Kinh Hoa Nghiêm – Phẩm Vào Pháp Giới – 4

Kinh Hoa Nghiêm

Đại Phương Quảng Phật

giảng giải

Phẩm Thứ 39

Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh

— o0o —

Phẩm Vào Pháp Giới

Phần 4

— o0o —

QUYỂN SÁU MƯƠI BỐN

HƯU XẢ ƯU BÀ DI – PHÓ THÁC THỨ BẢY BẤT THỐI TRỤ 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử mông thiện tri thức lực, y thiện tri thức giáo, niệm thiện tri thức ngữ, ư thiện tri thức thâm tâm ái lạc, tác thị niệm ngôn: nhân thiện tri thức, lệnh ngã kiến Phật; nhân thiện tri thức, lệnh ngã văn Pháp. Thiện tri thức giả thị ngã sư phó, thị đạo ư ngã chư Phật Pháp cố; thiện tri thức giả thị ngã nhãn mục, lệnh ngã kiến Phật như hư không cố; thiện tri thức giả thị ngã tân tế, lệnh ngã đắc nhập chư Phật Như Lai liên hoa trì cố.

Khi ấy Thiện tài đồng tử nhờ sức thiện tri thức, y lời dạy của thiện tri thức, nhớ lời nói của thiện tri thức, thâm tâm mến thích thiện tri thức. Tự nghĩ rằng: Nhơn thiện tri thức, làm cho tôi được thấy Phật. Nhơn thiện tri thức làm cho tôi được nghe pháp. Thiện tri thức là thầy học của tôi, vì chỉ dạy tôi những Phật pháp. Thiện tri thức là nhãn mục của tôi, vì làm cho tôi thấy Phật như hư không. Thiện tri thức là chiếc đò của tôi, vì làm cho tôi được vào ao hoa sen của chư Phật Như Lai.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhờ sức gia bị thiện tri thức Tỳ Kheo Hải Tràng, nương theo lời dạy thiện tri thức để tu hành, thường nhớ lời nói của thiện tri thức không quên. Đối với thiện tri thức trong thâm tâm rất mến thích, bèn nghĩ như vầy: “Nhờ thiện tri thức, mà khiến cho tôi được thấy Phật. Nhờ gần gũi thiện tri thức, mà khiến cho tôi được nghe Phật pháp. Cho nên bậc thiện tri thức là thầy dạy tôi, vì các Ngài chỉ dẫn cho tôi học tập các Phật pháp. Bậc thiện tri thức là con mắt của tôi, vì khiến cho tôi thấy Phật như hư không. Biết hư không là vô tướng, mà Phật cũng như thế. Bậc thiện tri thức là chiếc đò của tôi, vì chỉ dẫn tôi chứng nhập vào ao sen của tất cả chư Phật Như Lai, hoa sen hoá sinh, do đó có câu:
“Chín phẩm hoa sen là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh”.

 

Tiệm tiệm Nam hành, chí hải triều xứ, kiến phổ trang nghiêm viên, chúng bảo viên tường châu táp vi nhiễu, nhất thiết bảo thụ hành liệt trang nghiêm; nhất thiết bảo hoa thọ, vũ chúng hương khí, bố tán kỳ địa; nhất thiết bảo hương thọ, hương khí phân uân, phổ huân thập phương; nhất thiết bảo man thọ, vũ đại bảo man, xứ xứ thùy hạ; nhất thiết ma-ni bảo vương thọ, vũ đại ma ni bảo, biến bố sung mãn

Vừa suy gẫm vừa đi lần qua phương Nam đền xứ Hải Triều, thấy vườn Phổ Trang Nghiêm, tường rào bằng các thứ bửu bao bọc. Tất cả cây báu hàng liệt trang nghiêm. Tất cả cây bửu hoa rải những diệu hoa trải trên mặt đất. Tất cả cây bửu hương mùi thơm ngào ngạt xông khắp mười phương. Tất cả cây tràng hoa báu mưa tràng hoa báu lớn rủ xuống khắp nơi. Tất cả cây ma ni bửu vương mưa báu đại ma ni rải đầy khắp nơi.

Giảng: Thiện Tài đồng tử từ từ đi về hướng nam, đến xứ Hải Triều, thấy vườn hoa Phổ Trang Nghiêm, tường rào bằng các thứ báu bao bọc chung quanh. Đây là việc trang nghiêm thứ nhất ở trong vườn, tức là các báu bao quanh.

Tất cả các cây báu, đều rất thẳng hàng trang nghiêm. Tất cả cây hoa báu, đều mưa xuống các hoa đẹp, rải khắp mặt đất để nghiêm sức. Tất cả cây hương báu, đều toả ra hương thơm ngào ngạt, xông khắp mười phương pháp giới. Tất cả cây tràng hoa báu, đều mưa xuống tràng hoa báu lớn, từ những nhánh cây nơi nơi thòng xuống. Tất cả cây ma ni vương báu, đều mưa xuống đại ma ni báu, đầy dẫy khắp vườn.

 

Nhất thiết bảo y thọ, vũ chủng chủng sắc y, tùy kỳ sở ưng, châu táp phu bố; nhất thiết âm nhạc thọ, phong động thành âm, kỳ âm mỹ diệu, qua ư Thiên nhạc; nhất thiết trang nghiêm cụ thọ, các vũ trân ngoạn kì diệu chi vật, xứ xứ phân bố, dĩ vi nghiêm sức. kỳ địa thanh tịnh vô hữu cao hạ, ư trung cụ hữu bách vạn điện đường, đại ma ni bảo chi sở hợp thành; bách vạn lâu các, diêm phù đàn kim dĩ phước kỳ thượng; bách vạn cung điện, Tỳ Lô Giá Na ma-ni bảo gian thác trang nghiêm;

Tất cả cây bửu y mưa y phục nhiều màu tùy sở nghi giăng trải quanh vườn. Tất cả cây âm nhạc gió động thành tiếng êm dụi hơn thiên nhạc. Tất cả cây đồ trang nghiêm mưa những vật trân ngoạn kỳ dụi trần thiết nghiêm sức khắp nơi. Mặt đất trong vườn thanh tịnh không có cao thấp. Trong vườn có trăm vạn điện đường xây bằng đại ma ni bửu. Có trăm vạn lâu các, vàng diêm phù đàn che trùm phía trên.

Giảng: Tất cả cây y phục báu, đều mưa xuống đủ thứ y màu sắc, tuỳ theo góc độ khác nhau trong vườn, mà giăng bày khắp nơi. Tất cả cây âm nhạc, gió thổi động thành tiếng nhạc, tiếng nhạc đó rất hay êm tai, hay hơn âm nhạc ở trên trời. Tất cả cây đồ trang nghiêm, đều mưa xuống đồ vật trân ngoạn kỳ diệu, phân bố khắp nơi, dùng để nghiêm sức vườn hoa. Đây là việc trang nghiêm thứ hai, tức rừng cây thẳng hàng.

Mặt đất vườn Phổ Trang Nghiêm đó rất thanh tịnh, không có sự cao thấp không bằng phẳng. Trong vườn đó, có đủ trăm vạn toà điện đường, đều làm bằng đại ma ni báu hợp thành. Lại có trăm vạn lầu các, trên đỉnh lầu các đó đều làm bằng vàng Diêm Phù Đàn che phủ phía trên, lại có trăm vạn toà cung điện, đều dùng báu tỳ lô giá na ma ni xen lẫn trang nghiêm. Đây là việc trang nghiêm thứ ba, tức cung điệu lầu các nghiêm lệ.

 

Nhất vạn dục trì, chúng bảo hợp thành. Thất bảo lan thuẫn, châu táp vi nhiễu; thất bảo giai đạo, tứ diện phân bố; bát công đức thủy, trạm nhiên doanh mãn, kỳ thủy hương khí như Thiên chiên đàn, kim sa bố để, thủy thanh bảo châu chu biến gian thác; phù nhạn, Khổng-tước, câu chỉ La điểu du hí kỳ trung, xuất hòa nhã âm; bảo Ta-la thụ châu táp hành liệt, phước dĩ ảo võng, thùy chư kim linh, vi phong từ diêu, hằng xuất mỹ âm; thí đại bảo trướng, bảo thụ vi nhiễu, kiến lập vô số ma-ni bảo tràng, quang minh phổ chiếu bách thiên do-tuần.

Trăm vạn cung điện, Tỳ Lô Giá Na ma ni bửu xen lẫn trang nghiêm. Một vạn ao tắm các báu hiệp thành. Lan thuẫn bảy báu bao bọc giáp vòng, thềm đường bảy báu phân bố bốn phía. Nước tám công đức đứng lặng đầy ao, hơi thơm như thiên chiên đàn. Cát vàng trải đáy ao. Bửu châu thủy thanh xem lẫn khắp nơi. Nhiều loại chim đẹp du ngoạn trong đó hót tiếng, hòa nhã. Cây bửu đa la hàng liệt bao vòng, bửu võng giăng trùm, thòng những linh vàng, gió nhẹ rung thường vang tiếng dịu. Giăng màn đại bửu. Dựng vô số ma ni bửu tràng quang minh chiếu khắp trăm ngàn do tuần.

Giảng: Lại có một vạn ao tắm, đều là các báu hợp thành, đó đều là cảnh giới của Vạn Phật Thành. Lan can làm bằng bảy báu để bao bọc chung quanh. Thềm đường làm bằng bảy báu, phân bố bốn phía. Nước tám công đức, trong suốt tràn đầy ở trong đó.

Nước tám công đức có đủ tám lợi ích:
1. Trong mát.
2. Mát mẻ.
3. Ngon ngọt.
4. Nhẹ nhàng.
5. Thấm nhuần.
6. An hoà.
7. Uống vào trừ khát và tất cả các bệnh hoạn.
8. Tăng ích nuôi lớn căn lành.

Nước tám công đức đó thơm tho như chiên đàn trên trời, là một loại hương chiên đàn rất ít có. Lại có cát vàng rải dưới đáy ao, có thuỷ thanh bảo châu, xen lẫn khắp nơi trong ao. Lại có nhiều loại chim đẹp, du ngoạn ở trong vườn đó, đều hót vang lên tiếng hoà nhã. Lại có cây bảo đa la, bao quanh bốn phía, thẳng hàng ngay ngắn. Lại dùng lưới báu giăng phủ phía trên, có rất nhiều linh bằng vàng thòng xuống, khi gió nhẹ thổi động, luôn vang ra tiếng hay vi diệu. Lại giăng màn báu lớn, có vô số cây báu chung quanh bốn phía. Lại kiến lập vô số tràng ma ni báu, quang minh chiếu khắp trăm ngàn do tuần. Đây là việc trang nghiêm thứ tư, tức là ao hình cong hoa sen xanh.

 

Kỳ trung phục hữu bách vạn pha trì, hắc chiên đàn nê ngưng tích kỳ để, nhất thiết diệu bảo dĩ vi liên hoa phu bố thủy thượng, Đại ma-ni Hoa Quang sắc chiếu diệu viên trung. Phục hưũ quảng đại cung điện, danh: trang nghiêm tràng, hải tạng diệu bảo dĩ vi kỳ địa, Tì lưu ly bảo dĩ vi kỳ trụ, diêm phù đàn kim dĩ phước kỳ thượng, quang tạng ma-ni dĩ vi trang nghiêm, vô số bảo vương quang diệm sí nhiên, trọng lâu hiệp các chủng chủng trang sức; A-lô-na Hương Vương, giác ngộ Hương Vương, giai xuất diệu hương phổ huân nhất thiết.

Trong đó lại có trăm vạn ao, bùn hắc chiên đàn ngưng đọng đáy ao. Tất cả diệu bửu làm hoa sen nở trên mặt nước. Hoa đại ma ni màu sáng chiếu rực rở. Trong ao lại có cung điện rộng lớn tên là trang nghiêm tràng hải tạng, diệu bửu làm nền, tỳ lưu ly bửu làm cột, diêm phù đàn kim che trên, quang tạng ma ni dùng trang nghiêm, vô số bửu vương ánh sáng rực rở. Lầu nhiều từng giáp với gác nhiều thứ trang sức a lô na hương vương, giác ngộ hương vương, đều phát ra diệu hương xông khắp nơi.

Giảng: Trong vườn đó, lại có trăm vạn ao nước nhỏ, hương thơm bùn hắc chiên đàn lắng đọng dưới đáy ao. Có đủ thứ báu đẹp dùng làm hoa sen, đều nở rộ khắp trên mặt nước. Có hoa báu đại ma ni, ánh sáng chiếu soi khắp mười phương. Đây là việc trang nghiêm thứ năm, tức ánh sáng từ ao phát ra.

Trong vườn rừng Phổ Trang Nghiêm đó, lại có cung điện rộng lớn, tên là Trang Nghiêm Tràng Hải Tạng, nền làm bằng báu đẹp, cột làm bằng báu tỳ lưu ly, vàng Diêm phù đàn che phủ phía trên cung điện, có quang tạng ma ni dùng để trang nghiêm cung điện. Có vô số bảo vương, ánh sáng rực rỡ. Có lầu nhiều tầng giáp với gác, đủ thứ sự trang sức. Hương vương A lư na (hương màu đỏ), hương vương giác ngộ (ai ngửi được hương nầy liền giác ngộ), đều toả ra hương thơm vi diệu, xông khắp tất cả mười phương thế giới.

 

Kỳ cung điện trung, phục hưũ vô lượng bảo liên hoa tọa châu hồi bố liệt, sở vị: chiếu diệu thập phương ma-ni bảo liên hoa tọa, Tỳ Lô Giá Na ma ni bảo liên hoa tọa, chiếu diệu thế gian ma-ni bảo liên hoa tọa, diệu tạng ma-ni bảo liên hoa tọa, sư tử tạng ma-ni bảo liên hoa tọa, ly cấu tạng ma-ni bảo liên hoa tọa, Phổ môn ma-ni bảo liên hoa tọa, quang nghiêm ma-ni bảo liên hoa tọa, an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma-ni Vương bảo liên hoa tọa, Kim cương sư tử ma-ni bảo liên hoa tọa.

Trong cung điện đó lại có vô lượng tòa bửu liên hoa trần thiết giáp vòng. Như là tòa bửu liên hoa ma ni chiếu sáng mười phương. Tòa tỳ lô giá na ma ni bửu liên hoa. Tòa ma ni bửu liên hoa chiếu sáng thế gian. Tòa diệu tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa sư tử tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa ly cấu tạng ma ni bửu liên hoa. Tòa phổ môn ma ni bửu liên hoa. Tòa quang nghiêm ma ni bửu liên hoa. Tòa an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma ni vương bửu liên hoa. Tòa kim cang sư tử ma ni bửu liên hoa.

Giảng: Trong cung điện đó, lại có vô lượng toà hoa sen báu, bày bố thẳng hàng giáp vòng. Đó là: Toà hoa sen ma ni báu chiếu sáng mười phương. Toà hoa sen tỳ lô giá na ma ni báu. Toà hoa sen ma ni báu chiếu sáng thế gian. Toà hoa sen diệu tạng ma ni báu. Toà hoa sen sư tử tạng ma ni báu. Toà hoa sen ly cấu tạng ma ni báu. Toà hoa sen phổ môn ma ni báu. Toà hoa sen quang nghiêm ma ni báu. Toà hoa sen an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma ni báu. Toà hoa sen kim cang sư tử ma ni báu. Đây là việc trang nghiêm thứ sáu, tức trang nghiêm điện đường.

 

Viên trung phục hưũ bách vạn chủng trướng, sở vị: y trướng, man trướng, hương trướng, hoa trướng, chi trướng, ma-ni trướng, chân kim trướng, trang nghiêm cụ trướng, âm nhạc trướng, Tượng Vương thần biến trướng, mã Vương thần biến trướng, Đế Thích sở trước ma-ni bảo trướng như thị đẳng, kỳ số bách vạn.

Trong vườn lại có trăm vạn thứ màn. Như là màn y phục, màn tràng hoa, màn hương, màn hoa, màn cành, màn ma ni, màn chơn kim, màn đồ trang nghiêm, màn âm nhạc, màn tượng vương thần biến, màn mã vương thần biến, màn ma ni bửu của Thiên Ðế đeo.

Giảng: Trong vườn Phổ Trang Nghiêm đó, lại có trăm vạn thứ trướng khác nhau. Đó là: Trướng y, trướng man, trướng hương, trướng hoa, trướng cành, trướng ma ni, trướng vàng thật, trướng đồ trang nghiêm, trướng âm nhạc, trướng voi chúa thần biến, trướng ngựa chúa thần biến, trướng Đế Thích đeo ma ni báu. Những trướng như vậy có hàng trăm vạn thứ.

 

Hữu bách vạn đại bảo võng di phước kỳ thượng, sở vị: bảo linh võng, bảo cái võng, bảo thân võng, hải tạng trân châu võng, cám lưu ly ma ni bảo võng, sư tử ma-ni võng, nguyệt quang ma-ni võng, chủng chủng hình tượng chúng hương võng, bảo quán võng, bảo anh lạc võng như thị đẳng, kỳ số bách vạn.

Lại có trăm vạn mành lưới đại bửu giăng che phía trên. Như là lưới bửu linh, lưới bửu cái, lưới bửu thân, lưới hải tạng chơn châu, lưới cám lưu ly ma ni bửu, lưới sư tử ma ni, lưới nguyệt quang ma ni, lưới thơm nhiều hình tượng, lưới bửu quang, lưới bửu anh lạc.

Giảng: Lại có trăm vạn lưới báu lớn che trùm phía trên. Đó là: Lưới linh báu, lưới lọng báu, lưới thân báu, lưới hải tạng chân châu, lưới cam lưu ly ma ni báu, lưới sư tử ma ni, lưới nguyệt quang ma ni, lưới đủ thứ hình bóng các hương, lưới mão báu, lưới anh lạc báu. Những lưới báu như vậy có hàng trăm vạn thứ. Đây là việc trang nghiêm thứ bảy, tức dùng trướng lưới, trước trướng sau lưới.

 

Hữu bách vạn đại quang minh chi sở chiếu diệu, sở vị: diệm quang ma-ni bảo quang minh, nhật tạng ma-ni bảo quang minh, nguyệt tràng ma-ni bảo quang minh, hương diệm ma-ni bảo quang minh, thắng tạng ma-ni bảo quang minh, liên hoa tạng ma ni bảo quang minh, diệm tràng ma-ni bảo quang minh, Đại đăng ma-ni Bảo quang minh, phổ chiếu thập phương ma-ni bảo quang minh, Hương Quang ma-ni bảo quang minh như thị đẳng, kỳ số bách vạn.

Lại có trăm vạn đại quang minh chiếu sáng. Như Lai quang minh diệm quang ma ni bửu. Quang minh nhựt ma ni bửu. Quang minh nguyệt tràng ma ni bửu. Quang minh hương diệm ma ni bửu. Quang minh thắng tạng ma ni bửu. Quang minh liên hoa tạng ma ni bửu. Quang minh diệm tràng ma ni bửu. Quang minh đại đăng ma ni bửu. Quang minh ma ni bửu chiếu khắp mười phương. Quang minh hương quang ma ni bửu.

Giảng: Lại có trăm vạn đại quang minh chiếu sáng vườn rừng Phổ Trang Nghiêm. Đó là: Quang minh diệm quang ma ni báu. Quang minh nhựt tạng ma ni báu. Quang minh nguyệt tràng ma ni báu. Quang minh hương diệm ma ni báu. Quang minh thắng tạng ma ni báu. Quang minh liên hoa tạng ma ni báu. Quang minh diệm tràng ma ni báu. Quang minh đại đăng ma ni báu. Quang minh phổ chiếu thập phương ma ni báu. Quang minh hương quang ma ni báu. Những quang minh như vậy có nhiều hàng trăm vạn thứ. Đây là việc trang nghiêm thứ tám, tức dùng quang minh chiếu sáng.

 

Thường vũ bách vạn trang nghiêm cụ, bách vạn hắc chiên đàn hương xuất diệu âm thanh, bách vạn xuất qua chư Thiên mạn đà la hoa nhi dĩ tán chi, bách vạn xuất qua chư Thiên anh lạc dĩ vi trang nghiêm, bách vạn xuất qua chư Thiên diệu bảo man đái xứ xứ thùy hạ, bách vạn xuất qua chư Thiên Chúng sắc diệu y, bách vạn tạp sắc ma-ni bảo diệu quang phổ chiếu, bách vạn Thiên Tử hân lạc chiêm ngưỡng đầu diện tác lễ, bách vạn thải nữ ư hư không trung đầu thân nhi hạ, bách vạn Bồ Tát cung kính thân cận thường lạc văn Pháp.

Thường mưa trăm vạn đồ trang mghiêm, trăm vạn hương hắc chiên đàn vang ra âm thanh vi diệu, trăm vạn hoa mạn đà la hơn hoa cõi trời, trăm vạn chuỗi ngọc hơn chuỗi cõi trời để trang nghiêm, trăm vạn tràng hoa báu đẹp hơn cõi trời thòng xuống khắp nơi, trăm vạn y phục nhiều màu hơn cõi trời, trăm vạn ma ni bửu nhiều màu ánh sáng chiếu khắp nơi, trăm vạn Thiên Tử vui mừng chiêm ngưỡng đầu mặt đảnh lễ, trăm vạn Thiên nữ ở giữa hư không bay xuống, trăm vạn Bồ Tát cung kính thân cận thường thích nghe pháp.

Giảng: Trong vườn Phổ Trang Nghiêm đó, thường mưa xuống trăm vạn thứ đồ trang nghiêm. Có trăm vạn hương hắc chiên đàn, đều vang ra âm thanh vi diệu, diễn nói đủ thứ diệu pháp. Lại có trăm vạn hoa mạn đà la (hoa trắng nhỏ), hơn hẳn hoa mạn đà la của chư Thiên, đều rải xuống khắp vườn đó. Lại có trăm vạn chuỗi anh lạc hơn hẳn chuỗi anh lạc của chư Thiên, dùng để trang nghiêm vườn đó. Lại có trăm vạn tràng hoa báu đẹp hơn hẳn tràng hoa của chư Thiên, thòng xuống khắp nơi trong vườn đó. Lại có trăm vạn y đẹp các màu hơn hẳn y của chư Thiên. Lại có trăm vạn ma ni báu đủ màu, ánh sáng vi diệu chiếu khắp mười phương thế giới. Đây là việc trang nghiêm thứ chín, tức mưa xuống đồ trang nghiêm.

Có trăm vạn Thiên tử, đều do cảnh tưởng trang nghiêm của vườn đó thu hút, họ đều rất vui mừng chiêm ngưỡng Hưu Xả ưu bà di, cung kính cúi đầu làm lễ. Lại có trăm vạn thể nữ, ở trong hư không của vườn đó, hợp thân bay xuống. Lại có trăm vạn Bồ Tát, cung kính gần gũi Hưu Xả ưu bà di, thường thích nghe Phật pháp. Đây là việc trang nghiêm thứ mười, tức phàm Thánh vui kính.

Hưu Xả, dịch là “ý lạc”, “hy vọng”, “mãn nguyện”, biểu thị tuỳ thuận ý thích và hy vọng của chúng sinh, khiến cho họ đắc được viên mãn, lại có thể viên mãn pháp tánh tướng. Ở trước là Hải Tràng thị hiện tướng Tỳ Kheo, vì Thiện Tài đồng tử diễn nói pháp Bát Nhã liễu chân, hiện tại là trụ thứ bảy – bất thối trụ, vị nầy dùng từ bi nhập thế, giáo hoá chúng sinh, nên thị hiện thân ưu bà di, vào lý không vô sinh cứu kính, tâm thường hành không vô tướng nguyện, chỉ quán cả hai, duyên không thể hoại, trong suốt rất sâu như biển cả.

 

Thời, hưu xả ưu-bà-di tọa chân kim tọa, đái hải tạng trân châu võng, quan quải xuất qua chư Thiên chân kim bảo xuyến, thùy cám thanh phát, Đại ma-ni võng trang nghiêm kỳ thủ, sư tử khẩu ma-ni bảo dĩ vi nhĩ đang, như ý ma-ni bảo vương dĩ vi anh lạc, nhất thiết bảo võng thùy phước kỳ thân, bách thiên ức na-do-tha chúng sanh khúc cung cung kính.

Lúc ấy, Hưu Xả Ưu bà di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng chơn châu võng, đeo bửu xuyến chơn kim hơn cõi trời, rủ tóc xanh biếc, đại ma bửu trang nghiêm trên đầu, sư tử khẩu ma ni bửu làm bông tai, như ý ma ni bửu vương làm chuỗi ngọc, bửu võng trùm trên thân. Trăm ngàn ức na do tha chúng sanh cúi mình cung kính.

Giảng: Lúc đó, Hưu Xả ưu bà di, ngồi trên toà bằng vàng thật, đầu đội mão làm bằng lưới hải tạng trân châu. Tay đeo chiếc vòng báu bằng vàng thật hơn hẳn vòng báu bằng vàng của chư Thiên, tóc màu xanh biếc rũ xuống, dùng lưới đại ma ni trang nghiêm trên đầu, dùng sư tử khẩu ma ni báu làm bông tai, dùng như ý ma ni bảo vương làm chuỗi, dùng tất cả lưới báu rũ xuống trùm trên thân. Có trăm vạn ức Na do tha chúng sinh, đều chắp tay khom mình cung kính.

 

Đông phương hữu vô lượng chúng sanh lai nghệ kỳ sở, sở vị: phạm thiên, phạm chúng Thiên, đại phạm thiên, phạm phụ Thiên, Tự tại Thiên, nãi chí nhất thiết nhân cập phi nhân; Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, giai diệc như thị.

Phương Ðông có vô lượng chúng đến chỗ Ưu bà di. Như là Phạm Thiên, Phạm Chúng Thiên, Ðại Phạm Thiên, Phạm Phụ Thiên, Tự Tại Thiên, nhẫn đến tất cả hạng người và phi nhơn. Chín phương kia cũng như vậy.

Giảng: Ở phương đông có vô lượng chúng sinh đi đến vườn Phổ Trang Nghiêm. Đó là: Chúng sinh Phạm Thiên, chúng sinh Phạm Chúng Thiên, chúng sinh Đại Phạm Thiên, chúng sinh Phạm Phụ Thiên, chúng sinh Tự Tại Thiên, cho đến tất cả người và chẳng phải người. Ở phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng đều như thế.

 

Kỳ hữu kiến thử ưu-bà-di giả, nhất thiết bệnh khổ tất đắc trừ diệt, ly phiền não cấu, bạt chư kiến thứ, tồi chướng ngại sơn, nhập ư vô ngại thanh tịnh cảnh giới, tăng minh nhất thiết sở hữu thiện căn, trưởng dưỡng chư căn; nhập nhất thiết trí tuệ môn, nhập nhất thiết tổng trì môn; nhất thiết tam muội môn, nhất thiết đại nguyện môn, nhất thiết diệu hạnh môn, nhất thiết công đức môn, giai đắc hiện tiền; kỳ tâm quảng đại, cụ túc thần thông, thân vô chướng ngại, chí nhất thiết xứ.

Có ai thấy Ưu bà di này thời tất cả bệnh khổ đều trừ diệt, lìa phiền não hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập nơi cảnh giới vô ngại thanh tịnh, thêm lớn tất cả những thiện căn, trưởng dưỡng các căn, vào tất cả môn trí huệ, vào tất cả môn tổng trì, tất cả môn tam muội, tất cả môn đại nguyện, tất cả môn diệu hạnh, tất cả môn công đức đều được hiện tiền. Tâm họ rộng lớn đầy đủ thần thông, thân không chướng ngại đến khắp mọi xứ.

Giảng: Có ai thấy được Hưu Xả ưu bà di nầy, thì tất cả bệnh tật thống khổ của họ, đều được trừ diệt, xa lìa tất cả phiền não cấu bẩn, nhổ trừ gai tất cả tà kiến, phá tan núi chướng ngại cống cao ngã mạn, nhập vào cảnh giới thanh tịnh vô ngại. Tăng trưởng sáng lạng tất cả hết thảy các căn, dưỡng lớn tất cả các căn. Nhập vào môn nhất thiết trí huệ, nhập vào môn tất cả tổng trì, tất cả môn tam muội, tất cả môn đại nguyện, tất cả môn diệu hạnh, tất cả môn công đức, đều được hiện tiền. Tâm của Hưu Xả ưu bà di rộng lớn vô lượng như hư không, đầy đủ tất cả thần thông, thân không chướng ngại, có thể phân thân đến tất cả mọi nơi trong mười phương thế giới.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhập phổ trang nghiêm viên, chu biến quan sát, kiến hưu xả ưu-bà-di tọa ư diệu tọa, vãng nghệ kỳ sở, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, bạch ngôn:

Thiện Tài đồng tử vào vườn Phổ Trang Nghiêm, xem xét khắp nơi, thấy Hưu Xả Ưu bà di ngồi diệu tòa, liền đến đảnh lễ chân Ưu bà di rồi hữu nhiễu vô số vòng, thưa rằng:

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đi vào vườn Phổ Trang Nghiêm, quán sát khắp mọi nơi, thấy Hưu Xả ưu bà di, ngồi trên toà báu vi diệu, bèn đi đến đảnh lễ Hưu Xả ưu bà di, đi nhiễu quanh vô số vòng, rồi bạch rằng:

 

Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?

Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học tập Bồ Tát hạnh?

 

Ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!

Con nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, xin vì con mà giảng giải.

Giảng: Làm thế nào tu hành Bồ Tát đạo? Con nghe Tỳ Kheo Hải Tràng giới thiệu Ngài cho con đến đây gần gũi Ngài, nói Ngài là bậc Thánh, khéo hay chỉ dạy, xin hãy vì con mà nói pháp, khai thị cho con”.

Vị ưu ba di nầy là một vị đã chứng được pháp thân của Bồ Tát, thị hiện thành thân ưu ba di, để giáo hoá chúng sinh.

 

Hưu xả cáo ngôn: Thiện nam tử! ngã duy đắc Bồ Tát nhất giải thoát môn, nhược hữu kiến văn ức niệm ư ngã, dữ ngã đồng trụ, cung cấp ngã giả, tất bất đường quyên.

Ưu bà di nói: Này thiện nam tử ! Ta chỉ được một môn giải thoát của Bồ Tát. Nếu có ai thấy nghe nhớ nghĩ đến ta, cùng ta ở chung, cung cấp cho ta thời không luống công.

Giảng: Hưu Xả bảo rằng Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được một pháp môn giải thoát của Bồ Tát. Nhưng ngươi đừng cho rằng chỉ một pháp môn chẳng có giá trị gì, chỉ trong một pháp môn nầy, mà bao hàm vô lượng phương tiện và giải thoát. Nếu ai thấy nghe nghĩ nhớ về ta, hoặc cùng ở với ta, hoặc cúng dường cho ta, thì phước báo của họ đều không luống qua, tương lai họ chắc chắn sẽ đắc được phước báo không thể nghĩ bàn và dưỡng lớn các căn lành.

 

Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh bất chủng thiện căn, bất vi thiện hữu chi sở nhiếp thọ, bất vi chư Phật chi sở hộ niệm, thị nhân chung bất đắc kiến ư ngã.

Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh chẳng gieo căn lành, chẳng được thiện hữu nhiếp thọ, chẳng được chư Phật hộ niệm, kẻ đó chẳng thấy được ta.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh chưa từng trồng căn lành, không được bạn bè nhiếp thọ, cũng không được chư Phật hộ niệm, thì người đó trọn chẳng thấy được ta, dù thấy được ta, cũng chẳng nhận thức được ta.

 

Thiện nam tử! kỳ hữu chúng sanh đắc kiến ngã giả, giai ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề hoạch Bất-thoái-chuyển.

Này thiện nam tử ! Có chúng sanh nào được thấy ta thời đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh nào được thấy ta, thì đều đắc được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề (Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác), vĩnh viễn không thối thất tâm bồ đề.

 

Thiện nam tử! Đông phương chư Phật thường lai chí thử, xứ ư bảo tọa vi ngã thuyết Pháp; Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, nhất thiết chư Phật tất lai chí thử, xứ ư bảo tọa vi ngã thuyết Pháp.

Này thiện nam tử ! Chư Phật phương đông thường đến đây, nhự trên bửu tòa vì ta mà thuyết pháp. Chư Phật chín phương kia cũng vậy.

Giảng: Thiện nam tử! Chư Phật ở phương đông thường đến vườn hoa nầy, ngồi trên toà báu nầy, vì ta thuyết pháp. Phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, tất cả chư Phật, cũng đều thường đến chỗ nầy, ngồi trên toà báu nầy, vì ta thuyết pháp.

 

Thiện nam tử! ngã thường bất ly kiến Phật văn pháp, dữ chư Bồ-tát nhi cộng đồng trụ.

Này thiện nam tử ! Ta thường chẳng rời thấy Phật, nghe pháp, cùng chư Bồ Tát ở chung.

Giảng: Thiện nam tử! Ta thường chẳng lìa thấy Phật nghe pháp, ở chung với hết thảy các đại Bồ Tát, làm bạn lành với Bồ Tát bất thối. Vì thuở xưa ta đã tứng phát nguyện, hết tất cả kiếp đời vị lai, đều muốn được thấy Phật.

 

Thiện nam tử! ngã thử Đại chúng, hữu bát vạn tứ thiên ức na-do-tha, giai tại thử viên dữ ngã đồng hành, tất ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển; kỳ dư chúng sanh trụ thử viên giả, diệc giai phổ nhập bất thoái chuyển vị.

Này thiện nam tử ! Nơi vường này có tám muôn bốn ngàn ức na do tha đại chúng cùng ta đồng hành, đếu bất thối chuyển nơi Vô thượng bồ đề. Những chúng sanh khác ở trong vườn này cũng đều nhập bậc bất thối chuyển

Giảng: Thiện nam tử! Đại chúng của ta đây, có tám vạn bốn ngàn ức Na do tha, đều ở tại vườn Phổ Trang Nghiêm nầy, đồng hành với ta, họ đều đắc được bất thối chuyển nơi A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Còn những chúng sinh cư sĩ khác ở trong vườn nầy, cũng đều nhập vào bậc bất thối chuyển”. Đây là biểu thị phương tiện nhập thế, tức tám vạn trần lao, đều thành Ba La Mật, hết thảy quyến thuộc, đều cùng tu hành với với Hưu Xả ưu bà di.

 

Thiện Tài bạch ngôn: Thánh Giả phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm vi cửu cận da?

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Ngài phát tâm Vô thượng Bồ đề được bao lâu ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại hỏi rằng: “Bạch đức Thánh! Ngài đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác được bao lâu rồi”?

 

Đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã ức quá khứ, ư Nhiên Đăng Phật sở, tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường, văn Pháp thọ trì

Ưu bà di nói: Này thiện nam tử ! Ta nhớ quá khứ ở chỗ đức Nhiên Ðăng Phật, ta tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường nghe pháp thọ trì.

Giảng: Hưu Xả ưu bà di đáp rằng: “Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ ở chỗ đức Phật Nhiên Đăng, tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường, nghe kinh nghe pháp, thọ trì nơi tâm.

 

Thứ tiền, ư ly cấu Phật sở, xuất gia học đạo, thọ trì chánh pháp

Trước đó ở chỗ đức Ly Cấu Phật, ta xuất gia học đạo thọ trì chánh pháp.

Giảng: Trước đó ở chỗ đức Phật Ly Cấu, xuất gia học đạo, thọ trì chánh pháp.

 

Thứ tiền, ư diệu tràng Phật sở; thứ tiền, ư thắng Tu-Di Phật sở; thứ tiền, ư liên hoa đức tạng Phật sở; thứ tiền, ư Tỳ Lô Giá Na Phật sở; thứ tiền, ư phổ nhãn Phật sở; thứ tiền, ư phạm thọ Phật sở; thứ tiền, ư Kim cương tề Phật sở; thứ tiền, ư Bà lâu na Thiên Phật sở.

Trước đó ở chỗ đức Diệu Tràng Phật. Trước nữa ở chỗ Thắng Tu Di Phật. Trước nữa ở chỗ đức Liên Hoa Ðức Tạng Phật. Trước nữa ở chỗ đức Tỳ Lô Giá Na Phật. Trước nữa chỗ đức Phổ Nhãn Phật. Trước nữa ở chỗ đức Phạm Thọ Phật. Trước nữa ở chỗ đức Kim Cang Tê Phật. Trước nữa ở chỗ đức Bà Lâu Na Thiên Phật.

Giảng: Lại trước đó ở chỗ đức Phật Diệu Tràng, ta cũng xuất gia tu đạo. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Thắng Tu Di, ta cũng xuất gia tu đạo. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Liên Hoa Đức Tạng, ta cũng xuất gia tu đạo. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Tỳ Lô Giá Na, ta cũng xuất gia tu đạo. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Phổ Nhãn, ta cũng đã phát tâm bồ đề. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Phạm Thọ. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Kim Cang Tề, ta cũng đã phát tâm bồ đề. Lại trước đó ở chỗ đức Phật Bà Lâu Na Thiên, ta cũng đã phát tâm bồ đề.

 

Thiện nam tử! ngã ức quá khứ, ư vô lượng kiếp vô lượng sanh trung, như thị thứ đệ tam thập lục Hằng hà sa Phật sở, giai tất thừa sự, cung kính cúng dường, văn Pháp thọ trì, tịnh tu phạm hạnh. ư thử dĩ vãng, Phật trí sở tri, phi ngã năng trắc.

Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ vô lượng kiếp, trong vô lượng đời, thứ đệ như vậy ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật, ta đều thờ kính cúng dường nghe pháp thọ trì tịnh tu phạm hạnh. Quá đây về trước thời Phật trí mới biết được, chẳng phải trí của ta có thể lường đến.

Giảng: Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ vô lượng kiếp, ở trong vô lượng đời, ở chỗ các đức Phật nhiều như số cát ba mươi sáu sông Hằng như vậy, ta đều thờ phụng cung kính cúng dường, nghe pháp thọ trì, tịnh tu phạm hạnh. Quá đây về trước, chỗ biết cảnh giới và trí huệ của chư Phật, chẳng phải ta có thể dò lường được”.
Số ba mươi sáu là biểu thị quá khứ sáu vị, vị vị đều tu sáu độ, sáu lần sáu là ba mươi sáu, đều là đức tánh hằng sa.

 

Thiện nam tử! Bồ Tát sơ phát tâm vô hữu lượng, sung mãn nhất thiết pháp giới cố

Này thiện nam tử ! Bồ Tát mới phát tâm không có hạn lượng, vì sung mãn tất cả pháp giới.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát ban đầu phát tâm không có số lượng, vì đầy khắp tất cả pháp giới và hư không. Vì lượng phát tâm, đồng pháp giới, cũng đồng chúng sinh, mà chúng sinh cũng không có bờ mé ban đầu, do si có ái. Mà Bồ Tát phát tâm, si ái không có ban đầu, nên cũng không có kết thúc.

 

Bồ Tát đại bi môn vô hữu lượng, phổ nhập nhất thiết thế gian cố

Bồ Tát đại bi môn không hạn lượng, vì vào khắp tất cả thế gian.

Giảng: Môn đại bi của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì có thể vào khắp tất cả thế gian.

 

Bồ Tát đại nguyện môn vô hữu lượng, cứu cánh thập phương Pháp giới cố;

Bồ Tát đại nguyện môn không hạn lượng, vì rốt ráo mười phương pháp giới.

Giảng: Môn đại nguyện của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì rốt ráo mười phương pháp giới.

 

Bồ Tát Đại từ môn vô hữu lượng, phổ phước nhất thiết chúng sanh cố

Bồ Tát đại từ môn không hạn lượng, vì che khắp tất cả chúng sanh.

Giảng: Môn đại từ của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì bao trùm khắp tất cả chúng sinh.

 

Bồ Tát sở tu hành vô hữu lượng, ư nhất thiết sát nhất thiết kiếp trung tu tập cố

Bồ Tát tu hành không hạn lương, vì tu tập trong tất cả cõi tất cả kiếp.

Giảng: Sự tu hành của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì thường tu tập Phật pháp trong tất cả cõi, tất cả kiếp.

 

Bồ Tát tam muội lực vô hữu lượng, lệnh Bồ Tát đạo bất thoái cố

Bồ Tát tam muội lực không hạn lượng, vì làm cho Bồ Tát đạo chẳng thối chuyển.

Giảng: Sức tam muội của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì Ngài khiến cho chúng sinh nơi Bồ Tát đạo đắc được bất thối chuyển.

 

Bồ Tát tổng trì lực vô hữu lượng, năng trì nhất thiết thế gian cố

Bồ Tát tổng trì lực không hạn lượng, vì có thể nhiếp trì tất cả thế gian.

Giảng: Sức tổng trì của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì hay chi trì tất cả thế gian.

 

Bồ Tát trí quang lực vô hữu lượng, phổ năng chứng nhập tam thế cố

Bồ Tát trí quang lực không hạn lượng, vì có thể chứng nhập khắp tam thế.

Giảng: Sức trí huệ quang minh của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì khắp chứng nhập đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai.

 

Bồ Tát thần thông lực vô hữu lượng, phổ Hiện-Nhất-Thiết sát võng cố

Bồ Tát thần thông lực không hạn lượng, vì hiện khắp tất cả cõi.

Giảng: Sức thần thông của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì khắp hiện lưới cõi tất cả chư Phật.

 

Bồ Tát biện tài lực vô hữu lượng, nhất âm nhất thiết tất giải cố

Bồ Tát biện tài lực không hạn lượng, vì một âm thanh mà tất cả đều hiểu.

Giảng: Sức biện tài của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì có thể dùng một âm diễn nói pháp, khiến cho tất cả chúng sinh đều hiểu được. Do đó có câu:
“Phật dùng một âm diễn nói pháp
Chúng sinh theo loài đều hiểu được”.

 

Bồ Tát thanh tịnh thân vô hữu lượng, tất biến nhất thiết Phật sát cố.

Bồ Tát thanh tịnh thân không hạn lượng, vì đều khắp tất cả cõi Phật.

Giảng: Thân thanh tịnh của Bồ Tát cũng không có số lượng, vì đều đầy khắp tất cả cõi Phật.

 

Thiện tài đồng tử ngôn: Thánh Giả cửu như đương đắc A-nậu-đa-la-tam miểu tam-Bồ-đề?

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Bao Lâu nữa Ngài sẽ chứng Vô thượng Bồ đề ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử nói: “Đức Thánh! Ngài tu hành đã lâu, bao lâu nữa Ngài sẽ chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác”?

 

Đáp ngôn: Thiện nam tử! Bồ Tát bất vi giáo hóa điều phục nhất chúng sanh cố phát Bồ-đề tâm, bất vi giáo hóa điều phục bách chúng sanh cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi giáo hóa điều phục bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển chúng sanh cố phát Bồ-đề tâm

Hưu Xả Ưu bà di nói: Này thiện nam tử ! Bồ Tát chẳng vì giáo hóa điều phục một chúng sanh mà phát Bồ đề tâm. Chẳng vì giáo hóa điều phục trăm chúng sanh , ngàn chúng sanh, cho đến chẳng vì giáo hóa điều phục bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh mà phát Bồ đề tâm.

Giảng: Hưu Xả ưu bà di đáp rằng: “Thiện nam tử! Vì Bồ Tát chẳng phải chỉ vì giáo hoá điều phục một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Bồ Tát cũng chẳng phải chỉ vì giáo hoá điều phục trăm chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giáo hoá điều bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Chuyển nghĩa là lập lại, lập tới lập lui, không ngừng. Đây là biểu thị số mục lớn, không cùng tận, mà phát tâm bồ đề”.

Người ở tại Vạn Phật Thành, bất luận là ở xa đến, hoặc ở gần lại, đều là người của mình, tức nhiên là người của mình, thì đều phải giữ quy cụ, ai không giữ quy cụ, thì người đó không thể ở chung được. Quy cụ, tức là cử chỉ hành động, lời nói việc làm, đều phải hợp với thân phận và địa vị của mình, đừng có làm tổn hại chướng ngại người khác. Nếu bạn làm tổn hại chướng ngại đến người khác tu hành, thì cũng giống như bạn phá hoại đạo tràng. Giữ quy cụ, tức là giữ giới luật. Nếu bạn không phát bồ đề tâm, suốt ngày đến tối khởi vọng tưởng, chẳng dụng công tu hành, cứ nói chuyện thị phi với người khác, thì đó là bạn chướng ngại người khác tu hành, phá hoại Tăng đoàn. Cho nên bất luận người xuất gia, hoặc người tại gia, nếu không giữ quy cụ của đạo tràng, thì tuyệt đối không thể ở chung.

 

Bất vi giáo hóa nhất thế giới chúng sanh cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi giáo hóa bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới chúng sanh cố phát Bồ-đề tâm

Chẳng phải vì giáo hoá chúng sinh một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giáo hoá bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới chúng sinh, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Bồ Tát tu đạo phát tâm bồ đề, chẳng phải chỉ vì giáo hoá chúng sinh một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì giáo hoá bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới chúng sinh, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi giáo hóa Diêm-phù-đề vi trần số thế giới chúng sanh cố phát Bồ-đề tâm

Chẳng phải vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Cũng chẳng phải chỉ vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi giáo hóa tam thiên đại thiên thế giới vi trần số thế giới chúng sanh cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi giáo hóa bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển tam thiên đại thiên thế giới vi trần số thế giới chúng sanh cố phát Bồ-đề tâm

Chẳng phải vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Cũng chẳng phải chỉ vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì giáo hoá thế giới chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề”.

Ở trên đây là biểu thị chẳng phải chỉ vì hoá độ chúng sinh số mục nhất định, mới phát tâm bồ đề.

 

Bất vi cúng dường nhất Như Lai cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Như Lai cố phát Bồ-đề tâm

Chẳng phải vì cúng dường một Như Lai, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Như Lai, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Hưu Xả ưu bà di lại nói : “Bồ Tát chẳng phải vì cúng dường một vị Phật, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển đức Phật, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi cúng dường nhất thế giới trung thứ đệ hưng thế chư Như Lai cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới trung thứ đệ hưng thế chư như lai cố phát Bồ-đề tâm

Chẳng phải vì cúng dường các Như Lai thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển các Như Lai thứ tự ra đời trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Lại chẳng phải chỉ vì cúng dường chư Phật thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển chư Phật thứ tự ra đời trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi cúng dường nhất tam thiên đại thiên thế giới vi trần số thế giới trung thứ đệ hưng thế chư Như Lai cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Phật sát vi trần số thế giới trung thứ đệ hưng thế chư Như Lai cố phát Bồ-đề tâm;

Chẳng phải vì cúng dường các Như Lai thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì cúng dường các Như Lai thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Chẳng phải chỉ vì cúng dường chư Phật thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì cúng dường chư Phật thứ tự xuất hiện ra đời trong một thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề.

Trên đây chẳng phải chỉ vì cúng dường chư Phật có số mục nhất định, mới phát tâm bồ đề.

 

Bất vi nghiêm tịnh nhất thế giới cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới cố phát Bồ-đề tâm

Chẳng phải vì nghiêm tịnh một thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Hưu Xả ưu bà di lại nói: “Bồ Tát chẳng phải chỉ vì nghiêm tịnh một thế giới, mới phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển thế giới, mới phát tâm bồ đề.

 

Bất vi nghiêm tịnh nhất tam thiên đại thiên thế giới vi trần số thế giới cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi nghiêm tịnh bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển tam thiên đại thiên thế giới vi trần số thế giới cố phát Bồ-đề tâm

Chẳng phải vì nghiêm tịnh thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì nghiêm tịnh thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển ba ngàn đại thiên thế giới, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Chẳng phải vì nghiêm tịnh thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên thế giới, mới phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì nghiêm tịnh thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển ba ngàn đại thiên thế giới, mới phát tâm bồ đề.

Trên đây chẳng phải chỉ vì nghiêm tịnh cõi nước có số mục nhất định, mới phát tâm bồ đề.

 

Bất vi trụ trì nhất thế giới Như Lai di pháp cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi trụ trì bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Như Lai di pháp cố phát Bồ-đề tâm.

Chẳng phải vì giữ gìn giáo pháp của một Như Lai, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giữ gìn giáo pháp của bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Như Lai, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Hưu Xả ưu bà di lại nói: “Bồ Tát chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp của một đức Phật để lại, mới phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp của bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển chư Phật, mới phát tâm bồ đề.

 

Bất vi trụ trì nhất Diêm-phù-đề vi trần số thế giới như lai di pháp cố phát Bồ-đề tâm, nãi chí bất vi trụ trì bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Phật sát vi trần số thế giới Như Lai di pháp cố phát bồ Đề tâm.

Chẳng phải vì giữ gìn giáo pháp của các Như Lai nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, mà phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải vì giữ gìn giáo pháp của các Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề.

Giảng: Chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp của chư Phật nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, mới phát tâm bồ đề. Cho đến chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp của chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mới phát tâm bồ đề”.

Trên đây là chẳng phải chỉ vì giữ gìn giáo pháp có số mục nhất định, mới phát tâm bồ đề.

 

Như thị lược thuyết,

Như vậy lược nói,

Giảng: Hưu Xả ưu bà di lại nói: “Lược nói như vậy,

 

Bất vi mãn nhất Phật thệ nguyện cố,

Chẳng vì mãn thệ nguyện của một Như Lai,

Giảng: Bồ Tát chẳng phải vì viên mãn thệ nguyện của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi vãng nhất Phật quốc độ cố,

Chẳng vì đến một Phật độ,

Giảng: Chẳng phải vì đi đến cõi nước của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi nhập nhất Phật chúng hội cố,

Chẳng vì nhập một Phật chúng hội,

Giảng: Chẳng phải vì vào chúng hội của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi trì nhất Phật Pháp nhãn cố,

Chẳng vì trì một Phật pháp nhãn,

Giảng: Chẳng phải vì giữ pháp nhãn của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi chuyển nhất Phật Pháp luân cố,

Chẳng vì chuyển một Phật pháp luân,

Giảng: Chẳng phải chuyển bánh xe pháp của một vị Phật, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi tri nhất thế giới trung chư kiếp thứ đệ cố,

Chẳng vì biết những kiếp thứ đệ trong một thế giới,

Giảng: Chẳng phải vì biết các kiếp thứ tự trong một thế giới, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi tri nhất chúng sanh tâm hải cố,

Chẳng vì biết một chúng sanh tâm hải,

Giảng: Chẳng phải vì biết biển tâm của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi tri nhất chúng sanh căn hải cố,

Chẳng vì biết một chúng sanh căn hải,

Giảng: Chẳng phải vì biết biển căn của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi tri nhất chúng sanh nghiệp hải cố,

Chẳng vì biết một chúng sanh nghiệp hải,

Giảng: Chẳng phải vì biết biển nghiệp của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề.

 

Bất vi tri nhất chúng sanh hạnh hải cố,

Chẳng vì biết một chúng sanh hạnh hải,

Giảng: Chẳng phải vì biết biển hạnh của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Có những chúng sinh đời đời kiếp kiếp đều tu hành không ngừng, có những chúng sinh tu hành nửa đường rồi bỏ. Tóm lại, hạnh của chúng sinh tu vô lượng vô biên, nhiều như biển.

 

Bất vi tri nhất chúng sanh phiền não hải cố,

Chẳng vì biết một chúng sanh phiền não hải,

Giảng: Bồ Tát chẳng phải vì biết biển phiền não của một chúng sinh, mà phát tâm bồ đề. Phiền não của chúng sinh vô cùng vô tận, cho nên một trong bốn hoằng thệ nguyện của Bồ Tát là: “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”.

 

Bất vi tri nhất chúng sanh phiền não tập hải cố, nãi chí bất vi tri bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển Phật sát vi trần số chúng sanh phiền não tập hải cố, phát Bồ-đề tâm.

Chẳng vì biết một chúng sanh phiền não tập hải, nhẫn đến chẳng vì biết bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh phiền não tập hải mà phát Bồ đề tâm.

Giảng: Chẳng phải vì biết biển phiền não tập của một chúng sinh, cho đến chẳng phải vì biết biển phiền não tập của chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển cõi Phật, mà phát tâm bồ đề”.

 

Dục giáo hóa điều phục nhất thiết chúng sanh tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Mà chính vì muốn giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh không để sót thừa nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Hưu Xả ưu bà di lại nói: “Bồ Tát vì muốn giáo hoá điều phục tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục thừa sự cúng dường nhất thiết chư Phật tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn cúng dường tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn phụng thờ cúng dường tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục nghiêm tịnh nhất thiết chư Phật quốc độ tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn nghiêm tịnh tất cả Phật độ không để sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn nghiêm tịnh tất cả cõi nước chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục hộ trì nhất thiết chư Phật chánh giáo tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn hộ trì chánh giáo của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục thành mãn nhất thiết Như Lai thệ nguyện tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn thành mãn đại nguyện của tất cả Như Lai không để sót mà phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn thành tựu viên mãn thệ nguyện của tất cả Như Lai đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục vãng nhất thiết chư Phật quốc độ tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn đến tất cả Phật độ không để sót mà phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn đi đến cõi nước của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục nhập nhất thiết chư Phật chúng hội tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn nhập tất cả Phật chúng hội không để sót mà phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn vào chúng hội của tất cả chư Phật đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục tri nhất thiết thế giới trung chư kiếp thứ đệ tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn biết những kiếp thứ đệ trong tất cả kiếp không để sót mà phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn biết các kiếp thứ lớp trong tất cả thế giới đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục tri nhất thiết chúng sanh tâm hải tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn biết tất cả chúng sanh tâm hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn biết biển tâm của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề

 

Dục tri nhất thiết chúng sanh căn hải tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn biết tất cả chúng sanh căn hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn biết biển căn của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục tri nhất thiết chúng sanh nghiệp hải tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn biết tất cả chúng sanh nghiệp hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn biết biển nghiệp của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục tri nhất thiết chúng sanh hạnh hải tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn biết tất cả chúng sanh hạnh hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn biết biển hạnh của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục diệt nhất thiết chúng sanh chư phiền não hải tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm,

Vì muốn diệt tất cả chúng sanh phiền não hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn biết biển phiền não của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề.

 

Dục bạt nhất thiết chúng sanh phiền não tập hải tất vô dư cố phát Bồ-đề tâm.

Vì muốn trừ tất cả chúng sanh phiền não tập hải không sót nên phát Bồ đề tâm.

Giảng: Vì muốn diệt trừ biển phiền não tập của tất cả chúng sinh đều không thừa sót, mà phát tâm bồ đề”.

Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm là không thể nghĩ bàn, mà hạnh nguyện của Bồ Tát cũng vô cùng vô tận. Trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện có một đoạn rằng: “Lễ kính nầy của ta, vô cùng vô tận. Như vậy cho đến cõi chúng sinh hết, nghiệp chúng sinh hết, phiền não chúng sinh hết, thì lễ của ta mới hết, mà cõi chúng sinh, cho đến phiền não không cùng tận. Lễ kính của ta, cũng không cùng tận, niệm niệm liên tục, không gián đoạn, thân miệng ý nghiệp không mỏi nhàm”. Cho nên, biển nguyện của Bồ Tát trùng trùng vô tận, không thể nào nói hết được, chúng sinh vô tận, nguyện cũng vô biên.

 

Thiện nam tử! thủ yếu ngôn chi, Bồ Tát dĩ như thị đẳng bách vạn a-tăng-kì phương tiện hạnh cố phát Bồ-đề tâm.

Này thiện nam tử ! Tóm lược mà nói, Bồ Tát dùng vô lượng trăm ngàn vô số phương tiện hạnh như vậy mà phát Bồ đề tâm.

Giảng: Thiện nam tử! Nói tóm lại, Bồ Tát vì trăm vạn A tăng kỳ hạnh phương tiện như vậy, mà phát tâm đại bồ đề.

 

Thiện nam tử! Bồ Tát hạnh phổ nhập nhất thiết pháp giai chứng đắc cố, phổ nhập nhất thiết sát tất nghiêm tịnh cố.

Này thiện nam tử ! Bồ Tát hạnh vào khắp tất cả pháp, vì đều chứng được. Vào khắp tất cả cõi, vì đều nghiêm tịnh.

Giảng: Thiện nam tử! Bồ Tát hạnh vào khắp tất cả pháp, vì đều chứng đắc thật tướng các pháp. Bồ Tát vào khắp tất cả cõi, vì đều nghiêm tịnh cõi nước chư Phật thanh tịnh.

 

Thị cố, Thiện nam tử! nghiêm tịnh nhất thiết thế giới tận, ngã nguyện nãi tận; bạt nhất thiết chúng sanh phiền não tập khí tận, ngã nguyện nãi mãn.

Vì thế nên thiện nam tử ! Khi nghiêm tịnh hết tất cả thế giới thời nguyện của con mới hết. Khi dứt hết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh thời nguyện của con mới mãn.

Giảng: Bởi vậy thiện nam tử! Nghiêm tịnh hết tất cả thế giới, thì nguyện của ta mới hết, cho đến diệt trừ hết phiền não tập khí của tất cả chúng sinh, thì nguyện của ta mới viên mãn.

 

Thiện tài đồng tử ngôn: Thánh Giả! thử giải thoát danh vi hà đẳng?

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Môn giải thoát này tên là gì ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử nói: “Đức Thánh! Giải thoát nầy tên là gì?

 

Đáp ngôn: Thiện nam tử! thử giải thoát danh: ly ưu an ổn tràng.

Hưu Xả Ưu bà di nói: Này thiện nam tử ! Môn giải thoát này tên là “Ly ưu an ổn tràng”.

Hưu Xả ưu bà di đáp rằng: “Thiện nam tử! Giải thoát nầy tên là Ly ưu an ổn tràng”.

Giảng: Giải thoát nầy dùng đại bi cao hiển, cho nên gọi là tràng. Phàm là chúng sinh thấy được tràng nầy, đều lìa khỏi nghiệp cảm thống khổ, mà chẳng thối tâm bồ đề, cho nên gọi là Ly ưu an ổn tràng.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử nhất giải thoát môn. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, kỳ tâm như hải, tất năng dung thọ nhất thiết Phật Pháp; Như-Tu-Di-Sơn, chí ý kiên cố, bất khả động diêu; như thiện kiến dược, năng trừ chúng sanh phiền não trọng bệnh; như minh tịnh nhật, năng phá chúng sanh vô minh ám chướng; do như Đại địa, năng tác nhất thiết chúng sanh y xứ; do như hảo phong, năng tác nhất thiết chúng sanh nghĩa lợi; do như minh đăng, năng vi chúng sanh sanh trí tuệ quang; do như đại vân, năng vi chúng sanh vũ tịch diệt pháp; do như tịnh nguyệt, năng vi chúng sanh phóng phước đức quang; do như Đế Thích, tất năng thủ hộ nhất thiết chúng sanh.

Ta chỉ biết một môn giải thoát này. Như chư đại Bồ Tát, tâm như biển cả có thể đều dung thọ tất cả Phật pháp. Như núi Tu Di, chí ý kiên cố chẳng bị lay động. Như vị thuốc thiện kiến, hay trừ những bệnh nặng phiền não của các chúng sanh. Như mặt nhựt sáng sạch, hay phá chúng sanh vô minh ám chướng. Dường như đại địa, hay làm chỗ y tựa cho tất cả chúng sanh. Như gió tốt, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Như đèn sáng, hay vì chúng sanh mà sanh trí huệ quang. Như đại vân, hay vì chúng sanh mà mưa đại pháp tịch diệt. Như minh nguyệt hay vì chúng sanh mà phóng phước đức quang. Như Thiên Ðế, đều hay thủ hộ tất cả chúng sanh.

Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết một môn giải thoát nầy. Như tất cả các đại Bồ Tát, tâm của các Ngài rộng lớn như biển cả, đều dung thọ được tất cả Phật pháp. Chí nguyện và ý lực của các Ngài rất kiên cố, như núi Tu Di, không thể lay động. Các Ngài giống như thuốc Thiện kiến, hay trừ phiền não bệnh nặng của chúng sinh. Các Ngài giống như mặt trời trong sáng, hay phá vô minh ám chướng của chúng sinh. Các Ngài giống như đại địa, hay làm nơi nương tựa của tất cả chúng sinh. Các Ngài giống như gió tốt, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Các Ngài giống như đèn sáng, hay vì chúng sinh, sinh ra trí huệ quang minh. Các Ngài giống như mây lớn, hay vì chúng sinh mưa diệu pháp tịch diệt, khiến cho chúng sinh đắc được phước tịch tĩnh viên mãn. Các Ngài giống như trăng sáng, hay vì chúng sinh phóng ánh sáng phước đức, chiếu soi tất cả hữu tình. Các Ngài giống như Đế Thích thiên chủ, đều hay giữ gìn tất cả chúng sinh.

 

Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Như thế thời ta làm sao biết được hết, nói được hết những công đức đó.

Giảng: Công đức của tất cả những đại Bồ Tát đó, ta làm thế nào hiểu được, biết được, nói được cảnh giới và công đức của các Ngài, cùng với hạnh tu của các vị đó.

 

Thiện nam tử! ư thử Nam phương hải triều chi xứ, hữu nhất quốc độ, danh: na la tố; trung hữu Tiên nhân, danh: tỳ mục Cồ sa. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Này thiện nam tử ! Phương Nam Xứ Hải Triều đây có một nước tên là Na La Tố. Trong đó có tiên nhơn tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Giảng: Thiện nam tử! Ngươi hãy đi về hướng nam xứ Hải Triều nầy, có một cõi nước, tên là Na La Tố. Trong nước đó, có vị Tiên nhân, tên là Tỳ Mục Cù Sa. Ngươi hãy đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo”?

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, bi khấp lưu lệ, tác thị tư tánh: đắc Bồ-đề nan, cận thiện tri thức nan, ngộ thiện tri thức nan, đắc Bồ Tát chư căn nan, tịnh Bồ Tát chư căn nan, trị đồng hành thiện tri thức nan, như lý quan sát nan, y giáo tu hành nan, trực ngộ xuất sanh thiện tâm phương tiện nan, trực ngộ tăng trưởng nhất thiết trí pháp quang minh nan.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hưu Xả Ưu bà di, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ. Tự nghĩ rằng được Bồ đề khó, gần thiện tri thức khó, gặp thiện tri thức khó, được gặp đồng hành thiện tri thức khó, đúng lý quán sát khó, y giáo tu hành khó, Bồ Tát căn khó, tịnh Bồ Tát căn khó, gặp gở xuất sanh thiện tâm phương tiện khó, gặp gở thêm lớnNhứt thiết trí pháp quang minh khó.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử, đảnh lễ dưới chân Hưu Xả ưu bà di, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn rầu rơi lệ, suy gẫm như vầy: “Đắc được bồ đề là khó. Gần gũi thiện tri thức cũng rất là khó. Mà gặp được thiện tri thức cũng rất là khó. Cho nên muốn gặp được một vị thiện tri thức giúp đỡ bạn qua khỏi dòng sinh tử, cũng rất là khó. Muốn đắc được các căn của Bồ Tát rất là khó. Muốn thanh tịnh các căn của Bồ Tát cũng rất là khó. Gặp được thiện tri thức cùng tu với nhau cũng rất là khó. Như lý quán sát cũng rất là khó. Y giáo tu hành cũng rất là khó. Gặp được thiện tri thức khai thị, mà sinh ra thiện tâm phương tiện cũng rất là khó. Gặp được pháp quang minh tăng trưởng nhất thiết trí cũng rất là khó. Mà ta hiện tại đều gặp được, ta thật là quá may mắn”!

 

Tác thị niệm dĩ, từ thoái nhi hành.

Nghĩ xong, Thiện Tài từ tạ Ưu bà di mà đi.

Giảng: Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy rồi, bèn hướng về Hưu Xả ưu bà di từ tạ mà đi về hướng nam tìm vị thiện tri thức khác.

 

================================

8. TỲ MỤC CÙ SA TIÊN NHÂN – PHÓ THÁC THỨ TÁM ĐỒNG CHÂN TRỤ

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tùy thuận tư tánh Bồ Tát chánh giáo, tùy thuận tư tánh Bồ Tát tịnh hạnh, sanh tăng trưởng Bồ Tát phước lực tâm, sanh minh kiến nhất thiết chư Phật tâm, sanh xuất sanh nhất thiết chư Phật tâm, sanh tăng trưởng nhất thiết Đại nguyện tâm, sanh phổ kiến thập phương chư Pháp tâm, sanh minh chiếu chư Pháp thật tánh tâm, sanh phổ tán nhất thiết chướng ngại tâm, sanh quan sát Pháp giới vô ám tâm, sanh thanh tịnh ý bảo trang nghiêm tâm, sanh tồi phục nhất thiết chúng ma tâm.

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử tùy thuận tư duy chánh giáo của Bồ Tát. Tùy thuận tư duy tịnh hạnh của Bồ Tát. Sanh tâm tăng trưởng phước lực của Bồ Tát, sanh tâm thấy rõ tất cả chư Phật. Sanh tâm xuất sanh tất cả chư Phật. Sanh tâm tăng trưởng tất cả đại nguyện. Sanh tâm thấy khắp các pháp mười phương. Sanh tâm chiếu rõ thiệt tánh của các pháp. Sanh tâm phá tan khắp tất cả chướng ngại. Sanh tâm quán sát pháp giới không tối. Sanh tâm thanh tịnh ý bửu trang nghiêm. Sanh tâm xô dẹp tất cả chúng ma.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử tuỳ thuận suy gẫm chánh giáo của Bồ Tát. Tuỳ thuận suy gẫm diệu hạnh thanh tịnh của Bồ Tát. Sinh tâm phước lực tăng trưởng của Bồ Tát. Sinh tâm thấy rõ tất cả chư Phật, Ngài dùng mắt trí huệ, thấy được chư Phật nhiều vô lượng số. Lại sinh tâm sinh ra tất cả chư Phật. Lại sinh tâm tăng trưởng tất cả đại nguyện, để cứu độ chúng sinh. Lại sinh tâm thấy khắp các pháp mười phương. Lại sinh tâm chiếu sáng các pháp thật tánh. Lại sinh tâm phá tan tất cả chướng ngại, trong tâm của Ngài chẳng còn hoài nghi, sợ hãi, đủ thứ các thứ chướng ngại, mà dũng mãnh hướng về trước. Lại sinh tâm quán sát pháp giới không đen tối, trong tâm đã không còn sự đen tối, dùng trí huệ chiếu sáng các pháp thật tánh, để quán sát thể tánh chân như của pháp giới. Lại sinh tâm thanh tịnh ý niệm bảo trang nghiêm. Lại sinh tâm thôi phục tất cả chúng ma.

 

Tiệm tiệm du hành, chí na la tố quốc, chu biến thôi cầu tỳ mục Cồ sa.

Thiện Tài đồng tử lần lần du hành đến nước Na La Tố tìm tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa

Giảng: Thiện Tài đồng tử từ từ đi du hành về hướng nam, đi đến nước Na La Tố, bèn đi khắp nơi tìm Tỳ Mục Cù Sa tiên nhơn.

Na La Tố, dịch là “Không lười biếng”, vì vị thiện tri thức nầy hay động cõi trì cõi, quán cõi đến cõi, chẳng ngừng nghỉ. Tỳ Mục Cù Sa, dịch là “Thường xuất tăng thượng vô bố uý thanh”, vì Ngài hay vang ra âm thanh rộng lớn đầy khắp, để an ổn chúng sinh, đây là đồng chân trụ thứ tám, vì nhờ thanh tịnh vô lậu, nên phó thác cho Tiên nhân, tâm của Ngài chẳng sinh điên đảo, chẳng khởi tà ma, chẳng phá hoại bồ đề tâm.

 

Kiến nhất Đại lâm, a-tăng-kì thọ dĩ vi trang nghiêm, sở vị: chủng chủng diệp thọ phù sơ phố hồ, chủng chủng hoa thọ khai phu tiên vinh, chủng chủng quả thọ tướng tục thành thục, chủng chủng bảo thụ vũ ma-ni quả, Đại chiên đàn thọ xứ xứ hành liệt, chư trầm thủy thọ thường xuất hảo hương, duyệt ý hương thọ diệu hương trang nghiêm, ba trá la thọ tứ diện vi nhiễu, ni câu luật thụ kỳ thân tủng trạc, Diêm-phù-đàn thọ thường vũ cam quả, ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa dĩ nghiêm trì chiểu.

Thấy một khu rừng lớn, vô số cây trang nghiêm. Như là những cây lá rậm rợp che mát, những cây nở hoa sặc sỡ, những cây đơm trái chín tiếp nối. Lại có những cây báu mưa trái ma ni, những cây chiên đàn lớn bày hàng khắp nơi, những cây trầm thủy thường thoảng hương thơm, những cây duyệt ý hương thơm tho trang nghiêm, những cây ba tra la bao bọc bốn phía, những cây ni câu luật cao vút, những cây diêm phù đàn thường mưa trái ngọt, những bông sen xanh, bông sen đỏ trang nghiêm ao hồ.

Giảng: Thiện Tài thấy một khu rừng lớn, có A tăng kỳ cây dùng để trang nghiêm khu rừng đó. Đó là: Cây đủ thứ lá khác nhau, cành lá sum sê, thòng xuống che mát. Lại có cây đủ thứ hoa khác nhau, hoa nở rộ xinh tươi rất đẹp. Lại có cây đủ thứ quả khác nhau, trái chín liên tục không ngừng. Lại có cây đủ thứ châu báu, mưa xuống quả ma ni. Lại có cây chiên đàn lớn, thẳng hàng khắp nơi. Lại có cây các trầm thuỷ, thường toả hương thơm ngào ngạt, khiến cho ai ngửi được cũng đều sinh tâm thanh tịnh. Lại có cây hương vừa ý, ai ngửi được mùi hương nầy, bèn sinh tâm hoan hỉ, cây đó dùng diệu hương của nó để trang nghiêm cây đó. Lại có cây ba tra la, tức là cây thu, nở hoa màu tím, hương thơm ngào ngạt, bao quanh bốn phía. Lại có cây ni câu luật, lá tựa như lá thị, trái tựa như trái tỳ bà, trái tựa như trái thị, giống loại nại lão, rất cao lớn trong các loài cây, thân cây cao vút. Lại có cây diêm phù đàn, tức là cây sinh diêm phù đàn kim, thường mưa xuống quả ngọt. Lại có hoa ưu bát la (hoa sen xanh), hoa ba đầu ma (hoa sen đỏ), dùng để trang nghiêm mặt nước ao hồ đó.

 

Thời, Thiện tài đồng tử kiến bỉ Tiên nhân tại chiên đàn thụ hạ phu thảo nhi tọa, lĩnh đồ nhất vạn, hoặc trước lộc bì, hoặc trước thọ bì, hoặc phục biên thảo dĩ vi y phục, kế hoàn thùy tấn, tiền hậu vi nhiễu.

Thiện Tài đồng tử thấy tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa trải cỏ ngồi dưới cây chiên đàn, đồ chúng mười ngàn người. Có người mặc da nai, mặc cỏ cây, có người bện cỏ làm y phục, vấn tóc, để râu trước sau vây quanh.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhìn thấy vị Tiên nhơn đó, đang trải cỏ ngồi ở dưới cây chiên đàn. Đồ chúng của Ngài gồm một vạn người (một vạn là ý nghĩa biểu thị vạn hạnh), có những người mặc y phục da nai, hoặc mặc y phục vỏ cây, hoặc dùng cỏ làm y phục. Những đồ chúng đó cố ý hiện ra những bộ dạng y phục kỳ lạ, khiến cho người khác nhìn thấy cảm thấy rất đặc biệt, biết họ ở trong rừng dụng công tu đạo. Họ vấn đầu tóc, để râu dài rất là đặc biệt. Họ vây quanh trước sau vị Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa.

 

Thiện Tài kiến dĩ, vãng nghệ kỳ sở, ngũ thể đầu địa, tác như thị ngôn: Ngã kim đắc ngộ chân thiện tri thức.

Thiện Tài thấy rồi, bèn đi đến chỗ vị Tiên nhơn, năm thể sát đất, bạch rằng: Con nay gặp được chân thiện tri thức.

Giảng: Thiện Tài nhìn thấy tình hình như vậy rồi, bèn đi đến chỗ vị Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa, đảnh lễ năm thể sát đất, biểu thị cung kính, sau đó bạch rằng: “Con hiện nay gặp được vị thiện tri thức chân chánh có trí huệ!

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí môn, lệnh ngã đắc nhập chân thật đạo cố

Thiện trí thức là cửa xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho con được vào đạo chân thật.

Giảng: Bậc thiện tri thức là môn hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được vào đạo chân thật.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí thừa, lệnh ngã đắc chí Như Lai địa cố

Thiện tri thức là cỗ xe xu hướng nhất thiết trí. Vì làm cho con được đến Như Lai địa.

Giảng: Bậc thiện tri thức còn là thừa hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đến được bậc Như Lai.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí thuyền, lệnh ngã đắc chí trí bảo châu cố

Thiện tri thức là thuyền xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho con được đến châu trí bửu.

Giảng: Bậc thiện tri thức còn là con thuyền hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đắc được trí bảo châu.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí cự, lệnh ngã đắc sanh thập lực quang cố

Thiện tri thức là đuốc xu hướng nhất thiết trí, vì khiến con được sanh ánh sáng thập lực.

Giảng: Bậc thiện trí thức còn là đuốc sáng hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đắc sinh thập lực quang minh.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí đạo, lệnh ngã đắc nhập Niết Bàn thành cố

Thiện tri thức là đường xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho con được vào thành Niết bàn.

Giảng: Thiện tri thức còn là đạo hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được vào thành Niết Bàn.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí đăng, lệnh ngã đắc kiến di hiểm đạo cố

Thiện tri thức là đèn xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho con thấy được đường yên lành hay hiểm trở.

Giảng: Bậc thiện tri thức còn là đèn sáng hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con thấy được con đường hẹp hiểm trở.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí kiều, lệnh ngã đắc độ hiểm ác xứ cố

Thiện tri thức là cầu xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho con qua khỏi chỗ hiểm ác.

Giảng: Bậc thiện tri thức còn là cây cầu hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con qua được chỗ hiểm ác.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí cái, lệnh ngã đắc sanh đại từ lương cố

Thiện tri thức là lọng xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho con được sanh lòng đại từ mát mẻ.

Giảng: Bậc thiện tri thức còn là lọng báu hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con được sinh lợi ích đại từ bi mát mẻ.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí nhãn, lệnh ngã đắc kiến pháp tánh môn cố

Thiện tri thức là con mắt xu hướng nhứt thiết trí, vì làm cho con được thấy môn pháp tánh.

Giảng: Bậc thiện tri thức còn là con mắt hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con thấy được môn pháp tánh.

 

Thiện tri thức giả, tức thị thú hướng nhất thiết trí triều, lệnh ngã mãn túc đại bi thủy cố.

Thiện trí thức là nước triều xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho con đầy đủ nước đại bi.

Giảng: Bậc thiện tri thức còn là hải triều hướng về nhất thiết trí, vì khiến cho con đầy đủ nước pháp đại bi.

 

Tác thị ngữ dĩ, tùng địa nhi khởi, nhiễu vô lượng tạp, hợp chưởng tiền trụ, bạch ngôn:

Nói xong, Thiện Tài đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng đứng chắp tay trước Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa mà thưa rằng:

Giảng: Thiện Tài tán thán thiện tri thức rồi, bèn từ đất đứng dậy, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, chắp tay đứng ở trước Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa mà bạch rằng:

 

Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo? ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!

Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh? thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe đức Thánh khéo dạy dỗ. Xin chỉ dạy cho con.

Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Con nghe Hưu Xả ưu bà di giới thiệu cho con, đức Thánh khéo hay giáo hoá dạy dỗ tất cả chúng sinh, xin Ngài hãy vì con mà diễn nói”.

 

Thời, tỳ mục Cồ sa cố kỳ đồ chúng, nhi tác thị ngôn: Thiện nam tử! thử Đồng tử dĩ phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam bồ Đề tâm. Thiện nam tử! thử Đồng tử phổ thí nhất thiết chúng sanh vô úy, thử Đồng tử phổ hưng nhất thiết chúng sanh lợi ích, thử Đồng tử thường quán nhất thiết chư Phật trí hải

Tỳ Mục Cù Sa đoái nhìn đồ chúng mà nói: Này đại chúng ! Ðồng tử này đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, khắp ban sự vô úy cho tất cả chúng sanh, khắp ban sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, thường quát sát trí hải của tất cả chư Phật.

Giảng: Lúc đó, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa quay nhìn một vạn đồ chúng mà nói rằng: “Thiện nam tử! Các vị có biết chăng? Vị đồng tử nầy đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiện nam tử! Vị đồng tử nầy đã bố thí không sợ hãi khắp tất cả chúng sinh. Vị đồng tử nầy ban khắp lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vị đồng tử nầy thường quán sát biển trí huệ của tất cả chư Phật, đã đắc được biển trí của chư Phật.

 

Thử Đồng tử dục ẩm nhất thiết cam lộ pháp vũ, thử Đồng tử dục trắc nhất thiết quảng đại pháp hải, thử Đồng tử dục lệnh chúng sanh trụ trí hải trung, thử Đồng tử dục phổ phát khởi quảng đại bi vân, thử Đồng tử dục phổ vũ ư quảng đại pháp vũ, thử Đồng tử dục dĩ trí nguyệt phổ chiếu thế gian, thử Đồng tử dục diệt thế gian phiền não độc nhiệt, thử Đồng tử dục trưởng hàm thức nhất thiết thiện căn.

Ðồng tử này muốn uống tất cả pháp vũ cam lồ, muốn lường tất cả pháp hải rộng lớn, muốn cho chúng sanh an trụ trong trí hải, muốn khắp phát khởi mây bi rộng lớn, muốn khắp mưa pháp vũ rộng lớn, muốn dùng trí nguyệt chiếu khắp thế gian, muốn diệt thế gian phiền não độc nhiệt, muốn làm lớn tất cả thiện căn cho chúng sanh.

Giảng: Vị đồng tử nầy muốn uống hết tất cả mưa pháp cam lồ, muốn học hết tất cả Phật pháp. Vị đồng tử nầy muốn dò lường tất cả biển pháp rộng lớn. Vị đồng tử nầy muốn khiến tất cả chúng sinh ở trong biển trí huệ, khiến cho chúng sinh được giác ngộ. Vị đồng tử nầy lại muốn phát khởi khắp mây đại bi rộng lớn, để diệt trừ nhiệt não của tất cả chúng sinh, lìa khổ được vui. Vị đồng tử nầy lại muốn mưa xuống khắp pháp vũ rộng lớn, khiến cho chúng sinh được thấm nhuần Phật pháp. Vị đồng tử nầy lại muốn dùng trí huệ mặt trăng sáng để chiếu khắp thế gian. Vị đồng tử nầy lại muốn diệt trừ phiền não nóng độc của thế gian, khiến cho chúng được được mát mẻ. Vị đồng tử nầy lại muốn tăng trưởng tất cả căn lành của chúng sinh.

 

Thời, chư tiên chúng văn thị ngữ dĩ, các dĩ chủng chủng thượng diệu hương hoa tán Thiện Tài thượng, đầu thân tác lễ, vi nhiễu cung kính, tác như thị ngôn:

Tiên chúng nghe lời trên đây rồi đều đem những hương hoa đẹp tốt rải trên thân Thiện Tài, làm lễ cung kính mà nòi rằng:

Giảng: Lúc đó, tất cả các Tiên chúng nghe Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa tán thán chí nguyện phát tâm của Thiện Tài đồng tử rồi, ai nấy đều đem đủ thứ hương hoa tốt nhất, rải lên trên đầu Thiện Tài đồng tử để cúng dường. Sau đó hướng về Thiện Tài đồng tử cuối đầu đảnh lễ, vây quanh cung kính, nói như vầy:

 

Kim thử Đồng tử, tất đương cứu hộ nhất thiết chúng sanh, tất đương trừ diệt chư địa ngục khổ, tất đương vĩnh đoạn chư súc sanh đạo, tất đương chuyển khứ Diêm la Vương giới, tất đương quan bế chư nạn xứ môn, tất đương càn kiệt chư ái dục hải, tất lệnh chúng sanh vĩnh diệt khổ uẩn, tất đương vĩnh phá vô minh hắc ám, tất đương vĩnh đoạn tham ái hệ phược, tất dĩ phước đức Đại luân vi sơn vi nhiễu thế gian, tất dĩ trí tuệ đại bảo Tu-Di hiển thị thế gian, tất đương xuất hiện thanh tịnh trí nhật, tất đương khai thị thiện căn Pháp tạng, tất sử thế gian minh thức hiểm dịch.

Ðồng tử này tất sẽ cứu hộ tất cả chúng sanh, tất cả trừ diệt khổ địa địa ngục, tất sẽ dứt hẳn loài súc sanh, tất sẽ chuyển bỏ cõi Diêm La Vương, tất sẽ đóng bít cửa chướng nạn, tất sẽ làm khô cạn biển ái dục, tất làm cho chúng sanh diệt hẳn khổ uẩn, tất sẽ phá hẳn vô minh hắc ám, tất sẽ dứt hẳn dây trói tham ái, tất sẽ dùng dãy núi phước đức bao bọc thế gian, tất sẽ đem đại bửu trí huệ hiển thị thế gian, tất sẽ xuất hiện trí nhựt thanh tịnh, tất sẽ khai thị pháp tạng thiện căn, tất làm cho thế gian biết rõ là hiểm khó hay là dễ dàng.

Giảng: “Vị đồng tử nầy, tương lai tất sẽ cứu hộ tất cả chúng sinh. Tất sẽ trừ diệt thống khổ tất cả các địa ngục, độ thoát chúng sinh xa lìa các cõi ác. Tất sẽ dứt hẳn các đường ác súc sinh. Tất sẽ chuyển dời trừ khử cõi Diêm La Vương, khiến cho không còn nữa. Tất sẽ đóng bít cửa các xứ nạn. Tất sẽ làm khô cạn tất cả các biển ái dục, khiến cho chúng sinh không còn bị ái dục nuốt chửng, mà thoát khỏi biển khổ sinh tử. Tất sẽ khiến chúng sinh diệt hẳn khổ năm uẩn, không còn bị thiêu đốt. Tất sẽ vĩnh viễn phá tan vô minh đen tối. Tất sẽ dứt hẳn tham ái ràng buộc. Ai không được tự do, đều bị gông cùm tham ái khoá chặc, nếu từ bỏ được tham ái, thì tất cả đều được tự do. Vị đồng tử nầy tất sẽ dùng phước đức núi đại Luân Vi bao bọc chúng sinh thế gian.

Thế giới chúng ta đây cũng được núi Thiết Vi bao bọc, ở giữa núi Thiết Vi có một biển nước mặn, trong biển nước mặn có bốn châu lớn, lại có bảy tầng núi vàng, bảy biển hương thuỷ, chính giữa là núi Tu Di. Trong núi đại Luân Vi, lại có biển thế giới nhiều bất khả thuyết. Vị đồng tử nầy tất sẽ dùng trí huệ báu lớn như núi Tu Di hiển bày cho chúng sinh thế gian. Tất sẽ xuất hiện mặt trời trí huệ thanh tịnh. Tất sẽ khai thị tất cả chúng sinh căn lành pháp tạng. Tất sẽ khiến cho tất cả chúng sinh thế gian biết rõ thế nào là hiểm nguy? Thế nào là dễ dàng, khiến cho họ minh bạch được chánh tà”.

 

Thời, tỳ mục Cồ sa cáo quần tiên ngôn: Thiện nam tử! nhược hữu năng phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam bồ Đề tâm, tất đương thành tựu nhất thiết trí đạo.

Tỳ Mục Cù Sa bảo quần tiên rằng: Nếu có người hay phát tâm Vô thượng Bồ đề, tất sẽ được thành đạo Nhứt thiết trí.

Giảng: Lúc đó, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa bảo các Tiên chúng rằng: “Thiện nam tử! Nếu có người nào phát được tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, thì tương lai họ nhất định sẽ thành tựu đạo nhất thiết trí.

 

Thử Thiện nam tử dĩ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, đương tịnh nhất thiết Phật công đức địa.

Ðồng tử này đã phát tâm Vô thượng Bồ đề tất sẽ tịnh bậc tất cả công đức của chư Phật.

Giảng: Vị Thiện Tài đồng tử nầy, đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tương lai chắc chắn sẽ thanh tịnh tất cả công đức của Phật địa, mà chứng được quả Phật”.

 

Thời, tỳ mục Cồ sa cáo Thiện tài đồng tử ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát Vô thắng tràng giải thoát.

Tỳ Mục Cù Sa bảo Thiện Tài: Này thiện nam tử ! Ta được môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát.

Giảng: Lúc đó, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta đã đắc được pháp môn giải thoát Bồ Tát Vô thắng tràng”. Tràng nghĩa là biểu thị đồng chân tịnh trí, biến hoá tự tại, cao xuất công dụng và phá tan sự hoài nghi. Vô thắng là tướng, hoặc bất động.

 

Thiện Tài bạch ngôn: Thánh Giả! Vô thắng tràng giải thoát cảnh giới vân hà?

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của Vô thắng tràng giải thoát như thế nào ?

Giảng: Thiện Tài bạch rằng: “Đức Thánh! Cảnh giới pháp môn giải thoát Vô thắng tràng như thế nào”?

 

Thời, Tì mục Tiên nhân tức thân hữu thủ, ma Thiện Tài đảnh, chấp Thiện Tài thủ.

Lúc đó Tỳ Mục Cù Sa tiên nhơn liền giơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài, cầm tay Thiện Tài.

Giảng: Lúc đó, Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa liền giơ tay phải rờ đầu Thiện Tài, lại dùng tay trái cầm tay Thiện Tài. Cầm tay là biểu thị truyền thọ cho, đồng thời cũng biểu thị từ bi. Đây là đạo lý lực nhiếp vô lực của Kinh Hoa Nghiêm. Tri thức có lực, lực nhiếp vô lực, khiến cho Thiện Tài thấy được đủ thứ cảnh giới thù diệu dưới đây. Nếu Thiện Tài có lực, thì Tiên nhơn vô lực, lực nhiếp vô lực, sở chứng của Tiên nhơn, Thiện Tài đều đắc được, cho nên hổ tương nhiếp trì.

 

Tức thời, Thiện Tài tự kiến kỳ thân vãng thập phương thập Phật sát vi trần số thế giới trung, đáo thập Phật sát vi trần số chư Phật sở, kiến bỉ Phật sát cập kỳ chúng hội, chư Phật tướng hảo, chủng chủng trang nghiêm; diệc văn bỉ Phật tùy chư chúng sanh tâm chi sở lạc nhi diễn thuyết Pháp, nhất văn nhất cú giai tất thông đạt, các biệt thọ trì vô hữu tạp loạn; diệc tri bỉ Phật dĩ chủng chủng giải tịnh trì chư nguyện; diệc tri bỉ Phật dĩ thanh tịnh nguyện thành tựu chư lực; diệc kiến bỉ Phật tùy chúng sanh tâm sở hiện sắc tướng; diệc kiến bỉ Phật đại quang minh võng, chủng chủng chư sắc thanh tịnh viên mãn; diệc tri bỉ Phật vô ngại trí tuệ đại quang minh lực

Thiện Tài liền thấy mình đến trong mười Phật sát vi trần thế giới mười phương, chỗ của mười Phật sát vi trần số thế giới chư Phật. Thấy chư Phật và chúng hội cùng Phật độ trang nghiêm thanh tịnh. Lại nghe chư Phật tùy sở thích của các chúng sanh mà thuyết pháp, mỗi câu mỗi văn đều thông đạt cả, đều riêng thọ trì không tạp loạn. Cũng biết đức Phật đó dùng những tri giải tịnh trị các nguyện. Cũng biết chư Phật đó dùng thanh tịnh nguyện thành tựu các lực. Cũng thấy chư Phật đó tùy chúng sanh tâm mà hiện sắc tướng. Củng thấy chư Phật đó, lưới đại quang minh nhiều màu sắc thanh tịnh viên mãn. Cũng biết chư Phật đó, trí huệ vô ngại sức đại quang minh.

Giảng: Lúc đó, lập tức Thiện Tài tự thấy thân mình phát sinh biến hoá kỳ diệu, đi đến các thế giới trong mười phương nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Thiện Tài đồng tử nhập định rồi, đến chỗ đạo tràng các đức Phật nhiều như số hạt bụi mười cõi Phật. Nhìn thấy cõi nước các đức Phật đó và chúng hội của các Ngài, và ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của chư Phật, cùng với đủ thứ sự trang nghiêm. Đồng thời cũng nghe các đức Phật đó, tuỳ thuận tâm ưa thích của các chúng sinh mà diễn nói pháp, từng câu từng chữ, Thiện Tài thảy đều thông đạt, đều thọ trì nơi tâm, nghĩ nhớ không quên, chẳng có tạp loạn.

Thiện Tài đồng tử lại biết các đức Phật đó dùng đủ thứ sự hiểu biết, để thanh tịnh trị lý tất cả các nguyện. Lại biết các đức Phật đó dùng nguyện thanh tịnh, để thành tựu mười lực. Lại nhìn thấy các đức Phật đó tuỳ thuận tâm chúng sinh, mà thị hiện ra sắc tướng, để giáo hoá chúng sinh. Lại nhìn thấy lưới đại quang minh của các đức Phật đó, đủ thứ các màu sắc khác nhau, đều thanh tịnh viên mãn. Lại biết trí huệ đại quang minh lực vô ngại của các đức Phật đó.

 

Hựu tự kiến thân ư chư Phật sở, Kinh nhất nhật dạ hoặc thất nhật dạ, bán nguyệt, nhất nguyệt, nhất niên, thập niên, bách niên, thiên niên, hoặc Kinh ức niên, hoặc A-dữu-đa ức niên, hoặc na-do-tha ức niên, hoặc Kinh bán kiếp, hoặc Kinh nhất kiếp, bách kiếp, thiên kiếp, hoặc bách thiên ức nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp.

Thiện Tài lại tự thấy mình ở chỗ chư Phật qua một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, hoặc trải qua ức năm, hoặc a du đa ức năm, hoặc na do tha ức năm, hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại tận mắt thấy thân của mình, ở trong đạo tràng của các đức Phật, trải qua một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm ngàn năm. Hoặc trải qua ức năm, hoặc A du đa ức năm, hoặc Na do tha ức năm. Hoặc trải qua nửa kiếp, hoặc trải qua một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết số kiếp nhiều như số hạt bụi cõi Phật.

Trong Phẩm Hạnh Phổ Hiền thứ ba mươi sáu có nói : “Thấu đạt các thế gian, giả danh không có thật, chúng sinh và thế giới, như mộng như hình bóng. Đối với các pháp thế gian, chẳng sinh thấy phân biệt, khéo lìa chấp phân biệt, cũng chẳng thấy phân biệt. Vô lượng vô số kiếp, hiểu tức là một niệm, biết niệm cũng không niệm, như vậy thấy thế gian. Vô lượng các cõi nước, một niệm đều vượt qua, trải qua vô lượng kiếp, chẳng động nơi bổn xứ. Không thể nói các kiếp, tức khoảnh khắc tu du”. Đoạn kinh văn nầy miêu tả cảnh giới trải qua của Thiện Tài đồng tử.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử vi Bồ Tát Vô thắng tràng giải thoát trí quang minh chiếu cố, đắc Tỳ Lô Giá Na tạng tam muội quang minh

Nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát trí quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài đồng tử được tỳ lô giá na tạng tam muội quang minh.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử vì được trí huệ quang minh giải thoát Bồ Tát Vô thắng tràng của Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh tỳ lô giá na tạng (chiếu khắp tất cả mọi nơi).

 

Vi vô tận trí giải thoát tam muội quang minh chiếu cố, đắc phổ nhiếp chư phương Đà-la-ni quang minh

Nhờ vô tận trí giải thoát tam muội quang minh chiếu đến nên Thiện Tài được phổ nhiếp chư phương đà la ni quang minh.

Giảng: Lại vì được tam muội Quang minh vô tận trí giải thoát chiếu đến, nên đắc được Đà la ni quang minh Phổ nhiếp các phương.

 

Vi Kim Cương luân đà-la-ni môn quang minh chiếu cố, đắc cực thanh tịnh trí tuệ tâm tam muội quang minh

Nhờ kim cang luân đà la ni môn quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được cực thanh tịnh trí huệ tâm tam muội quang minh.

Giảng: Lại vì được Đà la ni quang minh Kim cang luân chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh cực thanh tịnh trí huệ tâm.

 

Vi Phổ môn trang nghiêm tạng Bát-nhã Ba La mật quang minh chiếu cố, đắc Phật hư không tạng luân tam muội quang minh

Nhờ phổ môn trang nghiêm tạng Bát nhã Ba la mật quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được Phật hư không tạng luân tam muội quang minh.

Giảng: Vì được Bát Nhã Ba La Mật quang minh Phổ môn trang nghiêm tạng chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh Phật hư không tạng luân.

 

Vi nhất thiết Phật Pháp luân tam muội quang minh chiếu cố, đắc tam thế vô tận trí tam muội quang minh.

Nhờ nhất thiết Phật pháp luân tam muội quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được tam thế vô tận trí tam muội quang minh.

Giảng: Vì được tam muội Quang minh Nhất thiết Phật Pháp luân chiếu đến, nên đắc được tam muội Quang minh Ba đời vô tận trí.

Đây là do đắc được hư không tạng luân, tức tất cả Phật pháp viên mãn tịch chiếu. Dùng trí huệ chiếu tâm nầy, thì trí cùng khắp ba đời, vô tận nguồn pháp.

 

Thời, bỉ Tiên nhân phóng Thiện Tài thủ, Thiện tài đồng tử tức tự kiến thân hoàn tại bổn xứ.

Bấy giờ Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài liền tự thấy mình ở tại chỗ cũ.

Giảng: Lúc đó, vị Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa buông tay Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài đồng tử liền thấy thân mình vẫn ở chỗ cũ, chẳng đi đến mười phương thế giới. Đó là xa gần vô ngại, niệm kiếp viên dung, đều là sức lực pháp môn viên giáo thiện hữu. Do đó có câu:

“Một niệm làm vô lượng kiếp
Vô lượng kiếp làm một niệm”.

Chẳng dời chỗ của mình, mà đến khắp mười phương. Cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm huyền diệu như vậy đó, không thể dùng tâm suy nghĩ, không thể dùng lời bàn luận!

 

Thời, bỉ Tiên nhân cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! nhữ ức niệm da?

Tiên Nhơn bảo Thiện Tài: Này Thiện nam tử ! Ngươi có ghi nhớ chăng ?

Giảng: Lúc đó, vị Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa hỏi Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ngươi có ghi nhớ cảnh giới vừa mới trải qua chăng”?

 

Thiện Tài ngôn: duy! thử thị Thánh Giả thiện tri thức lực.

Thiện Tài thưa: Bạch vâng ! Ðây là do sức của đức Thánh thiện tri thức vậy.

Giảng: Thiện Tài nói: “Dạ con nhớ! Đó là nhờ sức của đức Thánh thiện tri thức, cho nên mới khiến cho con nhìn thấy được cảnh giới không thể nghĩ bàn như thế”.

 

Tiên nhân ngôn: Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát Vô thắng tràng giải thoát. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu nhất thiết thù thắng tam muội, ư nhất thiết thời nhi đắc tự tại, ư nhất niệm khoảnh xuất sanh chư Phật vô lượng trí tuệ, dĩ Phật trí đăng nhi vi trang nghiêm phổ chiếu thế gian, nhất niệm phổ nhập tam thế cảnh giới, phần hình biến vãng thập phương quốc độ, trí thân phổ nhập nhất thiết pháp giới, tùy chúng sanh tâm phổ hiện kỳ tiền quán kỳ căn hành nhi vi lợi ích, phóng Tịnh Quang minh thậm khả ái lạc

Tiên Nhơn nói: Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát này. Như chư đại Bồ Tát thành tựu tất cả tam muội thù thắng, được tự tại trong tất cả thời gian. Trong khoảng một niệm xuất sanh chư Phật vô lượng trí huệ. Dùng đèn Phật trí làm trang nghiêm để chiếu khắp thế gian. Trong một niệm vào khắp cảnh giới tam thế. Phân thân qua khắp cõi nước mười phương. Trí thân vào khắp tất cả pháp giới. Tùy theo tâm chúng sanh mà hiện ra trước họ, xem xét căn hành của họ để làm lợi ích, phóng tịnh quang minh rất đáng mến thích.

Giảng: Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa nói: “Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát Bồ Tát vô thắng tràng nầy. Như tất cả các đại Bồ Tát đã thành tựu tất cả tam muội thù thắng. Tất cả mọi thời, đều được tự tại. Trong khoảng một niệm, sinh ra vô lượng trí huệ của chư Phật. Dùng đèn trí huệ của Phật, để trang nghiêm, để chiếu khắp tất cả thế gian. Dùng một niệm vào khắp cảnh giới ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Lại có thể phân thân đi đến cõi nước mười phương. Có thể dùng trí huệ thân vào khắp tất cả pháp giới. Tuỳ thuận tâm chúng sinh, khắp hiện ra ở trước họ. Lại quán sát căn hạnh của chúng sinh, mà làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Lại phóng ra quang minh thanh tịnh, rất đáng ưa thích.

 

Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh, bỉ thù thắng nguyện, bỉ trang nghiêm sát, bỉ trí cảnh giới, bỉ tam muội sở hạnh, bỉ thần thông biến hóa, bỉ giải thoát du hí, bỉ thân tướng sái biệt, bỉ âm thanh thanh tịnh, bỉ trí tuệ quang minh?

Như thế, ta làm sao biết được tất cả, nói được tất cả công đức hạnh đó, thù thắng nguyện đó, trang nghiêm độ đó, trí cảnh giới đó, tam muội cảnh giới đó, thần thông biến hóa đó, giải thoát du hí đó, thân tướng sai biệt đó, âm thanh thanh tịnh đó, trí huệ quang minh đó.

Giảng: Đủ thứ cảnh giới như vậy, mà ta làm sao biết được, diễn nói được, những hạnh công đức đó, nguyện thù thắng đó, cõi Phật trang nghiêm đó, cảnh giới trí huệ đó, sở hành tam muội đó, thần thông biến hoá đó, giải thoát du hí đó, thân tướng khác biệt đó, âm thanh thanh tịnh đó, trí huệ quang minh đó. Những cảnh giới không thể nghĩ bàn đó, ta làm sao nói hết được”!

 

Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất tụ lạc, danh: y sa na; hữu Bà-la-môn, danh viết: thắng nhiệt. nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Này thiện nam tử ! Phương Nam này có một tụ lạc tên là y Sa Na, có Bà La Môn tên là Thắng Nhiệt. Người đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Giảng: Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa nói tiếp: “Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thôn xóm, tên là Y Sa Na. Có vị Bà La Môn tên là Thắng Nhiệt. Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo”?

 

Thời, Thiện tài đồng tử hoan hỉ dũng dược, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái Nam hành.

Thiện Tài đồng tử vui mừng hớn hở, đảnh lễ Tiện Nhơn Tỳ Mục Cù Sa, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua phương Nam.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hoan hỉ vui mừng, vì nhờ Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa mà đắc được pháp ích thù thắng, cho nên hướng về vị Tiên nhơn đảnh lễ, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng thiện tri thức. Sau đó hướng về vị Tiên nhơn từ tạ đi về hướng nam, tìm vị thiện tri thức khác.

 

============================

9. BÀ LA MÔN THẮNG NHIỆT – PHÓ THÁC THỨ CHÍN – VƯƠNG TỬ TRỤ

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử vi Bồ Tát Vô thắng tràng giải thoát sở chiếu cố, trụ chư Phật bất tư nghị thần lực, chứng Bồ Tát bất tư nghị giải thoát thần thông trí, đắc Bồ Tát bất tư nghị tam muội trí quang minh, đắc nhất thiết thời huân tu tam muội trí quang minh, đắc liễu tri nhất thiết cảnh giới giai y tưởng sở trụ tam muội trí quang minh, đắc nhất thiết thế gian thù thắng trí quang minh;

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử nhờ Bồ Tát vô thắng tràng giải thoát chiếu đến nên được trụ chư Phật bất tư nghì thần lực, được chứng Bồ Tát bất tư nghì giải thoát thần thông trí, được Bồ Tát bất tư nghì tam muội trí quang minh, được tất cả thời gian huân tu tam muội trí quang minh, được biết rõ tất cả cảnh giới đều nương tưởng mà an trụ tam muội trí quang minh, được tất cả thế gian thù thắng trí quang minh.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử, do nhờ môn giải thoát Bồ Tát vô thắng tràng chiếu sáng, nên trụ sức thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn của chư Phật. Chứng được giải thoát thần thông trí huệ không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Lại đắc được tam muội trí huệ quang minh không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Lại đắc được tam muội trí huệ quang minh huân tu tất cả mọi thời. Lại đắc được biết rõ tất cả cảnh giới, đều nương vọng tưởng mà trụ tam muội trí huệ quang minh, nếu không có vọng tưởng thì sẽ minh bạch tất cả cảnh giới đều không.

 

Ư nhất thiết xứ tất hiện kỳ thân, dĩ cứu cánh trí thuyết vô nhị vô phân biệt bình đẳng pháp, dĩ minh tịnh trí phổ chiếu cảnh giới; phàm sở văn Pháp giai năng nhẫn thọ, thanh tịnh tín giải, ư pháp tự tánh quyết định minh liễu; tâm hằng bất xả Bồ Tát diệu hạnh, cầu nhất thiết trí vĩnh vô thoái chuyển, hoạch đắc thập lực trí tuệ quang minh, cần cầu diệu pháp thường Vô yếm túc, dĩ chánh tu hành nhập Phật cảnh giới, xuất sanh Bồ Tát vô lượng trang nghiêm, vô biên đại nguyện tất dĩ thanh tịnh; dĩ vô cùng tận trí tri vô biên thế giới võng, dĩ vô khiếp nhược tâm độ vô lượng chúng sanh hải; liễu vô biên Bồ Tát chư hạnh cảnh giới, kiến vô biên thế giới chủng chủng sái biệt, kiến vô biên thế giới chủng chủng trang nghiêm, nhập vô biên thế giới vi tế cảnh giới, tri vô biên thế giới chủng chủng danh hiệu, tri vô biên thế giới chủng chủng ngôn thuyết, tri vô biên chúng sanh chủng chủng giải, kiến vô biên chúng sanh chủng chủng hành, kiến vô biên chúng sanh thành thục hạnh, kiến vô biên chúng sanh sái biệt tưởng

Ðều hiện thân mình ở tất cả chỗ. Dùng trí cứu cánh nói pháp bình đẳng không hai không phân biệt. Dùng trí sáng sạch chiếu khắp cảnh giới. Phàm những pháp được nghe đều có thể nhẫn thọ tin hiểu thanh tịnh. Nơi pháp tự tánh quyết định rõ ràng. Tâm luôn chẳng bỏ Bồ Tát diệu hạnh. Cần nhứt thiết trí trọn không thối chuyển. Chứng được thập lực trí huệ quang minh. Siêng cầu diệu pháp thường chẳng nhàm đủ. Dùng chánh tu hành nhập Phật cảnh giới. Xuất sanh bồ tát vô lượng trang nghiêm, vô biên đại nguyện đều đã thanh tịnh. Dùng trí vô cùng tận mà biết vô biên thê giới võng. Dùng tâm không khiếp nhược mà độ vô lượng chúng sanh hải. Rõ vô biên công hạnh cảnh giới của Bồ Tát. Thấy vô biên thế giới những thứ sai biệt, những thứ trang nghiêm. Nhập vô biên thế giới những cảnh vi tế. Biết vô biên thế giới những danh hiệu, những ngôn ngữ. Biết vô biên chúng sanh các tri giải, các công hạnh, các hạnh thành thục, những tưởng sai biệt.

Giảng: Thiện Tài đồng tử lại đắc được trí huệ quang minh thù thắng tất cả thế gian. Lại có thể đối với tất cả mọi nơi, đều hiện thân. Dùng trí huệ cứu kính, diễn nói pháp bình đẳng không hai không phân biệt. Ngài lại dùng trí huệ quang minh thanh tịnh, chiếu khắp hết thảy pháp giới. Bất cứ nghe được pháp, Ngài đều hoàn toàn nhẫn thọ được, mà chẳng sợ hãi. Ngài lại có niềm tin hiểu biết thanh tịnh. Đối với tự tánh của pháp, đủ sự quyết định thấu rõ, chẳng có chút nào hàm hồ hoài nghi, trong tâm luôn luôn chẳng bỏ diệu hạnh của Bồ Tát tu hành.

Thiện Tài đồng tử vì cầu nhất thiết trí huệ, mà tâm vĩnh viễn chẳng thối chuyển. Ngài lại đắc được mười lực trí huệ quang minh của Phật, thời thời khắc khắc siêng cầu diệu pháp, tâm thường không khi nào nhàm đủ. Lại dùng chân chánh tu hành, để vào sâu cảnh giới của Phật, hay sinh ra vô lượng trang nghiêm của Bồ Tát, vô biên đại nguyện, đều đã hoàn toàn thanh tịnh viên mãn. Lại dùng trí huệ vô cùng tận, biết rõ vô biên lưới thế giới. Mỗi thế giới và những thế giới khác nhiếp trì với nhau, hình thành vô biên lưới thế giới. Lưới thế giới nầy tuy xen lẫn phức tạp, nhưng làm thành lưới thế giới. Lại nói: “Chúng sinh đủ thứ nghiệp, thế giới vô lượng thứ, chấp trước sinh trong đó, thọ khổ vui khác nhau”. Tất cả cõi nước, đều do tâm chúng sinh hiện ra. Chúng sinh có nghiệp khác nhau, nên thọ quả báo và cõi nước mình ở khác nhau.

Mà Thiện Tài đồng tử đã minh bạch vô biên lưới thế giới nầy. Ngài lại dùng tâm không khiếp nhược, để độ vô lượng biển chúng sinh. Ngài thấu rõ vô biên cảnh giới các hạnh của Bồ Tát. Ngài thấy vô biên thế giới đủ thứ sự khác biệt, thấy vô biên thế giới đủ thứ sự trang nghiêm. Đó là: “Các cõi không nghĩ bàn, thế giới không bờ mé, đủ thứ trang nghiêm đẹp, đều do sức đại Tiên”. Lại nói: “Tạp nhiễm và thanh tịnh, vô lượng các thứ cõi, tuỳ tâm chúng sinh khởi, sức Bồ Tát gia trì”. Ngài lại vào những cảnh giới vi tế của vô biên thế giới. Lại biết đủ thứ danh hiệu của vô biên thế giới. Lại biết đủ thứ lời nói trong vô biên thế giới. Lại biết đủ thứ kiến giải của vô biên chúng sinh. Lại thấy đủ thứ hạnh của vô biên chúng sinh. Lại thấy hạnh tu hành thành thục của vô biên chúng sinh. Lại thấy tư tưởng khác biệt của vô biên chúng sinh.

 

Niệm thiện tri thức. Tiệm thứ du hành, chí y sa na tụ lạc, kiến bỉ thắng nhiệt tu chư khổ hạnh cầu nhất thiết trí. Tứ diện hỏa tụ do như Đại sơn, trung hữu đao sơn cao tuấn vô cực, đăng bỉ sơn thượng đầu thân nhập hỏa.

Thiện Tài nghĩ tưởng thiện tri thức đồng thời đi lần đến tụ lạc Y Sa Na, thấy Thắng Nhiệt Bà La Môn tu những khổ hạnh cầu nhứt thiết trí: bốn phía đốt lửa ngọn cao như núi lớn, ở giữa có núi đao cao nhọn vô cực. Thắng Nhiệt leo lên núi đao nhảy vào đống lửa.

Giảng: Thiện Tài đồng tử một lòng chuyên nghĩ nhớ lời dạy của thiện tri thức, từ từ đi du hành, đến thôn xóm Y Sa Na. Y Sa Na dịch là “trưởng trực”. “Trưởng” là biểu thị khéo biết tam tế. “Trực” là khéo biết thắng nghĩa. Thiện Tài đồng tử nhìn thấy vị Thắng Nhiệt Ba La Môn, đang ở đó tu các khổ hạnh, cầu nhất thiết trí huệ. Bốn phía đều có lửa lớn, cao như núi lớn. Ở giữa lại có núi đao, cao vút vô cực. Lúc đó, vị Thắng Nhiệt Bà La Môn đứng trên núi đó, nhảy vào trong đống lửa.

Vị Thắng Nhiệt Bà La Môn đó, thị hiện một thứ khổ hạnh của ngoại đạo Ấn Độ. Trong năm nhiệt, thành tựu hạnh thắng nhiệt. Ngài chẳng bị phiền não làm nhiệt não, nên thành thắng đức. Lại chẳng nhiễm phiền não, thành hạnh thanh tịnh.

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, hợp chưởng nhi lập, tác như thị ngôn:

Lúc đó Thiện Tài đến đảnh lễ chân Thắng Nhiệt mà thưa rằng:

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Thắng Nhiệt, chắp tay lại mà đứng, bèn nói như vầy:

 

Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?

Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?

Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?

 

Ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!

Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin giảng giải cho con.

Giảng: Con nghe vị Tỳ Mục Cù Sa giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy, xin hãy vì con mà diễn nói diệu pháp”.

 

Bà-la-môn ngôn: Thiện nam tử! nhữ kim nhược năng thượng thử đao sơn, đầu thân hỏa tụ, chư Bồ-tát hạnh tất đắc thanh tịnh.

Thắng Nhiệt nói: Này thiện nam tử ! Nay ngươi có thể leo lên núi đao này, nhảy vào đống lửa này, thời những Bồ Tát hạnh sẽ được thanh tịnh.

Giảng: Thắng Nhiệt Bà La Môn nói: “Thiện nam tử! Nay nếu ngươi có thể từ trên núi đao nầy, nhảy vào trong đống lửa lớn, thì tất cả các hạnh Bồ Tát, đều được thanh tịnh”.

Đó là Bà La Môn khảo nghiệm Thiện Tài đồng tử. Vị Bà La Môn nầy tu khổ hạnh ngũ nhiệt đốt thân, tức đống lửa bốn phía, lại thêm trên đầu có mặt trời. Lửa nầy chẳng phải là lửa bình thường, mà là lửa Bát Nhã, nên hay thiêu đốt củi si hoặc. Giữa có núi đao, biểu thị trí không phân biệt, hợp với trung đạo, chặt đứt tất cả tà kiến và biên kiến, là một thứ đức giải thoát. Ngọn núi cao vút vô cực, biểu thị cao vô thượng, khó có thể leo lên. Lửa có bốn ý nghĩa:
1. Thiêu đốt củi phiền não.
2. Phá tối vô minh.
3. Thành thục căn lành.
4. Chiếu hiện chứng lý.

Và đao đại biểu đoạn đức, vì chẳng có gì mà không chặt đứt. Lửa là trí đức, vì chẳng có gì mà chẳng chiếu. Ý nghĩa nhảy vào trong đống lửa là vì chướng hết thì chứng lý, mà lý tức là pháp thân.

 

Thời, Thiện tài đồng tử tác như thị niệm: đắc nhân thân nan, ly chư nạn nan, đắc vô nan nan, đắc tịnh Pháp nan, đắc trị Phật nan, cụ chư căn nan, văn Phật Pháp nan, ngộ thiện nhân nan, phùng chân thiện tri thức nan, thọ như lý chánh giáo nan, đắc chánh mạng nan, Tuỳ Pháp hành nan. Thử tướng phi ma, ma sở sử da? tướng phi thị ma hiểm ác đồ đảng, trá hiện Bồ Tát thiện tri thức tướng, nhi dục vi ngã tác thiện căn nan, tác thọ mạng nan, chướng ngã tu hành nhất thiết trí đạo, khiên ngã lệnh nhập chư ác đạo trung, dục chướng ngã Pháp môn, chướng ngã Phật Pháp?

Lúc đó thiện Tài nghĩ rằng được thân người là khó, lìa các nạn là khó, được không nạn là khó, được tịnh pháp là khó, được gặp Phật là khó, đủ các căn là khó, nghe Phật pháp là khó, gặp người lành là khó, gặp chơn thiện tri thức là khó, thọ chánh giáo đúng lý là khó, được chánh mạng là khó, tùy pháp hành là khó. Ðây phải chăng là ma, bị ma sai sử chăng ? Phải chăng là đồ đảng hiểm ác của ma trá hiện tướng Bồ Tát thiện tri thức mà muốn làm chướng nạn cho thiện căn của tôi, muốn làm nạn thọ mạng để chướng sự tu hành đạo nhất thiết trí của tôi. Muốn kéo con vào trong các ác đạo. Muốn chướng pháp môn của tôi, chướng Phật pháp của tôi chăng ?

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bèn nghĩ như vầy: “Nếu mình ở trên núi đao nhảy vào trong đống lửa, thì chẳng phải ta sẽ mất đi thân nầy chăng? Con được thân người nầy chẳng dễ dàng. Lìa khỏi các tai nạn rất là khó, hà huống bị lửa thiêu đốt, thì đó chẳng phải là nạn lửa chăng? Con phải lìa bỏ nạn lửa nầy, sao ông ta lại kêu mình nhảy vào trong đống lửa? Đây là không đúng! Hơn nữa, nếu được không có nạn là rất khó. Muốn đắc được pháp thanh tịnh cũng rất là khó. Được gặp Phật cũng rất là khó. Đầy đủ các căn cũng rất là khó. Nghe được Phật pháp cũng rất là khó. Gặp được người lành cũng rất là khó. Gặp được chân chánh thiện tri thức cũng rất là khó. Đắc được sự giáo hoá chân chánh hợp lý cũng rất là khó. Muốn được chánh mạng cũng rất là khó.

Tuỳ thuận theo pháp tu hành cũng rất là khó. Phải chăng vị Thắng Nhiệt Bà La Môn nầy là ma? Phải chăng ông ta là ma vương chăng? Có phải ma kêu ông ta đến thử nghiệm ta chăng? Hoặc ông ta chẳng phải ma? Có thể là đồ đảng hiểm ác của ma, trá hiện tướng Bồ Tát thiện tri thức, muốn làm khó căn lành của tôi? Hoặc làm khó thọ mạng, chướng ngại sự tu hành đạo nhất thiết trí của tôi? Muốn kéo tôi vào trong các đường ác, muốn chướng ngại pháp môn tu hành của tôi, chướng ngại học tập Phật pháp của tôi”?

Thiện Tài đồng tử khởi lên đủ thứ hoài nghi ở trên, chẳng phải vì Ngài chẳng thương tiếc thân mạng xả bỏ chẳng được, mà là sợ rằng mất đi đạo duyên. Đây cũng là biểu thị trí huệ chưa sâu, chưa viên mãn, nên khi thiện tri thức khảo nghiệm, bèn sinh ra đủ thứ hoài nghi.

 

Tác thị niệm thời, thập thiên phạm thiên, tại hư không trung, tác như thị ngôn:

Lúc Thiện Tài suy nghĩ như vậy, mười ngàn Phạm Thiên ở trên hư không bảo rằng:

Giảng: Khi Thiện Tài đồng tử nghĩ như thế, thì có mười ngàn vị Phạm Thiên, ở trong hư không, đến để làm chứng họ nói như vầy:

 

Thiện nam tử! mạc tác thị niệm! mạc tác thị niệm! kim thử Thánh Giả đắc Kim cương diệm tam muội quang minh, phát đại tinh tấn, độ chư chúng sanh, tâm vô thoái chuyển; dục kiệt nhất thiết tham ái hải, dục tiệt nhất thiết tà kiến võng, dục thiêu nhất thiết phiền não tân, dục chiếu nhất thiết hoặc trù lâm, dục đoạn nhất thiết lão tử phố, dục hoại nhất thiết tam thế chướng, dục phóng nhất thiết pháp quang minh.

Này thiện nam tử ! Chớ nghĩ như vậy, chớ tưởng như vậy. Ðức Thánh đây đã được kim cang diện tam muội quang minh, phát đại tinh tấn độ các chúng sanh tâm không thối chuyển, muốn cạn tất cả biển tham ái, muốn triệt tất cả lưới tà kiến, muốn thiêu tất cả củi phiền não, muốn soi tất cả rừng mê lầm, muốn dứt tất cả điều lo sợ về vấn đề già chết, muốn hoại tất cả chướng tam thế, muốn phóng tất cả pháp quang minh.

Giảng: “Thiện nam tử! Ngươi đừng có nghĩ tưởng như thế! Đừng có nghĩ tưởng như thế! Hiện tại vị Thắng Nhiệt Bà La Môn đức Thánh nầy, Ngài đã đắc được quang minh tam muội kim cang diệm. Ngài phát tâm đại tinh tấn, để độ thoát tất cả chúng sinh, tâm không sinh khởi chút thối chuyển nào. Ngài muốn khô cạn tất cả biển tham ái. Ngài lại muốn chặt đứt tất cả lưới tà kiến của chúng sinh. Ngài muốn thiêu đốt tất cả củi phiền não của chúng sinh. Ngài muốn chiếu sáng tất cả rừng mê hoặc của chúng sinh. Ngài muốn dứt trừ tất cả sự sợ hãi sinh tử của chúng sinh. Ngài muốn hoại tất cả chướng ngại ba đời. Ngài muốn phóng quang minh tất cả pháp, để chiếu soi nơi đen tối của chúng sinh”.

 

Thiện nam tử! ngã chư phạm thiên đa trước tà kiến, giai tất tự vị thị tự tại giả, thị năng tác giả, ư thế gian trung ngã thị tối thắng.

Này thiện nam tử ! Phạm Thiên chúng tôi phần nhiều chấp tà kiến, đều tự cho mình là bậc tự tại, là đấng làm ra tất cả, là tối thắng trong thế gian.

Giảng: Thiện nam tử! Các Phạm Thiên chúng tôi, phần nhiều đều có một thứ tà kiến, đều tự cho rằng là người tự tại. Là vị chủ tể sáng tạo vạn vật, cho rằng ở trong thế gian, chúng tôi là tối thù thắng.

 

Kiến Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân, ư tự cung điện tâm bất lạc trước, ư chư Thiền định bất đắc tư vị, giai cộng lai nghệ Bà-la-môn sở.

Khi thấy Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, lòng chúng tôi không còn mến luyến cung điện của mình, chẳng còn tham đắm các thiền định, cùng nhau đến chỗ Bà La Môn này.

Giảng: Nhưng khi thấy được cảnh giới của vị Ba La Môn dùng năm thứ lửa để đốt thân Ngài, thì ở cung điện của chúng tôi, trong tâm chẳng còn khoái lạc của thiền định, chẳng còn được từ vị. Cho nên chúng tôi đều cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy.

 

Thời, Bà-la-môn dĩ thần thông lực thị Đại khổ hạnh vi ngã thuyết Pháp, năng lệnh ngã đẳng, diệt nhất thiết kiến, trừ nhất thiết mạn, trụ ư đại từ, hạnh ư đại bi, khởi quảng đại tâm, phát Bồ-đề ý, thường kiến chư Phật, hằng văn diệu pháp, ư nhất thiết xứ tâm vô sở ngại.

Bấy giờ Bà La Môn này dùng sức thần thông hiển thị sự khổ hạnh lớn vì chúng tôi mà thuyết pháp, có thể làm cho chúng tôi diệt tất cả sự chấp, trừ tất cả kiêu mạn, an trụ đại từ, thật hành đại bi, phát khởi tâm quảng đại, phát Bồ đề tâm, thường thấy chư Phật, hằng nghe diệu pháp, ở tất cả chỗ tâm không chướng ngại.

Giảng: Lúc đó, vị Bà La Môn dùng sức thần thông, thị hiện đại khổ hạnh, vì chúng tôi nói pháp, khiến cho chúng tôi diệt trừ được tất cả tà tri tà kiến, trừ được tất cả ngã mạn, mà trụ nơi đại từ, thực hành pháp môn đại bi, khởi tâm rộng lớn, phát tâm bồ đề, thường thấy được chư Phật, luôn nghe được diệu pháp. Tất cả mọi nơi, trong tâm không còn chướng ngại.

 

Phục hưũ thập thiên chư ma, tại hư không trung, dĩ Thiên ma-ni bảo tán Bà-la-môn thượng, cáo Thiện Tài ngôn:

Lại có mười ngàn chư ma ở trên hư không đem thiên ma ni bửu rải trên mình Bà La Môn mà bảo Thiện Tài đồng tử rằng:

Giảng: Lúc đó, lại có mười ngàn các thiên ma, ở trong hư không, dùng ma ni báu trời, rải ở trên thân vị tu hành thanh tịnh Thắng Nhiệt Bà La Môn, sau đó nói với Thiện Tài đồng tử rằng:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, kỳ hỏa quang minh ánh đoạt ư ngã sở hữu cung điện chư trang nghiêm cụ giai như tụ mặc, lệnh ngã ư trung bất sanh lạc trước, ngã dữ quyến thuộc lai nghệ kỳ sở.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu khuất chúng tôi, cung điện và những đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đống mực đen, làm cho chúng tôi không còn mến luyến.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Thắng Nhiệt Bà La Môn dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, sáng rực che lấp hết thảy cung điện các đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đống mực đen. Khiến cho lũ thiên ma chúng tôi ở trong đó, tâm đều chấp trước chẳng sinh hoan hỉ,

 

Thử Bà-la-môn vi ngã thuyết Pháp, lệnh ngã cập dư vô lượng Thiên Tử, chư Thiên nữ đẳng, giai ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.

Chúng tôi cùng quyến thuộc đến chỗ Bà La Môn. Ðức Thánh này nói pháp cho chúng tôi, làm cho chúng tôi và vô lượng Thiên Tử cùng vô lượng Thiên nữ đều chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề.

Giảng: Cho nên chúng tôi và tất cả quyến thuộc đều đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn vì chúng tôi thuyết diệu pháp, khiến cho chúng tôi và vô lượng Thiên tử và các Thiên nữ khác, đều được chẳng thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

Hiện tại Phật giáo đồ ở châu á, đều có một quan niệm sai lầm, cho rằng đi tìm sư phụ học đạo càng nhiều thì càng tốt. Song, đi tìm học càng nhiều sư phụ, thì họ nổi giận vị sư phụ trước kia càng lớn. Vì trước kia vị sư phụ đó, chẳng muốn họ đi tìm một vị sư phụ khác. Mà vị đệ tử tự cảm thấy vị sư phụ của họ trước kia chẳng đủ tư cách, hoặc chẳng có thần thông, hoặc chẳng có đạo đức, hoặc chẳng có học vấn, cho nên họ muốn đi tìm một vị sư phụ khác, đây gọi là lạy một vị sư phụ. Những người đó còn cho rằng học tập theo Thiện Tài đồng tử đi tìm thầy học đạo, sẽ có rất nhiều công đức. Đây là lối nghĩ sai lầm! Mỗi lần Thiện Tài đồng tử tìm đến một vị thiện tri thức, đều được vị thiện tri thức trước đó giới thiệu, chứ chẳng phải tự ý Ngài đi tìm vị thiện tri thức khác, chỗ khác nhau là ở điểm nầy.

 

Phục hưũ thập thiên Tự tại Thiên Vương, ư hư không trung, các tán thiên hoa, tác như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Tự Tại Thiên Vương ở trên hư không rải thiên hoa, nói rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn vị Tự Tại Thiên Vương, ở trong hư không, đều rải hoa trời, sau đó nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, kỳ hỏa quang minh ánh đoạt ngã đẳng sở hữu cung điện chư trang nghiêm cụ giai như tụ mặc, lệnh ngã ư trung bất sanh ái trước, tức dữ quyến thuộc lai nghệ kỳ sở. Thử Bà-la-môn vi ngã thuyết Pháp, lệnh ngã ư tâm nhi đắc tự tại, ư phiền não trung nhi đắc tự tại, ư thọ sanh trung nhi đắc tự tại, ư chư nghiệp chướng nhi đắc tự tại, ư chư tam muội nhi đắc tự tại, ư trang nghiêm cụ nhi đắc tự tại, ư thọ mạng trung nhi đắc tự tại, nãi chí năng ư nhất thiết Phật Pháp nhi đắc tự tại.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu khuất chúng tôi, bao nhiêu cung điện và đồ trang nghiêm đều tối như đống mực, làm cho chúng tôi không còn mến luyến, bèn cùng quyến thuộc đến chỗ Bà La Môn. Ðức Thánh này vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho chúng tôi được tự tại nơi tâm, được tự tại trong phiền não, được tự tại trong thọ sanh, được tự tại nơi nghiệp chướng, được tự tại nơi các tam muội, được tự tại nơi những đồ trang nghiêm, được tự tại nơi thọ mạng, nhẫn đến được tự tại nơi tất cả Phật pháp.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn tu hạnh thanh tịnh nầy, dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, sáng rực che lấp hết thảy cung điện các đồ trang nghiêm của chúng tôi, đều như đống mực đen. Khiến cho chúng tôi ở trong đó, chấp trước chẳng còn sinh tâm hoan hỉ, chẳng còn vui thích hưởng thọ. Cho nên chúng tôi lập tức cùng với quyến thuộc, đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho tâm chúng tôi đắc được tự tại. Ở trong tất cả phiền não tập khí, cũng đắc được tự tại. Ở trong thọ sinh cũng đắc được tự tại. Nơi các nghiệp chướng cũng đắc được tự tại. Ở trong các tam muội cũng đắc được tự tại. Nơi các đồ trang nghiêm cũng đắc được tự tại. Ở trong thọ mạng cũng đắc được tự tại, cho đến đối với tất cả Phật pháp đều đắc được tự tại, pháp hỉ sung mãn.

 

Phục hưũ thập thiên Hoá Lạc Thiên Vương, ư hư không trung, tác Thiên âm nhạc, cung kính cúng dường, tác như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Hóa Lạc Thiên Vương ở trong hư không trổi thiên nhạc cung kính cúng dường, nói rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn vị Hoá Lạc Thiên Vương, ở trong hư không, tấu âm nhạc trời. Trời Hoá Lạc là tầng trời thứ năm của sáu tầng trời cõi dục. Ở trên cõi trời đó, nghĩ y phục thì có y phục, nghĩ thức ăn thì có thức ăn, tất cả đều do tâm ý mà hoá hiện. Người trời hưởng thọ phước báu vô tận, nhưng ở đây chẳng phải là nơi tu đạo rốt ráo. Vì khi hưởng hết phước trời thì sẽ đoạ lạc, thọ sinh tử luân hồi.

Mười ngàn vị Hoá Lạc Thiên Vương nầy, dùng âm nhạc cung kính cúng dường vị Bà La Môn rồi, bèn nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, kỳ hỏa quang minh chiếu ngã cung điện chư trang nghiêm cụ cập chư thải nữ, năng lệnh ngã đẳng bất thọ dục lạc, bất cầu dục lạc, thân tâm nhu nhuyễn, tức dữ chúng câu lai nghệ kỳ sở. Thời, Bà-la-môn vi ngã thuyết Pháp, năng lệnh ngã đẳng tâm đắc thanh tịnh, tâm đắc minh khiết, tâm đắc thuần thiện, tâm đắc nhu nhuyễn, tâm sanh hoan hỉ, nãi chí lệnh đắc thanh tịnh thập lực thanh tịnh chi thân, sanh vô lượng thân, nãi chí lệnh đắc Phật thân, Phật ngữ, Phật thanh, Phật tâm, cụ túc thành tựu nhất thiết trí trí.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu đến cung điện, đồ trang nghiêm và thể nữ của chúng tôi. Làm cho chúng tôi chẳng thọ dục lạc, chẳng cầu dục lạc, thân tâm nhu nhuyến. Chúng tôi liền cùng quyến thuộc đến chỗ của Bà La Môn nay. Ðức Thánh này vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho thân tâm chúng tôi thanh tịnh, tâm được sáng sạch, tâm được thuần thiện, tâm nhu nhuyến, tâm hoan hỷ, nhẫn đến làm cho chúng tôi được thân thanh tịnh, thập lực thanh tịnh, sanh vô lượng thân cho đến được Phật thân, Phật ngữ, Phật thanh, Phật tâm thành tựu đầy đủ nhất thiết chủng trí.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, chiếu đến cung điện tất cả các đồ trang nghiêm của chúng tôi, và các thể nữ, khiến cho chúng tôi chẳng thọ dục lạc, chẳng còn chấp trước vào khoái lạc dục niệm nữa, không còn truy cầu thứ dục lạc đó nữa, thân tâm đều rất thư thái nhu nhuyến. Cho nên chúng tôi lập tức cùng với đại chúng tụ lại, cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn. Lúc đó, vị Bà La Môn vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi tâm được thanh tịnh, tâm được sáng sạch, tâm được thuần thiện, khiến cho tâm được nhu nhuyến, khiến cho tâm sinh đại hoan hỉ, cho đến khiến cho tâm đắc được mười lực thanh tịnh, thân thanh tịnh, mà sinh vô lượng thân, cho đến khiến cho chúng tôi đắc được thân Phật, tức là quả vị Phật, và đắc được lời Phật, tiếng Phật, tâm Phật, mà thành tựu đầy đủ trí nhất thiết trí huệ”.

 

Phục hưũ thập thiên Đâu suất thiên Vương, Thiên Tử, Thiên nữ, vô lượng quyến thuộc, ư hư không trung, vũ chúng diệu hương, cung kính đảnh lễ, tác như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Ðâu Suất Thiên Vương, Thiên Tử, Thiên Nữ và quyến thuộc ở trên hư không rưới những diệu hương cung kính đảnh lễ, nói rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn vị Đâu Suất Thiên Vương (trời Tri Túc), Thiên tử, Thiên nữ và vô lượng các quyến thuộc, ở trong hư không, mưa xuống các hương thơm vi diệu, để cung kính đảnh lễ vị Bà La Môn đức Thánh đó. Sau đó nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, lệnh ngã đẳng chư Thiên cập kỳ quyến thuộc, ư tự cung điện vô hữu lạc trước, cọng nghệ kỳ sở. Văn kỳ thuyết Pháp, năng lệnh ngã đẳng bất tham cảnh giới, thiểu dục tri túc, tâm sanh hoan hỉ, tâm đắc sung mãn, sanh chư thiện căn, phát Bồ-đề tâm, nãi chí viên mãn nhất thiết Phật Pháp.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân làm cho chư Thiên chúng tôi và quyến thuộc không còn mến luyến cung điện của mình, đồng đến chỗ này nghe đức Thánh đây thuyết pháp. Có thể làm cho chúng tôi chẳng tham cảnh giới thiểu dục tri túc tâm sanh hoan hỷ, tâm được sung mãn phát sanh thiện căn, phát Bồ đề tâm nhẫn đến viên mãn tất cả Phật pháp.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, khiến cho chư Thiên chúng tôi và quyến thuộc, ở tại cung điện của mình, chẳng còn chấp trước sự vui thích. Cho nên chúng tôi đại chúng bèn cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy, để nghe vị Bà La Môn nầy thuyết pháp, khiến cho chúng tôi chẳng còn tham trước cảnh giới vui thích, dục niệm cũng giảm bớt, mà luôn luôn biết đủ an vui, tâm sinh hoan hỉ, tâm được sung mãn, sinh trưởng tất cả căn lành, phát tâm đại bồ đề, cho đến viên mãn tất cả Phật pháp”.

 

Phục hưũ thập thiên tam thập tam thiên tinh kỳ quyến thuộc, Thiên Tử, Thiên nữ, tiền hậu vi nhiễu, ư hư không trung, vũ Thiên mạn đà la hoa, cung kính cúng dường, tác như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Ðao Lợi chư Thiên và quyến thuộc Thiên Tử, Thiên Nữ ở trên hư không rải hoa thiên mạn đà la cung kính cúng dường, nói rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn vị Thiên chủ Tam Thập Tam Thiên (ở trên đỉnh núi Tu Di) cùng với quyến thuộc của họ, Thiên tử và Thiên nữ, vây quanh trước sau. Ở trong hư không, mưa xuống hoa mạn đà la để cung kính cúng dường vị Bà La Môn, sau đó nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, lệnh ngã đẳng chư Thiên ư Thiên âm nhạc bất sanh lạc trước, cọng nghệ kỳ sở. Thời, Bà-la-môn vi ngã đẳng thuyết nhất thiết chư pháp vô thường bại hoại, lệnh ngã xả ly nhất thiết dục lạc, lệnh ngã đoạn trừ kiêu mạn phóng dật, lệnh ngã ái lạc vô thượng Bồ-đề.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, làm cho chư Thiên chúng tôi chẳng mến luyến thiên âm nhạc, đồng đến chỗ này. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà nói những pháp vô thường hư tan, làm cho chúng tôi bỏ rời những dục lạc, dứt trừ kiêu mạng phóng dật, thích Vô thượng Bồ đề.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn đức Thánh nầy, dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, khiến cho chư Thiên chúng tôi, đối với âm nhạc trời, chẳng còn chấp trước sinh tâm ưa thích. Cho nên chúng tôi đều cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn vì chúng tôi nói tất cả các pháp, đều là vô thường, vô ngã, tán hoại. Khiến cho chúng tôi xả lìa tất cả dục lạc, khiến cho chúng tôi dứt trừ kiêu mạn phóng dật, khiến cho chúng tôi ưa thích vô thượng bồ đề.

 

Hựu, Thiện nam tử! ngã đương kiến thử Bà-la-môn thời, Tu-di sơn đảnh lục chủng chấn động, ngã đẳng khủng bố, giai phát Bồ-đề tâm kiên cố bất động.

Lại này thiện nam tử ! Lúc chúng tôi thấy đức Thánh đây, thời đảnh núi Tu Di chấn động sáu cách, chúng tôi kinh sợ, đồng phát tâm Bồ đề kiên cố chẳng động lay.

Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Khi chúng tôi thấy vị Bà La Môn nầy, thì đỉnh núi Tu Di có sáu thứ chấn động, khiến cho chúng tôi sinh tâm sợ hãi, biết tất cả đều là vô thường, cho nên đều phát tâm đại bồ đề, trụ nơi bậc kiên cố bất động”. Nếu bạn có thể chịu đựng nóng lạnh đói khác được, thì đó là tâm bồ đề kiên cố bất động. Tại sao hiện tại chúng ta ở trong sự lạnh rét, vẫn muốn nghe Kinh, nghe pháp? Đó là tâm bồ đề kiên cố bất động, chúng ta chẳng sợ đói, chẳng sợ lạnh, cũng chẳng sợ không có tiền! Đây là căn bản của người tu đạo.

 

Phục hưũ thập thiên long Vương, sở vị: y na bạt La long Vương, Nan-đà ưu-ba nan-đà long Vương đẳng, ư hư không trung, vũ hắc chiên đàn; vô lượng Long nữ tấu Thiên âm nhạc, vũ Thiên hương khí cập thiên hương thủy, cung kính cúng dường, tác như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Long Vương, như là Y Na Bạt La Long Vương, Nan Ðà Long Vương, Ưu Ba Nan Ðà Long Vương v.v… Ở trên hư không mưa hắc chiên đàn vô lượng, Long Nữ tấu thiên âm nhạc, rải thiên diệu hoa và thiên hương thủy cung kính cúng dường. Nói rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn Long Vương, đó là: Y Na Bạt La Long Vương. Nan Đà Ưu Ba Nan Đà Long Vương .v.v… Ở trong hư không, mưa xuống hắc chiên đàn, một loại hương thơm hiếm có. Có vô lượng Long nữ, diễn tấu âm nhạc trời, lại mưa xuống hoa trời vi diệu, và nước thơm trời, để cung kính cúng dường vị Bà La Môn nầy, sau đó nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, kỳ hỏa quang minh phổ chiếu nhất thiết chư long cung điện, lệnh chư long chúng ly nhiệt sa phố, kim-sí điểu phố, diệt trừ sân khuể, thân đắc thanh lương, tâm vô cấu trược, văn Pháp tín giải, yếm ố long thú, dĩ chí thành tâm hối trừ nghiệp chướng, nãi chí phát A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề ý trụ nhất thiết trí.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu khắp tất cả Long Cung, làm cho Long Chúng khỏi sợ cát nóng, khỏi sợ kim sí điểu, trừ sân hận, thân mát mẻ, tâm không nhơ, nghe pháp liền tin hiểu, nhàm rét loài rồng, chí thành sám hối nghiệp chướng, nhẫn đến phát tâm Vô thượng Bồ đề an trụ nơi Nhứt thiết trí.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa đó, chiếu khắp tất cả các cung điện rồng. Khiến cho tất cả các chúng rồng lìa khỏi sự sợ hãi cát nóng, khỏi bị nguy hiểm về cát nóng. Vì trong vảy rồng có vô số con trùng nhỏ, lúc nào cũng rúc rỉa ăn thân rồng, làm cho rồng rất đau đớn. Để giảm bớt sự thống khổ nầy, chúng đi đến bờ biển, dùng thân của mình chà lăn với các, nhưng cát lại dính trên vảy da rồng, khi mặt trời mọc lên thì những cát đó rất nóng, trực tiếp thiêu đốt thân rồng, càng làm cho rồng thống khổ hơn. Ánh sáng lửa đó lại khiến cho chúng rồng xa lìa sự sợ hãi về chim cánh vàng.

Khi chim cánh vàng nhìn thấy rồng trong biển, chịu sự thống khổ bị cát nóng thiêu đốt, án binh bất động, thì chim cánh vàng bèn bay xuống bắt rồng ăn. Nhưng khi ánh sáng lửa kim cang diệm nầy chiếu sáng đến cung rồng, thì rồng chẳng còn sợ hãi nữa. Vì rồng trong quá khứ khi tu hành, thì thừa cấp giới hoãn, chẳng giữ giới luật, cho nên đoạ làm loài rồng. Rồng còn có một thứ tâm sân hận, hiện tại được quang minh tam muội lửa kim cang diệm chiếu đến, bèn diệt trừ tâm sân hận, thân được mát mẻ, tâm không còn ô nhiễm dơ trược. Chúng lắng nghe Phật pháp, cũng sinh tâm tin hiểu. Đều rất nhàm chán cõi rồng, chẳng còn thích thân rồng nữa. Thậm chí dùng tâm chí thành khẩn thiết, để sám hối diệt trừ nghiệp chướng, cho đến phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trụ nơi nhất thiết trí huệ”.

 

Phục hưũ thập thiên dạ xoa Vương, ư hư không trung, dĩ chủng chủng cung cụ, cung kính cúng dường thử Bà-la-môn cập dĩ Thiện Tài, tác như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Dạ Xoa Vương ở trên hư không cung kính cúng dường Ba La Môn này và Thiện Tài đồng tử mà nói rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn Dạ Xoa Vương (tức tốc tật quỷ), ở trong hư không, dùng đủ thứ đồ cúng, để cung kính cúng dường Bà La Môn nầy và Thiện Tài đồng tử, sau đó nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, ngã cập quyến thuộc tất ư chúng sanh phát từ mẫn tâm, nhất thiết La-sát, Cưu bàn trà đẳng diệc sanh từ tâm; dĩ từ tâm cố, ư chư chúng sanh vô sở não hại nhi lai kiến ngã. Ngã cập bỉ đẳng, ư tự cung điện bất sanh lạc trước, tức dữ cọng câu, lai nghệ kỳ sở. Thời, Bà-la-môn tức vi ngã đẳng như ưng thuyết Pháp, nhất thiết giai đắc thân tâm an lạc, hựu lệnh vô lượng dạ xoa, La-sát, Cưu bàn trà đẳng phát ư vô thượng Bồ-đề chi tâm.

Này Thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, chúng tôi cùng quyến thuộc đều phát tâm từ mẫn đối với chúng sanh. Tất cả La Sát, Cưu Bàn Trà .vv… Cũng sanh lòng từ mẫn. Vì có tâm từ mẫn nên không não hại chúng sanh, đồng đến chỗ chúng tôi. Chúng tôi và đại chúng ấy không luyến mến cung điện của mình, đồng nhau đến chỗ này. Ðức Thánh đây liền theo sở nghi mà thuyết pháp làm cho chúng tôi thâm tâm đều được an lạc. Lại làm cho vô lượng Dạ Xoa, La Sát, Cưu Bà Trà.vv… Phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì chúng tôi và tất cả quyến thuộc vốn có tâm sân rất nặng, nhưng hiện tại đều phát tâm thương xót đối với tất cả chúng sinh. Tất cả La Sát (ác quỷ hại người), Cưu Bàn Trà, cũng đều sinh tâm từ. Vì do sinh ra tâm từ, nên họ đối với tất cả chúng sinh, cũng đều không có tâm não hại, cho nên đến gặp tôi. Tôi và họ ở nơi cung điện của mình, chẳng còn sinh tâm chấp trước ưa thích, lập tức liền cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn liền đối trị với căn cơ của chúng tôi mà nói pháp, khiến cho thân tâm chúng tôi đều được an lạc. Lại còn khiến cho vô lượng Dạ Xoa, La Sát và Cưu Bàn Trà, cũng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

 

Phục hưũ thập thiên càn thát bà vương, ư hư không trung, tác như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Càn Thát Bà Vương ở trên hư không mà nói rằng:

Lại có mười ngàn Càn Thát Bà Vương (nhạc thần), ở trong hư không, nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, kỳ hỏa quang minh chiếu ngã cung điện, tất lệnh ngã đẳng thọ bất tư nghị vô lượng khoái lạc, thị cố ngã đẳng lai nghệ kỳ sở. Thử Bà-la-môn vi ngã thuyết Pháp, năng lệnh ngã đẳng ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn đây dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu cung điện của chúng tôi, làm cho chúng tôi thọ bất tư nghì vô lượng khoái lạc. Vì thế chúng tôi đến chỗ này. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà thuyết pháp làm cho chúng tôi được chẳng thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, chiếu sáng đến cung điện chúng tôi, đều khiến cho chúng tôi thọ dụng vô lượng khoái lạc không thể nghĩ bàn. Cho nên chúng tôi cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho chúng tôi được bất thối chuyển nơi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

 

Phục hưũ thập thiên A-tu-la Vương, tùng đại hải xuất, trụ tại hư không, thư hữu tất luân, hợp chưởng tiền lễ, tác như thị ngôn:

Lại có mười ngàn A Tu La Vương ra khỏi đại hải ở giửa hư không duỗi đầu gối hữu chắp tay làm lễ mà nói rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn A Tu La Vương, từ trong biển hiện ra, trụ ở trong hư không, duỗi đầu gối phải, chắp tay làm lễ, sau đó nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, ngã A-tu-la sở hữu cung điện, đại hải, Đại địa, tất giai chấn động, lệnh ngã đẳng xả kiêu mạn phóng dật, thị cố ngã đẳng lai nghệ kỳ sở. Tùng kỳ văn Pháp, xả ly siểm cuống, an trụ nhẫn địa, kiên cố bất động, viên mãn thập lực.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân thời cung điện của chúng tôi và đại hải, đại địa đều chấn động, làm cho chúng tôi bỏ kiêu mạn phóng dật. Do đó chúng tôi đến chỗ này nghe pháp, rời bỏ siễm cuống, an trụ nhẫn địa kiên cố bất động, viên mãn thập lực.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì hết thảy cung điện của A Tu La chúng tôi, biển cả và đại địa, thảy đều chấn động, khiến cho chúng tôi xả bỏ tư tưởng cống cao ngã mạn phóng dật. Chúng tôi vốn rất kiêu mạn háo chiến, thường nghĩ tranh đệ nhứt. Nhưng từ khi quang minh oai nghiêm nầy quét trừ thái độ cống cao ngã mạn phóng dật cẩu thả của chúng tôi. Cho nên chúng tôi cùng nhau đi đến chỗ Bà La Môn nầy, theo Ngài lắng nghe Phật pháp, chúng tôi xả bỏ dối trá, cuồng vọng tự tại, nói dối, đủ thứ tập khí mao bệnh, mà an trụ nơi bậc nhẫn nhục, thân tâm kiến cố bất động, và viên mãn mười lực của Phật.

 

Phục hưũ thập thiên Ca Lâu La Vương, dũng lực trì Vương nhi vi thượng thủ, hóa tác ngoại đạo Đồng tử chi hình, ư hư không trung xướng như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Ca Lâu La Vương, Dũng Lực Trì Vương làm thượng thủ. Ðồng hóa làm thân ngoại đạo đồng tử ở trên không xướng rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn Ca Lâu La Vương (chim đại bàng cánh vàng), khi xoè cánh ra thì dài khoảng ba trăm ba mươi do tuần (đại do tuần là tám mươi dặm). Khi quạt cánh có thể làm nước biển khô cạn, hiện ra loài rồng sắp chết, bèn bay đến bắt rồng ăn. Những chim đại bàng nầy, có vị lãnh tụ là Mãnh Lực Trì Vương làm thượng thủ. Nó hoá ra làm thân hình ngoại đạo đồng tử. Ở trong hư không, xướng lên nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, kỳ hỏa quang minh chiếu ngã cung điện, nhất thiết chấn động giai tất khủng bố, thị cố ngã đẳng lai nghệ kỳ sở. Thời, Bà-la-môn tức vi ngã đẳng như ưng thuyết Pháp, lệnh tu tập đại từ, xưng tán đại bi, độ sanh tử hải, ư dục nê trung bạt tế chúng sanh, thán Bồ-đề tâm, khởi phương tiện trí, tùy kỳ sở nghi điều phục chúng sanh.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu cung điện chúng tôi, tất cả đều chấn động, thảy đều kinh sợ. Do đó chúng tôi đồng đến chỗ này. Ðức Thánh đây tùy nghi mà thuyết pháp cho chúng tôi, khiến chúng tôi tu tập đại từ, khen ngợi đại bi, qua khỏi biển sanh tử, ở trong sình lầy ái dục mà cứu vớt chúng sanh, khen Bồ đề tâm, khởi trí phương tiện, tùy sở nghi điều phục chúng sanh.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, chiếu sáng đến cung điện chúng tôi ở, khiến cho tất cả đều chấn động, thảy đều sợ hãi. Cho nên chúng tôi cùng với tất cả quyến thuộc cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn nầy liền đối trị căn tánh của chúng tôi mà thuyết pháp, khiến cho chúng tôi tu tập pháp môn đại từ, khen ngợi đại bi, mà qua được biển sinh tử. Khiến cho chúng tôi ở trong bùn dục lạc, cứu giúp chúng sinh, khiến cho chúng tôi khen ngợi bồ đề tâm, mà sinh khởi trí huệ phương tiện, để tuỳ sự thích nghi của họ, mà điều phục chúng sinh căn tánh cang cường”.

 

Phục hưũ thập thiên khẩn-na-la Vương, ư hư không trung, xướng như thị ngôn:

Lại có mười ngàn Khẩn Na La Vương ở trong hư không xướng rằng:

Giảng: Lại có mười ngàn Khẩn Na La Vương (nhạc thần của Đế Thích), ở trong hư không, xướng lên nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, ngã đẳng sở trụ cung điện chư Ta-la thụ, chư bảo linh võng, chư bảo tăng đái, chư âm lạc thọ, chư diệu bảo thụ cập chư lạc khí, tự nhiên nhi xuất Phật thanh, pháp thanh cập Bất-thoái-chuyển Bồ-tát tăng thanh, nguyện cầu vô thượng Bồ-đề chi thanh, vân: mỗ phương, mỗ quốc, hữu mỗ Bồ Tát, phát Bồ-đề tâm; mỗ phương, mỗ quốc, hữu mỗ Bồ Tát, tu hành khổ hạnh, nan xả năng xả, nãi chí thanh tịnh nhất thiết trí hạnh; mỗ phương, mỗ quốc, hữu mỗ Bồ Tát, vãng nghệ đạo tràng; nãi chí mỗ phương, mỗ quốc, hữu mỗ Như Lai, tác Phật sự dĩ, nhi Bát Niết Bàn.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, thời cung điện của chúng tôi ở, cùng những cây đa la, cây âm nhạc, cây diệu bửu, những lưới bửu linh, những giây lụa báu và những nhạc khí tự nhiên vang ra tiếng Phật, tiếng Pháp và tiếng bất thối chuyển Bồ Tát Tăng, tiếng nguyện cầu Vô thượng Bồ đề, nói rằng: phương đó, nước đó có Bồ Tát đó phát Bồ đề tâm. Phương đó, nước đó có Bồ Tát tu hành khổ hạnh, khó xả mà xả được, nhẫn đến thanh tịnh hạnh nhất thiết trí. Phương đó, nước đó có Bồ Tát đó qua đạo tràng. Nhẫn đến phương đó nước đó có đức Như Lai đó làm Phật sự xong liền nhập Niết bàn.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì cung điện của chúng tôi ở, tất cả cây đa la, tất cả lưới linh báu, tất cả dải lụa báu, tất cả cây âm nhạc, tất cả cây báu đẹp, cùng với tất cả nhạc khí, đều tự nhiên vang lên tiếng Phật, tiếng pháp, và tiếng Bồ Tát Tăng bất thối chuyển. Lại vang lên tiếng nguyện cầu vô thượng bồ đề, mà nói: “Ở tại phương nào, trong nước nào, có vị Bồ Tát nào, phát tâm bồ đề. Lại ở phương nào, trong nước nào, có vị Bồ Tát nào, tu hành khổ hạnh, khó xả mà xả được, cho đến thanh tịnh hạnh nhất thiết trí. Lại ở phương nào, trong nước nào, có vị Bồ Tát nào, đi đến đạo tràng, làm đại Phật sự, chuyển bánh xe diệu pháp. Cho đến tại phương nào, trong nước nào, có đức Như Lai nào, đã làm Phật sự rồi, mà vào Niết Bàn”.

 

Thiện nam tử! giả sử hữu nhân, dĩ Diêm-phù-đề nhất thiết thảo mộc mạt vi vi trần, thử vi trần số khả tri biên tế, ngã cung điện trung bảo Ta-la thụ nãi chí lạc khí sở thuyết Bồ Tát danh, Như Lai danh, sở phát đại nguyện, sở tu hành đẳng, vô hữu năng đắc tri kỳ biên tế.

Này thiện nam tử ! Giả sử có người đem tất cả cỏ cây ở Diêm Phù Ðề nghiền nát thành vi trần, có thể đếm biết được số vi trần này. Còn trong cung điện của chúng tôi, những cây đa la nhẫn đến nhạc khí nói Bồ Tát danh, Như Lai danh phát đại nguyện chỗ tu hành v.v…không ai biết được ngằn mé.

Giảng: Thiện nam tử! Giả sử có người, dùng tất cả cỏ cây trong cõi Diêm Phù Đề, nghiền nát thành bụi. Những hạt bụi đó, có thể biết được bờ mé của nó có bao nhiêu. Mà trong cung điện chúng tôi, từ cây bảo đa la, cho đến nhạc khí, danh diệu của Bồ Tát, danh hiệu của Như Lai, sự phát đại nguyện, và hạnh môn tu hành .v.v… như vừa nói ở trên, tất cả hết thảy đó, không cách chi có thể biết được bờ mé của nó.

 

Thiện nam tử! ngã đẳng dĩ văn Phật thanh, pháp thanh, Bồ-tát tăng thanh, sanh đại hoan hỉ, lai nghệ kỳ sở. Thời, Bà-la-môn tức vi ngã đẳng như ưng thuyết Pháp, lệnh ngã cập dư vô lượng chúng sanh ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề đắc Bất-thoái-chuyển.

Này thiện nam tử ! Vì chúng tôi được nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Bồ Tát Tăng nên rất hoan hỷ, cùng nhau đến chỗ này. Ðức Thánh này liền vì chúng tôi mà thuyết pháp. Làm cho chúng tôi và vô lượng chúng sanh được bất thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Giảng: Thiện nam tử! Chúng tôi nhờ nghe được tiếng Phật, tiếng pháp, tiếng Bồ Tát Tăng, mà sinh tâm đại hoan hỉ, cùng nhau đi đến chỗ vị Bà La Môn nầy. Lúc đó, vị Bà La Môn nầy bèn quán sát căn cơ của chúng tôi mà thuyết pháp, khiến cho chúng tôi và vô lượng chúng sinh khác, được bất thối chuyển nơi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

 

Phục hưũ vô lượng dục giới chư Thiên, ư hư không trung, dĩ diệu cung cụ, cung kính cúng dường, xướng như thị ngôn:

Lại có vô lượng chư Thiên Dục giới ở trên hư không dùng đồ cúng vi diệu cung kính cúng dường, xướng rằng.

Giảng: Lại có vô lượng chư Thiên dục giới, ở trong hư không, dùng đồ cúng vi diệu không thể nghĩ bàn, để cung kính cúng dường vị Bà La Môn nầy, sau đó xướng lên nói như vầy:

 

Thiện nam tử! thử Bà-la-môn ngũ nhiệt chích thân thời, kỳ hỏa quang minh chiếu A-tỳ đẳng nhất thiết địa ngục, chư sở thọ khổ tất lệnh hưu tức. Ngã đẳng kiến thử hỏa quang minh cố, tâm sanh tịnh tín; dĩ tín tâm cố, tòng bỉ mạng chung, sanh ư Thiên trung; vi tri ân cố, nhi lai kỳ sở, cung kính chiêm ngưỡng, vô hữu yếm túc. Thời, Bà-la-môn vi ngã thuyết Pháp, lệnh vô lượng chúng sanh phát Bồ-đề tâm.

Này thiện nam tử ! Lúc Bà La Môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu sáng tất cả địa ngục A Tỳ. Những kẻ chịu khổ đều làm cho thôi dứt. Chúng tôi thấy ánh sáng lửa này liền sanh lòng tịnh tín. Do lòng tin nên thân địa ngục chết được sanh lên cõi trời. Nhớ ơn, nên chúng tôi đến đây cung kính chiêm ngưỡng đức Thánh này lòng không nhàm đủ. Ðức Thánh đây vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho vô lượng chúng sanh phát Bồ đề tâm.

Giảng: “Thiện nam tử! Khi vị Bà La Môn nầy dùng năm thứ lửa đốt thân Ngài, thì ánh sáng lửa kim cang diệm đó, chiếu đến A Tỳ tất cả địa ngục. A Tỳ dịch là “Vô gián”, tức là thọ khổ không gián đoạn. Địa ngục Vô Gián đó, một người cũng đầy, nhiều người cũng đầy, chẳng có không gian. Ánh sáng lửa đó, khiến cho tất cả những chúng sinh thọ đủ thứ khổ, đều được ngừng nghỉ. Vì chúng tôi thấy được ánh sáng lửa đó, nên trong tâm sinh ra niềm tin thanh tịnh. Nhờ tín tâm mà từ địa ngục Vô Gián mạng chung, được sinh lên cõi trời dục giới. Chúng tôi vì biết Ngài là ân nhân của chúng tôi, nên chúng tôi cùng nhau đi đến chỗ Bà La Môn nầy, để cung kính chiêm ngưỡng Ngài, không khi nào nhàm đủ. Lúc đó, vị Bà La Môn nầy vì chúng tôi thuyết pháp, khiến cho vô lượng chúng sinh phát tâm bồ đề”.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử Văn như thị Pháp, tâm đại hoan hỉ, ư Bà-la-môn sở, phát khởi chân thật thiện tri thức tâm, đầu đính lễ kính, xướng như thị ngôn:

Lúc đó Thiện Tài đồng tử nghe pháp như vậy lòng rất hoan hỷ, xem Bà La Môn Thắng Nhiệt là bậc chân thiện tri thức, cúi đầu kính lễ, xướng rằng:

Giảng: Thiện Tài đồng tử vốn sinh tâm hoài nghi, cho rằng vị Bà La Môn nầy là đại ma vương trá hiện, muốn khiến cho Ngài lên núi đao nhảy vào đống lửa. Sau đó có rất nhiều thiên long bát bộ, chư Thiên Thánh chúng đến làm chứng cho Ngài, kêu Ngài đừng có nghĩ tưởng như thế. Lúc đó Thiện Tài đồng tử nghe những lời pháp như vậy, trong tâm sinh đại hoan hỉ. Ở chỗ Bà La Môn phát khởi tâm nhận thức chân thật thiện tri thức. Sau đó cúi đầu cung kính đảnh lễ vị Bà La Môn, mà nói như vầy:

 

Ngã ư đại thánh thiện tri thức sở sanh bất thiện tâm, duy nguyện Thánh Giả dung ngã hối quá! thời, Bà-la-môn tức vi Thiện Tài nhi thuyết tụng ngôn:

Con sanh lòng bất thiện đối với đức Thánh thiện tri thức, ngưỡng mong đức Thánh cho con sám hối. Thắng Nhiệt Bà La Môn vì Thiện Tài mà nói kệ rằng:

“Con ở chỗ đại Thánh thiện tri thức, sinh ra tâm bất thiện và hoài nghi, xin đức Thánh tha thứ cho con, cho con sám hối lỗi lầm của con”. Lúc đó, vị Bà La Môn liền vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:

 

Nhược hữu chư Bồ-tát                     Nếu có chư Bồ Tát
Thuận thiện tri thức giáo                 Thuận theo thiện tri thức
Nhất thiết vô nghi cụ                        Tất cả không nghi sợ
An trụ tâm bất động.                       An trụ tâm chẳng động

“Nếu có các Bồ Tát, tuỳ thuận lời dạy của thiện tri thức. Tất cả đều không có tâm hoài nghi sợ hãi, thì sẽ an trụ tâm mình, chẳng bị cảnh giới làm giao động.

 

Đương tri như thị nhân                    Nên biết người như vậy
Tất hoạch quảng đại lợi,                  Tất được lợi quảng đại
Tọa Bồ-đề thụ hạ                             Ngồi dưới cây Bồ đề
Thành ư vô thượng giác.                  Thành bậc Vô Thượng Giác.

Nên biết người đó, tương lai chắc chắn sẽ đắc được lợi ích lớn. Sẽ đi đến đạo tràng, ngồi dưới cội bồ đề, thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tức đăng đao sơn, tự đầu hỏa tụ; vị chí trung gian, tức đắc Bồ Tát thiện trụ tam muội; tài xúc hỏa diệm, hựu đắc Bồ Tát tịch tĩnh lạc thần thông tam muội.

Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền leo lên núi đao tự nhảy vào đống lửa. Khi rơi xuống giữa chừng. Thiện Tài liền chứng được Bồ Tát thiện trụ tam muội. Vừa chạm ngọn lửa, Thiện Tài lại chứng được Bồ Tát tịch tịnh lạc thần thông tam muội.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử liền lên núi đao, nhảy vào trong đống lửa, khi rơi xuống giữa chừng, thì lập tức đắc được tam muội Bồ Tát thiện trụ nơi Bồ Tát đạo, vì trên chẳng nương núi, dưới chẳng nương lửa, chánh xứ nơi không, liền hiển Bát Nhã, lìa khỏi hai bên, vì không chỗ trụ. Khi vừa chạm ngọn lửa, Ngài lại đắc được tam muội Bồ Tát tịch tĩnh khoái lạc thần thông. Chạm ngọn lửa là biểu thị Thiện Tài đồng tử thân chứng được thật thể Bát Nhã, tức cũng là tánh tịnh Niết Bàn, cho nên đắc được vui tịch tĩnh. Còn là đại dụng không bờ, tức là thần thông. Chạm, nghĩa là thân chứng, do đó có câu: “Thọ các xúc như trí chứng”.

 

Thiện Tài bạch ngôn: thậm kì! Thánh Giả! như thị đao sơn cập Đại hỏa tụ, ngã thân xúc thời an ổn khoái lạc?

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Núi đao và đống lửa này, thân con vừa chạm đến thời được an ổn khoái lạc?

Giảng: Sau đó, Thiện Tài đồng tử bạch với vị Bà La Môn rằng: “Thật là kỳ lạ! Đức Thánh! Núi đao và đống lửa lớn như vậy, tại sao khi thân thể của con khi xúc chạm, thì vẫn an ổn khoái lạc như vậy”?

 

Thời, Bà-la-môn cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! ngã duy đắc thử Bồ Tát vô tận luân giải thoát.

Thắng Nhiệt Bà La Môn nói: Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn Bồ Tát vô tận luân giải thoát.

Giảng: Lúc đó, vị Bà La Môn bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được pháp môn giải thoát Bồ Tát vô tận luân nầy. Vô tận luân có hai ý nghĩa:

1. Trí luân thôi hoặc, chiếu soi nguồn gốc, không cùng tận.

2. Phản thường trí dụng, dụng khắp pháp giới, không cùng tận, viên chuyển không ngừng, cho nên gọi là luân.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát Đại công đức diệm, năng thiêu nhất thiết chúng sanh kiến hoặc lệnh vô hữu dư, tất Bất-thoái-chuyển vô cùng tận tâm, vô giải đãi tâm, vô khiếp nhược tâm, phát như Kim Cương tạng Na-la-diên tâm, tật tu chư hạnh vô trì hoãn tâm, nguyện như phong luân phổ trì nhất thiết tinh tấn đại thệ giai vô thoái chuyển; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Còn như ngọn lửa đại công đức của chư đại Bồ Tát có thể đốt cháy kiến hoặc của tất cả chúng sanh không để thừa, tất được bất thối chuyển, tâm vô cùng tận, tâm không giải đãi, tâm không khiếp nhược, phát tâm kiên cố như kim cang tạng, tâm chóng tu các công hạnh không trì hưỡn, nguyện như phong luân trì khắp tất cả đại thệ tinh tấn đều không thối chuyển, ta thế nào biết hết được, nói hết được công đức hạnh đó.

Giảng: Như tất cả các đại Bồ Tát, dùng ngọn lửa đại công đức, đốt cháy sạch kiến hoặc của tất cả chúng sinh, khiến cho tà kiến dư tập của họ tiêu diệt hết, không còn dư thừa, khiến cho chúng sinh chắc chắn sẽ đắc được quả vị bất thối chuyển, đắc được tâm trí huệ không cùng tận. Thời thời khắc khắc cũng không sinh tâm không giải đãi, cũng không có tâm nhu nhược, mà phát tâm kiên cố như kim cang tạng. Mau chóng tu các hạnh không trì hoãn. Đại nguyện phát ra như phong luân, khắp giữ gìn tất cả tinh tấn đại thệ nguyện, đều không có tâm thối chuyển. Đủ thứ những hạnh công đức đó, mà ta làm sao biết được nói được? Ngươi hãy đi học hỏi vị thiện tri thức khác”!

 

Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu thành danh: sư tử phấn tấn; trung hữu đồng nữ, danh viết: Từ Hạnh. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một thành tên là Sư Tử Phấn Tấn, trong thành ấy có một đồng nữ tên là Từ Hạnh. Người đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?

Giảng: Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam nầy, có một thành thị tên là Sư tử phấn tấn. Trong thành đó, có một đồng nữ, tên là Từ Hạnh. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, từ thoái nhi khứ.

Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Thắng Nhiệt Bà La Môn, hữu nhiễu vô lượng vòng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị Bà La Môn, đi nhiễu quanh vị Bà la Môn vô lượng vòng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam, tìm vị thiện tri thức khác.

 

==============================

QUYỂN SÁU MƯƠI LĂM

— o0o —

10. TỪ HẠNH ĐỒNG NỮ – PHÓ THÁC THỨ MƯỜI – QUÁN ĐẢNH TRỤ

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ư thiện tri thức sở, khởi tối cực tôn trọng tâm, sanh quảng đại thanh tịnh giải, thường niệm Đại-Thừa, chuyên cầu Phật trí, nguyện kiến chư Phật, quán pháp cảnh giới, vô chướng ngại trí thường hiện tại tiền, quyết định liễu tri chư Pháp thật tế, thường trụ tế, nhất thiết tam thế chư sát-na tế, như hư không tế, vô nhị tế, nhất thiết pháp vô phân biệt tế, nhất thiết nghĩa Vô chướng ngại tế, nhất thiết kiếp vô thất hoại tế, nhất thiết Như Lai vô tế chi tế; ư nhất thiết Phật tâm vô phân biệt, phá chúng tưởng võng, ly chư chấp trước, bất thủ chư Phật chúng hội đạo tràng, diệc bất thủ Phật thanh tịnh quốc độ; tri chư chúng sanh giai vô hữu ngã, tri nhất thiết thanh tất giai như hưởng, tri nhất thiết sắc tất giai như ảnh.

 Thiện Tài đối với thiện tri thức sanh lòng rất tôn trọng. Sanh trí hiểu quảng đại thanh tịnh. Thường nhớ Ðại thừa chuyên cầu Phật trí. Nguyện thấy chư Phật, quán pháp cảnh giới. Trí vô ngại thường hiện tiền. Quyết định biết rõ thiệt tế của các pháp, thường trụ tế, tất cả tam thế những sát na tế, như hư không tế, vô nhị tế, tất cả pháp vô phân biệt tế, tất cả nghĩa vô chướng ngại tế, tất cả kiếp vô thất hoại tế, tất cả Như Lai vô tế chi tế. Với tất cả Phật tâm vô phân biệt. Phá những lưới tưởng. Lìa những chấp trước. Chẳng lấy chúng hội đạo tràng của chư Phật, cũng chẳng lấy cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Biết các chúng sanh đều không có ngã. Biết tất cả tiếng thảy đều như vang. Biết tất cả sắc thảy đều như bóng.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đối với thiện tri thức, sinh tâm rất tôn trọng. Lại sinh ra trí huệ hiểu biết rộng lớn thanh tịnh, cho nên Ngài thường nghĩ về pháp đại thừa, chuyên tâm nghiên cứu cầu trí huệ của Phật. Hy vọng thường thấy được tất cả chư Phật thường trụ trong mười phương, quán sát cảnh giới tất cả pháp giới. Trí huệ không chướng ngại, thường thường hiện ra ở trước Ngài. Ngài quyết định biết rõ bờ mé thật tánh của tất cả các pháp. Biết được bờ mé thường trụ không đổi. Thấu hiểu bờ mé các sát na tất cả ba đời – quá khứ, hiện tại, vị lai. Sát na là thời gian rất ngắn. Trí huệ của Ngài quán sát được thời gian vi tế.

Biết rõ bờ mé thời gian và bờ mé hư không, chẳng phải hai bờ mé khác nhau, mà trên thật tế cả hai đều là một thể. Lại biết rõ tất cả các pháp thật tướng, chẳng có bờ mé phân biệt, vì chúng sinh nơi lý chẳng rõ, mới sinh ra tâm phân biệt. Lại biết rõ tất cả nghĩa lý không có bờ mé chướng ngại. Lại biết rõ tất cả kiếp chẳng có bờ mé thành, trụ, hoại, không. Lại biết rõ tất cả Như Lai chẳng có bờ mé. Do đó có câu: “Phật Phật thông với nhau”, cho nên Ngài đối với tất cả chư Phật, tâm không phân biệt. Phá trừ tất cả lưới vọng tưởng. Vọng tưởng giống như tấm lưới lớn, trói chặt con người, chướng ngại hướng về bồ đề giác đạo.

Trong chân như thật tánh, chẳng có chút tưởng niệm nào, thậm chí cũng chẳng có vọng tưởng muốn khai ngộ. Ngài lìa khỏi mọi sự chấp trước, chẳng chấp lấy cảnh giới chúng hội đạo tràng của chư Phật, cũng chẳng thủ lấy cảnh giới cõi nước chư Phật thanh tịnh. Biết tất cả chúng sinh đều không có cái ta, biết tất cả âm thanh đều như tiếng vang, có tiếng mới có vang, chẳng có tự tánh thật thể. Trong Kinh Kim Cang có nói: ”

Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bọt bóng
Như sương cũng như điện
Hãy quán sát như vậy”.

Ngài lại biết sắc tướng của tất cả sự vật đều như hình bóng, chẳng có thật tánh.

 

Tiệm thứ Nam hành, chí sư tử phấn tấn thành, chu biến thôi cầu từ hạnh đồng nữ. Văn thử đồng nữ thị Sư-tử-tràng Vương nữ, ngũ bách đồng nữ dĩ vi thị tòng, trụ Tỳ Lô Giá Na tạng điện, ư long thắng chiên đàn túc kim tuyến võng thiên y tọa thượng nhi thuyết diệu pháp.

Thiện Tài đi lần về phương Nam đến thành Sư Tử Phấn Tấn tìm Từ Hạnh đồng nữ. Nghe nói đồng nữ là con gái của Vua Sư Tử Tràng, năm trăm đồng nữ hầu hạ, ở điện Tỳ Lô giá Na Tạng, ngồi trên tòa Long Thắng Chiên Ðàn Túc Kim Tiền Võng Thiên Y mà thuyết diệu pháp.

Giảng: Thiện Tài đồng tử từ từ đi về hướng nam, đến thành Sư Tử Phấn Tấn rồi, bèn đi khắp nơi tìm kiếm Từ Hạnh đồng nữ. Ngài nghe một số người tu hành nói, đồng nữ nầy là con gái của vua Sư Tử Tràng, có năm trăm đồng nữ hầu hạ. Hiện cô ta đang ở trong điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, ngồi trên toà Long Thắng Chiên Đàn Túc Kim Tuyền Võng Thiên Y, vì tất cả cung nữ của vua Sư Tử Trang mà diễn nói diệu pháp.

Thành Sư Tử Phấn Tấn là chỗ ở của vua Sư Tử Tràng, biểu thị ông ta có thể chấn động chiếu khắp, trụ trì thế giới, tự tại vô uý. Từ Hạnh đồng nữ, cô ta biết được căn tánh chúng sinh, điều phục họ, dùng từ làm hạnh, trong trí sinh huệ, có thể xử thế không nhiễm, cho nên gọi là đồng nữ, nhờ học được mười thứ trí huệ của Như Lai. Đây là Quán đảnh trụ thứ mười, vì do quán không, đắc được tâm vô sinh, là tối thượng thủ. Các dòng nước Phật pháp được quán trên đảnh của Ngài.

 

Thiện Tài văn dĩ, nghệ vương cung môn, cầu kiến bỉ nữ. Kiến vô lượng chúng lai nhập cung trung. Thiện Tài vấn ngôn: chư nhân kim giả hà sở vãng nghệ?

Thiện Tài đến cửa Vương cung, thấy vô lượng đại chúng đi vào cung bèn hỏi: Các Ngài hôm nay vào Vương cung có việc gì thế ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử nghe rồi, bèn đi đến cửa cung vua Sư Tử Tràng, để tìm kiếm Từ Hạnh đồng nữ đó. Ngài thấy vô lượng chúng sinh đều đi vào trong cung.

Thiện Tài bèn hỏi rằng: “Các vị hôm nay đi đâu vậy”?

 

Hàm báo chi ngôn: ngã đẳng dục nghệ từ hạnh đồng nữ thính thọ diệu pháp.

Ðại chúng đáp: Chúng tôi muốn đến nghe Từ Hạnh đồng nữ thuyết diệu pháp.

Giảng: Họ đều đáp rằng: “Chúng tôi đi vào cung vua chỗ Từ Hạnh đồng nữ, để lắng nghe Ngài diễn nói diệu pháp. Thiện Tài đồng tử bèn nghĩ như vầy: “Cửa cung vua nầy không có ai canh gát, ta cũng nên đi vào”.

 

Thiện tài đồng tử tức tác thị niệm: thử vương cung môn ký vô hạn ngại, ngã diệc ưng nhập. Thiện Tài nhập dĩ, kiến Tỳ Lô Giá Na tạng điện, pha lê vi địa, lưu ly vi trụ, Kim cương vi bích, diêm phù đàn kim dĩ vi viên tường, bách thiên quang minh nhi vi song dũ, a-tăng-kì ma-ni bảo nhi trang giáo chi, Bảo Tạng ma-ni kính châu táp trang nghiêm, dĩ thế gian tối thượng ma-ni bảo nhi vi trang sức, vô số bảo võng La phước kỳ thượng, bách thiên kim linh xuất diệu âm thanh, hữu như thị đẳng bất khả tư nghị chúng bảo nghiêm sức.

Nghe xong, Thiện Tài cũng đi vào Vương cung, thấy điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, đất bằng pha lê, cột bằng lưu ly, vách bằng kim cang, tường rào bằng vàng diêm phù đàn, trăm ngàn ánh sáng làm cửa nẻo, trang nghiêm với vô số báu, ma ni. Gương bửu tạng ma ni trang nghiêm giáp vòng. Dùng ma ni bửu tối thượng ở thế gian để trang sức. Vô số lưới báu giăng che phía trên. Trăm ngàn linh vàng vang tiếng vi diệu.

Giảng: Thiện Tài đồng tử đi vào cửa cung vua rồi, nhìn thấy cung điện Tỳ Lô Giá Na Tạng đất làm bằng pha lê, cột làm bằng lưu ly để nghiêm sức cung điện đó. Tường cung điện làm bằng kim cang, vách làm bằng vàng Diêm Phù Đàn. Dùng trăm ngàn ánh sáng các châu báu làm cửa nẻo. Lại có A tăng kỳ ma ni báu dùng để trang nghiêm cung điện đó. Lại dùng kính bảo tạng ma ni trang nghiêm khắp chung quanh tứ phía, ánh sáng với ánh sáng chiếu nhau, dùng để trang nghiêm. Dùng ma ni báu tốt nhất thế gian để trang nghiêm. Có vô số lưới báu, che phủ phía trên cung điện. Có trăm ngàn linh bằng vàng, đều vang ra âm thanh vi diệu. Có các thứ báu không thể nghĩ bàn nghiêm sức cung điện như thế. Cho nên pháp môn của Từ Hạnh đồng nữ cũng gọi là “Phổ trang nghiêm”.

 

Kỳ Từ Hạnh đồng nữ, bì phu kim sắc, nhãn cám tử sắc, phát cám thanh sắc, dĩ Phạm Âm thanh nhi diễn thuyết Pháp.

Từ Hạnh đồng nữ da màu huỳnh kim, mắt tím biếc, tóc xanh biếc, dùng phạm âm thanh để thuyết pháp.

Giảng: Da của Từ Hạnh đồng nữ màu sắc vàng, mắt màu tím biếc, tóc màu xanh biếc, dùng phạm âm thanh tịnh để diễn nói vi diệu pháp.

 

Thiện Tài kiến dĩ, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, hợp chưởng tiền trụ, tác như thị ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo? ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!

Thiện Tài đồng tử thấy xong, đảnh lễ chân Từ Hạnh đồng nữ hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh tu Bồ Tát đạo ? Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì con mà giảng giải.

Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy đủ thứ sự trang nghiêm như vậy rồi, bèn đảnh lễ Từ Hạnh đồng nữ, đi nhiễu quanh vô lượng vòng. Chắp tay lại mà nói như vầy: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà con vẫn còn chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu hành Bồ Tát đạo? Con nghe Thắng Nhiệt Bà La Môn giới thiệu đức Thánh Ngài khéo chỉ dạy chúng sinh, xin hãy vì con mà diễn nói diệu pháp.

 

Thời, Từ Hạnh đồng nữ cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! nhữ ưng quán ngã cung điện trang nghiêm.

Ðồng nữ bão Thiện Tài rằng: Này thiện nam tữ ! Người nên quát sát cung điện trang nghiêm của ta đây.

Giảng: Lúc đó, Từ Hạnh đồng nữ bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi hãy quán sát sự trang nghiêm trong cung điện của ta”.

 

Thiện Tài đảnh lễ, chu biến quan sát, kiến nhất nhất bích trung, nhất nhất trụ trung, nhất nhất kính trung, nhất nhất tướng trung, nhất nhất hình trung, nhất nhất ma-ni bảo trung, nhất nhất trang nghiêm cụ trung, nhất nhất kim linh trung, nhất nhất bảo thụ trung, nhất nhất bảo hình tượng trung, nhất nhất bảo anh lạc trung, tất kiến Pháp giới nhất thiết Như Lai, tùng sơ phát tâm, tu Bồ Tát hạnh, thành mãn đại nguyện, cụ túc công đức, thành đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, nãi chí thị hiện nhập ư Niết-Bàn; như thị ảnh tượng mị bất giai hiện, như tịnh thủy trung phổ kiến hư không nhật nguyệt tinh tú sở hữu chúng tượng, như thử giai thị từ hạnh đồng nữ quá khứ thế trung thiện căn chi lực.

Thiện Tài vâng lời đảnh lễ, quán sát khắp cung điện. Thấy trong mỗi vách, mỗi cột, mỗi gương, mỗi tướng, mỗi hình, mỗi ma ni bửu, mỗi đồ trang nghiêm, mỗi linh, mỗi cây báu, mỗi hình tượng báu, mỗi bửu anh lạc đều hiện pháp giới tất cả Như Lai từ sơ phát tâm tu hạnh Bồ Tát thành mãn đại nguyện, đầy đủ công đức, thành Ðẳng Chánh Giác, chuyển diệu Pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Niết bàn. Tất cả ảnh tượng như vậy đều hiện rõ cả. Như trong nước thanh tịnh đứng lặng, thấy khắp hư không nhựt nguyệt tinh tú. Ðây là do sức thiện căn trong đời quá khứ của Từ Hạnh đồng nữ.

Giảng: Thiện Tài đảnh lễ rồi, liền quán sát khắp cùng cung điện Tỳ Lô Giá Na Tạng. Thấy trong mỗi tường vách, trong mỗi cột trụ, trong mỗi tấm gương, trong mỗi tướng, trong mỗi hình, trong mỗi ma ni báu, trong mỗi đồ trang nghiêm, trong mỗi linh bằng vàng, trong mỗi cây báu, trong mỗi hình bóng báu, trong mỗi anh lạc báu, đều thấy hết thảy tất cả Như Lai pháp giới, thị hiện từ lúc ban đầu phát tâm bồ đề, tu Bồ Tát hạnh, thành tựu viên mãn đại thệ nguyện, đầy đủ tất cả công đức, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chuyển diệu pháp luân, cho đến thị hiện vào Niết Bàn. Đủ thứ những bổn sự của chư Phật như vậy, thảy đều hiện khắp trong đồ trang nghiêm. Như trong bồn nước trong, khắp hiện ra mặt trời mặt trăng tinh tú, hết thảy các hình tướng trong hư không. Do đó có câu:

“Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thuỷ
Nhất thiết thuỷ nguyệt nhất nguyệt nhiếp”.

Nghĩa là:
Mặt trăng hiện khắp nơi có nước
Tất cả bóng trăng dưới nước chỉ một mặt trăng”.

Đủ thứ cảnh giới trang nghiêm đó, đều do sức căn lành thành tựu trong đời quá khứ của Từ Hạnh đồng nữ.

 

Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ức niệm sở kiến chư Phật chi tướng, hợp chưởng chiêm ngưỡng Từ Hạnh đồng nữ.

Thiện Tài ghi nhớ những tướng chư Phật đã được thấy, đứng chắp tay chiêm ngưỡng đồng nữ.

Giảng: Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử nghĩ nhớ thấy hình tướng của chư Phật trong tất cả đồ trang nghiêm. Sau đó chắp tay chiêm ngưỡng Từ Hạnh đồng nữ, im lặng mong cầu Từ Hạnh đồng nữ vì Ngài khai thị đủ thứ những cảnh giới đó.

 

Nhĩ thời, đồng nữ cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! thử thị Bát-nhã Ba-la-mật phổ trang nghiêm môn, ngã ư tam thập lục Hằng hà sa Phật sở cầu đắc thử pháp. Bỉ chư Như Lai các dĩ dị môn, lệnh ngã nhập thử Bát-nhã Ba-la-mật phổ trang nghiêm môn; nhất Phật sở diễn, dư bất trọng thuyết.

Ðồng nữ bảo Thiện Tài rằng: Này thiện nam tử ! đây là môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm. Ta ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa chư Phật cầu được pháp này. Chư Phật Như Lai đều dùng môn khác nhau làm cho ta nhập môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này. Pháp của một đức Phật diễn nói, chư Phật khác chẳng nói lập lại.

Giảng: Lúc đó, Từ Hạnh đồng nữ bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Đó là môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm. Ta ở chỗ các đức Phật nhiều như số cát ba mươi sáu sông Hằng, cầu được pháp nầy. Chư Phật nhiều như số cát ba mươi sáu sông Hằng đó, đều dùng pháp môn khác, khiến cho ta chứng nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm. Pháp môn của mỗi vị Phật nói, thì các vị Phật khác không nói lại”.

Phổ trang nghiêm có hai ý nghĩa:

1. Do Bát Nhã chiếu tất cả pháp, trong y có chánh, trong một có nhiều. Vì nương sở đắc, tức không có gì mà chẳng hiện. Trong Kinh Bát Nhã có nói: “Rõ sắc là Bát Nhã, tất cả pháp hướng về sắc”.

2. Do chứng được Bát Nhã, đã đầy đủ trang nghiêm các độ. Cho nên sở chứng sở thành, cũng trang nghiêm vô tận.

Ba mươi sáu số cát sông Hằng, biểu thị bậc trụ viên mãn, tức trong sáu độ, mỗi một độ đều đầy đủ năm độ kia, nên sáu lần sáu là ba mươi sáu. Pháp môn của mỗi vị Phật đều khác nhau, đều có đặc tính khác nhau, nhưng pháp pháp vô ngại, một nghiêm tất cả nghiêm, nên tuỳ theo một pháp, đều quy về pháp giới.

 

Thiện Tài bạch ngôn: Thánh Giả! thử Bát-nhã Ba-la-mật phổ trang nghiêm môn cảnh giới vân hà?

Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này như thế nào ?

Giảng: Thiện Tài đồng tử hỏi Từ Hạnh đồng nữ rằng: “Đức Thánh! Cảnh giới môn Bát Nhã Ba La mật phổ trang nghiêm nầy như thế nào”?

 

Đồng nữ đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã nhập thử Bát-nhã Ba-la-mật phổ trang nghiêm môn, tùy thuận thú hướng, tư tánh quan sát, ức trì phân biệt thời đắc Phổ môn Đà-la-ni, bách vạn a-tăng-kì đà-la-ni môn giai tất hiện tiền.

Từ Hạnh nói: Này thiện nam tử ! Ta nhập môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm này, tùy thuận xu hướng tư duy quán sát ghi nhớ phân biệt liền được phổ môn đà la ni, trăm vạn vô số môn đà la ni đều hiện tiền.

Giảng: Từ Hạnh đồng nữ đáp rằng: “Thiện nam tử! Khi ta nhập vào môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm nầy, ta dùng sự nhậm vận tự tại, tuỳ thuận xu hướng, một lòng suy gẫm quán sát, chuyên tâm nhớ trì phân biệt pháp môn nầy, thì bèn đắc được Phổ môn Đà la ni (Vì dùng trí làm thể, do đó mà đắc được Bát Nhã phổ trang nghiêm, cho nên có thể tổng trì vạn pháp, một trì tất cả đều trì, cho nên gọi là Phổ môn), lại dùng viên dung thập trụ, cho nên đắc được vô lượng trăm vạn A tăng kỳ môn Đà la ni, thảy đều hiện tiền ở trước ta”.

 

Sở vị: Phật sát đà-la-ni môn, Phật đà-la-ni môn, pháp đà la ni môn, chúng sanh đà-la-ni môn, quá khứ đà-la-ni môn, vị lai đà-la-ni môn, hiện tại đà-la-ni môn, thường trụ tế Đà-la-ni môn,

Đó là: Môn Đà la ni cõi Phật. Môn đà la ni Phật. Môn Đà la ni pháp. Môn Đà la ni chúng sinh. Môn Đà la ni quá khứ. Môn Đà la ni vị lai. Môn Đà la ni hiện tại. Môn Đà la ni bờ mé thường trụ.

Đó là: Môn Đà la ni cõi Phật tuỳ ý đi đến. Môn đà la ni thấy khắp tất cả Phật. Môn Đà la ni minh bạch tất cả pháp. Môn Đà la ni hay nhiếp thọ tất cả chúng sinh. Môn Đà la ni biết được quá khứ. Môn Đà la ni biết được vị lai. Môn Đà la ni biết được hiện tại. Môn Đà la ni biết được bờ mé thường trụ. Tám thứ môn Đà la ni nầy là Đà la ni ý chánh lý sự.

 

Phước đức đà-la-ni môn, phước đức trợ đạo cụ đà-la-ni môn, trí tuệ đà-la-ni môn, trí tuệ trợ đạo cụ đà-la-ni môn, chư nguyện đà La ni môn, phân biệt chư nguyện đà-la-ni môn, tập chư hạnh Đà-la-ni môn, thanh tịnh hạnh đà-la-ni môn, viên mãn hạnh đà-la-ni môn

Môn Đà la ni phước đức. Môn Đà la ni phước đức trợ đạo cụ. Môn Đà la ni trí huệ. Môn Đà la ni trí huệ trợ đạo cụ. Môn Đà la ni các nguyện. Môn Đà la ni phân biệt các nguyện. Môn Đà la ni tập các hạnh. Môn Đà la ni thanh tịnh hạnh. Môn Đà la ni viên mãn hạnh.

Giảng: Lại có môn Đà la ni phước đức. Môn Đà la ni phước đức trợ đạo cụ. Môn Đà la ni trí huệ. Môn Đà la ni trí huệ trợ đạo cụ. Môn Đà la ni các nguyện. Môn Đà la ni phân biệt được các nguyện. Môn Đà la ni tụ tập các hạnh. Môn Đà la ni tu hạnh thanh tịnh. Môn Đà la ni viên mãn tu Bồ Tát hạnh. Chín thứ môn đà la ni nầy là thuộc về Đà la ni nguyện hạnh.

 

Nghiệp đà-la-ni môn, nghiệp bất thất hoại đà-la-ni môn, nghiệp lưu chú Đà-la ni môn, nghiệp sở tác đà-la-ni môn, xả ly ác nghiệp đà-la-ni môn, tu tập chánh nghiệp đà-la-ni môn, nghiệp tự tại đà-la-ni môn, thiện hạnh đà-la-ni môn, trì thiện hạnh đà-la-ni môn,

Môn Đà la ni nghiệp. Môn Đà la ni nghiệp chẳng mất hoại. Môn Đà la ni nghiệp lưu chảy. Môn Đà la ni nghiệp đã làm. Môn Đà la ni xả lìa ác nghiệp. Môn Đà la ni tu tập chánh nghiệp. Môn Đà la ni nghiệp tự tại. Môn Đà la ni nghiệp hạnh. Môn Đà la ni trì thiện hạnh.

Giảng: Lại có môn Đà la ni hay tiêu tất cả nghiệp chướng. Lại có môn Đà la ni nghiệp đã tạo ra chẳng mất hoại. Lại có môn Đà la ni tạo nghiệp nghiệp lưu chuyển. Lại có môn Đà la ni nghiệp đã làm. Lại có môn Đà la ni xả lìa tất cả ác nghiệp. Lại có môn Đà la ni tu tập tất cả chánh nghiệp. Lại có môn Đà la ni đắc được tất cả nghiệp tự tại. Lại có môn Đà la ni tu tất cả nghiệp hạnh. Lại có môn Đà la ni tu trì thiện hạnh. Chín thứ môn đà la ni nầy thuộc về Đà la ni nghiệp.

 

Tam muội đà-la-ni môn, tùy thuận tam muội đà-la-ni môn, quan sát tam muội đà-la-ni môn, tam muội cảnh giới đà-la-ni môn, tùng tam muội khởi đà-la-ni môn, thần thông đà-la-ni môn

Môn Đà la ni tam muội. Môn Đà la ni tuỳ thuận tam muội. Môn Đà la ni quán sát tam muội. Môn Đà la ni cảnh giới tam muội. Môn Đà la ni từ tam muội khởi. Môn Đà la ni thần thông.

Giảng: Lại có môn Đà la ni tam muội. Lại có môn Đà la ni tuỳ thuận tam muội. Lại có môn Đà la ni quán sát tam muội. Lại có môn Đà la ni cảnh giới tam muội. Lại có môn Đà la ni từ tam muội khởi. Lại có môn Đà la ni tất cả thần thông. Sáu thứ môn Đà la ni nầy thuộc về Đà la ni chánh thọ thể dụng.

 

Tâm hải đà-la-ni môn, chủng chủng tâm đà-la-ni môn, trực tâm đà-la-ni môn, chiếu tâm trù lâm đà-la-ni môn, điều tâm thanh tịnh đà-la-ni môn

Môn Đà la ni biển tâm. Môn Đà la ni đủ thứ tâm. Môn Đà la ni tâm ngay thẳng. Môn Đà la ni chiếu tâm rừng rậm. Môn Đà la ni điều tâm thanh tịnh.

Giảng: Lại biết môn Đà la ni tâm như biển, hay trì tất cả cảnh giới. Lại biết môn Đà la ni chúng sinh đủ thứ tâm. Lại biết môn Đà la ni tâm ngay thẳng là đạo tràng, chẳng có chút xiểm nịnh nào. Lại biết môn Đà la ni tự dùng trí huệ Bát Nhã, chiếu rõ tâm phiền não rừng rậm của tất cả chúng sinh. Lại biết môn Đà la ni điều phục tâm, khiến cho thanh tịnh. Năm thứ môn Đà la ni nầy là Đà la ni các tâm tịnh nhiễm.

 

Tri chúng sanh sở tùng sanh đà-la-ni môn, tri chúng sanh phiền não hạnh đà-la-ni môn, tri phiền não tập khí đà-la-ni môn, tri phiền não phương tiện đà-la-ni môn, tri chúng sanh giải đà-la-ni môn, tri chúng sanh hạnh đà-la-ni môn, tri chúng sanh hạnh bất đồng Đà-la-ni môn, tri chúng sanh tánh đà-la-ni môn, tri chúng sanh dục đà-la-ni môn, tri chúng sanh tưởng đà-la-ni môn

Môn Đà la ni biết chúng sinh từ đâu sinh. Môn Đà la ni biết chúng sinh phiền não hành. Môn Đà la ni biết phiền não tập khí. Môn Đà la ni biết phiền não phương tiện. Môn Đà la ni biết kiến giải của chúng sinh. Môn Đà la ni biết hạnh chúng sinh. Môn Đà la ni biết hạnh chúng sinh khác nhau. Môn Đà la ni biết tánh chúng sinh. Môn Đà la ni biết dục của chúng sinh. Môn Đà la ni biết tưởng của chúng sinh.

Giảng: Môn Đà la ni biết chúng sinh do nhân duyên gì mà sinh. Môn Đà la ni biết mỗi chúng sinh do hành vi gì, mà bị phiền não ràng buộc. Môn Đà la ni biết phiền não của chúng sinh, đều do tập khí xấu đời trước tích tụ mà thành. Môn Đà la ni biết dùng phiền não phương tiện thiện xảo, để hoá độ chúng sinh, khiến cho họ biết rõ “Phiền não tức bồ đề”. Môn Đà la ni biết kiến giải của chúng sinh. Môn Đà la ni biết hạnh của chúng sinh. Môn Đà la ni biết đủ thứ hạnh của chúng sinh khác nhau. Môn Đà la ni biết căn tánh chúng sinh khác nhau. Môn Đà la ni biết dục niệm của chúng sinh khác nhau. Môn Đà la ni biết vọng tưởng của chúng sinh khác nhau. Mười thứ Đà la ni nầy, là Đà la ni hiểu biết về sự giáo hoá chúng sinh.

 

Phổ kiến thập phương đà-la-ni môn, thuyết pháp đà la ni môn, đại bi đà-la-ni môn, đại từ đà-la-ni môn, tịch tĩnh đà-la-ni môn, ngôn ngữ đạo đà-la-ni môn, phương tiện phi phương tiện đà-la-ni môn, tùy thuận đà-la-ni môn, sái biệt đà-la-ni môn, phổ nhập đà-la-ni môn, vô ngại tế đà-la-ni môn, phổ biến Đà-la ni môn, Phật pháp đà la ni môn, Bồ Tát pháp đà la ni môn, thanh văn pháp đà la ni môn, độc giác pháp đà la ni môn, thế gian pháp đà La ni môn

Môn Đà la ni thấy khắp mười phương. Môn Đà la ni thuyết pháp. Môn Đà la ni đại bi. Môn Đà la ni đại từ. Môn Đà la ni tịch tĩnh. Môn Đà la ni đường lời nói. Môn Đà la ni phương tiện chẳng phải phương tiện. Môn Đà la ni tuỳ thuận. Môn Đà la ni khác biệt. Môn Đà la ni vào khắp. Môn Đà la ni vô ngại. Môn Đà la ni khắp cùng. Môn Đà la ni Phật pháp. Môn Đà la ni pháp Bồ Tát. Môn Đà la ni pháp Thanh Văn. Môn Đà la ni pháp Độc Giác. Môn Đà la ni pháp thế gian.

Giảng: Lại có môn Đà la ni thấy khắp đạo tràng chúng hội của chư Phật mười phương. Lại có môn Đà la ni thuyết pháp chẳng có chướng ngại. Lại có môn Đà  ni đại bi ban vui cho chúng sinh. Lại có môn Đà la ni đại từ cứu khổ chúng sinh. Lại có môn Đà la ni biết tự tánh vốn tịch tĩnh vắng lặng. Do đó có câu:

“Không thấy có chút pháp sanh,
Không thấy có chút pháp diệt”.

Lại biết môn Đà la ni đường lời nói của chúng sinh khác nhau. Lại biết môn Đà la ni lúc nào dùng phương tiện để giáo hoá chúng sinh, lúc nào chẳng dùng pháp phương tiện. Lại biết môn Đà la ni tuỳ thuận chúng sinh. Lại biết môn Đà la ni khác biệt. Môn Đà la ni vào khắp cõi chúng sinh. Môn Đà la ni bờ mé lý thể vô ngại. Lại biết môn Đà la ni khắp cùng mười phương. Lại có môn Đà la ni Phật pháp. Lại có môn Đà la ni pháp Bồ Tát. Lại có môn Đà la ni pháp Thanh Văn tu tập pháp bốn đế: khổ, tập, diệt, đạo. Lại có môn Đà la ni pháp Độc Giác quán mười hai nhân duyên. Lại có môn Đà la ni pháp thế gian. Mười bảy thứ môn Đà la ni nầy, thuộc về Đà la ni tri thức giáo hoá chúng sinh.

 

Thế giới thành đà-la-ni môn, thế giới hoại đà-la-ni môn, thế giới trụ đà-la-ni môn, tịnh thế giới đà-la-ni môn, cấu thế giới đà-la-ni môn, ư cấu thế giới hiện tịnh đà-la-ni môn, ư tịnh thế giới hiện cấu đà-la-ni môn, thuần cấu thế giới đà-la-ni môn, thuần tịnh thế giới đà-la-ni môn, bình thản thế giới đà-la-ni môn, bất bình thản thế giới đà-la-ni môn, phước thế giới đà-la-ni môn, nhân đà la võng thế giới đà-la-ni môn, thế giới chuyển đà-la-ni môn, tri y tưởng trụ đà-la-ni môn, tế nhập thô đà-la-ni môn, thô nhập tế Đà-la-ni môn,

Môn Đà la ni thế giới thành. Môn Đà la ni thế giới hoại. Môn Đà la ni thế giới trụ. Môn Đà la ni thế giới tịnh. Môn Đà la ni thế giới cấu. Môn Đà la ni nơi thế giới cấu hiện tịnh. Môn Đà la ni nơi thế giới tịnh hiện cấu. Môn Đà la ni thế giới thuần cấu. Môn Đà la ni thế giới thuần tịnh. Môn Đà la ni thế giới bằng phẳng. Môn Đà la ni thế giới chẳng bằng phẳng. Môn Đà la ni thế giới úp. Môn Đà la ni thế giới lưới Nhân đà la. Môn Đà la ni thế giới chuyển. Môn Đà la ni biết nương tưởng trụ. Môn Đà la ni tế vào thô. Môn Đà la ni thô vào tế.

Giảng: Lại có môn Đà la ni thế giới thành tựu. Lại biết môn Đà la ni thế giới huỷ hoại. Lại biết môn Đà la ni thế giới trụ. Lại biết môn Đà la ni thế giới tịnh trang nghiêm, đó đều là do nguyện lực của chư Phật Bồ Tát thành tựu. Lại biết môn Đà la ni thế giới cấu nhiễm ô, đó đều là do nghiệp chướng của chúng sinh tụ tập mà thành. Lại có môn Đà la ni trong thế giới cấu nhiễm, hiện ra thanh tịnh. Lại có môn Đà la ni trong thế giới thanh tịnh, hiện ra cấu nhiễm, đó là cảnh giới viên dung vô ngại. Trên thực tế, tất cả pháp đều là: “Chẳng dơ, chẳng sạch, chẳng tăng, chẳng giảm”, hơn nữa Bồ Tát có thể thích ứng với cơ nghi, mà hiện ra thanh tịnh và nghiễm ô, để giáo hoá tất cả chúng sinh. Lại có môn Đà la ni thế giới thuần cấu. Lại có môn Đà la ni thế giới thuần tịnh. Lại có môn Đà la ni thế giới bằng phẳng, không có lồi lõm. Lại có môn Đà la ni thế giới chẳng bằng phẳng. Lại có môn Đà la ni thế giới úp. Lại có môn Đà la ni thế giới lưới Nhân đà la. Lại có môn Đà la ni thế giới y chiếu quỹ đạo nhất định mà chuyển động không ngừng, trải qua thời kỳ thành trụ hoại không. Lại có môn Đà la ni biết tất cả chúng sinh đều nương tưởng mà trụ. Lại có môn Đà la ni tế vào thô. Lại có môn Đà la ni thô vào tế. Mười bảy thứ môn Đà la ni nầy, là Đà la ni biết biển cõi tự tại.

 

Kiến chư Phật đà-la-ni môn, phân biệt Phật thân đà-la-ni môn, Phật quang minh trang nghiêm võng đà-la-ni môn, Phật viên mãn âm đà-la-ni môn, Phật Pháp luân đà-la-ni môn, thành tựu Phật Pháp luân đà-la-ni môn, sái biệt Phật Pháp luân đà-la-ni môn, vô sái biệt Phật Pháp luân Đà-la-ni môn, giải thích Phật Pháp luân đà-la-ni môn, chuyển Phật Pháp luân Đà-la-ni môn, năng tác Phật sự đà-la-ni môn, phân biệt Phật chúng hội Đà-la-ni môn, nhập Phật chúng hội hải đà-la-ni môn, phổ chiếu Phật lực Đà-la-ni môn, chư Phật tam muội đà-la-ni môn, chư Phật tam muội tự tại dụng đà La ni môn, chư Phật sở trụ đà-la-ni môn, chư Phật sở trì Đà-la ni môn, chư Phật biến hóa đà-la-ni môn, Phật tri chúng sanh tâm hành đà La ni môn, chư Phật thần thông biến hiện đà-la-ni môn, trụ Đâu suất thiên cung nãi chí thị hiện nhập vu Niết-Bàn đà-la-ni môn, lợi ích vô lượng chúng sanh đà-la-ni môn, nhập thậm thâm pháp đà la ni môn, nhập vi diệu pháp đà la ni môn

Môn Đà la ni thấy chư Phật. Môn Đà la ni phân biệt thân Phật. Môn Đà la ni lưới quang minh Phật trang nghiêm. Môn Đà la ni âm viên mãn của Phật. Môn Đà la ni Phật pháp luân. Môn Đà la ni thành tựu Phật pháp luân. Môn Đà la ni sai biệt Phật pháp luân. Môn Đà la ni vô sai biệt Phật pháp luân. Môn Đà la ni giải thích Phật pháp luân. Môn Đà la ni chuyển Phật pháp luân. Môn Đà la ni hay làm Phật sự. Môn Đà la ni phân biệt Phật chúng hội. Môn Đà la ni vào biển Phật chúng hội. Môn Đà la ni chiếu khắp Phật lực. Môn Đà la ni chư Phật tam muội. Môn Đà la ni chư Phật tam muội tự tại dụng. Môn Đà la ni chư Phật sở trụ. Môn Đà la ni chư Phật sở trì. Môn Đà la ni chư Phật biến hoá. Môn Đà la ni Phật biết tâm hạnh chúng sinh. Môn Đà la ni chư Phật thần thông biến hiện. Môn Đà la ni trụ cung trời Đâu Suất cho đến hiện vào Niết Bàn. Môn Đà la ni lợi ích vô lượng chúng sinh. Môn Đà la ni vào pháp thâm sâu. Môn Đà la ni vào vi diệu pháp.

Giảng: Lại có môn Đà la ni thấy được chư Phật. Lại có môn Đà la ni phân biệt được thân Phật. Lại có môn Đà la ni lưới quang minh của Phật chiếu khắp trang nghiêm. Lại có môn Đà la ni âm viên mãn của Phật. Lại có môn Đà la ni Phật pháp luân. Lại có môn Đà la ni thành tựu Phật pháp luân. Lại có môn Đà la ni sai biệt Phật pháp luân. Lại có môn Đà la ni vô sai biệt Phật pháp luân. Tất cả pháp luân của chư Phật là tương đồng không phân biệt, chỉ là tuỳ thuận tâm chúng sinh mà thị hiện có khác nhau. Lại có môn Đà la ni giải thích Phật pháp luân. Lại có môn Đà la ni chuyển Phật pháp luân. Lại có môn Đà la ni hay làm Phật sự. Trong Kinh Pháp Hoa có nói: “Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời”. Phật vì muốn khiến cho chúng sinh khai tri kiến Phật, ngộ nhập tri kiến Phật mà xuất hiện ra đời. Lại có môn Đà la ni phân biệt được Phật chúng hội. Lại có môn Đà la ni vào biển Phật chúng hội. Lại có môn Đà la ni chiếu khắp mười lực của Phật. Lại có môn Đà la ni chư Phật tam muội. Lại đắc được môn Đà la ni chư Phật tam muội tự tại dụng. Lại biết được môn Đà la ni chư Phật sở trụ. Lại biết được môn Đà la ni chư Phật sở thọ trì. Lại biết môn Đà la ni chư Phật biến hoá. Lại có môn Đà la ni Phật biết tâm hạnh chúng sinh. Lại biết môn Đà la ni chư Phật thần thông biến hoá hiện ra ở trước. Lại có môn Đà la ni trụ ở cung trời Đâu Suất, cho đến hiện vào Niết Bàn, ở giữa trải qua:

1. Đâu Suất hàng sinh.
2. Nhập thai.
3. Xuất thai.
4. Xuất gia.
5. Thành đạo.
6. Hàng ma.
7. Chuyển pháp luân.

8. Vào Niết Bàn. Lại có môn Đà la ni lợi ích vô lượng chúng sinh. Lại có môn Đà la ni vào pháp thâm sâu. Lại có môn Đà la ni vào vi diệu pháp. Hai mươi lăm thứ môn Đà la ni nầy, là Đà la ni biết được biển tự tại của Phật.

 

Bồ-đề tâm đà-la-ni môn, khởi Bồ-đề tâm đà La ni môn, trợ Bồ-đề tâm đà-la-ni môn, chư nguyện đà-la-ni môn, chư hạnh đà-la-ni môn, thần thông đà-la-ni môn, xuất ly Đà-la-ni môn, tổng trì thanh tịnh đà-la-ni môn, trí luân thanh tịnh đà-la-ni môn, trí tuệ thanh tịnh đà-la-ni môn, Bồ-đề vô lượng đà-la-ni môn, tự tâm thanh tịnh đà-la-ni môn.

Môn Đà la ni bồ đề tâm. Môn Đà la ni khởi bồ đề tâm. Môn Đà la ni trợ bồ đề tâm. Môn Đà la ni các nguyện. Môn Đà la ni các hạnh. Môn Đà la ni thần thông. Môn Đà la ni xuất ly. Môn Đà la ni tổng trì thanh tịnh. Môn Đà la ni trí luân thanh tịnh. Môn Đà la ni trí huệ thanh tịnh. Môn Đà la ni bồ đề vô lượng. Môn Đà la ni tự tâm thanh tịnh.

Giảng: Lại có môn Đà la ni bồ đề tâm. Lại có môn Đà la ni sinh khởi bồ đề tâm. Lại có môn Đà la ni trợ bồ đề tâm. Lại có môn Đà la ni tất cả các nguyện. Lại có môn Đà la ni tất cả các hạnh. Lại có môn Đà la ni thần thông. Lại có môn Đà la ni xuất ly ba cõi (cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc). Lại có môn Đà la ni tổng trì thanh tịnh. Lại có môn Đà la ni trí luân thanh tịnh. Lại có môn Đà la ni trí huệ thanh tịnh. Lại có môn Đà la ni bồ đề vô lượng vô biên, không thể dùng lời ví dụ, cũng không thể dùng tâm suy lường. Lại có môn Đà la ni tự tâm thanh tịnh. Mười hai thứ môn Đà la ni nầy, là Đà la ni minh bạch nhân quả bồ đề. Tự tâm thanh tịnh, tức cũng là tánh tịnh bồ đề.

Từ Hạnh đồng nữ chỉ nói sơ lược một trăm mười tám thứ môn Đà la ni. Nếu nói tỉ mỉ thí có vô lượng A tăng kỳ môn Đà la ni, thậm chí có thể đầy khắp hư không pháp giới.

 

Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bát-nhã Ba-la-mật phổ trang nghiêm môn.

Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn Bát Nhã Ba la mật phổ trang nghiêm.

Giảng: Từ Hạnh đồng nữ tiếp tục nói: “Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bát Nhã Ba La Mật phổ trang nghiêm nầy.

 

Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, kỳ tâm quảng đại, đẳng hư không giới, nhập ư Pháp giới, phước đức thành mãn, trụ xuất thế Pháp, viễn thế gian hạnh, trí nhãn vô ế, phổ quán Pháp giới, tuệ tâm quảng đại do như hư không, nhất thiết cảnh giới tất giai minh kiến, hoạch vô ngại địa đại quang minh tạng, thiện năng phân biệt nhất thiết pháp nghĩa, hành ư thế hạnh bất nhiễm thế Pháp, năng ích ư thế phi thế sở hoại, phổ tác nhất thiết thế gian y chỉ, phổ tri nhất thiết chúng sanh tâm hành, tùy kỳ sở ưng nhi vi thuyết Pháp, ư nhất thiết thời hằng đắc tự tại

Còn như chư đại Bồ Tát tâm lượng quảng đại khắp cõi hư không nhập vào pháp giới phước đức thành mãn, an trụ pháp xuất thế, xa hạnh thế gian, trí nhãn thanh tịnh xem khắp pháp giới. Huệ tâm quảng đại như hư không. Thảy đều thấy rõ tất cả cảnh giới. Ðược bực vô ngại tạng đại quang minh. Khéo hay phân biệt tất cả pháp nghĩa. Làm công hạnh thế gian mà chẳng nhiễm thế pháp. Hay lợi ích thế gian chẳng bị thế gian làm hoại. Khắp làm y chỉ cho tất cả thế gian. Biết khắp tâm hành của tất cả thế gian, tùy sở nghi mà vì họ thuyết pháp. Trong tất cả thời gian hằng được tự tại.

Giảng: Như tất cả các đại Bồ Tát tâm của các Ngài rộng lớn vô biên, lượng đồng cõi hư không pháp giới. Các Ngài hay vào nơi pháp giới, với pháp giới mà làm một, pháp thân đầy khắp mười phương. Phước đức của các Ngài đã thành tựu viên mãn, trụ trong pháp xuất thế, xa lìa tất cả khổ hạnh thế gian. Mắt trí huệ của các Ngài thanh tịnh, chiếu rõ các pháp thật tướng, trừ diệt vô minh ngu si của phàm phu. Các Ngài quán sát khắp pháp giới, trí huệ tâm rộng lớn như hư không. Tất cả cảnh giới, thảy đều minh bạch thấy rõ. Đắc được bậc đại trí huệ quang minh tạng vô ngại, khéo phân biệt được nghĩa lý tất cả các pháp. Tuy thực hành hạnh thế gian, mà chẳng nhiễm pháp thế gian, đối với tất cả thế gian, đã nhìn thấu buông bỏ, chẳng còn mọi sự chấp trước. Các Ngài hay lợi ích tất cả chúng sinh thế gian, hành Bồ Tát đạo, mà chẳng bị thế gian phá hoại hoặc làm ô nhiễm. Các Ngài khắp làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh thế gian, biết khắp tâm hạnh của tất cả chúng sinh, tuỳ sở ứng cầu mà vì họ nói pháp. Do đó có câu: “Quán cơ đầu giáo, vì người thuyết pháp”.

 

Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?

Như thế thời ta làm sao biết được nói được hết công đức hạnh đó.

Giảng: Các Ngài đối với tất cả mọi thời, luôn luôn được tự tại, mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó?

 

Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất quốc độ, danh vi: tam nhãn; bỉ hữu Tỳ-kheo, danh viết: thiện kiến. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một nước tên là Tam Nhãn. Xứ đó có Tỳ Kheo tên là Thiện Kiến. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?

Giảng: “Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một cõi nước, tên là Tam Nhãn. Ở đó có một vị Tỳ Kheo, tên là Thiện Kiến. Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”.

 

Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, luyến mộ chiêm ngưỡng, từ thoái nhi hành.

Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân của Từ Hạnh đồng nữ, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.

Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Từ Hạnh đồng nữ, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng Từ Hạnh đồng nữ, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam, tìm vị thiện tri thức khác.