A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 3 – Tập 67-72

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3 – Tập 67-72

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 67

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang chín mươi ba:

 

(Huyền Nghĩa) Thập, phục minh kính lộ tu hành kính trung chi kính giả, thử hữu nhị nghĩa: Nhất giả, dư môn học đạo, vạn lý điều dao. Niệm Phật vãng sanh, cổ xưng kính lộ, nhi niệm Phật nhất pháp phục hữu đa môn. Kim thử Trì Danh thị vi kính lộ chi trung, kính nhi hựu kính. Hạc xung, bằng cử, ký sậu, long phi, bất tật, bất hành, nhi tốc nhi chí, kính trung kính hỹ.

(玄義) 復明徑路修行徑中之徑者 此有二義:

一者,餘門學道,萬理迢遙,念佛往生,古稱徑路。而念佛一法,復有多門,今此持名,是為徑路之中,徑而又徑,鶴沖鵬舉,驥驟龍飛,不疾不行,而速而至,徑中徑矣。

(Huyền Nghĩa: Mười là lại nói rõ [pháp môn này là] đường tắt nhất trong các đường tắt tu hành, ở đây có hai nghĩa. Một là học đạo trong các môn khác [như đi đường] xa xôi vạn dặm. Niệm Phật vãng sanh được cổ nhân gọi là “đường tắt”, nhưng trong pháp Niệm Phật lại có nhiều môn. Nay môn Trì Danh là đường tắt hơn con đường tắt nhất trong các con đường tắt. Hạc tung mình, đại bàng cất cánh, ngựa Ký phi, rồng bay, không nhanh mà lẹ, không đi mà tới, là đường tắt nhất trong các con đường tắt vậy).

Đây là đoạn thứ mười trong phần nhân duyên. Đoạn này đã nói rất rõ ràng: Mục đích tu hành không gì chẳng nhằm mong liễu sanh tử, thoát tam giới. Pháp môn tuy rất nhiều, nhưng thật sự có thể đạt đến mục tiêu ấy, chắc chắn chẳng phải là chuyện dễ! Mỗi một đồng tu chúng ta phải hiểu rõ điều này. Bất luận là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, hoặc bất cứ một tông phái, pháp môn nào, đều phải dồn sức đoạn phiền não; đừng nói “phiền não chẳng đoạn vẫn có thể vượt thoát luân hồi lục đạo”, nói như vậy chắc chắn chẳng hợp lý! Tập khí phiền não từ vô thỉ kiếp đến nay có thể nói là quá sâu, quá nặng, kinh điển nói “đoạn hết tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới” là địa vị Kiến Đạo trong Tiểu Thừa. Sau khi kiến đạo rồi mới có thể nói đến chuyện tu đạo. Chưa thấy đạo thì thử hỏi quý vị tu theo cách nào đây? Quý vị muốn tu đạo, trước hết phải kiến đạo. Kẻ tầm thường chẳng thể làm nổi chuyện này. Nếu chưa thấy đạo mà tu, bất luận quý vị tu theo cách nào, nhiều nhất là hưởng phước báo trời người mà thôi! Đó chẳng phải là pháp rốt ráo. Trong Phật pháp, địa vị Kiến Đạo trong Đại Thừa là minh tâm kiến tánh. Không chỉ phải đoạn sạch Kiến Tư phiền não, mà còn phải phá một phần vô minh, đó là địa vị Kiến Đạo trong Đại Thừa. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát có năm mươi mốt tầng cấp, tầng cấp thấp nhất là Sơ Tín. Phẩm số phiền não do Sơ Tín đoạn được bằng với Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa. Thân phận hiện thời của chúng ta là gì? Chưa nhập lưu[29], khỏi cần bàn tới địa vị Sơ Tín. Cổ đức thường bảo: “Nếu không có pháp môn Niệm Phật vãng sanh này, mười phương chư Phật chẳng có cách nào phổ độ chúng sanh”. Nói cách khác, chúng sanh đời Mạt Pháp chẳng thể nào thoát khỏi tam giới!

Tịnh Độ Tông đương nhiên cũng phải kiến đạo, chẳng kiến đạo thì làm sao tu đạo được? Nhưng tiêu chuẩn [kiến đạo] của Tịnh Độ Tông khác với những tiêu chuẩn thường được nói trong Giáo Hạ, tiêu chuẩn của Tịnh Tông là đối với pháp môn [Niệm Phật] này phải thật sự tin tưởng, phát nguyện thiết tha, chẳng đoạn một phẩm phiền não nào cũng chẳng sao. Nếu quý vị tin tưởng thiết tha, thật sự tin tưởng, thật sự chịu phát nguyện, thì đó là địa vị Kiến Đạo trong pháp môn này. Chắc là quý vị nghe xong, trong tâm cảm thấy rất dễ chịu: “Nói chung, ta đã kiến đạo rồi”. Có thể nói như vậy, nhưng sau khi kiến đạo, vẫn phải tu đạo. Nếu quý vị không tu đạo, vẫn chưa thể vãng sanh, lại bỏ uổng đời này, vẫn chẳng tránh khỏi nỗi khổ sanh tử luân hồi.

Cách tu như thế nào? Ở đây, [đại sư] bảo chúng ta, đây là “kính lộ tu hành kính trung chi kính” (con đường tắt hơn con đường tắt nhất trong những cách tu hành theo đường tắt), đây là đề mục của khoa này. Trong vô lượng pháp môn trong giáo pháp suốt một đời đức Phật, Đại Thừa là đường tắt. So sánh giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa, Đại Thừa nhanh chóng, Tiểu Thừa chậm chạp. Kinh Tiểu Thừa nói: Sau khi chứng đắc quả Tu Đà Hoàn (Sơ Quả Kiến Đạo vị), phải bảy lần qua lại trong cõi trời hay trong nhân gian mới có thể chứng đắc A La Hán, chẳng thể chứng trong một đời. Trong Đại Thừa, muốn chứng địa vị A La Hán, hoặc cao hơn nữa là địa vị minh tâm kiến tánh, sẽ có thể hoàn thành trong một đời. So sánh giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, Đại Thừa là đường tắt. “Kính” (徑) là con đường nhỏ, tức là lối tắt. Trong các con đường tắt, lại có con đường tắt hơn, còn có con đường tắt nào vậy? Thiền. Trong các pháp Đại Thừa, so sánh Thiền với các pháp môn khác thì Thiền lại là con đường tắt, “kính trung chi kính” (đường tắt nhất trong các con đường tắt). So với Thiền, có một pháp môn còn nhanh chóng hơn, còn ổn thỏa hơn, còn gần hơn nữa, đó là Niệm Phật! “Kính lộ tu hành” (đường tắt trong nẻo tu hành) là Đại Thừa, “kính trung chi kính”, chữ Kính thứ nhất chỉ Thiền, chữ Kính cuối từ ngữ này chỉ Tịnh Độ. Do đây có thể biết, niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ là con đường tu đạo gần nhất.

Tiếp đó, đại sư giải thích ý nghĩa này. Có hai ý nghĩa. Thứ nhất là nói “dư môn học đạo” (học đạo trong các pháp môn khác), những pháp môn, tông phái khác gần như là “vạn lý điều dao” (xa xôi vạn dặm), phải đoạn Hoặc từ từ, chứng Chân từ từ, liễu sanh tử dần dần, con đường ấy khá lâu xa. Tuy Thiền là một con đường gần hơn, nhưng Thiền chỉ thích hợp thượng căn, kẻ căn tánh trung hạ chẳng có phần. Quý vị nhất định phải hiểu điều này: Nhận biết chính mình, biết căn tánh của chính mình. Nếu Thiền chẳng thể thành tựu, vẫn luân hồi trong lục đạo y như cũ! Vì thế, trải bao đời, người tham Thiền rất nhiều, người thật sự kiến tánh chẳng được mấy! Lấy ngay Lục Tổ của Thiền Tông để nói, trong lịch sử Thiền Tông, trong hội của Ngài có nhiều người thành tựu nhất, cũng chẳng qua là bốn mươi ba người mà thôi! Ngài ở Tào Khê ba mươi bảy năm, mấy vạn người theo học Phật với Ngài, nhưng thành tựu chẳng hơn bốn mươi ba người! Đủ thấy môn này rất khó, thật sự là khó! Ngày nay tham Thiền, dẫu đắc Thiền Định, chẳng thể liễu sanh tử, quả báo cũng chỉ thuộc Tứ Thiền Thiên mà thôi! Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền đều thuộc Sắc Giới Thiên. Nếu ngay cả Thiền Định cũng chưa đạt được, quả báo của quý vị vẫn chẳng ra khỏi Dục Giới; đây là một vấn đề khá nghiêm trọng. Chúng ta thật sự muốn thành tựu, trừ niệm Phật ra, chẳng có phương pháp thứ hai nào!

“Niệm Phật vãng sanh, cổ xưng kính lộ” (cổ nhân gọi niệm Phật vãng sanh là đường tắt), con đường gần nhất! “Nhi niệm Phật nhất pháp, phục hữu đa môn” (nhưng pháp Niệm Phật lại có nhiều môn), phân chia đại lược thì gồm bốn loại lớn là Thật Tướng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, và Trì Danh Niệm Phật. Tiểu Bổn Di Đà Kinh đề xướng Trì Danh Niệm Phật. “Kim thử trì danh, thị vi kính lộ chi trung, kính nhi hựu kính” (nay pháp trì danh này là đường tắt hơn con đường tắt nhất trong các con đường tắt), không có con đường nào gần bằng con đường này!

Có đồng tu hỏi: Niệm câu Phật hiệu này theo cách nào? Bốn chữ này dịch âm từ tiếng Phạn, niệm A Di Đà Phật, nhưng chúng ta cũng nghe không ít người niệm Ơ Mi Đà Phật[30], cách nào chính xác? Thưa quý vị, đều chính xác! Chẳng cần phải nghi hoặc, quý vị dùng phương pháp nào đã quen thì chiếu theo thói quen đó mà niệm, nhất là niệm bốn chữ. Tại Trung Quốc, tiếng nói địa phương Nam, Bắc khác nhau, chỉ cần thành tâm thành ý niệm, sẽ có cảm ứng, thành kính sẽ linh. Dẫu âm niệm chính xác, nhưng ý không thành kính, sẽ chẳng có cảm ứng! Cổ nhân nói: “Rách toạc cổ họng cũng uổng công!” Nếu thành tâm thành ý thì niệm A Di Đà Phật cũng được, mà Ơ Mi Đà Phật cũng được luôn. Người ấy còn hỏi trong giới luật có quy định “đệ tử Phật chẳng lạy quỷ thần”, ông ta hỏi có được phép lạy bài vị tổ tiên hay không? Phải lạy chứ! Phật chẳng dạy quý vị không hiếu thuận cha mẹ. Quý vị hãy mở Bồ Tát Giới Bổn ra, Bồ Tát Giới được kiến lập trên cơ sở hiếu thuận. Chẳng lạy quỷ thần là vì quỷ thần chẳng có liên can gì đến bản thân chúng ta, quý vị chẳng cần lạy họ. Nếu quý vị lạy họ, sẽ là siểm mị, bợ đỡ, còn đối với cha mẹ, tổ tiên, phải nên lễ bái, phải nên cúng giỗ. Nếu cha mẹ còn sống, nhất định phải hiếu thuận.

Các  đồng tu tu tập đã lâu đều biết:  Điều thứ nhất trong tu hành là phải dốc sức hiếu thảo với cha mẹ. Địa Tạng Bồ Tát tượng trưng cho lòng đại hiếu, tu hành phải bắt đầu từ chỗ này. Chẳng hiếu thuận cha mẹ, làm sao có thể thành Phật, làm Tổ được? Hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy; đó chính là cung kính, cúng dường Địa Tạng Bồ Tát. Từ bi với hết thảy chúng sanh, đấy là cung kính cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn. Dùng tâm từ bi vô điều kiện để giúp đỡ hết thảy chúng sanh chính là thật sự lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, thật sự cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát. Quý vị nhất định phải hiểu rõ đạo lý này. Người niệm Phật cũng kiến lập trên cơ sở này. Huống chi, vô cùng vô tận ý nghĩa được bao hàm trong một câu Phật hiệu này, hiểu được càng nhiều, đương nhiên càng tốt đẹp, nhưng chẳng hiểu cũng không sao cả. Chẳng hiểu thì chỉ cần lòng tin chân thành, phát nguyện thiết tha, suốt ngày từ sáng đến tối chẳng quên một câu Phật hiệu này, cũng đều có thể thành công.

Còn cách niệm Phật như thế nào ư? Đây là một vấn đề rất quan trọng. Người niệm Phật nhất định phải có công khóa sáng tối nhất định, công khóa sáng tối nhất định không thể thiếu khuyết. Hằng ngày đều phải làm đúng như thế. Khóa lễ sáng tối phải tùy theo hoàn cảnh của chính mình mà định. Nếu chính mình công việc bận túi bụi, hãy ước định ít hơn một chút; lập ra nhiều, lúc quý vị bận bịu sẽ bỏ sót công khóa, điều này không hay lắm, vì công phu của quý vị bị gián đoạn. Vì thế, người quá bận bịu có thể dùng cách Thập Niệm, sáng sớm thức dậy, súc miệng, rửa mặt xong xuôi, liền lạy Phật. Trong nhà có thờ tượng Phật, bèn đối trước tượng Phật niệm mười niệm. Mười niệm là chắp tay niệm hết một hơi thì gọi là một niệm, không câu nệ Phật hiệu nhiều hay ít, niệm mười hơi. Đó là nói về người rất bận rộn.. Nếu người rất rảnh rang, có thể chiếu theo phương pháp ghi trong Tây Phương Công Cứ: Buổi sáng dùng [thời gian cháy hết] một cây hương, tức là một tiếng rưỡi. Người già hay người nghỉ hưu có thể dùng phương pháp này: Niệm một biến A Di Đà Kinh, ba biến chú Vãng Sanh, niệm một ngàn câu Phật hiệu, lạy Phật một trăm lạy. Cách này hết sức hay, khóa chiều cũng làm như thế. Trừ khóa tụng sáng tối ra thì gọi là “tán khóa” tức là không có số lượng nhất định, niệm càng nhiều càng hay.

Bí quyết niệm Phật là chế phục phiền não; chúng ta chưa đoạn phiền não được, chưa có năng lực ấy, nhưng nhất định phải chế phục phiền não. Ý niệm phiền não vừa khởi lên, ngay lập tức phải nhận biết, thay thế nó bằng Phật hiệu. Ví như thuận cảnh, cảnh giới xứng tâm vừa ý hiện tiền, sanh lòng hoan hỷ, tâm hoan hỷ chính là phiền não, chẳng bình thường, đúng mực, hãy lập tức thay nó bằng A Di Đà Phật, giằn ép sự hoan hỷ ấy, chẳng để cho tâm hoan hỷ tiếp tục tăng trưởng. Đó là công phu, Phật hiệu đắc lực. Nghịch cảnh hiện tiền, đó là cảnh giới chẳng như ý, dấy lên tâm sân khuể, trong tâm chẳng vui sướng, đó là phiền não. Ý niệm ấy vừa khởi lên, lập tức thay nó bằng A Di Đà Phật, chẳng để cho ý niệm sân khuể tiếp tục tăng trưởng, chèn ép nó. Niệm Phật như vậy mới đắc lực. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối đãi người, tiếp vật, tâm thường giữ được sự bình tĩnh, đó là bí quyết niệm Phật. Nếu quý vị không hiểu đạo lý, dẫu Phật hiệu suốt ngày từ sáng đến tối không gián đoạn, trong tâm vẫn là “mừng, giận, buồn, vui” luôn luôn hiện hành thì Phật hiệu chẳng có tác dụng gì hết; dẫu niệm nhiều, vẫn chẳng thể chế phục phiền não. Chẳng chế phục phiền não, sẽ chẳng thể vãng sanh!

Quý vị phải hiểu: Vãng sanh là đại sự, những chuyện khác trong thế gian là lông gà, vỏ tỏi, chẳng đáng nhắc tới. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, trong đời này gặp được pháp môn này, nếu chẳng sốt sắng, chẳng thể nắm vững, bỏ uổng đời này. Phí uổng đời này thì trong tương lai chẳng biết phải đợi đến kiếp nào mới lại gặp gỡ cơ duyên này? Thật đúng như trong bài kệ Khai Kinh đã nói: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”. Nay chúng ta đã gặp, cơ duyên này đáng quý lắm! Ý niệm gì cũng đều phải buông xuống. Quý vị có thể nắm chắc một câu Phật hiệu này, quý vị sẽ có năng lực cứu độ người nhà, quyến thuộc thân yêu nhất. Quý vị cũng có năng lực hóa độ oán gia, trái chủ. Nếu quý vị không nắm vững cơ duyên này, sẽ vĩnh viễn oan oan tương báo trong lục đạo chẳng bao giờ xong! Càng nghĩ đến chuyện này, càng thấy đáng sợ. Cớ sao chẳng dành thời gian quý báu để khéo niệm Phật? Niệm cho hết sạch tất cả vọng niệm của chính mình. Đấy là chân chánh niệm Phật. Trong hết thảy các pháp môn tu hành, quả thật không có một pháp môn nào thuận tiện như thế này! Pháp môn này chẳng hề trở ngại công việc và nếp sống của chúng ta, đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể niệm. Lúc rảnh có thể niệm, mà lúc làm việc cũng có thể niệm. Chẳng giống với các pháp môn khác, quý vị tu những pháp môn khác phải buông mọi chuyện khác xuống, còn pháp môn này chẳng bỏ bê công việc mà vẫn có thể niệm. Vì thế, nó thật sự là pháp môn thuận tiện nhất!

Tiếp theo đó, tổ sư dùng tỷ dụ để hình dung “hạc xung, bằng cử” (chim hạc tung mình, đại bàng sải cánh). Hai loại chim này đều có thể bay rất cao, rất xa. Thông thường, chúng ta thấy chim ưng bay rất cao, nhưng so ra, hạc bay còn cao hơn chim ưng, chim đại bàng bay còn cao hơn nữa. “Ký sậu, long phi” (ngựa Ký phi, rồng bay): Ký (驥) là ngựa giỏi, long mã. Ngựa bình thường một ngày chỉ chạy được đường xa hơn một trăm dặm là cùng, nhưng ngựa hay một ngày có thể chạy mấy trăm dặm đường. “Bất tật bất hành, nhi tốc nhi chí”: Quý vị thấy nó chạy không nhanh, hoàn toàn bình thường, nhưng tốc độ nhanh hơn những loài ngựa khác rất nhiều. Dùng hình ảnh này để tỷ dụ pháp môn Niệm Phật, giống như hạc tung mình, đại bàng sải cánh, như ngựa Ký phi, như rồng bay; vì thế, pháp này được gọi là “kính trung kính hỹ” (đường tắt nhất trong những con đường tắt).

 

(Sớ) Nhị nghĩa giả, nhất thị giảo lượng ư đa chủng tịnh nghiệp.

() 二義者,一是較量於多種淨業。

(Sớ: “Hai nghĩa”: Một là so sánh nhiều thứ tịnh nghiệp).

“Đa chủng tịnh nghiệp”: Hoàn toàn là tu học pháp môn Tịnh Độ, chẳng hạn như phương pháp tu hành được giảng trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh là mười sáu phép Quán, nên kinh ấy được gọi là Thập Lục Quán Kinh, tu Quán mà! Cổ Âm Vương Kinh dạy chúng ta trì chú, còn bộ kinh này (kinh A Di Đà) dạy chúng ta trì danh. Trì danh thì danh hiệu chỉ gồm bốn chữ A Di Đà Phật, ai mà chẳng niệm được? Ai nấy đều có thể niệm, dễ hơn niệm chú rất nhiều, dễ hơn tu Quán rất nhiều.

 

(Sớ) Nhị thị giản biệt ư bổn bộ đại bổn.

() 二是揀別於本部大本。

(Sớ: Hai là nhằm phân biệt kinh này và Đại Bổn).

 “Đại Bổn” là Vô Lượng Thọ Kinh, Vô Lượng Thọ Kinh giảng giải y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc thế giới hết sức tường tận, lại còn giảng rất nhiều phương pháp tu Tịnh Độ; còn kinh này chuyên giảng chấp trì danh hiệu, đem so với kinh Vô Lượng Thọ, phương pháp này đơn giản, dễ dàng hơn. Bởi lẽ, tu hành phải tìm phương pháp nào đơn giản nhất, dễ dàng nhất thì chúng ta mới có thể thành tựu nhanh chóng. Tìm những pháp môn rắc rối, khó khăn, há chẳng phải là tự mình làm khó chính mình ư?

 

(Sớ) Cố vân “kính lộ chi kính lộ” dã, kính lộ giả, lộ tiểu nhi tiệp, danh kính.

() 故云徑路之徑路也。徑路者,路小而捷名徑。

(Sớ: Cho nên nói “đường tắt nhất trong các đường tắt”: Kính lộ là con đường nhỏ mà tới nơi nhanh nhất thì gọi là Kính).

“Kính lộ” là đường nhỏ, đường gần. Đi theo đường tắt, quý vị sẽ tới trước.

 

(Sớ) Tiểu dụ niệm Phật vi lực chi giản dị.

() 喻念佛為力之簡易。

(Sớ: Chữ “tiểu” nhằm sánh ví niệm Phật hết sức đơn giản, dễ dàng).

 Dựa theo điều này để nói [là “tiểu”], chứ không phải nói pháp môn này nhỏ nhoi, mà là nói chúng ta dùng sức ít, chẳng quá tốn phí công sức, đơn giản, dễ dàng!

 

(Sớ) Tiệp dụ niệm Phật thành công chi tấn tốc.

() 喻念佛成功之迅速。

(Sớ: Chữ “tiệp” nhằm sánh ví niệm Phật thành công nhanh chóng).

 So với bất cứ pháp môn nào, cũng đều nhanh chóng hơn. Pháp môn này là pháp môn thành Phật trong một đời, vấn đề là quý vị có tin hay không, có phước phận ấy hay chăng? Thật sự tin tưởng thì quý vị có phước, phước báo ấy là phước báo khôn sánh, đừng nghĩ phước báo này chẳng có gì phi phàm! Thưa quý vị, trong nhân gian, hàng đế vương thuở xưa phước báo to lớn nhưng vẫn chẳng thể sánh bằng quý vị. Không chỉ phước báo của quốc vương chẳng thể sánh bằng quý vị, mà thiên vương cũng chẳng sánh bằng. Đại Phạm Thiên, Ma Hê Thủ La Thiên đều chẳng sánh bằng quý vị, vì sao? Phước báo của họ dẫu lớn, vẫn phải hứng chịu sanh tử luân hồi, còn quý vị từ nay trở đi vĩnh viễn lìa khỏi luân hồi, phước báo to hơn họ quá nhiều! Không chỉ phàm phu trong lục đạo không ai có thể sánh bằng, mà Tứ Quả La Hán, Bích Chi Phật, Quyền Giáo Bồ Tát cũng đều chẳng thể sánh bằng quý vị. Họ tu chứng phải tốn bao nhiêu thời gian, tốn phí bao nhiêu công phu, vẫn chưa thể đạt đến viên mãn! Thành một vị Tạng Giáo Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thành Viên Giáo Phật phải mất vô lượng kiếp. Ngày hôm nay quý vị lựa chọn pháp môn này, tin tưởng pháp môn này, đúng là chẳng phí sức thổi tro, viên mãn Bồ Đề trong một đời. Phước báo lớn dường ấy đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Ai có phước báo lớn dường ấy? Người tin tưởng [pháp môn Tịnh Độ] sẽ có, người phát nguyện sẽ có, người niệm Phật sẽ có, trong kinh điển và ngữ lục của cổ đức, chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức đều nói như vậy. Lời này chẳng giả đâu!

 

(Sớ) Thiện Đạo đại sư kệ vân: “Duy hữu kính lộ tu hành, đản niệm A Di Đà Phật”, thị dã.

() 善導大師偈云 唯有徑路修行 但念阿彌陀佛,是也。

(Sớ: Thiện Đạo đại sư có bài kệ: “Chỉ có nẻo tắt tu hành, chỉ niệm A Di Đà Phật” chính là nói về điều này).

 Thiện Đạo đại sư là người đời Đường, theo truyền thuyết, Ngài là hóa thân của A Di Đà Phật tái lai. Ngày Mười Bảy tháng Mười Một là khánh đản của A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chưa hề xuất sanh trong thế giới của chúng ta, sinh nhật của Ngài do đâu mà có? Thưa quý vị, đấy là sinh nhật của Thiện Đạo đại sư. Ở Đài Bắc có chùa Thiện Đạo; quý vị chỉ cần thấy [tên chùa] là Thiện Đạo Tự, nhất định nơi đó tu pháp môn Niệm Phật. Người Nhật Bản sùng bái Thiện Đạo đại sư nhất; vì thế, chùa Thiện Đạo do người Nhật Bản xây dựng. Vào đời Đường, người xuất gia của Nhật Bản sang Trung Quốc du học hết sức đông đảo, pháp môn Niệm Phật do đấy được truyền sang Nhật Bản. Trong truyện ký có chép: Thiện Đạo đại sư niệm Phật một tiếng, từ miệng chiếu ra một tia sáng, trong ánh sáng ấy có hóa Phật, mỗi tiếng Phật hiệu đều như vậy, quả thật chẳng thể nghĩ bàn! Ngài dạy chúng ta “chỉ có đường tắt tu hành”, câu này quan trọng. Tu hành phải tìm đường tắt, đường tắt sẽ nhanh chóng hơn! Đừng tự chuốc phiền, chớ nên đi lòng vòng.

Đời Đường là đời thái bình thịnh trị, mà người tu hành còn phải tìm đường tắt, còn nay chúng ta đang sống trong thời đại nào? Chính mình phải nhận biết rõ ràng, thế giới này có khả năng bị hủy diệt bất cứ lúc nào, nay chúng ta đang sống trong thời đại như vậy, lỡ chiến tranh nguyên tử bùng nổ, người trên thế giới phải chết quá nửa. Do cộng nghiệp của chúng sanh chiêu cảm, ắt sẽ bùng nổ. Nếu chẳng thể nắm chắc [pháp môn Tịnh Độ], còn làm sao được nữa? Quả thật, chẳng có thời gian để làm chuyện gì khác, nhất định phải tìm một con đường tắt. Theo tôi thấy, chiến tranh nguyên tử sẽ hồ đồ xảy ra, chẳng thể nói vì sao nổ ra! Chiến tranh hiện thời, đôi bên đều biết là sẽ cùng nhau chết sạch, không phải là cuộc chiến có bên thắng, bên bại, mà là đôi bên cùng chết sạch, mọi người phải chết hết! Loại chiến tranh như vậy, làm sao có thể khởi lên? Có hai khả năng: Một là computer bị trục trặc. Hiện thời họ dùng computer để kiểm soát phi đạn (hỏa tiễn mang đầu đạn hạch nhân). Nếu computer bị trục trặc, sẽ nẩy sanh biến cố, phi đạn từ bên này bắn ra. Bên kia nói bên này công kích, bèn nhanh chóng trả đũa, chẳng phải là chiến tranh nổ ra hay sao? Nổ ra mà chẳng biết vì sao? Chẳng biết do nguyên nhân nào mà bùng nổ! Một khả năng khác nữa là do bệnh thần kinh, những nhóm binh lính nhỏ canh giữ phi đạn mắc bệnh thần kinh, nhấn bừa nút điều khiển, chiến tranh bèn nổ ra. Điều này rất có thể xảy ra! Thiện Đạo đại sư dạy chúng ta tu hành phải tìm con đường tắt, tìm một con đường đơn giản, dễ dàng, ổn thỏa, con đường ấy là “chỉ niệm A Di Đà Phật”, thật sự thẳng thừng, thỏa đáng chỉ cho chúng ta phương pháp này trong Tiểu Bổn Di Đà Kinh.

 

(Sớ) Cố vân: “Dư môn học đạo, danh thụ xuất tam giới, niệm Phật vãng sanh, danh hoành xuất tam giới”.

() 故云 :餘門學道 ,名豎出三界 ;念佛往生 ,名橫出三界。

(Sớ: Cho nên nói: “Học đạo trong các môn khác gọi là thoát tam giới theo chiều dọc, niệm Phật là vượt tam giới theo chiều ngang”).

 “Thụ xuất tam giới”: Theo đường lối thông thường, phải đoạn Kiến Tư phiền não, đoạn sạch Tư Hoặc mới có thể thoát khỏi tam giới. Kiến Hoặc đoạn hết [nhưng chưa đoạn sạch Tư Hoặc] thì phải qua lại trong Dục Giới nhiều lần, đó gọi là “thụ xuất”. Lấy Tiểu Thừa A La Hán làm thí dụ thì đạt đến Tam Quả, tức là Tam Quả thánh nhân Tư Đà Hàm, đã đoạn sạch chín phẩm Tư Hoặc trong tam giới, chẳng sanh vào Dục Giới nữa, Ngài trụ ở nơi đâu? Ngài trụ trong Tứ Thiền Thiên của Sắc Giới, [có năm tầng trời[31] trong ấy] gọi là Ngũ Bất Hoàn Thiên, tu hành ở nơi đó. Đoạn sạch bảy mươi hai phẩm Tư Hoặc còn lại, mới có thể vượt thoát Vô Sắc Giới, vượt khỏi tam giới. Đó gọi là “thụ xuất”. Tiểu Thừa là như thế, các pháp môn khác trong Đại Thừa cũng như thế. Kỹ xảo đoạn phiền não của Đại Thừa cao minh hơn Tiểu Thừa, phương pháp xảo diệu mà!

Pháp môn Niệm Phật được gọi là “hoành xuất tam giới”, là do nói đến công phu Đoạn Chứng, ngay cả Tiểu Thừa Sơ Quả cũng chưa đạt đến, một phẩm Hoặc (phiền não) cũng chưa đoạn, cớ sao có thể vãng sanh? Đấy là nhờ vào Phật lực gia trì. Vì thế, pháp môn này được gọi là “pháp môn Nhị Lực”. Khi lâm chung, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, ra đi như vậy đó! Từ trong loài người bèn vượt thoát, chẳng cần phải trải qua Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên, Vô Sắc Giới Thiên, chẳng cần phải qua những nơi đó, mà vượt ngang ra, nên gọi là “hoành siêu”. Tự mình chuẩn bị đầy đủ sức lực là Tín – Nguyện – Hạnh, trọn đủ ba điều kiện ấy. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói rõ ràng, trong Sớ Sao [Liên Trì đại sư] càng nói tường tận hơn: Chính mình ắt phải trọn đủ ba điều kiện này thì mới có thể cảm ứng đạo giao cùng A Di Đà Phật.

Thật sự tin tưởng [pháp môn này] thì những pháp môn khác đều buông xuống hết. Nếu còn chưa thể buông xuống là do tín tâm chưa thanh tịnh, chưa kiên cố, thời gian cảm ứng đạo giao cùng Phật phải dài hơn. Vì sao có nhiều người niệm Phật trong một thời gian rất ngắn bèn cảm ứng đạo giao? Chẳng có nguyên nhân nào khác! Chắc cũng có kẻ nói “người ấy có thiện căn”, chẳng lẽ quý vị không có thiện căn? Người ta có thiện căn, quý vị cũng có thiện căn, nhưng quý vị chẳng dùng thiện căn của chính mình, còn có cách nào nữa đây? Thiện căn là gì? Tín là thiện căn, chỉ tin một môn này, niệm kinh bèn chỉ niệm một kinh này. Trừ kinh này ra, những kinh khác chúng ta đều chẳng niệm. Chết sạch lòng so đo, khăng khăng nương theo bộ kinh này, sẽ cảm ứng đặc biệt nhanh chóng. Vì sao? Toàn bộ tâm lực của quý vị tập trung vào một điểm này. Nếu dính đến những kinh luận khác, tâm quý vị bị phân tán, sức lực yếu mỏng. Tâm quý ở chỗ chuyên nhất, chớ nên phân tán. Có như vậy thì mới có thể tu đến nhất tâm bất loạn.

Ngay cả hết thảy kinh mà ta còn chẳng cần thì hết thảy các pháp thế gian có cần đến nữa hay không? Đương nhiên chẳng cần! Trong mười hai thời, ôm chặt [một câu] A Di Đà Phật. Tôi nghĩ: Trong tâm động niệm suy tưởng, bèn tưởng A Di Đà Phật; hễ niệm, bèn niệm A Di Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật ra, thứ gì cũng chẳng tưởng tới hay niệm tới, chắc chắn quý vị vãng sanh! Nếu có thể làm như vậy, chẳng đầy ba năm, quý vị tuyệt đối có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tu thành công pháp môn này. Nếu vừa niệm Phật vừa khởi vọng tưởng, tuy niệm kinh A Di Đà vẫn nghĩ học các kinh luận khác, vẫn mong học các pháp môn khác, cả đời này quý vị có thể vãng sanh hay không, đích xác là một dấu hỏi! Nói “thiện căn rất sâu” chính là chẳng có gì khác, mà là chuyện như thế đó. Đó gọi là “hoành xuất tam giới”. Tiếp đó, đại sư lại nêu tỷ dụ.

 

(Sớ) Như trùng tại trúc, thụ tắc lịch tiết nan thông, hoành tắc nhất thời thấu thoát, dư môn chi tỷ niệm Phật, tắc niệm Phật vi tốc hỹ.

() 如蟲在竹 ,豎則歷節難通 橫則一時透 。餘門之比念佛,則念佛為速矣。

(Sớ: Như con sâu trong ống tre, [muốn thoát ra] theo chiều dọc phải vượt qua từng đốt khó thể thông suốt, theo chiều ngang thì một lúc là lọt ra ngay. Những môn khác đem so sánh với Niệm Phật thì Niệm Phật là nhanh chóng vậy).

Ống tre rất dài, có nhiều lóng. Nếu có một con sâu từ lóng tre dưới cùng vượt mãi lên trên để thoát ra, nó phải đục [màng ngăn giữa] mỗi lóng, phải mất thời gian rất dài, phải tốn nhiều công sức, mới có thể thoát ra được. “Hoành xuất” là con sâu ấy thông minh, cắn thủng thành ống bèn chui ra được, chẳng cần phải rắc rối đến thế. Điều này tỷ dụ tu hành pháp Niệm Phật so với các pháp môn khác dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn.

 

(Sớ) Niệm Phật phục hữu đa môn giả, như hậu văn trung sở khai Thật Tướng Niệm Phật tứ chủng.

() 念佛復有多門者,如後文中所開實相念佛四種。

(Sớ: Niệm Phật lại có nhiều môn, như trong phần kinh văn ở phía sau nói có bốn cách niệm Phật như Thật Tướng Niệm Phật v.v…)

Nói đến niệm Phật thì chủng loại niệm Phật rất nhiều. Ngay cả trì danh cũng có rất nhiều cách niệm. Ví như tại Đài Loan, hiện thời thịnh hành Ngũ Hội Niệm Phật. Có cách niệm Phật bảy âm, niệm năm âm, niệm bốn âm, rất nhiều cách niệm, xoang điệu (tunes) đều khác nhau. Nếu quý vị hỏi: Loại nào chính xác? Rất khó nói, căn tánh của mỗi người khác nhau. Quý vị hiểu rõ nguyên tắc là được. Xoang điệu nào chúng ta nghe [cảm thấy] rất thoải mái, nghe khiến cho tâm ta có thể tĩnh lặng thì xoang điệu ấy thích hợp với quý vị. Theo như tôi cảm nhận, Ngũ Hội Niệm Phật tiếp dẫn người sơ học rất tốt, giống như ca hát vậy, nhưng muốn dùng cách niệm này để định tâm sẽ khó lắm! Bình thời hãy nghe nhiều, tự mình niệm nhiều, loại xoang điệu nào mà tự mình niệm cảm thấy rất thoải mái, niệm lên cảm thấy tâm chính mình rất định, rất thanh tịnh, quý vị hãy dùng phương pháp ấy. Vì thế, chuyện này cũng chẳng có phương pháp nhất định!

 

(Sớ) Nãi chí vạn hạnh hồi hướng đẳng.

() 乃至萬行回向等。

(Sớ: Cho đến muôn hạnh hồi hướng v.v…)

 Tu học hết thảy thiện pháp đều có thể hồi hướng Tây Phương Tịnh Độ. Vì sao ta làm những chuyện ấy? Vì cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta trong mỗi niệm, bất luận làm chuyện gì, khởi tâm động niệm, làm gì cũng đều vì cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Cho đến mặc áo, ăn cơm, vì sao ta phải ăn cơm? Vì cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Nếu ta không ăn cơm, thân thể chẳng có hơi sức gì! Ăn no rồi, thân thể có sức mạnh, có sức mạnh để làm gì? Có sức mạnh để niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Bất luận làm chuyện gì cũng đều phải hồi hướng công đức về Tây Phương; đãi người, tiếp vật cũng như thế. Trừ phi chúng ta chẳng tiếp xúc ai khác, hễ có thể tiếp xúc, đều phải khuyên người ta niệm Phật. Họ tin tưởng thì rất tốt, chẳng tin cũng không sao. Chẳng tin tưởng thì cũng đã nghe tới A Di Đà Phật rồi! “Nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng” (một phen lọt qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo), ta đã đem A Di Đà Phật giới thiệu cho người ấy. Vì sao phải làm như thế? Vì cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Thường dụng tâm như thế hòng tiếp cận Tây Phương Tịnh Độ.

 

(Sớ) Thật Tướng chi Phật, tuy vân bổn cụ, nhi chúng sanh chướng trọng, giải ngộ giả hy.

() 實相之佛,雖云本具,而眾生障重,解悟者希。

(Sớ: Đức Phật trong Thật Tướng tuy nói là “sẵn có”, nhưng chúng sanh chướng nặng, kẻ giải ngộ hiếm hoi).

Thật Tướng là Chân Như bổn tánh của chính mình. Có rất nhiều đồng tu hỏi: “Chúng ta phải như thế nào thì có thể thực hành Thật Tướng Niệm Phật? Nói thật ra, trong hiện tại, chắc chắn quý vị không thể làm được. Vì sao? Vì cái tâm của quý vị trong hiện thời là tâm tạp loạn, làm sao có thể tương ứng với Thật Tướng? Niệm Phật đến mức Lý nhất tâm bất loạn thì chính là Thật Tướng. Vì thế, công phu sau khi đã đắc Lý nhất tâm đều gọi là Thật Tướng Niệm Phật. Đến địa vị nào mới chứng Lý nhất tâm? Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Từ đấy trở đi có bốn mươi mốt tầng cấp, kinh Hoa Nghiêm gọi [những tầng cấp ấy] là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân Đại Sĩ, các Ngài niệm A Di Đà Phật là Thật Tướng Niệm Phật, đấy chẳng phải là cảnh giới của chúng ta. Hiện thời chúng ta thật thà sử dụng phương pháp Trì Danh là được rồi, đừng ham cao, chuộng xa, phải đứng vững nơi thực tế. Như vậy thì mới có thể thụ dụng thật sự.

 

(Sớ) Hạ thử sổ môn: Quán Tượng, tắc tượng khứ, hoàn vô; nhân thành gián đoạn.

() 下此數門:觀像,則像去還無,因成間斷。

(Sớ: Trong mấy môn [niệm Phật] kế tiếp, như Quán Tượng thì hễ rời khỏi tượng, sẽ lại không có gì; do vậy, trở thành gián đoạn).

Quán Tượng là nhìn vào tượng A Di Đà Phật. Đặt tượng Phật trước mặt, quý vị nhìn thấy Ngài. Nếu quý vị xoay đầu sẽ chẳng thấy, [ấn tượng về tượng] Phật bị gián đoạn. Như thế nào thì mới có thể suốt ngày từ sáng đến tối mắt nhìn tượng Phật chẳng gián đoạn? Phải có phước báo rất lớn. Nếu quý vị không làm chuyện gì, không phải đi làm, có người cúng dường cho quý vị, có người đến hầu hạ, trong gian nhà chính của quý vị bốn phía đều treo ảnh Phật, bất luận quý vị đi về phía nào cũng đều thấy A Di Đà Phật, cần phải có phước báo lớn như thế thì mới được. Mỗi ngày quý vị đi làm, Quán Tượng Niệm Phật nhất định bị gián đoạn giữa chừng!

 

(Sớ) Quán Tưởng tắc tâm thô cảnh tế, diệu quán nan thành.

() 觀想,則心粗境細,妙觀難成。

(Sớ: Quán Tưởng thì tâm thô tháp, cảnh vi tế, phép Quán mầu nhiệm khó thành tựu).

Thật đấy, còn khó hơn Quán Tượng! Phép Quán thứ nhất trong Thập Lục Quán Kinh là quán mặt trời lặn giống như cái trống treo, quán vầng mặt trời vừa mới lặn xuống phía Tây. Sau khi quán thành công, mặt trời vĩnh viễn ở trước mặt quý vị, người khác không thấy được, nhưng quý vị thấy rõ ràng. Mở banh mắt thấy vầng mặt trời trước mặt, lúc nhắm mắt thái dương vẫn ở trước mặt, như vậy thì mới là “quán thành tựu”. Nếu quý vị mở banh mắt hay nhắm mắt đều không thấy thì quán chưa thành công. Chẳng dễ dàng! Phép Quán này thành tựu, lại tu phép Quán thứ hai. Phép Quán thứ hai là “biển cả đóng băng”, tức là quán mặt đất. [Hành nhân tu phép Quán này] thấy mặt đất là đất lưu ly. Sau khi quán thành công môn này, quý vị thấy đại địa là Phỉ Thúy, Lưu Ly là ngọc Phỉ Thúy (Jadeite), tức một loại ngọc có màu xanh lá cây, quý vị mới quán thành công. Nếu quý vị thấy vẫn là sàn nhà bằng đá mài, tức là chưa quán thành công phép Quán này, chẳng dễ dàng! So với Quán Tượng còn khó khăn hơn. Vì thế, nói “tâm thô cảnh tế, diệu quán nan thành”, chẳng sai tí nào!

 

(Sớ) Vạn hạnh tắc sở tác phồn đa, trọng xứ thiên trụy.

() 萬行,則所作繁多,重處偏墜。

(Sớ: Vạn hạnh thì việc làm đông nhiều, coi trọng chỗ nào sẽ rớt vào nơi đó).

“Vạn hạnh” chính là như Vô Lượng Thọ Kinh đề xướng: Phải tu Lục Độ vạn hạnh. Tu trọn vẹn Lục Độ vạn hạnh: Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã v.v… A! Hằng ngày làm những chuyện ấy, quên bẵng niệm Phật, tu phước mà! Tài Bố Thí nhiều, đời sau sẽ đại phú quý. Pháp Bố Thí nhiều, đời sau thông minh, trí huệ. Làm theo cách đó thì gọi là “trọng xứ thiên trụy”, “trụy” (墜) là đọa lạc. Kết pháp duyên rất nhiều, đời sau làm quốc vương, đại thần, người ủng hộ quý vị đông lắm! Hiện thời là dân chủ, được người ta bỏ phiếu bầu nhiều! Quý vị có duyên với những chúng sanh ấy, nói chung, những thứ ấy đều là phiền phức! Pháp môn này dạy chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối giữ chặt một câu Phật hiệu, thêm một chuyện chẳng bằng bớt đi một chuyện; bớt đi một chuyện chẳng bằng không có chuyện gì, dễ tu hơn! Hết thảy các thiện pháp thế gian, xuất thế gian, Lục Độ vạn hạnh, chúng ta đều tùy duyên để tu, tuyệt đối đừng phan duyên, hãy tùy phần, tùy sức, hễ gặp cơ hội chúng ta bèn làm. Không có thì đừng đi tìm, tâm quý vị sẽ vĩnh viễn thanh tịnh. Nếu duyên quá nhiều, người tìm tới quá đông, quý vị phải có trí huệ, thỉnh người khác làm. Như vậy mới là tốt! Đừng chuyện gì cũng ôm vào mình, sẽ phiền phức to, sợ rằng cái tâm thanh tịnh của quý vị sẽ bị nhiễu loạn.

 

(Sớ) Duy thử trì danh nhất pháp, giản yếu trực tiệp.

() 唯此持名一法,簡要直捷。

(Sớ: Chỉ có pháp Trì Danh này, đơn giản, trọng yếu, thẳng thừng, nhanh chóng).

Đơn giản, trọng yếu, thẳng chóng, ổn thỏa. Trong mười hai thời sử dụng công phu này, người niệm Phật có phước báo khôn sánh!

 

(Sớ) Đản năng kế niệm, tiện đắc vãng sanh.

() 但能繼念,便得往生。

(Sớ: Chỉ cần niệm liên tục liền được vãng sanh).

Niệm Phật liên tiếp [chẳng gián đoạn], chắc chắn vãng sanh.

 

(Sớ) Cổ nhân vị: “Ký đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ”.

() 古人謂既得見彌陀,何愁不開悟。

(Sớ: Cổ nhân nói: “Đã được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ).

Trong một đời, chúng ta quyết định chẳng khởi vọng tưởng: “Ta muốn khai ngộ thì phải học rộng, nghe nhiều, ta phải tu tập, tích lũy vô lượng vô biên công đức”. Chẳng khởi lên vọng tưởng ấy, mà học theo cách thật thà niệm Phật, cứ chất phác niệm Phật. Người thật thà chắc chắn thành công trong một đời này. Đã thấy A Di Đà Phật, đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị còn sợ chẳng khai ngộ ư? Quý vị còn sợ chẳng thể học rộng, nghe nhiều ư? Hễ sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, hết thảy đều đạt được. Không chỉ những điều quý vị nghĩ đến đều đạt được, mà những gì quý vị chưa nghĩ tới cũng đều đạt được. Công đức rốt ráo viên mãn là ở Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nơi này tuy kinh điển rất nhiều, chẳng thể sánh bằng Tây Phương Cực Lạc thế giới. Huống hồ chúng ta mở kinh điển ra xem, rất nhiều chỗ đọc không hiểu. Thỉnh một người đến giải thích cho chúng ta, ai chịu phát cái tâm ấy đến giảng cho quý vị? Có thỉnh cũng chẳng thỉnh được. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, vấn đề ấy liền được giải quyết!

Chư Phật, Bồ Tát ở Tây Phương Cực Lạc thế giới đều đại từ đại bi, quý vị muốn nghe kinh nào, các Ngài liền giảng kinh ấy. Vì thế, chúng ta cớ gì phải lãng phí thời gian và tinh lực ở nơi này? Chẳng cần học! Tất cả đều để dành sang Tây Phương Cực Lạc thế giới hãy học. Hiện thời, khẩn yếu nhất là làm thế nào để sang Tây Phương Cực Lạc thế giới nhanh hơn một chút, hiện thời chúng ta cầu điều này. Liên Trì đại sư nói: “Tam Tạng thập nhị bộ, nhượng cấp tha nhân ngộ” (Tam Tạng mười hai bộ loại, nhường cho kẻ khác ngộ), ai muốn ngộ thì quý vị nhường cho người đó; “bát vạn tứ thiên hạnh, nhiêu dữ biệt nhân hành” (tám vạn bốn ngàn hạnh, dành cho người khác hành). Người nào thích hành thì người đó cứ hành. Lão nhân gia thật sự triệt để hiểu rõ, nhất tâm nhất ý cầu sanh Tây Phương, biết học thêm những pháp môn khác đều là xen tạp, đều tốn công vô ích, chúng ta hãy nên dồn sức tu học nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hiện thời, chỉ có một mục tiêu là làm thế nào để có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì đại công sẽ cáo thành.

 

(Sớ) Tắc bất kỳ Thật Tướng nhi Thật Tướng khế yên!

() 則不期實相而實相契焉。

(Sớ: Đấy là chẳng mong cầu Thật Tướng, mà lại khế hợp Thật Tướng vậy).

Hiện thời chúng ta không mong chứng Thật Tướng; đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, Thật Tướng bèn hiện tiền, Thường Tịch Quang Tịnh Độ mà! Chúng ta sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cớ sao sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư thì cũng có thể khế nhập Thật Tướng? Kinh dạy rất rõ ràng: Người vãng sanh Hạ Hạ Phẩm trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. Chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái là thân phận gì vậy? Đẳng Giác Bồ Tát! Vị ấy chẳng khế hợp Thật Tướng thì ai sẽ khế hợp? Vì thế, Tây Phương Cực Lạc thế giới đúng là quá kỳ diệu, thật sự là pháp khó tin. Mỗi một vị Phật đều có bốn cõi: Cõi Thường Tịch Quang, cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cõi Phương Tiện Hữu Dư và cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Bốn cõi trong thế giới này (thế giới Sa Bà) đều ngăn cách, chẳng viên dung; bốn cõi của Tây Phương Cực Lạc thế giới viên dung, không hề chướng ngại. Vì thế, sanh vào một là sanh trong hết thảy, cõi ấy mầu nhiệm ở chỗ này!

 

(Sớ) Cố niệm Phật vi tu hành kính lộ, nhi trì danh hựu niệm Phật trung chi kính lộ dã.

() 故念佛為修行徑路,而持名又念佛中之徑路也。

(Sớ: Vì thế, niệm Phật là đường tắt trong sự tu hành, nhưng trì danh lại là đường tắt nhất trong pháp môn Niệm Phật).

Trì danh niệm Phật là đường tắt nhất trong các con đường tắt. Nói cách khác, là đường lối tu hành thành Phật gần nhất. Trong vô lượng pháp môn, quý vị có thể tìm ra một con đường gần nhất đâu phải dễ dàng! Điều này đòi hỏi phải có trí huệ và phước báo cỡ nào, nhưng nay chúng ta bất ngờ vớ phải, gặp gỡ. Đã gặp gỡ, nếu quý vị có thể tin tưởng và thực hành thì sẽ thành Phật trong một đời này. Chư Phật hộ niệm, chư Phật tán thán. Đã gặp gỡ mà quý vị chẳng tin tưởng, chẳng chịu thực hành, chư Phật đều than thở: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ! Đời này hắn đã được gặp mà chẳng tin tưởng, ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, đó là chuyện đáng tiếc không chi bằng!”

Pháp môn này thật sự là pháp khó tin! Chẳng riêng Thích Ca Mâu Ni Phật tự nói là pháp khó tin, mà mười phương chư Phật khác miệng cùng lời đều nói pháp môn này là pháp khó tin. Quý vị có thể tin tưởng thì chính là đại thiện căn, đại phước đức, đại nhân duyên, thật sự là công đức chẳng thể nghĩ bàn, chính mình nhất định phải trân quý. Vì sao tôi chẳng ngại phiền giảng giải Di Đà Kinh Sớ Sao? Nguyên nhân là vì mong mọi người sẽ do Sớ Sao mà sanh khởi tín tâm, thật sự phát nguyện. Hiện thời, tuy chúng ta chưa về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng đã là một phần tử trong Liên Trì Hải Hội, nhất định phải vãng sanh trong đời này, chẳng có mảy may nghi ngờ gì đối với chuyện vãng sanh của chính mình. Đã tìm được con đường tắt này, đã tìm được con đường chánh đáng này. Chính mình đã tìm được, đương nhiên chúng ta phải tận tâm tận lực giới thiệu cho người khác.

 

(Sớ) Hạc xung dĩ quá phàm cầm.

() 鶴沖已過凡禽。

(Sớ: Hạc bay cao hơn các loài chim tầm thường).

 Những loài chim khác chẳng thể sánh bằng bạch hạc, nó bay rất cao!

 

(Sớ) Tranh như bằng cử.

() 爭如鵬舉。

(Sớ: Nhưng vẫn chẳng bằng đại bàng sải cánh).

Chim đại bàng còn bay cao hơn bạch hạc. Dùng đại bàng để tỷ dụ trì danh niệm Phật.

 

(Sớ) Ký sậu tuy siêu quần mã, vị cập long phi.

() 驥驟雖超群馬,未及龍飛。

(Sớ: Ngựa Ký phi tuy vượt trỗi các loài ngựa khác, vẫn chưa bằng rồng bay).

 Ngựa có giỏi cách mấy đi nữa cũng chẳng sánh bằng rồng, rồng có thể bay lên, biến hóa. Đem rồng tỷ dụ pháp trì danh niệm Phật.

 

(Sớ) Giai thượng dụ niệm Phật, hạ dụ trì danh niệm Phật dã. Bất tật bất hành giả, Dịch Hệ Từ viết: “Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố, phi thiên hạ chi chí thần, kỳ thục năng dữ ư thử. Duy thần dã, bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí”.

()皆上喻念佛 喻持名念佛也 不疾不行者 易繫詞曰:易無思也,無為也,寂然不動,感而遂通天下之故,非天下之至神,其孰能與於此。唯神也,不疾而速,不行而至。

(Sớ: Trong những thí dụ này, thí dụ trước (chim hạc, ngựa Ký) đều nhằm sánh ví pháp niệm Phật, thí dụ sau (đại bàng, rồng) nhằm sánh ví pháp trì danh niệm Phật. “Bất tật, bất hành” là như phần Hệ Từ trong kinh Dịch có đoạn viết: “Dịch là không suy nghĩ, không làm, lặng lẽ, bất động, mà hễ cảm bèn thông thấu thiên hạ, chẳng phải là tột bậc thần diệu trong thiên hạ thì còn điều nào khác có thể được như thế. Chỉ có mình nó là thần diệu, chẳng lẹ làng mà nhanh chóng, chẳng đi mà đến”).

Câu này trích từ kinh Dịch. Chúng sanh trong lục đạo đều có ý niệm, “tư” (思) là ý niệm. “Hữu niệm” là có vọng niệm. “Dịch vô tư” là chẳng có vọng tâm, chẳng có vọng niệm. “Vô vi dã”: “Vô tư là vô vi, hễ có tư thì là hữu vi. Hữu vi là pháp sanh diệt, ý niệm này sanh, ý niệm kia bèn diệt. Đó là pháp hữu vi. Trong Bách Pháp, chín mươi bốn pháp đầu là pháp hữu vi, pháp sanh diệt, sáu pháp sau cùng là pháp vô vi. Trong các pháp vô vi, Chân Như Vô Vi là vô vi thật sự, năm pháp kia là tương tự vô vi. Chân Như Vô Vi: Chân Như là bổn tánh, là chân tâm của chúng ta. Kinh Dịch giảng về chân tâm, trong chân tâm không có ý niệm, trong chân tâm không có sanh diệt, do vậy nói: “Vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động”. Mấy câu này của kinh Dịch có ý nghĩa hoàn toàn giống như Lăng Nghiêm Đại Định được giảng trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Phần kinh văn giảng về Mười Phen Chỉ Rõ Cái Thấy (Thập Phiên Hiển Kiến) đã chỉ ra tánh Thấy bất sanh bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhơ, chẳng sạch, như như bất động!

“Cảm nhi toại thông”: Bên ngoài có cảm, nó sẽ có ứng, cảm ứng đạo giao! Điều này thuộc về bản năng (năng lực sẵn có), sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, hễ tiếp xúc liền hiểu rõ, thông đạt, chẳng phải thông qua suy xét, đó là trí huệ thật sự. Mấy câu này nói theo pháp môn Niệm Phật của chúng ta thì là Lý nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm là Định, Lý nhất tâm là trong Định khai Huệ. Sự nhất tâm là “tịch nhiên bất động”, Lý nhất tâm là “cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố” (hễ cảm bèn thông thấu thiên hạ), cảnh giới này càng cao hơn nữa! “Phi thiên hạ chi chí thần” (chẳng phải là thần minh tột bậc trong thiên hạ), thần diệu đến tột cùng. “Thần” ở đây là “linh minh”, chẳng thể nghĩ bàn đến tột cùng. “Thục năng dữ ư thử” (thì còn điều nào khác có thể được như thế): Chữ “thần” này chỉ tâm tánh của chúng ta, mà cũng chỉ nhất tâm bất loạn.

“Bất tật nhi tốc” (không nhanh mà lẹ) giống như chúng ta là người niệm Phật thành tựu tại nơi đây, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới cách chúng ta bao xa? Mười vạn ức cõi Phật! Khoảng cách xa xôi dường ấy, chúng ta ở đây chẳng phải tốn sức mà đến nơi đó, vẫn chẳng phải cất bước mà đến nơi, mầu nhiệm thay! Đấy là chẳng nhanh chóng mà lẹ làng, chẳng đi mà tới. Chẳng giở một bước chân mà đã sang Tây Phương Cực Lạc thế giới. Cảnh giới này là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Kinh này vốn có tên gọi là Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh, [cảnh giới này] hoàn toàn tương ứng với đề mục của kinh này. Đoạn này có ý nghĩa rất sâu, mà cũng hết sức thú vị. Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 68

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang chín mươi lăm:

 

(Sớ) Bất tật bất hành giả, Dịch Hệ Từ viết:  “Dịch vô tư dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố, phi thiên hạ chi chí thần, kỳ thục năng dữ ư thử”.

() 不疾不行者 易繫詞曰 :易無思也 ,無為也,寂然不動,感而遂通天下之故。非天下之至神,其孰能與於此。

(Sớ: “Chẳng nhanh, chẳng đi” là như phần Hệ Từ trong kinh Dịch đã viết: “Dịch là không suy nghĩ, không làm, lặng lẽ, bất động, hễ cảm bèn thông thấu thiên hạ, chẳng phải là thần diệu đến tột bậc trong thiên hạ thì còn điều gì khác có thể được như thế”).

 Đại sư trích mấy câu từ kinh Dịch. Phàm phu đều là hữu niệm. “Tư” là hữu niệm, cũng có thể nói: Phàm là hữu tâm, sẽ nhất định là hữu tư. Cái tâm ấy gọi là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Trong hết thảy các kinh điển, đức Phật thường dạy chúng ta “chân tâm ly niệm”. Chân tâm không có niệm, vọng tâm mới có niệm. Vọng tâm là nói tới tám thức. Phải đến khi nào mới không có niệm? Nói nghiêm ngặt sẽ là Bát Địa Bồ Tát. Bát Địa gọi là Bất Động Địa, chuyển tám thức thành bốn trí. Khi ấy sẽ thật sự ly niệm, không có vọng niệm. Do điều này, có thể biết: Từ Thất Địa trở xuống đều là hữu tư, hữu niệm. Vì thế, cảnh giới này vô cùng cao. Kinh Dịch nói “vô tư”“vô vi”, đấy là cảnh giới của Bát Địa Bồ Tát trong Viên Giáo, đủ thấy Nho gia quả thật cũng chẳng đơn giản; còn như Lão Tử, Trang Tử, cổ nhân cho rằng họ thuộc cảnh giới từ Thất Địa trở lên. Tuy Phật giáo chưa truyền tới Trung Quốc, cảnh giới của họ quả thật đã đạt đến mức độ cao như vậy. Khổng Tử đương nhiên cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, Ngài là đại thánh nhân của Trung Quốc.

“Tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố” (Vắng lặng chẳng động, hễ cảm bèn thông thấu thiên hạ): Chúng ta phải đặc biệt chú trọng câu này. Không chỉ nhất tâm bất loạn của pháp môn Tịnh Độ thuộc về cảnh giới giống như thế, mà minh tâm kiến tánh trong nhà Thiền, đại khai viên giải trong Giáo Hạ, công phu đều phải đạt đến tầng cấp này. Đấy là bất luận trước thuận cảnh, nghịch cảnh, hay cảnh giới phi thuận phi nghịch (chẳng phải thuận cảnh, mà cũng chẳng phải nghịch cảnh), chúng ta đều phải có công phu đạt đến tiêu chuẩn này, tức là “tịch nhiên bất động”. Nếu nói theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, câu này chính là nói về Lăng Nghiêm Đại Định. Định ấy là Tánh Định, tức là Đại Định vốn sẵn có trong tự tánh, chứ chẳng phải do tu rồi có được từ bên ngoài!

Câu tiếp theo chính là Đại Định khởi tác dụng.  Kinh Bát Nhã nói:

“Bát Nhã vô tri, không gì chẳng biết”. “Vô tri” là tịch nhiên bất động, tức là “vô tư, vô vi” như đã nói trong phần trên, tịch nhiên bất động, đấy là Lăng Nghiêm Đại Định. “Cảm nhi toại thông” (hễ cảm bèn thông) là khởi tác dụng, không gì chẳng biết, không gì chẳng làm. “Vô vi” là không gì chẳng làm; “vô tư” là không gì chẳng nghĩ. Phàm phu chúng ta tách chúng thành hai; chẳng hạn như [cho rằng] vô tư và hữu tư là hai chuyện, vô vi và hữu vi cũng là hai chuyện. Như vậy thì sẽ vĩnh viễn chẳng thể nhập cảnh giới của Phật, vĩnh viễn chẳng có biện pháp nào đạt đến nhất tâm bất loạn. Đức Phật và thánh nhân Trung Quốc dạy chúng ta: Vô vi và hữu vi là một, vô tư và hữu tư cũng là một. Nói như vậy thì càng nói càng huyền diệu, chúng ta rất khó lãnh hội. Thật ra, trong các buổi giảng chúng tôi cũng thường nhắc tới đạo lý này; tuy thường nhắc tới, chúng ta nghe đã nhàm tai, nghe quá nhiều lần rồi, gần như cũng biết có chuyện này, nhưng thật ra, rời khỏi giảng đường bèn quên tuốt, cho nên, nó chẳng khởi tác dụng, chẳng thể vận dụng đắc lực trong tu hành. Điều này chỉ trách chính mình tâm ý thô tháp, hời hợt, chẳng thể thật sự dốc sức vận dụng nó trong cuộc sống, trong khởi tâm động niệm.

Vô niệm là nói về chính mình. Hữu niệm là đối với người khác. Đối với người khác bèn vì người khác mà phân biệt hết thảy các pháp tướng, chứ trong tâm của chính mình, quả thật chẳng có phân biệt, chẳng có ý niệm. Vì thế, phân biệt là hữu niệm, hữu niệm sanh khởi từ vô niệm, lấy vô niệm làm gốc, lấy vô niệm làm Thể. Vì thế, “niệm tức vô niệm, vô niệm tức niệm”, thật sự là một, chẳng phải hai. Hiểu rõ đạo lý này, hữu vi và vô vi chẳng khó hiểu. Trong cảnh giới phàm phu, hễ vì người khác phân biệt pháp tướng thì trong tâm mình thật sự dùng cái tâm phân biệt. Nói cách khác, chúng ta vì người khác phân biệt pháp tướng thì cái tâm được sử dụng ấy là tâm ý thức, tức là sử dụng thức thứ sáu, thức thứ bảy, dùng phân biệt, dùng chấp trước, nên gọi là phàm phu, chẳng có cách nào thấu hiểu “nhất hiệp tướng”, “pháp môn Bất Nhị” như trong Phật pháp đã nói và “nhất tâm bất loạn” được nói trong kinh này. Những điều ấy đều thuộc về cảnh giới này.

Câu tiếp theo là tán thán: “Phi thiên hạ chi chí thần, kỳ thục năng dữ ư thử” (chẳng phải là thần diệu tột bậc trong thiên hạ thì còn điều nào khác có thể được như thế). “Thần” cũng có nghĩa là chẳng thể nghĩ bàn, dựa theo kiến thức thông thường, chúng ta sẽ chẳng thể tưởng tượng được. Chúng ta chẳng thể suy nghĩ hay diễn nói cảnh giới này được!

 

(Sớ) Duy thần dã, bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí.

() 唯神也,不疾而速,不行而至。

(Sớ: “Chỉ có mình nó là thần diệu”: Chẳng nhanh mà lẹ, chẳng đi mà đến).

Áp dụng điều này để tán thán pháp môn Tịnh Độ, đúng là mầu nhiệm đến tột bậc. Hai câu này cũng giống như U Khê đại sư đã viết trong cuốn Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận: “Sanh tắc quyết định sanh, khứ tắc thật vô khứ” (Sanh thì quyết định sanh, mà đi thì thật sự chẳng đi). Nghe mấy câu trước, chúng ta rất hớn hở, nghe xong câu này, chúng ta bèn ỉu xìu! Chẳng đi thì không phải là chẳng sanh ư? Đâu có biết [sanh và chẳng sanh] là cùng một chuyện. Phàm phu chúng ta chấp trước có sanh và có bất sanh, nghĩ đó là hai chuyện, đi và chẳng đi cũng là hai chuyện, chẳng biết trong Nhất Chân pháp giới, trong nhất tâm bất loạn, sanh và vô sanh là một, đi và không đi cũng là một. Chỉ cần quý vị đạt đến nhất tâm bất loạn, sẽ là “bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí” (chẳng nhanh mà lẹ, chẳng đi mà đến). Tuy Tây Phương Cực Lạc thế giới cách xa thế giới Sa Bà mười vạn ức cõi Phật như thế, người vãng sanh đến bên đó mất bao nhiêu thời gian? Cổ nhân nói “trong khoảng khảy ngón tay bèn đến nơi”. Thời gian khảy ngón tay chưa đến một giây, trong một giây có thể khảy ngón tay mấy lần, quý vị nghĩ xem: Nhanh ngần ấy! Chính người ấy có cảm giác tốc độ của chính mình rất nhanh hay chăng? Không có cảm giác! Trong khi không cảm giác mà đã đến nơi rồi! Điều này chẳng thể nghĩ bàn, đúng là thần diệu tột bậc trong khắp thiên hạ!

 

(Sớ) Ý vị tật nhi hậu tốc, hành nhi hậu chí giả, vật chi thường dã.

() 意謂疾而後速,行而後至者,物之常也。

(Sớ: Ý nói “nhanh mà kém lẹ, đi mà tới sau” là lẽ thường của muôn vật).

Trong nhận thức thông thường của hết thảy phàm phu, tốc độ rất nhanh, có đi mà vẫn tới sau, đấy là đạo lý nhất định, là khái niệm của lũ phàm phu chúng ta. Tiếp đó, [kinh Dịch] giảng về quẻ, tức [giảng giải ý nghĩa của] một quẻ trong sáu mươi tư quẻ.

 

(Sớ) Thi quái chi thể, tịch vô tư vi, nhi hữu cảm tức thông, thị bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí, diệu vạn vật nhi vị chi thần dã. Dẫn thử dĩ minh chư môn Niệm Phật, tuy đồng viết vãng sanh, nhi vi lực sảo nan, vi thời sảo cửu, thị tu hành tu tập, nãi chí nãi tốc dã.

() 蓍卦之體 ,寂無思為 ,而有感即通 是不疾而速,不行而至,妙萬物而謂之神也。引此以明諸門念佛,雖同曰往生,而為力稍難,為時稍久,是須行須疾,乃至乃速也。

(Sớ: Xét về Thể của việc xủ quẻ bằng cỏ Thi là lặng lẽ, không suy nghĩ, hành động, nhưng hễ có cảm bèn thông, đấy là chẳng nhanh mà lẹ, chẳng đi mà đến, mầu nhiệm hơn vạn vật nên gọi là “thần”. Dẫn điều này để chỉ rõ các môn Niệm Phật tuy đều nói là [do hành trì các môn ấy bèn được] vãng sanh, nhưng công sức tu tập khá khó khăn, thời gian tu tập khá lâu dài, còn tu tập theo cách tu hành này sẽ nhanh chóng đạt đến).

Đoạn này nêu ra dụng ý vì sao đại sư nêu lên thí dụ này. “Thi” là [bói bằng cỏ Thi để có được] một trong sáu mươi tư quẻ[32]. Thể của nó là “tịch vô tư vi”, tức là không suy nghĩ, không hành động, còn tác dụng thì sao? Chính là “hữu cảm tức thông” (hễ có cảm liền thông), “thông” là thông đạt, “cảm” là cảm ứng, giống như trong Phật pháp: Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. Cảm ứng trong vòng một niệm, niệm phải thanh tịnh. Vì thế, Phật pháp nói “trang nghiêm đạo tràng”, thanh tịnh, nghiêm túc là “trang nghiêm”. Nếu chúng ta muốn thật sự trang nghiêm cõi Phật, phải thường giữ cho tâm và hạnh của chính mình thanh tịnh, đấy mới là trang nghiêm cõi nước của chư Phật, là cung kính. Tâm cung kính là thanh tịnh, tâm cung kính là vô phân biệt; lễ kính chư Phật phải đặc biệt thấu hiểu điều này. Nếu không, tâm chẳng thanh tịnh, vẫn suy nghĩ loạn xạ, vẫn là “họ Trương giỏi, họ Lý dở”, náo nhiệt, ồn ào, dẫu suốt ngày từ sáng đến tối dập đầu lễ sát đất, mỗi ngày dập đầu lễ mười vạn lạy, nứt toác cả đầu cũng uổng công, mà cũng chẳng cung kính! Vì thế, cung kính thì phải nghiêm túc trang nghiêm, pháp thế gian và xuất thế gian đều nói rõ đạo lý này!

Khi tâm địa của chúng ta thật sự thanh tịnh, sẽ khởi cảm ứng, cảm ứng chư Phật, Bồ Tát, cảm ứng quỷ thần trong lục đạo, đó là “bất tật nhi tốc” (chẳng nhanh mà lẹ). Hễ tâm thanh tịnh, đã định rồi, sẽ lập tức cảm ứng đạo giao. A Di Đà Phật cách xa chúng ta dường ấy, tâm chúng ta vừa thanh tịnh sẽ ngay lập tức có cảm ứng. Vì thế, trước khi niệm Phật, vì sao phải đọc một biến kinh Di Đà? Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư đã giảng rất hay: Niệm một biến kinh Di Đà để định tâm, tâm chúng ta tán loạn, lúc nghĩ Đông, khi tưởng Tây, niệm một biến kinh, tâm sẽ định lại, vọng niệm chẳng còn. Sau đó, niệm Phật, từng câu Phật hiệu đều có thể cảm ứng đạo giao với Phật. Tâm chẳng thanh tịnh, dẫu niệm Phật hiệu cho nhiều, vẫn chẳng khởi cảm ứng! Nhất định phải dùng tâm thanh tịnh để niệm Phật thì mới có cảm ứng. Nếu tâm quý vị rất thanh tịnh, có thể chẳng cần niệm kinh. Có nhiều vị tổ sư đại đức mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, cũng chẳng niệm kinh, mà cũng chẳng niệm chú, thứ gì cũng chẳng cần!

Vừa rồi có một đồng tu đến hỏi: Ông ta muốn niệm chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, nói những chú ấy tiêu nghiệp chướng rất nhanh. Quý vị hãy thử xem nhé! Hãy xem khi quý vị niệm những chú ấy, có thể tiêu nghiệp chướng hay chăng? Trong Trúc Song Tùy Bút, Liên Trì đại sư đã viết rất rõ ràng: Đã từng có người hướng về Ngài thỉnh giáo pháp môn Niệm Phật, hỏi rằng: “Sư dạy người khác niệm Phật ra sao?” Sư đáp: “Tôi dạy người ta niệm Nam-mô A Di Đà Phật, niệm sáu chữ”. Người khác bèn hỏi Sư: “Bản thân lão nhân gia niệm như thế nào?” “A Di Đà Phật”, bốn chữ! Dạy người khác niệm sáu chữ, còn chính mình niệm bốn chữ, người ta hỏi Sư: “Vì sao?” Trong ấy có đạo lý, Sư giảng: “Bản thân tôi quyết tâm muốn sanh về Tịnh Độ trong một đời này. Kinh dạy chúng ta tu hành chấp trì danh hiệu, danh hiệu chỉ có bốn chữ, tôi y giáo phụng hành”. Hai chữ Nam-mô có nghĩa là “quy y” hay “cung kính”, là lời khách sáo; vì thế, chẳng cần phải dùng phương cách khách sáo, chẳng dùng đến lối nói khách sáo. Dạy người khác, vì sao phải dạy niệm sáu chữ? Người khác chưa chắc đã hạ quyết tâm trong một đời này phải sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới; vì thế, phải thêm vào lời khách sáo để kết duyên với A Di Đà Phật mà thôi! Người ấy chưa chắc đã phát tâm.

Chúng ta hãy thấu hiểu sâu xa câu nói này, thật sự nói đến “công phu đắc lực, tiêu nghiệp chướng, tiêu tai miễn nạn” thì càng đơn giản, càng đắc lực; càng phiền phức, càng khó đắc lực! Quý vị hãy xem nhé: Chú Lăng Nghiêm chẳng đắc lực bằng chú Đại Bi vì chú Đại Bi đơn giản hơn. Chú Đại Bi, nói thật ra, chẳng đắc lực bằng chú Vãng Sanh, vì chú Vãng Sanh ngắn hơn chú Đại Bi. Chú Vãng Sanh lại chẳng bằng chú Lục Tự Đại Minh “Om, mani padme hum”. Nói thật ra, chú Lục Tự Đại Minh chẳng bằng A Di Đà Phật. Nếu quý vị hiểu, là người thật sự đọc thông suốt Tam Tạng mười hai bộ loại, không một ai chẳng niệm Phật! Thật sự tiêu nghiệp chướng, có sức mạnh lớn nhất, mạnh mẽ nhất, không gì hơn một câu niệm Phật. Nếu dùng cái tâm thanh tịnh để niệm câu Phật hiệu này thì mới có thể tiêu nghiệp chướng. Dùng cái tâm vọng niệm, dùng cái tâm phân biệt để niệm sẽ không được, chẳng có hiệu quả! Vì thế, trước khi niệm Phật, phải tụng một biến kinh Di Đà để định tâm, hoặc là niệm ba biến chú Vãng Sanh rồi mới niệm Phật hiệu. Phật hiệu ấy câu nào cũng đều là “hữu cảm tức thông, bất tật nhi tốc, bất hành nhi chí” (hễ có cảm liền thông, chẳng nhanh mà chóng, chẳng đi mà đến).

“Diệu vạn vật nhi vị chi thần dã” (mầu nhiệm hơn muôn vật, nên gọi là Thần): Diệu là “chẳng phải Có, chẳng phải Không”. Dùng chữ này để hình dung ý nghĩa “thần kỳ chẳng thể nghĩ bàn”. Trích dẫn những lời này không gì chẳng nhằm nói rõ: Phương pháp Niệm Phật rất nhiều, tuy mục đích đều là cầu vãng sanh, nhưng trong ấy có dễ và khó. “Vi lực sảo nan” (Sức lực để thực hiện khá khó khăn), tức là chẳng dễ dàng cho lắm, vẫn phải tu, phải nỗ lực tu hành mới hòng đạt được. “Vi thời sảo cửu” (thời gian thực hiện hơi lâu), nói cách khác, thời gian khá dài, chẳng thể đạt được rất nhanh chóng. Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật, ngay cả trong Trì Danh Niệm Phật cũng có rất nhiều phương pháp niệm Phật. Phật hiệu có rất nhiều cách niệm, phải chọn lựa như thế nào? Tiêu chuẩn do chính mình ấn định, vì căn tánh của mỗi cá nhân khác nhau, tập khí phiền não dày hay mỏng khác nhau; dùng tiêu chuẩn nào để chọn lựa? Cách niệm Phật hiệu nào khiến cho tâm của chính mình thanh tịnh, có thể chế phục tập khí phiền não của chính mình, có lợi nhất đối với mình, chúng ta chọn lựa cách ấy. Niệm lâu ngày sẽ vun bồi thành thói quen, có thể giữ vững, sốt sắng dụng công. Nếu xoang điệu niệm Phật khiến mình nghe cảm thấy rất phiền não, tâm chẳng định được, thì chúng ta chẳng cần phải học cách ấy, nhưng cũng chớ nên hủy báng, vì sao? Có người ưa thích [cách ấy], họ dùng phương thức ấy có thể đối trị phiền não của chính họ, nhưng phương pháp chẳng thích hợp cho ta dùng. Vì thế, phương pháp nào cũng đều hay, mỗi người tự mình lựa chọn. Chúng ta nên dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng để suy xét, như vậy thì sẽ tốt đẹp.

 

(Sớ) Kim tắc bất kê tuế nguyệt, bất giả tác vi, thất nhật nhất tâm, tức sanh bỉ quốc, hà kỳ thần diệu nhất chí thị dã.

() 今則不稽歲月 ,不假作為 ,七日一心 即生彼國,何其神妙一至是也。

(Sớ: Nay chẳng kể đến năm tháng, chẳng cần phải thực hiện [những Phật hạnh nào khác], bảy ngày nhất tâm, bèn sanh về cõi ấy, có pháp nào khác thần diệu đến mức như vậy hay chăng?)

Đây là nói về chấp trì danh hiệu, là pháp được đề xướng và chủ trương bởi Tiểu Bổn Di Đà Kinh, tức là bốn chữ sau đây: “Tín nguyện trì danh”. Bốn chữ danh hiệu này sanh khởi từ tín tâm thanh tịnh và kiên định, phát sanh từ đại nguyện viên mãn, từ ý nguyện sanh về Tịnh Độ. Do vậy, Phật hiệu câu nào cũng trọn đủ ba điều kiện Tín – Nguyện – Hạnh. Chẳng những trọn đủ Tín – Nguyện – Hạnh, mà còn trọn đủ Giới – Định – Huệ, mỗi tiếng đều là Giới – Định – Huệ, mỗi tiếng đều là Văn – Tư – Tu. Phật hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn!

“Bất kê tuế nguyệt” (chẳng tính kể năm tháng), nhanh chóng đến cùng cực. “Bất giả tác vi” (chẳng cần phải thực hiện [những Phật hạnh nào khác]), quá đơn giản, quá dễ dàng! Chẳng đi mà đến, làm sao biết? Kinh đã dạy chúng ta: “Nhược nhất nhật đáo nhược thất nhật” (hoặc một ngày, cho đến bảy ngày). Đó là nói bậc thượng căn một ngày liền thành công; kẻ hạ căn nghiệp chướng sâu nặng, bảy ngày cũng có thể thành công! Còn có pháp môn nào khác nhanh bằng? Bảy ngày có thể vãng sanh, thấy Phật, quý vị hãy nghĩ xem: Có nghiệp chướng nào chẳng tiêu? Kinh dạy chúng ta: Chúng sanh trong địa ngục A Tỳ là kẻ tội chướng nặng nhất mà bảy ngày cũng có thể vãng sanh. Vì thế, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, trong vô lượng pháp môn, tìm chẳng ra một pháp môn nào khác giống như vậy, tìm ở đâu ra! Mười phương chư Phật chẳng dùng pháp môn này, sẽ chẳng có cách nào độ chúng sanh. Chúng sanh trọn khắp pháp giới chẳng dùng phương pháp này, sẽ chẳng thể viên thành Phật đạo trong một đời. Pháp môn này quả thật hết sức đơn giản, dễ dàng, nhưng thật sự khó tin. Nói chung, chúng sanh ưa kỳ chuộng quái. [Nếu pháp nào] rất khó tu, rất khó học, nói chung [họ sẽ nghĩ] pháp môn ấy phi phàm. Thấy pháp môn này quá dễ dàng, họ thường ngỡ là vô giá trị, đâu biết dễ dàng thì mới có thể thành tựu đại đạo! Quá phức tạp, quá rắc rối, thường dễ đi lạc đường, dễ vướng phải ma chướng. Bản thân chúng ta chớ nên không cảnh giác điều này!

 

(Sớ) Cố Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sao vân.

() 故普賢行願品鈔云。

(Sớ: Vì thế, sách Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sao viết…)

 Đây là cuốn Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao, lời Sớ do Thanh Lương đại sư viết, Sao là chú giải lời Sớ, do Tông Mật đại sư viết. Tông Mật là học trò của Thanh Lương, là tổ sư đời thứ năm của tông Hoa Nghiêm. Thanh Lương quốc sư là tổ sư đời thứ tư.

 

(Sớ) Đại Tạng trung sổ bách dư bổn, hoặc kinh, hoặc luận, thuyết tu bỉ nhân, nhiên giai cần tích, nãi đắc vãng sanh.

() 大藏中數百餘本 ,或經或論 說修彼因 然皆勤積,乃得往生。

(Sớ: Trong Đại Tạng Kinh có hơn mấy trăm cuốn kinh hoặc luận nói đến chuyện tu cái nhân ấy, nhưng đều phải siêng năng dài lâu thì mới được vãng sanh).

Đây là lời của ngài Thanh Lương và Tông Mật. Trong Đại Tạng Kinh, có đến hơn một trăm bộ kinh sách giảng về phương pháp vãng sanh Tịnh Độ, có kinh, có luận, có Hiển Giáo, có Mật Tông, giảng về pháp tu Tây Phương Tịnh Độ, nhưng đều chẳng dễ dàng, đều phải tốn thời gian, đều khó tu hơn mới hòng vãng sanh. Nói cách khác, chúng ta sử dụng những phương pháp ấy, có thể vãng sanh trong một đời này hay không vẫn là một ẩn số! Chẳng thể dám chắc sẽ vãng sanh! Nếu tu hành chiếu theo bộ kinh này, quý vị chắc chắn sẽ nắm chắc vãng sanh ngay trong một đời này!

 

(Sớ) Kim đản xưng danh, tiện đăng Bất Thoái, khởi phi kính nhi phục kính giả tai?

() 今但稱名,便登不退,豈非徑而復徑者哉。

(Sớ: Nay chỉ xưng danh liền lên địa vị Bất Thoái, há chẳng phải là đường đã tắt lại còn tắt hơn nữa đó ư?)

Đây là con đường tắt hơn con đường tắt nhất trong các đường tắt, là con đường gần nhất để thành Phật đạo, chẳng có con đường nào gần hơn được nữa, chẳng có gì nhanh chóng bằng! Trong một đời này, chúng ta được gặp pháp môn này thì phải nên trân quý, ngàn vạn phần đừng bỏ lỡ. Hễ bỏ lỡ, thật sự quá đáng tiếc! Trong tương lai, sợ là phải trăm kiếp ngàn đời mới có cơ duyên được gặp lần nữa. Cơ duyên này rất khó gặp gỡ, bài kệ Khai Kinh có câu: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”. Trong đời này, chúng ta được gặp gỡ, rất nên vui mừng [trân quý] sự may mắn này!

 

(Huyền Nghĩa) Nhị giả, Vô Lượng Thọ Kinh, quảng trần y chánh, bị tải tu trì. Kim thử kinh giả, sùng giản, khử phiền, cử ước, cai bác, cánh vô tha thuyết, đơn chỉ trì danh, đản đắc nhất tâm, tiện sanh bỉ quốc, khả vị dũ giản, dũ ước, dũ diệu, dũ huyền, kính trung kính hỹ.

(玄義)二者,無量壽經,廣陳依正,備載修持。今此經者,崇簡去繁,舉約該博,更無他說,單指持名,但得一心,便生彼國,可謂愈簡愈約,愈妙愈玄,徑中徑矣。

(Huyền Nghĩa: Hai là kinh Vô Lượng Thọ trần thuật chi tiết y báo và chánh báo, chép cặn kẽ cách thức tu trì. Nay kinh này chuộng đơn giản, bỏ rườm rà, nêu bày những điều giản ước, nhưng bao hàm nghĩa lý rộng rãi, chẳng nói tới những điều khác, chỉ dạy [diệu hạnh] trì danh, chỉ cần đắc nhất tâm, liền sanh vào cõi ấy, có thể nói càng đơn giản, càng sơ lược, càng diệu, càng huyền nhiệm, là đường tắt nhất trong các con đường tắt vậy).

 Vô Lượng Thọ Kinh được gọi là Đại Bổn trong ba kinh Tịnh Độ, có kích thước khá lớn, đương nhiên giảng khá tường tận. “Quảng trần y chánh”: “trần” (陳) là trần thuật, “y” (依) là y báo, “chánh” (正) là chánh báo. Kinh giảng tình huống trong Tây Phương Cực Lạc thế giới hết sức cặn kẽ. Chẳng hạn, kinh này nói “thất bảo trì, bát công đức thủy”, chỉ nói là ao bảy báu, nước trọn đủ tám công đức, nhưng trong kinh Vô Lượng Thọ nói ao đó to cỡ nào, nói nước ấy có bao nhiêu điều tốt đẹp, nói rất tỉ mỉ. Kinh này nói đến học trò của A Di Đà Phật, chỉ nói đệ tử Thanh Văn vô lượng vô biên, giới thiệu rất đơn giản, mơ hồ; kinh Vô Lượng Thọ nói rất cặn kẽ tình hình của đệ tử ở bên đó, có người giảng kinh, có người nghe kinh, có người tọa Thiền, có người kinh hành, viết rất nhiều, rất cặn kẽ về cuộc sống thường ngày của các vị thượng thiện nhân.

Nói đến tu hành, bản kinh này rất đơn giản, chỉ nói “chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn”; trong kinh Vô Lượng Thọ giảng rất nhiều, giảng phải “xả gia ly tục”. “Xả gia” chẳng phải là bảo quý vị xuống tóc xuất gia. Nếu quý vị đọc kinh văn thấy từ ngữ này, [bèn tự nhủ] ta hãy cạo đầu xuất gia làm hòa thượng, quý vị đã hiểu lầm ý nghĩa mất rồi! Chữ “gia” này chỉ phiền não, là gông cùm. Quý vị phải lìa bỏ gông cùm, phiền não là nhà, tam giới lục đạo là nhà, quý vị phải lìa bỏ những thứ ấy. Chữ “tục” chỉ tập khí phiền não, phải bỏ những thứ ấy xuống, thoát trần, thoát tục, phải bỏ thất tình ngũ dục, khôi phục sự thanh tịnh nơi thân tâm của chính mình. Kinh nói “xả gia ly tục” phải hiểu theo ý nghĩa ấy. Thời Đông Tấn, Viễn công đại sư kiến lập liên xã đầu tiên của Trung Quốc, một trăm hai mươi ba người cùng nhau niệm Phật, trong số ấy, chỉ có vài vị xuất gia, bảy đến tám phần mười là cư sĩ tại gia, bọn họ ai nấy đều thành tựu. Vì thế, phải hiểu rõ, “xả gia ly tục” là xả sanh tử gia, phiền não gia, tam giới gia, phải xả những cái nhà ấy. Nói đến “thoát tục”, chúng tôi nói đơn giản, rõ ràng hơn một chút thì nhất tâm là thoát tục, nhị tâm là “tại tục” (ở trong cõi tục); tam tâm nhị ý, phân biệt, chấp trước chính là Tục. Khi nào có thể đạt đến nhất tâm bất loạn, tâm bình đẳng hiện tiền, tâm thanh tịnh hiện tiền, đấy chính là “thoát tục”.

Trong Đại Bổn nói đến tu phước, tu ba thứ phước. Tu phước phải nói đến cúng dường, nói rất nhiều thứ, chẳng đơn giản; kinh này nói hết sức đơn giản. “Kim thử kinh giả, sùng giản, khử phiền” (nay kinh này chuộng đơn giản, bỏ rườm rà), “giản”“phiền” là xét theo kinh văn để nói, [kinh Di Đà] đơn giản hơn kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều. “Cử ước, cai bác” (nêu những điều đại lược, bao gồm mọi ý nghĩa rộng lớn) là nói theo phương diện hành môn. “Ước” (約) là giản ước, tức là trì danh, nhất tâm bất loạn, “bác” (博: rộng) là những pháp môn được nói trong kinh Vô Lượng Thọ đều được hoàn toàn bao gồm trong ấy. Ngẫu Ích đại sư đã giảng giải rất thấu triệt Sự Lý này, Ngài đã khai thị về phép Niệm Phật như sau: “Nhất cú Phật hiệu, viên nhiếp ngũ tông, cai la bát giáo” (một câu Phật hiệu nhiếp trọn năm tông, gồm khắp tám giáo). Một câu A Di Đà Phật bao gồm trọn khắp toàn bộ Phật giáo, chẳng sót một pháp nào! Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa, Hiển Giáo, Mật Giáo, một câu A Di Đà Phật thảy đều gồm trọn, quý vị mới hiểu một câu Phật hiệu này chẳng thể nghĩ bàn! Ít ai thật sự hiểu rõ, thật sự ít ỏi. Sau khi đã hiểu rõ, không ai chẳng nghiêm túc niệm Phật.

“Cánh vô tha thuyết, đơn chỉ trì danh, đản đắc nhất tâm, tiện sanh bỉ quốc” (chẳng nói tới những điều khác, chỉ dạy [diệu hạnh] trì danh, chỉ cần đắc nhất tâm liền sanh vào cõi ấy): Đây chính là “cử ước, cai bác” (nêu lên chỗ giản ước mà bao gồm những ý nghĩa rộng rãi). Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng những quý vị đắc hết thảy các pháp, mà còn có thể nói là đều thành tựu viên mãn [các pháp ấy]. “Khả vị dũ giản, dũ ước” (có thể nói là càng đơn giản, càng sơ lược), giản ước đến mức chẳng thể nào giản ước hơn nữa, giản ước nhất, cốt yếu nhất. “Dũ diệu, dũ huyền” (càng diệu, càng huyền), trong hết thảy các pháp, không có pháp nào diệu hơn, trong hết thảy huyền môn, không có pháp nào huyền hơn, đấy mới chính là đường tắt nhất trong các đường tắt.

 

(Sớ) Vô Lượng Thọ Kinh, tường kiến bộ loại dịch thích nhị môn.

() 無量壽經,詳見部類譯釋二門。

(Sớ: Đối với kinh Vô Lượng Thọ, xem chi tiết trong hai môn “đồng bộ, đồng loại” và “phiên dịch, chú giải”).

Điều này chúng ta còn chưa đọc tới, còn thuộc phần sau, trong phần sau sẽ giới thiệu, giải thích cặn kẽ.

 

(Sớ) Dĩ đối kim kinh.

() 以對今經。

(Sớ: Do so với bản kinh này).

 Đem kinh ấy so sánh với bản kinh chúng ta đang đọc ở đây.

 

(Sớ) Thế xưng Đại Bổn, cái bộ đồng, nhi quảng lược dị dã.

() 世稱大本,蓋部同而廣略異也。

(Sớ: Cõi đời gọi kinh Vô Lượng Thọ là Đại Bổn, bởi lẽ, kinh này và kinh ấy thuộc cùng một bộ, chỉ khác nhau ở chỗ nói chi tiết hay đại lược).

Cùng thuộc về một bộ (cùng giảng về một hạnh môn trong một pháp môn),  tánh chất của hai kinh hoàn toàn tương đồng,  chỉ là kinh kia nói cặn kẽ, kinh này nói đơn giản.

 

(Sớ) Bỉ vị nhạo quảng giả thuyết, thử vị nhạo lược giả thuyết.

() 彼為樂廣者說,此為樂略者說。

(Sớ: Kinh kia vì kẻ thích chi tiết mà nói, kinh này vì người thích ước lược mà nói).

Căn tánh của mỗi người khác nhau, có người thích chi tiết, có người thích đơn giản. Quý vị muốn chi tiết thì có kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, sợ phiền phức thì có kinh đơn giản là Tiểu Bổn Di Đà Kinh, tùy quý vị tự chọn lựa. Nói thật ra, đức Phật đúng là từ bi đến cùng cực, giống như thầy thuốc trị bệnh, cho thuốc đúng với căn bệnh, chẳng có phương cách nhất định. Quý vị thích gì, bèn ban cho quý vị thứ đó, đức Phật thuận theo căn cơ của chúng sanh có thể tiếp nhận như thế nào mà thuyết pháp như thế ấy.

 

(Sớ) Nhiên từ giản nhi lý ích minh.

() 然辭簡而理益明。

(Sớ: Thế nhưng, [kinh Tiểu Bổn Di Đà] tuy văn từ đơn giản mà lý càng sáng tỏ).

Điều này hết sức khó có. Văn tự ít, đơn giản, dễ hiểu, những đạo lý trong ấy hết sức rõ ràng, minh bạch.

 

(Sớ) Sự ước nhi công bội thắng.

() 事約而功倍勝。

(Sớ: Về mặt Sự thì đơn giản, mà hiệu quả thù thắng bội phần).

 Sự thì giản ước, nhưng công đức chẳng thể nghĩ bàn! Đây là nói về phương diện tu hành, niệm một câu A Di Đà Phật, xét về mặt công sức phải bỏ ra để thực hiện thì vừa nhẹ nhàng lại vừa dễ làm, nhưng thâu hoạch là chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái.

 

(Sớ) Như Đại Bổn quảng đàm chư phước.

() 如大本廣談諸福

(Sớ: Như kinh Đại Bổn nói rộng về các thứ phước).

 Đại Bổn Vô Lượng Thọ Kinh chia tỉ mỉ thành ba bậc, chín phẩm, giảng rất nhiều!

 

(Sớ) Nhi thử kinh vị đản trì danh hiệu, tức vi đa phước, đa thiện.

() 而此經謂但持名號,即為多福多善。

(Sớ: Nhưng kinh này nói: Chỉ trì danh hiệu thì chính là lắm phước, nhiều thiện).

So với Đại Bổn, kinh Di Đà đơn giản hơn rất nhiều. Kinh nói “bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (chẳng thể do một chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh vào cõi ấy). Nói cách khác, muốn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải có nhiều thiện căn, nhiều phước đức, lại còn phải có nhiều nhân duyên. Chúng ta nhất định chớ nên coi thường những điều này. “Thiện căn” là tín và giải. Chúng ta gặp được kinh này, gặp A Di Đà Phật, ta tin tưởng, ta có thể lý giải, đó là thiện căn. Chẳng lý giải, mà vẫn tin tưởng, quyết định chẳng hoài nghi, đó vẫn là thiện căn sâu dầy. Vì thế, chỉ cần tin là được! “Phước đức” là nguyện vãng sanh, nguyện sanh về Tây Phương Tịnh Độ, người ấy có đại phước đức. Những nơi khác ta đừng mong đến, ta muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là đại phước đức. “Nhân duyên”: Quý vị có cơ hội gặp Phật pháp, gặp kinh điển này, có cơ hội nghe pháp sư đại đức giảng kinh Di Đà, đó là quý vị hữu duyên, nhiều nhân duyên.

Cái “nhiều nhân duyên” này cũng chẳng thể có nhiều được! Quý vị hãy nghe ngóng xem, đừng nói là Đài Loan, trên cả thế giới có mấy đạo tràng giảng Di Đà Kinh Sớ Sao? Tôi thưa cùng quý vị, là chính chúng ta, trừ chúng ta, tôi chưa từng nghe nói có nơi nào ở Đài Loan giảng Di Đà Kinh Sớ Sao. Đài Loan không có, những nơi khác trên cả thế giới càng không có. Quý vị mới biết nhân duyên này chẳng dễ dàng! Giảng kinh Hoa Nghiêm, có Đài Trung Liên Xã và Đài Bắc Hoa Nghiêm Liên Xã. Giảng Di Đà Kinh Sớ Sao chỉ có một nơi này, không có chi nhánh nào khác! Quý vị có thể đến nơi đây nghe giảng bộ kinh này, nhân duyên ấy quả thật chẳng dễ dàng! Quý vị có thể gặp gỡ là nhiều nhân duyên. Quý vị có thể thỉnh một cuốn Di Đà Kinh Sớ Sao về nhà, thường xuyên đọc, thường xuyên niệm, có câu hỏi, có chỗ nào không hiểu, quý vị có thể đến nghe, chắc chắn sẽ giúp quý vị kiến lập tín tâm, khích phát đại nguyện, sẽ thành Phật trong một đời này. Vì thế, nhất định phải trân quý nhân duyên này, đó là nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nhiều nhân duyên.

 

(Sớ) Đại Bổn do phân tam bối.

() 大本猶分三輩。

(Sớ: Kinh Đại Bổn còn chia [hành giả vãng sanh] thành ba bậc).

 Kinh Vô Lượng Thọ chia thành ba bậc, chín phẩm, nói rộng những sự tướng; kinh Di Đà chỉ nói “đản sanh bỉ quốc” (chỉ sanh về cõi ấy), đơn giản dường ấy!

 

(Sớ) Nhi thử kinh vị đản sanh bỉ quốc, câu đắc Bất Thoái Bồ Đề, thị tắc bất độc vi chủng chủng Niệm Phật môn trung chi yếu.

() 而此經謂但生彼國 俱得不退菩提 是則不獨為種種念佛門中之要。

(Sớ: Nhưng kinh này nói “chỉ cần sanh về cõi ấy, đều đắc Bất Thoái Bồ Đề”, như vậy chẳng phải chỉ có nó là môn trọng yếu trong các môn Niệm Phật ư?)

“Yếu” (要) là trọng yếu.

 

(Sớ) Hựu ư bổn bộ trung chuyển cánh vi yếu, khả vị diệu trung chi diệu, huyền trung chi huyền, kính nhi phục kính giả hỹ.

() 又於本部中轉更為要 可謂妙中之妙 玄中之玄,徑而復徑者矣。

(Sớ: Lại nữa, trong các kinh đồng bộ, kinh Di Đà càng trọng yếu hơn nữa. Có thể nói là diệu nhất trong các điều diệu, huyền nhất trong các điều huyền, càng là đường tắt nhất trong các đường tắt).

Đây là một con đường lớn tắt nhất trong các con đường lớn để viên thành Phật đạo. Trong hiện tại, thế gian này quả thật chẳng khác gì kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, chánh pháp khó gặp, chẳng dễ gì gặp gỡ! Gặp chánh pháp, tín tâm thanh tịnh, thật sự có thể buông xuống hết thảy vạn duyên thế gian và xuất thế gian, chuyên niệm Di Đà, phước báo của người ấy vô lượng vô biên, đấy là sự thật, chư Phật, Bồ Tát cũng tán thán bất tận. Vì thế, hãy nên buông xuống, phải xả. Chẳng những buông xuống thế duyên (duyên cõi đời), mà những thứ tạp nhạp trong Phật pháp đều phải buông xuống. Những vị đại đức xưa kia có vị suốt đời giảng kinh Di Đà mấy trăm lượt. Trừ kinh này ra, kinh gì khác các Ngài cũng đều chẳng niệm. Trừ kinh này ra, kinh gì cũng chẳng giảng.

 

(Huyền Nghĩa) Như thượng biệt trung thập nghĩa.

(玄義) 如上別中十義。

(Huyền Nghĩa: Như mười nghĩa đã nói trong phần Biệt Nhân Duyên trên đây).

 Đây tức là mười điều trong phần Biệt Nhân Duyên thuộc đoạn Giáo Khởi Nhân Duyên của bộ kinh này.

 

(Huyền Nghĩa) Phục dĩ tiền cửu vi thông, hậu nhất vi biệt.

(玄義) 復以前九為通,後一為別。

(Huyền Nghĩa: Lại lấy chín điều đầu làm thông, một điều cuối làm biệt).

Mười nghĩa trong phần trước đều là biệt nghĩa, trong Biệt Nghĩa lại có thông và biệt: Chín môn trước là thông, một môn cuối cùng là biệt. Thông và biệt nên giảng như thế nào? Đối với Thông và Biệt Nhân Duyên được nói trong phần trên, Thông là nhân duyên chung cho hết thảy các giáo pháp, là nhân duyên chung của [toàn bộ] giáo pháp trong suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật. Biệt là nhân duyên của pháp môn Tịnh Độ. Chín thứ trước [trong phần Biệt Nhân Duyên] là nhân duyên chung của bốn loại niệm Phật: Thật Tướng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật và Trì Danh Niệm Phật, chín nhân duyên này đều [có thể nói là nhân duyên của bốn loại Niệm Phật] rất hợp lý. Điều nhân duyên cuối cùng chuyên nói về Trì Danh Niệm Phật, chẳng thông với Thật Tướng, Quán Tưởng và Quán Tượng. Vì thế, nói “đường tắt nhất trong các đường tắt” là vì ý nghĩa này.

 

(Huyền Nghĩa) Kiêm tiền tổng nghĩa, vi thử kinh giáo khởi chi sở nhân cố.

(玄義) 兼前總義,為此經教起之所因故。

(Huyền Nghĩa: Hợp với tổng nghĩa (ý  nghĩa  chung)  trong  phần trước trở thành nhân duyên khiến cho giáo pháp này được phát khởi).

Nói cho chúng ta biết trọn vẹn nhân duyên khiến cho đức Phật giảng kinh này.

 

(Sớ) Thông giả, thông minh Tịnh Độ chư kinh, giai đồng thử nhân cố.

() 通者,通明淨土諸經,皆同此因故。

(Sớ: “Thông” là nêu rõ toàn bộ các kinh Tịnh Độ đều có cùng nhân duyên này).

Ba kinh một luận của Tịnh Độ đều “thông”, tức là chín nhân duyên đầu đem áp dụng vào Vô Lượng Thọ Kinh hay Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh đều thích hợp, đều chẳng có vấn đề gì! Nhưng điều cuối cùng là điều thứ mười thì không được, áp dụng nhân duyên này vào hai bộ kinh trên sẽ nói chẳng xuôi, chỉ chuyên áp dụng cho bộ Tiểu Bổn Di Đà Kinh này.

 

(Sớ) Biệt giả, biệt minh thử kinh chuyên trọng trì danh, dĩ trì danh vi nhân cố.

() 別者,別明此經專重持名,以持名為因故。

(Sớ: Biệt là riêng nêu kinh này chuyên chú trọng trì danh, vì lấy trì danh làm nhân).

Thông hay Biệt là do ý nghĩa này!

 

(Sớ) Tổng giả, tức tiền tổng minh nhất thiết chư kinh, giai nhất đại sự dĩ vi nhân cố.

() 總者,即前總明一切諸經,皆一大事以為因故。

(Sớ: Tổng chính là như trong phần trước đã nói tổng quát: Hết thảy các kinh đều lấy một đại sự làm nhân).

Vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian này? Vì sao Ngài giảng giải cho chúng ta hết thảy Phật pháp? Đấy là tổng nhân duyên. Kinh Pháp Hoa nói: Đức Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời. Đại sự ấy chính là đại sự liễu sanh tử, là đại sự viên thành Phật đạo; đó là đại sự thật sự của chúng ta.

 

(Sớ) Ngôn Phật thuyết thử kinh, vị giáo chúng sanh niệm Phật, vị giáo chúng sanh trì danh niệm Phật, vị giáo chúng sanh trì danh niệm Phật nhi nhập Phật tri kiến, dĩ liễu thử nhất tâm đại sự nhi dĩ.

() 言佛說此經 為教眾生念佛 為教眾生持名念佛,為教眾生持名念佛而入佛知見,以了此一心大事而已。

(Sớ: Nêu ra: Đức Phật nói kinh này là vì dạy chúng sanh niệm Phật, vì dạy chúng sanh trì danh niệm Phật, vì dạy chúng sanh dùng trì danh niệm Phật để nhập tri kiến của Phật, nhằm liễu giải đại sự nhất tâm này mà thôi!)

Ba câu này đặc biệt quan trọng. Qua ba câu này, chúng ta thấy được bi tâm triệt để của Thích Ca Mâu Ni Phật, lòng yêu thương, che chở chúng sanh của Ngài đúng là không còn gì có thể hơn được! Chúng ta hãy nên nhớ kỹ: Không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật là như thế, chúng ta thấy trong phần sau của kinh này, sáu phương chư Phật ca ngợi, bèn hoảng nhiên đại ngộ: Mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai và Thích Ca Mâu Ni Phật có cùng một tâm, cùng một nguyện vọng, “vì dạy chúng sanh niệm Phật”. Nói cách khác, chẳng dạy chúng sanh tu các pháp môn khác, mà dạy quý vị tu pháp môn Niệm Phật. Nếu quý vị thật sự nghe theo, sẽ là đệ tử bậc nhất của chư Phật. Câu này vẫn là nói chung cho cả bốn loại niệm Phật, bốn loại niệm Phật đều được bao gồm trong ấy. “Vì dạy chúng sanh trì danh niệm Phật” là chuyên nói về bộ kinh này. Nói cách khác, chẳng dạy quý vị Quán Tượng, Quán Tưởng, hay Thật Tướng Niệm Phật, chẳng dạy quý vị những môn ấy, mà dạy quý vị trì danh, tín nguyện trì danh, suốt ngày từ sáng đến tối niệm bốn chữ này: A Di Đà Phật!

Bí quyết niệm Phật là có thể chế phục phiền não, khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, trong tâm đương nhiên sẽ khởi tâm động niệm, thuận với ý nghĩ của chính mình bèn dấy lòng hoan hỷ, khởi tâm tham ái; chẳng hợp ý mình bèn sanh tâm sân khuể, bèn khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm đều gọi là phiền não. Không chỉ sân khuể là phiền não, tham ái cũng là phiền não. Nói chung, tâm thanh tịnh mà chỉ cần có một ý niệm sanh khởi bèn gọi là phiền não. Phiền não cũng là nghiệp chướng, nó chướng ngại quý vị, chướng ngại nhất tâm bất loạn, chướng ngại quý vị minh tâm kiến tánh. Đức Phật dạy chúng ta một phương pháp: Đổi những ý niệm ấy thành A Di Đà Phật. Niệm vừa mới dấy lên, cổ nhân nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm”. Ý niệm dấy lên chẳng sợ, sợ là sợ quý vị chẳng giác ngộ nhanh chóng. Giác ngộ là gì? A Di Đà Phật là giác ngộ. Ý niệm mới khởi lên, ngay lập tức đổi nó thành A Di Đà Phật. Quý vị cũng chẳng quan tâm ý niệm vừa mới khởi lên ấy là thiện niệm hay ác niệm; nhất loạt chẳng đoái hoài, chỉ cần ý niệm dấy lên, ngay lập tức đổi nó thành A Di Đà Phật. Đổi cho nhanh, càng nhanh càng hay, chớ để cho ý niệm ấy tiếp tục tăng trưởng, đó là bí quyết niệm Phật.

Quý vị có thể niệm Phật như thế, dụng công như thế, dụng công suốt một tháng sẽ tự nhận thấy quý vị khác hẳn, tâm thanh tịnh, phiền não bớt đi. Dụng công ba tháng, sẽ cảm thấy mình đang đi vào khuôn khổ rất trọn vẹn, công phu đắc lực. Có công phu ấy hai, ba năm, dẫu chưa thể đắc nhất tâm, nhất định đạt được công phu thành phiến! Công phu thành phiến là tương tự nhất tâm, chưa thật sự là nhất tâm. Thật sự nhất tâm là phiền não dẹp tận gốc, không còn nữa! Khi ấy (tức là lúc đã đạt công phu thành phiến), tuy cội rễ phiền não vẫn còn, chưa dẹp trừ, nhưng chắc chắn phiền não chẳng khởi tác dụng, chẳng khởi hiện hành, có công phu như thế, chắc chắn vãng sanh. Đối với ba phẩm Thượng của công phu thành phiến, sanh tử tự tại, thích về Tây Phương Cực Lạc thế giới lúc nào, bèn đi lúc ấy, thích ở lại mấy năm cũng chẳng trở ngại gì, quý vị đắc đại tự tại. Sanh tử tự tại chẳng phải là công phu rất cao, loại công phu này chúng ta ai nấy đều có thể hành được. Trung phẩm vãng sanh liền biết trước lúc mất, nói chung là biết trước từ một tháng đến ba tháng. Hạ phẩm là nói chung khi lâm chung thấy Phật mới biết, đều là chắc chắn vãng sanh. Vì thế, niệm Phật nhất định phải chế phục phiền não; chưa thể chế phục phiền não, sẽ chẳng gọi là công phu, niệm dẫu nhiều vẫn vô ích. Vì thế, kinh dạy chúng ta trì danh niệm Phật.

Lại xem câu cuối cùng, “vì dạy chúng sanh trì danh niệm Phật để nhập tri kiến của Phật”. Chẳng phải là dạy chúng sanh niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ là xong, chẳng mang ý nghĩa đó! “Nhập Phật tri kiến” là thành Phật, dạy quý vị niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ để sang bên đó thành Phật, đấy mới là viên mãn rốt ráo, viên mãn như Hoa Nghiêm, viên mãn như Pháp Hoa, chẳng hai, chẳng khác. Câu này có thể nói là toàn bộ Phật pháp đều được bao gồm trong ấy. Trong ba câu này, câu thứ nhất bao gồm bốn loại Niệm Phật, câu thứ hai chuyên nói về Trì Danh Niệm Phật, câu thứ ba bao gồm hết thảy Phật pháp. Trì danh vãng sanh Tịnh Độ thì mới thật sự viên mãn rốt ráo.

“Dĩ liễu thử nhất  tâm  đại  sự  nhi  dĩ” (nhằm liễu giải đại sự nhất tâm này mà thôi): “Liễu” là hiểu rõ, mà cũng là chứng ngộ. Thiền gia nói đại triệt đại ngộ, ở đây dùng chữ “liễu”; Giáo Hạ nói “đại khai viên giải”, đều là chữ “liễu” này. “Nhất tâm đại sự”: Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh dùng ba chữ Đại Phương Quảng để hình dung Thể – Tướng – Dụng. Đại là bản thể của nhất tâm. Phương là tướng của nhất tâm. Quảng là đức dụng của nhất tâm. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do nhất tâm của chính chúng ta biến hiện. Hết thảy các pháp, nói chung, chẳng ra ngoài nhất tâm. Không riêng gì Phật pháp, mà các pháp thế gian thảy đều bao gồm trong ấy.

 

(Sớ) Hợp chi vi thử kinh giáo khởi chi sở nhân dã.

() 合之為此經教起之所因也。

(Sớ: Hợp những điều này lại thì chính là nhân duyên phát khởi giáo pháp này vậy).

“Hợp” là quy nạp toàn bộ lại, Thích Ca Mâu Ni Phật phát khởi pháp hội Di Đà, giảng cho chúng ta nhân duyên thật sự của pháp môn này. Từ đoạn Giáo Khởi Sở Nhân này, nếu chúng ta thật sự hiểu rõ, thấu hiểu, đương nhiên quý vị sẽ thấu hiểu bi tâm triệt để của đức Thế Tôn, chúng ta mới thật sự sanh khởi cái tâm cảm ơn đội đức, mong phát tâm sốt sắng tu học pháp môn này, trong một đời này phải quyết định thành tựu thì mới chẳng cô phụ Bổn Sư Thích Ca, chẳng cô phụ mười phương chư Phật. Chúng ta lại xem đoạn lớn thứ hai. Đoạn lớn thứ hai là…

 

Nhị, Tạng Giáo đẳng nhiếp.

二、教藏等攝。

(Hai, kinh này thuộc về Tạng nào và Giáo nào).

Đoạn này lại được chia thành ba đoạn nhỏ.

 

Sơ, Tạng nhiếp. Nhị, Giáo nhiếp. Tam, Phần nhiếp.

初、藏攝。二、教攝。三、分攝。

(Một là thuộc về Tạng nào, hai là thuộc về Giáo nào, ba là thuộc về Phần nào).

“Tạng” là Tam Tạng, nói rõ bộ kinh này thuộc loại nào trong Đại Tạng Kinh.

 

(Huyền Nghĩa) Dĩ tri Phật thuyết thử kinh, hữu như thị nhân.

(玄義) 已知佛說此經,有如是因。

(Huyền Nghĩa: Đã biết Phật nói kinh này do có các nhân như thế).

 Trong phần trên đã nói, do có nhiều nhân duyên như thế nên đức Phật mới nói bộ kinh này.

 

(Huyền Nghĩa) Vị tri thử kinh Tạng Giáo Phần trung, các hà nhiếp thuộc?

(玄義) 未知此經藏教分中,各何攝屬。

(Huyền Nghĩa: Chưa biết trong Tạng, Giáo và Phần, kinh này thuộc về đâu?)

Ở đây có ba sự kiện: Một là Tạng, hai là Giáo, ba là Phần. Tạng có ý nghĩa “hàm nhiếp” (chứa đựng, thâu tóm), đây là nói tới chuyện hàm nhiếp những nghĩa lý đáng nên biết. Kinh Phật được gọi là Đại Tạng Kinh, còn gọi là Tam Tạng Kinh Điển. Tạng là giống như một cái kho, hết thảy các pháp, hết thảy đạo lý đều chứa đựng, tàng trữ trong đấy, đợi chúng ta khám phá. Giáo là giáo học, giáo học có ý nghĩa khai thị. Tạng là cái kho chứa, trong ấy chứa không ít món. Giáo là mở cửa. Cửa đã mở rồi, quý vị mới biết những thứ được cất giữ trong ấy. Không có Thích Ca Mâu Ni Phật dạy học, tuy bảo tạng trong tự tánh của chúng ta có vô lượng trí huệ, vô lượng công đức pháp tài, nhưng đều mê mất, chẳng biết gì cả, đó là chuyện rất đáng tiếc. Nhất định phải đợi Phật giúp chúng ta mở toang kho báu trong tự tánh, đó gọi là “khai thị ngộ nhập”. Đức Phật khai thị rồi chúng ta mới có thể ngộ nhập, nhập chánh tri chánh kiến của Phật, đó là “nhập Phật tri kiến”.

“Phần” là nói tới phân chia theo loại, giống như trong kho chứa đầy ắp đồ, quý vị phải phân loại. Lấy kho sách của chúng ta để nói, chúng ta đặt thứ gì trong đó cũng phải phân loại, chỗ này xếp kinh sách Phật, chỗ kia xếp giới luật, chỗ kia xếp tác phẩm của bá gia chư tử, xếp các tài liệu về khoa học kỹ thuật hiện đại, phân môn, chia loại để xếp đặt. “Phần” mang ý nghĩa sau đây: Chia môn phân loại, khiến cho nó có đầu mối, trật tự, chỉnh tề, chẳng rối loạn, có ý nghĩa như thế.

Đối với ba thứ này, kinh này thuộc về loại nào? Đây là nêu ra câu hỏi, “các hà nhiếp thuộc” (đối với mỗi thứ, thuộc về đâu). Mỗi một đoạn kế tiếp đều nhằm giải thích cho chúng ta. Đoạn đầu tiên giải thích chữ Tạng, Tạng bao gồm những gì.

 

(Huyền Nghĩa) Ngôn Tạng hữu nhị.

(玄義) 言藏有二。

(Huyền Nghĩa: Nói đến Tạng thì có hai loại).

 Tạng có hai loại: Một loại là Tam Tạng, loại kia là Nhị Tạng. Tam Tạng là gì? Nhị Tạng là gì? Dưới đây sẽ giải thích.

 

(Huyền Nghĩa) Thả sơ Tam Tạng giả.

(玄義) 且初三藏者。

(Huyền Nghĩa: Trước hết, Tam Tạng là).

Trước hết, giảng về Tam Tạng.

 

(Huyền Nghĩa) Nhất, Tu Đa La Tạng.

(玄義) 一、脩多羅藏。

(Huyền Nghĩa: Một là Tu Đa La Tạng).

 Tu Đa La (Sūtra) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “kinh điển”, tức là Kinh Tạng. Bộ phận này hoàn toàn là kinh Phật.

 

(Huyền Nghĩa) Nhị, Tỳ Nại Da Tạng.

(玄義) 二、毗奈耶藏。

(Huyền Nghĩa: Hai là Tỳ Nại Da Tạng).

 Tỳ Nại Da (Vinaya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “giới luật”. Bộ phận này hoàn toàn giảng về giới luật, phân lượng cũng hết sức nhiều, có đến mấy ngàn quyển.

 

(Huyền Nghĩa) Tam, A Tỳ Đạt Ma Tạng.

(玄義) 三、阿毗達磨藏。

(Huyền Nghĩa: Ba là A Tỳ Đạt Ma Tạng).

A  Tỳ  Đạt  Ma  (Abhidharma) dịch thành “luận”, nghĩa gốc của từ ngữ này là Đối Trị Pháp. Du Già Sư Địa Luận, Đại Trí Độ Luận, Trung Quán Luận, những bộ luận ấy đều thuộc vào Luận Tạng.

 

(Huyền Nghĩa) Kim thử kinh giả, thị Tu Đa La nhiếp.

(玄義) 今此經者,是脩多羅攝。

(Huyền Nghĩa: Nay kinh này thuộc vào Tu Đa La).

 Trong Tam Tạng, kinh Di Đà thuộc vào Kinh Tạng, chẳng phải là giới luật, mà cũng chẳng phải là luận điển.

 

(Huyền Nghĩa) Chư kinh diệc hữu hỗ tương nhiếp giả, kim phi bỉ cố.

(玄義) 諸經亦有互相攝者,今非彼故。

(Huyền Nghĩa: Trong các kinh, cũng có những kinh thuộc về các tạng khác nhau, nay kinh này chẳng giống các kinh ấy).

Có những bộ kinh bên trong có giới luật, có luận; trong rất nhiều bộ kinh lớn thường thấy tình hình này. Ví như kinh Hoa Nghiêm, phẩm Tịnh Hạnh và phẩm Phạm Hạnh là giới luật. Trong kinh Lăng Nghiêm, ba thứ tánh chất Kinh, Luật, Luận đều có. Chương Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối (bốn loại giáo huấn thanh tịnh sáng suốt) là giới luật, trong ấy có rất nhiều phần vấn đáp, thảo luận, đích xác là thuộc về Luận Tạng. Nếu [Kinh, Luật, Luận] đều có thì phân loại bản kinh ấy như thế nào? Tùy thuộc phần nào chiếm tỷ lệ lớn nhất. Chẳng hạn như kinh Lăng Nghiêm, phần giảng kinh chiếm đến bảy phần mười, giới luật chiếm một phần hai mươi, phần giảng luận chiếm ba hoặc bốn phần mười, phần kinh nhiều nhất, chiếm tới bảy phần mười, nên phán định Lăng Nghiêm thuộc về Kinh Tạng. Kinh Di Đà thuần túy là Kinh Tạng, trong ấy chẳng bàn đến giới luật, mà cũng chẳng phải là nghị luận, từ đầu đến cuối chỉ một mình Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta. Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 69

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang chín mươi chín:

 

(Sớ) Phạm ngữ Tu Đa La, thử vân Khế Kinh, danh vi Kinh Tạng, giải kiến hậu thích đề trung.

() 梵語脩多羅 ,此云契經 ,名為經藏 解見後釋題中。

(Sớ: Tiếng Phạn Tu Đa La, cõi này dịch là Khế Kinh, có tên là Kinh Tạng, [ý nghĩa chữ Kinh] xem trong phần giải thích tựa đề kinh ở phần sau).

 “Phạm ngữ” (tiếng Phạn)[33] là một loại ngôn ngữ của Cổ Ấn Độ. Người Cổ Ấn Độ tự xưng họ là hậu duệ của Đại Phạm Thiên (Mahā-Brahmā); do họ hết sức tôn kính Phạm thiên, nên ngôn ngữ của họ được gọi là “Phạm ngữ”. Tu Đa La (Sūtra) là dịch âm, “thử vân Khế Kinh”, “thử vân” là phiên dịch, chữ “thử” (此) chỉ Trung Quốc. [Tu Đa La] phiên dịch sang tiếng Hán là Khế Kinh, có nghĩa là “thượng khế chư Phật chi sở chứng”, tức là nhất định tương ứng với Lý được chứng bởi chư Phật Như Lai. Dưới thì có thể khế hợp với căn cơ của chúng sanh. Nói theo cách bây giờ là “thích hợp với trình độ của chúng sanh”, có như vậy thì mới có lợi ích. Nếu chỉ khế Lý mà chẳng khế Cơ, tuy Lý chẳng sai, chúng ta học xong chẳng đạt được lợi ích thực tế. Nếu thích hợp trình độ, nhưng lại chẳng hợp Lý, sẽ chẳng khác gì rất nhiều loại sách vở trong thế gian! Vì thế, Kinh được dịch thành Khế Kinh, ý nghĩa này hết sức viên mãn!

 

(Sớ) Tỳ Nại Da, thử vân Điều Phục, tức Luật Tạng.

() 毗奈耶,此云調伏,即律藏。

(Sớ: Tỳ Nại Da cõi này dịch là Điều Phục, tức Luật Tạng).

 Tỳ Nại Da là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Điều Phục, đây cũng là Giới Luật. Giới Luật còn gọi là Điều Phục. Đây chính là Luật Tạng, phần này thuộc Luật Tạng trong Tam Tạng. “Điều” (調) có nghĩa là điều luyện (調練: rèn luyện, uốn nắn khiến một vật trở thành hài hòa), điều lý (調理: uốn nắn cho hợp lý), tức điều hòa, chỉnh lý. Tư tưởng, kiến giải, hành vi của chúng ta nếu có chỗ nào chẳng thích hợp hoặc sai lầm, chúng ta phải điều chỉnh. Giới Luật có ý nghĩa này. “Phục” (伏) là hàng phục phiền não. Trong kinh Kim Cang, tôn giả Tu Bồ Đề hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật nêu lên hai câu hỏi lớn; câu hỏi thứ nhất là “làm thế nào để hàng phục cái tâm”. Trong tâm chúng ta phiền não quá nhiều, vọng niệm quá nhiều, dùng phương pháp nào để hàng phục phiền não và vọng niệm? Đây là một câu hỏi lớn trong kinh Kim Cang. Câu hỏi thứ hai là “nên trụ như thế nào?” [nghĩa là] cái tâm của chúng ta nên an trụ ở chỗ nào? Một bộ kinh Kim Cang từ đầu đến cuối nhằm giải đáp hai câu hỏi này. Tác dụng của Giới Luật là hàng phục phiền não; do vậy, trì giới mới có thể đắc Định. Kinh Kim Cang gọi “đắc Định” là “ưng vân hà trụ?” (nên trụ như thế nào), tâm chúng ta nên trụ nơi đâu? Tâm nên an trụ trong cảnh giới Thiền Định. Nói theo pháp môn Niệm Phật, hãy nên trụ trong nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là Thiền Định, thuộc về Luật Tạng.

 

(Sớ) A Tỳ Đạt Ma, thử vân Đối Pháp, tức Luận Tạng.

() 毗達磨,此云對法,即論藏。

(Sớ: A Tỳ Đạt Ma, cõi này dịch là Đối Pháp, tức Luận Tạng).

Đây là Kinh – Luật – Luận Tam Tạng. A Tỳ Đạt Ma dịch sang nghĩa tiếng Hán là Đối Pháp. Pháp có hai loại:

– Thứ nhất, theo danh từ Phật học là Thắng Nghĩa Pháp, Thắng là thù thắng, Nghĩa là nghĩa lý, [Thắng Nghĩa] là nghĩa lý thù thắng nhất. Trong kinh Phật thường nói tới Đại Bồ Đề, Đại Niết Bàn, Thường Trụ Chân Tâm, những pháp giống như vậy thì gọi là Thắng Nghĩa Pháp.

– Loại thứ hai là Pháp Tướng Pháp, những pháp thuộc loại Pháp Tướng vô cùng rộng lớn. Hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, hết thảy các pháp môn được truyền lại, đều có Thể, Tánh, tướng trạng (Tướng). Chúng được gọi là Pháp Tướng Pháp.

Chữ Đối cũng có hai ý nghĩa:

– Một ý nghĩa là Đối Hướng; nói theo cách hiện thời, đây chính là nguyện vọng của chúng ta. Chúng ta phát nguyện muốn chứng Đại Niết Bàn, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ thì phải noi theo phương hướng, mục tiêu ấy. Cho nên nó có ý nghĩa phương hướng, mục tiêu.

– Ý nghĩa thứ hai là Đối Quán. Đây chính là dụng công, công phu. Đối với sự dụng công trong nhà Phật thì có thể dùng một chữ Quán làm danh từ chung. Trong nhà Thiền nói “quán chiếu, chiếu trụ, chiếu kiến”, công phu mỗi tầng một cao hơn. Tuy Tịnh Tông không nhắc tới những danh tướng ấy, danh từ khác nhau, nhưng ý nghĩa và cảnh giới hoàn toàn tương đồng. Pháp môn Niệm Phật nói “công phu thành phiến”, đấy chính là quán chiếu trong nhà Thiền. Sự nhất tâm bất loạn là chiếu trụ, chiếu trụ là đắc Thiền Định. Chiếu kiến có cùng cảnh giới với Lý nhất tâm. Người niệm Phật niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn hoàn toàn có cùng một cảnh giới với “minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ” của nhà Thiền.

Nói chung, Đối Pháp đòi hỏi chúng ta phải dùng cái tâm thanh tịnh, dùng trí huệ chân thật để đối ứng hết thảy các pháp tướng, tâm như vậy mới tương ứng với pháp. Đây là ý nghĩa của Luận Tạng. Dùng chữ này (tức Đối Pháp) để giải thích Luận Tạng. Chúng ta thấy quá nửa Luận Tạng là [biên bản] thảo luận giữa Phật và Bồ Tát, hoặc thảo luận giữa các Bồ Tát. Quả thật [Luận Tạng] rất có ích trong việc giúp chúng ta mở mang trí huệ. Trong Tam Học Giới – Định – Huệ, Luận Tạng thiên trọng Huệ Học.

 

(Sớ) Thượng nhị câu hữu đa nghĩa.

() 上二俱有多義。

(Sớ: Hai loại trước đều có nhiều nghĩa).

 “Câu hữu đa nghĩa”: Đây là nói về Kinh và Luật. Trong ba thứ, giải thích hai thứ trước là Kinh và Luật rất phiền phức. Đối với Khế Kinh, kinh Hoa Nghiêm có tới mười danh từ để giải thích. Đối với Luật Tạng, ngoài Tỳ Nại Da, còn dùng chữ Phạn là Thi La (Śīla) hoặc Ba La Đề Mộc Xoa (Prātimoksha), những danh từ này đều nói về Giới Luật; nhưng danh xưng khác nhau, đương nhiên ý nghĩa cũng khác biệt đôi chút, đại đồng tiểu dị.

 

(Sớ) Phi cấp bất dẫn.

() 非急不引。

(Sớ: Nếu chẳng cần kíp sẽ chẳng nêu ra).

 “Phi cấp” là không quan trọng. Nếu [những ý nghĩa nào] không bắt buộc phải liễu giải thì ở chỗ này đại sư sẽ chẳng nói nhiều.

 

(Sớ) Tu Đa La nhiếp giả.

() 脩多羅攝者。

(Sớ: [Kinh này] thuộc về Tu Đa La).

 Bộ kinh này thuộc Tu Đa La Tạng trong Tam Tạng, thuộc về Khế Kinh.

 

(Sớ) Thử kinh tại Kinh – Luật – Luận Tam Tạng Trung, thuộc Kinh Tạng cố. Hỗ nhiếp giả, như Hoa Nghiêm tắc Kinh nhiếp nhi kiêm Luật, Luận, dĩ Thập Tạng đẳng phẩm hiển giới luật, Vấn Minh đẳng phẩm hiển luận nghị cố.

() 此經在經律論三藏中 ,屬經藏故 互攝者 ,如華嚴則經攝而兼律論,以十藏等品顯戒律,問明等品顯論議故。

(Sớ: Trong Tam Tạng Kinh – Luật – Luận, kinh này thuộc về Kinh Tạng. “Nhiếp lẫn nhau”: Như kinh Hoa Nghiêm thuộc về Kinh mà còn kèm theo Luật và Luận, vì những phẩm như Thập Tạng giảng giới luật, những phẩm như [Bồ Tát] Vấn Minh giảng về luận nghị).

Điều này nêu rõ thuở đức Phật giảng kinh quả thật khế lý, khế cơ. Đức Phật giảng kinh cũng chẳng có pháp nhất định, giống như kinh Kim Cang đã chép: “Phật vô hữu định pháp khả thuyết” (Đức Phật không có pháp nào nhất định để nói, hoặc có thể hiểu là: Đức Phật không có cách nói nhất định nào). Chỉ thuận theo nhu cầu của người nghe, bèn thỏa mãn thính chúng, khiến cho họ phá mê khai ngộ thì mục đích giáo học đã đạt. Do vậy, mỗi lần đức Phật giảng kinh, trong khi giảng kinh cũng đồng thời giảng giới luật, và cũng giảng luận nghị. Chúng ta thường thấy tình hình này trong nhiều bộ kinh Đại Thừa. Ở đây, đại sư lấy kinh Hoa Nghiêm làm thí dụ. Kinh Hoa Nghiêm đương nhiên là kinh, trong ấy vừa có giới luật vừa có luận nghị. Nói cách khác, kinh ấy có đủ cả ba tạng.

Ba tạng đầy đủ, vì sao gọi là Kinh, chẳng gọi là Hoa Nghiêm Giới hay Hoa Nghiêm Luận, mà gọi là Hoa Nghiêm Kinh? Đó là vì bộ phận kinh chiếm đa số, giới luật và luận nghị chiếm phần ít, phân lượng không nhiều. Chẳng hạn như ở đây nói “Thập Tạng đẳng phẩm hiển giới luật” (những phẩm như Thập Tạng giảng về giới luật), trong chương thứ hai của phẩm Thập Tạng giảng rộng về giới luật. Trừ phẩm này ra, phẩm Tịnh Hạnh cũng là giới luật, phẩm Phạm Hạnh cũng có thể coi là giới luật. Kinh Hoa Nghiêm có tất cả ba mươi chín phẩm, chỉ có hai phẩm kinh giảng về giới luật, trong phẩm Thập Tạng chỉ có một phần giảng về giới luật. Tuy là một phần, nhưng giảng rất cặn kẽ, điều này cho thấy kinh Hoa Nghiêm quả thật có chỗ giảng về giới luật, nhưng phân lượng, kinh văn chẳng nhiều.

Nói đến Luận Tạng thì kinh Hoa Nghiêm cũng có, như “Vấn Minh đẳng phẩm” (các phẩm như Vấn Minh), mười vị Bồ Tát trong danh hiệu có chữ Thủ[34] cùng nhau hỏi đáp, biện luận với nhau. Đầu tiên là Văn Thù Bồ Tát “dĩ nhất tâm chủng chủng sai biệt vấn” (vì sao cùng là một tâm mà có các thứ sai biệt), Giác Thủ Bồ Tát liền trả lời, một hỏi một đáp giống như nghiên cứu, thảo luận hiện thời; cũng có tánh chất hơi giống như một cuộc họp để thảo luận. Đó gọi là “lý luận càng biện định càng sáng tỏ”. Kinh Hoa Nghiêm có thể loại này, nhưng kinh văn cũng chẳng nhiều. Vì thế, bộ phận giảng về Khế Kinh chính là phần giảng về Định Học, chiếm phân lượng lớn nhất trong kinh Hoa Nghiêm, chiếm địa vị quan trọng nhất. Do đó, chúng ta vẫn gọi Hoa Nghiêm là Kinh, chứ không nói Hoa Nghiêm là Luật hay Luận.

 

(Sớ) Phạm  Võng  tắc  Luật  nhiếp  nhi  kiêm  Kinh, dĩ  Tâm Địa

phẩm chi thượng, quảng đàm Bồ Tát giai vị cố. Dư khả lệ tri.

() 梵網則律攝而兼經 以心地品之上 廣談菩薩階位故,餘可例知。

(Sớ: Kinh Phạm Võng thuộc về Luật, kèm thêm Kinh, bởi lẽ, phần trước của phẩm Tâm Địa giảng rộng rãi về các địa vị Bồ Tát. Những kinh khác cứ dựa theo [những điều vừa trình bày] sẽ biết).

Lại nêu trường hợp kinh Phạm Võng, đây cũng là một kinh rất quen thuộc đối với các đồng tu. Kinh Phạm Võng có tới hơn sáu mươi quyển, bản dịch tiếng Hán chỉ dịch hai quyển, những phần khác bị thất lạc, mà cũng chẳng tìm được nguyên văn. Hai quyển này chính là phẩm Bồ Tát Tâm Địa Giới của kinh Phạm Võng. Quyển thượng nói về địa vị Bồ Tát: Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Đẳng Giác, Diệu Giác, quyển hạ giảng về giới luật của Bồ Tát. Hiện thời, những đồng tu xuất gia tại Đài Loan thọ Bồ Tát giới theo quyển hạ của kinh Phạm Võng. Quyển thượng giảng nên giữ cái tâm như thế nào, đấy là tâm Bồ Tát, quyển hạ giảng về hạnh Bồ Tát. Quý vị hãy nghĩ xem: Nếu không có tâm Bồ Tát, ta sẽ thấy làm cách nào vẫn chẳng giống hạnh Bồ Tát. Do vậy, tâm Bồ Tát hết sức trọng yếu. Hễ có tâm Bồ Tát, hết thảy hành vi tự nhiên là Bồ Tát hạnh. Trong hai quyển kinh văn, đương nhiên giới luật rất quan trọng, nhưng phần “quảng đàm Bồ Tát giai vị” (rộng luận định về các địa vị Bồ Tát) thuộc vào phạm vi Kinh Tạng. Vì thế, “Phạm Võng tắc Luật nhiếp nhi kiêm Kinh” (Phạm Võng thuộc về Luật kèm theo Kinh). Nay chúng ta gọi [hai quyển ấy] là Phạm Võng Kinh Tâm Địa Giới Phẩm. Những trường hợp giống như vậy rất nhiều, chúng ta học Phật cần phải biết điều này.

 

(Sớ) Thử kinh bất kiêm giới luật, diệc vô luận nghị.

() 此經不兼戒律,亦無論議。

(Sớ: Kinh này chẳng nói kèm thêm giới luật, mà cũng chẳng có luận nghị).

 Bộ A Di Đà Kinh này thuần túy thuộc vào Kinh Tạng, thuộc vào Khế Kinh. Trong kinh văn không nói đến giới luật, mà cũng chẳng có luận nghị.

 

(Sớ) Tự thỉ chí chung.

() 自始至終。

(Sớ: Từ đầu đến cuối).

Đều do một mình Thích Ca Mâu Ni Phật nói.

 

(Sớ) Chuyên thuyết niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, cố vân kim phi bỉ dã.

() 說念佛求生淨土,故云今非彼也。

(Sớ: Chuyên nói niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, nên nói: Nay kinh này chẳng giống các kinh khác).

Chẳng giống những kinh luận khác, trong những kinh luận khác còn có những phần mang ý nghĩa giới luật và luận nghị, kinh này không có. Kinh này thuần túy là Khế Kinh, trong Tam Tạng, nó thuộc vào Kinh Tạng.

 

(Huyền Nghĩa) Nhị Tạng giả, nhất, Bồ Tát Tạng; nhị, Thanh Văn Tạng.

(玄義) 二藏者,一、菩薩藏,二、聲聞藏。

(Huyền Nghĩa: Nhị Tạng là: Một là Bồ Tát Tạng, hai là Thanh Văn Tạng).

 Bồ Tát Tạng là Đại Thừa, Thanh Văn Tạng là Tiểu Thừa. Đây là chỗ khác biệt giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa. Trong hai thừa, bộ kinh này thuộc về Đại Thừa hay Tiểu Thừa? Chúng ta cũng phải phân biệt điều này.

 

(Huyền Nghĩa) Kim thử kinh giả, Bồ Tát Tạng nhiếp, diệc hữu hỗ nhiếp, kim phi bỉ cố.

(玄義) 今此經者,菩薩藏攝,亦有互攝,今非彼故。

(Huyền Nghĩa: Nay kinh này thuộc về Bồ Tát Tạng. Cũng có kinh vừa thuộc vào Bồ Tát Tạng vừa thuộc vào Thanh Văn Tạng, nay kinh này chẳng giống những kinh ấy).

Qua lời chú giải, chúng ta sẽ có thể thấy [vì sao có nhận định này].

 

(Sớ) Bồ Tát, Thanh Văn, tường kiến hậu thích văn trung.

() 菩薩聲聞,詳見後釋文中。

(Sớ: Đối với từ ngữ Bồ Tát và Thanh Văn, xem lời giảng chi tiết trong phần giải thích kinh văn ở phía sau).

 Phía sau sẽ có lời giải thích chi tiết.

 

(Sớ) Tạng phân nhị giả, dĩ kinh hữu Đại Thừa, Tiểu Thừa, cố nhị tạng phân nhiếp. Nhược ước nhân hữu tam thừa, diệc hợp phân tam.

() 藏分二者 以經有大乘小乘 ,故二藏分攝 。若約人有三乘,亦合分三。

(Sớ: Tạng được chia thành hai là do kinh có Đại Thừa và Tiểu Thừa, nên chia thành hai tạng. Nếu ước theo [căn cơ] của con người có ba thừa, Kinh Tạng cũng nên chia thành ba tạng).

Nói theo phía [căn tánh của] con người thì có Thanh Văn, Duyên Giác, và Bồ Tát, [nên Kinh Tạng] cũng có thể chia thành ba. Chỉ nói Thanh Văn, [tức là] trong Thanh Văn Tạng bao gồm Duyên Giác Tạng.

 

(Sớ) Dĩ Duyên Giác nhân đa bất tạ giáo, nhiếp quy Thanh Văn, cố chỉ nhị tạng.

() 緣覺人多不藉教,攝歸聲聞,故止二藏。

(Sớ: Do bậc Duyên Giác đa số [giác ngộ] chẳng nhờ vào kinh giáo, bèn nhiếp Duyên Giác Tạng vào Thanh Văn Tạng, cho nên chỉ có hai tạng).

Thanh Văn bao gồm cả Duyên Giác; do vậy, chỉ có hai tạng là Bồ Tát Tạng và Thanh Văn Tạng. Duyên Giác có hai loại:

– Một loại là khi có Phật ra đời, theo Phật tu học, từ Thập Nhị Nhân Duyên mà khai ngộ, chúng ta gọi loại này là Duyên Giác.

– Loại thứ hai là khi Phật chưa xuất thế, tức là trong lúc thế gian này không có Phật, không có người dạy bảo, họ tự mình khai ngộ, loại này gọi là Độc Giác. Họ là người thông minh trí huệ tuyệt đỉnh trong hàng phàm phu. Trong kinh điển, đức Phật đã bảo: Người khai ngộ chẳng phải là chuyện ngẫu nhiên, những người ấy đều là do công phu tu hành nhiều đời nhiều kiếp đã chín muồi.

Kinh  dạy  chúng  ta  về  [tình hình của] hàng Tiểu Thừa sau khi chứng đắc Sơ Quả: Nhất định là trong lúc có Phật trụ thế, họ theo Phật học pháp, chứng đắc Sơ Quả, [tức là] đoạn sạch tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới rồi mới chứng đắc Sơ Quả. Chứng đắc Sơ Quả rồi còn phải bảy lần sanh trong cõi trời hay trong nhân gian rồi mới có thể chứng Tứ Quả La Hán. Cõi người thọ mạng ngắn ngủi, cõi trời thọ mạng lâu dài; huống chi bảy lần sanh tử, thời gian ấy phải dùng những con số thiên văn để tính toán, quá ư là dài! Đến lần thọ sanh thứ bảy [trong thế gian], nếu trong thế giới này không có Phật thì làm cách nào? Có Phật thì người ấy nhất định có cơ duyên thân cận Phật, chứng quả A La Hán, không còn phải bàn cãi gì nữa! Không có Phật thì sao? Không có Phật thì người ấy vẫn có thể chứng quả. Không có Phật thì họ thành Độc Giác, quyết định chẳng tái sanh lần thứ tám. Sau khi chứng đắc Sơ Quả, cũng giống như là quý vị đã được bảo đảm, bảy lần qua lại trong cõi trời và cõi người, nhất định chứng quả. Đó là hàng Tiểu Thừa.

Trong cái nhìn của người Đại Thừa, sự tu hành chứng quả ấy rất vụng về, nên gọi là Bổn A La Hán (笨阿羅漢: A La Hán ngốc nghếch), vì sao? Phải tốn thời gian dài như thế. Vì vậy, trong tu học Phật pháp, Đại Thừa là đường tắt, Đại Thừa dễ dàng hơn Tiểu Thừa, mà cũng nhanh chóng hơn Tiểu Thừa. Tiểu Thừa Phật pháp được truyền đến Trung Quốc vào thời Tùy – Đường, kinh điển khá hoàn chỉnh, gần ba ngàn bộ, nhưng rất ít người học. Tại Trung Quốc, Tiểu Thừa chỉ thịnh hành trong một thời kỳ rất ngắn, sau đấy, người Trung Quốc không học nữa, hoàn toàn tu học Đại Thừa; nhưng quý vị phải hiểu: Đại Thừa Phật pháp nhất định phải kiến lập trên cơ sở Tiểu Thừa. Không có cơ sở Tiểu Thừa, muốn học Đại Thừa sẽ rất khó khăn. Ngày nay, người học Đại Thừa rất nhiều, người thành tựu chẳng có mấy, nguyên nhân ở chỗ nào? Thiếu cơ sở! Giống như cất nhà không xây móng. Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng! Vì sao trong quá khứ người Hoa không học Tiểu Thừa, mà có thể học Đại Thừa thành công? Họ có cơ sở Nho gia và Đạo gia. Quý vị phải nhớ: Đạo gia không phải là Đạo Giáo[35], Đạo Giáo vô ích! Nếu dùng cơ sở của Nho gia và Đạo gia thì nói thật ra, cơ sở còn được đặt vững vàng, kiên cố, ổn thỏa hơn Tiểu Thừa. Do vì xưa kia, người ta đọc sách của Khổng Tử, đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh, dùng cơ sở ấy để trực tiếp học Đại Thừa, chẳng bị chướng ngại, mà ngược lại còn thành tựu dễ dàng. Hiện thời rắc rối lắm, kinh điển Tiểu Thừa không đọc, Tứ Thư Ngũ Kinh cũng vứt bỏ, trực tiếp muốn dốc sức nơi kinh điển Đại Thừa, đương nhiên bị nhiều chướng ngại, đổ công sức rất nhiều, tốn thời gian lâu dài, đâm ra chẳng đạt được hiệu quả. Vì thế, các đồng tu học Phật ngày nay phải đọc Tứ Thư cho nhiều. Chúng ta vừa học Đại Thừa, vừa dùng Nho gia và Đạo gia để bù đắp, chắc chắn có lợi, có thể giúp nhau thành tựu.

 

(Sớ) Kim Bồ Tát Tạng nhiếp giả.

() 今菩薩藏攝者。

(Sớ: Nay kinh này thuộc vào Bồ Tát Tạng [là vì]…)

 Nói đến bộ kinh này.

 

(Sớ) Thử kinh diễn thuyết Đại Thừa, như y chánh trang nghiêm.

() 此經演說大乘,如依正莊嚴。

(Sớ: Kinh này diễn nói Đại Thừa như y báo và chánh báo trang nghiêm).

 “Y” là y báo, tức là nói đến hoàn cảnh sống của chúng ta. “Chánh báo” là nói đến bản thân chúng ta. Y báo và chánh báo trang nghiêm hình dung cuộc sống của chúng ta viên mãn. Ý nghĩa “viên mãn” ấy rất rộng, hoàn toàn chẳng phải là tốt đẹp rất viên mãn, mà xấu xa cũng rất viên mãn! Ví như quý vị gieo thiện nhân, đắc thiện quả viên mãn. Quý vị gieo ác nhân, hưởng ác quả cũng rất viên mãn! Ác quả viên mãn, thiện quả viên mãn, chẳng có gì không viên mãn, mỗi thứ đều viên mãn. Quả báo ấy nhất định giống như các nhân hạnh khác, tức là nhân và quả chẳng sai chạy chút nào, mười pháp giới đều là như thế. Vì thế, đều gọi là “trang nghiêm”.

 

(Sớ) Tín nguyện vãng sanh đẳng.

() 信願往生等。

(Sớ: Tín nguyện vãng sanh v.v…)

Trong pháp môn này, quan trọng nhất là kiến lập tín tâm. Trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói rất hay: Kiến lập tín tâm thì đầu tiên là phải “tín tự”, tức là tin vào chính mình, kiến lập cái tâm tự tín. Chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật, bảo quý vị hãy tin ngay, điều này quá khó! Tin là tin “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật và bản thân chúng ta chẳng hai, chẳng khác, là vật do tâm tánh của chính mình biến hiện ra, chẳng phải là vật có từ bên ngoài tâm. “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”. Lý này quá sâu xa! Quý vị dùng lòng tin này để niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ sẽ là Lý niệm, chứ không phải là Sự niệm. Trong khi giảng Yếu Giải, chúng tôi đã thưa cùng quý vị: Trì danh niệm Phật có Lý trì và Sự trì. Nếu là Lý trì, quả thật sẽ có thể đoạn hết thảy nghi hoặc, chướng ngại, người tầm thường chẳng thể làm được chuyện này, chúng ta rất khó thể làm được. Ý nghĩa này cũng chẳng qua nghe nói [cho biết] mà thôi, chẳng phải là cảnh giới của chính mình!

Chẳng phải là cảnh giới để chính mình có thể đạt được thì sao? Vẫn phải tin vào chính mình. Nói theo mặt Sự, tin chính mình trong đời này quyết định có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quý vị có lòng tin ấy là được rồi! Chưa thông hiểu Lý, nhưng có lòng tin ấy vẫn có thể vãng sanh, vẫn có thể tu pháp môn này. Chắc cũng có các vị hỏi: Với lòng tin như thế mà tu tập pháp môn này thì có thể đạt đến Lý nhất tâm bất loạn hay chăng? Thưa quý vị, có thể! Lý trì [sẽ đạt] công phu thành phiến, Sự nhất tâm bất loạn và Lý nhất tâm bất loạn; còn nếu là Sự trì thì vẫn đạt công phu thành phiến, Sự nhất tâm, Lý nhất tâm. Có thể thấy: Trước mắt, không hiểu Lý chẳng sao cả! Hễ quý vị niệm đến mức nhất tâm bất loạn, sẽ tự nhiên thông suốt Lý ấy. Do Sự trì mà đạt đến Lý trì, đây là một con đường hết sức sáng sủa.

Thứ hai là Tín Tha (tin vào người khác), chữ Tha chỉ ai? Thứ nhất là Thích Ca Mâu Ni Phật. Phải tin Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng cho chúng ta pháp môn này, quyết định chẳng giả, quyết định chẳng dối gạt chúng ta, quý vị phải tin tưởng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thời kỳ Mạt Pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Lần này tôi giảng ở Bình Đông[36] ba ngày, có một vị lão cư sĩ đặc biệt nêu ra câu hỏi: “Có rất nhiều người nói kinh Lăng Nghiêm là giả, kinh ấy có phải là giả hay chăng?” Tôi bảo ông ta: “Kinh Lăng Nghiêm chắc chắn chẳng giả. Trong Pháp Diệt Tận Kinh[37], Thích Ca Mâu Ni Phật có nói, trong tương lai Phật pháp đều bị diệt sạch, kinh Lăng Nghiêm bị diệt đầu tiên, kinh A Di Đà bị diệt cuối cùng. Tất cả kinh điển đều chẳng còn, nhưng kinh A Di Đà vẫn còn lưu lại một trăm năm. Khi kinh A Di Đà cũng không còn, vẫn còn sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật lưu lại một trăm năm. Quý vị hãy nghĩ đến tánh chất quan trọng của kinh này”. Tôi bảo ông ta: “Yêu ma quỷ quái nghĩ đủ mọi cách để hủy diệt kinh Lăng Nghiêm, nói kinh Lăng Nghiêm chẳng phải do đức Phật nói. Mọi người đừng tin tưởng bọn chúng. Nếu tin lời chúng nó, kinh Lăng Nghiêm sẽ bị diệt”.

Kinh Lăng Nghiêm bị diệt thì có lợi gì? Tà ma ngoại đạo có thể hoành hành không kiêng dè gì! Quý vị không có cách nào để biện định kẻ khác là Phật hay là ma. Nửa phần sau quyển bốn kinh Lăng Nghiêm là chương Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối (bốn lời dạy răn sáng suốt, thanh tịnh), khi giảng kinh Lăng Nghiêm, tôi đặc biệt nêu ra: “Đây là kính chiếu yêu”. Quý vị đọc thuộc nửa quyển kinh văn ấy, những kẻ giả vờ học Phật quý vị vừa nhìn liền thấy ngay, bọn hắn không có cách nào ẩn hình. Vì thế, chúng nó phải nghĩ đủ mọi phương pháp nhằm phá hoại kinh này, khiến quý vị chẳng tin tưởng [kinh Lăng Nghiêm]. Chương Thanh Tịnh Minh Hối có nói: Trong thời kỳ Mạt Pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng. Trong thời kỳ Mạt Pháp, chẳng dễ gặp được chánh pháp; do thiện căn, phước đức, nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp quý vị mới có thể nghe chánh pháp. Vì vậy, chúng ta phải tin Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng dối gạt chúng ta.

Thứ hai, Tha chính là A Di Đà Phật. Trong kinh Vô Lượng Thọ có chép lịch sử và truyện ký của Ngài. Trong vô lượng kiếp trước, A Di Đà Phật cũng là phàm phu như chúng ta, gặp Thế Tự Tại Vương Phật, khi đó địa vị của Ngài là quốc vương, Ngài bỏ ngôi vua, theo Phật xuất gia, phát ra bốn mươi tám nguyện, đời đời kiếp kiếp tu hành. Bốn mươi tám nguyện của Ngài đều được thực hiện, kiến lập Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc thế giới, tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới. Quý vị phải tin đấy là chuyện thật, chắc chắn chẳng giả! Chỉ cần chúng ta tin tưởng sự thật này, niệm Phật, phát nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, khi lâm chung, nhất định đức Phật đến tiếp dẫn chúng ta. Những lời Ngài nói đáng tin cậy, tuyệt đối chẳng phải là dối gạt con người. Đấy là bảo quý vị phải Tín Tha. Tín Tự, Tín Tha, Tín Sự, Tín Lý, Tín Nhân, Tín Quả; đó là nói về Tín. Nguyện: Phải thật sự phát nguyện, nguyện sanh vào Tây Phương Tịnh Độ. Tín nguyện vãng sanh!

 

(Sớ) Giai tự lợi, lợi tha.

() 皆自利利他。

(Sớ: Đều là tự lợi, lợi tha).

Nay chúng ta bắt đầu phát nguyện vì cứu độ hết thảy chúng sanh mà cầu sanh Tịnh Độ, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chính mình tu học thành tựu, trở về thế giới này độ chúng sanh. Do vậy, người niệm Phật vãng sanh là tích cực, chứ không tiêu cực. Có rất nhiều người nghĩ niệm Phật chỉ là cầu giải thoát cho riêng mình, giống như tiêu cực, chẳng đáng để học tập, họ đã thấy trật mất rồi! Vì sao chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới? Vì cứu độ hết thảy chúng sanh. Chẳng đến thế giới Tây Phương, chẳng đoạn phiền não, trí huệ chẳng thể thành tựu viên mãn. Dẫu chúng ta có lòng muốn giúp đỡ chúng sanh, nhưng thiếu năng lực. Vì vậy, đến Tây Phương để học lấy bản lãnh, ta đã có năng lực rồi sẽ quay trở lại. Đấy là “tự lợi, lợi tha”.

 

(Sớ) Bồ Tát tịnh Phật quốc độ, giáo hóa chúng sanh chi đạo cố.

() 菩薩淨佛國土,教化眾生之道故。

(Sớ: Bồ Tát nghiêm tịnh cõi Phật; đấy là đạo để giáo hóa chúng sanh).

 Đây là chỉ thú của kinh này. Vì thế, kinh này thuộc về Đại Thừa, chẳng thuộc Tiểu Thừa.

 

(Sớ) Hỗ nhiếp giả, như Hoa Nghiêm Bồ Tát Tạng nhiếp, diệc thông Thanh Văn, dĩ năng bao hàm vô lượng thừa cố.

() 互攝者 ,如華嚴菩薩藏攝 亦通聲聞 ,以能包含無量乘故。

(Sớ: “Nhiếp lẫn nhau” là như kinh Hoa Nghiêm thuộc về Bồ Tát Tạng, mà cũng thuộc vào Thanh Văn Tạng, vì có thể bao hàm vô lượng thừa).

Kinh Hoa Nghiêm bao hàm tất cả hết thảy Phật pháp. Đương nhiên cũng bao hàm Duyên Giác Thừa, Thanh Văn Thừa, cho đến Nhân Thiên Thừa. Không chỉ Nhân Thiên Thừa, ngay cả ba ác đạo cũng chẳng lọt ra ngoài. Đây là giảng rõ ý nghĩa “hỗ nhiếp”.

 

(Sớ) Kim kinh Nhị Thừa chủng bất sanh, cố vân “phi bỉ”.

() 今經二乘種不生,故云非彼。

(Sớ: Nay kinh này “chủng tánh Nhị Thừa chẳng sanh” cho nên nói là “không giống những kinh khác”).

“Nhị Thừa chủng bất sanh” (Chủng tánh Nhị Thừa chẳng sanh vào Tịnh Độ) là điều được nói trong Vãng Sanh Luận, [điều đó] chẳng có nghĩa là người Tiểu Thừa không thể vãng sanh! Người Tiểu Thừa nếu chẳng tin, chẳng phát nguyện, đương nhiên người ấy chẳng thể vãng sanh. Người Tiểu Thừa tin tưởng, phát nguyện, được gọi là “hồi Tiểu hướng Đại”, sẽ vãng sanh. Quý vị phải hiểu rõ đạo lý này: Nhằm phân định rõ người ấy khác với những kẻ Tiểu Thừa chấp trước, người ấy đã bỏ chấp trước, phá trừ chấp trước, hồi Tiểu hướng Đại, cầu sanh Tịnh Độ. Phẩm vị của người ấy khá cao vì đã đoạn Kiến Tư phiền não. Hễ người ấy vãng sanh, sẽ sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư, chẳng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. “Nhị thừa chủng bất sanh” là những kẻ chẳng chịu hồi Tiểu hướng Đại, họ sẽ chẳng có phần nơi Tịnh Độ.

 

(Sớ) Hoặc vấn: Hà đắc văn trung, bỉ Phật hữu Thanh Văn đệ tử?

() 或問:何得文中,彼佛有聲聞弟子?

(Sớ: Có kẻ hỏi: Cớ sao trong kinh văn nói đức Phật ấy có đệ tử Thanh Văn).

Những đệ tử Thanh Văn ấy là người hồi Tiểu hướng Đại. Nếu chẳng hồi Tiểu hướng Đại, đương nhiên chẳng thể vãng sanh! Liên Trì đại sư giải đáp.

 

(Sớ) Đáp: Thử tạm hữu, chung vô, chí hạ thích văn trung đương biện.

() 答:此暫有終無,至下釋文中當辯。

(Sớ: Đáp: Những người ấy là tạm thời có, rốt cuộc là không, đến phần giải thích kinh văn ở phía sau sẽ biện định điều này).

Trong phần sau sẽ giải thích tường tận. Vì sao nói là “tạm hữu, chung vô”? Người Tiểu Thừa một ngày nào đó phát tâm hồi Tiểu hướng Đại, tức là nói căn cơ của người ấy đã chín muồi, cho nên người ấy quyết định vãng sanh. Đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thấy Phật, nghe pháp, nghe những pháp nào? Vẫn là nghe pháp Tiểu Thừa. Vì sao nghe pháp Tiểu Thừa? Vì tập khí Tiểu Thừa rất sâu, đã quen tu nhiều đời nhiều kiếp rồi, tập khí rất khó đoạn. Vì thế, người ấy sang bên đó vẫn học kinh điển Tiểu Thừa. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật đúng là “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh, giảng pháp thích ứng với khả năng tiếp nhận của họ): Quý vị thích Tiểu Thừa bèn giảng Tiểu Thừa; thích Đại Thừa bèn giảng Đại Thừa, nhưng người ấy chắc chắn chẳng chấp vào giáo nghĩa Tiểu Thừa, vì sao? Vì nơi ấy thọ mạng vô lượng, Bồ Tát vô lượng, những điều người ấy được thấy nghe đều là pháp Đại Thừa, nhất định người ấy sẽ bị ảnh hưởng. Vì thế, ở nơi đó, tuy người ấy có tập khí Tiểu Thừa, nhưng thời gian còn tập khí ấy không dài, cho nên nói là “tạm thời có, rốt cuộc là không”.

 

(Sớ) Hựu vấn: Yếm khổ xu lạc, tự chuyên tự lợi, hà danh Bồ Tát?

() 又問:厭苦趨樂,似專自利,何名菩薩?

(Sớ: Lại hỏi: Chán khổ, hướng đến sướng, dường như là chuyên tự lợi, sao gọi là Bồ Tát?)

Tịnh Tông thường nói “yếm ly Sa Bà, hân cầu Cực Lạc” (chán lìa Sa Bà, ưa cầu Cực Lạc); quý vị chán ngán bên này, ưa thích bên kia, đã có chán ngán và hoan hỷ thì dường như là tự tư tự lợi! Tự tư tự lợi thì làm sao có thể gọi là Bồ Tát cho được?

 

(Sớ ) Đáp: Cầu sanh Tịnh Độ, chánh vị kiến Phật văn pháp.

() 答:求生淨土,正為見佛聞法。

(Sớ: Đáp: Cầu sanh về Tịnh Độ chính là vì thấy Phật, nghe pháp).

Đây là nói cho chúng ta biết mục đích của việc “cầu sanh Tịnh Độ”. Vì sao chúng ta cầu sanh Tịnh Độ? Vì muốn “thấy Phật, nghe pháp”. Chỉ có thấy Phật nghe pháp thì pháp ấy mới là thuần chân, chẳng vọng. Đức Phật chẳng còn tại thế, tuy những bậc đại đệ tử, A La Hán, Bồ Tát đã kết tập kinh điển, chép thành văn tự để lưu truyền hậu thế, nhưng nay chúng ta mở quyển kinh ra xem vẫn có thể hiểu sai ý nghĩa, đấy là điều chẳng thể tránh khỏi. Đời sau, cũng có những vị tổ sư đại đức giảng sai kinh Phật, huống hồ những người xuất gia hiện thời, giảng sai kinh nghĩa, bẻ cong ý kinh, tôi cảm thấy chẳng thể trách họ được. Đó là hiện tượng bình thường! Do điều này, chúng ta tu học Phật pháp gặp chướng ngại trùng trùng, tìm đâu ra một vị thầy giỏi hay một vị thiện tri thức chân chánh chỉ điểm? Tìm không ra! Nếu quý vị muốn tìm một vị thầy thực sự giỏi giang, một vị thiện tri thức chân chánh, biện pháp duy nhất là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Mười phương chư Phật, Đẳng Giác Bồ Tát đều ở bên Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị thời thời, khắc khắc, ở bất cứ nơi đâu cũng đều có thể gặp gỡ các Ngài, lời các Ngài nói chắc chắn là tốt lành. Vì thế, cầu sanh Tịnh Độ chính là để “thấy Phật, nghe pháp”.

 

(Sớ) Đắc Vô Sanh Nhẫn dĩ, hoàn lai thử thế, cứu khổ chúng sanh.

() 得無生忍已,還來此世,救苦眾生。

(Sớ: Đã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn trở lại cõi đời này cứu khổ chúng sanh).

 Khi nào quý vị thả chiếc bè Từ trở lại độ chúng sanh? Cũng có giai đoạn và tiêu chuẩn, tức là: Nếu quý vị chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, khi ấy, quý vị có thể quay lại. Nếu chính mình còn chưa chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, nói cách khác, quý vị vẫn là phàm phu, quay lại vô ích! Quay lại thì vẫn sanh tử luân hồi, quay lại nhất định bị đọa lạc; cũng có nghĩa là nói: Học Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế giới phải học tốt nghiệp rồi mới được. Đã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, thưa quý vị, là tốt nghiệp Tiểu Học bên Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tốt nghiệp Tiểu Học cũng được, cũng có thể trở về độ sanh. Vô Sanh Pháp Nhẫn rốt cuộc là địa vị nào vậy? Trong bài kệ Hồi Hướng, chúng ta thường đọc “hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”. Địa vị ấy chẳng quá cao, nói theo Viên Giáo thì chỉ là Sơ Trụ Bồ Tát mà thôi. Tuy địa vị không cao, nhưng thần thông rộng lớn, bản lãnh chẳng nhỏ!

Qua kinh Lăng Nghiêm, chúng ta thấy trong chương Hai Mươi Lăm Pháp Viên Thông, hai mươi lăm vị Bồ Tát đều là Sơ Trụ trong Viên Giáo. Trong Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông Chương thuộc quyển sáu kinh Lăng Nghiêm có nói ba mươi hai ứng thân. Kẻ nên dùng thân Phật để độ được, Quán Thế Âm Bồ Tát bèn thị hiện thân Phật để thuyết pháp. Quý vị nói: Ngài là Bồ Tát, làm sao có thể hiện thân Phật? Có thể chứ! Phật gồm có bốn loại, có Tạng Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo và Viên Giáo. Trong bốn loại Phật, Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo có thể thị hiện làm Tạng Giáo Phật hay Thông Giáo Phật, chứ Biệt Giáo Phật thì không được, bản thân Ngài chưa đạt trình độ ấy. Biệt Giáo Phật phải là địa vị Đệ Nhị Hạnh trong Thập Hạnh. Nói cách khác, phải từ Nhị Hạnh trở lên mới có thể hiện thân phận Phật trong Biệt Giáo. Do vậy, Bồ Tát có thể thị hiện ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, dùng thân phận ấy để giáo hóa chúng sanh. Đây là nói bậc đã đắc Vô Sanh Nhẫn, địa vị thấp nhất là Sơ Trụ trong Viên Giáo. Quý vị có thể trở lại thế giới Sa Bà, tìm người nhà và quyến thuộc của chính mình, bất luận họ đang luân hồi trong đường nào, quý vị đều biết, đều có thể tìm được họ. Họ có duyên với quý vị, họ nhất định đắc độ. Phật chẳng độ kẻ thiếu duyên, họ có duyên với quý vị. Có duyên bèn sẽ chịu nghe lời quý vị, chịu tiếp nhận, hoan hỷ tiếp nhận lời quý vị khuyến cáo, nhất định có thể thành tựu. Do vậy, hạnh này đích xác là Bồ Tát hạnh!

 

(Sớ) Phi Thanh Văn đạo, như Thiên Thai Thập Nghi Luận trung thuyết.

() 非聲聞道,如天台十疑論中說。

(Sớ: [Pháp môn Tịnh Độ] chẳng phải là Thanh Văn đạo, như trong Thập Nghi Luận của ngài Thiên Thai đã nói).

Thập Nghi Luận do Trí Giả đại sư sáng tác, chuyên môn giải thích Tịnh Độ. Cuốn sách này được đưa vào bộ Tịnh Độ Thập Yếu. Phần Tạng Nhiếp (kinh Di Đà thuộc về Tạng nào) được giới thiệu đến đây.

Ngoài Tạng ra, còn có Giáo. Giáo là giáo học. Trong giáo học, cũng chia thành rất nhiều loại, kinh này thuộc về loại nào?

 

(Huyền Nghĩa) Giáo giả, y Hiền Thủ phán giáo phân ngũ, vị Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên. Kim thử kinh giả, Đốn giáo sở nhiếp, diệc phục kiêm thông tiền hậu nhị giáo.

(玄義) 教者, 依賢首判教分五 :謂小 、始 、終、頓、圓。今此經者,頓教所攝,亦復兼通前後二教。

(Huyền Nghĩa: Về giáo thì theo cách phán giáo của ngài Hiền Thủ, [giáo pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật] được chia thành năm loại: Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên. Nay kinh này thuộc về Đốn Giáo mà cũng thuộc vào hai giáo trước và sau đó (tức Chung Giáo và Viên Giáo).

“Tiền” là Chung Giáo, “hậu” là Viên Giáo. “Phán giáo”: Phán (判) là phán biệt (判別: phân chia), phán định. Quý vị phải hiểu: Phân khoa phán giáo là chuyện của người đời sau, chứ thuở Thích Ca Mâu Ni Phật không có. Người đời sau thấy đức Phật lưu lại kinh điển nhiều dường ấy, giáo nghĩa trong kinh điển có sâu, có cạn, người học Phật chúng ta phải nên theo trình tự từ cạn đến sâu, giống như tiêu chuẩn sắp xếp các môn học hiện thời vậy, môn nào nên xếp vào bậc Tiểu Học, môn nào nên xếp vào bậc Trung Học, hoặc xếp vào Đại Học, xếp vào chương trình nghiên cứu sinh. “Phán giáo” chính là sắp xếp các môn học. Thời Thích Ca Mâu Ni Phật không có, đệ tử đến hỏi, đức Phật bèn đáp theo lời hỏi, chẳng theo một khuôn khổ nào!

Nay sách giáo khoa được lưu lại nhiều ngần ấy, chúng ta học tập nói chung phải có thứ tự. Vì thế, những cách phán giáo này do người đời sau đặt ra, sắp xếp môn học, chia thành năm loại lớn là Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn và Viên, gọi là Ngũ Giáo. Phán giáo do người đời sau đặt ra, các vị đại đức đối với những pháp được thuyết trong bốn mươi chín năm của đức Phật mỗi người có một cách nhìn khác nhau, mỗi người có một cách phân chia, cũng chẳng hoàn toàn giống nhau. Do vậy, phán giáo để dành cho người đời sau tham khảo, đừng nên chấp trước quá đáng!

Tiểu Giáo là gì? Tiểu Giáo giống như Tiểu Học, ý của ngài Hiền Thủ là “đản thuyết Thiên Không” (chỉ nói đến cái Không lệch lạc), loại giáo nghĩa này thuộc về Tiểu Giáo. Nay kinh Di Đà thuộc về Đốn Giáo trong Ngũ Giáo. “Đốn” là đốn siêu (nhanh chóng vượt thoát), nhanh chóng nhất trong tất cả các pháp môn. Con người hiện thời thường nói ngồi máy bay trực thăng là nhanh nhất, đó là Đốn Giáo. Không chỉ là Đốn, trong ấy còn có ý nghĩa Viên, Viên là viên mãn, mà cũng có ý nghĩa Chung Giáo. Trong Đại Thừa, Chung Giáo là cao nhất, Viên Giáo là viên mãn nhất. Dẫu Hạ Phẩm Hạ Sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng viên chứng (chứng trọn vẹn) ba thứ Bất Thoái. Viên chứng ba thứ Bất Thoái mang ý nghĩa Viên Giáo và Chung Giáo. Vì thế, trong hết thảy các kinh Đại Thừa, kinh này quả thật có địa vị đặc thù, được hết sức đề cao.

 

(Sớ) Ngũ Giáo giả, nhất, Tiểu Thừa Giáo, sở thuyết duy thị Nhân Không, túng thiểu thuyết Pháp Không, diệc bất minh hiển, dĩ y Lục Thức, Tam Độc, kiến lập nhiễm tịnh căn bản, vị tận pháp nguyên cố.

() 五教者 ,一、 小乘教 ,所說唯是人空 ,縱少法空,亦不明顯,以依六識三毒,建立染淨根本,未盡法源故。

(Sớ: Ngũ Giáo: Một là Tiểu Thừa Giáo, chỉ nói về Nhân Không. Dẫu có nói đôi chút về Pháp Không, nhưng cũng chưa rõ ràng, bởi pháp này dựa trên Lục Thức và Tam Độc để xây dựng [kiến giải về] căn bản nhiễm và tịnh, chưa trọn hết nguồn pháp).

Nhân Không là vô ngã. Trong Phật pháp thường nói: “Nhân Ngã Không, Pháp Ngã Không, Nhị Không Chân Như”. Phàm phu chấp trước Có, người Tiểu Thừa chấp trước Không. Người Tiểu Thừa đã phá Nhân Ngã, chấp trước Pháp Ngã, Bồ Tát chấp trước Trung Đạo; vì thế, đều chẳng viên! Trong kinh luận, đức Phật thường nói: “Lưỡng biên bất lập” (hai bên đều chẳng lập). Hai bên là Không và Hữu, đừng nên chấp vào hai bên, “Trung Đạo bất tồn”, [tức là] Trung Đạo cũng chẳng có. Nếu quý vị nói “hai bên chẳng có chính là Trung Đạo” thì Trung Đạo và hai bên đối lập, lại trở thành một bên! Do vậy, Bồ Tát có hai loại: Quyền Bồ Tát và Thật Bồ Tát. Chấp trước Trung Đạo là Quyền Giáo Bồ Tát, chưa thật sự là Bồ Tát. Bồ Tát thật sự chẳng lập một pháp nào, giống như Lục Tổ đã nói: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần?” Ngay cả ý niệm Trung Đạo cũng chẳng có, như vậy mới thật sự là thanh tịnh. Nhân Không là trong Ngũ Uẩn không có Ngã, người Nhị Thừa có thể giác ngộ điều này, nhưng Ngũ Uẩn cũng là Không, họ không có cách nào tiếp nhận! Họ ngỡ Ngũ Uẩn là có. Trong Ngũ Uẩn vô ngã, đó là sự thật, quả thật chẳng tìm được Ngã!

“Túng nhiên thiểu thuyết Pháp Không” (dẫu có nói đôi chút về Pháp Không), chẳng hạn như kinh nói: “Vô thùy lão tử, vô thị lão tử” (không có ai già chết nên không có gì là già chết). Câu trước nói về Nhân Không, câu sau nói về Pháp Không. Lại như kinh thường nói: “Chư pháp vô hữu Ngã, diệc phục vô ngã sở, Nhân Pháp diệc nhiên” (Các pháp không có Ngã, mà cũng chẳng có cái gì là của ta, Nhân và Pháp cũng giống như vậy), cũng là câu trước nói về Nhân Không, câu sau nói về Pháp Không; nhưng nói rất ít, hoàn toàn chẳng nêu bày rõ rệt, tường tận đạo lý Pháp Không, vì sao? Người Tiểu Thừa chẳng dễ dàng lãnh ngộ. Nói cách khác, họ chưa đủ trình độ! Nguyên nhân khiến trình độ không đủ là do họ chấp tướng quá lố. Chẳng hạn như, Bồ Tát thị hiện thành Phật, nhất là thị hiện thành Tạng Giáo Phật, Tạng Giáo Phật có tám tướng thành đạo. Trong tám tướng thành đạo, đối với Tiểu Thừa có tướng “hàng ma”. Trong Đại Thừa không có hàng ma. Vì sao Đại Thừa không hàng ma? Ma là Phật, Phật là ma, Phật – ma không hai! Ma hiện trước mặt, tâm địa thanh tịnh, quang minh, sẽ chẳng bị nó dụ dỗ, mê hoặc, đó là Phật. Nếu Phật hiện đến, trong tâm vừa động, ta hoan hỷ: Thấy Phật rồi! Cái tâm của quý vị bị loạn ngay, Phật cũng là ma! Vì thế, trong Đại Thừa Phật pháp không có hàng ma, nhưng có trụ thai. Tiểu Thừa có nhập thai, xuất thai, chẳng có trụ thai. Trong tám tướng thành đạo của Đại Thừa Phật pháp có tướng trụ thai, đấy là Bồ Tát ở trong thai khi mẹ đang hoài thai. Ngài ở trong bụng mẹ giảng kinh, thuyết pháp, cũng có vô lượng Bồ Tát vây kín xung quanh nghe kinh trong ấy. Tiểu Thừa không có chuyện này, đủ thấy đích xác cảnh giới Đại Thừa và Tiểu Thừa không giống nhau!

Dẫu có nói đến Pháp Không cũng chẳng triệt để, cũng chẳng rõ ràng. Đã thế, lại còn lấy Lục Thức và Tam Độc (tham, sân, si) làm căn cứ để luận định nhiễm và tịnh, đây cũng là nói rất cạn! Bởi lẽ, người Tiểu Thừa chẳng tin có thức thứ tám, họ chẳng thể lãnh ngộ; họ tin có thức thứ sáu, thức thứ sáu so ra dễ tin tưởng hơn. Đức Phật bèn giảng cho họ thức thứ sáu. Tam Độc là nói về Năng Huân, tức [chủ thể có công năng] huân tập! Hằng ngày, tham, sân, si huân tập quý vị, thức thứ sáu được gọi là Sở Huân (cái bị huân tập). Tam Độc huân tập thức thứ sáu, lưu chuyển sanh tử, đấy là nguyên nhân của sự luân hồi trong lục đạo. Cách nói này hết sức hợp lý, nếu chúng ta chẳng nâng Phật pháp lên cao hơn một tầng nữa, chẳng nói tới pháp xuất thế gian, chỉ nói về lục đạo luân hồi thì lý luận này vô cùng tinh vi, xác thực. Vì sao quý vị có sanh tử luân hồi? Vì nguyên nhân như thế đó! Do vậy, điều này được gọi là căn bản của ô nhiễm. Quý vị phải ghi nhớ: Trong hết thảy cảnh giới, phải ngăn ngừa chính mình khởi tham, sân, si, nhất định chẳng để cho tham, sân, si ô nhiễm tự tâm. Người Tiểu Thừa nói “tự tâm” chính là nói về thức thứ sáu, họ coi Ý Thức, tức thức thứ sáu, là tự tâm. Ngược với họ, đức Phật dùng Giới – Định – Huệ để huân tập thức thứ sáu, Giới – Định – Huệ đối trị tham, sân, si. Dùng Giới Học để đối trị tâm tham, dùng Định Học để đối trị tâm sân khuể, dùng Huệ Học để đối trị ngu si. Giống như trị bệnh; tham, sân, si là bệnh, Giới – Định – Huệ là thuốc. Dùng Giới – Định – Huệ để huân tập thức thứ sáu. Đó gọi là căn bản thanh tịnh. Vì thế, họ dùng những điều này để kiến lập căn bản nhiễm và tịnh. Cố nhiên kiến lập như thế rất hay, có thể làm cho chúng sanh đoạn ác, tu thiện, lìa nhiễm, tu tịnh, nhưng chẳng triệt để, vì sao? Chưa nói đến tâm tánh!

“Vị tận pháp nguyên” (chưa trọn hết nguồn pháp). Sau thức thứ sáu còn có thức thứ bảy và thức thứ tám; cao nhất là nói đến Chân Như bổn tánh. Những điều này [Tiểu Giáo] đều chưa nói đến! Giáo nghĩa giống như vậy được gọi là Tiểu Thừa Giáo. Tu học Tiểu Thừa Giáo khá khó khăn, vì sự tu học trong Tiểu Thừa hết sức coi trọng sự tướng. Giới luật cũng như thế. Giới luật Tiểu Thừa luận sự, chẳng luận tâm, hết sức chấp trước nơi sự tướng. Chúng ta cũng thường gọi điều này là “trạch thiện cố chấp” (chọn lựa điều lành rồi chấp chặt vào đó), chẳng giống Đại Thừa. Sự tu học trong Đại Thừa rất sống động, ngày nay chúng ta gọi là “cởi mở”, họ luận tâm, chẳng luận sự. Vì thế, cảnh giới Đại Thừa cao hơn Tiểu Thừa. Nhiễm hay tịnh trong Đại Thừa dựa trên khởi tâm động niệm để nói; sự kết tội trong giới luật cũng giống như thế. Chẳng hạn như “không sát sanh” là điều đầu tiên trong Ngũ Giới. Nếu là Tiểu Thừa, tâm ta muốn giết người khác, nhưng hoàn toàn chẳng giết hắn, ta chẳng phạm giới. Đối với Bồ Tát Giới của Đại Thừa thì không được! Quý vị khởi lên một ý niệm “ta muốn giết hắn” là đã phạm giới. Đại Thừa luận tâm, chẳng luận sự; Tiểu Thừa luận sự, chẳng luận tâm, giống như pháp luật trong thế gian. Giới Tiểu Thừa nhiều, nhưng dễ trì, dễ tuân thủ; giới Đại Thừa tuy ít, rất khó trì, [bởi] kết tội nơi khởi tâm động niệm. Tiểu Thừa chẳng rốt ráo, chưa trọn hết nguồn pháp.

Nói đến Đại Thừa, Đại Thừa có Thỉ Giáo, có Chung Giáo. Thỉ Giáo là bắt đầu, Chung Giáo là kết thúc. Chúng ta ví Tiểu Giáo như Tiểu Học, Thỉ Giáo và Chung Giáo như Trung Học, Thỉ Giáo là Sơ Trung (cấp Hai, Trung Học Đệ Nhất Cấp), Chung Giáo là Cao Trung (cấp Ba, Trung Học Đệ Nhị Cấp), một trước, một sau, đều thuộc về Đại Thừa. Thỉ Giáo và Chung Giáo đều là “tiệm thứ” (tiến dần dần theo thứ tự), thuộc về tiệm tu, giống như đi học: Lớp năm đầu, lớp năm thứ hai, lớp năm thứ ba, lớp năm thứ tư, tu học tiến dần lên. Đốn Giáo không có thứ tự, giống như bậc thiên tài đặc biệt thù thắng! Chưa tốt nghiệp Tiểu Học mà có thể học thẳng vào chương trình nghiên cứu sinh, chẳng cần học những lớp ở giữa, đốn siêu! Thành tựu hết sức nhanh chóng. Viên Giáo là đại viên mãn, là viên mãn rốt ráo. Tại Trung Quốc quả thật có người thuộc loại căn tánh này, chẳng phải là không có. Nếu nói theo pháp môn này, sẽ càng rõ rệt nhất! Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!

 

— o0o —

Tập 70

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm lẻ hai:

 

(Sớ) Ngũ Giáo giả, nhất, Tiểu Thừa Giáo, sở thuyết duy thị Nhân Không, túng thiểu thuyết Pháp Không, diệc bất minh hiển, dĩ y Lục Thức, Tam Độc, kiến lập nhiễm tịnh căn bản, vị tận pháp nguyên cố.

() 五教者 ,一、小乘教 ,所說唯是人空 縱少法空,亦不明顯,以依六識三毒,建立染淨根本,未盡法源故。

(Sớ: Ngũ Giáo: Một là Tiểu Thừa Giáo, chỉ nói về Nhân Không. Dẫu có nói đôi chút về Pháp Không, nhưng cũng chưa rõ ràng, bởi pháp này dựa trên Lục Thức và Tam Độc để xây dựng [kiến giải về] căn bản nhiễm và tịnh, chưa trọn hết nguồn pháp).

Vượt thoát lục đạo sanh tử luân hồi, [Tiểu Giáo] lấy điều này làm chánh yếu. Muốn vượt thoát sanh tử luân hồi, đoạn Kiến Tư phiền não, chứng Nhân Không thì [tu tập Tiểu Giáo] sẽ có thể [thực hiện được], có thể đạt được mục đích này. A La Hán và Bích Chi Phật trong Tiểu Thừa đều thuộc vào cảnh giới này. Cao hơn một tầng là Đại Thừa Thỉ Giáo, Thỉ (始) là bắt đầu, từ Tiểu Thừa vừa mới bước vào Đại Thừa. Căn tánh của chúng sanh khác nhau; vì thế, sự tu học trong Phật pháp có thứ tự, mà cũng có khi chẳng tuân theo thứ tự. Giống như trong giới giáo dục hiện thời [tình trạng] cũng là như vậy: Tuân theo thứ tự là như Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, nghiên cứu sinh, học theo trình tự như vậy, theo thứ tự học cao dần lên; nhưng cũng có bậc thiên tài, chẳng cần phải theo thứ tự ấy, thậm chí còn chưa tốt nghiệp Tiểu Học mà có thể học Đại Học, chẳng cần phải học Trung Học, đương nhiên rất ít người như vậy.

Trong Phật pháp, quả thật căn tánh của chúng sanh khác nhau, tuy từ Đại Thừa nhập đạo, vừa bắt đầu liền học Đại Thừa, ít nhiều gì thì cũng cần có một chút cơ sở Tiểu Thừa? Nếu hoàn toàn không có cơ sở Tiểu Thừa, [học ngay vào Đại Thừa mà thành tựu], thì thật sự phải là bậc thiên tài hoặc bậc tái lai, kẻ tầm thường sẽ chẳng thể làm được! Giống như Lục Tổ đại sư của Thiền Tông, đúng là thiên tài! Trước thời Lục Tổ, chúng ta chẳng thấy có ai có căn tánh như Lục Tổ, mà sau Lục Tổ mãi cho đến hiện tại đã hơn một ngàn ba trăm năm, cũng chẳng thấy một ai. Vì thế, chúng ta chẳng thể học theo căn tánh ấy. Trong Ngũ Giáo, Lục Tổ thuộc vào Đốn Giáo, Viên Giáo, Ngài nhập đạo từ ngay nơi ấy, chúng ta chẳng thể làm được!

Chúng ta tu học tuy là vừa vào cửa Phật bèn học pháp Đại Thừa, nhưng Đại Thừa của chúng ta hiện thời vẫn chưa phải là Thỉ Giáo, chúng ta từ Chung Giáo, Đốn Giáo và Viên Giáo của Đại Thừa mà nhập môn. Do vậy, có nhiều đồng tu học Phật đổ hết tinh thần, siêng năng tu tập suốt đời, chẳng những chưa thể nhập môn, mà ngay cả tin tức cũng không có. Đó là sự thật. Học đến già, quý vị hỏi họ: “Trong Phật pháp, ông có tâm đắc gì hay chăng?” Người ấy không nói được! Dẫu học Thiền, vẫn chưa đắc Thiền Định; học Giáo, chưa đại khai viên giải. Niệm Phật chẳng đắc nhất tâm bất loạn. Dụng công cả đời, chẳng có thành tựu gì! Chúng ta thấy rất nhiều người gặp phải tình cảnh ấy, đấy là vì họ không hiểu giáo nghĩa, chẳng biết căn tánh của chính mình. Nếu chính mình chẳng phải là bậc thượng căn lợi trí, chúng ta cứ cầu học theo thứ tự, sẽ nhất định có thành tựu.

Phật pháp khác với pháp thế gian.  Tu học pháp thế gian dùng một thời gian rất dài để tiến dần theo trình tự, cầu tiến bộ dần dần. Trong Phật pháp, tất cả các căn cơ được chia thành hai loại lớn: Một là hạng thiện căn sâu dầy, hai là kẻ phước đức sâu dầy. Đương nhiên hễ có thiện căn, nhất định có phước đức. Thiện căn sâu dầy, phước đức kém một chút, tình hình này rất nhiều. Có người phước đức sâu dầy, nhưng thiện căn kém một chút. Hai loại người này đều có thể theo pháp Đại Thừa. Thiện căn là gì? Thiện căn là nói đến tín giải. Người ấy nghe xong liền tin tưởng, Tín là thiện căn. Vừa nghe liền lý giải, đó gọi là “nhất văn thiên ngộ” (nghe một, ngộ cả ngàn), “cử nhất phản tam, văn nhất tri thập” (nêu lên một góc, suy ra ba góc kia, nghe một biết mười). Đấy là thiện căn sâu dầy. Phước đức kém một chút là người ấy coi nhẹ mặt Hành, thật sự nói đến đoạn phiền não thì người ấy chưa đủ công phu. Tín giải thì có, nhưng mặt Hành còn kém mấy phần!

Người phước đức nhiều, thiện căn ít, có thể tin, nhưng giải thì kém, sẽ không có năng lực ấy. Giảng cho họ cách nào, họ cũng chẳng thể thấu hiểu, cũng chẳng hiểu rõ ràng, nhưng người ấy có phước báo, phước báo là gì? Chịu hành. Chẳng hạn như quý vị bảo người ấy tham Thiền, người ấy hằng ngày tịnh tọa; bảo người ấy niệm Phật, người ấy một câu A Di Đà Phật suốt ngày từ sáng đến tối chẳng rời miệng, người ấy có thể hành, phước báo to lớn. Hai loại người này đều có thành tựu. Vì thế, kinh Di Đà bảo: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh vào cõi ấy); đủ thấy chỉ cần có thiện căn, có phước đức, nhất định có thể thành tựu. Nếu hai loại này (thiện căn và phước đức) đều nhiều, quá tốt đẹp! Đấy là bậc thượng căn lợi trí. Trong hai loại này, ai có loại này nhiều, loại kia ít, sẽ đều nhất định có thành tựu, chẳng thể nào không thành tựu. Sợ nhất là cả hai loại đều chẳng có, đối với Phật pháp nửa tin nửa ngờ, lại chẳng thể lý giải, đương nhiên càng chẳng chịu thực hành, loại người này chẳng thể thành tựu được!

 

(Sớ) Nhị, Đại Thừa Thỉ Giáo.

() 二、大乘始教。

(Sớ: Hai là Đại Thừa Thỉ Giáo).

Thỉ Giáo là bắt đầu của Đại Thừa, trước là thông với Tiểu Thừa, [tức là trong giáo nghĩa của Thỉ Giáo] bao hàm những giáo nghĩa của Tiểu Thừa, sau là thông với Đại Thừa. Vì thế, theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, Thỉ Giáo được gọi là Thông Giáo, thông với giáo trước và giáo sau. Trong cách phán giáo của tông Hiền Thủ, giáo này được gọi là Thỉ Giáo, tức Đại Thừa Thỉ Giáo.

 

(Sớ) Diêu đệ nhị thời, đản minh ư Không. Đệ tam thời định thuyết Tam Thừa, bất hứa định tánh, Xiển Đề thành Phật, vị tận Đại Thừa chí cực chi thuyết, cố danh vi Thỉ. Hữu thành Phật, hữu bất thành Phật, phục danh Phần Giáo. Sở thuyết tắc quảng đàm pháp tướng, thiểu cập pháp tánh. Kỳ sở vân Tánh, diệc thị Tướng số, dĩ y sanh diệt bát thức, kiến lập sanh tử cập Niết Bàn nhân chư nghĩa loại cố.

() 繇第二時 ,但明於空 第三時定說三乘 ,不許定性闡提成佛,未盡大乘至極之說,故名為始。有成佛有不成佛,復名分教。所說則廣談法相,少及法性。其所云性,亦是相數,以依生滅八識,建立生死及涅槃因諸義類故。

(Sớ: Ấy là vì thời thứ hai chỉ giảng về Không, thời thứ ba lập ra Tam Thừa, chẳng hứa khả hàng định tánh Thanh Văn và Xiển Đề có khả năng thành Phật, chưa nói tột cùng giáo nghĩa Đại Thừa, nên gọi là Thỉ. [Do trong giáo nghĩa của Thỉ Giáo], có kẻ thành Phật, có kẻ chẳng thành Phật, nên [Thỉ Giáo] lại gọi là Phần Giáo. Giáo này nói rộng về pháp tướng, giảng đôi chút về pháp tánh. Cái được gọi là “tánh” [trong Thỉ Giáo] cũng chỉ là một danh từ pháp tướng vì nó dựa trên tám thức sanh diệt để kiến lập các nghĩa lý như nhân duyên của sanh tử và Niết Bàn).

Giới thiệu đơn giản giáo nghĩa của Đại Thừa Thỉ Giáo. “Đệ nhị thời” nói Không, “đản minh ư Không” (chỉ giảng về Không). Nói theo Pháp Tướng Tông, khi Thích Ca Mâu Ni xuất hiện lần đầu tiên tại Lộc Dã Uyển thuyết pháp cho năm vị tỳ-kheo, Ngài nói pháp Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nói các pháp đều dựa trên pháp tướng để nói, tướng là Có, đó là “đệ nhất thời”. Trong thời thứ hai, dựa vào Biến Kế Sở Chấp, nói hết thảy các pháp đều Không. Nói theo cách bây giờ, Biến Kế Sở Chấp là khái niệm trừu tượng, chẳng chân thật, chỉ là một khái niệm trừu tượng mà thôi, chẳng có sự thật. Vì thế, nó là giả, chẳng thật. Đây là một phần Không nghĩa trong Bát Nhã. Đó là thời thứ hai, nói các pháp đều là Không.

Thời thứ ba, nói Biến Kế Tánh Không (tánh của Biến Kế Sở Chấp là Không). Trong Duy Thức, có ba loại tánh: Y Tha Khởi Tánh, Viên Thành Thật Tánh (tánh là tánh chất) [và Biến Kế Sở Chấp Tánh]. Y Tha Khởi: Tha (他) là bên ngoài; có nhiều điều kiện thì mới có thể hiện thành một hiện tượng, Phật môn gọi điều này là “duyên khởi”. Hết thảy các pháp đều do nhân duyên tụ hợp hiện thành hiện tượng ấy, nó có tự thể hay không? Không có! Đức Phật dạy: Con người do các thứ duyên như Tứ Đại và Ngũ Uẩn (Tứ Đại và Ngũ Uẩn là duyên) tụ tập mà hiện ra tướng. Nếu Tứ Đại và Ngũ Uẩn phân tán, tướng ấy chẳng còn nữa. Chúng ta hãy nghĩ xem: Con người có hay không? Con người không có, Tứ Đại và Ngũ Uẩn thì có. Nếu từ chỗ này, quý vị hoảng nhiên đại ngộ thì con người chúng ta sẽ không có sanh tử! Cái gọi là “sanh” chẳng qua là tướng được hiện bởi Tứ Đại và Ngũ Uẩn tụ hợp; cái gọi là “tử” chỉ là Tứ Đại phân tán mà thôi!

Tứ Đại tụ là nó, mà tán cũng là nó, nó chẳng có sanh diệt. Các khoa học gia hiện thời nói vật chất chẳng diệt, có cùng một đạo lý như Phật pháp đã nói. Vì thế, chẳng có sanh diệt. Do điều này, “phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Tướng là [các nhân duyên] tụ hội, khi tụ bèn hiện ra tướng. Khi [các nhân duyên ấy] tán, tướng bị diệt mất. Do vậy, tướng có, tướng không, những điều này là sự thật. Nếu nói sanh và diệt, đấy chẳng phải là sự thật. Sự thật là [các nhân duyên] tụ hay tán mà thôi. Trong tụ và tán, chẳng tìm được ý nghĩa sanh diệt. Vì thế, nói “sanh tử” là giả, chẳng thật. Phật môn nói “liễu sanh tử”, liễu (了) là hiểu rõ; triệt để hiểu rõ sanh tử rốt ráo là chuyện như thế nào, hiểu rõ ràng! Thật sự hiểu rõ ràng thì đối với sanh, quý vị sẽ chẳng tham sống, mà cũng chẳng sợ chết. Biết sanh tử chẳng chân thật, chỉ do cách nhìn sai lầm, nhận biết lầm lẫn [mà chấp trước sanh tử]. Đối với chân tướng nhân sinh và vũ trụ, nẩy sanh hiểu lầm, trong sự nhận biết lầm lẫn bèn có sanh tử. Đấy là nói về Y Tha Khởi Tánh.

Viên Thành Thật Tánh: Viên Thành Thật là thành tựu viên mãn. Nói “thành tựu viên mãn” có nghĩa là chẳng có thứ gì trước mắt chẳng chân thật, vì sao? Tánh là chân thật, cho nên những tướng ấy cũng chân thật. Cổ nhân nêu tỷ dụ: “Dùng vàng chế đồ vật, món nào cũng đều là vàng”. Đem vàng sánh với thật, đồ vật ví với giả. Ta có một khối vàng, hôm nay ta cao hứng đúc thành tượng Phật, tượng Phật bằng vàng! Ngày mai ta không thích tượng Phật nữa, đúc thành hình con mèo bé, con cún, tướng khác nhau, vàng có tồn tại hay không? Vẫn tồn tại! Hiện tướng tượng Phật thì vẫn là vàng, hiện tướng con cún, con mèo bé vẫn là vàng, chẳng biến đổi, thứ gì cũng đều chân thật. Vì thế, trong Phật môn nói minh tâm kiến tánh, “minh” (明) là trong tâm không mê, phá mê khai ngộ; ngộ (悟) là quang minh. Quý vị thấy hết thảy vạn sự vạn pháp không gì chẳng phải là Chân Như bổn tánh. Minh tâm bèn kiến tánh, tánh ở chỗ nào? Chẳng có pháp nào không phải là tánh, hoàn toàn do tự tánh biến hiện. Giống như vàng và các món đồ là một, quý vị hoảng nhiên đại ngộ, có món đồ nào chẳng phải là vàng? Quý vị thấy các món đồ bằng vàng trong tiệm kim hoàn, thứ nào cũng đều là vàng, chẳng có thứ nào không phải. Sâm la vạn tượng, vũ trụ, nhân sinh đều là vật được biến hiện bởi tự tánh, chẳng có pháp nào không phải là tự tánh. Đó gọi là “pháp nào cũng là đạo, đâu đâu cũng gặp nguồn”; cảnh giới ấy được gọi là Viên Thành Thật Tánh. Những điều này đều là nói về giáo nghĩa Đại Thừa.

“Đệ tam thời định thuyết tam thừa” (Thời thứ ba lập ra ba thừa), ba thừa là Thanh Văn Thừa, Duyên Giác Thừa và Bồ Tát Thừa, “bất hứa định tánh Xiển Đề thành Phật” (chẳng hứa khả định tánh Thanh Văn và Xiển Đề có thể thành Phật): Giáo nghĩa này chẳng tán thành [ý kiến hàng định tánh Thanh Văn và Nhất Xiển Đề vẫn có khả năng thành Phật]. Xiển Đề (Icchantika) là tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “kẻ không có thiện căn”, hay “kẻ đoạn diệt thiện căn”, hạng người này chẳng thể thành Phật. Thật ra, người chẳng có thiện căn có phải là do tự tánh biến hiện ra hay chăng? Đương nhiên là có! Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm, chẳng hề nói ngoài tâm còn có thể kiến lập một pháp, đấy là chuyện chẳng thể nào có được! Nhưng trong giai đoạn này, đức Phật chưa nói rốt ráo, vì sao? Căn tánh và trình độ của chúng sanh còn chưa đạt tới mức, nói ra sẽ khiến họ hoài nghi, chẳng thể tiếp nhận, chẳng thể tin tưởng. Do vậy, trong giai đoạn này, giáo nghĩa chỉ nói đến đây bèn thôi. Tới hội Pháp Hoa “khai Quyền hiển Thật”, đức Phật nói lời thật, Nhất Xiển Đề cũng có thể thành Phật! Đấy mới là rốt ráo viên mãn. Đại Thừa Thỉ Giáo chẳng nói đến vấn đề này, do vậy, [sách Sớ Sao] phê phán [Thỉ Giáo] “vị tận Đại Thừa chí cực chi thuyết” (chưa nói đến giáo nghĩa Đại Thừa tột cùng). Đó gọi là Thỉ, tức là bắt đầu của Đại Thừa. Đồng thời, trong giai đoạn này, đức Phật nói có kẻ thành Phật, có kẻ chưa thể thành Phật, do nói những điều đó nên gọi là Phần Giáo. Phần Giáo là có phân biệt, [Thỉ Giáo] được gọi là Đại Thừa Phần Giáo.

“Sở thuyết tắc quảng đàm pháp tướng” (nói rộng về pháp tướng). Chẳng hạn như Bách Pháp Minh Môn nói tâm pháp gồm tám món, tức tám Tâm Vương (tám thức) và Tâm Sở Hữu Pháp. Nay chúng ta gọi năm mươi mốt Tâm Sở Pháp (Tâm Sở Hữu Pháp) là tác dụng tâm lý. Hai mươi bốn món Bất Tương Ứng Hành Pháp cũng thuộc vào tác dụng tâm lý, nhưng là tác dụng gián tiếp, chẳng phải là tác dụng trực tiếp. Nói theo ngôn ngữ hiện thời, những loại tác dụng gián tiếp này hoàn toàn là khái niệm trừu tượng, quyết định chẳng phải là chân thật. Tâm Sở Hữu Pháp là Y Tha Khởi, tức là nương vào Tâm Vương mà khởi. Hai mươi bốn món Bất Tương Ứng chẳng thể tìm ra chúng nương vào đâu mà khởi lên, thậm chí sở y (chỗ nương tựa) của chúng rất nhiều, nhưng chẳng thể nói quyết định là thuộc vào một loại pháp nào, chúng là những khái niệm sai lầm sanh ra từ rất nhiều pháp. Cho nên, về Sự thì có, mà về Lý thì không. Ví như thời gian, chúng ta nói mấy phút, mấy giây, dường như là có chuyện này, chúng tôi hẹn quý vị mấy giờ sẽ đến đây, nay chúng tôi giảng kinh là từ bảy giờ rưỡi đến chín giờ. Về mặt Sự thì có, nhưng trên Lý quả thật chẳng có! Quan niệm thời gian do quả đất xoay quanh chính nó một vòng mà có, chia thành hai mươi bốn giờ, một giờ chia thành sáu mươi phút, chia ra như vậy. Trên địa cầu, thời gian địa cầu tự xoay quanh nó một vòng dài ngắn khác nhau [tùy thuộc các vị trí khác nhau]. Nếu quý vị tới Nam Cực hay Bắc Cực, cứ coi địa cầu xoay quanh nó một ngày thì [ở nơi đó] sáu tháng là ban ngày, sáu tháng là ban đêm, chia ra hai mươi bốn giờ bằng cách nào? Không có cách nào chia được! Quý vị ngồi trong phi thuyền, bay lên không trung rời khỏi trái đất, quan niệm thời gian trên địa cầu không còn nữa! Do đây, có thể biết: Thời gian là một khái niệm trừu tượng, chẳng phải là sự thật.

Không gian cũng giống như thế! Chúng ta nói bốn phương, bốn phương bàng, trên, dưới, Đông, Tây, Nam, Bắc. Nay ta biết địa cầu tròn xoe, chúng ta đi sang phương Đông, đi theo phương Đông, khi trở về [chỗ cũ] sẽ là trở về từ phương Tây! Do vậy, phương vị cũng chẳng thật. Chúng ta ở Đài Bắc, Cơ Long ở phía Bắc của chúng ta, Tân Trúc nằm ở phương Nam. Nếu chúng ta sang Nhật Bản thì Cơ Long cũng thuộc phương Nam, chẳng còn là phương Bắc của chúng ta nữa, rốt cuộc xác định phương vị như thế nào? Chẳng có! Chẳng hề có phương vị! Những điều này đều nhằm thuận tiện cho cuộc sống mà giả lập, trên thực tế chẳng có, đều là một loại khái niệm trừu tượng. Trên mặt Sự thì có, nhưng theo Lý thì không! Chúng ta phải giác ngộ. Giác ngộ rồi cũng chẳng hoại pháp thế gian, vì sao? Thuận tiện cho mọi người sử dụng, chúng ta ước chừng mấy giờ đến chỗ này, đến giờ mọi người đều đến. Tuy là những thứ giả, nhưng chúng có ích, quý vị chớ nên chấp trước. Nếu quý vị chấp trước “nhất định là có”, sẽ thành sai lầm. Trong Bách Pháp, những pháp giống như thời gian và không gian đều thuộc về Bất Tương Ứng Hành Pháp. Sắc pháp là vật chất, chia thành năm căn và sáu trần, gồm mười một loại. Trong sáu căn có Ý Căn, đó là tâm pháp, không phải sắc pháp. Do vậy, Ý Căn được xếp vào tám Tâm Vương. Do đó, sắc pháp chỉ gồm mười một loại, tâm pháp có tám loại. Những điều này đều là “quảng đàm pháp tướng” (giảng rộng về pháp tướng), chúng tôi chỉ nêu ra một thí dụ để nói.

“Thiểu cập pháp tánh” (nói đôi chút về pháp tánh): Rất ít bàn đến pháp tánh. Dẫu nói đến pháp tánh, ý nghĩa vẫn bao hàm trong pháp tướng. Nói cách khác, từ pháp tướng mà nói kèm thêm một chút pháp tánh. Giống như Bách Pháp [là một thí dụ] vô cùng rõ rệt: Trong một trăm pháp, có chín mươi bốn pháp nói về pháp tướng, sáu pháp sau cùng đều là pháp vô vi, đều thuộc về pháp tánh. Nói đến pháp tánh chỉ chiếm sáu phần trăm, nói đến pháp tướng chiếm hết chín mươi bốn phần trăm. Rất hiển nhiên [Bách Pháp] thuộc Đại Thừa Thỉ Giáo. “Kỳ sở vân tánh, diệc thị tướng số” (Nói đến tánh thì cũng thuộc vào danh số của pháp tướng), vừa nói đến điều này! “Dĩ y sanh diệt bát thức, kiến lập sanh tử cập Niết Bàn nhân chư nghĩa loại cố” (do dựa trên tám thức sanh diệt để kiến lập các nghĩa lý giống nhân duyên của sanh tử và Niết Bàn). Nói đến sanh tử và Niết Bàn đều là dựa trên tám thức sanh diệt để nói, cách nói này chẳng viên dung. Pháp Tướng Tông nói Chân Như là ngưng lặng, bất động, chẳng giống như Viên Giáo! Viên Giáo nói Chân Như hoạt bát sống động, bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên nhưng bất biến. Giáo nghĩa của Thỉ Giáo nói Chân Như là thanh tịnh, bất động, chẳng tùy duyên, đó là vì dựa trên tám thức sanh diệt. Theo cách nói của tông Thiên Thai, tám thức có bốn loại: Sanh Diệt Bát Thức, Vô Sanh Bát Thức, Vô Lượng Bát Thức và Vô Tác Bát Thức; có thể thấy là đối với một danh từ, có nhiều cách nói. Tiểu Giáo có cách nói của Tiểu Giáo, Thỉ Giáo có cách nói của Thỉ Giáo. Chung Giáo, Đốn Giáo, Viên Giáo, mỗi giáo có cách nói riêng, ý nghĩa khác nhau, mức độ sai biệt sâu hay cạn rất lớn.

Do vậy, Thỉ Giáo giảng sanh tử và Niết Bàn: Từ vô thỉ đến nay, hết thảy các pháp do có lục đạo luân hồi, do có mười pháp giới, cho nên mới có chứng đắc Niết Bàn. Giới (界) là nhân, thật ra, nếu nói chân thật thì kinh Hoa Nghiêm giảng về Niết Bàn viên mãn nhất: Niết Bàn vốn sẵn có. Niết Bàn (Nirvāna) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “bất sanh, bất diệt”. Bất sanh bất diệt vốn sẵn có, nay chúng ta tuy là phàm phu, nhưng Niết Bàn sẵn có của chúng ta chẳng hề mất đi. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã nói rất rõ ràng: Căn tánh của sáu căn là bất sanh, bất diệt, sáu thức có sanh diệt. Giáo nghĩa [Thỉ Giáo] được kiến lập trên cơ sở này. Do kiến lập trên tám thức sanh diệt nên mới có “Có Niết Bàn để có thể chứng, có sanh tử để có thể liễu”, đó là Đại Thừa Thỉ Giáo. Lên một tầng cao hơn, sẽ chẳng có sanh tử, mà cũng chẳng có Niết Bàn. “Sanh tử Niết Bàn đẳng không hoa” (sanh tử và Niết Bàn như hoa đốm trên hư không), đấy là bình đẳng. Ở đây, nói về giáo nghĩa của Thỉ Giáo, giáo nghĩa của Chung Giáo cao hơn.

 

(Sớ) Tam, Đại Thừa Chung Giáo, diêu xuất Trung Đạo Diệu Hữu, định tánh Xiển Đề giai đương tác Phật, phương tận Đại Thừa chí cực chi thuyết, cố danh vi Chung. Xứng Thật Lý cố, phục danh Thật Giáo.

() 、大乘終教 ,繇出中道妙有 ,定性闡提 ,皆當作佛,方盡大乘至極之說,故名為終。稱實理故,復名實教。

(Sớ: Ba là Đại Thừa Chung Giáo, do xuất phát từ Diệu Hữu của Trung Đạo, định tánh Thanh Văn và Xiển Đề đều có thể thành Phật. Như vậy thì mới nói trọn hết giáo nghĩa tột cùng của Đại Thừa, cho nên gọi là Chung. Do xứng hợp Thật Lý, nên lại gọi là Thật Giáo).

Đây là giáo nghĩa tối hậu của Đại Thừa, mà cũng là cách nói tối cao. Ở đây vừa nói đến “định tánh”, chữ “định tánh” chỉ bậc A La Hán, “Xiển Đề” là kẻ chẳng có thiện căn. Những người này đều có thể thành Phật, giáo nghĩa mới viên mãn rốt ráo. Đức Phật thuyết pháp quả thật đã lao tâm khổ tứ đến tột cùng, bởi lẽ, tướng chân thật của hết thảy các pháp vốn chẳng thể nói ra được, những gì có thể nói ra đều là chẳng thật. Nếu quý vị tìm kiếm chân tánh của quý vị từ những ngôn ngữ văn tự đã được nói ra ấy, muốn truy tìm chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, chắc chắn sẽ chẳng tìm được! Vì sao? Quý vị mê nơi văn tự, ngôn ngữ, chẳng đạt được chân tướng. Nếu muốn đạt được chân tướng thì ngôn ngữ văn tự giống như những cột mốc chỉ đường, quý vị [dựa theo chúng] để tìm phương hướng, nhưng phải lìa bỏ ngôn ngữ, văn tự! Có như vậy thì mới có thể ngộ nhập Thật Tướng. Đấy là phương pháp chánh đáng và là chỗ chân thật dụng tâm trong sự giáo học của Phật pháp.

Nếu  cầu  tìm [chân  nghĩa] từ  ngôn  ngữ văn tự thì cao nhất là chỉ dừng ở Đại Thừa Thỉ Giáo mà thôi! Giáo nghĩa Chung Giáo phải ngộ nhập, phải tách lìa ngôn ngữ, văn tự, nhưng cũng chẳng thể không cần đến ngôn ngữ, văn tự! Giống như chúng ta đi đường, biển chỉ đường rất quan trọng, chẳng thể không cần đến; nhưng tấm biển chỉ đường chẳng phải là nơi chốn. Chúng ta từ các huyện thị bên ngoài đến Đài Bắc, đến ranh giới Đài Bắc, thấy biển đề “thành phố Đài Bắc”, tự cho là chính mình đã đến Đài Bắc rồi, tấm biển ấy có phải là Đài Bắc hay không? Chẳng phải! Nếu [hiểu tấm biển ấy là Đài Bắc thì] đem tấm biển ấy cắm tại nơi khác, Đài Bắc ở nơi đó rồi. Đâu phải vậy, nhưng nó có thể chỉ dẫn chúng ta đến được mục đích. Ngôn ngữ, văn tự của Phật và kinh điển cũng giống như vậy, quý vị phải hiểu tánh chất của chúng. Vì thế, kinh Kim Cang dạy: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn nên xả, huống là phi pháp), “pháp” là Phật pháp, cũng chớ nên chấp trước Phật pháp thì mới có thể tìm được Chân Như bổn tánh.

“Trung Đạo Diệu Hữu”: Chân Không và Diệu Hữu là một, không hai, chớ nên coi chúng là hai chuyện. Tâm Kinh văn tự tuy ít, ý nghĩa hết sức sâu sắc, giảng đạo lý này hết sức thấu triệt. Chẳng hạn như kinh nói: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Sắc là nói đến pháp tướng, Không là nói đến pháp tánh. Điều này cho thấy pháp tánh và pháp tướng là cùng một chuyện, chẳng phải hai chuyện. Nếu quý vị thấy tánh thì thấy ở chỗ nào? Thấy nơi tướng; lìa khỏi tướng, tánh ở đâu ra? Ví như vàng, vàng ví như tánh, những món đồ bằng vàng ví như tướng. Ta muốn vàng, quý vị cầm lấy tượng Phật, [nhưng do chấp tướng bèn nói]: “Ta không muốn tượng Phật, ta muốn vàng!” Quý vị đổi sang một viên ngói bằng vàng, [vẫn cứ khăng khăng]: “Ta không muốn ngói, ta muốn vàng!” Cầm lấy một đống vòng vàng: “Ta không muốn vòng, ta muốn vàng!” Quý vị lấy vàng từ nơi đâu? Chắc chắn chẳng tìm được, bởi những tướng ấy vốn là vàng. Quý vị hiểu rõ chuyện này, thứ gì ta cũng đều lấy được. Tượng Phật cũng được, ngói cũng được, vòng xuyến cũng được, thứ gì cũng đều được, vì sao? Thảy đều là vàng!

Đối với người kiến tánh, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần đều là pháp tánh, đều là tự tánh, nên gọi là minh tâm kiến tánh. Nếu ai đạt đến cảnh giới này, tâm họ sẽ tự nhiên bình đẳng trong hết thảy vạn pháp, vì sao? Toàn là tự tánh, một tánh, chẳng hai tánh. Chúng sanh và Phật bình đẳng, chính mình và chư Phật bình đẳng, bình đẳng với hết thảy chúng sanh. Tâm địa thanh tịnh, vì sao thanh tịnh? Trong hết thảy các pháp, người ấy không có lấy hay bỏ, biết chúng đều do tự tánh biến, chẳng có lấy hay bỏ, nên tâm thanh tịnh. Đối với hết thảy chúng sanh, sanh tâm đại từ đại bi, tâm đồng thể từ bi, biết hết thảy vạn pháp đều do tự tánh biến hiện, hết thảy vạn pháp do tự tánh kiến lập, lẽ nào người ấy chẳng từ bi? Do vậy, nói là “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”, hết thảy vạn pháp và chính mình có cùng một bổn tánh. Vì vậy, tâm từ bi tự nhiên lưu lộ, chẳng có bất cứ điều kiện nào, đó là kiến tánh, kiến tánh bèn thành Phật. Chúng ta gọi người đã thấy tánh là Phật, đó là nghĩa chân thật trong Phật pháp.

“Định tánh, Xiển Đề”: [“Định tánh”] là định tánh Thanh Văn. Định tánh A La Hán cũng có thể hồi Tiểu hướng Đại, cũng có thể làm Phật, làm Tổ. Xiển Đề là kẻ không có thiện căn. Người không có thiện căn vì chưa gặp duyên; hễ gặp duyên, thiện căn cũng có thể hiển phát, cũng có thể thành Phật. Đây là giáo nghĩa tột cùng trong Đại Thừa Phật pháp. “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh”, “hết thảy chúng sanh đều sẽ thành Phật”. Huống chi trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”, nói như vậy càng viên mãn, càng rốt ráo hơn. “Cố danh vi Chung” (nên gọi là Chung Giáo), đây là giáo nghĩa chung cực của Đại Thừa, “xứng Thật Lý cố” (vì xứng hợp với Thật Lý), giảng giải chân thật, quả thật là Lý Thể.

 

(Sớ) Sở thuyết tắc đa đàm pháp tánh, thiểu cập pháp tướng.

() 說則多談法性,少及法相。

(Sớ: Những điều được nói [trong Chung Giáo] đa số luận về pháp tánh, và luận đôi chút về pháp tướng).

Đây là giáo nghĩa của Đại Thừa Chung Giáo: Đối với pháp tánh nói rất nhiều, thảo luận nhiều, ít nói đến pháp tướng. Tướng là giả, tánh là thật.

 

(Sớ) Kỳ sở vân tướng, diệc hội quy tánh.

() 其所云相,亦會歸性。

(Sớ: Nói đến tướng thì cũng quy vào tánh).

Dù có nói đến pháp tướng, chẳng hạn như nói ba đời, Ngũ Ấm, thế gian, xuất thế gian, những thứ ấy đều là giả danh. Lại nói: “Hữu tránh thuyết sanh tử, vô tránh tức Niết Bàn, sanh tử cập Niết Bàn, nhị câu bất khả đắc” (Hễ có tranh chấp thì là sanh tử, không tranh chấp chính là Niết Bàn, sanh tử và Niết Bàn, hai thứ ấy đều chẳng thể được). Đó là giáo nghĩa trong giai đoạn này.

 

(Sớ) Dĩ y Như Lai Tạng bát thức, tùy duyên thành lập chư nghĩa loại cố.

() 以依如來藏八識,隨緣成立諸義類故。

(Sớ: Do dựa trên tám thức và Như Lai Tạng, mà tùy duyên thành lập các nghĩa lý).

Như Lai Tạng (Tathāgatagarbha) là tự tánh thanh tịnh tâm, “bát thức” là bản thể của A Lại Da Thức. “Y Như Lai Tạng bát thức” là như kinh Lăng Nghiêm đã nói: Kinh Lăng Nghiêm là Đại Thừa Chung Giáo, giảng về Như Lai Tạng tánh, giảng về thức thứ tám. Bản thể của thức thứ tám là Như Lai Tạng, tác dụng của Như Lai Tạng là tám thức. Thể và Dụng là một, không hai. Nói theo phương diện tác dụng là tám thức, nói theo phía bản thể là Như Lai Tạng. Do vậy, sanh diệt và chẳng sanh diệt hòa hợp. Thể là chẳng sanh diệt, tám thức là sanh diệt. Chuyển tám thức thành bốn trí, bốn trí chẳng sanh diệt. Sanh diệt và chẳng sanh diệt là một, không hai! Trong sanh diệt có chẳng sanh diệt. Trong chẳng sanh diệt, có sanh diệt, đấy là trong Thể có tác dụng, trong tác dụng có Thể. Giống như chúng ta soi gương, bản thể của gương là chẳng sanh diệt, tướng (hình bóng) được chiếu trong gương có sanh diệt. Người Trung Quốc soi vào bèn hiện hình ảnh người Trung Quốc, người ngoại quốc soi gương bèn hiện bóng người ngoại quốc. Tướng được hiện có sanh, có diệt, nó biến hóa. Gương là Thể, chẳng sanh diệt. Sanh diệt và chẳng sanh diệt là một, không hai!

Cái thể tánh có thể biến (năng biến) ra vạn pháp trong nhân sinh và vũ trụ là Như Lai Tạng, nó là thật. Cái được biến (sở biến) là huyễn tướng, tướng ấy Giả Hữu, còn gọi là Diệu Hữu. Chẳng thể nói là nó không có, nó có! Đã có, vì sao nói là Giả Hữu? Vì cái Hữu ấy thường xuyên biến hóa, chẳng vĩnh viễn bất biến. Vĩnh viễn bất biến sẽ là Chân Hữu. Như Lai Tạng tánh là Chân Hữu, vĩnh viễn bất biến. Hết thảy các tướng bị biến, những tướng ấy tạm thời có rồi không, thiên biến vạn hóa. Kinh dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Hư vọng, nhưng là có, chẳng phải là không có. Nó chẳng thể vĩnh viễn tồn tại; đó là sự thật. Phàm những gì có tướng đều biến hóa trong từng sát-na, chẳng thể ngưng nghỉ! Sau khi quý vị đã hiểu rõ chân tướng này, trong hết thảy cảnh giới Giả Hữu hay Diệu Hữu, quý vị đều có thể thụ dụng.

Ví như hiện thời chúng ta có cái thân này, thân tướng này là Giả Hữu. Chúng ta biết nó biến hóa trong từng sát-na, con người tuyệt đối chẳng phải là mỗi năm một suy lão, chẳng phải vậy, mà là già đi trong từng sát-na. Bất quá, chính quý vị chẳng nhận biết, đến khi quý vị bảy mươi, tám mươi mới [than vãn]: “Úi chà! Sao mà ta già khọm thế này?” Thật ra, chẳng phải là lúc đó mới già. Già đi từng giờ một, già đi từng phút một, già đi từng giây một, già đi trong từng sát-na! Nói xuyên suốt thì con người chẳng có ý nghĩa gì hết, từ lúc sanh ra, con người đã đi theo một mục tiêu, một phương hướng, một đường lối. Đi đâu vậy? Đi đến mộ phần, chẳng chịu ngừng phút nào, đó thật sự gọi là tinh tấn! Làm chuyện gì khác, người ta cũng ngưng lại không làm, chứ chuyện này vĩnh viễn chẳng ngừng! Nếu quý vị thật sự thấy xuyên suốt con người chẳng có ý nghĩa gì cả, đó là giác ngộ. Giác ngộ chân tướng sự thật, trong thế gian này, bất luận nghèo, giàu, sang, hèn, đều đi theo một con đường, sanh ra liền đi theo con đường tử vong này, mỗi ngày một gần hơn, mỗi phút một gần hơn, là chuyện như thế đó! Do vậy, đức Phật dạy chúng ta phải liễu sanh tử, “liễu” là hiểu rõ. Sau khi hiểu rõ, phải thoát sanh tử, thoát sanh tử là tách lìa, cao lắm! Liễu thoát sanh tử là hai chuyện: Liễu là học vấn, Thoát là công phu. Thoát là tháo gỡ, là buông bỏ. Đó là công phu. Liễu là học vấn, hiểu rõ chân tướng sự thật. Liễu mà chẳng thoát thì không được, nhất định phải thoát. Phật pháp nhằm dạy chúng ta liễu thoát sanh tử, nhận thức chân tướng của nhân sinh và vũ trụ. Do vậy, biết chính mình tuy có sanh diệt, nhưng chính mình cũng có cái chẳng sanh diệt. Chúng ta có thể thoát khỏi sanh diệt, tu cái bất sanh diệt, quý vị bèn thành công.

Cách tu như thế nào? Cái gọi là “tu” chính là ứng dụng. Phật, Bồ Tát chẳng khác gì chúng ta. Chúng ta từ sáng đến tối đãi người, tiếp vật, dùng cái tâm gì? Dùng tâm sanh diệt, ý niệm này khởi, ý niệm kia diệt, dùng cái tâm này! Chúng ta dùng cái tâm sanh diệt, nên có sanh tử, có lục đạo luân hồi, cho nên có khổ! Phật, Bồ Tát cũng ăn cơm, mặc áo, đãi người, tiếp vật y hệt, nhưng các Ngài chẳng dùng tâm sanh diệt, mà dùng tâm gì? Dùng cái tâm chẳng sanh diệt. Do vậy, các Ngài chẳng chết, có thể liễu thoát. Tâm chẳng sanh diệt và tâm sanh diệt hòa hợp làm một. Kinh Lăng Nghiêm đã giảng rất cặn kẽ: “Thường trụ chân tâm, tánh tịnh minh thể”, dùng cái tâm này, chúng ta thường gọi nó là “chân tâm”. Trong chân tâm không có niệm, chân tâm ly niệm! Có niệm là vọng tâm. Tám thức có niệm, còn Chân Như bổn tánh, Như Lai Tạng không có niệm.

Vì thế, đức Phật dạy chúng ta đãi người, tiếp vật phải dùng cái tâm nào? Dùng chân tâm. Trong hết thảy các pháp, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, đấy là chân tâm. Trong ấy chẳng có sanh diệt. Quý vị nói: Chẳng có sanh diệt, nhưng con mắt tôi vẫn có thể thấy, làm sao chẳng thể thấy? Lúc mở mắt nhìn một vật gì, khi thấy nó, quý vị chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, thử hỏi quý vị còn thấy hay là không? Thấy! Khi ấy, cái thấy của quý vị là Chân Kiến, tức là thấy bằng chân tâm, thấy bằng tánh Thấy. Đối với cảnh giới, vừa khởi lên phân biệt, chấp trước, khởi tâm động niệm, đó là thấy bằng tám thức. Trong khi quý vị chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, hết thảy các cảnh giới chắc chắn bình đẳng. Vừa mới phân chia tốt, xấu; tốt, xấu là gì? Trong tám thức mới có! Trong vọng tâm mới có! Trong chân tâm chẳng có. Vì sao? Trong chân tâm chẳng có phân biệt, chấp trước. Hễ có phân biệt, chấp trước, sẽ biết [là tốt, xấu], chân tâm mất đi; [phàm phu] dùng vọng tâm, dùng cái tâm sanh diệt.

Vì thế, Phật, Bồ Tát thấy sắc, nghe tiếng chẳng sử dụng cùng một cái tâm như chúng ta. Chúng ta dùng Nhãn Thức để thấy, dùng Nhĩ Thức để nghe, dùng thức thứ sáu, tức Ý Thức, để nghe, toàn bộ lọt vào trong Ý Thức. Thứ thứ sáu, tức Ý Thức, phân biệt, thức thứ bảy chấp trước, thức thứ tám giữ lại ấn tượng, khởi vọng tưởng. Phật, Bồ Tát chẳng dùng tâm ý thức, chẳng dùng thức thứ sáu nên chẳng phân biệt, chẳng dùng thức thứ bảy nên không chấp trước, chẳng dùng thức thứ tám nên không lưu lại ấn tượng. Vì thế, tâm của các Ngài được gọi là tâm thanh tịnh, bản lãnh của các Ngài chính là ở chỗ này! Nói theo tướng thì chẳng khác gì, chúng ta ăn cơm, mặc áo, Phật, Bồ Tát cũng mặc áo, ăn cơm, chúng ta có thù tạc, Phật, Bồ Tát cũng có thù tạc, chẳng khác gì cuộc sống hiện thực của chúng ta.

Nếu quý vị xem lại phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện[38] trong kinh Hoa Nghiêm, quý vị sẽ thấy Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, năm mươi ba vị thiện tri thức đều là Bồ Tát. Các Ngài biểu hiện các ngành, các nghề, nam, nữ, già, trẻ, có khác gì xã hội hiện thực của chúng ta hay chăng? Hoàn toàn giống hệt, chẳng khác gì cả. Chỗ khác nhau là dụng tâm không giống nhau. Các Ngài đãi người, tiếp vật, thậm chí buôn bán chẳng dùng tâm ý thức, mà dùng Chân Như bổn tánh. Dùng tâm ý thức chẳng kiếm được nhiều tiền, dùng Chân Như bổn tánh sẽ kiếm tiền vô lượng vô biên. Vì sao? Phước báo xứng tánh hiện tiền, trí huệ, phước đức vốn sẵn có trong chân tánh hiện tiền. Tạng báu ấy vô lượng vô biên! Do vậy, dùng chân tâm thù thắng hơn dùng vọng tâm rất nhiều. Dùng vọng tâm chẳng thể liễu thoát sanh tử luân hồi; dùng chân tâm liền liễu thoát sanh tử luân hồi.

Pháp môn Niệm Phật nhằm dạy chúng ta phương pháp sử dụng chân tâm. Sử dụng theo cách nào? Chỉ cần quý vị khởi tâm động niệm, hễ vọng tâm vừa phát tác, ngay lập tức chuyển nó thành A Di Đà Phật. Thưa quý vị, một câu A Di Đà Phật này nửa chân, nửa vọng. A Di Đà Phật chẳng phải là thuần chân, vì sao? Nếu thuần chân thì trong Chân Như bổn tánh không có A Di Đà Phật. Hễ có một câu A Di Đà Phật, vẫn chưa phải là thuần chân. Chẳng phải là thuần chân, vì sao cần đến nó? Dùng một niệm này để dứt hết thảy vọng niệm. Dùng phương pháp này! Nói theo lý luận, phương pháp này chẳng khác quán tâm hay tham thoại đầu của Thiền gia. Vì sao chúng ta chẳng dùng tới tham thoại đầu, chẳng dùng quán tâm? Ở đây lại có một đạo lý, có một sự thật: Dùng quán tâm hay tham thoại đầu phải hoàn toàn cậy vào chính mình, chính mình chưa thể kiến tánh! Nói cách khác, quý vị chẳng thoát khỏi luân hồi, vẫn luân hồi sanh tử, vẫn mê hoặc, điên đảo. Dùng phương pháp niệm A Di Đà Phật thì sao? Công phu của chúng ta chưa đạt đến mức ấy (chưa thể kiến tánh), nhưng khi lâm chung, A Di Đà Phật tiếp dẫn ta sang thế giới Tây Phương, tối thiểu là ta có thể thoát khỏi luân hồi lục đạo trong thế giới Sa Bà. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng có lục đạo, chỉ có hai đường trời và người, chẳng có A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, tốt hơn nơi đây nhiều lắm! Ở nơi đây, chúng ta luân hồi trong lục đạo, bên kia là luân chuyển trong hai đường! Huống chi lại có thể thường thân cận chư Phật, Bồ Tát, tu hành thuận tiện rất lớn. Niệm A Di Đà Phật dễ hơn, hay hơn tham thoại đầu ở chỗ này!

Kinh này thuộc về Đốn Giáo, trong ấy có kèm thêm Chung Giáo và Viên Giáo. Trong Ngũ Giáo, kinh Di Đà thuộc ba giáo Chung, Đốn và Viên.

 

(Sớ) Tứ, Đốn Giáo, tổng bất thuyết pháp tướng, duy thuyết chân tánh.

() 四、頓教,總不說法相,唯說真性。

(Sớ: Bốn là Đốn Giáo, nói chung chẳng nói đến pháp tướng, chỉ nói về chân tánh).

“Đốn” là đốn siêu (nhanh chóng vượt thoát). Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát bảo chúng ta: Hết thảy các pháp chỉ do vọng niệm mà có sai khác. Lìa hết thảy vọng niệm, sẽ không có hết thảy pháp để được. Đấy chính là ý nghĩa Đốn Giáo.

 

(Sớ) Nhất niệm bất sanh, tức danh vi Phật, vô tiệm thứ cố.

() 一念不生,即名為佛,無漸次故。

(Sớ: Vì một niệm chẳng sanh bèn gọi là Phật, chẳng có thứ tự tiến tu dần dần).

Không có thứ tự! Có tâm là phàm phu, vô tâm là Phật. Nếu quý vị hiểu lầm ý nghĩa “vô tâm”: Từ nay trở đi, cái gì cũng chẳng suy nghĩ, cái gì cũng chẳng nghĩ tới, như vậy sẽ trở thành Vô Tưởng Định! Vô Tưởng Định có được hay không? Không được! Quả báo của Vô Tưởng Định là Tứ Thiền Thiên, vẫn luân hồi trong lục đạo. Vô tâm là không có vọng tâm, chứ chẳng phải là không có chân tâm! Thích Ca Mâu Ni Phật trụ thế giáo hóa chúng ta, suốt bốn mươi chín năm hằng ngày giảng kinh, thuyết pháp, chúng ta hỏi Ngài có tâm hay chăng? Nếu Ngài chẳng có tâm, vậy thì Phật pháp, những đạo lý, những phương pháp từ đâu mà nói ra? Từ Chân Như bổn tánh lưu xuất, từ chân tâm tự nhiên lưu lộ, chẳng có vọng tâm. Vọng tâm là gì? Phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Vô tâm là chẳng có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, không có những cái tâm ấy, hoàn toàn khác Vô Tưởng Định. Thật sự có thể ở trong hết thảy vạn pháp mà chẳng có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, người ấy sẽ là Phật.

Tâm Phật bình đẳng, tâm phàm phu chẳng bình đẳng. Phàm phu có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng; do vậy, tâm họ chẳng bình đẳng. Trong hết thảy vạn pháp, họ có [quan niệm] tốt, xấu, có ưa thích, có chán ghét, đó là tâm phàm phu. Phật không có phân biệt, chấp trước, cho nên trong hết thảy vạn pháp, tâm Phật bình đẳng. Đức Phật thấy người cung kính, tán thán Ngài, giống hệt như người hủy báng, lăng nhục Ngài, thậm chí đối với kẻ sát hại Ngài, Phật thấy hai người ấy quyết định bình đẳng. Chớ nên nói “kẻ này xử tốt với ta, kẻ kia chẳng tốt”. Khởi ý niệm ấy thì là phàm phu, chẳng phải là Phật. Tu hành: “Hành” là hành vi sai lầm, tư tưởng cũng là hành vi, tức hành vi tâm lý. Hành vi tâm lý sai lầm, sửa đổi nó thì gọi là “tu hành”. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thấy ưa thích cái này, chán ghét cái kia, chỉ cần có ý niệm ấy sanh khởi, phải lập tức giác ngộ: “Ta sai rồi! Đấy là hành vi sai lầm, ta phải sửa đổi cho đúng”.

Sửa đổi cho đúng như thế nào? Trong hết thảy cảnh giới, ta đối xử bằng cái tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh. Làm không được ư? Thấy điều gì ưa thích, A Di Đà Phật! Thấy điều gì chán ghét, A Di Đà Phật! Mọi người đều là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là bình đẳng. Chẳng khác gì nhau, đều là A Di Đà Phật. Như vậy thì mới tốt đẹp, dùng phương pháp ấy để tu. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, niệm A Di Đà Phật là phương pháp xảo diệu nhất. Đọc kinh văn trong phần sau, quý vị sẽ biết cách này mầu nhiệm không thể diễn tả được! Trong khi quý vị phân biệt, chấp trước, vọng tưởng dấy lên, đều dùng A Di Đà Phật để thay thế, đó là tu hành. Sửa đổi cho đúng những hành vi, tư tưởng sai lầm, lại có thể phát nguyện vãng sanh, công đức ấy vô lượng vô biên, đúng là thành Phật trong một đời. Vì thế, trong Đốn Giáo chắc chắn không có thứ tự.

Kinh Di Đà không chỉ là Đốn Giáo, mà còn là bậc nhất trong Đốn Giáo. Lời này do Khuy Cơ đại sư nói ra. Ngài Khuy Cơ là tổ sư đời thứ nhất của Pháp Tướng Duy Thức Tông Trung Quốc. Bản chú giải kinh Di Đà của Ngài có tên là A Di Đà Kinh Thông Tán Sớ, vừa mở đầu, trong phần phán giáo, Ngài phán định kinh A Di Đà là Đốn Giáo, lại còn là tột bậc trong Đốn Giáo, “chí viên, chí đốn”, vì sao? Từ một ngày đến bảy ngày có thể thành tựu. Quý vị nghĩ xem: Có pháp môn nào có thể thành công trong bảy ngày? Chỉ có pháp môn này là bảy ngày thành công. Sự thành công ấy như sau: Tu học pháp môn này, trong bảy ngày có thể chứng đắc nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Nói cách khác, dùng phương pháp này, bảy ngày có thể thành Phật; chẳng nói vãng sanh mà nói là “bảy ngày thành Phật”. Pháp môn này so với bất cứ pháp môn nào cũng đều nhanh hơn, nhưng có nhiều người chẳng hiểu, chẳng liễu giải.

Trong bảy ngày có thể thành Phật, lẽ nào trong bảy ngày chẳng thể vãng sanh ư? Vãng sanh dễ hơn thành Phật rất nhiều. Thành Phật nhất định phải là Lý nhất tâm bất loạn, vãng sanh chỉ cần công phu thành phiến là được rồi! Chỉ cần một câu Phật hiệu có thể đè nén phân biệt, chấp trước, vọng tưởng là được rồi. Có công phu như vậy, sẽ có thể vãng sanh; nhưng thành Phật thì chưa được, với công phu ấy chưa thể thành Phật! Thành Phật, nhất định phải là tiến hơn nữa, đạt đến Sự nhất tâm bất loạn, đạt đến Lý nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm bất loạn là đắc Định, gọi là Niệm Phật tam-muội. Lý nhất tâm bất loạn là từ trong Định mà khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn, thật sự có thể cứu độ hết thảy chúng sanh, thật sự cứu chính mình, cứu chúng sanh. Nếu chúng ta đầy đủ nhiều thiện căn, lắm phước đức, hãy nên phát đại tâm, cả đời chuyên tu pháp môn này, chuyên môn hoằng dương pháp môn này, hy vọng phổ biến pháp môn này trên toàn thế giới, khiến cho ai nấy đều có cơ hội được nghe.

Trên thế giới có bao nhiêu người muốn tu, nhưng không có cơ hội, chẳng được tiếp xúc. Người ngoại quốc chẳng biết chữ Hán, không có ai giới thiệu pháp môn này với họ, họ chẳng biết. Nếu phá được rào cản ngôn ngữ, giới thiệu pháp môn Di Đà cho người ngoại quốc, tôi tin rằng người ngoại quốc sẽ ưa thích pháp môn này nhất, vì nó đơn giản, dễ dàng. Thiền và Mật hấp dẫn người ngoại quốc nhất vì người ngoại quốc thích những thứ kỳ lạ, thoạt đầu họ kéo đến như ong vỡ tổ. Tu tập hai ba tháng, cảm thấy quý vị thật sự chẳng có gì cho họ học, họ lại ngã lòng. Nói thật ra, chẳng bằng đem pháp môn Niệm Phật dạy họ cặn kẽ. Họ bằng lòng học thì một bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao giảng chi tiết từ đầu đến cuối một lượt, mỗi ngày giảng một tiếng rưỡi sẽ mất hai năm để học xong. Sau khi đã giảng hai năm xong một lượt, lại giảng từ đầu một lần nữa. Nếu chúng ta mỗi ngày giảng kinh này hai tiếng, giảng một lượt mất một năm, giảng năm mươi lượt là năm mươi năm, họ quyết định thành tựu. Cảnh giới của kẻ nói và người nghe sẽ khác hẳn. Lần thứ nhất là cảnh giới của lần thứ nhất, nghe lần thứ hai sẽ có cảnh giới của lần thứ hai. Người giảng nhận thấy mỗi biến mỗi khác, người nghe đối với mỗi biến đều có ngộ xứ, làm sao người ấy chẳng hoan hỷ? Đương nhiên là pháp hỷ sung mãn. Đây là Đốn Giáo. Thiền chẳng lẹ như vậy, mà Mật cũng chẳng nhanh như vậy! Muốn thành tựu nhanh chóng, hãy thật thà niệm Phật, bảo đảm một bộ kinh Di Đà là đủ rồi!

 

(Sớ) Ngũ, Viên Giáo, thống cai tiền tứ, viên mãn cụ túc.

() 五、圓教,統該前四,圓滿具足。

(Sớ: Năm là Viên Giáo, gồm trọn viên mãn, đầy đủ bốn giáo trước).

Loại thứ năm là Viên Giáo, Viên là viên mãn. Toàn bộ giáo nghĩa của bốn giáo trước đều được bao gồm trong giáo này, chẳng sót một điều gì! “Thống cai tiền tứ” (gồm trọn bốn giáo trước), bốn giáo trước là từ cạn đến sâu, nhưng các giáo ấy chẳng thể dung nhiếp lẫn nhau. Vì thế, chẳng viên mãn. Viên Giáo là viên mãn, dung hội, xuyên suốt bốn giáo trước, chúng đều được bao gồm trong giáo này, trong cạn có sâu, trong sâu có cạn, vô cùng huyền diệu. Vừa có thứ tự, lại vừa có viên dung; viên dung chẳng trở ngại thứ tự, thứ tự chẳng trở ngại viên dung. Đấy chính là giáo nghĩa của Viên Giáo.

 

(Sớ) Sở thuyết duy thị vô tận pháp giới, tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, tương tức, tương nhập, đế võng trùng trùng, chủ bạn giao tham, vô tận vô tận cố.

() 說唯是無盡法界 性海圓融 緣起無礙 ,相即相入,帝網重重,主伴交參,無盡無盡故。

(Sớ: Những điều được nói [trong Viên Giáo] chỉ là pháp giới vô tận, tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, các pháp chính là lẫn nhau, nhập vào lẫn nhau, lưới Thiên Đế trùng trùng, chủ và bạn xen lẫn vào nhau, vô tận, vô tận).

“Sở thuyết duy thị vô tận pháp giới”: Đây là giáo nghĩa của Hoa Nghiêm, đem hết thảy các pháp quy nạp vào Nhất Chân pháp giới. Pháp giới chỉ có một, pháp giới chỉ có chân thật, chẳng có hư vọng. Do vậy gọi là Nhất Chân. Một là chân, hai là hư vọng. Vì thế, Hoa Nghiêm nói Nhất Chân. Kinh này nói đến nhất tâm bất loạn, cũng là nói đến nhất, nhất tâm là năng nhập, Nhất Chân là sở nhập. Như thế nào thì mới có thể nhập Nhất Chân pháp giới? Nhất tâm có thể nhập, nhị tâm chắc chắn chẳng thể nhập. Nhìn từ chỗ này, quý vị mới thấy mối quan hệ giữa hai bộ kinh. Kinh Hoa Nghiêm giảng về Nhất Chân pháp giới, kinh Di Đà giảng nhất tâm bất loạn. Do vậy, chứng đắc nhất tâm bất loạn là chứng đắc thế giới Hoa Tạng, là nhập Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm và kinh Di Đà là một, không hai. Năng Sở chẳng hai, năng nhập và sở nhập không hai. Năng nhập là nhất tâm, sở nhập là Nhất Chân, quả thật là một, không hai. [Sách Diễn Nghĩa nhận định]:“Vô tận pháp giới, thống duy Nhất Chân pháp giới, phân vị Sự Lý đẳng tứ pháp giới” (vô tận pháp giới đều chỉ là Nhất Chân pháp giới, chia thành bốn pháp giới như Sự, Lý v.v…), Thanh Lương đại sư chia thành bốn loại: Sự pháp giới, hoàn toàn nói về sự tướng; Lý pháp giới, có Sự đương nhiên sẽ có Lý; Lý Sự vô ngại pháp giới và Sự Sự vô ngại pháp giới. Sự Sự vô ngại là đại tự tại. Nay chúng ta nơi nào cũng có chướng ngại, vì sao? Chưa thể viên dung, chẳng biết chân tướng sự thật; cho nên chỗ nào cũng đều có chướng ngại. Thật sự viên dung tự tại sẽ thật sự là Sự Sự vô ngại.

“Tánh hải viên dung”: Viên dung chẳng ngại duyên khởi, pháp tướng chính là pháp tánh, các pháp chính là nhau, hòa nhập lẫn nhau. Đó là cảnh giới Sự Sự vô ngại và Lý Sự vô ngại. “Đế võng trùng trùng, chủ bạn giao tham”: Đây là tỷ dụ. “Đế võng” là nói [tới cái lưới kết bằng châu báu] của Thiên Đế Thích. Người Hoa gọi Đế Thích là Ngọc Hoàng Thượng Đế, tức là chúa tể cõi trời Đao Lợi. Đao Lợi thiên cung được trang sức bằng mành lưới, mỗi mắt lưới buộc một viên minh châu, viên minh châu nào cũng đều phóng quang, ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau. Chúng ta không có phước báo lớn như trong cung trời Đao Lợi, nhưng do khoa học kỹ thuật hiện thời cũng rất khá: Ngàn vạn ngọn đèn ánh sáng chiếu rọi lẫn nhau cũng hết sức trang nghiêm, có ý nghĩa mường tượng [ý nghĩa lưới báu của Thiên Đế]. “Vô tận vô tận”: Đây kia chiếu lẫn nhau, cảnh giới ấy hiển thị chẳng cùng tận!

 

(Sớ) Dĩ thượng tường như Hoa Nghiêm Huyền Đàm trung.

() 以上詳如華嚴玄談中。

(Sớ: Những điều trên đây được giảng cặn kẽ trong sách Hoa Nghiêm Huyền Đàm).

“Tánh hải” là nói đến Lý pháp giới, “duyên khởi” là nói đến Sự pháp giới. “Viên dung vô ngại” là nói đến Lý Sự vô ngại pháp giới, “tương tức, tương nhập, đế võng trùng trùng” là nói Sự Sự vô ngại pháp giới. Những điều này được thuyết minh chi tiết trong bộ sách Huyền Đàm[39], tức chú giải của kinh Hoa Nghiêm.

 

(Sớ) Khủng phiền bất tự.

() 恐煩不敘。

(Sớ: Sợ rườm rà nên chẳng trình bày).

Nếu nói đến ý nghĩa này của kinh Hoa Nghiêm sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, ở đây không nói nhiều! Nếu quý vị muốn liễu giải nhiều hơn, có thể tham khảo kinh Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm Kinh Sớ Luận Toản Yếu. Đây là sách tiết yếu (trích lục những ý tưởng quan trọng) của bộ Sớ Sao và Hợp Luận, là kinh sách nhập môn của tông Hoa Nghiêm.

 

(Sớ) Ngôn Đốn giáo nhiếp giả, như hậu nghĩa lý trung biện.

() 言頓教攝者,如後義理中辯。

(Sớ: Nói [kinh Di Đà] thuộc về Đốn Giáo thì sẽ biện định trong phần nghĩa lý ở phía sau).

Kinh này thuộc về Đốn Giáo, trong phần nghĩa lý ở phía sau sẽ thảo luận chi tiết.

 

(Sớ) Diệc thông tiền hậu giả, thông tiền Chung Giáo, dĩ nhất thiết chúng sanh niệm Phật, định đương thành Phật, tức định tánh, Xiển Đề giai tác Phật cố. Thông hậu Viên Giáo giả, diệc nghĩa lý trung biện.

() 亦通前後者 通前終教 ,以一切眾生念佛 ,定當成佛,即定性闡提皆作佛故。通後圓教者,亦義理中辯。

(Sớ: “Cũng thông với giáo trước và giáo sau”: Thông với Chung Giáo trong phần trước vì hết thảy chúng sanh niệm Phật, nhất định sẽ thành Phật, tức là hàng định tánh Thanh Văn và Xiển Đề sẽ đều thành Phật. Thông với Viên Giáo trong phần sau cũng sẽ được biện định trong phần bàn luận nghĩa lý).

 Định tánh Thanh Văn và chúng sanh chẳng có thiện căn, chỉ cần họ nhất niệm hồi tâm sẽ có thể vãng sanh. Đấy là giáo nghĩa của Đại Thừa Chung Giáo. Trong Vãng Sanh Truyện, chúng ta thấy ông Trương Thiện Hòa đúng là Nhất Xiển Đề, suốt đời chẳng tin nhân quả, chẳng tin Phật pháp, sống bằng nghề giết trâu, hằng ngày sát sanh! Khi lâm chung, thấy rất nhiều người đầu trâu, tức là những kẻ thân người mà đầu trâu, đến đòi mạng. Đấy là tướng địa ngục hiện tiền. Khi ấy, ông ta mới thật sự biết có nhân quả báo ứng, những kẻ đầu trâu ấy đều là những con trâu bị ông ta giết hại trong một đời đến đòi mạng. Khi ông ta hét lên xin cứu mạng, khéo sao có một vị xuất gia đi qua cửa nhà ông ta, hỏi: “Vì sao
ông kêu cứu mạng?” Ông ta thưa: “Nhiều kẻ đầu trâu đến đòi mạng!” Vị xuất gia ấy thắp mấy nén hương bảo ông ta cầm, lớn tiếng niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ông ta dốc hết tánh mạng lớn tiếng niệm, niệm được mấy câu bèn bảo người nhà: Người đầu trâu chẳng còn nữa, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn ông ta vãng sanh. Lâm chung mười niệm, niệm Phật vãng sanh. Nhất Xiển Đề là kẻ chẳng có thiện căn, khi lâm chung hồi tâm chuyển ý cũng có thể vãng sanh. Trước hết, nói bộ kinh này thành tựu con người ổn thỏa, thích đáng, nhanh chóng, chẳng có pháp môn nào nhanh chóng bằng. Hôm nay chúng ta giảng đến chỗ này.

 

— o0o —

Tập 71

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm lẻ năm:

 

Tam, phần nhiếp.

三、分攝

(Ba, thuộc về phần nào trong mười hai thể loại kinh điển).

Đoạn thứ ba là Phần Nhiếp, phần trước đã nói về Tạng Nhiếp và Giáo Nhiếp.

 

(Huyền Nghĩa) Phần giả, thập nhị phần giáo, như Tu Đa La, Kỳ Dạ đẳng, kim thử kinh giả, Tu Đa La, Ưu Đà Na, nhị phần nhiếp cố.

(玄義) 分者 ,十二分教 ,如脩多羅祇夜等 今此經者,脩多羅、優陀那,二分攝故。

(Huyền Nghĩa: “Phần” là mười hai phần giáo, như Trường Hàng, Trùng Tụng v.v… Nay kinh này thuộc về hai phần Trường Hàng và Vô Vấn Tự Thuyết).

Đức Phật nói hết thảy các kinh, có các thứ thể tài (genre) khác nhau. Cổ nhân gọi thể tài là Phần. Kinh Phật gồm có mười hai Phần, còn gọi là mười hai bộ (“bộ” là bộ phận), tức là mười hai loại thể tài khác nhau. Tu Đa La (Sūtra) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Khế Kinh, thật ra là Trường Hàng, nay ta gọi [Trường Hàng] là “tản văn” (văn xuôi), theo phương thức tản văn. Kinh Di Đà từ đầu đến cuối được viết theo thể tài tản văn. Thể tài gồm mười hai loại, ở đây đại sư tỉnh lược, trong Phật Học Từ Điển và Tam Tạng Pháp Số[40] đều nói rất chi tiết.

 

(Sớ) Phần giả, phân tề.

() 分者,分齊。

(Sớ: Phần là phân chia rạch ròi).

“Tề” (齊) là chỉnh tề, chia thành từng bộ phận, mỗi bộ phận tách biệt rõ ràng với những bộ phận khác.

 

(Sớ) Dĩ nhất đại thời giáo.

() 以一代時教。

(Sớ: Đem giáo pháp trong suốt một đời đức Phật).

“Nhất đại thời giáo” là Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian, giảng kinh, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm. Tạng, Giáo, Phần do người đời sau phân chia, phán định, thuở Phật tại thế không có. Vì sao người đời sau phải phân loại? Vì trong hết thảy các kinh, đức Phật hoàn toàn chẳng làm giống như cách sắp xếp tùy theo trình độ học sinh trong nhà trường, từ Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, đến nghiên cứu sinh, chẳng giống như vậy. Thời đức Phật không có nhà trường, hết thảy các kinh được nói ra đều do có người đến thỉnh giáo. Những người đến hỏi có người trình độ rất sâu, có kẻ trình độ rất cạn, đức Phật khéo quan sát căn cơ, đối với người trình độ cạn bèn nói pháp cạn, đối với người trình độ sâu bèn nói pháp sâu, khiến cho người nghe ai nấy đều hoan hỷ. Do vậy, kinh Phật có độ sâu – cạn khác nhau rất lớn. Người đời sau nhằm dạy học thuận tiện đã phân loại kinh Phật, những kinh điển nào thích hợp với người căn cơ nông cạn, dành cho người trình độ nông cạn học, những kinh điển nào thích hợp cho người có trình độ bậc trung học tập, những kinh điển nào thích hợp với người có trình độ bậc cao học tập. Do vậy, chia Tam Tạng thành Ngũ Giáo; Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên, lại phân chia nhỏ hơn thành Mười Hai Phần Giáo nhằm nghiên cứu kết cấu văn tự và hệ thống tư tưởng của kinh văn.

 

(Sớ) Biệt kỳ phân tề, các hữu sở thuộc dã. Kỳ Dạ, thử vân Trùng Tụng, Ưu Đà Na, thử vân Vô Vấn Tự Thuyết.

() 別其分齊 ,各有所屬也 。祇夜 ,此云重頌 。優陀那,此云無問自說。

(Sớ: Phân định sự khác biệt rạch ròi giữa các kinh, mỗi kinh đều thuộc về một thể tài nhất định. Kỳ Dạ được cõi này dịch là Trùng Tụng, Ưu Đà Na được cõi này dịch là Vô Vấn Tự Thuyết).

“Biệt” là khu biệt (區別: phân chia rạch ròi thành từng phần). Kỳ Dạ (Geya) là thi ca, kệ tụng, câu văn hết sức tề chỉnh, mỗi bài gồm bốn câu. Kệ có các hình thức bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, có gieo vần, có thể phổ thành ca khúc để diễn xướng. “Kim thử kinh giả” (nay kinh này), kinh này là Tu Đa La, tức là thể tài tản văn, chẳng có kệ tụng, mà cũng chẳng có mật chú. Tản văn, kệ tụng, mật chú là ba thể tài lớn trong mười hai phần. Ưu Đà Na (Udāna) là Vô Vấn Tự Thuyết (không ai hỏi mà tự nói). Bộ kinh này cũng thuộc loại Vô Vấn Tự Thuyết, chẳng có ai khải thỉnh. Chúng ta thấy nhiều kinh điển đều do có người khải thỉnh, chẳng hạn như kinh Kim Cang do tôn giả Tu Bồ Đề bước ra thỉnh pháp, hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật nêu câu hỏi, đức Phật bèn giải đáp. Kinh Di Đà chẳng có ai khải thỉnh, do đức Phật tự nói ra, Vô Vấn Tự Thuyết!

 

(Sớ) Thập Nhị Bộ, khủng phiền bất tự.

() 十二部,恐煩不敘。

(Sớ: Mười hai bộ, sợ rườm rà nên không trình bày).

Giải thích từng điều một rất phiền phức nên tỉnh lược.

 

(Sớ) Ngôn nhị phần nhiếp giả, nhất, Tu Đa La nhiếp, dĩ thị Khế Kinh cố; nhị, Ưu Đà Na nhiếp, dĩ bất đãi thỉnh vấn, tự cáo Thân Tử cố.

() 言二分攝者 ,一 、脩多羅攝 ,以是契經故 ;二、優陀那攝,以不待請問,自告身子故。

(Sớ: Nói “thuộc về hai phần”: Một là thuộc về Tu Đa La, do là Khế Kinh. Hai là thuộc về Ưu Đà Na do chẳng đợi thưa hỏi mà tự bảo ngài Xá Lợi Phất).

Thân  Tử  là  ngài  Xá  Lợi  Phất, Xá  Lợi  Phất (Śāriputra) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Thân Tử.

 

Tam, nghĩa lý thâm quảng.

三、義理深廣。

(Khoa mục lớn thứ ba [trong Thập Môn Khai Khải] là nghĩa lý sâu rộng).

Chúng ta sắp thảo luận những đạo lý trong kinh Di Đà. Đoạn lớn này có thể chia thành ba đoạn nhỏ.

 

Sơ, nhiếp đốn, nhị phần viên, tam bàng thông.

攝頓,二分圓,三旁通。

(Một là kinh này thuộc vào Đốn giáo, hai là kinh này có đôi phần thuộc Viên Giáo, và ba là luận định những kinh điển khác có ý nghĩa tương thông).

Trong Ngũ Giáo, kinh Di Đà thuộc Đốn Giáo, “đốn” (頓) là đốn siêu (nhanh chóng vượt thoát). Không riêng gì Liên Trì đại sư có cách nhìn như vậy, mà Khuy Cơ đại sư của Pháp Tướng Duy Thức Tông cũng nhận định giống như thế. Ngài nói kinh này, pháp môn này viên đốn đến cùng cực. Vì sao? Vì có thể thành công trong bảy ngày. Quý vị nghĩ xem: Pháp môn nào có thể thành Phật trong bảy ngày? Tìm không ra! Pháp môn này đúng là bảy ngày thành Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, kinh nói rất rõ ràng. Cũng có thể là chúng ta nghe rồi chẳng tin, thật sự là bảy ngày có thể thành tựu ư? Trong Cao Tăng Truyện hay Vãng Sanh Truyện, quả thật có người niệm Phật bảy ngày bèn vãng sanh.

Đời Tống, pháp sư Oánh Kha trong quá khứ chưa từng niệm Phật, mà cũng chẳng biết đến pháp môn này. Sau khi ông ta xuất gia, giới luật chẳng nghiêm, chẳng giữ Thanh Quy, tạo tội nghiệp rất nặng, nhưng ông ta có thiện căn. Nói “thiện căn” nghĩa là ông ta có thể tự giác, biết chính mình tương lai nhất định đọa địa ngục, biết địa ngục khổ sở, địa ngục đáng sợ, do vậy, thỉnh giáo đồng học: “Có cách nào để tương lai chẳng đọa địa ngục hay không?” Các đồng học bảo ông ta: “Chỉ có một biện pháp, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tây Phương Cực Lạc thế giới không có ba ác đạo, quyết định chẳng đọa địa ngục”. Sau khi nghe xong, ông ta rất hoan hỷ, trở về liêu phòng đóng cửa niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Ông ta chẳng ăn, chẳng uống, cũng chẳng ngủ nghỉ, niệm Phật suốt ba ngày như thế, cảm A Di Đà Phật hiện thân. A Di Đà Phật bảo ông ta: “Thọ mạng của ông hãy còn mười năm nữa, hãy khéo tu tập trong mười năm ấy, đến khi thọ mạng đã hết, ta lại đến tiếp dẫn”. Ông ta bạch A Di Đà Phật: “Con căn tánh kém hèn rất nặng, không thể chống đỡ những dụ dỗ, mê hoặc. Hễ vừa bị bên ngoài dẫn dụ, con lại tạo tội. Nếu con sống thêm mười năm nữa, chẳng biết sẽ lại tạo bao nhiêu tội, thôi đi! Con không cần mười năm thọ mạng, nay con muốn theo Phật”.

Ông ta thỉnh cầu A Di Đà Phật như vậy, A Di Đà Phật đúng là rất từ bi, bèn nói: “Được rồi! Ba ngày sau, ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Ông ta mở cửa phòng, bảo đại chúng: “Ba ngày sau A Di Đà Phật đến tiếp dẫn tôi vãng sanh”. Trong chùa chẳng có ai tin, hạng người như vậy làm sao có thể vãng sanh? Nhưng ông ta nói lời ấy hình như chẳng giả dối; hơn nữa, thời gian rất ngắn, ba ngày thôi! Coi thử ngươi nói thật hay giả? Đến ngày thứ ba, ông ta thỉnh cầu đại chúng trợ niệm tiễn ông ta vãng sanh. Ông ta tắm rửa, thay y phục sạch sẽ xong, niệm xong kinh Di Đà, lại niệm Phật hiệu, Phật hiệu vừa niệm mấy câu bèn bảo mọi người: “Phật đến rồi, tôi phải theo Ngài ra đi”, ba ngày vãng sanh!

Do vậy, chẳng có một pháp môn nào nhanh bằng pháp môn này. Con người hiện thời vì sao không thành công? Con người hiện thời ngoài miệng nói muốn vãng sanh, nhưng trong tâm chẳng muốn đi, vẫn lưu luyến thế giới này. Nếu chúng ta đả Phật Thất ở đây, phía trên treo một tấm biển: “Bảy ngày bảo đảm vãng sanh”, cũng chẳng có ai đến dự! Vừa trông thấy, họ bèn nói: “Thôi rồi! Bảy ngày phải chết, không đến đâu!” Con người hiện tại “miệng nói vậy, lòng chẳng nghĩ vậy”. Trước kia, lòng người ta thật sự muốn vãng sanh nên mới có thể thành công! Vì thế, trong lịch sử, quả thật có những trường hợp như vậy, có những chuyện như thế. Cổ đức phán định [kinh A Di Đà] là Đốn Giáo, đốn đến cùng cực, đốn siêu! Chúng ta nên hiểu điều này.

 

(Huyền Nghĩa) Dĩ tri thử kinh nhiếp ư Đốn Giáo, thiểu phần thuộc Viên.

(玄義) 已知此經攝於頓教,少分屬圓。

(Huyền Nghĩa: Đã biết kinh này thuộc về Đốn Giáo, có chút phần Viên).

“Thiểu phần thuộc Viên”: Trong ấy có ý nghĩa Viên Giáo, chẳng phải là thuần Viên, chỉ có một phần thuộc Viên Giáo.

 

(Huyền Nghĩa) Vị tri sở cụ nghĩa lý, đương phục vân hà?

(玄義) 未知所具義理,當復云何。

(Huyền Nghĩa: Chưa biết nghĩa lý trọn đủ lại là như thế nào?)

Nay lại phải hỏi hai danh từ Viên và Đốn, danh từ đương nhiên chứa đựng ý nghĩa, chúng ta còn chưa hiểu rõ ý nghĩa, đương nhiên phải thảo luận kỹ càng hơn. Sau khi hiểu rõ nghĩa lý, đối với pháp môn này chúng ta mới có thể thật sự sanh khởi tín tâm, lòng tin từ đâu mà phát sanh? Sanh từ lý luận. Hiểu rõ đạo lý, ta sẽ đương nhiên tin tưởng. Đủ thấy thảo luận nghĩa lý và lòng tin của ta đối với pháp môn này có mối quan hệ rất lớn.

 

(Huyền Nghĩa) Tiên minh thử kinh nhiếp ư Đốn giả, cái vị trì danh tức sanh, tật siêu, tốc chứng, vô vu khúc cố, chánh thuộc ư Đốn.

(玄義) 先明此經攝於頓者 蓋謂持名即生 疾超速證,無迂曲故,正屬於頓。

(Huyền Nghĩa: Trước hết, giảng rõ kinh này thuộc Đốn Giáo. Ấy là vì trì danh liền vãng sanh, vượt thoát, chứng ngộ nhanh chóng, chẳng quanh co, vòng vèo, đúng là thuộc về Đốn Giáo).

Xếp ý nghĩa Đốn lên đầu, quả thật rất có lý. Pháp môn này xác thực thuộc vào loại pháp môn đốn siêu, vãng sanh trong một đời này đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Pháp môn này đúng là pháp môn thành Phật trong khi còn sống. Các vị đại đức xưa nay bảo chúng ta: Thiền thuộc về Đốn Giáo, Mật nói “tức thân thành Phật”, đều chẳng bằng pháp môn Niệm Phật! Trong Thiền, dẫu đắc Thiền Định, cũng chẳng qua là sanh lên Tứ Thiền Thiên mà thôi, chẳng thể ra khỏi tam giới. [Người tu] Thiền Tông Trung Quốc đến cuối cùng vẫn phải niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thiền Môn Nhật Tụng là nghi thức tụng niệm của nhà Thiền, khóa tối tụng kinh A Di Đà, niệm Phật, đến khi bệnh nặng bèn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu người ấy không làm như vậy, dẫu có Định lực rất sâu, chỉ có thể sanh trong cõi trời Tứ Thiền Thiên mà thôi, chẳng thể ra khỏi tam giới, chẳng rốt ráo. Mật Tông nói “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong cái thân này), chẳng qua là liễu sanh tử mà thôi, nhưng cảnh giới liễu sanh tử của họ thật sự chỉ bằng với Tiểu Thừa A La Hán, họ có thật sự liễu sanh tử hay chăng? [Đừng tưởng lầm] hễ tu [Mật Tông] bèn có thể liễu sanh tử, không có lẽ ấy! Nếu tu thành công thì mới được, tu chẳng thành công sẽ vô ích. Phải đoạn được Kiến Tư phiền não, mới tính là tu thành công. Chưa đoạn Kiến Tư phiền não, chẳng thể liễu sanh tử, thoát tam giới. Do điều này biết rằng: Mật thật sự chẳng dễ dàng!

Tịnh Độ thành tựu dễ dàng do “đới nghiệp vãng sanh”, chẳng cần phải đoạn Kiến Tư phiền não. Quý vị phải hiểu: Trong tất cả kinh Phật, chỉ có bộ kinh này nói chẳng cần đoạn Kiến Tư phiền não mà có thể vãng sanh. Trừ bộ kinh này ra, bất cứ pháp môn nào khác cũng đều không có cách nói này. Nói cách khác, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chỉ có pháp môn này là đới nghiệp vãng sanh; nhưng quý vị phải hiểu: Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc hoàn toàn chẳng phải là thành Phật, vì quý vị chưa đoạn Kiến Tư phiền não, vẫn là thân phận trời, người. Nói theo các pháp môn khác thuộc Tông Môn, Giáo Hạ, chẳng thể coi là có thành tựu. Chúng tôi nêu tỷ dụ, giống như từ thế giới Sa Bà di dân sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, địa vị của chúng ta hoàn toàn chẳng được nâng cao hơn, mà mang địa vị giống hệt như vậy di dân sang đó. Đốn là đốn ở chỗ này: Di dân sang đó. Viên ở chỗ nào? Tây Phương Cực Lạc thế giới hết sức chẳng thể nghĩ bàn! Chỉ cần quý vị sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu cho địa vị thấp đến đâu đi nữa, Hạ Phẩm Hạ Sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, đến nơi đó bèn chứng trọn vẹn ba món Bất Thoái. Do vậy, pháp môn này cũng thuộc vào Viên, đạo lý Viên nhìn từ chỗ này; chẳng nói là Thuần Viên vì Kiến Tư phiền não chưa đoạn. Nếu là Thuần Viên thì không chỉ Kiến Tư phiền não phải đoạn, mà Trần Sa phiền não cũng phải đoạn, vô minh phải phá một phẩm. Thuần Viên là Pháp Thân đại sĩ, thuộc vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm.

 

(Sớ) Chánh thuộc Đốn nghĩa giả, dĩ bác địa phàm phu, dục đăng thánh địa, kỳ sự thậm nan, kỳ đạo thậm viễn.

() 正屬頓義者 ,以博地凡夫 ,欲登聖地 其事甚難,其道甚遠。

(Sớ: Kinh này hoàn toàn thuộc vào nghĩa lý Đốn giáo, bởi hạng phàm phu sát đất mà muốn đạt lên địa vị thánh thì chuyện ấy rất khó, đạo ấy rất xa vời).

Câu này ý nói sự khó khăn ấy quả thật là khó. Nay chúng ta một tí ti tập khí cũng chẳng dễ gì đoạn trừ, huống là mong chứng cảnh giới của bậc thánh nhân trong Phật pháp, ắt phải đoạn trừ những tập khí vi tế. Khó làm mà có thể làm được, khó nhẫn mà có thể nhẫn được, khó đoạn mà có thể đoạn được, đó chính là đoạn Hoặc chứng Chân. Đoạn Hoặc khó! Chứng Chân khó! “Kỳ đạo thậm viễn” (Đạo ấy rất xa vời): Từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành Phật, có tất cả năm mươi lăm tầng cấp địa vị Bồ Tát trong Đại Thừa, đó là nói theo kinh Lăng Nghiêm; nay chúng ta thuộc tầng cấp nào? Giống như đi học, có năm mươi lăm lớp, nay chúng ta ở lớp nào? Thưa quý vị, chúng ta đứng ngoài cửa, vẫn chưa vào trong, nhập môn rồi mới có thể tính. Quý vị còn chưa học lớp Một, vẫn đứng ngoài cửa. Lớp Một là trình độ gì vậy? Chúng ta chỉ nói tới Viên Giáo, lớp Một chính là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín đoạn sạch tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới. Thử hỏi: Chúng ta đã đoạn được mấy phẩm trong tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc? Một phẩm cũng chưa đoạn! Chưa có tư cách học lớp Một! Đoạn sạch tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc mới là địa vị Sơ Tín, trên đó là Nhị Tín, Tam Tín cho đến Thập Tín, sau đấy là Sơ Trụ cho đến Thập Trụ, Sơ Hạnh cho đến Thập Hạnh, Sơ Hồi Hướng cho đến Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh, Sơ Địa cho đến Thập Địa, lại đến Đẳng Giác Bồ Tát, Bồ Đề đạo đúng là xa xôi! Quý vị nhất định phải hiểu, nay chúng ta ngay cả lớp Một Tiểu Học mà còn chưa đủ tư cách, nếu học các pháp môn khác, làm sao có thể thành tựu? Chính mình phải nghiêm túc suy nghĩ bản thân mình thuộc căn tánh nào, quyết định chớ nên lừa mình, dối người. Tư cách học lớp Một còn chưa có, làm thế nào đây? Hành theo pháp môn này! Nay chúng ta là phàm phu sát đất, một phẩm Kiến Tư phiền não chưa đoạn, dùng pháp môn này để đến Tây Phương Cực Lạc thế giới.

 

(Sớ) Kim đản trì danh, tức đắc vãng sanh.

() 今但持名,即得往生。

(Sớ: Nay chỉ trì danh liền được vãng sanh).

 Nay chúng ta chỉ cần tin tưởng, chỉ cần thật sự chịu phát nguyện, thật sự muốn vãng sanh, suốt ngày từ sáng đến tối nghĩ tới A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật, có thể làm như vậy, trong thời gian hai ba năm sẽ thành công. Nếu [công phu] tưởng Phật, niệm Phật của quý vị lúc gián đoạn, lúc liên tục, như có, như không, sợ rằng suốt đời này cũng chẳng thể thành công. Nếu quý vị coi đây là chuyện bậc nhất phải làm, chắc chắn sẽ có hy vọng [vãng sanh].

 

(Sớ) Ký vãng sanh hỹ, tức đắc Bất Thoái.

() 既往生矣,即得不退。

(Sớ: Đã vãng sanh liền đắc Bất Thoái).

Dẫu là Hạ Phẩm Hạ Sanh, hễ về bên đó liền bất thoái chuyển. Nói thật ra, bất thoái chuyển chẳng đơn giản, vì sao? Bất thoái chuyển thì quý vị thuộc vào địa vị thánh nhân. Vì thế, pháp môn này gọi là “pháp khó tin”, thật sự khó! Có ba loại Bất Thoái:

– Thứ nhất là Vị Bất Thoái, tức là địa vị chẳng bị lui sụt. Chúng ta thường nói Vị Bất Thoái chính là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. Ngài học lớp Một, chẳng bị lùi xuống nữa. Đức Phật bảo chúng ta: Đoạn sạch tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc là địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo; tuy vẫn chưa thoát khỏi tam giới, quyết định chẳng đọa ác đạo. Từ đấy trở đi, vị Bồ Tát ấy chỉ có tiến lên, chẳng lui sụt, đã được bảo đảm. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới dẫu là Hạ Hạ phẩm phàm phu cũng thuộc địa vị Bất Thoái. Nói cách khác, người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có sự thoái đọa này (tức là địa vị không bị lui sụt).

– Thứ hai là Hạnh Bất Thoái, nói thông thường, Hạnh Bất Thoái là từ A La Hán trở lên, Tứ Quả La Hán, trong địa vị Bồ Tát thì là Đệ Thất Tín. Vị Bất Thoái là Sơ Tín, Hạnh Bất Thoái là Đệ Thất Tín, bằng với địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo.

– Loại thứ ba là Niệm Bất Thoái, minh tâm kiến tánh, trong Viên Giáo là từ Sơ Trụ Bồ Tát trở lên.

Người Hạ Phẩm Hạ Sanh là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, Niệm Bất Thoái, nói cách khác, trong một đời có thể bằng với Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, quả thật tuyệt diệu! So với A La Hán và Bích Chi Phật, cao hơn quá nhiều! A La Hán, Bích Chi Phật chỉ bằng với Đệ Thất Tín Bồ Tát. “Bằng” là nói về mức độ đoạn phiền não giống nhau, chứ trí huệ khác nhau. Trí huệ của họ (A La Hán, Bích Chi Phật) kém xa trí huệ của Thất Tín Bồ Tát. Do vậy, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là thành tựu! Đấy là ý nghĩa viên mãn; hiểu được chỗ tốt đẹp này, nhất định mong vãng sanh!

 

(Sớ) Khả vị đàn chỉ viên thành, nhất sanh thủ biện.

() 可謂彈指圓成,一生取辦。

(Sớ: Có thể nói là thành tựu viên mãn trong khoảng khảy ngón tay; hoàn tất trong một đời).

 “Đàn chỉ” ý nói nhanh chóng. Thành tựu trong khoảng khảy ngón tay, không chỉ thành tựu, mà còn thành tựu viên mãn. Cổ nhân nói: “Đàn chỉ viên thành bát vạn môn” (trong khoảng khảy ngón tay viên mãn tám vạn pháp môn), tám vạn bốn ngàn pháp môn được gồm thâu trong một câu A Di Đà Phật, chẳng sót pháp nào! “Nhất sanh thủ biện tăng-kỳ quả” (chỉ một đời mà tu đạt cái quả vốn phải tu trong nhiều A-tăng-kỳ kiếp). Kinh nói thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, chúng ta không cần đến, một khi vãng sanh liền hoàn tất chuyện thuộc ba A-tăng-kỳ kiếp. Pháp sư Oánh Kha đời Tống, ba ngày đã làm xong, người khác phải mất ba A-tăng-kỳ kiếp mới có thể hoàn tất. Trong thế gian này, [những trường hợp] tu tập thành công trong ba năm nhiều lắm! Niệm Phật ba năm, biết trước lúc mất, tự tại vãng sanh.

Trong bản chú giải kinh Di Đà của pháp sư Viên Anh, Sư có dẫn chứng chuyện ông Vương Đả Thiết ở Hành Châu, đây là chuyện thật! Tại Hành Dương, tỉnh Hồ Nam, có một người thợ rèn, một nhà bốn người: Ông ta có một vợ và hai đứa con thơ, ngày nào không làm, ngày ấy chẳng có cơm ăn, cuộc sống hết sức khổ sở. Hằng ngày phải làm lụng cực nhọc kiếm chút tiền sống qua ngày, ông ta tự biết mình rất khổ, tự mình thật sự giác ngộ. Có một hôm, có một vị xuất gia đi qua cửa, ông ta trông thấy rất hoan hỷ, mời vị xuất gia ngồi trong xưởng rèn, thỉnh giáo: “Con sống quá khổ cực, có cách gì cứu con hay không?” Lại còn ra điều kiện! Ông ta nói: “Con muốn học Phật, nhưng không có tiền để bố thí, cúng dường, mà công việc của con cũng chẳng thể đình đốn. Chẳng thể lãng phí thời gian, mà cũng chẳng thể buộc con phải tốn tiền. Thầy có cách nào cứu con hay chăng?”

Vị pháp sư ấy bảo ông ta: “Chỉ cần niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ là được. Niệm A Di Đà Phật cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chuyện ấy chẳng tốn tiền, cũng chẳng cần phải ra ngoài, tới chùa miếu, cũng chẳng tốn thời gian”. Ông ta nghe xong rất hoan hỷ, làm theo. Mỗi ngày rèn sắt, cứ đập búa xuống liền niệm A Di Đà Phật, giở búa lên bèn A Di Đà Phật. Thụt ống bễ vào, A Di Đà Phật, kéo ống bễ ra, A Di Đà Phật. Suốt ngày từ sáng đến tối là A Di Đà Phật. Vợ ông ta ở bên cạnh nói: “Ông rèn sắt đã quá khổ sở, quá mệt mỏi rồi, trong miệng vẫn niệm A Di Đà Phật có phải là càng mệt hơn hay sao?” Ông ta nói: “Trước kia, tôi  mệt  thật.  Nay  hễ  niệm  A Di Đà Phật, tinh thần sung mãn gấp trăm lần, chẳng mệt mỏi gì hết!”

Niệm như vậy ba năm, có một hôm, ông ta bảo vợ: “Tôi sắp về nhà”. Bà vợ nói: “Đây chẳng phải là nhà của ông hay sao?” Ông ta nói: “Nhà tôi bên Tây Phương Cực Lạc thế giới!” Nói xong lại tiếp tục rèn sắt, rèn một lúc bèn đọc một bài kệ. Ông ta chưa từng đi học, chẳng biết chữ, lúc sắp ra đi để lại một bài kệ:

Đinh đinh đang đang,
Cửu luyện thành cang,
Thái bình tương cận,
Ngã vãng Tây Phương.

(Binh binh, beng beng,
Luyện mãi thép bền,
Thái bình sắp đến,
Ta về Tây Phương).

Ông ta đập búa xuống rồi đứng vãng sanh. Khi vãng sanh, mùi hương lạ ngập nhà, hàng xóm chung quanh đều ùa đến xem, đứng vãng sanh! Vì thế, cả một giải Hành Dương phong khí niệm Phật đặc biệt thịnh hành là do ông ta đã làm gương tại đó: Kẻ chẳng biết chữ, niệm Phật ba năm bèn vãng sanh, ra đi tự tại dường ấy, ba năm thành công! Đích xác là hoàn thành chuyện của ba đại A-tăng-kỳ kiếp trong một đời! Đương nhiên, pháp này thuộc về Đốn Giáo, hoàn thành trong một đời.

 

(Sớ) Như tương bảo vị, trực thọ phàm dung, bất lịch giai cấp, phi Tiệm giáo vu hồi khuất khúc chi tỷ, cố thuộc Đốn nghĩa.

() 如將寶位 ,直授凡庸 ,不歷階級 非漸教迂迴屈曲之比,故屬頓義。

(Sớ: Như đem ngôi báu trao ngay cho kẻ tầm thường, kém cỏi, chẳng trải qua từng tầng cấp. Tiệm Giáo quanh co, vòng vèo, chẳng thể nào sánh bằng, nên pháp này thuộc về nghĩa lý Đốn giáo).

“Bảo vị” (ngôi báu) giống như ngôi vị của quốc vương. Một kẻ bình dân bá tánh chẳng cần phải thăng từng cấp từ huyện thái gia (tri huyện), tri phủ, tuần phủ, mà ngay lập tức được trao cho vương vị, một bước lên trời, đó là ý nghĩa của Đốn. Vì thế, pháp môn Niệm Phật chẳng có cấp bậc, chẳng cần phải tu học dần dần, mà là đốn siêu, đốn chứng.

 

(Huyền Nghĩa) Hoặc nạn.

(玄義) 或難。

(Huyền Nghĩa: Nếu gạn hỏi).

Có người đến vấn nạn.

 

(Huyền Nghĩa) Đốn Giáo nhất niệm bất sanh, tức danh vi Phật. Ngũ pháp tam tự tánh giai Không, bát thức nhị vô ngã câu khiển.

(玄義) 頓教一念不生 即名為佛 五法三自性皆空,八識二無我俱遣。

(Huyền Nghĩa: Trong Đốn Giáo, một niệm chẳng sanh bèn gọi là Phật. Năm pháp, ba tự tánh đều là Không; tám thức, hai thứ vô ngã đều mất sạch).

Đây là nói theo Pháp Tướng Tông “ngũ pháp, tam tự tánh, bát thức, nhị vô ngã”, Đốn giáo bỏ sạch những thứ này. Trong tâm thật sự làm được “nhất niệm bất sanh”, Lục Tổ nói: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”, đấy là Đốn. Thiền Tông Nam Truyền của Lục Tổ là pháp môn Đốn Giáo.

 

(Huyền Nghĩa) Kim trì danh niệm Phật, thị vi hữu niệm, vân hà danh Đốn?

(玄義) 今持名念佛,是為有念,云何名頓。

(Huyền Nghĩa: Nay trì danh niệm Phật là hữu niệm, sao có thể gọi là Đốn?)

Câu hỏi này rất hay! Dùng giáo nghĩa Đốn Giáo để cật vấn người niệm Phật, người niệm Phật và giáo nghĩa Đốn Giáo chẳng phù hợp! Đốn Giáo là thành Phật, còn Đốn ở đây là vãng sanh. Tôi vừa mới nói đó, vãng sanh trọn chẳng phải là thành Phật, nhưng Tây Phương Cực Lạc thế giới phước báo quá lớn, hễ vãng sanh sẽ giống như thành Phật. Giống như thành Phật, chứ hoàn toàn chẳng phải là thành Phật. Cho nên nó thuộc về Phần Viên, chẳng phải là Thuần Viên, đạo lý ở chỗ này.

 

(Huyền Nghĩa) Đáp: Dĩ nhất tâm bất loạn, chánh vị vô niệm.

(玄義) 答:以一心不亂,正謂無念。

(Huyền Nghĩa: Đáp: Do nhất tâm bất loạn chính là vô niệm).

Dùng giáo nghĩa của kinh này để trả lời. Giáo nghĩa và tông chỉ của kinh này yêu cầu chúng ta niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn.

 

(Huyền Nghĩa) Nhược hữu niệm giả, bất danh nhất tâm, đản đắc nhất tâm, hà pháp bất tịch?

(玄義) 若有念者,不名一心,但得一心,何法不寂。

(Huyền Nghĩa: Nếu hữu niệm sẽ chẳng gọi là nhất tâm, chỉ cần đạt được nhất tâm thì có pháp nào chẳng vắng lặng?)

Nhìn từ điểm này, kinh Di Đà quả thật thuộc Đốn Giáo; nhưng đối với Đốn Giáo, nếu quý vị đốn không được, thất bại sẽ chuốc phiền, giống như một bước lên trời, lên không được, rơi xuống sẽ tan thân nát xương, phiền phức to lắm! Ý nghĩa Đốn của pháp môn này và ý nghĩa Đốn của các pháp kia (tức các pháp môn thuộc Đốn Giáo) khác nhau; nếu niệm đến mức nhất tâm bất loạn sẽ giống như các pháp môn Đốn Giáo khác. Nếu chưa thể niệm đến nhất tâm bất loạn, thì niệm đến mức công phu thành phiến đới nghiệp vãng sanh vẫn thuộc vào Đốn Giáo. Do vậy, pháp môn này nhất định có thành tựu.

 

(Sớ) Ngũ pháp giả, vị: Nhất danh, nhị tướng, tam vọng tưởng, tứ chánh trí, ngũ như như.

() 五法者 ,謂: 一名, 二相, 三妄想,四正智,五如如。

(Sớ: Năm pháp là: Một là danh, hai là tướng, ba là vọng tưởng, bốn là Chánh Trí, năm là Như Như).

Kinh Lăng Già chia hết thảy các pháp thành năm loại lớn. Năm loại lớn ấy triển khai sẽ thành hết thảy vạn pháp, pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian đều bao gồm trong ấy, nói chung, chẳng ra ngoài năm hạng mục này.

Thứ nhất là Danh, tức danh xưng. Phàm là vật thể hay hiện tượng đều có một tên gọi.

Loại thứ hai là Tướng, tức hiện tượng. Chỉ cần là vật thể, nhất định có hiện tượng.

Hai thứ đầu là vật  chất; tất  cả  vật  chất  trong  vũ  trụ  đều  chẳng ngoài danh và tướng, bao gồm tất cả vật chất.

Loại thứ ba là vọng tưởng. Vọng tưởng là hiện tượng tâm lý. Phàm phu suốt ngày từ sáng đến tối tưởng Đông nghĩ Tây, nghĩ đến quá khứ, vị lai, hoàn toàn khởi vọng tưởng.

Hai thứ sau là cảnh giới thánh nhân. Ai mới có chánh trí? Từ A La Hán trở lên. Những vị từ A La Hán trở lên không có vọng tưởng, trí huệ hiện tiền. A La Hán được gọi là Chánh Giác, Bồ Tát là Chánh Đẳng Chánh Giác.

Như Như là Chân Như bổn tánh, là bản thể của vạn hữu trong vũ trụ. Bản thể của bốn pháp đầu (danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí) là Như Như, [Như Như] còn gọi là Chân Như, Tự Tánh, hay Bổn Tánh.

 

(Sớ) Tam tự tánh giả.

() 三自性者。

(Sớ: Ba tự tánh là…)

“Tánh” là tánh chất. Nói theo tánh chất thì có thể chia thành ba loại.

 

(Sớ) Danh, tướng thị Vọng Kế Tánh, vọng tưởng thị Duyên Khởi Tánh, Chánh Trí, Như Như thị Viên Thành Tánh.

() 名、相,是妄計性 ;妄想, 緣起性 正智、如如,是圓成性。

(Sớ: Danh và Tướng là Vọng Kế Tánh, vọng tưởng là Duyên Khởi Tánh, Chánh Trí và Như Như là Viên Thành Tánh).

Loại thứ nhất là so lường hư vọng, chẳng chân thật. Nói cách khác, hoàn toàn sanh từ khái niệm trừu tượng, cho nên gọi là Biến Kế Sở Chấp Tánh (Parikalpita-svabhāva). Chẳng hạn Danh, danh là giả danh, thánh nhân Trung Quốc nói: “Danh khả danh, phi thường danh” (cái danh mà có thể gọi tên được thì chẳng phải là cái danh thường hằng), bởi lẽ, danh tự chẳng chân thật. Nếu quý vị thật sự giác ngộ danh tự là hư vọng, hư giả, sẽ thấy thấu suốt cửa ải này. Danh là do con người giả lập, chẳng thật! Giả sử hiện thời có kẻ chỉ ta, chửi bới: “Mày là đồ chó, chẳng phải là người”. Quý vị nghe xong bèn nổi đóa, tức là bị danh tướng vây hãm rồi! Nếu tổ tiên đặt cho hình dáng này của chúng ta cái tên gọi là Chó, thì hiện thời mọi người chúng ta nghe chữ Chó cũng vui vẻ. Thoạt đầu, tạo ra chữ cũng theo cách ấy. Giả bày ra, chẳng thật! Cớ sao quý vị lại coi nó là thật? Nhằm nói năng, trao đổi ý kiến cho thuận tiện, mà giả lập những danh tướng ấy; cho nên Danh là giả, chẳng thật!

Tướng là hiện tượng, thuộc về Vọng Kế Tánh (Biến Kế Sở Chấp Tánh), mà cũng thuộc Duyên Khởi Tánh. Duyên Khởi Tánh chính là Y Tha Khởi Tánh (Para-tantra-svabhāva), [nghĩa là] do các thứ điều kiện tập hợp mà sanh khởi hiện tượng ấy. Chẳng hạn như cái khăn lông, đó là Tướng. Có nhiều điều kiện thì mới sanh ra tướng ấy. Đó gọi là Y Tha Khởi Tánh, tức là Duyên Khởi Tánh. Vì sao cũng nói nó thuộc Biến Kế Tánh? Cùng là một cái khăn lông đặt ở chỗ này, rất nhiều người trong chúng ta trông thấy. Có người thấy nó, thờ ơ, chẳng quan tâm, chẳng để ý tới. Có người thấy nó rất dễ thương, động lòng. Có người thấy nó rất đáng ghét, bực mình vì chẳng thể vứt nó đi. Tâm lý ấy chính là Biến Kế Sở Chấp Tánh, chẳng thật! Hết thảy hiện tượng bày ra trước mắt chúng ta, trong tâm chúng ta dấy lên biến hóa, khởi tham, sân, si, mạn, đó là Biến Kế Sở Chấp Tánh. Lục Tổ đại sư nói: “Vốn chẳng có một vật”, tức là chẳng có vật gì, trong chân tâm chẳng có vật gì. Hết thảy vạn pháp sanh thành, thuộc về Y Tha Khởi Tánh, là hiện tượng được sanh bởi các điều kiện, nhân duyên, quyết chẳng phải là ngẫu nhiên, quyết chẳng đơn thuần, trong ấy hết sức phức tạp. Trong nhà Phật có Pháp Tướng Duy Thức Tông chuyên môn nghiên cứu những thứ này, nghiên cứu rất tỉ mỉ. Muốn hiểu rõ, quý vị hãy nghiên cứu Duy Thức Pháp Tướng, đây là một môn học vấn rất sâu, rất rắc rối, là khoa học và triết học thuần túy.

“Vọng tưởng thị Duyên Khởi Tánh”: Vọng tưởng chẳng ngẫu nhiên sanh ra, mà cũng do có rất nhiều nhân duyên mới sanh khởi vọng tưởng. Có những nhân tố quý vị có thể nhận biết, nhưng cũng có những nhân tố về căn bản chẳng thể nhận biết được! Nguyên nhân là gì? Con người chúng ta chẳng phải chỉ [tồn tại] trong một đời này, mà còn có quá khứ, quá khứ lại còn có quá khứ của nó. Đã có quá khứ, đương nhiên nhất định có vị lai, ba đời đều có chính mình; chuyện trong một đời này có khi ta nghĩ đến, tuy không biết chuyện đời trước, nhưng tập khí của đời trước đôi khi hiện hành. Ví như nằm mộng, có nhiều cảnh giới trong mộng chẳng phải là những thứ quý vị có thể tưởng tượng trong lúc bình thường, vì sao có thể mộng thấy? Có quan hệ với đời trước. Hiện thời, tại ngoại quốc, thuật thôi miên thịnh hành; cho nên người ngoại quốc thừa nhận con người có đời trước. Có nhiều người đời trước là động vật, từ trong súc sanh [sanh làm người], cũng có người làm người rồi trở lại làm người, cũng có người từ tinh cầu khác sanh vào nơi đây. Những cách nói này tương ứng với Phật pháp.

“Chánh Trí, Như Như, thị Viên Thành Tánh”, “thành” là thành tựu, “viên” là viên mãn, đây là chân thật, chắc chắn chẳng hư vọng. Viên Thành Thật Tánh (Parinispanna-svabhāva) đối lập với hai loại trước; hai loại trước, tức là Biến Kế Sở Chấp Tánh (Vọng Kế Tánh) và Y Tha Khởi Tánh (Duyên Khởi Tánh), chúng là hư vọng.

 

(Sớ) Bát thức giả, Lại Da, Mạt Na cập nhãn đẳng lục, hợp chi thành bát.

() 八識者,賴耶、末那及眼等六,合之成八。

(Sớ: Tám thức là A Lại Da thức, Mạt Na thức và sáu thức như Nhãn Thức v.v… hợp thành tám thức).

Lại Da là A Lại Da Thức (Ālayavijñāna). Duy Thức Tông nói hiện tượng tâm lý gồm có tám thứ, tác dụng tâm lý (Tâm Sở) gồm năm mươi mốt thứ (năm mươi mốt Tâm Sở thuộc về tác dụng), hai mươi bốn món Bất Tương Ứng cũng thuộc về tác dụng của tâm. Thức thứ tám là A Lại Da Thức, còn gọi là Tạng Thức; hết thảy vạn pháp trong vũ trụ và nhân sinh đều do nó biến hiện ra. Vì thế, thức này gọi là Căn Bản Thức. Nói theo các tôn giáo khác, A Lại Da Thức là Tạo Vật Chủ (Tạo Hóa, Hóa Công) thật sự, thứ gì cũng đều do nó tạo ra, đều do nó biến hiện ra. Nó biến hiện có quy tắc, có trật tự, chẳng rối loạn. Toàn thể vũ trụ, các tinh cầu vận hành trong hư không chẳng rối loạn. Thân thể của chúng ta là tiểu vũ trụ, tiểu vũ trụ giống hệt đại vũ trụ; đại vũ trụ chẳng thể nghĩ bàn, tiểu vũ trụ của chúng ta cũng chẳng thể nghĩ bàn. Trong tiểu vũ trụ, mỗi bộ vị vận hành cũng có thứ tự, chẳng rối loạn. Nếu chúng rối loạn, con người sẽ ngã bệnh, phải chết. Chúng chẳng rối loạn, rất có trật tự; vì thế, người bình thường cảm thấy rất kỳ quái: “Chắc là phải có một vị thần làm chúa tể ở trong ấy”. Thật ra, chẳng phải thần, mà là A Lại Da Thức làm chúa tể!

Mạt Na (Manasvijñāna) còn dịch là Truyền Tống (tiếp nhận rồi gởi đi), bên trong thì nó lấy thức thứ tám (A Lại Da) làm bản thể hay tự thể của nó, ngoài nương vào thức thứ sáu, tức Ý Thức, để khởi tác dụng. Bản thân nó chẳng có Thể, mà cũng chẳng có tác dụng, nó thật sự là Y Tha Khởi. Thức thứ sáu phân biệt, Mạt Na Thức chấp trước, chấp trước vào một phần của Kiến Phần trong A Lại Da Thức. Kiến Phần rộng lớn vô biên, Mạt Na chấp trước một phần [của Kiến Phần], coi nó là Tự Ngã. Linh Hồn như người Trung Quốc thường nói chính là nó, tức là một phần trong Kiến Phần của A Lại Da Thức. Kinh sánh ví A Lại Da Thức như biển cả, một phần ấy giống như một cái bọt nước sanh trong biển cả, người ta chấp trước cái bọt nước ấy là chính mình. Đây là cách nhìn sai lầm. Nếu nhận biết toàn thể biển cả là chính mình thì gọi là thành Phật, là đại triệt đại ngộ. Nay người ấy không có cách nào phá vỡ bọt nước nhỏ nhoi, chẳng thể thấy Chân Ngã rộng lớn vô biên. Kẻ ấy có Ngã Chấp; Ngã Chấp hạn cuộc, nhỏ bé, chấp trước cái thân của chính mình là Ngã, đó là sai lầm, chẳng biết tận hư không trọn pháp giới là Ngã, đó là Chân Ngã.

Mãi cho đến thức thứ sáu, và năm thức trước, tức Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, đó là tác dụng của năm căn. “Thấy, nghe, hay, biết” cảnh giới bên ngoài là tác dụng của năm thức trước. Chúng có thể cảm nhận cảnh giới bên ngoài, sức phân biệt yếu ớt. Có sức phân biệt mạnh nhất là thức thứ sáu, tức Ý Thức. Trong cuộc sống thường ngày, có nhiều danh từ thuật ngữ xuất phát từ Phật pháp, đủ thấy Phật pháp có ảnh hưởng rất sâu đậm đối với đời sống của người Trung Quốc, phạm vi ảnh hưởng to lớn. Chúng ta thường nói “chú ý”: Chẳng hạn nhìn thì quý vị phải chú ý nhìn, nghe thì quý vị phải chú ý nghe. Hai chữ này (tức “chú ý”) xuất phát từ Phật pháp. Chú ý là gì? Ý là Ý Thức. Khi mắt quý vị thấy, tức là Nhãn Thức thấy sắc pháp, vì sức phân biệt của quý vị yếu ớt nên phải dồn sức chú ý, tức là đưa thêm Ý Thức vào. Quý vị phân biệt kỹ càng, phân biệt kỹ càng là dồn sức chú ý. Thức thứ sáu, tức Ý Thức, có tác dụng phân biệt quá rộng lớn, đối với bên trong nó có thể phan duyên A Lại Da Thức, đối với bên ngoài, nó có thể nương theo năm căn để phan duyên cảnh giới bên ngoài, có thể nói là “không gì chẳng duyên”; tác dụng hết sức rộng lớn.

 

(Sớ) Nhị vô ngã giả, nhân vô ngã, pháp vô ngã.

() 二無我者,人無我,法無我。

(Sớ: Nhị vô ngã là nhân vô ngã và pháp vô ngã).

“Nhị vô ngã” là hai thứ vô ngã. Một loại là Nhân Vô Ngã, loại kia là Pháp Vô Ngã. Nhân Vô Ngã: Cái thấy của ta (ngã kiến, khả năng thấy) ở bên trong, thuộc về con người, vật được ta thấy (ngã sở kiến) là pháp bên ngoài. Nếu “năng kiến” là Không thì là Nhân Vô Ngã. Quý vị cũng quán thấy “tướng được thấy” (sở kiến) là Không, sẽ là Pháp Vô Ngã. Như thế thì mới có thể khôi phục bổn tánh của chính mình, mới có thể thấy chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Thiền gia nói “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra), quý vị mới có thể thật sự thấy được diện mạo vốn có. Đương nhiên đây là một cảnh giới khá cao. Nếu đạt đến Nhân Vô Ngã, sẽ có thể thoát khỏi tam giới; đối với Tiểu Thừa là bậc đã chứng quả A La Hán; trong Đại Thừa Viên Giáo là bậc Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín. Các vị ấy đã tu đến Nhân Vô Ngã, vô ngã rồi! Tuy vô ngã, họ vẫn còn có Pháp. Nói điều này quá khó hiểu, chúng tôi nêu ra một tỷ dụ để nói.

Chúng ta tỷ dụ Ngã như cuốn sách này, ví Pháp như những trang giấy. Một bữa nào đó, người ấy giác ngộ, có sách hay không? Không có sách! Vì sao không có sách? Chỉ là từng trang giấy! Gộp chúng lại sẽ thành sách, trên thực tế chẳng có sách. Tách rời chúng ra, lập tức sách không còn nữa. Đủ thấy cuốn sách này, không chỉ Danh là giả, mà Tướng cũng là giả! Quý vị có hiểu hay không? Tướng cũng là giả, Tướng chẳng thật. Quý vị biết sách không có, mà cái tên “sách” cũng chẳng có; Thể của sách cũng chẳng có. Người ấy đã giác ngộ điều này, nhưng [vẫn thấy] giấy là có, chấp vào giấy, giấy là Pháp. Phá Nhân Ngã Chấp, nhưng Pháp Ngã Chấp vẫn chưa phá, vẫn còn có giấy! Nếu đem phân tích giấy, nhìn dưới kính hiển vi có độ phóng đại lớn, [sẽ thấy giấy] toàn là nguyên tử, điện tử! Giấy cũng không có, Pháp cũng không có, đó là một tầng cao hơn, Pháp cũng chẳng chấp trước! Đấy là minh tâm kiến tánh. Phá trừ Ngã Chấp, xuất tam giới, phá trừ Pháp Chấp, bèn minh tâm kiến tánh. Bất luận tông nào, pháp môn nào, bộ kinh điển nào, đều tuân theo nguyên lý và nguyên tắc này, chắc chắn chẳng thay đổi!

Do điều này, chúng ta tu hành, công phu của chính mình đạt đến trình độ nào chẳng cần phải hỏi ai khác, vì người khác có thể dối gạt quý vị. Ở Los Angeles, tôi đã gặp một số người tu hành đôi ba năm, tự nghĩ ta tu khá lắm, bèn thỉnh người khác ấn chứng. Kết quả là gã đó thọ ký cho họ: “Mấy người các ông đã khai ngộ rồi!” Bọn họ sung sướng khôn ngằn, đều tự nghĩ mình đã khai ngộ. Tôi giảng kinh ở Los Angeles, những người “khai ngộ” ấy cũng đến nghe, nghe xong, đến hỏi tôi: “Chúng tôi đã khai ngộ hay chưa?” Tôi nói: “Quý vị chưa khai ngộ”. Họ nói: “Vì sao vị pháp sư đó nói tôi đã khai ngộ?” Tôi nói: “Tôi chưa khai ngộ. Quý vị đến hỏi tôi quý vị đã khai ngộ hay chưa, tôi chắc chắn chứng minh quý vị chưa khai ngộ, ông ta lừa người rồi! Cảnh giới do quý vị chứng đắc, hãy nên hỏi chính mình; chính mình mới thật sự hiểu. Nếu quý vị đã phá Ngã Chấp, chắc chắn thoát khỏi tam giới”. Kinh Kim Cang đã nói rất rõ ràng: “Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát” (Nếu Bồ Tát có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, chẳng phải là Bồ Tát). Đấy chẳng phải là Bồ Tát! Chẳng phải là vị Bồ Tát nào vậy? Chẳng phải là một vị Bồ Tát vượt thoát tam giới, vẫn chưa thoát khỏi tam giới! Trong tam giới, vị ấy là Bồ Tát gì? Danh tự Bồ Tát! Hữu danh vô thực. Nếu quý vị thọ Bồ Tát Giới, sẽ đều là Bồ Tát, hữu danh vô thực! Một phẩm phiền não cũng chưa đoạn, nên gọi là danh tự Bồ Tát. Nếu thật sự tu hành, nhưng công phu chưa đến mức, thì gọi là Quán Hạnh Bồ Tát, quý vị là một Bồ Tát tu hành, nhưng chưa đạt mức. Dù có đi học, nhưng thi không đậu, cũng vô ích. Vì thế, cảnh giới phải tự hỏi chính mình [đừng mất công hỏi ai khác].

Nếu đối với người, đối với sự, đều xem nhẹ, chắc chắn sẽ có lợi cho chính mình, đừng nên sốt sắng [tham đắm] quá, đừng quá chấp trước. Sốt sắng, chấp trước, sẽ tăng trưởng Ngã Kiến. Phải tận lực nghĩ đến phương pháp phá trừ Ngã Kiến, để cho nó tăng trưởng hằng ngày thì còn làm gì được nữa! Ắt phải nhạt bớt [Ngã Kiến], tâm mới được thanh tịnh, tự tại. Nếu chưa thể, hãy nên sanh lòng hổ thẹn, thật thà niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Chưa có năng lực phá trừ Ngã Kiến, chỉ có một con đường là niệm Phật thì mới có thể thành công. Trong hết thảy các kinh, cũng chỉ có bộ kinh này thật sự có thể cứu người, có thể cứu mình, có thể cứu chúng sanh. Chiếu theo lý luận và phương pháp trong kinh Di Đà để niệm Phật, chúng ta chắc chắn thành tựu trong một đời này.

 

(Sớ) Dĩ thượng diệc giai nhập ngũ pháp trung, tường kiến Nhập Lăng Già chư kinh.

() 以上亦皆入五法中,詳見入楞伽諸經。

(Sớ: Những điều trên đây cũng thuộc trong năm pháp, xem chi tiết trong các kinh như Nhập Lăng Già[41]).

“Dĩ thượng diệc giai nhập ngũ pháp trung”: Đều chẳng rời khỏi năm pháp. Đối với tám thức, tự thể của tám thức là vọng tưởng, “danh tướng” là do thức thứ sáu so lường. Khi chuyển Thức thành Trí, nó sẽ là Chánh Trí, Lý được chứng nhập [bởi Chánh Trí] là Như Như. Vô Ngã cũng chẳng ra ngoài năm pháp. Hai thứ chấp trước Nhân và Pháp cũng thuộc vào danh, tướng và vọng tưởng. Hai thứ vô ngã, tức Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã, đều nói đến Lý, tức là lý Như Như. Khi chứng đắc “nhị vô ngã” thì chính là trí huệ, nên gọi là Chánh Trí. Vì thế, các pháp này đều chẳng lìa khỏi năm pháp ấy. “Tường kiến Nhập Lăng Già chư kinh” (xem chi tiết trong các kinh như Nhập Lăng Già): Trong Nhập Lăng Già Kinh, trong kinh luận Duy Thức, đều nói [những giáo nghĩa này] rất nhiều.

 

(Sớ) Tất Không tất khiển, sở vị Phật thân vô vi, bất đọa chư số.

() 悉空悉遣,所謂佛身無為,不墮諸數。

(Sớ: “Đều là Không, đều bỏ đi”, chính là nói: Thân Phật vô vi nên chẳng thuộc vào số).

“Tất” (悉) là thảy đều tách lìa, đều buông xuống, đấy là nghĩa lý Đốn Giáo. Đều buông hết xuống, đó là “bất đọa chư số”: Số là số lượng, chỉ cần trong tâm ta có ngã (ta), còn có nhân (người khác), quý vị sẽ vướng mắc trong số. Nói đơn giản thì cái Số đó chính là vận mạng, quý vị sẽ có vận mạng. Do vậy có thể xem tướng, có thể đoán vận mạng, vì sao? Vì quý vị còn vướng mắc trong Số. Nếu công phu của quý vị đạt đến vô ngã, chẳng còn có số nữa, đoán mạng hay xem tướng cũng đoán chẳng ra, vì sao? Vượt thoát rồi, chẳng mắc vào số. Quý vị phải hiểu: Chỉ cần chúng ta còn khởi tâm động niệm bèn có tội, phước; trong quá khứ, chúng ta làm thiện nghiệp bèn có thiện báo, tạo ác nghiệp bèn có ác báo, chẳng tránh khỏi quả báo thiện hay ác. Đó là định luật, không có cách nào tránh né được. Nếu đạt đến vô ngã, sẽ không còn nữa. Quý vị hãy suy nghĩ, vô ngã thì ai chịu báo? Phước báo hiện tiền, ai hưởng phước? Ngã không có thì cái gì hưởng? Tội báo hiện tiền, ngã không có, ai chịu báo? Không có! Hễ có ngã bèn có lục đạo luân hồi, vô ngã thì lục đạo luân hồi chẳng thể được! Khi ấy, đừng nói là vượt thoát luân hồi, ngay cả luân hồi cũng chẳng có.

Do điều này, nếu quý vị hiểu rõ sự thật này, lục đạo do đâu mà có? Có ngã bèn có lục đạo, vô ngã chẳng có lục đạo! Có pháp bèn có tứ thánh pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Nếu không có pháp, tứ thánh pháp giới cũng chẳng có. Đến khi ấy, sẽ là cảnh giới gì? Bất đắc dĩ, miễn cưỡng gọi bằng danh từ “Nhất Chân pháp giới”. Kinh Hoa Nghiêm nói Nhất Chân pháp giới là nói về chuyện này. Vì thế, phải biết: Mười pháp giới do chính mình biến hiện, hiểu rõ đạo lý này rồi sẽ dễ tu!

Trong hết thảy các cảnh giới, phải bỏ Ngã! Ngã ấy bỏ bằng cách nào? Quá khó khăn! Người Tiểu Thừa sau khi đoạn Kiến Hoặc, phải sanh trong cõi trời hay cõi người bảy lượt, đoạn Tư Hoặc, đạt đến cảnh giới Nhân Không, chứng A La Hán. Nhân gian thọ mạng ngắn ngủi, cõi trời thời gian dài lâu, những con số ấy đều là con số thiên văn, chẳng có cách nào tính toán được! Muốn phá trừ Pháp Chấp, phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, đủ thấy chẳng phải là chuyện dễ dàng! Phương pháp của Đại Thừa xảo diệu hơn Tiểu Thừa rất nhiều. Người Tiểu Thừa đoạn bằng phương pháp cứng ngắc (không linh hoạt, uyển chuyển), đoạn cứng ngắc sẽ đoạn không được, dẫu có đạt đến vô ngã thì ai vô ngã? Ta vô ngã! Quý vị nghĩ xem: Còn có ngã hay là không? Vẫn còn! Phương pháp Đại Thừa hay khéo, dạy quý vị khởi tâm động niệm hãy luôn nghĩ vì chúng sanh, nghĩ đến người khác, chẳng nghĩ tới chính mình, lâu dần dưỡng thành thói quen, chẳng còn Ngã nữa. Người niệm Phật khởi tâm động niệm đều nghĩ đến A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật. Như vậy dần dần sẽ quên mất chính mình! Chẳng dùng phương pháp xảo diệu này, mà mong đoạn trừ Ngã, sẽ chẳng phải là chuyện dễ! Chỉ cần có Ngã, bất luận quý vị tu pháp môn gì cũng đều có luân hồi.

Tu Thiền đến mức vô ngã mới có thể thoát khỏi tam giới. Tu Mật đến vô ngã mới có thể thành Phật. Chỉ cần tồn tại ngã thì Thiền lẫn Mật đều chẳng thoát khỏi tam giới. Muốn vượt thoát tam giới, chỉ có con đường niệm Phật đới nghiệp vãng sanh là có thể đi thông suốt; trừ con đường này ra, không có con đường thứ hai! Đủ thấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ hết sức trọng yếu, nhất là trong thời đại hiện tại, thiên hạ đại loạn, mạng người vô thường, một hơi thở ra không hít vào được nữa, bèn phải luân hồi, hết sức đáng sợ! Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 72

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm lẻ tám:

 

(Sớ) Nhị vô ngã giả, nhân vô ngã, pháp vô ngã. Dĩ thượng diệc giai nhập ngũ pháp trung, tường kiến Nhập Lăng Già chư kinh.

() 二無我者 ,人無我 ,法無我 以上亦皆入五法中,詳見入楞伽諸經。

(Sớ: Nhị vô ngã là nhân vô ngã và pháp vô ngã. Những điều trên đây cũng thuộc trong năm pháp, xem chi tiết trong các kinh như Nhập Lăng Già).

Đây là nói tới Duy Thức, [nói tới] Duy Thức là nói tới lý luận trong Phật pháp, hết sức trọng yếu. Bất luận tông phái hay pháp môn nào, chúng ta thường nói “vô lượng pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn”, đều chẳng trái nghịch những đạo lý này. Trong các tông phái, nếu chúng ta quy nạp lại, có thể nói là có ba tông phái, những tông phái [quy nạp] này mang tánh chất là khoa mục chung [cho mọi tông phái]. Thứ nhất là Luật Tông, bất cứ tông phái Hiển hay Mật nào cũng đều phải giữ giới luật, nương Giới sanh Định, do Định khai Huệ. Đấy là khoa mục chung bắt buộc phải tu học trong Phật giáo. Thứ hai là Duy Thức, Duy Thức là nói về lý luận. Không chỉ kinh Di Đà chẳng thể trái nghịch đạo lý Duy Thức, mà Thiền Tông, Mật Tông cũng chẳng thể trái nghịch, nên Duy Thức cũng có thể nói là khoa mục chung. Thứ ba là Tịnh Độ Tông niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tịnh Độ là chỗ quy túc cuối cùng của tất cả các tông phái; vì thế, nó cũng là khoa mục chung. Những vị tổ sư đại đức của Thiền Tông từ xưa tới nay đến cuối cùng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tại Đài Loan, các đồng tu đều biết pháp sư Quảng Khâm tham Thiền, nhưng về già, Ngài chuyên môn niệm Phật, cũng là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đấy là tấm gương gần đây nhất mà chúng ta thấy. Vì thế, chẳng những phải tu ba tông này, mà chúng còn là khoa mục chung [cho mọi tông phái Phật giáo].

Hai thứ vô ngã thì trong phần trước đã nói đại ý. Ắt cần phải đạt đến Nhân Vô Ngã mới có thể vượt thoát tam giới, chứng quả A La Hán, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, nhưng chưa thể kiến tánh. Nếu muốn minh tâm kiến tánh, phải tiến thêm một bước là phá Pháp Chấp, pháp cũng vô ngã. Hết thảy vạn pháp cũng vô ngã. Nên giải thích Ngã như thế nào? Ngã (Ātman) có nghĩa là chủ tể, hay tự tại. Trong kinh nêu ra bảy, tám định nghĩa của Ngã. Quả thật, hết thảy các pháp cũng là những pháp được sanh bởi nhân duyên, do nhiều điều kiện kết hợp lại. Pháp sanh bởi nhân duyên thì nói cách khác, nó không có chủ thể, chẳng thể nói cái nào là chủ. Sau khi đã biết Pháp Vô Ngã thì mới có thể minh tâm kiến tánh, mới có thể đạt được cái mà Thiền Tông gọi là “diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra”.

Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ cũng chẳng rời khỏi đạo lý này. Nếu làm được Nhân Vô Ngã thì mới chứng đắc “nhất tâm bất loạn” được nói trong kinh này. Nhất tâm có hai loại: Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Trong lúc này, chỉ chứng đắc Sự nhất tâm bất loạn thì vãng sanh Tịnh Độ phẩm vị cũng cao, sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư. Nếu chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn, đã phá trừ Pháp Vô Ngã, minh tâm kiến tánh rồi, sanh vào Tịnh Độ, địa vị càng cao hơn, người ấy sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm dùng danh xưng Pháp Thân đại sĩ để chỉ những người thuộc địa vị ấy. Nếu nhìn theo tiêu chuẩn này, trong đời này chúng ta muốn cầu sanh Tịnh Độ đạt đến tiêu chuẩn ấy quả thật chẳng dễ dàng, thật đấy! Chẳng đạt đến tiêu chuẩn này, chẳng có cách nào thành tựu; vì thế, cổ nhân nói chắc nịch: Tu bất cứ pháp môn nào [ngoài pháp môn Tịnh Độ] cũng đều chẳng thể thành tựu, nguyên nhân là vì chỗ này, không có biện pháp nào phá Nhị Vô Ngã!

Nhưng niệm Phật mà chưa đạt đến mục đích ấy cũng chẳng sao! Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đã nói rất rõ ràng: Chỉ cần có tín niệm kiên cố, mười niệm hay một niệm cũng đều có thể vãng sanh, điều kiện ấy mỗi cá nhân chúng ta đều có thể làm được, nhưng sanh về Tây Phương Tịnh Độ phẩm vị không cao, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Tuy phẩm vị không cao, phải biết hoàn cảnh của Tây Phương Cực Lạc thế giới quá tốt đẹp: Thế giới ấy không có ba ác đạo. Chẳng những không có ba ác đạo, mà Tu La đạo cũng chẳng có, chỉ có hai đường nhân thiên. Nói cách khác, hễ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là Hạ Phẩm Hạ Sanh cũng chắc chắn chẳng đọa trong ba ác đạo. Ngoài ra, một điều tốt đẹp nữa là bên ấy thọ mạng dài lâu, thọ mạng của người Hạ Hạ Phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư bằng với A Di Đà Phật. A Di Đà Phật thọ vô lượng, nên người ấy cũng thọ vô lượng. Điều tốt đẹp lớn nhất của thọ mạng dài là tu hành nhất định thành công!

Thọ mạng của chúng ta trong thế giới này quá ngắn ngủi, thời gian có thể sử dụng hết sức hữu hạn. Dẫu sống tới trăm tuổi, đêm ngủ hết tám tiếng đồng hồ. Nói cách khác, tối thiểu là một phần ba [cuộc đời]! Lại còn phải trừ đi hai mươi năm đầu chưa hiểu chuyện, sau tám mươi tuổi quá già, chẳng còn có sức để tu hành nữa. Lại còn phải trừ đi thời gian mặc áo, ăn cơm, giao tiếp, cả một đời quý vị dùng khoảng thời gian năm năm [để tu hành] là đã phi phàm rồi! Thời gian quả thật quá ngắn! Công phu vừa mới đắc lực, thọ mạng đã hết, không làm sao được, lại phải đợi đến đời sau! Vì thế, đời đời tu hành mà đến nay chúng ta vẫn y hệt như vậy!

Hiểu rõ sự thật này, quý vị mới biết: Chính mình nhất định đừng nên đợi đến đời sau, vì sao? Tình huống trong đời sau có thể còn kém hơn đời này! Phải hạ quyết tâm, đời này nhất định phải sanh về Tịnh Độ! Cũng có người nói: Tôi muốn thì muốn vậy, nhưng có thật sự làm được hay chăng? Tôi nghĩ những người mang nỗi nghi vấn ấy rất nhiều. Nếu quý vị đọc kỹ ba kinh Tịnh Độ, nỗi hoài nghi ấy sẽ chẳng còn nữa! Đức Phật dạy chúng ta câu nào cũng chân thật, đức Phật chẳng vọng ngữ. Kinh Kim Cang đã nói rất hay: “Như Lai thị chân ngữ giả” (đức Như Lai là bậc nói lời thật), chân là không giả, “thật ngữ giả”, “thật” là chẳng hư dối, chẳng hư ngụy; “như ngữ giả”, nói hoàn toàn phù hợp với sự thật, chẳng tăng, chẳng giảm, nói rất khít khao, đó là “như ngữ”, “bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả” (chẳng nói dối, chẳng nói những điều quái lạ). Những câu này đều nhằm khuyên chúng ta phải tin tưởng lời Phật dạy, đức Phật chẳng vọng ngữ. Do vậy, chúng ta thật sự tin tưởng lời răn dạy của đức Phật, y giáo phụng hành, trong một đời này, chắc chắn có thành tựu. Nói đến Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã, dẫu làm không được mà vẫn có thể thành tựu thì chỉ có pháp môn Niệm Phật. Trừ pháp môn Niệm Phật ra, những pháp môn nhất định phải đạt được Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã thì mới được coi là thành tựu.

 

(Sớ) Tất Không tất khiển, sở vị Phật thân vô vi, bất đọa chư số. Nhất niệm bất sanh tức danh vi Phật giả, Đốn Giáo chi chỉ dã.

() 悉空悉遣 ,所謂佛身無為 ,不墮諸數 一念不生即名為佛者,頓教之旨也。

(Sớ: “Đều không, đều bỏ đi”, chính là nói: Thân Phật vô vi nên chẳng thuộc vào các pháp số. Một niệm chẳng sanh thì gọi là Phật, đấy là tông chỉ của Đốn Giáo).

Đoạn này nói về “giáo nghĩa thâm quảng” (giáo nghĩa rộng sâu), giảng về Đốn Giáo. Tông chỉ của Đốn Giáo đích thực là như vậy: Lìa hết thảy tướng chính là hết thảy pháp. Vì sao có thể coi Niệm Phật là Đốn Giáo? Chiếu theo tông chỉ của Đốn Giáo để nói, quả thật chẳng thể coi Niệm Phật là Đốn Giáo, vì vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chưa đoạn Kiến Tư phiền não, hai thứ Vô Ngã đều vẫn còn. “Đốn” ở chỗ thành công trong một đời, chẳng đợi đến đời thứ hai.

 

(Sớ) Kim ngôn niệm Phật, tắc sở xưng Phật hiệu thuộc Danh, sở đối Phật thân thuộc Tướng, ức niệm bỉ Phật thuộc vọng tưởng. Túng sử tịnh niệm tương kế, nhập Tam-ma-địa, diệc thuộc Chánh Trí, Như Như.

() 今言念佛 ,則所稱佛號屬名 所對佛身屬相 憶念彼佛屬妄想,縱使淨念相繼,入三摩地,亦屬正智如如。

(Sớ: Nay nói niệm Phật thì danh hiệu Phật được xưng niệm là Danh, thân của đức Phật được xưng niệm là Tướng, nghĩ nhớ đức Phật ấy là vọng tưởng. Dẫu cho tịnh niệm liên tục, nhập Chánh Định, vẫn thuộc vào Chánh Trí và Như Như).

Hoàn toàn thuộc vào năm pháp.

 

(Sớ) Nhi phục phân biệt thị Phật, thuộc thức tình.

() 而復分別是佛,屬識情。

(Sớ: Lại còn phân biệt là Phật, thuộc về tình thức).

 Quý vị có cái tâm phân biệt, đó là thức thứ sáu.

 

(Sớ) Năng niệm, sở niệm, thuộc nhân pháp.

() 能念所念,屬人法。

(Sớ: Năng niệm và sở niệm thuộc về nhân và pháp).

Năng niệm (chủ thể niệm Phật) là người, sở niệm (danh hiệu được niệm, đức Phật được niệm) là pháp.

 

(Sớ) Thượng vị khiển hữu ngã, huống vô ngã diệc khiển da?

() 尚未遣有我,況無我亦遣耶。

(Sớ: Hữu ngã còn chưa gạt bỏ được, huống là vô ngã cũng gạt bỏ ư?)

Hữu ngã còn chưa trừ được, làm sao có thể nói là “đã đạt đến vô ngã”? Đốn Giáo là ngay cả vô ngã cũng chẳng cần đến. Đốn Giáo là “năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai thứ vô ngã” thảy đều bỏ sạch, quả thật chẳng nhiễm mảy trần. Lục Tổ đại sư là Đốn Giáo, “vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần?” Tám thức, hai thứ vô ngã, Ngài đều chẳng có. Nhìn từ góc độ này, làm sao có thể nói Niệm Phật là Đốn Giáo cho được?

 

(Sớ) Bỉ giáo sở không, sở khiển, thử giai hữu chi.

() 彼教所空所遣,此皆有之。

(Sớ: Những điều không có, bị gạt bỏ trong Đốn Giáo, pháp môn này đều có cả).

“Sở khiển” là bị bỏ đi. Người niệm Phật chúng ta thứ gì cũng là chẳng Không, cũng chẳng tách rời một thứ gì.

 

(Sớ) Dĩ kỳ hữu niệm, cố nạn phi Đốn.

() 以其有念,故難非頓。

(Sớ: Do [niệm Phật] là hữu niệm, nên bắt bẻ, bảo nó chẳng phải là Đốn).

 Người ta đến vấn nạn, nói pháp môn của chúng ta chẳng phải là Đốn Giáo.

 

(Sớ) Chánh vị vô niệm giả, lương diêu nhất tâm bất loạn, tắc bất

dĩ hữu tâm niệm, bất dĩ vô tâm niệm, bất dĩ diệc hữu diệc vô tâm niệm, bất dĩ phi hữu phi vô tâm niệm. Ly thử tứ cú, cánh hữu hà niệm? Tuy danh niệm Phật, cái vô niệm chi niệm dã. Niệm nhi vô niệm, thị danh nhất tâm. Như thị chi tâm, tâm vô kỳ tâm, cưỡng danh viết “nhất”. Thượng vô nhất tướng, an cầu sở vị ngũ giả, tam giả, bát giả, nhị giả, nhiên tắc nhất tâm bất loạn, bất dị nhất niệm bất sanh, yên đắc phi Đốn?

() 正謂無念者 ,良繇一心不亂 則不以有心念 不以無心念,不以亦有亦無心念,不以非有非無心念,離此四句,更有何念。雖名念佛,蓋無念之念也,念而無念,是名一心。如是之心,心無其心,強名曰一。尚無一相,安求所謂五者三者八者二者,然則一心不亂,不異一念不生,焉得非頓。

(Sớ: Nói pháp này đúng là vô niệm, là vì nhất tâm bất loạn chẳng phải là dùng hữu tâm để niệm, chẳng dùng vô tâm để niệm, chẳng dùng cái tâm vừa hữu niệm vừa vô niệm để niệm, chẳng dùng cái tâm chẳng có chẳng không để niệm. Lìa khỏi bốn câu ấy, còn có niệm gì nữa? Tuy gọi là “niệm Phật”, nhưng là niệm mà vô niệm. Niệm mà vô niệm thì gọi là nhất tâm. Cái tâm như thế là cái tâm chẳng có vọng tâm nên cưỡng gọi là Nhất. Nó còn chẳng có một tướng, há tìm được những cái gọi năm pháp, ba tánh, tám thức, hai vô ngã ư? Vậy thì “nhất tâm bất loạn” chẳng khác “nhất niệm bất sanh”, lẽ nào chẳng phải là Đốn?)

Cách nói này vô cùng cao! Đúng là Đốn Giáo! Trong đoạn trên, kẻ ấy (tức kẻ bắt bẻ niệm Phật chẳng phải là Đốn Giáo) thấy chúng ta cái gì cũng có, kẻ ấy đã thấy sai bét rồi! Thật ra, kẻ ấy hoàn toàn chẳng thấy sai, mà lời đáp của tổ sư cũng chẳng hề đáp trật. Lời đáp của tổ sư là gì? Là Lý nhất tâm bất loạn, cớ sao chẳng là Đốn? Nay chúng ta ngay cả công phu thành phiến còn chưa làm được! Vì thế, phải hiểu vì sao tổ sư phán định pháp môn này là Đốn, lại phán định nó là Phần Viên, tức là có một phần là Viên.

Nói theo công phu niệm Phật, đương nhiên Lý nhất tâm bất loạn là mục tiêu tối cao, làm chưa được thì hạ xuống một cấp, chọn lấy cái kém hơn, tức là Sự nhất tâm. Nếu Sự nhất tâm vẫn chưa làm được, lại hạ xuống một bậc là công phu thành phiến. Như thế mới gọi là “thích hợp trọn khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn”. Đấy là điểm đặc sắc của pháp môn này. Đức Phật thật sự khích lệ chúng ta thành tựu Lý nhất tâm bất loạn trong một đời này, có làm được hay chăng? Nói thật ra, xét theo lý luận, ai nấy đều có thể làm được, nhưng luận theo mặt Sự, có những kẻ không chịu làm thì không có cách nào hết! Thế nào là không chịu làm? Kẻ ấy không chịu buông xuống, không chịu bỏ!

Chiều hôm nay, có mấy vị đồng tu sơ học đến đây gặp tôi, hỏi tôi về Phật pháp. Bọn họ thường nghĩ Phật pháp là triết học hết sức sâu xa, uyên áo. Tôi bảo họ: “Chẳng phải vậy! Phật pháp rất dễ tiến nhập, chẳng khó tí nào! Khó là khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ quý vị chẳng buông xuống! Điều thứ nhất là phải buông tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian xuống, quý vị có chịu làm hay không? Quý vị chịu làm, sẽ vào được cửa. Không chịu, dù đức Phật có thuyết pháp cho quý vị cũng phí công! Quý vị cũng chẳng có cách nào nhập môn! Vấn đề là do chính mình. Khác hẳn triết học! Đối với triết học, kẻ ngu si một chút, kẻ căn tánh chậm chạp sẽ thật sự chẳng thể hiểu triết học. Phật pháp không như vậy, người chưa từng đi học, người chẳng biết chữ như Lục Tổ đều có thể tiến nhập Phật pháp. Lục Tổ dựa vào điều gì? Dựa vào cái tâm thanh tịnh. Trong lòng Ngài chẳng vướng mắc hết thảy các pháp, tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, nên tiến nhập. Ngài không biết chữ, nghe người ta niệm kinh, người niệm kinh chẳng khai ngộ, nhưng Ngài nghe liền khai ngộ. Vì sao? Người niệm kinh chưa buông xuống, tuy người ấy biết niệm mà chẳng khai ngộ. Người nghe kinh buông xuống, tuy không biết niệm mà khai ngộ. Đạo lý là như vậy đó! Không chỉ pháp thế gian phải buông xuống, mà pháp xuất thế gian cũng phải buông xuống. Vì sao? Không buông pháp thế gian xuống được, trong tâm còn xen tạp cả đống danh hiệu Phật, Bồ Tát và kinh điển nhiều dường ấy, đó đều là chướng ngại, quý vị vẫn chưa thể minh tâm kiến tánh. Cái tâm chẳng thanh tịnh, chẳng bị pháp thế gian ô nhiễm thì lại bị Phật pháp ô nhiễm! Đốn Giáo là chẳng nhiễm mảy trần”.

Ở đây, đại sư biện giải, lời giảng của Ngài rất hợp lý. Lý nhất tâm bất loạn quả thật chẳng nhiễm mảy trần, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa của Đốn Giáo. Do vậy, pháp môn Niệm Phật thuần túy thuộc vào Đốn Giáo. Không riêng gì Liên Trì đại sư chỉ dạy như vậy, mà tổ sư Pháp Tướng Duy Thức Tông là Khuy Cơ đại sư cũng phán định kinh này là Đốn Giáo. Ngài còn nêu ra thí dụ, trong kinh này có nói: Hoặc một ngày cho đến bảy ngày, bảy ngày bèn thành công, đó là Đốn. Bảy ngày tu thành công điều gì vậy? Thành nhất tâm bất loạn. Tâm chẳng điên đảo. Tâm chẳng điên đảo thì tâm ấy quyết định chẳng còn mê hoặc nữa, thật sự là giác, chứ không mê. Bảy ngày có thể hoàn thành, đó là Lý nhất tâm bất loạn. Điều này thuộc về Đốn Giáo. Chúng ta nói “thành Phật trong một đời”, đó là ý nghĩa Viên Giáo. Vì thế, kinh này Đốn cực, mà cũng là Viên cực.

Ở chỗ này, câu nào cũng nói về Lý, chúng ta hiểu rõ là tốt rồi, nhưng chưa thể học theo. Vì sao chưa thể học? Học chưa được! Ví như trong kinh có nói: “Bất dĩ hữu tâm niệm, bất dĩ vô tâm niệm” (chẳng dùng hữu tâm để niệm, chẳng dùng vô tâm để niệm), chúng ta dùng cái tâm gì để niệm? Hữu tâm niệm cũng chẳng được, mà vô tâm niệm cũng không xong. Vừa hữu vừa vô cũng chẳng được, chẳng phải hữu chẳng phải vô vẫn không được. Dùng cái tâm gì để niệm? Nay chúng ta thật thà dùng hữu tâm để niệm là được rồi! Cảnh giới chưa đạt đến trình độ ấy, bèn dùng hữu tâm để niệm. Cổ đức bảo chúng ta: “Ninh khả chấp Hữu như Tu Di sơn, bất khả chấp Không như giới tử” (thà chấp có như núi Tu Di, đừng chấp Không chừng bằng hạt cải). “Giới tử” là hạt cải, rất nhỏ! Quyết định đừng nên chấp Không. Chấp Hữu thì chúng ta có thể đới nghiệp vãng sanh, có thể sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư có ba bậc, chín phẩm. Trung thượng phẩm đều biết trước lúc mất, tự tại vãng sanh, đấy là điều tốt đẹp lắm!

Đến khi công phu của chúng ta đạt tới trình độ ấy, lại tiến lên nữa, tiến lên cầu Sự nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm bất loạn là Định, chúng ta thường gọi Định ấy là Niệm Phật tam-muội. Kiến Tư phiền não chẳng còn dấy lên hiện hành nữa, đã đạt được Nhân Vô Ngã, đó là Niệm Phật tam-muội thành công. Đã đạt đến cảnh giới ấy, lại tiến lên Pháp Vô Ngã, chứng Pháp Vô Ngã thì mới là “ly tứ cú, tuyệt bách phi” như [đang nói] ở đây. “Tứ cú” (bốn câu) là Có, Không, Cũng Có Cũng Không, Chẳng Phải Có Chẳng Phải Không, đấy mới là thật sự nhập cảnh giới này. Đó là cảnh giới do đích thân Như Lai chứng đắc. Nói cách khác, quyết định chẳng phải là cảnh giới hiện tiền của chúng ta, đừng vọng tưởng cảnh giới ấy, hãy thật thà niệm một câu Phật hiệu này, niệm đến mức trong mười hai thời Phật hiệu chẳng gián đoạn, đó gọi là công phu thành phiến.

Câu cuối cùng là nói đại lược. “Sở vị ngũ giả” là nói đến ngũ pháp (Danh, Tướng, Vọng Tưởng, Chánh Trí, Như Như), “tam giả” là ba tự tánh (Vọng Kế Tánh, Duyên Khởi Tánh, Viên Thành Tánh), “bát giả” là tám thức, “nhị giả” là Nhị Vô Ngã (Nhân Vô Ngã và Pháp Vô Ngã), đều nhằm tổng kết phần trước. Thật sự đạt đến nhất tâm bất loạn thì những thứ này đều chẳng còn nữa; cho nên nói “bất dị nhất niệm bất sanh” (chẳng khác gì một niệm chẳng sanh). Do đây có thể biết rằng: Tịnh Độ Tông nói nhất tâm bất loạn hoàn toàn có cùng một cảnh giới với “nhất niệm bất sanh” như Viên Giáo đã nói, cách nói khác nhau, cảnh giới hoàn toàn tương đồng. Vì thế, niệm Phật cũng là niệm đến mức nhất niệm bất sanh, giống như trong chương Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát [đã nói] “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”, tám chữ này đã miêu tả “ly tứ cú, tuyệt bách phi”. Ngài có niệm Phật hay không? Niệm chứ! Ngài chẳng chấp trước vào cái Ngã đang niệm, cũng chẳng chấp trước có pháp để niệm, Năng và Sở hai đằng đều chẳng chấp trước, Năng và Sở cùng mất. Chẳng chấp Có, từng câu Phật hiệu liên tục, chẳng gián đoạn. Ngài chẳng chấp trước Không, đó gọi là “Không và Hữu hai bên đều chẳng chấp trước”. Công phu thật sự đạt đến mức thì mới có cảnh giới này. Chúng ta lại xem đoạn tiếp theo:

 

Phần Viên.

(Huyền Nghĩa) Phần thuộc Viên Giáo giả.

分圓

(玄義) 分屬圓教者。

(Phần Viên.

Huyền Nghĩa: Có phần thuộc về Viên Giáo).

“Phần” là bộ phận.

 

(Huyền Nghĩa) Viên chi vi nghĩa, vi tứ pháp giới trung, tiền tam thông ư chư giáo, hậu nhất độc thiện hồ Viên. Kim thử kinh giả, Viên toàn nhiếp thử.

(玄義) 圓之為義 ,為四法界中 ,前三通於諸教 一獨擅乎圓。今此經者,圓全攝此。

(Huyền Nghĩa: Ý nghĩa của Viên là trong bốn pháp giới, ba pháp giới đầu các giáo đều có, riêng pháp giới cuối cùng chỉ riêng Viên Giáo là có. Nay Viên Giáo hoàn toàn thâu nhiếp kinh này).

Viên Giáo hoàn toàn bao quát bộ kinh này.

 

(Huyền Nghĩa) Thử phần nhiếp Viên, đắc Viên thiểu phần, phần thuộc Viên cố.

(玄義) 此分攝圓,得圓少分,分屬圓故。

(Huyền Nghĩa: Kinh này thuộc về Viên Giáo một phần: Do được một ít phần Viên, nên thuộc về Viên Giáo một phần).

Xét theo kinh này để nói, nó có một phần là giáo nghĩa của Viên Giáo.

 

(Sớ) Tứ pháp giới giả.

() 四法界者。

(Sớ: Bốn pháp giới là…)

Tứ pháp giới: Thanh Lương đại sư giải thích kinh Hoa Nghiêm, đã chia pháp giới thành bốn loại. Trên thực tế, [tứ pháp giới] là bốn góc độ quan sát, chứ chúng là một Thể. Một Thể được nhìn từ bốn góc độ thì mới thấy được tánh chân thật của nó.

 

(Sớ) Nhất, Sự pháp giới.

() 一、事法界。

(Sớ: Một là Sự pháp giới).

Sự là nhìn theo sự tướng. Sự tướng là “duyên khởi vô biên”, nhỏ thì như chúng ta quan sát một người, quan sát chính mình, thân tâm của chúng ta, lớn thì thấy toàn thể vũ trụ đều là pháp sanh bởi nhân duyên, vô lượng vô biên nhân duyên. Đức Phật dạy chúng ta phải có trí huệ, phải có tầm nhìn sâu rộng, chớ nên chỉ thấy trước mắt, chỉ thấy một phần; [nếu không] sẽ phát sanh rất nhiều chuyện hiểu lầm, phát sanh sự hiểu biết sai lạc. Tục ngữ nói: “Nhất ẩm nhấc trác, mạc phi tiền định” (một miếng ăn, một hớp uống, không gì chẳng được định trước), ai định? Tuyệt đối chẳng phải là Phật, Bồ Tát định sẵn cho quý vị, cũng chẳng phải do vua Diêm La quyết định! Đức Phật bảo: “Nghiệp lực quyết định”. Ngay cả trường hợp bị chết vì chiến tranh thì cũng chẳng phải là chết oan uổng!

Lúc tôi mới học Phật, lão cư sĩ Châu Kính Trụ giúp đỡ tôi rất nhiều. Khi ấy, vào khoảng năm Dân Quốc 38 (1949) hay 39 (1950), kinh sách ở Đài Loan chẳng dễ kiếm: Tiệm sách cũng không bán, mà cũng không có ai in. Sau khi đến Đài Loan, Châu lão cư sĩ đã làm chuyện công đức to lớn là xướng suất in kinh. Cụ tự mình quyên góp từ bạn bè, lập ra Đài Loan Ấn Kinh Xứ. Cụ là người đầu tiên in kinh Phật ở Đài Loan. Khi tôi học Phật, lão nhân gia đã bảy mươi tuổi, cụ cũng sống rất thọ, chín mươi sáu tuổi mới vãng sanh. Cụ kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện lạ lùng do đích thân cụ đã từng trải qua, chẳng phải là chuyện giả. Bản thân cụ là một người theo khoa học, học theo ngành Tài Chánh, từ trước đến nay chẳng hề tin chuyện quỷ thần, đương nhiên càng chẳng dễ gì tiếp nhận Phật pháp. Nhạc phụ của cụ là cụ Chương Thái Viêm[42], là một bậc đại sư về Quốc Học đầu thời Dân Quốc, là một người có danh vọng hết sức cao.

Khi cụ Chương Thái Viêm còn sống, từng làm Phán Quan cho Đông Nhạc Đại Đế[43], chức Phán Quan giống như Bí Thư Trưởng (Tổng Thư Ký) hiện thời, địa vị rất cao. Dưới Đông Nhạc Đại Đế là cụ. Mỗi đêm cụ phải đi làm, có hai tiểu quỷ khênh kiệu tới thỉnh cụ lên kiệu. Khi trời tối, lúc mọi người ngủ thì cụ phải đi làm. Khi cụ đi làm, giống như đã chết, nằm yên trên giường chẳng động đậy tức là cụ đã đi làm. Đến sáng sớm hôm sau, khi gà gáy, cụ tan sở, được đưa về. Cụ thấy rất nhiều chuyện trong cõi Âm, bạn bè thường hỏi cụ: “Tối hôm qua xử đoán vụ án nào, gặp những ai?”

Cụ thấy quỷ có thọ mạng dài hơn người, gặp những người đời Đường, đời Tống, đã từng đọc văn chương của họ, khi gặp mặt có cảm giác đặc biệt thân thiết. Xã hội trong quỷ đạo chẳng khác với nhân gian cho mấy, cũng có quỷ ngoại quốc. Cụ nói: Ở trong ấy, gần như ngôn ngữ thông suốt, chẳng bị chướng ngại, cũng phải làm lụng, cũng có đãi ngộ. Trong những trước tác của Châu lão cư sĩ, cụ đã viết lại những chuyện ấy rất chi tiết. Là vì cụ Chương là người sống, đêm vào cõi Âm để làm việc, nên chẳng cần tới lương bổng, cũng giống như là trọn hết nghĩa vụ. Đông Nhạc Đại Đế cai quản năm tỉnh, sự sống chết luân hồi của người trong năm tỉnh do ông ta cai quản. Khi ấy, cụ Châu nghe bố vợ (cụ Chương) kể những chuyện ấy, chỉ nghĩ là ông cụ tùy tiện nói để nghe chơi, vẫn chẳng thể sanh lòng tin tưởng. Lúc trẻ, cụ đã thấy rất nhiều, từ đầu đến cuối chẳng sanh khởi lòng tin. Nói cách khác, chẳng phải là chuyện do chính mình đích thân trông thấy, chuyện ấy rất khó tin tưởng!

Cụ kể vào một ngày Xuân Tân Hợi (1911), tại quê cụ có một vị Cử Nhân. Vị Cử Nhân này là con trai độc nhất, gia cảnh cũng đủ sống. Sau khi thi đỗ, chẳng làm quan, mà ở nhà, tự mình cày cấy, phụng dưỡng cha mẹ. Người này rất hiếu thuận, kết hôn, sanh được một con. Trong khi ngủ trưa, chợt thấy có một người kêu cửa, ông ta liền nhỏm dậy, trên thực tế chỉ là nằm mộng, đứng lên, mở cửa. Có một người cưỡi một thớt ngựa đến, cầm một tấm thiếp, hỏi ông ta: “Đại tướng quân của chúng tôi muốn mời vị này”. Ông ta xem thì thấy tên mình, không sai, liền nói: “Tôi suốt đời chưa từng giao du với người trong chốn quan trường. Đại tướng quân của các vị là ai tôi cũng chẳng quen biết, chắc là có người trùng tên trùng họ, mà cũng không chừng là trao nhầm danh thiếp rồi”. Người ấy cũng chẳng đếm xỉa lý lẽ, bảo: “Đã là trùng tên thì Ngài theo tôi đi một chuyến cho rồi”. Ép ông ta, bảo ông ta lên ngựa.

Sau khi ông ta lên ngựa, cảm thấy con ngựa này chẳng chạy trên mặt đất mà giống như bay lên trời, bên tai nghe gió thổi. Không lâu sau, ngựa dừng lại, thấy nhiều người giống như đang thương lượng một đại sự trọng yếu. Đại tướng quân còn chưa thăng trướng, ông ta hỏi dò người khác: “Đại tướng quân là ai vậy?” Người ta bảo: “Nhạc Phi”. Ông ta sững sờ, nói: “Không xong rồi! Ta đã chết rồi sao? Nhạc Phi là người đời Tống, ông ta đến tìm mình, chẳng phải là ta đã chết rồi sao? Không được rồi, ta nhất định chẳng thể đi”. Ông ta tự nhủ: “Cha mẹ ta tuổi đã cao lắm rồi, con còn quá bé. Ta chưa thể nào xa họ được”.

Một lát sau, đại tướng quân bèn thăng trướng, tìm ông ta để làm gì? Chuẩn bị đánh miền Bắc, vẫn là muốn đánh đuổi quân Thanh khỏi miền Bắc. Người Kim thuở ấy chính là người Mãn Thanh, Mãn Thanh là hậu duệ của người Kim[44]. Bọn họ muốn đánh dẹp quân Kim, mời ông ta làm công việc giống như Bí Thư. Ông ta là văn nhân, nên [Nhạc Phi] mời ông ta đến làm việc. Ông ta thấy Nhạc Phi đối với mình hết sức lễ độ, bèn thưa: “Trên còn có cha mẹ, vợ cũng rất trẻ, con còn bé quá. Tôi là con trai một trong nhà, chẳng có anh em, cảm thấy rất khó khăn”. Nhạc Phi bảo ông ta: “Chuyện này không sao đâu! Chúng tôi còn bốn tháng nữa mới khởi sự, tôi có thể đưa ông về. Ông hãy sắp xếp ổn thỏa mọi việc trong nhà, đến lúc đó lại phái người đến đón ông. Hãy ước định ngày tháng và giờ giấc kỹ càng”. Ông ta nghĩ: “Theo Nhạc Phi cũng cảm thấy rất vinh dự, cũng khá lắm!” Được rồi! Ông ta nhận lời. Nhạc Phi liền phái tiểu quỷ đưa ông ta trở về.

Sau khi trở về, ông ta tỉnh giấc. Tỉnh giấc liền thưa chuyện với cha mẹ, kể lể chuyện ấy. Người nhà nói: “Ngươi nằm mộng như vậy, há phải là thật!” Ông ta bảo người nhà: “Đấy chẳng phải là mộng”. Ông ta nói: “Cảnh giới trong mộng chẳng thể rõ ràng như thế, hoàn toàn giống với cảnh giới trong lúc tỉnh táo. Chuyện này sợ chẳng phải là mộng, nhất định phải nghiêm túc chuẩn bị”. Thoáng chốc đã đến thời gian ước định, ông ta báo cho thân thích, bạn bè đến nhà tiễn hành. Ông ta tuổi trẻ, lại chẳng bệnh tật gì, [mọi người kéo tới] xem thử ông ta chết như thế nào? Châu lão cư sĩ cũng đến để xem chuyện quái lạ này. Ngày hôm ấy, trong nhà bày tiệc rượu, ăn uống xong, ông ta hướng về mọi người từ tạ. Tắm rửa, thay quần áo mới, vào nhà, lên giường nằm tại đó, bố ông ta cũng có mặt, đông đảo thân thích cùng hiện diện. Chưa đầy một chốc, ông ta thưa với cha: “Người đón con đã đến rồi, đang ở ngoài cửa”. Bố ông ta liền quở mắng, tỏ ý không chấp nhận. Kết quả vẫn là ông ta tự mình nghĩ thông suốt, bèn khuyên cha: “Vẫn nên để cho con đi thì tốt hơn; nếu không, sẽ như người ta nói: ‘Rượu kính không uống lại uống rượu phạt’, con vẫn phải ra đi. Cha có chửi mắng cũng vô ích”. Ông bố uất quá, nói: “Được rồi! Mày đi đi”. Nói xong câu ấy, ông ta liền tắt thở. Vừa được đồng ý, liền đi ngay! Châu lão cư sĩ đích thân chứng kiến chuyện này. Cụ nói: Gần như là hai hay ba tháng sau, cách mạng Tân Hợi (1911) thành công, lật đổ nhà Mãn Thanh. Vì thế, cụ nói: “Thế gian còn chưa loạn, quỷ thần đã loạn trước, bên phía quỷ thần đã đánh nhau. Quỷ thần thắng trận thì chúng ta mới thắng trận; nếu quỷ thần thất trận, chúng ta chẳng thể thắng trận”.

Cụ nói trước thời Kháng Chiến[45], trong biến cố Hai Mươi Tám tháng Giêng[46] tại Thượng Hải, trước chiến dịch ấy ba tháng, khi đó, Châu lão cư sĩ đang làm Tổng Kinh Lý (Tổng Giám Đốc) cho ngân hàng nhà họ X… tại Tô Châu, cụ có một người bạn làm sai nha trong cõi Âm, địa vị không cao, giao chuyển công văn. Trong cõi Âm, thành hoàng Tô Châu giống như chủ tịch tỉnh, là thành hoàng của Giang Tô, cai quản cả một tỉnh. Trong cõi Âm, Thượng Hải được coi như một huyện, thuộc quyền cai quản của Thành Hoàng [Tô Châu]. Bên Thượng Hải giao sang một cuốn sổ sanh tử đã phê, ông ta lo việc giao chuyển. Ông ta mở ra xem trộm, xem xong rất ngỡ ngàng, vì tên họ đều là bốn chữ, năm chữ, chẳng giống tên họ của Trung Quốc. Hôm sau, cùng với mấy người bạn bè của Châu lão cư sĩ dùng cơm, ông ta kể: “Ngày hôm qua thành hoàng Thượng Hải giao cho cuốn sổ sanh tử đã phê, trong ấy ghi rất nhiều tên họ bốn chữ, năm chữ, rất lạ lùng!” Mọi người nghe xong đều không hiểu, người Trung Quốc họ kép bốn chữ cũng có, nhưng ít lắm, tuyệt đối chẳng thể nói họ kép lần này chết nhiều như thế, chẳng thể nào có chuyện ấy được! Suy đoán cách nào cũng không ra, bèn bỏ qua chuyện này. Ba tháng sau, cuộc chiến tại Thượng Hải bùng nổ, họ mới hoảng nhiên đại ngộ: Đấy là tên họ của người Nhật Bản chết tại đó. Vì thế nói là người đáng phải chết thì tên họ trong sổ sanh tử đã giao cho Thành Hoàng từ ba tháng trước. Do vậy, Châu lão cư sĩ nói: “Trong thế gian này nói chết oan uổng là do nhân gian chúng ta thấy [như vậy], chứ trên thực tế không có. Thật sự là oan oan tương báo. Họ có cái nhân trong đời trước”. Nếu chúng ta lắng lòng quan sát chuyện này thì trong hiện tiền sẽ đều có thể thấy được. Thật sự muốn cứu người đời, cứu xã hội, trừ Phật pháp ra, không có cách thứ hai nào!

Nhân duyên quả báo là sự thật ngàn vạn phần xác đáng. Đức Phật bảo chúng ta: Quan hệ giữa người và người có bốn nhân duyên, báo ân, báo oán (báo cừu), đòi nợ, trả nợ. Nếu mối quan hệ này rất sâu, sẽ biến thành người một nhà; quan hệ sơ sài, xa xôi một chút thì là thân thích, bè bạn. Chẳng có mối quan hệ này, cả đời cũng chẳng gặp. Nếu gặp gỡ thì cũng là người xa lạ, họ gật đầu chào quý vị, đều là do trong đời trước có nhân duyên, chắc chắn chẳng phải là ngẫu nhiên. Vì sao kẻ ấy thấy người khác hợp nhãn, nhưng cứ khăng khăng thấy quý vị ngứa mắt? Chắc chắn trong đời trước quý vị đã có khúc mắc với kẻ ấy, chỉ là sâu hay cạn mà thôi. Thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật này, tâm chúng ta sẽ bình. Đối đãi hết thảy mọi người bằng tấm lòng đại từ đại bi: Người có ân với ta, chí đồng đạo hợp, hy vọng họ có thể thành Phật trong một đời; người có oán với ta, hy vọng hóa giải oán kết, giúp họ học Phật. Vì thế, hiểu rõ Phật pháp sẽ là công đức vô lượng vô biên. Chẳng hiểu rõ, oan oan tương báo chẳng xong. Đó là khổ, khổ sở vô tận! Đúng là “biển khổ vô biên, quay đầu là bờ”. Vì thế, phải hiểu tứ pháp giới là duyên khởi vô tận, vô lượng nhân duyên, chắc chắn chẳng đơn thuần!

 

(Sớ) Nhị, Lý pháp giới.

() 二、理法界。

(Sớ: Hai là Lý pháp giới).

 Lý là nói tới bản thể, tức là nói tới bổn tánh. Nhìn từ Sự pháp giới, đó là hiện tượng sai biệt, Tướng vô cùng vô tận. Nhìn từ Lý pháp giới, hết thảy muôn hình tượng có cùng một bản thể như trong kinh Hoa Nghiêm đã dạy: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh pháp giới, hết thảy do tâm tạo), đó là do tâm tánh của chúng ta biến hiện. Nói “duy tâm sở hiện” là tâm có thể hiện tướng, “duy thức sở biến” là nói tới sự biến hóa nơi hình tướng, thiên biến vạn hóa do thức làm chủ. Chúng ta nằm mộng, trong mộng, ta cũng mộng thấy có núi, sông, đại địa, cũng mộng thấy người lành, kẻ ác. Thời gian nằm mộng khá ngắn ngủi, sau khi tỉnh giấc, chúng ta suy nghĩ cặn kẽ, mộng cảnh do đâu mà có? Hoàn toàn do chính mình biến hiện. Nếu bình thường chúng ta hỏi: “Tâm có hình dạng như thế nào?” Chúng ta không biết, tâm không có hình tướng! Trong khi chúng ta nằm mộng, chúng ta có thể nói: Những cảnh giới trong mộng chính là tướng trạng của tâm, tức là tướng trạng của cái tâm trong khi ấy. Tướng là hư vọng, là cái được biến; cái tâm có tác dụng biến hiện là thật. Chân – vọng chẳng hai, năng biến và sở biến là một, không hai. Vì thế, toàn thể chân tâm biến thành vọng cảnh, toàn thể vọng cảnh vốn là chân tâm. “Toàn chân tức vọng, toàn vọng tức chân”.

Nếu ở trong mộng, quý vị tự hỏi: Cái gì là chính mình? Chúng ta hãy suy nghĩ: Trong mộng có gì chẳng phải là chính mình? Trong mộng đương nhiên cũng có bản thân của chính mình, là chính mình. Người thân ái vẫn là chính mình, do chính mình biến ra! Kẻ oán gia đối đầu vẫn là chính mình y như cũ! Chẳng có gì không phải là chính mình. Ngay cả núi, sông, đại địa, hư không đều là chính mình. Trong mộng dễ tỉnh ngộ! Cuộc sống hiện thực của chúng ta trong hiện thời là một cảnh mộng lớn! Phải hiểu: Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là do chân tâm của chúng ta hiện ra, cũng là duy thức sở biến. Chư Phật và các đại Bồ Tát chứng đắc cảnh giới này, thật sự hiểu rõ chân tướng của nhân sinh và vũ trụ, mới biết đó là chính mình, ngoài chính mình ra, chẳng có ai khác. Vì thế, đối với hết thảy các chúng sanh sẽ sanh khởi lòng đại từ vô duyên, đại bi đồng thể. “Từ” là từ ái, “duyên” là điều kiện, [vô duyên là] không có điều kiện, [Vô Duyên Từ là] yêu thương người khác vô điều kiện. Vì sao? Vì chúng ta có cùng một Thể.

Nói “ngoài tâm vô pháp, ngoài pháp vô tâm” thì mới nói tới “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. Thế giới Cực Lạc cách ngoài mười vạn ức cõi Phật do đâu mà có? Vẫn do tâm tánh biến hiện. A Di Đà Phật cũng do tự tánh của chúng ta biến hiện. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng rời ngoài tâm tánh của chúng ta, vẫn là vật được hiện trong tâm tánh. Vì thế, cổ đức mới nói: “Sanh tắc quyết định sanh, khứ tắc thật bất khứ” (Sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi). Hai câu này nói trên hai phương diện khác nhau. “Sanh thì nhất định sanh” là nói theo Sự pháp giới. “Đi thì thật sự chẳng đi” là nói theo Lý pháp giới. Do vậy, hai câu này chắc chắn chẳng mâu thuẫn. Trên Thể là như như bất động, chẳng có đến hay đi, trên Tướng thì có đến, đi; nhưng phải hiểu: Tướng và Thể là một, không hai. Quý vị tách thành hai chuyện để xem, tức là mê rồi, chẳng thấy chân tướng. Nếu quý vị biết hai thứ ấy là một, không hai, chân tướng sẽ rạng ngời!

 

(Sớ) Tam, Sự Lý vô ngại pháp giới.

() 三、事理無礙法界。

(Sớ: Ba là Sự Lý vô ngại pháp giới).

Đây là nói viên dung vô ngại, Lý và Sự là viên dung, trong Lý và Sự chẳng có chướng ngại.

 

(Sớ) Tứ, Sự Sự vô ngại pháp giới.

() 四、事事無礙法界。

(Sớ: Bốn là Sự Sự vô ngại pháp giới).

Đối với Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, ba thứ pháp giới trước, tức Sự pháp giới, Lý pháp giới, Sự Lý vô ngại pháp giới, [xét theo] lý luận đều có thể thông suốt[47], chỉ riêng Sự Sự vô ngại pháp giới là không có, chỉ Viên Giáo mới có Sự Sự vô ngại pháp giới, Thuần Viên, đó là đại triệt đại ngộ. Thật sự giác ngộ triệt để chân tướng của vũ trụ và nhân sinh sẽ là Sự Sự vô ngại. Hễ chưa nhập cảnh giới này, nói chung là sẽ có chướng ngại. Ví như nay chúng ta học Phật, tín đồ Phật giáo Trung Quốc ăn chay, nếu quý vị ăn thịt, ôi chao, không được rồi! Đó là phạm phải tội nghiệp lớn tầy trời, đó là chướng ngại! Chướng ngại sanh từ đâu? Trong phần trên đã nói rồi đó: “Năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã”. Quý vị có những thứ ấy, cho nên có chướng ngại. Đạt đến Sự Sự vô ngại là cảnh giới Thuần Viên, chướng ngại gì cũng chẳng có!

Nhưng chưa đạt tới cảnh giới này, chớ nên học đòi! Nếu chưa đạt tới cảnh giới này mà học đòi [cách hành xử của những bậc đã đạt cảnh giới Sự Sự vô ngại], nhất định sẽ tạo tội nghiệp. Thuộc tầng cấp nào, chúng ta cũng phải tuân thủ quy củ của tầng cấp đó. Học Tiểu Học nhất định phải giữ quy củ của trường Tiểu Học, học Trung Học nhất định phải giữ quy củ của trường Trung Học. Vì sao? Chúng ta không có cách nào vượt thoát, Viên Giáo là vượt thoát triệt để. Vì thế, đối với Sự Sự vô ngại pháp giới, trong hết thảy các kinh Phật, chỉ mình kinh Hoa Nghiêm thuộc về Sự Sự vô ngại, nhất là phần năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử ở cuối kinh, đúng là pháp giới vô chướng ngại đại tự tại. Chúng ta hiểu lý luận này, hiểu chuyện này, nhưng trước mắt, chắc chắn chưa thể làm được. Cảnh giới của những vị ấy là cảnh giới sau khi đã đắc Lý nhất tâm bất loạn, là sự tu học sau khi đã minh tâm kiến tánh.

[Sách Diễn Nghĩa giảng] “Sự Sự vị chủ bạn trùng trùng, tương tức, tương nhập” (Sự Sự nghĩa là chủ và bạn trùng trùng, chính là lẫn nhau, nhập vào nhau): Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nêu ra những ví dụ về “lớn – nhỏ vô ngại”: Lớn như núi Tu Di, có thể bỏ núi Tu Di vào trong hạt cải. Chúng ta làm không được, hạt cải quá bé! Ngài nói núi Tu Di chẳng rút nhỏ, hạt cải cũng chẳng phình to, lớn có thể vào trong nhỏ, nhỏ có thể vào trong lớn. Nay chúng ta biết: Nhỏ vào trong lớn không có vấn đề gì, nhưng lớn vào nhỏ sẽ có vấn đề ngay! Nêu lên thí dụ này, nhằm giảng rõ cảnh giới Sự Sự vô ngại. Đây chắc chắn chẳng phải là điều chúng ta có thể làm được trong hiện thời!

 

(Sớ) Duy Hoa Nghiêm nhất kinh hữu chi.

() 唯華嚴一經有之。

(Sớ: Chỉ riêng kinh Hoa Nghiêm là có).

Sự Sự vô ngại pháp giới, chỉ kinh Hoa Nghiêm mới có. Nói thật ra, kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh điển vô cùng hay, phải nên đọc. Cổ nhân có nói: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, chẳng biết sự phú quý trong nhà Phật”. Nói cách khác, chẳng biết sự tốt đẹp do học Phật. Chẳng đọc Hoa Nghiêm, nói thật ra, quý vị cũng chẳng hiểu rõ đường nẻo trong Phật pháp, cũng chẳng tìm được đường lối tu hành. Bản thân tôi học Phật, có tín tâm kiên cố đối với pháp môn Niệm Phật là nhờ kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm nói đến hai ngàn pháp môn, nhưng Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện Tài đồng tử tu niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chúng tôi mới hoảng nhiên đại ngộ: Trong tất cả các pháp môn, pháp môn Tịnh Độ được kinh Hoa Nghiêm xếp vào bậc nhất.

Năm mươi ba lần tham học là Thiện Tài đồng tử đã làm gương, nhằm bảo chúng ta phải nên tu pháp môn Niệm Phật như thế nào. Thiện Tài đồng tử tu pháp môn Niệm Phật theo cách tu Sự Sự vô ngại. Năm mươi ba lần tham học, Ngài đến bất cứ đâu, đúng là chẳng có chướng ngại gì. Ngài đến tham phỏng với người học Phật lẫn người không học Phật; thậm chí tham phỏng cả ngoại đạo, tham phỏng người lành, tham phỏng cả kẻ ác, nhất loạt đối đãi bình đẳng. Năm mươi ba lần tham học nói theo xã hội hiện thời là dùng năm mươi ba vị Bồ Tát đại diện cho những nhân vật thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã hội, nam, nữ, già, trẻ, các ngành, các nghề, thảy đều tu pháp Đại Thừa chẳng trở ngại, không có chướng ngại. Bất luận quý vị có thân phận nào, bất luận quý vị làm nghề gì, quý vị học Phật đều có thể thành tựu trong một đời, lại còn chắc chắn chẳng mâu thuẫn với nghề nghiệp của quý vị, thật tuyệt diệu! Kẻ giết lợn, mổ trâu, hằng ngày có thể mổ lợn giết trâu mà cũng thành Phật y hệt. Nếu quý vị không hiểu, sẽ tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Khi đã hiểu, dù quý vị có làm nghề ấy vẫn có thể thành Phật. Quý vị làm nghề ấy là tu hành, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy nên là Thuần Viên, thật sự là Viên Giáo!

Trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, Cam Lộ Hỏa Vương suốt ngày từ sáng đến tối giết người, Ngài thành Phật. Những người bị giết ai nấy đều được cứu[48]. Ngài thật sự có bản lãnh ấy! Giết ngươi để giúp cho ngươi siêu sanh, cứu ngươi mà! Ngài nói với Thiện Tài đồng tử Ngài dùng tâm đại từ bi, dùng phương pháp ấy để cứu nhân độ thế, đại từ, đại bi, quyết định chẳng có sân khuể, tâm địa quyết định là thanh lương tự tại. Chúng ta đọc kinh thấy khi ấy Thiện Tài đồng tử thấy như vậy, có cảm giác rất sợ hãi, ngã lòng chẳng muốn đến gặp nhà vua nữa. Cuối cùng, thiên thần bảo cho Ngài biết chân tướng sự thật, nói rõ vua là một vị đại thiện tri thức, là đại Bồ Tát, phàm phu mắt thịt chúng ta chắc chắn chẳng thể nhìn ra! Vì thế, phải nên thâm nhập kinh Hoa Nghiêm, nghiên cứu cặn kẽ. Nay chúng ta mang thân phận gì, làm nghề gì, chẳng cần phải thay đổi thân phận, chẳng cần phải đổi nghề, vẫn có thể thành Bồ Tát đạo, vẫn có thể thành Phật, làm Tổ. Vì thế, Phật pháp Sự Sự vô ngại, Lý Sự vô ngại, rốt ráo viên mãn ở trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.

 

(Sớ) Danh vi Biệt Giáo Nhất Thừa, dĩ Sự Lý vô ngại, đồng Đốn, đồng Chung, Sự Sự vô ngại, bất đồng bỉ nhị, giản hồ đồng giáo Nhất Thừa, cố danh vi Biệt.

() 名為別教一乘 ,以事理無礙 ,同頓同終 事事無礙,不同彼二,揀乎同教一乘,故名為別。

(Sớ: Gọi [kinh Hoa Nghiêm] là Biệt Giáo Nhất Thừa vì Sự Lý vô ngại giống với Đốn Giáo và Chung Giáo, còn Sự Sự vô ngại chẳng giống với hai giáo ấy, nhằm phân biệt khác với Nhất Thừa của Viên Giáo[49] nên gọi là Biệt).

Điều này dựa trên tánh chất của kinh Hoa Nghiêm để nói.

 

(Sớ) Phi Tạng Thông Biệt Viên chi Biệt dã.

() 非藏通別圓之別也。

(Sớ: [Nói Sự Sự vô ngại là Biệt Giáo chính là dựa theo ý nghĩa trên đây], chứ không phải là Biệt hiểu theo nghĩa “Tạng, Thông, Biệt, Viên”).

Biệt Giáo ở đây là nói theo ý nghĩa này, chứ Biệt ở đây vẫn thuộc vào Viên Giáo trong bốn giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên.

 

(Sớ) Kim vị phần nhiếp hồ Viên giả.

() 今謂分攝乎圓者。

(Sớ: Nay nói [kinh Di Đà] có phần thuộc Viên là…)

Nói đến bộ kinh A Di Đà này.

 

(Sớ) Dĩ Hoa Nghiêm toàn viên, kim đắc thiểu phần, lược thuyết hữu thập.

() 以華嚴全圓,今得少分,略說有十。

(Sớ: Do Hoa Nghiêm là toàn viên, nay kinh này có được ít phần, nói đại lược thì gồm mười điều).

“Đắc thiểu phần”: Kinh này có một ít ý nghĩa thuộc Viên Giáo, hết sức gần với mười huyền môn được giảng trong kinh Hoa Nghiêm. Dưới đây là nói đại lược, nêu lên mười thí dụ mà thôi.

 

(Sớ) Nhất, Hoa Nghiêm khí giới trần mao, hình vô hình vật, giai tất diễn xuất diệu pháp ngôn âm.

() 、華嚴器界塵毛 ,形無形物 皆悉演出妙法言音。

(Sớ: Một là trong kinh Hoa Nghiêm, khí thế giới, vi trần, mảy lông, những vật có hình tướng hoặc không có hình tướng, đều diễn ra âm thanh diệu pháp).

Điều này nói rõ trong kinh Hoa Nghiêm, vô tình thuyết pháp. Nay chúng ta gọi “khí” (器) là thế giới vật chất, tức là thực vật, khoáng vật, đó là “khí thế giới”. Trong kinh Hoa Nghiêm, thực vật lẫn khoáng vật đều thuyết pháp, đều biểu thị pháp. “Trần mao”: “Trần” là vi trần, “mao” là sợi lông. “Hình vô hình”: Hữu hình hoặc vô hình. Những vật chất ấy đều có thể “diễn xuất diệu pháp”, tức là chúng đều có thể biểu diễn, đều có thể thuyết pháp.

 

(Sớ) Thử tắc thủy, điểu, thụ lâm, hàm tuyên Căn, Lực, Giác, Đạo chư pháp môn cố.

() 此則水鳥樹林,咸宣根力覺道諸法門故。

(Sớ: Trong kinh này, nước, chim, rừng cây đều tuyên nói các pháp môn như Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Thánh Đạo).

“Thử” là nói về kinh này, giống như kinh Hoa Nghiêm! Trong kinh Di Đà có nói: Tây Phương có nước tám công đức trong ao bảy báu. Những loài chim, cây cối, hàng cây cũng có thể thuyết pháp, giảng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo. Đấy chỉ là nêu vài thí dụ, nhưng cũng bao gồm toàn bộ hết thảy các pháp, toàn bộ Phật pháp cũng đều được lục trần thuyết pháp.

 

(Sớ)   Nhị,  Hoa Nghiêm nhất vi trần trung,  cụ túc thập phương pháp giới, vô tận trang nghiêm.

() 二、華嚴一微塵中,具足十方法界,無盡莊嚴。

(Sớ: Hai, trong kinh Hoa Nghiêm, ở trong một vi trần có trọn đủ mười phương pháp giới, trang nghiêm vô tận).

“Vi trần” cực nhỏ, trong nhỏ có thể hiện lớn, có thể hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười phương pháp giới, giống như hiện thời chúng ta xem TV: Từ màn hình TV, chúng ta có thể thấy được hoạt động của toàn thế giới, chúng ta dùng tỷ dụ này. Thế nhưng màn hình TV rất lớn, nếu không, sẽ chẳng thấy rõ được. Kinh [Hoa Nghiêm] nói: Trong một sợi lông, hay trong một vi trần, có thể hiện cảnh giới, mà lại còn thấy chân thật, chính xác hơn chúng ta xem TV, chi tiết hơn, khía cạnh nào cũng có thể thấy trọn vẹn. Đấy là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sớ) Thử tắc như Đại Bổn vân.

() 此則如大本云。

(Sớ: Kinh này thì như Đại Bổn có nói).

Trong kinh Di Đà không có, nhưng trong kinh Vô Lượng Thọ có nói. Phân lượng của kinh Vô Lượng Thọ nhiều hơn, nói chi tiết hơn.

 

(Sớ) Ư bảo thụ trung, kiến thập phương Phật sát, do như kính tượng cố.

() 於寶樹中,見十方佛剎,猶如鏡像故。

(Sớ: Trong cây báu thấy cõi Phật trong mười phương như bóng hiện trong gương).

Kinh Đại Bổn nói trong bảy hàng cây báu, hàng cây giống như màn hình TV: Khi quý vị dạo chơi giữa các hàng cây, có thể thấy chư Phật trong mười phương thuyết pháp trong ấy, nhìn thấy nhân duyên, quả báo của chúng sanh trong mười phương thế giới chẳng sót, có thể thấy quá khứ, hiện tại, vị lai, thảy đều có thể trông thấy. [Lời Sớ viết] “diệc hàm vô lượng” (cũng bao hàm vô lượng), [ngụ ý]: Ý nghĩa này giống với kinh Hoa Nghiêm.

 

(Sớ) Tam, Hoa Nghiêm bất động tịch tràng, biến châu pháp giới, cố vân Thể Tướng như bổn vô sai biệt, vô đẳng vô lượng tất châu biến.

() 三、 華嚴不動寂場, 遍周法界 故云體相如本無差別,無等無量悉周遍。

(Sớ: Ba là Hoa Nghiêm bất động tịch tràng, trọn khắp pháp giới, nên nói Thể và Tướng giống như Bổn chẳng sai biệt. Vô đẳng, vô lượng thảy đều trọn khắp).

“Như bổn vô sai biệt” chính là “bất động tịch tràng”: Tràng là tâm địa, “tịch” là thanh tịnh tịch diệt. Khi trong tâm ta chẳng sanh một niệm, khi ấy là “bất động tịch tràng”. Khi một niệm chẳng sanh, chân tâm hoàn toàn hiển lộ. Nay chúng ta nói: “Cái gì ta cũng chẳng nghĩ tới, tâm ta cũng sẽ định”. Đó có phải là cảnh giới này hay không? Chẳng phải! Vì sao chẳng phải? Khi thật sự thanh tịnh, tịch diệt, tâm địa là một khối quang minh. Dẫu tâm chúng ta rất thanh tịnh, nhưng bất cứ chuyện gì bên ngoài cũng đều chẳng biết, thì nói cách khác, ta đang bị vô minh che lấp. Nhất tâm nhất định phá vô minh. Nếu nói chính mình đã đắc nhất tâm, mà vô minh vẫn chưa phá, đó chẳng phải là nhất tâm thật sự. Do vậy, tu Thiền Định có một thứ gọi là Vô Tưởng Định, Phật pháp gọi loại Định này là ngoại đạo, đệ tử Phật chẳng tu! Tu Vô Tưởng Định thành tựu, quả báo sẽ là Vô Tưởng Thiên trong Tứ Thiền Thiên. Định ấy tu thành tựu thì cái gì cũng chẳng biết, chẳng tương ứng với ý nghĩa Thiền Định trong Phật pháp. Định trong Phật pháp là “tịch tịch, tinh tinh”, “tịch tịch” (寂寂) là Định, chẳng sanh một niệm; “tinh tinh” (惺惺) là hiểu rõ hết thảy, chẳng có gì không hiểu. Tâm giống như một tấm gương trong sạch, chẳng nhiễm mảy trần. Gương có thể chiếu, soi cảnh giới bên ngoài rõ ràng, đó là “bất động tịch tràng”, là nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là không gì chẳng biết, nhất tâm bất loạn là biết hiện tại, quá khứ, vị lai, đều biết hết cả, đó là nhất tâm chân chánh. Do vậy, đừng hiểu lầm cảnh giới! “Vô đẳng vô lượng” là nói thế giới. Vô đẳng thế giới, vô lượng thế giới đều là ý nghĩa trọn khắp pháp giới. Trong kinh này nói:

 

(Sớ) Thử tắc như Đại Bổn vân: “A Di Đà Phật thường tại Tây Phương, nhi diệc biến thập phương cố”.

() 此則如大本云 阿彌陀佛常在西方 而亦遍十方故。

(Sớ: Kinh này thì như Đại Bổn nói: A Di Đà Phật thường ngự tại Tây Phương, mà cũng trọn khắp mười phương).

A Di Đà Phật quả thật từ trước đến nay chưa hề rời khỏi Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng trọn hư không, khắp pháp giới, không nơi đâu A Di Đà Phật chẳng hiện thân. Chỗ nào có cảm, A Di Đà Phật liền hiện thân nơi đó, Phật có ứng, cảm ứng đạo giao! A Di Đà Phật có đến hay không? Chẳng thể nói là Ngài không đến, mà cũng chẳng thể nói là Ngài có đến. Cổ nhân đã nêu một tỷ dụ về cảnh giới này: “Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt” (nước ngàn con sông in bóng ngàn mặt trăng). Trăng có đến trong sông hay chăng? Không đến, nhưng trong nước thật sự có trăng. A Di Đà Phật tại Tây Phương Cực Lạc thế giới bất động, mà mười phương thế giới đều có A Di Đà Phật. Chúng sanh có cảm, giống như ở nơi ấy có nước, chỗ có nước bèn có thể hiện bóng trăng, cảm ứng đạo giao. Chúng sanh niệm Phật trong mười phương thế giới khi lâm chung, hóa thân của A Di Đà Phật đến tiếp dẫn quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hóa thân Phật đến tiếp dẫn quý vị, chẳng thể nói hóa thân không phải là đức Phật thật sự. Nói thật ra, đạt đến cảnh giới ấy thì chẳng giả mà cũng chẳng thật, chân và giả đều không áp dụng được! Điều này có cùng ý nghĩa với “bất động châu biến”. Hôm nay thời gian đã hết rồi.