Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp
Phật Sở Hộ Niệm
phụng chiếu dịch
Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Giảng Giải:
Hoà Thượng Tuyên Hoá
— o0o —
Phẩm Hóa Thành Dụ
‘’Hóa’’ là từ huyễn hóa mà ra, chứ chẳng phải thật có. Nó từ tinh thần giác ngộ triệt để của Phật hiển hiện ra. Nghĩa là gì? Tức là muốn hàng nhị thừa phát đại tâm, xa lìa hiện chứng tất cả tướng, Phật hiện ra cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn. Kì thật, Phật vốn nói ‘’hóa thành’’ chẳng tồn tại, như nay hóa hiện ra, cho nên tên phẩm nầy là ‘’Phẩm Hóa Thành Dụ’’.
Trước hết, chúng ta phải hiểu hóa thành nầy, vốn một vật cũng chẳng có, nó là hư vọng không thật, nên gọi là hóa thành, do Phật biến hóa ra. Phật mở bày môn phương tiện nầy, để cứu độ chúng sinh, đều chẳng phải là chân thật. Một thật pháp môn đại thừa mới là mục đích cứu kính.
Có người hỏi: ‘’Nếu tất cả đều không chân thật, vậy ích lợi của nó ở chỗ nào‘’? Nếu bạn chẳng hiểu rõ gì là không chân thật, thì bạn cũng chẳng cách chi tìm ra được chân thật. Hóa thành nầy là ví dụ pháp môn nhị thừa: Pháp của hành Thanh Văn thừa và Duyên Giác thừa. Vì pháp nhị thừa nầy đều là pháp của Phật phương tiện dẫn dắt, cho nên nói hóa thành nầy là vì hàng nhị thừa nói hữu dư Niết bàn chẳng cứu kính. Ý nghĩa Niết Bàn là không sinh không diệt.
Phật dùng phương tiện trí huệ mở bày ra pháp nhị thừa. Tại sao? Ví như chúng ta đi học phải từ tiểu học đến trung học, từ trung học đến đại học. Hàng nhị thừa giống như trình độ tiểu học, Bồ Tát thừa thuộc về trình độ trung học, Phật thừa thì trình độ cao nhất, tức dũng là đại học. Thật chẳng phải đại học có thể so sánh. Phật pháp vốn chẳng có gì cao thấp, song Phật dùng pháp môn phương tiện để dẫn dắt tất cả chúng sinh, giống như trẻ con, trước hết phải để cho chúng học tiểu học, hấp thụ được kiến thức tiểu học.
Trong Phật pháp, mục tiêu và điểm chủ yếu nhất là thấy, thấy cả chúng sinh đều có Phật tính, đều sẽ thành Phật. Song, nếu Phật ban đầu nói pháp nầy cho chúng sinh nghe, thì chúng sinh chắt chắn sẽ sợ khổ chẳng muốn tin nhận, tâm sinh sợ hãi, cho nên Phật mở bày pháp môn quyền xảo phương tiện, để giáo hóa dẫn dụ chúng sinh.
Có bốn phương pháp để giải thích ý nghĩa Phật nói phẩm nầy:
- Căn cứ nhân duyên.
- Căn cứ về chính yếu của giáo pháp.
- Căn cứ về căn tính của chúng sinh.
- Căn cứ quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh.
1- Căn cứ về nhân duyên: Chúng sinh dừng lại ở trên con đường tu hành, chẳng muốn tiến bước về trước, trụ nơi pháp không, cho rằng đã đạt được chỗ cứu kính, đây là một quan niệm của hàng nhị thừa, các Ngài đạt được hữu dư Niết Bàn, làm cảnh giới cao nhất vô thượng, cho nên Phật khai quyền hiển thật, phá chấp trước của các Ngài, khiến cho các Ngài thâm nhập đại trí huệ tạng của Phật, liễu ngộ pháp chân thật chẳng có thể tính, vì hàng nhị thừa trên đường tu đạo chẳng tiến bước nữa, mà bỏ giữa đường, do đó Phật dùng pháp môn phương tiện, dùng ‘’hóa thành’’ làm ‘’thành tạm nghỉ‘’ cho hàng nhị thừa, để họ khỏi đọa lạc vào đường ác, do đó tạm thị hiện ‘’hoá thành’’.
2- Căn cứ về chính yếu của giáo pháp: Hàng nhị thừa coi giáo pháp của tiểu thừa, là giáo pháp viên mãn nhất, cho rằng hữu dư Niết Bàn là vô dư Niết Bàn, cứu kính không sinh không diệt, cho nên họ chỉ nguyện tự cầu giải thoát, mà chẳng muốn độ thoát chúng sinh, Phật thấy họ là tiêu nha bại chủng của Phật giáo, nên Phật chê trách hàng nhị thừa, chẳng giống như Bồ Tát, tự lợi lợi tha, tự giác giác tha. Bồ Tát rất sợ tất cả sáu nẻo chúng sinh đọa lạc vào đường ác, cho nên luôn luôn cứu độ chúng sinh, thoát khỏi biển khổ, Bồ Tát có tâm từ bi bình đẳng, có tinh thần vô úy đảo giá từ thuyền, phát nguyện ‘’độ hết tất cả chúng sinh, mới chứng Bồ đề‘’, mà Phật muốn hàng nhị thừa cũng hồi tiểu hướng đại, phát tâm đại Bồ đề, học hạnh Bồ Tát, cho nên phải vì họ nói ra giáo pháp đại thừa.
3- Căn cứ vào căn tính chúng sinh: Phật là đấng Thế Tôn đại từ đại bi, khi Phật thành đạo rồi, trong hai mươi mốt ngày, vì Bồ Tát đại thừa mà nói Kinh Hoa Nghiêm.
Lúc đó hàng nhị thừa có mắt chẳng thấy được Lô Xá Na, có tai chẳng nghe được giáo lý viên đốn, đủ thấy căn tính của hàng nhị thừa cạn hẹp. Song, Phật chẳng muốn bỏ không cứu độ một chúng sinh nào, cho nên vì hàng nhị thừa nói pháp tứ diệu đế và mười hai nhân duyên, để cho các Ngài tinh tấn tu hành, tăng trưởng căn lành, siêu phàm nhập thánh, cuối cùng mới hiển bày một thừa giáo pháp chân thật.
4- Căn cứ quán sát tâm hạnh của tất cả chúng sinh: Phật quán sát tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có thể sẽ thành Phật, nên mới khai quyền hiển thật, nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, để phá trừ chấp trước và tâm ích kỷ tự lợi của chúng sinh, chẳng chướng ngại cơ hội các Ngài thành Phật.
Phật cáo chư Tỳ kheo: Nãi vãng quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị a tăng kì kiếp, Nhĩ thời hữu Phật, danh đại thông trí thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Kỳ quốc danh Hảo Thành, kiếp danh Đại tướng.
Ðức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: “Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp đã qua, lúc bấy giờ có đức Phật hiệu Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Nước đó tên là Hảo Thành, kiếp tên Ðại tướng.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng: Về thuở quá khứ, vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, bấy giờ có đức Phật hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Nước đó tên là Hảo Thành, kiếp đó tên là Ðại Tướng. Các Tỳ Kheo! Ðức Phật đó diệt độ đến nay, rất là lâu xa.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các chúng Tỳ Kheo rằng: Trong quá khứ vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn. Lúc đó, có một vị Phật hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, Ngài có thần thông quảng đại và đại trí huệ, đầy đủ mười hiệu của Phật, tức là:
Như Lai: Như như bất động, tịch chiếu thường minh, biểu thị thể tính đức.
Ứng Cúng: Những gì cần làm đã làm xong, biểu thị từ bi nguyện đức.
Chánh Biến Tri: Lý trí vô ngại, viên dung khắp hết thảy, đầy đủ chánh tri chánh kiến, chẳng có gì mà không biết, biểu hiện lý trí đức.
Minh Hạnh Túc: Minh tức là được quả bồ đề vô thượng, hạnh túc là giới huệ đầy đủ, biểu thị tu nhân đắc quả đức, cũng gọi là biểu thị thần thông đức.
Thiện Thệ Thế Gian Giải: Vào vô dư Niết Bàn, biết rõ tất cả việc hữu tình và phi hữu tình, biểu thị đoạn chứng trí đức.
Vô Thượng Sĩ: Trong tất cả chúng, Phật là vô thượng, biểu thị trụ vị đức.
Ðiều Ngự Trượng Phu: Dùng lời diệu hòa, lời khổ thiết, khiến cho họ vào đường lành, biểu thị giáo chủ đức.
Thiên Nhân Sư: Như mặt trời chiếu khắp, hết thảy đều được lợi ích, đạo sư của trời người, biểu thị phổ lợi đức.
Phật: Ba giác cứu kính viên mãn, biểu thị giác quả đức.
Thế Tôn: Vạn đức tròn, phước đức đầy, bậc tôn kính của thế gian và xuất thế gian, biểu thị viên mãn đức.
Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng có một cõi nước tên là Hảo Thành, vì nhân dân trong cõi nước của Ngài đều rất thiện lương, kiếp đó tên là Ðại Tướng.
Chư Tỳ kheo! Bỉ Phật diệt độ dĩ lai, thậm đại cửu viễn, thí như tam Thiên đại Thiên thế giới sở hữu địa chủng, giả sử hữu nhân ma dĩ vị mặc, qua ư Đông phương Thiên quốc độ nãi hạ nhất điểm, Đại như vi trần, hựu qua Thiên quốc độ phục hạ nhất điểm, như thị triển chuyển tận địa chủng mặc. Ư nhữ đẳng ý vân hà, thị chư quốc độ, nhược toán sư, nhược toán sư đệ tử, năng đắc biên tế, tri kỳ số bất?
Các Tỳ Kheo! Từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng trong cõi tam thiên đại thiên, giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một nghìn cõi nước ở phương đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn cõi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lầ lựa chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ý các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó hoặc thầy toán có thể biết đặng ngằn mé số đó chăng? “
Các Tỳ Kheo! Vị Phật đó, ở trong kiếp quá khứ lâu xa không thể nói, đã vào cảnh giới Niết Bàn không sinh không diệt, thời gian bao lâu? Phật nói ra ví dụ ở dưới đây.
Ví như tất cả đất đai của ba ngàn đại thiên thế giới. Giả sử có người đem mài ra thành mực, rồi đi qua phương đông, cách một ngàn cõi nước, mới chấm xuống một chút, lớn như hạt bụi. Rồi đi qua một ngàn cõi nước nữa, lại chấm xuống một chút. Như thế, lần lược chấm hết mực mài bằng đất đai, ý của các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó, hoặc thầy toán, hoặc đệ tử của thầy toán, có thể biết được bờ mé của số đó chăng?
Bất dã, Thế Tôn! Chư Tỳ kheo! Thị nhân sở Kinh quốc độ, nhược điểm bất điểm, tận mạt vị trần, nhất trần nhất kiếp; bỉ Phật diệt độ dĩ lai, phục qua thị số vô lượng vô biên bách Thiên vạn ức a tăng kì kiếp. Ngã dĩ Như Lai tri kiến lực cố, quán bỉ cửu viễn, do nhược kim nhật.
Thưa Thế Tôn! Không thể biết! Các Tỳ Kheo! Những cõi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức a tăng kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay .
– Không vậy, đức Thế Tôn.
Các Tỳ Kheo! Cõi nước của người đó đi qua, hoặc chấm mực, hoặc không chấm mực, đều nghiền hết ra làm bụi, cứ một hạt bụi là một kiếp. Từ khi đức Phật đó diệt độ đến nay, lại lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp.
Ví như, có người dùng cõi nước ba ngàn đại thiên thế giới mài ra thành mực, rồi đi qua phương đông cách một ngàn cõi nước, thì chấm xuống một chấm mực nhỏ như hạt bụi, lại trải qua một ngàn cõi nước, lại chấm xuống một chấm mực, cứ như thế chấm hết số mực đã mài ra, có tính đếm được số cõi nước chấm mực chăng? Bạn thấy như thế nào? Giả sử, nhà toán thuật, hoặc đệ tử của họ cùng nhau tính đếm số mực nầy, họ có tính được số mực nầy chăng? Tất cả các vị Tỳ Kheo đều thưa: ‘’Không thể được, đức Thế Tôn‘’.
Các chúng Tỳ Kheo! Cõi nước của người đó đi qua, có chấm mực hoặc không chấm mực, đều nghiền ra làm bụi, dùng một hạt bụi làm một kiếp, mà Phật Ðại Thông Trí Thắng đã vào Niết Bàn, trải qua số kiếp lâu hơn số đó, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức A Tăng kỳ kiếp.
Ta dùng sức tri kiến của Như Lai, xem thuở lâu xa đó, như ngày hôm nay. Phật là bậc Nhất thiết trí, dùng thiền định tam muội, nên đức Phật thấy kiếp lâu xa như thế, như ngày hôm nay, chẳng lâu dài.
Nhĩ thời Thế Tôn dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Ngã niệm quá khứ thế, Ta nhớ đời quá khứ
Vô lượng vô biên kiếp, Vô lượng vô biên kiếp
Hữu Phật lượng túc tôn, Có Phật Lưỡng Túc Tôn
Danh đại thông trí thắng. Hiệu Ðại Thông Trí Thắng
Khi đó, đức Phật muốn thuật lại ý nghĩa kinh trường hàng ở trên, nên dùng kệ để nói. Ta nhớ thuở trong đời quá khứ vô lượng vô biên kiếp số, có một vị Phật, đầy đủ phước huệ viên mãn, Phật đó hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Phật.
Như nhân dĩ lực ma, Như người dùng sức mài
Tam Thiên Đại Thiên độ, Cõi tam thiên đại thiên
Tận thử chư địa chủng, Hết tất cả địa chủng
Giai tất dĩ vị mặc. Thảy đều làm thành mực
Qua ư Thiên quốc độ, Quá hơn nghìn cõi nước
Nãi hạ nhất trần điểm, Bèn chấm mỗi điểm trần
Như thị triển chuyển điểm, Như thế lần lựa chấm
Tận thử chư trần mặc. Hết các mực trần nầy .
Như thị chư quốc độ, Bao nhiêu cõi nước đó
Điểm dữ bất điểm đẳng, Ðiểm cùng chẳng điểm thảy
Phục tận mạt vị trần, Lại đều nghiền làm bụi
Nhất trần vị nhất kiếp. Một bụi làm một kiếp
Thử chư vi trần số, Kiếp số lâu xa kia
Kỳ kiếp phục quá thị, Lại nhiều hơn số bụi
Bỉ Phật diệt độ lai, Phật đó diệt đến nay
Như thị vô lượng kiếp. Vô lượng kiếp như thế
Ví như có người đem cõi nước ba ngàn đại thiên thế giới, đều mài ra làm mực, sau đó đi qua một ngàn cõi nước, chấm xuống một chấm nhỏ, rồi lại đi qua một ngàn cõi nước, cũng chấm xuống một chấm mực, cho đến lần lược chấm hết số mực đó. Các cõi nước người đó đi qua, chấm mực hoặc chẳng chấm mực, đều nghiền ra làm bụi, mỗi hạt bụi là một kiếp, Phật Ðại Thông Trí Thắng diệt độ đến nay, nhiều hơn số bụi đó vô lượng kiếp.
Như Lai vô ngại trí, Trí vô ngại của Phật
Tri bỉ Phật diệt độ, Biết Phật đó diệt độ
Cập Thanh văn Bồ Tát, Và Thanh Văn Bồ Tát
Như kiến kim diệt độ. Như hiện nay thẩy diệt.
Chư Tỳ kheo đương tri! Các Tỳ Kheo nên biết.
Phật trí tịnh vi diệu, Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu vô sở ngại, Vô lậu và vô ngại
Thông đạt vô lượng kiếp. Suốt thấu vô lượng kiếp.
Phật đầy đủ trí huệ viên dung vô ngại, đều biết Phật Ðại Thông Trí Thắng và hàng Thanh Văn Bồ Tát đã diệt độ, như thấy được các Ngài hiện tại vừa diệt độ. Các Tỳ Kheo! Các ông phải biết trí huệ của Phật rất thanh tịnh, vi tế và áo diệu, chẳng có lậu, cũng chẳng có gì quái ngại, thông đạt vô lượng số kiếp.
Phật cáo chư Tỳ kheo: Đại thông trí thắng Phật thọ ngũ bách tứ thập vạn ức na do tha kiếp. Kỳ Phật bổn tọa đạo tràng, phá ma quân dĩ, thùy đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhi chư Phật Pháp bất hiện tại tiền.
Như thị nhất tiểu kiếp nãi chí thập tiểu kiếp, kiết già phu tọa, thân tâm bất động, nhi chư Phật Pháp do bất tại tiền. Nhĩ thời Đao Lợi chư Thiên, tiên vi ỉ Phật ư Bồ Đề thụ hạ phu sư tử tọa, cao nhất do tuần, Phật ư thử tọa đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo: “Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na do tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá ma rồi, sắp đặng đạo vô thượng chánh đẳng, chánh giác mà Phật pháp chẳng hiện ra trước.
Như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân và tâm đều không động mà các Phật pháp còn chẳng hiện ra trước. Thuở đó, các vị trời Ðao Lợi ở dưới cội cây Bồ Ðề đã trước vì đức Phật đó mà trải toà Sư tử cao một do tuần, Phật ngồi nơi tòa nầy sẽ đặng đạo vô thượng, chánh đẳng, chánh giác.
Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo! Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng, sống lâu năm trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi đức Phật đó, ngồi đạo tràng phá ma quân rồi, sắp được đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà các Phật pháp chẳng hiện ra ở trước, đức Phật ngồi kiết già như thế một tiểu kiếp, cho đền mười tiểu kiếp, thân và tâm đều bất động, mà các Phật pháp cũng chẳng hiện ra.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Ðao Lợi, trước đã vì đức Phật đó, làm tòa sư tử ở dưới cội bồ đề cao một do tuần. Ðức Phật ngự lên tòa đó, sẽ được Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo các Tỳ Kheo ở trong hội rằng: Phật Ðại Thông Trí Thắng sống lâu đến năm trăm bốn mươi vạn ức Na do tha kiếp. Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng ngồi dưới Bồ Ðề đạo tràng, phá tất cả ma quân rồi. Phàm là người tu đạo chứng quả, đều phải trải qua cửa ải ma khảo nghiệm. Phật Thích Ca Mâu Ni, trước khi thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cũng phải trải qua sự khảo nghiệm. Khi Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cội Bồ đề nhập định, thì ma vương phái một đám biến thành thiếu nữ xinh đẹp, để nhiễu loạn thiền định của Phật.
Lúc đó, Phật đã đoạn sạch tất cả mọi dục niệm và vọng tưởng, xa lìa sự ràng buộc. Quán vạn sự vạn vật trong vũ trụ như mộng như huyễn, hà huống là đối với một đám mỹ nữ ở trước mặt, càng như như bất động, liễu liễu thường minh, Phật bèn nói với chúng rằng: ‘’Tuy bây giờ các người còn trẻ đẹp đẽ, song khi về già thì tóc bạc mặt nhăn xấu xí như bà lão, các ngươi bất quá chỉ là túi da hôi thối chứa đầy đồ dơ bẩn mà thôi’’! Khi đám mỹ nữ nghe Phật nói như thế, thì chúng biết mỹ nhân kế của chúng chẳng thành công, do đó chúng nhìn xem diện mạo của chúng, thì quả nhiên biến thành những bà già xấu xí, bỏ nhau chạy đi hết.
Trước khi tất cả các vị thành Phật đạo, đều phải trải qua sự khảo nghiệm, cho nên hàng phục được tất cả thiên ma ngoại đạo, mới đạt được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lúc đó, Phật Ðại Thông Trí Thắng ngồi kiết già, thân tâm bất động, nhập định, song vẫn chưa thành Phật đạo, cho nên Phật pháp chưa xuất hiện ra trước, như thế trải qua một tiểu kiếp, cho đến mười tiểu kiếp, Phật pháp vẫn chưa hiện tiền.
Thích tọa thử tọa, thời chư phạm Thiên Vương vũ chúng Thiên hoa, diện bách do tuần, hương phong thời lai, xuy khứ nuy hoa, cánh vũ tân giả. Như thị bất tuyệt, mãn thập tiểu kiếp, cúng dường ư Phật, nãi chí diệt độ thường vũ thử hoa.
Khi Phật vừa ngồi trên tòa đó các trời Phạm Thiên Vương rưới những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới mãi như thế không ngớt mãn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thường rưới hoa nầy.
Khi Phật ngồi lên tòa đó, thì các vị Phạm Thiên Vương mưa xuống các hoa trời, khắp một trăm do tuần. Gió thơm lại đến thổi đi các hoa héo, rồi mưa xuống hoa tươi, cứ như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp, để cúng dường đức Phật. Cho đến sau khi đức Phật diệt độ, vẫn luôn luôn mưa xuống các hoa trời.
Tứ Vương chư Thiên vị cúng dường Phật, thường kích Thiên cổ, kỳ dư chư Thiên tác Thiên kỹ nhạc, mãn thập tiểu kiếp, chí vu diệt độ diệc phục như thị. Chư Tỳ kheo! Đại thông trí thắng Phật qua thập tiểu kiếp, chư Phật chi Pháp nãi hiện tại tiền, thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Các trời Tứ Thiên Vương vì cúng dường Phật nên thường đánh trống trời . Ngoài ra các vị trời khác trỗi kỹ nhạc trời, mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế. Các Tỳ Kheo! Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật quá mười tiểu kiếp các Phật pháp hiện ra trước thành đạo Vô Thượng chánh đẳng chánh giác.
Bốn vị Tứ Thiên Vương vì cúng dường đức Phật, mà thường đánh trống trời, còn các vị trời khác, thì tấu nhạc trời, trọn mười tiểu kiếp, đến khi đức Phật diệt độ cũng lại như thế.
Bấy giờ, chư thiên cõi trời Ðao Lợi, vì Ðức Phật đó, chuẩn bị thiết lập tòa sư tử dưới cội bồ đề, cao một do tuần (bốn mươi dặm). Ðức Phật bèn ngồi trên tòa đó, sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lúc đó, chư thiên Phạm Thiên Vương mưa xuống các hoa trời, rải khắp nơi một trăm do tuần, một trận gió thơm thổi đến, thổi các hoa héo đi, lại mưa xuống các hoa tươi, tiếp tục như thế không ngừng, trọn mười tiểu kiếp để cúng dường Phật.
Sau khi Phật diệt độ rồi, chư thiên vẫn mưa hoa trời xuống như thường lệ. Khi đó, Tứ Thiên Vương thường đánh trống trời, tấu nhạc trời để cúng dường Phật, còn chư thiên các cõi trời khác, thì thường tấu đủ thứ nhạc trời, tiếp tục như thế trọn mười tiểu kiếp, cho đến khi Phật diệt độ rồi cũng lại như thế.
Các Tỳ Kheo! Phật Ðại Thông Trí Thắng trải qua mười tiểu kiếp, các Phật pháp mới hiện ra ở trước, thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phật Thích Ca lại bảo các Tỳ Kheo nói rằng: Phật Ðại Thông Trí Thắng trải qua mười tiểu kiếp, Phật pháp mới xuất hiện ở trước, Ngài mới thật sự thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, rộng vì chúng sinh, chuyển đại pháp luân.
Kỳ Phật vị xuất gia thời, hữu thập lục tử, kỳ đệ nhất giả danh viết trí tích. Chư tử các hữu chủng chủng trân dị ngoạn hảo chi cụ, văn phụ đắc thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, giai xả sở trân, vãng nghệ Phật sở. Chư mẫu thế khấp nhi tùy tống chi.
Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con trai, người con cả tên Trí Tích. Các người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng đặng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác đều bỏ đồ báu của mình đi đến chỗ Phật. Các người mẹ khóc lóc theo đưa.
Trước khi vị Phật đó chưa xuất gia, thì Ngài có mười sáu người con. Người con cả thứ nhất tên là Trí Tích. Ngài đầy đủ đại trí huệ, mỗi người con đều có công đức báu phước đức quý khác nhau, đầy đủ đồ chơi quý báu đẹp lạ.
Song, khi các vị đó nghe người cha đắc được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đều lập tức bỏ hết các đồ chơi quý báu đẹp lạ, đi đến chỗ Phật thành đạo. Bà mẹ của các Ngài khóc lóc rơi lệ, cùng đi với các Ngài đến gặp Phật. Tại sao bà mẹ đau buồn như thế? Vì mười sáu người con của bà ta, đều muốn bỏ mẹ đi theo Phật tu đạo.
Kỳ tổ Chuyển luân Thánh Vương, dữ nhất bách đại thần cập dư bách Thiên vạn ức nhân dân, giai cộng vi nhiễu, tùy chí đạo tràng. hàm dục thân cận đại thông trí thắng Như Lai, cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán. đáo dĩ, đầu diện lễ túc, nhiễu Phật tất dĩ, nhất tâm hợp chưởng, chiêm ngưỡng Thế Tôn , dĩ kệ tụng viết:
Ông nội là vua Chuyển Luân Thánh Vương, cùng một trăm vị đại thần và trăm nghìn muôn ức nhơn dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo tràng, mọi người đều đến gần gũi đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt mình lạy chơn Phật, đi vòng quanh đức Phật xong, đều chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, rồi nói kệ khen Phật:
Lúc đó, ông nội của các Ngài là Chuyển Luân Thánh Vương, dẫn một trăm vị đại thần và trăm ngàn vạn ức nhân dân, đều cùng vây quanh để đi đến đạo tràng nơi Phật thành đạo, để gần gũi Phật Ðại Thông Trí Thắng, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Phật. Ðến chốn Phật rồi, tất cả đều năm thể sát đất, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi một lòng chấp tay, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Sau đó, dùng bài kệ để tán thán Phật.
Đại uy đức Thế Tôn , Thế Tôn oai đức lớn
Vị độ chúng sanh cố, Vì muốn độ chúng sanh
U vô lượng ức kiếp, Trong vô lượng ức năm
Nhĩ nãi đắc thành Phật, Bèn mới đặng thành Phật
Chư nguyện dĩ cụ túc, Các nguyện đã đầy đủ
Thiện tai cát vô thượng. Hay thay lành vô thượng
Thế Tôn thậm hy hữu, Thế Tôn rất ít có
Nhất tọa thập tiểu kiếp, Một phen ngồi mười kiếp
Thân thể cập thủ túc, Thân thể và tay chơn
Tĩnh nhiên an bất động. Yên tịnh không hề động
Kỳ tâm thường phạ, Tâm Phật thường lặng
Vị tằng hữu tán loạn, Chưa từng có tán loạn
Cứu cánh vĩnh tịch diệt, Trọn rốt ráo vắng bặt
An trụ vô lậu Pháp. An trụ pháp vô lậu
Kim giả kiến Thế Tôn , Ngày nay thấy Thế Tôn
An ổn thành Phật đạo, An ổn thành Phật đạo
Ngã đẳng đắc thiện lợi, Chúng con được lợi lành
Xưng khánh đại hoan hỉ. Mừng rỡ rất vui đẹp.
Chúng sanh thường khổ não, Chúng sanh thường đau khổ
Manh minh vô Đạo sư, Ðui mù không Ðạo Sư
Bất thức khổ tận đạo, Chẳng biết đạo dứt khổ
Bất tri cầu giải thoát. Chẳng biết cầu giải thoát
Trường dạ tăng ác thú, Lâu ngày thêm nẻo ác
Giảm tổn chư Thiên Chúng, Giảm tổn các chúng trời
Tùng minh nhập ư minh, Từ tối vào nơi tối
Vĩnh bất văn Phật danh. Trọn chẳng nghe danh Phật.
Kim Phật đắc tối thượng, Nay Phật đặng vô thượng
An ổn vô lậu đạo, Ðạo an ổn vô lậu
Ngã đẳng cập Thiên Nhân, Chúng ta và trời người
Vị đắc tối Đại lợi, Vì đặng lợi lớn tột
Thị cố hàm khể thủ, Cho nên đều cúi đầu
Quy mạng vô thượng tôn. Quy mạng đấng vô thượng.
Ðức Thế Tôn là bậc có đại oai đức nhất trong thế gian, vì cứu độ tất cả sáu nẻo chúng sinh chịu khổ trong mười phương, mà trải qua vô lượng ức kiếp trang nghiêm vạn hạnh, mới được thành Phật đạo, đầy đủ viên mãn thệ nguyện đã phát ra từ trước. Cho nên, nói: Nếu ai chân chánh muốn phát tâm tu đạo, thì phải phát đại thệ nguyện. Mười phương chư Phật thành tựu Phật quả, đều phát thệ nguyện vô thượng và tâm bồ đề rộng lớn, tại sao chúng ta ở trong sự tu đạo chịu khổ chẳng được? Hoặc sinh tâm thối chuyển? Vì chúng ta chẳng thật sự đem chân tâm ra để tu đạo, chưa từng phát tâm thệ nguyện kim cang kiên cố Ba la mật.
Phật là bậc cát tường thù thắng nhất, vô thượng nhất, rất hiếm có trên thế gian. Phật hay nhập vào thiền định thâm sâu, như thế trải qua mười tiểu kiếp thời gian lâu dài, song thân thể tay chân của Phật vẫn vắng lặng an nhiên chẳng động, tâm của Ngài xa lìa tất cả điên đảo mộng tưởng, chẳng có ô nhiễm một chút bụi, cho nên chẳng tán loạn.
Phật rốt ráo đắc được viên giác vĩnh hằng, an trụ ở trong thường tịch quang, lấy pháp vô lậu, mở bày hàng nhị thừa. Như hôm nay chúng con được thấy Ðức Thế Tôn an ổn thành tựu Phật đạo, vì đắc được lợi ích tốt lành, cho nên chúng con biểu lộ vui mừng hớn hở.
Tất cả sáu nẻo chúng sinh thường chịu các sự thống khổ bức bách, như người mù, mất đi đạo sư dẫn dắt, chẳng biết con đường lìa khổ, chẳng biết làm thế nào để ra khỏi sinh tử luân hồi, cứ tạo tội nghiệp chồng chất. Chúng sinh điên đảo trầm luân ở trong đường ác, bị vô minh che lấp đi trí huệ Phật tính, tội nghiệp chướng ngại, cho nên chẳng nghe được hồng danh của Ðức Phật.
Như nay Phật đắc được vô thượng, Phật đạo an ổn, chúng con và tất cả trời người như tối có đèn, đều được lợi ích rất lớn, cho nên chúng con năm thể sát đất, cuối đầu đảnh lể, một lòng quy mạng đấng Thế Tôn Vô Thượng.
Khi chúng ta một lòng quy y Phật Pháp Tăng Tam Bảo, tức là bắt đầu học tập Phật pháp, trước hết phải khử trừ ‘’ngã tướng‘’. Ví như phải xả mình vì người, chẳng tồn tâm tổn người lợi mình .v.v. Tất cả phiền não đều do chấp trước vào ngã tướng (tướng ta) tham dục mà khởi, song phải làm cho được chẳng còn có tướng ta, thật không dễ dàng. Cho nên, chúng ta phải đem thân tâm tính mạng quy y Tam Bảo, nương theo pháp của Phật nói mà tu hành, thì nhất định phải xả bỏ ngã chap, và ba độc tham sân si phiền não, được vô vi khoái lạc tự tại hằng thường, chẳng còn thọ thân sau nữa.
Nhĩ thời thập lục Vương tử kệ tán Phật dĩ, khuyến thỉnh Thế Tôn chuyển ư Pháp luân, hàm tác thị ngôn: Thế Tôn thuyết Pháp, đa sở an ổn, liên mẫn, nhiêu ích chư Thiên Nhân dân. Trọng thuyết kệ ngôn:
Bấy giờ mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân, đều thưa rằng: “Ðức Thế Tôn nói pháp được an ổn, thương xót làm lợi ích cho các trời và nhơn dân”. Lại nói kệ rằng:
Khi mười sáu vị vương tử khen ngợi Ðức Phật rồi, các Ngài lại thỉnh Phật chuyển bánh xe diệu pháp. Chuyển bánh xe pháp như thế nào? Diễn nói bốn diệu đế, mười hai nhân duyên, cho đến sáu độ Ba la mật kinh điển giáo nghĩa, giải nói nghĩa lý Phật pháp, đều là chuyển bánh xe pháp; còn có nhiều phương tiện lìa khổ được vui, tứ thiền bát định .v.v. Chuyển bánh xe pháp như hộ trì Tam bảo, khen ngợi Tam Bảo, tuyên dương Phật pháp, khuyên người khác tín ngưỡng Phật giáo .v.v., đó đều là chuyển bánh xe pháp lợi ích chúng sinh.
Mười sáu vị đồng tử lại dị khẩu đồng âm nói: ‘’Ðức Thế Tôn! Thỉnh Ngài vì chúng con nói Phật pháp vô thượng, khiến cho chúng con tất cả chúng sinh được an ổn, xin Ngài thương xót và lợi ích tất cả trời người.’’ Lại nói kệ khen ngợi Phật.
Thế hùng vô đẳng luân, Ðức Phật không ai bằng
Bách phước tự trang nghiêm, Trăm phước tự trang nghiêm
Đắc vô thượng trí tuệ, Ðặng trí huệ vô thượng
Nguyện vị thế gian thuyết. Nguyện vì đời nói pháp
Độ thoát ư ngã đẳng, Ðộ thoát cho chúng con
Cập chư chúng sanh loại, Và các loài chúng sanh
Vị phân biệt hiển thị, Xin phân biệt chỉ bày
Lệnh đắc thị trí tuệ. Cho đặng trí huệ Phật
Nhược ngã đẳng đắc Phật, Nếu chúng con cũng thành Phật
Chúng sanh diệc phục nhiên. Chúng sanh cũng được thế
Thế Tôn tri chúng sanh, Thế Tôn biết chúng sanh
Thâm tâm chi sở niệm, Thâm tâm nghĩ tưởng gì
Diệc tri sở hành đạo, Cũng biết đạo chúng làm
Hựu tri trí tuệ lực, Lại biết sức trí huệ
Dục lạc cập tu phước, Muốn ưa và tu phước
Tú mạng sở hạnh nghiệp. Nghiệp gây tạo đời trước
Thế Tôn tất tri dĩ, Thế Tôn biết cả rồi
Đương chuyển vô thượng luân. Nên chuyển pháp Vô thượng.
Phật là đấng Thánh hùng xuất thế gian. Chúa Ðại hùng thế gian không thể sánh với đại Thánh Tôn! Ba A Tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng ruộng phước, vạn đức trang nghiêm tướng tốt, đầy đủ oai nghi. Phật là đại Thánh hùng vô thượng của thế gian, cho nên xưng là ‘’Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn‘’. Vì Phật trong ba A tăng kỳ kiếp tu phước huệ, trong trăm kiếp vun bồi tướng tốt trang nghiêm viên mãn, Phật đắc được trí huệ vô thượng, cho nên Phật vì tất cả chúng sinh thế gian nói ra pháp vi diệu, khiến cho chúng con xa lìa biển khổ, sớm lên bờ giác ngộ. Vì nhân duyên của mười hai loài chúng sinh, đều hiển bày khác nhau, khiến cho chúng con đắc được trí huệ vô thượng, Phật quả bồ đề.
Nếu chúng con đều thành Phật đạo, thì tất cả sáu nẻo chúng sinh thảy đều như thế. Ðức Thế Tôn biết rõ tâm của tất cả chúng sinh, nghĩ gì và nguyện gì, Phật biết hết sức trí huệ của họ có bao nhiêu, nghĩ muốn được bao nhiêu thiện lạc, tích tập bao nhiêu phước đức, tạo bao nhiêu tội nghiệp, cho nên Phật đều biết đều thấy, nên Phật chuyển bánh xe pháp.
Phật cáo chư Tỳ kheo: Đại thông trí thắng Phật đắc A nậu đa la tam miểu tam Bồ Đề thời, thập phương các ngũ bách vạn ức chư Phật thế giới lục chủng chấn động, kỳ quốc trung gian u minh chi xử, nhật nguyệt uy quang sở bất năng chiếu, nhi giai Đại Minh. Kỳ trung chúng sanh, các đắc tướng kiến, hàm tác thị ngôn: Thử trung vân hà hốt sanh chúng sanh, hựu kỳ quốc giới, chư Thiên cung điện, nãi chí phạm cung, lục chủng chấn động; đại quang phổ chiếu, biến mãn thế giới, thắng chư Thiên quang.
Phật bảo các Tỳ Kheo: Lúc Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật đặng quả Vô Thượng chánh đẳng chánh giác, trong mười phương, mỗi phương đều năm trăm muôn ức các cõi nước Phật sáu điệu vang động. Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sáng của nhựt nguyệt không soi tới đặng mà đều sáng rỡ. Trong đó chúng sanh đều đặng thấy nhau, đồng nói rằng: “Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh?”. Lại trong các cõi đó cung điện của chư Thiên cho đến Phạm Cung sáu điệu vang động, hào quang lớn soi cùng khắp đầy cõi nước, sáng hơn ánh sáng của trời .
Phật Thích Ca lại bảo các Tỳ Kheo rằng: ‘’Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng được quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Cháng Giác, thì trong mười phương, mỗi phương đều có năm trăm vạn ức thế giới của chư Phật, đều hiện sáu thứ chấn động.
Lúc đó, trong tất cả cõi nước đó, phàm là chỗ nào tối tăm, ánh sáng mặt trời mặt trăng không thể chiếu đến được, thì nay đều xuất hiện ánh sáng. Chúng sinh ở đây thấy rõ được tất cả, họ bèn nói rằng: ‘’Chúng sinh từ đâu đến’’? (kì thật trước kia họ sống trong bóng tối, có cũng chẳng thấy, cho nên nói chẳng có chúng sinh tồn tại. Bây giờ, bỗng có ánh sáng, mới thấy có chúng sinh khác).
Lại nữa, ở trong phạm vi những cõi nước đó, tất cả Thiên cung cho đến cung điện của Phạm thiên, đều hiện sáu thứ chấn động, được quang minh chiếu khắp, đầy các thế giới. Quang minh đó sáng hơn tất cả quang minh của chư Thiên, hơn ánh sáng của mặt trời mặt trăng mấy ngàn vạn lần.
Nhĩ thời Đông phương ngũ bách vạn ức chư quốc độ trung, phạm Thiên cung điện quang minh chiếu diệu, bội ư thường minh. Chư phạm Thiên Vương các tác thị niệm: “Kim giả cung điện quang minh, tích sở vị hữu. Dĩ hà nhân duyên nhi hiện thử tướng. Thị thời chư phạm Thiên Vương, tức các tướng nghệ, cọng nghị thử sự. “
Bấy giờ, phương Ðông, năm trăm muôn ức các cõi nước, cung điện của trời Phạm Thiên ánh sáng soi chói gấp bội hơn ánh sáng thường ngày, các Phạm Thiên Vương đều tự nghĩ rằng: “Hôm nay cung điện sáng suốt từ xưa chưa từng có, vì nhơn duyên gì mà hiện điềm tốt này?”
Khi đó, ở phương đông các cung điện của trời Phạm Thiên, trong năm trăm vạn ức cõi nước, đều được ánh sáng chiếu sáng, ánh sáng đó hơn ánh sáng thường gấp ngàn vạn lần.
Lúc đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương đều sinh ra hoài nghi: ‘’Như hôm nay cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy, từ xưa chưa từng có, bởi nhân duyên gì mà nay hiện ra tướng điềm lành nầy’’?
Do đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương, đều tự tìm đến cùng nhau, thảo luận về việc ánh sáng chiếu đến cung điện.
Thời bỉ chúng trung, hữu nhất. Đại phạm Thiên Vương, danh Cứu nhất thiết, vị chư phạm chúng nhi thuyết kệ ngôn:
Lúc đó các vị Phạm Thiên Vương liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Trong chúng có một vị Phạm Thiên Vương lớn tên Cứu Nhứt Thiết vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Lúc đó, trong chúng trời Phạm Thiên Vương, có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Cứu Nhất Thiết, vì tất cả chúng Phạm Thiên mà nói ra bài kệ.
Ngã đẳng chư cung điện, Các cung điện chúng ta
Quang minh tích vị hữu, Sáng suốt xưa chưa có
Thử thị hà nhân duyên, Ðây là nhơn duyên gì
Nghi các cộng cầu chi. Phải nên chung nhau tìm
Vị Đại Đức Thiên sanh, Là trời đại đức sanh
Vị Phật xuất thế gian, Hay là Phật ra đời
Bi thử đại quang minh, Mà ánh sáng lớn này
Biến chiếu ư thập phương. Khắp soi cả mười phương.
Các cung điện của chúng ta được ánh sáng chiếu đến, đây là ánh sáng không thể nghĩ bàn chưa từng có. Ðây là nhân duyên gì? Chúng ta đều cùng nhau đi tìm ánh sáng nầy từ đâu đến? Theo ý của tôi thì, đây có thể là một vị đại đức Thánh nhân ra đời, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời, nên mới có ánh sáng như thế, chiếu khắp mười phương thế giới.
Nhĩ thời ngũ bách vạn ức quốc độ chư phạm Thiên Vương, dữ cung điện câu, các dĩ y kích, thịnh chư Thiên hoa, cọng nghệ Tây phương thôi tầm thị tướng.
Kiến đại thông trí thắng Như Lai xử vu đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, tọa sư tử tọa, chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, khẩn na la, Ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng, cung kính vây quanh, cập kiến thập lục Vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức cõi nước, các vị Phạm Thiên Vương cùng chung với cung điện. mỗi vị đều lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đi đến phương Tây suy tì tướng sáng đó.
Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử ở nơi đạo tràng dưới cội Bồ Ðề, hàng chư Thiên, Long Vương, Cà Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhơn và phi nhơn v.v… cung kính vây quanh đức Phật chuyển pháp luân;
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương đông, đều mang theo cung điện của họ cùng bay đi. Phàm là người trời đều có thể bay đi tự tại, chẳng những như thế, mà họ còn có thể mang theo cung điện của họ cùng đi, rất thuận tiên tự tại, và họ còn dùng túi đựng đầy các hoa trời, đồng đi đến phương tây, để tìm nguồn gốc tướng ánh sáng đó, thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử tại đạo tràng dưới cội Bồ đề.
Lúc đó, tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thác Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người và chẳng phải người .v.v… đều cùng nhau đến cung kính vây quanh Ðức Phật. Họ lại thấy mười sáu vị vương tử, đang thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp.
Tức thời chư phạm Thiên Vương đầu diện lễ Phật, nhiễu bách Thiên tạp, tức dĩ Thiên hoa nhi tán Phật thượng kỳ sở tán hoa Như Tu Di Sơn; Tinh dĩ cúng dường Phật Bồ Đề thụ kỳ Bồ Đề thụ cao thập do tuần.
Hoa cúng dường dĩ, các dĩ cung điện phụng thượng bỉ Phật, nhi tác thị ngôn: Duy kiến ai mẩn, nhiêu ích ngã đẳng. sở hiến cung điện, nguyện thùy nạp thọ. Thời chư phạm Thiên Vương, tức ư Phật tiền, nhất tâm đồng thanh dĩ kệ tụng viết:
Tức thời các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa của mấy ông rải nhóm như núi Tu Di, cùng để cúng dường cây Bồ đề của Phật, cây Bồ đề đó cao mười do tuần.
Cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: “Xin đức Phật đoái thương lợi ích cho chúng con, cung điện dưng cúng đây xin nhận ở.” Lúc đó, các vị Phạm thiên vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Tức thời, các vị Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ đức Phật, nhiễu trăm ngàn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật, hoa rải xuống nhiều như núi Tu Di, cùng để cúng dường cây bồ đề của Phật. Cây bồ đề đó cao mười do tuần, cúng dường hoa xong, ai nấy đều đem cung điện dâng lên đức Phật đó, mà bạch rằng: Xin đức Phật thương xót lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây, xin đức Phật hãy nhận để ở.
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương ở trước đức Phật, một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng.
Thế Tôn thậm hy hữu, Thế Tôn rất ít có
Nan khả đắc trực ngộ, Khó thể gặp gỡ đặng
Cụ vô lượng công đức, Ðủ vô lượng công đức
Năng cứu hộ nhất thiết. Hay cứu hộ tất cả
Thiên Nhân chi Đại sư, Thầy lớn của trời người
Ai mẩn ư thế gian, Thương xót ở trong đời
Tphương chư chúng sanh, Mười phương các chúng sanh
Phổ giai mông nhiêu ích. Khắp đều nhờ lợi ích.
Ngã đẳng sở tòng lai, Chúng con từng theo đến
Ngũ bách vạn ức quốc, Năm trăm muôn ức nước
Xả thâm Thiền định nhạo, Bỏ vui thiền định sâu
Vị cúng dường Phật cố. Vì để cúng dường Phật
Ngã đẳng tiên thế phước, Chúng con phước đời trước
Cung điện thậm nghiêm sức, Cung điện rất tốt đẹp
Kim dĩ phụng Thế Tôn , Nay đem dưng Thế Tôn
Duy nguyện ai nạp thọ. Cúi xin, thương nạp thọ .
Khi đó, tất cả các vị Phạm Thiên Vương, đều đảnh lễ dưới chân đức Phật, cung kính đi nhiễu chung quanh Ðức Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời của họ rải ở trên thân Ðức Phật, hoa rải ra nhiều như núi Tu Di, lại dùng hoa trời để cúng dường cây Bồ đề của Phật. Cây Bồ đề đó cao mười do tuần, cúng dường như thế rồi, các vị Ðại Phạm Thiên Vương, ai nấy đều đem cung điện mà họ ưa thích nhất, để dâng cúng Ðức Phật.
Sau đó nói: ‘’Chư Phật từ bi thương xót chúng con, lợi ích cho chúng con mà nhận cung điện của chúng con dâng cúng.’’ Nói xong rồi, tất cả vị Phạm Thiên Vương đều quỳ xuống ở trước Phật, một lòng đồng tiếng, nói kệ.
Ðức Thế Tôn! Ngài là đấng Thánh Tôn ít có nhất trên đời, rất khó gặp nhất, Phật đầy đủ vô lượng công đức nên thành Phật. Chúng ta tất cả chúng sinh, cũng phải đầy đủ vô lượng công đức, mới có cơ hội gặp được Phật. Phật hay cứu hộ tất cả chúng sinh, Ngài là đạo sư của trời người, Phật hay từ bi thương xót tất cả chúng sinh thế gian, hay lợi ích khắp tất cả chúng sinh.
Chúng con tất cả các Phạm Thiên Vương, từ năm vạn ức cõi nước đến đây, vì muốn tìm ánh sáng nầy, cho nên bỏ sự vui thiền định thâm sâu. Nếu người tu đạo, một ngày chẳng chứng được cảnh giới vui thiền định, thì thái độ đều cẩu thả, người chân chánh đắc được vui thiền định, thì rất hoan hỉ tham thiền đả tọa. Thấy tất cả thế gian vạn sự vật đều rất an lạc, mà các chư Thiên nầy, tuy chứng được thiền định, song chưa dứt sinh tử thoát khỏi tam giới, do đó, khi họ thấy được ánh sáng nầy, ai nấy cũng đều muốn bỏ vui thiền định, để đi tìm nguyên do của ánh sáng nầy, cũng vì muốn cúng dường Phật mà đến, lại nói với Phật: Chúng con thuở xưa tại nhân địa, tu các phước báu, mới có được cung điện tốt đẹp trang nghiêm nầy, hiện nay gặp được Phật, chúng con dâng cúng cung điện nầy lên Ðức Phật, cúi xin Phật thương xót tiếp nhận sự cúng dường của chúng con.
Nhĩ thời chư phạm Thiên Vương kệ tán Phật dĩ, các tác thị ngôn: duy nguyện Thế Tôn chuyển ư Pháp luân, độ thoát chúng sanh, khai Niết Bàn đạo. Thời chư phạm Thiên Vương, nhất tâm đồng thanh nhi thuyết kệ ngôn:
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi thưa rằng: “Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân, độ thoát chúng sanh mở đường Niết bàn. ” Khi ấy, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ rằng:
Thế hùng lượng túc tôn, Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn
Duy nguyện diễn thuyết Pháp, Cúi xin diễn nói pháp
Dĩ đại từ bi lực, Dùng sức từ bi lớn
Độ khổ não chúng sanh. Ðộ chúng sanh khổ não.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói bài kệ khen Ðức Phật rồi, họ cùng nhau bạch rằng: ‘’Cúi xin Ðức Thế Tôn hãy vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp, độ thoát tất cả chúng sinh chịu khổ, xin Phật từ bi mở con đường Niết bàn‘’. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương lại một lòng đồng thanh nói ra bài kệ.
Ðức Thế Tôn! Ngài là đấng Ðại Thánh Hùng vô thượng trong thế gian, vạn đức viên mãn, phước huệ đều đủ. Cúi xin Ðức Thế Tôn vì chúng con chúng sinh diễn nói diệu pháp, hy vọng nhờ sức đại từ bi của Ðức Thế Tôn, để độ thoát sự khổ ràng buộc của chúng con và chúng sinh, đều ra khỏi biển khổ sinh tử, sớm lên bờ giác ngộ.
Nhĩ thời đại thông trí thắng Như Lai, mặc nhiên hứa chi hựu, chư Tỳ kheo! Đông Nam phương ngũ bách vạn ức quốc độ chư Đại Phạm Vương, các tự kiến cung điện quang minh chiếu diệu, tích sở vị hữu. hoan hỉ dũng dược, sanh hy hữu tâm, tức các tướng nghệ, cọng nghị thử sự. Thời bỉ chúng trung hữu nhất Đại phạm Thiên Vương, danh viết đại bi, vị chư phạm chúng nhi thuyết kệ ngôn:
Lúc đó đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai lắng yên nhận lời đó. Lại nữa các Tỳ Kheo! Phương đông nam năm trăm muôn ức cõi nước các vị Phạm Thiên Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu, liền cùng đến nhau chung bàn việc đó. Lúc ấy trong chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương tên là Ðại Bi, vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Bấy giờ, đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời. Lại nữa, các Tỳ Kheo! Phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Ðại Phạm Vương, đều thấy ánh sáng chiếu sáng cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, thảy đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu, bèn cùng nhau đi đến bàn về việc nầy. Lúc đó, trong chúng đó có một vị Ðại Phạm Thiên Vương, tên là Ðại Bi, vì các chúng Phạm Thiên mà nói kệ rằng:
Thị sự hà nhân duyên, Việc đó nhơn duyên gì
Nhi hiện như thử tướng? Mà hiện tướng như thế?
Ngã đẳng chư cung điện, Các cung điện chúng ta
Quang minh tích vị hữu. Sáng suốt xưa chưa từng có
Vị Đại Đức Thiên sanh? Là trời đại đức sanh
Vị Phật xuất thế gian? Hay là Phật ra đời?
Vị tằng kiến thử tướng, Chưa từng thấy tướng nầy
Đương cọng nhất tâm cầu. Nên chung một lòng cầu
Qua Thiên vạn ức độ, Quá nghìn muôn ức cõi
Tầm quang cọng thôi chi, Theo luồng sáng tìm đến
Đa thị Phật xuất thế, Phần nhiều Phật ra đời
Độ thoát khổ chúng sanh. Ðộ thoát khổ chúng sanh .
Lúc đó, Ðức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai im lặng nhận lời, sự thỉnh cầu của các vị Phạm Thiên Vương.
Phật nói: Ở phương đông nam, có năm trăm vạn ức cõi nước, tất cả các vị Ðại Phạm Thiên Vương, đều thấy các cung điện của họ, đều hiện ánh sáng chiếu sáng, từ xưa chưa từng có, do đó họ đều hớn hở vui mừng, sinh tâm hy hữu. Họ tụ lại với nhau cùng thảo luận vấn đề nầy.
Lúc đó, ở trong chúng hội đó, có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Ðại Bi, vì tất cả các Phạm Thiên Vương, mà nói ra bài kệ. Việc nầy rất là thù thắng, cho nên hiện tướng điềm tốt nầy, chiếu đến cung điện của chúng ta. Ánh sáng nầy từ xưa chưa từng có, chắc chắn là có vị đại đức từ trên trời hàng sinh xuống, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời. Ðây là cảnh giới chúng ta chưa từng thấy qua, nên cùng nhau đi tìm nguyên do.
Do đó, trải qua ngàn vạn ức cõi nước, để đi tìm nguyên nhân của ánh sáng đó. Theo sự suy đoán của tôi, phần nhiều chắc chắn là có vị Phật xuất hiện ra đời, để độ thoát tất cả chúng sinh khổ não.
Nhĩ thời ngũ bách vạn ức chư phạm Thiên Vương dữ cung điện câu, các dĩ y kích thịnh chư Thiên hoa, cọng nghệ Tây Bắc phương thôi tầm thị tướng. Kiến đại thông trí thắng Như Lai, xử vu đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, tọa sư tử tọa, chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, khẩn na la, Ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng, cung kính vây quanh, cập kiến thập lục Vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng chung với cung điện, lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đến phương Tây Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ Ðề, các hàng chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, nhơn cùng phi nhơn v.v… cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, đều mang theo cung điện đi với, ai nấy cũng đều dùng túi đựng đầy hoa trời, cùng đi đến phương tây bắc, để tìm tướng đó, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai, ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Chư thiên, Long vương, Càn thác bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân .v.v… thảy đều cung kính vây quanh, và thấy mười sáu vị vương tử, đang thỉnh đức Phật chuyển pháp luân.
Lúc đó, ở phương đông nam, năm trăm vạn ức các Phạm Thiên Vương đều mang theo cung điện của họ, cùng nhau đi tìm ánh sáng nầy. Mỗi vị Ðại Phạm Thiên Vương, đều dùng túi đựng đầy hoa trời, chuẩn bị dùng để rải hoa cúng dường mười phương chư Phật, họ đều đi về hướng tây bắc để tìm tướng ánh sáng đó.
Lại thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội Bồ đề. Tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, chẳng phải người .v.v., đều cung kính vây quanh Ðức Phật, lại thấy mười sáu người con của Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng, đang thỉnh Phật chuyển bánh xe diệu pháp.
Thời chư phạm Thiên Vương đầu diện lễ Phật, nhiễu bách Thiên tạp, tức dĩ Thiên hoa nhi tán Phật thượng sở tán chi hoa Như Tu Di Sơn, tinh dĩ cúng dường Phật Bồ Đề thụ. hoa cúng dường dĩ, các dĩ cung điện phụng thượng bỉ Phật, nhi tác thị ngôn: “Duy kiến ai mẩn, nhiêu ích ngã đẳng. Sở hiến cung điện, nguyện thùy nạp thọ. “
Khi ấy các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật, đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao, cùng để cúng dường cây Bồ Ðề của Phật . Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: “Xin Phật thương xót lợi ích cho chúng con, những cung điện dưng đây cúi xin nhận ở “.
Lúc đó, hết thảy các vị Ðại Phạm Thiên Vương đảnh lễ dưới chân của Ðức Phật, và nhiễu trăm ngàn vòng. Nhiễu Phật xong rồi, thì dùng hoa trời của họ mang đến rải lên thân Phật, hoa rải lên cúng Phật nhiều như núi Tu Di, chẳng những cúng dường Ðức Phật, mà còn cúng dường cây Bồ đề của Phật. Cúng dường rồi, mỗi vị Ðại Phạm Thiên Vương đều đem cung điện của họ mang đến, dâng lên cúng dường Phật Ðại Thông Trí Thắng, và nói:
‘’Cúi xin đức Phật từ bi thương xót chúng con, lợi ích chúng con, hiện nay cung điện dâng cúng là cung điện báu đẹp của chúng con, xin Phật hãy nhận lãnh‘’. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước, ở trước đức Phật một lòng đồng cất tiếng, dùng kệ để khen ngợi Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng.
Nhĩ thời chư phạm Thiên Vương tức ư Phật tiền, nhất tâm đồng thanh dĩ kệ tụng viết:
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thánh chủ Thiên trung Vương, Thánh Chúa vua trong trời
Ca lăng tần già thanh, Tiếng Ca Lăng Tần Già
Ai mẩn chúng sanh giả, Thương xót hàng chúng sanh
Ngã đẳng kim kính lễ. Chúng con nay kính lễ.
Thế Tôn thậm hy hữu, Thế Tôn rất ít có
Cửu viễn nãi nhất hiện, Lâu xa một lần hiện
Nhất bách bát thập kiếp, Một trăm tám mươi kiếp
Không quá vô hữu Phật. Luống qua không có Phật
Tam ác đạo sung mãn, Ba đường dữ dẫy đầy
Chư Thiên Chúng giảm thiểu, Các chúng trời giảm ít.
Kim Phật xuất ư thế, Nay Phật hiện ra đời
Vị chúng sanh tác nhãn. Làm mắt cho chúng sanh
Thế gian sở quy thú, Chỗ quy thú của đời
Cứu hộ ư nhất thiết, Cứu hộ cho tất cả
Vị chúng sanh chi phụ, Là cha của chúng sanh
Ai mẩn nhiêu ích giả. Thương xót làm lợi ích
Ngã đẳng tú phước khánh, Nhờ phước lành đời trước
Kim đắc trị Thế Tôn . Nay đặng gặp Thế Tôn .
Phật cũng gọi là Thánh Chúa, tức là Thánh Trung Thánh, Thiên Trung Thiên, cho nên còn gọi là Thiên Trung Vương. Ca lăng tần già là tiếng Phạn, dịch là “tiếng chim hay”. Ở thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà có loài chim nầy, thường dùng tiếng hay của nó, để tuyên dương pháp âm, tiếng của Phật thuyết pháp khiến cho người thích nghe, ai nghe được thì tâm tĩnh lặng, cũng giống như nghe được tiếng hay tốt của loài chim nầy, mà âm thanh đại từ bi của Phật thương xót tất cả chúng sinh.
Chúng con năm trăm vạn ức các Phạm Thiên Vương, nay hướng về đức Thế Tôn kính lễ. Ðức Thế Tôn! Ngài rất là ít có, rất khó được gặp! Vì Phật trải qua số kiếp lâu xa, mới xuất hiện ra đời. Theo chỗ chúng con biết, thì trong một trăm tám mươi kiếp đã qua, đều chẳng có Phật xuất hiện ra đời. Do đó, chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, ngày càng nhiều, song chư thiên chúng con ngày càng ít. Bây giờ, Phật xuất hiện ra đời, mà trước kia chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác đều vì họ chẳng nghe được pháp âm, chẳng phân biệt được thị phi trắng đen, tạo các nghiệp ác, vì chẳng có ai dẫn dắt họ, cho nên họ mê hoặc ở trong đen tối, Phật là thiện tri thức mắt sáng của tất cả chúng sinh, cho nên khi Phật xuất hiện ra đời, thì tất cả chúng sinh, đều được Phật chỉ dẫn con đường thoát khỏi đen tối nguy hiểm. Chúng sinh trong ba đường ác sẽ giảm bớt, còn chúng sinh ba đường lành sẽ thêm nhiều.
Tất cả chúng sinh thế gian đều về nương tựa với Phật, hướng về bồ đề giác đạo, Phật cứu hộ tất cả chúng sinh, cho nên Phật là cha đại từ bi của chúng con, còn chúng con đều là con bất hiếu của Phật.
Song, Phật rất thương xót lợi ích chúng con, nguyện độ chúng con sớm lên bờ giác. Chúng con các chư Thiên, đều vì đời trước đã từng làm công đức và việc lành, cho nên đời nầy mới may mắn được gặp Phật. Hiện nay chúng con nghe được pháp của Phật nói, đều do nhân duyên căn lành đời trước.
Nhĩ thời chư phạm Thiên Vương kệ tán Phật dĩ, các tác thị ngôn: Duy nguyện Thế Tôn ai mẩn nhất thiết, chuyển ư Pháp luân, độ thoát chúng sanh. Thời chư phạm Thiên Vương, nhất tâm đồng thanh nhi thuyết kệ ngôn:
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng: “Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả chuyển pháp luân cho, để độ thoát chúng sanh”. Lúc ấy, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ khen rằng:
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch rằng: Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả, chuyển bánh xe pháp, độ thoát chúng sinh. Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh nói bài kệ rằng.
” Đại thánh chuyển pháp luân, Ðại thánh chuyển pháp luân
Hiển thị chư Pháp tướng, Chỉ bày các pháp tướng
Độ khổ não chúng sanh, Ðộ chúng sanh đau khổ
Lệnh đắc đại hoan hỉ. Khiến đặng rất vui mừng
Chúng sanh văn thử pháp, Chúng sanh nghe pháp này
Đắc đạo nhược sanh Thiên, Ðặng đạo hoặc sanh thiên
Chư ác đạo giảm thiểu, Các đường dữ giảm ít
Nhẫn thiện giả tăng ích. Bực nhẫn thiện thêm nhiều .
Lúc đó, hết thảy các vị Ðại Phạm Thiên Vương, của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương đông nam, dùng kệ khen ngợi đức Phật rồi, bèn bạch Phật rằng: ‘’Hiện nay chúng con chỉ mong cầu Phật thương xót tất cả chúng sinh, vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp, dạy chúng con như thế nào để liễu sinh thoát tử, ly khổ đắc lạc.’’ Khi đó, tất cả Ðại Phạm Thiên Vương một lòng đồng cất tiếng nói ra bài kệ.
Hiện tại, chúng con thỉnh Ðức Phật chuyển bánh xe pháp, để giáo hóa chúng sinh. Chỉ rõ cho chúng con thật tướng của tất cả pháp, để độ thoát chúng sinh khổ não, khiến cho họ đều được vui mừng lớn. Chúng sinh nghe được pháp của Phật nói, thì sẽ lìa khổ được vui, chấm dứt sinh tử, nếu hay tu đạo, thì có thể sinh về ba đường lành, còn chúng sinh đọa lạc trong ba đường ác sẽ giảm bớt, người hay tu nhẫn nhục, giữ năm giới tu thập thiện, thì ngày càng thêm nhiều.
Nhĩ thời đại thông trí thắng Như Lai mặc nhiên hứa chi hựu.
Khi đó, đức Ðại Thông Trí Thắng Phật lặng yên nhận lời .
Chư Tỳ kheo! Nam phương ngũ bách vạn ức quốc độ chư Đại Phạm Vương, các tự kiến cung điện quang minh chiếu diệu, tích sở vị hữu. hoan hỉ dũng dược, sanh hy hữu tâm, tức các tướng nghệ, cọng nghị thử sự: Dĩ hà nhân duyên, ngã đẳng cung điện hữu thử quang diệu?
Lại nữa các Tỳ Kheo! năm trăm muôn ức cõi nước ở phương Nam các vị Ðại Phạm Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu liền đến cùng nhau chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng chói này?
Thời bỉ chúng trung hữu nhất Đại phạm Thiên Vương, danh viết diệu pháp, vị chư phạm chúng nhi thuyết kệ ngôn:
Trong chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương lớn tên là Diệu pháp, vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Ngã đẳng chư cung điện, Các cung điện chúng ta
Quang minh thậm uy diệu, Quang minh rất oai diệu
Thử phi vô nhân duyên, Ðây không phải không nhơn
Thị tướng nghi cầu chi. Tướng nầy phải tìm đó
Qua ư bách Thiên kiếp, Quá hơn trăm nghìn kiếp
Vị tằng kiến thị tướng, Chưa từng thấy tướng nầy
Vị Đại Đức Thiên sanh, Là trời đại đức sanh
Vị Phật xuất thế gian. Hay đức Phật ra đời?
Lúc bấy giờ, Phật Ðại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời. Phật bèn nói: ‘’Nầy các Tỳ Kheo! Các Ðại Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam, ai nấy đều nhìn thấy cung điện của mình ánh sáng chiếu soi, từ trước chưa từng thấy qua tướng điềm lành nầy, do đó họ đều vui mừng hớn hở, sinh tâm ít có, đều tụ tập lại cùng nhau thảo luận về việc nầy: Vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy? Lúc đó, ở trong hội có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Diệu Pháp, vì chúng hội Ðại Phạm Thiên Vương mà nói ra bài kệ.
Hiện nay cung điện của chúng ta ở, phát ra ánh sáng rất sáng rực, ánh sáng nầy chưa từng thấy qua, chắt chắn là có nhân duyên lớn, cho nên chúng ta phải đi tìm nhân duyên của tướng điềm lành nầy. Vì trong trăm ngàn kiếp quá khứ, chưa từng thấy qua tướng điềm lành nầy, đại khái là có bậc đức hạnh lớn, từ trên trời sinh xuống nhân gian, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời.
Nhĩ thời ngũ bách vạn ức chư phạm Thiên Vương dữ cung điện câu, các dĩ y kích thịnh chư Thiên hoa, cọng nghệ Bắc phương thôi tầm thị tướng. Kiến đại thông trí thắng Như Lai, xử vu đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, tọa sư tử tọa, chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng, cung kính vây quanh, cập kiến thập lục Vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức Phạm Thiên Vương cùng cung điện chung, mỗi vị dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội cây Bồ Ðề, hàng chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, Khẩn na La, Ma Hầu La Già, nhơn và phi nhơn v.v…, cung kính vây quanh, cùng thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Lúc bấy giờ, các vị Ðại Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam, đều mang theo cung điện của họ, và y trời của họ, thảy đều đầy ắp hoa trời, thân thể đều phát ra đủ thứ hương thơm, đây là phước báu của họ, lần nầy họ cũng dùng túi y mang đầy đủ thứ hoa trời, cùng nhau đi về phương bắc, để tìm tướng ánh sáng đó, thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề, thành đạo mà phát ra vô lượng ánh sáng không thể nghĩ bàn nầy.
Lúc đó, tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn Thát Bà, (thần nhạc trời), Khẩn Na La (chim đại bàng cánh vàng), Ma Hầu La Già (đại mãng xà), người, chẳng phải người, hết thảy đều cung kính vây quanh Ðức Phật.
Lại thấy mười sáu vị vương tử của Phật. Mười sáu vị vương tử nầy, đều đời đời kiếp kiếp phát nguyện làm con của Phật, hộ trì đạo tràng. Khi Phật thành đạo rồi, lại vì tất cả chúng sinh, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, đó đều là một thứ nhân duyên thù thắng.
Thời chư phạm Thiên Vương đầu diện lễ Phật, nhiễu bách Thiên tạp, tức dĩ Thiên hoa nhi tán Phật thượng sở tán chi hoa Như Tu Di Sơn, tinh dĩ cúng dường Phật Bồ Đề thụ. hoa cúng dường dĩ, các dĩ cung điện phụng thượng bỉ Phật, nhi tác thị ngôn: ”Duy kiến ai mẩn, nhiêu ích ngã đẳng. Sở hiến cung điện, nguyện thùy nạp thọ. “
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lễ Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao và để cúng dường cây Bồ Ðề của Phật. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đều đem cung điện dâng lên đức Phật mà thưa rằng: “Xin đức Phật đoái thương lợi ích chúng con, cung điện của chúng con dưng đây cúi xin nạp xử”.
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương của năm trăm vạn ức cõi nước ở phương nam, thảy đều năm thể (đầu, hai tay, hai chân) sát đất, cung kính đảnh lễ Ðức Phật, nhiễu Phật trăm ngàn vòng, lại dùng hoa trời mà họ mang đến rải lên Ðức Phật, hoa rải nhiều như núi Tu Di, và họ còn cúng dường cây bồ đề của Phật. Cúng dường hoa rồi, họ lại dâng cung điện quý báu nhất của họ, để cúng dường đức Phật Ðại Thông Trí Thắng, sau đó nói: ‘’Cúi xin đức Thế Tôn đại từ bi thương xót chúng con, tất cả chúng sinh, lợi ích cho chúng con, cung điện của chúng con dâng cúng đây, xin Ðức Phật từ bi nhận lấy, thỉnh Ðức Phật vào ở trong cung điện nầy.’’
Nhĩ thời chư phạm Thiên Vương, tức ư Phật tiền, nhất tâm đồng thanh dĩ kệ tụng viết:
Bấy giờ, các vị Ðại Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Lúc đó, tất cả Ðại Phạm Thiên Vương đều ở trước Phật, một lòng đồng thanh dùng kệ, để khen ngợi đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai.
Thế Tôn thậm nan kiến, Thế Tôn rất khó thấy
Phá chư phiền não giả, Bực phá các phiền não
Qua bách tam thập kiếp, Hơn trăm ba mươi kiếp
Kim nãi đắc nhất kiến. Nay mới thấy một lần
Chư cơ khát chúng sanh, Hàng chúng sanh đói khát
Dĩ Pháp vũ sung mãn, Nhờ mưa pháp đầy đủ
Tích sở vị tằng kiến, Xưa chỗ chưa từng thấy
Vô lượng trí tuệ giả, Ðấng vô lượng trí huệ
Như ưu đàm bát hoa, Như hoa Ưu Ðàm Bát
Kim nhật nãi trực ngộ. Ngày nay mới gặp gỡ
Ngã đẳng chư cung điện, Cung điện của chúng con
Mông quang cố nghiêm sức, Nhờ hào quang được đẹp
Thế Tôn đại từ bi, Thế Tôn đại từ mẫn
Duy nguyện thùy nạp thọ. Cúi xin thương nhận ở .
Trăm ngàn vạn kiếp rất khó gặp được Phật. Phật là bậc đại giác ngộ, đã phá trừ tất cả vô minh phiền não, tức cũng là bậc đại từ bi, hay phá tất cả phiền não của chúng sinh. Chúng con trải qua một trăm ba mươi đại kiếp đến nay, mới được gặp Phật, tất cả chúng sinh đói khác ở trong ba đường ác, đều được đượm nhuần mưa pháp của Phật, thuở xưa chưa từng gặp được Phật Pháp Tăng. Ðức Thế Tôn là bậc vô lượng vô biên đại trí huệ, như hoa Ưu Ðàm Bát chẳng dễ gì gặp được, mà chúng con nay gặp được Phật. Cung điện mà chúng con ưa thích đây, nay gặp được Phật, đều nguyện xả bỏ cung điện, nhờ quang minh của Phật trang nghiêm cung điện chúng con, thỉnh cầu đức Thế Tôn phát tâm đại từ bi thương xót, xin hãy nhận cung điện nầy.
Nhĩ thời chư phạm Thiên Vương kệ tán Phật dĩ, các tác thị ngôn: Duy nguyện Thế Tôn chuyển ư Pháp luân, lệnh nhất thiết thế gian chư Thiên, ma, phạm, Sa Môn, Bà la môn, giai hoạch an ổn nhi đắc độ thoát. Thời chư phạm Thiên Vương, nhất tâm đồng thanh dĩ kệ tụng viết:
Khi đó, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằng: “cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân làm cho tất cả thế gian các hàng trời, ma, phạm, sa môn, bà la môn đều được an ổn mà được độ thoát “. Lúc ấy các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng nói kệ rằng:
Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật rằng: Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả thế gian chư Thiên, ma vương, Phạm Vương, Sa môn, Bà la môn, đều được an ổn mà được giải thoát. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng thanh, nói bài kệ rằng.
Duy nguyện Thiên Nhân tôn, Cúi mong Thiên Nhơn Tôn
Chuyển vô thượng pháp luân, Chuyển pháp luân vô thượng
Kích vu đại pháp cổ, Ðánh vang pháp cổ lớn
Nhi xuy đại pháp loa, Thổi lên ốc pháp lớn
Phổ vũ đại pháp vũ, Khắp rưới pháp vũ lớn
Độ vô lượng chúng sanh. Ðộ vô lượng chúng sanh
Ngã đẳng hàm quy thỉnh, Chúng con đều qui thỉnh
Đương diễn thâm viễn âm. Nên nói tiếng sâu xa .
Bấy giờ, tất cả các vị Ðại Phạm Thiên Vương dùng kệ khen ngợi Phật rồi, họ khác miệng cùng tiếng nói: ‘’Cúi xin Ðức Thế Tôn vì chúng con, tất cả chúng sinh, chuyển bánh xe diệu pháp, khiến cho tất cả thế gian, các Thiên chúng, ma, Phạm vương, Sa môn, Bà La môn, đều được an ổn và khoái lạc, và được thoát khỏi khổ ba đường ác‘’.
Lúc đó, tất cả chúng Ðại Phạm Thiên Vương, một lòng đồng thanh dùng kệ để khen ngợi Phật: Chúng con cúi xin Phật Thế Tôn, được trời người tôn kính, vì chúng con chuyển bánh xe diệu pháp vô thượng, đánh trống pháp lớn, thổi ốc pháp lớn. Như âm thanh nầy sẽ vang khắp tận hư không, thậm chí chư Thiên ở trên trời, đều nghe được pháp âm nầy rất rõ ràng. Mưa pháp vũ xuống khắp mọi nơi, chỉ có pháp vi diệu của Phật, mới độ thoát được vô lượng vô biên chúng sinh. Chúng con thảy đều một lòng quy y Phật, thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, xin Phật hãy vì chúng con diễn nói pháp âm sâu xa nhất.
Nhĩ thời đại thông trí thắng Như Lai mặc nhiên hứa chi.
Khi đó, đức Ðại Thông Trí Thắng lặng yên nhận lời đó .
Tây Nam phương nãi chí hạ phương, diệc phục như thị. Nhĩ thời thượng phương ngũ bách vạn ức quốc độ chư Đại Phạm Vương, giai tất tự đổ sở chỉ cung điện quang minh uy diệu, Tích sở vị hữu. hoan hỉ dũng dược, sanh hy hữu tâm, tức các tướng nghệ, cọng nghị thử sự: Dĩ hà nhân duyên, ngã đẳng cung điện, hữu tư quang minh? Thời bỉ chúng trung hữu nhất Đại phạm Thiên Vương, danh viết Thi Khí, vị chư phạm chúng nhi thuyết kệ ngôn:
Phương Tây Nam nhẫn đến nước ở thượng phương, các vị Ðại Phạm Thiên Vương thảy đều tự thấy cung điện của mình ở ánh sáng chói rực từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu, liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng nầy? Lúc đó trong chúng có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Phương tây nam cho đến phương dưới, cũng lại như thế. Bấy giờ, phương trên có năm trăm vạn ức cõi nước, các vị Đại Phạm Thiên Vương, đều tự thấy ánh sáng, chiếu sáng rực cung điện của mình, từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở, sinh tâm hy hữu, đều tụ lại cùng nhau bàn về việc đó. Vì nhân duyên gì, mà cung điện của chúng ta có ánh sáng đó? Lúc đó, ở trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương, tên là Thi Khí, vì các chúng Đại Phạm Thiên, mà nói bài kệ rằng.
Kim dĩ hà nhân duyên, Nay vì nhân duyên gì?
Ngã đẳng chư cung điện, Cung điện của chúng ta
Uy đức quang minh diệu, Ánh sáng oai đức từng có?
Nghiêm sức vị tằng hữu. Trang nghiêm chưa từng có.
Như thị chi diệu tướng, Tướng tốt như thế đó
Tích sở vị văn kiến, Xưa chưa từng nghe thấy
Vị Đại Đức Thiên sanh? Là trời đại đức sanh
Vị Phật xuất thế gian? Hay là Phật ra đời?
Bấy giờ, Phật Ðại Thông Trí Thắng im lặng nhận lời. Phương tây nam cho đến phương dưới cũng đều như thế. Lúc đó, phương trên có các vị Ðại Phạm Thiên Vương, của năm trăm vạn ức cõi nước, đều thấy tướng ánh sáng chiếu sáng cung điện của họ, từ xưa chưa từng có, thấy rồi rất vui mừng hớn hở, sinh tâm ít có. Họ đều muốn biết nguyên do cảnh giới thù thắng nầy, do đó các vị Ðại Phạm Thiên Vương cùng nhau tụ lại để thảo luận, vì nhân duyên gì mà cung điện của họ đều có ánh sáng nầy?
Lúc đó, ở trong hội đó có một vị Ðại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí, vì tất cả chúng Ðại Phạm Thiên mà nói ra bài kệ.
Hiện nay, vì nhân duyên gì mà cung điện của chúng ta, được ánh sáng chiếu rực rỡ trang nghiêm từ xưa chưa từng có. Tướng tốt vi diệu nầy, xưa nay chúng ta chưa từng thấy qua, đại khái chắt là vị đại đức ở trên trời sinh xuống nhân gian, hoặc là có vị Phật xuất hiện ra đời.
Nhĩ thời ngũ bách vạn ức chư phạm Thiên Vương dữ cung điện câu, các dĩ y kích thịnh chư Thiên hoa, cọng nghệ hạ phương thôi tầm thị tướng. Kiến đại thông trí thắng Như Lai, xử vu đạo tràng Bồ Đề thụ hạ, tọa sư tử tọa, chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, khẩn na la, Ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng, cung kính vây quanh, cập kiến thập lục Vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng cung điện chung, mỗi vị đều dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương dưới suy tìm tướng sáng đó . Thấy đức Ðại Thông Trí Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội bồ đề, hàng chư Thiên, Long vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhơn và phi nhơn v.v… cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh đức Phật chuyển pháp luân.
Bấy giờ, ở phương trên có năm trăm vạn ức Ðại Phạm Thiên Vương, dùng kệ khen Ðức Phật rồi, họ bèn mang theo cung điện và dùng túi y đựng đầy đủ thứ hoa trời, cùng nhau đi về phương dưới để tìm nguyên nhân tướng nầy. Kết quả, họ thấy đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai đang ngồi trên tòa sư tử, nơi Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Hết thảy tất cả chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhân, phi nhân, thảy đều cung kính vây quanh đức Phật. Lại thấy mười sáu người con của đức Phật Ðại Thông Trí Thắng, đang thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp.
Thời chư phạm Thiên Vương đầu diện lễ Phật, nhiễu bách Thiên tạp, tức dĩ Thiên hoa nhi tán Phật thượng sở tán chi hoa Như Tu Di Sơn, tinh dĩ cúng dường Phật Bồ Đề thụ. hoa cúng dường dĩ, các dĩ cung điện phụng thượng bỉ Phật, nhi tác thị ngôn:
Lúc đó, các vị Phạm thiên vương đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật . Hoa rải nhóm như núi Diệu Cao và để cúng dường cây bồ đề của Phật . Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà bạch rằng:
Bấy giờ, tất cả các vị Đại Phạm Thiên Vương đều đảnh lễ Ðức Phật, lại nhiễu quanh Ðức Phật trăm ngàn vòng, dùng hoa trời rải lên trên Ðức Phật, hoa rải cúng Phật vô lượng vô biên nhiều như núi Tu Di, chẳng những họ dùng hoa để cúng dường Phật, mà họ còn cúng dường cây Bồ đề của Phật. Dùng hoa cúng dường xong rồi, ai nấy đều đem cung điện quý báu nhất của họ, dâng lên cúng dường đức Phật Ðại Thông Trí Thắng mà bạch rằng:
Duy kiến ai mẩn, Xin đức Phật thương xót
Nhiêu ích ngã đẳng. Vì lợi ích chúng con
Sở hiến cung điện, Cung điện dâng cúng đây
Nguyện thùy nạp thọ. Xin Đức Phật nhận ở
‘’Chúng con một lòng xin Phật thương xót chúng con, lợi ích chúng con, chúng con nguyện làm công đức trồng phước ở trước Tam Bảo, xin Ðức Phật hãy nhận cung điện nầy để ở.’’
Thời chư phạm Thiên Vương, tức ư Phật tiền, nhất tâm đồng thanh dĩ kệ tụng viết:
Lúc đó, các vị Phạm thiên vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Thiện tai kiến chư Phật, Hay thay! thấy các Phật
Cứu thế chi thánh tôn, Ðấng Thánh Tôn cứu Thế
Năng ư tam giới ngục, Hay ở ngục tam giới
Miễn xuất chư chúng sanh. Cứu khổ các chúng sanh
Phổ trí Thiên Nhân tôn, Thiên Nhơn Tôn trí khắp
Ai mẩn quần manh loại, Thương xót loài quần manh
Năng khai cam lộ môn, Hay khai môn cam lộ
Quảng độ ư nhất thiết. Rộng độ cho tất cả .
Ư tích vô lượng kiếp, Lúc xưa vô lượng kiếp
Không quá vô hữu Phật, Luống qua không có Phật
Thế Tôn vị xuất thời, Khi Phật chưa ra đời
Thập phương thường ám minh, Mười phương thường mờ tối
Tam ác đạo tăng trưởng, Ba đường dữ thêm đông
A Tu La diệc thịnh, A tu la cũng thạnh
Chư Thiên Chúng chuyển giảm, Các chúng trời càng bớt
Tử đa đọa ác đạo. Chết nhiều đọa ác đạo
Bất tùng Phật văn Pháp, Chẳng theo Phật nghe pháp
Thường hành bất thiện sự, Thường làm việc chẳng lành
Chúng con cảm thấy may mắn muôn phần, được gặp Phật. Phật là đấng Thánh Tôn cứu vớt chúng sinh khổ ở thế gian, hay khiến tất cả chúng sinh thoát ra khởi dục giới, sắc giới, và vô sắc giới, ba cõi ngục tù liễu sinh thoát tử, lìa khổ được vui. Phật cũng là bậc Ðạo Sư đầy đủ đại trí huệ, từ bi, khắp hết thảy trời người, thương xót tất cả chúng sinh hữu tình vô tình, phát tâm đại từ bi, khai mở pháp môn cam lồ, khiến cho tất cả chúng sinh được nghe pháp yếu mà bỏ mê về giác.
Phật là từ bi bình đẳng, cho nên rộng độ vô lượng Hằng hà sa số tất cả chúng sinh. Thuở xưa trải qua vô lượng vô biên đại kiếp, chưa từng có Phật xuất hiện ra đời.
Lúc đó, mười phương thế giới đều một màng tối u ám chẳng có ánh sáng, chúng sinh đọa lạc vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh càng ngày càng nhiều, và đường A tu la cũng rất hưng thịnh, vì chúng sinh chỉ biết tạo nghiệp, chẳng làm mười điều lành, chỉ làm mười điều ác, cho nên chúng chư thiên càng ngày càng giảm bớt. Do đó, đủ thấy đa số chúng sinh chết rồi, đều đọa vào ba đường ác.
Vì tất cả chúng sinh chưa từng thấy Phật, chưa từng nghe pháp, cho nên cũng chẳng biết tu hành như thế nào, chẳng biết giữ giới luật, rộng tu pháp lành, chỉ biết nhận giặc làm con, nhận đen làm trắng, tạo ra nhiều nghiệp ác, thì tự nhiên trồng xuống nhiều nhân ác.
Sắc lực cập trí tuệ, Sắc, lực, cùng trí huệ
Tư đẳng giai giảm thiểu. Các việc đều giảm ít
Tội nghiệp nhân duyên cố, Vì tội nghiệp nhơn duyên
Thất nhạo cập lạc tưởng, Mất vui cùng tưởng vui
Trụ ư tà kiến Pháp, Trụ trong pháp tà kiến
Bất thức thiện nghi tức, Chẳng biết nghi tắc lành
Bất mông Phật sở hóa, Chẳng nhờ Phật hóa độ
Thường đọa ư ác đạo. Thường đọa trong ác đạo .
Phật vị thế gian nhãn, Phật là mắt của đời
Cữu viễn thời nãi xuất, Lâu xa mới hiện ra
Ai mẩn chư chúng sanh, Vì thương các chúng sanh
Cố hiện ư thế gian. Nên hiện ở trong đời
Siêu xuất thành chánh giác, Siêu việt thành chánh giác
Ngã đẳng thậm hân khánh, Chúng con rất mừng vui
Cập dư nhất thiết chúng, Và tất cả chúng khác
Hỉ thán vị tằng hữu. Mừng khen chưa từng có
Ngã đẳng chư cung điện, Cung điện của chúng con
Mông quang cố nghiêm sức, Nhờ hào quang nên đẹp
Kim dĩ phụng Thế Tôn , Nay đem dưng Thế Tôn
Duy thùy ai nạp thọ. Cúi mong thương nhận ở
Nguyện dĩ thử công đức, Nguyện đem công đức này
Phổ cập ư nhất thiết, Khắp đến cho tất cả
Ngã đẳng dữ chúng sanh, Chúng con cùng chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo. Ðều đồng thành Phật đạo .
Do đó, chúng con thể suy lực yếu, trí huệ cũng ngày càng giảm bớt, đó đều do nhân duyên tạo ra quá nhiều tội ác. Tự tính vốn an lạc cũng mất đi, lạc vào tà tri tà kiến, chẳng biết thiện tri thức, chẳng được Phật giáo hóa, đời đời kiếp kiếp đều luân hồi ở trong ba đường ác. Phật là thiện tri thức mắt sáng của chúng ta, lâu xa nhiều kiếp mới xuất hiện ra đời. Phật vì thương xót tất cả chúng sinh mà xuất hiện ra đời, tu đạo được thành chánh giác. Chúng con và tất cả chúng sinh đều rất sung sướng, từ xưa chưa từng vui mừng và khen ngợi như thế. Cung điện của chúng con, nhờ ánh sáng của Phật chiếu sáng trang nghiêm hơn so với lúc trước, cho nên hiện nay chúng con xin dâng lên cúng dường Ðức Phật, xin Phật từ bi nhận sự cúng dường nầy của chúng con, và phát nguyện đem công đức nầy, hồi hướng khắp tất cả pháp giới chúng sinh, nguyện chúng con và tất cả chúng sinh, đều cùng thành Phật đạo.
Nhĩ thời ngũ bách vạn ức chư phạm Thiên Vương kệ tán Phật dĩ, các bạch Phật ngôn: Duy nguyện Thế Tôn chuyển ư Pháp luân, đa sở an ổn, đa sở độ thoát. Thời chư phạm Thiên Vương nhi thuyết kệ ngôn:
Khi đó, năm trăm muôn ức các vị Phạm thiên vương nói kệ khen đức Phật rồi, đều bạch Phật rằng: “Cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân, nhiều chỗ an ổn, nhiều chỗ độ thoát”. Lúc ấy các vị Phạm thiên vương đồng nói kệ rằng:
Khi đó, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên nói kệ khen đức Phật rồi, ai nấy đều bạch Phật rằng: Cúi xin đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, được nhiều sự an ổn, được nhiều sự độ thoát. Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương bèn nói bài kệ rằng:
Thế Tôn chuyển pháp luân, Thế Tôn chuyển pháp luân
Kích cam lộ pháp cổ, Ðánh trống pháp cam lộ
Độ khổ não chúng sanh, Ðộ chúng sanh khổ não
Khai thị Niết Bàn đạo. Mở bày đường Niết Bàn
Duy nguyện thọ ngã thỉnh, Cúi mong nhận lời con
Dĩ Đại vi diệu âm, Dùng tiếng vi diệu lớn
Ai mẩn nhi phu diễn, Thương xót mà nói bày
Vô lượng kiếp tập Pháp. Pháp tu vô lượng kiếp .
Lúc đó, năm trăm vạn ức các vị Phạm Thiên Vương, dùng kệ khen ngợi Phật rồi, cùng nhau bạch Phật rằng: ‘’Cúi xin đức Thế Tôn, hãy vì chúng con chuyển bánh xe pháp, khiến cho chúng con được an ổn và giải thoát‘’.
Lúc ấy, tất cả Ðại Phạm Thiên Vương dùng kệ để khen ngợi Ðức Phật. Chúng con và tất cả chúng sinh, đều thỉnh cầu Ðức Phật chuyển bánh xe diệu pháp, như đánh lên trống pháp cam lồ, để độ thoát tất cả chúng sinh trong ba đường ác, mở bày cho chúng con con đường tu thành Phật không sinh không diệt. Cúi xin đức Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của chúng con, dùng âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn của Ngài, vì chúng con thuyết pháp, và thỉnh cầu đức Thế Tôn thương xót chúng con, mà diễn nói pháp môn tu thành Phật đạo của Phật, tích tập trí huệ tư lương từ vô lượng kiếp đến nay.
Nhĩ thời đại thông trí thắng Như Lai, thụ thập phương chư phạm Thiên Vương cập thập lục Vương tử thỉnh, tức thời tam chuyển thập nhị hàng Pháp luân nhược Sa Môn, Bà la môn, nhược Thiên, ma, phạm cập dư thế gian sở bất năng chuyển vị thị khổ, thị khổ tập, thị khổ đạo, thị khổ diệt;
Lúc bấy giờ, Ðại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh của các Phạm thiên vương và mười sáu vị vương tử tức thời ba phen chuyển pháp luân mười hai hành hoặc là sa môn, bà la môn, hoặc là trời, ma, phạm và các thế gian khác đều không thể chuyển được, nói: đây là khổ. đây là khổ tập, đây là khổ đạo, đây là khổ diệt.
Bấy giờ, đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạm Thiên Vương trong mười phương, và mười sáu vị vương tử, lập tức ba lần chuyển bánh xe pháp mười hai hành. Dù Sa môn, Bà la môn, hoặc chư Thiên, ma vương, Phạm vương, và các thế gian khác, không thể chuyển được.
Ðây là khổ, là khổ tập, là khổ đạo, là khổ diệt, và pháp độ thoát mười hai nhân duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não. Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tữ ưu bi khổ não diệt.
Lúc đó, đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, nhận lời thỉnh cầu của mười phương năm trăm vạn ức các vị Ðại Phạm Thiên Vương, và mười sáu vị vương tử, lập tức trước hết nói về pháp Tứ Diệu Ðế, vì Tứ Diệu Ðế mỗi đế chuyển ba lần, cộng lại thành mười hai lần, nên gọi là ba lần chuyển bánh xe pháp tứ đế mười hai hành.
Chuyển làn thứ nhất gọi là thị chuyển, tức là nói với chúng ta:
– Ðây là khổ, tính bức bách.
– Ðây là tập, tính chiêu cảm.
– Ðây là đạo, tính khả tu.
– Ðây là diệt, tính khả chứng.
Chuyển lần thứ hai gọi là khuyến chuyển, tức là khuyên chúng ta:
– Ðây là khổ, ông nên biết.
– Ðây là tập, ông nên đoạn.
– Ðây là đạo, ông nên tu.
– Ðây là diệt, ông nên chứng.
Chuyển lần thứ ba gọi là chứng chuyển:
– Ðây là khổ, ta đã biết.
– Ðây là tập, ta đã đoạn.
– Ðây là đạo, ta đã tu.
– Ðây là diệt, ta đã chứng.
Bất cứ là Sa Môn, Bà la môn, chư Thiên, ma vương, Ðại Phạm Thiên Vương, thậm chí tất cả thiên ma ngoại đạo, đều không thể chuyển được bánh xe pháp Tứ Diệu Ðế, chỉ có Phật mới có phương tiện nầy, pháp được nói ra tức là: Khổ, tập, đạo, diệt. Bốn pháp nầy lại có khổ pháp nhẫn, khổ pháp tập, tập pháp nhẫn, tập pháp tập, diệt pháp nhẫn, diệt pháp tập, đạo pháp nhẫn, đạo pháp diệt, cho nên gọi là bát nhẫn pháp tập.
Cập quảng thuyết thập nhị nhân duyên Pháp vô minh duyên hạnh, hàng duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử ưu bi khổ não.
Và rộng nói pháp mười hai nhơn duyên: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não .
Phật lại rộng nói mười hai nhân duyên, tức là:
Vô minh duyên hành
Hành duyên thức
Thức duyên danh sắc
Danh sắc duyên lục nhập
Lục nhập duyên xúc
Xúc duyên thọ
Thọ duyên ái
Ái duyên thủ
Thủ duyên hữu
Hữu duyên sinh
Sinh duyên lão tử ưu bi khổ não.
Chúng sinh đều thuận theo dòng nầy mà sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh. Vẫn có cửa diệt:
Vô minh diệt tức hành diệt, hành diệt tức thức diệt, thức diệt tức danh sắc diệt, danh sắc diệt tức lục nhập diệt, lục nhập diệt tức xúc diệt, xúc diệt tức thọ diệt, thọ diệt tức ái diệt, ái diệt tức thủ diệt, thủ diệt tức hữu diệt, hữu diệt tức sanh diệt, sanh diệt tức lão tử ưu bi khổ não diệt.
Vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt thời lão, tử, ưu bi, khổ não diệt.
Vô minh diệt thì hành diệt
Hành diệt thì thức diệt
Thức diệt thì danh sắc diệt
Danh sắc diệt thì lục nhập diệt
Lục nhập diệt thì xúc diệt
Xúc diệt thì thọ diệt
Thọ diệt thì ái diệt
Ái diệt thì thủ diệt
Thủ diệt thì hữu diệt
Hữu diệt thì sinh diệt
Sinh diệt thì chẳng có già chết, lo sầu khổ đau cũng diệt.
Pháp của hàng Thanh Văn tu, là pháp Tứ Diệu Ðế, pháp của hàng Duyên Giác tu, là pháp mười hai nhân duyên.
Phật ư Thiên Nhân Đại chúng chi trung thuyết thị pháp thời, lục bách vạn ức na do tha nhân, dĩ ất thọ nhất thiết pháp cố, nhi ư chư lậu tâm đắc giải thoát, giai đắc thâm diệu Thiền định, tam minh, lục thông, cụ bát giải thoát.
Ðức Phật ở trong đại chúng trời, người khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na do tha người do vì không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát, đều đặng thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát.
Khi đức Phật ở trong đại chúng trời người nói pháp đó, thì có sáu trăm vạn ức Na do tha người, vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm được giải thoát, đều được thiền định thâm sâu vi diệu, ba minh sáu thông, đủ tám giải thoát.
Đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thuyết Pháp thời, Thiên vạn ức Hằng hà sa na do tha đẳng chúng sanh, diệc dĩ ất thọ nhất thiết pháp cố, nhi ư chư lậu tâm đắc giải thoát. Tùng thị dĩ hậu, chư Thanh văn chúng, vô lượng vô biên bất khả xưng số.
Lúc nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có nghìn muôn ức hằng hà sa na do tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu tâm được giải thoát. Từ đây nhẫn sau các chúng Thanh Văn nhiều vô lượng vô biên, không thể tính kể được.
Khi nói pháp lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, thì có ngàn vạn ức Hằng hà sa Na do tha chúng sinh, cũng vì chẳng thọ tất cả các pháp, nên ở nơi các lậu, tâm được giải thoát. Từ đó về sau, các chúng Thanh Văn vô lượng vô biên không thể tính đếm.
Ðức Phật vì năm trăm vạn ức chư thiên, các vị Ðại Phạm Thiên Vương, và trăm ngàn vạn ức bất khả tư nghì Hằng hà sa số chúng sinh nói pháp Tứ Diệu Ðế, và pháp mười hai nhân duyên, thì có sáu trăm vạn ức Na do tha người, đều đã xả bỏ tất cả pháp ác, nên đắc được tất cả pháp lành vô lậu.
Lậu là gì? Chín lỗ trong thân thể chúng ta, thường thải ra vật dơ dáy cũng thuộc về lậu, như dưới đáy ly có lủng lỗ thì không thể chứa đầy nước được. Tất cả chúng sinh đều có tám vạn bốn ngàn các lậu, lậu lớn nhất là tham sân si mạn nghi. Có đủ thứ lậu nầy, thì sinh ra phiền não, có phiền não thì sinh ra vô minh, có vô minh thì chẳng có trí huệ. Nếu ai trừ khử sạch vô minh thì trí huệ Bát nhã sẽ hiện tiền, nếu ai đoạn sạch phiền não, thì biến phiền não thành Bồ đề.
Lúc đó, thân tâm đều được giải thoát, gọi là được lậu tận (sạch lậu). Do sạch hết lậu mà chứng được thiền định nầy, chẳng phải do từ bên ngoài đến, phải do tự tính tự nhập, tự tính tự độ, tự tu tự liễu, cho nên chẳng cần truy cầu bên ngoài. Bổn địa phong quang của chúng ta, trí huệ vốn có, đều ở trong tự tính của mỗi người, do đó thiền định tức là đắc được sự tĩnh lự, tiếng Phạn gọi là thiền na, dịch là “tư duy tu”, ai đắc được thiền định, thì sẽ đắc được ba minh: Thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh (tất cả tập khí mao bệnh đều chẳng còn nữa, cho nên đoạn tận ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).
Nhĩ thời thập lục Vương tử giai dĩ Đồng tử xuất gia nhi vi sa di, chư căn thông lợi, trí tuệ minh liễu, dĩ tằng cúng dường bách Thiên vạn ức chư Phật, tịnh tu phạm hạnh, cầu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề câu bạch Phật ngôn:
Bấy giờ mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa Di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bạch cùng Phật rằng:
Lúc đó, mười sáu vị vương tử, đều còn là đồng tử mà xuất gia làm Sa di. Sáu căn của các Ngài đều lanh lợi, trí huệ rất sáng suốt, ở trong quá khứ đã từng cúng dường trăm ngàn vạn ức các Ðức Phật, đều tu phạm hạnh thanh tịnh, một lòng cầu quả vị vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðều bạch đức Phật rằng:
“Thế Tôn! Thị chư vô lượng Thiên vạn ức Đại Đức Thanh văn, giai dĩ thành tựu. Thế Tôn diệc đương vị ngã đẳng thuyết A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Pháp, ngã đẳng văn dĩ, giai cộng tu học. Thế Tôn! ngã đẳng chí nguyện Như Lai tri kiến, thâm tâm sở niệm, Phật tự chứng tri. “
“Thưa Thế Tôn! Các vị đại đức Thanh Văn vô lượng nghìn muôn ức đây đã thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học Thế Tôn! Chúng con có chí mong được tri kiến của Như Lai chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm, đức Phật tự chứng biết cho.”
Ðức Thế Tôn! Chúng con chí nguyện đắc được tri kiến của Như Lai, trong thâm tâm nghĩ gì, đức Phật tự chứng biết. Lúc đó, tám vạn ức người trong chúng của vua Chuyển luân thánh vương dẫn đến, thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng xin xuất gia, vua bèn chấp nhận.
Mười sáu vị Sa di đó, tức là mười sáu người con của đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, đều cùng nhau theo Phật xuất gia tu đạo. Các Ngài và năm trăm vạn ức Ðại Phạm Thiên Vương và trăm ngàn vạn ức trời người hết thảy đại chúng đồng thanh nói: ‘’Ðức Thế Tôn! Hiện tại, có vô lượng ngàn vạn ức chúng đại Thanh Văn ở trong đạo tràng nầy, ở trong quá khứ các Ngài đều đã từng làm rất nhiều công đức và việc lành, cho nên đầy đủ vô lượng phước đức. Song, hiện tại còn sinh tâm hoài nghi, mình đã chứng được quả vị Niết Bàn chưa? Ðức Thế Tôn! Ngài hãy vì chúng con, tất cả hàng Thanh Văn nói pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của Phật, để chúng con cũng cùng nhau hướng về đại đạo Niết bàn. Chúng con nghe pháp của Phật nói rồi, sẽ cùng nhau y theo pháp tu hành.
Ðức Thế Tôn! Hết thảy hàng Thanh Văn chúng con, có một chí nguyện là nguyện được chánh tri chánh kiến của Phật. Phật sớm đã biết, cho nên mong rằng Phật phát tâm đại từ bi thương xót chúng con, tất cả chúng sinh, mà nói pháp vi diệu vô thượng nầy.’’
Nhĩ thời Chuyển luân Thánh Vương sở tướng chúng trung bát vạn ức nhân, kiến thập lục Vương tử xuất gia, diệc cầu xuất gia.
Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển Luân Thánh Vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho.
Lúc đó, vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng rất vui mừng đáp ứng yêu cầu của họ. Vua Chuyển Luân Thánh Vương thấy họ thành tâm tu đạo, cũng phát tâm làm hộ pháp cho họ, cúng dường cho họ, nào là các đồ ăn uống, quần áo, thuốc thang, mền chiếu .v.v.
Vương tức thính hứa. Nhĩ thời bỉ Phật, thọ sa di thỉnh, qua nhị vạn kiếp dĩ, nãi ư Tứ Chúng chi trung thuyết thị Đại thừa Kinh, danh “Diệu Pháp Liên Hoa” giáo Bồ Tát Pháp, Phật sở hộ niệm. Thuyết thị Kinh dĩ, thập lục sa di vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề cố, giai cộng thọ trì, phúng tụng thông lợi.
Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa Di, qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng bổn chúng nói kinh đại thừa tên là: “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. Ðức Phật nói kinh đó xong, mười sáu vị Sa Di vì đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đồng thọ thì đọc tụng thông thuộc.
Lúc đó, đức Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, thọ nhận lời thỉnh pháp của mười sáu vị Sa di, trải qua hai vạn kiếp sau, Ngài mới ở trước bốn chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, nói bộ kinh đại thừa nầy tên là Diệu Pháp Liên Hoa.
Pháp nầy giáo hoá Bồ Tát tu học pháp đại thừa, được Phật hộ niệm. Khi Phật nói ra bộ kinh nầy rồi, thì mười sáu vị Sa di lập tức tu đến quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Các Ngài đều một lòng thọ trì Kinh Pháp Hoa, và còn đọc tụng thuộc làu thông suốt, vì người giảng nói.
Thuyết thị Kinh thời, thập lục Bồ Tát sa di giai tất tín thọ; Thanh văn chúng trung, diệc hữu tín giải; kỳ dư chúng sanh Thiên vạn ức chủng, giai sanh nghi hoặc. Phật thuyết thị Kinh, ư bát Thiên kiếp vị tằng hưu phế. Thuyết thử Kinh dĩ, tức nhập tĩnh thất, trụ ư Thiền định bát vạn tứ Thiên kiếp.
Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa Di Bồ Tát thảy đều tin thọ trong chúng Thanh Văn cũng có người tin hiểu . Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng nghi lầm. Phật nói kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong thiền định tám muôn bốn nghìn kiếp.
Ðức Phật nói kinh đó, suốt tám ngàn kiếp chưa từng ngừng nghỉ, nói kinh đó rồi, bèn vào tịnh thất, trụ trong thiền định tám vạn bốn ngàn kiếp. Lúc Ðức Phật Ðại Thông Trí Thắng nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy, thì mười sáu vị Sa di đều vui mừng tin nhận thọ trì. Ở trong chúng hàng Thanh Văn, có những người nghe được pháp của Phật nói, đều khoát nhiên đại ngộ, song cũng có ngàn vạn ức loại chúng sinh tâm còn nghi hoặc.
Phật Ðại Thông Trí Thắng nói bộ kinh nầy, trải qua tám ngàn đại kiếp thời gian lâu dài như thế, mà chưa từng ngừng nghỉ. Chắc chắn một số người sẽ nghĩ: Tại sao Phật Ðại Thông Trí Thắng, phải trải qua tám ngàn kiếp mới nói xong Kinh Pháp Hoa nầy, mà Phật Thích Ca Mâu Ni bất quá chỉ tốn tám năm, thì nói xong bộ Kinh Pháp Hoa nầy? Ðây bất quá chỉ là tri kiến của chúng sinh, phân biệt ra thời gian dài ngắn. Trên thật tế, thì Bồ Tát vì hay dùng sức trí huệ, cho nên nhỏ làm lớn được, lớn làm nhỏ được, dùng ngàn vạn kiếp làm một ngày, và dùng một ngày làm vô lượng kiếp, hà huống là Phật? Vốn chẳng có dài cũng chẳng có ngắn, hay dài cũng hay ngắn, mà là chúng sinh dùng tâm thức để phân biệt tất cả các pháp. Cho nên nói, Phật Ðại Thông Trí Thắng và Phật Thích Ca Mâu Ni đồng nói một bộ Kinh Pháp Hoa.
Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng nói xong bộ kinh nầy, thì Ngài vào thiền định, trụ ở trong thiền định tám vạn bốn ngàn đại kiếp.
Thị thời thập lục Bồ Tát sa di, tri Phật nhập thất tịch nhiên Thiền định, các thăng Pháp tọa, diệc ư bát vạn tứ Thiên kiếp, vị tứ bộ chúng, quảng thuyết phân biệt diệu Pháp Hoa Kinh. Nhất nhất giai độ lục bách vạn ức na do tha hằng hà sa đẳng chúng sanh, thị giáo lợi hỉ, lệnh phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề tâm.
Bấy giờ, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên Pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa . Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lúc đó, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di biết Phật đã nhập cảnh giới như như bất động, liễu liễu thường minh, mới phát tâm vì Phật hoằng dương bộ Kinh Pháp Hoa nầy, bắt đầu đăng lên pháp tòa diễn nói kinh nầy. Các Ngài trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp, vì hết thảy hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, phân biệt rộng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, độ thoát sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh, mở bày giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến cho họ được lợi ích vui mừng, phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đại thông trí thắng Phật qua bát vạn tứ Thiên kiếp dĩ, tùng tam muội khởi, vãng nghệ Pháp tọa an tường nhi tọa, phổ cáo Đại chúng: Thị thập lục Bồ Tát sa di, thậm vị hy hữu, chư căn thông lợi, trí tuệ minh liễu, dĩ tằng cúng dường vô lượng Thiên vạn ức số chư Phật. Ư chư Phật sở, thường tu phạm hạnh, thọ trì Phật trí, khai thị chúng sanh. Lệnh nhập kỳ trung.
Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tam muội dậy, qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong hàng đại chúng: “Mười sáu vị Bồ Tát Sa Di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường vô lượng nghìn muôn ức số đức Phật. Ở chỗ các đức Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó.
Trải qua tám vạn bốn ngàn kiếp sau, Phật Ðại Thông Trí Thắng từ tam muội xuất định, đi đến pháp tòa của Ngài ngồi ngay thẳng, bảo các đại chúng: ‘’Mười sáu vị Bồ Tát Sa di nầy, rất là hy hữu, sáu căn đều dụng với nhau, sáng suốt thông đạt tất cả các pháp, ở trong quá khứ, đã từng cúng dường vô lượng ngàn vạn ức các Ðức Phật, trồng gốc công đức. Ở tại đạo tràng của mỗi vị Phật, thường tu tập phạm hạnh thanh tịnh, thường thọ trì trí huệ của chư Phật, nguyện mở bày giáo hóa tất cả chúng sinh, cùng đắc được trí huệ quang minh viên dung vô ngại.’’
Nhữ đẳng giai đương sát sát thân cận nhi cúng dường chi. Sở dĩ giả hà? Nhược Thanh văn, Bích Chi Phật cập chư Bồ Tát, năng tín thị thập lục Bồ Tát sở thuyết Kinh Pháp, thọ trì bất hủy giả, thị nhân giai đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Như Lai chi tuệ.
Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy. Vì sao? Nếu hàng Thanh Văn, Duyên Giác cùng các Bồ Tát có thể tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó nói mà thọ trì không mất, thời người đó sẽ đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác trí huệ của Như Lai”.
Phật bảo đại chúng: ‘’Sở dĩ các ông nên thường gần gũi cúng dường mười sáu vị Bồ Tát Sa Di, là vì, nếu như có hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật, hoặc các đại Bồ Tát, tin thọ pháp của mười sáu vị Bồ Tát Sa di nầy nói, y theo pháp tu hành, chẳng sinh tâm hủy báng, thì những người như thế, đều sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, khai mở đại trí huệ của Phật.’’
Phật cáo chư Tỳ kheo: Thị thập lục Bồ Tát, thường nhạo thuyết thị Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, nhất nhất Bồ Tát sở hóa lục bách vạn ức na do tha hằng hà sa đẳng chúng sanh, thế thế sở sanh dữ Bồ Tát câu, tùng kỳ văn Pháp, tất giai tín giải. Dĩ thử nhân duyên, đắc trị tứ bách vạn ức chư Phật Thế tôn, vu kim bất tận.
Phật bảo các Tỳ Kheo: “Mười sáu vị Bồ Tát đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy . Sáu trăm muôn ức na tho hằng hà sa chúng sanh của mỗi vị Bồ Tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ Tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ Tát thảy đều tin hiểu . Nhờ nhơn duyên đó mà đặng gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt.
Phật lại bảo các chúng Tỳ Kheo: ‘’Mười sáu vị Bồ Tát Sa Di nầy, rất thích nói Kinh Pháp Hoa nầy, các Ngài mỗi vị đều giáo hóa sáu trăm vạn ức Na do tha Hằng hà sa chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát hoằng nguyện, đời đời kiếp kiếp muốn theo các Ngài tu đạo, và đích thân nghe Phật vì họ giải nói bộ kinh nầy, nhờ nhân duyên đó, mà được gặp bốn vạn ức các Ðức Phật Thế Tôn đồng tu một chỗ.
Như hôm nay các Ngài còn dùng diệu pháp đại thừa lợi ích chúng sinh, viên mãn thệ nguyện của các Ngài.’’
Chư Tỳ kheo! ngã kim ngữ nhữ: Bỉ Phật đệ tử thập lục sa di, kim giai đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, ư thập phương quốc độ hiện tại thuyết Pháp, hữu vô lượng bách Thiên vạn ức Bồ Tát, Thanh văn, dĩ vị quyến thuộc. Kỳ nhị sa di, Đông phương tác Phật, nhất danh A súc, tại hoan hỉ quốc, nhị danh tu di đính; Đông Nam phương nhị Phật, nhất danh Sư tử âm, nhị danh Sư Tử Tướng.
Các Tỳ Kheo! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa Di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứng đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đương pháp trong cõi nước ở mười phương có vô lượng trăm nghìn muôn ức Bồ Tát Thanh Văn để làm quyến thuộc. Hai vị Sa Di làm Phật ở phương Ðông: Vị thứ nhất tên là A Súc ở nước Hoa Hỷ, vị thứ hai tên là Tu Di Ðảnh. Hai vị làm Phật ở phương Ðông Nam: Vị thứ nhứt tên là Sư Tử Âm, vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng.
Này các Tỳ Kheo! Nay tôi phải nói với các vị, mười sáu vị Sa di của Phật Ðại Thông Trí Thắng, sớm đã chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hiện nay đều đang thuyết pháp ở trong cõi nước mười phương, có vô lượng trăm ngàn vạn ức Bồ Tát và Thanh Văn làm quyến thuộc của các Ngài. Có hai vị Sa Di thành Phật, ở phương đông, vị thứ nhất hiệu là A Súc. A Súc là tiếng Phạn, dịch là “Bất động tôn”, tức là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Ðức Phật nầy thành tựu Phật đạo ở nước Hoan Hỉ. Vị Sa Di thứ hai hiệu là Tu Di Ðỉnh. Lại có hai vị Sa Di thành Phật ở phương đông nam, vị thứ nhất hiệu là Sư Tử Âm Phật, vị thứ hai hiệu là Sư Tử Tướng Phật.
Nam phương nhị Phật, nhất danh hư không trụ, nhị danh Thường Diệt; Tây Nam phương nhị Phật, nhất danh đế tướng, nhị danh Phạm tướng; Tây phương nhị Phật, nhất danh A Di Đà, nhị danh Độ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não; Tây Bắc phương nhị Phật, nhất danh Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, nhị danh Tu Di Tướng; Bắc phương nhị Phật, nhất danh Vân Tự Tại, nhị danh Vân tự tại Vương; Đông Bắc phương Phật, danh Hoại Nhất Thiết Thế Gian Phố Úy, đệ thập lục, ngã Thích Ca Mâu Ni Phật, ư Ta bà quốc độ thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Hai vị làm Phật ở phương Nam: Vị thứ nhứt tên là Thường Diệt. Hai vị làm Phật ở phương Tây Nam: Vị thứ nhứt tên là Ðế Tướng, vị thứ hai tên là Phạm Tướng . Hai vị làm Phật ở phương Tây: Vị thứ nhứt tên là A Di Ðà, vị thứ hai tên là Ðộ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não . Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: Vị thứ nhứt tên là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu Di Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhứt tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai tên là Vân Tự Tại Vương. Một vị làm Phật ở phương Ðông Bắc hiệu Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy . Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích Ca Mâu Ni Phật ở cõi nước Ta Bà thành vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Hai vị Sa Di thành Phật ở phương nam, một vị hiệu là Hư Không Trụ, một vị hiệu là Thường Diệt. Hai vị thành Phật ở phương tây nam, một vị hiệu là Ðế Tướng Phật, một vị hiệu là Phạm Tướng Phật. Phương tây cũng có hai vị Phật, một vị hiệu là A Di Ðà Phật. A Di Ðà là tiếng Phạn, dịch là “Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang”, tức là trí huệ và phước đức của Ngài vô lượng vô biên, một vị hiệu là Ðộ Nhất Thiết Thế Gian Khổ Não Phật. Lại có hai vị Sa Di thành Phật ở phương tây bắc, một vị hiệu là Ða Ma La Bạt Chiên Ðàn Hương Thần Thông. Ða Ma La Bạt là tiếng Phạn, dịch là “Tính vô cấu hiền”, tức là ví dụ Ngài như một vị Thánh Hiền tự tính chẳng có trần cấu. Chiên đàn hương là một thứ hương, một vị hiệu là Tu Di Tướng Phật. Hai vị Sa Di thành Phật ở phương bắc, một vị hiệu là Vân Tự Tại Phật, một vị hiệu là Vân Tự Tại Vương Phật. Vị Phật ở phương đông bắc hiệu là Hoại Nhất Thiết Thế Gian Bố Úy Phật. Vị Sa Da Di thứ mười sáu, tức là ta Thích Ca Mâu Ni Phật, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác ở cõi Ta Bà.
Chư Tỳ kheo! Ngã đẳng vị sa di thời, các các giáo hóa vô lượng bách Thiên vạn ức hằng hà sa đẳng chúng sanh, tùng ngã văn Pháp, vị A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thử chư chúng sanh, vu kim hữu trụ Thanh văn địa giả, ngã thường giáo hóa A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Thị chư nhân đẳng, ưng dĩ thị pháp tiệm nhập Phật đạo.
Các Tỳ Kheo! Lúc chúng ta làm Sa Di mỗi người giáo hóa vô lượng trăm nghìn muôn ức hằng hà sa chúng sanh vì đạo vô thượng chánh đẳng, chánh giác theo ta nghe pháp . Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bực Thanh Văn, ta thường giáo hóa pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác. Những bọn người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo .
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni lại nói với các Tỳ Kheo, khi chúng ta làm Sa Di, thì mỗi người đã giáo hóa vô lượng trăm ngàn vạn ức Hằng hà sa số chúng sinh. Những chúng sinh đó, theo chúng ta nghe pháp, bèn hướng về đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Theo căn tính khác nhau của họ, hoặc chậm hoặc mau, song sẽ đều đạt đến đại giác viên mãn cứu kính. Những chúng sinh đó, trong đó có những vị đã trụ ở bậc Thanh Văn, ta cũng thường giáo hóa họ hướng về quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, khiến cho họ dần dần đều vào Phật đạo.
Sở dĩ giả hà? Như Lai trí tuệ, nan tín nan giải. Hĩ thời sở hóa vô lượng hằng hà sa đẳng chúng sanh giả, nhữ đẳng chư Tỳ kheo, cập ngã diệt độ hậu vị lai thế trung Thanh văn đệ tử thị dã. Ngã diệt độ hậu, phục hữu đệ tử bất văn thị Kinh, bất tri bất giác Bồ Tát sở hạnh, tự ư sở đắc công đức sanh diệt độ tưởng: Đương nhập Niết Bàn.
Vì sao? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu. Vô lượng hằng hà sa chúng sanh bị hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các Tỳ Kheo, và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thinh Văn trong đời vị lai . Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết Bàn.
Tại sao? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu. Khó tin nên chẳng dễ gì tu, khó hiểu nên chẳng dễ gì chứng quả.
Vô lượng Hằng hà sa chúng sinh được giáo hóa thuở đó, tức là hàng Tỳ Kheo các ông. Sau khi ta diệt độ rồi, ở đời vị lai hàng đệ tử Thanh Văn cũng vậy. Ta diệt độ rồi, lại có đệ tử chẳng nghe kinh nầy, chẳng biết chẳng hay sở hành của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được, tưởng là diệt độ sẽ vào Niết bàn.
Ngã ư dư quốc tác Phật, cánh hữu dị danh. Thị nhân tuy sanh diệt độ chi tưởng nhập ư Niết Bàn, nhi ư bỉ độ cầu Phật trí tuệ, đắc văn thị Kinh, duy dĩ Phật thừa nhi đắc diệt độ, cánh vô dư thừa, trừ chư Như Lai phương tiện thuyết Pháp.
Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng là diệt độ nhập Niết Bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như Lai phương tiện nói pháp.
Ta thành Phật ở nước khác, bèn có tên khác, người đó tuy tưởng là diệt độ vào Niết Bàn, mà ở cõi kia cầu trí huệ của Phật được nghe kinh nầy, chỉ dùng Phật thừa mà được diệt độ, chẳng có thừa nào khác, trừ khi các đức Như Lai phương tiện thuyết pháp.
Chúng ta giáo hóa vô lượng chúng sinh như số cát sông Hằng thuở đó, tức là hàng Tỳ Kheo các ông, sau khi ta diệt độ rồi, hàng Tỳ Kheo Thanh Văn ở đời vị lai cũng sẽ chứng được quả A La Hán.
Phật pháp đều nói về nhân quả, nếu chẳng có nhân, thì chẳng có quả. Trước khi Ðức Phật Thích Ca chưa thành Phật, đã giáo hóa vô lượng chúng sinh. Mỗi lần ra đời, thì hiện thân Tỳ Kheo đi khắp nơi hoàng dương Phật pháp, giảng kinh thuyết pháp, khiến cho những chúng sinh đó tín ngưỡng, họ cảm thấy Phật còn thân thiết hơn cha mẹ của họ, bèn phát nguyện thường theo vị ‘’pháp thân cha mẹ’’ nầy.
Ðức Phật Thích Ca dùng tâm đại từ bi bình đẳng, nhiếp thọ chúng sinh, pháp duyên của Ngài ngày càng tăng rộng, quả vị ngày càng cao lớn, cho nên cuối cùng hôm nay công thành đức tựu, thành Phật đạo, đệ tử của Ngài với Ngài túc duyên rất sâu. Họ đời đời kiếp kiếp đều theo Phật chuyển pháp luân, ủng hộ Phật pháp. Khi Phật thành Phật, thì đệ tử của Ngài đều đến ủng hộ.
Vạn sự vạn vật đều nhờ duyên mới sinh. Cho nên trong Phật giáo có câu rằng:
‘’Chư pháp tùng duyên khởi,
Chư pháp tùng duyên diệt,
Ngã Phật đại sa môn,
Thường tác như thị thuyết‘’.
Nghĩa là:
‘’Các pháp do duyên sinh,
Các pháp do duyên diệt,
Phật của ta là Sa môn,
Thường hay nói như thế‘’.
Ðức Phật tiếp tục nói: Sau khi ta diệt độ, vẫn có đệ tử chẳng nghe bộ Kinh Pháp Hoa nầy, vì họ thích tiểu thừa, cho nên đối với pháp đại thừa Bồ Tát, họ chẳng biết chẳng hay. Song, do công đức của họ làm được, hoặc công đức do sự ngồi thiền họ tưởng là được diệt độ sẽ vào Niết Bàn, hoặc họ sẽ chứng được quả vị quyền xảo phương tiện, tức hữu dư Niết Bàn, mà cho rằng đây là giải thoát cứu kính.
Khi ta ở nước khác thành Phật, thì có danh hiệu khác. Những hàng Thanh Văn nầy, tuy nghĩ là diệt độ, cho rằng mình đã nhập Niết Bàn (cảnh giới không sinh không diệt), mà ở cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh nầy.
Song, nhờ họ ở cõi nước kia cầu trí huệ của Phật, cũng nghe được bộ kinh nầy. Chỉ dùng một Phật thừa mà được diệt độ, chứ chẳng có thừa nào khác, chỉ một Phật thừa mới là chân chánh Niết bàn, mà chẳng phải hàng Thanh Văn rơi vào một bên lý không, trừ khi các Ðức Như Lai phương tiện thuyết pháp, có khi Phật cũng dùng pháp môn phương tiện để giác ngộ chúng sinh, song quy về nguồn gốc vẫn chỉ là một Phật thừa, chẳng có thừa nào khác.
Chư Tỳ kheo! nhược như lai tự tri Niết Bàn thời đáo, chúng hựu thanh tịnh tín giải kiên cố, liễu đạt không pháp, thâm nhập Thiền định tiện tập chư Bồ Tát cập Thanh văn chúng, vị thuyết thị Kinh. Thế gian vô hữu nhị thừa nhi đắc diệt độ, duy nhất Phật thừa đắc diệt độ Nhĩ.
Các Tỳ Kheo! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào thiền định, bèn nhóm các Bồ Tát và chúng Thanh Văn mà vì nói kinh nầy . Trong đời không có hai thừa mà đặng diệt độ, chỉ có một Phật Thừa đặng diệt độ thôi .
Các vị Tỳ Kheo! Giả sử Phật biết mình sắp vào Niết Bàn, hết thảy đại chúng đều được thanh tịnh, tâm tin hiểu vững chắc, thông đạt tất cả các pháp không tướng, vào thiền định thâm sâu, bèn chiêu tập tất cả Bồ Tát và hàng Thanh Văn, để Phật nói bộ Kinh Pháp Hoa nầy. Vì trên thế gian hết thảy ai muốn tu Phật thừa, thì không thể dùng pháp nhị thừa tu mà được diệt độ.
Diệt độ của hàng nhị thừa chảng phải chân chánh diệt độ, chỉ có tu Phật thừa mới thật sự được diệt độ của Phật và quả vị.
Tỳ kheo đương tri! Như Lai phương tiện, thâm nhập chúng sanh chi tánh, tri kỳ chí nhạo tiểu pháp, thâm trước ngũ dục, vị thị đẳng cố thuyết ư Niết Bàn. Thị nhân nhược văn, tức tiện tín thọ.
Các Tỳ Kheo nên rõ! Ðức Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham nơi năm món dục vì hạng người này mà nói Niết Bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận thọ trì.
Phật lại nói: ‘’Hết thảy hàng Tỳ Kheo các ông hãy triệt để hiểu rõ, pháp của Như Lai nói là pháp quyền xảo phương tiện, vì căn tính của tất cả chúng sinh chẳng giống nhau, có kẻ lợi căn, có kể độn căn. Nếu một khi bắt đầu thuyết pháp chân thật đối với người độn căn, thì họ chẳng thể nào tiếp thọ và tin được, cho nên ta dùng pháp môn phương tiện để giáo hóa họ. Vì pháp môn phương tiện của Phật, vốn hợp với tất cả chúng sinh mà làm một, cho nên tất cả chúng sinh có cơ duyên phương tiện nầy, tâm chí của họ chỉ biết phương pháp và đạo lý nhỏ nhỏ, nếu nói về đạo lý vũ trụ thâm áo cho họ nghe, thì họ chẳng hiểu.
Hàng nhị thừa thường đều chấp trước vào cảnh giới năm dục: Tài, sắc, danh, thực, thùy.
1 – Tiền tài mua sắm được mọi vật, cho nên ai ai cũng đều buông xả chẳng đặng tiền tài. Nếu coi tiền tài như rắn độc, thì chẳng tham cầu nó, con người không nên vì tiền tài mà phát sinh đấu tranh. Có một bài kệ hình dung về tiền rất là hay:
‘’Nhị qua tranh kim sát khí cao,
Nhân nhân nhân tha phạm lao thao.
Nhược hội dụng giả xuất tam giới,
Bất hội dụng giả nghiệt nan đào‘’.
Chữ tiền có hai cái mác, giống như hai người cầm mác giành giựt vàng, lại có thể nói hai người động thủ bằng mác tranh vàng. Tiền có thể đưa đến cho con người rất nhiều phiền não, thế mà một số người vẫn coi tiền như mạng sống, tham chẳng biết chán, nếu người biết dùng tiền, thì có thể vượt khỏi ba cõi, người chẳng biết dung, thì tạo ra rất nhiều tội nghiệp.
2 – Sắc dục, tức là sắc đẹp.
3 – Danh dục: Tức là tham danh, tham tiếng tốt, thích người khác ca tụng, nếu bị người hủy nhục, thì như trăm cây kim đâm vào tim, coi danh vọng trọng hơn bất cứ những gì.
4 – Thực dục: Thích ăn vật ngon. Nhất là người tu đạo không coi trọng vật ăn, nên coi vật ăn như thuốc hay, để duy trì thân thể nầy khỏi bị khô gầy mà tu đạo nghiệp.
5 – Thùy dục: Có người thích ngủ, cảm thấy ngủ càng nhiều càng tốt, song càng ngủ càng mê, biến thành ngu muội tối tăm, do đó:
“Tài sắc danh thực thùy,
Như địa ngục năm căn”,
Một khi ngủ thì ngàn năm chẳng nghe danh hiệu Phật. Hàng nhị thừa bị năm thứ dục niệm nầy chi phối, cho nên vẫn chưa đến bậc bất sinh bất diệt, ta vì họ nói pháp nhị thừa (bốn diệu đế) và mười hai nhân duyên, chỉ bất quá khiến cho họ tâm tính vui mừng, mà tinh tấn tu hành. Thật tế thì chứng được quả vị nhị thừa, vẫn chưa đắc được cảnh giới chân chánh Niết Bàn, có khác nào ở xa trông quả mơ mà hết khác, phải biết bánh vẽ không thể no được.
Thí như ngũ bách do tuần hiểm nan ác đạo, khoáng tuyệt vô nhân, bố úy chi xử. Nhược hữu đa chúng, dục qua thử đạo chí trân bảo xử. Hữu nhất Đạo sư, thông tuệ minh đạt, thiện tri hiểm đạo thông tắc chi tướng, tướng đạo chúng nhân dục quá thử nan. Sở tướng nhân chúng trung lộ giải thoái, bạch Đạo sư ngôn: Ngã đẳng bì cực, nhi phục bố úy, bất năng phục tiến; Tiền lộ do viễn, kim dục thoái hoàn.
Thí dụ đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do tuần. Chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường nầy đến chỗ trân bửu, có một vị đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhơn muốn vượt qua nạn đó . Chúng nhơn được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch đạo sư rằng: “Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về”.
Ví như có một đoạn đường dài năm trăm do tuần (bốn vạn dặm), phàm ai muốn đi qua con đường nầy, sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm hoạn nạn, như gặp trộm cướp, rắn sói hổ báo. Cho nên, ai muốn đi qua con đường nầy, tâm đều sợ hãi, song chỉ có con đường nầy, mới đến được chỗ cất giữ châu báu.
Do đó, chỉ có cách mạo hiểm tiến về trước, thì lúc ấy, ở trong đó có một vị Ðạo sư rất thông minh tài giỏi, đầy đủ trí huệ viên mãn, biết lối đi của đường hiểm đó như thế nào, mới không bị đủ thứ điều nguy hiểm, do đó bậc Ðạo sư phát tâm, dẫn dắt tất cả mọi người vượt qua con đường nầy, song những người nầy đi được nữa đường, thì sinh tâm lười mỏi, chẳng muốn đi nữa. Do đó, họ nói với bậc đạo sư: ‘’Bây giờ chúng con đã mệt mỏi quá rồi, đường nầy rất nguy hiểm và sợ hãi, chúng con chẳng muốn đi nữa, đường ở trước rất dài, cho nên chúng con muốn lui về‘’.
Đạo sư đa chư phương tiện nhi tác thị niệm: Thử đẳng khả mẫn, vân hà xả Đại trân bảo nhi dục thoái hoàn? Tác thị niệm dĩ, dĩ phương tiện lực, ư hiểm đạo trung qua tam bách do tuần, hóa tác nhất thành, cáo chúng nhân ngôn:
Vị đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: Bọn này đáng thương, làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về? Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhơn rằng:
Vị Ðạo sư nhiều phương tiện bèn nghĩ thế nầy: Những người nầy rất đáng thương, sao lại bỏ châu báu mà muốn lui về. Nghĩ như thế rồi, dùng sức phương tiện, ở giữa đường hiểm hơn ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành, bảo mọi người rằng: Các ngươi đừng sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể ở trong đó, làm gì tùy ý. Nếu vào thành đó rất được an ổn, nếu có thể đi thẳng đến chỗ châu báu cũng được.
Vị Ðạo sư nầy có rất nhiều phương tiện, bèn nghĩ rằng: ‘’Những người nầy thật đáng thương! Sao lại bỏ chí nguyện muốn đi đến nước Phật bảo mà muốn lui về? ‘’Nghĩ đến đây, Ngài chỉ có cách dùng thần lực quyền xảo phương tiện, ở giữa đường hiểm hơn ba trăm do tuần, hóa ra một cái thành; rồi bảo mọi người: ‘’Các người đừng sợ, đừng sinh tâm lười mỏi, bây giờ các vị hãy đi vào trong thành lớn nầy dừng nghỉ, ở trong thành nầy, làm gì tùy ý, nếu như vào trong thành nầy thì rất là an ổn, các người muốn tiếp tục đi đến chỗ châu báu, thì có thể đến bảo sở nước Phật‘’.
Lúc đó, chúng mỏi mệt tâm rất vui mừng, khen chưa từng có. Nay chúng ta khỏi đường hiểm đó, rất được an ổn. Do đó, mọi người đều vào hóa thành, sinh lòng tưởng rằng đã được độ rất an ổn.
Lúc đó, mọi người đều rất mệt mỏi vô cùng, hốt nhiên thấy một tòa hóa thành, có thể vào dừng nghỉ tạm thời, cho nên sinh tâm vui mừng chưa từng có, nói: ‘’Hôm nay chúng con khỏi lạc vào nẻo trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, thoát khỏi nhà lửa tam giới, được an ổn sung sướng‘’. Do đó, cùng nhau đi vào hóa thành nầy, cho rằng họ đã được giải thoát và an ổn cứu kính.
Nhĩ thời Đạo sư, tri thử nhân chúng ký đắc chỉ tức, vô phục bì quyền. Tức diệt hóa thành, ngữ chúng nhân ngôn: Nhữ đẳng khứ lai, bảo xử tại cận. hướng giả đại thành, ngã sở hóa tác, vị chỉ tức Nhĩ.
Lúc ấy đạo sư biết chúng nhơn đó đã được nghỉ ngơi không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúng nhơn rằng: “Các người nên đi tới, chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi”.
Bấy giờ, vị Ðạo sư biết những người đó đã nghỉ ngơi xong, chẳng còn mệt nhọc, bèn diệt hóa thành, bảo với mọi người rằng: Các ngươi hãy đi tới chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn đó do ta hóa làm ra, để dùng nghỉ thôi.
Lúc đó, vị Ðạo Sư Thích Ca Mâu Ni Phật biết họ đã nghỉ xong, lấy lại sức lực, hết mệt mỏi. Do đó, Phật bèn hủy diệt hóa thành đó, nói với mọi người rằng: ‘’Các ngươi hãy đi tới, chỗ châu báu ở gần đây. Hóa thành đó là do ta biến hóa ra, để các ngươi nghỉ ngơi tạm thời.’’ Tức cũng có thể nói, phàm là Thánh nhân chứng được tứ quả A La Hán, nên phải hồi tiểu hướng đại, tu pháp môn đại thừa, mới có thể đạt đến chỗ châu báu cứu kính.
Chư Tỳ kheo! Như Lai diệc phục như thị, kim vị nhữ đẳng tác đại đạo sư, tri chư sanh tử phiền não ác đạo hiểm nan trường viễn, ưng khứ ưng độ. Nhược chúng sanh đãn văn nhất Phật thừa giả, tức bất dục kiến Phật, bất dục thân cận, tiện tác thị niệm: Phật đạo trường viễn, cửu thọ cần khổ nãi khả đắc thành.
Các Tỳ Kheo! Ðức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Ðại Ðạo Sư, biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên vượt qua . Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật Thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gủi, mà nghĩ thế nầy: “Ðạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể đặng thành”.
Các Tỳ Kheo! Pháp của Phật Ðại Thông Trí Thắng cũng như pháp của ta nói, như nay vì các ông làm bậc đại Ðạo sư, biết rõ tất cả đường dữ sinh tử phiền não, nhiều hiểm nạn và xa dài. Do đó, nên lìa tất cả phiền não, vượt qua biển khổ sinh tử, đến được nhà Như Lai.
Phật tri thị tâm khiếp nhược hạ liệt, dĩ phương tiện lực, nhi ư trung đạo vị chỉ tức cố, thuyết nhị Niết Bàn. Nhược chúng sanh trụ ư nhị địa, Như Lai Nhĩ thời tức tiện vị thuyết: “Nhữ đẳng sở tác vị biện, nhữ sở tứ trụ địa, cận ư Phật tuệ, đương quan sát trù lượng sở đắc Niết Bàn phi chân thật dã.”
Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết Bàn. Nếu chúng sanh trụ nơi hai bực, đức Như Lai bấy giờ liền bèn vì nói:”Chỗ tu của các ông chưa xong bực của các ông ở gần với huệ của Phật . Phải quan sát suy lường Niết Bàn đã đặng đó chẳng phải chơn thật vậy .”
Nếu chúng sinh trụ ở hai bậc, thì bấy giờ đức Như Lai bèn nói: Chỗ tu của các ông chưa xong, bậc của các ông gần với trí huệ của Phật. Nên quán sát suy lường Niết Bàn đã được đó, chẳng chân thật vậy, chỉ là sức phương tiện của Như Lai, nơi một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba.
Nếu có chúng sinh nghe được Phật nói pháp, chỉ có một Phật thừa, thì nhất định rất nhiều chúng sinh phất tay áo mà đi, chẳng nghĩ muốn gặp Phật, hoặc gần gũi Phật. Vì Phật pháp là pháp khó tin, cho nên chúng sinh đều chẳng chịu tiếp thọ. Vì họ nghĩ: ‘’Tu hành thành Phật thì phải mất thời gian rất lâu, ở trong ba đại A tăng kỳ kiếp, siêng tu lục độ khổ hạnh, mới có cơ hội thành Phật‘’. Do đó, họ đều cố ý có tai chẳng nghe giáo lý viên đốn, có mắt chẳng nhận thức đại Ðạo sư (Phật), càng vô dụng nói dạy họ xả bỏ thất tình lục dục, một lòng tu đạo.
Ðức Phật Thích Ca và mười phương chư Phật, đều biết rõ tâm niệm của tất cả chúng sinh trong sáu nẻo, rất khiếp nhược và hạ liệt. Phật bèn dùng sức phương tiện mà nói hữu dư Niết Bàn pháp nhị thừa, để cho tâm tu đạo của chúng sinh, tạm thời không lười mỏi thối lui, cho nên nói riêng ra một trung đạo Niết Bàn.
Lúc đó, Phật lại nói với họ: Các ông chưa đạt đến Phật đạo cứu kính, bậc của các ông trụ, gần với trí huệ của Phật, các ông nên quán sát và suy lường, bất cứ các ông đắc được cảnh giới Niết Bàn hữu dư, hoặc vô dư, đều chẳng phải chân thật. Kỳ thật, là sức phương tiện của Như Lai, nơi một Phật thừa, mà phân biệt nói ra Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát ba thừa.’’
Đãn thị Như Lai phương tiện chi lực, ư nhất Phật thừa phân biệt thuyết tam. Như bỉ Đạo sư, vị chỉ tức cố, hóa tác đại thành. Ký tri tức dĩ, nhi cáo chi ngôn: “Bảo xử tại cận, thử thành phi thật, ngã hóa tác nhĩ.”
Chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật Thừa phân biệt nói thành ba. Như hai vị đạo sư kia vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa thành lớn, đã biết nghỉ xong mà bảo rằng: ” Chỗ châu báu ở gần, thành nầy không phải thiệt, của ta biến hóa làm ra đó thôi”.
Như vị Ðạo sư kia, vì dừng lại nghỉ mà hóa làm thành lớn. Biết đã nghỉ rồi, bèn bảo họ rằng: Chỗ châu báu gần đây, thành nầy chẳng thật, do ta hóa làm ra thôi.
Phật giống như bậc Ðạo sư, biết dùng pháp gì để vượt qua giữa con đường hiểm nầy, và còn bảo họ vào trong đó nghỉ ngơi, chỗ châu báu ở gần đây chẳng xa, song cái thành nầy chẳng phải thật, nó chỉ bất quá do Phật biến hóa ra, để cho các ông nghỉ ngơi thôi, khi các ông khôi phục lại sức lực, thì nên bỏ thành mà đi tiến về trước. Ví như bạn muốn từ nhà của bạn đến nước khác, phải vượt qua lộ trình rất xa, mới đến được nơi đó, ở nơi giữa đường đó, chắc chắn cảm thấy thân thể mỏi mệt, lúc đó bạn muốn một quán trọ để nghỉ lại một đêm, sáng ngày thứ hai lại tiếp tục lên đường, như thế mới đạt được nơi bạn muốn đến.
Nhĩ thời Thế Tôn dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng:
Đại thông trí thắng Phật, Ðại Thông Trí Thắng Phật
Thập kiếp tọa đạo tràng, Mười kiếp ngồi đạo tràng
Phật Pháp bất hiện tiền, Phật pháp chẳng hiện tiền
Bất đắc thành Phật đạo. Chẳng đặng thành Phật đạo
Chư Thiên thần Long Vương, Các trời, thần, Long Vương
A Tu La chúng đẳng, Chúng A Tu La thảy
Thường vũ ư Thiên hoa, Thường rưới các hoa trời
Dĩ cúng dường bỉ Phật. Ðể cúng dường Phật đó
Chư Thiên kích Thiên cổ, Chư thiên đánh trống trời
Tinh tác chúng kỹ nhạc, Và trổi các kỹ nhạc
Hương phong xuy nuy hoa, Gió mưa thổi hoa héo
Cánh vũ tân hảo giả. Lại mưa bông tốt mới
Quá thập tiểu kiếp dĩ, Trải qua mười tiểu kiếp
Nãi đắc thành Phật đạo, Quá đặng thành Phật đạo
Chư Thiên cập thế nhân, Các trời cùng người đời
Tâm giai hoài dõng dược. Lòng đều sanh hớn hở .
Bỉ Phật thập lục tử Mười sáu người con Phật
Giai dữ kỳ quyến thuộc, , Ðều cùng quyến thuộc mình
Thiên vạn ức vi nhiễu, Nghìn muôn ức vây quanh
Câu hàng chí Phật sở, Chung đi đến chỗ Phật
Đầu diện lễ Phật túc, Ðầu mặt lạy chơn Phật
Nhi thỉnh chuyển pháp luân: Thỉnh Phật chuyển Pháp Luân
Thánh sư tử Pháp vũ, Ðấng Thánh Sư mưa pháp
Sung ngã cập nhất thiết. Lợi con và tất cả
Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa kinh trường hàng ở trên, nên dùng kệ để nói. Phật Ðại Thông Trí Thắng ở tại đạo tràng ngồi trên tòa hoa sen nhập định trải qua mười kiếp, song vẫn chưa thành chánh giác.
Lúc đó, Phật pháp chưa hiện ra đời, cho nên Ngài chưa thể thành Phật đạo. Tất cả trời, thần, Long vương, A tu la .v.v., thường mưa hoa trời để cúng dường vị Phật đó, các vị trời đánh trống trời, tấu lên đủ thứ âm nhạc, một trận gió thơm thổi đến, thổi các hoa héo đi, đồng thời lại mưa xuống hoa tươi tốt.
Trải qua mười tiểu kiếp, Phật mới thành đạo, tất cả chư Thiên và nhân loại, tâm đều vui mừng hớn hở vô cùng. Mười sáu vị vương tử của Phật, với trăm ngàn ức quyến thuộc cùng nhau đến chốn Phật, cung kính đầu mặt lễ dưới chân Ðức Phật, mà thỉnh cầu Phật chuyển đại pháp luân, hy vọng tiếng sư tử hống của Phật, đượm nhuần mưa pháp lợi lạc chúng con, và tất cả chúng sinh.
Thế Tôn thậm nan trị, Thế Tôn rất khó gặp
Cữu viễn thời nhất hiện, Lâu xa một lần hiện
Vị giác ngộ quần sanh, Vì giác ngộ quần sanh
Chấn động ư nhất thiết. Mà chấn động tất cả”.
Đông phương chư thế giới, Các thế giới phương đông
Ngũ bách vạn ức quốc, Năm trăm vạn ức cõi
Phạm cung điện quang diệu, Phạm cung điện sáng chói
Tích sở vị tằng hữu. Từ xưa chưa từng có
Chư phạm kiến thử tướng, Phạm Vương thấy tướng này
Tầm lai chí Phật sở, Liền đến chỗ Phật ở
Tán hoa dĩ cúng dường, Rải hoa để cúng dường
Tinh phụng thượng cung điện, Và dưng cung điện lên
Thỉnh Phật chuyển pháp luân, Thỉnh Phật chuyển pháp luân
Dĩ kệ nhi tán thán. Nói kệ ngợi khen Phật
Phật tri thời vị chí, Phật biết chưa đến giờ
Thụ thỉnh mặc nhiên tọa. Nhận thỉnh yên lặng ngồi
Tam phương cập tứ duy, Ba phương cùng bốn phía
Thượng hạ diệc phục Nhĩ, Trên, dưới cũng như thế
Tán hoa phụng cung điện, Rưới hoa dưng cung điện
Thỉnh Phật chuyển pháp luân: Thỉnh Phật chuyển Pháp Luân:
“Thế Tôn thậm nan trị, “Thế Tôn rất khó gặp
Nguyện dĩ đại từ bi, Nguyện vì bổn từ bi
Quảng khai cam lộ môn, Rộng mở cửa cam lộ
Chuyển vô thượng pháp luân.” Chuyển pháp luân vô thượng.”
Ðức Thế Tôn trăm ngàn vạn kiếp rất khó gặp được, không biết phải trải qua thời gian bao lâu, mới có thể gặp được Ðức Phật ra đời, Phật vì giác ngộ tất cả quần sinh, sức trí lực oai thần của Ngài không thể nghĩ bàn, có thể chấn động đến tất cả tâm tính chúng sinh.
Các thế giới ở phương đông, có năm trăm vạn ức cõi nước cung điện của Phạm Vương, được vô lượng ánh sáng chiếu sáng, đó là tướng quá khứ chưa từng có. Khi các vị Phạm Vương thấy tướng nầy, thì đều đến chỗ Ðức Phật, để tìm nguồn gốc tướng ánh sáng đó, và còn rải hoa trời để cúng dường Ðức Phật, sau đó lại dâng cung điện quý báu nhất lên cúng dường Ðức Phật. Sau đó lại cung kính thỉnh Phật chuyển bánh xe pháp, và dùng kệ để khen ngợi Phật.
Phật biết cơ duyên thuyết pháp chưa thành thục, cho nên nhận lời thỉnh cầu của họ, mà ngồi im lặng. Lúc đó, từ phương nam, tây, bắc, và bốn hướng trên dưới, các vị Phạm Thiên Vương, đều rải hoa trời và dâng cung điện lên, thỉnh Ðức Phật chuyển bánh xe pháp. Trăm ngàn vạn ức kiếp khó gặp được Ðức Phật, mà chúng ta nguyện đắc được tâm đại từ bi thương xót chúng sinh của Phật, có thể khai mở cửa cam lồ. Vì giáo hóa chúng ta lục đạo chúng sinh, mà chuyển bánh xe pháp thâm sâu vô thượng.
Vô lượng tuệ Thế Tôn , Thế Tôn huệ vô thượng
Thụ bỉ chúng nhân thỉnh, Nhân chúng nhơn kia thỉnh
Vị tuyên chủng chủng Pháp: Vì nói các món pháp
Tứ đế thập nhị duyên, Bốn đế, mười hai duyên
Vô minh chí lão tử, Vô minh đến lão tử
Giai tùng sanh duyên hữu. Ðều từ sanh duyên hữu
Như thị chúng quá hoạn, Những quá hoạn như thế
Nhữ đẳng ứng đương tri. Các ông phải nên biết.
Tuyên sướng thị pháp thời, Tuyên nói pháp đó rồi
Lục bách vạn ức cai, Sáu trăm muôn ức cai
Đắc tận chư khổ tế, Ðặng hết các ngằn khổ
Giai thành A La Hán. Ðều thành A La Hán.
Đệ nhị thuyết Pháp thời, Thời nói pháp thứ hai
Thiên vạn hằng sa chúng, Nghìn muôn hằng sa chúng
Ư chư Pháp bất thụ, Ở các pháp chẳng thọ
Diệc đắc A La Hán. Cũng đặng A La Hán,
Tùng thị hậu đắc đạo, Từ sau đây đặng đạo
Kỳ số vô hữu lượng, Số đông đến vô lượng
Vạn ức kiếp toán số, Muôn ức kiếp tính kể
Bất năng đắc kỳ biên. Không thể đặng ngằn mé
Ðức Thế Tôn đầy đủ vô lượng trí huệ, thọ nhận tất cả chúng sinh thỉnh cầu thuyết pháp. Phật có thể diễn nói đủ thứ pháp, cho nên trước hết nói pháp bốn Diệu đế và mười hai nhân duyên, tức là từ vô minh đến lão tử, đều do mười hai nhân duyên sinh ra.
Do đó, mà chiêu lại rất nhiều hoạ hoạn, các ông nên biết pháp như thế. Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng diễn nói pháp nầy rồi, thì có sáu trăm vạn ức chúng Phạm Thiên Vương, lìa được tất cả khổ, đều chứng được quả vị A La Hán.
Khi Phật thuyết pháp lần thứ hai, thì có ngàn vạn Hằng hà sa chúng sinh, ngộ được tướng không của các pháp, đều đắc quả A La Hán Thanh Văn và quả vị Duyên Giác Bồ Tát, số đông vô lượng vô biên chẳng cùng tận, dù trải qua hàng vạn ức kiếp để đếm tính số mục, cũng không thể biết được số đó ngằn mé là bao nhiêu.
Thời thập lục Vương tử, Bấy giờ mười sáu vị
Xuất gia tác sa di, Xuất gia làm Sa di
Giai cộng thỉnh bỉ Phật, Ðều đồng thỉnh Phật kia
Diễn thuyết Đại Thừa Pháp: Diễn nói pháp đại thừa:
Ngã đẳng cập doanh tùng, “Chúng con cùng quyến thuộc
Giai đương thành Phật đạo, Ðều sẽ thành Phật đạo
Nguyện đắc như Thế Tôn , Nguyện đặng như Thế Tôn
Tuệ nhãn đệ nhất tịnh. Huệ nhãn sạch thứ nhứt.”
Lúc đó, mười sáu vị vương tử đều phát tâm xuất gia tu đạo, làm Sa Di. Các vị Sa Di đều cùng thỉnh Phật Ðại Thông Trí Thắng, vì tất cả chúng sinh diễn nói pháp đại thừa, nên hỏi Phật: ‘’Chúng con và tất cả quyến thuộc, đều sẽ thành Phật đạo, vì chúng con nguyện được giống như đức Thế Tôn, đầy đủ mắt trí huệ thanh tịnh bậc nhất.
Phật tri Đồng tử tâm, Phật biết lòng đồng tử
Tú thế chi sở hạnh, Chỗ làm của đời trước
Dĩ vô lượng nhân duyên, Dùng vô lượng nhơn duyên
Chủng chủng chư thí dụ, Cùng các món thí dụ
Thuyết lục Ba la mật, Nói sáu ba la mật
Cập chư thần thông sự. Và các việc thần thông,
Phân biệt chân thật Pháp, Phân biệt pháp chơn thiệt
Bồ Tát sở hạnh đạo, Ðạo của Bồ Tát làm
Thuyết thị Pháp Hoa Kinh, Nói kinh Pháp Hoa nầy
Như Hằng hà sa kệ. Kệ nhiều như hằng sa .
Phật biết tâm của những vị đồng tử nầy nghĩ tưởng những gì, sự tu hành trong đời trước của những vị nầy đến đâu, từng dùng vô lượng nhân duyên, đã từng nghe Phật nói đủ thứ diệu lý thật tướng của các pháp, bổn sinh, nhân duyên, ví dụ, và sáu pháp Ba La Mật. Sáu pháp Ba La Mật là: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.
Ba La Mật là tiếng Phạn, dịch là “đến bờ kia”. Các vị Sa Di cũng đã từng nghe Phật nói đủ thứ việc tu chứng thần thông diệu dụng, cho nên có trí huệ lớn, để phân biệt được pháp một Phật thừa chân thật, Các Ngài tu sáu Ba la mật của Bồ Tát. Do đó, nay các Ngài thích nghe pháp đại thừa Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đều ngộ biết trong Kinh Pháp Hoa có nhiều bài kệ như số cát sông Hằng.
Bỉ Phật thuyết Kinh dĩ, Phật kia nói kinh rồi
Tĩnh thất nhập Thiền định, Vào tịnh thất nhập định
Nhất tâm nhất xử tọa, Tám muôn bốn nghìn kiếp
Bát vạn tứ Thiên kiếp. Một lòng ngồi một chỗ.
Thị chư sa di đẳng, Các vị Sa Di đó
Tri Phật Thiền vị xuất, Biết Phật chưa xuất thiền
Vị vô lượng ức chúng, Vì vô lượng chúng nói
Thuyết Phật vô thượng tuệ. Huệ vô thượng của Phật
Các các tọa Pháp tọa, Mỗi vị ngồi pháp tòa
Thuyết thị Đại thừa Kinh, Nói kinh đại thừa nầy
Ư Phật yến tịch hậu, Sau khi Phật yên lặng
Tuyên dương trợ pháp hóa. Tuyên bày giúp giáo hóa.
Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng nói xong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa rồi, thì Ðức Phật vào tịnh thất nhập vào thiền định thâm sâu, ở trong cảnh giới như như bất động, liễu liễu thường minh, trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp.
Lúc đó, mười sáu vị Sa Di biết Phật chưa xuất định, do đó, các Ngài phát tâm vì vô lượng ức chúng sinh, nói trí huệ vô thượng của Phật. Mỗi vị Sa Di đều lên pháp tòa diễn nói Kinh Pháp Hoa, lúc Phật tĩnh lặng không động, thì giúp Phật tuyên dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh.
Nhất nhất sa di đẳng, Mỗi vị Sa Di thảy
Sở độ chư chúng sanh, Số chúng sanh mình độ
Hữu lục bách vạn ức, Có sáu trăm muôn ức
Hằng hà sa đẳng chúng. Hằng hà sa các chúng.
Bỉ Phật diệt độ hậu, Sau khi Phật diệt độ
Thị chư văn Pháp giả, Các người nghe pháp đó
Tại tại chư Phật thổ, Ở các nơi cõi Phật
Thường dữ sư câu sanh. Thường cùng thầy sanh chung.
Mười sáu vị Sa Di đó, mỗi vị giáo hóa chúng sinh khoảng sáu trăm vạn ức Hằng hà sa số chúng sinh. Khi Phật Ðại Thông Trí Thắng diệt độ rồi, những người nghe mười sáu vị Sa Di thuyết pháp, đều cùng sinh vào một nước với đấng Ðạo Sư của họ.
Thị thập lục sa di, Mười sáu Sa Di đó
Cụ túc hành Phật đạo, Ðầy đủ tu Phật đạo
Kim hiện tại thập phương, Nay hiện ở mười phương
Các đắc thành chánh giác. Ðều đặng thành chánh giác
Nhĩ thời văn Pháp giả, Người nghe pháp thuở đó
Các tại chư Phật sở, Ðều ở chỗ các Phật
Kỳ hữu trụ Thanh văn, Có người trụ Thanh Văn
Tiệm giáo dĩ Phật đạo. Lần dạy cho Phật đạo
Mười sáu vị Sa Di đó, vì tu hành đầy đủ Phật đạo, nên các Ngài xuất hiện ở trong cõi nước mười phương, ai nấy đều thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Những chúng sinh nghe được Phật pháp vào thuở đó, đều là quá khứ đã từng nghe qua Phật pháp, của mười sáu vị Sa Di đó nói, cho nên hiện nay lại hiện ở trong mỗi cõi nước, để gần gũi nghe Phật thuyết pháp, trong đó có rất nhiều chúng hàng Thanh Văn, dần dần được Phật giáo hóa mà vào được Phật đạo.
Ngã tại thập lục số, Ta ở số mười sáu
Tằng diệc vị nhữ thuyết, Từng vì các ngươi nói
Thị cố dĩ phương tiện, Cho nên dùng phương tiện
Dẫn nhữ thú Phật tuệ. Dẫn dắt đến huệ Phật
Dĩ thị bổn nhân duyên, Do bổn nhơn duyên đó
Kim thuyết Pháp Hoa Kinh, Nay nói kinh Pháp Hoa
Lệnh nhữ nhập Phật đạo, Khiến ngươi vào Phật Ðạo
Thận vật hoài Kinh cụ. Dè dặt chớ kinh sợ.
Ta, Phật Thích Ca Mâu Ni, tức là Sa Di thứ mười sáu. Ở trong quá khứ, các ông đã từng nghe pháp của ta nói, cho nên ta dùng pháp phương tiện, dẫn dắt các ông tu học trí huệ của Phật, đến được trí huệ của Phật. Do nhân duyên đó, mà nay ta diễn nói Kinh Pháp Hoa, khiến cho các ông đi vào tạng trí huệ của Phật, đều thành chánh giác. Các ông đừng bao giờ sinh tâm hoài nghi và sợ sệt, ta sẽ vì các ông giải thích phân biệt rõ ràng thật tướng chân lý Phật pháp.
Thí như hiểm ác đạo, Thí như đường hiểm dữ
Huýnh tuyệt đa độc thú, Xa vắng nhiều thú độc
Hựu phục vô thủy thảo, Và lại không cỏ nước
Nhân sở bố úy xử. Chốn mọi người ghê sợ
Vô số Thiên vạn chúng, Vô số nghìn muôn chúng
Dục qua thử hiểm đạo, Muốn qua đường hiểm nầy
Kỳ lộ thậm khoáng viễn, Ðường đó rất xa vời
Kinh ngũ bách do tuần. Trải năm trăm do tuần.
Thời hữu nhất Đạo sư, Bấy giờ một đạo sư
Cường thức hữu trí tuệ, Nhớ dai có trí tuệ
Minh liễu tâm quyết định, Sáng suốt lòng quyết định
Tại hiểm tế chúng nan. Ðường hiểm cứu các nạn
Ví như một đoạn đường dài nguy hiểm, con đường nào nguy hiểm nhất? Tức là đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Ở trong con đường này, giống như hoang dã, có rất nhiều rắn độc ác thú, cho đến một giọt nước, cộng cỏ, cũng chẳng có, là nơi mọi người đều sợ. Lúc đó, có vô lượng trăm ngàn vạn chúng sinh, muốn đi qua con đường nguy hiểm nầy, vượt ra khỏi sáu nẻo luân hồi, được chân chánh giải thoát, song phải đi ngang qua năm trăm do tuần, mới đến nơi cứu kính, cho nên còn cách xa đạo tám vạn bốn ngàn dặm.
Lúc đó, có một vị thiện tri thức, đầy đủ sự học rộng hiểu nhiều, thông minh trí huệ, thấu suốt tất cả mọi việc thị phi trắng đen, và còn biết con đường nào là chánh, con đường nào là tà. Do đó, Ngài thường ở trong đường hiểm, cứu tất cả chúng sinh gặp nạn.
Chúng nhân giai bì quyền, Mọi người đều mệt mỏi
Nhi bạch Đạo sư ngôn: Mà bạch đạo sư rằng:
“Ngã đẳng kim đốn phạp, Chúng con nay mệt mỏi
Ư thử dục thoái hoàn. Nơi đây muốn trở về
Đạo sư tác thị niệm: Ðạo sư nghĩ thế nầy:
Thử bối thậm khả mẫn, Bọn nầy rất đáng thương.
Như hà dục thoái hoàn, Sao lại muốn lui về
Nhi thất Đại trân bảo? Ðể mất châu báu lớn.
Ði trên con đường hiểm nầy thật chẳng dễ dàng, trợ duyên rất ít, nghịch duyên thì nhiều, ví như một người tu đạo, cần nhờ sự giúp đỡ của Bồ Tát và thần hộ pháp, khiến cho họ tu đạo được viên mãn, hoặc có người dùng phương pháp tu đạo sai lầm, có thiện tri thức dẫn dắt họ đi trên con đường chánh, đó đều là trợ duyên. Nghịch duyên là gì? Ví như bạn muốn phát tâm bồ đề chân chánh, song lại có người khiến cho bạn thối bồ đề tâm, sinh ra đủ thứ dục niệm, nên đạo tâm chẳng vững chắc, cho nên gọi là nghịch duyên. Trên con đường đạo chẳng dễ gì tu, rất dễ sinh mệt mỏi, cảm thấy thời gian tu rất là lâu, mà một chút thu hoạch cũng chẳng có, do đó bèn bạch với Ðạo sư rằng: ‘’Hiện nay chúng con đều mỏi mệt, chúng con muốn trở về, chẳng muốn tu hành nữa‘’.
Lúc đó, vị Thiện tri thức nghĩ như vầy: Những chúng sinh nầy thật là đáng thương! Sao lại muốn sinh tâm thối chuyển, mà chẳng muốn tu đạo? Vốn sẽ được trân bảo mà nay đều bỏ mất.
Tầm thời tư phương tiện, Nên dùng sức phương tiện
Đương thiết thần thông lực, Nên bày sức thần thông.
Hóa tác đại thành quách, Hóa làm thành quách lớn
Trang nghiêm chư xá trạch, Trang nghiêm các phòng nhà.
Châu táp hữu viên lâm, Chung quanh có vườn rừng
Cừ lưu cập dục trì, Suối chảy và ao tắm.
Trọng môn cao lâu các, Cửa lớn lầu gác cao
Nam nữ giai sung mãn. Nam nữ đều đầy dẫy
Tức tác thị hóa dĩ, Hóa làm thành đó rồi
Ú y chúng ngôn vật cụ: An ủi họ chớ sợ.
Nhữ đẳng nhập thử thành, Các ông vào thành nầy
Các khả tùy sở lạc. Ðều được tùy sở thích.
Tức thời, vị Thiện tri thức nghĩ ra pháp môn phương tiện, bèn dùng thần thông trí lực của Ngài, ở giữa đường hóa ra thành quách lớn, trong đó có rất nhiều phòng nhà rất trang nghiêm, xung quanh có vườn hoa và rừng cây, có suối nước trong sạch, ao tám bảy báu, lầu gác cao trùng trùng, nam nữ đều rất vui mừng hớn hở, những cảnh giới nầy đều biến hóa ra.
Lúc đó, vị Thiện tri thức nói với đại chúng rằng: ‘’Các ngươi đừng sinh tâm sợ sệt, bây giờ có thể vào trong thành nầy, mong cầu gì cũng được toại tâm như ý‘’. Kì thật, hóa thành nầy, tức là hữu dư Niết Bàn của hàng nhị thừa chứng được, mà Kinh Pháp Hoa là khai quyền hiển thật, dẫn dắt hàng nhị thừa, cho nên Phật không thể không nói với đại chúng: Hữu dư Niết Bàn mà các ngươi chứng được, bất quá chỉ giống như tòa hóa thành, chẳng phải chân chánh đắc được Niết Bàn cứu kính.
Chư nhân ký nhập thành, Mọi người đều vào thành
Tâm giai đại hoan hỉ, Tâm đều rất vui mừng.
Giai sanh an ổn tưởng, Ðều sinh tưởng an ổn
Tự vị dĩ đắc độ. Tự cho đã được độ
Đạo sư tri tức dĩ, Ðạo sư biết nghỉ rồi
Tập chúng nhi cáo ngôn: Nhóm chúng mà bảo rằng:
Nhữ đẳng đương tiền tấn, Các ngươi nên đi nữa
Thử thị hóa thành Nhĩ. Ðây là hóa thành thôi
Ngã kiến nhữ bì cực, Thấy các ngươi mỏi mệt
Trung lộ dục thoái hoàn, Giữa đường muốn lui về.
Cố dĩ phương tiện lực, Nên dùng sức phương tiện
Quyền hóa tác thử thành. Ta hóa làm thành nầy
Nhữ đẳng cần tinh tấn, Các ngươi gắng tinh tấn
Đương cọng chí bảo sở. Nên cùng đến bảo sở.
Ngã diệc phục như thị, Ta cũng lại như thế
Vị nhất thiết Đạo sư. Ðạo sư của tất cả.
Tất cả hàng tiểu thừa, đều vui mừng lìa khổ được vui, chẳng phát tâm lớn, tu pháp tiểu thừa, cho nên các ngươi đến được hóa thành nầy, thì cảm thấy đã mãn nguyện, đều sinh tâm vui mừng, tự cho rằng đã được an ổn cứu kính thoát khỏi biển khổ sinh tử.
Phật sớm đã biết đại chúng sẽ sinh tư tưởng như thế, do đó lại triệu tập tất cả đại chúng mà bảo rằng: ‘’Các ngươi bây giờ đã hết mệt mỏi, nên cố gắng tiến về trước, vì chỗ các ông ở bây giờ, bất quá chỉ là một tòa hóa thành mà thôi, chẳng phải là chỗ trân bửu chân chánh. Vì ta thấy các ngươi quá mệt mỏi, sinh tâm thối chuyển, chẳng muốn tu đạo nữa, cho nên ta dùng pháp phương tiện, sức thần thông, biến hóa ra thành quách, tức là pháp của hàng nhị thừa. Bây giờ, các ngươi hãy dũng mãnh tinh tấn, thì sẽ đạt đến chỗ bảo tàng của Phật. Ta cũng như thế, là thiện tri thức của tất cả chúng sinh, giáo hóa họ sớm lên bờ giác, cùng thành Phật đạo.
Kiến chư cầu đạo giả, Thấy những người cầu đạo
Trung lộ nhi giải phế, Giữa đường mà lười bỏ
Bất năng độ sanh tử, Không thể vượt sanh tử
Phiền não chư hiểm đạo. Phiền não các đường hiểm
Cố dĩ phương tiện lực, Nên dùng sức phương tiện
Vị tức thuyết Niết Bàn. Vì nghỉ nói Niết Bàn.
Ngôn nhữ đẳng khổ diệt, Rằng các ngươi khổ diệt
Sở tác giai dĩ biện. Chỗ làm đều đã xong
Ký tri đáo Niết Bàn, Ðã biết đến Niết Bàn
Giai đắc A La Hán, Ðều chứng A La Hán
Nhĩ nãi tập Đại chúng, Giờ mới nhóm đại chúng
Vị thuyết chân thật Pháp. Vì nói pháp chơn thật
Ta thấy một số người cầu đạo, tu hành đến nửa đường, thì cảm thấy quá khổ nhọc, mà sinh tâm lười bỏ, chẳng nghĩ tu đạo nữa. Do đó có câu:
‘’Tu đạo nhất niên,
Phật tại nhãn tiền,
Tu đạo tam niên,
Nhất vạn bát thiên,
Tu đạo thập niên,
Phật tại thiên biên.’’
Nghĩa rằng:
Tu đạo một năm,
Phật ở trước mặt,
Tu đạo ba năm,
Xa Phật ngàn dặm,
Tu đạo mười năm,
Phật ở trên trời.
Cho nên nói, nếu chúng ta từ đầu đến cuối, giữ được tâm tinh tấn như lúc ban đầu, dũng mãnh tinh tấn thẳng một lèo, thì sớm sẽ thành Phật đạo. Nếu bỏ giữa đường thì chẳng thành tựu, không thể vượt qua biển khổ sinh tử, đường hiểm phiền não. Cho nên, Phật bày pháp môn phương tiện, chẳng phải thật pháp, mới nói với hàng nhị thừa: ‘’Các ngươi cũng có thể chứng được Niết Bàn, xa lìa các sự khổ, chẳng còn sinh tử, những việc làm của các ngươi đã xong, đắc được Niết Bàn chứng đắc A La Hán.’’ Lúc đó, Phật lại triệu tập đại chúng, vì họ nói pháp chân thật.
Chư Phật phương tiện lực, Sức phương tiện các Phật
Phân biệt thuyết tam thừa, Phân biệt nói ba thừa
Duy hữu nhất Phật thừa, Chỉ có một Phật Thừa
Tức xứ cố thuyết nhị. Vì nghỉ nên nói hai
Kim vị nhữ thuyết thật, Nay vì ngươi nói thật
Nhữ sở đắc phi diệt, Chỗ ngươi được chẳng diệt.
Vị Phật nhất thiết trí, Vì Phật Nhất thiết trí
Đương phát đại tinh tấn. Hãy phát đại tinh tấn.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, dùng hết pháp phương tiện, để giáo hóa chúng sinh, mà Phật pháp vốn chỉ có Phật thừa, chẳng có Duyên Giác thừa, Thanh Văn thừa. Vì căn cơ của chúng sinh, không thể một khi bắt đầu thì minh bạch, và tiếp thọ Phật pháp, cho nên Phật vì chúng sinh phương tiện nói ra Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, Bồ Tát thừa, đó đều là Phật dùng sức đại oai thần, hóa ra pháp môn nhị thừa, nên gọi là hóa thành. Cho nên nói, chỉ có Phật thừa mới là thật thừa, tất cả chúng sinh tu hành quá lâu, đều sinh ra tâm nhàm mỏi, do đó Phật dùng pháp môn phương tiện, để tạo ra hóa thành, vì chúng sinh nói hữu dư Niết Bàn và vô dư Niết Bàn.
Bây giờ, Phật muốn khai quyền hiển thật, nói ra chân thật Niết Bàn, vì trước khi Phật nói với hàng nhị thừa chỉ là hữu dư Niết Bàn, chưa đạt đến một Phật thừa viên dung vô ngại, cho nên chưa thể dứt sinh tử, đến bất sinh bất diệt. Vì chứng được tứ quả A La Hán, tuy nhiên dứt được phân đoạn sinh tử, song chưa đoạn sạch biến dịch sinh tử. Phật đầy đủ tất cả thật tướng Bát nhã trí huệ, các ngươi nên cầu đại trí huệ của Phật, dũng mãnh tinh tấn hướng về trước, cầu Phật đạo vô thượng, không thể lưu lại ở quả vị A La Hán, mà sinh tâm tự mãn, không cầu tiến về trước.
Nhữ chứng nhất thiết trí, Ngươi chứng nhứt thiết trí
Thập lực đẳng Phật Pháp, Mười lực các Phật pháp.
Cụ tam thập nhị tướng, Ðủ ba mươi hai tướng
Nãi thị chân thật diệt. Mới là chân thật diệt
Chư Phật chi Đạo sư, Chư Phật là Ðạo sư
Vị tức thuyết Niết Bàn, Vì nghỉ nói Niết Bàn.
Ký tri thị tức dĩ, Ðã biết nghỉ ngơi rồi
Dẫn nhập ư Phật tuệ. Dẫn vào nơi Phật huệ.
Khi nào các ngươi chứng được Nhất thiết trí, mười lực của Phật. Mười lực là gì? Mười lực là mười thứ lực mà Phật có đủ.
- Phật có trí lực biết xứ phi xứ. Biết xứ là tất cả đều hợp với Phật pháp, phi xứ là tất cả đều trái ngược với Phật pháp, mà Phật thì có trí huệ và lực nầy, phân rõ thị phi.
- Trí lực biết nghiệp báo ba đời. Tất cả chúng sinh trong đời quá khứ tạo ra tội nghiệp gì, bây giờ trồng nhân gì, tương lai kết quả gì, đời sau thọ quả báo gì? Phật có sức trí huệ nầy, biết nghiệp báo ba đời.
- Trí lực biết các thiền giải thoát tam muội. Bao quát sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, gọi là ‘’Tứ không xứ’’, còn tất cả các thiền định và tám thứ giải thoát.
- Trí lực biết các căn thắng liệt.
- Trí lực biết chủng chủng giải.
- Trí lực biết chủng chủng giới. Phật biết rõ đủ thứ cảnh giới của tất cả chúng sinh, cho nên mới có thể giáo hóa họ. Ví như mỗi người đều có tôn giáo tín ngưỡng của mình, có người tin Cơ Ðốc giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo .v.v., kì thật, mỗi tôn giáo đều quy vào Phật giáo, mà mỗi căn tính của chúng sinh khác nhau, cho nên cũng tiếp thọ đủ thứ pháp khác nhau.
- Trí lực biết tất cả chí xứ đạo. Giống như tu ngũ giới thập thiện, thì sẽ sinh về cõi trời, tu thiền định thì chứng quả, tu lục độ vạn hạnh thì thành Phật. Tạo nghiệp ác thì đọa vào địa ngục, làm ngạ quỷ, trồng nhân gì được quả đó.
- Trí lực biết thiên nhãn vô ngại.
- Trí lực biết túc mạng vô lậu.
- Trí lực biết vĩnh đoạn tập khí.
Ðây chỉ là nói tóm tắc, nếu nói tỉ mỉ thì trăm ngàn trí lực đều từ đây sinh ra, chẳng có tận cùng.
Nếu người tu đạo, chứng được ba mươi hai tướng, thì đắc được tịch diệt và khoái lạc chân thật. Chư Phật là Ðạo sư của tất cả chúng sinh, thấy tất cả chúng sinh tu đạo giữa đường, sinh tâm lười mỏi mà nói ra Bồ Tát thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và hữu dư Niết Bàn. Tuy nhiên biết đây là hóa thành, là nơi nghỉ trọ của chúng sinh, chứ chẳng phải ngôi nhà thật sự, cho nên dẫn dắt mọi người nhập vào Phật đạo, được trí huệ viên mãn.