Kinh Lăng Nghiêm – Giảng Giải – 7.10

KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHƠN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM

QUYỂN 7 – PHẦN 9

— o0o —

TUYÊN HÓA THUỢNG NHÂN
giảng thuật

— o0o —

HAI NHÂN ĐIÊN ĐẢO
* * *

A-nan tức tùng toạ khởi. Đảnh lễ Phật túc, nhi bạch Phật ngôn: Ngã bối ngu độn, háo vi đa văn. Ư chư lậu tâm, vị cầu xuất ly. Mông Phật từ hối, đắc chánh huân tu. Thân tâm khoái nhiên, hoạch đại nhiêu ích.

A Nan liền đứng dậy đảnh lễ bạch Phật: Chúng con ngu độn, ham được đa văn, chưa cầu thoát ly nơi tâm phiền não, nhờ Phật từ bi dạy bảo, tu theo chánh pháp, được lợi ích lớn, thân tâm an lạc.

 

Thế Tôn! Như thị tu chứng, Phật tam ma đề, vị đáo Niết-Bàn. Vân hà danh vi, kiền tuệ chi địa. Tứ thập tứ tâm. Chí hà tiệm thứ, đắc tu hành mục. Nghệ hà phương sở, danh nhập địa trung. Vân hà danh vi, đẳng giác Bồ Tát.

 

Thế Tôn! Nếu tu chứng pháp Tam Ma Địa, chưa đến Niết Bàn, thì thế nào gọi là chỗ Càn Huệ? Nơi 44 tâm, được tu đến cấp bậc nào và đến chỗ nào mới gọi là nhập Sơ Địa? Thế nào gọi là Đẳng Giác Bồ Tát?

 

Tác thị ngữ dĩ, ngũ thể đầu địa. Đại chúng nhất tâm, trữ Phật từ âm, trừng trừ chiêm ngưỡng.

Nói xong, năm vóc gieo sát đất, đại chúng đều nhất tâm chăm chú, mong đợi từ âm của Phật.

 

Nhĩ thời Thế Tôn tán thán A-nan: Thiện tai thiện tai. Nhữ đẳng nãi năng, phổ vị đại chúng. Cập chư mạt thế, nhất thiết chúng sanh. Tu tam ma đề, cầu Đại-Thừa giả. Tùng ư phàm phu, chung đại Niết Bàn. Huyền thị vô thượng, chánh tu hành lộ. Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.

Bấy giờ, Thế Tôn khen A Nan rằng: Lành thay! Lành thay! Các ngươi lại biết vì cả chúng trong hội này và tất cả chúng sanh tu Tam Ma Địa, cầu pháp Đại Thừa trong đời mạt pháp, xin ta chỉ rõ lối tu vô thượng chơn chánh, từ phàm phu đến Đại Niết Bàn. Nay các ngươi hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà nói.

 

A-nan đại chúng, hợp chưởng khô tâm, mặc nhiên thọ giáo.

A Nan và đại chúng chắp tay lắng lòng, yên lặng thọ giáo.

 

Phật ngôn: A-nan đương tri. Diệu tánh Viên Minh, ly chư danh tướng. Bản lai vô hữu, thế giới chúng sanh. Nhân vọng hữu sanh, nhân sanh hữu diệt. Sanh diệt danh vọng, diệt vọng danh chân. Thị xưng Như Lai, vô thượng Bồ-đề. Cập đại Niết Bàn, nhị chuyển y hiệu.

 

Phật bảo: A Nan nên biết! Diệu tánh sáng tỏ, lìa những danh tướng, vốn chẳng có thế giới chúng sanh. Do vọng có sanh, do sanh có diệt, sanh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chơn, ấy tức là Vô Thượng Bồ Đề và Đại Niết Bàn, cũng là hai hiệu chuyển y của Như Lai.

 

A-nan! Nhữ kim dục tu, chân tam-ma-địa. Trực nghệ Như Lai, đại Niết Bàn giả. Tiên đương thức thử, chúng sanh thế giới, nhị điên đảo nhân. Điên đảo bất sanh, tư tắc Như Lai, chân tam-ma-địa.

A Nan! Nay ngươi muốn tu chơn Tam Ma Địa, thẳng đến Đại Niết Bàn, trước hết phải biết hai nhân điên đảo của thế giới và chúng sanh; nếu điên đảo chẳng sanh tức là chơn Tam Ma Địa của Như Lai.

 

CHÚNG SANH ĐIÊN ĐẢO
* * *

A-nan! Vân hà danh vi, chúng sanh điên đảo?

A Nan! Sao gọi là Chúng Sanh Điên Đảo?

 

A-nan! do tánh minh tâm, tánh minh viên cố. Nhân minh phát tánh, tánh vọng kiến sanh. Tùng tất cánh vô, thành cứu cánh hữu. Thử hữu sở hữu, phi nhân sở nhân. Trụ sở trụ tướng, liễu vô căn bổn. Bổn thử vô trụ. Kiến lập thế giới, cập chư chúng sanh.

Do tánh sáng tỏ nơi Tâm, vì chấp tánh sáng tỏ, nên từ sáng tỏ ấy phát ra vọng tánh; tánh vọng thì kiến chấp sanh khởi, từ bổn lai vô, thành cứu cánh hữu. Cái năng hữu sở hữu này, chẳng có tướng năng nhân sở nhân và năng trụ sở trụ, trọn chẳng nguồn gốc. Từ chỗ vô trụ này, kiến lập thế giới và chúng sanh.

 

Mê bổn Viên Minh, thị sanh hư vọng. Vọng tánh vô thể, phi hữu sở y. Tướng dục phục chân, dục chân dĩ phi, chân chân như tánh. Phi chân cầu phục, uyển thành phi tướng. Phi sanh phi trụ, phi tâm phi pháp. Triển chuyển phát sanh, sanh lực phát minh. Huân dĩ thành nghiệp, đồng nghiệp tướng cảm. Nhân hữu cảm nghiệp, tướng diệt tướng sanh. Do thị cố hữu, chúng sanh điên đảo.

Vì mê cái bổn tâm sáng tỏ, nên sanh ra hư vọng, tánh vọng chẳng tự thể, chẳng có chỗ nương tựa; toan muốn trở về chơn, thì cái “muốn chơn” ấy, đã chẳng phải là chơn tánh của Chơn Như. Chẳng chơn mà cầu trở về chơn, rõ ràng thành phi tướng, phi sanh phi trụ, phi tâm phi pháp, xoay vần phát sanh, sanh mãi không thôi, huân tập thành nghiệp, đồng nghiệp cảm nhau, do sự cảm nghiệp, nên có tương diệt tương sanh, do đó thành chúng sanh điên đảo.

 

THẾ GIỚI ĐIÊN ĐẢO
* * *

A-nan! Vân hà danh vi, thế giới điên đảo?

A Nan! Sao gọi là Thế Giới Điên Đảo?

 

Thị hữu sở hữu, phần đoạn vọng sanh, nhân thử giới lập. Phi nhân sở nhân, vô trụ sở trụ. Thiên lưu bất trụ, nhân thử thế thành. Tam thế tứ phương. Hòa hợp tướng thiệp, biến hóa chúng sanh, thành thập nhị loại.

Do năng hữu sở hữu phân đoạn vọng sanh, từ đó an lập Giới, từ chỗ chấp năng nhân sở nhân, năng trụ sở trụ, dời đổi chẳng ngừng, nên vọng lập Thế. Tam thế tứ phương hòa hợp lẫn nhau, chúng sanh biến hóa thành 12 loài.

 

Thị cố thế giới, nhân động hữu thanh, nhân thanh hữu sắc. Nhân sắc hữu hương, nhân hương hữu xúc. Nhân xúc hữu vị, nhân vị tri Pháp. Lục loạn vọng tưởng, thành nghiệp tánh cố. Thập nhị khu phần, do thử luân chuyển. Thị cố thế gian, thanh hương vị xúc. Cùng thập nhị biến, vi nhất triền phục. Thừa thử luân chuyển, điên đảo tướng cố. Thị hữu thế giới, noãn sanh thai sanh, thấp sanh hóa sanh. Hữu sắc vô sắc, hữu tưởng vô tưởng. Nhược phi hữu sắc, nhược phi vô sắc. Nhược Phi hữu tưởng, nhược Phi vô tưởng.

Vì giác tri của chúng sanh, nên trong thế giới, do động có thanh, do thanh có sắc, do sắc có hương, do hương có xúc, do xúc có vị, do vị biết pháp, sáu thứ vọng tưởng nhiễu loạn thành nghiệp tánh, nương theo tướng điên đảo luân chuyển này mà có 12 loài: Noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, hoặc phi hữu sắc, hoặc phi vô sắc, hoặc phi hữu tưởng, hoặc phi vô tưởng, lưu chuyển chẳng ngừng.

 

12 LOÀI
* * *

A-nan! do nhân thế giới, hư vọng luân hồi, động điên đảo cố. Hòa hợp khí thành, bát vạn tứ thiên, phi trầm loạn tưởng. Như thị cố hữu, noãn yết la lam, lưu chuyển quốc độ. Ngư điểu quy xà, kỳ loại sung tắc.

1. A Nan! Bởi do thế giới có hư vọng luân hồi, điên đảo về động, hòa hợp thành khối, vọng tưởng thăng trầm, vì thế nên có loài noãn sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài cá, chim, rùa, rắn, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, tạp nhiễm Luân-hồi, dục điên đảo cố. Hòa hợp tư thành, bát vạn tứ thiên, hoành thọ loạn tưởng. Như thị cố hữu, thai át-bồ-đàm, lưu chuyển quốc độ. Nhân súc long tiên, kỳ loại sung tắc.

2. Bởi do thế giới có tạp nhiễm luân hồi, điên đảo về dục, hòa hợp thành sanh, vọng tưởng ngang dọc, vì thế nên có loài thai sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như người, súc, rồng, tiên, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, chấp trước Luân-hồi, thú điên đảo cố. Hòa hợp nhuyễn thành, bát vạn tứ thiên, phiên phước loạn tưởng. Như thị cố hữu, thấp tướng tế thi, lưu chuyển quốc độ. Hàm xuẩn nhuyễn động, kỳ loại sung tắc.

3. Bởi do thế giới có chấp trước luân hồi, hướng về điên đảo, hòa hợp thành noãn (hơi ấm), vọng tưởng lăng xăng, vì thế nên có loài thấp sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài côn trùng, sâu bọ, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, biến dịch Luân-hồi, giả điên đảo cố. Hòa hợp xúc thành, bát vạn tứ thiên, tân cố loạn tưởng. Như thị cố hữu, hóa tướng yết nam, lưu chuyển quốc độ. Chuyển xác phi hành, kỳ loại sung tắc.

4. Bởi do thế giới có biến dịch luân hồi, điên đảo về giả, hòa hợp thành xúc, vọng tưởng mới cũ, vì thế nên có loài hóa sanh lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thối xác phi hành, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, lưu ngại Luân-hồi, chướng điên đảo cố. Hòa hợp trước thành, bát vạn tứ thiên, tinh diệu loạn tưởng. Như thị cố hữu, sắc tướng yết nam, lưu chuyển quốc độ. Hưu cữu tinh minh, kỳ loại sung tắc.

5. Bởi do thế giới có ngăn ngại luân hồi, điên đảo về chướng, hòa hợp thành trước, vọng tưởng tinh sáng, vì thế nên có loài hữu sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như tất cả thần vật tinh sáng, đều hay dự đoán sự kiết hung, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, tiêu tán Luân-hồi, hoặc điên đảo cố. Hòa hợp ám thành, bát vạn tứ thiên, uẩn ẩn loạn tưởng. Như thị cố hữu, vô sắc yết nam, lưu chuyển quốc độ. Không tán tiêu trầm, kỳ loại sung tắc.

6. Bởi do thế giới có tiêu tán luân hồi, điên đảo về mê hoặc, hòa hợp thành ám, vọng tưởng u ẩn, vì thế nên có loài vô sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như cõi vô Sắc và Thần Hư Không, cho đến quỷ mị u ẩn, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

 

Do nhân thế giới, võng tượng Luân-hồi, ảnh điên đảo cố. Hòa hợp ức thành, bát vạn tứ thiên, tiềm kết loạn tưởng. Như thị cố hữu, tưởng tướng yết nam, lưu chuyển quốc độ. Thần quỷ tinh linh, kỳ loại sung tắc.

7. Bởi do thế giới có mường tượng luân hồi, điên đảo về ảnh, hòa hợp thành nhớ, vọng tưởng thầm kết, vì thế nên loài hữu tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thần quỷ tinh linh, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, ngu độn Luân-hồi, si điên đảo cố. Hòa hợp ngoan thành, bát vạn tứ thiên, khô cảo loạn tưởng. Như thị cố hữu, vô tưởng yết nam, lưu chuyển quốc độ. Tinh thần hóa vi, thổ mộc kim thạch, kỳ loại sung tắc.

8. Bởi do thế giới có ngu độn luân hồi, điên đảo về si, hòa hợp thành ngu, vọng tưởng khô khan, vì thế nên có loài vô tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, tinh thần hóa ra đất, gỗ, kim thạch, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, tướng đãi Luân-hồi, ngụy điên đảo cố. Hòa hợp nhiễm thành, bát vạn tứ thiên, nhân y loạn tưởng. Như thị cố hữu, phi hữu sắc tướng, thành sắc yết nam, lưu chuyển quốc độ. Chư thủy mẫu đẳng, dĩ hà vi mục, kỳ loại sung tắc.

9. Bởi do thế giới có đối đãi luân hồi, điên đảo về ngụy, hòa hợp thành nhiễm, vọng tưởng ỷ nhờ, vì thế nên có loài phi hữu sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như loài thủy mẫu, lấy tôm làm mắt, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, tướng dẫn Luân-hồi, tánh điên đảo cố. Hòa hợp chú thành, bát vạn tứ thiên, hô triệu loạn tưởng. Do thị cố hữu, phi vô sắc tướng, vô sắc yết nam, lưu chuyển quốc độ. Chú trớ yếm sanh, kỳ loại sung tắc.

10. Bởi do thế giới có dẫn dụ luân hồi, điên đảo về tánh, hòa hợp thành chú, vọng tưởng kêu gọi, vì thế nên có loài phi vô sắc lưu chuyển nơi quốc độ, như loài chú nguyền rủa, yêu mị, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, hợp vọng Luân-hồi, võng điên đảo cố. Hòa hợp dị thành, bát vạn tứ thiên, hồi hỗ loạn tưởng. Như thị cố hữu, Phi hữu tưởng tướng, thành tưởng yết nam, lưu chuyển quốc độ. Bỉ bồ lô đẳng, dị chất tướng thành, kỳ loại sung tắc.

11. Bởi do thế giới có hợp vọng luân hồi, điên đảo về mường tượng, hòa hợp thành dị, vọng tưởng xoay vòng, vì thế nên có loài phi hữu tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như loài tò vò, hay bắt con vật khác làm con mình, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới.

 

Do nhân thế giới, oán hại Luân-hồi, sát điên đảo cố. Hòa hợp quái thành, bát vạn tứ thiên, thực phụ mẫu tưởng. Như thị cố hữu, Phi vô tưởng tướng, vô tưởng yết nam, lưu chuyển quốc độ. Như độ kiêu đẳng, phụ khối vi nhi. Cập phá kính điểu, dĩ độc thụ quả, bão vi kỳ tử. Tử thành phụ mẫu, giai tao kỳ thực, kỳ loại sung tắc. Thị danh chúng sanh, thập nhị chủng loại.

12. Bởi do thế giới có oán hại luân hồi, điên đảo về sát (hại), hòa hợp thành quái, vọng tưởng ăn thịt cha mẹ, vì thế nên có loài phi vô tưởng lưu chuyển nơi quốc độ, như con thổ cưu và chim phá kính, ôm trái cây độc làm con, khi con lớn lên thì ăn luôn cả cha mẹ, đủ tám vạn bốn ngàn, đầy tràn thế giới. Ấy gọi là mười hai loại chúng sanh.