Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Ðàn
Phẩm Phó Chúc
Hòa Thượng Tuyên Hóa
giảng thuật
tại Vạn Phật Thánh Thành
— o0o —
Một ngày kia Ðại sư gọi các môn nhơn: Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Ðạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Ðạo, Pháp Trân, Pháp Như, mà nói rằng: “Chúng ngươi chẳng phải giống như những người khác. Sau khi ta diệt độ rồi, các ngươi mỗi người sẽ ra làm thầy một phương. Nay ta dạy các ông khi ra thuyết pháp, chẳng làm sai lạc bổn tông.
Giảng:
Phó là phân phó, Chúc là chúc phó, tức là những lời phó chúc của Lục Tổ Ðại sư cho môn đồ, phẩm này là phẩm thứ mười.
Một ngày nọ Lục Tổ Ðại sư kêu mười đại đệ tử,những đệ tử được Ngài truyền pháp, là Pháp Hải – vị Pháp sư ghi chép lại Lục Tổ Ðàn Kinh, là đại đệ tử của Lục Tổ Ðại sư, cho nên viết tên mình đầu tiên, Pháp sư này nhất định tranh đệ nhứt mới được. Chí Thành – Thần Tú Ðại sư từng phái Chí Thành làm gián điệp trộm pháp không ngờ Ngài không có trộm pháp mà lại bỏ tối theo sáng. Pháp Ðạt – là vị Pháp sư niệm Kinh Pháp Hoa ba ngàn biến, đảnh lễ đầu không sát đất. Thần Hội – là chú bé mười ba tuổi nghịch ngợm dám cùng với Lục Tổ Ðại sư đấu cơ phong. Trí Thường, Trí Thông. Chí Triệt – là Phi miêu họ Trương; lại có Pháp Trân, Pháp Như v.v… mười vị đại đệ tử đều đến trước Lục Tổ, Lục Tổ nói với họ rằng:
–Các ông, mười vị đây, không giống như những người khác, các ông nên làm pháp chủ, giáo hóa một phương. Sau khi ta viên tịch, các ông đều làm bậc Thầy mô phạm của trời người một phương, là bậc đáng cho trời người cúng dường. Ta nay dạy các ông dạy một phương pháp hoằng dương Phật pháp. Các ông nên thuyết pháp như thế nào? Lúc thuyết pháp không nên làm mất đi tông chỉ của pháp môn đốn giáo.
Trước hết phải cử ra ba khoa pháp môn, sau dùng ba mươi sáu pháp đối; được vậy, thì dẫu ra vào mà chẳng lìa Bồ đề đạo tràng, ra vào mà chẳng rơi vào nhị nguyên. Khi nói cả thảy các pháp chớ lìa Tự tánh của mình.
Thoạt có người hỏi chúng ngươi về Phật pháp, thì các lời nói ra phải cặp nhau, đều phải dùng pháp đối, qua lại đối nhau, rốt cùng cả hai pháp đều bỏ hết, lại không chấp chỗ bỏ ấy nữa.
Giảng:
Các ông giảng pháp nên căn cứ tam khoa, lấy tam khoa làm pháp môn căn bản, lại dùng ba mươi sáu đối đãi (hay cặp) để giảng kinh thuyết pháp. Các ông được như thế thì có thể ở tự tại ra vào trong Bồ đề đạo tràng. Lúc giảng kinh thuyết pháp, điều quan trọng nhất là không rời tự tánh mà thuyết pháp. Có người hỏi các ông Phật pháp, đạo lý mà các ông nói ra nhất định có một loại pháp đối đãi, song quan ngữ (lối chơi chữ) – tức nói như thế nào thì có lý như thế đó. Ðối với người cần phải dùng pháp đối đãi để ứng phó. Ðơn cử như vấn đề đến và đi; đến và đi thì đều giống nhau, theo nhau (tương đồng tương tuần) vì nếu không có đến sẽ không có đi, không có đi sẽ không có đến. Ðến tức là nhân của đi, đi là nhân của đến; đến, đi hai pháp đều trừ, lại cũng không còn chỗ đi được nữa.
Ba khoa pháp môn ấy là: Ấm, Giới và Nhập.
Ấm là năm ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Nhập là mười hai chỗ vào: Ngoài có sáu trần – sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; trong có sáu cửa (sáu căn) – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Giới là mười tám giới hạn: Sáu trần, sáu cửa và sáu thức.
Tánh mình (tự tánh) bao hàm muôn pháp, nên gọi là Hàm-tàng thức. Nếu tánh khởi nghĩ tưởng, tức là tánh chuyển ra thức. Thức này lại sanh ra sáu thức, sáu thức chun ra sáu cửa, rồi gặp sáu trần. Thế thì, mười tám giới đều do tánh mình khởi dụng.
Giảng:
Cái gì là tam khoa pháp môn? Chính là ấm, giới, nhập. Ấm là ngũ ấm, nhập là mười hai nhập, giới là mười tám giới. Ngũ ấm chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nhập là mười hai nhập, cái gì là mười hai nhập? Tức ngoài sáu trần – sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, trong sáu cửa – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, hợp lại chính là mười hai nhập. Giới là mười tám giới – tức sáu trần, sáu cửa, sáu thức. Trong sáu căn, sáu cửa sanh ra sáu thức – nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Trong tự tánh bao hàm tất cả pháp môn, cho nên đặt tên cho nó là Hàm tàng thức, còn gọi là thức thứ tám, thức này có thể chuyển thành Ðại Viên Cảnh Trí. Nhưng, nếu quý vị khởi một niệm tưởng hay suy nghĩ, tức là tư lượng, (If you give rise to a thought or to thinking and considering), thì Hàm tàng thức sẽ chuyển ra thức thứ bảy. Từ thức thứ bảy lại sanh ra sáu thức. Sáu thức khi ra khỏi sáu cửa sẽ gặp sáu trần. Trên đây là giảng về mười tám giới, chúng nó đều là dụng, tự trong tâm sanh ra.
Nếu tánh mình tà, thì khởi ra mười tám điều tà. Còn tánh mình chánh thì khởi ra mười tám điều chánh. Tánh mình ứng dụng theo điều dữ, tức là chỗ ứng dụng của chúng sanh. Còn tánh mình ứng dụng theo điều lành, tức là chỗ ứng dụng của Phật. Vậy chỗ khởi dụng do đâu mà có? Do nơi tánh mình vậy.
Những pháp đối là:
–Năm pháp đối của loài vô tình ở ngoại cảnh: Trời đối với đất, mặt nhật đối với mặt nguyệt, sáng đối với tối, âm đối với dương, nước đối với lửa. Ấy là năm pháp đối.
Giảng:
Tự tánh nếu tà, thì mười tám giới biến thành tà, tự tánh nếu chánh thì mười tám giới chánh. Nếu dụng không đúng thì đó là chúng sanh dụng. Nếu dụng thiện, viên mãn đó chính là Phật dụng. Dụng từ đâu đến? Ðều từ trong tự tánh sanh ra. Ðây là vì tự tánh có pháp đối đãi, mà ngoại cảnh vốn là vô tình.
Cái gì gọi là ngũ đối? Nếu người hỏi trời thì đem đất đối. Nhật và nguyệt là một đối, minh và ám là một đối, âm và dương là một đối, nước và lửa là một đối, đây là năm đối.
Diễn bày về pháp tướng thì có mười hai đối: Tiếng nói đối với pháp, có đối với không, có sắc chất đối không sắc chất, có tướng đối với không tướng, hữu lậu đối với vô lậu, sắc đối với không, động đối với tịnh, trong đối với đục, phàm đối với thánh, tăng đối với tục, già đối với trẻ, lớn đối với nhỏ. Ấy là mười hai pháp đối.
Giảng:
Lại có pháp tướng mười hai đối, tức là ngữ ngôn và pháp là pháp đối đãi, có và không là pháp đối đãi, hữu sắc và vô sắc là pháp đối đãi, hữu tướng và vô tướng đối, pháp hữu lậu và pháp vô lậu đối, sắc và không đối, tịnh và động đối, trong cùng đục đối, phàm phu và thánh nhân đối, người xuất gia và người tại gia đối, già và trẻ đối, lớn và nhỏ đối, đây là mười hai đối của ngôn ngữ pháp tướng.
Tánh mình (tự tánh) khi khởi dụng sanh ra mười chín pháp đối: Dài đối với ngắn, tà đối với chánh, si đối với huệ, ngu đối với trí, loạn đối với định, từ đối với độc, giới đối với phi, ngay đối với vạy, thật đối với dối, hiểm đối với bình, phiền não đối với Bồ-đề, thường đối với không thường, bi đối với hại, vui đối với giận, bố thí đối với bỏn sẻn, tới đối với lui, sanh đối với diệt, pháp thân đối với sắc thân, hóa thân đối với báo thân. Ấy là mười chín pháp đối.
Giảng:
Lúc Chân như Tự tánh sanh khởi tác dụng, nó có mười chín đối, tức là dài đối với ngắn, không có dài thì không hiển được cái ngắn, nếu không có ngắn thì không hiển được cái dài, cho nên dài và ngắn là pháp tương đối. Ở giữa dài ngắn là trung đạo. Giữa tà và chánh cũng là nghĩa trung đạo, cho nên tà và chánh đối. Ngu si và trí huệ đối – ngu dốt và thông minh cũng là tương đối. Loạn và định đối, tại sao trong tâm loạn? Tại vì không có định lực. Từ và độc đối, vì từ có thể ban vui. Giới và phi đối, giới tức là chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, cho nên nó cùng với sai quấy đối. Ngay thẳng và cong vạy đối. Thực và hư đối. Nguy hiểm và bình an đối. Phiền não và Bồ-đề đối, thường và vô thường đối. Bi có thể bạt khổ, nó cùng với hại đối. Hoan hỷ và sân nhuế đối. Bố thí và xan tham đối, năng xả thì không có xan tham. Tiến trước và lui sau đối. Sanh và diệt đối. Pháp thân biến mãn khắp nơi, cùng với sắc thân đối. Hóa thân với báo thân đối. Trên đây là do tự tánh sanh ra cái dụng này, có mười chín đối.
Ba mươi sáu pháp đối ấy, nếu hiểu mà dùng, thì nói suốt tất cả kinh pháp, ra vào đều lìa cả hai bên.
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư nói: Ba mươi sáu đối pháp này, nếu các ông hiểu rõ dụng của nó, thì có thể quán thông tất cả Phật pháp kinh điển, tất cả Phật pháp kinh điển đều từ đạo lý này sanh ra. Ðược như thế thì ra vào sẽ không rơi vào hai bên, đây là trung đạo liễu nghĩa.
Khi tánh mình (tự tánh) động dụng, nói chuyện với người, thì ngoài đối với tướng mà phải lìa tướng, trong đối với không mà phải lìa không. Nếu toàn trước tướng tức là làm lớn thêm cái tà kiến. Bằng toàn chấp không, tức là làm lớn thêm sự vô minh. Người chấp không thường có ý chê kinh, nói rằng chẳng dùng văn tự. Ðã rằng chẳng dùng văn tự, lẽ thì họ chẳng nên nói ra lời nói mới phải, vì lời nói ra tức là cái tướng của văn tự. Lại nói: ‘Trực tâm là đạo tràng, không lập văn tự’, nhưng hai chữ “không lập” đó cũng là văn tự! Hễ thấy người ta nói thì chê lời nói của người, đấy chính là chấp trước văn tự.
Các ông phải biết tự mình mê còn dung được, sao dám chê bai kinh Phật? Chẳng nên chê kinh mà phải bị tội chướng vô cùng.
Giảng:
Lúc tự tánh sanh khởi dụng, lúc cùng người khác nói chuyện bên ngoài nên ở tướng mà ly tướng, bên trong thì nơi “không” mà ly không. Nếu các ông trong ngoài đều trước tướng, thì sẽ sanh ra tà tri tà kiến. Nếu các ông không chấp có, mà lại chấp vào không, thì sẽ tăng trưởng vô minh. Người chấp trước vào không sẽ nói như thế này: “Cái gì cũng không cần, không cần học kinh điển, vì tất cả đều là không, không cần dùng văn tự! Văn tự là chấp tướng.” Ðã nói không dùng văn tự vậy thì y cũng không nên nói, vì ngữ ngôn là tướng của văn tự, văn tự chính là ngữ ngôn.
Lại nói: “Trực tâm là đạo trường, không cần lập văn tự.” Cần biết hai chữ ‘không lập’ ở đây vẫn là văn tự, vẫn chưa có rời văn tự. Nếu thấy người liền hủy báng người, nói người chấp vào văn tự, các ông mười người cần biết tự mình mê lầm thì không nói gì, vì tự mình đã mê lầm, đó là việc mê lầm của mình. Nhưng hủy báng Phật kinh nói không công đức, thì tạo nghiệp tội vô cùng vô tận.
Trước tướng bên ngoài mà lập ra phép tắc để cầu Chơn đạo, hoặc rộng mở đạo tràng, hoặc nói ra những điều lỗi lầm về chỗ “có” chỗ “không,” người như thế ấy, dầu tu mấy muôn kiếp, cũng không thể thấy tánh được. Phải nghe và y theo chánh pháp mà tu hành, lại cũng chẳng nên chẳng nghĩ đến mọi việc, mà đối với việc tự tánh tu đạo bị chướng ngại. Nếu nghe pháp mà chẳng tu, ắt khiến người trở lại sanh tà niệm. Phải y theo pháp mà tu hành, còn thí pháp thì đừng trụ vào tướng. Nếu các ông đều rõ, thì y theo đây mà ứng dụng, y theo đây mà hành động, y theo đây mà làm các việc, thì chẳng lạc bổn tông.
Giảng:
Nếu ông bên ngoài chấp tướng, dùng vọng tâm tác pháp cầu chân, làm muôn việc trước tướng, để cầu chân lý, hoặc kiến lập đạo trường, hoặc nói lỗi lầm có không, loại người này nhiều kiếp nhiều đời cũng không hiểu, không minh tâm kiến tánh được. Ông chỉ nên nghe lời nói của tôi, y theo pháp tu hành là được rồi. Nhưng lại không nên trăm vật không nghĩ vì đây lại biến thành ngoan không, đối với tự tánh tu đạo sẽ sanh ra chướng ngại.
Nếu ông chỉ nghe mà không y pháp thực hành, sẽ khiến người sanh ra tà niệm. Ông cần nên y theo lời thuyết pháp của tôi tu hành mà không chấp tướng. Nếu ông hiểu rõ đạo lý của tôi nói ra, mà y theo đạo lý của tôi đã dạy mà đi giảng kinh thuyết pháp, y theo đạo lý của tôi nói ra mà sanh ra dụng biến hóa. Y theo lời nói của tôi mà tu hành, y theo đạo lý của tôi nói ra mà thân hành thực tiễn, thì sẽ không mất đi tông chỉ của đốn giáo.
Nếu có người hỏi các ông về đạo nghĩa: Hỏi có thì đối không, hỏi không thì đối có, hỏi phàm thì đối thánh, hỏi thánh thì đối phàm, hai đường đối nhau thì sanh ra nghĩa trung đạo. Một câu hỏi một câu đáp, đến như các câu hỏi khác, cứ y theo đây mà thi hành thì chẳng sai lý vậy. Giả như có người hỏi sao gọi là tối? Ðáp: “Sáng là nhơn, tối là duyên, sáng dứt thì tối. Lấy cái sáng mà chỉ rõ cái tối, lấy cái tối mà chỉ rõ cái sáng, qua lại đối nhau thì thành cái nghĩa trung đạo.” Mấy điều hỏi khác, tất cả đều y theo cách chỉ đó mà trả lời. Ngày sau các ông có đi truyền pháp, cứ y theo pháp ấy mà truyền dạy nhau, chớ làm sai tông chỉ.
Giảng:
Khi có người hỏi ông pháp nghĩa, họ hỏi ông đạo lý “có” thì ông dùng đạo lý “không” đối, họ hỏi đạo lý “phàm phu” thì ông dùng đạo lý “thánh nhân” đối. Họ hỏi đạo lý “thánh nhân” thì ông dùng đạo lý “phàm phu” đối. Ðây là đạo lý lưỡng trùng. Tương nhân tương tuần, từ trong sanh ra nghĩa lý trung đạo. Như một vấn một đối. Những cái khác đều như vậy thì không mất đi tông chỉ đốn giáo. Ví như có người hỏi ông: “Cái gì là tối?” Ông nên trả lời như thế này: “Sáng là nhân, tối là duyên của quả. Lúc sáng không có đó là tối. Lấy quang minh để hiển cái hắc ám, dùng hắc ám mới có thể hiển ra cái quang minh. Ðến và đi là giống nhau, theo nhau (tương nhân tương tuần) mà thành tựu trung đạo liễu nghĩa.” Các vấn đề khác cũng căn cứ theo đạo lý này mà trả lời. Sau này các ông truyền pháp đều y theo đạo lý này mà chuyển đại pháp luân, cùng nhau giáo hóa truyền thọ, không nên làm mất đi tông chỉ chân chánh.
Thái Cực ngươn niên cải lại là Diên Hòa, nhằm năm Nhâm Tý, tháng bảy, Ðại sư sai môn nhơn qua Tân Châu, nơi chùa Quốc Ân Tự, xây một cái tháp và đốc thúc các người làm công phải xây cho rồi sớm. Cuối mùa hạ năm kế, làm lễ lạc thành.
Ngày mồng một, tháng bảy, Ðại sư nhóm các đồ chúng mà nói rằng: “Ðến tháng tám, ta muốn lìa bỏ thế gian, các ngươi có điều nào nghi, phải hiệp nhau hỏi cho sớm, ta sẽ phá nghi cho các ngươi hết mê muội. Sau ta tịch rồi, sẽ không có người chỉ dạy các ngươi.”
Ngài Pháp Hải v.v… nghe rồi, cả thảy đều khóc mùi. Duy có Thần Hội, thần tình không động, lại cũng không khóc.
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư vào niên hiệu Chánh Cực nguyên niên Ðường Duệ Tông, Diên Hòa tháng bảy (vì trong tháng năm cải niên hiệu thành Diên Hòa, đến tháng tám lại cải thành Tiên Thiên nguyên niên, trong thời gian một năm đổi ba lần niên hiệu), phân phó dạy môn hạ đệ tử đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu. Tân Châu tức quê hương của Lục Tổ Ðại sư, chùa Quốc Ân là nơi cư trú lúc trước của Ngài. Ngài đến chỗ này dự bị xây tháp, và đốc thúc công trình mau hoàn tất. Ðến năm thứ hai tháng bảy cuối mùa hạ khánh thành.
Ngày một tháng bảy thỉnh chuông gõ trống, chiêu tập tất cả đồ đệ đến Pháp đường, Lục Tổ Ðại sư nói:
–Các ông nghe đây, tháng tám năm này tôi sẽ rời khỏi thế gian, các ông nếu còn nghi vấn gì thì sớm hỏi, tôi sẽ vì các ông phá trừ nghi hoặc, khiến nghi hoặc trong tâm các ông trừ sạch. Nếu sau khi tôi vãng sanh viên tịch, thì không có ai giáo hối các ông, các ông có biết không? Cho nên có vấn đề gì thì hỏi mau đi.
Ðệ tử thứ nhất lại là Pháp Hải, Ngài hướng dẫn tất cả đệ tử, nghe lời nói này liền khóc lớn lên, có người lén khóc, có người không sợ xấu hổ liền òa khóc, đại khái cũng có người giả bộ khóc. Nhìn thấy người bên cạnh khóc, mình không khóc coi không được. Trong đó có thiệt cũng có giả, giống như đóng kịch vậy.
Chỉ có chú Thần Hội nhỏ nhất lại không khóc, tại sao chú không khóc? Có lẽ chú không hiểu, hoặc là không có tri giác? Không phải vậy! Thần Hội tuy tuổi nhỏ, nhưng định lực không phải nhỏ, chú đã hiểu rõ bất cứ cảnh giới nào đến, đều cần phải không động, như thế mới là chân chánh học được tâm bất động. Như thế nào mới gọi “tâm bất động?” Chính là có người nói quý vị tốt, quý vị cũng không vui vẻ, có người nói quý vị xấu, quý vị cũng không tức giận. Có người nói quý vị dụng công biện đạo, quý vị cũng không vui mừng. Có người nói quý vị làm biếng nhất, quý vị cũng không phiền não. Nhưng nếu quý vị thiệt làm biếng mà có người nói, quý vị không động tâm, lại tự biện hộ nói đây là định lực, đó thiệt sai lầm. Như Thần Hội là một chú bé, thần tình không động, không hoan hỷ cũng không khóc lóc.
Ðại sư rằng: Thần Hội tiểu sư đã chứng được bậc thiện và chẳng thiện đồng như nhau, chê khen không động, buồn vui chẳng sanh, còn giai dư các đồ đệ khác không đặng như vậy.
Ở trong núi mấy năm, các ngươi hành đạo gì đâu? Nay các ngươi buồn khóc là lo cho ai? Nếu lo cho ta không biết chỗ đi, thì ta đã tự biết chỗ đi rồi. Nếu ta không biết chỗ đi, thì ta chẳng báo tin cho các ngươi hay trước. Các ngươi buồn khóc vì chẳng biết chỗ ta đi. Nếu biết chỗ ta đi, thì chẳng nên buồn khóc. Pháp tánh vốn không sanh diệt, khứ lai. Các ngươi hết thảy ngồi xuống, ta nói cho các ngươi một bài kệ gọi là “Chơn Giả Ðộng Tĩnh Kệ.” Các ngươi hãy tụng bài kệ này, thì được đồng một tâm với ta. Y theo bài kệ ấy mà tu hành, thì chẳng sai tông chỉ.
Chúng tăng làm lễ, xin Sư làm kệ.
Giảng:
Thọ giới từ một năm đến mười năm gọi là Tiểu sư, Hạ tọa. Thọ giới mười năm đến hai mươi năm gọi Trung tọa, thọ giới hai mươi năm đến ba mươi năm gọi Thượng tọa. Lục Tổ Ðại sư nói:
–Tiểu sư Thần Hội, chú ấy nay không phải là tiểu Sa Di, vì chú đã thọ cụ túc giới, các ông nhìn xem, chú ấy tuy tuổi nhỏ, nhưng tiến bộ hơn các ông nhiều, tại sao vậy? Vì chú đối với thiện, bất thiện, tốt xấu đều có thể bình đẳng đối đãi, mà không có tâm phân biệt. Chú ấy thật đã chuyển thức thành trí, có đại trí huệ.
Ông xem Lục Tổ Ðại sư tán thán tiểu sư Thần Hội như thế.
“Chú ấy đối với sự hủy báng tán thán đều không động tâm, cũng không tham luyến, cũng không xả bỏ, thương ghét đều không động. Vị tiểu sư này tuy tuổi nhỏ, nhưng ông nói chú tốt, chú cũng không hoan hỷ, ông nói chú không tốt, chú cũng không nổi nóng. Chú cũng không sanh lòng bi ai, cũng không sanh lòng vui mừng, đây thật là trung đạo liễu nghĩa, thật là khó được! Các ông tuổi già cũng có, tuổi trung niên cũng có, hỏa hầu không đủ, thi không đậu rồi! Nhiều năm như thế ở trong núi, các ông tu đạo gì? Một chút định lực cũng không có, vừa nghe tôi nói vãng sanh viên tịch đều òa khóc lên. Ôi, những người như vậy thật vô tích dụng!” Mỗi người đều bị Tổ Sư la cho một trận: “Các ông tu đạo gì? Chỉ biết ăn ngủ. Các ông nay ưu buồn than khóc, ưu buồn cái gì? Các ông vì ai khóc? Khóc ai? Nếu như các ông lo lắng cho tôi, không biết tôi đi về đâu, tôi nay nói cho các ông biết: Không nên lo lắng, yên tâm đi. Tôi biết mình đi về đâu, việc của tôi, tôi tự sắp đặt, cũng giống như: ‘Không lớn không nhỏ, không trong không ngoài, tự tu tự liễu tự an bài.’ Nếu như tôi không biết tôi đi đâu thì tôi đã không nói trước cho các ông biết tôi tháng tám sẽ ra đi. Các ông bi ai rơi lệ như thế, dường như không biết chỗ đi của tôi, nếu các ông biết chỗ đi của tôi thì không nên buồn bã khóc lóc. Tự tánh pháp, vốn không sanh diệt, nó không sanh không diệt, không có đến cũng không có đi, mọi người không nên lo lắng, không nên buồn rầu. Mọi người cùng ngồi xuống, tôi nay vì các ông thuyết một bài kệ, gọi là “Chân Giả Ðộng Tĩnh Kệ.” Bài kệ này giảng về đạo lý chân, cũng giảng về ý nghĩa giả, đạo lý động, đạo lý tịnh. Sau khi các ông niệm tụng bài kệ này, cần phải giữ gìn bảo tồn, thì tương đồng với ý của tôi. Các ông theo bài kệ này tu hành thì không làm mất đi tông chỉ đốn giáo.”
Chúng Tăng sau khi bị Lục Tổ Ðại sư la rầy như thế, liền khấu đầu đảnh lễ, cung thỉnh Lục Tổ thuyết kệ.
Nhất thiết vô hữu chân,
Bất dĩ kiến ư chân.
Nhược kiến ư chân giả,
Thị kiến tận phi chân.
Nhược năng tự hữu chân,
Ly giả tức tâm chân.
Tự tâm bất ly giả,
Vô chân hà xứ chân ?
Hữu tình tức giải động,
Vô tình tức bất động.
Nhược tu bất động hạnh,
Ðồng vô tình bất động.
Nhược mích chân bất động,
Ðộng thượng hữu bất động.
Bất động thị bất động,
Vô tình vô Phật chủng.
Năng thiện phân biệt tướng,
Ðệ nhất nghĩa bất động.
Ðản tác như thử kiến,
Tức thị chân như dụng.
Báo chư học đạo nhân,
Nỗ lực tu dụng ý.
Mạc ư đại thừa môn,
Khước chấp sinh tử trí.
Nhược ngôn hạ tương ưng,
Tức công luận Phật nghĩa.
Nhược thực bất tương ưng,
Hiệp chưởng linh hoan hỷ.
Thử tông bổn vô tránh,
Tránh tức thất đạo ý.
Chấp nghịch tránh pháp môn,
Tự tính nhập sanh tử.
Thế gian muôn vật thảy không chơn,
Chẳng khá lầm xem nhận thật chơn.
Nếu thấy nhìn đều chắc thật,
Chỗ xem thấy ấy quả không chơn.
Tự tâm rõ thấu nguồn chơn chánh,
Lìa giả thì tâm vẫn chánh chơn.
Tự tánh chẳng lìa điều huyễn giả,
Tâm mình chẳng chánh, chỗ nào chơn?
Có tình hiểu biết đương nhiên động,
Không động là loài chẳng có tình.
Học đạo nếu tu hạnh chẳng động,
Giống loài chẳng động tức không tình.
Muốn tìm cảnh thiệt tâm không động,
Trong lúc động mà tánh chẳng lay.
Chẳng động, thiệt ròng tâm chẳng động,
Không tình đâu có giống Như Lai!
Biệt phân các tướng đều thông suốt,
Ấy nghĩa tột cao chẳng động tu.
Hiểu thấu lý mầu như thế ấy,
Tức là diệu dụng của Chơn-như.
Hởi người học Phật tìm chơn lý,
Hành động gắng dùng ý biệt phân.
Vào cửa Ðại thừa đừng cố chấp,
Mà theo sanh tử trí phàm trần.
Nói rồi nếu hiểu đồng tương ứng,
Hội luận cùng nhau Phật nghĩa chơn.
Bằng thiệt chẳng đồng tâm hiệp ý,
Kính nhau vui vẻ chớ sanh hờn.
Tông này vốn thiệt không tranh luận,
Tranh luận thì sai đạo ý thâm.
Cửa pháp cố tranh điều trái lẽ,
Tự tâm ắt đọa chốn luân trầm.
Giảng:
Tất cả đều không phải là chân, các ông không nên xem những việc không chân là chân, nếu ở trong không chân mà cho là chân, thì những gì ông thấy không phải là chân. Nếu ông tự mình hồi quang phản chiếu trở lại tìm cầu nơi mình, trong tự tánh, liền biết nó là chân. Nếu ông có thể ly khai tất cả giả hình giả tướng ở thế gian này, đó là chân tâm của ông. Trong tâm ông không rời giả, trong tâm không có chân, thì đi đâu tìm được cái chân? Cho nên chân, không phải rời tự tánh, rời tự tánh thì không tìm được chân.
Cái tánh tri giác hữu tình của ông có thể hiểu rõ cái động này, nếu ông không có tánh tri giác chính là bất động. Nếu ông muốn tu hành pháp môn bất động này, thì nên giống như vô tình bất động. Nếu ông lại muốn tìm bất động chân chánh, thì không nên rời động mà tìm bất động, vì trên động thì có bất động. Bất động chính là bất động, mà động thì ở hữu tình mới có động. Nếu là hữu tình mà ông lại có thể bất động, đó là chân chánh bất động. Nếu ông không có tánh tri giác, thì ngay chủng tánh Phật ông cũng không có. Trên tánh tri giác hữu tình của ông, không dùng thức tâm phân biệt, mà dùng Thành Sở Tác Trí để phân biệt các pháp tướng, chứng đắc lý thể tự tánh, đạt đến cảnh giới Ðệ nhất nghĩa, đó mới là chân chánh bất động. Nếu ông chỉ có kiến giải này, thì đó là diệu dụng Chân như.
Tôi nay nói cho các ông, những người học đạo biết! Các ông cần phải nỗ lực thành tâm tu hành. Không nên ở trong pháp môn Ðại thừa Phật pháp, lại chấp trước trí huệ sanh tử của ông, trí huệ chấp tướng. Tôi nay vì các ông mà nói bài kệ này, nghe xong nếu có thể minh tâm kiến tánh, thì tôi có thể cùng các ông thảo luận nghĩa lý Phật pháp, nếu nghe xong mà các ông không thể lập tức tương ưng, minh tâm kiến tánh, thì cũng nên chấp tay khiến cho tất cả chúng sanh hoan hỷ. Tông này của tôi là tu vô sanh pháp nhẫn, không có chỗ tranh luận, không cùng người tranh chấp. Nếu ông cùng người tranh chấp thì mất đi đạo nghĩa, mất đi bổn thể của đạo, cho nên nói: “Tranh là tâm thắng phụ, là tương nghịch với đạo, liền sanh tâm tứ tướng, sao đắc được tam muội?” Nếu ông chấp vào pháp môn tranh luận, thì không thể ra khỏi vòng luân hồi sanh tử.
Khi nghe kệ rồi, các đồ chúng đều làm lễ. Cả thảy đều thể theo bổn ý của Ðại sư, mỗi người nhiếp tâm, y pháp tu hành, lại chẳng dám tranh luận nữa.
Biết rằng Ðại sư chẳng còn ở lâu tại thế, thầy Thượng Tọa Pháp Hải lại làm lễ mà hỏi rằng: “Sau khi Hòa Thượng nhập diệt rồi, y pháp phải truyền cho ai?”
Giảng:
Lúc đó, đồ đệ của Lục Tổ Ðại sư ở Chùa Nam Hoa, nghe xong bài kệ này, đều kiền thành khấu đầu đảnh lễ, và đều hiểu rõ tâm ý của Ðại sư, tất cả mọi người nay không còn khóc còn la nữa, cũng không cùng nhau biện luận, từ đây y pháp tu hành, không cùng nhau tranh biện. Mọi người đều biết Lục Tổ Ðại sư tại thế chỉ còn hơn một tháng thôi, vì thế Thượng Tọa Pháp Hải (Thượng Tọa lúc nào cũng không quên được mình, lúc nào cũng tranh đứng nhứt), lại lễ bái hỏi Ðại sư:
–Bạch Hòa thượng! Sau khi Ngài viên tịch, y pháp nên giao phó cho ai?
Thượng Tọa cũng muốn tiếp thọ y bát này.
Ðại sư nói: “Các lời ta thuyết pháp từ lúc ở Chùa Ðại Phạm đến ngày nay đều nên biên chép lại mà lưu hành, và để tựa đề là ‘Pháp Bảo Ðàn Kinh.’ Các ngươi hãy giữ gìn, thay thế nhau mà truyền thọ để độ chúng sanh. Hãy y theo lời kinh này mà tu hành, ấy gọi là chánh pháp.
Nay ta nói pháp cho các ngươi, mà chẳng giao cho cái áo Ca-sa, là bởi tín căn của các ngươi đã thuần thục, chắc chắn không nghi, có thể nhậm kham việc lớn. Lại cứ như ý bài kệ của tiên tổ Ðạt Ma Ðại sư để lại, thì cái áo Ca-sa chẳng nên truyền. Kệ rằng:
Ta đến cõi này,
Truyền pháp cứu mê tình.
Một hoa nở năm cánh,
Kết quả tự nhiên thành.
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư nói:
–Tôi ở Chùa Ðại Phạm Thiều Châu thuyết pháp, những điều sao chép lưu thông cho đến hôm nay, bộ kinh này gọi là Pháp Bảo Ðàn Kinh, các ông cần phải giữ gìn thủ hộ Pháp bảo này, cần chuyển chuyển lưu thông, cùng nhau sao chép truyền thọ, rộng độ tất cả chúng sanh. Nếu ông y theo phương pháp này tu hành, đó là chánh pháp. Các ông nay đã hiểu rõ những lời thuyết pháp của tôi dạy cho các ông, cho nên không cần phải truyền y này. Vì y là vật biểu tín, mà các ông đều là những người tín căn thuần thục, đối với quyết định của tôi không có hoài nghi, chướng ngại, đều có thể gánh vác gia nghiệp của Như Lai để giáo hóa chúng sanh. Nhưng cần nói thêm, căn cứ tiên đại Tổ Sư, Bồ Ðề Ðạt Ma Tổ sư, bài kệ Ngài truyền thọ, ý nói: Y này bắt đầu từ tôi không nên truyền nữa.
Bài kệ của Tổ sư Ðạt Ma nói:
–Tôi đến Trung Hoa, vốn là muốn truyền chánh pháp, cứu độ tất cả chúng sanh mê tình. Một hoa của tôi sau này sẽ nở ra năm lá – tức năm vị Tổ Sư: Nhị Tổ, Tam Tổ, Tứ Tổ, Ngũ Tổ và Lục Tổ. Ðến lúc đó thì không nên truyền y này, chỉ cần truyền pháp là được rồi. Cho nên Ngũ Tổ cũng nói với Lục Tổ rằng: “Y là đầu mối của sự tranh giành, đến đời ông thì không nên truyền nữa.”
Các vị xem, “kết quả tự nhiên thành,” quả* ở đây chính là chỉ các vị, cần phải tự nhiên thành thục. Lục Tổ Ðại sư cũng nói: “Bồ đề quả tự nhiên thành,” quaû Bồ đề của các vị cần phải nhanh chóng thành tựu, điều quan trọng chính là không nên lười biếng. Các vị xem! Tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma sớm đã thọ ký cho các vị rồi đó. (* Ðệ tử quy y Hòa Thượng, pháp danh bắt đầu bằng chữ “Quả” vì y cứ theo bài kệ truyền thừa của Tông Quy Ngưỡng)
Sư lại nói rằng: “Chư Thiện tri thức! Các ngươi mỗi người phải tịnh tâm mà nghe ta nói pháp.
Nếu muốn thành tựu Nhất thiết chủng trí, thì phải đạt đến cảnh: Nhất tướng tam muội, Nhất hạnh tam muội. Ðối với cả thảy các nơi mà tâm chẳng trụ vào các tướng. Trong các tướng ấy chẳng sanh lòng ghét yêu, cũng không chấp bỏ, chẳng tưởng đến việc lợi hại nên hư, một mực an nhàn điềm tịnh, hư dung đạm bạc, ấy gọi là Nhất tướng tam muội.
Ðối với cả thảy các nơi, đi đứng ngồi nằm, phải ròng giữ một lòng ngay thật, chẳng động đạo tràng, phải thiệt lòng tịnh độ, ấy gọi là Nhất hạnh tam muội.
Nếu người nào có đủ hai tam muội ấy, thì cũng như đất có hạt giống, ngậm chứa chăm nuôi cho hột giống ấy lớn lên tới kỳ trổ quả chín mọng. Nhất tướng tam muội, Nhất hạnh tam muội cũng giống như thế.
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư nói:
–Quý vị Thiện tri thức, các ông mỗi người đều nên tự tịnh kỳ ý, không nên chứa chấp tâm tham sân si, nghe tôi nói pháp.
Các ông nếu muốn thành tựu Nhất thiết chủng trí, thì phải thông đạt nhứt tướng tam muội, nhứt hạnh tam muội – là tam muội nhứt tướng mà không tất cả tướng, là tam muội nhứt hạnh mà không tất cả hạnh.
Nếu ông ở khắp nơi, bất cứ nơi nào – tức không kể chỗ tốt chỗ xấu, hoặc động hoặc tịnh, mà không chấp vào tướng. Gặp phải cảnh giới không sanh tâm oán hận chán ghét hoặc yêu thích ưa mến, gọi là tâm thương ghét bất động, như như bất động. Ðối với cảnh giới mà ông ưa thích cũng không nghĩ việc thủ lấy làm của mình, có lòng yêu mến thì có thủ, giống như Thập Nhị Nhân Duyên – ái duyên thủ, thủ duyên hữu. Tại sao lại muốn thủ? Vì muốn chiếm làm của sở hữu. Xả bỏ vì nhân ghét, lúc ông giận ghét thì xả bỏ nó. Ông không nên nghĩ đến việc lợi ích, thành hoại. Có lợi ích gì cho mình thì mới làm, đó là tâm tham, tâm phan duyên, tâm không thanh tịnh. Cũng không tính toán, như là đối với mình có thành công hoặc tổn hại gì không, chớ nên chứa chấp tâm này. An nhàn tự tại, việc gì cũng không phiền não, giống như nước không có sóng, không có phiền não của thương yêu ghét bỏ, không có phiền não của sự thủ lấy, xả bỏ, không có phiền não của lợi ích, thành hoại. Ông không nghĩ đến việc thành công, thì không biết cái gì là thất bại. Hư dung đạm bạc, như vạn vật từ hư không sanh ra, nhưng hư không vô sở sử sự, không có tạo tác một việc gì, nó cũng không có một nơi làm việc, bảo ông ở đây sanh ra, hoặc đến chỗ khác chết đi. Vì tất cả vạn vật sanh sanh diệt diệt, sanh sanh hóa hóa, đều là một loại hiện tượng thiên nhiên, mà không có thêm vào sự tạo tác. Rất đạm bạc chính là bình thường, thứ gì thì là thứ đó, cho nên đạm bạc để làm sáng cái trí. Không có một chút tham tâm, sân tâm, si tâm, cũng chính là thiểu dục tri túc, không có tâm phan duyên. Cho nên nói: Tri túc thường lạc, năng nhẫn nhịn thì mình tự an vui, xem thường danh lợi, thì có thể ở trong tướng mà rời tướng, ở trong trần mà ra khỏi trần, vì thế gọi là nhứt tướng tam muội.
Nhứt hạnh tam muội tức là ông có thể ở bất cứ chỗ nào, vô luận là chỗ tốt, chỗ xấu, chỗ thiện, chỗ ác, chỗ thị, chỗ phi, hành trụ tọa ngọa trong bốn đại oai nghi, mọi lúc đều dùng trực tâm. Trực tâm là đạo tràng, chúng ta là người học Phật không nên dùng tâm cong quẹo, quý vị đối với bất cứ người nào cũng cần trực tâm, trực ngôn, trực hạnh; trong tâm không nên có sự cong cong quẹo quẹo. Trực ngôn không phải tâm nghĩ đông miệng nói tây, tâm khẩu bất nhất. Làm việc cũng trực, nói chuyện cũng trực, nếu nhân bất trực thì sau này quả cũng không trực, cho nên đi đứng nằm ngồi cần phải thuần nhứt trực tâm. Thuần nhứt tức là tinh thuần đến trực điểm, chỉ có một cái, không có hai cái. Một cái chính là trực tâm, chúng ta là người tu đạo, bất luận đối với người, đối với mình, đối với sự việc đều nên dùng trực tâm, trong tâm không nên tính toán việc người, ví dụ người đó có tiền, ta mượn ông ta một ít tiêu dùng. Dù nghèo đến cực điểm, ta cũng không nên làm những hành vi không có liêm sỉ. Nếu sau khi mượn mà trả lại thì không mất đi quân tử, nếu chỉ mượn mà không trả thì hành vi này rất đê tiện. Bất động đạo trường, chính là tâm quý vị trực, lúc quý vị có thể trực ngôn trực hạnh, bất động đạo trường đó chính là tịnh độ, đó gọi là nhứt hạnh tam muội.
Nếu người này đầy đủ nhứt tướng tam muội, nhứt hạnh tam muội, ông có thể y theo đạo lý này tu hành, giống như dưới đất gieo trồng hạt giống, chôn trong lòng đất, thời gian lâu dài liền tự nhiên sanh ra mầm Bồ-đề, thành thục thật quả Bồ-đề. Nhứt tướng tam muội và nhứt hạnh tam muội cũng giống như đạo lý này.
Nay ta nói pháp cũng giống như trời mưa thấm ướt khắp cả mặt đất, Phật tánh của các ông tỷ như các hạt giống gặp đám mưa pháp này, thì cả thảy đều thấm ướt và phát sanh. Người nào vâng theo tông chỉ của ta, chắc đặng đạo Bồ đề; y theo chỗ làm của ta, ắt chứng Diệu quả. Hãy nghe ta kệ:
Ðất tâm chứa hạt giống,
Mưa rưới thảy nảy mầm.
Hoa tình đốn ngộ rồi,
Quả Giác tự kết thành.
Ðại sư nói kệ rồi tiếp rằng: “Pháp vốn không hai, tâm mình cũng vậy. Ðạo là trong lặng không có các tướng. Các ngươi hãy cẩn thận, chớ đắm vào cảnh không và chỉ quán cảnh tĩnh (trầm không quán tĩnh). Tâm vốn trong sạch, chẳng có gì mà chấp hay bỏ được. Mỗi người tự gắng sức và tùy duyên mà hóa độ.”
Khi ấy đồ chúng làm lễ mà lui ra.
Giảng:
Tôi nay thuyết pháp, giống như kịp thời mưa xuống phổ nhuận đại địa. Ðương lúc nhà nông cần mưa, thì có mưa. Nếu không cần mưa, mà mưa rất lớn thì những vật trồng trọt sẽ bị mưa làm úng. Nếu cần mưa mà không có mưa, cây cối sẽ bị khô héo mà chết.
Các ông mỗi vị vốn có Phật tánh, thì giống như những hột giống này gặp phải mưa đúng lúc liền trưởng dưỡng tươi tốt, có hy vọng thành thục quả Bồ đề. Các ông là những người hiểu rõ tông chỉ tôi nói ra, nhất định đắc được Bồ đề. Nếu các ông y theo pháp của tôi nói ra mà tu hành, thì nhất định đắc được diệu quả Bồ đề. Các ông nghe tôi nói kệ, cần phải chú ý a! Tôi đã vì các ông nói nhiều pháp như thế, nhưng các ông khi nghe qua tai rồi thì tản mạn rời rạc, cho nên tôi phải dùng kệ tụng để biểu đạt rõ ràng.
Các ông đều nên tự tịnh kỳ tâm, dùng tâm nghe bài kệ của tôi.
Tâm địa tức tự tánh, nó chứa đựng tất cả hạt giống. Nay đúng lúc gặp mưa, tưới tẩm nhuần thấm hết thảy, cho nên đều sanh ra mầm Bồ đề. Hữu tình chúng sanh đốn ngộ, kịp thời hiểu rõ, kết quả cần khai hoa, khai hoa cần kết quả. Sau khi khai hoa, diệu quả Bồ đề tự nhiên thành tựu. Ông xem! “Bồ đề quả tự thành.”
Tổ sư Ðạt Ma nói: Kết quả tự nhiên thành, đây nói về các ông. Cái quả này có thể phổ biến khắp thế giới, kết quả tự nhiên thành, tự nhiên quả sẽ đến mọi hang cùng ngõ hẻm trên toàn thế giới, mỗi chỗ sẽ trổ quả Bồ đề. Mỗi người cần tự mình thành tựu quaû của mình, tôi không thể giúp quý vị được, nếu tự mình không thành tựu, chính là tự mình cam chịu kém cỏi, lạc hậu. Quý vị xem! Thật là khéo, pháp tự của quý vị là chữ Quaû, tông phái của chúng ta đối với quả nói ra rất diệu mầu:
Tư tu thường an quaû,
Thân truyền vô vi giáo.
Lục Tổ Ðại sư nói xong phần đầu bài kệ, lại nói với mọi người:
–Tôi thuyết đốn giáo pháp môn không có hai, chỉ có một, chính là đốn giáo này, tâm cũng nên biến thành một. Ðạo mà mình tu vốn thanh tịnh, và không có tất cả tướng. Tuy nói không có các tướng, nhưng các ông cũng không nên hiểu lầm nói là duy quán cái tĩnh này. Nếu ông chỉ quán tĩnh, đó cũng là chấp trước, đồng thời cũng không nên chấp chặt ngoan không. Tại sao vậy? Vì nhất thiết chúng sanh tâm vốn thanh tịnh, không có nhiễm ô, không có thủ lấy, cũng không có xả bỏ, các ông mỗi người cần nên nỗ lực tinh tấn, không nên làm biếng, tùy theo nhân duyên mà đi khắp nơi, kiến lập đạo trường, nỗ lực dụng công tu hành.
Lúc này đồ chúng của Lục Tổ Ðại sư có mấy ngàn người, đều khấu đầu đảnh lễ lui về một bên.
Ngày mồng tám, tháng bảy, thình lình Ðại sư gọi các môn nhơn mà dạy rằng: “Ta muốn về Tân Châu, các ông mau sửa soạn thuyền bè.”
Ðại chúng buồn thảm và gắng sức cầm Ngài ở lại.
Sư nói: “Chư Phật ra đời, rồi cũng vào Niết Bàn. Có lại ắt có đi, lẽ ấy cũng là thường vậy. Cái hình hài của ta đây đi về, ắt có chỗ.”
Chúng nhơn bạch rằng: “Từ đây Thầy đi, sớm muộn xin Thầy cũng trở về.”
Sư nói: “Lá rụng thì về cội. Lúc ta lại đây cũng đâu có nói gì.”
Chúng nhơn lại hỏi: “Chánh Pháp Nhãn Tàng sẽ truyền trao cho người nào?”
Sư nói: “Người có Ðạo thì đặng pháp ấy, người vô tâm thì thông hiểu.”
Lại hỏi: “Ngày sau có tai nạn chi chăng?”
Sư nói: “Sau khi ta tịch diệt, năm sáu năm, sẽ có người đến lấy đầu ta. Hãy nghe lời ta thọ ký.
Kệ rằng:
Dốc lòng thờ kính giống cha sanh,
Vì đói phải toan kế lợi mình.
Gặp Mãn, gian nhơn lâm khổ nạn,
Hai quan Dương, Liễu xử phân rành.”
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư vào ngày tám tháng bảy năm này, chợt nói với đại chúng rằng:
–Tôi muốn trở về Tân Châu, các ông mau mau chuẩn bị thuyền bè.
Lúc đó, trong số đông đồ đệ của Lục Tổ có người òa lên khóc. Trước kia đã khóc rồi, lần này Lục Tổ sắp đi, họ lại khóc nữa, không muốn Lục Tổ ra đi.
Lục Tổ Ðại sư nói:
–Mười phương ba đời Chư Phật xuất hiện ở đời vẫn thị hiện tướng Niết Bàn, có đến tất có đi, có sanh tất có diệt, đây là đạo lý rất bình thường. Thân này của tôi, nhất định có chỗ quy về.
Ðại chúng nói:
–Bạch Tổ Sư, Ngài từ đây ra đi, nhưng chúng con không muốn Ngài viên tịch, nhập Niết Bàn, hy vọng sớm muộn gì Ngài cũng sẽ trở lại.
Lục Tổ Ðại sư nói:
–Tôi giống như chiếc lá rơi, nên trở về với cội cây, khi tới cũng không lời (vô khẩu).
Tôi nghĩ chữ “khẩu” ở đây có lẽ viết sai, nên là trở lại “vô nhựt”, ý nói lúc tôi tới cũng không có ngày.
Lai thời vô khẩu, có một cách giảng khác, là khi tôi tới không có thuyết pháp, khi tôi đi cũng không có thuyết pháp, pháp tướng vốn không tăng không diệt. Tôi tuy thuyết pháp lâu năm như thế, sự thực không thuyết một pháp nào cả, cho nên nói: “khi tới không nói.” Pháp vô định pháp, chỉ cần hợp lý giảng như thế nào cũng được, nhưng không nên giảng sai lầm, dẫn người đến địa ngục. Pháp này thì bất khả thuyết, không thể dùng ngôn từ diễn bày được.
Phần đông đệ tử đều lưu luyến Lục Tổ Ðại sư, cho nên đây hỏi cái này, đó hỏi cái kia, thật nhiều lời lôi thôi, tôi tin rằng lúc đó Lục Tổ cảm thấy những người này thật là phiền phức, nghĩ: “Ta phải nhanh chóng ra đi.”
Lại có người hỏi: “Chánh Pháp Nhãn Tạng tức y bát đã truyền cho ai?” Lúc đó nhiều người như thế đều không biết Lục Tổ Ðại sư truyền pháp cho ai. Những người hỏi câu này đại khái đều có lòng tham muốn đắc được Chánh Pháp Nhãn Tạng, nếu không thì họ hỏi việc ấy làm gì? Ðó cũng giống như: “Ký tại giang biên trạm, tựu hữu vọng hải tâm.” Ðã đứng bên bờ sông lại muốn nhìn ra biển, nếu không muốn nhìn biển thì đứng bên bờ sông làm chi? Chúng ta có thể thấy người đương thời, đối với y bát, đều rất coi trọng.
Lục Tổ Ðại sư nói:
–Truyền cho ai? Ai có Ðạo tôi liền truyền cho người ấy, ai không có tâm phan duyên người ấy liền hiểu rõ pháp của tôi. Người chứng đắc nhứt tướng tam muội, nhứt hạnh tam muội thì được pháp của tôi.
Lục Tổ Ðại sư đắc Pháp gì? Chính là đạo lý trong mấy bài kệ tụng này. Quý vị nếu y theo đạo lý ấy mà tu hành, thì có thể đắc được pháp của Ngài.
Ðồ chúng lại hỏi: “Sau này trong giáo đoàn có tai nạn, khó khăn, ma nạn hoặc có hoạn nạn gì không?” Ý nói, Lục Tổ Ðại sư trong lúc sanh thời gặp phải nhiều ma nạn như thế – thuê người đến ám sát Ngài, lại phái gián điệp trộm pháp, lại có người phóng hỏa muốn thiêu chết Ngài, vô số tai nạn một lời khó nói hết. Lục Tổ Ðàn Kinh chỉ ghi lại chút ít, nhưng tin rằng lúc đó có rất nhiều tai nạn, chớ không chỉ có vài sự kiện như vậy thôi. Như có người đến trộm y bát sáu lần, đều nhân tiện muốn giết luôn Lục Tổ, nhưng vì không trộm được cho nên kinh không có ghi lại.
Lục Tổ Ðại sư kêu đệ tử là Lập Khải, năm trước đi xây tháp, năm nay tháp đã xây xong, cho nên Ngài muốn trở về Tân Châu. Ðồ chúng hỏi: “Sau này có còn tai nạn gì nữa không?” Ý tức hy vọng sẽ không còn tai nạn nào nữa? Mang theo khẩu khí hy vọng! Tổ Sư đã viên tịch rồi, vậy có còn ai lại muốn giết chúng con không, vì chúng con là đệ tử của Ngài, giết Ngài không được thì có thể sẽ đến giết chúng con.
Lục Tổ Ðại sư nói:
–Sau khi Ta viên tịch, năm sáu năm sau có người đến cắt đầu ta.
Quý vị xem, còn sống có người đến giết Ngài, sau khi viên tịch vẫn còn có người muốn lấy đầu của Ngài. Thời đó làm Tổ Sư thật khó a! Nay thì không có nghiêm trọng như thế nữa, vì thế không nên sợ hãi. Không nên nói làm Tổ Sư khó quá, tôi không muốn làm Tổ Sư, không nên thối tâm!
Nay tôi nói cho các ông một lời dự ngôn, lúc đó không có ai biết, sau này sẽ chứng minh “đầu thượng dưỡng thân,” là một vị tăng người nước Cao Ly, muốn trộm đầu của Lục Tổ về nước cúng dường. “Ðầu” là đầu của Lục Tổ Ðại sư. “Thượng” là chỉ ông ta rất cung kính. “Dưỡng Thân” ý là như cúng dường Cha Mẹ vậy. Vị tăng này tên gọi là Kim Ðại Bi, ông ta ở Hồng Châu thuê một người tên Trương Tịnh Mãn, đến lấy đầu Lục Tổ. Cho nên nói “khẩu lý tu xan.” Vì sao ông ta đến trộm đầu Lục Tổ? Vì sinh kế, cần phải ăn cơm, cho nên nhận tiền của người đi chặt lấy đầu một vị Tổ Sư đã viên tịch. Ðại khái vị tăng Cao Ly này rất giàu có, thuê ông ta rất nhiều tiền, vì thế ông ta đồng ý đi trộm lấy đầu Lục Tổ Ðại sư. Người này gọi là Trương Tịnh Mãn, cho nên nói “ngộï Mãn chi nạn.” Ngộ Mãn chính là gặp phải Trương Tịnh Mãn, chỉ dùng một tên của ông ta đưa vào trong lời dự ngôn. Vì Tịnh Mãn đến rồi thì sẽ chặt đầu Lục Tổ Ðại sư. Ðây cũng tính là một nạn. “Dương Liễu vi quan“: Quan Thứ sử đương thời là Liễu Vô Thiểm, Quan Huyện tên là Dương Khản, vì thế nói Dương Liễu vi quan. Quả nhiên, Lục Tổ viên tịch năm sáu năm sau, vào một đêm nọ có vị Tăng nghe động tịnh trong tháp nhục thân của Ngài. Ðồ đệ của Lục Tổ đã biết dự đoán của Lục Tổ cho nên dùng sắt bao cổ Ngài lại, cho nên lúc Trương Tịnh Mãn đến dùng đao chém cổ Lục Tổ, chém như thế nào chém cũng không đứt. Dùng đao liền gây ra tiếng động khiến vị tăng canh gác giật mình tỉnh dậy, Trương Tịnh Mãn bèn vội vàng từ trong tháp chạy ra – toàn thân mặc hiếu phục. Sau đó vị tăng này vào trong tháp kiểm soát cổ của Lục Tổ Ðại sư, phát hiện có dấu tích bị người dùng đao chém, vì thế liền báo với Thứ sử Thiều Châu và quan huyện, họ phái binh lính nỗ lực đi tìm trong năm ngày liền bắt được Trương Tịnh Mãn.
Liễu Vô Thiểm liền đem tên trộm này đến chùa Nam Hoa thẩm vấn: “Tại sao ngươi dám chặt đầu Lục Tổ Ðại sư?” Trương Tịnh Mãn nói: “Vì có vị tăng, ông ta muốn trộm đầu Lục Tổ, nhưng ông ta không dám làm, cho nên mướn tôi rất nhiều tiền, mà tôi thì cần tiền để sanh sống, cho nên mới bằng lòng làm việc này.” Lúc đó Liễu Vô Thiểm liền hỏi đệ tử của Lục Tổ Ðại sư là Thiền sư Linh Thao: “Án này nên giải quyết như thế nào?” Thiền sư Linh Thao trả lời: “Việc này nếu án theo luật nhà nước xử lý, nhất định phải chém đầu, không có cách nào khác. Nhưng trong Phật giáo, thì oán thân bình đẳng, ý của tôi hay là thả y đi; vã lại Lục Tổ Ðại sư lúc trước có nói, sẽ có việc này xảy ra.” Liễu Vô Thiểm nghe xong, nói: “Tôi nay mới biết Phật môn quảng đại, Phật giáo vĩ đại quá!” Vì thế tha cho Trương Tịnh Mãn.
Sư lại nói: “Ta tịch rồi, bảy mươi năm sau, sẽ có hai vị Bồ Tát từ Ðông phương đến, một vị xuất gia, một vị tại gia, đồng thời hưng hóa, kiến lập tông phái của ta và tạo tu Phật tự. Chánh là hai vị pháp-tự xương minh chánh giáo vậy.”
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư lại nói: “Bảy mươi năm sau khi ta viên tịch, có hai vị Bồ Tát từ Ðông phương đến đây, một là Bồ Tát xuất gia, một là Bồ Tát tại gia, đồng thời hưng hóa.” Xuất gia Bồ Tát theo truyền thuyết là Giang Tây Mã Tổ Ðạo Nhứt Tổ Sư, tất cả Tùng lâm ở Giang Tây đều do Mã Tổ xây dựng, có câu: “Mã Tổ tạo tùng lâm, Bách Trượng lập thanh quy.” Tại gia Bồ Tát theo truyền thuyết là cư sĩ Long Uẩn, cả gia đình Ngài đều khai ngộ, lại cùng một lúc vãng sanh nhập Niết Bàn. Cư sĩ Long Uẩn rất giàu có, ông đem tất cả vàng bạc châu báu trong nhà chất trên một chiếc thuyền, đem tiền quăng hết dưới đáy biển tặng cho Long Vương để trang nghiêm long cung, làm một việc đại bố thí. Sau đó làm nghề đan lồng trúc để sinh nhai, sống đời thanh bần, nhứt tâm tu đạo. Một ngày kia cư sĩ than rằng: “Khó! khó! khó! Như mười gánh mè mà rắc trên cây.” Ðây thật là khó, đem mười gánh mè từng hột, từng hột rắc trên cây. Vợ của ông nghe xong liền nói: Ông già này thật không làm nên tích sự gì, có cái gì mà khó, khó cái gì chớ? Ông xem khó, còn tôi cảm thấy đây là việc dễ nhất, cho nên nói: “Dị! Dị! Dị! Bách thảo đầu thượng Tổ Sư ý,” tức trên đầu ngọn cỏ đều là ý của Tổ Sư. Con gái của ông là Linh Chiếu nói: “Cũng không khó, cũng không dễ, đói thì ăn cơm, mệt đi ngủ,” con không cảm thấy khó, cũng không cảm thấy dễ, đói thì đi ăn cơm, mệt thì đi ngủ. Cư sĩ Long Uẩn tuy có vợ, nhưng hai người giống như bạn bè bình thường, không có quan hệ nam nữ như người đời. Làm cư sĩ thì nên học theo cảnh giới bất khả tư nghì này của cư sĩ Long Uẩn. Lại có người nói hai vị Bồ Tát đó, là Tổ sư Hoàng Bá và Thừa tướng Bùi Hưu. Nói hai vị nào cũng đều được. Hai vị Bồ Tát này kiến lập tông chỉ đốn giáo, trùng tu xây dựng già lam tự viện, phát dương rộng lớn Phật pháp.
Hỏi rằng: “Chẳng biết từ trên Phật tổ ứng hiện tới nay, đã nay truyền thọ được mấy đời? Xin Tổ Sư chỉ dạy.”
Sư nói: “Cổ Phật ra đời đã vô số, không thể kể hết được. Nay kể bảy vị Phật làm đầu mà thôi.
Ðời quá khứ Trang Nghiêm kiếp có: Tỳ Bà Thi Phật, Thi Khí Phật, Tỳ Xá Phù Phật.
Ðời hiện tại Hiền kiếp có: Câu Lưu Tôn Phật, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật, Ca Diếp Phật, Thích Ca Văn Phật.
Ấy là bảy vị Phật.
Giảng:
Ðại chúng lại khấu đầu đảnh lễ hỏi:
–Chúng con không biết từ lúc đức Phật đầu tiên ứng hóa cho đến hôm nay thì đã truyền thọ được bao nhiêu đời rồi? Cúi mong Tổ Sư vì chúng con khai thị.
Lục Tổ Ðại sư nói:
–Từ xưa đến nay Chư Phật ứng hiện giữa đời đã vô số vô lượng, nhiều đến nổi đếm không xiết, huống chi tôi lại không biết chữ, nay chỉ lược nói bảy Ðức Phật quá khứ lúc ban đầu. Kiếp quá khứ Trang Nghiêm có một ngàn Ðức Phật ra đời, Ðức Phật thứ chín trăm chín mươi tám tên là Tỳ Bà Thi Phật, dịch là Thắng Quán, Chủng Chủng Quán, Thắng Kiến hoặc Chủng Chủng Kiến. Vị Ðức Phật thứ hai là Thi Khí Phật, dịch là Ly Hỏa, là vị Phật thứ chín trăm chín mươi chín. Vị Phật thứ ba là Tỳ Xá Phù Phật, là vị Phật cuối cùng trong kiếp Trang Nghiêm. Kiếp tiếp theo tên là Hiền kiếp. Sao gọi là Hiền kiếp? Vì trong kiếp này có rất nhiều bậc Thánh hiền, có ngàn Ðức Phật ra đời. Vị Phật đầu tiên là Câu Lưu Tôn Phật, dịch là Sở Ứng Cúng, là bậc đáng cho trời người cúng dường, còn dịch là Trang Nghiêm. Vị Phật thứ hai là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. Vị thứ ba là Ca Diếp Phật. Vị thứ tư là Thích Ca Mâu Ni Phật, tức Giáo chủ cõi thế giới Ta-bà hiện nay. Trên đây là bảy vị Phật gần nhất.
Trước hết Thích Ca Văn Phật truyền cho Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp Tôn giả. Ma Ha Ca Diếp Tôn giả truyền cho Nhị Tổ A Nan Tôn giả, A Nan Tôn giả truyền cho…
Giảng:
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền cho đệ nhứt Tổ Sư – Tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Một lần nọ, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni trong pháp hội, trăm vạn người trời bao quanh, tay cầm hoa Kim Ðàn Mộc do Ðại Phạm Thiên Vương cúng dường, những người khác đều không biết ý gì, chỉ có Tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Phật nói: “Ta có Chánh Pháp Nhãn Tàng, Niết Bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, giáo ngoại biệt truyền, pháp môn dùng tâm ấn tâm, đã phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp.” Sau truyền cho đệ Nhị Tổ – Tôn giả A Nan. Ðệ Tam Tổ là Tôn giả Thương Na Hòa Tu. Tôn giả này lúc mới sanh ra trên mình đã khoát một bộ y phục, Ngài lớn lên bao nhiêu thì y phục cũng lớn theo Ngài bấy nhiêu. Tôn giả A Nan sau khi độ Ngài xuất gia, y phục trên thân Ngài liền biến thành Pháp phục. Sau khi thọ Cụ túc giới, y đó lại biến thành y Tăng-già-hội. Lúc viên tịch, Ngài lưu lại y này nói: “Lúc Phật pháp của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt tận, thì y này mới hoại. Nếu pháp chưa diệt thì y này vẫn còn tồn tại.”
Ðệ Thập Tổ Hiếp Tôn giả, Tôn giả này ở trong thai mẹ hơn sáu mươi năm, sau khi sanh ra râu tóc đều bạc trắng. Sau khi chào đời liền thích tu hành, gặp Ðệ Cửu Tổ Tôn giả Phục Ðà Mật Ða, truyền cho Ngài pháp môn Phật tâm ấn.
Thập nhất Phú Na Dạ Xa Tôn giả, thập nhị Mã Minh Ðại Sĩ, thập tam Ca Tỳ Ma La Tôn giả, thập tứ Long Thọ Ðại Sĩ, thập ngũ Ca Na Ðề Bà Tôn giả, thập lục La Hầu La Ða Tôn giả, thập thất Tăng Già Nan Ðề Tôn giả, thập bát Già Da Xá Ða Tôn giả, thập cửu Cưu Ma La Ða Tôn giả, nhị thập Xà Da Ða Tôn giả.
Giảng:
Ðệ Thập Nhất Tổ Phú Na Dạ Xa Tôn giả hỏi Hiếp Tôn giả rằng:
–Như thế nào mới có thể thành Phật?
Hiếp Tôn giả trả lời:
–Nay không có thành, đó chính là Phật.
Phú Na Dạ Xa Tôn giả nói:
–Nay chưa thành chính là Phật, vậy thì con làm sao biết được cái chưa thành này là Phật?
Hiếp Tôn giả nói:
–Ông làm sao biết cái chưa thành này không phải là Phật?
Một hỏi một đáp như thế, Phú Na Dạ Xa Tôn giả liền khai ngộ, cho nên Hiếp Tôn giả liền truyền cho Ngài pháp môn Phật tâm ấn.
Mã Minh Ðại sĩ tuyệt đỉnh thông minh. Vì biết Ngài căn duyên thành thục, nên Phú Na Dạ Xa Tôn giả liền đến độ hóa Mã Minh Tôn giả làm vị Tổ Sư đời thứ mười hai.
Mã Minh Ðại sĩ hỏi Phú Na Dạ Xa Tôn giả:
–Con muốn nhận biết Phật, như thế nào mới có thể nhận biết Phật?
Phú Na Dạ Xa Tôn giả nói:
–Ông không nhận biết, đó chính là Phật.
Mã Minh Ðại sĩ nói:
–Cái không nhận biết chính là Phật. Vậy thì, nếu con đã không nhận biết Phật, thì thế nào biết đó là Phật?
Phú Na Dạ Xa Tôn giả nói:
–Ông đã không nhận biết Phật, thì làm sao biết đó không phải là Phật?
Cuộc đối thoại này cũng giống như cuộc đối thoại giữa Ngài Phú Na Dạ Xa và Hiếp Tôn giả vậy.
Mã Minh Ðại sĩ nói:
–Ồ! Ðây có nghĩa như cái cái cưa. Ngài nói thế này, con nói như thế kia – chúng ta phân xẻ đạo lý giống cây cưa, cưa qua cưa lại khúc gỗ vậy.
Phú Na Dạ Xa Tôn giả:
–A! Ðó nghĩa là gỗ, còn cưa có nghĩa là gì?
Mã Minh Ðại sĩ :
–Là giống như Ngài. Vậy gỗ nghĩa là sao?
Phú Na Dạ Xa Tôn giả trả lời:
–Ông bị tôi cưa đứt! Tôi đã giải thoát cho ông rồi đó.
Ngay lời nói đó của Phú Na Dạ Xa Tôn giả, Mã Minh Ðại sĩ hoát nhiên khai ngộ, bèn theo Ngài Phú Na Dạ Xa Tôn giả xuất gia, và sau được Phú Na Dạ Xa Tôn giả truyền pháp.
Tại sao gọi là Mã Minh Ðại sĩ? Mỗi khi Ngài thuyết pháp, ngựa liền kêu lên, vì có cảm ứng như thế nên gọi là Mã Minh Ðại sĩ. Ðại sĩ là cách gọi khác của Bồ tát.
Tổ Sư thứ mười bốn Long Thọ Ðại sĩ, Ngài lấy Kinh Hoa Nghiêm từ Long cung, Tôn giả có trí huệ phi phàm, phát dương giáo nghĩa Ðại thừa, trước tác Trung Quán Luận, Ðại Trí Ðộ Luận v.v…
Tổ thứ mười bảy Tăng Già Nan Ðề Tôn giả hỏi Tổ thứ mười tám Già Da Xá Ða Tôn giả:
–Chú bao nhiêu tuổi?
Chú đồng tử này trả lời:
–Con một trăm tuổi.
Tổ thứ mười bảy hỏi:
–Chú nhỏ tuổi như thế, sao lại là một trăm tuổi?
Chú đồng tử trả lời:
–Nếu con một trăm tuổi mà không hiểu Phật pháp, không bằng một ngày mà có thể hiểu Phật pháp.
Tổ thứ mười bảy thấy chú đồng tử thông minh như thế liền độ cho xuất gia và truyền pháp làm Tổ thứ mười tám.
…Huệ Năng này là Tổ thứ ba mươi ba. Từ trên các vị Tổ mỗi vị đều có vâng mạng truyền kế nhau. Ngày sau, các ông phải thay thế nhau mà lưu truyền, đừng làm trái nghịch và sai lầm.
Giảng:
Tổ thứ hai mươi mốt Bà Tu Bàn Ðầu Tôn giả. Tổ thứ hai mươi hai là Ma Noa La Tôn giả. Tổ thứ hai mươi ba là Hạc Lặc Na Tôn giả. Tổ thứ hai mươi bốn là Sư Tử Tôn giả, Ngài cũng bị người giết. Ngài du hóa đến nước Kế Tân. Quốc vương nước này tin thờ ngoại đạo, có lãnh tụ ngoại đạo phá hoại Phật giáo, cho nên nước này lúc đó không cho phép có Tỳ kheo. Tỳ kheo Sư Tử vì muốn giáo hóa vua nước này, cho nên du hóa đến đó. Quốc vương hỏi:
–Ông đã liễu sanh tử chưa?
Tỳ kheo Sư Tử trả lời:
–Tôi đã liễu rồi.
Quốc vương nói:
–Nếu ông đã liễu sanh tử thì nên bố thí đầu ông cho trẫm. Vì Phật giáo khuyên người hành Bồ Tát đạo, cần bố thí đầu mắt não tủy, Trẫm nay muốn đầu của ông, ông có thể bố thí không?
Tỳ kheo Sư Tử trả lời:
–Có thể. Tôi sanh tử đã liễu. Cái đầu này có đáng gì đâu. Bệ hạ cứ việc lấy đi.
Nhà vua nghe Ngài nói như thế, liền lấy bảo kiếm chém đầu Ngài, đầu chém đứt xuống liền tuôn ra dòng nước trắng, không có máu chảy. Quốc vương dùng kiếm chém đầu Tỳ kheo Sư Tử, cánh tay của nhà vua cũng lập tức đứt đoạn! Vì nhà vua đã phạm vào tội giết A-la-hán. Lúc này Quốc vương mới tin vào sự bất khả tư nghì của Phật pháp, liền chém đầu lãnh tụ ngoại đạo, nhưng nhóm người ngoại đạo thì giống như phàm phu bình thường, chém thì chém cũng không có tuôn ra dòng nước trắng hoặc hiện ra những thoại tướng kỳ đặc. Sau đó nhà vua liền thông cáo toàn quốc, không cho phép ngoại đạo lưu truyền, phục hưng Phật giáo, từ đó về sau Phật giáo phát triển rất mạnh.
Lục Tổ nói:
–Các vị! Chư Tổ ở trên đều có truyền thừa, dùng tâm ấn tâm, các ông về sau đời đời truyền thọ, không nên để cho Phật pháp đoạn tuyệt.
Ðại chúng nghe Lục Tổ Ðại sư thuyết về lịch đại Tổ sư đều sanh lòng tín tâm, khấu đầu đảnh lễ lui về một bên.
Niên hiệu Tiên Thiên thứ hai, nhằm năm Quý Sửu, tháng tám, ngày mùng ba, tại chùa Quốc Ân, sau khi thọ trai rồi, Ðại sư bèn kêu đại chúng mà bảo rằng:
“Chúng ngươi hãy theo ngôi thứ mà ngồi, ta sắp từ biệt chúng ngươi.”
Pháp Hải bạch rằng: “Hòa Thượng để lại giáo pháp gì, khiến cho những người mê muội đời sau đặng thấy Phật tánh?”
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư vào ngày mùng ba tháng tám năm thứ hai niên hiệu Tiên Thiên, tại chùa Quốc Ân, Tân Châu (quê hương của Ngài), sau khi độ trai xong, nói với đồ chúng:
–Các ông theo thứ tự mà ngồi (trong Phật giáo người thọ giới trước ngồi trước, người thọ giới sau ngồi sau, lấy giới luật làm thứ tự tôn ty). Tôi nay cùng với các ông từ biệt.
Pháp Hải là vị trưởng lão dưới tòa Tổ Sư, cao hơn những người khác, nên lúc nào Ngài cũng đều đứng ra thưa chuyện, vì thế Ngài nói với Lục Tổ Ðại sư:
–Không biết Hòa thượng lưu lại giáo pháp gì, khiến cho kẻ mê đời sau được minh tâm kiến tánh ?
Sư nói: “Chúng ngươi hãy chú tâm nghe cho rõ. Những người mê muội đời sau nếu nhận thức được chúng sanh thì nhận thức được Phật tánh. Bằng chẳng nhận biết chúng sanh, thì muôn kiếp tìm Phật ắt khó gặp. Nay ta dạy các ngươi thế nào biết chúng sanh ở tâm mình, thấy Phật tánh ở tâm mình. Muốn cầu thấy Phật thì chỉ cần biết chúng sanh. Chỉ vì chúng sanh mê (không nhận thức được) Phật, chớ chẳng phải Phật mê (không nhận thức được) chúng sanh. Nếu tánh mình giác thì chúng sanh là Phật. Bằng tánh mình mê muội, thì Phật là chúng sanh. Tánh mình bình đẳng, thì chúng sanh là Phật. Tánh mình tà hiểm, thì Phật là chúng sanh. Nếu tâm chúng ngươi hiểm khúc tức là Phật ở trong chúng sanh. Một niệm bình đẳng, ngay thật, tức là chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật, Phật ở tâm mình, mới thiệt là chơn Phật. Nếu tự mình không có tâm Phật, thì tìm chơn Phật ở nơi nào? Cái tự tâm của chúng ngươi là Phật, chớ khá hồ nghi.
Thiệt sự thì, ngoài cái tâm không có một vật gì tạo được, mà chính cái Bổn tâm sanh ra chủng chủng pháp. Cho nên Kinh nói: Tâm sanh thì chủng chủng pháp đều sanh, tâm diệt thì chủng chủng pháp đều diệt.
Nay ta để lại một bài kệ đặng từ biệt chúng ngươi. Bài kệ nầy gọi là “Tự Tánh Chơn Phật Kệ” – Bài kệ nói về chơn Phật ở nơi tánh mình. Người đời sau biết được cái ý chỉ của bài kệ nầy, thì tự mình thấy Bổn tâm, tự mình thành Phật đạo.
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư nói:
–Các ông chú ý nghe, người mê đời sau, nếu nhận biết (recognize) được chúng sanh, thì nhận biết được Phật tánh. Nếu không nhận ra chúng sanh thì cũng không nhận ra Phật tánh. Nếu như các ông không nhận ra được chúng sanh mà đi tìm Phật tánh, thì tìm muôn kiếp cũng tìm không ra. Ông muốn tìm Phật thì nên tìm trong chúng sanh. Bồ Tát Thường Bất Khinh gặp chúng sanh liền khấu đầu lễ bái, bởi vì Ngài cho rằng tất cả chúng sanh đều là Phật, cho nên Ngài mới có thể thành Phật. Nếu Ngài thấy mọi người đều là ma, tự Ngài cũng chính là ma.
Tôi nay dạy các ông cần nhận ra chúng sanh trong tâm của mình, nên thấy Phật tánh trong tâm của mình, không nên giong ruổi bên ngoài tìm cầu. Ông muốn thấy Phật, trước tiên phải cung kính chúng sanh; nhận thức chúng sanh là Phật, thì ông cũng sẽ minh tâm kiến tánh. Chúng sanh không nhận biết Phật, chớ không phải Phật không nhận biết chúng sanh, nếu ông tự tâm giác ngộ, vậy thì cái chúng sanh của ông là Phật. Nếu ông tự ngu si, không hiểu rõ, không giác ngộ, dù ông vốn là Phật thì nay cũng biến thành chúng sanh. Phật tánh của mình thì bình đẳng, như thế chúng sanh cũng chính là Phật. Nếu tâm ông tà hiểm, chỉ thấy người sai lầm, dù ông là Phật, nay cũng biến thành chúng sanh, cho nên Phật và chúng sanh thì chỉ trong một niệm. Nếu tâm ông không trực, cong cong quẹo quẹo, thì Phật ở trong chúng sanh; nếu ông có thể trực tâm, chúng sanh liền thành Phật. Mỗi người trong tâm đều có Phật, Phật của mình mới là chân Phật, nếu trong tâm ông một Phật cũng không có, thì ông đi đâu tìm chân Phật? Chân Phật chính là trong tâm ông phải có một chân Phật. Phật tức tâm, tâm tức Phật, ông có chánh niệm, chính là Phật, chứa chấp tà niệm chính là ma. Sanh ra một niệm thanh tịnh chính là Phật, sanh ra một niệm ô nhiễm chính là ma. Chỉ cần xem ông sanh niệm gì? Nếu ông có thể tự tịnh kỳ tâm, đó mới là chân Phật! Nếu tâm ông không thanh tịnh, không có một tâm Phật chân chánh, vậy thì ông đi đâu tìm chân Phật? Tìm không ra đâu, cho nên nói: “Phật ngồi trong tâm.”
Tự tâm các ông chính là Phật, không nên giong ruổi bên ngoài tìm cầu, lại không nên sanh lòng hoài nghi. Nếu truy cầu bên ngoài thì không có một vật có thể thành lập. Vạn pháp đều từ tự tâm sanh ra. Cho nên Kinh nói: Vì tâm sanh cho nên vạn pháp sanh, nếu tâm diệt thì vạn pháp diệt. Cho nên: “Phật thuyết nhứt thiết pháp vì độ nhất thiết tâm, nhược không tất cả tâm, đâu dùng nhất thiết pháp?” Tất cả pháp không rời tự tâm, cũng không rời tự tánh. Tôi nay lưu lại một bài kệ tụng cùng các ông giã biệt:
Quý vị nên chú ý bài kệ tụng này, trong “Ðàn Kinh” quan trọng nhất chính là bài kệ tụng sau cùng này, bài này rất hay! Lục Tổ Ðại sư không những lưu cho những người thời đó mà cũng lưu cho chúng ta những người tu hành hiện nay. Tên bài kệ là: “Tự tánh chân Phật kệ.” Chúng ta đều có phần, đều nên y theo bài kệ này tu hành. Nếu hiểu rõ bài kệ này, thì có thể tự kiến bổn tâm, mà tự thành Phật đạo.
Chân như tự tính thị chân Phật.
Tà kiến tam độc thị ma vương.
Tà mê chi thời ma tại xá,
Chính kiến chi thời Phật tại đường.
Tính trung tà kiến tam độc sinh,
Tức thị ma vương lai trụ xá.
Chính kiến tự trừ tam độc tâm,
Ma biến thành Phật chân vô giả.
Pháp thân báo thân cập hóa thân,
Tam thân bổn lai thị nhất thân.
Nhược hướng tính trung năng tự kiến,
Tức thị thành Phật Bồ đề nhân.
Bổn tùng hóa thân sinh tịnh tính.
Tịnh tính thường tại hóa thân trung.
Tính sử hóa thân hành chánh đạo.
Ðương lai viên mãn chân vô cùng.
Dâm tính bổn thị tịnh tính nhân,
Trừ dâm tức thị tịnh tính thân.
Tánh trung các tự ly ngũ dục,
Kiến tính sát-na tức thị chân.
Kim sinh nhược ngộ đốn giáo môn,
Hốt ngộ tự tính kiến Thế Tôn.
Nhược dục tu hành mích tác Phật,
Bất tri hà xứ nghĩ cầu chân,
Nhược năng tâm trung tự kiến chân,
Hữu chân tức thị thành Phật nhân.
Bất kiến tự tính ngoại mích Phật,
Khởi tâm tổng thị đại si nhân.
Ðốn giáo pháp môn kim dĩ lưu,
Cứu độ thế nhân tu tự tu.
Báo nhữ đương lai học đạo giả :
Bất tác thử kiến đại du du.
Chân như tự tánh là chân Phật.
Tà kiến tam độc thật Ma vương.
Lúc tà mê Ma ở trong nhà,
Khi chánh kiến Phật ở trong nhà.
Trong tánh tà kiến tam độc sanh,
Tức là Ma vương đến trong nhà,
Chánh kiến tự trừ tâm tam độc,
Ma biến thành Phật thật không giả.
Pháp thân, Báo thân và Hóa thân,
Ba thân xưa nay là một thân.
Nếu nhằm trong tánh hay tự thấy,
Tức là nhân Bồ đề thành Phật.
Vốn từ Hóa thân sanh tánh tịnh,
Tánh tịnh thường ở trong Hóa thân.
Tánh khiến Hóa thân hành chánh đạo,
Khiến sau viên mãn thật không cùng.
Tánh dâm vốn là nhân tánh tịnh,
Trừ dâm tức là thân tánh tịnh.
Trong tánh mỗi tự lìa ngũ dục,
Thấy tánh sát-na tức là chân.
Ðời này nếu gặp pháp Ðốn giáo,
Chợt ngộ tự tánh thấy được Phật.
Nếu muốn tu hành mong làm Phật,
Không biết nơi nào nghĩ làm chân,
Nếu hay trong tâm tự thấy chân,
Có chân tức là nhân thành Phật.
Chẳng thấy tự tánh ngoài tìm Phật,
Khởi tâm thảy là người đại si.
Pháp môn Ðốn giáo nay lưu truyền,
Cứu độ người đời phải tự tu.
Bảo ông, người học đạo đời sau:
Không khởi thấy này uổng luống tu.”
Giảng:
Chân Phật là gì? Mọi người đều có cái Chân như tự tánh, nó còn gọi là Thực tướng, còn gọi là Như Lai Tàng, lại gọi là Phật tánh. Chân như chính là tự tánh của ông, tự tánh cũng chính là Chân như của ông, tự tánh Chân như cũng chính là chân Phật. Chân Phật ông đã nhận biết thì nên biết ma vương là cái gì, ma vương chính là tà kiến của ông, tam độc của ông. Mà tam độc cũng chính là tà kiến của ông, tà kiến cũng chính là tam độc của ông, có tà kiến, có tam độc, đó là ma vương, tam độc chính là tham sân si – tham tài, tham sắc, tham tất cả đều là tam độc. Giống như sau khi xuất gia, tham trước phan duyên, đi khắp nơi muốn có đệ tử, đây đều là tam độc. Như đạo trường này, ai quy y chính là tự mình phát tâm quy y, nếu không phát tâm cũng không miễn cưỡng. Nếu tôi kêu ông quy y tôi, ông hỏi: “Thầy có đủ tư cách làm thầy không? Thầy có đủ tư cách làm vị Thiện tri thức không?” Thế thì, tôi không có lời nào để nói.
Lúc có tà mê thì sanh ra vô minh, vừa có vô minh liền sanh ái dục, vừa có ái dục thì ma ở trong nhà ông. Ông có chánh kiến mà không có tâm tham, tâm sân, tâm si, không có tà tri tà kiến, dọn dẹp tâm mình thanh tịnh sạch sẽ, lúc đó Phật ở trong nhà.
Phật và ma đều do tự tánh ông hiển hiện, nếu tự tánh ông sanh tà kiến, thì sanh ra tham sân si tam độc. Nếu không tà kiến, tam độc sẽ không sanh khởi. Nếu sanh tam độc thì ma vương ở trong nhà của ông, nhà của ông cũng chính là thân của ông. Nếu có chánh kiến sẽ trừ đi tam độc. Lúc tâm không có tam độc, ma vương liền biến thành Lục Tổ, cái đạo lý này thì rất chân thực và chân thực nhất mà không hư giả, ông chỉ cần có chánh kiến đó là Phật, nếu ông chứa chấp tà kiến đó là ma. Thanh tịnh Pháp thân, Viên mãn Báo thân và Thiên bách ức Hóa thân, tuy nói là ba thân, nhưng ba thân này là do một thân của ông biến hóa mà ra, đây gọi ba là một, một mà ba, ba thân tức là một thân, một thân tức là ba thân.
Nếu trong tự tánh thấy được chân Phật của tự tánh, đó là hột giống sẽ thành Phật sau này. Ông có hột giống Bồ đề, tương lai nhất định sẽ trổ quả Bồ đề, trổ quả Bồ đề cũng chính là thành Phật.
Tự tánh thanh tịnh của ông vốn từ Hóa thân của ông sanh xuất ra. Tự tánh thanh tịnh Pháp thân của ông cũng ở trong Hóa thân của ông. Tự tánh của chính ông có thể khiến Hóa thân ông thành chánh đạo, tương lai viên mãn Bồ đề tự tánh và viên mãn Báo thân cũng sẽ vô cùng vô tận.
Người có tâm dâm dục, nhưng không cần sợ, ông xem Hỏa Ðầu Kim Cang trong Kinh Lăng Nghiêm, lòng dâm dục của ông ta vốn rất nặng, nhưng sau đó ông có thể dụng công phu biến lửa dâm dục thành lửa trí huệ mà làm Hỏa Ðầu Kim Cang. Cho nên nói dâm dục vốn là nhân của tịnh tánh. Nếu ông có một niệm chánh, đó là nhân của tịnh tánh. Nếu ông chứa chấp một niệm tà thì sẽ không thanh tịnh, cho nên không phải đoạn trừ tánh dâm dục, mà biến dâm dục thành tịnh tánh. Dâm tánh vốn không thanh tịnh, nhưng cần biến nó thành tịnh tánh – chánh tri chánh kiến. Ðấy mới là đúng! Cho nên nói: Tánh dâm tức là tịnh tánh thân, trừ dâm thì được Pháp thân thanh tịnh.
Ông ở trong tự tánh nên rời bỏ ngũ dục. Ngũ dục tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, có chỗ nói là tài, sắc, danh, thực, thùy. Năm dục này ông nên rời xa, trong tự tánh không khởi lên tà kiến, mọi lúc đều cần có chánh tri chánh kiến. Một khi rời bỏ ngũ dục thì ông sẽ kiến tánh ngay và sẽ đắc được Chân như diệu tánh.
Chúng ta trong đời này gặp phải pháp môn đốn giáo – pháp môn Thiền tông, hốt nhiên khai ngộ, hiểu rõ Bổn tâm, kiến tự Bổn tánh, lúc này có thể tự mình thấy Thế Tôn và mười phương Chư Phật. Nếu ông muốn tu hành, muốn làm Phật, thì ông không nên truy cầu bên ngoài mà nên ở trong tự tánh dụng công phu. Bằng không, thì ông sẽ không biết đi đâu mà tìm chân Phật.
Nếu đi tìm Phật tánh chân chánh trong bổn tâm mình, thì có thể minh tâm kiến tánh, thấy được Chân như diệu tánh, đó là hột giống thành Phật. Còn như ông không hồi quang phản chiếu trở về tìm cầu nơi mình, chỉ truy cầu bên ngoài, sanh lên một niệm muốn tìm Phật bên ngoài thì đó là người ngu si nhất.
Pháp môn đốn giáo thiền tông này nay tôi đã truyền hết cho các ông, người đời gặp pháp môn này cũng nên tự mình tu hành, không thể không tu hành a! Tôi nay vì các ông, là người học đạo mà giảng thuyết, nếu các ông không nghĩ như thế, thì bỏ phí thời gian, để thời giờ luống trôi như vậy, rốt cuộc không có lợi ích gì.
Ðại sư nói kệ rồi, bảo rằng: “Chúng ngươi hãy ở lại, sau khi ta diệt độ, chẳng nên theo thế tình mà buồn khóc ủ-ê, hoặc thọ sự điếu vấn của người, hoặc mình mặc hiếu phục. Nếu như thế thì chúng ngươi chẳng phải là đệ tử của ta, vì đó chẳng phải là chánh pháp. Chúng ngươi chỉ cần nhận biết Bổn tâm mình, thấy Bổn tánh mình, là không động không tịnh, không sanh không diệt, không đi không lại, không phải không quấy, không trụ không vãng.
Bởi sợ e chúng ngươi còn mê muội, không hiểu ý ta, nên nay ta dặn lại cho chúng ngươi, đặng cho chúng ngươi thấy tánh. Sau khi ta diệt độ, phải y theo pháp ấy mà tu hành, như lúc ta còn ở tại thế. Nếu làm trái lời ta dạy, dầu ta ở tại thế cũng không ích gì.”
Sư lại nói kệ rằng:
“Ngột ngột bất tu thiện,
Ðằng đằng bất tạo ác,
Tịch tịch đoạn kiến văn,
Ðãng đãng tâm vô trước.”
An nhiên, thiện sự vẫn không tu,
Siêu thoát, ác duyên hẳn bỏ từ.
Lẳng lặng, dứt trừ nghe thấy biết,
Phẳng bằng, tâm địa không níu vương.
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư thuyết xong bài kệ phía trước, lại nói với đại chúng:
–Các ông nên trụ tâm không nên vọng tưởng, nên buông bỏ, không nên nhìn không thấu, nên nhìn thấu, buông bỏ xuống thì đắc được tự tại. Sau khi tôi viên tịch nhập Niết Bàn, không nên biểu hiện hoặc có cử chỉ giống như người phàm phu tục tử – thọ người tế bái cúng điếu, thân mặc hiếu phục, khóc than, bi ai, nước mắt rơi như nước mưa, khiến hàng trăm mẫu ruộng cũng không bị khô hạn. Nếu các ông làm như thế thì không phải đệ tử của tôi, mà là đệ tử của tôi thì cần phải nghe lời của tôi, nếu các ông không nghe lời, thì không phù hợp chánh pháp, cho nên các ông không nên làm như vậy. Vậy phải làm sao? Các ông chỉ cần nhận thức bổn tâm của chính mình, thấy được bổn tánh của chính mình. Bổn tâm bổn tánh không động không tịnh. Tự tánh không sanh không diệt, tự tánh không đến không đi, tự tánh không đúng không sai, tự tánh không thiện không ác, tự tánh không tốt không xấu, tự tánh không đen không trắng, tự tánh không dài không ngắn, tự tánh không ở không đi – không ở chỗ này cũng không ở chỗ kia, các ông trong tự tánh dụng công phu cần minh tâm kiến tánh, nếu không minh tâm kiến tánh, thì thời gian trôi qua vô ích. Tôi sợ các ông trong tâm vẫn còn mê hoặc không hiểu rõ đạo lý của tôi nói, tôi nay nói lại một lần nữa, phó chúc các ông lần nữa, chính là muốn khiến cho các ông thức tự bổn tâm, kiến tự bổn tánh, có thể minh tâm kiến tánh. Sau khi tôi viên tịch, các ông nên y theo phương pháp này tu hành, thì giống như tôi còn tại thế. Nếu các ông làm ngược lại lời giáo hóa của tôi, thì dù tôi tại thế không nhập Niết Bàn, đối với các ông cũng không có ích lợi gì. Vì thế lại nói một bài kệ tụng:
Ngột ngột tức như như bất động liễu liễu thường minh, mà không chấp vào tu thiện, ông làm thiện cũng không nên giống như Lương Võ Ðế đi khắp nơi khoe khoang công đức. Ðây không phải kêu ông không tu thiện, mà là không nên chấp vào việc tu thiện.
Ðằng đằng tức diêu dao tự tại, thung dung thoải mái, suốt ngày đều an lạc. Không tu thiện nghĩa là không chấp chặt vào thiện pháp, không tạo ác tức là không phải tạo ác rồi không chấp vào nó mà là tuyệt đối không thể làm điều ác, tức sát đạo dâm, nhất là dâm, cho nên có câu: Vạn ác dâm đứng đầu, tử lộ chớ đi vào. Có hành vi tà dâm, đó chính là đi về con đường chết.
Tịch tịch tức là dáng an tịnh, cảnh giới này vừa bình an, vừa thoải mái, vừa an lạc. Ðoạn kiến văn tức không thấy không nghe, tức đoạn trừ kiến văn, không ở nơi cửa lục căn sanh ra tà kiến. Sanh chánh kiến thì có thể, nhưng phải đoạn trừ tà kiến tà văn, tức việc phi lễ không nhìn, điều phi lễ không nghe, lời phi lễ không nói.
Ðãng đãng là bằng phẳng rộng lớn không có biên tế. Tâm lượng bao gồm vũ trụ, chan hòa trời đất, dáng bằng phẳng rộng rãi, tâm không có chỗ chấp trước.
Sư nói kệ rồi, ngồi ngay thẳng đến canh ba, thình lình gọi môn nhơn mà bảo rằng: “Ta đi.” Hốt nhiên Ngài thiên hóa. Khi ấy mùi thơm xông ướp đầy nhà, móng bạc liên giao giáp đất, rừng cây biến ra màu trắng, thú cầm kêu vọng bi ai.
Giảng:
Lục Tổ Ðại sư nói xong bốn câu kệ này liền kiết già phu tọa ngồi đến canh ba nửa đêm mười hai giờ (Lục Tổ Ðại sư lúc ngồi thiền, thì đồ đệ đều ngồi bên cạnh). Ðại sư nói nói với môn đồ rằng: “Thời gian đã đến, ta sắp đi rồi, ta từ giã các ông!” Nói xong lời này, Ngài lập tức đoạn khí, người không động mà nhập Niết Bàn. “Thiên hóa” tức là dọn về nhà mới. Ai dọn nhà vậy? Tức nhục thân Bồ Tát dọn nhà. Lúc này có một mùi hương lạ tràn ngập Pháp đường, trên trời xuất hiện một móng cầu vòng trắng, ánh sáng trắng chiếu xuống mặt đất. Cây rừng biến thành màu trắng vì ánh sáng trắng chiếu sáng, cho nên cây rừng đều biến thành màu trắng, đây là một cách nói, cách nói khác là cây rừng vì Lục Tổ vãng sanh viên tịch, mà buồn thương bi ai, cho nên cây rừng biến thành sắc trắng giống như mặc hiếu phục. Lúc đó trên núi có rất nhiều phi cầm động vật đều khóc lên, thảo mộc vốn vô tình, nhưng đều biến thành hữu tình, đều mặc hiếu phục. Cầm thú vốn là vô tri, nhưng nay cũng có linh tánh, cũng đều khóc lên.
Tháng mười một, các quan và chức sắc, ở ba quận: Quảng châu, Thiều châu và Tân châu, cùng các môn nhơn tăng, tục, giành rước chơn thân của Ngài, nhưng chưa quyết đem về đâu, bèn đốt nhang vái rằng: Khói nhang bay về xứ nào, thì Sư sẽ về xứ ấy. Lúc ấy khói nhang bay thẳng về Tào Khê.
Ngày mười ba, tháng mười một, dời Thần khám của Ðại sư và đồ y bát của Tổ truyền về xứ Tào Khê.
Qua năm kế ngày hai mươi lăm, tháng bảy, mở Thần khám ra, đệ tử là Phương Biện lấy bột thơm rải lên chơn thân Ngài.
Giảng:
Tháng mười một, quan liêu, đệ tử quy y và các đệ tử xuất gia ở ba vùng Quảng Châu, Thiều Châu và Tân Châu đều tranh nhau nghinh rước chân thân Lục Tổ. Ðệ tử ở Quảng Châu muốn thỉnh chân thân Lục Tổ đến chùa Quang Hiếu, tức là nơi Lục Tổ Ðại sư thế phát. Người ở đây nói: “Tóc của Lục Tổ Ðại sư chôn ở đất này, vậy thì chân thân của Tổ Sư cũng nên thỉnh đến đất Quảng Châu của chúng tôi để cúng dường.”
Các vị Tăng sĩ và đệ tử quy y tại Tân Châu nói: “Ðại sư là người Tân Châu của chúng tôi nên nghinh rước chân thân của Ngài trở về cố hương để phụng thờ.”
Người Thiều Châu thì nói: “Ðại sư trụ tại chùa Nam Hoa, là Tổ Sư khai sơn ở đó, thì phải thỉnh Ngài về chùa Nam Hoa mới đúng.”
Mọi người cùng nhau tranh luận, mỗi người đều đưa ra lý do của mình mà không thể quyết định, họ dường như sắp đánh nhau. Quý vị chắc biết, người đương thời đều muốn tranh Tổ Sư để cúng dường. Lúc Tổ Sư còn tại thế, họ không tranh vì Tổ Sư có tự do của Tổ Sư. Lúc này Tổ Sư đã viên tịch không còn hơi sức, mọi người đều có quyền cúng dường, cho nên mỗi người mới đưa ra lý do của mình. Lục Tổ Ðại sư vốn là người Tân Châu, thỉnh đến Tân Châu là đúng rồi, vì chính Lục Tổ Ðại sư cũng nói: “diệp lạc quy căn— lá rụng về cội mà.” Song, chùa Nam Hoa là do Lục Tổ kiến tạo, thỉnh đến chùa Nam Hoa cũng đúng nữa. Nhưng, chùa Quang Hiếu ở Quảng Châu là nơi Lục Tổ Ðại sư xuống tóc; tóc của Ngài rơi tại đó, cho nên Pháp của Ngài nên rơi về đó, họ muốn thỉnh cũng đúng luôn. Mỗi người đều có lý do chính đáng, vì thế dường như sắp đánh nhau.
Lúc này có một người thông minh đứng ra nói: “Khi Lục Tổ Ðại sư tại thế, chúng ta vâng theo lời giáo hóa của Ngài, nay Lục Tổ Ðại sư đã viên tịch, chúng ta vẫn nên nghe theo sự giáo hóa của Ngài, nay thỉnh Lục Tổ Ðại sư tự Ngài quyết định.” Có người nói: “Lục Tổ Ðại sư đã viên tịch rồi, Ngài làm sao có thể dạy chúng ta nghinh rước đến chỗ nào được?” Người thông minh nói: “Tôi có biện pháp, vì Lục Tổ Ðại sư rất linh ứng, lúc tại thế Ngài có tha tâm thông, sau khi viên tịch Ngài đương nhiên cũng có tha tâm thông a! Chúng ta nay tranh giành cúng dường chân thân của Ngài mà cãi vã với nhau, Ngài nhất định không vui. Nay chúng ta đảnh lễ thắp hương, khói hương chỉ về hướng nào, thì đó là hướng mà Lục Tổ Ðại sư muốn về, chúng ta nghe theo lời dạy của Lục Tổ Ðại sư, được không?” Mọi người nghe xong đều tán thành nói: “Hay lắm! Chúng ta nên nghe theo lời dạy bảo của Lục Tổ Ðại sư.” Vì thế bèn đốt hương, khói hương hướng thẳng về chùa Nam Hoa. Người Quảng Châu và Tân Châu vì thế mà tâm phục, vì thế mới đưa chân thân của Lục Tổ Ðại sư về chùa Nam Hoa cúng dường.
Quý vị xem kinh văn: “tranh nghinh chân thân, mạc quyết sở tri,” thì biết tình hình lúc đó rất nghiêm trọng, rất gay go, mỗi người đều muốn giành bảo thân Lục Tổ. Vì thế đốt hương khẩn vái: “Bồ Tát Lục Tổ, Ngài phát đại từ bi, hiển đại thần thông, Ngài chỉ khói hương về hướng nào thì chúng con đưa Ngài đến chỗ đó.” Lúc đó khói hương trực chỉ Tào Khê. Ngày mười ba tháng mười một, mọi người đưa chân thân của Lục Tổ và y bát do Ðạt Ma Tổ Sư truyền thọ về chùa Nam Hoa. Tháng bảy năm sau thỉnh chân thân Lục Tổ Ðại sư từ trong khám thờ ra, đệ tử Phương Biện, tức là vị có tài đắp tượng Phật, cũng là một trong những vị được Lục Tổ truyền pháp, bèn dùng bột thơm, tro thơm và bùn, đắp vào những chỗ hũng trên thân Lục Tổ.
Các môn đồ nhớ lại lời thọ ký về sự lấy đầu, mới dùng lá sắt mỏng mà bố dầu bao chặt cổ Ðại sư rồi để vào tháp. Thình lình trong tháp có một luồng bạch quang hiện ra, xông lên trời ba ngày mới tan.
Giảng:
Môn đồ nhớ lời Lục Tổ Ðại sư tiên đoán: năm sáu năm sau, có người lại lấy đầu của Ngài, cho nên dùng lá sắt vải dầu bao chung quanh cổ Ðại sư, sau đó đưa vào trong tháp. Thình lình trong tháp xuất hiện ánh bạch quang chiếu thẳng lên trời, ba ngày sau mới tan mất.
Quan huyện Thiều châu làm sớ tâu cho vua hay, và vâng sắc chỉ dựng bia, ghi lại đạo hạnh của Tổ Sư để làm kỷ niệm như vầy:
Tổ Sư xuân thu bảy mươi lẻ sáu. Hai mươi bốn tuổi đã được truyền y, ba mươi chín tuổi xuống tóc. Sư thuyết pháp độ sanh ba mươi bảy năm. Trong các môn nhơn của Ngài có bốn mươi ba người đặng đạt tông chỉ và nối truyền chánh pháp. Còn những người ngộ đạo siêu phàm, chẳng biết bao nhiêu mà kể!
Còn cái tín y của Ðạt Ma Tổ Sư truyền, cái áo Ma Nạp và cái bửu bát (do vua Trung Tông hiến cho), cùng cái chơn tượng của Ðại sư do Phương Biện nắn và cả thảy các món đạo cụ, đều giao cho người coi tháp chăm sóc và giữ gìn vĩnh viễn nơi đạo tràng tại Chùa Bảo Lâm. Các bảo vật nầy cất giữ để lưu truyền với quyển Ðàn Kinh, đặng tỏ bày cái tông chỉ của Ðại sư, cùng mở mang Tam Bảo, mà phổ lợi quần sanh.
Giảng:
Thứ sử Thiều Châu tấu trình lên Hoàng đế những điềm lành linh thiêng: Lục Tổ Ðại sư phóng quang ba ngày. Hoàng đế liền ra lệnh lập bia ghi thuật lại quá trình tu hành đạo đức của Lục Tổ Ðại sư lúc còn tại thế: “Lục Tổ Ðại sư thọ thế bảy mươi sáu tuổi, lúc hai mươi bốn tuổi được truyền pháp, ba mươi chín tuổi mới thế phát, Ngài thuyết pháp lợi sanh ba mươi bảy năm, đệ tử truyền pháp có bốn mươi ba người. Cho đến những người đắc đạo siêu phàm nhập thánh không biết bao nhiêu mà tính. Tổ sư Ðạt Ma truyền thọ tín y ca sa, Trung Tông ban ca sa và bát thủy tinh, cùng với chân tượng Lục Tổ Ðại sư do Pháp sư Phương Biện đắp, cùng với vật dụng tu hành cần dùng như tam y, bát, tọa cụ, tích trượng, đều do vị thị giả hộ trì bảo tháp cất trong tháp, là bảo vật trấn tự vĩnh viễn của Bảo Lâm đạo tràng. Lưu truyền Ðàn Kinh của Lục Tổ, để hiển đạo lý pháp môn thiền tông, đây đều là hưng long Tam bảo, khiến cho Tam bảo phát dương rộng lớn, khắp lợi ích hết thảy chúng sanh.”
Bộ Lục Tổ Ðàn Kinh này đã giảng giải viên mãn, trong thời gian này quý vị đã chịu khổ rất nhiều, nhưng tôi không biết quý vị có cảm thấy cực nhọc không, nếu quý vị biết cực nhọc, thì giống như Lục Tổ Ðại sư đã nói, đó là phàm phu, nếu không biết cực khổ thì đó là khúc cây hòn đá. Vậy quý vị có biết cực khổ hay không biết cực khổ?
Cho đến việc tôi giảng kinh, tôi cũng không biết là giảng hay không hay, cũng không biết quý vị nghe hay hay dở. Nhưng chúng ta đều không cần cái hay hoặc cái không hay, nghe chính là nghe, tôi giảng chính là giảng, cũng không có hay, cũng không có không hay. Mọi người ở đây đều có duyên mới tụ tập một nơi, nghe được cuộc đời tu hành của Lục Tổ Ðại sư. Quý vị không nên chứa chấp cái hay hoặc cái không hay, mà nên — là đạo thì tiến, không phải đạo thì lùi, hợp chánh pháp thì y pháp tu hành, không hợp chánh pháp thì không làm. Quý vị nên ghi nhớ nằm lòng bài kệ cuối cùng của Lục Tổ Ðại sư, thường thường tụng niệm ghi nhớ, y theo bài kệ này tu hành thì nhất định sẽ thành Phật. Quý vị không nên phân biệt tôi giảng hay hay không, mà cần xem quý vị có hành hay không? Quý vị hành thì không hay cũng thành hay, nếu quý vị không hành, thì hay đến mấy cũng là không hay!
Tôi nay hỏi quý vị: “Lục Tổ Ðại sư là vị không biết chữ, người không biết chữ thì không có tri thức gì, nhưng tại sao Ngài lại thuyết được Kinh?”
–Học sinh: Con nghĩ, Kinh có nói: người không cần có rất nhiều nghiên cứu học thức mới có thể khai ngộ. Chủ yếu của pháp môn đốn giáo là từ trong tâm địa tự tánh dụng công phu, mà chúng con đều nên y theo đây tu hành.
–Học sinh: Lục Tổ Ðàn Kinh nói: Một pháp đã không lập, cho nên ngay một chữ cũng không nói ra.
–Học sinh: Nghĩa lý Ðàn Kinh vô cùng rõ ràng, nhưng mỗi lần con muốn thử nói ra, đều không có cách nào lấy ngôn ngữ để miêu tả, diễn đạt.
–Học sinh: Lúc Lục Tổ Ðại sư nhập Niết Bàn nói: Tạm biệt! Vậy thì nay Ngài ở đâu?
Ðáp: Ngài nay đã đến ngay nơi ông nói đó.
Bây giờ, đối với vấn đề Lục Tổ Ðại sư không biết chữ, để nói cho các vị nghe:
–Vì Trung Hoa đương thời, nền giáo dục không có phổ cập nhiều, muốn học nhất định phải có tiền, mà hoàn cảnh gia đình Lục Tổ lại rất nghèo khó, vì cha của Ngài là một vị thanh quan, cho nên sau khi cha chết gia đình Ngài rất nghèo khổ. Thời niên thiếu của Lục Tổ Ðại sư, sự sinh sống cơm ăn, áo mặc đều là vấn đề khó khăn, nên đương nhiên là không có cách nào đi học. Ðây là hai nguyên nhân, cho nên Lục Tổ Ðại sư không biết chữ.
Vậy thì tại sao Lục Tổ Ðại sư thị hiện sanh ra trong một gia đình bần cùng? Sanh ra trong gian khổ khó khăn, không biết chữ như thế? Ðây là Lục Tổ Ðại sư lấy mình để làm gương cho mọi người chúng ta thấy, chính là không biết chữ mà cũng có thể thành Phật thành Tổ Sư. Tu thành Tổ Sư không nhất định phải biết chữ hay không biết chữ. Ðây là vì để tăng trưởng chí nguyện của những người không biết chữ. Lục Tổ không biết chữ nhưng Ngài đã tu thành đạo quả, chúng ta cũng có thể tu thành đạo quả. Chúng ta không nên nói: Vì một chữ không biết mà bỏ đi sự tu hành, tự ti nói, “tu hành thì cần nhân tài có học thức mới có thể tu hành, người không có học vấn thì không thể tu hành.” Ngài muốn cho tất cả chúng ta không có loại biên kiến này. Ðây là cách nhìn của tôi.
Quý vị đối với Lục Tổ Ðại sư nên có nhận thức chân chánh, Lục Tổ Ðại sư chính vì không giải đãi, mà nỗ lực hành trì, cho nên Ngài mới có thể giác ngộ. Sau khi khai ngộ Ngài thuyết Lục Tổ Ðàn Kinh. Tuy Ngài không biết chữ, nhưng cái không biết chữ này là trí huệ của thế gian. Mà Ngài nhận thức hiểu rõ tự tánh, minh tâm kiến tánh, cho nên sử dụng đại trí huệ vốn có. Kinh điển mà Ngài thuyết ra, là từ quang minh trí huệ nói ra, cho nên giá trị của bộ kinh này thì không thể so sánh được. Kinh này và kinh Phật nói thì giống nhau, vì thế chúng ta không nên nói vì Ngài không biết chữ, liền sanh tâm khinh mạn. Sau khi giảng xong Lục Tổ Ðàn Kinh, tôi hy vọng các vị đối với điều này cần nên triệt để hiểu rõ.