A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 4 – Tập 98 – 105

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 4 – Tập 98-105

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 98

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm tám mươi lăm:

 

(Sớ) Thử kinh bổn danh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh.

() 此經本名:稱讚不可思議功德一切諸佛所護念經。

(Sớ: Kinh này vốn có tên là Kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm).

Tên kinh này do chính Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra. Trong phần sau, trong đoạn Sáu Phương Phật sẽ nêu ra tên gốc của kinh này. Tên này hết sức trọng yếu. Từ tên kinh này, chúng ta có thể nhận biết pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn. Xưng Tán là ai khen ngợi? Mười phương ba đời hết thảy chư Phật, không vị Phật nào chẳng khen ngợi, khen ngợi điều gì? Khen ngợi Bất Khả Tư Nghị Công Đức. Công là gì? Đức là gì? Công là tín nguyện trì danh, công phu, công tu hành ấy. Đức là gì? Đức và Đắc (đạt được) có cùng một ý nghĩa, thời cổ, hai chữ này dùng lẫn lộn; vì thế, Đức là cái ta đạt được! Quý vị nương theo công phu này để tu, sẽ đạt được gì? Vãng sanh bất thoái. “Tín nguyện trì danh, vãng sanh bất thoái” là công đức của bộ kinh này!

Vì sao nói chẳng thể nghĩ bàn? Thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Sự thật này “chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu đạt rốt ráo”, Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thể hiểu rất rõ ràng, do nguyên nhân nào? Chúng ta thường tán thán Phật là vạn đức vạn năng, giác hạnh viên mãn. Có rất nhiều người nói khen ngợi như vậy chính là cách nói tượng trưng, vì Phật há có năng lực to lớn ngần ấy? Phật chẳng thể làm được rất nhiều chuyện như thế. Chúng ta không chỉ nghe tục nhân phê bình như thế, thậm chí các đại pháp sư xuất gia cũng phê bình như vậy! Họ phê bình đúng hay sai? Họ phê bình chẳng đúng, nói thật ra, họ chẳng thấy được mọi mặt trong Phật pháp!

Nói cách khác, nếu người ấy thật sự liễu giải kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, và pháp môn Tịnh Độ, sẽ thừa nhận Phật thật sự vạn đức vạn năng, đúng là giác hạnh viên mãn, chẳng còn tranh cãi gì nữa. Vì sao? Chúng sanh tội nghiệp cực nặng, Ngũ Nghịch, Thập Ác, tạo những trọng tội ấy ngay lập tức phải đọa địa ngục, nếu chúng ta hỏi, đức Phật có bản lãnh khiến cho những kẻ như vậy chẳng đọa địa ngục hay chăng? Không chỉ chẳng đọa địa ngục, mà còn có thể khiến cho kẻ ấy ngay lập tức thành Phật hay không? Nếu đức Phật có bản lãnh ấy, đức Phật là vạn đức vạn năng, là giác hạnh viên mãn. Nếu đức Phật chẳng có năng lực ấy, tức là năng lực của Phật vẫn còn khiếm khuyết, chúng ta nói Ngài vạn đức vạn năng chỉ là lời ca ngợi, chẳng thật, chẳng phải là sự thật. Thật ra, từ kinh này, chúng ta đã có được kết luận, Phật vạn đức vạn năng là sự thật, tức là nói chúng sanh Ngũ Nghịch, Thập Ác phải đọa địa ngục, đức Phật không chỉ có thể khiến cho họ chẳng đọa địa ngục, mà còn có thể khiến cho họ lập tức thành Phật. Đức Phật dùng phương pháp gì? Bảo họ niệm Phật.

Từ Thập Lục Quán Kinh, tức là từ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, có mười sáu phép Quán [để quán] Vô Lượng Thọ Phật. Mười sáu phép Quán ấy bao gồm trọn hết: Mười hai phép Quán đầu là Quán Tưởng Niệm Phật, [phép Quán thứ] mười ba, mười bốn và mười lăm là Quán Tượng Niệm Phật; [phép Quán] thứ mười sáu là Trì Danh Niệm Phật. Quý vị phải ghi nhớ: Kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ đều chú trọng trì danh niệm Phật. Trì Danh Niệm Phật là phép Quán thứ mười sáu trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Độ hạng chúng sanh nào? Kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác, khi lâm chung, một niệm hay mười niệm đều có thể vãng sanh. Hễ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ viên chứng ba thứ Bất Thoái, còn có gì để nói hay chăng? Viên chứng ba thứ Bất Thoái là thành Phật!

Nếu chẳng thành Phật, làm sao có thể viên chứng ba thứ Bất Thoái? Trong phần trước, chúng tôi đã nói: Tiểu Thừa Sơ Quả mới chứng Vị Bất Thoái; thuộc về Đại Thừa là hàng Tứ Quả A La Hán hồi Tiểu hướng Đại. Nếu nói theo Viên Giáo, Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín chứng Hạnh Bất Thoái, tức loại Bất Thoái thứ hai. Minh tâm kiến tánh, phá một phẩm vô minh, phần chứng Pháp Thân thì mới có thể chứng đắc Niệm Bất Thoái, nhưng đó là mới vừa chứng đắc, chưa viên mãn. Viên mãn ba thứ Bất Thoái là ai? Là Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo, tức là những vị như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, các Ngài mới là viên chứng ba thứ Bất Thoái. Do vậy, công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn, vì sao? Quý vị thấy các Ngài chẳng cần tu ba đại A-tăng-kỳ kiếp, chẳng cần phải trải qua nhiều tầng cấp, địa vị như vậy, từ Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, lại đạt đến Đẳng Giác, không cần phải trải qua như thế, từ phàm phu ngay lập tức đạt lên cao như vậy, lại là trong một niệm hay mười niệm trong khoảng sát-na bèn đạt được, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Thật vậy, Bồ Tát đều nghĩ chẳng thông suốt, đây là đạo lý gì? Trong Tịnh Độ Tam Kinh đã giảng cặn kẽ đạo lý này, giảng cho chúng ta biết đạo lý này. Vì vậy, đấy là công đức chẳng thể nghĩ bàn. Do đó, mười phương chư Phật không vị nào chẳng tán thán, không vị nào chẳng hoằng dương, quý vị phải biết [như vậy]!

Vì lẽ đó, pháp môn này thù thắng nhất, là pháp môn bậc nhất. Các pháp môn khác chẳng thể độ, chẳng có cách nào độ, nhưng pháp môn này có thể độ, đấy mới là bậc nhất. Quý vị nghĩ đến Thiền hay Mật, bất luận một pháp môn nào, có thể độ kẻ Ngũ Nghịch Thập Ác hay không? Chẳng độ được! Dẫu là có thể độ thì cũng phải mất một thời gian rất dài, phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, hay vô lượng kiếp, chẳng thể khiến kẻ ấy đắc độ ngay lập tức! Trong kinh này đã nói: “Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, cho đến hoặc bảy ngày”. Một ngày bèn độ được! Trong một ngày độ kẻ phàm phu trong địa ngục thành Phật, pháp này chẳng phải là pháp môn bậc nhất để chư Phật độ chúng sanh thì pháp môn nào mới gọi là bậc nhất? Quý vị hãy suy nghĩ cặn kẽ! Do vậy, [pháp này được] mười phương chư Phật xưng tán.

Mười phương chư Phật đã xưng tán, chúng ta lại hỏi: Mười phương chư Phật có giảng kinh này hay không? Đương nhiên là giảng! Căn tánh của chúng sanh trong mười phương thế giới khác nhau, nên chư Phật trong mười phương thế giới giảng kinh cũng khác nhau, chỉ riêng bộ kinh này là giống nhau. Mười phương ba đời tất cả chư Phật không vị nào chẳng giảng kinh Di Đà, không vị nào chẳng giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tịnh Độ Tam Kinh Nhất Luận chắc chắn giống nhau, vị Phật nào cũng đều phải giảng, vì sao? Nếu Phật chẳng giảng kinh này, sẽ chẳng thể phổ độ chúng sanh, sẽ chẳng thể triệt để viên mãn độ thoát chúng sanh trong một thời gian ngắn nhất, đức Phật sẽ chẳng thể [làm được]; chỉ có mình pháp môn này! Do vậy, chư vị phải hiểu: Quý vị có thể gặp gỡ pháp môn này, đến rốt ráo là phước khí như thế nào? Chẳng có cách nào diễn tả được! Bất khả thuyết bất khả thuyết [phước báo], không có cách nào nói được! Từ vô lượng kiếp tới nay, trong một đời này, quý vị có thể gặp pháp môn này, đúng là lạ lùng, phước báo do đâu mà có? Từ đề mục này, chúng ta có thể hiểu thật sâu ý nghĩa này.

Do vậy, tôi khuyên mọi người, quý vị học kinh bèn học ba kinh là đủ rồi, học giảng kinh bèn học giảng ba kinh, chính mình nương theo kinh này để tu hành, dùng kinh này hóa độ chúng sanh, giảng cho người khác nghe, không nên giảng gì khác, những kinh khác đều là kinh hạng hai, hạng ba, kinh này là bậc nhất. Kinh bậc nhất chỉ có một bộ này, không có bộ thứ hai! Ngay cả Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều là Tự Phần của kinh này, dẫn đường, hướng dẫn [tới kinh này], quý vị có thể suy nghĩ mà biết tầm quan trọng của kinh này. Quả thật chẳng dễ gì gặp gỡ, cho nên công đức chẳng thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều nói đây là công đức chẳng thể nghĩ bàn, có thể khiến cho chúng sanh tội nghiệp cực nặng thành Phật trong một ngày.

Nay chúng ta nghiệp chướng chẳng nặng như vậy, chẳng tạo trọng tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, chúng ta chẳng thành Phật hay sao? Chắc chắn có thể thành tựu. Nhưng hiện thời vẫn chưa thành tựu, quý vị chẳng thành tựu là do nguyên nhân nào? Quý vị đối với kinh này, đối với pháp môn này vẫn chưa thể khăng khăng một mực, vì sao? Chưa nhận thức rõ ràng, kinh nói “pháp khó tin”, quý vị có tin hay không? Tin! Tuy tin, nhưng chưa đủ chân thật, tin chưa triệt để. Quý vị có phát nguyện hay không? Có phát nguyện, nhưng nguyện chẳng thiết tha. Quý vị có hành hay không? Có, cũng niệm Phật, nhưng niệm chẳng đủ sức, niệm chưa đến mức! Do vậy, tuy Tín, Nguyện, Hạnh đều có, nhưng rất dễ duôi, biếng nhác. Bộ kinh này rốt ráo [giảng dạy] chuyện gì, quý vị chẳng triệt để hiểu rõ. Thật sự triệt để hiểu rõ thì điều gì cũng đều buông xuống. Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức, phải hiểu điều này! “Xưng tán” là được mười phương chư Phật xưng tán, mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều xưng tán.

Trong  Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh cũng có rất nhiều ý

nghĩa này. Nhất Thiết Chư Phật chỉ mười phương ba đời hết thảy chư Phật. [Kinh này] được hết thảy chư Phật hộ trì, trong tâm hết thảy chư Phật đều nghĩ tới. Nói lời thật thà, Phật có phải niệm kinh này hay không? Phải niệm, vì sao? Nếu Ngài chẳng niệm kinh này, sẽ chẳng thể thành Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật như thế nào? Niệm A Di Đà Phật thành Phật, chư vị phải biết điều này. Không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, mà hết thảy chư Phật đều do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật, đạo lý này cũng rất sâu xa. Đối với ý nghĩa của A Di Đà Phật, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác, quý vị hãy suy nghĩ: Hết thảy chư Phật có phải là Vô Lượng Giác hay không? Nếu các Ngài chẳng phải là Vô Lượng Giác, làm sao thành Phật cho được? Vì thế, A Di Đà Phật là danh hiệu chung của hết thảy chư Phật. Nếu các Ngài không thành Vô Lượng Giác, sẽ chẳng thể thành Phật. Do vậy, các Ngài phải niệm tự tánh A Di Đà, niệm Vô Lượng Giác trong tự tánh, chứng đắc Vô Lượng Giác trong tự tánh, sẽ thành Phật viên mãn. Do vậy, mới hiểu chư Phật do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật.

Đồng thời, qua kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Văn Thù, Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo, trong hội Hoa Nghiêm, [các Ngài] vẫn phải phát nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vì sao? Đương nhiên là vì muốn thành Phật. Thành vị Phật nào? Thành Viên Giáo Phật, là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là Vô Lượng Giác. Không chỉ chính các Ngài phát nguyện vãng sanh, còn dùng mười đại nguyện vương để khuyên dạy trọn khắp những vị Bồ Tát minh tâm kiến tánh, tức là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong Hoa Tạng hải hội, thảy đều cầu sanh Tây Phương thế giới. Bốn mươi mốt địa vị là Thập Trụ gồm mười địa vị, Thập Hạnh gồm mười địa vị, Thập Hồi Hướng gồm mười địa vị, Thập Địa gồm mười địa vị; [tổng cộng] bốn mươi địa vị, kể cả Đẳng Giác Bồ Tát thành bốn mươi mốt địa vị Bồ Tát. Trong mỗi một địa vị chẳng biết có bao nhiêu người? Chẳng có cách nào tính toán! Thảy đều vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, để làm gì? Sang bên kia để thành Phật quả trong Viên Giáo.

Còn có pháp hội nào thù thắng, trang nghiêm hơn pháp hội này? Chúng ta tìm không được. Vì thế, nói “kinh Hoa Nghiêm là Tự Phần của kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ”, chẳng sai tí nào! Do vậy, một bộ Hoa Nghiêm tới cuối cùng trở về Tịnh Độ, trở về kinh này, được hết thảy chư Phật hộ niệm. Hộ pháp thì pháp môn này là pháp môn bậc nhất, nhưng quý vị chẳng biết giá trị, chẳng quý mến nó. Quý vị thật sự biết giá trị, sẽ hết sức quý trọng, yêu mến nó, chớ nên để nó thất truyền, phải hoằng dương rạng rỡ, thật sự nhận biết. Huống chi kinh còn dạy chúng ta: Một người thật sự phát tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, A Di Đà Phật sẽ phái hai mươi lăm vị Bồ Tát ngày đêm bảo vệ, hộ trì quý vị. Quý vị sẽ chẳng gặp những tai nạn xấu ác, chẳng bị nguy hiểm, thật lòng sanh về Tịnh Độ, hoằng dương Tịnh Độ. Không chỉ phải phát tâm cầu sanh Tịnh Độ, mà chúng ta còn phải phát tâm hoằng dương Tịnh Độ, vì sao? Tương ứng với bổn nguyện của Phật.

Có rất nhiều đồng tu cũng có lúc nói với tôi, muốn tôi dạy họ giảng kinh. Tôi giảng ở nơi đây là dạy quý vị giảng kinh, quý vị hãy chú ý nghe, nghe kỹ càng, nghe xong, quý vị sẽ biết giảng. Sau khi quý vị đã nghe, có thể giảng được bao nhiêu bèn giảng bấy nhiêu, chỉ cần chẳng giảng sai là được rồi! Chỗ nào không biết giảng, đừng giảng; biết giảng thì giảng, [như vậy] thì sẽ chẳng sai! Tôi dạy quý vị giảng một bộ kinh Di Đà, đừng lôi Sớ Sao ra, vì một bộ sách lớn như vậy sẽ dọa kẻ khác chết khiếp! Ta biết giảng đề mục, bèn giảng một câu ấy là được rồi. Ta biết giảng kinh văn bèn giảng mấy câu cũng được. Vì thế, giảng những thứ đơn giản, dễ hiểu, nhất là đối với con người hiện thời, mọi người công việc đều rất bận rộn, đâu có thời gian dài như vậy để nghe quý vị giảng một bộ kinh lớn? Đó là chuyện không thể nào được! Càng đơn giản càng hay! Nói ra những ý nghĩa trọng yếu trong ấy là được rồi! Chúng ta nhắm đến mục đích làm cho người khác tin tưởng pháp môn Niệm Phật, khiến cho họ phát nguyện, chịu niệm thì mục đích đã đạt. Giảng cho họ tin tưởng, khiến họ thật sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thật sự chịu niệm Phật, hoằng dương Tịnh Độ nhằm mục đích này! Do vậy, đây là kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm.

Do điều này có thể biết: Chúng ta là người  thật  sự  đọc  tụng  bộ kinh điển này, nhất định sẽ được hết thảy chư Phật hộ niệm. “Niệm” ở đây là Phật thường nhớ đến chúng ta, thường nghĩ nhớ chúng ta, Phật thường che chở chúng ta, vì sao? Ngài phải bảo vệ pháp môn này. Chúng ta muốn cầu Phật, Bồ Tát bảo vệ, cầu Phật, Bồ Tát phù hộ thì hãy niệm kinh này. Quý vị niệm A Di Đà Phật, nhất định được hết thảy chư Phật gia hộ. Do vậy, có thể thấy sự thù thắng của pháp môn này. Vì sao khi Cưu Ma La Thập đại sư dịch kinh chẳng dùng tên gốc của bản kinh, mà đổi đề mục thành Phật Thuyết A Di Đà Kinh? Vì sao phải sửa như vậy?

 

(Sớ) Kim danh thị Thập Sư cải định.

()  今名是什師改定。

(Sớ: Tên kinh hiện thời do La Thập đại sư sửa đổi).

“Kim danh” là tên hiện thời của kinh này, chính là Phật Thuyết A Di Đà Kinh. Tựa đề kinh này chẳng phải do đức Phật nói, mà do chính La Thập đặt ra tên gọi ấy. Ngài đặt tên này cũng có dụng ý rất sâu, vì kinh này chủ yếu dạy quý vị hãy chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, rành rành là dùng ngay danh hiệu để làm tựa đề của kinh. Do vậy, vừa nhìn thấy kinh này, tự nhiên quý vị niệm một câu A Di Đà Phật, dụng ý ấy rất ư là sâu! Do vậy, người đời sau cũng hết sức tán thán trí huệ của La Thập đại sư, cũng rất bội phục, chẳng nói đề mục do Ngài đặt ra chẳng đúng, vì Ngài đặt ra đề mục này phù hợp rất sâu với ý đức Phật: Khuyên con người hãy niệm A Di Đà Phật.

 

(Sớ) Tự hữu nhị nghĩa.

()  自有二義。

(Sớ: Tự có hai nghĩa).

Nêu ra hai đạo lý [trong việc La Thập đại sư chọn tên kinh như vậy].

 

(Sớ) Nhất giả, Phật nhiếp vô tận nghĩa cố.

()  一者佛攝無盡義故。

(Sớ: Một là do Phật nhiếp thọ vô tận ý nghĩa).

 

Trong bốn chữ A Di Đà Phật bao hàm vô lượng nghĩa.

(Sớ) Nhị giả, bỉ Phật nhân sở nhạo văn cố.

()  二者彼佛人所樂聞故。

(Sớ: Hai là con người thích nghe [danh hiệu] đức Phật ấy).

“樂” đọc là Yào (âm Hán Việt tương ứng là Nhạo), nghĩa là ưa thích, vui thích. “Bỉ Phật” là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật đặc biệt có duyên rất sâu với chúng sanh trong thế gian này, mọi người thích nghe tên Ngài. Do vậy, La Thập đại sư dùng danh hiệu Phật để làm tên kinh với dụng ý ấy. Trong lời Sao tiếp theo đây, [Liên Trì đại sư] đã giải thích hai ý nghĩa của việc La Thập đại sư lập ra đề mục này.

 

(Sao) Nhiếp nghĩa vô tận giả, như tiền vân “ngôn Phật tiện châu”.

() 攝義無盡者,如前云言佛便周。

(Sao: “Nhiếp thọ vô tận nghĩa” là như trong phần trước đã nói: “Nói tới Phật liền trọn khắp”).

“Ngôn Phật tiện châu”: Nói tới Phật, hết thảy các ý nghĩa đều viên mãn, trọn đủ.

 

(Sao) Tắc nhất thiết công đức giai tùng Phật xuất, Phật tức bất tư nghị cố.

() 則一切功德皆從佛出,佛即不思議故。

(Sao: Tức là hết thảy công đức đều phát xuất từ Phật, Phật là chẳng thể nghĩ bàn).

Ý nghĩa này cũng rất rõ ràng.

 

(Sao) Hựu Di Đà vạn đức hồng danh, thập phương tam thế nhất thiết chúng sanh chi sở hỷ nhạo, thượng chí chư Phật tán thán, hạ chí quỷ súc quy y, chánh vị bất tư nghị công đức cố.

()又彌陀萬德洪名,十方三世一切眾生之所喜樂,上至諸佛讚歎,下至鬼畜歸依,正謂不思議功德故。

(Sao: Lại nữa, vạn đức hồng danh Di Đà được mười phương ba đời hết thảy chúng sanh ưa thích, trên là được chư Phật tán thán, dưới là ngạ quỷ, súc sanh đều quy y, nên bảo là “công đức chẳng thể nghĩ bàn”).

Ý nghĩa này cũng hết sức hay. Như vừa mới nói, mười phương ba đời hết thảy chư Phật, không vị nào chẳng tán thán A Di Đà Phật, không vị nào chẳng khuyên con người cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, không vị nào chẳng khuyên con người niệm A Di Đà Phật. Do vậy, quý vị niệm A Di Đà Phật, chư Phật hoan hỷ. Đức Phật chẳng nói: “Cớ sao các ngươi niệm A Di Đà Phật, mà chẳng niệm ta?” [Nếu nghĩ] Phật sẽ tức giận, thì đó là tâm lượng của người trong thế gian chúng ta, chẳng phải là tâm Phật. Vì sao? Đức Phật biết: “Quý vị niệm ta sẽ chẳng thành Phật, chẳng thể vãng sanh. Chỉ có niệm A Di Đà Phật, mới có thể vãng sanh, mới có thể thành Phật”. Chúng ta phải hiểu rõ điều này.

Nguyện vọng lớn nhất của mười phương chư Phật là mong mỏi chúng ta ngay lập tức thành Phật, đó là nguyện vọng của Phật. Chúng ta làm như thế nào thì mới có thể ngay lập tức thành Phật? Quý vị niệm A Di Đà Phật, sẽ nhanh chóng thành Phật. Đúng như Thiện Đạo đại sư đã dạy, Ngài bảo chúng ta hãy chuyên niệm, thứ nhất là thân chuyên lễ, mỗi ngày thân chúng ta lễ bái, lễ bái vị nào? Lạy A Di Đà Phật, thân chuyên lễ A Di Đà Phật. Miệng chẳng niệm điều gì khác, những điều khác thảy đều chẳng niệm, chuyên niệm A Di Đà Phật. Trong tâm cũng chẳng tưởng gì khác, điều gì cũng chẳng nghĩ tới, chuyên tưởng A Di Đà Phật. Thân này cũng chẳng cần lạy vị Phật nào khác, chẳng cần lạy vị Bồ Tát nào khác, thân, khẩu, ý tam nghiệp của quý vị có thể chuyên chú vào A Di Đà Phật. Thiện Đạo đại sư nói: Một trăm người tu, một trăm người vãng sanh. Một ngàn người tu, một ngàn người vãng sanh. Vạn người tu, vạn người đến. Có thật hay chăng? Thật đấy! Chẳng giả tí nào!

Chúng ta thấy khá nhiều chuyện thật sự; chẳng hạn như những câu chuyện do lão pháp sư Đàm Hư đã kể trong lời khai thị Phật Thất. Đó là thật, chẳng giả! Một đồ đệ của pháp sư Đế Nhàn niệm Phật ba năm bèn đứng vãng sanh, biết trước lúc mất. Chết rồi vẫn đứng sững ba ngày, chờ lão hòa thượng đến lo liệu hậu sự cho ông ta. Quý vị thấy bản lãnh của người ta lớn cỡ nào? Người ấy chẳng biết chữ, tuy xuất gia, pháp sư Đế Nhàn cho ông ta xuống tóc, nhưng chẳng cho thọ giới, lão hòa thượng chẳng cần ông ta phải thọ giới. Ông ta đã già khọm rồi mới xuất gia, chẳng cần thọ giới. Chính ông ta đương nhiên chẳng thể xem kinh, trước nay cũng chưa hề nghe giảng kinh lần nào! Sau khi [ông ta] xuất gia, lão hòa thượng dạy: “Ông cứ niệm miết một câu Nam-mô A Di Đà Phật”. Ông thật sự mỗi ngày lễ bái A Di Đà Phật, niệm A Di Đà Phật, tưởng A Di Đà Phật, thực hiện ba năm, bèn thành công. Quý vị hỏi ông ta điều gì khác, ông ta cũng không biết. Đại Bi, Thập Tiểu Chú đều không biết. Gõ dẫn khánh, gõ mõ ra sao, ông ta cũng không biết. Điều gì cũng không biết, chỉ ôm chặt một câu Nam-mô A Di Đà Phật, niệm ba năm [bèn vãng sanh].

Lúc ông ta vãng sanh, pháp sư Đế Nhàn lo liệu hậu sự, vô cùng bội phục ông ta, rất tán thán, lại còn nói: Sự thành tựu của ông ta cao hơn những vị đại pháp sư giảng kinh, thuyết pháp, và các vị phương trượng trụ trì những ngôi chùa nổi tiếng. Đấy là “chuyên”, không có gì khác! Mấy câu ấy của Thiện Đạo đại sư được chép trong chú giải kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Tứ Thiếp Sớ do Thiện Đạo đại sư soạn. Do vậy, chúng ta làm nhiều thứ, làm rất nhiều chuyện hoa dạng sẽ vô dụng, chẳng đắc lực! Thật sự đắc lực là một câu A Di Đà. Quý vị nhất định phải biết, nhất định phải hiểu rõ, một câu danh hiệu A Di Đà Phật thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, ngài Cưu Ma La Thập dùng nó làm tựa đề kinh này!

 

(Sớ) Vân Sớ Sao giả, Sớ dĩ thích kinh, Sao dĩ thích Sớ, ký dị hiểu dã.

()  云疏鈔者,疏以釋經,鈔以釋疏,冀易曉也。

(Sớ: Nói Sớ Sao thì Sớ là giải thích kinh, Sao nhằm giải thích Sớ, mong cho [độc giả] dễ hiểu).

 

“Sớ Sao” nói theo cách bây giờ là “chú giải”. Chú giải có rất nhiều tên gọi. Trong Phật môn, [chú giải có thể] gọi là Luận, như Đại Trí Độ Luận là chú giải của kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật, được gọi là Luận, do Long Thọ Bồ Tát soạn. Phàm [những tác phẩm nào] dùng chữ Luận đều hàm ý rất kiên định, rất khẳng định: [Những ý nghĩa được nêu lên trong] bản chú giải này của tôi là ý nghĩa của Phật, quyết định chẳng sai, thì mới có thể gọi là Luận, chẳng khác gì đức Phật đã giảng. Các đại đức về sau chẳng dám gọi [tác phẩm chú giải của mình] theo kiểu ấy, lời tôi giảng chưa chắc đã là ý Phật, chỉ có thể dâng lên quý vị tham khảo, quý vị có thể chọn lọc [những ý kiến nào phù hợp], có thể sửa sai tôi, chứ Luận thì không thể. Luận là lời tôi nói và lời Phật dạy chẳng hai, quý vị chỉ có thể tuân theo, chẳng thể nào không tôn sùng, quyết định chẳng thể thay đổi. Tôi nói một chữ cũng chẳng sai, [dùng chữ Luận nhằm tỏ] thái độ như vậy đó. “Sớ” khách sáo, khiêm hư hơn. Sớ có nghĩa là “khai thông”.

Tại Trung Quốc vào thời cổ, chú giải cũng giống như vậy. Như Xuân Thu Tam Truyện, kinh Xuân Thu do Khổng lão phu tử nói, Tả Khâu Minh soạn một bản chú giải gọi là Tả Truyện. Công Dương Truyện, Cốc Lương Truyện [cùng với Tả Truyện là chú giải của ba người khác nhau[36]] dành cho bộ kinh Xuân Thu của Khổng lão phu tử. Gọi là Truyện thì Truyện có nghĩa là truyền lại, ý nghĩa này cũng kiên định: [Ý nghĩa trong] bản chú giải này của tôi là ý nghĩa của Khổng lão phu tử, chẳng sai! Một câu cũng chẳng thể sửa, có thể truyền mãi đến đời sau, khẩu khí rất lớn! Người đời sau chẳng dám dùng chữ này; vì thế, [các bản] chú giải dùng chữ Chú, Giải, Sớ hay Sao, dùng những từ ngữ ấy đều là lời lẽ khiêm hư. Có nghĩa là tôi [giảng giải] không nhất định có thể hoàn toàn phù hợp ý Phật, có thể sửa chữa, có thể dùng làm [tài liệu] tham khảo cho mọi người, chẳng khẳng định như vậy. [Dùng các chữ Chú, Giải, Sớ, Sao có] ý nghĩa như vậy đó.

“Sớ” là chú giải “Kinh”. Trong kinh văn có chỗ nào văn tự hay nghĩa lý sâu xa, khó hiểu, sẽ khai thông, khiến cho quý vị dễ liễu giải. Nhưng đôi khi Sớ vẫn còn rất sâu, vẫn cần phải chú giải lời Sớ, tức là chú giải lời chú giải, đó là “Sao”. Sao tức là chú giải của lời chú giải, nghĩa là Sớ vẫn còn rất khó hiểu, bèn dùng Sao để giải thích Sớ. Hiện thời, chúng ta đọc Sao vẫn chưa hiểu, vẫn thấy [lời Sao] rất sâu, vẫn cần phải chú giải thêm, tức là vẫn phải giải thích thêm lời chú giải của chú giải, lời giải thích ấy gọi là Diễn Nghĩa. Do vậy có Sớ Sao Diễn Nghĩa. Diễn Nghĩa là chú giải lời Sao. Càng chú giải, ý nghĩa càng nhiều, ý nghĩa vĩnh viễn chẳng cùng tận, mục đích là mong cho chúng ta dễ hiểu rõ, dễ thấu hiểu ý nghĩa trong kinh. Vì thế, soạn Sớ, soạn Sao, hay viết Diễn Nghĩa, cho đến chúng tôi giảng giải, đều nhằm [cùng một] mục đích [như đã được nói] ở đây: Giúp cho chúng ta lý giải kinh này. Tiếp theo đây là định nghĩa nhằm giải thích chữ Sớ Sao:

 

(Sao) Sớ giả, cổ vân Điều Trần dã, hựu Ký Chú dã.

() 疏者,古云條陳也,又記注也。

(Sao: “Sớ”: Cổ gọi là Điều Trần hoặc Ký Chú).

 

Trong kinh văn có những ý nghĩa rất sâu, ý nghĩa sâu thẳm, chúng ta có thể hiểu được, có thể thấy đôi chút, bèn ghi chú bên cạnh. Hoặc dùng một cuốn vở riêng để viết xuống, ghi chép, đó gọi là Điều Trần, viết xuống từng điều một. Cũng có nghĩa là “ký chú”, “ký” là bút ký, ghi chú minh bạch chỗ tâm đắc, cảm tưởng, ngộ xứ, lãnh ngộ của chính mình.

 

(Sao) Kim vị kinh nghĩa đắc thử, điều trần nhi bất ẩn hối.

() 今謂經義得此,條陳而不隱晦。

(Sao: Nay [Sớ] có nghĩa là do nhờ vào đấy mà ý nghĩa của kinh được nêu bày từng điều, chẳng bị ẩn khuất).

 

Ý nghĩa rõ rệt, qua chú giải, chúng ta thấy ý nghĩa hết sức rõ rệt.

 

(Sao) Ký chú nhi bất di vong dã.

() 記注而不遺忘也。

(Sao: Ghi chú để chẳng quên sót).

 

Đây là sợ sau này chúng ta sẽ quên mất, nên viết lại, viết thành bút ký để ghi nhớ, sau này sẽ không quên mất. Những điều ấy đều là ý nghĩa của chữ Sớ.

 

(Sao) Sao giả, cổ vân Lược Thủ dã, hựu Tả Lục dã. Lược Thủ, tắc Điều Trần chi thiết yếu; Tả Lục, tức Ký Chú chi hiển minh.

()鈔者,古云略取也,又寫錄也。略取,則條陳之切要;寫錄,即記注之顯明。

(Sao: Cổ nhân nói “Sao” là Lược Thủ, hoặc Tả Lục. Lược Thủ là [chọn lấy] những điều thiết yếu trong phần Điều Trần (Sớ). Tả Lục là giảng rõ phần Ký Chú).

 

“Lược Thủ, tắc Điều Trần chi thiết yếu”: Đặc biệt nêu ra, đặc biệt trình bày những ý nghĩa hay câu văn trọng yếu khiến cho những ý nghĩa ấy càng thêm rõ rệt, chọn lấy những điều trọng yếu [trong lời Sớ]. Chẳng hạn như Hoa Nghiêm Kinh Sớ Luận Toản Yếu, Pháp Hoa Kinh Văn Cú Toản Yếu, những tác phẩm ấy đều thuộc loại Lược Thủ. Vì Sớ và Luận có phân lượng quá lớn, cho nên chọn lấy những chỗ trọng yếu. Chỗ không trọng yếu sẽ không sao lục, chỉ trích lục những điểm trọng yếu, bèn gọi là Toản Yếu. Hai bộ sách ấy đều do thiền sư Đạo Bái biên tập trong niên hiệu Khang Hy đời Thanh, là tác phẩm trích lục. Đối với kẻ nghiên cứu Sớ Luận kinh Hoa Nghiêm như chúng ta, có thể nói [hai bộ sách ấy] đã giúp đỡ rất lớn. Hoa Nghiêm Sớ Luận phân lượng lớn, ý nghĩa cũng sâu, chẳng dễ đọc! Pháp Hoa Kinh Văn Cú Ký cũng giống như vậy, cũng vô cùng sâu, phân lượng khá nhiều! Do Sư thực hiện công tác này, đối với kẻ sơ học chúng ta, quả thật là hết sức có ích. Chúng ta đọc phần tinh hoa, đọc phần lược thuật trọng điểm. Đó chính là ý nghĩa của chữ Lược Thủ. Tả Lục là viết bút ký, nghe giảng, đọc sách đều phải viết bút ký, mang ý nghĩa này. Trước đây gọi là Ký Chú, nay gọi là “viết bút ký”. Giúp quý vị ghi nhớ chẳng quên, lại còn viết rõ ràng, minh bạch những chỗ quan trọng. Đấy là định nghĩa của hai chữ Sớ Sao.

 

(Sao) Ký, vọng dã.

() 冀,望也。

(Sao: “Ký” là mong mỏi).

 

“Ký” là mong muốn, là lòng mong mỏi của chúng ta đối với một chuyện gì đó.

 

(Sao) Kinh nan minh.

() 經難明。

(Sao: Kinh khó thể hiểu rõ).

 

Kinh có ý nghĩa rất sâu, chẳng dễ hiểu rõ!

 

(Sao) Sớ thông chi.

() 疏通之。

(Sao: [Chú giải] cho thông suốt).

 

Khai thông [những ý nghĩa ẩn kín bằng cách sớ giải], chúng ta sẽ hiểu rõ ý nghĩa trong kinh.

 

(Sao) Sớ nan minh.

() 疏難明。

(Sao: Lời Sớ khó hiểu rõ).

 

Sớ cũng chú giải rất sâu!

 

(Sao) Sao xuất chi.

() 鈔出之。

(Sao: Lời Sao bèn nêu rõ ra).

 

Sao là viết rõ ràng, phơi bày ý nghĩa.

 

(Sao) Vọng nhân nhân hiểu liễu kinh nghĩa dã.

() 望人人曉了經義也。

(Sao: Mong cho ai nấy hiểu rõ ý nghĩa của kinh).

 

Mục đích ở đây là mong sao mọi người đều có thể hiểu rõ nghĩa lý trong kinh. Nói nhiều ngần ấy! Chỗ hay trong bản chú giải này của Liên Trì đại sư là: Không chỉ là giảng rõ ràng giáo tướng, mà mỗi đoạn đều có lời bàn luận xứng tánh. Đoạn xứng tánh ấy [nhằm trình bày] những nghĩa lý rất sâu trong kinh, thường nói là “huyền ngoại chi âm” (âm thanh nằm ngoài dây đàn, ý nằm ngoài lời), nhìn theo văn tự bề ngoài sẽ chẳng thấy được. Trên thực tế, đoạn văn tự [Xứng Tánh] này nhằm hiển thị đạo lý ấy.

 

(Sớ) Xứng Lý.

()  稱理。

(Sớ: Xứng Lý).

 

Sau mỗi một đoạn đều có phần Xứng Lý. Lý là Chân Như bổn tánh, [“xứng Lý”] là nói theo Chân Như bổn tánh.

 

(Sớ) Tắc tự tánh giác, thị Phật nghĩa.

()  則自性覺,是佛義。

(Sớ: Tự tánh giác là ý nghĩa của chữ Phật).

 

Đó gọi là “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, hoàn toàn trở về tự tánh.

(Sớ) Tự tánh giác vô lượng, thị A Di Đà nghĩa; tự tánh Bổn Thỉ nhị giác, thị lưỡng độ quả nhân nghĩa.

() 自性覺無量,是阿彌陀義;自性本始二覺,是兩土果人義。

(Sớ: Tự tánh giác vô lượng là ý nghĩa của A Di Đà, Bổn Giác và Thỉ Giác trong tự tánh là ý nghĩa của “quả nhân hai cõi”).

 

“Quả nhân” là Phật. “Lưỡng độ” là thế giới Cực Lạc và thế giới Sa Bà của chúng ta.  Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật là  Bổn  Giác, Thích

Ca Mâu Ni Phật ở cõi này là Thỉ Giác, Bổn và Thỉ chẳng hai.

 

(Sớ) Tự tánh giác thể biến chiếu, thị thuyết kinh nghĩa, hậu giai lệ thử.

() 自性覺體遍照,是說經義,後皆例此。

(Sớ: Giác thể của tự tánh chiếu trọn khắp là ý nghĩa của sự “nói kinh”, trong những đoạn kế tiếp sau đây đều phỏng theo cách thức này).

 

Từ đây trở đi, sau mỗi đoạn đều có phần bàn luận xứng tánh, đây là chỗ tuyệt diệu trong bản chú giải này. Tự tánh giác là Phật, “Phật” là tiếng Phạn dịch âm, dịch sang chữ Hán là Giác. Mỗi cá nhân chúng ta cũng đều có giác, có ai chẳng giác? Đều giác. Vì sao không gọi là Phật? Vì quý vị chưa phải là tự tánh giác. Nếu quý vị là tự tánh giác, sẽ được gọi là Phật. Cái giác hiện thời của quý vị là gì? Giác của quý vị trong hiện tại là vọng tâm giác, chẳng là chân tâm, mà là vọng tâm! Suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, tưởng Đông, nghĩ Tây, đó là tâm vọng tưởng, tâm ấy cũng đang giác, nhưng những gì tâm ấy giác đều là “thác giác” (giác sai lầm), chẳng phải là chân giác. Vì sao? Vì chẳng phải là chân tâm, làm sao quý vị chân giác cho được? Quý vị dùng vọng tâm, [nên sự giác ngộ của quý vị là] vọng tâm giác, đó là thác giác, chẳng phải là chân giác. Do vậy, nếu quý vị giác ngộ bằng chân tâm, sẽ gọi là Phật; nếu giác ngộ bằng vọng tâm, sẽ chẳng gọi là Phật.

Trong kinh Kim Cang có một câu, ý nói: Chúng ta học Phật, nếu cầu từ sắc tướng và âm thanh của Phật, sắc tướng là gì? Là oai nghi. Đức Phật ngồi thì ngồi như thế nào? Đứng thì đứng ra sao? Ngủ như thế nào? Bốn oai nghi “đi, đứng, nằm, ngồi” là sắc tướng. Cầu từ âm thanh, âm thanh là đức Phật thuyết pháp, quý vị nghe, chiếu theo lời Phật nói để cầu. Đức Phật bảo: “Thị nhân hành tà đạo” (người ấy hành tà đạo). Y giáo phụng hành, cớ sao vẫn là tà đạo? Quý vị phải hiểu: Sắc tướng và âm thanh của Phật đều nhằm dạy chúng ta phải phát tự tánh giác, chứ không phải là bảo chúng ta học [rập khuôn] dáng vẻ đức Phật, mà là nhìn vào hình dáng, nghe pháp ngữ của Ngài, bèn khơi mở tự tánh giác của chúng ta, đức Phật nhắm tới mục đích ấy, chẳng muốn chúng ta học theo dáng vẻ và cách ăn nói của Ngài.

Trong thuở ấy, [lời giảng ấy] quả thật rất khó hiểu, hiện thời dễ hiểu hơn. Vì sao nói hiện thời dễ hiểu hơn? Nay chúng ta đã cách Phật ba ngàn năm, hình thái ý thức và cách sống của chúng ta hoàn toàn khác [thời] Phật. Nếu chúng ta vẫn học theo dáng vẻ, âm thanh của Ngài, đúng là quý vị lội ngược dòng, lạc hậu trong xã hội này, không thể thực hiện được! Do vậy, Phật pháp bảo quý vị cầu tự tánh giác. Nếu quý vị thật sự giác ngộ tự tánh, Phật pháp là sống động, chẳng chết cứng, mà sống động, hoạt bát. Phật pháp là gì? Phật pháp là cuộc sống hiện thực, là xử sự, đãi người, tiếp vật trong cuộc sống, giác chứ không mê, đó là Phật pháp. Vì vậy, chẳng cần phải làm ra vẻ kiểu cọ gì, chẳng phải vậy! [Nếu làm như vậy] sẽ là chết cứng trong Phật pháp. Vì thế, đức Phật nói: “Kẻ ấy hành tà đạo”. Vì sao? Thấy Thích Ca Mâu Ni thành Phật, chính mình biến thành ma! Phật dạy chúng ta hãy tự mình thành Phật, đừng biến chính mình thành ma, có ý nghĩa này. Vì thế, câu kinh Kim Cang ấy có ý nghĩa rất sâu.

Quý vị thấy Phật giáo truyền đến Trung Quốc, lập tức liền bị Hán hóa. Ở Ấn Độ, ba y, một bát, mỗi ngày ăn một bữa Ngọ, ngủ dưới gốc cây. Truyền đến Trung Quốc, hoàng đế Trung Hoa cúng dường cung điện, hoặc nơi cư ngụ rất tốt đẹp, các tăng sĩ chẳng cần phải ra ngoài ngủ nơi trống trải. Mỗi ngày đều được cúng dường chu đáo, chẳng cần ra ngoài khất thực. Lại còn được cúng dường y phục rất tốt, ăn uống, quần áo, chỗ ở, cuộc sống toàn bộ đều được Hán hóa. Do vậy, hiện thời còn có những người học Phật, nhất định phải mặc theo kiểu y phục Tiểu Thừa đắp y. Nếu quý vị thật sự muốn học, hiện thời học điều gì? Học theo người xuất gia ở Thái Lan, chứ đâu phải là [học theo] Phật. Vì sao? Vì Phật chỉ có ba y, quý vị còn mặc quần lót, quý vị chẳng [ăn mặc giống như] Phật, ngay cả quần lót cũng không mặc. Đức Phật khất thực, giữa trưa ăn một bữa, hiện thời quý vị ăn ba bữa, chưa học được! Thuở ấy, đức Phật và các đệ tử ngồi xếp bằng dưới gốc cây, chẳng có nhà để ở, nay quý vị còn có nhà để ở, quý vị vẫn chưa học được! Quý vị thấy đó: Học chẳng giống, chẳng ra thể thống gì, chẳng gọi là “hành tà đạo” thì gọi là gì?

Những người đó nghe nói như vậy, nhất định sẽ phản đối, nói tôi chửi họ, nói tôi chẳng tuân thủ giáo huấn của Phật, lại còn chửi rủa họ! Chính bọn họ tưởng đó là Phật pháp thì trật mất rồi! Bởi lẽ, Phật pháp thuộc thời đại nào, nhất định sẽ hoàn toàn tương đồng với thời đại ấy. Ở nơi nào hay thuộc quốc gia nào, nhất định cũng sẽ hoàn toàn tương đồng với phong tục, tập quán nơi đó, mọi người mới vui vẻ, mới hoan hỷ tiếp nhận. Do vậy, Phật giáo truyền đến Trung Quốc dường như là bị Hán hóa, nhưng thật ra, đó là gì? Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Mọi người nhất định phải hiểu rõ đạo lý này, chớ nên chết cứng trong Phật pháp, đừng học chết cứng, mà phải phát  khởi  tự  tánh  giác. Đây là một chút ý nghĩa.

“Tự tánh giác vô lượng là ý nghĩa của A Di Đà”, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác, dịch toàn bộ danh hiệu ấy sang tiếng Hán sẽ là Vô Lượng Giác. Giác tánh của chúng ta là một, giác tánh khởi tác dụng vô lượng vô biên. Vô lượng vô biên tác dụng là A Di Đà. Quý vị phải nhớ kỹ điều này! Giác tánh là gì? Rất khó giảng! Giác tánh là như thế nào? Nếu giảng [giác tánh] là như thế nào, có lẽ cũng có thể hiểu được đôi chút. Lục Tổ đã nói ra hình dáng của tự tánh. Lục Tổ đã trình bày rõ hình trạng của  tự tánh giác, Ngài nói: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”, đó là hình trạng của giác tánh. Vì thế, giác tánh chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước. Quý vị có phân biệt, có chấp trước, sẽ là bất giác, là mê! Không chỉ chẳng có phân biệt, chấp trước, mà tâm địa thanh sạch, chắc chắn không lưu giữ ấn tượng. Đó là giác thật sự. Chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không ghi ấn tượng, tâm thanh tịnh lắm! Tâm ấy rộng lớn không ngằn mé! Tâm có phân biệt sẽ có giới hạn, hễ có chấp trước, tâm lượng bèn hẹp hòi, có lớn và nhỏ. Vô phân biệt, vô chấp trước, không ghi ấn tượng chính là trạng huống của giác!

Khởi tác dụng, có phân biệt, có chấp trước, nhưng không giữ lại ấn tượng. Vì sao có phân biệt? Vì chúng sanh có phân biệt! Thuận theo chúng sanh mà phân biệt, chính mình chẳng có phân biệt; thuận theo chúng sanh chấp trước mà chấp trước, chính mình chẳng chấp trước. Vì thế, người ấy chấp trước mà chẳng chấp trước, phân biệt nhưng không phân biệt. Trong Đàn Kinh, thiền sư Hoài Nhượng và Lục Tổ hỏi đáp. Khi câu trả lời của Hoài Nhượng có lời biện bác, Lục Tổ nói: “Có phải là ngươi có phân biệt hay chăng?” Hoài Nhượng đáp rất hay: “Phân biệt cũng chẳng phải là Ý”, [nghĩa là: Lời đáp mang tính chất phân biệt ấy] chẳng thuộc vào tâm ý thức. Đó chính là tùy thuận Ngài phân biệt mà tôi phân biệt, chẳng phải là trong tâm tôi thật sự có phân biệt. Lục Tổ bèn ấn chứng, ấn khả. Chẳng phải là chính mình thật sự có phân biệt, chẳng phải là chính mình thật sự có chấp trước, đối với chính mình thì phân biệt lẫn chấp trước thảy đều không có! Do tùy thuận chúng sanh mà phân biệt, tùy thuận chúng sanh mà chấp trước, nhưng tâm địa người ấy thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Đấy là trạng huống của tự tánh. Điều này không dễ gì làm được, đấy là công phu thật sự.

“Tự tánh Bổn Thỉ nhị giác, thị lưỡng độ quả nhân nghĩa” (Bổn Giác và Thỉ Giác trong tự tánh là nghĩa của vị chứng quả trong hai cõi). Bổn Giác là đối với Thỉ Giác mà nói. Thỉ Giác và Bổn Giác tương đồng, đó là quý vị bắt đầu giác ngộ. Do vậy, quý vị phải biết: Công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn, bất luận pháp môn nào chẳng thể sánh bằng công phu niệm Phật! Ví dụ như tham Thiền, học Mật, học Chú, chắc chắn chẳng bằng niệm Phật, vì sao? Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật, cái tâm năng niệm là Thỉ Giác, một câu Phật hiệu được niệm là Bổn Giác, Thỉ, Bổn tương ứng, Thỉ, Bổn chẳng hai. Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, “nhất niệm tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”, dùng cách niệm này để đồng thời đoạn Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh phiền não. Quý vị nói pháp môn nào có thể đồng thời đoạn ba thứ phiền não ấy? Không thể nào! Các pháp môn thông thường đều là trước hết phải đoạn Kiến Tư, rồi đoạn Trần Sa, cuối cùng phá Vô Minh, chúng chia thành tầng lớp, chẳng thể đồng thời; chỉ riêng pháp môn Niệm Phật là đồng thời. Chư vị hãy suy nghĩ, nếu chẳng đồng thời, vì sao vừa vãng sanh liền được viên chứng ba thứ Bất Thoái? Nói theo Lý chẳng xuôi! Đấy là vì khi niệm Phật, chúng là đồng thời, Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, Thỉ và Bổn chẳng hai. Do vậy, một câu Phật hiệu này đồng thời đoạn Kiến Tư phiền não, phá Trần Sa phiền não, phá căn bản vô minh. Những chỗ hay của pháp môn này đúng là nói chẳng tận, nhưng người biết tới quá ư là ít.

Vì thế, pháp môn này thù thắng chẳng còn phải tranh cãi nữa, mười phương chư Phật tán thán là có lý, chẳng phải là tùy tiện tán thán. Quý vị thấy các kinh khác có được mười phương chư Phật tán thán hay không? Không có, tìm không ra! Chỉ có bộ kinh này được mười phương hết thảy chư Phật tán thán. Do vậy, bình thường chính chúng ta niệm nhưng chẳng biết đến công phu này. Nói thật ra, chính quý vị là người niệm Phật nhưng niệm cũng chẳng đúng pháp, tuy niệm nhưng công phu chẳng đắc lực. Quý vị thật sự đắc lực thì pháp Niệm Phật thật sự hữu hiệu, phiền não nhất định mỗi ngày một nhẹ hơn, vô minh nhất định mỗi ngày một giảm ít, giác tánh bèn thấu lộ. Tới lúc mạng chung, Phật đến tiếp dẫn quý vị, Phật quang chiếu soi, Phật lực gia trì, khi ấy, quý vị sẽ đắc nhất tâm bất loạn. Do vậy, hễ vãng sanh bèn viên chứng ba thứ Bất Thoái, đạo lý là như thế đó!

Vì thế, pháp này mới gọi là pháp môn Nhị Lực, nhưng chính chúng ta làm phân nửa, đến khi ấy, Phật lực sẽ gia bị được! Pháp môn thù thắng như vậy, phải cực lực tuyên dương. Do tuyên dương, một chúng sanh tin tưởng thì chúng sanh ấy được thành Phật. Không chỉ là đắc độ, người ấy còn thành Phật! Hai người tin tưởng, hai người thành Phật. Thật sự tin tưởng, đó là đại thiện căn, đại phước báo, kinh dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy). Chúng ta có thể tạo nhân duyên cho chúng sanh, tức là giới thiệu sự thù thắng và công đức lợi ích của pháp môn này với người khác, giảng giải cho người khác nghe. Kẻ ấy tin tưởng, tức là người ấy có đại thiện căn, có đại phước đức. Nếu kẻ ấy không tin, tức là chẳng có thiện căn, chẳng có phước đức. Tuy thiếu thiện căn, phước đức, nhưng “nhất lịch nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng” (một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn là hạt giống đạo), đã gieo một chủng tử, tuy chưa thể thành tựu trong đời này, trong tương lai vẫn còn có thể thành tựu! Có thể thực hiện tốt đẹp chuyện này tức là báo đền ân Phật.

“Tự tánh giác thể biến chiếu, thị thuyết kinh nghĩa” (Giác thể trong tự tánh chiếu trọn khắp là ý nghĩa của việc “nói kinh”), chúng sanh mê mà chẳng giác, vì vậy, đức Phật đến khai thị cho họ, làm cho họ giác ngộ. Có thể khiến cho hết thảy chúng sanh giác ngộ chính là mục đích của việc nói kinh. “Giác thể biến chiếu” cũng là ý nghĩa của việc “thuyết kinh”. Nói đơn giản, “biến chiếu” là đối với hết thảy người, hết thảy sự, hết thảy vật, hết thảy thời gian và không gian, không có gì chẳng rõ ràng, không có gì chẳng hiểu rõ, đấy là “biến chiếu”. Quyết định chẳng mê, biết rõ ràng, rành rẽ, biết được chính mình phải nên xử lý như thế nào, biết chính mình phải nên dùng phương thức gì, làm với thái độ gì, tuy không nói kinh mà cũng giống như nói kinh. Quý vị giác mà chẳng mê. Những kẻ khác có thiện căn và phước đức sâu dầy ra, do thấy quý vị đãi người tiếp vật với thái độ như thế, sự giác ngộ của họ được dẫn khởi, chúng ta gọi đó là “thân giáo”. Thân giáo và ngôn giáo thảy đều phải trọn đủ, đương nhiên tâm quý vị thanh tịnh, đấy là ý giáo, [tức là] trong tâm đã thuyết kinh, miệng chẳng thuyết kinh, nhưng tâm đã thuyết kinh, chẳng lúc nào, không chỗ nào chẳng nói kinh, mang ý nghĩa này!  Đấy là ý nghĩa “biến chiếu”.  Hôm nay đã hết thời gian rồi,

 

chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 99

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm tám mươi lăm:

 

(Sớ) Xứng lý, tắc tự tánh giác, thị Phật nghĩa; tự tánh giác vô lượng, thị A Di Đà nghĩa; tự tánh Bổn Thỉ nhị giác, thị lưỡng độ quả nhân nghĩa; tự tánh giác thể biến chiếu, thị thuyết kinh nghĩa. Hậu giai lệ thử.

() 稱理,則自性覺,是佛義;自性覺無量,是阿彌陀義;自性本始二覺,是兩土果人義;自性覺體遍照,是說經義。後皆例此。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh giác là ý nghĩa của chữ Phật. Tự tánh giác vô lượng là nghĩa của A Di Đà. Bổn Giác và Thỉ Giác trong tự tánh là ý nghĩa người đã chứng quả trong hai cõi. Thể của tự tánh giác chiếu khắp là ý nghĩa “nói kinh”. Những điều sau đó cứ dựa theo đấy [mà suy ra ý nghĩa]).

 

Đoạn văn này khá quan trọng. Cổ nhân thường dạy chúng ta, nghe kinh phải “tiêu quy tự tánh”, tu hành phải “chuyển Thức thành Trí”, dạy chúng ta hai cương lãnh trọng yếu ấy. Chúng ta tu học đến rốt ráo sẽ đạt được gì, mấu chốt ở ngay trong hai câu này. Liên Trì đại sư viết tác phẩm chú giải này, mỗi đoạn văn đều tiêu quy tự tánh; những bản chú giải khác dẫu có, cũng chẳng nêu bày rõ rệt dường ấy. Đây là nêu gương nhằm dạy chúng ta một phương pháp học tập.

Do vậy, Phật pháp cầu từ nơi đâu? Phải cầu từ tự tánh, đấy mới là Phật pháp chân chánh, Phật pháp chẳng ở bên ngoài. Kinh văn là bên ngoài, là ngôn thuyết, đức Phật đã tỷ dụ, kinh Lăng Nghiêm ghi “do như chỉ nguyệt” (giống như ngón tay chỉ mặt trăng), ngón tay ấy là ngôn giáo của đức Phật, hết thảy kinh điển đều là ngón tay để chỉ điều gì? Chỉ vầng trăng, mục đích nhằm dạy quý vị hãy nhìn vầng trăng, chớ nên nhìn ngón tay. Nhìn ngón tay là trật mất rồi, ngỡ ngón tay là mặt trăng, lầm lẫn quá đỗi! Do ngón tay ấy, quý vị bèn thấy vầng trăng, vầng trăng tượng trưng tự tánh. Vì thế, đoạn xứng tánh này nhằm giảng về tự tánh, nhắc nhở chúng ta học Phật phải học theo cách như thế ấy. Đoạn này nhằm giảng tựa đề kinh, tức là [giảng giải] Phật Thuyết A Di Đà Kinh, làm thế nào để biến Phật Thuyết A Di Đà thành tự tánh của chính mình thì quý vị mới thật sự đạt được. Đạt được điều gì vậy? Minh tâm kiến tánh, tức là những gì do tự tánh lưu lộ và những điều Phật đã giảng chẳng khác nhau.

“Phật”“tự tánh giác”. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đã giảng cương lãnh tu hành. Tuy Ngài thuộc Thiền Tông, nhưng nói đến cương lãnh tu hành trên thực tế cũng có tầng lớp, Ngài giảng năm tầng lớp. Đầu tiên Ngài nói đến “Nhất Thể Tam Bảo”, đây là điều những kẻ học Phật chúng ta mong cầu. Đối với cương lãnh tu học, lão nhân gia nêu ra Tam Quy. Tam Quy của Ngài chẳng phải là “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, mà là “quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”, nói rõ ràng; những câu này thuần túy nói về Tự Tánh Tam Bảo. Thật ra, ý nghĩa của “Phật, Pháp, Tăng” viên mãn hơn “Giác, Chánh, Tịnh”, vì Phật – Pháp – Tăng Tam Bảo, có thể giảng là Nhất Thể Tam Bảo, mà cũng có thể giảng là Biệt Tướng Tam Bảo, hoặc có thể giảng là Trụ Trì Tam Bảo, đều có thể nói như thế, ý nghĩa viên mãn đều được bao gồm trong ấy. Tôi nghĩ, Thiền Tông nói “giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm” (truyền riêng ngoài Giáo, chỉ thẳng tâm người), Ngài trực tiếp chỉ rõ “Giác, Chánh, Tịnh” trong tự tánh là Tam Bảo, là chỗ quy y chân thật của chúng ta. Cách giảng này chẳng hàm hồ chút nào, mà rõ rệt, minh bạch. Giáo Hạ cũng không ra ngoài lệ ấy, hết thảy đều lấy Tự Tánh Tam Bảo làm chỗ quy y chân thật cho chúng ta. Ở đây, [Liên Trì đại sư dạy]: “Xứng Lý, tắc tự tánh giác thị Phật nghĩa” (Tương xứng với Lý, tự tánh giác là ý nghĩa của chữ Phật).

Kinh Kim Cang nói: Nếu quý vị cầu Phật nơi sắc tướng, hoặc cầu Phật nơi âm thanh, sẽ là “thị nhân hành tà đạo” (người ấy hành tà đạo). Sắc tướng là gì? Quý vị nghĩ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của đức Phật chính là Phật, sai rồi! Cầu nơi âm thanh: Thuở ấy, đức Phật thuyết pháp, âm thanh bao gồm kinh điển nhà Phật. Cầu từ nơi kinh điển, cầu từ lời thuyết pháp thì có thể cầu Phật được hay không? Chẳng cầu được, vì sao? Cầu pháp ngoài tâm! Sắc tướng và âm thanh đều là lục trần bên ngoài, trong ấy đâu có Tam Bảo? Vì thế, nhất định phải biết quay đầu. Nói tới Phật là nói tới vị Phật trong tự tánh của chúng ta thì bản thân quý vị mới thật sự được thụ dụng. Nếu quý vị nghĩ “ở ngoài tâm ta thật sự có một đức Phật đang thuyết pháp”, chính mình thì sao? Chẳng phải là chính mình biến thành ma ư? Nhất định phải biết: Tự và Tha chẳng hai, Tánh và Tướng như một, đức Phật trong tâm của chính mình thuyết pháp cho chính mình, thuyết pháp nhằm đánh thức tự tánh giác của chúng ta thì mới hòng đạt được mục đích. Do vậy, nhất định phải nhận biết rõ ràng ý nghĩa chữ Phật, quyết định chẳng nói tới ai khác, mà là nói đến tự tánh giác.

Tự tánh vốn là giác, nay chúng ta đang mê, có đúng là thật sự mê hay không? Chẳng thật sự mê! Nếu tự tánh bị mê, sẽ chẳng thể nói nó là thật, vì sao? Phật pháp nói đến “Chân” thì định nghĩa của Chân là “vĩnh viễn không thay đổi, vĩnh viễn bất diệt, vĩnh viễn chẳng biến đổi”, đấy mới là Chân. Nếu tự tánh có mê hay ngộ, tức là nó bị biến đổi; bị biến đổi sẽ chẳng thể gọi là tự tánh! Bị biến đổi sẽ chẳng thể gọi là Giác. Trong các kinh Hoa Nghiêm và Viên Giác, đức Phật nói: “Hết thảy chúng sanh vốn thành Phật”, chẳng sai! Vốn đã thành Phật! Hiện thời có đúng là Phật hay chăng? Đúng là Phật. Có khác với Thích Ca Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật hay không? Chẳng sai biệt! Một tí sai biệt cũng chẳng có! Nhìn từ chỗ nào mà thấy chẳng sai biệt? Nhìn từ tự tánh “Giác, Chánh, Tịnh”, quả thật chẳng sai biệt. Sai biệt ở chỗ nào? Sai biệt là do bản thân chúng ta chẳng nhận biết chính mình, vấn đề ở chỗ này, đó gọi là “mê”.

Tự tánh của chúng ta có mê hay không? Tự tánh chẳng mê. Chẳng mê mà nói là mê, cái mê ấy là giả lập, chẳng thật! Chư vị phải hiểu, Phật pháp nói theo kiểu như vậy hết sức nhiều! Đó gọi là “phương tiện thuyết”. Vì sao nói tự tánh của chúng ta chẳng mê? Nếu quý vị đọc kỹ kinh Lăng Nghiêm, sẽ hiểu rõ. Thường nói: “Khai huệ Lăng Nghiêm”, [học tập kinh Lăng Nghiêm sẽ] khai trí huệ, “thành Phật Pháp Hoa”, kinh Pháp Hoa nói về sự thành Phật triệt để và viên mãn nhất. Trong phần Thập Phiên Hiển Kiến (mười phen chỉ tánh Thấy) của kinh Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nêu một thí dụ nhằm chỉ ra căn tánh của sáu căn là giác tánh; nói tới, nói lui nhằm giảng rõ tánh Thấy của chúng ta bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, giảng rõ [tánh Thấy là] chân tâm thường trụ. Niệm thứ nhất, chúng ta mở banh mắt nhìn cảnh giới bên ngoài, đấy là thấy bằng tánh Thấy trong giác tánh, vì sao? Chúng ta chẳng phân biệt, chấp trước, cũng không ghi giữ ấn tượng. Chẳng khởi phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng giữ lại ấn tượng, có thấy hay không? Đương nhiên là có thấy, lại còn thấy thứ gì cũng rõ ràng, minh bạch, đó là thấy bằng tánh Thấy; nhưng qua niệm đầu thứ hai bèn trật, niệm thứ hai có phân biệt, có chấp trước!

Chẳng hạn như chúng ta vừa thấy một vật rõ ràng, chẳng phân biệt; niệm thứ hai bèn: “Đây là một quyển sách”, mê rồi! Vì sao? Nó chẳng có tên, quý vị đặt tên cho nó, trật mất rồi! Cổ đại đức Trung Quốc đã hiểu: “Danh khả danh, phi thường danh”. Nó chẳng có tên, đấy là quý vị thấy diện mục sẵn có của nó. Thêm vào một cái tên, sẽ chẳng còn là diện mục sẵn có nữa! Nếu lại chấp: “Đây nhất định là sách, chắc chắn chẳng sai!”, thêm chấp trước vào, đã trật lại càng trật hơn! Mê pháp như thế đó; đấy gọi là “mê tình”. Mê là gì? Phân biệt, chấp trước, giữ ấn tượng; đó gọi là “tâm ý thức”. Ghi ấn tượng trong A Lại Da, thức thứ bảy chấp trước, thức thứ sáu phân biệt. Tôi vừa mới nói, tu hành phải chuyển Thức thành Trí. Quý vị chuyển biến thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám, đó gọi là tự tánh giác. Đối với tự tánh giác, nhằm nói cho tiện, bèn dùng thức thứ tám để nói, chúng ta gọi thức thứ tám [khi đã chuyển thành trí] là Đại Viên Kính Trí (Ādarsha-jñāna); thức thứ bảy được gọi là Bình Đẳng Tánh Trí (Samatā-jñāna); thức thứ sáu gọi là Diệu Quán Sát Trí (Pratyaveksanā-jñāna). Cách chuyển ra sao? Nói thật ra, trong hết thảy cảnh giới, lục căn tiếp xúc lục trần, chỉ cần quý vị chẳng phân biệt, không dùng tới phân biệt, bèn chuyển thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí. Vì vậy, chúng ta vừa nhìn, chẳng có tí phân biệt, chấp trước nào, đó là Diệu Quán Sát. Vì sao? Dùng tánh Thấy để thấy!

Chẳng có tí chấp trước nào tức là tánh bình đẳng. Quý vị phải hiểu: Có chấp trước nên mới có bất bình đẳng; chẳng chấp trước, vạn pháp sẽ bình đẳng. Tập khí phân biệt và chấp trước của chúng ta quá nặng, quý vị thấy trẻ nhỏ vẫn chưa biết phân biệt, chấp trước gì! Người khác cho nó uống nước đường, nó uống ngon lành; nó bốc phân của chính mình, ăn vào cũng thấy rất thơm. Vì sao? Nó chẳng có phân biệt. Nếu nó phân biệt, sẽ chẳng bao giờ ăn phân nữa, vì sao? Bổn Giác mê rồi, do mê nên có phân biệt. Lúc chẳng mê, nó chẳng phân biệt, hết thảy đều là bình đẳng, chẳng có đẹp, xấu, chẳng có ưa, ghét. Sâu hơn một tầng nữa, chẳng giữ lại ấn tượng, tâm địa vĩnh viễn thanh tịnh, đó gọi là “chuyển Thức thành Trí”. Nếu quý vị hỏi chuyển theo cách nào thì cách chuyển như vậy đó. Quý vị phân biệt, chấp trước, giữ ấn tượng rất sâu, sẽ rất phiền phức, đó là chướng ngại rất lớn đối với tu hành. Do vậy, thật sự dụng công là khi lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, phân biệt, chấp trước, giữ lại ấn tượng càng ngày càng phải giảm thiểu, nhạt bớt. Như vậy mới là tốt, mới có thể khôi phục tự tánh giác.

“Tự tánh giác vô lượng thị A Di Đà nghĩa” (tự tánh giác vô lượng là ý nghĩa của A Di Đà), tự tánh giác quả thật vô lượng, nó có công năng vô lượng. Hết thảy cảnh giới vô lượng, vô biên, nên đối tượng nhận biết là vô lượng vô biên, chúng được gọi là “y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới”, không gì chẳng giác. Công năng của giác tánh cũng là vô lượng, đó là ý nghĩa của A Di Đà. A Di Đà là tiếng Phạn, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác. A Di Đà Phật dịch trọn vẹn là Vô Lượng Giác. Tự tánh giác, bất luận năng giác hay sở giác đều là vô lượng vô biên.

“Tự tánh Bổn Thỉ nhị giác thị lưỡng độ quả nhân nghĩa” (Bổn Giác và Thỉ Giác trong tự tánh là ý nghĩa của người chứng quả trong hai cõi). Bổn Giác là đối với Thỉ Giác mà nói. Thỉ Giác và Bổn Giác tương đồng, vì sao có Thỉ Giác? Vì chúng sanh lúc mê bèn bất giác. Tuy bất giác, Bổn Giác vẫn khởi tác dụng y như cũ. Bất giác là chẳng giác Bổn Giác, chẳng biết chính mình có Bổn Giác, đó gọi là mê, là bất giác. Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã nói rất rõ ràng: “Do bất giác, nên mới kiến lập Thỉ Giác”. Nay quý vị bắt đầu giác ngộ. Trong câu “lưỡng độ quả nhân nghĩa”, “quả nhân” (người đã chứng quả) là Phật, coi A Di Đà Phật như Bổn Giác, Bổn Giác của ai? Bổn Giác trong tự tánh của chúng ta. Coi Thích Ca Mâu Ni Phật như Thỉ Giác trong tự tánh của chúng ta, có đúng hay không? Đúng! Nếu Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng thuyết pháp, làm sao chúng ta biết chính mình có Bổn Giác, có tự tánh giác? Chúng ta chẳng biết, chưa hề biết. Nhờ Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, chúng ta mới giác ngộ, suy nghĩ, nhận thấy tự tánh của chính mình quả thật là giác. Trong niệm thứ nhất, chúng ta thấy sắc, ngửi hương, chẳng khởi tâm, động niệm, đích xác là giác tánh, tức là tự tánh giác của chúng ta khởi tác dụng; niệm thứ hai vẫn là tự tánh giác khởi tác dụng. Nếu tự tánh giác chẳng khởi tác dụng, quý vị hãy nghĩ xem, tám thức do đâu mà có? Nói cách khác, khởi tâm, động niệm, phân biệt, chấp trước, cũng do tự tánh giác khởi tác dụng.

Trong tác dụng ấy, chia ra mê và ngộ. Mê gọi là phàm phu, mê là đối với hết thảy tác dụng đều hoàn toàn không biết, đấy là phàm phu. Nếu hiểu rõ ràng hết thảy các tác dụng, sẽ là Bồ Tát. Chẳng hạn như kinh được mở đầu bằng “như thị ngã văn”, chúng ta hỏi: Ngài có phân biệt hay không? Có chấp trước hay không? Nếu Ngài chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, cớ sao Ngài nói “ta”? Nếu Ngài đã nói có ta, đương nhiên là có quý vị, có kẻ khác. Đấy là có phân biệt, có chấp trước; nhưng Ngài vẫn hiểu rõ ràng, chẳng mê, chẳng mê tức là ngộ. Do vậy, Ngài nói “ta”, chẳng trở ngại Sự, vì sao? Ngài chẳng chấp ngã! Chúng ta nói “ta” bèn chấp ngã, ta chẳng phải là ngươi, ngươi chẳng phải là kẻ khác, đúng là như vậy đó! Miệng Ngài nói “ta”, trong tâm Ngài bình đẳng, chẳng có phân biệt, chấp trước. Vì thế, nói chính là không nói, phân biệt là chẳng phân biệt, chẳng phân biệt là phân biệt, đồng thời! Phân biệt là do tùy thuận chúng sanh mà phân biệt, chính mình quả thật chẳng phân biệt, chẳng chấp trước. Do vậy, bản thân Ngài quả thật đã sử dụng tự tánh giác, sử dụng căn tánh của sáu căn, trọn chẳng dùng tám thức, nhưng biểu lộ ra ngoài thành tám thức, phân biệt, chấp trước, chẳng khác gì chúng ta. Đấy gọi là “tùy thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”. Quý vị phân biệt ra sao, tôi phân biệt theo quý vị [như thế ấy]. Quý vị chấp trước như thế nào, tôi chấp trước theo quý vị [như thế đó]. Hết thảy đều thuận theo chúng sanh, chính mình quả thật chẳng có [phân biệt, chấp trước], Phật, Bồ Tát là như vậy đó! Phàm phu chúng ta [bề ngoài] phân biệt, chấp trước, trong tâm thật sự có phân biệt, thật sự có chấp trước, nên gọi là phàm phu. Vì thế, nhìn bề ngoài, Phật, Bồ Tát và phàm phu chẳng khác nhau, nhưng bên trong hoàn toàn không giống nhau. Ngộ là bên trong chẳng có [phân biệt, chấp trước, vọng tưởng], bên trong thật sự là “giác, chánh, tịnh”. Kẻ mê hoặc, bên ngoài và bên trong giống hệt nhau! Bên ngoài có phân biệt, bên trong thật sự phân biệt; bên ngoài chấp trước, trong tâm cũng thật sự có chấp trước, đó là mê.

Từ chỗ này, chúng ta hiểu một chuyện, công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn, vì sao? Cái tâm năng niệm của chúng ta là Thỉ Giác, đức Phật được niệm, tức là A Di Đà Phật được ta niệm, chính là Bổn Giác. Chúng ta phát tâm niệm một câu A Di Đà Phật, tức là Bổn Giác và Thỉ Giác trong tự tánh. Người biết đến Lý này và sự thật này chẳng nhiều! Vì thế, pháp môn Niệm Phật thành tựu chẳng thể nghĩ bàn. Quý vị nghĩ xem, pháp môn nào thành tựu thù thắng như pháp môn Niệm Phật? Điều này bày ra ngay trước mặt chúng ta. Phật pháp thường nói “tam chuyển pháp luân”:

– Thị Chuyển: Thị (示) là khai thị, giảng cho quý vị nghe. Người căn tánh bậc thượng vừa nghe liền tin tưởng, hiểu rõ.

– Loại người thứ hai cần phải khuyên. Phải vất vả khuyên lơn thì kẻ ấy mới tin tưởng, đó là loại người thứ hai. [Điều này gọi là Khuyến Chuyển].

– Còn có một hạng người, khuyên họ, họ cũng chẳng tin, người ấy phải thật sự trông thấy sự thật thì mới tin tưởng. Do vậy, đối với loại thứ ba phải thực hiện Chứng Chuyển, [tức là] nêu ra bằng chứng cho người ấy thấy, người ấy mới tin tưởng. Nêu ra chứng cứ cho kẻ ấy thấy mà kẻ ấy vẫn chẳng tin thì không có cách nào hết! Phật cũng chẳng có cách nào độ kẻ ấy!

Pháp  môn  Niệm  Phật có chứng cớ rất nhiều.  [Hành nhân niệm

Phật] biết trước lúc mất, tự tại vãng sanh rất nhiều. Chúng tôi chính mắt trông thấy, tự mình nghe thấy, quyết định chẳng phải là giả, rất ư là nhiều! Đã Chứng Chuyển mà vẫn chẳng tin thì kẻ ấy nghiệp chướng quá nặng! Cứ thong thả, chẳng biết là đời nào, kiếp nào, người ấy mới có thể đắc độ. Cam lão cư sĩ ở Cựu Kim Sơn (San Francisco) có kể cho tôi nghe chuyện một người thân thích của cụ, cũng là một bà cụ, lúc niệm Phật vãng sanh bèn ngồi xếp bằng, biết trước lúc mất. Cụ biết trước lúc mất ra sao? Cụ mất trong đêm, sáng ngày hôm sau, người nhà phát hiện bà cụ ngồi xếp bằng trên giường, đã vãng sanh. Từng bộ tang phục của mỗi người trong nhà đều xếp sẵn trước giường,  cụ đã may sẵn từ lâu rồi.

Cụ biết sẽ đi lúc nào, đó là chuyện thật, chẳng giả!

Pháp sư Sướng Hoài ở Hương Cảng nói người độ thầy ấy là một vị lão cư sĩ. Sư trông thấy [chuyện ấy] mới niệm Phật, Sư thuộc loại người thứ ba. Sư là học trò của cụ Đàm Hư. Cụ Đàm Hư kể bao nhiêu chuyện, Sư chẳng tin, ắt phải chính mắt trông thấy một trường hợp mới tin tưởng. Năm trước, pháp sư kể với tôi: Vị lão cư sĩ ấy thường đến Đồ Thư Quán của Sư mượn kinh. Sư thấy vị lão cư sĩ ấy vãng sanh, mới tin tưởng niệm Phật, nay Sư niệm A Di Đà Phật chẳng hoài nghi. Kể ra cũng khá lắm, vẫn có thể đắc độ. Vị lão cư sĩ ấy họ Âu Dương, tám mươi mấy tuổi. Trước đây từng làm quan; sau này, chánh phủ [Trung Hoa Dân Quốc] dời sang Đài Loan, cụ sang Hương Cảng ở với con gái. Con gái chẳng hiếu thuận, cụ chẳng mong nhờ cậy được gì, chỉ đành niệm Phật, chỉ đành cầu Phật, phải tự mình lo toan mọi điều trong cuộc sống. Lúc cụ sắp vãng sanh, cụ nói với pháp sư Sướng Hoài, [tức là] lúc cụ mượn Đại Tạng Kinh về xem, có nói cụ sắp ra đi, đem kỳ hạn nói với Sư: Ngày Hai Mươi Hai tháng Chạp sẽ ra đi. Pháp sư Sướng Hoài ghi nhớ rất rõ ràng. Lúc cụ nói lời ấy là ngày mồng Một tháng Chạp, tức là đã nói với Sư ba tuần trước khi vãng sanh, bảo Sư ngày Hai Mươi Hai sai người đến nhà cụ lấy Đại Tạng Kinh về, vì cụ chẳng thể đem trả được, cụ phải ra đi. Pháp sư Sướng Hoài nghe nói vậy, sửng sốt, “đi” là vãng sanh ư? Coi bộ không giống, chẳng tin được, thôi kệ như thế nào đi nữa, cứ ghi ngày giờ lên phiếu ghi nhớ, tới hôm Hai Mươi Hai, sai người đến nhà cụ lấy kinh về là được rồi!

Tới hôm ấy, Sư sai người đến lấy kinh về. [Người ấy] đến nhà cụ, lão tiên sinh còn đang xem kinh. Thấy nhân viên từ Đồ Thư Quán đến, cụ hỏi anh ta: “Cháu đến làm gì?” Anh ta thưa: “Chẳng phải là lão nhân gia bảo hôm nay đến lấy kinh về đó sao?” Lão nhân gia bảo: “Đúng thế, tôi bảo anh hôm nay đến lấy, chứ đâu có bảo anh đến trong lúc này, tôi vẫn còn đang xem mà!” Người trẻ tuổi đương nhiên cũng chẳng muốn đôi co với cụ già, cũng tôn trọng cụ, quay về. Hai hôm sau, đến nhà cụ, người nhà cho biết: “Lão tiên sinh đã vãng sanh”. Anh ta hỏi: “Khi nào?” “Hai tiếng đồng hồ sau khi anh trở về”. Anh ta hỏi: “Cụ mất như thế nào?” “Ngay trong lúc đang ngồi bó gối xem kinh”. Đi như vậy đó. Tiêu sái, thật sự tự tại! Khi pháp sư Sướng Hoài tới đó thấy vậy, chẳng nói năng gì, trở về nhà niệm Phật.

Thiên Thai Tinh Xá của pháp sư Sướng Hoài, đại điện thờ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hai bên là tôn giả Ca Diếp và A Nan, bình thường Sư luôn niệm Nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng niệm A Di Đà Phật. Tôi đến thăm tinh xá của Sư, Sư dùng một bức hình Tây Phương Tam Thánh do chúng ta in, lấy băng keo trong dán lên lồng kiếng của tượng Phật. Sư nói: “Nay tôi tin tưởng, nhưng nhất thời không tìm được tượng Phật, xảy ra chuyện mới ôm chân Phật, niệm A Di Đà Phật”, chuyện này là thật, chẳng giả. Do vậy, Sư nói vị lão tiên sinh ấy đã độ Sư! Sư bảo: “Vị lão tiên sinh ấy nhất định là Bồ Tát hóa thân đến độ tôi. Nếu chẳng làm cho tôi đích thân trông thấy, tôi vẫn chẳng niệm A Di Đà Phật”. Chuyện này là chuyện thật! Có lần tôi ở Tân Gia Ba, ở Tân Gia Ba cũng có một bà cụ biết trước lúc vãng sanh. Vì thế, trong thời đại hiện tại, chúng ta thấy [các trường hợp] niệm Phật vãng sanh vẫn nhiều dường ấy. Hơn nữa, lại có nhiều trường hợp vãng sanh tướng lành hết sức tốt đẹp, quá nửa là những kẻ chẳng biết chữ! Bà cụ làng Tướng Quân ở Đài Nam chỉ niệm Phật ba năm, bèn biết trước lúc mất, đứng mất.

Các vị hãy nghĩ xem, pháp môn nào thù thắng như vậy? Người ta không biết bí mật trong một câu Phật hiệu này, bí mật ấy chính là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác, tâm năng niệm là Thỉ Giác, Phật hiệu được niệm là Bổn Giác; Thỉ Giác và Bổn Giác chẳng hai, Thỉ Giác và Bổn Giác tương ứng. Do vậy, công đức của niệm Phật không chỉ có thể chế phục Kiến Tư phiền não, mà đồng thời còn có thể phá Trần Sa và Vô Minh. Thông thường, tu hành phá phiền não, đoạn Kiến Tư trước, rồi mới đoạn Trần Sa, rồi lại phá Vô Minh, theo thứ tự; còn niệm Phật là cùng một lúc. Câu danh hiệu này có sức mạnh ấy, có công đức ấy. Vì thế, vãng sanh sẽ viên chứng ba món Bất Thoái. Nếu quý vị không thật sự hiểu thấu triệt, rõ ràng đạo lý này, thật sự chẳng tin, nói theo phương diện giáo lý sẽ chẳng suông! Thật ra, những kẻ nói theo giáo lý chẳng thể thông suốt, thì nói thật ra là do chưa thấu triệt giáo lý; nếu thật sự thấu triệt, lẽ đâu nói chẳng suông? Tây Phương Cực Lạc thế giới đã có Sự này, đương nhiên sẽ có đạo lý. Có Lý nhất định có Sự, có Sự nhất định có Lý, quý vị đều hiểu rõ ràng, sẽ chẳng hoài nghi, mới hiểu niệm Phật thù thắng, niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn!

Do vậy, chúng ta phải học kinh, học kinh gì? Kinh Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, ba kinh là đủ rồi, chớ nên học những kinh khác nữa. Học những thứ khác, nói thật thà là xen tạp, thật sự chẳng cần phải học! Ba bộ kinh ấy có thể nói là tinh hoa của hết thảy các pháp môn do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói. Kinh Pháp Hoa, kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng đều quy về pháp môn Tịnh Độ. Trong kinh Hoa Nghiêm, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Cổ đại đức nói Hoa Nghiêm và Pháp Hoa là Tự Phần của kinh Di Đà mà thôi, Chánh Tông Phần là kinh A Di Đà, chúng ta nên nhận biết điều này!

“Tự tánh giác thể biến chiếu thị thuyết kinh nghĩa” (Thể của tự tánh giác chiếu trọn khắp là ý nghĩa của việc nói kinh). Nói kinh là do chúng sanh mê hoặc, bất giác, mới cảm chư Phật Như Lai dùng quang minh của tự tánh, thường gọi là “Bát Nhã trí quang”, chiếu trọn khắp hết thảy chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ, đấy là ý nghĩa của việc “thuyết kinh”. Bản thân chúng ta đã giác ngộ, giác ngộ chẳng khác chư Phật Như Lai, cùng là một giác, chẳng phải hai giác. Vì sao? Giác tánh là một, không hai. Kinh thường dạy: “Thập phương tam thế Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân” (mười phương ba đời Phật, cùng chung một Pháp Thân), chính là đạo lý này. Giác tánh giống nhau, do vậy, vạn pháp bình đẳng, chúng ta phải giác ngộ, tu hành từ chỗ này. Nay chúng ta thấy vạn pháp có tốt, có xấu, có vui thích, có chán ghét, có bất bình đẳng trong ấy. Bất bình là mê, giác ngộ là bình đẳng, vì sao? Điều tốt đẹp, đáng ưa thích do tự tánh giác của quý vị biến hiện, mà điều ác, bất hảo, đáng ghét, vẫn do tự tánh giác của quý vị biến hiện. Cái có thể biến hiện là một, tướng được biến hiện có sai biệt, nhưng giác tánh có thể biến hiện là một, chẳng hai!

Ví như ban đêm chúng ta ngủ nằm mộng, cũng có giấc mộng rất ngọt ngào, cũng có khi nằm mộng rất kinh khủng, tướng trong mộng đương nhiên có sai biệt, nhưng cái tâm nằm mộng là một tâm, chẳng phải hai tâm. Nhìn từ Thể, chẳng sai biệt; nhưng Tướng có phân biệt. Thật sự nhận biết Thể vô sai biệt, sẽ hoát nhiên giác ngộ: Tướng cũng vốn chẳng sai biệt. Ví như vàng ròng, đấy là Thể, vàng ròng đúc thành một tượng Phật, quý vị rất cung kính tượng ấy. Dùng vàng ròng đúc thành tượng La Sát hay tượng ngạ quỷ, quý vị trông thấy rất sợ hãi. Tượng khác nhau mà! Nhưng thảy đều là vàng ròng, phân lượng bằng nhau, giá trị cũng bằng nhau, chẳng sai biệt. Do vậy, tướng có thể biến đổi, Thể chẳng biến đổi! Tướng do đâu mà biến? Tướng do tâm phân biệt mà biến, hết thảy các pháp đều từ phân biệt biến hiện. Nếu quý vị chẳng có tâm phân biệt, sẽ chẳng có hết thảy các pháp. Chúng ta ban đêm nằm mộng, cũng là do phân biệt, chấp trước nên mới có! Nếu quý vị chẳng phân biệt, chấp trước, sẽ chẳng nằm mộng. Vẫn còn nằm mộng tức là quý vị chưa hoàn toàn đoạn sạch phân biệt, chấp trước. Hoàn toàn đoạn sạch, chắc chắn không nằm mộng. “Tự tánh giác thể biến chiếu” chính là ý nghĩa của “thuyết kinh”.  Thuyết kinh cũng nhằm dụng ý giúp đỡ chúng ta khôi phục Bổn Giác, khôi phục tự tánh giác.

“Hậu giai lệ thử”: Sau mỗi đoạn chú giải, Liên Trì đại sư đều có phần Xứng Lý, nhằm giảng đoạn kinh văn ấy theo cách tiêu quy tự tánh, khiến cho chúng ta đạt được rất nhiều lợi ích từ đoạn ấy.

 

(Sao) Xứng Lý giả, dĩ tức Sự tức Lý, sở vị tổng cai vạn hữu, tức thị nhất tâm, tắc y báo, chánh báo, hà phi tự tánh?

()稱理者,以即事即理,所謂總該萬有,即是一心,則依報正報,何非自性。

(Sao: “Xứng Lý”: Sự chính là Lý, Lý chính là Sự, có nghĩa là toàn thể vạn hữu chính là nhất tâm, cho nên y báo và chánh báo, có thứ nào chẳng phải là tự tánh?)

 

Sao nhằm giải thích Sớ, nhằm nói rõ ràng hơn, ý nghĩa càng phong phú.“Xứng Lý” là gì? Người tu hành thường nói là “xứng tánh khởi tu”, xứng tánh khởi tu là chuyện như thế nào? Chính là Xứng Lý! Quý vị hiểu rõ đoạn này, thật sự biến đoạn này thành quan niệm, kiến giải, tư tưởng, hành vi của chính mình thì gọi là “xứng tánh khởi tu”. Người xứng tánh khởi tu chẳng phải là phàm nhân, mà là Bồ Tát, chúng ta gọi người ấy là vị Bồ Tát thật sự, danh xứng với thực. Kinh Kim Cang dạy: “Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát” (Nếu Bồ Tát có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải là Bồ Tát), vì sao? Vì vị ấy chẳng xứng tánh. Người xứng tánh khởi tu nhất định là “vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả tướng”, xứng tánh sẽ là Bồ Tát chân thật.

“Tổng cai vạn hữu, tức thị nhất tâm” (toàn thể vạn hữu chính là nhất tâm), hai câu này là cương lãnh. Pháp giới tuy rộng lớn, nhưng y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, mười phương, ba đời, do đâu mà có? Từ nhất tâm của chính mình, nhất tâm biến hiện các vật. Nhất tâm [nói ở đây] là nhất tâm của chính mình. Vì thế, “y báo, chánh báo, hà phi tự tánh” (y báo và chánh báo, có thứ nào chẳng phải là tự tánh), có gì chẳng phải là tự tánh? Thật sự giác ngộ, tâm lượng sẽ to lớn, “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, giác ngộ là như vậy. Khi chưa giác ngộ, tâm lượng rất nhỏ, chẳng thể dung kẻ khác. Người giác ngộ là Phật, Bồ Tát, thật sự biết chân tướng sự thật. Kẻ chưa giác ngộ, chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật. Vì vậy, “giác” là hiểu rõ triệt để chân tướng sự thật, chân tướng của nhân sinh và vũ trụ là nhất tâm sở hiện, sở biến.

Kinh Hoa Nghiêm giảng rất hay: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, tâm có thể hiện tướng, tướng là cái được hiện. Trong kinh thường nói: “Chư pháp Thật Tướng”, [Thật Tướng là các pháp đều do] tâm hiện. Thức biến hóa, nên Thức là mê. Do đã mê nên mới có tâm ý thức, mới có phân biệt, chấp trước. Phân biệt và chấp trước là thức. Vì có phân biệt, chấp trước, nên mới biến hiện mười pháp giới. Nếu chẳng có phân biệt, chấp trước, thưa quý vị, pháp giới vốn là nhất, cái “nhất” ấy mới là thật! Kinh Hoa Nghiêm nói Nhất Chân pháp giới, pháp giới vốn là Nhất Chân, chẳng phải là mười pháp giới. Mười pháp giới ở đâu ra? Do quý vị phân biệt và chấp trước mới có. Nếu quý vị chẳng phân biệt, chấp trước, lấy đâu ra mười pháp giới? Giống như trên quả địa cầu này có nhiều quốc gia; biên giới giữa các nước do đâu mà có? Do con người vạch ra, do con người chấp trước: Chỗ này là của ta, nơi kia là của ngươi, nên mới có [biên giới]. Nếu lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, quý vị tìm khắp địa cầu cũng chẳng thấy biên giới nào hết, tìm không ra, không có! “Không có” là thật; “có” là giả! Vì thế, có phân biệt, chấp trước, có giới hạn là giả, chẳng có giới hạn là thật. Do đó, mười pháp giới là giả, lúc mê mới có, khi giác ngộ chẳng còn nữa. Khi giác ngộ, pháp giới là Nhất Chân.

Đại Chuyên Giảng Tòa lần này, chúng tôi muốn giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật (còn gọi là Thập Lục Quán Kinh). Mấy hôm nay, tôi đang đọc bộ Quán Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa của pháp sư Đế Nhàn. Trí Giả đại sư tu Quán Kinh vãng sanh, Ngài y theo phương pháp ấy để tu hành, được vãng sanh. Ngài là tổ sư tông Thiên Thai, bản chú giải ấy của Ngài hết sức nổi tiếng. Bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Diệu Tông Sao quá sâu, những người bình phàm hiện thời tuyệt đối chẳng thể đọc được; nhưng tác phẩm ấy vô cùng hay! Trước kia, khi thầy Lý tại thế đã khuyên tôi in nhiều một chút để lưu thông, tôi in bốn ngàn bộ. Bộ Diễn Nghĩa của pháp sư Đế Nhàn giống như phần Tiết Yếu (trích lục những phần trọng yếu) của bộ Diệu Tông Sao; đối với mỗi đoạn, Ngài thêm đôi chút ý kiến của chính mình, những ý kiến này dễ hiểu hơn rất nhiều [so với nguyên văn lời Sao]. Ngài bảo tuy có mười sáu phép Quán, nhưng trên thực tế, chẳng ra ngoài nhất tâm, chẳng khác gì câu nói “tổng cai vạn hữu, tức thị nhất tâm” (toàn thể vạn hữu chính là nhất tâm) ở đây, hoàn toàn tương đồng. Trong bản chú giải của Ngài, mỗi phép Quán trong mười sáu phép Quán đều dùng phương pháp Nhất Tâm Tam Quán để tu Tây Phương Tịnh Độ, chúng ta có thể hợp cả hai kinh lại để xem.

Nhưng chúng ta tu pháp môn này, chẳng chọn cách quán tưởng, mà dùng trì danh. Mười hai phép Quán đầu trong Quán Kinh là Quán Tưởng Niệm Phật; các phép Quán mười ba, mười bốn, và mười lăm là Quán Tượng Niệm Phật, phép Quán cuối cùng, tức phép Quán thứ mười sáu, là Trì Danh Niệm Phật. Tuy nói cuối cùng, nói về Hạ Phẩm Hạ Sanh, nhưng tôi thưa với chư vị đồng tu: Hạ Phẩm Hạ Sanh giống như màn chót trong một tuồng hát, màn chót là màn hay nhất. Quý vị chớ nên coi rẻ Hạ Phẩm Hạ Sanh, Hạ Phẩm Hạ Sanh và Thượng Phẩm Thượng Sanh chẳng khác nhau, đúng là chẳng thể nghĩ bàn, là pháp khó tin. Cớ sao nói “chẳng khác nhau”? Quý vị hãy nghiên cứu kỹ lưỡng kinh văn, Hạ Phẩm Hạ Sanh là hạng người nào? Ngũ Nghịch, Thập Ác, ngay lập tức đọa vào A Tỳ địa ngục, đức Phật có năng lực khiến cho người ấy trong lúc lâm chung có thể một niệm hoặc mười niệm vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới do Phật có trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, chẳng khiếm khuyết tí nào. Nếu là một kẻ tội nghiệt cực nặng nề, lập tức phải đọa địa ngục, mà đức Phật chẳng thể khiến cho kẻ ấy lập tức thành Phật, tức là năng lực của Phật vẫn còn khiếm khuyết, vẫn chưa thể nói Phật là vạn đức vạn năng. [Nếu như vậy, nói] Phật vạn đức vạn năng là chúng ta ca ngợi Ngài, chẳng phải là sự thật. Nếu là sự thật, kẻ ấy tội nặng như thế, lập tức đọa địa ngục, đức Phật có thể ngay lập tức khiến cho kẻ ấy thành Phật, chúng ta chẳng còn bàn cãi gì nữa! Phật đúng là vạn đức vạn năng. Phật có làm được hay không? Làm được! Thật vậy, chẳng sai tí nào! Nhìn từ chỗ nào? Phép Quán thứ mười sáu trong Quán Kinh! Quý vị mới hiểu pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn. Bởi lẽ, hết thảy các pháp môn khác chẳng độ được, pháp môn này có thể lập tức độ kẻ ấy thành Phật, nên pháp môn này mới gọi là pháp môn bậc nhất, pháp môn vô thượng, pháp môn không gì sánh bằng, chúng ta mới thật sự thấy rõ ràng!   Công đức trì danh niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn!

Tuy là Hạ Phẩm Hạ Sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng viên chứng ba thứ Bất Thoái. Nói cách khác, hạng người nào viên chứng ba thứ Bất Thoái? Đẳng Giác Bồ Tát viên chứng ba thứ Bất Thoái. Người ấy sanh về bên đó, tuy là Hạ Phẩm Hạ Sanh, là phàm phu, nhưng viên chứng ba thứ Bất Thoái. Trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói: Tây Phương Cực Lạc thế giới là thế giới vô cùng lạ lùng, đặc biệt! Quý vị nói người [vãng sanh] ấy là phàm phu, nhưng người ấy đã viên chứng ba thứ Bất Thoái, đó là Bồ Tát. Nếu quý vị bảo người ấy là Bồ Tát, người ấy chưa đoạn một phẩm phiền não nào, nên người ấy là phàm phu. Vì thế, chẳng thể nói người ấy là phàm phu, mà cũng chẳng thể bảo là Bồ Tát. Người ấy loại nào cũng không phải, mà loại nào cũng đều phải, nói người ấy là Bồ Tát cũng được, mà bảo là kẻ phàm phu cũng được luôn! Quý vị nói người ấy Bồ Tát cũng không được, gọi là phàm phu cũng không xong! Thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Do nguyên nhân nào vậy? Công đức xưng danh niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn! Khi chúng ta thảo luận Quán Kinh sẽ nói cặn kẽ vấn đề này. Bất quá, trong kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ đều có thảo luận rất tỉ mỉ, thảo luận rất sâu xa. Chúng ta biết đấy là sự thật, Phật thật sự có năng lực ấy, mỗi cá nhân chúng ta đều có thể làm được!

Nhưng quyết định chớ nên hiểu lầm ý nghĩa này. Nếu quý vị nghĩ kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung mười niệm hoặc một niệm đều có thể vãng sanh, lại còn viên chứng ba thứ Bất Thoái, nay ta làm thêm một chút chuyện xấu cũng chẳng sao! Chờ tới lúc lâm chung, ta lại niệm Phật vẫn có thể [vãng sanh], vẫn còn kịp; nếu quý vị nghĩ kiểu đó, hoàn toàn sai bét rồi! Trong tương lai, quý vị đọa A Tỳ địa ngục, chẳng thể trách tôi nói không rõ ràng! Tôi giảng rõ ràng, rành rẽ, quý vị nhất định đừng nên có tâm lý cầu may! Đó là tình hình gì? Những kẻ ác ấy suốt đời chẳng nghe Phật pháp, hoặc nghe pháp môn khác, chẳng nghe pháp môn Niệm Phật, lúc lâm chung tiếp xúc pháp môn này là tiếp xúc lần đầu. Còn quý vị nay đã tiếp xúc pháp môn Tịnh Độ, chẳng còn cơ hội [giống như người Hạ Phẩm Hạ Sanh nữa đâu]. Nay quý vị hãy khéo thật thà niệm Phật, đừng nên giữ tâm lý cầu may! Phải học theo phương pháp do Thiện Đạo đại sư đã dạy, tức là chúng ta thân chuyên lễ A Di Đà Phật, mỗi ngày lạy A Di Đà Phật; miệng chuyên niệm A Di Đà Phật; tâm chuyên tưởng A Di Đà Phật. Nếu thân khẩu ý tam nghiệp đều có thể hệ niệm A Di Đà Phật, Thiện Đạo đại sư nói: “Một trăm người tu, một trăm người vãng sanh, một ngàn người tu,  một ngàn người vãng sanh,  vạn người tu, vạn người đến, chẳng sót một ai!”, quý vị phải chuyên!

Nhưng trong thế gian này, có một số người rất chấp trước, đầu óc đông cứng. Trước đây, thầy Lý đã gọi họ là “đầu óc cứng ngắc như khúc gỗ vuông vức”, chẳng xoay chuyển được! Ở Hương Cảng, tôi cũng đem câu nói ấy khuyên các đồng tu. Giảng xong, có mấy người đến hỏi: “Sau này, chúng con thấy Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không cần lạy, thấy Quán Âm Bồ Tát cũng không cần lạy, vì tổ sư nói phải chuyên lễ, thân chuyên lễ A Di Đà Phật!” Tôi nói: “Sao mà lại chấp chết cứng như thế?” Tôi nói: – Tổ nói chuyên lễ chẳng sai, nhưng quý vị phải hiểu, ai dạy chúng ta pháp này? Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta. Chẳng thể nào quên Thích Ca Mâu Ni Phật được! Quên Ngài tức là có lỗi đối với Ngài rồi!

Do vậy, chúng ta lạy Phật, trước hết, lạy ba lạy, lạy Thích Ca Mâu Ni Phật, lạy Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ba lạy. Sau đấy, lạy A Di Đà Phật. Lạy A Di Đà Phật càng nhiều càng tốt, thông thường chúng ta lạy tối thiểu bốn mươi tám lạy. Lạy một trăm lạy, hai trăm lạy, ba trăm lạy, đều là rất phổ biến. Khi chúng ta niệm Phật, mở đầu nhất định niệm Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ba lần, rồi mới niệm A Di Đà Phật. Niệm Nam-mô A Di Đà Phật, niệm sáu chữ hoặc bốn chữ đều được, niệm một trăm câu, niệm một ngàn câu, hoặc niệm một vạn câu. Sau khi niệm A Di Đà Phật xong, chúng ta niệm Quán Thế Âm Bồ Tát ba lần, niệm Đại Thế Chí Bồ Tát ba lần, niệm Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát ba lần, sau đó hồi hướng. Từ xưa đến nay, cách này được gọi là nghi thức chuyên niệm.

Trong tâm thường tưởng cảnh giới Tây Phương Cực Lạc thế giới, thường nghĩ tới A Di Đà Phật. Nghĩ tới cảnh giới Tây Phương, phải niệm kinh Di Đà rất thuần thục, hoặc niệm kinh Vô Lượng Thọ rất thuần thục. Quý vị phải biết: Thuở ấy, Huệ Viễn đại sư kiến lập Tịnh Độ Tông, kiến lập Lô Sơn Liên Xã, một trăm hai mươi ba người ai nấy đều vãng sanh, hội ấy đúng là quá thù thắng. Tổ kiến lập Đông Lâm Niệm Phật Đường, tức Lô Sơn Liên Xã. Khi ấy, kinh Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ đều chưa được phiên dịch, chưa truyền tới Trung Quốc, chỉ có kinh Vô Lượng Thọ. Do vậy, đạo tràng niệm Phật ấy tu học hoàn toàn căn cứ trên kinh Vô Lượng Thọ.

Kinh Vô Lượng Thọ là kinh bậc nhất trong Tịnh Độ Tông, nhưng kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà đồng bộ. Kinh kia nói rộng, nói rất tỉ mỉ; kinh này nói đại lược, đơn giản, nhưng nội dung hoàn toàn tương đồng. Vì thế, chúng ta gọi hai kinh ấy là Đại Bổn và Tiểu Bổn. Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ, Tiểu Bổn là kinh Di Đà, nội dung hoàn toàn tương đồng. Kinh niệm rất thuần thục, lúc ấy mới có thể tưởng, phải thường tưởng ý nghĩa trong kinh, Nếu không thuộc kinh, sẽ chẳng có cách nào quán tưởng, sẽ không thể tưởng được!

Nhất là kinh Vô Lượng Thọ vô cùng hay, phân lượng rất vừa phải, không nhiều, không ít. Vì thế, thật sự muốn tu pháp môn Tịnh Độ, mong muốn có thể vãng sanh trong một đời này, tốt nhất là học thuộc lòng bộ kinh ấy, nhưng cũng không cần phải cố ý học thuộc! Quý vị niệm nhiều, niệm thuần thục, sẽ tự nhiên thuộc. Chẳng hạn như quý vị mỗi ngày niệm một lần, niệm hằng ngày chẳng gián đoạn, niệm mười năm hoặc tám năm, lẽ nào chẳng thuộc? Nếu có thể thuộc, quán tưởng sẽ vô cùng thuận tiện. Đồng thời, văn chương trong kinh ấy hết sức hay! Nếu có thể thật sự niệm hiểu và niệm thuộc bộ kinh ấy, quý vị cũng học được Cổ Văn. Quý vị đọc hết thảy các kinh, đọc hết thảy văn chương thời cổ như Tứ Khố Toàn Thư hoặc Đại Tạng Kinh, sẽ chẳng bị chướng ngại nơi văn tự! Vì thế, có thể coi kinh Vô Lượng Thọ như Cổ Văn để niệm. Kinh ấy chỉ có tất cả bốn mươi tám chương, giống như bốn mươi tám bài. Xưa kia, thầy Lý dạy Cổ Văn, lão nhân gia thường nói: Tối thiểu phải thuộc năm mươi bài cổ văn thì quý vị mới có cơ sở vững vàng về văn chương Văn Ngôn, đọc loại văn Văn Ngôn sẽ chẳng bị trở ngại. Quý vị có thể thuộc một trăm bài cổ văn, sẽ có thể viết lách bằng Văn Ngôn. Do vậy, Ngài hết sức coi trọng chuyện đọc thuộc lòng. Chúng ta là người học Phật, nếu học thuộc kinh Vô Lượng Thọ sẽ là vừa học kinh mà cũng học Cổ Văn luôn, nhất cử lưỡng tiện!

 

(Sao) Hựu “tức Lý” giả, Sự y Lý thành, như Tịnh Danh vân: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”.

()又即理者,事依理成,如淨名云:隨其心淨,則佛土淨。

(Sao: Lại nữa, “tức Lý”: Sự nương vào Lý mà thành, như kinh Tịnh Danh đã nói: “Hễ tâm tịnh, cõi Phật sẽ tịnh”).

 

Trích dẫn một câu từ kinh Duy Ma, kinh Tịnh Danh là kinh Duy Ma[37]. Trong phần trước đã nói Lý và Sự chẳng tách rời, có Sự nhất định có Lý, tức là có đạo lý. Đã có đạo lý ấy, nhất định có sự tướng. Do vậy, Lý và Sự chẳng tách rời! “Sự y Lý thành”: Nay chúng ta thấy những hiện tượng trong thế giới Sa Bà, tất nhiên có đạo lý trong ấy. Chuyện lớn có Lý, mà chuyện nhỏ cũng có Lý. Đó gọi là “lớn như thế giới, nhỏ như vi trần” đều có Lý trong ấy. Tâm tình của chúng ta cũng biến hóa trong từng sát-na, bị biến hóa là Sự, tức hiện tượng. Mừng, giận, buồn, vui là hiện tượng tâm lý, chúng có Lý. Chẳng có Lý, lấy đâu ra Sự? Vật chất biến hóa, chúng ta nói đến vật thì chúng đích xác có Lý. Do vậy, có Lý nơi vật và Lý nơi tâm; nhưng Lý nơi vật và Lý nơi tâm là một; bởi lẽ, chân lý chỉ có một. Xứng Lý thì chủ yếu là chúng ta phải tìm được Lý này!

Ở đây, [lời Sao] trích dẫn kinh Tịnh Danh: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”, chúng ta dùng lý này để nhìn. Đạo lý này có nghĩa là: Thật sự giác ngộ duy tâm Tịnh Độ chính là cái Lý để nương vào (sở y chi Lý). Cõi Phật thanh tịnh, cảm vời y báo và chánh báo trang nghiêm, đấy chính là những Sự được thành [bởi Lý]. Đã nương vào Lý để thành tựu Sự, Sự nhất định phải xứng Lý. Căn cứ trên đạo lý này, chúng ta quan sát hoàn cảnh trước mắt, cũng phải nên giác ngộ. Hiện thời, cả thế giới đều động loạn, động loạn đến mức chẳng thể vãn hồi, trong ấy có Lý, Lý gì vậy? Lòng người thiếu chỗ nương về! Ở Trung Quốc, trong quá khứ, trải các đời đều có thể nói là có những khoảng thời gian ổn định, bình trị khá dài. Tuy có động loạn, nhưng thời gian động loạn cũng không dài. Đó gọi là “loạn lạc rồi đến bình trị”. Thời gian cõi đời yên ổn dài hơn đời loạn, do nguyên nhân nào? Tư tưởng và kiến giải của mọi người có cùng một tiêu chuẩn. Dẫu lệch khỏi tiêu chuẩn ấy, cũng chẳng lệch khỏi quá xa! Vì thế, lòng người có chỗ nương về. Chỗ nương về là gì? Một đằng là Nho gia, đạo thống (giềng mối đạo) của học thuyết Khổng Mạnh, một đằng là Đại Thừa Phật pháp. Người Trung Quốc xử sự, đãi người, tiếp vật, tư tưởng, kiến giải đều dựa trên tiêu chuẩn của Nho và Phật, nên mới có thể bình trị lâu dài.

Hiện thời, lòng người chẳng quay về nương náu [Nho và Phật], không có gì để noi theo. Vì vậy, thế giới đại loạn, dân chúng phải hứng chịu khổ sở. Trong quá khứ, tại phương Tây, tuy phương Tây không có học thuật[38], nhưng phương Tây có tôn giáo, tư tưởng của Cơ Đốc Giáo và Thiên Chúa Giáo ảnh hưởng lòng người Tây Phương, gần như là cả hai ngàn năm. Hiện thời, người Tây Phương chẳng tin Thượng Đế, người Đông Phương chẳng cần đến Khổng Tử và Phật, đấy là căn nguyên khiến thế giới đại loạn. Tướng loạn lạc ấy mọi người đều thấy, mỗi năm một rõ rệt hơn, điều này tuyệt đối chẳng phải là chuyện tốt đẹp. Vì thế, tôi giảng kinh các nơi ở hải ngoại, mọi người rất quan tâm đến sự động loạn trên thế giới. Tôi thật thà bảo họ: Chúng ta có thể tu hành, khéo niệm Phật, niệm kinh, ước chừng trong năm năm chẳng có vấn đề. Lâu hơn chút nữa là thêm hai năm thành bảy năm, chứ sau đấy tôi không dám nói. Đại tai nạn trên thế giới ngày một sát nút, trong vòng từ năm năm đến bảy năm, chúng ta chẳng tự chuẩn bị đường thoát thân cho tốt đẹp thì sau này chẳng thể nào tưởng tượng được! Trong thời gian ngắn ngủi như thế, dùng phương pháp gì để cứu chính mình? Trừ thật thà niệm Phật ra, chẳng có con đường thứ hai nào! Trước lúc ra đi, thầy Lý nói: “Thế giới loạn chẳng thể cứu được, hãy mau chóng sang Tây Phương”. Thầy luôn khuyên học trò hãy mau chóng di dân sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, đừng di dân sang ngoại quốc. Ngoại quốc càng rối ren hơn, chẳng tốt đẹp bằng Đài Loan. Tại Đài Loan, thật thà chuẩn bị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đấy mới là đường ngay, đấy mới là sự tính toán thông minh!

Hiện thời, lòng người chẳng thanh tịnh, đương nhiên cõi nước chẳng thanh tịnh. Lòng người thanh tịnh, cõi nước sẽ thanh tịnh. Quý vị hiểu rõ đạo lý này, người một nhà hòa thuận, người một nhà tâm thanh tịnh, nhà người ấy thanh tịnh; trong một đoàn thể mà lòng người thanh tịnh thì đoàn thể ấy sẽ thanh tịnh; một xã hội, một quốc gia mà lòng người thanh tịnh, nơi ấy sẽ thanh tịnh; nhưng quý vị hãy suy nghĩ, dùng phương pháp gì để tịnh hóa lòng người? Hiện thời, người thật sự tin vào đạo lý Phật pháp có mấy ai? Tiếng tăm, lợi dưỡng vừa bày ra trước mặt sẽ lại lập tức thoái lui.

Lần này, ở Tân Gia Ba, pháp sư Diễn Bồi hết sức cảm khái nói với tôi: Mắt thấy Phật pháp không có người kế tục, do nguyên nhân gì? Người trẻ tuổi xuất gia chẳng ít, nhưng sức dụ dỗ mê hoặc của tiếng tăm lợi dưỡng bên ngoài quá lớn, kinh sám Phật sự tiêu diệt Phật pháp! Có rất nhiều pháp sư trẻ tuổi chẳng chăm chỉ học kinh, học kinh rất khổ, họ đi niệm kinh [cho người khác kiếm tiền]. Niệm nửa năm hoặc là một năm, chính mình sẽ mua được nhà, tự mình dựng một ngôi chùa. Dựng chùa để làm gì? Lại tiếp tục làm kinh sám Phật sự, làm ông chủ! Trước kia [các pháp sư trẻ tuổi ấy ở trong chùa miếu của các vị hòa thượng hay pháp sư đại đức lớn tuổi hơn] là làm công, làm công một thời gian, có tiền bèn mở tiệm làm chủ, lão hòa thượng có đồ đệ hay không? Có chứ, đồ đệ đâu cả rồi? Đi hết rồi, bên mình chẳng có một ai!

Hiện thời, đối với tin tức trong thế gian này, biết ít một chút cũng chẳng sao! Tin tức nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới phải biết nhiều hơn một tí mới tốt. Trong tâm thường nghĩ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đừng nghĩ tới chuyện trong thế giới này. Chúng ta có thể rời khởi thế giới này sớm một chút là có phước nhất. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sớm một chút. Ngày hôm nay đã hết thời gian rồi, tôi giảng tới chỗ này. Lời chú giải trong đoạn này rất dài, vô cùng trọng yếu!

 

Tập 100

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm tám mươi sáu:

 

(Sao) Xứng Lý giả, dĩ tức Sự tức Lý. Sở vị, tổng cai vạn hữu, tức thị nhất tâm, tắc y báo chánh báo, hà phi tự tánh? Hựu, tức Lý giả, Sự y Lý thành, như Tịnh Danh vân: “Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”.

()稱理者,以即事即理。所謂總該萬有,即是一心,則依報正報,何非自性。又即理者,事依理成,如淨名云:隨其心淨,則佛土淨。

(Sao: “Xứng Lý”: Sự chính là Lý, Lý chính là Sự, có nghĩa là toàn thể vạn hữu chính là nhất tâm, cho nên y báo và chánh báo, có thứ nào chẳng phải là tự tánh? Lại nữa, “tức Lý”: Sự nương vào Lý mà thành, như kinh Tịnh Danh đã nói: “Hễ tâm tịnh, cõi Phật sẽ tịnh”).

 

Đây là trích dẫn một câu rất nổi tiếng trong kinh Duy Ma để chứng thực.

(Sao) Kim kinh ngôn nhất tâm bất loạn.

() 今經言一心不亂。

(Sao: Nay kinh này nói “nhất tâm bất loạn”).

 

[Chữ “kim kinh”] chỉ bộ kinh A Di Đà đang được chúng tôi giảng.

 

(Sao) Tức tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, vi nhất kinh đại chỉ dã. Minh lý nhi đàm, vân “xứng Lý” dã.

()即自性彌陀,惟心淨土,為一經大旨也。冥理而談,云稱理也。

(Sao: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” là tông chỉ chánh yếu của kinh này; ngầm nói đến Lý nên gọi là “xứng Lý”).

 

Tông chỉ quan trọng nhất của kinh này là “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”.

 

(Sao) Giác thị tổng nghĩa, giác thể chi trung, quảng đại tất bị, vô cùng vô tận, thị vi biệt nghĩa.

()覺是總義,覺體之中,廣大悉備,無窮無盡,是為別義。

(Sao: Giác là nghĩa tổng quát, trong giác thể rộng lớn trọn đủ, vô cùng, vô tận; đấy là nghĩa riêng biệt).

 

Những điều này đều nhằm giải thích [những ý nghĩa] trong lời Sớ. “Giác” là tổng nghĩa, [tức là] nói tổng quát. Trong đoạn trước, lời Sớ đã giảng: “Tự tánh giác thị Phật nghĩa” (tự tánh giác là ý nghĩa của chữ Phật). Câu tiếp theo là “giác thể chi trung” (trong giác thể) nhằm giải thích câu “tự tánh giác vô lượng, thị A Di Đà nghĩa” (tự tánh giác vô lượng là ý nghĩa của A Di Đà) [trong lời Sớ]. “Quảng đại”: Quảng là nói theo tác dụng; cho nên nó bao gồm các ý nghĩa “rộng nhiều, rộng rãi mênh mông”. “Giác thể” là chân tâm của chúng ta, chân tâm vốn giác; vì thế, nó được gọi là Bổn Giác. Phật môn thường nói tới mê, mê gì vậy? Mê mất Bổn Giác. Nói cách khác là mê bổn tâm, hoặc có thể nói là mê bổn tánh. Bổn Tâm, Bổn Tánh và Bổn Giác đều có cùng một ý nghĩa. Chúng ta mê là mê điều này, nên mới biến thành bất giác. Mê như thế nào? Nói thật ra, điều này cũng hoàn toàn chẳng khó hiểu! Trong tâm chúng ta có ý niệm, đó là mê. Vì sao? Trong chân tâm chẳng có ý niệm. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường dạy: “Chân tâm ly niệm”, chẳng có ý niệm. “Có niệm” là vọng tâm. Nói cách khác, có niệm là bất giác, là mê; vô niệm là giác. Chúng ta nghe nói như vậy, được rồi, tất cả hết thảy các vọng niệm đều dứt trừ, điều gì cũng chẳng nghĩ tới, vậy thì quý vị có giác hay không? Vẫn là bất giác! Vì sao nói là “bất giác?” Vì quý vị vẫn còn có “vô niệm”. Quý vị có vô niệm, tức là vẫn còn có ý niệm [“ta nay đã vô niệm”], chuyện này phiền lắm. “Có niệm” là bất giác, vô niệm cũng là bất giác. Do vậy, trong sự lìa ấy, chẳng những không thể có hữu niệm, mà vô niệm cũng chẳng cần đến. Hữu niệm lẫn vô niệm thảy đều lìa, chân tâm bèn hiện tiền.

Bởi lẽ,  có những kẻ hiểu lầm,  ngỡ  “lìa hết thảy niệm”  là niệm gì cũng đều chẳng cần đến, rốt cuộc vẫn giữ chặt một cái “vô niệm”. Quý vị có niệm hay không? Tôi chẳng có ý niệm thì “chẳng có ý niệm” vẫn là một niệm, vẫn là một vọng niệm! Vì thế, người ấy chẳng có cách nào hiển lộ chân tâm, chẳng có cách nào khôi phục giác thể, đạo lý ở chỗ này. Đấy là “tu Vô Tưởng Định” như trong nhà Phật thường nói. “Vô tưởng” vẫn là một thứ tưởng, tức là suy tưởng đến sự “vô tưởng” ấy. Do vậy, người ấy vẫn còn một niệm, cho nên chẳng phải là công phu thật sự, quả báo là [sanh trong] Vô Tưởng Thiên (Asamjñisattvāh), tu hành đến cuối cùng biến thành ngoại đạo. Vô Tưởng Thiên là ngoại đạo. Chúng ta phải hiểu đạo lý này, tu hành đúng là khó, thật sự chẳng phải là chuyện dễ dàng! Đến khi quý vị có công phu tu hành kha khá, sẽ thường xuất hiện nhiều cảnh giới, quá nửa những cảnh giới ấy [thoạt nhìn] rất giống [thánh cảnh], nhưng chẳng phải [là thánh cảnh thật sự]. Vì thế, [nếu hành nhân không biện định, hiểu rõ], sẽ thường bị rơi vào cảnh ma.

Tôi thường nghe các đồng tu nói, họ cũng quen biết các đồng tham đạo hữu hoặc bạn bè, nói tu hành nửa tháng hoặc một năm bèn đổ bệnh; mà bệnh cũng chẳng nhẹ. Nói cách khác, đó là chuyện đáng tiếc trong cả đời người ấy, chẳng có cách nào khôi phục bình thường. Nói thông tục là tu đến nỗi mắc bệnh thần kinh, chuyện này rất phiền, không ai có sức cứu người ấy được! Nếu người ấy chẳng sốt sắng, chẳng dụng công tu hành, không sao hết, chẳng sanh ra chuyện. Vừa thật sự dụng công, nẩy sanh phiền phức liền! Đừng nói là tu Thiền, tu Mật, tu những pháp môn khác dễ bị trục trặc, [ngay cả] niệm Phật mà nếu niệm không đúng pháp cũng bị trục trặc, chỉ là ít hơn một chút mà thôi. Lúc tôi mới học Phật, vừa mới đến Đài Trung thân cận thầy Lý; thầy Lý bảo chúng tôi, thầy có hai người học trò niệm Phật trong Tinh Tấn Phật Thất bèn đổ bệnh. Cụ hết sức hao tổn tâm sức, gần như phải mất tám tháng mới trị cho một người trở lại bình thường, tốn thời gian hơn một năm để trị cho người kia. Đây là nói nếu quý vị thật sự dụng công, một niệm sai lầm sẽ sanh ra sai lầm. Vì thế, niệm Phật chẳng thể không hiểu đạo lý và phương pháp, nhất định phải giữ vững nguyên tắc.

Nói cách khác, hễ đổ bệnh tức là tâm người ấy không đúng mực, cầu nhanh chóng, hiếu thắng, muốn vượt trội người khác, đều do các vọng niệm này nên người ấy mới đổ bệnh! Nếu không, dùng cái tâm bình thường để tu hành, chẳng tham cầu cảnh giới, cũng chẳng đòi hỏi thành tựu nhanh chóng, cứ thật thà niệm mãi một câu A Di Đà Phật, chắc chắn chẳng có khuyết điểm gì! Vì thế, cái tâm hiếu thắng là chuyện phiền phức; trong Phật môn gọi là “cống cao, ngã mạn”; hiếu thắng cũng thuộc loại ngã mạn. Nếu quý vị chẳng thật sự dụng công thì không sao; nhưng thật sự dụng công sẽ xảy ra chuyện. Tâm hiếu thắng là đại chướng ngại, ngạo mạn trong “tham, sân, si, mạn” là đại phiền não, hiếu thắng, hiếu cường, muốn vượt trội người khác, ý niệm ấy chẳng tốt! Vì thế, Phật, Bồ Tát dạy chúng ta phải khiêm hư, người khác ở đằng trước, chúng ta ở đằng sau. Như Ngẫu Ích đại sư là một người lỗi lạc; lão nhân gia niệm Phật cầu vãng sanh, Ngài nói: “Ta chỉ cần hạ hạ phẩm vãng sanh là đủ rồi, thỏa mãn rồi”. Quyết định chẳng có chút tâm niệm hiếu thắng hiếu cường, Ngài chẳng có [tâm niệm ấy]! Thông thường, người như vậy thành tựu thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Phàm những kẻ hiếu thắng hiếu cường đến cuối cùng đều thất bại. Chúng ta phải chú ý, cảnh giác điều này.

Chân tâm có tác dụng vô lượng, vô biên; vì thế, gọi nó là Quảng. “Đại” là lời tán thán, giống như chữ Đại trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, hoặc Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh đều thuộc về lời lẽ tán thán. Trong Đại Kinh đã giải thích ý nghĩa của chữ ấy, tán thán điều gì? Tán thán Chân Như bổn tánh, mà cũng là tán thán giác thể của Bổn Giác; nhà Thiền gọi nó là “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra), [Chân Như bổn tánh] đúng là to lớn! Vì vậy, Đại ở đây chẳng phải là Đại trong Đại Tiểu (lớn hay nhỏ), mà là chẳng có cách nào hình dung, quả thật chẳng có lời lẽ nào để có thể tán thán, bất đắc dĩ miễn cưỡng dùng chữ Đại này, mượn chữ này để tán thán nó. “Quảng đại tất bị, vô cùng, vô tận” chính là ý nghĩa riêng biệt.

 

(Sao) Bổn Thỉ hữu nhị.

() 本始有二。

(Sao: Bổn Giác và Thỉ Giác có hai cách nói).

 

“Hữu nhị” là có hai cách để nói.

 

(Sao) Ước tiên hậu, tắc Di Đà cổ Phật, thử Phật tân thành, thị bỉ Bổn thử Thỉ.

() 約先後,則彌陀古佛,此佛新成,是彼本此始。

(Sao: Xét theo thứ tự trước sau, Di Đà là cổ Phật, còn vị Phật [trong cõi] này là mới thành, nên gọi [vị Phật kia] Bổn, vị này là Thỉ Giác).

Nói theo thứ tự trước và sau, hoàn toàn nói theo tướng. A Di Đà Phật tại Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật tới nay đã mười kiếp. Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật trong thế giới này là vị Phật mới thành, Ngài trụ thế tám mươi năm (bảy mươi chín tuổi nhập diệt, tính từ đầu đến cuối là tám mươi năm). A Di Đà Phật thành Phật trước, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật sau. A Di Đà Phật thành Phật từ mười kiếp trước, Phật Thích Ca thành Phật trong hiện tại. “Thị bỉ Bổn thử Thỉ giả”, vị thành Phật trước là Bổn, vị thành Phật sau là Thỉ. Thích Ca Mâu Ni Phật là Thỉ, tức Thỉ Giác, A Di Đà Phật là Bổn Giác.

 

(Sao) Tức tự tánh bổn lai thị Phật vi Bổn. Vô minh sở phú, kim phương phá Hoặc chứng trí vi Thỉ dã.

()即自性本來是佛為本,無明所覆,今方破惑證智為始也。

(Sao: Tự tánh vốn sẵn là Phật, đó là Bổn; bị vô minh che lấp, nay mới phá Hoặc, chứng trí, đó là Thỉ).

 

Thật sự nói đến ý nghĩa của Bổn và Thỉ, thì Bổn là nói đến tự tánh, Chân Như tự tánh; đó là Bổn. Bổn và Thỉ đều là nói phương tiện, chẳng Chân. Trong Chân, đâu có Bổn và Thỉ! Có Bổn và Thỉ, đó là giả, chẳng phải là Nhất Chân, đã biến thành hai pháp, làm sao có thể gọi là Nhất Chân cho được? Vì thế, đây là nói phương tiện. Vì chúng ta mê, sau khi mê, lại phá mê khai ngộ, nên gọi là Thỉ. Cái mê ấy có phải là thật sự mê hay không? Chẳng phải là mê thật sự. Nếu thật sự mê, làm sao còn có thể phá cái mê ấy? Không thể phá được! Mê là hư vọng, chúng ta thường gọi là “vọng tình”, mê vọng. Do vậy, mê chẳng phải là thật, giác là thật.

Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã nói rất hay: “Bổn Giác vốn có”, vốn sẵn có, “bất giác vốn không”, bất giác là mê, mê vốn chẳng có. Hiện thời có [bất giác] hay không? Hiện tại vẫn chẳng có. Nếu hiện tại là thật sự có, sẽ chẳng thể phá mê được! Giống như tối tăm, có tối tăm hay chăng? Chẳng có tối tăm, vì sao? Đèn vừa bật lên, tối tăm chẳng còn nữa! Nếu có tối tăm thì bật đèn lên, tối tăm cũng chẳng mất đi, nó mới là thật sự có! Đèn vừa bật lên, tối tăm chẳng còn nữa, có thể thấy tối tăm là vọng, chẳng thật. Vì thế, mê là quý vị chưa ngộ. Hễ quý vị giác ngộ, mê chẳng còn nữa! Phá mê khai ngộ, hễ giác ngộ, mê chẳng còn nữa. Do vậy, dẫu thời gian mê lâu dài đến mấy, chúng ta cũng chẳng sợ. Cổ đức tỷ dụ “thiên niên ám thất”, [tức là] căn phòng ấy đã tối tăm cả ngàn năm, thời gian ấy rất dài, nhưng quý vị thắp một ngọn đèn, liền sáng sủa, chẳng còn tối tăm nữa! Từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta luôn mê hoặc. Chớ sợ! Chỉ cần hiện tại quý vị ngộ thì vô lượng kiếp mê tình thảy đều chẳng còn nữa, đều tiêu mất, chỉ sợ quý vị chẳng ngộ!

Lý ấy có thể nói là chẳng khó hiểu, nhưng chuyện ấy chẳng dễ dàng như thế. Cũng có đồng tu tới nói với tôi: “Khi con niệm Phật thì cũng được lắm, lúc đọc kinh cảnh giới cũng rất tốt, nhưng hễ đụng chuyện, phiền não lại dấy lên, làm thế nào đây?” Phiền não dấy lên là mê hoặc, mê tình lại dấy lên! Do đó, chúng ta hiểu rõ: Công phu giác vào lúc nào thì mới là thật sự giác ngộ? Trong lúc gặp chuyện! Nói cách khác, xử sự, đãi người, tiếp vật, tâm quý vị thanh tịnh, không bị xoay chuyển bởi ngoại cảnh thì quý vị thật sự giác ngộ. Vẫn còn bị ngoại cảnh xoay chuyển, tuy niệm Phật, dù mỗi ngày niệm nhiều đến đâu đi nữa, quý vị vẫn là bất giác! Do vậy, giác phải được khảo nghiệm trong xử sự, đãi người, tiếp vật, khảo nghiệm xem quý vị đã thật sự giác ngộ hay chưa?

Do điều này biết rằng: Chúng ta bình thời niệm Phật nhằm bồi dưỡng giác tánh. Chúng ta thường đang mê, bất giác, [niệm Phật nhằm] huân tập khí phận Thỉ Giác, lúc gặp chuyện quý vị chẳng mê thì mới hữu dụng. Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật này, phải hiểu ý nghĩa của câu danh hiệu này. A Di Đà Phật là tiếng Phạn dịch âm, dịch sang tiếng Hán là Vô Lượng Giác. Niệm một câu A Di Đà Phật là niệm niệm giác, chẳng mê, có ý nghĩa ấy, tức là ý nghĩa “vô lượng giác”. Bất luận lúc nào, bất luận ở nơi đâu, bất luận cảnh giới thuận hay nghịch, ta đều phải giác chứ không mê. Giác chứ không mê, sẽ giữ được tâm thanh tịnh bất động. Ta thấy rõ ràng, nghe rõ rệt, thứ gì cũng rõ ràng, minh bạch, đấy là trí huệ. Tuy điều gì cũng rõ ràng, nhưng trong tâm như như bất động; bất động là gì? Chẳng khởi tham, sân, si, mạn, nghi, chẳng dấy động những thứ ấy. Trong thuận cảnh, chẳng khởi tâm tham ái, chẳng có ý niệm ấy. Trong nghịch cảnh, tâm chẳng sân khuể, tâm cảnh bình đẳng, chẳng có tâm ngạo nghễ, ngã mạn, thứ gì cũng rõ ràng, chắc chắn chẳng có tâm nghi hoặc. Tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, trong tâm thảy đều chẳng có. Đấy là như như bất động, lại hiểu rõ ràng bên ngoài, cái tâm khi ấy mới thật sự là giác ngộ, đó là Thỉ Giác.

Thỉ Giác niệm niệm đều là Thỉ Giác. Chẳng hạn như quý vị tu hành chứng quả, chứng đạo, lấy Viên Giáo để nói thì Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín là Thỉ Giác, quý vị đã đắc địa vị Sơ Tín. Từ Sơ Tín đến Nhị Tín vẫn là Thỉ Giác, tức là Thỉ Giác của địa vị Nhị Tín. Từ Nhị Tín đạt lên Tam Tín, vẫn là Thỉ Giác, tức là Thỉ Giác của Tam Tín, mãi cho đến địa vị Đẳng Giác Bồ Tát, vẫn là Thỉ Giác. Do vậy, đối với Thỉ Giác, hằng ngày đều là Thỉ Giác, qua kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn là “thỉ thành Chánh Giác” (mới thành Chánh Giác). Do vậy, biết: Thỉ và Bổn chẳng hai, mang ý nghĩa này. Niệm niệm đều là Thỉ Giác; Thỉ Giác và Bổn Giác là một, không hai. Vì thế, phải hiểu vô minh chẳng thật, nhưng có vô minh hay không? Có! Tuy có, nhưng chẳng thật, chẳng phải là thật sự. Vì nó là pháp sanh diệt; có sanh, có diệt, nên nó chẳng thật. Bổn Giác là thật, vì Bổn Giác là pháp bất sanh, bất diệt. Do Bổn Giác bất sanh, bất diệt, cho nên nó là thật.

“Kim phương phá Hoặc, chứng trí, vi Thỉ” (nay mới phá Hoặc, chứng trí, nên là Thỉ Giác). So với kẻ chưa hiểu Phật thì người học Phật chúng ta là Thỉ Giác. Tuy chúng ta vẫn chưa phá một phẩm vô minh phiền não nào, nhưng chúng ta biết chính mình có Phật Tánh, biết niệm Phật có thể vãng sanh Tịnh Độ, người khác vẫn chưa biết; đấy là Thỉ Giác. Lại thưa cùng quý vị, đấy là Thỉ Giác chân chánh, Thỉ Giác rốt ráo. So với hết thảy các pháp môn Đại Thừa khác, tác dụng sẽ khác nhau. Vì trong hết thảy các pháp môn khác, muốn liễu sanh tử và viên chứng Bồ Đề trong một đời, nói thật sự là chuyện chẳng thể nào xảy ra được. Chỉ riêng pháp môn Niệm Phật là có thể quyết định thành công trong một đời, ổn thỏa, thích đáng. Do vậy, bất cứ pháp môn nào cũng đều chẳng thể sánh bằng!

Nhưng thật sự có thể lãnh hội, nhận biết pháp môn này, quả thật chẳng dễ dàng cho lắm, vì sao không dễ dàng? Nói ngược lại, tâm chúng sanh chẳng thanh tịnh, họ có tâm phân biệt, tâm chấp trước, tâm [phân chia] cao thấp, có những tâm ấy nên họ coi thường pháp môn Niệm Phật. Họ chẳng hiểu pháp môn Niệm Phật, chẳng nghiên cứu kinh luận thuộc về pháp môn Niệm Phật, [nhưng vẫn khăng khăng] cho [niệm Phật] là mê tín, là giáo pháp dành cho mấy bà già! Thật ra, những bà cụ già niệm Phật đứng mất, ngồi mất, nhiều lắm! Còn kẻ kia rất thông minh, tới cuối cùng sợ rằng vẫn thua bà cụ già, đấy gọi là “thông minh bị thông minh gây lầm lạc”. Đấy là nói người học Phật tự mình mê hoặc, điên đảo, giống hệt như những kẻ chẳng học Phật lại phê bình Phật giáo, bảo Phật giáo là mê tín. Quý vị hỏi họ: “Phật giáo là gì?” Kẻ ấy không biết. [Đã không biết] vì sao [anh dám bạo miệng nói Phật giáo là mê tín]? “Hết thảy mọi người đều nói Phật giáo là mê tín!” Mọi người chê là mê tín, kẻ ấy cũng nói là mê tín, điều này rất nguy hiểm! Quý vị nghĩ Phật giáo là mê tín, nếu nói nó là mê tín thì phải nghiên cứu triệt để một phen để xem nó có đúng là mê tín hay không? Nhất định chớ nên hàm hồ, lơ mơ, mà cứ tùy tiện phê phán, chẳng tránh khỏi gây tạo tội nghiệp! Chính quý vị tự lầm lẫn trong một đời, đó là chuyện nhỏ, quý vị tự làm tự chịu; nhưng quý vị làm cho người khác lỡ làng, tội lỗi ấy lớn lắm! Người ấy học pháp môn này sẽ thành Phật trong một đời; thế mà quý vị khuyên người ấy đừng nên học pháp môn này, lôi người ấy trở vào lục đạo, tội lỗi ấy quá lớn, phá hoại Pháp Thân huệ mạng của người khác. Do vậy, những kẻ phê bình Tịnh Độ; nói thật ra, toàn là những kẻ chẳng hề nghiên cứu Tịnh Độ.

Trong quá khứ, tôi chẳng nghiên cứu, cũng coi thường Tịnh Độ, cũng nói pháp ấy là giáo pháp dành cho mấy bà già! [Hiện thời] tôi hoàn toàn liễu giải nên mới tin tưởng, nhưng để thật sự liễu giải đến mức tin tưởng pháp môn này, gần như phải mất ba mươi năm công phu, chẳng dễ dàng! Ngày nay, tôi đem tâm đắc ba mươi năm thật thà thưa cùng quý vị; nếu quý vị tin tưởng, sẽ khỏi phải phí ba mươi năm. Nếu quý vị không tin, quý vị tu tập ba mươi năm, chưa chắc đã có thành tựu như tôi! Tôi không phải là kẻ người khác nói sao bèn tin như vậy! Thuở đầu, pháp sư Sám Vân khuyên tôi, khi đó, tôi mới học Phật chưa được bao lâu, còn chưa xuất gia; về sau, thầy Lý khuyên tôi, tuy tôi không phản đối, nhưng vẫn chưa thể tin tưởng hoàn toàn, vẫn không chịu dụng công tu học. Sau nhiều năm như thế, nghiên cứu một số kinh điển Đại Thừa, đặc biệt là mười sáu, mười bảy năm giảng kinh Hoa Nghiêm mới thật sự hiểu rõ, hiểu pháp môn này là pháp môn bậc nhất để mười phương ba đời hết thảy chư Phật độ chúng sanh. Hiểu được điều ấy quả thật chẳng đơn giản, chẳng dễ dàng; vì thế, tôi vô cùng quý trọng pháp môn này!

Giảng kinh thì tôi chuyên giảng kinh Di Đà; hiện thời, những kinh luận khác tôi cũng không giảng. Kinh Lăng Nghiêm tôi cũng không giảng. Nay quý vị hãy học theo tôi, học kinh Di Đà, hãy xếp kinh Lăng Nghiêm lại, chẳng cần phải học kinh ấy nữa. Kinh Lăng Nghiêm có tuyệt diệu hay chăng? Tuyệt diệu, nhưng rất khó, quả thật chẳng dễ dàng. Thật sự giúp quý vị vãng sanh, giúp quý vị thành Phật, pháp môn này đã đủ rồi! Ta rất biết chọn lọc, chọn lấy món nào hạng nhất, chẳng cần tới hạng nhì. Quý vị phải hiểu kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ đều là kinh bậc nhất, ta không cần đến kinh bậc hai nữa. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm tôi cũng không muốn giảng!

 

(Sao) Ước nhân quả,  tắc thử Phật giáo linh vãng sanh,  nãi đắc

kiến A Di Đà Phật, thị thử Bổn bỉ Thỉ.

()約因果,則此佛教令往生,乃得見阿彌陀佛,是此本彼始。

(Sao: Nếu xét theo nhân quả, vị Phật này dạy [hành nhân] vãng sanh bèn được thấy A Di Đà Phật, nên vị Phật này là Bổn, vị Phật kia là Thỉ).

 

[Đến đây], Bổn và Thỉ đảo ngược [vị trí], đây là nói theo phương diện nhân quả. Làm sao chúng ta biết có Tây Phương Cực Lạc thế giới? Làm sao biết thế giới Cực Lạc tốt đẹp ngần ấy? Đều do Thích Ca Mâu Ni Phật dạy cho biết. Cả đời Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh suốt bốn mươi chín năm, Ngài giảng rất nhiều kinh. Chuyên giảng Tịnh Độ có ba bộ kinh là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Trong đó, kinh Vô Lượng Thọ rất đặc biệt, thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật không chỉ giảng một lần, mà giảng rất nhiều lần, đây là một pháp môn đặc biệt. Những kinh khác đức Phật chỉ giảng một lần trong một đời Ngài, chẳng giảng lại, chỉ riêng kinh Vô Lượng Thọ được giảng rất nhiều lượt!

Nguyên bản kinh Vô Lượng Thọ được truyền đến Trung Quốc rất sớm, từ thời Đông Hán, kinh đã được truyền đến Trung Quốc, do ngài An Thế Cao dịch, đáng tiếc là bản dịch ấy đã thất truyền. Từ đời Hán đến đời Tống, tổng cộng có mười hai lần phiên dịch. Sau này, nhiều học giả, chuyên gia đã khảo chứng, thấy trong Đại Tạng Kinh còn năm bản dịch. Cổ đức phán đoán tối thiểu phải có ba bản gốc khác nhau. Từ chỗ này, ta biết thuở tại thế, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nhiều lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, đây là pháp môn đặc biệt, đặc biệt quan trọng! Ngày nay, chúng ta phải thật sự phát dương quang đại pháp môn này, đấy là trách nhiệm của chúng ta. Nếu chúng ta không biết thì thôi, chúng ta không có trách nhiệm ấy. Nếu đã biết, đã nhận thức, phải có trách nhiệm phát dương quang đại. Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu [pháp môn này] cho chúng ta, Ngài là Bổn. Chúng ta y theo giáo huấn của Thích Ca Mâu Ni Phật để hành phương pháp này, tu hành, trong tương lai nhất định sẽ thấy A Di Đà Phật, thấy A Di Đà Phật là “Thỉ”. Nói theo phương diện nhân quả, đức Bổn Sư của chúng ta là Bổn, A Di Đà Phật là Thỉ. Tu nhân là Bổn, chứng quả là Thỉ. Tu nhân mới hòng chứng quả, vãng sanh là chứng quả. Đó là nói theo phương diện nhân quả.

 

(Sao) Tức tự tánh bổn hữu thành Phật chi trí vi Bổn, y Bổn Trí nhi cầu Phật Trí, nãi đắc thành Phật vi Thỉ dã.

()即自性本有成佛之智為本,依本智而求佛智,乃得成佛為始也。

(Sao: Tự tánh vốn sẵn có trí thành Phật, đó là Bổn; nương vào Bổn Trí để cầu Phật Trí, sẽ được thành Phật, thì đó là Thỉ).

 

Đây là dựa trên nhân quả để luận định Bổn và Thỉ. Bổn có thể gọi là Thỉ, mà Thỉ cũng có thể gọi là Bổn, tùy thuộc quý vị nhìn từ góc độ nào!

 

(Sao) Bổn Thỉ hỗ dung, thường giác bất muội, huy thiên giám địa, diệu cổ đằng kim, thường thuyết như thị kinh, bách thiên vạn ức tòa.

()本始互融,常覺不昧,輝天鑑地,耀古騰今,常說如是經,百千萬億座。

(Sao: Bổn Giác và Thỉ Giác dung nhập lẫn nhau, thường giác chẳng mê, rạng trời, chiếu đất, chói ngời suốt từ xưa đến nay, trăm ngàn vạn ức pháp hội thường thuyết kinh như thế).

 

Dùng hai ý nghĩa trong phần trước (tức là từ hai góc độ khác nhau) để quan sát Bổn và Thỉ, sẽ thấy Bổn và Thỉ có thể dung thông lẫn nhau. Khi chúng ta dấy lên vô minh, hay lúc có mê tình, bèn gọi tự tánh là Bổn Giác. Chúng ta phá mê tình, [tự tánh hiển lộ], bèn gọi là Thỉ Giác. Đó là ý nghĩa [đã được diễn tả] trong phần trước. Vô minh là giả, là hư vọng, chẳng thật. Vì vậy, bất luận tự tánh giác có vô minh hay không, nói thật ra, nó “thường giác bất muội”. Giống như chúng ta nói trời âm u, là do mặt trời bị mây che kín, mây có thật sự che nổi mặt trời hay không? Thật ra, mây chẳng che lấp mặt trời. Hiện thời, rất dễ hiểu rõ điều này! Quý vị ở thành phố Đài Bắc, mây che lấp thái dương, nhưng đến Cơ Long, nơi ấy không có mây, thái dương chẳng bị che khuất. Do vậy biết: Thái dương thường tỏa ánh sáng, không ai có thể che được, mây dường như che lấp, nhưng thời gian ấy rất ngắn ngủi, tạm bợ, là giả, chẳng thật! Vô minh che khuất bổn tánh của chúng ta giống như mây che lấp thái dương, có thể thấy là nó chẳng thật, mà là giả! Do vậy, mê chắc chắn có thể phá, giác chắc chắn có thể hiện tiền. Trước hết, chúng ta phải kiến lập lòng tin này.

Trong  Phật pháp nói đến Tín,  thì niềm tin thứ nhất là phải tin vào đạo lý này, phải tin vào sự thật này. Quý vị có thể kiến lập lòng tin trên đây thì mới tin tưởng “chính mình chắc chắn có thể thành Phật, bản thân ta nhất định có thể phá vô minh, có thể khôi phục Bổn Giác”, mới có những tín tâm ấy. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng do cái tâm này biến hiện, đó gọi là “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Tự tánh giác là Tây Phương Di Đà Tịnh Độ, tự tánh mê là thế giới Sa Bà dơ ác, thảy đều là vật được biến hiện bởi tự tánh. Đấy chính là “ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”. Chúng ta tin tưởng, đặc biệt là đối với ba món tư lương, tức là ba điều kiện trọng yếu được nói đến trong Tịnh Độ là Tín, Nguyện, Hạnh; Ngẫu Ích đại sư đã dạy, trước hết hãy Tín Tự. Tín Tự chính là như tôi vừa mới nói, nhất định phải tin tưởng những đạo lý ấy.

Mấy câu tiếp theo đều nhằm trình bày ý nghĩa “Thỉ Giác và Bổn Giác dung thông bất nhị”. “Thường giác bất muội, huy thiên giám địa” (thường giác ngộ, chẳng mê muội, rạng trời, chiếu đất) nhằm tỷ dụ quang minh của Bổn Giác và Thỉ Giác, quang minh chiếu trọn khắp, câu này nói đến không gian, “diệu cổ đằng kim” (suốt từ xưa đến nay) là nói tới thời gian. [Thỉ Giác và Bổn Giác] siêu việt thời gian và không gian!

“Thường thuyết như thị kinh, bách thiên vạn ức tòa” (thường nói kinh như thế, trăm ngàn vạn ức pháp hội). “Thuyết kinh” nhằm dụng ý phá mê khai ngộ; vì vậy, phá mê khai ngộ chính là “thuyết kinh”. Tự tánh quang minh chiếu khắp; đó chính là ý nghĩa thuyết kinh. Hiểu rõ đạo lý này, thuyết kinh chưa hề gián đoạn, về mặt thời gian bèn chẳng gián đoạn, trong không gian bèn trọn khắp hết thảy các nơi, không lúc nào, không chỗ nào chẳng nói kinh. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, lục trần thuyết pháp, cũng là sự thật được hiển hiện dựa trên nguyên lý này. Thật ra, người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh, nên họ thấy lục trần thuyết pháp, chẳng bị thời gian và không gian ngăn ngại. Trong thế giới này, trước mắt chúng ta, có bao giờ chẳng phải là lục trần thuyết pháp? Vì sao trong cõi này, chúng ta chẳng nói “lục trần thuyết pháp”? Vì tâm không thanh tịnh! Tuy lục trần phóng quang rúng động cõi đất suốt mãi từ xưa cho đến tận nay, nhưng quý vị có mắt mà chẳng thấy, có tai nhưng chẳng nghe, nên [dẫu lục trần thường thuyết pháp vẫn giống như] chẳng thuyết pháp, nguyên nhân là như vậy đó.

Do vậy, Phật pháp bất luận nói tới pháp môn hay tông phái nào, thảy đều dùng tâm thanh tịnh để nhập; tâm quý vị chẳng thanh tịnh, nhập pháp môn nào cũng chẳng được! Nếu muốn nhập Phật môn, Phật môn có tám vạn bốn ngàn môn, có vô lượng vô biên môn, dùng phương pháp nào để có thể nhập? Tâm thanh tịnh có thể nhập. Trước đây, tôi cũng nói với các vị đồng tu ba nguyên tắc: Giác, Chánh, Tịnh. Giác tâm có thể nhập, chánh tri chánh kiến có thể nhập, tâm thanh tịnh có thể nhập, ba điều kiện ấy. Quý vị có một điều, sẽ có thể nhập. Hễ nhập môn thì “một chính là ba, ba chính là một”, đấy chính là “pháp môn Bất Nhị”. Nhưng trong ba điều kiện ấy, giác khó, chánh tri chánh kiến cũng khó, thanh tịnh dễ hơn. Tịnh Độ do tâm thanh tịnh mà nhập, theo môn này mà nhập. Thiền là từ giác tâm mà nhập, Giáo từ chánh tâm mà nhập, pháp môn Niệm Phật từ tâm thanh tịnh mà nhập. So trong ba môn, [môn Tịnh] dễ hơn rất nhiều. Huống chi, trong cái tâm thanh tịnh ấy, ở đây lại là pháp môn Nhị Lực, bản thân chúng ta có công phu, lại có Phật lực giúp đỡ. Vì vậy, pháp môn này được gọi là pháp môn Nhị Lực, Phật lực có thể giúp đỡ và gia trì chúng ta. Dưới đây, đại sư lập ra một cuộc vấn đáp giả định:

 

(Sao) Vấn: Sớ Sao thử kinh, chánh vị phát huy trì danh công đức, phổ khuyến chư nhân cầu sanh bỉ độ dã, hà nãi nhất nhất tiêu quy tự tánh, phiên thành cực tắc chi đàm, y nhiên Tịnh Độ thị tâm, hề tất xả thử nguyện bỉ?

()問:疏鈔此經,正為發揮持名功德,普勸諸人求生彼土也,何乃一一消歸自性,翻成極則之談,依然淨土是心,奚必捨此願彼?

(Sao: Hỏi: Viết lời Sớ và lời Sao cho kinh này, chính là vì để giảng rõ công đức trì danh, khuyên khắp mọi người cầu sanh về cõi ấy, cớ sao lại đối với mỗi điều đều gồm thâu về tự tánh, [khiến cho pháp này] trở thành lời đàm luận cùng cực [về Lý], Tịnh Độ vẫn là tâm như cũ, cần gì phải bỏ cõi này, nguyện sanh sang cõi kia?)

Câu hỏi này vô cùng hay, vì sao? Tôi tin trong các đồng tu, quả thật có những người nghe những lời được nói trong các đoạn trên, bèn nẩy sanh nghi vấn này. Nếu hết thảy đều nói tới duy tâm, hết thảy đều nói tới tự tánh, chúng ta còn cần gì phải niệm Phật về Tây Phương Cực Lạc thế giới nữa? Chúng ta cứ ở đây là được rồi. Câu hỏi này nhắm vào ý nghĩa ấy, chất vấn Liên Trì đại sư: Ngài giảng bộ kinh Di Đà này, viết chú giải là dùng văn tự để giảng, mục đích không gì chẳng nhằm khuyên người khác niệm Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, cần gì phải bàn đến những vấn đề [thuộc về Lý tánh] này? Càng bàn càng sâu, đều là nói tới tự tánh, có khác gì Tánh Tông đâu? “Nhất nhất tiêu quy tự tánh” (mỗi mỗi đều quy về tự tánh) là “cực tắc chi đàm” (lời bàn luận tột cùng), đấy là đại thừa Phật pháp tối cao. “Duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam” (chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, cũng không ba); đấy là Phật pháp tối cao. Vì sao đại sư nói như vậy? Tiếp theo đây, Ngài sẽ giải thích, trên thực tế, Ngài nói cách ấy chẳng sai lầm, chỉ có cách giảng triệt để rốt ráo như vậy mới có thể khiến cho người ta sanh lòng tôn trọng pháp môn Niệm Phật, chẳng còn coi rẻ nữa, vì họ biết pháp môn này chẳng đơn giản, vượt trỗi hết thảy các pháp môn thuộc các tông, các phái. Vì vậy, Liên Trì đại sư trong mỗi một tiết đều chỉ rõ sự xứng Lý.

 

(Sao) Đáp: Thử chánh song bị nhị căn, song phá nhị Hoặc, như tiền Tự trung sở minh. Lương dĩ độn căn giả, thủ sự tướng nhi tự túc.

()答:此正雙被二根,雙破二惑,如前序中所明。良以鈍根者,守事相而自足。

(Sao: Đáp: Đây là nhằm thích hợp với hai loại căn cơ, nhằm phá cả hai thứ Hoặc giống như đã nói rõ trong lời Tựa ở phần trước. Ấy là vì kẻ độn căn bèn chấp sự tướng tự cho là đủ).

 

Phía sau đoạn này có câu: “Lợi căn giả, sùng Lý tánh nhi trước Không” (Kẻ lợi căn tôn sùng Lý tánh, chấp Không). “Nhị căn” là độn căn và lợi căn, hai loại người này quả thật rất đông. Đối với hai loại người này, trong lời mi chú kinh Vô Lượng Thọ, thầy Lý đã phê: “Chẳng cầu đới nghiệp vãng sanh, chẳng ngu, ắt cuồng”, độn căn là ngu si, lợi căn là cuồng vọng; hai hạng người ấy chẳng tin Tịnh Độ. Đại sư viết đoạn này nhằm chuyên đối phó hai hạng người ấy.

“Thủ sự tướng nhi tự túc giả” (chấp sự tướng tự cho là đủ), nói thật ra, hạng người này còn thường có thành tựu, chứ kẻ cuồng vọng đúng là hỏng bét! Kẻ độn căn tâm lượng chẳng lớn, đạt được chút ít đã thỏa mãn. Nếu quý vị dạy họ niệm một câu A Di Đà Phật, họ cũng thỏa mãn, chẳng còn mong muốn gì nữa, nhưng người như vậy thật sự có thể thành công. Chúng tôi cũng thấy rất nhiều trường hợp thực tế. Vì vậy, cổ nhân nói: “Duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” (chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không thay đổi chí hướng). Hai hạng người sau đây dễ đắc độ nhất, một là gì? [Một là người] trí huệ tối cao, thông đạt, hiểu rõ hết thảy, chẳng có vấn đề gì. Quý vị vừa nói với họ, họ liền ngay lập tức phát tâm, giống như những vị Đại Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền; Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả đại sư là những nhân vật hạng nhất”, đấy là bậc thượng căn lợi trí, các Ngài vừa nghe, chẳng bàn cãi gì nữa, thấu hiểu, tin tưởng. Kẻ hạ ngu không biết chữ, chẳng có kiến thức gì, tâm lượng rất nhỏ, dạy họ một câu A Di Đà Phật, họ bèn thật thà suốt ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật, những thứ khác họ cũng chẳng muốn biết đến. Hai loại người ấy nhất định vãng sanh.

Tuy hai hạng người ấy hễ tu đều vãng sanh, nhưng sẽ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới với phẩm vị sai khác. Người thông đạt lý sẽ Thượng Phẩm Thượng Sanh, hoa nở thấy Phật; người chẳng hiểu lý cũng có thể vãng sanh, quyết định sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Tuy sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng vì người ấy chẳng hiểu lý, trí huệ kém hơn bậc lợi căn, nhưng xét về phước đức, nhân duyên thì chẳng khác bậc đại Bồ Tát cho mấy, đây là pháp môn thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng chư vị phải biết: Người độn căn nếu học pháp môn khác sẽ chẳng có cách nào thành tựu. Chẳng hạn như học Tiểu Thừa, sẽ vĩnh viễn chết cứng trong pháp Tiểu Thừa, chắc chắn chẳng tin pháp Đại Thừa, vì sao? Kẻ ấy cố chấp, thành kiến rất sâu, điều gì được tiếp xúc trước sẽ là chủ yếu mà! Nếu người ấy gặp Tịnh Độ thì tốt lắm, cố chấp cũng được, thành kiến sâu cũng được, kẻ ấy chẳng muốn học pháp môn khác, tốt lắm! Nhưng cơ duyên này không dễ gì gặp gỡ! Vì vậy, phải biết, trong pháp môn Niệm Phật có đạo lý rất sâu. Đại sư giảng kinh, đặc biệt nêu ra đoạn này nhằm phá trừ nỗi chấp trước sự tướng của những kẻ độn căn chẳng hiểu rõ đạo lý Tịnh Độ. Vì thế, Ngài đặc biệt dùng cách Xứng Lý để nói. Nói cách khác, nâng cao phẩm vị vãng sanh Tịnh Độ, tăng tấn tín nguyện cho người ấy.

Người lợi căn thường được thế gian gọi là kẻ thông minh, nhạy bén, những người ấy thường sùng bái lý luận, thiên chấp lý luận, đối với sự tu hành trong thực tế và sự tướng thường sơ sót, thường chấp Không. Nhà Thiền dễ mắc bệnh này, Tánh Tông như Tam Luận Tông chẳng hạn, cũng dễ mắc bệnh này, chấp Không. Vì người ấy chấp trước lý Không, căn bản là chẳng tin tưởng Tây Phương có Tịnh Độ, không tin có thế giới Cực Lạc, càng không tin đới nghiệp có thể vãng sanh. Loại người này hết sức đáng sợ. Trong kinh, đức Phật từng dạy: “Ninh khả chấp Hữu như Tu Di sơn, bất khả chấp Không như giới tử” (Thà chấp Có như núi Tu Di, đừng chấp Không chừng bằng hạt cải). “Giới tử” (芥子) là hạt cải, tỷ dụ sự nhỏ nhoi. Chấp Không dẫu một chút tí, cũng làm hỏng chuyện lớn. Vì sao? Chẳng cứu được! Vì sao nói chẳng cứu được? Kẻ ấy chẳng tin Phật pháp, chẳng thể cứu! Chấp trước Có, dẫu chấp trước nghiêm trọng đến mấy đi nữa, vẫn còn cứu được, Phật còn có thể độ người ấy. Người ấy chấp Có, có nhân quả báo ứng, tối thiểu sẽ chẳng dám làm chuyện xấu; có Tây Phương Tịnh Độ, người ấy niệm Phật cũng thật sự có thể vãng sanh, người ấy chấp Có! Nếu chẳng tin nhân quả báo ứng, chuyện gì xấu cũng đều dám làm, vì sao? Kẻ ấy chẳng tin có quả báo. Chuyện ấy chẳng phải là “quý vị tin thì có, không tin bèn chẳng có”. Nếu [đúng là] như vậy, ta thà chẳng tin còn hơn. Không tin, vẫn có [nhân quả báo ứng]! Do vậy, nhất định phải biết chân tướng sự thật. Kẻ lợi căn càng đáng sợ, họ có thể khéo ăn nói, thế trí biện thông, và cũng có biện tài kha khá, cũng nói khiến cho hoa trời rơi tứ tung, người nghe cũng cảm thấy rất có lý; thật ra, kẻ ấy đã nói sai be bét!

Chúng ta thấy các vị cổ đại đức, tổ sư các tông, các phái, các Ngài thật sự thông đạt, tuy nói Không, nhưng chẳng phá Có. Tông Thiên Thai nói Không, nhưng Thiên Thai đại sư niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tông Hiền Thủ giảng Có, tông Hoa Nghiêm giảng Có, từ Hữu môn mà nhập; tông Thiên Thai (tông Pháp Hoa) từ Không môn mà nhập. Quý vị thấy các vị tổ sư tông Thiên Thai, kể từ Trí Giả đại sư, cho tới sau này, quá nửa đều là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Cận đại, pháp sư Đế Nhàn, pháp sư Đàm Hư đều cầu sanh Tịnh Độ. Pháp sư Bảo Tĩnh[39] cũng là học trò của pháp sư Đế Nhàn, Ngài viết bộ Di Đà Kinh Yếu Giải Thân Văn Ký rất hay, cũng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tổ sư Pháp Tướng Duy Thức Tông là Khuy Cơ đại sư chú giải kinh Di Đà, bộ Di Đà Kinh Thông Tán Sớ do Ngài soạn, cực lực tán thán pháp môn này.

Những vị đại sư ấy tuy nói Không, nhưng chẳng phá Có, vẫn từ Hữu Môn để thật sự tu tập, thật sự hành trì, chẳng giống người hiện thời! Nói thật ra, con người hiện thời tuy nói Không, nhưng chẳng thể thật sự là Không. Nếu quý vị không tin, chửi họ mấy câu, họ sẽ cáu giận đôi ba ngày không nguôi! “Không” ở chỗ nào? Họ chẳng có Không! Họ muốn Không, cũng chẳng Không được, mà chẳng cần đến Có, hỏng bét rồi! Vấn đề ấy nghiêm trọng lắm; cả hai bên Có và Không đều hỏng bét, hết sức dễ bị đọa lạc. Đại sư nói cách này nhằm khiến cho kẻ lợi căn chẳng lìa sự tướng, chẳng rơi vào Ngoan Không (cái Không trơ trơ, chẳng có gì, không phải là Chân Không). Đây là phá trừ mê hoặc “chấp Lý, mê Sự” cho hàng lợi căn vậy!

 

(Sao) Quán thử, sử tri Sự hữu Lý tồn, vô trệ Sự nhi mê Lý.

() 觀此,使知事有理存,毋滯事而迷理。

(Sao: Do thấy điều này, nên làm cho kẻ ấy biết trong Sự có Lý, chẳng vướng mắc nơi Sự rồi mê Lý).

 

Đối với kẻ thiên trọng Sự tu, chẳng chú trọng nghiên cứu lý luận, bèn khuyến khích họ, nếu có thời gian, có cơ hội, hãy học nhiều hơn một chút sẽ có lợi. Nếu chẳng có cơ duyên, quý vị chú trọng sự tướng để tu trì cũng được. Giống như chúng tôi trước đây thường nhắc tới một đồ đệ của pháp sư Đế Nhàn, niệm Phật vãng sanh, đứng ra đi, đã chết rồi vẫn đứng ba ngày, chờ thầy đến lo liệu hậu sự. Vì ông ta không biết chữ, tuổi tác cũng quá lớn, nên chẳng có cơ duyên nghe kinh, nhưng là người rất thật thà, pháp sư Đế Nhàn dạy ông ta niệm A Di Đà Phật, ông ta liền thật thà niệm câu A Di Đà Phật này, niệm ba năm bèn thành công. Thành tựu phi thường thù thắng, nói thật ra, ông ta chỉ làm được bốn chữ “thật thà niệm Phật”, đúng là thật thà, thật sự làm được “chẳng hoài nghi, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp”, đấy mới gọi là “thật thà”. Vì thế, người ta niệm ba năm bèn niệm thành công.

 

(Sao) Lợi căn giả, sùng lý tánh nhi trước Không. Quán thử, sử tri Lý tại Sự trung, vô việt Sự nhi cầu Lý.

()利根者,崇理性而著空。觀此,使知理在事中,毋越事而求理。

(Sao: Kẻ lợi căn tôn sùng Lý tánh, chấp Không. Do thấy điều này nên khiến cho biết Lý ở trong Sự, chẳng bỏ qua Sự để cầu Lý).

 

Khiến cho những người ấy giác ngộ, Lý ở nơi đâu? Lý chẳng phải là Không, nếu Lý lìa khỏi Sự, sẽ chẳng thể tồn tại. Sau khi quý vị hiểu rõ, sẽ càng thêm nỗ lực nơi mặt Sự, đấy mới là người thật sự hiểu Lý. Nếu hiểu rõ Lý, mà vứt bỏ tu hành nơi mặt Sự, nhất định là đã hiểu lầm Lý ấy, chẳng thật sự hiểu rõ Lý. Thật sự hiểu rõ Lý, chắc chắn người ấy tu hành chẳng khác gì người thật thà niệm Phật. Vì sao? Người ấy triệt để liễu giải chân tướng sự thật; vì thế, “vô việt Sự nhi cầu Lý” (chẳng bỏ qua Sự để cầu Lý), hãy cầu Lý ngay trong Sự. Lý và Sự chẳng hai.

 

(Sao) Hựu thử kinh bổn vi thác bỉ danh hiệu, hiển ngã tự tâm, dữ Thập Lục Quán Kinh đồng ý.

()又此經本為託彼名號,顯我自心,與十六觀經同意。

(Sao: Hơn nữa, kinh này vốn nhờ vào danh hiệu ấy để hiển lộ tự tâm của ta, có cùng một ý nghĩa với Thập Lục Quán Kinh).

 

Có đoạn này là vì sợ lại có kẻ sẽ nêu nghi vấn: Nếu pháp môn Tịnh Độ đều mong quy vào lý tánh, người tu hành chỉ cần giác ngộ Lý trong tự tánh, chẳng phải là chuyện có thể giải quyết xong xuôi hay sao? Cần gì phải niệm Phật cầu sanh! Đại sư nói: “Thử kinh bổn vi thác bỉ danh hiệu, hiển ngã tự tâm” (kinh này vốn nhờ vào danh hiệu ấy để hiển lộ tự tâm của ta), có thể thấy tín nguyện trì danh là một biện pháp, là một phương pháp, nhằm mục đích minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật, có cùng một đạo lý, nguyên lý, mục tiêu, phương hướng với Thiền, Giáo, và các tông. Đó chính là “pháp môn tuy nhiều, chẳng hai, chẳng khác, môn nào cũng là bậc nhất, chẳng có hạng nhì!”

Trong kinh Lăng Nghiêm, chúng ta thấy hai mươi lăm vị Bồ Tát [nêu ra tâm đắc tu chứng]; trong hai mươi lăm môn Viên Thông, Đại Thế Chí Bồ Tát đại diện pháp môn Niệm Phật, người ta là đệ nhất, chẳng phải là đệ nhị. Sau khi chúng ta đọc xong chương Hai Mươi Lăm Môn Viên Thông phải giác ngộ. Đọc kinh Lăng Nghiêm, hết thảy mọi người đều biết Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông Chương bậc nhất. Quý vị thấy Văn Thù Bồ Tát chọn lọc, chẳng phải là chọn [pháp Viên Thông] của Quán Thế Âm Bồ Tát hay chăng? Thật ra, Ngài đã đặc biệt vì chúng sanh trong thế giới Sa Bà chúng ta mà chọn lựa pháp môn Nhĩ Căn của Quán Thế Âm Bồ Tát. Trừ pháp ấy ra, pháp môn Niệm Phật cũng được chọn lựa. Quý vị phải nhìn cho ra [điều này]; nhìn từ chỗ nào? Nhìn ở chỗ thứ tự sắp theo chiều thuận. Nếu chiếu theo cách sắp xếp thông thường, thứ tự sẽ là lục căn, lục trần, lục thức, bảy đại, hai mươi lăm môn ấy. Theo thứ tự thuận, pháp Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Thế Âm Bồ Tát phải xếp vào môn thứ hai, nhưng quý vị thấy Ngài được xếp cuối cùng, ghép vào màn biểu diễn chót. Đấy là gì? Pháp môn đặc biệt.

Pháp môn Niệm Phật cũng chẳng theo thứ tự thuận, cũng được xếp vào cuối cùng. Nói cách khác, kết thúc gồm hai màn. Trong bảy đại, Đại Thế Chí Bồ Tát là Căn Đại. Theo thứ tự thuận, bảy đại tất nhiên là Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức; Căn là Kiến. Nếu theo thứ tự thuận, Ngài phải xếp trước Di Lặc Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát là người cuối cùng (tức Thức). Phải biết Di Lặc Bồ Tát được xếp trước Ngài, vị trí của hai Ngài đảo ngược, chúng ta biết nó là pháp môn đặc biệt, chẳng phải là pháp môn thông thường. Vì vậy, trong [sáu căn và] bảy đại, chỉ có Quán Âm và Thế Chí là chẳng xếp hàng theo thứ tự thuận, hai Ngài được xếp vào hàng cuối cùng. Xếp vào cuối cùng, Đại Thế Chí được xếp phía trước, Quán Thế Âm Bồ Tát xếp đằng sau, do đạo lý nào? Vì pháp môn Niệm Phật được mười phương vô lượng vô biên thế giới, thập phương tam thế tất cả hết thảy chư Phật, Bồ Tát hoằng dương, hết thảy chúng sanh cùng tu, nên là pháp đệ nhất. Nhĩ Căn Viên Thông, đặc biệt là đối với thế giới Sa Bà chúng ta, xét theo hiện tiền chúng sanh để giảng thì trong sáu căn của chúng ta, Nhĩ Căn nhạy bén nhất. Bởi lẽ đó, thuở ấy đức Phật thuyết pháp chẳng dùng văn tự, mà dùng ngôn ngữ. Mọi người đến nghe giảng, nghe dễ hiểu rõ, nhưng nhìn thì chẳng dễ gì nhìn mà hiểu rõ được! Nhĩ Căn nhạy bén hơn Nhãn Căn, [nên ngài Văn Thù] chọn lựa như vậy, cho nên phải hiểu rõ!

Kinh Lăng Nghiêm tuyên dương điều gì? Tuyên dương pháp môn Niệm Phật. Pháp môn Niệm Phật phải dùng phương pháp Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Thế Âm Bồ Tát để niệm, cách niệm ra sao? Phật hiệu từ trong tâm sanh ra, miệng niệm ra tiếng, tai nghe [từng âm thanh niệm Phật lọt] vào, đó gọi là “phản văn văn tự tánh, tánh thành vô thượng đạo” (xoay cái Nghe để nghe nơi tự tánh, tánh trở thành vô thượng đạo) trong pháp môn Niệm Phật. Trước tiên, khuyên quý vị niệm Phật, sau đấy, dạy quý vị phương pháp dụng công, đó là tinh tủy của kinh Lăng Nghiêm. Bao nhiêu người đọc tụng kinh điển Đại Thừa đã sơ sót, chẳng biết kinh Lăng Nghiêm giảng gì! Kinh Lăng Nghiêm thật sự giảng về chuyện này! Kinh Hoa Nghiêm giảng gì? Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng khuyên quý vị niệm Phật cầu sanh Tây Phương thế giới, giảng điều này, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Vì thế, quý vị đọc kinh Đại Thừa, đối với những chỗ này, phải thấy được đường nẻo, chỗ mấu chốt, đừng nhìn vào chỗ náo nhiệt! Nắm được đường nẻo, chúng ta mới hiểu: Đến rốt ráo là dạy chúng ta làm gì? Tịnh Độ Tam Kinh chuyên giảng Tây Phương Cực Lạc thế giới; cho nên cổ đức nói: “Pháp Hoa và Hoa Nghiêm đều là Tự Phần của kinh Di Đà”. Cách nói ấy rất đúng, những kinh ấy dẫn quý vị về Tịnh Độ. Kinh Lăng Nghiêm cũng dẫn chúng ta về Tịnh Độ.

“Dữ Thập Lục Quán Kinh đồng ý” (có cùng một ý nghĩa với Thập Lục Quán Kinh), trong Quán Kinh Sớ Sao có nói: Người tu hành cần phải biết, tu Quán thì phải dùng gì để Quán? Phải dùng tâm tánh, dùng tự tánh để quán thì mười sáu phép Quán mới có thể thành công, y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc thế giới mới có thể hiển thị rất rõ rệt. Nhờ vào cảnh giới y báo và chánh báo của Tây Phương thế giới để quán tâm tánh của chúng ta thì tâm tánh mới có thể hiển lộ. Đạo lý này đã được Trí Giả đại sư viết trong bản chú giải Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, tôn giả Tứ Minh (Tri Lễ đại sư) đã chú giải bản chú giải ấy, tức bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Diệu Tông Sao; đây là bản chú giải Quán Kinh có uy tín nhất, nhưng bản [Quán Kinh] Sớ Sao ấy khá sâu.

Lần này chúng ta in [Quán Kinh] Sớ Sao Diễn Nghĩa, pháp sư Đế Nhàn đã hoàn toàn dựa trên bộ Sớ Sao để viết ra cuốn sách này, trích yếu những phần trọng yếu trong bộ [Quán Kinh] Sớ Sao (Quán Kinh Diệu Tông Sao), lược bớt những phần rườm rà, phức tạp, thêm vào những ý nghĩa giải thích của chính Ngài để giảng rõ. Vì vậy, trước hết, chúng ta đọc Sớ Sao Diễn Nghĩa, sau đấy mới đọc Diệu Tông Sao sẽ chẳng khó. Đây là sách rất hay để tiếp dẫn hàng sơ cơ. Những đạo lý như vậy, chúng ta đều đọc được. Nói đến lý luận của Tịnh Độ thì Diệu Tông Sao giảng hết sức thấu triệt; vì vậy, người niệm Phật chẳng thể không đọc Quán Kinh Diệu Tông Sao!

Pháp môn Niệm Phật, nói thật ra là phát dương quang đại phép Quán cuối cùng trong Thập Lục Quán Kinh, vì phép Quán thứ mười sáu nói về trì danh niệm Phật. Quán Kinh có tất cả mười sáu phép Quán, mười hai phép Quán đầu là quán tưởng, hoàn toàn có quan hệ vô cùng mật thiết với tự tánh giác; vì thế, đúng là nói về “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, Lý Sự viên dung. Phép Quán mười bốn, mười lăm và mười sáu giảng về Tam Bối Vãng Sanh nói về Quán Tượng Niệm Phật. Cuối cùng là Trì Danh Niệm Phật; vì vậy, trì danh niệm Phật cũng phát sanh từ lý luận trong Quán Kinh. Kinh Vô Lượng Thọ và Tiểu Bổn Di Đà Kinh cực lực đề xướng trì danh niệm Phật. Trong pháp môn Niệm Phật, coi trì danh niệm Phật là bậc nhất.

Pháp Quán thứ mười sáu tuy giảng về Hạ Phẩm Hạ Sanh, nhưng chư vị phải biết: Nói đúng ra, tuy đức Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, nhưng chẳng thể độ kẻ Hạ Phẩm Hạ Sanh, chẳng có cách nào! Hạng người này nghiệp chướng quá nặng, lập tức sẽ đọa A Tỳ địa ngục. Tội nghiệp sâu nặng như vậy, chẳng có cách nào, pháp môn nào cũng chẳng độ được, vẫn còn có pháp môn này có thể độ họ, quý vị sẽ hiểu pháp môn này tốt đẹp, pháp môn này mới là pháp môn bậc nhất. Do vậy, chương Hạ Phẩm Hạ Sanh trong mười sáu phép Quán là màn chót, mới là pháp môn bậc nhất trong hết thảy các pháp môn. Vì có pháp môn này thì mới có thể độ trọn hết thảy chúng sanh. Nếu chẳng có pháp môn này, vẫn có những chúng sanh không độ được, chẳng có cách cứu! Quý vị mới biết sự thù thắng và chỗ hay của pháp môn này.

Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà đã đặc biệt phát dương quang đại pháp môn này. Sử dụng pháp môn này, có thể nói là chẳng có ai không được độ, chẳng có ai không thành Phật. Từ xưa, các vị tổ sư đại đức đã tán thán pháp môn này là Bi Tâm triệt để của Phật, hiển thị trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn của Phật, vạn đức vạn năng là thật, chẳng giả, chẳng phải là lời lẽ tán thán, mà xác thực là như vậy. Từ hai bộ kinh này, chúng ta có thể thấy trì danh niệm Phật quả thật là pháp môn bậc nhất trong tất cả các pháp môn. Vì nó có thể phổ độ hết thảy chúng sanh, tất cả các pháp môn khác chẳng độ được, pháp môn này có thể độ. Nay chúng ta chọn lựa pháp môn này, quyết định chẳng chọn lầm. Ngày hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

Tập 101

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm tám mươi chín:

 

(Sao) Hựu Bồ Tát do nghi cận Phật, như tiền Giáo Khởi trung thuyết, tắc dĩ ngộ tâm giả, diệc chánh ưng niệm Phật cầu sanh, hà túc nghi dã.

() 又菩薩猶宜近佛,如前教起中說,則已悟心者,

亦正應念佛求生,何足疑也。

(Sao: Lại nữa, Bồ Tát vẫn còn nên thân cận Phật, như trong phần Giáo Khởi ở phía trước đã nói: Người đã ngộ tâm cũng phải nên niệm Phật cầu sanh, há còn ngờ ư?)

 

Theo Quán Kinh, người tu hành phải biết phép Quán hoàn toàn nương vào tâm tánh, dùng tâm tánh của chúng ta để quán y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới thì cảnh giới Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ có thể hiển thị rõ ràng, minh bạch. Ngược lại, qua sự hiển thị cảnh giới y báo và chánh báo, cũng có thể thấy được tâm tánh của chính chúng ta hiện tiền, nhà Thiền gọi [điều ấy] là “minh tâm kiến tánh”. Đây là lý luận hết sức trọng yếu trong Quán Kinh. Phương pháp trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà còn thiện xảo và thuận tiện hơn Quán Kinh, chẳng cần dùng đến y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Cách ấy (cách quán trong Quán Kinh) cũng khá rắc rối, [còn kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ] dùng một câu danh hiệu, do một câu danh hiệu ấy mà hiển lộ chân tánh của chính mình. Do vậy, kinh dạy quý vị phải “hệ tâm bất loạn” để niệm câu danh hiệu ấy. Xét về ý nghĩa chung thì [quán tưởng và trì danh] giống nhau, nhưng khó hay dễ khác biệt rất lớn. Trì danh niệm Phật dễ hơn quán tưởng rất nhiều!

Giảng tới đoạn này, sợ sẽ có người muốn hỏi: “Minh tâm kiến tánh là người khai ngộ. Kẻ chưa khai ngộ đáng nên niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ; người đã khai ngộ dường như không cần thiết, không cần phải cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ?” Vì vậy, đại sư mới viết một đoạn như thế này: Bồ Tát vẫn phải thường thân cận Phật Đà! Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Văn Thù, Phổ Hiền và bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ đều là hạng minh tâm kiến tánh, các Ngài vẫn cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thân cận A Di Đà Phật; có thể thấy ở đây Liên Trì đại sư đã nói chẳng sai. Trong phần Giáo Khởi Nhân Duyên ở phía trước cũng nói rất nhiều. “Tắc dĩ ngộ tâm giả”, tức là người đã minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, “chánh ưng niệm Phật cầu sanh, hà túc nghi dã” (cũng nên niệm Phật cầu vãng sanh, há còn ngờ ư). Kẻ chưa kiến tánh mê hoặc, điên đảo, có lúc cũng chẳng mong vãng sanh Tịnh Độ; hàng kiến tánh Bồ Tát tuyệt đại đa số đều mong vãng sanh Tịnh Độ; từ hội Hoa Nghiêm, chúng ta thấy được điều này. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng đều vãng sanh; đây là một chứng cứ rất rõ rệt!

 

(Sao) Hựu Duy Ma kinh vân: “Tuy tri chư Phật quốc, cập dữ chúng sanh không, nhi thường tu Tịnh Độ, giáo hóa ư chúng sanh”.

()又維摩經云:雖知諸佛國,及與眾生空,而常修淨土,教化於眾生。

(Sao: Hơn nữa, kinh Duy Ma dạy: “Tuy biết các cõi Phật, và chúng sanh đều Không, nhưng thường tu Tịnh Độ, giáo hóa các chúng sanh”).

 

Đây là dẫn chứng, dẫn bốn câu kinh văn từ kinh Duy Ma để làm chứng. “Tuy tri chư Phật quốc, cập dữ chúng sanh Không”, đấy là như kinh Bát Nhã thường nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, đấy là tinh tủy của kinh Bát Nhã. Đó là nói về Lý, Sự có phải là như vậy hay chăng? Sự thật xác thực là như vậy. Thế nhưng, chẳng phải là hàng kiến tánh Bồ Tát không thấy chân tướng sự thật ấy, chân tướng sự thật quả thật đúng như hai câu kinh ấy đã nói; thế mà Bồ Tát vẫn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, dùng phương pháp ấy để tự hành, dạy người. Từ hai câu ấy, chúng ta hiểu rõ mười phương ba đời hết thảy chư Phật, Bồ Tát dùng phương pháp gì để tự mình thành Phật và giúp đỡ chúng sanh thành Phật? Chính là pháp môn Niệm Phật! Bốn câu kinh văn ấy đã giảng rõ ràng. Do vậy biết Tánh và Tướng chẳng mâu thuẫn nhau, mà viên dung, là một, chẳng hai. Chúng ta thường thấy Không Tông và Hữu Tông dường như xung đột, đó là cái nhìn của phàm phu chúng ta, chứ đối với người thật sự nhập cảnh giới, thông đạt sẽ chẳng như vậy! Một chính là hai, hai chính là một, Tánh và Tướng quả thật là một.

(Sao) Cố hoạn bất ngộ tự tâm nhĩ.

() 故患不悟自心耳。

(Sao: Cho nên lo chẳng ngộ tự tâm mà thôi!)

 

Chúng ta lo là lo chẳng khai ngộ. Còn đang mê hoặc, điên đảo, điều này đáng để chúng ta lo âu!

 

(Sao) Ngộ tâm, tắc vô nhất pháp xuất ư tâm ngoại, tức tâm tức cảnh, tức cảnh tức tâm, vãng sanh Tịnh Độ, nguyện kiến Di Đà, bất ngại duy tâm, hà phương tự tánh?

() 悟心,則無一法出於心外,即心即境,即境即心

,往生淨土,願見彌陀,不礙唯心,何妨自性。

(Sao: Ngộ tâm thì không có pháp nào ở ngoài tâm, tâm chính là cảnh, cảnh chính là tâm. Vãng sanh Tịnh Độ, nguyện thấy Di Đà, chẳng trở ngại duy tâm, há trở ngại tự tánh?)

 

Nói thật ra, tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị thấy y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương là thấy tự tánh. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới ấy chính là Tướng Phần trong tự tánh của chúng ta; chúng chính là hình dạng của Chân Như bổn tánh, điều ấy cũng được kinh gọi là “chư pháp Thật Tướng” (Thật Tướng của các pháp). Thật Tướng: Tướng tức là Tánh, Tánh tức là Tướng. “Tức tâm tức cảnh”, tâm và cảnh như một, tâm và cảnh chẳng hai. Chuyện này thật sự rất khó lãnh hội, vì sao khó lãnh hội? Chúng ta mê nơi Tướng, đối với cả hai bên Tánh và Tướng đều mê, cho nên chẳng dễ gì lãnh hội được! Trong các buổi giảng, chúng tôi thường dùng chuyện nằm mộng để tỷ dụ, vì thời gian nằm mộng ngắn ngủi, sau khi tỉnh giấc, quý vị giác ngộ, nhưng trong khi nằm mơ, quý vị chẳng giác ngộ. Nếu giác ngộ trong mộng sẽ rất thú vị, sẽ giống như người đã khai ngộ. Quý vị nghĩ xem: Tất cả cảnh giới trong mộng có phải do tâm quý vị biến ra hay chăng? Nếu chúng ta coi cảnh giới như mộng cảnh để nói thì cái có thể tạo ra giấc mộng là tâm của chính quý vị, cảnh giới trong mộng là Tướng Phần do tâm biến hiện trong khi đang nằm mộng; toàn bộ mộng cảnh chẳng phải là tâm của quý vị hay sao? Toàn bộ cái tâm chẳng phải là mộng cảnh hay sao? Tâm và mộng cảnh là một, chẳng hai! Lìa mộng chẳng có tâm, lìa tâm không có mộng, tâm và cảnh như nhau. Chúng ta suy nghĩ những điều này thấy cũng có lý một chút, vẫn còn có thể nghĩ thông suốt.

Quý vị thật sự nghĩ thông suốt, lại dùng Lý ấy để quan sát cảnh giới hiện thực; cảnh giới ấy cũng giống như thế. Nếu trong cảnh giới, quý vị thấy tất cả các cảnh đều do tâm ta biến, cảnh chẳng lìa tâm, tâm chẳng lìa cảnh, quý vị sẽ khai ngộ, minh tâm kiến tánh. Nói cách khác, không cần đợi về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị đã kiến tánh. Nhưng minh tâm kiến tánh trong thế giới này, chỉ thấy được một phía là uế độ trong tánh của chúng ta. Nói cách khác, [chỉ thấy] được phía hiện tượng ác trong tâm tánh. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ thấy trong tâm tánh chúng ta còn có phương diện tốt đẹp. Giống như chúng ta nằm mộng, có lúc giấc mộng rất ngọt ngào, có lúc gặp ác mộng. Chúng ta kiến tánh trong thế giới này, giống như gặp ác mộng, trong ác mộng, hiểu tâm và cảnh như nhau; vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là giấc mộng ngọt ngào, cũng biết tâm và cảnh như nhau. Khi ấy, quả thật, tận hư không trọn pháp giới là một tâm. Phật pháp nói đến tột cùng là dạy chúng ta nhập cảnh giới ấy. Bất đắc dĩ, đặt tên cho cảnh giới ấy là Nhất Chân pháp giới. Hiện thời, chúng ta không thấy được, do đang mê nơi cảnh giới nên cũng chẳng có cách nào khai ngộ; đó là vì tâm chúng ta không thanh tịnh, trong tâm phân biệt, chấp trước, có vọng tưởng, có phiền não. Vì thế, quý vị chẳng thể thấy chân tướng sự thật.

Ở đây, đại sư bảo: “Vãng sanh Tịnh Độ, nguyện kiến Di Đà, bất ngại duy tâm” (Vãng sanh Tịnh Độ, nguyện thấy Di Đà, chẳng trở ngại duy tâm). Nói thật ra, ở nơi ấy, không chỉ chẳng trở ngại duy tâm, mà còn sẽ chứng “duy tâm Tịnh Độ”, chứng thực “tự tánh Di Đà”, nói thông tục là “thành Phật chứng quả”. Chứng quả là chứng gì vậy? Chứng đắc rõ rệt Nhất Chân, tâm và tánh là một, chẳng hai, chứng điều ấy, thấy điều ấy. Đấy là quý vị đã chứng đắc.

 

(Sao) Hựu vấn: Tích nhân vị Hoa Nghiêm cực giáo, khả đắc giai ước Quán Hạnh, minh chư pháp môn. Phương Đẳng nhi hạ, hà đắc diệc ước Quán Hạnh?

()又問:昔人謂華嚴極教,可得皆約觀行,明諸法門,方等而下,何得亦約觀行。

(Sao: Lại hỏi: Người xưa nói Hoa Nghiêm là giáo pháp cùng tột, nên [khi giảng giải kinh ấy] có thể dựa vào Quán Hạnh để giảng rõ các pháp môn, còn đối với các kinh thuộc loại Phương Đẳng trở xuống, cớ sao cũng dùng Quán Hạnh [để giải thích]?)

 

Hỏi hay lắm!  Câu hỏi này là giả thiết,  giả sử có một người nêu ra

câu hỏi như vậy! Trong kinh Phật, Hoa Nghiêm là Nhất Thừa Viên Giáo, được gọi là “xứng tánh nhi đàm” (稱性而談: đàm luận xứng tánh), hoàn toàn là ngôn ngữ, văn tự lưu lộ từ Chân Như bổn tánh sau khi đức Phật đã chứng đắc chân tánh, từng câu, từng chữ đều là chân tánh, nên gọi là “xứng tánh chi đàm” (稱性之談: lời luận định xứng tánh). Cũng chính vì lẽ đó, hết thảy các pháp có thể “quán tâm xứng Lý”, trong mỗi đoạn [chú giải kinh văn], Liên Trì đại sư đều có viết một đoạn Xứng Lý, chẳng hạn như đoạn này là Xứng Lý. Xứng Lý nghĩa là nói tương ứng với tánh. Kinh Hoa Nghiêm được nói tương xứng với tánh, mọi người chẳng bàn cãi điều này, họ đều biết, đều tôn trọng kinh Hoa Nghiêm là đại pháp Nhất Thừa Viên Giáo.

“Phương Đẳng nhi hạ” (từ Phương Đẳng trở xuống): Những kinh Đại Thừa thông thường dường như chẳng cao sâu như thế, cớ sao cũng có thể xếp vào loại Quán Hạnh giống như Hoa Nghiêm để nói? Kinh Di Đà thuộc thời Phương Đẳng; nói cách khác, chớ nên dùng cung cách phán định kinh Hoa Nghiêm để giảng bộ kinh này! [Ở đây, cớ sao Liên Trì đại sư] đàm luận xứng tánh, sau mỗi đoạn [chú giải kinh văn] đều có một đoạn Xứng Lý, tức là [giải thích đoạn ấy] tương xứng với Tánh [như thế nào]. Nói thật ra, đối với chuyện này, Liên Trì đại sư đã tốn rất nhiều tâm tư, Ngài sống vào cuối đời Minh, cách chúng ta gần sáu trăm năm. Trong các tự viện tùng lâm tại Trung Quốc thuở ấy, phong khí nhà Thiền rất thịnh hành, nếu trực tiếp phê bình sẽ khiến cho rất nhiều người khó chịu, nhưng những kẻ bình phàm lại coi thường, rẻ rúng Tịnh Độ. Vì thế, Ngài phải một phen khổ tâm, hoàn toàn dùng kinh Hoa Nghiêm để giải thích kinh Di Đà. Do lẽ đó, trong Di Đà Kinh Sớ Sao có rất nhiều chỗ trích dẫn kinh Hoa Nghiêm. Nói cách khác, Ngài đã ngấm ngầm, chẳng công khai, đề cao kinh Di Đà, dùng gì để đề cao? Dùng Hoa Nghiêm để đề cao, đề cao đến mức [kinh Di Đà] còn cao hơn kinh Hoa Nghiêm, khiến cho mọi người hiểu được tầm quan trọng của pháp môn này, hy vọng những kẻ học Thiền sẽ tỉnh ngộ. Thiền chẳng thể thành công, bèn quay về niệm Phật, chắc chắn thành tựu! Đấy là một phen khổ tâm của Ngài.

Vì thế, Ngài viết Sớ Sao quả thật đã hết sức mềm dẻo, nhân nhượng, ngõ hầu đạt được lợi ích toàn cuộc, khác hẳn Ngẫu Ích đại sư. Ngẫu Ích đại sư sống vào thời đại trễ hơn Ngài. Liên Trì đại sư hoằng dương Tịnh Độ đã tạo thành cơ sở tương đối khá, Ngẫu Ích đại sư thừa dịp phát huy rực rỡ, thuận tiện hơn nhiều! Chẳng giống như thời đại của tổ Liên Trì, trong thời đại ấy, áp lực bên ngoài rất lớn; do vậy, lúc soạn Sớ Sao, Tổ phải cực lực dùng Nhất Thừa Viên Giáo Hoa Nghiêm và Pháp Hoa để chỉ bày sự vĩ đại và chẳng thể nghĩ bàn của pháp môn này. [Từ chuyện này], ta cũng có thể thật sự thấy được học vấn và đạo đức của Tổ, nếu Ngài chẳng phải là bậc đại thông gia, quả thật sẽ không thể làm được! Có thể thấy Liên Trì đại sư tin sâu Tịnh Độ, y theo phương pháp này để tu hành, hoằng dương pháp môn này, chẳng phải là mù quáng! Từ hết thảy các kinh luận Đại Thừa, Ngài đã quyết trạch[40] pháp môn này. Chúng ta đọc truyện ký của Ngài cũng có thể thấy được chuyện ấy. Dưới đây là câu trả lời:

 

(Sao) Cổ đức đáp vân: Chư liễu nghĩa bất liễu nghĩa giáo, giai thị liễu nghĩa, dĩ duy nhất tâm cố. Cứ thử, tắc viên cơ đối giáo, hà giáo bất viên? Lý tâm thiệp Sự, hà Sự bất Lý?

()古德答云:諸了義不了義教,皆是了義,以唯一心故。據此,則圓機對教,何教不圓,理心涉事,何事不理。

(Sao: Cổ đức đáp: “Các giáo pháp liễu nghĩa và bất liễu nghĩa đều là liễu nghĩa, vì chỉ là nhất tâm”. Dựa trên điều ấy, đối với người căn cơ viên mãn, có giáo pháp nào chẳng viên? Dùng cái tâm xứng Lý để lãnh hội Sự, có Sự nào chẳng phải là Lý?)

 

Đoạn này đã giảng trọn hết Phật pháp. Nếu hỏi Phật pháp là gì, dùng mấy câu này để đáp, sẽ trả lời rất viên mãn. Nói theo cách này, không chỉ kinh Phương Đẳng, mà chẳng có một pháp nào không phải là Phật pháp. Quý vị nói xem: Có pháp nào chẳng phải là Phật pháp? Phật pháp là gì? Duy tâm sở hiện gọi là Phật pháp. Có pháp nào chẳng do duy tâm sở hiện? Pháp nào cũng đều là! Giống như nằm mộng, tất cả cảnh giới trong mộng hoàn toàn do tâm biến hiện, tuyệt đối chẳng có cảnh giới nào không do tâm quý vị biến hiện. Có cảnh giới nào đến từ bên ngoài cái tâm của quý vị hay chăng? Không có! Toàn là vật do tâm của chính quý vị biến hiện. Nếu trong mộng, quý vị bỗng nhiên giác ngộ, tâm ta là gì? Tâm ở trong thân thể ta, những gì ở ngoài thân thể chẳng phải là tâm, [hiểu như vậy] thì sai mất rồi! Hết thảy mọi người trong giấc mộng do chính quý vị biến ra, tuyệt đối không thể nói họ chẳng dính líu gì đến quý vị! Quý vị nằm mộng thấy hết thảy mọi người, kẻ ta ưa thích lẫn kẻ ta chán ghét đều do chính quý vị biến ra! Trong mộng, quý vị mộng thấy hết thảy mọi vật, chúng cũng do chính quý vị biến ra, chẳng có gì không do chính mình biến! Do vậy, nói: Ngoài pháp chẳng có tâm, ngoài tâm chẳng có pháp.

Tận hư không, trọn pháp giới mười phương ba đời hết thảy vạn pháp toàn là vật được biến hiện bởi tự tâm của chúng ta. Quý vị nói xem: Chân Như bổn tánh ở chỗ nào? Tùy tiện, lấy bất cứ pháp nào cũng đều được, chẳng có một pháp nào không phải! Giống như hỏi chúng ta về kiến tánh, tánh ở nơi đâu? Giống như quý vị nằm mơ, đang trong lúc nằm mơ, hỏi quý vị “tâm của anh ở đâu?” Tùy tiện lấy vật nào cũng được! Bởi lẽ, hết thảy các pháp thảy đều do tâm tánh của quý vị biến ra! Đó gọi là “dĩ kim tác khí, khí khí giai kim” (dùng vàng chế đồ vật, món nào cũng đều là vàng). Chúng ta dùng vàng ròng chế thành mấy ngàn món, có đến mấy vạn hình thức, hình dạng, đủ mọi thứ khác biệt, vàng ở nơi đâu? Tùy tiện lấy bất cứ vật nào cũng đều là vàng, chẳng có gì không phải! Do vậy, có kẻ hỏi: “Chân Như bổn tánh ở đâu?” Không có một pháp nào chẳng do Chân Như bổn tánh biến ra, hết thảy các pháp đều là Tướng Phần, tức là hình trạng của Chân Như bổn tánh. Tướng là Tánh, Tánh là Tướng, cho nên chẳng có pháp nào chẳng phải là Chân Như bổn tánh! Nếu quý vị đã hiểu thì đó là “kiến tánh” được nói trong kinh Phật, sách vở thế gian có giống như vậy hay không? Đương nhiên cũng là như vậy. Phật giáo giảng như vậy, các giáo pháp ngoại đạo có giảng như vậy hay không? Thảy đều là như vậy, chẳng có một pháp nào không phải. Vì thế, đối với cảnh giới, tâm quý vị bình đẳng, tâm bình đẳng liền phóng quang minh, trí huệ liền sanh khởi.

Hiện nay, chúng ta bất bình đẳng trong hết thảy cảnh giới, đấy là mê, bất giác. Giác là gì? Tâm bình đẳng là giác. Chẳng mê là gì? Tâm bình đẳng chẳng mê. Vẫn còn bất bình đẳng thì là mê hoặc, điên đảo. Vì vậy, bản thân chúng ta phải giác ngộ, đãi người, xử sự, tiếp vật, tâm chúng ta có bình đẳng hay không? Bình đẳng thì quý vị là Bồ Tát, là Phật, thật sự hành Bồ Tát đạo. Do vậy, trong tâm chính mình phải thật sự bình đẳng; nhưng đãi người, tiếp vật, xử sự, phải dùng cái tâm bình đẳng để tùy thuận sự bất bình đẳng trong thế gian. Chẳng hạn như người ta hỏi: “Cái gì đây?” [Quý vị trả lời]: “Đấy là một quyển sách”. Nói “một quyển sách” tức là chẳng bình đẳng, nó không có tên mới là bình đẳng! Ta dấy lên một niệm sẽ chẳng bình đẳng; nhưng tâm ta bình đẳng; vì kẻ khác gọi nó là sách, ta thuận theo kẻ khác mà gọi nó là sách, chẳng phải là ta phân biệt, chấp trước. [Nói] “đây là sách” là vì kẻ khác phân biệt, chấp trước thứ này là sách, nên ta cũng thuận theo sự phân biệt và chấp trước của người ấy mà phân biệt, chấp trước, chính mình chẳng phân biệt, chấp trước. Do vậy, tâm địa tỏa quang minh, tâm địa thanh tịnh, thấy chân tướng sự thật. Nếu trong tâm chính mình thật sự có chấp trước, phân biệt, hỏng rồi! Đó là mê, chắc chắn là chưa ngộ, chắc chắn tâm và cảnh, Tánh và Tướng chưa thể dung hợp thành một! Phật pháp phải học từ chỗ này, mà cũng cầu từ chỗ này!

Cổ nhân nói: “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên” (người căn tánh viên mãn thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên), hết thảy các kinh hoàn toàn là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Trong khi giảng tựa đề kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi đã nói điều này: Kinh Hoa Nghiêm là danh xưng chung của hết thảy các kinh, không chỉ gồm trọn những gì đức Phật đã nói, mà hết thảy các pháp thế gian không do đức Phật nói cũng đều được bao gồm toàn bộ trong danh từ này thì ý nghĩa ấy mới được nói rất viên mãn. Ngài (tổ Liên Trì) đã dùng đoạn thứ nhất để trình bày [các ý nghĩa trong tựa đề kinh], ý nghĩa ấy rất sâu. Giảng tựa đề Phật Thuyết A Di Đà Kinh đến đây là hết một đoạn.

 

Nhị, dịch nhân.

二、譯人。

(Hai, người dịch).

 

Giảng về người phiên dịch [được ghi trong phần tựa đề].

 

Diêu Tần Tam Tạng pháp sư Cưu Ma La Thập dịch.

姚秦三藏法師鳩摩羅什譯。

(Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào thời Diêu Tần).

 

Phần Nhân Đề (tựa đề nói về người phiên dịch) gồm có bốn đoạn: Đoạn thứ nhất là Diêu Tần, chỉ thời đại, niên đại. Trong lịch sử Trung Quốc, có tất cả bốn triều đại chọn Tần làm quốc hiệu; vì thế, phải lấy họ của hoàng đế đặt trước [chữ Tần] thì mới biết là triều đại Tần nào! Tại Trung Quốc, người đầu tiên lấy chữ Tần làm quốc hiệu chính là Tần Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng họ Doanh nên [triều đại của ông ta] gọi là Doanh Tần. Người thứ hai là Phù Kiên thành lập một nước Tần tại địa bàn Sơn Tây, Thiểm Tây và Cam Túc, lịch sử gọi triều đại này là Phù Tần. Sau khi thua trận Phì Thủy, Phù Kiên bị thuộc hạ là tướng quân Diêu Trành phát động chánh biến giành ngôi hoàng đế, quốc hiệu vẫn gọi là Tần, nên [sử gọi triều đại này là] Diêu Tần, thuộc thời đại Đông Tấn.

“Tam Tạng pháp sư” là học vị; nay chúng ta nói đến các danh xưng học vị như Tiến Sĩ, Học Sĩ (Cử Nhân) v.v… Vị pháp sư này có khả năng thông đạt Tam Tạng; nói cách khác, Ngài là bậc chuyên gia về Phật học, thông đạt Kinh, Luật, Luận Tam Tạng. Chỉ hiểu giới luật, chúng ta sẽ gọi Ngài là Luật Sư. Chỉ hiểu Luận, chúng ta gọi Ngài là Luận Sư, đều là chưa thể hoàn toàn thông đạt. Vị hoàn toàn thông đạt được gọi là Tam Tạng Pháp Sư, có địa vị cao nhất trong Phật giáo. Tam Tạng Pháp Sư đúng là Tiến Sĩ, học rộng, nghe nhiều, học vị như vậy đó. Phàm những vị dịch kinh đều là Tam Tạng Pháp Sư, thông đạt hết thảy, chẳng đến nỗi dịch sai ý nghĩa. Cưu Ma La Thập là tên của pháp sư, “dịch” là phiên dịch.

 

(Sớ) Diêu Tần tiêu đại.

()  姚秦標代。

(Sớ: Chữ Diêu Tần chỉ rõ thời đại).

 

Chỉ ra thời đại.

 

(Sớ) Tam Tạng hiển đức.

()  三藏顯德。

(Sớ: Chữ “Tam Tạng” nêu rõ đức hạnh của Ngài).

 

Nêu bày đức năng: Ngài thông đạt Tam Tạng.

 

(Sớ) La Thập xuất danh.

()  羅什出名。

(Sớ: “La Thập” là nói ra tên của Ngài).

 

“La Thập” là nêu rõ danh hiệu của Ngài.

 

(Sớ) Dịch chi nhất tự, kết thành năng phiên nhân dã.

()  譯之一字,結成能翻人也。

(Sớ: Một chữ “dịch” để kết thúc, nhằm chỉ rõ người phiên dịch [kinh này là ai]).

Chữ “dịch” chỉ người phiên dịch.

 

(Sao) Xuất xứ thỉ mạt bị tiền, tư bất trùng lục.

() 出處始末備前,茲不重錄。

(Sao: Xuất xứ [của bản dịch này] đã được trình bày cặn kẽ từ đầu đến đuôi trong phần trước, ở đây chẳng lặp lại).

 

Kinh này được dịch hai lượt: Lần đầu tiên do Cưu Ma La Thập đại

sư dịch,  lần thứ hai do Huyền Trang đại sư dịch dưới  đời  Đường, trong

phần trước đã từng nói rồi, không cần lặp lại.

 

(Sao) Cổ xưng Thập sư, thất Phật dĩ lai dịch kinh sư dã, do thị lược cử, thả dĩ thất Phật vi ngôn nhĩ.

()古稱什師,七佛以來譯經師也,猶是略舉,且以七佛為言耳。

(Sao: Cổ nhân xưng tụng La Thập đại sư là vị thầy dịch kinh của bảy đức Phật thì vẫn là nói đại lược, nên mới nói “bảy đức Phật” mà thôi).

 

Trong phần Huyền Nghĩa thuộc quyển thứ nhất của bộ Sớ Sao đã giới thiệu tỉ mỉ tiểu sử La Thập đại sư, ở đây chẳng nhắc lại; nhưng giảng vào kinh văn, trong phần Nhân Đề, chẳng thể không giới thiệu, cho nên bổ sung thêm vài ý nghĩa. Cổ đức nói Cưu Ma La Thập đại sư trong quá khứ là người phiên dịch [kinh điển] của bảy đức Phật, đời đời kiếp kiếp phát tâm hoằng pháp lợi sanh, làm công tác phiên dịch; cho nên Ngài dịch vô cùng hay! Nói như vậy vẫn là nói đại lược, vì chỉ nêu ra bảy vị Phật gần nhất.

 

(Sao) Phù Tỳ Bà chí ư Thích Ca, thủ vĩ chỉ kinh nhị kiếp.

() 毗婆至於釋迦,首尾止經二劫。

(Sao: Do từ Tỳ Bà Thi Phật cho đến Thích Ca Mâu Ni Phật, từ đầu đến đuôi chỉ là hai kiếp).

 

Từ Tỳ Bà Thi Phật (Vipasyin) cho đến Thích Ca Phật, ba vị Phật cuối cùng trong kiếp trước đó (tức Trang Nghiêm Kiếp), khởi đầu kiếp này (Hiền Kiếp) có bốn vị Phật, hợp thành bảy vị Phật, kể từ đầu đến đuôi là hai kiếp. Tỳ Bà Thi Phật: Tỳ Bà Thi dịch sang tiếng Hán là Thắng Quán, nghĩa là “quán chiếu thù thắng”. Vị Phật thứ hai là Thi Khí Phật (Sikhin), Thi Khí dịch sang tiếng Hán là Trì Kế, Kế (髻) là đầu tóc kết thành búi, Trì (持) có nghĩa là gìn giữ. Vị thứ ba là Tỳ Xá Phù Phật (Visvabhu), Tỳ Xá Phù dịch sang tiếng Hán là Biến Nhất Thiết Tự Tại (trọn khắp hết thảy đều tự tại). Vị thứ tư, tức vị Phật thứ nhất trong Hiền Kiếp (Bhadra-kalpa) là Câu Lưu Tôn Phật (Krakucchanda), Câu Lưu Tôn dịch nghĩa tiếng Hán là Sở Ưng Đoạn Dĩ Đoạn (những gì đáng đoạn đã đoạn xong), như Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh phiền não, Ngài đều đoạn hết, [danh hiệu Phật] có ý nghĩa ấy. Vị Phật thứ hai [trong Hiền Kiếp, tức vị Phật thứ năm trong bảy vị Phật] là Câu Na Hàm Mâu Ni Phật (Kanakamuni), dịch nghĩa là Kim Sắc Tiên (vị tiên thân vàng). Vị Phật thứ ba [trong Hiền Kiếp] là Ca Diếp Phật (Kasyapa), dịch nghĩa là Ẩm Quang Phật. Quang minh của Ngài vô cùng chói lọi, khi Phật hiện diện, hết thảy những ánh sáng khác đều chẳng thể thấy, giống như ban ngày dưới ánh mặt trời mà bật đèn điện, chẳng thấy ánh sáng của đèn, chỉ thấy ánh sáng mặt trời. Vì quang minh của Phật quá lớn, gồm thâu những ánh sáng khác, nên gọi là Ẩm Quang (nuốt mất ánh sáng). Vị thứ tư [trong Hiền Kiếp] là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, dịch nghĩa là Năng Nhân Tịch Mặc. La Thập đại sư là vị phiên dịch [kinh điển] của bảy vị Phật ấy, Ngài đã phát nguyện ấy. Vì sao ở đây đại sư nói là “lược cử” (nêu đại lược)? Quý vị đọc đoạn văn tiếp theo sẽ biết.

 

(Sao) Nhi Di Đà thành Phật thập kiếp.

() 而彌陀成佛十劫。

(Sao: Nhưng đức Di Đà đã thành Phật mười kiếp).

 

A Di Đà Phật đã thành Phật mười kiếp.

 

(Sao) Tắc Trang Nghiêm kiếp tiền, cánh thượng cửu kiếp, sở lịch dĩ kỷ vạn Phật.

() 則莊嚴劫前,更上九劫,所歷已幾萬佛。

(Sao: Tức là đã hơn chín kiếp trước kiếp Trang Nghiêm, đã trải qua mấy vạn vị Phật).

 

Có thể thấy rằng: Nói Ngài là vị sư dịch kinh của bảy đức Phật đích xác là nói đại lược, chỉ giới thiệu mấy vị gần nhất, chẳng nói tới mấy vị trước đó. Nếu kể cả những vị trước đó thì Ngài đời đời kiếp kiếp phát nguyện dịch kinh Phật. Dịch kinh Phật đều là sau khi đức Phật đã diệt độ, lúc đức Phật tại thế chẳng cần phải dịch. “Phật dĩ nhất âm nhi thuyết pháp, chúng sanh tùy loại các đắc giải” (Phật dùng một âm thanh để thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại đều hiểu). Ngôn ngữ của Phật vô cùng kỳ diệu, Ngài ở nơi ấy thuyết pháp, chúng ta là hạng người nào nghe giảng cũng đều [cảm thấy] giống hệt như [đức Phật đang sử dụng] ngôn ngữ ở quê hương ta. Bất luận người nào thân cận Phật, chẳng có ai nghe mà không hiểu lời đức Phật nói. Sau khi đức Phật diệt độ, hàng Bồ Tát đều không có năng lực ấy, cho nên phải theo đuổi công tác phiên dịch.

 

(Sao) Ký lục phương chư Phật, mị bất tán thán thử kinh.

() 既六方諸佛,靡不讚歎此經。

(Sao: Nên sáu phương chư Phật, không vị nào chẳng tán thán kinh này).

 

Trong kinh này, La Thập đại sư dịch là “lục phương Phật”, [sáu phương là nói rút gọn của mười phương], tức là mười phương hết thảy chư Phật, không có vị Phật nào chẳng tán thán bộ kinh này.

 

(Sao) Tắc vạn Phật dĩ lai, diệc tất giai thuyết thử kinh, diệc tất giai hữu dịch giả.

() 萬佛以來,亦必皆說此經,亦必皆有譯者。

(Sao: Cho nên [kể từ] một vạn vị Phật cho tới nay, vị nào cũng đều nói kinh này, mà ắt cũng đều có người dịch kinh này).

 

Đây là suy đoán dựa theo Lý, tình hình nhất định phải là như thế. Chúng ta đối chiếu cẩn thận kinh Vô Lượng Thọ với kinh này để nghiên cứu, sẽ hiểu rõ một sự thật: Mười phương thế giới chúng sanh căn tánh khác nhau, đức Phật thuyết pháp là ứng cơ thuyết pháp (thuyết pháp thuận theo căn cơ). Mỗi vị Phật trong mỗi thế giới đối với chúng sanh trong mỗi thế giới ấy sẽ nói các pháp môn khác nhau, chỉ có một bộ kinh Di Đà này là tương đồng! Mười phương ba đời hết thảy chư Phật không vị Phật nào chẳng nói, chẳng hộ trì, chẳng hoằng dương. Bộ kinh này chính là khoa mục mà chư Phật, Bồ Tát trong hết thảy thế giới thuộc mười phương ba đời cùng tu. Không chỉ là cùng tu, thưa quý vị, nó lại còn là khoa mục bắt buộc phải tu của hết thảy chư Phật. Bất luận tông phái nào ở Trung Quốc, khóa tụng kinh tối đều niệm kinh Di Đà, có thể thấy bộ kinh này vô cùng trọng yếu, nó là pháp môn bậc nhất và bộ kinh bậc nhất để chư Phật, Bồ Tát độ chúng sanh, chúng ta nhất định phải biết điều này!

Nhưng hiện thời, người học Phật chuyên môn học kinh Di Đà vẫn chẳng nhiều lắm, do nguyên nhân nào? Kinh đã nói rất rõ ràng: “Chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”, đó là do thiện căn, phước đức, nhân duyên của người ấy ít ỏi! Người ấy tu những thứ khác. Nếu người ấy có nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên thì chuyện gì cũng không làm, chuyên tu bộ kinh này. Do vậy, phải hiểu: Suốt đời chuyên tu bộ kinh này, đó là thiện căn, phước đức, nhân duyên thảy đều trọn đủ, người ấy nhất định vãng sanh trong một đời này, sau khi vãng sanh, nhất định thành Phật. Do vậy, người ấy không nghiên cứu tràn lan những kinh điển khác, mà chọn lấy pháp môn bậc nhất và kinh điển bậc nhất đã được mười phương chư Phật đề xướng, chúng ta nhất định phải nhận biết điều này.

Đại sư nói hết thảy chư Phật đều giảng kinh này. Sau khi đức Phật diệt độ, trong thời kỳ Tượng Pháp hoặc Mạt Pháp, [kinh này] nhất định phải được phiên dịch. Vì thế, có những vị Bồ Tát phát tâm đời đời kiếp kiếp làm công tác dịch thuật này, đại khái La Thập đại sư thuộc loại nhân vật ấy, tuyệt đối chẳng phải là phàm nhân.

 

(Sao) Nhi kinh xưng mẫu Phật giả viết.

() 而經稱母佛者曰。

(Sao: Nhưng trong kinh, vị được gọi là mẹ đức Phật đã nói).

 

“Kinh xưng mẫu Phật” là Ma Da phu nhân, tức là mẹ của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ma Da (Māyā) dịch sang tiếng Hán là Huyễn Sanh, vì Ma Da phu nhân đã dùng pháp môn Như Huyễn để huyễn sanh[41] ra đức Phật. Kinh dạy, trước khi Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh, mười phương chư Phật mỗi ngày ba thời thuyết pháp trong bụng Ma Da phu nhân. Đức Phật và các vị đại Bồ Tát thị hiện giáng sanh trong nhân gian, tuy hoài thai mười tháng giống như chúng ta, các Ngài chẳng hứng chịu nỗi khổ thai ngục. Ở trong thai mẹ, Ngài khai đại pháp hội, mỗi ngày giảng kinh, thuyết pháp trong ấy, chư Phật, Bồ Tát đều đến nghe. Bọn phàm phu chúng ta ở trong thai mẹ mười tháng, giống như ở trong địa ngục, khổ chẳng thể nói nổi! Trong kinh, đức Phật đã hình dung nỗi khổ ấy giống như địa ngục, nên gọi là “thai ngục khổ”. Sau khi đầu thai bèn mê hoặc, điên đảo, giống như bị nhốt trong tù ngục. Mẹ ăn chút gì nóng, con như đang ở trong Bát Nhiệt địa ngục; mẹ uống một chén nước lạnh, con giống như ở trong Bát Hàn địa ngục, khổ gần chết! Đức Phật giáng sanh, khác hẳn, nên gọi là Như Huyễn là do ý nghĩa này.

Chúng ta thấy trong kinh Hoa Nghiêm, Ma Da phu nhân có nói, Ngài cũng là bậc đại quyền thị hiện, phát nguyện đời đời kiếp kiếp muốn làm Phật mẫu. Do vậy, không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật là do Ngài hoài thai sanh ra, mà một ngàn vị Phật xuất thế trong Hiền Kiếp đều do Ngài hoài thai sanh ra, đời đời kiếp kiếp làm Phật mẫu.

 

(Sao) Thế thế Phật sanh, ngã vi kỳ mẫu.

() 世世佛生,我為其母。

(Sao: Đời đời chư Phật giáng sanh, ta làm mẹ của các Ngài).

 

Ma Da phu nhân nói như vậy.

 

(Sao) Tử Phật giả viết.

() 子佛者曰。

(Sao: Con của đức Phật nói).

 

“Tử Phật” là La Hầu La (Rāhula), Ngài là con của Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng là bậc đại quyền thị hiện.

 

(Sao) Thế thế Phật xuất, ngã vi kỳ tử.

() 世世佛出,我為其子。

(Sao: Đời đời Phật xuất thế, ta làm con các Ngài).

 

Đại sư nêu hai trường hợp trong kinh ấy (kinh Hoa Nghiêm) để nói.

 

(Sao) Dĩ thị lệ chi, Thập sư dịch kinh, hà xí thất Phật.

() 以是例之,什師譯經,何啻七佛。

(Sao: Phỏng theo đó [để suy đoán], há phải La Thập đại sư chỉ dịch kinh của bảy đức Phật).

 

Tôi nghĩ có thể là Ngài cũng đời đời kiếp kiếp, hễ Phật xuất thế, Ngài bèn dịch kinh, Ngài đều tiến hành phiên dịch. Nêu lên thí dụ này để nói rõ, nhìn từ mặt hình tướng, La Thập đại sư là người dịch kinh của bảy đức Phật, nhưng bổn lai diện mục của Ngài chẳng thể nghĩ bàn, có thể là Ngài cũng phát nguyện đời đời kiếp kiếp theo đuổi công tác dịch kinh.

 

(Sao) Nhi thử kinh lưu thông cửu viễn, ư thị ích tín.

() 而此經流通久遠,於是益信。

(Sao: Nhưng kinh này được lưu thông đã lâu; do vậy, càng thêm tin tưởng).

 

Chúng  ta  lại càng tin tưởng bộ kinh này được lưu thông trong hết

thảy các cõi Phật khắp mười phương ba đời. Nói tới các kinh khác, chưa chắc mỗi thế giới đều giống nhau, nhưng kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ chắc chắn giống nhau, đến bất cứ thế giới nào đều thấy [hai kinh này].

 

(Sao) Xứng Lý, tắc tự tánh dung thông ẩn hiển, thị Hoa Phạm phiên dịch nghĩa.

() 稱理,則自性融通隱顯,是華梵翻譯義。

(Sao: Xứng Lý thì tự tánh dung thông, ẩn tàng, hay hiển lộ, chính là ý nghĩa dịch từ Phạn sang Hán).

 

“Dung thông” trùng trùng vô ngại. “Ẩn hiển” là hình tướng của sự dung thông, đúng như kinh Pháp Hoa đã nói “bách giới thiên như”. Trí Giả đại sư đọc kinh Pháp Hoa, đã nêu tỏ tinh nghĩa (nghĩa lý tinh vi) của kinh Pháp Hoa qua [khái niệm] bách giới thiên như. Nói cách khác, không có một pháp nào chẳng Như! “Như” là Chân Như, tức là nói về bổn tánh, hết thảy các pháp là Tướng, Tướng như Tánh, Tánh như Tướng. Chúng ta dùng một tỷ dụ để nói thì màn hình TV có thể hiển hiện tướng. Chúng ta sánh ví màn hình với Chân Như, hình tướng [hiển hiện trên màn hình] giống như vạn pháp. Tướng được hiển thị có rời khỏi màn hình hay chăng? Chẳng rời khỏi. Suốt ngày từ sáng đến tối hiển lộ tướng, hiển lộ các tướng hoàn toàn bất đồng, nhưng chẳng hề rời khỏi màn hình. Màn hình là năng hiển (chủ thể có thể hiển lộ), vạn pháp là sở hiển (đối tượng được hiển lộ). Sở hiển là Tướng, năng hiển là Tánh, quý vị nghĩ xem có tướng nào chẳng Như? Trong những tướng được hiển lộ ấy, có tướng nào chẳng phải là màn hình? Bất luận tướng nào cũng đều là như vậy! Nếu quý vị hiểu rõ đạo lý này, nay chúng ta đã thấy sâm la vạn tượng, có tướng nào chẳng phải là Chân Như bổn tánh của chính mình? Thảy đều là [Chân Như bổn tánh], hết thảy đều do Chân Như bổn tánh hiển lộ; vì thế, gọi là “bách giới thiên như”, chẳng có pháp nào không Như.

Trí Giả đại sư đã phát minh đạo lý này từ kinh Pháp Hoa. Nếu chính Ngài chẳng kiến đạo, sẽ không thể nói ra được. Do vậy, ta biết Trí Giả đại sư là một vị Bồ Tát minh tâm kiến tánh, chẳng phải là phàm nhân! Minh tâm kiến tánh nói theo Biệt Giáo là từ Sơ Địa trở lên, trong Viên Giáo là từ Sơ Trụ trở lên. Lão nhân gia cũng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ mà vãng sanh, trong Vãng Sanh Truyện có chép tên Ngài. “Dung thông” là Tánh Tướng như nhau, Tánh Tướng bất nhị.

 

(Sao) Tức Phạm khả dĩ thành Hoa.

() 即梵可以成華。

(Sao: Tức là Phạn văn có thể trở thành Hoa văn).

 

“Phạm” là Phạn ngữ (Sankrit), tức ngôn ngữ của Ấn Độ cổ đại; “Hoa” là ngôn ngữ của Trung Quốc. Kinh điển được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán. Tuy câu nào cũng là tiếng Phạn, nhưng câu nào cũng đều là tiếng Hoa.

 

(Sao) Tắc Hiển phi Mật ngoại.

() 則顯非密外。

(Sao: Hiển chẳng ở ngoài Mật).

 

Người Hoa nhìn vào văn tự tiếng Hán, nghe tiếng Hán, vừa nghe liền hiểu. Chúng ta nghe người Ấn Độ nói chuyện, đọc văn tự Ấn Độ chẳng hiểu. Không hiểu [nên nghĩ là] Mật, còn hiểu sẽ là minh hiển (rõ rệt). Hiển và Mật là một, chẳng hai. Dịch ra sẽ hiểu được ý nghĩa, chẳng còn là Mật nữa, chẳng dịch thì là Mật. Người khác nói, chúng ta không hiểu, [những điều người ấy nói] liền biến thành Mật. Người ta nói, chúng ta đã hiểu, sẽ không còn là Mật. Đấy chính là Phạn có thể trở thành Hoa, Hiển chẳng ở ngoài Mật.

 

(Sao) Phương Hoa vị thường bất Phạm, tắc Mật tại Hiển biên.

() 方華未嘗不梵,則密在顯邊。

(Sao: Thì mới là Hoa chưa hề chẳng phải là Phạn, Mật ở ngay nơi Hiển).

Hiển và Mật chẳng hai, Hiển Mật viên dung. Có những thứ được truyền từ Ấn Độ vào Trung Quốc, như Đại Thừa Khởi Tín Luận do Mã Minh Bồ Tát soạn, sau khi được truyền sang Trung Quốc, bị thất truyền tại Ấn Độ. Huyền Trang đại sư lại dịch ngược từ tiếng Hán sang Phạn văn. Do vậy, tiếng Hán có thể dịch sang tiếng Phạn, mà tiếng Phạn có thể dịch sang tiếng Hán. Vào thuở ấy, những vị đại sư dịch kinh thường làm chuyện này. Vì thế, Mật ở nơi Hiển, Hiển ở nơi Mật, Hiển và Mật là một, chẳng hai.

 

(Sao) Đương ám trung hữu minh, đương minh trung hữu ám,

hỗ tương yểm ánh, thiệp nhập trùng trùng, diệu thể dung thông, bất

nhất, bất dị.

()當暗中有明,當明中有暗,互相掩映,涉入重重,妙體融通,不一不異。

(Sao: Trong tối có sáng, trong sáng có tối, che khuất và rọi sáng lẫn nhau, xen lẫn vào nhau trùng trùng, diệu thể dung thông, chẳng một, chẳng khác).

 

Thật ra, những câu này đều nói theo Tánh Tông, nhất là trong cảnh giới rất cao của Thiền Tông. Từ những chỗ này, chúng ta có thể thấy rất rõ dụng tâm của Liên Trì đại sư; Ngài luôn ngầm nói niệm Phật chính là Thiền. Những huyền nghĩa tối cao được giảng trong Thiền Tông đều là những ý nghĩa trong kinh Di Đà, đều nhằm khuyên người tham Thiền niệm Phật. Nếu không, Ngài nói những lời này đâu có ý nghĩa gì? Đọc những lời chú giải này, có thể đoán được dụng tâm của đại sư, biết thuở ấy, trong hoàn cảnh đó, Ngài đã khéo léo, uyển chuyển giải thích bộ kinh này nhằm phổ độ chúng sanh. Những ý nghĩa của Thiền, Giáo, Mật, Luật đều được nêu tỏ trong kinh này. Nói thật ra, nếu chẳng phải là một vị Tam Tạng pháp sư, quả thật cũng rất khó làm được. Trước kia, Tam Tạng pháp sư dịch kinh, nay Tổ chẳng dịch, Ngài chú giải, cũng phải thông đạt Tam Tạng mới có thể hoàn thành. Vì thế, Ngẫu Ích đại sư hết sức tán thán bộ Sớ Sao này là “bác đại tinh thâm” (rộng lớn mênh mông, tinh tường, sâu xa). Trước kia, thầy Lý đã nói: “Nếu chẳng thông đạt hơn nửa bộ Đại Tạng Kinh, đọc Sớ Sao sẽ không hiểu”, lời ấy cũng rất có lý!

“Đương ám trung hữu minh, đương minh trung hữu ám” nói rõ: Sáng và tối đối lập lẫn nhau, sáng đến tối lui, tối lui sáng đến. Giống như người Hoa nói về kinh Dịch: “Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm”. Quý vị nhìn vào hình vẽ Thái Cực, màu đen tượng trưng cho Âm, màu trắng tượng trưng cho Dương. Trong phần đen có một điểm trắng, [biểu thị] trong Âm có Dương; trong phần trắng có một điểm đen, [biểu thị] trong Dương có Âm, sử dụng ý nghĩa này. Tối và sáng chính là Âm Dương. Nói theo mặt hiện tượng, sau nửa đêm, trời sáng dần, sẽ thấu lộ quang minh; đấy là thấy “ám trung hữu minh”, đó là một hiện tượng rất rõ rệt, nhất là trên mặt biển đặc biệt dễ thấy hiện tượng này. Hiện thời giao thông nhanh chóng, tiện lợi, nếu ngồi máy bay đường dài, rất dễ thấy hiện tượng này, hết sức dễ thấy “ám trung hữu minh, minh trung hữu ám”.

“Hỗ tương yểm ánh” (che lấp và chiếu rọi lẫn nhau), nói tới sự xuyên suốt giữa hai pháp, tối vào sáng, sáng vào tối. “Thiệp nhập trùng trùng” (xen nhập lẫn nhau trùng trùng), có ý nghĩa giống như những tấm gương [phản chiếu lẫn nhau]. Trong quá khứ, vào đời Đường, Hiền Thủ quốc sư (thầy của Thanh Lương đại sư) giảng Nhất Chân pháp giới, giảng về cảnh giới xen nhập lẫn nhau trùng trùng trong Thập Huyền Môn, hoàng đế nghe chẳng hiểu ý nghĩa này. Sư bảo hoàng đế hãy dựng một cái đình bát giác. Sau khi đình đã được cất xong, mỗi mặt đình đặt một tấm gương rất lớn. Sư nói: “Nếu bệ hạ không hiểu xen nhập lẫn nhau trùng trùng là như thế nào, hãy tới đứng giữa đình nhìn xem”. Vua vừa nhìn, thấy giống như nơi nào cũng phản chiếu, giống như một người biến thành vô lượng phân thân, cảnh giới ấy hiện tiền, vua bèn hoảng nhiên đại ngộ! Do vậy, tạo thành một cảnh giới như thế để nhà vua thể nghiệm, đương nhiên [cảnh giới] thể nghiệm vẫn chưa phải là cảnh giới chân thật, chỉ là cảnh giới tương tự, nhưng từ chỗ ấy sẽ có thể ngộ nhập.

Kinh thường dùng cái lưới (la võng) của Thiên Đế làm tỷ dụ. Hiện nay rất ít thấy “la võng”, nhưng trong các đại tự viện của Nhật Bản hãy còn có [la võng]. Quá nửa la võng được kết bằng sợi đồng, căng trên các kèo, xà khắc vẽ trong cung điện, [nhằm mục đích] ngăn ngừa chim làm tổ, phá hư những tác phẩm nghệ thuật ấy. [Mỗi mắt lưới] trong la võng của trời Đế Thích đều buộc một viên dạ minh châu[42], có tên là Ma Ni Bảo Châu. Châu ấy tỏa ánh sáng, giống như các ngọn đèn treo của chúng ta trong hiện tại tỏa ánh sáng. Khi ánh sáng của mỗi ngọn đèn chiếu rọi lẫn nhau, các ánh sáng xen nhập lẫn nhau, chẳng thể tách bạch, giống như trong giảng đường này, tuy đèn không nhiều lắm, có mười mấy cái đèn thôi, nhưng quý vị có biết ánh sáng này do ngọn đèn nào phát ra hay không? Ánh sáng của mỗi ngọn đèn đều gộp trong ấy, đều xen lẫn. Tuy xen lẫn, nhưng chẳng hỗn độn, hay khéo là hay khéo ở chỗ này. Vì sao biết chúng chẳng hỗn độn? Vì quý vị tắt ngọn đèn nhỏ này, ánh sáng của nó sẽ chẳng còn nữa. Nếu xen lộn thì lẽ ra chẳng thể tắt được, nó vẫn còn ở nơi đây. Tuy xen nhập lẫn nhau, nhưng vẫn chẳng hỗn độn, tướng ấy vô cùng vi diệu. Do cổ nhân chẳng có nhiều đèn như thế, nên dùng la võng của Đế Thích Thiên làm tỷ dụ. “Đế võng thiên châu” (ngàn hạt châu nơi cái lưới của Thiên Đế) nghĩa là giống như một ngàn ngọn đèn gộp chung lại, ánh sáng xen lẫn, diệu ảnh trùng trùng, vô tận.

“Diệu thể dung thông, bất nhất, bất dị”: Diệu thể là nói đến Chân Như bổn tánh của chúng ta. Kinh Đại Thừa dạy: “Tâm, Phật, chúng sanh, ba thứ chẳng sai biệt”. Tâm là Thể, là cái Thể có thể biến hiện, Phật là tướng giác ngộ được biến hiện [bởi cái Thể ấy], chúng sanh là tướng mê được biến hiện [cũng bởi cái Thể ấy]. Chúng ta lại lấy chuyện nằm mộng làm tỷ dụ, cái tâm nằm mộng ví như cái Tâm ấy. Chúng ta mơ một giấc mộng đẹp đẽ thì giấc mộng đẹp ví như Phật, chúng ta gặp ác mộng, ác mộng ví như chúng sanh. Mộng đẹp hay ác mộng đều do cái tâm ấy biến hiện. Tâm giác liền hiện tứ thánh pháp giới, tâm mê liền hiện lục phàm pháp giới. Tứ thánh và lục phàm đều do tâm này biến hiện. Nói cách khác, tâm năng hiện và tứ thánh lục phàm được hiện là một, chẳng hai, cả ba thứ không sai biệt, là cùng một chuyện, là một, chẳng hai! Năng hiện (chủ thể biến hiện, tức cái tâm) là một, chỉ vì trong sở hiện (cái được biến hiện, tức tứ thánh lục phàm) có mê hay ngộ sai khác, nhưng mê cũng là Chân Như bổn tánh, mà ngộ vẫn là Chân Như bổn tánh.

Chư vị phải biết: Hết thảy chúng sanh là vật được hiện trong tâm chúng ta, hết thảy các hiện tượng vật chất cũng là vật được hiện trong tâm ta. Nếu quý vị chú tâm sẽ thấu hiểu các hiện tượng ấy, nói thật ra, [điều này] có thể thấu hiểu được! Ví dụ như khi chúng ta ngủ, nhắm mắt lại, tướng ấy có hay không? Chẳng có! Thật sự không có. Đức Phật dạy chúng ta: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, đúng là chẳng thật! Mở banh con mắt, tùy theo sự phân biệt, chấp trước của quý vị mà hiện những tướng ấy. Nhắm mắt lại, những tướng ấy đều chẳng còn! Tuy mở toang mắt, trong tâm chúng ta dấy lên một niệm, tướng bên ngoài sẽ biến hóa theo ý niệm, tướng chuyển theo tâm. Ưa thích thì càng nhìn càng thích; chán ghét thì càng nhìn càng thấy đáng ghét. Tướng có thật sự đáng ưa hay đáng ghét hay chăng? Không có, mà do tâm của quý vị xoay chuyển. Tâm quý vị xoay chuyển, cảnh giới bên ngoài bị chuyển theo, có thể thấy “tướng chuyển theo tâm”, lời nói ấy rất chính xác, chẳng sai! Vì tướng là vật được biến hiện trong tâm quý vị, cho nên nó cũng chuyển biến theo tâm.

Quý vị hiểu ý nghĩa này, sẽ hiểu vận mạng do chính mình nắm giữ, không thuộc quyền thao túng của kẻ khác. Chính mình có thể chuyển, Phong Thủy cũng do chính mình xoay chuyển, sẽ chẳng bị lừa đảo, gạt gẫm. Sửa đổi Phong Thủy thì sửa từ chỗ nào? Sửa từ trong tâm, tâm có thể chuyển cảnh. Sửa bên ngoài nhất định chẳng thể đổi được, chẳng có ích gì! Quý vị thấy cảnh giới bên ngoài đáng ghét, chẳng vui thích, bèn sửa sao cho rất thuận mắt, nhưng quý vị sửa trên cảnh giới, chẳng phải sửa trong nội tâm, vẫn là mê chưa ngộ, chẳng thể giải quyết vấn đề. Dẫu dễ nhìn, nhìn lâu lại thấy đáng ghét; có thể thấy là sửa đổi ngoại cảnh thì chẳng thể sửa được! Nếu thật sự sửa từ nội tâm, sẽ giống như Phật, Bồ Tát, thật sự đại từ đại bi, chẳng bỏ một ai, vì sao? Kiến lập từ nội tâm, chẳng kiến lập nơi ngoại cảnh. Kiến lập trên ngoại cảnh, chắc chắn chẳng thể lâu dài. Kiến lập trong nội tâm thì mới thật sự trường viễn. [Kiến lập nơi] ngoại cảnh sẽ không thể [lâu dài], vì nó có biến hóa.

Hiểu rõ chân tướng sự thật, hiểu tâm năng biến là thật, tướng sở biến là giả; giống như chúng ta nằm mơ: Cái tâm nằm mộng là thật, giấc mộng là giả. Mỗi đêm nằm mộng khác nhau, đủ thấy mộng là giả tướng; nhưng giả tướng do chân tâm biến hiện, là hình dạng của chân tâm. Tâm chúng ta biến đổi, phân biệt, chấp trước trong từng sát-na, tâm ấy bất định, nên mộng cảnh mỗi đêm khác nhau. Hãy nên biết: Nếu tâm định, sẽ nằm mơ giống hệt như nhau. Tâm quý vị bất định, cho nên tâm có hình dạng khác nhau. Tâm có hình dạng như thế nào? Trong khi nằm mơ sẽ thấy, mộng cảnh là hình dạng của tâm. Tâm quý vị như thế nào, cảnh trong mộng sẽ phơi bày rõ rệt, nhưng cái tâm ấy là vọng tâm, không phải là chân tâm.

Chân tâm có hình dạng ra sao? Hiện tại, hình dạng của y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới chính là hình dạng của chân tâm. Nếu quý vị có thể thấu hiểu hình dạng của chân tâm, trong hết thảy cảnh giới sẽ như như bất động, tự tại vô ngại, thật sự đắc Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát. Pháp Thân: Hoàn toàn liễu giải chân tướng sự thật thì gọi là Pháp Thân, tuyệt đối chẳng còn chấp trước thân này là ta. Thân ta là gì? Hết thảy vạn pháp là thân ta. Đúng như trong mộng, bỗng nhiên giác ngộ “ta nay đang nằm mơ”, những gì là ta? Toàn bộ mộng cảnh đều là ta, bản thân ta trong mộng cũng là ta, hết thảy nhân vật trong mộng cũng là ta, núi sông, đại địa cũng là ta, chẳng có một pháp nào không phải là ta, vì sao? Thảy đều do tâm ta biến hiện. Lìa tâm, chẳng có hết thảy các pháp! Người đại triệt đại ngộ Phật pháp sẽ biết hết thảy nhân vật, hết thảy vạn pháp, vũ trụ, trời đất là một mình ta, là cảnh giới được hiển hiện bởi chân tâm của chính ta. Giống như nằm mơ, hoàn toàn hiểu rõ, cho nên trong cảnh giới ấy sẽ như như bất động; đấy là chứng đắc Pháp Thân. Bát Nhã là trí huệ, triệt để liễu giải là trí huệ, đạt được giải thoát nơi ấy, giải thoát là đắc tự tại. Không có mừng, giận, buồn, vui, thứ gì cũng đều chẳng có, tâm địa thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần, đó là đắc đại tự tại. Trong Phật pháp gọi chúng là “tam đức mật tạng”.

“Bất nhất, bất dị”, vì tự tánh tùy duyên, cho nên chẳng phải là nhất. Tuy tùy duyên, nó chẳng thay đổi, cho nên “bất dị”, tức là chẳng khác, là một. Nơi hữu tình gọi là Phật Tánh, nơi vô tình gọi là Pháp Tánh. Thay đổi danh từ, Phật Tánh và Pháp Tánh là một, chẳng hai, nhưng hữu tình và vô tình có sai biệt, một đằng là động vật, một đằng là thực vật và khoáng vật. Diện mạo bên ngoài quả thật có sai biệt. Có sai biệt thì “bất nhất”, nhưng xét theo Tánh thì “bất dị”. Tâm năng biến là một, chẳng hai, hoặc là nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba vô sai biệt”. Chuyện này cũng rất rõ rệt, người giác ngộ và kẻ mê hoặc, điên đảo, tứ thánh và lục phàm chẳng một, nhưng nói theo phương diện bổn tánh, tức là nói theo Phật Tánh, tứ thánh và lục phàm bất dị, tánh của chúng ta và tánh của chư Phật là một tánh, nhất tánh, vô nhị tánh.

Liên Trì đại sư đã dùng đại đạo lý này để chỉ rõ văn tự Ấn Độ và văn tự Trung Quốc “bất nhất, bất dị”. Nhìn từ hình tướng bên ngoài, văn tự chẳng giống nhau. Văn tự Ấn Độ và văn tự Trung Quốc hoàn toàn khác nhau; nhưng xét theo phương diện biểu đạt ý nghĩa, bất dị! Dịch ra sẽ có cùng một ý nghĩa, cho nên bất dị. Từ âm thanh dùng phù hiệu để viết khác nhau, nhưng ý nghĩa giống nhau, bất nhất, bất dị. Dùng điều này để chỉ rõ: Chữ “dịch” trong “phiên dịch” cũng là lời đàm luận xứng tánh. Nếu mở rộng Lý này vào cuộc sống của chúng ta, áp dụng vào xử sự, đãi người, tiếp vật, hết thảy Sự Lý đều có thể dùng xứng tánh để giải thích. Nếu dùng xứng tánh để giải thích, sẽ đều là Nhất Chân pháp giới, đều là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.

Sau khi chúng ta học xong bộ Di Đà Kinh Sớ Sao này, sẽ có tác dụng rất lớn, nếu quý vị biết dùng, sẽ đại tự tại trong hiện tiền. Tuy chưa thể đích thân chứng đắc Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát, vẫn có một chút bóng dáng, chứng tương tự, có một chút ý vị tương tự. Từ Tương Tự tiến đến Phần Chứng; không có Tương Tự, lấy đâu ra Phần Chứng? Tương Tự được bồi dưỡng thành thói quen, sẽ bất tri bất giác đạt đến địa vị Phần Chứng, rất hữu ích đối với việc niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ của chúng ta, giúp chúng ta đạt nhất tâm bất loạn, giúp chúng ta tăng cao phẩm vị. Phần giới thiệu người phiên dịch đã xong. Lần sau, tôi sẽ bắt đầu từ đoạn kinh văn “như thị ngã văn”, hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

Tập 102

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm chín mươi hai.

 

Thập, biệt giải văn nghĩa.

十、別解文義。

(Mười, giải thích ý nghĩa của từng đoạn kinh văn riêng biệt).

 

Khoa mục lớn này là cả một đoạn lớn; đoạn lớn này là đoạn thứ mười, chín đoạn trước đều là Huyền Đàm, nói theo cách bây giờ là phần Khái Luận, còn ở đây là giảng giải kinh văn. Trong đoạn này, toàn bộ kinh văn được chia thành ba phần, tức là ba đoạn:

 

Sơ Tự Phần, nhị Chánh Tông Phần, tam Lưu Thông Phần.

初序分,二正宗分,三流通分。

(Thứ nhất, Tự Phần; thứ hai, Chánh Tông Phần; thứ ba, Lưu Thông Phần).

Ba phần này cũng cần phải giới thiệu đại lược cùng quý vị. Thể tài trong kinh Phật chẳng giống sách vở trong thế gian. Thế gian có những người viết sách, tự mình viết lời tựa, hoặc cậy người khác viết lời tựa. Lời tựa nhằm dụng ý giới thiệu cuốn sách ấy. Kinh Phật rất đặc biệt, bản thân cuốn kinh có lời Tựa, tức Tự Phần, chẳng cần nhờ người khác viết lời tựa! Kinh có Chánh Tông Phần, Chánh Tông là nói thẳng vào vấn đề, phần chủ yếu nhất nằm trong Chánh Tông Phần. Vì thế, kinh văn của phần này đặc biệt dài, những ý nghĩa chủ yếu đều được giảng rõ trong ấy. Cuối cùng, kinh có một phần được gọi là Lưu Thông Phần, trong các sách thông thường cũng không có phần này. Lưu Thông Phần mang ý nghĩa khuyên người ta sau khi đọc xong, phải giới thiệu kinh này cho người khác, đối với hiện tại phải lưu thông mười phương, chúng ta phổ biến, giới thiệu kinh điển cho đại chúng; đối với người mai sau, phải lưu truyền hậu thế. Phương pháp lưu truyền hậu thế trước kia là in kinh, chép kinh. Thời cổ chưa có [kỹ thuật] ấn loát, chỉ có chép tay; vì thế, chép kinh để truyền cho hậu thế. Đấy là chỗ đặc biệt trong kinh Phật.

Nhưng ba phần này đều rất trọng yếu, cổ nhân nói: “Như nhân thực mật, trung biên giai điềm” (Như người ăn mật, ở chính giữa hay chung quanh đều ngọt ngào). Mang ý nghĩa này, cân nhắc giữa ba phần có thể nói là chúng [quan trọng] như nhau. Tự Phần lại chia làm hai đoạn, đoạn thứ nhất là Chứng Tín Tự, đoạn thứ hai là Phát Khởi Tự. Chứng Tín Tự còn gọi là Thông Tự, trong hết thảy các kinh đều có Thông Tự; phàm là kinh Phật đều có, phần này gọi là Thông Tự, [Thông nghĩa là] chung cho hết thảy các kinh. Biệt Tự của mỗi bộ kinh khác nhau; phần này nhằm nêu rõ nhân duyên khiến đức Phật giảng bộ kinh này, do duyên cớ nào mà giảng bộ kinh này, nên được gọi là Biệt Tự. Chứng Tín Tự gồm sáu thứ chứng tín, còn gọi là Lục Chủng Thành Tựu.

 

Sơ Tự Phần, sơ ngũ cú chứng; nhị liệt chúng chứng.

初序分。初五句證。二列眾證。

(Thứ nhất, Tự Phần, trước hết là năm câu làm chứng, kế đó, liệt kê các vị thánh giả tham dự pháp hội để làm chứng).

 

Tổng cộng có sáu câu chứng tín, chúng ta đọc kinh văn.

 

(Kinh) Như thị ngã văn, nhất thời, Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên.

() 如是我聞。一時。佛在舍衛國。祇樹給孤獨園。

(Kinh: Tôi nghe như thế này, một thời, đức Phật ngự tại nước Xá Vệ, trong vườn của ông Cấp Cô Độc, cây của thái tử Kỳ Đà).

 

Trong một dòng kinh văn này, có năm thứ chứng tín. “Như thị” là Tín Thành Tựu; “ngã văn” là Văn Thành Tựu. Chúng tôi giảng đơn giản: [Nói] “như thị” là vì thuở ấy, đức Phật giảng kinh không ghi chép, sau khi đức Phật diệt độ, do tôn giả A Nan lặp lại một lượt những kinh đức Phật đã nói khi Ngài còn tại thế. Ngài A Nan có trí nhớ vô cùng mạnh, nghe một lần sẽ vĩnh viễn chẳng quên mất, nên [đại chúng] thỉnh Ngài nhắc lại, tức là lặp lại lần nữa những kinh do đức Phật đã giảng trước đây. Vừa nói vừa có người ghi chép, chỉnh lý, gọi [những biên bản ghi chép ấy] là kinh điển. Hai chữ “như thị” nhằm nói rõ những lời nhắc lại của ngài A Nan quả thật đã dựa trên những gì Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng thuở ấy, chẳng thêm, chẳng bớt, nên gọi là “như thị”. Lặp lại những lời đức Phật đã nói, giống hệt như lời Phật nói. Chẳng phải do chính ngài A Nan nói, mà hoàn toàn là nhắc lại lời Phật dạy. Đấy là Tín Thành Tựu. Giống như vậy, mỗi chữ, mỗi câu trong bộ kinh này đều do A Nan đích thân nghe đức Phật giảng, chẳng phải là nghe kể lại, nên cũng gọi là “như thị”. “Ngã văn” là nhận trách nhiệm đối với người đời sau, A Nan tôi đích thân nghe đức Phật dạy, nên gọi là Ngã Văn (tôi nghe), chẳng phải lần lượt được nghe kể lại, mà là đích thân tôi tự nghe đức Phật nói. Đấy là Văn Thành Tựu.

“Nhất thời” là Thời Thành Tựu. Lúc mới học Phật, đối với câu kinh này, tôi hết sức không cho là đúng; ngài A Nan có trí nhớ mạnh như vậy, lẽ nào quên mất ngày tháng? Phải nên là năm nào đó, tháng nào đó, ngày nào đó, nói rất tỉ mỉ. Cớ sao chẳng ghi chép như vậy, mà nói mơ hồ, mờ mịt là “nhất thời”? Điều này khiến người đời sau có đôi chút chẳng phục, có đúng là A Nan có trí nhớ tốt như thế hay không? Sau này mới hiểu được, cách nói ấy do đức Phật dạy Ngài.

Lúc đức Phật trụ thế, xã hội Ấn Độ và xã hội Trung Quốc không hoàn toàn giống nhau. Thuở ấy, Ấn Độ toàn là các bộ lạc, tiểu quốc, đại quốc sợ còn chưa to bằng Đài Bắc. Ở Trung Quốc, vào đời Châu, đại quốc rộng một trăm dặm. Một trăm dặm (lý) thuở ấy so với chúng ta hiện thời, lớn bằng khu Cảnh Mỹ. Đó là đại quốc. Do đơn vị đo lường đời Châu nhỏ hơn chúng ta hiện thời; thước đời Châu rất nhỏ, đem so với thước Đài Loan, sợ rằng chưa tới sáu tấc. Một dặm thuở ấy sợ chưa bằng nửa dặm hiện thời. Những quốc gia, tiểu bộ lạc thuở trước rất nhỏ, một thôn, một trấn là một nước. Vì quốc gia hoàn toàn chưa thống nhất, từ sách lịch sử, chúng ta thấy nhà Châu có tám trăm chư hầu[43], tức là tám trăm nước. Nhưng ở Trung Quốc, tuy Châu cũng là một nước, rất nhiều nước tôn trọng nhà Châu; vô hình trung nhà Châu là trung tâm lãnh đạo của hết thảy các quốc gia, giống như chánh phủ Liên Hiệp Quốc vậy. [Các chư hầu] hết sức tôn trọng thiên tử nhà Châu. Các tiểu quốc đối với thiên tử nhà Châu rốt cuộc là quan hệ gì? Có thể nói là quan hệ thật sự rất nhỏ nhoi, không đáng kể, chỉ là ba năm tiến cống một lần. “Tiến cống” là tặng một chút lễ vật, chẳng phải là tặng mỗi năm. Vì thuở ấy, giao thông chẳng thuận tiện, những nơi gần mỗi năm tiến cống một lần, những nơi xa xôi ba năm tiến cống một lần, có nghĩa vụ như thế: Biếu tặng một ít thổ sản, tặng một chút lễ vật. Đối với những tiểu quốc ấy, thiên tử nhà Châu có ràng buộc gì không? Không có! Chỉ là ban truyền nhật lịch, các nước đều dùng lịch pháp của nhà Châu, lịch pháp thống nhất, năm tháng ngày giờ đều thống nhất, có mối quan hệ như thế. Ngoài ra, hết thảy đều là độc lập, tự chủ.

Nhưng tại Ấn Độ, vẫn chưa có một trung tâm [quyền lực] được mọi người cùng tôn kính. Đã là không có, chúng ta có thể suy ra là mỗi quốc gia có lịch pháp riêng của nước ấy, lịch pháp khác nhau. Thuở ấy, đức Phật giảng kinh, thuyết pháp, dấu chân trọn khắp năm xứ Ấn Độ, mỗi quốc gia Ngài đều đến giảng, nhưng mỗi quốc gia có lịch pháp khác nhau. Nếu quý vị ghi chép năm nọ, tháng nọ, ngày nọ, rốt cuộc là [theo lịch pháp] của nước nào? Trên thực tế sẽ gặp khó khăn. Khổng lão phu tử chép kinh Xuân Thu, đấy là bộ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc, Ngài ghi chép năm, tháng, ngày [rõ rệt] vì xã hội đời Châu và xã hội Ấn Độ khác nhau, tuy là thời đại bộ lạc, nhưng lịch pháp đã thống nhất, năm, tháng, ngày, giờ thống nhất. Đây là theo hoàn cảnh thực tế [của Ấn Độ thuở ấy] nên gặp khó khăn trong ghi chép năm, tháng, ngày, giờ. Mặt khác, còn có ý nghĩa sâu xa hơn; sau này, trong phần chú giải, chúng ta sẽ thảo luận [cặn kẽ hơn].

Chữ “nhất thời” vô cùng hay khéo. Nói nông cạn một chút, khi thầy trò hợp đạo, thầy ưa thích giảng, trò ưa thích nghe, hết thảy mọi người đều rất hoan hỷ, khi ấy, chính là lúc nói ra kinh này. Nếu giảng sâu hơn, sẽ là “khi nhất tâm”, kinh này nói đến “nhất tâm bất loạn”, người nói lẫn kẻ nghe tâm đều thanh tịnh, đều là nhất niệm bất sanh. Nói thật ra, đấy mới là ý nghĩa thật sự của “nhất thời”. “Phật thuyết” là từ Chân Như bổn tánh lưu lộ âm thanh, người nghe dùng Chân Như bổn tánh để tiếp nhận. Vì thế, vừa nghe bèn khai ngộ, vừa nghe bèn minh tâm kiến tánh, chứng quả. Do đó, đây là ý nghĩa thật sự của “nhất thời”.

Khi tâm chúng ta thật sự đạt đến thanh tịnh, chuyên nhất, sẽ mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được! Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ kinh này vẫn chưa tan, quý vị còn có thể tự mình tham gia pháp hội này. Ở Trung Quốc, vào đời Tùy, Trí Giả đại sư đọc kinh Pháp Hoa tới phân nửa, nhập Định. Trong Định, Ngài tới núi Linh Thứu ở Ấn Độ; kinh Pháp Hoa được giảng tại núi Linh Thứu, thành Vương Xá, Thích Ca Mâu Ni Phật còn đang giảng kinh Pháp Hoa tại đó. Ngài nghe xong một buổi, xuất Định bảo mọi người: Pháp hội kinh Pháp Hoa của Thích Ca Mâu Ni Phật vẫn chưa tan. Đấy là đạo lý gì vậy? Đấy là sự thật. Khoa học hiện tại cũng thừa nhận, nhưng chưa làm được, đó gọi là “ngược dòng thời gian”! Trong Định có thể thấy quá khứ, có thể thấy được vị lai. Trong kinh này, Định ấy được gọi là “nhất tâm bất loạn”. Nếu quý vị thật sự đạt đến nhất tâm bất loạn, sẽ thấy rõ ràng quá khứ, vị lai, chẳng có gì không biết! Đấy là cảnh giới Hiện Lượng, khôi phục năng lực vốn sẵn có, biết quá khứ, hiện tại, tương lai. Chúng ta thường nói thông tục là “thần thông”, đấy là bản năng (năng lực vốn sẵn có). Vì thế, quý vị chẳng cần cầu thần thông, đạt đến nhất tâm bất loạn sẽ khôi phục năng lực ấy.

Do vậy, có thể biết: Dùng chữ “nhất thời” rất xảo diệu. Nếu nói năm, tháng, ngày, giờ [cụ thể] thì [thời điểm ấy] đã là quá khứ, quá khứ sẽ vĩnh viễn chẳng trở lại. Nói “nhất thời”, chúng ta còn có thể tự mình tham dự, chỉ cần khi nào chúng ta đạt đến nhất tâm bất loạn là sẽ có thể tham gia pháp hội này, có thể đích thân nghe Phật giảng kinh; Phật vẫn giảng kinh ở nơi ấy, vẫn tồn tại nơi ấy. Đúng như kinh Pháp Hoa đã nói: “Thị pháp trụ pháp vị” (pháp ấy trụ nơi pháp vị), [nghĩa là] hết thảy các pháp đều trụ đúng vị trí của chúng, “thế gian tướng thường trụ” (tướng thế gian thường trụ), tướng thế gian bất hoại. Nếu tướng thế gian bị hoại, quý vị sẽ vĩnh viễn chẳng tìm được quá khứ. Tất cả những hình tướng quá khứ đều tồn tại, tướng thế gian bất hoại, câu này hết sức khó hiểu; nhưng các khoa học gia hiện thời đã dần dần hiểu điều này. Nếu có thể đảo ngược thời gian, thứ gì trong quá khứ cũng đều có thể thấy được; khoa học cận đại thừa nhận sự thật này, có thể thấy quá khứ vẫn tồn tại. Do vậy, dùng chữ “nhất thời” quá xảo diệu. Cách này cao minh hơn ghi chép năm, tháng, ngày, giờ [cụ thể] rất nhiều!

“Phật” là Thuyết Pháp Chủ, nay chúng ta gọi Ngài là “vị chủ giảng”, tức là người giảng chánh yếu trong một đại hội giảng diễn, Phật ở đây là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Tiếp đó là địa điểm thuyết pháp, “tại Xá Vệ quốc”, Xá Vệ Quốc là tên cái thành ấy, “Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên” là đạo tràng.

“Như thị” là Tín Thành Tựu, “ngã văn” là Văn Thành tựu, “nhất thời” là Thời Thành Tựu, “Phật” là Chủ Thành Tựu, “Xá Vệ quốc, Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên” là Xứ Thành Tựu. Trong câu này đã bao gồm năm món thành tựu, giống như mở cuộc họp, cuộc họp sẽ có biên bản ghi rõ thời gian, địa điểm, nhằm chứng tỏ kinh này chẳng phải là ngụy tạo, quả thật do đức Phật đã nói vào lúc ấy. Chúng ta đọc lời Sớ.

 

(Sớ) Biệt giải văn nghĩa giả.

()  別解文義者。

(Sớ: Giải thích ý nghĩa riêng biệt của kinh văn).

 

Giải thích [ý nghĩa] tựa đề của khoa này.

 

(Sớ) Dĩ tri nhất đề tổng ý.

()  已知一題總意。

(Sớ: Đã biết ý nghĩa chung của tựa đề kinh này).

 

Trong phần trước đã giới thiệu tựa đề kinh và người phiên dịch.

 

(Sớ) Vị thẩm kinh trung, tự thỉ chí chung, vi hà đẳng văn, xiển hà đẳng nghĩa. Kim nãi chương phân cú giải, tỷ Văn Tự Bát Nhã đạt hồ Thật Tướng, dĩ hữu tận chi ngôn, lược chương vô tận cố.

() 未審經中,自始至終,為何等文,闡何等義。今乃章分句解,俾文字般若達乎實相,以有盡之言,略彰無盡故。

(Sớ: Chưa biết trong kinh từ đầu tới cuối, văn tự như thế nào, xiển dương những ý nghĩa như thế nào. Nay chia thành từng đoạn, giải thích từng câu, ngõ hầu do Văn Tự Bát Nhã sẽ thấu đạt Thật Tướng. Dùng lời lẽ hữu hạn để nêu bày đại lược sự vô tận vậy).

 

Đây là giải thích ý nghĩa của tựa đề khoa mục này. Phần Huyền Nghĩa là đại ý, đã giới thiệu các tựa đề khoa mục rồi, nhưng vẫn chưa biết văn tự trong bộ kinh ra sao, “vi hà đẳng văn” (văn tự như thế nào), vì trong văn chương kinh Phật có mười hai loại thể tài, không biết [văn tự trong kinh này] thuộc loại nào. Trong Phật pháp nói đến văn Trường Hàng, hiện thời gọi là Văn Xuôi; Kệ Tụng nay được gọi là thi ca, câu cú rất chỉnh tề, có gieo vần. Lại còn có Mật Chú; đấy là ba loại văn tự khác nhau, có hình thức văn tự hoàn toàn không giống nhau. Trong Văn Xuôi, lại còn có nhiều thứ thể tài, trong Kệ Tụng lại có Trùng Tụng và Cô Khởi Tụng sai khác. Chưa biết văn tự trong bộ kinh này thuộc loại thể tài nào, nghĩa lý là như thế nào, đều phải dùng Khoa Phán để phân tích, đấy chính là “chương phân cú giải”.

Người đời sau chia sách của cổ nhân thành chương cú (phân đoạn thành từng chương, từng câu). Hiện thời, mọi người đọc Tứ Thư, quá nửa tuân theo cách phán định chương cú của Châu Hy. Nói đơn giản, “chương cú” là chia thành từng đoạn, tức các đoạn lớn, đoạn vừa, đoạn ngắn, nhìn vào sẽ hiểu rõ ràng minh bạch. [Cách phân định] chương cú xuất phát từ khoa phán trong kinh Phật. Vì thế, biết rằng: Kinh Phật có ảnh hưởng rất lớn đối với văn học Trung Quốc. Nho gia dùng phương pháp khoa phán trong kinh Phật để phân tích Tứ Thư, Ngũ Kinh, mười ba kinh.

Khoa phán trong kinh Phật phân tích vô cùng tinh vi, chặt chẽ, người hiện đại nói cách [phân tích ấy] là khoa học, có thứ lớp, có hệ thống, chẳng rối loạn tí nào. Dẫu là một bộ kinh lớn, quý vị xem Biểu Giải kinh Hoa Nghiêm; đấy chính là khoa phán, từ đầu đến đuôi, một bộ kinh lớn dường ấy mà một câu là một ý nghĩa, hai câu là một ý nghĩa khác, Ngài (Thanh Lương đại sư) đã phán định rõ ràng, rành mạch. Bề ngoài là phân tích kết cấu văn chương, nhưng cũng đồng thời trình bày những nghĩa lý [hàm tàng] trong văn chương; do vậy, khoa phán chính là chú giải kinh. Hiểu khoa phán, nhất định sẽ hiểu rõ kinh. Vì thế, học giảng kinh, trước hết phải học khoa phán. Trước hết, đem bộ kinh này từ đầu đến đuôi chia ra thành ba phần: Tự Phần, Chánh Tông Phần, Lưu Thông Phần. Trong Tự Phần lại có ba phần, tức là trong Tự Phần lại có Tự, có Chánh Tông, có Lưu Thông, dùng phương pháp này để chia ra dần dần. Càng chia ra càng tinh tế, quý vị sẽ thấy kinh văn rõ ràng, rành mạch. Trong kinh Phật, như trong bản in cuốn kinh này, những chỗ phía trước có hình tròn, những chữ ghi sau hình tròn đều là khoa phán[44]; trong kinh Phật, [cách khoa phán như vậy] gọi là Bán Khoa. Bán Khoa là gì? Là [khoa phán] được ghi kèm vào phía trước mỗi đoạn kinh văn. Toàn Khoa là gì? Vẽ cả bản kinh thành biểu giải, đặt đầu cuốn kinh, đó là Toàn Khoa. Có kinh có, có kinh không, như phần Khoa Văn Biểu Giải trong kinh Hoa Nghiêm Kinh do chúng tôi đã in chính là Toàn Khoa.

Phân tích như vậy để từ Văn Tự Bát Nhã đạt tới Thật Tướng Bát Nhã. Nói đơn giản, Văn Tự Bát Nhã có ba ý nghĩa:

– Thứ nhất, “văn tự từ Bát Nhã lưu xuất”. Bản thân văn tự chẳng phải là Bát Nhã, nó là phù hiệu, nhưng loại phù hiệu ấy được sáng tạo bởi trí huệ Bát Nhã. Đặc biệt là văn tự Trung Quốc được sáng tạo bởi trí huệ. Văn tự Trung Quốc có sáu cách tạo chữ, gọi là Lục Thư[45]. Chữ tượng hình ngoại quốc cũng có; nhưng chữ Hội Ý thì văn tự ngoại quốc[46] không có. Hội Ý là thấy mặt chữ liền thấu hiểu ý nghĩa trong ấy, có trí huệ rất sâu trong đó. Chẳng hạn như chữ Gia (家), quý vị nhìn chữ Gia viết theo kiểu chữ Triện sẽ thấy được ý vị trong đó, sẽ hiểu ý nghĩa rất sâu trong chữ ấy. Chẳng thể nào không cần đến Gia, nhưng chớ nên mê, quý vị phải giác ngộ! Trong cách viết chữ Gia (家), phía trên vẽ “một hình” [tượng trưng] cho cái nhà, nay chúng ta viết [thành bộ Miên (宀)] giống như nét chữ che trên đầu chữ Bảo (寶), nếu nhìn chữ Gia được viết theo lối chữ Triện, quý vị sẽ thấy đó là nhà ở. Ở trong nhà là gì? Vừa nhìn liền biết ngay, [chữ Thỉ (豕) dưới bộ Miên (宀)] là một con lợn nhỏ, lợn là ngu si! Bảo quý vị phải thấy điều này, phải giác ngộ, đừng bị mê hoặc bởi nó! Vì thế, văn tự Trung Quốc quả thật từ trí huệ lưu lộ. Quý vị thấy chữ ấy, sẽ khai trí huệ, phải mở mang trí huệ chân chánh.

Có một năm nọ, cư sĩ Tiêu Quốc Bảo viết thư cho tôi kể anh ta quen biết một người bạn gái, muốn kết hôn, hỏi tôi có nên hay không? Tôi gởi cho anh ta một tấm bưu thiếp, viết một chữ Hôn (婚), bảo anh ta hãy xem kỹ. Anh ta cũng hiểu được ý nghĩa ấy, gởi thư trả lời: “Con chẳng kết hôn”. Quý vị thấy chữ Hôn ấy, trông thấy người nữ (女), đầu óc liền hôn mê (hôn (昏): hôn mê, mê muội, thiếu sáng suốt). Nếu anh ta chẳng mê muội, sẽ chẳng kết hôn; nếu mê muội bèn kết hôn. Theo cổ lễ Trung Quốc, hôn lễ cử hành sau hoàng hôn, tuyệt đối chẳng cử hành lúc ban ngày ban mặt. Quý vị đọc Lễ Ký sẽ biết nếp sống của người Hoa trong quá khứ vô cùng ý vị, quả thật đã phối hợp cùng thiên nhiên. Do vậy, cuộc sống của người Trung Quốc [thời cổ] quả thật hết sức tình tứ.

Anh ta (cư sĩ Tiêu Quốc Bảo) làm theo cách như vậy có đúng hay không? Vẫn chẳng đúng, vẫn sai! Phật pháp nói Trung Đạo, chớ nên rớt vào hai bên! Quý vị mê hoặc, điên đảo, “hôn” là rơi vào bên này. Nếu quý vị chẳng kết hôn, sẽ ngã vào bên kia. Điều này dạy quý vị điều gì? Khi quý vị kết hôn, chớ nên mê muội, đấy mới là đúng, lúc ấy mới là Trung Đạo! Do vậy, anh ta vẫn hiểu lầm ý nghĩa, cho đến hiện tại vẫn chẳng kết hôn. Văn tự Trung Quốc đúng là có trí huệ rất sâu, chẳng hạn như quý vị “thành gia” (lập gia đình), lập gia đình nhưng đừng mê trong cái nhà ấy, mang ý nghĩa đó. Nhắc nhở quý vị, chứ chẳng phải là bảo quý vị đừng lập gia đình, đừng kết hôn, mà là bảo quý vị chớ mê! Chẳng mê ở trong ấy, đấy mới là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa được nói trong Phật pháp.

– Thứ hai, “văn tự có thể sanh ra Bát Nhã”, từ văn tự có thể sanh ra trí huệ. Như tôi vừa mới nói, khi quý vị thấy văn tự ấy, có thể sanh khởi trí huệ, văn tự được sáng tạo từ trí huệ. Do vậy, văn tự cũng có thể sanh ra trí huệ. Đức Phật vì chúng ta mà nói các thứ văn tự, kinh điển, chúng ta gọi những thứ ấy là Văn Tự Bát Nhã. Văn tự có thể sanh ra Bát Nhã. Vì vậy, chúng ta nương theo kinh điển nhà Phật, vâng theo lời Phật dạy, có thể khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật.

– Thứ ba, “văn tự chính là Bát Nhã”. Văn tự là phù hiệu, phù hiệu ấy chính là Không, chính là Giả, chính là Trung, bản thân nó chẳng phải là Bát Nhã thì là gì? Nhìn từ hình tướng của văn tự, nó là giả tướng. Nhìn từ bản thể, nó là Không, chẳng có tự tánh, vô tự tánh. Nó do nhân duyên hòa hợp mà hiện ra tướng, bản thân nó chẳng có tự tánh, bản thể của nó chính là Không. Nhưng nó có thể truyền lại trí huệ, lý luận, kinh nghiệm, và phương pháp của những bậc đã giác ngộ. Từ văn tự, người đời sau chúng ta có thể hoàn toàn tiếp nhận [những điều ấy]. Do vậy, có thể nói văn tự là Bát Nhã. Bởi đó, từ Văn Tự Bát Nhã đạt đến Thật Tướng Bát Nhã. Tình hình này tạo thuận tiện rất lớn, thuận tiện gì vậy? Tức là ngôn ngữ, văn tự đơn giản, hữu hạn, mà lại có thể hiển thị, khiến cho chúng ta thấu hiểu, giác ngộ nghĩa lý chẳng có cùng tận. Văn tự hữu hạn, nhưng nghĩa lý trong ấy chẳng có cùng tận.

 

(Sớ) Ư trung phân tam.

()  於中分三。

(Sớ: Trong ấy, chia ra làm ba).

 

Trong đoạn này, bộ kinh [Di Đà] này được chia thành ba phần.

 

(Sớ) Kim thuộc Tự Phần.

()  今屬序分。

(Sớ: Nay [đoạn đang được thảo luận ở đây] thuộc về Tự Phần).

 

Đoạn chúng ta đang đọc này thuộc vào Tự Phần.

 

(Sớ) Tự giả tự dã.

()  序者敘也。

(Sớ: Tự là trần thuật).

 

Là trình bày, tường thuật.

 

(Sớ) Hựu tự dã.

()  又緒也。

(Sớ: Còn có nghĩa là đầu mối).

 

Là đầu mối.

 

(Sớ) Vị nhập chánh văn, tiên tự liệt thử kinh chi đoan tự dã.

()  未入正文,先敘列此經之端緒也。

(Sớ: Chưa bước vào phần chánh văn, trước hết, nêu bày đầu mối của kinh này).

 

Trước hết, trình bày nhân duyên giảng kinh.

 

(Sớ) Hữu Chứng Tín, Phát Khởi nhị tự.

()  有證信發起二序。

(Sớ: Có hai loại tự phần là Chánh Tín và Phát Khởi).

 

Tự Phần có hai đoạn: Đoạn thứ nhất là Chứng Tín Tự, đoạn thứ hai là Phát Khởi Tự. Chứng Tín Tự là Lục Chủng Thành Tựu. Phát Khởi Tự ở sau [Chứng Tín Tự, trình bày] nhân duyên của bộ kinh và pháp hội lần này. Nhân duyên pháp hội [lần này] nhất định chẳng giống những pháp hội khác; vì thế, còn gọi là Biệt Tự.

(Sớ) Kim duy chứng tín, phàm chứng tín giả, giai dĩ lục chủng thành tựu. Kim thuận văn tiện, quân kỳ phồn giản, thả phân vi nhị, tiên minh ngũ cú, hậu minh liệt chúng, hợp chi thành lục.

() 今唯證信,凡證信者,皆以六種成就。今順文便,均其繁簡,且分為二,先明五句,後明列眾,合之成六。

(Sớ: Nay riêng đối với phần Chứng Tín. Phàm là Chứng Tín, đều dùng sáu món thành tựu [để chứng minh tính chân thật của một bộ kinh]. Nay thuận theo lời văn cho tiện, cân nhắc mức độ phức tạp hay đơn giản, bèn chia thành hai phần, trước hết là giảng năm câu [thuộc năm điều Thành Tựu đầu tiên], sau là nêu rõ thính chúng [tham dự pháp hội], hợp thành sáu [thứ Thành Tựu]).

 

Liên Trì đại sư gộp chung năm món thành tựu đầu lại để giảng, hợp thành một đoạn. Phần liệt kê thính chúng, vì có nhiều người, nên Ngài chia thành một đoạn khác. Trước hết, nói về năm câu này, sau đó sẽ giảng về đại chúng.

 

(Sớ) Tư phục lệ, tiền thống quát đại ý, thứ nãi ly thích.

()  茲復例前統括大意,次乃離釋。

(Sớ: Ở đây, lại theo thông lệ, trước hết nêu tổng quát đại ý rồi kế đó mới tách ra từng điều để giải thích).

 

Trước hết là nói chung, sau đấy mới giới thiệu từng điều.

 

(Sớ) Ngôn như thị chi pháp.

()  言如是之法。

 (Sớ: Nói “pháp như thế”).

 

“Như thị chi pháp” là chỉ bộ kinh này.

 

(Sớ) Ngã tùng Phật văn.

()  我從佛聞。

(Sớ: [Nhằm biểu thị pháp này] ta nghe từ đức Phật nói).

 

“Ta” là tôn giả A Nan tự xưng. Kinh do tôn giả A Nan kết tập, do Ngài giảng lại, nhắc lại.

(Sớ) Bỉ nhất thời Thích Ca Mâu Ni Phật, tại Xá Vệ quốc chi Kỳ Viên dã, cái thị Phật thị A Nan cố.

() 彼一時釋迦牟尼佛,在舍衛國之祇園也,蓋是佛示阿難故。

(Sớ: Vì trong một thời nọ, Thích Ca Mâu Ni Phật ngự tại Kỳ Viên thuộc nước Xá Vệ, dạy cho A Nan [pháp ấy]).

 

Phía trước hết thảy kinh có ghi thêm mấy lời dẫn nhập này, chép thêm mấy câu này là vì đức Phật đã bảo ngài A Nan [làm như thế]. Lúc đức Phật sắp diệt độ, A Nan quá đau xót, vì A Nan chỉ chứng Sơ Quả, chưa đoạn Kiến Tư phiền não, Ngài đã đoạn Kiến Hoặc, nhưng chưa đoạn Tư Hoặc (tham, sân, si, mạn, nghi). Vì thế, đức Phật diệt độ, Ngài rất đau khổ, vẫn ứa nước mắt. Lúc ấy, ngài A Nậu Lâu Đà bảo Ngài: “Đức Phật sắp diệt độ, có những vấn đề rất trọng yếu ông cần phải thỉnh giáo, há có nên khóc lóc?” Ngài được cảnh tỉnh, bèn đáp: “Vấn đề gì vậy? Nay tâm tôi đang loạn, tôi nghĩ cũng chẳng ra phải nên hỏi những gì? Những gì chẳng cần hỏi?” Ngài A Nậu Lâu Đà dạy ngài A Nan hỏi bốn câu. Bốn câu hỏi ấy vô cùng trọng yếu, liên quan đến Tăng đoàn.

Thứ nhất là lúc Phật tại thế, mọi người chúng con ở cùng chỗ với đức Phật, đức Phật lãnh đạo chúng con. Đức Phật chẳng trụ thế, chúng con nương tựa vào ai để làm thầy? Chúng con trụ nơi đâu? Hai câu hỏi ấy. Trong tương lai, chúng con kết tập những kinh điển do đức Phật đã giảng, đầu kinh có cần phải thêm những câu chữ nào hay không? Vì phía trước kinh điển của ngoại đạo Ấn Độ đều có lời dẫn nhập, chúng ta cần thêm hay không? Nên thêm theo cách nào? Câu hỏi thứ tư là đức Phật tại thế, đương nhiên đồ đệ rất nhiều, trong các môn đệ cũng có những kẻ quậy phá, càn quấy, đức Phật có thể chế phục họ. Đức Phật nhập diệt, chúng con đều là bạn học, họ nhiễu loạn Tăng đoàn, nên làm như thế nào? Nêu lên bốn câu hỏi ấy.

Đức Phật trả lời, câu thứ nhất là “dĩ giới vi sư” (lấy giới làm thầy). Phật chẳng tại thế, nhưng giới luật do đức Phật chế định vẫn còn, nương theo giới luật để tu hành sẽ chẳng khác gì thầy vẫn còn. “Y Tứ Niệm Xứ trụ” (nương vào Tứ Niệm Xứ để trụ), ta trụ vào đâu? Nương vào Tứ Niệm Xứ. Tứ Niệm Xứ là quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Tâm chúng ta an trụ nơi Tứ Niệm Xứ, chẳng khác gì Phật vẫn trụ thế. Trong tương lai, kết tập kinh điển, trước hết thảy các kinh phải thêm: “Tôi nghe như thế này, một thời Phật ngự tại nơi nào đó, cùng với những người nào đó”, đấy là lời giới thiệu. Vì thế, hết thảy các kinh trong hiện thời đều có câu này. Thứ tư, đối phó những ác tỳ-kheo đầu bò đầu bướu như thế nào? Đức Phật dạy hãy Mặc Tẫn; Mặc Tẫn (Brahma-danda) là không quan tâm tới bọn họ, để mặc họ. “Phật thị A Nan”, [nghĩa là] đức Phật chỉ dạy A Nan như thế.

 

(Sớ) Như thị ngã văn hữu tam nghĩa: Nhất, đoạn nghi cố; nhị, tức tránh cố; tam, giản tà cố.

() 如是我聞有三義:一斷疑故,二息諍故,三揀邪故。

(Sớ: “Như thị ngã văn” có ba ý nghĩa: Một là để đoạn nghi; hai là nhằm dứt mọi tranh cãi;  ba là để phân biệt kinh này chẳng phải do kẻ

tà vạy bịa đặt).

 

Thuở ấy, khi tôn giả A Nan kết tập kinh điển, vừa lên tòa, được Tam Bảo gia trì, tướng mạo A Nan biến đổi, trở nên giống như Phật, cho nên thính chúng ở dưới đều hoài nghi. Có kẻ hoài nghi: Có phải là Thích Ca Mâu Ni Phật trở lại hay không? Thích Ca Mâu Ni Phật đã diệt độ, đương nhiên sẽ không trở lại. Có phải là Phật từ phương khác đến hay chăng? Cũng có người hoài nghi A Nan đã thành Phật. Vì vậy, ngài A Nan vừa xướng “như thị ngã văn”, mọi người chẳng còn nghi hoặc. Đó là ý nghĩa thứ nhất, tức là “đoạn nghi cố” (nhằm đoạn nghi).

Thứ hai là “tức tránh luận” (dứt tranh cãi), nếu bảo là do A Nan nói, mọi người chẳng phục. Ngài A Nan nói: “Những lời này chẳng phải do tôi nói, mà đều do đức Phật nói”, mọi người chẳng dị nghị, chẳng tranh cãi.

Thứ ba là “giản tà”, “tà” là ngoại đạo Ấn Độ. Kinh sách của ngoại đạo Ấn Độ đều mở đầu bằng chữ A Ưu. A Ưu là hữu vô, nghĩa là “hoặc hữu, hoặc vô”, phỏng chừng, bất định. Kinh Phật chẳng dùng cách ấy, kinh Phật dùng “như thị ngã văn, nhất thời”, dùng cách mở đầu như vậy. Đây là chỗ nhằm phân biệt sự sai khác [giữa kinh Phật] với hết thảy các kinh sách tôn giáo của Ấn Độ. Vừa mở ra đã thấy hình thức khác hẳn.

 

(Sao) Văn Tự Bát Nhã, vị Bát Nhã vô ngôn, lại ngôn nhi hiển. Cố Phật dĩ văn tự thuyết kinh, kim hoàn dĩ văn tự giải thích.

()文字般若,謂般若無言,賴言而顯。故佛以文字

說經,今還以文字解釋。

(Sao: Văn Tự Bát Nhã ý nói: Bát Nhã vô ngôn, nhưng dựa vào ngôn ngữ để hiển lộ. Vì thế, đức Phật dùng văn tự để nói kinh, nay lại dùng văn tự để giải thích).

 

Cổ nhân bảo: “Đạo bổn vô ngôn, nhân ngôn hiển đạo” (Đạo vốn chẳng có ngôn ngữ, do ngôn ngữ mà hiển lộ Đạo). Thánh nhân Trung Quốc cũng nói: “Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh” (Đạo mà có thể nói ra được thì chẳng phải là đạo thường hằng, cái tên mà có thể gọi ra được thì chẳng phải là cái tên thường hằng). Quan điểm này tương xứng với kiến giải của đức Phật; nói cách khác, đều hiểu rõ Thật Tướng, chân tướng của vạn pháp trong vũ trụ vốn chẳng nói được. Kinh Đại Bát Nhã tuy là bộ kinh Phật lớn nhất, có tới sáu trăm quyển, nhưng cốt lõi của bộ kinh rất đơn giản: “Bất sanh, bất diệt”, “Bát Nhã vô tri”. Bát Nhã vốn vô tri, vô tri là Thể của Bát Nhã, khi ứng dụng sẽ là “không gì chẳng biết”. Thể của Bát Nhã là gì? Nói thật ra là tâm thanh tịnh. Quý vị muốn cầu Bát Nhã, cầu ở nơi đâu? Không phải là niệm kinh Bát Nhã hay niệm kinh Kim Cang sẽ có Bát Nhã, chẳng có đạo lý ấy! Niệm kinh Đại Bát Nhã, quý vị có Bát Nhã hay không? Càng niệm càng mê muội, mơ hồ, càng niệm càng hồ đồ. Bát Nhã nhất định phải cầu từ trong Định, Thiền gia nói “Thiền Định rất sâu”. Người ấy đắc Thiền Định thật sâu, nên trí huệ mở mang. Đấy là “vốn chẳng có một vật” như Lục Tổ đã nói. Nó chính là Bát Nhã, là Thể của Bát Nhã. Trong Tịnh Độ gọi nó là “nhất tâm bất loạn”. Nhất tâm bất loạn có Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Ở đây nói tới Lý nhất tâm, chứ Sự nhất tâm vẫn chưa được! Sự nhất tâm là Định, nó có thể chế phục phiền não, nhưng chẳng thể chuyển phiền não thành Bồ Đề. Quý vị phải hiểu: Phiền não và trí huệ Bát Nhã là cùng một chuyện, là một, chẳng hai. Định có thể chế phục phiền não, nhưng chẳng thể chuyển phiền não, chẳng thể chuyển biến! Tới khi khai trí huệ thì mới được, sẽ chuyển phiền não thành Bồ Đề, chuyển sanh tử thành Niết Bàn, chúng là một, chẳng phải hai!

Quý vị phải hiểu: Nói “đoạn phiền não” thì “đoạn” ấy chẳng phải là thật sự đoạn. Nếu thật sự đoạn phiền não thì Bát Nhã cũng đoạn luôn, vẫn chưa được! Nói “đoạn” thật ra là “chuyển”, phiền não chẳng còn, phiền não đều biến thành trí huệ. Lúc mê, chuyển Bát Nhã thành phiền não; đó là phàm phu, mê rồi! Bậc giác ngộ chuyển hết phiền não tập khí của quý vị thành đại trí huệ. Kinh thường dạy: “Phiền não tức Bồ Đề, sanh tử tức Niết Bàn”. Vì chúng là một Thể. Do vậy, đức Phật dạy chúng ta phải chuyển biến, quý vị phải biết chuyển biến. Do điều này, biết rằng: Phật pháp quả thật sống động, hoạt bát, chẳng phải là chết cứng. Căn tánh người Tiểu Thừa quả thật kém cỏi, chết cứng nơi chữ nghĩa, chết cứng trong giáo pháp, chẳng chuyển được! Tối đa là họ có thể chế phục, chế phục đến mức cao nhất cũng bất quá chứng A La Hán mà thôi. A La Hán thiếu trí huệ, Tam Đức Bí Tạng là Bát Nhã, Pháp Thân, Giải Thoát; A La Hán chưa chứng đắc Pháp Thân, cũng chẳng có Bát Nhã. A La Hán chỉ có một chút giải thoát nhỏ nhoi, sự giải thoát ấy do Định mà đạt được, chẳng đắc đại giải thoát. Đại giải thoát nhất định phải do trí huệ Bát Nhã chuyển phiền não thành Bồ Đề thì mới được. Do vậy, biết trí huệ ấy vô cùng trọng yếu.

Trí huệ là mục tiêu truy cầu tối  hậu  trong  Phật  pháp, mà cũng là mục tiêu chân chánh. Phương pháp cầu trí huệ tuyệt đối là Thiền Định, chẳng có cách nào thay đổi điều này! Chẳng do Định sẽ chẳng đạt được trí huệ; nhưng tuyệt đối chẳng thể nói Thiền Tông mới tu Thiền Định, các tông khác chẳng tu, [nếu hiểu như vậy] thì đã sai bét rồi! Cố nhiên Thiền Tông tu Thiền Định, nhưng tất cả hết thảy các tông phái khác, tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều tu Thiền Định! Có thể không gọi là Thiền Định, nhưng xét theo ý nghĩa thì là Thiền Định, giống như Tịnh Độ chúng ta đề xướng “nhất tâm bất loạn”, nhất tâm bất loạn là Thiền Định! Giáo Hạ, như tông Thiên Thai tu Chỉ Quán, Chỉ Quán là Thiền Định. Thiền Định (Dhyāna-samādhi) là từ Phạn văn của Ấn Độ dịch ra, Thiền là Tĩnh Lự. Tĩnh (靜) là “tĩnh chỉ” (lặng lẽ, dứt bặt), ngưng dứt tất cả hết thảy vọng tưởng, đó là Chỉ. Quán là trong Định có cảnh giới, quý vị phải hiểu rõ ràng. Tĩnh Lự chính là Chỉ Quán do người Hoa phát minh ra. Vì thế, Chỉ Quán là Thiền. Do điều này, biết: Không có một tông phái, không một pháp môn nào chẳng tu Thiền Định, chẳng qua phương pháp khác nhau, cách thực hiện khác biệt, nhưng thảy đều cùng tu Định. Phương pháp của Tịnh Độ Tông là dùng một câu Phật hiệu A Di Đà Phật để tu Thiền Định, phù hợp ý nghĩa Thiền Định, mà cũng phù hợp với Chỉ Quán. Niệm một câu Phật hiệu này nhằm ngưng dứt hết thảy những vọng niệm khác, đó là Chỉ. Quý vị niệm một câu Phật hiệu này rõ ràng, rành rẽ, đó là Quán.

Thiền gia tham thoại đầu, tham thoại đầu là Quán, dứt vọng niệm là Chỉ. Họ niệm niệm phải cảnh tỉnh bằng câu thoại đầu ấy. Người niệm Phật chúng ta niệm niệm cảnh tỉnh bằng câu Phật hiệu này; người tham Thiền dùng thoại đầu để cảnh tỉnh, nhưng nếu kẻ ấy chưa đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, sẽ chẳng có cách nào, không thể thụ dụng, con đường ấy rất khó khăn! Còn chúng ta do một câu Phật hiệu này, dẫu chưa thể đắc Thiền Định rất sâu, chỉ cần niệm tới mức tương ứng là có thể vãng sanh, đấy là pháp môn Nhị Lực. Người niệm Phật dễ thành tựu, thành tựu bèn vãng sanh. Thiền chẳng dễ gì thành tựu, vô cùng khó khăn! Giáo Hạ tu Chỉ Quán, cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng. Vì vậy, tông Thiên Thai từ sau Trí Giả đại sư trở đi, rất nhiều vị tổ sư tông Thiên Thai chẳng tu Chỉ Quán mà đều niệm Phật. Chỉ Quán do Trí Giả đại sư phát minh. Ma Ha Chỉ Quán và Tiểu Chỉ Quán đều do Ngài phát minh, nhưng chính Ngài chẳng tu, bản thân Ngài niệm Phật, cuối cùng vẫn là niệm Phật vãng sanh. Quý vị mới biết pháp môn Niệm Phật thù thắng, pháp môn Niệm Phật đáng tin cậy, Chỉ Quán chẳng đáng tin cậy bằng Niệm Phật. Nếu muốn khai trí huệ, nhất định phải tu tâm thanh tịnh, mà cũng là nói “phải tu nhất tâm”, quý vị mới biết điều này thật sự trọng yếu! Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ Bát Nhã, tâm chúng ta không thanh tịnh, cho nên chẳng có cách nào. Dẫu quý vị thông minh cách mấy, có trí huệ cách mấy, đều là Thế Trí Biện Thông, chẳng phải là trí huệ Bát Nhã.

“Bát Nhã vô ngôn, lại ngôn nhi hiển” (Bát Nhã không có ngôn ngữ, dựa vào ngôn ngữ để hiển lộ). Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, tôn giả A Nan đã kết tập, lưu lại những kinh điển này. Thậm chí, những kinh điển ấy lại được các vị cổ đức Trung Quốc dịch sang tiếng Hán, văn tự Trung Quốc cũng thuộc Bát Nhã, có thể hiển lộ những đạo lý do đức Phật đã nói. “Cố Phật dĩ văn tự thuyết kinh, kim hoàn dĩ văn tự giải thích” (vì thế, đức Phật dùng văn tự để nói kinh; nay vẫn dùng văn tự để giải thích): Những bản chú giải của các tổ sư vẫn dùng văn tự để giải thích kinh điển nhà Phật, giúp chúng ta thâm nhập cảnh giới Phật.

 

(Sao) Nhiên văn tự tánh Không, tức thị Thật Tướng. Cố tam chủng Bát Nhã, tương vi dung thông, bất ngại văn tự dã.

()然文字性空,即是實相。故三種般若,相為融通,不礙文字也。

(Sao: Nhưng văn tự tánh Không, chính là Thật Tướng. Vì thế, ba thứ Bát Nhã dung thông lẫn nhau, chẳng trở ngại văn tự).

 

Giải thích ý nghĩa câu “Văn Tự Bát Nhã đạt hồ Thật Tướng” trong phần trước. “Văn tự tánh Không là Thật Tướng”, Thật Tướng là chân tướng của nó. Do vậy, biết: Văn tự cũng thuộc loại giải thoát tướng, giải thoát là gì? Nói theo cách bây giờ, [giải thoát] là tự do, tự tại, chẳng bị trói buộc tí nào, chẳng chướng ngại tí nào! Văn tự xác thực là như vậy. Văn tự cũng chẳng ở trong, cũng chẳng ở ngoài, mà cũng chẳng ở chặng giữa, giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật gạn hỏi tôn giả A Nan về cái tâm đến bảy chỗ. Trên mặt Sự tuy có, về Lý xác thực chẳng có. Đấy là văn tự tánh Không, tương ứng với Thật Tướng. Hiểu rõ Thật Tướng, chân tướng sự thật, đối với văn tự, cũng có thể nói là đối với kinh điển, chúng ta phải dùng thái độ gì để quan sát? Bất ly, bất tức (chẳng rời lìa, chẳng chấp trước), thái độ ấy là đúng. “Bất ly” là chẳng rời khỏi kinh điển, đọc tụng mỗi ngày. “Bất tức” là ta chẳng chấp trước nó, đó là quý vị thật sự nhận biết nó. Quý vị rời lìa văn tự, nói văn tự tánh Không, ta chẳng cần đến nó, vậy là quý vị chấp Không. Quý vị chấp trước nó, không buông xuống được, bèn là chấp trước Có. Điều đáng quý trong Đại Thừa Phật pháp là hai bên Có và Không đều chẳng chấp trước: Chẳng rời khỏi kinh điển, mỗi ngày đọc kinh điển, chẳng rơi vào Không; nhưng chẳng chấp trước kinh điển, ta chẳng chấp Có. Hai bên đều chẳng chấp trước. Có như vậy, quý vị mới có thể thấu hiểu nghĩa thú trong kinh điển. Nhất quyết đừng chết cứng nơi kinh văn, quý vị đồng tu phải hiểu rõ chuyện này! Phải biết ngôn ngữ, văn tự do đức Phật đã nói nhằm khơi gợi bổn tánh của chúng ta, nếu quý vị chấp trước, sẽ biến thành chướng ngại.

Phải như thế nào mới khai hiển bổn tánh? Một pháp chẳng lập mới khai hiển, lúc đạt tới “chẳng có một vật nào”, bổn tánh sẽ khai hiển. Nói cách khác, tất cả hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, vướng mắc trong tâm quý vị thảy đều buông xuống, bổn tánh của quý vị sẽ khai hiển. Hễ có một chuyện vướng mắc là không được, bổn tánh liền bị nhiễm dơ, bị chướng ngại. Nếu nói tới Phật pháp, thì nói thật ra, nó đơn giản như vậy đó. Hiện thời, chúng ta chẳng thể kiến tánh là do trong lòng vướng mắc quá nhiều chuyện, đã nghe Phật pháp nói ta phải buông bỏ, nhưng có buông xuống được hay chăng? Bỏ không nổi! Bỏ không nổi sẽ chẳng thể kiến tánh! Chân tánh đã bị những thứ ấy trói buộc. Nếu quý vị thật sự có thể hạ quyết tâm, hết thảy đều gạt bỏ, đều bỏ sạch, sẽ kiến tánh, sẽ minh tâm kiến tánh.

Lại nữa, đối với chuyện “bỏ” thì tôi lại phải nhắc quý vị, chẳng phải là bỏ trên mặt Sự! Bỏ sạch trên mặt Sự, vẫn chẳng thể kiến tánh. Nếu bỏ hết trên mặt Sự sẽ kiến tánh, người đã chết chẳng có gì không bỏ, thứ gì cũng chẳng mang theo, thân thể cũng chẳng mang theo, lẽ ra phải minh tâm kiến tánh! Sau khi kẻ ấy đã chết, cớ sao vẫn phải đầu thai luân hồi? Do vậy, quý vị phải hiểu: Chẳng phải là bỏ trên mặt Sự, mà là bỏ trong tâm. Vì sao đức Phật lại bảo chúng ta bỏ nơi Sự? Bỏ nơi Sự nhằm mong giúp cho quý vị bỏ trong tâm, mang ý nghĩa này! Trong tâm thật sự có thể bỏ sạch sành sanh, dẫu trên mặt Sự là có, chắc chắn chẳng trở ngại Sự. Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, làm sao có chướng ngại cho được? Vì vậy, thành Phật là tâm thành Phật, chẳng phải là thân thành Phật.

Phật dạy chúng ta trì giới luật, tức là phải bỏ những thứ bất thiện; bỏ sạch hết thảy các thứ bất thiện. Dạy kẻ sơ học dùng phương pháp ấy. Bởi vậy, chúng ta trì giới cũng chớ nên chấp chết cứng giới điều. Chết cứng trong giới điều, không chỉ chẳng thể khai trí huệ, mà cũng chẳng thể đắc Định. Vốn chẳng có một vật, lấy đâu ra giới? Nếu còn có một điều giới luật, tức là còn có một vật! Còn có “chẳng sát sanh” tức là trong bổn tánh của quý vị còn có “chẳng sát sanh”, còn có một vật, chẳng thể gọi là “chẳng có một vật nào”! Còn có “chẳng trộm cắp”, tức là quý vị có hai vật, chẳng phải là “không có một vật nào”! Vì thế, phải hiểu: Trong tâm thanh tịnh, thứ gì cũng đều không có, hoàn toàn do bổn tánh hiển lộ.

Nhưng từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta mê mất bổn tánh, nay đức Phật dạy chúng ta một phương pháp để từ từ khôi phục bổn tánh từng bước một. Khởi đầu bằng trì giới, từ trì giới sẽ đắc định, từ đắc định khai trí huệ, khai trí huệ sẽ hiển lộ Chân Như bổn tánh của chúng ta, dùng phương pháp và cách thức này. Những phương pháp và cách thức ấy là cần thiết trong quá trình tu hành, nhưng tiến lên một bước, nhất định phải bỏ bước dưới. Đắc Định sẽ không cần trì giới, vì sao? Định cộng giới. Một người đắc Định, có thể phạm giới hay chăng? Chẳng thể nào! Vì thế, gọi là Định cộng giới, cho nên chẳng cần phải trì giới từng điều một. Tới khi chứng quả, sẽ là đạo cộng giới, quyết định chẳng phạm giới.

Do vậy, có thể biết rất nhiều thứ do đức Phật đặt ra nhằm giúp đỡ chúng ta tu tâm, tu tâm là chánh yếu. Tâm đã thanh tịnh, lẽ đâu thân chẳng thanh tịnh? Thân nhất định thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh, cảnh giới bèn thanh tịnh, thế giới sẽ thanh tịnh. Chúng ta muốn biết thế giới ấy là tốt hay xấu, hãy nhìn từ đâu? Nhìn từ lòng người. Tâm con người bất hảo, thế giới ấy nhất định có tai nạn, tâm chẳng thanh tịnh mà! Vì sao thế giới Cực Lạc tốt đẹp? Chẳng cần nhìn vào điều nào khác, tâm người nơi ấy thanh tịnh, mỗi người đến Tây Phương Cực Lạc thế giới đều do tâm thanh tịnh mà vãng sanh, cho nên cảnh giới của họ tốt đẹp! Tâm chẳng thanh tịnh, sẽ không thể vãng sanh, tâm nhất định phải thanh tịnh thì mới có thể vãng sanh; chẳng giống thế giới này, tâm chẳng thanh tịnh, vấn đề này nghiêm trọng lắm.

“Tam chủng Bát Nhã, tương vi dung thông” (ba thứ Bát Nhã dung thông lẫn nhau). Ba thứ Bát Nhã là Văn Tự, Quán Chiếu, Thật Tướng. Nương theo văn tự, khởi quán chiếu, chứng Thật Tướng. “Y văn tự” là nương theo kinh điển, chúng ta đọc kinh phải dựa vào văn tự. Không có văn tự, chẳng có cách gì tiếp nhận giáo huấn của đức Phật, đức Phật dạy người đời sau hoàn toàn phải nhờ vào văn tự. Chúng ta đọc kinh, điều khẩn yếu là phải “khởi quán chiếu”, đấy là biết đọc, chẳng chết cứng nơi văn tự. Quán chiếu là gì? Nói nghiêm ngặt, Quán là đừng phân biệt, chấp trước; nói theo cách bây giờ, chỉ là nói tương tự, chỉ có thể nói tương tự, vẫn chưa phải là chân thật; [Quán] được gọi là trực giác, trực giác là không thông qua phân biệt, tư duy, tưởng tượng, mắt chúng ta thấy cảnh giới bên ngoài, tai nghe âm thanh thì gọi là Quán. Chiếu nghĩa là hiểu rõ, chiếu kiến có nghĩa là hiểu rõ. Mắt chúng ta vừa thấy [cảnh giới] bên ngoài sẽ hiểu rõ ràng, đấy là Quán Chiếu. Giống như chúng ta mở cuốn kinh ra, thấy chữ rõ ràng, rành rẽ, ý nghĩa cũng hiểu rất rõ rệt; đấy là Quán Chiếu. Nếu chúng ta mở kinh điển ra, đối với mỗi câu bèn suy nghĩ ý nghĩa trong ấy, trật rồi! Vì sao? Quý vị vừa nghĩ, ý thức, tức thức thứ sáu, bèn làm chủ. Nói đơn giản, Quán Chiếu là chẳng dùng tới tâm ý thức. Chúng ta nói đơn giản hơn chút nữa, sẽ là đừng dùng thức thứ sáu, tức ý thức, đừng dùng thức thứ bảy; đấy là Quán Chiếu. Thức thứ sáu là phân biệt, ta chẳng phân biệt; thức thứ bảy là chấp trước, ta cũng đừng chấp trước, ta chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, mà hiểu rõ ràng, rành rẽ, đấy là Quán Chiếu. Vận dụng công phu ấy lâu ngày, Thật Tướng sẽ hiện tiền.

Vì vậy, đọc kinh, tôi thường nói với các vị đồng tu, người biết đọc kinh, nói thật ra, đọc chú giải cũng giống như vậy, tôi nói [đọc kinh, hay đọc chú giải] là Tam Học Giới – Định – Huệ được hoàn thành một lượt, đấy là nói theo Tam Học. Nếu nói theo Bát Nhã, sẽ là Quán Chiếu Bát Nhã nhập Thật Tướng Bát Nhã. Ngay trong lúc lục căn tiếp xúc lục trần, chúng ta chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không lưu lại ấn tượng, sẽ là Thật Tướng, nên nói theo kiểu kinh Kim Cang sẽ là: “Phàm những gì có tướng đều là Thật Tướng”. Chúng ta vừa mới khởi tâm động niệm, [bèn tự nhắc nhở] “phàm những gì có tướng đều là hư vọng”, tướng bên ngoài có còn biến động hay không? Không có.

Tướng hư vọng và tướng chân thật khác nhau ở chỗ nào? Từ tâm niệm của chúng ta. Chúng ta dùng chân tâm nhìn cảnh giới bên ngoài, cảnh giới bên ngoài là tướng chân thật, là Thật Tướng; chúng ta dùng tâm vọng tưởng để nhìn cảnh giới bên ngoài, cảnh giới bên ngoài là tướng hư vọng; đạo lý như thế đấy. Trong chân tâm không có ý niệm. Đại Thừa Khởi Tín Luận đã nói rất rõ ràng: “Chân tâm ly niệm”, không có niệm! Vì thế, cái tâm chúng ta không có ý niệm sẽ là chân tâm. Cái tâm không có niệm ấy thấy hết thảy vạn vật sẽ là Thật Tướng của các pháp, thưa quý vị, đấy là Nhất Chân pháp giới. Vì sao? Trong tâm quý vị có phân biệt, do không có phân biệt, chẳng có tốt xấu, liền bình đẳng. Không chấp trước sẽ chẳng yêu ghét. Không có tốt xấu sẽ chẳng ưa ghét, chẳng ưa thích, chẳng ghét bỏ, hết thảy các pháp bình đẳng, cảnh giới này là Nhất Chân pháp giới.

Do Phật và các vị đại Bồ Tát trụ Nhất Chân pháp giới, Nhất Chân pháp giới cũng chẳng phải là rời khỏi thế giới này mà có riêng một Nhất Chân pháp giới, [nếu hiểu như vậy] quý vị đã trật rồi! Chẳng hề có! Nhất Chân pháp giới và mười pháp giới đều do tâm của chính chúng ta biến ra. Khi trong tâm chúng ta chẳng có phân biệt, chấp trước, không có ý niệm, pháp giới ấy là thật, Nhất Chân, đó là thật. Hễ khởi tâm động niệm, tâm chúng ta bèn là tâm vọng tưởng; dấy lên vọng tưởng, quý vị thấy cảnh giới ấy sẽ thiên biến vạn hóa. Vì thế, nói thật thà, cảnh giới ấy là cảnh chuyển theo tâm! Đức Phật nói lời chân thật, chẳng phải là tâm chuyển theo cảnh! Vì vậy, người học Phật nhất định phải học gì? Cảnh chuyển theo tâm, phải tự tại; đấy là người học Phật.

Kẻ chẳng học Phật, khổ lắm! Tâm chuyển theo cảnh. Trong thế gian này, có những kẻ xem Phong Thủy, Phong Thủy là gì? Cảnh giới! [Quý vị coi Phong Thủy] tức là bị cảnh giới xoay chuyển! Cảnh giới ảnh hưởng đến quý vị. Người ta ca tụng quý vị mấy câu, quý vị vui vẻ lắm, tâm bị động rồi! Bị kẻ khác chuyển, bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển! Người ta chửi quý vị mấy câu, nếu quý vị nổi cáu vài ngày, quý vị đã bị cảnh giới chuyển, bị xoay chuyển bởi mối quan hệ với con người, bị xoay chuyển bởi hoàn cảnh vật chất thì mới nhấn mạnh Phong Thủy. Phong Thủy xét theo Phật pháp sẽ chẳng thông! Phật pháp là gì? Tâm ta chuyển cảnh giới, lấy đâu ra Phong Thủy? Không có! Lúc ấy mới là rốt ráo, lúc ấy mới là triệt để, chính mình xoay chuyển quan hệ con người, chính mình xoay chuyển hoàn cảnh vật chất. Hết thảy do chính mình làm chủ, chẳng do ngoại cảnh làm chủ. Chính mình làm chủ thì lúc đó mới gọi là Phật, là Bồ Tát.

 

Trong Phật pháp nói tu hành, tu gì vậy? Tu điều này! Chư vị nhất định phải biết: Rời khỏi hết thảy quan hệ giữa con người với nhau, rời khỏi hết thảy hoàn cảnh vật chất, quý vị tới đâu để tu? Chẳng có chỗ nào để tu cả! Ở ngay trong cảnh giới, dấy lên Quán Chiếu Bát Nhã. Thiền gia nói chớ nên bỏ mất quán chiếu, hễ bỏ mất quán chiếu sẽ mê hoặc. Quán chiếu là niệm niệm nhắc nhở chính mình cảnh giác, chẳng bị cảnh giới chuyển. Người khác ca tụng ta, tâm ta sáng suốt, rõ ràng, đó là trí huệ chiếu trụ, chẳng phải là ta hồ đồ! Kẻ khác ca tụng ta, ta chẳng hiểu, tức là đã biến thành chai đá, vô cảm mất rồi! Kẻ khác ca tụng ta, ta biết rõ ràng! Nhưng trong tâm ta như thế nào? Chẳng hào hứng, tâm bình lặng, yên tĩnh. Bề ngoài thì cũng tỏ ra khách sáo, đó là ứng phó bề ngoài đối với người ấy [chứ trong tâm chẳng bận lòng vì lời khen đó]. Đấy chính là trí huệ Bát Nhã khởi tác dụng; cho nên nói: “Không gì chẳng biết”, khởi tác dụng mà! Người ta chửi mình mấy câu, ta cũng hiểu rõ ràng, rành rẽ, trong tâm ta thì sao? Chẳng tức giận, không bị cảnh giới chuyển, tâm thanh tịnh. Từ đầu đến cuối, trong cảnh giới giữ gìn cái tâm thanh tịnh; đấy gọi là học Phật, học Phật là học theo cách này!

Quý vị mỗi ngày niệm A Di Đà Phật, nếu ở trong cảnh giới vẫn bị cảnh giới xoay chuyển, tức là niệm Phật hiệu chẳng đắc lực! Niệm Phật hiệu thật sự đắc lực, sẽ không bị cảnh giới chuyển. Không bị cảnh giới chuyển, sẽ tương ứng với Bát Nhã. Nói cách khác, quý vị có thể làm chủ trong cảnh giới, trong tương lai vãng sanh thế giới Cực Lạc chắc chắn sẽ tự làm chủ. Chẳng thể làm chủ cảnh giới, thì trong tương lai vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó cũng là cảnh giới, quý vị vẫn chẳng thể làm chủ được. Thật sự tu hành, chẳng thể rời khỏi xã hội. Hàng Tiểu Thừa lánh mình trong núi thẳm, nơi không dấu chân người, khoét hang động để trụ trong đó khổ tu; vô dụng! Tu mười năm hay tám năm, bảo người ấy đến thành phố Đài Bắc đi dạo một vòng, ngay lập tức xong đời, hết thảy hỏng bét, có ích gì đâu? Không chịu nổi khảo nghiệm! Vì vậy, thật sự tu hành phải tu nơi đô thị, phải ở trong chốn hồng trần để trải qua sự việc hòng luyện tâm, nắm vững một câu A Di Đà Phật để luyện cái tâm thanh tịnh của chính mình, luyện tâm thanh tịnh trong cảnh giới. Đó là thật sự học Phật! Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 103

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm chín mươi bốn:

(Sao) Lược chương giả, ngôn bất tận ý, cố vân lược dã.

() 略彰者,言不盡意,故云略也。

(Sao: “Trình bày đại lược”: Nói chẳng hết ý, nên bảo là “đại lược”).

 

Đây là một đoạn ngắn đã được giảng trong lần trước, nhằm giải thích Văn Tự Bát Nhã.

 

(Sao) Lục chủng thành tựu, phân hợp nhị khoa giả.

() 六種成就,分合二科者。

(Sao: Sáu thứ thành tựu được chia ra, và gộp lại thành hai khoa).

 

Có những bản [chú giải] kinh, sáu thứ thành tựu được chia thành sáu khoa, chia rất tỉ mỉ. Ở đây, Liên Trì đại sư chia khá đơn giản, gộp năm thứ thành tựu đầu thành một khoa, xếp Chúng Thành Tựu thành riêng một khoa, [do vậy, sáu thứ thành tựu được] chia làm hai khoa. “Khai hợp” (tức chữ “phân hợp” được dùng trong lời Sao), “khai” là triển khai, “hợp” là quy nạp; trong kinh Phật có rất nhiều lề lối như vậy.

 

(Sao) Lệ như Ngũ Uẩn, Lục Căn, hoặc hợp Sắc khai Tâm, hoặc hợp Tâm khai Sắc, tùy kỳ sở nghi, vô định pháp dã.

()例如五蘊六根,或合色開心,或合心開色,隨其所宜,無定法也。

(Sao: Ví dụ như Ngũ Uẩn và Lục Căn thì Ngũ Uẩn là gộp Sắc, tách Tâm [thành nhiều thành phần khác nhau], hoặc [như trong trường hợp Lục Căn] thì gộp Tâm, chia chẻ Sắc [thành năm căn riêng biệt], tùy thuận cơ nghi, chẳng có pháp nhất định).

 

Đây là nêu thí dụ. Trong kinh điển nhà Phật và các bản chú giải của cổ đức, những trường hợp như vậy rất nhiều, trong tương lai chư vị đều có thể thấy được. Ngũ Uẩn là năm pháp Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Gộp lại, chẳng hạn như “hợp Sắc khai Tâm”, Sắc chỉ nói một thứ, tức là quy nạp hết thảy các Sắc pháp thành một, nói triển khai Tâm pháp thành bốn thứ. Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều là Tâm pháp; đó là “hợp Sắc khai Tâm”. Lục Căn là “hợp Tâm khai Sắc”, Nhãn Căn, Nhĩ Căn, Tỵ Căn, Thiệt Căn, Thân Căn đều là Sắc, chỉ có Ý Căn là Tâm; Tâm pháp nói một thứ, Sắc pháp nói năm thứ. “Hợp” là quy nạp, “khai” là triển khai. Vì thế, thuyết pháp chẳng nhất định; nhưng lúc nói luôn có một nguyên tắc. Vì sao có lúc đức Phật nói Ngũ Uẩn? Có lúc nói Lục Căn? Do đối tượng (thính chúng) khác nhau. Nếu đối phương mê Sắc pháp rất sâu, mê Tâm pháp cạn hơn, bèn đối với điều mê sâu mà nói cặn kẽ, đối với điều mê cạn bèn nói đại lược. Có khi nói nhiều về Tâm pháp, như Ngũ Uẩn là để nói với kẻ mê tâm nặng nề! Nói Lục Căn là đối với kẻ mê sắc nặng hơn một chút, tức là nói với kẻ mê sắc tướng nặng nề. Nếu Sắc lẫn Tâm đều mê nặng nề, đức Phật bèn giảng Thập Nhị Xứ, hoặc Thập Bát Giới. Trong Thập Bát Giới, Sắc pháp được nói rất nhiều, đến mười một thứ: Lục Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) là sáu Sắc pháp, trong Lục Căn, trừ Ý Căn thuộc Tâm pháp ra, năm thứ còn lại là Sắc pháp; [do vậy] sáu cộng thêm năm thành mười một thứ, tức là nói đến mười một thứ Sắc pháp. Lục Thức là Tâm pháp, lại còn có Ý Căn. Vì thế, nói đến bảy thứ Tâm pháp, [hợp với mười một món Sắc pháp] thành Thập Bát Giới. Đối với kẻ Sắc và Tâm đều mê sâu đậm, đức Phật thuyết pháp như vậy. Do điều này, ta biết đức Phật chẳng có cách nói nhất định, chỉ tùy thuận nhu cầu của đối phương mà thuyết pháp cho chúng sanh. Nói thật ra, bản thân đức Phật chẳng có pháp nào để nói. Đây là một nguyên tắc trong sự thuyết pháp của đức Phật và trong cách chú giải kinh điển của cổ đức.

 

(Sao) Phật thị giả.

() 佛示者。

(Sao: Phật dạy).

 

Nhằm giải thích câu “Phật thị A Nan cố” (đức Phật dạy A Nan) [trong lời Sớ]. Lục Chủng Thành Tựu trong phần Tự [của một bản kinh] xuất phát từ lời dặn dò của đức Phật.

 

(Sao) Trí Luận vân: “Phật Niết Bàn thời, thị A Nan ngôn, nhất thiết kinh sơ, giai vân như thị ngã văn, nhất thời Phật tại mỗ quốc, mỗ địa”. Cái thị tôn Phật di sắc cố.

()智論云:佛涅槃時,示阿難言,一切經初,皆云如是我聞,一時佛在某國某地。蓋是尊佛遺敕故。

(Sao: Trí Độ Luận chép: “Lúc đức Phật nhập Niết Bàn, dạy ngài A Nan: – Đầu hết thảy các kinh đều ghi ta nghe như thế này, một thời đức Phật ở nước nọ, nơi nọ”. Đấy là tôn trọng di giáo của đức Phật vậy).

Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, ngài A Nan vẫn giống như phàm phu, trong tâm vô cùng khổ sở. Ngài A Nậu Lâu Đà bảo ngài A Nan hãy thỉnh giáo đức Phật, thỉnh giáo bốn chuyện. Trong ấy có chuyện: Đầu hết thảy các kinh phải xếp đặt ra sao? Đức Phật dạy: Trước hết thảy các kinh đều phải thêm câu “tôi nghe như thế này, một thời, đức Phật ở nơi nào đó, cùng với những người nào”, thêm mấy câu ấy. Do vậy, phần Thông Tự tuân theo “di sắc” của đức Phật, tức là làm theo di giáo của đức Phật.

 

(Sao) “Đoạn nghi” giả, A Nan kết tập thời, chúng khởi tam nghi: Nhất, nghi Phật trùng khởi; nhị, nghi A Nan thành Phật; tam, nghi tha phương Phật lai.  Kim  viết  “như thị ngã văn”,  tam nghi đốn

thích. “Tức tránh” giả, viết “ngã văn”, tắc phi ức kiến tự tác cố.

()斷疑者,阿難結集時,眾起三疑:一、疑佛重起,二、疑阿難成佛,三、疑他方佛來。今曰如是我聞,三疑頓釋。息諍者,曰我聞,則非臆見自作故。

(Sao: “Đoạn nghi: Khi ngài A Nan kết tập, đại chúng dấy lên ba mối nghi: Một là nghi Phật trở lại, hai là nghi A Nan đã thành Phật, ba là nghi Phật từ nơi khác đến. Nay nói “ta nghe như thế”, ba mối nghi ấy nhanh chóng được cởi gỡ. “Dứt tranh cãi”: Nói “tôi nghe” [ngụ ý: Những kinh điển tôi nói đây] chẳng phải do tôi tự suy nghĩ, bịa ra).

 

Chẳng phải do ý tưởng của ngài A Nan, hoàn toàn là lời đức Phật đã nói, mọi người sẽ chẳng tranh chấp!

 

(Sao) Giản tà giả, viết “như thị”, tắc dị ngoại đạo “A Ưu” cố.

() 揀邪者,曰如是,則異外道阿憂故。

(Sao: “Phân biệt khác với tà ngoại”: Nói “như thế” nên khác với [kinh điển] của ngoại đạo dùng chữ “A Ưu”).

 

Phía trước kinh điển của ngoại đạo Ấn Độ có phù hiệu là từ ngữ “A Ưu” này. A là Không, Ưu là Có. Nói cách khác, [A Ưu là] hoặc Có, hoặc Không, đây là một câu nói nước đôi! Kinh Phật khác hẳn, mở đầu khác hẳn bọn họ

 

(Sao) Như Phật Địa Luận vân: “Như thị chi pháp, ngã tích tằng văn”, ý tỵ tăng giảm dị phân quá thất, diệc “tức tránh” nghĩa dã.

()如佛地論云:如是之法,我昔曾聞,意避增減異分過失,亦息諍義也。

(Sao: Như Phật Địa Luận đã nói: “Pháp như thế, xưa kia tôi đã từng được nghe”, [nói như vậy] nhằm tránh khuyết điểm phân tranh, biện bác “tăng, giảm, khác biệt”, cũng là ý nghĩa dứt tranh cãi vậy).

 

Nêu lên lệ này rất hay! Ngài A Nan kết tập di giáo của đức Phật, hoàn toàn nhắc lại lời đức Phật đã dạy trong thuở ấy, chẳng thêm, chẳng bớt, giống hệt như đức Phật đã nói khi trước. Lúc đấy, những người tham dự, đồng thời tham gia kết tập có năm trăm vị A La Hán, chẳng có ai đưa ra ý kiến phản đối thì lúc ấy mới có thể chép xuống; chắc chắn chẳng giống như chúng ta trong hiện tại, trong hội nghị chỉ cần đa số thông qua là được! Lúc kết tập kinh chẳng phải là như vậy! Hễ có một người phản đối, câu ấy không thể ghi lại, năm trăm vị A La Hán tham dự nghe xong đều gật đầu: “Chẳng sai! Đức Phật nói như thế, tôi có nghe nói”. Nếu có một ai nói: “A Nan! Tôi chưa hề nghe đức Phật nói câu ấy”, chẳng thể ghi lại [câu ấy]. Do vậy biết: Thái độ kết tập kinh điển thuở ấy vô cùng nghiêm túc, cẩn thận, nhằm giữ chữ tín với người đời sau thì hậu thế mới tôn trọng và tin tưởng kinh điển. Đấy cũng là ý nghĩa “dứt tranh luận”. Vì thế, kinh điển lưu thông, mọi người chẳng dị nghị. Dưới đây là tách ra để nghiên cứu, khảo sát từng câu một.

 

(Sớ) Như thị giả, Tín Thành Tựu dã.

()  如是者,信成就也。

(Sớ: “Như thị” là Tín Thành Tựu).

 

Trong sáu thứ thành tựu, điều này thuộc về Tín Thành Tựu.

 

(Sớ) Như Trí Luận trung thuyết.

()  如智論中說。

(Sớ: Như trong Trí Độ Luận đã nói)

 

Lời Sao trích dẫn Đại Trí Độ Luận. Đại Trí Độ Luận gồm một trăm quyển, do Long Thọ Bồ Tát trước tác. Bộ luận này giải thích Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh[47], chúng ta thường gọi kinh ấy là kinh Đại Bát Nhã. Kinh Đại Bát Nhã có tất cả ba mươi quyển. Long Thọ Bồ Tát soạn chú giải tới bao nhiêu quyển? Bản gốc bằng tiếng Phạn gồm một ngàn quyển. Một ngàn quyển chú giải để giải thích ba mươi quyển kinh văn, giải thích vô cùng tỉ mỉ. Đại Trí Độ Luận đã dành ra từ ba quyển rưỡi đến bốn quyển để giải thích bốn chữ “như thị ngã văn”. Thuở ban đầu, khi tôi đọc Đại Trí Độ Luận mới thật sự cảm nhận nghĩa vị trong kinh Phật chẳng cùng tận. Giải thích bốn chữ mà đã nghiễm nhiên gần tới bốn quyển kinh văn!

Bộ luận này do Huyền Trang đại sư mang từ Ấn Độ về, dịch ra. Do người Hoa chuộng đơn giản, nếu dịch thành một ngàn quyển, sợ chẳng có ai xem. Vừa nhìn thấy nhiều như thế, họ sẽ không đọc! Do vậy, Ngài cô đọng, rút gọn thành một trăm quyển; nói cách khác là một phần mười. Cách dịch ra sao? Phần đầu tiên hoàn toàn dịch đúng theo nguyên văn trong bộ luận, tổng cộng ba mươi bốn quyển, đó là phần đầu. Mỗi phần sau đó đều dịch đại ý, nêu ra những điểm quan trọng, chẳng dịch hoàn toàn. Vì thế, quý vị muốn đọc nguyên bản chú giải của Long Thọ Bồ Tát thì đọc ba mươi bốn quyển đầu, đó là phần đầu bộ chú giải. Do vậy biết: Chú sớ kinh Phật thì phải chú giải tỉ mỉ, nghĩa thú chẳng thể nói trọn. Đây là trích dẫn mấy câu trong Đại Trí Độ Luận để nói, mấy câu quan trọng nhất [nói về] Tín Thành Tựu.

 

(Sớ) Hựu nhị tự phục vi nhị nghĩa, hữu đa chủng giải. Nhược dĩ Tông giản định, ước đương Tông, tắc nhất tâm bất loạn viết Như, duy thử vô phi viết Thị.

() 又二字復為二義,有多種解。若以宗揀定,約當宗,則一心不亂曰如,唯此無非曰是。

(Sớ: Lại nữa, hai chữ [Như Thị] ấy lại có hai nghĩa, có nhiều cách giảng giải. Nếu dùng Tông [do chính mình đang tu học] để biện định, xét theo Tịnh Độ Tông, nhất tâm bất loạn là Như, chỉ có điều này không sai là Thị).

“Dĩ Tông giản định”: Tông ở đây là “bổn Tông” (tông ta đang tu học). Vì một câu kinh văn có rất nhiều ý nghĩa, chúng ta tu học tông nào sẽ có cách giảng giải theo tông đó. Như vậy thì đối với nhiều loại chú giải, chúng ta sẽ có một tiêu chuẩn lấy hay bỏ. Cũng giống như vậy, đối với “như thị ngã văn”, Thiền Tông có cách giảng của Thiền Tông, cách giảng của Thiền Tông và Tịnh Độ Tông hoàn toàn khác nhau, có thể nói là trái ngược nhau. Do vậy, nếu chẳng hiểu rõ, đọc bản chú giải này, cách giảng của hai người [tu theo hai tông phái khác nhau] sẽ hoàn toàn khác nhau, xung đột, mâu thuẫn lẫn nhau. Thật ra, chẳng phải vậy! Mỗi tông có phương pháp tu hành riêng, cho nên giảng giải ý nghĩa khác nhau.

 “Đương Tông” tức là Tịnh Độ Tông của chúng ta, niệm Phật. Cách giảng của Tịnh Độ Tông là dùng hai câu đơn giản, rõ ràng để giảng rành rẽ hai chữ “như thị”: Nhất tâm bất loạn là Như. “Duy thử vô phi” (chỉ có điều này không sai), quyết định chẳng sai, đó là Thị. Dùng ngay ý nghĩa trong kinh văn [kinh Di Đà]! Nói thật ra, hai câu trọng yếu nhất trong cả bộ kinh A Di Đà là “nhất tâm bất loạn, tâm bất điên đảo”. Chúng ta học Phật, nếu muốn quyết định thành tựu trong một đời này, quý vị tuân thủ hai câu ấy là được rồi! Phải học hai câu ấy sao cho chúng thật sự hòa nhập thành một khối với tư tưởng, hành vi, và cuộc sống của chính mình thì mới được. Nếu nói lúc tôi niệm Phật thì nhất tâm bất loạn, còn chẳng niệm sẽ loạn; vậy là không được rồi! Chẳng có tác dụng! Xử sự, đãi người, tiếp vật, thảy đều phải nhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo, phải như vậy thì quý vị niệm Phật mới được coi là công phu thành tựu.

Chúng ta thấy nhiều người lúc vãng sanh, biết trước lúc ra đi, chẳng có bệnh khổ, nói đi bèn đi, họ có bản lãnh gì vậy? Thật ra, nói xuyên suốt thì họ đã vận dụng chữ “Như” này vào cuộc sống, nên họ thành công. Vì thế, tu Tịnh Độ là tu tâm tịnh, “tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh”. Nhất tâm bất loạn, tâm bèn thanh tịnh; tâm chẳng thanh tịnh, chắc chắn chẳng đạt đến nhất tâm bất loạn. Dùng phương pháp gì để tu đến mức nhất tâm bất loạn? Dùng phương pháp Niệm Phật. Do vậy, phương pháp trong Tông này vô cùng đơn giản, ai nấy đều có thể làm được. Đạt tới nhất tâm bất loạn, chuyện gì cũng đều hiểu rõ, quá khứ, hiện tại, vị lai, không gì chẳng biết. Nói thật ra, ai nấy đều có thể làm được, vấn đề là quý vị có muốn làm, có chịu làm hay không! Nếu quý vị muốn làm, chịu làm, chẳng một ai không làm được!

“Duy  thử  vô  phi viết Thị” (chỉ có điều này không sai nên nói là Thị), tôi phỏng theo cách này để nói: “Duy thử thị Chân viết Thị” (chỉ có điều này là Thật nên nói là Thị), vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là chân thật, những điều khác thảy đều là giả. Thế giới này là hư vọng, chẳng chân thật, phải giác ngộ điều này! Biết là hư vọng, đấy là thấy thấu suốt. Có thể thấy thấu suốt, quý vị mới có thể buông xuống, xử sự, đãi người, tiếp vật trong cuộc sống hằng ngày, quý vị sẽ chẳng phân biệt quá mức, mà cũng chẳng chấp trước quá mức! Quý vị nhất định giữ thái độ: Cái gì cho qua được bèn cho qua! Chẳng có chuyện gì là thật, đều là hư vọng, chẳng thật sự tồn tại! Chỉ có niệm Phật là thật, chỉ có tâm địa thanh tịnh là thật, những cái khác đều là giả. Xét trong toàn bộ Phật pháp có nhiều tông phái ngần ấy, chỉ có tông phái này thành tựu dễ dàng nhất, nắm chắc thành tựu nhất! Cổ nhân bảo: “Vạn người tu, vạn người về”, chẳng giả một tí nào.

 

(Sao)  Trí Luận vân:  “Phật pháp đại hải, tín vi năng nhập”. Tín

giả, ngôn thị sự như thị, bất tín giả, ngôn thị sự bất như thị.

()智論云:佛法大海,信為能入。信者言是事如是,不信者言是事不如是。

(Sao: Trí Độ Luận chép: “Biển cả Phật pháp, do lòng tin mà có thể vào”. Tin sẽ nói chuyện này đúng là như thế, chẳng tin sẽ nói chuyện này chẳng phải là như thế).

 

Đoạn văn này trích từ Đại Trí Độ Luận. Đối với Phật pháp, nhất định phải do lòng tin mới có thể nhập môn. Nói đến Tín, thật ra, có hai loại:

– Loại thứ nhất là chân tướng Sự Lý đều hiểu rõ ràng, nên tin tưởng. Loại này rất khá, chẳng hoài nghi, lòng tin vững chắc, chẳng ngờ vực, Tín Căn đã kiến lập.

– Loại kia là những kẻ chẳng hiểu rõ Sự Lý, tuy trọn chẳng hiểu rõ, nhưng có thể tin tưởng, mà cũng chẳng hoài nghi. Nói thật ra, kẻ ấy đã có thiện căn và phước đức từ nhiều đời, nhiều kiếp. Nếu kẻ ấy chẳng có thiện căn, phước đức, sẽ chẳng tin tưởng. Do người ấy tin tưởng, nên chắc chắn sẽ thành tựu. Nhất là đối với pháp môn này, trong kinh, đức Phật đã gọi pháp môn này là “pháp khó tin”, thật sự khó! Nếu kẻ ấy có thể tin tưởng pháp khó tin, ta có thể thấy kẻ ấy thiện căn, phước đức sâu dầy. Vì sao? Do đã tin, nên trong đời này, người ấy nhất định vãng sanh. Hễ vãng sanh, chắc chắn sẽ thành Phật trong một đời này. Pháp môn này là phương pháp thành Phật ngay trong đời này, chẳng cần đợi đến đời thứ hai, thành Phật ngay trong đời này! Tiếp đó, Tổ dẫn lời giảng của mấy vị cổ đại đức.

 

(Sao) Triệu công viết.

() 肇公曰。

(Sao: Ngài Tăng Triệu nói).

 

Triệu công là ngài Tăng Triệu, là một vị đệ tử của Cưu Ma La Thập đại sư. La Thập đại sư là người dịch bộ kinh này, Ngài có bốn học trò vô cùng kiệt xuất, được gọi là “Thập môn tứ triết” (bốn vị học giả lỗi lạc trong môn đình ngài La Thập), Tăng Triệu là một vị trong số đó, trẻ tuổi nhất, thông minh tuyệt đỉnh, nhưng thọ mạng rất ngắn ngủi, ba mươi mấy tuổi đã viên tịch, thành tựu phi phàm. Ngài viết Duy Ma Kinh Chú, Triệu Luận, mấy tác phẩm do Ngài viết được lưu truyền hậu thế. Ngài nói:

 

(Sao) Như thị giả, tín thuận chi từ dã.

() 如是者,信順之辭也。

(Sao: “Như thị” là từ ngữ biểu lộ sự tín thuận).

 

Đó là tin, sau khi đã tin thì mới có thể thuận theo, đấy mới là tin tưởng thật sự.

 

(Sao) Cố thế nhân doãn khả, diệc viết “như thị”.

() 故世人允可,亦曰如是。

(Sao: Vì vậy, người đời chấp nhận [điều gì] thì cũng nói “như thị”).

 

Người thế gian đối với chuyện gì nếu chấp nhận, cũng sẽ nói “đúng như thế”.

 

(Sao) Phục nhị nghĩa giả.

() 復二義者。

(Sao: Lại có hai nghĩa).

 

Lại có hai ý nghĩa.

 

(Sao) Hựu ly “như thị” nhị tự các thích dã.

() 又離如是二字各釋也。

(Sao: Chính là lại đem hai chữ “như thị” tách ra để giải thích từng chữ một).

 

“Ly” là tách ra, Như là gì? Thị là gì?

 

(Sao) Đa giải giả, hữu dĩ thánh nhân thuyết pháp, đản hiển ư Như, duy Như vi Thị.

() 多解者,有以聖人說法,但顯於如,唯如為是。

(Sao: “Có nhiều cách giải thích”, có người cho rằng thánh nhân thuyết pháp chỉ nhằm hiển lộ lý Như, chỉ có Như là đúng).

 

Nêu lên mấy trường hợp. Trên thực tế, có rất nhiều cách giải thích hai chữ này! “Thánh nhân thuyết pháp”: Chữ “thánh nhân” chỉ Phật; câu này có thể nói là đã bao gồm hết thảy các kinh, hết thảy các kinh cũng không ra ngoài phạm vi này! “Đản hiển ư Như” (chỉ nhằm hiển lộ lẽ Như), giảng chữ Như theo cách nào? Chính là Chân Như bổn tánh. Đức Phật giảng hết thảy các kinh, không gì chẳng nhằm mục đích dạy chúng ta minh tâm kiến tánh, thấy Chân Như bổn tánh của chính mình. Hết thảy các kinh đều nhằm bày vẽ, chỉ dạy chúng ta hãy kiến tánh. Vì thế, [lời Sao nhận định] “duy Như vi Thị” (chỉ có Như là đúng). Nếu chẳng dạy chúng ta minh tâm kiến tánh, chắc chắn kinh điển ấy chẳng phải là kinh điển nhà Phật, đặc biệt là kinh điển Đại Thừa. Có phải là kinh này dạy chúng ta minh tâm kiến tánh? Đúng vậy! Vì sao biết đúng là như vậy? Nhất tâm bất loạn là minh tâm kiến tánh, nhất tâm là chân tâm, chân tâm còn gọi là Chân Như. Do vậy, thảy đều là dạy chúng ta minh tâm kiến tánh.

 

(Sao) Như Lưu Cầu sở thuyết.

() 如劉虬所說。

(Sao: Như ngài Lưu Cầu[48] đã nói).

Đây cũng là một vị đại đức thuở xưa, hết sức có thành tựu trong Phật pháp. Trong Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, Thanh Lương đại sư thường trích dẫn lời Ngài.

 

(Sao) Hữu dĩ Như giả, đương Lý chi ngôn. Thị giả, vô phi chi xưng.

() 有以如者,當理之言,是者,無非之稱。

(Sao: Có người cho Như là nói xứng Lý, còn Thị là nói không sai).

 

Lý là Chân Như Lý thể, “đương Lý” nói thật ra là xứng tánh, là từ chân tâm Lý thể lưu xuất ngôn ngữ, văn tự, đó là ý nghĩa của chữ Như. Thị là quyết định chẳng sai. Từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, làm sao có khuyết điểm cho được? Lẽ nào có sai lầm cho được? Điều đó được gọi là Thị. Ngài Thanh Lương giải thích kinh Hoa Nghiêm cũng trích dẫn câu này.

 

(Sao) Như Sanh công sở thuyết.

() 如生公所說。

(Sao: Như ngài Đạo Sanh đã nói).

 

 “Sanh công” là ngài Đạo Sanh[49]. “Sanh công thuyết pháp, ngoan thạch điểm đầu” (ngài Đạo Sanh thuyết pháp, đá cũng gật đầu) chính là vị này. Ngài nói:

(Sao) Hữu dĩ Như Lai thuận cơ vi ứng, danh Như, chúng sanh vô phi vi cảm, danh Thị.

() 有以如來順機為應名如,眾生無非為感名是。

(Sao: Có người cho rằng Như Lai thuận theo căn cơ mà ứng thì gọi là Như; chúng sanh không gì chẳng cảm, nên gọi là Thị).

 

Đây là nói tới chuyện “ứng cơ thuyết pháp, cảm ứng đạo giao”. Từ những lời giải thích hai chữ Như Thị trên đây, có thể thấy nhìn từ phương diện nào để giảng hai chữ Như Thị đều rất có lý, đều có thể chấp nhận; nhưng rốt ráo lấy Chân Như bổn tánh làm Đệ Nhất Nghĩa là cách giải thích bậc nhất. Cách giải thích này cũng tuyệt lắm. Vì đức Phật giảng kinh, đương nhiên là phải Khế Cơ và Khế Lý. Kinh cũng dạy điều này, nếu giảng kinh mà chẳng khế Lý tức là chẳng phải từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, sẽ gọi là “ma thuyết”. Vì thế, phân biệt Phật và ma, lấy tông chỉ kinh này để nói, nếu quý vị từ nhất tâm bất loạn mà nói thì là Phật thuyết. Nếu từ tam tâm, nhị ý, loạn tâm mà nói thì là ma thuyết. Phân biệt giữa Phật và ma như thế đó!

Ngoài ra, còn phải Khế Cơ. Khế Cơ là phải có thể thích hợp với trình độ của chúng sanh. Nếu chẳng thích hợp trình độ chúng sanh, tuy là nói từ nhất tâm bất loạn, nhưng nói ra, mọi người nghe không hiểu, đó gọi là nói phí công, là nói lời thừa thãi! Do vậy biết, kinh Phật tuân theo tiêu chuẩn, thứ nhất là phải từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, thứ hai là phải khiến cho chúng sanh nghe hiểu. Nghe xong, họ có thể tiếp nhận. Đó gọi là “khế Cơ, khế Lý”. Do vậy, ngài Đạo Sanh nói theo phương diện Khế Cơ, còn những lời giảng trong phần trước là nói theo phương diện Khế Lý. “Thuận cơ vi ứng” (ứng hiện thuận theo căn cơ), chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng. “Vi ứng” (ứng hiện) là Như, “chúng sanh vô phi vi cảm” (chúng sanh chẳng ai không cảm), đó là Thị.

Hiểu rõ đạo lý này, chư vị đồng tu phải nhớ, đức Phật thuyết pháp, các vị Bồ Tát, tổ sư thuyết pháp là vì chúng sanh mà thuyết, chẳng nhằm khoe khoang công phu của chính mình, chẳng nhằm phô trương chính mình. Do trong quá khứ, lúc tôi mới học Phật, đã từng nghe có những pháp sư thuyết pháp, sau khi thuyết xong, phía dưới có rất nhiều tín đồ, thường thân cận pháp sư, rất thân thuộc, đến thỉnh giáo pháp sư sau khi Ngài giảng xong, đã nói: “Thưa sư phụ, lời giảng hôm nay của lão nhân gia, con chẳng hiểu gì hết”. Giảng quá sâu, không hiểu! Vị sư phụ ấy cười: “Nếu các ngươi nghe hiểu pháp ta giảng thì còn đáng giá chi nữa?” Nói vậy là trật lất! Nói ra là phải khiến cho người ta nghe sẽ thấu hiểu, có thể tiếp nhận, tiêu hóa, người ta mới được hưởng lợi ích. Cố ý nói cho kẻ khác nghe chẳng hiểu, tức là quý vị nói uổng công mất rồi, người ta đến đó nghe cũng phí công nghe, đôi bên đều phí uổng thời gian! Rất đáng tiếc, sai mất rồi! Quý vị nhất định phải nhớ: Sau này, quý vị thuyết pháp, chớ nên nói quá sâu, hãy nói sao cho người khác nghe bèn hiểu được. Tự mình khoe khoang bản thân giỏi giang, đấy chính là sai lầm, chớ nên làm như vậy.

 

(Sao) Như Dung công sở thuyết.

() 如融公所說。

(Sao: Như ngài Biến Dung đã nói).

 

 “Dung công” là thiền sư Biến Dung[50], Ngài sống vào đời Minh, Liên Trì đại sư đã từng đến tham học với Ngài. Thuở ấy, Ngài là một vị cao tăng nổi tiếng, Liên Trì đại sư chịu ảnh hưởng rất lớn từ Ngài. Chư vị học Phật phải biết, chúng ta thân cận một vị thiện tri thức thì rốt cuộc ai là thiện tri thức? Nói thật ra, chuyện này chẳng quan trọng, thật sự học được điều gì [từ vị ấy mới là quan trọng], còn thầy có thật sự cao minh hay không là chuyện thứ yếu! Chính mình đối với thầy có thành ý mới là điều kiện bậc nhất khiến cho quý vị có thể đạt được điều gì hay không, giống như Ấn Quang đại sư đã dạy: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”.

Trong kinh, đức Phật đã kể một câu chuyện; đó là một chuyện thật được đức Phật nhắc đến trong kinh điển. Ngài nói có một vị tỳ-kheo già tu hành rất nhiều năm, chẳng đắc đạo, trong tâm rất áo não, mà cũng rất hổ thẹn. Có mấy tỳ-kheo trẻ tuổi vừa mới xuất gia muốn trêu ghẹo, bỡn cợt, bèn bảo vị tỳ-kheo già ấy:

– Chẳng phải là thầy muốn chứng quả hay sao?

– Vâng! Tôi muốn chứng lắm, nhưng chẳng biết chứng bằng cách nào!

– Chúng tôi biết, để tụi tôi dạy thầy.

– Hay quá!

– Nhưng thầy phải mời tụi tôi ăn uống ngon lành, phải bao tụi tôi ăn.

Vị tỳ-kheo già lấy tiền bạc dành dụm ra, nhưng Sư cũng chẳng dành dụm được mấy, bèn bán sạch mớ quần áo ít ỏi để mời họ ăn. Họ ăn no xong, vị tỳ-kheo già cầu hỏi cách chứng quả như thế nào? Họ cũng đâu có cách nào, nhưng đã lỡ nhận lời rồi, bèn trêu ghẹo sư, bảo Sư ngồi xổm ở góc nhà, họ nói: “Thầy ngồi xổm ở đó, trong tâm thầy chớ có suy nghĩ loạn xạ, hãy nghe theo lời tôi nói”. Vị tỳ-kheo trẻ bèn cầm trái banh ném vô đầu Sư, bảo: “Thầy đã chứng Sơ Quả”. Vị tỳ-kheo già gật đầu: ‘Đúng vậy!” Lại đổi sang góc bên kia, Sư cũng ngoan ngoãn bước sang góc kia. Lại ném bóng vào đầu Sư: “Thầy đã chứng Nhị Quả”. Chuyển khắp bốn góc: “Thầy đã chứng Tứ Quả La Hán!” Sau khi trở lại góc ban đầu, Sư đảnh lễ mấy vị tỳ-kheo trẻ tuổi nghịch ngợm. Các tỳ-kheo trẻ thưa: “Tôi giỡn với thầy mà!” Sư nói: “Tôi đã thật sự chứng Tứ Quả”. Mấy vị tỳ-kheo trẻ tuổi đều sững sờ, hướng về Sư cầu sám hối, Sư nói: “Tôi quả thật đã chứng Tứ Quả”. Điều này cho thấy tâm vị ấy chân thành, dẫu người khác trêu ghẹo Ngài, Ngài vẫn một mực chứng quả. Tâm Ngài có mười phần thành kính nên đạt được. Bởi lẽ đó, quý vị muốn thân cận một vị thầy, thân cận vị thầy nào mới là thiện tri thức thật sự? Vị thầy nào mà quý vị cảm thấy tôn kính nhất, hãy thân cận vị ấy, nhất định sẽ thành tựu.

Trong quá khứ, lúc tôi mở Đồ Thư Quán ở nơi đây, có mấy vị xuất gia trẻ tuổi như Ngộ Nguyên, Y Nhân ở nơi đây. Sau đấy, pháp sư Vĩnh Tinh bên Hương Cảng mở Phật Học Viện tại nơi đó, thỉnh pháp sư Hiển Minh sang đó làm viện trưởng. Họ nghe tin ấy, mong sang Hương Cảng cầu học. Lúc sắp ra đi, tôi chúc phước: “Mấy thầy đã tôn kính pháp sư Hiển Minh thì phải khéo học theo Ngài. Nếu mấy thầy thật sự có thể học với Ngài suốt mười năm, nhất định sẽ có thành tựu. Vì nếu các thầy chẳng tôn kính thầy, làm sao các thầy đạt được gì?” Đó gọi là “một phần cung kính, được một phần lợi ích”. Sau khi họ tới Hương Cảng, nghe nói hình như chỉ học được một học kỳ, nhà trường cũng chẳng thể tiếp tục, pháp sư Hiển Minh cũng bỏ đi luôn. Sau này, bọn họ ở bên đó chuyên lo kinh sám, rất đáng tiếc!

Vì vậy, chúng ta phải học theo cổ nhân, theo một vị thầy, tức là vị thầy mà quý vị cảm thấy tôn kính nhất. Liên Trì đại sư đã nêu gương cho chúng ta. Thuở ấy, thiền sư Biến Dung hết sức lỗi lạc. Khi Tổ đến gặp Ngài, tam bộ nhất bái, đến lạy dưới tòa lão hòa thượng, thỉnh lão hòa thượng khai thị. Lão hòa thượng thấy Tổ cung kính như vậy, chỉ nói với Tổ một câu: “Ngươi đừng để danh lợi làm hại”, người bên cạnh [lão hòa thượng] nghe xong cười ha hả, vì sao? Tam bộ nhất bái từ chốn xa xôi dường ấy đến nơi, chỉ được dạy một câu tầm thường tẻ nhạt như vậy, mọi người đều cười nhạo Tổ. Tổ bèn bảo bọn họ: “Tôi nhờ một câu nói này mà đạt được lợi ích cả đời!” Có thể thấy lão nhân gia thường giáo huấn người khác như vậy, người khác không được hưởng lợi ích vì đã coi thường câu ấy, nghe mỗi ngày, giống như gió thoảng qua tai, chẳng lưu ý. Tổ nghe câu này bèn nhớ kỹ trong lòng, suốt đời chẳng phạm lỗi lầm ấy, suốt đời tránh né tiếng tăm, lợi dưỡng. Do vậy, Tổ trở thành nhất đại cao tăng, thành tựu vượt trỗi thiền sư Biến Dung. Đấy chính là “mười phần cung kính” như tổ Ấn Quang đã dạy, từ câu này Ngài “được mười phần lợi ích”, đạt được lợi ích viên mãn, hết sức khó có!

 

(Sao) Hữu dĩ Thật Tướng chi Lý, thỉ chung bất dị danh Như, như Lý nhi thuyết danh Thị.

() 有以實相之理,始終不異名如,如理而說名是。

(Sao: Có người coi lý Thật Tướng từ đầu đến cuối chẳng sai khác là Như, nói đúng như Lý là Thị).

 

Cách nói này hoàn toàn dựa vào Lý Thể của chân tánh để luận định Như và Thị, cả hai chữ đều được giảng theo Lý, đều luận theo lý tánh.

 

(Sao) Như Thiên Thai sở thuyết.

() 如天台所說。

(Sao: Như tông Thiên Thai đã nói).

Đây là tông Thiên Thai. Tông Thiên Thai lấy kinh Pháp Hoa làm chủ tu (pháp tu chánh yếu).

 

(Sao) Hữu dĩ Như vi Chân Không, Thị vi Diệu Hữu.

() 有以如為真空,是為妙有。

(Sao: Có người coi Như là Chân Không, Thị là Diệu Hữu).

 

Tông Thiên Thai nói như vậy. Thiên Thai là Không Tông, Hoa Nghiêm là Hữu Tông; nhưng các vị tổ sư tông Thiên Thai đều niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh Độ; tuy những vị như Trí Giả đại sư suốt đời hoằng dương kinh Pháp Hoa, giảng lý luận Không Tông, soạn Ma Ha Chỉ Quán để dạy phương pháp tu hành này, lão nhân gia tự viết Ma Ha Chỉ Quán để dạy người khác tu, nhưng chính Ngài niệm Phật cầu vãng sanh, chúng ta phải hiểu rõ điều này. Rất nhiều vị tổ sư tông Thiên Thai niệm Phật cầu vãng sanh, như pháp sư Đế Nhàn, pháp sư Đàm Hư trong thời cận đại, đều niệm Phật cầu vãng sanh.

 

(Sao) Địch phá ngoại đạo đoạn thường nhị kiến.

() 敵破外道斷常二見。

(Sao: Phá trừ hai kiến chấp Thường và Đoạn của ngoại đạo).

 

Cách nói ấy của tông Thiên Thai nhằm phá trừ Thường Kiến và Đoạn Kiến của ngoại đạo.

 

(Sao) Như Thanh Lương chiết trung chư gia sở thuyết, dư thuyết thượng đa, khủng phiền bất dẫn.

() 如清涼折衷諸家所說,餘說尚多,恐繁不引。

(Sao: Như ngài Thanh Lương chọn lọc, dung hòa những thuyết của các vị ấy, còn có rất nhiều thuyết khác, sợ rườm rà nên chẳng dẫn ra đây).

 

Nếu trích dẫn [trọn đủ] sẽ phiền lắm, quá nhiều!

 

(Sao) Dĩ thượng các hữu ý nghĩa, tiểu dị đại đồng, tịnh vô tương ngại.

() 以上各有意義,小異大同,並無相礙。

(Sao: Các ý nghĩa được nhắc đến trên đây, khác nhau đôi chút, nói chung là tương đồng, trọn chẳng trở ngại lẫn nhau).

Nếu đọc nhiều thì những điều này đều thuộc loại kiến thức Phật học thông thường; vì thế, những cách nói [khác biệt vừa dẫn trên đây] thật sự là đại đồng tiểu dị, tuyệt đối chẳng trái nghịch chân lý.

 

(Sao) Dĩ Tông giản định giả.

() 以宗揀定者。

(Sao: Dùng Tông của hành nhân đang tu tập để biện định, chọn lựa).

 

Đây là dựa trên tông phái, bản thân chúng ta đang tu học tông nào hay pháp môn nào, bèn dùng giáo nghĩa trong tông ấy hoặc môn ấy để chọn lựa, biện định, sẽ đạt được lợi ích lớn nhất.

 

(Sao) Như Thị nhị nghĩa, tùy tông dĩ định.

() 如是二義,隨宗以定。

(Sao: Ý nghĩa của hai chữ Như Thị sẽ tùy theo tông [ta đang tu học] để biện định ý nghĩa).

 

Mỗi tông có một cách giảng riêng theo tông ấy.

 

(Sao) Kim thử kinh tông hồ nhất tâm.

() 今此經宗乎一心。

(Sao: Nay kinh này đề cao nhất tâm).

 

Bản kinh này lấy “nhất tâm bất loạn” làm Tông.

 

(Sao) Lương diêu chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn. Nhất tâm, tắc phi sanh, phi diệt, vô khứ, vô lai, trạm nhiên thường trụ.

()良繇執持名號,一心不亂。一心,則非生非滅,無去無來,湛然常住。

(Sao: Bởi lẽ, chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn. Nhất tâm chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đến, chẳng đi, trong lặng, thường trụ).

 

Điều này là đúng, quý vị phải liễu giải điều này. Nay chúng ta thấy hết thảy các pháp trong thế giới này đều là sanh diệt, vô thường. Vì sao có hiện tượng này? Vì tâm chúng ta sanh diệt, vô thường; tâm sanh diệt thấy cảnh giới bên ngoài sanh diệt, tâm vô thường thấy vạn pháp vô thường. Nói thật ra, chẳng phải là vạn pháp có sanh diệt hay vô thường! Nếu nói vạn pháp là sanh diệt, vô thường, sai mất rồi! Đạo lý này rất khó hiểu, chúng ta có thể nêu tỷ dụ để nói, giống như hiện thời chúng ta chiếu phim, nhìn vào TV sẽ chẳng dễ thấy, nhưng chiếu phim sẽ dễ nhìn ra! Quý vị thấy phim ảnh, nay chúng ta thường sử dụng máy quay phim loại nhỏ không chuyên nghiệp, trong một giây thường chụp được hai mươi bốn “pô”, tức là hai mươi bốn tấm phim được chụp liên tục [trong một giây]. Mỗi khi ống kính mở đóng một lần, ống kính mở ra, chúng ta xem như một tấm phim được sanh ra, ống kính đóng lại, ta bảo tấm phim diệt. Một giây, ống kính đóng mở hai mươi bốn lần, tức là hai mươi bốn lần sanh diệt. Hình ảnh được chiếu lên [ví như] tướng bên ngoài, [mỗi giây] chiếu hai mươi bốn tấm [khác nhau], tướng bên ngoài có sanh diệt hay không? Chẳng có, nhưng ống kính đóng hay mở là có sanh diệt. Vì nó đóng hay mở, nên chiếu cuộn phim này giống như có sanh có diệt. Nếu chúng ta chẳng dùng đến sự đóng mở ấy, mà trực tiếp nhìn vào [từng tấm ảnh trong cuốn phim] sẽ chẳng thấy tướng sanh diệt.

Trong tâm chúng ta, mỗi giây “đóng mở” (sanh diệt) bao nhiêu lượt? Trong kinh, đức Phật đã nêu ra một tỷ dụ, Ngài nói một cái khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, tức là [một sát-na] bằng một phần sáu mươi [thời gian] khảy ngón tay một lần. Đại khái, chúng ta khảy nhanh một tí, trong một giây có thể khảy bốn lần, chúng ta có thể khảy được như thế. Trong một giây khảy bốn lần, bốn nhân sáu mươi thì trong một sát-na có bao nhiêu lần sanh diệt? Đức Phật nói mỗi niệm trong tâm chúng ta có chín trăm lần sanh diệt. Chư vị lại nhân lên xem, chín trăm nhân với sáu mươi nhân với bốn [thành hai trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt]. Máy chiếu phim mỗi giây rọi hai mươi bốn tấm phim lên màn bạc, quý vị đã ngỡ là thật, chẳng thấy nó là giả. Nay chúng ta nhìn hiện tượng bên ngoài, trong một giây có hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần (216.000) sanh diệt, làm sao thấy được chân tướng của tướng cảnh giới bên ngoài? Nhìn chẳng ra! Chẳng thấy chân tướng! Thật sự đạt đến nhất tâm, nhất tâm là chẳng có tâm sanh diệt trong ấy, sanh diệt đã đoạn rồi, đó là chân tâm.

Dùng chân tâm để nhìn cảnh giới bên ngoài thì cảnh giới bên ngoài như thế nào? Bất sanh, bất diệt. Vì vậy, trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã dạy: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ (bất hoại)” (pháp ấy trụ nơi pháp vị, tướng thế gian thường trụ (chẳng hư hoại)), tức là Ngài dạy chúng ta: Hết thảy các hiện tượng bất sanh, bất diệt. Nếu quý vị nghĩ tướng ấy có sanh, có diệt, quý vị đã nhìn sai mất rồi! Nếu quý vị thấy hết thảy các pháp bất sanh bất diệt, đấy là Thật Tướng của các pháp. Ai có thể thấy Thật Tướng của các pháp? Đạt tới nhất tâm bất loạn sẽ thấy Thật Tướng của các pháp. Thấy Thật Tướng của các pháp, thế giới ấy cũng chẳng gọi là mười pháp giới, mà gọi là Nhất Chân pháp giới. Như vậy thì Nhất Chân pháp giới ở chỗ nào? Ở ngay trước mặt chúng ta. Chúng ta dùng máy chiếu phim đem chiếu lên màn bạc để nhìn, đấy chính là mười pháp giới; bỏ máy móc đi, bỏ sạch, không cần tới nó, sẽ là Nhất Chân pháp giới. Nay chúng ta chẳng dùng cái tâm sanh diệt ấy, thế giới vốn là Nhất Chân. Chẳng phải là nói ngoài mười pháp giới có một cái Nhất Chân, chẳng phải vậy! Mười pháp giới và Nhất Chân pháp giới là một, không hai, tùy thuộc quý vị dùng tâm gì để nhìn. Quý vị dùng tâm sanh diệt, sẽ thấy mười pháp giới; dùng tâm bất sanh bất diệt để nhìn, pháp giới ấy sẽ là Nhất Chân pháp giới, bởi lẽ, chân tướng sự thật là như vậy. Vì thế, quý vị có thể trở lại quá khứ, cũng có thể lập tức tới vị lai, vì sao? Ba đời là một, không hai. Quý vị có phân biệt, nên mới có ba đời, mới có quá khứ, hiện tại, vị lai; không có phân biệt, sẽ chẳng có ba đời! Do vậy, quý vị có thể trở lại quá khứ, mà cũng có thể đến vị lai. Đấy là nói “phi sanh, phi diệt, vô khứ, vô lai” (chẳng sanh, chẳng diệt, không đến, không đi), chẳng có đến hay đi.

“Trạm nhiên thường trụ”:  Trạm nhiên (湛然) là tỷ dụ. Trong kinh Phật thường dùng bình ngọc lưu ly thanh tịnh làm tỷ dụ. Lưu Ly: Nay chúng ta gọi ngọc Lưu Ly được nói trong kinh Phật là ngọc Phỉ Thúy (Jadeite). “Pha lê” (Sphatika) được nhắc đến trong kinh chính là “thủy tinh” trong hiện thời. Thời cổ chưa phát minh ra pha lê, thủy tinh [thuở đó] là chất pha lê trong thiên nhiên. Những khoáng vật trân quý ấy thanh tịnh, trong ấy chẳng có một tí gì dơ bẩn, giống như bình bằng ngọc Lưu Ly đựng nước, trong ngoài sạch sẽ, khiết tịnh! Đấy là ý nghĩa của chữ “trạm nhiên”. Điều này ví như Chân Như bổn tánh của chúng ta. Nói thật ra, Chân Như bổn tánh chẳng có mảy may ô nhiễm nào! Nay chúng ta nói nó bị nhiễm bẩn, đó là đức Phật nói phương tiện, chẳng phải là thật sự ô nhiễm! Thật sự ô nhiễm thì làm sao có thể đoạn được? Làm sao còn có thể trừ khử được? Do vậy, mê chỉ là mê bề ngoài, tuyệt đối chẳng phải là mê Chân Như bổn tánh, không phải vậy. Chúng ta nói “ô nhiễm” thì chắc chắn chẳng phải là Chân Như bổn tánh bị ô nhiễm. Đến tột cùng mê ở chỗ nào? Ô nhiễm ở chỗ nào? Thưa quý vị, quý vị chú tâm tìm tòi, sẽ chẳng tìm được! Chính vì chẳng tìm được, nên đức Phật mới bảo mê và ô nhiễm là hư vọng, chẳng thật! Nếu là thật, sẽ nhất định tìm được. Quý vị tìm không được, nên nó mới là hư vọng. Vì vậy, gọi là “mê vọng”, mê chẳng phải là thật, mê là hư vọng.

Đã biết là hư vọng thì nhất định có thể rời khỏi cái mê ấy,  có thể đoạn sạch nó. Giác là thật, bổn tánh là thật, thanh tịnh là thật, nên chắc chắn có thể khôi phục. Đến lúc nào sẽ khôi phục? Nói thật ra là trong một niệm! Nhất niệm hoảng nhiên đại ngộ sẽ ngay lập tức khôi phục. Vì thế, Phật pháp mầu nhiệm ở chỗ này, khiến cho quý vị giác ngộ. Sau khi giác ngộ, sẽ được gọi là “phá mê, khai ngộ”. Mê ấy về căn bản là giả, chẳng thể tìm được! Chẳng hạn như quý vị nói: “Trong tâm tôi buồn phiền quá, phiền não! Có phương pháp gì để có thể đoạn phiền não hay chăng?” Có phương pháp! Quý vị hãy tìm cho ra phiền não để tôi nhìn thấy, tôi sẽ đoạn nó giùm quý vị. Quý vị có thể tìm được phiền não hay không? Kết quả là quý vị tìm cách nào cũng chẳng tìm được. Tìm chẳng được phiền não thì về căn bản là không có phiền não! Đấy là chân tướng tỏ lộ.

Thuở ấy, Huệ Khả đại sư là Nhị Tổ của Thiền Tông tuy xuất gia tu hành, nhưng tâm bất an, phiền não rất nặng. Ngài rất hy hữu, thấy Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang, ngồi nhìn vách suốt chín năm tại chùa Thiếu Lâm, công phu Thiền Định rất sâu, nên thỉnh Tổ hãy dạy Ngài. Về căn bản, Tổ Đạt Ma không đoái hoài ngài Huệ Khả. Ngài Huệ Khả thấy Đạt Ma tổ sư không quan tâm tới, khi đó, mùa Đông, trời đang đổ tuyết, Ngài dùng đao chặt đứt một cánh tay, tay phải cầm cánh tay trái dâng lên cúng dường Tổ Đạt Ma. Ngài Đạt Ma ngó lại: “Vì sao ngươi làm như thế?” Ngài thưa: “Tâm con bất an, xin lão nhân gia an tâm cho con”. Đạt Ma tổ sư duỗi tay ra, nói: “Được rồi, ngươi lấy cái tâm ra cho ta coi. Ta sẽ an nó cho ngươi”. Lúc ấy, ngài Huệ Khả mới hồi quang phản chiếu, tìm mãi chẳng được, tâm chỗ nào vậy? Cuối cùng, trả lời Đạt Ma tổ sư: “Con tìm tâm, nhưng chẳng thể tìm được!” Đạt Ma tổ sư nói: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Ta thay ngươi an cái tâm rồi, ngươi tìm chẳng được, tìm không được tức là nó không có! Ngươi còn cái gì để có thể bất an nữa đây? Do câu nói ấy, tổ Huệ Khả bèn khai ngộ và trở thành tổ sư đời thứ hai của Thiền Tông.

Quý vị thật sự có phiền não, quý vị có thể dùng cách này: Lấy phiền não ra, tìm ra nó cho tôi xem, phiền não của quý vị ở chỗ nào? Có hình dạng giống như thế nào? Là vuông, tròn, hay dẹp? Tìm cho ra để coi thử, nó là vàng, đỏ, hay xanh lá cây? Quý vị có thể tìm ra hay chăng? Tìm không ra, về căn bản là chẳng có chuyện này, tức là quý vị mê hoặc, điên đảo! Hễ quý vị ngộ thì điều gì cũng chẳng có. Do vậy, đức Phật giảng lẽ thật cùng quý vị, pháp chân thật là như vậy đó. Đấy là “trạm nhiên thường trụ, chân tâm thường trụ”. Trong hội Lăng Nghiêm, tôn giả A Nan rất lỗi lạc, Ngài suy nghĩ đến bảy chỗ đều nghĩ chẳng đúng! Ngài thưa trình những chỗ Ngài nghĩ tâm ở đó, đức Phật bèn dạy: “Ông tìm cái tâm ra cho ta coi”. Tìm bảy chỗ, Phật đều bác bỏ, đều sai cả, đúng là tìm tâm trọn chẳng thể được. Do vậy, [đoạn văn giảng về] bảy chỗ gạn tâm [trong kinh Lăng Nghiêm] đích xác là khai trí huệ. Đó là nói về nhất tâm bất loạn, dùng mấy câu này để miêu tả hình dạng của nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn được gọi là Như.

 

(Sao) Hựu thử nhất tâm, tứ quá ly, bách phi tuyệt, cố danh viết Thị.

() 又此一心,四過離,百非絕,故名曰是。

(Sao: Lại nữa nhất tâm ấy, lìa bốn lỗi, dứt trăm điều sai, nên gọi là Thị).

 

Trong kinh nói đến “tứ quá, bách phi” rất nhiều. Đức Phật nêu ra thí dụ này, có thể nói là đã bao quán tất cả vọng tưởng của chúng ta. “Quá” là quá thất (過失: lầm lỗi), [tứ quá] là bốn thứ lầm lỗi. Chúng tôi tùy tiện nêu lên một thứ để nói, chẳng hạn như Thị Phi. Thị (是: đúng) là cái thứ nhất, Phi Thị (非是: chẳng đúng) là cái thứ hai. Diệc Thị Diệc Phi (亦是亦非: vừa đúng, vừa sai) là cái thứ ba, Phi Thị Phi Phi (非是非非: chẳng phải đúng, chẳng phải sai) là cái thứ tư. Những thứ ấy gọi là Bốn Thứ Lầm Lỗi Căn Bản. Tâm thanh tịnh há có Thị, Phi? Hễ có Thị thì tương phản của nó là Phi, thiết lập sự tương đối, Thị cũng là trật! Thị và Phi thảy đều chẳng có thì mới không có lầm lỗi; nhưng quý vị thảy đều chẳng có, hễ còn có ý niệm này (tức ý niệm “mọi thứ thảy đều chẳng có”), quý vị vẫn chưa thanh tịnh! Do vậy, Song Diệc và Song Phi (Diệc Thị Diệc Phi và Phi Thị Phi Phi) đều là lầm lỗi, đây là nêu ra một trường hợp để nói!

Nêu ra bất cứ câu nào, thì sự tương đối được kiến lập đều có đủ bốn câu. Trong mỗi câu thuộc bốn câu ấy, quý vị phỏng theo lệ ấy để suy diễn, [thì trong mỗi câu] lại có bốn câu, nên biến thành bốn lần bốn là mười sáu câu. Đối với mười sáu câu thì quá khứ có mười sáu câu, hiện tại có mười sáu câu, vị lai có mười sáu câu, cho nên biến thành bốn mươi tám câu. Đối với bốn mươi tám câu, lại có bốn mươi tám câu đã dấy niệm, và bốn mươi tám câu chưa dấy niệm, gộp lại thành chín mươi sáu câu. Chín mươi sáu câu ấy kể cả bốn câu căn bản hợp thành một trăm câu, nên gọi là Bách Phi. Từ ngữ này bao quát tất cả hết thảy vọng tưởng. Tất cả vọng tưởng suốt ngày từ sáng đến tối của quý vị chẳng ra ngoài nguyên tắc “tứ cú bách phi” này! Quý vị mỗi ngày dấy vọng tưởng, hết thảy đều là hư vọng, trong nhất tâm bất loạn không có, những thứ ấy thảy đều chẳng có, nên gọi là Thị. Đó là dùng nghĩa lý “nhất tâm bất loạn” trong kinh này để giải thích.

 

(Sao) Dị thử sở minh, bất đắc xưng Thị.

() 異此所明,不得稱是。

(Sao: Những gì khác với những điều được nêu lên ở đây sẽ chẳng được gọi là Thị).

 

Nếu nói khác với cách giải thích này, sẽ chẳng phải là cách giảng trong tông này. Đối với tông này, cách giảng hai chữ Như Thị [như vừa đã nêu trên đây] là hợp lý nhất; đó cũng là sự thụ dụng tốt nhất trong sự tu học pháp môn này. Hai chữ Như Thị được giới thiệu đến đây [là xong], dưới đây là giảng về Ngã Văn.

 

(Sao) Ngã văn giả, Văn Thành Tựu dã.

() 我聞者,聞成就也。

(Sao: “Tôi nghe” là Văn Thành Tựu).

 

Trong sáu thứ thành tựu, món thứ hai là Văn Thành Tựu.

 

(Sao) Ngã giả, tự ngã.

() 我者自我。

(Sao: Ngã là tự mình).

 

Là chính mình.

 

(Sao) Văn giả, thân văn, tự ngã thân văn, phi tư thục cố, phi độc cổ cố.

() 聞者親聞,自我親聞,非私淑故,非讀古故。

(Sao: “Nghe” là đích thân nghe, chính mình đích thân nghe, chẳng phải là do được nghe truyền lại, chẳng phải do đọc tác phẩm của cổ nhân).

 

[Nói “ngã văn”] nhằm phân biệt với “tư thục”“độc cổ”. [“Tư thục”“độc cổ”] chẳng phải là đích thân nghe, mà là nghe truyền lại, nghe lời truyền thuật lại. “Độc cổ” là đọc sách, chúng ta đọc sách của cổ nhân, biết một số chuyện, nhưng chẳng phải là chính tai ta nghe, mà là nghe thuật lại! “Tư thục”: Trong Phật môn và Nho gia đều có “tư thục đệ tử”, tức là học theo cổ nhân. Chúng tôi cũng thường đề xướng điều này, vì hiện thời chẳng có những vị đại đức tại thế, chúng ta phải làm như thế nào thì mới có thể thành tựu? Chúng ta học theo cổ nhân. Chẳng hạn như chúng ta muốn học kinh Di Đà, mà chẳng tìm được một vị thầy giỏi, nhưng bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư vẫn còn, chúng ta noi theo Sớ Sao để học kinh Di Đà, làm đệ tử của Liên Trì đại sư; đó gọi là “tư thục đệ tử”. Chẳng phải do Ngài đích thân dạy bảo chúng ta, nhưng trước tác của Ngài vẫn còn, chúng ta học từ văn tự của Ngài, đó gọi là “tư thục đệ tử”. Từ xưa tới nay, người dùng phương pháp này, tu thành công vô cùng nhiều. Ngẫu Ích đại sư học theo ngài Liên Trì, là tư thục đệ tử của Liên Trì đại sư, vì lúc ấy, Liên Trì đại sư đã vãng sanh. Ngài Ngẫu Ích học bộ Sớ Sao, trở thành nhất đại tổ sư của Tịnh Độ Tông, Ngài học thành công.

Phải như thế nào mới là tư thục đệ tử thật sự? Giống như thuở trước bái sư, người ấy vô cùng kính phục thầy, bội phục đến năm vóc gieo xuống đất, muốn theo Ngài. Học bao nhiêu năm? Phải học mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm, chuyên học với một vị thầy. Chẳng hạn như quý vị muốn làm tư thục đệ tử của Liên Trì đại sư, làm bạn đồng học với Ngẫu Ích đại sư, tối thiểu quý vị phải đọc bộ Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Trì đại sư mười năm. Tác phẩm này chỉ có bốn quyển, kể cả kinh và sớ, mỗi ngày quý vị đọc một lượt, đọc hằng ngày, đọc suốt mười năm, tôi thấy quý vị cũng chẳng kém Ngẫu Ích đại sư, cũng sẽ trở thành nhất đại tổ sư của Tịnh Độ Tông, thật đấy, chẳng giả đâu! Học theo lời dạy của một vị, theo một thầy, lúc đó mới gọi là “tư thục đệ tử”. Hôm nay ta đọc tác phẩm này, mai xem tác phẩm khác, chẳng thể gọi là “tư thục đệ tử” được. Theo chắc chắn một vị thầy, phải theo suốt mười năm, hai mươi năm, tối thiểu là mười năm, chẳng thể ít hơn mười năm. Mỗi ngày đọc sách này, mỗi ngày đọc một lần, đọc suốt mười năm sẽ khai ngộ, thật sự đạt được nhất tâm bất loạn.

 

(Sao) Tự ngã thân văn giả, tự giản phi kỷ, thân giản phi diện, cái thị kỷ cung diện thọ chi thuyết dã.

()自我親聞者,自揀非己,親揀非面,蓋是己躬面受之說也

(Sao: “Tự mình đích thân nghe”: Chữ Tự nhằm tách biệt với trường hợp chẳng phải do chính mình [nghe nhận], chữ Thân nhằm tách biệt với trường hợp vắng mặt (chỉ nghe nói lại), tức là chính mình đối trước mặt, vâng nhận lời dạy của [đức Thế Tôn]).

 

“Tự ngã thân văn”: Chính mình nghe nói, được thầy trực tiếp chỉ dạy.

 

(Sao) Tư thục giả, Mạnh Tử vân: “Dư vị đắc vi Khổng Tử đồ dã, dư tư thục chư nhân dã.

()私淑者,孟子云:予未得為孔子徒也,予私淑諸人也。

(Sao: “Tư thục”, Mạnh Tử nói: “Ta chưa được làm học trò Khổng Tử, ta học lại với các môn đệ của Ngài”)[51].

 

“Đồ” (徒) là học trò. Ngài không sống cùng một thời đại với Khổng Tử, Khi Mạnh Tử sanh ra, Khổng lão phu tử đã qua đời, chẳng còn ở trên đời. Do vậy, chẳng thể làm học trò Khổng lão phu tử. “Dư tư thục chư nhân”: Tự mình hướng về các môn sinh của Khổng lão phu tử học tập, tức là được nghe những lời truyền dạy lại, chứ không trực tiếp tiếp nhận [giáo huấn của thầy].

 

(Sao) Thích viết.

() 釋曰。

(Sao: Giảng rằng).

 

Giải thích.

 

(Sao) Dĩ Mạnh Tử phi thân kiến Khổng Tử, nãi thọ nghiệp Khổng Tử chi hậu nhân, nhi tư kỳ đạo, dĩ thiện kỳ thân giả dã.

()以孟子非親見孔子,乃受業孔子之後人,而私其

道,以善其身者也。

(Sao: Do Mạnh Tử chẳng đích thân gặp Khổng Tử, mà theo học với hậu duệ của Khổng Tử, tự mình dùng đạo ấy để tu thân trở thành tốt lành vậy).

 

Đó gọi là “tư thục đệ tử”, chẳng do thầy đích thân truyền dạy.

 

(Sao) Độc cổ giả, Tề Hoàn Công độc thư ư đường thượng, luân nhân dĩ vi sở độc giả, cổ nhân chi tao phách nhĩ.

()讀古者,齊桓公讀書於堂上,輪人以為所讀者,古人之糟粕耳。

(Sao: “Đọc sách cổ”: Tề Hoàn Công đọc sách nơi nhà trên, người thợ làm bánh xe chê nhà vua đọc sách như vậy là nhai bã của cổ nhân).

 

Chuyện này phê phán Tề Hoàn Công[52]. Tề Hoàn Công là chư hầu, tức là hoàng đế [nước Tề] thời ấy, đọc sách. “Luân nhân” là người làm công, là một anh thợ [làm bánh xe]. Anh ta nghe nhà vua đọc sách, bèn phê phán: “Những điều nhà vua đọc chẳng phải là tinh hoa, cốt lõi của cổ nhân, mà là đọc cặn bã của cổ nhân”. Đây là một điển cố, dưới đây là lời giải thích.

 

(Sao) Dĩ Hoàn Công phi diện đối cổ nhân, cổ nhân dĩ vãng, vi đồ độc kỳ di ngôn giả dã.

()以桓公非面對古人,古人已往,為徒讀其遺言者

也。

(Sao: Bởi lẽ Hoàn Công chẳng gặp mặt cổ nhân, cổ nhân đã qua đời rồi, chỉ uổng công đọc di ngôn của họ).

 

Nói thật ra, câu này chính là như chúng ta thường nói: “Ăn chẳng tiêu”. Hằng ngày đọc, nhưng chẳng thể tiêu hóa, đọc những thứ ấy chẳng có tác dụng gì! Chúng ta đọc kinh Phật cũng vậy, nếu quý vị chẳng thể tiêu hóa ý nghĩa (lãnh hội ý nghĩa chân thật) của kinh điển, cổ nhân bảo là “chết cứng nơi từng hàng chữ”. Chẳng thà không đọc sách! Nếu nói khó nghe hơn, sẽ là đọc sách trở thành đần, đọc sách lâu ngày biến thành kẻ ngây ngốc vì sách, sai mất rồi! Tề Hoàn Công đọc sách nhưng chẳng tiêu hóa được, nên bị anh thợ chê cười!

 

(Sao) Kim A Nan cung phùng chí thánh, phi tư thục dã, hợp thượng tự ngã.

() 今阿難躬逢至聖,非私淑也,合上自我。

(Sao: Nay ngài A Nan đích thân gặp gỡ bậc chí thánh, chẳng phải là “tư thục”, điều này phù hợp với ý nghĩa “tự ngã” trong phần trên).

 

Ngài A Nan sống cùng một thời đại với Thích Ca Mâu Ni Phật, làm đệ tử Phật, mỗi ngày tự mình nghe Phật thuyết pháp. Do vậy, Ngài chẳng phải là tư thục đệ tử của đức Phật!

 

(Sao) A Nan nhĩ linh chí giáo, phi độc cổ dã, hợp thượng thân văn.

() 阿難耳聆至教,非讀古也,合上親聞。

(Sao: Ngài A Nan đích thân nghe giáo lý tột bậc, chẳng phải là đọc sách của cổ nhân, phù hợp với ý nghĩa “thân văn” trong phần trên).

 

Ngài đích thân nghe Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, cho nên chẳng phải là đọc sách cổ.

 

(Sao) Tự ngã thân văn, kim dĩ cáo chúng, tiện ưng tín thọ, cánh phục hà thuyết.

() 自我親聞,今以告眾,便應信受,更復何說。

(Sao: Do chính mình đích thân nghe, nay thuật lại với đại chúng, họ liền tin nhận, chẳng còn nói gì nữa!)

Đây là chứng tín cho chúng ta, chẳng phải là Ngài nghe thuật lại, chẳng phải là đọc sách cổ rồi xen lẫn kiến giải của chính mình vào đó, mà là trực tiếp nghe lời Phật dạy, nhắc lại lời Phật, đúng như lời Phật nói.

 

(Sớ) Thánh nhân vô ngã, kim hà xưng Ngã?

()  聖人無我,今何稱我?

(Sớ: Thánh nhân vô ngã, sao nay xưng là Ta?)

 

Trong Phật pháp, điều thứ nhất là phải phá Ngã Chấp. Nếu chẳng phá Ngã Chấp, sẽ không thể thoát khỏi tam giới; nói cách khác, chắc chắn luân hồi trong lục đạo, chẳng thể thoát được! Nếu chẳng phá Pháp Chấp, sẽ chẳng thể kiến tánh. Do lẽ đó, hàng A La Hán phá Ngã Chấp, chưa phá Pháp Chấp, nên các Ngài vượt thoát lục đạo luân hồi, nhưng chẳng thể kiến tánh. Vì thế, cả hai thứ chấp trước Ngã và Pháp đều phải phá, đặc biệt là phá Ngã Chấp được xếp vào vị trí thứ nhất. Chúng ta niệm Phật thì chư vị phải biết, đối với “nhất tâm bất loạn” được nói trong phần sau kinh này, để giảng bốn chữ ấy, trong tác phẩm [Sớ Sao] này, Liên Trì đại sư đã dành tới nửa quyển văn tự để chú sớ. Bản chú giải của Ngài gồm tất cả bốn quyển; nói cách khác, [Ngài đã dùng tới] một phần tám văn tự [trong toàn bộ bản chú giải] để giải thích “nhất tâm bất loạn”. Quý vị bèn hiểu bốn chữ ấy là một câu trọng yếu nhất trong kinh này. Nhất tâm bất loạn có hai loại là Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Niệm thế nào thì mới có thể đạt đến Sự nhất tâm? Phá Ngã Chấp là Sự nhất tâm, phá Pháp Chấp là Lý nhất tâm. Có thể thấy phá Ngã Chấp rất trọng yếu!

Ngài A Nan là thánh nhân, lúc kết tập kinh điển, Ngài đã chứng Tứ Quả; chứng Tứ Quả, chưa phá Pháp Chấp, nhưng chắc chắn đã phá Ngã Chấp; cớ sao Ngài vẫn nói “Ta”? Tiếp theo đây là lời giải thích cho lời cật vấn “thánh nhân vô ngã, kim hà xưng Ngã” (thánh nhân vô ngã, nay sao lại xưng là Ta), [Liên Trì đại sư] trích dẫn lời giảng của Đại Trí Độ Luận.

 

(Sớ) Trí Luận hữu tam.

()  智論有三。

(Sớ: Đại Trí Độ Luận nêu ra ba điều).

 

Đại Trí Độ Luận đã nêu ra ba lý do.

(Sớ) Nhất, tùy thế gian cố.

()  一、隨世間故。

(Sớ: Một, do thuận theo thế gian).

Nhằm thuận tiện trao đổi ý kiến, thuận tiện giáo hóa chúng sanh, nếu chẳng dùng danh xưng Ta, sẽ chẳng có cách nào dạy người khác. Vì lợi ích chúng sanh, tôi tùy thuận thế gian. Quý vị gọi thứ này là Ta thì tôi cũng nói là Ta!

 

(Sớ) Nhị, phá tà kiến cố.

()  二、破邪見故。

(Sớ: Hai là do phá tà kiến).

Nếu chứng Vô Ngã, nhưng chính mình đối với người khác cũng chẳng thừa nhận, phủ định Ngã, sẽ trở thành tà tri tà kiến, không thể được!

 

(Sớ) Tam, bất trước Vô Ngã cố.

()  三、不著無我故。

(Sớ: Ba, do chẳng chấp trước Vô Ngã).

Chẳng chấp trước Ngã, mà cũng chẳng chấp trước Vô Ngã, tới lúc ấy mới thật sự là đoạn Ngã Chấp.

 

(Sớ) Dĩ thị tam giả, bất ngại thuyết Ngã, hựu Pháp Thân chân ngã, diệc đắc xưng Ngã.

()  以是三者,不礙說我,又法身真我,亦得稱我。

(Sớ: Do ba điều ấy, chẳng ngại nói đến Ngã. Hơn nữa, Pháp Thân là Chân Ngã, nên cũng có thể nói Ngã).

Nếu thật sự thấy Pháp Thân, xác thực là Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, bốn ý nghĩa ấy là chân thật, chẳng giả. Nay vì sao đức Phật dạy chúng ta phá Ngã Chấp? Chúng ta chưa thấy Pháp Thân. Chưa thấy Pháp Thân thì khái niệm Ngã của chúng ta là giả, chẳng thật! Ý nghĩa này rất ư là sâu! Trong phần sau của bản chú giải này sẽ còn thảo luận cặn kẽ. Những chỗ này đều đáng cho chúng ta học tập. Chúng ta phải hiểu chân tướng sự thật, phải học theo Phật, Bồ Tát, nội tâm của chính mình phải thanh tịnh, chớ nên phân biệt, đừng chấp trước. Nhưng khi chúng ta tiếp xúc đại chúng, thuận theo sự phân biệt của chúng sanh mà phân biệt, thuận theo sự chấp trước của chúng sanh mà chấp trước. Do vậy, nói: “Phật pháp tại thế gian, bất hoại thế gian tướng” (Phật pháp trong thế gian, chẳng hoại tướng thế gian). Không phá hoại tướng thế gian thì gọi là “đại từ, đại bi”.

Chấp trước và chẳng chấp trước đồng thời, chẳng có trước sau, không có thứ tự. Đối với chính mình mà nói thì không có chấp trước, vô ngã; đối người khác bèn nói Ta. Đây là chỗ khác nhau giữa Phật, Bồ Tát và chúng ta. Chúng ta nói Ta, chính mình thật sự có một cái chấp trước Ngã kiên cố; Phật, Bồ Tát trọn chẳng chấp trước. Do tùy thuận chúng sanh mà Phật, Bồ Tát nói [như thế], vì lợi ích chúng sanh mà nói, chẳng phải vì lợi ích chính mình.

Chư vị phải hiểu: Chính mình chẳng có sự chấp trước ấy, đó là tự lợi; hòa quang đồng trần với người khác là lợi tha. Tự lợi và lợi tha cũng là đồng thời, chẳng có thứ tự trước hay sau. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 104

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm chín mươi chín:

 

(Sớ) Thánh nhân vô ngã, kim hà xưng Ngã? Trí Luận hữu tam: Nhất, tùy thế gian cố; nhị, phá tà kiến cố; tam, bất trước vô ngã cố. Dĩ thị tam giả, bất ngại thuyết Ngã. Hựu Pháp Thân chân ngã, diệc đắc xưng Ngã.

() 聖人無我,今何稱我?智論有三:一、隨世間故,二、破邪見故,三、不著無我故。以是三者,不礙說我,又法身真我,亦得稱我。

(Sớ: Thánh nhân vô ngã, nay cớ sao nói là Ta? Trí Độ Luận nêu lên ba điều: Một, do tùy thuận thế gian; hai, do phá tà kiến; ba, do chẳng chấp trước Vô Ngã. Do ba điều ấy, nói Ngã chẳng trở ngại gì. Lại nữa, Pháp Thân là Chân Ngã, nên cũng nói Ngã).

 

Đoạn này nhằm ngăn ngừa trước trường hợp có những kẻ học một chút Phật pháp, [bèn bắt bẻ] trong kinh Phật thường nói phải phá Ngã Chấp và Pháp Chấp. Sơ Quả đã phá Thân Kiến, Tứ Quả La Hán đã phá Ngã Chấp, vì sao, các Ngài vẫn còn nói Ta? Ngăn ngừa mối nghi hoặc như thế, cho nên ở đây, đại sư đặc biệt giảng rõ, Ngài dẫn ba ý nghĩa [vì sao] xưng là Ta như trong Đại Trí Độ Luận đã giảng. Trong phần dưới có giải thích ba ý nghĩa ấy, chúng ta hãy đọc lời Sao:

 

(Sao) Thử hạ phục phân “ngã văn” vi nhị, ly thích đồng tiền.

() 此下復分我聞為二,離釋同前。

(Sao: Dưới đây lại chia “ngã văn” thành hai đoạn để giải thích từng điều [riêng rẽ] giống như [phương cách giải thích hai chữ “như thị”] trong phần trên).

 

“Ly” là tách ra để giảng, Ngã là gì? Văn là gì? Giống như phương cách đã được sử dụng trong phần trước. Điều thứ nhất là:

 

(Sao) Nhất vân tùy thế gian giả, vị thế pháp trung thuyết Ngã, phi Đệ Nhất Nghĩa trung thuyết Ngã, tùy thuận thế gian nhi thuyết, vô hữu thật thể, tắc bất quai ư Đệ Nhất Nghĩa dã.

()一云隨世間者,謂世法中說我,非第一義中說我,隨順世間而說,無有實體,則不乖於第一義也。

(Sao: Một là nói “tùy thuận thế gian” có nghĩa là nói Ngã theo pháp thế gian, chẳng phải là nói Ngã như trong Đệ Nhất Nghĩa Đế, tùy thuận thế gian mà nói, [cái Ngã ấy] chẳng có thực thể, nên chẳng trái nghịch Đệ Nhất Nghĩa).

 

Đệ Nhất Nghĩa chẳng thể nói được, điều này thường diễn tả là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Những gì có thể diễn tả được đều là Đệ Nhị Nghĩa, Đệ Tam Nghĩa! Những gì có thể tư duy, tưởng tượng, cũng không phải là Đệ Nhất Nghĩa. Đệ Nhất Nghĩa là gì? Trong Đệ Nhất Nghĩa, ngay cả Đệ Nhất Nghĩa cũng không có. Nếu có Đệ Nhất Nghĩa, sẽ chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa thật sự. Nói thật ra, nói theo tướng được hiện thì Chân Như bổn tánh được gọi là Nhất Chân pháp giới. “Chư pháp Thật Tướng” như kinh Pháp Hoa đã nói, hay “Lý nhất tâm bất loạn” được nói trong Tịnh Độ đều là Đệ Nhất Nghĩa. Nó có rất nhiều danh từ, hơn một trăm loại, đều nhằm nói về cùng một chuyện! Thật ra, chẳng thể nào diễn tả được! Chính chúng ta phải tự mình thấu hiểu, chỉ có thể lãnh hội, chẳng thể vận dụng tư duy, vì vừa rớt vào tư duy sẽ là Đệ Nhị Nghĩa, chẳng còn là Đệ Nhất Nghĩa nữa.

Nhà Thiền nói “tham Thiền” tức là lìa tâm ý thức để tham, lìa tâm ý thức là Đệ Nhất Nghĩa. “Tâm” là A Lại Da thức, “Ý” là Mạt Na thức, tức thức thứ bảy, “Thức” là thức thứ sáu (Ý Thức). Quý vị có thể rời khỏi thức thứ sáu, thức thứ bảy, thức thứ tám, những gì quý vị hiển lộ sẽ là Chân Như bổn tánh, Chân Như bổn tánh là Đệ Nhất Nghĩa. Làm thế nào mới có thể lìa được? Trước hết, quý vị phải hiểu “tâm ý thức” nghĩa là gì? Là hiện tượng như thế nào? Thức thứ sáu, tức Ý Thức, cái tâm phân biệt ấy là thức thứ sáu (Ý Thức), thức thứ bảy là chấp trước, chúng ta nói thức thứ tám là “ghi ấn tượng”. Nói cách khác, quý vị chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không giữ ấn tượng, lúc ấy là Đệ Nhất Nghĩa. Chúng ta mắt thấy sắc chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng giữ lại ấn tượng; tai nghe tiếng cũng chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng giữ lại ấn tượng, tức là không dùng tâm ý thức; khi ấy, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần đều là Đệ Nhất Nghĩa.

Ở đây, quý vị hãy khéo suy nghĩ, quý vị có thể nói một câu nào hay không? Đừng nói chi khác, chúng tôi nêu thí dụ như thế này: “Rời khỏi hết thảy danh tướng, quý vị hãy nói một câu xem, đấy là gì vậy? Quý vị có thể nói được hay không?” Lìa khỏi tướng danh tự, quý vị nói “trang giấy” thì “trang giấy” là danh tự, “tinh xá” cũng là danh tự, “cái thẻ kẹp sách” cũng là danh tự! Tôi bảo quý vị rời khỏi tướng danh tự, quý vị hãy nói một câu xem, đó là gì vậy? Chẳng nói được! Chẳng rõ ràng hay sao? Rõ ràng là nói không được, đấy là Đệ Nhất Nghĩa. Quý vị có thể nói được thì là Đệ Nhị Nghĩa, chẳng phải là Đệ Nhất Nghĩa.

Khi Phật pháp chưa truyền tới Trung Quốc, người Trung Quốc cũng biết tới cảnh giới ấy! Quý vị thấy Lão Tử đã nói: “Danh khả danh, phi thường danh; đạo khả đạo, phi thường đạo”, hai câu này có cùng một ý nghĩa với “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt” trong kinh Phật. Cách nói khác nhau, nhưng cảnh giới và ý nghĩa hoàn toàn tương đồng. Có thể thấy Lão Tử cũng thấy Đệ Nhất Nghĩa, cũng chứng đắc Thật Tướng của các pháp. Nếu Ngài không phải là Phật tái lai thì cũng là bậc Bát Địa Bồ Tát trở lên! Chẳng phải là Bát Địa trở lên, sẽ không thể nói được! Chưa nhập cảnh giới này, sẽ không thể nói được! Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc cũng đã nhập cảnh giới này.

Vì thế, trong Đệ Nhất Nghĩa là pháp bình đẳng, là pháp thanh tịnh, từ Đệ Nhất Nghĩa lưu xuất tác dụng là từ bi. Do vậy, từ bi là Tánh Đức, là đức năng sẵn có trong Chân Như bổn tánh, đại từ đại bi! Chúng ta thường nói “vô duyên Đại Từ, đồng thể Đại Bi”. Nếu chưa kiến tánh, tâm từ bi này không lưu xuất được, chúng ta muốn học cũng không học được, miễn cưỡng học cách nào cũng đều học không giống, ắt chính mình phải đích thân nhập cảnh giới này mới được. Bởi lẽ, trong Đệ Nhất Nghĩa không có Ngã! Như trong kinh Kim Cang đã nói bốn tướng đều là Không, Ngã lấy đâu ra? Khi ấy mới gọi là Đệ Nhất Nghĩa, cũng gọi là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa. Vì vậy, xác thực là Vô Ngã. Do tùy thuận thế gian bèn khởi tác dụng thì gọi là từ bi.

Nếu Phật thường trụ trong Đệ Nhất Nghĩa, trong Đệ Nhất Nghĩa thì như tôi vừa mới nói, không chỉ chẳng có ngôn ngữ, cũng chẳng có tư duy, thử hỏi đức Phật giáo hóa chúng sanh bằng cách nào? Đức Phật giảng các bộ kinh, nói nhiều lời như thế, đều là từ Đệ Nhất Nghĩa biến thành Đệ Nhị Nghĩa, nên chúng ta mới có thể đạt được lợi ích, Ngài mới có thể giảng cho chúng ta để chúng ta nghiên cứu thảo luận, một hỏi, một đáp. Nếu trong Đệ Nhất Nghĩa thì ngay cả ý niệm cũng chẳng thể khởi lên, còn có nói năng, ngôn ngữ chi nữa? Vậy thì Phật cũng chẳng thể giáo hóa chúng sanh, chúng sanh cũng vĩnh viễn chẳng thể khai ngộ. Do vậy, phải chuyển Trí thành Thức, chuyển thành phân biệt, chấp trước, giữ lại ấn tượng, khởi những tác dụng ấy. Khởi lên những tác dụng ấy nhằm giáo hóa chúng sanh. Vì thế, biến hiện [những tác dụng ấy] để người khác thụ dụng, chẳng phải để chính mình thụ dụng! Biến hóa tâm ý thức để người khác thụ dụng! Vì lẽ đó, chư Phật, Bồ Tát là trí và thức đồng thời khởi tác dụng, chẳng có thứ tự trước hay sau, vì sao? Ngài tự thụ dụng là Trí; nói cách khác, Ngài chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, mà cũng chẳng giữ lại ấn tượng, Ngài tự thụ dụng bốn trí Bồ Đề. Kẻ khác thụ dụng những gì? Tám thức. Vì thế, Phật là tám thức và bốn trí đồng thời. Đối với chính mình là bốn trí, đối với người khác là tám thức. Tám thức của Ngài do tứ trí biến hóa thành bát thức; vì thế, Ngài chẳng mê, chẳng phiền não. Đấy là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế.

Đích xác là phàm phu chúng ta chỉ có tám thức, chẳng có bốn trí, vì sao? Trong hết thảy các pháp bèn phân biệt, chấp trước, giữ lại ấn tượng, chuyện này phiền phức lớn lắm. Phiền phức gì vậy? Biến hiện lục đạo luân hồi như thế đó! Lục đạo luân hồi do chính mình biến ra, chính mình thoạt chìm, thoạt nổi trong ấy, ai có thể cứu quý vị? Không ai có thể cứu, người cứu quý vị vẫn là chính mình. Trừ chính mình ra, ai cũng đều chẳng thể cứu quý vị được! Quý vị nói Phật, Bồ Tát đại từ đại bi có thể cứu chúng ta, vậy thì Phật, Bồ Tát thật sự từ bi, đã sớm cứu thoát chúng ta hết cả rồi, lẽ đâu hiện thời chúng ta vẫn luân hồi sanh tử trong lục đạo? Phật, Bồ Tát không cứu được! Phật, Bồ Tát có thể cứu chúng ta bằng cách dạy cho chúng ta biết chân tướng sự thật này, chúng ta hiểu rõ rồi thì chính mình mới có cách,  cách gì vậy?  Giống như Phật,  Bồ Tát, chẳng dùng tâm ý thức sẽ chẳng có luân hồi, sẽ giải thoát.

Vì vậy, các đồng tu phải hiểu rõ, trong cuộc sống hằng ngày, lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới lục trần, phải biết rằng gốc bệnh sâu đậm là “phân biệt, chấp trước, giữ lại ấn tượng”, căn bệnh ấy đáng sợ lắm! Căn bệnh ấy là căn bản sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay. Ai có năng lực chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng giữ lại ấn tượng khi lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, ai có năng lực ấy? Người có năng lực ấy đã thành Phật, thành Bồ Tát, đã thoát lìa tam giới. Vì thế, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn đều nói cùng một Lý này, chẳng có Lý thứ hai nào! Ngàn kinh vạn luận đều nhằm nói về một Lý này. Rất nhiều phương pháp đều nhằm dạy chúng ta hãy xoay chuyển quan niệm, hễ chuyển được sẽ thành công. Vì sao chẳng thể chuyển được? Tập khí quá sâu! Dùng tâm ý thức đã thành thói quen. Chúng ta biết phải chuyển, nhưng hễ gặp chuyện bèn ngay lập tức hồ đồ, mê muội, lại quen thói sử dụng [tâm ý thức], rắc rối ở chỗ này! Từ vô thỉ kiếp tới nay đã dùng thành thói quen, nay xoay chuyển ngay lập tức sẽ chẳng thể chuyển được, chuyện này phiền lắm!

Nhưng chúng ta thấy cổ đức có nhiều vị thật sự chuyển được. Chúng ta phải đặc biệt lưu ý: Cớ sao các Ngài có thể chuyển được? Chúng ta nghiên cứu nguyên nhân, cố nhiên [người ta sẽ] thường nói: “Đó là bậc tái lai! Người ta tu hành nhiều đời nhiều kiếp!” Nếu chúng ta bị câu nói này mê hoặc, sẽ bị họa hại nghiêm trọng! Nói thật ra, lời ấy chẳng sai, đó là thiện căn nhiều đời nhiều kiếp, nhưng bản thân chúng ta không có [thiện căn] ư? Chính chúng ta cũng là thiện căn nhiều đời nhiều kiếp, đúng như trong khi giảng nghĩa kinh Vô Lượng Thọ hôm thứ Tư, chúng ta đã đọc một đoạn trong đó có dẫn lời của Thiện Đạo đại sư: Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chín phẩm sai biệt là vì chúng ta gặp duyên khác nhau. Lời ấy rất có lý, trong tâm chúng tôi bội phục! Nói cách khác, từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta luôn có thiện căn, người khác có thì ta cũng có, nhưng gặp duyên khác nhau, cho nên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới mới có chín phẩm sai biệt. Nói cách khác, ngày nay chúng ta gặp gỡ duyên thù thắng nhất, trong đời này vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thượng phẩm thượng sanh. Nếu gặp duyên kém cỏi, có thể là chẳng thể vãng sanh được! Đúng là gặp duyên bất đồng! Nhân đều giống nhau, lời nói ấy mới thật sự có lý. Do vậy, chúng ta phải coi trọng cái duyên.

Duyên chẳng ngoài ba điều kiện: Thứ nhất là thiện tri thức, thứ hai là đồng tham đạo hữu, thứ ba là đạo tràng. Thiện tri thức chân chánh là gì? Thật sự nhận biết rõ ràng, chẳng hiểu sai lạc pháp môn này, chúng ta noi theo người ấy sẽ chẳng đi sai đường. Đồng tham đạo hữu cùng nhau tu hành, khích lệ, rèn giũa lẫn nhau. Chư vị đồng tu phải biết: Kinh Phật gọi sự nhận thức ấy là chánh tri chánh kiến, không dễ dàng! Tôi thưa cùng quý vị đồng học, trong nhiều năm qua, tôi cũng đã dạy không ít học trò, từng dạy chẳng ít Phật Học Viện, nay nghĩ lại thì chính mình cũng rất hổ thẹn, vì sao? Đúng là như người ta thường nói: “Khiến cho con em người khác lầm lạc!” Dạy học khiến cho con em của người khác bị lầm lỡ. Tôi dạy tại Phật Học Viện, trong quá khứ cũng đã khiến cho con em người khác bị lầm lạc, nhưng chẳng phải là cố ý, vì sao? Chính mình chẳng nhận biết rõ ràng, cứ nghiễm nhiên làm thầy! Nay mới hiểu rõ, mới hối hận! Nay tôi đã hiểu rõ, nhận biết đường lối rồi! Sau khi nhận rõ, mới thật sự giác ngộ cách dạy học của cổ nhân là đúng, chính xác; nay chúng ta [tự phụ chính mình] thông minh, tài trí, nghĩ ra một khuôn khổ phương pháp khác, đó là sai lầm.

Cổ nhân dùng phương pháp gì? Thâm nhập một môn. Mười năm trước, tức năm 1977, tôi đến giảng kinh tại Hương Cảng lần đầu tiên, giảng kinh Lăng Nghiêm. Lúc ấy, lão pháp sư Hải Nhân ở Hương Cảng vẫn còn sống, năm sau Ngài viên tịch, tức là viên tịch năm 1978. Tôi đến viếng Ngài, khi ấy Ngài đã ngoài chín mươi tuổi, ở Hương Cảng, Ngài được xưng tụng là Thủ Lăng Nghiêm Vương. Sư cả đời chuyên giảng kinh Lăng Nghiêm. Tôi ở Hương Cảng, do tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, nghe nói Ngài suốt đời nghiên cứu kinh Lăng Nghiêm, đương nhiên phải đến bái yết Ngài, trò chuyện rất hợp ý, được lão nhân gia chỉ dạy rất nhiều. Làm học trò của Ngài chẳng dễ dàng, Ngài dạy học theo lối xưa, chẳng dùng kiểu mới, nghe nói Ngài chỉ có sáu vị đồ đệ. Tư cách ra sao mới được Ngài thâu nhận làm học trò? Phải thuộc kinh Lăng Nghiêm! Không chỉ thuộc lòng kinh, mà còn phải thuộc lòng chú giải. Ngài chỉ định bản chú giải, nếu là tôi, tôi sẽ không chọn bản chú giải ấy! Sư chọn bản Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Văn Cú do Ngẫu Ích đại sư trước tác. Trong quá khứ, tôi học Lăng Nghiêm, chọn bản chú giải Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch của pháp sư Giao Quang. Bản Văn Cú tôi cũng có, [sách được đóng thành] mười tập, khâu gáy bằng chỉ, cả kinh lẫn chú giải đều phải thuộc lòng. Nếu chẳng thể thuộc, Ngài sẽ không thâu nhận. Làm học trò của Ngài phải học thuộc kinh Lăng Nghiêm, phải thuộc chú giải; nhưng học trò của Ngài người nào cũng có thành tựu, Ngài sử dụng phương pháp của cổ xưa.

Nếu chúng ta nghiên cứu  Cao  Tăng  Truyện  kỹ càng,  từ xưa tới nay, thậm chí tại gia cư sĩ, họ thành tựu gần như chẳng có ngoại lệ nào, đều là suốt đời chuyên dồn công sức nơi một bộ kinh. Như vào đầu thời Dân Quốc, cư sĩ Giang Vị Nông suốt đời chuyên môn nghiên cứu kinh Kim Cang, ông ta dành ra bốn mươi năm dụng công nơi kinh Kim Cang, cuối cùng viết thành bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, đó là thành tích nghiên cứu bốn mươi năm của ông ta. Cư sĩ Châu Chỉ Am nghiên cứu Tâm Kinh, Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ, ông ta cũng phải tốn bốn mươi năm công phu để viết một bộ chú giải cho Tâm Kinh, tức Tâm Kinh Thuyên Chú. Quý vị suy nghĩ xem, tinh lực cả đời dồn vào một bộ kinh. Trong truyện ký của pháp sư Đàm Hư có đề cập “bát tái hàn song độc Lăng Nghiêm” (tám năm siêng gắng đọc kinh Lăng Nghiêm), đọc một bộ kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm. Vì vậy, mọi người nếu muốn thành tựu, thật sự phải đổ công sức mười năm hay tám năm nơi một bộ kinh. Mười năm hay tám năm ấy rất khổ, không ai biết tới quý vị, không ai hỏi đến quý vị! Mười năm quạnh quẽ siêng khổ học tập, học mười năm hay tám năm, quý vị sẽ khai ngộ! Hễ ngộ bèn nhập Đệ Nhất Nghĩa. Sau khi ngộ, hết thảy các kinh luận đều thông, tức là “một kinh thông, hết thảy các kinh đều thông”. Con người hiện tại đi lạc đường, vì sao? Hễ vừa dụng công bèn sách này cũng phải đọc, sách kia cũng phải xem, thứ gì cũng đều đọc, mong thứ gì cũng đều hiểu, kết quả là sau khi đọc, thứ gì cũng đều không hiểu! Những gì quý vị hiểu đều là kiến thức thông thường bề ngoài, thậm chí ngay cả kiến thức thông thường cũng nói sai be bét! Vì sao? Vì quý vị chưa nhập cảnh giới, chưa nhập Đệ Nhất Nghĩa! Phải là sau khi khế nhập thì mới được, mới là thật, chẳng giả.

Do điều này, chúng ta hãy suy nghĩ, trước đây coi thường, tưởng phương pháp cổ xưa là cũ rích, đáng phải nên đào thải, nay ta thật sự hiểu rõ phương pháp ấy là phương pháp cao minh nhất. Các phương pháp tách lìa phương pháp ấy đều là sai lầm; nhất định phải thâm nhập một môn! Quý vị muốn nghiên cứu kinh Di Đà, hãy đọc Sớ Sao, hoặc đọc Yếu Giải; mỗi ngày đọc một lần, quý vị niệm suốt mười năm, chẳng gián đoạn bữa nào. Nói cách khác, tâm quý vị đắc định rồi, đó là Niệm Phật tam-muội, vì sao? Trong tâm quý vị chẳng hề nghĩ đến điều gì khác, tâm định nơi chuyên nhất, đó là Niệm Phật tam-muội. Quý vị có Định, Định lâu ngày sẽ khai trí huệ, nhất quyết chớ nên tam tâm nhị ý. Nếu chư vị muốn thành tựu, niệm kinh Vô Lượng Thọ cũng được, mà niệm kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật cũng được, nhưng chỉ nên niệm một thứ, đừng nên niệm hai thứ, hãy thâm nhập một môn!

Ở đây,  Tổ trích dẫn mấy câu từ bộ  Đại  Luận,   Bồ Tát biết người thế gian nói “Ta”, Ngài hiểu rõ ràng “Ta” là bất khả đắc. Vì thế, để tự mình thụ dụng thì là vô ngã tướng, chẳng trái nghịch Đệ Nhất Nghĩa. Tùy thuận chúng sanh nên nói “Ta”, sự tùy thuận chúng sanh ấy chính là lòng đại từ đại bi lưu lộ từ chân tánh để người khác thụ dụng. Nhằm giáo hóa và lợi ích chúng sanh mà nói “Ta”, tuyệt đối chẳng phải là chính mình có phân biệt, có chấp trước. Ý nghĩa thứ hai là nói:

 

(Sao) Nhị vân phá tà kiến giả, vị tà ngã, mạn ngã, danh tự ngã, thế tục nhân cụ tiền nhị ngã, học đạo nhân cụ hậu nhị ngã, thánh nhân duy tối hậu ngã, thuận tục xưng ngã, đản thị danh tự, thật vô tà mạn, cố vô quá cữu.

()二云破邪見者,謂邪我、慢我、名字我,世俗人具前二我,學道人具後二我,聖人唯最後我,順俗稱我,但是名字,實無邪慢,故無過咎。

(Sao: Hai, nói “phá tà kiến” là muốn nói tới tà ngã, mạn ngã, và danh tự ngã. Người thế tục có đủ hai thứ ngã đầu, người học đạo có đủ hai thứ ngã sau, thánh nhân chỉ có loại ngã cuối cùng. Thuận theo thế tục nên xưng là ta, nhưng đó chỉ là danh tự, chứ thật sự chẳng có tà ngã hay mạn ngã, nên chẳng phạm lỗi gì!)

 

Ở đây, [lời Sao] đã nêu lên ba điều;

– Thứ nhất là tà kiến. Tà kiến là kiến giải sai lầm. Căn bản là không có ta, nhưng ngỡ là có Ta, đó gọi là Tà Ngã.

– Thứ hai là Mạn Ngã, kiêu căng, ngạo mạn. Chỉ cần có Ngã thì chắc chắn sẽ có Mạn. Chữ [Mạn] này là một chướng ngại rất lớn. Vì có Ngã Kiến, nhất định có ngạo mạn, nói chung là luôn [tưởng] mình mạnh hơn người khác, người khác chẳng bằng ta, chẳng biết hết thảy các pháp bình đẳng, hết thảy các pháp “tướng Có, thể Không”, chắc chắn là bình đẳng. Trong sự bình đẳng, dấy lên sự ngạo nghễ, ngã mạn, tâm bình đẳng mất đi! Nếu tâm chẳng bình đẳng, chắc chắn chẳng thể kiến tánh, chắc chắn chẳng thể phá nghiệp chướng, ngã mạn là nghiệp chướng. Vì thế, tu trì Phật pháp, pháp môn thứ nhất là “lễ kính chư Phật”, vì sao phải tu lễ kính? Phá ngã mạn! Nói cách khác, phá trừ nghiệp chướng. Chướng ngại ấy sẽ ngăn trở quý vị minh tâm kiến tánh, ngăn trở Bồ Đề Niết Bàn của chính mình. Không chỉ chướng ngại điều ấy (Bồ Đề Niết Bàn), mà hễ có ngã mạn, nhất định sẽ tạo tội nghiệp. Chính mình ngạo nghễ, khinh mạn người khác, đấy là tạo tội nghiệp. Đừng tưởng tội nghiệp ấy rất nhỏ, tội nghiệp rất nhỏ nhưng hằng ngày tích lũy sẽ biến thành chướng ngại trọng đại, chướng ngại quý vị học đạo! Không chỉ đạo nghiệp chẳng thể thành tựu, mà thậm chí nó còn chướng ngại quý vị lý giải kinh luận. Kẻ kiêu căng, ngạo mạn nghe kinh sẽ không hiểu, mà cũng chẳng thể khai ngộ. Nếu kẻ ấy ngộ thì đều là ngộ nơi đường tà, suy nghĩ lệch lạc, chẳng thể ngộ chánh pháp. Điều này đúng là vô cùng nghiêm trọng.

– Thứ ba là Danh Tự Ngã, Danh Tự nghĩa là hữu danh vô thực.

Tiếp đó, Tổ phân tích: Người thế tục trọn đủ hai thứ Ngã trước đó, tức là Tà Ngã và Mạn Ngã. Người học đạo trọn đủ hai loại Ngã trong phần sau, tức là Mạn Ngã và Danh Tự Ngã, vì sao? Họ có kiến giải chính xác. Chẳng hạn như hàng Sơ Quả Tiểu Thừa, đã chứng Sơ Quả, kiến giải chính xác, chẳng có Tà Ngã, nhưng có Mạn Ngã. Vì sao có Mạn Ngã? Vì họ đã đoạn Kiến Hoặc, nên không có kiến giải sai lầm, nhưng chưa đoạn Tư Hoặc, tham, sân, si, mạn chưa đoạn, nên Ngã của họ thuộc loại Mạn Ngã, chẳng phải là Tà Ngã. Đạt tới địa vị Đại Bồ Tát, Tư Hoặc đoạn sạch, Mạn Ngã chẳng còn nữa, sau đấy, nói Ngã với chúng ta, các Ngài cũng nói Ngã, [cái Ngã ấy] là Danh Tự Ngã, chẳng trở ngại Sự, [vì Ngã ấy] hữu danh vô thực. Nhằm thuận tiện nói năng, đó là mánh khóe giáo hóa chúng sanh, bất đắc dĩ, chư vị nghĩ thứ này là Ta ư? Được rồi! Tôi cũng gọi nó là Ta, chứ thật sự chẳng có ngã mạn. Vì thế, thánh nhân xưng Ta trọn chẳng có khuyết điểm! Điều thứ ba….

 

(Sao) Tam, bất trước Vô Ngã giả, chư thánh nhân tri nhất thiết pháp Không, Thật Tướng Vô Ngã, nhi bất trước Không, bất trước Vô Ngã.

()三不著無我者,諸聖人知一切法空實相無我,而不著空,不著無我。

(Sao: Ba là chẳng chấp trước Vô Ngã. Các vị thánh nhân biết hết thảy các pháp là Không, Thật Tướng Vô Ngã, nhưng chẳng chấp trước Không, chẳng chấp trước Vô Ngã).

 

Ý nghĩa này vô cùng trọng yếu. Chấp Không và chấp Có đều sai lầm như nhau, vì sao? Chẳng đoạn chấp trước thì chẳng qua là thay đổi đối tượng chấp trước mà thôi. Đức Phật dạy chúng ta phá chấp trước, chứ Ngài chẳng bảo chúng ta thay đổi đối tượng chấp trước, quý vị phải biết điều này! Ngài biết Thật Tướng Vô Ngã, nhưng chẳng chấp trước tướng Vô Ngã, cho nên khi khởi tác dụng tùy thuận chúng sanh thì vẫn nói “Ta” giống hệt như chúng sanh. Nói Ta, nhưng chẳng chấp Ngã Tướng, chẳng chấp Không Tướng, tức là hai bên đều chẳng chấp trước.

 

(Sao) Hựu Du Già hữu tứ ý, đại lược đồng thử, đệ tam nghĩa ngôn, nhược định vô ngã, thùy vi tu học, nhân tắc sanh bố, cố bất trước Vô Ngã.

()又瑜伽有四意,大略同此,第三義言,若定無我,誰為修學,人則生怖,故不著無我。

(Sao: Lại nữa, Du Già Sư Địa Luận [nói Ngã] có bốn ý, đại khái giống những điều đang được nói ở đây. [Trong bốn nghĩa ấy], nghĩa thứ ba là: Nếu cứ khăng khăng vô ngã, ai sẽ tu học, người ta sẽ sanh lòng sợ hãi; vì thế, chẳng chấp trước Vô Ngã).

 

Đây là trích dẫn một đoạn trong Du Già Sư Địa Luận để chứng minh, nhằm đặc biệt chứng minh câu thứ ba “do chẳng chấp trước Vô Ngã”. Du Già Sư Địa Luận nói: Vô Ngã thì người nào học Phật? Ai sẽ tu hành?

 

(Sao) Hựu Quán Kinh Sớ vân: “Vô ngã tắc vô văn, vô văn tắc hóa đạo tuyệt. Vị truyền hóa bất tuyệt, giả danh thuyết Ngã”.

()又觀經疏云:無我則無聞,無聞則化道絕,為傳化不絕,假名說我。

(Sao: Lại nữa, Quán Kinh Sớ viết: “Vô ngã thì không nghe, không nghe thì sự hóa độ tu học bị chấm dứt. Nhằm truyền thừa, hóa độ chẳng dứt, nên giả danh nói Ngã”).

 

Trong Quán Kinh [Sớ] cũng nói rõ ràng: Vô ngã thì không có ai truyền pháp, mà cũng chẳng có cách nào thực hiện tự lợi, lợi tha. Nói cách khác, hai phương diện tự hành và giáo hóa chúng sanh đều chẳng thể thành tựu. Vì lẽ đó, Bồ Tát chẳng chấp trước Ngã, mà cũng chẳng chấp trước Vô Ngã. Ngã và Vô Ngã hai đằng đều chẳng chấp trước, ý nghĩa này mới là chân nghĩa! Nói “chân nghĩa” tức là ba thứ Thể, Tướng, Dụng đều trọn đủ, ba thứ ấy đồng thời. Nói theo Thể, vô ngã, Thể là không tịch; còn nói theo Tướng thì sao? Tuy Thể là Không, nhưng nó có thể hiện tướng, nơi tướng có Ngã hay chăng? Nơi tướng cũng vô ngã. Thể vô ngã, mà tướng cũng vô ngã, Ngã do đâu mà có? Ngã từ Dụng mà có. Chúng ta khởi tác dụng, tức là tác dụng tự hành, hóa độ người khác. Từ tác dụng mà kiến lập cái Ngã; cái Ngã ấy được gọi là Danh Tự Ngã, vì sao? Thể lẫn Tướng đều bất khả đắc, hữu danh vô thực, chẳng trở ngại gì!

Dụng là Trung Đạo. Phật pháp nói “dụng Trung”, Nho gia cũng “dụng Trung”. Nho gia vận dụng Trung Dung, quả thật là anh hùng có cái nhìn đại lược giống nhau. Khổng lão phu tử và Thích Ca Mâu Ni Phật chưa hề gặp mặt, chưa từng tiến hành hội đàm, nhưng đích xác là kiến giải chẳng khác biệt cho mấy, đều là “dùng Trung”. Điều này rất tuyệt, vận dụng Trung Đạo. Bởi lẽ, Thể, Tướng, Dụng đồng thời, chẳng có thứ tự trước hay sau. Vì thế, đức Phật giảng kinh, thuyết pháp nhằm chỉ dạy chúng ta tu hành theo cách nào, thảy đều là dùng Trung. Nếu chúng ta cũng biết dùng Trung, sẽ nhập Phật tri kiến, sẽ tương ứng với Phật pháp. Vì sao chúng ta học Phật chẳng giống? Vì sao học Phật chẳng thành tựu? Vì chẳng dùng Trung! Quý vị biết Chân, biết Chân Không, sẽ thấy thấu suốt hết thảy các pháp không có tự tánh, không có tự thể, Thể là Không! Thấy thấu suốt. Biết hết thảy các tướng là giả; chẳng có tướng nào là thật, quý vị sẽ buông xuống. Đã thấy thấu suốt lại buông xuống, quý vị sẽ tự tại. Tự tại là Trung, cuộc sống của quý vị đạt tự tại, nay chúng ta gọi điều này là “chân, thiện, mỹ, huệ”, hạnh phúc mỹ mãn, Phật pháp gọi điều này là Trung Đạo. Quý vị có thể sống trong Trung Đạo, ngập tràn “chân, thiện, mỹ, trí huệ”, chắc chắn quý vị sống đời hạnh phúc nhất, viên mãn nhất. Có thể thấy sự thụ dụng trong Phật pháp chẳng thuộc trong đời sau, mà là hưởng thụ ngay trong hiện tại, tùy thuộc quý vị có biết sử dụng hay không, có thật sự triệt để hiểu rõ hay không? Biết sử dụng thì không gì chẳng được tự tại!

Những chỗ như thế này chúng ta đều phải học tập. Học tập chẳng phải là học tập theo hình dáng, mà phải thật sự học giống như Phật, thấu hiểu Thật Tướng của các pháp, triệt để hiểu rõ Chân, Giả, Trung là một, không hai. Bất luận pháp nào cũng đều trọn đủ Chân, Giả, Trung. Tông Thiên Thai nói Nhất Tâm Tam Quán, tùy tiện lấy một pháp nào, to như thế giới, hoặc nhỏ như vi trần, không pháp nào chẳng trọn đủ Nhất Tâm Tam Quán. Giống như chúng ta cầm lấy trang giấy này, đây là một pháp. Nói về Thể, bản thể của nó là Không, chẳng có tự thể, Tướng của nó là Giả. Chúng ta dùng nó để đánh dấu [trang sách đang đọc dở], nó khởi tác dụng, Dụng là Trung, chúng ta dùng Trung! Có trở ngại Thể và Tướng hay chăng? Chẳng trở ngại! Vì thế, Thể, Tướng, Dụng đồng thời, chẳng hề tách rời, pháp nào cũng đều là như thế. Nếu quý vị tiến nhập chỗ này, sẽ đạt được đại tự tại. Từ nay trở đi, chẳng còn lo âu, vướng mắc, tâm và toàn thể vạn pháp hợp thành nhất thể, thụ dụng tự tại!

 

(Sao) Pháp Thân chân ngã giả, ước bổn nhi ngôn.

() 法身真我者,約本而言。

(Sao: “Pháp Thân là Chân Ngã”, tức là nói theo phương diện bản thể).

 

Đây là nói theo bản thể.

 

(Sao) A Nan diệc thông Pháp Thân Ngã dã, dĩ vô ngã pháp trung, hữu chân ngã, tức Pháp Thân Ngã, như Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh chi Ngã, hà ngại ư vô ngã?

()阿難亦通法身我也,以無我法中,有真我,即法身我,如涅槃常樂我淨之我,何礙於無我。

(Sao: A Nan cũng thông suốt Pháp Thân Ngã, do trong pháp vô ngã có chân ngã, tức là Pháp Thân Ngã, như Ngã trong Thường Lạc Ngã Tịnh [được nói trong kinh] Niết Bàn, nên [nói Ngã] há trở ngại vô ngã?)

 

Trí Giả đại sư chú giải kinh Pháp Hoa, trong bộ Pháp Hoa Kinh Văn Cú, Ngài đã chia kinh Pháp Hoa thành hai phần: Nửa bộ đầu và nửa bộ sau. Kinh Pháp Hoa có tất cả bảy quyển, hai mươi tám phẩm, mười bốn phẩm đầu thuộc nửa bộ đầu, mười bốn phẩm sau thuộc nửa bộ cuối. Trong mỗi nửa bộ đều có ba phần là Tự Phần, Chánh Tông Phần và Lưu Thông Phần, cách phân định ra sao? Tức là Bổn Tích Nhị Môn, chia thành hai môn là Bổn Môn và Tích Môn. Nói tới Tích Môn thì Tích (迹) là dấu vết, hình tướng, dùng tỷ dụ để nói, sẽ giống như diễn tuồng. Nói Tích là nói trên sân khấu, quý vị mang thân phận nào, đó là Tích. Nói tới Bổn (本) thì quý vị ở sau sân khấu có thân phận [thật sự như thế nào], đó là Bổn. Bổn Tích nhị môn [là như vậy đó]. Nói theo mặt dấu vết, hình tướng (Tích Môn), tôn giả A Nan là một đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, là Sơ Quả Tu Đà Hoàn. Đấy là nhìn từ tướng, giống như diễn tuồng, Ngài đóng vai ấy, thủ diễn vai ấy, phải diễn cho thật giống. Đóng vai nào thì phải [diễn xuất] giống như vai trò ấy, đó là nói theo mặt hình tướng, dấu vết. Nói theo Bổn, ngài A Nan là Đại Bồ Tát thị hiện nhằm giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, giống như trợ giáo của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài chẳng thật sự là một vị Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa, mà là Đại Bồ Tát tái lai. Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, nhìn theo hình tích, là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật, là Tiểu Thừa Tứ Quả La Hán, có địa vị như thế. Nếu nhìn theo diện mạo sau sân khấu, các Ngài đã sớm thành Phật, là các vị cổ Phật tái lai!

Đó gọi là “nhất Phật xuất thế, thiên Phật ủng hộ”, nghĩa là một vị Phật xuất thế giáo hóa chúng sanh, một ngàn Phật (không chỉ là một ngàn vị Phật), chư Phật có duyên với vị Phật ấy, có duyên với chúng sanh thảy đều đến ủng hộ, giúp đỡ vị Phật ấy giáo hóa chúng sanh. Những vị đến ủng hộ, có vị thị hiện thân phận xuất gia như Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, A Nan; có vị thị hiện thân phận tại gia như vua Ba Tư Nặc thuở ấy là hộ pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhà vua là Tứ Địa Bồ Tát, phát tâm đến hộ pháp. Chư vị phải hiểu [những vị làm công tác] hoằng pháp và hộ pháp đều chẳng dễ dàng, đều là Bồ Tát tái lai! Chẳng phải là Bồ Tát, nói thật thà, ai nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật? Ai coi Ngài như vật báu? Ủng hộ như vậy, nhất định phải là kẻ thật sự nhận biết giá trị. Ai nhận biết giá trị? Chư Phật, Bồ Tát nhận biết giá trị, chứ phàm phu chẳng biết! Phàm phu chẳng nhận biết giá trị, cho nên người ủng hộ thường ngỡ ma là Phật!

Nếu chư vị nghiên cứu chú giải kinh Vô Lượng Thọ kỹ lưỡng, trong chú giải đã giảng rất rõ ràng, A Di Đà Phật phát bốn mươi tám nguyện, vì sao Ngài phải phát ra nguyện này, nguyện nọ? Trong các nguyện ấy có nói tới Tha Tâm Thông, hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn có Tha Tâm Thông. Đấy là đức Phật thấy khá nhiều chúng sanh trong mười phương thế giới có trí huệ, nhưng thiếu phước đức, hoặc có phước báo, nhưng thiếu trí huệ. Có lúc lại có đức, nhưng không có quyền vị, như Đào Uyên Minh (Đào Tiềm), “lui về đi thôi” (quy khứ lai hề), rút lui! Vì sao? Suốt đời ôm ấp học vấn, nhưng chẳng có chỗ dùng, không nơi dụng võ! Lại có những kẻ thiếu đức lại giữ địa vị rất cao, địa vị rất cao ấy sẽ tổn hại dân chúng khá nhiều. Nếu có Tha Tâm Thông, chúng ta sẽ ủng hộ người hữu đức hữu học, hết thảy dân chúng đều hưởng lợi lạc! Có thể thấy Tha Tâm Thông vô cùng trọng yếu. Vì thế, A Di Đà Phật mới phát nguyện như sau: Phàm là người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy đều đắc Tha Tâm Thông. Nếu có một ai chẳng đắc Tha Tâm Thông, Ngài thề chẳng thành Phật. Nhất là trong thời kỳ Mạt Pháp, pháp yếu, ma mạnh, vì sao ma mạnh mẽ? Ma tu phước, phước báo to lớn. Người thật sự học Phật, thật sự phát tâm, phước báo kém hơn ma vương! Thật sự phát tâm thì làm như thế nào? Vội vã cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, về đi thôi, vì sao? Chẳng có phước báo, sẽ chẳng thể độ chúng sanh! Từ kinh luận, chúng ta có thể thấy những chỗ như vậy, đều phải nên biết.

Ngài A Nan đã là Pháp Thân đại sĩ, nhất định Ngài đã sớm chứng đắc Tam Đức bí tạng. Tam Đức là Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát, Ngài đã chứng đắc! Mỗi đức trong Tam Đức đều có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, thật đấy, chẳng giả đâu! Pháp Thân có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chân thật, Bát Nhã cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chân thật, Giải Thoát cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chân thật; đấy là Chân Ngã, chẳng phải là Giả Ngã! Trong kinh có tám cách định nghĩa chữ Ngã, chúng ta chỉ nói hai định nghĩa trọng yếu nhất:

1) Ý nghĩa thứ nhất là “chủ tể”. Ngã có nghĩa là chủ tể, tức là chính mình làm chủ. Nay chúng ta hãy suy nghĩ, bản thân chúng ta có thể làm chủ hay chăng? Nếu ta có thể làm chủ, năm nào cũng là mười tám tuổi thì ta mới làm chủ được! Ta chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết thì mới có thể làm chủ. Ngày nay, tuy ta mong mỏi như thế, vẫn phải già, vẫn phải bệnh, vẫn phải chết, [tức là] không thể làm chủ, không có Ngã!

2) Ý nghĩa thứ hai là “tự tại”. Ngã có nghĩa là “tự tại”. Chúng ta cũng chẳng đạt được tự tại! Nhưng Pháp Thân thật sự làm chủ, thật sự tự tại. Bát Nhã và Giải Thoát đều là tự tại, đều làm chủ, cho nên chúng có ý

nghĩa Ngã!

Vì thế, nói theo Bổn, đại Bồ Tát hóa thân có Chân Ngã. Tuy các Ngài miệng nói Ngã để hằng thuận chúng sanh, vẫn tương ứng với Tự Tại Ngã của chính mình, chẳng phải là gạt người, nên nói lời ấy trọn chẳng nói sai!

“Vô ngã pháp trung, hữu Chân Ngã, tức Pháp Thân Ngã” (trong pháp vô ngã có Chân Ngã, tức Pháp Thân Ngã). Tự tánh là Chân Ngã, tức là Pháp Thân. Pháp Thân Ngã là Chân Ngã. “Như Niết Bàn Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chi Ngã”: Có Chân Thường, Chân Lạc, Chân Ngã, có thanh tịnh chân chánh (Chân Tịnh). Đối với phàm phu và Tiểu Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát, bốn chữ “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh” là hữu danh vô thực. Tứ Niệm Xứ dạy chúng ta hãy dùng trí huệ để quan sát, nhưng trong cảnh giới phàm phu không có [Thường, Lạc, Ngã, Tịnh]. “Quán thân bất tịnh”, không có Tịnh! “Quán Thọ là khổ”, không có Lạc! “Quán pháp vô thường”, không có Thường! “Quán tâm vô ngã” [không có Ngã]. Bốn chữ ấy hàng Pháp Thân đại sĩ đều có, các Ngài có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, quả thật trọn đủ bốn tịnh đức ấy, chẳng thiếu thứ gì! Nay chúng ta dùng phương pháp Niệm Phật để chứng đại Niết Bàn, chứng Pháp Thân, niệm tới trình độ nào? Niệm tới Lý nhất tâm bất loạn bèn chứng đắc, hoặc phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, chính mình sẽ đạt được, thật sự thụ dụng bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh ấy. Những vị Đại Quyền Bồ Tát thị hiện có nói Ta, há trở ngại vô ngã? Các Ngài quả thật có thể nói Ngã. Dưới đây là giảng chữ Văn:

 

(Sớ) Văn giả, nhĩ căn phát thức, phế biệt tùng tổng.

()  聞者耳根發識,廢別從總。

(Sớ: Văn là nhĩ căn sanh nhĩ thức, bỏ biệt, theo tổng).

 

Lẽ ra nên nói Văn là “nhĩ văn” (tai nghe), vì sao nói “ngã văn” (ta nghe)? “Nhĩ” là lục căn, là biệt, “Ngã” là tổng. Nói “ngã văn” cũng được, mà nói “nhĩ văn” cũng thế. Bỏ cái riêng biệt, thuận theo tổng quát, nên nói “ngã văn”.

 

(Sớ) Cố vân “ngã văn”, Đại Thừa trung tam, Thỉ Giáo vô văn, Chung Giáo văn nhi bất văn, Đốn Giáo vô văn bất văn.

() 故云我聞,大乘中三,始教無聞,終教聞而不聞,頓教無聞不聞。

(Sớ: Vì thế, nói là “ta nghe”. Trong Đại Thừa có ba loại nghe: Thỉ Giáo không nghe, Chung Giáo nghe mà chẳng nghe, Đốn Giáo không có Nghe và Chẳng Nghe).

 

Tông Hiền Thủ giảng Ngũ Giáo là Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên. Loại trừ Tiểu Giáo ra, đó là Tiểu Thừa, vì kiến giải của Tiểu Thừa giống như phàm phu. Thỉ Giáo là bắt đầu của Đại Thừa, cho nên bắt đầu nói từ chỗ này. Trong ba câu ấy, Văn là pháp Có, Vô Văn là Không, quy nạp lại [sẽ là] một đằng Không, một đằng Có. Thỉ Giáo nói hết thảy các pháp là Không, hoàn toàn chú trọng quan sát Thể của hết thảy các pháp, quan sát từ Lý Thể của hết thảy các pháp, nên thành lập giáo nghĩa “vạn pháp giai Không”. Do vậy nói họ “vô văn”, vạn pháp đều là Không!

Chung Giáo là nửa sau của Đại Thừa, Thỉ Giáo là nửa đoạn đầu của Đại Thừa. Đức Phật nói đến Không là nói đến bản thể. Nửa đoạn sau là từ Thể khởi Dụng, khởi Dụng là hiện tướng, hiện tướng chính là Có. Phân chia đại lược thì Phật giáo có hai tông là Không và Hữu. Phân chia tỉ mỉ thì trong Không Tông có rất nhiều phân phái. Trong Hữu Tông lại có rất nhiều tông, nói nghiêm ngặt, quy nạp toàn thể lại sẽ là hai tông Không và Hữu. Không và Có là một, chẳng hai! Không là nói về Thể. Có Thể, nhất định có Tướng. Thể chẳng lìa Tướng. Tướng nhất định có Thể, Tướng chẳng rời Thể. Do đó, Thể và Tướng là một, không hai. Nhằm khiến cho chúng ta giác ngộ, nhằm thuận tiện thuyết pháp, nên đức Phật nói Thể, nói Tướng. Nói tới Thể, chúng ta chớ nên chấp trước Thể. Nói tới Tướng, chúng ta chớ nên chấp Tướng. Quý vị chấp Tướng sẽ chẳng ngộ Thể. Quý vị chấp trước Thể, nhất định bị Tướng mê hoặc. Nói cách khác, Thể và Tướng thảy đều không hiểu rõ, chẳng cần phải chấp trước chúng, đó là hiểu rõ Thể và Tướng. Do vậy, nói Không là do Không mà ngộ Diệu Hữu; nói tới Hữu, là từ trong Hữu ngộ Chân Không. Bất luận giảng theo cách nào, cảnh giới ngộ nhập là một, không hai, là cùng một cảnh giới, lúc ấy mới gọi là “pháp môn vô nhị, vô biệt” (pháp môn chẳng hai, chẳng khác)! Tuy pháp môn muôn vàn sai khác, hễ ngộ nhập sẽ là một; có như vậy thì mới có thể thật sự thụ dụng Phật pháp.

“Đại Thừa Chung Giáo thị song chiếu nhị biên” (Chung Giáo của Đại Thừa chiếu soi cả hai bên), Thể và Tướng đều nói, cho nên nói là “nghe, nhưng chẳng nghe”. Ở đây, [lời Sao] giảng “Chung Giáo văn nhi bất văn” (Chung Giáo nghe nhưng chẳng nghe). Nói cách khác, đến khi ấy mới hiểu Không và Hữu là một, không hai: “Tức Hữu nhi Không, tức Không nhi Hữu” (Hữu chính là Không, Không chính là Hữu), đúng là “song chiếu nhị biên”. Trong Tâm Kinh có nói: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”. Sắc là có, Sắc là tướng, tức sắc tướng. Không là Chân Không, là Thể, Thể là Không. Vì vậy, nói: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”.

“Đốn Giáo vô văn bất văn” (Đốn Giáo không có Nghe và Chẳng Nghe). “Đốn giáo thị song giá nhị biên” (Đốn Giáo ngăn che cả hai bên [Có và Không]). Chung Giáo là song chiếu, “song chiếu” là vừa Có vừa Không, cũng Có cũng Không, nói theo Tướng thì Có! Nói theo Thể sẽ là Không. Đốn Giáo là “song giá”. Song Giá là Không lẫn Có đều chẳng có; không chỉ chẳng có Không, mà ngay cả Có cũng chẳng có. Đó là Song Giá. Đốn Giáo “vô văn diệc vô bất văn” (không có nghe mà cũng chẳng phải là không có nghe). Không Nghe và Không Chẳng Nghe, cả hai đằng đều tách lìa. “Vô văn” (không nghe) là ngăn lấp Có, “vô bất văn” (chẳng phải là không nghe) nhằm ngăn lấp Không, đấy mới là Trung Đạo song giá nhị biên. Song Chiếu là Trung Đạo, Song Giá cũng là Trung Đạo, họ thụ dụng giống hệt như nhau, tương đồng. Phương pháp để tiến nhập khác biệt, một đằng tiến nhập bằng Song Giá, một đằng tiến nhập bằng Song Chiếu. Thật ra, sau khi đã tiến nhập sẽ tương đồng. Các giáo nghĩa thông thường đều nói như vậy.

 

(Sớ) Ước đương tông.

()  約當宗。

(Sớ: Nếu xét theo tông này).

 

Chữ “đương tông” chỉ Tịnh Độ Tông chúng ta. Cách nhìn và cách giảng chữ Văn trong tông này như thế nào?

 

(Sớ) Tắc truyền pháp thánh nhân, dĩ ngã vô ngã bất nhị chi Chân Ngã, căn cảnh phi nhất dị chi diệu nhĩ, văn Sa Bà Cực Lạc vô chướng ngại chi pháp môn dã.

() 則傳法聖人,以我無我不二之真我,根境非一異之妙耳,聞娑婆極樂無障礙之法門也。

(Sớ: Bậc thánh nhân truyền pháp, lấy Ngã và Vô Ngã chẳng hai làm Chân Ngã, lấy Căn và Cảnh chẳng một, chẳng khác làm cái tai nhiệm mầu, để nghe pháp môn chẳng chướng ngại giữa Sa Bà và Cực Lạc).

 

Đây là giải thích theo giáo nghĩa của tông này.  Nên giảng câu “dĩ

ngã vô ngã bất nhị chi chân ngã” như thế nào? Ngã là Có, nói theo Tướng. Vô Ngã là nói theo Thể. “Ngã vô ngã bất nhị” là Thể và Tướng chẳng hai, mà cũng là Tánh và Tướng như nhau, cũng là: Có chính là Không, Không chính là Có, chẳng phải Có, chẳng phải Không, hoàn toàn kiến lập từ Trung Đạo; nói tới ý nghĩa này! Vì sao? Vì tông của chúng ta là Đại Thừa Đốn Giáo, pháp môn này thành tựu trong một đời, bảy ngày thành tựu. Pháp môn Niệm Phật là Đốn Giáo, có thể nói các vị tổ sư đại đức các tông các phái xưa nay đều công nhận: Đây là pháp môn Đốn Giáo, viên cực, đốn cực. Vì thế, phải chọn cách nhìn của Đốn Giáo để [giảng giải chữ Văn] thì mới là đúng.

“Căn Cảnh phi nhất dị chi diệu nhĩ”: “Căn” là Nhĩ Căn. “Văn” sử dụng Nhĩ Căn, “Cảnh” là âm thanh. Đối tượng của Nhĩ là âm thanh. “Căn cảnh nhược nhất, tắc nhị câu thành không” (Nếu Căn và Cảnh là một, thì hai thứ đều trở thành Không), rỗng không, cả hai thứ [Căn và Cảnh] đều chẳng thể thành lập. “Kim phi nhất, phi dị, tắc Không Hữu song khiển, tức thị Đốn Giáo song giá Trung Đạo dã” (Nay chẳng một, chẳng khác, tức là Không lẫn Hữu đều mất, chính là Trung Đạo ngăn lấp hai bên trong Đốn Giáo vậy). Chẳng thể nói là một, mà cũng chẳng thể nói là “dị” (khác). “Dị” là chẳng một. Một và Chẳng Một đều chẳng thể kiến lập, đó mới là diệu! Nói Nhất, sẽ chẳng là Dị; nói Dị sẽ chẳng là Nhất. Nay Không và Có cùng tồn tại, Không và Có chẳng hai, song giá, song chiếu, giá và chiếu đồng thời, chúng ta thường nói là “Tịch mà thường Chiếu, Chiếu mà thường Tịch”. Vì thế, cái Tai này tuyệt diệu tột bậc, sử dụng cái Tai tuyệt diệu này [để nghe]!

“Văn Sa Bà Cực Lạc vô chướng ngại chi pháp môn” (nghe pháp môn chẳng chướng ngại nơi Sa Bà và Cực Lạc): Sa Bà là nơi chúng ta đang cư trụ; Cực Lạc là nơi chúng ta muốn đến. Tuy kinh nói hai nơi này cách nhau mười vạn ức cõi Phật, nói thật ra, Sa Bà vãng sanh Cực Lạc chẳng ngăn ngại, thế giới Cực Lạc cũng chẳng ngăn ngại thế giới Sa Bà. Đó là “câu tồn” (cùng tồn tại)! Đấy là pháp môn Song Chiếu. “Sở vị cứu cánh cực quang, bất việt phàm phu nhất niệm” (Tức là nói quang minh tột bậc rốt ráo chẳng ra ngoài một niệm của phàm phu), giảng như thế nào? Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, đương nhiên trong ấy bao gồm cả Sa Bà lẫn Cực Lạc, đúng như kinh Hoa Nghiêm đã dạy: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, chẳng có chướng ngại! Hiểu rõ đạo lý này sẽ thấy thấu suốt. Chỉ sau khi đã thấy thấu suốt, chúng ta mới buông xuống tất cả những nỗi ngờ vực, lo lắng. Hễ buông xuống, nhất tâm bèn hiện tiền.

Do vậy biết: Nhất tâm bất loạn chẳng khó chứng, chẳng khó đắc! Hiện thời, chúng ta ngờ vực, lo nghĩ quá nhiều, cho nên nhất tâm chẳng thể hiện tiền. Không chỉ nhất tâm chẳng thể hiện tiền, ngay cả công phu thành phiến cũng chẳng thể hiện tiền, chuyện này rất phiền! Chẳng thể hiện tiền, tuy chúng ta niệm, nhưng công phu chẳng đắc lực. Do vậy, phải nói lắm kinh luận dường ấy, sâu ngần ấy. Nói thật ra, Lý này vốn sâu xa, nhưng sâu có thể nói thành cạn, cạn thì cũng chỉ cạn đến một mức độ nào đó, Lý này quả thật sâu như thế. Sau khi đã hiểu rõ, nói chung, đều là một mục đích, buông xuống hết thảy các mối ngờ vực, lo lắng mà thôi! Buông hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng xuống, sẽ thành công.

Chúng ta thật sự có thể buông hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng xuống, quý vị sẽ là người thượng thượng căn, từ nay trở đi, chẳng cần phải nghe kinh giáo nữa. Kinh điển [đối với người ấy sẽ] như thế nào? Giấy lộn! Một đống giấy lộn! Giảng kinh là gì? Nói nhăng nhít! Chẳng cần tới! Nếu trong tâm còn có nghi lự (ngờ vực, lo lắng), thì vẫn cần phải có những thứ ấy (kinh điển và lời giảng kinh), vì sao? Chúng có thể giúp chúng ta giảm bớt và tiêu trừ nghi lự, tác dụng ở chỗ này. Nói cách khác, bản thân chúng ta vẫn chưa phải là thượng thượng căn, vẫn còn có nghi lự, trong tâm vẫn có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, chắc chắn chẳng phải là thượng thượng căn! Bậc thượng thượng căn phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thảy đều xóa sạch, thảy đều chẳng còn. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!

Tập 105

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang thứ hai trăm lẻ ba.

 

(Sao) Phế Biệt tùng Tổng giả, dĩ bất vân “nhĩ văn”, nhi vân “ngã văn”. Lương diêu Ngã tắc thống thâu chư căn thức đẳng, dĩ Tổng cai Biệt, cố vân “ngã văn”.

()廢別從總者,以不云耳聞,而云我聞。良繇我則統收諸根識等,以總該別,故云我聞。

(Sao: “Phế Biệt, theo Tổng”: Do chẳng nói “tai nghe” mà nói “ta nghe”, ấy là vì Ngã bao gồm các Căn, Thức v.v… nên dùng Tổng để bao gồm Biệt. Vì thế, nói “ta nghe”).

 

Ý nghĩa của đoạn này rất rõ ràng. Chúng ta nói “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân” là những bộ phận trên thân thể chúng ta, nói Ngã thì toàn bộ các bộ phận nhiều như vậy đều được bao gồm. Vì thế, chẳng nói là “nhĩ văn” mà nói là “ngã văn”.

 

(Sao) Thỉ Giáo đẳng giả.

() 始教等者。

(Sao: Thỉ Giáo v.v…)

 

Đây là giải thích [các ý nghĩa về Ngã] theo Thỉ Giáo, Chung Giáo, và Đốn Giáo trong Đại Thừa.

 

(Sao) Nhược vân ngã ký vô ngã, văn diệc vô văn, thị Đại Thừa sơ môn, Thỉ Giáo ý dã.

()若云我既無我,聞亦無聞,是大乘初門,始教意也。

(Sao:  Nếu nói “ngã đã là vô ngã, có nghe cũng như không nghe”,

thì đó là ý nghĩa trong Thỉ Giáo, tức là bước đầu của Đại Thừa vậy).

 

Câu này nói về giáo nghĩa trong Thỉ Giáo. Đại Thừa Thỉ Giáo giảng về Không, hoàn toàn nói theo thể tánh. Nếu dùng thuật ngữ triết học hiện đại để nói thì Thỉ Giáo giảng về bản thể của vạn hữu trong vũ trụ. Bản thể là không tịch; do vậy, hết thảy hiện tượng đều là pháp được sanh bởi nhân duyên. Phàm là “nhân duyên sanh pháp” (pháp sanh bởi nhân duyên) sẽ chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể. Vì thế, Ngã quả thật là chẳng thể được (bất khả đắc). Đã chẳng có Ngã thì ai nghe? Đương nhiên cũng chẳng có ai nghe. Đối với Không Tông của Tiểu Thừa và Bát Nhã của Đại Thừa, đều có thể nói là “hết thảy các pháp đều Không”, như thường nói: “Phật diệc vô thuyết, ngã diệc vô văn” (Phật cũng chẳng nói, ta cũng chẳng nghe), đó gọi là “chân văn”. Ý nghĩa này khá sâu, nhất là tông Bát Nhã trong Đại Thừa, [kinh điển thuộc] hệ thống Bát Nhã quả thật khá sâu!

Đọc Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, chúng ta thấy cư sĩ Giang Vị Nông đã nói rất rõ ràng: Trong thời đại Đường – Tống, rất ít người muốn giảng kinh Kim Cang, do nguyên nhân nào? Chỉ sợ người ta nghe xong nẩy sanh hiểu lầm, đọa vào Ác Thủ Không (sai lầm do chấp trước lý Không, phủ nhận mọi sự tướng, phế bỏ tu hành) sẽ phiền toái to lớn. Vì thế, trong kinh thường nói: “Ninh khả chấp Hữu như Tu Di sơn, bất khả chấp Không như giới tử” (Thà chấp Có như núi Tu Di, chẳng chấp Không chừng bằng hạt cải). Đó là nói quý vị chấp trước Có, người ấy có thể cứu, Có là như thế nào? Có nhân, có quả, tối thiểu quý vị chẳng dám làm chuyện xấu, sẽ làm việc thiện, thiện có thiện báo, ác có ác báo, còn cứu được! Nếu chấp trước Không, điều gì cũng đều là Không, chuyện xấu gì kẻ ấy cũng dám làm, vì sau khi làm đâu có gì, rỗng không mà! Không xong rồi, rất nhiều tệ nạn! Vì thế, cổ nhân cũng chẳng muốn giảng kinh luận Bát Nhã do sợ người nghe nếu chẳng hiểu rõ ý nghĩa thật sự, sẽ thường nẩy sanh hiểu lầm.

Gần đây, người bàn luận Bát Nhã (giảng Không) rất nhiều, nói rất huyền, rất diệu, nói đến nỗi hoa trời rơi loạn xạ, thật ra, kẻ ấy có Không hay chăng? Tôi thấy kẻ ấy chẳng Không! Vì sao? Kẻ ấy rất coi trọng danh lợi, rất so đo, có thể thấy kẻ ấy chẳng Không, miệng nói Không, trong tâm chẳng Không. Kẻ ấy nói Không, chắc chắn chẳng phải là nghĩa Không trong tam thừa, vì sao? Nếu chính mình chẳng nhập cảnh giới ấy, những gì quý vị nói đều chẳng thật, giả trất! Chính mình ắt phải khế nhập cảnh giới ấy, thật sự thấu hiểu; sau đó, quý vị nói ra, ý vị sẽ khác hẳn. Hiện thời có rất nhiều kẻ nói Không, đàm huyền thuyết diệu đều là trên mặt văn tự, phần lớn là đọc mấy cuốn sách, miệng nói thao thao như nước chảy; nếu quý vị thật sự hỏi kẻ ấy mấy câu, hắn cũng chẳng thể đáp được! Chúng ta phải hiểu điều này!

Cư sĩ Giang Vị Nông đổ công sức bốn mươi năm nơi kinh Bát Nhã rất đáng giá, quả thật, ông ta có thể thấu hiểu [Bát Nhã] đôi chút. Tuy có thể thấu hiểu đôi chút, ông ta vẫn chuyên tu Tịnh Độ, cầu nguyện vãng sanh, đó nghĩa là gì? Thưa quý vị, đấy là thật sự hiểu được nghĩa Không. Nói cách khác, kẻ chủ trương “hết thảy đều là Không, vạn pháp đều là Không, trong ngoài đều Không”, hủy báng Tịnh Độ, chẳng muốn cầu sanh Tịnh Độ, thật sự chẳng hiểu nghĩa Không! Mã Minh Bồ Tát, Long Thọ Bồ Tát đều là tổ sư Không Tông, nhưng những vị ấy đều phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tám tông phái của Đại Thừa Trung Quốc đều do ngài Long Thọ truyền dạy. Vì thế, ngài Long Thọ là tổ sư chung của cả tám tông, là tổ sư khai tông của tám tông phái Đại Thừa, nhưng Ngài là một người cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, ta biết: Không có tông nào chẳng quy về Tịnh Độ, cuối cùng đều là chỉ quy Tịnh Độ. Chúng ta phải nên nhận biết chuyện này!

 

(Sao) Nhược vân tùng duyên cố Không, bất hoại giả danh, tức bất văn nhi văn, văn nhi bất văn, Chung Giáo ý dã.

()若云從緣故空,不壞假名,即不聞而聞,聞而不聞,終教意也。

(Sao: Nếu nói do các duyên nên là Không, chẳng hoại giả danh, tức là “chẳng nghe mà nghe, nghe nhưng chẳng nghe” sẽ là ý nghĩa trong Chung Giáo).

 

Chung Giáo là giai đoạn cuối cùng của Đại Thừa, đến lúc ấy, chú trọng giảng về hiện tượng, tức là nói về Tướng. Bởi lẽ, Thỉ Giáo giảng về Thể. Thể là rỗng không, nhưng Thể có tướng, tướng là Có, tướng chẳng Không! Nhưng quý vị cũng chớ nên chấp trước tướng Có ấy là thật sự có! Nó đúng là có, nhưng chẳng phải là thật sự có. Nói thật ra, Phật pháp giảng về chân và vọng bằng một định nghĩa rất đơn giản, rất dễ hiểu! Phàm là “chân”, chắc chắn sẽ chẳng biến đổi, mà vĩnh viễn thường trụ, Phật pháp gọi nó là Chân. Nếu nó thường thay đổi, Phật pháp gọi nó là Giả, là giả tướng, chẳng phải là chân tướng. Chúng ta nghĩ xem có tướng nào vĩnh viễn không biến đổi? Tìm không ra! Động vật có sanh, lão, bệnh, tử, tức là chúng biến đổi trong từng sát-na. Thực vật có sanh, trụ, dị, diệt, cũng biến đổi trong từng sát-na. Khoáng vật có thành, trụ, hoại, không, biển xanh, ruộng dâu, vẫn là biến đổi! Nói cách khác, quý vị tìm không được thứ gì vĩnh hằng chẳng thay đổi. Do vậy, đức Phật bảo chúng ta: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”. Những tướng ấy đều là pháp sanh diệt, chẳng phải là thường trụ. Nói cách khác, duyên sanh, duyên diệt, là pháp được sanh bởi nhân duyên. Do nhân duyên sanh, điều này vô cùng rõ rệt, có thể nhìn thấy được. Tướng là Có, cái Có ấy là tạm thời có. Thí dụ như trong cõi này, một người sống tới tám chín mươi tuổi; trong tám chín mươi năm đó, người ấy tồn tại, nhưng trước đó chẳng có, mà sau đó cũng chẳng có!

Chiều thứ Bảy hôm trước, tôi ở đại y viện Đài Loan, trong bệnh viện có hội Niệm Phật, rất khó có, mời tôi đến giảng diễn. Tôi thấy vậy, rất cảm động. Những bác sĩ và y tá hướng dẫn một số bệnh nhân niệm Phật, niệm rất khẩn thiết, rất khó có! Vì họ hằng ngày thấy kẻ này đi, người khác tới, thấy hiện tượng đó, nên họ cảm nhận khác hẳn chúng ta: Các bệnh nhân đang bệnh khổ. Các đồng tu bên kia (bên Mỹ) bảo tôi: Vợ cư sĩ Châu Tuyên Đức ở Los Angeles đã vãng sanh ngày Mười Ba tháng Giêng. Bà cụ năm nay chín mươi tuổi, hai vợ chồng cụ cùng tuổi. Tôi nghĩ đời người đúng là vô thường, khi tôi giảng diễn ở Los Angeles, mỗi ngày bà cụ đều đến nghe. Xa cách chừng ba tháng, cụ đã ra đi rồi, vạn pháp vô thường!

Tướng ấy là giả có, trong Phật pháp còn gọi là Diệu Hữu. “Diệu” là nó chẳng phải là thật; tuy chẳng thật, nhưng nó có, chẳng thể nói nó không có. Thể là Không, tướng là giả, tướng có. Tâm Kinh nói: “Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”. Không là nói về Thể, nói tới bản thể; Sắc là nói về hiện tượng, Thể và hiện tượng là một. Nói cách khác, Thể là Không, Tướng cũng là Không, điều này cho chúng ta thấy: Thể lẫn Tướng đều chẳng thể chấp; hễ chấp trước thì thứ gì cũng là sai lầm! Ở đây nói: “Duyên sanh cố không” (do các duyên sanh ra nên là Không) là nói về Tướng, nói theo phương diện Tướng.

“Bất hoại giả danh”: Giả danh chẳng hoại, đương nhiên giả tướng càng chẳng phá hoại. Vì thế, “Phật pháp trên thế gian, chẳng hoại tướng thế gian. Phật pháp trên thế gian, chẳng lìa pháp thế gian”. Người thật sự tu hành, đạo tràng ở trong tâm, chẳng ở nơi hình tướng bên ngoài. Đạo tràng ở trong lòng, lục căn tiếp xúc lục trần cảnh giới thảy đều là “tu hành”. Nói theo thực tế, bất luận tông phái nào, phương pháp tu hành cao cấp đều vốn là như vậy. Cuộc sống là Phật pháp, Phật pháp là cuộc sống, Phật pháp và cuộc sống của chúng ta hoàn toàn dung hợp thành một thể. Kinh Hoa Nghiêm giảng rõ nghĩa thú này. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm vô cùng thích hợp với con người hiện thời, nhất là phương Tây tư tưởng cởi mở, cuộc sống tự do, hoàn toàn tương ứng với cảnh giới Hoa Nghiêm, chỉ cần quý vị thật sự hiểu rõ ràng, chắc chắn người ấy sẽ đạt được sự hưởng thụ tối cao trong cuộc sống. Chẳng giống như Tiểu Thừa và Quyền Giáo chấp vào hình tướng, có nghi thức nhất định, có nghi quy nhất định, cuộc sống của Thỉ Giáo Đại Thừa Bồ Tát là tu trì. Vì thế, chẳng hoại giả danh, chẳng hoại giả tướng, chẳng hoại pháp thế gian; đấy là “chẳng nghe mà nghe, nghe nhưng không nghe”. Cớ sao nói “chẳng nghe”? Nói theo Lý, sẽ chẳng có nghe. Nói theo Lý, Thể là Không, Tướng là giả, lấy đâu ra nghe? Nhưng nói theo Sự thì có nghe, có Lý, có Sự! Vì vậy, “chẳng nghe mà nghe, nghe nhưng không nghe”. Lý Sự viên dung, Lý Sự chẳng trở ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, đấy mới là viên cực, diệu cực! Đó là giáo nghĩa của Đại Thừa Chung Giáo.

 

(Sao) Nhược vân năng sở song tịch, vô văn bất văn, ly niệm đốn hiển, Đốn Giáo ý dã.

()若云能所雙寂,無聞不聞,離念頓顯,頓教意也。

(Sao: Nếu nói Năng và Sở cùng vắng lặng, chẳng có Nghe và Không Nghe, lìa niệm, mau chóng hiện rõ, là ý nghĩa trong Đốn Giáo).

 

Đây là ý nghĩa “vạn pháp duyên sanh” (vạn pháp do các duyên sanh ra). Vì duyên sanh nên chúng chẳng có tự tánh. Do đó, hiển lộ hết thảy các pháp cũng là Không. Duyên sanh tỏ rõ [các pháp] vô tự tánh, duyên sanh là Năng Hiển, vô tự tánh là Sở Hiển. “Năng Sở song tịch” là hai bên đều tách lìa. Nghe và Chẳng Nghe là hai bên; do vậy, nói Chẳng Nghe cũng là “Chẳng Không Nghe”. Chữ Vô ấy bao trùm những điều sau đó. “Vô văn, vô bất văn” (không nghe, chẳng phải là không nghe) là rời khỏi hai bên. “Ly niệm đốn hiển”: Ly niệm là chân tâm, chân tâm ly niệm, ở đây, chúng ta gọi [chân tâm] là “nhất tâm”, tức là Lý nhất tâm bất loạn, nhất tâm bèn hiện tiền. Đó là cảnh giới rất cao, chúng ta thường gọi là “nhất niệm bất sanh”, Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật” là nói đến cảnh giới ấy. Người Đại Thừa viên đốn tu gì trong cuộc sống? Tu điều này, tu “nhất niệm bất sanh” trong xử sự, đãi người, tiếp vật. Nhất niệm bất sanh là Thiền Định rất sâu, họ tu điều ấy. Chuyện bên ngoài hiểu rõ ràng, rành rẽ, đó là Tu Huệ, giữ cho Định Huệ cân bằng.

Từ xưa tới nay,  các vị đại đức đều thừa nhận kinh Di Đà  là pháp môn viên đốn, quý vị hiểu: Nói thật ra, người niệm Phật là tu Phật pháp cao cấp nhất, trong bất luận cảnh giới nào chỉ quan tâm một câu A Di Đà Phật, hết thảy những vọng tưởng, tạp niệm khác thảy đều buông xuống, đó là Đốn! Nghe và Chẳng Nghe là hai bên, hai bên đều buông xuống, trong tâm chỉ giữ một câu Phật hiệu. Hết thảy buông xuống là Song Tịch; chỉ giữ một câu Phật hiệu là Song Chiếu, Tịch – Chiếu đồng thời. Vì thế, sức mạnh ấy chẳng thể nghĩ bàn. Nay chúng ta công phu niệm Phật chẳng đắc lực, tuyệt đối chẳng phải vì pháp môn không hay, mà vì bản thân chúng ta chẳng thể nương theo pháp môn này để tu học, lỗi lầm ở nơi chính mình, chẳng do kinh điển, chẳng do Phật, Bồ Tát! Rốt cuộc lỗi lầm ở chỗ nào? Do chúng ta chưa thể buông tham, sân, si, mạn xuống, chưa thể buông thị phi, nhân ngã xuống, chướng ngại ở chỗ này. Nếu thị phi, nhân ngã, tham, sân, si, mạn thảy đều buông xuống, há công phu chẳng đắc lực ư? Thị phi, nhân ngã là duyên bên ngoài, tham, sân, si, mạn là duyên bên trong, đều là giả, đều chẳng thật, vì sao? Thảy đều là “duyên sanh pháp”, tức pháp sanh bởi các nhân duyên, bản thể của chúng là Không. Chúng ta mê nơi những hiện tượng hư huyễn ấy, giống như nằm mộng mà chẳng biết chính mình đang nằm mộng, coi mộng là thật, hỏng bét ở chỗ này. Do vậy, công phu chẳng đắc lực.

“Vô”“ly” đều có nghĩa là Bỏ. Nếu chúng ta có thể buông những thứ ấy xuống, tâm chúng ta lập tức thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là chân tâm, là bổn tánh của chúng ta, là Lý nhất tâm bất loạn như kinh này đã nói. Đó là ý nghĩa Đốn Giáo, tương ứng với kinh này.

 

(Sao) Ngã vô ngã giả, sanh nhi bất sanh, bất sanh nhi sanh, tức Pháp Thân cố. Căn cảnh giả, văn thuyết A Di Đà Phật, năng văn, sở văn, phi nhất dị cố. Sa Bà, Cực Lạc giả, sở vị Sa Bà y chánh, toàn xử Cực Lạc chi tự tâm cố. Dĩ thử kinh phần nhiếp ư Viên, ưng quy Pháp Tánh cố.

()我無我者,生而不生,不生而生,即法身故。根境者,聞說阿彌陀佛,能聞所聞,非一異故。娑婆極樂者,所謂娑婆依正,全處極樂之自心故。以此經分攝於圓,應歸法性故。

(Sao: “Ngã, vô ngã”: Sanh mà chẳng sanh, chẳng sanh nhưng sanh, tức là Pháp Thân. “Căn, cảnh”: Nghe nói A Di Đà Phật, chủ thể nghe và đối tượng được nghe đều chẳng phải là một hay khác. “Sa Bà, Cực Lạc” ý nói: Y báo và chánh báo cõi Sa Bà hoàn toàn thuộc trong Cực Lạc nơi tự tâm. Do kinh này thuộc về Viên một phần, nên phải thuộc về Pháp Tánh).

 

Đây là nói đến “ngã, vô ngã”, đại sư giải thích: Sanh mà chẳng sanh, chẳng sanh nhưng sanh. Sanh là Có, sanh là Ngã; cũng có thể nói Sanh là phàm phu, vì phàm phu chấp trước Sanh. Vô Sanh là A La Hán, Tiểu Thừa. Tiểu Thừa vô ngã, do đã đoạn Ngã Chấp. A La Hán tuyệt đối chẳng còn chấp trước thân này là ta, vì Ngài đã thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật, không có Ngã Chấp, nhưng hãy còn Pháp Chấp. [Những lời giảng] ở chỗ này nhằm dạy chúng ta: Ngay cả Pháp Chấp cũng phải phá trừ, “sanh nhưng chẳng sanh, chẳng sanh mà sanh, chính là Pháp Thân”. Sanh và chẳng sanh là một, chẳng hai, vì sao có phàm phu và Nhị Thừa? Vì họ chấp trước, một đằng là chấp trước sanh nên gọi là phàm phu, kẻ chấp trước bất sanh gọi là A La Hán. Nói cách khác, một đằng chấp trước hiện tượng, tướng là có, chấp trước Có; một đằng chấp trước tánh Không, Thể chẳng có, họ chấp trước Không. Giống như trong triết học hiện thời, một đằng chấp trước bản thể, một đằng chấp trước hiện tượng. Chúng ta gọi kẻ chấp trước hiện tượng là phàm phu, họ có Ngã. Kẻ chấp trước bản thể, vô ngã, chấp trước Không. Hai bên đều trật, phàm phu chúng ta sai lầm, nhưng người Nhị Thừa cũng chưa hề đúng, vẫn là sai lầm! Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đã quở trách A La Hán, Bích Chi Phật, gọi họ là  “tiêu nha bại chủng”  (giống mầm hư bại), đọa trong hầm sâu Niết Bàn là do ý nghĩa này!

Bồ Tát thông minh, chẳng chấp trước hai bên. Vì sao hai bên cũng chẳng chấp trước? Các Ngài hiểu đó là cùng một chuyện. Thể là Thể của Tướng, chẳng phải là ngoài Tướng có một Thể, chẳng phải vậy! Tướng là Tướng của Thể, chẳng phải là ngoài Thể có Tướng, giống như cổ nhân đã sánh ví: “Dĩ kim tác khí, khí khí giai kim” (dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng là vàng). Vàng ở chỗ nào? Các món đồ là vàng, vàng là đồ vật. Ngoài các món đồ, há có vàng? Ngoài vàng, há có các món đồ? Vàng và các món đồ là một, chẳng hai. Do vậy, sanh và bất sanh là một, chẳng hai, hai bên cũng chẳng chấp trước. Đấy là Pháp Thân, ý nghĩa Pháp Thân bèn hiện tiền! Pháp Thân là chân ngã.

“Căn cảnh giả, văn thuyết A Di Đà Phật” (“Căn, cảnh”: Nghe nói A Di Đà Phật), “năng văn” (chủ thể nghe, cái có thể nghe) là Căn, A Di Đà Phật được nghe (sở văn) là cảnh giới. Quý vị nói xem: Rốt cuộc Năng Văn và Sở Văn là một, hay là hai? Căn thân và cảnh giới rõ rệt, đương nhiên chẳng phải là một; vì thế nói là “phi nhất”; nhưng Căn và Trần đều từ trong Chân Như bổn tánh biến hiện, vì thế nói là “phi dị”. Dùng Duy Thức để giảng thì Căn là Kiến Phần của A Lại Da Thức; cảnh giới bên ngoài, tức Trần, là Tướng Phần của A Lại Da. Kiến Phần và Tướng Phần do cùng một Tự Chứng Phần biến hiện. Vì thế, Tánh và Tướng cùng nguồn.

Khoa học hiện đại chưa phát triển đến trình độ này, hiện thời, họ đã biết vật chất bất diệt, biết năng lượng và vật chất có thể chuyển biến thành lẫn nhau. Khoa học hiện tại hiểu đạo lý này: “Có thể biến vật chất thành năng lượng”, bom nguyên tử được phát minh dựa trên đạo lý này. Nhưng hiện tại họ vẫn chưa biết làm thế nào để biến năng lượng thành vật chất, khoa học gia vẫn chưa biết. Nếu biết điều ấy, sẽ thụ dụng tự tại! Đúng là chúng ta muốn gì bèn có thể biến hiện thứ ấy, vì tất cả hết thảy vật chất đều do năng lượng biến hiện. Hiện tại vẫn chưa biết cách biến! Thể chất và năng lượng của vật chất được Phật pháp gọi là Trần, vật chất và năng lượng của Lục Trần; nhưng còn có một bộ phận sợ rằng khoa học cho đến hiện thời vẫn chưa tìm ra; đó là hiện tượng tâm lý, tâm năng (năng lực của tâm), họ chẳng hiểu tâm năng và vật chất là tương đồng, là một, chẳng hai, chúng có cùng nguồn. Chính vì cùng nguồn, nên tới khi quý vị không có chướng ngại, sẽ biến hóa tự tại. Như trong Tây Du Ký viết Tôn Ngộ Không có bảy mươi hai phép biến hóa, đó là “tiểu vu” (phù thủy oắt con), quá nhỏ bé! Đến khi quý vị chẳng có chướng ngại, thần thông sẽ rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn! Quý vị có thể biến hóa tam thiên đại thiên thế giới, chắc chắn sẽ có thể! Vì sao? Tam thiên đại thiên thế giới cũng do tâm năng của chúng ta biến hiện!

Vì thế, nhìn từ căn nguyên, chúng tương đồng, chẳng phải là hai thứ, chẳng khác biệt! Nhìn từ hiện tượng trước mắt, chúng không đồng nhất, chẳng phải là một; nhưng nhìn từ căn bản, cội nguồn, chúng lại chẳng phải là hai! Vì thế, nói “phi nhất, phi dị”, Lý này vô cùng sâu xa! Nhưng chúng ta có thể hiểu được thì sau khi hiểu sẽ nhập cảnh giới ấy. Nhập cảnh giới ấy, chân tướng sự thật được tỏ bày; nói cách khác, bản năng hiện tiền. Trong Phật pháp, nói đến tu hành thì vì sao một gã phàm phu có thể thành La Hán? Thành Bồ Tát? Thành Phật? Tất cả hết thảy nguyên lý tu hành căn cứ trên đâu? Căn cứ trên đạo lý này! Do vậy ta biết: Nói tới “tu hành” thì chắc chắn chẳng phải là tu trí huệ, hay tu thần thông, đạo lực, chẳng phải vậy, vì trí huệ, thần thông, đạo lực vốn sẵn đủ, rốt cuộc là tu gì vậy? Tu sửa mê hoặc, điên đảo; trí huệ, thần thông, đạo lực vốn có của chúng ta bị mê, chẳng biết, nay quý vị trừ khử mê, khôi phục bản năng (năng lực sẵn có), tu là tu những điều ấy!

Ngàn muôn phần đừng lầm lẫn, ngỡ ngoài bổn tánh của chúng ta còn có trí huệ, thần thông, [tưởng như vậy] là lầm mất rồi, biến thành ngoại đạo! Vì thế, phải hiểu ngoài tâm không có hết thảy các pháp, phải hướng vào trong tự tánh để cầu hết thảy các pháp. Do đó, Phật pháp gọi là “nội học”, cầu pháp ngoài tâm gọi là ngoại đạo. Nay chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới ở nơi đâu? Do tự tâm của chúng ta biến hiện! Quý vị phải hiểu rõ đạo lý này. Nay chúng ta dùng một câu Phật hiệu để khai phát tự tánh. Nếu quý vị nghĩ ngoài cái tâm này có một Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngoài tâm có A Di Đà Phật, Ngài có thể đến giúp chúng ta, vậy là quý vị đã biến thành ngoại đạo, niệm Phật mà niệm đến nỗi trở thành ngoại đạo! Ở đây, [đại sư] nói với chúng ta nhiều như thế nhằm dạy chúng ta hiểu rõ chân tướng sự thật.

“Sa Bà y chánh, toàn xử Cực Lạc chi tự tâm” (y báo và chánh báo của cõi Sa Bà hoàn toàn thuộc trong Cực Lạc nơi tự tâm). Thế giới Sa Bà là hoàn cảnh cư trụ hiện tại của chúng ta. Mấy năm nay, tôi thường ra ngoại quốc, đối với sự học Phật của bản thân tôi rất hữu ích, tôi ngộ hiểu sâu xa, ngộ gì vậy? Mỗi ngày đều làm khách! Có nhà hay chăng? Trở về Đài Loan, ở lâu nhất là hai tháng. Vì thế, trong quan niệm của tôi, thế giới này là lữ quán, mỗi ngày đều lữ hành. Lại suy nghĩ: Cả đời này, chúng ta lữ hành mỗi ngày, cho nên chẳng chấp trước bất cứ nơi nào, vì sao? Ở hai ngày lại phải đi, đối với con người lẫn sự việc đều rất lợt lạt. Lại suy nghĩ: Nếu chúng ta chẳng sanh Tịnh Độ, thì vẫn là lữ hành trong lục đạo. Hôm nay ở nhân đạo, ngày mai trong súc sanh đạo, ngày mốt tới địa ngục đạo; lữ hành trong sáu nơi của lục đạo, chuyển qua, chuyển lại! Sau khi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì sao? Vẫn lữ hành. Tới đó thành Phật, tới mười phương thế giới hóa độ chúng sanh. Nơi nào có duyên bèn đến đó, duyên hết lại ra đi. Chân tướng của đời người là như thế. Vì thế, đối với mỗi nơi nào, người nào, những thứ chấp trước sẽ tự nhiên phai nhạt.

Phai nhạt sẽ có lợi là Ái Biệt Ly (yêu thương mà phải chia lìa), Oán Tăng Hội Khổ (oán ghét mà phải gặp gỡ) chẳng có! Chẳng lưu luyến, tôi tới chỗ nào, người ta hoan nghênh, gặp mặt vui vẻ, rời khỏi nơi ấy, quên sạch sành sanh! Tôi chẳng viết cho ai một lá thư nào, chẳng thể mở ra lệ ấy. Vì viết thư, người ta sẽ nói: “Pháp sư viết thư cho người khác, chẳng viết thư cho tôi”. Rất phiền! Thảy đều chẳng viết, mọi người nhất loạt bình đẳng. Đó là tốt nhất! Quý vị cũng chẳng cần nghĩ tới tôi, tôi cũng chẳng nhớ tới quý vị, sạch làu! Đi đến [một nơi nào đó], tôi sẽ gởi thông cáo, tôi gởi thông cáo bằng cách nào? Tôi đem vé máy bay photocopy ra mấy tấm, đem bản sao gởi cho họ. Họ sẽ biết khi nào tôi tới là được rồi, một chữ tôi cũng chẳng cần phải viết, thuận tiện nhất! Vì thế, thứ gì cũng lợt lạt, thật thà niệm một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, chắc chắn có thụ dụng!

Quá khứ, ở ngoại quốc, tôi cũng đã từng nói với quý vị. Tôi nghĩ ra một phương pháp niệm Phật, tôi cảm thấy rất hữu dụng. Hiện thời, các đồng tu ngoại quốc cũng rất vui vẻ hoan nghênh. Tôi ngỡ là tôi phát minh ra, nhưng tối hôm qua, xem sách cũ, giở đến phần [Những Khai Thị Trong] Phật Thất [của Hành Sách đại sư], thì ra trong niên hiệu Khang Hy nhà Thanh, Ngài cũng đã làm theo cách như thế! Hóa ra, cái tôi nghĩ là kiểu mới vẫn là thứ cũ, nhưng phương pháp cũ ấy hiện thời không ai đề xướng, không ai áp dụng phương pháp ấy. Tôi vừa trông thấy hết sức vui vẻ, nghiễm nhiên cổ nhân cũng dùng phương pháp này, phương pháp ấy, quả thật là tốt đẹp, đáng nên đề xướng. Nhưng hiện thời đạo tràng này của chúng ta quá nhỏ, nếu giảng đường của chúng ta to gấp đôi như thế sẽ có thể áp dụng: Một khu để nhiễu Phật, một khu chỉ tĩnh, một khu lạy Phật, chia thành ba khu.

Cổ nhân dùng ba ban. Khi niệm thì cứ một ngàn câu niệm Phật luân lưu theo thứ tự thuận, tức là khi nhiễu Phật phải niệm một ngàn câu Phật hiệu, niệm xong một ngàn câu Phật hiệu, quý vị bèn chỉ tĩnh (止靜)[53]. Ban thứ hai ra khỏi chỗ, đi nhiễu Phật, ban thứ nhất và thứ ba chỉ tĩnh; ban thứ hai đi nhiễu, niệm Phật một ngàn tiếng xong, cũng chỉ tĩnh, ban thứ ba đi nhiễu Phật. Cách nghĩ của vị ấy hoàn toàn giống như cách tôi nghĩ: Hễ vào Niệm Phật Đường bèn thôi trò chuyện, chỉ niệm Phật, không nói năng. Chẳng tụng kinh, cũng chẳng có xướng tán, [mọi nghi thức khác] đều không có, chỉ khởi đầu cây hương thứ nhất [trong ngày đầu tiên] là có. Sau đấy, suốt bảy ngày trong Phật Thất đều chẳng có. Pháp khí chỉ có một cái dẫn khánh và một cái mõ nhỏ, chỉ dùng hai thứ ấy. Tương lai, chúng ta in Phật Thất Nghi Quy, chúng ta sẽ đề xướng cách làm này. Nghi quy rất đơn giản, rất thực dụng, vì sao? Khi mọi người cùng nhau niệm Phật, sẽ chẳng cảm thấy có áp lực. Quý vị niệm ra tiếng một ngàn câu, khi chỉ tĩnh lắng nghe hai ngàn câu, sau đấy, lại xoay vòng đến quý vị, ba ban mà! Nghe niệm hai ngàn câu, chỉ tĩnh, dốc toàn bộ tinh thần lắng nghe. Nếu có lúc quý vị cảm thấy hôn trầm, bèn niệm thầm, hay Kim Cang trì, miệng chẳng niệm ra tiếng, chớ để chính mình hôn trầm, dùng phương pháp này.

Chữ “Sa Bà” chỉ thế giới hiện tại của chúng ta. “Toàn xử Cực Lạc chi tự tâm”, tự tâm là pháp giới, ở đây nói là tự tâm, kẻ bình phàm chúng ta thấy chữ này bèn hiểu sai ý nghĩa, tâm là gì? Nay ta suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, gọi đó là tâm! Chẳng phải vậy! Cái tâm ta suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung chẳng phải là tự tâm, mà là vọng tâm. Tự tâm là cái tâm chính quý vị vốn có, nhà Thiền gọi nó là “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra), đó là tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài A Nan đi tìm tâm, [tức là tìm] cái tâm này, đó là chân tâm. Chúng ta có một bức tranh để kết duyên gọi là Thập Pháp Giới Đồ, chính giữa [bức tranh] là Tâm, vạn pháp duy tâm, đó gọi là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, đấy là chân tâm của chúng ta. Thế giới Sa Bà do tâm chúng ta biến, thế giới Cực Lạc cũng do tâm chúng ta biến. Tâm năng biến là một, thế giới được biến là hai! Thật ra, không chỉ là hai, mà vô lượng vô biên hằng sa thế giới không ra ngoài nhất tâm. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói tới Nhất Chân pháp giới, Nhất Chân pháp giới là gì? Tự tâm là Nhất Chân pháp giới. Mê tự tâm, con người thường coi cảnh giới bên ngoài là pháp giới, nên mới có mười pháp giới. Thật ra, pháp giới chẳng phải chỉ có mười, “mười” là biểu thị pháp, biểu thị ý nghĩa vô tận. Vì số đếm từ một đến mười, lại tính từ đầu, từ mười một đến hai mươi, từ hai mươi mốt tới ba mươi, [cho nên “mười”] biểu thị ý nghĩa vô tận. Sau khi mê, pháp giới là vô cùng vô tận. Sau khi giác ngộ, pháp giới là một, ở đây nói là “phi nhất, phi dị”, tức là Nhất Chân pháp giới. Vì thế, nói “Sa Bà y chánh, toàn xử Cực Lạc chi tự tâm” (y báo và chánh báo của cõi Sa Bà hoàn toàn thuộc trong Cực Lạc nơi tự tâm).

“Dĩ thử kinh phần nhiếp ư Viên, ưng quy Pháp Tánh cố” (do kinh này thuộc về một phần Viên, nên phải quy về Pháp Tánh), đức Phật giảng kinh, Lý là một, nhưng do đối tượng thính chúng khác nhau, cho nên thuyết pháp có sai khác. Có thể nói đối tượng của bộ kinh này không gì chẳng gồm thâu, trên là gồm cả bậc Đẳng Giác Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền; dưới là ác đạo chúng sanh, ngay cả chúng sanh trong địa ngục A Tỳ cũng được bao gồm trong ấy, thật sự là mười pháp giới không gì chẳng được bao gồm. Vì thế là “tam căn phổ bị, lợi độn toàn thâu” (thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn), đấy là giáo nghĩa Viên Giáo. Tuy chẳng phải là Thuần Viên, như kinh Pháp Hoa là Thuần Viên, nhưng kinh Di Đà cũng thuộc loại Viên Giáo, gọi là “phần nhiếp ư Viên”.

Trong phần trước, chúng tôi đã từng đề cập, thuở ấy, Liên Trì đại sư có nỗi khổ rất bất đắc dĩ, Ngài sống vào những năm cuối đời Minh, thuộc niên hiệu Thiên Khải và Vạn Lịch nhà Minh. Thuở ấy, tại Trung Quốc đại lục, phong khí Thiền hết sức thịnh hành, mọi người cũng coi thường Tịnh Độ. Liên Trì đại sư là tổ sư trung hưng Tịnh Độ Tông, chẳng giống các vị tổ sư khác. Tính đến nay, [Tịnh Độ Tông] tổng cộng có mười ba đời tổ sư, nhưng có thành tựu đặc thù thì chỉ có ba vị đại sư. Vị thứ nhất là vị sáng lập tông này, tức là có Huệ Viễn đại sư đời Tấn, vị thứ hai chấn hưng lần nữa là Vĩnh Minh Diên Thọ. Về sau, truyền được mấy trăm năm lại dần dần suy, Liên Trì đại sư lại chấn hưng. Đây là ba vị đại sĩ lỗi lạc của Tịnh Độ Tông. Trong tình hình ấy, phong khí nhà Thiền vô cùng thịnh hành, ai nấy xúm xít học Thiền, Ngài chẳng thể mích lòng kẻ khác. Mích lòng kẻ khác sẽ có lắm chướng ngại, sẽ có nhiều kẻ chống đối. Vì thế, phải nói mềm mỏng, uyển chuyển. Nếu Ngài nói kinh này là Thuần Viên, là Cực Viên, nhất định mọi người sẽ phản đối. Vì thế, trong Sớ Sao, chỗ nào Ngài cũng trích dẫn kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa, vì lẽ nào? Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều là Thuần Viên, [dùng cách như vậy] để đề cao địa vị kinh Di Đà, vì xen lẫn kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa vào đây [để chứng minh kinh Di Đà], mọi người sẽ chẳng thể nói kinh này chẳng phải là Viên Giáo! Đây là sự bất đắc dĩ phải rát miệng, buốt lòng. Bối cảnh trong thời đại của Ngài là như vậy, cho nên lời lẽ hết sức mềm mỏng, uyển chuyển!

Thật sự hiểu rõ, Ngài biết kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ là viên nhất trong các kinh Viên Giáo, là đốn nhất trong các kinh Đốn Giáo! Hiện thời có thể nói như vậy, vì hiện tại ngôn luận tự do, không ai can thiệp. Thuở ấy chẳng được! Lúc đó, áp lực trong giới Phật giáo rất sâu, Ngài chịu sức ép trầm trọng, nên chỉ có thể nói là Phần Viên, tức là trong kinh có một phần thuộc về tư tưởng Viên Giáo, có một phần là lý luận Viên Giáo. Ngài nói như vậy thì người ta nghe mới còn có thể miễn cưỡng tiếp nhận!

Trên thực tế, [pháp môn Tịnh Độ] là viên nhất trong các pháp viên, vì sao? Vì Ngẫu Ích đại sư sống vào thời Liên Trì đại sư đã phục hưng Tịnh Độ [thành công], Ngài là người kế thừa, nên Ngài nói khác với Liên Trì đại sư. Ngài bảo kinh Di Đà là “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy” (tạng sâu mầu của Hoa Nghiêm, tinh tủy kín nhiệm của Pháp Hoa), Ngài nói như vậy đó! Có nghĩa là [kinh Di Đà] là pháp viên nhất trong các pháp viên, đốn nhất trong các pháp đốn; đề cao kinh Di Đà, vượt trỗi Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Quý vị phải hiểu, nếu không có cơ sở do Liên Trì đại sư [đã bồi đắp tốt đẹp], tổ Ngẫu Ích cũng chẳng dám nói như thế! Giống như xây bảo tháp, Liên Trì đại sư đã đặt vững nền tảng, tổ Ngẫu Ích có thể xây cao lên, lúc ấy mới là hoàn toàn chân thật hiển lộ. “Ưng quy Pháp Tánh”, nói hết sức có đạo lý, nhất là từ Di Đà Kinh Yếu Giải, tức là bản chú giải do Ngẫu Ích đại sư biên soạn, ta thấy [Tổ nói] đơn giản, thẳng thừng: [Kinh Di Đà] chẳng khác kinh Hoa Nghiêm, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, nhưng chỗ quy túc cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”.

 

(Sớ) Hoặc nghi Phật thành đạo cửu, A Nan phương thỉ xuất gia, hà đắc câu ngôn “ngã văn”?

()  或疑佛成道久,阿難方始出家,何得俱言我聞。

(Sớ: Hoặc nghi là Phật thành đạo đã lâu, A Nan mới xuất gia, lẽ đâu [đầu các kinh] đều nói là “ta nghe”?)

 

Nghi vấn này, từ xưa tới nay đều có. Vì sao? Nhìn vào Phật giáo sử, hoặc đọc Thích Ca Phương Chí hay Thích Ca Phổ đều có thể nêu ra câu hỏi này. Ngày Thích Ca Mâu Ni Phật thành đạo, tôn giả A Nan sanh ra; tên Ngài do vua Tịnh Phạn đặt cho, tức là phụ thân của Thích Ca Mâu Ni Phật đặt tên cho A Nan. A Nan (Ānanda) dịch nghĩa sang tiếng Hán là Khánh Hỷ, [tức là] chúc mừng hoan hỷ! Vì có người tâu với vua Tịnh Phạn: “Thái Tử đã thành Phật”, đây là chuyện vui mừng rất lớn; tiếp đó, lại có người tâu, hoàng đệ[54] sanh con trai, hai chuyện vui xảy ra cùng lúc; vì thế, đặt tên cho Ngài là Khánh Hỷ, tức A Nan.

Sau khi thành đạo, đức Phật liền bắt đầu giảng kinh, thuyết pháp. Đức Phật thành đạo lúc ba mươi tuổi, nói cách khác, Thích Ca Mâu Ni Phật lớn hơn A Nan ba mươi tuổi. Đức Phật thuyết pháp hai mươi năm, A Nan mới xuất gia. A Nan hai mươi tuổi mới xuất gia, làm thị giả của đức Phật. Nói cách khác, những kinh đã giảng trong hai mươi năm trước đó, A Nan chưa hề nghe qua. Sau đấy là hai mươi mấy năm nữa, đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, A Nan tham dự những pháp hội ấy. Cớ sao kết tập kinh điển đều nói: “Như thị ngã văn”? Có thể nêu ra nghi vấn như vậy. Nghi vấn này xưa nay thường có người nhắc tới; ở đây, đại sư giải thích:

(Sớ) Cổ vị hữu tứ nghĩa cố, viết “văn” vô ngại.

()  古謂有四義故,曰聞無礙。

(Sớ: Cổ nhân nói do có bốn nghĩa, nên nói là Nghe chẳng trở ngại gì).

 

Giải thích: Ở đây có bốn ý nghĩa, cho nên đầu các kinh, ngài A Nan có thể nói “như thị ngã văn”.

 

(Sớ) Hựu A Nan hữu tam, hoặc văn bất văn, diệc vô ngại cố.

()  又阿難有三,或聞不聞,亦無礙故。

(Sớ: Lại nữa, có đến ba vị A Nan, nên dù nghe hay không nghe, cũng chẳng trở ngại gì).

 

Chú giải như vậy, chúng ta nghe [cảm thấy] rất khó hiểu, dưới đây còn phải giải thích thêm, trong lời Sao giảng:

 

(Sao) Nghi giả, Phật thành đạo dĩ lịch niên nhị thập, A Nan xuất gia, hựu thập niên, phương mạng vi thị giả, tuy thân thị Phật, nhi tam thập niên tiền, Phật sở thuyết kinh, hà đắc câu xưng “ngã văn”?

()疑者,佛成道已歷年二十,阿難出家,又十年,方命為侍者,雖親侍佛,而三十年前,佛所說經,何得俱稱我聞。

(Sao: “Nghi”: Đức Phật thành đạo đã hai mươi năm, A Nan mới xuất gia, lại còn mười năm sau đó, mới được sai làm thị giả. Tuy đích thân hầu Phật, nhưng đối với những kinh đức Phật đã nói trong ba mươi năm trước đó, vì sao đều nói là “tôi nghe”?)

 

Đây là nêu ra đơn giản một đoạn tiểu sử của A Nan.

 

(Sao) Cổ đáp tứ nghĩa giả.

() 古答四義者。

(Sao: Cổ nhân trả lời nghi vấn ấy bằng bốn nghĩa).

 

Có bốn ý nghĩa.

 

(Sao) Nhất triển chuyển văn.

() 一展轉聞。

(Sao: Một là lần lượt nghe lại).

 

Tuy đức Phật giảng kinh trong quá khứ, Ngài chưa từng nghe, nhưng có những đồng học giảng cho Ngài nghe. A Nan thích đa văn, cũng rất vui thích hướng về người khác thỉnh giáo. Vì thế, do lần lượt nghe mà Ngài được nghe.

 

(Sao) Như Báo Ân kinh ngôn: “A Nan sở bất văn kinh, tùng chư tỳ-kheo biên văn, hoặc chư thiên tử thuyết”.

()如報恩經言:阿難所不聞經,從諸比丘邊聞,或諸天子說。

(Sao: Như kinh Báo Ân chép: “Những kinh A Nan chưa được nghe, sẽ nghe từ nơi các tỳ-kheo, hoặc từ các thiên tử nói lại”).

 

“Thiên tử” thuở ấy là các vị hộ pháp của đức Phật. Các vị đại hộ pháp ấy cũng thường cùng nghe kinh. Sau khi nghe, các Ngài cũng có thể nói lại.

 

(Sao) Như Niết Bàn Kinh, nãi Hoằng Quảng Bồ Tát chi sở lưu thông cố.

() 如涅槃經,乃弘廣菩薩之所流通故。

(Sao: Như kinh Niết Bàn là do Hoằng Quảng Bồ Tát lưu thông).

 

Trong kinh Niết Bàn có chép, đức Phật bảo Văn Thù Bồ Tát: Tỳ-kheo A Nan là em họ ta, những kinh được giảng trong hai mươi năm trước đó thầy ấy chưa được nghe, sau khi ta nhập diệt, sẽ do Hoằng Quảng giúp thầy ấy lưu thông[55]. Vì vậy, có kinh văn làm chứng cứ cho [lời giải thích này]. Đấy là “triển chuyển văn”.

 

(Sao) Nhị giả, Phật trùng thuyết, như Báo Ân Kinh ngôn: A Nan nhân Phật mạng vi thị giả, nãi cầu tam nguyện. Kỳ tam, sở vị văn kinh, thỉnh Phật trùng thuyết cố.

()二者佛重說,如報恩經言:阿難因佛命為侍者,乃求三願。其三,所未聞經,請佛重說故。

(Sao: Hai là do đức Phật nói lại, như kinh Báo Ân có chép: A Nan

do được đức Phật sai làm thị giả, bèn xin được thỏa ba nguyện. Nguyện thứ ba là đối với những kinh chưa được nghe, xin đức Phật nhắc lại).

 

Đức Phật bảo Ngài làm thị giả, Ngài nêu ra ba điều kiện[56], trong ấy, điều kiện thứ ba là “những kinh chưa được nghe, xin Phật nhắc lại”. Đức Phật cũng chấp nhận. Có những kinh đã giảng trong quá khứ, Ngài chưa được nghe, có những kinh được đức Phật nhắc lại một lần, cho nên Ngài có cơ hội được nghe!

 

(Sao) Tam giả, A Nan tự thông.

() 三者阿難自通。

(Sao: Ba là A Nan tự thông hiểu).

 

Không nói, nhưng chính Ngài cũng hiểu rõ.

 

(Sao) Như Kim Cang Hoa Kinh ngôn: “A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội, sở vị văn kinh, tự năng ức trì”. Niết Bàn diệc vân: “Nhược tại, nhược bất tại, tự nhiên năng giải liễu cố”.

()如金剛華經言:阿難得法性覺自在三昧,所未聞經,自能憶持。涅槃亦云:若在若不在,自然能解了故。

(Sao: Như kinh Kim Cang Hoa chép: “A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội, đối với những kinh chưa nghe, tự mình có thể nhớ giữ”. Kinh Niết Bàn cũng nói: “Dù hiện diện hay không cũng tự nhiên có thể hiểu thấu suốt”).

 

Nói thật ra, A Nan là đại quyền Bồ Tát thị hiện, chẳng phải thật sự là Tiểu Thừa sơ học, Ngài cũng là đến giúp Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa chúng sanh, giống như diễn tuồng. Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chánh, Ngài tới giúp, đóng vai phụ, lẽ đâu chẳng hiểu rõ? Ngài hoàn toàn thông đạt, đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội. Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội là gì? Ngộ Pháp Tánh, giống như nhà Thiền nói “minh tâm kiến tánh” có cùng một ý nghĩa. Kiến tánh: Từ chân tánh khởi lên giác ngộ; Pháp Tánh là chân tánh, chẳng có bờ mé, cũng chẳng có quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì thế, một người thật sự kiến tánh, chẳng có pháp thế gian hay xuất thế gian nào mà chẳng thông đạt. Thí dụ rõ rệt nhất là Thiền Tông Lục Tổ kiến tánh, cho nên có những thứ Ngài chưa từng nghe nhưng đều thông đạt, những thứ Ngài chưa xem qua, nhưng đều có thể nói được! Chỉ cần quý vị vừa nhắc tới, Ngài lập tức hiểu ngay, vì sao? Hết thảy các pháp đều do Pháp Tánh biến. Quý vị đã kiến tánh, lẽ nào chẳng thông? Vì thế, kiến tánh trọng yếu lắm!

Người như thế nào mới có thể kiến tánh? Nhất định phải tu Định, trong kinh này là tu nhất tâm bất loạn. Quý vị tu điều ấy, tâm thanh tịnh đến tột bậc, khởi tác dụng, gọi là “chiếu kiến”. Tâm giống như một tấm gương. Tấm gương ấy sạch làu làu, thứ gì cũng đều không có, khởi tác dụng chiếu kiến. Chiếu kiến là trí huệ Bát Nhã, trí huệ thật sự. Mười phương ba đời không có một pháp nào chẳng biết, thảy đều chiếu kiến. Quý vị không nói, nó (cái tâm thanh tịnh ấy) chẳng có phân biệt, là bình đẳng, thanh tịnh. Quý vị vừa nói, nó lập tức có phản ứng, nó nói rõ chân tướng sự thật cùng quý vị. Vì thế, nói: “Bát Nhã vô tri, vô sở bất tri” (Bát Nhã vô tri, không gì chẳng biết). Vô tri là khi nó chiếu kiến, “Tịch mà thường Chiếu, Chiếu mà thường Tịch”, giống như một tấm gương, soi rõ ràng, rành rẽ, chẳng nói một câu nào, mà cũng chẳng có phân biệt, chẳng chấp trước, cũng chẳng giữ lại ấn tượng, nhưng hiểu rõ ràng, rành rẽ. Kẻ khác hỏi người ấy, hướng về người ấy thỉnh giáo, người ấy bèn khởi tác dụng, khi khởi tác dụng, không gì chẳng biết! Do vậy, quý vị muốn cầu Chân Tri thứ gì cũng đều biết thì trước hết quý vị phải cầu thứ gì cũng chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không giữ lại ấn tượng, cầu điều này. “Vô tri” chẳng phải vô tri theo kiểu hoàn toàn đần độn, chẳng biết gì cả. Đần độn là vô tri thật sự, còn [vô tri] ở đây là “không gì chẳng biết”. Khi chẳng khởi tác dụng là vô tri, khi khởi tác dụng là không gì chẳng biết. Đần độn là dù khởi tác dụng hay không khởi tác dụng đều chẳng biết, đó là sai lầm!

Chúng ta phải khôi phục trí huệ và đức năng trong tự tánh; dùng một câu Phật hiệu này sẽ có thể [khôi phục]. Nhất định phải buông hết thảy thân, tâm, thế giới xuống; không chỉ buông pháp thế gian xuống, mà Phật pháp cũng phải buông xuống. Vì chẳng buông Phật pháp xuống, quý vị còn có chuyện tham luyến, tâm chẳng thanh tịnh. Do vậy, thảy đều phải buông xuống, đấy mới là con đường đúng đắn để khôi phục tự tánh thanh tịnh tâm. Ngài A Nan đã minh tâm kiến tánh, là bậc đại Bồ Tát tái lai;  vì thế,  đối với hết thảy các kinh do đức Phật đã giảng  Ngài

đều biết, chẳng nghe cũng biết.

 

(Sao) Tứ giả, Thanh Lương chiết trung thượng tam, ngôn A Nan nãi đại quyền Bồ Tát, ảnh hưởng hoằng truyền. Như Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh ngôn: Xá Lợi, Mục Liên, nãi chí A Nan đẳng, giai đại quyền Bồ Tát, hiện Thanh Văn thân, hà trệ ư tích, ngôn bất văn dã.

()四者清涼折衷上三,言阿難乃大權菩薩,影響弘傳。如不思議境界經言:舍利、目連乃至阿難等,皆大權菩薩現聲聞身,何滯於迹,言不聞也。

(Sao: Bốn, ngài Thanh Lương dung hội ba nghĩa trên đây, nói A Nan là bậc đại quyền Bồ Tát, [thị hiện trong thế giới Sa Bà] để tạo ảnh hưởng, hoằng truyền. Như kinh Bất Tư Nghị Cảnh Giới đã nói những vị như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, cho đến A Nan v.v… đều là đại quyền Bồ Tát hiện thân Thanh Văn, há bị vướng mắc nơi hình tích, mà nói là [ngài A Nan] chẳng nghe ư?)

 

Đây là Thanh Lương đại sư thuộc tông Hoa Nghiêm đã nói dung hòa ba ý nghĩa trên đây, Ngài nói cũng vô cùng hay! Như trong các vị đệ tử Phật, Xá Lợi Phất, Mục Liên đều là cổ Phật tái lai. Chánh pháp trụ thế lợi ích nhân thiên, nhưng [để giữ cho chánh pháp trụ thế] chẳng dễ dàng! Chúng sanh thiếu phước, sẽ chẳng tin; vì thế, Phật đến thế giới này, ai sẽ theo gót Ngài? Nói cách khác, ai sẽ ủng hộ Ngài? Phàm phu chẳng nhận biết, cũng coi Ngài như phàm phu, chẳng ủng hộ Phật, cho nên mới có “một vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ”, Phật pháp mới có thể hưng long, nhất định phải có người ủng hộ.

Thời kỳ Mạt Pháp, cho đến hiện thời, trong tâm chúng sanh tưởng gì? Tham, sân, si, mạn, họ nghĩ tưởng những thứ ấy, đều là cầu pháp ngoài tâm. Vì thế, ma vừa thuyết pháp, đồ chúng cả ngàn vạn đều kéo đến. Vì sao? [Ma nghĩ]: “Kẻ khác mong cầu, ta bèn ban cho họ”. Hôm trước, tôi thấy một quyển sách, phía trước có hình Lô Thắng Ngạn đội mão Tỳ Lô hết sức trang nghiêm đang giảng kinh Tài Thần nơi đó: “Mọi người chuộng phát tài, ta sẽ dạy mọi người phát tài ra sao!” Vì thế, mọi người đều kéo đến! Trong quá khứ, tôi ở Los Angeles nghe nói: Ông ta đến Los Angeles “hoằng pháp” là giảng kinh Tài Thần, người nghe phải mua vé vào cửa, mỗi vé hai mươi đồng Mỹ Kim, người ta xúm đen xúm đỏ đến nghe, ông ta thật sự phát tài. Vì sao? Mỗi cá nhân đều muốn phát tài, tưởng nghe giảng làm sao để phát tài sẽ có thể phát tài. Kết quả, chẳng phải là thính chúng phát tài, mà là ông ta (Lô Thắng Ngạn) phát tài! Các đồng học bên ấy bảo tôi: “Pháp sư! Nếu thầy giảng như vậy thì cũng phát tài”.

Chánh pháp là dạy người ta buông xuống hết thảy, ai bằng lòng? Không ai đến nghe cả! Bảo quý vị đối với tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần thảy đều buông xuống, bảo quý vị tu tâm thanh tịnh, đương nhiên thính chúng ít ỏi! Vì thế, chư Phật, Bồ Tát phải đến [hỗ trợ Phật]. Một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật đều là chư Phật và đại Bồ Tát đến sắm vai, đến diễn tuồng, cho đến các vị quốc vương, đại thần hộ pháp của đức Phật thảy đều là Bồ Tát tái lai. Như vua nước Xá Vệ là Ba Tư Nặc được nhắc đến trong kinh là Tứ Địa Bồ Tát thị hiện. Nếu không có những vị Phật và đại Bồ Tát ấy, ai nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật? Vì thế, chánh pháp quyết định chẳng chèo kéo, mê hoặc đại chúng, quyết định chẳng giở trò, chẳng diễn những trò xiếc để dụ dỗ, mê hoặc chúng sanh, mà là bình phàm, chân thật chỉ dạy. Vì thế, chỉ có chư Phật và các vị đại Bồ Tát đến ủng hộ, đó gọi là “một vị Phật ra đời, ngàn vị Phật ủng hộ”.

Tướng suy trong thời Mạt Pháp, chúng sanh bạc phước, Phật cũng không tới, mà Bồ Tát cũng chẳng tới. Do vậy, Phật pháp suy thì hòa hợp Tăng đoàn chẳng có, mỗi người một đạo tràng, đúng là đáng buồn! Nói thật thà, trong Phật giáo chẳng phải là không có sức mạnh, chẳng phải là thiếu tiền tài, nhưng bị phân tán! Nếu những người xuất gia đều ở cùng một chỗ, sức mạnh sẽ được tập trung lại, tuyệt diệu lắm! Mỗi người dựng một chùa, đôi bên chẳng thể hợp tác với nhau, đương nhiên Phật pháp sẽ bị tiêu diệt, đấy là đạo lý nhất định. Ai có thể cứu được? Không ai có thể cứu được! Vì sao có hiện tượng này? Ma đã nói với Phật rất rõ ràng! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ma Vương Ba Tuần đã nói với Phật: “Sẽ có ngày tôi tiêu diệt Phật pháp của Ngài”. Đức Phật cười bảo hắn: “Phật pháp là chánh pháp, ông chẳng thể diệt được!” Ma liền nói: “Đến thời kỳ Mạt Pháp, tôi sẽ bảo ma con, ma cháu thảy đều xuất gia, xâm nhập toàn bộ để tiêu diệt Phật pháp”. Đức Phật nghe nói, ứa lệ, hiện thời đúng là như vậy! Kinh Lăng Nghiêm đã nói rất rõ ràng: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Vì thế, ngày nay chúng ta may mắn được nghe chánh pháp, sau khi nghe thì như thế nào? Độ chính mình là chánh yếu, đấy là điều trọng yếu nhất. Chính chúng ta tìm được một sinh lộ, biết thật thà niệm Phật quyết định vãng sanh.

Từ ngày học Phật, tôi chẳng tán thành dựng đạo tràng, vì sao? Dựng đạo tràng sẽ có đấu tranh, sẽ có phiền phức, tôi đã thấy quá nhiều rồi. Trước đây, thầy Lý đã bảo tôi: Khi chúng ta lập đạo tràng, mỗi cá nhân bỏ tiền hoặc ra sức, cầm sổ công đức đi hóa duyên bên ngoài, ai nấy đều là Bồ Tát, đồng lòng hiệp lực xây dựng đạo tràng. Sau khi dựng đạo tràng xong, mỗi người đều biến thành La Sát, vì sao? “Tôi hóa duyên được nhiều tiền hơn quý vị, tôi phải làm Trụ Trì”, “tuy tôi kém hơn ông, nhưng còn nhiều hơn bọn họ, tôi phải làm Đương Gia”. Trụ Trì, Đương Gia chùa miếu được chọn như thế nào? Xét coi ai hóa duyên được nhiều tiền hơn, lấy đó để xét, kẻ đó đạo đức ra sao chẳng cần bàn tới! Thậm chí, chẳng phục, tranh chấp, đấu tranh, tạo thành tình trạng ấy, tôi đã chính mắt thấy! Do vậy, đạo tràng ấy chẳng tạo dựng nên hồn! Dẫu cho đã xây dựng xong xuôi, tới lúc quý vị đã chết, đồ tử, đồ tôn đấu đá nơi đó. Mọi người tranh đoạt, tạo tội nghiệp! Còn có những nơi bị kẻ tại gia chiếm đóng; trong nhà vị [Trụ Trì, Đương Gia] ấy có các thân thích đến chiếm đóng, biến đạo tràng thành nơi ô uế! Tôi cũng đã từng thấy [chuyện này]. Tuy bản thân vị ấy không có con cái, nhưng con cái của anh em, cháu trai bên nội, bên ngoại ùa tới, chiếm đoạt chùa miếu, người xuất gia bị đuổi đi, bọn họ mỗi ngày thu tiền nhang đèn ở đó, làm chuyện này. Đây là tướng suy của Phật môn trong thời Mạt Pháp.

Do vậy, tôi thường cổ vũ, khích lệ các đồng tu có tài lực, chủ trương quý vị cung cấp đạo tràng để làm gì? Cung cấp [nơi chốn] giảng kinh, tu hành, chủ quyền thuộc về quý vị, mọi người sẽ không tranh giành, cung thỉnh pháp sư hữu đức hữu học đến trụ trì. Đạo tràng của ta chẳng giao cho vị ấy, giao cho vị ấy chính là hại vị ấy. “Tôi thỉnh thầy đến làm trụ trì, hướng dẫn đại chúng tu hành, thầy bỏ đi, quyền sở hữu tài sản thuộc về tôi. Thầy tu tập tốt đẹp, tôi mời thầy trụ thêm mấy năm. Thầy tu tập lôi thôi, tôi mời thầy trụ ba năm, thầy cuốn xéo đi, tôi lại thỉnh người khác”. Vậy thì người ấy trụ tại ở nơi nào cũng sẽ ngoan ngoãn tu học, vì sao? Chẳng tu học đàng hoàng, hết hạn ba năm, người ta chẳng mời ở tiếp nữa! [Cho nên] người ấy sẽ có đạo tâm. Giao đạo tràng cho người ấy, người ấy sẽ chẳng có đạo tâm, vì sao? Nơi này là của ta, ta làm sao thì làm, các ngươi đừng hòng can thiệp, đạo tâm chẳng còn! Trước kia, người tu đạo thật sự có đạo tâm, vì sao? Tự viện, tùng lâm là của chung, chẳng thuộc một ai. Quý vị thật sự có đạo đức, hoan nghênh quý vị đến trụ. Nếu quý vị thiếu đạo đức, trụ vài ngày, mời quý vị hãy rời đi, hãy cuốn xéo đi! Vì thế, người ấy nhất định phải giữ quy củ, nhất định phải thật sự tu hành thì mới được đạo tràng ấy hoan nghênh, mới có thể ở lâu dài về sau. Hiện thời là mỗi người một đạo tràng.

Tuy tôi ở Đài Loan nhiều năm như vậy, rất hổ thẹn. Ở Tân Gia Ba, tôi gặp pháp sư Diễn Bồi, Ngài nói: “Thầy từ Đài Loan tới, lẽ ra phải biết chuyện của Đài Loan”. Tôi thưa: “Xấu hổ quá, tôi không biết!” Sư kể cho tôi nghe, Ngài nói: “Rất nhiều pháp sư trẻ tuổi ở Đài Loan, xuất gia chẳng bao lâu, tự mình kiếm một số tín đồ, quyên góp mua một căn phòng ở chung cư, mệnh danh là tinh xá, tự mình mỗi người một căn”. Ngài nói ở nơi nọ, dường như có bảy tám chục chỗ đều giống như vậy, lắp điện thoại, chỗ nào có “Phật sự” cần mời, người ấy đến niệm kinh. Niệm xong, trở về, tự mình hưởng thụ một mình, chẳng bị ai cai quản, đều là kiểu đó, làm thế nào được! Vì thế, đối với chuyện truyền giới tại Đài Loan, Ngài rất chán ngán! Pháp sư Diễn Bồi bảo tôi: “Nếu cứ tiếp tục truyền như vậy, Phật giáo chẳng diệt vong cũng không được! Hình tượng đều bị phá sạch! Trước kia, người xuất gia phải học giới năm năm. Khi quý vị xuống tóc xuất gia, phải trụ trong chốn thường trụ tối thiểu năm năm, củng cố căn cơ vững vàng rồi mới có tư cách đi tham học. Đâu có như bây giờ, mỗi người một đạo tràng, tệ quá!” Đúng là một vị pháp sư tốt mới có thể nói ra những lời này!

Pháp sư Thánh Nhất ở Hương Cảng cũng là một người rất lỗi lạc, Ngài thường sang khuyến hóa tại Đại Lục, Phật giáo Đại Lục vô cùng tôn trọng Ngài. Có lần, Ngài bảo tôi: Ở Đại Lục có một ngôi chùa mới được khôi phục, họ chẳng biết làm theo cách nào, bèn thỉnh giáo Ngài. Họ nêu ý kiến là trong chùa miếu hiện thời, mỗi vị thường trụ có một phòng riêng, tức là mỗi người có một liêu phòng. Pháp sư Thánh Nhất nghe xong hết sức phản đối, Ngài bảo: “Chẳng thể được! Chùa miếu Trung Quốc từ xưa tới nay đều là ở theo lối quảng đơn”. “Quảng đơn”[57] là phòng ngủ chung. Sư nói: “Mỗi người ở một phòng, đóng cửa lại, kẻ ấy làm gì ai thấy? Mỗi người ở riêng một phòng, chắc chắn tu không thành công, vì sao? Tập khí khuyết điểm đều xuất hiện!” Do vậy, những vị tiền bối ở Đại Lục nghe lời Ngài, chẳng cất liêu phòng cho mỗi cá nhân, thảy đều làm phòng ngủ chung. Vì thế, người tu hành ban ngày ở chung chỗ, mọi người nhìn thấy quý vị. Tối đi ngủ, cũng là mỗi người thấy kẻ khác, như vậy thì mới có thể dần dần đoạn hết tập khí từ vô thỉ kiếp; đó là đúng! Chẳng phải là nói chúng ta ngày nay hưởng thụ cuộc sống vật chất dư dả, mỗi người có thể ở một phòng, lại còn một suite, hay thì hay đấy, nhưng là vào tam đồ ác đạo, chẳng thể đến Tây Phương! [Muốn] tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn phải ở trong phòng ngủ tập thể, trụ quảng đơn! Đừng nói chi khác, ở trong phòng ngủ tập thể, tôi nghĩ mức độ thấp nhất là mỗi sáng phải xếp mền, đệm rất ngăn nắp. Nếu không, vừa nhìn sẽ thấy lộn xộn, chính quý vị cũng cảm thấy rất đáng thẹn! Nhưng mỗi người một phòng, không sao hết, đóng cửa phòng lại, cũng chẳng có ai nhìn thấy, đôi chút tập khí lười nhác sẽ không sửa được! Vì thế, pháp sư Thánh Nhất nói rất có lý, Ngài nói: “Người tu hành ở mỗi người một phòng sẽ chẳng thể nào thành tựu được!”

Đoạn này nói những đệ tử đức Phật, cho đến các vị hộ pháp đều là chư Phật, Bồ Tát thị hiện, có thể thấy người thật sự có đạo tâm, sẽ chẳng chú trọng danh lợi, chẳng quan tâm đến địa vị, chúng ta chỉ cần làm tốt chuyện này là được rồi, giống như diễn tuồng, đồ đệ, học trò đóng vai chánh, thầy ở bên cạnh gõ trống, chạy cờ. Họ là thầy, chẳng quan tâm đến thân phận, địa vị, nhất định phải diễn vở hát cho thật hay!

Phật pháp trong thế gian nhất định phải có thể thật sự lợi ích chúng sanh, phải chú trọng điều này, bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng của chính mình, Phật pháp sẽ hưng vượng. Vì vậy, Phật pháp là đạo thầy trò, điều này rất khó! Hiện thời, truyền pháp chẳng dễ dàng, người hiện thời xử sự theo cảm tình, lôi kéo tín đồ, phải khéo quan sát vẻ mặt tín đồ, phải bợ đỡ tín đồ thì tín đồ mới đến! Nếu quý vị chẳng bợ đỡ họ đôi chút, [họ sẽ so đo] người trong chùa kia đối xử tốt đẹp, lịch sự với ta như vậy, tại sao ta phải đến chùa này? Ta đến chùa kia chẳng hay hơn ư? Trước kia, thầy Lý ở Đài Trung đã hết sức cảm thán, liên hữu ở Đài Trung bị kẻ khác kéo đi, vì sao? Đạo tràng người ta khách đến như trở về nhà, được hầu hạ chẳng thiếu sót điều nhỏ nhặt nào, thoải mái lắm! Thầy Lý giảng kinh, thuyết pháp, mỗi ngày chửi người khác: “Thôi! Ông hằng ngày chửi tôi, bên kia họ tâng bốc tôi, lẽ gì tôi đến nghe ông chửi?” Vì thế, bỏ đi khá nhiều! Đúng là đáng cảm khái ngàn vạn phần! Do vậy, chúng ta nghĩ đến “ngàn vị Phật ủng hộ”, cùng nhau kiến lập chánh pháp trong thế gian này, các đồng tu chúng ta phải ghi nhớ. Đạo tràng này của chúng ta chẳng lôi kéo tín đồ, có thể đến nơi đây cùng nhau nghiên cứu, mọi người đều có phước báo. Không có phước báo, sẽ chẳng thể tham dự thính hội này! Hôm nay, chúng tôi giảng đến chỗ này!