Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thế Giới Thành Tựu
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thứ Tư
Phẩm là phẩm loại. ‘’Thế‘’ tức là tam thế (ba đời). Tức đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai. ‘’Giới‘’ tức là phân giới, còn là phương giới. Vì có giới hạn, có phương hướng, có phân biệt. Thế giới thành tựu như thế nào ? Nói tổng quát thế giới có thành tựu thì có hủy diệt, đây là định luật tự nhiên. Tuổi thọ của thế giới chia làm: Thành, trụ, hoại, không, bốn giai đoạn. Mỗi giai đoạn là hai mươi tiểu kiếp. Một thế giới trải qua tám mươi tiểu kiếp rồi, thì thế giới mới lại sinh ra, hết rồi lại bắt đầu, do đó: ‘’Thế giới này thành, thì thế giới kia hoại.’’ Thành hoại hoại thành chẳng có gián đoạn.
Khi ban đầu thành, thì đại địa là nước, bị gió thổi, bị mặt trời làm nóng, mà thành sơn hà đại địa, lúc đó mới có thực vật sinh ra, sau đó mới có động vật sinh sống, có con người sinh tồn. Trải qua bao nhiêu năm rồi, thì sinh ra các nước, có văn hóa, có nhân dân, hình thành quốc gia. Thời kỳ này đại địa thanh tịnh, nhân dân hòa vui, chẳng có tham sân si, cũng chẳng có ích kỷ lợi mình, nhân loại đều từ bi, đại công vô tư.
Về sau, dần dần sinh ra tâm tham, tâm sân, tâm si, phát sinh ra hành vi: Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, các điều ác, nhân dân tà kiến điên đảo, làm mười điều ác, do đó mà trời chẳng mưa, ngũ cốc chẳng sinh, phát sinh tai nạn đói khát, con người ăn rễ cây, hoặc đọt cây, vì chẳng còn vật thực để ăn, cho nên bệnh dịch phát sinh. Do đói khát và ôn dịch, dẫn đến binh đao kiếp nạn. Chiến loạn có ghi trong lịch sử, đều do nguyên nhân này mà phát sinh. Như cuối đời nhà Hán, thì Hoàng Cân nổi loạn, cuối đời nhà Ðường, thì Hoàng Sào nổi loạn, cuối đời nhà Minh, thì Lý Tự Thành nổi loạn .v.v… Tam tai này đều có quan hệ với nhau, vì người lãnh tụ quốc gia khởi tâm tham, muốn xâm lược lãnh thổ của nước khác, nên phát sinh chiến tranh. Như chiến tranh thế giới thứ nhất, chiến tranh thế giới thứ hai, nguyên nhân không ngoài tham sân si. Bởi chiến tranh nhân dân chẳng biết nương vào đâu mà sống. Vì tai nạn đao binh, nên phát sinh nạn đói khát, vì đói khát, mà sinh ra ôn dịch, cho nên khi kiếp trụ cũng có thành, trụ, hoại, không, bốn thứ hiện tượng phát sinh. Khi kiếp trụ qua rồi (hiện tại là tiểu kiếp thứ chín về giảm tuổi thọ), thì đến hoại kiếp, sơn hà đại địa dần dần sẽ hủy diệt. Trải qua hai mươi tiểu kiếp, thì vũ trụ hoàn toàn chẳng còn gì nữa, đó là kiếp không.
Trong Kinh Ðại Bi có nói : ‘’A Nan ! Ba ngàn đại thiên thế giới này, khi kiếp muốn thành thì đều là nước. Trời Tịnh Cư dùng thiên nhãn thấy thế giới này chỉ toàn là nước, thấy có ngàn đoá hoa sen, mỗi hoa sen có một ngàn cánh. Hoa sen màu vàng thì ánh sáng vàng, quang minh chiếu khắp. Mùi thơm ngào ngạt, rất ưa thích. Trời Tịnh Cư đó, vì thấy rồi bèn sinh tâm hoan hỷ, nhảy nhót hớn hở mà khen rằng : Lạ thay ! Lạ thay ! Thật là hy hữu ! Vậy trong kiếp này sẽ có ngàn vị Phật ra đời.’’ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là vị Phật thứ tư của ngàn vị Phật trong Hiền kiếp nầy. Ở trước Ngài đã có Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp.
Mỗi thế giới, phải trải qua thời gian dài như thế mới thành tựu. Phẩm này là phẩm thứ tư trong Kinh Hoa Nghiêm. Cho nên gọi là Phẩm Thế Giới Thành Tựu Thứ Tư.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ Phật thần lực, biến quan sát nhất thiết thế giới hải, nhất thiết chúng sanh hải, nhất thiết chư Phật hải, nhất thiết pháp giới hải, nhất thiết chúng sanh nghiệp hải, nhất thiết chúng sanh căn dục hải, nhất thiết chư Phật Pháp luân hải, nhất thiết tam thế hải, nhất thiết Như Lai nguyện lực hải, nhất thiết Như Lai thần biến hải;
Bấy giờ, đại Bồ Tát Phổ Hiền nhờ thần lực của đức Phật, quán sát khắp tất cả biển thế giới, tất cả biển chúng sinh, tất cả biển chư Phật, tất cả biển pháp giới, tất cả biển nghiệp chúng sinh, tất cả biển căn dục của chúng sinh, tất cả biển pháp luân của chư Phật, tất cả biển ba đời, tất cả biển nguyện lực của Như Lai, tất cả biển thần thông biến hóa của Như Lai.
Giảng: Khi bắt đầu Phẩm Thế Giới Thành Tựu, thì vị Bồ Tát Ðại Hạnh Phổ Hiền, Ngài là vị đại Bồ Tát trong các đại Bồ Tát. Vì sao gọi là đại hạnh ? Vì hạnh môn tu hành của Ngài, chẳng phải một số Bồ Tát tu hành được. Ngài là Bồ Tát Phổ khắp Thánh Hiền, hạnh của Ngài cũng lớn, nguyện cũng lớn, trong vô lượng kiếp về trước phát tâm bồ đề. Khi mỗi vị Phật thành Phật, thì nguyện làm trưởng tử của Phật. Khi Phật Thích Ca thành Phật, thì Ngài làm đại đệ tử của Phật. Cho nên, trong Kinh Hoa Nghiêm Ngài là người nói pháp, đại biểu cho Phật Thích Ca Mâu Ni diễn nói nghĩa lý.
Ngài dùng pháp thân làm thân, thành tựu công đức của chư Phật và thần thông biến hóa của chư Phật, cùng một thể với chư Phật, chẳng có sự phân biệt. Song, Ngài rất khiêm nhường, cho nên nói tất cả đều nương sự gia bị của Phật, mới có trí huệ diễn nói đạo lý một bộ phận trong Kinh Hoa Nghiêm. Hiện tại Ngài nương đại oai thần lực của Phật và sức thần thông của chính Ngài, quán sát khắp tất cả biển thế giới thành như thế nào ? Trụ như thế nào ? Hoại như thế nào ? Không như thế nào ? Những vấn đề này, Ngài đều nghiên cứu rất rõ ràng.
Thế giới hải này dự bị cho chúng sinh. Chúng sinh có thể sinh tồn trong thế giới này. Chúng sinh có rất nhiều đủ loại vô lượng, cho nên gọi là biển chúng sinh. Thế giới này có chúng sinh, chúng sinh có trí huệ thì muốn tu hành. Tu hành rồi thì sẽ thành Phật. Tất cả chư Phật là là do chúng sinh tu thành. Hết thảy chư Phật nhiều như biển cả, cho nên gọi là tất cả biển chư Phật. Thế giới chẳng phải chỉ có một phương, mà là mười phương, do đó : ‘’Tận hư không, biến pháp giới.’’ Cho nên gọi là tất cả biển pháp giới. Bồ Tát Phổ Hiền đều quán sát hiểu rõ được tất cả những cảnh giới này.
Có thế giới rồi, có chúng sinh rồi, có chư Phật rồi, lại sinh mười phương pháp giới. Chúng sinh ở trong biển pháp giới, ai nấy đều có nhân duyên khác nhau, có quả báo khác nhau. Nghiệp lực của mỗi chúng sinh, đều có nghiệp thiện, có nghiệp ác. Tạo nghiệp thiện thì đi lên, tạo nghiệp ác thì đọa đi xuống. Giữ năm giới tu mười điều lành, thì sinh về cõi trời. Mười điều lành là: Thân chẳng sát sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, ba nghiệp thiện về thân. Miệng chẳng nói dối, chẳng nói thêu dệt, chẳng nói hai lưỡi, chẳng chưởi mắng, bốn nghiệp thiện về miệng. Ý chẳng tham lam, chẳng sân hận, chẳng ngu si, ba nghiệp thiện về ý. Cộng lại là mười điều lành. Ngược lại tức là mười điều ác. Tạo mười điều ác thì sẽ đọa vào địa ngục. Nghiệp của chúng sinh tạo ra chẳng có hình tướng, nếu không thì sớm đã đầy nghẹt hư không. Nghiệp của chúng sinh vô lượng vô biên, cho nên gọi là biển nghiệp của chúng sinh.
Căn tánh của chúng sinh cũng khác nhau. Chúng sinh căn lành sâu dày, thì thích nghiên cứu Phật pháp, hiếu thuận với cha mẹ, cung kính các bậc sư trưởng, tín ngưỡng Tam Bảo. Chúng sinh căn lành cạn mỏng, thì chẳng những chẳng nghiên cứu Phật pháp, mà còn phỉ báng Phật pháp, chẳng những chẳng hiếu thuận với cha mẹ, mà cũng chẳng cúng dường cha mẹ. Chẳng trọng sư cũng chẳng kính các cụ già. Chẳng những chẳng tin Tam Bảo, mà thậm chí còn hủy nhục Tam Bảo. Sự ưa thích của chúng sinh cũng khác nhau, sự ưa thích tức là: Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Năm thứ dục tức là vào địa ngục năm căn. Căn và dục này là chướng ngại lớn nhất của chúng sinh. Vì chúng sinh có nhiều căn dục, nên chư Phật bèn dùng tám vạn bốn ngàn pháp môn phương tiện, để đối trị mao bệnh của chúng sinh. Cho nên, tất cả chư Phật chuyển đại pháp luân giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cải ác hướng thiện, sám hối nghiệp chướng, rộng tu cúng dường, phát bồ đề tâm, sớm thành Phật đạo.
Ở trước chỉ nói về một thế giới hải. Hiện tại nói về tất cả tam thế hải. Trong đời quá khứ có vô lượng chư Phật, đời hiện tại cũng có vô lượng chư Phật, đời vị lai cũng có vô lượng chư Phật, hợp lại gọi là biển ba đời. Tại sao Phật thành Phật ? Vì trong quá khứ, khi Ngài ở tại nhân địa tu hành, thì phát đại nguyện lực, nhờ những nguyện lực này mà thành Phật. Thành Phật rồi, toại tâm như ý, thần thông biến hóa vi diệu nhiều như biển cả, cho nên gọi là tất cả biển thần thông biến hóa của Như Lai.
Như thị quan sát dĩ, phổ cáo nhất thiết đạo tràng chúng hải chư Bồ-tát ngôn: Phật Tử! chư Phật Thế tôn tri nhất thiết thế giới hải thành hoại thanh tịnh trí bất khả tư nghị, tri nhất thiết chúng sanh nghiệp hải trí bất khả tư nghị, tri nhất thiết pháp giới an lập hải trí bất khả tư nghị, thuyết nhất thiết vô biên Phật hải trí bất khả tư nghị, nhập nhất thiết dục giải căn hải trí bất khả tư nghị, nhất niệm phổ tri nhất thiết tam thế trí bất khả tư nghị, hiển thị nhất thiết Như Lai vô lượng nguyện hải trí bất khả tư nghị, thị Hiện-Nhất-Thiết Phật thần biến hải trí bất khả tư nghị, chuyển pháp luân trí bất khả tư nghị, kiến lập diễn thuyết hải bất khả tư nghị,
Quán sát như vậy rồi, khắp bảo tất cả các biển chúng Bồ Tát trong Ðạo tràng rằng : Phật tử ! Chư Phật Thế Tôn có trí huệ thanh tịnh, biết được tất cả thế giới hải: Thành, trụ, hoại, không, không thể nghĩ bàn. Trí huệ biết được biển nghiệp của tất cả chúng sinh không thể nghĩ bàn. Trí huệ biết được tất cả thế giới hải an lập không thể nghĩ bàn. Trí huệ diễn nói tất cả biển Phật vô biên không thể nghĩ bàn. Trí huệ vào tất cả biển ưa thích, hiểu biết căn tánh không thể nghĩ bàn. Trí huệ một niệm biết khắp tất cả ba đời không thể nghĩ bàn. Trí huệ hiển thị vô lượng nguyện hải của tất cả Như Lai không thể nghĩ bàn. Trí huệ thị hiện tất cả biển thần thông biến hóa của Phật không thể nghĩ bàn. Trí huệ chuyển bánh xe pháp không thể nghĩ bàn. Trí huệ kiến lập đạo tràng, diễn nói biển Phật pháp không thể nghĩ bàn.
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền quán sát khắp tất cả biển ở trên rồi, lại bảo khắp biển chúng Bồ Tát trong tất cả đạo tràng rằng: Các vị đệ tử của Phật ! Các vị nên biết, chư Phật Thế Tôn mười phương ba đời đều có mười thứ trí huệ.
1). Chư Phật có trí huệ, biết tất cả thế giới hải thành như thế nào ? Hoại như thế nào ? Cũng không thể nghĩ bàn.
2). Chư Phật có trí huệ, biết biển nghiệp của tất cả chúng sinh, tạo nghiệp gì ? Thọ quả báo gì ? Do đó: ‘’Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu,’’ cũng không thể nghĩ bàn.
3). Chư Phật có trí huệ, biết tất cả pháp giới hải an lập cũng không thể nghĩ bàn.
4). Chư Phật có trí huệ, hay diễn nói tất cả biển Phật vô biên, cũng không thể nghĩ bàn.
5). Chư Phật có trí huệ, minh bạch được đủ thứ sự ưa thích, đủ thứ hiểu biết, đủ thứ căn tánh của tất cả chúng sinh, cũng không thể nghĩ bàn.
6). Chư Phật có trí huệ, trong một niệm biết được tất cả nhân duyên đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, cũng không thể nghĩ bàn.
7). Chư Phật có trí huệ, hiển thị vô lượng biển thệ nguyện của tất cả Như Lai phát ra, cũng không thể nghĩ bàn.
8). Chư Phật có trí huệ, lại hay thị hiện biển thần thông biến hóa của tất cả chư Phật, cũng không thể nghĩ bàn.
9). Chư Phật có trí huệ, chuyển bánh xe pháp vi diệu giáo hóa chúng sinh, cũng không thể nghĩ bàn.
10). Chư Phật có trí huệ, nơi nơi kiến lập đạo tràng, diễn nói tất cả biển Phật pháp, cũng không thể nghĩ bàn.
Thanh tịnh Phật thân bất khả tư nghị, vô biên sắc tướng hải phổ chiếu minh bất khả tư nghị, tướng cập tùy hảo giai thanh tịnh bất khả tư nghị, vô biên sắc tướng quang minh luân hải cụ túc thanh tịnh bất khả tư nghị, chủng chủng sắc tướng quang minh vân hải bất khả tư nghị, thù thắng bảo diệm hải bất khả tư nghị, thành tựu ngôn âm hải bất khả tư nghị, thị hiện tam chủng tự tại hải điều phục thành thục nhất thiết chúng sanh bất khả tư nghị, dũng mãnh điều phục chư chúng sanh hải vô không quá giả bất khả tư nghị
Thanh tịnh thân Phật không thể nghĩ bàn. Vô biên biển sắc tướng chiếu sáng không thể nghĩ bàn. Tướng và vẻ đẹp đều thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Vô biên biển sắc tướng quang minh luân, đầy đủ thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Ðủ thứ biển sắc tướng mây quang minh không thể nghĩ bàn. Biển thù thắng bảo diễm không thể nghĩ bàn. Thành tựu biển lời lẽ âm thanh không thể nghĩ bàn. Thị hiện ba thứ biển tự tại, điều phục tất cả chúng sinh thành thục không thể nghĩ bàn. Dũng mãnh điều phục các biển chúng sinh chẳng luống qua không thể nghĩ bàn.
Giảng: 1). Chư Phật Thế Tôn đều thanh tịnh thân Phật không thể nghĩ bàn.
2). Chư Phật Thế Tôn có vô biên sắc tướng, hiện ra đủ thứ thân, phóng đại quang minh, chiếu khắp tất cả các cõi nước, không thể nghĩ bàn.
3). Chư Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp. Mỗi tướng đều trang nghiêm thanh tịnh, mỗi vẻ đẹp đều quang minh chiếu khắp, không thể nghĩ bàn.
4). Chư Phật Thế Tôn có vô biên biển sắc tướng và đại quang minh luân, đầy đủ thanh tịnh. Trong thanh tịnh lại đầy đủ quang minh, không thể nghĩ bàn.
5). Chư Phật Thế Tôn hiện ra đủ thứ biển sắc tướng và đủ thứ quang minh cũng không thể nghĩ bàn.
6). Chư Phật Thế Tôn có các châu báu thù thắng, mỗi thứ báu phóng ra mười quang năm màu như lửa ngọn, cũng không thể nghĩ bàn.
7). Chư Phật Thế Tôn có một thứ lời lẽ âm thanh, hay thành tựu đủ thứ lời lẽ, đủ thứ âm thanh, không thể nghĩ bàn.
8). Chư Phật Thế Tôn hay thị hiện ba thứ biển tự tại, tức cũng là thân, miệng, ý ba nghiệp đều được tự tại. Tự tại điều phục được tất cả chúng sinh, thành thục tất cả chúng sinh. Ðiều phục là khiến cho chúng sinh cang cường hết cang cường, chúng sinh đi vào đường tà, khiến cho họ đi trên con đường chánh. Thành thục là khiến cho chúng sinh đã trồng căn lành thì sớm thành thục, chúng sinh căn lành đã thành thục thì khiến cho đắc được giải thoát, năng lực điều phục thành thục tất cả chúng sinh cũng không thể nghĩ bàn.
9). Chư Phật Thế Tôn dùng sự dũng mãnh để điều phục chúng sinh, khiến cho tâm niệm của họ chẳng luống qua, tức cũng là dùng: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp để cảm hóa chúng sinh. Vì tập khí của chúng sinh quá nặng, do đó :
‘’Trước dùng câu dục móc
Sau khiến vào Phật trí.’’
Chúng sinh ưa thích gì ? Thì Phật bố thí vật đó. Chúng sinh thích nghe pháp gì, thì Phật nói pháp đó, hoặc làm sự nghiệp có ích đối với chúng sinh, hoặc làm cùng nghề nghiệp với họ, khiến cho họ phát tâm bồ đề. Sau đó, giảng giải đạo lý sáu Ba la mật, thì họ nhất định sẽ tin, y theo pháp tu hành, đây cũng là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
An trụ Phật địa bất khả tư nghị, nhập Như Lai cảnh giới bất khả tư nghị, uy lực hộ trì bất khả tư nghị, quan sát nhất thiết Phật trí sở hạnh bất khả tư nghị, chư lực viên mãn vô năng tồi phục bất khả tư nghị, vô úy công đức vô năng qua giả bất khả tư nghị, trụ vô sái biệt tam muội bất khả tư nghị, thần thông biến hóa bất khả tư nghị, thanh tịnh tự tại trí bất khả tư nghị, nhất thiết Phật Pháp vô năng hủy hoại bất khả tư nghị.
An trụ Phật địa không thể nghĩ bàn. Vào cảnh giới của Như Lai không thể nghĩ bàn. Oai lực hộ trì không thể nghĩ bàn. Quán sát tất cả trí huệ sở hành của Phật không thể nghĩ bàn. Các lực viên mãn không thể phá hoại không thể nghĩ bàn. Vô uý công đức chẳng ai hơn được không thể nghĩ bàn. Trụ trong tam muội chẳng khác biệt không thể nghĩ bàn. Thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn. Trí huệ thanh tịnh tự tại không thể nghĩ bàn. Tất cả Phật pháp không thể hủy hoại không thể nghĩ bàn.
Giảng: An trụ tại Phật địa, tu đủ thứ pháp môn, thì tương lai có thể thành Phật, đây là không thể nghĩ bàn. Minh bạch cảnh giới của Như Lai, đây là không thể nghĩ bàn. Dùng oai lực để hộ trì Phật pháp, đây là không thể nghĩ bàn. Quán sát tất cả pháp môn trí huệ sự tu hành của Phật, đây là không thể nghĩ bàn. Mười lực của Phật viên mãn, chẳng có bất cứ lực nào có thể phá hoại được, đây là không thể nghĩ bàn. Phật thì phước huệ đều tu, công đức viên mãn, chẳng ai hơn được, đây là không thể nghĩ bàn. Trụ ở trong tam muội chẳng có phân biệt, tức cũng là tam muội biến nhất thiết xứ, đây là không thể nghĩ bàn. Tu hành thành công thì có thần thông biến hóa, đây là không thể nghĩ bàn. Có quang minh thanh tịnh, có trí huệ tự tại, thì chẳng điên đảo, chẳng vọng tưởng. Tại sao có tâm tham dục ? Vì chẳng có trí huệ. Nếu có trí huệ thì sẽ buông xả tất cả, còn có gì để tham luyến ? Ðây là không thể nghĩ bàn. Tất cả Phật pháp, chẳng có sức lực nào có thể phá hoại được, đây là không thể nghĩ bàn.
Tu hành Phật pháp, nếu thật tâm mà tu, thì kẻ khác phá hoại như thế nào cũng chẳng được. Như đạo tràng Chùa Kim Sơn là chân thật tu hành, có người phê bình tốt, có người phê bình chẳng tốt. Bất cứ tốt hoặc không tốt, quy cụ của Chùa Kim Sơn vẫn không thay đổi, có trước có sau, quán triệt đáo để. Người xuất gia ở chùa Kim Sơn, đều phụng hành ngày ăn một bữa vào buổi trưa, đêm ngủ ngồi, tham thiền đả tọa, tụng Kinh trì chú, toàn thế giới chẳng thể tìm được nơi thứ hai như thế này. Người có tà tri tà kiến, thì cho rằng quy cụ của Chùa Kim Sơn chẳng hợp với thời đại, do đó mà sinh ra đủ thứ phỉ báng. Nên biết: Người phá hoại đạo tràng, thì tương lai chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục cắt lưỡi, hoặc là á khẩu.
Như thị đẳng nhất thiết pháp, ngã đương thừa Phật thần lực, cập nhất thiết Như Lai uy thần lực cố, cụ túc tuyên thuyết.
Tất cả các pháp như vậy, tôi đều nương thần lực của đức Phật, và oai thần lực của tất cả Như Lai, tuyên nói đầy đủ.
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền nói: ‘’Giống như tất cả các pháp vừa nói ở trên, tôi đều nương thần lực của Phật và đại oai thần lực của tất cả Như Lai, tuyên nói tỉ mỉ cho các vị nghe.’’
Vì lệnh chúng sanh, nhập Phật trí tuệ hải cố; vi lệnh nhất thiết Bồ Tát, ư Phật công đức hải trung đắc an trụ cố; vi lệnh nhất thiết thế giới hải, nhất thiết Phật tự tại sở trang nghiêm cố; vi lệnh nhất thiết kiếp hải trung, Như Lai chủng tánh hằng bất đoạn cố; vi lệnh ư nhất thiết thế giới hải trung, hiển thị chư Pháp chân thật tánh cố; vi lệnh tùy nhất thiết chúng sanh vô lượng giải hải, nhi diễn thuyết cố; vi lệnh tùy nhất thiết chúng sanh chư căn hải, phương tiện lệnh sanh chư Phật Pháp cố; vi lệnh tùy nhất thiết chúng sanh lạc dục hải, tồi phá nhất thiết chướng ngại sơn cố; vi lệnh tùy nhất thiết chúng sanh tâm hành hải, lệnh tịnh tu trì xuất yếu đạo cố; vi lệnh nhất thiết Bồ Tát, an trụ Phổ Hiền nguyện hải trung cố.
Vì khiến cho chúng sinh vào biển trí huệ của Phật. Vì khiến cho tất cả Bồ Tát, được an trụ ở trong biển công đức của Phật. Vì khiến cho tất cả thế giới hải, tất cả chư Phật tự tại trang nghiêm cõi nước. Vì khiến cho tất cả biển kiếp, chủng tánh của Như Lai luôn luôn chẳng đoạn diệt. Vì khiến cho trong tất cả thế giới hải, hiển bày tánh chân thật của các pháp. Vì khiến cho tùy vô lượng sự hiểu biết tất cả biển chúng sinh mà diễn nói. Vì khiến cho tùy các căn của tất cả biển chúng sinh các Phật pháp. Vì khiến cho tùy sự ưa thích của tất cả biển chúng sinh, mà phá tan tất cả núi chướng ngại. Vì khiến cho tùy tâm hạnh của tất cả biển chúng sinh, mà khiến cho họ tịnh tu trị yếu đạo ra khỏi ba cõi. Vì khiến cho tất cả Bồ Tát, an trụ ở trong biển thệ nguyện của Phổ Hiền.
Giảng: Tại sao Bồ Tát Phổ Hiền phải tuyên nói đầy đủ tất cả các pháp ? Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh vào biển trí huệ của Phật. Do đó:
‘’Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển.’’
Lại muốn khiến cho tất cả Bồ Tát, ở trong biển công đức của Phật, tu công đức của Phật tu, viên mãn công đức mà Phật đã thành tựu, đắc được an trụ.
Lại muốn khiến cho tất cả thế giới hải, hết thảy tất cả chư Phật tự tại trang nghiêm cõi nước, rất tự nhiên mà thành công.
Lại muốn khiến cho thời gian trong tất cả biển kiếp, chủng tánh của Như Lai thường chẳng dứt mất.
Lại muốn khiến cho, trong tất cả thế giới, hiển bày ra tánh chân thật của tất cả các pháp, tức cũng là chân như thật tánh.
Lại muốn khiến cho, tùy theo sự hiểu biết vô lượng của tất cả biển chúng sinh mà diễn nói. Chúng sinh sức hiểu sâu thì nói nhiều một chút, chúng sinh sức hiểu cạn thì nói ít một chút. Ðối với chúng sinh đã giác ngộ thì nói đạo lý thật tướng của các pháp.
Lại muốn khiến cho, tùy thuận căn tánh của tất cả biển chúng sinh, sau đó dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, khiến cho họ sinh niềm tin Phật pháp.
Lại muốn khiến cho, tùy theo sự ưa thích của chúng sinh, trong tâm họ hoan hỷ gì, thì vì họ mà nói pháp để phá trừ núi chướng ngại cống cao ngã mạn của chúng sinh.
Lại muốn khiến cho, tùy thuận biển tâm và hành vi của chúng sinh, khiến cho họ thanh tịnh tu trị pháp môn yếu đạo vượt ra khỏi ba cõi.
Lại muốn khiến cho tất cả Bồ Tát, an trụ ở trong biển thệ nguyện của Phổ Hiền. Cho nên phải vì chúng sinh nói pháp.
Chúng ta xem pháp thế gian quá quan trọng, mà coi nhẹ pháp xuất thế gian. Nổi giận thì khí lực rất lớn, còn nghiên cứu Phật pháp thì khí lực rất nhỏ, nếu học Phật pháp mà dũng mãnh như nổi giận, thì nhất định sẽ thành Phật. Tâm tu hành mà nặng như là tham dục, thì chắc chắn sẽ thành tựu. Tu thiền mà dụng công như đàm luận về luyến ái thì chắc chắn sẽ khai ngộ. Ðáng tiếc dụng sai chỗ, cho nên vĩnh viễn vẫn là phàm phu tục tử. Thử nghĩ xem, mục đích xuất gia là gì? Là muốn khai ngộ? Thì phải đừng có vọng tưởng, chuyên tâm tham thiền. Muốn thành Phật? Thì cần phải đừng có dục niệm, chuyên nhất tu hành!
Thị thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục dục lệnh vô lượng đạo tràng chúng hải sanh hoan hỉ cố
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền, lại muốn khiến cho vô lượng đạo tràng đại chúng hải hội, đều sinh hoan hỷ.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền lại muốn khiến cho mười phương vô lượng đại chúng hải hội trong đạo tràng của chư Phật, đều sinh hoan hỷ mà diễn nói diệu pháp.
Bồ Tát Phổ Hiền với Bồ Tát khác đều như nhau, bất quá hạnh nguyện của Ngài lớn, cho nên làm trưởng tử của Phật. Trong các đại Bồ Tát, thì địa vị của Ngài cao nhất, giống như Bồ Tát Ðại Trí Văn Thù, Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Ðịa Tạng, đều gọi là đại Bồ Tát, làm lãnh tụ chúng Bồ Tát, cảnh giới của các Ngài không thể nghĩ bàn.
Bồ Tát Phổ Hiền có cảnh giới được chư Phật gia trì, và nương vào sức tu hành của mình. Nguyện Ngài phát ra, một số Bồ Tát chẳng phát. Hạnh của Ngài tu, một số Bồ Tát cũng chẳng tu hành qua. Hạnh nguyện của Ngài là tận hư không khắp pháp giới. Phẩm cuối cùng trong Kinh Hoa Nghiêm, là Phẩm Hạnh Nguyện của Phổ Hiền, tức là nói về hạnh tu và nguyện lực của Ngài.
Lệnh ư nhất thiết Pháp tăng trưởng ái lạc cố, lệnh sanh quảng đại chân thật tín giải hải cố, lệnh tịnh trì Phổ môn pháp giới tạng thân cố, lệnh an lập Phổ Hiền nguyện hải cố, lệnh tịnh trì nhập tam thế bình đẳng trí nhãn cố, lệnh tăng trưởng phổ chiếu nhất thiết thế gian tạng đại tuệ hải cố, lệnh sanh Đà-la-ni lực trì nhất thiết pháp luân cố, lệnh ư nhất thiết đạo tràng trung tận Phật cảnh giới tất khai thị cố, lệnh khai xiển nhất thiết Như Lai Pháp môn cố, lệnh tăng trưởng Pháp giới quảng đại thậm thâm nhất thiết trí tánh cố, tức thuyết tụng ngôn:
Vì khiến cho tất cả các pháp tăng trưởng ưa thích. Vì khiến cho chúng sinh sanh biển tin hiểu rộng lớn chân thật. Vì khiến cho chúng sinh, tịnh trị phổ môn pháp giới tạng thân. Vì khiến cho chúng sinh an lập biển hạnh nguyện của Phổ Hiền. Vì khiến cho chúng sinh, tịnh trị trí huệ nhãn vào ba đời bình đẳng. Vì khiến cho chúng sinh tăng trưởng biển đại huệ chiếu khắp tất cả thế gian tạng. Vì khiến cho chúng sinh, sinh sức lực Ðà la ni trì tất cả pháp luân. Vì khiến cho trong tất cả đạo tràng khai thị hết tất cả cảnh giới của Phật. Vì khiến cho khai xiển tất cả pháp môn của Như Lai. Vì khiến cho tất cả trí tánh tăng trưởng pháp giới rộng lớn thâm sâu, bèn nói bài kệ rằng.
Giảng: Lại khiến cho tất cả chúng sinh, ưa thích đối với tất cả Phật pháp tăng trưởng.
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, sinh niềm tin và hiểu biết rộng lớn chân thật như biển cả.
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, thanh tịnh tu trị phổ môn pháp giới tạng thân, tức là tận hư không biến pháp giới, đều là thân thể của tôi (Bồ Tát Phổ Hiền).
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, đều an lập ở trong biển đại nguyện của Phổ Hiền.
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, thanh tịnh tu trị trí huệ nhãn vào ba đời bình đẳng.
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, tăng trưởng trí huệ, biển đại trí huệ chiếu khắp tất cả thế gian tạng.
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, sinh lực tổng trì, để trì tất cả pháp luân.
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, ở trong tất cả đạo tràng, đắc được hết thảy cảnh giới của Phật đều khai thị.
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, nghe đến tất cả pháp môn của Như Lai, cho nên khai xiển nghĩa lý.
Lại khiến cho tất cả chúng sinh, tăng trưởng tự tánh Nhất thiết trí huệ pháp giới rộng lớn thâm sâu. Bồ Tát Phổ Hiền lại dùng kệ để nói rõ ý nghĩa này.
Trí tuệ thậm thâm công đức hải Trí huệ thâm sâu biển công đức
Phổ hiện thập phương vô lượng quốc Khắp hiện mười phương vô lượng cõi
Tùy chư chúng sanh sở ưng kiến Tùy các chúng sinh đáng được thấy
Quang minh biến chiếu chuyển pháp luân. Quang minh chiếu khắp chuyển pháp luân.
Trí huệ của Phật rất thâm sâu, công đức của Phật như biển cả, đều không thể nghĩ bàn, cho nên hiện khắp trong các cõi nước mười phương. Cảnh giới này, tùy theo tất cả chúng sinh đáng được thấy, thì thấy được. Trí huệ quang minh của Phật chiếu khắp pháp giới, chuyển diệu pháp luân.
Thập phương sát hải phả tư nghị Mười phương biển cõi không nghĩ bàn
Phật vô lượng kiếp giai nghiêm tịnh Vô lượng kiếp Phật đều nghiêm tịnh
Vì hóa chúng sanh sử thành thục Vì độ chúng sinh khiến thành thục
Xuất hưng nhất thiết chư quốc độ. Xuất hiện tất cả các cõi nước.
Mười phương biển cõi (vì cõi nước quá nhiều, cho nên gọi là biển cõi) không thể nghĩ bàn. Trong vô lượng kiếp về trước, Phật khiến cho các cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Vì giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho quả bồ đề thành thục, cho nên Phật chẳng sợ phiền não, chẳng sợ khổ, xuất hiện ra đời trong các cõi nước mười phương để giáo hóa chúng sinh.
Phật cảnh thậm thâm nan khả tư Cảnh Phật thâm sâu không nghĩ bàn
Phổ thị chúng sanh lệnh đắc nhập Khắp bày chúng sinh khiến được vào
Kỳ tâm lạc tiểu trước chư hữu Tâm họ ưa nhỏ chấp các cõi
Bất năng thông đạt Phật sở ngộ. Không thể thông đạt chỗ Phật ngộ.
Cảnh giới của Phật rất thâm sâu, chẳng dễ gì minh bạch, diệu không thể nghĩ bàn. Tuy chẳng dễ gì minh bạch, nhưng Phật vẫn chỉ bày cho chúng sinh, khiến cho họ minh bạch đạo lý này. Trong tâm tất cả chúng sinh ưa thích cảnh giới nhỏ, cho nên chấp vào tam giới hai mươi lăm cõi. Vì chấp vào các cõi, nên không thể thông đạt lãnh ngộ pháp của Phật nói.
Nhược hữu tịnh tín kiên cố tâm Nếu người tâm tịnh tin vững chắc
Thường đắc thân cận thiện tri thức Thường được gần gũi thiện tri thức
Nhất thiết chư Phật dữ kỳ lực Tất cả chư Phật đều gia trì
Thử nãi năng nhập Như Lai trí. Họ mới vào được trí Như Lai.
Nếu như có chúng sinh niềm tin thanh tịnh và vững chắc, thì luôn luôn được gần gũi bậc thiện tri thức. Thiện tri thức là pháp thân huệ mạng, hay khiến cho trí huệ tăng trưởng. Tất cả chư Phật gia bị loại chúng này, khiến cho họ ra khỏi ba cõi, vào được trí tuệ của Như Lai, tức cũng là đắc được đại viên cảnh trí của Phật.
Chúng ta người tu đạo, phải gần gũi bậc thiện tri thức, mới đắc được chánh tri chánh kiến; còn ngược lại chỉ được tà tri tà kiến. Thiện tri thức là gì ? Tức là dạy bạn nhẫn nhục, nhường nhịn, chẳng tranh với người, chẳng biện luận với người. Một vị thiện tri thức chân chánh, chẳng có tâm ích kỷ lợi mình, lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa, nơi nơi đều lo nghĩ cho đại chúng. Ác tri thức thì dạy bạn tranh danh đoạt lợi, chẳng tu hành, chỉ nói lời ngon ngọt, làm việc bất thiện, chuyên môn ích kỷ, tất cả đều vì lợi ích cho chính mình, chuyên gây phiền não cho mọi người, đố kỵ người khác, sợ người giỏi hơn mình, đó là sự khác nhau giữa thiện tri thức và ác tri thức, hy vọng mọi người nhận thức cho rõ ràng. Thiện tri thức thì thường khen ngợi người khác, cung kính người khác, do đó :
‘’Kính người thì người kính mình
Thương người thì người thương mình.’’
Chẳng nói thị phi của người khác, giữ điều xấu, khoe điều tốt. Ác tri thức thì luôn luôn phê bình người khác, phỉ báng người khác, hủy nhục người khác, dấu điều thiện, vạch điều xấu, chuyên nói thị phi kẻ khác. Tóm lại, người dạy bạn thiệt thòi là thiện tri thức; người dạy bạn chiếm tiện nghi là ác tri thức.
Ly chư siểm cuống tâm thanh tịnh Lìa các xiểm dối tâm thanh tịnh
Thường lạc từ bi tánh hoan hỉ Thường vui từ bi tánh hoan hỷ
Chí dục quảng đại thâm tín nhân Người chí lực rộng lớn tin sâu
Bỉ văn thử pháp sanh hân duyệt. Nghe được pháp này sinh vui mừng.
Người tu đạo phải lìa khỏi tất cả hành vi xiểm nịnh lừa dối, thì tâm mới được thanh tịnh, tâm mới thường khoái lạc. Có tâm từ bi thì tánh tình tùy thuận hòa nhã, chẳng nổi giận. Người chí hướng và nguyện lực rộng lớn tin sâu, nghe được pháp này, thì nhất định sẽ sinh tâm vui mừng.
An trụ Phổ Hiền chư nguyện địa An trụ các đại nguyện Phổ Hiền
Tu hành Bồ Tát thanh tịnh đạo Tu hành đạo Bồ Tát thanh tịnh
Quan sát Pháp giới như hư không Quán sát pháp giới như hư không
Thử nãi năng tri Phật hành xử. Ðây mới biết được hạnh Phật tu.
Người tu hành phải an trụ trong các đại nguyện của Phổ Hiền, thì mới tu hành đạo thanh tịnh của Bồ Tát, quán sát được mười phương pháp giới như hư không. Như thế mới biết được hạnh môn của Phật tu, và quả vị đắc được.
Thử chư Bồ-tát hoạch thiện lợi, Ðây các Bồ Tát được lợi hành
Kiến Phật nhất thiết thần thông lực, Thấy thần thông của tất cả Phật
Tu dư đạo giả mạc năng tri Người tu đạo khác chẳng biết được
Phổ Hiền hành nhân phương đắc ngộ. Người hành Phổ Hiền mới ngộ được.
Tất cả Bồ Tát trong pháp hội này, đều đắc được lợi lành, thấy được sức thần thông biến hóa của tất cả chư Phật. Người tu hành pháp môn khác, thì chẳng dễ gì biết được cảnh giới này. Chỉ có người tu hành hạnh nguyện Phổ Hiền, thì mới minh bạch và ngộ được cảnh giới này. Vì hạnh nguyện Phổ Hiền là cảnh giới sâu nhất rộng nhất.
Chúng sanh quảng đại vô hữu biên, Chúng sinh rộng lớn chẳng bờ mé
Như Lai nhất thiết giai hộ niệm, Như Lai đều hộ niệm tất cả
Chuyển chánh Pháp luân mị bất chí, Chuyển bánh xe pháp khắp hết thảy
Tỳ Lô Giá Na cảnh giới lực. Ðây cảnh giới Tỳ Lô Giá Na.
Hết thảy chúng sinh rộng lớn chẳng có bờ mé. Tuy chúng sinh nhiều như thế, nhưng đều là Phật hộ niệm, Phật đến hết thảy cõi nước chuyển bánh xe pháp, đây là cảnh giới nguyện lực của pháp Thân Tỳ Lô Giá Na sở thành tựu.
Nhất thiết sát độ nhập ngã thân Tất cả cõi nước vào thân tôi
Sở trụ chư Phật diệc phục nhiên Chỗ chư Phật ở cũng như thế
Nhữ ưng quán ngã chư mao khổng Ông nên quán các lỗ lông tôi
Ngã kim thị nhữ Phật cảnh giới. Nay tôi chỉ bày cảnh giới Phật.
Bồ Tát Phổ Hiền nói : ‘’Hết thảy mười phương cõi nước chư Phật, đều vào được trong thân của tôi. Tận hư không biến pháp giới, chỗ của chư Phật ở, cũng đều nhiếp vào trong thân của tôi. Các ông mọi người hãy quán sát tất cả lỗ chân lông trên thân của tôi, có mười phương chư Phật đang chuyển pháp luân, vì chúng sinh nói pháp. Hiện tại tôi sẽ thị hiện cảnh giới của Phật, để cho các ông được thấy.’’
Phổ Hiền hạnh nguyện vô biên tế Hạnh nguyện Phổ Hiền chẳng bờ mé
Ngã dĩ tu hành đắc cụ túc, Tôi đã tu hành được đầy đủ
Phổ nhãn cảnh giới quảng đại thân Thấy khắp cảnh giới thân rộng lớn
Thị Phật sở hạnh ưng đế thính. Là chỗ Phật tu hãy lắng nghe.
Bồ Tát Phổ Hiền lại nói : Hạnh nguyện Phổ Hiền rộng lớn chẳng bờ mé. Tôi đã tu hành viên mãn, đắc được lợi lành đầy đủ. Mắt quán sát thấy khắp tất cả cảnh giới thân rộng lớn. Ðây là hạnh môn của chư Phật tu, các vị hãy đặc biệt chú ý lắng nghe diệu pháp không thể nghĩ bàn này.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ-Tát Ma-ha-tát cáo chư Đại chúng ngôn: Chư Phật tử ! thế giới hải hữu thập chủng sự, quá khứ,hiện tại,vị lai chư Phật, dĩ thuyết, hiện thuyết, đương thuyết.
Bấy giờ, đại Bồ Tát Phổ Hiền bảo các đại chúng rằng : Các Phật tử ! Thế giới hải có mười việc. Chư Phật quá khứ hiện tại vị lai, đã nói đang nói và sẽ nói.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Ðại Hạnh Phổ Hiền bảo tất cả đại chúng hải hội rằng : Các Phật tử ! Các vị nên biết, thế giới hải có mười việc. Chư Phật quá khứ đã nói qua, chư Phật hiện tại đang nói ở trước mắt, chư Phật vị lai sẽ nói.
Hà giả vi thập? Sở vị: thế giới hải khởi cụ nhân duyên, thế giới hải sở y trụ, thế giới hải hình trạng, thế giới hải thể tánh, thế giới hải trang nghiêm, thế giới hải thanh tịnh, thế giới hải Phật xuất hưng, thế giới hải kiếp trụ, thế giới hải kiếp chuyển biến sái biệt, thế giới hải vô sái biệt môn.
Những gì là mười ? Ðó là: Nhân duyên thế giới hải sinh khởi. Sự nương trụ của thế giới hải. Hình trạng của thế giới hải. Thể tánh của thế giới hải. Sự trang nghiêm của thế giới hải. Sự thanh tịnh của thế giới hải. Phật ra đời trong thế giới hải. Kiếp trụ của thế giới hải. Kiếp chuyển biến khác biệt của thế giới hải. Môn vô sai biệt của thế giới hải.
Giảng: Những gì là mười việc ? Ðó là :
1). Nhân duyên thế giới hải sinh khởi và thành tựu như thế nào ?
2). Sự nương trụ của thế giới hải như thế nào ?
3). Hình trạng của thế giới hải như thế nào ?
4). Thế giới hải dùng gì làm thể tánh ?
5). Thế giới hải trang nghiêm thành tựu như thế nào?
6). Thế giới hải thanh tịnh ra sao ?
7). Nhân duyên Phật ra đời trong thế giới hải như thế nào ?
8). Thế giới hải thành trụ hoại không có bao nhiêu kiếp ?
9). Kiếp chuyển biến khác nhau của thế giới hải như thế nào ?
10). Môn vô sai biệt của thế giới hải ra sao ?
Chư Phật tử ! lược thuyết thế giới hải, hữu thử thập sự; nhược quảng thuyết giả, dữ thế giới hải vi trần số đẳng, quá khứ,hiện tại,vị lai chư Phật, dĩ thuyết, hiện thuyết, đương thuyết.
Chư Phật tử ! Tôi nói sơ lược về thế giới hải có mười việc nầy. Nếu nói rộng ra, thì có nhiều như số hạt bụi thế giới hải. Chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, đã nói đang nói và sẽ nói.
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền nói : Các vị đệ tử của Phật ! Tôi nói sơ lược về thế giới hải có mười việc. Nếu như nói tỉ mỉ, thì có nhiều như số hạt bụi trong thế giới hải. Chư Phật đời quá khứ, đời hiện tại, và đời vị lai, đã nói đang nói và sẽ nói.
Chư Phật tử ! lược thuyết dĩ thập chủng nhân duyên cố, nhất thiết thế giới hải dĩ thành, hiện thành, đương thành.
Chư Phật tử ! Nói sơ lược về mười thứ nhân duyên, tất cả thế giới hải đã thành, hiện thành và sẽ thành.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Nay tôi bắt đầu nói sơ lược về việc thứ nhất trong mười việc của thế giới hải. Nói sơ về thế giới hải thành tựu có mười thứ nhân duyên. Hết thảy tất cả thế giới hải đã thành tựu, hoặc đang thành tựu, hoặc sẽ thành tựu, đều là nhân duyên này.
Hà giả vi thập? Sở vị: Như Lai thần lực cố, Pháp ưng như thị cố, nhất thiết chúng sanh hành nghiệp cố, nhất thiết Bồ Tát thành nhất thiết trí sở đắc cố, nhất thiết chúng sanh cập chư Bồ-tát đồng tập thiện căn cố, nhất thiết Bồ Tát nghiêm tịnh quốc độ nguyện lực cố, nhất thiết Bồ Tát thành tựu bất thoái hạnh nguyện cố, nhất thiết Bồ Tát thanh tịnh thắng giải tự tại cố, nhất thiết Như Lai thiện căn sở lưu cập nhất thiết chư Phật thành đạo thời tự tại thế lực cố, Phổ Hiền Bồ Tát tự tại nguyện lực cố.
Những gì là mười ? Ðó là : Do thần lực của Như Lai. Do pháp nên như vậy. Do hành nghiệp của tất cả chúng sinh. Do tất cả Bồ Tát thành tựu Nhất thiết trí. Do tất cả chúng sinh và tất cả Bồ Tát cùng tập tụ căn lành. Do nguyện lực của tất cả Bồ Tát nghiêm tịnh cõi nước. Do tất cả Bồ Tát thành tựu hạnh nguyện bất thối. Do tất cả Bồ Tát thanh tịnh thắng giải tự tại. Do tất cả Như Lai căn lành sở lưu và khi tất cả chư Phật thành đạo thì thế lực tự tại. Do nguyện lực tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền.
Giảng: Những gì là mười ? Ðó là :
1). Do nhờ thần lực lực của Phật mà thành tựu.
2). Do pháp như vậy cho nên thành tựu.
3). Do nghiệp của tất cả chúng sinh sở hành mà thành tựu.
4). Do tất cả Bồ Tát thành tựu Nhất thiết trí huệ, cho nên mới thành tựu.
5). Do hết thảy tất cả chúng sinh và hết thảy tất cả Bồ Tát cùng tập tụ căn lành mà thành tựu.
6). Do hết thảy tất cả Bồ Tát trang nghiêm thanh tịnh cõi nước.
7). Do hết thảy tất cả Bồ Tát dùng nguyện lực : Niệm không thối, vị không thối, hạnh không thối, mà thành tựu.
8). Do hết thảy tất cả Bồ Tát đắc được thắng giải thanh tịnh, cũng đắc được tự tại mà thành tựu.
9). Do mười phương ba đời tất cả chư Phật sở lưu căn lành và khi tất cả chư Phật thành đạo thì thành tựu đại tự tại, đại thế lực.
10). Do nguyện lực tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền.
Chư Phật tử ! thị vì lược thuyết thập chủng nhân duyên; nhược quảng thuyết giả, hữu thế giới hải vi trần số.
Chư Phật tử ! Ðó là lược nói về mười thứ nhân duyên. Nếu nói rộng ra thì nhiều như hạt bụi của thế giới hải.
Giảng: Các vị đệ tử của Phật ! Ðó là tôi lược nói về mười thứ nhân duyên. Nếu nói rộng ra thì có nhiều nhân duyên như số hạt bụi thế giới hải, để thành tựu thế giới này.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa lý trường hàng ở trên. Ngài bèn nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, dùng kệ để nói rõ nghĩa trên.
Sở thuyết vô biên chúng sát hải, Diễn nói vô biên các biển cõi
Tỳ Lô Giá Na tất nghiêm tịnh, Tỳ Lô Giá Na đều nghiêm tịnh
Thế Tôn cảnh giới bất tư nghị, Cảnh giới Thế Tôn không nghĩ bàn
Trí tuệ thần thông lực như thị. Trí huệ thần thông cũng như vậy.
Diễn nói vô lượng vô biên các biển cõi nước chư Phật. Phật Tỳ Lô Giá Na đều trang nghiêm thanh tịnh. Cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn. Trí tuệ và thần thông lực của Phật cũng không thể nghĩ bàn.
Bồ Tát tu hành chư nguyện hải, Bồ Tát tu hành các biển nguyện
Phổ tùy chúng sanh tâm sở dục, Khắp tùy sở thích tâm chúng sinh
Chúng sanh tâm hành quảng vô biên Tâm hạnh chúng sinh rộng vô biên
Bồ Tát quốc độ biến thập phương. Cõi nước Bồ Tát khắp mười phương.
Khi Bồ Tát tu hành thì phát nguyện như biển cả. Khắp tùy thuận sở thích tâm chúng sinh, Bồ Tát đều làm cho họ mãn nguyện. Tâm niệm và hành vi của chúng sinh rộng lớn vô biên, cho nên cõi nước của Bồ Tát đầy khắp mười phương, khiến cho chúng sinh an trụ vào trong cõi nước Bồ Tát.
Bồ Tát thú ư nhất thiết trí, Bồ tát hướng về Nhất thiết trí
Cần tu chủng chủng tự tại lực, Siêng tu đủ thứ tự tại lực
Vô lượng nguyện hải phổ xuất sanh Vô lượng biển nguyện khắp sinh ra
Quảng đại sát độ giai thành tựu. Cõi nước rộng lớn đều thành tựu
Bồ Tát hướng về thành tựu Nhất thiết trí huệ, siêng học siêng tu đủ thứ tự tại lực, hết thảy thần thông biến hóa đều từ trong vô lượng biển nguyện khắp sinh ra, cho nên mười phương cõi nước, đều do nguyện lực của Bồ Tát mà thành tựu.
Tu chư hạnh hải vô hữu biên, Tu các biển hạnh chẳng bờ mé
Nhập Phật cảnh giới diệc vô lượng, Vào cảnh giới Phật cũng vô lượng
Vì tịnh thập phương chư quốc độ Vì tịnh các cõi nước mười phương
Nhất nhất độ Kinh vô lượng kiếp. Mỗi cõi trải qua vô lượng kiếp.
Bồ Tát tu hành các biển hạnh cũng chẳng có bờ mé. Vào cảnh giới của Phật cũng vô lượng vô biên. Vì thanh tịnh trang nghiêm các cõi nước mười phương, mà mỗi cõi nước đều trải qua vô lượng kiếp thời gian.
Chúng sanh phiền não sở nhiễu trược, Chúng sinh bị phiền não nhiễu trược
Phân biệt dục lạc phi nhất tướng, Phân biệt dục lạc chẳng một tướng
Tùy tâm tạo nghiệp bất tư nghị, Tùy tâm thọ nghiệp không nghĩ bàn
Nhất thiết sát hải tư thành lập. Tất cả biển cõi đều thành lập.
Hết thảy tất cả chúng sinh, đều bị vô minh phiền não làm nhiễu loạn mà hỗn trược. Chúng sinh tham dục lạc chẳng phải là một thứ tướng, mà là nhiều thứ tướng. Chúng sinh tùy tâm tham muốn, mà tạo ra đủ thứ nghiệp, tạo nghiệp gì thì thọ quả báo đó, đây là không thể nghĩ bàn. Mười phương tất cả biển cõi, đều vì nghiệp lực của chúng sinh, sở cảm mà thành lập.
Phật tử sát hải trang nghiêm tạng Phật tử biển cõi trang nghiêm tạng
Ly cấu quang minh bảo sở thành, Lìa cấu quang minh báu thành tựu
Tư do quảng đại tín giải tâm Ðều do tâm tin hiểu rộng lớn
Thập phương sở trụ hàm như thị. Mười phương an trụ đều như vậy.
Bồ Tát Phổ Hiền nói : Các vị đệ tử của Phật ! Biển cõi nước của chư Phật trang nghiêm thanh tịnh tạng, lìa tất cả trần cấu, là các quang minh báu trang nghiêm mà thành tựu. Vì khi thuở xưa tu hành, thì có tâm tin hiểu rộng lớn. Cho nên mười phương cõi nước an trụ đều như vậy.
Bồ Tát năng tu Phổ Hiền hạnh, Bồ Tát hay tu hạnh Phổ Hiền
Du hành Pháp giới vi trần đạo, Du hành pháp giới trong hạt bụi
Trần trung tất hiện vô lượng sát, Trong bụi đều hiện vô lượng cõi
Thanh tịnh quảng đại như hư không. Thanh tịnh rộng lớn như hư không.
Hết thảy Bồ Tát đều hay tu hạnh môn của Phổ Hiền. Tận hư không biến pháp giới, đều du hành trong tất cả hạt bụi, nhậm vận tự tại, chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Trong mỗi hạt bụi, đều hiện ra vô lượng cõi nước chư Phật mười phương. Trong mỗi hạt bụi lại thanh tịnh rộng lớn như hư không.
Đẳng hư không giới hiện thần thông Tận cõi hư không hiện thần thông
Tất nghệ đạo tràng chư Phật sở Ðều đến Đạo tràng chỗ chư Phật
Liên hoa tọa thượng thị chúng tướng Trên tòa hoa sen hiện các tướng
Nhất nhất thân bao nhất thiết sát. Mỗi thân bao hàm tất cả cõi.
Tận hư không biến pháp giới, Phật đều hiện đại thần thông, có thể đến khắp trong mỗi hạt bụi chuyển đại pháp luân, cũng có thể đến đạo tràng của chư Phật, để cúng dường chư Phật. Ngồi trên tòa sư tử hoa sen, thị hiện ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp. Mỗi thân đều bao hàm tất cả cõi nước chư Phật.
Nhất niệm phổ hiện ư tam thế Một niệm khắp hiện ra ba đời
Nhất thiết sát hải giai thành lập, Tất cả biển cõi đều thành lập
Phật dĩ phương tiện tất nhập trung Phật dùng phương tiện đều vào trong
Thử thị Tì lô sở nghiêm tịnh. Ðây là nghiêm tịnh của Tỳ Lô.
Phật có thể ở trong một niệm hiện ra thời gian ba đời. Tất cả biển cõi của chư Phật đều thành lập. Phật dùng pháp môn phương tiện vào trong cõi Phật. Cảnh giới này, do Phật Tỳ Lô Giá Na nghiêm tịnh mà thành tựu.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: chư Phật tử ! nhất nhất thế giới hải hữu thế giới hải vi trần số sở y trụ.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng: Các Phật tử ! Mỗi mỗi thế giới hải, đều có sự nương tựa mà trụ, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền lại nói với đại chúng Bồ Tát rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị nên biết, trong mỗi thế giới hải, đều có sự nương tựa mà trụ, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Sở vị: hoặc y nhất thiết trang nghiêm trụ, hoặc y hư không trụ, hoặc y nhất thiết bảo quang minh trụ, hoặc y nhất thiết Phật quang minh trụ, hoặc y nhất thiết bảo sắc quang minh trụ, hoặc y nhất thiết Phật âm thanh trụ, hoặc y như huyễn nghiệp sanh Đại lực A-tu-la hình Kim Cương Thủ trụ, hoặc y nhất thiết thế chủ thân trụ, hoặc y nhất thiết Bồ Tát thân trụ, hoặc y Phổ Hiền Bồ Tát nguyện sở sanh nhất thiết sái biệt trang nghiêm hải trụ.
Hoặc nương tất cả trang nghiêm mà trụ. Hoặc nương hư không mà trụ. Hoặc nương tất cả quang minh báu mà trụ. Hoặc nương tất cả quang minh của Phật mà trụ. Hoặc nương tất cả màu báu quang minh mà trụ. Hoặc nương tất cả âm thanh của Phật mà trụ. Hoặc nương nghiệp như huyễn sinh đại lực A tu la tay hình kim cang mà trụ. Hoặc nương thân của tất cả thế chủ mà trụ. Hoặc nương thân của tất cả Bồ Tát mà trụ. Hoặc nương nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền sinh ra tất cả biển trang nghiêm sai biệt mà trụ.
Giảng: Việc thứ hai của thế giới hải, là nương tựa mà trụ, cũng có mười thứ.
1). Hoặc có thế giới hải nương tựa tất cả sự trang nghiêm mà trụ.
2). Hoặc có thế giới hải nương tựa hư không mà trụ.
3). Hoặc có thế giới hải nương tất cả báu quang minh mà trụ.
4). Hoặc có thế giới hải nương quang minh của tất cả chư Phật mà trụ.
5). Hoặc có thế giới hải nương tất cả bảo sắc quang minh mà trụ.
6). Hoặc có thế giới hải nương âm thanh của tất cả chư Phật mà trụ.
7). Hoặc có thế giới hải nương nghiệp như huyễn (du hí thần thông) sinh đại lực A Tu La hình tay kim cang mà trụ.
8). Hoặc có thế giới hải nương thân thế gian chủ (Phật) mà trụ.
9). Hoặc có thế giới hải nương thân Bồ Tát mà trụ.
10). Hoặc có thế giới hải nương nguyện lực của Bồ Tát Phổ Hiền phát ra, sinh ra tất cả biển trang nghiêm khác biệt mà trụ.
Chư Phật tử ! thế giới hải hữu như thị đẳng thế giới hải vi trần số sở y trụ.
Chư Phật tử ! Thế giới hải có sự nương tựa mà trụ như vậy thảy, nhiều như hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền nói : Các đệ tử của Phật ! Thế giới hải nương tựa mà trụ, nói tổng quát thì có mười thứ như ở trên vừa nói. Nếu nói tỉ mỉ thì nhiều như hạt bụi thế giới hải.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Ðại Hạnh Phổ Hiền, muốn tuyên lại ý nghĩa trường hàng ở trên, bèn nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, mà dùng kệ để nói rõ ý nghĩa lý ở trên.
Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm không thể nghĩ bàn, không thể diễn tả. Nếu chiếu theo tư tưởng suy nghĩ của một số người, thì vốn chẳng cách chi giải thích về đạo lý này, cảnh giới này cũng là việc không thể được. Làm thế nào mà có thể ở trong một hạt bụi, dung nạp được ba ngàn đại thiên thế giới ? Pháp giới lớn như thế, còn hạt bụi thì nhỏ như vậy, làm sao có thể trong nhỏ dung lớn ? Song, cảnh giới này tuyệt đối là chân thật, chứ chẳng phải nói dối. Nhưng cảnh giới viên dung vô ngại này, chẳng phải một số phàm phu tục tử tin được, chúng ta chẳng có ngũ nhãn, chẳng có lục thông, cho nên chẳng tin cảnh giới này. Cảnh giới Kinh Hoa Nghiêm này, dùng Phật nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, thiên nhãn, nhục nhãn (chẳng phải nhục nhãn của phàm phu) để quán sát, thì có thật cảnh giới này. Cho nên cảnh giới này là cảnh giới vi diệu, là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Biến mãn thập phương hư không giới, Ðầy khắp mười phương cõi hư không
Sở hữu nhất thiết chư quốc độ, Hết thảy tất cả các cõi nước
Như Lai thần lực chi sở gia Ðược thần lực Như Lai gia trì
Xứ xứ hiện tiền giai khả kiến. Nơi nơi hiện tiền đều thấy được.
Khắp trong mười phương cõi hư không giới, hết thảy mười phương tất cả cõi nước chư Phật, đều được thần lực của chư Phật gia trì. Mọi nơi đều hiện tiền, hết thảy tất cả chúng sinh đều thấy được.
Hoặc hữu chủng chủng chư quốc độ Hoặc có đủ thứ các cõi nước
Vô phi ly cấu bảo sở thành, Thảy đều lìa cấu báu thành tựu
Thanh tịnh ma-ni tối thù diệu, Ma ni thanh tịnh thù diệu nhất
Sí nhiên phổ hiện quang minh hải. Óng ánh hiện khắp biển quang minh.
Hoặc là có đủ thứ hình trạng các cõi nước khác nhau, đều lìa trừ tất cả bụi bặm nhiễm ô, do các báu trang nghiêm thành tựu cõi nước. Ma ni báu thanh tịnh thù thắng vi diệu nhất. Mỗi thế giới đều óng ánh như ánh lửa, khắp hiện ra quang minh năm màu mười sắc, chẳng những sáng chói mà quang minh chiếu như biển.
Hoặc hữu thanh Tịnh Quang minh sát Hoặc có cõi quang minh thanh tịnh
Y chỉ hư không giới nhi trụ, Nương tựa cõi hư không mà trụ
Hoặc tại ma-ni bảo hải trung Hoặc nương tựa biển ma ni báu
Phục hưũ an trụ quang minh tạng. Hoặc an trụ trong quang minh tạng.
Hoặc có thế giới hải thanh tịnh quang minh, nương tựa cõi hư không mà trụ, hoặc nương biển ma ni báu mà trụ. Lại có thế giới an trụ trong đại quang minh tạng.
Như Lai xứ thử chúng hội hải, Như Lai tại chúng hải hội này
Diễn thuyết Pháp luân giai xảo diệu, Diễn nói pháp luân đều xảo diệu
Chư Phật cảnh giới quảng vô biên, Cảnh giới chư Phật rộng vô biên
Chúng sanh kiến giả tâm hoan hỉ. Chúng sinh thấy được tâm hoan hỷ.
Phật ở tại đạo tràng trong đại chúng hải hội, diễn nói tất cả các pháp, chuyển đại pháp luân, đều xảo diệu không thể nghĩ bàn. Cảnh giới chư Phật rộng lớn chẳng có bờ mé. Hết thảy tất cả chúng sinh thấy được cảnh giới này, đều sinh tâm đại hoan hỷ, y giáo phụng hành.
Hữu dĩ ma-ni tác nghiêm sức, Có cõi nghiêm sức bằng ma ni
Trạng như hoa đăng quảng phân bố Hình như đèn hoa phân bố rộng
Hương diệm quang vân sắc sí nhiên Mây quang hương diễm màu óng ánh
Phước dĩ diệu bảo quang minh võng. Dùng báu đẹp lưới quang minh che.
Có thế giới dùng ma ni báu để trang nghiêm tu sức, hình trạng như đèn hoa sen báu, phân bủa rộng lớn khắp tất cả thế giới. Lại có hương diễm mây quang minh óng ánh, ở phía trên dùng lưới quang minh báu đẹp, che rất trang nghiêm đẹp đẽ.
Hoặc hữu sát độ vô biên tế, Hoặc có cõi nước chẳng bờ mé
An trụ liên hoa thâm đại hải, An trụ hoa sen biển sâu rộng
Quảng bác thanh tịnh dữ thế thù, Rộng lớn thanh tịnh rất đặc thù
Chư Phật diệu thiện trang nghiêm cố Do chư Phật tu trang nghiêm đẹp.
Hoặc có cõi nước chư Phật chẳng có bờ mé, an trụ hoa sen biển cả sâu rộng lớn vừa thanh tịnh vừa đặc thù, khác với thế giới khác. Ðó là nhờ căn lành vi diệu của chư Phật trang nghiêm.
Quy cụ của chùa Kim Sơn chúng ta, chẳng giống với các đạo tràng khác trên thế giới. Ví như nghi thức thỉnh pháp, có người cho rằng rất kỳ lạ, thấy điều chưa thấy, nghe việc chưa nghe. Nghi thức thỉnh pháp này, giống như lúc Phật còn tại thế. Khi Phật thuyết pháp thì nhất định phải có người thỉnh pháp, nếu không thì chẳng nói pháp (ngoại trừ Kinh A Di Ðà), yên lặng nhập định.
Người thỉnh pháp phải đi nhiễu bên phải Ðức Phật ba vòng, biểu thị sự tôn kính vô thượng, nghi thức thỉnh pháp của chùa Kim Sơn chúng ta trở lại thời xưa, khôi phục lại quy cụ hồi thời Phật Thích Ca. Khi pháp sư giảng Kinh, thì nhất định phải có người thỉnh pháp, như thế mới hợp với Phật chế, chứ chẳng phải tiêu tân lập dị.
Người thỉnh pháp phải trịnh trọng về việc này, tất cung tất kính, cầm cây hương cao bằng chân mày, mắt nhìn tâm bước, nhiếp tâm nghĩ : Chư Phật ở trên hư không đến nhiếp thọ thỉnh pháp, từ từ đi nhiễu bên phải ba vòng, sau đó đến trước Phật đảnh lễ, xong trở về chỗ ngồi. Các bạn phải biết công đức thỉnh pháp là vô lượng, tương lai nhất định biện tài vô ngại, sẽ giảng Kinh thuyết pháp. Ngài Phú Lâu Na là người thuyết pháp bậc nhất trong hàng đệ tử của Phật. Tại sao Ngài khéo về thuyết pháp ? Vì thuở xưa, phàm Ngài gặp thiện trí thức, bèn chí thành khẩn thiết, thỉnh pháp thọ giáo, cho nên đắc được quả báo biện tài vô ngại.
Hiện tại tôi giảng Kinh thuyết pháp cho các vị nghe, dù hay hoặc không hay đều chẳng phải tôi giảng, mà là thế chư Phật, Bồ Tát giảng, hoặc là phiên dịch truyền đạt mà thôi. Khi các vị nghe Kinh, thì phải quán triệt nghĩa Kinh viên mãn, phải vận dụng sức khảo lự, đừng có nuốt chửng, ăn mà chẳng biết mùi vị, càng không thể biết một hiểu nửa, tựa như đúng mà sai, chẳng triệt để. Nếu như vậy thì vĩnh viễn chẳng thành tựu, thì nói chi đến sự khai ngộ.
Trước kia có hai người, trên đường đi nhìn thấy dấu chân voi. Người trí nói rằng : ‘’Con voi lớn đi trước chúng ta là voi mẹ và còn mang thai, trong thai là voi cái. Mắt bên phải bị mù, có một phụ nữ ngồi trên lưng voi, người phụ nữ đó cũng mang thai, cũng là con gái.’’ Người ngu chẳng tin. Hai người vì muốn rõ chuyện này, cho nên cấp tốc đi mau lên, chẳng bao lâu thì đuổi kịp con voi lớn, quả nhiên đúng như lời người trí đã nói. Lúc đó, người ngu rất khen ngợi sự cao kiến của người trí, bèn thỉnh cầu là do đâu mà biết ? Người trí nói : ‘’Thấy dấu nước tiểu tung toé là voi mẹ. Dấu chân voi bên phải sâu, dấu chân bên trái cạn, thì biết được trong thai là voi cái. Cỏ dọc đường bên phải ngay ngắn, cỏ dọc đường bên trái bị voi ăn, biết được là mắt phải bị mù. Chỗ voi đứng có dấu chân phụ nữ, dấu chân bên phải sâu, dấu chân bên trái cạn, biết được là có mang thai, cũng là con gái.’’ Phân tích rất rõ ràng, đó là sức tư khảo, cũng là nghe một biết mười. Nghiên cứu Phật pháp cũng phải như vậy, thì mới có thể minh bạch cứu kính.
Hoặc hữu sát hải tùy luân chuyển, Hoặc có biển cõi tùy luân chuyển
Dĩ Phật uy thần đắc an trụ, Nhờ Phật thần lực được an trụ
Chư Bồ-tát chúng biến tại trung, Các chúng Bồ Tát khắp trong đó
Thường kiến vô ương quảng đại bảo. Thường thấy vô số báu rộng lớn.
Hoặc có biển cõi nước, tùy theo luân chuyển. Nhờ đại oai thần lực của Phật mà được an trụ. Hết thảy Bồ Tát khắp ở trong biển cõi nước đó, thường thấy vô lượng số châu báu rộng lớn.
Hoặc hữu trụ ư Kim Cương Thủ Có cõi trụ nơi tay kim cang
Hoặc phục hưũ trụ Thiên Chủ thân Hoặc trụ nơi thân Thiên chủ
Tỳ Lô Giá Na vô thượng tôn, Ðấng Tỳ Lô Giá Na vô thượng
Thường ư thử xứ chuyển pháp luân. Thường ở nơi đó chuyển pháp luân.
Hoặc có thế giới trụ ở trong tay kim cang của A Tu La. Hoặc có thế giới trụ trên thân của Thiên chủ. Phật Tỳ Lô Giá Na là Thế Tôn Vô Thượng, Ngài luôn luôn ở trong thế giới đó, chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh.
Hoặc y bảo thụ bình quân trụ Hoặc nương trụ cây báu bằng phẳng
Hương diệm vân trung diệc phục nhiên Trong mây hương diễm cũng như thế
Hoặc hữu y chư Đại thủy trung Hoặc nương tựa trong các đại thủy
Hữu trụ kiên cố Kim cương hải. Hoặc nương biển kim cang kiên cố.
\Hoặc có thế giới nương tựa cây báu bằng phẳng mà trụ, hoặc có thế giới nương tựa ở trong mây hương diễm, hoặc có thế giới nương tựa tất cả đại thủy mà trụ, hoặc có thế giới nương tựa biển kim cang kiên cố mà trụ.
Hoặc hữu y chỉ Kim cương tràng Hoặc có cõi nương kim cang tràng
Hoặc hữu trụ ư hoa hải trung, Lại có cõi trụ trong biển hoa
Quảng đại thần thông vô bất châu, Thần thông rộng lớn khắp hết thảy
Tỳ Lô Giá Na thử năng hiện. Tỳ Lô Giá Na mới hiện được.
Hoặc có thế giới nương tựa kim cang tràng mà trụ, hoặc có thế giới nương tựa biển hoa mà an trụ. Sự thần thông biến hóa rộng lớn như thế, đến khắp hết thảy mọi nơi. Chỉ có Phật Tỳ Lô Giá Na mới hiện ra được cảnh giới như thế.
Hoặc tu hoặc đoản vô lượng chủng, Hoặc dài hoặc ngắn vô lượng loại
Kỳ tướng toàn hoàn diệc phi nhất, Hình tướng tròn cũng chẳng phải một
Diệu trang nghiêm tạng dữ thế thù, Diệu trang nghiêm tạng rất thù đặc
Thanh tịnh tu trì nãi năng kiến. Thanh tịnh tu trị mới thấy được.
Hoặc có thế giới hình dài hoặc có thế giới hình ngắn, có vô lượng đủ thứ hình trạng. Hình tròn cũng như thế, chẳng phải một loại, mà nhiều loại. Sự trang nghiêm vi diệu này rất thù đặc. Người tu trị thanh tịnh mới thấy được cảnh giới này.
Như thị chủng chủng các sái biệt, Như vậy đủ thứ loại khác nhau
Nhất thiết giai y nguyện hải trụ Tất cả đều nương trụ nguyện hải
Hoặc hữu quốc độ thường tại không, Hoặc có cõi nước trụ trên không
Chư Phật như vân tất sung biến. Chư Phật như mây đều đầy khắp.
Ðủ thứ sự khác nhau như vậy, hết thảy tất cả thế giới đều nương tựa nguyện hải của chư Phật, Bồ Tát mà trụ. Hoặc có cõi nước thường trụ ở trong hư không. Chư Phật nhiều như mây đều đầy dẫy ở trong các cõi nước.
Hoặc hữu tại không huyền phước trụ, Hoặc treo che trong không mà trụ
Hoặc thời nhi hữu hoặc vô hữu Hoặc có khi có hoặc không có
Hoặc hữu quốc độ cực thanh tịnh Hoặc có cõi nước rất thanh tịnh
Trụ ư Bồ Tát bảo quán trung. Trụ trong mũ báu của Bồ Tát.
Hoặc có thế giới treo che ở trong hư không mà trụ, hoặc có lúc có thế giới, hoặc có lúc chẳng có thế giới. Hoặc có cõi nước rất thanh tịnh, trụ ở trong mũ báu của Bồ Tát đội.
Thập phương chư Phật đại thần thông Mười phương chư Phật đại thần thông
Nhất thiết giai ư thử trung kiến, Tất cả đều thấy ở trong đó
Chư Phật âm thanh hàm biến mãn Âm thanh chư Phật đều đầy khắp
Tư do nghiệp lực chi sở hóa. Ðều do nghiệp lực hóa hiện ra.
Ðó đều là đại thần thông diệu dụng, của mười phương ba đời tất cả chư Phật hiện ra, hết thảy tất cả chư Phật Bồ Tát, và tất cả chúng sinh, đều thấy nhau ở trong đó. Âm thanh của chư Phật diễn nói diệu pháp đầy khắp mọi nơi. Ðó là do nghiệp lực của chúng sinh, và công đức của chư Phật hóa hiện ra.
Hoặc hữu quốc độ châu Pháp giới, Hoặc có cõi nước khắp pháp giới
Thanh tịnh ly cấu tùng tâm khởi, Thanh tịnh lìa cấu từ tâm sinh
Như ảnh như huyễn quảng vô biên, Như ảnh như huyễn rộng vô biên
Như nhân đà võng các sái biệt. Như lưới đà la đều khác nhau.
Hoặc có cõi nước khắp cùng pháp giới, thanh tịnh lìa khỏi các bụi trần, chẳng có tâm nhiễm ô. Cảnh giới này là do tâm chư Phật sinh ra, cũng từ tâm của chúng sinh sinh ra. Tâm của chúng sinh thanh tịnh, thì cõi nước sẽ thanh tịnh. Tâm chúng sinh nhiễm ô, thì cõi nước sẽ nhiễm ô. Cõi nước đó lại giống như ảnh tượng, lại giống như huyễn hóa, cho nên rộng lớn vô biên. Lại giống như lưới nhân đà la của trời Ðế Thích, lỗ lưới có châu báu đều khác nhau.
Hoặc hiện chủng chủng trang nghiêm tạng Hoặc hiện đủ thứ trang nghiêm tạng
Y chỉ hư không nhi kiến lập, Nương trong hư không mà kiến lập
Chư nghiệp cảnh giới bất tư nghị, Các nghiệp cảnh giới không nghĩ bàn
Phật lực hiển thị giai lệnh kiến. Phật lực hiển bày đều thấy được.
Hoặc có thế giới hiện ra đủ thứ pháp tạng trang nghiêm, nương tựa hư không mà kiến lập. Tất cả nghiệp của chúng sinh không thể nghĩ bàn, cảnh giới cũng không thể nghĩ bàn. Ðó đều là Phật lực hiển bày ra, khiến cho tất cả chúng sinh nhìn thấy rất rõ ràng.
Nhất nhất quốc độ vi trần nội, Mỗi mỗi cõi nước trong hạt bụi
Niệm niệm thị hiện chư Phật sát, Niệm niệm thị hiện các cõi Phật
Số giai vô lượng đẳng chúng sanh, Số đều vô lượng đồng chúng sinh
Phổ Hiền sở tác hằng như thị. Phổ Hiền tu hành luôn như thế.
Mỗi cõi nước ở trong hạt bụi, có chư Phật đang chuyển pháp luân. Trong niệm niệm, trong mỗi hạt bụi, lại thị hiện cõi nước chư Phật. Thị hiện cõi nước chư Phật, số lượng vô lượng đồng với chúng sinh, nguyện lực của Bồ Tát Phổ Hiền tu, luôn luôn là như vậy.
Vì dục thành thục chúng sanh cố Vì muốn thành thục các chúng sinh
Thị trung tu hành Kinh kiếp hải, Trong đó tu hành trải biển kiếp
Quảng đại thần biến mị bất hưng, Thần biến rộng lớn khắp hết thảy
Pháp giới chi trung tất chu biến. Thảy đều khắp cùng trong pháp giới.
Chư Phật Bồ Tát vì muốn thành thục chúng sinh, cho nên từ vô lượng kiếp đến nay, tu hành đã trải qua biển kiếp thời gian. Vì thời gian tu hành lâu dài, nên tự nhiên có thần thông biến hóa. Thần thông biến hóa rộng lớn này, chẳng có chỗ nào mà chẳng có, khắp hết thảy trong pháp giới.
Pháp giới quốc độ nhất nhất trần Mỗi hạt bụi cõi nước pháp giới
Chư Đại sát hải trụ kỳ trung, Các biển cõi trụ ở trong đó
Phật vân bình đẳng tất di phước Mây Phật bình đẳng đều che khắp
Ư nhất thiết xứ hàm sung mãn. Hết thảy mọi nơi đều đầy dẫy.
Tận hư không biến pháp giới, mỗi hạt bụi trong cõi nước chư Phật mười phương, đều an trụ ở trong đó. Tuy mỗi hạt bụi là nhỏ, nhưng có thể dung nạp hết thảy pháp giới. Cảnh giới này là thật chẳng phải giả. Người có thần thông mới thấy được. Trong mỗi hạt bụi, mây quang minh của Phật, bình đẳng che tất cả cõi nước và tất cả chúng sinh. Khắp mọi nơi đều đầy dẫy mây quang minh của Phật.
Như nhất trần trung tự tại dụng Như trong mỗi bụi tự tại dụng
Nhất thiết trần nội diệc phục nhiên, Trong tất cả bụi cũng như thế
Chư Phật Bồ-tát đại thần thông Chư Phật Bồ Tát đại thần thông
Tỳ Lô Giá Na tất năng hiện. Tỳ Lô Giá na đều thấy được.
Giống như trong mỗi hạt bụi, có sự tự tại diệu dụng hóa hiện. Chẳng những một hạt bụi dung nạp được ba ngàn đại thiên thế giới, mà mỗi hạt bụi cũng dung nạp được tận hư không biến pháp giới, cũng đầy đủ sự tự tại diệu dụng này. Ðó là nhờ thần lực rộng lớn của chư Phật Bồ Tát, mà thành tựu. Cảnh giới này, Phật Tỳ Lô Giá Na thị hiện ra.
Nhất thiết quảng đại chư sát độ Tất cả các cõi nước rộng lớn
Như ảnh như huyễn diệc như diễm, Như ảnh như huyễn cũng như diễm
Thập phương bất kiến sở tùng sanh Mười phương chẳng thấy chỗ sinh ra
Diệc phục vô lai vô khứ xứ. Cũng lại chẳng đến chẳng nơi đi.
Hết thảy tất cả các cõi nước rộng lớn, đừng cho rằng là chân thật tồn tại, cảnh giới đó như ảnh như huyễn hóa cũng như diễm chẳng thật có. Trong mười phương thế giới chẳng thấy từ đâu sinh ra. Vì chẳng chỗ sinh, cho nên không đến, không đi, cũng không thành. Tuy là nói như thế nhưng nó vẫn y nhiên tồn tại.
Diệt hoại sanh thành hỗ tuần phục Diệt hoại sinh thành cùng tuần hoàn
Ư hư không trung vô tạm dĩ, Ở trong hư không chẳng tạm ngừng
Mạc bất giai do thanh tịnh nguyện Đâu chẳng phải do nguyện thanh tịnh
Quảng đại nghiệp lực chi sở trì. Nghiệp lực rộng lớn sở chi trì.
Thế giới cũng có tuổi thọ, khi thế giới đến lúc diệt, thì tự nhiên sẽ hủy diệt; đến lúc sinh thành, thì tự nhiên sinh thành. Phải trải qua thành, trụ, hoại, không, bốn giai đoạn, tuần hoàn với nhau, hết rồi lại bắt đầu, cứ như vậy ở trong hư không, chẳng có khi nào dừng nghỉ tạm thời. Cảnh giới này, là do nguyện lực thanh tịnh của Phật Tỳ Lô Giá Na mà thành tựu, và do nghiệp lực rộng lớn của chúng sinh chi trì, mới có cảnh giới thành trụ hoại không.
Tu hành chứ chẳng phải là đi tìm huyền diệu, cũng chẳng chú trọng thần thông, nhưng cũng đừng coi thường huyền diệu, xem thường thần thông, chỉ cần tu hành chân chánh, bất cứ là pháp môn gì, mà chân thật đến cực điểm, thì việc không thể được, cũng sẽ biến thành được. Tu đạo là thực hành, chẳng phải nói suông, do đó có câu:
‘’Nói một trượng chẳng bằng thực hành một thước.’’
Ðiểm này rất quan trọng, hy vọng mọi người chú ý.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: chư Phật tử ! thế giới hải hữu chủng chủng sái biệt hình tướng.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng : Các Phật tử ! Thế giới hải có đủ thứ hình tướng khác nhau.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng hải hội rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Hình tướng của thế giới hải đều khác nhau, giống như mặt mũi của con người đều chẳng giống nhau.
Sở vị: hoặc viên, hoặc phương, hoặc phi viên phương, vô lượng sái biệt; hoặc như thủy tuyền hình, hoặc như sơn diệm hình, hoặc như thọ hình, hoặc như hoa hình, hoặc như cung điện hình, hoặc như chúng sanh hình, hoặc như Phật hình
Hoặc hình tròn, hoặc hình vuông, hoặc chẳng tròn chẳng vuông, vô lượng sự khác nhau. Hoặc hình như nước xoáy, hoặc hình như sơn diễm, hoặc hình như cây, hoặc hình như hoa, hoặc hình như cung điện, hoặc hình như chúng sinh, hoặc hình như đức Phật
Giảng: Hình tướng của thế giới hải chia làm mười loại :
1). Hoặc là hình tròn.
2). Hoặc là hình vuông.
3). Hoặc là chẳng phải hình tròn chẳng phải hình vuông, hoặc là hình tam giác, có vô lượng sự khác nhau.
4). Hoặc là hình nước xoáy.
5). Hoặc là hình sơn diễm.
6). Hoặc là hình cây.
7). Hoặc là hình hoa.
8). Hoặc là hình cung điện.
9). Hoặc là hình chúng sinh, như hình sư tử, hình chim, hình người .v.v…
10) Hoặc là hình Phật, có bốn trạng thái đi, đứng, nằm, ngồi.
Như thị đẳng, hữu thế giới hải vi trần số.
Có như vậy nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Hình tướng của thế giới hải, nói sơ lược thì có mười thứ. Nếu nói tỉ mỉ thì có nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Ðại Hạnh Phổ Hiền muốn diễn nói lại ý nghĩa trường hàng ở trên, nói rõ ràng hơn. Ngài bèn nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, dùng kệ để thuật lại nghĩa trên.
Chư quốc độ hải chủng chủng biệt, Các biển cõi nước đủ thứ hình
Chủng chủng trang nghiêm chủng chủng trụ, Đủ thứ trang nghiêm đủ thứ trụ
Thù hình cọng mỹ biến thập phương Hình trạng đặc thù khắp mười phương
Nhữ đẳng hàm ưng cọng quan sát. Các ông nên cùng nhau quán sát.
Cõi nước của chư Phật quá nhiều, cho nên có đủ thứ khác nhau. Mỗi cõi nước có đủ thứ sự trang nghiêm, có đủ thứ sự an trụ. Tuy hình tướng khác nhau, nhưng đều rất thù đặc khắp trong mười phương. Các vị muốn thấy pháp thân của Phật, chẳng cần tìm cầu đâu xa, ở gần vẫn thấy được, như là sơn hà đại địa, hoa cỏ cây cối đều là chỗ sở tại pháp thân của Phật.
Kỳ trạng hoặc viên hoặc hữu phương Hoặc là hình tròn hoặc hình vuông
Hoặc phục tam duy cập bát ngung, Hoặc hình tam giác và tám cạnh
Ma-ni luân trạng liên hoa đẳng Hình ma ni luân hoa sen thảy
Nhất thiết giai do nghiệp lệnh dị. Tất cả đều do nghiệp nên khác.
Hình trạng của thế giới hải, hoặc là hình vuông, hoặc là hình tròn, hoặc là hình tam giác, hoặc là hình tám cạnh. Hoặc là hình ma ni luân, hoặc là hình hoa sen, có đủ thứ hình khác nhau. Ðó đều do nghiệp lực của tất cả chúng sinh, và nguyện lực của chư Phật cùng nhau thành tựu mà khác nhau.
Hoặc hữu thanh tịnh diệm trang nghiêm Hoặc hình thanh tịnh diễm trang nghiêm
Chân kim gian thác đa thù hảo, Vàng thật tô điểm rất thù đặc
Môn thát cạnh khai vô ủng trệ, Cửa nẻo giành mở chẳng vướng mắc
Tư do nghiệp quảng ý vô tạp. Đều do nghiệp rộng ý chẳng tạp.
Hoặc có hình nước xoáy thanh tịnh, hoặc có hình núi diễm thanh tịnh, tất cả đều trang nghiêm. Hoặc có hình vàng thật sở thành tựu, có các châu báu thành tựu cùng nhau tô điểm rất đặc thù tốt đẹp. Có hình trạng như lầu các, bất cứ cửa lớn cửa nhỏ đều giành nhau mở ra, chẳng có sự vướng mắc. Ðó đều là do nghiệp lực rộng lớn của chúng sinh mà thành tựu, ý niệm của họ thuần thanh tịnh chẳng có tạp nhiễm.
Sát hải vô biên sái biệt tạng Biển cõi vô biên tạng khác nhau
Thí như vân bố tại hư không, Ví như mây bủa trong hư không
Bảo luân bố địa diệu trang nghiêm, Luân báu rải đất trang nghiêm đẹp
Chư Phật quang minh chiếu diệu trung. Quang minh chư Phật chiếu sáng khắp.
Cõi nước chư Phật trong hết thảy thế giới hải, nhiều vô lượng vô biên, có đủ thứ sự khác nhau. Ví như mây trong hư không, có đủ thứ hình trạng khác nhau. Có thế giới hải luân báu rải ở mặt đất, rất trang nghiêm đẹp đẽ. Trí huệ quang minh của mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều chiếu sáng ở trong đó.
Nhất thiết quốc độ tâm phân biệt Tất cả cõi do tâm phân biệt
Chủng chủng quang minh nhi chiếu hiện, Đủ thứ quang minh đều chiếu hiện
Phật ư như thị sát hải trung, Phật ở trong biển cõi như vậy
Các các thị hiện thần thông lực. Thảy đều thị hiện sức thần thông.
Tất cả cõi nước, đều do tự tâm phân biệt mà thành. Nếu chẳng có tâm phân biệt, thì tất cả cõi nước đều biến thành hư không. Hết thảy đủ thứ quang minh đều chiếu hiện. Chư Phật ở trong tất cả biển cõi đều như vậy, hết thảy đều thị hiện sức thần thông khác nhau.
Hoặc hữu tạp nhiễm hoặc thanh tịnh Hoặc có tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
Thọ khổ thọ lạc các sái biệt, Thọ khổ thọ vui đều khác nhau
Tư do nghiệp hải bất tư nghị, Đều do biển nghiệp không nghĩ bàn
Chư lưu chuyển Pháp hằng như thị. Các pháp lưu chuyển luôn như vậy.
Hoặc có thế giới tạp nhiễm, hoặc có thế giới thanh tịnh, giống như thế giới Ta Bà là tạp nhiễm, cho nên gọi là đời ác năm trược, còn thế giới Cực Lạc là thanh tịnh. Chúng sinh ở thế giới Ta Bà thì thọ khổ, còn chúng sinh ở thế giới Cực Lạc thì chỉ có vui, mà chẳng có khổ. Mỗi thế giới đều khác nhau, đều do nghiệp của chúng sinh tạo ra, và nghiệp của chư Phật tạo ra mà thành, đều không thể nghĩ bàn. Tất cả pháp lưu chuyển đều như vậy, lưu chuyển không ngừng.
Nhất mao khổng nội nan tư sát, Trong một lỗ lông nan tư cõi
Đẳng vi trần số chủng chủng trụ, Đồng số hạt bụi đủ thứ trụ
Nhất nhất giai hữu biến chiếu tôn Mỗi cõi đều có đấng Biến Chiếu
Tại chúng hội trung tuyên diệu pháp. Ở trong chúng hội diễn diệu pháp.
Ở trong mỗi lỗ chân lông, đều có các cõi nước chư Phật khó nghĩ bàn, nhiều đồng số hạt bụi, nương tựa đủ thứ mà trụ. Trong mỗi cõi nước, đều có đấng Biến Chiếu (Phật) ở trong đại chúng hải hội diễn nói diệu pháp.
Ư nhất trần trung đại tiểu sát Ở trong một bụi cõi lớn nhỏ
Chủng chủng sái biệt như trần số Đủ thứ khác nhau như số bụi
Bình thản cao hạ các bất đồng, Bằng phẳng cao thấp đều chẳng giống
Phật tất vãng nghệ chuyển pháp luân. Phật đều đến đó chuyển pháp luân.
Ở trong một hạt bụi, có cõi nước lớn, có cõi nước nhỏ, có đủ thứ sự khác nhau, đều chẳng giống, có sự khác nhau nhiều như số hạt bụi. Cõi nước này bằng phẳng, cõi nước kia cao lên, hoặc thấp xuống, đều khác nhau. Bất luận là lớn là nhỏ, là cao là thấp, là bằng phẳng, là lồi lõm, Phật đều đi đến những nước đó, để chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui. Ở trong tâm của Phật, hết thảy cõi nước và chúng sinh, là một luật bình đẳng chẳng có phân biệt.
Nhất thiết trần trung sở hiện sát Trong tất cả bụi hiện cõi nước
Giai thị Bổn Nguyện thần thông lực, Đều là bổn nguyện thần thông lực
Tùy kỳ tâm lạc chủng chủng thù, Tùy tâm họ ưa thích đủ thứ
Ư hư không trung tất năng tác. Ở trong hư không đều làm được.
Ở trong tất cả hạt bụi, cõi nước hiện ra, đều do bổn nguyện thần thông lực của chư Phật mà thành tựu. Chư Phật tùy thuận tâm ưa thích của chúng sinh, tâm niệm của chúng sinh có đủ thứ khác nhau, Phật đều làm cho chúng sinh được mãn nguyện. Ở trong hư không hay làm việc mà chúng sinh hoan hỷ.
Nhất thiết quốc độ sở hữu trần Tất cả cõi nước hết thảy bụi
Nhất nhất trần trung Phật giai nhập, Trong mỗi hạt bụi Phật đều vào
Phổ vì chúng sanh khởi thần biến Khắp vì chúng sinh hiện thần biến
Tỳ Lô Giá Na Pháp như thị. Pháp Tỳ Lô Giá Na như vậy.
Ở trong tất cả cõi nước, hết thảy hạt bụi, trong mỗi hạt bụi, đều có Phật đang ở trong đó chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Khắp vì chúng sinh, hiện ra thần thông biến hóa, pháp của Phật Tỳ Lô Giá Na là như vậy.
Tu đạo chỉ một biện pháp duy nhất là dụng công. Dụng công có hai thứ : Một là chân tâm dụng công, hai là tùy hỉ dụng công. Chân tâm dụng công là thời thời khắc khắc đều tinh tấn, chẳng giải đãi, chẳng phóng dật. Tùy hỉ dụng công là phô diễn việc mà chẳng nhận chân. Thấy người ta niệm Phật, mình cũng theo niệm Phật, thấy người ta lễ Phật, mình cũng theo lễ Phật mà chẳng triệt để. Hoặc thấy người ta tụng Kinh, cũng chẳng tụng Kinh, thấy người ta trì chú, cũng chẳng trì chú. Thậm chí người ta đang niệm Phật, tụng Kinh trì chú, họ đến chướng ngại người ta làm khóa lễ. Mình chẳng tu hành, cũng chẳng dạy người tu hành, đó là ma quỷ.
Chùa Kim Sơn từ khi thành lập đến nay, chủ trương ai cũng phải tu hành, quy định ngày dùng một bữa vào giữa trưa, đêm ngủ ngồi, chẳng nói chuyện, chẳng phan duyên. Ðó là giới luật của Ðức Phật để lại, chứ chẳng phải chùa Kim Sơn chế ra. Song, có người phản đối, cho rằng chẳng hợp với thời đại, quá khổ hạnh có hại cho sức khoẻ. Người có tư tưởng như thế hãy nghĩ xem, túi da hôi thối này, hôi hám đến cỡ nào ? Chẳng những chẳng nhàm chán nó, mà còn thương mến nó, cho nó ăn đồ ngon, mặc đồ đẹp, ở nhà sang, và cho nó đủ thứ vui thích, đủ thứ hưởng thụ, để cho nó tạo ra tội ác, sau đó đi vào ba đường ác thọ quả báo, đây chẳng phải là người ngu si nhất trên đời chăng !
Tại sao chúng sinh điên đảo ? Là vì túi da hôi thối này, suốt ngày đến tối hạnh khổ, bận rộn vì nó mà làm trâu làm ngựa, thật là đáng thương xót ! Nhưng chúng sinh vẫn chẳng biết quay đầu, vẫn dụng công phu trên năm dục, bạn tranh tôi giành. Chẳng biết có bao nhiêu người chết vì danh lợi, chẳng vì danh thì vì lợi, vì danh còn thanh cao hơn, vì lợi càng bỉ ổi hơn. Tóm lại, đều chẳng cứu kính, thì nói chi đến viên mãn.
Chúng ta người tu đạo, đừng chấp trước về danh, cũng đừng chấp vế lợi, đừng chấp trước về gì hết, thì có việc gì mà chẳng được ? Còn có gì mà buông xả chẳng đặng ? Chùa Kim Sơn chúng ta là đạo tràng thành tựu Phật Bồ Tát, là đạo tràng bồi dưỡng Tổ sư, xem ai chân tâm dụng công, thành thật tu hành, thì người đó sớm sẽ thành tựu. Người nào hỗn tạp sinh hoạt trong đạo tràng, nương Phật ăn cơm, nương Phật mặc áo, tu hành chẳng chân thật, thì người đó chẳng hy vọng thành tựu.
Trước kia, có vị pháp sư Phổ Chiếu, ông ta rất thích nóng giận. Nóng giận là đá cột chân người tu đạo. Ông ta biết đây là sự chướng ngại, cho nên lập ra một biện pháp để khống chế sự nóng giận của mình. Mỗi khi ông ta nóng giận, thì kêu người khác lấy gậy để đánh ông ta, đánh một lần còn cho hai đồng tiền, sau khi đánh nhiều lần rồi, thì dần dần có chút giác ngộ, nhưng vẫn chẳng triệt để. Có một lần, bị người công nhân dùng cái thùng gỗ vuông, đánh ông ta đến nỗi ông ta phát cười mà khai ngộ. Từ đó về sau chẳng còn nóng giận nữa. Tu hành có đủ thứ pháp môn, chỉ cần chịu nỗ lực dụng công, thì đều có thể khai ngộ.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: Chư Phật tử ! ứng tri thế giới hải hữu chủng chủng thể.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng : Các Phật tử ! Nên biết thế giới hải có đủ loại thể.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Ðại Hạnh Phổ Hiền lại bảo tất cả đại chúng hải hội rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị đại chúng nên biết thế giới hải có đủ thứ thể.
Thể tức là thân thể, thân thể của thế giới và thân thể của chúng ta giống nhau, cũng có xương thịt máu khí .v.v… Ví như núi là xương (cốt), đất là thịt, sông biển là máu, nước uống là khí. Núi lở biển gào, tức là triệu chứng bệnh hoạn. Núi lửa bạo phát, đại địa chấn động, tức là trái đất có hiện tượng bệnh.
Sở vị: hoặc dĩ nhất thiết bảo trang nghiêm vi thể, hoặc dĩ nhất bảo chủng chủng trang nghiêm vi thể, hoặc dĩ nhất thiết bảo quang minh vi thể, hoặc dĩ chủng chủng sắc quang minh vi thể, hoặc dĩ nhất thiết trang nghiêm quang minh vi thể, hoặc dĩ ất khả hoại Kim cương vi thể, hoặc dĩ Phật lực trì vi thể, hoặc dĩ diệu Bảo-Tướng vi thể, hoặc dĩ Phật biến hóa vi thể, hoặc dĩ nhật ma-ni luân vi thể
Đó là : Hoặc dùng tất cả báu trang nghiêm làm thể. Hoặc dùng một báu đủ thứ trang nghiêm làm thể. Hoặc dùng tất cả quang minh báu làm thể. Hoặc dùng đủ thứ màu sắc quang minh làm thể. Hoặc dùng tất cả quang minh trang nghiêm làm thể. Hoặc dùng kim cang không thể hoại làm thể. Hoặc dùng Phật lực nhiếp trì làm thể. Hoặc dùng tướng báu đẹp làm thể. Hoặc dùng Phật biến hóa làm thể. Hoặc dùng nhật ma ni luân làm thể.
Giảng: Thể của thế giới hải, nay đưa ra mười thứ làm đại biểu.
1). Hoặc dùng tất cả báu để trang nghiêm làm thể.
2). Hoặc dùng một báu có đủ thứ trang nghiêm làm thể.
3). Hoặc dùng quang minh tất cả các báu làm thể.
4). Hoặc dùng đủ thứ màu sắc quang minh làm thể.
5). Hoặc dùng quang minh tất cả trang nghiêm làm thể.
6). Hoặc dùng kim cang không thể hoại làm thể.
7). Hoặc dùng thần thông lực của Phật nhiếp trì làm thể.
8). Hoặc dùng đủ thứ tướng báu đẹp làm thể.
9). Hoặc dùng thần thông biến hóa của Phật làm thể.
10). Hoặc dùng nhật luân ma ni báu làm thể.
Hoặc dĩ cực vi tế bảo vi thể, hoặc dĩ nhất thiết bảo diệm vi thể, hoặc dĩ chủng chủng hương vi thể, hoặc dĩ nhất thiết bảo hoa quan vi thể, hoặc dĩ nhất thiết bảo ảnh tượng vi thể, hoặc dĩ nhất thiết trang nghiêm sở thị hiện vi thể, hoặc dĩ nhất niệm tâm phổ thị hiện cảnh giới vi thể, hoặc dĩ Bồ Tát hình bảo vi thể, hoặc dĩ ảo hoa nhị vi thể, hoặc dĩ Phật ngôn âm vi thể.
Hoặc dùng báu rất vi tế làm thể. Hoặc dùng tất cả báu diễm làm thể. Hoặc dùng đủ thứ hương làm thể. Hoặc dùng tất cả mũ hoa báu làm thể. Hoặc dùng ảnh tượng tất cả báu làm thể. Hoặc dùng tất cả trang nghiêm sở thị hiện làm thể. Hoặc dùng một tâm niệm khắp thị hiện cảnh giới làm thể. Hoặc dùng hình báu Bồ Tát làm thể. Hoặc dùng nhụy hoa báu làm thể. Hoặc dùng lời nói âm thanh của Phật làm thể.
Giảng: Thế giới hải này lại có mười thứ làm thể :
1). Hoặc dùng báu rất vi tế làm thể.
2). Hoặc dùng quang diễm tất cả báu làm thể.
3). Hoặc dùng đủ thứ hương làm thể.
4). Hoặc dùng mũ làm bằng tất cả hoa báu làm thể.
5). Hoặc dùng tất cả ảnh tượng báu làm thể.
6). Hoặc dùng tất cả sự trang nghiêm thị hiện làm thể.
7). Hoặc dùng một tâm niệm khắp thị hiện cảnh giới làm thể.
8). Hoặc dùng hình tướng Bồ Tát báu làm thể.
9). Hoặc dùng nhụy hoa sen báu làm thể.
10). Hoặc dùng tiếng nói của Phật làm thể.
Ðiện Phật của chùa Kim Sơn chúng ta, có người nhìn thấy vạn luồng kim quang, có người thấy Thiên long bát bộ. Cảnh giới này ai thấy được ? Bạn không cần hỏi, bạn muốn nhìn thấy, thì bạn sẽ tự nhìn thấy được. Bạn chẳng nhìn thấy, bạn lo việc đâu đâu, mà hỏi ai nhìn thấy được để làm gì ? Vậy, hoà thượng nói ra để làm gì ? Ðây là tôi nói, ai kêu bạn nghe ? Bạn có thể không nghe.
Trong giảng đường, trí giả kiến trí, nhân giả kiến nhân. Người có trí huệ thì học ra trí huệ, người có nhân từ thì học ra nhân từ. Tùy theo căn tánh mà đắc được pháp ích khác nhau. Kinh có nói :
‘’Phật dùng một âm thanh diễn nói pháp,
Chúng sinh theo loài đều hiểu rõ.’’
Một đạo lý mà có nhiều sự hiểu biết khác nhau. Nhưng phải có sự giải thích chánh tri chánh kiến, không thể có sự giải thích tà tri tà kiến. Bằng không thì đi vào bàn môn tả đạo, hậu quả không thể lường, rất dễ lầm vào đường tà, càng đi càng xa nhà. Lập tức giác ngộ thì còn có thể cứu vãn, không đến nỗi rớt vào vực thẳm.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, nói rõ về đạo lý này, bèn nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương pháp giới, mà dùng kệ để nói.
Ðạo lý của Kinh Hoa Nghiêm, đều là nói tổng quát mà chẳng nói tỉ mỉ. Cho nên mỗi thứ nói mười đạo lý, nếu mà nói tỉ mỉ, thì suốt thuở vị lai cũng chẳng nói hết.
Quyển thượng Kinh Hoa Nghiêm có mười ba ngàn đại thiên thế giới số phẩm, cũng có số bài kệ nhiều như số hạt bụi thế giới hải. Ðạo lý quyển hạ của Kinh Hoa Nghiêm đơn giản hơn, chẳng phức tạp lắm, cho nên một số người nghe dễ hiểu được.
Tông chỉ giảng Kinh Hoa Nghiêm của tôi là, mỗi một chữ, mỗi một câu, đều giải thích đại khái. Không màng người nghe Kinh chú ý, hay là tâm viên ý mã, thậm chí ngủ gục, nhiều người cũng giảng, ít người cũng giảng, thậm chí một hai người cũng giảng.
Có người nghĩ rằng bộ Kinh Hoa Nghiêm này, giảng đi giảng lại vẫn là một đạo lý, chẳng có gì khác lạ, bằng chi ngủ một giấc để bồi dưỡng tinh thần, do đó làm cho một giấc, ngáy như sấm, làm ảnh hưởng đến người nghe Kinh. Tôi hy vọng rằng những người này hãy phản tỉnh.
Ðạo tràng của chúng ta, có vô lượng vô số Thiên long bát bộ hộ pháp thiện thần đều đang nghe Kinh. Các vị nghe hay không nghe mặc kệ, chỉ cần ngồi đó thì sẽ gieo xuống hạt giống bồ đề, mọi người cùng kết pháp duyên, tương lai sẽ thành Phật, mọi người đều sẽ gặp nhau. Bất cứ ai nghe một bài kệ Kinh Hoa Nghiêm, một khi vào căn tai rồi thì sẽ có cơ hội thành đạo. Nghe Kinh một lần, đắc được lợi ích vô lượng, công đức cũng vô lượng. Cho nên đừng xem nhẹ pháp duyên thù thắng này.
Hoặc hữu chư sát hải Hoặc có các biển cõi
Diệu bảo sở hợp thành, Báu vi diệu hợp thành
Kiên cố bất khả hoại Kiên cố chẳng thể hoại
An trụ bảo liên hoa. An trụ hoa sen báu.
Hoặc có tất cả cõi nước chư Phật dùng châu báu vi diệu hợp thành. Thế giới này rất vững chắc, không thể phá hoại được. Chư Phật Bồ Tát đều an trụ trên tòa sư tử hoa sen báu, diễn nói diệu pháp.
Hoặc thị Tịnh Quang minh Hoặc là tịnh quang minh
Xuất sanh bất khả tri, Sinh ra chẳng biết được
Nhất thiết quang trang nghiêm, Tất cả quang trang nghiêm
Y chỉ hư không trụ. Nương hư không mà trụ.
Hoặc có thế giới trang nghiêm bằng quang minh thanh tịnh. Quang minh thanh tịnh này, sinh ra số lượng Bồ Tát và A La Hán chẳng thể biết được. Dùng hết thảy quang minh để trang nghiêm. Thế giới này nương hư không mà an trụ.
Tất cả quang minh tức là quang minh đỏ, quang minh trắng, quang minh vàng, quang minh xanh, quang minh tía, chẳng có quang minh đen. Quang minh đen thuộc về ma đạo. Khi bạn tu hành sớm thành đạo, thì ma sẽ biến hóa ra giống như Phật Bồ Tát, để nhiễu loạn tâm thanh tịnh của bạn. Người có trí huệ, thì có thể quán sát quang minh (quang trên đầu), thì biết được Phật Bồ Tát thật, hay là Phật Bồ Tát giả ? Tuy ma cũng có quang minh vàng, đỏ, tía, xanh, trắng, nhưng chỗ quang minh phát ra là màu đen, làm thế nào cũng chẳng lìa khỏi được gốc rễ màu đen. Ðây là phương pháp phân biệt được thật giả.
Hoặc Tịnh Quang vi thể, Hoặc tịnh quang làm thể
Phục y quang minh trụ, Lại nương quang minh trụ
Quang vân tác nghiêm sức Mây quang làm nghiêm sức
Bồ Tát cọng du xứ. Bồ Tát cùng đi đến.
Hoặc dùng quang minh thanh tịnh, để làm thể của thế giới, lại nương quang minh mà trụ. Lại có mây quang minh đến trang nghiêm tu sức, khiến cho quang minh trong thế giới này sáng hơn, thanh tịnh lại thanh tịnh hơn. Hết thảy Bồ Tát, đều du hành đến thế giới này, để giáo hóa chúng sinh.
Hoặc hữu chư sát hải, Hoặc có các biển cõi
Tùng ư nguyện lực sanh, Từ nguyện lực sinh ra
Do như ảnh tượng trụ Do hình bóng mà trụ
Thủ thuyết bất khả đắc. Lấy nói chẳng thể được.
Hoặc có các biển thế giới chư Phật, đều từ nguyện lực của chư Phật Bồ Tát phát mà sinh ra. Những biển cõi đó, do hình bóng mà sinh ra. Hình bóng vốn là hư vọng, lấy chẳng thể được, nói chẳng thể được. Cho nên nói chẳng có biển cõi này.
Hoặc dĩ ma-ni thành Hoặc làm bằng ma ni
Phổ phóng nhật tạng quang, Khắp phóng quang nhật tạng
Châu luân dĩ nghiêm địa, Châu luân dùng nghiêm đất
Bồ Tát tất sung mãn. Bồ Tát đầy dẫy khắp.
Thế giới hải, hoặc dùng ma ni tạo thành, khắp phóng ra quang minh nhật tạng, dùng châu báu luân để trang nghiêm mặt đất. Bồ Tát đều đầy dẫy trong thế giới đó, đang giáo hóa chúng sinh.
Hữu sát bảo diệm thành Có cõi báu diễm thành
Diệm vân phước kỳ thượng, Mây diễm che phía trên
Chúng Bảo quang thù diệu, Các quang báu thù diệu
Giai do nghiệp sở đắc Đều do nghiệp mà thành.
Hoặc có cõi nước tạo thành bằng báu diễm. Lại có mây báu diễm che phủ ở phía trên, khiến cho tất cả chúng sinh được mát mẻ, các quang minh báu thù thắng vi diệu, đó là do nghiệp của chúng sinh và nguyện lực của Bồ Tát mà thành tựu.
Hoặc tùng diệu tướng sanh Hoặc từ tướng tốt sinh
Chúng tướng trang nghiêm địa, Các tướng trang nghiêm cõi
Như quan cọng trì đái, Như mũ cùng trì đội
Tư do Phật hóa khởi. Đều do Phật hóa hiện.
Hoặc là từ tướng tốt của Phật sinh ra. Có thế giới hình núi, hình tượng Phật, hình tượng Bồ Tát, hình tượng A La Hán, dùng đủ thứ các tướng, để trang nghiêm cõi nước. Lại có hình như mũ báu, cùng nhau trì đội, đó đều do chư Phật biến hóa mà sinh ra.
Hoặc tùng tâm hải sanh Hoặc từ biển tâm sinh
Tùy tâm sở giải trụ, Tùy tâm hiểu mà trụ
Như huyễn vô xứ sở, Như huyễn chẳng xứ sở
Nhất thiết thị phân biệt. Tất cả đều khác nhau.
Hoặc có thế giới, do biển tâm của chúng sinh mà sinh ra, tùy theo tâm hiểu của chúng sinh mà trụ. Thế giới là tùy tâm mà sinh, tùy tâm mà diệt, cho nên như huyễn, lấy chẳng đặng, xả chẳng được, chẳng có xứ sở nhất định. Vì do tâm chúng sinh mà sinh ra, cho nên tất cả đều có sự khác nhau.
Hoặc dĩ Phật quang minh Hoặc dùng Phật quang minh
Ma-ni quang vi thể, Ma ni quang làm thể
Chư Phật ư trung hiện, Chư Phật hiện ở trong
Các khởi thần thông lực. Ai nấy hiện thần thông.
Hoặc có thế giới do quang minh của Phật sinh ra, dùng ma ni quang làm thể. Hết thảy chư Phật đều hiện ra ở trong thế giới đó. Mỗi vị Phật đều hiện thần thông để trang nghiêm thế giới đó.
Hoặc Phổ Hiền Bồ Tát Hoặc Bồ Tát Phổ Hiền
Hóa hiện chư sát hải, Hóa hiện các biển cõi
Nguyện lực sở trang nghiêm, Dùng nguyện lực trang nghiêm
Nhất thiết giai thù diệu. Tất cả đều thù diệu.
Hoặc có thế giới do thần thông của Bồ Tát Phổ Hiền, hóa hiện ra tất cả biển cõi. Nguyện lực của Bồ Tát Phổ Hiền tu hành cũng sâu, cho nên dùng nguyện lực để trang nghiêm. Hạnh nguyện của Ngài đặc biệt thù thắng vi diệu phi thường.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: chư Phật tử ! ứng tri thế giới hải hữu chủng chủng trang nghiêm.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng : Các Phật tử ! Nên biết thế giới hải có đủ thứ sự trang nghiêm.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền lại nói với đại chúng rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị nên biết, thế giới hải chẳng những có đủ thứ sự an trụ, đủ thứ hình, đủ thứ thể, mà còn có đủ thứ sự trang nghiêm. Bây giờ nói ra mười thứ sự trang nghiêm.
Tại sao phải trang nghiêm ? Vì chúng sinh thấy được sự trang nghiêm, thì sẽ sinh tâm cung kính, sẽ phát bồ đề tâm. Bất luận là tượng Phật bằng đồng, bằng ngọc, bằng gỗ, bằng đất sét .v.v… đều đoan trang sinh đẹp, thì khiến cho họ sẽ khởi tâm cung kính. Có người trong tâm nghĩ, tổn phí rất nhiều vàng bạc để tạo những tượng đó, hằng ngày lễ bái, đó chẳng phải là mê tín chăng ? Nói cho bạn biết, đây chẳng phải là mê tín. Chúng ta lạy Phật, chẳng phải là lạy Phật đồng, Phật gỗ, Phật đá, Phật đất sét; chẳng phải lạy những tượng Phật có hình tướng, mà là lạy ông Phật thiệt, là ông Phật chẳng có hình tướng ở trong tâm của chúng ta. Phật có hình tướng là biểu pháp, dùng để biểu thị cảnh giới trang nghiêm, nhưng đừng chấp trước, cứu kính vẫn là cầu Phật trong tâm của chính mình.
Sở vị: hoặc dĩ nhất thiết trang nghiêm cụ trung xuất thượng diệu vân trang nghiêm, hoặc dĩ thuyết nhất thiết Bồ Tát công đức trang nghiêm, hoặc dĩ thuyết nhất thiết chúng sanh nghiệp báo trang nghiêm, hoặc dĩ thị Hiện-Nhất-Thiết Bồ Tát nguyện hải trang nghiêm, hoặc dĩ iểu thị nhất thiết tam thế Phật ảnh tượng trang nghiêm, hoặc dĩ nhất niệm khoảnh thị hiện vô biên kiếp thần thông cảnh giới trang nghiêm, hoặc dĩ xuất Hiện-Nhất-Thiết Phật thân trang nghiêm, hoặc dĩ xuất Hiện-Nhất-Thiết bảo hương vân trang nghiêm, hoặc dĩ thị Hiện-Nhất-Thiết đạo tràng trung chư trân diệu vật quang minh chiếu diệu trang nghiêm, hoặc dĩ thị Hiện-Nhất-Thiết Phổ Hiền hạnh nguyện trang nghiêm
Đó là: Hoặc dùng tất cả đồ trang nghiêm, sinh ra mây vi diệu vô thượng để trang nghiêm. Hoặc dùng nói công đức của tất cả Bồ Tát để trang nghiêm. Hoặc dùng nói nghiệp báo của tất cả chúng sinh để trang nghiêm. Hoặc dùng thị hiện biển nguyện của tất cả Bồ Tát để trang nghiêm. Hoặc dùng biểu thị hình tượng Phật tất cả ba đời để trang nghiêm. Hoặc dùng trong một niệm thị hiện cảnh giới thần thông vô biên kiếp để trang nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện tất cả thân Phật để trang nghiêm. Hoặc dùng xuất hiện tất cả mây báu thơm để trang nghiêm. Hoặc dùng thị hiện quang minh của các châu báu vật quý, chiếu sáng trong tất cả đạo tràng để trang nghiêm. Hoặc dùng thị hiện tất cả hạnh nguyện của Phổ Hiền để trang nghiêm.
Giảng: Thế giới hải có mười thứ trang nghiêm :
1). Hoặc dùng tất cả đồ trang nghiêm sinh ra mây vi diệu vô thượng để trang nghiêm.
2). Hoặc dùng nói công đức của tất cả Bồ Tát để trang nghiêm.
3). Hoặc dùng nói nghiệp báo của tất cả chúng sinh để trang nghiêm.
4). Hoặc dùng thị hiện biển nguyện của tất cả Bồ Tát để trang nghiêm.
5). Hoặc dùng biểu thị hình tượng Phật, tất cả ba đời để trang nghiêm.
6). Hoặc dùng trong một niệm thị hiện cảnh giới thần thông vô biên kiếp để trang nghiêm, do đó :
‘’Thu vô lượng kiếp làm một niệm,
Kéo dài một niệm làm vô lượng kiếp.’’
7). Hoặc dùng xuất hiện tất cả thân Phật để trang nghiêm, do đó : ‘’Núi sông cây cối, đều là pháp thân.’’
8). Hoặc dùng xuất hiện tất cả mây báu thơm để trang nghiêm.
9). Hoặc dùng quang minh của các châu báu vật quý, chiếu sáng trong tất cả đạo tràng chư phật để trang nghiêm.
10). Hoặc dùng thị hiện tất cả hạnh nguyện của Phổ Hiền để trang nghiêm.
Như thị đẳng, hữu thế giới hải vi trần số.
Có những sự trang nghiêm như vậy, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Ở trên đưa ra mười thứ trang nghiêm, đó là nói tóm tắt. Nếu nói sâu rộng, thì sự trang nghiêm nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa lý vừa nói ở trên, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương thế giới, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài muốn nói rõ lại đạo lý vừa nói ở trên, khiến cho đại chúng dễ minh bạch hiểu rõ.
Quảng đại sát hải vô hữu biên, Biển cõi rộng lớn chẳng bờ mé
Giai do thanh tịnh nghiệp sở thành, Đều do nghiệp thanh tịnh mà thành
Chủng chủng trang nghiêm chủng chủng trụ Đủ thứ trang nghiêm đủ thứ trụ
Nhất thiết thập phương giai biến mãn. Tất cả mười phương đều đầy khắp.
Biển cõi của chư Phật rộng lớn chẳng có bờ mé, đều do nghiệp thanh tịnh của chúng sinh, và nguyện lực của chư Phật mà thành tựu. Có đủ thứ sự trang nghiêm, và đủ thứ sự an trụ. Tận hư không biến pháp giới, đều đầy khắp cõi nước chư Phật.
Vô biên sắc tướng bảo diệm vân, Mây diễm báu vô biên sắc tướng
Quảng đại trang nghiêm phi nhất chủng, Trang nghiêm rộng lớn chẳng một thứ
Thập phương sát hải thường xuất hiện, Mười phương biển cõi thường xuất hiện
Phổ diễn Diệu-Âm nhi thuyết Pháp. Khắp diễn diệu âm mà thuyết pháp.
Có thế giới dùng mây báu diễm vô biên sắc tướng để trang nghiêm. Sự trang nghiêm rộng lớn này chẳng phải một thứ mà là nhiều thứ. Sự trang nghiêm này do Bồ Tát tu sáu độ vạn hạnh mà thành tựu. Chư Phật Bồ Tát thường xuất hiện ở trong mười phương cõi nước, khắp vì chúng sinh mà diễn nói diệu pháp.
Bồ Tát vô biên công đức hải, Bồ Tát vô biên biển công đức
Chủng chủng đại nguyện sở trang nghiêm, Đủ thứ đại nguyện mà trang nghiêm
Thử độ câu thời xuất Diệu-Âm, Cõi này đồng thời vang diệu âm
Phổ chấn thập phương chư sát võng. Chấn khắp mười phương các cõi nước.
Tất cả Bồ Tát thuở xưa đều tu sáu độ vạn hạnh, là vì lợi ích chúng sinh. Cho nên nói công đức của Bồ Tát là vô biên, như biển cả. Biển công đức đó, do các Bồ Tát phát đủ thứ đại nguyện mà trang nghiêm, cõi đó cũng do đại nguyện của Bồ Tát trang nghiêm. Trong cõi đó đồng thời diễn nói diệu âm, chấn động khắp các cõi Phật trong mười phương.
Chúng sanh nghiệp hải quảng vô lượng, Biển nghiệp chúng sinh rộng vô lượng
Tùy kỳ cảm báo các bất đồng, Tùy theo nghiệp báu đều khác nhau
Ư nhất thiết xứ trang nghiêm trung, Trang nghiêm trong tất cả cõi nước
Giai do chư Phật năng diễn thuyết. Đều do chư Phật diễn nói được.
Nghiệp chúng sinh tạo ra, có nghiệp thiện và nghiệp ác, nghiệp chẳng thiện chẳng ác, đều rộng lớn không bờ như biển cả. Vì chúng sinh khởi cảm, nên mỗi người tạo nghiệp đều khác nhau, thọ quả báo cũng khác nhau. Do đó:
‘’Trồng nhân lành được quả tốt,
Trồng nhân ác được quả xấu.’’
Trang nghiêm trong tất cả cõi nước, quả báo này không thể nghĩ bàn, đều do chư Phật mới diễn nói minh bạch được.
Tam thế sở hữu chư Như Lai, Ba đời hết thảy các Như Lai
Thần thông phổ hiện chư sát hải, Thần thông hiện khắp các biển cõi
Nhất nhất sự trung nhất thiết Phật, Trong mỗi cõi nước tất cả Phật
Như thị nghiêm tịnh nhữ ưng quán. Nghiêm tịnh như vậy ông nên quán.
Ba đời hết thảy tất cả thần thông biến hóa của chư Phật, đều khắp hiện trong hết thảy biển cõi chư Phật. Trong mỗi hạt bụi, trong mỗi cõi nước, hết thảy tất cả chư Phật, đều trang nghiêm thanh tịnh như vậy, các ông nên quán sát cảnh giới của chư Phật.
Quá khứ vị lai hiện tại kiếp, Kiếp quá khứ vị lai hiện tại
Thập phương nhất thiết chư quốc độ, Mười phương tất cả các cõi nước
Ư bỉ sở hữu đại trang nghiêm Nơi đó hết thảy đều trang nghiêm
Nhất nhất giai ư sát trung kiến. Mỗi mỗi đều thấy trong cõi nước.
Kiếp quá khứ, kiếp hiện tại, kiếp vị lai. Hết thảy mười phương các cõi nước, mỗi cõi nước đều có sự trang nghiêm khác nhau. Mỗi sự trang nghiêm khác nhau đều hiện ra ở trong mỗi cõi nước, khiến cho chúng sinh nhìn thấy được.
Nhất thiết sự trung vô lượng Phật, Vô lượng Phật trong tất cả cõi
Số đẳng chúng sanh biến thế gian, Số đồng chúng sinh khắp thế gian
Vì lệnh điều phục khởi thần thông, Vì khiến điều phục hiện thần thông
Dĩ thử trang nghiêm quốc độ hải. Dùng để trang nghiêm biển cõi nước.
Trong tất cả hạt bụi, và trong tất cả cõi nước, có vô lượng vô biên chư Phật. Có bao nhiêu vị Phật ? Số lượng đồng với chúng sinh, tức là có bao nhiêu chúng sinh, thì có bấy nhiêu vị Phật. Chư Phật khắp trong thế gian, dùng thần thông để điều phục chúng sinh cang cường, khiến cho chúng sinh cải ác hướng thiện, phát tâm bồ đề tu vô thượng đạo. Chư Phật dùng thần thông biến hóa, để trang nghiêm biển cõi nước chư Phật.
Nhất thiết trang nghiêm thổ diệu vân, Tất cả trang nghiêm tuôn mây đẹp
Chủng chủng hoa vân hương diệm vân, Đủ thứ mây hoa mây hương diễm
Ma-ni Bảo Vân thường xuất hiện, Mây ma ni báu thường xuất hiện
Sát hải dĩ thử vị nghiêm sức. Dùng để làm nghiêm sức biển cõi.
Hết thảy tất cả sự trang nghiêm, lại tuôn ra mây tốt đẹp. Thứ mây tốt đẹp này, có đủ thứ mây hoa, đủ thứ mây hương diễm, đủ thứ mây ma ni. Những thứ mây này, luôn xuất hiện, cho nên biển cõi dùng những thứ mây này, để trang nghiêm, làm nghiêm sức tốt đẹp thù thắng.
Thập phương sở hữu thành đạo xứ, Mười phương hết thảy chỗ thành đạo
Chủng chủng trang nghiêm giai cụ túc, Đủ thứ trang nghiêm đều đầy đủ
Lưu quang bố huýnh nhược thải vân Lưu quang đẹp như mây rực rỡ
Ư thử sát hải hàm lệnh kiến. Nơi biển cõi đó đều thấy được.
Trong mười phương hết thảy thế giới, đều có chỗ chư Phật thành đạo. Chỗ thành đạo có đủ thứ sự trang nghiêm, đều đầy đủ. Thứ lưu quang đó rất trang nghiêm, bất cứ hướng về cõi nước nào lưu chuyển, đều rực rỡ giống như mây, khiến cho chúng sinh đều thấy được. Ở cõi nước này, có thể thấy sự trang nghiêm ở cõi nước kia, ở cõi nước kia, có thể thấy sự trang nghiêm ở cõi nước này, đồng thời đều thấy.
Thế giới Ta Bà, theo sự nhìn thấy của chúng ta chúng sinh, thì thế giới có đất bùn và thủy lưu, là đời ác năm trược. Nhưng chư Phật có thể biến thành thế giới trang nghiêm, vàng ròng làm đất, cam lồ làm nước. Khi Ðức Phật Thích Ca còn ở đời, thì lúc đó, nước uống còn thơm mát bổ dưỡng hơn là sữa bò bây giờ. Lấy gì để chứng minh ? Hiện tại dùng công án để chứng minh.
Hai trăm năm sau khi Phật vào Niết Bàn, thì có vị vua A Dục (vua Vô Ưu) rất tín ngưỡng Phật pháp, cúng dường Tam Bảo. Một ngày nọ, vua A Dục dùng sữa bò cúng dường các vị A La Hán, mới nói với các vị A La Hán rằng :
– ‘’Các vị Thượng Tọa ! Sữa bò không thể uống nhiều, vì không dễ tiêu hóa.’’
– Vị A La Hán nói : ‘’Sữa bò bây giờ, chẳng bằng nước uống lúc thời Ðức Phật còn tại thế. Nước uống lúc thời đó, vẫn bổ dưỡng hơn sữa bò bây giờ.’’
Vua A Dục nghe nói cảm thấy rất kỳ lạ, mới hỏi :
– ‘’Các vị Thượng Tọa ! Có thể nào lấy một ly nước lúc Ðức Phật còn ở đời, để cho tôi thưởng thức được chăng?‘’
Những vị đại A La Hán đó, đều có thần thông biến hóa, đều khác miệng cùng lời nói :
– ‘’Ðương nhiên được‘’! Bèn dùng thần thông lấy một ly nước lúc Ðức Phật còn tại thế, đưa cho vua A Dục. Vua A Dục uống một hớp, thưởng thức từ vị, quả nhiên thơm ngon mát mẻ hơn sữa bò bây giờ, chứng minh nước thơm ngon hơn là sữa bò, lúc đó ông ta mới tin các vị A La Hán nói thật chứ chẳng phải nói đùa.
Phổ Hiền nguyện hạnh chư Phật tử, Các Phật tử hạnh nguyện Phổ Hiền
Đẳng chúng sanh kiếp cần tu tập, Đồng chúng sinh kiếp siêng tu tập
Vô biên quốc độ tất trang nghiêm Vô biên cõi nước đều trang nghiêm
Nhất thiết xứ trung giai hiển hiện. Trong tất cả chỗ đều hiển hiện.
Bồ Tát Phổ Hiền nói : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị phải phát tâm nguyện lâu dài để tu pháp môn hạnh nguyện Phổ Hiền. Số kiếp nhiều đồng chúng sinh, siêng năng tu tập, dũng mãnh tinh tấn, mới có thể thành tựu. Hết thảy vô biên cõi nước, đều là nguyện lực và hạnh lực trang nghiêm, và còn tốt đẹp vi diệu. Trong tất cả cõi nước chư Phật, đều hiển hiện cảnh giới này.
Hôm nay, tôi nói về một câu chuyện của Đạo giáo. Tuy chẳng phải là chuyện Phật giáo, nhưng chẳng chạy ra ngoài phạm vi Phật giáo. Thế giới có tất cả các tôn giáo, đều bao quát trong phạm vi Phật giáo. Dù là tôn giáo phỉ báng Phật giáo, cũng chẳng vượt ra khỏi Phật giáo. Vì Phật giáo là tận hư không khắp pháp giới, bao la vạn tượng, chẳng có gì mà chẳng bao dung. Không màng bạn tin Phật cũng tốt, chẳng tin Phật cũng tốt, tóm lại, đều bao quát ở trong Phật giáo. Vì lý lẽ này, cho nên có thể nói về chuyện của Ðạo giáo, để cho mọi người làm tấm gương tu hành. Phật giáo lấy từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa, chẳng có đố kỵ, chẳng có chướng ngại, đều bình đẳng, chẳng tìm người gây phiền não, chẳng nói thị phi của người khác, đó là chỗ vĩ đại của Phật giáo.
Giáo chủ của Ðạo giáo là Lão Tử, ông ta trước tác bộ Ðạo Ðức Kinh, ai ai cũng biết, nhưng kiếp trước của ông ta là đệ tử của Phật, tôn giả Ðại Ca Diếp. Vì Ngài tu hạnh đầu đà, nguyện hóa thân làm Lão Tử, để giáo hóa chúng sinh. Giáo chủ của Nho giáo là Khổng Tử, ông ta trước tác bộ Xuân Thu, ai ai cũng biết, nhưng kiếp trước ông ta là đệ tử của Phật, hóa thân của Thủy Nguyệt đồng tử. Các vị đó, ở Trung Quốc trước hết đề xướng lý luận Ðạo giáo và Nho giáo, phô trương thế Phật giáo, sau đó lại đưa Phật giáo đại thừa, khiến cho tam giáo hợp mà làm một. Do đó, về sau có người đề xướng Nho – Thích – Ðạo tam giáo là một nhà, đây là chứng cớ, đáng tiếc chẳng thấu hiểu nội dung triệt để, chỉ biết một chút ngoài da mà thôi.
Bây giờ, giới thiệu đơn giản về chuyện này : Vào cuối đời nhà Nam Tống ở tỉnh Sơn Tây, có người tài chủ họ Vương tên Triết, xuất thân từ nhà võ, vì con người trung hậu, thích làm việc thiện bố thí, cứu khổ tế bần, có tâm trắc ẩn, chịu làm phục vụ cho địa phương. Phàm là việc công đức, thì làm hết mình. Nhà có ruộng đất ngàn mẫu, nhà cửa rất nhiều, đó là do kiếp trước tu phước nên đời này được phước báo.
Một ngày nọ, Chung Ly Quyền và Lữ Ðộng Tân, thầy trò hai người vân du tứ hải, đi qua Sơn Tây gặp một thôn trang, bạch khí xung thiên, biết là có người thiện báo đang ở, lại có tiên duyên. Do đó, giả làm ăn mày để độ, đến trước cửa của Vương Triết xin thức ăn. Lúc đó, trời đổ tuyết nhiều, Vương Triết thấy hai vị ăn mày càng sinh tâm thương hại, mời hai người vào trong nhà ở tạm. Mấy ngày sau hai người ra đi, Vương Triết không nỡ xa lìa họ, đưa họ tới cửa ngoài, bất tri bất giác đưa đến một cái cầu cách nhà hơn hai mươi dặm. Chung Ly Quyền lấy hồ lô ra, bên trong có rượu, đổ ra một ly đưa cho Vương Triết nói : ‘’Chúng ta hai người ở trong phủ nhà anh đã nhiều ngày, nay lấy rượu cảm tạ.’’ Vương Triết bèn cạn ly, cảm thấy cam lồ mát mẻ chạy vào trong bụng. Lữ Ðộng Tân nói : ‘’Tiễn khách đến ngàn dặm, cũng có sự cách biệt, đến đây là ngừng, ngày 3 tháng 3 năm sau, sẽ gặp nhau tại cây cầu này‘’! Nói xong lập tức bay đi. Vương Triết về nhà cảm thấy rất kỳ lạ ! Chắc có lẽ họ là Tiên, bỏ lỡ cơ hội cầu đạo, đáng tiếc, nhưng ngày 3 tháng 3 sang năm còn có cơ hội gặp nhau, lúc đó cầu pháp cũng chưa muộn.
Thời gian như thoi đưa, nháy mắt thì đến ngày 3 tháng 3. Vương Triết bèn đến chỗ cây cầu như đã ước hẹn, thì hai người đã chờ ở trên cầu. Vương Triết cung kính đảnh lễ hai người, khẩn thiết yêu cầu dạy pháp liễu sinh thoát tử. Hai người mới truyền dạy cách thức tĩnh tọa như thế nào ? Ðiều hơi thở như thế nào ? Cách thức luyện đan như thế nào ? Ðem chân pháp của Ðạo giáo truyền cho. Vương Triết hoan hỷ vô cùng, lễ lạy cảm tạ, hỏi danh tánh của sư phụ, một người nói là Kim Ðồng, một người nói là Song Khẩu. Vương Triết nghe thì biết là hai vị Tiên trong tám vị Tiên, càng hoan hỷ. Hai vị Tiên nói : ‘’Tinh tấn siêng tinh tấn mới thành tựu.’’ Nói xong rồi đi.
Vương Triết hoan thiên hỷ địa về nhà, chẳng nói với bất cứ ai, dù vợ con cũng chẳng biết tin tức này. Ông ta ngụy trang làm ma nhập, thấy người thì chưởi, gặp đồ thì đá, lúc khóc lúc cười, người nhà đều cho rằng anh ta mắc bệnh thần kinh, bèn nhốt ông ta vào trong phòng nhỏ. Ðây là điều mà ông ta muốn, mượn cớ để bế quan, yên lặng tu hành. Bế quan mười hai năm sau mới ngộ đạo. Ở trong định quán sát, tại tỉnh Sơn Ðông có bảy người đệ tử, đang ở đó đợi ông ta đến để giáo hóa, độ thành Tiên.
Lúc đó ông ta đã chứng được năm thần thông, bèn dùng thần túc thông để đến Sơn Ðông huyện Phong Lai để độ đệ tử Mã Ngọc. Ông ta nghĩ, năm đó sư phụ độ mình thì hóa trang làm kẻ ăn mày, ta cũng hóa trang làm kẻ ăn mày thi tiện hơn, bèn ngụy trang làm kẻ ăn mày, hằng ngày đến khất thực, nhưng chẳng thấy Mã Ngọc, vì nhân duyên chưa thành thục.
Vị Mã Ngọc đó cũng là đại tài chủ, có người vợ rất xinh đẹp. Mã Ngọc đã bốn mươi tuổi mà chẳng có con, đây là việc chẳng được như ý. Một ngày nọ, ông ta ngồi trong thư phòng than thở, vợ ông ta hỏi ông ta tại sao lại than thở ? Ông ta nói :
– ‘’Vợ chồng chúng ta đã hơn bốn mươi tuổi mà chẳng có con, mai mốt trăm tuổi thì chẳng có người thừa kế di sản của chúng ta.’’
Vợ ông ta nghe chồng nói vì chẳng có con mà lo lắng, bèn nói với Mã Ngọc rằng :
– ‘’Không con không cái không oan gia, chúng ta là thân thanh tịnh, tại sao chẳng học đạo ? Có thể liễu sinh thoát tử, có thể trường sinh bất lão.’’
– Mã Ngọc nói : ‘’Chủ ý của bà tuy rất hay, nhưng học với ai‘’?
– Vợ của ông ta nói : ‘’Tôi có gặp một người đạo nhân hiền lành, có thể theo ông ta học đạo, tôi nghĩ ông ta chắc chắn sẽ truyền thọ pháp cho chúng ta.’’
– Mã Ngọc nói : ‘’Người đó đang ở đâu‘’?
– Vợ ông ta nói : ‘’Xa thì ở tận chân trời, gần thì ở trước mắt, tức là lão ăn mày, mà ngày nào cũng đến trước cửa nhà chúng ta xin ăn, đạo mạo của ông ta chắc chắn có lai lịch, cũng có thể đến vì chúng ta mà hóa độ không biết chừng.’’ Vợ ông ta nói xong thì Mã Ngọc cảm thấy có đạo lý, rất tán thành.
Ngày thứ hai Mã Ngọc cung kính mời lão nhân đến thư phòng, hỏi lão nhân tên họ, lão nhân nói :
– ‘’Họ Vương, tên là Trọng Dương, người Sơn Tây.’’
Mã Ngọc gọi vợ vào bái kiến lão nhân và giới thiệu nói :
– ‘’Ðây là tiện nội, tên là Tôn Uyên Trinh, xin lão tiên sinh chỉ dạy.’’
– Vương Trọng Dương nói : ‘’Không dám ! Tôi là kẻ ăn mày, sao lại làm như thế.’’
Lúc này, Tôn Uyên Tring đem tâm nguyện của họ nói ra, xin lão nhân từ bi thu làm đệ tử. Lão nhân đáp ứng thỉnh cầu của họ, mới ở trong nhà của Mã Ngọc, bắt đầu giảng Kinh thuyết pháp. Mã Ngọc phát tâm đem tài sản trong nhà bố thí cho lão nhân. Vương Trọng Dương dùng tài sản đó, mà thành lập một đạo tràng lớn. Chí đồng đạo hợp, mọi người tụ về, có khoảng ngàn người, mọi người cùng nhau tu hành.
Ðiều kiện tu đạo chủ yếu có hai : Một là pháp, pháp tu thân, tức cũng là phương pháp tu hành. Một là tài, tài dưỡng đạo, phải cúng dường phẩm vật cho người tu đạo. Ðạo tràng đó vừa có pháp, vừa có tài, cho nên mọi người yên tâm tu hành, đạo nghiệp tiến bộ, nghe pháp hoan hỷ, chẳng cầu đâu nữa.
Một năm sau, Vương Trọng Dương bị bệnh, toàn thân ghẻ lở, chảy máu chảy mủ, hôi hám khó chịu. Ðại chúng đệ tử tâm nghĩ : ‘’Sư phụ chẳng có chân đạo hạnh, cho nên mới sinh bệnh này. Ông ta là Bồ Tát bùn qua sông, tự thân khó giữ, làm sao mà bảo hộ chúng ta.’’ Mọi người tâm nghĩ mà chẳng nói, từ từ bỏ đi hết, chỉ còn lại bảy người, luôn bên cạnh Vương Trọng Dương, tắm rửa mụt ghẻ, thoa thuốc, chẳng hiềm hôi hám. Chẳng bao lâu, Vương Trọng Dương lành mạnh, lại bắt đầu giảng Kinh thuyết pháp.
Bảy người đệ tử này, tức là Mã Ngọc, Tôn Uyên Trinh, Khâu Trường Xuân, Lưu Trường Sanh, Hác Thái Cát, Ðàm Trường Chân, Vương Ngọc Dương. Mỗi người ở mỗi phòng. Mã Ngọc và Tôn Uyên Trinh là vợ chồng cũng ở riêng, vì phương tiện tu đạo nên chẳng qua lại. Ðây là phương pháp đoạn dục khử ái. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói :
‘’Tâm dục không dứt, nấu cát làm cơm.’’
Người tu đạo, nếu có tư tưởng tâm dục thì vĩnh viễn chẳng thành đạo nghiệp, giống như nấu cát, chẳng khi nào thành cơm được.
Một ngày nọ Vương Trọng Dương hóa thân đến phòng của Tôn Uyên Trinh nói với cô ta rằng : ‘’Con gái không chồng là oán nữ, con trai không vợ là khoáng phu, một âm một dương không thể không có, âm dương phối hợp là chánh lý…’’ Tôn Uyên Trinh vừa nghe nói, thì hiểu lầm sư phụ khởi tà niệm, nổi giận bỏ đi tìm Mã Ngọc. Vừa đến cửa phòng của Mã Ngọc, thì Mã Ngọc cười lớn nói rằng : ‘’Tôi vừa nói chuyện với sư phụ ở trong phòng của sư phụ, thì sư phụ nói : Có người tìm con, con hãy trở về đi ! Thì đúng là cô, tại sao lại giận dữ‘’? Tôn Uyên Trinh đem việc vừa xảy ra thuật lại tỉ mỉ, thì Mã Ngọc bèn an ủi Tôn Uyên Trinh nói : ‘’Ðó là tâm từ của sư phụ, khảo nghiệm đạo nghiệp của cô như thế nào ? Oán nữ Khoáng phu, tức là nói rõ đạo lý vũ trụ vạn vật chỉ có âm, thì chẳng thể sinh, chỉ có dương thì chẳng phát triển. Cô hiểu lầm ý tốt của sư phụ, mau đến phòng của sư phụ để sám hối.’’ Mã Ngọc dẫn cô ta đến trước sư phụ thỉnh tội. Tôn Uyên Trinh quỳ ở trước Vương Trọng Dương khóc lóc nói :
– ‘’Sư phụ ! Xin thầy hãy từ bi tha thứ cho đệ tử vô lễ, được sư phụ hóa thân chỉ thị đệ tử, mà đệ tử không ngộ, xin sư phụ khai thị.’’
Vương Trọng Dương nói : ‘’Tu đạo phải có thắng xứ, mới có thể chứng quả. Hiện tại vùng Lạc Dương ở Hà Nam có thể xuất lộ chân nhân, đáng tiếc con không thể đi.’’
– Tôn Uyên Trinh hỏi : ‘’Sư phụ ! Tại sao con không thể đến đó tu hành‘’?
– Vương Trọng Dương nói : ‘’Vì cô quá xinh đẹp, trên đường đi dễ bị người làm chướng ngại, cho nên cô không thể đi.’’
Tôn Uyên Trinh chẳng nói mà bỏ về. Về đến phòng thì cô ta phá hủy sắc đẹp, ba ngày sau thì cô ta trở thành một phụ nữ xấu xí vô cùng, mặt đầy thẹo. Cô ta đến gặp sư phụ, Vương Trọng Dương gặp cô ta thì cười lớn nói : ‘’Thật xin lỗi cô, cô hủy hoại nhan sắc thì tuyệt đối chẳng có vấn đề gì.’’ Cô ta hạnh khổ đến được thành Lạc Dương, tìm hang động để ở, khổ tu hai mươi năm, cuối cùng chứng quả.
Tôn Uyên Trinh đi rồi, chẳng bao lâu Vương Trọng Dương mắc bệnh qua đời. Sáu vị đệ tử đem di thể trở về Sơn Tây để mai táng, sau đó ai nấy tu hành và đều chứng quả, trở thành ‘’Thất chân nhân.’’
Hác Thái Các đến Hoa Sơn tu hành, đục một cái động trên núi làm chỗ tu hành, tạo động xong rồi, thì có một vị đạo nhân đến hóa động đi mất, ông ta đục bảy mươi hai cái động cũng bị người hóa duyên. Cuối cùng ông ta đến trên đỉnh núi chỗ cao nhất của đỉnh núi Hoa Sơn tu hành. Ðây là nơi chẳng có ai lai vãng, biệt lập với môi trường bên ngoài, yên tĩnh tu hành, cũng chứng đạo quả.
Sự tu hành của Lưu Trường Sinh khác với mọi người, người ta thì đến chỗ rừng sâu nơi thanh tịnh để tu hành, chẳng ăn đồ người ta nấu bằng lửa, uống nước suối; tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh, không khí thanh tịnh, tất cả đều thanh tịnh. Song, ông ta thì đến chỗ đông người tu hành, ông ta ở ngay khu những cô kỹ nữ, suốt ngày đến tối ở trong đám kỹ nữ. Cô kỹ nữ này cắm lên mũ của ông ta một cành hoa, cô kia cũng vậy, cho nên hàng ngày mũ của ông ta đều đầy hoa, về sau người ta gọi ông ta là ‘’Cắm hoa lão tổ.’’
Sự tu hành của ông ta như vậy, bị sư huynh đệ biết được, mới đến độ ông ta ra. Lưu Trường Sinh nói với các huynh đệ : ‘’Các vị ngàn dặm xa xôi đến đây để độ tôi, tôi rất cảm kích, tôi chẳng có gì đãi, xin hãy uống một ly trà rồi đi.’’ Do đó, bèn dùng da bụng làm cho nước sôi lên để pha trà, mời các sư huynh đệ uống trà để biểu thị cảm tạ. Lúc đó, sư huynh đệ biết rõ đạo nghiệp của ông ta đã thành tựu, bèn cáo từ ra đi.
Khâu Trường Xuân là người tu đạo trẻ nhất trong bảy người. Vương Trọng Dương đặc biệt thương yêu ông ta, nên luôn luôn thử thách ông ta, cho nên làm gì cũng bị sư phụ rầy la, nhưng ông ta chẳng nóng giận. Một ngày nọ, Vương Trọng Dương lên cơn sốt muốn ăn thịt, bèn sai đệ tử đi mua năm cân thịt, treo ở trong phòng, nhưng cũng chẳng nấu ăn. Ngày qua ngày, thịt thối sinh giòi nhiều vô số, bò tới bò lui, mùi vị như thây chết, khiến cho muốn ói mửa. Ngày cuối cùng, Vương Trọng Dương nói với sáu người rằng : ‘’Hôm nay ta muốn mời các vị ăn thịt, mỗi người ăn một miếng, chẳng cho nấu chín, chỉ ăn sống, mỗi người chỉ cho ăn một miếng.’’ Năm người kia chẳng dám ăn, chỉ có Khâu Trường Xuân một mình dám ăn, ông ta chạy vào chỗ treo thịt, lấy xuống một nửa, từ từ bỏ vào miệng, càng nhai càng thơm, càng thơm càng ăn, chẳng bao lâu thì thịt hết, mùi vị thơm ngon chẳng gì sánh bằng, lại muốn ăn nửa kia. Lúc đó, Vương Trọng Dương nói : ‘’Trường Xuân ! Không được tham lam, còn nửa số thịt đó để cho ta ăn. Một thiên tiên trạng nguyên bị ông cướp đi rồi, đủ rồi ! Ðừng ăn hết toàn bộ.’’
Khâu Trường Xuân tuổi trẻ khoẻ mạnh, hành Bồ Tát đạo, chuyên làm việc lợi ích cho người. Có một con sông lớn, chẳng có cầu đi qua, tuy là nước cạn, nhưng mặt sông rất rộng, khiến cho người đi bất tiện, nhất là người già phụ nữ trẻ con càng bất tiện. Khâu Trường Xuân phát tâm cõng người qua sông chẳng lấy tiền. Ngày ngày như thế, tháng nào cũng vậy. Một ngày nọ, cõng một người biết xem tướng qua sông. Người đó nói với Khâu Trường Xuân : ‘’Gã thanh niên ! Tuy anh làm việc ông đức, nhưng mặt của anh có tướng Mãng xà cản khẩu (rắn cản lỗ miệng) chắc chắn phải chết đói.’’ Khâu Trường Xuân nghe rồi, thì tâm ý nhạt nhẽo, chẳng muốn tu hành. Ông ta cho rằng số mạng phải chết đói, thì thà chết sớm để cho được thanh tịnh. Bèn đến bờ sông tìm một hòn đá lớn, mặt trên bằng phẳng, có thể ngủ được, ông ta quyết định chết đói ở trên hòn đá đó. Ðến lúc sắp chết, thì vô duyên vô cớ nước lớn dâng lên ngập trên tảng đá đó, từ nước trôi vào một quả đào, trôi ngay vào bên miệng ông ta, ông ta bất tri bất giác, nuốt quả đào vào trong bụng, tinh thần lập tức khôi phục lại, sức lực sung túc, bèn nhảy dậy, trong tâm nghĩ : ‘’Lần này về đến đỉnh núi, không chết đói thì không được.’’ Do đó, bèn dùng sắt chế thành vòng tròn treo cổ trên cây, chẳng ăn chẳng uống, chẳng biết đã bao nhiêu ngày, lúc ông ta sắp chết thì ông ta bèn nghĩ : ‘’Lần này có thể giải quyết tánh mạng của mình‘’!
Lúc đó, có người đi hái thuốc thấy ông ta như vậy bèn hỏi ông ta : ‘’Anh bạn phạm tội gì mà phải chịu cực hình như vậy‘’?
– Khâu Trường Xuân thuật lại lý do của ông ta chết.
– Người hái thuốc nói : ‘’Ông vì trường sinh bất lão mà xuất gia tu hành, hiện tại đã xuất gia, lại muốn chết đói, đó chẳng phải là mâu thuẫn chăng ? Ông phải biết, chuyên tâm tu hành thì sẽ không chết.’’
Do đó, người hái thuốc tìm chìa khóa để mở vòng sắt. Từ đó Khâu Trường Xuân bèn tu khổ hạnh.
Một ngày nọ, trời đổ tuyết, ông ta bèn tị lạnh trong đống phân ngựa, làm một cái động phân ngựa để núp, đầu đội vỏ quả bầu. Vỏ quả bầu có thể dùng để ăn cơm, có thể dùng uống nước, có thể tỵ mưa, có thể che gió, nên gọi là ‘’Bầu vạn năng.’’ Lúc đó, nổi hứng làm thơ, bèn làm một bài thơ :
‘’Thân nương đống phân đầu đội bầu,
Gặp được ông trời rơi lông ngỗng.’’
Nói đến chỗ này, thì có người qua đường nghe được trong đống phân có người nói, lại xướng ra bạch khí. Người đó rất lỗ mãng, bèn lấy ngói ném vào chỗ xướng bạch khí, ném trúng cái bầu, tài sản duy nhất của Khâu Trường Xuân bị vỡ. Ông ta lại nói nửa bài kệ còn lại :
‘’Một nhà ăn no ngàn nhà oán,
Miếng ngói làm vỡ tan quả bầu.’’
Lập tức chứng đạo !
Vào thời nhà Nguyên, hoàng đế rất sùng bái ông ta, thường mời ông ta vào cung thuyết pháp. Về sau Khâu Trường Xuân rất lừng lẫy nổi tiếng trong Ðạo giáo.
Còn ba vị kia là Mã Ðan Dương, Ðàm Trường Chân, Vương Ngọc Dương, đều tu thành đạo quả. Cho nên, người tu đạo phải ăn khổ, chịu khổ, nhẫn khổ, mới có thể tu hành thành tựu. Khâu Trường Xuân là gương tốt nhất. Trong thiên hạ chẳng có việc không mệt nhọc mà hoạch được, càng chẳng có chuyện vọng tưởng bánh rớt từ trên trời xuống, đều là cước đạp thật địa mà tu hành, tinh tấn dụng công, do đó : ‘’Trồng trọt một một phần, thì thu hoạch một phần.’’ Hy vọng mọi người nỗ lực dụng công, dũng mãnh hướng về trước, đừng thối lùi về sau.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: chư Phật tử ! ứng tri thế giới hải hữu thế giới hải vi trần số thanh tịnh phương tiện hải.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng : Các Phật tử ! Nên biết thế giới hải, có biển phương tiện thanh tịnh, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng trong hải hội rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị nên biết, trong thế giới hải có biển phương tiện thanh tịnh, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Sở vị: chư Bồ-tát thân cận nhất thiết thiện tri thức đồng thiện căn cố, tăng trưởng quảng đại công đức vân biến Pháp giới cố, tịnh tu quảng đại chư thắng giải cố, quan sát nhất thiết Bồ Tát cảnh giới nhi an trụ cố, tu trì nhất thiết chư Ba-la-mật tất viên mãn cố, quan sát nhất thiết Bồ Tát chư địa nhi nhập trụ cố, xuất sanh nhất thiết tịnh nguyện hải cố, tu tập nhất thiết xuất yếu hạnh cố, nhập ư nhất thiết trang nghiêm hải cố, thành tựu thanh tịnh phương tiện lực cố
Đó là : Vì các Bồ Tát gần gũi tất cả thiện tri thức đồng căn lành. Vì tăng trưởng mây công đức rộng lớn khắp pháp giới. Vì tịnh tu các thắng giải rộng lớn. Vì quán sát tất cả cảnh giới của Bồ Tát mà an trụ. Vì tu trị tất cả các Ba la mật đều viên mãn. Vì quán sát các địa của tất cả Bồ Tát mà vào trụ. Vì sinh ra tất cả biển nguyện thanh tịnh. Vì tu tập tất cả hạnh môn trọng yếu ra khỏi ba cõi. Vì vào trong tất cả biển trang nghiêm. Vì thành tựu sức phương tiện thanh tịnh.
Giảng: Thế giới hải có mười thứ thanh tịnh.
1). Vì hết thảy tất cả Bồ Tát gần gũi tất cả thiện tri thức, do căn lành tương đồng.
2). Vì tăng trưởng mây công đức rộng lớn. Vì mây công đức có thể khắp pháp giới.
3). Vì cùng nhau thanh tịnh tu hành pháp môn thù thắng rộng lớn, và pháp môn giải thoát.
4). Vì khắp quán sát cảnh giới Bồ Tát mà còn an trụ.
5). Vì tu hành trị lý tất cả các Ba la mật, khiến cho hạnh môn đều viên mãn.
6). Vì quán sát các địa của tất cả Bồ Tát, từ Sơ địa cho đến Đẳng giác, mà vào trụ ở địa vị Ðẳng giác.
7). Vì mọi người cùng nhau khích lệ, mà sinh ra biển nguyện thanh tịnh.
8). Vì tu tập tất cả hạnh môn quan trọng ra khỏi ba cõi.
9). Vì vào trong tất cả biển trang nghiêm của Bồ Tát.
10). Vì hay thành tựu tất cả sức phương tiện thanh tịnh.
Như thị đẳng, hữu thế giới hải vi trần số.
Có như vậy nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Biển phương tiện thanh tịnh của thế giới hải, nói sơ lược thì có mười thứ như ở trước vừa nói. Nếu nói tỉ mỉ thì nhiều như số hạt bụi của thế giới hải.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, đại Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa lý vừa nói ở trên, bèn nương oai lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương pháp giới, mà nói ra bài kệ. Nếu chẳng có Phật gia bị, thì chẳng có trí huệ có thể nói ra bài kệ như vầy.
Nhất thiết sát hải chư trang nghiêm Tất cả biển cõi đều trang nghiêm
Vô số phương tiện nguyện lực sanh, Vô số phương tiện nguyện lực sinh
Nhất thiết sát hải thường quang diệu Tất cả biển cõi thường chiếu sáng
Vô lượng thanh tịnh nghiệp lực khởi. Vô lượng nghiệp lực thanh tịnh sinh.
Hết thảy tất cả biển cõi nước chư Phật (vì rộng lớn, cho nên ví như biển), mỗi cõi nước đều trang nghiêm. Sự trang nghiêm này, do vô số phương tiện nguyện lực của chư Phật Bồ Tát sinh ra. Tất cả biển cõi nước chư Phật, luôn luôn phóng đại quang minh, chiếu soi biển cõi khác, đây là do vô lượng vô biên nghiệp lực thanh tịnh, của chư Phật Bồ Tát sinh khởi mà thành tựu.
Cửu viễn thân cận thiện tri thức, Lâu xa gần gũi thiện tri thức
Đồng tu thiện nghiệp giai thanh tịnh, Cùng tu thiện nghiệp đều thanh tịnh
Từ bi quảng đại biến chúng sanh, Từ bi rộng lớn khắp chúng sinh
Dĩ thử trang nghiêm chư sát hải. Dùng để trang nghiêm các biển cõi.
Từ vô lượng kiếp đến nay, đều gần gũi các bậc thiện tri thức, cùng nhau tu hành thiện nghiệp đều được thanh tịnh. Chư phật từ bi rộng lớn vô bờ đến khắp hết thảy chúng sinh. Chư Phật dùng từ bi nguyện lực để trang nghiêm tất cả các biển cõi nước.
Thiện tri thức hay cứu chúng sinh xa lìa mười điều ác mà tu mười điều thiện, đây là pháp giáo hóa người thế gian. Hay giáo hóa chúng sinh siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si, đây là pháp giáo hóa người xuất thế gian. Chúng ta người tu đạo phải phát nguyện, luôn luôn gần gũi bậc thiện tri thức, xa lìa ác tri thức. Gần gũi thiện tri thức chẳng những trợ giúp cho đạo nghiệp, mà còn có chỗ nương tựa. Ðồng thời vì quan hệ tâm thiết tha cầu pháp, tuy trải qua thời gian lâu dài cũng chẳng cảm thấy thời gian lâu dài.
Nhất thiết pháp môn tam muội đẳng, Tất cả pháp môn tam muội thảy
Thiền định giải thoát phương tiện địa, Thiền định giải thoát phương tiện địa
Ư chư Phật sở tất tịnh trì, Nơi chỗ chư Phật đều tịnh trị
Dĩ thử xuất sanh chư sát hải. Nhờ đây sinh ra các biển cõi.
Hết thảy tám vạn bốn ngàn pháp môn, và tất cả tam muội thảy, tức là thiền định, giải thoát, phương tiện địa. Ðủ thứ tam muội này, Bồ Tát ở chỗ đạo tràng của chư Phật, đều tu hành viên mãn, và còn trị lý thanh tịnh, diệt trừ nghiệp ác, tăng trưởng căn lành, do đó: ‘’Trừ ác tăng thiện.’’ Nhờ công đức tu hành, mà có thể sinh ra biển cõi nước chư Phật.
Phát sanh vô lượng quyết định giải, Phát sinh vô lượng hiểu quyết định
Năng giải Như Lai đẳng vô dị, Hiểu đồng Như Lai chẳng khác biệt
Nhẫn hải phương tiện dĩ tu trì, Biển nhẫn phương tiện đã tu trị
Cố năng nghiêm tịnh vô biên sát. Nên nghiêm tịnh được vô biên cõi.
Người tu đạo phải tu pháp môn Bát nhã ba la mật, đắc được trí huệ mới có trạch pháp nhãn (mắt chọn pháp), để lựa chọn pháp môn nào tương ưng với mình, như thế thì chẳng phát sinh hoài nghi, mà nhận thức chính xác rõ ràng pháp môn của mình tu. Không thể tựa như đúng mà sai, nửa tin nửa ngờ. Nếu được như vậy, tức là đắc được quyết định giải, bằng không thì chẳng phải là quyết định giải. Phát sinh vô lượng quyết định giải, thì mới hiểu biết giống như Phật chẳng có sự khác biệt. Người tu đạo phải chú trọng về nhẫn nhục, bất cứ tu pháp môn gì, nếu nhẫn được mới thành tựu, chẳng nhẫn thọ được thì chẳng thành tựu.
Chúng ta tụng Kinh trì Chú, làm khóa lễ buổi sáng, tham thiền đả tọa đều là pháp môn phương tiện, chẳng phải một khi tu thì thành Phật, mà là luôn luôn tu trị. Trước khi chúng ta chưa thành Phật, thì phải đi qua con đường phương tiện. Quá khứ, chư Phật Bồ Tát đã tu viên mãn biển nhẫn phương tiện, cho nên sức thần thông của chư Phật, có thể trang nghiêm thanh tịnh hết thảy vô biên biển cõi nước.
Pháp môn duy nhất của người tu đạo là nhẫn thọ. Ví như ‘’đả thất đói,’’ đây là việc đơn giản nhất, nhưng người sức nhẫn nại không đủ thì làm chẳng được, hoặc giữa đường phế bỏ, có trước chẳng có sau. Người có sức nhẫn nại, thì mới có thể công đức viên mãn mà thành công. Lúc đó, định lực tăng thêm nhiều, dục niệm lại giảm bớt, làm công đức gì, thì có công đức đó tồn tại. Nhẫn ở đây là không nhẫn được cũng phải nhẫn, không chịu được cũng phải chịu, đây là chìa khóa. Nhẫn thọ được một chút, thì qua cửa ải được một chút, qua hết cửa ải thì sẽ thành tựu.
Hiện tại (mùa thu năm 1974) Chùa Kim Sơn chúng ta có bốn vị xuất gia ‘’đả thất đói ‘’ (nhịn ăn), dự định bốn mươi chín ngày, hoặc hai mươi mốt ngày, đã có hơn mười ngày rồi. Tại sao họ phải ‘’đả thất đói‘’ ? Vì chùa Kim Sơn lúa gạo rau cải trà quá ít, nên đả thất đói. Ðả thất đói tức là huấn luyện công phu nhẫn thọ. Có sức nhẫn thọ thì có thể quán triệt thủy chung, công đức viên mãn. Chẳng có sức nhẫn thọ thì sẽ đầu hàng, thối lùi chiến trường. Tôi hy vọng các vị bốn người nhất định là người thắng lợi, đừng làm Tỳ Kheo đầu hàng.
Bút giả ghi : Vào mùa đông năm 1975, Chùa Kim Sơn có nhiều vị xuất gia và tại gia ‘’đả thất đói,’’ mười tám ngày, hai mươi mốt ngày, đều thành công viên mãn. Trong đó, có thầy Hằng Quán và thầy Hằng Không phát tâm ba mươi sáu ngày chẳng ăn cơm. Thầy Hằng Quán vì quan hệ chức vụ, tuy chẳng ăn cơm nhưng vẫn thường làm việc. Thời gian đả thất hai mươi mốt ngày chẳng ăn cơm, dũng mãnh tinh tấn. Hai vị thầy người Mỹ nhịn ba mươi sáu ngày chẳng ăn cơm (chẳng uống đồ bổ dưỡng, chỉ uống nước nóng). Ðây là bút giả thấy tận mắt, chẳng phải nói dối.
Mùa thu năm 1976, thầy Hằng Quán và thầy Hằng Không, ở tại Vạn Phật Thành lại phát tâm ‘’đả thất đói,’’ nhịn ăn ba mươi sáu ngày, chẳng ăn cơm, lần thứ hai lại thành công, khiến cho mọi người kính ngưỡng. Vào mùa thu năm 1979, thầy Hằng Không phát tâm bảy mươi hai ngày chẳng ăn cơm, tuy chẳng được như nguyện như dự định, nhưng kỷ lục đạt được sáu mươi tám ngày chẳng ăn cơm, khiến cho người kình kỳ, một số người cho rằng đây là việc vốn không thể làm được, nhưng sự thật là như thế, không thể không tin. Về y học, chẳng cách chi giải thích được vấn đề này. Vào tháng 8 năm 1980, thầy Hằng Quán phá kỷ lục, bảy mươi hai ngày chẳng ăn cơm.
Thầy Hằng Không trước khi ‘’đả thất đói‘’ từng vào nhà thương khám sức khoẻ, phát hiện trong máu có một thứ nhọt (ung thư máu). Theo bác sĩ nghiên cứu kết quả thì chứng bệnh này chẳng có thuốc chữa trị được, mạng sống chỉ kéo dài tối đa là bốn mươi tám ngày. Song thầy Hằng Không gác việc sinh tử ra bên ngoài, đối với túi da hôi thúi này chẳng quái ngại, dũng mãnh tinh tấn, bắt đầu ‘’đả thất đói.’’ Sáu mươi tám ngày bình tĩnh trôi qua, vẫn chẳng chết, ngược lại khiến cho chứng bệnh bất trị trên thân thể trong vô hình tan mất, chuyển tai ương thành cát tường. Ðây là cảnh giới cảm ứng đạo giao, không thể nghĩ bàn.
Vì lợi chúng sanh tu thắng hành Vì lợi chúng sinh tu thắng hạnh
Phước đức quảng đại thường tăng trưởng, Phước đức rộng lớn thường tăng trưởng
Thí như vân bố đẳng hư không, Ví như mây bủa đồng hư không
Nhất thiết sát hải giai thành tựu. Tất cả biển cõi đều thành tựu.
Chư Phật Bồ Tát vì lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui mà tu thắng hạnh, phước đức rộng lớn thường thường tăng trưởng, đến khi nào phước đức viên mãn thì ngừng. Ví như mây giăng bủa đầy khắp hư không. Hết thảy tất cả biển cõi nước đều trang nghiêm mà thành tựu.
Chư độ vô lượng đẳng sát trần Các độ vô lượng đồng bụi cõi
Tất dĩ tu hành lệnh cụ túc, Đều đã tu hành khiến đầy đủ
Nguyện Ba-la-mật vô hữu tận, Nguyện Ba la mật chẳng cùng tận
Thanh tịnh sát hải tòng thử sanh. Thanh tịnh biển cõi từ đây sinh.
Hết thảy vô lượng pháp môn Ba la mật, nhiều đồng như số hạt bụi thế giới hải, tu hết thảy Ba la mật đều viên mãn, phước huệ cũng đầy đủ. Bồ Tát phát nguyện Ba la mật vô cùng tận. Nếu có tận thì chẳng tự tại, chẳng đến được bờ kia. Hết thảy biển cõi thanh tịnh, đều từ nguyện Ba la mật sinh ra.
Tịnh tu vô đẳng nhất thiết pháp, Tịnh tu vô đẳng tất cả pháp
Sanh khởi vô biên xuất yếu hạnh, Sinh ra vô biên hạnh xuất ly
Chủng chủng phương tiện hóa quần sanh, Đủ thứ phương tiện hóa quần sinh
Như thị trang nghiêm quốc độ hải. Như vậy trang nghiêm biển cõi nước.
Chuyên nhất thanh tịnh tu hành vô đẳng tất cả pháp, tu hành trong vô lượng pháp môn ra khỏi ba cõi. Chư Phật Bồ Tát dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hóa chúng sinh. Tại sao Phật giáo hóa chúng sinh ? Vì trang nghiêm biển cõi nước, có chúng sinh, có Phật, cõi nước mới trang nghiêm.
Tu tập trang nghiêm phương tiện địa Tu tập trang nghiêm môn phương tiện
Nhập Phật công đức Pháp môn hải, Vào công đức Phật biển pháp môn
Phổ sử chúng sanh kiệt khổ nguyên, Khiến khắp chúng sinh cạn nguồn khổ
Quảng đại tịnh sát giai thành tựu. Cõi tịnh rộng lớn đều thành tựu.
Tu tập giáo hóa chúng sinh, trang nghiêm cõi nước chư Phật, có pháp môn phương tiện này, thì mới đắc được công đức của Phật, thành tựu biển pháp môn của Phật. Khắp khiến cho tất cả chúng sinh, cạn sạch nguồn gốc khổ. Lúc đó, chúng sinh chẳng có các sự khổ, chỉ có sự an vui. Cho nên biển cõi thanh tịnh rộng lớn đều thành tựu.
Lực hải quảng đại vô dữ đẳng, Biển lực rộng lớn chẳng gì bằng
Phổ sử chúng sanh chủng thiện căn Khắp khiến chúng sinh trồng căn lành
Cúng dường nhất thiết chư Như Lai, Cúng dường tất cả các Như Lai
Quốc độ vô biên tất thanh tịnh. Cõi nước vô biên đều thanh tịnh.
Biển lực tức là đại thần thông lực, đại oai đức lực, đại trí huệ lực, đại biện tài lực, có tất cả sức lực như biển cả. Sức lực này rộng lớn vô biên, chẳng có lực nào bằng được. Sức lực này khắp khiến tất cả chúng sinh trồng căn lành, phát bồ đề tâm, sớm thành Phật đạo, rộng tu cúng dường, cúng dường tất cả các Như Lai, và phát nguyện trang nghiêm vô biên cõi nước khiến cho thanh tịnh.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: chư Phật tử ! ứng tri nhất nhất thế giới hải hữu thế giới hải vi trần số Phật xuất hiện sái biệt.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền, lại bảo đại chúng rằng : Các Phật tử ! Nên biết mỗi mỗi thế giới hải, có Phật xuất hiện khác nhau, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền lại nói với đại chúng rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị nên biết, trong mỗi thế giới hải, lại có Phật xuất hiện khác nhau nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Sở vị: hoặc hiện tiểu thân, hoặc hiện đại thân, hoặc hiện đoản thọ, hoặc hiện trường thọ, hoặc duy nghiêm tịnh nhất Phật quốc độ, hoặc hữu nghiêm tịnh vô lượng Phật thổ, hoặc duy hiển thị nhất thừa pháp luân, hoặc hữu hiển thị bất khả tư nghị chư thừa Pháp luân, hoặc hiện điều phục thiểu phần chúng sanh, hoặc thị điều phục vô biên chúng sanh
Đó là : Hoặc hiện thân nhỏ. Hoặc hiện thân lớn. Hoặc hiện sống lâu. Hoặc hiện tuổi thọ ngắn ngủi. Hoặc chỉ nghiêm tịnh một cõi Phật. Hoặc nghiêm tịnh vô lượng cõi Phật. Hoặc chỉ hiển bày một thừa pháp luân. Hoặc hiển bày các thừa pháp luân không thể nghĩ bàn. Hoặc hiện điều phục ít phần chúng sinh. Hoặc hiện điều phục vô lượng chúng sinh.
Giảng: Thế giới hải có mười thứ mà Phật xuất hiện khác nhau.
1). Hoặc có Phật hiện ra tướng Tỳ Kheo một trượng sáu, đây là thân nhỏ.
2). Hoặc có Phật hiện tướng Lô Xá Na ngàn trượng, đây là thân lớn.
3). Hoặc có Phật ra đời chẳng bao lâu, thì liền vào Niết Bàn, đây là tuổi thọ ngắn ngủi.
4). Hoặc có Phật ra đời sống rất lâu, trải qua vô lượng kiếp mới vào Niết Bàn, đây là sống lâu.
5). Hoặc có Phật chỉ trang nghiêm một cõi nước.
6). Hoặc có Phật trang nghiêm thanh tịnh vô lượng cõi nước.
7). Hoặc có Phật hiển thị một thừa pháp luân, tức là Phật thừa.
8). Hoặc có Phật hiển thị các thừa pháp luân, tức là đại thừa Bồ Tát, trung thừa Duyên Giác, tiểu thừa Thanh Văn, đủ thứ pháp luân không thể nghĩ bàn.
9). Hoặc có Phật ra đời thị hiện điều phục ít chúng sinh thì vào Niết Bàn.
10). Hoặc có Phật ra đời thị hiện điều phục vô biên chúng sinh mới vào Niết Bàn.
Như thị đẳng, hữu thế giới hải vi trần số.
Có như vậy nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Phật xuất hiện khác nhau trong thế giới hải, nói sơ lược thì có mười thứ, nếu nói tỉ mỉ thì có nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền muốn tuyên lại ý nghĩa vừa nói ở trên, bèn nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp mười phương thế giới mà nói ra bài kệ.
Chư Phật chủng chủng phương tiện môn Chư Phật dùng đủ thứ phương tiện
Xuất hưng nhất thiết chư sát hải, Xuất hiện tất cả các biển cõi
Giai tùy chúng sanh tâm sở lạc Đều tùy ưa thích của chúng sinh
Thử thị Như Lai thiện xảo lực. Đó là sức khéo léo của Phật.
Chư Phật Bồ Tát từ bi với chúng sinh đến cực điểm. Có gì chứng minh ? Vì chư Phật Bồ Tát dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hóa tất cả chúng sinh. Phật ra đời tất cả biển cõi nước, đều tùy thuận tâm ưa thích của chúng sinh. Ðó là chư Phật dùng sức phương tiện khéo léo để giáo hóa chúng sinh.
Chư Phật Pháp thân bất tư nghị, Pháp thân chư Phật không nghĩ bàn
Vô sắc vô hình vô ảnh tượng, Không sắc không hình không ảnh tượng
Năng vì chúng sanh hiện chúng tướng, Hay vì chúng sinh hiện các tướng
Tùy kỳ tâm lạc tất lệnh kiến. Tùy tâm họ thích đều khiến thấy.
Pháp thân của chư Phật không thể nghĩ bàn, do đó có câu :
‘’Khẩu dục ngôn nhi từ tán,
Tâm dục duyên nhi lự vong.’’
Nghĩa là :
Miệng muốn nói mà chẳng còn gì để nói;
Tâm muốn nghĩ mà ý niệm cũng chẳng còn.
Pháp thân này lìa tất cả tướng, cho nên không sắc không hình không ảnh tượng. Song, vẫn hay vì chúng sinh thị hiện các tướng. Chúng sinh đáng dùng thân gì độ được, thì hiện thân đó để vì họ nói pháp, tùy thuận sự ưa thích của chúng sinh, đều khiến cho họ thấy được.
Hoặc vì chúng sanh hiện đoản thọ, Hoặc vì chúng sinh hiện chết sớm
Hoặc hiện trụ thọ vô lượng kiếp, Hoặc hiện sống lâu vô lượng kiếp
Pháp thân thập phương phổ hiện tiền Pháp thân mười phương khắp hiện tiền
Tùy nghi xuất hiện ư thế gian. Tùy nghi xuất hiện trong thế gian.
Hoặc có Phật ra đời, thị hiện tuổi thọ ngắn ngủi để giáo hoá chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh biết rằng, tất cả đều là vô thường. Hoặc có Phật ra đời, thị hiện sống lâu ở đời hàng vô lượng kiếp. Pháp thân của Phật hiện khắp trong mười phương, tùy thuận cơ duyên của chúng sinh, mà xuất hiện trong thế gian.
Hoặc hữu nghiêm tịnh bất tư nghị, Có Phật nghiêm tịnh không nghĩ bàn
Thập phương sở hữu chư sát hải Mười phương hết thảy các biển cõi
Hoặc duy nghiêm tịnh nhất quốc độ Hoặc chỉ nghiêm tịnh một cõi nước
Ư nhất thị hiện tất vô dư. Nơi đó thị hiện đều không thừa.
Hoặc có Phật ra đời, trang nghiêm thanh tịnh cõi nước không thể nghĩ bàn. Mười phương hết thảy các biển cõi nước chư Phật, đều trang nghiêm thanh tịnh. Hoặc có Phật ra đời, chỉ trang nghiêm thanh tịnh một cõi nước, ở tại thế giới đó, thị hiện mà chẳng đến nước khác trang nghiêm.
Hoặc tùy chúng sanh tâm sở lạc, Hoặc tùy sở thích của chúng sinh
Thị hiện nan tư chủng chủng thừa Thị hiện các thừa không nghĩ bàn
Hoặc hữu duy tuyên nhất thừa pháp, Hoặc chỉ diễn nói một thừa pháp
Nhất trung phương tiện hiện vô lượng. Trong một phương tiện hiện vô lượng.
Hoặc có Phật, tùy thuận tâm ưa thích của chúng sinh, mà thị hiện các thừa pháp không thể nghĩ bàn. Hoặc có Phật, chỉ diễn nói độc nhất một thừa pháp, tức cũng là Phật thừa. Ở trong một thừa pháp, bao quát vô lượng phương tiện pháp môn.
Hoặc hữu tự nhiên thành chánh giác, Có Phật tự nhiên thành chánh giác
Lệnh thiểu chúng sanh trụ ư đạo Khiến ít chúng sinh trụ nơi đạo
Hoặc hữu năng ư nhất niệm trung, Hoặc có Phật ở trong một niệm
Khai ngộ quần mê vô hữu số. Khai ngộ quần mê vô số lượng.
Hoặc có Phật ra đời, tự nhiên thành chánh giác, khiến cho ít chúng sinh thành tựu đạo nghiệp. Hoặc có Phật ra đời, có thể ở trong một niệm, có thể giáo hóa vô lượng chúng sinh, khiến cho họ khai ngộ.
Hoặc ư mao khổng xuất hóa vân, Hoặc trong lỗ lông hiện hóa mây
Thị hiện vô lượng vô biên Phật, Thị hiện vô lượng vô biên Phật
Nhất thiết thế gian giai hiện đổ, Tất cả thế gian đều nhìn thấy
Chủng chủng phương tiện độ quần sanh. Ðủ thứ phương tiện độ quần sinh.
Hoặc có vị Phật ra đời, ở trong mỗi lỗ chân lông, hiện ra mây biến hóa, thị hiện vô lượng vô biên thân Phật. Hết thảy mười phương thế giới tất cả chúng sinh, đều nhìn thấy chư Phật ở trong đó chuyển pháp luân, dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để hóa độ tất cả chúng sinh.
Hoặc hữu ngôn âm phổ chu biến, Có Phật lời nói khắp hết thảy
Tùy kỳ tâm lạc nhi thuyết Pháp, Tùy tâm họ thích mà thuyết pháp
Bất khả tư nghị Đại kiếp trung, Trong đại kiếp không thể nghĩ bàn
Điều phục vô lượng chúng sanh hải. Ðiều phục vô lượng biển chúng sinh.
Hoặc có vị Phật ra đời, diễn nói pháp âm vang khắp cùng pháp giới, tùy thuận tâm ưa thích của chúng sinh mà nói pháp. Ở trong đại kiếp không thể nghĩ bàn, điều phục vô lượng chúng sinh cang cường như biển cả.
Hoặc hữu vô lượng trang nghiêm quốc, Có Phật nghiêm tịnh vô lượng cõi
Chúng hội thanh tịnh nghiễm nhiên tọa, Chúng hội thanh tịnh nghiễm nhiên ngồi
Phật như vân bố tại kỳ trung, Phật như mây bủa ở không trung
Thập phương sát hải mị bất sung. Mười phương biển cõi đầy dẫy khắp.
Hoặc có vị Phật trang nghiêm vô lượng vô biên cõi nước chư Phật. Ở trong mỗi cõi nước, đều có một vị Phật nghiễm nhiên ngồi ở trong chúng hội thanh tịnh, chuyển đại pháp luân, đánh trống pháp lớn, giáo hóa chúng sinh. Thân Phật giống như vầng mây giăng bủa trong hư không. Mười phương biển cõi nước chư Phật, chẳng có nơi nào mà chẳng có.
Chư Phật phương tiện bất tư nghị, Chư Phật phương tiện không nghĩ bàn
Tùy chúng sanh tâm tất hiện tiền, Tùy tâm chúng sinh hiện trước họ
Phổ trụ chủng chủng trang nghiêm sát, Khắp trụ đủ thứ cõi trang nghiêm
Nhất thiết quốc độ giai chu biến. Tất cả cõi nước đều đến khắp.
Hết thảy phương tiện của chư Phật, đều không thể nghĩ bàn, hay tùy thuận trong tâm của tất cả chúng sinh, mà hiện ra ở trước họ, khắp trụ ở trong đủ thứ cõi nước trang nghiêm, hết thảy cõi nước tận hư không biến pháp giới, đều có Phật đang ở trong đó nói pháp.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: chư Phật tử ! ứng tri thế giới hải hữu thế giới hải vi trần số kiếp trụ.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng : Các Phật tử ! Nên biết thế giới hải có kiếp trụ, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Ðại Hạnh Phổ Hiền lại bảo đại chúng hải hội rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị nên biết, thế giới hải có kiếp trụ, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Ðể hình dung thời gian dài nhất, người Ấn Ðộ dùng A tăng kỳ kiếp, Hằng hà sa số, Na do tha, bất tư nghì, vô lượng số .v.v… đây đều là danh từ số mục rất lớn, hoặc dùng tám vạn bốn ngàn.
Sở vị: hoặc hữu a-tăng-kì kiếp trụ, hoặc hữu vô lượng kiếp trụ, hoặc hữu vô biên kiếp trụ, hoặc hữu vô đẳng kiếp trụ, hoặc hữu bất khả số kiếp trụ, hoặc hữu bất khả xưng kiếp trụ, hoặc hữu bất khả tư kiếp trụ, hoặc hữu bất khả lượng kiếp trụ, hoặc hữu bất khả thuyết kiếp trụ
Ðó là : Hoặc có A tăng kỳ kiếp trụ. Hoặc có vô lượng kiếp trụ. Hoặc có vô biên kiếp trụ. Hoặc có vô đẳng kiếp trụ. Hoặc có bất khả số kiếp trụ. Hoặc có bất khả xưng kiếp trụ. Hoặc có bất khả tư kiếp trụ. Hoặc có bất khả lượng kiếp trụ. Hoặc có bất khả thuyết kiếp trụ. Hoặc có bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp trụ.
Giảng: Thế giới hải có mười thứ kiếp trụ:
1). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ lâu dài hàng A tăng kỳ kiếp, chẳng hoại, cũng chẳng có không, vẫn tồn tại.
2). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ lâu dài vô lượng kiếp.
3). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ lâu dài vô biên kiếp thời gian.
4). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ lâu dài vô đẳng kiếp thời gian.
5). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ lâu dài bất khả số thời gian.
6). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ lâu dài bất khả xưng thời gian.
7). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ lâu dài bất khả tư kiếp thời gian.
8). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ bất khả lượng thời gian.
9). Hoặc có thế giới hải, trải qua kiếp trụ lâu dài bất khả thuyết thời gian.
10). Hoặc có thế giới hải, trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp trụ.
Như thị đẳng, hữu thế giới hải vi trần số.
Có như vậy nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Kiếp trụ thế giới hải, nói đơn giản thì có mười thứ như vừa nói ở trên. Nếu nói tỉ mỉ thì nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền muốn diễn lại nghĩa lý vừa nói ở trên, bèn nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp tất cả chúng sinh trong mười phương pháp giới, mà nói ra bài kệ.
Thế giới hải trung chủng chủng kiếp, Trong thế giới hải đủ thứ kiếp
Quảng đại phương tiện sở trang nghiêm, Sức phương tiện rộng lớn trang nghiêm
Thập phương quốc độ hàm quán kiến, Mười phương cõi nước đều nhìn thấy
Số lượng sái biệt tất minh liễu. Vô lượng khác nhau đều rõ ràng.
Mỗi thế giới hải trải qua đủ thứ kiếp khác nhau, đó là nguyện lực phương tiện rộng lớn của chư Phật trang nghiêm mà thành tựu. Trong mười phương cõi nước, đồng thời đều có thể nhìn thấy. Tuổi thọ của mỗi thế giới hải, hoặc dài hoặc ngắn ? Trải qua bao nhiêu kiếp ? Ðều hoàn toàn nhìn thấy rất rõ ràng.
Ngã kiến thập phương thế giới hải, Tôi thấy mười phương thế giới hải
Kiếp số vô lượng đẳng chúng sanh, Số kiếp vô lượng đồng chúng sinh
Hoặc trường hoặc đoản hoặc vô biên Hoặc dài hoặc ngắn hoặc vô biên
Dĩ Phật âm thanh kim diễn thuyết. Nhờ âm thanh Phật nay diễn nói.
Bồ Tát phổ Hiền nói, tôi thấy mười phương hết thảy thế giới hải, kiếp số vô lượng vô biên đồng số chúng sinh. Hoặc có kiếp dài hoặc có kiếp ngắn. Kiếp dài chẳng lìa một niệm, kiếp ngắn cũng chẳng lìa một niệm. Một niệm có thể thành vô lượng kiếp, vô lượng kiếp lại có thể làm một niệm, toại tâm như ý. Hoặc dài hoặc ngắn hoặc vô biên, nhờ âm thanh của Phật, mà trong mỗi thế giới, đều đang diễn nói diệu pháp.
Ngã kiến thập phương chư sát hải Tôi thấy mười phương các biển cõi
Hoặc trụ quốc độ vi trần kiếp, Hoặc trụ kiếp như bụi cõi nước
Hoặc hữu nhất kiếp hoặc vô số, Hoặc là một kiếp hoặc vô số
Dĩ nguyện chủng chủng các bất đồng. Dùng đủ thứ nguyện đều khác nhau.
Bồ Tát Phổ Hiền lại nói : Tôi thấy trong biển cõi nước chư Phật mười phương, hoặc có thế giới trụ kiếp số lâu dài như hạt bụi cõi nước, hoặc có thế giới trụ một kiếp hoặc có thế giới trụ vô lượng kiếp. Ðó là nguyện của chư Phật, nguyện của Bồ Tát, nguyện của chúng sinh, đủ thứ nguyện khác nhau.
Hoặc hữu thuần tịnh hoặc thuần nhiễm, Có cõi thuần tịnh hoặc thuần nhiễm
Hoặc phục nhiễm tịnh nhị câu tạp, Hoặc là nhiễm tịnh xen tạp nhau
Nguyện hải an lập chủng chủng thù, Biển nguyện an lập sự khác nhau
Trụ ư chúng sanh tâm tưởng trung. Trụ trong tâm tưởng của chúng sinh.
Hoặc có thế giới hoàn toàn thanh tịnh, hoặc có thế giới hoàn toàn nhiễm ô, hoặc có thế giới nửa tịnh nửa nhiễm, hai thứ xen tạp với nhau. Trong Kinh Duy Ma Cật có nói :
‘’Tâm thanh tịnh thì cõi Phật tịnh.’’
Lúc đó, tôn giả Xá Lợi Phất bèn sinh hoài nghi, tâm nghĩ : ‘’Bồ Tát tùy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Vậy Ðức Phật Thích Ca khi tu hành Bồ Tát đạo, e rằng tâm của Ngài chẳng thanh tịnh chăng ? Tại sao sau khi Ngài thành Phật rồi, thì thế giới Ta Bà này vẫn chẳng thanh tịnh ? Vẫn là đời ác năm trược‘’?
Sau khi tôn giả Xá Lợi Phất khởi vọng tưởng như thế, thì Ðức Phật Thích Ca biết được, mới nói với đại chúng rằng :
– ‘’Thế giới của ta đây vốn là thanh tịnh, nhưng các ông nhìn chẳng thấy, lại oán trách ai ?‘’ Nói vừa xong thì, Phật bèn dùng ngón chân ấn xuống đất, lập tức ba ngàn đại thiên thế giới đồng thời biến đổi, bảy báu trang nghiêm. Ðồng thời đại chúng ai nấy đều ngồi trên hoa sen báu lớn, đại chúng nhìn thấy đều khen ngợi chưa từng có, cũng đều nói là hy hữu.
Chúng sinh nhiễm ô, thì nhìn thấy thế giới chẳng thanh tịnh. Chúng sinh thanh tịnh, thì nhìn thấy chẳng nhiễm ô. Ðây là tùy theo tâm ý của chúng sinh mà hiện. Biển nguyện an lập thế giới của chư Phật Bồ Tát, có đủ thứ sự khác nhau, cảnh giới đó, đều do trong tâm tưởng của chúng sinh mà tạo thành.
Vãng tích tu hành sát trần kiếp, Thuở xưa tu hành kiếp bụi cõi
Hoạch Đại thanh tịnh thế giới hải, Ðắc được thế giới hải thanh tịnh
Chư Phật cảnh giới cụ trang nghiêm, Cảnh giới chư Phật đều trang nghiêm
Vĩnh trụ vô biên quảng đại kiếp. Vĩnh trụ vô biên kiếp rộng lớn.
Thuở xưa, khi Phật tu hành, thì trải qua kiếp số nhiều như hạt bụi trong cõi nước, mới đắc được thế giới hải thanh tịnh rộng lớn. Cảnh giới chư Phật trong thế giới hải thanh tịnh rộng lớn, đều trang nghiêm thanh tịnh đầy đủ, vĩnh viễn trụ ở trong vô biên kiếp rộng lớn.
Hiện tại là thời đại mạt pháp, khắp nơi chẳng tìm đặng bậc thiện tri thức, song ác tri thức thì khắp nơi đều có. Có người nghiên cứu Phật pháp thì, càng nghiên cứu càng tinh tấn, thậm chí quên ăn bỏ ngủ, chẳng biết thân đang ở đâu ? Có người nghiên cứu một thời gian rồi thì, sinh tâm nhàm chán, khởi vọng tưởng, cảm thấy thật là hạnh khổ, chẳng có ý nghĩa gì cả, chẳng bằng hoàn tục ! Có thể cưới vợ, có thể ăn thịt uống rượu, có thể nhảy đầm, thật là tự tại ! Bạn nên biết ! Tuy nhìn thấy giống như rất thoải mái tự tại.
Phật giáo ở tây phương mới bắt đầu, nơi nơi đều khó khăn, trong sự khốn khổ gian nan mới tạo ra nhân tài, tôi thường nói với quý vị : ‘’Tôi đến nước này, là thế Phật giáo tạo Phật sống, tạo Bồ Tát sống, tạo Tổ Sư sống. Các vị ai là Tổ Sư sống, thì người đó sẽ thành công, ai là Bồ tát sống, thì người đó sẽ thành công, ai là Phật sống, thì người đó sẽ thành công. Chỉ cần y pháp tu hành thì sẽ có sự thành tựu.’’
Chùa Kim Sơn là mẹ của Phật giáo tây phương, bất cứ như thế nào, cũng phải ủng hộ mẹ, phải cúng dường mẹ. Không hiếu thuận với mẹ cũng được, nhưng đừng có giết mẹ. Hiện tại có người chẳng những chẳng ủng hộ Chùa Kim Sơn, mà ngược lại, chuyên phá hoại Chùa Kim Sơn, muốn làm trùng sư tử, tự ăn thịt sư tử. Ăn cơm Phật giáo, mặc y Phật giáo, mà chuyên nói thị phi Phật giáo, thứ người này chắc chắn sẽ đọa địa ngục. Các vị hãy nên nhớ ! Không thể ở trong Phật giáo mà tạo nghiệp thiện ác hỗn tạp, thật đáng thương xót.
Hữu danh chủng chủng bảo quang minh, Có tên Chủng chủng bảo quang minh
Hoặc danh đẳng âm diệm nhãn tạng, Hoặc tên Ðẳng âm diễm nhãn tạng
Ly trần quang minh cập hiền kiếp, Ly trần quang minh và Hiền kiếp
Thử thanh tịnh kiếp nhiếp nhất thiết. Kiếp thanh tịnh này nhiếp tất cả.
Có thế giới hải tên Chủng Chủng Bảo Quang Minh. Hoặc có thế giới hải tên Ðẳng Âm Diễm Nhãn Tạng. Hoặc có thế giới hải tên Ly Trần Quang Minh. Hoặc có thế giới hải tên Hiền Kiếp. Trụ kiếp quá khứ tên là Kiếp Trang Nghiêm. Trụ kiếp hiện tại tên là Hiền Kiếp. Vì có ngàn hiền nhân thành Phật trong cùng một kiếp. Trụ kiếp vị lai tên là Túc Tinh Kiếp, có thể nhiếp tất cả kiếp.
Hữu thanh tịnh kiếp nhất Phật hưng, Có kiếp tịnh một Phật ra đời
Hoặc nhất kiếp trung vô lượng hiện, Hoặc trong một kiếp vô lượng hiện
Vô tận phương tiện đại nguyện lực, Vô tận phương tiện đại nguyện lực
Nhập ư nhất thiết chủng chủng kiếp. Vào trong tất cả đủ thứ kiếp.
Hoặc có thế giới là kiếp Thanh Tịnh, có một vị Phật xuất hiện ra đời, hoặc trong một kiếp có vô lượng vị Phật xuất hiện ra đời. Ðây là kiếp thế giới hải, đều là vô tận phương tiện đại nguyện lực của chư Phật thành tựu, cho nên hay thành tựu tất cả đủ thứ kiếp.
Hoặc vô lượng kiếp nhập nhất kiếp Hoặc vô lượng kiếp vào một kiếp
Hoặc phục nhất kiếp nhập đa kiếp, Hoặc là một kiếp vào nhiều kiếp
Nhất thiết kiếp hải chủng chủng môn Tất cả biển kiếp đủ thứ môn
Thập phương quốc độ giai minh hiện. Mười phương cõi nước đều hiện rõ.
Hoặc có vô lượng kiếp làm thành một kiếp, hoặc trong một kiếp lại có vô lượng kiếp, cảnh giới này chẳng nhất định. Trong tất cả biển kiếp có đủ thứ môn khác nhau, trong mười phương cõi nước thị hiện ra rất minh bạch.
Hoặc nhất thiết kiếp trang nghiêm sự, Hoặc sự trang nghiêm tất cả kiếp
Ư nhất kiếp trung giai hiện đổ, Ở trong một kiếp đều hiện thấy
Hoặc nhất kiếp nội sở trang nghiêm, Hoặc sự trang nghiêm trong một kiếp
Phổ nhập nhất thiết vô biên kiếp. Vào khắp tất cả vô biên kiếp.
Ở trước nói về kiếp dài ngắn, bây giờ nói về sự trang nghiêm của kiếp. Có thế giới dùng vàng để trang nghiêm, có thế giới dùng bạc để trang nghiêm, có thế giới dùng ma ni hoặc dùng châu báu để trang nghiêm. Sự trang nghiêm của tất cả kiếp có thể ở trong một kiếp đều hiện ra đủ thứ cảnh giới trang nghiêm, lại khắp vào trong tất cả vô biên kiếp, đều trang nghiêm như vậy.
Thủy tòng nhất niệm chung thành kiếp, Bắt đầu một niệm thành một kiếp
Tất y chúng sanh tâm tưởng sanh, Ðều nương tâm chúng sinh mà sinh
Nhất thiết sát hải kiếp vô biên, Tất cả cõi vô biên biển kiếp
Dĩ nhất phương tiện giai thanh tịnh. Dùng một phương tiện đều thanh tịnh.
Kiếp thành tựu như thế nào ? Là từ một niệm của chúng sinh mà sinh ra. Một niệm có thể kéo dài làm vô lượng kiếp, vô lượng kiếp lại có thể thu lại làm một niệm. Bắt đầu từ một niệm mà sinh ra thành là một kiếp. Ðó đều là nương tựa vọng tưởng trong tâm của chúng sinh, mà sinh ra cảnh giới hư vọng này. Hết thảy tất cả cõi biển kiếp vô lượng vô biên vô cùng tận. Chư Phật dùng một phương tiện pháp môn, khiến cho tất cả kiếp đều thanh tịnh.
Kiếp có thành, trụ, hoại, không, bốn tướng, đều từ vọng tưởng của chúng sinh mà sinh ra. Chẳng những kiếp là như thế, mà hết thảy tất cả đều như vậy. Vì vọng tưởng của chúng sinh quá nhiều, cho nên tạo ra một thế giới, tức cũng là một trái đất. Hoặc tinh cầu, mặt trời, mặt trăng… Có người chẳng tin đạo lý này, mà tin đạo lý khoa học, cho rằng trái đất, tinh cầu, mặt trời, mặt trăng, là do đủ thứ nguyên tố mà thành tựu, tuyệt đối chẳng phải từ vọng tưởng của chúng sinh mà sinh ra.
Tức nhiên bạn nói chẳng phải, tôi cũng chẳng kiên trì nói là phải. Song tôi đưa ra một sự thật để chứng minh. Hiện tại, tôi chỉ nói về trứng gà. Trứng gà vốn chẳng phải là gà con, mà do gà mẹ hằng ngày khởi vọng tưởng mà ấm dần lên. Nếu chỉ có một quả trứng, thì gà mẹ chẳng khởi vọng tưởng. Tức nhiên có khoảng mười trứng tại một chỗ, thì gà mẹ sẽ khởi vọng tưởng, tưởng trứng nở ra một bầy gà con. Hằng ngày khổ nhọc, cẩn thận ấp trứng, có khi đổi chỗ, đem trứng ở dưới đổi lên trên để cho độ ấm quân bình, trải qua thời gian hai mươi mốt ngày, thì gà con từ trong trứng nở chui ra, từ từ học đi. Việc đầu tiên là tìm thức ăn, việc thứ hai là ngủ, cho nên ăn ngủ là thiên tánh, tất cả chúng sinh hữu tình đều có đủ.
Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói : ‘’Thai do tình mà có, trứng do tưởng mà sinh, thấp sinh nhờ hợp mà cảm, hóa sinh nhờ lìa mà ứng.’’ Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh, là do nghiệp quả mà thành. Tình, tưởng, hợp, ly, đều do nghiệp nhân mà cảm. Ðạo lý này nói rất rõ ràng. Từ gà mái ấp trứng mà nhìn, thì thế giới của gà là do vọng tưởng tạo thành, những thế giới khác cũng tạo thành như vậy. Thế giới của con người, con bò, con chó, con mèo, chim bay trên trời, cá lội dưới nước, đều do tình, tưởng, hợp, ly, mà tạo thành.
Gà mái một niệm sinh thì có vọng tưởng. Vọng tưởng này, là từ vô minh sinh ra. Vô minh duyên hành tức có hành vi, do đó mà ấp trứng. Hành duyên thức, trong trứng có thức, cũng tức là bào thai. Thức duyên danh sắc, vì chịu ảnh hưởng độ ấm nên bào thai khởi biến hóa, có danh (hệ thống thần kinh), có sắc (sinh lý). Danh sắc duyên lục nhập bèn sinh ra mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn. Có sáu căn rồi, thì toàn thân thể dần dần mọc lông. Thành thục rồi, thì liền ra khỏi vỏ trứng mà đến thế giới này. Lúc đó, sẽ có tác dụng xúc giác. Có xúc thì có thọ. Có thọ thì có hữu. Có hữu thì có sinh. Có sinh thì có già. Có già thì có chết. Ðây là đạo lý mười hai nhân duyên nghiệp báo ba đời.
Khi gà mái ấp trứng là kiếp thành, gà con ra đời là kiếp trụ, lớn lên bị giết, hoặc bệnh chết là kiếp hoại, thân gà chẳng còn nữa là kiếp không. Thân thể con gà có thành, trụ, hoại, không, bốn giai đoạn. Sau khi gà con ra đời, thì bắt đầu khởi vọng tưởng, muốn tìm vật ăn, ăn no rồi lại muốn tìm chỗ ngủ. Gà con thì có niệm tham, dục tâm như thế. Chúng vì tranh ăn mà chiến đấu, vì bảo tồn lợi ích của mình chẳng để cho gà khác đoạt đi. Ðộng vật nhỏ còn như thế, hà huống là linh động vật con người, càng vì danh lợi, bạn tranh tôi giành, chẳng ai nhường cho ai. Ðộng vật nhỏ tranh giành với nhau, động vật lớn thì xâm lược chiến tranh, tạo thành thiên hạ đại loạn. Ai ai cũng ích kỷ lợi mình, thì thế giới vĩnh viễn chẳng có ngày hòa bình.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: chư Phật tử ! ứng tri thế giới hải hữu thế giới hải vi trần số kiếp chuyển biến sái biệt.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng : Các Phật tử ! Nên biết thế giới hải có kiếp chuyển biến khác nhau, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Ðại Hạnh Phổ Hiền lại nói với đại chúng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị nên biết, thế giới hải có kiếp chuyển biến khác nhau, nhiều như số hạt bụi trong thế giới hải.
Mỗi một thế giới là một trong mười phương thế giới hải. Bổn thân của mỗi thế giới, lại phân ra mười phương thế giới hải. Cho nên thế giới hải và thế giới hải đều vô lượng vô biên, trùng trùng vô tận. Tuy có nhiều như thế, nhưng dùng Phật nhãn của chư Phật mà xem thì rất rõ ràng, vẫn có thể đếm được có bao nhiêu. Cảnh giới này, Bồ Tát chẳng làm được. Vì cảnh giới của Bồ Tát vẫn chẳng cứu kính, chẳng như cảnh giới của Phật là quán triệt thủy chung, đều biết đều thấy.
Bồ Tát mới phát tâm chẳng biết cảnh giới của Bồ Tát sơ địa. Bồ Tát sơ địa chẳng biết cảnh giới của Bồ Tát nhị địa, cho đến thập địa Bồ Tát chẳng biết cảnh giới của Ðẳng Giác Bồ Tát. Tuy chẳng biết, nhưng chẳng ra ngoài một tâm niệm của chúng sinh. Mười pháp giới đều bao quát ở trong một niệm chân tâm. Cho nên có kiếp chuyển biến khác nhau, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Kiếp của thế giới hải có dài có ngắn, có nhiều có ít. Cho nên kiếp có sự chuyển biến khác nhau. Tuổi thọ của mỗi thế giới đều khác nhau, đến lúc sẽ có sự chuyển biến, giống như chúng ta mắc bệnh, sau khi khỏi bệnh và trước khi bệnh đều có ít nhiều sự chuyển biến, hoặc tánh tình chuyển biến hoặc tâm lý chuyển biến. Nói tóm lại, đều có chỗ chuyển biến. Con người là bộ phận nhỏ, thế giới là bộ phận lớn, nhưng đều có sự khác nhau.
Ðạo lý nói về Kinh Hoa Nghiêm, là đạo lý viên dung vô ngại, chẳng có dài ngắn, chẳng có lớn nhỏ, chẳng có nhiều ít, chẳng có phân biệt đó đây. Nếu bạn chấp trước, thì bạn chẳng minh bạch đạo lý Kinh Hoa Nghiêm. Kỳ thật, Kinh Hoa Nghiêm sự lý đều nặng như nhau, chẳng lệch về bên nào. Do đó, hàng nhị thừa tuy thân ở trong hội Hoa Nghiêm mà ‘’Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo viên đốn.’’ Nếu mù, nếu điếc, cũng chẳng khế cơ, vì căn cơ của hàng nhị thừa cạn hẹp. Song, Bồ Tát pháp thân Đại sĩ nghe rất có vị đạo. Kinh Hoa Nghiêm dạy phát bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo, vì Bồ Tát thích độ chúng sinh, đồng chứng Phật quả.
Tông chỉ tôi giảng Kinh là giảng cạn, càng cạn càng tốt, để mọi người đều minh bạch nghĩa Kinh, hiểu thấu chân lý, muốn cho ai nghe được cũng đều hiểu. Tôi phản đối lối giảng nhai văn nuốt chữ, giảng một tràng mà ngược lại xa cách Kinh văn mười vạn tám ngàn dặm. Giống như dạ dày, tuy dài hơn hai mươi thước, mà chứa đựng toàn là đại tiện, thối không thể ngửi đặng, đó lại có ích gì ? Nếu người chẳng minh bạch, thì nói bao nhiêu cũng đều vô dụng. Nếu minh bạch, chỉ nói một câu mà họ hiểu, vẫn có nhiều lợi ích.
Sở vị: Pháp như thị cố, thế giới hải vô lượng thành hoại kiếp chuyển biến;
Vì pháp như vậy, nên thế giới hải có vô lượng kiếp thành hoại chuyển biến.
Giảng: Pháp nói ra là như vậy. Ở trên nói là do vọng tưởng của chúng sinh mà tạo thành thế giới. Vọng tưởng tức là khởi hoặc, khởi hoặc tức là tạo nghiệp, tạo nghiệp tức là thọ quả báo. Tức là như vậy. Cho nên trong một thế giới hải có mười phương thế giới hải, an lập ở trong đó. Trong mười phương thế giới hải có một thế giới hải cũng an lập ở trong đó. Thế giới hải và thế giới hải xung đột với mhau, mỗi thế giới an lập theo vị trí. Mỗi thế giới hải có kiếp thành, trụ, hoại, không, chuyển biến.
Kiếp cũng có phát sinh bện hoạn, cho nên có bốn tướng biến hóa. Ở Trung Quốc có Bột hải (vũng bể), có Hy mã lạp nhạ sơn. Bột hải trong vô lượng kiếp về trước là đất bằng. Hy mã lạp nhạ sơn vô lượng kiếp về trước là biển. Vì chúng sinh nghiệp chướng quá nặng, dẫn đến địa cầu phát sinh biến hóa, biến biển thành núi cao, biến đất bằng thành biển, do đó có câu :
‘’Biển khơi biến thành bình địa,
Bình địa biến thành biển khơi.’’
Hiện tượng này ở lưu vực sông Hoàng Hà thường xuất hiện. Có một số người thường nói : ‘’Ba mươi năm sông ở phía đông, ba mươi năm sông ở phía tây.’’ Ðó là một hiện tượng thành hoại chuyển biến.
Nhiễm ô chúng sanh trụ cố, thế giới hải thành nhiễm ô kiếp chuyển biến
Vì chúng sinh nhiễm ô, nên thế giới hải chuyển biến kiếp thành nhiễm ô.
Vì chúng sinh nhiễm ô ở trong thế giới hải này, cho nên thế giới hải này trở thành nhiễm ô, mà có cảnh giới nhiễm ô hiện tiền.
Tu quảng đại phước chúng sanh trụ cố, thế giới hải thành nhiễm tịnh kiếp chuyển biến
Vì chúng sinh trụ tu phước rộng lớn, nên thế giới hải chuyển biến kiếp thành nhiễm tịnh.
Giảng: Vì chúng sinh tu phước rộng lớn, đầy đủ phước báu, vì trụ ở thế giới hải này thanh tịnh, cho nên thế giới hải này có nhiễm tịnh. Trong kiếp nhiễm tịnh có vô lượng kiếp thành trụ hoại không biến hóa.
Tín giải Bồ-tát trụ cố, thế giới hải thành nhiễm tịnh kiếp chuyển biến
Vì tin hiểu Bồ Tát trụ, nên thế giới hải chuyển biến kiếp thành nhiễm tịnh.
Giảng: Tin, hiểu, hành, chứng, là bốn giai đoạn của Kinh Hoa Nghiêm. Do tin mới hiểu được, từ hiểu mới thực hành. Do thực hành mới có chứng đắc. Tin là bước đầu tiên, do đó :
‘’Phật pháp như biển
Chỉ tin mới vào được.’’
Lại có câu rằng :
‘’Tin là nguồn đạo mẹ công đức
Nuôi lớn tất cả các căn lành.’’
Bạn tin sâu Phật pháp chẳng nghi, thì sẽ có ngày hiểu rõ. Tin là điều kiện cơ bản để nghiên cứu Phật pháp. Song, bạn phải tham thiền, phải sinh tâm nghi. Hai pháp này không thể cùng ngày mà nói. Nghiên cứu Phật pháp thì nhất định phải tin. Tham thiền thì nhất định phải khởi nghi tình, do đó :
‘’Ðại nghi đại ngộ,
Tiểu nghi tiểu ngộ.’’
Giống như đánh chuông, đánh mạnh thì kêu to, đánh nhẹ thì kêu nhỏ, chẳng đánh thì chẳng kêu. Có người nói : ‘’Ðấy chẳng phải là mâu thuẫn chăng‘’? Chẳng phải. Vì pháp môn chẳng giống nhau. Pháp môn tham thiền là dùng một vọng tưởng để khống chế các vọng tưởng. Do đó : ‘’Dùng độc trị độc.’’ Ðè nén vọng tưởng đến sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, hồi đầu thì khai ngộ. Lúc đó, đạt đến cảnh giới trong chẳng có thân tâm, ngoài chẳng có thế giới.
Bây giờ đang nói chữ tin, là tin đạo lý Kinh Hoa Nghiêm. Bạn tin Kinh Hoa Nghiêm rồi, thì sẽ minh bạch nghĩa thật của Kinh Hoa Nghiêm, thì sẽ y theo đạo lý Kinh Hoa Nghiêm mà tu hành, tu hành mới có thể chứng được cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm. Cho nên: Tin, hiểu, hành, chứng, bốn giai đoạn có quan hệ với nhau. Nếu hiểu mà không thực hành, thì giống như người đói nói món ăn thì không thể nào no được. Cũng giống như người nghèo đếm tiền cho họ, cuối cùng vẫn là người nghèo, cũng chẳng có gì.
‘’Suốt ngày đếm tiền cho họ,
Mình chẳng có xu nào.
Nếu nói chẳng tu hành,
Lỗi lầm cũng như vậy.’’
Hành mà không hiểu, tức như người mù luyện đuôi, lãng phí công phu, chẳng lãnh hội được gì.
Vị Tín Giải Bồ Tát này (chỉ cần bạn có đầy đủ tín và giải thì là Tín Giải Bồ Tát), trụ ở thế giới này và tu phước rộng lớn. Phàm là chúng sinh tu phước rộng lớn, thì sẽ có tín tâm. Hai loại chúng sinh này ở trong thế giới hải, đều có kiếp nhiễm tịnh. Do nhiễm chuyển biến thành tịnh, do tịnh chuyển biến thành nhiễm. Nhiễm nhiễm tịnh tịnh, tịnh tịnh nhiễm nhiễm. Tại sao ? Vì hai thứ tâm của chúng sinh này, vẫn chưa có cảnh giới thuần túy thanh tịnh chẳng nhiễm, nghĩa là chẳng buông bỏ hết hoàn toàn nhiễm ô, cũng chẳng đề khởi hoàn toàn thanh tịnh. Cho nên nhiễm tịnh xen tạp với nhau. Có tịnh có nhiễm, có nhiễm có tịnh. Loại chúng sinh này, khi tinh tấn thì thanh tịnh, khi thối lùi thì nhiễm ô. Giống như một niệm trước thì muốn xuất gia tu hành, ra khỏi ba cõi, chứng quả thành Phật, đây là thanh tịnh. Một niệm sau thì muốn hoàn tục, về nhà lấy vợ, sinh con đẻ cháu, có thể truyền tông tiếp đại. Có thể kêu con xuất gia tu hành. Ðây là tịnh nhiễm xen tạp với nhau. Hốt nhiên trên trời, hốt nhiên dưới đất, hốt nhiên làm ngạ quỷ, hốt nhiên làm súc sinh, hốt nhiên làm A tu la, hốt nhiên làm người, tức cũng là một niệm thiên đàng, một niệm địa ngục, một niệm cõi Phật, một niệm cõi nhân gian. Ðây là kiếp nhiễm tịnh chuyển biến.
Kiếp chuyển biến là gì ? Tức là do một niệm để chuyển biến. Tại sao hốt nhiên nghĩ muốn hoàn tục ? Tại sao hốt nhiên muốn tu hành ? Ðó đều là kiếp nhiễm tịnh chuyển biến. Một niệm trước muốn tu hành, đây là tịnh, một niệm sau muốn hoàn tục, đây là nhiễm. Ðừng nói chi đến thế giới hải có kiếp nhiễm tịnh chuyển biến, mà ở trong tâm của chúng sinh cũng có kiếp chuyển biến. Các vị thiện tri thức ! Phải hiểu rõ thâm sâu về đạo lý này. Tại sao ta chẳng có chí khí ? Chẳng có tâm thường hằng ? Làm việc bỏ dở giữa đường, không thể có thủy có chung ? Tại sao ta lười biếng ? Chẳng hoan hỷ làm việc khổ nhọc ? Tại sao ta chẳng làm đệ tử của Phật chánh tri chánh kiến ? Tại sao ta phải sinh tư tưởng tà tri tà kiến ? Ðó là hiện tượng kiếp chuyển biến.
Vô lượng chúng sanh phát Bồ-đề tâm cố, thế giới hải thuần thanh tịnh kiếp chuyển biến
Vì vô lượng chúng sinh phát tâm bồ đề, nên thế giới hải chuyển biến kiếp thành thuần thanh tịnh.
Vì trong thế giới hải, có vô lượng vô biên chúng sinh cùng phát tâm bồ đề, cho nên thế giới hải này, chuyển biến thành kiếp thuần thanh tịnh.
Thế giới hải hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì chẳng còn hiện tượng đời ác năm trược. Thế giới hải thanh tịnh càng thanh tịnh, là do tinh tấn mà thanh tịnh. Hôm nay tinh tấn, ngày mai tinh tấn, càng ngày càng tinh tấn. Do đó, càng ngày càng thanh tịnh. Thanh tịnh biểu thị cho minh bạch. Nhiễm ô biểu thị cho hồ đồ. Vô minh càng ngày càng ít, trí tuệ càng ngày càng nhiều, đây là kiếp chuyển biến thanh tịnh.
Kiếp chuyển biến đều ở trong tâm của chính mình, chẳng phải ở bên ngoài. Nếu ở bên ngoài, thì chuyển biến chẳng có quan hệ gì với chúng ta. Chúng ta phải nghiên cứu trong tự tánh, phải nghiên cứu sự thành hoại của tự tánh, sự nhiễm ô của tự tánh, sự thanh tịnh của tự tánh. Phải ở chỗ này mà hạ thủ công phu, mới có thể minh bạch cứu kính, bằng không thì sai một ly đi một dặm.
Chư Bồ-tát các các du chư thế giới cố, thế giới hải vô biên trang nghiêm kiếp chuyển biến
Vì các Bồ Tát ai nấy đều du khắp các thế giới, nên thế giới hải vô biên trang nghiêm kiếp chuyển biến.
Bồ Tát cũng thường du hành, nhưng chẳng phải du sơn ngoạn thủy, cũng chẳng phải thưởng thức phong cảnh, càng chẳng phải tham quan danh lam thắng cảnh, mà là vì gần gũi chư Phật, cho nên ai nấy đều du khắp hết thảy đạo tràng của các thế giới. Chư Phật dùng vô biên kiếp để trang nghiêm cõi nước, hoan nghênh Bồ Tát đến tham quan. Vô biên sự trang nghiêm này là chánh tri chánh kiến. Tóm lại, có chánh tri chánh kiến tức là thanh tịnh. Có tà tri tà kiến tức là nhiễm ô. Hiện tại chuyển biến thành chánh tri chánh kiến.
Thập phương nhất thiết thế giới hải chư Bồ-tát vân tập cố, thế giới hải vô lượng Đại trang nghiêm kiếp chuyển biến
Vì mười phương tất cả thế giới hải, có các Bồ Tát vân tập, nên thế giới hải vô lượng đại trang nghiêm kiếp chuyển biến.
Giảng: Trong mười phương thế giới hải, có vô lượng vô biên Bồ Tát, đều vân tập trong đạo tràng này. Mười phương Bồ Tát tức là những người chúng ta phát tâm bồ đề. Kiếp đại trang nghiêm, tức là chánh định chánh thọ của chúng ta. Thế giới hải vô lượng đại trang nghiêm kiếp cũng có sự chuyển biến.
Chư Phật Thế tôn nhập Niết Bàn cố, thế giới hải trang nghiêm diệt kiếp chuyển biến
Vì chư Phật Thế Tôn vào Niết Bàn, nên thế giới hải trang nghiêm diệt kiếp chuyển biến.
Vì chư Phật Thế Tôn vào Niết Bàn, cho nên thế giới hải trang nghiêm tịch diệt, trở thành Thường Tịch Quang tịnh độ, kiếp này có sự chuyển biến.
Chư Phật xuất hiện ư thế cố, nhất thiết thế giới hải quảng bác nghiêm tịnh kiếp chuyển biến
Vì chư Phật xuất hiện ra đời, nên tất cả thế giới hải rộng lớn nghiêm tịnh kiếp chuyển biến.
Vì chư Phật xuất hiện ra đời, cho nên tất cả thế giới hải, đều chuyển biến thành kiếp rộng lớn nghiêm tịnh.
Khi Bồ Tát Di Lặc hạ sinh, thì đất đai của thế giới này bằng phẳng như tấm gương, hoa quý cỏ mềm, đầy khắp mặt đất. Ðủ thứ cây cối, hoa quả sum sê. Tuổi thọ của con người đến tám vạn tuổi, trí huệ uy đức, sắc lực đầy đủ, an ổn khoái lạc. Chẳng có nạn nước lửa đao binh và việc đói khát độc hại. Vườn rừng ao hồ đầy khắp thiên hạ đều là nước có tám công đức. Vì Phật ra đời mới có cảnh giới này.
Như Lai thần thông biến hóa cố, thế giới hải phổ thanh tịnh kiếp chuyển biến
Vì thần thông biến hóa của Như Lai, nên thế giới hải kiếp thanh tịnh chuyển biến khắp.
Giảng: Vì Phật xuất hiện ra đời, thì có thần thông biến hóa, cho nên thế giới hải khắp thanh tịnh. Chẳng những Bồ Tát hiện thân thuyết pháp, mà chư Phật thường thường cũng hiện thân thuyết pháp, đây là kiếp thanh tịnh chuyển biến.
Phẩm Thấy Bảo Tháp trong Kinh Pháp Hoa có ba lần biến cõi nước.
1). Biến thế giới Ta Bà thành thanh tịnh, lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm; vàng thật làm dây giăng tám ngã đường.
2). Trong tám phương, mỗi phương biến ra hai trăm vạn ức na do tha cõi nước, đều khiến cho thanh tịnh.
3). Lại ở trong tám phương, đều biến ra hai trăm vạn ức Na do tha cõi nước, thảy đều thanh tịnh, cho nên gọi là ba lần biến.
Như thị đẳng, hữu thế giới hải vi trần số. Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Như vậy, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa lý vừa nói ở trên, nên nương đại oai thần lực của Phật, khắp quán sát tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, mà nói ra bài kệ.
Nhất thiết chư quốc độ Tất cả các cõi nước
Giai tùy nghiệp lực sanh Đều tùy nghiệp lực sinh
Nhữ đẳng ưng quan sát Các ông nên quán sát
Chuyển biến tướng như thị. Tướng chuyển biến như vậy.
Hết thảy tất cả các cõi nước, đều tùy theo nghiệp lực sinh ra. Các vị đệ tử của Phật nên quán sát, tướng kiếp chuyển biến là như vậy.
Nhiễm ô chư chúng sanh Các chúng sinh nhiễm ô
Nghiệp hoặc triền khả bố, Nghiệp cảm buộc đáng sợ
Bỉ tâm lệnh sát hải, Tâm họ khiến biển cõi
Nhất thiết thành nhiễm ô. Tất cả thành nhiễm ô.
Hết thảy chúng sinh đều có: Tham, sân, si, mạn, nghi, năm thứ nhiễm ô. Họ khởi hoặc tạo nghiệp thọ quả báo, nghiệp này cảm trói buộc rất là đáng sợ. Vì tâm chúng sinh tạo nghiệp, khiến cho tất cả biển cõi, đều biến thành nhiễm ô. Chẳng những không khí nhiễm ô, hoàn cảnh nhiễm ô, mà tư tưởng cũng nhiễm ô. Tất cả đều biến thành thế giới hải nhiễm ô.
Nhược hữu thanh tịnh tâm, Nếu có tâm thanh tịnh
Tu chư phước đức hạnh, Tu các hạnh phước đức
Bỉ tâm lệnh sát hải, Tâm họ khiến biển cõi
Tạp nhiễm cập thanh tịnh. Tạp nhiễm và thanh tịnh.
Nếu như có chúng sinh tâm thanh tịnh, dùng tâm thanh tịnh để tu hạnh môn các phước đức, tức cũng là trong tu trí huệ, ngoài tu phước đức. Tu tất cả hạnh môn lợi người, thì khiến cho tất cả biển cõi nước, hoặc có nhiễm ô mà chẳng thanh tịnh, hoặc có thanh tịnh mà chẳng nhiễm ô, hoặc nhiễm tịnh xen tạp chẳng thuần.
Người tu phước, vì quả báo quá lớn hay khiến cho biển cõi nước có nhiễm ô có thanh tịnh, khiến cho thế giới tịnh nhiễm xen tạp. Tại sao ? Các vị nghiên cứu thì sẽ biết. Phàm là người có phước báo, thì có nhiều chấp trước, có nhiều pháp nhiễm ô. Suốt ngày đến tối cứ nghĩ hưởng thụ, nghĩ vui chơi. Chẳng phải uống rượu thì nhảy đầm, đây là pháp nhiễm ô. Người tu đạo cho rằng hưởng thụ là tiêu phước, thọ khổ là hết khổ, cho nên chẳng chú trọng về hưởng thụ vật chất, mà chú trọng về tu dưỡng tinh thần. Do đó, chẳng bị vật chất dẫn dụ mê hoặc. Có người nói : ‘’Tôi có định lực chẳng bị vật chất làm mê hoặc, có cảnh giới mắt quán hình sắc trong chẳng có, tai nghe việc đời tâm chẳng hay. Tôi thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe.’’ Bạn đạt được cảnh giới tâm chẳng động như thế, thì thật là không thể nghĩ bàn. Hy vọng mọi người đặc biệt chú ý về điểm nay, ai ai cũng có thể đạt đến cảnh giới tâm bất động.
Tín giải chư Bồ-tát, Tin hiểu các Bồ Tát
Ư bỉ kiếp trung sanh, Ở trong kiếp đó sinh
Tùy kỳ tâm sở hữu, Tùy tâm họ mà có
Tạp nhiễm thanh tịnh kiến. Thấy tạp nhiễm thanh tịnh.
Có tín tâm có trí huệ, thì hiểu rõ tất cả pháp của các Bồ Tát, ở trong kiếp đó sinh ra. Tùy theo tâm của họ nhiễm hoặc tịnh, cho nên thế giới cũng có tịnh cũng có nhiễm, tạp nhiễm thanh tịnh đều thấy được.
Vô lượng chư chúng sanh, Vô lượng các chúng sinh
Tất phát Bồ-đề tâm, Đều phát tâm bồ đề
Bỉ tâm lệnh sát hải, Tâm họ khiến biển cõi
Trụ kiếp hằng thanh tịnh. Kiếp trụ thường thanh tịnh.
Hết thảy vô lượng vô biên tất cả chúng sinh, hoàn toàn phát bồ đề tâm, thì có thể chuyển mê thành ngộ, khiến cho tất cả biển cõi chuyển nhiễm thành tịnh. Chuyển kiếp năm trược thành kiếp thanh tịnh. Ðây là trụ kiếp luôn luôn thanh tịnh.
Vô lượng ức Bồ Tát, Vô lượng ức Bồ Tát
Vãng nghệ ư thập phương, Đến khắp trong mười phương
Trang nghiêm vô hữu thù Trang nghiêm đều như nhau
Kiếp trung sái biệt kiến. Trong kiếp thấy khác biệt.
Hết thảy vô lượng ức Bồ Tát, đều đến khắp đạo tràng mười phương, sự trang nghiêm đều như nhau, chẳng có gì mà chẳng giống, ở trong hết thảy kiếp, vì nghiệp của chúng sinh khác nhau nên sự thấy cũng khác nhau.
Nhất nhất vi trần nội, Trong mỗi mỗi hạt bụi
Phật sát như trần số, Cõi Phật như số bụi
Bồ Tát cọng vân tập Bồ Tát đều vân tập
Quốc độ giai thanh tịnh. Cõi nước đều thanh tịnh.
Ở trong mỗi hạt bụi, đều có cõi nước chư Phật, nhiều giống như số hạt bụi. Hết thảy tất cả Bồ Tát, cùng nhau vân tập đến cõi nước, đều trang nghiêm thanh tịnh.
Thế Tôn nhập Niết Bàn, Thế Tôn vào Niết Bàn
Bỉ độ trang nghiêm diệt, Cõi đó trang nghiêm diệt
Chúng sanh vô Pháp khí, Chúng sinh chẳng pháp khí
Thế giới thành tạp nhiễm. Thế giới thành tạp nhiễm.
Trong hết thảy cõi nước, khi có Phật ra đời thì chúng sinh đều là người có phước báu, cho nên tất cả đều trang nghiêm. Lấy ngũ cốc để nói, trồng một lần thì thu hoạch bảy lần, đến thời tự nhiên sẽ thành thục. Khi Phật vào Niết Bàn, thì tất cả cõi nước trang nghiêm đều tịch diệt, vì sự trang nghiêm theo Thế Tôn mà vào Niết Bàn, chúng sinh chẳng tu hành, cho nên không thành pháp khí, mới làm cho thế giới từ thanh tịnh, mà chuyển biến thành tạp nhiễm.
Nhược hữu Phật hưng thế Nếu có Phật ra đời
Nhất thiết tất trân hảo, Tất cả đều trân tốt
Tùy kỳ tâm thanh tịnh, Tùy tâm họ thanh tịnh
Trang nghiêm giai cụ túc. Trang nghiêm đều đầy đủ.
Nếu như có Phật ra đời, thì hết thảy tất cả đều trân quý tốt đẹp, tùy theo tâm của chúng sinh mà thanh tịnh, tất cả trang nghiêm đều đầy đủ hiện ra.
Chư Phật thần thông lực Sức thần thông chư Phật
Thị hiện bất tư nghị, Thị hiện không nghĩ bàn
Thị thời chư sát hải, Lúc đó các biển cõi
Nhất thiết phổ thanh tịnh. Tất cả khắp thanh tịnh.
Hết thảy sức thần thông của chư Phật, thị hiện không thể nghĩ bàn. Lúc đó, tất cả biển cõi, tất cả đều thanh tịnh, chẳng có tạp nhiễm.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát phục cáo Đại chúng ngôn: chư Phật tử ! ứng tri thế giới hải hữu thế giới hải vi trần số vô sái biệt.
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng : Các Phật tử ! Nên biết thế giới hải có sự không khác biệt, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền lại bảo đại chúng rằng : Các vị đệ tử của Phật ! Các vị nên biết, thế giới hải có sự không khác biệt nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Tướng thì có hình tướng, có sự khác biệt. Tánh thì không có hình tướng, chẳng có sự khác biệt. Giống như tướng mạo con người có sự khác biệt, còn tánh của con người thì không khác nhau. Thế giới hải có rất nhiều thế giới, mỗi thế giới có tướng khác nhau, còn tánh thì chẳng khác nhau.
Sở vị: nhất nhất thế giới hải trung, hữu thế giới hải vi trần số thế giới vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, chư Phật xuất hiện sở hữu uy lực vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, nhất thiết đạo tràng biến thập phương Pháp giới vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, nhất thiết Như Lai đạo tràng chúng hội vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, nhất thiết Phật quang minh biến Pháp giới vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, nhất thiết Phật biến hóa danh hiệu vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, nhất thiết Phật âm thanh phổ biến thế giới hải vô biên kiếp trụ vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, Pháp luân phương tiện vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, nhất thiết thế giới hải phổ nhập nhất trần vô sái biệt; nhất nhất thế giới hải trung, nhất nhất vi trần, nhất thiết tam thế chư Phật Thế Tôn quảng đại cảnh giới giai ư trung hiện vô sái biệt.
Đó là: Trong mỗi thế giới hải, có thế giới không khác biệt, nhiều như số hạt bụi thế giới hải. Trong mỗi thế giới hải, chư Phật xuất hiện hết thảy oai lực không khác biệt. Trong mỗi thế giới hải, tất cả đạo tràng khắp mười phương pháp giới không khác biệt. Trong mỗi thế giới hải, tất cả đạo tràng chúng hội của Như Lai không khác biệt. Trong mỗi thế giới hải, tất cả quang minh của Phật khắp pháp giới không khác biệt. Trong mỗi thế giới hải, tất cả sự biến hóa danh hiệu của Phật không khác biệt. Trong mỗi thế giới hải, tất cả âm thanh của Phật, khắp cùng thế giới hải vô biên kiếp trụ không khác biệt. Trong mỗi thế giới hải, pháp luân phương tiện không khác biệt. Trong mỗi thế giới hải, tất cả thế giới hải khắp vào một hạt bụi không khác biệt. Trong mỗi thế giới hải, mỗi hạt bụi đều có cảnh giới rộng lớn của tất cả chư Phật Thế Tôn ba đời, thảy đều hiện ra ở trong đó không khác biệt.
Giảng: Thế giới hải không khác biệt, phân ra mười thứ.
1). Trong mỗi thế giới hải, có thế giới nhiều như hạt bụi thế giới hải, đều có sơn hà đại địa, động, thực, khoáng vật như nhau chẳng có gì khác biệt.
2). Trong mỗi thế giới hải, có chư Phật xuất hiện ra đời, hết thảy đại oai thần lực đều như nhau. Vì Phật với Phật giống nhau, cho nên oai lực cũng vậy.
3). Trong mỗi thế giới hải, hết thảy chư Phật đều ngồi trong đạo tràng, mà khắp cùng mười phương pháp giới, cũng chẳng có sự khác biệt.
4). Trong mỗi thế giới hải, hết thảy chúng hội đạo tràng của Phật, cũng chẳng có sự khác biệt.
5). Trong mỗi thế giới hải, tất cả quang minh của Phật, khắp cùng mười phương pháp giới, cũng chẳng khác biệt.
6). Trong mỗi thế giới hải, hết thảy thần thông biến hóa và mười danh hiệu của Phật, đều như nhau chẳng có khác biệt.
7). Trong mỗi thế giới hải, hết thảy âm thanh của Phật, khắp cùng thế giới hải, kiếp trụ chẳng có bờ mé, bổn tánh chẳng khác biệt.
8). Trong mỗi thế giới hải, hết thảy tất cả chư Phật đều đang chuyển pháp luân, dùng phương tiện quyền xảo để giáo hóa chúng sinh. Do đó :
‘’Trước dùng câu dục móc,
Sau khiến họ vào Phật trí.’’
Nghĩa là, trước hết cho chúng sinh điều mà họ ưa thích, sau đó mới khiến cho chúng sinh vào trí huệ của Phật. Ðây là pháp phương tiện khéo léo. Tánh này cũng chẳng có sự khác biệt.
9). Trong mỗi thế giới hải, hết thảy tất cả thế giới hải khắp vào trong một hạt bụi mà chẳng khác nhau.
10).Trong mỗi thế giới hải, trong mỗi hạt bụi có chư Phật Thế Tôn ba đời, cảnh giới rộng lớn đều hiện ra trong đó, chẳng khác biệt.
Chư Phật tử ! thế giới hải vô sái biệt, lược thuyết như thị; nhược quảng thuyết giả, hữu thế giới hải vi trần số.
Các Phật tử ! Nói sơ lược về thế giới hải chẳng khác biệt như vậy. Nếu nói rộng ra, thì có sự chẳng khác biệt nhiều như hạt bụi thế giới hải.
Các vị đệ tử của Phật ! Thế giới hải chẳng khác biệt nói sơ lược như ở trước vừa nói có mười thứ. Nếu nói rộng ra thì có nhiều như số nhạt bụi thế giới hải.
Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát dục trọng tuyên kỳ nghĩa, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nương thần lực của đức Phật, quán khắp mười phương mà nói bài kệ rằng.
Nhất vi trần trung đa sát hải, Trong mỗi hạt bụi nhiều biển cõi
Xứ sở các biệt tất nghiêm tịnh, Xứ sở khác nhau đều nghiêm tịnh
Như thị vô lượng nhập nhất trung, Như vậy vô lượng vào trong một
Nhất nhất khu phần vô tạp việt. Mỗi mỗi phân biệt chẳng tạp loạn.
Trong mỗi hạt bụi có thể dung nạp vô lượng biển cõi nước. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói :
‘’Nơi đầu sợi lông, hiện cõi Bảo vương,
Ngồi trong hạt bụi, chuyển đại pháp luân.’’
Tại điện Phật của chúng ta có bao nhiêu hạt bụi ? Ở trong mỗi hạt bụi, có chư Phật đang ở trong đó chuyển bánh xe pháp, giáo hóa chúng sinh. Có người nói : ‘’Nói là nói như vậy, chứ thật tế thì hư vô phiêu diêu.’’ Vậy bạn nói thử xem cái gì chẳng hư vô phiêu diêu ? Con người chẳng phải là hư vô phiêu diêu chăng ? Con người sau khi chết rồi, thì gì cũng chẳng còn, thân thể đều không, chỉ có tánh còn tồn tại. Nếu thật mà tánh cũng không, thì vấn đề gì cũng đều giải thoát hết. Vì tánh vẫn còn tồn tại, cho nên tánh tướng chẳng hai; tánh tức là tướng, tướng tức là tánh. Một nhiều không hai, trong một hạt bụi có vô lượng hạt bụi. Vô lượng hạt bụi là từ một hạt bụi bắt đầu. Một biển cõi là từ một biển cõi diễn biến thành. Cho nên một nhiều không ngại, một nhiều nhiếp với nhau, đây là cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm.
Xứ sở tức là đất đai sở tại của mỗi thế giới. Thế giới này ở Ðông Thắng Thần Châu. Thế giới kia ở Nam Thiệm Bộ Châu. Thế giới nọ ở Tây Ngưu Hóa Châu. Thế giới kia ở Bắc Câu Lư Châu. Xứ sở tuy khác nhau, mà có sự phân biệt, song đều trang nghiêm thanh tịnh. Giống như một nhiều nhiếp với nhau, tánh tướng không ngại, cho nên vô lượng thế giới có thể vào trong một hạt bụi. Mỗi hạt bụi vẫn là mỗi hạt bụi, chẳng có tạp loạn lộn xộn, đều rõ ràng. Mỗi thế giới vẫn là mỗi thế giới, tơ hào chẳng tạp loạn.
Nhất nhất trần nội nan tư Phật Trong mỗi hạt bụi tư nghì Phật
Tùy chúng sanh tâm phổ hiện tiền, Tùy tâm chúng sinh khắp hiện tiền
Nhất thiết sát hải mị bất châu, Tất cả biển cõi đều đến khắp
Như thị phương tiện vô sái biệt. Phương tiện như vậy chẳng khác biệt.
Ở trong mỗi hạt bụi, có bất khả tư nghì Ðức Phật đang ở trong đó chuyển pháp luân, tùy thuận tâm ý của chúng sinh, mà hiện ra ở trước chúng sinh. Hết thảy tất cả biển cõi nước chư Phật, chẳng có nơi nào mà chẳng đến. Pháp môn phương tiện như vậy chẳng có gì khác biệt.
Nhất nhất trần trung chư thụ Vương Trong mỗi hạt bụi các thụ vương
Chủng chủng trang nghiêm tất thùy bố, Đủ thứ trang nghiêm đều giăng bủa
Thập phương quốc độ giai đồng hiện Mười phương cõi nước đều cùng hiện
Như thị nhất thiết vô sái biệt. Như vậy tất cả chẳng khác biệt.
Trong mỗi hạt bụi có tất cả bồ đề thụ vương, cây bồ đề dùng bảy báu để trang nghiêm, đều giăng bủa khắp nơi. Cảnh giới này, trong mười phương cõi nước, trong mỗi hạt bụi đều hiện ra. Tình hình như vậy chẳng có gì khác biệt.
Nhất nhất trần nội vi trần chúng Trong mỗi hạt bụi hạt bụi chúng
Tất cọng vi nhiễu nhân trung chủ, Đều cùng vây quanh đức Như Lai
Xuất qua nhất thiết biến thế gian Vượt qua tất cả khắp thế gian
Diệc bất bách ải tướng tạp loạn. Cũng chẳng chật hẹp tướng tạp loạn.
Trong mỗi hạt bụi, có chúng sinh nhiều như số hạt bụi, đang ở trong đó cùng quây quần chung quanh Ðức Phật. Ðức Phật đang ở trong hạt bụi thuyết pháp, vượt qua tất cả thế giới, khắp cùng tất cả thế gian. Trong mỗi hạt bụi cũng chẳng chật hẹp, cũng chẳng tạp loạn, rất ngay thẳng, có thứ tự. Chúng sinh đều ngồi có thứ tự, lắng nghe Phật nói diệu pháp.
Bất luận có bao nhiêu cõi, có bao nhiêu chúng sinh, ở trong một hạt bụi vẫn có không gian. Ðây là đạo lý gì ? Ðây là dạy người đừng chấp trước. Khi bạn có ngũ nhãn lục thông, thì tự nhiên sẽ minh bạch nghĩa lý. Bạn cũng có thể ở trong một hạt bụi chuyển đại pháp luân, bạn cũng có thể ở nơi đầu sợi lông, hiện cõi Bảo vương.
Nhất nhất trần trung Vô Lượng Quang Trong mỗi hạt bụi vô lượng quang
Phổ biến thập phương chư quốc độ, Khắp cùng mười phương các cõi nước
Tất hiện chư Phật Bồ-đề hạnh Đều hiện chư Phật hạnh bồ đề
Nhất thiết sát hải vô sái biệt. Tất cả biển cõi chẳng khác biệt.
Trong mỗi hạt bụi có vô lượng vô biên quang minh, chiếu soi khắp cùng mười phương tất cả cõi nước, thảy đều hiện ra, phương pháp tu hạnh bồ đề của tất cả chư Phật mười phương ba đời. Ở trong tất cả biển cõi nước của chư Phật, quang minh đó chẳng khác biệt.
Nhất nhất trần trung vô lượng thân Trong mỗi hạt bụi vô lượng thân
Biến hóa như vân phổ chu biến, Biến hóa như mây khắp hết thảy
Dĩ Phật thần thông đạo quần phẩm Dùng Phật thần thông dạy chúng sinh
Thập phương quốc độ diệc vô biệt. Mười phương cõi nước cũng như vậy.
Trong mỗi hạt bụi có vô lượng thân Phật, vô lượng thân Bồ Tát, vô lượng thân Duyên Giác, vô lượng thân Thanh Văn và vô lượng thân chúng sinh khác, biến hóa như mây, đầy dẫy khắp cùng ở trong đó. Dùng thần thông của Phật để giáo hóa tất cả chúng sinh, mười phương cõi nước đều như vậy, chẳng khác biệt.
Nhất nhất trần trung thuyết chúng Pháp Trong mỗi hạt bụi nói các pháp
Kỳ Pháp thanh tịnh như luân chuyển, Pháp đó thanh tịnh như luân chuyển
Chủng chủng phương tiện tự tại môn Đủ thứ phương tiện môn tự tại
Nhất thiết giai diễn vô sái biệt. Tất cả đều nói chẳng khác biệt.
Trong mỗi hạt bụi, diễn nói thật tướng của các pháp, pháp đó rất thanh tịnh, giống như luân chuyển. Toại tâm như ý, muốn nói gì thì nói, đủ thứ phương tiện pháp môn tự tại, tất cả đều diễn nói, chẳng có gì khác biệt.
Nhất trần phổ diễn chư Phật âm Một bụi khắp nói tiếng chư Phật
Sung mãn Pháp khí chư chúng sanh, Sung mãn pháp khí các chúng sinh
Biến trụ sát hải vô ương kiếp Khắp trụ biển cõi vô lượng kiếp
Như thị âm thanh diệc vô dị. Như vậy âm thanh cũng chẳng khác.
Trong mỗi hạt bụi, khắp diễn nói âm thanh của chư Phật, từ âm đó sung mãn pháp khí trong tâm của các chúng sinh. Khắp trụ hết thảy biển cõi nước trải qua vô lượng số kiếp, âm thanh như vậy cũng chẳng khác biệt.
Sát hải vô lượng diệu trang nghiêm, Biển cõi vô lượng trang nghiêm đẹp
Ư nhất trần trung vô bất nhập, Trong mỗi hạt bụi đều hiện ra
Như thị chư Phật thần thông lực Thần thông lực chư Phật như vậy
Nhất thiết giai do nghiệp tánh khởi. Tất cả đều do nghiệp tánh sinh.
Trong mỗi biển cõi, có vô lượng sự trang nghiêm vi diệu. Sự trang nghiêm đó, đều hiển hiện ra ở trong mỗi hạt bụi, rất rõ ràng mà chẳng tạp loạn. Tại sao ? Vì đó là do thần thông lực của chư Phật, cũng là nghiệp tánh của tất cả chúng sinh mà sinh ra cảnh giới như vậy.
Nhất nhất trần trung tam thế Phật Trong mỗi hạt bụi Phật ba đời
Tùy kỳ sở lạc tất lệnh kiến Tùy sự ưa thích đều thấy được
Thể tánh vô lai diệc vô khứ Thể tánh chẳng đến cũng chẳng đi
Dĩ nguyện lực cố biến thế gian. Bởi nhờ nguyện lực khắp thế gian.
Trong mỗi hạt bụi, có tất cả chư Phật mười phương ba đời, đang ở trong đó chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Tùy theo sự ưa thích của chúng sinh, đều khiến cho họ thấy được. Theo chư Phật mà nói, thì thể tánh chẳng đến cũng chẳng đi. Vì nguyện lực của chư Phật rộng lớn mới khắp cùng trong thế gian.