
Việt Văn: Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ Sơ địa nầy, phần nhiều làm vua cõi Diêm Phù Đề, hào quý tự tại, thường hộ trì chánh pháp. Hay dùng đại bố thí nhiếp lấy chúng sinh, khéo trừ san tham cấu bẩn của chúng sinh. Thường thực hành đại bố thí không cùng tận. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.
Như vậy tất cả các nghiệp làm ra, đều không lìa niệm Phật, không lìa niệm Pháp, không lìa niệm Tăng, không lìa niệm Bồ Tát đồng hạnh, không lìa niệm Bồ Tát hạnh, không lìa niệm các Ba la mật, không lìa niệm các địa, không lìa niệm lực, không lìa niệm vô uý, không lìa niệm Phật pháp bất cộng, cho đến không lìa niệm đầy đủ tất cả loại trí huệ nhất thiết chủng trí.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Đại Bồ Tát chứng được quả vị sơ địa, khi trụ tại sơ địa, thì đa số hay làm vua cõi Diêm Phù Đề (tức là Chuyển Luân Vương). Hoặc là người đại phú quý, đời sống rất như ý tự tại, thường luôn luôn hộ trì chánh pháp. “Hay dùng đại bố thí”, thường thực hành pháp môn đại bố thí, để nhiếp lấy chúng sinh, cũng biết dùng phương pháp giáo hoá chúng sinh, trừ khử đi mao bệnh keo kiết và tham vọng của chúng sinh. Ngài thường rộng tu đại bố thí không cùng tận. “Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự”, bố thí tài vật, ái ngữ giáo hoá chúng sinh, trợ giúp chúng sinh, thân tự gần gũi chúng sinh (dùng bốn pháp nhiếp khiến cho họ thọ đồng hoá), làm tất cả nghiệp thiện lợi kẻ khác giống như vậy, đều chưa từng xả bỏ tâm niệm Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo.
Cũng chưa từng lìa niệm Bồ Tát cùng tu hành, cũng chưa từng lìa niệm tu Bồ Tát hạnh. Cũng chưa từng lìa niệm mười Ba la mật, cũng chưa từng lìa niệm pháp môn và tướng trạng mỗi địa trong Thập địa. Cũng chưa từng lìa niệm tất cả nguyện lực. Cũng chưa từng lìa niệm bốn vô sở uý của Phật. Cũng chưa từng lìa niệm mười tám pháp bất cộng của Phật. Cho đến chưa từng lìa niệm tất cả loại, đại trí huệ nhất thiết chủng trí của Phật.
Kinh Văn: Phục tác thị niệm: ngã đương ư nhất thiết chúng sanh trung vi thủ, vi thắng, vi thù thắng, vi diệu, vi vi diệu, vi thượng, vi vô thượng, vi đạo, vi tướng, vi suất, nãi chí vi nhất thiết trí trí y chỉ giả. Thị Bồ Tát nhược dục xả gia ư Phật Pháp trung cần hành tinh tấn, tiện năng xả gia, thê tử, ngũ dục, y Như Lai giáo xuất gia học đạo.
Việt Văn: Lại nghĩ như vầy : Tôi sẽ ở trong tất cả chúng sinh, làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi diệu, làm thượng, làm vô thượng, làm đạo sư, làm tướng, làm soái, cho đến làm người y chỉ nhất thiết trí. Nếu Bồ Tát nầy muốn bỏ nhà, ở trong Phật pháp, siêng tu hành tinh tấn, thì liền bỏ nhà vợ con năm dục, nương vào lời dạy của Như Lai, xuất gia học đạo.
Giảng: Trụ tại Thập địa — Bồ Tát hoan hỉ địa, lại quán tưởng như vầy : “Thượng thủ”, tôi phải ở trong chúng sinh làm người lãnh đạo họ. “Làm thắng”, tôi phải có trí huệ hơn người. “Làm thù thắng” có tài năng đặc biệt hơn người. “Làm diệu”, có biện tài vô ngại. “Làm vi diệu” phải khéo dùng lời lẽ vi diệu, khiến cho chúng sinh lìa tất cả thống khổ mà được tự tại. “Làm thượng” phải tu tập phước đức toàn mỹ. “Làm vô thượng” chẳng có ai toàn mỹ hơn tôi. “Làm đạo sư” tôi phải vì chúng sinh phân biệt pháp nghĩa. “Làm tướng” khiến cho chúng sinh đắc được chứng nghĩa, diệt trừ tất cả phiền não. “Làm soái” khiến cho chúng sinh tiến vào chánh tri chánh kiến trong trung đạo, làm cho hết thảy chúng sinh dùng tôi làm người y chỉ trí huệ cho họ. Khi vị Bồ Tát nầy nghĩ muốn xuất gia, trong thời kỳ học tập Phật pháp, đặc biệt dũng mãnh tinh tấn, xả bỏ gia nghiệp thế tục : Vợ, con, và tài, sắc, danh, ăn, ngủ năm dục. Nương vào lời dạy của Phật, xuất gia học đạo là thoát khỏi nhà phiền não, nhà ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc) phải thoát khỏi nhà ba cõi nầy, mới gọi là chân chánh xuất gia, mới có thể tu đạo.
Kinh Văn: Ký xuất gia dĩ, cần hành tinh tấn, ư nhất niệm khoảnh, đắc bách tam muội, đắc kiến bách Phật, tri bách Phật thần lực, năng động bách Phật thế giới, năng qua bách Phật thế giới, năng chiếu bách Phật thế giới, năng giáo hóa bách thế giới chúng sanh, năng trụ thọ bách kiếp, năng tri tiền hậu tế các bách kiếp sự, năng nhập bách pháp môn, năng thị hiện bách thân, ư nhất nhất thân năng thị bách Bồ Tát dĩ vi quyến thuộc.
Nhược dĩ Bồ Tát thù thắng nguyện lực tự tại thị hiện, qua ư thị số, bách kiếp, thiên kiếp, bách thiên kiếp, nãi chí bách thiên ức na-do-tha kiếp bất năng số tri.
Nhĩ thời, Kim Cương tạng Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa nhi thuyết tụng viết:
Việt Văn: Khi xuất gia rồi, siêng tu hành tinh tấn. Trong khoảng một niệm, đắc được trăm tam muội, thấy được trăm vị Phật, biết được thần lực của trăm vị Phật. Chấn động được trăm thế giới của Phật, có thể qua đến trăm thế giới của Phật, chiếu đến được trăm thế giới của Phật, giáo hoá được trăm thế giới chúng sinh, có thể sống lâu đến trăm kiếp, biết được sự việc trước sau trăm kiếp, vào được trăm pháp môn, thị hiện được trăm thân.
Mỗi mỗi thân, thị hiện được trăm vị Bồ Tát dùng làm quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực thù thắng của Bồ Tát, tự tại thị hiện, thì vượt qua số nầy. Trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, cho đến trăm ngàn ức Na do tha kiếp, không thể tính đếm biết được.
Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn thuật lại nghĩa trên, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Bồ Tát phát tâm bồ đề, xả bỏ nhà sinh tử phiền não thế tục mà xuất gia, đó là vì cầu vô thượng chánh đạo, lúc đó Ngài siêng cần không giải đãi, dũng mãnh tinh tấn tu hành. Ở trong khoảng một niệm, thì có thể đắc được trăm ngàn tam muội, tức là trăm ngàn thứ trí huệ chánh định chánh thọ. Đắc được nhiều tam muội như vậy, cũng thấy được trăm ngàn vị Phật trong mười phương thế giới. Thấy được Phật rồi, cũng biết được sức thần thông của những vị Phật đó, có thể dùng thần thông khiến cho thế giới của Phật trong mười phương sáu thứ chấn động. Sức thần thông của Ngài có thể vượt qua trăm thế giới của Phật trong mười phương, quang minh của Ngài cũng chiếu sáng trăm thế giới của Phật. Cũng ở trong một niệm, giáo hoá nhiều chúng sinh trong trăm thế giới của Phật. Thọ mạng của Ngài có thể sống lâu đến một trăm kiếp, biết được tất cả sự việc trước sau hàng trăm kiếp. Vào sâu được hết thảy trăm pháp môn.
Thị hiện được rất nhiều hoá thân, mà mỗi hoá thân, lại có thể hiện hoá ra trăm Bồ Tát, để làm quyến thuộc cho Ngài. Nếu như dùng công đức và nguyện lực đặc biệt của Bồ Tát, thì Ngài càng thị hiện biến hoá tự tại, vượt qua trăm kiếp, thậm chí ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp, trăm ngàn ức Na do tha kiếp, không thể dùng sự tính toán mà biết được.
Lúc đó, Bồ Tát Kim Cang Tạng muốn thuật lại nghĩa lý ở trên vừa nói, bèn dùng kệ để nói.
Nhược nhân tập chúng thiện Nếu người tu điều lành
Cụ túc bạch tịnh Pháp, Ðủ những pháp bạch tịnh
Cúng dường Thiên Nhân tôn, Cúng dường chư Thế Tôn
Tùy thuận từ bi đạo, Tùy thuận đạo từ bi.
Giảng: Bồ Tát tu tập hạnh môn, và tích tập đủ thứ căn lành. Vì căn lành công đức đầy đủ rồi, thì trừ khử sạch tất cả mọi nhiễm ô, tức là pháp thanh tịnh không có sự nhiễm ô. Ngài cúng dường vô lượng số các vị Phật, lại thường dùng từ bi hỉ xả bốn tâm vô lượng để giáo hoá chúng sinh.
Tín giải cực quảng đại, Tin hiểu rất rộng lớn
Chí lạc diệc thanh tịnh, Chí nguyện cũng thanh tịnh
Vi cầu Phật trí tuệ, Vì cầu trí huệ Phật
Phát thử vô thượng tâm. Phát tâm vô thượng này.
Giảng: Tâm tin và năng lực hiểu biết của Ngài, đều rộng lớn phi thường, chí nguyện và sự ưa thích làm, cũng đều thanh tịnh. Vì cầu được trí huệ giống như Phật, mà phát đủ thứ đạo tâm bồ đề vô thượng.
Tịnh nhất thiết trí lực, Tu tất cả trí lực
Cập dĩ vô sở úy, Và cùng vô sở úy
Thành tựu chư Phật Pháp, Thành tựu các Phật pháp
Cứu nhiếp quần sanh chúng, Cứu nhiếp các quần sanh.
Giảng: Thanh tịnh hết thảy sức trí huệ, và dùng tinh thần đại vô sở uý, thành tựu đủ thứ pháp môn của chư Phật nói, cứu độ nhiếp thọ những chúng sinh khổ nạn.
Vi đắc đại từ bi, Vì được đại từ bi
Cập chuyển thắng Pháp luân, Và chuyển thắng pháp luân
Nghiêm tịnh Phật quốc độ, Nghiêm tịnh Phật quốc độ
Phát thử tối thắng tâm. Phát tâm tối thắng này.
Giảng: Vì đắc được tâm đại từ bi, và chuyển tất cả bánh xe pháp thù thắng (tức là rộng diễn nói đại thừa chánh pháp đối với chúng sinh) dùng tâm đại từ bi cứu nhiếp chúng sinh, và diễn nói công đức Phật pháp đại thừa, để trang nghiêm thanh tịnh cõi nước của Phật. Vì mục đích nầy mà Bồ Tát phát tâm bồ đề tối thù thắng.
Nhất niệm tri tam thế, Một niệm biết tam thế
Nhi vô hữu phân biệt, Mà không có phân biệt
Chủng chủng thời bất đồng, Thời gian sai khác nhau
Dĩ thị ư thế gian. Ðể hiển thị thế gian
Giảng: Một niệm biết được quá khứ, vị lai, hiện tại ba đời, mà không có sự phân biệt, đây là dùng trí huệ để biết, chẳng phải dùng thức để phân biệt. Vì thời gian ba đời khác nhau, cho nên thị hiện nơi thế gian.
Lược thuyết cầu chư Phật, Lược nói cầu Chư Phật
Nhất Thiết thắng công đức, Tất cả thắng công đức
Phát sanh quảng đại tâm, Phát sanh tâm quảng đại
Lượng đẳng hư không giới. Lượng đồng cõi hư không.
Giảng: Sơ lược nói chút ít về Thánh đạo vô thượng và công đức thù thắng của chư Phật, Bồ Tát phát tâm nguyện rộng lớn như vậy đồng với hư không.
Bi tiên tuệ vi chủ, Bi trước, huệ làm chủ
Phương tiện cộng tướng ứng, Tương ưng cùng phương tiện
Tín giải thanh tịnh tâm, Tâm tín giải thanh tịnh
Như Lai vô lượng lực, Phật vô lượng thần lực.
Giảng: Dùng tâm đại từ bi làm hàng đầu, dùng trí huệ làm chủ thể. Hành tất cả phương pháp phương tiện thiện xảo, để tương ưng với Phật pháp. Dùng tâm tin hiểu thanh tịnh, đắc được vô lượng thần thông lực của Như Lai.
Vô ngại trí hiện tiền, Trí vô ngại hiện tiền
Tự ngộ bất do tha, Tự ngộ chẳng do người
Cụ túc đồng Như Lai, Ðầy đủ đồng Chư Phật
Phát thử tối thắng tâm. Phát tâm tối thắng này.
Giảng: Đắc được trí huệ vô ngại rồi, lại đắc được trăm ngàn vạn tam muội, đây chẳng phải do người khác ban cho, mà là do mình tu trì chứng ngộ. Đủ thứ trí huệ và thần lực thù thắng đó, đều giống như đức Phật, Bồ Tát phát tâm bồ đề thù thắng như vậy.
Phật tử thủy phát sanh, Phật tử mới phát sanh
Như thị diệu bảo tâm, Tâm diệu bửu như vậy
Tức siêu phàm phu vị Thời siêu hạng phàm phu
Nhập Phật sở hạnh xứ, Vào chỗ đi của Phật.
Giảng: Phật tử vừa mới phát tâm bồ đề, tâm báu kiên cố giống như kim cang, thì khác với phàm phu. Vượt khỏi địa vị phàm phu, tiến vào con đường thực hành của Phật.
Sanh tại Như Lai gia, Sanh tại nhà Như Lai
Chủng tộc vô hà điếm, Chủng tộc không tội lỗi
Dữ Phật cọng bình đẳng, Ðồng bình đẳng với Phật
Quyết thành vô thượng giác. Quyết thành Vô Thượng Giác,
Giảng: Bồ Tát chứng được Hoan Hỉ địa, tức là đã sinh vào gia tộc của Phật, là chủng tộc cao quý, chẳng phải bần cùng hạ tiện. Chủng tộc nầy có thể nói chẳng có chút nhiễm ô cấu bẩn nào. Tất cả đều giống như đức Phật, tương lai nhất định sẽ thành Phật.
Tài sanh như thị tâm, Vừa sanh lòng như vậy
Tức đắc nhập sơ địa, Liền được vào Sơ địa
Chí lạc bất khả động, Chí nguyện chẳng bị động
Thí như Đại sơn vương, Dường như núi Tu Di.
Giảng: Bồ Tát mới vừa phát khởi tâm bồ đề và tâm từ bi, lập tức chứng nhập được Hoan Hỉ địa. Chí nguyện và sự thích làm của Ngài đều là hành Bồ Tát đạo, ai cũng không thể cản trở hoặc phá hoại Ngài được, giống như núi Tu Di chúa, nguy nga hùng vĩ không bị lay động.
Đa hỉ đa ái lạc Nhiều vui, nhiều ưa thích.
Diệc phục đa tịnh tín, Lại cũng nhiều tịnh tín
Cực đại dũng mãnh tâm, Tâm dũng mãnh rất lớn
Cập dĩ khánh dược tâm, Và cùng tâm mừng rỡ.
Giảng: Bồ Tát chứng được Hoan Hỉ địa rồi, luôn luôn đều hoan hỉ, Ngài ái hộ chúng sinh, ưa thích gần gũi chúng sinh. Đồng thời cũng không giải đãi sự tu tập hạnh môn thanh tịnh, mà có tâm tin hiểu kiên cố đối với Phật pháp. Phát tâm tinh tấn dũng mãnh phi thường, lại sinh khởi tâm hoan hỉ mừng rỡ.
Viễn ly ư đấu tranh, Xa rời sự đấu tránh
Não hại cập sân khuể, Não hại và giận hờn
Tàm kính nhi chất trực, Kính thuận mà chất trực
Thiện thủ hộ chư căn, Khéo gìn giữ sáu căn.
Giảng: Bồ Tát chứng được quả vị Hoan Hỉ địa rồi, thì tự nhiên chẳng còn tâm kiêu ngạo thích đấu tranh, mọi việc cũng chẳng tranh luận với ai, cũng chẳng não hại, và sân hận với người khác. Chỉ có tâm Bồ Tát thành khẩn hổ thẹn mà cung kính, chất phát, ngay thẳng. Ngài khéo giữ gìn sáu căn của mình, không để cho phóng dật.
Cứu thế vô đẳng giả, Ðấng cứu thế vô thượng
Sở hữu chúng trí tuệ, Có bao nhiêu trí huệ
Thử xứ ngã đương đắc, Bực này tôi sẽ được
Ức niệm sanh hoan hỉ. Ghi nhớ sanh hoan hỷ.
Giảng: Bồ Tát đạo cứu độ khắp chúng sinh, ngoài trừ đức Phật ra, chẳng có ai bằng Ngài được. Hết thảy trí huệ của Phật, tôi đều phải chứng đắc được. Bồ Tát thường nghĩ nhớ đến Tam Bảo, và tất cả chúng sinh, nên sinh ra tâm đại hoan hỉ.
Thủy đắc nhập sơ địa, Mới được vào Sơ địa.
Tức siêu ngũ phố úy, Liền siêu năm điều sợ:
Bất hoạt tử ác danh, Chẳng sống, thiếng xấu, chết,
Ác thú chúng uy đức. Ác đạo, chúng oai đức.
Giảng: Khi Bồ Tát chứng nhập Hoan Hỉ địa, thì xa lìa khỏi năm điều sọ hãi:
1. Sợ không sống được nữa.
2. Sợ chết.
3. Sợ người khác phỉ báng.
4. Sợ đầu thai vào ba đường ác.
5. Sợ oai đức của đại chúng.
Dĩ bất tham trước ngã, Vì chẳng tham chấp ngã
Cập dĩ ư ngã sở, Và chẳng chấp ngã sở
Thị chư Phật tử đẳng, Các Phật tử như đây
Viễn ly chư bố úy. Xa rời năm điều sợ.
Giảng: Những điều sợ hãi sinh ra, đều do tham chấp vào cái ta, nếu phá được cái ta, thì còn có gì để sợ ? Và còn có những gì của ta, tức là tâm tham ái, thấy những gì cũng đều là của ta. Buông bỏ được cái ta và của ta, thì sẽ minh bạch tất cả đều là không. Đệ tử Phật học Phật pháp, thì nên xả bỏ cái ta và của ta, thì tự nhiên sẽ xa lìa những điều sợ hãi nầy.
Thường hành đại từ mẫn, Thường thật hành đại từ
Hằng hữu tín cung kính, Luôn kính tin tùy thuận.
Tàm quý công đức bị, Ðủ công đức tàm qúy
Nhật dạ tăng thiện Pháp. Ngày đêm thêm pháp lành.
Giảng: Thường thường hành đại từ đại bi, thương xót chúng sinh. Luôn luôn có tâm tin thanh tịnh thành khẩn, cung kính Tam Bảo. Lúc nào cũng có tâm hổ thẹn tất cả, thì công đức sẽ đầy đủ, như vậy thì ngày đêm sẽ tăng trưởng pháp lành.
Lạc Pháp chân thật lợi, Thích thật lợi chánh pháp
Bất ái thọ chư dục, Chẳng ưa thọ dục lạc
Tư tánh sở văn Pháp Tu duy pháp đã nghe
Viễn ly thủ trước hạnh Rời xa hạnh chấp trước.
Giảng: Hoan hỉ Phật pháp là lợi ích chân thật, thì không hoan hỉ năm dục. Luôn luôn suy gẫm quán tưởng ý nghĩa chân thật của Phật pháp đã nghe được, thì sẽ xa lìa tất cả hành vi ái và chấp lấy.
Bất tham ư lợi dưỡng Chẳng tham cầu lợi dưỡng
Duy lạc Phật Bồ-đề, Chỉ thích Phật Bồ đề
Nhất tâm cầu Phật trí Nhứt tâm cầu Phật trí
Chuyên tinh vô dị niệm. Chuyên ròng không niệm khác.
Giảng: Không tham đồ danh văn lợi dưỡng, chỉ hoan hỉ học tập Phật pháp, chứng được đại đại bồ đề vô thượng. Chỉ một lòng mong cầu được trí huệ giống như Phật, tinh cần chuyên nhất, không sinh hai lòng, không khởi niệm khác.
Tu hành Ba-la-mật, Tu tập Ba la mật
Viễn ly siểm hư cuống Xa rời dua dối gạt
Như thuyết nhi tu hành, Thật hành đúng lời Phật
An trụ thật ngữ trung. An trụ trong thật ngữ.
Giảng: Mong cầu được trí huệ giống như Phật, thì phải tu tập mười Ba la mật. Càng phải xa lìa tâm nịnh bợ, tâm hư vọng, và tâm dối trá. Nhất định phải thiết thực y chiếu theo phương pháp của Phật nói mà tu hành, thì an nhiên trụ ở trong lời thật không nói dối.
Bất ô chư Phật gia, Chẳng nhơ nhà Chư Phật
Bất xả Bồ-tát giới, Chẳng bỏ giới Bồ Tát
Bất lạc ư thế sự, Chẳng thích những thế sự
Thường lợi ích thế gian. Thường lợi ích thế gian.
Giảng: Người học Phật pháp, phải thường như lý mà tu hành, hộ trì Tam Bảo, không làm việc ô uế nơi cửa Phật, không làm bại hoại gia phong của Như Lai, khiến cho chúng sinh một khi thấy được thì sinh tâm cung kính Tam Bảo, quy y cửa Phật. Lúc nào cũng phải giữ gìn giới Bồ Tát đã chế ra, mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh. Không ưa thích việc ác năm dục của thế gian, phải thường làm việc lành có lợi thế gian, có ích cho chúng sinh.
Tu thiện Vô yếm túc, Làm lành không nhàm đủ
Chuyển cầu tăng thắng đạo, Thêm cầu đạo tăng thắng
Như thị hảo lạc Pháp, Ưa thích pháp như vậy
Công đức nghĩa tướng ứng. Tương ưng nghĩa công đức.
Giảng: Tu hành pháp lành không lúc nào ngừng, chẳng có sự nhàm chán đầy đủ. Như vậy ngày càng dũng mãnh tinh tấn, siêng tu thiện đạo thù thắng vô thượng.Ưa thích Phật pháp tốt như vậy, thì công đức nhất định sẽ tương ưng với Phật pháp.
Hằng khởi Đại nguyện tâm, Thường phát khởi đại nguyện
Nguyện kiến ư chư Phật, Nguyện thấy chư Như Lai
Hộ trì chư Phật Pháp, Hộ trí Phật chánh pháp
Nhiếp thủ đại tiên đạo. Nhiếp lấy đạo vô thượng.
Giảng: Thời thường sinh khởi tâm chí nguyện lớn, hy vọng thường thường thấy được chư Phật mười phương ba đời. Lại phải phát nguyện hộ trì pháp của chư Phật nói, nhiếp lấy Phật đạo của chư Phật (đạo Đại Tiên tức là đạo Phật).
Thường sanh như thị nguyện Thường sanh nguyện như vầy:
Tu hành tối thắng hạnh Tu hành hạnh tối thắng.
Thành thục chư quần sanh, Thành thục mọi quần sanh
Nghiêm tịnh Phật quốc độ. Nghiêm tịnh Phật quốc độ.
Giảng: Thời thường phát tâm nguyện như vậy, tu hành hạnh thù thắng nhất, khiến cho tất cả chúng sinh đều thành thục căn lành, tu hành đắc được sự thành tựu. Tương lai nhất định đều sẽ thành Phật, trang nghiêm hết thảy cõi nước chư Phật trong mười phương ba đời.
Nhất thiết chư Phật sát, Tất cả các cõi Phật
Phật tử tất sung biến, Ðều đông dầy Phật tử
Bình đẳng cộng nhất tâm Bình đẳng chung một lòng
Sở tác giai bất không Việc làm đều chẳng luống.
Giảng: Hết thảy thế giới và vô lượng vô biên cõi Phật, đệ tử của Phật đều đầy dẫy trong đó (Phật tử là chỉ Bồ Tát). Những Bồ Tát đó đều một lòng một dạ cứu độ chúng sinh, những gì họ tu hành đều không luống uổng, nhất định sẽ thành tựu và được công đức như nguyện.
Nhất thiết mao đoan xứ Nơi tất cả chân lông
Nhất thời thành chánh giác. Ðồng thời thành Chánh giác
Như thị đẳng đại nguyện, Những đại nguyện như vậy
Vô lượng vô biên tế. Vô lượng vô biên tế.
Giảng: Cảnh giới của Bồ Tát viên dung không chướng ngại, phát nguyện tu hành nơi tất cả đầu sợi lông, độ sinh, làm đại Phật sự, mọi người có thể cùng một thời thành Phật quả, chuyển bánh xe pháp. Cảnh giới nguyện lớn không thể nghĩ bàn như vậy, vô lượng vô biên không thể độ lượng được.
Hư không dữ chúng sanh, Hư không cùng chúng sanh
Pháp giới cập Niết-Bàn, Pháp giới và Niết Bàn
Thế gian Phật xuất hưng, Thế gian Phật ra đời
Phật trí tâm cảnh giới. Phật trí tâm cảnh giới,
Giảng: Hư không và chúng sinh đều không thể cùng tận, pháp giới và Niết Bàn cũng không thể cùng tận như nhau, trên thế giới có Phật ra đời cũng không thể dự biết được, cảnh giới trí huệ và tâm của Phật là không thể nghĩ bàn.
Như Lai trí sở nhập, Trí của Như Lai chứng
Cập dĩ tam chuyển tận, Cùng Tam chuyển pháp tận
Bỉ chư nhược hữu tận Tất cả đó có tận
Ngã nguyện phương thủy tận. Nguyện của tôi mới tận,
Giảng: Trí huệ của Phật đắc được và cõi hư không tận, cõi chúng sinh tận, cõi phiền não tận, nếu những điều nầy đều cùng tận, thì nguyện của tôi mới cùng tận.
Như bỉ vô tận kỳ, Như đó không cùng tận
Ngã nguyện diệc phục nhiên. Nguyện của tôi cũng vậy,
Như thị phát đại nguyện, Phát nguyện lớn như thế
Tâm nhu nhuyễn điều thuận. Tâm nhu nhuyến điều thuận.
Giảng: Giống như ở trước nói : cõi hư không, cõi phiền não, pháp giới đều không cùng tận, cho nên tâm nguyện của tôi cũng không có lúc nào cùng tận. Phát nguyện lớn không thể nghĩ bàn nầy rồi, rộng lớn vô biên, nguyện lớn không thể hạn lượng, thì tâm tự nhiên nhu hoà, tự tại, an tường.
Năng tín Phật công đức, Hay tin công đức Phật
Quan sát ư chúng sanh, Quan sát nơi chúng sanh
Tri tùng nhân duyên khởi, Biết từ nhơn duyên khởi
Tức hưng từ niệm tâm: Liền sanh lòng từ mẫn:
Giảng: Chúng ta người học Phật, trước hết phải nhận thức rõ ràng tông chỉ học Phật, phản tỉnh một phen rằng có thật chân chánh tin Phật hay không, có tin Phật có vô lượng công đức chăng? Đức Phật chắc chắn có vô lượng công đức, vì đức Phật trong đời quá khứ rộng tu đại bố thí — Nội tài : Đầu, mắt, tuỷ, não, xương máu; ngoại tài : Đất nước vợ con, tất cả khó xả mà xả bỏ được. Chúng ta tin Phật có vô lượng công đức, thì phải thường theo Phật học, cũng phải làm đủ thứ đại bố thí, cho nên phải quán sát tất cả chúng sinh. Chúng sinh là nhân duyên hoà hợp mà sinh, trong vô lượng kiếp quá khứ, có quan hệ thân thuộc với chúng ta, hoặc đã từng làm cha con, mẹ con, anh em, chị em, vợ chồng, bạn bèn .v.v… đó đây có lưới nghiệp giao thức, luân chuyển trong luân hồi. Minh bạch sự quan hệ nầy rồi, thì nên sinh khởi tâm từ bi, cứu hộ họ, khiến cho chúng sinh đều lìa khổ được vui.
Như thị khổ chúng sanh, Chúng sanh khổ như vậy
Ngã kim ưng cứu thoát. Nay tôi phải cửu thoát
Vi thị chúng sanh cố, Vì những chúng sanh này
Nhi hành chủng chủng thí, Thật hành việc bố thí.
Giảng: Chúng sinh thống khổ như vậy, vĩnh viễn luân hồi trong sáu nẻo, sống rồi chết không thể thoát ra khỏi. Hiện tại Bồ Tát đã minh bạch đạo lý nầy, nên phải cứu độ chúng sinh ra khỏi biển khổ. Vì cứu những chúng sinh thọ khổ nầy, mà rộng tu đủ thứ sự bố thí.
Vương vị cập trân bảo Ngôi vua và trân bửu
Nãi chí tượng mã xa, Nhẫn đến voi, ngựa, xe,
Đầu mục dữ thủ túc, Ðầu, mắt, cùng tay, chân,
Nãi chí thân huyết nhục, Nhẫn đến máu, thịt, xương
Giảng: Ngôi vua và bảy báu của tôi, đủ thứ châu báu quý giá, cùng với voi trắng lớn tốt đẹp, ngựa đi ngàn dặm, xe báu, các thứ ngoài thân. Hoặc cái đầu tôn quý, mắt, tay, chân, máu, trong thân thể, thịt ở bề ngoài, đủ thứ nội tài khó xả bỏ, chẳng có chút gì mà không bố thí được.
Nhất thiết giai năng xả Tất cả đều xả thí
Tâm đắc Vô ưu hối. Không có lòng hối tiếc.
Cầu chủng chủng Kinh thư, Cầu các thứ kinh thơ
Kỳ tâm vô yếm quyện, Không hề biết nhàm mỏi
Giảng: Tất cả nội tài và ngoại tài, tôi cũng đều bố thí được. Bố thí rồi, trong tâm không có chút hối tiếc nào mà xả bỏ không được. Các vị học Phật ! Chúng ta là người học Phật, phải học tất cả hạnh của Phật. Tin Phật, thì phải tin pháp của Phật nói – lý, y giáo phụng hành. Học tinh thần của Phật khó xả bỏ mà xả bỏ được, rộng tu bố thí. Bồ Tát tụng niệm đủ thứ Kinh điển, trì Chú, tu hành, tâm không thấy khác, nghĩ lệch lạc, hoặc nhàm chán mỏi mệt. Còn ý nghĩa tụng Kinh, trì Chú là khử vọng tồn chân, khiến cho sáu căn quy về thanh tịnh chuyên nhất, tâm lành sinh khởi.
Thiện giải kỳ nghĩa thú, Khéo hiểu nghĩa thú kia
Năng tùy thế sở hạnh, Hay thuận theo thế gian.
Tàm quý tự trang nghiêm, Tàm quý tự trang nghiêm
Tu hành chuyển kiên cố, Tu hành càng kiên cố
Giảng: Tụng Kinh trì Chú là vì minh bạch tất cả đạo lý, khi tụng Kinh, có thể thu nhiếp tâm ý lại, tài bồi định lực. Kế tiếp dụng đến pháp thế gian lợi ích chúng sinh. Thường thường phải phản tỉnh hành vi lỗi lầm của mình, mà sinh tâm hổ thẹn. Dùng sự giác ngộ thanh tịnh, và tâm thành thật để cảnh sách vị lai, làm các điều lành, tích tụ công đức, trang nghiêm chính mình. Hay sinh tâm đại hổ thẹn, phát tâm đại bồ đề, tu hành đạo bồ đề vô thượng, tâm tin càng ngày càng tăng trưởng, càng kiên cố.
Cúng dường vô lượng Phật, Cúng dường vô lượng Phật
Cung kính nhi tôn trọng. Cung kính và tôn trọng.
Như thị thường tu tập, Thường tu tập như vậy
Nhật dạ vô giải quyện, Ngày đêm không nhàm mỏi
Giảng: Tâm tin của Bồ Tát ngày càng kiên cố, rộng tu cúng dường mười phương chư Phật. Không những cúng dường, mà còn cung kính và tôn trọng chư Phật. Tu tập như vậy đời đời kiếp kiếp không gián đoạn, ngày đêm sáu thời cũng không giải đãi nhàm mỏi.
Thiện căn chuyển minh tịnh, Thiện căn càng sáng sạch
Như hỏa luyện chân kim. Như lửa luyện chơn kim.
Bồ-tát trụ ư thử, Bồ Tát trụ nơi đây
Tịnh tu ư Thập Địa, Tịnh tu mười trí địa
Giảng: Bồ Tát tu hành không giải đãi như vậy, thì căn lành càng ngày càng sáng xủa thanh tịnh. Giống như thợ vàng chuyên dùng lửa để luyện vàng, cứ luyện lần nầy rồi lần nữa, cho đến lúc không còn chút tạp chất nào tồn tại nữa, thì cuối cùng biến thành thuần vàng. Khi Bồ Tát trụ tại Sơ địa, thì công phu tu hành cũng không ngừng nghỉ, tu tập pháp môn Thập địa thanh tịnh vô vi. Biết rõ cảnh giới Thập địa rồi, thì cuối cùng mới đắc được quả vị Thập địa.
Sở tác vô chướng ngại, Chỗ làm không chướng ngại
Cụ túc bất đoạn tuyệt. Ðầy đủ chẳng đoạn tuyệt.
Thí như Đại thương chủ Ví như vị thương chủ
Vi lợi chư thương chúng. Vì lợi cho thương gia
Vấn tri đạo hiểm dịch Hỏi rõ đường dễ khó
An ổn chí đại thành. An ổn đến đại thành
Giảng: Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, tu tất cả việc lành, diệt tất cả điều ác, cho nên xử sự tiếp vật chẳng có gì chướng ngại. Đã đầy đủ trí huệ quang minh, thì hạt giống Phật vĩnh viễn không đoạn tuyệt. Ví như người đại chủ buôn, vì lợi ích nhiều người đi buôn, cùng đi với mọi người đến chỗ xa làm ăn buôn bán, ông ta phải biết rõ tình hình an nguy trên đường đi, để chuẩn bị chu toàn, thì mọi người mới an ổn đến được chỗ muốn đến.
Bồ-tát trụ sơ địa, Bồ Tát trụ Sơ địa
Ứng tri diệc như thị, Phải biết cũng như vậy.
Dũng mãnh vô chướng ngại, Dũng mãnh không chướng ngại
Đáo ư đệ Thập Địa. Ðến bực đệ Thập địa.
Trụ thử sơ địa trung Trụ trong Sơ địa này.
Tác Đại công đức Vương, Làm chủ công đức lớn
Giảng: Khi Bồ Tát trụ tại Sơ địa tu hành, cũng như vậy, phải hiểu rõ cảnh giới của các địa, và sự chứng đắc quả vị, mới có thế đạt đến được quả vị Phật. Trong tất cả quá trình thời gian nầy, phải dũng mãnh tinh tấn siêng tu học, chẳng có chút chướng ngại gì, thẳng đến địa thứ mười Pháp Vân địa, đều không có chướng ngại phát sinh. Trụ tại Hoan Hỉ địa — Bồ Tát Sơ địa, làm chủ đại công đức, lãnh đạo hết thảy Bồ Tát hướng về trước tu hành.
Dĩ pháp hóa chúng sanh, Ðem pháp dạy chúng sanh
Từ tâm vô tổn hại. Tâm từ không tổn hại.
Thống lĩnh Diêm-phù địa, Thống lãnh Diêm Phù Ðề
Hóa hành mị bất cập, Giáo hóa tất cả chúng
Giai lệnh trụ đại xả, Ðều trụ hạnh đại xả
Thành tựu Phật trí tuệ. Thành tựu trí huệ Phật.
Dục cầu tối thắng đạo, Muốn cầu đạo tối thắng
Xả kỷ Quốc Vương vị, Bỏ ngôi Quốc Vương mình
Giảng: Bồ Tát làm chủ công đức, ở cõi Diêm Phù Đề thường làm Luân Vương, dùng Phật pháp giáo hoá tất cả chúng sinh. Hoá độ chúng sinh trước hết phải có tâm từ bi, tuyệt đối không có tâm làm tổn hại chúng sinh. Lại thường hành bố thí, cứu tế chúng sinh. Bồ Tát làm vua cõi Nam Diêm Phù Đề, lãnh đạo chúng sinh, biến tất cả phong tục xấu trên thế giới thành phong khí tốt. Giáo hoá chúng sinh tu trì năm giới, Bát quan trai giới, tu học chánh pháp thập thiện. Lại giáo hoá chúng sinh tu tập pháp môn bố thí, diệt trừ tham xẻn chướng ngại, thường trụ ở trong đại hỉ xả, khiến cho hết thảy chúng sinh cũng đắc được trí huệ như Phật. Bồ Tát tự cầu Phật đạo tối thù thắng, cũng dạy chúng sinh cầu Thánh đạo vô thượng. Vì cầu Phật đạo thanh tịnh thù thắng, mà Ngài xả bỏ địa vị ngôi vua, để xuất gia tu đạo.
Năng ư Phật giáo trung, Hay ở trong Phật giáo
Dũng mãnh cần tu tập, Dũng mãnh siêng tu tập,
Tức đắc bách tam muội, Liền được trăm tam muội
Cập kiến bách chư Phật, Và thấy trăm đức Phật
Chấn động bách thế giới Chấn động trăm thế giới
Quang chiếu hàng diệc nhĩ, Quang minh chiếu trăm cõi,
Hóa bách độ chúng sanh, Ðộ trăm cõi chúng sanh
Nhập ư bách pháp môn, Chứng nhập trăm pháp môn
Năng tri bách kiếp sự Hay biết việc trăm kiếp
Thị hiện ư bách thân, Thị hiện trăm thân Phật
Cập hiện bách Bồ Tát, Và hiện trăm Bồ Tát
Dĩ vi kỳ quyến thuộc. Ðể dùng làm quyến thuộc
Giảng: Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, cầu Bồ Tát đạo, xả bỏ ngôi vua, xuất gia tu phạm hạnh, ở trong sự giáo hoá của Phật, đặc biệt Ngài hiển được sự dũng mãnh tinh tấn, chuyên cần tu tập các thứ pháp môn của Phật nói, có thể ở trong một niệm đắc được trăm chánh định (tam muội), cũng ở trong một niệm, thấy được trăm thế giới của chư Phật. Cảnh giới tu chứng đó, chấn động trăm thế giới, và có sáu thứ chấn động. Quang minh cũng chiếu sáng đến trăm thế giới, và cũng chiếu soi tất cả chúng sinh ở trong đó. Giáo hoá chúng sinh trong trăm thế giới, khiến cho họ đều tiến vào trăm thứ pháp môn. Lúc đó, Bồ Tát biết được tất cả sự việc trong trăm kiếp ba đời – quá khứ, vị lai, và hiện tại. Lại có thể thị hiện biến hoá ra trăm thứ thân hình, mỗi thân hình lại có thể biến hoá ra trăm hình tướng Bồ Tát, để làm quyến thuộc, để trợ giúp Ngài hoằng pháp lợi sinh.
Nhược tự tại nguyện lực Nếu nguyện lực tự tại
Qua thị số vô lượng. Hơn số này vô lượng.
Ngã ư địa nghĩa trung, Ở trong nghĩa Sơ địa
Lược thuật kỳ thiểu phần, Tôi lược thuật phần ít,
Nhược dục quảng phân biệt, Nếu muốn giảng giải rộng
Ức kiếp bất năng tận. Ức kiếp chẳng hết được.
Bồ Tát tối thắng đạo, Bồ Tát đạo tối thắng
Lợi ích chư quần sanh, Lợi ích mọi quần sanh
Như thị sơ địa Pháp, Pháp Sơ địa như vậy
Ngã kim dĩ thuyết cánh. Nay tôi đã nói xong.
Giảng: Nếu như những nguyện lực của các đại Bồ Tát đã đạt đến viên dung vô ngại, thì công đức và cảnh giới của các Ngài, đương nhiên vượt trội hơn công đức và cảnh giới của Bồ Tát Sơ địa vừa nói ở trên, không cách chi nói hết được. Khi tôi giảng về nghĩa lý Sơ địa, thì chỉ nói sơ lược chút ít, nếu muốn nói nghĩa lý, tướng trạng, cảnh giới, một cách tỉ mỉ, thì e rằng trải qua trăm ngàn ức kiếp cũng không cách chi nói hết được. Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo thù thắng nhất, tông chỉ chủ yếu nhất của Bồ Tát là lợi ích chúng sinh, tự lợi lợi tha, tự độ độ tha, tự giác giác tha. Tôi – Bồ Tát Kim Cang Tạng, hiện tại đã giảng sơ lược xong về pháp môn Sơ địa.