Kinh Hoa Nghiêm
Đại Phương Quảng Phật
Phẩm Như Lai Hiện Tướng
giảng giải
Hòa Thượng TUYÊN HÓA
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
— o0o —
Phẩm Thứ Hai
“Như Lai” là một trong mười hiệu của Phật. Trong Kinh Kim Cang có nói:
‘’Như Lai giả,
Vô sở tùng lai,
Diệt vô sở khứ,
Cố danh Như Lai.’’
Nghĩa là :
Bậc Như Lai
Chẳng từ đâu đến,
Cũng chẳng đi về đâu,
Nên gọi là Như Lai.
Còn có một ý nghĩa nữa là :
‘’Thừa Như thật đạo,
Lai thành chánh giác.’’
Như thật tức là chân lý nhất chân pháp giới. ‘’Như‘’ là bổn thể của các pháp. ‘’Lai‘’ là dụng của pháp, từ thể khởi dụng, cho nên gọi là Như Lai. Như là tĩnh, Lai là động mà cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm là động tĩnh như một, tức cũng là động chẳng ngại tĩnh, tĩnh cũng chẳng ngại động; đây là cảnh giới hổ tương vô ngại, tức là Như Lai.
“Hiện tướng” là Phật thị hiện tướng. Phật vốn là vô tướng, vì muốn giáo hóa tất cả chúng sinh, cho nên ở trong vô tướng mà hiện ra ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.
“Phẩm” này thuộc về phẩm thứ hai trong Kinh Hoa Nghiêm, nói rõ đạo lý vì sao Như Lai hiện tướng, cho nên gọi là Phẩm Như Lai Hiện Tướng Thứ Hai.
Như là tĩnh, Lai là động, mà cảnh giới của Kinh Hoa Nghiêm là động tĩnh như một, động tĩnh không hai, tức cũng là động chẳng ngại tĩnh, tĩnh chẳng ngại động, hổ tương vô ngại, tức là ‘’Như Lai.’’
Còn có lối nói khác, ‘’Như‘’ là lý thể, ‘’Lai‘’ là sự tướng. Như là vô sở y (không chỗ nương), Lai là có sở y (có chỗ nương). Ðây cũng là sự chẳng ngại lý, lý chẳng ngại sự, sự lý viên dung.
Hiện tại nói về Như Lai hiện tướng, tức là khi Phật ban đầu thành chánh giác ở dưới cội bồ đề, ở trong đại chúng hải hội tại Bồ đề đạo tràng, hiện ra cảnh giới thân đại oai đức thần thông lực không thể nghĩ bàn, cho nên gọi là Phẩm Như Lai Hiện Tướng.
Nhĩ thời, chư Bồ-tát cập nhất thiết thế gian chủ, tác thị tư tánh:
Bấy giờ, các Bồ Tát và tất cả chủ thế gian bèn nghĩ như vầy:
Giảng: Bấy giờ, tức là lúc Phật nói Phẩm Như Lai Hiện Tướng. Tất cả các Bồ Tát và tất cả thế gian chủ, mọi người đều sinh ra ý niệm quán tưởng cảnh giới của Phật. Ví như tại sao Phật lại hiện tướng ? Các Ngài nghĩ ra mười vấn đề để hỏi Phật.
1). Thế nào là chư Phật địa ?
2). Thế nào là cảnh giới của chư Phật ?
3). Thế nào là chư Phật gia trì ?
4). Thế nào là sự thực hành của chư Phật ?
5). Thế nào là lực của chư Phật ?
6). Thế nào là vô sở úy của chư Phật ?
7). Thế nào là tam muội của chư Phật ?
8). Thế nào là thần thông của chư Phật ?
9). Thế nào là tự tại của chư Phật ?
10). Thế nào là không thể nhiếp trì của chư Phật ?
Ngưỡng mong Phật từ bi, vì đại chúng giải thích tỉ mỉ.
Vân hà thị chư Phật địa?
Thế nào là chư Phật địa ?
Giảng: Hiện tại tất cả Bồ Tát và tất cả chủ thế gian, đều muốn biết thế nào là chư Phật địa ? Vì các ngài đều chẳng minh bạch cảnh giới của chư Phật, đều muốn biết rõ ‘’Thế nào là chư Phật địa’’? Giống như chúng ta lúc tham thiền, tham ‘’Niệm Phật là ai‘’? Cùng một đạo lý như thế.
Phật địa này, hay sinh ra tất cả chúng sinh. Bồ Tát, Duyên Giác, La Hán, chúng sinh, đều từ Phật địa sinh ra. Chẳng những tất cả Bồ Tát từ Phật địa sinh ra. Phật địa là nơi tất cả bậc Thánh hiền ở, cũng là nơi tu hành, là nơi phước huệ đầy đủ, nhất định phước cũng đầy đủ mới chứng đến Phật địa.
Tất cả Bồ Tát và tất cả thế gian chủ, còn chưa minh bạch cảnh giới Phật địa. Hiện tại chúng ta giảng về Phật địa, chỉ có thể giảng một chút đạo lý bên trong mà thôi; cứu kính Phật địa diệu không thể tả. Bây giờ chỉ nói đại khái, về sau sẽ nói tỉ mỉ rõ ràng.
Vân hà thị chư Phật cảnh giới?
Thế nào là cảnh giới của chư Phật ?
Giảng: Hiện tại tất cả Bồ Tát và tất cả thế gian chủ, đều muốn biết cảnh giới của chư Phật như thế nào ? Cảnh giới của chư Phật vô lượng vô biên như hư không. Hư không như thế nào, thì cảnh giới của Phật như thế ấy. Do đó :
‘’Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật,
Hãy tịnh ý mình như hư không.’’
Bạn nghĩ muốn biết cảnh giới của Phật, thì hãy thanh tịnh ý niệm như hư không, ở trong hư không sum la vạn tượng, sơn hà đại địa, nhà cửa lâu đài, đều hàm tàng ở trong hư không. Cho nên, cảnh giới của Phật có thể nói là chẳng có. Chẳng có cảnh giới, mới là cảnh giới chân chánh. Tại sao lại nói chẳng có cảnh giới ? Vì chẳng phải một thứ cảnh giới, mà là hết thảy cảnh giới. Muốn nói ra hết thảy cảnh giới, thì nói chẳng hết được, chỉ có thể nói chẳng có cảnh giới.
Giống như hư không bao hàm hết tất cả, chẳng có một vật nào mà vượt ra ngoài hư không, cũng có thể nói là chẳng có bất cứ cảnh giới nào, vượt ra ngoài cảnh giới của Phật, cảnh giới của Phật là hư không, bao la vạn tượng. Tức cũng là:
‘’Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng.’’
Quét sạch tất cả các pháp, lìa khỏi hết thảy mọi tướng, chẳng còn thứ gì cả, thì giống như hư không.
Trong Kinh Tứ Thập Lục có nói : Cảnh giới của Phật có mười thứ :
1). Tất cả chư Phật ngồi kiết già, đầy khắp mười phương vô lượng thế giới.
2). Tất cả chư Phật nói một câu nghĩa, đều khai thị tất cả Phật pháp.
3). Phóng một luồng quang minh, đều chiếu khắp tất cả thế giới.
4). Trong một thân, đều thị hiện tất cả thân.
5). Ở trong một nơi, mà thị hiện tất cả thế giới.
6). Ở trong một trí, mà thấu rõ tất cả các pháp chẳng có quái ngại.
7). Ở trong một niệm, mà đến khắp mười phương thế giới.
8). Ở trong một niệm, mà hiện vô lượng oai đức của Như Lai.
9). Ở trong một niệm, mà duyên khắp Phật ba đời và tâm chúng sinh chẳng tạp loạn.
10). Ở trong một niệm đến đi, khiến tất cả chư Phật thể đồng không hai. Ðó là cảnh giới của Phật.
Vân hà thị chư Phật gia trì ?
Thế nào là sự gia trì của chư Phật?
Giảng: Hiện tại chúng ta đều được Phật gia trì, khiến cho tâm bồ đề của chúng ta tương tục chẳng quên mất. Nhờ Phật gia trì, khiến cho chúng ta tất cả đều cát tường như ý, bất quá chúng ta chẳng biết mà thôi.
Chúng ta đang ở trong pháp thân của Phật, hun đúc pháp của Phật mà chẳng biết; nếu tu thành chánh quả hoặc khai mở ngũ nhãn, thì sẽ biết tất cả đều nhờ Phật gia trì. Sức gia trì này cũng tận hư không khắp pháp giới. Bất cứ chúng sinh hữu tình, hoặc vô tình, đều được Phật gia trì.
Ở trong Kinh Ngũ Thập Bát có nói, Phật gia trì có mười thứ:
1). Ban đầu phát tâm bồ đề.
2). Ðời đời kiếp kiếp đều giữ tâm bồ đề khiến cho chẳng quên mất.
3). Giác các ma sự đều có thể xa lìa.
4). Nghe các Ba la mật theo như nói mà tu hành.
5). Biết khổ sinh tử mà chẳng nhàm chán.
6). Quán pháp thâm sâu được vô lượng quả.
7). Vì các chúng sinh mà nói pháp nhị thừa, mà chẳng chứng lấy thừa giải thoát đó.
8). Thích quán pháp vô vi mà chẳng trụ ở trong đó, nơi hữu vi, vô vi, chẳng sinh hai ý nghĩ.
9). Ðến nơi vô sinh mà hiện thọ sinh.
10). Tuy chứng được Nhất thiết trí, mà khởi Bồ Tát hạnh, chẳng đoạn hạt giống bồ đề. Ðây là mười thứ Ðức Phật gia trì.
Bây giờ, kể một câu chuyện, khi Phật còn tại thế, ở trong thành Chiêm Bà, thì có một ông trưởng giả giàu có, rất có địa vị trong xã hội, khổ một nỗi là chẳng có con để nối dõi. Ông ta phát tâm cúng dường những người ngoại đạo, để cầu cho được con, chẳng bao lâu vợ của ông mang thai. Ông ta rất vui mừng, bèn nói với những người ngoại đạo rằng, vợ của ông đã mang thai.
– Ông ta lại hỏi kẻ ngoại đạo : ‘’Vợ của ông ta mang thai con trai hay con gái’’?
– Kẻ ngoại đạo nói : ‘’Là đứa con gái.’’
– Ông trưởng giả nghe nói là đứa con gái, lại buồn rầu lo lắng lên : ‘’Tương lai chẳng có ai thừa kế tài sản của ta, vì con gái chẳng có quyền thừa kế di sản, ta có nhiều tài sản biết làm sao đây‘’ ?
Có vị thiện tri thức đến thăm ông ta, thấy ông ta buồn rầu vô hạn bèn hỏi rằng : ‘’Sao ông lại quá buồn rầu như thế‘’ ?
– Ông trưởng giả nói : ‘’Vợ của tôi mang thai, thỉnh cầu các vị đạo sĩ tiên đoán, họ đều nói là con gái. Tôi tuổi đã già, tài sản vô số, tương lai biết phải làm sao ? Cho nên tôi rất buồn bã vô cùng‘’.
– Vị thiện tri thức đó nghe xong bèn nói với ông ta : ‘’Ðức Phật Thích Ca có đại thần thông, đã khai mở ngũ nhãn, biết được nhân duyên vô lượng kiếp, sao ông không đến hỏi Phật, cầu Phật chỉ thị.’’
– Do đó, ông trưởng giả bèn đến chốn Ðức Phật, đảnh lễ rồi bèn hỏi Phật: ‘’Xin cầu Ðức Thế Tôn từ bi, vợ của con mang thai là con trai hay con gái ? Xin nói cho con biết.’’
– Phật nói : ‘’Ông hãy yên tâm, chắc chắn là con trai, mà tướng mạo rất tuấn tú.’’
Ông trưởng giả nghe rồi rất hoan hỷ trở về nhà, đem tin này nói với đám đạo sĩ. Ðám đạo sĩ ngoại đạo bèn sinh tâm đố kỵ, bày kế để hại chết vợ của ông trưởng giả.
Do đó, bèn dùng chất độc bỏ vào trái Am la, bảo ông trưởng giả mang về nhà cho vợ ăn và còn dặn nói : ‘’Nếu ăn trái này thì thai nhi trong bụng của vợ ông, nữ cũng biến thành nam, phước đức vô cùng, tướng mạo sinh đẹp.’’
Ông trưởng giả cho là thật, bèn cho bà vợ ăn quả Am la, chưa được bao lâu thì bà vợ chết. Trong tình trạng bối rối, bèn đem bà vợ đi hỏa táng.
Lúc đó, Ðức Phật Thích Ca ở trong định biết được sự việc đó, lập tức đi đến nơi.
– Ông trưởng giả thấy Phật nổi giận nói : ‘’Ðức Thế Tôn ! Có phải Ngài nói dối chăng ? Ngài nói vợ của tôi sẽ sinh con trai, bây giờ vợ tôi đã chết, làm sao sinh con trai ? Việc này Ngài tánh sao đây‘’?
– Phật từ bi an ủi ông ta nói : ‘’Lúc đó, ông chỉ hỏi ta thai nhi là con trai hay con gái ? Nhưng ông chẳng hỏi ta mạng sống của vợ ông dài hay ngắn ? Tuy bây giờ vợ ông đã chết, nhưng ta tin chắc rằng ông vẫn còn đứa con. Nếu ông không tin, thì hãy xem thân thể vợ của ông thì sẽ biết.’’
Lúc đó, lửa thiêu đến bụng vợ của ông trưởng giả, thì từ trong bụng sinh ra một cậu bé, rất tự nhiên ngồi trong lửa. Phật bảo ông trưởng giả vào trong lửa bồng cậu bé ra. Lúc đó, đám đạo sĩ cấm không cho ông trưởng giả vào bồng cậu bé ra.
– Ông trưởng giả bèn nói : ‘’Phật bảo tôi vào địa ngục A Tỳ, lửa dữ còn không thể thiêu thân, hà huống là lửa thế gian, chẳng đủ để sợ.’’ Do đó, ông ta vào trong lửa mát mẻ giống như xuống dưới hồ nước bồng cậu bé ra. Tuy đứa bé ở trong lửa, nhưng chẳng tổn hại mảy lông nào. Ông trưởng giả đưa cậu bé cho Ðức Phật, Phật đón nhận đứa bé rồi nói với ông trưởng giả : ‘’Mạng sống của tất cả chúng sinh giống như bong bóng nước, là vô thường. Ðứa bé này, lửa thiêu đốt chẳng chết, là do thuở xưa cậu ta đã tạo quả báo chẳng sợ lửa thiêu đốt, cho nên lửa thiêu đốt chẳng chết, chẳng phải ta làm.’’ Ông trưởng giả xin Phật đặt tên cho cậu bé, Phật nói : ‘’Ðứa bé này sinh ra ở trong lửa mạnh (lửa tiếng Phạn gọi là thụ đề), đặt tên là Thụ Ðề.’’
Vân hà thị chư Phật sở hạnh ?
Thế nào là việc làm của chư Phật?
Giảng: Tất cả Bồ Tát và tất cả thế gian chủ, đều muốn biết việc làm của chư Phật như thế nào ? Việc làm của tất cả chư Phật mười phương ba đời, là giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh đều thành Phật đạo. Việc làm của chư Phật đều hợp với trung đạo, tức chẳng thái quá cũng chẳng bất cập.
Chư Phật có mười thứ giáo hóa mà chẳng lỗi thời.
1). Tất cả chư Phật thành chánh giác chẳng lỗi thời.
2). Tất cả chư Phật thành thục chúng sinh có duyên chẳng lỗi thời.
3). Tất cả chư Phật vì chúng sinh thọ ký chẳng lỗi thời.
4). Tất cả chư Phật tùy thuận tâm chúng sinh, để thị hiện đủ thứ thần thông lực chẳng lỗi thời.
5). Tất cả chư Phật theo sự hiểu biết của chúng sinh, để thị hiện đủ thứ thân Phật chẳng lỗi thời.
6). Tất cả chư Phật trụ ở đại xả chẳng lỗi thời (bất cứ gì cũng đều xả).
7). Tất cả chư Phật vào các tụ lạc chẳng lỗi thời.
8). Tất cả chư Phật nhiếp các tịnh tín chúng sinh chẳng lỗi thời.
9). Tất cả chư Phật điều phục ác tánh chúng sinh chẳng lỗi thời.
10). Tất cả chư Phật hiện bất tư nghì thần thông chẳng lỗi thời. Tóm lại, tất cả việc làm của chư Phật đều đúng thời đúng lúc, chẳng thái quá hoặc bất cập.
Vân hà thị chư Phật lực?
Thế nào là lực của chư Phật ?
Giảng: Tất cả Bồ Tát và tất cả thế gian chủ, đều muốn biết lực của chư Phật như thế nào ? Lực của chư Phật vô lượng vô biên, có lực không thể nghĩ bàn. Cộng lại có ba thứ thập lực. Trong phẩm thứ nhất đã nói qua một thứ thập lực, bây giờ lược nói ra hai thứ thập lực khác.
Thập lực thứ hai của chư Phật:
1). Lực lượng rộng lớn.
2). Lực lượng vô thượng.
3). Sức lực vô lượng.
4). Sức lực đại oai đức.
5). Sức lực khó được.
6). Sức lực bất thoái (sức lực không thối tâm bồ đề).
7). Sức lực kiên cố.
8). Sức lực không thể hoại.
9). Sức lực tất cả thế gian không nghĩ bàn.
10). Sức lực tất cả chúng sinh không động được.
Ðây là mười thứ lực của Kinh Hoa Nghiêm, dưới đây là mười thứ lực trong Kinh Hoa Nghiêm Sớ Sao.
Thập lực thứ ba của chư Phật :
1). Lực thân mạng không thể hoại.
2). Lực lỗ lông dung trì.
3). Lực sợi lông giữ núi lớn.
4). Lực định dụng tự tại.
5). Lực thường diễn pháp khắp.
6). Lực đức tướng hàng ma.
7). Lực viên âm triệt khắp.
8). Lực tâm không chướng ngại.
9). Lực pháp thân vi mật.
10). Lực đầy đủ hạnh trí.
Ở trong mỗi thứ lực có rất nhiều ý nghĩa, trong Kinh văn ở dưới sẽ nói rõ.
Vân hà thị chư Phật vô sở úy?
Thế nào là vô sở úy của chư Phật ?
Giảng: Tất cả Bồ Tát và tất cả thế gian chủ, đều muốn biết sức vô úy của chư Phật như thế nào ? Chư Phật thì chẳng sợ hãi gì cả, còn tất cả chúng sinh thì còn có sự sợ hãi. Sự vô sở uý của chư Phật cũng vô lượng vô biên.
Nói sơ lược về mười thứ vô sở úy.
1). Văn trì vô sở úy.
2). Biện tài vô sở úy.
3). Nhị không vô sở úy (nhân cũng không, pháp cũng không).
4). Oai nghi chẳng thiếu vô sở úy.
5). Ba nghiệp không lỗi vô sở úy (thân khẩu ý ba nghiệp chẳng phạm lỗi).
6). Ngoại hộ vô sở úy (bên ngoài hộ trì Phật pháp, thiên ma ngoại đạo chẳng làm gì đặng).
7). Chánh niệm vô sở úy.
8). Phương tiện vô sở úy (chẳng sợ sinh tử).
9). Nhất thiết trí vô sở úy (chẳng sợ nhị thừa).
10). Ðủ hạnh vô sở úy (đầy đủ lục độ vạn hạnh, tu hành viên mãn).
Ðây là đại khái sơ lược về mười vô sở úy, nếu nói rộng ra thì vô lượng vô biên đạo lý.
Vân hà thị chư Phật tam muội?
Thế nào là tam muội của chư Phật ?
Giảng: Tất cả Bồ Tát và hết thảy thế gian chủ, đều muốn biết tam muội của chư Phật như thế nào ? Tam muội dịch ra nghĩa là “chánh định”, chẳng tà tức là chánh, chẳng suy nghĩ là định, còn gọi là “chánh thọ”. Tam muội của Phật cũng vô lượng vô biên, vô cùng vô tận.
Nói sơ lược cũng có mười thứ định.
1). Tất cả chư Phật thường ở trong định, ở trong một niệm đến khắp mọi nơi, khắp vì tất cả chúng sinh diễn nói diệu pháp.
2). Lại khắp vì chúng sinh nói pháp vô ngã tế.
3). Tất cả chư Phật ở trong định, khắp vào đời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, hổ tương chẳng có chướng ngại.
4). Tất cả chư Phật ở trong một niệm chánh định, có thể vào khắp hết thảy cõi Phật rộng lớn trong mười phương.
5). Lại có thể hiện ra khắp vô lượng đủ thứ thân Phật.
6). Lại có thể tùy thuận hết tất cả chúng sinh đủ thứ tâm hiểu biết, mà hiện ra tướng ba nghiệp thanh tịnh.
7). Tất cả chư Phật ở trong một niệm chánh định, vì tất cả chúng sinh nói pháp lìa khỏi ái dục, đắc được lý thể chân thật.
8). Lại có thể diễn nói tất cả nhân duyên sinh khởi của tự tánh.
9). Lại có thể thị hiện sự trang nghiêm rộng lớn của thế gian và xuất thế gian, khiến cho tất cả chúng sinh thường thấy Phật.
10). Khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc được, thông đạt tất cả Phật pháp vô lượng giải thoát, cứu kính đến được bờ bên kia vô thượng.
Vân hà thị chư Phật thần thông?
Thế nào là thần thông của chư Phật ?
Tất cả Bồ Tát và hết thảy thế gian chủ, đều muốn biết thần thông của chư Phật như thế nào ? Thần thông của bậc A La Hán đã không thể nghĩ bàn, thiên biến vạn hóa, sự dơ tay, dở chân, đều khiến cho trời đất chấn động. Thần thông diệu dụng của Bồ Tát càng diệu không thể nói. Còn thần thông của Phật, thì chẳng cách gì hình dung được, nói sơ lược về mười thứ :
1). Tha tâm trí thông : Tất cả chúng sinh có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai đều biết đều thấy. Tại sao Phật biết được tâm của chúng sinh ? Vì Phật có tha tâm thần thông trí huệ.
2). Thiên nhãn trí thông : Chẳng những Phật biết tâm của chúng sinh ở nhân gian, mà còn biết được tâm của chúng sinh ở trên trời. Làm sao biết được ? Vì Phật có thần thông thiên nhãn trí huệ.
3). Trí thông biết túc mạng đời quá khứ : Phật biết sự việc vô lượng đại kiếp về trước, đây là thần thông túc trụ trí huệ.
4). Tận vị lai kiếp trí thông : Phật chẳng những biết sự việc đời quá khứ, mà còn biết sự việc đời vị lai, đây là thần thông tận vị lai tế kiếp trí huệ.
5). Vô ngại thanh tịnh thiên nhĩ thông : Phật lại có thần thông trí huệ thiên nhĩ không gì chướng ngại và thanh tịnh.
6). Vô thể tánh chẳng động đến tất cả cõi Phật trí thông : Phật chẳng rời tòa ngồi mà tự nhiên đến khắp tất cả cõi nước chư Phật chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh, vì Phật có thứ thần thông trí huệ này.
7). Phân biệt tất cả lời lẽ trí thông : Tất cả chúng sinh trong vô lượng thế giới, đủ thứ lời lẽ, Phật đều phân biệt rõ ràng, vì có thần thông trí huệ này.
8). Vô sắc thân trí thông : Phật vì giáo hóa chúng sinh, mà hiện ra đủ thứ diệu sắc thân, vì có thần thông trí huệ này.
9). Tất cả pháp trí thông : Bất cứ pháp gì, Phật cũng đều thông đạt vô ngại. Vì có thứ thần thông trí huệ này.
10). Vào tất cả diệt tận định trí thông : Ở trong niệm niệm hay vào tất cả pháp diệt tận định, Phật có thứ thần thông trí huệ này.
Còn có mười thứ thần thông :
1). Tất cả chư Phật có thể ở trong một hạt bụi, hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật xuất hiện ra đời.
2). Tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi, hiện ra vô lượng thân Phật chuyển đại pháp luân.
3). Tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi, khiến cho tất cả chúng sinh thọ hóa điều phục.
4). Tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi, hiện ra vô lượng cõi nước chư Phật.
5). Tất cả chư Phật ở trong một hạt bụi, vì tất cả Bồ Tát thọ ký.
6). Tất cả chư Phật ở trong một niệm, hiện ra hết thảy tất cả chư Phật quá khứ vị lai và hiện tại.
7). Tất cả chư Phật ở trong một niệm, hiện ra hết thảy tất cả loại thế giới quá khứ vị lai và hiện tại.
8). Tất cả chư Phật ở trong một niệm, hiện ra hết thảy tất cả thần thông quá khứ vị lai và hiện tại.
9). Tất cả chư Phật ở trong một niệm, hiện ra hết thảy tất cả chúng sinh quá khứ vị lai và hiện tại.
10). Tất cả chư Phật ở trong một niệm, hiện ra hết thảy tất cả Phật sự quá khứ hiện tại và vị lai.
Thần thông diệu dụng của chư Phật nói chẳng hết được.
Vân hà thị chư Phật tự tại?
Thế nào là tự tại của chư Phật ?
Giảng: Tất cả Bồ Tát và tất cả thế gian chủ, đều muốn biết tự tại của chư Phật như thế nào ? Tự tại của chư Phật chẳng có hạn độ, cũng chẳng có bờ mé. Tự tại tức là chẳng có phiền não, có phiền não thì chẳng tự tại. Thứ phiền não này, chẳng phải từ bên ngoài đến, mà là từ tự tánh chiêu đến. Tập đế ở trong Tứ đế, tức là tánh chiêu cảm, có tập rồi thì chẳng tự tại, chẳng có tập thì sẽ tự tại.
Tự tại ở đây tức là chẳng có vọng tưởng, có vọng tưởng thì chẳng tự tại. Tự tại ở đây tức là chẳng có tham sân si, có tham sân si thì chẳng tự tại. Chỉ cần đắc được một thứ tự tại, thì sẽ đắc được đủ thứ tự tại, do đó :
‘’Một tự tại, thì tất cả đều tự tại,
Một chẳng tự tại, thì tất cả đều chẳng tự tại.’’
‘’Một‘’ là số mục bắt đầu, có một mới có hai, có hai mới có ba, cho đến ngàn ngàn vạn vạn càng nhiều bao nhiêu, thì càng chẳng tự tại. Nếu đắc được một thì tự tại, đắc chẳng được một, thì chẳng tự tại. Cứu kính ‘’một‘’ này là gì ? Một nghĩa là chuyên nhất, chẳng có hai tâm. Tại sao chúng ta chẳng khai ngộ ? Vì tu hành chẳng chuyên nhất, khởi vọng tưởng ba tâm, hai ý, tâm viên ý mã, chẳng bao giờ dừng lại, cứ chạy bên ngoài. Nếu nhất tâm nhất ý tu hành, thì chắc chắn sẽ được tự tại. Cấu tạo chữ của Trung Quốc hàm có triết lý thâm sâu. Một tâm là ‘’trung‘’, hai tâm là hoạn, nghiên cứu tỉ mỉ rất có đạo lý.
Do đó : ‘’Ðược một vạn sự đều xong.’’
Một ở đây là tinh tuỷ, tức là tinh, khí, thần, tam bảo hợp thể với nhau, bạn có thể giữ tinh không mất, thì đắc được một. Chúng ta tu đạo cứu kính là tu cái gì ? Giảng Kinh là giảng cái gì ? Nói pháp là nói cái gì ? Tức là nói về chữ ‘’một‘’ này. Ðặc biệt trong Kinh điển đề xướng pháp môn ‘’đoạn dục khử ái’’, tức là đoạn tâm dâm dục, trừ khử tâm luyến ái của bạn. Ái dục là nguồn gốc khiến cho bạn đọa lạc, tức cũng là gốc sinh tử. Cho nên, chi thứ nhất trong mười hai nhân duyên là vô minh (ái dục), nếu đoạn được vô minh, thì chẳng sinh ra các nhân duyên khác, tức cũng chấm dứt sinh tử. Chúng ta tu đạo là đoạn trừ vô minh, điểm này mọi người nên đặc biệt chú ý.
Ðắc được ‘’một’’, tức là giới, giữ được ‘’một‘’ này, tức là huệ. Nếu chưa đắc được ‘’một‘’ này, thì phải mau phát tâm sám hối, phát tâm bồ đề, phát tâm tinh tấn. Nếu không, thì tương lai sẽ đọa lạc vào địa ngục. Ðây chẳng phải là uy hiếp các bạn, mà tình hình là sự thật như thế. Trước hết phải nói rõ cho các bạn biết, đừng để đến lúc lại trách sư phụ chẳng nói rõ.
Tại sao chư Phật có đại tự tại ? Vì đã đắc được ‘’một‘’ này. Các Ngài trì giới, tu định, sinh huệ, cho nên mới đắc được tự tại. Tại sao chúng ta chẳng tự tại ? Vì chẳng đắc được “một”.
Tự tại của chư Phật cũng có mười thứ :
1). Chúng sinh vô ngại tự tại dụng.
2). Cõi nước vô ngại tự tại dụng.
3). Pháp vô ngại tự tại dụng.
4). Thân vô ngại tự tại dụng.
5). Nguyện vô ngại tự tại dụng.
6). Cảnh giới vô ngại tự tại dụng.
7). Trí vô ngại tự tại dụng.
8). Thần thông vô ngại tự tại dụng.
9). Thần lực vô ngại tự tại dụng.
10). Thập lực vô ngại tự tại dụng.
Tự tại của chư Phật, nếu nói tỉ mỉ thì hết thuở vị lai cũng nói chẳng hết được, bây giờ chỉ lược nói đại khái.
Vân hà thị chư Phật vô năng nhiếp thủ?
Thế nào là vô năng nhiếp thủ của chư Phật ?
Giảng: Tất cả Bồ Tát và hết thảy thế gian chủ, đều muốn biết vô năng nhiếp thủ của chư Phật như thế nào ? Vô năng nhiếp thủ là chẳng cách gì có thể chế phục, chẳng cách gì có thể phá hoại. Thần thông lực của Phật, chẳng phải thiên ma ngoại đạo phá hoại được. Vô năng nhiếp thủ này, cũng vô lượng vô biên, nhiều nói chẳng hết được. Nói đơn giản có mười thứ hạnh môn không thể phá hoại :
1). Tất cả chư Phật thuở xưa, khi tu hành tại nhân địa, thì đều phát đại nguyện kiên cố không thể phá hoại. Nguyện của Phật đã phát, thì tuyệt đối chẳng sửa đổi. Phát ra nguyện gì thì thực hành nguyện ấy, chẳng nói dối, do đó : ‘’Nói thì làm, chẳng nói hai lời.’’
2). Nghĩ muốn viên mãn tất cả công đức, hết kiếp thuở vị lai tu lục độ vạn hạnh của Bồ Tát. Tuyệt đối chẳng sinh tâm giải đãi, luôn luôn tinh tấn.
3). Vì muốn điều phục tất cả chúng sinh, cho nên phân thân vô số, đi đến bất khả thuyết thế giới để điều phục chúng sinh cang cường, vĩnh viễn chẳng bao giờ ngừng việc này.
4). Ðối với chúng sinh có niềm tin và chúng sinh có tâm hủy báng, Phật đều dùng tâm đại bi khắp quán sát họ. Ai có tín tâm, thì người đó sớm sẽ được Phật gia bị; ai có tâm hủy báng, thì người đó tuyệt đối chẳng được Phật gia bị. Tuy thời gian có sớm muộn, nhưng mỗi chúng sinh đều được sự gia bị bình đẳng, chẳng có phân biệt.
5). Từ lúc ban đầu phát bồ đề tâm, cho đến khi thành Phật, đều tinh tấn dũng mãnh, chẳng bao giờ thối thất tâm bồ đề.
6). Từ ít thành nhiều, tích tập vô lượng công đức, đều hồi hướng về nhất thiết trí tánh. Tức là hồi hướng về Phật, vì Phật Phật đạo đồng, đối với thế gian tất cả pháp hữu vi, chẳng bị ô nhiễm.
7). Tại tất cả đạo tràng của tất cả chư Phật, Phật đều tu pháp thân khẩu ý ba nghiệp thanh tịnh. Tu hành hạnh môn của Phật tu, lại hồi hướng tất cả công đức tu được về nhất thiết trí tánh (Phật), cho nên thành tựu đạo bồ đề vô thượng chánh đẳng chánh giác.
8). Phật luôn luôn phóng đại quang minh, quang minh này bình đẳng chiếu soi khắp mọi nơi, lại chiếu đến pháp của chư Phật nói, khiến cho trong tâm của tất cả Bồ Tát, đều được thanh tịnh mà viên mãn nhất thiết trí.
9). Phật xả bỏ được tất cả sự vui của thế gian, cũng chẳng tham vui thế gian, cũng chẳng nhiễm vui của thế gian. Nguyện khắp tất cả chúng sinh thế gian lìa khổ được vui, chẳng chấp trước tất cả pháp hí luận, chẳng chấp trước tất cả pháp chẳng cứu kính.
10). Phật thương sót tất cả chúng sinh, thọ đủ thứ khổ, Phật muốn cứu độ tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả chúng sinh chẳng có khổ, chỉ có vui. Cho nên giữ gìn hạt giống Phật (tâm bồ đề), tu hành cảnh giới của Phật tu, ra khỏi sinh tử, đạt đến quả vị thập lực vô sở úy.
Ở trên vừa nói về mười thứ vô năng nhiếp thủ của Phật, cũng tức là mười thứ hạnh nguyện không thể hoại.
Vân hà thị chư Phật nhãn ? Vân hà thị chư Phật Nhĩ ? vân hà thị chư Phật tỳ? Vân hà thị chư Phật thiệt ? Vân hà thị chư Phật thân ? Vân hà thị chư Phật ý? Vân hà thị chư Phật thân quang? Vân hà thị chư Phật quang minh? Vân hà thị chư Phật thanh ? Vân hà thị chư Phật trí?
Thế nào là mắt của chư Phật. Thế nào là tai của chư Phật. Thế nào là mũi của chư Phật. Thế nào là lưỡi của chư Phật. Thế nào là thân của chư Phật. Thế nào là ý của chư Phật. Thế nào là thân quang của chư Phật. Thế nào là quang minh của chư Phật. Thế nào là âm thanh của chư Phật. Thế nào là trí của chư Phật ?
Giảng: Tất cả Bồ Tát và tất cả chủ thế gian, đề ra mười vấn đề ở trên rồi, bây giờ lại đề ra mười vấn đề nữa, để thỉnh vấn đức Phật.
Thế nào là mắt của chư Phật ? Phật có ngũ nhãn, tức là
- Thiên nhãn.
- Nhục nhãn.
- Pháp nhãn.
- Huệ nhãn.
- Phật nhãn.
Trong Kinh Hoa Nghiêm có nói về thập nhãn, tức là ngũ nhãn và thêm :
- Trí nhãn.
- Quang minh nhãn.
- Xuất sinh tử nhãn.
- Vô ngại nhãn.
- Nhất thiết trí nhãn.
Tổng cộng là thập nhãn.
Về ngũ nhãn có bài kệ rằng :
“Thiên nhãn thông phi ngại
Nhục nhãn ngại phi thông
Pháp nhãn vi quán tục
Huệ nhãn liễu chân không
Phật nhãn như thiên nhựt
Chiếu dị thể hoàn đồng
Viên minh pháp giới nội
Vô xứ bất hàm dung.’’
Giải thích như sau :
‘’Thiên nhãn thông phi ngại’’: Thiên nhãn nhìn sự vật chẳng có sự chướng ngại, trên nhìn thấu hết các cõi trời, dưới nhìn thấy tất cả các địa ngục. Cho nên nói thiên nhãn thông phi ngại.
‘’Nhục nhãn ngại phi thông’’: Nhục nhãn chẳng phải mắt của phàm phu, mà là một con mắt khác, có thể nhìn thấy vật chướng ngại, chẳng những nhìn thấy tướng vật hữu hình mà còn nhìn thấy vật vô hình, đều nhìn thấy rất rõ ràng, còn cao hơn so với thiên nhãn. Cho nên nói nhục nhãn ngại phi thông. Theo chữ mà nói về nhục nhãn, thì đáng lý là con mắt của chúng ta, chứ chẳng phải thần thông nhãn, giải thích như thế thì không đúng.
‘’Pháp nhãn vi quán tục‘’: Pháp nhãn hay quán sát pháp thế và xuất thế gian, tục đế thế gian cũng biết, chân đế xuất thế gian cũng biết. Cho nên nói pháp nhãn vi quán tục.
‘’Huệ nhãn liễu chân không‘’: Huệ nhãn tức là trí huệ nhãn, minh bạch được đạo lý chân không diệu hữu, tức cũng là minh bạch trung đạo liễu nghĩa, cho nên nói huệ nhãn liễu chân không.
‘’Phật nhãn như thiên nhựt‘’: Phật nhãn giống như ánh sáng của ngàn mặt trời, tuy nhiên có sự chiếu phân biệt, nhưng bổn thể là một, đây là quang minh viên mãn, chiếu khắp trong mười phương pháp giới, chẳng có nơi nào mà chẳng hàm dung quang minh này. Cho nên nói Phật nhãn như thiên nhựt, chiếu dị thể hoàn đồng, viên minh pháp giới nội, vô xứ bất hàm dung.
Ðây là ngũ nhãn, còn có ngũ nhãn nữa đó là :
1) Trí nhãn : Biết tất cả sự lý chẳng có chướng ngại.
2). Quang minh nhãn : Bất cứ là quang minh gì đều nhìn thấy được.
3). Xuất sinh tử nhãn : Nhãn này quán liễu sinh thoát tử.
4). Vô ngại nhãn : Mắt chẳng có mọi chướng ngại.
5). Nhất thiết trí nhãn : Lại có mắt nhất thiết trí huệ. Ở trên đây là nói sơ lược về thập nhãn của chư Phật.
Thế nào là tai của chư Phật ? Tức là tai nghe được tất cả âm thanh, bất cứ trăm ngàn vạn thứ âm thanh, đều phân biệt được rất rõ ràng.
Thế nào là mũi của chư Phật ? Tức là mũi Phật biết được tất cả các pháp, dùng căn mũi có thể ngửi được.
Thế nào là lưỡi của chư Phật ? Tức là lưỡi phân biệt được tất cả các vị, diễn nói được tất cả các pháp. Do đó: ‘’Xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên thế giới.’’
Thế nào là thân của chư Phật ? Tức là thân đầy khắp tất cả mọi nơi, tức cũng là tận hư không khắp pháp giới. Phật có ba thân và mười thân. Ba thân là:
– Pháp thân
– Báo thân
– Ứng thân.
Mười thân là:
– Bồ đề thân
– Nguyện thân
– Hóa thân
– Trụ trì thân
– Tướng hảo trang nghiêm thân
– Thế lực thân
– Ý sinh thân
– Phước đức thân
– Pháp thân
– Trí thân.
Thế nào là ý của chư Phật ? Tức là ý thông đạt được tâm ý của tất cả chúng sinh, việc gì chúng sinh nghĩ, Phật đều biết. Ở trên là nói về sáu căn của chư Phật.
Thế nào là thân quang của chư Phật ? Thân quang và quang minh của Phật khác nhau, thân quang là gần nơi thân; quang minh là chiếu khắp mười phương.
Thế nào là quang minh của chư Phật ? Trí huệ quang minh của Phật phóng ra, chiếu soi khắp ba ngàn đại thiên thế giới.
Thế nào là âm thanh của chư Phật ? Do đó:
‘’Phật dùng một âm diễn nói pháp,
Chúng sinh tùy loài đều hiểu rõ.’’
Chẳng cần phiên dịch, tiếng của Phật diệu như thế, bất cứ cách xa bao nhiêu thế giới, tiếng của Phật vẫn nghe rõ như kế bên lỗ tai.
Thế nào là trí của chư Phật ? Phật có bốn trí:
– Thành sở tác trí,
– Diệu quán sát trí,
– Bình đẳng tánh trí,
– Đại viên cảnh trí.
Lại có nhất thiết chủng trí và vô lượng trí huệ. Ở trên là mười câu hỏi, trong mỗi câu hỏi đều có mười thứ giải thích, về sau sẽ giải đáp viên mãn, bây giờ chỉ nói sơ lược mà thôi.
Duy nguyện Thế Tôn, ai mẩn ngã đẳng, khai thị diễn thuyết.
Xin đức Thế Tôn thương xót chúng con, mà khai thị diễn nói.
Giảng: Tất cả Bồ Tát và tất cả chủ thế gian nói : ‘’Hiện tại chúng con chỉ có một nguyện vọng, thỉnh Ðức Phật phát đại từ bi, thương xót chúng con và tất cả chúng sinh, vì chúng con mà khai thị diễn nói tất cả các pháp, chúng con xin chú ý lắng nghe.’’ Hai mươi câu hỏi ở trước, sẽ giải đáp trong Phẩm Phật Bất Tư Nghì và Phẩm Lìa Thế Gian.
Hựu, thập phương thế giới hải nhất thiết chư Phật, giai vi chư Bồ-tát thuyết thế giới hải, chúng sanh hải, pháp hải, an lập hải, Phật hải, Phật Ba-la-mật hải, Phật giải thoát hải, Phật biến hóa hải, Phật diễn thuyết hải, Phật danh hiệu hải, Phật thọ lượng hải,
Lại có mười phương biển thế giới tất cả chư Phật, đều vì tất cả Bồ Tát nói: Biển thế giới, biển chúng sinh, biển thế giới an lập, biển Phật, biển Ba la mật của Phật, biển giải thoát của Phật, biển biến hóa của Phật, biển diễn nói của Phật, biển danh hiệu của Phật, biển thọ lượng của Phật.
Giảng: Vì thế giới quá nhiều như biển cả, cho nên gọi là ‘’Biển thế giới.’’ Lại có mười phương biển thế giới, trong mỗi thế giới, có một vị thuyết pháp chủ, tức cũng là giáo chủ, tức là Phật, đang ở đó chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Tất cả chư Phật đó, đều vì tất cả các đại Bồ Tát nói pháp, nói thế giới có vô lượng vô biên, đồng như biển cả, cho nên gọi là ‘’Biển thế giới.’’ Lại nói chúng sinh cũng vô lượng vô biên, đồng như biển cả, cho nên gọi là ‘’Biển chúng sinh.’’ Thế giới và chúng sinh đều ở trong pháp giới. Pháp giới an lập như thế nào ? Pháp giới như biển cả, cho nên gọi là ‘’Biển thế giới an lập.’’ Trong pháp giới có nhiều vị Phật, nhiều như biển, cho nên gọi là ‘’Biển Phật.’’ Phật nói pháp môn đến bờ kia như biển cả, cho nên gọi là ‘’Biển Phật Ba la mật.’’ Lại nói, Phật đắc được pháp môn biển giải thoát. Có biển đại thần thông biến hóa. Phật diễn nói nghĩa lý của Tam Tạng mười hai bộ Kinh như biển cả, cho nên gọi là ‘’Biển diễn nói.’’ Mỗi vị Phật đều có danh hiệu của mình, tích tập như biển, cho nên gọi là ‘’Biển danh hiệu.’’ Thọ mạng của Phật rộng lớn vô biên như biển cả, trong Kinh Hoa Nghiêm có Phẩm Thọ Lượng, trong Kinh Pháp Hoa có Phẩm Thọ Lượng, đều nói thọ lượng của Phật chẳng có bờ bến, cho nên gọi là ‘’Biển Phật thọ lượng.’’
Cập nhất thiết Bồ Tát thệ nguyện hải, nhất thiết Bồ Tát phát thú hải, nhất thiết Bồ Tát trợ đạo hải, nhất thiết Bồ-tát thừa hải, nhất thiết Bồ Tát hạnh hải, nhất thiết Bồ Tát xuất ly hải, nhất thiết Bồ Tát thần thông hải, nhất thiết Bồ Tát Ba-la-mật hải, nhất thiết Bồ Tát địa hải, nhất thiết Bồ Tát trí hải.
Và biển thệ nguyện của tất cả Bồ Tát, biển phát thú của tất cả Bồ Tát, biển trợ đạo của tất cả Bồ Tát, biển thừa của tất cả Bồ Tát, biển hạnh của tất cả Bồ Tát, biển xuất ly của tất cả Bồ Tát, biển thần thông của tất cả Bồ Tát, biển Ba la mật của tất cả Bồ Tát, biển địa của tất cả Bồ Tát, biển trí của tất cả Bồ Tát.
Giảng: Ở trước là chư Phật vì tất cả Bồ Tát nói mười thứ biển. Hiện tại vì tất cả Bồ Tát nói mười thứ biển khác nữa. Mười thứ biển này chỉ nói ý nghĩa đại khái, khi về sau sẽ nói rõ ràng tỉ mỉ hơn.
Biển thệ nguyện của tất cả Bồ Tát như thế nào ? Hết thảy Bồ Tát đều lấy bốn hoằng thệ nguyện làm căn bản:
1). Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2). Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
3). Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
4). Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Hằng ngày mỗi buổi tối, chúng ta đều đọc bốn hoằng thệ nguyện, nhưng chúng ta có y chiếu theo bốn thệ nguyện này tu hành chăng ? Nếu chẳng có thì tức là ở trước Phật nói dối, quả báo tương lai không thể tưởng tượng được, nhất định sẽ đọa vào ba đường ác.
‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.’’ Chúng sinh bao quát con người và chẳng phải con người, tất cả chúng sinh nhiều vô lượng vô biên. Trong thân của mỗi chúng sinh, cũng có vô lượng vô biên chúng sinh. Con người là một vi trùng lớn, lại có vô lượng vô biên vi trùng nhỏ. Những vi trùng nhỏ này ở trong thể của vi trùng lớn, nương nhờ vi trùng lớn bố thí cúng dường mà sinh tồn. Song, sự bố thí cúng dường này, chẳng phải tự động, hoặc tâm cam tình nguyện, mà là bị động, bắt buộc, chẳng bố thí thì chẳng được. Vì những vi trùng nhỏ này ăn trộm, hút máu thịt của bạn, song chẳng có cách gì thoát khỏi quan hệ với chúng, vì chẳng có vi trùng nhỏ, thì vi trùng lớn cũng chẳng sống được. Cho nên, có nhân duyên trợ giúp lẫn nhau để cùng sinh tồn.
Mỗi chúng sinh lớn đều nuôi sống vô số chúng sinh, giống như sư tử và rồng rất là độc hại, trăm thú đều sợ, song trong thân của chúng có vô số trùng nhỏ ăn thịt uống máu của chúng. Vì trong vô lượng lại có vô lượng chúng sinh, cho nên nói chúng sinh vô biên. Tuy nhiên chúng sinh vô biên, nhưng cũng phải độ chúng sinh. Làm thế nào để độ chúng ? Do đó, có câu:
‘’Muốn khiến vào Phật trí,
Trước dùng móc dục dắt.’’
Muốn giáo hóa chúng sinh khai ngộ trí huệ của Phật, thì trước hết phải cho họ vật gì mà họ thích, khiến cho họ sinh hảo cảm, mới có hứng thú, sau đó dẫn họ vào cửa Phật, nghiên cứu Phật pháp. Ðó là pháp môn phương tiện độ chúng sinh, cũng là dùng pháp môn phương tiện khéo léo để độ tất cả chúng sinh.
‘’Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.’’ Tu Phật pháp thì phải có sự khảo nghiệm, phải thọ sự khảo nghiệm. Phàm là tất cả cảnh giới đến, bất cứ là tốt, là xấu, đều là khảo nghiệm. Bình thường mình cho rằng mình đã nhìn thấu, buông xả đặng tất cả, cảm thấy chẳng có chấp trước, kết quả cảnh giới đến thì bị mê hoặc, hiện ra nguyên hình, bị cảnh giới lay chuyển. Nếu có định lực thì cảnh giới đến, tâm cũng chẳng lay động, giống như chẳng có cảnh giới, đó mới là chuyển được cảnh giới, công phu tu hành như thế mới là thật sự đến nhà, mới thật sự nhìn thấu, buông xả.
Ví như khi bạn đang ngồi thiền dụng công, một khi cảnh giới đến, hoặc là người, hoặc là ma, tay cầm đao muốn chém đầu bạn. Lúc đó, người có định lực thì rất bình tĩnh, tâm nghĩ : ‘’Tùy ý anh, tôi chẳng màng, xin bạn cứ chém, đây là cơ hội tốt giúp tôi thành đạo.’’ Nếu có tư tưởng như thế, thì chẳng sợ hãi, đó mới là công phu chân chánh.
Trước kia có người xuất gia tu hành, bèn đến một ngôi chùa nọ, hỏi thiện tri thức (lão hòa thượng): ‘’Tôi có thể xuất gia được chăng‘’?
– Thiện tri thức đáp: ‘’Ðương nhiên là được, nhưng có điều kiện, anh phải tiếp nhận, mới có tư cách xuất gia, bằng không thì không thể xuất gia.’’
– Người đó hỏi: ‘’Ðiều kiện gì‘’?
– Thiện tri thức nói: ‘’Nếu anh thành tâm xuất gia, thì phải nghe lời của tôi chỉ dạy, tôi dạy anh làm gì thì anh phải đi làm, không thể kháng cự. Nếu anh chấp nhận thì tôi nhận anh làm đệ tử.’’
– Người đó nói: ‘’Con nguyện nghe lời của sư phụ dạy bảo.’’
– Thiện tri thức lại hỏi: ‘’Trong nhà anh có những người nào ?
– Người đó nói: ‘’Có cha mẹ, anh em, chị em, lại có vợ, có con, họ đều tự sinh sống, chẳng cần con chiếu cố, cho nên con muốn xuất gia tu hành.’’
– Vị thiện tri thức lại nói: ‘’Bây giờ ta đưa cho ngươi một thanh kiếm, ngươi hãy về nhà giết hết những người trong nhà, ngươi làm có được chăng‘’?
– Người đó nói: ‘’Sư phụ dạy con làm như thế, thì con y theo ý của sư phụ mà làm, tuyệt đối chẳng kháng cự.’’
– Vị thiện tri thức lại nói: ‘’Ngươi giết hết cả nhà xong rồi, hãy đem thanh kiếm treo ở cửa sau, rồi trở về đây ta độ cho ngươi xuất gia.’’
Anh ta cầm lấy thanh kiếm, tâm nghĩ ngợi: ‘’Làm sao ta có thể giết người thân của mình ? Nếu chẳng làm như thế, thì vị thiện tri thức chẳng thu nhận mình làm đệ tử.’’ Trong lúc tiến thối lưỡng nan, chẳng biết như thế nào mới tốt, thì lại nghĩ: ‘’Vì xuất gia học đạo chỉ có cách đó.’’ Do đó, cầm thanh kiếm đi về nhà, giết hết cả nhà, treo thanh kiếm ở cửa sau. Sau đó trở về chỗ vị thiện tri thức, xuất gia tu đạo.
Anh ta có thật giết hết cả gia đình chăng ? Không. Ðó là thần thông biến hóa pháp môn phương tiện của vị thiện tri thức, để khảo nghiệm anh ta có thành tâm xuất gia chăng ? Tức cũng khiến cho anh ta đoạn hết tất cả tình cảm phiền não với người thân, tâm được thanh tịnh, trợ giúp cho sự thành đạo.
Khi anh ta cầm thanh kiếm về nhà, thì người nhà đều đã ngủ, anh ta cảm giác là đã giết hết người nhà, kỳ thật là chẳng có giết, chỉ bất quá đó là cảnh giới thần thông của vị thiện tri thức hiện ra. Anh ta chiếu theo lời dặn của vị thiện tri thức, đem thanh kiếm treo ở cửa sau, lập tức trở về chùa. Thanh kiếm đó hóa thành một người, treo ngược ở cửa sau mà chết.
Sáng sớm ngày thứ hai, mọi người thức dậy, thì phát hiện người đó treo ngược ở cửa sau mà chết, để lại rất nhiều châu báu (vị thiện tri thức biến hóa ra), mọi người cho rằng anh ta đi trộm cắp về, nhưng lại sợ hỏi tội, cho nên treo ngược mà tự tử. Do đó, đem châu báu ra bán để sinh sống, cả nhà đời sống chẳng còn lo gì nữa, và đem tử thi đi chôn.
Anh ta xuất gia rồi, cho rằng người nhà đều đã bị anh ta giết, mới quyết tâm dụng công tu hành, ngày đêm siêng năng tinh tấn, chẳng giải đãi, chẳng phóng dật. Luôn luôn đề tỉnh chính mình, nếu chẳng thành đạo thì làm sao đối với những người nhà đã bị giết ? Cho nên càng dụng công tu hành, hoàn toàn chẳng có chút phiền não và tạp niệm. Do đó :
‘’Tâm vô quái ngại
Vô quái ngại cố
Vô hữu khủng bố
Viễn ly điên đảo mộng tưởng.’’
Nghĩa là:
Tâm chẳng quái ngại,
Vì chẳng quái ngại,
Chẳng có sợ hãi,
Xa lìa điên đảo mộng tưởng.
Mười hai năm sau, anh ta hoàn thành đạo nghiệp, đắc được vô sinh pháp nhẫn. Lúc đó, đã đắc được ngũ nhãn lục thông, ở trong định biết cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, trong nhà chẳng những chẳng chết, mà còn sinh sống rất sung sướng, thân thể khoẻ mạnh, tâm nghĩ : ‘’Nếu chẳng phải sư phụ an bài như thế, thì ta làm sao mà khai ngộ chứng quả.’’ Do đó, bèn đến trước sư phụ đảnh lễ tạ ân.
Do đó có thể thấy, người tu đạo chẳng có phiền não, thì mới có thể thành tựu đạo nghiệp, nếu có phiền não thì đạo nghiệp chẳng thành tựu. Tại sao người tu đạo có dục tâm ? Vì có phiền não. Tại sao hay phạm giới ? Vì có phiền não. Phiền não là thứ hại người nhất. Tại sao hay có phiền não ? Vì đức hạnh chẳng đủ, không thể khống chế được vọng tưởng tham sân si, cho nên có phiền não. Ðây là vấn đề căn bản mà không thể giải quyết, thì ngọn ngành chẳng làm gì được.
‘’Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.’’ Về phương diện trừu tượng mà nói, thì pháp môn vô lượng vô biên, cho nên phải phát thệ nguyện để học. Nếu nói cụ thể, thì có tám vạn bốn ngàn pháp môn, đều là pháp môn thành Phật. Người tu đạo phải chọn một pháp môn tương ưng với mình, để chuyên nhất tu hành, một môn thâm nhập thì sẽ giải thoát tự tại. Cho nên, người tu đạo phải phát thệ nguyện này.
‘’Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’ Ðạo lý của Phật nói, là diệu pháp vi diệu thâm sâu vô thượng, chẳng có gì cao hơn Phật. Phật là Thánh nhân ba giác tròn, vạn đức đầy. Chúng ta muốn học Phật, thì hãy phát nguyện tu ba nghiệp thanh tịnh, chứng được ba đức viên mãn.
Phàm là người tu hành, thì đều phải đầy đủ bốn đại thệ nguyện này, mới có thể thành quả vị Phật. Cho nên, buổi tối khi đọc đến bốn câu thệ nguyện này, thì trong tâm phải quán tưởng, độ chúng sinh như thế nào ? Học Phật pháp như thế nào ? Ðoạn phiền não như thế nào ? Thành Phật đạo như thế nào ? Bằng không thì miệng niệm mà tâm chẳng quán, cũng giống như ca hát chẳng có ích gì.
Một vị Bồ Tát phát bốn thệ nguyện, mười vị Bồ Tát phát bốn mươi thệ nguyện, cho đến vô số Bồ Tát phát vô số thệ nguyện, nhiều như là biển cả, cho nên gọi là biển thệ nguyện.
Thế nào là biển phát thú của tất cả Bồ Tát ? Tức là tất cả Bồ Tát cầu đạo bồ đề như biển cả, cho nên gọi là biển phát thú.
Thế nào là biển trợ đạo của tất cả Bồ Tát ? Tức là tích tập bồ đề phước trí như tư lương, để trợ giúp tu hành thành tựu đạo nghiệp.
Thế nào là biển thừa của tất cả Bồ Tát ? Thừa là công cụ chuyên chở, tức cũng là xe, tức là chuyên chở tất cả Bồ Tát từ nhân địa đến quả địa.
Thế nào là biển hạnh của tất cả Bồ Tát ? Tức là hạnh môn từ bi hỷ xả bốn tâm vô lượng. Có bốn tâm vô lượng này, lại thêm bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, khiến cho chúng sinh gần gũi mà tín ngưỡng Phật pháp.
Thế nào là biển xuất ly của Tất cả Bồ Tát ? Tức là vĩnh ly nghiệp hoặc, mà chứng đắc chân lý. Tức cũng là lìa biển khổ mà được biển vui.
Thế nào là biển thần thông của tất cả Bồ Tát ? Thần thông của Bồ Tát rộng lớn vô biên như biển cả, cho nên gọi là biển thần thông.
Thế nào là biển Ba la mật của tất cả Bồ Tát ? Tức là pháp môn tu hành đến bờ kia, như mười Ba la mật đã nói ở trước.
Thế nào là biển địa của tất cả Bồ Tát ? Tức là địa vị của Bồ Tát tu, như: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Ðẳng giác, Diệu giác.
Thế nào là biển trí của tất cả Bồ Tát ? Trí huệ của Bồ Tát như biển cả.
Bất cứ pháp môn gì, phàm là vô lượng vô biên đều dùng chữ ‘’Biển’’ để hình dung ý nghĩa nhiều của nó.
Nguyện Phật Thế tôn, diệc vi ngã đẳng, như thị nhi thuyết
Xin đức Phật Thế Tôn, cũng vì chúng con diễn nói như thế.
Giảng: Xin Phật Thế Tôn từ bi lân mẫn, vì chúng con chúng sinh tuyên nói đạo lý như vậy.
Vấn đề biển thế giới (thế giới hải), giải đáp trong Phẩm Hoa Tạng. Vấn đề biển chúng sinh, giải đáp trong Phẩm Quang Minh cho đến Phẩm Thập Nhẫn. Vấn đề biển thế giới an lập, giải đáp trong Phẩm Thế Giới Thành Tựu. Vấn đề biển Phật, trả lời trong Phẩm Bất Tư Nghì. Vấn đề biển Ba la mật của Phật, trả lời trong Phẩm Lìa Thế Gian. Vấn đề biển giải thoát của Phật, trả lời trong Phẩm Nhập Pháp Giới. Vấn đề biển biến hóa của Phật, trả lời trong Phẩm A Tăng Kỳ. Vấn đề biển diễn nói của Phật, trả lời trong Phẩm Tứ Ðế. Vấn đề biển danh hiệu của Phật, trả lời trong Phẩm Danh Hiệu. Vấn đề biển thọ lượng của Phật, trả lời trong Phẩm Thọ Lượng.
Nhĩ thời, chư Bồ-tát uy thần lực cố, ư nhất thiết cúng dường cụ vân trung, tự nhiên xuất âm nhi thuyết tụng ngôn:
Bấy giờ, do thần thông oai lực của các Bồ Tát, nên ở trong tất cả mây đồ cúng dường, tự nhiên vang ra âm thanh mà nói kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, hết thảy tất cả các Bồ Tát đó, đều có thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, cho nên ở trong tất cả mây đồ cúng dường, tự nhiên vang ra một thứ âm thanh, ở trong âm thanh đó nói ra bài kệ. Có người nghĩ: ‘’Sao mây cúng dường lại vang ra âm thanh‘’? Bây giờ dùng khoa học để chứng minh, cảnh giới này chẳng mấy kỳ lạ. Ví như máy truyền hình, máy thu âm, đều có thể thu nhiếp cảnh giới và âm thanh ngoài vạn dặm, truyền đến lỗ tai của chúng ta, rất rõ ràng như ở trước mắt, thậm chí âm thanh và cảnh giới ở tinh cầu khác, ngồi ở trong nhà, cũng đều có thể thấy rõ ràng. Con người chúng ta có thần thông như thế, hà huống là Bồ Tát ? Sức thần thông của các Ngài càng diệu không thể tả. Ở trong mây đồ cúng dường, vang ra âm thanh nói pháp, là việc rất bình thường, chẳng có gì lạ lùng. Khi nào các bạn có ngũ nhãn, thì bất cứ nhìn vật hữu hình, vô hình đều chẳng có chướng ngại, đến lúc đó sẽ biết, đây là cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Ý nghĩa đồ cúng dường, ví như hòa thượng Giải Thoát nói bài kệ khen ngợi Phật rằng:
‘’Chắp tay dùng làm hoa,
Thân là đồ cúng dường,
Tâm lành thành thật là hương,
Khen ngợi khói hương tỏa khắp,
Chư Phật ngửi hương này,
Nghe tiếng đến cứu độ,
Mọi người siêng tinh tấn,
Ðừng có sinh nghi lầm.’’
Vô lượng kiếp trung tu hành mãn, Trong vô lượng kiếp tu viên mãn
Bồ-đề thụ hạ thành chánh giác, Dưới cội bồ đề thành Chánh giác
Vì độ chúng sanh phổ hiện thân, Vì độ chúng sinh khắp hiện thân
Như vân sung biến tận vị lai. Như mây đầy khắp tận vị lai.
Phật ở trong vô lượng kiếp về trước, tu đủ thứ hạnh môn, tu phước tu huệ, phước huệ đều tu viên mãn, cho nên gọi là Lưỡng Túc Tôn. Ngồi trên tòa kim cang dưới cội bồ đề, chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tức cũng là thành Phật. Vì cứu độ tất cả chúng sinh, mà khắp thị hiện diệu sắc thân, giống như mây, đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới, tận thuở vị lai vì chúng sinh diễn nói diệu pháp chân thật.
Chúng sanh hữu nghi giai sử đoạn, Chúng sinh có nghi đều khiến dứt
Quảng đại tín giải tất lệnh phát, Tin hiểu rộng lớn đều khiến phát
Vô biên tế khổ phổ sử trừ, Khổ không bờ mé khắp khiến trừ
Chư Phật an lạc hàm lệnh chứng. An lạc của Phật đều khiến chứng.
Chúng sinh có đủ thứ nghi hoặc, song gặp được Phật đều đoạn sạch mọi hoài nghi, chuyện gì không giải quyết được, thì cũng giải quyết được. Khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm tin hiểu rộng lớn, do đó:
‘’Phật pháp như biển cả,
Có niềm tin thì vào được.’’
Có niềm tin mới vào được biển Phật pháp, chẳng những có niềm tin, mà còn phải thấu hiểu nghĩa chân thật của Phật pháp, phát đại bồ đề tâm. Còn khiến cho chúng sinh diệt trừ sạch khổ vô biên tế. Chư Phật là an lạc nhất, cũng khiến chúng sinh đồng đắc được an lạc, thành tựu quả vị Phật.
Bồ Tát vô số đẳng sát trần, Bồ Tát vô số đồng số bụi
Câu lai thử hội đồng chiêm ngưỡng, Ðều đến hội này chiêm ngưỡng Phật
Nguyện tùy kỳ ý sở ưng thọ, Tùy theo căn tánh được pháp ích
Diễn thuyết diệu pháp trừ nghi hoặc Diễn nói diệu pháp trừ nghi hoặc.
Bồ Tát nhiều vô số lượng, đồng như số hạt bụi cõi nước. Những Bồ Tát đó đều đến Bồ đề đạo tràng, đồng chiêm ngưỡng Phật. Khi Phật thành đạo thì phóng đại quang minh, chiếu khắp mười phương thế giới, thông tri cho hết thảy Bồ Tát, đều đến Bồ đề đạo tràng để nghe pháp. Tùy theo căn tánh của mỗi người mà đắc được pháp ích. Diễn nói diệu pháp để giải trừ nghi hoặc của chúng sinh.
Vân hà liễu tri chư Phật địa? Thế nào biết rõ chư Phật địa
Vân hà quan sát Như Lai cảnh? Thế nào quán cảnh giới Như Lai
Phật sở gia trì vô hữu biên, Phật lực gia trì chẳng bờ mé
Nguyện thị thử pháp lệnh thanh tịnh Chỉ bày pháp này khiến thanh tịnh.
Ở trong mây đồ cúng dường nói : “Làm thế nào biết rõ chư Phật địa ? Làm thế nào quán sát được cảnh giới của Như Lai” ? Tuy nhiên được Phật gia trì chẳng có bờ mé, nhưng chủ yếu là gì ? Mọi người đều xin Phật từ bi chỉ bày diệu pháp này, khiến cho tất cả chúng sinh đắc được bổn thể thanh tịnh.
Vân hà thị Phật sở hạnh xứ, Thế nào là việc làm của Phật
Nhi dĩ trí tuệ năng minh nhập? Mà dùng trí huệ rõ vào được
Phật lực thanh tịnh quảng vô biên, Phật lực thanh tịnh rộng vô biên
Vì chư Bồ-tát ưng khai thị Vì các Bồ Tát mà khai thị.
Thế nào là việc làm của Phật ? Và đối với việc làm của Bồ Tát có gì khác nhau ? Trí huệ của Phật như thế nào ? Làm thế nào mới minh bạch được việc làm của Phật ? Lại làm thế nào vào được việc làm của Phật ? Thế nào là Phật lực ? Sự thanh tịnh của Phật như thế nào ? Thế nào là rộng vô biên ? Thỉnh Phật vì các Bồ Tát đại chúng mà khai thị, khiến cho đại chúng minh bạch mà y pháp tu hành.
Vân hà quảng đại chư tam muội? Các tam muội rộng lớn ra sao
Vân hà tịnh trì vô úy Pháp ? Thế nào pháp tịnh trị vô úy
Thần thông lực dụng bất khả lượng, Sức thần thông dùng không thể lường
Nguyện tùy chúng sanh tâm nhạc thuyết Xin tùy tâm chúng sinh mà nói.
Tam muội của Phật rộng lớn ra sao ? Phật tu trì pháp thanh tịnh như thế nào ? Thần thông diệu dụng của Phật như thế nào ? Ðại khái chẳng có thể lường được. Xin Phật tùy thuận sở mong muốn của chúng sinh, để vì đại chúng giải nói, khiến cho họ hiểu rõ.
Chư Phật Pháp Vương như thế chủ, Chư Phật Pháp Vương như thế chủ
Sở hạnh tự tại vô năng chế, Việc làm tự tại không thể chế
Cập dư nhất thiết quảng đại Pháp, Và tất cả pháp rộng lớn khác
Vì lợi ích cố đương khai diễn Vì lợi ích cho nên khai diễn.
Chư Phật đều là vua của các pháp, tức cũng như chủ thế gian. Quyền lực của Phật siêu việt hơn tất cả, cho nên việc làm đều tự tại, chẳng ai có thể chế chỉ, hoặc phá hoại được. Và tất cả các Phật pháp rộng lớn khác đều vì lợi ích cho chúng sinh mà khai thị diễn nói.
Phật nhãn vân hà vô hữu lượng? Thế nào Phật nhãn không thể lường
Nhĩ tị thiệt thân diệc phục nhiên ? Tai mũi lưỡi thân cũng như thế
Ý vô hữu lượng phục vân hà ? Ý không thể lường lại ra sao
Nguyện thị năng tri thử phương tiện Hiển bày cho biết phương tiện này.
Phật nhãn không thể lường như thế nào ? Tai, mũi, lưỡi, thân, của Phật không thể lường như thế nào ? Ý của Phật không thể lường ra sao ? Sáu căn của Phật đều là vô lượng, xin Phật từ bi hiển rõ chỉ bày cho đại chúng trong pháp hội, khiến cho ai nấy đều biết pháp môn phương tiện này.
Như chư sát hải chúng sanh hải, Như các biển cõi, biển chúng sinh
Pháp giới sở hữu an lập hải, Hết thảy biển pháp giới an lập
Cập chư Phật hải diệc vô biên, Và các biển Phật cũng vô biên
Nguyện vì Phật tử hàm khai sướng Nguyện vì Phật tử mà khai diễn.
Cõi nhiều như hạt bụi, giống như biển, và tất cả biển chúng sinh, cùng với tận hư không hết thảy pháp giới an lập như thế nào ? Tất cả biển Phật cũng vô lượng vô biên. Hiện tại nguyện Phật từ bi, vì hàng Phật tử mà khai thị diễn xướng biển cảnh giới này, chúng con đều muốn nghe diệu pháp này.
Vĩnh xuất tư nghị chúng độ hải, Vượt ra tư nghì các biển độ
Phổ nhập giải thoát phương tiện hải, Khắp vào biển giải thoát phương tiện
Sở hữu nhất thiết pháp môn hải, Hết thảy tất cả biển pháp môn
Thử đạo tràng trung nguyện tuyên thuyết Trong đạo tràng này xin tuyên nói.
Làm thế nào có thể vượt ra tư nghì các biển độ ? Làm thế nào khắp vào được biển giải thoát tự tại phương tiện ? Lại làm thế nào tu hành hết thảy tất cả biển pháp môn ? Hết thảy đại chúng trong đạo tràng này, đều chờ đợi Ðức Thế Tôn tuyên nói diệu pháp.
Mười bài kệ này, là câu hỏi nói ra ở trong mây đồ cúng dường của Bồ Tát, tức cũng là bốn mươi câu hỏi đã hỏi ở trước, đây là bài kệ thuật lại, khiến cho tất cả chúng sinh, thâm nhập thêm đạo lý Kinh Hoa Nghiêm vào trong biển não. Nghĩa là nói về hạnh môn của Bồ Tát tu.
Nhĩ thời, Thế Tôn tri chư Bồ-tát tâm chi sở niệm, tức ư diện môn chúng xỉ chi gian, phóng Phật sát vi trần số quang minh,
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các Bồ Tát, liền từ trong răng phóng ra quang minh, nhiều như số hạt bụi cõi Phật.
Giảng: Lúc đó, Phật Thích Ca Mâu Ni biết được trong tâm của các đại Bồ Tát nghĩ gì, lập tức từ trong răng phóng ra quang minh, nhiều như số hạt bụi cõi Phật. Màu sắc trong mỗi luồng quang minh đều khác nhau, có màu vàng kim, quang minh vàng kim, màu trắng, quang minh trắng; màu đỏ, quang minh đỏ; màu vàng, quang minh vàng; màu xanh, quang minh xanh, đủ thứ màu, quang minh chẳng giống nhau.
Tại sao Phật lại phóng quang ? Vì khi Phật thành Chánh giác ở dưới cội bồ đề, thì chiêu tập mười phương chư Phật và tất cả Bồ Tát, cho đến chư thiên, quỷ, thần chúng .v.v… đều đến đạo tràng. Giống như chúng ta mời khách, trước hết phát thiệp mời, nói rõ ngày tháng nơi chốn. Phật phóng quang là đại biểu thiệp mời, thỉnh chư Phật, Bồ Tát đến tham gia pháp hội, cho nên mười phương Bồ Tát, đều rải đủ thứ mây cúng dường để thỉnh nói pháp.
Sở vị: chúng bảo hoa biến chiếu quang minh, xuất chủng chủng âm trang nghiêm Pháp giới quang minh, thùy bố vi diệu vân quang minh, thập phương Phật tọa đạo tràng hiện thần biến quang minh, nhất thiết bảo diệm vân cái quang minh, sung mãn Pháp giới vô ngại quang minh, biến trang nghiêm. Nhất thiết Phật sát quang minh, huýnh kiến lập thanh tịnh Kim cương bảo tràng quang minh. Phổ trang nghiêm Bồ Tát chúng hội đạo tràng quang minh, Diệu-Âm xưng dương nhất thiết Phật danh hiệu
Nào là quang minh các hoa báu chiếu khắp. Quang minh vang ra đủ thứ âm thanh trang nghiêm pháp giới. Quang minh giăng bủa mây vi diệu. Quang minh mười phương Phật ngồi đạo tràng hiện thần thông biến hóa. Quang minh tất cả mây lọng bảo diễm. Quang minh sung mãn pháp giới vô ngại. Quang minh khắp trang nghiêm tất cả cõi Phật. Quang minh kiến lập tràng báu kim cang thanh tịnh. Quang minh khắp trang nghiêm đạo tràng chúng hội Bồ Tát. Quang minh diệu âm xưng dương tất cả danh hiệu Phật.
Giảng: Gồm có mười thứ quang minh vừa được nói ra :
1). Quang minh tất cả hoa sen báu, chiếu soi khắp mười phương.
2). Quang minh vang ra đủ thứ âm thanh vi diệu trang nghiêm pháp giới.
3). Quang minh giăng bủa mây vi diệu.
4). Quang minh mười phương Phật ngồi đạo tràng, hiện ra thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn.
5). Quang minh tất cả báu sáng chói kết thành mây lọng.
6). Qung minh sung mãn khắp mười phương pháp giới, thảy đều vô ngại.
7). Quang minh trang nghiêm khắp tất cả cõi Phật.
8). Quang minh trong sự trang nghiêm, trong sự thanh tịnh, kiến lập tràng báu như kim cang.
9). Quang minh trang nghiêm khắp tất cả chúng hội đạo tràng Bồ Tát.
10). Quang minh vang ra diệu âm xưng dương tất cả danh hiệu Phật. Những quang minh này hay khiến cho chúng sinh thấy được, đều sinh tâm cung kính và phát bồ đề tâm.
Quang minh như thị đẳng Phật sát vi trần số. nhất nhất phục hưũ Phật sát vi trần số quang minh dĩ vi quyến thuộc, kỳ quang tất cụ chúng diệu bảo sắc, phổ chiếu thập phương các nhất ức Phật sát vi trần số thế giới hải.
Quang minh như thế, nhiều như số hạt bụi cõi Phật, trong mỗi quang minh, lại có quang minh nhiều như số hạt bụi cõi Phật làm quyến thuộc. Các quang minh đó, đều có đủ màu sắc báu tốt đẹp, chiếu soi mười phương, đều có một ức biển thế giới số hạt bụi cõi Phật.
Giảng: Quang minh giống như ở trên đã nói, có nhiều như số hạt bụi trong cõi Phật. Trong mỗi quang nhiều như số hạt bụi cõi Phật, lại có quang minh nhiều như số hạt bụi cõi Phật làm quyến thuộc. Trong mỗi luồng hào quang, đều có đủ vô lượng màu sắc báu tốt đẹp, chiếu khắp mười phương thế giới, đều có một ức biển thế giới số hạt bụi cõi Phật.
Bỉ thế giới hải chư Bồ-tát chúng, ư quang minh trung, các đắc kiến thử hoa tạng trang nghiêm thế giới hải. dĩ Phật thần lực, kỳ quang ư bỉ nhất thiết Bồ Tát chúng hội chi tiền nhi thuyết tụng ngôn:
Các chúng Bồ Tát ở trong quang minh biển thế giới đó, đều thấy thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm này. Nhờ thần lực của đức Phật, mà quang minh đó, ở trước tất cả chúng hội Bồ Tát, nói ra bài kệ rằng.
Giảng: Trong mỗi thế giới hải, đều có Bồ Tát số lượng chẳng cách chi tính đếm được. Trong răng của Phật phóng ra quang minh, mỗi vị Bồ Tát dù cách xa Bồ đề đạo tràng bao nhiêu thế giới, cũng đều thấy được thế giới hải Hoa Tạng, như ở trước mặt, cảnh giới này không thể nghĩ bàn. Phật dùng thần lực, khiến cho quang minh hiện ở trước mỗi vị Bồ Tát chúng hội đạo tràng, trong quang minh đó nói ra bài kệ.
Vô lượng kiếp trung tu hành hải, Trong vô lượng kiếp tu biển hạnh
Cúng dường thập phương chư Phật hải, Cúng dường mười phương các biển Phật
Hóa độ nhất thiết chúng sanh hải, Hóa độ tất cả biển chúng sinh
Kim thành diệu giác biến chiếu tôn. Khiến thành đấng Diệu giác biến chiếu.
Thuở xưa, khi Phật tại nhân địa, phát tâm bồ đề tu hành, trải qua vô lượng kiếp tu hành pháp môn như biển. Trong pháp môn đó, là cúng dường mười phương chư Phật, dùng thân, miệng, ý, ba nghiệp để cúng dường Tam Bảo. Cung kính Phật, lễ lạy Phật, là thân cúng dường. Suy tư về Phật, quán tưởng Phật, là ý cúng dường. Sau khi Phật thành Phật rồi, thì giáo hóa chúng sinh. Tuy chúng sinh số lượng như biển cả, nhưng Phật vẫn hóa độ tất cả chúng sinh. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều thành đấng Diệu Giác (Phật) chiếu khắp pháp giới.
Mao khổng chi trung xuất hóa vân, Trong lỗ lông Phật hiện hóa mây
Quang minh phổ chiếu ư thập phương, Quang minh chiếu khắp trong mười phương
Ưng thọ hóa giả hàm khai giác, Người được Phật độ đều giác ngộ.
Lệnh thú Bồ-đề tịnh vô ngại. Hướng về bồ đề tịnh vô ngại.
Ở trong mỗi lỗ chân lông thân Phật, đều hiện ra vô lượng hóa mây. Ở trong hóa mây, có quang minh chiếu khắp mười phương thế giới. Chúng sinh đáng được Phật giáo hóa, thì đều khai đại giác ngộ, mà đắc được trí huệ, khiến cho họ hướng về con đường bồ đề thanh tịnh vô ngại.
Phật tích vãng lai chư thú trung, Thuở xưa Phật vào trong các cõi
Giáo hóa thành thục chư quần sanh, Giáo hóa thuần thục các quần sinh
Thần thông tự tại vô biên lượng, Thần thông tự tại vô biên lượng
Nhất niệm giai lệnh đắc giải thoát. Một niệm đều khiến được giải thoát.
Thuở xưa, Phật vì giáo hóa tất cả chúng sinh căn lành thành thục, nên thường chuyển đi chuyển lại ở trong sáu nẻo luân hồi. Vì Phật có vô lượng vô biên sức thần thông tự tại, cho nên ở trong một niệm, đều khiến cho vô lượng chúng sinh đắc được giải thoát.
Ma-ni diệu bảo Bồ-đề thụ, Cây bồ đề ma ni báu đẹp
Chủng chủng trang nghiêm tất Thù đặc, Ðủ thứ trang nghiêm đều thù thắng
Phật ư kỳ hạ thành chánh giác, Phật ngồi dưới đó thành Chánh giác
Phóng đại quang minh phổ uy diệu. Phóng đại quang minh chiếu sáng khắp.
Cây bồ đề dùng ma ni báu đẹp trang nghiêm, lại dùng đủ thứ châu báu để trang nghiêm rất thù thắng đặc biệt. Khi Phật thành Chánh giác ở dưới cội bồ đề, thì phóng đại quang minh chiếu soi khắp mười phương thế giới.
Đại âm chấn hống biến thập phương, Ðại âm chấn hống khắp mười phương
Phổ vì hoằng tuyên tịch diệt pháp, Khắp vì tuyên dương pháp tịch diệt
Tùy chư chúng sanh tâm sở lạc, Tùy tâm ưa thích của chúng sinh
Chủng chủng phương tiện lệnh khai hiểu. Ðủ thứ phương tiện khiến khai ngộ.
Âm thanh của Phật lớn như tiếng chấn hống, vang khắp mười phương thế giới, khắp vì tất cả chúng sinh hoằng dương tuyên nói pháp tịch diệt Niết Bàn. Tùy thuận sở thích trong tâm chúng sinh, mà dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, khiến cho chúng sinh khai ngộ đắc được trí huệ.
Vãng tu chư độ giai viên mãn, Xưa tu các độ đều viên mãn
Đẳng ư thiên sát vi trần số, Ðồng số hạt bụi ngàn cõi nước
Nhất thiết chư lực tất dĩ thành, Tất cả các lực đều thành tựu
Nhữ đẳng ưng vãng đồng chiêm lễ. Các ông nên đến cùng chiêm lễ.
Thuở xưa, Phật tu các pháp môn đến bờ kia, đều tu hành viên mãn. Pháp môn tu đến bờ bên kia, nhiều như số hạt bụi ngàn cõi nước. Hết thảy mười lực của Phật, đều đã hoàn toàn thành tựu. Các ông đại chúng, nên đến dưới cội bồ đề cùng chiêm ngưỡng Phật, lễ lạy Phật, cung kính Phật.
Thập phương Phật tử đẳng sát trần, Thập phương Phật-tử như sát-trần
Tất cọng hoan hỉ nhi lai tập, Ðều cùng vui-mừng vân-tập đến
Dĩ vũ chư vân vi cúng dường, Ðã rưới mây báu để cúng-dường
Kim tại Phật tiền chuyên cận ngưỡng. Nay ở trước Phật chuyên chiêm ngưỡng.
Như Lai nhất âm vô hữu lượng, Một âm Như Lai không thể lường
Năng diễn khế Kinh thâm đại hải, Hay diễn khế Kinh sâu như biển
Phổ vũ diệu pháp ưng quần tâm, Khắp mưa diệu pháp ứng quần tâm
Bỉ lượng túc tôn nghi vãng kiến. Nên đến gặp Lưỡng Túc Tôn đó.
Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sinh tùy loài đều hiểu rõ. Một âm tán làm vô lượng âm, vô lượng âm vang ra từ một âm. Song, vô lượng chúng sinh đều hiểu được. Phật diễn nói diệu nghĩa của Kinh điển, diệu nghĩa đó sâu như biển cả. Khắp mưa diệu pháp tùy theo tâm nguyện của chúng sinh. Ðức Phật đã thành đấng Lưỡng Túc Tôn, các Ngài Thánh hiền chúng nên đến gặp Phật, chính là đúng thời cơ, đừng bỏ qua cơ hội.
Tam thế chư Phật sở hữu nguyện, Ba đời chư Phật hết thảy nguyện
Bồ-đề thụ hạ giai tuyên thuyết, Dưới cội bồ đề đều tuyên nói
Nhất sát-na trung tất hiện tiền, Trong một sát na đều hiện tiền
Nhữ khả tốc nghệ Như Lai sở. Ông hãy mau đến chỗ Như Lai.
Ba đời tất cả chư Phật, phát ra đủ thứ biển đại nguyện. Phật ở dưới cội bồ đề, đều tuyên nói ra hết, khiến cho chúng sinh, biết được những lời nguyện của Phật phát ra, là nguyện thành Phật. Trong một sát na diễn nói, hiển hiện ra biển đại nguyện. Các vị đại chúng, hãy mau đến dưới cội bồ đề, nghe Phật nói diệu pháp.
Phật đời quá khứ là Phật đã thành. Phật đời hiện tại là Phật hiện đang thành. Phật đời vị lai là Phật sẽ thành. Phật vị lai là chúng sinh hiện tại, chúng sinh hiện tại là Phật vị lai. Nhất là những người hiện tại tu hành, thì nhất định là Phật vị lai, vì bạn đang tu pháp thành Phật.
Các vị ! Giữa người với người đừng sinh phiền não, hoặc bạn nhìn tôi không đúng, tôi nhìn bạn không tốt. Các bạn hãy quán sát kỹ xem, Phật với Phật thấy nhau, thì đều cùng nhau cung kính, tuyệt đối chẳng nóng giận. Chúng ta người tu đạo, phải xem chúng sinh là Phật vị lai, nếu nóng giận với chúng sinh, thì cũng như nóng giận với Phật vị lai. Suy tư như thế, thì chẳng có nóng giận, mà còn hòa nhan duyệt sắc, đối với tất cả chúng sinh.
Ba đời chư Phật đều phát ra vô lượng thệ nguyện, chúng ta người tu đạo nhất định phải phát nguyện. Phát nguyện thành Phật thì sẽ thành Phật, phát nguyện làm quỷ thì sẽ làm quỷ. Nguyện thành Phật tức là :
‘’Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Ðệ tử và chúng sinh
Ðều cùng thành Phật đạo.’’
Ðồng thời, cũng là bốn hoằng thệ nguyện :
- ‘’Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.’’ Tự hỏi mình có độ chăng ? Chưa độ thì phải độ.
- ‘’Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.’’ Tự hỏi mình đã dứt phiền não chưa ? Nếu chưa dứt thì phải dứt.
- ‘’Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.’’ Tự hỏi mình đã học chưa ? Nếu chưa học thì phải học.
- ‘’Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.’’ Tự hỏi mình đã thành chưa ? Nếu chưa thành thì phải thành.
Hỏi mình như thế, tức là nguyện thành Phật. Nguyện làm quỷ tức là chẳng giữ năm giới, làm mười điều ác, tổn người lợi mình, tranh danh đoạt lợi, vì mục đích bất chấp thủ đoạn, lấy oán báo đức, đó là điều kiện làm quỷ.
Tỳ Lô Giá Na Đại trí hải, Tỳ Lô Giá Na biển đại trí
Diện môn thư quang vô bất kiến, Trên mặt phóng quang thảy đều thấy
Kim đãi chúng tập tướng diễn âm, Nay đợi chúng tập sẽ tuyên dương
Nhữ khả vãng quán văn sở thuyết. Ông nên đến xem nghe diễn nói.
Tỳ Lô Xá Na là tiếng Phạn, dịch là ‘’Biến nhất thiết xứ.’’ Là thanh tịnh pháp thân của Phật, tận hư không khắp pháp giới, đều là pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật ở tại đó. Trí huệ của Ngài như biển cả. Hiện tại trên mặt của Ngài phóng ra hào quang vạn trượng, chẳng có nơi nào mà nhìn chẳng thấy. Ngài đang đợi tất cả chúng hội Bồ Tát tụ tập, tức sẽ tuyên dương pháp âm vi diệu vô thượng. Các ông hãy cùng nhau đến chiêm ngưỡng, và nghe diệu pháp của Ngài nói.
Nhĩ thời, thập phương thế giới hải nhất thiết chúng hội, mông Phật quang minh sở khai giác dĩ, các cộng lai nghệ Tỳ Lô Giá Na Như Lai sở, thân cận cúng dường.
Bấy giờ, mười phương thế giới hải tất cả chúng hội, được quang minh của đức Phật khai ngộ rồi, thảy đều cùng nhau đến chỗ Tỳ Lô Giá Na Như Lai, để gần gũi cúng dường.
Giảng: Lúc đó, trong mười phương thế giới hải, mỗi một thế giới, đều có Phật ngồi đạo tràng, có đại chúng hải hội. Các Ngài đều được quang minh của Ðức Phật Thích Ca, từ trong răng phóng ra, trong quang minh đó, vì các Ngài mà nói pháp, khiến cho các Ngài khai ngộ rồi, thảy đều cùng nhau đến dưới cội bồ đề ở cõi Ta Bà, chỗ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, hiện pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật, để gần gũi và cúng dường Phật.
Sở vị: thử hoa tạng trang nghiêm thế giới hải Đông, thứ hữu thế giới hải, danh: thanh Tịnh Quang liên hoa trang nghiêm. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: ma-ni anh lạc Kim Cương tạng, Phật hiệu: pháp thủy giác hư không vô biên Vương. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: quan sát thắng Pháp liên hoa tràng, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng Bồ Tát thân tướng vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt
Về phía đông của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm này, lại có thế giới hải tên là Thanh Tịnh Quang Liên Hoa Trang Nghiêm. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Ma Ni Anh Lạc Kim Cang Tạng, đức Phật hiệu là Pháp Thủy Giác Hư Không Vô Biên Vương. Trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Quán Sát Thắng Pháp Liên Hoa Tràng, với các Bồ Tát nhiều như hạt bụi biển thế giới, cùng nhau đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện mười thứ thân Bồ Tát tướng mây, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Ở hướng đông của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có một thế giới hải tên là Thanh Tịnh Quang Liên Hoa Trang Nghiêm. Ở trong thế giới phương đông đó (thế giới cũng có hạt giống, mới có thể sinh ra một thế giới khác), lại có một cõi nước tên là Ma Ni Anh Lạc Kim Cang Tạng. Ở trong cõi nước đó, có một vị Phật hiệu là Pháp Thủy Giác Hư Không Vô Biên Vương. Trong đại chúng hải hội của vị Phật đó, có vị đại Bồ Tát tên là Quán Sát Thắng Pháp Liên Hoa Tràng. Ngài và vô số Bồ Tát, nhiều như hạt bụi trong thế giới hải phương đông, cùng nhau đến chỗ Ðức Phật. Mỗi vị Bồ Tát đều hiện ra mười thứ thân Bồ Tát tướng mây. Tuy đầy khắp hư không, nhưng hổ tương chiếu nhau, hổ tương vô ngại, mà chẳng tán hoại, vĩnh viễn tồn tại ở trong hư không, khiến cho tất cả chúng sinh nhìn thấy rất rõ ràng.
Phục hiện thập chủng vũ nhất thiết bảo Liên Hoa Quang minh vân, phục hiện thập chủng Tu-Di bảo phong vân, phục hiện thập chủng nhật luân quang vân, phục hiện thập chủng bảo hoa anh lạc vân, phục hiện thập chủng nhất thiết âm nhạc vân, phục hiện thập chủng mạt hương thọ vân, phục hiện thập chủng đồ hương thiêu hương chúng sắc tướng vân, phục hiện thập chủng nhất thiết hương thọ vân
Lại hiện mười thứ mây mưa tất cả hoa sen báu quang minh. Lại hiện mười thứ mây núi Tu Di báu. Lại hiện mười thứ mây ánh sáng vòng mặt trời. Lại hiện mười thứ mây hoa chuỗi báu. Lại hiện mười thứ mây tất cả âm nhạc. Lại hiện mười thứ mây cây vị hương. Lại hiện mười thứ mây các sắc tướng hương bột hương đốt. Lại hiện mười thứ mây tất cả hương.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây giống như mưa xuống tất cả hoa sen báu. Lại hiện ra mười thứ mây núi Tu Di. Lại hiện ra mười thứ mây ánh sáng mặt trời. Lại hiện ra mười thứ mây hoa chuỗi báu. Lại hiện ra mười thứ mây tất cả âm nhạc. Lại hiện ra mười thứ mây cây vị hương. Lại hiện ra mười thứ mây các sắc tướng hương bột hương đốt. Lại hiện ra mười thứ mây tất cả hương.
Ở trên là các thứ mây, do các Bồ Tát ở phương đông trong mười phương hiện ra. Bổn lai, trên danh tướng mà nhìn, thì ai ai cũng hiểu, chẳng cần phải giảng lại. Song, quy cụ giảng Kinh, là khiến cho minh bạch cũng phải giảng lại. Giảng hay cũng phải giảng, giảng không hay cũng phải giảng. Chẳng màng hiểu hay không hiểu, giảng hay, hay không thì người giảng Kinh đều phải giảng. Chứ đừng nói : ‘’Ðoạn Kinh này, các vị mọi người đều đã hiểu, chẳng cần phải giảng.’’ Có người nói : ‘’Chẳng cần giảng sao thầy lại phải giảng‘’? Sao bạn lại biết mọi người đều hiểu hết ? Nếu có một người không hiểu, thì đó chẳng phải là nghe một lần Kinh hồ đồ chăng ? Tức là hết thảy mọi người đều minh bạch nghĩa Kinh, giảng nhiều lần, nghe nhiều lần, thì trong ruộng thức thứ tám trồng nhiều hạt giống bồ đề, cũng có lợi ích.
Tại sao không giảng ? Vì chính họ chẳng minh bạch, cho nên giảng quá cẩu thả, đây là hành vi lừa dối người nghe Kinh, chẳng màng người nghe hiểu hay không, tông chỉ của tôi là, biết bao nhiêu thì giảng bấy nhiêu, tôi không biết thì tôi không giảng, tôi biết thì tôi giảng. Tôi chẳng nói : ‘’Các vị mọi người đều minh bạch rồi, tôi chẳng cần giảng nữa.’’ Tại sao tôi không giảng ? Vì tôi cũng chẳng minh bạch, cho nên tôi chẳng giảng. Hiện tại tôi phải chiếu cứ ý nghĩa tôi phải giảng để giảng. Giảng Kinh còn phải chiếu cứ đến trình độ của người nghe, nếu văn hay ý đẹp, dùng từ mỹ lệ, song người nghe Kinh, nghe chẳng hiểu thì lại có ích gì ?
Phương pháp giảng Kinh thì người trí thấy trí, người sâu thấy sâu, người cạn thấy cạn, lối nhìn khác nhau. Các bạn phải học Phật pháp, phải thật sự minh bạch đạo lý Kinh Phật, mới cho rằng thật sự minh bạch, bằng không, chẳng cần hiểu sâu, hoặc hiểu biết một cách mơ hồ, chẳng biết mà cho là biết, thì chẳng có ích gì.
Hơn nữa, chủ trương giảng Kinh của tôi kêu người đi thực hành. Nếu hiểu biết mà chẳng thực hành, thì cũng như ‘’ăn bánh vẽ’’, nói thức ăn mà chẳng ăn, thì chẳng bao giờ no được. Nếu chẳng hiểu, nhưng nỗ lực tu hành, thì chắc chắn sẽ thành tựu, sẽ chứng được đạo quả. Do đó, đừng học “khẩu đầu thiền”, đừng học văn tự Bát Nhã, có thể học thuộc lòng mấy bộ Kinh điển chú giải, mà chẳng tu hành thì chẳng phải là một vị pháp sư chân chánh, mà là một vị pháp sư khẩu đầu thiền. Ðiểm này hy vọng các vị chú ý, đừng làm pháp sư khẩu đầu thiền, phải làm pháp sư đạo đức cao thượng.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số chư cúng dường vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vị cúng dường.
Có các thứ mây cúng dường như vậy, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Các Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường.
Giảng: Giống như ở trên đã nói, có các thứ mây cúng dường, nhiều như số hạt bụi thế giới hải. Mỗi vị Bồ Tát hiện ra mây cúng dường, đều đầy khắp hư không, hổ tương chẳng chướng ngại, lại chẳng tạp loạn, vĩnh viễn chẳng tan mất. Hiện ra đủ thứ mây cúng dường rồi, hết thảy Bồ Tát đều đi nhiễu bên phải ba vòng, hướng về đức Phật đảnh lễ, dâng lên cúng dường.
Tại sao đủ thứ mây cúng dường như thế chẳng tan mất ? Vì nhờ thần lực của chư Phật Bồ Tát gia trì, nếu chẳng nhờ thần lực của chư Phật Bồ Tát gia trì, thì sớm sẽ tán hoại. Song, những thứ mây cúng dường đó, dừng ở trong hư không, chẳng bao giờ tán hoại. Chẳng những lúc đó là tình hình như vậy, mà cho đến bây giờ cũng như thế. Ðây là cảnh giới Hoa Nghiêm. Cảnh giới Kinh Hoa Nghiêm chẳng cách chi tưởng tượng được, cũng chẳng có cách chi giảng ra được. Vậy chẳng cách chi tưởng tượng được, chẳng cách chi nói được, thì chẳng tưởng tượng, chẳng nói chăng ? Chẳng phải vậy, chẳng cách chi tưởng tượng được, cũng phải tưởng tượng; chẳng cách chi nói được, cũng phải nói. Nói cái mà chẳng cách chi tưởng tượng, chẳng cách chi nói, tức cũng là nói cái không nói, giảng cái không giảng, không thể nói mà nói.
Bất cứ Kinh điển gì, mà y chiếu pháp lý Kinh đó tu hành, thì là thật, chẳng y theo pháp tu hành, thì là giả. Chẳng có một bộ Kinh nào là thật, tại sao ? Nếu là thật, tại sao chẳng thực hành ? Tại sao làm chẳng được ? Hãy nghĩ xem ! Biết giảng Kinh thuyết pháp, nhưng chẳng tu hành, chẳng giữ giới, thì chẳng có ích gì. Nếu như dụng công tu hành, dù không biết giảng Kinh, cũng đắc được lợi ích. Hà huống là tu hành đạt đến cảnh giới cao nhất, thì tự nhiên sẽ biết giảng Kinh thuyết pháp.
Có người chẳng đồng ý lối nói này, cho rằng Tam Tạng mười hai bộ Kinh của Phật nói ra là thật, sao nói là giả ? Song, tuy nhiên Kinh là thật, nếu chẳng có ai dùng nó, dù là thật lại có ích gì ? Nếu dùng nó thì mới là thật. Ví dụ như cơm, đó là thật, nhưng nếu chẳng ai ăn cơm, thì cũng biến thành giả. Nếu ăn cơm thì có thể chữa được bệnh đói. Do đó, tôi chủ trương thật thật tại tại tu hành, biết nghĩa Kinh thì y theo pháp tu hành.
Vào đời nhà Minh, có vị Thiền sư Long Khố, Ngài là một Hòa Thượng chẳng biết chữ, chỉ biết tu hành, chẳng biết tụng Kinh. Một ngày nọ, gặp một vị thiện tri thức chỉ thị pháp môn tu hành, tham câu ‘’Niệm Phật là ai‘’? Ngài bèn đến động núi tu hành mà được khai ngộ. Về sau, đến Bắc Kinh làm lễ cầu siêu cho mẹ của ông vua, được siêu độ thăng lên cõi trời, ông vua rất hoan hỷ, tặng cho hiệu ‘’Khố nhất điều’’, về sau mọi người gọi là Long Khố Thiền Sư.
Vị Long Khố Thiền Sư này, đã khai mở ngũ nhãn, chứng lục thông. Khi Ngài đến hoàng cung, thì ông vua muốn thử Ngài, có phải thật là cao Tăng không? Bèn đào dưới đất chôn quyển Kinh Kim Cang ở trước cửa hoàng cung. Khi Ngài đi vào cửa, thì Ngài chắp tay cung kính mà chẳng bước vào cửa. Ông vua biết ngay Ngài là bậc cao Tăng. Lại thử nghiệm định lực của Ngài như thế nào ? Bèn sai hai người cung nữ tắm rửa cho Ngài, mà Ngài chẳng động tâm.
Một ngày nọ, Hoàng đế và Ngài cùng đến vườn ngự uyển để thưởng thức kỳ hoa dị thảo, mà Ngài chẳng hứng thú, chỉ có bảo tháp ở trong vườn là Ngài hứng thú, Hoàng đế bèn dâng tặng cho Ngài, Ngài dùng thần thông bỏ vào trong tay áo đằng vân mà đi, câu chuyện này là nói sự tu hành hơn hết tất cả.
Chúng ta có thể không bị cảnh giới làm lay chuyển chăng ? Nếu không thì phải mau tham câu ‘’Niệm Phật là ai‘’? Hòa Thượng Hư Vân có nói : ‘’Là miệng niệm ? Hay là tâm niệm ? Nếu miệng niệm thì sao ngủ chẳng niệm ? Nếu tâm niệm, tại sao chết chẳng niệm‘’? Do đó, mọi người cố gắng tham ! Ðừng khởi vọng tưởng.
Thần thông có hai thứ, một là thần thông khoa học, một là thần thông tự nhiên. Hiện nay máy vô tuyến điện là thần thông khoa học, năm trăm năm sau càng tiến bộ hơn, song không thể liễu sinh thoát tử. Loại thần thông máy truyền hình, máy lôi đạt (radar), tuy cũng biến hóa diệu dụng, nhưng đó là thần thông của con người làm, chứ chẳng phải thần thông tự nhiên. Thần thông mà chúng ta mong cầu, là thần thông tự nhiên, chứ chẳng phải thần thông do con người làm, cho nên đừng thưởng thức tiết mục trên truyền hình, vì nó hay khiến cho bạn sinh tâm thối chuyển. Một khi bạn chứng được ngũ nhãn, thì sẽ nhìn thấy được hết thảy cảnh giới của ba ngàn đại thiên thế giới, hiện ra trước mắt rất rõ ràng, đó mới là thật hưởng thụ.
Tức ư Đông phương, các hóa tác chủng chủng hoa quang minh tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Rồi ở phương đông, đều hóa làm tòa sư tử đủ thứ hoa quang minh tạng. Mỗi vị Bồ Tát đều ngồi kiết già trên đó.
Giảng: Tất cả Bồ Tát bèn ở phương đông (những vị Bồ Tát đó chẳng đến Thế giới Hoa Tạng, Phật cũng chẳng đi đến phương đông thế giới hải, song, giống như đối diện với nhau) đều hóa làm tòa sư tử đủ thứ hoa sen đại quang minh tạng. Mỗi vị Bồ Tát đều ngồi kiết già trên tòa sư tử, hiện tướng tam muội, nghe Phật diễn nói Kinh Hoa Nghiêm, diệu lý nhất chân pháp giới.
Thử hoa tạng thế giới hải Nam, thứ hữu thế giới hải, danh: nhất thiết Bảo nguyệt quang minh trang nghiêm tạng. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: vô biên quang viên mãn trang nghiêm, Phật hiệu: phổ trí quang minh đức Tu-Di Vương. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: phổ chiếu pháp hải tuệ, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng nhất thiết trang nghiêm quang minh tạng ma-ni Vương vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt.
Phía nam của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Nhất Thiết Bảo Nguyệt Quang Minh Trang Nghiêm Tạng. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Vô Biên Quang Viên Mãn Trang Nghiêm, đức Phật hiệu là Phổ Trí Quang Minh Ðức Tu Di Vương. Trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Phổ Chiếu Pháp Hải Huệ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của thế giới hải, đều cùng nhau đến chỗ đức Phật. Mỗi vị Bồ Tát đều hiện ra mười thứ mây tất cả trang nghiêm quang minh tạng ma ni vương, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Về phía nam của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có một thế giới hải tên là Nhất Thiết Bảo Nguyệt Quang Minh Trang Nghiêm Tạng. Trong thế giới đó, lại có cõi nước tên la Vô Biên Quang Viên Mãn Trang Nghiêm. Trong cõi nước đó, có một vị Phật hiệu là Phổ Trí Quang Minh Ðức Tu Di Vương. Trong biển đại chúng của Ðức Phật đó, có một vị đại Bồ Tát tên là Phổ Chiếu Pháp Hải Huệ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của thế giới hải, đều cùng nhau đến Bồ đề đạo tràng. Mỗi vị Bồ Tát, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây, đầy đủ các thứ trang nghiêm quang minh tạng ma ni vương. Tuy đầy khắp hư không, nhưng chẳng chướng ngại nhau, luôn luôn tồn tại mà chẳng tan mất, khiến cho tất cả chúng sinh nhìn thấy được rõ ràng.
Phục hiện thập chủng vũ nhất thiết bảo trang nghiêm cụ phổ chiếu diệu ma-ni Vương vân, phục hiện thập chủng bảo diệm sí nhiên xưng dương Phật danh hiệu ma-ni Vương vân, phục hiện thập chủng thuyết nhất thiết Phật Pháp ma-ni Vương vân, phục hiện thập chủng chúng diệu thọ trang nghiêm đạo tràng ma-ni Vương vân, phục hiện thập chủng Bảo quang phổ chiếu hiện chúng hóa Phật ma-ni Vương vân, phục hiện thập chủng phổ Hiện-Nhất-Thiết đạo tràng trang nghiêm tượng ma-ni Vương vân, phục hiện thập chủng mật diệm đăng thuyết chư Phật cảnh giới ma-ni Vương vân, phục hiện thập chủng bất tư nghị Phật sát cung điện tượng ma-ni Vương vân. Phục hiện thập chủng phổ hiện tam thế Phật thân tượng ma-ni Vương vân.
Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, mưa xuống tất cả đồ châu báu trang nghiêm, chiếu sáng khắp. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, bảo diễm rực rỡ tán dương danh hiệu của Phật. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, nói tất cả Phật pháp. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, các cây vi diệu trang nghiêm đạo tràng. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, quang minh báu chiếu khắp hiện các hóa Phật. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, khắp hiện tất cả đạo tràng trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, mật diễm đăng nói cảnh giới của chư Phật. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, cung điện cõi Phật không thể nghĩ bàn. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, khắp hiện thân Phật ba đời.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, giống như mưa xuống tất cả đồ châu báu trang nghiêm, chiếu sáng khắp. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, báu diễm ánh sáng rất rực rỡ, tán dương danh hiệu của Phật. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, diễn nói tất cả diệu nghĩa Phật pháp. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, các cây bồ đề vi diệu để trang nghiêm đạo tràng. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, quang minh báu chiếu khắp pháp giới, hiện ra các hóa Phật. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, khắp hiện ra tất cả đạo tràng trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, trong quang minh mật diễm đăng, diễn nói cảnh giới của chư Phật. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, cung điện cõi Phật không thể nghĩ bàn. Lại hiện ra mười thứ mây ma ni vương, khắp hiện ra thân Phật mười phương ba đời.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số ma-ni Vương vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vi cúng dường. Tức ư Nam phương, các hóa tác đế thanh bảo diêm phù đàn kim liên hoa tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các mây ma ni vương như vậy, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều đầy khắp hư không mà chẳng tán hoại. Hiện ra các thứ mây đó rồi, các vị Bồ Tát đều hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường, rồi ở phương nam, đều hóa làm tòa sư tử Ðế thanh bảo diêm phù đàn kim liên hoa tạng, bèn ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước đã nói, có các thứ mây ma ni vương, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều đầy khắp hư không mà chẳng tán hoại, luôn luôn tồn tại ở trong hư không. Sau khi hiện ra đủ thứ mây ma ni vương rồi, những vị Bồ Tát đó, nhiễu bên phải đức Phật ba vòng, hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường đức Phật. Rồi ở tại phương nam, ai nấy đều hóa hiện ra tòa sư tử Ðế thanh bảo (châu ma ni màu xanh quý nhất của trời Ðế Thích) diêm phù đàn kim liên hoa tạng. Mỗi vị Bồ Tát đều ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội nghe Phật Tỳ Lô Giá Na diễn nói diệu pháp.
Thử hoa tạng thế giới hải Tây, thứ hữu thế giới hải, danh: khả ái lạc bảo quang minh. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: xuất sanh thượng diệu tư thân cụ, Phật hiệu: hương diệm công đức bảo trang nghiêm. ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: nguyệt quang hương diệm phổ trang nghiêm, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng nhất thiết bảo hương chúng hương khí lâu các vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt.
Phía tây của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Khả Ái Lạc Bảo Quang Minh. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Xuất Sinh Thượng Diệu Tư Thân Cụ, đức Phật hiệu là Hương Diễm Công Ðức Bảo Trang Nghiêm. Trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Nguyệt Quang Hương Diễm Phổ Trang Nghiêm, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đến chỗ đức Phật, đều hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả hương báu và các hoa quý, đầy khắp trong hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Ở hướng tây của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có một thế giới hải tên là Khả Ái Lạc Bảo Quang Minh. Ở trong thế giới đó, lại có một cõi nước tên là Xuất Sinh Thượng Diệu Tư Thân Cụ (tức là ngũ cốc và trái cây nuôi dưỡng thân thể). Ở trong cõi nước đó, lại có một vị Phật hiệu là Hương Diễm Công Ðức Bảo Trang Nghiêm. Ở trong đại chúng hải hội của vị Phật đó, có một vị đại Bồ Tát tên là Nguyệt Quang Hương Diễm Phổ Trang Nghiêm. Ngài và các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của thế giới hải ở phương tây, đều cùng nhau đi đến Bồ đề đạo tràng. Mỗi vị Bồ Tát, đều ở trong hư không hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả hương báu và hoa quý để trang nghiêm lầu các. Có vô số Bồ Tát nhiều như hạt bụi, hiện ra lầu các nhiều như hạt bụi đầy khắp trong hư không mà chẳng tạp loạn, chẳng bao giờ tan mất.
Phục hiện thập chủng vô biên sắc tướng chúng bảo vương lâu các vân, phục hiện thập chủng bảo đăng hương diệm lâu các vân, phục hiện thập chủng nhất thiết trân châu lâu các vân, phục hiện thập chủng nhất thiết bảo hoa lâu các vân, phục hiện thập chủng bảo anh lạc trang nghiêm lâu các vân, phục hiện thập chủng phổ hiện thập phương nhất thiết trang nghiêm quang minh tạng lâu các vân, phục hiện thập chủng chúng bảo mạt gian thác trang nghiêm lâu các vân, phục hiện thập chủng chu biến thập phương nhất thiết trang nghiêm lâu các vân, phục hiện thập chủng hoa môn đạc võng lâu các vân
Lại hiện ra mười thứ mây lầu các vô biên sắc tướng các bảo vương. Lại hiện ra mười thứ mây lầu các bảo đăng hương diễm. Lại hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả trân châu. Lại hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả hoa báu. Lại hiện ra mười thứ mây lầu các chuỗi báu trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây lầu các, khắp hiện mười phương tất cả quang minh tạng trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây lầu các, các mạc châu báu xen lẫn trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây lầu các, các châu báu khắp cùng mười phương tất cả trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây lầu các hoa cửa chuông lưới.
Giảng: Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ mây lầu các vô biên sắc tướng, tức là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp vô biên sắc tướng tốt các bảo vương. Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ đèn báu, có đủ thứ hương hoa rực rỡ như lửa ngọn. Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả trân châu. Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả châu báu và hoa trang nghiêm. Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả các chuỗi báu trang nghiêm. Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ mây lầu các khắp hiện ra mười phương tất cả diệu báu trang nghiêm quang minh tạng. Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ mây lầu các, các mạc châu báu xen lẫn chiếu nhau rất đẹp đẽ trang nghiêm. Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả diệu báu để trang nghiêm khắp cùng mười phương tất cả mọi nơi. Ở trong hư không, lại hiện ra mười thứ mây lầu các tất cả hoa quý, tất cả cửa nẻo, tất cả chuông vàng, tất cả lưới báu để trang nghiêm.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số lâu các vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vi cúng dường. tức ư Tây phương, các hóa tác chân kim diệp đại bảo tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các thứ mây lầu các như vậy, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Các Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường, rồi ở hướng tây, đều hóa làm tòa sư tử Chân kim diệp đại bảo tạng, và ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước đã nói, các thứ mây lầu các nhiều như hạt bụi của thế giới hải, đều đầy khắp trong hư không mà chẳng tan mất. Sau khi các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi, hiện ra mây lầu các nhiều như hạt bụi rồi, lại nhiễu bên phải ba vòng, hướng về đức Phật đảnh lễ, dâng lên cúng dường đức Phật. Ở hướng tây, những vị Bồ Tát đó, đều hóa hiện tòa sư tử Ðại tạng báu chân kim diệp và ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Thử hoa tạng thế giới hải Bắc, thứ hữu thế giới hải, danh: Tì lưu ly Liên Hoa Quang viên mãn tạng. bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: ưu-bát-la hoa trang nghiêm, Phật hiệu: phổ trí tràng âm Vương. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: sư tử phấn tấn quang minh, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng nhất thiết hương ma-ni chúng diệu thọ vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt
Phía bắc của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Tỳ Lưu Ly Liên Hoa Quang Viên Mãn Tạng. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Ưu Bát La Hoa Trang Nghiêm, đức Phật hiệu là Phổ Trí Tràng Âm Vương. Ở trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Sư Tử Phấn Tấn Quang Minh, với các Bồ Tát nhiều như hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây cây tất cả hương thơm ma ni vi diệu, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Phía bắc của Thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Tỳ Lưu Ly Liên Hoa Quang Viên Mãn Tạng. Ở trong thế giới đó, có cõi nước tên là Ưu Bát La Hoa Trang Nghiêm, ở trong cõi nước đó, có một vị Phật hiệu là Phổ Trí Tràng Âm Vương. Trong đại chúng hải hội của đức Phật đó, có đại Bồ Tát tên là Sư Tử Phấn Tấn Quang Minh. Ngài và các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đi đến Bồ đề đạo tràng. Mỗi vị Bồ Tát đều hiện ra mười thứ mây cây tất cả hương thơm ma ni vi diệu, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Phục hiện thập chủng mật diệp diệu hương trang nghiêm thọ vân, phục hiện thập chủng hóa Hiện-Nhất-Thiết vô biên sắc tướng thọ trang nghiêm thọ vân, phục hiện thập chủng nhất thiết hoa châu bố trang nghiêm thọ vân, phục hiện thập chủng nhất thiết bảo diệm viên mãn quang trang nghiêm thọ vân, phục hiện thập chủng Hiện-Nhất-Thiết chiên đàn hương Bồ Tát thân trang nghiêm thọ vân, phục hiện thập chủng hiện vãng tích đạo tràng xứ bất tư nghị trang nghiêm thọ vân, phục hiện thập chủng chúng bảo y phục tạng như nhật quang minhthọ vân, phục hiện thập chủng phổ phát nhất thiết duyệt ý âm thanh thọ vân
Lại hiện ra mười thứ mây cây lá sum sê toả hương thơm trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây hóa hiện ra tất cả cây vô biên sắc tướng trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây tất cả hoa bày khắp trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây tất cả bảo diễm viên mãn quang trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây tất cả hương chiên đàn thân Bồ Tát trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây hiện ra nơi đạo tràng thuở xưa trang nghiêm không thể nghĩ bàn. Lại hiện ra mười thứ mây cây các y phục báu tạng như ánh sáng mặt trời. Lại hiện ra mười thứ mây cây khắp phát ra tất cả âm thanh rất êm tai.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây cây lá sum sê toả ra hương thơm vi diệu không thể nghĩ bàn, lại rất trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây biến hóa ra vô biên đủ thứ sắc tướng, vừa đẹp vừa trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây tất cả hoa bày khắp trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây tất cả bảo diễm ánh sáng viên mãn trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây tất cả hương thơm chiên đàn, trong hương thơm lại hiện ra thân Bồ Tát trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây cây hiện ra đạo tràng thuở xưa Phật tu hành, đạo tràng cúng dường tất cả chư Phật ba đời, đạo tràng thuyết pháp, đủ thứ sự trang nghiêm không thể nghĩ bàn. Lại hiện ra mười thứ mây cây y phục tạng các báu chế thành như ánh sáng mặt trời. Lại hiện ra mười thứ mây cây khắp phát sinh tất cả âm thanh, khiến cho người nghe đều êm tai.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số thọ vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vị cúng dường. Tức ư Bắc phương, các hóa tác ma-ni đăng liên hoa tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các mây cây như vậy, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Các vị Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương bắc ai nấy đều hóa làm tòa sư tử Ma ni đăng liên hoa tạng, rồi ngồi kiết già ở trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước đã nói, có mây cây nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không chẳng bao giờ tan mất. Các vị Bồ Tát đó, hiện ra các mây cây nhiều như hạt bụi rồi, bèn đi nhiễu Phật bên phải ba vòng, hướng về đức Phật làm lễ dâng lên cúng dường. Rồi ở phương bắc, các vị Bồ Tát đều hiện ra tòa sư tử ma ni bảo đăng liên hoa tạng. Mỗi vị đều ngồi kiết già ở trên tòa ấy, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Thử hoa tạng thế giới hải Đông Bắc phương, thứ hữu thế giới hải, danh: diêm phù đàn kim pha lê sắc tràng. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: chúng bảo trang nghiêm, Phật hiệu: nhất thiết pháp vô úy đăng. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: tối thắng quang minh đăng vô tận công đức tạng, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng vô biên sắc tướng bảo liên hoa tạng sư tử tọa vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt
Phương đông bắc của Thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Diêm Phù Ðàn Kim Pha Lê Sắc Tràng. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Chúng Bảo Trang Nghiêm, đức Phật hiệu là Nhất Thiết Pháp Vô Úy Ðăng. Ở trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Tối Thắng Quang Minh Ðăng Vô Tận Công Ðức Tạng, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây tòa sư tử hoa sen tạng báu vô biên sắc tướng, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Phương đông bắc của Thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Diêm Phù Ðàn Kim Pha Lê Sắc Tràng. Ở trong thế giới đó, có một cõi nước tên là Chúng Bảo Trang Nghiêm. Ở trong cõi nước đó, có vị Phật hiệu là Nhất Thiết Pháp Vô Úy Ðăng. Trong đại chúng hải hội của vị Phật đó, có vị đại Bồ Tát tên là Tối Thắng Quang Minh Ðăng Vô Tận Công Ðức Tạng. Ngài với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ Ðức Phật, ai nấy đều hiện ra mây tòa sư tử hoa sen tạng báu vô biên sắc tướng, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Phục hiện thập chủng ma-ni Vương quang minh tạng sư tử tọa vân, phục hiện thập chủng nhất thiết trang nghiêm cụ chủng chủng giáo sức sư tử tọa vân, phục hiện thập chủng chúng bảo man đăng diệm tạng sư tử tọa vân, phục hiện thập chủng phổ vũ bảo anh lạc sư tử tọa vân, phục hiện thập chủng nhất thiết hương hoa bảo anh lạc tạng sư tử tọa vân, phục hiện thập chủng thị Hiện-Nhất-Thiết Phật tọa trang nghiêm ma-ni Vương tạng sư tử tọa vân, phục hiện thập chủng hộ dũ giai thế cập chư anh lạc nhất thiết trang nghiêm sư tử tọa vân, phục hiện thập chủng nhất thiết ma-ni thọ bảo chi hành tạng sư tử tọa vân, phục hiện thập chủng bảo hương gian sức nhật quang minh tạng sư tử tọa vân
Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử quang minh tạng ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử hết thảy đồ trang nghiêm đủ thứ vật trang sức. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử các màn báu đèn sáng rực rỡ. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử khắp mưa chuỗi báu. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử hết thảy hương hoa chuỗi tạng báu. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử thị hiện tất cả Phật tòa trang nghiêm ma ni vương tạng. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử cửa nẻo thềm bực và tất cả chuỗi trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử tất cả cành thân cây ma ni báu tạng. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử hương báu gián sức nhật quang minh tạng.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử ma ni vương quang minh tạng. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử tất cả đồ trang nghiêm và đủ thứ vật trang sức rất đẹp đẽ trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử tất cả diệu bảo làm màn và đèn diễm tạng. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử khắp mưa tất cả chuỗi châu báu để trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử có hương thơm có hoa có châu báu có chuỗi ngọc. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử tòa của chư Phật trang nghiêm ma ni vương tạng. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử cửa nẻo đài thềm bực thành và tất cả chuỗi trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử cây nhánh tạng báu ma ni. Lại hiện ra mười thứ mây tòa sư tử các châu báu và các hương thơm hổ tương gián sức giống như tạng ánh sáng mặt trời.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số sư tử tọa vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. Hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vị cúng dường. Tức ư Đông Bắc phương, các hóa tác bảo liên hoa ma-ni quang tràng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các mây tòa sư tử như vậy, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp trong hư không mà chẳng tan mất. Các Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương đông bắc, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử tạng hoa sen báu ma ni quang tràng, rồi ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trên đã nói, có mây tòa sư tử nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không chẳng tan mất. Sau khi các Bồ Tát đó hiện ra đủ thứ mây tòa sư tử rồi, bèn đi nhiễu Phật bên phải ba vòng, hướng về Ðức Phật đảnh lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương đông bắc, ai nấy đều hóa hiện ra tòa sư tử tạng hoa sen báu ma ni quang tràng, rồi ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Thử hoa tạng thế giới hải Đông Nam phương, thứ hữu thế giới hải, danh: Kim trang nghiêm lưu ly quang phổ chiếu. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: Thanh tịnh hương quang minh, Phật hiệu: phổ hỉ thâm tín Vương. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: tuệ đăng phổ minh, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng nhất thiết như ý Vương ma-ni trướng vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt
Phía đông nam của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Kim Trang Nghiêm Lưu Ly Quang Phổ Chiếu. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Thanh Tịnh Hương Quang Minh, đức Phật hiệu là Phổ Hỷ Thâm Tín Vương. Trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Huệ Ðăng Phổ Minh, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây màn tất cả như ý vương ma ni, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Phương đông nam của Thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Kim Trang Nghiêm Lưu Ly Quang Phổ Chiếu. Ở trong thế giới đó, có cõi nước tên là Thanh Tịnh Hương Quang Minh. Ở trong cõi nước đó, có một vị Phật hiệu là Phổ Hỷ Thâm Tín Vương, trong đại chúng hải hội của Ðức Phật đó, có một vị đại Bồ Tát tên là Huệ Ðăng Phổ Minh, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây màn tất cả như ý vương ma ni, đầy khắp hư không, hổ tương chiếu nhau, lại chẳng tạp loạn, chẳng tan mất.
Phục hiện thập chủng đế thanh bảo nhất thiết hoa trang nghiêm trướng vân, phục hiện thập chủng nhất thiết hương ma-ni trướng vân, phục hiện thập chủng bảo diệm đăng trướng vân, phục hiện thập chủng thị hiện Phật thần thông thuyết Pháp ma-ni Vương trướng vân, phục hiện thập chủng Hiện-Nhất-Thiết y phục trang nghiêm sắc tượng ma-ni trướng vân, phục hiện thập chủng nhất thiết bảo hoa tùng quang minh trướng vân, phục hiện thập chủng bảo võng linh đạc âm trướng vân, phục hiện thập chủng ma-ni vi đài liên hoa vị võng trướng vân, phục hiện thập chủng Hiện-Nhất-Thiết bất tư nghị trang nghiêm cụ sắc tượng trướng vân
Lại hiện ra mười thứ mây màn đế thanh báu tất cả hoa trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây màn tất cả hương ma ni. Lại hiện ra mười thứ mây màn bảo diễm đăng. Lại hiện ra mười thứ mây màn thị hiện Phật thần thông thuyết pháp ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây màn hiện ra tất cả y phục trang nghiêm màu sắc như ma ni. Lại hiện ra mười thứ mây màn tất cả hoa tùng báu quang minh. Lại hiện ra mười thứ mây màn lưới linh chuông báu phát ra âm thanh. Lại hiện ra mười thứ mây màn ma ni làm đài, hoa sen làm lưới. Lại hiện ra mười thứ mây màn hiện ra tất cả đồ màu sắc trang nghiêm không thể nghĩ bàn.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây màn đế thanh báu đủ thứ sự trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây màn tất cả hương ma ni. Lại hiện ra mười thứ mây màn các báu diễm đăng. Lại hiện ra mười thứ mây màn thị hiện mười phương ba đời tất cả chư Phật thần thông thuyết pháp ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây màn hiện ra tất cả y phục trang nghiêm thân thể ma ni. Lại hiện ra mười thứ mây màn tất cả hoa tùng báu phóng ra rất nhiều quang minh. Lại hiện ra mười thứ mây màn dùng bảy báu làm lưới báu và đủ thứ linh chuông báu phát ra âm thanh vi diệu. Lại hiện ra mười thứ mây màn dùng ma ni làm đài, dùng hoa sen làm lưới. Lại hiện ra mười thứ mây màn hiện ra tất cả đồ màu sắc trang nghiêm không thể nghĩ bàn.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số chúng bảo trướng vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. Hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vi cúng dường. Tức ư Đông Nam phương, các hóa tác bảo liên hoa tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các mây màn báu như vậy, nhiều như hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Các Bồ Tát hiện ra các mây như thế rồi, bèn hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường, rồi ở phương đông nam, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử tạng hoa sen báu, rồi ngồi kiết già ở trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước đã nói, có các mây màn báu nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không chẳng tan mất. Sau khi hiện ra các thứ mây màn rồi, tất cả Bồ Tát đều đi nhiễu bên phải ba vòng, hướng về Ðức Phật đảnh lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương đông nam, các Bồ Tát đó, ai nấy đều hiện ra tòa sư tử hoa sen tạng báu, rồi ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Thử hoa tạng thế giới hải Tây Nam phương, thứ hữu thế giới hải, danh: nhật quang biến chiếu. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: sư tử nhật quang minh, Phật hiệu: phổ trí quang minh âm. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: phổ Hoa Quang diệm kế, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng chúng diệu trang nghiêm bảo cái vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt
Phía tây nam của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Nhật Quang Biến Chiếu. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Sư Tử Nhật Quang Minh, đức Phật hiệu là Phổ Trí Quang Minh Âm, trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Phổ Hoa Quang Diễm Kế, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây lọng báu trang nghiêm vi diệu, đầy khắp trong hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Phương tây nam của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Nhật Quang Biến Chiếu. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Sư Tử Nhật Quang Minh, ở trong cõi nước đó, có một vị Phật hiệu là Phổ Trí Quang Minh Âm, trong đại chúng hải hội của Ðức Phật đó, có đại Bồ Tát tên là Phổ Hoa Quang Diễm Kế, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ Ðức Phật, ai nấy đều hiện ra mây lọng báu dùng các báu vi diệu trang nghiêm, đầy khắp trong hư không mà chẳng tan mất.
Phục hiện thập chủng quang minh trang nghiêm hoa cái vân, phục hiện thập chủng vô biên sắc trân châu tạng cái vân, phục hiện thập chủng xuất nhất thiết Bồ Tát bi mẫn âm ma-ni Vương cái vân, phục hiện thập chủng chúng diệu bảo diệm man cái vân, phục hiện thập chủng diệu bảo nghiêm sức thùy võng đạc cái vân, phục hiện thập chủng ma-ni thọ chi trang nghiêm cái vân, phục hiện thập chủng nhật quang phổ chiếu ma-ni Vương cái vân, phục hiện thập chủng nhất thiết đồ hương thiêu hương cái vân, phục hiện thập chủng chiên đàn tạng cái vân, phục hiện thập chủng quảng đại Phật cảnh giới phổ quang minh trang nghiêm cái vân
Lại hiện ra mười thứ mây lọng hoa quang minh trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây lọng tạng trân châu vô biên màu sắc. Lại hiện ra mười thứ mây lọng âm thanh bi mẫn của tất cả Bồ Tát ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây lọng các diệu báu diễm man. Lại hiện ra mười thứ mây lọng diệu báu nghiêm sức lưới chuông rũ xuống. Lại hiện ra mười thứ mây lọng nhánh cây ma ni trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây lọng nhật quang phổ chiếu ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây lọng tất cả hương bột hương đốt. Lại hiện ra mười thứ mây lọng chiên đàn tạng. Lại hiện ra mười thứ mây lọng cảnh giới Phật rộng lớn phổ quang minh trang nghiêm.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây lọng hoa quang minh trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây lọng tạng trân châu vô biên màu sắc. Lại hiện ra mười thứ mây lọng vang ra tất cả âm thanh bi mẫn của Bồ Tát ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây lọng các châu báu lửa ngọn kết thành tràng hoa. Lại hiện ra mười thứ mây lọng tất cả diệu báu để nghiêm sức lưới chuông rũ xuống. Lại hiện ra mười thứ mây lọng nhánh cây ma ni báu trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây lọng nhật quang phổ chiếu ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây lọng tất cả hương bột hương đốt các thứ hương. Lại hiện ra mười thứ mây lọng tạng hương chiên đàn. Lại hiện ra mười thứ mây lọng cảnh giới Phật rộng lớn của Phật khắp trang nghiêm.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số chúng bảo cái vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vi cúng dường. tức ư Tây Nam phương, các hóa tác đế thanh Bảo quang diệm trang nghiêm tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các mây lọng báu như vậy, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Các Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường, rồi ở phương tây nam, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử đế thanh bảo quang diễm trang nghiêm tạng, rồi ngồi kiết già ở trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước đã nói, có các mây lọng báu nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không chẳng tan mất. Những vị Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn đi nhiễu bên phải ba vòng, hướng về Ðức Phật đảnh lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương tây nam, ai nấy đều hiện ra tòa sư tử đế thanh bảo quang diễm trang nghiêm tạng. Mỗi vị Bồ Tát đều ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Thử hoa tạng thế giới hải Tây Bắc phương, thứ hữu thế giới hải, danh: Bảo quang chiếu diệu. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: chúng hương trang nghiêm, Phật hiệu: vô lượng công đức hải quang minh. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: vô tận quang ma-ni Vương, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng nhất thiết bảo viên mãn quang vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt
Phía tây bắc của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Bảo Quang Chiếu Diệu. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Chúng Hương Trang Nghiêm, đức Phật hiệu là Vô Lượng Công Ðức Hải Quang Minh. Ở trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Vô Tận Quang Ma Ni Vương, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả báu, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Phía tây bắc của Thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Bảo Quang Chiếu Diệu, ở trong thế giới đó, có cõi nước tên là Chúng Hương Trang Nghiêm. Ở trong cõi nước đó, có vị Phật hiệu là Vô Lượng Công Ðức Hải Quang Minh, trong đại chúng hải hội của Ðức Phật đó, có vị đại Bồ Tát tên là Vô Tận Quang Ma Ni Vương, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của thế giới hải, đều cùng nhau đi đến chỗ Ðức Phật, mỗi vị Bồ Tát, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả báu, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Phục hiện thập chủng nhất thiết bảo diệm viên mãn quang vân, phục hiện thập chủng nhất thiết hương khí viên mãn quang vân, phục hiện thập chủng nhất thiết hóa Phật viên mãn quang vân, phục hiện thập chủng thập phương Phật đổ viên mãn quang vân, phục hiện thập chủng Phật cảnh giới lôi thanh bảo thụ viên mãn quang vân, phục hiện thập chủng nhất thiết lưu ly bảo ma-ni Vương viên mãn quang vân, phục hiện thập chủng nhất niệm trung hiện vô biên chúng sanh tướng viên mãn quang vân, phục hiện thập chủng diễn nhất thiết Như Lai đại nguyện âm viên mãn quang vân, phục hiện thập chủng diễn hóa nhất thiết chúng sanh âm ma-ni Vương viên mãn quang vân
Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả báu diễm. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả diệu hoa. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả hóa Phật. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn mười phương cõi Phật. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn cảnh giới Phật lôi thanh bảo thụ. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả lưu ly báu ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn trong một niệm hiện ra vô biên tướng chúng sinh. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn diễn nói âm thanh đại nguyện của tất cả Như Lai. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn diễn hóa tất cả chúng sinh âm ma ni vương.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả báu. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả diệu hoa. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả hóa Phật. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn mười phương cõi Phật. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn cảnh giới Phật lôi thanh bảo thụ. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn tất cả lưu ly báu ma ni vương. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn trong một niệm hiện ra vô biên tướng chúng sinh. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn diễn nói ba đời chư Phật phát đại nguyện âm. Lại hiện ra mười thứ mây quang viên mãn diễn hóa tất cả chúng sinh âm ma ni vương.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số viên mãn quang vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vi cúng dường. Tức ư Tây Bắc phương, các hóa tác vô tận quang minh uy đức tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các mây quang viên mãn như vậy, số nhiều như hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Các Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường, rồi ở phương tây bắc, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử vô tận quang minh uy đức tạng, rồi ngồi kiết già ở trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước đã nói, có mây quang viên mãn nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không cũng chẳng tan mất, cũng chẳng tiêu diệt, luôn luôn tồn tại ở trong hư không. Những vị Bồ Tát đó, hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn đi nhiễu bên phải ba vòng, hướng về Ðức Phật đảnh lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương tây bắc, ai nấy hóa làm tòa sư tử vô tận quang minh oai đức tạng, rồi ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Thử hoa tạng thế giới hải hạ phương, thứ hữu thế giới hải, danh: liên hoa hương diệu đức tạng. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: bảo Sư tử quang minh chiếu diệu, Phật hiệu: Pháp giới quang minh. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: Pháp giới quang diệm tuệ, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng nhất thiết ma-ni tạng quang minh vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt
Phương dưới của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Liên Hoa Hương Diệu Ðức Tạng. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Bảo Sư Tử Quang Minh Chiếu Diệu, đức Phật hiệu là Pháp Giới Quang Minh. Ở trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Pháp Giới Quang Diễm Huệ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả ma ni tạng, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Phương dưới của Thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Liên Hoa Hương Diệu Ðức Tạng, ở trong thế giới đó, có cõi nước tên là Bảo Sư Tử Quang Minh Chiếu Diệu. Ở trong cõi nước đó, có vị Phật hiệu là Pháp Giới Quang Minh. Ở trong đại chúng hải hội của Ðức Phật đó, có vị đại Bồ Tát tên là Pháp Giới Quang Diễm Huệ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của thế giới hải, đều cùng nhau đến chỗ Ðức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả ma ni tạng, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Phục hiện thập chủng nhất thiết hương quang minh vân, phục hiện thập chủng nhất thiết bảo diệm quang minh vân, phục hiện thập chủng xuất nhất thiết Phật thuyết Pháp âm quang minh vân, phục hiện thập chủng hiện nhất thiết Phật thổ trang nghiêm quang minh vân, phục hiện thập chủng nhất thiết hương khí lâu các quang minh vân, phục hiện thập chủng Hiện-Nhất-Thiết kiếp trung chư Phật giáo hóa chúng sanh sự quang minh vân, phục hiện thập chủng nhất thiết vô tận bảo hoa nhị quang minh vân, phục hiện thập chủng nhất thiết trang nghiêm tọa quang minh vân
Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả hương thơm. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả báu sáng chói. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh hiện ra tất cả chư Phật diễn nói pháp âm. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả cõi Phật trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả diệu hoa lầu các. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh trong tất cả kiếp hiện ra việc chư Phật giáo hóa chúng sinh. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả nhị hoa báu vô tận. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả tòa trang nghiêm.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả hương thơm. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả báu sáng chói. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh hiện ra tất cả chư Phật diễn nói diệu pháp âm. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả diệu hoa lầu các. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh trong tất cả vô lượng kiếp hiện ra việc chư Phật giáo hóa chúng sinh. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả nhị hoa báu vô tận. Lại hiện ra mười thứ mây quang minh tất cả tòa trang nghiêm.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số quang minh vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vi cúng dường. Tức ư hạ phương, các hóa tác bảo diệm đăng liên hoa tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các mây quang minh như vậy, nhiều như hạt bụi thế giới hải, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Các Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương dưới, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử bảo diễm đăng liên hoa tạng, rồi ngồi kiết già ở trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước đã nói, có mây quang minh nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đầy khắp trong hư không chẳng tan mất. Những vị Bồ Tát hiện ra các thứ mây quang minh đó rồi, bèn đi nhiễu bên phải ba vòng, hướng về Ðức Phật đảnh lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương dưới, ai nấy đều hiện ra tòa sư tử Bảo Diễm Ðăng Liên Hoa Tạng, rồi ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Thử hoa tạng thế giới hải thượng phương, thứ hữu thế giới hải, danh: ma-ni bảo chiếu diệu trang nghiêm. Bỉ thế giới chủng trung, hữu quốc độ, danh: vô tướng diệu quang minh, Phật hiệu: vô ngại công đức Quang minh vương. Ư bỉ Như Lai Đại chúng hải trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: vô ngại lực tinh tấn tuệ, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát câu, lai nghệ Phật sở, các hiện thập chủng vô biên sắc tướng Bảo quang diệm vân, biến mãn hư không nhi bất tán diệt
Phương trên của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Ma Ni Bảo Chiếu Diệu Trang Nghiêm. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Vô Tướng Diệu Quang Minh, đức Phật hiệu là Vô Ngại Công Ðức Quang Minh Vương, trong biển đại chúng của đức Như Lai đó, có đại Bồ Tát tên là Vô Ngại Lực Tinh Tấn Huệ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi thế giới hải, đều cùng nhau đến chỗ đức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây quang diễm vô biên sắc tướng báu, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Giảng: Phương trên của thế giới hải Hoa Tạng Trang Nghiêm, lại có thế giới hải tên là Ma Ni Bảo Chiếu Diệu Ma Ni. Trong thế giới đó, có cõi nước tên là Vô Tướng Diệu Quang Minh, trong cõi nước đó, có vị Phật hiệu là Vô Ngại Công Ðức Quang Minh Vương, trong đại chúng hải hội của vị Phật đó, có đại Bồ Tát tên là Vô Ngại Lực Tinh Tấn Huệ, với các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi của thế giới hải, đều cùng nhau đến chỗ Ðức Phật, ai nấy đều hiện ra mười thứ mây vô biên sắc tướng báu, đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Phục hiện thập chủng ma-ni bảo võng quang diệm vân, phục hiện thập chủng nhất thiết quảng đại Phật thổ trang nghiêm quang diệm vân, phục hiện thập chủng nhất thiết diệu Hương Quang diệm vân, phục hiện thập chủng nhất thiết trang nghiêm quang diệm vân, phục hiện thập chủng chư Phật biến hóa quang diệm vân, phục hiện thập chủng chúng diệu thọ Hoa Quang diệm vân, phục hiện thập chủng nhất thiết Kim cương quang diệm vân, phục hiện thập chủng thuyết vô biên Bồ Tát hạnh ma-ni quang diệm vân, phục hiện thập chủng nhất thiết trân châu đăng quang diệm vân
Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm lưới báu ma ni. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả cõi Phật trang nghiêm rộng lớn. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả hương thơm vi diệu. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm chư Phật biến hóa. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm các cây hoa vi diệu. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả kim cang. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm nói vô biên hạnh Bồ Tát ma ni. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả đèn trân châu.
Giảng: Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm lưới báu ma ni. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả cõi Phật trang nghiêm rộng lớn. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả hương thơm vi diệu. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả trang nghiêm. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm chư Phật biến hóa. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm các cây hoa vi diệu. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả kim cang. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm ma ni nói vô biên hạnh Bồ Tát. Lại hiện ra mười thứ mây quang diễm tất cả đèn trân châu.
Như thị đẳng thế giới hải vi trần số quang diệm vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vi cúng dường. Tức ư thượng phương, các hóa tác diễn Phật âm thanh quang minh liên hoa tạng sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Các mây quang diễm như vậy, nhiều như hạt bụi thế giới hải, đều đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Các Bồ Tát hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương trên, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử tạng hoa sen quang minh diễn nói âm thanh của Phật, rồi ngồi kiết già ở trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước có nói, có mây quang diễm nhiều như hạt bụi thế giới hải, đầy khắp trong hư không chẳng tan mất. Các Bồ Tát đó, hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn đi nhiễu bên phải ba vòng, hướng về Ðức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường. Rồi ở phương trên, ai nấy đều hóa hiện ra tòa sư tử tạng hoa sen quang minh diễn nói âm thanh của Phật, rồi ai nấy đều ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Như thị đẳng thập ức Phật sát vi trần số thế giới hải trung, hữu thập ức Phật sát vi trần số Bồ-Tát Ma-ha-tát, nhất nhất các hữu thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát chúng tiền hậu vi nhiễu nhi lai tập hội. Thị chư Bồ-tát, nhất nhất các hiện thế giới hải vi trần số chủng chủng trang nghiêm chư cúng dường vân, tất biến hư không nhi bất tán diệt. hiện thị vân dĩ, hướng Phật tác lễ, dĩ vi cúng dường. Tùy sở lai phương, các hóa tác chủng chủng bảo trang nghiêm sư tử chi tọa, ư kỳ tọa thượng, kết già phu tọa.
Như vậy, trong mười ức cõi Phật nhiều như hạt bụi thế giới hải, có các đại Bồ Tát nhiều như hạt bụi mười ức cõi Phật, mỗi vị Bồ Tát đều có các chúng Bồ Tát, nhiều như hạt bụi thế giới hải, vây quanh trước sau mà tụ hội đến. Các Bồ Tát đó, ai nấy đều hiện ra các thứ mây cúng dường, đủ thứ sự trang nghiêm nhiều như hạt bụi thế giới hải, đều đầy khắp hư không mà chẳng tan mất. Hiện ra các thứ mây đó rồi, bèn hướng về đức Phật làm lễ, dâng lên cúng dường. Rồi theo phương của mình đến, ai nấy đều hóa làm tòa sư tử đủ thứ báu trang nghiêm, rồi ngồi kiết già trên tòa đó.
Giảng: Giống như ở trước nói, có mười ức cõi Phật nhiều như hạt bụi thế giới hải, ở trong thế giới hải, lại có các đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi mười ức cõi Phật. Mỗi vị Bồ Tát, ai nấy đều có chúng Bồ Tát nhiều như hạt bụi thế giới hải. Các Bồ Tát đó, đều vây quanh trước sau vị đại Bồ Tát đó, rồi cùng nhau đến chỗ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, dưới cội bồ đề đạo tràng nơi Phật thành chánh giác, cung kính lắng nghe Phật nói diệu pháp Kinh Hoa Nghiêm Ðại Phương Quảng Phật.
Tất cả các Bồ Tát, ai nấy đều hiện ra đủ thứ mây cúng dường trang nghiêm vi diệu, nhiều vô lượng vô biên như hạt bụi thế giới hải. Mỗi thứ mây đều đầy khắp hư không, vĩnh viễn chẳng tan mất. Vậy một thứ mây đầy khắp hư không, thì chẳng thế nào dung nạp các thứ mây khác chăng ? Nếu dùng tri kiến của phàm phu mà nói, thì không thể nào. Chiếu theo cảnh giới Hoa Nghiêm mà nói thì được, vì cảnh giới Hoa Nghiêm là viên dung vô ngại. Những thứ mây đó đầy khắp hư không, mây kia cũng đầy khắp hư không, hổ tương không chướng ngại. Mây cúng dường của tôi chẳng chướng ngại bạn, mây cúng dường của bạn cũng chẳng chướng ngại tôi. Mây và mây tuyệt đối chẳng phá hoại nhau. Mỗi một thứ mây đầy khắp, cảnh giới này phàm phu chúng ta chẳng dễ gì hiểu được.
Tôi đưa ra một ví dụ để làm sáng tỏ đạo lý này. Ở trong chánh điện của chúng ta có nhiều đèn điện, cùng chiếu sáng chánh điện. Ánh sáng đèn này chiếu đầy chánh điện, ánh sáng đèn kia cũng chiếu sáng đầy chánh điện, ánh sáng với ánh sáng chiếu sáng với nhau, ánh sáng của bạn chiếu ánh sáng của tôi, ánh sáng của tôi chiếu ánh sáng của bạn. Ðây là ánh sáng với ánh sáng chiếu nhau, ánh sáng với ánh sáng sung mãn, mới hiển ra ánh sáng cách ngoại. Những mây cúng dường này tuy nhiều như hạt bụi, nhưng chẳng ngại nhau, cho nên đầy khắp hư không mà chẳng tan mất.
Các vị Bồ Tát đó hiện ra mây cúng dường trang nghiêm rồi, đi nhiễu bên phải Ðức Phật ba vòng, hướng về Ðức Phật làm lễ dâng lên cúng dường. Các Bồ Tát đến từ mười phương, ai nấy đều tùy theo phương hướng của mình đến, mà hóa hiện ra tòa sư tử dùng đủ thứ châu báu trang nghiêm, rồi ngồi kiết già trên tòa đó, hiện tướng tam muội, một lòng lắng nghe Phật nói pháp.
Khi chúng ta ngồi thiền, tư thế tốt nhất là ngồi kiết già, rất dễ nhập định.
Như thị tọa dĩ, kỳ chư Bồ-tát thân mao khổng trung, nhất nhất các hiện thập thế giới hải vi trần số nhất thiết bảo chủng chủng sắc quang minh; nhất nhất quang trung, tất hiện thập thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát, giai tọa liên hoa tạng sư tử chi tọa.
Ngồi như vậy rồi, trong các lỗ chân lông trên thân của các Bồ Tát đó, đều hiện ra quang minh tất cả báu đủ thứ màu sắc, nhiều như hạt bụi mười thế giới hải. Trong mỗi quang minh, đều hiện ra các Bồ Tát nhiều như hạt bụi mười thế giới hải, đều ngồi trên tòa sư tử hoa sen.
Giảng: Sau khi ngồi kiết già rồi, những vị Bồ Tát đều hiện thần thông, trong các lỗ chân lông trên thân của các Ngài, mỗi lỗ chân lông đều hiện ra quang minh tất cả báu đủ thứ màu sắc, nhiều như hạt bụi mười thế giới hải. Trong mỗi thứ quang minh đó, đều hiện ra các Bồ Tát nhiều như hạt bụi mười thế giới hải, đều ngồi trên tòa sư tử hoa sen.
Thử chư Bồ-tát, tất năng biến nhập nhất thiết pháp giới chư an lập hải sở hữu vi trần; bỉ nhất nhất trần trung, giai hữu thập Phật thế giới vi trần số chư quảng đại sát; nhất nhất sát trung, giai hữu tam thế chư Phật Thế Tôn. Thử chư Bồ-tát, tất năng biến vãng thân cận cúng dường
Các Bồ Tát đó, đều vào khắp trong hết thảy các hạt bụi, của tất cả pháp giới các biển an lập. Trong mỗi một hạt bụi đó, đều có các cõi nước rộng lớn, nhiều như số hạt bụi mười Phật thế giới. Trong mỗi cõi nước, đều có chư Phật Thế Tôn ba đời. Các Bồ Tát đó, đều đến khắp để gần gũi cúng dường.
Giảng: Ở trước, những Bồ Tát đó hiện thần thông biến hóa, đều là không thể nghĩ bàn, trí tuệ càng không thể nghĩ bàn, cho nên mới có thể vào khắp trong hết thảy hạt bụi của tất cả pháp giới các biển an lập. Ở trong mỗi hạt bụi, có mười vô lượng vô biên Phật thế giới, ở trong Phật thế giới có cõi Phật rộng lớn nhiều như hạt bụi. Ở trong mỗi cõi Phật, đều có chư Phật ba đời ở trong đó chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh. Tuy cõi Phật rộng lớn nhiều như hạt bụi, nhưng các Bồ Tát đó, đều phân thân đến khắp chỗ các Ðức Phật, để gần gũi các Ðức Phật, cúng dường các Ðức Phật.
Ư niệm niệm trung, dĩ mộng tự tại, thị hiện Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Ở trong niệm niệm, đều dùng mộng tự tại thị hiện pháp môn, khai ngộ chúng sinh nhiều như hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Trong niệm niệm, tức là trong niệm trước niệm sau, niệm niệm tương tục, niệm niệm chẳng gián đoạn. Tại sao ? Vì Bồ Tát dùng đủ thứ pháp môn phương tiện, để giáo hóa tất cả chúng sinh, do đó, dùng pháp môn tự tại thị hiện ở trong mộng, để giáo hóa chúng sinh chẳng tự tại, khiến cho chúng sinh nhiều như số hạt bụi thế giới hải, minh bạch đạo lý này mà khai ngộ.
Mộng tự tại là gì ? Vì chúng sinh quá ngu si, có khi nói pháp cho họ nghe, mà họ chẳng tin. Bồ Tát muốn độ chúng sinh này, bèn ở trong mộng thị hiện ra đủ thứ pháp môn phương tiện, để vì họ nói pháp. Vì khi họ tỉnh thì tánh tình cang cường chẳng tin, song ở trong mộng thì họ sẽ tin. Cho nên, Bồ Tát thị hiện ở trong mộng để giáo hóa chúng sinh.
Chúng ta đều đang nằm mộng, do đó :
‘’Nhân sinh nhất tràng mộng
Nhân tử mộng nhất tràng
Mộng lị thân vinh quý
Mộng tỉnh tại cùng hương.
Triều triều thị tác mộng
Bất giác mộng hoàng lương
Mộng trung nhược bất giác
Uổng tác mộng nhất tràng.’’
Nghĩa là :
‘’Người sống như giấc mộng
Chết đi mộng một giấc
Trong mộng thân giàu sang
Tỉnh mộng thật nghèo sơ.
Luôn luôn đều trong mộng
Không tỉnh mộng triền miên.
Nếu trong mộng chẳng tỉnh
Uổng thay một giấc mộng.’’
Chúng ta đến, thì chẳng biết từ đâu đến ? Ra đi, cũng chẳng biết đi về đâu ? Ở trong mộng vừa phát tài, vừa làm quan, tức là giàu sang phú quý. Do đó, ở trong mộng tham luyến cảnh giới đó, tất cả đều chẳng buông xả đặng, nhà cửa chẳng buông bỏ đặng, đất nước cũng chẳng buông bỏ đặng, chính mình cũng chẳng buông bỏ đặng. Khi tỉnh mộng thì vẫn là ta, gì cũng chẳng có, nghèo sơ nghèo xác. Hằng ngày đang nằm mộng, mộng triền miên chẳng tỉnh. Nếu chẳng tỉnh thì uổng thay một tràng xuân mộng. Ðây là cảnh giới đời người như mộng.
Nếu nói với họ rằng : ‘’Ðời người như giấc mộng,’’ thì họ tuyệt đối chẳng tin. Vì họ còn đang ở trong mộng chưa thức tỉnh, cho nên chẳng thừa nhận mình đang nằm mộng. Giống như có người ở trong mộng, mộng muốn mình làm vua, có tam cung lục viện, rất nhiều mỹ nhân hầu hạ, hưởng tận vinh hoa phú quý ở nhân gian. Lúc đó, có người nói với họ rằng : ‘’Ông ơi ! Hiện tại ông đang làm vua, có uy quyền rất lớn, có uy phong ghê lắm, nhưng đó chẳng phải là thật, ông đang nằm mộng đó‘’! Người nằm mộng đó chẳng tin, họ cho rằng tất cả đó đều là thật. Khi họ thức tỉnh thì vốn là giấc mộng.
Chúng ta người tu đạo cũng giống như thế. Trước khi chưa khai ngộ, tức là đang nằm mộng, tất cả đều là hư vọng chẳng thật. Ðợi khi nào khai ngộ thì quay đầu nhìn lại. A ! Nguyên lai mình đang ở trong mộng ! Bây giờ tỉnh mộng rồi, chẳng có gì để chấp trước, chẳng có gì để tham luyến, nguyên lai là thế.
Niệm niệm trung, dĩ thị Hiện-Nhất-Thiết chư Thiên một sanh pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Trong niệm niệm, dùng pháp môn thị hiện tất cả chư Thiên sống chết, khai ngộ chúng sinh nhiều như hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Bồ Tát ở trong niệm niệm, chẳng vì lợi ích chính mình, chẳng tính toán độ chúng sinh nào, đắc được lợi ích gì, mới đi giáo hóa chúng sinh đó. Bồ Tát chẳng có tư tưởng như thế, các Ngài đều đại công vô tư, đều bình đẳng. Vì giáo hóa chúng sinh, mà quên đi sinh mạng của mình. Niệm quá khứ, niệm hiện tại, niệm vị lai, chẳng có một niệm nào chẳng phải vì giáo hóa chúng sinh. Do đó, ở trong niệm niệm, thị hiện pháp môn tất cả chư Thiên sống chết. Tức cũng là chư Thiên làm thế nào sinh về cõi trời ? Lại chết đi như thế nào ? Bồ Tát thị hiện những pháp môn đó, khiến cho chúng sinh nhiều như hạt bụi thế giới hải phát bồ đề tâm, tu vô thượng đạo mà khai ngộ, tương lai đắc quả bồ đề.
Làm thế nào có thể sinh về cõi trời ? Các cõi trời thuộc về dục giới là Tứ Thiên Vương, Trời Ðao Lợi, Trời Dạ Ma, Trời Ðâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại. Làm mười điều lành thì sẽ được sinh về cõi trời, do đó : ‘’Thân khẩu ý thanh tịnh.’’ Chư thiên chết như thế nào ? Tuổi thọ trên trời cũng có hạn, nếu tinh tấn tu thiền thì có thể sinh về cõi trời cao hơn, nếu như chỉ cầu khoái lạc mà chẳng tu hành, thì tương lai sẽ đọa vào năm đường. Khi chư Thiên phát hiện năm tướng suy, thì biết rằng kỳ chết sắp đến. Năm tướng suy là :
1). Mũ hoa của người trời đội là tự nhiên mà có, hoa rất đẹp đẽ, luôn tỏa ra mùi thơm, chẳng bao giờ tàn úa. Khi sắp hết tuổi thọ thì mũ hoa tự nhiên héo úa, chẳng còn đẹp nữa.
2). Quần áo của người trời mặc rất sạch sẽ, chẳng bao giờ giặt, cũng tự nhiên mà có. Khi tuổi thọ sắp hết thì quần áo dơ bẩn.
3). Người trời chẳng ra mồ hôi, cho nên thân thể rất sạch sẽ. Khi tuổi thọ sắp hết thì hai nách toát mồ hôi như mưa.
4). Thân người trời có mùi thơm, là tự nhiên từ da tỏa ra. Khi tuổi thọ sắp hết, thì chẳng còn thơm nữa mà rất hôi hám, chẳng ai dám đến gần.
5). Người trời thường ở trong định, tu tập thiền định. Một khi phát hiện mũ hoa héo úa, quần áo dơ bẩn, hai nách ra mồ hôi, thân tỏa mùi hôi hám, thì biết tuổi thọ sắp hết, ngồi đứng chẳng yên. Ngồi xuống cảm giác khó chịu, đứng lên cũng cảm giác chẳng thoải mái, cứ đứng lên ngồi xuống, ngồi xuống rồi đứng lên, tâm như lửa đốt. Một niệm vô minh sẽ đọa vào trong sáu nẻo. Ðó là tình hình năm tướng suy hiện.
Tại sao Bồ Tát phải thị hiện cảnh giới chư Thiên sống chết ? Vì muốn khiến cho chúng sinh, thấy được cảnh giới đó rồi, thì phát tâm giác ngộ. A ! Nguyên lai người trời cũng là vô thường, cũng có sinh tử, tôi chẳng muốn sinh về trời nữa, chẳng bằng mau tu học Phật pháp, niệm Phật ngồi thiền, thì có thể sinh về thế giới Cực Lạc, hoặc sinh về cõi Thường Tịch Quang Tịnh Ðộ, đó mới là an vui cứu kính.
Niệm niệm trung, dĩ thuyết nhất thiết Bồ Tát hạnh Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Trong niệm niệm, dùng pháp môn nói tất cả hạnh Bồ Tát, để khai ngộ chúng sinh nhiều như hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Khi Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, thì ở trong niệm niệm nói pháp môn thực hành của tất cả Bồ Tát. Bồ Tát tu hạnh môn gì ? Bồ Tát tu lục độ vạn hạnh, để lợi ích chúng sinh, giáo hóa chúng sinh, giác ngộ chúng sinh, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Mỗi hạnh môn đều như thế. Vì Bồ Tát là đại từ đại bi, nguyện cho tất cả chúng sinh đều thành Phật, do đó trước hết hành Bồ Tát đạo, sau đó mới thành Phật. Cho nên, các Ngài nói ra hạnh môn của Bồ Tát thực hành, để khai ngộ cho chúng sinh nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
1). Tu hạnh môn bố thí : Bồ Tát luôn luôn bố thí mà chẳng tham lam. Chẳng thể nói rằng: Tiền của tôi không thể bố thí cho bạn, còn tiền của bạn thì hãy bố thí cho tôi, nghĩ như thế chẳng đúng. Phải đem nội tài và ngoại tài của mình, bố thí hết cho chúng sinh, xả bỏ tài vật mà người khác chẳng xả bỏ được, làm việc mà người khác làm chẳng được, đó mới là thật bố thí.
2). Tu hạnh môn trì giới. Bồ Tát thì chẳng làm điều ác, mà làm các điều lành. Chúng ta phải học tập tinh thần của Bồ Tát, nếu có lỗi lầm thì lập tức sửa đổi, nếu chẳng có lỗi lầm, thì giữ gìn đừng có vi phạm.
3). Tu hạnh môn nhẫn nhục. Bồ Tát nhẫn chịu tất cả sư hủy nhục, mà chẳng nóng giận. Hạnh môn nhẫn nhục chẳng phải miệng nói suông, mà là dạy người đi thật hành. Ví như, có người mắng bạn, bạn cũng vui vẻ. Có người đánh bạn, bạn cũng chẳng nóng giận. Có người giết bạn, bạn cũng nhẫn nại chịu giết, đó mới là hạnh môn của Bồ Tát thực hành.
4). Tu hạnh môn tinh tấn. Bồ Tát luôn luôn tinh tấn, chẳng có tư tưởng thối lùi, chẳng giống như chúng ta tu pháp một nóng mười lạnh, chỉ có năm phút tinh tấn thì làm sao mà thành tựu được.
5). Tu hạnh môn thiền định. Bồ Tát tu pháp môn thiền định, quán chiếu, nhiếp tâm, khiến cho tâm định mà chẳng tán loạn, cho nên chúng ta hằng ngày tham thiền đả tọa, tức là thu nhiếp tâm, cũng khiến cho đừng sinh vọng tưởng, lúc nào hết vọng tưởng, thì lúc đó sẽ khai ngộ.
6). Tu hạnh môn Bát nhã. Bồ Tát có đủ đạo chủng trí, tức là biết tất cả các thứ đạo pháp khác nhau. Tu năm độ ở trước viên mãn, thì mới sinh ra trí huệ Bát nhã. Có trí huệ Bát nhã rồi, thì sẽ tinh tấn tiến về trước. Nếu chẳng có trí huệ, thì đó là tu mù luyện đui, chẳng đắc được lợi ích. Khai trí huệ rồi, thì mới minh bạch tất cả các pháp.
Lục độ là hạnh môn của Bồ Tát tu. Tuy Bồ Tát tu vạn hạnh, nhưng pháp này là hạnh môn cơ bản. Tu pháp lục độ này viên mãn rồi, thì các vạn hạnh khác tự nhiên cũng sẽ viên mãn. Do đó :
‘’Một thông thì tất cả đều thông.‘’
Pháp đại thừa tức là lục độ vạn hạnh, vì người mà chẳng vì mình. Bồ Tát vì độ chúng sinh, mà tự nguyện xả bỏ cơ hội thành Phật. Dù đến cõi Thường Tịch Quang rồi, cũng ‘’đảo giá từ thuyền,’’ trở lại thế gian để độ chúng sinh. Giống như Hòa Thượng Hư Vân là đại Bồ Tát thừa nguyện trở lại.
Niệm niệm trung, dĩ phổ chấn động nhất thiết sát thán Phật công đức thần biến Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Trong niệm niệm, dùng pháp-môn chấn động tất cả cõi tán-thán công-đức thần biến của Phật, để khai ngộ chúng sinh, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Niệm niệm trung, dĩ nghiêm tịnh nhất thiết Phật quốc độ hiển thị nhất thiết Đại nguyện hải Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Trong niệm niệm, dùng tất cả cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, hiển thị tất cả pháp môn biển đại nguyện, để khai ngộ chúng sinh, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, ở trong niệm niệm đều vì chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui. Trong niệm niệm dùng tất cả cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh, hiển rõ chỉ thị tất cả pháp môn biển đại nguyện của Phật, để khai ngộ chúng sinh nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Niệm niệm trung, dĩ phổ nhiếp nhất thiết chúng sanh ngôn từ Phật âm thanh Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Trong niệm niệm, dùng pháp môn lời lẽ âm thanh của Phật, nhiếp khắp tất cả chúng sinh, để khai ngộ chúng sinh nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Trong niệm trước, niệm hiện tại, niệm sau của Bồ Tát, dùng lời lẽ âm thanh của Phật, nhiếp khắp tất cả chúng sinh, để diễn nói pháp môn này, khai ngộ chúng sinh nhiều như hạt bụi thế giới hải.
Niệm niệm trung, dĩ năng vũ nhất thiết Phật Pháp vân Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Trong niệm niệm, dùng pháp môn mây mưa tất cả Phật pháp, để khai ngộ chúng sinh, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Bồ Tát trong mỗi niệm, dùng pháp môn mây mưa tất cả Phật pháp, để khai ngộ chúng sinh nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Niệm niệm trung, dĩ phổ hiện Phật thân sung biến Pháp giới nhất thiết Như Lai giải thoát lực Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Trong niệm niệm, dùng pháp-môn hiện Phật-thân đầy khắp pháp-giới giải-thoát-lực của tất cả Như-Lai, để khai ngộ chúng sinh, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Niệm niệm trung, dĩ quang minh phổ chiếu thập phương quốc độ chu biến pháp giới thị hiện thần biến Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh
Trong niệm niệm, dùng pháp môn thần biến thị hiện quang minh, chiếu khắp mười phương cõi nước, chiếu khắp pháp giới, để khai ngộ chúng sinh, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Trong niệm niệm của Bồ Tát, dùng pháp môn thần thông biến hóa thị hiện, quang minh chiếu khắp mười phương cõi nước, chu khắp pháp giới, để khai ngộ chúng sinh nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Niệm niệm trung, dĩ Phổ Hiền Bồ Tát kiến lập nhất thiết chúng hội đạo tràng hải Pháp môn, khai ngộ thế giới hải vi trần số chúng sanh.
Trong niệm niệm, dùng pháp môn Bồ Tát Phổ Hiền, kiến lập tất cả biển chúng hội đạo tràng, để khai ngộ chúng sinh nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Giảng: Bồ Tát giáo hóa chúng sinh, niệm quá khứ, niệm hiện tại, niệm vị lai, trong mỗi tâm niệm, dùng mười đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, kiến lập hết thảy pháp hội và đạo tràng, pháp môn như thế nhiều như biển, để khai ngộ chúng sinh, nhiều như số hạt bụi thế giới hải.
Như thị phổ biến nhất thiết pháp giới, tùy chúng sanh tâm, tất lệnh khai ngộ.
Như vậy, khắp tất cả pháp giới, tùy theo tâm của chúng sinh, đều khiến cho họ khai ngộ.
Giảng: Giống như các đại Bồ Tát ở trước, các Ngài diễn nói đủ thứ pháp môn, đều vì tất cả pháp giới, tùy thuận tâm niệm của chúng sinh, khiến cho họ khai ngộ.
Niệm niệm trung, nhất nhất quốc độ, các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh đọa ác đạo giả, vĩnh ly kỳ khổ
Trong niệm niệm, trong mỗi cõi nước, các Bồ Tát ai nấy, đều khiến cho chúng sinh nhiều như hạt bụi núi Tu Di, ai đọa vào trong đường ác, thì vĩnh viễn lìa hẳn sự khổ.
Giảng: Hết thảy Bồ Tát, ở trong mỗi niệm, ở trong mỗi cõi nước, ai nấy đều khiến cho chúng sinh nhiều như hạt bụi núi Tu Di, nếu ai đọa lạc vào trong ba đường ác, thì khiến cho họ vĩnh viễn lìa khỏi thống khổ mà đắc được an vui.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh trụ tà định giả, nhập chánh định tụ
Mỗi vị Bồ Tát, đều khiến cho chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, ai trụ ở tà định, thì nhập vào chánh định tụ.
Giảng: Và mỗi vị Bồ Tát, đều khiến cho chúng sinh nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, ai trụ ở tà định, thì dạy họ nhập vào chánh định mà được chánh thọ.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh, tùy kỳ sở lạc sanh ư Thiên thượng
Mỗi vị Bồ Tát đều khiến cho chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, tùy theo sự ưa thích của họ, mà được sinh về cõi trời.
Giảng: Hết thảy các Bồ Tát, luôn luôn không quên lợi ích chúng sinh. Do đó, ai nấy đều khiến cho chúng sinh nhiều như hạt bụi núi Tu Di, đều đắc được giải thoát. Chúng sinh có căn tánh đều khác nhau, có chúng sinh thích học Phật pháp, có chúng sinh thích học pháp ngoại đạo. Bất luận là Phật giáo, hoặc là ngoại đạo, Bồ Tát đều dùng pháp phương tiện, tùy thuận sự ưa thích của chúng sinh mà giáo hóa. Ai chẳng có căn lành, thì khiến cho họ trồng căn lành, người đã có căn lành, thì khiến cho họ tăng trưởng; người căn lành đã tăng trưởng, thì khiến cho họ thành thục; người đã thành thục, thì khiến cho giải thoát, mà được sinh về cõi trời. Bổn lai, trên trời chẳng phải là cứu kính, hưởng hết phước trời thì sẽ đọa lạc. Nhưng đó là thăng lên từng bước một, từ từ sẽ ra khỏi tam giới, chứng nhập Niết Bàn.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh, an trụ Thanh văn, Bích Chi Phật địa
Mỗi vị Bồ Tát đều khiến cho chúng sinh, số nhiều như hạt bụi núi Tu Di, an trụ vào hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Giảng: Mỗi vị Bồ Tát đều khiến cho chúng sinh nhiều như hạt bụi núi Tu Di, an trụ vào quả vị Thanh Văn, Bích Chi Phật.
Thanh Văn là gì ? Tức là Tỳ Kheo nghe âm thanh của Phật nói pháp mà ngộ đạo, chứng đắc quả vị A La Hán.
Bích Chi Phật là gì ? dịch là “Duyên Giác”. Lúc không có Phật ra đời, tu : ‘’Mùa xuân quán trăm hoa nở, mùa thu quán lá vàng rơi‘’ mà ngộ đạo, gọi là Ðộc Giác. Lúc có Phật ra đời, quán mười hai nhân duyên mà ngộ đạo gọi là Duyên Giác.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh, sự thiện tri thức cụ chúng phước hạnh.
Mỗi vị Bồ Tát đều khiến cho chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, phụng sự bậc thiện tri thức, mà đầy đủ các phước hạnh.
Giảng: Hết thảy các Bồ Tát, ai nấy đều khiến cho chúng sinh nhiều như hạt bụi núi Tu Di, phụng sự thiện tri thức, như thế mới đầy đủ các phước hạnh. Người tu hành nhất định phải gần gũi bậc thiện tri thức, xa lìa ác tri thức. Tại sao ? Vì thiện tri thức hay làm đạo nghiệp của bạn tăng trưởng, tiêu trừ nghiệp chướng, còn ác tri thức thì hay tiêu diệt đạo nghiệp của bạn, tăng trưởng nghiệp chướng. Do đó, tu hành phải gần gũi thiện trí thức, mới đắc được pháp ích. Giống như Thiện Tài đồng tử, vì cầu Bồ Tát hạnh mà tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức, trải qua một trăm mười thành, cuối cùng được đáp án viên mãn, mà chứng được quả vị tối cao của Bồ Tát.
Người tu hành phải phước huệ cùng tu. Phước là tu bên ngoài, huệ là tu bên trong. Tu phước là vì lợi ích chúng sinh, như thế thì phước báo càng ngày càng thêm nhiều. Tu huệ thì phải siêng học Bát Nhã, như thế thì trí huệ càng ngày càng tăng thêm. Vì cầu vô thượng đạo mà phải phụng sự thiện tri thức, đem nội tài và ngoại tài của mình, cúng dường cho thiện tri thức. Giống như khi Phật ở tại nhân địa, tu đạo tại núi Tuyết, vì cầu nửa bài kệ mà cúng dường mạng sống cho quỷ La Sát. Ðó là tinh thần rất vĩ đại vì pháp quên mình.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh, phát ư vô thượng Bồ-đề chi tâm
Mỗi vị Bồ Tát, đều khiến cho chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, phát tâm vô thượng bồ đề.
Giảng: Bồ Tát ai nấy đều khiến cho chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di phát tâm bồ đề rộng lớn vô thượng. Tâm bồ đề là gì ? Tức là bốn hoằng thệ nguyện :
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô thượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh, thú ư Bồ Tát bất thoái chuyển địa
Mỗi vị Bồ Tát đều khiến cho chúng sinh, nhiều như hạt bụi núi Tu Di, hướng về bồ đề chẳng thối chuyển.
Giảng: Hết thảy Bồ Tát, vì hành Bồ Tát đạo mà chứng đắc Bồ Tát quả vị. Các Ngài tự nguyện đem phương pháp chứng đắc quả vị Bồ Tát, nói cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ cũng đắc được như thế. Do đó, khiến cho chúng sinh nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, đều đắc được bậc Bồ Tát bất thối chuyển. Bất thối chuyển có ba thứ :
1). Niệm bất thối chuyển : Niệm của Bồ Tát là chẳng thối lùi tâm bồ đề, luôn luôn tăng trưởng tâm bồ đề, khó hành mà hành được, khó nhẫn mà nhẫn được.
2). Hạnh bất thối chuyển : Bồ Tát tu hành pháp môn đại thừa, hành Bồ Tát đạo, bất cứ gặp khó khăn như thế nào, cũng chẳng sinh tâm thối chuyển, chẳng giống như Ngài Xá Lợi Phất hành Bồ Tát đạo, chẳng bao lâu bèn sinh tâm thối chuyển.
3). Vị bất thối chuyển : Bồ Tát từ Thập tín vị mà tu đến Ðẳng giác vị, chẳng thối lùi làm người nhị thừa. Bồ Tát phát tâm đại bồ đề, do đó : ‘’Ban đầu phát tâm, bèn thành chánh giác’’, đây là pháp môn đốn ngộ.
Người Mỹ đa số chẳng thích lễ lạy. Nhưng bạn chẳng những muốn lễ lạy Phật, mà còn cung kính sư phụ, đó tức là đệ tử tốt của Phật. Sau khi xuất gia rồi, lại muốn tham gia khóa lễ sáng, giữ gìn giới luật, ngày ăn một bữa, đêm ngủ ngồi, tham thiền đả tọa, tụng Kinh trì Chú, làm việc mà người khác chẳng muốn làm, đó tức là tu hành. Phải có tâm từ bi, tâm thương sót, để cứu hộ chúng sinh, lợi ích chúng sinh, khi chúng sinh gặp khó khăn, thì phải hết mình giúp đỡ giải quyết khó khăn, đó là hành Bồ Tát đạo. Nói tóm lại, nơi nơi vì chúng sinh, dù nhảy vào lửa cũng chẳng từ nan.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh, đắc tịnh trí nhãn, kiến ư Như Lai sở kiến nhất thiết chư bình đẳng pháp
Mỗi vị Bồ Tát đều khiến cho chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, đắc được mắt trí huệ thanh tịnh, thấy tất cả các pháp bình đẳng như đức Như Lai thấy.
Giảng: Hết thảy Bồ Tát, ai nấy đều khiến cho chúng sinh nhiều như hạt bụi núi Tu Di, đắc được mắt trí huệ thanh tịnh, tức là Phật nhãn, thấy được tất cả các pháp bình đẳng như Phật thấy. Phật thấy tất cả chúng sinh đều là Phật. Tại sao ? Vì bình đẳng thành Phật, thì thấy tất cả chúng sinh đều là Phật; thành ma vương thì thấy tất cả chúng sinh đều là ma vương.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh, an trụ chư lực chư nguyện hải trung, dĩ vô tận trí nhi vi phương tiện tịnh chư Phật quốc
Mỗi vị Bồ Tát, đều khiến cho chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, an trụ vào trong các lực, các nguyện hải, dùng vô tận trí mà làm phương tiện, để thanh tịnh các cõi Phật.
Giảng: Hết thảy Bồ Tát, ai nấy đều khiến cho chúng sinh nhiều như hạt bụi núi Tu Di, an trụ vào trong thập lực, các nguyện hải. Các Bồ Tát đó, dùng trí huệ vô cùng vô tận, phát ra pháp môn phương tiện, để thanh tịnh trang nghiêm tất cả cõi nước chư Phật.
Các lệnh Như-Tu-Di-Sơn vi trần số chúng sanh, giai đắc an trụ Tỳ Lô Giá Na quảng đại nguyện hải, sanh Như Lai gia.
Mỗi vị Bồ Tát, đều khiến cho chúng sinh, nhiều như số hạt bụi núi Tu Di, đắc được biển đại nguyện rộng lớn của Tỳ Lô Giá Na, sinh vào nhà Như Lai.
Giảng: Hết thảy Bồ Tát, ai nấy đều khiến cho chúng sinh, nhiều như hạt bụi núi Tu Di, an trụ vào trong biển đại nguyện rộng lớn của Tỳ Lô Giá Na, sinh vào nhà Như Lai làm Pháp Vương Tử.
Nhĩ thời, chư Bồ-tát quang minh trung đồng thời phát thanh, thuyết thử tụng ngôn:
Bấy giờ, trong quang minh của các Bồ Tát, đồng thời phát ra âm thanh, nói ra bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, hết thảy Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, từ trong quang minh của các Ngài, đồng thời vang ra âm thanh, nói ra bài kệ.
Chư quang minh trung xuất Diệu-Âm, Trong các quang minh vang diệu âm
Phổ biến thập phương nhất thiết quốc, Khắp trong mười phương tất cả cõi
Diễn thuyết Phật tử chư công đức, Diễn nói Phật tử các công đức
Năng nhập Bồ-đề chi diệu đạo. Chứng nhập được bồ đề diệu đạo.
Trong quang minh của vô lượng vô biên các Bồ Tát phóng ra, lại vang ra âm thanh vi diệu không thể nghĩ bàn, khắp tận hư không biến pháp giới. Trong mười phương các cõi Phật, đều nghe được âm thanh đó, diễn nói tất cả các pháp. Khiến cho tất cả Phật tử, minh bạch công đức tu các pháp, chứng nhập bồ đề diệu đạo, tức cũng là Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Kiếp hải tu hành vô yếm quyện, Biển kiếp tu hành chẳng nhàm mỏi
Lệnh khổ chúng sanh đắc giải thoát, Khiến chúng sinh khổ được giải thoát
Tâm vô hạ liệt cập lao bì, Tâm chẳng hạ liệt và mệt nhọc
Phật tử thiện nhập tư phương tiện. Phật tử khéo vào phương tiện này.
Mỗi vị Phật, phải trải qua biển kiếp thời gian lâu dài tu hành, mới có thể thành Phật. Tuy thời gian dài như thế, chẳng những chẳng nhàm mỏi, mà luôn luôn tu hành. Tại sao ? Vì phát nguyện muốn độ những chúng sinh điên đảo, khiến cho chúng sinh chịu khổ được giải thoát, mà các Ngài chẳng có tư tưởng tự ti mặc cảm, cũng chẳng tồn tại vọng tưởng mệt nhọc. Hết thảy đệ tử của Phật, đều khéo vào môn phương tiện này.
Phật Thích Ca Mâu Ni, trong ba A tăng kỳ tu phước huệ, trăm kiếp trồng tướng tốt. Trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp để tu phước tu huệ; và trong trăm kiếp trồng ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp. Công đức viên mãn mới thành Phật. Tuy trải qua thời gian lâu dài tu hành như thế, chẳng những chẳng nhàm chán, mệt mỏi, mà còn dũng mãnh tinh tấn, chẳng thối lùi. Chẳng giống như chúng ta, tu hành chưa đến ba ngày, thì sinh tâm thối chuyển, muốn lùi về sau. Rằng tôi tu đã ba năm rồi, mà tôi chẳng thành tựu chút nào, đó là sinh tâm nhàm mỏi. Vậy bạn không tu thì làm sao mà thành tựu ? Ðừng gấp, công đáo tự nhiên thành, phải nhớ rằng : ‘’Dục tốc bất đạt.’’ Lầu cao là từ từng cấp bậc thấp nhất xây nên mà thành. Phải cước đạp thật địa mà tu hành, đừng háo cao vụ viễn, La Mã chẳng phải một ngày làm mà thành.
Chúng ta tu hành đừng có tâm ích kỷ, đừng tất cả đều vì mình. Chúng ta nên phát nguyện cứu tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, đó là thiên chức của người tu đạo, cũng đừng sinh tâm giải đãi, cảm thấy niệm Phật đã nhiều rồi, cảm thấy ngồi thiền đã lâu rồi. Nếu có những tư tưởng như thế, thì phải mau thu hồi lại, bằng không thì lãng phí thời gian, kết quả chẳng được gì.
Tận chư kiếp hải tu phương tiện, Hết các biển kiếp tu phương tiện
Vô lượng vô biên vô hữu dư, Vô lượng vô biên chẳng thừa sót
Nhất thiết pháp môn vô bất nhập, Tất cả pháp môn thảy đều vào
Nhi hằng thuyết bỉ tánh tịch diệt. Mà luôn diễn nói tánh tịch diệt.
Dùng hết các biển kiếp thời gian, để tu pháp môn phương tiện. Trong vô lượng vô biên thời gian đó, cũng chẳng có dư thừa. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, Phật đều tu hành hết thảy, luôn luôn diễn nói tánh tịch diệt, do đó :
‘’Các pháp từ xưa nay, Ðều là tướng vắng lặng.’’
Xưa nay, tất cả các pháp đều vắng lặng, chẳng có hình tướng gì hết.
Tam thế chư Phật sở hữu nguyện, Ba đời chư Phật hết thảy nguyện
Nhất thiết tu trì tất lệnh tận, Tất cả đều tu trị viên mãn
Tức dĩ lợi ích chư chúng sanh, Tức vì lợi ích các chúng sinh
Nhi vi tự hành thanh tịnh nghiệp. Mà tự tu hành nghiệp thanh tịnh.
Ba đời tất cả chư Phật phát nguyện, tất cả tu hành trị lý đều khiến cho viên mãn. Tức là, dùng nguyện lực lợi ích cho tất cả chúng sinh, mà tự mình tu hành nghiệp lành thanh tịnh.
Nhất thiết chư Phật chúng hội trung, Tất cả chư Phật trong chúng hội
Phổ biến thập phương vô bất vãng, Ðều đến khắp tất cả mười phương
Giai dĩ thậm thâm trí tuệ hải, Ðều dùng biển trí huệ thâm sâu
Nhập bỉ Như Lai tịch diệt pháp. Vào pháp tịch diệt của Như Lai.
Trong tất cả chúng hội của chư Phật khắp mười phương, tôi cũng đi tham gia những pháp hội đó. Bồ Tát dùng biển trí huệ thâm sâu, để chứng nhập vào diệu pháp tịch diệt của Phật nói.
Nhất nhất quang minh vô hữu biên, Mỗi mỗi quang minh chẳng bờ mé
Tất nhập nan tư chư quốc độ, Ðều vào các cõi không nghĩ bàn
Thanh tịnh trí nhãn phổ năng kiến, Trí nhãn thanh tịnh thấy khắp hết
Thị chư Bồ-tát sở hạnh cảnh. Ðó là sở hành của Bồ Tát.
Mỗi vị Bồ Tát phóng ra quang minh, đều chẳng có bờ mé. Quang minh đó, đều nhập vào các cõi nước chư Phật không thể nghĩ bàn. Các Ngài dùng mắt trí huệ thanh tịnh thấy khắp hết tất cả chúng sinh, khiến cho họ đắc được quang minh phổ chiếu. Ðó là cảnh giới sở hành của tất cả Bồ Tát.
Bồ Tát năng trụ nhất mao đoan, Bồ Tát ở nơi đầu sợi lông
Biến động thập phương chư quốc độ, Ðộng khắp mười phương các cõi nước
Bất lệnh chúng sanh hữu bố tưởng, Chẳng khiến chúng sinh phải sợ hãi
Thị kỳ thanh tịnh phương tiện địa. Ðó là môn thanh tịnh phương tiện.
Bồ Tát có thể ở nơi đầu sợi lông thị hiện, nơi đầu sợi lông lại thị hiện ra Bồ Tát. Ðó là trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ. Tuy nhiên Bồ Tát ở trong đầu sợi lông, mà có thể chấn động khắp mười phương các cõi nước, song chẳng khiến cho chúng sinh có ý niệm sợ hãi, đó là phương tiện thanh tịnh của Bồ Tát.
Trong nhỏ hiện lớn, ví như đem một tấm gương treo ở trên cao, thì sẽ thấy cảnh giới rất xa hiện ra ở trong gương. Trong lớn hiện nhỏ, ở nơi xa nhìn vào gương, thì trong gương cũng hiện ra cảnh giới.
Nhất nhất trần trung vô lượng thân, Trong mỗi hạt bụi vô lượng thân
Phục hiện chủng chủng trang nghiêm sát, Lại hiện đủ thứ cõi trang nghiêm
Nhất niệm một sanh phổ lệnh kiến, Một niệm sống chết khắp khiến thấy
Hoạch vô ngại ý trang nghiêm giả. Ðược trí vô ngại trang nghiêm thân.
Bồ Tát ở trong mỗi hạt bụi, đều có vô lượng vô biên thân, ở trong hạt bụi lại hiện ra đủ thứ cõi Phật trang nghiêm. Ở trong mỗi niệm, hoặc sống hoặc chết, đều khiến cho tất cả chúng sinh khắp thấy được. Bồ Tát đắc được trí huệ vô ngại, thân trang nghiêm tướng tốt.
Tam thế sở hữu nhất thiết kiếp, Ba đời hết thảy tất cả kiếp
Nhất sát-na trung tất năng hiện, Trong một sát na đều hiện được
Tri thân như huyễn vô thể tướng, Biết thân như huyễn không thể tướng
Chứng minh pháp tánh vô ngại giả. Chứng minh pháp tánh là vô ngại.
Kiếp quá khứ, kiếp hiện tại, kiếp vị lai, hết thảy tất cả kiếp ba đời. Trong thời gian một sát na, thời gian ba đời đều hiện ra, khiến cho chúng sinh biết thân thể vốn là hư vọng huyễn hóa, chứ chẳng có thể tướng thật.
Phổ Hiền thắng hành giai năng nhập, Phổ Hiền thắng hạnh đều vào được
Nhất thiết chúng sanh tất lạc kiến, Tất cả chúng sinh đều ưa thấy
Phật tử năng trụ thử pháp môn, Phật tử hay trụ pháp môn này
Chư quang minh trung Đại âm hống. Trong các quang minh vang tiếng hống.
Bồ Tát Phổ Hiền tu hạnh môn đặc biệt thù thắng, tất cả chúng sinh đều vào được, và còn ưa muốn thấy những thắng hạnh đó. Ðệ tử của Phật mới có thể ở tại pháp môn này. Ở trong quang minh đó phát ra tiếng hống rất lớn.
Nhĩ thời, Thế Tôn dục lệnh nhất thiết Bồ Tát Đại chúng đắc ư Như Lai vô biên cảnh giới thần thông lực cố, phóng my gian quang, thử quang danh: nhất thiết Bồ Tát trí quang minh, phổ chiếu diệu thập phương tạng. kỳ trạng do như bảo sắc đăng vân, biến chiếu thập phương nhất thiết Phật sát
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn khiến cho tất cả đại chúng Bồ Tát, đắc được vô biên cảnh giới thần thông lực của Như Lai, nên phóng ra quang minh giữa lông mày. Quang minh đó tên là Tất Cả Bồ Tát Trí Quang Minh, chiếu soi khắp mười phương tạng, hình trạng như mây đèn màu sắc báu, chiếu sáng khắp mười phương tất cả cõi Phật.
Lúc đó, Phật muốn khiến cho tất cả Bồ Tát, và đại chúng đều đắc được vô biên cảnh giới thần thông lực, nên ở giữa lông mày phóng ra luồng hào quang. Quang minh đó tên là Tất cả Bồ Tát trí huệ quang minh, chiếu soi khắp mười phương tạng. Hình dáng quang minh đó, như mây đèn màu sắc báu, chiếu sáng khắp mười phương tất cả cõi Phật.
Kỳ Trung Quốc độ cập dĩ chúng sanh tất lệnh hiển hiện. hựu phổ chấn động chư thế giới võng, nhất nhất trần trung hiện vô số Phật.
Trong cõi nước đó và chúng sinh, đều khiến cho hiển hiện ra. Lại chấn động khắp các thế giới võng, trong mỗi hạt bụi hiện ra vô số đức Phật.
Giảng: Trong cõi nước Phật và tất cả chúng sinh đều hiển hiện ra, lại chấn động khắp hết thảy thế giới võng. Trong mỗi hạt bụi lại hiện ra vô số vô lượng chư Phật, đang ở đó chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh.
Tùy chư chúng sanh tánh dục bất đồng, phổ vũ tam thế nhất thiết chư Phật diệu pháp luân vân, hiển thị Như Lai Ba-la-mật hải; hựu vũ vô lượng chư xuất ly vân, lệnh chư chúng sanh vĩnh độ sanh tử; phục vũ chư Phật đại nguyện chi vân, hiển thị thập phương chư thế giới trung. Phổ Hiền Bồ Tát đạo tràng chúng hội
Tùy theo căn tánh ưa thích khác nhau của chúng sinh, mà khắp mưa xuống mây diệu pháp luân của tất cả chư Phật ba đời, hiển bày biển Ba la mật của Như Lai. Lại mưa vô lượng các mây xuất ly, khiến cho các chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi sinh tử. Lại mưa mây đại nguyện của chư Phật, hiển bày trong các thế giới mười phương chúng hội đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền.
Giảng: Phật tùy thuận căn tánh và sự ưa thích khác nhau của tất cả chúng sinh, mà khắp mưa xuống mây diệu pháp luân của tất cả Phật ba đời, và hiển bày biển pháp môn Ba la mật của Phật. Lại mưa xuống vô số lượng các mây xuất ly, khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn lìa khỏi biển khổ sinh tử. Lại mưa mây đại nguyện của tất cả chư Phật. Trong tất cả thế giới mười phương, hiển hiện ra chúng hội đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền.
Tác thị sự dĩ, hữu nhiễu ư Phật, tùng túc hạ nhập.
Làm các việc như vậy rồi, bèn nhiễu bên phải đức Phật, vào dưới bàn chân của đức Phật.
Giảng: Luồng hào quang phóng ra ở giữa lông mày, chiếu sáng vô lượng thế giới hải cõi nước chư Phật, hiện ra tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sinh, tất cả mây báu. Ở trong mây báu lại nói pháp, để giáo hóa chúng sinh. Lại hiển bày chúng hội đạo tràng của Bồ Tát Phổ Hiền. Làm đủ thứ những việc không thể nghĩ bàn rồi, luồng hào quang đó nhiễu bên phải Ðức Phật, lại vào dưới chân của Ðức Phật.
Nhĩ thời, Phật tiền hữu đại liên hoa, hốt nhiên xuất hiện. kỳ hoa cụ hữu thập chủng trang nghiêm, nhất thiết liên hoa sở bất năng cập.
Bấy giờ, ở trước đức Phật có hoa sen lớn đột nhiên xuất hiện. Hoa sen đó có đủ mười thứ trang nghiêm, tất cả các hoa sen khác chẳng thể sánh được.
Giảng: Lúc đó, ở trước Ðức Phật có một đóa hoa sen lớn đột nhiên xuất hiện. Ðóa hoa sen đó có đủ mười thứ tốt đẹp trang nghiêm, chẳng phải tất cả các hoa sen khác có thể so sánh được.
Sở vị: chúng bảo gian thác dĩ vi kỳ hành; ma-ni bảo vương dĩ vi kỳ tạng; Pháp giới chúng bảo phổ tác kỳ diệp; chư hương ma-ni nhi tác kỳ tu; diêm phù đàn kim trang oánh kỳ đài; diệu võng phước thượng, quang sắc thanh tịnh
Ðó là: Các thứ báu xen lẫn dùng làm thân, báu ma ni vương dùng làm tạng, các báu pháp giới dùng làm lá, các hương thơm ma ni làm tua, vàng diêm phù đàn làm đài, lưới đẹp giăng ở trên, quang minh màu sắc rất thanh tịnh.
Giảng: Dùng tất cả các báu trên thế gian cùng nhau xen lẫn, để làm để làm thân hoa sen lớn. Dùng báu ma ni vương để làm tạng hoa sen lớn. Dùng các báu pháp giới để làm lá hoa sen lớn. Dùng tất cả hương thơm ma ni báu để làm tua hoa sen báu. Dùng vàng diêm phù đàn để làm đài, ở trên hoa sen lớn, lại giăng bủa lưới rất đẹp. Ánh sáng và màu sắc của hoa sen rất thanh tịnh, chẳng dính mảy bụi nào.
Ư nhất niệm trung, thị hiện vô biên chư Phật thần biến; phổ năng phát khởi nhất thiết âm thanh, ma-ni bảo vương ảnh hiện Phật thân, âm thanh trung, phổ năng diễn thuyết nhất thiết Bồ Tát sở tu hành nguyện.
Ở trong một niệm, thị hiện vô biên thần thông biến hóa của chư Phật, khắp phát ra tất cả âm thanh. Ma ni vương ảnh hiện ra thân Phật, ở trong âm thanh, diễn nói hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát tu hành.
Giảng: Ở trong một niệm, có thể thị hiện vô lượng vô biên thần thông biến hóa của chư Phật, lại khắp phát ra tất cả âm thanh. Trong ma ni vương ảnh hiện ra thân tướng của Phật. Ở trong âm thanh khắp diễn nói đủ thứ hạnh môn của Bồ Tát tu, và đủ thứ nguyện lực của Bồ Tát phát thệ.
Thử hoa sanh dĩ, nhất niệm chi gian, ư Như Lai bạch hào tướng trung, hữu Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: nhất thiết pháp thắng âm, dữ thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát chúng, câu thời nhi xuất,
Hoa sen đó sinh ra rồi, trong một niệm, trong tướng hào quang trắng của đức Như Lai, có đại Bồ Tát tên là Nhất Thiết Pháp Thắng Âm, cùng với các chúng Bồ Tát, nhiều như hạt bụi thế giới hải đồng thời hiện ra.
Giảng: Sau khi đóa hoa sen lớn đó sinh ra rồi, ở trong một niệm, ở giữa lông mày của Ðức Phật, có luồng hào quang trắng, trong luồng hào quang trắng đó, có đại Bồ Tát hiệu là Nhất Thiết Pháp Thắng Âm, cùng với chúng Bồ Tát, nhiều như hạt bụi thế giới hải, đồng thời xuất hiện.
Hữu nhiễu Như Lai, Kinh vô lượng tạp, lễ Phật túc dĩ. Thời, thắng âm Bồ Tát tọa liên hoa đài, chư Bồ-tát chúng tọa liên hoa tu, các ư kỳ thượng, thứ đệ nhi trụ.
Ði nhiễu bên phải đức Như Lai, trải qua vô lượng vòng, đảnh lễ dưới chân đức Phật rồi, thì Bồ Tát Nhất Thiết Pháp Thắng Âm ngồi trên đài hoa sen, còn các chúng Bồ Tát thì ngồi trên tua hoa sen, ai nấy đều ngồi trên đó có thứ tự.
Giảng: Các vị Bồ Tát đó, đi nhiễu bên phải Ðức Phật, trải qua vô lượng vòng, rồi đảnh lễ dưới chân Phật. Lúc đó, Bồ Tát Nhất Thiết Pháp Thắng Âm bèn ngồi trên đài hoa sen, còn các chúng Bồ Tát nhiều như hạt bụi thế giới hải, thì đều ngồi trên tua hoa sen, ai nấy đều ngồi ngay hàng thẳng lối có thứ tự.
Kỳ nhất thiết pháp thắng âm Bồ Tát, liễu thâm pháp giới, sanh đại hoan hỉ, nhập Phật sở hạnh, trí vô ngưng trệ, nhập bất khả trắc Phật Pháp thân hải, vãng nhất thiết sát chư Như Lai sở, thân chư mao khổng tất hiện thần thông, niệm niệm phổ quán nhất thiết pháp giới, thập phương chư Phật, cọng dữ kỳ lực, lệnh phổ an trụ nhất thiết tam muội, tận vị lai kiếp, thường kiến chư Phật vô biên pháp giới công đức hải thân, nãi chí nhất thiết tam muội giải thoát, thần thông biến hóa.
Bồ Tát Nhất Thiết Pháp Thắng Âm đó, thấu rõ pháp giới thâm sâu, sinh tâm đại hoan hỷ, nhập vào chỗ tu hành của đức Phật, trí huệ chẳng nghi ngờ ngưng trệ, vào được biển pháp thân không thể dò của đức Phật, đến khắp tất cả cõi, chỗ của các đức Như Lai. Các lỗ lông trên thân đều hiện thần thông, niệm niệm quán tất cả pháp giới. Mười phương chư Phật cùng ban cho Ngài các lực, khiến cho khắp an trụ vào tất cả tam muội, hết kiếp vị lai, thường thấy vô biên pháp giới biển công đức thân của chư Phật, cho đến tất cả tam muội giải thoát thần thông biến hóa.
Giảng: Vị Bồ Tát Nhất Thiết Pháp Thắng Âm đó, Ngài thấu rõ pháp giới thâm sâu, cho nên sinh tâm đại hoan hỷ. Ngài vào được pháp môn tu hành của Phật. Trí tuệ của Ngài thông đạt chẳng vướng mắc trì trệ, đối với Phật pháp chẳng có chút nghi hoặc nào. Ngài đã vào biển pháp không thể dò lường của Phật, đến khắp tất cả đạo tràng cõi nước của chư Phật. Trong lỗ chân lông khắp toàn thân của vị đại Bồ Tát đó, đều hiện thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn. Trong niệm niệm, Ngài đều quán sát tất cả pháp giới. Mười phương ba đời tất cả chư Phật, cùng ban cho Ngài thập lực, khiến cho khắp an trụ vào trong tất cả tam muội. Suốt kiếp vị lai, thường thấy vô biên pháp giới biển công đức thân của chư Phật, cho đến tất cả tam muội, giải thoát, thần thông biến hóa, đều giống như Phật chẳng có cao thấp.
Tức ư chúng trung, thừa Phật uy thần, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bồ Tát Nhất Thiết Pháp Thắng Âm, bèn ở trong đại chúng, nương oai thần của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Vị Bồ Tát Nhất Thiết Pháp Thắng Âm đó, lập tức ở trong đại chúng, nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp mười phương pháp giới, nhân duyên của tất cả chúng sinh, mà nói ra bài kệ dưới đây.
Phật thân sung mãn ư Pháp giới, Thân Phật sung mãn khắp pháp giới
Phổ Hiện-Nhất-Thiết chúng sanh tiền, Hiện khắp trước tất cả chúng sinh
Tùy duyên phó cảm mị bất châu, Tùy duyên cảm ứng khắp hết thảy
Nhi hằng xứ thử Bồ-đề tòa. Mà luôn ở tòa bồ đề này.
Pháp thân của Phật chẳng có chỗ nào mà không có, cho nên sung mãn khắp pháp giới, khắp hiện ở trước tất cả chúng sinh. Phật tùy thuận nhân duyên của chúng sinh, mà hiện ra cảm ứng khắp hết thảy. Tuy chẳng lìa bổn tòa, mà luôn luôn ngồi trên tòa kim cang dưới cội bồ đề.
Như Lai nhất nhất mao khổng trung, Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Nhất thiết sát trần chư Phật tọa, Tất cả bụi cõi chư Phật ngồi
Bồ Tát chúng hội cọng vi nhiễu, Chúng hội Bồ Tát cùng vây quanh
Diễn thuyết Phổ Hiền chi thắng hành. Diễn nói thắng hạnh của Phổ Hiền.
Trong mỗi lỗ chân lông trên thân Phật, đều có các Ðức Phật, nhiều như số hạt bụi cõi nước, đang ngồi tại đạo tràng ở đó. Hết thảy Bồ Tát và đại chúng trong pháp hội, cùng nhau vây quanh Ðức Phật. Phật đang diễn nói hạnh môn thù thắng của Bồ Tát Phổ Hiền.
Như Lai an xứ Bồ-đề tòa, Như Lai ngồi dưới tòa bồ đề
Nhất mao thị hiện đa sát hải, Lỗ lông thị hiện nhiều biển cõi
Nhất nhất mao hiện tất diệc nhiên, Mỗi mỗi lỗ lông đều như thế
Như thị phổ châu ư Pháp giới. Như vậy khắp cùng nơi pháp giới.
Phật thường ngồi tòa kim cang dưới cội bồ đề. Trong mỗi lỗ chân lông, thị hiện vô lượng vô biên biển cõi, chẳng những trong một lỗ chân lông hiện ra các cõi Phật, mà trong mỗi lỗ chân lông, đều hiện ra cảnh giới như thế. Như vậy khắp viên mãn trong mười phương pháp giới.
Nhất nhất sát trung tất an lập, Trong mỗi cõi, Phật đều an tọa
Nhất thiết sát độ giai chu biến, Trong mỗi cõi nước đều khắp cùng
Thập phương Bồ Tát như vân tập, Mười phương Bồ Tát tụ như mây
Mạc bất hàm lai nghệ đạo tràng. Hết thảy đều đến nơi đạo tràng.
Trong mỗi cõi Phật, Phật đều ngồi tại Ðạo tràng dưới cội bồ đề. Hết thảy cõi Phật, đều có Phật đang ở đó nói pháp. Mười phương hết thảy Bồ Tát, cùng nhau tụ tập đến nhiều như mây, chẳng có Bồ Tát nào mà chẳng đến đạo tràng của Phật để nghe pháp.
Nhất thiết sát độ vi trần số, Tất cả cõi nước nhiều như bụi
Công đức quang minh Bồ Tát hải, Công đức quang minh biển Bồ Tát
Phổ tại Như Lai chúng hội trung, Khắp trong chúng hội của Như Lai
Nãi chí Pháp giới hàm sung biến. Cho đến pháp giới đều đầy khắp.
Có tất cả các Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi biển cõi, mỗi Bồ Tát đều có đại công đức và đại trí huệ, cho nên mới phóng ra quang minh. Những Bồ Tát đó, chẳng những đầy khắp nhiều như số hạt bụi cõi nước, cho đến tận hư không biến pháp giới, chẳng có nơi nào mà chẳng đầy khắp quang minh của Bồ Tát.
Pháp giới vi trần chư sát độ, Pháp giới hạt bụi các cõi nước
Nhất thiết chúng trung giai xuất hiện, Trong tất cả chúng đều xuất hiện
Như thị phần thân trí cảnh giới, Như Lai phân thân trí cảnh giới
Phổ Hiền hạnh trung năng kiến lập. Trong hạnh Phổ Hiền đều kiến lập.
Số hạt bụi của một thế giới chẳng biết số lượng là bao nhiêu. Còn số hạt bụi tận hư không khắp pháp giới, càng chẳng có cách gì tính biết được. Song, trong mỗi một hạt bụi, lại làm một cõi nước, ở trong cõi nước đó, lại có vô lượng vô biên hạt bụi, ở trong mỗi hạt bụi, lại có chúng hội; trong tất cả chúng hội, lại xuất hiện Phật Bồ Tát. Vô lượng vô biên phân thân trí huệ thần thông cảnh giới của Phật Bồ Tát đều kiến lập, thành tựu ở trong hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền.
Nhất thiết chư Phật chúng hội trung, Trong chúng hội của các đức Phật
Thắng trí Bồ Tát thiêm nhiên tọa, Bồ Tát thắng trí nghiễm nhiên ngồi
Các các thính pháp sanh hoan hỉ, Ai nấy nghe pháp sinh hoan hỷ
Xứ xứ tu hành vô lượng kiếp. Nơi nơi tu hành vô lượng kiếp.
Trong đại chúng hải hội của hết thảy tất cả chư Phật, Bồ Tát thắng trí nghiễm nhiên ngồi. Mỗi vị Bồ Tát nghe pháp rồi, ai nấy đều sinh đại hoan hỷ, đời đời kiếp kiếp, nơi nơi chốn chốn, đều tu hành trải qua vô lượng kiếp thời gian.
Dĩ nhập Phổ Hiền quảng đại nguyện, Ðã vào nguyện lớn của Phổ Hiền
Các các xuất sanh chúng Phật Pháp, Ai nấy sinh ra các Phật pháp
Tỳ Lô Giá Na pháp hải trung, Trong biển pháp Tỳ Lô Giá Na
Tu hành khắc chứng Như Lai địa. Tu hành liền chứng Như Lai vị.
Các Bồ Tát trí huệ thù thắng đã vào trong biển đại nguyện rộng lớn của Bồ Tát Phổ Hiền, mỗi vị Bồ Tát đều sinh ra tất cả Phật pháp, trong biển pháp của Phật Tỳ Lô Giá Na, các Ngài tu hành liền chứng quả vị Phật.
Phổ Hiền Bồ Tát sở khai giác, Chỗ Bồ Tát Phổ Hiền khai giác
Nhất thiết Như Lai đồng tán hỉ, Tất cả Như Lai cùng khen vui
Dĩ hoạch chư Phật đại thần thông, Ðã được thần thông của chư Phật
Pháp giới châu lưu vô bất biến. Đến khắp cùng pháp giới hết thảy.
Bồ Tát Phổ Hiền tu mười đại nguyện vương, mà khai giác tất cả Bồ Tát, hết thảy ba đời tất cả chư Phật cùng nhau khen ngợi vui mừng. Bồ Tát thắng trí đã được đại thần thông của chư Phật. Ngài đi khắp mười phương pháp giáo, luân lưu để giáo hóa chúng sinh, trợ giúp Phật hoằng dương Phật pháp, chẳng có chỗ nào mà chẳng đến.
Nhất thiết sát độ vi trần số, Tất cả cõi nước số hạt bụi
Thường hiện thân vân tất sung mãn, Thường hiện thân mây đều sung mãn
Phổ vì chúng sanh phóng đại quang, Khắp vì chúng sinh phóng quang minh
Các vũ Pháp vũ xưng kỳ tâm. Ðều mưa pháp vũ hợp tâm họ.
Tất cả cõi nước nhiều như hạt bụi thế giới, luôn luôn hóa hiện thân mây, thứ mây đó sung mãn khắp hết thảy cõi nước, khắp vì tất cả chúng sinh phóng đại quang minh. Ðều mưa xuống pháp vũ, không ít không nhiều, hợp với chúng sinh, khiến cho họ tâm được mãn nguyện.
Trong mười phương, có mười vị đại Bồ Tát nói ra trăm bài kệ dưới đây, để khen ngợi công đức và cảnh giới của Phật.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: quan sát nhất Thiết thắng Pháp Liên Hoa Quang tuệ Vương, thừa Phật uy thần, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Quán Sát Nhất Thiết Thắng Pháp Liên Hoa Quang Huệ Vương, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, trong đại chúng hải hội, lại có một vị đại Bồ Tát tên là Quán Sát Nhất Thiết Thắng Pháp Liên Hoa Quang Huệ Vương. Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát nhân duyên của tất cả chúng sinh, khắp mười phương pháp giới, mà nói ra bài kệ dưới đây.
Như Lai thậm thâm trí, Như Lai trí thâm sâu
Phổ nhập ư Pháp giới, Khắp vào nơi pháp giới
Năng tùy tam thế chuyển, Hay tùy ba đời chuyển
Dữ thế vi minh đạo. Làm Ðạo Sư cho đời.
Vị đại Bồ Tát đó nói : ‘’Trí tuệ của Phật thâm sâu vi diệu, khắp thị hiện vào pháp giới, tùy theo ba đời mà chuyển đại pháp luân giáo hóa chúng sinh. Trong hết thảy thế giới, Phật là bậc đại Ðạo Sư hiểu biết hơn tất cả.’’
Chư Phật đồng Pháp thân, Chư Phật đồng pháp thân
Vô y vô sái biệt, Chẳng nương chẳng khác biệt
Tùy chư chúng sanh ý, Tùy tâm các chúng sinh
Lệnh kiến Phật sắc hình. Khiến thấy thân tướng Phật.
Chư Phật mười phương ba đời, đều cùng một pháp thân. Phật hổ tương chẳng nương tựa, chẳng khác biệt. Chẳng phải nói vị Phật này ỷ lại vị Phật kia, vị Phật kia nương nhờ vị Phật nọ. Vì chẳng ỷ lại, cho nên chẳng có phân biệt đó đây. Phật tùy thuận tâm ý của tất cả chúng sinh, mà khiến cho tất cả chúng sinh, thấy được sắc thân của Phật.
Cụ túc nhất thiết trí, Phật đủ Nhất thiết trí
Biến tri nhất thiết pháp, Biết khắp tất cả pháp
Nhất thiết quốc độ trung, Trong tất cả cõi nước
Nhất thiết vô bất hiện. Ðều hiện khắp hết thảy.
Hết thảy chư Phật, đều đầy đủ Nhất thiết chủng trí, biết khắp tất cả thật tướng của các pháp, triệt đáy nguồn của pháp. Trong tất cả cõi nước của chư Phật, chẳng có chúng sinh nào mà chẳng thấy chư Phật xuất hiện, đều thấy rất rõ ràng.
Phật thân cập quang minh, Thân Phật và quang minh
Sắc tướng bất tư nghị, Sắc tướng không nghĩ bàn
Chúng sanh tín nhạc giả, Chúng sinh nào tin ưa
Tùy ưng tất lệnh kiến. Ðáng thấy khiến thấy được.
Pháp thân và quang minh của Phật phóng ra, có đủ thứ màu sắc và đủ thứ tướng tốt đều không thể nghĩ bàn, chúng sinh thấy chỗ chưa thấy, nghe chỗ chưa nghe, cho nên chúng sinh tin Phật, ưa thích Phật, tùy chỗ đáng thấy đều được thấy. Do đó: ‘’Cảm ứng đạo giao.’’
Phật vốn là bình đẳng, song chúng sinh có căn lành mới nhìn thấy Phật. Nếu chúng sinh chẳng có căn lành, thì chẳng cách chi nhìn thấy được Phật. Vì cơ duyên chưa thành thục, tức căn cơ chẳng đủ. Giống như máy truyền hình, nếu tìm chẳng đúng chỗ, thì hình ảnh chẳng hiện ra.
Ư nhất Phật thân thượng, Ở trên một thân Phật
Hóa vi vô lượng Phật, Hóa làm vô lượng Phật
Lôi âm biến chúng sát, Tiếng vang khắp các cõi
Diễn Pháp thâm như hải. Nói pháp sâu như biển.
Ở trên một thân Phật, có thể biến hóa ra vô lượng Phật. Âm thanh Phật nói pháp như tiếng sấm, vang khắp tất cả cõi Phật, khiến cho tất cả chúng sinh đều nghe được pháp của Phật nói, sâu rộng như biển cả.
Nhất nhất mao khổng trung, Trong mỗi lỗ chân lông
Quang võng biến thập phương, Lưới quang khắp mười phương
Diễn Phật diệu âm thanh, Diễn nói âm thanh Phật
Điều bỉ nan điều giả. Ðiều phục kẻ khó điều.
Trong mỗi lỗ chân lông trên thân của Phật, phóng ra quang minh, ở trong hư không kết lại thành lưới. Lưới quang minh đó, đầy khắp mười phương pháp giới, ở trong quang minh diễn nói diệu âm thanh của Phật, khiến cho chúng sinh cang cường khó điều khó phục, bỏ mê về giác, lìa khổ được vui.
Diệu âm thanh đó, giống như âm thanh Phật nói pháp. Phật nói pháp là khiến cho chúng sinh cải ác hướng thiện, phát tâm bồ đề, đồng thành Phật đạo.
Như Lai quang minh trung, Trong quang minh Như Lai
Thường xuất thâm diệu âm, Thường vang tiếng sâu hay
Tán Phật công đức hải, Khen biển công đức Phật
Cập Bồ Tát sở hạnh. Và Bồ Tát tu hành.
Ở trong quang minh của Phật phóng ra, luôn luôn diễn nói pháp âm vi diệu sâu xa. Diệu âm đó, đều khen ngợi công đức của Phật tu như biển cả. Chẳng những khen ngợi Phật, khen ngợi Pháp, khen ngợi Tăng, mà còn khen ngợi hạnh môn tu hành của tất cả Bồ Tát.
Phật chuyển chánh Pháp luân, Phật chuyển chánh pháp luân
Vô lượng vô hữu biên, Vô lượng chẳng bờ mé
Sở thuyết pháp vô đẳng, Pháp nói ra cao siêu
Thiển trí bất năng trắc. Trí cạn chẳng dò được.
Mục đích Phật chuyển bánh xe pháp, là khiến cho tất cả chúng sinh khai mở chánh tri chánh kiến, mà trừ khử đi tà tri tà kiến. Chánh tri chánh kiến là chánh pháp, lợi kẻ khác chẳng lợi mình. Tà tri tà kiến là tà pháp, ích kỷ lợi mình. Chánh pháp là vô lượng chẳng có bờ mé. Chánh pháp nói ra rất là cao siêu, siêu hơn tà pháp của ngoại đạo. Pháp ngoại đạo chẳng thể nào so sánh với pháp của Phật, khác một trời một vực. Người trí cạn không thể nào minh bạch được chân lý của Phật pháp, cho nên không thể y pháp tu hành.
Nhất thiết thế giới trung, Trong tất cả thế giới
Hiện thân thành chánh giác, Hiện thân thành Chánh giác
Các các khởi thần biến, Phật đều khởi thần biến
Pháp giới tất sung mãn. Pháp giới đều sung mãn.
Phật ở trong mười phương tất cả thế giới, hiện thân Phật mà thành Chánh giác. Mỗi vị Phật đều hiện thần thông biến hóa, sung mãn khắp mười phương pháp giới, khiến cho tất cả chúng sinh, nghe pháp mà khai ngộ, chứng quả vị Phật.
Như Lai nhất nhất thân, Mỗi mỗi thân Như Lai
Hiện Phật đẳng chúng sanh, Hiện Phật đồng chúng sinh
Nhất thiết vi trần sát, Tất cả hạt bụi cõi
Phổ hiện thần thông lực. Khắp hiện sức thần thông.
Mỗi phân thân của Phật, lại hiện ra chư Phật đang ngồi đạo tràng, số lượng đồng với chúng sinh. Cõi nước nhiều như hạt bụi mười phương thế giới hải, đều có sức thần thông của Phật thị hiện.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: pháp hỉ tuệ quang minh, thừa Phật uy thần, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, ở trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Pháp Hỷ Huệ Quang Minh, nương oai thần của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó ở trong đại chúng hải hội, lại có một vị đại Bồ Tát tên là Pháp Hỷ Huệ Quang Minh. Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên, của tất cả chúng sinh trong mười phương pháp giới, mà nói ra bài kệ.
Phật thân thường hiển hiện, Thân Phật thường hiển hiện
Pháp giới tất sung mãn, Pháp giới đều sung mãn
Hằng diễn quảng đại âm, Luôn nói tiếng rộng lớn
Phổ chấn thập phương quốc. Chấn khắp mười phương cõi.
Pháp thân của Phật, luôn luôn hiển hiện ở trong tâm chúng sinh. Hết thảy mười phương pháp giới, đều sung mãn pháp thân của Phật, thường diễn nói pháp âm rộng lớn. Pháp âm đó chấn động khắp mười phương cõi nước, khiến cho tất cả chúng sinh đều giác ngộ.
Như Lai phổ hiện thân, Như Lai khắp hiện thân
Biến nhập ư thế gian, Vào khắp trong thế gian
Tùy chúng sanh lạc dục, Tùy chúng sinh ưa thích
Hiển thị thần thông lực. Hiển bày sức thần thông.
Pháp thân của Phật không lớn không nhỏ, không đến không đi, lớn như pháp giới, nhỏ tựa như hạt bụi. Thân Phật đầy khắp mọi nơi, vô hiện vô bất hiện, chẳng đến cũng chẳng đi, cho nên sung mãn khắp thế gian. Phật tùy thuận sự ưa thích của chúng sinh, mà hiển thị sức thần thông, tức cũng là chúng sinh mong muốn gì, thì Phật thị hiện cái đó, hiển hiện sức uy thần để gia trì cho chúng sinh.
Phật tùy chúng sanh tâm, Phật tùy tâm chúng sinh
Phổ hiện ư kỳ tiền, Khắp hiện ở trước họ
Chúng sanh sở kiến giả, Chúng sinh ai thấy được
Giai thị Phật thần lực. Ðều nhờ thần lực Phật.
Phật ứng theo căn cơ của chúng sinh, tùy tâm của chúng sinh, khắp hiện ở trước chúng sinh. Chúng sinh thấy được Phật đều là thần thông biến hóa của Phật.
Quang minh vô hữu biên, Quang minh chẳng bờ mé
Thuyết Pháp diệc vô lượng, Nói pháp cũng vô lượng
Phật tử tùy kỳ trí, Phật tử tùy trí Phật
Năng nhập năng quan sát. Vào được quán sát được.
Quang minh của Phật chẳng có bờ mé, Phật thường diễn nói diệu pháp cũng vô lượng. Ðệ tử của Phật tùy theo trí tuệ của Phật, mà vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển, đắc được diệu quán sát trí.
Phật thân vô hữu sanh, Thân Phật chẳng có sinh
Nhi năng thị xuất sanh, Mà hay thị hiện sinh
Pháp tánh như hư không, Pháp tánh như hư không
Chư Phật ư trung trụ. Chư Phật ở trong đó.
Pháp thân của Phật chẳng sinh chẳng diệt, mà tùy thuận chúng sinh thị hiện sinh ra. Pháp tánh của Phật như hư không, tất cả chư Phật đều trụ ở trong pháp tánh, tức cũng là trụ ở trong hư không.
Vô trụ diệc vô khứ, Chẳng ở cũng chẳng đi
Xứ xứ giai kiến Phật, Nơi nơi đều thấy Phật
Quang minh mị bất châu, Quang minh đâu chẳng có
Danh xưng tất viễn văn. Danh đồn xa đều nghe.
Phật chẳng đến, cũng chẳng đi; chẳng đi, cũng chẳng đến, nơi nào cũng đều thấy Phật. Quang minh của Phật phóng ra chiếu khắp mọi nơi. Danh đồn của Phật bất cứ xa ở đâu cũng đều nghe.
Vô thể vô trụ xứ, Vô thể chẳng trụ xứ
Diệc vô sanh khả đắc, Cũng chẳng sinh chẳng diệt
Vô tướng diệc vô hình, Không tướng cũng không hình
Sở hiện giai như ảnh. Sở hiện đều như ảnh.
Pháp thân của Phật chẳng có thể tướng. Vì chẳng có thể tướng, cho nên chẳng có trụ xứ. Cũng chẳng có sinh, cũng chẳng có diệt, cũng chẳng có tướng, cũng chẳng có hình. Pháp thân sở hiện như bọt nước như ảnh. Bọt nước, ảnh, là hư vọng, pháp thân của Phật quyết thật tồn tại, bất quá chẳng nhìn thấy mà thôi.
Phật tùy chúng sanh tâm, Phật tùy tâm chúng sinh
Vì hưng Đại pháp vân, Mà nổi mây pháp lớn
Chủng chủng phương tiện môn, Ðủ thứ môn phương tiện
Thị ngộ nhi điều phục. Khai ngộ mà điều phục.
Phật hay tùy thuận tâm chúng sinh, mà nổi mây pháp lớn, hết thảy đủ thứ môn phương tiện, đều là chỉ bày chúng sinh, khai ngộ chúng sinh, điều phục chúng sinh.
Nhất thiết thế giới trung, Trong tất cả thế giới
Kiến Phật tọa đạo tràng, Thấy Phật ngồi Ðạo tràng
Đại chúng sở vi nhiễu, Ðại chúng cùng vây quanh
Chiếu diệu thập phương quốc. Chiếu soi mười phương cõi.
Trong tất cả cõi nước mười phương, tất cả chúng sinh đều thấy Phật ngồi tại Ðạo tràng, lại có các Bồ Tát Thánh chúng vây quanh Phật. Quang minh của Phật chiếu soi khắp tất cả cõi nước mười phương pháp giới.
Nhất thiết chư Phật thân, Thân của tất cả Phật
Giai hữu vô tận tướng, Ðều có vô tận tướng
Thị hiện tuy vô lượng, Tuy thị hiện vô lượng
Sắc tướng chung bất tận. Sắc tướng chẳng hết được.
Thân của tất cả chư Phật mười phương ba đời, đều có vô tận tướng tốt trang nghiêm. Tuy Phật thị hiện thân vô lượng, mà báo thân vốn có chẳng thể hết được.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: hương diệm quang phổ minh tuệ, thừa Phật uy thần, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Hương Diễm Quang Phổ Minh Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, ở trong đại chúng hải hội, lại có một vị đại Bồ Tát tên là Hương Diệu Quang Phổ Minh Huệ. Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của chúng sinh trong mười phương thế giới, mà nói ra bài kệ.
Thử hội chư Bồ-tát, Các Bồ Tát hội này
Nhập Phật nan tư địa, Vào Phật vị khó nghĩ
Nhất nhất giai năng kiến, Hết thảy đều thấy được
Nhất thiết Phật thần lực. Thần lực của chư Phật.
Tất cả các đại Bồ Tát ở trong pháp hội đó, đều vào được địa vị khó nghĩ bàn của Phật. Mỗi vị Bồ Tát, đều thấy được sức thần thông của tất cả chư Phật.
Trí thân năng biến nhập, Trí thân khắp vào được
Nhất thiết sát vi trần, Tất cả hạt bụi cõi
Kiến thân tại bỉ trung, Thấy thân ở trong đó
Phổ kiến ư chư Phật. Khắp thấy nơi chư Phật.
Trí huệ thân của Phật, khắp vào được trong tất cả hạt bụi thế giới. Mỗi chúng sinh, đều thấy thân Phật ở tại thế giới của các Ngài, và thấy chư Phật đang nói pháp, chúng sinh đang ở trước Phật nghe pháp.
Như ảnh hiện chúng sát, Như ảnh hiện các cõi
Nhất thiết Như Lai sở, Tất cả chỗ Như Lai
Ư bỉ nhất thiết trung, Trong tất cả chúng sinh
Tất hiện thần thông sự. Ðều hiện việc thần thông.
Pháp thân của Phật giống như ảnh, hay hiện trong tất cả cõi nước, hết thảy nơi chỗ của Phật. Ở trong tất cả chúng sinh, lại hiện ra việc thần thông để giáo hóa chúng sinh.
Phổ Hiền chư hạnh nguyện, Các hạnh nguyện Phổ Hiền
Tu trì dĩ minh khiết, Tu trị đã sáng sạch
Năng ư nhất thiết sát, Hay ở trong các cõi
Phổ kiến Phật thần biến. Khắp thấy Phật thần biến.
Bồ Tát Phổ Hiền phát mười đại nguyện vương, và đủ thứ pháp môn tu hành khác, sự tu hành và điều trị đã tròn sáng trong sạch. Ở trong tất cả các cõi Phật, đều khắp thấy thần thông biến hóa của Phật.
Thân trụ nhất thiết xứ, Thân Phật khắp mọi nơi
Nhất thiết giai bình đẳng, Tất cả đều bình đẳng
Trí năng như thị hành Trí tu hành như thế
Nhập Phật chi cảnh giới. Vào được cảnh giới Phật.
Pháp thân của Phật trụ khắp mọi nơi, do đó ‘’vô tại vô bất tại.’’ Tất cả chúng sinh đều bình đẳng, đắc được Phật quang phổ chiếu. Trí huệ của Phật tu hành như thế để giáo hóa chúng sinh, tất cả Bồ Tát đều vào được cảnh giới của Phật.
Dĩ chứng Như Lai trí, Ðã chứng Như Lai trí
Đẳng chiếu ư Pháp giới, Ðồng chiếu khắp pháp giới
Phổ nhập Phật mao khổng, Khắp vào lỗ lông Phật
Nhất thiết chư sát hải. Tất cả các biển cõi.
Hết thảy Bồ Tát, đều đã chứng được trí huệ của Phật, đều phóng quang chiếu khắp pháp giới, lại vào khắp trong mỗi lỗ lông thân Phật, cũng vào trong tất cả biển cõi.
Nhất thiết Phật quốc độ, Tất cả cõi nước Phật
Giai hiện thần thông lực, Ðều hiện sức thần thông
Thị hiện chủng chủng thân, Thị hiện đủ thứ thân
Cập chủng chủng danh hiệu. Và đủ thứ danh hiệu.
Hết thảy tất cả cõi nước Phật, đều hiện ra sức thần thông biến hóa của Phật. Lại thị hiện đủ thứ thân và đủ thứ danh hiệu. Phật có mười thân, lại có mười danh hiệu.
Năng ư nhất niệm khoảnh, Trong thời gian một niệm
Phổ hiện chư thần biến, Khắp hiện các thần biến
Đạo tràng thành chánh giác, Ðạo tràng thành Chánh giác
Cập chuyển diệu pháp luân. Và chuyển bánh xe pháp.
Phật có thể ở trong một niệm, mà khắp hiện ra tất cả thần thông biến hóa. Phật ngồi nơi Bồ đề đạo tràng thành Chánh đẳng chánh giác, và chuyển bánh xe pháp giáo hóa chúng sinh.
Nhất thiết quảng đại sát, Tất cả cõi rộng lớn
Ức kiếp bất tư nghị, Ức kiếp không nghĩ bàn
Bồ Tát tam muội trung, Bồ Tát trong tam muội
Nhất niệm giai năng hiện. Một niệm đều hiện được.
Ở trong tất cả cõi rộng lớn vô biên, trải qua ức kiếp thời gian, tức cũng là bất khả tư nghì kiếp. Hết thảy Bồ Tát ở trong tam muội, trong một niệm đều hiện ra được.
Nhất thiết chư Phật độ, Tất cả cõi chư Phật
Nhất nhất chư Bồ-tát, Mỗi mỗi các Bồ Tát
Phổ nhập ư Phật thân, Khắp vào nơi thân Phật
Vô biên diệc vô tận. Vô biên cũng vô tận.
Hết thảy tất cả cõi nước chư Phật, mỗi vị Bồ Tát, khắp vào trong lỗ lông nơi thân Phật. Các Bồ Tát đó, nhiều như số hạt bụi thế giới hải, cho nên nói vô biên cũng vô tận.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: sư tử phấn tấn tuệ quang minh, thừa Phật uy thần, biến quán thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, ở trong đại chúng lại có đại Bồ Tát tên là Sư Tử Phấn Tấn Huệ Quang Minh, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, trong đại chúng hải hội, lại có đại Bồ Tát tên là Sư Tử Phấn Tấn Huệ Quang Minh, Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của chúng sinh trong mười phương pháp giới, mà nói ra bài kệ.
Tỳ Lô Giá Na Phật Tỳ Lô Giá Na Phật
Năng chuyển chánh Pháp luân Hay chuyển chánh pháp luân
Pháp giới chư quốc độ Pháp giới các cõi nước
Như vân tất chu biến Như mây đều khắp cùng.
Tỳ Lô Giá Na dịch là “Biến nhất thiết xứ”, là pháp thân của Phật. Vị Phật này, thường chuyển bánh xe pháp không ngừng, trong các cõi Phật hết thảy pháp giới. Pháp thân của Phật như mây, khắp cùng hết thảy.
Thập phương trung sở hữu, Trong hết thảy mười phương
Chư Đại thế giới hải, Các đại thế giới hải
Phật thần thông nguyện lực, Phật thần thông nguyện lực
Xứ xứ chuyển pháp luân. Nơi nơi chuyển pháp luân.
Trong mười phương pháp giới, hết thảy tất cả đại thế giới hải, vì thần thông nguyện lực của Phật, cho nên trong mỗi thế giới, đều chuyển đại pháp luân, giáo hóa chúng sinh.
Nhất thiết chư sát độ, Tất cả các cõi nước
Quảng đại chúng hội trung, Trong chúng hội rộng lớn
Danh hiệu các bất đồng, Danh hiệu Phật khác nhau
Tùy ưng diễn diệu pháp. Tùy cơ diễn diệu pháp.
Trong hết thảy tất cả các cõi nước, có pháp hội rộng lớn vô biên, trong pháp hội có Phật Bồ Tát và chúng sinh. Hết thảy các Ðức Phật danh hiệu đều khác nhau, đều tùy theo căn cơ của chúng sinh, mà diễn nói diệu pháp.
Như Lai đại uy lực, Như Lai đại oai lực
Phổ Hiền nguyện sở thành, Nguyện Phổ Hiền thành tựu
Nhất thiết quốc độ trung, Trong tất cả cõi nước
Diệu-Âm vô bất chí. Diệu âm vang khắp cùng.
Phật có đại oai thần lực, đó là nguyện lực của Bồ Tát Phổ Hiền thành tựu. Trong hết thảy tất cả các cõi nước, diệu âm của Phật nói pháp, chẳng có nơi nào mà chẳng nghe.
Phật thân đẳng sát trần, Thân Phật đồng bụi cõi
Phổ vũ ư Pháp vũ, Khắp mưa xuống pháp vũ
Vô sanh vô sái biệt, Không sinh không khác biệt
Hiện nhất thiết thế gian. Hiện tất cả thế gian.
Pháp thân của mỗi vị Phật, nhiều đồng như số hạt bụi cõi nước. Phật vì giáo hóa tất cả chúng sinh, mà khắp mưa xuống pháp vũ, để đượm nhuần chúng sinh. Phật chẳng sinh chẳng diệt, chẳng có phân biệt, khắp hiện trong tất cả thế gian.
Vô số chư ức kiếp, Vô số những ức kiếp
Nhất thiết trần sát trung, Trong tất cả bụi cõi
Vãng tích sở hạnh sự, Thuở xưa đã tu hành
Diệu-Âm hàm cụ diễn. Diệu âm đều nói đủ.
Có vô số biển ức kiếp, trong hết thảy tất cả bụi cõi. Thuở xưa Phật tu hành đủ thứ pháp môn, đủ thứ cảnh giới, ở trong diệu âm đều diễn nói đầy đủ.
Thập phương trần quốc độ, Mười phương các bụi cõi
Quang võng tất chu biến, Lưới quang đều khắp cùng
Quang trung tất hữu Phật, Trong quang đều có Phật
Phổ hóa chư quần sanh. Khắp hóa các quần sinh.
Mười phương hết thảy các cõi nước, nhiều như số hạt bụi, có lưới quang minh của Phật, phóng ra đều khắp cùng các cõi Phật. Ở trong quang minh, đều có Phật thị hiện khắp giáo hóa tất cả chúng sinh.
Phật thân vô sái biệt, Thân Phật chẳng khác biệt
Sung mãn ư Pháp giới, Sung mãn khắp pháp giới
Năng lệnh kiến sắc thân, Hay khiến thấy sắc thân
Tùy ky thiện điều phục. Tùy cơ khéo điều phục.
Pháp thân của Phật, tuy chẳng có khác biệt, song pháp thân của Phật sung mãn pháp giới, cũng khiến cho chúng sinh, thấy được sắc thân của Phật. Tùy thuận căn tánh của chúng sinh, khéo dùng pháp môn phương tiện, để điều phục chúng sinh cang cường.
Tam thế nhất thiết sát, Ba đời tất cả cõi
Sở hữu chúng Đạo sư, Hết thảy các Ðạo sư
Chủng chủng danh hiệu thù, Ðủ loại các danh hiệu
Vì thuyết giai lệnh kiến. Vì nói đều khiến thấy.
Mười phương ba đời tất cả cõi nước chư Phật, hết thảy đại Ðạo Sư của tất cả chúng sinh, tức là Phật. Phật có đủ thứ danh hiệu khác nhau. Vì chúng sinh nói pháp, khiến cho chúng sinh thấy được diệu sắc thân của Phật.
Quá vị cập hiện tại, Quá vị và hiện tại
Nhất thiết chư Như Lai, Tất cả các Như Lai
Sở chuyển diệu pháp luân, Chuyển bánh xe diệu pháp
Thử hội giai đắc văn. Hội này đều được nghe.
Ðời quá khứ, đời hiện tại, đời vị lai, tất cả chư Phật. Mỗi một vị Phật chuyển bánh xe diệu pháp, trong pháp hội dưới Bồ đề đạo tràng, đều nghe được diệu pháp của chư Phật ba đời diễn nói.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: pháp hải tuệ công đức tạng, thừa Phật uy thần, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Pháp Hải Huệ Công Ðức Tạng, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, trong đại chúng hải hội, lại có vị đại Bồ Tát tên là Pháp Hải Huệ Công Ðức Tạng. Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương, mà nói ra bài kệ.
Thử hội chư Phật tử, Các Phật tử hội này
Thiện tu chúng trí tuệ, Khéo tu các trí huệ
Tư nhân dĩ năng nhập, Thảy đều đã vào được
Như thị phương tiện môn. Môn phương tiện như vậy.
Tất cả các Phật tử ở trong pháp hội Bồ đề đạo tràng, đều khéo tu pháp môn Bát nhã ba la mật. Những phật tử đó, đã vào được môn trí huệ, giống như pháp môn phương tiện như thế, các Ngài đều thấy rõ.
Nhất nhất quốc độ trung, Trong mỗi mỗi cõi nước
Phổ diễn quảng đại âm, Khắp nói pháp rộng lớn
Thuyết Phật sở hạnh xứ, Nói Phật đã tu hành
Châu văn thập phương sát. Nghe khắp mười phương cõi.
Mỗi vị Phật ở trong mỗi cõi nước, khắp diễn nói diệu pháp rộng lớn không thể nghĩ bàn. Tức là nói trong đời quá khứ Phật đã tu hành như thế nào ? Phát nguyện như thế nào ? Thành Phật như thế nào ? Âm thanh rộng lớn đó, khắp các cõi Phật trong mười phương đều nghe được.
Nhất nhất tâm niệm trung, Trong mỗi mỗi tâm niệm
Phổ quán nhất thiết pháp, Quán khắp tất cả pháp
An trụ chân như địa, An trụ tại chân như
Liễu đạt chư pháp hải. Thấu đạt biển các pháp.
Mỗi vị Phật ở trong tâm niệm của các Ngài, quán sát khắp tất cả các Pháp. Các Ngài đều an trụ tại chân như pháp tánh, minh bạch biển các pháp thật tướng của tất cả các pháp.
Nhất nhất Phật thân trung, Trong mỗi mỗi thân Phật
Ức kiếp bất tư nghị, Ức kiếp chẳng nghĩ bàn
Tu tập Ba-la-mật, Tu tập Ba la mật
Cập nghiêm tịnh quốc độ. Và nghiêm tịnh cõi nước.
Trong mỗi lỗ chân lông trên thân Phật, hiện ra vô lượng cõi nước chư Phật. Trong quá khứ Phật trải qua vô lượng ức kiếp, tu pháp môn không thể nghĩ bàn. Vị lai độ chúng sinh cũng không thể nghĩ bàn. Thuở xưa, khi Phật ở tại nhân địa, thì tu tất cả pháp Ba la mật và cúng dường chư Phật, trang nghiêm thanh tịnh cõi nước chư Phật, hạnh môn như thế vô lượng vô biên.
Nhất nhất vi trần trung, Trong mỗi mỗi hạt bụi
Năng chứng nhất thiết pháp, Chứng được tất cả pháp
Như thị vô sở ngại, Như vậy không chướng ngại
Châu hành thập phương quốc. Ði khắp mười phương cõi.
Tất cả chư Phật có thể ở trong mỗi hạt bụi, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, mà chứng tất cả Phật pháp. Cảnh giới như thế không chướng ngại, chẳng phải một số phàm phu tục tử minh bạch được. Phật đến khắp mười phương cõi nước để giáo hóa chúng sinh.
Nhất nhất Phật sát trung, Trong mỗi cõi nước Phật
Vãng nghệ tất vô dư, Ðến khắp chẳng sót thừa
Kiến Phật thần thông lực, Thấy thần lực của Phật
Nhập Phật sở hạnh xứ. Vào sở tu của Phật.
Trong mỗi cõi nước Phật, Phật đều đi giáo hóa chúng sinh. Tất cả chúng sinh thấy Phật hiện sức thần thông, đều vào được pháp môn tu hành của Phật. Thần thông của Phật như thế không thể nghĩ bàn.
Chư Phật quảng đại âm, Tiếng chư Phật rộng lớn
Pháp giới mị bất văn, Pháp giới đâu chẳng nghe
Bồ Tát năng liễu tri, Bồ Tát thấu rõ được
Thiện nhập âm thanh hải. Khéo vào biển âm thanh.
Hết thảy âm thanh của chư Phật, diễn nói diệu pháp rộng lớn vô biên, chúng sinh trong mười phương pháp giới, chẳng ai mà chẳng nghe tiếng rộng lớn của Phật. Tất cả Bồ Tát đều thấu rõ được cảnh giới của Phật, khéo vào biển âm thanh của Phật nói pháp, mà tiếp thọ diệu pháp.
Kiếp hải diễn Diệu-Âm, Biển kiếp diễn diệu âm
Kỳ âm đẳng vô biệt, Âm đó đều bình đẳng
Trí Chu tam thế giả, Trí rõ khắp ba đời
Nhập bỉ âm thanh địa. Vào trong âm thanh đó.
Phật ở trong biển kiếp diễn nói diệu pháp, âm thanh đó bình đẳng chẳng có phân biệt. Giống như mưa, khắp thấm nhuần tất cả chúng sinh, khiến cho đều đắc được pháp vũ. Trí huệ thông đạt khắp ba đời, trí huệ của người nào thông đạt ba đời, thì vào được cảnh giới âm thanh Phật nói diệu pháp.
Chúng sanh sở hữu âm, Hết thảy tiếng chúng sinh
Cập Phật tự tại thanh, Và tiếng Phật tự tại
Hoạch đắc âm thanh trí, Ðắc được tiếng trí huệ
Nhất thiết giai năng liễu. Tất cả đều thấu hiểu.
Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sinh theo loài đều hiểu rõ. Lời lẽ của Phật nói, tất cả chúng sinh đều hiểu được, chẳng cần phiên dịch. Tóm lại, lời nói của tất cả chúng sinh, Phật đều biết nói. Phật nói pháp là tiếng tự tại, bất cứ loài chúng sinh nào mà nghe được, đều đắc được tự tại, và đắc được lời lẽ trí huệ. Vì có trí tuệ cho nên Phật nói tất cả pháp, chúng sinh đều thâm nhập hiểu rõ.
Tùng địa nhi đắc địa, Từ địa mà đắc địa
Trụ ư lực địa trung, Trụ ở nơi thập lực
Ức kiếp cần tu hành, Ức kiếp siêng tu hành
Sở hoạch Pháp như thị. Ðắc được pháp như thế.
Từ Sơ địa mà chứng đắc cảnh giới tất cả Ðịa. Lại trụ ở địa vị thập lực của Phật, phải trải qua ức kiếp thời gian lâu dài, siêng tu hành mới minh bạch tất cả các pháp, đắc được nhất thiết trí. Pháp đắc được giống như ở trước đã nói không thể nghĩ bàn.
Nhĩ thời,chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát danh, Tuệ Đăng Phổ Minh, thừa Phật uy thần, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết
Bấy giờ, ở trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Huệ Ðăng Phổ Minh, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, ở trong đại chúng, lại có vị đại Bồ Tát tên là Huệ Ðăng Phổ Minh. Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương, mà nói ra bài kệ.
Nhất thiết chư Như Lai, Tất cả các Như Lai
Viễn ly ư chúng tướng, Xa lìa hết mọi tướng
Nhược năng tri thị pháp, Nếu biết được pháp đó
Nãi kiến thế Đạo sư. Mới thấy đức Thế Tôn.
Mười phương ba đời tất cả chư Phật, đều lìa hết thảy các tướng, tức là thấu đạt vô tướng. Tuy vô tướng, nhưng vô sở bất tướng. Nếu minh bạch pháp nầy, thì thật sự thấy được đức Thế Tôn, thật sự thấy được đấng Ðạo Sư.
Bồ Tát tam muội trung, Bồ Tát trong tam muội
Tuệ quang phổ minh liễu, Huệ quang chiếu sáng khắp
Năng tri nhất thiết Phật, Biết được tất cả Phật
Tự tại chi thể tánh. Thể tánh rất tự tại.
Bồ Tát trụ trong chánh định chánh thọ. Trí huệ quang của các Ngài, chiếu sáng khắp tất cả thế giới, lại biết được tất cả cảnh giới của Phật, thể tánh tự tại. Thể tánh như như bất động, liễu liễu thường minh.
Kiến Phật chân thật thể, Thấy Phật thể chân thật
Tức ngộ thậm thâm Pháp, Liền ngộ pháp thâm sâu
Phổ quán ư Pháp giới, Quán khắp nơi pháp giới
Tùy nguyện nhi thọ thân. Theo nguyện mà thọ thân.
Nếu thấy được tướng thể tánh chân thật của Phật, thì sẽ minh bạch pháp vi diệu thâm sâu, khắp quán sát tất cả pháp giới. Nguyện đi đến đâu, thì tùy theo nguyện lực mà thọ thân.
Tùng ư phước hải sanh, Từ trong biển phước sinh
An trụ ư trí địa, An trụ nơi trí địa
Quan sát nhất thiết pháp Quán sát tất cả pháp
Tu hành tối thắng đạo. Tu hành đạo tối thắng.
Phật là từ trong biển phước sinh ra, trụ an ổn nơi trí địa. Phật quán sát được thật tướng của các pháp, mà tu hành pháp môn thù thắng nhất.
Nhất thiết Phật sát trung Trong tất cả cõi Phật
Nhất thiết Như Lai sở, Hết thảy chỗ Như Lai
Như thị biến Pháp giới, Như vậy khắp pháp giới
Tất kiến chân thật thể. Ðều thấy thể chân thật.
Trong cõi nước của tất cả chư Phật trong mười phương ba đời, hết thảy đạo tràng của chư Phật, giống như vậy khắp trong pháp giới, đều thấy được thể chân thật của Phật.
Thập phương quảng đại sát, Mười phương cõi rộng lớn
Ức kiếp cần tu hành, Ức kiếp siêng tu hành
Năng du Chánh-biến-Tri, Mới thành Chánh biến tri
Nhất thiết chư pháp hải. Biết tất cả các pháp.
Trong cõi nước rộng lớn vô biên trong mười phương, trong ức kiếp Phật siêng tu hành tinh tấn, mới thành Chánh Biến Tri (chẳng gì mà chẳng biết, chẳng gì mà chẳng thấu), minh bạch đạo lý thật tướng của các pháp.
Duy nhất kiên mật thân, Chỉ một thân kim cang
Nhất thiết trần trung kiến, Thấy trong tất cả bụi
Vô sanh diệc vô tướng, Không sinh cũng không tướng
Phổ hiện ư chư quốc. Hiện khắp trong các cõi.
Chỉ một thân kim cang kiên mật của Phật, ở trong hạt bụi mười phương thế giới đều thấy được. Thân kim cang kiên mật của Phật, không sinh cũng không tướng, nhưng vẫn thị hiện khắp thể chân thật, ở tại đạo tràng trong hết thảy cõi nước chuyển đại pháp luân, giáo hóa tất cả chúng sinh.
Tùy chư chúng sanh tâm, Tùy tâm của chúng sinh
Phổ hiện ư kỳ tiền, Khắp hiện ở trước họ
Chủng chủng thị điều phục, Ðủ phương tiện điều phục
Tốc lệnh hướng Phật đạo. Sớm hướng về Phật đạo.
Phật tùy thuận tâm nguyện của chúng sinh mà thị hiện, phàm là chúng sinh có duyên, đều thấy được Phật, nghe Pháp, gặp Tăng, Tam Bảo khắp hiện ở trước chúng sinh. Phật dùng đủ thứ phương tiện pháp môn, để điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho họ trong thời gian ngắn, sớm y pháp tu hành mà chứng Phật đạo.
Dĩ Phật uy thần cố, Bởi nhờ Phật oai thần
Xuất hiện chư Bồ-tát, Xuất hiện các Bồ Tát
Phật lực sở gia trì, Ðược Phật lực gia trì
Phổ kiến chư Như Lai. Khắp thấy các Như Lai.
Nhờ đại oai thần lực của Phật, mà ở trong quang minh của Phật phóng ra từ lỗ chân lông, hiện ra tất cả các Bồ tát. Phật dùng mười lực để gia trì hết thảy Bồ Tát, khiến cho họ khắp thấy được tất cả chư Phật.
Nhất thiết chúng Đạo sư, Hết thảy các Ðạo sư
Vô lượng uy thần lực, Vô lượng oai thần lực
Khai ngộ chư Bồ-tát, Khai ngộ các Bồ Tát
Pháp giới tất chu biến. Khắp tận cùng pháp giới.
Hết thảy tất cả các Ðạo sư, đều có vô lượng vô biên đại oai thần lực. Phật gia trì cho tất cả các Bồ Tát, khiến cho các Ngài khai ngộ. Bồ Tát khai ngộ, mới đến khắp mười phương pháp giới hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sinh.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: hoa diệm kế phổ minh trí, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, ở trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Hoa Diễm Kế Phổ Minh Trí, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó trong hải hội, lại có vị đại Bồ Tát tên là Hoa Diễm Kế Phổ Minh Trí. Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh trong mười phương mà nói ra bài kệ.
Nhất thiết quốc độ trung, Trong tất cả cõi nước
Phổ diễn vi diệu âm, Khắp diễn pháp vi diệu
Xưng dương Phật công đức, Khen ngợi công đức Phật
Pháp giới tất sung mãn. Sung mãn khắp pháp giới.
Trong tất cả cõi nước của chư Phật, khắp diễn nói diệu pháp âm không thể nghĩ bàn, khen ngợi hết thảy công đức của Phật, trong mười phương pháp giới, đều sung mãn âm thanh khen ngợi Phật.
Phật dĩ pháp vị thân, Phật dùng pháp làm thân
Thanh tịnh như hư không, Thanh tịnh như hư không
Sở hiện chúng sắc hình, Hiện ra các sắc hình
Lệnh nhập thử pháp trung. Khiến vào trong pháp đó.
Phật có ba thân : Pháp thân, báo thân và ứng thân. Pháp thân là Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật, báo thân là Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật, ứng thân là Thiên Bách Ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật. Tỳ Lô Giá Na Phật dùng pháp làm thân. Pháp thân thanh tịnh như hư không, song hư không lại bao la vạn tượng, ở trong hư không hiện ra tất cả hình sắc, khiến cho tất cả chúng sinh có thể vào được trong pháp thể đó, mà đắc được Thanh Tịnh Pháp Thân, Viên Mãn Báo Thân, Thiên Bách Ức Hóa Thân.
Nhược hữu thâm tín hỉ, Nếu ai tin vui sâu
Cập vi Phật nhiếp thọ, Và được Phật nhiếp thọ
Đương tri như thị nhân, Nên biết chúng sinh đó
Năng sanh liễu Phật trí. Hay sinh Phật trí huệ.
Nếu như có chúng sinh hay sinh niềm tin sâu rộng, hoan hỷ Phật pháp và có duyên với Phật, tất được Phật nhiếp thọ. Nên biết chúng sinh đó, hay sinh ra trí huệ của Phật.
Chư hữu thiểu trí giả, Những người kém trí huệ
Bất năng trai thử pháp, Không thể biết pháp này
Tuệ-nhãn thanh tịnh nhân, Người huệ nhãn thanh tịnh
Ư thử nãi năng kiến. Mới thấy được pháp này.
Những người ngu si chẳng minh bạch được pháp này. Người có trí huệ nhãn thì thanh tịnh chẳng nhiễm, chẳng có tạp niệm, mới minh bạch được đạo lý pháp này.
Dĩ Phật uy thần lực, Nhờ oai lực của Phật
Quan sát nhất thiết pháp, Quán sát tất cả pháp
Nhập trụ cập xuất thời, Khi vào trụ và xuất
Sở kiến giai minh liễu. Chỗ thấy đều rõ ràng.
Nhờ đại oai thần lực của Phật, mới quán sát được tất cả các pháp. Dù lúc quán sát hoặc chẳng quán sát, các pháp thấy được đều minh bạch rõ ràng.
Nhất thiết chư pháp trung, Trong tất cả các pháp
Pháp môn vô hữu biên, Pháp môn chẳng bờ mé
Thành tựu nhất thiết trí, Thành tựu Nhất thiết trí
Nhập ư thâm pháp hải. Vào biển pháp thâm sâu.
Trong hết thảy tất cả các pháp, pháp môn chẳng có bờ mé, hay thành tựu Nhất thiết trí của chúng sinh, mà vào biển pháp sâu rộng, do đó:
’Vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển.’’
An trụ Phật quốc độ, An trụ cõi nước Phật
Xuất hưng nhất thiết xứ, Xuất hưng khắp mọi nơi
Vô khứ diệc vô lai, Không đến cũng không đi
Chư Phật Pháp như thị. Pháp chư Phật như vậy.
Phật trụ an ổn ở trong cõi nước chư Phật. Pháp thân của Phật xuất hưng khắp mọi nơi, song chẳng đến cũng chẳng đi, pháp thân của chư Phật cũng như vậy.
Nhất thiết chúng sanh hải, Tất cả biển chúng sinh
Phật thân như ảnh hiện, Thân Phật như ảnh hiện
Tùy kỳ giải sái biệt, Tùy hiểu biết khác nhau
Như thị kiến Đạo sư. Như vậy thấy Ðạo sư.
Hết thảy tất cả chúng sinh như biển cả. Thân Phật ảnh hiện trong biển chúng sinh, giống như ánh sáng mặt trời chiếu xuống biển cả. Tùy theo sự minh bạch thấu hiểu của chúng sinh khác nhau, mà thấy được bậc Ðạo Sư giáo hóa. Tức cũng là chúng sinh hiểu sâu, thì đắc được pháp ích sâu, chúng sinh hiểu cạn, thì đắc được pháp ích cạn.
Nhất thiết mao khổng trung, Trong tất cả lỗ lông
Các các hiện thần thông, Thảy đều hiện thần thông
Tu hành Phổ Hiền nguyện, Tu hạnh nguyện Phổ Hiền
Thanh tịnh giả năng kiến. Ai thanh tịnh được thấy.
Trong mỗi lỗ chân lông của Phật, đều hiện ra cõi nước, nhiều như hạt bụi mười phương thế giới. Chư Phật đang ở trong cõi nước nói pháp, giáo hóa chúng sinh. Trong mỗi lỗ chân lông chư Phật, lại hiện đại thần thông, khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm bồ đề, tu hạnh nguyện Phổ Hiền. Tâm ai thanh tịnh thì người đó thấy được.
Phật dĩ nhất nhất thân, Phật dùng mỗi pháp thân
Xứ xứ chuyển pháp luân, Nơi nơi chuyển pháp luân
Pháp giới tất chu biến Pháp giới đều đến khắp
Tư nghị mạc năng cập. Chẳng thể nghĩ bàn được.
Mỗi pháp thân của Phật, ở nơi đâu cũng đều chuyển pháp luân, giáo hóa chúng sinh, đều đến khắp trong mười phương pháp giới. Cảnh giới này, chẳng phải phàm phu có thể nghĩ bàn được.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: uy đức tuệ vô tận quang, thừa Phật uy thần, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, ở trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Oai Ðức Huệ Vô Tận Quang, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, ở trong đại chúng hải hội, lại có đại Bồ Tát tên là Oai Ðức Huệ Vô Tận Quang. Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên, của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, mà nói ra bài kệ.
Nhất nhất Phật sát trung, Trong mỗi mỗi cõi Phật
Xứ xứ tọa đạo tràng, Nơi nơi ngồi đạo tràng
Chúng hội cọng vi nhiễu, Chúng hội cùng vây quanh
Ma quân tất tồi phục. Ma quân đều điều phục.
Trong mỗi cõi nước Phật, đều có Phật đang ngồi dưới Bồ đề đạo tràng. Bồ Tát trợ giúp Phật, để tuyên dương Phật pháp, cùng nhau khen ngợi Phật, vây quanh Phật. Các Ngài đều điều phục hết thảy ma quân.
Phật thân phóng quang minh, Thân Phật phóng quang minh
Biến mãn ư thập phương, Ðầy khắp trong mười phương
Tùy ưng nhi thị hiện, Sắc tướng phi nhất chủng.
Tùy ứng mà thị hiện Sắc tướng đều khác nhau.
Mỗi thân Phật đều phóng đại quang minh, sung mãn khắp mười phương pháp giới. Tùy theo sự cảm ứng của chúng sinh, mà thị hiện nhân duyên khác nhau, Phật hiện thân cũng khác nhau, đáng dùng thân gì độ được họ, thì hiện ra thân đó để vì họ nói pháp.
Nhất nhất vi trần nội, Trong mỗi mỗi hạt bụi
Quang minh tất sung mãn, Quang minh đều sung mãn
Phổ kiến thập phương độ, Khắp thấy mười phương cõi
Chủng chủng các sái biệt. Ðủ thứ sự khác nhau.
Trong mỗi cõi nước hạt bụi, quang minh của Phật đều sung mãn, hay khiến cho chúng sinh khắp thấy được mười phương cõi nước. Ðủ thứ sự khác biệt đều hiện ra.
Thập phương chư sát hải, Mười phương các biển cõi
Chủng chủng vô lượng sát, Ðủ thứ vô lượng cõi
Tất bình thản thanh tịnh, Ðều bằng phẳng thanh tịnh
Đế thanh bảo sở thành. Ðế thanh báu làm thành.
Trong biển cõi chư Phật mười phương, lại có đủ thứ vô lượng cõi nước. Những biển cõi nước đó, đều bằng phẳng thanh tịnh, đều dùng đế thanh báu làm thành.
Hoặc phước hoặc bàng trụ, Hoặc che hoặc dựa đứng
Hoặc tự liên hoa hợp, Hoặc tựa hoa sen khép
Hoặc viên hoặc tứ phương, Hoặc tròn hoặc hình vuông
Chủng chủng chúng hình tướng. Ðủ các thứ hình tướng.
Các thế giới đó, hoặc là hình lọng che, hoặc là hình dựa đứng, hoặc là giống như hoa sen khép lại, hoặc là hình tròn, hoặc là hình vuông, đủ thứ hình tướng khác nhau.
Pháp giới chư sát độ, Pháp giới các cõi nước
Châu hành vô sở ngại, Ði khắp chẳng gì ngại
Nhất thiết chúng hội trung, Trong tất cả chúng hội
Thường chuyển diệu pháp luân. Phật thường chuyển pháp luân.
Hết thảy các cõi Phật trong mười phương pháp giới, đều có Phật đi khắp giáo hóa, mà chẳng có gì chướng ngại. Phật ở trong pháp hội mỗi cõi nước, thường chuyển bánh xe pháp, để giáo hóa chúng sinh.
Phật thân bất tư nghị, Thân Phật không nghĩ bàn
Quốc độ tất tại trung, Ðều ở trong cõi nước
Ư kỳ nhất thiết xứ, Khắp hết thảy mọi nơi
Đạo thế diễn chân Pháp. Phật nói pháp chân thật.
Pháp thân của Phật diệu không thể tả. Hết thảy cõi nước, Phật đều đang nói diệu pháp. Tất cả mọi nơi, Phật đều diễn nói pháp chân thật không thể nghĩ bàn, tức cũng là pháp vi diệu thâm sâu vô thượng.
Sở chuyển diệu pháp luân, Diệu pháp-luân đã chuyển
Pháp tánh vô sái biệt, Pháp tánh không sai khác
Y ư nhất thật lý, Nương nơi một thật lý
Diễn thuyết chư Pháp tướng. Diễn thuyết các pháp-tướng.
Phật dĩ viên mãn âm, Phật chuyển bánh xe pháp
Xiển minh chân thật lý, Xiển minh lý chân thật
Tùy kỳ giải sái biệt, Theo hiểu biết khác nhau
Hiện vô tận Pháp môn. Hiện vô tận pháp môn.
Phật dùng diệu âm viên mãn, để xiển minh đạo lý chân thật. Tùy theo căn tánh của chúng sinh, mà nói pháp môn vô cùng vô tận.
Nhất thiết sát độ trung Trong tất cả cõi nước
Kiến Phật tọa đạo tràng, Thấy Phật ngồi đạo tràng
Phật thân như ảnh hiện, Thân Phật như ảnh hiện
Sanh diệt bất khả đắc. Sinh diệt bất khả đắc.
Trong cõi nước của tất cả chư Phật, đều thấy Phật đang ngồi ở tại Ðạo tràng. Thân Phật như mặt trăng hiện ra trong nước. Tâm nước chúng sinh thanh tịnh, thì thân Phật tự nhiên sẽ hiện vào. Chẳng có vọng tưởng tham sân si, thì tâm nước sẽ thanh tịnh, một bụi trần không nhiễm. Thân Phật chẳng sinh chẳng diệt, chẳng sạch chẳng dơ, chẳng tăng chẳng giảm.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: Pháp giới phổ minh tuệ, thừa Phật uy lực, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, ở trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Pháp Giới Phổ Minh Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, ở trong đại chúng hải hội, lại có vị đại Bồ Tát tên là Pháp Giới Phổ Minh Huệ. Ngài nương đại oai thần lực của Phật, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh, mà nói ra bài kệ.
Bồ Tát thuộc về pháp đại thừa, A La Hán thuộc về pháp tiểu thừa. A La Hán phân ra làm bốn quả :
Chứng được quả đầu tiên là Kiến đạo vị, đã đoạn được tám mươi tám phẩm kiến hoặc của tam giới.
Chứng được quả thứ hai A La Hán là Tu đạo vị, đã đoạn dục giới tư hoặc sáu phẩm trước.
Chứng được quả A La Hán thứ ba cũng là Tu đạo vị, đã đoạn dục giới tư hoặc ba phẩm sau. Ở trên là ba quả vị A La Hán hữu học vị.
Chứng được quả A La Hán thứ tư là Chứng đạo vị, là vô học vị, đã đoạn được tam giới cửu địa tám mươi mốt phẩm tư hoặc. Bồ Tát phân làm năm mươi mốt vị tức là :
– Thập tín
– Thập trụ
– Thập hạnh
– Thập hồi hướng
– Thập địa
– Ðẳng giác.
Từ sơ trụ vị của thập trụ bắt đầu, đoạn một phần vô minh hoặc, thì chứng được một phần pháp thân, thăng lên một vị. Nếu đoạn sạch hết vô minh hoặc, thì chứng được diệu giác, tức là quả vị Phật.
Trong Phật giáo vốn chẳng có phân biệt đại thừa tiểu thừa, chỉ có một thừa, tức cũng là Phật thừa. Ban đầu, khi Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, thì Bồ Tát trong mười phương đều đến Bồ đề đạo tràng nghe Phật diễn nói diệu lý. Song, cảnh giới của hàng Thanh Văn Duyên Giác quả nhỏ, chẳng thể tiếp thọ pháp môn của Bồ Tát. Tuy các Ngài ở trong pháp hội, song :
‘’Có mắt chẳng thấy Lô Xá Na
Có tai chẳng nghe giáo viên đốn.’’
Phật Lô Xá Na hiện thân ngàn trượng, nhưng người tiểu thừa chỉ nhìn thấy Phật hiện tướng Tỳ Kheo một trượng sáu, cho nên chẳng thấy. Cảnh giới Kinh Hoa Nghiêm là đạo lý “Nhất chân pháp giới”, người tiểu thừa đương nhiên nghe chẳng hiểu, các Ngài là người tu hành ‘’nhân không, pháp bất không,’’ cho nên chẳng nghe. Vì chẳng thấy chẳng nghe, cho nên người tiểu thừa cho rằng chẳng có Kinh Hoa Nghiêm, cũng chẳng tin Kinh Hoa Nghiêm có cảnh giới viên dung vô ngại, trùng trùng vô tận.
Người tiểu thừa chỉ biết có mình, chẳng biết có người khác, cho nên tự giác chẳng giác tha, tự độ chẳng độ tha, tự lợi chẳng lợi tha, trái ngược với hạnh môn của Bồ Tát đại thừa. Bồ Tát thì tự giác giác tha, tự độ độ tha, tự lợi lợi tha. Thậm chí, vì chúng sinh mà quên đi chính mình. Tóm lại, Bồ Tát phát tâm là vì lợi ích chúng sinh, A La Hán phát tâm là lợi ích chính mình. Ðại thừa và tiểu thừa vốn chẳng có phân chia khác nhau, phải xem sự phát tâm như thế nào ? Phát tâm lợi kẻ khác là đại thừa, phát tâm lợi chính mình là tiểu thừa. Ðó là sự khác nhau, khiến cho một số người chẳng minh bạch Phật pháp, dễ hiểu điểm khác nhau giữa A La Hán và Bồ Tát là tại chỗ này.
Kinh Hoa Nghiêm là nói về hạnh môn tu hành của Bồ Tát, phát bồ đề tâm như thế nào ? Thực hành Bồ Tát đạo như thế nào ? Giáo hóa chúng sinh như thế nào ? Ðương nhiên khác với tư tưởng của hàng tiểu thừa. Cho nên, tiểu thừa chẳng tán thành pháp này, chẳng thừa nhận Kinh này, cho rằng chẳng phải Phật nói, mà là ma nói. Hiện tại đề tỉnh mọi người, đây là do kim khẩu Phật nói ra, chứ chẳng phải ngụy tạo.
Như Lai vi diệu thân, Thân Như Lai tốt đẹp
Sắc tướng bất tư nghị, Sức tướng không nghĩ bàn
Kiến giả sanh hoan hỉ, Người thấy sinh hoan hỷ
Cung kính tín lạc Pháp. Cung kính tin ưa pháp.
Pháp thân của Phật vi diệu không thể nghĩ bàn, sắc thân của Phật cũng vi diệu không thể nghĩ bàn. Bất cứ loài chúng sinh nào, phàm là thấy được thân Phật, đều sinh hoan hỷ. Vì Phật quang phổ chiếu, chỉ cần chúng sinh có duyên, được Phật quang chiếu đến, thi liền tín ngưỡng Phật, cung kính Phật, cúng dường Phật, sau đó hoan hỷ ưa nghe Phật pháp mà tín thọ phụng hành.
Phật thân nhất thiết tướng, Tất cả tướng thân Phật
Tất hiện vô lượng Phật, Ðều hiện vô lượng Phật
Phổ nhập thập phương giới, Khắp vào mười phương cõi
Nhất nhất vi trần trung. Trong mỗi mỗi hạt bụi.
Phật có ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp, cho nên thân Phật là tướng tốt trang nghiêm. Chẳng những ở trong mỗi tướng đều hiện ra vô lượng vô biên Phật, mà ở trong mỗi lỗ chân lông cũng hiện ra vô lượng vô biên cõi nước. Vô lượng vị Phật đó, khắp vào mười phương pháp giới, ở trong mỗi hạt bụi hoằng dương diệu pháp, giáo hóa vô lượng chúng sinh trong pháp giới.
Dung mạo của Phật đầy đủ hai mươi thứ tướng tốt, thân đầy đủ mười hai thứ tướng tốt, tay chân đầy đủ mười thứ tướng tốt. Khi Phật trong trăm kiếp gieo trồng tướng tốt, thì dùng ba mươi hai thứ tịnh hạnh, mà tu ba mươi hai thứ tướng tốt. Trong Phẩm Như Lai Thập Thân Tướng Hải và Phẩm Như Lai Tùy Hảo Quang Minh Công Ðức có nói rõ.
Thập phương quốc độ hải, Mười phương biển cõi nước
Vô lượng vô biên Phật, Vô lượng vô biên Phật
Hàm ư niệm niệm trung, Ðều ở trong niệm niệm
Các các hiện thần thông. Ai nấy hiện thần thông.
Mười phương hết thảy các cõi nước, số nhiều như biển cả, ở trong mỗi cõi nước Phật, đều có một vị Phật, ở trong đó giáo hóa chúng sinh, cho nên nói vô lượng vô biên chư Phật. Chư Phật đều ở trong niệm niệm, mà đến mỗi cõi nước Phật, hiển hiện thần thông để giáo hóa chúng sinh.
Đại trí chư Bồ-tát, Các Bồ Tát đại trí
Thâm nhập ư pháp hải, Vào sâu trong biển pháp
Phật lực sở gia trì, Nhờ Phật lực gia trì
Năng tri thử phương tiện. Biết được phương tiện này.
Bồ Tát có đại trí huệ, các Ngài đều vào sâu tạng Kinh, trí huệ như biển. Ðó là nhờ Phật lực gia trì, cho nên các Ngài mới biết được pháp môn phương tiện này.
Nhược hữu dĩ an trụ, Nếu có người an trụ
Phổ Hiền chư hạnh nguyện, Các hạnh nguyện Phổ Hiền
Kiến bỉ chúng quốc độ, Thì thấy những cõi đó
Nhất thiết Phật thần lực. Và thần lực của Phật.
Nếu như có ngưới phát bồ đề tâm, đã an trụ vào trong hạnh nguyện Phổ Hiền, thì thấy được tất cả cõi nước chư Phật, và cũng thấy được tất cả thần lực của chư Phật.
Nhược nhân hữu tín giải, Nếu có người tin hiểu
Cập dĩ chư đại nguyện, Và nhờ các đại nguyện
Cụ túc thâm trí tuệ, Ðầy đủ trí huệ sâu
Thông đạt nhất thiết pháp. Thông đạt tất cả pháp.
Chúng ta người tu đạo, quang trọng nhất cần phải có niềm tin, sau đó mới đầy đủ sự hiểu biết, thực hành, chứng ngộ. Bốn bước này thiếu một, thì không thể thành tựu đạo nghiệp. Có niềm tin rồi, thì phải phát đại nguyện, phát nguyện rồi, phải nghiên cứu Kinh điển, y theo pháp mà tu hành, sau đó mới chứng được quả vị. Cho nên phải có tin, hiểu và đại nguyện. Nếu đầy đủ trí huệ Bát nhã thâm sâu, thì sẽ thông đạt thấu rõ đạo lý thật tướng của tất cả các pháp.
Năng ư chư Phật thân, Ở nơi các thân Phật
Nhất nhất nhi quan sát, Mỗi mỗi đều quán sát
Sắc thanh vô sở ngại, Sắc thanh chẳng chướng ngại
Liễu đạt ư chư cảnh. Thấu đạt nơi các cảnh.
Ở nơi pháp thân của chư Phật, mỗi mỗi quán sát đạo lý chư Phật thành Phật, ở trong cảnh giới đó, sắc và thanh đều chẳng có chướng ngại, cho nên thấu rõ thông đạt cảnh giới của chư Phật.
Năng ư chư Phật thân, Ở nơi thân chư Phật
An trụ trí sở hạnh, An trụ trí tu hành
Tốc nhập Như Lai địa, Sớm vào Như Lai địa
Phổ nhiếp ư Pháp giới. Nhiếp khắp nơi pháp giới.
Bồ Tát ở nơi thân tất cả chư Phật, an trụ ở trí huệ và chỗ tu hành của Phật, thì sẽ cấp tốc vào địa vị của Phật, khắp giáo hóa chúng sinh, mà nhiếp thọ đồng thành Phật đạo.
Phật sát vi trần số, Cõi Phật số hạt bụi
Như thị chư quốc độ, Các cõi nước như vậy
Năng lệnh nhất niệm trung, Hay khiến trong một niệm
Nhất nhất trần trung hiện. Hiện trong mỗi hạt bụi.
Cõi nước chư Phật nhiều như số hạt bụi, ở trong mỗi hạt bụi, lại hiện ra tất cả cõi nước chư Phật. Bồ Tát hay ở trong một niệm, trong mỗi hạt bụi, hiện ra tất cả cõi nước chư Phật. Ở trong mỗi hạt bụi cõi nước chư Phật, lại hiện ra cõi nước chư Phật.
Nhất thiết chư quốc độ, Tất cả các cõi nước
Cập dĩ thần thông sự, Và dùng sức thần thông
Tất hiện nhất sát trung, Ðều hiện trong một cõi
Bồ Tát lực như thị. Sức Bồ Tát như vậy.
Tất cả cõi nước chư Phật, và cảnh giới thần thông diệu dụng của tất cả chư Phật, đều hiện ra trong một cõi nước Phật. Sức Bồ Tát cũng làm như vậy được, tức cũng được sức gia trì của chư Phật mới được như vậy.
Nhĩ thời, chúng trung phục hưũ Bồ-Tát Ma-ha-tát, danh: tinh tấn lực vô ngại tuệ, thừa Phật uy thần, quan sát thập phương nhi thuyết tụng viết:
Bấy giờ, ở trong đại chúng, lại có đại Bồ Tát tên là Tinh Tấn Lực Vô Ngại Huệ, nương oai lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói bài kệ rằng.
Giảng: Lúc đó, ở trong đại chúng hải hội, lại có đại Bồ Tát tên là Tinh Tấn Lực Vô Ngại Huệ. Ngài nương đại oai thần lực, quán sát khắp nhân duyên của tất cả chúng sinh, trong mười phương pháp giới mà nói ra bài kệ.
Phật là ba giác tròn đầy. Ba giác là gì ? Tức là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Phàm phu thì điên đảo mà chẳng giác ngộ, đây là chẳng giác. Người nhị thừa là tự giác. Phàm là người tu hành bốn diệu đế, và mười hai pháp nhân duyên mà khai ngộ, thì gọi là tự giác, tuy tự mình giác ngộ, nhưng chẳng muốn đi giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sinh cũng được giác ngộ, do đó : ‘’Ma ha tát bất quản tha, Di Ðà Phật các cố các.’’ Chẳng phát tâm bồ đề, nguyện làm tự liễu hán. Bồ Tát chẳng những tự giác mà còn giác ngộ cho kẻ khác. Bồ Tát có tâm từ bi, đem những gì giác ngộ được, đi dạy kẻ khác, chứ chẳng cất giữ. Bồ Tát nguyện tất cả chúng sinh, đều được giác ngộ, hy vọng chúng sinh cùng thành Phật đạo, đây là giác tha.
Lúc ban đầu Phật thuyết pháp, thì chẳng nói pháp chúng sinh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật. Nếu nói ra thì chúng sinh nghe được sẽ bỏ chạy, vì chúng sinh chẳng biết mình có cơ hội thành Phật, cho rằng Phật mới có thể thành Phật. Nếu như nói với chúng sinh rằng : ‘’Con có thể thành Phật’’, thì họ tuyệt đối chẳng tin, cho rằng chẳng hợp lý, thành Phật chẳng có phần của chúng sinh. Do đó, cho nên khi Phật nói Kinh Hoa Nghiêm, thì chẳng có ai nghe pháp, dù có nghe cũng chẳng thấu rõ pháp này.
Về sau nói Kinh A Hàm, chuyên vì người tiểu thừa mà nói, nói đạo lý nhân không pháp bất không. Nói xong pháp tiểu thừa, lại nói Kinh Phương Ðẳng, tức là bắt đầu nói Kinh đại thừa, nói về đạo lý thức có tánh không. Nói xong Kinh Phương Ðẳng rồi, lại nói Kinh Bát Nhã, chuyên nói về đạo lý không. Trong thời gian bốn mươi năm đó, trước sau chẳng nói ai ai cũng có thể thành Phật. Cuối cùng khi nói Kinh Pháp Hoa, thì mở quyền hiển thật, chẳng cần những pháp phương tiện trước kia nói, mà nói thật tại một thừa pháp, tức là đạo lý chân không diệu hữu. Cho nên trong hội Pháp Hoa, Phật nói với đại chúng : ‘’Các con đều có thể thành Phật, tức là tất cả chúng sinh cũng đều có thể thành Phật.’’ Phật nói như thế xong, thì có những người phản ứng, có năm ngàn vị Tỳ Kheo thối lùi. Tại sao ? Vì họ chẳng tin chúng sinh có thể thành Phật. Lý do của họ là: Trước kia Phật chẳng nói ai ai cũng có thể thành Phật, mà bây giờ lại nói ai ai cũng có thể thành Phật, cứu kính cái nào đúng ? Do đó, mà khởi nghi hoặc, bèn rời khỏi pháp hội.
Khi Phật đang nói pháp lúc đó, thì có sự việc phát sinh. Vì pháp đại thừa là diệu pháp không thể nghĩ bàn, chẳng dễ gì khiến cho người tin. Cho nên, năm ngàn vị Tỳ Kheo tăng thượng mạn, vì chẳng tin Phật nói mà thối lui.
Hiện tại chẳng có người tin pháp đại thừa, như ở Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan. Những nước này hành trì Phật pháp, tuy chẳng sai cố bộ tự phong, vẽ ra giới tuyến, chẳng chịu nghiên cứu pháp đại thừa. Có thể nói :
“Pháp tiểu thừa quá bảo thủ
Pháp đại thừa quá khai sáng”.
Nếu cùng nhau nghiên cứu chân lý, đừng chấp trước với nhau, phối hợp chân lý, lưu thông nơi đời, như thế thì, tục Phật huệ mạng, Phật pháp mới phát dương quang đại, lợi ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh lìa khổ được vui.
Tất cả Kinh điển đều là Phật nói ra, hà tất phải phân chia đại thừa và tiểu thừa ? Bất hạnh của Phật giáo là diễn biến tranh chấp không thành có. Tại Ấn Ðộ, tiểu thừa có đến hai mươi tông, ở Trung Quốc đại thừa có đến tám tông, lập ra các tông, hổ tương tranh luận, thậm chí chia sông uống nước, có thế nước lửa chẳng dung với nhau. Cho đến hôm nay, vẫn còn hiện tượng đó, nhất là tranh chấp giữa thiền và tịnh độ, phỉ báng với nhau, làm mất đi một phen dụng tâm của Phật nói pháp từ lúc ban đầu. Chúng ta là đệ tử của Phật, nên phản tỉnh, sinh tâm hổ thẹn, đừng cô phụ một phen khổ tâm của Ðức Bổn Sư. Nên đoàn kết lại, cùng nhau vì Phật giáo mà nỗ lực, đem Phật pháp truyền bá đến khắp mọi miền, khiến cho mọi người hòa bình với nhau, chẳng còn tâm tham sân si. Như thế thì, thế giới mới thật sự chẳng còn chiến tranh, vĩnh viễn là thế giới Cực Lạc.
Phật diễn nhất Diệu-Âm, Phật nói một diệu âm
Châu văn thập phương sát, Nghe khắp mười phương cõi
Chúng âm tất cụ túc, Các âm đều đầy đủ
Pháp vũ giai sung biến. Mưa pháp đều nhuần khắp.
Khi Phật diễn nói một âm pháp, thì chúng sinh tùy theo loài mà hiểu rõ, minh bạch đạo lý chân thật. Diệu âm của Phật truyền đến khắp lỗ tai của hết thảy chúng sinh, trong mười phương pháp giới, khiến cho họ đều nghe được diệu âm đó. Diệu âm của Phật nói pháp giống như mưa, thấm nhuần khắp mọi nơi, khiến cho hết thảy chúng sinh, đắc được pháp ích, đều đại hoan hỷ.
Nhất thiết ngôn từ hải, Tất cả biển ngôn từ
Nhất thiết tùy loại âm, Hết thảy tùy loại âm
Nhất thiết Phật sát trung, Trong tất cả cõi Phật
Chuyển ư tịnh Pháp luân. Chuyển thanh tịnh pháp luân.
Con người thì có tiếng loài người, chim thì có tiếng chim, cầm thú thì có tiếng cầm thú. Trên thế giới có rất nhiều thứ văn tự, văn tự đại biểu cho ngôn ngữ, thậm chí có rất nhiều ngôn ngữ. Trí huệ của con người có hạn, bất cứ thông minh như thế nào, cũng học chẳng hết tất cả ngôn ngữ. Song, một âm thanh của Phật, thì đồng hết thảy biển ngôn từ, chẳng màng là loài chúng sinh nào, nghe Phật nói pháp đều hiểu rõ. Trong tất cả cõi Phật, Phật đang ở đó chuyển đại pháp luân thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh.
Nhất thiết chư quốc độ Tất cả các cõi nước
Tất kiến Phật thần biến, Ðều thấy Phật thần biến
Thính Phật thuyết Pháp âm, Nghe pháp âm Phật nói
Văn dĩ thú Bồ-đề. Nghe rồi hướng bồ đề.
Hết thảy chúng sinh trong mười phương tất cả cõi nước Phật, đều thấy được thần thông biến hóa của Phật, cũng nghe được âm thanh Phật nói diệu pháp, nghe xong rồi bèn phát bồ đề tâm, hướng về con đường bồ đề.
Pháp giới chư quốc độ, Các cõi trong pháp giới
Nhất nhất vi trần trung, Trong mỗi mỗi hạt bụi
Như Lai giải thoát lực, Sức giải thoát Như Lai
Ư bỉ phổ hiện thân. Khắp hiện thân nơi đó.
Trong các cõi Phật trong mười phương pháp giới, trong mỗi một hạt bụi, đều có sức giải thoát của Phật, khắp hiện thân nơi đó, mà vì chúng sinh diễn nói diệu pháp.
Pháp thân đồng hư không, Pháp thân đồng hư không
Vô ngại vô sái biệt, Vô ngại chẳng khác biệt
Sắc hình như ảnh tượng, Sắc hình như ảnh tượng
Chủng chủng chúng tướng hiện. Hiện đủ thứ các tướng.
Pháp thân của Phật đồng như hư không, không hình không tướng, cho nên chẳng có chướng ngại cũng chẳng có khác biệt. Sắc tướng của Phật hiện như ảnh tượng, thân phía đông ảnh hướng tây, thân hướng tây ảnh phía đông, hiện ra đủ thứ các tướng.
Ảnh tượng vô phương sở, Ảnh tượng chẳng phương sở
Như không vô thể tánh, Như không chẳng thể tánh
Trí tuệ quảng đại nhân, Người trí huệ rộng lớn
Liễu đạt kỳ bình đẳng. Thấu đạt sự bình đẳng.
Ảnh và tượng chẳng có phương sở nhất định, với chúng sinh nào có duyên, thì hiện ra trong tâm của chúng sinh đó. Pháp thân của Phật như hư không, vốn chẳng có thể tánh. Chỉ có Bồ Tát trí huệ rộng lớn, mới thấu rõ thông đạt đạo lý bình đẳng đó.
Phật thân bất khả thủ, Thân Phật bất khả thủ
Vô sanh vô khởi tác, Không sinh không khởi tác
Ưng vật phổ hiện tiền, Ứng vật hiện trước khắp
Bình đẳng như hư không. Bình đẳng như hư không.
Thân Phật thì không thể nắm lấy, cũng không thể xả bỏ. Vì chẳng đến chẳng đi, chẳng sinh chẳng diệt; chẳng có mới chẳng có cũ, cho nên không khởi tác. Thân Phật là tùy duyên mà hiện, ứng cơ giáo hóa chúng sinh, đối với tất cả chúng sinh, đều bình đẳng như hư không chẳng có phân biệt.
Thập phương sở hữu Phật, Mười phương hết thảy Phật
Tận nhập nhất mao khổng, Vào hết một lỗ lông
Các các hiện thần thông, Ai nấy hiện thần thông
Trí nhãn năng quán kiến. Trí nhãn quán thấy được.
Hết thảy tất cả chư Phật trong mười phương pháp giới, vào hết trong một lỗ chân lông của Phật, ở trong lỗ chân lông, ai nấy đều hiện thần thông. Bồ Tát có con mắt trí huệ, mới quán thấy được cảnh giới đó.
Tỳ Lô Giá Na Phật, Phật Tỳ Lô Giá Na
Nguyện lực châu Pháp giới, Nguyện lực khắp pháp giới
Nhất thiết quốc độ trung, Trong tất cả cõi nước
Hằng chuyển vô thượng luân. Thường chuyển bánh xe pháp.
Phật Tỳ Lô Giá Na là Thanh Tịnh Pháp Thân, khắp hết thảy mọi nơi. Nguyện lực của Ngài lớn nhất, chẳng có nơi nào mà nguyện lực của Ngài chẳng thành tựu. Ngài ở trong tất cả các cõi nước, luôn luôn chuyển bánh xe diệu pháp vô thượng, thường thuờng diễn nói diệu pháp, thời khắc giáo hóa chúng sinh.
Nhất mao hiện thần biến, Lỗ lông hiện thần biến
Nhất thiết Phật đồng thuyết, Tất cả Phật cùng nói
Kinh ư vô lượng kiếp, Trải qua vô lượng kiếp
Bất đắc kỳ biên tế. Chẳng biết được bờ bến.
Trong một lỗ chân lông, hiện ra đủ thứ thần thông biến hóa. Lỗ lông tuy nhỏ, mà có thể dung nạp mười phương pháp giới. Chư Phật trong mười phương pháp giới, có thể cùng lúc diễn nói diệu pháp. Cảnh giới đó, trải qua vô lượng kiếp, cũng chẳng biết được lúc nào mới nói xong, có rất nhiều thời gian, mà chẳng cách chi biết được bờ bến.
Như thử tứ thiên hạ đạo tràng trung, dĩ Phật thần lực, thập phương các hữu nhất ức thế giới hải vi trần số chư Bồ-tát chúng nhi lai tập hội; ứng tri nhất thiết thế giới hải, nhất nhất tứ thiên hạ chư đạo tràng trung, tất diệc như thị.
Như trong đạo tràng tứ thiên hạ nầy, nhờ thần lực của đức Phật, mà mười phương, mỗi phương đều có các chúng Bồ Tát, nhiều như số hạt bụi một ức thế giới hải tụ hội đến. Nên biết tất cả thế giới hải, mỗi mỗi tứ thiên hạ, trong các đạo tràng cũng đều như thế.
Giảng: Giống như trong đạo tràng của một tứ thiên hạ, nhờ đại oai thần lực của chư Phật, mà trong mười phương thế giới, mỗi phương lại hiện ra các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi một ức thế giới hải, đại chúng cùng vân tập đến chỗ Ðức Phật để gần gũi Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Nên biết hết thảy tất cả thế giới hải, trong mỗi thế giới hải, có rất nhiều tứ thiên hạ. Mỗi tứ thiên hạ trong tất cả đạo tràng của Phật, đều như thế cả. Có rất nhiều Bồ Tát như số hạt bụi đến vân tập, nghe Phật diễn nói Kinh Hoa Nghiêm.