Kinh Pháp Hoa – Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học và Vô Học

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp

Phật Sở Hộ Niệm

— o0o —

Phụng chiếu dịch: Diêu Tần Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập

Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá

— o0o —

Phẩm Thọ Ký Cho Bậc Hữu Học và Vô Học

Bấy giờ, Ngài A nan, La Hầu La nghĩ như vầy: Chúng ta ai nấy đều tự nghĩ rằng: Nếu được đức Phật thọ ký cho, thì chẳng sung sướng lắm sao!

 

Nhĩ thời A nan, La hầu la nhi tác thị niệm: Ngã đẳng mỗi tự tư duy: Thiết đắc thọ kí, bất diệc khoái hồ. Tức tùng toạ khởi, đáo ư Phật tiền, đầu diện lễ túc, câu bạch Phật ngôn: Thế Tôn! ngã đẳng ư thử diệc ưng hữu phần, duy hữu Như Lai, ngã đẳng sở quy.

Hựu ngã đẳng vị nhất thiết thế gian Thiên, nhân, A Tu La sở kiến tri thức A nan thường vị thị giả, hộ Trì Pháp tạng; La hầu la thị Phật chi tử Nhược Phật kiến thọ A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề kí giả, ngã nguyện ký mãn, chúng vọng diệc túc.

 Bấy giờ, ngài A Nan và ngài La Hầu La nghĩ như vầy: ” Chúng ta tự suy nghĩ, nếu được thụ ký thời sung sướng lắm”. Liền từ nơi chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lậy chân Phật đồng bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Chúng con trong đây cũng đáng có phần, chỉ có đức Như Lai, là chỗ về nương của chúng con.

Lại chúng con là người quen biết của tất cả trời người A tu La trong đời. A Nan thường làm vị thị giả hộ trì tạng pháp, La Hầu La là con của Phật, nếu Phật thụ ký đạo vô thượng chính đẳng chính giác cho, thời lòng nguyện cầu của con đã mãn, mà lòng trông của chúng cũng được đủ”.

Lúc đó, Ngài A Nan và La Hầu La hai vị tôn giả sinh ra tâm niệm. Các Ngài ở trong đại chúng nói: ‘’Chúng con luôn luôn nghĩ rằng, nếu như chúng con cũng được Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn thọ ký cho, thì chẳng phải sung sướng lắm sao? Tuy hai vị tôn giả đã chứng được quả vị A La Hán, song các Ngài ở trong định, vẫn sinh ra một ý niệm của phàm phu. Phàm phu thì sinh ra nhiều vọng niệm đều chẳng chân thật, còn ý niệm của các Ngài là niệm chân thật.

Bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước đức Phật, đầu mặt lễ dưới chân đức Phật, đều bạch Phật rằng: Ðức Thế Tôn! Chúng con ở nơi đây cũng đáng có phần, chỉ có đức Như Lai là chỗ nương tựa của chúng con, và chúng con là chỗ thấy biết của hàng trời người A tu la. A Nan thường làm thị giả, hộ trì tạng pháp, La Hầu La là con của đức Phật. Nếu được thấy đức Phật thọ ký quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì nguyện cầu của chúng con đã đầy đủ, nguyện vọng của đại chúng cũng viên mãn.

Hai vị tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước đức Phật, năm thể sát đất cung kính lễ Phật, sau đó cùng nhau đồng thanh nói: ‘’Ðức Thế Tôn! Chúng con cũng đáng có phần được thọ ký! Chỉ có Ðức Như Lai là nơi chúng con trở về nương tựa. Tất cả trời người A Tu La của thế gian, đều biết chúng con là thiện tri thức của họ. A Nan là đệ tử thường gần gũi hầu hạ đức Phật, cũng là người chuyên môn hộ trì tất cả tạng pháp của Phật, còn La Hầu La là con của Phật. Nếu như Phật từ bi vì chúng con thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thì nguyên lực của chúng con đã viên mãn, và hai ngàn vị vô học trong pháp hội cũng đầy đủ nguyện vọng của họ.

 

Nhĩ thời, học, vô học Thanh văn đệ tử nhị Thiên nhân, giai tùng tọa khởi, Thiên đản hữu kiên, đáo ư Phật tiền, nhất tâm hợp chưởng, chiêm ngưỡng Thế Tôn , như A nan, La hầu la sở nguyện, trụ lập nhất diện.

 Lúc đó, hàng đệ tử Thanh văn, bậc học cùng vô học, hai nghìn người đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trệch vai áo bên hữu đến trước Phật chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Thế Tôn như chỗ nguyện cầu của A Nan và La Hầu La rồi đứng qua một phía.

Bấy giờ, hai ngàn vị đệ tử Thanh Văn hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, hở áo bên vai phải, đến trước đức Phật, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, cũng như chỗ nguyện cầu của A Nan và La Hầu La, rồi đứng qua một bên.

Sau khi hai vị tôn giả nói xong, thì có hai nghìn đệ tử Thanh Văn hữu học và vô học, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, hở áo bên vai phải, đến trước đức Phật, một lòng chắp tay, chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Trong tâm của các vị đó, cũng nguyện cầu và khát vọng như hai vị tôn giả A Nan và La Hầu La, tuy các vị đó đứng qua một bên, song chẳng nói gì.

Bấy giờ, đức Phật bảo A Nan rằng: ‘’Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

 

Nhĩ thời Phật cáo A nan: Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn . Đương cúng dường lục thập nhị ức chư Phật, hộ Trì Pháp tạng, nhiên hậu đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Giáo hóa nhị thập Thiên vạn ức Hằng hà sa chư Bồ Tát đẳng, lệnh thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Bấy giờ, đức Phật bảo A Nan: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng cúng, Chính biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn; ông sẽ cúng dường sáu mươi hai ức đức Phật, hộ trì tạng pháp vậy sau chứng được đạo vô thượng chính đẳng chính giác, giáo hóa hai mươi nghìn muôn ức hằng hà sa các chúng Bồ Tát vv… làm cho thành đạo vô thượng chính đẳng chính giác.

Lúc đó, Phật bảo Ngài A Nan: ‘’Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai’’. Vì trí tuệ của Ngài A Nan rộng lớn, cao như núi, rộng như biển, chân chánh đắc được tự tại, cho nên thành Phật, được hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai. Lúc đó, Ngài cũng đầy đủ mười hiệu, lược giải như sau: Xứng đáng thọ trời người cúng dường. Thấu rõ chân lý vạn pháp do tâm, tâm sinh vạn pháp. Trí huệ tu hành đều đầy đủ viên mãn. Giải thoát tất cả khổ não của thế gian, được sinh nơi an lạc. Ðến được quả vị cao thượng nhất. Một vị đại trượng phu điều ngự được tất cả chúng sinh. Ðạo sư của trời người. Viên mãn tự giác giác tha. Một vị tôn giả xuất thế gian.

Sẽ cúng dường sáu mươi hai ức các đức Phật, hộ trì tạng pháp, sau đó sẽ được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Giáo hóa hai mươi ngàn vạn ức các vị Bồ Tát, nhiều như số cát sông Hằng, khiến cho thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Quốc danh Thường Lập Thắng Phan, kỳ độ thanh tịnh, lưu ly vị địa. Kiếp danh Diệu Âm biến mãn. Kỳ Phật thọ mạng, vô lượng Thiên vạn ức a tăng kì kiếp, Nhược nhân ư Thiên vạn ức vô lượng a tăng kì kiếp trung toán số giáo kế, bất năng đắc tri. Chánh pháp trụ thế bội ư thọ mạng, tượng Pháp trụ thế phục bội chánh pháp.

Nước tên là Thường Lập Thắng Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng chất Lưu Ly, kiếp tên Diệu Âm Biến Mãn. Ðức Phật đó thọ mệnh vô lượng  nghìn muôn ức vô lượng  a tăng kỳ kiếp tính đếm số kể chẳng có thể biết được, chính pháp trụ đời gấp bội thọ mệnh, tượng pháp lại gấp bội chính pháp.

Nước đó tên là Thường Lập Thắng Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng lưu ly, kiếp tên là Diệu Âm Biến Mãn. Ðức Phật đó, sống lâu vô lượng nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp. Nếu có người ở trong nghìn vạn ức A tăng kỳ kiếp, tính toán cũng chẳng biết được. Chánh pháp lưu lại ở đời gấp bội số thọ mạng. Tượng pháp lưu lại ở đời, lại gấp bội chánh pháp.

 

A nan! Thị Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật, vị thập phương vô lượng Thiên vạn ức hằng hà sa đẳng chư Phật Như Lai sở cọng tán thán, xưng kỳ công đức. Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

 A Nan! Ðức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương đó, được vô lượng  nghìn muôn ức hằng hà sa các đức Phật Như Lai ở mười phương đồng ngợi khen công đức của ngài. Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Ngài A Nan sẽ cúng dường sáu mươi hai ức chư Phật, dùng đủ thứ thiện xảo phương tiện, để hộ trì tất cả tạng pháp, của sáu mươi hai ức chư Phật. Cuối cùng Ngài sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

Sau khi Ngài thành Phật, giáo hóa nghìn vạn ức chúng Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng. Tất cả chúng Bồ Tát đó, đều phát tâm đại từ bi hành Bồ Tát đạo, đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cõi nước của Ðức Phật đó, tên là Thường Lập Thắng Phan. Vì Ngài A Nan đa văn đệ nhất, mỗi lần biện luận chắc chắn đều thắng, cho nên nước của Ngài được tên là Thường Lập Thắng Phan. Ðất đai ở trong cõi nước đó rất thanh tịnh, mặt đất bằng chất lưu ly. Kiếp tên là Diệu Âm Biến Mãn, vì âm thanh của Ngài A Nan thuyêt pháp rất hay đầy khắp hư không, ai nghe cũng đều sinh tâm vui mừng, chẳng cảm thấy mệt mỏi, do đó mà kiếp có tên là Diệu Âm Biến Mãn.

Tuổi thọ của Ðức Phật đó, lâu dài vô lượng ngàn vạn ức A tăng kỳ kiếp. Nếu ai ở trong nghìn vạn ức vô lượng số kiếp A tăng kỳ, để tính đếm thời gian thọ mạng của đức Phật đó, cũng không thể biết được số lượng. Chánh pháp lưu lại ở đời, tăng gấp bội so với tuổi thọ của đức Phật đó, tượng pháp lưu lại ở đời, hơn gấp bội so với chánh pháp.

A Nan! Ðức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương, tức là danh hiệu Phật của ông sẽ thành ở vị lai. Ông sẽ được vô lượng nghìn vạn ức các đức Phật Như Lai, nhiều như số cát sông Hằng trong mười phương, đều tán thán khen ngợi công đức viên mãn của ông‘’. Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn thuật lại những gì vừa nói trường hàng ở trên, bèn nói ra bài kệ rằng:

 

Ngã kim tăng trung thuyết,                  Nay Ta nói trong Tăng
A nan trì pháp giả,                                  A Nan, người trì pháp
Đương cúng dường chư Phật,              Sẽ cúng dường các Phật
Nhiên hậu thành chánh giác,                Vậy sau thành chính giác

Hiệu viết: Sơn Hải Tuệ                          Hiệu rằng: Sơn Hải Tuệ
Tự Tại Thông Vương Phật.                   Tự Tại Thông Vương Phật
Kỳ quốc độ thanh tịnh,                         Cõi nước kia thanh tịnh
Danh Thường Lập Thắng Phan,          Tên Thường Lập Thắng Phan

Giáo hóa chư Bồ Tát,                             Giáo hóa các Bồ Tát
Kỳ số như hằng sa.                                Số đông như hằng sa
Phật hữu đại uy đức,                             Phật có uy đức lớn
Danh văn mãn thập phương.              Tiếng đồn khắp mười phương

Thọ mạng vô hữu lượng,                      Vì bởi thương chúng sinh
Dĩ mẫn chúng sanh cố,                         Nên sống lâu vô lượng
Chánh pháp bội thọ mạng,                  Chính pháp bội thọ mệnh
Tượng Pháp phục bội thị.                     Tượng pháp lại bội chính

Như hằng hà sa đẳng,                          Vô số hàng chúng sinh
Vô số chư chúng sanh,                         Ðông như cát sông Hằng
Ư thử Phật Pháp trung,                        Ở trong pháp Phật đó
Chủng Phật đạo nhân duyên.             Gieo nhân duyên Phật đạo.

Hôm nay đức Phật đối trước hàng Tỳ Kheo, nói nhân duyên thọ ký của Ngài A Nan. Ngài A Nan nhiều đời hộ trì tất cả tạng pháp của chư Phật. Ngài thường suốt đời cung kính cúng dường tất cả chư Phật, về sau trong tương lai cũng sẽ thành Phật, hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật. Cõi nước của Ngài rất thanh tịnh, tên là Thường Lập Thắng Phan. Giáo hoá các chúng Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng. Ðức Phật đó, có oai đức thần thông lớn và đức hạnh, cho nên danh đồn của Ngài đầy khắp mười phương thế giới. Tuổi thọ của Ngài nhiều vô lượng, vì thương xót giáo hóa độ thoát tất cả chúng sinh. Chánh pháp lưu lại ở đời tăng gấp bội so với tuổi thọ của đức Phật, tượng pháp lưu lại ở đời lại tăng gấp bội so với chánh pháp. Vô lượng vô số chúng sinh nhiều như cát sông Hằng, đều ở trong Phật pháp của Ngài trồng xuống nhân duyên Phật đạo.

 

Nhĩ thời hội trung tân phát tâm Bồ Tát bát Thiên nhân, hàm tác thị niệm: Ngã đẳng thượng bất văn chư đại Bồ Tát đắc như thị kí, hữu hà nhân duyên nhi chư Thanh văn đắc như thị quyết?

Bấy giờ, trong hội hàng Bồ Tát  mới phát tâm, tám nghìn người, đều nghĩ thế này: “Chúng ta còn chưa nghe các vị Bồ Tát  lớn được thụ ký như thế, có nhân duyên gì mà các Thanh văn được thụ ký như thế.”

Lúc đó, ở trong pháp hội có tám nghìn vị Bồ Tát, mới được du hí tam muội của Bồ Tát, đều sinh tâm hoài nghi mà nghĩ như vầy: ‘’Sao chúng ta chưa từng nghe Phật thọ ký cho các vị đại Bồ Tát, đây là nhân duyên gì, mà những bậc Thanh Văn được Phật thọ ký trước‘’?

 

Nhĩ thời Thế Tôn  tri chư Bồ Tát tâm chi sở niệm, nhi cáo chi viết: chư Thiện nam tử! ngã dữ A nan đẳng, ư Không Vương Phật sở, đồng thời phát a nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề tâm. A nan thường nhạo đa văn, ngã thường cần tinh tấn, thị cố ngã dĩ đắc thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nhi A nan hộ trì ngã pháp, diệc hộ tướng lai chư Phật pháp tạng, giáo hóa thành tựu chư Bồ Tát chúng, kỳ Bổn Nguyện như thị, cố hoạch tư kí.

 Lúc ấy, đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ Tát mà bảo rằng: “Các Thiện nam tử! Ta cùng bọn ông A Nan ở chỗ đức Phật Không Vương đồng thời phát tâm vô thượng chính đẳng chính giác. A Nan thường ưa học rộng, còn ta thường siêng năng tinh tấn, cho nên nay ta đã thành vô thượng chính đẳng chính giác mà A Nan hộ trì pháp của ta, ông cũng sẽ hộ trì pháp tạng của các đức Phật tương lai, giáo hóa thành tựu các chúng Bồ Tát . Bản nguyện của ông như thế nên được thụ ký dường ấy.”

Lúc đó, Ðức Phật biết hết thảy những vị Bồ Tát nầy sinh tâm hoài nghi, do đó bèn nói với các vị đó rằng: ‘’Tất cả các thiện nam tử! Ta và tất cả hàng Thanh Văn ở trong pháp hội, đã từng ở trong quá khứ vô lượng kiếp, nơi đức Phật Không Vương cùng phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. A Nan phát nguyện thường ưa thích thâm nhập kinh tạng, đa văn Phật pháp, còn ta thì phát nguyện luôn luôn dũng mãnh tinh tấn tu đạo. Cho nên, ta thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác trước A Nan. A Nan thì hộ trì tạng pháp của ta, cũng phát nguyện hộ trì tất cả tạng pháp của vô lượng chư Phật trong tương lai, giáo hóa thành tựu chúng Bồ Tát, cho nên bây giờ A Nan được Phật thọ ký cho‘’.

 

A nan diện ư Phật tiền, tự văn thọ kí cập quốc độ trang nghiêm, sở nguyện cụ túc, tâm đại hoan hỉ, đắc vị tằng hữu. Tức thời ức niệm quá khứ vô lượng Thiên vạn ức chư Phật pháp tạng, thông đạt vô ngại, như kim sở văn, diệc thức Bổn Nguyện. Nhĩ thời A nan nhi thuyết kệ ngôn:

Ngài A Nan tận mặt ở trước Phật, tự nghe Phật thụ ký cùng cõi nước trang nghiêm, chỗ mong cầu đã đủ, lòng rất vui mừng được đều chưa từng có. Tức thời nghĩ nhớ tạng pháp của vô lượng  nghìn muôn ức các đức Phật thuở quá khứ, suốt thấu không ngại như hiện nay nghe và cũng biết bản nguyện. Khi đó, ngài A Nan nói kệ rằng:

Lúc đó, Ngài A Nan ở trước đức Phật, đích thân nghe được Phật thọ ký cho Ngài, và biết được cõi nước trang nghiêm vị lai của Ngài, tâm nguyện của Ngài đã đầy đủ viên mãn, cho nên tâm sinh vui mừng hớn hở, được chưa từng có. Lúc đó, Ngài lập tức nhớ lại tất cả tạng pháp, của vô lượng ngàn vạn ức các đức Phật trong quá khứ, và đều thông đạt vô ngại. Tất cả pháp đó và pháp của Phật Thích Ca Mâu Ni đều giống nhau. Ngài cũng nhớ lại thệ nguyện xưa của Ngài đã phát ra, do đó Ngài A Nan dùng kệ nói rằng:

 

Thế Tôn  thậm hy hữu,                        Thế Tôn rất ít có
Lệnh ngã niệm quá khứ,                      Khiến con nhớ quá khứ
Vô lượng chư Phật Pháp,                     Vô lượng các Phật pháp
Như kim nhật sở văn.                          Như chỗ nghe ngày nay

Ngã kim vô phục nghi,                        Con nay không còn nghi
An trụ ư Phật đạo,                               An trụ trong Phật đạo
Phương tiện vị thị giả,                         Phương tiện làm thị giả
Hộ trì chư Phật Pháp.                          Hộ trì các Phật pháp.

Phật là bậc hi hữu nhất trong thế gian, khiến cho con nhớ lại tất cả tạng pháp, của vô lượng các Ðức Phật trong quá khứ, tất cả pháp đó, giống như pháp mà đời nay con đã nghe. Cho nên, bây giờ con chẳng còn sinh tâm hoài nghi nữa, con nguyện an trụ nơi Phật đạo, dùng đủ thứ thiện xảo pháp môn, để làm thị giả cho Ðức Phật, thường ủng hộ thọ trì tất cả tạng pháp của các Ðức Phật.

 

Nhĩ thời Phật cáo La hầu la: Nhữ ư lai thế đương đắc tác Phật, hiệu đạo thất bảo hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Bấy giờ, Phật bảo ông La Hầu La: Ông ở đời sau sẽ được làm Phật hiệu: Ðạo Thất Bảo Hoa, Như Lai Ứng cúng, Chính biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường các đức Như Lai như số vi trần trong mười phương thế giới. Thường vì các đức Phật mà làm trưởng tử, cũng như hiện nay.

Bấy giờ, đức Phật bảo La Hầu La: Ông ở đời vị lai sẽ thành Phật, hiệu là Ðạo Thất Bảo Hoa Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Sau khi Ngài A Nan nói bài kệ xong, thì đức Phật bảo tôn giả La Hầu La rằng: ‘’Ông ở đời vị lai, cũng sẽ thành Phật, hiệu là Ðạo Thất Bảo Hoa Như Lai, thọ trời người cúng dường, biết rõ khắp hết thảy, có đủ trí huệ đức hạnh, giải thoát khổ não thế gian, làm đại sĩ vô thượng, điều ngự giáo hóa tất cả chúng sinh, làm đạo sư của tất cả trời người, một vị tôn giả xuất thế gian viên mãn tự giác giác tha.

 

Đương cúng dường thập thế giới vi trần đẳng số chư Phật Như Lai, thường vị chư Phật nhi tác trưởng tử, do như kim dã. Thị đạo thất bảo hoa Phật, quốc độ trang nghiêm, thọ mạng kiếp số, sở hóa đệ tử, chánh pháp, tượng Pháp, diệc như Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai vô dị, diệc vị thử Phật nhi tác trưởng tử. qua thị dĩ hậu, đương đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, nhi thuyết kệ ngôn:

Ðức Phật Ðạo Thất Bảo Hoa đó, cõi nước trang nghiêm, kiếp số thọ mệnh, giáo hóa đệ tử, chính pháp và tượng pháp cũng đồng như đức Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác. Ông cũng làm trưởng tử cho Phật này, qua sau đây rồi sẽ được đạo vô thượng chính đẳng chính giác. Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Trước khi Ngài La Hầu La chưa thành Phật, sẽ cúng dường các đức Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của mười thế giới. Vì Ngài trong đời quá khứ, đã phát nguyện làm trưởng tử cho mỗi vị Phật ra đời, cũng giống như hôm nay, Ngài La Hầu La làm trưởng tử của đức Phật. Cõi nước của Phật Ðạo Thất Bảo Hoa rất trang nghiêm, kiếp số thọ mạng của Ngài, giáo hóa đệ tử, chánh pháp, tượng pháp lưu lại ở đời, đều gống như Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương. Ngài La Hầu La cũng sẽ làm trưởng tử cho Ðức Phật đó. Sau khi Ngài làm trưởng tử cho các đức Phật rồi, sẽ thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa kinh trường hàng ở trên, bèn nói kệ rằng:

 

Ngã vị Thái Tử thời,                              Lúc ta làm Thái tử
La hầu vị trưởng tử,                              La Hầu làm trưởng tử.
Ngã kim thành Phật đạo,                     Ta nay thành Phật đạo
Thọ Pháp vị pháp tử.                           Thụ pháp làm pháp tử.

Ư vị lai thế trung,                                  Ở trong đời vị lai
Kiến vô lượng ức Phật,                         Gặp vô lượng  ức Phật
Giai vị kỳ trưởng tử,                              Làm trưởng tử cho kia
Nhất tâm cầu Phật đạo.                        Một lòng cầu Phật đạo.

La hầu la mật hàng,                             Hạnh kín của La Hầu
Duy ngã năng tri chi,                           Chỉ ta biết được thôi
Hiện vị ngã trưởng tử,                         Hiện làm con của ta
Dĩ thị chư chúng sanh.                         Ðể chỉ các chúng sinh

Vô lượng ức Thiên vạn,                       Vô lượng ức nghìn muôn
Công đức bất khả số,                           Công đức không thể đếm
An trụ ư Phật Pháp,                             An trụ trong Phật pháp
Dĩ cầu vô thượng đạo.                         Ðể cầu đạo vô thượng.

Khi đức Phật làm thái tử, thì La Hầu La làm con của Ðức Phật, hiện tại Phật đã thành Phật. Ngài La Hầu La tiếp thọ pháp của Phật, mà làm đệ tử của Phật. Ở trong đời vị lai, Ngài sẽ gặp vô lượng ức các đức Phật. Khi mỗi vị Phật ra đời, thì Ngài đều làm trưởng tử cho các đức Phật, một lòng cầu Phật đạo.

Tôn giả La Hầu La hành mật hạnh bậc nhất, tôn giả lúc nào nơi nào, cũng đều có thể nhập định, chỉ có Phật mới biết mật hạnh của Ngài tu. Ngài hiện thân làm trưởng tử cho đức Phật, là để thị hiện cho chúng sinh thấy, vì cầu vô thượng Phật đạo. Thệ nguyện công đức của Ngài vô số ức nghìn vạn, không thể lường được. Ngài nguyện an trụ trong Phật pháp, vì cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Nhĩ thời Thế Tôn  kiến học, vô học nhị Thiên nhân, kỳ ý nhu nhuyễn, tịch nhiên thanh tịnh, nhất tâm quán Phật. Phật cáo A nan: Nhữ kiến thị học, vô học nhị Thiên nhân bất?

Duy nhiên, dĩ kiến.

Bấy giờ, đức Thế Tôn thấy bậc hữu học cùng vô học hai nghìn người, chí ý hòa dịu vắng lặng trong sạch, một lòng nhìn Phật, Phật bảo A Nan: “Ông thấy bực hữu học vô học nghìn người đây chăng?”

Vâng! Con đã thấy.

Lúc đó, Phật dùng Diệu quán sát trí, để quán sát hai nghìn vị Thanh Văn hữu học và vô học ở trong pháp hội, biết được tâm ý của họ đều rất nhu hòa. Các vị đó chẳng còn vọng tưởng dục niệm, được thanh tịnh tự tại. Các Ngài đều đồng một lòng cung kính nhìn Phật.

Phật bèn nói với Ngài A Nan: ‘’Ông có thấy tâm ý của hai nghìn vị Thanh Văn hữu học vô học nầy chăng? ‘’Ngài A Nan đáp: ‘’Dạ, con đã nhìn thấy tâm ý của họ‘’.

 

A nan! Thị chư nhân đẳng, đương cúng dường ngũ thập thế giới vi trần số chư Phật Như Lai, cung kính tôn trọng, hộ Trì Pháp tạng. mạt hậu đồng thời ư thập phương quốc các đắc thành Phật, giai đồng nhất hiệu, danh viết Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn . Thọ mạng nhất kiếp. Quốc độ trang nghiêm, Thanh văn, Bồ Tát, chánh pháp, tượng Pháp, giai tất đồng đẳng. Nhĩ thời Thế Tôn  dục trọng tuyên thử nghỉa, Nhi thuyết kệ ngôn:

A Nan! Các người sẽ cúng dường các đức Như Lai như số vi trần trong năm mươi thế giới, cung kính tôn trọng hộ trì pháp tạng. Rốt sau đồng thòi ở cõi nước trong mười phương đều được thành Phật, đều đồng một hiệu la Bảo Tướng Như Lai Ứng cúng, Chính biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ Ðiều ngự trượng phu. Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm, Thanh văn, Bồ Tát , chính pháp, tượng pháp thảy đều đồng nhau. Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

A Nan! Những người đó, sẽ cúng dường các đức Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của năm mươi thế giới, cung kính tôn trọng, hộ trì tạng pháp, sau đó đồng thời sẽ được thành Phật, trong cõi nước mười phương, đều đồng một danh hiệu là Bảo Tướng Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

Hai nghìn vị Thanh Văn hữu học vô học nầy, đều sẽ cúng dường các đức Phật Như Lai, nhiều như số hạt bụi của năm mươi thế giới. Các Ngài đều thân tâm cung kính, tôn trọng, ủng hộ giữ gìn tạng pháp bảo của chư Phật. Sau đó, các vị đó đồng thời đều sẽ thành Phật đạo ở trong cõi nước mười phương. Vì các Ngài chí đồng đạo hợp, cùng nhau thành Phật đạo, đều đồng một danh hiệu Phật là Bảo Tướng Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Mười hiệu ở trên là tên khác của Phật.

Tuổi thọ một kiếp, cõi nước trang nghiêm, hàng Thanh Văn Bồ Tát, chánh pháp tượng pháp, thảy đều đồng nhau. Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn thuật lại nghĩa này, bèn nói bài kệ rằng:

Tuổi thọ thành Phật của các Ngài dài một kiếp, cõi nước trang nghiêm như nhau, giáo hóa hàng Thanh Văn Bồ Tát cũng đông nhiều, chánh pháp và tượng pháp lưu lại ở đời thời gian đều đồng nhau. Lúc đó, Phật muốn thuật lại pháp vừa nói ở trên, bèn dùng kệ để nói:

 

Thị nhị Thiên Thanh văn,                    Hai nghìn Thanh văn đây
Kim ư ngã tiền trụ,                               Nay đứng ở trước ta
Tất giai dữ thọ kí,                                 Thảy đều thụ ký cho
Vị lai đương thành Phật.                      Ðời sau sẽ thành Phật

Sở cúng dường chư Phật,                      Cúng dường các đức Phật
Như thượng thuyết trần số,                  Như số trần nói trên.
Hộ trì kỳ Pháp tạng,                               Hộ trì tạng pháp Phật
Hậu đương thành chánh giác.              Sau sẽ thành Chính giác

Vác ư thập phương quốc,                     Ðều ở nơi mười phương
Tất đồng nhất danh hiệu,                     Thảy đồng một danh hiệu
Câu thời tọa đạo tràng,                         Ðồng thời ngồi đạo tràng
Dĩ chứng vô thượng tuệ,                       Ðể chứng tuệ vô thượng

Giai danh vi Bảo Tướng.                       Ðều hiệu là Bửu Tướng
Quốc độ cập đệ tử,                               Cõi nước cùng đệ tử
Chánh pháp dữ tượng Pháp,                Chính pháp và tượng pháp
Tất đẳng vô hữu dị.                               Thảy đều không có khác.

Hàm dĩ chư thần thông,                        Ðều dùng các thần thông
Độ thập phương chúng sanh,               Ðộ mười phương chúng sinh
Danh văn phổ chu biến,                        Tiếng đồn vang khắp cùng
Tiệm nhập ư Niết Bàn.                          Lần nhập vào Niết bàn.

Hai nghìn vị Thanh Văn đó, đồng tu phạm hạnh, đồng trồng căn lành, đồng phát tâm bồ đề, đồng kết quả bồ đề. Hiện tại các vị đó, đứng ở trước đức Phật, vì công đức tu hành của các vị đó đã thành tựu, cho nên được Phật thọ ký. Các vị đó, ở đời vị lai sẽ thành Phật. Các vị đó sẽ cúng dường chư Phật nhiều như số hạt bụi. Mỗi vị Phật ra đời, các vị đó đều cùng nhau đến hộ trì tạng pháp, cuối cùng, cùng nhau thành Phật đạo. Các vị đó, mỗi vị đều thành Phật trong cõi nước mười phương. Vì các vị đó đã phát nguyện đồng tu đồng chứng, cho nên sau khi thành Phật, danh hiệu cũng đều giống nhau. Các vị đó cũng cùng một lúc ngồi đạo tràng, chuyển diệu pháp luân, thành tựu trí huệ vô thượng của Như Lai. Các vị đó đều đồng danh hiệu là Bảo Tướng Như Lai, cõi nước và đệ tử số lượng nhiều như nhau. Chánh pháp và tượng pháp, lưu lại ở đời cũng lâu dài như nhau, chẳng có gì khác nhau. Các vị đó đều cùng nhau dùng thần thông, để độ tất cả chúng sinh trong mười phương, danh đồn của các vị đó khắp cõi nước mười phương, dần dần vào cảnh giới Niết Bàn thường lạc ngã tịnh.

 

Nhĩ thời học, vô học nhị Thiên nhân, văn Phật thọ kí, hoan hỉ dũng dược, nhi thuyết kệ ngôn:

Lúc đó, bậc hữu học cùng vô học hai nghìn người nghe đức Phật thụ ký vui mừng hớn hở mà nói kệ rằng:

 

Thế Tôn  tuệ đăng minh,                     Thế Tôn đèn tuệ sáng
Ngã văn thọ kí âm,                               Con nghe tiếng thụ ký
Tâm hoan hỉ sung mãn,                       Lòng vui mừng đầy đủ
Như cam lồ kiến quán.                        Như được nước cam lộ.

Lúc đó, hai nghìn vị Thanh Văn hữu học và vô học, nghe tiếng Phật thọ ký rồi, trong tâm rất vui mừng hớn hở mà nói ra bài kệ. Trí huệ quang minh của Phật như đèn sáng chiếu khắp. Hai nghìn vị Thanh Văn hữu học vô học, đều đã nghe Phật thọ ký rồi, tâm đều tràn đầy vui mừng, giống như được nước pháp cam lồ rưới lên đầu.