Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 39
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 1
— o0o —
Pháp giới, làm thế nào có thể vào ? Có thể ra ? Pháp giới nầy vốn là vô sở bất tại, vô tại vô bất tại, tức chẳng ra, cũng chẳng vào. Tại sao lại nói « Phẩm vào pháp giới » ? Nghĩa là nói phẩm vào pháp giới nầy, tức là nói phẩm pháp giới nầy. Do đó nói phẩm pháp giới nầy, khiến cho chúng sinh biết, để có thể cùng với pháp giới nầy hợp mà làm một, hai mà chẳng hai, cho nên nói « Phẩm Vào Pháp Giới ».
Pháp giới là gì ? Do đó có câu :
Thô ngôn và tế ngữ,
Đều quy đệ nhất nghĩa.
Đệ nhất nghĩa đại biểu cho pháp giới. Bất cứ nói như thế nào ? Đều chẳng ra ngoài pháp giới, cho nên nói:
Vô bất tùng thử pháp giới lư
Vô bất hoàn quy thử pháp giới ».
Nghĩa là :
Không có gì mà chẳng phải từ pháp giới nầy mà ra
Không có gì mà chẳng trở về pháp giới nầy.
Vậy, vào pháp giới tức là vào pháp giới đại học. Bạn đến pháp giới đại học để học, tức là vào phẩm pháp giới. Đại học nầy cũng là vô tại vô sở bất tại (không chỗ nào mà chẳng có). Tận hư không khắp pháp giới, đều bao quát ở trong pháp giới nầy, chẳng ra, cũng chẳng vào. Bạn đến đây học tập, tức là vào phẩm pháp giới rồi. Cho nên khi chúng ta giảng phẩm vào pháp giới nầy rồi, thì học sinh ùn ùn kéo đến, càng ngày càng nhiều, nhiều như hạt bụi.
Có người nói : « Pháp Sư ! Ngài giảng điểm nầy chẳng có căn cứ gì hết ». Không sai, lời tôi nói chẳng có căn cứ, nếu muốn có căn cứ, thì chẳng phải là pháp giới. Muốn có căn cứ, cũng chẳng phải là hư không. Tôi đang đối trước hư không mà nói pháp hư không, đối trước pháp giới mà nói đạo lý pháp giới. Do đó, các vị đừng tìm căn cứ, muốn tìm ra căn cứ thì có sự chấp trước, thì có sự chướng ngại, thì chẳng phải là pháp giới.
Pháp giới chẳng tốt, cũng chẳng xấu; chẳng thành, cũng chẳng bại. Cho nên tôi nói học sinh nhiều như số hạt bụi. Ai có thể chạy ra khỏi pháp giới ? Chạy không khỏi ! Chạy không khỏi được ! Cuối cùng vẫn ở trong hư không. Cho nên « phẩm vào pháp giới » nầy, không cần gọi là « phẩm vào pháp giới », mà gọi là « phẩm nói pháp giới » cũng được. Vì chúng ta, chúng sinh, chẳng biết pháp giới nầy, cho nên Phật vì chúng ta nói phẩm pháp giới nầy, khiến cho chúng sinh minh bạch pháp giới nầy, chẳng có gì mà không dung nạp (vô sở bất dung), chẳng có gì mà không bao quát (vô sở bất bao). Phẩm nầy là phẩm thứ ba mươi chín trong Kinh Hoa Nghiêm.
Nhĩ thời, Thế Tôn
Bấy giờ đức Thế Tôn
Giảng: Bấy giờ, là lúc nào ? Tôi cũng chẳng biết là lúc nào ? Bấy giờ vốn là lúc bấy giờ, tức là lúc hiện tại chúng ta đang ở tại Vạn Phật Thành giảng Kinh Hoa Nghiêm. Có người nói vậy thì không đúng. Không đúng ư ? Tôi lại giảng một thời cho các vị nghe – Tức là lúc Phật Thích Ca Mâu Ni đối với các vị đại Bồ Tát nầy giảng phẩm pháp giới Kinh Hoa Nghiêm. Có người nói như vậy thì gần đúng. Gần đúng ư ? Cách xa chẳng đủ gần, vẫn cách xa, do đó sai một ly, đi ngàn dặm.
Bấy giờ nầy tức là lúc trong tâm bạn có phẩm pháp giới nầy. Lúc bấy giờ là không trước cũng không sau, cũng không hiện tại – tức là lúc bấy giờ. Có người nói lúc bấy giờ, tôi vốn chưa từng nghe qua. Bạn chưa từng nghe qua, thì bây giờ nghe, tức là lúc bấy giờ ! Vậy tại sao phải chấp trước chưa từng nghe qua ? Rất nhiều đạo lý bạn vốn chưa từng nghe qua ! Rất nhiều thức ăn bạn vốn cũng chưa từng ăn qua ! Vậy bạn đừng ngại ăn một chút thức ăn mới, nếm một chút hương vị tươi mới.
Bấy giờ nầy lại có thể nói là lúc vô lượng kiếp về trước, lúc ban đầu một vị Phật nói Phẩm Pháp Giới Kinh Hoa Nghiêm. Có người nói lúc đó thì quá xa, vậy, tôi nói trong tâm, bạn lại nói chẳng nghe qua. Nói lâu xa, thì bạn lại nói quá xa. Vậy làm thể nào ? Như vậy lại giải thích một thời (bấy giờ). Một thời nào ? Tức là lúc bạn muốn nghe Kinh Hoa Nghiêm, lúc tôi muốn nghe Kinh Hoa Nghiêm, tức là Bấy giờ.
Đức Thế Tôn là bậc thế xuất thế tôn kính, chẳng những người nhân gian phải tôn trọng Ngài, mà chư Thiên trên trời cũng phải tôn trọng Ngài, nên gọi là Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn, tiếng Phạn là Bạt Già Phạm, gồm có sáu nghĩa :
1. Tự tại : Là vĩnh viễn chẳng còn các phiền não.
2. Xí thạnh : Vì trí huệ quang minh rực rỡ sáng ngời.
3. Đoan nghiêm : Vì 32 tướng tốt trang nghiêm.
4. Danh xưng : Vì tất cả công đức thù thắng viên mãn chẳng đâu mà không biết.
5. Cát tường : Vì tất cả thế gian gần gũi cúng dường đều khen ngợi.
6. Tôn quý : Đủ tất cả công đức, thường khởi phương tiện, lợi ích thế gian, an lạc tất cả, không lười bỏ.
Tại Thất-la-phiệt quốc Thệ đa lâm Cấp cô độc viên đại trang nghiêm trọng các,
Ở nước Thất La Phiệt, trong trùng các Ðại Trang Nghiêm, tại rừng Thệ Ða, vườn Cấp Cô Ðộc.
Giảng: Thất La Phiệt tức là nước Xá Vệ. Nước nầy sinh ra nhiều nhân vật thông minh tài giỏi. Thành nầy có bốn đức :
1. Phong cảnh : Vì nhiều phong cảnh đẹp.
2. Tài vật : Vì bảy báu đẹp lạ đều có.
3. Thánh pháp : Vì tam tạng Thánh pháp đều có đủ.
4. Giải thoát : Vì ai ai cũng đều có phần thiện giải thoát, người được giải thoát rất nhiều.
Rừng, vì chỗ nầy có rất nhiều người ở, ở đó tu đạo nhập định, cho nên gọi là rừng.
Thệ Đa : Là tiếng Phạn, dịch là Chiến thắng, tức thái tử Kỳ Đà. Vì khi thái tử vừa sinh ra, thì vua cha đánh thắng trận, cho nên y theo đó mà đặc tên.
Vườn nầy vốn thuộc về thái tử Kỳ Đà. Thái tử Kỳ Đà bán cho trưởng giả Cấp Cô Độc. Trưởng giả Cấp Cô Độc dùng vàng lót đầy hết khu vườn, để mua khu vườn nầy. Nhưng vàng không thể lót hết cây cối được, cho nên cây cối trong vườn là của thái tử Kỳ Đà cúng cho đức Phật. Cho nên nói vườn Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ Đà, đó là danh từ thái tử và trưởng giả hai người hợp thành. Cấp là bố thí; Cô Độc là già mà không vợ gọi là quan, già mà không chồng gọi là quả, già mà không con gọi là độc, trẻ mà không cha là cô, tuổi già chẳng có con cái gọi là độc, độc phu, độc phụ là chẳng có con cái. Người già chẳng có vợ gọi là độc phu, hoặc là độc phụ. Vườn tức là vườn rừng.
Cấp Cô Độc, tiếng Phạn là Tu Đạt Đa, nghĩa là “trướng tế vô y”. Đây là chỉ trưởng giả Cấp Cô Độc. Trưởng giả đức, biểu thị đủ pháp tài, vì hay khiến tất cả chứng pháp giới.
Lầu các đại trang nghiêm, Đức Phật ở tại đó kiến lập đạo tràng. Lầu các là nơi nói pháp, lớn cỡ như Vạn Phật Thành. Chúng ta hãy coi Vạn Phật Thành là vườn Cấp Cô Độc ! Thân đang ở trong cảnh ấy, đang ở đó giảng kinh thuyết pháp, nói Kinh Hoa Nghiêm. Pháp giới đại học tức là đại lầu các trang nghiêm.
Hiện tại các bạn có hiểu không ? Không cần trở về mấy ngàn năm về trước, nghĩ đến đại lầu các trang nghiêm trong rừng Thệ Đa, vườn Cấp Cô Độc Ấn Độ, chạy xa quá, quá khổ cực. Tuy nói không cần mua vé máy bay, không cần mua vé xe lửa, đều có thể tưởng tượng đến, nhưng phải khởi nhiều vọng tưởng, lãng phí rất nhiều xăng dầu. Hiện nay chỉ cần nhắm mắt lại xem, thì pháp giới đại học tức là đại lầu các trang nghiêm, do đó có câu : Xa thì ở tậnchân trời, gần thì ở ngay trước mắt. Vậy chúng ta hãy xem Vạn Phật Thành ở ngay trước mắt là vườn Cấp Cô Độc, là đại lầu các trang nghiêm, đừng chạy đi tìm nơi xa xôi quá !
Dữ Bồ-Tát Ma-ha-tát ngũ bách nhân câu,
Câu hội với năm trăm đại Bồ Tát,
Giảng: Ở trong đại lầu các trang nghiêm có các đại Bồ Tát, gồm có năm trăm người. Năm trăm người, các vị có thể thấy Bồ Tát cùng là người. Chẳng phải người, thì là gì ? Cho nên Bồ Tát có năm trăm người. Ở trong đó gồm có những vị nào ?
Phổ Hiền Bồ Tát, Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát nhi vi thượng thủ,
Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm thượng thủ.
Giảng: Có Bồ Tát Phổ Hiền và Bồ Tát Văn Thù, làm lãnh tụ ở trong chúng Bồ Tát.
Kỳ danh viết:
Tên của các ngài là:Quang Diệm Tràng Bồ Tát,
Giảng: Những vị kia đó là : Bồ Tát Quang Diệm Tràng, quang diệm của Ngài như tràng báu
Tu Di Tràng Bồ Tát,
Bồ Tát Tu Di Tràng, tràng báu của vị Bồ Tát nầy lớn như núi Tu Di.
Bửu Tràng Bồ Tát,
Lại có vị Bồ Tát dùng các thứ báu làm tràng tràng báu, đó là Bồ Tát Bảo Tràng.
Vô Ngại Tràng Bồ Tát, Hoa Tràng Bồ Tát, Ly Cấu Tràng Bồ Tát, Nhựt Tràng Bồ Tát, Diệu Tràng Bồ Tát, Ly Trần Tràng Bồ Tát, Phổ Quang Tràng Bồ Tát,
Lại có vị Bồ Tát Vô Ngại Tràng. Lại có vị Bồ Tát Hoa Tràng. Lại có vị Bồ Tát Ly Cấu Tràng. Lại có vị Bồ Tát Nhựt Tràng. Lại có vị Bồ Tát Diệu Tràng. Lại có vị Bồ Tát Ly Trần Tràng. Ly trần và ly cấu, tuy không khác nhau lắm, nhưng trần (bụi trần) là vi tế, cấu là rất nhiều bụi trần. Như vậy, rất nhiều bụi trần cũng lìa khỏi, bụi trần rất vi tế cũng chẳng còn nữa, cho nên xưng là Bồ Tát Ly Trần Cấu. Lại có vị Bồ Tát Phổ Quang Tràng. Mười vị Bồ Tát tràng nầy, biểu hướng, vì hạnh đức rất cao.
Ðịa Oai Lực Bồ Tát, Bửu Oai Lực Bồ Tát, Kim Cang Trí Oai Lực Bồ Tát, Ly Trần Cấu Oai Lực Bồ Tát, Chánh Pháp Nhựt Oai Lực Bồ Tát, Công Ðức Sơn Oai Lực Bồ Tát, Trí Quang ảnh Oai Lực Bồ Tát, Phổ Kiết Tường Oai Lực Bồ Tát,
Những vị đại Bồ Tát nầy, đều có oai lực rất lớn, có thể dời núi lấp biển, biến hoá thế giới tự tại, do đó có câu :
Nơi đầu sợi lông hiện cõi Bảo Vương,
Ngồi trong hạt bụi chuyển đại pháp luân.
Trong chúng hội, lại có Bồ Tát đang ngủ, lại có Bồ Tát đang khởi vọng tưởng, lại có Bồ Tát đang nằm mộng. Bồ Tát có nhiều như thế, đại khái Bồ Tát ngủ thì phải tỉnh dậy, Bồ Tát khởi vọng tưởng thì trở về, đại khái phải đến nghe phẩm Vào Pháp Giới. Chín vị Bồ Tát oai lực nầy, là biểu hạnh, vì hay tấn hành.
Ðịa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Tịnh Ðức Tạng Bồ Tát, Pháp Ấn Bồ Tát, Quang Minh Tạng Bồ Tát, Tê Tạng Bồ Tát, Liên Hoa Ðức Tạng Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát tạng nầy, biểu địa, vì hay tấn tu.
Thiện Nhãn Bồ Tát, Tịnh Nhãn Bồ Tát, Ly Cấu Nhãn Bồ Tát, Vô Ngại Nhãn Bồ Tát, Phổ Hiền Nhãn Bồ Tát, Phổ Quán Nhãn Bồ Tát, Thanh Liên Hoa Nhãn Bồ Tát, Kim Cang Nhãn Bồ Tát, Bửu Nhãn Bồ Tát, Hư Không Nhãn Bồ Tát, Hỉ Nhãn Bồ Tát, Phổ Nhãn Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát nhãn nầy, biểu giải (hiểu), vì hay chiếu pháp.
Thiên Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Trí Huệ Quan Bồ Tát, Ðạo Tràng Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Thập Phương Quan Bồ Tát, Nhứt Thiết Phật Tạng Quan Bồ Tát, Siêu Xuất Nhứt Thiết Thế Gian Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Quan Bồ Tát, Bất Khả Hoại Quan Bồ Tát, Trì Nhứt Thiết Như Lai Sư Tử Toà Quan Bồ Tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát quan nầy, thuộc về Bồ Tát địa thứ nhất. Vì Sơ địa là quan đầu tiên của các địa, quang của đàn quan các hạnh.
Phạm Vương Kế Bồ Tát, Long Vương Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Hoá Phật Quang Minh Kế Bồ Tát, Ðạo Tràng Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Nguyện Hải Âm Bửu Vương Kế Bồ Tát, Nhứt Thiết Phật Quang Minh Ma Ni Kế Bồ Tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Hư Không Bình Ðẳng Tướng Ma Ni Vương Trang Nghiêm Kế Bồ Tát, Thị Hiện Nhứt Thiết Như Lai Thần Biến Ma Ni Vương Tràng Võng Thuỳ Phúc Kế Bồ Tát, Xuất Nhứt Thiết Phật Chuyển Pháp Luân Âm Kế Bồ Tát, Thuyết Tam Thế Nhứt Thiết Danh Tự Âm Kế Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát kế nầy, là thuộc về địa thứ hai, biểu thị trì giới vô cấu, vì kiểm thúc tôn cao.
Ðại Quang Bồ Tát, Ly Cấu Quang Bồ Tát, Diệm Quang Bồ Tát, Pháp Quang Bồ Tát, Tịch Tịnh Quang Bồ Tát, Nhựt Quang Bồ Tát, Tự Tại Quang Bồ Tát, Thiên Quang Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát quang nầy, thuộc về địa thứ ba, vì biểu thị phát văn trì quang, chiếu pháp nhẫn.
Phước Ðức Tràng Bồ Tát, Trí Huệ Tràng Bồ Tát, Thần Thông Bồ Tát, Quang Tràng Bồ Tát, Hoa Tràng Bồ Tát, Ma Ni Tràng Bồ Tát, Bồ Ðề Tràng Bồ Tát, Phạm Tràng Bồ Tát, Phổ Quang Tràng Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát tràng nầy, là thuộc về địa thứ tư, vì biểu thị diệm huệ tinh tấn, vượt qua thế gian cao vời. Hơn nữa đạo phẩm phục hoặc, vì tinh tấn phục mạn.
Phạm Âm Bồ Tát, Hải Âm Bồ Tát, Ðại Ðịa Âm Bồ Tát, Thế Chủ Âm Bồ Tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ Tát, Biến Nhứt Thiết Pháp Giới Âm Bồ Tát, Chấn Nhứt Thiết Pháp Hải Lôi Âm Bồ Tát, Hàng Ma Âm Bồ Tát, Ðại Bi Phương Tiện Vân Lôi Âm Bồ Tát, Tức Nhứt Thiết Thế Gian Khổ An Uỷ Âm Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát âm nầy, là thuộc về địa thứ năm, biểu thị thiền định phát sinh, vì nan thắng duyệt cơ.
Pháp Thượng Bồ Tát, Thắng Thượng Bồ Tát, Trí Thượng Bồ Tát, Phước Ðức Tu Di Thượng Bồ Tát, Công Ðức San Hô Thượng Bồ Tát, Danh Xưng Thượng Bồ Tát, Phổ Quang Thượng Bồ Tát, Trí Hải Thượng Bồ Tát, Phật Chủng Thượng Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát thượng nầy, thuộc về địa thứ sáu, vì biểu thị Bát Nhã hiện tiền, tối tôn thượng.
Quang Thắng Bồ Tát, Ðức Thắng Bồ Tát, Thượng Thắng Bồ Tát, Phổ Minh Thắng Bồ Tát, Pháp Thắng Bồ Tát, Nguyệt Thắng Bồ Tát, Hư Không Thắng Bồ Tát, Bửu Thắng Bồ Tát, Tràng Thắng Bồ Tát, Trí Thắng Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát thắng nầy, thuộc về địa thứ bảy, vì biểu thị viễn hành phương tiện, trong có hạnh thù thắng.
Ta La Tự Tại Vương Bồ Tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Tương Tự Vương Bồ Tát, Phạm Tự Tại Vương Bồ Tát, Sơn Tự Tại Vương Bồ Tát, Húng Tự Tại Vương Bồ Tát, Tốc Tật Tự Tại Vương Bồ Tát, Tịch Tịnh Tự Tại Vương Bồ Tát, Bất Ðộng Tự Tại Vương Bồ Tát, Thế Lực Tự Tại Vương Bồ Tát, Tối Thắng Tự Tại Vương Bồ Tát,
Mười một vị Bồ Tát tự tại vương nầy, thuộc về địa thứ tám, vì biểu thị tướng dụng bất động, đại nguyện vô ngại.
Tịch Tịnh Âm Bồ Tát, Vô Ngại Âm Bồ Tát, Ðịa Chấn Âm Bồ Tát, Hải Chấn Âm Bồ Tát, Vân Âm Bồ Tát, Pháp Quang Âm Bồ Tát, Hư Không Âm Bồ Tát, Thuyết Nhứt Thiết Chúng Sanh Thiện Căn Âm Bồ Tát, Thị Nhứt Thiết Ðại Nguyện Âm Bồ Tát, Ðạo Tràng Âm Bồ Tát,
Mười vị Bồ Tát âm nầy, thuộc về địa thứ chín, vì biểu thị thiện huệ diễn pháp, tự lực sinh.
Tu Di Quang Giác Bồ Tát, Hư Không Giác Bồ Tát, Ly Nhiễm Giác Bồ Tát, Vô Ngại Giác Bồ Tát, Thiện Giác Bồ Tát, Phổ Chiếu Tam Thế Giác Bồ Tát, Quảng Ðại Giác Bồ Tát, Phổ Minh Giác Bồ Tát, Pháp Giới Quang Minh Giác Bồ Tát.
Chín vị Bồ Tát giác nầy, thuộc về địa thứ mười, vì biểu thị pháp vân thọ chức, vào Phật số.
Như thị đẳng Bồ-Tát Ma-ha-tát ngũ bách nhân câu.
Các đại Bồ Tát như vậy, gồm có năm trăm người tụ hội.
Giảng: Các vị đại Bồ Tát pháp giới đại học như vậy, gồm có năm trăm người tụ hội.
Thử chư Bồ-tát giai tất thành tựu Phổ Hiền hạnh nguyện,
Những Bồ Tát này thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền
Giảng: Ở trước nói là Bồ Tát lãnh tụ trong chúng Bồ Tát. Những vị Bồ Tát còn lại, vì số mục quá nhiều, không thể nói ra hết danh hiệu của từng vị Bồ Tát được, cho nên nói những vị Bồ Tát nầy. Các Bồ Tát nầy, tức là năm trăm vị Bồ Tát, cho nên gọi là các. Chữ các là nhiều, rộng, chúng vậy. Nếu chiếu theo chữ nghĩa để giảng, thì các còn có thể nói là một vị.
Có người nói : Pháp Sư Ngài giảng sai rồi ! Chữ các bất cứ ở đâu cũng đều giải thích về số nhiều, sao Ngài lại nói là một ? E rằng mọi người nói Ngài vị Pháp Sư không biết chữ ! Ngài giảng Kinh sai. Như vậy tôi giảnh kinh sai, tôi đều dám giảng ! Còn bạn giảng không sai, sao bạn lại không dám giảng ? Còn có người nói là : Tôi muốn giảng ! Nhưng Ngài không kêu tôi giảng ! Hiện tại đang giảng cho bạn nghe. Tại sao chữ các lại nói là một vị ? Đây là một lời trợ từ. Vì là lời trợ từ, cho nên có thể nói là một. Vì một tức là nhiều, nhiều tức là một. Tại sao có nhiều ? Do rất nhiều một tích luỹ mà thành, nên gọi là nhiều. Tại sao gọi là một ? Vì đem nhiều phân ra thành một, thành một, thị gọi là một. Cho nên, lời trợ từ nầy, có thể giảng là một. Do đó có câu :
Một gốc tán làm vạn thù
Vạn thù quy về một gốc.
Vậy, rất nhiều Bồ Tát là do một vị, một vị Bồ Tát hợp lại, tức thành nhiều. Cho nên nhiều Bồ Tát cũng có thể nói là một Bồ Tát. Đây tức là đạo lý :
Một chẳng ngại nhiều,
Nhiều chẳng ngại một.
Các vị Bồ Tát nầy, bất cứ bao nhiêu, thảy đều thành tựu mười hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền. Cảnh giới vô ngại, tức là đạt đến giai đoạn Người chuyển cảnh giới, mà cảnh giới không chuyển được người. Chẳng phải người bị cảnh chuyển, mà là cảnh bị người chuyển. Chẳng phải người chạy theo cảnh giới, mà là cảnh giới chạy theo người. Đừng có xem sự việc đơn giản. Con người cần phải có định lực, thì mới không bị cảnh giới chuyển. Do đó có câu :
Mắt thấy hình sắc trong chẳng có
Tai nghe chuyện đời tâm chẳng hay.
Tại sao bên trong chẳng có (không dính mắc)? Con mắt nhìn thấy, lại chẳng phải là mù, sao lại bên trong chẳng có ? Bên trong không có tức là chẳng chú ý hình sắc bên ngoài, tức cũng chẳng chấp trước vào hình sắc. Do đó có câu :
Thấy như chẳng thấy
Nghe như chẳng nghe
Nhìn mà chẳng thấy
Thính mà chẳng nghe
Ngửi mà chẳng có mùi vị.
Đây tức là :
Mắt thấy hình sắc trong chẳng có.
Tai nghe âm thanh thế gian, mà trong tâm chẳng hay biết. Trong tâm chẳng hay, có phải là ngủ chăng? Khi ngủ, nếu bạn nghe được âm thanh, thì đó tức là bạn đã ngủ. Tâm chẳng hay, chẳng phải là một khúc gỗ, chẳng phải là hòn đá chăng?
“Bên trong chẳng có, tâm chẳng hay”, đây chẳng phải là khúc gỗ, hoặc hòn đá, mà là chẳng bị cảnh giới lay chuyển, giao động. Bất cứ tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, năm dục nầy, đều không bị nó làm giao động. Vậy, chẳng bị nó làm giao động, phải làm thế nào? Thì phải có định lực. Có định lực lại có thể nói là “Núi Thái đổ xuống trước mắt mà chẳng sợ, chẳng vì vậy mà kinh sợ, đổ xuống trước mắt, hay không đổ xuống trước mắt cũng vậy thôi”. Do đó có câu: “mỹ nữ trước mắt mà chẳng động”, lại có thể nói là “mỹ nam trước mắt mà chẳng động”. Nước Mỹ là quốc gia khai phóng nữ quyền, người nữ được giải phóng tự do. Nếu quyền lợi của người phụ nữ chẳng đề cao, thì họ sẽ phản đối, cho nên câu nầy tôi đổi lại là “mỹ nam trước mắt mà chẳng động”, ở trước mắt cũng như không ở trước mắt. Tuy mỹ nữ ở trước mắt, cũng giống như chẳng ở trước mắt – đó tức là có định lực. Bạn đừng khởi vọng tưởng, thấy như chẳng thấy, đó tức là định lực!
Cảnh giới vô ngại, phổ biến nhất thiết chư Phật sát cố; hiện thân vô lượng, thân cận nhất thiết chư Như Lai cố; Tịnh nhãn Vô chướng, kiến nhất thiết Phật thần biến sự cố; chí xứ vô hạn, nhất thiết Như Lai thành chánh giác sở hằng phổ nghệ cố; quang minh vô tế, dĩ trí tuệ quang phổ chiếu nhất thiết thật Pháp hải cố; thuyết Pháp vô tận, thanh tịnh biện tài vô biên tế kiếp vô cùng tận cố; đẳng hư không giới, trí tuệ sở hạnh tất thanh tịnh cố; vô sở y chỉ, tùy chúng sanh tâm hiện sắc thân cố; trừ diệt si ế, liễu chúng sanh giới vô chúng sanh cố; đẳng hư không trí, dĩ đại quang võng chiếu Pháp giới cố.
Cảnh Giới Vô Ngại, vì cùng khắp tất cả cõi Phật. Hiện thân vô lượng, vì thân cận tất cả chư Như Lai. Tịnh nhãn vô ngại, vì thấy tất cả sự thần biến của chư Phật. Xứ đến vô hạn vì hằng khắp đến chỗ của tất cả Như Lai thành chánh giác. Quang minh vô tế, vì trí huệ quang chiếu khắp tất cả thiệt pháp hải. Thuyết pháp vô tận, vì thanh tịnh biên tài vô biên tế kiếp không cùng tận. Khắp hư không giới, vì trí huệ ra làm đều thanh tịnh. Không chỗ y chỉ, vì tùy tâm chúng sanh hiện sắc thân. Diệt trừ mê lòa, vì rõ chúng sanh giới không chúng sanh. Trí khắp hư không, vì dùng lưới đại quang minh chiếu pháp giới.
Bạn muốn được cảnh giới vô ngại, thì đứng có phiền não, đây chẳng phải là việc một sớm, một chiều, mao bệnh gì cũng chẳng còn nữa. Cảnh giới của Bồ Tát, là đầy khắp tất cả cõi Phật, mà không có chướng ngại. Ngài hay hiện thân trong tất cả cõi nước chư Phật, mà chẳng lìa khỏi bổn toà, cho nên nói: “Hiện thân vô lượng, vì gần gũi tất cả Như Lai”. Một làm vô lượng, vô lượng làm một. Chẳng biết có bao nhiêu – Tức là một làm vô lượng. Vô lượng làm một – Nguyên lai tức là một. Do đó, tôi chẳng biết số nguyên nhân. Bạn hỏi tôi bao nhiêu? Một! Uống bao nhiêu nước trái cây? Một! Ăn bao nhiêu cơm? Một! Mặc bao nhiêu quần áo? Một! Tôi là một hoà thượng, chẳng phải nhiều lắm.
“Mắt tịnh không chướng ngại”. Tức là thấy khắp hết thảy tất cả cảnh giới của Phật, vì Ngài đều thấy được, mà không có chướng ngại nào, chẳng giống như mắt thịt phàm phu chúng ta, bị màng vô minh chướng che, do đó chẳng thấy rõ thật tướng của các pháp. Chỗ Bồ Tát đến chẳng có sự giới hạn, là tự do bình đẳng. Tất cả Như Lai, tức cũng là tất cả chư Phật. Bất cứ một vị Phật nào khi thành Phật, thì những Bồ Tát nầy đều đến đạo tràng của vị Phật đó, tuỳ hỉ, khen ngợi, cung kính, cúng dường.
Quang minh của Ngài cũng chẳng có bờ mé, vì Ngài hay dùng trí huệ quang minh chiếu khắp tất cả biển pháp chân thật. Ngài thuyết pháp chẳng khi nào cùng tận, đó là do Ngài có biện tài thanh tịnh, không biết trải qua bao nhiêu đại kiếp, cũng không khi nào cùng tận. Ngài và cõi hư không đều bình đẳng, vì trí huệ sở hành của Ngài, hoàn toàn thanh tịnh. Ngài cũng chẳng có chỗ y chỉ, chẳng có nhất định. Do đó có câu: “Không có pháp cố định, đó gọi là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”. Vì Ngài hay tuỳ thuận tâm chúng sinh, mà thị hiện sắc thân. Ngài hay trừ diệt sự ngu si của chúng sinh và người mù nhìn chẳng thấy, vì Ngài minh bạch cõi chúng sinh, cũng đều do hư không biến hoá ra mà có, vì vốn cũng chẳng có chúng sinh có thể độ. Trí huệ của Ngài đồng với hư không, vì Ngài dùng lưới đại quang minh chiếu sáng pháp giới, chiếu sáng tận hư không khắp pháp giới hết thảy tất cả mọi nơi.
Các vị nên dùng trí huệ của mình để suy gẫm xem – chỗ giảng của tôi và kiến giải của các vị có gì khác nhau? Hoặc có chỗ nào giảng sai, hoặc có chỗ nào giảng đúng. Chiếu theo trí huệ của từng người các bạn, để thâm nhập nghiên cứu lại. Các vị hãy nhìn xem các vị có kiến giải gì? Lối nhìn pháp như thế nào? Đối với nghĩa lý kinh điển, có chỗ thấy nào đặc biệt độc đáo? Đặc biệt giảng pháp? Đừng ngại hãy đề ra, để mọi người cùng nhau nghiên cứu. Cũng đừng cho rằng những gì tôi giảng đều là đúng. Tâm địa pháp môn của mỗi người, đều có vô lượng trí huệ, đều có thể vận dụng vô lượng trí huệ đó, để đại triển hồng đồ. Đừng cất giấu nó ở bên trong, do đó có câu: “Hoài kỳ bảo nhi mê kỳ bang”. Nghĩa là: Trên thân có châu báu mà lầm lạc vào nước khác.
Ví như : Khi Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, là hiện thân pháp giới, nói Kinh Pháp Giới. Ngài có thể đem thời gian phía trước (vị lai), dời về phía sau (quá khứ), thời gian quá khứ dời về vị lai, khiến cho thời gian và thuyết pháp không chướng ngại nhau. Cho nên các vị đừng cho rằng Phật nhất định ngồi dưới cội bồ đề, mà chẳng đến khắp mọi nơi. Phật là hiện thân pháp giới, nói Kinh pháp giới. Các vị hiện tại rất là may mắn, nghe được phẩm pháp giới nầy. Kinh Hoa Nghiêm nói tại bảy nơi, gồm có chín hội. Các vị từ từ nghiên cứu thì sẽ minh bạch.
Pháp thân là vô tại vô bất tại, cũng là thể của dụng, nên có phương. Lược nói bảy nơi, chín hội như sau:
Hội thứ nhất tại Bồ đề đạo tràng, nói nhân quả y báo Như Lai.
Hội thứ hai tại Điện Phổ Quang Minh Phổ Quang Pháp Đường, nói pháp môn Thập tín.
Hội thứ ba tại Cung trời Đao Lợi, nói pháp Thập trụ.
Hội thứ tư tại Cung trời Dạ Ma, nói pháp Thập hạnh.
Hội thứ năm tại Cung trời Đâu Suất Đà, nói pháp Thập hồi hướng.
Hội thứ sáu tại cõi trời Tha Hoá Tự Tại, nói pháp Thập địa.
Hội thứ bảy tại Điện Phổ Quang Minh Phổ Quang Pháp Đường, nói pháp nhân viên quả mãn.
Hội thứ tám cũng tại Điện Phổ Quang Minh Phổ Quang Pháp Đường, nói pháp đại hạnh Phổ Hiền.
Hội thứ chín tại vườn rừng Thệ Đa, thành Thất La Phiệt, nói phẩm Vào Pháp Giới. Hội thứ chín chưa trở về Bồ đề đạo tràng.
Vì hội thứ hai, hội thứ bảy, hội thứ tám, đều nói ở tại Điện Phổ Quang Minh Phổ Quang Pháp Đường, cho nên có bảy nơi chín hội.
Cập dữ ngũ bách Thanh văn chúng câu, tất giác chân đế, giai chứng thật tế, thâm nhập pháp tánh, vĩnh xuất hữu hải; y Phật công đức, Ly kết, sử, phược, trụ vô ngại xứ; kỳ tâm tịch tĩnh do như hư không, ư chư Phật sở vĩnh đoạn nghi hoặc, ư Phật trí hải thâm tín thú nhập.
Hàng Thanh Văn năm trăm vị câu hội. Những vị này đều giác ngộ chơn đế, đều chứng thiệt tế, thâm nhập pháp tánh, thoát hẳn biển hữu lậu, nương Phật công đức, lìa sự trói buộc của kiết sử, trụ chỗ vô ngại. Tâm Các ngài tịch tịnh như hư không. Ở chỗ chư Phật, dứt hẳn nghi lầm. Nơi trí chư Phật, tin sâu xu nhập.
Giảng: Ở trước là các vị đại Bồ Tát, hiện tại lại có năm trăm vị Thanh Văn (A la hán) tụ hội, các Ngài đều đã giác ngộ lý thể chân đế, tỏ ngộ pháp môn không điên đảo, xa lìa tất cả mê hoặc. Các Ngài đều đã chứng được lý thể thật tế, vào sâu pháp tánh, đã vĩnh viễn thoát khỏi cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, ba biển cõi. Các Ngài đều nương công đức của Phật mà sinh, nương công đức của Phật mà trụ. Lìa tất cả sự ràng buộc, lìa tất cả kiết sử ràng buộc có năm độn sử, năm lợi sử. Năm độn sử là: Tham, sân, si, mạn, nghi. Năm lợi sử là: Thân, biên, kiến, giới, tà. Kiết (kết) là trói buộc. Các Ngài đều trụ nơi hư không chẳng có chướng ngại, thân của các Ngài cũng như hư không, tâm của các Ngài cũng như hư không. Vì như hư không, cho nên tâm của các Ngài tịch tĩnh như hư không. Các Ngài ở chỗ đạo tràng của Phật, vĩnh viễn dứt trừ tất cả nghi hoặc, đắc được cảnh giới bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, cho nên các Ngài đối với biển trí của Phật, tin sâu hướng vào, do đó các Ngài tinh tấn tu hành, nên vào sâu biển trí huệ của chư Phật.
Cập dữ vô lượng chư thế chủ câu, tất tằng cúng dường vô lượng chư Phật, thường năng lợi ích nhất thiết chúng sanh, vi ất thỉnh hữu, hằng cần thủ hộ, thệ nguyện bất xả; nhập ư thế gian thù thắng trí môn, tùng Phật giáo sanh, hộ Phật chánh pháp, khởi ư đại nguyện, bất đoạn Phật chủng, sanh Như Lai gia, cầu nhất thiết trí.
Vô Lượng Thế Chủ câu hội. Những Thế Chủ này đều đã từng cúng dường vô lượng Chư Phật. Thường hay lợi ích tất cả chúng sanh, làm bất thỉnh hữu. Hằng siêng thủ hộ thệ nguyện chẳng bỏ chúng sanh. Ðã nhập thế gian thù thằng trí môn. Từ Phật giáo sanh. Hộ Phật chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sanh nhà Như Lai cầu nhứt thiết trí.
Giảng: Các Ngài lại cùng với vô lượng các chủ thế gian tụ hội với nhau, với những vị quyến thuộc quốc vương đó, đều đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật. Các Ngài luôn luôn hay lợi ích tất cả chúng sinh, khuyên chúng sinh giữ năm giới, làm mười điều lành. Các Ngài đều làm bạn chẳng thỉnh mời, là chẳng cần chúng sinh thỉnh cầu, tự động mà đến. Đó là hành vi của Bồ Tát. Cũng luôn siêng giữ gìn thệ nguyện của các Ngài đã phát ra thuở trước, mà chẳng xả bỏ. Các Ngài chứng nhập môn trí huệ tối thù thắng nơi thế gian. Những vị quốc vương đó đều từ Phật giáo sinh ra, các Ngài đều ủng hộ chánh pháp của Phật, thuở xưa đã phát đại nguyện, chẳng dứt giống tánh Phật. Nguyện sinh vào nhà Như Lai thành Phật, tu hành nhất thiết trí huệ.
Thời, chư Bồ-tát Đại Đức, Thanh văn, thế gian chư Vương tinh kỳ quyến thuộc, hàm tác thị niệm: Như Lai cảnh giới, Như Lai trí hành, Như Lai gia trì, Như Lai lực, Như Lai vô úy, Như Lai tam muội, Như Lai sở trụ, Như Lai tự tại, Như Lai thân, Như Lai trí,
Bấy giờ chư đại Bồ Tát, đại đức Thanh Văn, những chủ thế gian và quyến thuộc đều nghĩ rằng: cảnh giới của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, gia trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô úy của Như Lai, tam muội của Như Lai, sở trụ của Như Lai, tự tại của Như Lai, thân của Như Lai, trí của Như Lai
Giảng: Lúc đó, tất cả các đại Bồ Tát, và đại đức Thanh Văn, tất cả các ông vua thế gian, cùng với quyến thuộc của họ, đều nghĩ như vầy: Cảnh giới của Như Lai là không thể nghĩ bàn, trí hạnh của Như Lai là không thể nghĩ bàn, gia trì của Như Lai cũng không thể nghĩ bàn, mười lực của Như Lai cũng không thể nghĩ bàn, vô uý của Như Lai cũng không thể nghĩ bàn, tam muội của Như Lai cũng không thể nghĩ bàn, sở trụ của Như Lai cũng không thể nghĩ bàn, tự tại của Như Lai cũng không thể nghĩ bàn, thân của Như Lai cũng không thể nghĩ bàn, trí huệ của Như Lai cũng không thể nghĩ bàn.
Nhất thiết thế gian chư Thiên cập nhân vô năng thông đạt, vô năng thú nhập, vô năng tín giải, vô năng liễu tri, vô năng nhẫn thọ, vô năng quan sát, vô năng giản trạch, vô năng khai thị, vô năng tuyên minh. Vô hữu năng lệnh chúng sanh giải liễu,
Tất cả thế gian chư Thiên cùng người đời không thông đạt được, không xu nhập được, không tín giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ được, không quán sát được, không giảng trạch được, không khai thị được, không tuyên minh được.
Giảng: Tất cả chư Thiên thế gian và chúng sinh thế gian, chẳng có ai thông đạt được, chẳng có ai hướng nhập được cảnh giới của Phật, cũng chẳng có ai thật sự tin sâu hiểu rõ được, cũng chẳng có ai biết rõ được cảnh giới của Phật, cũng chẳng có ai nhẫn thọ được cảnh giới của Phật, cũng chẳng có ai chân chánh quán sát được cảnh giới của Phật, chẳng có ai tuyển chọn được, chẳng có ai chân chánh khai thị được cảnh giới của Phật, chẳng có ai nói rõ được, cũng chẳng có ai có thể khiến cho chúng sinh hiểu rõ được. Do đó có câu: “Tin, hiểu, hành, chứng”, chúng sinh không dễ gì minh bạch được.
Duy trừ chư Phật gia bị chi lực, Phật thần thông lực, Phật uy đức lực, Phật bản nguyện lực, cập kỳ tú thế thiện căn chi lực, chư thiện tri thức nhiếp thọ chi lực, thâm tịnh tín lực, Đại Minh giải lực, thú hướng Bồ-đề thanh tịnh tâm lực, cầu nhất thiết trí quảng đại nguyện lực.
Không ai có thể làm cho chúng sanh hiểu rõ. Chỉ trừ sức gia bị của Chư Phật, sức thần thông của Phật, sức oai đức của Phật, sức bổn nguyện của Phật, và sức thiện căn đời trước của họ, sức nhiếp thọ của thiện tri thức, sức tinh tín sâu, sức minh giải lớn, sức tâm thanh tịnh xu hướng Bồ đề, sức nguyện rộng lớn cầu nhứt thiết trí.
Giảng: Chỉ trừ sức gia bị của chư Phật, thì sẽ minh bạch được, hiểu rõ được. Hoặc nhờ sức thần thông của chư Phật trợ giúp. Hoặc sức oai đức của Phật. Hoặc sức thệ nguyện xưa của Phật đã từng phát ra. Hoặc sức căn lành đời trước của người đó. Hoặc sức nhiếp thọ của các vị thiện tri thức. Hoặc sức tin thanh tịnh thâm sâu. Hoặc sức hiểu rõ rộng lớn. Hoặc sức tâm hướng về bồ đề thanh tịnh. Hoặc nguyện lực rộng lớn cầu nhất thiết trí, thì mới có thể minh bạch được.
Trong Kinh Kim Cang có nói: “Hết thảy tất cả loại chúng sinh, hoặc sinh bằng trứng, hoặc thai sinh, hoặc sinh ẩm ướt, hoặc hoá sinh, hoặc có sắc, hoặc không có sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng, hoặc chẳng không tưởng, ta đều khiến cho vào Vô Dư Niết Bàn mà diệt độ. Như vậy diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sinh, mà thật không có chúng sinh nào được diệt độ”. Tại sao? Vì nếu có chúng sinh để độ, thì còn tướng ta, tướng người, tướng chúng sinh, tướng thọ mạng. Tại sao Bồ Tát nhìn chúng sinh như huyễn? Chữ “như” nầy rất là quan trọng, nó chẳng phải là thật huyễn, nhìn nó “như huyễn”, tức là chẳng có một tư tưởng chấp trước nào. Ngài minh bạch hiểu rõ tất cả đều là hư vọng, chẳng chân thật, cho nên tất cả đều không chấp trước. Chẳng có mọi sự chấp trước, tức là giải thoát.
Đây chỉ là một thứ tư tưởng trí huệ, tư tưởng có thể lý giải đến trình độ nầy. Trên thật tế, thì chúng sinh vẫn là chúng sinh, Bồ Tát vẫn là Bồ Tát, cũng chẳng thêm, cũng chẳng bớt; cũng chẳng tăng, cũng chẳng giảm. Đó chỉ là lối suy nghĩ của Bồ Tát. Ngài minh bạch chấp trước là một thứ chướng ngại, cho nên nguyện phá sự chấp trước của tất cả chúng sinh. Bạn vẫn chấp trước có chúng sinh có thể độ? Bạn cho rằng chúng sinh sẽ ăn cơm, sẽ mặc quần áo, sẽ ngủ nghỉ, là chân thật chẳng hư? Giả sử bạn có sự chấp trước nầy, thì sẽ không bao giờ giải thoát được.
Duy nguyện Thế Tôn tùy thuận ngã đẳng cập chư chúng sanh chủng chủng dục, chủng chủng giải, chủng chủng trí, chủng chủng ngữ, chủng chủng tự tại, chủng chủng tứ trụ địa, chủng chủng căn thanh tịnh, chủng chủng ý phương tiện, chủng chủng tâm cảnh giới, chủng chủng y chỉ Như Lai công đức, chủng chủng thính thọ chư sở thuyết pháp,
Cúi xin đức Thế Tôn tùy thuận chúng con và những dục giải của các chúng sanh, những trín những ngôn ngữ, những tự tại, những trụ đại, những căn thanh thịnh, những ý phương tiện, những tâm cảnh giới, những y chỉ công đức của Như Lai, những pháp đã được nghe thọ của chúng con và các chúng sanh mà hiển thị đức Như Lai
Giảng: Năm trăm vị Bồ Tát, năm trăm vị Thanh Văn và tất cả chủ thế gian, cùng với quyến thuộc của các ông chủ thế gian, đều khác miệng cùng lời hướng về Đức Phật thỉnh pháp, nói: “Cuối mong đức Thế Tôn, tuỳ thuận chúng con, và tất cả các chúng sinh khác, đủ thứ dục niệm, đủ thứ sự hiểu biết, đủ thứ lời lẽ, đủ thứ pháp tự tại, đủ thứ trụ địa, đủ thứ căn lành thanh tịnh, đủ thứ ý phương tiện thiện xảo, đủ thứ cảnh giới tâm chúng sinh, đủ thứ y chỉ hết thảy công đức Như Lai, đủ thứ nghe thọ các pháp của Phật nói”.
Đó là chúng hội thỉnh Phật tuỳ thuận cơ duyên của chúng sinh mà diễn nói.
Hiển thị Như Lai vãng tích thú cầu nhất thiết trí tâm, Vãng tích sở khởi Bồ Tát đại nguyện, vãng tích sở tịnh chư Ba-la-mật, vãng tích sở nhập Bồ Tát chư địa, vãng tích viên mãn chư Bồ-tát hạnh, vãng tích thành tựu phương tiện, vãng tích tu hành chư đạo, vãng tích sở đắc xuất ly Pháp, vãng tích sở tác thần thông sự, vãng tích sở hữu bổn sự nhân duyên,
Thuở xưa xu cầu tâm Nhứt thiết trí, thuở xưa phát khởi đại nguyện Bồ Tát, thuở xưa tu tịnh, những môn Ba La Mật, thuở xưa đã nhập những bực Bồ Tát, thuở xưa viên mãn những hạnh Bồ Tát, thuở xưa thành tựu phương tiện, thuở xưa tu hành những đạo, thuở xưa chứng được pháp xuất ly, thuở xưa đã làm những sự thần thông, thuở xưa đã có bổn sự nhơn duyên,
Giảng: Cúi xin Phật vì đại chúng pháp hội, hiển bày : Thuở xưa khi Như Lai chưa thành Phật, phát tâm hướng cầu đạo bồ đề, nhất thiết trí huệ. Thuở xưa phát khởi Bồ Tát đại nguyện. Thuở xưa thanh tịnh tu hành các Ba La Mật đến bờ kia. Thuở xưa chứng nhập các địa vị của Bồ Tát. Thuở xưa viên mãn các hạnh của Bồ Tát tu. Thuở xưa thành tựu pháp môn phương tiện. Thuở xưa tu hành tất cả đạo pháp. Thuở xưa tu hành đắc được pháp thoát khỏi ba cõi. Thuở xưa làm việc thần thông. Thuở xưa có những bổn sự nhân duyên.
Cập thành đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, tịnh Phật quốc độ, điều phục chúng sanh, khai nhất thiết trí pháp thành, thị nhất thiết chúng sanh đạo, nhập nhất thiết chúng sanh sở trụ, thọ nhất thiết chúng sanh sở thí, vi nhất thiết chúng sanh thuyết bố thí công đức, vi nhất thiết chúng sanh hiện chư Phật ảnh tượng; như thị đẳng Pháp, nguyện giai vi thuyết!
Đến thành Ðẳng Chánh Giác, chuyển diệu pháp luân, tịnh Phật quốc độ, điều phục chúng sanh, mở thành pháp Nhứt thiết trí, chỉ đường tất cả chúng sanh, thọ sự cúng dường của tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh mà nói công đức bố thí, vì tất cả chúng sanh mà hiện ảnh tượng của Chư Phật. Những pháp như vậy, xin đức Phật vì chúng con mà giải thuyết.
Giảng: Và thành Đẳng Chánh Giác, chuyển diệu pháp luân. Trang nghiêm thanh tịnh cõi nước chư Phật, điều phục hết thảy chúng sinh thế gian. Khai mở pháp thành nhất thiết trí huệ. Thị hiện con đường tất cả chúng sinh tu đạo. Phật có thể chứng nhập vào sở trụ của tất cả chúng sinh. Hay tiếp thọ sự bố thí của tất cả chúng sinh. Vì tất cả chúng sinh nói công đức bố thí. Vì tất cả chúng sinh hiện hình bóng của chư Phật. Các pháp như vậy, và thệ nguyện đã phát ra, chúng con đại chúng đều cúi mong đức Phật vì chúng con mà nói.
Nhĩ thời, Thế Tôn tri chư Bồ-tát tâm chi sở niệm, đại bi vi thân, đại bi vi môn, đại bi vi thủ, dĩ đại bi Pháp nhi vi phương tiện, sung biến hư không, nhập sư tử tần thân tam muội;
Bấy giờ đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ Tát, liền dùng đại bi làm thân, đại bi làm môn, đại bi làm đầu, dùng pháp đại bi mà làm phương tiện, đầy khắp hư không, nhập sư tử tần thân tam muội.
Giảng: Lúc đó, đức Thế Tôn biết trong tâm của Bồ Tát nghĩ. Nên dùng đại bi làm thân, dùng đại bi làm cửa, lại dùng đại bi làm đầu. Dùng pháp đại bi mà làm pháp môn phương tiện, đầy dẫy khắp hư không pháp giới, nhập vào tam muội Sư Tử Tần Thân.
Nhập thử tam muội dĩ, nhất thiết thế gian phổ giai nghiêm tịnh. Vu thời, thử đại trang nghiêm lâu các hốt nhiên quảng bác vô hữu biên tế. Kim cương vi địa, bảo vương phước thượng, vô lượng bảo hoa cập chư ma-ni phổ tán kỳ trung xứ xứ doanh mãn.
Nhập vào tam muội đó rồi, tất cả thế gian, khắp đều nghiêm tịnh. Lúc đó, lầu các đại trang nghiêm, hốt nhiên rộng lớn, không có bờ mé. Kim cang làm đất, bảo vương che phủ phía trên. Vô lượng hoa báu, và các ma ni, tán khắp trong đó, nơi đâu cũng đầy dẫy.
Giảng: Phật nhập vào tam muội đó rồi, thì đột nhiên tất cả thế gian, khắp nơi đều biến thành trang nghiêm thanh tịnh. Lúc đó, lầu các đại trang nghiêm, hốt nhiên biến thành rộng lớn, không có bờ mé. Kim cang dùng làm đất, đủ thứ châu báu bảo vương che phủ phía trên. Vô lượng hoa báu, và các ma ni báu, đều tán khắp ở trong lầu các đại trang nghiêm đó, nơi đâu cũng đều trang nghiêm thanh tịnh.
Lưu ly vi trụ, chúng bảo hợp thành, đại quang ma-ni chi sở trang nghiêm, diêm phù đàn kim như ý bảo vương châu trí kỳ thượng dĩ vi nghiêm sức. Nguy lâu thành dãy, các đạo bàng xuất, đống vũ tướng thừa, song thát giao ánh, giai, trì, hiên, hạm chủng chủng bị túc,
Lưu ly làm trụ, các thứ báu hợp thành. Đại quang ma ni trang nghiêm. Vàng Diêm Phù Đàn, như ý bảo vương, bố trí khắp phía trên, dùng để nghiêm sức. Lầu cao nối nhau, đường gác thông nhau, kèo mái nối nhau, cửa ngạch chói nhau. Thềm, bực, lan can, các thứ đều đầy đủ.
Giảng: Dùng lưu ly làm trụ lầu các đại trang nghiêm, là dùng bảy thứ báu hợp thành. Do đại quang ma ni báu để trang nghiêm lầu các đại trang nghiêm. Cây vàng Diêm Phù Đàn, như ý bảo vương, đều che khắp phía trên lầu các đại trang nghiêm, dùng để nghiêm sức, khiến cho đạo tràng đặc biệt thù thắng tốt đẹp. Lầu cao nối với nhau, đường gác thông với nhau, rất là mỹ lệ, trên lầu các lại có lối đi xinh xắn, kèo mái nối nhau, cửa lớn và cửa sổ chói sáng với nhau. Thềm, bực, lan can, các thứ đều đầy đủ.
Nhất thiết giai dĩ diệu bảo trang nghiêm; kỳ bảo tất tác nhân, Thiên hình tượng, kiên cố diệu hảo, thế trung đệ nhất, ma-ni bảo võng di phước kỳ thượng. ư chư môn trắc tất kiến tràng phan, hàm phóng quang minh phổ châu Pháp giới đạo tràng chi ngoại. giai đăng, lan thuẫn, kỳ số vô lượng bất khả xưng thuyết, mị bất hàm dĩ ma-ni sở thành.
Tất cả đều dùng báu đẹp để trang nghiêm. Các thứ báu đó đều làm hình tượng trời người, kiên cố tốt đẹp, đệ nhất trong đời. Lưới báu ma ni che phủ phía trên. Bên các cửa đều dựng tràng phan, đều phóng quang minh, chiếu khắp pháp giới. Phía ngoài đạo tràng, thềm cấp lan can, số nhiều vô lượng, không thể nói hết, thảy đều dùng ma ni làm thành.
Giảng: Tất cả đều dùng báu đẹp để trang nghiêm. Các thứ báu đó, tuy chẳng có tri giác gì, nhưng đều hay sinh ra hình tượng người trời và người nhân gian, rất là kiên cố tốt đẹp, thế gian ít có, cho nên nói là đệ nhất trong đời. Lại có lưới báu ma ni che phủ phía trên. Bên hông các cửa đều dựng tràng phan, đều phóng đại quang minh, chiếu sáng khắp pháp giới. Phía ngoài đạo tràng, lại có thềm cấp, lan can, số nhiều vô lượng, không thể nói hết, thảy đều dùng ma ni làm thành.
Đủ thứ cảnh giới vừa nói ở trên, người nào khai mở con mắt trí huệ, mới có thể nhìn thấy được, hoặc đắc được thiên nhãn thông, mới có thể nhìn thấy được, chẳng phải một số phàm phu có thể thấy được. Cho nên, lúc đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, hàng nhị thừa ở trong pháp hội, có mắt mà chẳng thấy Lô Xá Na, có tai chẳng nghe giáo viên đốn, vì hàng nhị thừa là tự liễu hán, tiểu khí tiểu lượng, thuở xưa chẳng có nhân duyên lớn, nên chẳng thấy được thần biến của Như Lai. Như lúc trời sấm sét, kẻ điết chẳng nghe được, lúc trời sáng kẻ mù chẳng thấy được. Hết thảy những cảnh giới đó đều là không thể nghĩ bàn, tại nhân gian nhìn chẳng thấy được cảnh giới nầy. Đó đều là cảnh giới riêng ngoài của một thế giới, một thứ cảnh giới không thể nghĩ bàn riêng ngoài. Cho nên, chúng ta nghe Kinh đứng có chấp trước vào chữ nghĩa, hoặc chấp trước vào văn pháp. Phải biết cảnh giới nầy, là người đắc được ngũ nhãn lục thông mới minh bạch được.
Nhĩ thời, phục dĩ Phật thần lực cố, kỳ Thệ đa lâm hốt nhiên quảng bác, dữ bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật quốc độ kỳ lượng Chánh đẳng. Nhất thiết diệu bảo gian thác trang nghiêm, bất khả thuyết bảo biến bố kỳ địa, a-tăng-kì bảo dĩ vi viên tường
Lúc đó lại do thần lực của Phật, rừng Thệ Ða bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả diệu bửu xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bửu trải khắp mọi nơi. Vô số bửu làm tường rào. Cây đa la báu trang nghiêm bên đường.
Giảng: Lúc đó, lại do nhờ đại oai thần lực của Phật, nên rừng Thệ Đa hốt nhiên biến thành rộng lớn vô cùng, lượng đồng với bất khả thuyết số hạt bụi cõi nước chư Phật. Lại có tất cả báu đẹp xen tạp lẫn nhau để trang nghiêm đạo tràng. Lại có bất khả thuyết bảy báu rải đầy khắp mặt đất rừng Thệ Đa. Lại có A tăng kỳ các thứ báu dùng làm tường rào. Cây báu đa la trang nghiêm hai bên đường.
Bảo Ta-la thụ trang nghiêm đạo trắc. kỳ gian phục hưũ vô lượng hương hà, hương thủy doanh mãn, thoan kích hồi phúc; nhất thiết bảo hoa tùy lưu hữu chuyển, tự nhiên diễn xuất Phật Pháp âm thanh; bất tư nghị bảo phân đà lợi hoa, hạm đạm phân phu, di bố thủy thượng; chúng bảo hoa thọ liệt thực kỳ ngạn;
Ở giữa lại có vô lượng sông thơm, nước thơm đầy dẫy, sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu, chảy theo vòng bên phải, tự nhiên vang ra âm thanh Phật pháp. Hoa trắng nhỏ báu không nghĩ bàn, búp nở toả hương thơm đầy khắp trên mặt nước. Các cây hoa báu trồng thẳng hàng bên bờ sông.
Giảng: Ở giữa lại có vô lượng sông thơm, nước thơm đầy dẫy, sóng gợn xoay quanh, nhìn rất đẹp mắt, đó là cảnh giới của bậc Thánh nhân. Lại có tất cả hoa báu, nước cũng toả hương thơm, hoa cũng toả hương thơm, chảy theo dòng nước vòng về bên phải. Từng đoá hoa, từng đoá hoa, trôi theo dòng nước vòng về bên phải, có thứ lớp, có hàng ngay thẳng, tựa như có tri giác. Nước chảy tự nhiên vang ra âm thanh diệu pháp đại thừa, gió động cũng diễn nói diệu pháp đại thừa, hoa trôi ở trong nước tự nhiên cũng vang ra âm thanh Phật nói pháp – Bạn thấy như vậy có diệu chăng? Cho nên cảnh giới nầy, chẳng phải phàm phu tục tử chúng ta có thể minh bạch được. Lại có hoa trắng nhỏ báu không thể nghĩ bàn, đều khai hoa nở nhuỵ toả hương thơm đầy khắp trên mặt nước. Lại có đủ thứ các cây hoa báu trồng thẳng hàng bên bờ sông.
Chủng chủng đài tạ bất khả tư nghị, giai ư ngạn thượng thứ đệ hành liệt, ma-ni bảo võng chi sở di phước. a-tăng-kì bảo phóng đại quang minh, a-tăng-kì bảo trang nghiêm kỳ địa. Thiêu chúng diệu hương, hương khí phân uân.
Đủ thứ đình đài không thể nghĩ bàn, đều ngay hàng thẳng lối thứ tự trên bờ sông. Lưới báu ma ni che phủ phía trên. A tăng kỳ báu phóng đại quang minh. A tăng kỳ báu trang nghiêm mặt đất. Đốt lên hương thơm, mùi thơm ngào ngạt.
Giảng: Đủ thứ đình đài lầu các nhiều không thể nghĩ bàn, đều ngay hàng thẳng lối thứ tự trên bờ sông. Lại có lưới báu ma ni che phủ phía trên. Lại có vô lượng châu báu đều phóng đại quang minh. Lại có vô lượng châu báu dùng để trang nghiêm mặt đất. Lại đốt lên đủ thứ hương thơm, mùi thơm ngào ngạt khắp trong hư không.
Phục kiến vô lượng chủng chủng bảo tràng, sở vị: bảo hương tràng, bảo y tràng, bảo phiên tràng, bảo tăng tràng, bảo hoa tràng, bảo anh lạc tràng, bảo man tràng, bảo linh tràng, ma-ni bảo cái tràng, Đại ma ni bảo tràng, quang minh biến chiếu ma-ni bảo tràng, xuất nhất thiết Như Lai danh hiệu âm thanh ma-ni Vương tràng, sư tử ma-ni Vương tràng, thuyết nhất thiết như lai bổn sự hải ma-ni Vương tràng, hiện nhất thiết pháp giới ảnh tượng ma-ni Vương tràng, chu biến thập phương, hành liệt trang nghiêm.
Lại dựng vô lượng bửu tràng. Những là: bửu hương tràng, bửu y tràng, bửu phan tràng, bửu thắng tràng, bửu hoa tràng, bửu anh lạc tràng, bửu man tràng, bửu linh tràng, ma ni bửu cái tràng, đại ma ni bửu tràng, quang minh biến chiếu ma ni bửu tràng, xuất nhứt thiết Như Lai danh hiệu âm thanh ma ni vương tràng, sư tử ma ni vương tràng, thuyết nhứt thiết Như Lai bổn sự hải ma ni vương tràng, hiện nhứt thiết pháp giới ảnh tượng ma ni vương tràng. Những bửu tràng này bày hàng trang nghiêm cùng khắp mười phương.
Giảng: Lại dựng vô lượng đủ thứ tràng báu. Đó là: Tràng báu hương, tràng báu y, tràng phan báu, tràng lụa báu, tràng hoa báu, tràng chuỗi báu, tràng man báu, tràng linh báu, tràng lọng ma ni báu, tràng đại ma ni báu, tràng ma ni báu quang minh chiếu khắp, tràng ma ni vương vang ra âm thanh danh hiệu tất cả Như Lai-tràng cũng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Lại có tràng sư tử ma ni vương. Lại có tràng ma ni vương nói đủ thứ bổn sự của tất cả Như Lai. Lại có tràng ma ni vương hiện hình bóng tất cả pháp giới. Đủ thứ tràng báu vừa nói ở trên, đều ngay hàng trang nghiêm, khắp cùng mười phương.
Thời, thệ đa lâm thượng hư không chi trung, hữu bất tư nghị Thiên cung điện vân, vô số hương thọ vân, bất khả thuyết Tu-di sơn vân, bất khả thuyết kĩ lạc vân, xuất mỹ diệu âm Ca tán Như Lai bất khả thuyết bảo liên hoa vân, bất khả thuyết bảo tọa vân, phu dĩ thiên y Bồ Tát tọa thượng thán Phật công đức bất khả thuyết chư Thiên Vương hình tượng ma-ni Bảo Vân, bất khả thuyết bạch trân châu vân, bất khả thuyết xích-châu lâu các trang nghiêm cụ vân, bất khả thuyết vũ Kim cương kiên cố châu vân, giai trụ hư không, châu táp biến mãn, dĩ vi nghiêm sức. Hà dĩ cố?
Bấy giờ trong hư không trên rừng Thệ Ða có bất tư nghì thiên cung điện vân, Vô số hương thọ vân, bất khả thuyết Tu Di sơn vân, bất khả thuyết kỹ nhạc vân phát ra tiếng hay diệu ca ngợi đức Như Lai, bất khả thuết bửu liên hoa vân, bất khả thuyết bửu tòa vân trải thiên y Bồ Tát ngồi trên đó ca ngợi công đức của Phật, bất khả thuyết thiên vương hình tượng ma ni bửu vân, bất khả thuyết bạch chơn châu vân, bất khả thuyết xích châu lâu các trang nghiêm cụ vân, bất khả thuyết vũ kim cang kiên cố châu vân. Những bửu vân này đều dừng ở hư không bao vòng cùng khắp để trang nghiêm. Tại sao vậy ?
Giảng: Lúc đó, trong hư không phía trên rừng Thệ Đa, lại có mây cung điện trời không thể nghĩ bàn. Lại có vô số mây cây hương. Lại có bất khả thuyết mây núi Tu Di. Lại có bất khả thuyết mây kỹ nhạc, đều vang ra âm thanh vi diệu, khen ngợi Như Lai. Lại có bất khả thuyết mây hoa sen báu. Lại có bất khả thuyết mây toà báu, đều trải y trời, có Bồ Tát ngồi ở trên, khen ngợi công đức Phật. Lại có bất khả thuyết mây ma ni báu hình tượng các Thiên Vương. Lại có bất khả thuyết mây chân châu trắng. Lại có bất khả thuyết mây châu đỏ lầu các trang nghiêm. Lại có bất khả thuyết mây mưa châu kim cang kiên cố. Đủ thứ mây ở trên đều trụ ở trong hư không, giăng bày phía trên, đầy dẫy khắp cùng, dùng để nghiêm sức. Tại sao có cảnh giới như vậy?
Như Lai thiện căn bất tư nghị cố, Như Lai bạch pháp bất tư nghị cố, Như Lai uy lực bất tư nghị cố, Như Lai năng dĩ nhất thân tự tại biến hóa biến nhất thiết thế giới bất tư nghị cố, Như Lai năng dĩ thần lực lệnh nhất thiết Phật cập Phật quốc trang nghiêm giai nhập kỳ thân bất tư nghị cố, Như Lai năng ư nhất vi trần nội phổ hiện nhất thiết pháp giới ảnh tượng bất tư nghị cố
Vì thiên căn của đức Như Lai bất tư nghì. Vì bạch pháp của đức Như Lai bất tư nghì. Vì oai lực của đức Như Lai bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng một thân tự tại biến hóa khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng thần lực làm cho tất cả Phật và Phật quốc trang nghiêm đều nhập vào thân mình bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một vi trần hiện khắp ảnh tượng tất cả pháp giới bất tư nghì.
Giảng: Vì Phật có mười thứ không thể nghĩ bàn, cho nên có đủ thứ cảnh giới trang nghiêm, đó là:
1. Vì căn lành của Như Lai không thể nghĩ bàn, cho nên có những sự trang nghiêm như thế.
2. Vì pháp trắng tịnh của Như Lai không thể nghĩ bàn, cho nên có cảnh giới như thế.
3. Vì oai lực của Như Lai không thể nghĩ bàn.
Như Lai năng ư nhất mao khổng trung thị hiện quá khứ nhất thiết chư Phật bất tư nghị cố, Như Lai tùy phóng nhất nhất quang minh tất năng biến chiếu nhất thiết thế giới bất tư nghị cố, Như Lai năng ư nhất mao khổng trung xuất nhất thiết Phật sát vi trần số biến hóa vân sung mãn nhất thiết chư Phật quốc độ bất tư nghị cố, Như Lai năng ư nhất mao khổng trung phổ Hiện-Nhất-Thiết thập phương thế giới thành, trụ, hoại kiếp bất tư nghị cố.
Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông thì hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tùy phóng mỗi một quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần số biến hóa vân đầy khắp tất cả chư Phật quốc độ bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông hiện khắp tất cả thế giới mười phương: thành trụ hoại kiếp bất tư nghì.
Giảng: 4. Vì Như Lai hay dùng một thân tự tại biến hoá, khắp tất cả thế giới không thể nghĩ bàn.
5. Vì Như Lai hay dùng thần lực, khiến tất cả chư Phật, và cõi Phật trang nghiêm, đều nhập vào thân Phật không thể nghĩ bàn.
6. Vì Như Lai hay ở trong một hạt bụi, hiện khắp hình ảnh tất cả pháp giới không thể nghĩ bàn.
7. Vì Như Lai hay ở trong một lỗ chân lông, dùng thần thông biến hoá thị hiện tất cả chư Phật kiếp quá khứ không thể nghĩ bàn.
8. Vì Như Lai hay tuỳ thuận căn cơ chúng sinh, phóng ra mỗi mỗi đại quang minh, đều chiếu khắp cùng tất cả thế giới không thể nghĩ bàn.
9. Vì Như Lai hay ở trong một lỗ chân lông, hiện ra tất cả cõi Phật nhiều như số hạt bụi mây thần thông biến hoá, đầy khắp tất cả cõi nước chư Phật không thể nghĩ bàn.
10. Vì Như Lai hay ở trong một lỗ lông, hiện khắp tất cả mười phương thế giới kiếp thành trụ hoại không, không thể nghĩ bàn.
Như ư thử Thệ đa lâm Cấp cô độc viên kiến Phật quốc độ thanh tịnh trang nghiêm, thập phương nhất thiết tận Pháp giới, hư không giới, nhất thiết thế giới diệc như thị kiến.
Như ở tại rừng Thệ Ða vườn cấp Cô Ðộ thấy Phật quốc thanh tịnh trang nghiêm, mười phương tất cả pháp giới hư không giới, tất cả thế giới cũng đều thấy như vậy.
Giảng: Như ở tại lầu các đại trang nghiêm nơi rừng Thệ Đa, vườn Cấp Cô Độc nầy, thấy cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm. Mười phương tất cả tận pháp giới hư không giới, tất cả thế giới, cũng đều thấy như ở cõi Ta Bà nầy.
Sở vị: kiến Như Lai thân trụ Thệ đa lâm, Bồ Tát chúng hội giai tất biến mãn; kiến phổ vũ nhất thiết trang nghiêm vân, kiến phổ vũ nhất thiết bảo quang minh chiếu diệu vân, kiến phổ vũ nhất thiết ma-ni Bảo Vân, kiến phổ vũ nhất thiết trang nghiêm cái di phước Phật sát vân, kiến phổ vũ nhất thiết Thiên thân vân, kiến phổ vũ nhất thiết hoa thọ vân, kiến phổ vũ nhất thiết y thọ vân, kiến phổ vũ nhất thiết bảo man, anh lạc tướng tục bất tuyệt châu biến nhất thiết Đại địa vân, kiến phổ vũ nhất thiết trang nghiêm cụ vân
Những là thấy thân đức Như Lai ở rừng Thệ Ða, chúng hội Bồ Tát thảy đều cùng khắp. Thấy khắp nơi mưa những mây trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu quang minh chiếu sáng. Thấy khắp nơi mưa những mây ma ni bửu. Thấy khắp nơi mưa những mây lọng trang nghiêm che trùm cõi Phật. Thấy khắp nơi mưa những mây thiên thân. Thấy khắp nơi mưa những mây hoa thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây y thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây bửu man anh lạc nối tiếp chẳng dứt cùng khắp tất cả đại địa. Thấy khắp nơi mưa những mây đồ trang nghiêm.
Giảng: Như ở tại lầu các đại trang nghiêm nơi rừng Thệ Đa, vườn Cấp Cô Độc nầy, thấy cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm. Mười phương tất cả tận pháp giới hư không giới, tất cả thế giới, cũng đều thấy như ở cõi Ta Bà nầy. Chúng sinh ở thế giới khác thấy được thế giới nầy, chúng sinh ở thế giới nầy, cũng thấy được ở thế giới khác, hổ tương vô ngại, hổ tương nhìn thấy nhau. Đó là: Thấy thân Như Lai trụ ở trong rừng Thệ Đa, chúng hội Bồ Tát, thảy đều đầy khắp trong rừng Thệ Đa. Lại thấy cảnh giới mưa khắp tất cả mây trang nghiêm. Lại thấy mưa khắp mây tất cả báu quang minh chiếu sáng. Lại thấy mưa khắp mây tất cả báu ma ni. Lại thấy mưa khắp mây tất cả lọng trang nghiêm che phủ cõi Phật. Lại thấy mưa khắp mây tất cả thân trời. Lại thấy mưa khắp mây tất cả cây hoa. Lại thấy mưa khắp mây tất cả cây y phục. Lại thấy mưa khắp mây tất cả chuỗi báu anh lạc, liên tục không dứt, khắp cùng tất cả mặt đất. Lại thấy mưa khắp mây tất cả đồ trang nghiêm.
Kiến phổ vũ nhất thiết như chúng sanh hình chủng chủng hương vân, kiến phổ vũ nhất thiết vi diệu bảo hoa võng tướng tục bất đoạn vân, kiến phổ vũ nhất thiết chư Thiên nữ trì bảo tràng phan ư hư không trung chu toàn lai khứ vân, kiến phổ vũ nhất thiết chúng bảo liên hoa ư hoa diệp gian tự nhiên nhi xuất chủng chủng nhạc âm vân, kiến phổ vũ nhất thiết sư tử tọa bảo võng anh lạc nhi vi trang nghiêm vân.
Thấy khắp nơi mưa những mây thơm hình chúng sanh. Thấy khắp nơi mưa những mây lưới hoa báu vi diệu tiếp nỗi chẳng ngớt. Thấy khắp nơi mưa những mây chư Thiên nữ cầm tràng phan báu đi qua lại ở trong hư không. Thấy khắp nơi mưa những mây bữu liên hoa, ở trong cánh hoa tự nhiên phát ra những tiếng nhạc. Thấy khắp nơi mưa những mây tòa sư tử lưới báu anh lạc dùng trang nghiêm.
Giảng: Lại thấy mưa khắp mây tất cả đủ thứ hương hình tướng như chúng sinh. Lại thấy mưa khắp mây tất cả lưới hoa báu vi diệu liên tục không dứt. Lại thấy mưa khắp mây tất cả các Thiên nữ cầm tràng báu, chu du đến đi ở trong hư không. Lại thấy mưa khắp mây tất cả các hoa sen báu, ở giữa lá hoa sen tự nhiên vang ra đủ thứ âm nhạc. Lại thấy mưa khắp mây tất cả toà sư tử dùng lưới báu anh lạc để trang nghiêm.
Nhĩ thời, Đông phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: kim đăng vân tràng, Phật hiệu: Tỳ Lô Giá Na Thắng đức Vương.
Lúc đó phương Ðông qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Ðăng Vân Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Tỳ Lô Giá Na Thắng Ðức Vương.
Giảng: Lúc đó, ở phương đông qua khỏi biển thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, lại có thế giới tên là Kim Đăng Vân Tràng, đức Phật ở thế giới đó hiệu là Tỳ Lô Giá Na Thắng Đức Vương.
Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: Tỳ Lô Giá Na nguyện quang minh, dữ bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, tất dĩ thần lực hưng chủng chủng vân, sở vị: thiên hoa vân, thiên hương vân, Thiên mạt hương vân, Thiên man vân, Thiên Bảo Vân, Thiên trang nghiêm cụ vân, Thiên bảo cái vân, Thiên vi diệu y vân, Thiên bảo tràng phan vân, Thiên nhất thiết diệu bảo chư trang nghiêm vân, sung mãn hư không.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện những lùm mây: mây thiên hoa, mây thiên hương, mây thiên mạt hương, mây thiên man, mây thiên bửu, mây thiên trang nghiêm cụ, mây thiên bửu cái, mây thiên vi diệu y, mây thiên bửu tràng phan, mây những diệu bửu trang nghiêm đầy dẫy hư không.
Giảng: Trong đại chúng pháp hội của đức Phật đó, có Bồ Tát tên là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh, Ngài cùng với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật tụ hội lại, đều đi đến chỗ đức Phật. Đều dùng thần lực của Bồ Tát nổi lên đủ thứ vầng mây. Đó là: Mây hoa trời, mây hương trời, mây hương bột trời, mây man trời, mây báu trời, mây đồ trang nghiêm trời, mây lọng báu trời, mây y trời vi diệu, mây tràng phan báu trời, mây tất cả diệu báu trang nghiêm trời – đều đầy dẫy trong hư không.
Chí Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư Đông phương hóa tác bảo trang nghiêm lâu các cập phổ chiếu thập phương bảo liên hoa tạng sư tử chi tọa, như ý bảo võng La phước kỳ thân, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Ðông hóa làm lâu các bửu trang nghiêm và tòa sư tử bửu liên hoa tạng chiếu khắp mười phương. Lưới như ý bửu choàng trên thân. Rồi cùng quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.
Giảng: Bồ Tát đó đến đạo tràng chỗ đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật, bèn ở phương đông hoá làm lầu các báu trang nghiêm, và chiếu khắp toà sư tử thập phương bảo liên hoa tạng. Có lưới báu như ý phủ thân Bồ Tát, Bồ Tát đó cùng với quyến thuộc cùng đến với Ngài, đều ngồi kiết già.
Nam phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: Kim Cương tạng, Phật hiệu: phổ quang minh Vô thắng tạng Vương.
Phương Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Cang Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Vô Thắng Tạng Vương.
Giảng: Ở phương nam qua khỏi biển thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, lại có thế giới tên là Kim Cang Tạng. Đức Phật ở thế giới đó hiệu là Phổ Quang Minh Vô Thắng Tạng Vương.
Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: bất khả hoại tinh tấn Vương, dữ bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, trì nhất thiết bảo hương võng, trì nhất thiết bảo anh lạc, trì nhất thiết bảo hoa đái, trì nhất thiết bảo man đái, trì nhất thiết Kim cương anh lạc, trì nhất thiết ma-ni bảo võng, trì nhất thiết bảo y đái, trì nhất thiết bảo anh lạc đái, trì nhất thiết tối thắng quang minh ma-ni đái, trì nhất thiết sư tử ma-ni bảo anh lạc, tất dĩ thần lực sung biến nhất thiết chư thế giới hải.
Trong chúng hội của đức Phật đó, có Bồ Tát hiệu là Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội đến chỗ đức Phật, đồng cầm những lưới bửu hương, những bửu anh lạc, những bữu hoa đới, những bửu man đới, những kim cang anh lạc, những lưới bửu ma ni, những bửu y đới, những bửu anh lạc đới, những thắng quang minh ma ni đới, những sư tử ma ni bửu anh lạc. Ðều dùng thần lực làm cho những bửu vật trên đầy khắp tất cả thế giới hải.
Giảng: Trong đại chúng pháp hội của đức Phật đó, có vị Bồ Tát tên là Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật tụ hội lại, đều đi đến chốn Phật. Các Ngài đều cầm tất cả lưới hương báu, cầm tất cả chuỗi báu, cầm tất cả hoa đới báu, cầm tất cả man đới báu, cầm tất cả chuỗi kim cang, cầm tất cả lưới ma ni báu, cầm tất cả y đới báu, cầm tất cả chuỗi đới báu, cầm tất cả tối thắng quang minh ma ni đới, cầm tất cả chuỗi sử tử ma ni báu. Đều dùng thần lực của Bồ Tát, đầy dẫy khắp tất cả biển thế giới.
Đáo Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư Nam phương hóa tác biến chiếu thế gian ma-ni bảo trang nghiêm lâu các cập phổ chiếu thập phương bảo liên hoa tạng sư tử chi tọa, dĩ nhất thiết bảo hoa võng La phước kỳ thân, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Nam hóa làm lâu các biến chiếu thế gian ma ni bửu trang nghiêm, và tòa sư tử phổ chiếu thập phương bửu liên hoa tạng. Dùng những lưới bửu hoa choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.
Giảng: Đến đạo tràng chỗ đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật, bèn ở phương nam, hoá làm lầu các ma ni báu trang nghiêm chiếu khắp thế gian, và chiếu khắp toà sư tử thập phương bảo liên hoa tạng. Dùng lưới tất cả hoa báu phủ trên thân Bồ Tát, vị Bồ Tát đó cùng với quyến thuộc cùng đến, đều ngồi kiết già.
Tây phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: ma-ni bảo đăng Tu-di sơn tràng, Phật hiệu: Pháp giới trí đăng.
Phương Tây qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Ma Ni Bửu Ðăng Tu Di Sơn Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Pháp Giới Trí Ðăng.
Giảng: Ở phương tây qua khỏi biển thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, lại có thế giới tên là Ma Ni Bảo Đăng Tu Di Sơn Tràng. Đức Phật hiệu là Pháp Giới Trí Đăng.
Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: phổ thắng vô thượng uy đức Vương, dữ thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, tất dĩ thần lực hưng bất khả thuyết Phật sát vi trần số chủng chủng đồ hương thiêu hương Tu-di sơn vân, bất khả thuyết Phật sát vi trần số chủng chủng sắc hương thủy Tu-di sơn vân, bất khả thuyết Phật sát vi trần số nhất thiết đại địa vi trần đẳng quang minh ma-ni bảo vương Tu-di sơn vân
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phổ Thắng Vô Lượng Oai Ðức Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ Ðức Phật. Ðều dùng thần lực hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số những hương thoa, hương thắp, mây Tu Di sơn, những mây Tu Di sơn hương thủy nhiều màu, những mây Tu Di sơn quang minh ma ni bửu vương,
Giảng: Trong đại chúng pháp hội đức Phật đó, có Bồ Tát tên là Phổ Thắng Vô Thượng Oai Đức Vương, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi biển thế giới tụ hội, đều đi đến chốn Phật. Đều dùng đại oai thần lực nổi lên đủ thứ hương thoa, hương đốt, mây núi Tu Di, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại nổi lên đủ thứ mây núi Tu Di sắc hương thuỷ, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại nổi lên mây núi Tu Di quang minh ma ni bảo vương,
Bất khả thuyết Phật sát vi trần số chủng chủng quang diệm luân trang nghiêm tràng Tu-di sơn vân, bất khả thuyết Phật sát vi trần số chủng chủng sắc Kim Cương tạng ma-ni Vương trang nghiêm Tu-di sơn vân, bất khả thuyết Phật sát vi trần số phổ chiếu nhất thiết thế giới Diêm-phù-đàn ma-ni bảo tràng Tu-di sơn vân, bất khả thuyết Phật sát vi trần số hiện nhất thiết pháp giới ma-ni bảo Tu-di sơn vân, bất khả thuyết Phật sát vi trần số hiện nhất thiết chư Phật tướng hảo ma-ni bảo vương Tu-di sơn vân, bất khả thuyết Phật sát vi trần số hiện nhất thiết Như Lai bổn sự nhân duyên thuyết chư Bồ-tát sở hạnh chi hành ma-ni bảo vương Tu-di sơn vân, bất khả thuyết Phật sát vi trần số Hiện-Nhất-Thiết Phật tọa Bồ-đề trường ma-ni bảo vương Tu-di sơn vân, sung mãn Pháp giới.
Những mây Tu Di sơn quang diệm luân trang nghiêm tràng, những mây Tu Di sơn kim cang tạng ma ni vương trang nghiêm nhiều màu, những mây Tu Di sơn diêm phù đàn ma ni bửu tràng chiếu khắp tất cả thế giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu hiện tất cả pháp giới, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả chư Phật tướng hảo, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện bổn sự nhơn duyên của chư Phật nói tất cả công hạnh tu hành của chư Bồ Tát, những mây Tu Di sơn ma ni bửu vương hiện tất cả Phật ngồi Bồ đề đề tràng. Những mây này đầy khắp pháp giới.
Giảng: Nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, nhiều đồng như số hạt bụi tất cả đại địa. Lại nổi lên đủ thứ mây núi Tu Di quang diễm luân trang nghiêm tràng, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại nổi lên đủ thứ mây núi Tu Di sắc kim cang tạng ma ni vương trang nghiêm, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại nổi lên mây núi Tu Di chiếu khắp tất cả thế giới Diêm Phù đàn ma ni bảo tràng, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật.
Bạn hãy xem! Mỗi một thứ đều nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, cho nên trí lực của chúng ta chẳng đạt đến được. Cảnh giới nầy, người đắc được ngũ nhãn lục thông mới minh bạch được.
Bồ Tát đó lại nổi lên mây núi Tu Di hiện tất cả pháp giới ma ni bảo, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại nổi lên mây núi Tu Di hiện tất cả chư Phật tướng tốt ma ni bảo vương, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại nổi lên mây núi Tu Di hiện tất cả bổn sự nhân duyên của Như Lai, nói hạnh của các Bồ Tát tu hành ma ni bảo vương, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại nổi lên mây núi Tu Di hiện tất cả Phật ngồi bồ đề tràng ma ni bảo vương, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Những mây đó đầy khắp tận hư không biến pháp giới.
Chí Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư Tây phương hóa tác nhất thiết Hương Vương lâu các, trân châu bảo võng di phước kỳ thượng, cập hóa tác Đế Thích ảnh tràng bảo liên hoa tạng sư tử chi tọa, dĩ diệu sắc ma-ni võng La phước kỳ thân, tâm Vương bảo quán dĩ nghiêm kỳ thủ, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Ðến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây hóa lâu các nhứt thiết hương vương, lưới báu chơn châu giăng trùm trên đó, và hóa toà sư tử bửu liên hoa tạng tràng bóng Thiên Ðế, dùng lưới ma ni diệu sắc choàng nơi thân, trên đầu trang nghiêm với mão tâm vương bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên trên tòa đó.
Giảng: Bồ Tát đến chỗ đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật, bèn ở phương tây, hoá làm lầu các tất cả hương vương, lưới báu chân châu, che phủ phía trên. Lại hoá làm toà sư tử đế thích ảnh tràng bảo liên hoa tạng. Dùng lưới diệu sắc ma ni không thể nghĩ bàn phủ lên thân Bồ Tát, dùng mũ báu tâm vương đội trên đầu, cùng với quyến thuộc đến với Ngài, đều ngồi kiết già.
Chúng ta người tu đạo không thể che giấu lỗi lầm của mình, không thể bảo hộ cái sai của mình. Nếu cứ như thế thì vĩnh viễn chẳng có sự tiến bộ. Bất cứ ai có đoạn xứ, đừng có sợ người khác biết, có trường xứ cũng đừng có sợ người khác biết, những đoạn xứ nên thổ lộ ra, nói cho mọi người biết. Những trường xứ của mình, không cần nói cho mọi người biết. Do đó, nếu có ai đối với bạn nói ra đoạn xứ của bạn, đó chính là trợ giúp bạn, là vị thiện tri thức của bạn. Người tu hành còn không muốn thừa nhận lỗi lầm của mình, thì thử hỏi những người không tu hành làm sao mà họ nhận lỗi lầm của mình? Người tu đạo mình có sai, ai nói với mình, thì người đó là thiện tri thức của mình. Chúng ta đừng có tư tưởng đố kị chướng ngại. Bất cứ bạn tu đạo như thế nào, một khi có tư tưởng đố kị chướng ngại, thì tất cả công đức hoá thành không có. Vì bạn vẫn còn sự chấp trước lớn như thế, nhìn chẳng thấu, buông chẳng đặng, cho nên không thể đắc được tự tại. Bất cứ vị nào có đoạn xứ, chúng ta đều nên nói với họ, trợ giúp họ tu hành. Do đó có câu: “Kiến hiền tư tề, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh”. Thấy người nào giỏi hơn mình, thì mình phải cố gắng, phải bằng người giỏi hơn mình; thấy người không tốt, thì phải hồi quang phản chiếu, xem thử mình có điều không tốt như thế chăng? Mỗi người cũng đều như thế, thì chẳng bao lâu nữa đều có thể đạt đến bậc Thánh hiền.
Các vị phải biết, tại sao thế giới nầy không tốt? Vì tâm con người đố kị chướng ngại, tự tư tự lợi, làm cho thế giới bại hoại. Tại sao quốc gia nầy không tốt? Cũng do mỗi người đều tự tư tự lợi, tham sân si lớn hơn bất cứ ai, cho nên làm cho quốc gia bại hoại. Gia đình cũng vì tham, sân, si, đố kị, chướng ngại, cho nên làm cho gia đình bại hoại. Tại sao nhân cách con người không tốt? Cũng vì đố kị, chướng ngại, tham, sân, si, mà làm cho nhân cách con người bại hoại.
Một số người như thế, hiện tại chúng ta phải nghĩ làm sao phải khác hơn một số người, cho nên mới xuất gia tu đạo. Người tu đạo nhất định phải làm cho một số người phạm những tập khí mao bệnh đều sửa đổi thành tốt, quyết định phải bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp, kiến lập đạo tràng nầy cho tốt, làm cho phong khí của thế giới nầy sửa đổi thành tốt, cho đến khiến cho mỗi quốc gia đều sửa đổi thành tốt, mỗi gia đình đều sửa đổi thành tốt, mỗi người cũng sửa đổi thành tốt – phải cải tạo nhân tâm của thế giới. Vì nguyên nhân nầy, người tu đạo bất cứ như thế nào cũng đừng bảo hộ những thứ hôi thối mà một số người bảo hộ nó – nào là đố kị, chướng ngại, tự tư tự lợi, tham, sân, si, mạn, nghi, những thứ mao bệnh nầy, những thứ xấu xa nầy, đều phải tẩy rửa nó cho thật sạch! Bất quá, không cần bạn phải vào nhà xí rửa, đến đó rửa thì càng rửa càng hôi thối, vì nhà xí vốn chẳng sạch sẽ. Chúng ta phải dùng nước sạch, dùng nước trí huệ thanh tịnh, để rửa tập khí mao bệnh của mình. Sau đó, cải thiện tư tưởng của mình, đừng giống như một số người phàm phu tục tử. Tuy chúng ta cũng là phàm phu tục tử, nhưng phải khác hơn một số người phàm phu tục tử. Được như vậy, thì mới có thể quay lưng với dòng phàm phu lục trần, mà nhập vào dòng Thánh nhân pháp tánh.
Liên quan đến vấn đề viết văn chương: Chẳng phải một loại, hai loại, ba loại, đơn giản như thế. Trên thế gian, trong mỗi sự việc của nó, đều có ngàn sai vạn biệt, đủ thứ sự khác nhau. Ví như văn chương, nếu nói nhiều thì có nhiều vô lượng vô biên, nếu nói ít thì có tám vạn bốn ngàn thứ loại. Bất quá, chúng ta không nghiên cứu hết nhiều như thế mà thôi, cho nên chỉ nghiên cứu trong phạm vi trí huệ của chúng ta cho phép. Kỳ thật, phàm là tất cả học vấn đều vô lượng vô biên, chẳng có sự dừng lại. Học vấn của thế gian chẳng có sự dừng lại, văn chương của thế giới cũng chẳng có sự dừng lại. Cũng có thể nói đó đều là danh tướng, là “nhắm mắt mở mắt nói lời mộng”. Song, một số người cũng nhờ vậy mới có thể dẫn người đi vào, cho nên bất cứ một tôn giáo nào, cũng đều cần dùng văn chương để tuyên truyền, để tuyên dương và đại biểu giá trị của nó. Phải biết đó đều là pháp thế gian, nếu thật muốn cầu pháp xuất thế gian thì đừng chấp vào nó. Điểm nầy, mỗi người nên biết cho rõ ràng.
Bắc phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: bảo y quang minh tràng, Phật hiệu: chiếu hư không Pháp giới đại quang minh. Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: vô ngại thắng tạng Vương, dữ thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, tất dĩ thần lực hưng nhất thiết bảo y vân, sở vị: hoàng sắc bảo quang minh y vân, chủng chủng hương sở huân y vân, nhật tràng ma-ni Vương y vân, kim sắc sí nhiên ma-ni y vân, nhất thiết Bảo quang diệm y vân, nhất thiết tinh Thần tượng thượng diệu ma-ni y vân, bạch ngọc quang ma-ni y vân, quang minh biến chiếu thù thắng hách dịch ma-ni y vân, quang minh biến chiếu uy thế sí thịnh ma-ni y vân, trang nghiêm hải ma-ni y vân, sung biến hư không.
Phương Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Bửu Y Quang Minh Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Chiếu Hư Không Pháp Giới Ðại Quang Minh. Trong chúng hội của Ðức Phật đó, có Bồ Tát hiệu là Vô Ngại Thắng Tạng Vương cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật đều dùng thần lực hiện những mây bửu y. Những là mây bửu y quang minh màu vàng, những mây bửu y ướp hương, mây bửu y nhựt tràng ma ni vương, mây bửu y kim sắc xí nhiên ma ni, những mây bửu y quang diệm, những mây bửu y ma ni thượng diệu tượng tinh tú, những mây bửu y ma ni bạch ngọc quang, những mây bửu y ma ni thù thắng quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni oai thế quang minh biến chiếu, những mây bửu y ma ni trang nghiêm hải. Những mây bửu y này đầy khắp hư không.
Giảng: Ở phương bắc qua khỏi biển thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, có một thế giới tên là Bảo Y Quang Minh Tràng. Có vị Phật danh hiệu là Chiếu Hư Không Pháp Giới Đại Quang Minh. Trong đạo tràng của Đức Phật đó, có vị Bồ Tát tên là Vô Ngại Thắng Tạng Vương, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi biển thế giới tụ hội, cùng nhau đi đến đạo tràng của Phật. Các Ngài đều dùng thần lực, nổi lên tất cả mây y báu. Đó là: Mây y quang minh báu sắc vàng. Mây y ướp đủ thứ hương. Mây y nhật tràng ma ni vương. Mây y ma ni sắc vàng rực rỡ. Mây y tất cả báu quang diệm. Mây y tất cả tinh tú tượng ma ni thượng diệu. Mây y ngọc trắng quang ma ni. Mây y ma ni đỏ quang minh thù thắng chiếu khắp. Mây y ma ni quang minh oai thế sáng rực chiếu khắp. Mây y ma ni biển trang nghiêm. Đủ thứ những mây báu đó đều đầy khắp hư không.
Chí Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư Bắc phương hóa tác ma-ni bảo hải trang nghiêm lâu các cập Tì lưu ly bảo liên hoa tạng sư tử chi tọa, dĩ sư tử uy đức ma-ni Vương võng La phước kỳ thân, thanh tịnh bảo vương vi kế minh châu, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Khi đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu hải trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa tạng tỳ lưu ly bửu. Dùng lưới ma vi vương sư tử oai đức choàng trên thân. Dùng bửu vương thanh tịnh minh châu trang nghiêm trên đầu. Cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Bồ Tát đến đạo tràng của đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật, bèn ở phương bắc, hoá làm lầu các Ma ni bảo hải trang nghiêm, và toà sư tử Tỳ lưu ly bảo liên hoa tạng. Dùng lưới sư tử oai đức ma ni vương, phủ trên thân Bồ Tát. Dùng thanh tịnh bảo vương làm búi tóc minh châu của Bồ Tát, Ngài cùng với quyến thuộc cùng đến, đều ngồi kiết già.
Đông Bắc phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: nhất thiết hoan hỉ thanh Tịnh Quang minh võng, Phật hiệu: vô ngại nhãn. Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: Hóa hiện Pháp giới nguyện nguyệt vương, dữ thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, tất dĩ thần lực hưng bảo lâu các vân, hương lâu các vân, thiêu hương lâu các vân, hoa lâu các vân, chiên đàn lâu các vân, Kim cương lâu các vân, ma-ni lâu các vân, kim lâu các vân, y lâu các vân, liên hoa lâu các vân, di phước thập phương nhất thiết thế giới.
Phương Ðông Bắc qua khởi bất khả thyuết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhất Thiết Hoan Hỉ Thanh Tịnh Quang Minh Võng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Vô Ngại Nhãn. Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Hoá Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây lâu các báu, mây lâu các hương, mây lâu các hương đốt, mây lâu các hoa, mây lâu các chiên đàn, mây lâu các kim cang, mây lâu các ma ni, mây lâu các huỳnh kim, mây lâu các bửu y, mây lâu các liên hoa, che khắp thế giới mười phương.
Giảng: Ở phương đông bắc qua khỏi biển thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, có một thế giới tên là Nhất Thiết Hoan Hỉ Thanh Tịnh Quang Minh Võng. Đức Phật danh hiệu là Vô Ngại Nhãn. Trong đạo tràng của đức Phật đó, có vị Bồ Tát tên là Hoá Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương. Vị Bồ Tát đó làm lãnh tụ trong pháp hội, Ngài với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi biển thế giới tụ hội, cùng nhau đi đến đạo tràng của Phật. Đều dùng sức thần thông, nổi mây lầu các báu. Mây lầu các hương. Mây lầu các hương đốt. Mây lầu các hoa. Mây lầu các chiên đàn. Mây lầu các kim cang. Mây lầu các ma ni. Mây lầu các vàng. Mây lầu các y. Mây lầu các hoa sen. Đều che phủ mười phương tất cả thế giới.
Chí Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư Đông Bắc phương hóa tác nhất thiết pháp giới môn Đại ma-ni lâu các cập vô đẳng Hương Vương liên hoa tạng sư tử chi tọa, ma-ni hoa võng La phước kỳ thân, trước diệu Bảo Tạng ma-ni Vương quan, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Khi đã đến chỗ Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Ðông Bắc hóa làm lâu các đại ma ni pháp giới môn, và tòa sư tử liên hoa tạng vô đẳng hương vương, dùng lưới ma ni hoa choàng trên thân, đội mão diệu bửu tạng ma ni vương, cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Các Ngài đến chỗ đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật. Sau đó bèn ở phương đông bắc, hoá làm lầu các Nhất thiết pháp giới môn đại ma ni, và toà sư tử Vô đẳng hương vương liên hoa tạng. Dùng lưới ma ni hoa, phủ trên thân Bồ Tát, đầu đội mão Diệu bảo tạng ma ni vương. Cùng với quyến thuộc cùng đến với Ngài, đều ngồi kiết già.
Đông Nam phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: hương vân trang nghiêm tràng, Phật hiệu: long Tự tại Vương.
Phương Ðông Nam qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới hiệu là Hương Vân Trang Nghiêm Tràng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Long Tự Tại Vương.
Giảng: Ở phương đông nam qua khỏi biển thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, có một thế giới tên là Hương Vân Trang Nghiêm Tràng. Có một vị Phật hiệu là Long Tự Tại Vương.
Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: Pháp tuệ quang diệm Vương, dữ thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, tất dĩ thần lực hưng kim sắc viên mãn quang minh vân, vô lượng bảo sắc viên mãn quang minh vân, Như Lai hào tướng viên mãn quang minh vân, chủng chủng bảo sắc viên mãn quang minh vân, liên hoa tạng viên mãn quang minh vân, chúng bảo thụ chi viên mãn quang minh vân, Như Lai đảnh kế viên mãn quang minh vân, diêm phù đàn kim sắc viên mãn quang minh vân, nhật sắc viên mãn quang minh vân, tinh nguyệt sắc viên mãn quang minh vân, tất biến hư không.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là pháp Huệ Quang Diệm Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây kim sắc viên mãn quang minh, mây vô lượng bửu sắc viên mãn quang minh, mây Như Lai hào tướng viên mãn quang minh, mây những bửu sắc viên mãn quang minh, mây liên hoa tạng viên mãn quang minh, mây bửu thọ chi viên mãn viên quang minh, mây Như Lai đảnh kế viên mãn quang minh, mây diêm phù đàn kim sắc viên mãn quang minh, mây nhựt sắc viên mãn quang minh, mây tinh nguyệt sắc viên mãn quang minh, đầy khắp hư không.
Giảng: Trong đạo tràng của đức Phật đó, có Bồ Tát tên là Pháp Huệ Quang Diễm Vương. Với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi biển thế giới tụ hội, cùng nhau đi đến đạo tràng của Phật. Đều dùng thần lực, nổi mây quang minh sắc vàng viên mãn. Mây quang minh vô lượng sắc báu viên mãn. Mây quang minh hào tướng Như Lai viên mãn. Mây quang minh đủ thứ sắc báu viên mãn. Mây quang minh liên hoa tạng viên mãn. Mây quang minh nhánh cây các báu viên mãn. Mây quang minh đảnh kế Như Lai viên mãn. Mây quang minh sắc vàng Diêm Phù Đàn viên mãn. Mây quang minh sắc mặt trời viên mãn. Mây quang minh sắc mặt trăng sao viên mãn. Đủ thứ mây đầy khắp hư không.
Đáo Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư Đông Nam phương hóa tác Tỳ Lô Giá Na tối thượng bảo quang minh lâu các, Kim cương ma ni liên hoa tạng sư tử chi tọa, chúng Bảo quang diệm ma-ni Vương võng La phước kỳ thân, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Ðến chỗ đức Phật rồi Chư Bồ Tát đảnh lể chân đức Phật, liền ở Phương Ðông Nam hóa làm Lâu các tỳ lô giá na tối thượng bửu quang minh, và tòa sư tử kim cang ma ni liên hoa tạng lưới bửu quang diệm ma ni vương choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Các Ngài đến đạo tràng của đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật. Bèn ở phương đông nam, hoá làm lầu các Tỳ Lô Giá Na tối thượng bảo quang minh, và toà sư tử Kim cang ma ni liên hoa tạng. Dùng lưới các báu quang diệm ma ni vương, phủ trên thân Bồ Tát, Ngài cùng với quyến thuộc cùng đến, đều ngồi kiết già.
Tây Nam phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: nhật quang ma-ni tạng, Phật hiệu: phổ chiếu chư Pháp trí nguyệt Vương.
Phương Tây Nam qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhựt Quang Ma Ni Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Chiếu Chư Pháp Trí Nguyệt Vương.
Giảng: Ở phương tây nam qua khỏi biển thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, có một thế giới tên là Nhật Quang Ma Ni Tạng. Đức Phật hiệu là Phổ Chiếu Chư Pháp Trí Nguyệt Vương.
Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: tồi phá nhất thiết ma quân trí tràng Vương, dữ thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, ư nhất thiết mao khổng trung xuất đẳng hư không giới hoa diệm vân, hương diệm vân, bảo diệm vân, Kim cương diệm vân, thiêu hương diệm vân, điện quang diệm vân, Tỳ Lô Giá Na ma-ni bảo diệm vân, nhất thiết kim quang diệm vân, thắng tạng ma-ni Vương quang diệm vân, đẳng tam thế Như Lai hải quang diệm vân, nhất nhất giai tùng mao khổng trung xuất, biến hư không giới.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Tồi Phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội, đồng đến chỗ đức Phật. Ở trong tất cả lỗ lông hiện ra mây hoa diệm khắp hư không giới, mây hương diệm, mây bửu diệm, mây kim cang diệm, mây thiêu hương diệm, mây điển quang diệm, mây tỳ lô giá na ma ni bửu diệm, mây nhứt thiết kim quang diệm, mây thắng tạng ma ni vương quang diệm, mây đồng tam thế Như Lai hải quang diệm, mỗi mỗi đều từ những lỗ lông hiện ra khắp hư không giới.
Giảng: Trong đạo tràng của đức Phật đó, có vị Bồ Tát tên là Tồi Phá Nhất Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi biển thế giới tụ hội, cùng nhau đi đến đạo tràng của Phật. Ở trong tất cả lỗ chân lông trên thân Bồ Tát, hiện ra mây hoa diệm đồng cõi hư không, mây hương diệm, mây bảo diệm, mây kim cang diệm, mây hương đốt diệm, mây điện quang diệm, mây Tỳ Lô Giá Na ma ni bảo diệm, mây nhất thiết kim quang diệm, mây thắng tạng ma ni vương quang diệm, mây hải quang diệm đồng ba đời Như Lai. Mỗi mỗi thứ mây đó, đều từ trong lỗ chân lông hiện ra, đầy khắp cõi hư không.
Đáo Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư Tây Nam phương hóa tác phổ hiện thập phương Pháp giới quang minh võng đại ma ni bảo lâu các cập hương đăng diệm bảo liên hoa tạng sư tử chi tọa, dĩ ly cấu tạng ma-ni võng La phước kỳ thân, trước xuất nhất thiết chúng sanh phát thú âm ma-ni Vương nghiêm sức quan, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Giảng: Khi đã đến chỗ đức Phật chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây Nam hóa làm lưới phổ hiện thập phương pháp giới quang minh lâu các đại ma ni bửu, và tòa sư tử hương đăng diệm bửu liên hoa tạng, dùng lưới ly cấu tạng ma ni choàng trên thân, đội mảo xuất nhứt thiết chúng sanh phát thu âm ma ni vương nghiêm sức, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Các Ngài đến đạo tràng của đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật. Bèn ở phương tây nam, hoá làm lầu các Phổ hiện thập phương pháp giới quang minh võng đại ma ni bảo, và toà sư tử Hương đăng diễm bảo liên hoa tạng. Dùng lưới ma ni ly cấu tạng, phủ trên thân Bồ Tát, đầu đội mão Vang ra tiếng phát thú tất cả chúng sinh nghiêm sức ma ni vương. Ngài cùng với quyến thuộc cùng đến, đều ngồi kiết già.
Tây Bắc phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại, hữu thế giới, danh: Tỳ Lô Giá Na nguyện ma-ni Vương tạng, Phật hiệu: phổ quang minh tối thắng Tu-Di Vương.
Phương Tây Bắc qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Ma Ni Vương Tạng. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Tối Thắng Tu Di Vương.
Giảng: Ở phương tây bắc qua khỏi biển thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, có một thế giới tên là Tỳ Lô Giá Na Nguyện Ma Ni Vương Tạng. Đức Phật hiệu là Phổ Quang Minh Tối Thắng Tu Di Vương.
Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: nguyện trí quang minh tràng, dữ thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, ư niệm niệm trung, nhất thiết tướng hảo, nhất thiết mao khổng, nhất thiết thân phần, giai xuất tam thế nhất thiết Như Lai hình tượng vân, nhất thiết Bồ Tát hình tượng vân, nhất thiết Như Lai chúng hội hình tượng vân, nhất thiết Như Lai biến hóa thân hình tượng vân, nhất thiết Như Lai bản sanh thân hình tượng vân, nhất thiết Thanh văn Bích Chi Phật hình tượng vân, nhất thiết Như Lai Bồ-đề trường hình tượng vân, nhất thiết Như Lai thần biến hình tượng vân, nhất thiết thế gian chủ hình tượng vân, nhất thiết thanh tịnh quốc độ hình tượng vân, sung mãn hư không.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Nguyện Trí Quang Minh Tràng, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong khoảng mỗi niệm, nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần đều hiện ra mây hình tượng tất cả tam thế Như Lai, mây hình tượng tất cả Bồ Tát, mây hình tượng chúng hội của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân biến hoá của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân bổn sanh của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả Thanh văn, Bích Chi Phật, mây hình tượng Bồ đề tràng của tất cả Như Lai, mây hình tượng thần biến của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả thế gian chủ, mây hình tượng tất cả quốc độ thanh tịnh, đầy khắp hư không.
Giảng: Trong đại pháp hội của đức Phật đó, có vị Bồ Tát tên là Nguyện Trí Quang Minh Tràng. Với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi biển thế giới tụ hội, cùng nhau đi đến đạo tràng của Phật. Ở trong niệm niệm của vị Bồ Tát đó, tất cả tướng tốt, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần, đều xuất hiện mây hình tượng tất cả Như Lai ba đời. Mây hình tượng tất cả Bồ Tát. Mây hình tượng chúng hội tất cả Như Lai. Mây hình tượng thân biến hoá của tất cả Như Lai. Mây hình tượng thân bổn sanh của tất cả Như Lai. Mây hình tượng tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật. Mây hình tượng bồ đề tràng của tất cả Như Lai. Mây hình tượng thần biến của tất cả Như Lai. Mây hình tượng tất cả thế gian chủ. Mây hình tượng tất cả cõi nước thanh tịnh. Đủ thứ mây hình tượng đầy khắp hư không.
Chí Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư Tây Bắc phương hóa tác phổ chiếu thập phương ma-ni bảo trang nghiêm lâu các cập phổ chiếu thế gian bảo liên hoa tạng sư tử chi tọa, dĩ Vô năng thắng quang minh trân châu võng La phước kỳ thân, trước phổ quang minh ma-ni bảo quán, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Tây Bắc hóa làm lâu các ma ni bửu trang nghiêm phổ chiếu thập phương và toà sư tử bửu liên hoa tạng phổ chiếu thế giang. Dùng lưới chơn châu vô năng thắng quang minh choàng trên thân, đội mão phổ quang minh ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Ngài đến đạo tràng của đức Phật rồi, đảnh lễ chân Phật. Bèn ở phương tây bắc, hoá làm lầu các Phổ chiếu thập phương ma ni bảo trang nghiêm, và toà sư tử Phổ chiếu thế gian bảo liên hoa. Dùng lưới Vô năng thắng quang minh chân châu, phủ trên thân Bồ Tát, đầu đội mão Phổ quang minh ma ni bảo. Ngài cùng với quyến thuộc cùng đến, đều ngồi kiết già.
Hạ phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: nhất thiết Như Lai viên mãn quang phổ chiếu, Phật hiệu: hư không vô ngại tướng trí tràng Vương.
Hạ phương qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhứt Thiết Như Lai Viên Mãn Quang Phổ Chiếu. Ðức Phật nơi đó hiệu là Hư Không Vô Ngại Tướng Trí Tràng Vương.
Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: phá nhất thiết chướng dũng mãnh trí Vương, dữ thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu, lai hướng Phật sở, ư nhất thiết mao khổng trung, xuất thuyết nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn hải âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết tam thế Bồ Tát tu hành phương tiện hải âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết Bồ Tát sở khởi nguyện phương tiện hải âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết Bồ Tát thành mãn thanh tịnh Ba-la-mật phương tiện hải âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết Bồ Tát viên mãn hạnh biến nhất thiết sát âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết Bồ Tát thành tựu tự tại dụng âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết Như Lai vãng nghệ đạo tràng phá ma quân chúng thành đẳng chánh giác tự tại dụng âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết Như Lai chuyển pháp luân khế Kinh môn danh hiệu hải âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết tùy ưng giáo hóa điều phục chúng sanh pháp phương tiện hải âm thanh vân, xuất thuyết nhất thiết tùy thời, tùy thiện căn, tùy nguyện lực phổ lệnh chúng sanh chứng đắc trí tuệ phương tiện hải âm thanh vân.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong tất cả lỗ lông hiện ra mây âm thanh nói ngữ ngôn hải của tất cả chúng sanh mây âm thanh nói tu hành phương tiện hải của tất cả tam thế Bồ Tát, mây âm thanh nói phát nguyện phương tiện hải của tất cả Bồ Tát, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành mãn thanh tịnh Ba la mật phương tiện hải, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát viên mãn hạnh khắp tất cả cõi, mây âm thanh nói tất cả Bồ Tát thành tựu tự tại dụng, mây âm thanh nói tự tại dụng của tất cả Như Lai qua ngồi đạo tràng phá chúng ma quân thành Ðẳng Chánh Giác, mây âm thanh nói tất cả Như Lai chuyển pháp luân khế kinh: môn danh hiệu hải, mây âm thanh nói tất cả pháp phương tiện hải tùy cơ giáo hóa đều phục chúng sanh, mây âm thanh nói tất cả phương tiện hải tùy thời tùy thiện căn tùy nguyện lực khiến khắp chúng sanh chứng được trí huệ.
Giảng: Trong chúng pháp hội của đức Phật đó, có vị Bồ Tát tên là Phá Nhất Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương. Ngài với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi biển thế giới tụ hội, cùng nhau đi đến đạo tràng của Phật. Ở trong tất cả lỗ chân lông của Bồ Tát, đều hiện ra mây âm thanh nói biển ngôn ngữ của tất cả chúng sinh. Hiện ra mây âm thanh nói biển phương tiện tu hành của tất cả Bồ Tát ba đời. Hiện ra mây âm thanh nói biển phương tiện khởi đại nguyện thuở xưa của tất cả Bồ Tát. Hiện ra mây âm thanh nói biển phương tiện thành tựu viên mãn Ba La Mật thanh tịnh của tất cả Bồ Tát. Hiện ra mây âm thanh nói hạnh viên mãn của tất cả Bồ Tát khắp tất cả cõi. Hiện ra mây âm thanh nói thành tựu tự tại dụng của tất cả Bồ Tát. Hiện ra mây âm thanh nói tự tại dụng của tất cả Như Lai đi đến đạo tràng phá chúng ma quân thành Đẳng Chánh Giác. Hiện ra mây âm thanh nói tất cả Như Lai chuyển pháp luân, và diễn nói tất cả Tu Đa La, tất cả khế kinh môn, và diễn nói biển danh hiệu của Phật. Danh hiệu của Phật vô lượng vô tận, ban đầu mỗi vị Phật đều có một vạn danh hiệu, về sau vì con người nhớ không hết, nên giảm còn một ngàn, rồi giảm xuống còn một trăm, rồi giảm xuống còn mười danh hiệu – Tức là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Lại hiện ra mây âm thanh nói biển pháp phương tiện tất cả tuỳ ứng giáo hoá điều phục chúng sinh. Lại hiện ra mây âm thanh nói biển phương tiện, tất cả tuỳ thời, tuỳ lúc, tuỳ căn lành của chúng sinh, tuỳ nguyện lực của chúng sinh, khắp khiến chúng sinh chứng được vô lượng vô biên trí huệ.
Đáo Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư hạ phương hóa tác hiện nhất thiết Như Lai cung điện hình tượng chúng bảo trang nghiêm lâu các cập nhất thiết bảo liên hoa tạng sư tử chi tọa, trước phổ hiện đạo tràng ảnh ma-ni bảo quán, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chư Phật, liền ở Hạ phương hóa làm lâu các chúng bửu trang nghiêm hiện hình tượng cung điện của tất cả Như Lai, và toà sư tử bửu liên hoa tạng, đội mão phổ hiện đạo tràng ảnh ma ni bửu, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên toà đó.
Tất cả Bồ Tát đó đến đạo tràng của đức Phật, đảnh lễ chân Phật rồi. Bèn ở phương dưới, hoá làm lầu các Hiện tất cả Như Lai cung điện hình tượng chúng bảo trang nghiêm, và toà sư tử Nhất thiết bảo liên hoa. Hết thảy ở trong đạo tràng, hiện ra mão Phổ hiện đạo tràng ảnh ma ni bảo. Ngài cùng với quyến thuộc cùng đến, đều ngồi kiết già.
Thượng phương qua bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải ngoại hữu thế giới, danh: thuyết Phật chủng tánh vô hữu tận, Phật hiệu: phổ trí luân quang minh âm.
Thượng phương qua khởi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Thuyết Phật Chủng Tánh Vô Hữu Tận. Ðức Phật nơi đó hiệu là Phổ Trí Luân Quang Minh Âm.
Giảng: Ở phương trên qua khỏi biển thế giới, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, có thế giới tên là Thuyết Phật Chủng Tánh Vô Hữu Tận. Đức Phật hiệu là Phổ Trí Luân Quang Minh Âm.
Bỉ Phật chúng trung hữu Bồ Tát, danh: Pháp giới sái biệt nguyện, dữ thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu, phát bỉ đạo tràng lai hướng thử Ta Bà thế giới Thích Ca Mâu Ni Phật sở, ư nhất thiết tướng hảo, nhất thiết mao khổng, nhất thiết thân phần, nhất thiết chi tiết, nhất thiết trang nghiêm cụ, nhất thiết y phục trung, hiện Tỳ Lô Giá Na đẳng quá khứ nhất thiết chư Phật, vị lai nhất thiết chư Phật, dĩ đắc thọ kí, vị thọ kí giả, hiện tại thập phương nhất thiết quốc độ, nhất thiết chư Phật tinh kỳ chúng hội, diệc hiện quá khứ hành đàn na Ba-la-mật cập kỳ nhất thiết thọ bố thí giả chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ hành thi-la Ba-la-mật chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ hành Sạn-đề Ba-la-mật cát tiệt chi thể tâm vô động loạn chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ hành tinh tấn Ba-la-mật dũng mãnh bất thoái chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ cầu nhất thiết Như Lai Thiền Ba-la-mật hải nhi đắc thành tựu chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ cầu nhất thiết Phật sở chuyển pháp luân sở thành tựu pháp phát dũng mãnh tâm nhất thiết giai xả chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ lạc kiến nhất thiết Phật, lạc hành nhất thiết Bồ Tát đạo, lạc hóa nhất thiết chúng sanh giới chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ sở phát nhất thiết Bồ Tát đại nguyện thanh tịnh trang nghiêm chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ Bồ Tát sở thành lực ba-la-mật dũng mãnh thanh tịnh chư bổn sự hải, diệc hiện quá khứ nhất thiết Bồ Tát sở tu viên mãn trí Ba-la-mật chư bổn sự hải; như thị nhất thiết bổn sự hải, tất giai biến mãn quảng đại Pháp giới.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ Tát hiệu là Pháp Giới Sai Biệt Nguyện, cùng thế giới hải vi trần số Bồ Tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần, tất cả chi tiết, tất cả đồ trang nghiêm, tất cả y phục hiện ra tất cả chư Phật quá khứ như đức Tỳ Lô Giá Na v.v… tất cả chư Phật vị lai hoặc đã được thọ ký hay chưa được thọ ký, hiện tại mười phương tất cả quốc độ tất cả chư Phật và chúng hội. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Ðàn Ba la mật và tất cả người thọ bố thí thuở quá khứ. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Thi Ba la mật thuở quá khứ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành nhẫn nhục Ba La mật cắt dứt chi thể tâm không động loạn. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành Tinh tấn Ba la mật dũng mãnh bất thối. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu Như Lai Thiền Ba la mật hải mà được thành tựu. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu chư Phật chuyển pháp luân mà được thành tựu pháp phát tâm dũng mãnh tất cả đều xả bỏ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở qúa khứ thích thấy chư Phật, thích hành Bồ Tát đạo, thích giáo hoá chúng sanh. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ những Bồ Tát đại nguyện thanh tịnh trang nghiêm. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ chư Bồ Tát thanh lực Ba la mật dũng mãnh thanh tịnh. Cũng hiện những bổ sự hải thuở quá khứ tất cả Bồ Tát tu viên mãn trí Ba la mật. Tất cả những bổ sự hải như vậy thảy đều đầy khắp quảng đại pháp giới.
Giảng: Trong đại chúng pháp hội của đức Phật đó, có Bồ Tát tên là Pháp Giới Sai Biệt Nguyện. Ngài với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi biển thế giới tụ hội, cùng đi đến đạo tràng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thế giới Ta Bà nầy. Trong tất cả tướng tốt, trong tất cả lỗ chân lông, trong tất cả thân phần, trong tất cả chi tiết, trong tất cả đồ trang nghiêm, trong tất cả y phục, đều hiện ra Tỳ Lô Giá Na đồng với tất cả chư Phật quá khứ, tất cả chư Phật vị lai, Bồ Tát đã được thọ ký, hoặc chưa được thọ ký. Hiện tại tất cả cõi nước mười phương, tất cả chư Phật, và đại chúng trong pháp hội, cũng hiện ra hạnh bố thí Ba La Mật đã tu trong quá khứ, và sự tích tất cả những người thọ thí, các biển bổn sự, vì quá nhiều nên gọi là biển. Cũng hiện ra hạnh trì giới Ba La Mật trong quá khứ, tu các thứ biển bổn sự. Cũng hiện ra hạnh nhẫn nhục Ba La Mật trong quá khứ, các vị Phật Bồ Tát đó cắt đứt chi thể, nhưng tâm không tán loạn, chẳng giao động, rất nhiều đủ thứ các biển bổn sự. Cũng hiện ra hạnh tinh tấn Ba La Mật trong quá khứ, dũng mãnh chẳng thối chuyển, các biển bổn sự. Cũng hiện ra cầu biển thiền Ba La Mật của tất cả Như Lai trong quá khứ, mà được thành tựu, các biển bổn sự. Cũng hiện ra cầu tất cả chư Phật chuyển bánh xe pháp trong quá khứ, pháp được thành tựu, phát đại tâm dũng mãnh, tất cả đều bố thí, thí xả được đủ thứ các biển bổn sự. Cũng hiện ra sự ưa thấy tất cả chư Phật quá khứ, thích tu hành tất cả Bồ Tát đạo, thích giáo hoá tất cả cõi chúng sinh, các biển bổn sự. Cũng hiện ra phát tất cả Bồ Tát đại nguyện quá khứ, thanh tịnh trang nghiêm, các biển bổn sự. Cũng hiện ra thành tựu lực Ba La Mật của Bồ Tát quá khứ, dũng mãnh thanh tịnh, các biển bổn sự. Cũng hiện ra sở tu trí huệ Ba La Mật viên mãn của tất cả Bồ Tát quá khứ, các biển bổn sự. Tất cả biển bổn sự như vậy, thảy đều đầy khắp pháp giới rộng lớn.
Chí Phật sở dĩ, đảnh lễ Phật túc, tức ư thượng phương hóa tác nhất thiết Kim Cương tạng trang nghiêm lâu các cập đế thanh Kim Cương vương liên hoa tạng sư tử chi tọa, dĩ nhất thiết bảo quang minh ma-ni Vương võng La phước kỳ thân, dĩ diễn thuyết tam thế Như Lai danh ma-ni bảo vương vi kế minh châu, dữ kỳ quyến thuộc kết già phu tọa.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ Tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở Thượng phương hóa làm lâu các kim cang tạng trang nghiêm, và toà sư tử liên hoa tạng đế thanh kim cang vương, dùng lưới bửu quang minh ma ni vương choàng trên thân dùng ma ni bửu vương diễn thuyết tam thế Như Lai danh hiệu làm minh châu trên mão, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Vị đại Bồ Tát đó đến trước đức Phật, đảnh lễ chân Phật rồi. Bèn ở phương trên, hoá làm lầu các Nhất thiết kim cang tạng trang nghiêm, và toà sư tử Đế thanh kim cang vương liên hoa tạng. Dùng lưới Nhất thiết bảo quang minh ma ni vương, phủ trên thân Bồ Tát. Dùng ma ni bảo vương diễn nói danh hiệu Như Lai ba đời làm búi tóc minh châu. Cùng với quyến thuộc đều ngồi kiết già.
Như thị thập phương nhất thiết Bồ Tát tinh kỳ quyến thuộc, giai tùng Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện trung sanh, dĩ tịnh trí nhãn kiến tam thế Phật, phổ văn nhất thiết chư Phật Như Lai sở chuyển pháp luân, tu-đa-la hải, dĩ đắc chí ư nhất thiết Bồ Tát tự tại bỉ ngạn; ư niệm niệm trung hiện Đại thần biến, thân cận nhất thiết chư Phật Như Lai, nhất thân sung mãn nhất thiết thế giới nhất thiết Như Lai chúng hội đạo tràng, ư nhất trần trung phổ hiện nhất thiết thế gian cảnh giới, giáo hóa thành thục nhất thiết chúng sanh vị tằng thất thời, nhất mao khổng trung xuất nhất thiết Như Lai thuyết Pháp âm thanh
Mười phương tất cả Bồ Tát và quyến thuộc đều từ trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát mà sanh, dùng trí nhãn thanh tịnh thấy tam thế Phật, khắp nghe tu đa la hải của chư Phật chuyển pháp luân, đã được đến nơi tất cả Bồ Tát tự tại bĩ ngạn. Trong mỗi niệm hiện đại thần biến. Gần gũi tất cả chư Phật Như Lai. Một thân đầy khắp tất chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai trong tất cả thế giới. Trong mỗi vi trần, hiện khắp tất cả cảnh giới thế gian. Giáo hóa thành tựu tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời. Trong một lỗ lông phát ra âm thanh thuyết pháp của tất cả Như Lai.
Giảng: Tất cả Bồ Tát mười phương như vậy, cùng với quyến thuộc, đều từ trong hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền tu hành sinh ra. Các Ngài dùng mắt trí huệ thanh tịnh, thấy tất cả chư Phật ba đời. Khắp nghe tất cả chư Phật Như Lai chuyển bánh xe diệu pháp, biển Kinh tạng Tu Đa La. Đều đã đến được bờ bên kia tất cả Bồ Tát tự tại. Các Ngài ở trong niệm niệm hiện đại thần biến. Gần gũi tất cả chư Phật Như Lai. Các Ngài ở trong một thân đầy khắp tất cả thế giới, chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai. Bồ Tát có thể ở trong một hạt bụi, khắp hiện cảnh giới tất cả thế gian. Lại có thể giáo hoá thành thục tất cả chúng sinh chưa từng lỗi thời. Chúng sinh nào đáng được độ, bèn đi độ, tuyệt đối chẳng bỏ qua cơ hội. Ở trong một lỗ lông vang ra âm thanh thuyết pháp của tất cả Như Lai.
Tri nhất thiết chúng sanh tất giai như huyễn, tri nhất thiết Phật tất giai như ảnh, tri nhất thiết chư thú thọ sanh tất giai như mộng, tri nhất thiết nghiệp báo như kính trung tượng, tri nhất thiết chư hữu sanh khởi như nhiệt thời diệm, tri nhất thiết thế giới giai như biến hóa; thành tựu Như Lai thập lực, vô úy, dũng mãnh tự tại, năng sư tử hống, thâm nhập vô tận biện tài đại hải, đắc nhất thiết chúng sanh ngôn từ hải chư Pháp trí; ư hư không Pháp giới sở hạnh vô ngại,
Biết tất cả chúng sanh thảy đều như huyễn. Biết tất cả đức Phật thảy đều như ảnh. Biết tất cả loài thọ sanh thảy đều như mộng. Biết tất cả nghiệp báo thảy đều như tượng trong gương. Biết tất cả những gì có sanh khởi thảy đều như ánh nắng gắt. Biết tất cả thế giới đều như biến hóa. Thành tựu Thập lực vô uý của đức Như Lai. Dũng mãnh tự tại hay sư tử hống. Vào sâu trong biển cả vô tận biện tài. Ðược ngôn từ hải của tất cả chúng sanh. Những pháp trí nơi hư không pháp giới, việc làm vô ngại.
Giảng: Biết tất cả chúng sinh thảy đều như huyễn hoá. Lại biết tất cả Phật thảy đều như bóng. Lại biết tất cả các cõi thọ sanh thảy đều như mộng. Do đó có câu
“Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như vậy”.
Bồ Tát biết tất cả nghiệp báo như hình trong gương. Lại biết tất cả các cõi sinh khởi như ánh nắng gắt. Lại biết tất cả thế giới đều như biến hoá. Những vị Bồ Tát đó đều thành tựu mười trí lực, bốn vô sở uý của Như Lai, đã đắc được sự dũng mãnh tự tại, hay làm sư tử hống. Vào sâu vô tận biển cả biện tài. Lại đắc được biển lời lẽ và các pháp trí huệ của tất cả chúng sinh. Hành đạo trong tận hư không biến pháp giới mà chẳng có sự chướng ngại nào.
Tri nhất thiết pháp vô hữu chướng ngại; nhất thiết Bồ Tát thần thông cảnh giới tất dĩ thanh tịnh, dũng mãnh tinh tấn, tồi phục ma quân; hằng dĩ trí tuệ liễu đạt tam thế, tri nhất thiết pháp do như hư không, vô hữu vi tránh, diệc vô thủ trước; tuy cần tinh tấn nhi tri nhất thiết trí chung vô sở lai, tuy quán cảnh giới nhi tri nhất thiết hữu tất bất khả đắc; dĩ phương tiện trí nhập nhất thiết Pháp giới, dĩ ình đẳng trí nhập nhất thiết quốc độ, dĩ tự tại lực lệnh nhất thiết thế giới triển chuyển tướng nhập ư nhất thiết thế giới; xứ xứ thọ sanh, kiến nhất thiết thế giới chủng chủng hình tướng; ư vi tế cảnh hiện quảng đại sát, ư quảng đại cảnh hiện vi tế sát;
Biết tất cả pháp không chướng ngại. Tất cả Bồ Tát thần thông cảnh giới đều đã thanh tịnh. Dũng mãnh tinh tấn xô dẹp ma quân. Hằng dùng trí huệ thấu rõ tam thế. Biết tất cả pháp dường như hư không, chẳng có nghịch trái cũng không chấp lấy. Dầu siêng tinh tấn mà biết nhứt thiết trí trọn không chỗ đến. Dầu quán cảnh giới mà biết tất cả những gì có đều là bất khả đắc. Dùng trí phương tiện nhập tất cả pháp giới. Dùng trí bình đẳng nhập tất cả quốc độ. Dùng sức tự tại khiến tất cả thế giới xoay vần nhập nhau. Xứ xứ thọ sanh trong tất cả thế giới. Thấy những loại hình tướng của tất cả thế giới. Nơi cảnh vi tế hiện cõi quảng đại. Nơi cảnh quảng đại hiện cõi vi tế.
Giảng: Bồ Tát lại biết tất cả pháp không có bất cứ vật gì chướng ngại. Thần thông cảnh giới của tất cả Bồ Tát đó, đều do bởi thanh tịnh mà sinh ra. Các Ngài dũng mãnh tinh tấn, hàng phục tất cả ma quân. Luôn luôn dùng trí huệ để thấu đạt đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai ba đời. Lại biết tất cả pháp như hư không, rõ bất khả đắc, không có trái nghịch, chẳng có đúng, hoặc không đúng, cũng không chấp lấy một tướng nào hết. Tuy siêng tinh tấn, mà biết nhất thiết trí trọn không chỗ đến. Tuy quán sát cảnh giới, mà biết tất cả cảnh giới và tất cả pháp hữu vi, đều bất khả đắc. Các Ngài dùng trí huệ phương tiện, vào tất cả pháp giới. Dùng trí huệ bình đẳng, vào tất cả cõi nước. Dùng lực tự tại, khiến cho tất cả thế giới lần lược vào với nhau. Các Ngài ở trong tất cả thế giới, nơi nơi thọ sanh. Thấy được tất cả thế giới, đủ thứ hình tướng. Trong cảnh giới vi tế, có thể hiện ra cõi nước rộng lớn, đó là trong nhỏ hiện lớn. Và trong cảnh giới rộng lớn, hiện ra cõi nước vi tế, đó là trong lớn hiện nhỏ.
Ư nhất Phật sở nhất niệm chi khoảnh, đắc nhất thiết Phật uy thần sở gia, phổ kiến thập phương vô sở mê hoặc, ư sát-na khoảnh tất năng vãng nghệ. Như thị đẳng nhất thiết Bồ Tát mãn Thệ đa lâm, giai thị Như Lai uy thần chi lực.
Nơi một chỗ đức Phật, trong khoảng một niệm được tất cả đức Phật oai thần gia hộ. Thấy khắp mười phương không bị mê lầm. Trong khoảng sát na đều có thể qua đến. Tất cả Bồ Tát có công đức trí huệ vô biên như vậy ngồi đầy trong rừng Thệ Ða. Ðây là nương thần lực của đức Như Lai.
Giảng: Ở tại đạo tràng của mỗi vị Phật, trong khoảng một niệm, liền được oai thần lực của tất cả chư Phật mười phương gia bị. Thấy khắp mười phương thế giới, không bị chút mê hoặc nào. Trong khoảng sát na, đều có thể qua đến được. Tất cả Bồ Tát như vậy, đều đầy dẫy khắp đạo tràng rừng Thệ Đa, đều nhờ oai thần lực của Như Lai.
Vu thời, thượng thủ chư đại Thanh văn Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ly-bà-đa, Tu-bồ-đề, a (Nậu )A-nậu-lâu-đà, Nan-đà, Kiếp-tân-na, Ca-chiên-diên, Phú lâu na đẳng chư đại Thanh văn, tại Thệ đa lâm giai tất bất kiến Như Lai thần lực, Như Lai nghiêm hảo, Như Lai cảnh giới, Như Lai du hí, Như Lai thần biến, Như Lai tôn thắng, Như Lai diệu hạnh, Như Lai uy đức, Như Lai trụ trì, Như Lai tịnh sát,
Lúc đó chư thượng thủ đại Thanh Văn các Trưởng lão: Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ly Bà Ða, Tu Bồ Ðề, A Nâu Lâu Ðà, Na Ðà, Kiếp Tân Na, Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na v.v… Chư đại Thanh Văn này ở tại rừng Thệ Ða mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai. Chẳng thấy sự nghiêm hảo của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hí của Như Lai. Chẳng thấy sự thần biến của Như Lai. Chẳng thấy sự tôn thắng của Như Lai. Chẳng thấy sự diệu hạnh và oai đức của Như Lai. Chẳng thấy sự trụ trì của Như Lai. Chẳng thấy cõi thanh tịnh của Như Lai.
Giảng: Lúc đó, thượng thủ các vị đại Thanh Văn, gồm có : Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ly Bà Đa, Tu Bồ Đề, A Nậu Lâu Đà, Nan Đà, Kiếp Tân Na, Ca Chiên Diên, Phú Tân Na, các vị đại Thanh Văn như vậy, ở trong đạo tràng rừng Thệ Đa. Nhưng các Ngài đều chẳng thấy đạo oai thần lực Như Lai, cũng chẳng thấy sự trang nghiêm tốt đẹp của Như Lai, cũng chẳng thấy cảnh giới của Như Lai, cũng chẳng thấy sự du hí của Như Lai, cũng chẳng thấy thần thông biến hoá của Như Lai, cũng chẳng thấy sự tôn quý thù thắng của Như Lai, cũng chẳng thấy diệu hạnh của Như Lai, cũng chẳng thấy oai đức của Như Lai, cũng chẳng thấy sự trụ trì của Như Lai, cũng chẳng thấy cõi tịnh của Như Lai.
Diệc phục bất kiến bất khả tư nghị Bồ Tát cảnh giới, Bồ Tát đại hội, Bồ Tát phổ nhập, Bồ Tát phổ chí, Bồ Tát phổ nghệ, Bồ Tát thần biến, bồ tát du hí, Bồ Tát quyến thuộc, Bồ Tát phương sở, Bồ Tát trang nghiêm sư tử tọa, Bồ Tát cung điện, Bồ-tát trụ xứ, Bồ Tát sở nhập tam muội tự tại, Bồ Tát quan sát, Bồ Tát tần thân, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát cúng dường, Bồ Tát thọ kí, Bồ Tát thành thục, Bồ Tát dũng kiện, Bồ Tát Pháp thân thanh tịnh, Bồ Tát trí thân viên mãn, Bồ Tát nguyện thân thị hiện, Bồ Tát sắc thân thành tựu, Bồ Tát chư tướng cụ túc thanh tịnh, Bồ Tát thường quang chúng sắc trang nghiêm, Bồ Tát phóng đại quang võng, Bồ Tát khởi biến hóa vân, Bồ Tát thân biến thập phương, Bồ Tát chư hạnh viên mãn. Như thị đẳng sự, nhất thiết Thanh văn chư Đại đệ-tử giai tất bất kiến.
Lại cũng chẳng thấy cảnh giới Bồ Tát bất tư nghì, Bồ Tát đại hội, Bồ Tát phổ nhập, Bồ Tát phổ chí, Bồ Tát phổ nghệ, Bồ Tát thần biến, Bồ Tát du hí, Bồ Tát quyến thuộc, Bồ Tát phương sở, Bồ Tát trang nghiêm sư tử tòa, Bồ Tát cung điện, Bồ Tát trụ xứ, Bồ Tát nhập tam muội tự tại, Bồ Tát quán sát, Bồ Tát tần thân, Bồ Tát dũng mãnh, Bồ Tát cúng dường, Bồ Tát thọ ký, Bồ Tát thành thục, Bồ Tát dũng kiện, Bồ Tát pháp thân thanh tịnh, Bồ Tát trí thân viên mãn, Bồ Tát nguyện thân thị hiện, Bồ Tát sắc thân thành tựu, Bồ Tát tướng hảo cụ túc thanh tịnh, Bồ Tát quang minh thường nhiều màu trang nghiêm, Bồ Tát phóng lưới đại quang minh, Bồ Tát khởi mây biến hóa, Bồ Tát thân khắp mười phương, Bồ Tát các hạnh viên mãn. Những sự như vậy, tất cả Thanh Văn đại A La Hán thảy đều không thấy.
Giảng: Những vị đại Thanh Văn đệ tử đồng thời cũng chẳng thấy cảnh giới không thể nghĩ bàn của Bồ Tát: Bồ Tát đại hội. Bồ Tát cùng nhau vào khắp. Bồ Tát cùng nhau đi đến khắp. Bồ Tát qua đến khắp đạo tràng. Bồ Tát thần biến. Bồ Tát du hí. Bồ Tát quyến thuộc. Bồ Tát phương sở. Bồ Tát trang nghiêm toà sư tử. Bồ Tát cung điện. Bồ Tát trụ xứ. Bồ Tát vào tam muội chánh định chánh thọ tự tại. Bồ Tát quán sát. Bồ Tát tần thân tam muội. Bồ Tát dũng mãnh. Bồ Tát cúng dường chư Phật. Bồ Tát được chư Phật thọ ký. Bồ Tát quả vị thành thục. Bồ Tát dũng kiện. Bồ Tát pháp thân thanh tịnh. Bồ Tát trí thân viên mãn. Bồ Tát nguyện thân thị hiện tất cả mọi nơi. Bồ Tát sắc thân thành tựu. Bồ Tát các tướng thanh tịnh đầy đủ. Bồ Tát thường quang các sắc trang nghiêm. Bồ Tát phóng lưới đại quang minh. Bồ Tát khởi mây biến hoá. Bồ Tát thân khắp mười phương tất cả mọi nơi. Bồ Tát các hạnh đều viên mãn. Đủ thứ những việc ở trên như vậy, tất cả các đại đệ tử Thanh Văn, thảy đều không nhìn thấy.
Hà dĩ cố? dĩ thiện căn bất đồng cố,
Tại sao vậy ? Vì thiện căn chẳng đồng.
Giảng: Đó là nguyên nhân gì? Bởi vì các Ngài căn lành không đồng.
Bổn bất tu tập kiến Phật tự tại thiện căn cố,
Vì vốn không tu tập thiện căn thấy Phật tự tại.
Giảng: Vì thuở xưa các Ngài không tu tập pháp môn thấy Phật, không tu tập căn lành nhậm vận tự tại của Phật, cho nên hiện tại các Ngài không nhìn thấy Phật.
Bổn bất tán thuyết thập phương thế giới nhất thiết Phật sát thanh tịnh công đức cố
Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất cả Phật độ ở mười phương.
Giảng: Thuở xưa các Ngài cũng không tán thán khen ngợi công đức thanh tịnh tất cả cõi Phật mười phương thế giới. Ví như người tiểu thừa chẳng biết có mười phương Phật, họ chỉ biết có Phật Thích Ca Mâu Ni, nhưng chẳng thừa nhận có mười phương Phật, vì họ chẳng có tâm rộng lớn, nhìn chẳng thấy Phật, cho nên các Ngài cũng chẳng tán thán công đức thanh tịnh tất cả cõi Phật.
Bổn bất xưng thán chư Phật Thế tôn chủng chủng thần biến cố
Vì vốn chẳng ca ngợi những thần biến của chư Phật Thế Tôn.
Giảng: Các Ngài thuở xưa chẳng tán thán khen ngợi đủ thứ thần thông biến hoá của chư Phật Thế Tôn, vì nhìn chẳng thấy đủ thứ thần biến.
Bổn bất ư sanh tử lưu chuyển chi trung phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm cố
Vì vốn chẳng ở trong sanh tử phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Các Ngài xưa kia lưu chuyển ở trong sanh tử, không phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Bổn bất lệnh tha trụ Bồ-đề tâm cố
Vì vốn chẳng làm cho kẻ khác phát tâm Bồ đề.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không khiến cho người khác trụ tâm bồ đề,
Bổn bất năng lệnh Như Lai chủng tánh bất đoạn tuyệt cố
Vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt.
Giảng: Cũng chẳng khiến cho giống tánh Như Lai không đoạn tuyệt.
Bổn bất nhiếp thọ chư chúng sanh cố,
Vì vốn chẳng nhiếp thọ chúng sanh.
Giảng: Các Ngài thuở xưa cũng không nhiếp thọ các chúng sinh
Bổn bất khuyến tha tu tập Bồ Tát Ba-la-mật cố
Vì vốn chẳng khuyên kẻ khác tu hạnh Ba La mật của Bồ Tát.
Giảng: cũng chẳng khiến cho người khác tu tập pháp môn Ba La Mật của Bồ Tát.
Bổn tại sanh tử lưu chuyển chi thời bất khuyến chúng sanh cầu ư tối thắng đại trí nhãn cố
Vì lúc ở trong sanh tử lưu chuyển, vốn chẳng khuyên bảo chúng sanh cầu đại trí nhãn tối thắng.
Giảng: Các Ngài thuở xưa khi lưu chuyển trong sanh tử, không khuyên chúng sinh cầu mắt trí huệ tối thắng rộng lớn. Cho nên, chúng ta phải biết luật nhân quả: “Trồng nhân gì, được quả đó”. Vì hàng Thanh Văn nhị thừa thuở xưa chẳng tán thán Phật, chẳng có mắt đại trí huệ, cho nên hiện tại nhìn chẳng thấy được cảnh giới thù thắng của Phật.
Bổn bất tu tập sanh nhất thiết trí chư thiện căn cố
Vì vốn chẳng tu tập thiện căn phát sanh Nhứt thiết trí.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không tu tập các căn lành sanh nhất thiết trí, cho nên nhìn chẳng thấy Phật.
Bổn bất thành tựu Như Lai xuất thế chư thiện căn cố
Vì vốn chẳng thành tựu thiện căn xuất thế của Như Lai.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không thành tựu các căn lành Như Lai xuất thế.
Bổn bất đắc nghiêm tịnh Phật sát thần thông trí cố
Vì vốn chẳng được trí thần thông nghiêm tịnh Phật độ.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không đắc được thần thông trí huệ nghiêm tịnh cõi Phật.
Bổn bất đắc chư Bồ-tát nhãn sở tri cảnh cố
Vì vốn chẳng được cảnh sở tri của Bồ Tát nhãn.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không đắc được mắt biết cảnh của các Bồ Tát.
Bổn bất cầu siêu xuất thế gian bất cộng Bồ-đề chư thiện căn cố
Vì vốn chẳng cầu những thiện căn siêu xuất thế gian bất cộng Bồ đề.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không cầu các căn lành bất cộng bồ đề vượt thoát thế gian.
Bổn bất phát nhất thiết Bồ Tát chư đại nguyện cố
Vì vốn chẳng phát Bồ Tát đại nguyện.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không phát các đại nguyện của tất cả Bồ Tát.
Bổn bất tùng Như Lai gia bị chi sở sanh cố
Vì sanh ra vốn chẳng từ sự gia bị của đức Như Lai.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không do Như Lai gia bị sinh ra.
Bổn bất tri chư Pháp như huyễn, Bồ Tát như mộng cố
Vì vốn chẳng biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ Tát như mộng.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không biết các pháp như huyễn, Bồ Tát như mộng.
Bổn bất đắc chư đại Bồ-tát quảng đại hoan hỉ cố
Vì vốn chẳng được sự hoan hỷ quảng đại của chư đại Bồ Tát.
Giảng: Các Ngài thuở xưa không đắc được hoan hỉ rộng lớn của các đại Bồ Tát.
Như thị giai thị Phổ Hiền Bồ Tát trí nhãn cảnh giới, bất dữ nhất thiết nhị thừa sở cọng. Dĩ thị nhân duyên, chư đại Thanh văn bất năng kiến, bất năng trai, bất năng văn, bất năng nhập, bất năng đắc, bất năng niệm, bất năng quan sát, bất năng trù lượng, bất năng tư tánh, bất năng phân biệt; thị cố, tuy tại Thệ đa lâm trung, bất kiến Như Lai chư Đại thần biến.
Những điều trên đây đều là cảnh giới trí nhãn Phổ Hiền Bồ Tát chẳng cùng chung với tất cả hàng Nhị thừa. Do cớ này, nên chư đại Thanh văn không thấy được, chẳng biết được, chẳng nghe được, chẳng nhập được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được, chẳng tính lường được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên dầu cũng ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như Lai.
Giảng: Đủ thứ cảnh giới ở trước như vậy, đều là cảnh giới mắt trí huệ của Bồ Tát Phổ Hiền, chẳng phải với tất cả nhị thừa (Thanh Văn Duyên Giác) cùng có. Bởi nhân duyên đó, cho nên các đại Thanh Văn chẳng thấy được thân Phật Lô Xá Na ngàn trượng, cũng chẳng nghe được pháp môn viên đốn của Phật. Các Ngài chẳng nhìn thấy được, chẳng biết được, chẳng nghe được, chẳng vào được, chẳng đắc được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được, chẳng thọ lượng được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được, cho nên tuy các Ngài ở trong rừng Thệ Đa, mà chẳng thấy các đại thần biến của Như Lai.
Phục thứ, chư đại Thanh văn vô như thị thiện căn cố, vô như thị trí nhãn cố, vô như thị tam muội cố, vô như thị giải thoát cố, vô như thị thần thông cố, vô như thị uy đức cố, vô như thị thế lực cố, vô như thị tự tại cố, vô như thị trụ xứ cố, vô như thị cảnh giới cố, thị cố ư thử bất năng trai, bất năng kiến, bất năng nhập, bất năng chứng, bất năng trụ, bất năng giải, bất năng quan sát, bất năng nhẫn thọ, bất năng thú hướng, bất năng du lý. Hựu diệc bất năng quảng vi tha nhân, khai xiển giải thuyết, xưng dương thị hiện, dẫn đạo khuyến tiến, lệnh kỳ thú hướng, lệnh kỳ tu tập, lệnh kỳ an trụ, lệnh kỳ chứng nhập. Hà dĩ cố?
Lại vì chư đại Thanh Văn không có thiện căn như vậy, không có trí nhãn như vậy, không có tam muội như vậy, không có giải thoát như vậy, không có thần thông như vậy, không có oai đức như vậy, không có thế lực như vậy, không có tự tại như vậy, không có trụ xứ như vậy, không có cảnh giới như vậy, vì thế nên ở nơi đây không biết được không thấy được, không nhập được, không chứng được, không trụ được không hiểu được, không quán sát được, không nhẫn thọ được, không xu hướng được, không noi theo được. Lại cũng vì chẳng có thể vì người khác mà khai diễn giải thoát, tán thán thị hiện dắt dìu khuyến tấn, cho họ xu hướng, cho họ tu tập, cho họ an trụ, cho họ chứng nhập.
Giảng: Lại nữa, vì các vị đại Thanh Văn đó, không có căn lành thù thắng như vậy, không có mắt trí huệ như vậy, không có tam muội như vậy, không có giải thoát như vậy, không có thần thông biến hoá như vậy, không có oai đức như vậy, không có thế lực như vậy, không có tự tại như vậy, không có trụ xứ như vậy, không có cảnh giới như vậy, cho nên các Ngài ở trong đạo tràng rừng Thệ Đa, mà chẳng biết được cảnh giới của Phật, chẳng thấy được cảnh giới của Phật, chẳng vào được cảnh giới của Phật, chẳng chứng được cảnh giới của Phật, chẳng trụ được cảnh giới của Phật, chẳng hiểu được cảnh giới của Phật, chẳng quán sát được cảnh giới của Phật, chẳng nhẫn thọ được cảnh giới của Phật, chẳng xu hướng được cảnh giới của Phật, chẳng thể y chiếu theo pháp môn của Phật mà tu hành thực tiễn, cũng không thể rộng vì người khác giải thích nói rõ Phật pháp, cũng không thể tán thán thị hiện dẫn dắt chúng sinh, khuyến tấn chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh hướng về Phật pháp, tu tập Phật pháp, an trụ trong Phật pháp, chứng nhập Phật pháp, tại sao vậy?
Chư Đại đệ-tử y Thanh văn thừa nhi xuất ly cố, thành tựu Thanh văn đạo, mãn túc Thanh văn hạnh, an trụ Thanh văn quả, ư vô hữu đế đắc quyết định trí, thường trụ thật tế cứu cánh tịch tĩnh, viễn ly đại bi, xả ư chúng sanh, trụ ư tự sự; ư bỉ trí tuệ, bất năng tích tập, bất năng tu hành, bất năng an trụ, bất năng nguyện cầu, bất năng thành tựu, bất năng thanh tịnh, bất năng thú nhập, bất năng thông đạt, bất năng trai kiến, bất năng chứng đắc. Thị cố, tuy tại Thệ đa lâm trung đối ư Như Lai, bất kiến như thị quảng đại thần biến.
Tại sao vậy ? Vì chư đại đệ tử y theo Thanh Văn thừa mà xuất ly, thành tựu Thanh Văn đạo, đầy đủ Thanh Văn hạnh, an trụ Thanh Văn qủa. Nơi chơn đế vô hữu được quyết định trí, trụ luôn nơi thiệt tế rốt ráo tịch tịnh, lìa xa đại bi, bỏ các chúng sanh an trụ nơi việc của mình. Nơi trí huệ kia chẳng chứa nhóm được, chẳng tu hành được, chẳng an trụ được, chẳng nguyện cầu được, chẳng thành tựu được, chẳng thanh tịnh được, chẳng xu nhập được, chẳng thông đạt được, chẳng thấy biết được, chẳng chứng đắc được. Vì thế nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy được thần biến quảng đại của đức Như Lai.
Giảng: Vì hết thảy tất cả các đại đệ tử đều y chiếu theo pháp Thanh Văn thừa mà tu hành, chỉ cầu thoát khỏi ba cõi, thành tựu đạo Thanh Văn thừa, đầy đủ hạnh Thanh Văn thừa tu hành, an trụ nơi quả vị Thanh Văn thừa. Nơi chơn đế có không đắc được trí huệ quyết định. Không thể thường trụ ở trong thật tế mà đắc được rốt ráo tịch tĩnh. Các Ngài xả bỏ tâm đại bi, chẳng có tâm từ bi, xả bỏ tất cả chúng sinh, chỉ làm tự liễu hán, các Ngài chỉ lo việc của mình, ích kỷ tự lợi, đối với trí huệ của đại Bồ Tát, trí huệ của Phật, các Ngài không thể tích tập, không thể tu hành, không thể an trụ, không thể phát nguyện cầu pháp, cũng không thể thành tựu pháp đó, cũng không thể thanh tịnh pháp đó, cũng không thể xu nhập pháp đó, cũng không thể thông đạt pháp đó, cũng không thể thấy biết pháp đó, cũng không thể chứng được pháp đó, bởi vậy cho nên tuy các Ngài ở trong rừng Thệ Đa, mà đối với Như Lai Thế Tôn chẳng thấy thần thông biến hoá rộng lớn của Phật.
Phật tử! như hằng hà ngạn hữu bách thiên ức vô lượng ngạ quỷ, lỏa hình cơ khát, cử thể tiêu nhiên, ô thứu trương lang cạnh lai bác toát, vi khát sở bức, dục cầu thủy ẩm, tuy trụ hà biên nhi bất kiến hà; thiết hữu kiến giả, kiến kỳ khô kiệt.
Chư Phật tử ! Như ở bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ quỷ lõa lồ đói khát, khắp mình lửa cháy. Những quạ, kên kên, chó sói đua nhau rượt bắt. Các ngạ quỷ này vì quá khát muốn tìm nước uống, nhưng dầu ở bên sông mà chẳng thấy nước. Cũng có kẻ thấy sông nhưng lại thấy khô cạn.
Giảng: Các vị Phật tử! Lại như trên bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ quỷ, loã thể đói khát, toàn thân như bị lửa thiêu đốt. Đây là ví dụ hàng nhị thừa có sở tri chướng, vì chẳng thấy, cũng chẳng đắc được các pháp hỉ, nên gọi là quỷ. Lại vì chẳng đắc được y phục vô sanh nhẫn, cho nên gọi là loã thể. Lại chẳng đắc được hạnh thực pháp giới, cho nên đói khát; chẳng đắc được vị chân giải thoát, cho nên khô cạn. Những quạ, kên kên, chó sói, đua nhau rượt bắt chúng, muốn ăn chúng. Các ngạ quỷ vì quá khát bức bách, nghĩ muốn tìm nước sông uống. Tuy chúng ở bờ sông mà chẳng nhìn thấy sông. Nếu như có kẻ thấy sông, nhưng lại thấy khô cạn. Đó là ví dụ hàng nhị thừa tuy thấy được đức Thế Tôn, nhưng chỉ thấy tướng Tỳ Kheo một trượng sáu, mà chẳng nhìn thấy được pháp thân trang nghiêm của Như Lai.
Hà dĩ cố? thâm hậu nghiệp chướng chi sở phước cố.
Tại sao vậy ? Vì các ngạ quỷ này bị nghiệp chướng sâu nặng che mờ.
Giảng: Tại sao vậy? Vì quỷ đói bị nghiệp chướng sâu dày che lấp, cho nên khi chúng thấy nước sông, thì nước sông lập tức khô cạn, cho nên chẳng uống được nước.
Bỉ đại Thanh văn diệc phục như thị, tuy phục trụ tại Thệ đa lâm trung, bất kiến Như Lai quảng đại thần lực, xả nhất thiết trí, vô minh ế lòa phước kỳ nhãn cố, bất tằng chủng thực Tát bà nhã địa chư thiện căn cố.
Cũng vậy, chư đại Thanh Văn dầu đến ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy thần lực quảng đại của đức Như Lai. Vì bỏ Nhứt thiết chủng trí, bị màn vô minh che loà đôi mắt. Vì chẳng từng gieo trồng những thiện căn Nhứt thiết chủng trí.
Giảng: Tất cả các vị đại Thanh Văn đó, cũng giống như ngạ quỷ. Tuy các Ngài ở trong rừng Thệ Đa, ở trước đức Phật, mà chẳng thấy thần lực rộng lớn của Như Lai. Vì các Ngài xả bỏ nhất thiết trí, bị màn vô minh che lấp đôi mắt. Vì thuở xưa chưa từng gieo trồng các căn lành nhất thiết trí địa.
Thí như hữu nhân, ư Đại hội trung hôn thụy an tẩm, hốt nhiên mộng kiến Tu-di sơn đảnh Đế Thích sở trụ thiện kiến đại thành, cung điện, viên lâm chủng chủng nghiêm hảo, Thiên Tử, Thiên nữ bách thiên vạn ức, phổ tán thiên hoa biến mãn kỳ địa, chủng chủng y thọ xuất diệu y phục, chủng chủng hoa thọ khai phu hương khí, chư âm nhạc thọ tấu Thiên âm nhạc, Thiên chư thải nữ ca vịnh mỹ âm, vô lượng chư Thiên ư trung hí lạc, kỳ nhân tự kiến trước Thiên y phục, phổ ư kỳ xứ trụ chỉ chu toàn. Kỳ Đại hội trung nhất thiết chư nhân tuy đồng nhất xứ, bất tri bất kiến.
Ví như có người ở giữa đại hội ngủ say chiêm bao thấy trên đảnh núi Tu Di, Thiên Ðế ngự nơi thành Thiện Kiến, cung điện vườn cây các thứ nghiêm tốt. Ngàn muôn ức Thiên Tử Thiên nữ. Thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y thọ sanh ra y phục đẹp. Những hoa thọ đơm nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trổi thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm tiếng tốt. Vô lượng chư thiên ở trong đó vui chơi. Người nằm mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp Thiên cung. Ở trong đại hội tất cả mọi người dầu đồng ở một chỗ mà chẳng thấy chẳng biết cảnh giới Thiên cung như vậy.
Giảng: Ví như có người ở trong đại pháp hội nầy, ngủ say xưa. Hốt nhiên mộng thấy trên đỉnh núi Tu Di, trời Đế Thích ngự ở đại thành Thiện Kiến. Cung điện vườn rừng, đủ thứ sự trang nghiêm tốt đẹp. Thiên tử và Thiên nữ có khoảng trăm ngàn vạn ức người, khắp rải hoa trời, đầy khắp mặt đất. Đủ thứ cây y, hiện ra y phục đẹp. Đủ thứ cây hoa, nở rộ đủ thứ hoa đẹp. Tất cả cây âm nhạc, diễn tấu âm nhạc trời. Hết thảy các thể nữ trên trời, ca ngâm tiếng hay vô cùng. Vô lượng chư Thiên chúng, ở trong đó vui chơi khoái lạc. Người đó cũng nằm mộng thấy mình mặc y phục trời, cũng ở trong đại thành Thiện Kiến, đi dạo chơi khắp thiên cung. Đương thời tất cả đại chúng ở trong pháp hội, tuy cùng ở tại một chỗ, mà chẳng biết được, chẳng thấy được.
Hà dĩ cố? mộng trung sở kiến, phi bỉ Đại chúng sở năng kiến cố. Nhất thiết Bồ Tát, thế gian chư Vương diệc phục như thị, dĩ cửu tích tập thiện căn lực cố, phát nhất thiết trí quảng đại nguyện cố, học tập nhất thiết Phật công đức cố, tu hành Bồ Tát trang nghiêm đạo cố, viên mãn nhất thiết trí trí Pháp cố, mãn túc Phổ Hiền chư hạnh nguyện cố, thú nhập nhất thiết Bồ Tát trí địa cố, du hí nhất thiết Bồ Tát sở trụ chư tam muội cố, dĩ năng quan sát nhất thiết Bồ Tát trí tuệ cảnh giới vô chướng ngại cố, thị cố tất kiến Như Lai Thế Tôn bất khả tư nghị tự tại thần biến.
Cũng vậy, tất cả Bồ Tát vì từ lâu chứa nhóm thiện căn, vì phát nguyện quảng đại cầu Nhứt thiết chủng trí, vì học tập tất cả Phật công đức, vì tu hành đạo trang nhgiêm của Bồ Tát, vì viên mãn pháp Nhứt thiết chủng trí, vì đầy đủ những hạnh nguyện Phổ Hiền, vì xu nhập trí địa của tất cả Bồ Tát, vì du hí những tam muội sở trụ của tất cả Bồ Tát, vì đã có thể quán sát Cảnh giới trí huệ của tất cả Bồ Tát không chướng ngại. Do đây nên đều thấy thần biến tự tại bất tư nghì của Như Lai Thế Tôn.
Giảng: Tại sao vậy? Vì cảnh giới ở trong mộng của người đó, chẳng phải đại chúng trong pháp hội có thể thấy được. Đó là cảnh giới hư vọng, như giấc mộng. Đây là ví dụ thứ hai, ví dụ hàng Thanh Văn không biết Bồ Tát như mộng huyễn. Tất cả Bồ Tát và các ông vua thế gian, cũng lại như thế. Đó là do nhờ lâu xa tích tập sức căn lành, và vì phát đại nguyện nhất thiết trí rộng lớn, vì học tập tất cả công đức của Phật, vì tu hành đạo trang nghiêm của Bồ Tát, vì viên mãn pháp trí nhất thiết trí, vì xu nhập trí địa của tất cả Bồ Tát, vì du hí trụ nơi các tam muội của tất cả Bồ Tát, vì đã hay quán sát cảnh giới trí huệ không chướng ngại của tất cả Bồ Tát, cho nên tất cả Bồ Tát đều hoàn toàn thấy thần thông biến hoá tự tại không thể nghĩ bàn của Như Lai Thế Tôn.
Nhất thiết Thanh văn chư Đại đệ-tử, giai bất năng kiến, giai bất năng trai, dĩ vô Bồ Tát thanh Tịnh nhãn cố. Thí như tuyết sơn cụ chúng dược thảo, lương y nghệ bỉ tất năng phân biệt; kỳ chư bộ liệp, phóng mục chi nhân hằng trụ bỉ sơn, bất kiến kỳ dược.
Tất cả Thanh Văn đều chẳng thấy được, đều chẳng biết được, vì không có thanh tịnh nhãn của Bồ Tát. Ví như núi Tuyết đủ những dược thảo. Lương y đến đó đều có thể phân biệt biết. Còn những thợ săn, những người chăn súc vật thường ở trên đó mà chẳng thấy biết được thuốc.
Giảng: Tất cả chúng Thanh Văn các đại đệ tử, đều không thấy được, cũng không biết được cảnh giới thị hiện của Phật, vì các Ngài thuở xưa không phát tâm Bồ Tát rộng lớn, chẳng có mắt trí huệ thanh tịnh của Bồ Tát. Ví như tại núi Tuyết, có đủ các thứ cỏ thuốc danh quý. Nếu có vị lương y đến núi Tuyết đó tìm cỏ thuốc, thì liền phân biệt biết được tất cả cỏ thuốc trị bệnh gì? Thứ thuốc nào danh quý? Tuy ở trên núi Tuyết cũng có những thợ săn, những người chăn bò, chăn dê, sống lâu ở trên núi đó, mà chẳng thấy biết được tính chất cỏ thuốc. Cho nên tuy thấy được cỏ thuốc, cũng không nhận thức được, không thấy, không biết trên núi có cỏ thuốc.
Thử diệc như thị, dĩ chư Bồ-tát nhập trí cảnh giới, cụ tự tại lực, năng kiến Như Lai quảng đại thần biến; chư Đại đệ-tử duy cầu tự lợi, bất dục lợi tha, duy cầu tự an, bất dục an tha, tuy tại lâm trung, bất tri bất kiến.
Ðây cũng như vậy, bởi chư Bồ Tát nhập trí cảnh giới đủ sức tự tại, có thể thấy thần biến quảng đại của đức Như Lai. Chư Thanh Văn đại đệ tử chỉ cầu tự lợi chẳng muốn lợi tha, chỉ cầu tự an chẳng muốn an tha, nên dầu ở trong rừng Thệ Ða mà chẳng thấy chẳng biết.
Giảng: Tất cả các đại chúng Thanh Văn cũng như vậy, vì Bồ Tát có mắt trí huệ thanh tịnh, cho nên thấy được thần thông biến hoá rộng lớn của Phật, còn tất cả Thanh Văn không thấy được.
Vì tất cả đại Bồ Tát đều thâm nhập cảnh giới trí huệ của Phật, đầy đủ sức tự tại, cho nên thấy được thần thông biến hoá rộng lớn của Phật. Còn tất cả đại Thanh Văn đệ tử chỉ biết lợi ích chính mình, chẳng biết lợi ích cho người khác. Chỉ biết an vui chính mình, mà chẳng muốn người khác được an vui. Cho nên các Ngài tuy ở trong rừng Thệ Đa, mà chẳng biết, chẳng thấy thần thông biến hoá của Phật, cũng chẳng nhìn thấy được cảnh giới của Phật.
Ví dụ thứ ba là cỏ thuốc trên núi Tuyết là thông dụ thâm thuý, đức khó thấy, tức cũng là cảnh giới của Phật.
Thí như địa trung hữu chư Bảo Tạng, chủng chủng trân dị tất giai sung mãn, hữu nhất trượng phu thông tuệ minh đạt, thiện năng phân biệt nhất thiết phục tạng, kỳ nhân phục hưũ Đại phước đức lực, năng tùy sở dục tự tại nhi thủ, phụng dưỡng phụ mẫu, chẩn tuất thân chúc, lão, bệnh, cùng phạp mị bất quân thiệm; kỳ vô trí tuệ, vô phước đức nhân, tuy diệc chí ư Bảo Tạng chi xứ, bất tri bất kiến, bất đắc kỳ ích. Thử diệc như thị
Ví như trong đất có mỏ thất bảo. Nhà bác học trí huệ sáng suốt, có thể khéo phân biệt biết thấy những mõ báu đó. Người này có đại phước đức nên tùy ý lấy dùng tự tại: Phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp kẻ nghèo bịnh cơ hàn cô độc. Những người không trí huệ không phước đức dầu cũng đến chỗ mõ báo mà chẳng biết chẳng thấy chẳng được lợi ích. Đây cũng như thế.
Giảng: Ví như ở trong lòng đất, có đủ thứ bảo tàng, có đủ thứ báu vật trân quý, nhiều không thể tính lường. Có một vị đại trượng phu, có đại trí huệ, thông đạt tất cả pháp thế gian, khéo phân biệt biết được tất cả kho tàng. Các bảo tàng trong lòng đất như: mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ kim cương .v.v… đủ thứ khoáng sản có giá trị, ông ta đều thấy biết được. Người đó lại có đủ sức phước đức rộng lớn, cho nên có thể tuỳ ý tự tại mà lấy dùng. Ông ta đem những bảo tàng đó để phụng dưỡng cha mẹ, tặng những người thân thuộc, cho người già kẻ bệnh, bần cùng thiếu thốn, thảy đều chu cấp đầy đủ. Nhưng người không có trí huệ, người không có phước đức, tuy họ cũng đến chỗ bảo tàng, mà chẳng biết, cũng chẳng thấy bảo tàng ở dưới đất, nên không được lợi ích của bảo tàng. Các vị đại Thanh Văn đệ tử cũng như thế.
Ví dụ thứ tư là dụ bảo tàng khó biết. Tàng là thông dụ bí mật đức khó biết, tức là biệt dụ Như Lai tôn thắng đáng bảo trọng.
Chư đại Bồ-tát hữu tịnh trí nhãn, năng nhập Như Lai bất khả tư nghị thậm thâm cảnh giới, năng kiến Phật thần lực, năng nhập chư Pháp môn, năng du tam muội hải, năng cúng dường chư Phật, năng dĩ chánh Pháp khai ngộ chúng sanh, năng dĩ tứ nhiếp nhiếp thọ chúng sanh
Cũng vậy, chư đại Bồ Tát có trí nhãn thanh tịnh có thể nhập cảnh giới thậm thâm bất tư nghì, thấy được thần lực của Phật, nhập được các pháp môn, du hành được tam muội hải, hay cúng dường chư Phật, hay dùng chánh pháp khai ngộ chúng sanh, hay dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thọ chúng sanh.
Giảng: Các đại Bồ Tát vì có mắt trí huệ thanh tịnh, cho nên vào được cảnh giới thâm sâu không thể nghĩ bàn của Như Lai, thấy được thần lực của Phật, vào được tất cả các pháp môn, hay nhập vào biển tam muội, hay cúng dường tất cả chư Phật, lại hay dùng chánh pháp khai ngộ chúng sinh, lại hay dùng bốn pháp nhiếp để nhiếp thọ chúng sinh.
Chư đại Thanh văn bất năng đắc kiến Như Lai thần lực, diệc bất năng kiến chư Bồ-tát chúng. Thí như manh nhân chí đại bảo châu, nhược hành, nhược trụ, nhược tọa, nhược ngọa, bất năng đắc kiến nhất thiết chúng bảo; dĩ ất kiến cố, bất năng thải thủ, bất đắc thọ dụng. Thử diệc như thị,
Chư đại Thanh Văn chẳng thấy được thần lực của Chư Phật, cùng chẳng thấy được chúng Bồ Tát. Ví như người mù đến chỗ châu bảo, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm vẫn chẳng thấy được châu bảo. Vì không thấy nên không lấy được, chẳng dùng được. Ðây cũng như vậy
Giảng: Nhưng tất cả chúng đại Thanh Văn đệ tử đều không thể thấy được thần lực của Như Lai, cũng không thể thấy các đại chúng Bồ Tát. Đoạn này ví như người mù chẳng thấy báu vật, lại giống như người mù (chỉ Thanh Văn đệ tử) đến chỗ châu báu (chỉ diệu hạnh của Như Lai, tích hạnh viên diệu). Hoặc họ đi, hoặc họ đứng, hoặc họ ngồi, hoặc họ nằm, đều không thấy được tất cả châu báu trân quý. Vì không thấy được châu báu, nên không thể lấy được châu báu, cũng không thể thọ dụng được sự lợi ích của châu báu. Các đại Thanh Văn chẳng thấy được Phật và Bồ Tát, cũng như thế.
Chư Đại đệ-tử tuy tại lâm trung thân cận Thế Tôn, bất kiến Như Lai tự tại thần lực, diệc bất đắc kiến Bồ Tát đại hội. Hà dĩ cố? vô hữu Bồ Tát vô ngại Tịnh nhãn, bất năng thứ đệ ngộ nhập Pháp giới kiến ư Như Lai tự tại lực cố.
Chư đại đệ tử Thanh Văn dầu ở rừng Thệ Ða thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thấy thần lực tự tại của đức Thế Tôn, cũng chẳng thấy được đại hội Bồ Tát, vì không có tịnh nhãn vô ngại của đại Bồ Tát, nên chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới thấy thần lực tự tại của đức Như Lai.
Giảng: Các Ngài tuy ở trong rừng Thệ Đa, gần gũi đức Thế Tôn, mà chẳng thấy tự tại thần lực của Như Lai, cũng không thấy được đại hội Bồ Tát đến từ mười phương. Tại sao vậy? Vì không có mắt pháp thanh tịnh vô ngại của Bồ Tát, nên không thể thứ tự ngộ nhập pháp giới, thấy sức thần lực tự tại của Như Lai.
Thí như hữu nhân đắc thanh Tịnh nhãn, danh: ly cấu quang minh, nhất thiết ám sắc bất năng vi chướng. Nhĩ thời, bỉ nhân ư dạ ám trung, xứ tại vô lượng bách thiên vạn ức nhân chúng chi nội, hoặc hành, hoặc trụ, hoặc tọa, hoặc ngọa, bỉ chư nhân chúng hình tướng uy nghi, thử minh nhãn nhân mạc bất cụ kiến; kỳ minh nhãn giả uy nghi tấn thoái, bỉ chư nhân chúng tất bất năng đổ.
Ví như có người được thanh tịnh nhãn gọi là ly cấu quang minh, tất cả màu tối không làm chướng được. Bấy giờ ở trong đêm tối có vô lượng ức người, hoăc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hình tướng oai nghi. Người này ở trong đại chúng đó đều thấy biết rõ ràng. Còn đại chúng đó lại không thấy biết oai nghi tấn thối của người minh nhãn này.
Giảng: Đoạn nầy là dụ mắt tịnh vô ngại. Lại ví như có người, đắc được mắt thanh tịnh, tên gọi là Ly cấu quang minh. Tất cả màu tối không thể chướng ngại được người đó. Bấy giờ, người đó ở trong đêm tối, ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức người, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm. Hình tướng oai nghi của những người đó, người mắt sáng đó thảy đều thấy hết, còn oai nghi tiến lùi của người mắt sáng, những người đó đều không thấy được.
Phật diệc như thị, thành tựu trí nhãn, thanh tịnh vô ngại, tất năng minh kiến nhất thiết thế gian; kỳ sở thị hiện thần thông biến hóa, đại Bồ-tát chúng sở cọng vi nhiễu, chư Đại đệ-tử tất bất năng kiến.
Cũng vậy, đức Phật thành tựu trí nhãn thanh tịnh vô ngại thấy rõ tất cả thế gian. Ðức Phật thị hiện thần thông biến hóa, chúng đại Bồ Tát câu hội. Hàng đại đệ tử Thanh Văn đều chẳng thấy được.
Giảng: Phật cũng như thế, đã thành tựu mắt trí huệ thanh tịnh vô ngại, cho nên Ngài đều minh bạch, nhìn thấy rõ đủ thứ sự vật của tất cả thế gian. Những sự thị hiện cảnh giới thần thông biến hoá, và đại chúng Bồ Tát cùng vây quanh, các đại đệ tử Thanh Văn đều không nhìn thấy được.
Thí như Tỳ-kheo tại Đại chúng trung nhập biến xứ định, sở vị: địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, hoàng biến xứ định, xích biến xứ định, bạch biến xứ định, Thiên biến xứ định, chủng chủng chúng sanh thân biến xứ định, nhất thiết ngữ ngôn âm thanh biến xứ định, nhất thiết sở duyên biến xứ định; nhập thử định giả kiến kỳ sở duyên, kỳ dư Đại chúng tất bất năng kiến, duy trừ hữu trụ thử tam muội giả.
Ví như Tỳ Kheo ở giữa đại chúng nhập biến xứ định. Những là địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích biến xứ định, bạch biến xứ định, thiên biến xứ định, chúng sanh thân biến xứ định, ngữ ngôn âm thanh biến xứ định, cảnh duyên biến xứ định. Người nhập định này thấy những cảnh đó. Những người khác không thấy được. Chỉ trừ người trụ trong chánh định này.
Giảng: Lại ví như Tỳ Kheo ở trong đại chúng, nhập vào biến xứ định. Biến xứ định là gì? Biến xứ định là ví dụ khắp cùng khó nghĩ bàn, cũng là chỉ cõi tịnh của Như Lai, Bồ Tát thường quang, các màu sắc trang nghiêm. Bồ Tát phóng lưới đại quang minh, tất cả mọi nơi, khắp cùng quán sát. Đó là: Nhập địa biến xứ định, nhập thuỷ biến xứ định, nhập hoả biến xứ định, nhập phong biến xứ định, nhập thanh biến xứ định, nhập hoàng biến xứ định, nhập xích biến xứ định, nhập bạch biến xứ định, nhập thiên biến xứ định, nhập đủ thứ chúng sinh thân biến xứ định, nhập tất cả lời nói âm thanh biến xứ định, nhập tất cả sở duyên biến xứ định. Người nhập vào đủ thứ định nầy, thấy được tất cả nhân duyên, còn đại chúng những người khác, đều không thấy được, ngoại trừ chỉ có người trụ tam muội nầy mới thấy được.
Như Lai sở hiện bất khả tư nghị chư Phật cảnh giới diệc phục như thị, Bồ Tát cụ kiến, Thanh văn mạc đổ. Thí như hữu nhân dĩ ế hình dược tự đồ kỳ nhãn, tại ư chúng hội khứ, lai, tọa, lập vô năng kiến giả, nhi năng tất đổ chúng hội trung sự.
Cũng vậy, đức Như Lai hiện Phật cảnh giới bất tư nghì, Bồ Tát thấy cả, Thanh Văn chẳng thấy. Ví có người dùng thuốc ẩn thân tự thoa lên mắt, ở trong chúng hội tới lui ngồi đứng, không ai thấy được. Người này thời thấy tất cả những sự trong đại chúng.
Giảng: Như Lai thị hiện cảnh giới chư Phật không thể nghĩ bàn, cũng lại như thế – Bồ Tát đều thấy, còn các đại Thanh Văn chẳng nhìn thấy được. Lại ví như có người, dùng thuốc ẩn thân, thoa lên mắt mình. Ở trong đại chúng pháp hội, hoặc đi tới, đi lui, hoặc ngồi, hoặc đứng, đều không ai thấy được, mà người đó thì thấy hết mọi việc trong chúng hội.
Ứng tri Như Lai diệc phục như thị, siêu quá ư thế, phổ kiến thế gian, phi chư Thanh văn sở năng đắc kiến, duy trừ thú hướng nhất thiết trí cảnh chư đại Bồ-tát. Như nhân sanh dĩ, tức hữu nhị Thiên, hằng tướng tùy trục, nhất viết: đồng sanh, nhị viết: đồng danh; Thiên thường kiến nhân, nhân bất kiến Thiên.
Cũng vậy, đức Như Lai siêu quá thế gian, thấy khắp thế gian. Chẳng phải hàng Thanh Văn thấy được. Chỉ trừ chư đại Bồ Tát xu hướng cảnh giới Nhứt thiết trí. Như người khi đã sanh ra thời có hai Thiên thần hằng theo kề. Một Thiên thần hiệu Ðồng Sanh. Một Thiên thần hiệu Ðồng Danh. Thiên thần thường thấy người. Người thời chẳng thấy được Thiên thần.
Giảng: Do đó, nên biết Như Lai cũng lại như thế, vượt khỏi pháp thế gian, thấy khắp tất cả thế gian, song, chẳng phải các vị Thanh Văn có thể thấy được, chỉ trừ các đại Bồ Tát xu hướng cảnh nhất thiết trí. Đoạn này dụ ẩn hiển siêu thế đức, Như Lai trụ trì cùng với Bồ Tát khởi biến hoá vân đức. Lại ví như khi con người sinh ra rồi, thì có hai vị thiên thần luôn luôn đi theo họ. Hai vị thiên thần đó, một vị tên là Đồng Sanh, một vị tên là Đồng Danh. Hai vị thiên thần đó thường thấy người, mà người chẳng thấy thiên thần, đây là ví dụ hàng nhị thừa chẳng có thế lực như thế, vì chẳng có tâm đại bi, xả bỏ chúng sinh.
Ứng tri Như Lai diệc phục như thị, tại chư Bồ-tát Đại tập hội trung hiện đại thần thông, chư đại Thanh văn tất bất năng kiến. Thí như Tỳ-kheo đắc tâm tự tại, nhập diệt tận định, lục căn tác nghiệp giai tất bất hành, nhất thiết ngữ ngôn bất tri bất giác; định lực trì cố, bất Bát Niết Bàn.
Cũng vậy đức Như Lai ở trong đại hội Bồ Tát hiện đại thần thông. Chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy được. Ví như Tỳ Kheo được tâm tự tại nhập diệt tận định, sáu căn chẳng hiện hành, chẳng hay chẳng biết tất cả ngữ ngôn. Vì định lực chấp trì nên chẳng nhập diệt.
Giảng: Các vị nên biết Như Lai cũng lại như thế, ở trong đại hội các Bồ Tát, thị hiện sức đại thần thông, mà các đại Thanh Văn đều không thấy được. Ví như Tỳ Kheo đắc được tâm tự tại, nhập vào diệt tận định (đã lìa dục vô sở hữu xứ, hoặc nhập định phi phi tưởng xứ). Sáu căn – mắt, tại, mũi, lưỡi, thân, ý tạo nghiệp, đều đã không hành. Đây là ví dụ Thanh Văn, an trụ thừa của mình, vì chứng thật tế, cũng có thể ví dụ vô đức. Tất cả lời nói, đều bất tri bất giác, vì định lực chi trì họ, cho nên không nhập Niết Bàn.
Nhất thiết Thanh văn diệc phục như thị, tuy phục trụ tại Thệ đa lâm trung, cụ túc lục căn, nhi bất tri bất kiến bất giải bất nhập Như Lai tự tại, Bồ Tát chúng hội chư sở tác sự.
Cũng vậy, tất cả đại Thanh Văn dầu ở tại rừng Thệ Ða, đủ cả sáu căn mà đối với những sự tự tại của Như Lai cùng chúng hội Bồ Tát, chẳng biết chẳng thấy, chẳng hay chẳng nhập.
Giảng: Tất cả Thanh Văn đệ tử cũng lại như thế, tuy họ cũng ở trong rừng Thệ Đa, đầy đủ sáu căn, mà chẳng biết được, chẳng thấy được, chẳng hiểu được, chẳng nhập vào được tự tại của Như Lai và đại chúng pháp hội Bồ Tát, chẳng biết được đức Phật đang diễn nói Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật, không thể nghe diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm cùng với tất cả Bồ Tát. Đây là ví dụ khi hàng nhị thừa lưu chuyển trong sinh tử, chẳng khuyên chúng sinh cầu mắt đại trí huệ tối thắng, cho nên thức chẳng hành, tuy có mắt nhưng đối với sáu căn không thấy được.
Hà dĩ cố? Như Lai cảnh giới thậm thâm quảng đại, nan kiến nan tri, nan trắc nan lượng, siêu chư thế gian, bất khả tư nghị, vô năng hoại giả, phi thị nhất thiết nhị thừa cảnh giới; thị cố, Như Lai tự tại thần lực, Bồ Tát chúng hội cập Thệ đa lâm phổ biến nhất thiết thanh tịnh thế giới, như thị đẳng sự, chư đại Thanh văn tất bất tri kiến, phi kỳ khí cố.
Tại sao vậy ? Vì cảnh giới của đức Như Lai thậm thâm quảng đại, khó thấy, khó biết, khó suy, khó lường. Siêu xuất thế gian chẳng thể nghĩ bàn, chẳng gì làm hoại được. Chẳng phải cảnh giới của hàng Nhị thừa. Vì thế nên Như Lai tự tại thần lực và chúng hội Bồ Tát cùng rừng Thệ Ða, cùng khắp tất cả thanh tịnh thế giới. Những sự như vậy, chư đại Thanh Văn đều chẳng thấy biết, vì họ chẳng phải căn khí này.
Giảng: Tại sao vậy? Vì :
1. Cảnh giới Như Lai thâm sâu (dụ quỷ với sông Hằng).
2. Rộng lớn (dụ mộng du Thiên cung).
3. Khó thấy (dụ kẻ ngu với núi Tuyết).
4. Khó biết (dụ kho tàng khó biết).
5. Khó dò (dụ kẻ mù không thấy châu báu).
6. Khó lường (dụ mắt tịnh không chướng ngại).
7. Vượt khỏi các thế gian (dụ khắp nơi định cảnh).
8. Không thể nghĩ bàn (dụ thuốc hay ẩn thân).
9. Không ai có thể phá hoại được (dụ hai thiên thần theo người).
10. Chẳng phải cảnh giới của tất cả hàng nhị thừa (dụ diệt định chẳng hành).
Cho nên thần lực tự tại của Như Lai, và Bồ Tát chúng hội, cùng với đạo tràng rừng Thệ Đa, khắp cùng tất cả thế giới thanh tịnh, đủ thứ những việc như vậy, tất cả các vị đại Thanh Văn đều không thấy được, vì họ chẳng có khí lượng rộng lớn, trong quá khứ đều là khí nhỏ lượng nhỏ, khí lượng không đủ, cho nên nhìn chẳng thấy được cảnh giới rộng lớn.
Nhĩ thời, Tỳ Lô Giá Na nguyện quang minh Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Lúc đó, Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh, nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát tất cả cơ duyên của chúng sinh trong mười phương, mà nói ra những bài kệ dưới đây.
Nhữ đẳng ưng quan sát Các ngài nên quán sát
Phật đạo bất tư nghị Phật đạo bất tư nghì
Ư thử Thệ đa lâm Nơi rừng Thệ Ða này
Thị hiện thần thông lực Thị hiện thần thông lực.
Vị Bồ Tát Tỳ Lô Giá Na Nguyện Quang Minh nói: “Các vị Phật tử! Hãy quán sát cho kỹ, Phật đạo không thể nghĩ bàn, ở trong rừng Thệ Đa nầy, thị hiện sức đại thần thông không thể nghĩ bàn”.
Thiện-Thệ uy thần lực Oai thần lực của Phật
Sở hiện vô ương số Biến hiện vô ương số
Nhất thiết chư thế gian Tất cả các thế gian
Mê hoặc bất năng liễu. Mê lầm chẳng rõ được.
Đây là một thứ oai thần lực của đức Phật, thị hiện ra Bồ Tát nhiều vô số vô biên, không biết số mục là bao nhiêu. Nhưng hết thảy chúng sinh thế gian, đều bị mê hoặc, không thấu rõ được cảnh giới nầy.
Pháp vương thâm diệu Pháp Pháp vương pháp thâm diệu
Vô lượng nan tư nghị Vô lượng khó nghĩ bàn
Sở hiện chư thần thông Hiện ra những thần thông
Cử thế mạc năng trắc Thế gian chẳng lường được.
Pháp thâm sâu vi diệu của Phật rộng lớn vô biên, khó nghĩ bàn được. Thị hiện tất cả thần thông, chúng sinh thế gian đều không thể minh bạch được.
Dĩ liễu Pháp vô tướng Vì biết pháp vô tướng
Thị cố danh vi Phật Thế nên gọi là Phật
Nhi cụ tướng trang nghiêm Mà đủ tướng trang nghiêm
Xưng dương bất khả tận. Xưng dương chẳng kể hết.
Đức Phật thấu rõ thật tướng của các pháp, cho nên gọi là Phật Đà Gia. Đức Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang nghiêm. Các vị tán thán khen ngợi, không bao giờ hết được.
Kim ư thử lâm nội, Nay ở trong rừng này
Thị hiện đại thần lực Thị hiện đại thần lực
Thậm thâm vô hữu biên, Rất sâu vô biên lượng
Ngôn từ mạc năng biện. Ngôn từ không biện được.
Hiện tại đức Phật ở trong rừng Thệ Đa, thị hiện đại oai thần lực, rộng lớn thâm sâu, không có bờ mé, dù có dùng lời lẽ và câu văn cũng nói không hết được.
Nhữ quán đại uy đức, Ngài xem đại oai đức
Vô lượng Bồ Tát chúng, Vô lượng chúng Bồ Tát
Thập phương chư quốc độ Mười Phương những quốc độ.
Nhi lai kiến Thế Tôn. Mà đến thấy Thế Tôn.
Các vị quán sát cảnh giới đại oai đức của Phật, có vô lượng đại chúng Bồ Tát đại oai đức, từ mười phương tất cả cõi nước chư Phật, các Ngài đều đến gặp đức Phật ở trong rừng Thệ Đa thế giới Ta Bà.
Sở nguyện giai cụ túc, Chỗ nguyên đều đầy đủ
Sở hạnh vô chướng ngại Chỗ làm không chướng ngại
Nhất thiết chư thế gian Tất cả các thế gian
Vô năng trắc lượng giả. Không ai suy lường được.
Các vị thuở xưa phát nguyện đều đã đầy đủ viên mãn, pháp môn tu hành cũng đều không chướng ngại. Hết thảy người thế gian, chẳng có cách gì dò lường được sự áo diệu trong đó.
Nhất thiết chư duyên giác, Tất cả chư Duyên Giác
Cập bỉ đại Thanh văn Và đại Thanh Văn kia.
Giai tất bất năng trai, Thảy đều chẳng biết được
Bồ Tát hạnh cảnh giới. Bồ Tát hạnh cảnh giới.
Hết thảy tất cả những bậc Duyên Giác tu mười hai nhân duyên mà khai ngộ, và những vị Thanh Văn A La Hán tu pháp môn bốn đế, các Ngài đều không không biết được cảnh giới tu hành của Bồ Tát.
Bồ Tát đại trí tuệ Bồ Tát đại trí huệ
Chư địa tất cứu cánh Các địa đều rốt ráo
Cao kiến dũng mãnh tràng Dựng cao tràng dũng mãnh
Nan tồi nan khả động. Khó xô khó động được.
Đại trí huệ của Bồ Tát và tất cả quả vị tu hành, đều đã rốt ráo, các Ngài đều kiến lập đại pháp tràng dũng mãnh cao vợi, bất cứ thiên ma ngoại đạo, cũng không thể nào phá hoại được, cũng không thể nào lay động được.
Chư Đại danh xưng sĩ, Những bực Ðại Danh xưng
Vô lượng tam muội lực Vô lượng tam muội lực
Sở hiện chư thần biến Hiện ra những thần biến
Pháp giới tất sung mãn. Pháp giới đều sung mãn.
Tất cả pháp thân Đại Sĩ, đều có đủ vô lượng sức tam muội (chánh định chánh thọ), hết thảy pháp giới đều đầy dẫy tất cả thần thông biến hoá của Bồ Tát.
Nhĩ thời, bất khả hoại tinh tấn Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Giảng: Lúc đó, có vị Bồ Tát Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương, Ngài nương đại oai thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, và thần lực gia bị của mười phương chư Phật. Ngài quán sát cơ duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương, để độ thoát họ. Do đó mà Ngài nói ra bài kệ dưới đây, để thuật lại ý nghĩa Kinh trường hàng ở trước.
Nhữ quán chư Phật tử Ngài xem các Phật tử
Trí tuệ công đức tạng Trí tuệ tạng công đức
Cứu cánh Bồ-đề hạnh Rốt ráo hạnh Bồ đề
An ổn chư thế gian. An ổn các thế gian.
Các vị Phật tử, hãy nhìn xem nhiều đệ tử của đức Phật, trí huệ công đức của họ rất viên mãn, họ tu hạnh bồ đề giác đạo cũng đều đạt đến sự rốt ráo, đều có thể an ổn tất cả các thế gian.
Kỳ tâm bổn minh đạt Tâm Ngài vốn minh đạt
Thiện nhập chư tam muội Khéo nhập những tam muội
Trí tuệ vô biên tế Trí huệ vô biên tế
Cảnh giới bất khả lượng. Cảnh giới không lường được.
Tâm trí của họ đều rất thông minh thấu đạt, khéo chứng nhập tất cả sức tam muội chánh định chánh thọ. Trí huệ của họ chẳng có bờ mé, cảnh giới của họ không thể nghĩ bàn.
Kim thử Thệ đa lâm Nay rừng Thệ Ða này
Chủng chủng giai nghiêm sức Mọi sự đều nghiêm sức
Bồ Tát chúng vân tập, Chúng Bồ Tát vân tập
Thân cận Như Lai trụ. Thân cận bên Như Lai
Nay họ ở trong đạo tràng rừng Thệ Đa, đều biến thành trang nghiêm tốt đẹp, khiến cho rừng Thệ Đa biến thành lầu các báu lớn. Chúng đại Bồ Tát nhiều bất khả thuyết trong mười phương, đều vân tập trong rừng Thệ Đa, đến gần gũi Phật, và cùng ở một chỗ với đức Phật.
Nhữ quán vô sở trước Ngài xem vô lượng chúng
Vô lượng Đại chúng hải, Những bực vô sở trước
Thập phương lai nghệ thử Mười phương đến chỗ này
Tọa bảo liên hoa tọa. Ngồi toà bửu liên hoa.
Các vị quán sát những vị đại Bồ Tát đó đều không có sự chấp trước, vô lượng đại chúng như biển cả, từ mười phương thế giới nhiều như số hạt bụi, đến thế giới Ta Bà, họ đều ngồi trên toà sư tử hoa sen báu.
Vô lai diệc vô trụ Không đến cũng không ở
Vô y vô hí luận Không dựa không hí luận
Ly cấu tâm vô ngại, Tâm ly cấu vô ngại
Cứu cánh ư Pháp giới. Rốt ráo nơi pháp giới
Họ vốn chẳng từ đâu đến, cũng chẳng chỗ trụ, cũng chẳng y chỉ hoặc nương tựa vào chỗ nào, cũng chẳng có mọi sự hí luận. Họ nói lời chân thật. Họ đã lìa khỏi tất cả sự cấu bẩn, trong tâm chẳng có chút quái ngại nào, trong pháp giới đã đạt đến cảnh giới rốt ráo.
Kiến lập trí tuệ tràng Kiến lập tràng trí huệ
Kiên cố bất động dao, Kiên cố chẳng động lay
Tri vô biến hóa pháp Biết pháp không biến hoá
Nhi hiện biến hóa sự. Mà hiện sự biến hoá
Họ kiến lập pháp tràng trí huệ, đều đắc được định lực kiên cố không giao động. Họ biết tất cả bổn thể của các pháp là tướng tịch diệt, chẳng có sự biến hoá, mà thị hiện đủ thứ pháp việc biến hoá.
Thập phương vô lượng sát Mười phương vô lượng cõi
Nhất thiết chư Phật sở, Tất cả chỗ chư Phật
Đồng thời tất vãng nghệ Ðồng thời đều qua đến
Nhi diệc bất phần thân Mà cũng chẳng phân thân
Mười phương vô lượng cõi Phật, và đạo tràng của tất cả chư Phật, họ đều đồng thời qua đến đạo tràng của hết thảy chư Phật. E rằng Hộ Pháp hiện tại có lúc chạy đến đạo tràng nầy đốt lên vài cây nhang, có lúc lại chạy đến đạo tràng khác lạy Phật, đó đều là học đủ thứ thần thông biến hoá của Bồ Tát. Tuy nhiên, họ đồng thời đến mười phương, nhưng họ cũng chẳng phân chia thân thể của họ.
Nhữ quán thích sư tử Ngài xem Thích Sư Tử
Tự tại thần thông lực, Sức thần thông tự tại
Năng lệnh Bồ Tát chúng, Hay khiến chúng Bồ Tát
Nhất thiết câu lai tập. Tất cả đều đến họp
Các vị hãy quán sát đức Phật, giống như sư tử, đều có đủ sức thần thông rộng lớn nhậm vận tự tại. Thích Sư Tử tức là Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài hay khiến cho tất cả chúng Bồ Tát, đều cùng nhau đến tụ hội trong rừng Thệ Đa.
Nhất thiết chư Phật Pháp Tất cả những Phật pháp
Pháp giới tất bình đẳng Pháp giới đều bình đẳng
Ngôn thuyết cố bất đồng Ngôn thuyết nên chẳng đồng
Thử chúng hàm thông đạt. Chúng này đều thông đạt.
Tất cả pháp của chư Phật nói và pháp giới đều bình đẳng. Lời nói tuy có sự khác nhau, nhưng đại chúng đến nghe pháp đều thông đạt minh bạch, do đó có câu:
“Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu được”.
Chư Phật thường an trụ Chư Phật thường an trụ
Pháp giới bình đẳng tế, Pháp giới bình đẳng tế
Diễn thuyết sái biệt Pháp Diễn nói pháp sai biệt
Ngôn từ vô hữu tận. Ngôn từ vô cùng tận.
Chư Phật thường yên lặng bất động, bình đẳng với pháp giới. Diễn nói pháp khác nhau, dù có dùng hết lời lẽ cũng nói không hết được đạo lý của Phật pháp.
Nhĩ thời, phổ thắng vô thượng uy đức Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Phổ Thắng vô Thượng Oai Ðức Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Lúc đó, lại có vị Bồ Tát Phổ Thắng Vô Thượng Oai Đức Vương, Ngài nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát cơ duyên của tất cả chúng sinh mười phương, mà nói ra những bài kệ dưới đây.
Nhữ quán Vô-thượng-Sĩ, Ngài xem vô thượng Sĩ
Quảng đại trí viên mãn Trí quảng đại viên mãn
Thiện đạt thời phi thời, Khéo đạt thời phi thời
Vi chúng diễn thuyết Pháp Vì chúng diễn thuyết pháp.
Các vị hãy quán sát trí huệ rộng lớn của đức Phật đều đã viên mãn, đã khéo đạt đến thời và phi thời, vì chúng sinh diễn nói Phật pháp.
Tồi phục chúng ngoại đạo, Xô dẹp chúng ngoại đạo
Nhất thiết chư dị luận, Tất cả những dị luận
Phổ tùy chúng sanh tâm, Khắp tùy tâm chúng sanh
Vi hiện thần thông lực Vì hiện thần thông lực
Đức Phật đã hàng phục tất cả ngoại đạo, và hết thảy tà thuyết dị luận, khắp tuỳ thuận tâm nguyện của chúng sinh, mà vì chúng sinh hiển bày sức thần thông.
Chánh giác phi hữu lượng Chánh Giác chẳng hữu lượng
Diệc phục phi vô lượng Cũng lại chẳng vô lượng
Nhược lượng nhược vô lượng Hoặc lượng, hoặc vô lượng
Mâu Ni tất siêu việt. Mâu Ni đều siêu việt.
Đức Phật là một vị Chánh Giác, Ngài chẳng thuộc về có lượng, cũng chẳng thuộc về vô lượng. Bất luận có lượng, hoặc là vô lượng, Thích Ca Mâu Ni Phật đều vượt qua giới hạn nầy.
Như nhật tại hư không Như mặt nhựt trên không
Chiếu lâm nhất thiết xứ; Soi đến tất cả xứ
Phật trí diệc như thị Phật trí cũng như vậy
Liễu đạt tam thế Pháp Rõ thấu tam thế pháp.
Đức Phật giống như mặt trời ở trong hư không, chiếu đến khắp tất cả mọi nơi. Trí huệ của Phật cũng giống như mặt trời, thấu đạt được tất cả các pháp ba đời.
Thí như thập ngũ dạ, Ví như chính đêm rằm
Nguyệt luân vô giảm khuyết Vầng trăng không thiếu khuyết
Như Lai diệc phục nhiên Như Lai cũng như vậy
Bạch pháp tất viên mãn. Bạch pháp đều viên mãn.
Lại giống như mỗi đêm ngày rằm, mặt trăng tròn chẳng thiếu khuyết. Đức Phật cũng giống như mặt trăng tròn ngày răm, hết thảy pháp trắng tịnh đều đắc được viên mãn.
Thí như không trung nhật Như mặt nhựt trên không
Vận hành vô tạm dĩ Vận hành không tạm ngừng
Như Lai diệc như thị, Như Lai cũng như vậy
Thần biến hằng tướng tục. Thần biến thường tương tục.
Lại giống như mặt trời ở trong hư không, vận hành mà đi, chẳng khi nào ngừng nghỉ. Đức Phật cũng như thế, thần thông biến hoá luôn luôn liên tục không ngừng.
Thí như thập phương sát Như mười phương quốc độ
Ư không vô sở ngại, Hư không chẳng chướng ngại
Thế đăng hiện biến hóa Thế đăng hiện biến hóa
Ư thế diệc phục nhiên. Nơi thế cũng như vậy
Lại giống như mười phương cõi nước, ở trong hư không chẳng có chướng ngại. Đức Phật thị hiện biến hoá nơi thế gian cũng thế, chẳng có chướng ngại.
Thí như thế gian địa Ví như đất thế gian
Quần sanh chi sở y; Chỗ nương của muôn loại
Chiếu thế đăng Pháp luân Chiếu thế đăng pháp luân
Vi y diệc như thị. Làm chỗ nương cũng vậy
Lại giống như đất đai nơi thế gian, tất cả chúng sinh đều nương tựa đất. Pháp Luân Chiếu Thế Đăng – Tức là Phật, cũng làm nơi nương tựa cho tất cả chúng sinh.
Thí như mãnh tật phong Ví như gió lốc mạnh
Sở hạnh vô chướng ngại Thổi đi không chướng ngại
Phật Pháp diệc như thị, Phật pháp cũng như vậy
Tốc biến ư thế gian. Mau khắp ở thế gian.
Lại giống như giống lốc mãnh liệt, sở hành không có chướng ngại, chẳng có ai có thể cản trở được nó. Phật pháp cũng như thế, nhanh chóng đầy khắp nơi thế gian.
Thí như Đại thủy luân, Ví như đại thủy luân
Thế giới sở y trụ Thế giới nương trên đó
Trí tuệ luân diệc nhĩ Trí huệ luân cũng vậy
Tam thế Phật sở y. Chỗ nương của chư Phật.
Lại giống như đại thuỷ luân, hết thảy thế giới đều nương tựa nó mà trụ, trí huệ luân của Phật cũng thế, là chỗ chư Phật ba đời nương tựa vào.
Nhĩ thời, vô ngại thắng tạng Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Vô Ngại Thắng Tạng Vương Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Lúc đó, lại có vị Bồ Tát tên là Vô Ngại Thắng Tạng Vương, Ngài cũng nương đại oai thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và mười phương chư Phật gia bị, dùng trí huệ diệu quán sát để quán sát cơ duyên của tất cả chúng sinh mười phương, nên dùng pháp gì để độ thoát họ? Cho nên Ngài nói ra những bài kệ dưới đây, để thuật lại nghĩa kinh.
Thí như đại bảo sơn, Ví như đại bửu sơn
Nhiêu ích chư hàm thức Lợi ích các hàm thức
Phật sơn diệc như thị Phật sơn cũng như vậy
Phổ ích ư thế gian. Lợi ích khắp thế gian.
Trí huệ của Phật như núi báu lớn, các vị đệ tử của Phật, vào núi báu rồi phải đừng tay không mà về, núi báu hay lợi ích tất cả chúng sinh. Đức Phật cũng như núi báu lớn, lợi ích khắp tất cả chúng sinh.
Thí như đại hải thủy Ví như, đại hải thủy
Trừng tịnh vô cấu trược Ðứng sạch không nhơ bợn
Kiến Phật diệc như thị Thấy Phật cũng như vậy
Năng trừ chư khát ái. Trừ được những khát ái
Lại ví như nước trong biển cả, trong sạch, chẳng có một chút nhiễm ô dơ bẩn nào, gặp Phật cũng giống như thấy được biển cả thanh tịnh, hay trừ khử đi tham sân si của tất cả chúng sinh và đủ thứ khát nước ái dục.
Thí Như-Tu-Di-Sơn Ví như, Tu Di sơn
Xuất ư Đại hải trung Ở ngay giữa đại hải
Thế gian đăng diệc nhĩ, Thế Gian Ðăng cũng vậy
Tùng ư pháp hải xuất. Có từ nơi pháp hải.
Lại ví như núi Tu Di, xuất hiện đứng xừng xững ở trong biển cả. Đèn Thế Gian – tức là Phật, cũng như thế, là từ trong biển pháp lớn mà sinh ra.
Như hải cụ chúng bảo Như biển đủ châu báu
Cầu giả giai mãn túc Người cầu đều đầy đủ
Vô sư trí diệc nhiên Vô sư trí cũng vậy
Kiến giả tất khai ngộ. Người thấy đều khai ngộ.
Lại ví như trong biển đầy đủ tất cả bảo tàng, bất cứ ai đi vào trong biển tìm châu báu, đều có thể được đầy đủ mãn nguyện. Trí huệ của Phật cũng như thế, ai thấy được Phật, thì người đó sẽ được khai ngộ, do đó có câu: Thấy Phật dứt sinh tử, như Phật độ tất cả.
Như Lai thậm thâm trí Như Lai trí thậm thâm
Vô lượng vô hữu số; Vô lượng cũng vô số
Thị cố thần thông lực, Thế nên thần thông lực
Thị hiện nan tư nghị. Thị hiện khó nghĩ bàn
Trí huệ của Phật thâm sâu vô thượng, chẳng có số lượng, cũng chẳng có bờ mé. Vì vậy cho nên cảnh giới thị hiện sức thần thông của Phật, chẳng phải chúng sinh suy nghĩ, luận nghị, minh bạch được.
Thí như công huyễn sư, Ví như, nhà huyễn giỏi
Thị hiện chủng chủng sự Thị hiện những sự vật
Phật trí diệc như thị Phật trí cũng như vậy
Hiện chư tự tại lực. Hiện những tự tại lực.
Lại ví như nhà huyễn thuật, ông ta hay thị hiện đủ thứ việc huyễn. Trí huệ của Phật cũng giống như nhà huyễn thuật, hay thị hiện tất cả sức thần thông tự tại.
Thí như như ý bảo Ví như, như ý bửu
Năng mãn nhất thiết dục Hay thỏa mãn ý muốn
Tối thắng diệc phục nhiên Ðấng tối thắng cũng vậy
Mãn chư thanh tịnh nguyện Làm mãn nguyện thanh tịnh
Lại ví như châu như ý, hay mãn nguyện tâm ước muốn của tất cả chúng sinh. Đức Phật là bậc tối thắng, cũng giống như châu như ý, hay mãn nguyện những lời nguyện của tất cả chúng sinh phát ra.
Thí như minh tịnh bảo Ví như, minh tịnh bửu
Phổ chiếu nhất thiết vật Chiếu khắp tất cả vật
Phật trí diệc như thị Phật trí cũng như vậy
Phổ chiếu quần sanh tâm. Chiếu khắp tâm quần sanh.
Lại ví như báu vật sáng tịnh, hay phóng ra đại quang minh, chiếu khắp tất cả sự vật. Trí huệ của Phật cũng thế, hay chiếu sáng khắp tâm của tất cả chúng sinh.
Thí như bát diện bảo Ví như, bát diện bửu
Đẳng giám ư chư phương Soi khắp cả các phương
Vô ngại đăng diệc nhiên Vô Ngại Ðăng cũng vậy
Phổ chiếu ư Pháp giới. Chiếu khắp cả pháp giới
Lại ví như tấm gương báu tám mặt lung linh, chiếu sáng thanh tịnh rõ ràng mỗi phương, đức Phật cũng như thế, hay chiếu sáng khắp mười phương thế giới.
Thí như thủy thanh châu, Ví như, thủy thanh châu
Năng thanh chư trược thủy Hay làm trong nước đục
Kiến Phật diệc như thị Thấy Phật cũng như vậy
Chư căn tất thanh tịnh. Sáu căn đều thanh tịnh.
Lại giống như hạt châu thanh tịnh thuỷ, hay làm cho tất cả nước đục đều thanh tịnh lắng trong, do đó có câu:
“Tịnh châu để vào trong nước đục
Nước đục sẽ trở thành trong.
Niệm Phật như nơi tâm loạn
Tâm loạn sẽ hết loạn”.
Cho nên, gặp được Phật cũng giống như “Tịnh châu để vào trong nước đục, nước đục sẽ trở thành trong”, các căn đều sẽ được thanh tịnh.
Vạn Phật Thành là nơi Vạn Phật tụ hội, Phật vạn phương đều vân tập ở Vạn Phật Thành, để gia trì mỗi vị chúng sinh ở trong Vạn Phật Thành, khiến cho tất cả chúng sinh sớm lìa khổ được vui, bỏ mê về giác. Thánh địa nầy muốn đào tạo dưỡng thành những người tu hành chân chính, muốn giáo hoá thành số người diễn giảng giỏi, cho nên ai muốn tu hành, thì ở đây đặc biệt hoan nghinh, ai muốn diễn giảng, thì cũng rất hoan nghinh (diễn giảng phải ở trước đại chúng, chứ chẳng phải ở trước một người, hoặc hai người). Bất cứ ai hoan hỉ diễn giảng, có thể thường thường luyện tập, khi nào ở trong đại chúng pháp hội, có thể lên diễn giảng trước đại chúng. Đừng có dưỡng thành, bạn không dám nói, tôi cũng không dám nói; mình không dám nói cũng không muốn người khác nói, đó là sai lầm!
Nếu mình muốn diễn giảng, thì đừng sợ người cười, cũng đừng sợ người khác luận nghị. Khi diễn giảng, phải ở trong con mắt xem không có người nào hết, cho nên muốn nói gì thì nói. Bất cứ vị nào, nếu hoan hỉ diễn giảng, thì tôi rất hoan nghinh, nhưng nhất định phải diễn giảng ở trước đại chúng, đừng có một mình với một người, hoặc hai người giao đầu tiếp tai, vì một người, hoặc hai người, chẳng nói thị, thì cũng nói phi.
Ở trước đại chúng, không màn bạn nói thị cũng tốt, nói phi cũng tốt, mọi người đều nghe. Bạn đúng, mọi người cũng nghe được, bạn sai, mọi người cũng nghe được. Mọi người tức là Thiên chủ, mọi người tức là Phật; mọi người tức là Thánh nhân; mọi người tức là trí huệ; mọi người tức là chấp định tất cả. Cho nên, nếu vị nào có lời lẽ thiên tài, thì phải tận dụng phát huy thiên tài của bạn, đừng sợ mọi người cười bạn, cũng đừng sợ người khác đố kị chướng ngại. Chỉ cần bạn nói có đạo lý, đều có thể tuỳ ý nói ra những điều cần nói, đó là điều tôi hoan hỉ. Vì hiện tại thế giới nầy cần có người diễn giảng, chẳng phải chỉ giới hạn một chỗ ở tại Vạn Phật Thành nầy, chúng ta phải đến các nới để diễn giảng, đem Phật pháp đến các nới trên thế giới, đó là kỳ vọng của tôi đối với các vị!
Nhĩ thời, hóa hiện Pháp giới nguyện nguyệt Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Hóa Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương Bồ Tát thừa Phật thần lực quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Khi vị Bồ Tát đó nói xong bài kệ Ngài muốn nói, thì tiếp theo lúc đó, lại có vị Bồ Tát Hoá Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, Ngài nương đại oai thần lực của đức Phật, dùng trí huệ diệu quán sát để quán sát cơ duyên của chúng sinh trong mười phương, mà dùng kệ để thuật lại ý nghĩa trường hàng.
Thí như đế thanh bảo, Ví như đế thanh bửu
Năng thanh nhất thiết sắc Hay làm xanh các màu
Kiến Phật giả diệc nhiên Người thấy Phật cũng vậy
Tất phát Bồ-đề hạnh Ðều phát hạnh Bồ đề.
Lại ví như có hạt châu đế thanh, nó hay biến tất cả vật chất thành màu xanh. Chúng ta chúng sinh gặp được Phật cũng như thế, ai gặp được Phật sẽ phát tâm bồ đề, tu hành hạnh bồ đề.
Nhất nhất vi trần nội Trong mỗi mỗi vi trần
Phật hiện thần thông lực, Phật hiện thần thông lực
Lệnh vô lượng vô biên, Khiến vô lượng vô biên
Bồ Tát giai thanh tịnh. Bồ Tát đều thanh tịnh
Ở trong mỗi một hạt bụi, đức Phật hay thị hiện sức thần thông vô lượng trăm ngàn ức thế giới, hay khiến cho vô lượng vô biên Bồ Tát đều đắc được trí huệ thanh tịnh.
Thậm thâm vi diệu lực, Sức thậm thâm vi diệu
Vô biên bất khả tri; Vô biên chẳng thể biết
Bồ Tát chi cảnh giới Cảnh giới của Bồ Tát
Thế gian mạc năng trắc. Thế gian chẳng lường được.
Sức của Phật thâm sâu vi diệu vô thượng, vô lượng vô biên, không ai có thể biết được, còn cảnh giới của Bồ Tát, chúng sinh thế giới cũng không thể dò được.
Như Lai sở hiện thân, Ðức Như Lai hiện thân
Thanh tịnh tướng trang nghiêm, Tướng thanh tịnh trang nghiêm
Phổ nhập ư Pháp giới Vào khắp những pháp giới
Thành tựu chư Bồ-tát. Thành tựu các Bồ Tát
Như Lai thị hiện pháp thân rất thanh tịnh, tướng mạo rất trang nghiêm, hay vào khắp trong tất cả pháp giới, thành tựu tất cả đại Bồ Tát.
Nan tư Phật quốc độ Nan tư Phật quốc độ
Ư trung thành chánh giác Trong đó thành Chánh giác
Nhất thiết chư Bồ-tát Tất cả chư Bồ Tát
Thế chủ giai sung mãn. Thế chủ đều đầy dẫy.
Phật thành Phật ở trong các cõi nước chư Phật nhiều không thể nghĩ bàn, đắc được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Tất cả Bồ Tát và chủ thế gian đều đầy dẫy ở trong đó.
Thích Ca vô thượng tôn Ðấng Thích Ca vô thượng
Ư Pháp tất tự tại Nơi pháp đều tự tại
Thị hiện thần thông lực, Thị hiện thần thông lực
Vô biên bất khả lượng. Vô biên chẳng lường được.
Thích Ca Mâu Ni Phật Thế Tôn vô thượng, đối với tất cả Phật pháp, đều đã đắc được cảnh giới nhậm vận tự tại. Phật thị hiện sức thần thông vô lượng vô biên, chúng sinh chẳng cách gì dò lường được.
Bồ Tát chủng chủng hạnh Bồ Tát những công hạnh
Vô lượng vô hữu tận Vô lượng cùng vô tận.
Như Lai tự tại lực Như Lai tự tại lực
Vi chi tất thị hiện. Vì Bồ Tát mà hiện
Bồ Tát tu hành đủ thứ hạnh môn, cũng vô lượng vô biên, chẳng cùng tận. Sức thần thông tự tại của Như Lai, đều vì tất cả đại Bồ Tát mà thị hiện.
Phật tử thiện tu học Phật tử khéo tu học
Thậm thâm chư Pháp giới Những pháp giới thậm thâm
Thành tựu vô ngại trí Thành tựu trí vô ngại
Minh liễu nhất thiết pháp. Biết rõ tất cả pháp.
Các vị đệ tử của Phật, khéo tu học các thứ pháp môn của Phật nói, nhập vào vô lượng pháp giới thâm sâu của những pháp môn đó, thành tựu trí huệ vô ngại, mà thấu rõ minh bạch tất cả Phật pháp.
Thiện-Thệ uy thần lực Thiện thệ oai thần lực
Vi chúng chuyển pháp luân Vì chúng chuyển pháp luân
Thần biến phổ sung mãn Thần biến khắp sung mãn
Lệnh thế giai thanh tịnh. Khiến thế gian thanh tịnh.
Oai thần lực của Phật vì đại chúng chuyển bánh xe pháp. Thần thông biến hoá đó, đầy dẫy khắp cùng mười phương tất cả thế giới, khiến cho thế giới đều được thanh tịnh.
Như Lai trí viên mãn Như Lai trí viên mãn
Cảnh giới diệc thanh tịnh Cảnh giới cũng thanh tịnh
Thí như Đại long Vương Ví như đại Long Vương
Phổ tế chư quần sanh. Giúp khắp các quần sanh.
Trí huệ của Như Lai đã viên mãn, cảnh giới cũng đều đã thanh tịnh. Ví như đại Long Vương ở trong biển, cứu độ khắp tất cả chúng sinh hữu tình.
Nhĩ thời, Pháp tuệ quang diệm Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Pháp Huệ Quang Diệm Vương Bồ Tát, thừa thần lực của Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:
Lúc đó, lại có vị Bồ Tát Pháp Huệ Quang Diệm Vương, Ngài cũng nương đại oai thần lực của đức Phật, quán sát căn tánh của chúng sinh trong mười phương, mà dùng kệ để thuật lại ý nghĩa kinh trường hàng ở trước.
Tam thế chư Như Lai Tam thế chư Như Lai
Thanh văn Đại đệ-tử Thanh Văn đại đệ tử
Tất bất năng trai Phật Ðều chẳng biết được Phật
Cử túc hạ túc sự. Sự cất chân hạ chân.
Đại đệ tử Thanh Văn của tất cả chư Phật đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, đều chẳng biết được cảnh giới của Phật và tất cả sự việc Phật dở chân, hạ chân.
Khứ lai hiện tại thế Quá khứ, hiện, vị lai
Nhất thiết chư duyên giác, Tất cả hàng Duyên Giác
Diệc bất tri Như Lai Cũng chẵng biết Như Lai
Cử túc hạ túc sự. Sự cất chân hạ chân
Tất cả bậc Thánh nhân Duyên Giác đời quá khứ, vị lai, hiện tại ba đời, cũng không biết được cảnh giới của Phật và việc dở chân hạ chân của Phật.
Huống phục chư phàm phu Huống là các phàm phu
Kiết sử sở triền phược Kiết sử luôn buộc ràng
Vô minh phước tâm thức Vô minh che tâm thức
Nhi năng tri Đạo sư Mà biết được Ðạo Sư
Các vị Thánh nhân còn không biết được cảnh giới của Phật, hà huống là tất cả phàm phu! Vì phàm phu tục tử bị kiết sử: Năm độn sử (tham, sân, si, mạn, nghi), năm lợi sử (thân, biên, tà, kiến thủ, giới cấm thủ) ràng buộc trói chặt, bị vô minh che đậy tâm thức trí huệ, làm sao họ biết được cảnh giới của Phật?
Chánh giác vô ngại trí Chánh Giác trí vô ngại
Siêu quá ngữ ngôn đạo, Siêu quá đường ngữ ngôn
Kỳ lượng bất khả trắc, Lượng kia chẳng lường được
Thục hữu năng tri kiến! Có ai thấy biết được.
Trí huệ không chướng ngại của Phật, vượt qua tất cả đường lời nói, số lượng không thể dò lường được, ai có thể biết được, thấy được cảnh giới của Phật?
Thí như minh nguyệt quang Ví như minh nguyệt sáng
Vô năng trắc biên tế Không lường biên tế được
Phật thần thông diệc nhĩ Phật thần thông cũng vậy
Mạc kiến kỳ chung tận. Chẳng thấy chung tận được,
Ví như ánh sáng mặt trăng, chẳng có ai có thể dò lường được bờ mé của ánh sáng mặt trăng. Thần thông diệu dụng của Phật cũng thế, chẳng có ai có thể nhìn thấy hết được thần thông của Phật.
Nhất nhất chư phương tiện Mỗi mỗi những phương tiện
Niệm niệm sở biến hóa Niệm niệm chỗ biến hoá
Tận ư vô lượng kiếp, Ðều trong vô lượng kiếp
Tư tánh bất năng liễu. Tư duy chẳng biết được
Hết thảy tất cả pháp phương tiện của Phật, đều niệm niệm biến hoá ra cảnh giới, dù bạn có trải qua vô lượng kiếp thời gian, để suy gẫm cảnh giới của Phật, cũng không thể nào hiểu biết được.
Tư tánh nhất thiết trí, Suy gẫm nhứt thiết trí
Bất khả tư nghị Pháp, Pháp chẳng thể nghĩ bàn
Nhất nhất phương tiện môn, Mỗi mỗi môn phương tiện
Biên tế bất khả đắc. Chẳng biết được biên tế.
Suy gẫm nhất thiết trí huệ của Phật và pháp của Phật nói đều không thể nghĩ bàn, bờ mé của mỗi môn phương tiện cũng đều không thể được.
Nhược hữu ư thử Pháp, Nếu ai ở pháp này
Nhi hưng quảng đại nguyện Mà phát nguyện rộng lớn
Bỉ ư thử cảnh giới Ở nơi cảnh giới này
Tri kiến bất vi nan. Thấy biết chẳng khó lắm.
Nếu có chúng sinh đối với pháp nầy, mà phát thệ nguyện rộng lớn, thì họ sẽ biết được, thấy được cảnh giới nầy, không có gì khó khăn.
Dũng mãnh cần tu tập Dũng mãnh siêng tu tập
Nan tư Đại pháp hải Biển pháp lớn khó nghĩ
Kỳ tâm vô chướng ngại Tâm đó không chướng ngại
Nhập thử phương tiện môn Vào môn phương tiện này.
Họ dũng mãnh siêng tu tập biển pháp rộng lớn không thể nghĩ bàn, tâm họ chẳng thối chuyển, cũng chẳng có sự chướng ngại, mà có thể nhập vào pháp môn phương tiện nầy.
Tâm ý dĩ điều phục Tâm ý đã đều phục
Chí nguyện diệc khoan quảng, Chí nguyện cũng rộng rãi
Đương hoạch Đại bồ-đề Sẽ được đại Bồ đề
Tối thắng chi cảnh giới. Cảnh giới rất tối thắng.
Tâm và ý chí của họ đã điều phục, chí của họ cũng rộng lớn, nguyện cũng rộng lớn, sẽ đắc được đại bồ đề và cảnh giới tối thù thắng, tức là cảnh giới của Phật.
Nhĩ thời, phá nhất thiết ma quân trí tràng Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, phá Nhứt Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương Bồ Tát thừa thần lực của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Khi Bồ Tát nói xong những bài kệ trên, thì lúc đó, lại có vị Bồ Tát Phá Nhất Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương, Ngài cũng nương đại oai thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và mười phương chư Phật gia bị, quán sát căn tánh cơ duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương, mà nói ra những bài kệ dưới đây.
Trí thân phi thị thân Trí thân chẳng phải thân
Vô ngại nan tư nghị Vô ngại khó nghĩ bàn,
Thiết hữu tư nghị giả Dầu có ai nghĩ bàn
Nhất thiết vô năng cập. Tất cả không đến được.
Trí thân thì vô tướng, tức là chẳng phải thân, nhục nhãn của phàm phu không thể quán sát được, cho nên nói trí thân chẳng phải thân. Trí huệ thân thì chẳng có sự chướng ngại, là không thể nghĩ bàn. Nếu như có sự nghĩ bàn, thì chẳng gọi là trí thân, chẳng phải là trí thân, vì trí thân chẳng phải trí thân, nên vô ngại khó nghĩ bàn.
Tùng bất tư nghị nghiệp Từ bất tư nghì nghiệp
Khởi thử thanh tịnh thân Khởi thân thanh tịnh này
Thù đặc diệu trang nghiêm Thù đặc diệu trang nghiêm
Bất trước ư tam giới. Chẳng chấp nơi ba cõi
Trí thân không thể nghĩ bàn nầy, từ nghiệp báo không thể nghĩ bàn sinh ra, sinh ra thân thanh tịnh nầy. Thân nầy rất thù thắng, vi diệu trang nghiêm, khác với thân của một số người, nó chẳng thuộc về quả báo thân dục giới, sắc giới, vô sắc giới.
Quang minh chiếu nhất thiết Quang Minh chiếu tất cả
Pháp giới tất thanh tịnh Pháp giới đều thanh tịnh
Khai Phật Bồ-đề môn Nghe Phật Bồ đề môn
Xuất sanh chúng trí tuệ. Xuất sanh những trí huệ.
Quang minh của trí thân chiếu sáng tất cả thế giới, tất cả pháp giới cũng đều khôi phục thanh tịnh, hay khai mở pháp môn Phật bồ đề, cho nên sinh ra hết thảy trí huệ, sinh ra hết thảy Bồ Tát.
Thí như thế gian nhật Như mặt nhựt thế gian
Phổ phóng tuệ quang minh Phóng ánh sáng trí huệ
Viễn ly chư trần cấu Xa rời những trần cấu
Diệt trừ nhất thiết chướng Diệt trừ tất cả chướng.
Lại ví như mặt trời thế gian, khắp phóng đại trí huệ quang minh, xa lìa tất cả trần cấu, diệt trừ tất cả chướng ngại.
Phổ tịnh tam hữu xứ Thanh tịnh khắp ba cõi
Vĩnh tuyệt sanh tử lưu Tuyệt hẳn dòng sanh tử
Thành tựu Bồ Tát đạo Thành tựu đạo Bồ đề
Xuất sanh vô thượng giác. Xuất sanh Vô Thượng Giác.
Đức Phật hay thanh tịnh cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, vĩnh viễn đoạn trừ dòng sinh tử, thành tựu tất cả đạo của Bồ Tát tu, mà sinh ra quả Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thị hiện vô biên sắc Thị hiện vô biên sắc
Thử sắc vô y xứ Sắc này không sở y
Sở hiện tuy vô lượng Sở hiện dầu vô lượng
Nhất thiết bất tư nghị. Tất cả bất tư nghì.
Đức Phật hay dùng sức đại thần thông thị hiện vô biên sắc thân, nhưng những sắc thân đó đều là hư vọng, chẳng có một sự căn cứ nào, chẳng có một chỗ nương tựa nào. Sắc thân thị hiện tuy vô lượng vô biên, nhưng ở trong sự thị hiện lại hoá ra vô số thị hiện, trùng trùng vô tận, vô tận trùng trùng, quang minh chiếu khắp.
Bồ-đề nhất niệm khoảnh Bồ đề khoảng một niệm
Năng giác nhất thiết pháp Hay giác ngộ các pháp
Vân hà dục trắc lượng, Sao lại muốn nghĩ lường
Như Lai trí biên tế? Như Lai trí biên tế.
Pháp bồ đề giác đạo, đốn ngộ trong khoảng một niệm, mà biết được tất cả Phật pháp, sao bạn lại muốn dò lường? không cách chi có thể dò lường được, vì bờ mé trí huệ Như Lai vô lượng vô biên.
Nhất niệm tất minh đạt, Một niệm đều thấu rõ
Nhất thiết tam thế Pháp Tất cả pháp tam thế
Cố thuyết Phật trí tuệ Nên nói Phật trí huệ
Vô tận vô năng hoại. Vô tận cũng vô hoại.
Có thể ở trong một niệm đều thấu đạt tất cả Phật pháp và pháp của tất cả chư Phật ba đời nói, có thể nói đó là trí huệ của Phật chẳng cùng tận, cũng chẳng thể phá hoại được.
Trí giả ưng như thị, Người trí phải như vậy
Chuyên tư Phật Bồ-đề Chuyên gẫm Phật Bồ đề
Thử tư nan tư nghị, Gẫm này khó nghĩ bàn
Tư chi bất khả đắc. Suy đó chẳng thể được
Bậc có trí huệ nên như vậy, chuyên tâm suy gẫm Phật bồ đề, nhưng sự tư tưởng đó là một cảnh giới không thể nghĩ bàn. Do đó có câu: “Đường lời nói đã dứt, chỗ tâm hành đã diệt”, sự tư duy cũng không thể được.
Bồ-đề bất khả thuyết, Bồ đề không thể nói
Siêu quá ngữ ngôn lộ Siêu quá đường ngữ ngôn
Chư Phật tòng thử sanh Chư Phật từ đây sanh
Thị pháp nan tư nghị. Pháp này khó nghĩ bàn.
Bồ đề giác đạo nầy vốn không thể nói, vì nó vượt khỏi đường lời nói văn tự, cho nên không cách gì có thể nói. Mười phương chư Phật đều từ trong trí huệ sinh ra, pháp đó thật là không thể nghĩ bàn.
Nhĩ thời, nguyện trí quang minh tràng Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ Nguyện Trí Quang Minh Tràng Vương Bồ Tát, thừa thần của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Lúc đó, có vị Bồ Tát Nguyện Trí Quang Minh Tràng Vương, Ngài cũng nương đại oai thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, dùng diệu quán sát trí của Ngài, để quán sát căn tánh và cơ duyên của chúng sinh trong mười phương, mà nói ra những bài kệ dưới đây.
Nhược năng thiện quan sát Nếu khéo quán sát được
Bồ-đề vô tận hải, Bồ đề vô tận hải
Tức đắc ly si niệm Thời lìa được niệm si
Quyết định thọ Trì Pháp Quyết định thọ trì pháp.
Nếu bạn có thể quán sát tỉ mỉ, thì diệu pháp môn bồ đề đó vô tận như biển cả. Tham sân si ý niệm của bạn sẽ lìa khỏi, mà một lòng một dạ muốn tu hành, quyết định muốn hành trì đạo bồ đề.
Nhược đắc quyết định tâm Nếu được tâm quyết định
Tức năng tu diệu hạnh Thời hay tu diệu hạnh
Thiền tịch tự tư lự Thiền tịch tự tư lự
Vĩnh đoạn chư nghi hoặc Dứt hẳn những nghi hoặc.
Nếu chẳng còn tham sân si mà phát tâm quyết định tu đạo bồ đề, thì bạn sẽ có thể tu hành pháp môn tu hành của Bồ Tát hành trì. Tu thiền định tức là tư duy tu, sẽ dứt trừ tất cả hoài nghi và mê hoặc.
Kỳ tâm bất bì quyện Tâm đó chẳng mỏi mệt
Diệc phục vô giải đãi Lại cũng chẳng biến lười
Triển chuyển tăng tiến tu Lần lượt tăng tấn tu
Cứu cánh chư Phật Pháp Rốt ráo những Phật pháp
Khi Bồ Tát tu hành Bồ Tát đạo, bất cứ trải qua bao lâu, tâm cũng vĩnh viễn không cảm thấy mệt mỏi, hoặc cho rằng đủ có thể nghỉ ngơi, mà không tu Bồ Tát đạo nữa. Ngài không khi nào giải đãi, từ từ từng bước, từng bước hướng về trước, tinh tấn tu hành đạo bồ đề, rốt ráo tu viên mãn pháp của Phật nói.
Tín trí dĩ thành tựu, Tín trí đã thành tựu
Niệm niệm lệnh tăng trưởng Niệm niệm khiến tăng trưởng
Thường lạc thường quan sát Thường thích thường quán sát
Vô đắc vô y Pháp. Pháp vô đắc vô y.
Bồ Tát đã thành tựu niềm tin bất thối và trí bất thối, ở trong niệm niệm, đều khiến cho tâm đạo bồ đề tăng trưởng. Thường thường hoan hỉ Phật pháp, thường thường quán sát tất cả Phật pháp, cũng chẳng có sở đắc, do đó có câu: “Vô trí diệc vô đắc”, cũng chẳng có sự nương tựa.
Vô lượng ức thiên kiếp Vô lượng ức ngàn kiếp
Sở tu công đức hạnh Tu những công đức hạnh
Nhất thiết tất hồi hướng Tất cả đều hồi hướng
Chư Phật sở cầu đạo. Ðạo vô thượng của Phật.
Trong vô lượng ức ngàn kiếp thời gian, Bồ Tát đem hạnh công đức tu được, tất cả đều hồi hướng cho hết thảy chúng sinh, hồi hướng chỗ chư Phật cầu đạo bồ đề, cảnh giới thập địa.
Tuy tại ư sanh tử Dầu ở nơi sanh tử
Nhi tâm vô nhiễm trước, Mà tâm không nhiễm trước
An trụ chư Phật Pháp An trụ trong Phật pháp
Thường lạc Như Lai hạnh Thường thích Như Lai hạnh.
Tuy Bồ Tát ở trong dòng sinh tử, nhưng trong tâm của các Ngài chẳng nhiễm trước cảnh giới tình ái trong thế gian, mà là an trụ trong pháp môn của chư Phật, thường ưa thích tu hành pháp môn của chư Phật tu hành trong quá khứ.
Thế gian chi sở hữu Những sự có thế gian
Uẩn giới đẳng chư Pháp Những pháp uẩn, xứ giới
Nhất thiết giai xả ly Tất cả đều bỏ lìa
Chuyên cầu Phật công đức. Chuyên cầu Phật công đức.
Hết thảy tất cả uẩn giới ví như năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), mười hai xứ (mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp), mười tám giới (mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp, nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức) các pháp thảy, tất cả pháp thế gian đều xả lìa, mà chuyên cầu quả Phật vô thượng bồ đề.
Phàm phu anh vọng hoặc Phàm phu bị mê lầm
Ư thế thường lưu chuyển Thường lưu chuyển thế gian
Bồ Tát tâm vô ngại, Bồ Tát tâm vô ngại
Cứu chi lệnh giải thoát Cứu họ được giải thoát.
Tất cả sở đắc, chỗ biết, chỗ gặp của phàm phu, đều là hư vọng mê hoặc. Thường thường lưu chuyển ở trong sinh tử sáu nẻo luân hồi. Tâm của Bồ Tát chẳng quái ngại, hay cứu hộ tất cả chúng sinh lưu chuyển sinh tử, khiến cho họ đắc được giải thoát.
Bồ Tát hạnh nan xưng Bồ Tát hạnh khó nói
Cử thế mạc năng tư Thế gian chẳng suy được
Biến trừ nhất thiết khổ Trừ khắp tất cả khổ
Phổ dữ quần sanh lạc Khắp ban quần sanh vui.
Hạnh môn tu hành của Bồ Tát khó xưng tán, hết thảy chúng sinh thế gian đều không thể nghĩ bàn cảnh giới nầy. Ngài hay giải trừ khắp tất cả khổ của chúng sinh, khắp ban cho chúng sinh an lạc. Hay cứu khổ ban vui, đó là từ bi, vì từ hay ban vui, bi hay cứu khổ.
Dĩ hoạch Bồ-đề trí Ðã được Bồ đề trí
Phục mẫn chư quần sanh Lại thương các chúng sanh
Quang minh chiếu thế gian Quang Minh chiếu thế gian
Độ thoát nhất thiết chúng. Ðộ thoát tất cả chúng.
Đức Phật đã đắc được trí huệ bồ đề giác đạo, lại thương xót tất cả chúng sinh, muốn khiến cho chúng sinh đều lìa khổ được vui. Quang minh của Phật chiếu khắp tất cả thế gian, độ thoát hết thảy chúng sinh thế gian.
Trong các pháp môn mà bạn biết, bạn cảm thấy pháp môn nào thích hợp với bạn, thì bạn y chiếu pháp môn đó mà tu hành. Còn pháp môn nào không tương ưng với bạn, thì bạn không cần tu hành. Ví như bạn có tâm tham, thì nên tu pháp môn bố thí; bạn có tâm dâm dục, thì nên tu pháp môn trì giới; bạn thích nóng giận, thì tu pháp môn nhẫn nhục; bạn thích lười biếng, thì tu pháp môn tinh tấn; bạn thích tán loạn, thì tu pháp môn thiền định; bạn thích ngu si, thì tu pháp môn trí huệ. Những pháp môn đó đối trị khuyết điểm của bạn. Trước kia những gì bạn thích, là bởi vì bạn không hiểu nên mới thích, hiện tại bạn đã hiểu rồi, thì nên dùng một thứ pháp môn để đối trị tập khí mao bệnh của chính mình.
Nhĩ thời, phá nhất thiết chướng dũng mãnh trí Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Phá Nhứt Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Lúc đó, lại có vị Bồ Tát Phá Nhất Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương, Ngài cũng nương đại oai thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và đại oai thần lực của mười phương chư Phật, quán sát tỉ mỉ căn tánh và cơ duyên của chúng sinh mười phương, nên dùng pháp gì để độ thoát họ? Do đó nói ra những bài kệ dưới đây, cũng là tường thuật lại ý nghĩa Kinh trường hàng.
Vô lượng ức thiên kiếp Vô lượng ức ngàn kiếp
Phật danh nan khả văn Phật danh khó được nghe
Huống phục đắc thân cận Huống lại được thân cận
Vĩnh đoạn chư nghi hoặc! Dứt hẳn những nghi lầm
Trong vô lượng vô số ức ngàn kiếp, danh hiệu của Phật không dễ gì nghe được, do đó có câu: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được”, chẳng những trăm ngàn vạn kiếp, vạn ngàn vạn kiếp cũng khó nghe được danh hiệu Phật. Hà huống nhìn thấy gần gũi được Phật, vĩnh viễn dứt trừ tất cả nghi hoặc phiền não, đó lại càng khó hơn.
Như Lai thế gian đăng Như Lai thế Gian Ðăng
Thông đạt nhất thiết pháp Thông đạt tất cả pháp
Phổ sanh tam thế phước Khắp sanh phước tam thế
Lệnh chúng tất thanh tịnh. Khiến chúng đều thanh tịnh.
Đức Phật là ngọn đèn sáng của thế gian, thông đạt tất cả Phật pháp, khắp khiến cho chúng sinh gieo trồng ruộng phước ba đời, khiến cho hết thảy tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh.
Như Lai diệu sắc thân Như Lai diệu sắc thân
Nhất thiết sở khâm thán, Tất cả chúng kính khen
Ức kiếp thường chiêm ngưỡng, Ức kiếp thường chiêm ngưỡng
Kỳ tâm Vô yếm túc. Tâm họ không nhàm đủ.
Sắc thân vi diệu của Phật, hết thảy tất cả chúng sinh đều cung kính khen ngợi, trăm ngàn ức kiếp chúng sinh đều chiêm ngưỡng đức Phật, tâm họ đều không khi nào nhàm đủ.
Nhược hữu chư Phật tử Nếu có càc Phật tử
Quán Phật diệu sắc thân, Quán Phật diệu sắc thân
Tất xả chư hữu trước, Tất bỏ luyến thế gian
Hồi hướng Bồ-đề đạo. Hướng về Bồ đề đạo.
Nếu có tất cả đệ tử của Phật, thấy được sắc thân vi diệu của Phật, nhất định sẽ xả bỏ tất cả mọi sự chấp trước cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, mà hồi hướng về đại bồ đề giác đạo.
Như Lai diệu sắc thân, Như Lai diệu sắc thân
Hằng diễn quảng đại âm, Hằng diễn quảng đại âm
Biện tài vô chướng ngại, Biện tài không chướng ngại
Khai Phật Bồ-đề môn Khai Phật Bồ đề môn.
Sắc thân vi diệu của Như Lai, luôn luôn diễn nói pháp âm rộng lớn. Biện tài vô ngại hay khai mở pháp môn Phật bồ đề giác đạo.
Hiểu ngộ chư chúng sanh Hiểu ngộ các chúng sanh
Vô lượng bất tư nghị, Vô lượng chẳng nghĩ bàn
Lệnh nhập trí tuệ môn Khiến vào môn trí huệ
Thọ dĩ Bồ-đề kí. Ðược thọ ký Bồ đề.
Phật khiến cho tất cả chúng sinh đều minh bạch giác ngộ, có các chúng sinh số nhiều vô lượng đều đã khai ngộ, thật là bất khả tư nghì. Khiến cho tất cả chúng sinh đều nhập vào môn trí huệ, mà được thọ ký bồ đề.
Như Lai xuất thế gian Như Lai xuất thế gian
Vi thế Đại phước điền Làm phước điền thế gian
Phổ đạo chư hàm thức Dắt dẫn các hàm thức
Lệnh kỳ tập phước hạnh Khiến họ tu phước hạnh.
Như Lai xuất hiện ra đời, làm ruộng phước lớn cho chúng sinh thế gian, khắp dẫn dắt tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh tu phước tu huệ.
Nhược hữu cúng dường Phật Nếu có cúng dường Phật
Vĩnh trừ ác đạo úy, Trừ hẳn sợ ác đạo
Tiêu diệt nhất thiết khổ Diệt trừ tất cả khổ
Thành tựu trí tuệ thân. Thành tựu thân trí huệ
Nếu có chúng sinh cúng dường đức Phật, thì họ sẽ vĩnh viễn lìa khỏi sợ hãi trong ba đường ác, sẽ tiêu diệt tất cả sự thống khổ, mà thành tựu thân trí huệ.
Nhược kiến lượng túc tôn, Nếu thấy Lưỡng Túc Tôn
Năng phát quảng đại tâm Hay phát tâm quảng đại
Thị nhân hằng trị Phật, Người này hằng gặp Phật
Tăng trưởng trí tuệ lực. Tăng trưởng sức trí huệ.
Nếu có chúng sinh gặp được đấng Lưỡng Túc Tôn, đủ phước đủ huệ – tức là đức Phật, thì sẽ phát tâm bồ đề rộng lớn. Người đó sẽ luôn luôn gặp được Phật, mà tăng trưởng sức trí huệ.
Nhược kiến nhân trung thắng, Nếu thấy Nhơn Trung Tôn
Quyết ý hướng Bồ-đề Quyết ý hướng Bồ đề
Thị nhân năng tự tri Người này tự biết được
Tất đương thành chánh giác. Tất sẽ thành Chánh Giác.
Nếu có chúng sinh thấy được đức Phật tối thắng trong loài người, thì sẽ quyết tâm tu hành bồ đề giác đạo. Người đó hay tự biết mình, tương lai nhất định sẽ thành Chánh Giác.
Nhĩ thời, Pháp giới sái biệt nguyện trí thần thông Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, Pháp giới Sai Biệt Nguyện Trí Thần Thông Vương Bồ Tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Lúc đó, lại có vị Bồ Tát Pháp Giới Sai Biệt Nguyện Trí Thần Thông Vương, Ngài cũng nương đại oai thần lực của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và mười phương chư Phật gia bị, quán sát căn tánh và cơ duyên của chúng sinh mười phương, mà nói ra những bài kệ dưới đây.
Thích Ca vô thượng tôn Thích Ca Vô Thượng Tôn
Cụ nhất thiết công đức Ðủ tất cả công đức
Kiến giả tâm thanh tịnh Người thấy tâm thanh tịnh
Hồi hướng đại trí tuệ. Hồi hướng đại trí huệ
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là đấng chí tôn vô thượng, đã tu hành viên mãn đầy đủ tất cả công đức. Bất cứ ai gặp được đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thì trong tâm đều được thanh tịnh, mà tu hành hồi hướng đại trí huệ.
Như Lai đại từ bi Như Lai đại từ bi
Xuất hiện ư thế gian Xuất hiện ở thế gian
Phổ vi chư quần sanh Khắp vì các quần sanh
Chuyển vô thượng pháp luân. Chuyển pháp luân vô thượng.
Đức Phật có tâm đại từ đại bi, xuất hiện ra thế giới Ta Bà nầy, khắp vì tất cả chúng sinh, chuyển bánh xe pháp vi diệu vô thượng.
Như Lai vô số kiếp, Như Lai vô số kiếp
Cần khổ vi chúng sanh Cần khổ vì chúng sanh
Vân hà chư thế gian, Thế nào các thế gian
Năng báo Đại sư ân? Báo được ơn đức Phật
Đức Phật trong vô lượng kiếp về trước, siêng tu tất cả khổ hạnh, đều vì cứu độ chúng sinh. Người thế gian nầy, làm thế nào báo đáp được ân đức của Phật? Chẳng có cách gì báo đáp được hết công đức của Phật.
Ninh ư vô lượng kiếp, Thà trong vô lượng kiếp
Thọ chư ác đạo khổ; Thọ những khổ ác đạo
Chung bất xả Như Lai, Trọn chẳng bỏ Như Lai
Nhi cầu ư xuất ly Mà cầu nơi xuất ly.
Thà ở trong vô lượng kiếp, thọ khổ não trong các đường ác, trọn cũng không lìa khỏi Phật, mà cầu xuất ly tất cả khổ. Dù có theo Phật thọ vô lượng khổ, chúng sinh cũng muốn đi theo Phật.
Ninh đại chư chúng sanh Thà thay các chúng sanh
Bị thọ nhất thiết khổ Chịu đủ tất cả khổ
Chung bất xả ư Phật Trọn chẳng bỏ Như Lai
Nhi cầu đắc an lạc. Mà cầu được an lạc.
Thà thay thế tất cả chúng sinh thọ tất cả khổ, trọn cũng không muốn bỏ lìa Phật, mà cầu được an lạc. Dù thọ khổ cũng muốn đi theo Phật, không muốn lìa khỏi Phật mà cầu được an lạc.
Ninh tại chư ác thú Thà tại các ác thú
Hằng đắc văn Phật danh Hằng được nghe Phật danh
Bất nguyện sanh thiện đạo Chẳng muốn sanh thiện đạo
Tạm thời bất văn Phật. Tạm thời chẳng nghe Phật.
Thà ở trong các cõi ác, luôn luôn được nghe danh hiệu Phật. Đây là phát nguyện của Bồ Tát, dù có bị đoạ vào trong ba đường ác, chỉ cần nghe được danh hiệu Phật cũng mãn nguyện, chứ chẳng muốn sinh về cõi trời, hoặc Bắc Câu Lưu Châu, rất là khoái lạc, mà chẳng nghe được danh hiệu Phật, cho dù thời gian ngắn cũng không muốn.
Ninh sanh chư địa ngục, Thà sanh các địa ngục
Nhất nhất vô số kiếp; Mỗi mỗi vô số kiếp
Chung bất viễn ly Phật Trọn chẳng xa rời Phật
Nhi cầu xuất ác thú. Mà cầu thoát ác thú
Thà sinh vào các địa ngục, trải qua vô lượng đại kiếp, trọn cũng không muốn lìa khỏi Phật, mà cầu lìa khỏi địa ngục.
Hà cố nguyện cửu trụ Cớ sao nguyện ở lâu
Nhất thiết chư ác đạo? Tất cả các ác đạo ?
Dĩ đắc kiến Như Lai Vì được thấy Như Lai
Tăng trưởng trí tuệ cố. Trí huệ được trăng trưởng.
Tại sao lại nguyện ở lâu trong các đường ác? Vì có thể sẽ được gặp Phật, tăng trưởng trí huệ.
Nhược đắc kiến ư Phật, Nếu được thấy đức Phật
Trừ diệt nhất thiết khổ Diệt trừ tất cả khổ
Năng nhập chư Như Lai Vào được cảnh đại trí
Đại trí chi cảnh giới. Của chư Phật Thế Tôn.
Nếu có chúng sinh hay gặp được Phật, thì sẽ trừ diệt tất cả khổ, mà chứng nhập cảnh giới đại trí huệ của tất cả chư Phật.
Nhược đắc kiến ư Phật, Nếu thấy được đức Phật
Xả ly nhất thiết chướng Bỏ rời tất cả chướng
Trưởng dưỡng vô tận phước Trưởng dưỡng phước vô tận
Thành tựu Bồ-đề đạo. Thành tựu đạo Bồ đề.
Nếu có chúng sinh gặp được Phật, thì sẽ xả lìa tất cả sự chướng ngại, mà dưỡng lớn vô lượng phước báo, thành tựu bồ đề giác đạo.
Như Lai năng vĩnh đoạn Như Lai dứt hẳn được
Nhất thiết chúng sanh nghi Tất cả chúng sanh nghi
Tùy kỳ tâm sở lạc Tùy tâm họ sở thích
Phổ giai lệnh mãn túc. Ðiều khiến khắp đầy đủ.
Phật hay vĩnh viễn dứt trừ nghi hoặc của tất cả chúng sinh, tuỳ theo tâm ưa thích của họ, khắp khiến cho tất cả chúng sinh, đều được đầy đủ mãn nguyện ước muốn của họ.