Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
giảng giải
Phẩm Thứ 39
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Vào Pháp Giới
Phần 5
— o0o —
PHÓ THÁC THẬP HẠNH
11. THIỆN KIẾN TỲ KHEO – PHÓ THÁC THỨ 11 – HOAN HỈ HẠNH
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử tư tánh Bồ Tát sở trụ hạnh thậm thâm, tư tánh Bồ Tát sở chứng pháp thậm thâm, tư tánh Bồ Tát sở nhập xứ thậm thâm, tư tánh chúng sanh vi tế trí thậm thâm, tư tánh thế gian y tưởng trụ thậm thâm, tư tánh chúng sanh sở tác hành thậm thâm, tư tánh chúng sanh tâm lưu chú thậm thâm, tư tánh chúng sanh như quang ảnh thậm thâm, tư tánh chúng sanh danh hiệu thậm thâm, tư tánh chúng sanh ngôn thuyết thậm thâm, tư tánh trang nghiêm Pháp giới thậm thâm, tư tánh chủng thực nghiệp hạnh thậm thâm, tư tánh nghiệp trang sức thế gian thậm thâm.
Bấy giờ Thiện Tài suy gẫm hạnh của Bồ Tát an trụ rất sâu, pháp của Bồ Tát chứng rất sâu, chỗ của Bồ Tát nhập rất sâu, suy gẫm chúng sanh vi tế trí rất sâu, thế gian nương nơi tưởng mà trụ rất sâu, hạnh của chúng sanh làm rất sâu, tâm lưu chú của chúng sanh rất sâu, chúng sanh như quang ảnh rất sâu, chúng sanh danh hiệu rất sâu, chúng sanh ngôn thuyết rất sâu. Suy gẫm trang nghiêm pháp giới rất sâu, gieo trồng nghiệp hạnh rất sâu, nghiệp trang sức thế gian rất sâu.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử suy gẫm nghĩ về Bồ Tát trụ hạnh rất thâm sâu. Suy gẫm Bồ Tát chứng đắc pháp rất thâm sâu. Suy gẫm Bồ Tát chứng nhập bậc rất thâm sâu. Suy gẫm chúng sinh vi tế trí huệ rất thâm sâu. Suy gẫm chúng sinh thế gian nương vọng tưởng mà trụ rất thâm sâu. Suy gẫm hành vi việc làm của chúng sinh rất thâm sâu. Suy gẫm tâm chúng sinh lưu chảy rất thâm sâu. Suy gẫm chúng sinh như quang ảnh, hoặc trong, hoặc ngoài, chẳng có thật thể, rất thâm sâu. Suy gẫm chúng sinh có đủ thứ danh hiệu khác nhau rất thâm sâu. Suy gẫm lời nói chúng sinh rất thâm sâu. Suy gẫm trang nghiêm pháp giới rất thâm sâu. Suy gẫm chúng sinh trồng nhân lành kết quả lành, trồng nhân ác kết quả ác, đủ thứ nghiệp hạnh rất thâm sâu. Suy gẫm tất cả nghiệp báo đều tự trang sức thế gian nhiễm tịnh, quả báo không mất rất thâm sâu.
Tiệm thứ du hành, chí tam nhãn quốc, ư thành ấp tụ lạc, thôn lân thị tứ, xuyên nguyên sơn cốc, nhất thiết chư xứ, chu biến cầu mịch thiện kiến Tỳ-kheo. Kiến tại lâm trung, kinh hành vãng phản, tráng niên mỹ mạo, đoan chánh khả hỉ. Kỳ phát cám thanh hữu toàn bất loạn, đảnh hữu nhục kế, bì phu kim sắc, cảnh văn tam đạo, ngạch quảng bình chánh, nhãn mục tu quảng như thanh liên hoa, thần khẩu đan khiết như Tần-bà quả, hung tiêu vạn tự, thất xứ bình mãn, kỳ tý tiêm trường, kỳ chỉ võng man, thủ túc chưởng trung hữu Kim Cương luân.
Thiện Tài đi lần qua phương Nam đến nước Tam Nhãn tìm Tỳ Kheo Thiện Kiến. Thấy Tỳ Kheo ấy đi kinh hành trong rừng, tuổi trẻ dung mạo xinh đẹp tóc xanh biếc xoáy về phía hữu không rối, đảnh đầu có nhục kế, da màu huỳnh kim, cổ có ba ngấn, trán rộng bằng thẳng, mắt dài rộng như thanh liên hoa, môi miệng đỏ sạch như trái tần bà, ngực có chữ “VẠN”, bảy chỗ bằng đầy, cánh tay thon dài, ngón có màng lưới, trong bàn tay bàn chân có kim cang luân,
Giảng: Thiện Tài đồng tử từ từ đi về hướng nam, đến nước Tam Nhãn. Ngài đi khắp những nơi thành thị, tụ lạc, thôn xóm, hang núi, suối chảy, để tìm cầu vị Thiện Kiến Tỳ Kheo.
Đây là hạnh thứ nhất – Hoan hỉ hạnh. Thiện Kiến Tỳ Kheo dùng hạnh bố thí làm đầu, lại hay khai đạo mình, người, như con mắt lãnh đạo các căn kia, nên gọi là mắt. Tài thí không chấp, thành huệ nhãn. Vô uý thí thành từ nhãn. Pháp thí khai mở pháp nhãn, nên gọi là tam nhãn. Tam nhãn là thấy đều thiện, lại hạnh thí nội thành, thắng báo ngoại hiện, người thấy đều thiện, nên tên là thiện kiến.
Thiện Tài đồng tử nhìn thấy Thiện Kiến Tỳ Kheo đang đi kinh hành ở trong rừng. Vị Tỳ Kheo đó tuổi trẻ xinh đẹp, đoan chánh đáng ưa, ai nhìn thấy cũng sinh tâm hoan hỉ. Tóc của Ngài xanh biếc, vòng về bên phải chẳng rối. Trên đảnh có nhục kế, đây là phước tướng xuất thế rất tôn quý. Da của Ngài màu vàng ròng. Cổ có ba lằn, trán rộng bằng phẳng, biểu hiện trí huệ xuất chúng. Con mắt dài và rộng, như hoa sen xanh. Môi miệng đỏ sạch, như quả tần bà. Trên ngực của Ngài có chữ vạn, bảy nơi (hai tay hai chân hai vai cổ) bằng phẳng đầy đặng. Cánh tay của Ngài vừa thon lại dài, hai tay thòng quá gối, đây là một trong ba mươi hai tướng. Giữa ngón có màn lưới, trong lòng bàn tay bàn chân, có bánh xe kim cang.
Kỳ thân thù diệu như tịnh cư thiên, thượng hạ đoan trực như Ni câu đà thọ, chư tướng tùy hảo, tất giai viên mãn, như Tuyết sơn Vương chủng chủng nghiêm sức, mục thị bất thuấn, viên quang nhất tầm. Trí tuệ quảng bác do như đại hải, ư chư cảnh giới tâm vô sở động, nhược trầm nhược cử, nhược trí phi trí, động chuyển hí luận, nhất thiết giai tức. Đắc Phật sở hạnh bình đẳng cảnh giới, đại bi giáo hóa nhất thiết chúng sanh, tâm vô tạm xả. Vi dục lợi lạc nhất thiết chúng sanh, vi dục khai thị Như Lai pháp nhãn, vi tiễn Như Lai sở hạnh chi đạo, bất trì bất tốc, thẩm đế kinh hành.
Thân đẹp lạ như trời Tịnh Cư, trên dưới ngay thắng như cây ni câu đà, những đại nhơn tướng và tùy hình hảo đều viên mãn cả, nghiêm sức như núi Tuyết, mắt nhìn chẳng nháy, viên quang một tầm, trí huệ rộng rãi như đại hải, nơi các cảnh giới tâm không bị động, hoặc trầm hoặc cử, hoặc trí hoặc phi trí, tất cả động chuyển hí luân đều trừ hết. Ðược cảnh giới bình đẳng của Phật. Lòng đại bi giáo hóa chúng sanh không tạm bỏ. Vì muốn lợi lạc tất cả chúng sanh. Vì muốn khai thị pháp nhãn Như Lai. Vì noi theo đường của Như Lai đi, chẳng chậm chẳng mau, đi kinh hành kỹ chắc.
Giảng: Thân thể của Ngài đặc thù tốt đẹp, như trời Tịnh Cư. Trên thân và dưới thân đều rất đầy đặn ngay thẳng, như cây ni câu đà. Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thảy đều viên mãn, tựa như núi Tuyết chúa. Ngài lại có đủ thứ sự nghiêm sức, mắt nhìn không nháy, ánh sáng chung quanh thân Ngài khoảng một tầm (bảy thước), đó là phước tướng, là Bồ Tát tâm tướng.
Trí huệ của Ngài rộng lớn như biển cả. Đối với tất cả cảnh giới thiện, hoặc cảnh giới ác, tâm đều không bị lay động. Hoặc chìm, hoặc nổi, hoặc dùng trí huệ, hoặc chẳng dùng trí huệ, động chuyển hí luận, tất cả đều ngừng hẳn. Vì chỉ quán song hành, tất phải phối vợp với nhau, mới có thể thu được công hiệu. Chỉ quá thì trầm, quán quá thị cử. Chẳng trầm, chẳng cử, chánh thọ mới hiện tiền. Chẳng trí, chẳng ngu, thì cả hai đều khế hợp với trung đạo. Lúc đó, khởi niệm chỉ quán, đều thành động chuyển. Cả hai chẳng tái di, chưa lìa vui hí. Tuy chỉ quán song hành, mà không tâm tịch chiếu, thì tất cả đều ngừng. Cho nên Ngài có thể “Như như bất động, rõ ràng sáng suốt”. Ngài đã đắc được cảnh giới bình đẳng của Phật tu hành. Dùng tâm đại bi cứu khổ, để giáo hoá tất cả chúng sinh mười phương, mà tâm không tạm bỏ. Vì Ngài muốn lợi lạc tất cả chúng sinh. Vì muốn khai thị pháp nhãn của Như Lai. Vì noi theo đạo của Như Lai tu hành, do đó Ngài đi kinh hành chẳng chậm, chẳng mau, để quán sát kỹ càng đạo lý trong đó.
Vô lượng Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn-na-la, Ma hầu la già, thích, phạm, hộ thế,
Nhân dữ phi nhân tiền hậu vi nhiễu,
Chủ phương chi Thần tùy phương hồi chuyển dẫn đạo kỳ tiền,
Túc Hành chư Thần trì bảo liên hoa dĩ thừa kỳ túc,
Vô tận quang Thần thư quang phá ám, Diêm-phù tràng lâm Thần vũ chúng Tạp hoa,
Bất động tạng địa thần hiện chư Bảo Tạng, phổ quang minh hư không thần trang nghiêm hư không,
Thành tựu đức hải Thần vũ ma-ni bảo,
Vô cấu tạng Tu-di sơn Thần đầu đính lễ kính khúc cung hợp chưởng, vô ngại lực Phong Thần vũ diệu hương hoa,
Xuân hòa chủ dạ thần trang nghiêm kỳ thân cử thể đầu địa,
Thường giác chủ trú Thần chấp phổ chiếu chư phương ma-ni tràng trụ tại hư không phóng đại quang minh.
Vô lượng Thiên, Long, Bát Bộ cùng Nhơn, Phi nhơn vây quanh sau trước.
Chủ Phương Thần theo phương hồi chuyển dẫn đường ở trước.
Túc Hành Thần cầm bửu liên hoa đở chân Tỳ Kheo.
Vô Tận Quang Thần phóng quang phá tối.
Diêm Phù Tràng Lâm Thần rải những hoa đẹp.
Bất Ðộng Tạng Ðịa Thần hiện những bửu tạng.
Phổ Quang Minh Hư Không Thần trang nghiêm hư không.
Thành Tựu Ðức Hải Thần mưa Ma ni bửu vô cấu tạng.
Tu Di Sơn Thần đầu đảnh kính lễ cúi mình hiệp chưởng.
Vô Ngại Lực Phong Thần rải hoa đẹp thơm.
Xuân Hòa Chủ Dạ Thần trang nghiêm nơi thân cả mình mọp xuống đất.
Thường Giác Chủ Thần cầm tràng ma ni chiếu khắp các phương, ở giửa hư không phóng đại quang minh.
Giảng: Có vô lượng chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, trời Đế Thích, Đại Phạm Thiên, Hộ Thế Tứ Đại Thiên Vương, người và chẳng phải người, vây quanh trước sau Thiện Kiến Tỳ Kheo. Có Chủ Phương Thần theo phương quay chuyển, dẫn đường phía trước. Lại có các Thần Túc Hành cầm hoa sen báu, để đỡ chân Thiện Kiến Tỳ Kheo. Lại có vô lượng Quang Thần phóng quang minh chiếu sáng phá tối. Lại có Diêm Phù Tràng Lâm Thần mưa xuống đủ thứ các tạp hoa, để cúng dường. Lại có Bất Động Tạng Địa Thần hiển hiện ra đủ thứ các bảo tạng trân quý ở dưới đất. Ví như mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ đá .v.v… đều do Chủ Tạng Thần cai quản. Lại có Phổ Quang Minh Hư Không Thần trang nghiêm hư không. Lại có Thành Tựu Đức Hải Thần mưa xuống ma ni báu. Lại có Vô Cấu Tạng Tu Di Sơn Thần đảnh lễ cung kính, cúi mình chắp tay, biểu thị cung kính đối với vị Thiện Kiến Tỳ Kheo. Lại có Vô Ngại Lực Phong Thần mưa diệu hương hoa. Lại có Xuân Hoà Chủ Dạ Thần trang nghiêm thân, cúi đầu sát đất, biểu thị tôn kính. Lại có Thường Giác Chủ Trú Thần cầm tràng ma ni chiếu khắp các phương. Trụ ở trong hư không, phóng đại quang minh.
Thời, Thiện tài đồng tử nghệ Tỳ-kheo sở, đảnh lễ kỳ túc, khúc cung hợp chưởng, bạch ngôn:
Thiện Tài đồng tử đến chỗ Thiện Kiến Tỳ Kheo đảnh lễ chắp tay cúi mình thưa rằng:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đến chỗ Thiện Kiến Tỳ Kheo đảnh lễ cúi mình chắp tay, bạch rằng:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, cầu Bồ Tát hạnh. Ngã văn Thánh Giả thiện năng khai thị chư Bồ-tát đạo, nguyện vi ngã thuyết: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, cầu Bồ Tát hạnh. Con nghe đức Thánh hay khéo khai thị những đạo Bồ Tát. Xin vì con mà dạy thế nào học Bồ Tát hạnh ? Thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”, đến cầu hạnh của Bồ Tát tu. Con nghe Từ Hạnh đồng nữ giới thiệu Ngài cho con, nói Ngài đức Thánh khéo khai thị các Bồ Tát đạo. Xin Ngài hãy vì con mà nói: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thiện Kiến đáp ngôn: Thiện nam tử! ngã niên ký thiểu, xuất gia hựu cận. Ngã thử sanh trung, ư tam thập bát Hằng hà sa Phật sở tịnh tu phạm hạnh
Thiện Kiến Tỳ Kheo nói: Này thiện nam tử ! Ta tuổi còn trẻ, xuất gia lại chưa được lâu. Trong đời này, ta tịnh tu phạm hạnh ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật. Hoặc
Giảng: Thiện Kiến Tỳ Kheo đáp rằng: “Thiện nam tử! Ta tuổi còn trẻ, lại mới xuất gia chưa được bao lâu. Trong đời nầy ta tịnh tu phạm hạnh ở chỗ đạo tràng các đức Phật, nhiều như số cát ba mươi tám sông Hằng”.
Đoạn nầy là Hoan hỉ hạnh, Thiện Kiến Tỳ Kheo sơ nhập hạnh vị, nên khiêm nhường nói là “tuổi trẻ”. Lại mới lìa nhà Thập trụ, nên gọi là “xuất gia chưa được bao lâu”.
“Đời nầy” có hai ý nghĩa:
1. Biểu thị niệm kiếp viên dung.
2. Hiển nhập giải hạnh sanh, vì chẳng thấy văn sanh.
Ở trên, Từ Hạnh đồng nữ ở chỗ các đức Phật nhiều như số cát ba mươi sáu sông Hằng, cầu được pháp môn Bát Nhã. Ở đây Thiện Kiến Tỳ Kheo ở chỗ các đức Phật nhiều như số cát ba mươi tám sông Hằng, tịnh tu phạm hạnh, là biểu thị vượt qua bậc ở trước.
Hoặc hữu Phật sở nhất nhật nhất dạ tịnh tu phạm hạnh, hoặc hữu Phật sở thất nhật thất dạ tịnh tu phạm hạnh, hoặc hữu Phật sở bán nguyệt, nhất nguyệt, nhất tuế, bách tuế, vạn tuế, ức tuế, na-do-tha tuế, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết tuế, hoặc nhất tiểu kiếp, hoặc bán Đại kiếp, hoặc nhất Đại kiếp, hoặc bách Đại kiếp, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Đại kiếp, thính văn diệu pháp, thọ hành kỳ giáo, trang nghiêm chư nguyện, nhập sở chứng xứ, tịnh tu chư hạnh, mãn túc lục chủng Ba-la-mật hải.
Có chỗ đức Phật, ta tu một ngày một đêm. Hoặc có đức Phật, ta tu bảy ngày bảy đêm. Hoặc có chỗ đức Phật, ta tu nửa tháng hoặc một tháng, một năm, trăm năm, muôn năm, ức năm, na do tha năm, nhẫn đến hoặc có chỗ đức Phật ta tu phạm hạnh bất khả thuyết bất khả thuyết năm. Hoặc một tiểu kiếp, hoặc nửa đại kiếp, hoặc một đại kiếp, trăm đại kiếp nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đại kiếp nghe diệu pháp và thọ hành giáo pháp của chư Phật, trang nghiêm thệ nguyện, nhập chỗ sở chứng, tịnh tu công hạnh, đầy đủ sáu môn ba la mật hải.
Giảng: Hoặc ở chỗ đạo tràng của đức Phật, ta tịnh tu phạm hạnh, một ngày, một đêm. Hoặc ở chỗ đạo tràng của đức Phật, ta tịnh tu phạm hạnh bảy ngày, bảy đêm. Hoặc ở chỗ đạo tràng của đức Phật, ta tịnh tu phạm hạnh nửa tháng, một tháng, một năm, trăm năm, vạn năm, ức năm, Na do tha năm, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết năm. Hoặc một tiểu kiếp, hoặc nửa đại kiếp, hoặc một đại kiếp, hoặc trăm đại kiếp, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết đại kiếp, ta đều ở trong đạo tràng của Phật lắng nghe Phật pháp vô thượng vi diệu. Ta tiếp thọ tu hành sự giáo hoá của chư Phật, để trang nghiêm tất cả đại nguyện, mà nhập vào đạo lý chứng được của mỗi vị Phật. Ta tịnh tu tất cả các hạnh, để viên mãn biển sáu thứ Ba La Mật đến bờ kia.
Diệc kiến bỉ Phật thành đạo thuyết Pháp, các các sái biệt, vô hữu tạp loạn, trụ trì di giáo, nãi chí diệt tận. Diệc tri bỉ Phật bổn sở hưng nguyện, dĩ tam muội nguyện lực nghiêm tịnh nhất thiết chư Phật quốc độ, dĩ nhập nhất thiết hành tam muội lực tịnh tu nhất thiết chư Bồ-tát hạnh, dĩ Phổ Hiền thừa xuất ly lực thanh tịnh nhất thiết Phật Ba-la-mật.
Cũng thấy chư Phật đó thành đạo thuyết pháp, mỗi mỗi sai biệt không tạp loạn, trụ trì di giáo đến diệt tận. Cũng biết chư Phật đó trước kia phát nguyện, dùng nguyện lực tam muội nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Dùng sức tam muội nhập tất cả hạnh mà tịnh tu tất cả Bồ Tát hạnh. Dùng sức Phổ Hiền thừa xuất ly mà thanh tịnh tất cả Phật Ba la mật.
Giảng: Đồng thời ta cũng thấy các đức Phật đó thành tựu đạo nghiệp, vì chúng sinh thuyết pháp, đều khác nhau, không có chút tạp loạn nào. Ta trụ trì di giáo của chư Phật, cho đến chư Phật vào Niết Bàn. Ta cũng biết chư Phật đó vốn phát đại nguyện, và pháp môn tu thuở xưa. Ta cũng dùng nguyện lực tam muội, để trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật. Ta lại nhờ nhập vào tất cả hạnh sức tam muội, để tịnh tu tất cả các Bồ Tát hạnh. Ta dùng đại thừa đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền đã phát, sức xuất ly tam giới, để thanh tịnh tất cả pháp môn Ba La Mật của chư Phật.
Hựu, Thiện nam tử! ngã kinh hành thời, nhất niệm trung, nhất thiết thập phương giai tất hiện tiền, trí tuệ thanh tịnh cố; nhất niệm trung, nhất thiết thế giới giai tất hiện tiền, Kinh qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới cố; nhất niệm trung, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát giai tất nghiêm tịnh, thành tựu đại nguyện lực cố;
Nhất niệm trung, bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh sái biệt hạnh giai tất hiện tiền, mãn túc thập lực trí cố; nhất niệm trung, bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật thanh tịnh thân giai tất hiện tiền, thành tựu Phổ Hiền hạnh nguyện lực cố
Giảng: Lại này thiện nam tử ! Lúc ta kinh hành, trong một niệm, tất cả mười phương, đều hiện tiền, vì trí huệ thanh tịnh vậy. Trong một niệm, tất cả thế giới đều hiện tiền vì đi qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật độ thảy đều nghiêm tịnh, vì thành tựu sức đại nguyện vậy.
Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh sai biệt hạnh thảy đều hiện tiền, vì đầy đủ mười trí lực vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết thân Phật thanh tịnh đều hiện tiền, vì thành tựu Phổ Hiền hạnh nguyện lực vậy.
Lại nữa, Thiện Tài đồng tử! Khi ta trải qua thì ở trong một niệm, hết thảy tất cả vạn vật mười phương thảy đều hiện tiền ở trước ta. Tại sao vậy? Vì trí huệ của ta hoàn toàn thanh tịnh, chẳng có sự chướng ngại. Lại ở trong một niệm tất cả thế giới thảy đều hiện tiền ở trước ta, đó là vì ta đã trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Lại ở trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật thảy đều trang nghiêm thanh tịnh, đó là vì ta đã thành tựu đại nguyện đã phát ra thuở xưa.
Lại ở trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh hạnh khác biệt thảy đều hiện tiền ở trước ta, đó là vì ta đã đầy đủ trí thập lực của Phật. Lại ở trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết thân thanh tịnh của chư Phật thảy đều hiện tiền, đó là vì ta đã thành tựu pháp môn sức đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền tu hành.
Nhất niệm trung, cung kính cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai, thành tựu nhu nhuyễn tâm cúng dường Như Lai nguyện lực cố; nhất niệm trung, lĩnh thọ bất khả thuyết bất khả thuyết Như Lai Pháp, đắc chứng a-tăng-kì sái biệt Pháp trụ trì Pháp luân Đà-la-ni lực cố; nhất niệm trung, bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát hạnh hải giai tất hiện tiền, đắc năng tịnh nhất thiết hành như nhân đà la võng nguyện lực cố; nhất niệm trung, bất khả thuyết bất khả thuyết chư tam muội hải giai tất hiện tiền, đắc ư nhất tam muội môn nhập nhất thiết tam muội môn giai lệnh thanh tịnh nguyện lực cố; nhất niệm trung, bất khả thuyết bất khả thuyết chư căn hải giai tất hiện tiền, đắc liễu tri chư căn tế ư nhất căn trung kiến nhất thiết căn nguyện lực cố; nhất niệm trung, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thời giai tất hiện tiền, đắc ư nhất thiết thời chuyển pháp luân chúng sanh giới tận Pháp luân vô tận nguyện lực cố; nhất niệm trung, bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết tam thế hải giai tất hiện tiền, đắc liễu tri nhất thiết thế giới trung nhất thiết tam thế phần vị trí quang minh nguyện lực cố.
Trong một niệm cung kính cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai, vì thành tựu tâm nhu nhuyến nguyện lực cúng dường Như Lai vậy. Trong một niệm lãnh thọ bất khả thuyết bất khả thuyết Như Lai pháp, vì được chứng vô số pháp sai biệt trụ trì pháp luân đà la ni lực vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát hạnh hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực hay tinh tu tất cả hạnh như nhơn đà la võng. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết những tam muội hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực nơi một môn tam muội nhập tất cả môn tam muội đều khiến thanh tịnh. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết chư căn hải đều hiện tiền, vì được nguyện lực rõ biết chư căn tế, ở trong một căn thấy tất cả căn vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thời gian thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực trong tất cả thời gian chuyển pháp luân, chúng sanh giới tận nhưng pháp luân vô tận vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả tam thế hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực trí quang minh biết rỏ tất cả phần vị tam thế, trong tất cả thế giới vậy.
Giảng: Lại ở trong một niệm ta cung kính cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết các Như Lai nhiều như số hạt bụi cõi Phật, đó là vì ta đã thành tựu nguyện lực tâm từ bi mềm mại, để cúng dường chư Phật.
Lại ở trong một niệm lãnh thọ bất khả thuyết bất khả thuyết pháp của Như Lai, đó là vì ta đã chứng được A tăng kỳ vô lượng số pháp khác biệt, vì sức trụ trì pháp luân Đà la ni. Lại ở trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết biển Bồ Tát hạnh thảy đều hiện tiền ở trước ta, đó là vì ta đã thanh tịnh được tất cả hạnh, có nguyện lực như lưới Nhân đà la lỗ lỗ thông với nhau, ánh sáng chiếu với nhau. Lại ở trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết các biển tam muội thảy đều hiện tiền ở trước ta, đó là vì ta đã được nơi một môn tam muội, vào được tất cả môn tam muội, tức là “một thông tất cả thông”, đều khiến cho tất cả nguyện lực thanh tịnh.
Lại ở trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết biển các căn và chủng tánh, thảy đều hiện tiền ở trước ta, vì ta đã biết rõ được bờ mé các căn của tất cả chúng sinh, thấu hiểu được đủ thứ căn tánh khác nhau của hết thảy chúng sinh, hơn nữa nguyện lực trong một căn thấy được tất cả căn. Đó tức là “Một làm vô lượng, vô lượng làm một. Một chẳng ngại nhiều, nhiều chẳng ngại một”. Lại ở trong một niệm bất khả thuyết bất khả thuyết thời gian cõi Phật nhiều như số hạt bụi thảy đều hiện tiền ở trước ta, đó là vì ta đã đắc được chuyển pháp luân đối với tất cả thời, giáo hoá chúng sinh, khiến cho dù cõi chúng sinh có tận, nhưng đại nguyện lực chuyển pháp luân của tôi không cùng tận.
Nguyện thứ sáu trong mười điều nguyện vương của Bồ Tát Phổ Hiền tức là: “Thỉnh chuyển pháp luân”. Trong phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện có nói rằng: “Như vậy cõi hư không tận, cõi chúng sinh tận, nghiệp chúng sinh tận, phiền não chúng sinh tận. Tôi thường khuyến thỉnh tất cả chư Phật, chuyển chánh pháp luân, không có cùng tận, niệm niệm liên tục, không có gián đoạn. Thân ngữ ý nghiệp, không có nhàm mỏi”. Lại ở trong một niệm có bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả biển ba đời – Đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, thảy đều hiện tiền ở trước tôi, đó là do nguyện lực ta đã biết rõ được trong tất cả thế giới, tất cả ba đời phân lập trí huệ quang minh.
Đoạn nầy miêu tả cảnh giới thị hiện trong một niệm của Thiện Kiến Tỳ Kheo, đều do đủ thứ nguyện lực thành tựu. Vì một niệm nhờ đắc được trí huệ không nương không niệm, mà không có pháp gì chẳng hiện. Do đó có câu: “Một niệm không sinh toàn thể hiện”. Một niệm tâm nầy, là tâm bao thái hư, khắp cùng sa giới.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát tùy thuận đăng giải thoát môn. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát như Kim cương đăng, ư Như Lai gia chân chánh thọ sanh, cụ túc thành tựu bất tử mạng căn, thường nhiên trí đăng vô hữu tận diệt
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát tùy thuận đăng này. Còn như chư đại Bồ Tát như kim cang đăng ở nhà Như Lai chơn chánh thọ sanh, thành tựu đầy đủ mạng căn bất tử, thường thắp trí đăng không tắt mất.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát Bồ Tát thuận đăng nầy mà thôi.
Tuỳ thuận đăng là dùng chân trí vô niệm, thuận pháp thuận cơ, chẳng chỗ nào mà chẳng chiếu, nhưng đèn chiếu không thường lâu, nên Thiện Kiến Tỳ Kheo hướng về Thiện Tài đồng tử tiến cử đèn trí kim cang của Bồ Tát.
Như các đại Bồ Tát, trí huệ của các Ngài như đèn kim cang, nơi nhà Như Lai, thân chứng chân như, trở thành Pháp Vương tử. Các Ngài đầy đủ mạng căn bất tử. báo mạng thù thắng, thường thắp đèn trí huệ, đối với pháp chứng được không khi nào tận diệt.
Kỳ thân kiên cố bất khả tự hoại, hiện ư như huyễn sắc tướng chi thân, như duyên khởi pháp vô lượng sái biệt, tùy chúng sanh tâm các các thị hiện, hình mạo sắc tướng thế vô luân thất, độc nhận hỏa tai sở bất năng hại, như Kim Cương sơn vô năng hoại giả, hàng phục nhất thiết chư ma ngoại đạo; kỳ thân diệu hảo như chân kim sơn, ư Thiên Nhân trung tối vi Thù đặc, danh xưng quảng đại mị bất văn tri, quán chư thế gian hàm đối mục tiền, diễn thâm pháp tạng như hải vô tận, phóng đại quang minh phổ chiếu thập phương.
Thân của các Ngài kiên cố không bị chướng hoại, hiện thân sắc tướng như huyễn, như pháp duyên khởi vô lượng sai biệt, tùy tâm chúng sanh mỗi mỗi thị hiện hình mạo sắc tướng, trong đời không gì sánh bằng, tên độc, hỏa tai không hại được. Như núi kim cang không ai phá hư được. Hàng phục tất cả chúng ma ngoại đạo. Thân các Ngài đẹp tốt như núi chơn kim. Ở trong nhơn thiên rất là thù đặc. Tiếng tốt rộng lớn không ai chẳng nghe biết. Xem các thế gian đều đối trước mắt. Diễn pháp tạng sâu như biển vô tận. Phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương.
Giảng: Thân của các Ngài rất kiên cố, pháp tánh thành thân, tướng chẳng đổi thay, không vật gì có thể phá hoại được. Các Ngài thị hiện thân sắc tướng như huyễn như hoá, tuy có thân, nhưng như huyễn hoá. Như pháp duyên sinh khởi, chẳng có tự thể, có vô lượng sự khác biệt. Do đó có câu:
“Các pháp do duyên sinh
Các pháp do duyên diệt”.
Tuỳ thuận tâm ưa thích của chúng sinh, mà đều thị hiện ở trước họ. Các Ngài thị hiện hình dáng sắc tướng, trong thế gian không thể sánh bằng. Các Ngài không thể bị tất cả đao độc nạn lửa làm thương hại được. Ví như trong Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia có nói:
“Dù gặp đao nhọn vẫn bình thản,
Nếu gặp thuốc độc cũng an nhàn”.
Thân tâm của các Ngài như núi kim cang, không cách chi phá hoại được, mà hay điều phục tất cả các ma ngoại đạo. Thân của các Ngài tốt đẹp, như núi vàng thật, ở trong trời người rất là thù thắng đặc biệt, vang danh của các Ngài rộng lớn, hết thảy chúng sinh chẳng chỗ nào mà không nghe biết đức hạnh của các Ngài. Các Ngài quán sát tất cả thế gian, đều giống như ở trước mắt. Các Ngài diễn nói pháp tạng thâm sâu, như biển cả thao thao bất tuyệt, không khi nào cùng tận. Các Ngài phóng đại quang minh, chiếu sáng khắp tất cả chúng sinh mười phương.
Nhược hữu kiến giả, tất phá nhất thiết chướng ngại Đại sơn, tất bạt nhất thiết bất thiện căn bổn, tất lệnh chủng thực quảng đại thiện căn. Như thị chi nhân, nan khả đắc kiến, nan khả xuất thế; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Nếu có ai thấy chư đại Bồ Tát này thời phá tất cả núi lớn chướng ngại, thời nhổ tất cả gốc bất thiện, thời khiến gieo trồng gốc lành quảng đại. Những bậc như vậy rất khó thấy được rất khó xuất hiện thế gian. Ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó?
Giảng: Nếu có ai thấy được những vị Bồ Tát đó, tất sẽ phá được tất cả núi lớn chướng ngại, tất sẽ nhổ trừ được tất cả gốc rễ bất thiện, tất sẽ khiến cho gieo trồng đủ thứ căn lành rộng lớn. Những Bồ Tát như vậy, trăm ngàn vạn kiếp cũng khó có thể gặp được, cũng khó có thể xuất hiện ra đời, mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất quốc độ, danh viết: danh văn; ư hà chử trung, hữu nhất Đồng tử, danh: tự tại chủ. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một nước tên là Danh Văn. Trong bãi sông của xứ đó có một đồng tử tên là Tự Tại Chủ. Người đến đó hỏi: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một nước tên là Danh Văn. Ở bên bờ sông, có một đồng tử tên là Tự Tại Chủ. Ngươi hãy đi đến đó hỏi vị đó rằng: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh ? Tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử vi dục cứu cánh Bồ Tát dũng mãnh thanh tịnh chi hạnh, dục đắc Bồ Tát Đại lực quang minh, dục tu Bồ Tát Vô thắng vô tận chư công đức hạnh, dục mãn Bồ Tát kiên cố đại nguyện, dục thành Bồ Tát quảng đại thâm tâm, dục trì Bồ Tát vô lượng thắng hành, ư Bồ Tát Pháp tâm Vô yếm túc, nguyện nhập nhất thiết Bồ Tát công đức, dục thường nhiếp ngự nhất thiết chúng sanh, dục siêu sanh tử trù lâm khoáng dã, ư thiện tri thức thường lạc kiến văn, thừa sự cúng dường vô hữu yếm quyện; đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử vì muốn rốt ráo hạnh Bồ Tát dũng mãnh thanh tịnh. Muốn được Bồ Tát đại lực quang minh. Muốn tu những hạnh công đức vô thắng vô tận của Bồ Tát. Muốn viên mãn đại nguyện kiên cố của Bồ Tát. Muốn thành thâm tâm quảng đại của Bồ Tát. Muốn trì vô lượng thắng hạnh của Bồ Tát.Với Bồ Tát phát tâm không nhàm đủ. Nguyện nhập tất cả công đức của Bồ Tát. Muốn thường nhiếp ngự tất cả chúng sanh. Muốn vượt khỏi rừng rậm hoang vu sanh tử. Với các thiện tri thức thường thích thấy nghe, thờ phụng cúng dường không nhàm đủ. Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Thiện Kiến Kỳ Kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử vì muốn rốt ráo hạnh thanh tịnh dũng mãnh của Bồ Tát. Vì muốn đắc được đại lực quang minh của Bồ Tát. Vì muốn tu hành đủ thứ các hạnh công đức vô thắng vô tận của Bồ Tát. Vì muốn viên mãn đại nguyện kiên cố của Bồ Tát. Vì muốn thành tựu tâm rộng lớn thâm sâu của Bồ Tát. Vì muốn tu trì vô lượng thắng hạnh của Bồ Tát. Thiện Tài đồng tử đối với pháp Bồ Tát tu, tâm cũng không cảm thấy nhàm đủ, hoặc đầy đủ. Ngài phát nguyện nhập vào tất cả công đức của Bồ Tát. Muốn thường nhiếp ngự tất cả chúng sinh. Muốn vượt qua sinh tử rừng rậm hoang dã. Đối với thiện tri thức, Ngài thường thích thấy nghe, thừa sự cúng dường, không có nhàm mỏi.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử thọ thiện kiến Tỳ-kheo giáo dĩ, ức niệm tụng trì, tư tánh tu tập, minh liễu quyết định, ư bỉ Pháp môn nhi đắc ngộ nhập.
Thiện Tài đồng tử thọ giáo nơi Thiện Kiến Tỳ Kheo, nhớ nghĩ thọ trì suy gẫm tu tập biết rõ quyết định, được ngộ nhập pháp môn đó.
Giảng: Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Thiện Kiến Tỳ Kheo, đi nhiễu phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, mắt không tạm rời, sau đó Ngài từ tạ Thiện Kiến Tỳ Kheo mà đi về hướng nam, đi tìm cầu một vị thiện tri thức khác.
=============================
12. TỰ TẠI CHỦ ĐỒNG TỬ
PHÓ THÁC THỨ 12 – NHIÊU ÍCH HẠNH
Thiên, long, dạ xoa, Càn thát bà chúng tiền hậu vi nhiễu, hướng danh văn quốc, chu biến cầu mịch tự tại chủ Đồng tử. Thời, hữu Thiên, long, Càn thát bà đẳng, ư hư không trung cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! kim thử Đồng tử tại hà chử thượng.
Chúng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà vây quanh trước sau đi theo Thiện Tài đồng tử. Ðến nước Danh Văn, Thiện Tài tìm Tự Tại Chủ đồng tử. Thấy đồng tử này ở trên bải sông cùng mười ngàn đồng tử gom cát để chơi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe lời dạy của Thiện Kiến Tỳ Kheo rồi, nghĩ nhớ tụng trì đạo lý của thiện tri thức dạy, suy gẫm tu tập pháp môn nầy, thấu rõ quyết định lời dạy, mà được ngộ nhập vào pháp môn đó. Hết thảy chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, hộ pháp tám bộ chúng, đều vây quanh trước sau Thiện Tài đồng tử, mà hướng về nước Danh Văn, tìm cầu Tự Tại Chủ đồng tử khắp nơi. Lúc đó, có Trời Rồng, Càn Thát Bà .v.v… ở trong hư không, bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Hiện nay vị Tự Tại Chủ đồng tử nầy, đang ở bên bờ sông”.
Nhĩ thời, Thiện Tài tức nghệ kỳ sở, kiến thử Đồng tử, thập thiên Đồng tử sở cọng vi nhiễu, tụ sa vi hí.
Bấy giờ, Thiện Tài liền đi đến chỗ Tự Tại Chủ đồng tử, thì thấy đồng tử đó, được mười ngàn vị đồng tử cùng vây quanh, gom cát lại để chơi đùa.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài liền đi đến chỗ Tự Tại Chủ đồng tử, thì thấy đồng tử đó, được mười ngàn vị đồng tử cùng vây quanh, gom cát lại làm tượng Phật, hoặc lễ Phật để chơi đùa.
Mười ngàn là biểu thị vạn hạnh. Đây là trì giới Ba La Mật trong lục độ vạn hạnh.
Gom cát là biểu thị công đức nhiều như cát sông Hằng, đều do trì giới tích tập mà thành.
Thiện Tài kiến dĩ, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, hợp chưởng cung kính, khước trụ nhất diện, bạch ngôn:
Thiện Tài đến đảnh lễ chân Tự Tại Chủ đồng tử hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chắp tay thưa rằng:
Giảng: Thiện Tài đồng tử thấy rồi, bèn đảnh lễ Tự Tại Chủ đồng tử, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, sau đó chắp tay cung kính, đứng qua một bên, mà bạch với Tự Tại Chủ đồng tử rằng:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ? Xin đức Thánh giảng nói cho.
Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo, xin hãy vì con giải thích nói”!
Vị Tự Tại Chủ đồng tử nầy đã đắc được thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, sáu căn không lỗi lầm, nên được tự tại. Lại lấy giới làm chủ, trì giới thanh tịnh không nhiễm, nên gọi là chủ đồng tử. Vị nầy biểu thị hạnh Nhiêu Ích thứ hai. Vì ba cụ tịnh giới, hay lợi ích mình, người, nên gọi là nhiêu ích. Trong Giới Kinh có nói rằng: “Như người hay giữ giới, sẽ được ba thứ vui, danh dự và lợi dưỡng, chết rồi sinh về trời”. Hơn nữa đồng tử nầy, đang ở bên bờ sông. Bờ sông biểu tượng sông ái sinh tử. Nếu trì giới thanh tịnh, thì sẽ không bị trôi nổi trong sông ái sinh tử.
Nguyện vi giải thuyết! tự tại chủ ngôn: Thiện nam tử! ngã tích tằng ư Văn-thù-sư-lợi Đồng tử sở, tu học thư, số, toán, ấn đẳng Pháp, tức đắc ngộ nhập nhất thiết công xảo thần thông trí Pháp môn.
Tự Tại Chủ đồng tử nói: Này thiện nam tử ! thuở xưa, ta ở chỗ Văn Thù Sư Lợi Ðồng Tử học những pháp thơ số toán ấn v.v… liền được ngộ nhập nhất thiết công xảo thần thông trí pháp môn.
Giảng: Tự Tại Chủ đồng tử nói rằng: “Thiện nam tử! Xưa kia ta đã từng ở chỗ đạo tràng của Văn Thù Sư Lợi đồng tử, tu học văn học, toán học, toán thuật, và ấn loát các pháp, liền được ngộ nhập pháp môn tất cả công xảo thần thông trí huệ.
Thiện nam tử! ngã nhân thử pháp môn cố, đắc tri thế gian thư, số, toán, ấn giới xứ đẳng Pháp, diệc năng liệu trì phong động tiêu sấu, quỷ mị sở trước như thị sở hữu nhất thiết chư bệnh, diệc năng tạo lập thành ấp tụ lạc, viên lâm đài quán, cung điện ốc trạch chủng chủng chư xứ, diệc thiện điều luyện chủng chủng tiên dược, diệc thiện doanh lý điền nông thương cổ nhất thiết chư nghiệp, thủ xả tiến thoái hàm đắc kỳ sở; hựu thiện biệt tri chúng sanh thân tướng, tác thiện tác ác, đương sanh thiện thú, đương sanh ác thú, thử nhân ưng đắc Thanh văn thừa đạo, thử nhân ưng đắc duyên giác thừa đạo, thử nhân ưng nhập nhất thiết trí địa, như thị đẳng sự giai tất năng tri. Diệc lệnh chúng sanh học tập thử pháp, tăng trưởng quyết định cứu cánh thanh tịnh.
Ta nhơn pháp môn này nên được biết những pháp thơ số toán ấn giới xứ ở thế gian, cũng có thể chữa lành tất cả những bịnh phong điên ốm gầy quỷ mị dực v.v… cũng có thể tạo lập thành ấp, tu lạc, vườn rừng, đền đài, cung điện, nhà cửa, cũng khéo điều luyện những tiên được, cũng khéo kinh doanh tất cả sự nghiệp ruộng nương buôn bán, lấy bỏ tiến thối đều đúng sở nghi. Ta lại khéo phân biệt biết thân tướng chúng sanh, làm lành dữ, sẽ sanh cõi lành, sẽ sanh cõi ác. Người này đáng được đạo Thanh Văn thừa, người này đáng được đạo Duyên Giác thừa, người này đáng nhập Nhứt thiết trí địa. Những sự như vậy thảy đều biết được và cũng làm cho chúng sanh học tập những pháp này tăng trưởng quyết định rốt ráo thanh tịnh.
Giảng: Thiện nam tử! Ta nhờ pháp môn nầy, mà biết được văn thư (tri thức lý luận thế gian), số học (biểu thị bốn trọng mười trọng, cho đến ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh), toán thuật (biểu thị mỗi nhân gì sẽ cảm quả gì), ấn (biểu thị trì phạm thiện ác, cảm quả quyết định), giới xứ (chỉ mười hai giới và mười tám xứ), các pháp thế gian.
Tự Tại Chủ đồng tử có thể lập tức ngộ nhập được pháp môn tất cả công xảo thần thông trí, đều do đầy đủ trí huệ. Trí hay đắc được giới, cũng biểu thị tu giới sẽ phát sinh định huệ.
Tự Tại Chủ đồng tử nói: “Ta còn có thể chữa lành những bệnh trúng gió, bệnh điên, hoặc bệnh bị quỷ mị dựa nhập, do đó thân thể bị ốm gầy, sắc mặt trắng nhợt, thần kinh thất thường, thậm chí nghiêm trọng khiến bị chết, hết thảy tất cả những chứng bệnh như vậy, ta đều chữa khỏi. Đó là y phương minh trong năm minh. Lại còn có thể tạo lập thành thị xóm làng, vườn rừng đài quán, cung điện phòng ốc, đủ thứ chỗ ở khác nhau. Ta còn khéo điều phối luyện chế đủ thứ thuốc tiên. Ta còn khéo kinh doanh ruộng nương nông nghiệp và thương mại công nghiệp. Trong tất cả các nghề nghiệp, ta biết cách nào để hay bỏ, tiến, hoặc lùi, đều được sở nghi. Ta còn khéo biết thân tướng của tất cả chúng sinh khác nhau, ví như người làm thiện, thì trên thân sẽ có vị đạo thiện; người làm ác thì trên thân sẽ phát sinh vị đạo ác. Chúng sinh sẽ sinh vào cõi lành, hoặc sẽ sinh vào cõi ác, ta đều biết. Hoặc người đó nên tu tập đạo Thanh Văn thừa, quán sát bốn Thánh đế: Khổ tập diệt đạo. Hoặc người đó nên tu hành mười hai nhân duyên của đạo Duyên Giác thừa, đó là nội minh. Hoặc người đó nên nhập vào bậc nhất thiết trí, tu hành Bồ Tát đạo. Đủ thứ những sự việc như vậy, ta đều hoàn toàn biết rõ. Ta cũng khiến cho chúng sinh học tập pháp môn nầy, để tăng trưởng quyết định rốt ráo thanh tịnh”.
Do đây có thể biết năm minh học cũng khiến cho người đắc được trí huệ xuất thế. Tại pháp thế gian như đắc được chỉ đạo chánh quyết, thì cũng có thể bước lên trí huệ thanh tịnh xuất thế.
Năm minh tức là:
1. Thanh minh ngữ văn học.
2. Công xảo minh công nghệ học.
3. Y phương minh y dược học.
4. Nhân minh luận lý học.
5. Nội minh tông giáo học.
Thiện nam tử! ngã diệc năng tri Bồ Tát toán Pháp. Sở vị: nhất bách lạc xoa vi nhất câu-chi, câu-chi câu-chi vi nhất A-dữu-đa, A-dữu-đa A-dữu-đa vi nhất na-do-tha, na-do-tha na-do-tha vi nhất tần Bà la, tần Bà la tần Bà la vi nhất Căng yết la; quảng thuyết nãi chí, Ưu bát la Ưu bát la vi nhất ba-đầu-ma, ba-đầu-ma ba-đầu-ma vi nhất tăng kì, tăng kì tăng kì vi nhất thú, thú thú vi nhất dụ, dụ dụ vi nhất vô số,
vô số vô số vi nhất vô số chuyển, vô số chuyển vô số chuyển vi nhất vô lượng, vô lượng vô lượng vi nhất vô lượng chuyển, vô lượng chuyển vô lượng chuyển vi nhất vô biên, vô biên vô biên vi nhất vô biên chuyển, vô biên chuyển vô biên chuyển vi nhất vô đẳng, vô đẳng vô đẳng vi nhất vô đẳng chuyển, vô đẳng chuyển vô đẳng chuyển vi nhất bất khả số
Này Thiện nam tử ! Ta cũng biết Bồ Tát toán pháp. Như là một trăm lạc xoa làm một câu chi. Câu chi lần câu chi làm một a giu đa. A giu đa lần a giu đa làm na do tha. Na do tha lần na do tha làm một tần bà ta. Tần bà la lần tần bà la làm một căng yết la. Nói rộng đến ưu bát la lần ưu bát la làm một ba đầu ma. Ba đầu ma lần ba đầu ma làm một tăng kỳ. Tăng kỳ lần tăng kỳ làm một thú. Thú lần thú làm một dụ. Dụ lần dụ làm một vô số.
Vô số lần vô số làm một vô số chuyển. Vô số chuyển lần vô số chuyển làm một vô lượng. Vô lượng lần vô lượng làm một vô lượng chuyển. Vô lượng chuyển lần vô lượng chuyển làm một vô biên. Vô biên làn vô biên làm một vô biên chuyển. Vô biên chuyển lần vô biên chuyển làm một vô đẳng. Vô đẳng lần vô đẳng làm một vô đẳng chuyển. Vô đẳng chuyển lần vô đẳng chuyển làm một bất khả sổ.
Giảng: Thiện nam tử! Ta cũng biết được toán pháp của Bồ Tát. Đó là: Một trăm Lạc xoa là một Câu chi (trăm vạn). Câu chi Câu chi là một một A giu đa. A giu đa A giu đa là một Na do tha.
Những đại số mục nầy gồm có một trăm hai bốn thứ đại số mục trong Kinh Hoa Nghiêm.
Na do tha Na do tha là một Tần bà la. Tần bà la Tần bà la là một Căng yết la. Nói rộng ra cho đến Ưu bát la Ưu bát la là một Ba đầu ma. Ba đầu ma Ba đầu ma là một A tăng kỳ (vô lượng số). A tăng kỳ A tăng kỳ là một Thú. Thú Thú là một Dụ. Dụ Dụ là một Vô số.
Vô số Vô số là một Vô số chuyển. Vô số chuyển Vô số chuyển là một Vô lượng. Vô lượng Vô lượng là một Vô lượng chuyển. Vô lượng chuyển Vô lượng chuyển là một Vô biên. Vô biên Vô biên là một Vô biên chuyển. Vô biên chuyển Vô biên chuyển là một Vô đẳng. Vô đẳng Vô đẳng là một Vô đẳng chuyển. Vô đẳng chuyển Vô đẳng chuyển là một Bất khả số.
Bất khả số bất khả số vi nhất bất khả số chuyển, bất khả số chuyển bất khả số chuyển vi nhất bất khả xưng, bất khả xưng bất khả xưng vi nhất bất khả xưng chuyển, bất khả xưng chuyển bất khả xưng chuyển vi nhất bất khả tư, bất khả tư bất khả tư vi nhất bất khả tư chuyển, bất khả tư chuyển bất khả tư chuyển vi nhất bất khả lượng, bất khả lượng bất khả lượng vi nhất bất khả lượng chuyển, bất khả lượng chuyển bất khả lượng chuyển vi nhất bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết vi nhất bất khả thuyết chuyển, bất khả thuyết chuyển bất khả thuyết chuyển vi nhất bất khả thuyết bất khả thuyết, thử hựu bất khả thuyết bất khả thuyết vi nhất bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển.
Bất khả sổ lần bất khả sổ làm một bất khả chuyển. Bất khả số chuyển lần bất khả sổ chuyển làm một bất khả xưng. Bất khả xưng lần bất khả xưng làm một bất khả xưng chuyển. Bất khả xưng chuyển lần bất khả xưng chuyển làm một bất khả tư. Bất khả tư lần bất khả tư làm một bất khả tư chuyển. Bất khả tư chuyển lần bất khả tư chuyển làm một bất khả lượng. Bất khả lượng lần bất khả lượng làm một bất khả lượng chuyển. Bất khả lượng chuyển lần bất khả lượng chuyển làm một bất khả thuyết. Bất khả thuyết lần bất khả thuyết làm một bất khả thuyết chuyển. Bất khả thuyết chuyển lần bất khả thuyết chuyển làm một bất khả thuyết bất khả thuyết. Bất khả thuyết bất khả thuyết lần bất khả thuyết bất khả thuyết làm một bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển.
Giảng: Bất khả số Bất khả số là một Bất khả số chuyển. Bất khả số chuyển Bất khả số chuyển là một Bất khả xưng. Bất khả xưng Bất khả xưng là một Bất khả xưng chuyển. Bất khả xưng chuyển Bất khả xưng chuyển là một Bất khả tư. Bất khả tư Bất khả tư là một Bất khả tư chuyển. Bất khả tư chuyển Bất khả tư chuyển là một Bất khả lượng. Bất khả lượng Bất khả lượng là một Bất khả lượng chuyển. Bất khả lượng chuyển Bất khả lượng chuyển là một Bất khả thuyết. Bất khả thuyết Bất khả thuyết là một Bất khả thuyết chuyển. Bất khả thuyết chuyển Bất khả thuyết chuyển là một Bất khả thuyết bất khả thuyết. Bất khả thuyết bất khả thuyết Bất khả thuyết bất khả thuyết là một Bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển.
Những số mục nầy nói ra là vô cùng tận, thậm chí máy vi tính hiện nay cũng tính không rõ ràng được, nhưng vị Tự Tại Chủ đồng tử nầy có thể tính ra được.
Thiện nam tử! ngã dĩ thử Bồ Tát toán Pháp, toán vô lượng do-tuần quảng đại sa tụ, tất tri kỳ nội khỏa lạp đa thiểu; diệc năng toán tri Đông phương sở hữu nhất thiết thế giới chủng chủng sái biệt thứ đệ an trụ, Nam Tây Bắc phương, tứ duy thượng hạ diệc phục như thị
Này thiện nam tử ! Ta dùng Bồ Tát toán pháp này để toán đống cát rộng lớn vô lượng do tuần, đều biết trong đó có bao nhiêu hột cát. Cũng có thể toán biết phương Ðông có tất cả bao nhiêu thế giới sai khác thứ đệ an trụ. Chín phương cũng như vậy.
Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng toán pháp của Bồ Tát nầy, để tính đống cát rộng lớn vô lượng do tuần (một đại do tuần là tám mươi dặm), ta đều hoàn toàn biết được trong đó có bao nhiêu hạt cát. Ta cũng tính biết được hết thảy tất cả thế giới đủ thứ sự khác biệt ở phương đông, nhân duyên thứ tự an trụ. Đồng thời cũng biệt được tất cả thế giới ở phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Diệc năng toán tri thập phương sở hữu nhất thiết thế giới quảng hiệp đại tiểu cập dĩ danh tự, kỳ trung sở hữu nhất thiết kiếp danh, nhất thiết Phật danh, nhất thiết pháp danh, nhất thiết chúng sanh danh, nhất thiết nghiệp danh, nhất thiết Bồ Tát danh, nhất thiết đế danh, giai tất liễu tri.
Ta cũng có thể toán biết mười phương có tất cả bao nhiêu thế giới rộng hẹp lớn nhỏ và danh hiệu, trong đó bao nhiên tên của tất cả kiếp, tên của tất cả Phật, tên của tất cả chúng sanh, tên của tất cả nghiệp, tên của tất cả Bồ Tát, tên của tất cả đế lý, ta đều biết rõ.
Giảng: Ta cũng biết được hết thảy tất cả thế giới trong mười phương, dài ngắn, rộng hẹp, lớn nhỏ, ngửa úp, vuông tròn, tam giác, đa giác, và các danh từ của những thế giới đó. Trong đó hết thảy tất cả tên kiếp, tất cả danh hiệu Phật, tất cả tên pháp, tất cả tên chúng sinh, tất cả tên nghiệp, tất cả danh hiệu Bồ Tát, tất cả tên đế lý, ta đều hoàn toàn biết rõ hết.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử nhất thiết công xảo đại thần thông trí quang minh Pháp môn.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết một pháp môn nhất thiết công xảo đại thần thông trí quang minh này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Tất cả công xảo đại thần thông trí quang minh nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, năng tri nhất thiết chư chúng sanh số, năng tri nhất thiết chư pháp phẩm loại số, năng tri nhất thiết chư pháp sái biệt số, năng tri nhất thiết tam thế số, năng tri nhất thiết chúng sanh danh số, năng tri nhất thiết chư pháp danh số, năng tri nhất thiết chư Như Lai số, năng tri nhất thiết chư Phật danh số, năng tri nhất thiết chư Bồ-tát số, năng tri nhất thiết Bồ Tát danh số
Như chư đại Bồ Tát có thể biết tất cả số chúng sanh, biết tất cả số phẩm loại của các pháp, biết số sai biệt của tất cả pháp, biết số tất cả tam thế, biết danh số tất cả chúng sanh, biết danh số tất cả pháp, biết số tất cả Như Lai, biết danh số tất cả chư Phật, biết số tất cả Bồ Tát, biết danh số tất cả Bồ Tát.
Giảng: Như các đại Bồ Tát biết được số tất cả chúng sinh. Biết được số phẩm loại tất cả các pháp. Biết được số tất cả các pháp khác biệt. Biết được số tất cả ba đời. Biết được số tên tất cả chúng sinh. Biết được số tên tất cả các pháp. Biết được số tất cả các Như Lai. Biết được số danh hiệu tất cả chư Phật. Biết được số tất cả các Bồ Tát. Biết được số danh hiệu tất cả Bồ Tát.
Nhi ngã hà năng thuyết kỳ công đức, thị kỳ sở hạnh, hiển kỳ cảnh giới, tán kỳ thắng lực, biện kỳ lạc dục, tuyên kỳ trợ đạo, chương kỳ đại nguyện, thán kỳ diệu hạnh, xiển kỳ chư độ, diễn kỳ thanh tịnh, phát kỳ thù thắng trí tuệ quang minh?
Như vậy ta làm sao biết được nói được công đức đó, làm sao hiển thị được công hạnh và cảnh giới đó, làm sao khen được thắng lực đó, biện được lạc dục đó, tuyên được trợ đạo đó, bày được đại nguyện đó, khen được diệu hạnh đó, xiển dương được các Ba la mật đó, diễn nói được thanh tịnh đó, nhẫn đến làm sao phát được trí huệ quang minh thù thắng đó.
Giảng: Mà ta làm sao nói được những công đức đó? Làm sao hiển bày được những hạnh đó? Làm sao hiển ra được những cảnh giới đó? Làm sao khen ngợi được những sức thù thắng đó? Làm sao diễn nói được những vui thích đó? Làm sao nói được những pháp trợ đạo đó? Làm sao bày được những đại nguyện đó? Làm sao khen ngợi được những diệu hạnh đó? Làm sao xiển dương đuợc các độ Ba La Mật đó? Làm sao diễn nói được những thanh tịnh đó? Làm sao phát dương được những trí huệ quang minh thù thắng đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất đại thành, danh viết: hải trụ; hữu ưu-bà-di, danh vi: cụ túc. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Hải Trụ. Trong thành ấy có một Ưu bà di tên là Cụ Túc. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy có một thành lớn, tên là Hải Trụ. Trong thành đó có ưu bà di, tên là Cụ Túc. Ngươi hãy đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử văn thị ngữ dĩ, cử thân mao thụ, hoan hỉ dũng dược, hoạch đắc hy hữu tín lạc bảo tâm, thành tựu quảng đại lợi chúng sanh tâm, tất năng minh kiến nhất thiết chư Phật xuất hưng thứ đệ, tất năng thông đạt thậm thâm trí tuệ thanh tịnh Pháp luân, ư nhất thiết thú giai tùy hiện thân, liễu tri tam thế bình đẳng cảnh giới, xuất sanh vô tận công đức đại hải, phóng đại trí tuệ tự tại quang minh, khai tam hữu thành sở hữu quan thược
Thiện Tài đồng tử nghe lời trên đây, cả mình rởn ốc hoan hỷ vô lượng, được tâm tin mến hi hữu, thành tựu tâm rộng lớn lợi ích chúng sanh, đều có thể thấy rõ tất cả chư Phật thứ đệ xuất thế, đều có thể thông đạt pháp luân trí huệ thậm thâm thanh tịnh. Nơi tất cả các loài đều tùy loại hiện thân. Rõ biết cảnh giới tam thế bình đẳng. Xuất sanh vô tận công đức hải. Phóng đại trí huệ tự tại quang minh. Mở khóa cửa thành ba cõi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe lời Tự Tại Chủ đồng tử nói rồi, toàn thân đều dựng lông, hoan hỉ vui mừng. Dựng lông có hai ý nghĩa:
1. Hoan hỉ mà dựng lông.
2. Sợ hãi mà dựng lông.
Thiện Tài đồng tử hoan hỉ Phật pháp chưa từng có, nên đắc được tâm báu niềm tin hoan hỉ ít có, thành tựu tâm lợi ích chúng sinh rộng lớn, Ngài hoàn toàn đều thấy rõ được tất cả chư Phật thứ tự xuất hiện ra đời – Vị Phật nào xuất hiện ra đời trước? Vị Phật nào xuất hiện ra đời sau. Ngài còn thông đạt được trí huệ thanh tịnh pháp luân thâm sâu. Trong tất cả cõi ác, Ngài đều tuỳ thuận phẩm loại chúng sinh khác nhau mà hiện thân, để giáo hoá chúng sinh lìa khổ được vui. Ngài còn biết rõ cảnh giới ba đời – quá khứ, hiện tại, vị lai, đều bình đẳng. Sinh ra biển công đức vô tận vô biên. Phóng ra quang minh đại trí huệ tự tại. Mở khoá hết thảy cửa thành ba cõi – Cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc.
Đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đảnh lễ chân Tự Tại Chủ đồng tử, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Sau đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Tự Tại Chủ đồng tử, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam, để tìm một vị thiện tri thức khác.
==========================
13. CỤ TÚC ƯU BÀ DI
PHÓ THÁC THỨ 13 – VÔ VI NGHỊCH HẠNH
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử quan sát tư tánh thiện tri thức giáo, do như cự hải thọ đại vân vũ vô hữu yếm túc, tác thị niệm ngôn: thiện tri thức giáo, do như xuân nhật, sanh trưởng nhất thiết thiện pháp căn gốc, thiện tri thức giáo, do như mãn nguyệt, phàm sở chiếu cập giai sử thanh lương; thiện tri thức giáo, như hạ tuyết sơn, năng trừ nhất thiết chư thú nhiệt khát; thiện tri thức giáo, như phương trì nhật, năng khai nhất thiết thiện tâm liên hoa; thiện tri thức giáo, như đại bảo châu, chủng chủng pháp bảo sung mãn kỳ tâm; thiện tri thức giáo, như Diêm-phù thọ, tích tập nhất thiết phước trí hoa quả; thiện tri thức giáo, như Đại long Vương, ư hư không trung du hí tự tại; thiện tri thức giáo, Như-Tu-Di-Sơn vô lượng thiện Pháp, tam thập tam thiên ư trung chỉ trụ; thiện tri thức giáo, do như Đế Thích, chúng hội vi nhiễu, vô năng ánh tế, năng phục dị đạo, tu La quân chúng.
Bấy giờ thiện Tài quán sát tư duy lời dạy của thiện tri thức, dường như biển lớn nhận nước mưa to không nhàm đủ. Tự nghĩ rằng lời dạy của thiện tri thức như xuân nhựt, sanh trưởng tất cả gốc mầm pháp lành. Lời dạy của thiện trí thức như mãn nguyệt, phàm chỗ chiếu đến đều làm cho mát mẻ. Lời dạy của thiện tri thức như núi Tuyết mùa hạ, hay làm cho muông thú khỏi nóng khát. Lời dạy của thiện tri thức như mặt nhựt chiếu ao nước thơm, làm nở tất cả những hoa sen thiện tâm. Lời dạy của thiện tri thức như châu đại bửu, những pháp bửu sung mãn nơi tâm. Lời dạy của thiện tri thức như cây diêm phù, chứa nhóm tất cả hoa quả phước trí. Lời dạy của thiện tri thứa như đại Long Vương, du hí tự tại trên hư không. Lời dạy của thiện tri thức như núi Tu Di, Ðao Lợi Thiên vô lượng thiện pháp ở trong đó. Lời dạy của thiện tri thức dường như Ðế Thích chúng hội vây quanh, không ai chói che được, hay phục ngoại đạo và chúng ma quân.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử quán sát suy gẫm, lời dạy của thiện tri thức, giống như biển cả, hay thọ nhận sự thấm nhuần mây lớn và nước mưa lớn, chưa từng khi nào cảm thấy nhàm đủ. Ngài lại nghĩ như vầy: “Lời dạy của thiện tri thức như mặt trời mùa xuân, hay sinh trưởng tất cả căn mầm thiện pháp. Lời dạy của thiện tri thức như ánh trăng rằm, che phủ tất cả chúng sinh, phàm là vật chiếu đến, đều được mát mẻ. Lời dạy của thiện tri thức như núi tuyết hè, hay diệt trừ nóng khát của tất cả chúng sinh. Lời dạy của thiện tri thức như ánh mặt trời chiếu ao thơm, hay nở tất cả hoa sen tâm lành. Lời dạy của thiện tri thức như châu báu lớn, chảy ra đủ thứ pháp bảo đầy dẫy trong tâm. Lời dạy của thiện tri thức như cây Diêm Phù Đàn Kim (lá màu vàng tía, ít có trên thế gian), hay tích tụ tất cả hoa quả phước đức và trí huệ. Lời dạy của thiện tri thức như đại Long Vương, du hí tự tại ở trong hư không. Lời dạy của thiện tri thức như núi Tu Di, hay nhiếp thu vô lượng pháp lành. Vì Cõi trời Ba Mươi Ba của Thiên Chủ Thích Đề Hoàn Nhơn ở trên đỉnh núi Tu Di. Lời dạy của thiện tri thức như trời Đế Thích, được chúng hội vây quanh không ai có thể che khuất được, ông ta cũng hay hàng phục bàng môn tả đạo, chiến thắng chúng quân A Tu La”.
A Tu La Vương muốn chiếm đoạt chỗ ngồi và quyền lực trời của trời Đế Thích, nên thường đem quân đến đánh với trời Đế Thích, nhưng lần nào trời Đế Thích cũng thắng.
Như thị tư duy. Tiệm thứ du hành, chí hải trụ thành, xứ xứ tầm mịch thử ưu-bà-di. Thời, bỉ chúng nhân hàm cáo chi ngôn: Thiện nam tử! thử ưu-bà-di tại thử thành trung sở trụ trạch nội. Thiện Tài văn dĩ, tức nghệ kỳ môn, hợp chưởng nhi lập. kỳ trạch quảng bác, chủng chủng trang nghiêm, chúng bảo viên tường châu táp vi nhiễu, tứ diện giai hữu bảo trang nghiêm môn.
Suy gẫm như vậy, từ từ đi đến thành Hải Trụ, đi khắp nơi tìm kiếm vị ưu bà di đó. Bấy giờ, chúng người đó đều nói rằng: Thiện nam tử! Vị ưu bà di nầy đang ở tại nhà trong thành nầy.
Giảng: Thiện Tài nghe rồi, liền đi đến cửa nhà Cụ Túc ưu bà di, chắp tay mà đứng. Nhà đó rộng lớn, có đủ thứ sự trang nghiêm. Tường vách bằng các thứ báu, vòng khắp chung quanh. Bốn mặt đều có cửa báu trang nghiêm.
Thiện Tài đồng tử suy gẫm như vậy, từ từ đi về hướng nam, đến thành Hải Trụ. Hải Trụ là nương tựa gần biển mà trụ, biểu thị trụ nơi nhẫn, bao hàm tất cả như biển cả. Sau đó Thiện Tài đồng tử bèn đi khắp nơi tìm kiếm vị Cụ Túc ưu bà di đó. Lúc đó, đại chúng trong thành đó đều nói rằng: “Thiện nam tử! Vị Cụ Túc ưu bà di nầy hiện đang ở tại nhà trong thành nầy”.
Phó thác vị thứ mười ba nầy là vô vi nghịch hạnh. Hải trụ biểu nhẫn nhục Ba La Mật. Cụ Túc ưu bà di có một đồ đựng nhỏ, trong đồ đựng đó, đều có đủ hết, nên gọi là cụ túc. Hơn nữa, đồ chứa đựng đó có thể dung khắp tất cả đức, nhẫn nhục nhu hoà, nên phó thác người nữ.
Thiện Tài đồng tử nghe rồi, liền đi đến cửa nhà Cụ Túc ưu bà di, chắp tay lại mà đứng. Nhà đó rộng lớn, có đủ thứ sự trang nghiêm. Tường vách làm bằng các thứ báu, vòng khắp chung quanh. Bốn mặt đều có cửa báu trang nghiêm, một căn nhà cực kỳ hoành tráng.
Thiện Tài nhập dĩ, kiến ưu-bà-di xứ ư bảo tọa, thịnh niên hảo sắc, đoan chánh khả hỉ, tố phục thùy phát, thân vô anh lạc, kỳ thân sắc tướng uy đức quang minh, trừ Phật Bồ-tát dư vô năng cập.
Thiện Tài vào nhà, thấy Cụ Túc Ưu bà di ngồi trên tòa báu, tuổi lớn xinh đẹp đoan trang đáng kính, mặc y phục trắng, rũ tóc, không đeo chuỗi ngọc. Thân tướng của Ưu bà di này oai đức quang minh, trừ Phật và đại Bồ Tát, không ai bằng được.
Giảng: Thiện Tài đồng tử vào nhà rồi, thấy vị Cụ Túc ưu bà di ngồi trên toà báu, độ tuổi trung niên xinh đẹp, tướng mạo đoan chánh đáng kính, đó là do quả báo của sự nhẫn nhục. Cô ta mặc y phục trắng, tóc rũ xuống, thân không mang trang sức chuỗi ngọc, biểu thị đức nhẫn nhục khiêm hạ. Sắc tướng trên thân cô ta phóng ra quang minh oai đức, ngoại trừ Phật Bồ Tát ra, không ai sánh bằng cô ta. Đây là pháp thân Đại Sĩ đại quyền thị hiện, dùng sức nhu hoà nhẫn nhục để nhiếp thọ chúng sinh.
Ư kỳ trạch nội, phu thập ức tọa, siêu xuất nhân, Thiên nhất thiết sở hữu, giai thị Bồ Tát nghiệp lực thành tựu. Trạch trung vô hữu y phục, ẩm thực cập dư nhất thiết tư sanh chi vật, đãn ư kỳ tiền trí nhất tiểu khí.
Trong nhà để mười ức tòa ngồi, hơn cả nhơn thiên. Ðây đều là do nghiệp lực Bồ Tát hiện thành. Trong nhà không có y phục, đồ uống ăn và không có tất cả đồ tư sanh khác. Chỉ trước mặt Ưu bà di này để một cái bát nhỏ.
Giảng: Ở trong nhà đó, trưng bày mười ức toà ngồi, hơn hẳn chư Thiên. Tất cả hết thảy, đều là nghiệp lực của Bồ Tát thành tựu. Trong nhà đó, không có y phục và thức ăn uống, cùng tất cả vật tư sanh khác, chỉ để một đồ đựng nhỏ ở trước mặt Cụ Túc ưu bà di.
Phục hưũ nhất vạn đồng nữ vi nhiễu, uy nghi sắc tướng như Thiên thải nữ, diệu bảo nghiêm cụ trang sức kỳ thân, ngôn âm mỹ diệu, văn giả hỉ duyệt, thường tại tả hữu, thân cận chiêm ngưỡng, tư tánh quan sát, khúc cung đê thủ, ưng kỳ giáo mạng. Bỉ chư đồng nữ, thân xuất diệu hương, phổ huân nhất thiết; nhược hữu chúng sanh ngộ tư hương giả, giai Bất-thoái-chuyển, Vô Nộ hại tâm, vô oán kiết tâm, vô xan tật tâm, vô siểm cuống tâm, vô hiểm khúc tâm, vô tăng ái tâm, vô sân khuể tâm, vô hạ liệt tâm, vô cao mạn tâm, sanh bình đẳng tâm, khởi Đại từ tâm, phát lợi ích tâm, trụ luật nghi tâm, ly tham cầu tâm. Văn kỳ âm giả, hoan hỉ dũng dược; kiến kỳ thân giả, tất ly tham nhiễm.
Lại có một vạn đồng nữ xinh đẹp như Thiên nữ vây quanh, những diệu bửu trang sức nơi thân, lời nói diệu dàng người nghe đều vui đẹp. Các đồng nữ này thường thân cận hai bên Ưu bà di tư duy quán sát, cúi đầu khom mình ứng chực sai khiến. Các đồng nữ này, nơi thân phát ra mùi thơm lan khắp nơi. Nếu có chúng sanh nào gặp được mùi thơm này thời đều được bất thối chuyển không lòng giận hại, không lòng oán thù, không lòng tham ganh, không lòng dua dối, không lòng hiểm độc, không lòng yêu ghét, không lòng giận hờn, không lòng hạ liệt, không lòng cao mạn, sanh lòng bình đẳng, khởi tâm đại từ, phát tâm lợi ích, trụ tâm luật nghi, rời tâm tham cầu. Người thấy thân các đồng nữ này thời đều lìa tham nhiễm. Người nghe tiếng các đồng nữ này thời đều vui mừng hớn hở.
Giảng: Lại có một vạn đồng nữ vây quanh Cụ Túc ưu bà di đó. Một vạn biểu thị vạn hạnh. Oai nghi và sắc tướng của các đồng nữ đó, như thể nữ trên trời, đều dùng đồ báu đẹp vi diệu nghiêm sức nơi thân, lời nói của họ rất mỹ miều vi diệu, khiến cho ai nghe cũng hoan hỉ. Họ thường ở hai bên trái phải của Cụ Túc ưu bà di, gần gũi chiêm ngưỡng, suy gẫm quán sát lời dạy của Cụ Túc ưu bà di, khom mình cúi đầu, cung kính lắng nghe sự sai bảo của Cụ Túc ưu bà di. Một vạn đồng nữ đó, là quyến thuộc của Cụ Túc ưu bà di, biểu thị vạn hạnh đều thuận nhẫn.
Các đồng nữ đó, thân toả ra hương thơm, xông khắp tất cả thế giới. Nếu có chúng sinh nào ngửi được mùi hương đó, đều được không thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, họ sẽ không có tâm nộ hại người khác, không có tâm oán hận kết thù, mà hay tha thứ người khác, hoà bình với nhau. Họ cũng không có tâm tham sẻn đố kị, không có tâm xiểm nịnh dối trá, không có tâm âm hiểm quanh co, không có tâm phân biệt thương ghét, không có tâm sân hại, không có tâm hạ liệt, không có tâm cống cao ngã mạn. Ngược lại, họ sinh tâm bình đẳng, sinh khởi tâm đại từ, phát tâm lợi ích chúng sinh, trụ tâm luật nghi, xa lìa tâm tham cầu. Ở Vạn Phật Thành có năm đại quy cụ:
1. Không tham.
2. Không tranh.
3. Không cầu.
4. Không ích kỷ.
5. Không tư lợi.
Năm quy cụ nầy có thể chế ngự tâm cuồng vọng của người tu đạo, khiến cho các hạnh của họ được thanh tịnh, để hành Bồ Tát đạo. Nếu có chúng sinh nào nghe được tiếng của một vạn đồng nữ đó, thì đều hoan hỉ vui mừng. Nếu ai thấy được thân của họ, thì đều lìa khỏi tham nhiễm.
Nhĩ thời, Thiện Tài ký kiến cụ túc ưu-bà-di dĩ, đảnh lễ kỳ túc, cung kính vi nhiễu, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đảnh lễ Ưu bà di, cung kính hữu nhiễu, chắp tay bạch rằng: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy Cụ Túc ưu bà di rồi, bèn đảnh lễ, đi nhiễu quanh bên phải, sau đó cung kính chắp tay bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin giảng nói cho.
Giảng: Con nghe Tự Tại Chủ đồng tử giới thiệu đức Thánh cho con, nói đức Thánh khéo chỉ dạy chúng sinh, xin Ngài hãy vì con mà nói”.
Bỉ tức cáo ngôn: Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát vô tận phước đức tạng giải thoát môn, năng ư như thị nhất tiểu khí trung, tùy chư chúng sanh chủng chủng dục lạc, xuất sanh chủng chủng mỹ vị ẩm thực, tất lệnh sung mãn.
Cụ Túc Ưu bà di nói: Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát Bồ Tát vô tận công đức tạng . Có thể ở trong một cái bát nhỏ này, tùy theo sở thích của tất cả chúng sanh, mà xuất hiện các thứ đồ uống ăn ngon lành, làm cho họ đều được no đủ cả.
Giảng: Cụ Túc ưu bà di liền bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta đắc được môn giải thoát Bồ Tát vô tận phước đức tạng, có thể ở trong một cái bát nhỏ như vầy, tuỳ thuận tâm ý ưa thích đủ thứ của các chúng sinh, mà sinh ra đủ thứ thức ăn uống mỹ vị, đều khiến cho tất cả chúng sinh đều được đầy đủ.
Giả sử bách chúng sanh, thiên chúng sanh, bách thiên chúng sanh, ức chúng sanh, bách ức chúng sanh, thiên ức chúng sanh, bách thiên ức na do tha chúng sanh, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh; giả sử Diêm-phù-đề vi trần số chúng sanh, nhất tứ thiên hạ vi trần số chúng sanh, Tiểu Thiên thế giới, Trung Thiên thế giới, Đại Thiên thế giới, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh; giả sử thập phương thế giới nhất thiết chúng sanh, tùy kỳ dục lạc tất lệnh sung mãn, nhi kỳ ẩm thực vô hữu cùng tận diệc bất giảm thiểu.
Giả sử có trăm chúng sanh, ngàn chúng sanh nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh, giả sử có Diêm Phù Ðề vi trần số chúng sanh tứ thiên hạ vi trần số chúng sanh, Tiểu Thiên thế giới, Trung Thiên thế giới, Ðại Thiên thế giới, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh, giả sử tất cả chúng sanh cùng khắp mười phương thế giới, cũng đều tùy sở thích làm cho họ được no đủ cả. Mà trong bát nhỏ này, đồ dùng không cùng tận, không giảm ít.
Giảng: Giả sử có một trăm chúng sinh, một ngàn chúng sinh, một trăm ngàn chúng sinh, một ức chúng sinh, một trăm ức chúng sinh, một ngàn ức chúng sinh, một trăm ngàn ức Na do tha chúng sinh, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh. Lại giả sử chúng sinh nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, chúng sinh nhiều như số hạt bụi một bốn thiên hạ, tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, đại thiên thế giới, cho đến chúng sinh nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Lại giả sử tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, tuỳ sự ưa thích của họ, ta cũng đều khiến cho họ được đầy đủ, mà thức ăn uống đó không cùng tận, cũng không giảm bớt, lấy không cạn dùng không hết”.
Cái bát nhỏ đó là vô tận duyên khởi dung đồng pháp giới, nên dùng chẳng hết, lợi ích chẳng hết, thể không tăng giảm. Còn là biểu thị nhẫn nhục, pháp nhẫn đồng như một vị, nên gọi là một. Trong không ngoài giả là đồ đựng. Lão Tử có nói rằng: “Hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng, vô không bất thành ư giả”, cho nên không hay dung nhiều. Nhẫn hay bao hàm không ngoài, nên tuỳ ý sinh ra vô tận.
Như ẩm thực, như thị chủng chủng thượng vị, chủng chủng sàng tọa, chủng chủng y phục, chủng chủng ngọa cụ, chủng chủng xa thừa, chủng chủng hoa, chủng chủng man, chủng chủng hương, chủng chủng đồ hương, chủng chủng thiêu hương, chủng chủng mạt hương, chủng chủng trân bảo, chủng chủng anh lạc, chủng chủng tràng, chủng chủng phiên, chủng chủng cái, chủng chủng thượng diệu tư sanh chi cụ, tùy ý sở lạc tất lệnh sung túc.
Như đồ uống ăn đây, các thứ thượng vị, các thứ giường tòa, các thứ y phục, các thứ chiếu nệm, các thứ xe cộ, các thứ hoa, các thứ tràng hoa, các thứ hương, các thứ hương thoa, các thứ hương đốt, các thứ hương bột, các thứ trân bửu, các thứ anh lạc, các thứ tràng, các thứ phan, các thứ lọng, các thứ đồ tư xanh thượng diệu, tùy ý tất cả chúng sanh thích đều làm cho được đầy đủ cả.
Giảng: Cái bát nhỏ nầy, không những sinh ra thức ăn uống mỹ vị, mà còn sinh ra đủ thứ thượng vị, đủ thứ toà ngồi, đủ thứ y phục, đủ thứ toạ cụ, đủ thứ xe cộ, đủ thứ hoa, đủ thứ tràng hoa, đủ thứ hương, đủ thứ hương thoa, đủ thứ hương đốt, đủ thứ hương bột, đủ thứ châu báu, đủ thứ chuỗi ngọc, đủ thứ tràng, đủ thứ phan, đủ thứ lọng, đủ thứ đồ tư sanh tốt đẹp. Ta đều tuỳ ý sự ưa thích trong tâm của chúng sinh, đều khiến cho họ được đầy đủ.
Hựu, Thiện nam tử! giả sử Đông phương nhất thế giới trung, Thanh văn, độc giác thực ngã thực dĩ, giai chứng Thanh văn, Bích Chi Phật quả, trụ tối hậu thân; như nhất thế giới trung, như thị bách thế giới, thiên thế giới, bách thiên thế giới, ức thế giới, bách ức thế giới, thiên ức thế giới, bách thiên ức thế giới, bách thiên ức na-do-tha thế giới, Diêm-phù-đề vi trần số thế giới, nhất tứ thiên hạ vi trần số thế giới, tiểu thiên quốc độ vi trần số thế giới, trung thiên quốc độ vi trần số thế giới, tam thiên Đại Thiên quốc độ vi trần số thế giới, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới trung, sở hữu nhất thiết Thanh văn, độc giác thực ngã thực dĩ, giai chứng Thanh văn, Bích Chi Phật quả, trụ tối hậu thân. Như ư Đông phương, Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.
Lại này thiện nam tử ! Giả sử phương Ðông trong một thế giới, hàng Thanh Văn, Ðộc Giác ăn đồ ăn của ta rồi thời đều chứng quả Thanh Văn, quả Bích Chi Phật trụ tối hậu thân. Như một thế giới, trăm thế giới, ức thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, trong đó tất cả hàng Thanh Văn và Ðộc Giác ăn thực phẩm của ta rồi, thời đều chứng quả Thanh Văn và Bích Chi Phật, trụ tối hậu thân. Như phương Ðông, chín phương kia cũng đều như vậy.
Giảng: Chẳng những hàng Thanh Văn Độc Giác trong một thế giới như thế, mà trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, ức thế giới, trăm ức thế giới, ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức thế giới, trăm ngàn ức Na do tha thế giới, thế giới nhiều như số hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, thế giới nhiều như số hạt bụi một bốn thiên hạ, thế giới nhiều như số hạt bụi tiểu thiên cõi nước, thế giới nhiều như số hạt bụi trung thiên cõi nước, thế giới nhiều như số hạt bụi ba ngàn đại thiên cõi nước, cho đến thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật như vậy. Hết thảy tất cả hàng Thanh Văn Độc Giác, dùng thức ăn của ta rồi, đều chứng được quả Thanh Văn và Bích Chi Phật, trụ thân cuối cùng, thành tựu quả Phật, đắc được vô sinh pháp nhẫn, không còn thọ các thân sau nữa. Phương đông như vậy, phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng đều như thế.
Hựu, Thiện nam tử! Đông phương nhất thế giới, nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới trung, sở hữu nhất sanh sở hệ Bồ-tát thực ngã thực dĩ, giai Bồ-đề thụ hạ tọa ư đạo tràng, hàng phục ma quân, thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề; như Đông phương, Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.
Lại này thiện nam tử ! Phương Ðông một thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số thế giới, trong đó tất cả bậc nhất sanh bổ xứ Bồ Tát ăn thực phẩm của ta rồi, thời đều ngồi cội Bồ đề hàng phục ma quân thành Ðẳng Chánh Giác. Như phương Ðông, chín phương kia cũng đều như vậy.
Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Phương đông trong một thế giới, cho đến trong các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Hết thảy Bồ Tát còn một đời nữa thành tựu quả vị Phật, dùng thức ăn trong bát nhỏ của ta rồi, đều ngồi nơi đạo tràng ở dưới cội bồ đề, hàng phục ma quân, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chẳng những ở phương đông như thế, mà các phương nam tây bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Thiện nam tử! nhữ kiến ngã thử thập thiên đồng nữ quyến thuộc dĩ bất? đáp ngôn: dĩ kiến. Ưu-bà-di ngôn: Thiện nam tử! thử thập thiên đồng nữ nhi vi thượng thủ, như thị quyến thuộc bách vạn a-tăng-kì, giai tất dữ ngã đồng hành, đồng nguyện, đồng thiện căn, đồng xuất ly đạo, đồng thanh tịnh giải, đồng thanh tịnh niệm, đồng thanh tịnh thú, đồng vô lượng giác, đồng đắc chư căn, đồng quảng đại tâm, đồng sở hạnh cảnh, đồng lý, đồng nghĩa, đồng minh liễu Pháp, đồng tịnh sắc tướng, đồng vô lượng lực, đồng tối tinh tấn, đồng chánh pháp âm, đồng tùy loại âm, đồng thanh tịnh đệ nhất âm, đồng tán vô lượng thanh tịnh công đức, đồng thanh tịnh nghiệp, đồng thanh tịnh báo, đồng đại từ châu phổ cứu hộ nhất thiết, đồng Đại bi châu phổ thành thục chúng sanh, đồng thanh tịnh thân nghiệp tùy duyên tập khởi lệnh kiến giả hân duyệt, đồng thanh tịnh khẩu nghiệp tùy thế ngữ ngôn tuyên bố pháp hóa, đồng vãng nghệ nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng, đồng vãng nghệ nhất thiết Phật sát cúng dường chư Phật, đồng năng hiện kiến nhất thiết pháp môn, đồng trụ Bồ Tát thanh tịnh hạnh địa.
Này thiện nam tử ! Ngươi thấy mười ngàn đồng nữ đây chăng ? Ðây là những bậc thượng thủ, tất cả quyến thuộc có đến trăm vạn a tăng kỳ đồng nữ, đều cùng ta đồng hạnh, đồng nguyện, đồng thiện căn, đồng một đạo xuất ly, đồng thanh tịnh giải, đồng thanh tịnh niệm, đồng thanh tịnh thú, đồng vô lượng giác, đồng được thiện căn, đồng tâm quảng đại, đồng cảnh sở hành, đồng lý, đồng nghĩa, đồng minh liễu pháp, đồng tịnh sắc tướng, đồng vô lượng lực, đồng tối tinh tần, đồng chánh pháp âm, đồng tùy loại âm, đồng thanh tịnh đệ nhất âm, đồng tán dương vô lượng công đức thanh tịnh, đồng nghiệp thanh tịnh, đồng báo thanh tịnh, đồng đại từ cứu hộ khắp tất cả, đồng đại bi khắp thành thục chúng sanh, đồng thân nghiệp thanh tịnh tùy duyên tập khởi làm cho người thấy vui mừng, đồng khẩu nghiệp thanh tịnh tùy theo ngữ ngôn thế gian mà tuyên bố pháp hóa, đồng qua đạo tràng chúng hội của tất cả chư Phật, đồng đến tất cả Phật độ cúng dường chư Phật, đồng có thể hiện thấy tất cả pháp môn, đồng trụ Bồ Tát thanh tịnh hạnh địa.
Giảng: Cụ Túc ưu bà di hỏi Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi thấy mười ngàn đồng nữ quyến thuộc của ta nầy rồi chăng”?
Thiện Tài đồng tử đáp rằng: “Dạ đã thấy”.
Cụ Túc ưu bà di lại nói: “Thiện nam tử! Mười ngàn đồng nữ nầy là bậc thượng thủ, có trăm vạn A tăng kỳ quyến thuộc như vậy, họ đều đồng tu hành với ta, đồng phát đại nguyện, đồng gieo trồng căn lành, đồng thoát khỏi ba cõi, đồng tu hành kiến giải thanh tịnh, đồng niệm thanh tịnh, đồng xu hướng quả vị thanh tịnh, đồng đạt đến vô lượng giác đạo, đồng đắc được tất cả căn lành, đồng tâm rộng lớn, đồng cảnh giới sở hành, đồng lý, đồng nghĩa lý, đồng thấu rõ tất cả Phật pháp, đồng đắc được sắc thân thanh tịnh, đồng đắc được vô lượng thần thông lực, đồng tu hành hạnh tối tinh tấn, đồng đắc được diệu âm chánh pháp, đồng đắc được tuỳ thuận đủ thứ loại chúng sinh, để diễn nói âm thanh diệu pháp. Do đó có câu:
“Phật dùng một âm diễn nói pháp,
Chúng sinh theo loài đều hiểu được”.
Chúng ta lại đồng đệ nhất âm thanh tịnh, đồng khen ngợi vô lượng công đức thanh tịnh, đồng tạo nghiệp thanh tịnh, đồng thọ quả báo thanh tịnh. Lại đồng đại từ khắp cùng, cứu hộ khắp tất cả chúng sinh. Dùng đồng tâm đại bi khắp cùng, để thành thục tất cả chúng sinh, khiến cho họ hiểu đạo nghiệp. Lại đồng thân nghiệp thanh tịnh, tuỳ thuận nhân duyên tập khởi, dùng pháp môn phương tiện để giáo hoá chúng sinh, khiến cho ai thấy được đều vui mừng. Lại đồng miệng nghiệp thanh tịnh, tuỳ thuận lời nói thế gian khác nhau, dùng lời ái ngữ giáo hoá chúng sinh, tuyên dương truyền bá Phật pháp, giáo hoá tất cả chúng sinh. Lại đồng đi đến đạo tràng chúng hội của tất cả chư Phật, lại đồng đi đến tất cả cõi Phật, cúng dường chư Phật, lại đồng hiện thấy tất cả pháp môn, lại đồng trụ bậc Bồ Tát hạnh thanh tịnh với ta.
Thiện nam tử! thị thập thiên đồng nữ, năng ư thử khí thủ thượng ẩm thực, nhất sát-na khoảnh biến chí thập phương, cúng dường nhất thiết hậu thân Bồ Tát, Thanh văn, độc giác, nãi chí biến cập chư ngạ quỷ thú, giai lệnh sung túc. Thiện nam tử! thử thập thiên nữ dĩ ngã thử khí, năng ư Thiên trung sung túc thiên thực, nãi chí nhân trung sung túc nhân thực.
Này thiện nam từ ! Mười ngàn đồng nữ này có thể ở nơi cái bát nhỏ đây lấy thượng vị ẩm thực trong khoảng một sát na, đến khắp mười phương cúng dường tất cả tối hậu thân Bồ Tát, Thanh Văn, Ðộc Giác. Nhẫn đến bố thí các loài ngạ quỷ đều khiến no đủ. Mười ngàn đồng nữ này đem cái bát của ta đây có thể ở trong cõi trời đầy đủ thực phẩm cõi trời, nhẫn đến ở nhơn gian đầy đủ thực phẩm loài người.
Giảng: Cụ Túc ưu bà di lại nói: “Thiện nam tử! Mười ngàn đồng nữ nầy, có thể lấy thức ăn thượng hạng trong cái bát nhỏ nầy, trong khoảng sát na (thậm chỉ ngắn hơn một giây), đến khắp mười phương, cúng dường tất cả tối hậu thân Bồ Tát, hàng nhị thừa Thanh Văn và Độc Giác, cho đến khắp cùng các cõi ngạ quỷ, đều khiến cho họ đều được đầy đủ.
Thiện nam tử! Mười ngàn đồng nữ nầy, dùng thức ăn trong cái bát nhỏ nầy của ta, không những khiến cho chư Thiên được đầy đủ thức ăn cõi trời, cũng khiến cho đầy đủ thức ăn cõi người. Có thể khiến cho chúng sinh mười pháp giới, đều được thức ăn đầy đủ. Do đó có câu: “Mười pháp giới chẳng lìa một tâm niệm”, một niệm nhẫn nhục, có thể cứu tế tất cả chúng sinh”.
Thiện nam tử! thả đãi tu du, nhữ đương tự kiến. Thuyết thị ngữ thời, Thiện Tài tức kiến vô lượng chúng sanh tùng tứ môn nhập, giai ưu-bà-di Bổn Nguyện sở thỉnh. ký lai tập dĩ, phu tọa lệnh tọa, tùy kỳ sở tu, cấp thí ẩm thực, tất sử sung túc.
Này thiện nam tử ! Chờ giây lát ngươi sẽ tự thấy. Cụ Túc Ưu bà di nói xong, có vô lượng chúng sanh từ bốn cửa vào nhà. Ðại chúng này đều do bổn nguyện của Ưu bà di mời đến. Khi đại chúng đã đến xong, Ưu bà di trải tòa cho ngồi, tùy theo chỗ cần dùng của họ mà cấp thí đồ uống ăn đều khiến no đủ cả.
Giảng: Cụ Túc ưu bà di lại nói: “Thiện nam tử! Xin hãy đợi chốc lát, ngươi sẽ tự thấy, khi nói lời đó rồi, thì Thiện Tài đồng tử liền thấy vô lượng chúng sinh, từ bốn cửa đi vào, họ đều do nguyện xưa của ưu bà di mời đến. Đại chúng đó tụ tập lại rồi, đều ngồi trên toà ngồi do Cụ Túc ưu bà di đã bày sẵn mười ức toà ngồi. Sau đó tuỳ theo sự cần dùng của họ, bố thí thức ăn uống, đều khiến cho họ được đầy đủ”.
Cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! ngã duy tri thử vô tận phước đức tạng giải thoát môn.
Cụ Túc Ưu bà di bảo Thiện Tài: Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát vô tận phước đức tạng này.
Giảng: Cụ Túc ưu bà di lại bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Vô tận phước đức tạng nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát nhất thiết công đức, do như đại hải thậm thâm vô tận, do như hư không quảng đại vô tế, như như ý châu mãn chúng sanh nguyện, như Đại tụ lạc sở cầu giai đắc, Như-Tu-Di-Sơn phổ tập chúng bảo, do như áo tạng thường trữ pháp tài, do như minh đăng phá chư hắc ám, do như cao cái phổ ấm quần sanh
Như chư đại Bồ Tát, tất cả công đức dường như đại hải rất sâu vô tận, dường như hư không rộng lớn vô tế, dường như châu như ý thỏa mãn nguyện vọng của chúng sanh, như tụ lạc lớn cầu chi cũng được, như núi Tu Di nhóm đủ các báu, như áo tạng thường đựng pháp tài, như đèn sáng phá những tối tăm,như lọng cao che mát quần sanh.
Giảng: Như tất cả công đức của các đại Bồ Tát, thâm sâu vô tận như biển cả, như hư không, rộng lớn không bờ mé. Lại như châu như ý, hay làm mãn nguyện chúng sinh. Lại như thôn xóm lớn, cầu gì cũng được. Lại như núi Tu Di, khắp tụ tập tất cả châu báu. Lại như áo diệu bảo tàng, thường chứa đựng pháp tài. Lại như đèn sáng, phá tan tất cả đen tối. Lại như tràng lọng cao, che hộ khắp tất cả chúng sinh.
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Như thế ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Đủ thứ công đức như vậy, mà ta làm sao biết được, nói được hạnh công đức đó”?
Thiện nam tử! Nam phương hữu thành, danh viết: Đại hưng; bỉ hữu Cư-sĩ, danh viết: minh trí. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Pương Nam đây có một thành tên là Ðại Hưng. Trong thành có một Cư Sĩ tên là Minh Trí. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Cụ Túc ưu bà di lại nói: “Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy có một thành, tên là Đại Hưng. Trong thành đó, có vị cư sĩ tên là Minh Trí. Ngươi hãy đến đó hỏi: Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, chiêm ngưỡng vô yếm, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Cụ Túc Ưu bà di, hữu nhiễu vô lượng vòng, chiêm ngưỡng không nhàm từ tạ mà đi.
Giảng: Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ Cụ Túc ưu bà di, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, chiêm ngưỡng luyến mộ, không nhàm đủ, sau đó từ tạ mà đi về hướng nam để tìm cầu vị thiện tri thức khác.
===========================
14. CƯ SĨ MINH TRÍ
PHÓ THÁC THỨ 14 – VÔ KHUẤT NHIÊU HẠNH
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử đắc vô tận trang nghiêm phước đức tạng giải thoát quang minh dĩ, tư tánh bỉ phước đức đại hải, quan sát bỉ phước đức hư không, thú bỉ phước đức tụ, đăng bỉ phước đức sơn, nhiếp bỉ phước đức tạng, nhập bỉ phước đức uyên, du bỉ phước đức trì, tịnh bỉ phước đức luân, kiến bỉ phước đức tạng, nhập bỉ phước đức môn, hành bỉ phước đức đạo, tu bỉ phước đức chủng.
Bấy giờ Thiện Tài đã được vô tận trang nghiêm phước đức tạng giải thoát môn, suy gẫm phước đức đại hải đó, quán sát phước đức hư không đó, đến phước đức tụ đó, lên núi phước đức đó, nhiếp tạng phước đức đó, nhập vực phước đức đó, lội ao phước đức đó, tịnh xe phước đức đo, thấy kho phước đó, vào cửa phước đức đó, đi đường phước đó, tu giống phước đức đó.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đắc được môn giải thoát Vô tận trang nghiêm phước đức tạng quang minh rồi, bèn suy gẫm phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó như biển cả. Quán sát phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó như hư không. Xu hướng đống phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Lên núi phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Nhiếp tạng phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Vào vực sâu phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Bơi ao phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Thanh tịnh vòng phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Thường thấy tạng phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Vào cửa phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Hành đạo phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Tu hành hạt giống phước đức của Cụ Túc ưu bà di đó. Thiện Tài đồng tử hoàn toàn chứng nhập vào pháp môn giải thoát Vô tận trang nghiêm phước đức tạng, mà đầy đủ vô khuất nghịch hạnh.
Tiệm thứ nhi hành, chí Đại hưng thành, chu biến thôi cầu minh trí Cư-sĩ. ư thiện tri thức tâm sanh khát ngưỡng, dĩ thiện tri thức huân tập kỳ tâm, ư thiện tri thức chí dục kiên cố, phương tiện cầu kiến chư thiện tri thức tâm Bất-thoái-chuyển, nguyện đắc thừa sự chư thiện tri thức tâm vô giải quyện; tri do y chỉ thiện tri thức cố, năng mãn chúng thiện; tri do y chỉ thiện tri thức cố, năng sanh chúng phước; tri do y chỉ thiện tri thức cố, năng trưởng chúng hạnh; tri do y chỉ thiện tri thức cố, bất do tha giáo, tự năng thừa sự nhất thiết thiện hữu.
Thiện Tài đi lần đến thành Ðại Hưng tìm Cư sĩ Minh Trí. Với thiện tri thức lòng rất khát ngưỡng. Ðem thiện tri thức huân tập tâm mình. Nơi thiện tri thức chí muốn kiên cố. Phương tiện tìm thấy thiện tri thức lòng chẳng thối chuyển. Nguyện được phụng thờ chư thiện tri thức tâm không mỏi lười. Vì biết do y chỉ thiện tri thức mà được thành mãn các pháp lành. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên có thể sanh những phước đức. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên có thể thêm lớn công hạnh. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên chẳng do người khác dạy mà tự mình có thể thờ kính tất cả thiện hữu.
Giảng: Thiện Tài từ từ đi về hướng nam, đến thành Đại Hưng, đi khắp nơi tìm cầu cư sĩ Minh Trí. Ngài đối với thiện tri thức, sinh lòng khát ngưỡng, muốn gặp thiện tri thức. Ngài nhờ thiện tri thức, mà huân tập tâm mình. Khiến cho chí nguyện gặp thiện tri thức, càng kiên cố thêm. Dùng thiện xảo phương tiện cầu gặp các thiện tri thức, không bao giờ sinh tâm thối chuyển. Ngài phát nguyện thừa sự tất cả thiện tri thức, tâm cũng không cảm thấy giải đãi mệt mỏi. Lại biết do nhờ nương thiện tri thức, nên mới viên mãn tất cả các điều lành. Lại biết nhờ nương thiện tri thức, nên mới sinh ra tất cả các phước. Lại biết nhờ nương thiện tri thức, nên mới tăng trưởng tất cả Bồ Tát hạnh. Vì biết nhờ nương thiện tri thức, nên không do người khác chỉ dạy, tự mình thừa sự tất cả bạn lành.
Như thị tư duy thời, trưởng kỳ thiện căn, tịnh kỳ thâm tâm, tăng kỳ căn tánh, ích kỳ đức bổn, gia kỳ đại nguyện, quảng kỳ đại bi, cận nhất thiết trí, cụ Phổ Hiền đạo, chiếu minh nhất thiết chư Phật chánh pháp, tăng trưởng Như Lai thập lực quang minh.
Lúc Thiện Tài tư duy như vậy, được thêm lớn thiện căn, thanh tịnh thâm tâm, thêm căn tánh, lợi đức bổn, thêm đại nguyện, rộng đại bi, gần Nhứt thiết trí, đủ đạo Phổ Hiền, chiếu sáng tất cả chánh pháp của chư Phật. Thêm lớn thập lực quanh minh của chư Phật.
Giảng: Khi Thiện Tài đồng tử suy gẫm như vậy, thì tăng trưởng căn lành của mình, thanh tịnh tâm chí sâu rộng của mình, tăng trưởng căn tánh của mình, lợi ích gốc công đức của mình, thâu sâu thêm đại nguyện của mình, tâm đại bi của mình rộng lớn, gần gũi nhất thiết trí huệ, đầy đủ đạo Bồ Tát Phổ Hiền, chiếu sáng tất cả chánh pháp của chư Phật, tăng trưởng mười lực quang minh của Như Lai. Mười lực của Như Lai là:
1. Trí lực biết xứ phi xứ: Trí lực biết được đạo lý và chẳng phải đạo lý của tất cả sự vật.
2. Trí lực biết nghiệp báo ba đời: Trí lực biết được nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sinh ba đời.
3. Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội: Trí lực biết được các thứ thiền định và tám giải thoát tam muội thứ tự.
4. Trí lực biết các căn thắng liệt: Trí lực biết được căn tánh thắng liệt của chúng sinh và đắc quả lớn nhỏ.
5. Trí lực biết đủ thứ kiến giải: Trí lực biết được đủ thứ tri kiến và sự hiểu biết của tất cả chúng sinh.
6. Trí lực biết đủ thứ cõi: Trí lực biết được đủ thứ cảnh giới khác nhau của chúng sinh.
7. Trí lực biết đạo tất cả nơi đến: Trí lực biết được hành đạo nhân quả của tất cả chúng sinh.
8. Trí lực biết thiên nhãn vô ngại: Trí lực có thể dùng thiên nhãn thấy sinh tử và thiện ác nghiệp duyên của chúng sinh mà không chướng ngại.
9. Trí lực biết túc mạng vô lậu: Trí lực biết đời trước của chúng sinh và biết vô lậu Niết Bàn.
10. Trí lực biết dứt hẳn tập khí: Trí lực biết như thật tất cả vọng hoặc dư tập, dứt hẳn không còn sinh nữa.
Nhĩ thời, Thiện Tài kiến bỉ Cư-sĩ tại kỳ thành nội thị tứ cù đạo thất bảo đài thượng, xứ vô số bảo trang nghiêm chi tọa.
Thiện Tài thấy Cư sĩ Minh Trí tại ngã tư đường chợ, trên đài thất bửu, ngồi tòa vô số bửu trang nghiêm.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy vị cư sĩ Minh Trí đó đang ở trong thành, ngồi trên đài bảy báu, ở giữa ngã tư đường, toà ngồi đó có vô số báu trang nghiêm. Ngã tư đường là biểu thị chỗ ồn ào náo nhiệt, chẳng gì mà chẳng thông.
Đại hưng nghĩa là khởi đại tinh tấn. Hạnh thứ tư nầy là Vô khuất nhiễu hạnh. Cư sĩ Minh Trí, vì tấn túc tất giả trí mục đạo, lại siêng cần không giải đãi thối lùi, nên có tên là Minh Trí.
Kỳ tọa diệu hảo, thanh tịnh ma-ni dĩ vi kỳ thân, Kim cương đế thanh dĩ vi kỳ túc, bảo thằng giao lạc, ngũ bách diệu bảo nhi vi giáo sức; phu Thiên bảo y, kiến Thiên tràng phan, trương đại bảo võng, thí đại bảo trướng; diêm phù đàn kim dĩ vi kỳ cái, Tì lưu ly bảo dĩ vi kỳ can, lệnh nhân chấp trì dĩ phước kỳ thượng; nga vương vũ cách thanh tịnh nghiêm khiết dĩ vi kỳ phiến; huân chúng diệu hương, vũ chúng thiên hoa; tả hữu thường tấu ngũ bách nhạc âm, kỳ âm mỹ diệu qua ư Thiên nhạc, chúng sanh văn giả vô bất duyệt dự.
Tòa đó diệu hảo bằng thanh tịnh ma ni. Chân tòa bằng kim cang đế thanh. Dây báu giao xen. Nghiêm sức với năm trăm diệu bửu. Trải bửu y cõi trời. Dựng tràng phan cõi trời. Giăng lưới đại bửu. Thiết trướng đại bửu. Vàng diêm phù đàn làm lọng. Tỳ lưu ly bửu làm cán, bảo người cầm che. Lông cánh nga vương thanh tịnh sạch đẹp dùng làm quạt. Xông những diệu hương. Mưa những thiên hoa. Hai bên năm trăm tiếng nhạc thường hòa tấu. Tiếng nhạc hay hơn hơn nhạc cõi trời. Chúng sanh nghe tiếng nhạc này đều vui đẹp.
Giảng: Cư sĩ Minh Trí đó, ngồi trên toà báu rất tốt đẹp, ma ni thanh tịnh dùng làm thân toà. Kim cang đế thanh dùng làm chân toà, dây báu giao với nhau. Có năm trăm thứ báu đẹp dùng để nghiêm sức. Lại trải y báu trời, dựng tràng phan trời, giăng lưới báu lớn, bày trướng báu lớn. Vàng Diêm phù đàn dùng làm lọng, tỳ lưu ly báu làm cán lọng báu, nhờ người cầm giữ, để che phía trên toà báu. Chung quanh cư sĩ Minh Trí đều có người hầu, dùng lông cánh ngỗng chúa, thanh tịnh nghiêm sạch, để làm quạt. Lại xông lên những thứ hương thơm, mưa xuống các hoa trời, trái phải thường tấu năm trăm thứ tiếng nhạc. Tiếng nhạc đó rất hay vi diệu, hay hơn nhạc trời. Chúng sinh nghe được tiếng nhạc đó, thảy đều vui mừng.
Thập thiên quyến thuộc tiền hậu vi nhiễu, sắc tướng đoan nghiêm, nhân sở hỉ kiến, Thiên trang nghiêm cụ dĩ vi nghiêm sức, ư Thiên Nhân trung tối thắng vô bỉ, tất dĩ thành tựu Bồ Tát chí dục, giai dữ Cư-sĩ đồng tích thiện căn, thị lập chiêm đối, thừa kỳ giáo mạng.
Quyến thuộc có mười ngàn người vây quanh sau trước, hình sắc đoan nghiêm, người vui được thấy, nghiêm sức với đồ trang nghiêm cõi trời. Ở trong nhơn thiên tối thắng vô tỉ. Tất cả đều đã thành tựu chí nguyện Bồ Tát. Ðều cùng với Cư sĩ Minh Trí đồng thiện căn thuở xưa. Tất cả đều đứng hầu tuân lời sai khiến.
Giảng: Chung quanh Ngài có mười ngàn quyến thuộc, vây quanh trước sau, sắc tướng của họ rất đoan nghiêm, ai thấy cũng đều hoan hỉ. Dùng đồ trang nghiêm cõi trời, để nghiêm sức. Ở trong trời người, tối thắng không ai sánh bằng. Đều đã thành tựu chí nguyện của Bồ Tát, đều đồng căn lành thuở xưa với vị cư sĩ Minh Trí, tất cả đều đứng hầu hai bên, chờ lệnh sai bảo.
Nhĩ thời, Thiện Tài đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn:
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Cư sĩ, hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ cư sĩ Minh Trí, đi nhiễu phải vô lượng vòng, đứng chắp tay mà bạch rằng:
Thánh Giả! ngã vi lợi ích nhất thiết chúng sanh cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh xuất chư khổ nạn cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh cứu cánh an lạc cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh xuất sanh tử hải cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh trụ pháp bảo châu cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh khô kiệt ái hà cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh khởi đại từ bi cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh xả ly dục ái cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh khát ngưỡng Phật trí cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh xuất sanh tử khoáng dã cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh lạc chư Phật công đức cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh xuất tam giới thành cố, vi lệnh nhất thiết chúng sanh nhập nhất thiết trí thành cố, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, vân hà tu Bồ Tát đạo, năng vi nhất thiết chúng sanh tác y chỉ xứ?
Bạch đức Thánh ! Con vì lợi ích tất cả chúng sanh. Vì làm cho tất cả chúng sanh khỏi những nạn khổ. Vì làm cho tất cả chúng sanh được rốt ráo an vui. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh tử. Vì làm cho tất cả chúng sanh ở châu pháp bửu. Vì làm cho tất cả chúng sanh khô cạn sông ái dục. Vì làm cho tất cả chúng sanh khởi đại từ bi. Vì làm cho tất cả chúng sanh bỏ lìa ái dục. Vì làm cho tất cả chúng sanh khát ngưỡng Phật trí. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi đồng hoang sanh tử. Vì làm cho tất cả chúng sanh thích công đức của chư Phật. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi thành tam giới. Vì làm cho tất cả chúng sanh nhập thành Nhứt thiết trí. Nên con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh tu Bồ Tát đạo, để có thể làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh.
Giảng: “Đức Thánh! Con vì lợi ích tất cả chúng sinh. Con vì khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi các khổ não. Vì khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo an lạc. Vì khiến cho tất cả chúng sinh thoát biển sinh tử. Vì khiến cho tất cả chúng sinh trụ pháp bảo châu. Vì khiến cho tất cả chúng sinh khô cạn sông ái. Vì khiến cho tất cả chúng sinh khởi đại từ bi. Vì khiến cho tất cả chúng sinh xả lìa ái dục. Vì khiến cho tất cả chúng sinh khát ngưỡng trí Phật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi hoang dã sinh tử. Vì khiến cho tất cả chúng sinh thích công đức của chư Phật. Vì khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi ba cõi. Vì khiến cho tất cả chúng sinh vào thành nhất thiết trí, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo? Làm nơi nương tựa của tất cả chúng sinh khổ não”.
Trưởng-giả cáo ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ nãi năng phát A-nậu-đa-la-tam miểu tam-Bồ-đề tâm.
Cư sĩ Minh Trí bảo rằng: Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ngươi có thể phát được tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Trưởng giả Minh Trí bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Thiện nam tử! phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, thị nhân nan đắc. Nhược năng phát tâm, thị nhân tức năng cầu Bồ Tát hạnh, trực ngộ thiện tri thức hằng Vô yếm túc, thân cận thiện tri thức hằng vô lao quyện, cúng dường thiện tri thức hằng bất bì giải, cấp thị thiện tri thức bất sanh ưu Thích, cầu mịch thiện tri thức chung Bất-thoái-chuyển, ái niệm thiện tri thức chung bất phóng xả, thừa sự thiện tri thức vô tạm hưu tức, chiêm ngưỡng thiện tri thức vô thời khế chỉ, hành thiện tri thức giáo vị tằng đãi nọa, bẩm thiện tri thức tâm vô hữu ngộ thất.
Này thiện nam tử ! Rất khó có người phát được tâm Vô thượng Bồ đề. Nếu có thể phát tâm ấy, thời người đó có thể cầu Bồ Tát hạnh gặp gỡ thiện tri thức hằng chẳng nhàm đủ. Gần gũi thiện tri thức hằng không mỏi nhọc. Cúng dường thiện tri thức hằng không biến lười. Cấp thị thiện tri thức chẳng có lòng ưu sầu. Tìm cầu thiện tri thức trọn chẳng thối chuyển. Mến nhớ thiện tri thức trọn chẳng buông bỏ. Phụng thờ thiện tri thức không tạm thôi nghỉ. Chiêm ngưỡng thiện tri thức không lúc nào ngừng ngớt. Thật hành lời dạy của thiện tri thức chưa từng lười biếng. Bẩm thọ tâm của thiện tri thức không có sai lầm.
Giảng: Thiện nam tử! Người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác rất khó có được. Nếu có thể chân chánh phát tâm, thì người đó sẽ cầu Bồ Tát hạnh, do nhờ ban đầu phát tâm là khởi đầu trọng yếu hành Bồ Tát đạo. Người đó sẽ gặp được thiện tri thức, luôn luôn cũng không cảm thấy nhàm đủ. Họ gần gũi thiện tri thức, cũng luôn luôn không cảm thấy mệt mỏi. Cúng dường thiện tri thức, luôn luôn không lười biếng. Cung cấp hầu hạ thiện tri thức, không sinh ưu sầu. Tìm cầu thiện tri thức, trọn không sinh tâm thối chuyển. Thương nhớ thiện tri thức, trọn không bỏ lìa. Phụng thờ thiện tri thức, không tạm thời ngừng nghỉ. Chiêm ngưỡng thiện tri thức, không lúc nào ngừng ngớt. Thực hành lời dạy của thiện tri thức, chưa từng lười biếng. Bẩm thừa tâm thiện tri thức, không có sai lầm, hoặc bỏ mất cơ hội”.
Có người hỏi: “Tại sao mỗi vị thiện tri thức đều không trả lời viên mãn câu hỏi làm thế nào hành Bồ Tát đạo của Thiện Tài đồng tử”?
Đó phải chăng các Ngài chẳng có câu trả lời cho Thiện Tài đồng tử. Vì Bồ Tát đạo rộng lớn vô biên. Mỗi vị thiện tri thức chỉ trả lời một phần, đồng thời còn khuyến khích Thiện Tài đồng tử đi tìm một vị thiện tri thức khác. Hết thảy những lời dạy của thiện tri thức, đều hổ tương trả lời câu hỏi của Thiện Tài đồng tử.
Thiện nam tử! nhữ kiến ngã thử chúng hội nhân bất? Thiện Tài đáp ngôn: duy nhiên! dĩ kiến. Cư-sĩ ngôn: Thiện nam tử! ngã dĩ lệnh kỳ phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, sanh Như Lai gia, tăng trưởng bạch pháp, an trụ vô lượng chư Ba-la-mật, học Phật thập lực, ly thế gian chủng, trụ Như Lai chủng, khí sanh tử luân, chuyển chánh Pháp luân, diệt tam ác thú, trụ chánh pháp thú, như chư Bồ-tát tất năng cứu hộ nhất thiết chúng sanh.
Này thiện nam tử ! Ngươi xem đại chúng của ta đây. Ta đã khiến họ phát tâm Vô thượng Bồ đề, sanh nhà Như Lai, thêm lớn pháp lành, an trụ vô lượng Ba la mật, học Phật thập lực, rời giống thế gian mà trụ giống Như Lai, bỏ sanh tử luân mà chuyển chánh pháp luân, diệt tam ác thú mà trụ chánh pháp thú, đều có thể cứu hộ tất cả chúng sanh như chư Bồ Tát.
Giảng: Cư sĩ Minh Trí lại hỏi: “Thiện nam tử! Ngươi thấy người trong chúng hội của ta đây chăng?
Thiện Tài đồng tử đáp rằng: “Dạ con đã thấy”.
Cư sĩ Minh Trí nói: “Thiện nam tử! Ta đã khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sinh trong nhà Như Lai, tăng trưởng pháp trắng, an trụ vô lượng các pháp môn Ba La Mật, học mười lực của Phật, lìa giống tánh thế gian, trụ giống tánh Như Lai, bỏ vòng sinh tử, chuyển bánh xe chánh pháp, tiêu diệt ba cõi ác, trụ cõi chánh pháp. Như các Bồ Tát, đều có thể cứu hộ tất cả chúng sinh”.
Thiện nam tử! ngã đắc tùy ý xuất sanh phước đức tạng giải thoát môn, phàm hữu sở tu tất mãn kỳ nguyện. Sở vị: y phục, anh lạc, tượng mã, xa thừa, hoa hương, tràng cái, ẩm thực, thang dược, phòng xá, ốc trạch, sàng tọa, đăng cự, nô tỳ, ngưu dương cập chư thị sử, như thị nhất thiết tư sanh chi vật, chư hữu sở tu tất lệnh sung mãn, nãi chí vi thuyết chân thật diệu pháp.
Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát tùy ý xuất sanh phước đức tạng. Phàm chỗ cần dủng đều thỏa mãn cả. Như là y phục, anh lạc, voi ngựa, xe cộ, hoa hương, tràng phan, bửu cái, ẩm thực, thuốc thanh, nhà phòng, giường ghế, đèn đuốc, nô tỳ, trâu, dê nà những người hầu hạ, tất cả đều đầy đủ mỗi khi cần đến, nhẫn đến vì nói diệu pháp chơn thiệt.
Giảng: Thiện nam tử! Ta được môn giải thoát Tuỳ ý sinh ra phước đức tạng. Vì tài pháp vô tận, chứa ở trong hư không, tuỳ ý ban cho, nên tên là Tuỳ ý sinh ra phước đức tạng. Phàm là chúng sinh cần gì, thì ta đều khiến cho họ được mãn nguyện. Như là: Y phục, anh lạc, voi ngựa, xe cộ, hoa hương, tràng lọng, thức ăn uống, thuốc thang, nhà cửa phòng ốc, toà ngồi, đèn đuốc, nô tỳ, bò dê và các người hầu hạ. Tất cả vật tư sanh như vậy, bất cứ ai cần dùng, chẳng những ta đều khiến cho họ được đầy đủ, mà còn vì họ diễn nói diệu pháp chân thật, để nuôi dưỡng huệ mạng của họ.
Thiện nam tử! thả đãi tu du, nhữ đương tự kiến. Thuyết thị ngữ thời, vô lượng chúng sanh tùng chủng chủng phương sở, chủng chủng thế giới, chủng chủng quốc độ, chủng chủng thành ấp, hình loại các biệt, ái dục bất đồng, giai dĩ Bồ Tát vãng tích nguyện lực, kỳ số vô biên câu lai tập hội, các tùy sở dục nhi hữu cầu thỉnh.
Này thiện nam tử ! Chờ trong giây lát ngươi sẽ tự thấy. Cư sĩ nói xong, có vô lượng chúng sanh từ các phương, các thế giới, các quốc độ, các thành ấp, hình loại khác nhau, chỗ mến thích chẳng đồng, số đông vô biên đều do Bồ Tát nguyện lực thuở xưa, đều vân tập đến, đều riêng có chỗ mong muốn mà cầu xin.
Giảng: Cư sĩ Minh Trí lại nói: “Thiện nam tử! Ngươi hãy đợi chốc lát, ngươi sẽ tự thấy được”. Khi nói lời đó, thì đột nhiên có vô lượng chúng sinh, từ đủ thứ các phương hướng, đủ thứ thế giới, đủ thứ cõi nước, đủ thứ thành ấp, hình thể giống loại khác nhau, sự ưa muốn của họ cũng khác nhau, đều do nguyện lực thuở xưa của Bồ Tát cư sĩ Minh Trí, số mục vô lượng vô biên, đều đến tụ hội, đều tuỳ ý muốn của mỗi người, mà có sự thỉnh cầu cư sĩ Minh Trí.
Nhĩ thời, Cư-sĩ tri chúng phổ tập, tu du hệ niệm, ngưỡng thị hư không; như kỳ sở tu, tất tùng không hạ, nhất thiết chúng hội phổ giai mãn túc. nhiên hậu phục vi thuyết chủng chủng Pháp. Sở vị: vi đắc mỹ thực nhi sung túc giả
Bấy giờ cư sĩ Minh Trí biết đại chúng đã đông đủ, nhiếp niệm giây lát ngước mặt ngó lên hư không. Liền đó, theo chỗ cần dùng của đại chúng mọi đồ cần dùng đều từ trên không rơi xuống, làm cho tất cả đại chúng đều được đầy đủ theo ý muốn.
Giảng: Lúc đó, cư sĩ Minh Trí biết đại chúng đã tụ tập, trong thời gian ý niệm khoảnh khắc, chuyên tâm hệ niệm, ngước đầu nhìn lên hư không. Đột nhiên những đồ cần dùng, đều từ hư không rơi xuống, hết thảy tất cả chúng hội, đều được đầy đủ. Đoạn văn nầy bao hàm đạo lý thâm áo vi diệu của Kinh Hoa Nghiêm, tức là:
“Chân không chẳng ngại diệu hữu
Diệu hữu chẳng ngại chân không”.
Dữ thuyết chủng chủng tập phước đức hạnh, ly bần cùng hạnh, tri chư Pháp hành, thành tựu pháp hỉ Thiền duyệt thực hạnh, tu tập cụ túc chư tướng hảo hạnh, tăng trưởng thành tựu nan khuất phục hạnh, thiện năng liễu đạt vô thượng thực hạnh, thành tựu vô tận Đại uy đức lực hàng ma oán hạnh
Sau đó Cư sĩ lại vì họ mà thuyết pháp. vì những người được món ăn ngon no đủ mà nói những hạnh chứa phước đức, hạnh lìa nghèo cùng, hạnh biết các pháp, hạnh thành tựu món ăn pháp hỉ thiền duyệt, hạnh tu tập đầy đủ các tướng hảo, hạnh tăng trưởng hảo, hạnh tăng trưởng thành tựu khó khuất phục, hạnh có thể khéo rõ thấy món ăn vô thượng, hạnh thành tựu vô tận đại oai đức lực hàng phục ma oán.
Giảng: Sau đó cư sĩ Minh Trí lại vì họ nói đủ thứ pháp. Đó là: Vì những người được đầy đủ thức ăn ngon, vì họ nói đủ thứ hạnh tích tụ phước đức. Hạnh xa lìa bần cùng. Hạnh biết tất cả các pháp. Hạnh thành tựu pháp hỉ thiền duyệt thực: “Thiền duyệt vi thực, pháp hỉ sung mãn”. Hạnh tu tập đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Hạnh tăng trưởng thành tựu khó khuất phục. Hạnh khéo thấu đạt thức ăn vô thượng. Hạnh thành tựu vô tận sức đại oai đức hàng phục oán.
Vi đắc hảo ẩm nhi sung túc giả, dữ kỳ thuyết Pháp, lệnh ư sanh tử, xả ly ái trước, nhập Phật Pháp vị
Cư sĩ vì những kẻ được thức uống ngon no đủ mà thuyết pháp, làm cho họ bỏ lìa sự mến chấp sanh tử để nhập Phật pháp vị.
Giảng: Vì những người được đầy đủ thức uống ngon, nói pháp cho họ nghe, khiến cho họ xả lìa tham ái và chấp trước đối với sinh tử, nhập vào vị Phật pháp.
Vi đắc chủng chủng chư thượng vị giả, dữ kỳ thuyết Pháp, giai lệnh hoạch đắc chư Phật Như Lai thượng vị chi tướng
Cư sĩ vì những người được vị vô thượng mà thuyết pháp, làm cho họ đều được tướng thượng hảo của chư Phật Như Lai.
Giảng: Vì những người được đủ thứ các thượng vị, nói pháp cho họ nghe, đều khiến cho họ đắc được tướng thượng vị của chư Phật Như Lai.
Vi đắc xa thừa nhi sung túc giả, dữ kỳ tuyên thuyết chủng chủng Pháp môn, giai lệnh đắc tái Ma-ha diễn thừa
Cư sĩ những kẻ được xe cộ đầy đủ mà thuyết pháp, làm cho họ đều được ngồi xe Ðại thừa.
Giảng: Vì những người được đầy đủ xe cộ, diễn nói đủ thứ pháp môn cho họ nghe, đều khiến cho họ được ngồi xe đại thừa.
Vi đắc y phục nhi sung túc giả, dữ kỳ thuyết Pháp, lệnh đắc thanh tịnh tàm quý chi y, nãi chí Như Lai thanh tịnh diệu sắc.
Cư sĩ vì những người được y phục thỏa mãn mà quyết pháp, làm cho họ được y phục tâm quý thanh tịnh. Nhẫn đến được diệu sắc thanh tịnh của Như Lai.
Giảng: Vì những người được đầy đủ y phục, nói pháp cho họ nghe, khiến cho họ được y hổ thẹn thanh tịnh, cho đến đắc được diệu sắc thanh tịnh của Như Lai. Người tu đạo, nên thường sinh tâm hổ thẹn.
Trong Kinh Di Giáo có nói: “Y phục hổ thẹn, là các đồ trang nghiêm bậc nhất. Hổ thẹn như chìa khoá, chế được nhân phi pháp, cho nên Tỳ Kheo thường nên hổ thẹn”.
Như thị nhất thiết mị bất châu thiệm, nhiên hậu tất vi như ưng thuyết Pháp. ký văn Pháp dĩ, hoàn quy bản xứ
Cư sĩ đều chăm sóc hoàn bị tất cả đại chúng. Mọi người nghe pháp xong đều trở về bổn xứ.
Giảng: Tất cả mọi người đều được đầy đủ như vậy, sau đó cư sĩ Minh Trí đều vì người cần nói pháp mà nói pháp. Họ nghe pháp rồi, đều trở về chỗ cũ.
Nhĩ thời, Cư-sĩ vi Thiện tài đồng tử thị hiện Bồ Tát bất khả tư nghị giải thoát cảnh giới dĩ, cáo ngôn:
Cư sĩ Minh Trí vì Thiện Tài đồng tử mà hiển bày cảnh giới Bồ Tát bất tư nghì giải thoát ồi bảo rằng:
Giảng: Lúc đó, cư sĩ Minh Trí vì Thiện Tài đồng tử, thị hiện cảnh giới Bồ Tát giải thoát không thể nghĩ bàn rồi, liền bảo rằng:
Thiện nam tử! ngã duy tri thử tùy ý xuất sanh phước đức tạng giải thoát môn.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát tùy ý xuất sanh phước đức tạng này.
Giảng: “Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Tuỳ ý sinh ra phước đức tạng nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu bảo thủ, biến phước nhất thiết thập phương quốc độ, dĩ tự tại lực phổ vũ nhất thiết tư sanh chi cụ, sở vị: vũ chủng chủng sắc bảo, chủng chủng sắc anh lạc, chủng chủng sắc bảo quán, chủng chủng sắc y phục, chủng chủng sắc âm nhạc, chủng chủng sắc hoa, chủng chủng sắc hương, chủng chủng sắc mạt hương, chủng chủng sắc thiêu hương, chủng chủng sắc bảo cái, chủng chủng sắc tràng phan, biến mãn nhất thiết chúng sanh trụ xứ, cập chư Như Lai chúng hội đạo tràng, hoặc dĩ thành thục nhất thiết chúng sanh, hoặc dĩ cúng dường nhất thiết chư Phật
Như chư đại Bồ Tát thành tựu bửu thủ trùm khắp tất cả quốc độ mười phương, dùng sức tự tại mưa khắp tất cả đồ tư sanh. Như là mưa các thứ báu nhiều màu, anh lạc nhiều màu, mão báu nhiều màu, y phục nhiều màu, âm nhạc nhiều màu, hoa nhiều màu, hương nhiều màu, hương bột nhiều màu, hương đốt nhiều màu, lọng báu nhiều màu, tràng phan nhiều màu. Mưa các thức như vậy đầy khắp tất cả chỗ ở của chúng sanh và chúng hội đạo tràng của Như Lai. Hoặc để thành thục tất cả chúng sanh, hoặc để cúng dường tất cả chư Phật.
Giảng: Như tất cả các đại Bồ Tát thành tựu tay báu công đức, che khắp tất cả cõi nước mười phương, giáo hoá tất cả chúng sinh, dùng thần lực tự tại, khắp mưa tất cả đồ tư sanh. Đó là: Mưa báu đủ thứ màu, mưa chuỗi báu đủ thứ màu, mưa mũ báu đủ thứ màu, mưa y phục báu đủ thứ màu, mưa âm nhạc đủ thứ màu, mưa hoa đủ thứ màu, mưa hương đủ thứ màu, mưa hương bột đủ thứ màu, mưa hương đốt đủ thứ màu, mưa lọng báu đủ thứ màu, mưa tràng phan báu đủ thứ màu, đầy khắp chỗ ở của tất cả chúng sinh và các đạo tràng chúng hội của Như Lai. Hoặc dùng để thành thục tất cả chúng sinh. Hoặc dùng để cúng dường tất cả chư Phật
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ chư công đức tự tại thần lực?
Như vậy ta làm sao biết được nói được những công đức tự tại thần lực đó.
Giảng: Mà ta làm sao biết được, nói được các công đức thần lực tự tại đó”?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất đại thành, danh: sư tử cung; bỉ hữu Trưởng-giả, danh: pháp bảo kế.
Này thiện nam tử ! Phương nam đây có một thành lớn tên là Sư tử Cung. Nơi đó có một trưởng giả tên là Pháp Bửu Kế.
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thành tên là Sư Tử Cung. Trong thành đó có vị trưởng giả tên là Pháp Bảo Kế.
Nhữ khả vãng vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi nên đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử hoan hỉ dũng dược, cung kính tôn trọng, như đệ-tử lễ, tác như thị niệm:
Thiện Tài đồng tử vui mừng hớn hở, cung kính tôn trọng giữ lễ đệ tử đối với Cư sỉ. Tự nghĩ rằng:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hoan hỉ vui mừng, cung kính tôn trọng cư sĩ Minh Trí, như đệ tử lễ, nghĩ như vầy:
Do thử Cư-sĩ hộ niệm ư ngã, lệnh ngã đắc kiến nhất thiết trí đạo, bất đoạn ái niệm thiện tri thức kiến, bất hoại tôn trọng thiện tri thức tâm, thường năng tùy thuận thiện tri thức giáo, quyết định thâm tín thiện tri thức ngữ, hằng phát thâm tâm sự thiện tri thức.
Do Cư sĩ này hộ niệm cho tôi, khiến tôi được thấy đạo nhất thiết trí, chẳng dứt sự mến nhớ được thấy thiện tri thức, chẳng hoại tâm tôn trọng thiện tri thức, thường hay tùy thuận lời dạy của thiện tri thức, quyết định tin sâu lời nói của thiện tri thức, hằng phát thâm tâm thờ thiện tri thức.
Giảng: “Nhờ vị cư sĩ nầy hộ niệm cho tôi, khiến cho tôi thấy được đạo nhất thiết trí. Không ngừng thương nhớ gặp được thiện tri thức. Chẳng hoại tâm tôn trọng thiện tri thức. Thường hay tuỳ thuận lời dạy của thiện tri thức. Quyết định tin sâu lời thiện tri thức. Luôn phát thâm tâm phụng sự thiện tri thức.
Đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Cư sĩ Minh Trí, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Sau đó đảnh lễ cư sĩ Minh Trí, đi nhiễu phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam, tìm cầu vị thiện tri thức khác.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ư minh trí Cư-sĩ sở, văn thử giải thoát dĩ, du bỉ phước đức hải, trì bỉ phước đức điền, ngưỡng bỉ phước đức sơn, thú bỉ phước đức tân, khai bỉ phước đức tạng, quán bỉ phước đức Pháp, tịnh bỉ phước đức luân, vị bỉ phước đức tụ, sanh bỉ phước đức lực, tăng bỉ phước đức thế.
Thiện Tài đồng tử ở chỗ Minh Trí Cư sĩ được nghe môn giải thoát này rồi, thời du hành biển phước đức đó, sửa sang ruộng phước đức đó, ngưỡng vọng núi phước đức đó, xu hướng bến phước đức đó, khai phát tạng phước đức đó, quán sát pháp phước đức đó, thanh tịnh xe phước đức đó, ham muốn đống phước đức đó, phát sanh sức phước đức đó, thêm thế lực phước đức đó.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử ở chỗ cư sĩ Minh Trí, nghe môn giải thoát Tuỳ ý sinh ra tạng phước đức đó rồi, liền bơi trong biển phước đức đó. Chăm lo ruộng phước đức đó. Chiêm ngưỡng núi phước đức đó. Hướng về bến phước đức đó. Khai mở tạng phước đức đó. Quán sát pháp phước đức đó. Thanh tịnh vòng phước đức đó. Nếm đống phước đức đó. Sinh trưởng sức phước đức đó. Tăng thêm thế lực phước đức đó.
===========================
15. TRƯỞNG GIẢ BỬU KẾ
PHÓ THÁC THỨ 15 – LY SI HẠNH
Tiệm thứ nhi hành, hướng sư tử thành, chu biến thôi cầu bảo kế Trưởng-giả. Kiến thử Trưởng-giả tại ư thị trung, cự tức vãng nghệ, đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn:
Thiện Tài đi lần đến thành Sư Tử tìm Trưởng giả Bửu Kế, thấy Trưởng giả này ở trong chợ. Thiện Tài vội đến đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Giảng: Sau đó từ từ mà đi về hướng nam, đến thành Sư Tử, đi khắp nơi tìm kiếm trưởng giả Pháp Bảo Kế. Thiện Tài đồng tử thấy vị trưởng giả đó đang ngồi ở trong chợ, đây là biểu thị nơi ồn ào mà chẳng quên bổn hoài, trong loạn thường định. Do đó, liền vội đi đến chỗ đạo tràng của trưởng giả, đảnh lễ vị trưởng giả, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi đứng chắp tay mà bạch với vị trưởng giả rằng:
Hạnh thứ năm nầy là hạnh Vô si loạn, đây là dùng huệ tư chất định, tĩnh vô di chiếu, động chẳng lìa tịch, gọi là vô si loạn. Sư tử cung, là biểu thị thiền định không loạn, như thâm cung đó. Xứ, tức là nói về quyết định, làm dụng vô uý. Pháp bảo kế, là chỉ nhiếp các loạn, vì tâm là đỉnh. Định hàm minh trí, thêm chữ bảo, dùng dụ hiển pháp, gọi là Pháp bảo kế.
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Thiện tai Thánh Giả! nguyện vi ngã thuyết chư bồ tát đạo, ngã thừa thử đạo thú nhất thiết trí! Nhĩ thời, Trưởng-giả chấp Thiện Tài thủ, tướng nghệ sở cư, thị kỳ xá trạch, tác như thị ngôn: Thiện nam tử! thả quán ngã gia.
Lành thay đức Thánh ! Xin vì con mà giảng nói các Bồ Tát đạo. Ðể con thừa đạo này mà đến Nhứt thiết trí. Lúc đó Trưởng giả cầm tay Thiện Tài, dắt đến chỗ ông ở, chỉ nhà của ông mà bảo Thiện Tài xem.
Giảng: Lành thay đức Thánh! Xin hãy vì con mà diễn nói các Bồ Tát đạo, khiến cho con ngồi đạo nầy, hướng về môn nhất thiết trí, đắc được đại trí huệ”. Lúc đó, vị trưởng giả nắm tay Thiện Tài đồng tử, dẫn đến chỗ ông ta ở, chỉ nhà của ông ta ở, nói như vầy: “Thiện nam tử! Người hãy quán sát nhà của ta”.
Nhĩ thời, Thiện Tài kiến kỳ xá trạch, thanh Tịnh Quang minh, chân kim sở thành, bạch ngân vi tường, pha lê vi điện, cám lưu ly bảo dĩ vi lâu các, xa cừ diệu bảo nhi tác kỳ trụ, bách thiên chủng bảo chu biến trang nghiêm; xích-châu ma-ni vi sư tử tọa; ma-ni vi trướng, trân châu vi võng, di phước kỳ thượng; mã não bảo trì hương thủy doanh mãn, vô lượng bảo thụ chu biến hành liệt. Kỳ trạch quảng bác, thập tằng bát môn.
Thiện Tài thấy nhà của Trưởng giả thanh tịnh quang minh làm bằng chơn kim, vách bằng bạch ngân, điện bằng pha lê, lưu ly bửu màu biếc dùng làm lầu gác, trụ bằng xa cừ diệu bửu, khắp nơi trang nghiêm với trăm ngàn diệu bửu, sư tử tòa bằng xích châu ma ni. Màn ma ni và lưới chơn châu giăng phía trên. Ao bằng mã não bửu đầy nước thơm. Vô lượng cây báu bày hàng khắp nơi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử thấy nhà của vị trưởng giả, rất là thanh tịnh, chẳng có chút dơ bẩn nào, rất là quang minh, phá trừ tất cả đen tối. Nhà làm bằng vàng thật, tường làm bằng bạc trắng, bảo điện bằng pha lê, lầu các làm bằng lưu ly báu xanh biếc, trụ làm bằng xa cừ báu đẹp. Có trăm ngàn thứ báu trang nghiêm chung quanh bảo điện đó, toà sư tử báu làm bằng châu ma ni đỏ. Trướng làm bằng ma ni, lưới làm bằng chân châu che phủ phía trên. Ao báu làm bằng mã não, nước thơm tràn đầy trong đó. Có vô lượng cây báu, thẳng hàng chung quanh. Nhà đó rất là rộng lớn, cao mười tầng, mở tám cửa.
Mười tầng: Biểu thị thập địa, hoặc thập độ. Tám cửa:
1. Biểu thị tám chánh đạo.
2. Sở y đạo, tức dùng tám thức làm cửa, trong nhãn căn nhập chánh định. Nếu căn nhập được, thì cảnh liền biết.
3. Giáo lý đều bốn, tìm giáo được hiểu, tức giáo bốn môn, nơi lý được hiểu, tức lý bốn môn.
Thiện Tài nhập dĩ, thứ đệ quan sát. kiến tối hạ tằng, thí chư ẩm thực.
Nhà đó rộng rãi mười từng, tám cửa. Khi đã vào nhà, Thiện Tài theo thứ đệ mà quán sát.
Giảng: Thiện Tài đồng tử vào nhà của trưởng giả Bảo Kế rồi, bèn quán sát thứ tự từng lầu một.
Kiến đệ nhị tằng, thí chư bảo y. Kiến đệ tam tằng, bố thí nhất thiết bảo trang nghiêm cụ. Kiến đệ tứ tằng, thí chư thải nữ tinh cập nhất thiết thượng diệu trân bảo. Kiến đệ ngũ tằng, nãi chí ngũ địa Bồ Tát vân tập, diễn thuyết chư pháp lợi ích thế gian, thành tựu nhất thiết đà-la-ni môn, chư tam muội ấn, chư tam muội hạnh trí tuệ quang minh.
Thấy từng dưới hết, thí những đồ uống ăn. Thấy từng thứ hai thí những bửu y. Thấy từng thứ ba bồ thí tất cả đồ báu trang nghiêm. Thấy từng thứ tư thí những thế nữ và tất cả trân bửu thượng diệu. Thấy từng thứ năm có chư Bồ Tát nhẫn đến Ngũ địa Bồ Tát vân tập, diễn nói các pháp lợi ích chúng sanh, thành tựu tất cả đà la ni môn các tam muội ấn, các tam muội hạnh, trí huệ quang minh.
Giảng: Ngài thấy lầu dưới cùng, bố thí thức ăn uống. Lầu thứ nhất, biểu thị bố thí thức ăn, hiển bày Sơ địa hành bố thí Ba La Mật. Lại thấy lầu thứ hai, bố thí tất cả các y báu, đây là biểu thị Địa thứ hai trì giới, dùng sự hổ thẹn làm y phục. Lại thấy lầu thứ ba, bố thí tất cả đồ trang nghiêm báu, đây là biểu thị Địa thứ ba hạnh nhẫn nhục, dùng đồ trang nghiêm. Lại thấy lầu thứ tư, bố thí tất cả thể nữ và tất cả châu báu tốt đẹp, đây là biểu thị Địa thứ tư hạnh tinh tấn, dùng ba mươi bảy phẩm trợ đạo làm quyến thuộc bên trong, tinh tấn đáng quý. Lại thấy lầu thứ năm, thậm chí có Ngũ địa Bồ Tát đến vân tập, diễn nói tất cả các pháp, lợi ích hết thảy chúng sinh thế gian, khiến cho họ thành tựu tất cả môn đà la ni các ấn tam muội, các hạnh tam muội, và đắc được trí huệ quang minh.
Kiến đệ lục tằng, hữu chư Bồ-tát giai dĩ thành tựu thậm thâm trí tuệ, ư chư pháp tánh minh liễu thông đạt, thành tựu quảng đại tổng trì tam muội vô chướng ngại môn, sở hạnh vô ngại, bất trụ nhị Pháp, tại bất khả thuyết diệu trang nghiêm đạo tràng trung nhi cọng tập hội, phân biệt hiển thị Bát-nhã Ba-la-mật môn
Thấy từng thứ sáu có chư Bồ Tát đều đã thành tựu trí huệ thậm thâm, minh liễu thông đạt nơi pháp tánh thành tựu môn tổng trì tam muội quảng đại không chướng ngại, chỗ làm vô ngại chẳng trụ hai pháp. Ở trong bất khả thuyết diệu trang nghiêm đạo tràng mà cùng tập hội phân biệt hiển thị môn Bát Nhã Ba la mật:
Giảng: Đây là biểu thị Địa thứ năm thành tựu thiền định, các Bồ Tát đều thành tựu cảnh giới tam muội khác nhau. Lại thấy lầu thứ sáu, có các Bồ Tát đều đã thành tựu trí huệ thâm sâu, đối với thật tánh của các pháp, đều thấu rõ thông đạt, thành tựu tổng trì rộng lớn môn tam muội không chướng ngại, sở hành đều vô ngại, chẳng trụ hai pháp có không, cũng chẳng trụ hai pháp ta người. Các Ngài cùng tập hội ở trong đạo tràng Bất khả thuyết diệu trang nghiêm, phân biệt hiển bày pháp môn Bát Nhã Ba La Mật:
Sở vị: tịch tĩnh tạng Bát-nhã Ba-la-mật môn, thiện phân biệt chư chúng sanh trí Bát-nhã Ba-la-mật môn, bất khả động chuyển bát nhược Ba-la-mật môn, ly dục quang minh Bát-nhã Ba-la-mật môn, bất khả hàng phục tạng Bát-nhã Ba-la-mật môn, chiếu chúng sanh luân Bát-nhã Ba La mật môn, hải tạng Bát-nhã Ba-la-mật môn, phổ nhãn xả đắc Bát-nhã Ba La mật môn, nhập vô tận tạng Bát-nhã Ba-la-mật môn, nhất thiết phương tiện hải Bát-nhã Ba-la-mật môn, nhập nhất thiết thế gian hải Bát-nhã Ba La mật môn, vô ngại biện tài Bát-nhã Ba-la-mật môn, tùy thuận chúng sanh bát nhược Ba-la-mật môn, vô ngại quang minh Bát-nhã Ba-la-mật môn, thường quán tú duyên nhi bố pháp vân Bát-nhã Ba-la-mật môn thuyết như thị đẳng bách vạn a-tăng-kì Bát-nhã Ba-la-mật môn.
Những là môn Bát Nhã Ba la mật tịch tịnh tạng. Môn Bát nhã Ba la mật khéo phân biệt trí của các chúng sanh. Môn Bát nhã ba la mật chẳng thể động chuyển. Môn Bát nhã ba la mật ly dục quang minh. Môn Bát nhã ba la mật chẳng thể hàng phục. Môn Bát nhã ba la mật chiếu chúng sanh luân. Môn hải tạng Bát nhã Ba la mật. Môn Bát nhã ba la mật phổ nhãn xả đắc. Môn Bát nhã Ba la mật nhập vô tận tạng. Môn Bát nhã ba la mật nhập tất cả phương tiện hải. Môn Bát nhã ba la mật nhập tất cả thế gian hải. Môn Bát nhã Ba la mật vô ngại biện tài. Môn Bát nhã Ba la mật tùy thuận chúng sanh. Môn Bát nhã Ba la mật vô ngại quanh minh. Môn Bát Ba la mật thường quán túc duyên mà bủa mây pháp. Diễn thuyết trăm vạn vô số môn Bát nhã Ba la mật như vậy.
Giảng: Đó là: Môn Bát Nhã Ba La Mật tịch tĩnh tạng, môn nầy chiếu thể tức tịch, đều bao hàm hết. Môn Bát Nhã Ba La Mật trí khéo phân biệt các chúng sinh, tức chiếu mà tịch, không cơ chẳng soi. Môn Bát Nhã Ba La Mật không thể động chuyển, tức chẳng bị duyên ngoài lay chuyển. Môn Bát Nhã Ba La Mật lìa dục quang minh, tức là nội chiếu vô cầu. Môn Bát Nhã Ba La Mật không thể hàng phục tạng, tức là chẳng bị hoặc cảnh thôi phục. Môn Bát Nhã Ba La Mật chiếu chúng sinh luân, tức là khắp thôi phục các hoặc. Môn Bát Nhã Ba La Mật hải tạng, tức là bao hàm thắng đức thâm sâu. Môn Bát Nhã Ba La Mật phổ nhãn xả được, tức là thấy khắp pháp giới vô ngại. Môn Bát Nhã Ba La Mật vào vô tận tạng, một tức vô tận. Môn Bát Nhã Ba La Mật tất cả biển phương tiện, tức là khéo hoá vô biên. Môn Bát Nhã Ba La Mật vào tất cả biển thế gian, tức là nội chứng thế gian. Môn Bát Nhã Ba La Mật vô ngại biện tài, tức là ngoại diễn thắng biện. Môn Bát Nhã Ba La Mật tuỳ thuận chúng sinh, tức là tuỳ theo vật dục. Môn Bát Nhã Ba La Mật vô ngại quang minh, tức là sự lý giao nhau. Môn Bát Nhã Ba La Mật thường quán duyên xưa mà giăng bủa mây pháp, tức là quán duyên thọ pháp. Tầng thứ sáu các Bồ Tát diễn nói trăm vạn A tăng kỳ môn Bát Nhã Ba La Mật như vậy.
Kiến đệ thất tằng, hữu chư Bồ-tát đắc như hưởng nhẫn, dĩ phương tiện trí phân biệt quan sát nhi đắc xuất ly, tất năng văn trì chư Phật chánh pháp.
Thấy từng nhà thứ bảy có chư Bồ Tát được như hưởng nhẫn, dùng phương tiện trí phân biệt quán sát mà được xuất ly, đều có thể nghe và thọ trì chánh pháp của chư Phật.
Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy tầng thứ bảy, có các Bồ Tát đắc được nhẫn như tiếng vang (như hưởng nhẫn). Vì Địa thứ bảy có hạnh thù thắng, biết đủ thứ giáo pháp, nên gọi đắc được nhẫn như tiếng vang. Các Ngài quán tất cả pháp, có tiếng vang như huyễn hoá, mà chẳng chấp trước. Bồ Tát nầy hay dùng trí huệ phương tiện, phân biệt quán sát mà được xuất ly, đều nghe thọ trì được chánh pháp của chư Phật.
Kiến đệ bát tằng, vô lượng Bồ Tát cọng tập kỳ trung, giai đắc thần thông vô hữu thoái đọa, năng dĩ nhất âm biến thập phương sát, kỳ thân phổ Hiện-Nhất-Thiết đạo tràng, tận vu Pháp giới mị bất chu biến, phổ nhập Phật cảnh, phổ kiến Phật thân, phổ ư nhất thiết Phật chúng hội trung nhi vi thượng thủ diễn thuyết ư Pháp.
Thấy từng thứ tám có vô lượng Bồ Tát cùng hội họp trong đó, đều được thần thông không còn thối đọa. Có thể dùng một âm thanh khắp mười phương cõi. Thân của các Ngài hiện khắp tất cả đạo tràng, cùng khắp pháp giới. Vào khắp Phật cảnh, thấy khắp thân Phật. Ở trong tất cả Phật chúng hội mà làm thượng thủ, diễn thuyết các pháp.
Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy tầng thứ tám, có vô lượng Bồ Tát cùng tụ tập với nhau ở trong đó, các Ngài đều đắc được sức thần thông không còn thối chuyển, không còn đoạ lạc. Các Ngài hay dùng một âm mà khắp cùng mười phương cõi Phật. Thân của các Ngài hiện khắp tất cả đạo tràng, đều khắp cùng tận pháp giới, chẳng có một nơi nào mà chẳng đến. Các Ngài chứng nhập khắp cảnh giới của Phật, thấy khắp thân Phật, làm thượng thủ diễn nói pháp ở trong tất cả chúng hội của chư Phật, để giáo hoá chúng sinh. Trong tầng thứ tám nầy, hàm có hai bậc:
1. Thần thông vô công dụng của Bát địa.
2. Bậc pháp sư Cửu địa, một âm diễn nói.
Kiến đệ cửu tằng, nhất sanh sở hệ chư Bồ-tát chúng ư trung tập hội.
Thấy từng lầu thứ chín chư Bồ Tát nhất sanh bổ xứ tập hội trong đó.
Giảng: Thiện Tài đồng tử lại thấy tầng thứ chín, các chúng Bồ Tát còn một đời nữa sẽ chứng quả vị Phật, tập hội ở trong đó.
Kiến đệ thập tằng, nhất thiết Như Lai sung mãn kỳ trung, tùng sơ phát tâm, tu Bồ Tát hạnh, siêu xuất sanh tử, thành mãn đại nguyện cập thần thông lực, tịnh Phật quốc độ đạo tràng chúng hội, chuyển chánh Pháp luân, điều phục chúng sanh. Như thị nhất thiết, tất sử minh kiến.
Thấy từng lầu thứ mười, chư Phật Như Lai ngự đầy trong đó. Từ sơ phát tâm tu Bồ Tát hạnh siêu xuất sanh tử, thành mãn đại nguyện và thần thông lực, tịnh Phật độ và đạo tràng chúng hội chuyển chánh pháp luân điều phục chúng sanh. Ðều làm cho được thấy rõ tất cả như vậy.
Giảng: Tầng thứ chín nầy cũng bao hàm hai bậc: 1. Thập địa. 2. Đẳng Giác. Lại thấy tầng thứ mười, có tất cả Như Lai ba đời đầy dẫy ở trong đó. Các Ngài từ lúc ban đầu phát tâm, tu Bồ Tát hạnh, vượt qua sinh tử luân hồi, mà thành tựu viên mãn đại nguyện và sức thần thông, thanh tịnh tất cả cõi nước chư Phật, và đạo tràng chúng hội, chuyển bánh xe chánh pháp, điều phục chúng sinh, tất cả cảnh giới như vậy đều khiến Thiện Tài đồng tử thấy rõ hết.
Tuần rồi có người nói: ” Những gì Thiện Tài đồng tử thấy đều là đại Bồ Tát”? Không sai, các vị đó đều là pháp thân Đại Sĩ. Mỗi vị thiện tri thức trong đạo tràng, đều có cảnh giới của họ. Thị hiện những cảnh giới đó tức là trả lời những câu hỏi mà Thiện Tài đồng tử muốn biết, tức cũng giống như chúng ta nhìn xem truyền hình. Cảnh giới Bồ Tát thị hiện, cũng tựa như truyền hình, khiến cho Thiện Tài đồng tử thấu rõ đạo lý tu hành của Bồ Tát. Ví như trong tầng lầu thứ mười, có tất cả cảnh giới của Như Lai, từ lúc ban đầu phát tâm, tu Bồ Tát hạnh, vượt qua sinh tử, viên mãn đại nguyện, cho đến các Ngài hàng ma, giáo hoá chúng sinh – Tất cả những cảnh đó, giống như một bộ phim, khiến cho Thiện Tài đồng tử biết được.
Tầng thứ mười tức là Như Lai địa, tất cả quả vị Bồ Tát đều viên mãn, bậc nầy tổng nhiếp hết các bậc.
Nhĩ thời, Thiện Tài kiến thị sự dĩ, bạch ngôn:
Thiện Tài thấy sự như vậy rồi, bạch rằng:
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nhìn thấy những cảnh giới đó rồi, bèn bạch với trưởng giả Bảo Kế rằng:
Thánh Giả! hà duyên trí thử thanh tịnh chúng hội? Chủng hà thiện căn hoạch như thị báo?
Bạch đức Thánh ! Do duyên gì mà thành chúng hội thanh tịnh này ? Gieo căn lành gì mà được báu như vậy ?
Giảng: “Đức Thánh ! Do duyên gì mà Ngài đắc được chúng hội thanh tịnh nầy? Thuở xưa Ngài đã từng trồng căn lành gì, mà được quả báo như vậy”?
Trưởng-giả cáo ngôn: Thiện nam tử! ngã niệm quá khứ, qua Phật sát vi trần số kiếp, hữu thế giới, danh: viên mãn trang nghiêm, Phật hiệu: vô biên quang minh Pháp giới phổ Trang nghiêm Vương Như Lai, ưng, chánh đẳng giác, thập hiệu viên mãn.
Trưởng giả nói: Này thiện nam tử ! Ta nhớ thuở quá khứ, quá Phật sát vi trần số kiếp, có thế giới tên là Viên Mãn Trang Nghiêm. Phật hiệu là Vô Biên Quang Minh Pháp Giới Phổ Trang Nghiêm Vương Như Lai, đầy đủ mười hiệu.
Giảng: Trưởng giả Bảo Kế bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ kiếp số nhiều như hạt bụi cõi Phật, có thế giới tên là Viên Mãn Trang Nghiêm, đức Phật hiệu là Vô Biên Quang Minh Pháp Giới Phổ Trang Nghiêm Vương, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn, mười hiệu đều viên mãn.
Bỉ Phật nhập thành, ngã tấu nhạc âm, tinh thiêu nhất hoàn hương nhi dĩ cúng dường, dĩ thử công đức hồi hướng tam xứ, vị: vĩnh ly nhất thiết bần cùng khốn khổ, thường kiến chư Phật cập thiện tri thức, hằng văn chánh Pháp, cố hoạch tư báo.
Ðức Phật đó vào thành, ta tấu nhạc và đốt một nén hương cúng dường. Ta đem công đức ấy hồi hướng ba chỗ. Xa lìa tất cả nghèo cùng khốn khổ. Thường thấy chư Phật và thiện tri thứ. Hằng nghe chánh pháp. Do nhơn duyên đó mà được báu này.
Giảng: Khi Đức Phật đó đi vào thành, ta bèn diễn tấu âm nhạc và đốt một nén hương để cúng dường. Nhờ công đức cúng dường đó, ta hồi hướng đến ba nơi rằng:
1. Ta nguyện vĩnh viễn lìa khỏi tất cả bần cùng khốn khổ.
2. Ta nguyện thường gặp được chư Phật và thiện tri thức.
3. Ta nguyện luôn luôn được nghe chánh pháp.
Nhờ nhân duyên đó, nên ta đắc được quả báo hiện tại nầy”. Trưởng giả Bảo Kế ở trong vô lượng kiếp trước, dùng một nén hương, thành tâm cúng dường đức Phật Vô Biên Quang Minh Pháp Giới Phổ Trang Nghiêm Vương, mà đem công đức đó, hồi hướng về ba nơi, nhờ nguyện lực đó, mà được quả báo thù thắng.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát vô lượng phước đức Bảo Tạng giải thoát môn.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát vô lượng phước đức bửu tạng này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ Tát vô lượng phước đức bảo tạng nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, đắc bất tư nghị công đức Bảo Tạng, nhập vô phân biệt Như Lai thân hải, thọ vô phân biệt vô thượng pháp vân, tu vô phân biệt công đức đạo cụ, khởi vô phân biệt Phổ Hiền hạnh võng, nhập vô phân biệt tam muội cảnh giới, đẳng vô phân biệt Bồ Tát thiện căn, trụ vô phân biệt Như Lai sở trụ, chứng vô phân biệt tam thế bình đẳng, trụ vô phân biệt phổ nhãn cảnh giới, trụ nhất thiết kiếp vô hữu bì yếm
Như chư đại Bồ Tát được bất tư nghì công đức bửu tạng, nhập vô phân biệt Như Lai thân hải, thọ vô phân biệt vô thượng pháp vân, tu vô phân biệt công đức đạo cụ, khởi vô phân biệt Phổ Hiền hạnh võng, nhập vô phân biệt tam muội cảnh giới, đồng vô phân biệt Bồ Tát thiện căn, trụ vô phân biệt sở trụ của Như Lai, chứng vô phân biệt tam thế bình đẳng, tru vô phân biệt phổ nhãn cảnh giới, trụ tất cả kiếp không có mỏi nhàm.
Giảng: Như các đại Bồ Tát đắc được công đức bảo tạng không nghĩ bàn. Vào biển thân Như Lai không phân biệt. Thọ mây pháp vô thượng không phân biệt. Tu đạo công đức đầy đủ không phân biệt. Khởi lưới hạnh Phổ Hiền không phân biệt. Vào cảnh giới tam muội không phân biệt. Đồng Bồ Tát căn lành không phân biệt. Trụ chỗ trụ của Như Lai không phân biệt. Chứng được ba đời bình đẳng không phân biệt. Trụ cảnh giới Phổ Nhãn không phân biệt. Trụ tất cả kiếp không mỏi nhàm.
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta làm sao biết được được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất quốc độ, danh viết: đằng căn; kỳ độ hữu thành, danh viết: Phổ môn; trung hữu Trưởng-giả, danh vi: Phổ Nhãn.
Này thiện nam tử ! Phướng Nam đây có một nước tên là Ðằng Căn. Nước đó có thành tên là Phổ Môn. Trong thành có một Trưởng giả tên là Phổ Nhãn.
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một cõi nước tên là Đằng Căn. Trong nước đó có thành tên là thành Phổ Môn, trong thành đó có vị trưởng giả tên là Phổ Nhãn.
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi: Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Ngươi hãy đến đó hỏi rằng: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân của Trưởng giả Pháp Bửu Kế, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị trưởng giả Bảo Kế, sau đó đi nhiễu phải vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi về hướng nam, tìm một vị thiện tri thức khác.
================================
16. TRƯỞNG GIẢ PHỔ NHÃN
PHÓ THÁC THỨ 16 – THIỆN HIỆN HẠNH
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ư bảo kế Trưởng-giả sở, văn thử giải thoát dĩ, thâm nhập chư Phật vô lượng tri kiến, an trụ Bồ Tát vô lượng thắng hành, liễu đạt Bồ Tát vô lượng phương tiện, hy cầu Bồ Tát vô lượng Pháp môn, thanh tịnh Bồ Tát vô lượng tín giải, minh lợi Bồ Tát vô lượng chư căn, thành tựu Bồ Tát vô lượng dục lạc, thông đạt Bồ Tát vô lượng hạnh môn, tăng trưởng Bồ Tát vô lượng nguyện lực, kiến lập Bồ Tát Vô năng thắng tràng, khởi Bồ Tát trí chiếu Bồ Tát Pháp.
Lúc đó Thiện Tài được nghe môn giải thoát Bồ Tát vô lượng phước đức bửu tạng nơi Bửu Kế Trưởng giả rồi, được thâm nhập vô lượng tri kiến của chư Phật, an trụ vô lượng thắng hạnh của Bồ Tát, thấy rõ vô lượng phương tiện của Bồ Tát, mong cầu vô lượng pháp môn của Bồ Tát, thanh tịnh vô lương tín giải của Bồ Tát, minh lợi vô lượng căn của Bồ Tát, thành tựu vô lượng dục lạc của Bồ Tát, thông đạt vô lượng hạnh môn của Bồ Tát, tăng trưởng vô lượng nguyện lực của Bồ Tát, kiến lập tràng vô năng thắng của Bồ Tát, khởi trí Bồ Tát, chiếu pháp Bồ Tát.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử ở chỗ trưởng giả Bảo Kế nghe môn giải thoát Bồ Tát vô lượng phước đức bảo tạng đó rồi, liền thâm nhập vô lượng tri kiến của tất cả chư Phật. An trụ vô lượng thắng hạnh của Bồ Tát. Thấu đạt vô lượng phương tiện của Bồ Tát. Hy cầu vô lượng pháp môn của Bồ Tát. Thanh tịnh vô lượng tin hiểu của Bồ Tát. Minh bạch thông lợi vô lượng các căn của Bồ Tát. Thành tựu vô lượng dục lạc của Bồ Tát, tức là cứu hộ chúng sinh, đó là dục lạc lớn nhất của Bồ Tát. Thông đạt vô lượng hạnh môn của Bồ Tát. Tăng trưởng vô lượng nguyện lực của Bồ Tát. Kiến lập tràng báu vô năng thắng của Bồ Tát, Bồ Tát hạnh cao giống như tràng. Phát khởi Bồ Tát trí huệ. Chiếu rõ pháp môn của Bồ Tát.
Tiệm thứ nhi hành, chí đằng căn quốc, thôi vấn cầu mịch bỉ thành sở tại. Tuy lịch gian nan, bất đạn lao khổ, đãn duy chánh niệm thiện tri thức giáo, nguyện thường thân cận thừa sự cúng dường, biến sách chư căn ly chúng phóng dật.
Thiện Tài đi lần đến nước Ðằng Căn, tìm hỏi thành Phổ Môn. Dầu trải qua nhiều gian lao nhưng chẳng nệ nhọc, chỉ nhớ lời dạy của thiện tri thức, nguyện thường được thân cận để phụng thờ cúng dường, sách tấn chư căn lìa những phóng dật.
Giảng: Thiện Tài đồng tử đi từ từ đi về hướng nam, đến nước Đằng Căn, bèn đi tìm hỏi thành Phổ Môn. Tuy Ngài trải qua nhiều gian lao khốn khổ, nhưng không màn đến sự cực nhọc. Chỉ một lòng nhớ đến lời dạy của thiện tri thức, nguyện luôn luôn được gần gũi hầu hạ cúng dường thiện tri thức. Thiện Tài đồng tử lúc nào cũng sách tấn sáu căn của mình, mắt chẳng nhìn những thứ không nên nhìn, tai chẳng nghe tiếng xấu, lưỡi chẳng nếm vị ngon, chẳng bị cảnh giới sáu trần lay chuyển. Xa lìa các phóng dật, bất cứ cảnh giới gì đến, đều không bị cảnh giới lay chuyển, mà chuyển được cảnh giới.
Đây là phó thác thứ sáu – hạnh Thiện hiện. Nước tên là Đằng Căn, vì đằng căn thâm nhập vào đất, trên phát mầm hoa, biểu thị hạnh Thiện hiện, Bát nhã trí sâu, hay sinh hậu đắc. Hậu đắc tuỳ vật mà chuyển, nên lấy loại nơi đằng. Thành tên là Phổ Môn, biểu thị thật tướng Bát nhã, thảy đều thông đạt. Trưởng giả tên là Phổ Nhãn, biểu thị quán chiếu bát nhã, chẳng gì mà chẳng thấy.
Nhiên hậu nãi đắc kiến Phổ môn thành, bách thiên tụ lạc châu táp vi nhiễu, trĩ điệp sùng tuấn, cù lộ khoan bình. kiến bỉ Trưởng-giả, vãng nghệ kỳ sở, ư tiền đảnh lễ, hợp chưởng nhi lập, bạch ngôn:
Sau đó thiện Tài đến thành Phổ Môn, thấy trăm ngàn tụ lạc bao vây chung quanh. Tường thành cao nghiêm, đường sá rộng bằng. Thiện Tài vào thành tìm gặp Phổ Nhãn Trưởng giả, liền đảnh lễ nơi chân Trưởng giả, hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Giảng: Sau đó Thiện Tài đồng tử mới thấy được thành Phổ Môn, có trăm ngàn thôn xóm, vòng khắp chung quanh, đây là biểu thị quyến thuộc Bát nhã. Bát nhã có ba thứ:
1. Thật tướng Bát nhã, tức là chứng lý.
2. Quán chiếu Bát nhã, tức là chứng trí.
3. Văn tự Bát nhã, tức giải nói về lý.
Tường thành phòng thủ, thiết bị rất là nghiêm mật rất cao. Tường thành rất cao, biểu thị dùng Bát nhã phòng phi, cao mà vô thượng. Lại nhìn thấy đường xá thành Phổ Môn rất rộng rãi bằng phẳng. Đường xá rộng rãi bằng phẳng, biểu thị Bát nhã chư Phật thường hành. Thiện Tài đồng tử nhìn thấy vị trưởng giả đó, bèn đi đến chỗ của ông ta ở, đến trước ông ta cung kính đảnh lễ, sau đó chắp tay mà đứng, bạch rằng:
Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo?
Giảng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Mỗi chữ, mỗi câu, mỗi đoạn trong Kinh Hoa Nghiêm, đều bao hàm đạo lý thâm áo, ý nghĩa vô cùng vô tận, là đại bảo tàng lấy chẳng hết, dùng chẳng cạn, chẳng phải lời lẽ văn tự giải thích biểu đạt được. Cho nên nghiên cứu Phật pháp, phải “Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển”.
Trưởng-giả cáo ngôn: Thiện tai thiện tai! thiện nam tử! nhữ dĩ năng phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.
Trưởng giả nói: Này thiện nam tử ! Lành thay ! Lành thay ! Ngươi đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Trưởng giả Phổ Nhãn bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thật là khó được.
Thiện nam tử! ngã tri nhất thiết chúng sanh chư bệnh: phong hoàng, đàm nhiệt, quỷ mị, cổ độc, nãi chí thủy hỏa chi sở thương hại. Như thị nhất thiết sở sanh chư tật, ngã tất năng dĩ phương tiện cứu liệu.
Này thiện nam tử ! Ta biết tất cả bệnh của các chúng sanh. Những bệnh phong đàm, nóng, cổ độc, quỷ mị dựa, nhẫn đến bị nước bị lửa thương hại, ta đều có thể dùng phương tiện chữa lành cả.
Giảng: Thiện nam tử! Ta biết các bệnh tật của tất cả chúng sinh, ví như bệnh phong thấp, bệnh hoàng đản, bệnh đàm, bệnh phát nhiệt, bệnh quỷ mị dựa nhập, hoặc bệnh cổ độc chú thuật, cho đến các chứng bệnh bị nước lửa làm thương hại, sinh ra tất cả các bệnh như vậy, ta đều có thể dùng phương tiện cứu chữa khỏi.
Thiện nam tử! thập phương chúng sanh chư hữu bệnh giả hàm lai ngã sở, ngã giai liệu trì, lệnh kỳ đắc sái; phục dĩ hương thang mộc dục kỳ thân, hương hoa, anh lạc, danh y, thượng phục, chủng chủng trang nghiêm, thí chư ẩm thực cập dĩ tài bảo, tất lệnh sung túc vô sở phạp đoản. Nhiên hậu các vi như ưng thuyết Pháp
Này thiện nam tử ! Mười phương chúng sanh, những kẻ có bệnh đến ta, ta đều chữa trị cho họ được lành mạnh. Lại lấy nước thơm tắm rửa thân thể họ. Lại ban cho họ những hương hoa, anh lạc, y phục đẹp, những đồ trang sức, đồ ăn thức uống và những vàng bạc, tất cả đều đầy đủ không ai thiếu thốn. Rồi sau mới vì họ mà tùy cơ nghi thuyết pháp.
Giảng: Thiện nam tử! Những chúng sinh trong mười phương có đủ thứ bệnh, họ đều đến chỗ ta, thì ta đều chữa trị cho họ, khiến cho họ được khỏi bệnh. Ta lại dùng thuốc thơm tắm rửa thân thể của họ. Lại ban cho họ đủ thứ hương hoa anh lạc, y phục tốt đẹp, để trang nghiêm thân họ. Lại bố thí cho họ các thức ăn uống và tiền tài châu báu, đều khiến cho họ đầy đủ, không ai thiếu thốn điều gì. Sau đó, ta đều vì căn cơ của họ mà thuyết pháp cho họ nghe. Đây là trước trừ thân bệnh, sau trừ tâm bệnh.
Vi tham dục đa giả, giáo bất tịnh quán
Vì người tham dục nhiều dạy họ quán bất tịnh.
Giảng: Chúng sinh nào tham dục nhiều, thì ta dạy họ quán chín lỗ chảy ra thứ bất tịnh. Do đó: “Quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã” – Đây là bốn niệm xứ.
Thân thể của chúng ta là vật chẳng sạch sẽ. Có người nói: “Nhưng tôi nhìn thấy người đó rất đẹp đẽ”! Nếu bạn mổ bên trong người đó ra, thì đều là hôi thối không thể tưởng tượng được. Chẳng những máu hôi, mà thịt cũng thúi, máu thịt trong bụng càng hôi thúi. Nói chung thân thể của chúng ta là một túi da hôi thối, thường tiết ra những thứ bất tịnh, như mắt thì có ghèn, mũi thì có nước mũi, miệng thì có nước dãi, đàm, lỗ tai thì có cức váy, và đại tiện, tiểu tiện. Nếu vài ngày chúng ta không tắm rửa, không súc miệng, rửa mặt, khì hôi hám lắm, toả ra mùi hôi thối rất khó chịu. Bất quá người ta không chịu nói ra chỗ xấu mà thôi, nếu ai có nói ra thì họ cũng chẳng thích, cho nên phải giữ kín, không để họ biết. Thậm chí họ còn thoa dầu thơm lên, để gạt người khác. Đó đều là điên đảo, đều là tham dục, tham dục thì làm ra đủ thứ hành vi giả dối. Cho nên vì chúng sinh nhiều tham, thì dạy họ quán bất tịnh, nói : “Bạn có gì đáng ưa thích? Đây chẳng qua là một túi da hôi thối mà thôi”. Một túi da hôi thối thì có gì mà đáng ưa thích? Tại sao phải vì nó mà điên đảo? Tại sao phải sợ túi da hôi thối nầy lạnh, nóng, đói, khát? Tại sao cứ coi nó là vật bảo bối, đây là phương pháp hay để đối trị nhiều tham dục.
Sân khuể đa giả, giáo từ bi quán
Vì người sân hận nhiều dạy họ quán từ bi.
Giảng: Trưởng giả Phổ Nhãn đối với chúng sinh nhiều sân hận, thì dạy họ quán từ bi, đối đãi với mọi người phải có lòng từ bi, do đó: “Từ hay ban vui, bi hay cứu khổ”. Thấy người ta thống khổ, như chính mình thống khổ. Cho nên người nóng giận nhiều, phải dưỡng thành mình có lòng từ bi.
Ngu si đa giả, giáo kỳ phân biệt chủng chủng Pháp tướng
Vì người ngu si nhiều dạy họ phân biệt các pháp tướng.
Giảng: Đối với chúng sinh nhiều ngu si, thì dạy họ tu quán nhân duyên, phân biệt đủ thứ nhân duyên pháp tướng. Vì chúng sinh nhiều ngu si, không thể minh bạch rõ ràng sự việc tiền nhân hậu quả, họ thường ôm lòng nghi, nên đối với sự việc nhìn không rõ ràng.
Đẳng phần hành giả, vi kỳ hiển thị thù thắng Pháp môn.
Vì người đẳng phần phiền não dạy họ pháp môn thù thắng.
Giảng: Đối với chúng sinh tham sân si đầy đủ bằng nhau, thì vì họ hiển bày pháp môn thù thắng.
Vi dục lệnh kỳ phát Bồ-đề tâm, xưng dương nhất thiết chư Phật công đức
Vì muốn cho họ phát bồ đề tâm , nên xưng dương công đức của tất cả chư Phật.
Giảng: Trưởng giả Phổ Nhãn nói: “Ta vì muốn khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, mà tán thán khen ngợi công đức của tất cả chư Phật.
Vi dục lệnh kỳ khởi đại bi ý, hiển thị sanh tử vô lượng khổ não
Vì muốn cho họ khởi lòng đại bi, nên hiển thị sanh tử vô lượng khổ não.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh khởi tâm đại bi, mà hiển bày vô lượng khổ não sinh tử luân hồi. Cho nên sinh tử của con người, cũng vì chúng ta mà nói pháp. Con người không thể sống trường cửu trên thế gian, khi quỷ vô thường đến, thì phải chết. Bởi vậy ta vì chúng sinh mà hiển bày sinh tử vô thường, khiến cho họ tinh tấn tu hành.
Vi dục lệnh kỳ tăng trưởng công đức, tán thán tu tập vô lượng phước trí
Vì muốn cho họ tăng trưởng công đức nên tán thán tu tập vô lượng phước trí.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh tăng trưởng công đức, mà tán thán khen ngợi tu tập vô lượng phước báo và trí huệ.
Vi dục lệnh kỳ phát đại thệ nguyện, xưng tán điều phục nhất thiết chúng sanh
Vì muốn cho họ phát đại nguyện nên xưng tán công hạnh điều phục chúng sanh.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh phát đại thệ nguyện, mà tán thán khen ngợi điều phục tất cả chúng sinh. Điều phục chúng sinh như thế nào? Tức là phải phát đại hoằng thệ nguyện.
Vi dục lệnh kỳ tu Phổ Hiền hạnh, thuyết chư Bồ-tát ư nhất thiết sát, nhất thiết kiếp trụ, tu chư hạnh võng
Vì muốn cho họ tu Phổ Hiền hạnh, nên nói Bồ Tát ở tất cả cõi trong tất cả kiếp tu những công hạnh.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh tu hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, mà nói các Bồ Tát nơi tất cả cõi Phật, trong tất cả kiếp trụ, tu tất cả các hạnh, giống như tấm lưới”.
Chúng ta ở trên thế gian nầy, nhân duyên người với người, đều do nghiệp xưa kia giao kết mà thành. Lưới kết thành kiên cố giống như đất, bạn muốn thoát khỏi nó, cũng thoát khỏi không được, nó dính lại với nhau.
Năm pháp môn ở trên, là trưởng giả Phổ Nhãn muốn khiến cho chúng sinh, phát đại tâm hạnh nguyện của Bồ Tát.
Vi dục lệnh kỳ cụ Phật tướng hảo, xưng dương tán thán đàn ba-la-mật
Vì muốn cho họ đủ tướng hảo của Phật, nên tán dương Ðàn Ba la mật.
Giảng: Dưới đây là trưởng giả Phổ Nhãn hiểu rõ nhân của mười độ, mà cảm quả của mười thân. Tức cũng là mười bồ đề nguyện đồng với mười thân Như Lai.
Trưởng giả Phổ Nhãn nói: “Ta vì muốn khiến cho chúng sinh đầy đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật, mà khen ngợi tán thán bố thí Ba La Mật.
Vi dục lệnh kỳ đắc Phật tịnh thân, tất năng biến chí nhất thiết xứ cố, xưng dương tán thán thi Ba-la-mật
Vì muốn cho họ được tịnh thân của Phật có thể đến khắp tất cả xứ, nên tán dương Thi Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh đắc được pháp thân thanh tịnh của Phật, đều có thể đến khắp tất cả mọi nơi, mà tán thán khen ngợi trì giới Ba La Mật. Đây là giới khắp ngừng ác, nên tịnh thân đến khắp.
Vi dục lệnh kỳ đắc Phật thanh tịnh bất tư nghị thân, xưng dương tán thán nhẫn Ba-la-mật
Vì muốn cho họ được thân thanh tịnh bất tư nghì của Phật, nên tán dương Nhẫn Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh đắc được pháp thân thanh tịnh của Phật không thể nghĩ bàn, mà tán thán khen ngợi nhẫn nhục Ba La Mật. Đây là nhẫn sự nhẫn lý, nên không nghĩ bàn.
Vi dục lệnh kỳ hoạch ư Như Lai Vô năng thắng thân, xưng dương tán thán tinh tấn Ba-la-mật
Vì muốn cho họ được thân vô năng thắng của Phật, nên tán dương Tinh Tấn Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh đắc được pháp thân vô năng thắng của Như Lai, mà tán thán khen ngợi tinh tấn Ba La Mật. Đây là tấn sách vạn hạnh, nên vô năng thắng.
Vi dục lệnh kỳ đắc ư thanh tịnh vô dữ đẳng thân, xưng dương tán thán Thiền Ba-la-mật
Vì muốn cho họ được thân thanh tịnh vô đẳng nên tán dương Thiền Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh đắc được pháp thân thanh tịnh không ai bằng, mà tán thán khen ngợi thiền na Ba La Mật. Đây là thiền duy nhất tâm, nên không ai bằng.
Vi dục lệnh kỳ hiển hiện Như Lai thanh tịnh Pháp thân, xưng dương tán thán Bát-nhã Ba-la-mật
Vì muốn cho họ hiển hiện Như Lai thanh tịnh pháp thân, nên tán dương Bát Nhã Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh hiển hiện pháp thân thanh tịnh của Như Lai, mà tán thán khen ngợi Bát Nhã Ba La Mật. Đây là Bát Nhã chiếu lý, nên hiển pháp thân.
Vi dục lệnh kỳ hiện Phật Thế tôn thanh tịnh sắc thân, xưng dương tán thán phương tiện Ba-la-mật
Vì muốn cho họ hiện Phật thanh tịnh sắc thân, nên tán dương Phương Tiện Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh thị hiện sắc thân thanh tịnh của Phật Thế Tôn, mà tán thán khen ngợi phương tiện Ba La Mật. Đây là phương tiện hiển dụng, nên sắc thân có thể thấy.
Vi dục lệnh kỳ vi chư chúng sanh trụ nhất thiết kiếp, xưng dương tán thán nguyện Ba-la-mật
Vì muốn cho họ vì chúng sanh ở một thiết kiếp, nên tán dương nguyện Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh vì các chúng sinh trụ tất cả kiếp, mà tán thán khen ngợi nguyện Ba La Mật. Đây là biểu thị nguyện cùng thuở vị lai, trụ kiếp vô cùng.
Vi dục lệnh kỳ hiện thanh tịnh thân, tất qua nhất thiết chư Phật sát độ, xưng dương tán thán lực ba-la-mật
Vì muốn cho họ hiện thân thanh tịnh quá tất cả Phật độ, nên tán dương Lực Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh thị hiện thân thanh tịnh, đều qua đến tất cả cõi nước chư Phật, mà tán thán khen ngợi lực Ba La Mật. Đây là biểu thị lực không thể lay, đều qua tất cả.
Vi dục lệnh kỳ hiện thanh tịnh thân, tùy chúng sanh tâm tất sử hoan hỉ, xưng dương tán thán trí Ba-la-mật
Vì muốn cho họ hiện thanh tịnh thân tùy tâm chúng sanh làm cho họ hoan hỷ, nên tán dương Trí Ba la mật.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh thị hiện thân thanh tịnh, tuỳ thuận tâm chúng sinh, đều khiến cho họ hoan hỉ, mà tán thán khen ngợi trí Ba La Mật. Đây là biểu thị trí cùng sự pháp, nên tuỳ vật thành thân.
Vi dục lệnh kỳ hoạch ư cứu cánh tịnh diệu chi thân, xưng dương tán thán vĩnh ly nhất thiết chư bất thiện pháp.
Vì muốn cho họ thân rốt ráo thanh tịnh vi diệu nên tán dương lìa hẳn tất cả pháp bất thiện.
Giảng: Ta vì muốn khiến cho chúng sinh đắc được thân tịnh diệu rốt ráo, mà tán thán khen ngợi vĩnh viễn lìa khỏi tất cả các pháp bất thiện.
Như thị thí dĩ, các lệnh hoàn khứ.
Bố thí như vậy rồi, đều bải họ trở về.
Giảng: Ta bố thí như vậy rồi, sau đó đều khiến cho họ trở về”.
Đây là chỉ tổng lìa các ác, nên rốt ráo tịnh diệu. Nhân của mười độ, cảm thành quả của mười thân, tức là:
1. Thí độ, tướng tốt trang nghiêm thân.
2. Trì giới, đắc được ý sinh thân.
3. Nhẫn nhục, đắc được oai thế thân.
4. Tinh tấn, thành tựu bồ đề thân.
5. Thiền định, đắc được phước đức vô đẳng thân.
6. Bát Nhã, đắc được hiển pháp thân.
7. Phương tiện, thành tựu hoá thân.
8. Nguyện, thành tựu nguyện thân.
9. Lực, thành tựu lực trì thân.
10. Trí, thành tựu trí thân.
Thiện nam tử! ngã hựu thiện tri hòa hợp nhất thiết chư hương yếu Pháp, sở vị: vô đẳng hương, tân đầu Ba la hương, Vô thắng hương, giác ngộ hương, A lô na bạt để hương, kiên hắc chiên đàn hương, ô lạc Ca chiên đàn hương, trầm thủy hương, bất động chư căn hương, như thị đẳng hương, tất tri điều lý hòa hợp chi Pháp.
Này thiện nam tử ! Ta lại khéo biết phương pháp hòa hiệp tất cả thứ hương. Những là vô đẳng hương, tân đầu ba la hương, vô thắng hương, giác ngộ hương, a lô na bạt để hương, kiên hắc chiên đàn hương, ô lạc ca chiên đàn hương, trầm thủy hương, bất động chư căn hương.
Giảng: “Thiện nam tử! Ta lại khéo biết cách hoà hợp tất cả các thứ hương. Đó là: Hương không gì bằng, hương tân đầu ba la (Tân Đầu là chỉ sông Tín Độ. Ba La là bờ, tức là hương bờ sông kia). Hương Vô thắng, hương Giác ngộ, hương A lô na bạt để (màu cực đỏ), hương Kiên hắc chiên đàn, hương Ô lạc ca chiên đàn (Ô lạc ca là một thứ tên rắn của Tây Vực, loài rắn nầy rất độc, do đốt hương chiên đàn nầy mà gọi tên), hương Trầm thuỷ, hương Chẳng động các căn, các thứ hương như vậy, ta đều biết cách điều lý hoà hợp”. Hoà hợp, biểu thị giới định huệ đều viên dung vô ngại.
Hựu, Thiện nam tử! ngã trì thử hương dĩ vi cúng dường, phổ kiến chư Phật, sở nguyện giai mãn, sở vị: cứu hộ nhất thiết chúng sanh nguyện, nghiêm tịnh nhất thiết Phật sát nguyện, cúng dường nhất thiết Như Lai nguyện.
Này thiện nam tử ! Ta cầm hương này để cúng dường, thấy khắp chư Phật thỏa mãn bổn nguyện. Những là nguyện cứu hộ tất cả chúng sanh. Nguyện nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Nguyện cúng dường tất cả Như Lai.
Giảng: Lại nữa thiện nam tử! Ta cầm hương nầy dùng để cúng dường chư Phật Bồ Tát và thiện tri thức. Tôi thấy khắp chư Phật phát nguyện, đều thành tựu viên mãn. Đó là: Quá khứ chư Phật phát nguyện cứu hộ hết thảy tất cả chúng sinh tận hư không khắp pháp giới. Nguyện muốn trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật. Lại phát nguyện muốn cúng dường tất cả Như Lai.
Hựu, Thiện nam tử! nhiên thử hương thời, nhất nhất hương trung xuất vô lượng hương, biến chí thập phương nhất thiết pháp giới nhất thiết chư Phật chúng hội đạo tràng, hoặc vi hương cung, hoặc vi hương điện, như thị hương lan hạm, hương viên tường, hương khước địch, hương hộ dũ, hương trọng các, hương bán nguyệt, hương cái, hương tràng, hương phiên, hương trướng, hương la võng, hương hình tượng, hương trang nghiêm cụ, hương quang minh, hương vân vũ, xứ xứ sung mãn dĩ vi trang nghiêm.
Này thiện nam tử ! Lúc đốt thứ hương này, trong mỗi mỗi hương phát ra vô lượng hương, khắp đến mười phương tất cả pháp giới tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng, hoặc làm hương cung, hoặc làm hương điện, hương lan can, hương tường rào, hương hào thành, hương cửa nẻo, hương lầu gác, hương bán nguyệt, hương lọng, hương tràng, hương phan, hương trướng, hương màn lưới, hương hình tượng, hương đồ trang nghiêm, hương quang minh, hương vân vũ, xứ xứ sung mãn để làm trang nghiêm.
Giảng: Lại nữa thiện nam tử! Khi ta đốt hương nầy lên, thì trong mỗi hương, lại toả ra vô lượng hương, đến khắp mười phương tất cả pháp giới, tất cả đạo tràng chúng hội của chư Phật. Hoặc hoá làm hương cung, hoặc làm hương điện báu, hoặc làm hương lan can, như trong Kinh Di Đà có nói: “Bảy tầng lan can, bảy tần mành lưới, bảy tầng hàng cây …”. Lại có hương tường rào, hương lầu các hào thành, hương cửa nẻo, hương lầu các, hương bán nguyệt (đây là chỉ đỉnh cung điện hình bán nguyệt), hương lọng, hương tràng, hương phan, hương trướng, hương la võng, hương hình tượng, hương đồ trang nghiêm, hương quang minh, hương mây mưa, đủ thứ các hương như vậy đầy khắp tận hư không, khắp pháp giới tất cả đạo tràng của chư Phật, dùng để trang nghiêm.
Trưởng giả Phổ Nhãn có thể chữa bệnh, là dưới độ chúng sinh; có thể hợp với hương, là trên cúng dường chư Phật.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử lệnh nhất thiết chúng sanh phổ kiến chư Phật hoan hỉ Pháp môn.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết pháp môn làm cho tất cả chúng sanh thấy chư Phật hoan hỷ.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn khiến tất cả chúng sinh khắp thấy chư Phật hoan hỉ nầy.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát như Đại Dược-Vương, nhược kiến, nhược văn, nhược ức niệm, nhược đồng trụ, nhược tùy hành vãng, nhược xưng danh hiệu, giai hoạch lợi ích, vô không quá giả
Này chư đại Bồ Tát, như đại dược vương, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc ghi nhớ, hoặc đồng ở, hoặc đi theo, hoặc xưng danh hiệu đều được lợ ích không luống uổng.
Giảng: Như tất cả các đại Bồ Tát, như đại dược vương. Nếu có chúng sinh thấy được Ngài, hoặc nghe được danh hiệu Ngài, hoặc nghĩ nhớ, hoặc cùng ở với Ngài, hoặc tuỳ hạnh mà đến, hoặc khen danh hiệu của Ngài, đều đắc được lợi ích không luống qua.
Nhược hữu chúng sanh tạm đắc trực ngộ, tất lệnh tiêu diệt nhất thiết phiền não, nhập ư Phật Pháp, ly chư khổ uẩn, vĩnh tức nhất thiết sanh tử bố úy, đáo vô sở úy nhất thiết trí xứ, tồi hoại nhất thiết lão tử Đại sơn, an trụ bình đẳng tịch diệt chi lạc.
Nếu có chúng sanh tạm được gặp gỡ chư đại Bồ Tát tất làm cho tiêu diệt tất cả phiền não, vào Phật pháp, lìa khổ uẩn, dứt hẳn sự kinh sợ về sanh tử, đến chỗ nhất thiết trí, vô sở úy, xô dẹp tất cả núi lớn sanh tử, an trụ nơi chỗ vui bình đẳng tịch diệt.
Giảng: Nếu có chúng sinh tạm thời gặp được Ngài, tất sẽ khiến cho họ tiêu diệt tất cả phiền não, thâm nhập Phật pháp, xa lìa các khổ uẩn, vĩnh viễn tiêu diệt tất cả sợ hãi sinh tử luân hồi, đến được nơi nhất thiết trí không sợ hãi. Phá tan tất cả núi lớn già chết, an trụ vui bình đẳng tịch diệt, tức là thường lạc ngã tịnh Niết Bàn bốn đức
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta thế nào biết được nói được hạnh công đức đó ?
Giảng: Mà ta làm sao biết được, làm sao nói được, những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất đại thành, danh: Ta-la tràng; bỉ trung hữu Vương, danh: Vô yếm túc. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Ða La Tràng, có một vua tên là Vô Yểm Túc. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thành lớn tên là Đa La Tràng. Trong thành đó có ông vua tên là Vô Yểm Túc. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử lễ phổ nhãn túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Trưởng giả Phổ Nhãn, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị trưởng giả Phổ Nhãn, đi nhiễu bên phải vô lượng vòng, an cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi về hướng nam, tìm kiếm một vị thiện tri thức khác.
===============================
17. VUA VÔ YỂM TÚC
PHÓ THÁC THỨ 17 – HẠNH VÔ KÍ
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ức niệm tư tánh thiện tri thức giáo, niệm thiện tri thức: năng nhiếp thọ ngã, năng thủ hộ ngã, lệnh ngã ư A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề vô hữu thoái chuyển. Như thị tư duy, sanh hoan hỉ tâm, tịnh tín tâm, quảng đại tâm, di sướng tâm, dõng dược tâm, hân khánh tâm, thắng diệu tâm, tịch tĩnh tâm, trang nghiêm tâm, Vô Trước tâm, vô ngại tâm, bình đẳng tâm, tự tại tâm, trụ pháp tâm, biến vãng Phật sát tâm, kiến Phật trang nghiêm tâm, bất xả thập lực tâm.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử ức niệm tư duy lời dạy của thiện tri thức. Nghĩ rằng thiện tri thức có thể nhiếp thọ tôi, có thể thủ hộ tôi làm cho tôi không thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tư duy như vậy sanh tâm hoan hỷ, tâm tịnh tín, tâm quảng đại, tâm thơ thới, tâm hớn hở, tâm mừng rở, tâm thắng diệu, tâm tịch tịnh, tâm trang nghiêm, tâm vô trước, tâm vô ngại, tâm bình đẳng, tâm tự tại, tâm trụ pháp, tâm chẳng bỏ thập lực.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghĩ nhớ suy gẫm lời dạy của thiện tri thức, nghĩ rằng: “Thiện tri thức nhiếp thọ tôi, giáo hoá tôi, bảo hộ tôi, khiến cho tôi không còn thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Khi Thiện Tài đồng tử suy gẫm như vậy, bèn sinh tâm hoan hỉ, tâm tịnh tín, tâm rộng lớn, tâm thư thái, tâm hớn hở, tâm vui mừng, tâm thắng diệu, tâm tịch tĩnh, tâm trang nghiêm, tâm không chấp, tâm vô ngại, tâm bình đẳng, tâm tự tại, tâm trụ pháp, tâm đến khắp cõi Phật, tâm thấy Phật trang nghiêm, tâm chẳng bỏ mười lực thần thông của Phật.
Tiệm thứ du hành, kinh lịch quốc độ, thôn ấp, tụ lạc, chí Ta-la tràng thành, vấn Vô yếm túc Vương sở tại chi xứ, chư nhân đáp ngôn:
Thiện Tài đi lần đến thành Ða La Tràng hỏi thăm chỗ ở của vua Vô Yểm Túc.
Giảng: Thiện Tài đồng tử từ từ đi về hướng nam, xuyên qua quốc gia thôn xóm tụ lạc, mới đến được thành Đa La Tràng, bèn đi hỏi chỗ ở của vua Vô Yểm Túc.
Thử Vương kim giả tại ư chánh điện, tọa sư tử tọa, tuyên bố pháp hóa, điều ngự chúng sanh, khả trì giả trì, khả nhiếp giả nhiếp, phạt kỳ tội ác, quyết kỳ tranh tụng, phủ kỳ cô nhược, giai lệnh vĩnh đoạn sát, đạo, tà dâm, diệc lệnh cấm chỉ vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, khỉ ngữ, hựu sử viễn ly tham, sân, tà kiến.
Mọi người bảo rằng nhà vua hiện ở chánh điện, ngồi tòa sư tử, tuyên bố pháp hóa điều ngự chúng sanh. Kẻ đáng trị tội thì trị, kẻ đáng phạt thời phạt, kẻ đáng nhiếp thời nhiếp. Phạt tội ác của họ, giải quyết sự tranh tụng của họ. Thương người cô cùng yếu đuối. Ðều làm cho nhơn dân dứt hẳn sự giết hại, trộm cướp, tà dâm. Cũng làm cho họ bỏ sự nói dối, nói thô ác, nói ly gián, nói thêu dệt. Lại làm cho họ xa lìa tham lam, sân hận, tà kiến.
Giảng: Mọi người đáp rằng: “Vị vua nầy đang ở tại cung điện, ngồi trên toà sư tử, tuyên bố pháp hoá, điều ngự tất cả chúng sinh. Kẻ đáng trị thì trị, kẻ đáng nhiếp thì nhiếp, trừng phạt những kẻ tội ác, phán quyết sự tranh tụng của họ, thương người dân cô đơn yếu đuối, đều khiến cho họ dứt hẳn sát sinh, trộm cắp, tà dâm, cũng khiến cho họ bỏ sự nói dối, nói hai lưỡi, chửi mắng, thêu dệt. Còn khiến cho họ xa lìa tham sân si tà kiến”.
Đây là phó thác hạnh thứ bảy – Hạnh vô trước (không chấp), cũng là phương tiện Ba La Mật trong mười độ. Vô trước là biểu thị phương tiện cần có, chẳng mê nơi không, chẳng chấp vào sự lý, chẳng bỏ, chẳng thọ. Đa la, nghĩa là minh tịnh. Tràng, nghĩa là kiến lập. Đây là biểu thị hạnh vô trước, nương Bát nhã tịnh minh, kiến lập thắng hạnh. Vua tên là Vô Yểm Túc, biểu thị phương tiện như huyễn, giáo hoá chúng sinh mà không chấp trước, cho nên tâm chẳng mỏi nhàm.
Thời, Thiện tài đồng tử y chúng nhân ngữ, tầm tức vãng nghệ. Dao kiến bỉ Vương tọa na la duyên Kim Cương chi tọa, a-tăng-kì bảo dĩ vi kỳ túc, vô lượng bảo tượng dĩ vi trang nghiêm, kim thằng vi võng di phước kỳ thượng.
Thiện Tài theo chỗ chỉ dẫn của mọi người mà đến chánh điện. Thấy nhà vua ngự tòa na la diên kim cang. Tòa này chân bằng vô số thứ báu, vô lượng hình tượng để trang nghiêm, dây vàng làm lưới giăng phía trên.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử y theo lời nói của mọi người, tìm đến chỗ ông vua Vô Yểm Túc. Khi Thiện Tài đồng tử thấy vua Vô Yểm Túc đó ở trong cung điện, ngồi trên toà kim cang na la diên, chân toà kim cang làm bằng A tăng kỳ châu báu, có vô lượng tượng báu dùng để trang nghiêm. Dây vàng làm lưới, giăng che phía trên.
Như ý ma-ni dĩ vi ảo quán trang nghiêm kỳ thủ, diêm phù đàn kim dĩ vi án nguyệt trang nghiêm kỳ ngạch, đế thanh ma-ni dĩ vi nhĩ đang tướng đối thùy hạ, vô giá ma-ni dĩ vi anh lạc trang nghiêm kỳ cảnh, Thiên diệu ma-ni dĩ vi ấn xuyến trang nghiêm kỳ tý
Nhà vua đầu đội bửu quan như ý ma ni. Vàng diêm phù đàn làm hình bán nguyệt để trang nghiêm nơi trán. Ðế thanh ma ni làm vòng tai hai bên đối nhau thòng xuống. Ma ni vô giá làm chuỗi đeo nơi cổ. Ma ni đẹp cõi trời làm ấn xuyến mang nơi cánh tay.
Giảng: Mũ báu làm bằng châu như ý ma ni, để trang nghiêm đầu của vua. Vàng diêm phù đàn dùng làm hình bán nguyệt, để trang nghiêm trên trán của vua. Ma ni đế thanh dùng làm vòng tai, đối nhau thòng xuống. Ma ni vô giá dùng làm chuỗi đeo ở cổ. Ma ni đẹp cõi trời dùng làm ấn xuyến, đeo ở cánh tay.
Diêm phù đàn kim dĩ vi kỳ cái, chúng bảo gian thác dĩ vi luân phước, Đại lưu ly bảo dĩ vi kỳ can, quang vị ma-ni dĩ vi kỳ tề, tạp bảo vi linh hằng xuất Diệu-Âm, phóng đại quang minh chu biến thập phương, như thị bảo cái nhi phước kỳ thượng.
Vàng diêm phù đàn làm lọng. Các báu xen lẫn dùng làm vành cọng. Cán bằng đại lưu ly bửu. Quang vị ma ni dùng làm núm. Các báu làm linh hằng vang tiếng diệu. Phóng đại quanh minh chiếu khắp mười phương. Lọng báu trên đây che cho nhà vua.
Giảng: Vàng diêm phù đàn dùng làm lọng báu, các báu xen nhau dùng làm vành cọng. Đại lưu ly báu dùng làm cán. Quang vị ma ni dùng làm rốn. Tạp báu làm linh, luôn vang ra âm thanh vi diệu. Phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương. Lọng báu như vậy che phủ phía trên.
A na la Vương hữu Đại lực thế, năng phục tha chúng, vô năng dữ địch; dĩ ly cấu tăng nhi hệ kỳ đảnh, thập thiên đại thần tiền hậu vi nhiễu cọng lý Vương sự. kỳ tiền phục hưũ thập vạn mãnh tốt, hình mạo xú ác, y phục biển lậu, chấp trì khí trượng, nhương tý sân mục, chúng sanh kiến giả vô bất khủng bố.
Vô Yểm Túc Vương có thế lực lớn có thể làm khuất phục chúng khác, không ai địch lại. Lấy lụa ly cấu vấn trên đảnh. Mười ngàn đại thần cùng xử lý quốc sự. Trước mặt nhà vua, hai bên có mười vạn lính mạnh, hình ác, y phục xấu, tay cầm binh khí, xăn tay trợn mắt. Ai ngó thấy cũng phải kinh sợ.
Giảng: Vua Vô Yểm Túc có đại thế lực, hàng phục được chúng sinh khác, không ai địch lại ông ta. Ông ta dùng lụa ly cấu quấn trên đỉnh đầu, có mười ngàn đại thần vây quanh trước sau, cùng nhau trị lý triều chánh. Trước mặt vua Vô Yểm Túc, lại có mười vạn binh dũng mãnh, hình tướng của họ xấu ác, y phục cũ xấu, tay cầm binh khí, xăn tay trợn mắt, ai nhìn thấy cũng đều kinh sợ.
Vô lượng chúng sanh phạm Vương giáo sắc, hoặc đạo tha vật, hoặc hại tha mạng, hoặc xâm tha thê, hoặc sanh tà kiến, hoặc khởi sân hận, hoặc hoài tham tật, tác như thị đẳng chủng chủng ác nghiệp, thân bị ngũ phược, tướng nghệ Vương sở, tùy kỳ sở phạm nhi trì phạt chi.
Những chúng sanh phạm pháp: hoặc trộm vật của người, hoặc hại mạng người, hoặc xâm vợ người, hoặc sanh tà kiến, hoặc khởi sân hận, hoặc tham lam tật đố, thân bị ngũ phược dắt đến chỗ vua, tùy theo chỗ họ phạm mà trị tội
Giảng: Ở Trong nước đó có vô lượng chúng sinh phạm pháp, hoặc trộm vật người khác, hoặc giết hại mạng người, hoặc xâm phạm vợ người, hoặc sinh tà tri tà kiến, hoặc khởi sân hận, hoặc xan tham đố kị, làm đủ thứ nghiệp ác như vậy, thân họ bị trói buộc, dắt đến chỗ vua. Tuỳ theo tội phạm của họ mà trị tội.
Hoặc đoạn thủ túc, hoặc tiệt nhĩ tỳ, hoặc thiêu kỳ mục, hoặc trảm kỳ thủ, hoặc bác kỳ bì, hoặc giải kỳ thể, hoặc dĩ thang chử, hoặc dĩ hỏa phần, hoặc khu thượng cao sơn thôi lệnh đọa lạc, hữu như thị đẳng vô lượng sở độc; phát thanh hiệu khiếu, thí như chúng hợp đại địa ngục trung.
Hoặc chặt tay chân, hoặc cắt tai mũi, hoặc khoét đôi mắt, hoặc chém đầu, hoặc lột da, hoặc phân thây, hoặc đem nấu, hoặc đem đốt, hoặc dắt lên núi cao xô té xuống. Vô lượng sự hành hình độc ác như vậy. Tiếng phạm nhơn kêu khóc dường như trong địa ngục Chúng Hiệp.
Giảng: Hoặc chặt tay chân của họ, hoặc cắt tai mũi, hoặc móc mắt, hoặc chặt đầu, hoặc lột da, hoặc mổ thân, hoặc nấu chín, hoặc dùng lửa đốt, hoặc dắt lên núi cao rồi xô họ xuống. Có vô lượng khổ độc như vậy, phát ra tiếng kêu gào như trong địa ngục chúng hợp.
Thiện Tài kiến dĩ, tác như thị niệm: ngã vi lợi ích nhất thiết chúng sanh, cầu Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Thấy thế, Thiện Tài nghĩ rằng: Tôi vì lợi ích chúng sanh mà cầu Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Giảng: Tài đồng tử thấy tình hình tàn nhẫn khủng khiếp như vậy rồi, bèn nghĩ như vầy: “Ta muốn lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên đến cầu Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo.
Kim giả, thử Vương diệt chư thiện Pháp, tác Đại tội nghiệp, bức não chúng sanh, nãi chí đoạn mạng, tằng bất cố cụ vị lai ác đạo.
Nay nhà vua Vô Yểm Túc này diệt pháp lành tạo đại tội, bức não chúng sanh nhẫn đến giết chết, không sợ bị đọa ác đạo sau này.
Giảng: Thiện Hiện nay ông vua Vô Yểm Túc nầy huỷ diệt tất cả các pháp lành, làm ra tội nghiệp rất lớn, bức bách não hại chúng sinh, cho đến lấy đi mạng sống của họ, cũng không sợ tương lai sẽ thọ quả báo, sẽ đoạ vào đường ác sau nầy.
Vân hà ư thử nhi dục cầu Pháp, phát đại bi tâm cứu hộ chúng sanh?
Sao tôi lại muốn ở nhà vua này mà cầu chánh pháp, phát tâm đại bi cứu hộ chúng sanh.
Giảng: Tại sao ta lại muốn cầu pháp ở đây? Phát tâm đại bi, cứu hộ tất cả chúng sinh”? Cho nên có lúc Thiện Tài đồng tử cũng sinh tâm hoài nghi đối với thiện tri thức.
Tác thị niệm thời, không trung hữu Thiên nhi cáo chi ngôn: Thiện nam tử! nhữ đương ức niệm phổ nhãn Trưởng-giả thiện tri thức giáo.
Lúc Thiện Tài nghĩ như vậy, trên hư không có trời bảo rằng: Này thiện nam tử ! Ngươi phải ghi nhớ lời dạy của Phổ Nhẫn Trưỡng giả.
Giảng: Khi Thiện Tài vọng tưởng hoài nghi như vậy, thì ở trong hư không có vị trời bảo rằng: “Thiện nam tử! Ngươi hãy nghĩ nhớ đến lời dạy của thiện tri thức trưởng giả Phổ Nhãn”.
Thiện Tài ngưỡng thị nhi bạch chi viết: ngã thường ức niệm, sơ bất cảm vong.
Thiện Tài ngữa mặt nói: Con luôn ghi nhớ không hề tạm quên.
Giảng: Thiện Tài đồng tử nghe rồi, liền ngước nhìn mà nói rằng: “Tôi luôn luôn nghĩ nhớ lời dạy của trưởng giả Phổ Nhãn, chưa từng dám quên”.
Thiên viết: Thiện nam tử! nhữ mạc yếm ly thiện tri thức ngữ, thiện tri thức giả năng dẫn đạo nhữ chí vô hiểm nan an ổn chi xứ.
Trời bảo: Thiện nam tử chớ nhàm lìa lời của thiện tri thức. Thiện tri thức có thể dắt dẫn ngươi đến chỗ an ổn không hiểm nạn.
Giảng: Vị Trời đáp: “Thiện nam tử! Ngươi đừng có nhàm chán mà lìa khỏi lời dạy của thiện tri thức đã nói. Bậc thiện tri thức sẽ dẫn dắt ngươi đến nơi an ổn không hiểm nạn”.
Thiện nam tử! Bồ Tát thiện xảo phương tiện trí bất khả tư nghị, nhiếp thọ chúng sanh trí bất khả tư nghị, hộ niệm chúng sanh trí bất khả tư nghị, thành thục chúng sanh trí bất khả tư nghị, thủ hộ chúng sanh trí bất khả tư nghị, độ thoát chúng sanh trí bất khả tư nghị, điều phục chúng sanh trí bất khả tư nghị.
Này thiện nam tử ! Bồ Tát thiện xảo phương tiện trí chẳng thể nghĩ bàn, nhiếp thọ chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, hộ niệm chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, thủ hộ chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, độ thoát chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn, điều phục chúng sanh trí chẳng thể nghĩ bàn.
Giảng: Vị Trời lại nói tiếp: “Thiện nam tử! Bồ Tát trí huệ thiện xảo phương tiện không thể nghĩ bàn, ngươi đừng có sinh tâm hoài nghi đối với thiện tri thức! Bồ Tát trí huệ nhiếp thọ chúng sinh không thể nghĩ bàn, Bồ Tát trí huệ hộ niệm chúng sinh không thể nghĩ bàn. Bồ Tát trí huệ thành thục chúng sinh không thể nghĩ bàn, quán cơ nói pháp, theo bệnh cho thuốc. Bồ Tát trí huệ thủ hộ chúng sinh không thể nghĩ bàn. Bồ Tát trí huệ độ thoát chúng sinh không thể nghĩ bàn. Bồ Tát trí huệ điều phục tất cả chúng sinh cang cường không thể nghĩ bàn. Cho nên ngươi đừng có sinh tâm hoài nghi. Thiện tri thức chẳng vì mình mà nghĩ tưởng, những gì Ngài làm đều vì giáo hoá chúng sinh”.
Trong quá trình tu đạo, thường gặp cảnh giới khác nhau, có khi nhận thức chẳng rõ ràng mà mất đi ý chí trước kia, nên tôi thường nói:
“Tất cả là khảo nghiệm
Xem bạn làm thế nào?
Nếu trước mắt chẳng biết
Phải luyện lại từ đầu”.
Đây là nói chúng ta người tu đạo phải trải qua rất nhiều sự khảo nghiệm, mới có thể có sự thành tựu, mà chứng được trí huệ chân chánh. Như Thiện Tài đồng tử là người có trí huệ như vậy, mà còn khởi tâm hoài nghi đối với thiện tri thức, huống gì là phàm phu chúng ta? Chân chánh nhận thức được sự giáo hoá của thiện tri thức, thật không dễ dàng. Vì tập khí của chúng sinh, bạn nói với họ đạo lý chân thật, đa số họ không nhất định tiếp thọ. Nếu nói với họ những lời tà kiến, thị phị, không chánh đáng, thì họ rất dễ dàng tiếp thọ. Do đó có thể thấy, tu đạo chẳng phải là việc dễ dàng. Đa số cảnh giới của Bồ Tát đều không thể nghĩ bàn, nhưng cử chỉ hành động của phàm phu đều phải nghĩ tưởng đến nó, dùng tâm phân biệt để phân tích khảo lự. Trên thật tế, công năng phân biệt đó là thức thứ sáu đang tác quái, mà chẳng phải là trí huệ chân chánh. Nếu bạn dùng trí huệ chân chánh để phán đoán phân biệt sự tướng, thì có thể thấu hiểu tiền nhân hậu quả. Nếu dùng thần thức để phân biệt, thì có khi sẽ phát sinh sai lầm. Bồ Tát có khi vận dụng nghịch hạnh giết hại chúng sinh, ngược lại sinh ra vô lượng phước, đắc được bồ đề vô thượng. Nhưng đó chỉ có đại Bồ Tát mới làm được việc đó. Việc đó có hai loại:
1. Thật hạnh: Là biết rõ người đó trước kia chắc chắn đã làm tội nghiệp vô gián. Dùng phương tiện không khác biệt, khiến cho họ lìa ác đó, tuy có thể đoạn mạng, khiến cho họ không làm. Lại biết người đó trước kia nếu bỏ mạng rồi, chắc sẽ sinh vào đường lành. Hơn nữa, Bồ Tát tự nghĩ mình làm việc giết hại rồi, tất sẽ đoạ địa ngục, vì người đó thọ khổ. Người đó tuy hiện thọ khổ ít, tất được quả vui.
2. Biến hoá: Tức là trong kinh văn nầy nói, vua Vô Yểm Túc hiện ra cảnh huyễn, chẳng phải chân thật mà là tam muội như huyễn của Bồ Tát biến hoá ra đủ thứ cảnh giới, dùng để điều phục tất cả chúng sinh cang cường phạm tội.
Thời, Thiện tài đồng tử văn thử ngữ dĩ, tức nghệ Vương sở, đảnh lễ kỳ túc, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? Vân hà tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài nghe xong liển đến đảnh lễ nơi chân vua Vô Yểm Túc tâu rằng: Bạch đại Thánh! Con đã phát tâm vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nghe lời đó rồi, liền lập tức đi đến chỗ vua Vô Yểm Túc, đảnh lễ nhà vua, rồi bạch rằng: Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng giáo hối, nguyện vi ngã thuyết!
Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin vì con mà giảng nói.
Giảng: Con nghe trưởng giả Phổ Nhãn giới thiệu nói đức Thánh Ngài khéo dạy bảo, xin hãy vì con mà nói”.
Thời, a na la Vương lý Vương sự dĩ, chấp Thiện Tài thủ, tướng nhập cung trung, mạng chi đồng tọa, cáo ngôn: Thiện nam tử! nhữ ưng quán ngã sở trụ cung điện.
Vua Vô Yểm Túc xử lý quốc sự xong, cầm tay Thiện Tài dắt vào nội cung bảo cùng ngồi, nói rằng: Này thiện nam tử ! Người quán sát cung điện của ta ở đây.
Giảng: Lúc đó, vua Vô Yểm Túc trị lý việc quốc gia rồi, bèn cầm tay Thiện Tài đồng tử, dẫn vào trong cung điện, bảo cùng ngồi, rồi nói rằng: “Thiện nam tử! Ngươi hãy quán sát cung điện của ta ở, có chỗ nào khác biệt chăng?
Thiện Tài như ngữ tức biến quan sát, kiến kỳ cung điện quảng đại vô bỉ, giai dĩ diệu bảo chi sở hợp thành, thất bảo vi tường châu táp vi nhiễu, bách thiên chúng bảo dĩ vi lâu các, chủng chủng trang nghiêm tất giai diệu hảo, bất tư nghị ma-ni bảo võng La phước kỳ thượng
Tuân lời nhà vua, Thiện Tài quán sát khắp cung. Thấy cung điện này rộng lớn vô tỉ đều làm bằng diệu bửu. Tường rào bao quanh bằng thất bửu, trăm ngàn thứ báu xây các lầu các, tất cả sự trang nghiêm đều diệu hảo. Màn lưới bất tư nghì ma ni giăng che phía trên.
Giảng: Thiện Tài đồng tử theo lời nhà vua nói, bèn quán sát khắp, thấy cung điện đó rộng lớn không gì sánh bằng, thậm chí còn lớn hơn Vạn Phật Thành, đều dùng báu đẹp hoà hợp làm thành. Vách tường cung điện bao quanh đều làm bằng bảy báu (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não). Dùng trăm ngàn thứ báu làm lầu các, đủ thứ sự trang nghiêm, thảy đều tốt đẹp. Lưới la ma ni báu không nghĩ bàn che phủ phía trên cung điện.
Thập ức thị nữ đoan chánh thù tuyệt, uy nghi tiến chỉ giai tất khả quán, phàm sở thí vi vô phi xảo diệu, tiên khởi hậu ngọa nhuyễn ý thừa chỉ.
Mười ức thị nữ đoan trang xinh đẹp khả ái. Phàm chỗ làm đều xảo diệu, lúc dậy lúc nằm đều thừa thuận ý nhà vua.
Giảng: Lại có mười ức nữ hầu đoan chánh xinh đẹp, oai nghi đi đứng thảy đều khả ái, ai thấy cũng đều hoan hỉ. Phàm họ làm việc gì cũng đều rất khéo léo, lúc đứng lúc nằm đều ôn hoà nhẹ nhàng, hầu hạ vừa ý của nhà vua”.
Thời, A na la Vương cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! ư ý vân hà? ngã nhược thật tác như thị ác nghiệp, vân hà nhi đắc như thị quả báo, như thị sắc thân, như thị quyến thuộc, như thị phú thiệm, như thị tự tại?
Vua Vô Yểm Túc bảo Thiện Tài: Này thiện nam tử ! Nếu ta thiệt gây ác nghiệp thời sao lại được quả báo tốt đẹp này, sắc thân như đây, quyến thuộc như vậy, giàu sang như vậy, tự tại như vậy ?
Giảng: Lúc đó, vua Vô Yểm Túc bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ý ngươi thế nào? Nếu ta thật làm những nghiệp ác như thế, sao lại được quả báo an vui như vầy? Được sắc thân tốt đẹp như vầy? Được quyến thuộc mỹ nữ như vầy? Được giàu sang phú quý như vầy? Được tự tại như vầy”?
Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát như huyễn giải thoát.
Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát như huyển giải thoát.
Giảng: Thiện nam tử! Ngươi biết chăng? Ta đã đắc được tam muội giải thoát Bồ Tát như huyễn, cho nên có thể du hí thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn.
Thiện nam tử! ngã thử quốc độ sở hữu chúng sanh, đa hành sát, đạo nãi chí tà kiến, tác dư phương tiện bất năng lệnh kỳ xả ly ác nghiệp.
Này thiện nam tử ! Nước của ta, dân chúng nhiều người làm việc trộm cướp giết hại nhẫn đến tà kiến. Dùng phương tiện khác không thể làm cho họ bỏ ác nghiệp.
Giảng: Thiện nam tử! Hết thảy chúng sinh trong nước của ta đây, phần nhiều làm việc giết hại và trộm cắp, cho đến tà kiến. Nếu ta dùng phương tiện khác mà không dùng hình phạt nghiêm minh, thì họ không sợ hãi, không thể khiến cho họ xả bỏ nghiệp ác.
Thiện nam tử! ngã vi điều phục bỉ chúng sanh cố, hóa tác ác nhân tạo chư tội nghiệp thọ chủng chủng khổ, lệnh kỳ nhất thiết tác ác chúng sanh kiến thị sự dĩ, tâm sanh hoàng phố, tâm sanh yếm ly, tâm sanh khiếp nhược, đoạn kỳ sở tác nhất thiết ác nghiệp, phát A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề ý.
Này thiện nam tử ! Ta vì điều phục chúng sanh đó mà hóa hiện những người ác tạo tội nghiệp bị hành hình khốn khổ. Làm cho những dân chúng làm ác nghe thấy mà kinh sợ chừa ác làm lành phát tâm Bồ đề.
Giảng: Thiện nam tử! Ta vì điều phục những chúng sinh cang cường đó, mà dùng thần thông biến hoá làm người ác, tạo các tội nghiệp, thọ đủ thứ khổ. Ngươi biết không, những người làm ác mà ngươi thấy lúc trước, đều là do ta hoá ra, hổ tương tạo nghiệp ác, chứ chẳng phải thật. Họ đều là một thứ biểu pháp trong tam muội giải thoát như huyễn. Ta khiến cho những chúng sinh làm ác thấy những hình phạt đó rồi, bèn sinh tâm sợ hãi, sửa lỗi làm mới, không còn làm ác nữa. Họ nhìn thấy tạo ác sẽ thọ quả báo, bèn sinh tâm nhàm lìa, sinh tâm khiếp nhược, không còn dám tạo nghiệp ác nữa, do đó có câu: “Đừng làm các điều ác, hãy làm các việc lành”. Thập ác cũng đổi thành thập thiện, dứt trừ tất cả nghiệp ác, không còn sát sinh, trộm cắp, nói dối, tà dâm, uống rượu, mà phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Thiện nam tử! ngã dĩ như thị xảo phương tiện cố, lệnh chư chúng sanh, xả thập ác nghiệp, trụ thập thiện đạo, cứu cánh khoái lạc, cứu cánh an ổn, cứu cánh trụ ư nhất thiết trí địa.
Này thiện nam tử ! Ta dùng phương tiện thiện xảo như vậy làm cho dân chúng bỏ mười ác nghiệp mà an trụ nơi mười hạnh lành, rốt ráo khoái lạc, rốt ráo an ổn, rốt ráo trụ ở bực Nhứt thiết trí.
Giảng: Thiện nam tử! Do ta dùng phương tiện khéo léo như vậy, biến hoá ra người ác, tạo đủ thứ nghiệp, thọ đủ thứ khổ, mà khiến cho tất cả các chúng sinh bỏ mười nghiệp ác, trụ đạo thập thiện, được rốt ráo an vui, rốt ráo an ổn, rốt ráo trụ nơi bậc nhất thiết trí.
Thiện nam tử! ngã thân, ngữ, ý vị tằng não hại ư nhất chúng sanh.
Này thiện nam tử ! Thân, ngữ, ý của ta chưa từng não hại đến một chúng sanh.
Giảng: Thiện nam tử! Thân miệng ý ba nghiệp của ta, chưa từng não hại một chúng sinh nào.
Thiện nam tử! như ngã tâm giả, ninh ư vị lai thọ Vô gián khổ, chung bất phát sanh nhất niệm chi ý dữ nhất văn nhất nghĩ nhi tác khổ sự, huống phục nhân da! nhân thị phước điền, năng sanh nhất thiết chư thiện Pháp cố.
Này thiện nam tử ! Như tâm ý của ta, thà ở vị lai chịu vô gián khổ, chớ trọn không móng một niệm làm khổ cho một con muỗi con kiến, huống lại làm khổ người. Vì người là phước điền có thể sanh tất cả những pháp lành.
Giảng: Thiện nam tử! Như tâm của ta, thà vị lai tôi thọ khổ vô gián địa ngục, chứ trọn không phát sinh một ý niệm hại người, cho đến làm khổ con trùng, con kiến, hà huống là con người. Vì con người là ruộng phước, hay sinh ra tất cả các pháp lành!
Thiện nam tử! ngã duy đắc thử như huyễn giải thoát. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc vô sanh nhẫn, tri chư hữu thú tất giai như huyễn, Bồ Tát chư hạnh tất giai như hóa, nhất thiết thế gian tất giai như ảnh, nhất thiết chư pháp tất giai như mộng, nhập chân thật tướng vô ngại Pháp môn, tu hành đế võng nhất thiết chư hạnh, dĩ vô ngại trí hạnh ư cảnh giới, phổ nhập nhất thiết bình đẳng tam muội, ư Đà-la-ni dĩ đắc tự tại; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Này thiện nam tử ! Ta chỉ được môn như huyễn giải thoát này. Như chư đại Bồ Tát được vô sanh nhẫn biết những loài hữu lậu đều như huyễn. Những hạnh Bồ Tát như hóa. Tất cả thế gian đều như bóng. Tất cả pháp đều như mộng. Nhập chân như tướng vô ngại pháp môn. Tu hành đế võng tất cả công hạnh. Dùng trí vô ngại đi trong các cảnh giới. Nhập khắp tất cả bình đẳng tam muội. Nơi đà la ni đã tự tại. Mà ta làm sao nói được biết được công đức hạnh đó.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ được pháp môn giải thoát như huyễn nầy. Như các đại Bồ Tát đắc được vô sinh pháp nhẫn, do đó: “Không thấy có chút pháp sinh, không thấy có chút pháp diệt”. Các Ngài biết tam giới hai mươi lăm cõi, bốn đường ác, thảy đều như huyễn, như hoá, mà các hạnh Bồ Tát tu hành, cũng đều như huyễn, như hoá. Bạn đừng sinh tâm chấp trước, cho rằng đó là Bồ Tát đạo. Tất cả sự việc thế gian thảy đều như ảnh, chẳng có thật thể. Có những người biết rõ tất cả thế gian, đều như ảnh, tuy học Phật pháp nhiều năm, nhưng vẫn buông bỏ chẳng đặng, vô minh vẫn rất nặng. Tất cả các pháp thảy đều như mộng, đừng sinh ra pháp chấp. Các Ngài nhập vào tướng chân thật pháp môn vô ngại, tu hành lục độ vạn hạnh, có tất cả các hạnh như lưới la của trời Đế Thích. Các Ngài dùng trí huệ vô ngại, tu hành nơi cảnh giới, do đó: “Đối cảnh vô tâm”, mà chẳng sinh mọi sự chấp trước. Các Ngài vào khắp tất cả tam muội bình đẳng, nơi Đà la ni đã được tự tại, mà ta làm sao biết được nói được những hạnh công đức đó? Bây giờ ta sẽ giới thiệu cho ngươi vị thiện tri thức khác, vị đó sẽ vì ngươi giải thích đạo lý nhiều hơn.
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu thành danh: diệu quang; Vương danh: đại quang. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có thành tên là Diệu Quang. Nhà vua tên là Ðại Quang. Ngươi qua đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Đi về hướng nam nầy, có thành tên là Diệu Quang, trong thành đó có vị vua tên là Đại Quang. Ngươi hãy đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo? Ông ta sẽ vì người mà giải nói, khiến cho ngươi minh bạch thêm”.
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ Vương túc, nhiễu vô số tạp, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân vua Vô Yểm Túc, hữu nhiễu vô số vòng, từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vua Vô Yểm Túc, sau đó đi nhiễu quanh vô lượng vòng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam, đi tìm một vị thiện tri thức khác.
=====================================
18. VUA ĐẠI QUANG
PHÓ THÁC THỨ 18 – HẠNH NAN ĐẮC
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử nhất tâm chánh niệm bỉ Vương sở đắc huyễn trí Pháp môn, tư tánh bỉ Vương như huyễn giải thoát, quan sát bỉ Vương như huyễn pháp tánh, phát như huyễn nguyện, tịnh như huyễn Pháp, phổ ư nhất thiết như huyễn tam thế khởi ư chủng chủng như huyễn biến hóa.
Bấy giờ Thiện Tài nhứt tâm chánh niệm pháp môn như huyễn trí của nhà vua. Tư duy như huyễn giải thoát của nhà vua. Quán sát pháp tánh như huyễn của nhà vua. Phát như huyễn nguyện. Tịnh như huyễn pháp. Khắp ở tất cả tam thế như huyễn mà khởi những biến hóa như huyễn.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử một lòng chánh niệm pháp môn trí huệ như huyễn của vua Vô Yểm Túc đắc được. Suy gẫm pháp môn giải thoát như huyễn của vị vua đó. Quán sát pháp tánh như huyễn của vị vua đó. Phát đại nguyện như huyễn. Thanh tịnh pháp như huyễn. Khắp trong ba đời tất cả như huyễn, giáo hoá chúng sinh. Khởi đủ thứ thần thông biến hoá như huyễn.
Như thị tư duy. Tiệm thứ du hành, hoặc chí nhân gian thành ấp, tụ lạc, hoặc Kinh khoáng dã, nham cốc, hiểm nan, vô hữu bì giải, vị tằng hưu tức. Nhiên hậu nãi chí diệu quang đại thành, nhi vấn nhân ngôn: diệu quang đại thành tại ư hà sở? nhân hàm báo ngôn: diệu quang thành giả, kim thử thành thị, thị đại quang Vương chi sở trụ xứ.
Tư duy như vậy, Thiện Tài đi lần qua phương Nam, hoặc đến thành ấp tụ lạc, hoặc đi qua đồng hoang hang hố hiểm nạn, vẫn không mỏi lười, chưa từng ngơi nghỉ. Sau đó mới đến thành Diệu Quang hỏi người thành Diệu Quang ở tại đâu? Người đáp chính là thành Diệu Quang, là chỗ ngự của vua Ðại Quang
Giảng: Thiện Tài đồng tử suy gẫm như vậy, từ từ đi du hành về hướng nam, hoặc đến thành ấp thôn xóm nhân gian, hoặc đi qua hoang dã hang hố hiểm nạn, những nơi đầy dẫy sài lang hổ báo, ác thú vây quanh, nhưng Thiện Tài đồng tử không cảm thấy mệt mỏi mà giải đãi, Ngài vì pháp quên mình, chưa từng ngừng nghỉ. Sau đó mới đến đại thành Diệu Quang, bèn hỏi mọi người rằng: “Đại thành Diệu Quang ở đâu vậy”?
Mọi người đáp rằng: “Đây là thành Diệu Quang, ở đây cũng là chỗ ở của vua Đại Quang”.
Thời, Thiện tài đồng tử hoan hỉ dũng dược, tác như thị niệm: ngã thiện tri thức tại thử thành trung, ngã kim tất đương thân đắc phụng kiến, văn chư Bồ-tát sở hạnh chi hành, văn chư Bồ-tát xuất yếu chi môn, văn chư Bồ-tát sở chứng chi Pháp, văn chư Bồ-tát bất tư nghị công đức, văn chư Bồ-tát bất tư nghị tự tại, văn chư Bồ-tát bất tư nghị bình đẳng, văn chư Bồ-tát bất tư nghị dũng mãnh, văn chư Bồ-tát bất tư nghị cảnh giới quảng đại thanh tịnh.
Thiện Tài đồng tử hoan hỉ vô lượng nghĩ rằng thiện tri thức của tôi ở trong thành này. Nay tôi chắc sẽ được thân cận, được nghe công hạnh của chư Bồ Tát, được nghe môn xuất yếu của chư Bồ Tát, được nghe pháp của chư Bồ Tát đã chứng được, nghe công đức bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe bất tư nghì tự tại của chư Bồ Tát, được nghe bình đẳng bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe dũng mãnh bất tư nghì của chư Bồ Tát, được nghe cảnh giới quảng đại thanh tịnh bất tư nghì của chư Bồ Tát.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hoan hỉ vui mừng, bèn nghĩ như vầy: “Thiện tri thức của tôi ở trong thành nầy, hôm nay chắc tôi sẽ gặp được Ngài. Được nghe hạnh của các Bồ Tát tu hành. Được nghe pháp môn quan trọng thoát khỏi ba cõi của Bồ Tát. Được nghe pháp của các Bồ Tát chứng đắc. Được nghe công đức không thể nghĩ bàn của các Bồ Tát. Được nghe sự tự tại không thể nghĩ bàn của các Bồ Tát. Được nghe sự bình đẳng không thể nghĩ bàn của các Bồ Tát. Được nghe sự dũng mãnh không thể nghĩ bàn của các Bồ Tát. Được nghe cảnh giới không thể nghĩ bàn của các Bồ Tát, rộng lớn thanh tịnh”.
Thành tên Diệu Quang, bậc ở trước (hạnh vô trước) là thuộc về đại bi tăng dần, vì khiến cho Thiện Tài đồng tử được vô trụ diệu huệ. Đại quang, biểu thị trí từ định, đều có thể được. Vì trong đại nguyện rộng lớn, đều chiếu triệt.
Hạnh thứ tám nầy, là hạnh Nan đắc (khó được), biểu thị hạnh nầy rất khó đắc được, phải có nguyện lực không chướng ngại, mới có thể đắc được.
Tác thị niệm dĩ, nhập diệu quang thành. kiến thử đại thành, dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, trân châu, xa cừ, mã não thất bảo sở thành, thất bảo thâm tiệm, thất trọng vi nhiễu; bát công đức thủy doanh mãn kỳ trung, để bố kim sa, ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa biến bố kỳ thượng, bảo Ta-la thọ thất trọng hành liệt, thất chủng Kim cương dĩ vi kỳ viên các các vi nhiễu
Thiện Tài nghĩ như vậy rồi nhập Diệu Quang thành. Thấy thành này xây bằng thất bửu: kim, ngân, lưu ly, pha lê, chân châu, xa cừ, mã não. Hào sâu bằng thất bửu bảy lớp bao quanh, nước bát công đức đầy trong đó, đáy trải cát chân kim, hoa sen bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng nở đầy mặt nước. Cây đa la báu bảy lớp thẳng hàng. Bảy thứ kim cang làm tường rào bao quanh.
Giảng: Thiện Tài đồng tử nghĩ như vậy rồi, bèn đi vào thành Diệu Quang, thấy đại thành đó làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, xa cừ, mã não, bảy báu hợp thành. Có hào sâu làm bằng bảy báu, bảy lớp bao quanh. Nước có tám thứ công đức, đầy dẫy trong đó, đáy ao đó rải cát vàng. Có hoa Ưu bát la (hoa sen xanh), hoa Ba đầu ma (hoa sen hồng), hoa Câu vật đầu (hoa sen vàng), hoa Phân đà lợi (hoa sen trắng), đầy khắp trong ao đó. Có cây báu đa la, bảy lớp thẳng hàng. Có bảy lớp kim cang, dùng làm tường rào bao bọc chung quanh.
Sở vị: Sư tử quang minh Kim cương viên, vô năng siêu thắng Kim cương viên, bất khả tự hoại Kim cương viên, bất khả hủy khuyết Kim cương viên, kiên cố vô ngại Kim cương viên, thắng diệu võng tạng Kim cương viên, ly trần thanh tịnh Kim cương viên, tất dĩ vô số ma-ni diệu bảo gian thác trang nghiêm, chủng chủng chúng bảo nhi vi bì tháp
Những là tường bằng sư tử quang minh kim cang. Tường rào bằng vô năng siêu thắng kim cang. Tường rào bằng bất khả trở hoại kim cang. Tường rào bằng bất khả hủy khuyết kim cang. Tường rào bằng kiên cố vô ngại kim cang. Tường rào bằng thắng diệu võng tạng kim cang. Tường rao bằng ly trần thanh tịnh kim cang. Tất cả đều dùng vô số ma ni diệu bửu xen lẫn trang nhgiêm. Các thứ báu xây thành tháp gác.
Giảng: Đó là: Tường rào kim cang sư tử quang minh. Tường rào kim cang vô năng siêu thắng. Tường rào kim cang không thể trở hoại. Tường rào kim cang không thể huỷ khuyết. Tường rào kim cang kiên cố vô ngại. Tường rào kim cang thắng diệu võng tạng. Tường rào kim cang ly trần thanh tịnh. Đều dùng vô số báu ma ni đẹp, xen lẫn trang nghiêm. Lại có đủ thứ các báu làm các tường thấp, vây quanh thành Diệu Quang đó.
– Có người nói: “Thiện Tài đồng tử ở chỗ Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, chẳng những đã khai ngộ rồi chăng”?
– Vâng! Ngài đã khai ngộ rồi, bất quá, khai ngộ có đủ thứ sự khác biệt, chẳng phải khi khai ngộ thì liền chứng quả Phật. Khai ngộ rồi, vẫn phải siêng cầu Phật pháp, phát tâm đại bồ đề, gần gũi thiện tri thức, chẳng phải giống như một số người chúng ta, chẳng khai ngộ mà nói đã khai ngộ, còn chẳng chịu gần gũi thiện tri thức, cho nên ở đây có sự khác biệt khá lớn. Người tu hành thì lúc nào cũng phải siêng tu giới định huệ, lúc nào cũng tiêu diệt tham sân si, lúc nào cũng đều muốn gần gũi thiện tri thức.
– Có người lại hỏi: ” Thiện Tài đồng tử tức nhiên đã khai ngộ, tại sao còn phải đi tìm thiện tri thức”?
– Vì Ngài giới thiệu cách thức cho chúng ta, kêu chúng ta đừng có được ít cho là đủ, và không được có tâm cống cao ngã mạn, lúc nào cũng đều phải gần gũi thiện tri thức. Không thể tự mãn, không thể coi mình cao hơn bất cứ ai, là số một của thế giới. Đó đều là thị hiện dạy chúng ta làm thế nào đi tìm cầu Phật pháp, làm thế nào đi cầu thiện tri thức. Ngài e rằng chúng ta không đủ sự hiểu biết, nên mới đi tham bái 53 vị thiện tri thức như thế. Mỗi vị thiện tri thức, đều giới thiệu cho Ngài một vị thiện tri thức để Ngài đi. Vì thiện tri thức biết Ngài phải học pháp gì, nên giới thiệu cho Ngài vị thiện tri thức nào, kêu Ngài đến gần gũi. Kỳ thật, thiện tri thức cũng chẳng phải chỉ có 53 vị, mà là nhiều vô lượng vô biên, bất quá Thiện Tài đồng tử chỉ gặp 53 vị.
Kỳ thành túng quảng nhất thập do-tuần, châu hồi bát phương, diện khai bát môn, giai dĩ thất bảo chu biến nghiêm sức, Tì lưu ly bảo dĩ vi kỳ địa, chủng chủng trang nghiêm thậm khả ái lạc.
Thành đó ngang rộng mười do tuần, có tám cửa đều dùng bảy báu nghiêm sức khắp nơi. Ðất bằng tỳ lưu ly bửu, nhiều thứ trang nghiêm rất đáng mến thích.
Giảng: Thành Đại Quang đó, từ nam tới bắc, từ đông sang tây, rộng lớn mười do tuần, chu vi bốn mặt tám hướng, mỗi hướng đều có một cửa thành, tổng cộng có tám cửa thành, đều dùng bảy báu để nghiêm sức. Tỳ lưu ly báu dùng làm mặt đất trong thành đó. Có đủ thứ sự trang nghiêm, rất đáng ưa thích, khiến cho người nhìn thấy đi rồi quên trở về.
Kỳ thành chi nội, thập ức cù đạo, nhất nhất đạo gian, giai hữu vô lượng vạn ức chúng sanh ư trung chỉ trụ. Hữu vô số diêm phù đàn kim lâu các, Tì lưu ly ma-ni võng La phước kỳ thượng; vô số ngân lâu các, xích trân châu ma-ni võng La phước kỳ thượng; vô số Tì lưu ly lâu các, diệu tạng ma-ni võng La phước kỳ thượng; vô số pha lê lâu các, vô cấu tạng ma-ni Vương võng La phước kỳ thượng; vô số quang chiếu thế gian ma-ni bảo lâu các, nhật tạng ma-ni Vương võng La phước kỳ thượng
Trong thành có mười ức đường sá. Mỗi hai bên đường đều có vô lượng nhân dân ở. Có vô số lầu gác bằng vàng diêm phù đàn, lưới tỳ lưu ly ma ni che phía trên. Vô số lầu gác bằng bạch ngân, lưới xích chơn châu ma ni giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng tỳ lưu ly, lưới diệu tạng ma ni giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng pha lê, lưới vô cấu tạng ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng quang chiếu thế gian ma ni bửu, lưới nhựt tạng ma ni vương giăng phía trên.
Giảng: Trong thành Đại Quang đó, có mười ức con đường. Mỗi con đường đều có vô lượng vạn ức chúng sinh ở.
Vô số đế thanh ma-ni bảo lâu các, diệu quang ma-ni Vương võng La phước kỳ thượng; vô số chúng sanh hải ma-ni Vương lâu các, diệm quang minh ma-ni Vương võng La phước kỳ thượng; vô số Kim cương bảo lâu các, Vô năng thắng tràng ma-ni Vương võng La phước kỳ thượng; vô số hắc chiên đàn lâu các, Thiên mạn đà la hoa võng La phước kỳ thượng; vô số vô đẳng Hương Vương lâu các, chủng chủng hoa võng La phước kỳ thượng.
Vô số lầu gác bằng đế thanh ma ni bửu, lưới diệu quang ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng chúng sanh hải ma ni vương, lưới diệm quang ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng kim cang bửu, lưới vô năng thắng tràng ma ni vương giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng hắc chiên đàn, lưới thiên mạn đà la hoa giăng phía trên. Vô số lầu gác bằng vô đẳng hương vương, lưới nhiều thứ hoa giăng phía trên.
Giảng: Trong thành Đại Quang đó, có vô số lầu các vàng Diêm phù đề làm thành, lưới tỳ lưu ly ma ni che phủ phía trên. Vô số lầu các bạc làm thành, lưới chân châu đỏ ma ni che phủ phía trên. Vô số lầu các tỳ lưu ly làm thành, lưới diệu tạng ma ni che phủ phía trên. Vô số lầu các pha lê làm thành, lưới vô cấu tạng ma ni vương che phủ phía trên. Vô số lầu các quang chiếu thế gian ma ni báu làm thành, lưới nhựt tạng ma ni vương che phủ phía trên. Vô số lầu các đế thanh ma ni báu làm thanh, lưới diệu quang ma ni vương che phủ phía trên. Vô số lầu các chúng sinh hải ma ni vương làm thành, lưới diệm quang minh ma ni vương che phủ phía trên. Vô số lầu các kim cang báu làm thành, lưới vô năng thắng tràng ma ni vương che phủ phía trên. Vô số lầu các hắc chiên đàn làm thành, lưới hoa trời mạn đà la che phủ phía trên. Vô số lầu các vô đẳng hương vương làm thành, lưới đủ thứ hoa che phủ phía trên.
Kỳ thành phục hưũ vô số ma-ni võng, vô số bảo linh võng, vô số thiên hương võng, vô số Thiên hoa võng, vô số bảo hình tượng võng, vô số bảo y trướng, vô số bảo cái trướng, vô số bảo lâu các trướng, vô số bảo hoa man trướng chi sở di phước, xứ xứ kiến lập bảo cái, tràng, phiên. Đương thử thành trung, hữu nhất lâu các, danh: chánh pháp tạng, a-tăng-kì bảo dĩ vi trang nghiêm, quang minh hách dịch tối thắng vô bỉ, chúng sanh kiến giả tâm Vô yếm túc, bỉ đại quang Vương thường xứ kỳ trung.
Thành Diệu Quang còn có vô số lưới ma ni, vô số lưới bửu linh, vô số lưới thiên hương, vô số lưới thiên hoa, vô số lưới bửu hình tượng, vô số lưới bửu y trướng, vô số bửu cái trướng, vô số bửu lâu các trướng, vô số bửu hoa man trướng giăng che. Khắp nơi kiến lập bửu cái tràng phan. Trong thành Diệu Quang có một lâu các tên là chánh pháp tạng, trang nghiêm với vô số bửu vật chói sáng rực rở không gì sánh bằng, nhìn xem không chán. Vua Ðại Quang thường ở trong lầu này.
Giảng: Trong thành Đại Quang đó, lại có vô số lưới ma ni, vô số lưới linh báu, vô số lưới hương trời, vô số lưới hoa trời, vô số lưới hình báu, vô số lưới y trướng báu, vô số lọng trướng báu, vô số lầu các trướng báu, vô số chuỗi hoa trướng báu che phủ. Nơi nơi đều kiến lập lọng tràng phan báu. Ở giữa thành đó, có một lầu các, tên là Chánh pháp tạng. Dùng A tằng kỳ báu để trang nghiêm, ánh sáng rực rỡ, đẹp nhất không gì sánh bằng. Chúng sinh nào nhìn thấy, tâm cũng không cảm thấy nhàm chán. Vua Đại Quang đó thường ở trong lầu các đó.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ư thử nhất thiết trân bảo diệu vật, nãi chí nam nữ, lục trần cảnh giới, giai vô ái trước, đãn chánh tư duy cứu cánh chi Pháp, nhất tâm nguyện lạc kiến thiện tri thức.
Thiện Tài đồng tử đối với những vật trân bửu đẹp và các nam nữ đến lục trần cảnh giới này đều không mến luyến. Chỉ nhất tâm chánh niệm tư duy pháp cứu cánh. Nhứt tâm thích muốn được thấy thiện tri thức.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đối với tất cả châu báu vật tốt đẹp đó, cho đến cảnh giới nam nữ sáu trần – sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đều không tham ái chấp trước. Ngài chỉ chân chánh suy gẫm pháp rốt ráo, trong tâm chẳng bị ngoại trần lay chuyển, một lòng nguyện muốn gặp được thiện tri thức.
Tiệm thứ du hành, kiến đại quang Vương khứ ư sở trụ lâu các bất viễn tứ cù đạo trung, tọa như ý ma-ni bảo liên hoa tạng quảng đại trang nghiêm sư tử chi tọa, cám lưu ly bảo dĩ vi kỳ túc, kim tăng vi trướng, chúng bảo vi võng, thượng diệu thiên y dĩ vi nhân nhục.
Thiện Tài đi lần vào thành thấy Ðại Quang Vương ở giữa ngã tư đường cách lầu chánh pháp tạng không xa ngồi trên tòa sư tử quảng đại trang nghiêm như ý ma ni bửu liên hoa tạng. Chân tòa này bằng lưu ly bửu màu biếc, lụa vàng làm màn, các báu làm lưới, thiên y thượng diệu làm nệm.
Giảng: Thiện Tài đi từ từ, bèn thấy vua Đại Quang ở giữa ngã tư đường, cách lầu các chỗ vua ở không xa. Ngã tư đường, là biểu thị vua Đại Quang dùng bốn vô lượng tâm (từ bi hỉ xả), dùng bốn pháp nhiếp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), nhiếp thọ chúng sinh, đây là trung tâm điểm của tất cả con đường, như đá nam châm nhiếp thọ mười phương chúng sinh đến cầu Phật pháp. Ngài ngồi trên toà sư tử như ý ma ni bảo liên hoa tạng rộng lớn trang nghiêm. Chân toà làm bằng báu lưu ly tía, dây vàng làm trướng, các báu làm lưới báu, y trời tốt đẹp dùng làm bồ đoàn toà sư tử, để vua Đại Quang ngồi kiết già trên toà sư tử đó.
Kỳ Vương ư thượng kết già phu tọa, nhị thập bát chủng đại nhân chi tướng, bát thập tùy hảo nhi dĩ nghiêm thân; như chân kim sơn, quang sắc sí thịnh; như tịnh không nhật, uy quang hách dịch; như thịnh mãn nguyệt, kiến giả thanh lương; như phạm thiên vương, xứ ư phạm chúng; diệc như đại hải, công đức pháp bảo vô hữu biên tế; diệc như tuyết sơn, tướng hảo thụ lâm dĩ vi nghiêm sức; diệc như đại vân, năng chấn pháp lôi, khải ngộ quần phẩm; diệc như hư không, hiển hiện chủng chủng Pháp môn tinh tượng; Như-Tu-Di-Sơn, tứ sắc phổ hiện chúng sanh tâm hải; diệc như bảo châu, chủng chủng trí bảo sung mãn kỳ trung.
Thân nhà vua có hai mươi tám tướng tốt, đủ tám mươi tùy hảo. Xem như tòa núi chơn kim, màu sắc và ánh sáng rực rỡ. Như mặt nhựt trên không oai quang chói mắt. Như mặt trăng tròn làm mát mẻ người ngó thấy. Như Phạm Thiên Vương ở giửa Phạm Chúng. Như đại hải công đức pháp bửu không cùng tận. Như núi Tuyết nghiêm sức với rừng cây tướng hảo. Như mây lớn hay chấn pháp lôi cảnh tỉnh mọi loài. Như hư không hiển hiện những tinh tướng pháp môn. Như núi Tu Di bốn màu hiện khắp trong tâm hải của chúng sanh. Như bửu đảo đầy những trí bửu.
Giảng: Vua đó có hai mươi tám tướng đại nhân, và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Đức Phật có ba mươi hai tướng tốt, vì vua Đại Quang chưa hoàn toàn đạt đến quả vị viên mãn, nên chỉ có hai mươi tám tướng. Ngài giống như núi vàng thật, phóng ra ánh sáng rực rỡ. Ngài lại giống như mặt trời trên không, oai quang chói mắt. Ngài lại giống như mặt trăng tròn đầy mùa thu, ai thấy cũng cảm thấy mát mẻ. Giống như vua Phạm Thiên, vượt trội tất cả Phạm chúng. Lại giống như biển cả, công đức pháp bảo của Ngài không có bờ mé. Lại giống như núi tuyết, rừng cây tướng tốt dùng để nghiêm sức. Lại giống như mây lớn, hay chấn pháp lôi, để cảnh tỉnh mọi loài. Lại giống như hư không, hiển hiện đủ thứ pháp môn tinh tượng. Lại giống như núi Tu Di, trong biển hay phản ánh chung quanh bốn đại châu. Vua Đại Quang cũng như thế, hay dùng bốn màu sắc (đây là chỉ bốn giai cấp ở Ấn Độ:
1. Bà La Môn. 2. Sát đế lợi. 3. Thủ xá. 4. Thủ đà la) khắp hiện trong biển tâm chúng sinh. Lại giống như châu báu, chứa đựng đủ thứ trí huệ báu đầy dẫy trong đó.
Ư Vương tọa tiền, hữu kim, ngân, lưu ly, ma-ni, trân châu, san hô, hổ phách, kha bối, bích ngọc chư trân bảo tụ, y phục, anh lạc cập chư ẩm thực vô lượng vô biên chủng chủng sung mãn.
Trước tòa của vua ngự có từng khối vàng bạc, lưu ly, ma ni, chơn châu, san hô, hổ phách, kha bối, bích ngọc, y phục, anh lạc và những đồ ăn thức uống.
Giảng: Ở trước toà sư tử của vua Đại Quang, có các khối châu báu vàng, bạc, lưu ly, ma ni, chân châu, san hô, hổ phách, kha bối, ngọc bích, tụ lại với nhau. Y phục chuỗi ngọc và các thức ăn uống thượng hạng, vô lượng vô biên, đủ thứ đầy dẫy trước toà.
Phục kiến vô lượng bách thiên vạn ức thượng diệu bảo xa, bách thiên vạn ức chư Thiên kĩ lạc, bách thiên vạn ức Thiên chư diệu hương, bách thiên vạn ức bệnh duyên thang dược tư sanh chi cụ, như thị nhất thiết tất giai trân hảo. vô lượng nhũ ngưu, Đề giác kim sắc; vô lượng thiên ức đoan chánh nữ nhân, thượng diệu chiên đàn dĩ đồ kỳ thể, thiên y, anh lạc chủng chủng trang nghiêm, lục thập tứ năng mị bất cai luyện, thế Tình lễ tức tất giai thiện giải, tùy chúng sanh tâm nhi dĩ cấp thí.
Lại thấy vô lượng trăm ngàn muôn ức xe báu thượng diệu, trăm ngàn muôn ức những kỹ nhạc cõi trời. Trăm ngàn muôn ức những hương thơm cõi trời. Trăm ngàn muôn ức thuốc men và đồ tư sanh. Vô lượng bò sữa, móng sừng màu chơn kim. Vô lượng ngàn ức nữ nhơn đoan chánh, chiên đàn thượng diệu thoa trên thân, trang sức với thiên y anh lạc, đều giỏi rành sáu mươi bốn nghề hiểu rõ thế tình lễ phép, tùy theo tâm của chúng sanh mà cung cấp bố thí.
Giảng: Lại thấy vô lượng trăm ngàn vạn ức xe báu tốt đẹp. Trăm ngàn vạn ức chư Thiên kỹ nhạc. Trăm ngàn vạn ức các diệu hương trời. Trăm ngàn vạn ức thuốc thang và đồ tư sanh. Đủ thứ tất cả vật chất như vậy, thảy đều trân quý tốt đẹp. Lại có vô lượng bò sữa, móng sừng của chúng màu vàng thật. Lại có vô lượng ngàn ức người nữ đoan chánh, họ đều dùng hương chiên đàn thượng diệu để thoa thân, thân mặc y trời và mang chuỗi ngọc, đủ thứ sự trang nghiêm, họ còn tinh thông sáu mươi bốn nghề, chẳng việc gì mà không biết. Đối với việc đời quy tắc, thảy đều hiểu biết. Họ đều tuỳ tâm mong cầu của chúng sinh mà bố thí cho.
Thành ấp, tụ lạc, tứ cù đạo trắc, tất trí nhất thiết tư sanh chi cụ.
Bốn bên ngã tư đường đều để đầy những đồ tư sanh.
Giảng: Bên lề ngã tư đường trong thành Đại Quang đều để đầy dẫy tất cả đồ tư sanh.
Nhất nhất đạo bàng giai hữu nhị thập ức Bồ Tát, dĩ thử chư vật cấp thí chúng sanh, vi dục phổ nhiếp chúng sanh cố, vi lệnh chúng sanh hoan hỉ cố, vi lệnh chúng sanh dõng dược cố, vi lệnh chúng sanh tâm tịnh cố, vi lệnh chúng sanh thanh lương cố, vi diệt chúng sanh phiền não cố, vi lệnh chúng sanh tri nhất thiết nghĩa lý cố, vi lệnh chúng sanh nhập nhất thiết trí đạo cố, vi lệnh chúng sanh xả oán địch tâm cố, vi lệnh chúng sanh ly thân, ngữ ác cố, vi lệnh chúng sanh bạt chư tà kiến cố, vi lệnh chúng sanh tịnh chư nghiệp đạo cố.
Có hai mươi ức Bồ Tát đem những vật này thí cho các chúng sanh. Vì muốn nhiếp khắp chúng sanh. Vì muốn chúng sanh hoan hỷ. Vì muốn chúng sanh hớn hở. Vì muốn cho chúng sanh tâm thanh tịnh. Vì muốn cho chúng sanh được thanh lương. Vì diệt trừ phiền não cho chúng sanh. Vì làm cho chúng sanh biết tất cả nghĩa lý. Vì làm cho chúng sanh nhập đạo Nhứt thiết trí. Vì làm cho chúng sanh bỏ tâm oác thù. Vì làm cho chúng sanh lìa sự ác nơi thân ngữ. Vì làm cho chúng sanh dứt các tà kiến. Vì làm cho chúng sanh tịnh các nghiệp đạo.
Giảng: Bên mỗi lề đường, đều có hai mươi ức Bồ Tát, đem các đồ vật tư sanh đó bố thí cho chúng sinh. Vì vua Đại Quang đó muốn nhiếp thọ khắp chúng sinh. Vì muốn khiến cho chúng sinh sinh tâm hoan hỉ. Chúng ta tu hành là muốn lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh hoan hỉ, chẳng phải khiến cho chúng sinh phiền não, đừng não hại chúng sinh, điểm nầy các vị phải đặc biệt chú ý. Vì muốn khiến cho chúng sinh vui mừng hớn hở. Vì muốn khiến cho chúng sinh tâm được thanh tịnh. Vì muốn khiến cho chúng sinh được mát mẻ. Vì diệt phiền não của hết thảy chúng sinh. Vì khiến cho chúng sinh biết tất cả nghĩa lý. Vì khiến cho chúng sinh vào được đạo nhất thiết trí. Vì khiến cho chúng sinh bỏ tâm oán địch. Vì khiến cho chúng sinh lìa thân lời ý ba nghiệp ác. Vì khiến cho chúng sinh dứt trừ các tà tri tà kiến. Chúng ta người tu đạo nên nhớ đừng có tâm tà tri tà kiến, phải đầy đủ tâm chánh tri chánh kiến. Tà tri tà kiến sẽ làm cho bạn đoạ lạc, chánh tri chánh kiến khiến cho bạn thăng lên. Thế nào là tà tri tà kiến? Tức là tâm dâm dục của mình quá nặng, hoặc tướng ta quá sâu. Tóm lại, người tu hành nhất định phải có chánh tri chánh kiến. Gì là chánh tri chánh kiến? Tức là:
Hãy nhận thật lỗi mình
Đừng nói lỗi người khác
Lỗi người tức lỗi mình
Đồng thể gọi đại bi.
Thời, Thiện tài đồng tử ngũ thể đầu địa, đảnh lễ kỳ túc, cung kính hữu nhiễu, Kinh vô lượng tạp, hợp chưởng nhi trụ, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? Vân hà tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Ðại Quang Vương, hữu nhiễu vô lượng vòng chắp tay đứng tâu rằng: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô Thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử hướng về vua Đại Quang năm thể sát đất, đảnh lễ vua Đại Quang, sau đó cung kính đi nhiễu bên phải, trải qua vô lượng vòng, rồi chắp tay đứng mà bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Con nghe đức Thánh hay khéo chỉ bảo, xin dạy cho.
Giảng: Con được vua Vô Yểm Túc giới thiệu với con, nói đức Thánh Ngài khéo dạy dỗ, xin hãy vì con mà nói”.
Thời, Vương cáo ngôn: Thiện nam tử! ngã tịnh tu Bồ Tát đại từ tràng hạnh, ngã mãn túc Bồ Tát đại từ tràng hạnh.
Vua nói: Này thiện nam tử ! Ta tịnh tu Bồ Tát đại từ tràng hạnh. Ta đầy đủ Bồ Tát đại từ tràng hạnh.
Giảng: Lúc đó, vua Đại Quang bảo Thiện Tài đồng tử rằng: “Thiện nam tử! Ta thanh tịnh tu hành tràng hạnh Bồ Tát đại từ, ta đã đầy đủ tràng hạnh Bồ Tát đại từ.
Thiện nam tử! ngã ư vô lượng bách thiên vạn ức nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sở, vấn nan thử pháp, tư tánh quan sát, tu tập trang nghiêm.
Này thiện nam tử ! Ta ở chỗ vô lượng trăm ngàn muôn ức nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật hỏi han pháp này, tư duy quán sát tu tập trang nghiêm.
Giảng: Thiện nam tử! Ta ở chỗ các đức Phật nhiều vô lượng trăm ngàn vạn ức, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết, thưa hỏi pháp nầy, suy gẫm quán sát, tu tập trang nghiêm pháp môn nầy”.
Thiện nam tử! ngã dĩ thử pháp vi Vương, dĩ thử pháp giáo sắc, dĩ thử pháp nhiếp thọ, dĩ thử pháp tùy trục thế gian, dĩ thử pháp dẫn đạo chúng sanh, dĩ thử pháp lệnh chúng sanh tu hành, dĩ thử pháp lệnh chúng sanh thú nhập, dĩ thử pháp dữ chúng sanh phương tiện, dĩ thử pháp lệnh chúng sanh huân tập, dĩ thử pháp lệnh chúng sanh khởi hành, dĩ thử pháp lệnh chúng sanh an trụ tư tánh chư pháp tự tánh, dĩ thử pháp lệnh chúng sanh an trụ từ tâm, dĩ từ vi chủ, cụ túc từ lực; Như thị, lệnh trụ lợi ích tâm, an lạc tâm, ai mẩn tâm, nhiếp thọ tâm, thủ hộ chúng sanh bất xả ly tâm, bạt chúng sanh khổ vô hưu tức tâm.
Này thiện nam tử ! Ta dùng pháp này làm vua, dùng pháp này dạy bảo, dùng pháp này nhiếp thọ, dùng pháp này mà ở thế gian, dùng pháp này dẩn đạo chúng sanh, dùng pháp này khiến chúng sanh tu hành, dùng pháp này khiến chúng sanh xu nhập, dùng pháp này cho chúng sanh phương tiện, dùng pháp này khiến chúng sanh huân tập, dùng pháp này khiến chúng sanh khởi hạnh, dùng pháp này khiến chúng sanh an trụ tư duy tự tánh của các pháp. Dùng pháp này khiến chúng sanh an trụ từ tâm, lấy từ làm chủ, đầy đủ từ lực. Như vậy, khiến họ an trụ tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm ai mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ chúng sanh không rời bỏ rời, tâm cứu chúng sanh khổ không thôi nghỉ.
Giảng: Thiện nam tử! Ta dùng pháp Bồ Tát đại từ tràng hạnh nầy làm vua, dùng pháp nầy giáo huấn tất cả chúng sinh, dùng pháp nầy nhiếp thọ tất cả chúng sinh, dùng pháp nầy tuỳ theo hết thảy chúng sinh thế gian, dùng pháp nầy dẫn dắt chúng sinh, dùng pháp nầy khiến chúng sinh tu hành, dùng pháp nầy khiến chúng sinh hướng nhập Bồ Tát đạo, dùng pháp nầy ban cho chúng sinh phương tiện, dùng pháp nầy khiến chúng sinh huân tập tất cả Phật pháp, dần dần thấu hiểu mà có sự thành tựu, không ai có thể trong một đêm hoàn toàn minh bạch đạo lý trong Phật pháp. Tu tập Phật pháp phải có tâm nhẫn nại, tâm ý chí, tâm kiền thành, và lời dạy của thiện tri thức. Ta lại dùng pháp nầy khiến chúng sinh sinh khởi tu hành hạnh bồ đề, dùng pháp nầy khiến chúng sinh an trụ, suy gẫm tự tánh các pháp. Dùng pháp nầy khiến chúng sinh an trụ tâm từ, dùng từ bi làm chủ, đầy đủ sức từ bi. Như vậy ta khiến cho chúng sinh trụ tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm ai mẫn, tâm nhiếp thọ, tâm thủ hộ chúng sinh không xả lìa, tâm cứu khổ chúng sinh không ngừng nghỉ.
Ngã dĩ thử pháp lệnh nhất thiết chúng sanh tất cánh khoái lạc, hằng tự duyệt dự, thân vô chư khổ, tâm đắc thanh lương, đoạn sanh tử ái, lạc chánh pháp lạc, địch phiền não cấu, phá ác nghiệp chướng, tuyệt sanh tử lưu, nhập chân pháp hải, đoạn chư hữu thú, cầu nhất thiết trí, tịnh chư tâm hải, sanh bất hoại tín.
Ta dùng pháp này làm cho chúng sanh rốt ráo khoái lạc, hằng tự vui thích, thân không khổ, tâm mát mẻ dứt ái nhiễm sanh tử, mến chánh pháp vui, rửa nhơ phiền não, phá chướng ác nghiệp, tuyệt dòng sanh tử, vào biển chơn pháp, dứt những loài hữu lậu, cầu nhất thiết trí, tịnh những biển tâm, phát sanh đức tin bất hoại.
Giảng: Ta dùng pháp nầy khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được an vui, luôn tự sinh ra sự vui thích, mà không cần tìm cầu duyên bên ngoài khiến cho mình an vui. Khiến cho thân chúng sinh không có các bệnh khổ, tâm được mát mẻ. Đoạn trừ dòng ái dục sinh tử, vì ái dục khiến cho chúng sinh lưu chuyển ở trong sinh tử luân hồi, vĩnh viễn không có ngày ra, bị phiền não thống khổ ràng buộc mà không được giải thoát.
Do đó có câu: “Thọ khổ thì hết khổ, hưởng phước thì hết phước”, mà ưa thích vui chánh pháp, rửa dơ phiền não, phá trừ tất cả nghiệp chướng ác, tuyệt dòng sinh tử, vào biển pháp chân thật tướng, dứt hẳn các cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, cầu nhất thiết trí huệ, thanh tịnh các biển tâm, sinh ra niềm tin bất hoại.
Thiện nam tử! ngã dĩ trụ thử đại từ tràng hạnh, năng dĩ chánh pháp giáo hóa thế gian.
Này thiện nam tử ! Ta đã an trụ nơi hạnh đại từ tràng này, có thể dùng chánh pháp giáo hóa thế gian.
Giảng: Thiện nam tử! Ta đã trụ tràng hạnh đại từ nầy, hay dùng chánh pháp giáo hoá hết thảy chúng sinh thế gian.
Thiện nam tử! ngã quốc độ trung nhất thiết chúng sanh, giai ư ngã sở vô hữu khủng bố.
Này thiện nam tử ! Trong quốc độ của ta, tất cả chúng sanh, đối với ta, không có sự kinh sợ.
Giảng: Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh trong cõi nước của ta đây, họ đều ở trong đạo tràng của ta, không có sợ hãi, rất bình an, không có phiền não và lo âu.
Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh bần cùng khốn phạp, lai chí ngã sở nhi hữu cầu tác. Ngã khai khố tạng tứ kỳ sở thủ
Này thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh nghèo cùng khốn thiếu đến ta để cầu xin, ta mở cửa kho, cho họ tha hồ mà lấy.
Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh bần cùng khốn khổ thiếu thốn vật chất, đến chỗ của ta, mà có sự mong cầu, thì ta mở kho tàng, tuỳ ý họ lấy
Nhi ngữ chi ngôn: Mạc tạo chư ác, mạc hại chúng sanh, mạc khởi chư kiến, mạc sanh chấp trước. Nhữ đẳng bần phạp, nhược hữu sở tu, đương lai ngã sở cập tứ cù đạo, nhất thiết chư vật chủng chủng cụ túc, tùy ý nhi thủ vật sanh nghi nan.
Tao bảo họ rằng: Chớ làm điều ác, chớ hại chúng sanh, chớ sanh tà kiến, chớ có chấp trước. Các người có thiếu thốn thứ gì, cứ đến ta hoặc các ngã tư đường, có đủ tất cả vật dụng, tùy ý mà lấy khỏi phải nghi ngại.
Giảng: Sau đó bảo họ rằng: “Các vị đừng làm các điều ác, đừng giết hại chúng sinh, đừng khởi tất cả tà tri tà kiến, đừng sinh ra mọi sự chấp trước. Nếu các ngươi nghèo thiếu, nếu mong cầu vật chất gì, hãy đến chỗ ta và ngã tư đường, ở đó đầy đủ tất cả vật chất, tuỳ ý các vị muốn lấy bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu, đừng sinh hoài nghi, đừng có sợ hãi”. Đó là vua Đại Quang dùng tài thí để nhiếp thọ chúng sinh.
Thiện nam tử! thử diệu quang thành sở trụ chúng sanh, giai thị Bồ Tát phát Đại thừa ý, tùy tâm sở dục, sở kiến bất đồng, hoặc kiến thử thành kỳ lượng hiệp tiểu, hoặc kiến thử thành kỳ lượng quảng đại; hoặc kiến độ sa dĩ vi kỳ địa, hoặc kiến chúng bảo nhi dĩ trang nghiêm; hoặc kiến tụ độ dĩ vi viên tường, hoặc kiến bảo tường châu táp vi nhiễu; hoặc kiến kỳ địa đa chư ngõa thạch cao hạ bất bình, hoặc kiến vô lượng đại ma ni bảo gian thác trang nghiêm bình thản như chưởng; hoặc kiến ốc trạch thổ mộc sở thành, hoặc kiến điện đường cập chư lâu các, giai trì, song thát, hiên hạm, hộ dũ như thị nhất thiết vô phi diệu bảo.
Này thiện nam tử ! Thành Diệu Quang này tất cả chúng sanh đều là Bồ Tát phát tâm Ðại thừa, tùy ý muốn nên chỗ thấy chẳng đồng. Hoặc có kẻ thấy thành này nhỏ hẹp. Có kẻ thấy thành này rộng lớn. Có kẻ thấy là đất cát. Có kẻ thấy là các báu trang nghiêm. Có kẻ thấy đắp đất làm tường rào. Có kẻ thấy tường bao quanh toàn bằng chất báu. Hoặc có kẻ thất mặt đất đầy những ngói đá cao thấp. Có kẻ thấy là đại ma ni bửu xen lẫn trang nghiêm bằng phẳng. Có kẻ thấy nhà cửa bằng gổ đất. Có kẻ thấy là điện đường lầu gác thềm bực cửa nẻo đều bằng diệu bửu.
Giảng: Thiện nam tử! Chúng sinh ở trong thành Diệu Quang nầy, đều là hoá thân của Bồ Tát, các Ngài đều phát tâm đại thừa, tuỳ tâm mong muốn của các Ngài, thấy cảnh giới cũng khác nhau. Hoặc có người thấy thành Đại Quang nầy nhỏ hẹp, vì tâm lượng của họ nhỏ hẹp. Hoặc có người thấy thành Đại Quang nầy rộng lớn, vì tâm lượng của họ rộng lớn. Hoặc có người thấy thành nầy dùng bùn đất cát đá làm mặt đất, hoặc thấy thành nầy dùng các báu để trang nghiêm, hoặc thấy đống đất dùng làm tường vách, hoặc thấy tường dùng bảy báu bao bọc chung quanh.
Lần nầy đả Phật thất là siêu độ những người chết bởi phi tai hoành hoạ mười phương ba đời tận hư không khắp pháp giới. Ví như bị xe tông chết, là một cách chết không bình thường. Bị nước ngập chết, như những người Việt Nam đi vượt biên bị chết trên biển, bị chìm thuyền chết mấy ngàn người, đây đều gọi là tai nạn. Hoặc uống thuốc độc tự sát mà chết, cũng gọi là tai nạn. Đả Phật thất kỳ này, là vì siêu độ họ, trợ giúp cho họ được vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Cho nên khi đả Phật thất, mọi người phải chuyên nhất niệm Phật, chuyên nhất một lòng, đừng có cứ khởi vọng tưởng, cũng đừng có nói chuyện thị phi. Phật thất kỳ nầy, mọi người hãy đem chân tâm của mình ra để làm việc nầy.
Hoặc có người thấy đất đai thành Đại Quang dùng ngói đá làm thành, cao thấp chẳng bằng phẳng. Hoặc có người thấy thành Đại Quang nầy có vô lượng đại ma ni báu, xen lẫn trang nghiêm, bằng phẳng như lòng bàn tay. Hoặc có người thấy thành nầy nhà cửa làm bằng đất gỗ. Hoặc có chúng sinh thấy điện đường và các lầu các, thềm bực, cửa nẻo, lan can, tất cả như vậy đều làm bằng báu đẹp.
Thiện nam tử! nhược hữu chúng sanh kỳ tâm thanh tịnh, tằng chủng thiện căn cúng dường chư Phật, phát tâm thú hướng nhất thiết trí đạo, dĩ nhất thiết trí vi cứu cánh xứ, cập ngã tích thời tu Bồ Tát hạnh tằng sở nhiếp thọ, tức kiến thử thành chúng bảo nghiêm tịnh; dư giai kiến uế.
Này thiện nam tử ! nếu có chúng sanh, tâm họ thanh tịnh từng gieo trồng căn lành, cúng dường chư Phật, phát tâm xu hướng đạo nhất thiết trí lấy nhất thiết trí làm chỗ cứu cánh và được ta thuở xưa, lúc tu Bồ Tát hạnh từng nhiếp thọ họ, thời những chúng sanh này thấy thành đây bằng diệu bửu trang nghiêm. Ngoài ra, những kẻ khác lại thấy là thô xấu.
Giảng: Thiện nam tử! Nếu có chúng sinh tâm thanh tịnh, thì quá khứ đã từng trồng căn lành, cúng dường chư Phật, phát tâm hướng về đạo nhất thiết trí. Dùng nhất thiết trí làm nơi quy về rốt ráo và khi xưa lúc ta tu Bồ Tát hạnh, đã được nhiếp thọ chúng sinh, họ sẽ thấy các báu trang nghiêm trong thành Đại Quang nầy, còn những người khác đều thấy đất gỗ ngói đá vật dơ bẩn trong thành nầy.
Thiện nam tử! thử quốc độ trung nhất thiết chúng sanh, ngũ trược thế thời lạc tác chư ác. Ngã tâm ai mẩn nhi dục cứu hộ, nhập ư Bồ Tát đại từ vi thủ tùy thuận thế gian tam muội chi môn.
Này thiện nam tử ! Trong quốc độ đây lúc đời ngũ trược, tất cả chúng sanh phần nhiều thích làm ác. Ta vì thương họ, muốn cứu độ họ mà nhập môn tam muội đại từ tùy thuận thế gian.
Giảng: Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh trong cõi nước nầy, vào đời ác năm trược (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, mạng trược), ưa thích làm các điều ác, điên đảo thị phi, chẳng rõ trắng đen. Tâm ta từ bi thương xót họ, muốn cứu độ tất cả chúng sinh, nhập vào Bồ Tát đại từ làm đầu, tuỳ thuận môn tam muội của tất cả chúng sinh thế gian.
Nhập thử tam muội thời, bỉ chư chúng sanh sở hữu bố úy tâm, não hại tâm, oán địch tâm, tranh luận tâm, như thị chư tâm, tất tự tiêu diệt.
Lúc ta nhập tam muội này những chúng sanh làm ác kia, có những tâm bố úy, tâm não hại, tâm oán thù, tâm tránh luận, đều tiêu diệt tất cả.
Giảng: Khi tôi nhập vào tam muội nầy, thì các chúng sinh đó, hết thảy tâm sợ hãi, tâm não hại người khác, tâm oán thù cừu địch, tâm tranh luận, đủ thứ các tâm ác như vậy, hoàn toàn đều tự tiêu diệt sạch.
Hà dĩ cố? nhập ư Bồ Tát đại từ vi thủ thuận thế tam muội, Pháp như thị cố.
Tại sao vậy ? Vì khi nhập tam muội đại từ tùy thuận thế gian thời công năng của tam muội này tất nhiên là như vậy.
Giảng: Tại sao? Vì nhập vào Bồ Tát đại từ làm đầu, tam muội thuận đời, pháp nầy như vậy.
Thiện nam tử! thả đãi tu du, tự đương hiện kiến.
Này thiện nam tử ! Chờ giây lát ngươi sẽ tự thấy.
Giảng: Thiện nam tử! Ngươi hãy đợi chốc lát, nay ta sẽ vì ngươi thị hiện cảnh giới nầy, ngươi sẽ minh bạch.
Thời, Đại quang Vương tức nhập thử định. kỳ thành nội ngoại lục chủng chấn động, chư bảo địa, bảo tường, bảo đường, bảo điện, đài quán, lâu các, giai thế, hộ dũ, như thị nhất thiết hàm xuất Diệu-Âm, tất hướng ư Vương khúc cung kính lễ.
Bấy giờ Ðại Quang Vương liền nhập tam muội này. Cả thành Diệu Quang, trong ngoài đều chấn động sáu cách. Những bửu địa, bửu tường, bửu đường, bửu điện, bửu đài quán, bửu lâu các, thềm bực, cửa nẻo, tất cả đều phát ra tiếng diệu âm, đều hướng về phía vua Ðại Quang.
Giảng: Lúc đó, vua Đại Quang liền nhập định Bồ Tát đại từ làm đầu, khi định nầy thuận thế gian, thì trong ngoài thành Đại Quang đó, đều phát sinh sáu thứ chấn động (Động, dũng, khởi, chấn, hống, kích). Chấn động đó chẳng phải điềm hung tai nạn, mà là hiển bày sự cát tường của oai đức tam muội. Tất cả các đất báu, tường báu, nhà báu, điện báu, đền đài, lầu các, thềm bực, cửa nẻo, tất cả đủ thứ hiện tượng như vậy, đều vang ra diệu âm không thể nghĩ bàn, đều hướng về nhà vua Đại Quang, khom mình cung kính.
Diệu quang thành nội sở hữu cư nhân, mị bất đồng thời hoan hỉ dũng dược, câu hướng Vương sở cử thân đầu địa.
Trong thành Diệu Quang tất cả cư dân đồng thời vui mừng hớn hở, đều hướng về phía nhà vua mà gieo mình đảnh lễ.
Giảng: Hết thảy mọi người ở trong thành Diệu Quang, đồng thời đều hoan hỉ vui mừng. Họ đều hướng về nhà vua Đại Quang cúi mình đảnh lễ.
Thôn doanh, thành ấp nhất thiết nhân chúng, hàm lai kiến Vương, hoan hỉ kính lễ.
Tất cả nhơn chúng trong thôn dinh thành ấp đều đến ra mắt vua, đều hoan hỉ kính lễ.
Giảng: Thôn xóm, thành ấp, tất cả dân chúng, đều đến gặp vua Đại Quang, hoan hỉ kính lễ.
Cận Vương sở trụ, điểu thú chi chúc, hỗ tương chiêm thị, khởi từ bi tâm, hàm hướng Vương tiền cung kính lễ bái.
Gần chỗ vua ở, những loài điểu thú đều yêu mến săn sóc nhau, đều có lòng mến kính nhà vua.
Giảng: Những loài chim thú ở gần chỗ vua Đại Quang, chúng đều hổ tương chiêm ngưỡng, khởi tâm đại từ bi, đều đến trước nhà vua Đại Quang cung kính lễ lạy.
Nhất thiết sơn nguyên cập chư thảo thọ, mạc bất hồi chuyển hướng Vương kính lễ.
Tất cả núi đồi và cây cỏ đều xoay hướng về phía nhà vua.
Giảng: Tất cả núi cao đồng bằng và các cây cỏ, đều quay về phía nhà vua Đại Quang kính lễ.
Pha trì, tuyền tỉnh cập dĩ hà hải, tất giai đằng dật, lưu chú Vương tiền.
Tất cả ao, suối, sông, biển thảy đều tràn nước chảy đến phía trước chỗ vua ngự.
Giảng: Cây cỏ vô tình cũng được oai được vua Đại Quang làm cảm động. Vũng ao suối giếng và biển hồ, thảy đều tràn đầy, chảy đến trước nhà vua Đại Quang. Sông núi đại địa, nhà cửa phòng ốc tất cả y báo khí thế gian, đều đang diễn nói diệu pháp.
Thập thiên long Vương khởi Đại hương vân, kích điện chấn lôi, chú vi tế vũ.
Có mười ngàn Long Vương nổi mây lớn thơm, nhoáng chớp nổ sấm mưa nhỏ pháy pháy.
Giảng: Mười ngàn Long Vương nổi mây đại hương, trong hư không sấm chớp vang lên, mưa xuống trận mưa nhỏ.
Hữu thập thiên Thiên Vương, sở vị: Đao Lợi Thiên Vương, dạ ma thiên Vương, Đâu-Xuất-Đà Thiên Vương, thiện biến hóa Thiên Vương, tha hóa Tự tại Thiên Vương như thị đẳng nhi vi thượng thủ, ư hư không trung tác chúng kĩ lạc. Vô số Thiên nữ ca vịnh tán thán, vũ vô số hoa vân, vô số hương vân, vô số bảo man vân, vô số bảo y vân, vô số bảo cái vân, vô số bảo tràng vân, vô số bảo phiên vân, ư hư không trung nhi vi trang nghiêm, cúng dường kỳ Vương.
Có mười ngàn Thiên Vương , như là Ðao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Ðâu Suất Thiên Vương, Thiện Biến Hóa Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên vương v.v… Ở trên hư không tấu nhạc. Vô số Thiện nữ ca ngâm khen ngợi, mưa vô số mây thơm, vô số mây hoa, vô số mây tràng hoa, vô số mây bửu y, vô số mây bửu cái, vô số mây bửu tràng, vô số mây bửu phan, để trang nghiêm cúng dường nhà vua.
Giảng: Lại có mười ngàn Thiên Vương, tức là: Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Suất Đà Thiên Vương, Thiện Biến Hoá Thiên Vương, Tha Hoá Tự Tại Thiên Vương v.v… các Thiên Vương đó làm thượng thủ. Họ ở trong hư không tấu lên các kỹ nhạc. Có vô số Thiên nữ ca ngâm khen ngợi, mưa xuống vô số hoa mây, vô số hương mây, vô số tràng hoa báu mây, vô số y báu mây, vô số lọng báu mây, vô số tràng báu mây, vô số phan báu mây, để trang nghiêm ở trong hư không, cúng dường nhà vua Đại Quang.
Y La bà nã Đại Tượng Vương, dĩ tự tại lực, ư hư không trung phu bố vô số Đại bảo liên hoa, thùy vô số bảo anh lạc, vô số bảo tăng đái, vô số bảo man, vô số bảo nghiêm cụ, vô số bảo hoa, vô số bảo hương, chủng chủng kì diệu dĩ vi nghiêm sức, vô số thải nữ chủng chủng Ca tán.
Ðại Tượng Vương Y La Bà Noa dùng sức tự tại ở trên hư không rải vô số bửu liên hoa, thòng vô số bửu anh lạc, vô số bửu đới, vô số bửu man, vô số bửu trang nghiêm cụ, vô số bửu hoa, vô số bửu hương, các thứ kỳ diệu để nghiêm sức, vô số thế nữ ca ngâm khen ngợi.
Giảng: Voi chúa lớn Y La Bà Noa dùng sức tự tại, ở trong hư không, rải xuống vô số hoa sen báu lớn, thòng rũ vô số chuỗi báu, vô số dải lụa báu, vô số man báu, vô số đồ trang nghiêm báu, vô số hoa báu, vô số hương báu, đủ thứ kỳ diệu dùng nghiêm sức, để cúng dường vua Đại Quang. Lại có vô số thể nữ, ca ngâm đủ thứ, để khen ngợi vua Đại Quang.
Diêm-phù-đề nội phục hưũ vô lượng bách thiên vạn ức chư La-sát Vương, chư dạ xoa Vương, Cưu bàn trà Vương, tỳ xá đồ Vương, hoặc trụ đại hải, hoặc cư lục địa, ẩm huyết đạm nhục, tàn hại chúng sanh; giai khởi từ tâm, nguyện hạnh lợi ích, minh thức hậu thế, bất tạo chư ác; cung kính hợp chưởng, đảnh lễ ư Vương.
Trong Diêm Phù Ðề lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức La Sát Vương, Dạ Xoa Vương, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà Vương, hoặc ở đại hải, hoặc ở lục địa, uống huyết ăn thịt tàn hại chúng sanh, tất cả đều sanh từ tâm, nguyện làm lợi ích, biết rõ đời sau nên chẳng tạo điều ác, cung kính chắp tay đảnh lễ Ðại Quang Vương.
Giảng: Trong cõi Diêm Phù Đề, lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức các La Sát Vương, các Dạ Xoa Vương, Cưu Bàn Trà Vương, Tỳ Xá Xà Vương. Hoặc ở trong biển, hoặc ở trên đất. Chúng vốn hay uống máu ăn thịt chúng sinh, tàn hại chúng sinh, đều khởi tâm từ bi. Nguyện làm lợi ích chúng sinh, cải tà quy chánh, làm minh sư cho người tu hành đời sau, chỉ dẫn hậu học, từ đây chẳng còn tạo các nghiệp ác nữa. Họ cung kính chắp tay, đảnh lễ vua Đại Quang.
Như Diêm-phù-đề, dư tam thiên hạ, nãi chí tam thiên đại thiên thế giới, nãi chí thập phương bách thiên vạn ức na-do-tha thế giới trung, sở hữu nhất thiết độc ác chúng sanh tất diệc như thị.
Như Diêm Phù Ðề, ba thiên hạ khác, nhẫn đến Ðại Thiên thế giới, trong mười phương bá thiên vạn ức na do tha thế giới có bao nhiêu chúng sanh độc ác đều cũng phát từ tâm như vậy.
Như cõi Diêm Phù Đề, ngoài ra ba thiên hạ khác (Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hoá Châu, Bắc Câu Lư Châu), cho đến ba ngàn đại thiên thế giới, cho đến trong mười phương trăm ngàn vạn ức Na do tha thế giới. Hết thảy tất cả chúng sinh độc ác, cũng đều như thế.
Giảng: Vua Đại Quang dùng Bồ Tát đại từ làm đầu, tuỳ thuận tam muội thế gian, để nhiếp hoá tất cả chúng sinh hữu tình và vô tình. Hữu tình bao quát nhân dân trong thành, chim thú, Long Vương, Tượng Vương, cho đến tất cả Thiên Vương. Vô tình bao quát núi đồi cỏ cây, vũng ao suối giếng, biển hồ, cho đến tất cả đồ trang nghiêm trong đạo tràng, tình với vô tình, đều được lợi ích, đó là đồng thể đại bi, vì vật với ta không hai.
Thời, đại quang Vương tùng tam muội khởi, cáo Thiện Tài ngôn:
Bấy giờ Ðại Quang Vương xuất định bảo Thiện Tài rằng:
Giảng: Lúc đó, vua Đại Quang từ trong tam muội xuất định, bảo Thiện Tài đồng tử rằng:
Thiện nam tử! ngã duy tri thử Bồ Tát đại từ vi thủ tùy thuận thế gian tam muội môn. Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát vi cao cái, từ tâm phổ ấm chư chúng sanh cố; vi tu hành, hạ, trung, thượng hạnh tất đẳng hành cố; vi Đại địa, năng dĩ từ tâm nhậm trì nhất thiết chư chúng sanh cố; vi mãn nguyệt, phước đức quang minh ư thế gian trung bình đẳng hiện cố
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết môn tam muội Bồ Tát đại từ tùy thuận thế gian. Như chư đại Bồ Tát làm lọng cao, vì từ tâm che khắp các chúng sanh. Chuyên tu hành, vì những hạnh hạ trung thượng đều bình đẳng thật hành. Làm đại địa, vì có thể dùng từ tâm nhiệm trì tất cả những chúng sanh. Làm mặt trăng tròn, vì phước đức quang minh ở trong thế gian bình đẳng hiển hiện.
Giảng: “Thiện nam tử! Ta chỉ biết Bồ Tát đại từ làm đầu nầy, môn tam muội tuỳ thuận thế gian. Như các đại Bồ Tát, các Ngài: Làm lọng cao, vì tâm từ che khắp tất cả các chúng sinh. Làm tu hành, vì hạnh thượng trung hạ đều bình đẳng thực hành, chẳng có tâm phân biệt. Làm đại địa, vì hay dùng tâm từ nhậm trì tất cả các chúng sinh. Làm trăng tròn, vì hay dùng phước đức quang minh thị hiện bình đẳng trong thế gian.
Vi tịnh nhật, dĩ trí quang minh chiếu diệu nhất thiết sở tri cảnh cố; vi minh đăng, năng phá nhất thiết chúng sanh tâm trung chư hắc ám cố; vi thủy thanh châu, năng thanh nhất thiết chúng sanh tâm trung siểm cuống trược cố; vi như ý bảo, tất năng mãn túc nhất thiết chúng sanh tâm sở nguyện cố; vi Đại phong, tốc lệnh chúng sanh tu tập tam muội nhập nhất thiết trí đại thành trung cố.
Làm mặt nhật sáng, vì dùng trí quang minh chiếu diệu tất cả cảnh sở tri. Làm đèn sáng, vì có thể phá những hắc ám trong tâm của tất cả chúng sanh. Làm thủy thanh châu, có thể lóng trong những chất đục siểm cuống trong tâm của tất cả chúng sanh. Làm như ý bửu, vì có thể thỏa mãn tâm sở nguyện của tất cả chúng sanh. Làm đại phong, vì mau làm cho chúng sanh tu tập tam muội nhập đại thành Nhứt thiết trí.
Giảng: Làm mặt trời sáng, vì hay dùng trí huệ quang minh chiếu sáng tất cả cảnh biết được. Làm đèn sáng, vì hay chiếu phá các đen tối trong tâm của tất cả chúng sinh. Làm thuỷ thanh châu, vì hay lắng trong dơ đục giả dối trong tâm của tất cả chúng sinh. Làm châu như ý, vì hay làm đầy đủ tâm nguyện vọng của tất cả chúng sinh. Làm gió lớn, vì mau chóng khiến chúng sinh tu tập tam muội nhập vào thành lớn nhất thiết trí.
Nhi ngã vân hà năng tri kỳ hạnh, năng thuyết kỳ đức, năng xưng lượng bỉ phước đức Đại sơn, năng chiêm ngưỡng bỉ công đức chúng tinh, năng quan sát bỉ đại nguyện phong luân, năng thú nhập bỉ thậm thâm pháp môn, năng hiển thị bỉ trang nghiêm đại hải, năng xiển minh bỉ Phổ Hiền hạnh môn, năng khai thị bỉ chư tam muội quật, năng tán thán bỉ đại từ bi vân?
Ta làm sao biết được hạnh đó, nói được đức đó, làm sao cân lượng được núi lớn phước đức đó, làm sao chiêm ngưỡng được ngôi sao sáng công đức đó, làm sao quán sát được phong luân đại nguyện đó, làm sao xu nhập được pháp môn thậm thâm đó, làm sao hiển thị được đại hải trang nghiêm đó, làm sao xiển minh được hạnh môn Phổ Hiền đó. Làm sao khai thị được hang tam muội. Làm sao tán thán được mây đại bi đó.
Giảng: Đủ thứ công đức như vậy, mà ta làm sao biết được những hạnh đó của các Ngài? Nói được công đức đó của các Ngài? Làm sao xưng lượng được núi phước đức lớn đó của các Ngài? Làm sao chiêm ngưỡng được công đức chúng sinh đó của các Ngài? Làm sao quán sát được đại nguyện phong luân đó của các Ngài? Làm sao xu nhập được pháp môn thâm sâu đó của các Ngài? Làm sao hiển bày được biển cả trang nghiêm đó của các Ngài? Làm sao xiển minh được hạnh môn Phổ Hiền đó của các Ngài? Làm sao khai thị được hang tam muội đó của các Ngài? Làm sao khen ngợi được mây đại từ bi đó của các Ngài?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất Vương đô, danh viết: an trụ; hữu ưu-bà-di, danh viết: Bất Động.
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một vương đô tên là An Trụ, có Ưu bà di tên là Bất Ðộng.
Giảng: Thiện nam tử! Từ đây đi về hướng nam nầy có một vương đô, tên là An Trụ. Ở đó có vị ưu bà di tên là Bất Động.
Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Ngươi hãy đến chỗ vị đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ Vương túc, nhiễu vô số tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Ðại Quang Vương, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử bèn đảnh lễ vua Đại Quang, đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi về hướng nàm, tìm cầu vị thiện tri thức khác.
=====================================
19. ƯU BÀ DI BẤT ĐỘNG
PHÓ THÁC THỨ 19 – HẠNH THIỆN PHÁP
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử xuất diệu quang thành, du hành đạo lộ, chánh niệm tư tánh đại quang Vương giáo, ức niệm Bồ Tát đại từ tràng hạnh môn, tư tánh Bồ Tát tùy thuận thế gian tam muội quang minh môn, tăng trưởng bỉ bất tư nghị nguyện phước đức tự tại lực, kiên cố bỉ bất tư nghị thành thục chúng sanh trí, quan sát bỉ bất tư nghị bất cộng thọ dụng đại uy đức, ức niệm bỉ bất tư nghị sái biệt tướng, tư tánh bỉ bất tư nghị thanh tịnh quyến thuộc, tư tánh bỉ bất tư nghị sở tác nghiệp; sanh hoan hỉ tâm, sanh tịnh tín tâm, sanh mãnh lợi tâm, sanh hân duyệt tâm, sanh dõng dược tâm, sanh khánh hạnh tâm, sanh vô trược tâm, sanh thanh tịnh tâm, sanh kiên cố tâm, sanh quảng đại tâm, sanh vô tận tâm.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử ra khỏi thành Diệu Quang đi theo đường lớn về phía Nam, chánh niệm tư duy ý nghĩa của vua Ðại Quang đã dạy, nhớ môn Bồ Tát đại từ tràng hạnh, tư duy môn Bồ Tát tùy thuận thế gian tam muội quang minh. Tăng trưởng sức phước đức tự tại nguyện bất tư nghì đó. Kiên cố trí bất tư nghì thành tựu chúng sanh đó. Quán sát đại oai đức bất tư nghì cộng thọ dụng đó. Ghi nhớ tướng bất tư nghì sai biệt đó. Suy gẫm quyến thuộc thanh tịnh bất tư nghì đó. Suy xét công hạnh bất tư nghì đó sanh tâm hoan hỉ, tâm tịnh tín, tâm mãnh lợi, tâm hân duyệt, tâm dũng dước, tâm khánh hạnh, tâm vô trược uế, tâm thanh tịnh, tâm kiên cố, tâm quảng đại, tâm vô tận.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đi ra khỏi thành Diệu Quang, lúc trên đường đi du hành, chánh niệm suy gẫm lời dạy của vua Đại Quang. Nghĩ nhớ môn Bồ Tát đại từ tràng hạnh. Suy gẫm môn tuỳ thuận thế gian tam muội quang minh. Tăng trưởng nguyện phước đức tự tại lực không nghĩ bàn. Kiên cố thành thục chúng sinh trí huệ không nghĩ bàn. Quán sát bất cộng thọ dụng đại oai đức không nghĩ bàn của vua Đại Quang. Nghĩ nhớ sai biệt tướng không nghĩ bàn của vua Đại Quang. Suy gẫm thanh tịnh quyến thuộc không nghĩ bàn của vua Đại Quang. Suy gẫm nghiệp tạo ra không nghĩ bàn của vua Đại Quang.
Thiện Tài đồng tử bèn sinh tâm hoan hỉ, sinh tâm tịnh tín, sinh tâm dũng lợi, sinh tâm vui thích, sinh tâm hớn hở, sinh tâm khánh hạnh, sinh tâm không dơ đục, sinh tâm thanh tịnh, sinh tâm kiên cố, sinh tâm rộng lớn, sinh tâm vô tận.
Như thị tư duy, bi khấp lưu lệ, niệm thiện tri thức thật vi hy hữu, xuất sanh nhất thiết chư công đức xứ, xuất sanh nhất thiết chư Bồ-tát hạnh, xuất sanh nhất thiết Bồ Tát tịnh niệm, xuất sanh nhất thiết Đà-la-ni luân, xuất sanh nhất thiết tam muội quang minh, xuất sanh nhất thiết chư Phật tri kiến, phổ vũ nhất thiết chư Phật Pháp vũ, hiển thị nhất thiết Bồ Tát nguyện môn, xuất sanh nan tư trí tuệ quang minh, tăng trưởng nhất thiết Bồ Tát căn nha.
Thiện Tài tư duy như vậy buồn khóc rơi lệ, nghĩ thiện tri thức thiệt là hi hữu, là chỗ xuất sanh tất cả công đức, xuất sanh tất cả Bồ Tát hạnh, xuất sanh tất cả Bồ Tát tịnh niệm, xuất sanh tất cả đà la ni luân, xuất sanh tất cả tam muội quang minh, xuất sanh tất cả chư Phật tri kiến, mưa khắp tất cả chư Phật pháp vũ, hiển thị tất cả Bồ Tát nguyện môn, xuất sanh nan tư trí huệ quang minh, tăng trưởng gốc mầm tất cả Bồ Tát.
Giảng: Khi Thiện Tài đồng tử suy gẫm như vậy, bèn khóc lóc rơi lệ, nghĩ thiện tri thức thật là ít có. Thiện tri thức là nơi sinh ra tất cả các công đức. Sinh ra tất cả các Bồ Tát hạnh. Sinh ra tất cả Bồ Tát tịnh niệm. Sinh ra tất cả Đà la ni luân. Sinh ra tất cả tam muội quang minh. Sinh ra tất cả chư Phật tri kiến. Khắp mưa tất cả các mưa Phật pháp. Hiển bày tất cả nguyện môn Bồ Tát. Sinh ra trí huệ quang minh không nghĩ bàn. Tăng trưởng tất cả rễ mầm Bồ Tát.
Hựu tác thị niệm: thiện tri thức giả, năng phổ cứu hộ nhất thiết ác đạo, năng phổ diễn thuyết chư bình đẳng pháp, năng phổ hiển thị chư di hiểm đạo, năng phổ khai xiển Đại-Thừa áo nghĩa, năng phổ khuyến phát Phổ Hiền chư hạnh, năng phổ dẫn đáo nhất thiết trí thành, năng phổ lệnh nhập Pháp giới đại hải, năng phổ lệnh kiến tam thế Pháp hải, năng phổ thụ dữ chúng Thánh đạo tràng, năng phổ tăng trưởng nhất thiết bạch pháp.
Thiện Tài lại nghĩ rằng: Thiện tri thức có thể cứu hộ khắp tất cả ác đạo, có thể diễn thuyết khắp các pháp bình đẳng, có thể hiển thị khắp những đường bằng đường hiểm, có thể khai xiển khắp áo nghĩa Ðại thừa, có thể khắp khuyên phát những hạnh Phổ Hiền, có thể khắp dẫn đến thành Nhất thiết trí, có thể làm cho vào khắp pháp giới đại hải, có thể làm cho thấy khắp tam thế pháp hải, có thể khắp trao cho chúng Thánh đạo tràng, có thể khắp tăng trưởng tất cả bạch pháp.
Giảng: Thiện Tài đồng tử lại nghĩ như vầy: “Bậc thiện tri thức hay cứu hộ khắp tất cả chúng sinh thọ khổ trong các đường ác (địa ngục, ngả quỷ, súc sinh). Ngài hay khắp diễn nói tất cả các pháp bình đẳng. Hay khắp hiển bày tất cả các đường bằng phẳng rộng lớn, hoặc đường eo hẹp nguy hiểm. Hay khắp khai xiển đạo lý áo nghĩa Phật pháp đại thừa. Hay khắp khuyến tất cả chúng sinh phát tâm tu các hạnh Bồ Tát Phổ Hiền. Hay khắp dẫn dắt chúng sinh đến thành nhất thiết trí. Hay khắp khiến cho chúng sinh vào biển cả pháp giới. Hay khắp khiến cho chúng sinh thấy được biển pháp ba đời. Hay khắp trao cho chúng sinh tất cả chúng Thánh đạo tràng. Hay khắp tăng trưởng tất cả thiện pháp trắng tịnh.
Thiện tài đồng tử như thị bi ai tư niệm chi thời, bỉ thường tùy trục giác ngộ Bồ Tát, Như Lai sử Thiên, ư hư không trung nhi cáo chi ngôn:
Lúc Thiện Tài bi ai tư niệm như vậy, đức Như Lai khiến Thiên Vương hiện trên hư không bảo rằng:
Giảng: Khi Thiện Tài đồng tử bi ai suy gẫm thiện tri thức như vậy, thì có vị Trời tên là Thường Tuỳ Theo Giác Ngộ Bồ Tát, được Như Lai phái đến, ở trong hư không bảo Thiện Tài đồng tử rằng:
Thiện nam tử! kỳ hữu tu hành thiện tri thức giáo, chư Phật Thế tôn tất giai hoan hỉ; kỳ hữu tùy thuận thiện tri thức ngữ, tức đắc cận ư nhất thiết trí địa; kỳ hữu năng ư thiện tri thức ngữ vô nghi hoặc giả, tức thường trực ngộ nhất thiết thiện hữu; kỳ hữu phát tâm nguyện thường bất ly thiện tri thức giả, tức đắc cụ túc nhất thiết nghĩa lợi.
Này thiện nam tử ! Có ai tu hành đúng lời dạy của thiện tri thức, chư Phật Thế Tôn thảy đều hoan hỷ. Có ai tùy thuận theo lời của thiện tri thức thời được gần bậc Nhứt thiết trí. Có ai đối với lời của thiện tri thức không nghi hoặc thời thường gặp gỡ tất cả thiện hữu. Có ai phát tâm nguyện thường chẳng rời thiện trì thức thời được đầy đủ tất cả nghĩa lợi.
Giảng: “Thiện nam tử! Nếu có ai tu hành theo lời dạy của thiện tri thức, thì chư Phật Thế Tôn thảy đều hoan hỉ. Nếu ai tuỳ thuận lời dạy của thiện tri thức, thì sẽ được gần bậc nhất thiết trí. Nếu ai không nghi hoặc đối với lời dạy của thiện tri thức, thì sẽ thường gặp được tất cả bạn lành. Nếu ai phát tâm nguyện thường không lìa khỏi bậc thiện tri thức, thì sẽ được đầy đủ tất cả nghĩa lợi, minh bạch tất cả đạo lý.
Thiện nam tử! nhữ khả vãng nghệ an trụ Vương đô, tức đương đắc kiến bất động ưu-bà-di đại thiện tri
Này thiện nam tử ! Ngươi nên đến Vương đô An Trụ sẽ được gặp Bất Ðộng Ưu bà di đại thiện tri thức.
Giảng: Thiện nam tử! Ngươi hãy đi đến vương đô An Trụ, lập tức sẽ gặp được đại thiện tri thức ưu bà di Bất Động”.
Đây là hạnh thứ chín – Hạnh thiện pháp. Bất động, biểu thị tự phát tâm đến, đối với tất cả pháp đều đắc được định, vì phiền não nhị thừa không thể động được. Cũng khiến tâm chúng sinh chẳng động. Dùng trí tu từ, cho nên thị hiện thân nữ. Do đó, xưng là “ưu bà di Bất Động”. Vương đô, chỉ bậc vương tử. An trụ, biểu thị trí khế thật pháp, chẳng bị duyên hoại.
Thức thời, Thiện tài đồng tử tòng bỉ tam muội trí quang minh khởi, tiệm thứ du hành, chí an trụ thành, chu biến thôi cầu Bất Động ưu-bà-di kim tại hà sở? vô lượng nhân chúng hàm cáo chi ngôn:
Giảng: Bấy giờ, Thiện Tài đồng tử từ tam muội trí quang minh dậy, từ từ đi du hành, đến thành An Trụ. Đi khắp nơi tìm kiếm hỏi: Ưu bà di Bất Động, hiện đang ở đâu? Vô lượng mọi người đều đáp rằng:
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử từ trong tam muội trí quang minh xuất định, từ từ đi du hành về hướng nam, đến thành An Trụ. Bèn đi khắp nơi tìm kiếm ưu bà di Bất Động. Hỏi mọi người rằng:
Thiện nam tử! bất động ưu-bà-di thân thị đồng nữ, tại kỳ gia nội, phụ mẫu thủ hộ, dữ tự thân chúc vô lượng nhân chúng diễn thuyết diệu pháp.
Thiện nam tử! Ưu ba di Bất Động thân là đồng nữ, đang ở nhà của cô ta, có cha mẹ giữ gìn, diễn nói diệu pháp với vô lượng những người thân thuộc.
Giảng: “Thiện nam tử! Ưu ba di Bất Động thân là đồng nữ thanh tịnh, đang ở nhà của cô ta, có cha mẹ giữ gìn, cô ta diễn nói diệu pháp với vô lượng những người thân thuộc”.
Thiện tài đồng tử văn thị ngữ dĩ, kỳ tâm hoan hỉ, như kiến phụ mẫu, tức nghệ bất động ưu-bà-di xá.
Thiện Tài nghe nói lòng rất hoan hỷ như được gặp cha mẹ, liền đến nhà Bất Ðộng Ưu ba di.
Giảng: Thiện Tài đồng tử nghe như vậy rồi, sinh tâm hoan hỉ, giống như được gặp cha mẹ, liền lập tức đi đến nhà ưu bà di Bất Động.
Nhập kỳ trạch nội, kiến bỉ đường vũ, kim sắc quang minh phổ giai chiếu diệu, ngộ tư quang giả thân ý thanh lương. Thiện tài đồng tử quang minh xúc thân, tức thời hoạch đắc ngũ bách tam muội môn, sở vị: liễu nhất thiết hy hữu tướng tam muội môn, nhập tịch tĩnh tam muội môn, viễn ly nhất thiết thế gian tam muội môn, phổ nhãn xả đắc tam muội môn, Như Lai tạng tam muội môn ……
Vào trong nhà thấy ánh sáng màu chơn kim chiếu khắp nơi, người gặp ánh sáng này thời thân tâm mát mẻ. Ánh sáng chiếu đến thân, Thiện Tài liền chứng được năm trăm môn tam muội. Như là môn tam muội rõ tất cả tướng hy hữu, môn tam muội nhập tịch tịnh, môn tam muội xa lìa tất cả thế gian, môn tam muội phổ nhãn xả đắc, môn tam muội Như Lai tạng, v.v…
Giảng: Thiện Tài đồng tử vào trong nhà của ưu bà di Bất Động, thấy ánh sáng màu vàng chiếu sáng khắp nơi. Ai thấy được ánh sáng đó, thì thân tâm đều được mát mẻ. Ánh sáng đó chiếu đến thân Thiện Tài đồng tử, Ngài lập tức đắc được năm trăm môn tam muội. Đó là: Môn tam muội Thấu rõ tất cả tướng hi hữu. Môn tam muội Chứng nhập nơi tịch tĩnh. Môn tam muội Xa lìa tất cả cảnh giới thế gian. Môn tam muội Phổ nhãn xả được. Môn tam muội Như Lai tạng .v.v…
Đắc như thị đẳng ngũ bách tam muội môn; dĩ thử tam muội môn cố, thân tâm nhu nhuyễn, như thất nhật thai. Hựu văn diệu hương, phi chư Thiên, long, Càn thát bà đẳng nhân dữ phi nhân chi sở năng hữu.
Đắc được năm trăm môn tam muội như vậy. Nhờ những môn tam muội đó, thâm tâm mềm mại, như thai nhi bảy ngày. Lại ngửi được hương thơm vi diệu, chẳng phải chư Thiên, Long, Càn Thát Bà .v.v… người, chẳng phải người có được.
Giảng: Ngài đắc được năm trăm môn tam muội như vậy. Nhờ những môn tam muội đó, thâm tâm mềm mại, như thai nhi bảy ngày. Ngài lại ngửi được hương thơm vi diệu, chẳng phải chư Thiên, Long, Càn Thát Bà .v.v… người, chẳng phải người có được.
Thiện tài đồng tử tiền nghệ kỳ sở, cung kính hợp chưởng, nhất tâm quan sát, kiến kỳ hình sắc đoan chánh thù diệu, thập phương thế giới nhất thiết nữ nhân vô hữu năng cập, huống kỳ qua giả! duy trừ Như Lai cập dĩ nhất thiết quán đảnh Bồ Tát.
Thiện Tài đến chỗ Ưu bà di cung kính chắp tay nhất tâm quán sát, thấy hình sắc của Ưu bà di đoan trang xinh đẹp. Tất cả nữ nhơn trong mười phương thế giới không ai sánh kịp huống là có người hơn. Chỉ trừ đức Như Lai và chư quán đảnh Bồ Tát.
Giảng: Thiện Tài đồng tử đi đến trước mặt ưu bà di Bất Động, cung kính chắp tay, một lòng quán sát, nhìn thấy sắc thân của ưu bà di rất đoan chánh xinh đẹp thù thắng vi diệu, tất cả những người nữ trong mười phương thế giới không ai bằng được, huống gì là hơn cô ta, chỉ trừ Như Lai và tất cả Bồ Tát quán đảnh (Pháp Vương tử), quang minh và tướng tốt trang nghiêm của các Ngài mới hơn vị ưu bà di Bất Động nầy, ngoài ra chẳng ai bằng cô ta được.
Khẩu xuất diệu hương, cung điện trang nghiêm, tinh kỳ quyến thuộc tất vô dữ đẳng, huống phục qua giả! thập phương thế giới nhất thiết chúng sanh, vô hữu ư thử ưu-bà-di sở khởi nhiễm trước tâm; nhược đắc tạm kiến, sở hữu phiền não tất tự tiêu diệt. Thí như bách vạn Đại phạm Thiên Vương, quyết định bất sanh dục giới phiền não; kỳ hữu kiến thử ưu-bà-di giả, sở hữu phiền não ứng tri diệc nhiên.
Miệng Ưu bà di phát ra diệu hương. Cung điện rất trang nghiêm và quyến thuộc của Ưu bà di này không đâu sánh bằng. Tất cả chúng sanh không ai sanh tâm nhiễm trước đối với Ưu bà di này. Nếu ai được tạm thời thấy Ưu bà di này thời tất cả phiền não thãy đều tự tiêu diệt, ví như trăm ngàn Ðại Phạm Thiên Vương, quyết định chẳng sanh phiền não cõi Dục.
Giảng: Miệng của cô ta toả ra hương thơm vi diệu, cung điện trang nghiêm, cùng với quyến thuộc của cô ta, không ai bằng được, huống gì là hơn. Tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, nhìn thấy vị ưu bà di nầy, đều sinh tâm chánh niệm cung kính, không ai khởi chút tâm nhiễm trước nào. Vì sự xinh đẹp của cô ta rất thanh tịnh, chẳng xen tạp chút nhiễm ô nào. Cô ta giống như một tấm gương quang minh viên mãn, chúng sinh thấy được cô ta, đều sinh tâm chiêm ngưỡng hâm mộ, chẳng có tâm niệm ái dục, cô ta khiến cho chúng sinh sinh ra tư tưởng thanh tịnh giác ngộ. Nếu có chúng sinh tạm nhìn thấy được vị ưu bà di Bất Động nầy, thì hết thảy phiền não của họ, đều tự nhiên tiêu diệt hết sạch. Giống như trăm vạn Đại Phạm Thiên Vương, quyết định chẳng còn sinh ra phiền não của chúng sinh dục giới. Nếu ai thấy được vị ưu bà di Bất Động nầy, thì hết thảy phiền não, nên biết cũng như vậy.
Thập phương chúng sanh quán thử nữ nhân giai Vô yếm túc, duy trừ cụ túc đại trí tuệ giả.
Thập phương chúng sanh nhìn xem Ưu bà di này đều không nhàm chán. Chỉ trừ bậc đầy đủ đại trí tuệ.
Giảng: Mười phương chúng sinh, nhìn xem người nữ nầy, trong tâm đều có cảm giác không nhàm chán đầy đủ được, chỉ trừ bậc đầy đủ đại trí huệ – Phật và Bồ Tát mới không có sự chấp trước nầy.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử khúc cung hợp chưởng, chánh niệm quan sát, kiến thử nữ nhân, kỳ thân tự tại bất khả tư nghị, sắc tướng nhan dung thế vô dữ đẳng, quang minh đỗng triệt vật vô năng chướng, phổ vi chúng sanh nhi tác lợi ích, kỳ thân mao khổng hằng xuất diệu hương, quyến thuộc vô biên, cung điện đệ nhất, công đức thâm quảng mạc tri nhai tế
Lúc đó Thiện Tài đồng tử cung kính chắp tay chánh niệm quán sát, thấy thân hình bất động Ưu bà di tự tại bất tư nghì, sắc tướng dung nhan thế gian không sánh kịp, quang minh chiếu suốt không vật gì ngăn được, vì khắp chúng sanh mà làm lợi ích. Lỗ lông nơi thân Ưu bà di thường phát ra diệu hương. Quyến thuộc vô biên, cung điện đệ nhất, công đức vô lượng không ngằn mé.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử cúi mình cung kính chắp tay, chánh niệm quán sát ưu bà di Bất Động. Thấy người nữ đó thân thể tự tại không thể nghĩ bàn. Sắc tướng dung nhan của cô ta, trên thế gian không ai bằng được, chẳng có ai xinh đẹp bằng cô ta. Quang minh của cô ta chiếu suốt thông triệt, không có vật gì chướng ngại được, cô ta khắp vì chúng sinh mà làm lợi ích. Lỗ chân lông trên thân của cô ta luôn toả ra hương thơm vi diệu. Tôi thường thường nói: Người tu hành thường giữ giới, thì trên thân toả ra hương thơm; nếu chẳng có tâm sân hận, thì cũng sẽ toả hương thơm; chẳng có tâm tham, cũng sẽ toả hương thơm; chẳng có tâm ngu si, đều toả ra hương thơm. Quyến thuộc của cô ta vô lượng vô biên rất là nhiều, cung điện cũng trang nghiêm bậc nhất. Công đức của cô ta sâu rộng, chẳng cách chi biết được bờ mé.
Tâm sanh hoan hỉ, dĩ tụng tán viết:
Thiện Tài vui mừng hớn hở nói kệ tán thán:
Giảng: Thiện Tài đồng tử tâm sinh hoan hỉ, dùng kệ khen ngợi vị ưu bà di nầy rằng:
Thủ hộ thanh tịnh giới, Giử gìn giới thanh tịnh
Tu hành quảng đại nhẫn Tu hành nhẫn rộng lớn
Tinh tấn Bất-thoái-chuyển Tinh tấn chẳng thối chuyển
Quang minh chiếu thế gian. Quang minh chiếu thế gian.
Giảng: “Ngài thưở xưa đã giữ gìn giới luật thanh tịnh, tu hành sức nhẫn nhục rộng lớn. Người khác không thể nhẫn, mà Ngài nhẫn được. Người khác không chịu được, mà Ngài chịu được. Ngài luôn luôn tu pháp môn tinh tấn, mà không thối chuyển, cho nên hiện tại Ngài có trí huệ quang minh rộng lớn, chiếu sáng khắp thế gian, lợi ích tất cả chúng sinh”.
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử thuyết thử tụng dĩ, bạch ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, nhi vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói kệ xong, Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử nói bài kệ đó rồi, bèn bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng dụ hối, nguyện vi ngã thuyết!
Con nghe đức Thánh khéo chỉ bảo, xin dạy cho.
Giảng: Con được vua Đại Quang giới thiệu cho con nói, đức Thánh Ngài rất khéo chỉ dạy tất cả chúng sinh, xin Ngài hãy vì con mà khai thị diễn nói.
Thời, bất động ưu-bà-di dĩ Bồ Tát nhu nhuyễn ngữ, duyệt ý ngữ, úy dụ Thiện Tài, nhi cáo chi ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! nhữ dĩ năng phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm.
Bất Ðộng Ưu bà di dùng lời nhu nhuyến duyệt ý của Bồ Tát an ủi Thiện Tài rằng: Lành thay, lành thay ! Thiện nam tử đã phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Giảng: Lúc đó, ưu bà di Bất Động dùng lời Bồ Tát mềm mại, lời vui lòng, an ủi Thiện Tài đồng tử mà bảo rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ngươi đã có thể phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề”.
Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát nan tồi phục trí tuệ tạng giải thoát môn, ngã đắc Bồ Tát kiên cố thọ trì hạnh môn, ngã đắc Bồ Tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn, ngã đắc Bồ Tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn, ngã đắc Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yếm tam muội môn.
Này thiện nam tử ! Ta được môn giải thoát Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng. Ta được Bồ Tát kiên cố thọ trì hạnh giải thoát môn. Ta được Bồ Tát nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn. Ta được Bồ Tát chiếu minh nhất thiết pháp biện tài môn. Ta được Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn.
Giảng: Mọi người hãy nghĩ xem, Bồ Tát chưa từng có thái độ nói lời thô lỗ, chẳng làm cho người khác chẳng vui vẻ, vì Ngài dùng lời mềm mại, lời nhẹ nhàng, chẳng nói lời nặng nề, làm cho người khác đau khổ.
Ưu bà di Bất Động lại nói: “Thiện nam tử! Ta đắc được môn giải thoát Bồ Tát khó thôi phục trí huệ tạng. Hết thảy thiên ma ngoại đạo đều không cách chi thôi phục được trí huệ quang minh của ta, tức cũng là trí huệ vô ngại, có trí huệ thì phiền não không thể phá hoại được, nên khó thôi phục. Trí nầy bao dung, nên gọi là tạng. Ta lại đắc được hạnh môn Bồ Tát kiên cố thọ trì, bất cứ gặp chúng sinh ác nào, cũng đều kham nhẫn. Vì ta khắp sinh các cõi, mà tâm chẳng mê. Ta lại đắc được môn tổng trì Bồ Tát tất cả pháp bình đẳng địa, có thể thâm nhập pháp môn, đắc được bậc pháp tánh. Ta lại đắc được môn biện tài Bồ Tát chiếu minh tất cả pháp, do chánh tư duy Phật pháp, mà chiếu sáng khác biệt, nên được biện tài, chuyển bánh xe pháp. Ta lại đắc được môn tam muội Bồ Tát cầu tất cả pháp không mỏi nhàm, một lòng cầu pháp, nên gọi tam muội. Gần Phật không nhàm, thọ pháp không đầy đủ”.
Thiện tài đồng tử ngôn: Thánh Giả! Bồ Tát nan tồi phục trí tuệ tạng giải thoát môn, nãi chí cầu nhất thiết pháp vô bì yếm tam muội môn, cảnh giới vân hà?
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh ! Cảnh giới của Bồ Tát nan tồi phục trí huệ tạng giải thoát môn nhẫn đến cảnh giới của Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô bì yểm tam muội môn như thế nào ?
Giảng: Thiện Tài đồng tử nói: “Đức Thánh! Môn giải thoát Bồ Tát khó thôi phục trí huệ tạng, cho đến môn tam muội cầu tất cả pháp không mỏi nhàm, những cảnh giới như thế nào”?
Đồng nữ ngôn: Thiện nam tử! thử xứ nan tri.
Bất Ðộng đồng nữ nói: Này thiện nam tử ! Chỗ này khó biết.
Giảng: Đồng nữ đáp: “Thiện nam tử! Chỗ nầy khó biết được”.
Thiện Tài bạch ngôn: duy nguyện Thánh Giả, thừa Phật thần lực, vi ngã tuyên thuyết! ngã đương nhân thiện tri thức, năng tín năng thọ, năng tri năng liễu, thú nhập quan sát, tu tập tùy thuận, ly chư phân biệt, cứu cánh bình đẳng.
Thiện Tài thưa: Mong đức Thánh thừa Phật thần lực giảng giải cho. Con sẽ nhơn thiện tri thức mà tin được, thọ được, biết được, rõ được, có thể xu nhập, quán sát, tu tập, tùy thuận, rời các phân biệt rốt ráo bình đẳng.
Giảng: Thiện Tài đồng tử nói: “Xin đức Thánh, hãy nương đại oai thần lực của chư Phật ba đời, vì con mà diễn nói diệu pháp đó. Hiện tại con sẽ do nhờ thiện tri thức nói pháp, con sẽ tin, con sẽ tiếp thọ, con sẽ biết, con cũng sẽ thấu rõ. mà xu nhập quán sát tu tập tuỳ thuận, xa lìa các sự phân biệt, đắc được rốt ráo bình đẳng”.
Ưu-bà-di ngôn: Thiện nam tử! quá khứ thế trung hữu kiếp, danh: ly cấu, Phật hiệu:Tu Tý.
Bất Ðộng nói: Này thiện nam tử ! Quá khứ có một kiếp tên là Ly Cấu, Phật hiệu Tu Tý.
Giảng: Ưu bà di Bất Động nói: “Thiện nam tử! Trong đời quá khứ, có kiếp tên Ly Cấu. Đức Phật hiệu là Tu Tý.
Thời, hữu Quốc Vương danh viết: điện thọ, duy hữu nhất nữ, tức ngã thân thị.
Thuở đó có Quốc Vương tên là Ðiển Thọ chỉ sanh một gái, chính là tiền thân của ta.
Giảng: Thời đó, có ông vua tên là Điển Thọ, nhà vua chỉ có một người con gái, đó là tiền thân của ta.
Ngã ư dạ phần phế âm nhạc thời, phụ mẫu huynh đệ tất dĩ miên tẩm, ngũ bách đồng nữ diệc giai hôn mị. Ngã ư lâu thượng ngưỡng quán tinh tú, ư hư không trung kiến bỉ Như Lai như bảo sơn vương, vô lượng vô biên thiên long bát bộ, chư Bồ-tát chúng sở cọng vi nhiễu, Phật thân phổ phóng đại quang minh võng chu biến thập phương vô sở chướng ngại, Phật thân mao khổng giai xuất diệu hương.
Một đêm khuya kia, lúc dẹp âm nhạc, vương phụ, vương mẫu, vương huynh, vương đệ và năm trăm đồng nữ đều đã ngủ. Công nương ở trên lầu ngước xem tinh tú, ở trong hư không thấy đức Tu Tý Như Lai như tòa bửu sơn hai bên có vô lượng vô biên Thiên, Long, Bát Bộ và chúng Bồ Tát hầu hạ. Thân Phật phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương không chướng ngại. Toàn thân Phật, các lỗ lông đều phát diệu hương.
Giảng: Vào lúc nửa đêm, khi chấm dứt buổi diễn tấu âm nhạc trong cung đình, cha mẹ anh em của tôi đều đã ngủ say. Năm trăm đồng nữ cũng đều đã ngủ hết, ta bèn lên trên lầu ngắm nhìn các vì sao, đột nhiên thấy đức Như Lai đó, ở trong hư không, sự trang nghiêm và quang minh của Ngài như núi chúa báu, có vô lượng vô biên Thiên Long tám bộ chúng và các chúng Bồ Tát cùng nhau vây quanh. Thân Phật phóng ra lưới đại quang minh, chiếu khắp mười phương, không gì chướng ngại. Lỗ lông trên thân Phật đều toả ra hương thơm vi diệu.
Ngã văn thị hương, thân thể nhu nhuyễn, tâm sanh hoan hỉ; tiện tùng lâu hạ chí ư địa thượng, hợp thập chỉ trảo, đảnh lễ ư Phật. Hựu quán bỉ Phật bất kiến đảnh tướng, quán thân tả hữu mạc tri biên tế. Tư tánh bỉ Phật chư tướng tùy hảo vô hữu yếm túc
Công nương nghe diệu hương của Phật thân thể nhu nhuyến, lòng hoan hỷ, bèn xuống lầu đứng trên đất, chắp mười ngón tay đảnh lễ đức Phật. Công nương lại quán sát vô kiến đảnh tướng của đức Phật, thấy thân Phật phía tả phía hữu không biết được ngằn mé. Tư duy các tướng tùy hảo của Phật không nhàm chán.
Giảng: Ta ngửi được hương thơm đó, thân ta mềm mại, chẳng còn ý niệm tham sân si, cũng chẳng còn cang cường ương ngạnh. Lúc đó, cảm giác rất là tự tại thư thái, nên tâm sinh đại hoan hỉ”.
Ta bèn từ trên lầu đi xuống đất, chắp tay đảnh lễ đức Phật Tu Tý. Ta lại quán xem tướng vô kiến đảnh của đức Phật đó, không thể nói ra được cao bao nhiêu. Lại quán sát bên trái, bên phải thân của đức Phật đó, cũng chẳng cách chi biết được bờ mé. Ta lại suy gẫm ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của đức Phật đó, không bao giờ nhàm đủ, càng nhìn lại càng hoan hỉ nhìn.
Thiết tự niệm ngôn: thử Phật Thế tôn tác hà đẳng nghiệp, hoạch ư như thị thượng diệu chi thân, tướng hảo viên mãn, quang minh cụ túc, quyến thuộc thành tựu, cung điện nghiêm hảo, phước đức trí tuệ tất giai thanh tịnh, tổng trì tam muội bất khả tư nghị, thần thông tự tại, biện tài vô ngại?
Tự nghĩ thầm: Ðức Phật Thế Tôn đây thật hành công hạnh gì mà được thân tướng tốt đẹp viên mãn quang minh đầy đủ, quyến thuộc thành tựu, cung điện trang nghiêm tốt đẹp, phước đức trí huệ thảy đều thanh tịnh, tổng trì tam muội chẳng thể nghĩ bàn, thần thông tự tại, biện tài vô ngại.
Giảng: Do đó ta tự nghĩ thầm rằng: “Đức Phật Thế Tôn đây, trong quá khứ Ngài đã làm những nghiệp gì, mà đắc được thân tốt đẹp như thế? Tướng tốt của Ngài đều viên mãn, quang minh cũng đầy đủ. Quyến thuộc cũng thành tựu, cung điện cũng nghiêm đẹp. Phước đức trí huệ thảy đều thanh tịnh. Tổng trì tam muội không thể nghĩ bàn. Đắc được thần thông tự tại và biện tài vô ngại đủ thứ phước báo”. Đây là câu hỏi trong tâm của ta.
Thiện nam tử! Nhĩ thời, Như Lai tri ngã tâm niệm, tức cáo ngã ngôn: nhữ ưng phát bất khả hoại tâm, diệt chư phiền não; ưng phát Vô năng thắng tâm, phá chư thủ trước; ưng phát vô thoái khiếp tâm, nhập thâm pháp môn; ưng phát năng kham nại tâm, cứu ác chúng sanh; ưng phát vô mê hoặc tâm, phổ ư nhất thiết chư thú thọ sanh; ưng phát Vô yếm túc tâm, cầu kiến chư Phật vô hữu hưu tức; ưng phát vô tri túc tâm, tất thọ nhất thiết Như Lai Pháp vũ; ưng phát chánh tư duy tâm, phổ sanh nhất thiết Phật pháp quang minh; ưng phát Đại trụ trì tâm, phổ chuyển nhất thiết chư Phật Pháp luân; ưng phát quảng lưu thông tâm, tùy chúng sanh dục thí kỳ pháp bảo.
Này thiện nam tử ! Ðức Phật biết tâm niệm của Công nương nên bảo rằng: Ngươi nên phát tâm bất khả hoại, diệt các phiền não. Nên phát tâm vô năng thắng, phá các chấp trước. Nên phát tâm không thối khiếp, nhập các pháp môn. Nên phát tâm nhẫn nại, cứu chúng sanh ác. Nên phát tâm không mê hoặc, thọ sanh khắp các loài. Nên phát tâm không nhàm đủ, cầu thấy chư Phật không thôi ngớt. Nên phát tâm không biết đủ, lãnh thọ tất cả pháp vũ của Như Lai. Nên phát tâm chánh tư duy, sanh khắp tất cả Phật pháp quang minh. Nên phát tâm đại trụ trì, chuyển khắp tất cả chư Phật pháp luân. Nên phát tâm rộng lưu thông, tùy sở thích của chúng sanh mà ban cho pháp bửu.
Giảng: Thiện nam tử! Lúc đó, đức Như Lai Tu Tý biết tâm niệm của ta đang nghĩ gì, liền bảo ta rằng: “Ngươi nên phát tâm không thể hoại, diệt trừ tất cả phiền não. Nên phát tâm vô năng thắng, phá trừ tất cả chấp trước. Nên phát tâm không lui sợ, chứng nhập vào pháp môn thâm sâu. Nên phát tâm kham nhẫn được, cứu hộ chúng sinh ác. Nên phát tâm không mê hoặc, khắp thọ sinh trong tất cả các cõi, đời đời kiếp kiếp cũng không quên bồ đề tâm lúc ban đầu đã phát, vì nhiệm vụ là cứu độ chúng sinh. Nên phát tâm không nhàm đủ, cầu thấy chư Phật, không ngừng nghỉ. Nên phát tâm không biết đủ, đều thọ mưa pháp của tất cả Như Lai nói. Nên phát tâm chánh tư duy, khắp sinh tất cả Phật pháp quang minh. Nên phát tâm đại trụ trì, khắp chuyển bánh xe pháp của tất cả chư Phật. Nên phát tâm rộng lưu thông, tuỳ chúng sinh muốn, bố thí cho họ pháp bảo”.
Thiện nam tử! ngã ư bỉ Phật sở Văn như thị Pháp, cầu nhất thiết trí, cầu Phật thập lực, cầu Phật biện tài, cầu Phật quang minh, cầu Phật sắc thân, cầu Phật tướng hảo, cầu Phật chúng hội, cầu Phật quốc độ, cầu Phật uy nghi, cầu Phật thọ mạng.
Công nương nghe Phật dạy những pháp như vậy liền phát tâm cầu Nhứt thiết trí, cầu Phật thập lực, cầu Phật biện tài, cầu Phật quang minh, cầu Phật sắc thân, cầu Phật tướng hảo, cầu Phật chúng hội, cầu Phật quốc độ, cầu Phật oai nghi, cầu Phật thọ mạng.
Thiện nam tử! Ta ở chỗ đạo tràng của đức Phật Tu Tý đó, nghe đủ thứ các diệu pháp như vậy, bèn cầu nhất thiết trí, cầu mười lực của Phật, cầu biện tài vô ngại của Phật, cầu trí huệ quang minh của Phật, cầu diệu sắc thân của Phật, cầu ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật, cầu đạo tràng chúng hội của Phật, cầu cõi nước thanh tịnh của Phật, cầu oai nghi của Phật, cầu vô lượng thọ mạng của Phật.
Phát thị tâm dĩ, kỳ tâm kiên cố do như Kim cương, nhất thiết phiền não cập dĩ nhị thừa tất bất năng hoại.
Phát tâm đó rồi, tâm ta kiên cố như kim cang, tất cả phiền não và nhị thừa đều không hoại được.
Giảng: Phát tâm đó rồi, tâm ta rất kiên cố như kim cang, tất cả phiền não và Thanh Văn Duyên Giác nhị thừa đều không thế phá hoại tâm bồ đề kim cang của ta được.
Thiện nam tử! ngã phát thị tâm dĩ lai, Kinh Diêm-phù-đề vi trần số kiếp, thượng bất sanh ư niệm dục chi tâm, huống hành kỳ sự! Nhĩ sở kiếp trung, ư tự thân chúc bất khởi sân tâm, huống tha chúng sanh! nhĩ sở kiếp trung, ư kỳ tự thân bất sanh ngã kiến, huống ư chúng cụ nhi kế ngã sở! nhĩ sở kiếp trung, tử thời, sanh thời cập trụ thai tạng, vị tằng mê hoặc khởi chúng sanh tưởng cập vô kí tâm, huống ư dư thời!
Này thiện nam tử ! Từ đời làm Công nương phát tâm như vậy đến nay, trải qua Diêm Phù Ðề vi trần số kiếp, ta còn chẳng móng một tâm niệm ái dục, huống là làm sự ấy. Trong những kiếp ấy, đối với quyến thuộc chẳng khởi một niệm sân hận, huống là với chúng sanh khác. Trong những kiếp ấy, đối với tự thân không có một niệm ngã kiến, huống là có niệm ngã sở đối với đồ vật. Từ những kiếp ấy, lúc chết lúc sanh và lúc ở trong bào thai chưa từng mê muội sanh trưởng chúng sanh và tâm vô ký, huống là những lúc khác.
Giảng: Thiện nam tử! Từ khi ta phát tâm đó đến nay, trải qua số kiếp nhiều như hạt bụi cõi Diêm Phù Đề, ta vẫn chưa từng sinh tâm dục niệm, hà huống làm việc dâm dục ấy. Trong những đại kiếp đó, đối với lục thân quyến thuộc của ta, vĩnh viễn cũng chẳng khởi tâm sân, hà huống đối với chúng sinh khác, càng không thể khởi tâm sân. Trong những đại kiếp đó, ta đối với thân mình, chẳng sinh thấy cái ta, chẳng chấp vào thân nầy là của ta, hà huống đối với tất cả các đồ vật, cứ coi là của mình. Trong những kiếp đó, bất cứ là lúc chết, hoặc lúc sinh và trụ ở trong thai tạng, tôi chưa từng mê hoặc, mà sinh ra vọng tưởng ta, người, chúng sinh, thọ mạng, bốn tướng, hoặc sinh ra tâm vô ký, những thứ tâm đó đều đã quên hết, hà huống là những lúc khác.
Nhĩ sở kiếp trung, nãi chí mộng trung tùy kiến nhất Phật vị tằng vong thất, hà huống Bồ Tát thập nhãn sở kiến! nhĩ sở kiếp trung, thọ trì nhất thiết Như Lai chánh pháp, vị tằng vong thất nhất văn nhất cú, nãi chí thế tục sở hữu ngôn từ thượng bất vong thất, hà huống Như Lai kim khẩu sở thuyết! nhĩ sở kiếp trung, thọ trì nhất thiết Như Lai pháp hải, nhất văn nhất cú vô bất tư duy, vô bất quan sát, nãi chí nhất thiết thế tục chi Pháp diệc phục như thị.
Trong những kiếp đó, tùy thấy một đức Phật nào, chưa từng quên mất, huống là Bồ Tát thập nhãn ngó thấy. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai chánh pháp, chưa từng quên sót một chữ một câu, nhẫn đến tất cả ngôn từ của thế tục còn chẳng quên mất, huống là lời từ kim khẩu của đức Như Lai. Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả Như Lai pháp hải, không một câu một chử nào mà chẳng tư duy quán sát nhẫn đến tất cả pháp thế tục cũng như vậy.
Giảng: Trong những đại kiếp đó, cho đến ở trong mộng, ta tuỳ tiện thấy một vị Phật, chưa từng quên mất, hà huống ta dùng Bồ Tát thập nhãn thấy chư Phật, ta càng không thể quên mất. Trong những đại kiếp đó, ta thọ trì chánh pháp của tất cả Như Lai, chưa từng quên mất một chữ, một câu, cho đến hết thảy lời lẽ thế tục, ta chưa từng quên mất, hà huống là pháp từ miệng của Như Lai nói ra. Trong những đại kiếp đó, ta thọ trì biển pháp của tất cả Như Lai, mỗi một chữ, mỗi một câu, tôi đều suy gẫm kỹ càng, đều quán sát ý nghĩa kinh văn, cho đến tất cả pháp của thế tục cũng như vậy, chẳng quên tất cả kỹ xảo thế gian. Trong những kiếp đó, ta thọ trì tất cả biển pháp như vậy, chưa từng ở trong một pháp, chẳng đắc được tam muội, cho đến tất cả pháp kỹ thuật thế gian, ví như ngũ minh, trong mỗi mỗi pháp cũng đều như vậy, đều đắc được tam muội.
Nhĩ sở kiếp trung, thọ trì như thị nhất thiết pháp hải, vị tằng ư nhất pháp trung bất đắc tam muội, nãi chí thế gian kĩ thuật chi Pháp, nhất nhất pháp trung tất diệc như thị. Nhĩ sở kiếp trung, trụ trì nhất thiết Như Lai Pháp luân, tùy sở trụ trì, vị tằng phế xả nhất văn nhất cú, nãi chí bất tằng sanh ư thế trí, duy trừ vi dục điều chúng sanh cố. Nhĩ sở kiếp trung, kiến chư Phật hải, vị tằng ư nhất Phật sở bất đắc thành tựu thanh tịnh đại nguyện, nãi chí ư chư hóa Phật chi sở tất diệc như thị.
Trong những kiếp ấy, thọ trì tất cả pháp hải như vậy chưa từng ở trong một pháp mà chẳng được tam muội, nhẫn đến những kỹ thuật thế gian, mỗi mỗi pháp cũng đều như vậy. Trong những kiếp ấy, trụ trì tất cả Như Lai pháp luân, tùy pháp đã trụ trì chưa từng bỏ một chữ một câu, nhẫn đến chưa sanh thế trí, chỉ trừ khi vì muốn điều phục chúng sanh.
Trong những kiếp ấy, thấy chư Phật hải chưa từng ở chỗ một đức Phật nào mà chẳng thành tựu đại nguyện thanh tịnh, nhẫn đến ở chỗ Hóa Phật cũng như vậy.
Giảng: Trong những đại kiếp đó, ta trụ trì pháp luân của tất cả Như Lai, tuỳ sự trụ trì pháp luân của ta, chưa từng bỏ đi một chữ, hoặc một câu Phật pháp nào, cho đến chưa từng sinh ra trí huệ thế gian, chỉ trừ vì muốn điều phục chúng sinh, ta mới dùng phương tiện mà thị hiện có trí thế gian, để nhiếp thọ chúng sinh.
Trong những đại kiếp đó, ta thấy biển chư Phật, chưa từng ở chỗ đạo tràng một vị Phật, mà chẳng đắc được thành tựu đại nguyện thanh tịnh, cho đến ở chỗ đạo tràng các hoá Phật, cũng đều như thế.
Nhĩ sở kiếp trung, kiến chư Bồ-tát tu hành diệu hạnh, vô hữu nhất hạnh ngã bất thành tựu. Nhĩ sở kiếp trung, sở kiến chúng sanh, vô nhất chúng sanh ngã bất khuyến phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ-Đề tâm, vị tằng khuyến nhất chúng sanh phát ư Thanh văn, Bích Chi Phật ý. Nhĩ sở kiếp trung, ư nhất thiết Phật Pháp, nãi chí nhất văn nhất cú, bất sanh nghi hoặc, bất sanh nhị tưởng, bất sanh phân biệt tưởng, bất sanh chủng chủng tưởng, bất sanh chấp trước tưởng, bất sanh thắng liệt tưởng, bất sanh ái tăng tưởng.
Trong những kiếp ấy, thấy chư Bồ Tát tu hành diệu hạnh không có một hạnh nào mà chẳng thành tựu.
Trong những kiếp ấy, có bao nhiêu chúng sanh, không có một chúng sanh nào mà ta chẳng khuyên phát tâm Vô thượng Bồ đề, chưa từng khuyên ai phát tâm Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Trong những kiếp ấy, nơi tất cả Phật pháp, nhẫn đến chẳng nghi hoặc có một câu một chữ. Cũng chẳng có tưởng sai khác, chẳng có tưởng phân biệt, chẳng có các thứ tưởng chẳng có tưởng chấp trước, chẳng có tưởng thắng liệt, chẳng có tưởng yêu ghét.
Trong những đại kiếp đó, ta thấy các Bồ Tát tu hành diệu hạnh, không có một hạnh nào, mà ta chẳng thành tựu.
Trong những đại kiếp đó, chúng sinh mà ta thấy được, không có một chúng sinh nào, mà ta không khuyên họ phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ta chưa từng khuyên một chúng sinh nào, phát tâm nhị thừa Thanh Văn, Bích Chi Phật, ta đều cổ động chúng sinh hướng về bồ đề giác đạo Phật thừa tối cao vô thượng.
Giảng: Trong những kiếp đó, ta đối với tất cả Phật pháp, cho đến một chữ, một câu kinh văn, ta đều chẳng sinh tâm nghi hoặc, chẳng bao giờ nói: “Bộ Kinh nầy là thật, bộ kinh kia là giả”. Ta chưa từng sinh tâm hoài nghi. Ta đối với tất cả Kinh văn chẳng sinh ta tư tưởng đây là đúng, hoặc không đúng, cũng chẳng sinh tâm thị phi, vì Phật pháp là pháp môn không hai. Ta cũng chẳng sinh tưởng phân biệt đối với Phật pháp, ta đem Phật pháp và tự tánh hợp mà làm một, chẳng có sự phân biệt. Ta đối với Phật pháp chẳng sinh ra đủ thứ tưởng. Ta đối với Phật pháp chẳng sinh ta tưởng chấp trước, không chấp trước tướng, cũng chẳng sinh ra tưởng thắng liệt đối với Phật pháp, chẳng bao giờ nói: “Pháp nầy là thù thắng, còn pháp kia là hạ liệt”. Ta cũng chẳng sinh ra tưởng thương ghét đối với Phật pháp. Hai thứ tâm nầy đều thuộc về cực đoan, chẳng phải trung đạo liễu nghĩa. Ta đã chẳng còn tất cả sự chấp pháp như vậy.
Thiện nam tử! ngã tùng thị lai, thường kiến chư Phật, thường kiến Bồ Tát, thường kiến chân thật thiện tri thức, thường văn chư Phật nguyện, thường văn Bồ Tát hạnh, thường văn Bồ Tát Ba-la-mật môn, thường văn Bồ Tát địa trí quang minh môn, thường văn Bồ Tát vô tận tạng môn, thường văn nhập vô biên thế giới võng môn, thường văn xuất sanh vô biên chúng sanh giới nhân môn, thường dĩ thanh tịnh trí tuệ quang minh trừ diệt nhất thiết chúng sanh phiền não, thường dĩ trí tuệ sanh trưởng nhất thiết chúng sanh thiện căn, thường tùy nhất thiết chúng sanh sở lạc thị hiện kỳ thân, thường dĩ thanh tịnh thượng diệu ngôn âm khai ngộ Pháp giới nhất thiết chúng sanh.
Này thiện nam tử ! Từ ấy đến nay, ta thường thấy chư Phật, thường thất Bồ Tát, thường thấy chơn thiện tri thức, thường nghe chư Phật nguyện, thường nghe Bồ Tát hạnh, thường nghe Bồ Tát na la mật môn, thường nghe Bồ Tát địa trí quang minh môn, thường nghe Bồ Tát vô tận tạng môn, thường nghe nhập vô biên thế giới võng môn, thường nghe xuất sanh vô biên chúng sanh giới nhơn môn. Thường dùng trí huệ quang minh thanh tịnh diệt trừ tất cả chúng sanh phiền não. Thường dùng trí huệ sanh trưởng tất cả chúng sanh thiện căn. Thường tùy chúng sanh sở thích mà hiện thân. Thường dùng ngôn âm thượng diệu thanh tịnh khai ngộ pháp giới tất cả chúng sanh.
Giảng: Thiện nam tử! Ta từ đó đến nay, thường thấy được tất cả chư Phật mười phương ba đời, cũng thường thấy Bồ Tát, và làm bạn với các Bồ Tát. Các vị đừng cho rằng Phật và Bồ Tát là người Ấn Độ. Quốc gia nào cũng đều có Phật và Bồ Tát. Ai tu hành Phật đạo, thì tương lai đều sẽ thành Phật. Ai tu hành Bồ Tát đạo, thì tương lai cũng sẽ thành Bồ Tát. Chẳng riêng gì người Ấn Độ mới có thể thành Phật, thành Bồ Tát.
Ta lại thường thấy chân thật thiện tri thức. Thế nào là chân thật thiện tri thức? Ngài chẳng còn tham sân si, thường tu giới định huệ, không mong cầu, thường lợi ích chúng sinh khác, chẳng cầu lợi ích cho chính mình. Ta lại thường nghe đại nguyện của chư Phật phát ra, thường nghe lục độ vạn hạnh của Bồ Tát tu, thường nghe môn Ba La Mật của Bồ Tát tu, thường nghe môn trí huệ địa vị quang minh của Bồ Tát, thường nghe môn vô tận pháp tạng của Bồ Tát, thường nghe môn vào vô biên lưới thế giới. Thế giới với thế giới liên kết với nhau thành tựa như một mạng lưới, thế giới nhiều vô biên vô số, chẳng phải riêng gì một thế giới Ta Bà của chúng ta đây. Ta lại thường nghe pháp môn nhân duyên sinh ra vô biên cõi chúng sinh. Ta thường dùng trí huệ quang minh thanh tịnh, trừ diệt phiền não của tất cả chúng sinh. Ta thường dùng trí huệ, thấm nhuần sinh trưởng căn lành của tất cả chúng sinh. Ta cũng thường tuỳ thuận sự ưa thích của tất cả chúng sinh, mà thị hiện thân đồng loại với họ, để giáo hoá họ. Ta lại thường dùng lời nói âm thanh thanh tịnh thượng diệu, để khai ngộ tất cả chúng sinh pháp giới.
Ở trên đây là phương pháp của ưu bà di Bất Động, giáo hoá Thiện Tài đồng tử hành Bồ Tát đạo.
Thiện nam tử! ngã đắc Bồ Tát cầu nhất thiết pháp Vô yếm túc trang nghiêm môn, ngã đắc nhất thiết pháp bình đẳng địa tổng trì môn, hiện bất tư nghị tự tại thần biến.
Này thiện nam tử ! Ta được Bồ Tát cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm môn. Ta được nhất thiết pháp tổng trì môn hiện bất tư nghì tự tại thần biến. Ngươi muốn thấy chăng ?
Giảng: Ưu bà di Bất Động nói: “Thiện nam tử! Ta đắc được môn Bồ Tát cầu tất cả pháp không nhàm đủ trang nghiêm. Ta đắc được môn tất cả pháp bình đẳng địa tổng trì, ta có thể thị hiện tự tại thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn. Ngươi có muốn thấy chăng”?
Nhữ dục kiến bất? Thiện Tài ngôn: duy! ngã tâm nguyện kiến.
Thiện Tài thưa: Vâng ! Bạch đức Thánh ! Con muốn được thấy.
Giảng: Thiện Tài nói: “Dạ trong tâm con muốn được thấy những cảnh giới đó”.
Nhĩ thời, bất động ưu-bà-di tọa ư long tạng sư tử chi tọa, nhập cầu nhất thiết pháp Vô yếm túc trang nghiêm tam muội môn, bất không luân trang nghiêm tam muội môn, thập lực trí luân hiện tiền tam muội môn, Phật chủng vô tận tạng tam muội môn. Nhập như thị đẳng nhất vạn tam muội môn.
Lúc đó Bất Ðộng Ưu bà di ngồi trên tòa long tạng sư tử, nhập cầu nhất thiết pháp vô yểm túc trang nghiêm tam muội môn, bất không luân trang nghiêm tam muội môn, thập lực trí luân hiện tiền tam muội môn, Phật chủng vô tận tạng tam muội môn, nhập một vạn tam muội môn như vậy.
Giảng: Lúc đó, ưu bà di Bất Động ngồi trên toà sư tử long tạng, sau đó nhập vào môn tam muội Cầu tất cả pháp không nhàm đủ trang nghiêm. Môn tam muội Bất không luân trang nghiêm. Môn tam muội Mười lực trí luân hiện tiền. Môn tam muội Phật chủng vô tận tạng. Ưu bà di Bất Động nhập vào một vạn môn tam muội như vậy.
Nhập thử tam muội môn thời, thập phương các hữu bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới lục chủng chấn động, giai tất thanh tịnh lưu ly sở thành
Lúc Ưu bà di nhập tam muội môn này, mười phương đều có bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới chấn động sáu cách, đều bằng lưu ly đều thanh tịnh.
Giảng: Khi nhập vào những môn tam muội đó, thì đột nhiên mỗi phương trong mười phương, các thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật, đều có sáu thứ chấn động, đó là biểu thị điềm cát tường. Hết thảy thế giới thảy đều thanh tịnh, lưu ly làm thành.
Nhất nhất thế giới trung, hữu bách ức tứ thiên hạ, bách ức Như Lai hoặc trụ Đâu suất thiên nãi chí Bát Niết Bàn; nhất nhất Như Lai phóng quang minh võng, chu biến pháp giới đạo tràng chúng hội, thanh tịnh vi nhiễu, chuyển diệu pháp luân, khai ngộ quần sanh.
Trong mỗi mỗi thế giới có trăm ức ức tứ thiên hạ, trăm ức Như Lai, hoặc trụ Ðâu suất Thiên, nhẫn đến nhập Niết bàn, mỗi mỗi Như Lai phóng quang minh võng chiếu khắp pháp giới, đạo tràng chúng hội thanh tịnh vây quanh chuyển diệu pháp luân khai ngộ quần sanh.
Giảng: Trong mỗi thế giới, đều có trăm ức bốn thiên hạ, trăm ức đức Như Lai, các Ngài thị hiện tám tướng thành đạo, hoặc trụ ở trời Đâu Suất, sau đó từ cung trời Đâu Suất, nhập thai, xuất thai, xuất gia, hàng ma, thành đạo, chuyển pháp luân, vào Niết Bàn. Mỗi đức Như Lai đều phóng ra lưới quang minh, khắp cùng pháp giới. Đạo tràng chúng hội thanh tịnh vây quanh, chuyển bánh xe pháp, khai ngộ hết thảy chúng sinh.
Thời, bất động ưu-bà-di tùng tam muội khởi, cáo Thiện Tài ngôn: Thiện nam tử! nhữ kiến thử bất?
Bất Ðộng Ưu bà di xuất tam muội, hỏi Thiện Tài: Ngươi có thấy chăng ?
Giảng: Lúc đó, ưu bà di Bất Động từ tam muội dậy, bảo Thiện Tài rằng: “Thiện nam tử! Ngươi có thấy những cảnh giới đó chăng”?
Thiện Tài ngôn: duy! ngã giai dĩ kiến.
Thiện Tài thưa: Vâng ! Con đã thấy.
Giảng: Thiện Tài nói: “Dạ con đều đã thấy rồi”.
Ưu-bà-di ngôn: Thiện nam tử! ngã duy đắc thử cầu nhất thiết pháp Vô yếm túc tam muội quang minh, vi nhất thiết chúng sanh thuyết vi diệu Pháp, giai lệnh hoan hỉ.
Bất Ðộng Ưu bà di nói: Ta chỉ được ” cầu nhứt thiết pháp vô yểm túc tam muội quang minh” này, vì tất cả chúng sanh mà nói vi diệu pháp đều làm cho hoan hỷ.
Giảng: Ưu bà di Bất Động nói: “Thiện nam tử! Ta chỉ đắc được môn tam muội quang minh cầu tất cả pháp không nhàm đủ nầy, ta vì tất cả chúng sinh nói vi diệu pháp, đều khiến cho họ hoan hỉ vui mừng.
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, như kim-sí điểu, du hành hư không vô sở chướng ngại, năng nhập nhất thiết chúng sanh đại hải, kiến hữu thiện căn dĩ thành thục giả, tiện tức chấp thủ trí Bồ-đề ngạn
Như chư đại Bồ Tát du hành hư không vô ngại như Kim Sí Ðiểu, có thể vào tất cả chúng sanh đại hải, thấy có ai thiện căn đã thành thục, liền bắt lấy để trên bờ Bồ đề.
Giảng: Như các đại Bồ Tát, các Ngài như chim cánh vàng, đều bay lượn tự do tự tại ở trong hư không, không chướng ngại. Dùng cánh quạt nước biển rẽ làm hai, sau đó lộ ra chỗ rồng ở, nó liền bay xuống bắt rồng ăn. Bồ Tát cũng như thế, hay nhập vào biển tất cả chúng sinh, thấy có chúng sinh nào căn lành đã thành thục, thì liền chấp lấy họ, để họ lên bờ bồ đề.
Hựu như thương khách, nhập đại bảo châu, thải cầu Như Lai thập lực trí bảo
Lại như thương gia vào đại bửu đảo lượm lấy Như Lai thập lực trí bửu.
Giảng: Các Ngài lại giống như khách buôn, đi vào đại châu báu, tìm cầu mười lực trí huệ báu của Như Lai.
Hựu như ngư sư, trì chánh pháp võng, nhập sanh tử hải, ư ái thủy trung lộc chư chúng sanh
Lại như nhà chài lưới cầm lưới chánh pháp vào biển sanh tử ở trong nước ái lược bắt chúng sanh.
Giảng: Lại giống như người đánh cá, cầm lưới chánh pháp, vào biển sinh tử, ở trong nước ái, lượt bắt hết tất cả chúng sinh.
Như A-tu-la Vương, năng biến nạo động tam hữu đại thành chư phiền não hải
Như A Tu La Vương có thể khắp khuấy động khắp tam hữu đại thành những biển phiền não.
Giảng: Lại giống như A Tu La Vương có sức đại oai thần, có thể khuấy động các biển phiền não thành lớn ba cõi.
Hựu như nhật luân, xuất hiện hư không, chiếu ái thủy nê, lệnh kỳ càn kiệt
Lại như mặt nhựt xuất hiện hư không chiếu nước ái dơ làm cho khô cạn.
Giảng: Lại giống như mặt trời, xuất hiện trong hư không, chiếu nước ái bùn dơ, khiến cho khô cạn.
Hựu như mãn nguyệt, xuất hiện hư không, lệnh khả hóa giả tâm hoa khai phu
Lại như mặt trăng tròn xuất hiện hư không làm cho người đáng hóa độ, tâm hoa được khai nở.
Giảng: Lại giống như trăng rằm, xuất hiện trong hư không, khiến cho kẻ đáng được giáo hoá, tâm hoa nở ra.
Hựu như Đại địa, phổ giai bình đẳng, vô lượng chúng sanh ư trung chỉ trụ, tăng trưởng nhất thiết thiện pháp căn nha
Lại như đại địa đều bình đẳng với tất cả, tất cả chúng sanh nương ở nơi đó được tăng trưởng gốc mầm tất cả pháp lành.
Giảng: Lại giống như đại địa, khắp đều bình đẳng, làm chỗ ở của vô lượng chúng sinh, tăng trưởng tất cả gốc rễ pháp lành.
Hựu như Đại phong, sở hướng vô ngại, năng bạt nhất thiết chư kiến Đại thọ
Lại như đại phong thổi vô ngại, có thể nhổ trốc tất cả cây lớn kiến chấp.
Giảng: Lại giống như gió lớn, chỗ thổi đến đều vô ngại, có thể nhổ trừ cây lớn tất cả các kiến chấp.
Như Chuyển luân Vương, du hành thế gian, dĩ tứ nhiếp sự nhiếp chư chúng sanh.
Như Chuyển Luân Vương du hành thế gian, dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp các chúng sanh.
Giảng: Lại giống như Chuyển Luân Thánh Vương, du hành thế gian, ngồi xe trang nghiêm, trong vòng một tiếng đồng hồ, có thể du hành khắp bốn đại châu, Ngài dùng bốn pháp nhiếp (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự), để nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
Nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh ấy.
Giảng: Mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất đại thành, danh: Vô Lượng Đô Tát La; kỳ trung hữu nhất xuất gia ngoại đạo, danh viết: Biến Hành.
Này thiện nam tử ! Phương Nam đây có một đại thành tên là Vô Lượng Ðô Tát La. Trong thành đó có một xuất gia ngoại đạo tên là Biến Hành.
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một thành lớn tên là Vô Lượng Đô Tát La. Trong thành đó, có một vị xuất gia ngoại đạo, tên là Biến Hành.
Nhữ vãng bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”? Ngài sẽ vì ngươi mà diễn nói.
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ nơi chân Bất Ðộng Ưu bà di, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ ưu bà di Bất Động, rồi đi nhiễu quanh vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam tìm cầu vị thiện tri thức khác.
=====================================
KINH HOA NGHIÊM ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG PHẬT
QUYỂN SÁU MƯƠI BẢY
— o0o —
20. NGOẠI ĐẠO BIẾN HÀNH
PHÓ THÁC THỨ 20 – HẠNH CHÂN THẬT
Nhĩ thời, Thiện tài đồng tử ư bất động ưu-bà-di sở đắc văn Pháp dĩ, chuyên tâm ức niệm sở hữu giáo hối, giai tất tín thọ, tư tánh quan sát. Tiệm tiệm du hành, kinh lịch quốc ấp, chí đô tát la thành, ư nhật một thời nhập bỉ thành trung, chân điếm, lân lý, tứ cù đạo trắc, xứ xứ tầm mịch biến hành ngoại đạo.
Thiện Tài Ðồng tử được nghe pháp nơi Bất Ðộng Ưu bà di rồi, chuyên tâm nghĩ nhớ lời dạy thảy đều tin thọ tư duy quán sát, đi lần đến thành Ðô Tát La. Lúc vào thành mặt trời đã lặn, Thiện Tài đi khắp phố phường, khắp các ngã đường tìm biến hành.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đã nghe được diệu pháp ở chỗ ưu bà di Bất Động rồi, chuyên tâm nghĩ nhớ tất cả những lời dạy đó. Ngài đều tin thọ, suy gẫm, quán sát, sự giáo hoá của thiện tri thức, từ từ đi du hành về hướng nam, xuyên qua quốc gia, thôn xóm, đến thành Đô Tát La. Đô Tát La, dịch là “hỉ sinh ra”, biểu thị trong thành nầy sinh ra vô lượng việc hoan hỉ. Vì trí độ viên mãn, thì chẳng có gì mà chẳng sinh ra. Lúc mặt trời lặn, Thiện Tài đồng tử đi vào trong thành Đô Tát La, bèn đến các quán xá, ngã tư đường, đi khắp nơi tìm kiếm ngoại đạo Biến Hành.
Biến Hành biểu thị xảo trí tuỳ cơ, chẳng gì mà chẳng hành. Ngài thị hiện ngoại đạo, là biểu thị hay làm nơi chẳng phải đạo. Chẳng phải đạo chẳng nhiễm, nên gọi xuất gia, đây là hạnh thứ mười – Hạnh chân thật, vì trí độ đã tròn, xưng là hai đế. Hơn nữa vì lời nói việc làm của Ngài chẳng hư, nên gọi là chân thật.
Thành Đông hữu sơn, danh viết: thiện đắc. Thiện tài đồng tử ư trung dạ thời, kiến thử sơn đảnh thảo thọ đồi gộp, quang minh chiếu diệu như nhật sơ xuất
Thành đông có núi tên là Thiện Ðức. Giửa đêm Thiện Tài thấy đỉnh núi ấy, có cây đồi gộp đều sáng chói như mặt trời mới mọc.
Giảng: Phía đông thành Đô Tát La đó, có núi tên là Thiện Đức. Vào lúc nửa đêm, Thiện Tài đồng tử nhìn thấy cỏ cây đồi núi cao chót vót trên đỉnh núi đó, đều quang minh chiếu sáng, như mặt trời vừa mới mọc.
Kiến thử sự dĩ, sanh đại hoan hỉ, tác thị niệm ngôn: ngã tất ư thử kiến thiện tri thức.
Thiện Tài mừng rỡ nghĩ rằng: Tôi chắc được gặp thiện tri thức nơi núi ấy.
Giảng: Thiện Tài đồng tử nhìn thấy việc đó rồi, tâm sinh đại hoan hỉ, bèn nghĩ như vầy: “Tôi nhất định sẽ gặp được vị thiện tri thức trên đỉnh núi”!
Tiện tùng thành xuất nhi đăng bỉ sơn, kiến thử ngoại đạo ư kỳ sơn thượng bình thản chi xứ từ bộ kinh hành, sắc tướng viên mãn, uy quang chiếu diệu, Đại phạm Thiên Vương sở bất năng cập, thập thiên phạm chúng chi sở vi nhiễu.
Thiện Tài liền ra khỏi thành lên núi ấy, thấy Biến Hành ngoại đạo, đi kinh hành chậm rải nơi khoảng đất bằng trên núi. Dung sắc viên mãn, oai quang chiếu sáng hơn cả Ðại Phạm Thiên Vương. Có mười ngàn trời Phạm Chúng vây quanh.
Giảng: Do đó bèn ra khỏi thành mà lên đỉnh núi đó. Lúc đó, Ngài nhìn thấy vị ngoại đạo Biến Hành ở chỗ bằng phẳng trên núi, đang đi kinh hành. Sắc tướng của Ngài đoan chánh viên mãn, oai quang chiếu sáng, Đại Phạm Thiên Vương cũng không thể bằng được. Có mười ngàn Phạm chúng vây quanh tứ phía.
Vãng nghệ kỳ sở, đầu đính lễ túc, nhiễu vô lượng tạp, ư tiền hợp chưởng nhi tác thị ngôn: Thánh Giả! ngã dĩ tiên phát A nậu đa la tam miệu tam Bồ-đề tâm, nhi ngã vị tri Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh? vân hà tu Bồ Tát đạo?
Thiện Tài đến đảnh lễ nơi chân Biến Hành, hữu nhiễu vô lượng vòng chắp tay cung kính thưa: Bạch đức Thánh ! Con đã phát tâm Vô thượng Bồ đề, mà chưa biết Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, thế nào tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện Tài đồng tử bèn đi đến trước mặt vị ngoại đạo Biến Hành, đảnh lễ vị ngoại đạo Biến Hành, rồi đi nhiễu vô lượng vòng. Sau đó đứng ở trước mặt Ngài, cung kính chắp tay bạch rằng: “Đức Thánh! Con trước đã phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà con chưa biết Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo?
Ngã văn Thánh Giả thiện năng giáo hối, nguyện vi ngã thuyết!
Con nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin vì con mà giảng nói:
Giảng: Con nghe ưu bà di Bất Động giới thiệu Ngài cho con, nói đức Thánh Ngài khéo giáo hoá chúng sinh, xin hãy vì con mà nói”.
Biến hành đáp ngôn: Thiện tai thiện tai! Thiện nam tử! ngã dĩ an trụ chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh, dĩ thành tựu phổ quán thế gian tam muội môn, dĩ thành tựu vô y vô tác thần thông lực, dĩ thành tựu Phổ môn Bát-nhã Ba-la-mật.
Biến Hành nói: Lành thay ! Lành thay ! Này thiện nam tử ! Ta đã an trụ chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh, đã thành tựu phổ quán thế gian tam muội môn, đã thành tựu vô y vô tác thần thông lực, đã thành tựu phổ môn Bát Nhã Ba la mật.
Giảng: Ngoại đạo Biến Hành nói: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Ta đã an trụ đến tất cả nơi Bồ Tát hạnh. Ta đã thành tựu môn tam muội quán khắp thế gian. Ta đã thành tựu sức thần thông không nương, không làm, sức thần thông dụng mà không trụ. Ta đã thành tựu môn Bát Nhã Ba La Mật phổ môn”.
Thiện nam tử! ngã phổ ư thế gian chủng chủng phương sở, chủng chủng hình mạo, chủng chủng hạnh giải, chủng chủng một sanh nhất thiết chư thú. Sở vị: thiên thú, long thú, dạ xoa thú, Càn thát bà, A-tu-la, Ca Lâu La, khẩn na la, Ma hầu la già, địa ngục, súc sanh, Diêm la Vương giới, nhân, phi nhân đẳng
Này thiện nam tử ! Ta ở khắp nơi trong thế gian, những hình mạo, những hạnh giải những chết sống, tất cả các loài: Loài Trời, loài Rồng, loài Dạ Xoa, loài Càn Thát Bà, loài A Tu La, loài Ca Lâu La, loài Khẩn Na La, loài Ma Hầu La Già, Ðịa ngục, Súc sanh, Diêm La Vương, loài Phi Nhơn, loài Người.
Giảng: Thiện nam tử! Vì ta đã thành tựu thần lực tự tại vô ngại, cho nên ta ở khắp đủ thứ phương sở khác nhau trong thế gian, tuỳ thuận tất cả căn tánh của chúng sinh cần, mà thị hiện đủ thứ hình tướng khác nhau, đủ thứ hạnh và kiến giải khác nhau, để giáo hoá họ. Cho nên trong tất cả các cõi, thọ đủ thứ sinh tử, đủ thứ các loài. Tức là: Loài trời, loài rồng, loài Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Thiên Long bát bộ. Lại ở địa ngục, súc sinh, loài Diêm La Vương, loài người, chẳng phải loài người, thọ sinh trong tất cả các loài.
Đoạn nầy giải thích đến tất cả công dụng của Bồ Tát.
Nhất thiết chư thú, hoặc trụ chư kiến, hoặc tín nhị thừa, hoặc phục tín lạc Đại-Thừa chi đạo. Như thị nhất thiết chư chúng sanh trung, ngã dĩ chủng chủng phương tiện, chủng chủng trí môn nhi vi lợi ích.
Tất cả các loài hoặc trụ kiến chấp, hoặc tin Nhị thừa, hoặc có kẻ tin ưa đạo Ðại thừa. Trong tất cả chúng sanh như vậy, ta dùng những phương tiện, những trí môn mà làm lợi ích cho họ.
Giảng: Hoặc ta thị hiện trụ nơi ngoại đạo tà kiến, hoặc thị hiện tin Thanh Văn Duyên Giác hàng nhị thừa, hoặc lại tin ưa đạo đại thừa. Ta ở trong tất cả các chúng sinh như vậy, dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, đủ thứ môn trí huệ, mà làm lợi ích chúng sinh.
Sở vị: hoặc vi diễn thuyết nhất thiết thế gian chủng chủng kỹ nghệ, lệnh đắc cụ túc nhất thiết xảo thuật Đà-la-ni trí
Đó là: Như là hoặc vì họ mà diễn nói tất cả kỹ nghệ thế gian cho họ được đầy đủ trí đà la ni tất cả xảo thuật.
Giảng: Đó là: Hoặc ta vì họ diễn nói đủ thứ kỹ năng và nghệ thuật tất cả thế gian, khiến cho họ được đầy đủ tất cả xảo thuật Đà la ni trí huệ.
Hoặc vi diễn thuyết tứ nhiếp phương tiện, lệnh đắc cụ túc nhất thiết trí đạo
Hoặc vì họ mà diễn nói tứ nhiếp phương tiện cho họ đầy đủ đạo Nhứt thiết trí.
Giảng: Hoặc ta vì họ diễn nói phương tiện bốn pháp nhiếp, khiến cho họ được đầy đủ đạo nhất thiết trí.
Hoặc vi diễn thuyết chư Ba-la-mật, lệnh kỳ hồi hướng nhất thiết trí vị
Hoặc vì họ mà diễn nói các môn Ba la mật, cho họ hồi hướng về Nhứt thiết trí.
Giảng: Hoặc ta vì họ diễn nói tất cả các pháp Ba La Mật, khiến cho họ hồi hướng đến quả vị nhất thiết trí.
Hoặc vi xưng tán đại Bồ-đề tâm, lệnh kỳ bất thất vô thượng đạo ý
Hoặc vì họ mà tán dương tâm đại Bồ đề, cho họ chẳng mất tâm Vô thượng đạo.
Giảng: Hoặc ta vì họ khen ngợi tâm đại bồ đề, khiến cho họ chẳng mất tâm đạo bồ đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hoặc vi xưng tán chư Bồ-tát hạnh, lệnh kỳ mãn túc tịnh Phật quốc độ độ chúng sanh nguyện
Hoặc vì họ mà tán dương những hạnh Bồ Tát, cho họ được hoàn mãn nguyện tịnh Phật độ, cứu chúng sanh.
Giảng: Hoặc ta vì họ khen ngợi các Bồ Tát hạnh, khiến cho họ đầy đủ cõi nước Phật thanh tịnh, đại nguyện cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi biển khổ.
Hoặc vi diễn thuyết tạo chư ác hạnh thọ địa ngục đẳng chủng chủng khổ báo, lệnh ư ác nghiệp thâm sanh yếm ly
Hoặc vì họ mà diễn nói hể tạo nghiệp ác thời bị những khổ báo địa ngục vv… cho họ nhàm lìa những ác nghiệp.
Giảng: Hoặc ta vì họ diễn nói tạo các hạnh ác, thì tương lai sẽ thọ đủ thứ khổ báo trong địa ngục .v.v… khiến cho họ sinh tâm nhàm lìa tất cả nghiệp ác. Do đó có câu:
“Đừng làm các điều ác,
Hãy làm các việc lành”.
Hoặc vi diễn thuyết cúng dường chư Phật chủng chư thiện căn quyết định hoạch đắc nhất thiết trí quả, lệnh kỳ phát khởi hoan hỉ chi tâm
Hoặc vì họ mà diễn nói cúng dường chư Phật trồng các căn lành, quyết định được quả Nhứt thiêt trí, cho họ phát sanh tâm hoan hỷ.
Giảng: Hoặc ta vì họ diễn nói cúng dường chư Phật, trồng các căn lành, thì tương lai chắc chắn sẽ đắc được quả nhất thiết trí, khiến cho họ phát khởi tâm hoan hỉ.
Hoặc vi tán thuyết nhất thiết Như Lai, ưng, chánh đẳng giác sở hữu công đức, lệnh lạc Phật thân cầu nhất thiết trí
Hoặc vì họ mà diễn nói những công đức của Như Lai Ðẳng Chánh Giác, cho họ thích thân Phật, cầu Nhứt thiết trí.
Giảng: Hoặc ta vì họ khen ngợi diễn nói hết thảy công đức của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, khiến cho họ vui thích thân trang nghiêm quang minh của Phật, mà cầu nhất thiết trí, tương lai cũng sẽ thành Phật.
Hoặc vi tán thuyết chư Phật uy đức, lệnh kỳ nguyện lạc Phật bất hoại thân
Hoặc vì họ mà diễn nói oai đức của chư Phật cho họ ưa thích thân bất hoại của Phật.
Giảng: Hoặc ta vì họ khen ngợi diễn nói oai đức của chư Phật, khiến cho họ sinh tâm vui mừng, mà muốn đắc được thân Phật bất hoại.
Hoặc vi tán thuyết Phật tự tại thân, lệnh cầu Như Lai vô năng ánh tế đại uy đức thể.
Hoặc vì họ mà diễn nói thân tự tại của Phật, cho họ cầu thân đại oai đức của Như Lai.
Giảng: Hoặc vì họ khen ngợi diễn nói thân Phật tự tại, khiến cho họ cầu thân đại oai đức của Như Lai không gì che lấp được.
Hựu, Thiện nam tử! thử đô tát la thành trung, nhất thiết phương sở nhất thiết tộc loại, nhược nam nhược nữ chư nhân chúng trung, ngã giai dĩ phương tiện thị đồng kỳ hình, tùy kỳ sở ưng nhi vi thuyết Pháp. Chư chúng sanh đẳng, tất bất năng trai ngã thị hà nhân, tùng hà nhi chí, duy lệnh văn giả như thật tu hành.
Lại này thiện nam tử ! Trong thành Ðô Tát La này khắp mọi nơi, tất cả tộc loại, trong nhơn chúng hoặc nam hoặc nữ, ta đều dùng phương tiện thị hiện đồng thân hình như họ, để tùy cơ nghi mà thuyết pháp độ họ. Chúng nhơn ấy đều chẳng biết ta là ai, từ đâu đến, chỉ làm cho người nghe như thiệt tu hành.
Giảng: Lại nữa, thiện nam tử! Trong thành Đô Tát La nầy, tất cả phương sở, tất cả gia tộc giống loài, hoặc nam, hoặc nữ tất cả mọi người chủng tộc khác nhau, quốc tịch khác nhau, ta đều dùng pháp phương tiện, để thị hiện giống thân hình của họ. Ta tuỳ theo phản ứng của họ mà vì họ thuyết pháp khác nhau. Nhưng tất cả chúng sinh hoàn toàn không biết ta là ai? Từ đâu đến nơi nầy? Họ đều chẳng biết lai lịch của tôi. Sở dĩ ta thị hiện giống thân hình của họ, chỉ có một mục đích, đó là khiến cho người nghe được pháp của tôi, chân thật tu hành, cước đạp thật địa.
Thiện nam tử! như ư thử thành lợi ích chúng sanh, ư Diêm-phù-đề thành ấp tụ lạc, sở hữu nhân chúng trụ chỉ chi xứ, tất diệc như thị nhi vi lợi ích.
Này thiện nam tử ! Như sự làm lợc ích chúng sanh trong thành này, khắp cõi Diêm Phù Ðề, những thành ấp tụ lạc chỗ có người ở, ta cũng đều làm lợi ích cho mọi người như vậy.
Giảng: Thiện nam tử! Chẳng riêng gì ta lợi ích chúng sinh ở trong thành nầy, mà nơi thành ấp thôn xóm trong cõi Diêm Phù Đề, phàm là chỗ ở của hết thảy mọi người, ta cũng đều lợi ích tất cả chúng sinh như vậy.
Đoạn nầy nói rõ sức thần thông không nương, không làm, của thiện tri thức, cho nên nói “Không biết từ đâu đến”.
Thiện nam tử! Diêm-phù-đề nội cửu thập lục chúng, các khởi dị kiến nhi sanh chấp trước, ngã tất ư trung phương tiện điều phục, lệnh kỳ xả ly sở hữu chư kiến
Này thiện nam tử ! Trong Diêm Phù Ðề có chín mươi sáu chúng đều sanh kiến chấp khác nhau. Ở trong những chúng đó, ta phương tiện đều phục cho họ bỏ lìa những kiến chấp.
Giảng: Thiện nam tử! Chín mươi sáu chúng ngoại đạo trong cõi Diêm Phù Đề (đây là chỉ chín mươi sáu chúng ngoại đạo của Ấn Độ). Họ đều khởi dị đoan tà kiến mà sinh ra chấp trước. Ta đều hoá thân ở trong họ, dùng pháp phương tiện điều phục, khiến cho họ xả lìa tất cả tà tri tà kiến.
Như Diêm-phù-đề, dư tứ thiên hạ diệc phục như thị; như tứ thiên hạ, tam thiên đại thiên thế giới diệc phục như thị; như tam thiên đại thiên thế giới, như thị thập phương vô lượng thế giới chư chúng sanh hải, ngã tất ư trung, tùy chư chúng sanh tâm chi sở lạc, dĩ chủng chủng phương tiện, chủng chủng Pháp môn, hiện chủng chủng sắc thân, dĩ chủng chủng ngôn âm nhi vi thuyết Pháp, lệnh đắc lợi ích.
Như ở Diêm Phù Ðề, ba thiên hạ kia cũng vây. Như tứ thiên hạ, khắp Ðại Thiên thế giới cũng vậy. Ðến mười phương vô lượng thế giới các chúng sanh hải, ta đều ở trong đó tùy tâm sở thích của các chúng sanh, dùng những phương tiện, những pháp môn mà hiện những sắc thân dùng các thứ ngôn âm mà vì họ thuyết pháp cho họ được lợi ích.
Giảng: Như cõi nam Diêm Phù Đề nầy, bốn thiên hạ kia cũng lại như thế. Như bốn thiên hạ, ba ngàn đại thiên thế giới cũng lại như thế. Như ba ngàn đại thiên thế giới, như vậy mười phương vô lượng thế giới tất cả biển chúng sinh, ta cũng đều tuỳ tâm ưa thích của tất cả chúng sinh, mà dùng đủ thứ phương tiện, đủ thứ pháp môn, thị hiện đủ thứ sắc thân, dùng đủ thứ lời nói mà vì họ thuyết pháp, khiến cho họ được lợi ích.
Đoạn nầy nói rõ công dụng của phổ môn Bát Nhã Ba La Mật, cho nên chín mươi sáu thứ ngoại đạo, đều có thể cùng tận.
Thiện nam tử! ngã duy tri thử chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh.
Này thiện nam tử ! Ta chỉ biết ” Chí nhất thiết xứ Bồ Tát hạnh ” này.
Giảng: Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn đến tất cả nơi Bồ Tát hạnh nầy
Như chư Bồ-Tát Ma-ha-tát, thân dữ nhất thiết chúng sanh số đẳng, đắc dữ chúng sanh vô sái biệt thân, dĩ iến hóa thân phổ nhập chư thú, ư nhất thiết xứ giai hiện thọ sanh, phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh chi tiền, thanh tịnh quang minh biến chiếu thế gian, dĩ vô ngại nguyện trụ nhất thiết kiếp, đắc như đế võng chư vô đẳng hạnh, hường cần lợi ích nhất thiết chúng sanh, hằng dữ cọng cư nhi vô sở trước, phổ ư tam thế tất giai bình đẳng, dĩ vô ngã Trí Chu biến chiếu diệu, dĩ đại bi tạng nhất thiết quan sát; nhi ngã vân hà năng tri năng thuyết bỉ công đức hạnh?
Như chư đại Bồ Tát, thân cùng đồng với số chúng sanh, được cùng chúng sanh không thân sai khác, dùng thân biến hóa, vào khắp các loài, nơi tất cả xứ đều hiện thọ sanh, hiện ở khắp chỗ chúng sanh thanh tịnh quang minh soi sáng thế gian, dùng vô ngại nguyện trụ tất cả kiếp, được những hạnh vô đẳng như đế võng, thường siêng lợi ích tất cả chúng sanh, hằng ở chung với họ mà không chấp trước, khắp tam thế thảy đều bình đẳng, dùng trí vô ngã soi khắp mọi nơi, dùng đại bi tạng quán sát tất cả. Ta thế nào biết được nói được công đức hạnh đó.
Giảng: Như các đại Bồ Tát, thân của các Ngài đồng số với tất cả chúng sinh. Các Ngài đắc được thân không khác biệt với chúng sinh. Hay dùng biến hoá thân, vào khắp tất cả các cõi, tất cả mọi nơi đều hiện thọ sinh. Các Ngài khắp thị hiện ra trước tất cả chúng sinh, quang minh thanh tịnh chiếu khắp thế gian. Dùng đại nguyện vô ngại, trụ tất cả kiếp. Các Ngài đắc được các hạnh vô đẳng như lưới trời Đế Thích, thường siêng năng lợi ích tất cả chúng sinh, luôn ở chung với chúng sinh mà chẳng chấp trước. Các Ngài khắp nơi ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, thảy đều bình đẳng. Các Ngài dùng trí huệ vô ngã, chiếu sáng khắp cùng thế gian. Dùng đại bi tạng, để quán sát tất cả chúng sinh. Mà ta làm sao biết được, nói được những hạnh công đức đó?
Thiện nam tử! ư thử Nam phương, hữu nhất quốc độ, danh vi: quảng đại; hữu chúc hương Trưởng-giả, danh: ưu-bát-la hoa. Nhữ nghệ bỉ vấn: Bồ Tát vân hà học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo?
Này thiện nam tử ! Phương nam đây có một nước tên là Quảng Ðại, nơi đó có Trưởng giả buôn hương tân là Ưu Bát La Hoa. Ngươi đến đó hỏi Bồ Tát thế nào học Bồ Tát hạnh, tu Bồ Tát đạo ?
Giảng: Thiện nam tử! Ở hướng nam nầy, có một nước tên là Quảng Đại, có trưởng giả buôn hương, tên là Ưu Bát La Hoa. Ngươi hãy đi đến đó hỏi: “Bồ Tát làm thế nào học Bồ Tát hạnh? Làm thế nào tu Bồ Tát đạo”?
Thời, Thiện tài đồng tử đảnh lễ kỳ túc, nhiễu vô lượng tạp, ân cần chiêm ngưỡng, từ thoái nhi khứ.
Thiện Tài đồng nử đảnh lễ nơn chân Biến Hành, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Giảng: Lúc đó, Thiện Tài đồng tử đảnh lễ vị ngoại đạo Biến Hành, đi nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rồi từ tạ mà đi về hướng nam, tìm cầu một vị thiện tri thức khác.