Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp
Phật Sở Hộ Niệm
phụng chiếu dịch
Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Giảng Giải:
Hoà Thượng Tuyên Hoá
— o0o —
Phẩm Bổn Sự Của Bồ Tát Vua Diệu Trang Nghiêm
Rất lâu xa về trước, vua Diệu Trang Nghiêm là một Tỳ Kheo tu đạo, ngoài ra còn có ba vị Tỳ Kheo khác, phát tâm tu đạo ở trong rừng sâu. Vì chẳng có người cúng dường, vì đời sống ưu lự nên ảnh hưởng đến sự tu hành. Trong đó có một Tỳ Kheo (tiền thân của vua Diệu Trang Nghiêm), phát tâm cúng dường ba vị Tỳ Kheo, khiến cho họ an tâm tu đạo, chẳng vì cơm áo chỗ ở mà phân tâm. Do đó, quyết định hoàn tục để đi làm việc kiếm tiền, để cúng dường ẩm thực, quần áo, thuốc thang, ngọa cụ, các thứ đồ cần dùng hằng ngày, cho ba vị Tỳ Kheo đó.
Một ngày nọ, Ngài làm việc ở gần cung vua, thấy ông vua đi du tuần rất là oai phong, trước sau có hộ vệ rất là oai võ. Tâm bèn sinh vọng tưởng : ‘’Kiếp sau ta mà làm vua thì rất là oai phong, ai ai cũng đều cung kính ta ! Lúc đó, ta sẽ cúng dường tất cả các vị Tỳ Kheo.’’ Một niệm đó sinh ra, quả nhiên đời sau làm vua Diệu Trang Nghiêm, nhưng quên mất lời nguyện làm hộ pháp.
Sau đó, ba vị Tỳ Kheo đều chứng quả Thánh, dùng pháp nhãn quán sát nhân duyên hộ pháp, thì biết được vị này là người hộ pháp, do công đức xưa kia mà tái sinh làm vua. Ông vua đó có tâm từ bi thương dân như con. Song, tin về tà giáo, trong tâm có tà tri tà kiến. Ba vị Thánh nhân muốn báo ân hộ pháp xưa kia, nên mới bày cách cứu ông ta ra khỏi biển khổ, mới cùng nhau tìm cách giải cứu. Một vị phát nguyện làm vợ của ông ta (Tịnh Ðức phu nhân), hai vị kia phát tâm làm con của ông ta (Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn). Tại sao ? Vì phải nhờ vợ và con có hiếu, dùng cảm tình để làm sức ảnh hưởng, mới làm thay đổi được tư tưởng tà tri tà kiến tin ngoại đạo của ông vua.
Phẩm này thuật lại vua Diệu Trang Nghiêm, nhờ sự cảm hóa của hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn (Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng), khai mở tri kiến của Phật, đắc được pháp ích, sau đó theo Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí xuất gia tu đạo, mà chứng được A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Nhĩ thời Phật cáo chư Đại chúng: “Nãi vãng cổ thế, qua vô lượng vô biên bất khả tư nghị a tăng kì kiếp, hữu Phật danh Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Đa đà a già độ, A la ha, tam miệu tam Phật đà, quốc danh quang minh trang nghiêm, kiếp danh Hỉ Kiến.” Bỉ Phật Pháp trung hữu Vương, danh diệu trang nghiêm, kỳ Vương phu nhân danh viết tịnh đức, hữu nhị tử, nhất danh tịnh tạng, nhị danh Tịnh nhãn.
Bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng : Về đời xa xưa, trải qua vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, ứng Cúng, Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có vị vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Ðức, có hai người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn.
Sau khi nói xong Phẩm Ðà La Ni, thì lúc đó Ðức Phật bảo đại chúng trong hội Pháp Hoa rằng : Vào thuở xa xưa trong quá khứ, trải qua vô lượng vô biên số kiếp A tăng kỳ không thể nghĩ bàn. Lúc đó, có vị Phật ra đời danh hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai. Thừa đạo như thật, lai thành chánh giác. ứng Cúng, xứng đáng thọ chúng sinh trong chín pháp giới cúng dường. Chín pháp giới là gì ? Tức là pháp giới của Bồ Tát, pháp giới của Duyên Giác, pháp giới của Thanh Văn, pháp giới của trời, pháp giới của loài người, pháp giới của A tu la, pháp giới của súc sinh, pháp giới của ngạ quỷ, pháp giới của địa ngục.
Mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu. Ðó là Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, có đủ mười danh hiệu này, mới đủ tư cách xưng là Thế Tôn, tức là Thánh nhân tôn quý nhất của thế và xuất thế.
Vào thời Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, có một cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có một ông vua tên là Vua Diệu Trang Nghiêm. Phu nhân của vua tên là Tịnh Ðức phu nhân. Ông vua có hai người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn. Tiền thân của bốn người này, trong quá khứ là bốn vị Tỳ Kheo cùng tu với nhau ở trong rừng sâu.
Thị nhị tử hữu đại thần lực, phước đức trí tuệ, cửu tu Bồ Tát sở hạnh chi đạo, sở vị đàn ba la mật, thi la Ba la mật, Sạn đề Ba la mật, Tỳ lê da Ba la mật, Thiền ba La mật, Bát nhã Ba la mật, phương tiện Ba la mật, từ bi hỉ xả, nãi chí tam thập thất phẩm trợ đạo Pháp giai tất minh liễu thông đạt.
Hai người con đó, có đại thần lực phước đức trí huệ, từ lâu đã tu hành Bồ Tát đạo, đó là đàn Ba la mật, Thi la Ba la mật, Sàn đề Ba la mật, Tỳ ly gia Ba la mật, thiền Ba la mật, Bát nhã Ba la mật, phương tiện Ba la mật, từ bi hỉ xả, cho đến ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo, đều thấu suốt thông đạt.
Hai người con của Diệu Trang Nghiêm là Tịnh Tạng (Bồ Tát Dược Vương) và Tịnh Nhãn (Bồ Tát Dược Thượng), đều có sức đại thần thông, có thể hiện mười tám biến. Phước đức trí huệ đầy đủ, từ lâu đã tu đạo Bồ Tát, tức cũng là pháp môn mười Ba la mật. Ba la mật là gì ? Dịch là đến bờ kia. Tập quán của Ấn Ðộ là phàm làm việc gì xong đều là Ba la mật. Nay lược giải mười Ba la mật như sau :
1). Ðàn Ba la mật: Ðàn dịch là bố thí. Bố thí có ba: a. Tài thí.
- Pháp thí.
- Vô úy thí.
2). Thi la Ba la mật : Thi là dịch là giới. Giới là mẹ thành Phật. Phạm giới giống như chiếc thuyền ở giữa biển, phát hiện đáy thuyền có lỗ lủng. Nếu lập tức tu sửa, thì còn có thể khỏi nguy hiểm. Bằng không thì thuyền sẽ chìm, người sẽ chết, hối hận đã quá muộn. Tu bổ như thế nào? Tức là làm nhiều công đức, có tiền thì bố thí tiền, có sức thì bố thí sức, ủng hộ đạo tràng, do đó có câu: ‘’Lập công chuộc tội’’.
3). Sàn đề Ba la mật : Sàn đề dịch là nhẫn nhục. Việc không nhẫn được cũng phải nhẫn, không thể chịu đựng được cũng phải chịu, đó là thuốc hay tiêu trừ tội chướng. Tóm lại, khi nóng giận thì nên nhẫn nhịn, đừng bạo phát, vì ‘’Nhẫn thì an ổn’’.
4). Tỳ ly gia Ba la mật : Tỳ ly gia dịch là tinh tấn. Người học Phật pháp nhất định phải tinh tấn. Thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày tinh tấn, đêm tinh tấn. Tóm lại, dũng mãnh tinh tấn cũng như thuyền đi ngược dòng, không tiến thì lùi.
5). Thiền Ba la mật: Thiền dịch là tĩnh lự, làm lắng đọng tư tưởng, tức cũng là ngưng vọng tưởng. Tu đến cảnh giới như như bất động, thì mới đắc được liễu liễu thường minh. Lúc đó sẽ nhậm vận tự tại, tùy theo ý muốn, chẳng bị gì hạn chế, đó tức là ‘’Thần thông diệu dụng’’.
6). Bát nhã Ba la mật: Bát nhã dịch là trí huệ. Vì Bát nhã gồm có ba nghĩa, cho nên không dịch.
- Văn tự Bát nhã : Tức là tất cả kinh điển.
- Quán chiếu Bát nhã : Tức là dùng văn tự để quán chiếu tất cả cảnh giới, mới thấu hiểu được chân thật nghĩa.
- Thật tướng Bát nhã : Từ văn tự Bát nhã mà phát khởi quán chiếu Bát nhã; từ quán chiếu Bát nhã mà khế hợp với thật tướng Bát nhã. Ba điều này đều có mối quan hệ vơi nhau.
7). Phương tiện Ba la mật.
8). Nguyện Ba la mật.
9). Lực Ba la mật.
10). Trí Ba la mật.
Bốn Ba la mật này, đều do Bát nhã phân ra, hợp làm mười pháp môn Ba la mật, đây là hạnh môn của Bồ Tát tu.
Tu đạo của Bồ Tát thực hành, chẳng những có bốn tâm vô lượng từ bi hỷ xả, mà còn phải tu bố thí, ái ngữ, lợi hành, và đồng sự, bốn pháp nhiếp, mới là hành Bồ Tát đạo.
Bốn tâm vô lượng là gì ? Tức là :
– Từ : Khiến cho tất cả chúng sinh được an vui.
– Bi : Cứu tất cả khổ nạn của hết thảy chúng sinh.
– Hỷ : Tức là hoan hỉ, hoan hỉ người ta có được chuyện vui.
– Xả : Tức là bố thí. Bố thí vật mà người ta cần.
Bốn pháp nhiếp là gì ? Tức là :
– Bố thí : Người thích tiền tài thì bố thí tiền tài, người thích pháp thì bố thí pháp.
– Ái ngữ : Dùng lời diệu dàng thân thiết để an ủi họ.
– Lợi hành : Khởi thân khẩu ý hành lợi ích chúng sinh.
– Ðồng sự : Cùng làm việc với họ, khiến cho họ có tâm hướng thiện. Phối hợp bốn pháp nhiếp và bốn tâm vô lượng mới là hành Bồ Tát đạo.
Lại phải tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tức là:
– Bốn niệm xứ
– Bốn chánh cần
– Bốn như ý túc
– Năm căn,
– Năm lực
– Bảy bồ đề phần
– Tám chánh đạo.
Cộng lại là ba mươi bảy phẩm. Ðây là chánh đạo của pháp tiểu thừa, ở trong đại thừa là pháp trợ đạo, tại Phật thừa cũng chẳng phải là chánh đạo, cũng chẳng phải là trợ đạo; ngược lại cũng là chánh đạo, cũng là trợ đạo. Vì Phật thừa là viên giáo, tức là giáo lý viên dung vô ngại, do đó có câu:
‘’Viên mãn bồ đề, quy vô sở đắc’’.
Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, là hai vị Bồ Tát đều thấu suốt thông đạt mười pháp Ba la mật, bốn tâm vô lượng, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chẳng có gì chướng ngại.
Hựu đắc Bồ Tát tịnh tam muội, nhật tinh tú tam muội, Tịnh Quang tam muội, Tịnh sắc tam muội, Tịnh chiếu minh tam muội, Trường trang nghiêm tam muội, Đại uy đức tạng tam muội, Ư thử tam muội diệc tất thông đạt.
Lại đắc được các tịnh tam muội của Bồ Tát, đó là tam muội nhật tinh tú, tam muội tịnh quang, tam muội tịnh sắc, tam muội tịnh chiếu minh, tam muội trường trang nghiêm, tam muội đại oai đức tạng. Nơi các tam muội này, cũng đều thông đạt.
Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, hai vị Bồ Tát lại chứng được các thứ tam muội của Bồ Tát. Tam muội dịch là chánh định chánh thọ.
1). Tịnh tam muội : Tức là viên tịnh ba cấu. Ba cấu là gì ? Tức là tham, sân, si, hoặc là kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc. Làm cho ba cấu bẩn này đều thanh tịnh.
2). Tam muội nhật tinh tú : Nhật (mặt trời) ví như thật trí, tinh (ngôi sao) ví như quyền trí, quyền thật không hai, nên gọi là tam muội nhật tinh tú.
3). Tam muội tịnh quang : Bổn tính thanh tịnh, thì hiện ra vô lượng quang minh.
4). Tam muội tịnh sắc : Bổn thân thanh tịnh thì hiện tất cả màu sắc.
5). Tam muội tịnh quang minh : Tịnh là thể của tam muội, chiếu sáng là dụng của tam muội; tức cũng là tự tánh thanh tịnh, chiếu soi tất cả.
6). Tam muội trường quang minh : Dùng sự trang nghiêm của Phật, mà tự trang nghiêm tam muội.
7). Tam muội đại oai đức tạng : Ðại oai phục chúng, đại đức lợi sinh, tức cũng là oai đức của thập lực. Hai vị Bồ Tát này, đều hoàn toàn thông đạt bảy thứ tam muội này.
Nhĩ thời bỉ Phật dục dẫn đạo Diệu trang nghiêm Vương, cập mẫn niệm chúng sanh cố, thuyết thị Pháp Hoa Kinh.
Bấy giờ, đức Phật đó muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm, và thương xót chúng sinh, mà nói Kinh Pháp Hoa này.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, muốn dẫn dắt Vua Diệu Trang Nghiêm vào Phật trí, và vì thương xót tất cả chúng sinh, cho nên giảng giải chân thật nghĩa của Kinh Pháp Hoa. Kinh này là kinh điển thành Phật, nên xưng là vua trong các kinh.
Thời, Tịnh tạng, Tịnh nhãn nhị tử đáo kỳ mẫu sở, hợp thập chỉ trảo chưởng bạch ngôn: Nguyện mẫu vãng nghệ Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật sở, ngã đẳng diệc đương thị tòng, thân cận, cúng dường, lễ bái. Sở dĩ giả hà? Thử Phật ư nhất thiết Thiên Nhân chúng trung thuyết Pháp Hoa Kinh, nghi ưng thính thọ.
Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn hai người con đến chỗ người mẹ, chắp tay lại bạch rằng : Xin mẹ hãy đi đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ bái. Tại sao? Vì đức Phật đó, đang ở trong tất cả đại chúng trời người, nói Kinh Pháp Hoa, chúng ta nên đến đó để nghe.
Lúc đó, hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn đến chỗ người mẹ (Tịnh Ðức phu nhân), chắp tay lại thưa với mẹ rằng : ‘’Chúng con xin thỉnh mẹ đi đến đạo tràng của Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chúng con sẽ hầu theo mẹ cùng nhau đi đến chỗ Phật để gần gũi, cúng dường, lễ bái vị Phật đó. Tại sao ? Vì vị Phật đó bây giờ đang ở trong đại chúng trời người, diễn nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, cơ hội khó gặp, chúng ta nên đi nghe, không thể bỏ qua cơ hội thành Phật.’’
Mẫu cáo tử ngôn: “Nhữ phụ tín thọ ngoại đạo, thâm trước Bà la môn Pháp, nhữ đẳng ưng vãng bạch phụ, dữ cọng câu khứ.”
Người mẹ bảo các người con rằng : Cha của các con tin sâu pháp ngoại đạo Bà la môn. Các con nên đến thưa với cha, để chúng ta cùng đi với nhau.
Tịnh Ðức phu nhân nói với hai người con : Cha của các con chẳng tin Phật pháp, mà tin tà pháp trường sinh bất lão, xuất huyễn nhập hóa, tin sâu chấp trước pháp Ba la môn. Các con nên đến chỗ cha nói rõ tin tức này, để chúng ta cùng đi đến chốn Phật nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.’’
Tịnh tạng, Tịnh nhãn hợp thập chỉ trảo chưởng bạch mẫu: “Ngã đẳng thị pháp Vương tử, nhi sanh thử tà kiến gia.”
Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay lại thưa với người mẹ rằng : Chúng con là con của đấng Pháp Vương, mà sinh vào nhà tà kiến này.
Hai vị vương tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn chắp tay lại, nói với người mẹ rằng : ‘’Chúng con thuở xưa tu Bồ Tát đạo, đã là con của đấng Pháp Vương, nhưng lại bất hạnh, sinh vào nhà tà kiến này, chúng con phải sửa đổi trở thành nhà chánh kiến.’’
Mẫu cáo tử ngôn: Hữ đẳng đương ưu niệm nhữ phụ, vi hiện thần biến, nhược đắc kiến giả, tâm tất thanh tịnh, hoặc thính ngã đẳng, vãng chí Phật sở.
Người mẹ bảo các người con rằng : Các con nên thương nghĩ đến cha của các con, mà hiện thần thông biến hóa. Nếu cha của các con mà thấy được, thì chắc tâm sẽ thanh tịnh, hoặc nghe lời của chúng ta, mà cùng nhau đi đến chỗ đức Phật.
Tịnh Ðức phu nhân lại nói với hai người con rằng : ‘’Các con nên có tâm hiếu thuận, thương nghĩ đến cha của các con, trong quá khứ ông ta là hộ pháp của các con. Bây giờ các con đến độ ông ta thành Phật, ông ta mê tín ngoại đạo, chẳng chịu tin chánh đạo. Các con nên vì ông ta mà hiện các thứ thần thông biến hóa, nếu ông ta thấy được chắc tâm của ông ta sẽ thanh tịnh, sẽ giác ngộ hoặc sẽ nghe tin lời của chúng ta nói, và cùng nhau đi đến chốn Phật, nghe Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí diễn nói Kinh Pháp Hoa.’’
Ư thị nhị tử niệm kỳ phụ cố, dũng tại hư không, cao thất Ta la thụ, hiện chủng chủng thần biến ư hư không trung hành trụ tọa ngọa; Thân thượng xuất thủy, thân hạ xuất hỏa, thân hạ xuất thủy, thân thượng xuất hỏa;hoặc hiện đại thân mãn hư không trung, nhi phục hiện tiểu, tiểu phục hiện Đại; Ư không trung diệt, hốt nhiên tại địa; Nhập địa như thủy, lý thủy như địa. Hiện như thị đẳng chủng chủng thần biến, lệnh kỳ Phụ Vương tâm tịnh tín giải.
Lúc đó, hai người con vì thương nghĩ đến người cha, mà vọt lên hư không cao khoảng bảy cây đa la, hiện các thứ thần thông biến hóa. Ở trong hư không đi đứng nằm ngồi, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa; dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, biến mất trong hư không, hốt nhiên ở dưới đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất. Hiện các thứ thần thông biến hóa như thế, khiến cho vua cha tâm được thanh tịnh tin hiểu.
Hai người con của vua Diệu Trang Nghiêm vì nghĩ nhớ đến người cha, muốn độ cho cha cải tà quy chánh, mới đến chỗ người cha vọt thân lên hư không, cao khoảng bảy cây đa la (khoảng bốn mươi chín trượng), hiện ra đủ thứ thần thông biến hóa. Ở trong hư không đi đứng nằm ngồi rất tự tại. Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, hoặc dưới thân ra nước, trên thân ra lửa. Nước lửa cùng nhau hòa hợp, chẳng có xung đột. Hoặc hiện ra thân lớn đầy khắp hư không. Hoặc thân lớn lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, biến hóa khó dò, khiến cho người thấy lấy làm hoan hỉ, được chưa từng có. Thân ở trong hư không lại biến mất, hốt nhiên lại hiện ra ở dưới đất. Vào đất dễ như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, có thể nói nhậm vận tự tại, tùy theo ý muốn. Hai vị vương tử hiện ra đủ thứ biến hóa như thế, mục đích là khiến cho tâm của vua cha được thanh tịnh, sinh tâm hiểu Phật pháp, xả bỏ pháp ngoại đạo.
Thời phụ kiến tử thần lực như thị, tâm đại hoan hỉ, đắc vị tằng hữu, hợp chưởng hướng tử ngôn: “Nhữ đẳng, sư vi thị thùy, thùy chi đệ tử ?”
Khi ấy, người cha thấy thần lực của các người con như thế, thì tâm đại hoan hỉ, được chưa từng có, chắp tay lại hướng về các người con nói rằng : Thầy của các con là ai ? Các con là đệ tử của ai ?
Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm thấy hai người con có thần lực như thế, biến hóa vô cùng, tâm sinh đại hoan hỉ, đắc được cảnh giới áo diệu chưa từng có. Do đó, bèn chắp hai tay lại hướng về hai người con hỏi : ‘’Thầy của các con là ai? Các con là đệ tử của ai.’’
Nhị tử bạch ngôn: “Đại Vương! bỉ Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật, kim tại thất bảo Bồ Đề thụ hạ Pháp tọa Thượng tọa, ư nhất thiết thế gian Thiên Nhân chúng trung quảng thuyết Pháp Hoa Kinh, thị ngã đẳng sư, ngã thị đệ tử.”
Hai người con bạch rằng : Thưa đại vương ! Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, nay ở dưới cội bồ đề bảy báu, ngồi ở trên pháp tòa, ở trong tất cả thế gian chúng trời người, diễn nói Kinh Pháp Hoa, là thầy của chúng con, chúng con là đệ tử.
Hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn nói với vua Diệu Trang Nghiêm rằng : ‘’Thưa Ðại Vương ! Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí đó, hiện nay đang ngồi ở trên pháp tòa, dưới cội bồ đề bảy báu, vì tất cả thế gian chúng trời người diễn nói Kinh Pháp Hoa, Ngài là thầy của chúng con, chúng con là đệ tử của Ngài.’’
Phụ ngữ tử ngôn: “Ngã kim diệc dục kiến nhữ đẳng sư, khả cọng câu vãng.
Người cha nói với con rằng, nay cha cũng muốn gặp thầy của các con, chúng ta cùng đi với nhau.
Vua Diệu Tang Nghiêm nói với hai người con rằng : ‘’Hiện nay cha cũng muốn đi đến gặp thầy của các con. Các con có thần thông như thế, thì thầy của các con chắc chắn thần thông không thể nghĩ bàn, cha và các con cùng nhau đi đến chốn Phật, để nghe Kinh Pháp Hoa.’’
Ư thị nhị tử tùng không trung hạ, đáo kỳ mẫu sở?” Hợp chưởng bạch mẫu: “Phụ Vương kim dĩ tín giải, kham nhâm phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề tâm. Ngã đẳng vi phụ dĩ tác Phật sự, nguyện mẫu kiến thính, ư bỉ Phật sở xuất gia tu đạo.”
Hai người con bèn từ hư không xuống, đến chỗ người mẹ chắp tay thưa với mẹ rằng : Thưa mẹ ! Phụ vương nay đã tin hiểu, đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Chúng con đã vì cha mà làm Phật sự, xin mẹ cho phép chúng con ở nơi đức Phật đó, xuất gia tu đạo.
Hai người con của vua Diệu Trang Nghiêm ở trong hư không hiện mười tám biến rồi, từ hư không đi xuống đến chỗ Tịnh Ðức phu nhân ở, chắp tay thưa với người mẹ rằng : ‘’Thưa mẹ ! Cha của chúng con, hiện nay chẳng còn tin pháp tà tri tà kiến của ngoại đạo nữa, mà tin Phật pháp, hiểu Phật pháp. Hiện tại cha đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Chúng con đã vì cha làm đại Phật sự. Hy vọng mẹ thấy và nghe rồi, cho phép chúng con anh em hai người đến chỗ Ðức Phật, theo Phật xuất gia, tu vô thượng đạo.’’
Nhĩ thời nhị tử dục trọng tuyên kỳ ý, dĩ kệ bạch mẫu:
Bấy giờ, hai người con muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn muốn thuật lại ý nghĩa vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói.
“Nguyện mẫu phóng ngã đẳng, Mong mẹ cho các con
Xuất gia tác Sa Môn, Xuất gia làm Sa môn
Chư Phật thậm nan trị, Các Phật rất khó gặp
Ngã đẳng tùy Phật học. Chúng con theo Phật học
Như Ưu đàm bát la, Như hoa Ưu đàm bát
Trị Phật phục nan thị, Gặp Phật lại khó hơn
Thoát chư nạn diệc nan, Khỏi các nạn cũng khó
Nguyện thính ngã xuất gia. Mong cho con xuất gia.
‘’Chúng con anh em hai người, xin mẹ từ bi thương xót, cho chúng con xuất gia tu đạo làm Sa môn, sau đó sẽ thành Phật đạo. Sa Môn dịch là siêng tức, tức là siêng tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Chư Phật ra đời chẳng dễ gì gặp được. Hiện tại có Phật ra đời, chúng con xin đi theo Phật tu học Phật pháp.
Giống như hoa ưu đàm bát la, ba ngàn năm hoa mới nở một lần, rất khó được gặp. Gặp được Phật cũng khó như thế. Thoát khỏi các hoạn nạn cũng rất khó, hy vọng mẹ đáp ứng yêu cầu của các con, cho phép các con xuất gia tu đạo.’’
Mẫu tức cáo ngôn: “Thính nhữ xuất gia. Sở dĩ giả hà? Phật nan trị cố.”
Người mẹ nói rằng : Cho các con xuất gia, tại sao ? Vì Phật khó được gặp.
Tịnh Ðức phu nhân nói với hai người con rằng : ‘’Tốt lắm ! Mẹ cho phép các con xuất gia tu đạo. Tại sao ? Vì Phật chẳng dễ gì gặp được. Mong rằng sau khi các con xuất gia rồi, ngày đêm tinh tấn tu Bồ Tát đạo.’’
Ư thị nhị tử bạch phụ mẫu ngôn: “Thiện tai, phụ mẫu! Nguyện thời vãng nghệ Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật sở, thân cận cúng dường.” Sở dĩ giả hà? Phật nan đắc trị.
Hai người con bèn thưa với cha mẹ rằng : Lành thay cha mẹ ! Xin cha mẹ đi đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để gần gũi cúng dường. Tại sao ? Vì Phật rất khó gặp được.
Hai người con của vua Diệu Trang Nghiêm nói với cha mẹ rằng : ‘’Lành thay ! Cha mẹ thương yêu chúng con, cho phép chúng con xuất gia tu đạo. Vì không thể báo ân dưỡng dục của cha mẹ, xin cha mẹ tha thứ tội chưa làm tròn bổn phận thiếu thảo. Hy vọng cha mẹ đi đến chỗ đạo tràng của Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, để gần gũi, cúng dường Phật. Tại sao ? Vì Phật ra đời, nếu người chẳng có căn lành, thì chẳng dễ gì được gặp.’’
Như Ưu đàm bát la hoa, hựu như nhất nhãn chi quy, trị phù mộc khổng. Nhi ngã đẳng tú phước thâm hậu, sanh trị Phật Pháp, thị cố phụ mẫu đương thính ngã đẳng, lệnh đắc xuất gia.
Như hoa ưu đàm bát la, như rùa một mắt gặp lỗ khúc gỗ nổi, mà chúng con phước báu đời trước sâu dày, nên sinh ra được gặp Phật pháp, do đó mà cha mẹ cho chúng con xuất gia tu đạo. Tại sao ? Vì chư Phật rất khó gặp, thời cơ cũng khó gặp.
Giống như hoa ưu đàm bát la, chẳng dễ gì gặp được lúc nở. Hoa này nở ra là tàn liền, thời gian rất ngắn, trong chốc lát thì tàn rụng. Lại giống như con rùa một mắt, ở trong biển cả, muốn tìm lỗ khúc gỗ nổi để nương náu, thật chẳng dễ gì, khó như mò kim dưới đáy biển. Muốn gặp Phật cũng khó khăn như thế.
Vì chúng con gieo trồng phước báu trong kiếp trước đặc biệt sâu dày, cho nên sinh vào thời có Phật ra đời, gặp được Phật, nghe được pháp, may mắn thay ! Vì vậy, nên cha mẹ cho phép chúng con xuất gia tu đạo. Vì sao ? Vì chư Phật rất khó gặp, thời cơ khó thấy, đừng để mất cơ hội tốt, phải nắm lấy cơ hội xuất gia tu hành.
Bỉ thời Diệu trang nghiêm Vương hậu cung bát vạn tứ Thiên nhân, giai tất kham nhâm thọ trì thị Pháp Hoa Kinh. Tịnh nhãn Bồ Tát, ư Pháp Hoa tam muội, cữu dĩ thông đạt; Tịnh Tạng Bồ Tát, dĩ ư vô lượng bách Thiên vạn ức kiếp thông đạt ly chư ác thú tam muội, dục lệnh nhất thiết chúng sanh ly chư ác thú cố.
Khi đó, tám vạn bốn ngàn người đi theo vua Diệu Trang Nghiêm, thảy đều thọ trì Kinh Pháp Hoa này. Bồ Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt tam muội pháp hoa, Bồ Tát Tịnh Tạng thì ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, đã thông đạt tam muội ly chư ác thú. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh, lìa khỏi các đường ác.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Lúc đó, tám vạn người cung nga thể nữ, đi theo vua Diệu Trang Nghiêm thảy đều thọ trì Kinh Pháp Hoa. Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói: Lúc đó tám vạn bốn ngàn người cung nga thể nữ đi theo vua Diệu Trang Nghiêm, thảy đều thọ trì Kinh Pháp Hoa. Bồ Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt vô ngại tam muội pháp hoa (pháp quyền thật không hai). Bồ Tát Tịnh Tạng ở trong vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp, đã thông đạt tam muội ly chư ác thú (bốn đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la). Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh lìa khỏi các đường ác.
Kỳ Vương phu nhân, đắc chư Phật tập tam muội, năng tri chư Phật bí mật chi tạng. Nhị tử như thị dĩ phương tiện lực thiện hóa kỳ phụ, lệnh tâm tín giải, hảo nhạo Phật Pháp.
Phu nhân của vua đắc được chư Phật tập tam muội, biết được tạng bí mật của chư Phật. Hai người con khéo dùng sức phương tiện như thế, để giáo hóa người cha, khiến cho sinh tâm tin hiểu, ưa thích Phật pháp.
Phu nhân của vua đắc được chư Phật tập tam muội, tức là chư Phật ở trong định thuyết pháp, phu nhân cũng thấu hiểu được bảo tàng diệu pháp bí mật không truyền cuả chư Phật nói. Hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn dùng phương tiện thiện xảo như thế, để độ hoá người cha cuả các Ngài, khiến cho chúng sinh tín ngưỡng Phật pháp, hiểu rõ ý của Phật pháp, ưa thích Phật pháp và nghiên cứu Phật pháp.
Ư thị Diệu trang nghiêm Vương dữ quần thần quyến thuộc câu, tịnh đức phu nhân dữ hậu cung cung nữ quyến thuộc câu, kỳ Vương nhị tử dữ tứ vạn nhị Thiên nhân câu, nhất thời cọng nghệ Phật sở. Đáo dĩ, đầu diện lễ túc, nhiễu Phật tam tạp, khước trụ nhất diện.
Vua Diệu Trang Nghiêm với quần thần quyến thuộc, Tịnh Ðức phu nhân với tùy tùng thể nữ, và hai người con của vua, cùng với bốn vạn hai nghìn người, đều tụ lại cùng nhau, đi đến chỗ đức Phật. Ðến rồi, đầu mặt lễ dưới chân Phật, và nhiễu đức Phật ba vòng, rồi đứng qua một bên.
Vua Diệu Trang Nghiêm với quần thần quyến thuộc cùng nhau đi đến chốn Phật. Tịnh Ðức phu nhân và cung nga thể nữ cùng quyến thuộc cùng nhau đi đến chốn Phật. Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn và bốn vạn hai ngàn người cùng nhau đi đến chốn Phật. Sau khi đến chỗ Ðức Phật rồi, đều năm thể sát đất đảnh lễ Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, sau đó đi nhiễu Phật ba vòng, biểu thị cung kính, rồi lui về một bên, lắng nghe Phật chỉ dạy.
Nhĩ thời bỉ Phật vi Vương thuyết Pháp, thị giáo lợi hỉ.Vương Đại hoan duyệt. Nhĩ thời Diệu trang nghiêm Vương cập kỳ phu nhân, giải cảnh trân châu anh lạc, giá trực bách Thiên, dĩ tán Phật thượng, ư hư không trung hóa thành tứ trụ bảo đài, đài trung hữu đại bảo sàng, phu bách Thiên vạn Thiên y, kỳ thượng hữu Phật kiết già phu tọa, phóng đại quang minh.
Bấy giờ, đức Phật đó vì vua Diệu Trang Nghiêm nói pháp, chỉ thị giáo hóa, khiến cho vua được lợi ích hoan hỉ, vua rất vui mừng. Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm và phu nhân cởi chuỗi ngọc châu báu nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng, rải lên trên đức Phật, ở trong hư không hóa thành đài báu bốn trụ. Trong đài có giường báu lớn, giăng bày hàng trăm ngàn vạn thứ y trời. Trên đó, có đức Phật ngồi kiết già, phóng đại quang minh.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, vì vua Diệu Trang Nghiêm nói pháp, chỉ thị giáo hoá, khiến cho vua đắc được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ và rất vui mừng.
Lúc đó, Vua Diệu Trang Nghiêm và phu nhân Tịnh Ðức cởi xâu chuỗi ngọc châu báu đang đeo nơi cổ giá trị trăm ngàn lạng vàng rải lên cúng dường Ðức Phật. Chuỗi ngọc châu báu đó, ở trong hư không hóa thành đài báu bốn trụ (biểu thị cho tứ hoằng thệ nguyện), ở trong đài báu có giường báu lớn, trên giường báu bày hàng trăm ngàn vạn thứ y trời, ở trên đó có Phật ngồi kiết già phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới.
Nhĩ thời Diệu trang nghiêm Vương tác thị niệm: “Phật thân hy hữu, đoan nghiêm Thù đặc, thành tựu đệ nhất vi diệu chi sắc.”
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ như vầy : Thân Phật rất ít có, đoan chánh trang nghiêm đặc thù, thành tựu sắc thân vi diệu bậc nhất.
Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ như vầy: Thân Phật phóng quang ít có trong thế gian. Dung mạo của Phật đoan chánh trang nghiêm, vừa thù thắng vừa tốt đẹp, thành tựu sắc thân vi diệu bậc nhất. Phật có ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp. Những tướng trang nghiêm thân đó, do sự tu hành mà có được, do đó có câu:
“Ba tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt”.
Thời Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật cáo Tứ Chúng ngôn: “Nhữ đẳng kiến thị Diệu trang nghiêm Vương, ư ngã tiền hợp chưởng lập bất?” Thử Vương ư ngã pháp trung tác Tỳ kheo, tinh cần tu tập, trợ Phật đạo pháp, đương đắc tác Phật, hiệu Ta La Thụ Vương, quốc danh đại quang, kiếp danh đại cao Vương.
Lúc đó, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bảo bốn chúng rằng : Các ông có thấy vua Diệu Trang Nghiêm, đang chắp tay đứng ở trước ta chăng! Ông vua này, ở trong pháp của ta xuất gia làm Tỳ Kheo, siêng năng tu tập, giúp Phật hoằng dương Phật pháp, sẽ được thành Phật hiệu là Sa La Thụ Vương, cõi nước tên là Ðại Quang, kiếp tên là Ðại Cao Vương.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với bốn chúng rằng : ‘’Các con có thấy vua Diệu Trang Nghiêm đang chắp tay ở trước ta chăng ? Ông vua này ở trong pháp của ta xuất gia làm Tỳ Kheo, tinh tấn siêng năng tu tập Phật pháp, giúp Phật hoằng dương chánh pháp, tương lai sẽ chứng được quả vị Phật, hiệu là Sa La Thụ Vương Phật, cõi nước tên là Ðại Quang, kiếp tên là Ðại Cao Vương.
Kỳ Ta La Thụ Vương Phật, hữu vô lượng Bồ Tát chúng cập vô lượng Thanh văn, kỳ quốc bình chánh, công đức như thị.
Ðức Phật Sa La Thụ Vương đó, có vô lượng chúng Bồ Tát, và vô lượng hàng Thanh Văn, cõi nước đó bằng phẳng, công đức như thế.
Vị Phật Sa La Thụ Vương đó, có vô lượng đệ tử Bồ Tát, có vô lượng đệ tử Thanh Văn. Cõi nước Ðại Quang đó bằng phẳng, chẳng có chỗ lồi lõm. Hết thảy công đức trang nghiêm như thế.
Kỳ Vương tức thời dĩ quốc phó đệ, dữ phu nhân, nhị tử tinh chư quyến chúc, ư Phật Pháp trung xuất gia tu đạo.
Vua Diệu Trang Nghiêm lập tức đem cõi nước giao cho người em, cùng với phu nhân, hai người con, và các quyến thuộc, ở trong Phật pháp xuất gia tu đạo.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Vua Diệu Trang Nghiêm sau khi nghe Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói như thế rồi, thì lập tức xả bỏ ngôi vua, đem đất nước giao phó cho người em cai trị, cùng phu nhân, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, hai người con và các quyến thuộc, xuất gia tu đạo với Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.’’
“Vương xuất gia dĩ, ư bát vạn tứ Thiên tuế, thường cần tinh tấn tu hành diệu Pháp Hoa Kinh.” Qua thị dĩ hậu, đắc nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm tam muội, tức thăng hư không, cao thất Ta la thụ, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thử ngã nhị tử, dĩ tác Phật sự, dĩ thần thông biến hóa chuyển ngã tà tâm, lệnh đắc an trụ ư Phật Pháp trung, đắc kiến Thế Tôn.
Vua xuất gia rồi, ở trong tám vạn bốn ngàn năm, thường siêng năng tinh tấn, tu hành Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua thời gian đó rồi, đắc được tam muội nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, bèn thăng lên hư không, cao khoảng bảy cây đa la, mà bạch với đức Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Hai người con của con đây, đã làm việc Phật sự, dùng thần thông biến hóa chuyển hóa tâm tà của con, khiến cho con an trụ vào trong Phật pháp, được thấy đức Thế Tôn.
Sau khi Vua Diệu Trang Nghiêm xuất gia rồi, ở trong tám vạn bốn nghìn năm, thường siêng năng tinh tấn, chẳng giải đãi, dũng mãnh tinh tấn tu hành Kinh Pháp Hoa. Qua thời gian đó rồi, đắc được tam muội nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, bèn vọt lên trong hư không cao khoảng bảy cây đa la (khoảng 49 trượng), bèn nói với Phật rằng : ‘’ Ðức Thế Tôn ! Hai người con của con đây, trong quá khứ đã làm Phật sự, hai vị đó dùng sức thần thông chuyển hóa tâm tà của con, khiến cho con được an ổn trụ trong Phật pháp. Nhờ vậy mà con mới được thấy Ðức Thế Tôn !’’
Thử nhị tử giả, thị ngã thiện tri thức, vi dục phát khởi tú thế thiện căn, nhiêu ích ngã cố, lai sanh ngã gia.
Hai người con đây là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành trong quá khứ, lợi ích cho con, mà đến sinh vào nhà con.
Vua Diệu Trang Nghiêm nói với Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Hai người con đây là thiện tri thức của con. Hai vị đó vì muốn phát khởi căn lành của con trong quá khứ, vì lợi ích cho nên mới đến sinh vào nhà của con. Nếu chẳng có hai vị đó khuyên hóa, thì con vẫn còn tin pháp tà’’
Nhĩ thời, Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật cáo Diệu trang nghiêm Vương ngôn: “Như thị, như thị ! Như nhữ sở ngôn. Nhược Thiện nam tử, thiện nữ nhân, chủng thiện căn cố, thế thế đắc thiện tri thức, kỳ thiện tri thức, năng tác Phật sự, thị giáo lợi hỉ, lệnh nhập A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Bây giờ, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bảo vua Diệu Trang Nghiêm rằng : Như thế, như thế ! Như lời ông nói. Nếu người thiện nam, người thiện nữ, gieo trồng căn lành, thì đời đời được gặp thiện tri thức. Thiện tri thức đó, hay làm Phật sự, khai thị giáo hóa, khiến cho được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ, khiến cho được vào A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo Vua Diệu Trang Nghiêm rằng : ‘’Như thế, như thế ! Ðúng như lời ông nói. Nếu như có người thiện nam, người thiên nữ, vì gieo trồng căn lành, cho nên đời đời kiếp kiếp đều được gặp thiện tri thức. Bậc thiện tri thức đó, dều hay làm đại Phật sự, khai thị chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh, sinh tâm hoan hỉ, khiến cho vào A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.’’
Đại Vương! Đương tri thiện tri thức giả thị Đại nhân duyên, sở vị hóa đạo lệnh đắc kiến Phật, phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề tâm.
Ðại vương nên biết ! Bậc thiện tri thức là đại nhân duyên, hay giáo hóa khiến cho được gặp Phật, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ bề.
Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói : ‘’Ðại Vương ! Ông nên biết, bậc thiện tri thức là đại nhân duyên.’’ Thiện tri thức là gì ? Nói đơn giản là giáo hóa chúng sinh, xa lìa tội lỗi mười điều ác, tu hành pháp thập thiện. Người học Phật pháp, phải có mắt chọn pháp, phàm là đại công vô tư, tất cả vì chúng sinh, đó là thiện tri thức. Nếu ích kỷ, chuyên nghĩ về lợi ích cho mình, đó tức là ác tri thức. Phải gần gũi thiện tri thức, xa lìa ác tri thức, nhận thức rõ ràng mới không bị họ hại mà được sự lợi ích.
Thiện tri thức hay giáo hóa dẫn dắt chúng sinh, thấy Phật nghe pháp, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Thiện Tài đồng tử đi tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức, đi khắp nơi cầu pháp, làm thế nào phát bồ đề tâm, làm thế nào hành Bồ Tát đạo, cuối cùng chứng được vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đại Vương! Nhữ kiến thử nhị tử bất, thử nhị tử, dĩ tằng cúng dường lục thập ngũ bách Thiên vạn ức na do tha Hằng hà sa chư Phật, thân cận cung kính, ư chư Phật sở thọ trì Pháp Hoa Kinh, mẫn niệm tà kiến chúng sanh, lệnh trụ chánh kiến.
Ðại vương ! Ông có thấy hai người con này chăng ! Hai người con này đã từng cúng dường, sáu mươi lăm trăm ngàn vạn ức na do tha Hằng hà sa chư Phật, gần gũi cung kính, ở chỗ chư Phật thọ trì Kinh Pháp Hoa, thương xót những chúng sinh tà kiến, mà khiến cho họ trụ vào chánh kiến.
‘’Ðại Vương ! Ông có thấy hai người con này của ông chăng ? Hai vị đó trong quá khứ, đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn vạn ức na do tha Hằng hà sa các Ðức Phật, gần gũi chư Phật, cung kính chư Phật, ở trong đạo tràng của chư Phật, đời đời kiếp kiếp đều thọ trì Kinh Pháp Hoa, thương xót những chúng sinh có tư tưởng tà kiến, khiến cho họ trụ vào chánh kiến ở trong Phật pháp.’’
Diệu trang nghiêm Vương tức tùng hư không trung hạ, nhi bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Như Lai thậm hy hữu, dĩ công đức trí tuệ cố, đảnh thượng nhục kế quang minh hiển chiếu, kỳ nhãn trường quảng nhi cám thanh sắc, my gian hào tướng bạch như kha nguyệt, xỉ bạch tề mật thường hữu quang minh, thần sắc xích hảo như Tần bà quả.”
Vua Diệu Trang Nghiêm bèn từ hư không đi xuống, mà bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Như Lai rất ít có, do nhờ công đức trí huệ, nên nhục kế ở trên đỉnh phóng ra quang minh chiếu sang, mắt của Ngài dài và rộng, có màu sắc xanh biếc, tướng hào quang giữa chặng mày trắng như ngọc kha, răng trắng vừa đều vừa khít, thường có quang minh, môi màu đỏ tươi như quả tần bà.
Vua Diệu Trang Nghiêm bèn từ hư không đi xuống, đến trước Ðức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, bạch rằng: ‘’Ðức Thế Tôn ! Như Lai rất ít có. Vì có tất cả công đức và nhất thiết trí huệ, cho nên trên đỉnh của Như Lai có tướng nhục kế, phóng quang minh, chiếu khắp mười phương. Mắt của Như Lai vừa dài vừa rộng, màu sắc xanh biếc. Giữa chặng mày của Như Lai có tướng hào quang trắng như ngọc kha. Răng của Như Lai vừa trắng, vừa đều, vừa khít, thường phóng quang minh. Môi của Như Lai màu đỏ tươi như quả tần bà.’’
Nhĩ thời Diệu trang nghiêm Vương, tán thán Phật như thị đẳng vô lượng bách Thiên vạn ức công đức dĩ, ư Như Lai tiền, nhất tâm hợp chưởng, phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Vị tằng hữu dã, Như Lai chi Pháp, cụ túc thành tựu bất khả tư nghị vi diệu công đức, giáo giới sở hạnh, an ổn khoái thiện.
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi vô lượng trăm ngàn vạn ức công đức của Phật như thế rồi, ở trước Như Lai một lòng chắp tay lại, bạch Phật rằng : Ðức Thế Tôn ! Chưa từng có vậy, pháp của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, giáo hóa chúng sinh, khiến cho được an ổn, vui sướng.
Lúc đó, vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng công đức như thế rồi, ở trước Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, một lòng chắp tay bạch Phật rằng : ‘’Ðức Thế Tôn ! Con chưa bao giờ thấy thân sắc đẹp trang nghiêm của Như Lai. Pháp của Như Lai nói rất viên mãn, thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn. Giáo hóa chúng sinh, đừng làm các điều ác, làm các việc lành, khiến cho chúng sinh được an ổn, vui sướng.’’
Ngã tùng kim nhật, bất phục tự tùy tâm hạnh, bất sanh tà kiến, kiêu mạn, sân khuể chư ác chi tâm. Thuyết thị ngữ dĩ, lễ Phật nhi xuất.
Bắt đầu từ nay, con chẳng tùy thuận tâm hành của mình nữa, chẳng sinh tâm tà kiến, kiêu mạn sân hận điều ác. Nói như thế rồi, bèn lễ Phật lui ra.
Vua Diệu Trang Nghiêm nói : ‘’ Từ nay trở đi, con chẳng tùy thuận vọng tâm đi làm việc nữa, chẳng theo tâm điên đảo làm việc nữa. Từ nay về sau chẳng sinh tâm tà kiến, chẳng sinh tâm kiêu mạn, chẳng sinh tâm ngã mạn, chẳng sinh tâm sân hận. Tóm lại, chẳng sinh tâm ác.’’ Vua Diệu Trang Nghiêm nói như thế rồi, năm thể lễ Phật sát đất, lễ rồi lui đứng về một bên, đợi Phật khai thị.
Phật cáo Đại chúng ; “Ư ý vân hà?” Diệu trang nghiêm Vương, khởi dị nhân hồ? Kim Hoa đức Bồ Tát thị. Kỳ tịnh đức phu nhân, kim Phật tiền quang chiếu trang nghiêm tướng Bồ Tát thị. Ai mẩn Diệu trang nghiêm Vương cập chư quyến chúc cố, ư bỉ trung sanh.
Ðức Phật bảo đại chúng ! Ý của các ông thế nào ? Vua Diệu Trang Nghiêm đâu phải là ai khác, nay là Bồ Tát Hoa Ðức, còn phu nhân Tịnh Ðức, nay là Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng, đang ở trước đức Phật. Vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc, nên sinh vào ở trong nước đó.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với đại chúng trong hội Pháp Hoa rằng : ‘’Trong tâm của đại chúng, các ông như thế nào ? Vua Diệu Trang Nghiêm mà ta nói đó, các ông có biết là ai chăng ? Tức hiện tại là Bồ Tát Hoa Ðức này vậy. Còn Tịnh Ðức phu nhân, tức hiện tại là Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng đang ở trước Phật vậy, vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và tất cả quyến thuộc, cho nên sinh vào ở trong nước đó, để làm vợ của vua, cảm hóa vua Diệu Trang Nghiêm cải tà quy chánh, tin sâu Phật pháp, thọ trì Kinh Pháp Hoa.’’
Kỳ nhị tử giả, kim Dược Vương Bồ Tát, dược thượng Bồ Tát thị. Thị Dược Vương, dược thượng Bồ Tát, thành tựu như thử chư Đại công đức, dĩ ư vô lượng bách Thiên vạn ức chư Phật sở thực chúng đức bổn, thành tựu bất khả tư nghị chư thiện công đức.
Hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, nay là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng, thành tựu các công đức lớn như thế. Ðã từng ở chỗ vô lượng trăm ngàn vạn ức các đức Phật, trồng các gốc công đức, thành tựu các công đức lành không thể nghĩ bàn.
Hai người con của vua là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, các ông có biết là ai chăng ? Tức là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng này vậy. Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng thành tựu các công đức lớn như thế, thật là không thể nghĩ bàn. Hai vị đó đã từng ở chốn đạo tràng của vô lượng trăm ngàn vạn ức các Ðức Phật, trồng các căn lành, trồng các gốc công đức, thành tựu các công đức lành không thể nghĩ bàn.
Nhược hữu nhân thức thị nhị Bồ Tát danh tự giả, nhất thiết thế gian chư Thiên Nhân dân diệc ưng lễ bái.
Nếu có ai biết được danh hiệu của hai vị Bồ Tát này, thì tất cả thế gian chư thiên, nhân dân, cũng nên lễ bái.
Nếu như có người nào, biết được hoặc nghe được danh hiệu của hai vị Bồ Tát đó, trì nơi tâm, nhớ mãi không quên, thì tấ cả chư thiên loài người, đều nên lễ bái Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng.
Phật thuyết thị Diệu trang nghiêm Vương bổn sự phẩm thời, bát vạn tứ Thiên nhân viễn trần ly cấu, ư chư Pháp trung đắc pháp nhãn tịnh.
Khi đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Vua Diệu Trang Nghiêm, thì có tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, ở trong các pháp đắc được pháp nhãn thanh tịnh.
Khi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn bốn ngàn người đắc được pháp ích, xa lìa trần lao, thoát khỏi trần cấu, ở trong các pháp đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Quán sát được tất cả pháp thế gian là vô thường, khổ không, vô ngã. Biết được pháp xuất thế là thường, lạc, ngã, tịnh.