Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thập Trụ
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thứ 15
Ðịa vị của Bồ Tát có bốn mươi hai cấp bậc, tức là: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác. Vì Bồ Tát có bốn mươi hai phần vô minh hoặc, cho nên phải từ Thập Trụ mà bắt đầu, tu hành viên mãn một pháp môn, thì bớt một phần vô minh, mà tăng thêm một phần pháp thân, liền thăng lên một bậc. Cho đến bậc Đẳng Giác, thì vẫn còn một phần sinh tướng vô minh chưa dứt. Nếu đoạn hết thì là Diệu Giác Bồ Tát, tức cũng là Phật.
Phẩm này nói về Thập Trụ của Bồ Tát. Thập (mười) là đại biểu cho vô lượng số mục. Mười hay sinh trăm, trăm hay sinh ngàn, ngàn hay sinh vạn. Kinh Hoa Nghiêm dù có nói pháp gì, cũng đều nói mười thứ, biểu thị cảnh giới của pháp, là trùng trùng vô tận, viên dung vô ngại. Trụ là an trụ. Do đó: ‘’Huệ trụ nơi ý, được vị bất thối, mà gọi là trụ.’’ Huệ là năng trụ, lý là sở trụ, được vào chánh vị, vị chẳng giao động. Gì là Thập Trụ ? Tức là:
1). Ban đầu phát tâm trụ.
2). Trị địa trụ.
3). Tu hành trụ.
4). Sinh quý trụ.
5). Cụ túc phương tiện trụ.
6). Chánh tâm trụ.
7). Bất thối trụ.
8). Ðồng chân trụ.
9). Pháp vương tử trụ.
10). Quán đảnh trụ.
Thập Trụ này là pháp môn bắt đầu tu của Bồ Tát. Nghĩa lý của Thập Trụ giải thích rất tỉ mỉ ở phía sau. Phẩm này thuộc phẩm thứ mười lăm trong Kinh Hoa Nghiêm, cho nên gọi là Phẩm Thập Trụ thứ mười lăm.
Nhĩ thời, Pháp tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, nhập Bồ Tát vô lượng phương tiện tam muội.
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ nương oai lực của đức Phật, nhập vào tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện.
Giảng: Sau khi nói xong phẩm thứ mười bốn, thì lúc đó có vị Bồ Tát Pháp Huệ, Ngài nương đại oai thần lực của mười phương chư Phật gia trì, ở trong định quán sát nhân duyên của tất cả chúng sinh, đáng dùng pháp gì độ được, thì diễn nói pháp đó, để giáo hóa chúng sinh.
Bất cứ là Phật, hoặc là Bồ Tát, trước khi nói pháp, thì trước hết phải nhập định. Vị Bồ Tát Pháp Huệ này, Ngài nhập tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện. Bồ Tát là giác hữu tình, giác ngộ hữu tình; còn gọi là hữu tình giác, bậc giác ngộ trong hữu tình, phương tiện là quyền xảo phương tiện. Quyền là thiện quyền, xảo là xảo diệu. Tam muội là chánh định chánh thọ. Bồ Tát đang quán sát pháp môn mà chúng sinh hoan hỷ để nói pháp, khiến cho chúng sinh đắc được pháp hỷ sung mãn. Pháp phương tiện này có vô lượng vô biên.
Do giới mà sinh định, do định mà phát huệ. Cho nên trước khi giảng kinh, phải tĩnh tọa một lúc, để cho tâm thanh tịnh, chẳng có tạp niệm. Ðến lúc giảng kinh thì trí huệ chân chánh sẽ hiện tiền, từ tự tánh mà chảy ra. Giống như giòng nước, thao thao bất tuyệt; khiến cho người nghe kinh cảm thấy ý vị dồi dào, muốn thôi cũng không được. Nếu trước khi giảng kinh mà không thể tĩnh tọa, thì đạo lý giảng kinh sẽ khô khan vô vị, khiến cho người nghe chẳng khởi cảm ứng, cho nên trước phải nhập định, thanh tịnh thân tâm, quét trừ tạp niệm, thì mới được biện tài vô ngại.
Dĩ tam muội lực, thập phương các thiên Phật sát vi trần số thế giới chi ngoại, hữu thiên Phật sát vi trần số chư Phật, giai đồng nhất hiệu, danh viết Pháp tuệ, phổ hiện kỳ tiền, cáo Pháp tuệ Bồ Tát ngôn: Thiện tai! Thiện tai! Thiện nam tử! nhữ năng nhập thị Bồ Tát vô lượng phương tiện tam muội.
Nhờ sức tam muội, mà ngoài các thế giới, nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật trong mười phương, đều có các đức Phật, nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, đều đồng danh hiệu là Pháp Huệ, đều hiện ra ở trước bảo Bồ Tát Pháp Huệ rằng: Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử ! Ông nhập vào được tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện này.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ nhập định, nhờ sức lực của định, mà ngoài các thế giới, nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật trong mười phương, lại có các đức Phật nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật. Tuy Phật nhiều như thế, nhưng đồng một danh hiệu, đó là Phật Pháp Huệ, các Ngài khắp hiện ra ở trước Bồ Tát Pháp Huệ mà nói rằng: ‘’Lành thay ! Lành thay ! Ông là thiện nam tử tốt nhất ! Ông vì giáo hóa chúng sinh mà nhập vào tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện. Sau khi xuất định sẽ nói pháp giáo hóa chúng sinh. Ðây là một việc công đức tốt vô cùng.’’
Thiện nam tử! thập phương các thiên Phật sát vi trần số chư Phật, tất dĩ thần lực cọng gia ư nhữ. Hựu thị Tỳ Lô Giá Na Như Lai vãng tích nguyện lực, uy thần chi lực, cập nhữ sở tu thiện căn lực cố, nhập thử tam muội, lệnh nhữ thuyết Pháp.
Thiện nam tử ! Các đức Phật nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật trong mười phương, đều dùng thần lực cùng gia bị cho ông và oai thần lực, nguyện lực thuở xưa của Như Lai Tỳ Lô Giá Na, cùng với sức căn lành của ông tu, nên nhập vào tam muội này, khiến cho ông nói pháp.
Giảng: Phật Pháp Huệ nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, đồng thời nói với Bồ Tát Pháp Huệ: Ông là vị nam tử rất tốt ! Chúng ta chư Phật nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật trong mười phương, mỗi vị Phật đều xuất lãnh các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, cùng nhau đến đây. Dùng đại oai thần lực trí huệ quang minh, cùng nhau gia trì cho ông, khiến cho ông nhập vào tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện. Khi ông xuất định thì sẽ nói vô lượng phương tiện pháp môn. Chẳng những chúng ta chư Phật đến gia trì cho ông, mà còn có Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Phật cũng gia trì cho ông. Vì thuở xưa Phật Tỳ Lô Giá Na đã từng phát nguyện lớn, dùng đại oai thần lực để gia trì cho người nói pháp. Ðây cũng là lực của ông tu đủ thứ căn lành trong quá khứ, mới nhập vào được tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện, khiến cho ông ở trong pháp hội Hoa Nghiêm, mà vì chúng sinh diễn nói diệu pháp Hoa Nghiêm.
Vì tăng trưởng Phật trí cố, thâm nhập Pháp giới cố, thiện liễu chúng sanh giới cố, sở nhập vô ngại cố, sở hạnh vô chướng cố, đắc vô đẳng phương tiện cố, nhập nhất thiết trí tánh cố, giác nhất thiết pháp cố, tri nhất thiết căn cố, năng trì thuyết nhất thiết pháp cố. Sở vị: phát khởi chư Bồ-tát thập chủng trụ
Vì để tăng trưởng trí của Phật. Vì vào sâu pháp giới. Vì khéo biết rõ chúng sinh giới. Vì chỗ nhập vào vô ngại. Vì chỗ thực hành không chướng ngại. Vì được vô đẳng phương tiện. Vì vào tất cả trí tánh. Vì giác ngộ tất cả pháp. Vì biết tất cả căn tánh. Vì hay trì nói tất cả pháp. Đó là phát khởi mười thứ trụ của Bồ Tát.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ nhập định, trụ định, xuất định, đều là nhờ mười phương chư Phật gia trì, mới có cảnh giới này. Bồ Tát Pháp Huệ, tại sao phải nói pháp ? Vì:
1). Khiến cho tin hiểu Bồ Tát nghe pháp tăng trưởng trí huệ của Phật.
2). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát vào sâu pháp giới. Tuy chúng ta chúng sinh là một phần tử trong pháp giới, nhưng chẳng hợp với pháp giới mà làm một thể, chẳng thấu hiểu tánh pháp giới, chẳng minh bạch lý pháp giới, cho nên không thể vào được pháp giới.
3). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát khéo biết rõ chúng sinh giới. Chúng sinh trong chín pháp giới, nhân duyên quả báo đều khác nhau.
4). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát chỗ nhập vào chẳng có chướng ngại, thấu rõ tất cả chân lý, các pháp thật tướng thì chẳng có chướng ngại.
5). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát nghiệp tu hành chẳng có nghiệp chướng.
6). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát đắc được pháp môn phương tiện không gì có thể sánh bằng.
7). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát hay thâm nhập tánh nhất thiết trí huệ.
8). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát giác ngộ tất cả pháp.
9). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát biết tất cả căn tánh.
10). Vì khiến cho tin hiểu Bồ Tát có thể, bên trong trì tất cả pháp, bên ngoài nói tất cả pháp.
Ðây là nói về phát khởi tâm bồ đề của Bồ Tát, sở tu mười pháp môn Thập Trụ.
Thiện nam tử! nhữ đương thừa Phật uy thần chi lực nhi diễn thử pháp.
Thiện nam tử ! Ông hãy nương oai thần lực của Phật, mà diễn nói pháp này.
Giảng: Phật Pháp Huệ nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, đồng thời nói: ‘’Thiện nam tử ! Hiện tại ông được chư Phật gia trì. Chư Phật dùng thân ý để khen ngợi ông, khiến cho ông đắc được lợi ích và thần lực. Ông hãy nương đại oai thần lực của chư Phật, mà diễn nói diệu pháp Thập Trụ, khiến cho tất cả chúng sinh phát bồ đề tâm.’’
Thị thời, chư Phật tức dữ Pháp tuệ Bồ Tát vô ngại trí, Vô Trước trí, vô đoạn trí, vô si trí, vô dị trí, vô thất trí, vô lượng trí, Vô thắng trí, vô giải trí, vô đoạt trí. Hà dĩ cố ?thử tam muội lực, Pháp như thị cố.
Bấy giờ, chư Phật liền ban cho Bồ Tát Pháp Huệ, trí vô ngại, trí vô trước, trí vô đoạn, trí vô si, trí vô dị, trí vô thất, trí vô lượng, trí vô thắng, trí vô giải, trí vô đoạt. Tại sao vậy, vì sức tam muội này, pháp như vậy.
Giảng: Lúc đó, mười phương chư Phật đồng thời ban cho Bồ Tát Pháp Huệ mười thứ trí huệ. Mười thứ trí huệ gì ? Ðó là:
1). Trí vô ngại: Trí huệ chẳng có gì chướng ngại. Có từ vô ngại, nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, nhạo thuyết vô ngại bốn thứ trí vô ngại biện. Từ vô ngại biện, là ngôn từ nói ra vô lượng vô biên, biện tài vô ngại. Nghĩa vô ngại biện, là nghĩa lý nói ra vô lượng vô biên, biện tài vô ngại. Pháp vô ngại biện, là pháp nói ra vô lượng vô biên, biện tài vô ngại. Nhạo thuyết vô ngại biện, là thích nói pháp, tùy thời tùy lúc tuyên nói Phật pháp, khiến cho tất cả chúng sinh nghe pháp tu hành, do tu mà chứng.
2). Trí vô trước: Trí huệ chẳng chỗ chấp trước. Tuy có trí huệ vô ngại, nhưng không thể mắt nhìn tất cả đều không, coi ai chẳng ra gì. Bằng không tức là chấp trước, thì chẳng được giải thoát. Phải có trí huệ vô trước, thì mới đắc được tự tại.
3). Trí vô đoạn: Trí huệ chẳng có sự gián đoạn. Trí huệ có lúc có, thì đột nhiên thông minh. Có lúc đoạn thì lại ngu si. Tóm lại, trí huệ không thể thường thường hiện tiền, tức là trí đoạn. Trí vô đoạn tức là trí huệ tương tục không đoạn, đều hiện tiền.
4). Trí vô si: Trí huệ chẳng có sự ngu si. Có trí huệ thì thông minh, không trí huệ thì ngu si. Thường tu học Phật thì trí huệ sẽ hiện tiền. Do đó: ‘’Vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.’’ Lúc này chẳng còn ngu si, chẳng còn vô minh, chẳng còn đen tối, luôn luôn hiện ra trí huệ quang minh.
5). Trí vô dị: Trí huệ chẳng có biến đổi. Trí huệ thủy chung vẫn là một, chẳng thể biến thành hai dạng không giống nhau.
6). Vô thất trí: Trí huệ chẳng có sai mất. Ðạo lý nói ra đều là chánh quyết chẳng có sai lầm.
7). Vô lượng trí: Trí huệ chẳng có hạn lượng. Trí huệ này, lấy chẳng hết được, dùng cũng chẳng cạn. Nguồn suối của trí huệ, tuôn trào chảy ra, vĩnh viễn chẳng gián đoạn.
8). Vô thắng trí: Trí huệ chẳng có gì thắng được. Trí huệ thù thắng này, chẳng có gì thắng qua được trí huệ này. Trí huệ này có năm thứ đức.
- Ðức thứ nhất, thâm sâu như sấm: Thứ trí huệ này, giống như tiếng sấm lúc trời tạnh, khiến cho chúng sinh mê hoặc tỉnh ngộ.
- Ðức thứ hai, thanh triệt viễn văn: Thứ trí huệ này, chẳng những thanh triệt mà còn ở nơi rất xa cũng nghe được.
- Ðức thứ ba, âm thanh thương nhã: Âm thanh này, khiến cho người thương xót và lại hòa nhã. Giống như tiếng chim Ca Lăng Tần Già (chim tiếng hay), rất là êm tai; ai nghe cũng đều hoan hỷ.
- Ðức thứ tư, hay khiến cho chúng sinh, sinh tâm kính ái: Khiến cho chúng sinh nghe được âm thanh này, thì thâm nhập vào trong tâm, mà sinh ra tư tưởng cung kính ái mộ.
- Ðức thứ năm, ai nghe được đều hoan hỷ không nhàm: Phàm là chúng sinh nghe được âm thanh thù thắng này, thì luôn luôn hoan hỷ mà chẳng nhàm chán. Ðầy đủ năm đức này, cho nên là vô thắng.
9). Vô giải trí: Trí huệ chẳng có sự giải đãi. Phàm là lười biếng chẳng tu hành, tức là giải đãi. Nếu đắc được trí huệ vô giải, thì bất cứ lúc nào cũng đều tinh tấn.
10). Vô đoạt trí: Trí huệ không thể đoạt lấy. Trí huệ này, dù gặp cảnh giới gì, cũng chẳng bị cảnh giới đoạt mất trí huệ.
Tại sao phải nói mười thứ trí huệ này ? Vì dùng mười thứ trí huệ này, gia bị cho Bồ Tát Pháp Huệ, khiến cho Ngài nhập vào tam muội Bồ Tát vô lượng phương tiện, đợi khi xuất định, thì liền vì tất cả chúng sinh mà nói pháp. Quy tắc nói pháp phải như vậy.
Thị thời, chư Phật các thân hữu thủ, ma Pháp tuệ Bồ Tát đảnh. Pháp tuệ Bồ Tát tức tùng định khởi, cáo chư Bồ-tát ngôn: Phật tử! Bồ-tát trụ xứ quảng đại, dữ Pháp giới hư không đẳng. Phật tử! Bồ-tát trụ tam thế chư Phật gia.
Bấy giờ, chư Phật đều duỗi tay phải ra, xoa đảnh Bồ Tát Pháp Huệ. Bồ Tát Pháp Huệ bèn từ định mà dậy, bảo các Bồ Tát rằng: Phật tử ! Trụ xứ của Bồ Tát rộng lớn đồng với pháp giới hư không. Phật tử ! Bồ Tát trụ nơi nhà ba đời chư Phật.
Giảng: Lúc đó, Phật Pháp Huệ nhiều như số hạt bụi ngàn cõi Phật, mỗi vị Phật đều duỗi tay phải ra, để xoa đảnh đầu Bồ Tát Pháp Huệ. Lúc này có người khởi vọng tưởng: ‘’Bồ Tát Pháp Huệ chỉ có một đảnh đầu, vậy nhiều vị Phật như thế, đồng thời duỗi tay phải ra để xoa đảnh, là xoa như thế nào‘’? Ðây tức là đạo lý một nhiều vô ngại. Chư Phật đồng thời xoa đảnh, chẳng có trước sau, đây là đạo lý không động mà đến, vô vi mà thành. Tức cũng là cảnh giới nhiều chẳng ngại một, một chẳng ngại nhiều. Một nhiều vô ngại, cùng nhau lợi ích. Tác dụng của sự xoa đảnh là trừ khử ngu si, tăng trưởng trí huệ, tức cũng là khử nghiệp chướng tăng căn lành. Ðây là trực tiếp lợi ích Bồ Tát Pháp Huệ, cũng là gián tiếp lợi ích tất cả chúng sinh. Vì Bồ Tát Pháp Huệ đắc được trí huệ, lại vì tất cả chúng sinh mà nói pháp, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
Bồ Tát Pháp Huệ ở trong định, được chư Phật xoa đảnh, liền từ tam muội mà xuất định, nói với các Bồ Tát đến từ mười phương rằng: ‘’Các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát phát tâm bồ đề, chỗ trụ của các Ngài rộng lớn vô biên, đối với pháp giới hư không.’’ Pháp thân của Bồ Tát cũng tận hư không khắp pháp giới, đầy khắp tất cả mọi nơi.
Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng: ‘’Các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát là trụ ở trong nhà của mười phương ba đời tất cả chư Phật.’’ Vì Phật là đấng Pháp Vương, Bồ Tát là con của đấng Pháp Vương, gọi là Pháp Vương tử. Bồ Tát phải thiệu long Phật vị, kế thừa địa vị Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên nói Bồ Tát trụ nhà ba đời chư Phật.
Bỉ Bồ-tát trụ, ngã kim đương thuyết. Chư Phật tử! Bồ-tát trụ hữu thập chủng, quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, dĩ thuyết, đương thuyết, kim thuyết.
Nay tôi sẽ nói chỗ trụ của Bồ Tát. Các Phật tử ! Chỗ Bồ Tát trụ có mười thứ. Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai, đã nói nay nói và sẽ nói.
Giảng: Bồ Tát phát tâm bồ đề, trụ ở địa vị, tôi (Bồ Tát Pháp Huệ) hiện tại sẽ nói ra: ‘’Các vị đệ tử của Phật ! Ðịa vị của Bồ Tát trụ, có mười thứ trụ. Chư Phật quá khứ đã nói đạo lý Thập Trụ của Bồ Tát. Chư Phật hiện tại phải nói đạo lý Thập Trụ của Bồ Tát. Chư Phật vị lai cũng sẽ nói Thập Trụ của Bồ Tát.’’
Hà giả vi thập? Sở vị: sơ phát tâm trụ/trú, trì địa trụ, tu hành trụ/trú, sanh quý trụ/trú, cụ túc phương tiện trụ, chánh tâm trụ, bất thoái trụ, đồng chân trụ, Vương tử trụ/trú, quán đảnh trụ. Thị danh Bồ-tát thập trụ, khứ, lai, hiện tại chư Phật sở thuyết.
Những gì là mười ? Đó là: Ban đầu phát tâm trụ, trị địa trụ, tu hành trụ, sinh quý trụ, cụ túc phương tiện trụ, chánh tâm trụ, bất thối trụ, đồng chân trụ, pháp vương tử trụ, quán đảnh trụ. Đó là tên Thập Trụ của Bồ Tát, quá khứ hiện tại vị lai chư Phật đều nói.
Giảng: Gì là Thập Trụ ? Ðó là:
1). Ban đầu phát tâm trụ: Tức là căn lành của Bồ Tát đã gieo trồng trong quá khứ, đã tu đạo Bồ Tát, đã hành lục độ vạn hạnh, căn lành chín mùi, phát tâm đại bồ đề, trụ ở bậc này, cho nên gọi là ban đầu phát tâm.
2). Trị địa trụ: Tức là Bồ Tát trong quá khứ đã tu trị tham sân si ở trong tâm. Vô minh, phiền não, chấp trước, tập khí v.v… từng chút, từng chút, dần dần trừ sạch mà trụ ở bậc này, cho nên gọi là trị địa trụ. Phiền não của Bồ Tát có bớt mà chẳng tăng, còn phiền não của chúng ta phàm phu, thì có tăng mà chẳng giảm. Bớt một phần phiền não, thì tăng thêm hai phần phiền não, cho nên càng ngày càng nhiều, có tới tám vạn bốn ngàn phiền não, đây là chẳng có trị địa.
3). Tu hành trụ: Tức là Bồ Tát siêng tu đủ thứ pháp môn, đối với tất cả tri kiến đều thấu suốt. Do đó:
‘’Siêng tu giới định huệ
Tức diệt tham sân si’’.
Cho nên gọi là tu hành trụ.
4). Sinh quý trụ: Bồ Tát vì tu hành, có đủ thứ căn lành, cho nên sinh vào nhà Phật tôn quý, tất cả đều tương đồng với Phật, cho nên gọi là sinh quý trụ.
5). Cụ túc phương tiện trụ: Tức nhiên Bồ Tát sinh vào nhà Phật, nên đầy đủ tất cả phương tiện pháp môn để giáo hóa chúng sinh, cho nên gọi là cụ túc phương tiện trụ.
6). Chánh tâm trụ: Lúc này Bồ Tát trụ vào tam muội chánh tâm, đạo tâm tương đồng với Phật, cho nên gọi là chánh tâm trụ.
7). Bất thối trụ: Tức là niệm bất thối, hành bất thối, vị bất thối. Niệm bất thối là chẳng thối tâm bồ đề, hành bất thối là tinh tấn tu hành, vị bất thối là chẳng thối lùi về hàng nhị thừa. Bồ Tát có ba thứ bất thối này, mà dũng mãnh hướng về trước, cho nên gọi là bất thối trụ.
8). Ðồng chân trụ: Tức là thể đồng tử chân thật, tức cũng là chẳng có kết hôn. Bồ Tát đời đời kiếp kiếp giữ gìn bản lai diện mục (đồng thể), cho nên gọi là đồng chân trụ.
9). Pháp vương tử trụ: Bồ Tát là con của đấng Pháp Vương, có quyền lợi kế thừa Phật vị, cho nên gọi là pháp vương tử trụ.
10). Quán đảnh trụ: Pháp Vương tử khi sắp thành Phật, thì phải tiếp thọ mười phương chư Phật dùng pháp thủy (nước pháp) để quán đảnh, khiến cho đầy đủ từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng, cho nên gọi là quán đảnh trụ.
Ðó là nghĩa lý Thập Trụ, kinh văn ở phía dưới sẽ giải thích tỉ mỉ hơn. Ở trong mỗi trụ, Bồ Tát đối với chúng sinh phải phát mười thứ tâm, khuyến khích chúng sinh học tập mười thứ pháp môn. Hiện tại chỉ là nói sơ lược.
Ðây là Thập Trụ vị của Bồ Tát. Trong quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật đều nói pháp môn này, dạy cho hết thảy những người đến nghe pháp, khiến cho hết thảy mọi người đều phát tâm bồ đề, tương lai sẽ đắc được mười thứ Thập Trụ này.
1. Phát Tâm Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát phát tâm trụ ?thử Bồ Tát kiến Phật Thế tôn hình mạo đoan nghiêm, sắc tướng viên mãn, nhân sở lạc kiến, nạn/nan khả trực ngộ, hữu đại uy lực. Hoặc kiến thần túc. Hoặc văn kí biệt. Hoặc thính giáo giới. Hoặc kiến chúng sanh thọ chư kịch khổ. Hoặc văn Như Lai quảng đại Phật Pháp, phát Bồ-đề tâm, cầu nhất thiết trí.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát phát tâm trụ ? Bồ Tát này thấy Phật Thế Tôn, dung nhan sinh đẹp, sắc tướng viên mãn, người đều ưa thấy, rất khó gặp được, có oai nghi lớn, hoặc thấy thần túc, hoặc nghe thọ ký, hoặc nghe răn dạy, hoặc thấy chúng sinh thọ các sự quá khổ, hoặc nghe Như Lai rộng nói Phật pháp, mà phát tâm bồ đề, cầu nhất thiết trí.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ ? Tức là phải phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo, hành Bồ Tát đạo, cho nên gọi là ban đầu phát tâm trụ. Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, thấy được Phật Thế Tôn, có mười thứ duyên.
1). Dung nhan xinh đẹp: Dung nhan của Phật rất trang nghiêm xinh đẹp, do đó: ‘’Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.’’
2). Sắc tướng viên mãn: Sắc tướng của Phật rất trang nghiêm viên mãn, do đó có câu:
‘’Phật diện do như tịnh mãn nguyệt
Diệc như thiên nhật phóng quang minh.’’
Nghĩa là:
‘’Mặt Phật sáng tựa như trăng rằm
Cũng như ngàn mặt trời chiếu sáng.’’
3). Người đều ưa thấy: Vì tướng của Phật viên mãn, cho nên ai ai cũng đều muốn thấy Phật.
4). Rất khó gặp được: Phật phải trải qua trăm ngàn vạn kiếp, mới xuất hiện ra đời, để lợi ích chúng sinh, cho nên chẳng dễ gì gặp được Phật.
5). Có oai lực lớn: Phật có mười lực vô úy, hàng phục được thiên ma, chế các ngoại đạo.
6). Hoặc thấy thần túc: Thần thông biến hóa của Phật không thể nghĩ bàn, hoặc thấy được thần túc thông của Phật.
7). Hoặc nghe thọ ký: Hoặc nghe được Phật thọ ký cho.
8). Hoặc nghe răn dạy: Hoặc nghe được Phật răn dạy, biết ác nên đoạn trừ, thiện thì tiến tu.
9). Hoặc thấy chúng sinh thọ các sự quá khổ: Hoặc thấy chúng sinh thọ khổ thì sinh tâm đại bi, thế chúng sinh thọ khổ.
10). Hoặc nghe Như Lai nói Phật pháp rộng lớn, có cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Ở trên là nói về mười thứ duyên, Bồ Tát nghe thấy rồi mà phát tâm bồ đề, cầu nhất thiết trí huệ của Phật, mà trụ ở địa vị ban đầu phát tâm trụ.
Thử Bồ Tát duyên thập chủng nan đắc Pháp nhi phát ư tâm. Hà giả vi/vì/vị thập? Sở vị: thị xứ phi xứ trí, thiện ác nghiệp báo trí, chư căn thắng liệt trí, chủng chủng giải sái biệt trí, chủng chủng giới sái biệt trí, nhất thiết chí xứ/xử đạo trí, chư Thiền giải thoát tam muội trí, tú mạng vô ngại trí, Thiên nhãn vô ngại trí, tam thế lậu phổ tận trí. Thị vi thập.
Bồ Tát này duyên mười thứ pháp khó được mà phát tâm. Những gì là mười ? Đó là: Trí xứ phi xứ. Trí thiện ác nghiệp báo. Trí các căn thắng liệt. Trí đủ thứ giải khác biệt. Trí đủ thứ giới khác biệt. Trí nhất thiết chí xứ đạo. Trí các thiền giải thoát tam muội. Trí túc mạng vô ngại. Trí thiên nhãn vô ngại. Trí ba đời lậu đều sạch. Đó là mười.
Giảng: Bồ Tát ban đầu phát tâm, thì y chiếu mười thứ pháp đắc được mà phát tâm. Mười pháp này ở tại phần Bồ Tát mà nói là mười trí. Tại phần của Phật mà nói là mười lực. Vì định lực của Bồ Tát vẫn chưa kiên cố, chỉ có thể nói là mười trí, chứ không thể nói là lực. Ðịnh lực của Phật đến nơi rốt ráo, cho nên trí biến thành lực. Gì là mười thứ pháp khó được ? Tức là:
1). Trí xứ phi xứ: Xứ là hợp lý, phi xứ là chẳng hợp lý. Hợp lý thì đắc được sự giác ngộ, chẳng hợp lý tức là mê hoặc. Còn có thể nói xứ là nơi thoát khỏi ba cõi, phi xứ là ở trong sáu nẻo luân hồi. Trí là trí huệ, đây chẳng phải lý luận phân biệt mà minh bạch đây là xứ phi xứ.
2). Trí thiện ác nghiệp báo: Phàm là lợi ích đối với người gọi là làm thiện, còn tổn hại người gọi là làm ác, do đó:
‘’Ðừng cho rằng thiện nhỏ mà không làm
Đừng cho rằng ác nhỏ mà làm.’’
Tuy thiện nhỏ không thể không làm; tuy ác nhỏ, không thể đi làm. Do đó:
‘’Núi Thái do tích tụ từng hạt bụi mà thành
Biển cả do từng giọt nước mà thành.’’
Làm thiện phải làm từng chút từng chút, tập ít thành nhiều. Ác cũng do từng chút từng chút mà thành nhiều. Cho nên nói dù ác có nhỏ bé cũng đừng làm. Do đó có câu: ‘’Thiện có thiện báo, ác có ác báo; thiện ác chung hữu báo, bất báo, thời thần mạc đáo.’’ Tại sao người tu hành phải giữ giới ? Tức là ngừa ác phòng điều quấy. Ngừa ác tức là không làm các điều ác, phòng điều quấy. Ngừa ác tức là không lám các điều ác, phòng điều quấy tức là làm các việc lành. Có trí huệ này thì không thể điên đảo thị phi, thiện ác bất phân.
3). Trí các căn thắng liệt: Bồ Tát chẳng những biết các căn thắng liệt của chúng sinh, mà cũng biết các căn thắng liệt của mình. Bồ Tát có trí huệ này. Trí huệ thì chẳng có phân biệt, tâm thức mới có phân biệt. Các căn phân biệt này, chẳng phải do tâm phân biệt mà minh bạch, mà là do trí huệ chiếu thấu.
4). Trí đủ thứ giải khác biệt: Bồ Tát đối với tất cả các pháp đều thấu hiểu, nhận thức được đạo lý thật tướng của các pháp. Bồ Tát có trí huệ này.
5). Trí đủ thứ giới khác biệt: Bất cứ là cõi chúng sinh nào, Bồ Tát đều nhận thức được rõ ràng, tuy có đủ thứ cảnh giới khác nhau, nhưng đều biết hết. Bồ Tát có trí huệ này.
6). Trí nhất thiết chí xứ đạo: Tức là trí huệ nhất thiết cứu kính. Biết hạnh môn năm giới mười thiện, lại biết pháp môn bốn đế mười hai nhân duyên và sáu độ vạn hạnh.
7). Trí các thiền giải thoát tam muội: Các thiền là bốn thiền tám định, giải thoát có tám giải thoát. Tam muội là định, có chín thứ lớp định, đó là bốn thiền, bốn không và diệt tận định. Diệt tận định là diệt tận thức thứ bảy, đây là định của bậc Thánh nhân tu. Bồ Tát có trí huệ này.
8). Trí túc mạng vô ngại: Túc mạng là nhân duyên quả báo kiếp trước. Bồ Tát biết quả báo của chúng sinh tu hành đời đời kiếp kiếp trong quá khứ. Trí huệ chẳng có chướng ngại này, Bồ Tát đã đầy đủ.
9). Trí Thiên nhãn vô ngại: Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ đã đắc được thiên nhãn thông, quán sát được căn tánh của chư Thiên và thiện ác của chúng sinh nhân gian, chẳng có chướng ngại. Bồ Tát có trí huệ này.
10). Trí ba đời lậu đều sạch: Ba đời tức là đời quá khứ, đời hiện tại và đời vị lai. Tuy người ở đời này nhưng có quan hệ với ba đời. Có quan hệ gì ? Tức là quan hệ nghiệp báo. Lậu tức là tập khí mao bệnh, lậu của ba đời chảy vào trong ba cõi. Ba cõi tức là cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc. Tại sao lại có lậu ? Vì có dục niệm, có vô minh. Nếu chẳng còn dục niệm và vô minh thì gọi là vô lậu. Bồ Tát đã trừ sạch hết lậu ba đời, cho nên có trí huệ này.
Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, duyên mười thứ pháp khó được này, mà phát tâm bồ đề, trụ ở địa vị ban đầu phát tâm trụ.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập pháp. Hà giả vi thập? Sở vị: cần cúng dường Phật, lạc trụ sanh tử, chủ đạo thế gian lệnh trừ ác nghiệp, dĩ thắng diệu Pháp thường hành giáo hối, thán vô thượng pháp, học Phật công đức, sanh chư Phật tiền hằng mông nhiếp thọ, phương tiện diễn thuyết tịch tĩnh tam muội, tán thán viễn ly sanh tử luân hồi, vi khổ chúng sanh tác quy y xứ.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Siêng cúng dường Phật. Ưa thích trụ nơi sinh tử. Chủ trì dẫn dắt thế gian, khiến cho tiêu trừ nghiệp ác. Dùng diệu pháp thù thắng, để thường hành giáo hóa. Khen ngợi pháp vô thượng. Học công đức của Phật. sinh ở trước chư Phật, luôn được Phật nhiếp thọ. Phương tiện diễn nói, tịch diệt tam muội. Khen ngợi xa lìa sinh tử luân hồi. Vì chúng sinh khổ mà làm chỗ nương tựa.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, nên khuyên nói chúng sinh để học tập mười thứ pháp môn này, song mình cũng phải học tập mười thứ pháp môn này. Gì là mười pháp ? Ðó là:
1). Siêng cúng dường Phật: Giáo hóa chúng sinh rộng tu cúng dường tất cả chư Phật. Có người khởi vọng tưởng: ‘’Phật có nhiều vô lượng, làm sao tôi có thể ở trước mỗi vị Phật để cúng dường ? Dù là một đời cũng không thể mãn nguyện cúng dường chư Phật. Vậy, làm thế nào mới mãn nguyện‘’? Phải dùng pháp giới làm tâm, dùng pháp giới làm thể. Do đó:
‘’Lễ lạy một vị Phật,
Tức là lễ lạy vô lượng Phật.
Cúng dường một vị Phật,
Tức là cúng dường vô lượng Phật.’’
Chỉ cần thành tâm quán tưởng: ‘’Con đang cúng dường một vị Phật, tức là cúng dường vô lượng Phật.’’ Hoặc là cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc cúng dường Phật A Di Ðà, hoặc các vị Phật khác. Dù cúng dường một, tức là cúng dường tất cả; cúng dường tất cả, tức là cúng dường một. Lại phải quán tưởng thân mình là tận hư không khắp pháp giới, đều ở trước chư Phật rộng tu cúng dường, đây là siêng cúng dường Phật.
2). Ưa thích trụ nơi sinh tử: Bồ Tát là cam tâm tình nguyện trụ nơi sinh tử, do đó: ‘’Thừa nguyện tái lai.’’ Nghĩa là: ‘’Thừa nguyện trở lại.’’ Tuy trụ nơi sinh tử, mà chẳng chấp trước tướng sinh tử. chẳng giống như hàng nhị thừa, nhất định phải chấm dứt sinh tử. Do đó:
‘’Quán ba cõi như ngục tù,
Xem chúng sinh hư oan gia.’’
Bồ Tát là phổ độ chúng sinh thường trụ sinh tử. Tôi thường nói với các vị: “Phàm là thấy được mặt tôi, nghe được tên tôi, hoặc quy y với tôi, hoặc tín chúng nghe tôi giảng kinh”, tôi từng phát nguyện: “Họ phải thành Phật trước tôi; nếu còn một người chưa thành Phật thì tôi cũng không thành Phật”. Ðợi họ thành Phật hết rồi, thì tôi mới thành Phật. Dù một đời, trăm đời, tôi cũng phải đợi. Thậm chí một kiếp hoặc trăm kiếp, cũng phải đợi chờ. Như vậy, tức tại tướng sinh tử, tức tại sinh tử mà chấm dứt sinh tử. Do đó: ‘’Sinh tử tức Niết Bàn,’’ đều như nhau.
3). Chủ trì dẫn dắt thế gian, khiến cho tiêu trừ nghiệp ác: Làm chủ nương tựa của chúng sinh, dẫn dắt chúng sinh thế gian, khiến cho họ tiêu trừ tất cả nghiệp ác, cải tà về chánh, bỏ mê về với giác ngộ.
4). Dùng diệu pháp thù thắng để thường hành giáo hóa: Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, dùng diệu pháp thù thắng để giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh không làm các điều ác mà làm các điều lành.
5). Khen ngợi pháp vô thượng: Ca ngợi pháp vi diệu thâm sâu vô thượng.
6). Học công đức của Phật: Phải học tập công đức của chư Phật.
7). Sinh ở trước chư Phật, luôn được nhiếp thọ: Phải sinh vào thời đại Phật còn ở đời, luôn luôn được chư Phật nhiếp thọ giáo hóa.
8). Phương tiện diễn nói, tịnh tĩnh tam muội: Dùng pháp môn quyền xảo phương tiện, để diễn nói tất cả giáo lý, tu định vắng lặng.
9). Khen ngợi xa lìa sinh tử luân hồi: Bồ Tát tuy mình ưa trụ nơi sinh tử, nhưng khen ngợi xa lìa sinh tử luân hồi.
10). Vì khổ chúng sinh mà làm chỗ nương tựa: Vì hết thảy chúng sinh thọ khổ mà làm chỗ nương tựa cho họ.
Hà dĩ cố? dục lệnh Bồ Tát ư Phật Pháp trung tâm chuyển tăng quảng. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát ở trong Phật pháp, tâm thêm rộng lớn. những pháp được nghe, liền tự thấu hiểu, chẳng do người khác dạy.
Giảng: Nguyên nhân gì phải khuyến học mười thứ pháp môn này ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát, ban đầu phát tâm trụ ở trong Phật pháp, tâm Bồ Tát càng ngày càng tăng thêm rộng lớn. Bất cứ ở trong pháp hội của vị Phật nào, nghe pháp của Phật nói, thì tự mình hốt nhiên quán thông, khai ngộ thấu hiểu tất cả thật tướng của các pháp, nghe một biết mười, phát tâm đại bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Trong Đại Tạng Kinh, có bộ Kinh Pháp Diệt Tận. Bộ kinh này nói về tình hình mạt pháp như thế nào. Nội dung nói, đến lúc thời đại mạt pháp thì Kinh Lăng Nghiêm sẽ mất đi trước nhất, kế tiếp là Kinh Phật Lực Tam Muội. Hai bộ kinh này là đại biểu cho sự biểu hiện của thời đại chánh pháp.
Tại sao Kinh Lăng nghiêm lại diệt trước nhất ? Vì Kinh Lang Nghiêm nói về mao bệnh của con người quá rõ ràng. Người có tà tri tà kiến, thì không thể tồn tại. Vì nếu kinh Lăng Nghiêm tồn tại, thì ai ai cũng đều có chánh tri chánh kiến, không thể không giữ giới luật. Nếu chẳng còn kinh Lăng Nghiêm tồn tại, thì có thể tùy tiện, muốn làm gì thì làm. Còn các kinh khác thì chẳng nói rõ ràng như kinh Lăng Nghiêm.
Ðại sư Ngẫu Ích nói: ‘’Có người nói kinh Lăng Nghiêm là giả, tôi nhận rằng là Phật nói. Nếu chẳng phải Phật nói, thì sao kinh văn có ngành thớ không rối, thuận tự có thứ lớp ? Nếu như Phật Thích Ca Mâu Ni hiện thân ra trước, nói với tôi rằng kinh Lăng Nghiêm là giả, thì tôi cũng không tin‘’! Chúng ta muốn hộ trì chánh pháp, thì phải tin sâu kinh Lăng Nghiêm, không thể có tơ hào hoài nghi. Cho nên kinh Lăng Nghiêm là đại biểu cho thời đại chánh pháp. Tóm lại, còn kinh Lăng Nghiêm tức là thời đại chánh pháp; không còn kinh Lăng nghiêm, tức là thời đại mạt pháp.
Phàm là người xuất gia, hoặc người tại gia, ở chùa Kim Sơn, thì đối với Kinh Lăng Nghiêm không thể có sự hoài nghi. Ðừng tin lời của một số người vô tri vô thức, chẳng có chánh tri chánh kiến, nói bậy kinh Lăng Nghiêm là ngụy tạo. Không thể tin những lời nói bậy bạ ! Song, người có đặc tánh, nói với họ chánh pháp, thì họ chẳng dễ gì tin, còn nói với họ bất chánh, thì họ tin rất dễ dàng. Ví như học những việc chẳng tốt, thì không thầy mà tự thông, còn dạy họ việc tốt, thì họ cũng chẳng tin. Tánh kỳ quái của con người là như thế. Cho nên người chánh tri chánh kiến thì ít, còn người tà tri tà kiến thì nhiều. Phật từng nói rằng: ‘’Chúng sinh dễ độ, người khó độ’’. Tuy con người là một loài trong chúng sinh, nhưng con người là thứ linh trong vạn vật, vì quá linh, cho nên khó độ. Do đó: ‘’Thà độ chúng sinh không độ người.’’ Tâm con người quá phức tạp, vọng tưởng quá nhiều, nên chẳng dễ gì độ được. Cổ đức có nói:
‘’Cửa Phật tuy rộng
Chẳng độ người vô duyên’’.
Tức là đạo lý này.
2. Trị Địa Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát trì địa trụ? thử Bồ Tát ư chư chúng sanh phát thập chủng tâm. Hà giả vi thập? sở vị: lợi ích tâm, đại bi tâm, an lạc tâm, an trụ tâm, liên mẫn tâm, nhiếp thọ tâm, thủ hộ tâm, đồng kỷ tâm, sư tâm, Đạo sư tâm. Thị vi thập.
Phật tử ! Thế nào là trị địa trụ ? Bồ Tát này đối với các chúng sinh phát mười thứ tâm. Những gì là mười ? Đó là: Tâm lợi ích. Tâm đại bi. Tâm an lạc. Tâm an trụ. Tâm thương xót. Tâm nhiếp thọ. Tâm thủ hộ. Tâm đồng như mình. Tâm sư. Tâm đạo sư. Đó là mười.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là làm Bồ Tát trị địa trụ ? Bồ Tát này dùng mười thứ tâm, để tu trị tâm địa của mình, y pháp tu trì, cho nên gọi là trị địa trụ. Bồ Tát trị địa trụ, phải phát mười thứ tâm để giáo hóa tất cả chúng sinh. Gì là mười thứ tâm ? Ðó là :
1). Tâm lợi ích: Phải lợi ích tất cả chúng sinh, chẳng phải lợi ích cho mình.
2). Tâm đại bi: Ðối với tất cả chúng sinh đều có tâm đại bi. Bi hay cứu khổ, hay diệt trừ thống khổ của chúng sinh.
3). Tâm an lạc: Lúc chúng sinh chẳng an lạc, thì Bồ Tát phát tâm đại bi, khiến cho họ an lạc, mà chẳng có lo âu.
4). Tâm an trụ: Khiến cho chúng sinh an trụ nơi bồ đề giác đạo.
5). Tâm thương xót: Bồ Tát có tâm thương xót chúng sinh, thấy chúng sinh điên đảo, ngu si, vô tri, thật đáng thương xót mà sinh tâm cứu hộ.
6). Tâm nhiếp thọ: Bồ Tát thường sinh tâm nhiếp thọ chúng sinh, khiến cho chúng sinh trừ khử đi tập khí mao bệnh không tốt, dần dần cải ác hướng thiện.
7). Tâm thủ hộ: Bồ Tát có tâm thủ hộ chánh pháp, khiến cho chánh pháp trụ lâu dài không diệt.
8). Tâm đồng như mình: Bồ Tát có tâm từ bi, thấy chúng sinh chịu đói chịu lạnh, thì giống như mình chịu đói chịu lạnh.
9). Tâm sư: Bồ Tát có tâm giáo hóa chúng sinh, làm thiện tri thức.
10). Tâm đạo sư: Tức là tâm Phật. Tâm của Bồ Tát từ bi giống như tâm Phật, phổ độ chúng sinh.
Ðó là mười thứ tâm của Bồ Tát phải phát.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập pháp. Hà giả vi thập? Sở vị: tụng tập đa văn, hư nhàn tịch tĩnh, cận thiện tri thức, phát ngôn hòa duyệt, ngữ tất tri thời, tâm vô khiếp bố, liễu đạt ư nghĩa, như pháp tu hành, viễn ly ngu mê, an trụ bất động.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Tụng tập đa văn. Rảnh rang tịch tĩnh. Gần gũi thiện tri thức. Nói lời hòa nhã. Nói phải biết thời. Tâm không khiếp sợ. Thấu rõ các nghĩa. Như pháp tu hành. Xa lìa ngu mê. An trụ chẳng động.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát trị địa trụ, nên khuyến hóa chúng sinh học mười thứ pháp môn, tụ mình cũng phải học tập mười pháp. Gì là mười pháp ? Ðó là:
1). Tụng tập đa văn: Phải đọc tụng kinh điển đại thừa, học tập kinh điển đại thừa, đa văn kinh điển đại thừa. Bồ Tát chẳng những tự mình như thế, mà cũng phải khuyến hóa chúng sinh làm như vậy.
2). Rảnh rang tịch tĩnh: Trụ nơi vắng lặng để tu hành.
3). Gần gũi thiện tri thức: Phải luôn luôn gần gũi thiện tri thức, phải xa lìa ác tri thức.
4). Nói lời hòa nhã: Bồ Tát nói lời rất hòa nhã, khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỷ.
5). Nói phải biết thời: Bồ Tát nói thì biết thời, đến lúc nói mới nói, chẳng tùy tiện nói bậy.
6). Tâm chẳng khiếp sợ: Trong tâm của Bồ Tát chẳng có khiếp sợ, cũng khuyên chúng sinh khác trong tâm chẳng khiếp sợ.
7). Thấu rõ các nghĩa: Bồ Tát đối với tất cả kinh điển và tất cả nghĩa lý, đều minh bạch thấu hiểu nghĩa chân thật của nó.
8). Như pháp tu hành: Chiếu theo Phật pháp mà tu hành, chẳng tu khổ hạnh vô ích.
9). Xa lìa ngu mê: Bồ Tát hay xa lìa tất cả ngu si mê hoặc, tức cũng là phá tan vô minh, cũng giáo hóa chúng sinh xa lìa ngu mê.
10). An trụ chẳng động: Thường thường tu định, quán trí chiếu lý, quyết định cứu kính, cho nên an trụ chẳng động.
Hà dĩ cố? dục lệnh Bồ Tát ư chư chúng sanh tăng trường đại bi. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao? Vì muốn khiến cho Bồ Tát đối với các chúng sinh tăng trưởng đại bi. Nếu có nghe pháp, thì tự thấu hiểu, chẳng do họ dạy.
Giảng: Tại sao phải khuyên tu mười pháp này ? Là muốn khiến cho Bồ Tát trị địa trụ, đối với tất cả chúng sinh tăng trưởng tâm đại bi. Nếu có nghe được tất cả Phật pháp, thì tự mình khai ngộ thấu hiểu, không cần thiện tri thức chỉ dạy.
3. Tu Hành Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát tu hành trụ? Thử Bồ Tát dĩ thập chủng hạnh quán nhất thiết pháp. Hà đẳng vi thập? sở vị: quán nhất thiết pháp vô thường, nhất thiết pháp khổ, nhất thiết pháp không, nhất thiết pháp vô ngã, nhất thiết pháp vô tác, nhất thiết pháp vô vị, nhất thiết pháp bất như danh, nhất thiết pháp vô xứ sở, nhất thiết pháp ly phân biệt, nhất thiết pháp vô kiên thật. Thị vi thập.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát tu hành trụ? Bồ Tát này dùng mười thứ hạnh để quán sát tất cả các pháp. Những gì là mười? Đó là: Quán tất cả pháp vô thường. Tất cả pháp khổ. Tất cả pháp không. Tất cả pháp vô ngã. Tất cả pháp vô tác. Tất cả pháp vô vị. Tất cả pháp chẳng như danh. Tất cả pháp không xứ sở. Tất cả pháp lìa phân biệt. Tất cả pháp không kiên thật. Đó là mười.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thế nào là Bồ Tát tu hành trụ ? Bồ Tát này trụ, y chiếu theo pháp của Phật nói mà tu hành. Biết pháp hữu vi là vô thường, khổ, không, vô ngã, cho nên gọi là tu hành trụ. Bồ Tát tu hành trụ, dùng mười thứ phương pháp tu hành, để quán sát tất cả các pháp thật tướng. Pháp môn tu hành của Bồ Tát là lục độ vạn hạnh. Lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.
1). Phải thường tu hành bố thí, bố thí cho người, đừng dạy người bố thí cho mình.
2). Phải thường tu hành trì giới, tức là ngừa ác phòng quấy. Không làm các điều ác, siêng làm các điều lành.
3). Phải thường tu hành nhẫn nhục, nhẫn đói khát, nhẫn nóng lạnh, nhẫn mưa gió, tất cả phải nhẫn chịu, không bị cảnh giới làm lay chuyển.
4). Phải thường tu hành tinh tấn, thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày đêm thường tinh tấn. Thân tinh tấn tức là tham gia khóa lễ sáng, tối, nhận chân ngồi thiền. Tâm tinh tấn, tức là siêng tu giới định huệ, tiêu diệt tham sân si.
5). Phải thường tu hành thiền định. Tại sao phải tu tập thiền định ? Vì do định mà sinh ra trí huệ. Do đó: ‘’Ngồi lâu có thiền.’’ Phải trải qua thời gian lâu dài để ngồi thiền, mới có sự thành tựu.
6). Phải thường tu hành Bát Nhã, nỗ lực nghiên cứu kinh điển, mới minh bạch Phật pháp. Do đó: ‘’Vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.’’ Mục đích tu hành là đối trị phiền não, khống chế vọng tưởng. Tất cả việc chẳng như ý đều nhẫn thọ được hết, do đó ‘’Nghịch đến thuận thọ.’’ Tài bồi quả bồ đề của mình, thì sẽ đạt đến được bờ bên kia. Người tu hành chỉ sợ giải đãi lười biếng, nếu giải đãi chẳng tinh tấn, thì làm cho quả bồ đề khô héo, mất đi cơ hội thành đạo.
Gì là mười thứ pháp môn tu hành ? Ðó là:
1). Quán tất cả pháp vô thường: Gì là vô thường ? Tức là niệm trước sinh, niệm sau diệt; niệm sau sinh, niệm sau nữa diệt, niệm niệm đều vô thường, niệm niệm sinh diệt.
Thuở xưa, khi Phật Thích Ca tu đạo Bồ Tát, thì vì nửa bài kệ mà xả thân mạng, do đó: ‘’Vì pháp quên mình.’’ Một ngày nọ, Phật Thích Ca (trong một đời hành đạo Bồ Tát) ngồi tĩnh tọa ở dưới gốc cây, thì tai nghe có người nói: ‘’Các hành vô thường, là pháp sinh diệt,’’ mở mắt xem thì thấy quỷ La Sát (dùng người làm thức ăn) đứng ở trước. Trong tâm Bồ Tát nghĩ, bài kệ đều là bốn câu, bèn nói với quỷ La Sát: ‘’Xin ngươi hãy nói ra hai câu còn lại có được chăng‘’?
– Quỷ La sát nói: ‘’Ông muốn nghe pháp, mà tôi thì đói, đã ba ngày chưa ăn người, chẳng còn sức lực để nói ra hai câu kia. Nếu ông có thể dâng thân thể của ông, cúng cho tôi, thì tôi mới nói ra.’’
– Bồ Tát nghe, liền đáp rằng: ‘’Ðiều kiện này tôi sẵn sàng, xin ngươi hãy nói đi.’’
– Quỷ La sát nói: ‘’Sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui.’’ Nói xong rồi thì quỷ La sát chẳng khách sáo muốn ăn Bồ Tát.
– Bồ Tát yêu cầu nói: ‘’Xin ông hãy đợi chốc lát, để tôi khắc bài kệ này lên cây, để cho người sau này, có thể y pháp tu hành.’’
– Quỷ La sát nói: ‘’Ðược‘’!
Do đó, bèn khắc bài kệ lên cây. Lại nghĩ: ‘’Chữ khắc lên cây thì bị mưa gió sẽ mai một đi, tốt hơn là khắc lên đá được lâu dài hơn, lợi ích được nhiều người hơn. Lại nói với quỷ La sát theo ý của mình.
– Quỷ La sát nói: ‘’Ông hãy mau khắc lên, tôi đói chịu hết nổi rồi.’’
Bồ Tát cấp tốc khắc lên đá bài kệ mười sáu chữ rằng:
‘’Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt diệt rồi
Tịch diệt là vui.’’
– Tâm nguyện đã hoàn thành, bèn nói với quỷ La sát: ‘’Xin ông hãy đến ăn tôi đi.’’ Nói xong tâm vắng lặng chẳng nghĩ gì, nhắm mắt đợi quỷ La Sát đến ăn, trải qua khoảng năm phút, chẳng nghe tiếng của quỷ La sát, mở mắt ra nhìn thì quỷ La sát đã vọt lên hư không, hiện ra thân trời Ðế Thích mà nói rằng: ‘’Lành thay ! Lành thay ! Ngài là người rất tinh tấn tu hành, vì nửa bài kệ mà chịu xả tánh mạng.’’ Nói xong đằng không mà đi. Nguyên lai là người trời đến khảo nghiệm, xem thử công phu tu hành của Phật Thích Ca như thế nào ?
Phàm là pháp sinh diệt đều là vô thường. Pháp không sinh diệt cũng là vô thường. Tất cả pháp thế gian đều là vô thường. Căn bản chẳng có thường, cũng chẳng có cái không thường. Nói theo pháp chân chánh, thì lý thể thật tướng chẳng có cái thường, cũng chẳng có cái không thường.
Tu hành có mười hạnh môn quán tưởng: Một là vô thường. Hai là khổ. Ba là vô ngã. Bốn là ăn bất tịnh. Năm là tất cả thế gian. Sáu là chết. Bảy là bất tịnh (quán xương trắng). Tám là đoạn. Chín là lìa. Mười là nghĩ tận. Quán tất cả pháp vô thường, tức là quán tưởng một trong mười pháp quán tưởng.
2). Tất cả pháp khổ: Khổ có vô lượng vô biên. Nói tóm lại thì có ba thứ khổ và tám thứ khổ. Ba thứ khổ là : Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Tám thứ khổ là: Sinh khổ, bệnh khổ, già khổ, chết khổ, thương yêu xa lìa khổ, ghét gặp nhau khổ, năm ấm thiêu đốt khổ. Tuy có vô lượng khổ, song chúng sinh ở thế giới Ta Bà mê mất tự tánh chẳng nhận thức khổ, cho nên nhiễm khổ làm vui.
3). Tất cả pháp không: Các pháp do duyên sinh, các pháp do duyên diệt, chẳng có tự tánh. Phàm là pháp từ nhân duyên sinh ra, thì đều là không, cho nên nói tất cả pháp không.
4). Tất cả pháp vô ngã: Phàm là chấp trước cái ta, chẳng buông bỏ cái ta: Ðây là ta, kia là của ta. Nếu biết được đạo lý tất cả pháp không, thì tất cả pháp chẳng có ngã, cũng chẳng có ngã sở, cho nên đừng chấp trước có cái ngã.
5). Tất cả pháp vô tác: Tức nhiên tất cả pháp vô ngã, thì tất cả pháp cũng chẳng có ai tạo tác.
6). Tất cả pháp vô vị: Vì tất cả pháp vô tác, cho nên tất cả pháp chẳng có vị đạo đáng ưa thích.
7). Tất cả pháp chẳng như danh: Tất cả pháp cũng chẳng có danh tự chân thật.
8). Tất cả pháp không xứ sở: Vì tất cả pháp vô ngã, cho nên tất cả pháp cũng chẳng có xứ sở.
9). Tất cả pháp lìa phân biệt: Tất cả pháp nên lìa khỏi tâm phân biệt. Nếu không có tâm phân biệt, thì lý thể thật tướng của tất cả pháp sẽ hiện tiền.
10). Tất cả pháp chẳng kiên thật: Tất cả pháp đều là hư vọng mà sinh, hư vọng mà diệt, chẳng có chân thật kiên cố bất hoại. Ðây là mười thứ hạnh môn mà Bồ Tát tu hành trụ phải quán.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập pháp. Hà giả vi thập? Sở vị: quan sát chúng sanh giới, Pháp giới, thế giới, quan sát địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, quan sát dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Quán sát chúng sinh giới. Pháp giới. Thế giới. Quán sát địa giới. Thủy giới. Hỏa giới. Phong giới. Quán sát dục giới. Sắc giới. Vô sắc giới.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát tu hành trụ, nên khuyến hóa chúng sinh học mười thứ pháp môn, tự mình cũng phải học mười thứ pháp môn. Gì là mười thứ pháp môn ? Ðó là:
1). Chúng sinh giới: Chúng sinh giới tức là Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, trời, người, A tu la, súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục chín pháp giới. Dùng trí huệ quán chiếu để quán sát vô lượng vô biên chúng sinh giới. Phải minh bạch nhân duyên của chúng sinh giới, mới độ được chúng sinh. Do đó: ‘’Tận nhân tánh, tận kỷ tánh, tận vật tánh.’’ Phải biết giới hạn của nhân tánh, giới hạn ngã tánh, giới hạn vật tánh, cho nên nói chúng sinh giới là vô lượng vô biên.
2). Pháp giới: Tức là chân tâm của con người, lớn mà chẳng ngoài, nhỏ mà chẳng trong. Tận hư không biến pháp giới, vô tận vô biên.
3). Thế giới: Thế giới này, thế giới kia, vô lượng thế giới. Quán sát kỹ thì đều là vô lượng. Song, phải minh bạch tất cả thế giới không lìa tất cả tâm, do đó: ‘’Mười pháp giới không lìa một tâm niệm.’’ Vậy những chúng sinh giới, pháp giới, thế giới, từ đâu mà tạo thành ? Là từ tâm của chúng sinh mà ra. Do đó có câu:
‘’Nếu ai muốn biết rõ
Tất cả Phật ba đời
Hãy quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.’’
Chẳng những phải quán sát chúng sinh giới, thế giới, pháp giới, mà còn quán sát nhân duyên của địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, bốn đại.
4). Ðịa giới: Ðất có đoạn tiệt (cắt đứt) sắc vọng tưởng đại chủng, sinh ra địa giới trong ngoài. Trong tức là thân thể, ngoài tức là núi sông.
5). Thủy giới: Nước có thấm nhuần vọng tưởng đại chủng, bèn sinh ra trong ngoài thủy giới. Trong là nước của thân thể, ngoài là nước của đại địa.
6). Hỏa giới: Lửa có kham năng vọng tưởng đại chủng, nó hay kham khiến cho tất cả vật thành nhiệt, mà sinh ra hỏa giới trong ngoài. Trong là lửa của thân thể, ngoài là lửa của hư không.
7). Phong giới: Gió có sự thổi động vọng tưởng đại chủng, mà sinh ra phong giới trong ngoài. Trong là khí bên trong thân thể, ngoài là khí của hư không. Ðất nước gió lửa bốn đại hòa hợp mà thành thân thể, tan ra thì trở về chỗ của nó. Tánh cứng thì trở về đất, tánh ướt thì trở về nước, tánh nóng thì trở về lửa, tánh động thì trở về gió.
8). Dục giới: Quán sát chúng sinh dục giới, có nhân duyên vô lượng. Chúng sinh dục giới có dục niệm, vật chất, tâm thức.
9). Sắc giới: Quán sát chúng sinh sắc giới, có vô lượng nhân duyên. Sắc giới tuy có sắc tướng, nhưng hình chất chẳng chân thật. Song, mắt thịt của phàm phu chúng ta nhìn chẳng thấy, nếu chứng được thiên nhãn thông, thì mới thấy được hành động và cảnh giới của người trời sắc giới.
10). Vô sắc giới: Người trời ở cõi này cho đến hình sắc cũng chẳng có, chỉ có thức. Bồ Tát tu hành trụ nên khuyên chúng sinh học mười pháp quán sát này.
Hà dĩ cố? dục lệnh Bồ Tát trí tuệ minh liễu. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát trí huệ thấu rõ. Nếu có nghe pháp, thì liền tự khai ngộ hiểu biết, chẳng do người khác dạy.
Giảng: Tại sao phải khuyên tu tập mười pháp này ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát tu hành trụ, trí huệ sáng suốt, bất cứ ở trong đạo tràng của vị Phật nào, nếu có nghe pháp, thì tự mình khai ngộ thấu hiểu, chẳng cần Phật phải chỉ dạy, vì Bồ Tát có trí huệ nghe một biết mười.
4. Sanh Quý Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát sanh quý trụ? thử Bồ Tát tùng Thánh giáo trung sanh, thành tựu thập pháp. Hà giả vi thập? sở vị: vĩnh Bất-thoái-chuyển ư chư Phật sở, thâm sanh tịnh tín, thiện quan sát Pháp, liễu tri chúng sanh, quốc độ, thế giới, nghiệp hạnh/hành/hàng, quả báo, sanh tử, Niết-Bàn. Thị vi thập.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát sinh quý trụ. Bồ Tát này sinh từ trong Thánh giáo, thành tựu mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Ở chỗ các đức Phật sinh tâm tin thanh tịnh sâu xa. Khéo quán sát pháp. Biết rõ chúng sinh, cõi nước, thế giới, nghiệp hành, quả báo, sinh tử, Niết Bàn. Đó là mười.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Gì gọi là Bồ Tát sinh quý trụ ? Bồ Tát này trụ, sinh ở nơi phú quý, trụ ở vị phú quý, cho nên gọi là sinh quý trụ. Bồ Tát sinh quý trụ là sinh ra từ trong Thánh giáo pháp của Phật nói. Bồ Tát trụ này thành tựu mười thứ pháp. Gì là mười pháp ? Ðó là:
1). Vĩnh viễn chẳng thối chuyển: Bồ Tát tu hành, chỉ tinh tấn hướng về trước, tuyệt đối chẳng thối lùi. Siêng tu lục độ vạn hạnh, đắc được trụ bất thối, niệm bất thối. Ðịa vị tại sinh quý trụ, chẳng lùi về nhị thừa. Ðời đời kiếp kiếp hành Bồ Tát đạo, trong niệm niệm phát tâm bồ đề, chẳng bị tham sân si làm lay chuyển. Vì có ba ý chí bất thối, cho nên vĩnh viễn chẳng thối chuyển.
2). Ở chỗ các đức Phật, sinh tâm tin thanh tịnh sâu xa: Bồ Tát thường ở trong đạo tràng của chư Phật, lễ kính chư Phật, khen ngợi Như Lai, rộng tu cúng dường, thường học theo Phật. Tu pháp môn này, thì sinh ra tâm tin thanh tịnh sâu xa. Ðối với Phật pháp chẳng có tơ hào hoài nghi, nên đắc được tương ưng.
3). Khéo quán sát pháp: Khéo quán sát về pháp giới, minh bạch tánh pháp giới chẳng ra khỏi tâm mình.
4). Biết rõ chúng sinh: Bồ Tát biết rõ căn tánh của tất cả chúng sinh.
5). Cõi nước: Bồ Tát biết rõ hết thảy mười phương cõi nước, thành như thế nào, hoại như thế nào.
6). Thế giới: Bồ Tát biết rõ quá trình thành, trụ, hoại, không, bốn kiếp của tất cả thế giới.
7). Nghiệp hành: Bồ Tát biết rõ đủ thứ nghiệp hành của tất cả chúng sinh tạo ra, là nghiệp thiện hay là nghiệp ác.
8). Quả báo: Chúng sinh thọ tất cả quả báo.
9). Sinh tử: Chúng sinh sanh như thế nào ? Chết như thế nào ? Làm thế nào để liễu sinh tử ? Bồ Tát đều thấu rõ. Sinh tử có hai loại: Một là phần đoạn sinh tử và một là biến dịch sinh tử. Phần đoạn sinh tử, tức là mỗi người đều có một phần, có một đoạn. Biến dịch sinh tử là niệm niệm sinh, niệm niệm diệt, niệm niệm không ngừng. Hàng nhị thừa đã dứt được phần đoạn sinh tử, mà chưa dứt được biến dịch sinh tử. Bồ Tát đã dứt được biến dịch sinh tử, do đó ‘’nhị tử vĩnh vong.’’ Ðã dứt được phần đoạn và biến dịch sinh tử.
10). Niết Bàn: Tức là không sinh không diệt, một số người cho rằng viên tịch là Niết Bàn. Kỳ thật, Niềt Bàn có bốn cảnh giới thường, lạc, ngã, tịnh. Ðây là Bồ Tát sinh quý trụ phải thành tựu mười thứ pháp.
Sinh tử của con người thì chiếu theo nghiệp của mình tạo mà quyết định. Tạo nghiệp lành thì đi lên, tạo nghiệp ác thì đọa đi xuống. Khi người chết thì thức thứ tám lìa khỏi thân thể cuối cùng. Ði từ trên thân thì chứng minh sinh vào ba đường lành, đi từ dưới thân thì chứng minh sinh vào ba đường ác. Làm sao biết được ? Chỗ thức thứ tám ra khỏi thân thì có độ nóng. Ví như nóng cuối cùng ở lòng bàn chân, thì đây là hiện tượng sinh vào địa ngục. Nếu nóng ở trên đỉnh đầu, thì đây là hiện tượng sinh về cõi trời. Tóm lại, lúc còn sống làm việc lành, thì nhất định sinh về ba đường lành, lúc còn sống mà làm ác, thì nhất định sinh về ba đường ác. Ðây là luật nhân quả vĩnh viễn không bao giờ thay đổi.
Sau khi người chết rồi, thì trong vòng bốn mươi chín ngày ở trong địa phủ, phải trải qua nhiều phen thẩm phán. Thẩm phán rồi, nghiệp thiện nặng thì sinh về đường lành; nghiệp ác nặng, thì sinh về đường ác, đây là tình hình đại khái về sinh tử của con người. Do đó có câu:
‘’Nếu ai muốn không chết
Hãy làm người sống như đã chết.’’
Nghĩa là gì ? Nghĩa là muốn không chết, thì phải làm người sống như người đã chết, nghĩa là mắt chẳng nhìn sự vật, tai chẳng nghe âm thanh, miệng chẳng nói, tâm chẳng nghĩ, thì tựa như người sống như đã chết. Nếu đạt được cảnh giới này, thì chấm dứt sinh tử. Người sống như đã chết, chẳng dễ gì làm thành công. Do đó:
‘’Mắt thấy hình sắc bên trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay.’’
Ðây là tiêu chuẩn của người sống như đã chết.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập pháp. Hà giả vi thập? sở vị: liễu tri quá khứ, vị lai, hiện tại nhất thiết Phật Pháp, tu tập quá khứ, vị lai, hiện tại nhất thiết Phật Pháp, viên mãn quá khứ, vị lai, hiện tại nhất thiết Phật Pháp, liễu tri nhất thiết chư Phật bình đẳng.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Biết rõ tất cả Phật pháp quá khứ, hiện tại, vị lai. Tu tập tất cả Phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Viên mãn tất cả Phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Biết rõ tất cả chư Phật bình đẳng.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát sinh quý trụ nên khuyên chúng sinh học mười pháp, mình cũng phải học mười pháp; bằng không thì trở thành khẩu đầu thiền. Những gì là mười ? Ðó là:
1). Phải thấu rõ biết tất cả Phật pháp của chư Phật nói trong quá khứ.
2). Phải thấu rõ biết tất cả Phật pháp của chư Phật nói thuở vị lai.
3). Phải thấu rõ biết tất cả Phật pháp của chư Phật nói trong hiện tại. Nhưng đối với Phật pháp chẳng những thấu rõ mà còn phải cung hành thật tiễn, biết một chút Phật pháp thì tu hành một chút. Biết hai chút thì tu hành hai chút. Tóm lại, biết bao nhiêu Phật pháp thì tu hành bấy nhiêu. Tập ít thành nhiều, tụ cát thành tháp, công đáo tự nhiên thành. Tu pháp môn lục độ, thì tu từng độ từng độ, trì từng hạnh từng hạnh.
4). Phải tu tập tất cả Phật pháp của chư Phật quá khứ.
5). Phải tu tập tất cả Phật pháp của chư Phật vị lai.
6). Phải tu tập tất cả Phật pháp của chư Phật hiện tại.
7). Phải viên mãn tất cả Phật pháp của chư Phật quá khứ.
8). Phải viên mãn tất cả Phật pháp của chư Phật vị lai.
9). Phải viên mãn tất cả Phật pháp của chư Phật hiện tại. Biết Phật pháp rồi thì phải tu hành Phật pháp. Tu hành mới chứng được viên mãn.
10). Phải thấu rõ biết tất cả chư Phật là bình đẳng, tất cả Phật pháp cũng bình đẳng.
Hà dĩ cố? dục lệnh tăng tiến ư tam thế trung, tâm đắc bình đẳng. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng tấn trong ba đời tâm được bình đẳng. Nếu có nghe pháp, liền tự hiểu biết, chẳng do người khác dạy.
Giảng: Tại sao phải khuyên học mười pháp này ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát sinh quý trụ tăng thêm tinh tấn, đối với ba đời tâm đều được bình đẳng. Nếu có nghe pháp thì lập tức tự khai ngộ thấu hiểu, chẳng cần thiện trí thức chỉ dạy. Do đó: ‘’Nghe một biết mười,’’ có trí huệ như thế.
5. Phương Tiện Cụ Túc Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ? thử Bồ Tát sở tu thiện căn, giai vi cứu hộ nhất thiết chúng sanh, nhiêu ích nhất thiết chúng sanh, an lạc nhất thiết chúng sanh, ai mẩn nhất thiết chúng sanh, độ thoát nhất thiết chúng sanh, lệnh nhất thiết chúng sanh ly chư tai nạn, lệnh nhất thiết chúng sanh xuất sanh tử khổ, lệnh nhất thiết chúng sanh phát sanh tịnh tín, lệnh nhất thiết chúng sanh tất đắc điều phục, lệnh nhất thiết chúng sanh hàm chứng Niết Bàn.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ ? Bồ Tát này tu căn lành, đều vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Lợi ích tất cả chúng sinh. An lạc tất cả chúng sinh. Thương xót tất cả chúng sinh. Độ thoát tất cả chúng sinh. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các tai nạn. Khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ sinh tử. Khiến cho tất cả chúng sinh phát sinh niềm tin thanh tịnh. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được điều phục. Khiến cho tất cả chúng sinh đều chứng Niết Bàn.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ ? Bồ Tát này vào sâu pháp môn phương tiện khéo léo, tu hành thành công, đầy đủ công đức, cho nên gọi là cụ túc (đầy đủ) phương tiện trụ. Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ, tu lục độ vạn hạnh, tu phước huệ, tu tất cả căn lành, đều vì chúng sinh mà tu. Các bạn nên chú ý ! Khi đọc đoạn kinh văn này thì nên hồi quang phản chiếu, kiểm thảo sự tu hành của mình, mình trồng các căn lành có phải vì chúng sinh chăng ? Phải làm được mười pháp môn dưới đây:
1). Phải cứu hộ tất cả chúng sinh: Phải phát tâm từ bi của Bồ Tát, phải hành đạo Bồ Tát cứu chúng sinh. Ðừng làm tự liễu hán, đừng có tư tưởng ích kỷ lợi mình, tất cả đều vì cứu hộ chúng sinh thoát khỏi biển khổ.
2). Lợi ích tất cả chúng sinh: Bất cứ như thế nào, cũng phải lợi ích chúng sinh, đừng lợi ích chính mình. Phàm là việc có lợi ích cho chúng sinh, thì làm hết mình, làm đến tận thiện tận mỹ mới ngừng.
3). An lạc tất cả chúng sinh: Chúng sinh có tai nạn, thì phải đi cứu hộ họ. Chúng sinh có khốn khổ, thì phải đi lợi ích cho họ. Chúng sinh có sầu lo, thì khiến cho họ được an lạc. Bồ Tát hành Bồ Tát đạo chỉ biết có chúng sinh mà chẳng biết có mình. Tinh thần hy sinh như thế thật là vĩ đại. Chúng ta người tu đạo, nên hướng về Bồ Tát mà học tập. Có tâm Bồ Tát tức là Bồ Tát, có tâm Phật tức là Phật. Do đó có câu:
‘’Chí nơi Thánh hiền, tức là Thánh hiền;
Chí nơi hào kiệt, tức là hào kiệt.’’
Chí nơi trung thần hiếu tử, tức là trung thần hiếu tử; chí tại vĩ nhân triết sĩ, tức là vĩ nhân triết sĩ. Chí tại Bồ Tát, tức là Bồ Tát; chí tại thành Phật, thì sẽ thành Phật. Phật là người thành, Bồ Tát cũng là người thành. Vậy chúng ta cũng là người, tại sao không thể thành Phật, thành Bồ Tát ? Vì chẳng phát chí nguyện thành Phật thành Bồ Tát. Phát tâm như thế nào ? Thì phải cứu hộ, lợi ích, an lạc, thương xót, độ thoát, tất cả chúng sinh.
4). Thương xót tất cả chúng sinh: Thấy chúng sinh chẳng có cơm ăn, chẳng có quần áo mặc, chẳng có chỗ ở, đang thọ tất cả sự khổ, thì giống như mình đang thọ khổ. Phải tận hết khả năng của mình, đi trợ giúp chúng sinh thọ khổ, hoặc dùng lời hay ý đẹp, đi an ủi chúng sinh thọ khổ, phải có tâm thương xót như thế.
5). Ðộ thoát tất cả chúng sinh: Bất cứ chúng sinh có thống khổ gì, thì đều tìm cách độ thoát, khiến cho họ được giải thoát.
6). Khiến cho tất cả chúng sinh lìa các tai nạn, ở trong sự chẳng có biện pháp, cũng phải nghĩ biện pháp. Khiến cho chúng sinh lìa khỏi tất cả tai nạn. Ðây là tâm trạng của Bồ Tát.
7). Khiến cho tất cả chúng sinh thoát khổ sinh tử: Tôn giả A Nan ở trong pháp hội Lăng Nghiêm có phát nguyện rằng: ‘’Nếu còn một chúng sinh chưa thành Phật, thì tuyệt đối chẳng thủ chứng quả vị Nê Hoàn.’’ Ðại nguyện của Ngài A Nan, là khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ sinh tử. Bồ Tát tu căn lành, tức là khiến cho chúng sinh chứng được Niết Bàn bờ bên kia.
8). Khiến cho tất cả chúng sinh phát sinh niềm tin thanh tịnh: Khiến cho hết thảy chúng sinh đều phát tâm tin thanh tịnh, chẳng có tơ hào hoài nghi.
9). Khiến cho tất cả chúng sinh đều được điều phục: Khiến cho tất cả chúng sinh chẳng có phiền não, chúng sinh cang cường đều hoàn toàn bị điều phục, biết cải tà quy chánh, bỏ mê về giác.
10). Khiến cho tất cả chúng sinh đều chứng Niết Bàn: Khiến cho tất cả chúng sinh đều chứng được diệu lý của Niết Bàn, chân khoái lạc thường lạc ngã tịnh.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập pháp. Hà giả vi thập? sở vị: tri chúng sanh vô biên, tri chúng sanh vô lượng, tri chúng sanh vô số, tri chúng sanh bất tư nghị, tri chúng sanh vô lượng sắc, tri chúng sanh bất khả lượng, tri chúng sanh không, tri chúng sanh vô sở tác, tri chúng sanh vô sở hữu, tri chúng sanh vô tự tánh.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Biết chúng sinh vô biên. Biết chúng sinh vô lượng. Biết chúng sinh vô số. Biết chúng sinh không nghĩ bàn. Biết chúng sinh vô lượng sắc. Biết chúng sinh không thể lường. Biết chúng sinh là không. Biết chúng sinh không ai làm ra. Biết chúng sinh không chỗ có. Biết chúng sinh không tự tánh.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ, nên khuyên chúng sinh học tập mười thứ pháp môn. Song, mình cũng phải học tập mười thứ pháp môn này. Gì là mười thứ pháp môn ? Ðó là:
1). Biết chúng sinh vô lượng: Bồ Tát phải biết mười hai loài chúng sinh, đều là vô biên.
2). Biết chúng sinh vô lượng: Phải biết chúng sinh chẳng có số lượng, chẳng cách gì tính được có bao nhiêu ?
3). Biết chúng sinh vô số: Phải biết chúng sinh chẳng có số mục nhất định.
4). Biết chúng sinh không nghĩ bàn: Biết chúng sinh là không bờ mé, vô số lượng, chẳng có số mục, lại biết chúng sinh là diệu không thể tả. Tất cả chúng sinh điên đảo vọng tưởng là không thể nghĩ bàn, tu hành đạo quả cũng không thể nghĩ bàn.
5). Biết chúng sinh vô lượng sắc: Lại biết chúng sinh có vô lượng sắc tướng, thân hình cũng khác nhau.
6). Biết chúng sinh không thể lường: Lại biết chúng sinh là không thể dùng tâm để suy lường.
7). Biết chúng sinh không: Lại biết chúng sinh có sinh, trụ, dị, diệt, bốn tướng, cuối cùng đều hoàn không.
8). Biết chúng sinh không ai làm ra: Lại biết chúng sinh vốn là không, sao lại có người làm ra ? Cho nên chẳng có năng làm, cũng chẳng có sở làm, càng không thể nói tất cả chúng sinh là thượng đế tạo ra. Vậy thượng đế lại do ai tạo ra ? Vốn chẳng có ai tạo ra.
9). Biết chúng sinh không chỗ có: Chúng sinh tự tánh vốn không, cho nên biết chúng sinh vốn chẳng chỗ có.
10). Biết chúng sinh không tự tánh: Biết chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật, chúng sinh vốn chẳng có tự tánh.
Hà dĩ cố? dục lệnh kỳ tâm chuyển phục tăng thắng, vô sở nhiễm trước. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tâm của Bồ Tát này càng tăng thêm thù thắng hơn, chẳng có nhiễm trước. Nếu có nghe pháp thì liền thấu hiểu, chẳng do người khác dạy.
Giảng: Tại sao phải khuyên học mười pháp này ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ, tâm càng tăng thêm thù thắng hơn trước. Trí tuệ thù thắng, tu tưởng thù thắng, tất cả hết thảy đều thù thắng, chẳng có tư tưởng nhiễm ô, chẳng có dục vọng ái tình. Ai chẳng có tư tưởng nhiễm ô chấp trước này, thì người đó là Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ. Song, dạy người chẳng có tâm nhiễm ô, đây chẳng phải là việc dễ dàng, chẳng có tâm nhiễm ô nhiều, thì vẫn có tâm nhiễm ô ít. Dù chẳng có tâm nhiễm ô ít, nhưng ở trong ruộng tám thức vẫn còn hạt giống nhiễm ô, cho nên nói không dễ gì làm cho nó hoàn toàn không có. Vậy làm thế nào mới không còn nhiễm trước ? Thì phải tu hành, giữ gìn giới luật, phát tâm bồ đề, hành đạo Bồ Tát. Bồ Tát này, bất cứ ở đạo tràng nào, nghe Phật nói pháp, liền tự khai ngộ thấu hiểu nghĩa chân thật, không cần người khác chỉ dạy.
Trước kia ở Thái Lan có vị cao Tăng, là vị thiền sư tu pháp tiểu thừa. Vị thiền sư này ở trong thâm sơn, suốt năm chẳng xuống núi, ăn rễ, lá cây, uống nước suối, để duy trì mạng sống. Do đó đời sống ‘’Bữa ăn chẳng no, ở chẳng cầu an.’’
Một ngày nọ, ở trong định có một cảnh giới đến, tai nghe có người nói với ông ta rằng: ‘’Ngày mai vợ cũ (vợ trong kiếp trước) của ông sẽ đến tìm ông, gây phiền phức cho ông, xem thử ông làm như thế nào” ? Tôi thường nói:
‘’Tất cả là khảo nghiệm
Xem thử làm thế nào ?
Trước mắt không nhận thức,
Phải luyện lại từ đầu.’’
Vị thiền sư đó sẽ phải đối đầu với sự khảo nghiệm, xem thử định lực của ông ta đến trình độ nào ? Vào trưa ngày thứ hai, quả nhiên có một người đàn ông trung niên đến, khoảng hơn năm mươi tuổi, hình dáng nhã nhặn như một giáo sư. Dắt theo một cô thiếu nữ, khoảng hơn hai mươi tuổi. Hai người đó đến trước vị thiền sư chắp tay lại thăm hỏi. Vị giáo sư đó hỏi vị thiền sư tu hành như thế nào ? Vị thiền sư đều trả lời. Vị giáo sư khen ngợi sự tu khổ hạnh của bậc tu hành, thật là đáng cung kính.
– Lúc đó, con gái của ông ta hướng về vị thiền sư yêu cầu: ‘’Cha ! Con muốn cưới vị thiền sư này.’’
– Ông ta rất kinh ngạc ! Bèn hỏi cô con gái: ‘’Tại sao vậy‘’?
– Con gái của ông ta nói: ‘’Vì vị thiền sư quá khổ ! Chẳng có ai chăm sóc, đến lúc già thì càng khổ nữa, cho nên con quyết định kết hôn với vị thiền sư, lo cho thiền sư suốt đời.’’
– Thiền sư nghe rồi rất kinh ngạc, bèn nói: ‘’Không thể được ! Tôi là người xuất gia, không thể kết hôn.’’
– Cô gái đó nghe rất là thất vọng, bèn khóc lóc, muốn yêu cầu vị thiền sư trả lời sự kết hôn với cô ta.
Thiền sư kiên quyết không đồng ý. Cô ta khổ sở buồn rầu, nhưng vị thiền sư chẳng động tâm. Ông giáo sư nổi trận lôi đình, mang hết đồ đạc của vị thiền sư đi. Song, định lực của vị thiền sư, đã đạt đến trình độ không bị cảnh giới làm lay chuyển. Ngài vẫn như như chẳng động, ngồi yên tham thiền. Tâm chẳng não loạn, quyết định ‘’đả thất đói.’’ Lúc bắt đầu thì chẳng ăn chẳng uống, song hình bóng của cô thiếu nữ cứ hiện ra ở trước mặt ông ta, khóc lóc rơi lệ nhất định muốn cưới ông ta.
Ngày thứ hai cũng hiện ra cảnh giới đó. Ngày thứ ba lúc ẩn lúc hiện. Ngày thứ tư thì hình bóng thiếu nữ chẳng hiện nữa, mới khôi phục lại sự thanh tịnh như trước, đó là định lực khắc phục cảnh giới. Vị thiền sư từ đó về sau, chuyên tâm tham thiền, chẳng có mọi sự chấp trước, chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển.
Do đó có thể thấy, nghiệp báo của chúng sinh là không thể nghĩ bàn. Chúng ta người tu đạo, nhất định phải đoạn dục khử ái, dùng định lực để khắc chế ý niệm dâm dục, đừng sinh ra tư tưởng chẳng thanh tịnh. Phải học tập tác phong của vị thiền sư này, mỹ nữ trước mặt chẳng động tâm. Nếu định lực không đủ, thì giới luật chẳng kiên cố, sẽ chuyển theo cảnh giới, như thế thì dễ dàng mất đi đạo nghiệp, hối hận đã quá muộn màng. Do đó có câu:
‘’Một khi xẩy chân ngàn năm hận
Quay đầu lại trăm năm đã trôi qua.’’
6. Chánh Tâm Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát chánh tâm trụ? thử Bồ Tát văn thập chủng Pháp, tâm định bất động. Hà giả vi thập? sở vị: văn tán Phật, hủy Phật, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. Văn tán Pháp, hủy Pháp, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. Văn tán Bồ Tát, hủy Bồ Tát, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. văn tán Bồ Tát, hủy Bồ Tát sở hạnh Pháp, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. Văn thuyết chúng sanh hữu lượng, vô lượng, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. Văn thuyết chúng sanh hữu cấu, vô cấu, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. Văn thuyết chúng sanh dịch độ, nạn/nan độ, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. Văn thuyết Pháp giới hữu lượng, vô lượng, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. Văn thuyết Pháp giới hữu thành, hữu hoại, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động. Văn thuyết Pháp giới nhược hữu, nhược vô, ư Phật Pháp trung, tâm định bất động.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát chánh tâm trụ ? Bồ Tát này nghe mười pháp mà tâm định chẳng động. Những gì là mười pháp ? Đó là: Nghe khen Phật hay phỉ báng Phật, ở trong Phật pháp tâm định chẳng động. Nghe khen pháp hay phỉ báng pháp, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe khen Bồ Tát hay phỉ báng Bồ Tát, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe khen hay phỉ báng pháp hành của Bồ Tát, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói chúng sinh hữu lượng vô lượng, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói chúng sinh hữu cấu vô cấu, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói chúng sinh dễ độ khó độ, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói pháp giới hữu lượng vô lượng, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói pháp giới có thành có hoại, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động. Nghe nói pháp giới hoặc có hoặc không, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng động.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là Bồ Tát chánh tâm trụ ? Vì Bồ Tát này đối với Phật pháp nhận thức được rất rõ ràng, chẳng có mê hoặc. Dùng trí huệ chánh tâm để suy tư pháp này, cho nên gọi là chánh tâm trụ. Bồ Tát chánh tâm trụ có chánh định chánh thọ, nghe được mười pháp này mà tâm định chẳng lay động, do đó:
‘’Tám gió thổi không lay
Ngồi vững trên hoa sen.’’
Những gì là mười pháp ? Ðó là:
1). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe được có người khen ngợi chư Phật, hoặc phỉ báng chư Phật, ở trong Phật pháp, tâm định chẳng lay động. Tại sao ? Vì sự trụ của Bồ Tát này, trong tâm chẳng có phân biệt, khen hay phỉ báng, tất cả đều bình đẳng. Người có trí huệ, được người khen cũng chẳng mừng, bị người phỉ báng, cũng chẳng phiền não. Do đó:
‘’Khen chê tâm chẳng động.’’
Nếu là người ngu si, được người khen hay thì vui mừng không thể tả, bị người nói xấu, thì nổi phiền não, buồn rầu vô hạn. Vui mừng thì cười, buồn rầu thì khóc. Ai thường thường tươi cười, thì giống như đi đến cõi trời; còn nếu luôn luôn u sầu, thì giống như đi xuống địa ngục. Cho nên người tu hành, đừng cảm tình dụng việc, cũng đừng ý khí dụng việc. Phải có lý trí thì mới khống chế được sự cảm tình. Do đó, ai phải thường cười, khi cười mới có lý trí, phân biệt thiện ác mới rõ ràng. Cười là bí quyết sống lâu, do đó có câu:
‘’Từ xưa thần tiên chẳng phép gì khác
Luôn sinh hoan hỷ chẳng sầu lo.’’
Ðây là danh ngôn rất chí lý.
2). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe có người khen ngợi các pháp, hoặc phỉ báng các pháp. Ðối với trong Phật pháp tâm định chẳng giao động.
3). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe có người khen ngợi Bồ Tát (Tăng), hoặc phỉ báng Bồ Tát. Ðối với trong Phật pháp tâm định chẳng giao động. Tóm lại, nghe khen ngợi Tam Bảo, hoặc phỉ báng Tam Bảo, cũng đừng hoan hỷ, cũng đừng nổi giận. Ðây là chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển, tức cũng là định lực kiên cố.
5). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe có người nói chúng sinh hữu lượng hoặc vô lượng. Ở trong Phật pháp tâm định chẳng giao động.
6). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe có người nói chúng sinh hữu cấu hoặc vô cấu, ở trong Phật pháp tâm định chẳng giao động.
7). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe có người nói pháp giới hữu lượng hoặc vô lượng. Ở trong Phật pháp tâm định chẳng giao động.
8). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe có người nói chúng sinh dễ độ hoặc khó độ. Ở trong Phật pháp tâm định chẳng giao động.
9). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe có người nói pháp giới có thành hoặc có hoại. Ở trong Phật pháp tâm định chẳng giao động.
10). Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe có người nói pháp giới hoặc có, hoặc không. Ở trong Phật pháp tâm định chẳng giao động. Ðây là mười pháp không bị cảnh giới làm lay chuyển.
Có người khởi vọng tưởng: “Bồ Tát chánh tâm trụ, chẳng phải người gỗ, cũng chẳng phải người đá, tại sao tâm chẳng động” ? Vì sự trụ của Bồ Tát này, đã chứng được chánh định chánh thọ, nên chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển. Do đó:
‘’Người chuyển được cảnh giới
Cảnh giới không chuyển được người.’’
Bồ Tát chánh tâm trụ đã tu đến trình độ này.
Thị vi thập. Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập pháp. Hà giả vi thập? sở vị: nhất thiết pháp vô tướng, nhất thiết pháp vô thể, nhất thiết pháp bất khả tu, nhất thiết pháp vô sở hữu, nhất thiết pháp vô chân thật, nhất thiết pháp không, nhất thiết pháp Vô tánh, nhất thiết pháp như huyễn, nhất thiết pháp như mộng, nhất thiết Pháp vô phân biệt.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Tất cả pháp không tướng. Tất cả pháp không thể. Tất cả pháp không thể tu. Tất cả pháp chẳng chỗ có. Tất cả pháp không chân thật. Tất cả pháp không. Tất cả pháp không tánh. Tất cả pháp như huyễn. tất cả pháp như mộng. Tất cả pháp không phân biệt.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát chánh tâm trụ, nên khuyên chúng sinh học mười pháp môn này. Nhưng mình cũng phải học, nếu không thì là khẩu đầu thiền. Dạy người tu hành mà mình chẳng tu hành, thì chẳng có ích gì. Phải lấy thân làm khuôn phép, cung hành thật tiễn, thật thà mà tu hành, thì mới có hiệu quả. Những gì là mười pháp ? Ðó là:
1). Tất cả pháp vô tướng: Pháp vốn chẳng có tướng. Nếu có sự chấp trước thì pháp tướng tồn tại. Nếu chẳng chấp trước thì người cũng không, pháp cũng không, đây tức là không tướng.
2). Tất cả pháp không thể: Tất cả pháp tức là tướng lìa tướng, chẳng có thể tánh chân thật. Cho nên trong kinh Kim Cang có nói:
‘’Pháp còn phải xả, hà huống phi pháp.’’
Nghĩa là chánh pháp cũng phải xả bỏ, hà huống là chẳng phải pháp, càng phải xả bỏ. Có sự chấp trước có bản thể, đó là sai lầm.
3). Tất cả pháp không thể tu: Không chấp trước pháp gì có thể tu hành, pháp gì không thể tu hành. Tất cả pháp chẳng có cái có thể tu, hoặc cái không thể tu. Tu không tu là tại con người, chứ chẳng phải tại pháp. Pháp chẳng có cái tu, không tu. Có người nói: ‘’Tất cả pháp không thể tu, vậy chúng ta không cần tu hành.’’ Vì bổn thân của pháp, không cần tu, hay không tu, song chúng ta phải y theo pháp tu hành, thì mới trừ khử tập khí mao bệnh.
4). Tất cả pháp chẳng chỗ có: Tất cả pháp vốn gì cũng chẳng có, đều là không.
5). Tất cả pháp không chân thật: Pháp là phương pháp, pháp là quy tắc, cho nên tất cả pháp chẳng có thể chân thật.
6). Tất cả pháp không: Chứng được tất cả pháp không, gì cũng chẳng có. Ðây tức là Lục Tổ Huệ Năng nói:
‘’Vốn chẳng có một vật
Chỗ nào dính bụi bặm’’?
Ðây là cảnh giới tất cả pháp không, đến được cảnh giới này, thì còn có gì để chấp trước ? Tham, sân, si, mạn, nghi, năm thứ phiền não cũng chẳng còn, chỉ có thường, lạc, ngã, tịnh, bốn đức Niết Bàn.
7). Tất cả pháp không tánh: Tại sao nói tất cả pháp không ? Vì tất cả pháp không có tự tánh. Có người nói pháp, có pháp mới có dụng. Người không thì pháp cũng vô dụng. Do đó: ‘’Người hoằng pháp chứ pháp không hoằng người.’’
8). Tất cả pháp như huyễn: Tất cả pháp như huyễn hóa, chẳng chân thật.
9). Tất cả pháp như mộng: Tất cả pháp như giấc mộng, cũng chẳng chân thật. Do đó có câu:
‘’Ðời người một giấc mộng
Người chết mộng một giấc
Trong mộng thân vinh quý
Tỉnh mộng tại quê nghèo
Sớm tối đều nằm mộng
Không giác mộng hoàng lương
Trong mộng nếu không tỉnh
Uổng thay mộng một giấc.’’
10). Tất cả pháp không phân biệt: Hết thảy tất cả pháp, đều chẳng có phân biệt. Chúng ta nghe kinh, đừng dùng tâm phân biệt để nghe. Tại sao ? Vì tất cả pháp chẳng có phân biệt.
Ðoạn kinh văn này là dạy chúng ta đừng chấp trước pháp, nếu có pháp chấp thì nặng giống như ngã chấp (chấp cái ta). Do đó có câu:
‘’Thấy việc tỉnh việc xuất thế gian
Thấy việc mê việc đọa trầm luân.’’
Ở giữa mê và ngộ, chấp trước thì chìm đắm trong sáu nẻo, không chấp trước thì ra khỏi ba cõi. Tức cũng là ‘’tức tướng lìa tướng,’’ ở nơi tướng mà lìa khỏi tướng; ‘’tại trần xuất trần,’’ ở tại trần thế mà vượt khỏi trần thế. Do đó: ‘’Thân tại trần mà tâm thoát trần,’’ trong tâm chẳng có vọng tưởng chấp trước. Ðây gọi là một bụi trần không nhiễm, vạn tư lự đều không. Cảnh giới này thật là tự tại biết bao !
Hà dĩ cố? dục lệnh kỳ tâm chuyển phục tăng tiến, đắc Bất-thoái-chuyển Vô sanh Pháp nhẫn. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát tâm càng tăng thêm tinh tấn, được không thối chuyển vô sinh pháp nhẫn, nếu có nghe pháp thì liền thấu hiểu, không do người khác chỉ dạy.
Giảng: Tại sao phải phá pháp chấp ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát chánh tâm trụ và chúng sinh được giáo hóa, càng tăng thêm tinh tấn, tức là chẳng có quái ngại. Người tu hành, phải khởi lên tâm niệm tu hành. Ðến lúc thành công, thì càng phải buông xả một niệm. Một niệm cũng chẳng còn, thì còn có gì để lo âu ? Còn có gì quái ngại ? Nếu chẳng có quái ngại, thì xa lìa điên đảo mộng tưởng. Tại sao có điên đảo mộng tưởng ? Vì có quái ngại. Nếu không có quái ngại, thì sẽ đắc được vị bất thối, đắc được tất cả chẳng thối chuyển. Bất thối chuyển gì ? Tức là bất thối chuyển vô minh pháp nhẫn. Gì gọi là vô minh pháp nhẫn ? Tức là ‘’chẳng thấy chút pháp sinh, chẳng thấy chút pháp diệt.’’ Ðây tức là cảnh giới pháp không. Người cũng không, pháp cũng không, tự tánh rõ ràng ở trong đó. Lúc này rõ ràng sáng suốt, nhẫn nơi tâm. Cảnh giới này có chút thọ chẳng đặng, có chút nhẫn chẳng đặng, nhưng vẫn phải thọ nhẫn. Ðừng cho rằng chẳng thấy chút pháp sinh, chẳng thấy chút pháp diệt, cảnh giới này là việc dễ dàng, là rất khó chứng được cảnh giới này. Nếu đến được cảnh giới này, thì chẳng sầu chẳng lo, xa lìa điên đảo mộng tưởng, cứu kính Niết Bàn.
Lúc này, Bồ Tát chánh tâm trụ, nghe tất cả pháp, liền lập tức khai ngộ thấu hiểu, do đó: ‘’Thô ngôn tế ngữ, giai quy đệ nhất nghĩa.’’ Nghĩa là: ‘’Lời thô lẽ tế, đều thuộc về đệ nhất nghĩa.’’ Ðến được cảnh giới này, có ai mắng bạn, hoặc có ai khen bạn, tâm cũng chẳng giao động. Nghĩa là cũng chẳng có hoan hỷ, cũng chẳng có nóng giận, cũng chẳng có bi ai, cũng chẳng có khoái lạc. Bốn thứ cảm tình này, lúc chẳng phát sinh, tức là trung đạo, tức cũng là định. Pháp nghe được khế hợp với chân lý, không cần người khác chỉ dạy.
7. Bất Thối Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát bất thoái trụ? thử Bồ Tát văn thập chủng Pháp, kiên cố bất thoái. Hà giả vi thập? sở vị: Văn hữu Phật, vô Phật, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. văn hữu pháp, vô Pháp, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. Văn hữu Bồ Tát, vô Bồ Tát, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. văn hữu Bồ Tát hạnh, vô Bồ Tát hạnh, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. Văn hữu Bồ Tát tu hành xuất ly, tu hành bất xuất ly, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. văn quá khứ hữu Phật, quá khứ vô Phật, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. Văn vị lai hữu Phật, vị lai vô Phật, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. Văn hiện tại hữu Phật, hiện tại vô Phật, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. Văn Phật trí hữu tận, Phật trí vô tận, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. Văn tam thế nhất tướng, tam thế phi nhất tướng, ư Phật Pháp trung, tâm Bất-thoái-chuyển. Thị vi thập.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát bất thối trụ ? Bồ Tát này nghe mười pháp, kiên cố bất thối. Những gì là mười ? Đó là: Nghe có Phật không có Phật, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe có pháp không có pháp, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe có Bồ Tát không có Bồ Tát, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe có Bồ Tát hạnh không có Bồ Tát hạnh, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe có Bồ Tát tu hành thoát khỏi tu hành không thoát khỏi, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe quá khứ có Phật quá khứ không có Phật, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe vị lai có Phật vị lai không có Phật, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe hiện tại có Phật hiện tại không có Phật, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe trí Phật hữu tận trí Phật vô tận, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Nghe ba đời một tướng ba đời chẳng phải một tướng, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Đó là mười.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là Bồ Tát Bất thối trụ ? Tức là chẳng thối tâm bồ đề, trụ nơi tâm bồ đề. Gì gọi là tâm bồ đề ? Nghĩa là tâm giác ngộ; chẳng có vô minh, phiền não, ngu si. Giác ngộ tất cả pháp hữu vi là vô thường, khổ không, vô ngã, đây gọi là bất thối trụ. Bồ Tát bất thối trụ, tại sao phải nghe mười pháp này ? Vì muốn cho tâm bồ đề kiên cố, chẳng thối chuyển tâm bồ đề. Gì là mười pháp ? Ðó là:
1). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói ba đời có Phật, hoặc ba đời chẳng có Phật. Ở trong Phật pháp, chẳng thối chuyển tâm bồ đề.
2). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói có Phật pháp, hoặc không có Phật pháp. Ở trong Phật pháp, chẳng thối chuyển tâm bồ đề.
3). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói có Bồ Tát, hoặc chẳng có Bồ Tát. Ở trong Phật pháp, chẳng thối chuyển tâm bồ đề.
4). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói có Bồ Tát hạnh, hoặc chẳng có Bồ Tát hạnh. Ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Người tiểu thừa chẳng thừa nhận có chư Phật, chỉ thừa nhận có Phật Thích Ca, cũng chẳng thừa nhận có Bồ Tát, chỉ thừa nhận có A la hán. Bồ Tát đại thừa là cước đạp thật địa hành Bồ Tát đạo, cứu độ chúng sinh. Bất cứ ai nói gì cũng đều như như chẳng động, chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển, chẳng bị lời lẽ chi phối, có sự nhận thức rất thâm sâu đối với Phật pháp, cho nên thuận cảnh, hoặc nghịch cảnh đều tinh tấn, chẳng thối chuyển.
5). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói Bồ Tát tu hành, được thoát khỏi ba cõi. Ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
6). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói quá khứ có Phật trụ thế, hoặc quá khứ chẳng có Phật trụ thế. Ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
7). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói vị lai có Phật trụ thế, hoặc vị lai chẳng có Phật trụ thế. Ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
8). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói hiện tại có Phật trụ thế, hoặc chẳng có Phật trụ thế. Ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
9). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói trí huệ của Phật có lúc cùng tận, hoặc có lúc chẳng cùng tận. Ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển.
10). Bồ Tát bất thối trụ, nghe có người nói ba đời là một tướng, hoặc nói ba đời chẳng phải một tướng. Ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Phàm phu nghe được những lý luận này, chẳng biết thế nào là tốt ? Một niệm vô minh nổi lên thì chẳng minh bạch, bèn sinh tâm thối chuyển. Bồ Tát chẳng có một niệm vô minh, ở trong Phật pháp, tâm chẳng thối chuyển. Ðó là mười pháp.
Giáo nghĩa của Phật giáo là tận hư không, khắp pháp giới, chẳng có hạt bụi nào chẳng phải là Phật giáo ở tại đó. Tất cả tôn giáo đều không chạy ra khỏi phạm vi của Phật giáo. Bất cứ Thiên chúa giáo, Ki tô giáo, Hồi giáo, Ðạo giáo, Do thái giáo, Ấn độ giáo, đều ở trong pháp giới, chẳng qua công việc làm khác nhau mà thôi. Mỗi tôn giáo làm việc của mình, đều là khuyên người hướng thiện, cải tà về chánh. Vì đạo lý này, cho nên người người đều có thể thành Phật. Phật đã từng nói:
‘’Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh
Đều có thể thành Phật.’’
Ðó là lời từ miệng Ðức Phật nói ra, tuyệt đối chẳng nói dối. Tông chỉ của tôi là chúng sinh tin Phật, cũng thành Phật. Hôm nay chẳng tin Phật, ngày mai sẽ tin Phật. Ðời này không tin, đời sau sẽ tin Phật. Kiếp này không tin Phật, kiếp sau sẽ tin Phật. Cuối cùng sẽ có một ngày tin Phật. Chỉ cần tin Phật thì sẽ có cơ hội thành Phật. Phật giáo dùng pháp giới làm thể, làm dụng, làm tông, làm giáo, gì cũng đều là pháp giới. Ví như có người ghét mặt trăng cứ đi theo họ, đi đến đâu thì mặt trăng theo đến đó. Do đó anh ta chạy đến Ðông Thắng Thần Châu, nhìn xem thì mặt trăng vẫn ở trên đầu anh ta. Anh ta lại chạy đến Nam Thiệm Bộ Châu, nhìn xem thì mặt trăng vẫn ở trên đầu anh ta, cho đến chạy đến Tây Ngưu Hóa Châu và Bắc Câu Lư Châu, nhìn xem thì mặt trăng vẫn ở trên đầu ông ta. Chạy đi khắp nơi đông tây nam bắc, cuối cùng cũng thấy mặt trăng chạy theo anh ta. Người có mắt thì nghĩ muốn mặt trăng đừng theo họ, nhưng chẳng có cách chi để không nhìn thấy mặt trăng.
Phật giáo giống như mặt trăng, chẳng màng bạn chạy thế nào, cũng chạy không ra khỏi ngoài Phật giáo, đều bao quát ở trong trí huệ quang minh Phật giáo. Cho nên người hồ đồ thì làm việc hồ đồ, người sáng suốt thì làm việc sáng suốt. Vốn chẳng có cái hồ đồ, cái sáng suốt, vốn chẳng có việc, do đó:
‘’Thiên hạ vốn không việc
Người ngu tự rầu lo.’’
Hết thảy mọi người trên thế gian này, làm việc gì cũng đều là trả nợ. Khi trả hết nợ thì không cần làm nữa. Hết thảy tất cả tôn giáo, có thể nói đều là vì Phật giáo mà làm công việc. Giống như mỗi nước, hết thảy nhân dân đều vì chính phủ mà làm việc, cũng đồng lý ấy, nhưng có người chẳng minh bạch đạo lý này.
Người hành đạo Bồ Tát thì muốn lợi ích người, chẳng muốn tổn hại người. Mình tự hỏi mình, tại sao muốn tổn người hại người ? Tất cả hết thảy phải nghĩ thế cho kẻ khác, phải có lợi ích đối với kẻ khác. Ðây tức là Bồ Tát phát tâm, Bồ Tát là hy sinh chính mình để thành tựu cho kẻ khác. Ðây là tư tưởng của Bồ Tát, cũng là hành vi của Bồ Tát. Chúng ta mỗi người đều phải tự hỏi mình, tại sao ta đến thế giới này ? Có phải vì ăn cơm mặc quần áo chăng ? Ðến tìm sự hưởng thụ chăng ? Nếu nghĩ như thế thì làm người chẳng có giá trị gì, chẳng có ý nghĩa gì. Chúng ta đến thế giới này thì nên giúp đỡ cho thế giới này, khiến cho thế giới càng ngày càng tốt đẹp thêm. Ðừng ở trong thế giới tranh, tham ! Chỉ biết có mình mà chẳng biết có người khác, ngàn vạn đừng như thế. Nếu có tư tưởng này thì hãy mau sửa đổi, đừng nên suốt đời hồ đồ. Chúng ta làm người phải có công với đời, có đức với dân, có sự cống hiến đối với thiên hạ nước nhà, có lợi ích đối với hết thảy tất cả chúng sinh, làm người như vậy mới có ý nghĩa.
Trước kia có lão tu hành, ăn cơm no chẳng có việc làm, nói chuyện tiếu với vị đệ tử. Một ngày nọ, ông thầy nói với vị đệ tử: ‘’Ai ai cũng đều hoan hỷ số một, việc gì cũng giỏi hơn người, muốn có danh vọng tốt, muốn có địa vị tốt. Hôm nay chúng ta hai người nói xem thử ai thua. Nếu ai nói không ra, tức là thua, bị phạt mua kẹo mời khách.’’ Vị đệ tử có biện tài vô ngại, đồng ý biện pháp đó của ông thầy.
– Ông thầy nói: ‘’Tôi là con chó.’’
– Vị đệ tử nói: ‘’Tôi là con dòi trong đống phân của con chó.’’
– Ông thầy nói: ‘’Con ở trong đó làm gì‘’?
– Ðệ tử nói: ‘’Con tắm rửa trong phân con chó.’’
– Ông thầy hết lời để nói, thừa nhận là thua, bèn mời đệ tử ăn kẹo. Tuy đó là lời đùa giỡn, nhưng có triết lý. Ðây là nói đạo lý bất cấu bất tịnh (không dơ không sạch). Nếu trong tâm một khi sinh tâm phân biệt thì sẽ nôn ra. Do đó:
‘’Tâm tịnh nhất thiết tịnh
Tâm uế nhất thiết uế.’’
Nghĩa là:
‘’Tâm sạch thì tất cả đều sạch,
Tâm bẩn thì hết thảy đều dơ.’’
Chúng ta tu đến cảnh giới không sanh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm, thì sẽ có sự thành tựu.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập chủng quảng đại Pháp. Hà giả vi thập? sở vị: thuyết nhất tức đa, thuyết đa tức nhất, văn tùy ư nghĩa, nghĩa tùy ư văn, phi hữu tức hữu, hữu tức phi hữu, vô tướng tức tướng, tướng tức vô tướng, Vô tánh tức tánh, tánh tức Vô tánh.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp rộng lớn. Những gì là mười ? Đó là: Nói một tức nhiều. Nói nhiều tức một. Văn tùy nơi nghĩa. Nghĩa tùy nơi văn. Chẳng có tức có. Có tức chẳng có. Không tướng tức là tướng. Tướng tức là không tướng. Không tánh tức là tánh. Tánh tức là không tánh.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát bất thối trụ, nên khuyến hóa chúng sinh, tu học mười thứ pháp rộng lớn, nhưng mình cũng phải học mười pháp rộng lớn này. Gì là mười pháp rộng lớn ? Tức là:
1). Nói một tức nhiều. 2). Nói nhiều tức một. Nói một pháp tức là tất cả pháp, nói tất cả pháp cũng là một pháp. Nói tất cả hạt bụi, cũng là do một hạt bụi mà thành tựu. Ðem tất cả hạt bụi phân ra thì vẫn là một hạt bụi. Một hạt bụi tập tụ nhiều hạt bụi lại, đây là nhiều hạt bụi. Nói nhiều tức là một, do đó:
‘’Một gốc tán làm vạn thù,
Vạn thù lại trở về một gốc.’’
Một gốc ví như đại địa, vạn thù là tất cả hoa cỏ cây cối, ngũ cốc đủ loại, sum la vạn tượng do đại địa sinh trưởng thành tựu. Nhiều thứ như vậy, tương lai cũng vẫn trở về đại địa.
Thân thể của chúng ta cũng có một cái một. Một tán làm vô lượng, vô lượng trở về một. Nếu làm số một thành số 0, thì những phiền phức gì cũng chẳng còn nữa. Do đó:
‘’Vốn chẳng một vật
Chỗ nào dính bụi bặm.’’
Ngộ được lý không này, thì sẽ chứng được lý không, ở nơi lý không mà nhập định không, tất cả phiền não cũng chẳng còn. Tất cả hết thảy đều chẳng còn nữa. Ðây là đạo lý một nhiều không hai, một tức là nhiều, nhiều tức là một.
3). Văn tùy nơi nghĩa. 4). Nghĩa tùy nơi văn. Kinh văn phải thuận với nghĩa lý để diễn nói, do kinh văn mà sinh ra nghĩa lý. Nghĩa lý lại phải tùy thuận kinh văn, phải văn nghĩa đều vô ngại. Ví như trong kinh văn nói: ‘’Trời Ðao Lợi năng Thiên chủ.’’ Nếu không dùng văn tùy nơi nghĩa để nói thì liền nói vua Diêm La trụ ở trời Ðao Lợi, ở đó quản lý quỷ. Ðây tức là giảng sai nghĩa. Nếu giảng trời Ðao Lợi năng làm chủ, ở đó thống lý một bốn thiên hạ, bốn thiên hạ tức là nghĩa, đây tức là văn tùy nơi nghĩa. Vậy, năng làm chủ thống lý bốn thiên hạ, đây là quy về để giảng, vẫn là giảng năng Thiên chủ. Ðây tức là nghĩa tùy nơi văn.
5). Chẳng có tức có. 6). Có tức chẳng có. Chẳng có tức có, tức là diệu hữu, có tức chẳng có, tức là chân không. Chân không chẳng ngại diệu hữu, cho nên chẳng có. Diệu hữu chẳng có, cho nên chẳng ngại chân không. Chân không diệu hữu, diệu hữu chân không, cùng nhau vô ngại. Do đó:
‘’Sắc tức là không, không tức là sắc.’’
7). Không tướng tức là tướng. 8). Tướng tức là không tướng. ‘’Lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp.’’ Lìa khỏi tất cả tướng, tức là tất cả pháp. Ở nơi tướng muốn lìa tướng, nhìn nó thành không, đây tức là đạo lý không tướng tức tướng, tức tướng không tướng.
9). Không tánh tức là tánh. 10). Tánh tức là không tánh. Vì tánh tướng không hai, cho nên ở nơi tướng phải hiểu rõ tánh, ở nơi tánh cũng phải xem nó là không. Ở trong tướng tức là tánh, ở trong tánh tức là tướng, tánh tướng không hai, tánh tướng nhất như. Ðạo lý này là lý rộng lớn không thể nghĩ bàn, chẳng phải phàm phu có thể minh bạch được.
Hà dĩ cố? dục lệnh tăng tiến, ư nhất thiết Pháp thiện năng xuất ly. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng thêm tinh tấn, nơi tất cả pháp khéo thoát khỏi. Nếu có nghe pháp thì tự thấu hiểu, không do người khác chỉ dạy.
Giảng: Tại sao vậy ? Vì muốn khuyên chúng sinh học mười pháp rộng lớn này, vì muốn khiến cho Bồ Tát bất thối trụ, từng bước càng tinh tấn hơn, đối với tất cả các pháp khéo thoát khỏi được mà thấu hiểu. Nếu có nghe pháp thì tự mình thấu hiểu, không cần thiện trí thức chỉ dạy.
8. Đồng Chơn Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát đồng chân trụ? thử Bồ-tát trụ thập chủng nghiệp. Hà giả vi thập? sở vị: thân hạnh/hành/hàng vô thất, ngữ hạnh/hành/hàng vô thất, ý hạnh/hành/hàng vô thất, tùy ý thọ sanh, tri chúng sanh chủng chủng dục, tri chúng sanh chủng chủng giải, tri chúng sanh chủng chủng giới, tri chúng sanh chủng chủng nghiệp, tri thế giới thành hoại, thần túc tự tại, sở hạnh vô ngại. Thị vi thập.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát đồng chân trụ. Bồ Tát này trụ mười thứ nghiệp. Những gì là mười ? Đó là: Thân hành không lỗi. Ngữ hành không lỗi. Ý hành không lỗi. Tùy ý thọ sinh. Biết chúng sinh đủ thứ dục. Biết chúng sinh đủ thứ sự hiểu biết. Biết chúng sinh đủ thứ loài. Biết chúng sinh đủ thứ nghiệp. Biết thế giới thành hoại. Thần túc tự tại, sở hành vô ngại. Đó là mười.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thế nào là Bồ Tát đồng chân trụ ? Vì Bồ Tát này thân như đồng thể (đồng tử), tư tưởng thuần chân, chẳng có tập khí không tốt, cho nên gọi là đồng chân trụ. Bồ Tát đồng chân trụ, thường trụ nơi mười nghiệp mà không có lỗi lầm. Gì là mười nghiệp ? Ðó là:
1). Thân hành không lỗi: Thân thể làm gì cũng chẳng có sai lầm hoặc có lỗi.
2). Ngữ hành không lỗi: Nói lời nào ra cũng đều đúng đắn không có giả dối. Tuyệt đối chẳng nói dối, hai lưỡi, thêu dệt, chửi mắng.
3). Ý hành không lỗi: Trong tâm nghĩ gì cũng đều thanh tịnh, nhân từ, sáng lạng, tuyệt đối chẳng có tư tưởng nhiễm ô, cũng chẳng có vọng tưởng lỗi lầm.
4). Tùy ý thọ sinh: Tùy theo ý nghĩ của mình mà đi thọ sinh. Ðời sau muốn làm gì thì làm cái đó, tức cũng là toại tâm như ý.
5). Biết chúng sinh đủ thứ dục: Biết rõ ràng đủ thứ dục niệm của chúng sinh.
6). Biết chúng sinh đủ thứ sự hiểu biết: Biết tất cả chúng sinh hiểu biết về cái gì ?
7). Biết chúng sinh đủ thứ giới: Biết mỗi chúng sinh giới làm gì. Con ong của loàn ong, là biết hút mật hoa về làm mật. Con kiến của loài kiến, là biết đi tìm thức ăn đem về hang. Trong mười hai loại chúng sinh, mỗi loại đều khác nhau, sinh hoạt cũng khác nhau.
8). Biết chúng sinh đủ thứ nghiệp: Biết hết thảy chúng sinh tạo ra đủ thứ nghiệp. Chó tại sao lại làm chó ? Vì tạo nghiệp làm chó. Mèo tại sao phải làm mèo ? Vì tạo nghiệp mèo. Tóm lại, tạo nghiệp gì thì thọ quả báo đó.
9). Biết thế giới thành hoại: Biết thế giới thành như thế nào ? Hoại như thế nào ? Còn biết người sinh ra sao ? Quá trình chết như thế nào ?
10). Thần túc tự tại, sở hành vô ngại: Có thần túc thông thì tùy ý đi lại, tự tại biến hóa vô cùng, toại tâm như ý, làm gì cũng chẳng có chướng ngại.
Ðây là mười pháp của Bồ Tát đồng chân trụ.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập chủng Pháp. Hà giả vi thập? sở vị: tri nhất thiết Phật sát, động nhất thiết Phật sát, trì nhất thiết Phật sát, quán nhất thiết Phật sát, nghệ nhất thiết Phật sát, du hạnh/hành/hàng vô số thế giới, lĩnh thọ vô số Phật Pháp, hiện biến hóa tự tại thân, xuất quảng đại biến mãn âm, nhất sát-na trung thừa sự cúng dường vô số chư Phật.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Biết tất cả cõi Phật. Chấn động tất cả cõi Phật. Hộ trì tất cả cõi Phật. Quán sát tất cả cõi Phật. Đến tất cả cõi Phật. Du hành vô số thế giới. Lãnh thọ vô số Phật pháp. Hiện biến hóa thân tự tại. Vang ra âm thanh rộng lớn đầy khắp. Trong một sát na, thừa sự cúng dường vô số các đức Phật.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát đồng chân trụ, nên khuyến hóa chúng sinh học mười thứ pháp này. Gì là mười pháp ? Ðó là:
1). Biết tất cả cõi Phật: Bồ Tát đồng chân trụ nên biết mười phương ba đời tất cả cõi nước của chư Phật.
2). Chấn động tất cả cõi Phật: Biết tất cả cõi Phật rồi, còn phải chấn động cõi Phật nào đó, phải biết cõi Phật nào đó, phải biết cõi Phật đó, vị nào làm giáo chủ.
3). Hộ trì tất cả cõi Phật: Cõi Phật cũng có thành, trụ, hoại, không, bốn giai đoạn, đến lúc nên đến hộ trì cõi nước của mỗi vị Phật.
4). Quán sát tất cả cõi Phật: Tuy nhiên hộ trì tất cả cõi Phật, nhưng còn phải quán sát nhân duyên của tất cả cõi Phật, có nên đến hộ trì chăng ?
5). Ðến tất cả cõi Phật: Nên hộ trì cõi Phật đó, thì liền đến cõi Phật đó.
6). Du hành vô số thế giới: Bồ Tát đồng chân trụ, đều có thần thông tự tại, có thể du hành đến vô lượng vô số thế giới.
7). Lãnh thọ vô số Phật pháp: Ðến vô số thế giới để làm gì ? Ðể lãnh thọ tất cả pháp của chư Phật nói.
8). Hiện biến hóa thân tự tại: Hiện ra tự không hóa có, tự có hóa không; tự nhỏ hóa lớn, tự lớn hóa nhỏ; tự ít hóa nhiều; tự nhiều hóa ít, toại tâm như ý, biến hóa vô cùng, đó là thân tự tại.
9). Vang ra âm thanh rộng lớn đầy khắp: Thè tướng lưỡi rộng dài, vang ra âm thanh rộng lớn, đầy khắp các cõi Phật, diễn nói Phật pháp.
10). Trong một sát na, thừa sự cúng dường vô số các đức Phật: Ở trong một niệm, đi đến mười phương thế giới để thừa sự cúng dường mười phương ba đời tất cả các đức Phật. Bồ Tát có thần lực diệu dụng như thế.
Hà dĩ cố? dục lệnh tăng tiến, ư nhất thiết Pháp năng đắc thiện xảo. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng thêm tinh tấn, nơi tất cả pháp đắc được sự khéo léo. Nếu có nghe pháp thì liền thấu hiểu, chẳng do người khác chỉ dạy.
Giảng: Tại sao phải khuyên học mười pháp này ? Vì muốn khiến cho Bồ Tát đồng chân trụ, tăng thêm tinh tấn. Ðối với tám vạn bốn ngàn pháp môn Phật nói ra, mỗi một pháp môn, đều đắc được trí huệ phương tiện khéo léo. Bất cứ ở trong pháp hội của vị Phật nào nghe thuyết pháp, thì tự mình khoát nhiên thông đạt, khai ngộ thấu hiểu đạo lý thật tướng của các pháp, không cần Phật phải giải thích tỉ mỉ, đến giáo hóa.
9. Pháp Vương Tử Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát Vương tử trụ? thử Bồ Tát thiện tri thập chủng Pháp. Hà giả vi thập? sở vị: thiện tri chư chúng sanh thọ sanh, thiện tri chư phiền não hiện khởi, thiện tri tập khí tướng tục, thiện tri sở hạnh/hành/hàng phương tiện, thiện tri vô lượng Pháp, thiện giải chư uy nghi, thiện tri thế giới sái biệt, thiện tri tiền tế hậu tế sự, thiện tri diễn thuyết thế đế, thiện tri diễn thuyết đệ nhất nghĩa đế. Thị vi thập.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát pháp vương tử trụ ? Bồ Tát này khéo biết mười pháp. Những gì là mười pháp ? Đó là: Khéo biết các chúng sinh thọ sanh. Khéo biết các phiền não hiện khởi. Khéo biết tập khí liên tục. Khéo biết sở hành phương tiện. Khéo biết vô lượng pháp. Khéo hiểu biết các oai nghi. Khéo biết thế giới khác nhau. Khéo biết việc trước sau. Khéo biết diễn nói thế đế. Khéo biết diễn nói đệ nhất nghĩa đế. Đó là mười.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là Bồ Tát pháp vương tử trụ ? Vì Phật là Pháp Vương, Bồ Tát là Pháp Vương tử (con của đấng Pháp Vương). Có quyền kế thừa đấng Pháp Vương, cho nên gọi là Pháp Vương tử trụ. Bồ Tát pháp vương tử trụ, khéo biết mười thứ pháp môn. Những gì là mười ? Ðó là:
1). Khéo biết các chúng sinh thọ sinh: Ngài khéo biết tất cả chúng sinh tạo nghiệp như thế nào ? Thọ sinh tử ra sao ? Mỗi loài chúng sinh đều có nhân duyên đặc biệt của họ, Ngài hoàn toàn thấu rõ.
2). Khéo biết các phiền não hiện khởi: Ngài khéo biết tất cả chúng sinh tại sao hiện khởi lên phiền não.
3). Khéo biết tập khí liên tục: Ngài khéo biết tập khí của tất cả chúng sinh, giống như sóng, liên tục không ngừng. Tập khí kiếp trước của chúng sinh, sinh ra tập khí đời này; tập khí đời này, sinh ra tập khí đời sau, đời đời kiếp kiếp, liên tục không ngừng. Bồ Tát làm thế nào mà biết được ? Vì Bồ Tát chứng được trí huệ túc mạng thông, cho nên biết tập khí của tất cả chúng sinh.
4). Khéo biết sở hành phương tiện: Ngài khéo biết sở hành phương tiện: Ngài khéo biết pháp môn phương tiện nên hành. Nghĩa là nên dùng thân gì độ được, thì hiện ra thân đó để vì họ nói pháp. Nên dùng pháp gì độ được, thì dùng phương tiện pháp môn đó, để vì họ nói pháp.
5). Khéo biết vô lượng pháp: Bồ Tát là chiếu thấu các pháp thật tướng, do đó: ‘’Vào sâu tạng kinh, trí huệ như biển.’’ Khéo biết vô lượng diệu pháp.
6). Khéo hiểu biết các oai nghi: Ngài khéo hiểu biết ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.
7). Khéo biết thế giới khác nhau: Ngài khéo biết thế giới thành trụ hoại không bốn kiếp, đều có những sự khác nhau.
8). Khéo biết việc trước sau: Ngài khéo biết việc trước, cũng biết việc sau này. Lại biết tâm niệm trước của chúng sinh, sanh ra như thế nào ? Tâm niệm sau sinh ra như thế nào ? Tất cả đều thấu rõ.
9). Khéo biết diễn nói thế đế: Ngài khéo biết căn tánh của chúng sinh, dùng pháp hữu vi thế gian, để vì họ diễn nói pháp thế đế.
10). Khéo biết diễn nói đệ nhất nghĩa đế: Ngài khéo biết chúng sinh có lợi căn, để vì họ diễn nói pháp vô vi xuất thế gian, khiến cho họ thấu rõ đạo lý đệ nhất nghĩa đế. Ðây là mười pháp mà Bồ Tát pháp vương tử trụ khéo biết.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học thập chủng Pháp. Hà giả vi thập? sở vị: pháp vương xứ thiện xảo, pháp vương xứ quỹ độ, pháp vương xứ cung điện, pháp vương xứ thú nhập, pháp vương xứ quan sát, Pháp Vương quán đảnh, pháp vương lực trì, pháp vương vô úy, pháp vương yến tẩm, pháp vương tán thán.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười pháp. Những gì là mười ? Đó là: Pháp Vương xứ thiện xảo. Pháp Vương xứ quỹ độ. Pháp Vương xứ cung điện. Pháp Vương xứ thú nhập. Pháp Vương xứ quán sát. Pháp Vương quán đảnh. Pháp Vương lực trì. Pháp Vương vô uý. Pháp Vương ngủ nghỉ. Pháp Vương khen ngợi.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát pháp vương tử trụ, nên khuyến hóa chúng sinh học mười thứ pháp này. Song, mình cũng phải học mười pháp này. Những gì là mười pháp ? Ðó là:
1). Pháp Vương xứ thiện xảo: Pháp Vương (Phật) xử lý phương pháp khéo léo. Cũng có thể nói chỗ ở của đấng Pháp Vương, làm thế nào xử lý tất cả phương tiện khéo léo. Pháp Vương tử phải học theo Phật.
2). Pháp Vương xứ quỹ độ: Quỹ là phép tắc, độ là pháp độ. Pháp Vương làm thế nào để xử lý tất cả nghi thức và quỹ độ, nên học tập theo.
3). Pháp Vương xứ cung điện: Cung là chỗ nghỉ ngơi, điện là chỗ nghị sự. Khi Pháp Vương ở nội cung, thì Pháp Vương tử nên hành tử lễ, khi Pháp Vương ở ngoại cung, thì Pháp Vương tử nên hành thần lễ. Ðây cũng có quỹ độ nhất định.
4). Pháp vương xứ thú nhập: Khi pháp vương thú nhập tất cả lễ nghi thì nghi thức thế nào cũng phải học theo.
5). Pháp Vương xứ quán sát: Khi Pháp Vương tại vị thì Pháp Vương tử phải quán sát tất cả nhân duyên. Do đó: ‘’Vào thì nhìn phụ vương, xem nhan sắc tiếng nói của ông ta. Ra thì nhìn quần thần, biết kẻ hiền người ngu.’’ Bồ Tát vào thì quán Phật giáo lý, ra thì xem cơ được chăng ?
6). Pháp Vương quán đảnh: Lúc Pháp Vương tử thọ chức Pháp Vương, thì phải trải qua nghi thức quán đảnh. Mười phương chư Phật dùng nước pháp để quán đảnh, khiến cho phát bốn tâm vô lượng, để giáo hóa chúng sinh.
7). Pháp Vương lực trì: Pháp vương làm thế nào lực trì tất cả pháp ? Pháp Vương tử phải học theo. Bồ Tát lục độ tứ nhiếp, vạn hạnh tổng trì, đây là ý nghĩa về lực.
8). Pháp Vương vô úy: Pháp Vương vô sở uý như thế nào ? Bồ Tát tu hành thì lìa năm thứ sợ hãi, đắc được mười thứ vô úy (không sợ hãi).
9). Pháp Vương ngủ nghỉ: Pháp vương ngủ như thế nào ?
10). Pháp Vương khen ngợi: Pháp Vương nên khen ngợi gì ? Bồ Tát nên kính ngưỡng khen ngợi đức của Phật. Mười pháp này, pháp vương tử trụ Bồ Tát đều nên biết, phải học tập những pháp này.
Hà dĩ cố? dục lệnh tăng tiến, tâm vô chướng ngại. Hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng thêm tinh tấn, tâm chẳng chướng ngại. Nếu có nghe pháp thì liền tự thấu hiểu, không do người khác chỉ dạy.
Giảng: Bồ Tát Pháp Vương tử, vì sao phải học mười thứ pháp này ? Vì muốn khiến cho tăng thêm tinh tấn, trong tâm chẳng có mọi chướng ngại và chấp trước nào. Phàm là ở trong đạo tràng của chư Phật, nghe pháp thì tự mình thấu hiểu, không cần Phật phải chỉ dạy.
10. Quán Đảnh Trụ
— 0O0 —
Phật tử! vân hà vi Bồ Tát quán đảnh trụ? thử Bồ Tát đắc thành tựu thập chủng trí. Hà giả vi thập? sở vị: chấn động vô số thế giới, chiếu diệu vô số thế giới, trụ trì vô số thế giới, vãng nghệ vô số thế giới, nghiêm tịnh vô số thế giới, khai thị vô số chúng sanh, quan sát vô số chúng sanh, tri vô số chúng sanh căn, lệnh vô số chúng sanh thú nhập, lệnh vô số chúng sanh điều phục. Thị vi thập.
Phật tử ! Thế nào là Bồ Tát quán đảnh trụ ? Bồ Tát này được thành tựu mười thứ trí. Những gì là mười trí ? Đó là: Chấn động vô số thế giới. Chiếu sáng vô số thế giới. Trụ trì vô số thế giới. Đi đến vô số thế giới. Nghiêm tịnh vô số thế giới. Khai thị vô số chúng sinh. Quán sát vô số chúng sinh. Biết căn tánh vô số chúng sinh. Khiến cho vô số chúng sinh hướng về. Khiến cho vô số chúng sinh điều phục. Đó là mười.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là Bồ Tát quán đảnh trụ ? Vì khi Bồ Tát kế thừa vị Pháp Vương tử, thì trước hết phải thọ nghi thức quán đảnh, mười phương chư Phật đến quán đảnh, cho nên gọi là quán đảnh trụ. Bồ Tát phải thành tựu mười trí huệ không thể nghĩ bàn này, mới đắc được bậc quán đảnh. Gì là mười thứ trí huệ ? Ðó là:
1). Chấn động vô số thế giới: Bồ Tát quán đảnh trụ, có trí huệ đại oai thần lực, biết thế giới nào nên chấn động, thì hiện sáu thứ chấn động, để nhiếp phục tất cả chúng sinh.
2). Chiếu sáng vô số thế giới: Bồ Tát quán đảnh trụ, có đại trí huệ, đại quang minh, chiếu soi đến vô số thế giới.
3). Trụ trì vô số thế giới: Bồ Tát quán đảnh trụ, dùng sức thần thông để hộ trì vô số thế giới, khiến cho thế giới an trụ lâu dài, chẳng bị hủy hoại.
4). Ði đến vô số thế giới: Bồ Tát quán đảnh trụ, phải đi đến đạo tràng của mười phương tất cả chư Phật, để thừa sự cúng dường hết thảy chư Phật.
5). Nghiêm tịnh vô số thế giới: Bồ Tát quán đảnh trụ, trang nghiêm thanh tịnh vô số thế giới.
6). Khai thị vô số thế giới: Bồ Tát quán đảnh trụ, dùng trí huệ không thể nghĩ bàn của Ngài, để khai đạo tất cả chúng sinh, để chỉ dạy tất cả chúng sinh, khiến cho vô số chúng sinh phát tâm bồ đề, tương lai sẽ thành Phật đạo.
7). Quán sát vô số chúng sinh: Bồ Tát quán đảnh trụ, khéo quán sát nhân duyên của vô số chúng sinh, dùng đủ thứ phương tiện để giáo hóa.
8). Biết căn tánh vô số chúng sinh: Bồ Tát quán đảnh trụ, biết căn tánh của vô số chúng sinh. Căn tánh của chúng sinh khác nhau, người gieo căn lành nhiều thì thông minh; người gieo căn lành ít thì ngu si. Biết căn tánh của chúng sinh rồi, thì phải dùng phương pháp để cứu độ, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
9). Khiến cho vô số chúng sinh hướng về: Bồ Tát quán đảnh trụ hay khiến cho vô số chúng sinh hướng về đạo bồ đề.
10). Khiến cho vô số chúng sinh điều phục: Bồ Tát quán đảnh trụ, dùng đại trí huệ để điều phục chúng sinh cang cường. Do đó ‘’Chúng sinh cang cường khó điều phục.’’ Song, Bồ Tát này đều có thể điều phục được vô số chúng sinh, phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng.
Ðây là mười thứ trí huệ của Bồ Tát quán đảnh trụ.
Phật tử! thử Bồ Tát thân cập thân nghiệp, thần thông biến hiện, quá khứ trí, vị lai trí, hiện tại trí thành tựu Phật thổ, tâm cảnh giới, trí cảnh giới giai bất khả tri, nãi chí pháp vương tử Bồ Tát diệc bất năng trai.
Phật tử ! Thân của Bồ Tát này và nghiệp thân, thần thông, biến hiện, trí huệ quá khứ, trí huệ vị lai, trí huệ hiện tại, thành tựu cõi Phật, tâm cảnh giới, trí cảnh giới, đều không thể biết được, cho đến Bồ Tát Pháp Vương tử cũng không biết được.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Thân của Bồ Tát quán đảnh trụ và thân nghiệp tạo ra, đều là do thần thông biến hóa. Ngài có cảnh giới không thể nghĩ bàn. Dùng trí huệ đã tu trong quá khứ, trí huệ tu hành thuở vị lai, trí huệ tu hành trong hiện tại, thành tựu tất cả cõi nước chư Phật, trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật, thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Tất cả cảnh giới của tâm chúng sinh, cảnh giới của tất cả trí chúng sinh, đều không thể biết được cảnh giới này. Cho đến Bồ Tát Pháp Vương tử trụ cũng không thể hiểu những cảnh giới vừa nói ở trên của Bồ Tát quán đảnh trụ.
Phật tử! thử Bồ Tát ưng khuyến học chư Phật thập chủng trí. Hà giả vi thập? sở vị: tam thế trí, Phật Pháp trí, pháp giới vô ngại trí, Pháp giới vô biên trí, sung mãn nhất thiết thế giới trí, phổ chiếu nhất thiết thế giới trí, Trụ Trì Nhất Thiết Thế Giới Trí, tri nhất thiết chúng sanh trí, tri nhất thiết pháp trí, tri vô biên chư Phật trí.
Phật tử ! Bồ Tát này nên khuyên học mười thứ trí của chư Phật. Những gì là mười ? Đó là: Trí ba đời. Trí Phật pháp. Trí pháp giới vô ngại. Trí pháp giới vô biên. Trí sung mãn tất cả thế giới. Trí chiếu khắp tất cả thế giới. Trí biết tất cả chúng sinh. Trí biết tất cả pháp. Trí biết vô biên chư Phật.
Giảng: Bồ Tát Pháp Huệ lại gọi một tiếng, các vị đệ tử của Phật ! Bồ Tát quán đảnh trụ nên khuyên hóa chúng sinh học mười thứ trí huệ của chư Phật. Tự mình cũng phải học mười thứ trí huệ này. Những gì là mười thứ trí huệ ? Ðó là:
1). Trí ba đời: Tức là trí huệ quá khứ, vi lai, hiện tại ba đời.
2). Trí Phật pháp: Trí huệ Phật pháp mà chư Phật nói.
3). Trí pháp giới vô ngại: Lý sự vô ngại pháp giới, sự sự vô ngại pháp giới, trí huệ này.
4). Trí pháp giới vô biên: Pháp giới chẳng có bờ mé, trí huệ này.
5). Trí sung mãn tất cả thế giới: Trí huệ này hay đầy khắp tất cả thế giới.
6). Trí chiếu khắp tất cả thế giới: Trí huệ này hay chiếu soi khắp tất cả thế giới.
7). Trí trụ trì tất cả thế giới: Thứ trí huệ này hay trụ trì tất cả thế giới.
8). Trí biết tất cả chúng sinh: Trí huệ biết tất cả chúng sinh.
9). Trí biết tất cả pháp: Trí huệ biết tất cả pháp.
10). Trí biết vô biên chư Phật: Trí huệ biết vô biên các đức Phật.
Hà dĩ cố? dục lệnh tăng trưởng nhất thiết chủng trí. hữu sở văn Pháp, tức tự khai giải, bất do tha giáo cố.
Tại sao ? Vì muốn khiến cho tăng trưởng tất cả trí huệ, nếu có nghe pháp, liền tự thấu hiểu, không do người khác chỉ dạy.
Giảng: Tại sao phải học mười thứ trí huệ của chư Phật ? Là vì muốn khiến cho Bồ Tát quán đảnh trụ tăng trưởng tất cả trí huệ. Nếu có nghe pháp thì tự khai ngộ thấu hiểu, không cần chư Phật chỉ dạy.
— 0O0 —
Nhĩ thời, Phật thần lực cố, thập phương các nhất vạn Phật sát vi trần số thế giới, lục chủng chấn động. sở vị: động, biến động, đẳng biến động, khởi, biến khởi, đẳng biến khởi, dũng, biến dũng, đẳng biến dũng, chấn, biến chấn, đẳng biến chấn, hống, biến hống, đẳng biến hống, kích, biến kích, đẳng biến kích.
Bấy giờ, nhờ thần lực của Phật, trong mười phương, mỗi phương có các thế giới nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật, đều sáu thứ chấn động. Đó là: Động, biến động, đẳng biến động. Khởi, biến khởi, đẳng biến khởi. Dũng, biến dũng, đẳng biến dũng. Chấn, biến chấn, đẳng biến chấn. Hống, biến hống, đẳng biến hống. Kích, biến kích, đẳng biến kích.
Giảng: Lúc đó, vì nhờ oai thần lực của Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi phương trong mười phương, đều có các thế giới nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật. Mỗi thế giới, đều có sáu thứ chấn động phát sinh ra. Nhưng chẳng phải khiến cho chúng sinh thọ tổn hại, mà là khiến cho chúng sinh tỉnh ngộ. Gì là sáu thứ chấn động ? Tức là: Động, dũng, khởi (thuộc về hình), chấn, hống, kích (thuộc về tiếng). Sáu thứ hiện tượng này lại biến thành mười tám thứ hiện tượng.
1). Ðộng: Ðây động mà kia chẳng động, hoặc kia động mà đây chẳng động, là động cục bộ.
2). Biến động: Là động khắp hết, cả thế giới đều động.
3). Ðẳng biến động: Ðồng thời hết thảy thế giới, cùng lúc động khắp hết.
4). Khởi: Ở tại chỗ này có khởi, mà chỗ khác chẳng có khởi. Hoặc ở chỗ này chẳng có khởi, mà chỗ kia có khởi.
5). Biến khởi: Ở thế giới này khắp nơi đều khởi, mà thế giới khác chẳng khởi.
6). Ðẳng biến khởi: Ðồng thời ở hết thảy thế giới, cùng lúc khắp nơi đều khởi.
7). Dũng: Ở tại chỗ này có hiện tượng dũng (nhảy), mà ở chỗ khác chẳng có hiện tượng dũng.
8). Biến dũng: Cả thế giới khắp nơi đều dũng.
9). Ðẳng biến dũng: Ðồng thời ở hết thảy thế giới, cùng lúc khắp mọi nơi đều dũng.
10). Chấn: Ở chỗ này có cảm giác chấn động, nhưng ở chỗ khác chẳng có cảm giác chấn động.
11). Biến chấn: Toàn thế giới khắp nơi đều chấn động.
12). Ðẳng biến chấn: Ðồng thời ở tại hết thảy thế giới, cùng lúc đều có cảm giác chấn động.
13). Hống: Ở chỗ này có tiếng hống, mà ở chỗ khác chẳng có tiếng hống.
14). Biến hống: Ở khắp thế giới đều có tiếng hống.
15). Ðẳng biến hống: Ðồng thời ở tại hết thảy thế giới, cùng lúc khắp nơi đều có tiếng hống.
16). Kích: Ở chỗ này có tiếng kích (tiếng khua), mà ở thế giới khác chẳng có tiếng (khua) kích.
17). Biến kích: Toàn thế giới khắp nơi đều có tiếng kích.
18). Ðẳng biến kích: Ðồng thời ở tại hết thảy thế giới, cùng lúc khắp nơi đều có tiếng kích. Ðây là tình hình mười tám thứ chấn động.
Vũ Thiên hương khí, Thiên mạt hương, thiên hoa man, Thiên tạp hương, Thiên bảo y, Thiên Bảo Vân, Thiên trang nghiêm cụ, Thiên chư âm nhạc bất cổ tự minh, phóng đại quang minh cập diệu âm thanh.
Mưa xuống hoa trời đẹp. Hương bột trời. Tràng hoa trời. Tạp hương trời. Y báu trời. Mây báu trời. Đồ trang nghiêm trời. Các âm nhạc trời, không tấu mà tự vang lên. Phóng ánh sáng trời và âm thanh vi diệu.
Giảng: Khi đại địa sáu thứ chấn động, thì từ trong hư không mưa xuống hoa trời quý đẹp. Hương bột trên trời, tràng hoa trời, tạp hương trên trời, y báu của người trời mặc, mây báu trên trời, đồ trang nghiêm tốt đẹp ở trên trời. Âm nhạc trên trời đều tự nhiên vang ra tiếng hay vi diệu, không cần diễn tấu. Lại phóng ra hết thảy ánh sáng trên trời và hết thảy tiếng hay vi diệu trên trời.
Như thử tứ thiên hạ Tu-di sơn đảnh/đính Đế Thích điện thượng, thuyết thập trụ pháp, hiện chư thần biến. Thập phương sở hữu nhất thiết thế giới, tất diệc như thị.
Như ở đỉnh núi Tu Di tứ thiên hạ này, trong điện Đế Thích, nói pháp Thập Trụ, hiện các thần thông biến hóa. Hết thảy tất cả mười phương thế giới cũng đều như thế.
Giảng: Như ở đỉnh núi Tu Di tứ thiên hạ của thế giới Ta Bà này, trong cung điện của trời Ðế Thích, diễn nói pháp Thập Trụ, hiện ra đủ thứ thần thông biến hóa. Ở trong mười phương hết thảy thế giới, cũng đều như ở thế giới Ta Bà, Phật Thích ca ở trên đỉnh núi Tu Di, cung điện trời Ðế Thích nói pháp Thập Trụ.
Hựu dĩ Phật thần lực cố, thập phương các quá/qua nhất vạn Phật sát vi trần số thế giới, hữu thập Phật sát vi trần số Bồ Tát, lai nghệ ư thử, sung mãn thập phương, tác như thị ngôn: Thiện tai! Thiện tai! Phật tử thiện thuyết thử pháp!
Lại nhờ thần lực của Phật, mỗi phương trong mười phương, qua khỏi các thế giới, nhiều như số hạt bụi vạn cõi Phật. Có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đều đi đến đây, đầy khắp mười phương, nói như vầy: Lành thay ! Lành thay ! Phật tử ! Khéo nói pháp này.
Giảng: Hết hảy Bồ Tát trong mười phương, lại nhờ đại oai thần lực của đức Phật, mỗi phương trong mười phương, qua khỏi các thế giới nhiều như số hạt bụi một vạn cõi Phật, có các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười vạn cõi Phật, đều đến thế giới Ta Bà trên đỉnh núi Tu Di, cung điện trời Ðế Thích, đầy khắp mười phương, các Ngài cùng lúc nói: ‘’Lành thay ! Lành thay ! Phật tử ! Ông khéo nói diệu pháp Thập Trụ.’’
Ngã đẳng chư nhân, đồng danh: Pháp tuệ. sở tòng lai quốc, đồng danh: pháp vân. bỉ độ Như Lai, giai danh: diệu pháp. ngã đẳng Phật sở, diệc thuyết thập trụ. chúng hội quyến thuộc, văn cú nghĩa lý, tất diệc như thị, vô hữu tăng giảm.
Chúng tôi mọi người đều đồng hiệu là Pháp Huệ. Đến từ cõi nước đồng tên là Pháp Vân. Đức Như Lai ở cõi đó, đều đồng hiệu là Diệu Pháp. Chúng tôi ở chỗ đức Phật cũng nói Thập Trụ, chúng hội quyến thuộc, văn, câu nghĩa, cũng đều như vậy, chẳng có thêm bớt.
Giảng: Những Bồ Tát này nói: Chúng tôi mọi người đều đồng pháp hiệu, đều gọi là Pháp Huệ. Cõi nước của chúng tôi đến cũng đồng tên, đều gọi là Pháp Vân. Danh hiệu Phật trong hết thảy cõi nước Pháp Vân đều gọi là Phật Diệu Pháp. Chúng tôi ở chỗ Phật cũng nói diệu pháp Thập Trụ. Ðại chúng trong pháp hội và hết thảy quyến thuộc đều như nhau. Câu văn và nghĩa lý pháp Thập Trụ cũng giống như ở thế giới Ta Bà, một chữ không thêm, một chữ cũng không bớt. Do đó:
‘’Ba đời mười phương Phật
Đều cùng một pháp âm.’’
Ðều nói diệu pháp này.
Phật tử! ngã đẳng thừa Phật thần lực lai nhập thử hội, vi nhữ tác chứng: như ư thử hội, thập phương sở hữu nhất thiết thế giới, tất diệc như thị.
Phật tử ! Chúng tôi nương thần lực của Phật, đến vào hội này để làm chứng minh cho Ngài. Như nơi hội này, mười phương hết thảy tất cả thế giới, cũng đều như thế.
Giảng: Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật, đến pháp hội Hoa Nghiêm nói với Bồ Tát Pháp Huệ: ‘’Phật tử ! Chúng tôi mọi người nương đại oai thần lực của Phật Thích Ca Mâu Ni, đến thế giới Ta Bà, vào pháp hội Hoa Nghiêm, là để chứng minh Ngài nói pháp Thập Trụ. Trong mười phương hết thảy tất cả thế giới, đều giống như pháp hội này, chẳng có gì khác biệt, đều đang nói pháp Thập Trụ.’’
Nhĩ thời, Pháp tuệ Bồ Tát thừa Phật uy lực, quan sát thập phương 暨vu Pháp giới nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, Bồ Tát Pháp Huệ nương oai lực của đức Phật, quán sát mười phương khắp cùng pháp giới, mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó vị Bồ Tát Pháp Huệ, nương đại oai thần lực của Phật Thích Ca Mâu Ni, quán sát khắp nhân duyên của mười phương tất cả chúng sinh, cho đến nhân duyên của hết thảy pháp giới chúng sinh, mà nói ra một trăm bài kệ, để giáo hóa pháp giới chúng sinh.
Kiến tối thắng trí vi diệu thân Thấy Tối Thắng Trí thân tốt đẹp
Tướng hảo đoan nghiêm giai cụ túc Tướng tốt trang nghiêm đều đầy đủ
Như thị tôn trọng thậm nan ngộ Tôn trọng như vậy rất khó gặp
Bồ Tát dũng mãnh sơ phát tâm. Bồ Tát dũng mãnh sơ phát tâm.
Bồ Tát Pháp Huệ nói: Hiện tại tôi thấy được trí huệ tối thù thắng của Phật, lại thấy thân Phật vi diệu không thể nghĩ bàn. Vì thân Phật biến hóa vô cùng, ẩn hiển khó dò. Lại có ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp, rất trang nghiêm xinh đẹp. Phước cũng đầy đủ, huệ cũng đầy đủ, do đó gọi là ‘’Lưỡng Túc Tôn.’’ (Phước huệ đều đầy đủ). Một số chúng sinh tôn trọng Phật, cúng dường Phật, vì thân tốt đẹp của Phật chẳng dễ gì gặp được. Có lúc sinh ở trước Phật, có lúc sinh ra sau Phật. Ðược sinh vào thời Ðức Phật cũng rất khó gặp Phật. Vì nhân duyên đó, cho nên Bồ Tát dũng mãnh ban đầu phát tâm, tinh tấn tu đạo vô thượng.
Kiến vô đẳng bỉ đại thần thông, Thấy đại thần thông không sánh bằng
Văn thuyết kí tâm cập giáo giới, Nghe nói thọ ký và dạy bảo
Chư thú chúng sanh vô lượng khổ Chúng sinh các cõi vô lượng khổ
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Thấy được đại thần thông không ai sánh bằng của Phật, nghe được pháp thọ ký của Phật nói, pháp quyền xảo phương tiện, pháp chân thật để giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh không làm ác mà làm các điều lành. Do đó:
‘’Ðừng làm các điều ác
Hãy làm các điều lành.’’
Chúng sinh trong sáu nẻo, đều có vô lượng khổ. Mỗi nẻo chúng sinh đều có khổ của họ. Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, thấy được tình hình như vậy, muốn cứu chúng sinh thọ khổ, được an lạc, cho nên phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng.
Văn chư Như Lai phổ thắng tôn, Nghe các Như Lai đấng Phổ Thắng
Nhất thiết công đức giai thành tựu, Tất cả công đức đều thành tựu
Thí như hư không bất phân biệt, Ví như hư không chẳng phân biệt
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Lại nghe được tất cả Như Lai đấng Phổ Thắng, hết thảy công đức, đều thành tựu. Công đức của Phật, cứu kính có bao nhiêu ? Chẳng cách chi nói được. Do đó có câu:
‘’Sát trần tâm niệm khả sổ tri
Đại hải trung thủy khả ẩm tận
Hư không khả lượng phong khả khế
Vô năng thuyết tận Phật công đức.’’
Nghĩa là:
‘’Hạt bụi tâm niệm đếm biết được
Nước trong biển cả uống hết được
Hư không lường được, gió buộc được
Không thể nói hết công đức Phật.’’
Cho nên nói tất cả công đức của Phật đều thành tựu. Công đức của Phật giống như hư không, chẳng khác biệt. Hư không chẳng gì mà không dung được, chẳng gì mà không bao quát hết, hay dung nạp tất cả vạn sự vạn vật. Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, ngưỡng mộ công đức tu hành của Phật, công đức thành tựu của Phật. Do nhân duyên đó mà phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng.
Tam thế nhân quả danh vi xứ Ba đời quả báo gọi là xứ
Ngã đẳng tự tánh vi phi xứ, Tự tánh chúng tôi là phi xứ
Dục tất liễu tri chân thật nghĩa, Đều muốn biết rõ nghĩa chân thật
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Nhân quả đời quá khứ, nhân quả đời vị lai, nhân quả đời hiện tại, gọi là xứ sở thọ quả báo. Do đó có câu:
‘’Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thọ giả thị
Dục tri lai thế quả
Kim sinh tác giả thị.’’
Nghĩa là:
‘’Muốn biết nhân đời trước
Là đời nay mình thọ
Muốn biết quả vị lai
Là đời này mình làm.’’
Ðây là nói rõ nhân quả ba đời. Ðời trước trồng nhân gì, thì đời này kết quả đó. Trồng nhân lành thì kết quả lành, trồng nhân ác thì kết quả ác. Trồng nhân chẳng thiện chẳng ác, thì kết quả không thiện không ác. Muốn biết quả đời sau như thế nào, thì hãy nhìn đời này làm gì? Ðời này cứ làm việc lành, thì đời sau sẽ kết quả lành. Ðời này cứ làm việc ác, thì đời sau sẽ kết quả ác. Cho nên nhân quả tơ hào chẳng sai. Nhân quả là mình tạo, chứ chẳng phải Phật, Bồ Tát tạo; chẳng giống như tôn giáo khác, chủ trương có thần đến chủ tể, đến chi phối vận mạng. Ðó là tư tưởng sai lầm, mà càng sai lầm. Giống như mình đi đường, muốn đến hướng đông, thì đi theo hướng đông; muốn đến hướng tây, thì đi theo hướng tây, đều tùy tâm niệm của mình mà đi. Nhân quả cũng như vậy, cho nên nói ba đời nhân quả gọi là xứ. Tự tánh của chúng ta là không, chẳng có gì, tức là hợp với pháp giới mà làm một. Ðây là chân không, cũng là diệu hữu. Chân không diệu hữu là tự tánh, tự tánh thì tìm chẳng được xứ sở nhất định. Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, muốn chân chính minh bạch đạo lý chân thật này, mà phát tâm bồ đề, siêng tu Phật đạo vô thượng.
Quá khứ vị lai hiện tại thế, Đời quá khứ vị lai hiện tại
Sở hữu nhất thiết thiện ác nghiệp, Hết thảy tất cả nghiệp thiện ác
Dục tất liễu tri vô bất tận, Đều muốn biết rõ vô bất tận
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Ðời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại, đây là ba đời. Tâm quá khứ, tâm vị lai, tâm hiện tại, đây cũng là ba đời. Niệm quá khứ, niệm vị lai, niệm hiện tại, đây cũng là ba đời. Ba đời có ba đời thời gian dài, lại có ba thời gian ngắn. Nghiệp tạo ra trong ba đời là thiện ác lẫn lộn. Có lúc trong thiện có chút ác, hoặc trong ác có chút thiện. Chẳng phải nghiệp thiện thuần tịnh, cũng chẳng phải nghiệp ác thuần tịnh, là nghiệp thiện ác hỗn hợp. Bồ Tát muốn thấu hiểu tất cả đạo lý, cho đến chẳng có chỗ nào mà chẳng hiểu. Do nhân duyên đó, cho nên Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Chư Thiền giải thoát cập tam muội, Các thiền giải thoát và tam muội
Tạp nhiễm thanh tịnh vô lượng chủng, Tạp nhiễm thanh tịnh vô lượng thứ
Dục tất liễu tri nhập trụ xuất, Đều muốn biết rõ nhập trụ xuất
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bốn thiền, tám giải thoát, chín định thứ lớp, tạp nhiễm thanh tịnh, đều có vô lượng vô biên thứ loại. Bồ Tát muốn biết rõ nhập định, trụ định, xuất định, đủ thứ cảnh giới. Vì quan hệ như vậy, cho nên Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng.
Tùy chư chúng sanh căn lợi độn, Tùy các chúng sinh căn lợi độn
Như thị chủng chủng tinh tấn lực Như vậy đủ thứ sức tinh tấn
Dục tất liễu đạt phân biệt tri, Đều muốn thấu đạt muốn phân biệt
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Có chúng sinh sanh ra thì thông minh, đây là lợi căn; có chúng sinh sanh ra thì ngu si, đây là độn căn. Cho nên căn tánh chúng sinh đều khác nhau. Nhưng bất luận là lợi căn, hoặc độn căn, đều phải dũng mãnh tinh tấn, mới có sự thành tựu. Có đủ thứ phương pháp tinh tấn. Muốn hoàn toàn thấu rõ thông đạt, phân biệt biết căn tánh lợi độn của chúng sinh. Do nhân duyên đó, Bồ Tát ban đầu phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Nhất thiết chúng sanh chủng chủng giải, Tất cả chúng sinh đủ thứ giải
Tâm sở hảo lạc/nhạc các sái biệt, Tâm họ ưa thích đều khác nhau
Như thị vô lượng dục tất tri, Như vậy vô lượng dục đều biết
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tất cả chúng sinh có đủ thứ tri kiến, đủ thứ hiểu biết. Sự hoan hỷ trong tâm mỗi chúng sinh đều khác nhau. Vô lượng vô biên kiến giải như vậy, vì muốn hoàn toàn biết rõ, Bồ Tát nhờ đây mà trụ nơi bậc ban đầu phát tâm, phát bồ đề tâm, tu đạo vô thượng.
Chúng sanh chư giới các sái biệt, Chúng sinh các loài đều khác nhau
Nhất thiết thế gian vô hữu lượng, Tất cả thế gian vô số lượng
Dục tất liễu tri kỳ thể tánh, Đều muốn biết rõ thể tánh họ
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Chúng sinh do chúng duyên hòa hợp mà sinh. Chúng sinh có mười hai loài, đó là: Thai, noãn, thấp, hóa, có tưởng, không tưởng, có sắc, không sắc, chẳng có tưởng, chẳng có sắc, chẳng không tưởng, chẳng không sắc. Phân tích tỉ mỉ mà nói, thì trong mỗi loài chúng sinh, lại có vô lượng vô biên chúng sinh. Chúng sinh giới đều khác nhau. Chúng sinh trong tất cả thế gian, chẳng có số lượng. Bồ Tát muốn thấu rõ hoàn toàn chúng sinh giới và thể tánh chúng sinh, do nhân duyên đó, nên Bồ Tát trụ nơi bậc Bồ Tát ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, tu đạo vô thượng.
Nhất thiết hữu vi chư hành đạo, Tất cả hữu vi các hạnh đạo
Nhất nhất giai hữu sở chí xứ Mỗi mỗi đều có chỗ nơi đến
Tất dục liễu tri kỳ thật tánh, Đều muốn biết rõ thật tánh đó
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Hết thảy tất cả đạo hữu vi tu hành, mỗi thứ đạo hạnh, đều có một chỗ nơi đến, tức là nơi tương lai sẽ đến. Bồ Tát muốn biết rõ tánh chân thật đó mà trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Nhất thiết thế giới chư chúng sanh Tất cả thế giới các chúng sinh
Tùy nghiệp phiêu lưu vô tạm tức, Tùy nghiệp trôi nổi chẳng tạm ngừng
Dục đắc Thiên nhãn giai minh kiến, Muốn được thiên nhãn đều thấy rõ
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Mười phương hết thảy tất cả thế giới chúng sinh, đều do khởi hoặc, đi tạo nghiệp, và thọ lấy quả báo, cho nên tùy theo nghiệp đã tạo ra mà trôi nổi. Lúc lên trời, lúc ở dưới đất, lưu chuyển trong sáu nẻo luân hồi, chẳng có lúc nào ngừng. Bồ Tát muốn được trí huệ thiên nhãn vô ngại, mới thấy rõ cảnh giới này. Do nhân duyên đó, mà trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Quá khứ thế trung tằng sở hữu, Trong đời quá khứ đã từng có
Như thị thể tánh như thị tướng, Thể tánh như vậy tướng như vậy
Dục tất liễu tri kỳ tú trụ Đều muốn biết rõ đời trước kia
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Trong đời quá khứ, đã từng có thể tánh như vậy và tướng như vậy. Bồ Tát vì muốn biết rõ, thấu hiểu nhân duyên đời quá khứ, cho nên trụ ở bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Nhất thiết chúng sanh chư kiết hoặc Tất cả chúng sinh các kiết hoặc
Tướng tục hiện khởi cập tập khí, Liên tục hiện khởi và tập khí
Dục tất liễu tri cứu cánh tận, Đều muốn biết rõ rốt ráo hết
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Hết thảy tất cả chúng sinh, đều có kết nghiệp của mình tạo ra và có sự mê hoặc, đều liên tục không ngừng. Hiện khởi và tập khí chẳng gián đoạn. Bồ Tát muốn minh bạch biết rõ, những kết hoặc liên tục hiện khởi tập khí đủ thứ vấn đề, cứu kính đoạn sạch như thế nào ? Do nhân duyên đó, cho nên trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Tùy chư chúng sanh sở an lập Tùy các chúng sinh chỗ an lập
Chủng chủng đàm luận ngữ ngôn đạo, Đủ thứ đàm luận đường ngôn ngữ
Như kỳ thế đế tất dục tri, Như pháp thế đế đều muốn biết
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Tùy thuận tất cả chúng sinh chỗ an lập, có đủ thứ đàm luận, có đủ thứ đường ngôn ngữ. Mỗi loại chúng sinh đều có đường đàm luận ngôn ngữ của họ. Theo loài người mà nói, thì toàn thế giới có rất nhiều văn tự và ngôn ngữ. Mỗi nước đều có một thứ văn tự và mấy thứ tiếng. Chủng tộc của chúng sinh khác nhau, văn tự cũng khác nhau, hết thảy pháp tục đế thế gian, thập thụ Bồ Tát đều muốn biết. Do nhân duyên đó, cho nên trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề tu đạo vô thượng.
Nhất thiết chư pháp ly ngôn thuyết, Tất cả các pháp lìa lời nói
Tánh không tịch diệt vô sở tác, Tánh không vắng lặng chẳng tạo tác
Dục tất minh đạt thử chân nghĩa Đều muốn thông đạt nghĩa thật này
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Hết thảy tất cả các pháp, phàm là nói ra được, đều chẳng phải pháp chân thật. Pháp chân thật là lìa tướng lời nói, lìa tướng văn tự, lìa tướng duyên tâm. Nó là quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng, cho nên nói ‘’Tất cả pháp lìa lời nói.’’ Nếu là pháp chân đế, thì đều lìa khỏi lời nói, do đó:
‘’Ðường lời nói đã dứt
Chỗ tâm hành đã diệt.’’
Ðây tức là thật tướng lý thể của pháp. Tự tánh của tất cả pháp là không, chẳng có thật thể, cho nên ‘’Tánh không vắng lặng chẳng tạo tác,’’ chẳng có cái năng tác, cũng chẳng có sở tác. Bồ Tát muốn thấu rõ thông đạt nghĩa chân thật này, cho nên trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Dục tất chấn động thập phương quốc, Đều muốn chấn động mười phương cõi
Khuynh phước nhất thiết chư đại hải, Nghiêng đổ tất cả các biển cả
Cụ túc chư Phật đại thần thông Đầy đủ chư Phật đại thần thông
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát đều muốn mười phương cõi nước, đều có sáu thứ chấn động, có thể nghiêng đổ tất cả các biển cả. Tại sao lại có sức lực như vậy ? Ðó là đầy đủ đại thần thông lực của chư Phật. Bồ Tát nhờ đây mà trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Dục nhất mao khổng phóng quang minh, Muốn một lỗ lông phóng quang minh
Phổ chiếu thập phương vô lượng độ, Chiếu khắp mười phương vô lượng cõi
Nhất nhất quang trung giác nhất thiết, Trong mỗi quang minh giác tất cả
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát muốn trong một lỗ chân lông, phóng ra đại quang minh, chiếu khắp hết thảy mười phương vô lượng các cõi Phật. Trong mỗi lỗ chân lông đều có thể phóng quang. Trong mỗi luồng quang minh, giác ngộ được tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều phát tâm bồ đề. Bồ Tát do nhân duyên cảnh giới này, mà trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Dục dĩ nạn/nan tư chư Phật sát, Muốn đem các cõi Phật khó nghĩ
Tất trí chưởng trung nhi bất động, Đều để trong tay mà không động
Liễu tri nhất thiết như huyễn hóa, Biết rõ tất cả như huyễn hóa
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát muốn đem các cõi Phật không thể nghĩ bàn, hoàn toàn để vào trong lòng bàn tay mà chẳng giao động. Mười phương các cõi Phật cũng chẳng nhỏ, bàn tay của Bồ Tát cũng chẳng lớn, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Tại sao được như vậy ? Tri kiến của phàm phu chẳng thể minh bạch được. Khi nào chứng được ngũ nhãn lục thông, thì nhẹ mà dễ nâng lên, sẽ minh bạch đạo lý của nó. Bồ Tát thấu rõ tất cả các pháp như huyễn, như hóa, chẳng có tánh chân thật. Do nhân duyên đó, cho nên trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Dục dĩ vô lượng sát chúng sanh, Muốn đem chúng sinh vô lượng cõi
Trí nhất mao đoan bất bách ải, Để đầu sợi lông chẳng đè nén
Tất tri vô nhân vô hữu ngã Đều biết không người không có ta
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát muốn đem vô lượng vô biên chúng sinh trong các cõi Phật, hoàn toàn để trên đầu một sợi lông, mà chẳng đè nén, nghĩa là chẳng chật hẹp. Tại sao lại được như vậy ? Vì Bồ Tát đều biết cảnh giới không người, không ta. Bồ Tát nhờ đây mà trụ nơi bậc ban đầu phát tâm, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Dục dĩ nhất mao tích hải thủy, Muốn dùng sợi lông chấm nước biển
Nhất thiết đại hải tất lệnh kiệt, Tất cả biển cả đều khô cạn
Nhi tất phân biệt tri kỳ số Thảy đều phân biệt biết số giọt
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát muốn dùng một sợi lông để chấm nước biển cả, khiến cho tất cả biển cả đều hoàn toàn khô cạn hết (Bồ Tát có thần thông diệu dụng này, không thể không tin). Bồ Tát lại biết được dùng bao nhiêu lần sợi lông chấm nước biển, làm cho biển khô cạn, nghĩa là biết rõ bao nhiêu giọt. Bồ Tát nhờ thần thông diệu dụng này, mà trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Bất khả tư nghị chư quốc độ, Không thể nghĩ bàn các cõi nước
Tận mạt vi trần vô di giả, Nghiền hết làm bụi không bỏ sót
Dục tất phân biệt tri kỳ số Đều muốn phân biệt biết số bụi
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Mười phương hết thảy các thế giới, nhiều không thể nghĩ bàn. Nếu đem hết thảy cõi nước không thể nghĩ bàn nghiền nát thành bụi, chẳng có bỏ sót. Bồ Tát đều muốn phân biệt để biết có bao nhiêu hạt bụi ? Vì nhân duyên đó, cho nên Bồ Tát trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Quá khứ vị lai vô lượng kiếp, Quá khứ vị lai vô lượng kiếp
Nhất thiết thế gian thành hoại tướng, Tất cả thế gian tướng thành hoại
Dục tất liễu đạt cùng kỳ tế Đều muốn thông đạt tột bờ mé
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Quá khứ vô lượng kiếp, vị lai vô lượng kiếp, hiện tại vô lượng kiếp, hết thảy thế gian thành như thế nào ? Trụ ra sao ? Hoại ra sao ? Không ra sao ? Tướng bốn kiếp này, Bồ Tát đều muốn thấu hiểu, thông đạt tột cùng cảnh giới của nó. Do nguyên nhân này, Bồ Tát trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Tam thế sở hữu chư Như Lai, Ba đời hết thảy các Như Lai
Nhất thiết độc giác cập Thanh văn, Tất cả Độc Giác và Thanh Văn
Dục tri kỳ Pháp tận vô dư, Muốn biết pháp đó hết không dư
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Ba đời hết thảy tất cả chư Phật, tất cả Độc Giác, tất cả Thanh Văn, Bồ Tát muốn biết thế nào tu mà thành Phật ? Thế nào mà tu thành Độc Giác ? Thế nào mà tu thành Thanh Văn ? Do nguyên nhân này, Bồ Tát trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Vô lượng vô biên chư thế giới, Vô lượng vô biên các thế giới
Dục dĩ nhất mao tất xưng cử, Muốn dùng sợi lông để nâng lên
Như kỳ thể tướng tất liễu tri, Như thể tướng đó đều biết rõ
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Có vô lượng vô biên thế giới. Bồ Tát muốn dùng một sợi lông để nâng lên. Thế giới đó, hoặc là thể, hoặc là tướng, Bồ Tát đều hoàn toàn biết rõ. Thập Trụ Bồ Tát, nhờ thần thông diệu dụng này mà phát tâm bồ đề, trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Vô lượng vô số luân vi sơn Vô lượng vô số núi Luân Vi
Dục lệnh tất nhập mao khổng trung, Đều muốn để vào trong lỗ lông
Như kỳ đại tiểu giai đắc tri, Như núi lớn nhỏ đều biết được
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Có vô lượng vô số núi Luân Vi, Bồ Tát muốn để vào trong một lỗ chân lông. Núi Luân Vi đó lớn hoặc nhỏ, ở trong một lỗ chân lông đều biết được. Bồ Tát muốn tu thần thông diệu dụng này, cho nên trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ, hướng về trước cầu thắng định, tu đạo vô thượng.
Dục dĩ tịch tĩnh nhất Diệu-Âm, Muốn dùng một diệu âm tịch tĩnh
Phổ ưng thập phương tùy loại diễn, Ứng khắp mười phương tùy loại nói
Như thị giai lệnh tịnh minh liễu, Như vậy đều khiến hiểu thanh tịnh
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát muốn dùng một thứ âm thanh vi diệu, ứng khắp hết thảy mười phương tất cả chúng sinh, tùy loài mà diễn nói diệu pháp không thể nghĩ bàn. Do đó:
‘’Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh tùy loài đều hiểu rõ.’’
Giống như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh đều hiểu thanh tịnh pháp âm đó. Vì Bồ Tát cũng muốn đắc được thần thông diệu dụng này, cho nên phát tâm bồ đề, trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn Pháp, Pháp ngôn ngữ tất cả chúng sinh
Nhất ngôn diễn thuyết vô bất tận, Một lời diễn nói đều hết cả
Tất dục liễu tri kỳ tự tánh, Đều muốn biết rõ tự tánh đó
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Hết thảy tất cả pháp ngôn ngữ của tất cả chúng sinh, ngôn ngữ của loài người và ngôn ngữ của súc sinh. Bồ Tát có thần thông, dùng một câu thì tất cả ngôn ngữ đều hoàn toàn nói hết. Bồ Tát muốn hoàn toàn thấu rõ và biết tự tánh của ngôn ngữ, cho nên Thập Trụ Bồ Tát phát tâm bồ đề, trụ nơi ban đầu phát tâm trụ.
Thế gian ngôn âm mị/mị bất tác, Tiếng nói thế gian đều nói được
Tất lệnh kỳ giải chứng tịch diệt, Đều khiến họ hiểu chứng tịch diệt
Dục đắc như thị diệu thiệt căn Muốn được như vậy căn lưỡi diệu
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát đối với tất cả ngôn ngữ âm thanh thế gian, đều nói được tất cả. Khiến cho hết thảy mỗi loài chúng sinh đều minh bạch mà chứng được pháp chân thường tịch diệt. Bồ Tát muốn đắc được căn lưỡi vi diệu này, hay diễn nói tất cả diệu pháp. Thập Trụ Bồ Tát, vì nhân duyên này mà phát tâm bồ đề, trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Dục sử thập phương chư thế giới, Muốn khiến mười phương các thế giới
Hữu thành hoại tướng giai đắc kiến, Có tướng thành hoại đều thấy được
Nhi tất tri tùng phân biệt sanh, Thảy đều biết từ phân biệt sinh
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát muốn khiến cho mười phương hết thảy tất cả thế giới, có thành, trụ, hoại, không, bốn tướng này, thì đều thấy được, mà còn biết được thành trụ hoại không, đều do chúng sinh phân biệt suy nghĩ mà thành tựu. Do đó, cho nên Thập Trụ Bồ Tát phát tâm bồ đề, trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Nhất thiết thập phương chư thế giới, Tất cả mười phương các thế giới
Vô lượng Như Lai tất sung mãn, Vô lượng Như Lai đều thấy khắp
Dục tất liễu tri bỉ Phật Pháp, Đều muốn biết rõ pháp Phật đó
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Mười phương hết thảy tất cả thế giới, ở trong mỗi thế giới, đều có Phật đang ở đó giáo hóa chúng sinh, cho nên nói: ‘’Vô lượng Như Lai đều thấy khắp.’’ Bồ Tát muốn biết tất cả pháp của chư Phật nói, cho nên Thập Trụ Bồ Tát phát tâm bồ đề, trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Chủng chủng biến hóa vô lượng thân, Đủ thứ biến hóa vô lượng thân
Nhất thiết thế giới vi trần đẳng, Tất cả thế giới nhiều như bụi
Dục tất liễu đạt tùng tâm khởi, Đều muốn thông đạt từ tâm khởi
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát muốn đắc được đủ thứ biến hóa vô lượng vô biên hóa thân. Hy vọng hóa thành nhiều như hết thảy hạt bụi của tất cả thế giới. Cảnh giới thần thông diệu dụng này, vẫn chẳng lìa khỏi một tâm niệm, đều từ tâm mà sinh ra. Thập Trụ Bồ Tát, vì muốn thông đạt đạo lý từ tâm khởi, cho nên phát tâm bồ đề, trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Quá khứ vị lai hiện tại thế, Đời quá khứ vị lai hiện tại
Vô lượng vô số chư Như Lai, Vô lượng vô số các Như Lai
Dục ư nhất niệm tất liễu tri, Muốn nơi một niệm đều biết rõ
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Ðời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại, có vô lượng vô số chư Phật. Bồ Tát muốn nơi một tâm niệm, đều thấu hiểu biết rõ số mục của chư Phật, Thập Trụ Bồ Tát vì nhân duyên này, mà phát tâm bồ đề, trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Dục cụ diễn thuyết nhất cú pháp Muốn diễn nói đủ một câu pháp
A-tăng-kì kiếp vô hữu tận, A tăng kỳ kiếp không hết được
Nhi lệnh văn nghĩa các bất đồng Mà khiến văn nghĩa đều khác nhau
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Bồ Tát muốn diễn nói đầy đủ viên mãn một câu Phật pháp, dù vô lượng vô biên kiếp cùng tận, cũng nói không xong một câu pháp. Hết thảy văn nghĩa đều khác nhau. Có lúc văn tùy nghĩa, có khi nghĩa tùy văn. Thập Trụ Bồ Tát vì muốn mãn tâm nguyện này, cho nên phát tâm bồ đề, trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Thập phương nhất thiết chư chúng sanh Mười phương tất cả các chúng sinh
Tùy kỳ lưu chuyển sanh diệt tướng, Tùy sự lưu chuyển tướng sinh diệt
Dục ư nhất niệm giai minh đạt, Muốn nơi một niệm đều thông đạt
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây sơ phát tâm.
Mười phương thế giới hết thảy tất cả chúng sinh, đều sinh rồi chết, chết rồi sinh, sinh tử ở trong luân hồi, kết thúc rồi bắt đầu, tuần hoàn không ngừng, lưu chuyển tướng sinh diệt. Bồ Tát muốn ở trong một niệm, đều thấu rõ thông đạt tướng sinh diệt của chúng sinh. Làm thế nào khiến cho chúng sinh chẳng lưu chuyển ở trong luân hồi sinh tử, mà nhập vào dòng Thánh nhân pháp tánh. Thập Trụ Bồ Tát muốn đắc được trí huệ nhãn này, cho nên phát tâm bồ đề, mà trụ nơi bậc ban đầu phát tâm trụ.
Dục dĩ thân ngữ cập ý nghiệp Muốn dùng thân lời và ý nghiệp
Phổ nghệ thập phương vô sở ngại, Đến khắp mười phương chẳng chướng ngại
Liễu tri tam thế giai không tịch, Biết rõ ba đời đều không tịch
Bồ Tát dĩ thử sơ phát tâm. Bồ Tát nhờ đây ban đầu phát tâm.
Bồ Tát muốn dùng thân, lời, ý ba nghiệp, ở trong một niệm, đến khắp mười phương gần gũi chư Phật, cúng dường chư Phật. Giáo hóa chúng sinh, phổ độ chúng sinh. Ba nghiệp này đến mười phương chẳng có chướng ngại. Do đó, nguyện như thế nào thì như thế ấy. Bồ Tát muốn minh bạch biết ba đời đều là không tịch. Do đó:
‘’Tâm quá khứ bất khả đắc
Tâm hiện tại bất khả đắc
Tâm vị lai bất khả đắc.’’
Thập Trụ Bồ Tát, do nhân duyên này mà phát tâm bồ đề, trụ ở quả vị ban đầu phát tâm trụ.
Bồ Tát như thị phát tâm dĩ, Bồ Tát phát tâm như vậy rồi
Ưng lệnh vãng nghệ thập phương quốc, Hãy nên đi đến mười phương cõi
Cung kính cúng dường chư Như Lai, Cung kính cúng dường các Như Lai
Dĩ thử sử kỳ vô thoái chuyển. Nhờ đây khiến cho chẳng thối chuyển.
Bồ Tát Thập Trụ phát những đại tâm bồ đề rồi, thì nên đến mười phương thế giới cõi nước chư Phật, để cung kính cúng dường chư Phật. Bồ Tát vì muốn dũng mãnh tinh tấn mà phát tâm đại bồ đề, vĩnh viễn chẳng thối chuyển.
Bồ Tát dũng mãnh cầu Phật đạo, Bồ Tát dũng mãnh cầu Phật đạo
Trụ ư sanh tử bất bì yếm, Trụ nơi sinh tử chẳng nhàm chán
Ni bỉ xưng thán sử thuận hành Vì họ khen ngợi khiến thuận hành
Như thị lệnh kỳ vô thoái chuyển. Như vậy khiến cho chẳng thối chuyển.
Bồ Tát trên cầu Phật đạo, dưới độ chúng sinh. Trong mỗi niệm đều phát tâm bồ đề mà chẳng khởi vọng niệm khác. Tuy Bồ Tát trụ nơi sinh tử, mà chẳng nhàm chán sinh tử. Tại sao ? Vì Bồ Tát có tâm từ bi, nhận rằng đó là trách nhiệm của mình, cho nên tâm cam tình nguyện trụ nơi sinh tử, để giáo hóa chúng sinh, lìa khổ được vui. Song, người nhị thừa chẳng có tư tưởng này. Họ xem ba cõi như lao ngục, thấy sinh tử như oan gia. Cho nên mau mau thoát khỏi sinh tử. Tư tưởng của Bồ Tát ở nơi sinh tử tức là Niết Bàn, chẳng có hai lối nghĩ, cho nên chẳng nhàm chán sinh tử, vì chúng sinh mà khen ngợi siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, đây tức là thuận hành. Vì Bồ Tát thuận hành tinh tấn tu hành, cho nên ngày càng tinh tấn tiến về trước, chứ chẳng thối lùi về sau.
Thập phương thế giới vô lượng sát, Mười phương thế giới vô lượng cõi
Tất tại kỳ trung tác tôn chủ, Đều ở trong đó làm tôn chủ
Vi chư Bồ-tát như thị thuyết, Vì các Bồ Tát nói như vậy
Dĩ thử lệnh kỳ vô thoái chuyển. Nhờ đây khiến cho chẳng thối chuyển.
Mười phương thế giới vô lượng vô biên cõi nước, ở trong mỗi cõi nước, đều có Phật ở trong đó giáo hóa chúng sinh. Vì Thập Trụ Bồ Tát mà diễn nói pháp môn Thập Trụ, khiến cho Thập Trụ Bồ Tát phát tâm đại bồ đề, chẳng thối chuyển quả vị này.
Tối thắng tối thượng tối đệ nhất, Tối thắng tối thượng tối đệ nhất
Thậm thâm vi diệu thanh tịnh Pháp, Pháp thâm sâu vi diệu thanh tịnh
Khuyến chư Bồ-tát thuyết dữ nhân, Khuyên các Bồ Tát nói cho người
Như thị giáo lệnh ly phiền não. Dạy như vậy khiến lìa phiền não.
Pháp là thù thắng nhất, cao thượng nhất, là bậc nhất. Bài kệ khai kinh có nói rằng:
‘’Pháp vi diệu thâm sâu vô thượng
Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.’’
Pháp này là pháp thâm sâu vi diệu thanh tịnh. Pháp này phải nói mới vi diệu được. Nếu không nói thì có vi diệu cũng không vi diệu. Cho nên Phật mong tất cả Bồ Tát, đem pháp thâm sâu vi diệu thanh tịnh này, diễn nói cho mọi người nghe, khiến cho họ minh bạch pháp vi diệu này. Vì Bồ Tát trợ giúp Phật để giáo hóa chúng sinh. Do đó, quay thuyền từ bi trở lại, đến thế giới Ta Bà, giáo hóa chúng sinh, lìa khỏi phiền não, đắc được tự tại.
Nhất thiết thế gian vô dữ đẳng, Tất cả thế gian không gì bằng
Bất khả khuynh động tồi phục xứ Nơi không thể khuynh động thôi phục
Vi bỉ Bồ Tát thường xưng tán Vì họ Bồ Tát thường khen ngợi
Như thị giáo lệnh Bất-thoái-chuyển. Dạy như vậy khiến chẳng thối chuyển.
Tâm kim cang kiên cố này, tất cả thế gian chẳng có gì sánh được. Cũng không thể khuynh động, cũng không thể thôi phục, vì Thập Trụ Bồ Tát luôn luôn khen ngợi dũng mãnh tinh tấn bồ đề tâm. Giống như vậy, Phật giáo khiến cho Bồ Tát và chúng sinh chẳng thối chuyển tâm bồ đề.
Phật thị thế gian Đại lực chủ, Phật là đại lực chủ thế gian
Cụ túc nhất thiết chư công đức, Đầy đủ tất cả các công đức
Lệnh chư Bồ-tát trụ thị trung Khiến các Bồ Tát trụ trong đó
Dĩ thử giáo vi thắng trượng phu. Nhờ đây dạy thành thắng trượng phu.
Phật là chủ nhân đại hùng đại lực, đã đầy đủ hết thảy tất cả công đức, khiến cho tất cả Bồ Tát phát tâm bồ đề, trụ ở trong đại lực, trụ ở trong công đức, nhờ nhân duyên đó mà giáo hóa Bồ Tát và chúng sinh trở thành bậc trượng phu thù thắng, tức cũng là bậc đại trượng phu.
Vô lượng vô biên chư Phật sở Vô lượng vô biên chỗ chư Phật
Tất đắc vãng nghệ nhi thân cận, Đều được đi đến để gần gũi
Thường vi chư Phật sở nhiếp thọ, Thường được chư Phật luôn nhiếp thọ
Như thị giáo lệnh Bất-thoái-chuyển. Dạy như vậy khiến chẳng thối chuyển.
Ở chỗ vô lượng vô biên các đức Phật, Bồ Tát đều đi đến đạo tràng của các Ðức Phật, để gần gũi Phật, luôn luôn được chư Phật nhiếp thọ. Như vậy, Phật giáo khiến cho tất cả Bồ Tát chẳng thối tâm bồ đề, dũng mãnh tinh tấn, cầu đạo vô thượng.
Sở hữu tịch tĩnh chư tam muội, Hết thảy tịch tĩnh các tam muội
Tất giai diễn sướng vô hữu dư, Thảy đều diễn xướng không còn sót
Vi bỉ Bồ Tát như thị thuyết, Vì họ Bồ Tát nói như vậy
Dĩ thử lệnh kỳ Bất-thoái-chuyển. Nhờ đây khiến họ chẳng thối chuyển.
Hết thảy tịch tĩnh tất cả tam muội, luôn luôn đều diễn nói diệu pháp này mà chẳng còn sót. Phật thường vì Thập trụ Bồ Tát mà nói diệu pháp này, khiến cho Bồ Tát chẳng thối chuyển tâm bồ đề, cũng khiến cho chúng sinh chẳng thối chuyển tâm bồ đề.
Tồi diệt chư hữu sanh tử luân, Phá tan các cõi vòng sinh tử
Chuyển ư thanh tịnh diệu pháp luân, Chuyển bánh xe diệu pháp thanh tịnh
Nhất thiết thế gian vô sở trước, Tất cả thế gian chẳng chấp trước
Vi chư Bồ-tát như thị thuyết. Vì các Bồ Tát nói như vậy.
Phá tan luân hồi sinh tử các cõi. Các cõi tức là tam giới hai mươi lăm cõi, có sinh có tử. Muốn chuyển bánh xe diệu pháp thanh tịnh, do đó “Pháp luân thường chuyển”. Khiến cho tất cả chúng sinh thế gian chẳng còn chấp trước, lại vì tất cả Bồ Tát nói pháp lớn không chấp trước, khiến cho Thập Trụ Bồ Tát chuyển bánh xe diệu pháp vô thượng không thể nghĩ bàn.
Nhất thiết chúng sanh đọa ác đạo Tất cả chúng sinh đọa đường ác
Vô lượng trọng khổ sở triền bách, Vô lượng khổ nặng vây bức bách
Dữ tác cứu hộ quy y xứ, Làm chỗ nương tựa cứu hộ họ
Vi chư Bồ-tát như thị thuyết. Vì các Bồ Tát nói như vậy.
Bồ Tát Pháp Huệ nói: Tất cả chúng sinh tại sao hay đọa vào ba đường ác ? Vì tham sân si quá nặng, cho nên tạo ra tội nghiệp. Có tội nghiệp thì đương nhiên phải đọa vào ba đường ác, phải chịu vô lượng vô biên khổ nặng. Trong đại địa ngục phải thọ cực hình, trên núi đao dưới chảo dầu sôi, khát thì uống nước sắt nóng, đói thì ăn hoàn sắt nóng, có các sự khổ nặng nói không hết được, nào trói buộc, nào bức bách não hại. Bồ Tát vì cứu chúng sinh thọ khổ, cũng là chỗ nương tựa của chúng sinh. Vì tất cả Bồ Tát nói pháp nên cứu hộ chúng sinh.
Thử thị Bồ Tát phát tâm trụ, Đây là Bồ Tát phát tâm trụ
Nhất hướng chí cầu vô thượng đạo, Một hướng chí cầu đạo vô thượng
Như ngã sở thuyết giáo hối Pháp, Như pháp dạy bảo tôi vừa nói
Nhất thiết chư Phật diệc như thị. Tất cả chư Phật cũng như vậy.
Ðây là trụ thứ nhất trong Thập Trụ, Bồ Tát phát tâm trụ. Vì một hướng chí cầu đạo vô thượng, cho nên trụ nơi ban đầu phát tâm trụ. Giống như tôi (Pháp Huệ Bồ Tát) vừa nói pháp Thập Trụ, là pháp dạy bảo Bồ Tát và chúng sinh, tất cả chư Phật cũng như vậy.
Đệ nhị trì địa trụ Bồ Tát, Thứ hai Bồ Tát trị địa trụ
Ứng đương phát khởi như thị tâm, Phải nên phát khởi tâm như vậy
Thập phương nhất thiết chư chúng sanh Mười phương tất cả các chúng sinh
Nguyện sử tất thuận Như Lai giáo. Nguyện đều thuận Như Lai giáo hóa.
Trụ thứ hai là trị địa trụ. Bồ Tát trụ tại trị địa trụ, phải nên phát khởi tâm như vầy (tâm nói dưới đây), nguyện hết thảy chúng sinh mười phương thế giới, đều thuận theo đạo lý của Như Lai giáo hóa, y theo pháp mà tu hành.
Lợi ích đại bi an lạc tâm, Tâm lợi ích đại bi an lạc
An trụ liên mẫn nhiếp thọ tâm, Tâm an trụ thương xót nhiếp thọ
Thủ hộ chúng sanh đồng kỷ tâm, Thủ hộ chúng sinh đồng tâm mình
Sư tâm cập dĩ Đạo sư tâm. Tâm sư cùng với tâm đạo sư.
Bồ Tát trị địa trụ, đối với chúng sinh phải phát mười thứ tâm. Tức là tâm lợi ích, tâm đại bi, tâm an lạc, tâm an trụ, tâm thương xót, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ, tâm đồng mình, tâm sư, tâm đạo sư. Tóm lại, Bồ Tát nơi nơi đều vì chúng sinh mà phát các thứ tâm từ bi.
Dĩ trụ như thị thắng diệu tâm, Mình trụ tâm thắng diệu như vậy
Thứ lệnh tụng tập cầu đa văn, Kế khiến tụng tập cầu đa văn
Thường lạc tịch tĩnh chánh tư duy Thường ưa vắng lặng chánh tư duy
Thân cận nhất thiết thiện tri thức. Gần gũi tất cả thiện tri thức.
Bồ Tát nhị trụ tự mình trụ tâm thù thắng vi diệu không thể nghĩ bàn như đã nói ở trên, cầu đạo vô thượng. Kế tiếp, khiến cho tất cả Bồ Tát và tất cả chúng sinh tụng kinh tập pháp, cầu học rộng hiểu nhiều. Tức cũng là tụng kinh chép kinh, thọ trì kinh điển, nghe nhiều Phật pháp. Phải thường vắng lặng, nguyện tu tập thiền định, đây là pháp môn tư duy tu. Lại phải gần gũi tất cả thiện tri thức, xa lìa ác trí thức. Tại sao ? Vì thiện tri thức có thể dạy bạn tu hành như thế nào, trừ khử tập khí mao bệnh như thế nào ? Ác trí thức dạy bạn chẳng tu hành, làm tăng thêm tập khí mao bệnh của bạn. Cho nên phải gần gũi thiện tri thức, xa lìa ác tri thức.
Phát ngôn hòa duyệt ly thô quánh, Nói lời hòa duyệt lìa thô bạo
Ngôn tất tri thời vô sở úy, Nói phải biết thời chẳng sợ hãi
Liễu đạt ư nghĩa như Pháp hành, Thấu đạt nơi nghĩa như pháp hành
Viễn ly ngu mê tâm bất động. Xa lìa ngu mê tâm chẳng động.
Bất cứ lúc nào nói lời nói phải hòa nhan duyệt sắc, không thể nói lời thô bạo, càng không thể nói lời chẳng có lễ nghĩa. Lúc cần nói thì nói, chẳng có sự sợ hãi. Lúc không nên nói thì đừng nói lời bậy bạ, phải cẩn thận lời nói. Người xưa có nói:
‘’Bệnh từ miệng mà vào
Họa do miệng mà ra.’’
Ðây là triết lý kinh nghiệm. Phải thấu rõ tất cả nghĩa lý, y theo phương pháp tu hành, phải xa lìa ngu mê. Lúc này tâm có định lực thì chẳng giao động, chẳng bị cảnh bên ngoài làm lay chuyển. Do đó có câu:
‘’Núi Thái dù đổ trước mặt chẳng kinh sợ
Người đẹp trước mắt chẳng giao động.’’
Thử thị sơ học Bồ-đề hạnh Đây là ban đầu học hạnh bồ đề
Năng hành thử hạnh chân Phật tử Hay hành hạnh này chân Phật tử
Ngã kim thuyết bỉ sở ưng hành Nay tôi nói hạnh họ nên hành
Như thị Phật tử ưng cần học. Như vậy Phật tử nên siêng học.
Ðây là Bồ Tát ban đầu phát tâm, tu tập hạnh bồ đề. Hay tu hành thứ hạnh môn này, tức là Phật tử chân chánh. Tôi (Bồ Tát Pháp Huệ) hiện tại vì Bồ Tát ban đầu phát tâm, mà nói hạnh bồ đề nên tu hành. Pháp như vậy, tất cả Phật tử, nên siêng năng tinh tấn, đừng giải đãi.
Đệ tam Bồ Tát tu hành trụ Bồ Tát tu hành trụ thứ ba
Đương y Phật giáo cần quan sát, Nên y Phật dạy siêng quán sát
Chư Pháp vô thường khổ cập không, Các pháp vô thường khổ và không
Vô hữu ngã nhân vô động tác. Chẳng có ta người chẳng động tác.
Trụ thứ ba là Bồ Tát tu hành trụ. Bồ Tát trụ tại tu hành trụ, nên y chiếu theo pháp của Phật dạy mà siêng quán sát, y giáo tu hành. Phải biết các pháp là vô thường, khổ, không, vô ngã. Chẳng những chẳng có cái ta, chẳng có người, cũng chẳng có động tác. Phá tan mọi chấp trước thì chẳng còn chấp ta và chấp pháp. Chấp ta tức là phiền não chướng, chấp pháp tức là sở tri chướng.
Nhất thiết chư pháp bất khả lạc Tất cả các pháp không đáng ưa
Vô như danh tự vô xứ sở, Chẳng có danh tự chẳng xứ sở
Vô sở phân biệt vô chân thật, Chẳng có phân biệt chẳng chân thật
Như thị quán giả danh Bồ Tát. Hay quán như vậy gọi Bồ Tát.
Tất cả các pháp, đều chẳng đáng ưa, cũng chẳng có danh tự, cũng chẳng có xứ sở, cũng chẳng có phân biệt (tâm thức có phân biệt, trí tâm chẳng có phân biệt), cũng chẳng có chân thật, tất cả đều là hư vọng. Hay quán sát được như thế thì gọi là Bồ Tát.
Thứ lệnh quan sát chúng sanh giới, Lại khiến quán sát chúng sinh giới
Cập dĩ khuyến quán ư Pháp giới, Và khuyên quán sát nơi pháp giới
Thế giới sái biệt tận vô dư, Thế giới khác nhau không sót thừa
Ư bỉ hàm ưng khuyến quan sát. Nơi đó đều nên khuyên quán sát.
Lại nữa, khiến cho Bồ Tát quán sát tất cả chúng sinh giới và khuyên quán sát pháp giới. Hết thảy thế giới, khác nhau như thế nào, đều phải minh bạch thấu rõ. Hết thảy chúng sinh giới, pháp giới, thế giới, đều nên khuyên quán sát.
Thập phương thế giới cập hư không, Mười phương thế giới và hư không
Sở hữu địa thủy dữ hỏa phong, Hết thảy đất nước và gió lửa
Dục giới sắc giới vô sắc giới, Dục giới sắc giới vô sắc giới
Tất khuyến quan sát hàm lệnh tận. Đều khuyên quán sát khiến cùng tận.
Mười phương thế giới và hư không giới, cùng với hết thảy đất nước gió lửa bốn đại, cho đến dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đều nên khuyên Bồ Tát và chúng sinh quán sát tỉ mỉ. Tất cả pháp này, phải biết tất cả đều là tướng khác nhau.
Quan sát bỉ giới các sái biệt, Quán sát giới đó đều khác nhau
Cập kỳ thể tánh hàm cứu cánh, Và thể tánh đó đều rốt ráo
Đắc như thị giáo cần tu hành, Được dạy như vậy siêng tu hành
Thử tức danh vi chân Phật tử. Đây tức gọi là chân Phật tử.
Quán sát hết thảy chúng sinh giới, pháp giới, thế giới, dục giới, sắc giới, vô sắc giới và đất nước gió lửa bốn đại giới, đều là tướng khác nhau. Và thể tánh của mỗi giới, rốt ráo thấu rõ, hay được sự dạy khuyên tu hành như vậy, quán sát nhân duyên của tất cả pháp, hay thấu suốt tất cả pháp, thì gọi đó là Phật tử chân chánh.
Đệ tứ sanh quý trụ Bồ Tát, Thứ tư Bồ Tát sinh quý trụ
Tùng chư Thánh giáo nhi xuất sanh, Từ các Thánh giáo mà sinh ra
Liễu đạt chư hữu vô sở hữu, Thấu suốt các cõi chẳng chỗ có
Siêu quá bỉ Pháp sanh pháp giới. Vượt qua pháp đó sinh pháp giới.
Trụ thứ tư là Bồ Tát sinh quý trụ. Bồ Tát sinh quý trụ, là từ trong tất cả Thánh giáo sinh ra. Hay thông đạt tất cả các cõi đều là không, chẳng có thể tánh chân thật. Vượt qua tất cả pháp hữu vi, dùng pháp giới làm thể.
Tín Phật kiên cố bất khả hoại, Tin Phật vững chắc không thể hoại
Quán Pháp tịch diệt tâm an trụ Quán pháp vắng lặng tâm an trụ
Tùy chư chúng sanh tất liễu tri, Tùy các chúng sinh đều biết rõ
Thể tánh hư vọng vô chân thật. Thể tánh hư vọng không chân thật.
Tâm tin Phật phải kiên cố hơn là kim cang, không thể phá hoại được. Quán sát tất cả các pháp, đều là tướng vắng lặng, trong tâm chẳng sợ hãi, an trụ nơi pháp. Tùy thuận chúng sinh giới đều thấu rõ biết được, thể tánh đều là hư vọng, chẳng có chân thật.
Thế gian sát độ nghiệp cập báo Cõi nước thế gian nghiệp và báo
Sanh tử Niết-Bàn tất như thị, Sinh tử Niết Bàn đều như vậy
Phật tử ư Pháp như thị quán Phật tử nơi pháp quán như vậy
Tùng Phật thân sanh danh Phật tử. Từ Phật thân sinh gọi Phật tử.
Thế gian có chánh giác, hữu tình, khí, ba thế gian. Chỗ của Phật, Bồ Tát, Thánh nhân ở, gọi là chánh giác thế gian, chỗ của tất cả chúng sinh ở, gọi là hữu tình thế gian. Tất cả sông núi đất đai, nhà cửa phòng ốc, đều gọi là khí thế gian. Thế gian cõi nước của chúng sinh, vì một niệm vô minh mà sinh ra mê hoặc. Mê hoặc thì đi tạo nghiệp, tạo nghiệp thì phải thọ quả báo. Tạo nghiệp thiện thì thọ báo thiện, tạo nghiệp ác thì thọ báo ác. Sinh tử và Niết Bàn đều như nhau. Có phiền não thì có sinh tử, biến phiền não thành bồ đề, tức là Niết Bàn. Ðệ tử của Phật, đối với tất cả các pháp, đều phải quán sát như vậy. Nếu chẳng có mọi sự chấp trước, thì giống như từ thân Phật tự sinh ra, gọi là đệ tử của Phật.
Quá khứ vị lai hiện tại thế, Đời quá khứ vị lai hiện tại
Kỳ trung sở hữu chư Phật Pháp, Trong đó hết thảy các Phật pháp
Liễu tri tích tập cập viên mãn, Biết rõ tích tập và viên mãn
Như thị tu học lệnh cứu cánh. Như vậy tu tập khiến rốt ráo.
Ðời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại, trong ba đời này, Phật pháp của chư Phật nói, đều thấu rõ biết được, là do ít tích tập thành nhiều, từ chỗ không biết mà biết ít, từ chỗ biết ít mà biết nhiều, từ chỗ biết nhiều mà viên mãn. Tu học sáu độ vạn hạnh như vậy, khiến cho đến được quả vị rốt ráo.
Tam thế nhất thiết chư Như Lai, Ba đời tất cả các Như Lai
Năng tùy quan sát tất bình đẳng, Hay tùy quán sát đều bình đẳng
Chủng chủng sái biệt bất khả đắc, Đủ thứ khác nhau bất khả đắc
Như thị quán giả đạt tam thế. Người quán như vậy thấu ba đời.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, hay tùy theo nhân duyên để quán sát tất cả chúng sinh, đều là bình đẳng. Ðủ thứ khác nhau đều là không thể được. Quán sát như vậy chẳng có chấp trước, thì sẽ thông đạt đạo lý ba đời vô ngại.
Như ngã xưng dương tán thán giả, Như tôi tán dương khen ngợi họ
Thử thị tứ trụ chư công đức, Đây là các công đức tứ trụ
Nhược năng y Pháp cần tu hành, Nếu hay y pháp siêng tu hành
Tốc thành vô thượng Phật Bồ-đề. Sớm thành Phật bồ đề vô thượng.
Giống như tôi (Bồ Tát Pháp Huệ) tán thán khen ngợi tất cả Bồ Tát, đây tức là hết thảy tất cả công đức của Bồ Tát đệ tứ trụ (trụ thứ tư). Nếu hay y pháp siêng năng tu hành, thì sớm sẽ thành tựu quả vị bồ đề của Phật.
Tòng thử đệ ngũ chư Bồ-tát, Từ đây các Bồ Tát thứ năm
Thuyết danh cụ túc phương tiện trụ Gọi là cụ túc phương tiện trụ
Thâm nhập vô lượng xảo phương tiện Vào sâu vô lượng xảo phương tiện
Phát sanh cứu cánh công đức nghiệp. Phát sinh nghiệp công đức rốt ráo.
Trụ thứ năm là Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ. Bồ Tát cụ túc phương tiện trụ, vào sâu vô lượng vô biên pháp môn phương tiện khéo léo, tu hành thành công thì sẽ phát sinh đủ thứ công đức rốt ráo, đắc được nghiệp báo viên mãn.
Bồ Tát sở tu chúng phước đức, Các công đức của Bồ Tát tu
Giai vi cứu hộ chư quần sanh, Đều vì cứu hộ các quần sinh
Chuyên tâm lợi ích dữ an lạc, Chuyên tâm lợi ích và an lạc
Nhất hướng ai mẩn lệnh độ thoát. Thương xót hướng về khiến độ thoát.
Vì Bồ Tát tu hành tất cả phước đức, cho nên có sức đại thần thông, có thể cứu hộ tất cả chúng sinh. Bồ Tát chuyên tâm lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh đắc được an lạc. Bồ Tát thương xót hướng về, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, cải tà theo chánh, phát tâm bồ đề, tu đạo bồ đề, từ bờ sinh tử bên này, qua dòng phiền não, đạt đến bờ Niết Bàn bên kia.
Vi nhất thiết thế trừ chúng nạn Vì các thế gian trừ các nạn
Dẫn xuất chư hữu lệnh hoan hỉ, Dẫn thoát chúng sinh khiến hoan hỷ
Nhất nhất điều phục vô sở di, Điều phục hết thảy không bỏ sót
Giai lệnh cụ đức hướng Niết-Bàn. Đều khiến đủ đức hướng Niết Bàn.
Bồ Tát lấy từ bi làm bản hoài, vì tất cả thế gian trừ khử tất cả tai nạn, tiếp dẫn tất cả chúng sinh thoát khỏi tất cả phiền não. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được hoan hỷ. Mỗi chúng sinh cang cường đều bị điều phục, chẳng có chúng sinh nào bỏ sót không được điều phục, hoàn toàn đều được cứu thoát. Khiến cho tất cả chúng sinh đều đầy đủ phước đức, đi hướng về đường Niết Bàn.
Nhất thiết chúng sanh vô hữu biên Tất cả chúng sinh chẳng bờ mé
Vô lượng vô số bất tư nghị, Vô lượng vô biên không nghĩ bàn
Cập dĩ ất khả xưng lượng đẳng, Cho đến không thể xưng lượng thảy
Thính thọ Như Lai như thị pháp. Nghe thọ pháp Như Lai như vậy.
Hết thảy tất cả chúng sinh chẳng có bờ mé, hạn lượng, số mục, có nhiều không thể nghĩ bàn, cũng không thể cân để xưng, cũng không thể dùng thước để lường. Chúng sinh nhiều như vậy, đều nghe thọ pháp cụ túc phương tiện trụ của Phật nói.
Thử đệ ngũ trụ chân Phật tử, Đây trụ thứ năm chân Phật tử
Thành tựu phương tiện độ chúng sanh, Thành tựu phương tiện độ chúng sinh
Nhất thiết công đức đại trí tôn, Tất cả công đức đại trí tôn
Dĩ như thị pháp nhi khai thị. Dùng pháp như vậy để khai thị.
Chân Phật tử của trụ thứ năm, thành tựu pháp cụ túc phương tiện, để phổ độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ. Thế Tôn tích tập tất cả công đức đại trí huệ, dùng pháp này để khai thị tất cả chúng sinh, khiến cho phát tâm bồ đề, cầu đạo vô thượng.
Đệ lục chánh tâm viên mãn trụ Thứ sáu chánh tâm viên mãn trụ
Ư pháp tự tánh vô mê hoặc, Nơi pháp tự tánh chẳng mê hoặc
Chánh niệm tư tánh ly phân biệt, Chánh niệm suy gẫm lìa phân biệt
Nhất thiết Thiên Nhân mạc năng động. Tất cả trời người không động được.
Trụ thứ sáu là Bồ Tát chánh tâm viên mãn trụ, Bồ Tát chánh tâm trụ, đối với Phật pháp thấu suốt, nhận thức rất rõ ràng, chẳng có tơ hào mê hoặc. Bồ Tát dùng trí huệ chánh niệm để suy gẫm pháp này, lìa khỏi tâm phân biệt. Cho nên hàng trời, người, chẳng cách chi trắc lường được cảnh giới này, cũng chẳng cách chi giao động được chánh tâm niệm này.
Văn tán hủy Phật dữ Phật Pháp, Nghe khen chê Phật và Phật pháp
Bồ Tát cập dĩ sở hạnh hành Bồ Tát và hạnh Bồ Tát hành
Chúng sanh hữu lượng nhược vô lượng Chúng sinh hữu lượng hoặc vô lượng
Hữu cấu vô cấu nan dịch độ, Hữu cấu vô cấu độ khó dễ.
Ðịnh lực của Bồ Tát chánh tâm trụ đều viên mãn, cho nên nghe khen ngợi Phật, hoặc phỉ báng Phật, khen ngợi pháp, hoặc phỉ báng pháp, khen ngợi Bồ Tát, hoặc phỉ báng Bồ Tát, mà tâm chẳng giao động. Chẳng bị gió lời nói thổi lay động. Hạnh môn của Bồ Tát tu hành, hoặc khen ngợi, hoặc phỉ báng, đều chẳng động tâm. Hoặc chúng sinh hữu lượng, hoặc chúng sinh vô lượng, hoặc chúng sinh hữu cấu, hoặc chúng sinh vô cấu, hoặc chúng sinh khó độ, hoặc chúng sinh dễ độ, Bồ Tát chánh tâm trụ nghe được có người nói những vấn đề này, đều chẳng động tâm. Tại sao vậy ? Vì định lực của Bồ Tát chánh tâm trụ rất kiên cố, chẳng bị cảnh bên ngoài làm giao động.
Pháp giới đại tiểu cập thành hoại, Pháp giới lớn nhỏ và thành hoại
Nhược hữu nhược vô tâm bất động, Hoặc có hoặc không tâm chẳng động
Quá khứ vị lai kim hiện tại, Quá khứ vị lai và hiện tại
Đế niệm tư tánh hằng quyết định. Xét nghĩ suy gẫm luôn quyết định.
Có người nói pháp giới là lớn, hoặc là nhỏ, hoặc lúc thành tựu, hoặc lúc tan hoại, hoặc là có, hoặc là không, những lời nói này đều là giả, chẳng thật có, cho nên tâm chẳng động. Không màng là quá khứ, hoặc vị lai, hoặc hiện tại, suy xét để suy gẫm, luôn luôn quyết định.
Nhất thiết chư pháp giai vô tướng Tất cả các pháp đều vô tướng
Vô thể Vô tánh không vô thật, Không thể không tánh không chẳng thật
Như huyễn như mộng ly phân biệt, Như huyễn như mộng lìa phân biệt
Thường lạc thính Văn như thị nghĩa. Luôn thích lắng nghe nghĩa như vậy.
Hết thảy tất cả các pháp đều chẳng có hình tướng, cũng chẳng có thể, cũng chẳng có tánh, cũng chẳng thật tại, mà là tướng vắng lặng. Giống như huyễn hóa không thật, giống như cảnh giới hư vọng ở trong mộng. Bản thể của pháp là lìa khỏi phân biệt. Bồ Tát chánh tâm trụ, luôn luôn muốn lắng nghe đạo lý không thể nghĩ bàn này.
Đệ thất Bất-thoái-chuyển Bồ Tát, Thứ bảy Bồ Tát bất thối chuyển
Ư Phật cập Pháp Bồ Tát hạnh, Nơi Phật và pháp Bồ Tát hạnh
Nhược hữu nhược vô xuất bất xuất, Hoặc có hoặc không thoát không thoát
Tuy văn thị thuyết vô thoái chuyển. Tuy nghe nói đó chẳng thối động.
Trụ thứ bảy là Bồ Tát bất thối trụ. Bồ Tát bất thối trụ, đối với Phật Pháp Tăng Tam Bảo, có người khen ngợi, hoặc phỉ báng, thì tâm chẳng động. Có người nói có Tam Bảo, hoặc chẳng có Tam Bảo, cũng chẳng động tâm. Có người nói tu hành được thoát khỏi ba cõi, hoặc chẳng thoát khỏi ba cõi, cũng chẳng động tâm. Tuy nhiên nghe nói những pháp này, mà tâm chẳng giao động, chẳng thối chuyển tâm bồ đề.
Quá khứ vị lai hiện tại thế Đời quá khứ hiện tại vị lai
Nhất thiết chư Phật hữu dĩ vô, Tất cả chư Phật có hoặc không
Phật trí hữu tận hoặc vô tận Trí Phật hữu tận hoặc vô tận
Tam thế nhất tướng chủng chủng tướng, Ba đời một tướng đủ thứ tướng.
Có người nói ba đời có Phật, hoặc không có Phật, trí huệ của Phật hữu tận, hoặc không cùng tận, ba đời là một tướng, hoặc nhiều tướng. Nói những pháp này, Bồ Tát bất thối trụ đều chẳng động tâm.
Nhất tức thị đa đa tức nhất Một tức là nhiều nhiều tức một
Văn tùy ư nghĩa nghĩa tùy văn, Văn tùy nơi nghĩa nghĩa tùy văn
Như thị nhất thiết triển chuyển thành Như vậy tất cả triển chuyển thành
Thử bất thoái nhân ưng vi thuyết. Bậc bất thối đáng vì họ nói.
Một tức là nhiều, nhiều tức là một. Người có chấp trước thì nhận rằng một tức là một, nhiều tức là nhiều. Nếu nói với họ một là nhiều, thì họ chẳng tin, nói nhiều là một, thì họ càng không tin. Tại sao ? Vì có sự chấp trước. Nếu như người chẳng chấp trước, thì biết một là do nhiều mà một, nhiều là do một mà nhiều, bổn lai chẳng có gì phân biệt, cho nên ‘’Một tức là nhiều, nhiều tức một.’’ Ở trong văn tự có nghĩa, văn là hiển nghĩa, nghĩa cũng do văn sinh ra. Văn tự Bát Nhã tức là văn, quán chiếu Bát Nhã là nghĩa. Thật tướng Bát Nhã tức là đạo lý văn và nghĩa, giống như nhiều tức là một, một tức là nhiều, đây là văn tùy nơi nghĩa, nghĩa tùy nơi văn. Những đạo lý này đều liên tục không ngừng, cùng nhau thành tựu, triển chuyển mà thành tựu. Ðạo lý sự lý vô ngại, sự sự vô ngại này, Bồ Tát bất thối trụ, đều minh bạch, nên vì chúng sinh mà nói.
Nhược pháp hữu tướng cập vô tướng, Nếu pháp có tướng và vô tướng
Nhược pháp hữu tánh cập Vô tánh, Nếu pháp có tánh và vô tánh
Chủng chủng sái biệt hỗ tương chúc Đủ thứ khác nhau làm quyến thuộc
Thử nhân văn dĩ đắc cứu cánh. Người này nghe rồi được rốt ráo.
Hoặc nói pháp này có tướng, hoặc nói pháp kia vô tướng, hoặc nói pháp này có tánh, hoặc nói pháp này không tánh. Bồ Tát bất thối trụ nghe được những sự nói pháp này, chẳng bị cảnh giới làm lay chuyển. Ðủ thứ sự khác nhau này, cùng nhau làm quyến thuộc. Bồ Tát bất thối trụ, nghe pháp này rồi, đắc được nghĩa lý rốt ráo.
Đệ bát Bồ-tát đồng chân trụ Thứ tám Bồ Tát đồng chân trụ
Thân ngữ ý hành giai cụ túc Thân lời ý hành đều đầy đủ
Nhất thiết thanh tịnh vô chư thất Tất cả thanh tịnh chẳng có lỗi
Tùy ý thọ sanh đắc tự tại. Tùy ý thọ sinh được tự tại.
Trụ thứ tám là Bồ Tát đồng chân trụ. Ðồng chân tức là chân thể đồng tử thuần dương. Bồ Tát đồng chân trụ, chẳng có tư tưởng bất chánh đáng, cũng chẳng có tập khí không tốt, cho nên thân lời ý ba nghiệp đều đầy đủ thanh tịnh, chẳng có tất cả lỗi lầm. Tùy theo tâm nguyện của mình mà đi thọ sinh, nguyện muốn đến cõi chúng sinh nào, thì đến cõi chúng sinh đó, chẳng bị hạn chế. Do đó có câu: ‘’Du hý nhân gian‘’ đều tự tại, đều hợp pháp.
Tri chư chúng sanh tâm sở lạc Biết các chúng sinh tâm ưa thích
Chủng chủng ý giải các sái biệt, Đủ thứ kiến giải đều khác nhau
Cập kỳ sở hữu nhất thiết pháp, Cho đến hết thảy tất cả pháp
Thập phương quốc độ thành hoại tướng. Mười phương cõi nước tướng thành hoại.
Bồ Tát đồng chân trụ, biết sự ưa thích trong tâm của tất cả chúng sinh. Hết thảy chúng sinh, hết thảy tư tưởng, hết thảy kiến giải, đều khác nhau mà chẳng giống nhau. Và tất cả pháp tu hành, bốn tướng thành trụ hoại không trong mười phương cõi nước, Bồ Tát đều biết thấu hiểu rõ ràng.
Đãi đắc tốc tật diệu thần thông, Đắc được diệu thần thông mau chóng
Nhất thiết xứ trung tùy niệm vãng, Trong khắp mọi nơi tùy niệm đến
Ư chư Phật sở thính văn Pháp, Nơi chỗ chư Phật lắng nghe pháp
Tán thán tu hành vô giải quyện. Khen ngợi tu hành chẳng giải đãi.
Bồ Tát đồng chân trụ, sớm đắc được thần thông diệu dụng mau chóng, trong tất cả mọi nơi, tùy tâm niệm mà qua đến, đến chỗ đạo tràng của mười phương chư Phật để lắng nghe kinh, nghe pháp. Khen ngợi tu hành, tức là cung hành thật tiễn, dũng mãnh tinh tấn. Chẳng giải đãi, tức là không lười biếng, chẳng nhàm mỏi.
Liễu tri nhất thiết chư Phật quốc Biết rõ tất cả các cõi Phật
Chấn động gia trì diệc quan sát, Chấn động gia trì cũng quán sát
Siêu quá Phật thổ bất khả lượng, Vượt qua cõi Phật không thể lường
Du hành thế giới vô biên số. Du hành thế giới vô biên số.
Bồ Tát đồng chân trụ, thấu rõ tất cả cõi nước chư Phật, có lúc chấn động, có lúc gia trì, cũng khéo quán sát. Sự chấn động sự gia trì, vượt qua cõi Phật nhiều không thể lường được. Lại hay hiện ra cảnh giới du hí tam muội, du hành thế giới chẳng có số lượng.
A-tăng-kì Pháp tất ti vấn, A tăng kỳ pháp đều thưa hỏi
Sở dục thọ/thụ thân giai tự tại, Chỗ muốn thọ thân đều tự tại
Ngôn âm thiện xảo mị bất sung, Lời lẽ khéo léo sung mãn khắp
Chư Phật vô số hàm thừa sự. Chư Phật vô số đều hầu hạ.
Có vô lượng vô số các diệu pháp, Bồ Tát đồng chân trụ, trong một niệm, có thể thưa hỏi. Vì Bồ Tát chẳng sợ sinh tử, cho nên chỗ muốn thọ thân, đều rất tự tại, chẳng có mọi sự thống khổ. Bồ Tát đồng chân trụ, lời lẽ nói ra đều rất êm tai hòa nhã, khéo diễn nói tất cả diệu pháp, sung mãn khắp pháp giới, và còn đến mười phương thế giới để thừa sự chư Phật, cúng dường chư Phật.
Đệ cửu Bồ Tát Vương tử trụ Thứ chín Bồ Tát vương tử trụ
Năng kiến chúng sanh thọ sanh biệt, Thấy được chúng sinh thọ sinh khác
Phiền não hiện tập mị bất tri, Phiền não hiện tập đều biết hết
Sở hạnh phương tiện giai thiện liễu. Sở hành phương tiện đều khéo rõ.
Trụ thứ chín là Bồ Tát vương tử trụ. Bồ Tát pháp vương tử trụ, thấy được tất cả chúng sinh thọ sinh khác nhau. Hiện tượng phiền não và tập khí đều biết hết. Sở tu hành tất cả pháp môn phương tiện đều khéo biết rõ.
Chư Pháp các dị uy nghi biệt, Các pháp đều khác oai nghi khác
Thế giới bất đồng tiền hậu tế, Thế giới tiền hậu tế đều khác
Như kỳ thế tục đệ nhất nghĩa, Như thế tục đế đệ nhất nghĩa
Tất thiện liễu tri vô hữu dư. Đều khéo biết rõ chẳng sót thừa.
Hết thảy tất cả pháp khác nhau, hết thảy tất cả oai nghi cũng khác nhau, hết thảy tất cả thế giới cũng khác nhau, tiền hậu tế cũng khác nhau. Hoặc có tục đế của thế tục, hoặc có chân đế của xuất thế. Những pháp môn này, Bồ Tát pháp vương tử trụ đều hoàn toàn khéo biết rõ, cho nên chẳng có chỗ nào mà không minh bạch.
Pháp vương thiện xảo an lập xứ Pháp Vương khéo léo nơi an lập
Tùy kỳ xứ sở sở hữu Pháp, Tùy theo xứ sở hết thảy pháp
Pháp vương cung điện nhã thú nhập Cung điện Pháp Vương hoặc hướng vào
Cập dĩ ư trung sở quán kiến. Cho đến quán thấy ở trong đó.
Pháp Vương khéo giáo hóa chúng sinh, an lập cứu hộ chúng sinh, tùy theo tình hình xứ sở mà dùng phương pháp gì để dạy chúng sinh. Cung điện của Pháp Vương ở, nơi bồ đề đại đạo Pháp Vương hướng vào, cùng với pháp mà đấng Pháp Vương minh bạch, quán thấy đủ thứ các pháp.
Pháp vương sở hữu quán đảnh Pháp, Pháp quán đảnh mà Pháp Vương có
Thần lực gia trì vô khiếp úy, Thần lực gia trì chẳng khiếp sợ
Yến tẩm cung thất cập thán dự, Cung thất yên nghỉ và ngợi khen
Dĩ thử giáo chiếu pháp vương tử. Dùng đây chỉ dạy Pháp Vương tử.
Phật là đấng Pháp Vương, Bồ Tát là con của đấng Pháp Vương. Khi Bồ Tát sắp thành Phật, thì trước hết phải thọ pháp quán đảnh. Mười phương chư Phật đều đến vì Bồ Tát quán đảnh. Phật dùng thần lực gia trì, khiến cho Ngài chẳng có khiếp sợ, thường hành từ bi hỷ xả, bốn tâm vô thượng. Pháp Vương yên nghỉ như thế nào ? Trụ cung điện như thế nào ? Tại cung điện phải làm gì ? Khi Pháp Vương được người khen ngợi thì thế nào ? Những quy cụ này, chư Phật chỉ dạy Pháp Vương tử làm như thế nào ?
Như thị vi thuyết mị bất tận, Như vậy vì nói ra hết cả
Nhi lệnh kỳ tâm vô sở trước, Mà khiến cho tâm chẳng chấp trước
Ư thử liễu tri tu chánh niệm, Nơi đây biết rõ tu chánh niệm
Nhất thiết chư Phật hiện kỳ tiền. Tất cả chư Phật hiện ra trước.
Giống như ở trước, Pháp Vương vì Pháp Vương tử nói đủ thứ quy cụ, nói ra hết. Mục đích của Phật nói là phá chấp trước, khiến cho tâm chẳng còn chấp trước. Cải tà quy về chánh, khử thức tồn trí. Biết rõ tu hành chánh niệm như thế nào, mới có chánh tri kiến, đắc được chánh định. Nếu y chánh niệm để tu hành, thì chư Phật sẽ hiện ra ở trước để quán đảnh thọ ký.
Đệ thập quán đảnh chân Phật tử, Thứ mười quán đảnh chân Phật tử
Thành mãn tối thượng đệ nhất pháp, Thành mãn pháp bậc nhất tối thượng
Thập phương vô số chư thế giới Mười phương vô số các thế giới
Tất năng chấn động quang phổ chiếu. Thảy đều chấn động quang chiếu khắp.
Trụ thứ mười là Bồ Tát quán đảnh trụ. Bồ Tát quán đảnh trụ là Phật tử chân chánh, chẳng thối chuyển, thường học theo Phật, thành tựu viên mãn pháp bậc nhất tối thượng. Hay ở trong mười phương vô số thế giới, dùng sáu thứ chấn động, khiến cho chúng sinh phát tâm bồ đề, lại phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương pháp giới, khiến cho chúng sinh học đạo vô thượng.
Trụ trì vãng nghệ diệc vô dư, Trụ trì qua đến cũng không thừa
Thanh tịnh trang nghiêm giai cụ túc, Thanh tịnh trang nghiêm đều đầy đủ
Khai thị chúng sanh vô hữu số Khai thị chúng sinh vô số lượng
Quan sát tri căn tất năng tận. Quán sát các căn đều biết hết.
Bồ Tát quán đảnh trụ, Ngài hay trụ trì thế gian tất cả Phật pháp, lại hay dùng thần thông đến mười phương thế giới, cúng dường tất cả chư Phật, chẳng có cõi Phật nào mà không đến cúng dường. Phàm là có cõi Phật, thì đều đi đến cúng dường, thanh tịnh trang nghiêm, đầy đủ viên mãn. Khai thị chúng sinh nhiều chẳng có số lượng, tuy độ chúng sinh mà chẳng có tướng độ sinh. Trong kinh Kim Cang có nói:
‘’Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sinh
Thật chẳng có chúng sinh được diệt độ.’’
Tại sao ? Vì lìa khỏi sự chấp trước độ sinh. Biết ‘’Bản lai không một vật, chỗ nào dính bụi bặm.’’ Quán sát tất cả chúng sinh nhân duyên độ được, chẳng độ được, lại quán sát căn tánh của chúng sinh, là lợi căn hay độn căn ? Dùng diệu quán sát trí để quán sát rất rõ ràng, hoàn toàn thấu rõ, chẳng phải quán sát tựa đúng mà sai, chẳng có chỗ nào mà chẳng triệt để, chẳng rốt ráo !
Phát tâm điều phục diệc vô biên, Phát tâm điều phục cũng vô biên
Hàm lệnh thú hướng Đại bồ-đề, Đều khiến hướng về đại bồ đề
Nhất thiết pháp giới hàm quan sát, Tất cả pháp giới đều quán sát
Thập phương quốc độ giai vãng nghệ. Mười phương cõi nước đều qua đến.
Bồ Tát quán đảnh trụ, phát tâm điều phục chúng sinh cang cường. Ðiều phục vô lượng vô biên chúng sinh, đều khiến cho hướng về bồ đề đại đạo, đi đến quả vị Phật. Hết thảy mười pháp giới, Bồ Tát đều dùng trí huệ để quán sát. Mười phương cõi nước chư Phật, đều đi đến thừa sự cúng dường tất cả chư Phật.
Kỳ trung thân cập thân sở tác, Trong đó thân và thân sở tác
Thần thông biến hiện nan khả trắc, Thần thông biến hiện khó dò được
Tam thế Phật độ chư cảnh giới, Ba đời cõi Phật các cảnh giới
Nãi chí Vương tử vô năng liễu. Cho đến vương tử không biết được.
Bồ Tát quán đảnh trụ, thân và thân tác nghiệp, tu tịnh nghiệp; thần thông biến hiện không thể nghĩ bàn, không thể dò được. Mười phương ba đời tất cả chư Phật cõi nước, hết thảy cảnh giới, đều không giống nhau. Cảnh giới này, Bồ Tát trụ ở pháp vương tử trụ cũng chẳng biết được, chỉ có Bồ Tát quán đảnh trụ, mới thấu rõ được cảnh giới này.
Nhất thiết kiến giả tam thế trí, Tất cả ai thấy trí ba đời
Ư chư Phật Pháp minh liễu trí, Nơi các Phật pháp trí thấu rõ
Pháp giới vô ngại vô biên trí, Pháp giới vô ngại vô biên trí
Sung mãn nhất thiết thế giới trí, Sung mãn tất cả thế giới trí.
Tất cả ai thấy có trí huệ ba đời, đối với tất cả Phật có trí huệ thấu rõ. Dùng trí huệ viên dung vô ngại để quán sát pháp giới, trí huệ sung mãn tất cả thế giới, đây là diệu quán sát trí của Bồ Tát quán đảnh trụ.
Chiếu diệu thế giới trụ trì trí, Trí chiếu sáng thế giới trụ trì
Liễu tri chúng sanh chư Pháp trí, Trí biết rõ chúng sinh các pháp
Cập tri chánh giác vô biên trí, Và trí biết chánh giác vô biên
Như Lai vi thuyết hàm lệnh tận. Như Lai vì nói ra hết cả.
Có trí huệ mới có quang minh, có quang minh mới chiếu sáng tất cả thế giới. Trí huệ trụ trì Phật pháp phải thấu rõ biết nhân duyên và quả báo của tất cả chúng sinh, cho đến khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, các pháp, còn phải biết chánh giác vô biên trí huệ của Phật. Phật vì tất cả Bồ Tát mà nói trí huệ này, hoàn toàn khiến cho minh bạch.
Như thị thập trụ chư Bồ-tát Như vậy các Bồ Tát Thập Trụ
Giai tùng Như Lai pháp hóa sanh, Đều từ pháp Như Lai hóa sinh
Tùy kỳ sở hữu công đức hạnh Tùy theo hết thảy hạnh công đức
Nhất thiết Thiên Nhân mạc năng trắc. Tất cả trời người không dò được.
Tất cả các Bồ Tát Thập Trụ này, đều từ pháp của Phật nói hóa sinh ra. Do đó: ‘’Từ miệng Phật sinh – Từ pháp hóa sinh.’’ Là vì Pháp Vương tử, tùy theo tất cả hạnh công đức của Bồ Tát. Tất cả chư Thiên và loài người, đều không thể biết được tất cả hạnh công đức của Bồ Tát tu, cũng không thể trắc lường được.
Quá khứ vị lai hiện tại thế, Đời quá khứ vị lai hiện tại
Phát tâm cầu Phật vô hữu biên, Phát tâm cầu Phật không bờ mé
Thập phương quốc độ giai sung mãn Mười phương cõi nước đều sung mãn
Mạc bất đương thành nhất thiết trí. Sớm sẽ thành tựu nhất thiết trí.
Bồ Tát Thập Trụ ở trong ba đời, phát tâm cầu Phật đạo vô thượng, pháp môn tu hành này chẳng có bờ mé. Ở trong mười phương cõi nước, đều sung mãn công đức này, sớm sẽ thành tựu nhất thiết trí, viên mãn quả vị Phật.
Nhất thiết quốc độ vô biên tế, Tất cả cõi nước không bờ mé
Thế giới chúng sanh pháp diệc nhiên, Thế giới chúng sinh pháp cũng vậy
Hoặc nghiệp tâm lạc các sái biệt, Hoặc nghiệp tâm thích đều khác nhau
Y bỉ nhi phát Bồ-đề ý. Nương đó mà phát tâm bồ đề.
Có một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng, một bốn đại châu, gọi là một thế giới. Trong thế giới có rất nhiều nước, đây gọi là cõi nước. Cõi nước chẳng có bờ mé, thế giới chẳng có bờ mé, chúng sinh chẳng có bờ mé, chúng sinh vì vô minh mà sinh ra tướng tam tế.
1). Tướng nghiệp: Tức là khởi hoặc tạo nghiệp.
2). Tướng hiện: Hiện ra tướng nghiệp.
3). Tướng chuyển: Tướng nghiệp này triển chuyển luân hồi. Khởi hoặc thì phải tạo nghiệp, tạo nghiệp thì phải thọ quả báo, đây là đạo lý tự nhiên. Trong tâm chúng sinh ưa thích, hoan hỷ, hy vọng, đều khác nhau, vô minh sinh ra hoặc nghiệp khổ, nếu giác ngộ được thì phát tâm bồ đề, nghiên cứu tu hành như thế nào!
Thủy cầu Phật đạo nhất niệm tâm, Một niệm ban đầu cầu Phật đạo
Thế gian chúng sanh cập nhị thừa, Thế gian chúng sinh và nhị thừa
Tư đẳng thượng diệc bất năng trai, Hết thảy cũng không thể biết được
Hà huống sở dư công đức hạnh Hà huống các hạnh công đức khác.
Ban đầu phát tâm tu Phật đạo, một niệm tâm này, hết thảy chúng sinh thế gian và hàng nhị thừa chẳng cách chi biết được. Hà huống là các hạnh công đức dư thừa khác ? Càng không có ai biết được.
Thập phương sở hữu chư thế giới, Mười phương hết thảy các thế giới
Năng dĩ nhất mao tất xưng cử Dùng một sợi lông nâng lên được
Bỉ nhân năng tri thử Phật tử Người đó biết được Phật tử này
Thú hướng Như Lai trí tuệ hạnh Hướng về hạnh trí huệ Như Lai.
Thế giới này, thế giới kia, vô lượng các thế giới, Bồ Tát có thể dùng sức thần thông, dùng một sợi lông nâng mười phương hết thảy thế giới lên được. Bồ Tát Thập Trụ mới biết được công đức và năng lực của Phật tử, mới có thể thú hướng về hạnh môn trí huệ viên mãn của Phật.
Thập phương sở hữu chư đại hải, Mười phương hết thảy các biển cả
Tất dĩ mao đoan tích lệnh tận, Đều dùng đầu lông chấm khô cạn
Bỉ nhân năng tri thử Phật tử, Người đó biết được Phật tử này
Nhất niệm sở tu công đức hạnh Một niệm sở tu hạnh công đức.
Mười phương hết thảy tất cả biển cả, Bồ Tát dùng đầu sợi lông để chấm nước biển, có thể khiến cho nước biển khô cạn. Bồ Tát có thần thông như thế, mới biết được cảnh giới của Bồ Tát Thập Trụ. Một niệm ban đầu phát tâm, hạnh công đức tu hành thành tựu, đều biết được.
Nhất thiết thế giới mạt vi trần, Tất cả thế giới nghiền thành bụi
Tất năng phân biệt tri kỳ số, Đều phân biệt được biết số lượng
Như thị chi nhân nãi năng kiến, Như vậy người đó mới thấy được
Thử chư Bồ-tát sở hạnh đạo. Sự hành đạo các Bồ Tát này.
Nếu đem tất cả thế giới trong mười phương nghiền thành bụi, thì Bồ Tát cũng phân biệt được cứu kính có bao nhiêu hạt bụi. Bồ Tát có thần thông như thế, mới thấy được con đường tu hành của Bồ Tát Thập Trụ.
Khứ lai hiện tại thập phương Phật Vị lai hiện tại mười phương Phật
Nhất thiết độc giác cập Thanh văn, Tất cả Độc Giác và Thanh Văn
Tất dĩ chủng chủng diệu biện tài Đều dùng đủ thứ diệu biện tài
Khai thị sơ phát Bồ-đề tâm. Khai thị sơ phát bồ đề tâm.
Mười phương chư Phật quá khứ, mười phương chư Phật vị lai, mười phương chư Phật hiện tại, hết thảy Độc Giác Phật và tất cả Thanh Văn, dùng đủ thứ biện tài vi diệu, để khai thị chỉ dạy cho tất cả chúng sinh, khiến cho phát tâm bồ đề.
Phát tâm công đức bất khả lượng, Phát tâm công đức không thể lường
Sung mãn nhất thiết chúng sanh giới, Sung mãn tất cả chúng sinh giới
Chúng trí cọng thuyết vô năng tận, Chúng trí cùng nói không hết được
Hà huống sở dư chư diệu hạnh Hà huống các diệu hạnh khác kia.
Công đức của Bồ Tát sơ phát tâm trong Thập Trụ, đã là không thể nghĩ bàn, hà huống là công đức của trụ Bồ Tát khác, càng không thể nghĩ bàn. Sung mãn khắp tất cả chúng sinh giới. Hết thảy tất cả trí huệ, cùng nhau nói công đức của Thập Trụ, cũng nói không hết. Hà huống là các diệu hạnh khác, càng nói không hết được.