A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 3 – Tập 80 – 87

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3 – Tập 80-87

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 80-87

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm hai mươi chín:

 

Ngũ, năng thuyên Thể Tánh.

五、能詮體性

(Năm, trình bày Thể Tánh của kinh này).

 Đây là môn thứ năm trong mười môn, mà cũng là đoạn lớn thứ năm, thuyết minh Thể Tánh của bộ kinh này. Thể (體) là bản thể của kinh, Tánh (性) là nói đến tánh chất của nó. Phần Huyền Nghĩa trong đoạn này cũng hết sức trọng yếu. Nếu hiểu rõ Thể Tánh của kinh này, chúng ta mới tin tưởng. Dùng danh từ, thuật ngữ hiện thời để nói, [luận định] Thể Tánh chính là [nói rõ] đức Phật đã dựa trên đạo lý nào để giảng bộ kinh này, cũng như [bàn định] Ngài đã dựa trên căn cứ lý luận nào. Quý vị nói với chúng tôi nhiều như thế, quả thật có căn cứ lý luận, đương nhiên chúng tôi sẽ tin tưởng. Thể Tánh là nói về đạo lý và lý luận dùng làm căn cứ cho bộ kinh này. Vì thế, điều này khá quan trọng, đủ để khơi gợi, dấy lên tín tâm cho chúng ta, chẳng đến nỗi hoài nghi pháp môn này. Phần giải thích [Thể Tánh] được chia thành bốn đoạn: Một là Tùy Tướng (luận về sự phụ thuộc giữa văn tự và nghĩa lý), hai là Duy Thức, ba là Quy Tánh, bốn là Vô Ngại. Đoạn văn này có mức độ khá sâu vì dính dáng đến căn cứ lý luận. Do vậy, đây là đoạn khó hiểu nhất trong phần Huyền Nghĩa.

 

Sơ, Tùy Tướng.

(Huyền Nghĩa) Dĩ tri thử kinh bị cơ phổ biến, vị tri năng thuyên, hà vi Thể Tánh.

初、隨相(玄義) 已知此經被機普遍,未知能詮,何為體性。

(Thứ nhất, Tùy Tướng.

Huyền Nghĩa: Đã biết kinh này thích hợp trọn khắp các căn cơ, nhưng chưa biết kinh này dùng Thể Tánh nào để nói).

Trước tiên, nêu vấn đề bằng phương thức vấn đáp, nêu ra vấn đề này đầu tiên. Đoạn trước nói về đối tượng thích ứng, được tiếp dẫn bởi kinh này, chúng ta biết người căn tánh thượng, trung, hạ, kinh đã giảng hết sức hay: Chỉ cần có thể tin, có thể nguyện, có thể hành, sẽ đều là đối tượng được tiếp dẫn bởi pháp môn này. Nói cách khác, quý vị chẳng tin, chẳng chịu phát nguyện, chẳng chịu niệm Phật, sẽ không có cách nào hết, chẳng phải là đối tượng tiếp dẫn của pháp môn này. Nói điều này với chúng ta hết sức rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu. Trong các đối tượng được tiếp dẫn, bậc thượng thượng căn như Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát đều là đối tượng được tiếp dẫn. Kẻ hạ hạ căn, thậm chí không biết chữ, chưa từng đi học, chẳng hiểu biết gì, nghe pháp môn này rồi bèn chết sạch lòng mong ngóng, khăng khăng niệm Phật cũng có thể thành công. Thậm chí, còn có súc sanh niệm Phật vãng sanh. Trong lịch sử Trung Quốc, qua các đời đã ghi chép chẳng ít [những chuyện như vậy]; tôi tin là những chuyện không được ai ghi chép còn nhiều hơn nữa. Vì thế, pháp môn này quả thật rộng lớn, phổ biến, “bị cơ phổ biến” (thích hợp trọn khắp căn cơ), “bị” (被) có nghĩa là gia bị, hết sức phổ biến.

Tiến thêm bước nữa, chúng ta muốn hiểu, “vị tri năng thuyên” (chưa biết kinh này thuật nói), “thuyên” (詮) là nói, thuật, những văn tự, ngôn ngữ được nói trong kinh này “hà vi Thể Tánh” (Thể Tánh như thế nào), Thể là Lý, tức là đạo lý của bản kinh, căn cứ đạo lý của bộ kinh này là gì? Thể và Tánh đều nói về Lý, dưới đây là câu trả lời.

 

(Huyền Nghĩa) Y cổ triển chuyển thập môn thôi bổn, ước chi thành tứ.

(玄義) 依古展轉十門推本,約之成四。

(Huyền Nghĩa: Nếu theo lối cổ thì lần lượt dùng mười môn để suy xét đến tận gốc, nếu nói tóm tắt thì gồm bốn điều).

“Ước” (約) là quy nạp, quy nạp thành bốn môn. Trong Thể, nói đến Tùy Tướng, Duy Thức, Quy Tánh và Vô Ngại, quy nạp thành bốn môn ấy. Ở đây, trước hết phải giải thích “thập môn thôi bổn” là gì? Cổ đức giảng về giáo thể, tức là [biện định] những bộ kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm là từ chỗ nào mà nói ra? Căn cứ trên đạo lý nào để nói? [Những đạo lý ấy được gọi chung là giáo thể]. Cổ đại đức gom những đạo lý ấy thành mười điều, từ mười điều ấy truy ngược lên dần dần để tìm được điều căn bản. Điều thứ nhất là “âm thanh, ngữ ngôn”. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài dùng âm thanh làm Phật sự. Do vậy, âm thanh là giáo thể. Sau khi đức Phật diệt độ, các đệ tử đem những lời thầy đã giảng trong quá khứ ghi chép lại, viết thành văn tự. Điều thứ hai là “danh cú văn thân”: [Danh (名) là] danh từ, thuật ngữ. Một ý nghĩa hoàn chỉnh thì gọi là một Cú (句: Câu). Văn (文) là văn tự. [Cú và Văn] đều gọi là Thân (身)[74]. Điều thứ ba là “thông thủ tứ pháp” (gom chung bốn pháp Danh, Cú, Văn, Thân để nói lên Thể). Điều thứ tư là “chư pháp hiển nghĩa” (dùng các pháp ấy để hiển thị nghĩa lý); đây là nói về Lý. Văn tự là “năng thuyên” (chủ thể đóng vai trò diễn nói), nó có thể trình bày, giảng nói. Trong [những điều được diễn nói] ấy, nhất định có nội dung, cổ nhân nói “văn dĩ tải đạo” (dùng văn để chở đạo), trong ấy có lý luận, có đạo lý. Chúng ta hãy từ ngôn ngữ, văn tự mà ngộ đạo lý, chớ nên chết cứng trong ngôn ngữ, văn tự. Ngôn ngữ, văn tự là công cụ, có mục đích nhằm khiến cho chúng ta ngộ được cái Lý trong ấy; có như vậy thì mới thật sự thụ dụng.

Thứ năm là “nhiếp cảnh duy tâm” (quy kết cảnh chỉ do tâm biến hiện), “cảnh” là cảnh giới; âm thanh, ngôn ngữ, văn tự đều thuộc vào cảnh giới. Những cảnh giới ấy từ chỗ nào biến hiện ra? Duy tâm sở hiện. Nói cách khác, dần dần có thể phát hiện được bản thể của nó, bản thể là chân tâm, bổn tánh. Những kinh do đức Phật nói do từ chân tâm, bổn tánh lưu lộ. “Dần dần” là như kinh Hoa Nghiêm đã nói [từ bốn pháp Danh, Cú, Văn, Thân, truy ngược lại để thâm nhập nghĩa lý], thâm nhập đến mức Lý Sự vô ngại, rồi Sự Sự vô ngại, khi đạt đến viên mãn rốt ráo, tâm tánh hoàn toàn khôi phục sự sáng sạch, tức là lúc quang minh tịnh khiết, chẳng nhiễm mảy trần, hết thảy Sự – Lý trong tận hư không trọn pháp giới đều thấy, giống như Tâm Kinh đã nói: “Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”. Ngũ Uẩn là gì? Hết thảy Sự Lý thế gian và xuất thế gian chẳng ra ngoài Ngũ Uẩn, nhỏ thì như cái thân của chúng ta là thân Ngũ Uẩn, lớn thì toàn thể thế giới là thế giới Ngũ Uẩn. Hữu tình thế gian là như thế, mà Trí Chánh Giác thế gian cũng chẳng phải là ngoại lệ! Thế giới Sa Bà của chúng ta do Ngũ Uẩn hợp thành, Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn do Ngũ Uẩn hợp thành. Ngũ Uẩn nơi chúng ta là nhiễm, Ngũ Uẩn ở bên kia là tịnh. Thật ra, Ngũ Uẩn đâu có nhiễm hay tịnh? Tịnh hay nhiễm do lòng người, quý vị phải hiểu rõ: Tâm mê là nhiễm, tâm thanh tịnh là tịnh.

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói rất minh bạch: Chúng sanh và Phật khác biệt ở chỗ nào? Chúng sanh có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng; Phật chẳng có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, chuyện là như vậy đó! Phẩm [Như Lai] Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”. Phật và chúng sanh không khác nhau, chỉ sai biệt đôi chút như vậy. Chỉ cần hết thảy chúng sanh buông phân biệt, vọng tưởng, chấp trước xuống thì quý vị gọi là Phật, gọi là “thành Phật”. Nói thật ra, thành Phật đơn giản như vậy đó. Quý vị đã hiểu rõ Lý, nhưng không buông phân biệt, chấp trước xuống được, biết làm cách nào nữa đây? Chịu buông xuống là được! Không chịu buông xuống, Phật cũng chẳng cứu được quý vị, cũng chẳng giúp đỡ được. Vì thế, tu hành là tu gì? Chính là trừ bỏ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tu điều này. Cổ đức nói: “Chỉ cầu trừ vọng”, quý vị trừ hết hư vọng là được rồi, chẳng cần phải cầu Chân. Vì sao chẳng thể cầu Chân? Cầu Chân là một thứ vọng niệm, giống như trong lần trước tôi đã với quý vị: Quý vị chỉ cần niệm Phật, chẳng cần cầu nhất tâm bất loạn; vì quý vị cầu nhất tâm bất loạn thì ý niệm ấy cũng là vọng niệm, là chướng ngại đối với nhất tâm bất loạn. Quý vị phải hiểu rõ đạo lý này. Chỉ cần thẳng thừng niệm bốn chữ, niệm đến khi công phu thành thục, tự nhiên sẽ là nhất tâm bất loạn. Niệm Phật suốt ngày [mà cứ băn khoăn] “sao ta vẫn chưa đắc nhất tâm bất loạn?” Niệm như vậy suốt cả đời vẫn chẳng thể đắc nhất tâm bất loạn, trong mỗi niệm đều có chướng ngại, trong mỗi niệm đều có vọng tưởng, làm sao thành tựu cho được?

Thập môn[75] được quy nạp thành bốn môn. Trong bốn môn, môn thứ nhất là Tùy Tướng. Chữ Tùy có hai nghĩa:

– Thứ nhất là “văn tùy ư nghĩa, nghĩa tùy ư văn”, [tức là] trong văn có ý nghĩa, trong ý nghĩa cũng có văn chương; bởi lẽ, ý nghĩa có trình tự, có tầng lớp, từng điều rạch ròi, chẳng lộn xộn, đó là văn chương. Đây là nói về Giáo Thể.

– Ý nghĩa thứ hai là khi chưa đến mức “hội quy nhất tâm” (gom hết về nhất tâm) thì chúng ta sẽ tìm tòi, dựa trên văn tự nhằm hiểu rõ chỗ quy kết của những lý luận ấy.

Đó là ý nghĩa Tùy Tướng. Bốn đoạn này, càng đọc về sau càng sâu, mỗi phần sau đều sâu hơn phần trước.

 

(Huyền Nghĩa) Tiên minh Tùy Tướng, ư trung phục nhị, nhất vị thanh danh cú văn, nhị vị sở thuyên nghĩa, dĩ văn dữ nghĩa giai thuộc tướng cố.

(玄義) 先明隨相 ,於中復二 一謂聲名句文 ,二謂所詮義,以文與義皆屬相故。

(Huyền Nghĩa: Trước hết, nói về Tùy Tướng. Trong đây lại có hai điều: Một là thanh, danh, cú, văn; hai là nghĩa lý được diễn nói bởi [thanh, danh, cú, văn], bởi lẽ, văn và nghĩa đều thuộc về tướng).

Cũng có đồng học chúng ta đọc xong sẽ có nghi vấn. Văn tự là tướng, chẳng thành vấn đề! Cớ sao nghĩa lý cũng nói là tướng? Phía dưới sẽ có giải thích. Vì nếu đem nghĩa so với Lý để nói thì nghĩa vẫn là “năng thuyên” (chủ thể tuyên nói), cho nên nó vẫn thuộc vào tướng. Sâu hơn một tầng nữa là giáo lý, giáo lý phải do chính mình lắng lòng lãnh hội, thường nói là “ý nằm ngoài lời”, sâu là sâu tại chỗ này; nhưng đối với bản kinh này, bất luận quý vị thấu hiểu nghĩa lý sâu hay cạn, đều được lợi ích. Thậm chí hoàn toàn chẳng hiểu nghĩa lý, ta tin tưởng, ta muốn về Tây Phương, ta niệm một câu A Di Đà Phật cũng có thể vãng sanh. Pháp môn này thù thắng chẳng thể nghĩ bàn ở chỗ này, chẳng giống các pháp môn khác: Nhất định phải ngộ nhập sâu xa mới được thụ dụng. Pháp môn này hay là hay ở chỗ này, chẳng ngộ nhập vẫn được thụ dụng!

 

(Sớ) Thập môn triển chuyển, tường kiến Hoa Nghiêm Huyền Đàm, Khuê Phong phục ư trung ước nhi thúc chi, toại vi tứ môn.

() 十門展轉 詳見華嚴玄談 圭峰復於中約而束之,遂為四門。

(Sớ: “Mười môn lần lượt” xem chi tiết trong bộ Hoa Nghiêm Huyền Đàm, ngài Khuê Phong lại rút gọn [mười môn ấy] thành bốn môn).

Bộ Hoa Nghiêm Kinh Huyền Đàm[76] gồm chín quyển do Thanh Lương đại sư viết vào đời Đường, là bản chú giải kinh Hoa Nghiêm có uy tín nhất, được gọi là Đại Sớ. Ngài Khuê Phong là thiền sư Tông Mật, là học trò ngài Thanh Lương. Ngài Thanh Lương là tổ sư đời thứ tư của tông Hoa Nghiêm, ngài Tông Mật là đời thứ năm, là Ngũ Tổ của tông Hoa Nghiêm. Tác phẩm trứ danh nhất của Ngài được lưu truyền hậu thế là bộ Viên Giác Kinh Sớ Sao. Ngài dốc sức rất lớn nơi kinh Viên Giác, viết mấy bản chú giải. Viên Giác Kinh Sớ Sao, Viên Giác Kinh Lược Sớ đều do Ngài viết. Từ truyện ký, chúng ta thấy vị pháp sư này cũng rất bất phàm. Ngài thấy kinh điển nhiều quá, một người trong một đời mà đọc hết thảy các kinh có thể nói là chuyện không thể được! Làm thế nào để chọn lấy một hai thứ trong hết thảy các kinh để chuyên dốc công phu? Thấy kinh điển nhiều dường ấy đều thích hết, vậy thì rốt cuộc nên chọn thứ nào mới nên? Lão nhân gia dùng phương pháp [sau đây]: Trước hết, lễ Phật cầu cảm ứng, cầu Phật, Bồ Tát gia trì. Lạy Phật xong bèn tiện tay rút lấy một quyển trong Đại Tạng Kinh, quyển ấy do Phật, Bồ Tát gia trì, rút được cuốn Viên Giác Kinh. Được rồi! Ngài bèn chết sạch mong ngóng, khăng khít dốc sức nơi kinh Viên Giác, Ngài bèn thành tựu. Thuận tay rút ra một quyển là do lễ Phật kiền thành, cung kính cầu Tam Bảo gia trì hòng biết chính mình có duyên với bộ kinh nào, dùng phương thức ấy. Từ xưa đến nay, mãi cho đến hiện tại, chú giải kinh Viên Giác không có ai hơn được Tông Mật đại sư. Ngài chú giải kinh Viên Giác chẳng dùng thập môn khai khải mà đem mười môn quy nạp thành bốn môn, “ước nhi thúc chi, toại vi tứ môn” (rút gọn lại bèn thành bốn môn). Nay Liên Trì đại sư chọn dùng phương thức của Khuê Phong Tông Mật đại sư, dùng bốn môn để thuyết minh [thể tánh của kinh Di Đà].

 

(Sớ) Sơ, “thanh, danh, cú, văn” giả, cứ Đại Tiểu Thừa giáo, hoặc dĩ thanh vi giáo thể.

() 初、聲名句文者,據大小乘教,或以聲為教體。

(Sớ: Thứ nhất, “thanh, danh, cú, văn”: Theo Đại Tiểu Thừa giáo, hoặc lấy âm thanh làm giáo thể).

Đức Phật tại thế, dùng âm thanh để thuyết pháp; thuở ấy không có kinh sách, đức Phật giảng, mọi người nghe.

 

(Sớ) Hoặc dĩ Danh, Cú, Văn, Thân nhi vi giáo thể.

() 或以名句文身而為教體。

(Sớ: Hoặc dùng danh, cú, văn, thân để làm giáo thể).

 Sau khi đức Phật diệt độ, do tôn giả A Nan là bậc đa văn đệ nhất, có trí nhớ tốt nhất, sức ghi nhớ của ngài A Nan giống như máy thâu âm hiện thời, nghe qua một lần chẳng quên một chữ nào, có thể nhắc lại, Ngài có năng lực ấy. Ngài A Nan nhắc lại, các đồng học chứng minh, lại còn ghi chép, trở thành cội nguồn của kinh điển cho đời sau. Đối với sự truyền thừa của Phật giáo, ngài A Nan có cống hiến rất lớn. Có thể nói: Nếu không có Ngài, dù đức Phật nói kinh nhiều dường ấy, chúng ta vẫn chẳng có cơ hội được nghe.

 

(Sớ) Kim y Thanh Lương đại sư, thông thâu tứ giả, dĩ thanh vi giáo chủ.

() 今依清涼大師,通收四者,以聲為教主。

(Sớ: Nay dựa theo Thanh Lương đại sư, gộp chung cả bốn thứ này lại, lấy âm thanh làm Giáo Thể chủ yếu).

Đây là ý nghĩa mà ngài Thanh Lương đã dùng để chú giải kinh Hoa Nghiêm: Ngài quy nạp lại, lấy âm thanh làm Giáo Thể. Ngài Thanh Lương cũng có căn cứ [để luận định như vậy], chứ không phải là nói bừa, như trong kinh Lăng Nghiêm, Văn Thù Bồ Tát khi chọn lựa pháp Viên Thông đã nói: “Thử phương chân Giáo Thể, thanh tịnh tại âm văn” (Chân Giáo Thể phương này, thanh tịnh nơi nghe tiếng). Chúng sanh trong thế giới Sa Bà, Nhĩ Căn nhạy bén nhất; quý vị bảo họ nhìn, chẳng dễ gì khai ngộ, nói cho họ nghe, họ rất dễ khai ngộ. Đây là dùng âm thanh làm Giáo Thể.

 

(Sớ) Danh giả thứ đệ hàng liệt, thuyên pháp tự tánh.

() 名者次第行列,詮法自性。

(Sớ: Danh là liệt kê theo thứ tự nhằm diễn tả tự tánh của pháp).

“Thuyên” (詮) là “thuyên thuật” (詮述: giảng nói, trình bày). Trong những danh từ ấy có chứa đựng tự tánh của hết thảy các pháp. Chẳng hạn như đối với danh từ Vô Lượng Thọ Phật, chúng ta quả thật nghĩ đến một vị Phật. Chữ Vô có nghĩa là “chẳng có tự tánh”, hết thảy đều không có! “Vô Lượng”: Gộp hai chữ Vô và Lượng lại sẽ biến thành vô hạn, chẳng có hạn lượng. “Thọ” là thọ mạng. [Vô Lượng Thọ là] thọ mạng chẳng có hạn lượng, ý nghĩa rất rõ ràng. Chúng ta có thể nghĩ đến vị Phật ở bên ấy, chẳng cần nói đến điều gì khác, chỉ nói là Ngài có thọ mạng chẳng có hạn lượng, chẳng có giới hạn. Phật có nghĩa là Giác, vị Phật ấy đã có thọ mạng dài lâu lại vừa là bậc đại trí đại giác, Phật là đại trí đại giác. Từ danh từ này, chúng ta có thể thấu hiểu một sự thật: Có một vị Phật đại trí đại giác, thọ mạng cực dài. “Danh” có thể chứa đựng tự thể của pháp này, “pháp” là nói hết thảy vạn pháp. Chúng ta nêu ra [danh hiệu của] một vị Phật để nói, thì [danh hiệu ấy] chứa đựng tự thể của Ngài.

Thông thường, những kẻ tầm thường như chúng ta danh chẳng phù hợp thật! Chúng ta đặt tên, chọn những danh xưng đẹp đẽ, nhưng sự thật và danh xưng chẳng phù hợp. Chư Phật, Bồ Tát danh phù hợp thật, các Ngài chọn danh hiệu nào thì trên thực tế, đúng là như vậy. Chúng ta học Phật, khi quý vị quy y, vị pháp sư truyền thọ Tam Quy đặt pháp danh cho quý vị, pháp danh có nghĩa là gì? Hy vọng trong một đời này, quý vị sẽ danh phù hợp thật, đừng nên để danh và thật mâu thuẫn. Cổ nhân Trung Quốc đặt danh xưng rất chú ý, đa số là mong sao danh và thật phù hợp. Con người hiện tại chẳng đáng tin, chẳng chín chắn như người đời trước. Từ kinh điển, chúng ta thấy tại Ấn Độ vào thời cổ, rất nhiều danh xưng của một cá nhân quả thật là “danh phù hợp thật”. Chẳng hạn như tôn giả Câu Hy La (Kausthila), Câu Hy La nghĩa là gì? Đại Tất Cái, dịch sang nghĩa tiếng Hán là đầu gối của Ngài đặc biệt to, tiếng Hán gọi là Đại Tất Cái. Ngài danh và thật tương hợp, tương xứng.

 

(Sớ) Cú giả thứ đệ an bố, thuyên pháp sai biệt.

() 句者次第安布,詮法差別。

(Sớ: Cú là sắp đặt theo thứ tự để giảng về sự sai biệt của các pháp).

Chúng tôi vẫn dùng Vô Lượng Thọ Phật để làm tỷ dụ. Cú là một câu hoàn chỉnh, Vô Lượng Thọ Phật là một câu hoàn chỉnh, ý nghĩa rất hoàn bị, có thể bao hàm ý nghĩa của đại pháp. Nếu chúng ta chỉ nói Lượng Thọ Phật thì ý nghĩa chưa toàn vẹn. Do vậy, mỗi chữ trong bốn chữ này chẳng thể thiếu một chữ nào. Hễ thiếu một chữ, ý nghĩa sẽ không trọn vẹn, chẳng hoàn chỉnh. Mỗi một chữ trong Cú đều sai khác, gộp lại mới thành một ý nghĩa hoàn chỉnh. “Cú giả, thứ đệ an bố, thuyên pháp sai biệt” (Cú là sắp đặt theo thứ tự để giảng về sự sai biệt của các pháp). Những chữ ấy chẳng thể xáo trộn, chẳng thể thiếu khuyết thì mới hiển thị hoàn toàn ý nghĩa [của câu ấy].

 

(Sớ) Văn giả thứ đệ liên hợp, thượng nhị sở y. Thử Danh, Cú, Văn tam giả, khuất khúc vi Thanh thượng thuyên biểu. Duy Thanh, tắc bất năng thuyên nghĩa. Duy Danh, Cú, Văn, tắc vô tự thể. Kiêm thử tứ sự, thị vi giáo thể, dĩ Giả, Thật, Thể, Dụng kiêm tư dã.

() 文者次第聯合 上二所依 此名句文三者,屈曲為聲上詮表,唯聲,則不能詮義。唯名句文,則無自體。兼此四事,是謂教體,以假實體用兼資也。

(Sớ: Văn là liên kết theo thứ tự, phụ thuộc vào hai loại trước (Danh và Cú). Ba món Danh, Cú, Văn phải nương vào Thanh (âm thanh) để nói ra. Chỉ có Thanh, sẽ chẳng thể diễn tả nghĩa lý. Chỉ có Danh, Cú, Văn, ắt chúng sẽ không có tự thể. Kiêm cả bốn điều này để thành giáo thể, trọn dùng Giả, Thật, Thể, Dụng để giúp lẫn nhau vậy).

Đoạn này hơi khó hiểu. “Văn” là từ hai câu gộp lại trở lên thì mới là văn chương. Trong sách Luận Ngữ, có khi hai câu là một chương, có khi ba câu là một chương, mỗi chương trình bày một chuyện hoàn chỉnh. Trước đời Hán, văn tự vô cùng thuần phác, nhất định chẳng rườm rà; về sau, văn tự có phong cách tu từ, càng ngày càng cố sức bóng bẩy, khác rất xa với tánh chất chất phác, thành thật của cổ văn. “Văn” có nghĩa là văn sức (trau chuốt lời lẽ cho bóng bẩy), ắt phải dùng lối nói hoa mỹ, nay ta gọi là “tu từ” (Rhetoric)[77], kết hợp [những biện pháp tu từ lại] như vậy thì mới phô diễn được sự mỹ hóa (beautify) văn chương: Văn tự đẹp đẽ, đọc lên âm thanh du dương. Lối văn Biền Thể[78] được người ta ưa thích nhất. Trong văn học, nói đến những loại đẹp đẽ nhất như thơ, từ, ca, phú, những lời văn trong tuồng hát đều hết sức bóng bẩy, đều càng được trau chuốt. Kinh Phật sau khi được kết tập lần đầu, cũng tìm những người giỏi văn chương nhuận sắc, tu chỉnh. Từ Phạn văn dịch sang tiếng Hán, sau khi đã dịch xong toàn bộ kinh văn, nhất định phải mời mấy tay văn học gia nổi tiếng đến nhuận văn. “Nhuận văn” là gọt giũa, trau chuốt, nhưng chẳng thể biến đổi ý nghĩa, mà gắng hết sức chỉnh sửa từ ngữ, câu văn, văn tự sao cho đẹp đẽ; có công tác này. Những chuyện này đều thuộc về ý nghĩa đang nói ở đây!

“Kiêm thử tứ sự, thị vị giáo thể” (kiêm cả bốn chuyện này để làm giáo thể): Kinh thể và bản thể của kinh Phật là văn tự. Chúng ta chẳng thể tách khỏi kinh sách, kinh sách là căn cứ giáo học của Phật giáo. “Giả, Thật, Thể, Dụng kiêm tư” là nói tới điều gì vậy? Trong ấy có Giả, có Thật, có Thể, có Dụng, những điều này bổ trợ lẫn nhau. Danh, Cú, Văn đều là giả, vì sao là giả? Chúng là bất tương ứng hành pháp. Quý vị học Duy Thức, học Bách Pháp sẽ hiểu: Cái gọi là “bất tương ứng hành pháp” nói theo danh từ bây giờ là những gì thuộc về trừu tượng, không có thực thể. Vì thế, chúng được gọi là “bất tương ứng”, chẳng tương ứng với ai? Chẳng tương ứng với Tâm, chẳng tương ứng với Tâm Sở, chẳng tương ứng với Sắc. Tâm pháp là Bát Thức Tâm Vương, đó là thật, vì hết thảy vạn pháp đều do nó biến, tâm là Năng Biến. So sánh giữa Năng Biến và Sở Biến thì Năng Biến là chân, Sở Biến là giả. Tâm Sở pháp là tác dụng của Tâm Vương, phụ thuộc Tâm Vương, gồm có tất cả năm mươi mốt món. Đối lập với Tâm Sở pháp là Sắc pháp. Sắc pháp là Y Tha Khởi Tánh, cũng coi như là có, quả thật có chuyện ấy, chẳng thể nói chúng không có. Ngôn ngữ, văn tự là bất tương ứng hành pháp, đã chẳng phải là Tâm pháp hay Tâm Sở pháp, mà cũng chẳng phải là Sắc pháp. Nói theo ba tánh của Duy Thức, tánh chất của chúng (bất tương ứng hành pháp) được gọi là Biến Kế Sở Chấp Tánh; đây chính là một thứ vọng tưởng hay quan niệm chấp trước trong tâm chúng ta, cho rằng có những thứ này, chứ trên thực tế chẳng có! Vì thế, văn tự bất quá là một thứ phù hiệu mà thôi, là một thứ hết sức trừu tượng, là giả, chẳng thật!

Âm thanh quả thật tồn tại, âm thanh thuộc về Sắc pháp. Sắc pháp có mười một thứ, gồm Ngũ Căn và Lục Trần, Ngũ Căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; Lục Trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Âm thanh là một thứ trong Lục Trần, thuộc về Sắc pháp. Sắc pháp là Y Tha Khởi Tánh, thật sự có. Biến Kế Sở Chấp Tánh chẳng thật sự có, mà là giả có. Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, âm thanh là Thể, về sau ghi chép thành văn tự, đó là Dụng. Có Thể, có Dụng, có Giả, có Thật! Cái Thật ấy chẳng phải là chân thật tuyệt đối; do so sánh với Danh Cú Văn Biến Kế Sở Chấp Tánh nên quả thật có chuyện ấy. Tuy có chuyện ấy, nhưng cũng chẳng thể coi là chân thật tuyệt đối được.

 

(Sớ) Nhị, sở thuyên nghĩa giả, thử Thanh, Danh, Cú, Văn, nhược vô sở thuyên chi nghĩa, tắc đồng hồ thiên vận, thù vô ý huống.

() 二、 所詮義者 ,此聲名句文 ,若無所詮之義 則同乎篇韻,殊無意況。

(Sớ: Hai là những nghĩa lý được diễn bày [bởi thanh danh cú văn]: Những thứ Thanh, Danh, Cú, Văn ấy nếu không diễn tả những nghĩa lý thì chúng sẽ giống như các sách tự điển, gieo vần[79], trọn chẳng có ý nghĩa gì!)

Trong văn tự, nếu thật sự không có ý nghĩa, sẽ giống như từng chữ một trong tự điển, mỗi chữ chẳng liên kết với nhau thì chẳng có ý nghĩa gì hết, giống như các loại sách vận thư (sách dạy gieo vần như Quảng Vận) hay thi vận (sách liệt kê những chữ có cùng vần trong thơ ca) xưa kia, chẳng có ý nghĩa gì hết, trở thành có tánh chất giống như vậy. Vì thế, trong văn nhất định phải có nghĩa thì mới có giá trị. Nghĩa lý càng sâu càng có giá trị. Trong báo chí có văn tự, trong tạp chí cũng có văn chương, nhưng ý nghĩa quá nông cạn, đọc một lần chẳng muốn xem lần thứ hai. So với những thứ văn học có giá trị, có mức độ sâu thì ý vị sâu hơn, đọc xong vẫn muốn đọc nữa. Thế nhưng tác phẩm văn học dù hay đến đâu, đọc hai chục hay ba chục lần cũng chẳng muốn đọc nữa. Chúng ta đọc Thập Tam Kinh[80] là sách của Nho gia, đọc Lão Tử, Trang Tử, những sách đó ý vị nồng nàn, sâu đậm, đúng là đọc trăm lần chẳng chán! Nếu xem kinh Phật, đích xác là từ Sơ Phát Tâm cho đến Đẳng Giác Bồ Tát, đọc qua vô lượng kiếp vẫn đọc không chán, vì sao vậy? Vì kinh từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, bổn tánh chẳng có cùng tận. Vì thế, pháp vị được bao hàm trong ngôn ngữ văn tự cũng chẳng cùng tận, có nghĩa vị rất nồng đậm.

 

(Sớ) Nhược đồ nghĩa vô văn, diệu lý bằng hà nhi đắc hiển thị.

() 若徒義無文,妙理憑何而得顯示。

(Sớ: Nếu chỉ có nghĩa lý suông, chẳng có văn tự, diệu lý nhờ vào đâu để hiển thị).

Tuy có nghĩa vị, nhưng nếu không có văn tự dẫn dắt, chúng ta sẽ không có cách nào thông đạt [nghĩa lý ấy]. Nghĩa vị ấy do đâu mà có? Thưa quý vị, tuyệt đối chẳng phải là có sẵn trong văn tự. Nếu trong văn tự có pháp vị, lẽ ra mỗi người đọc văn tự đều có thể cảm nhận, chẳng phải vậy! Pháp vị ấy do đâu mà có? Do quý vị nhờ vào văn tự để dẫn khởi tâm tánh của chính mình phát xuất; do vậy, ý vị chẳng có cùng tận. Đó gọi là “pháp hỷ sung mãn”, chúng ta thường nói là “ngộ xứ”. Sự ngộ ấy có chấm dứt hay không? Không có! Chẳng có chấm dứt! Quý vị đọc kinh, hằng ngày có ngộ xứ. Cũng có người nói: “Tôi hằng ngày niệm kinh mà chẳng có ngộ xứ, vì sao chẳng có ngộ xứ?” Quý vị niệm kinh không đúng cách; vừa niệm kinh, vừa khởi vọng tưởng, chẳng có ngộ xứ! Khi niệm kinh, tâm địa chẳng thanh tịnh, chẳng thể có ngộ xứ! Khi niệm kinh, thái độ chẳng cung kính, chẳng có ngộ xứ! Vì thế, nếu dùng cái tâm thành kính, thanh tịnh để niệm kinh, chẳng thể nói là không có ngộ xứ; chỉ có thể nói là ngộ xứ sâu hay cạn khác nhau, nhất định có ngộ xứ! Niệm một lượt sẽ có ngộ xứ một lượt, niệm hai lượt sẽ có ngộ xứ hai lượt. Ngộ xứ ấy chẳng có giới hạn. Vì thế, đọc kinh từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành Phật vẫn chẳng chán là do đạo lý này! Niệm ra hết vô lượng trí huệ và đức năng trong Chân Như bổn tánh của chính mình, mầu nhiệm ở chỗ này, chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, đức Phật khuyên chúng ta: Kinh Phật chẳng thể không đọc. Ba món phước trong Quán Kinh đến cuối cùng là “đọc tụng Đại Thừa”. Vì thế, đọc kinh hết sức trọng yếu.

 

(Sớ) Lương dĩ văn tùy ư nghĩa, nghĩa tùy ư văn.

() 良以文隨於義,義隨於文。

(Sớ: Bởi lẽ, văn nương theo nghĩa, nghĩa nương theo văn).

Văn có thể khơi gợi, phát khởi tâm trí của chúng ta, khiến cho tâm trí của chúng ta sẽ thuận theo văn tự ấy mà lưu lộ ra. Đó là lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sớ) Văn nghĩa tương tư, nãi thành giáo thể.

() 文義相資,乃成教體。

(Sớ: Văn và nghĩa nương giúp nhau, bèn thành giáo thể).

 Giáo thể, nói theo cách hiện thời, những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật nói được chép thành sách, tuy sách vở là giả, nhưng chúng có tác dụng. Tác dụng gì vậy? Có thể dẫn phát tự tánh của chúng ta. Tự tánh của chúng ta là Thể. Cái Thể của chúng ta và Thể của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng khác, là một Thể, chẳng có hai Thể! Đọc kinh có thể minh tâm kiến tánh, phải đọc như vậy thì mới được! Chết cứng nơi văn tự là hỏng rồi. Vì thế, quyết định đừng để văn tự xoay chuyển, phải dùng văn tự để dẫn dắt, phát khởi chân tánh của chính mình, đọc như vậy thì mới được!

Quý vị nghe thấy điều này dường như rất huyền, rất diệu. Đương nhiên quý vị cũng khát khao, ta nên làm sao thì mới đạt được? Quý vị hãy nhớ những gì tôi vừa mới nói, đừng quên: Dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm cung kính để niệm. Khi niệm, chẳng cần phải phân biệt những ý nghĩa trong ấy, ý nghĩa sẽ tự nhiên hiển hiện. Đó là ngộ xứ. Quý vị suy nghĩ điều này có nghĩa là gì, đại khái có ý nghĩa nào? Lầm rồi! Quý vị hoàn toàn rớt trong ý thức. Bài kệ Khai Kinh nói rất hay: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, thế mà quý vị đã hoàn toàn hiểu lầm ý nghĩa chân thật của Như Lai. Quý vị hằng ngày niệm kinh, niệm đến cuối cùng bèn hiểu lầm nghĩa chân thật của Như Lai! Còn có cách nào nữa đây? Không có cách nào cả! Vì thế, quý vị nhất định phải biết niệm.

Trong quá khứ, tôi cũng đã từng bảo quý vị: Niệm kinh là hoàn thành Tam Học Giới – Định – Huệ cùng một lúc. Vì thế, niệm kinh là tu hành: Tu Giới, tu Định, tu Huệ. Giới luật là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Giới Tiểu Thừa là “đừng làm các điều ác”, Bồ Tát Giới là “vâng làm các điều lành”. Khi chúng ta niệm kinh, tâm địa chân thành, cung kính, thanh tịnh, tâm quý vị đương nhiên cũng chẳng có điều ác, bèn làm được “không làm các điều ác”. Kinh là ngôn ngữ lưu lộ từ Chân Như bổn tánh của Thích Ca Mâu Ni Phật, lành nhất trong những sự lành, chẳng có gì tốt lành hơn được! Đọc kinh là “vâng làm các điều thiện”. Do vậy, giới luật Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều viên mãn, thảy đều trọn đủ. Khi niệm kinh bèn nhất tâm niệm, nhất tâm là Định, chuyên tâm, niệm kinh nhất định chẳng suy nghĩ loạn xạ. Ta niệm một câu, suy nghĩ trong ấy có ý nghĩa gì, thì gọi là “suy nghĩ loạn xạ”, chẳng có Định! Ta niệm kinh là tu Định, chẳng khởi một niệm trong ấy. Chẳng có phân biệt, chấp trước, đó là tu Định. Niệm kinh văn từng chữ phân minh, từng câu rõ ràng, chẳng đọc sai, chẳng đọc lộn xộn, đó là tu Huệ. Quý vị niệm như vậy mới hòng khai ngộ. Vì thế, công đức niệm kinh rất lớn, đạo lý là ở chỗ này!

Vừa niệm vừa suy nghĩ ý nghĩa, đó là khởi vọng tưởng. Những gì quý vị suy nghĩ chẳng phải là ý nghĩa được nói trong kinh, những ý nghĩa trong kinh phải là lưu lộ, từ nội tâm của quý vị tuôn ra, chẳng cần phải nghĩ, hễ nghĩ là trật mất rồi! Đây là chỗ tuyệt đối khác nhau giữa kinh Phật và những thứ văn chương, sách vở thế gian. Tất cả sách vở trong thế gian đều từ cái tâm phân biệt, chấp trước, ý thức lưu lộ, quý vị đọc có thể suy ra những ý nghĩa; còn những gì đức Phật nói chính là từ cái tâm vô phân biệt lưu lộ. Quý vị dùng cái tâm phân biệt để suy nghĩ, sẽ tuyệt đối chẳng hiểu được ý nghĩa; ắt phải bỏ sạch phân biệt, chấp trước, vọng tưởng! Niệm kinh như thế mới hòng đạt được ý nghĩa chân thật của Như Lai, quý vị niệm kinh mới thật sự đạt được thụ dụng.

 

(Sớ) Cố kim thử kinh.

() 故今此經。

(Sớ: Nên nay kinh này).

Nói đến bản kinh [Di Đà] này.

 

(Sớ) Tùng “như thị ngã văn”, chí “tác lễ nhi thoái”.

() 從如是我聞,至作禮而退。

(Sớ: Từ “tôi nghe như thế” cho đến “làm lễ, lui ra”).

Đây là nói toàn bộ kinh A Di Đà.

 

(Sớ) Thị Thanh, Danh, Cú, Văn Thể.

() 是聲名句文體。

(Sớ: Là Thể của Thanh, Danh, Cú, Văn).

Văn tự trong kinh văn thật sự là Thể của Thanh, Danh, Cú, Văn.

 

(Sớ) Nhi kỳ trung sở thuyết y chánh nhị báo, tín nguyện vãng sanh đẳng, thị sở thuyên nghĩa dã.

() 而其中所說依正二報 信願往生等 是所詮義也。

(Sớ: Nhưng những điều như y báo và chánh báo, tín nguyện vãng sanh v.v… nói trong ấy chính là những nghĩa được kinh nói tới).

 Trong văn tự có những ý nghĩa.

 

(Sớ) Dĩ thị nhị giả, giao tương tùy cố, nhi vi giáo thể.

() 以是二者,交相隨故,而為教體。

(Sớ: Dùng hai điều này (văn và nghĩa) tùy thuộc lẫn nhau để làm giáo thể).

 Trong văn có nghĩa, trong nghĩa có văn. Đây là nói từ “tùy tướng” (nghĩa tùy thuộc vào tướng văn tự, tướng văn tự tùy thuộc nghĩa) để nêu ra đại ý của giáo thể.

 

(Huyền Nghĩa) Hựu nhược cứ pháp sở hiển nghĩa, tắc vô phi Phật sự, như hương phạn, quang minh đẳng, đương tri pháp pháp giai vi giáo thể.

(玄義) 又若據法所顯義 則無非佛事 如香飯光明等,當知法法皆為教體。

(Huyền Nghĩa: Lại nữa, nếu dựa theo những nghĩa đã được hiển thị bởi pháp thì không gì chẳng phải là Phật sự, như cơm thơm, quang minh v.v… Hãy nên biết pháp nào cũng đều là giáo thể).

“Pháp” là hết thảy các pháp. Nói thật ra, hết thảy các pháp đều có thể “hiển nghĩa”. Quý vị đọc bộ kinh sách này thì bộ kinh sách này là một pháp, nó có thể hiển lộ nghĩa lý. Trừ kinh sách ra, hết thảy các pháp đều có thể hiển lộ nghĩa lý. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy thế giới Hoa Tạng; từ kinh này, ta thấy lục trần trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thuyết pháp. Lục trần thuyết pháp, tức là pháp nào cũng đều có thể hiển lộ nghĩa lý. Đây là thật, chẳng giả! Trong Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, Thanh Lương đại sư đã giảng ý nghĩa này rất thấu triệt, đấy chính là như chúng tôi thường nói “biểu pháp”. Biểu (表) là tỏ lộ, pháp (法) là ý nghĩa trong ấy. Chẳng hạn như chúng ta thấy nến thì nến là một pháp; người giác ngộ, người chẳng mê thấy nến có thể dẫn phát công đức từ trong bổn tánh của chính mình. Nến thắp lên là quang minh, tâm địa của chúng ta phải quang minh, phải chiếu hết thảy chúng sanh, phá mê khai ngộ cho hết thảy chúng sanh. Ngộ là tướng sáng, mê là tướng tối. Nến thắp lên, cháy dần dần, cháy không còn gì nữa, đó là “xả kỷ vị nhân” (hy sinh mình vì người khác), hy sinh chính mình, ta vì người khác. Đó là Tánh Đức. Trước tượng Phật phải cúng đèn, xưa kia là đèn dầu hay nến nhằm tượng trưng cho những ý nghĩa ấy. Thắp hương thì hương biểu thị lòng tin, tượng trưng cho Giới – Định, trong bài Hương Tán có câu “Giới Định chân hương”. Thấy hương, ngửi mùi hương phải nghĩ: Ta phải tin. Tin vào những lời răn dạy của đức Phật, tin Phật là bậc chân thật, Phật chẳng gạt người, hãy nên tu Giới, tu Định. Đèn tượng trưng tu Huệ. Đốt hương, thắp đèn biểu thị căn bản của sự tu học trong Phật pháp: Tam Học Giới – Định – Huệ. Một bộ Đại Tạng Kinh nhằm giảng Giới – Định – Huệ. Quý vị thấy một nén hương, một cây nến hoàn toàn biểu thị [căn bản tu học trong Phật pháp]. Đại Tạng Kinh nhiều ngần ấy cũng nhằm nói những điều này. Một cây hương, một ngọn nến cũng [diễn tả những ý nghĩa] nhiều dường ấy, chẳng tăng, chẳng giảm, nhưng có mấy ai giác ngộ?

Vì thế, người giác ngộ hằng ngày thấy Phật, thấy vô lượng vô biên Phật; chư Phật, Bồ Tát mỗi ngày từ sáng đến tối vây quanh chính mình, phàm phu chẳng biết, đáng thương thay! Người giác ngộ cảm kích khôn ngằn. Phật ở nơi đâu? Tất cả hết thảy chúng sanh, hết thảy nhân vật, không ai chẳng phải là Phật, không ai chẳng phải là thiện tri thức. Thiện Tài đồng tử trong kinh Hoa Nghiêm là một tấm gương cho chúng ta, năm mươi ba vị thiện tri thức là những ai? Chính là nam, nữ, già, trẻ, các ngành nghề trong xã hội hiện thời. Trong ấy có kẻ xấu, đúng thế! Trong năm mươi ba người cũng có người xấu, trong ấy có người học Phật, mà cũng có kẻ học theo ngoại đạo, quả thật đã tượng trưng cho xã hội hiện thời. Trong mắt Thiện Tài, những người ấy đều là thiện tri thức, thảy đều là Phật, Bồ Tát. Tôi thấy chỗ tốt lành của quý vị, tôi học theo quý vị, dẫn phát thiện hạnh của chính mình. Thấy chỗ ác của quý vị, tôi hiểu rõ, phản tỉnh xem tôi có điều ác ấy hay chăng. Do vậy, thiện nhân lẫn ác nhân đều là thầy của chính mình. Không có thiện nhân, sẽ chẳng thể khơi gợi, dấy lên thiện tâm của chính mình; không có kẻ ác, sẽ chẳng thể sửa đổi lỗi lầm của chính mình. Vì thế, người lành, kẻ ác, chuyện tốt, việc xấu đều thành tựu vô thượng Bồ Đề của chính mình. Đoạn này có ý nghĩa như vậy đó!

Do vậy,  nói:  Chẳng có pháp nào không phải là giáo thể!  “Pháp” là nói đến pháp tướng. Đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, nếu quý vị hiểu ý nghĩa được hiển thị bởi chúng thì “vô phi Phật sự” (không gì chẳng phải là Phật sự), có thứ nào chẳng phải là Phật sự? Chúng ta thấy những kẻ chấp trước khôn ngằn, hãy suy nghĩ coi chính mình có chấp trước như vậy hay là không? Những người ấy là thầy của ta! Vì nếu chúng ta không gặp họ, sẽ chẳng phản tỉnh. Hễ có, bèn lập tức thay đổi; không có, ta bèn gắng sức, từ nay về sau ngàn vạn phần chớ nên có chấp trước ấy! Tu hành như vậy mới có thể thành tựu!

“Hương phạn, quang minh” (cơm thơm, quang minh): Khi ăn cơm, mỗi cá nhân hằng ngày phải ăn cơm. Cơm tượng trưng điều gì? Nếu quý vị nghĩ thông suốt ý nghĩa biểu thị pháp của sự ăn cơm, quý vị sẽ đại triệt đại ngộ, thật sự có thể buông xuống. Trong ấy, biểu thị ý nghĩa gì? Thân thể của chúng ta là cái thân mang bệnh. Thân thể quý vị rất khỏe mạnh, nhưng ba ngày không ăn cơm sẽ đói rã ruột, chẳng có khí lực gì hết. Mạnh khỏe ở chỗ nào? Cơm là thuốc. Quý vị thấy đó: Sau mấy tiếng đồng hồ lại phải dùng thuốc một lần, chẳng uống thuốc ấy, thân thể sẽ chẳng thể chống chọi được! Thân thể quý vị khỏe mạnh, cường tráng ở chỗ nào? Giả trất, chẳng thật! Mê hoặc, điên đảo! Nhưng cách mấy tiếng đồng hồ, quý vị lại phải uống thuốc ấy để duy trì thân mạng. Trừ thân mạng ra, quý vị phải nghĩ: Quý vị còn có huệ mạng. Trừ cái thân xác thịt ra, còn có Pháp Thân. Làm thế nào để duy trì Pháp Thân huệ mạng của chúng ta? Lẽ nào ăn cơm chẳng phải là Phật sự? Lẽ nào chẳng phải là tu hành? Chẳng có chuyện nào không phải là Phật sự! Chẳng có một pháp nào chẳng thông với vô thượng đạo!

Vô thượng đạo là Chân Như bổn tánh, đạo lý gì vậy? Vì hết thảy các pháp đều từ Chân Như bổn tánh biến hiện. Kinh Đại Thừa đã dạy: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo), không có pháp nào chẳng thông với tánh Thấy. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Nhất thiết pháp nhân tâm thành Thể” (hết thảy các pháp do tâm mà thành Thể), “ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm”, quý vị học Phật thường nghe những câu này. Vì thế, chẳng có pháp nào không thể giác ngộ, chẳng có pháp nào không thể nhập đạo.

Người căn tánh nhạy bén, thấy hoa bay, lá rụng trong thiên nhiên đều có thể ngộ “vạn pháp vô thường”, có thể buông xuống hết thảy thân tâm thế giới, tâm được thanh tịnh. Kẻ nghiệp chướng nặng nề, đừng nói là chẳng thấy được dấu tích gợi ý nơi các pháp, mà nghe kinh cũng chẳng hiểu, cũng chẳng thể giác ngộ, nghiệp chướng quá nặng!

 

(Sớ) Pháp năng hiển nghĩa.

() 法能顯義。

(Sớ: Pháp có thể hiển lộ nghĩa lý).

Chúng tôi vừa nói một chút về ý nghĩa này.

 

(Sớ) Tắc pháp pháp tự chương.

() 則法法自彰。

(Sớ: Nên mỗi pháp tự phơi bày).

“Chương” là rõ ràng, hiển lộ, chẳng ẩn giấu một tí nào!

 

(Sớ) Bất sĩ văn tự.

() 不俟文字。

(Sớ: Chẳng đợi văn tự).

Cần gì phải giải nói, cần gì dùng đến văn tự? Đúng là chẳng cần dùng đến!

 

(Sớ) Như Hoa Nghiêm vân đài, bảo võng, mao khổng quang minh, giai năng thuyết pháp.

() 如華嚴雲臺寶網,毛孔光明,皆能說法。

(Sớ: Như trong kinh Hoa Nghiêm, đài mây, lưới báu, lỗ chân lông tỏa quang minh đều có thể thuyết pháp).

Quý vị hãy nên liễu giải, những thứ ấy nói pháp gì vậy? Tôi vừa mới nêu lên một thí dụ trước mắt: Cây nến thuyết pháp gì? Hương thuyết pháp gì? Bục giảng thuyết pháp gì? Tượng Phật thuyết pháp gì? Đều phải hiểu. Quý vị thảy đều hiểu rõ, danh xưng chung của chúng là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm sống động, chẳng phải là một bản kinh [chết cứng], chẳng phải là bộ kinh tám mươi quyển! Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là thế giới hiện tiền, nếu quý vị hiểu, sẽ nhập cảnh giới Hoa Nghiêm.

 

(Sớ) Tịnh Danh vân: Hữu Phật thế giới, dĩ hương phạn nhi tác Phật sự.

() 淨名云:有佛世界,以香飯而作佛事。

(Sớ: Kinh Tịnh Danh nói: “Có thế giới Phật dùng cơm thơm[81] để làm Phật sự).

 Người trong thế giới ấy thiệt căn nhạy bén! Người trong thế gian này của chúng ta vừa nghe kinh liền khai ngộ! Người trong thế giới ấy nhĩ căn chẳng nhạy bén, Phật nói cách nào họ cũng không hiểu, Phật làm mấy món ăn, họ vừa ăn liền khai ngộ. Họ khai ngộ từ ngũ vị, căn tánh khác nhau! Chúng ta đến thế giới ấy, Phật quyết định chẳng mời chúng ta ăn cơm, vì sao? Càng ăn càng mê, chẳng thể khai ngộ. Do vậy, đọc đến đoạn kinh Duy Ma này, đừng nghĩ sang thế giới ấy vì thế giới ấy hằng ngày có món ngon. Thế giới ấy khá lắm, quý vị muốn sang bên đó, căn tánh chẳng thích hợp, quý vị sang bên đó cũng chẳng ăn gì được!

 

(Sớ) Hữu Phật thế giới, dĩ quang minh nhi tác Phật sự.

() 有佛世界,以光明而作佛事。

(Sớ: Có thế giới Phật dùng quang minh để làm Phật sự).

Đây là Phật phóng quang, quý vị thấy quang minh ấy bèn khai ngộ. Quý vị hiểu ý nghĩa tượng trưng bởi quang minh ấy, màu sắc của quang minh cũng nhiều đến vô lượng. Trong thế gian hiện thời của chúng ta cũng có, nhưng ít hơn. Ở ngã tư đặt đèn đỏ, đèn xanh, đèn vàng, chúng ta đều hiểu, chẳng cần phải nói. Người lái xe trông thấy đèn đỏ liền biết ngừng lại. Đó là “làm Phật sự”, quý vị bèn giác ngộ. Do vậy, có thế giới, đức Phật chẳng nói câu nào, mà phóng quang, đại chúng trông thấy bèn khai ngộ, phiền não cũng đoạn, Phật đạo cũng thành.

 

(Sớ) Nãi chí nhất sắc, nhất hương, nhất cử, nhất động.

() 乃至一色一香,一舉一動。

(Sớ: Cho đến một sắc, một hương, nhất cử, nhất động).

Cử động có thể biểu thị pháp ư? Có thể biểu thị pháp! Trong thế gian hiện tại của chúng ta cũng có, thủ ngữ (sign language, ngôn ngữ giao tiếp bằng cách dùng tay ra dấu). Trước kia, người ngoại quốc đề xướng phổ biến [thủ ngữ], vì sao? Không thông hiểu ngôn ngữ, dùng “thủ ngữ” để trao đổi ý kiến bèn hiểu nhau. Học ngôn ngữ rất phiền phức, học thủ ngữ dễ dàng hơn. Học xong, đi khắp thế giới đều có thể sử dụng được, động tác mà! Vì thế, chúng ta thấy thủ ấn của Phật, Bồ Tát, đó chính là động tác, các động tác ấy cũng biểu thị những ý nghĩa rất sâu!

 

(Sớ) Kim thử kinh giả, thủy, điểu, thụ lâm, hàm tuyên diệu pháp, tắc tùy cử nhất pháp, giai thành giáo thể.

() 今此經者 ,水鳥樹林 ,咸宣妙法 則隨舉一法,皆成教體。

(Sớ: Nay kinh này: Nước, chim, rừng cây đều tuyên diệu pháp. Lấy bất cứ pháp nào đều thành giáo thể).

Do điều này có thể biết: Giáo thể rộng lớn chẳng có ngằn mé. Vì sao? Nói xuyên suốt thì Tánh – Tướng bất nhị, Tánh – Tướng như một. Lìa Tướng, nào còn có Tánh? Muốn thấy Tánh thì phải thấy từ Tướng. Cổ đức có tỷ dụ: “Dùng vàng chế đồ vật, món nào cũng là vàng”. Rời khỏi đồ vật chẳng tìm ra vàng, rời khỏi vàng chẳng có đồ vật. Hai thứ này nương tựa vào nhau mà tồn tại. Mối quan hệ giữa Tánh và Tướng là như vậy đó. Nói đến Phật pháp thì mối quan hệ giữa Văn và Nghĩa cũng như thế đó. Từ chỗ này có thể thấu hiểu những nghĩa thú được nói trong phần Tùy Tướng, chúng ta mới hiểu rõ Thể Tánh của kinh. Sau khi hiểu rõ, chẳng riêng bộ kinh này, mà hết thảy các pháp do đức Phật đã nói
chúng ta đều tin tưởng, đều chẳng hoài nghi. Đức Phật nói ngoài mười vạn ức cõi Phật lại có thế giới, chúng ta cũng tin tưởng, vì sao? Do tâm mà thành Thể. Tự tánh của chúng ta là vạn đức, vạn năng, thế giới Tây Phương là cái được biến (Sở Biến), là vật được biến hiện bởi tâm thức của chính mình. Công năng này vô lượng vô biên, lẽ nào chẳng thể biến hiện? Sau khi hiểu rõ Lý, quý vị sẽ khẳng định chân tướng sự thật, chẳng hoài nghi nữa.

Đoạn văn này chủ yếu nhằm tăng trưởng tín tâm cho chúng ta. Trong bốn đoạn, hôm nay chúng tôi giảng xong một đoạn, phần sau còn ba đoạn nữa, đều nhằm thâm nhập, thảo luận Giáo Thể. Hôm nay đã hết thời gian rồi.

 

— o0o —

Tập 81

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm ba mươi mốt:

 

Nhị, Duy Thức.

二、唯識。

(Hai, Duy Thức).

Đây là đoạn thứ hai, chúng ta thảo luận về Giáo Thể.

 

(Huyền Nghĩa) Duy thức giả, thử văn, thử nghĩa, giai thức sở biến, nhi hữu bổn ảnh tứ cú.

(玄義) 唯識者 ,此文此義 ,皆識所變 而有本影四句。

(Huyền Nghĩa: “Duy Thức”: Văn và nghĩa này đều do thức biến, nhưng có bốn câu “bổn, ảnh”).

“Duy Thức” là gì? Trước hết, chúng ta phải hiểu rõ điều này. Trong tám tông phái của Phật giáo Đại Thừa, có một tông phái gọi là Duy Thức Tông (Yogācāra Vijñānavāda), còn gọi là Pháp Tướng Tông. Trong toàn bộ Phật pháp, Duy Thức chiếm địa vị rất trọng yếu. Mọi người đều biết: Phật pháp nói đến giới luật. Vì thế, đối với giới luật, bất luận học Tiểu Thừa, hay học Đại Thừa, bất luận là tông nào, phái nào, chẳng thể nói là không cần trì giới, chẳng có đạo lý ấy! Hiển Tông hay Mật Tông đều phải trì giới nghiêm ngặt. Giới luật là khoa mục chung của Phật giáo, là khoa mục phải tu. Những khoa mục chung bắt buộc phải tu, ngoài Giới Luật ra, còn có Duy Thức và Tịnh Độ. Ba thứ này là khoa mục chung của người học Phật. Duy Thức là nói đến lý luận; tức là nói đến lý luận trong Phật pháp, vũ trụ và nhân sinh do đâu mà có? Vì sao chúng ta biến thành phàm phu? Sau khi bị biến thành phàm phu, phải dựa theo lý luận nào thì mới có thể tu thành Phật? Những lý luận này đều ở trong Duy Thức. Tịnh Độ niệm Phật cầu sanh Tây Phương, là chỗ quy túc chung của Phật giáo. Nói cách khác, bất luận tông nào, phái nào, dù Hiển hay Mật, không gì chẳng lấy Tây Phương Tịnh Độ làm chỗ quy túc cuối cùng. Vì thế, ba thứ này là khoa mục chung bắt buộc phải tu trong Phật giáo.

Do điều này, bất luận kinh luận nào, nói đến Giáo Thể thì phải nói đến Duy Thức. Duy Thức đương nhiên là một môn học vấn rất sâu, con người hiện đại gọi môn này là Triết Học Duy Thức. Nói cách khác, nếu học Phật mà chẳng hiểu Duy Thức, sẽ không có cách nào hiểu được đạo lý trong Phật giáo, chẳng thể thâm nhập, tìm hiểu lý luận, sẽ trở thành chướng ngại nghiêm trọng trong tu học. Chỉ riêng pháp môn Niệm Phật, nếu quý vị cảm thấy Duy Thức hết sức rắc rối, rất khó học, quý vị chẳng học môn này cũng được, cứ thật thà niệm Phật là được rồi, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ học cũng chẳng muộn. Trước hết, giữ lấy Tây Phương; sau đấy học rộng nghe nhiều, trong Phật pháp chỉ có một con đường này! Vì thế, nói pháp môn này “vạn người tu, vạn người về”. Quý vị không đi theo, chẳng có cách nào hết! “Vạn người tu, vạn người về”, nhưng quý vị nhất định phải chịu đi thì mới được. Chẳng chịu đi sẽ chẳng được!

Ít nhiều gì thì chúng ta cũng phải hiểu đôi chút kiến thức cơ bản thông thường về Duy Thức. Cơ bản nhất là Bách Pháp Minh Môn, đấy là Duy Thức nhập môn, cũng có thể nói là khái luận nhập môn của Duy Thức Tông. Chúng ta có kiến thức thông thường ấy là đủ rồi, là được rồi. Duy (唯) là chỉ có, chúng ta thường nói Thức là phân biệt, liễu biệt; đặc biệt chú trọng chữ Liễu Biệt. Liễu (了) là hiểu rõ, Biệt (別) là phân biệt. Phân biệt rõ ràng rành rẽ thì gọi là Thức (識).

Theo như Phật pháp nói, thế giới này chỉ có Thức, trừ Thức ra, thứ gì cũng chẳng có, ý nghĩa này rất sâu, người bình thường chúng ta chẳng thể lý giải! Chúng ta thường nói “sâm la vạn tượng trong vũ trụ”, vì sao nói chúng đều không có? Phật pháp thường nói “vạn pháp đều không”, “vạn pháp vô thường”. Chúng ta lãnh hội đôi chút ý nghĩa vạn pháp vô thường, vì sao? Thấy con người có sanh, lão, bệnh, tử, thấy vũ trụ có thành, trụ, hoại, không, giống như vô thường, nên có thể lãnh hội đôi chút ý nghĩa vô thường; nhưng “vạn pháp đều không” chẳng dễ gì lãnh hội được! Nếu thông đạt Duy Thức, người ấy sẽ hiểu rất rõ đạo lý này. Vì hết thảy vạn pháp đều từ “liễu biệt” biến hiện. Nói cách khác, Thức là năng biến, vạn pháp là sở biến. Vạn pháp do đâu mà có? Đều do Thức biến hiện.

Rốt cuộc Thức là gì? Thức là tác dụng của Chân Như bổn tánh; Thể của nó là Chân Như bổn tánh. Chân Như bổn tánh khởi tác dụng thì gọi là Thức. Bất luận là giác hay mê, thông thường chúng ta hay nói: Tác dụng của chân tánh khi giác ngộ thì gọi là Tứ Trí, khi mê thì gọi là tám thức. Thật ra, bốn trí và tám thức là một, không hai, là cùng một chuyện, chẳng phải hai chuyện, chỉ có mê hay ngộ khác nhau mà thôi. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đã nói: “Đản chuyển kỳ danh, nhi bất chuyển kỳ Thể”, [nghĩa là] bản thể không thay đổi, chỉ là đổi danh xưng mà thôi! Nếu quý vị khai ngộ, ngộ nhập thì gọi là Tứ Trí; nếu mê hoặc bèn gọi là tám thức, chỉ thay đổi tên gọi mà thôi. Thể, Tướng, Dụng (tác dụng) hoàn toàn như nhau, trọn chẳng có tơ hào thay đổi! Ví như có một người ở chung với chúng ta, khi người ấy đại triệt đại ngộ thì chúng ta bảo người ấy sử dụng tứ trí, chúng ta là những kẻ chẳng ngộ bèn dùng tám thức.

Duy Thức chuyên dùng tám thức để nói. Nói cách khác, chuyên nói về địa vị trong khi đang mê, nhằm mục đích khiến cho quý vị phá mê khai ngộ. Bách Pháp Minh Môn vừa khởi đầu bèn nêu ra tông chỉ. Tông chỉ của Bách Pháp Minh Môn là gì? Sách ghi: “Nhất thiết pháp vô ngã” (hết thảy pháp vô ngã). Nếu thật sự triệt để giác ngộ “hết thảy pháp vô ngã”, người ấy bèn nhập Đại Thừa. Vì thế, Bách Pháp Minh Môn là Duy Thức Tông nhập môn, Duy Thức là pháp Đại Thừa. Đại Thừa nhập môn là địa vị Kiến Đạo; sau khi kiến đạo mới có tư cách tu đạo. Địa vị Kiến Đạo là địa vị gì vậy? Là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, đấy là địa vị Kiến Đạo. Từ Nhị Trụ đến Đẳng Giác đều gọi là địa vị Tu Đạo, có bốn mươi địa vị. Diệu Giác là quả địa, gọi là địa vị Chứng Đạo, đã chứng đạo rồi. Có thể thấy là trong Phật pháp Đại Thừa, tiêu chuẩn Kiến Đạo khá cao, chẳng giống Tiểu Thừa. Trong Tiểu Thừa, Tu Đà Hoàn là địa vị Kiến Đạo, Nhị Quả, Tam Quả là địa vị Tu Đạo, Tứ Quả La Hán là địa vị Chứng Đạo. Điều kiện của Sơ Quả là phải đoạn sạch tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới thì mới là địa vị Kiến Đạo, đó là quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa. Chúng ta nhất định phải biết điều này. Giải thích những danh tướng và thuật ngữ này khá rắc rối. Đầu thời Dân Quốc, cư sĩ Quý Thánh Nhất có biên soạn bộ Tứ Thập Nhị Chương Kinh Tân Sớ thích hợp cho người mới học Phật pháp nghiên cứu, [sách ấy] giải thích những danh từ thuật ngữ Phật giáo cơ bản đặc biệt tỉ mỉ.

Kinh luận Duy Thức gồm có sáu bộ kinh và mười một bộ luận[82]. Duy Thức Tông căn cứ trên “lục kinh thập nhất luận”, lấy chúng làm khóa trình chủ tu. Trong sáu kinh, quan trọng nhất là Giải Thâm Mật Kinh và Lăng Già Kinh. Kinh Hoa Nghiêm cũng là một trong sáu kinh, mà cũng là kinh điển bắt buộc phải đọc trong Duy Thức Tông. Kinh Hoa Nghiêm đã dạy chúng ta: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (nên quán tánh pháp giới, hết thảy do tâm tạo), đấy là chỗ y cứ quan trọng nhất trong Duy Thức luận. Pháp giới, không phải chỉ là thế gian này, mà là tận hư không trọn pháp giới, mười pháp giới thường nói trong kinh Phật được bao gồm trọn khắp trong ấy, toàn là do tự tâm của chúng ta hiện, duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Trừ tâm thức ra, quả thật chẳng có một pháp nào.

Trong kinh nói: “Duy thức giả, thử văn, thử nghĩa, giai thức sở biến” (“Duy thức”: Kinh văn và nghĩa lý này đều do thức biến). “Văn” là kinh văn trong một quyển [kinh hay luận], hết thảy lý luận, phương pháp, cảnh giới được giảng trong ấy, không có gì chẳng do thức biến hiện. Thật ra, đạo lý này chẳng dễ hiểu cho lắm. Vì thế, trong kinh, đức Phật thường dùng “mộng huyễn” để làm tỷ dụ. Mọi người chúng ta đều nằm mộng, thời gian nằm mộng ngắn ngủi, tạm bợ, khi tỉnh giấc bèn giác ngộ: Chúng ta mới vừa nằm mộng. Lại suy nghĩ cặn kẽ rõ ràng cảnh giới trong mộng, quý vị nhớ rất rõ ràng. Mộng do đâu mà có? Mộng do tâm thức của chính mình biến hiện ra. Nếu khi vừa tỉnh mộng, ngay khi ấy, đối với đạo lý Duy Thức, nếu có chút kiến thức thông thường về Duy Thức, quý vị sẽ nghĩ ra. Nếu bình thường mà hỏi: Tâm có hình dạng như thế nào? Thức có hình dạng như thế nào? Quý vị sẽ chẳng nói được! Trong kinh này nói: “Vô tướng, vô bất tướng”. Vô tướng vì tâm và thức đều không có tướng; nhưng khi quý vị nằm mộng, quý vị bèn hiểu ngay: Khi ấy, chẳng phải là vô tướng, mà là hiện tướng. Nếu quý vị hỏi: Cái tâm có hình dạng ra sao ư? Toàn bộ cảnh trong mộng là hình dáng của tâm. Toàn bộ cái tâm biến thành cảnh mộng. Toàn bộ giấc mộng là cái tâm của quý vị. Toàn bộ cái tâm là cảnh trong mộng. Lúc ở trong mộng cảnh, cái tâm của quý vị thuộc trong mộng cảnh, tâm và mộng là một, chẳng phải hai!

Trong mộng, quý vị chợt giác ngộ. Đã giác ngộ, đối với toàn bộ mộng cảnh, quý vị sẽ bình đẳng. Trong mộng đương nhiên có chính mình, mà cũng có người khác, có núi, sông, đại địa, quý vị biết tất cả đều do ta biến hiện. Tất cả cảnh giới đều là ta, đều là chính mình, tánh bình đẳng sẽ sanh khởi. Tự và tha bất nhị, vạn pháp giống như một, thưa quý vị, đó gọi là Pháp Thân. Do có đồng học hỏi: “Rốt cuộc Pháp Thân là gì?” Đấy chính là Pháp Thân. Hiện thời chúng ta có [Pháp Thân] hay không? Hiện thời có, nhưng quý vị chẳng thừa nhận. Núi, sông, đại địa, hư không trước mắt đều do tâm thức của bản thân chúng ta biến hiện, nhưng chúng ta chẳng thừa nhận, tức là chẳng thừa nhận Pháp Thân của chính mình. Chẳng phải là không có, bày ra ngay trước mặt mà!

Chư Phật Như Lai thừa nhận, thừa nhận điều gì vậy? Giống như nằm mộng, toàn bộ vũ trụ, toàn bộ địa cầu, hết thảy chúng sanh đều là vật được biến hiện bởi tâm thức của chính mình. Trừ tâm thức ra, vật gì cũng chẳng có. Quý vị thật sự thừa nhận, thật sự khẳng định, sẽ chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh. Người chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh, chắc chắn chẳng có phiền não, vì sao? Không có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, chắc chắn không có những tướng ấy. Mê thì có, mới có ta, người, mới có giới hạn, mới có phân biệt. Ngộ thì chẳng có. Ngộ rồi thì hữu tình và vô tình có cùng một Thể với chính mình, một Thể, chẳng hai Thể. Đã thật sự giác ngộ: Chẳng có một pháp nào chẳng phải là chính mình. Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm. Đó là người giác ngộ thật sự. Còn có ngã, còn có nhân, còn có thị phi, còn có tham, sân, si, mạn, đó là mê chưa ngộ; hễ đã ngộ, sẽ chắc chắn chẳng có! Vì thế, tâm ngộ bèn thanh tịnh, bình đẳng.

Chúng ta có thể tự mình phản tỉnh, chính mình rốt cuộc là ngộ hay chưa? Tâm đã ngộ chẳng sanh một niệm, hiểu rõ ràng, rành rẽ hết thảy cảnh giới. Đó là ngộ. Còn có phân biệt, còn có chấp trước, còn có vọng tưởng thì chính mình phải biết: Ta quyết định là mê, chưa ngộ! Chính mình nhất định phải nhận biết chính mình. Biết chính mình đang mê sẽ được cứu! Chính mình đang mê mà chẳng biết là đang mê, vẫn tưởng mình đã khai ngộ, chẳng cứu được! Giống như một người thân mang bệnh, kẻ ấy biết chính mình có bệnh sẽ được cứu, vì sao? Kẻ ấy sẽ tìm thầy thuốc. Cái thân của chính mình đầy bệnh, cứ ngỡ rất khỏe mạnh, “ta chẳng có bệnh gì”, về căn bản, kẻ ấy chẳng kiếm bác sĩ, tức là như đã chết rồi, không cứu được!

Biết chính mình mê hoặc, điên đảo, thưa quý vị, đó gọi là Thỉ Giác, kẻ ấy đã giác ngộ. Kẻ ấy giác ngộ điều gì? Biết chính mình mê hoặc, điên đảo, đó là giác ngộ. Thỉ Giác như trong kinh Phật nói là “bắt đầu giác ngộ”. Hết thảy chúng sanh trong thế gian chẳng biết, quý vị đem Phật pháp giới thiệu cho họ, họ chẳng tiếp nhận. Vì sao? Họ cho rằng họ chẳng có bệnh gì, họ ngỡ họ chẳng mê. Vì thế, Pháp Thân ở ngay trước mặt, Báo Thân cũng ở ngay trước mặt, mà chúng ta chẳng thể chứng đắc. Sau khi phá mê khai ngộ bèn chứng đắc. Phá mê khai ngộ phải có công phu, công phu gì vậy? Phải đoạn phiền não, phải phá Sở Tri Chướng, phải đoạn vô minh, đó là công phu. Nói cách khác, phải tu Giới, Định, Huệ. Chẳng tu Giới, Định, Huệ, chắc chắn chẳng thể chứng đắc!

Nghe kinh cho nhiều có thể hiểu được đạo lý này, đó gọi là gì vậy? Giải ngộ. Giải ngộ chưa dùng được. Ví như tôi nói những cảnh giới này, tôi có thể nói ra, đó là giải ngộ. Tôi nói được, nhưng chẳng làm được! Ví như tôi có thể giảng về Pháp Thân thanh tịnh rõ ràng, rành mạch, Báo Thân viên mãn cũng giảng rõ ràng, rành mạch, nhưng tôi chẳng thể chứng đắc. Tôi thấy hết thảy mọi người và sự việc trong thế gian này vẫn có phân biệt, vẫn là có chấp trước, vẫn có bất bình, nên chưa thể chứng đắc. Đủ thấy chứng đắc phải có công phu thật sự, nhưng giải ngộ có ích lợi gì? Tin tưởng, chẳng hoài nghi. Vì thế, giải ngộ có thể giúp chúng ta một chuyện là đoạn nghi sanh tín. Sau khi đã có lòng tin, sẽ nỗ lực dốc công nơi Giới – Định – Huệ.

Phương pháp, phương tiện tu Giới – Định – Huệ có thể nói là vô lượng vô biên, quá nhiều. Có cách rắc rối, phức tạp, có cách đơn giản. Đối với cách rắc rối, phức tạp, ta suy nghĩ sẽ thấy ta không có cách nào tu được, nghi thức, quy củ quá phiền toái! Ta bèn chọn lấy cách đơn giản, phương pháp đơn giản nhất là niệm A Di Đà Phật. Một câu A Di Đà Phật niệm tốt đẹp, thưa quý vị, Giới – Định – Huệ sẽ trọn đủ. Khi ta niệm A Di Đà Phật, trong tâm ta chẳng khởi vọng tưởng, chẳng nghĩ đến chuyện xấu, tức là “chẳng làm các điều ác”. A Di Đà Phật là vạn đức hồng danh, là điều lành nhất trong các điều lành, các pháp thế gian lẫn xuất thế gian không có gì lành hơn, ta trì A Di Đà Phật là “vâng làm các điều lành”. Vì thế, người niệm A Di Đà Phật giới luật đầy đủ. Giới Tiểu Thừa là “chẳng làm các điều ác”, giới Bồ Tát là “vâng làm các điều lành”. Vì thế, ta niệm một câu A Di Đà Phật, giới luật Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa đều đầy đủ. Ta chuyên tâm niệm một câu A Di Đà Phật là tu Định, câu A Di Đà Phật bốn chữ rõ ràng, rành mạch, phân minh. Đó là tu Huệ. Vì thế, một câu A Di Đà Phật là vận dụng Tam Học bình đẳng, Tam Học Giới – Định – Huệ được hoàn thành cùng một lượt, công đức lợi ích ấy chẳng thể nghĩ bàn!

Những pháp môn khác tu Giới, tu Định rất phiền phức, còn chúng ta một câu A Di Đà Phật bèn đầy đủ toàn bộ. Niệm niệm A Di Đà Phật, niệm niệm đầy đủ Giới – Định – Huệ, còn có phương pháp nào thù thắng hơn? Đáng tiếc là người ta chẳng tin; chẳng tin là vì chưa thông suốt lý. Vì thế, giải ngộ có lợi, thật sự lý giải thấu triệt sẽ tin tưởng, tin sâu chẳng ngờ. Do vậy, trong vô lượng pháp môn, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, ta chọn chắc chắn pháp A Di Đà Phật này, ta tin tưởng, quyết định chẳng hoài nghi. Ta biết một câu Phật hiệu không chỉ là Tam Học đầy đủ, Tam Tư Lương đầy đủ, tức là Tín – Nguyện – Hạnh đầy đủ, mà lục độ, vạn hạnh, vô lượng pháp môn, chẳng có pháp nào không đầy đủ. Nếu quý vị thật sự thông đạt đạo lý Duy Thức, quý vị sẽ tin tưởng.

Nói đến Biến thì Thức có thể biến, chúng ta lấy màn hình TV để làm tỷ dụ. Màn hình có thể hiện hình tướng. Tướng được hiện bởi tâm, bởi Chân Như bổn tánh. Chân Như bổn tánh có thể hiện tướng, nhưng [những tướng ấy] chẳng biến, nên gọi là Nhất Chân pháp giới. Vì sao Nhất Chân pháp giới biến thành mười pháp giới? Do Thức. Thức là “liễu biệt” (hiểu rõ, phân biệt). Phân biệt chẳng tốt, thưa quý vị, hiểu rõ cũng không tốt, vì sao? Hiểu rõ chính là căn bản của vô minh. Trong kinh Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na đã hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật: “Vô minh phát khởi như thế nào? Khi nào nó sẽ dấy lên? Do nguyên nhân nào mà dấy lên?” Đức Phật dạy Ngài tám chữ, giải thích vấn đề này rõ ràng, minh bạch: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (trên tri kiến, lại lập ra một cái biết nữa, đó là gốc của vô minh), căn bản của vô minh khởi lên như vậy đó!

Chân Như bổn tánh có giác, có minh, bổn giác, bổn minh; từ trong giác minh ấy, quý vị lại lập thêm một cái minh nữa, nên gọi là vô minh. Bổn giác bổn minh mỗi cá nhân chúng ta đều có, nên đức Phật nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Quý vị thật sự là Phật, đức Phật nói chẳng sai. Mắt chúng ta có thể thấy, đó là bổn giác bổn minh; tai có thể nghe chính là bổn giác bổn minh. Tác dụng của sáu căn là bổn giác bổn minh, là Phật tri, Phật kiến. Vì sao quý vị biến thành vô minh? Trên bổn minh, quý vị lại thêm vào một cái “minh” nữa, đó là vô minh. Bởi lẽ, bổn minh của quý vị vốn không có [vật gì khác], quý vị bướng bỉnh muốn thêm vào, đó gọi là vô minh, quý vị biến bổn tánh thành Thức.

Mắt chúng ta thấy sắc, tai nghe tiếng, thấy rõ ràng, nghe rành rẽ, chúng ta chẳng khởi tâm phân biệt. Đó là chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, khi ấy là Phật tri, Phật kiến. Mắt là Phật nhãn, tai là Phật nhĩ, hễ khởi niệm: Đây là nến, kia là đèn điện, đó là vô minh! Khởi lên vô minh rồi! Trong bổn minh của quý vị chẳng có những phân biệt, chấp trước ấy; quý vị thêm vào đó những chấp trước, những danh tướng ấy, đó là vô minh. [Khởi lên phân biệt] ta đang niệm Phật, ta đang nghe kinh, đó đều là vô minh. Trong bổn giác bổn minh không có Phật, cũng chẳng có chúng sanh. Đó là Phật, kia là Bồ Tát, đây là A La Hán, kia là Tu Đà Hoàn, quý vị có hỏng bét hay là không?

Đức Phật nói hết thảy các pháp là do quý vị mê nên Ngài mới nói. Nếu quý vị ngộ, đức Phật chẳng nói một câu nào, vì sao? “Mở miệng liền trật, động niệm liền sai”. Động niệm là vô minh, vừa mở miệng đã sai bét rồi! Thuyết pháp là nói với kẻ mê, đối với người ngộ thì còn có gì để nói nữa? Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối đều tạo vô minh, tăng trưởng vô minh, quý vị phải giác ngộ! Luôn phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, luôn làm những chuyện ấy. Thanh Lương đại sư nói rất hay: “Hữu giải vô hành, tăng trưởng tà kiến. Hữu hành vô giải, tăng trưởng vô minh” (Có giải nhưng chẳng hành, tăng trưởng tà kiến. Có hành mà chẳng giải, tăng trưởng vô minh). Chúng ta thấy những người học Phật trong thời đại hiện tại, há chẳng đúng như Thanh Lương đại sư đã nói: Có một hạng người hằng ngày nghiên cứu kinh giáo, tăng trưởng tà kiến. Hạng kia thì thứ gì cũng chẳng cần, tôi tham Thiền, hoặc tôi niệm Phật, tăng trưởng vô minh. Tuy hằng ngày niệm Phật, hằng ngày tịnh tọa, nhưng hỏi gì cũng chẳng biết, tăng trưởng vô minh! Loại kia thì hằng ngày phân biệt, hằng ngày dấy vọng tưởng, tăng trưởng tà kiến. Đó đều chẳng phải là học Phật.

Học Phật, phải học theo cách nào? Phải giải hành hợp nhất. Nếu giải và hành biến thành một chuyện thì gọi là Chứng. Kinh Hoa Nghiêm nói “nhập pháp giới”, nhập như thế nào? Giải và hành biến thành một, bèn nhập! Giải và hành chia làm hai thứ sẽ chẳng nhập. Giải là giải, hành là hành, chưa nhập! Giải cũng chẳng nhập được, mà hành cũng chẳng nhập được! Nếu kết hợp với những thứ đã nói trong phần trên, ba món tín – giải – hành hợp thành một thì gọi là “nhập”. Tín – giải – hành là ba cá thể, là ba món độc lập, chẳng nhập! Tín cũng chẳng nhập, giải cũng chẳng nhập, hành cũng chẳng nhập. Nhất định phải hợp ba món tín – giải – hành thành một, sẽ gọi là “nhập pháp giới”. Nhập chẳng có chi khác, nhập là chứng, không có biệt thể, mà là ba thứ hợp thành một.

Cách hợp như thế nào? Chẳng hạn như đức Phật giảng đạo lý to lớn dường ấy, chúng ta hiểu rõ, hiểu rõ thì phải làm sao? Hiểu rõ rồi bèn buông xuống hết. Trong cuộc sống thường ngày, trong bộ Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch, pháp sư Giao Quang đã đề xướng “dùng Căn bỏ Thức”: Mắt ta thấy hết thảy sắc, dùng gì để thấy? Dùng tánh Thấy để thấy. Thấy bằng tánh Thấy như thế nào? Tánh Thấy là chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng có vọng tưởng, giống như nay chúng ta mở to mắt, cái thấy thứ nhất là thấy bằng tánh Thấy, quý vị giữ gìn cái thấy đầu tiên ấy, đừng rớt vào cái thứ hai. Rớt vào cái thứ hai thì cái thứ hai là Thức, cái thứ hai đã phân biệt, rớt vào trong phân biệt. Quý vị phải hiểu: Chẳng rớt trong phân biệt thì hết thảy sắc tướng bình đẳng, chẳng có tốt, xấu, nhất định là bình đẳng. Hễ có tốt, xấu, cái này dễ coi, cái kia khó nhìn, hỏng bét! Rớt vào trong thức rồi! Thức mới có phân biệt, mới có tốt, xấu, trong Tánh không có!

Bởi lẽ, Tánh giống như một tấm gương, gương cái gì cũng chiếu, nó không phân biệt, không chấp trước, chiếu rất rõ ràng, rành rẽ, minh bạch. Mắt chúng ta giống như tấm gương. Tai nghe âm thanh bên ngoài, nghe rõ ràng, rành rẽ, minh bạch, đừng nên [phân biệt] điều này êm tai, điều kia khó nghe, êm tai thì nghe thêm, chẳng êm tai bèn nhanh chóng tránh xa, đó là rớt trong ý thức, đó là biến Tánh thành thức. Nói cách khác, quý vị từ địa vị Phật rớt xuống địa vị phàm phu. Vì thế, kinh nói “vốn đã thành Phật” chẳng sai! Ngay trong ý niệm thứ nhất chúng ta là Phật, có gì chẳng phải là Phật? Đáng tiếc là chúng ta không giữ được ý niệm thứ nhất, nhưng chư Phật và các vị đại Bồ Tát có năng lực giữ được niệm thứ nhất, từ đầu đến cuối là niệm thứ nhất. Vì thế, gọi là Nhất Chân.

Đạo lý quan trọng nhất trong kinh này là dạy chúng ta hãy giữ gìn niệm thứ nhất: Nhất tâm bất loạn. Nhất tâm là niệm thứ nhất, chẳng có nhị tâm. Hễ quý vị có phân biệt thì là nhị tâm. Khi chẳng có phân biệt, chắc chắn là nhất tâm. Nhất tâm là Phật, nhị tâm là phàm phu. Vì sao từ Phật mà biến thành phàm phu là như thế đó! Sau khi hiểu rõ, quý vị phải hiểu cách tu hành như thế nào. Bởi lẽ, tu hành là chuyện trong cuộc sống thường ngày: Xử sự, đãi người, tiếp vật, chúng ta dùng nhất tâm. Quý vị có thể dùng nhất tâm thì Tín và Giải đều biến thành một. Mục đích của Giải là không gì chẳng nhằm khiến cho quý vị giác ngộ nhất tâm, Hành là bảo quý vị hãy dùng nhất tâm. Hiện thời, ta thật sự dùng nhất tâm để đãi người, tiếp vật, Giải và Hành bèn hợp thành một!

Kẻ khác phân biệt, chấp trước đối với ta, kẻ ấy là phàm phu, hắn dùng tam tâm nhị ý. Tam tâm nhị ý là thức, cho nên nói “tam tâm” là tâm, ý, thức. Mạt Na gọi là Ý, thức thứ sáu, tức Ý Thức, là Thức. Sáu thức trước đều gọi là Thức. [Ý Thức, Mạt Na, và sáu thức trước] gọi là tám thức. “Tam tâm” chính là tám thức. Nhị Ý là Mạt Na và thức thứ sáu. Mạt Na là Ý Căn, thức thứ sáu là Ý Thức. Hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới xử sự, đãi người, tiếp vật đều dùng tam tâm nhị ý. Phật và các đại Bồ Tát dùng chân tâm, dùng căn tánh của sáu căn. Giao Quang đại sư nói “bỏ Thức dùng Căn”, các Ngài chẳng dùng tam tâm nhị ý. Đây là chỗ khác biệt giữa chư Phật, Bồ Tát và phàm phu cùng chúng sanh trong chín pháp giới. Trọn chẳng phải là họ có điều gì khác, chỉ là dụng tâm khác nhau. Trừ dụng tâm khác nhau ra, chẳng có gì khác biệt, đều giống hệt nhau, chỉ là dụng tâm khác nhau. Đạo lý này có mức độ khá sâu, trong các buổi giảng tôi cũng thường nhắc đến. Mỗi lần nghe, nói chung, quý vị lãnh hội sâu hơn thì tốt lắm. Tuy chưa làm được, nhưng thường nghe cũng có lợi, giúp chúng ta chuyển Thức thành Trí. Nói “chuyển Thức thành Trí” là bỏ tam tâm nhị ý, dùng nhất tâm bất loạn, sử dụng nhất tâm.

Nhưng đã nói đến Sở Biến thì [sách Diễn Nghĩa nói] Biến có hai thứ:

“Nhất giả, nhân duyên biến, hữu thật Thể Dụng” (Một là nhân duyên biến, có Thể và Dụng thật sự). Nhân duyên biến có Thể và Dụng, tức là có Thể và Dụng thật sự. Năm thức trước (nhãn thức, nhĩ thức v.v…) và thức thứ tám là nhân duyên biến.

– “Nhị giả, phân biệt biến, đản khả vi cảnh, thị lục thất nhị thức” (Hai là phân biệt biến, chỉ có thể làm cảnh, đó là hai thức thứ sáu và thứ bảy). Năng lực phân biệt, chấp trước của năm thức trước và A Lại Da Thức vô cùng yếu ớt. Năng lực phân biệt, chấp trước, vọng tưởng mạnh mẽ nhất là thức thứ sáu và thức thứ bảy. Khi chuyển Thức thành Trí, trước hết, phải chuyển từ thức thứ sáu và thức thứ bảy. Hễ thức thứ sáu và thức thứ bảy đã chuyển, năm thức trước và thức thứ tám sẽ chuyển theo. Thức thứ sáu và bảy chuyển nơi nhân, năm thức trước và thức thứ tám chuyển nơi quả. Do điều này, chúng ta phải hiểu rõ: Tu hành phải chú ý điều gì? Chú ý thức thứ sáu và thứ bảy. Nói cách khác, thức thứ sáu là phân biệt, thức thứ bảy là chấp trước. Trong hết thảy cảnh giới, lắm phân biệt, lắm chấp trước là tăng trưởng tà kiến; ít phân biệt, ít chấp trước là tăng trưởng trí huệ.

[Sách Diễn Nghĩa giảng]: “Thanh thị nhân duyên biến, Danh, Cú, Văn cập sở thuyên nghĩa thị phân biệt biến” (Thanh là nhân duyên biến, Danh, Cú, Văn và nghĩa được diễn nói [bởi Thanh, Danh, Cú, Văn] là phân biệt biến). Người thông minh tạo ra những phù hiệu ấy, phù hiệu này gọi là gì, tượng trưng cho ý nghĩa nào, dạy mọi người có cùng phân biệt, chấp trước ấy, những phù hiệu ấy biến thành văn tự. Do vậy, văn tự có nguồn gốc từ phân biệt, chấp trước, chẳng giống như âm thanh, âm thanh do duyên mà biến thành. Đó là nói về Giáo Thể, nói theo Lý thì nó có những đạo lý ấy.

“Nhi hữu bổn ảnh tứ cú” (nhưng có bốn câu như bổn, ảnh), “bổn” là bản chất, “ảnh” là hình bóng, cũng có thể nói [bổn ảnh] là cội rễ và cành nhánh. Giống như chúng ta đứng dưới ánh đèn, chúng ta là bổn, còn cái bóng là thứ kèm theo, nói theo tỷ dụ này. Bổn là thật, thật sự có; Ảnh là hình bóng. Nói theo cách hiện thời sẽ là trong tâm quý vị có ấn tượng, ấn tượng ấy chẳng chân thật. Ví như chúng ta thấy một người, người ấy là bản thể (Bổn); người ấy đã rời khỏi, nhưng chúng ta thường nghĩ đến người ấy, nghĩ tới hình dáng của người ấy thì hình dáng ấy là hình bóng (Ảnh), chẳng thật. Lại nêu một tỷ dụ khác, giống như tấm gương soi bên ngoài: Hình tượng của vật bên ngoài là Bổn, bóng soi trong gương là ảnh tượng; chúng chẳng phải là Bổn. Thức của chúng ta giống như bản thể của tấm gương, giống hệt như Thể của tấm gương.

 

(Sớ) Tứ cú giả.

() 四句者。

(Sớ: Bốn câu là).

Giải thích câu “bổn ảnh tứ cú”.

 

(Sớ) Nhất, duy Bổn vô Ảnh.

() 一、唯本無影。

(Sớ: Một là chỉ có Bổn, không có Ảnh).

Chỉ có Bổn, không có Ảnh. Nói thật ra, đây là sai lầm, coi Ảnh là Bổn, chứ không phải là chẳng có Ảnh. Coi Ảnh cũng là Bổn là một sai lầm rất to!

 

(Sớ) Tức Tiểu Thừa Giáo.

() 即小乘教。

(Sớ: Chính là Tiểu Thừa Giáo).

[Quan niệm] “chỉ có Bổn, không có Ảnh” là Tiểu Thừa Giáo.

 

(Sớ) Bất tri giáo pháp giai duy thức hiện, vị Như Lai thật hữu thuyết pháp cố.

() 不知教法皆唯識現,謂如來實有說法故。

(Sớ: [Vì người Tiểu Thừa] chẳng biết giáo pháp đều chỉ do thức hiện, họ cho rằng đức Như Lai thật sự có thuyết pháp).

Hiện thời, có nhiều người coi điều này là chân thật, nhất là trong giới học thuật hiện thời, hễ muốn khảo chứng đều tìm đến Phật Giáo Nguyên Thủy, vì sao? Họ cho rằng đức Phật có pháp để có thể nói. Thật vậy! Đấy chẳng phải là hiểu nghĩa chân thật của Như Lai. Tuy họ là những nhân vật có uy tín trong giới học thuật hiện thời, thậm chí những người có uy tín khoa học trên thế giới vẫn không thể, vẫn chẳng hiểu nghĩa chân thật của Như Lai, vẫn là như Thanh Lương đại sư đã nói “tăng trưởng tà kiến” mà thôi! Chúng ta nói với họ, họ nói chúng ta không thông hiểu, nói chúng ta chẳng đọc kinh điển Phật Giáo Nguyên Thủy, mà [nếu có đọc] cũng không đọc nhiều bằng họ, cũng chẳng học nhiều như họ, không thông hiểu! Chúng ta chẳng đáng cho họ ngó tới! Suốt ngày từ sáng đến tối phân biệt, chấp trước; trong Duy Thức gọi [kiến giải này] là “duy Bổn vô Ảnh”, [tức là] coi Ảnh cũng là Bổn, Bổn và Ảnh chẳng phân. Chẳng hiểu Như Lai vẫn chưa sao, quan trọng hơn là gì? Chẳng biết chính mình, vấn đề này nghiêm trọng lắm!

Đức Phật nói ra hết thảy các pháp, nhằm dạy chúng ta nhận biết chính mình, nhằm dạy chúng ta hiển lộ chân tánh của chính mình, mong chúng ta nhận thức Như Lai của chính mình, chứ không phải là nhận thức Phật, đó là nghĩa chân thật của Phật. Nay chúng ta hiểu lầm phương hướng và mục tiêu này, một mực truy cầu Như Lai của Thích Ca Mâu Ni Phật, chỉ lo khảo cứu, suy xét kinh điển của Ngài, chẳng biết quay lại tìm kiếm Như Lai trong tâm tánh của chính mình, hiển lộ hết thảy kinh điển trong tâm tánh của chính mình, lầm lẫn phương hướng! Vì thế, trong hết thảy các đại kinh, đại luận, đức Phật đã khai thị minh bạch: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp không có người nói thì tuy là kẻ trí cũng chẳng thể hiểu). Người thông minh trí huệ bậc nhất trong thế gian cũng chẳng có cách nào lý giải Phật pháp, đạo lý ở chỗ này: Đã lầm lẫn phương hướng rồi! Há chẳng nghe kinh thường nói: “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm”. Phải tìm pháp ở trong tâm. Từ trong pháp phải biết trở về tự tâm, tìm pháp ngay trong tâm, đức Phật dạy chúng ta như thế. Vì thế gọi là Vô Thượng Chánh Giác.

Người thế gian không có phương pháp nào để thấu hiểu, vì sao không có cách nào thấu hiểu? Nói đơn giản một câu là: Tâm họ chẳng thanh tịnh. Trong tâm họ gây tạo tiếng tăm, lợi dưỡng, trong tâm họ có thị phi, nhân ngã; cho nên không có cách nào thấu hiểu đến mức này, chẳng thể quay đầu. Nếu tiếng tăm, lợi dưỡng, thị phi, nhân ngã đều có thể bỏ sạch, khôi phục tự tánh thanh tịnh tâm, họ sẽ thấu hiểu, vừa mở kinh điển ra, ngay lập tức hiểu rõ đức Phật nói những ý nghĩa nào, chúng ta nên thọ trì như thế nào, phải tiếp nhận ra sao? Bậc thánh nhân Tiểu Thừa, người Tiểu Thừa chấp tướng, tuy phá Ngã Chấp, chưa phá Pháp Chấp, so với phàm phu chúng ta rốt cuộc vẫn cao hơn một tầng: Họ có thể thành tựu Cửu Thứ Đệ Định, nhưng chưa thể khai trí huệ. Nói cách khác, chưa thể kiến tánh. Vì sao chưa thể kiến tánh? Gốc bệnh ở chỗ coi Ảnh là Bổn, đó là Pháp Chấp, cho rằng Như Lai thật sự có pháp để nói. Người Tiểu Thừa chẳng thể lãnh hội hư không pháp giới chỉ do Thức biến, chẳng biết tam giới duy tâm. Vì thế, họ chấp trước “ngoài tâm có cảnh”, giống những kẻ ngu si coi bóng dáng là chân thật, chẳng biết đó là bóng dáng.

 

(Sớ) Nhị, diệc Bổn, diệc Ảnh, tức Thỉ Giáo.

() 二、亦本亦影,即始教。

(Sớ: Hai, Bổn và Ảnh cùng có, đấy là Thỉ Giáo).

Vừa là Ảnh vừa là Bổn, cao minh hơn loại trước. Bổn và Ảnh đều phân định rõ ràng. Đây là giáo nghĩa trong Thỉ Giáo, tức là bắt đầu của Đại Thừa.

 

(Sớ) Dĩ Phật tự tuyên thuyết, nhược văn, nhược nghĩa, giai tùng Diệu Quán Sát Trí tịnh thức sở hiện, danh Bổn Chất giáo.

() 以佛自宣 若文若義 皆從妙觀察智淨識所現,名本質教。

(Sớ: Do đức Phật tự tuyên nói, dù văn hay nghĩa đều từ tịnh thức của Diệu Quán Sát Trí hiện ra, gọi là Bổn Chất giáo).

Đích xác là trí huệ khá cao, họ hiểu, họ biết những kinh điển do đức Phật đã giảng do đâu mà ra: Cũng là từ sự phân biệt, chấp trước của Phật mà hiển lộ. Tôi nói phân biệt, chấp trước cho mọi người dễ hiểu hơn một chút, nhưng phân biệt, chấp trước là cảnh giới phàm phu, Phật có hay không? Phật cũng có! Diệu Quán Sát Trí là gì? Tịnh thức là gì? Vì Phật giác chứ không mê, sự phân biệt chấp trước do giác chứ không mê được gọi là Diệu Quán Sát Trí, hay tịnh thức. Nói cách khác, Diệu Quán Sát Trí của chúng ta là mê. Do mê nên gọi là phân biệt, tịnh thức của chúng ta bị mê. Mê thì gọi là A Lại Da Thức, cũng là thay đổi danh tự, trọn chẳng thay đổi sự tướng. Chúng ta mê chứ không giác, Phật là giác chứ không mê.

Tôi lại nói đơn giản hơn một chút, Phật suốt ngày từ sáng đến tối nhất tâm bất loạn, nhất tâm bất loạn là giác chứ không mê. Giác là gì? Nhất tâm bất loạn là giác. Chúng ta tam tâm nhị ý, suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, đó là mê. Tưởng Phật, tưởng Bồ Tát đều là mê; thường nghĩ đến những cảnh giới trong kinh điển, thưa quý vị, vẫn là mê! Mê nhiều ngần ấy chẳng bằng mê một chuyện, niệm A Di Đà Phật tốt hơn. Quý vị phải hiểu rõ lý này rất sâu! Nếu tôi mê đạo lý nhiều dường ấy trong hết thảy các kinh, vì sao tôi chẳng chọn một mình A Di Đà Phật, mê bốn chữ này tốt hơn nhiều. Quý vị mê càng nhiều, sẽ chẳng dễ khai ngộ! Mê một thứ dễ khai ngộ! Vì một thứ sẽ dễ thoát hơn, giác ngộ được! Quá nhiều, chẳng thể thoát khỏi chúng. Đạo lý này rất sâu, quý vị phải chú tâm thấu hiểu. Đến khi quý vị đã biết dụng tâm, cũng sẽ biết cách nghiên cứu kinh hay đọc kinh.

Vì sao tôi cần phải nghiên cứu các kinh? Có hai mục đích: Một là vì chính mình, giúp chúng ta kiến lập tín tâm, phá nghi, sanh tín, nên tôi phải đọc hết thảy các kinh. Ngoài ra, một mục đích nữa là tiếp dẫn chúng sanh. Muốn đạt thành hai mục đích này, thảy đều phải điều hợp Giải và Hành thành một. Nói cách khác, xử sự, đãi người, tiếp vật chỉ dùng nhất tâm, một lòng chân thành, ta dùng tấm lòng ấy. Người khác đối xử với ta bằng tấm lòng hư vọng là chuyện của họ, họ chẳng mong thành tựu, ta mong thành tựu, ta đãi người bằng lòng chân thành. Ta tu điều gì trong cảnh giới? Tu bất loạn. Bất luận cảnh giới nào hiện tiền, ta đều phải giữ bình tĩnh, chẳng loạn. Quý vị bất loạn, sẽ có Định, có Huệ. Hễ loạn thì Định lẫn Huệ đều không có. Tu là tu điều này. Khi ta sắp bị loạn, phải mau niệm A Di Đà Phật; một câu A Di Đà Phật thâu hồi cái tâm loạn, lại thâu thành một khối. Do vậy, trong tất cả các pháp môn, quý vị thấy trong hội Hoa Nghiêm, Văn Thù, Phổ Hiền thay Thiện Tài đồng tử chọn pháp Niệm Phật này; đây là pháp môn thù thắng, thuận tiện nhất, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, đáng tin cậy nhất, quý vị phải biết tu. Người thật sự biết tu sẽ nhập cảnh giới Hoa Nghiêm, “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”, thật sự đạt được đại tự tại.

Hết thảy các kinh Phật lưu lộ từ sự phân biệt, chấp trước của giác ngộ: Sau khi giác ngộ, thuận theo sự phân biệt của chúng sanh mà phân biệt, thuận theo sự chấp trước của chúng sanh mà chấp trước; chính mình chắc chắn không có phân biệt, chấp trước. Đó gọi là Diệu Quán Sát Trí, là Tịnh Thức. Chẳng phải là Phật thật sự có phân biệt, chấp trước, Phật chẳng có [những thứ phân biệt, chấp trước này]. Vì thế, đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, trong kinh Kim Cang có nói: Ai bảo Phật thuyết pháp chính là báng Phật. Ngài chẳng thừa nhận, một câu pháp nào Phật cũng chẳng nói! Xét theo đạo lý, quả thật chẳng có một câu pháp nào. Những điều Phật đã nói là thuận theo quý vị mà nói. Quý vị nói như vậy, tôi cũng nói như vậy, chẳng phải là tôi nói. Về căn bản, tôi chẳng nói một câu pháp nào. Quý vị nói cái này là sách, được rồi, tôi cũng bảo nó là sách. “Sách” là phân biệt, chấp trước, tôi không có! Quý vị nói đây là sách, tôi nói theo quý vị nó là sách, quý vị chấp trước đây là sách, được rồi! Tôi cũng chấp trước theo quý vị. Tâm tôi quyết định chẳng có phân biệt, chấp trước. Chẳng có phân biệt, chấp trước là giác, là tịnh. Phàm phu chúng ta thừa nhận đây là sách, thật sự chấp trước nó là sách, thật sự phân biệt nó là sách. Họ quả thật có phân biệt chấp trước ấy; chấp trước ấy là ô nhiễm, chấp trước ấy là mê. Thưa cùng quý vị, chỗ khác nhau giữa Phật và phàm phu là chỗ này, đơn giản như thế đó! Nếu thấu triệt tầng [nghĩa lý] này, sẽ thấu triệt toàn bộ Tam Tạng mười hai bộ loại. Nhìn từ phía Phật mà nói, những điều đức Phật giảng là Bổn Chất giáo, là giác chứ không mê, chẳng nói mà nói, nói mà không nói, đó là Phật.

 

(Sớ) Văn giả.

() 聞者。

(Sớ: Nghe là…)

Chúng ta nghe là thức thứ sáu, thức thứ bảy và thức thứ tám khởi tác dụng. Năm thức trước cũng đều khởi tác dụng, nhãn thức nhìn, nhĩ thức nghe, thức thứ sáu tức Ý Thức phân biệt, thức thứ bảy chấp trước, thức thứ tám lưu lại ấn tượng, thảy đều khởi tác dụng.

 

(Sớ) Văn giả thức thượng sở biến văn nghĩa, danh Ảnh Tượng giáo.

() 聞者識上所變文義,名影像教。

(Sớ: Nghe là [lãnh hội] văn và nghĩa do thức biến, nên gọi là Ảnh Tượng giáo).

Bổn Chất Giáo của Phật khiến cho chúng ta nhận được hình dáng (lưu lại ấn tượng), chúng ta như tấm gương chiếu soi. Đó là Phật gia trì, giúp đỡ chúng ta.

 

(Sớ) Chư Phật chúng sanh hỗ vi tăng thượng cố.

 () 諸佛眾生互為增上故。

(Sớ: Chư Phật và chúng sanh tăng thượng lẫn nhau).

Phật gia trì chúng ta, Phật dạy chúng ta giác ngộ. Chúng ta nghe xong, giác ngộ, hiểu rõ đạo lý này. Chúng sanh giúp Phật ở chỗ nào? Quý vị phải hiểu: Không có chúng sanh mê hoặc, điên đảo, Phật chẳng khởi lên những thứ ấy, Ngài cũng chẳng khởi lên Bổn Chất giáo. Vì thấy chúng sanh mê, nên từ sự mê ấy khiến cho Phật giác ngộ, Phật giác ngộ trước. Không có chúng sanh mê hoặc, điên đảo, Phật đến nơi đâu để giác ngộ? Phật cũng chẳng thành Phật được! Thầy trò hợp đạo, học trò giúp đỡ thầy, thầy dạy bảo học trò. Không có những chúng sanh ấy, Phật cũng chẳng nói một câu nào! Chính vì chúng sanh điên đảo, nên Phật mới có kinh để nói, mới giảng nhiều ngần ấy.

Trong Duy Thức nói đến Tâm Vương, Tâm Sở. Nói thật ra, Tâm Vương vẫn là thanh tịnh, Tâm Sở mới chẳng thanh tịnh. Ví như Ý Thức là thức thứ sáu, tuy thức thứ sáu phân biệt, mắt chúng ta thấy những sắc tướng phân biệt từng thứ một. Tuy phân biệt mà vẫn chẳng khởi tâm động niệm; khởi tâm động niệm mới ô nhiễm. Khởi tâm gì vậy? Động niệm nào vậy? Hợp với ý nghĩ của mình bèn khởi tâm tham; chẳng hợp ý mình bèn khởi tâm sân khuể. Tham, sân, si, mạn đều là Tâm Sở pháp, trong Tâm Vương không có, [tham, sân, si, mạn] phụ thuộc Tâm Sở. Có một tỷ dụ: Giống như thủ trưởng trong một cơ quan, thủ trưởng rất tốt, hết sức công bình, chánh trực, hết sức yêu dân, những thuộc hạ phía dưới tham tàn, sái pháp, có cách nào đây? Lũ tay chân làm chuyện xấu, thủ trưởng vẫn chẳng biết. Năm mươi mốt Tâm Sở đều là tay sai của Tâm Vương, chúng làm chuyện xấu. Nếu chỉ mình Tâm Vương, không nhắc đến Tâm Sở, thì Tâm Vương thanh tịnh. Có thể nói tám thức đều là tịnh thức, tám thức đều là pháp vô lậu. Đáng tiếc là chúng bị lũ thuộc hạ làm bậy, năm mươi mốt Tâm Sở làm chuyện xấu.

Trong năm mươi mốt Tâm Sở, có mười một Tâm Sở là lành, có hai mươi sáu Tâm Sở là ác (Căn Bản Phiền Não gồm sáu món, Tùy Phiền Não là hai mươi món), bốn món Bất Định, năm món Biến Hành, năm món Biệt Cảnh[83], tổng cộng là năm mươi mốt Tâm Sở. Năm mươi mốt món này là “cán bộ” (personnel) của Tâm Vương. Tất cả hết thảy bị ô nhiễm, biến vô lậu thành hữu lậu, biến tịnh thức thành ô nhiễm thức, đều là chuyện do Tâm Sở gây ra. Vì sao chúng tôi thường nói đến thức thứ sáu và thức thứ bảy? Vì Tâm Sở tương ứng với thức thứ sáu nhiều nhất, năm mươi mốt Tâm Sở toàn bộ đều có [mối liên quan với thức thứ sáu], và ba mươi bốn món Tâm Sở tương ứng với thức thứ bảy. Những Tâm Sở tương ứng với năm thức trước và thức thứ tám rất ít. Thức thứ tám chỉ có năm Tâm Sở (năm Biến Hành), những món khác đều chẳng tương ứng. Do vậy, ô nhiễm nghiêm trọng nhất, sức lực mạnh nhất chính là thức thứ sáu và thứ bảy. Diệu Quán Sát Trí là chuyển ý thức, tức thức thứ sáu, thành Diệu Quán Sát, chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh. Quý vị phải hiểu: Chỉ cần quý vị chẳng chấp trước, tâm bèn bình đẳng. Tâm bình đẳng là Phật tâm.

Tôi vừa mới đặc biệt nhấn mạnh: Xử sự, đãi người, tiếp vật, học Phật là học cách dụng tâm. Phật tâm là tâm bình đẳng, có thể dùng cái tâm bình đẳng để đãi người, tiếp vật, người ấy là Phật, người ấy sử dụng Phật tâm. Bồ Tát dùng tâm Lục Độ, Bồ Tát niệm niệm Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã, dùng cái tâm ấy để xử sự, đãi người, tiếp vật. Bích Chi Phật dùng tâm Duyên Giác, dùng tâm mười hai nhân duyên. Thanh Văn là A La Hán dùng tâm Tứ Đế. Chư thiên dùng tâm Thập Thiện. Con người dùng tâm Ngũ Giới. Quỷ dùng tâm tham. Súc sanh là tâm ngu si. Địa ngục là tâm sân khuể. Trong kinh, đức Phật thường dạy chúng ta: Người trong mười pháp giới vì sao biến thành mười pháp giới? Họ xử sự, đãi người, tiếp vật, dùng cái tâm khác nhau. Vì thế, dùng tâm bình đẳng là tối thượng. Trong hết thảy các pháp chẳng chấp trước, tâm bèn bình đẳng. Trong hết thảy các pháp, chẳng phân biệt, đó là Diệu Quán Sát. Nếu chuyển biến hai thức này thì năm thức trước biến thành Thành Sở Tác Trí, A Lại Da Thức biến thành Đại Viên Kính Trí, tự nhiên chuyển biến, chẳng cần phải dụng công, chỉ dụng công nơi thức thứ sáu và thứ bảy. Như vậy thì vì sao chúng ta phải phân biệt, chấp trước kiên cường như thế? Đó là lỗi lầm to lớn của chúng ta. Cương lãnh tu hành Phật pháp là “giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm”. Nói chung là quên tuốt những điều này!

Trong thế gian hiện thời, yêu ma, quỷ quái thứ gì cũng đều xuất hiện. Mọi người phải biết, phải giác ngộ. Những yêu ma, quỷ quái ấy cũng xâm nhập Phật pháp, lừa gạt chúng sanh. Trong nước, ngoài nước đều hết sức phổ biến. Tôi ở ngoại quốc thấy nhiều lắm, chúng tự xưng là vị Phật gì đó tái lai, Bồ Tát nào đấy tái lai, tín đồ đông khôn xiết! Chánh pháp chẳng có ai đến nghe, trong ma pháp có trên ngàn vạn tín đồ! Đó là điềm dự báo chúng sanh bất hạnh, thế giới đại loạn. Còn một điểm nữa, đừng nên giúp đỡ yêu ma, quỷ quái, [nếu giúp đỡ chúng], quý vị sẽ tự gánh lấy trách nhiệm nhân quả. Vì sao yêu ma quỷ quái có thế lực lớn như vậy? Người giúp đỡ chúng đông quá. Bọn họ là bọn đầu sỏ gây tội; quý vị giúp đỡ chúng, tức là tòng phạm. Nhất định phải giác ngộ, hãy thật thà niệm Phật. Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 82

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm ba mươi ba:

 

(Sớ) Tam, duy ảnh vô bổn, tức Chung Giáo. Dĩ ly chúng sanh tâm, cánh vô hữu Phật, duy đại bi đại trí vi tăng thượng duyên, linh bỉ căn thục chúng sanh, tâm trung hiện Phật thuyết pháp. Thị cố Phật giáo toàn thị chúng sanh tâm trung ảnh tượng.

() 三、 唯影無本 ,即終教 。以離眾生心 ,更無有佛,唯大悲大智為增上緣,令彼根熟眾生,心中現佛說法,是故佛教全是眾生心中影像

(Sớ: Ba là chỉ có Ảnh không có Bổn, chính là Chung Giáo. Bởi lẽ, lìa tâm chúng sanh, sẽ trọn chẳng có Phật. Chỉ có đại bi đại trí làm tăng thượng duyên, khiến cho trong tâm những chúng sanh căn cơ chín muồi hiện ra đức Phật thuyết pháp. Vì thế, Phật giáo hoàn toàn là bóng dáng trong tâm của chúng sanh).

Đây là câu thứ ba trong bốn câu nói về Bổn và Ảnh. Hai đoạn trước là “duy Bổn vô Ảnh” (chỉ có Bổn, không có Ảnh) và “diệc Bổn diệc Ảnh” (vừa có Bổn vừa có Ảnh), [giáo nghĩa] trong đó có mức độ khá sâu. Trong phần trước đã giảng về Tiểu Thừa Giáo và Đại Thừa Thỉ Giáo, tức là mới bắt đầu bước vào Đại Thừa. Đoạn này lại cao hơn đoạn trước một tầng nữa, nói đến Đại Thừa Chung Giáo. Nói “Chung” (終) có nghĩa đây là sự giáo học cao nhất trong pháp Đại Thừa, càng ngày càng chân thật, chỉ có Ảnh không có Bổn. Vì sao nói “chỉ có Ảnh, không có Bổn”? Tiếp đó là lời giải thích: “Ly chúng sanh tâm, cánh vô hữu Phật” (lìa tâm chúng sanh, sẽ trọn chẳng có Phật). Do đây, có thể biết: Phật do đâu mà có? Phật từ tâm chúng sanh biến hiện ra. Trong Tịnh Độ thường nói: “Duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. Lìa khỏi tự tánh, đâu có A Di Đà Phật! Phật Di Đà do đâu mà có? Do tự tánh biến hiện ra. Bổn là gì? Bổn là tự tánh. Tây Phương quả thật có thế giới Cực Lạc, quả thật có A Di Đà Phật. Thế giới và Phật đều là vật do chân tánh của chính mình biến hiện. Đây chính là “duy thức” như các nhà Duy Thức thường nói; trong vạn pháp chỉ có thức, thức có thể biến, vạn pháp là cái được biến (sở biến).

“Duy đại bi đại trí vi tăng thượng duyên” (chỉ có đại bi đại trí làm tăng thượng duyên): “Tăng thượng” có nghĩa là giúp đỡ. Đại bi và đại trí đều là những thứ vốn có sẵn trong tự tánh của chúng ta. Vì thế, đức Phật thuyết pháp cho chúng ta, chúng sanh thuyết pháp cho chúng ta. Trong kinh Đại Thừa cũng thường nói: “Chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng”, cảm ứng đạo giao. Chúng ta có cảm, Phật bèn có ứng, Phật có hữu tâm ứng hay chăng? Không! Nếu Phật hữu tâm ứng, thì là “có Bổn” rồi; đấy chính là giáo nghĩa thuộc phần trước. “Có Bổn mà cũng có Ảnh” là nói đến sự dạy học khởi đầu trong Đại Thừa Thỉ Giáo. Nói sâu hơn một tầng thì không có [Bổn]. Phật chắc chắn chẳng có tâm, Phật chẳng khởi tâm, chẳng động niệm. Thường có một tỷ dụ: Giống như chúng ta gõ khánh, quý vị vừa gõ liền vang ra tiếng. Gõ là cảm, tiếng vang là ứng. Vì thế, “đại khấu tắc đại minh, tiểu khấu tắc tiểu minh” (gõ mạnh kêu to, gõ nhẹ kêu bé). Khi chúng ta gõ khánh, cái khánh ấy có động niệm: “Hắn gõ mình, mình có nên ngân lên hay không?” Chẳng thể nào, nó không có tâm, không có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Chư Phật, Bồ Tát ứng với [sự cảm của] chúng sanh giống như thế, tự nhiên mà ứng. Do đây có thể biết: Chúng ta và chư Phật, Bồ Tát cảm ứng đạo giao hoàn toàn do tự mình chủ động; đây là nói lời chân thật với quý vị!

Hiện thời, yêu ma, quỷ quái trong thế gian rất nhiều, đúng là “pháp nhược, ma cường” (pháp yếu, ma mạnh). Quý vị thấy rất nhiều kẻ bị ma dựa, không chỉ ở trong nước mà ở ngoại quốc cũng như thế, tình hình này hết sức phổ biến. Người ngoại quốc cũng bị ma dựa, vì sao ma xuất hiện? Do đạo lý như thế này: Tâm chúng sanh chỉ nghĩ đến ma, cho nên niệm ma, ma bèn tới, cũng là cảm ứng đạo giao! Quý vị nghĩ đến Phật, Phật bèn tới; nghĩ tới Bồ Tát, Bồ Tát bèn đến; nghĩ tới ma, ma bèn tới. Chuyện là như vậy đó! Sao lại nghĩ đến ma? Hiện thời, người ta thích chuyện kỳ quái, nhất là ham chuộng thần thông. Ai có thể biến hóa thần thông? Ma! Ma có thể biến hiện thần thông. Hễ quý vị nghĩ đến thần thông, ma bèn tới. Vì thế, kẻ ham kỳ chuộng lạ đông đảo, kẻ ưa thích quái dị đông đúc, người thật sự am hiểu chánh pháp chẳng nhiều. Vì thế, quý vị thấy các đạo tràng trên toàn thế giới, đạo tràng nào giảng kinh theo quy củ, thính chúng chẳng đông; nếu đặc biệt giở trò màu mè thì người ta xúm đen xúm đỏ! Đều là ham thích kỳ quái, bị ma dựa!

Thưa quý vị, niệm Phật cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Nếu quý vị niệm Phật chẳng hiểu phương pháp, chẳng thông lý luận, niệm Phật cũng có thể bị ma dựa! Chẳng qua, nếu so sánh, niệm Phật ít bị ma dựa, nhưng quý vị dụng công chẳng đúng pháp có thể bị ma dựa! Vì thế, phải thông đạt lý luận, phải hiểu rõ phương pháp và cảnh giới thì trong quá trình tu hành chúng ta mới giảm bớt những thứ ma sự, điều này rất khẩn yếu. Ở đây, tôi đặc biệt phải nói rõ với các đồng tu niệm Phật, điều quý nhất là như cổ đức đã nói: “Thật thà niệm Phật”. Khi chúng ta niệm Phật, tâm rất thanh tịnh, kiền thành, điều gì cũng chẳng cầu. Nếu quý vị cầu thấy Phật, mong thấy tướng lành, đấy chính là ý niệm dẫn đến ma dựa. Thậm chí “ta cầu nhất tâm bất loạn” cũng là một ý niệm dẫn đến ma dựa. Nhất tâm bất loạn có phải cầu hay không? Phải! Nhất định có nguyện ấy, nhưng chớ nên có cái tâm ấy, [nghĩa là đừng băn khoăn]: Ta niệm Phật niệm suốt ngày, cớ sao vẫn chưa đắc nhất tâm bất loạn? [Nghĩ như vậy thì] trong sự niệm Phật của ta đã hỗn tạp, xen tạp rồi, xen tạp [ý niệm mong cầu] nhất tâm bất loạn, làm sao đạt nhất tâm cho được? Chẳng thể nào!

Vì  thế,  niệm Phật quý ở chỗ thật thà niệm,  chẳng xen tạp,  chẳng

gián đoạn. Chẳng gián đoạn thì phải rất tự nhiên mới gọi là “chẳng gián đoạn”; chẳng phải là miễn cưỡng. Hễ miễn cưỡng, quý vị sẽ chẳng đạt được, phải rất tự nhiên! Tức là trong khi làm việc, dốc toàn bộ tinh thần vào công việc, ta làm tốt công việc. Sau khi buông công tác xuống, Phật hiệu liền khởi lên, như thế là “chẳng gián đoạn”. Nếu không, quý vị chẳng niệm Phật tốt đẹp, mà công việc cũng chẳng làm tốt, hai đằng đều hỏng bét. Vì thế, nếu quý vị biết dụng tâm, chuyện gì cũng đều viên mãn, chuyện gì cũng được thực hiện tốt đẹp. Quý vị nhất định phải hiểu rõ đạo lý này. Dù có nói đả Phật Thất, chúng ta khéo dụng công niệm Phật suốt ngày, phải hiểu điều đó chẳng phải là ngẫu nhiên, không phải ai cũng đều có thể làm được. Vì thế, kinh dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên” (Chẳng thể do một ít thiện căn, phước đức, nhân duyên), đó là phước báo! Có thể khéo niệm Phật suốt một ngày thì cũng là do sẵn có phước báo được niệm Phật trong suốt ngày hôm đó. Không có phước báo ấy, chẳng thể miễn cưỡng; pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều chẳng thể miễn cưỡng!

Đoạn văn này đã bảo rõ với chúng ta: Không có chúng sanh, thử hỏi Phật thuyết pháp như thế nào? Phật thuyết pháp cho ai? Phật thuyết pháp cho chúng sanh. Vì thế, tách khỏi chúng sanh, Phật chẳng có pháp nào để thuyết, mà cũng chẳng thành Phật. Vì sao gọi Ngài là Phật? Là vì có chúng sanh. So với chúng sanh mà thấy rõ có một vị Phật, tức là một đằng mê, một đằng ngộ. Không có mê, làm sao thấy rõ ngộ? Vì thế, đây là kiến lập tương đối. Có Phật bèn có chúng sanh, có chúng sanh bèn có Phật. Không có chúng sanh, chẳng có Phật; mà không có Phật, cũng chẳng có chúng sanh. Vì thế, chúng sanh là tăng thượng duyên của Phật. Nếu không có Phật thuyết pháp cho chúng sanh, chúng sanh cũng chẳng thể tự mình biến ra Phật pháp để chính mình tu học. Phật làm tăng thượng duyên cho chúng sanh, chúng sanh cũng làm tăng thượng duyên cho Phật, làm tăng thượng duyên lẫn nhau, nên mới nói: “Phật giáo toàn thị chúng sanh tâm trung ảnh tượng” (Phật giáo hoàn toàn là bóng dáng trong tâm chúng sanh).

 

(Sớ) Tứ, phi Bổn phi Ảnh, tức Đốn Giáo.

() 四、非本非影,即頓教。

(Sớ: Bốn, “chẳng phải Bổn, chẳng phải Ảnh” là Đốn Giáo).

Đây là giáo nghĩa của Đốn Giáo.

 

(Sớ) Phi duy tâm ngoại vô Phật, chúng sanh tâm trung ảnh tượng diệc Không, dĩ tánh bổn tuyệt ngôn, tức bất giáo chi giáo. Sở vị “tôn giả vô thuyết, ngã nãi vô văn”, thuyết thính giai vô, duy thức nhi dĩ. Thị dĩ thức vi giáo thể dã.

() 非唯心外無佛 眾生心中影像亦空 以性本言,即不教之教,所謂尊者無說,我乃無聞,說聽皆無,唯識而已,是以識為教體也。

(Sớ: Không chỉ là ngoài tâm không có Phật, mà bóng dáng trong tâm chúng sanh cũng là Không, vì tánh vốn dứt bặt ngôn ngữ, tức là không dạy mà dạy như [trong kinh Bát Nhã, Đế Thích đã thưa cùng tôn giả Tu Bồ Đề]: “Tôn giả chẳng nói, tôi bèn chẳng nghe”. Nói và nghe đều không, chỉ có Thức mà thôi! Do vậy, lấy Thức làm giáo thể).

Đây là ý nghĩa rốt ráo nhất được nói trong Duy Thức. Nói theo Đốn Giáo, chẳng những “ngoài tâm không có Phật” mà tất cả những “ảnh tượng” (bóng dáng) trong tâm chúng sanh cũng chẳng phải là chân thật. Đây chính là như kinh Bát Nhã đã nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, đạo lý này rất sâu. Câu nói “phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng” này không chỉ áp dụng vào y báo và chánh báo trang nghiêm, sâm la vạn tượng trong thế gian này, mà các cõi nước thanh tịnh của chư Phật cũng chẳng phải là ngoại lệ; nhưng quý vị nhất định phải nhớ: Tuyệt đối chẳng phải là phủ định tất cả hoàn cảnh hiện thực đang hiện hữu, chẳng có ý nghĩa ấy! Về Tướng thì có, về Thể thì không! Gọi là “ảnh tượng” vì giống như chúng ta coi phim ảnh, chẳng thể nói trên màn bạc không có hình tượng, nhưng những hình tượng ấy là Không, chẳng thể được. Chúng ta hiểu rõ tình hình này. Vì thế, “ảnh tượng” (hình ảnh, bóng dáng của các pháp in trong tâm thức của chúng sanh) cũng là Không. Núi, sông, đại địa, sâm la vạn tượng đều là những “ảnh tượng” do tự tánh của chúng ta biến hiện, giống như những hình ảnh xuất hiện trên màn bạc trong điện ảnh. Chúng có hay là không? Có! Có thể đạt được hay không? Chẳng thể đạt được! Không chỉ vật chất, hình tướng trong thế gian quý vị chẳng đạt được, quả thật chẳng thể đạt được, thật đấy, chẳng giả tí nào, quả thật chẳng thể đạt được, mà tất cả những cảm thọ trong tâm quý vị cũng chẳng thể đạt được, cũng là giả. Thật sự hiểu thấu triệt thì quý vị mới biết tất cả các pháp trong thế gian này đều thật sự là Không, vạn pháp đều là Không.

Nay chúng ta nói chúng ta có tiền của, quý vị có được tiền bạc ở chỗ nào? Có phải là quý vị đem tiền bạc nhét vào thân hay chăng? Nhét chẳng được, nói chung là ở ngoài thân, nó là vật ngoài thân. Lại nói đến thân thì thân cũng chẳng đạt được! Các tế bào trong thân thể của chúng ta sanh diệt trong từng sát-na, tế bào cũ chết đi, tế bào mới sanh ra, cái mới thay cho cái cũ. Mỗi chu kỳ bảy năm, các tế bào cũ trên thân thể hoàn toàn chẳng còn nữa, hoàn toàn đổi thành tế bào mới, chẳng thể tìm được tế bào thân thể nào thuộc bảy năm trước, hoàn toàn chẳng còn nữa! Nói như thế thì thân cũng chẳng đạt được, huống gì vật ngoài thân? Đó là nói cảnh giới vật chất là Không, chẳng thật sự tồn tại. Nói “mê” tức là coi thân thể của chính mình là thật, những vật ngoài thân cũng coi là thật, lo được, lo mất, cho nên khổ sở! Thật ra, nỗi khổ ấy chẳng đáng, vì chẳng có được hay mất! Nếu thật sự có được hay mất, nỗi khổ ấy mới có giá trị. Sự cảm thọ trong tâm càng hư vọng, cảm thọ trong tâm là gì vậy? Khởi vọng tưởng. Nghĩ đến quá khứ, nghĩ đến vị lai, nghĩ đến người nhà, quyến thuộc, toàn là vọng tưởng, cũng chẳng chân thật!

“Dĩ tánh bổn tuyệt ngôn, tức bất giáo chi giáo” (Do tánh vốn dứt bặt nói năng, tức là chẳng dạy mà dạy). Phật xuất hiện vì thuận theo tâm chúng sanh. Kinh Lăng Nghiêm nói “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng nhận biết của họ). Trong bổn tánh cái gì cũng chẳng có, nó là không tịch. Tuy là không tịch, nhưng có thể hiện tướng; do vậy, nó lại có ý nghĩa “bất không”. Chúng ta nói đến Như Lai Tạng: Không Như Lai Tạng, Bất Không Như Lai Tạng; Bất Không là Có. Không Như Lai Tạng là nói về Chân, Bất Không Như Lai Tạng là nói nó có thể hiện tướng. Tuy hiện tướng, tướng ấy chẳng thật. Giống như chúng ta nằm mộng, cái có thể hiện ra giấc mộng là tâm, mọi người đều biết: Tâm có thể tạo ra giấc mộng, tâm là Không, chẳng có tướng, nhưng khi nằm mộng, nó có thể hiện ra tướng. Khi hiện tướng, chúng ta ví von nó là Bất Không Như Lai Tạng. Tuy hiện tướng, tướng ấy chẳng thể được; nhưng trong khi nằm mộng, quý vị chẳng biết, mê rồi. Quý vị vẫn cho là thật sự có cái để đạt được, đến khi tỉnh giấc mới hoảng nhiên đại ngộ, vốn là chẳng thể được! Chúng ta sống trong thế gian này mấy chục mùa nóng lạnh, chẳng qua là nằm mộng dài hơn một chút mà thôi. Nằm ngủ trên giường, giấc mộng ngắn ngủi, còn nay [thì cuộc sống trên thế gian là] giấc mộng dài hơn một chút mà thôi, đều trọn chẳng thể được! Vì thế, đức Phật bảo chúng ta: “Muôn thứ không đem được, chỉ có nghiệp theo thân”. Tạo nghiệp mà! Hiểu rõ đạo lý này, cớ gì cứ phải tạo nghiệp?

Như vậy,  tu hành là tu gì?  Học Phật chẳng khó!  Học Phật dễ hơn học bất cứ thứ gì khác, chẳng khó! Quý vị nhất định phải nắm chắc cương lãnh. Học Phật là học chẳng mê, sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, ta chẳng mê, giác chứ không mê. Giác là gì? Ta hiểu hết thảy vạn pháp đều chẳng thể được. Đó là giác. Hiểu là “chẳng thể được”, quý vị bèn tùy duyên, bèn tự tại. Vì sao? Ý niệm được – mất không còn! Quý vị hãy suy nghĩ cặn kẽ: Vô lượng vô biên phiền não đều từ được – mất mà có! Lo được, lo mất, chẳng có lúc nào không nghĩ đủ mọi phương pháp để mong đạt được. Đã đạt được rồi lại sợ mất đi, khổ lắm! Phiền não đều từ đấy mà ra. Nếu một cá nhân không có tâm được – mất, người ấy thật sự tự tại. Vì sao người ấy không có tâm được – mất? Thấy thấu suốt rồi, thấy chân tướng rõ ràng; trong hết thảy pháp, quả thật chẳng có được hay mất. Có người hỏi: “Nếu tôi hằng ngày chẳng dốc hết tánh mạng truy cầu, làm sao tôi sống được?” Quý vị chẳng cầu vẫn sống được. Truy cầu sẽ sống, mà không truy cầu vẫn sống. Quý vị không tin, chẳng cầu, thử xem có phải là vẫn sống mỗi ngày y hệt như vậy hay không? Đó là định luật nhân quả. Trong mạng quý vị đã có, “mạng trung hữu thời chung tu hữu” (lúc trong mạng đã có, rốt cuộc sẽ phải có), “mạng lý vô thời mạc cưỡng cầu” (lúc trong mạng chẳng có, đừng cưỡng cầu). Cầu chẳng được! Sách Liễu Phàm Tứ Huấn nói thật thấu triệt, rõ ràng dường ấy! Do vậy, người học Phật trước hết phải nghiêm túc đọc Liễu Phàm Tứ Huấn một lượt, sau đấy mới làm người thật sự tâm bình khí hòa, thật sự có thể tùy duyên, chứ không phan duyên; như vậy thì  mới có thể đạt được đôi chút tự tại. Vì thế, tu hành là tu chẳng mê.

Tam Quy Y nhằm trao cho chúng ta ba cương lãnh lớn: “Giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm”, tức là tu Giác – Chánh – Tịnh, tu những điều này, đó là ba đại cương lãnh. Trong xử sự, đãi người, tiếp vật, chúng ta dụng công tu hành ở chỗ này. Phật tách rời chúng sanh, sẽ chẳng thể thành Phật. Chúng ta muốn học Phật, tách rời chúng sanh, sẽ học chẳng thành, đến đâu để học? Phật do ứng với chúng sanh mà có, chúng ta tu hành cũng nên vì chúng sanh mà tu. Không có chúng sanh, chúng ta đến đâu để tu? Không có chỗ nào để tu cả! Hữu tình chúng sanh chia làm hai loại lớn: Thiện nhân và ác nhân. Hết thảy cảnh giới cũng chia thành hai loại lớn: Thuận cảnh và nghịch cảnh, tức là hoàn cảnh tốt và hoàn cảnh xấu. Tu điều gì trong hai loại này? Tu cái tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi của chính mình, đó gọi là Bồ Đề tâm. Vì thế, Bồ Đề tâm cũng chẳng thể tách rời chúng sanh, chẳng thể tách rời xã hội! Tách rời chúng sanh và xã hội, Bồ Đề tâm sanh từ chỗ nào? Chẳng sanh ra được! Vì thế, hàng Tiểu Thừa không có Bồ Đề tâm. Quý vị thấy hết thảy các kinh đều nói người Tiểu Thừa không có Bồ Đề tâm, vì sao? Vì hàng Tiểu Thừa thoát ly nhân quần, xã hội, họ tìm một nơi không có dấu chân người để yên vui cho riêng mình. Do vậy, họ thiếu Bồ Đề tâm. Chỉ có Đại Thừa Bồ Tát mới có Bồ Đề tâm. Chúng ta tu điều gì? Quý vị phải biết: Tu điều này! Đây là nói về các pháp môn theo đường lối thông thường; chỉ cần là Phật pháp, bất luận pháp môn nào đều phải tu thanh tịnh, bình đẳng, từ bi trong hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau). Người niệm Phật còn có một điều đặc biệt nữa, đấy là Tín – Nguyện – Hạnh. Ta tu Tín – Nguyện – Hạnh cũng chẳng thể tách rời nhân quần, chẳng thể tách khỏi xã hội. Càng tuyệt diệu hơn là người ấy dùng một câu A Di Đà Phật để tu Giác – Chánh – Tịnh, để tu Bồ Đề tâm, để tu Tín – Nguyện – Hạnh, mầu nhiệm chẳng thể diễn nói được! Quý vị chỉ cần nắm được cương lãnh, sẽ biết cách tu ra sao. Như vậy thì mới có thể thật sự thành công.

“Bất giáo chi giáo” là cách dạy học ở mức độ cao nhất. Những người như Văn Thù Bồ Tát lễ thỉnh cư sĩ Duy Ma thăng tòa thuyết pháp. Cư sĩ Duy Ma thăng tòa, thăng tòa xong, bèn như thế nào? Một câu cũng chẳng nói! Văn Thù Bồ Tát liền gõ kiền chùy, bảo mọi người: “Đúng là pháp môn Bất Nhị”. Thỉnh cư sĩ Duy Ma giảng pháp môn Bất Nhị là như thế nào? Cư sĩ Duy Ma thăng tòa chẳng nói câu nào, đó là pháp môn Bất Nhị chân chánh. Có thể nói sẽ là hai, mở miệng bèn thành hai, ba! Pháp môn Bất Nhị chẳng nói một câu nào! Văn Thù Bồ Tát lập tức hiểu rõ, đó là “bất giáo chi giáo”, là cách giáo học ở mức độ cao nhất. Nhưng cách giáo học ở mức cao nhất đòi hỏi căn tánh của học sinh là tối cao mới hòng thụ dụng, phải như Văn Thù Bồ Tát mới nghe hiểu. Nếu cư sĩ Duy Ma nói với chúng ta như vậy, chúng ta bỏ chạy: “Chúng tôi thỉnh ông thuyết pháp; ông thăng tòa chẳng nói câu nào, ai trong chúng tôi dám đến nghe ông [giảng nữa]!” Đủ thấy: Nếu cư sĩ Duy Ma gặp chúng ta, Ngài nhất định giảng nói cặn kẽ, chi tiết. Nếu không, chúng ta đều bỏ chạy. Gặp Văn Thù Bồ Tát là người như thế đó, Ngài có thể chẳng cần nói câu nào. Do vậy, thuyết pháp phải phù hợp căn cơ, phải đúng với căn cơ. Trong kinh Kim Cang, chúng ta cũng thấy chuyện như vậy: Kinh Kim Cang vừa mở đầu, Thích Ca Mâu Ni Phật đến khất thực tại đại thành Xá Vệ, trở về, ăn cơm xong, rửa chân, trải tòa ngồi, cũng chẳng nói một câu nào. Tôn giả Tu Bồ Đề (Subhūti) lãnh hội, Ngài vừa thấy động tác của Thích Ca Mâu Ni Phật liền khai ngộ. Do vậy, tán thán: “Hy hữu Thế Tôn!” Đấy cũng là gì vậy? “Bất giáo chi giáo”. Vì thế, kinh dạy: “Pháp tánh bổn không tịch, vô thủ, diệc vô kiến, tánh Không tức thị Phật, bất khả đắc tư lượng” (Pháp tánh vốn không tịch, không lấy, cũng chẳng thấy. Tánh Không chính là Phật, chẳng thể nghĩ lường được). Chẳng thể nghĩ lường, chẳng thể nghĩ bàn!

“Sở vị tôn giả vô thuyết, ngã nãi vô văn” (Đó là nói: “Tôn giả chẳng nói, tôi bèn chẳng nghe”). Đây là một câu chuyện về tôn giả Tu Bồ Đề. Tôn giả Tu Bồ Đề có một hôm ngồi tịnh tọa trên tảng đá; khi ấy, nhằm lúc Đế Thích thiên vương (người Trung Quốc gọi vị này là Ngọc Hoàng Đại Đế) đi qua, thấy tôn giả bèn hết sức hoan hỷ, rất cung kính rải hoa cúng dường. Khi rải hoa, cúng dường, tôn giả Tu Bồ Đề trông thấy bèn hỏi: “Người rải hoa là ai?” Đế Thích đáp: “Tôi là Đế Thích thiên vương (Đao Lợi thiên chúa)”. Tôn giả Tu Bồ Đề bèn hỏi ông ta: “Tôi ngồi ở nơi đây, vì sao phải rải hoa cúng dường?” Đế Thích thiên vương thưa: “Tôn giả khéo nói Bát Nhã”. Tu Bồ Đề nói: “Ta ngồi đây nửa ngày, một câu cũng chưa nói”. Trời Đế Thích đáp: “Tôn giả không nói, con bèn không nghe”. Đó là thật sự nói Bát Nhã. Đây cũng là “bất giáo chi giáo”. Do điều này biết Đế Thích thiên vương cũng chẳng phải là kẻ tầm thường, ông ta có thể thấu hiểu nghĩa thú của pháp môn Bất Nhị, đó là Phật pháp cao nhất trong Phật pháp mà Đao Lợi thiên chúa cảm nhận được. Vì thế, ông ta tán thán tôn giả thật sự nói Bát Nhã.

Những điều này đều là “thuyết thính giai vô, duy Thức nhi dĩ” (nói và nghe đều không, chỉ là Thức mà thôi). Chẳng nói, chẳng nghe là thật sự nói, thật sự nghe. “Thị dĩ Thức vi giáo thể” (do vậy, dùng Thức làm giáo thể), nói đến Phật pháp tối cao, hoàn toàn là do quý vị thể hội, hiểu tâm rồi giác ngộ, thuần túy do Duy Thức khởi tác dụng.

 

(Sớ) Kim thử kinh giả.

() 今此經者。

(Sớ: Nay kinh này).

“Kinh này” là A Di Đà Kinh.

 

(Sớ) Thả ước Chung Đốn nhị giáo.

() 且約終頓二教。

(Sớ: Lại thuộc vào Chung Giáo và Đốn Giáo).

Phần trên đã nói tới Tứ Giáo, kinh này thuộc về giáo nào? Thuộc vào hai loại sau. Nói cách khác, thuộc vào mức độ cao, chẳng phải là tầm thường, mà thuộc vào Chung Giáo, tức Đại Thừa Chung Giáo, và thuộc vào Đại Thừa Đốn Giáo. Ở đây, Liên Trì đại sư nói giáo này là Đốn Giáo; trong bộ Thông Tán Sớ, Khuy Cơ đại sư cũng nói giáo này là Đốn Giáo. Đủ thấy giáo nghĩa Chung Đốn [trong kinh này] đã được các vị đại đức từ xưa đến nay công nhận. Nếu thật sự đúng lý, đúng pháp tu học pháp môn này, sẽ có thể thành công trong bảy ngày; nhưng quý vị phải nhớ: “Đúng lý, đúng pháp”, tôi nói rất rõ ràng, rất minh bạch lời này! Nếu quý vị không hiểu rõ, cứ liều mạng thực hiện, niệm suốt bảy ngày, cũng có thể là niệm Phật bảy ngày xong, niệm suốt bảy ngày bảy đêm, chẳng thể vãng sanh, mà ở luôn trong bệnh viện thần kinh. Phiền phức lớn lắm, tẩu hỏa nhập ma rồi! Vì sao biến thành nông nỗi ấy? Kẻ ấy chẳng đúng pháp, nóng vội quá mức!

Người ta niệm Phật là tâm bình khí hòa mà niệm, chẳng có hết thảy dục niệm mà niệm, niệm như thế thì mới hòng thành công. Quý vị có dục vọng, có ý niệm, quý vị niệm như thế, rất dễ bị ma dựa! Do quý vị có hy vọng trong ấy, ma bèn ban cho quý vị một niềm hy vọng. Nói cách khác, quý vị đã đưa chuôi cho người ta nắm, “tôi hy vọng gì cũng không có”, ma đối với quý vị chẳng có cách nào cả! Ví dụ như: “Ngươi muốn có tiền”. [Ma bèn tự nhủ]: “Ta có rất nhiều tiền bèn dụ dỗ, mê hoặc hắn, hắn sẽ mắc lừa. Ngươi muốn có danh, ta ban cho ngươi danh nghĩa rồi sẽ khống chế ngươi”. Quý vị chẳng có mong mỏi gì, hắn sẽ chẳng có một tí biện pháp nào để thao túng quý vị, chẳng biết làm sao! Do vậy, người niệm Phật tâm phải thanh tịnh, thật sự niệm Phật chẳng cầu vãng sanh, chẳng cầu nhất tâm bất loạn, chẳng cầu công phu thành phiến, thứ gì cũng chẳng cầu, ta cứ một câu A Di Đà Phật niệm đến tột cùng. Niệm mấy ngày, tự nhiên đắc nhất tâm, tự nhiên thấy Phật vãng sanh. Đó là tự nhiên, nước chảy mãi thành suối. Quý vị phải hiểu đạo lý này!

Vì thế, người niệm Phật điều gì cũng đừng nên cầu, hễ cầu bèn có vọng niệm. Nếu còn có cái tâm mong cầu hiếu thắng, càng dễ bị ma dựa. Đó là đã kết duyên với ma. Cái tâm hiếu thắng [mong tưởng] bữa nay ta thành công, ta phải hơn người khác, không được rồi! Tây Phương Cực Lạc thế giới đâu có kẻ hiếu thắng, vàn muôn phần chớ có cái tâm ấy. Vì thế, trong khi đả Phật Thất mà có lòng hiếu thắng, quý vị lạy một ngàn lạy, tôi lạy một ngàn hai trăm lạy, tôi giỏi hơn quý vị, quý vị không bằng tôi, tâm hạnh ấy là tâm hạnh gì? Quý vị mỗi ngày niệm Phật một vạn tiếng, tôi niệm hai vạn tiếng, ganh đua! Phải giành vị trí thứ nhất, ý niệm ấy sai bét! Vì thế, ý niệm ấy chỉ chuốc lấy ma dựa, chẳng thể đạt kết quả tốt. Do vậy, niệm Phật nhất định phải tâm bình khí hòa, chuyện gì cũng đều chẳng cầu!

Niệm một câu Phật hiệu đương nhiên là vì nhất tâm bất loạn, là vì vãng sanh Tịnh Độ. Vì thế, chẳng cần phải khởi tâm động niệm, chỉ cần niệm tốt đẹp một câu Phật hiệu, như thường nói: Không gián đoạn, chẳng xen tạp, không hoài nghi. Bảy ngày niệm chưa thành công, thì lại thêm bảy ngày nữa. Thời gian dài lâu chẳng sao hết! Đó là gì? Nghiệp chướng nặng nề. Chúng ta thấy nhiều người, đại đa số là niệm ba năm thành công, chúng ta nghĩ mình cũng nghiệp chướng sâu nặng, chắc là cũng phải ba năm. Chẳng đòi hỏi ba ngày hay bảy ngày thành tựu. Điều đó rất nguy hiểm, đâu phải là trò đùa!

 

(Sớ) Tắc chúng sanh tâm nhạo xuất ly, tự ư tâm trung, kiến Phật vị thuyết Cực Lạc y chánh, tín nguyện vãng sanh.

()則眾生心樂出離,自於心中見佛為說極樂依正,信願往生。

(Sớ: Tức là chúng sanh trong tâm ưa thích xuất ly, trong tự tâm thấy Phật vì mình mà nói y báo và chánh báo cõi Cực Lạc, tín nguyện vãng sanh).

Đây là nói về bộ kinh này. “Chúng sanh tâm nhạo”, “nhạo” (樂) là ưa thích. Trong tâm ưa thích xuất ly biển khổ sanh tử, đương nhiên là đối với người đã giác ngộ, chứ vẫn có rất nhiều người mê trong thế gian này, vẫn chẳng mong tách khỏi, chẳng mong thoát lìa, đó là mê. Người giác ngộ muốn ly khai thế gian này, nhất là trong thế gian hiện thời, đúng là thiên hạ đại loạn. Chẳng kiếm được một chỗ nào yên ổn trong thế giới này. Thiên hạ đại loạn, chẳng đáng để lưu luyến. Người thật sự giác ngộ, ai chẳng mong xuất ly? Quý vị chỉ cần khởi lên cái tâm ấy, động ý niệm ấy, Phật sẽ có cảm ứng. Do vậy, nói “tự ư tâm trung kiến Phật” (tự thấy Phật trong tâm) thuyết pháp, giảng về y báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc, tín nguyện vãng sanh. Phật giảng cho chúng ta. Bởi thế, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian này là vì thuở ấy, những chúng sanh có tâm cầu xuất ly rất khẩn thiết, cảm động Phật xuất hiện, ứng hóa trong thế gian này, chính là vì chúng sanh có cảm, Phật bèn ứng.

Lại thưa với quý vị, người Trung Quốc thấy thấu suốt thế gian này đông đảo, người cầu xuất ly đông đảo. Vì thế, có rất nhiều vị Phật và Bồ Tát ứng hóa tại Trung Quốc, từ lịch sử chúng ta có thể thấy được điều này. Phật pháp tại Tây Tạng tuy rất hưng thịnh, vẫn chẳng bằng Trung Quốc, vì sao? Người Tây Tạng không mong xuất ly, họ muốn chuyển thế. Tâm lượng người Trung Quốc rất lớn, mười phương chư Phật, Bồ Tát đều ứng hóa hoằng pháp lợi sanh, chẳng cần chuyển thế. Nói thật ra, sức ô nhiễm của ngũ dục, lục trần trong thế gian này rất to, cho nên có khi chuyển thế đời sau chẳng bằng đời trước! Do thật sự mong xuất ly, nên tại Trung Quốc, pháp môn Tịnh Độ thịnh hành nhất. Kể từ đời Đông Tấn, Huệ Viễn đại sư kiến lập liên xã đầu tiên, phong khí niệm Phật tại Trung Quốc vô cùng phổ biến, chiếu theo pháp môn này để xuất ly sanh tử, xuất ly luân hồi, chẳng biết có bao nhiêu người! Thiền rất khó xuất ly. Lão pháp sư Đàm Hư nói: “Thiền thật sự có thành tựu là đắc Thiền Định; trong tương lai người ấy cũng chẳng qua là sanh lên trời Tứ Thiền mà thôi, tùy thuộc công phu của người ấy sâu hay cạn, [mà sanh vào] Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, hay Tứ Thiền, vẫn là ở trong tam giới, chẳng thể vượt thoát! Thật sự vượt thoát, chỉ có con đường niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ!”

 

(Sớ) Nhi thật vô thuyết, vô thính, cố Thức vi giáo thể.

() 而實無說無聽,故識為教體。

(Sớ: Nhưng thật ra không có kẻ nói, chẳng có người nghe, nên Thức là giáo thể).

Đoạn này cũng là nói “duy Ảnh vô Bổn”, nói “thật vô thuyết vô thính”, câu này là ảnh “phi Ảnh, phi Bổn”, đủ thấy giáo nghĩa quả thật chẳng tách rời hai câu này. Văn nghĩa của kinh này là “duy thức sở biến”; vì thế, trong lời kết luận mới nói “Thức vi giáo thể” (Thức là giáo thể), toàn là duy thức sở biến (chỉ do thức biến). Chỉ do thức của ai biến? Chỉ do thức của chính quý vị biến. Vì thế, đoạn này có ý nghĩa hết sức trọng yếu, quý vị có duyên, đó là quý vị có đại phước báo. Vì chỉ do thức của chính mình biến, lẽ nào bản thân ta chẳng có phần nơi Tây Phương Tịnh Độ? Nếu quý vị nói chỉ do thức của A Di Đà Phật biến ra, chúng ta chẳng có phần, tín tâm vẫn thật sự khó sanh khởi. Nay bảo rõ ràng cùng quý vị: Tây Phương Tịnh Độ A Di Đà Phật chỉ do thức của chính mình biến. Do điều này có thể biết: Tây Phương Cực Lạc thế giới và chính mình có mối quan hệ mật thiết như thế nào. Nói cách khác, Tây Phương Cực Lạc thế giới vốn là nhà của chính mình, đúng là quê hương của chính mình. Nay ta quay về nhà, còn có khó khăn gì nữa ư? Còn có chướng ngại gì nữa ư? Không có! A Di Đà Phật là người thân thiết nhất của mình, do chính mình biến hiện, chỉ do thức biến, lẽ nào ta chẳng thấy Ngài? Quả thật đã tăng trưởng tín tâm cho chúng ta, chúng ta cũng hiểu rõ đạo lý và căn cứ lý luận của bộ kinh này. Đây là nói đến kinh thể (bản thể của bộ kinh), duy thức là giáo thể.

 

Tam, quy Tánh.

三、歸性

(Ba, gom về tánh).

Đoạn thứ ba giảng về “quy Tánh”; phần trên là những điều được nói theo Tướng Tông, đoạn này luận theo Tánh Tông.

 

(Huyền Nghĩa) Quy Tánh giả, tiền dĩ sở biến chi vạn cảnh, nhiếp quy năng biến chi bát thức.

(玄義) 歸性者,前以所變之萬境,攝歸能變之八識。

(Huyền Nghĩa: Quy Tánh là trong phần trước, đã đem muôn cảnh được biến gom về tám thức là chủ thể có khả năng biến hóa).

Mấy câu này nhằm giải thích đoạn trên.

 

(Huyền Nghĩa) Kim dĩ sở hiện chi bát thức, phục nhiếp quy năng hiện chi nhất tâm, tắc Tánh vi giáo thể.

(玄義) 今以所現之八識 復攝歸能現之一心 則性為教體。

(Huyền Nghĩa: Trong phần này, lại nhiếp tám thức đã được hiện ấy về nhất tâm là cái có thể hiện thì Tánh là giáo thể).

Ý nghĩa này lại càng sâu hơn phần trước, hết sức chân thật so với ý nghĩa trong phần trước, càng nói càng thân mật hơn! Thức do Tánh biến ra, Tánh là Thể, Thức là Dụng. Nay nói đến bản thể của cái Thức có thể biến (Năng Biến Thức), tức là nói đến Quy Tánh (trở về Tánh). Tánh là Chân Như bổn tánh. Đối với Chân Như bổn tánh, kinh luận thường nói: Một niệm vô minh khiến tự tánh bị mê. Tự tánh đã bị mê thì tác dụng do nó khởi lên sẽ được gọi là “tám thức”. Vì thế, tám thức và tự tánh là một, không hai. Khi mê thì gọi là tám thức, khi ngộ thì gọi là tự tánh, thay đổi danh xưng mà thôi! Trên thực tế là cùng một chuyện, chẳng phải là hai chuyện, mà là mê hay ngộ khác nhau. “Thức vi giáo thể” (Thức là giáo thể), đây là nói trên vị trí mê. “Tánh vi giáo thể” (Tánh là giáo thể), đây là nói trên vị trí ngộ, nói theo giác ngộ. Vì thế, giác ngộ đương nhiên chân thật hơn mê. Hiện thời, giống như chúng ta truy tìm đầu mối, tìm đến tận căn cội, từ tám thức truy ngược lại từng bước, mới phát hiện nó vốn là Chân Như bổn tánh, đó gọi là “phản vọng quy chân” (bỏ vọng, quay về chân).

Tám thức là cái tâm sanh diệt. Kinh thường nói: Bất sanh bất diệt và sanh diệt hòa hợp, chẳng một, chẳng khác. Đó gọi là A Lại Da Thức. Trong quá khứ, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm đã tốn rất nhiều thời gian để nói rõ chân tướng sự thật này: Bất sanh bất diệt là Tánh, là chân tánh. Quý vị giác ngộ thì bất sanh bất diệt, nếu mê thì có sanh diệt. Đang ở trong mê nên mới sanh ra tướng sanh diệt. Quý vị giác ngộ rồi sẽ là bất sanh bất diệt. Bất sanh bất diệt là thật, sanh diệt là giả, sanh diệt là huyễn tướng, chẳng chân thật. Chân thật là bất sanh bất diệt. A Lại Da Thức là chân vọng hòa hợp; nói cách khác, nó nửa chân, nửa vọng, trọn chẳng phải là cái tâm một nửa mê, một nửa ngộ, chẳng phải vậy. Tuy nó đang mê, nhưng trong ấy có chân tánh chẳng mê, mang ý nghĩa này. Vì sao quý vị có thể khai ngộ? Vì trong A Lại Da Thức thật sự có chân tánh chẳng mê. Quý vị tương ứng với tánh sẽ chẳng mê, tương ứng với thức bèn mê, đạo lý là như vậy đó! Nay chúng ta nói là lý trí và cảm tình. Quý vị tương ứng với Lý Trí bèn chẳng mê, tương ứng với cảm tình bèn mê, chuyện là như vậy đó! Lý trí là bất sanh bất diệt, cảm tình là sanh diệt, A Lại Da Thức có tình hình như thế đấy.

Do vậy, A Lại Da Thức có hai ý nghĩa giác và bất giác. Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát nói rất cặn kẽ. Nay chúng tôi cần phải nói tới ý nghĩa bất giác trong hai nghĩa giác và bất giác ấy. Do vì bất giác, bất giác gọi là vô minh “vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng lục thô”, biến thành tám thức. Từ tám thức lại phát triển thành thế giới hiện tại của chúng ta, Phật pháp nói như vậy. Cách nói này của Phật pháp rất gần gũi kinh Dịch của Trung Quốc. Kinh Dịch giảng về căn nguyên của vũ trụ và nhân sinh, dùng Bát Quái để giảng: “Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái, Bát Quái sanh vạn vật”. “Sanh” chính là biến, tức biến hiện ra. Kinh Dịch là học thuật cổ xưa của Trung Quốc, khi ấy Phật pháp chưa truyền đến Trung Hoa, tổ tiên người Hoa đã hiểu được quá trình phát triển của vũ vụ và nhân sinh. Phật pháp giảng “vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng lục thô”. Vũ trụ và nhân sinh phát triển như thế, cũng nói đến Biến, biến hiện ra, nó có tầng lớp, có trình tự, rạch ròi, chẳng rối rắm. Vì thế, các tinh cầu trong vũ trụ vận hành đều có quy củ, chẳng rối loạn vì chúng được biến hiện có trình tự. Trong thế gian, có những kẻ chẳng hiểu đạo lý này, cho rằng vũ trụ có trật tự như thế, nhất định phải có thần làm chủ tể; thật ra, không phải vậy! Nó phát triển có trật tự, có trình tự, chẳng loạn. Kinh Dịch nói rất gần với những điều đã giảng trong Phật pháp.

Tiếp theo đây là một điều quan trọng, nói đến chủ đề trong khoa này là “phục nhiếp quy năng hiện chi nhất tâm” (lại gom về nhất tâm có thể hiện). Nhất tâm là chân tâm, bổn tánh của chúng ta. Pháp môn Niệm Phật này trực tiếp khôi phục chân tâm, bổn tánh của chúng ta, Thiền gia thường nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Do đây có thể biết: Quý vị niệm Phật đến nhất tâm sẽ thành Phật, đấy là Phật thật, chẳng giả. Trong nhất tâm có Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Niệm đến thành Phật là Lý nhất tâm, tông Thiên Thai gọi đó là Phần Chứng Tức Phật, vị Phật ấy là thật, chẳng giả, hoàn toàn có cùng một cảnh giới với “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” của nhà Thiền. Do Lý nhất tâm bất loạn là kiến tánh, phá một phẩm vô minh, thấy một phần bổn tánh, đó là Phật thật sự. Nếu là Sự nhất tâm thì tông Thiên Thai gọi là Tương Tự Tức Phật, chẳng thật, mà thuộc địa vị tương tự, chẳng phải là địa vị chân thật. Tông Thiên Thai gọi công phu thành phiến là Quán Hạnh Tức Phật. Do vậy, dùng phương pháp này niệm đến nhất tâm bất loạn sẽ thành Phật, chẳng cần phải dùng phương pháp khác, đơn giản và dễ dàng hơn bất cứ pháp nào mà cũng ổn thỏa, thích đáng hơn bất cứ pháp môn nào! Vì thế, người thật sự niệm Phật dạy người khác chẳng cần phải đi đường vòng, mà dạy người ta niệm một câu A Di Đà Phật là được rồi, đem chỗ hay đẹp của niệm Phật dạy cho người ta, có thể giảng bao nhiêu bèn giảng bấy nhiêu. Nói chung, khuyên người khác niệm Phật. Trong tất cả các pháp môn của Phật pháp, đây là pháp rốt ráo nhất, pháp chân thật, là phương pháp quyết định có thể trông cậy trong một đời, nhất định thành tựu. Chúng ta phải đem pháp môn này giới thiệu với người khác, đừng đi đường vòng, đừng lãng phí thời gian. Nếu người ấy tin tưởng, hướng dẫn người ấy niệm Phật là tốt rồi.

Trong kinh luận, đức Phật thường dạy chúng ta: Tâm có thể nhiếp hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian; kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (nên quán tánh pháp giới, hết thảy do tâm tạo). Tâm ấy chính là nhất tâm đang nói đến ở đây, vì thế, nói: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Cái có thể hiện vạn pháp và y báo, chánh báo trang nghiêm trong vũ trụ chính là chân tâm, bổn tánh của chúng ta. Cảnh giới được hiện, tức y báo và chánh báo trang nghiêm, biến thành mười pháp giới, đó là do Thức biến. Nếu chỉ có Tánh mà không có Thức, quý vị sẽ chẳng mê. Nói cách khác, không có mười pháp giới! Mười pháp giới do Thức biến. Ta chỉ có Tánh, Tánh có thể hiện, hiện ra pháp giới, pháp giới ấy là pháp giới nào vậy? Kinh Hoa Nghiêm gọi nó là Nhất Chân pháp giới. Cái tâm có thể hiện là thật, pháp giới được hiện cũng là thật, Nhất Chân pháp giới, chẳng có mười pháp giới. Vì vậy, đức Phật nói: “Duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam” (Chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, cũng chẳng ba). Hai hay ba là do đức Phật nói phương tiện, còn ở đây là nói thật! Làm thế nào để chứng đắc Nhất Chân pháp giới? Nhất tâm! Nhất tâm có thể nhập, Nhất Chân là sở nhập. Năng và Sở bất nhị, Tánh Tướng hệt như một, đây chính là Phật pháp giới thật sự. Vì thế, Thể của chân tâm là “vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần” như Lục Tổ đại sư đã nói, hai câu này hình dung chân tâm.

Kinh luận nói trong nhất tâm cũng có hai môn là Chân Như và sanh diệt. Hai môn này là nói theo Thể và Dụng. Bản thể của nhất tâm bất sanh bất diệt, đó là Chân Như môn. Thể có thể hiện tướng, tướng được hiện bởi nó sẽ có sanh diệt. Tướng sanh diệt trong từng sát-na, đó là Thật Tướng, là chân tướng. Nói sát-na thì vẫn chưa khít khao với sự thật cho lắm! Trong kinh, đức Phật đã dạy: Một khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, tức là một phần sáu mươi của khảy ngón tay là một sát-na. Trong một sát-na, có chín trăm lần sanh diệt. Vì thế, tướng là huyễn tướng. Có là Diệu Hữu, Không là Chân Không. “Nhất tâm” là nói tới bổn tánh, là Chân Không; nó có thể hiện tướng, nên gọi là Diệu Hữu. Thời gian hiện những tướng ấy hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, tướng mà chúng ta thấy chính là một tướng “tương tục” (tiếp nối, liên tục). Tướng trước diệt mất, tướng sau lại sanh, nhưng tướng trước và tướng sau rất giống nhau, quý vị chẳng thể nhận ra chúng là hai tướng!

Giống như chúng ta xem phim, ống kính của máy chiếu phim đóng mở. Đó là sanh diệt, đóng lại bèn diệt, mở ra là sanh. Đấy là sanh diệt. Trong một giây, đóng mở hai mươi bốn lần, nói cách khác là hai mươi bốn lần sanh diệt. Chúng ta thấy [hình ảnh trên] màn bạc dường như là thật. Hiện thời, trong thực tế, tướng trước mắt chúng ta nếu dùng tỷ dụ trong nhà Phật để nói thì một khảy ngón tay, trong một giây có thể khảy ngón tay bốn lần, bốn nhân với sáu mươi [sát-na] rồi nhân với chín trăm [lần sanh diệt] thì trong một giây có hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần sanh diệt. Một giây sanh diệt hai mươi bốn lần mà chúng ta đã bị gạt, ngỡ phim ảnh là thật, nay một giây có đến hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần [sanh diệt], làm sao chúng ta nhận biết được? Không nhận ra.

Vì thế, chúng ta thấy hết thảy vạn tướng, nhưng thật sự chẳng thấy chân tướng. Nếu quý vị thấy chân tướng, vọng niệm gì cũng chẳng còn. Chân tướng vốn là như thế! Đấy là như Tâm Kinh đã dạy: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Sắc chính là Không, Không chính là Sắc”. Vọng niệm gì cũng chẳng có, vì sao? Quý vị thấy chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, kinh Kim Cang gọi chân tướng ấy là “Thật Tướng của các pháp”. Vì thế, kinh Kim Cang giải thích hai chữ Như Lai rất hay, tuyệt diệu: “Như Lai giả, chư pháp như nghĩa” (Như Lai là nghĩa Như của các pháp). Nghĩa Như của các pháp phải giảng như thế nào? Tâm Kinh nói “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc; Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc”. Bốn câu này là lời chú giải hay nhất của “nghĩa Như của các pháp”, chú giải hết sức viên mãn!

Quý vị thật sự hiểu cảnh giới này thì gọi là đại triệt đại ngộ, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều có thể buông xuống, tâm địa thật sự thanh tịnh. Vì sao? Triệt để hiểu rõ hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng có một pháp nào để được. Không có một pháp nào để được, quý vị còn có điều gì trong thế gian này để cầu nữa? Không có! Chẳng cầu! Quý vị cũng chẳng có dục vọng thì thứ gì cũng đều chẳng có! Đấy là vị Phật rốt ráo viên mãn, là đại triệt đại ngộ thật sự. Đây là nói tới cái tâm Năng Hiện, “tắc Tánh vi giáo thể” (thì Tánh là giáo thể), càng chân thật viên mãn hơn phần trước.

 

(Sớ) Nhất tâm giả, tức Chân Như tự thể dã.

() 一心者,即真如自體也。

(Sớ: Nhất tâm là tự thể của Chân Như).

Câu này nói hết sức minh bạch, hết sức rõ ràng!

 

(Sớ) Tùng thử Chân Như, lưu xuất giáo pháp, cố hội Tướng quy Tánh.

() 從此真如,流出教法,故會相歸性。

(Sớ: Giáo pháp lưu xuất từ Chân Như này, nên gom Tướng về Tánh).

Câu này có nghĩa là từ Chân Như sanh khởi  Căn  Bản  Trí, cái gọi là Căn Bản Trí chính là Vô Phân Biệt Trí. Quý vị phải hiểu, đây là bản năng (năng lực sẵn có) của Chân Như bổn tánh, Căn Bản Trí ở nơi đâu? Ngay trong hiện tại. Chúng ta mắt có thể thấy, tai có thể nghe, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể nếm, đó là bổn tánh, là Căn Bản Trí. Đấy là lúc với ý niệm thứ nhất, chúng ta thấy, mở banh mắt thấy rất rõ ràng, trong ý niệm thứ nhất, chúng ta thấy cảnh giới bên ngoài, còn chưa khởi tâm động niệm, chẳng có phân biệt, chấp trước, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, thấy rất rõ ràng, đó là Căn Bản Trí. Nhưng tới niệm thứ hai lại mê, niệm thứ hai khởi lên phân biệt, Căn Bản Trí chẳng còn nữa. Niệm thứ hai có phân biệt, chấp trước; vì thế, niệm thứ hai biến thành Thức. Niệm thứ nhất là Tánh, là thấy Sắc bằng tánh Thấy, nghe tiếng bằng tánh Nghe. Niệm thứ hai rớt vào tám thức, tánh Thấy biến thành Nhãn Thức, tánh Nghe biến thành Nhĩ Thức, lại phân biệt mất rồi! Đây là thêm thức thứ sáu vào, rồi bèn chấp trước, thức thứ bảy cũng được thêm vào! Thế là phiền phức rồi, hỏng bét rồi!

Phật, Bồ Tát và chúng ta có gì khác nhau? Thưa quý vị, chỗ khác nhau là chỗ này! Các Ngài có thể vĩnh viễn giữ được niệm thứ nhất, chẳng rớt vào niệm thứ hai, cao minh ở chỗ này, cho nên, các Ngài minh tâm kiến tánh. Nói cách khác, Phật, Bồ Tát thấy sắc, nghe tiếng chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng ghi lại ấn tượng, bản lãnh của các Ngài ở chỗ này. Chúng ta học theo, làm được thì gọi là Phật, Bồ Tát, chẳng gọi là phàm phu. Chúng sanh mê hoặc, điên đảo, Phật, Bồ Tát giúp chúng ta phá mê khai ngộ, nói các thứ pháp, đó gọi là “từ Căn Bản Trí lưu xuất Hậu Đắc Trí”. Không có Căn Bản Trí, làm sao có Hậu Đắc Trí? Chúng ta tuy có Căn Bản Trí, nhưng ý niệm thứ hai liền mê, biến thành gì? Từ Căn Bản Trí khởi tác dụng, biến thành Thế Trí Biện Thông, biến thành thứ này! Chư Phật, Bồ Tát có thể khiến cho Căn Bản Trí khởi tác dụng, biến thành Hậu Đắc Trí, từ Hậu Đắc Trí lưu lộ tâm đại bi, từ tâm đại bi lưu lộ hết thảy ngôn giáo, tất cả hết thảy kinh điển. Nay chúng ta truy tìm đến tận nguồn cội, cho nên nói nó từ Chân Như lưu xuất; đó chính là câu nói ở đây: “Tùng Chân Như lưu xuất giáo pháp” (từ Chân Như lưu xuất giáo pháp). Các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm là do từ đâu mà nói ra? Từ trong Căn Bản Trí lưu xuất Hậu Đắc Trí, từ tâm đại từ bi lưu xuất. Vì thế, kinh điển nhà Phật khác với sách vở và học thuyết thế gian. Những sách vở và học thuyết thế gian đều từ phân biệt, tưởng tượng lưu xuất, chẳng lưu lộ từ chân tánh.

Chính vì điều  này, chúng  ta  đọc  kinh  Phật  phải  dùng  gì? Phải dùng cái tâm vô phân biệt để đọc thì mới tương ứng, mới có thể khai trí huệ, mới có thể lãnh hội ý nghĩa trong kinh Phật. Nếu chúng ta dùng sự phân biệt, chấp trước thì nói cách khác, ta đã dùng cách nghĩ, cách nhìn, cách đọc sách vở thế gian để đọc kinh Phật. Thưa quý vị, chắc chắn chẳng thể đọc thông suốt được. Vì sao? Quý vị đã biến Phật pháp thành pháp thế gian, đã biến Căn Bản Trí của Phật thành Thế Trí Biện Thông của thế gian, cũng có nghĩa là Phật pháp đã bị tám thức của quý vị biến đổi tánh chất. Biến như thế nào? Biến đổi trong tâm của chính quý vị, chứ không phải là biến đổi ở bên ngoài, [mà là trong] tự tâm, đấy chính là nói “vạn pháp duy thức”, chẳng sai một tí nào! Thức tâm của quý vị đã biến pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật thành pháp thế gian, biến thành thông minh, tài trí thế gian, làm sao quý vị thụ dụng nơi Phật pháp cho được? Đấy chính là nguyên nhân khiến cho quý vị chẳng đạt được. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng đến chỗ này.

 

— o0o —

Tập 83

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm ba mươi sáu:

 

(Sớ) Tắc sở vị Trùng Tụng như, Thọ Ký như, thập nhị phần giáo, nhất thiết giai như. Dĩ thượng triển chuyển thôi tầm chân thật chi lý, cực chí ư thử. Thí chi vật bất ly mộng, mộng bất ly nhân. Viên Giác Sớ vân: “Sanh pháp bổn vô, nhất thiết duy thức. Thức như huyễn mộng, đản thị nhất tâm”, tắc dĩ tự tâm vi giáo thể dã.

() 則所謂重頌如 ,授記如 ,十二分教 一切皆如。以上展轉推尋真實之理,極至於此,譬之物不離夢,夢不離人。圓覺疏云:生法本無,一切唯識,識如幻夢,但是一心。則以自心為教體也。

(Sớ: Chính là nói Trùng Tụng là Như, Thọ Ký là Như, mười hai phần giáo, hết thảy đều Như. Lần lượt truy tìm lý chân thật như trên, đạt đến chỗ cùng cực ở nơi đây. Ví như vật chẳng lìa mộng, mộng chẳng lìa người. Viên Giác Sớ viết: “Chúng sanh và pháp vốn không, hết thảy chỉ là Thức, Thức như huyễn mộng, chỉ là nhất tâm”. Tức là lấy tự tâm làm giáo thể).

Đây là nói tới khoa thứ ba trong phần Giáo Thể, tức là “hội quy tự tánh” (gom về tự tánh). Lý này hết sức sâu, rất khó lãnh hội. Khó lãnh hội là vì chúng sanh có phân biệt, chấp trước, nên chẳng dễ gì lãnh hội. Nếu phân biệt, vọng tưởng của chúng ta tạm thời gián đoạn, trong thời gian tạm thời ngưng dứt rất ngắn ấy, cảnh giới này sẽ hiện tiền, giống như ánh chớp. Tuy cảnh giới ấy hiện tiền trong một thời gian ngắn ngủi, đã khiến cho quý vị có tín tâm rất lớn. Vì sao? Quý vị tin tưởng “vạn pháp đều Như” như trong kinh Phật đã dạy, quý vị thấu hiểu ý nghĩa Như này. Nếu có thể thường giữ cho cảnh giới ấy chẳng bị mất đi, đấy chính là nhập cảnh giới của Phật; nhưng phàm phu tập khí, nghiệp chướng sâu nặng, rất khó giữ được cảnh giới này. Do đây có thể biết: Tu học Phật pháp chú trọng nhất tâm bất loạn. Chỉ cần nhất tâm sẽ liền có thụ dụng, là sự thụ dụng chẳng thể nghĩ bàn, nhất là những điều được nói trong đoạn này đều là cảnh giới của Pháp Thân đại sĩ.

Đoạn này tiếp tục giải thích “hội quy tự tánh”. “Tướng” là hết thảy các tướng được hiện, phạm vi bao quát [của Tướng] vô cùng lớn; người, sự, vật đều bao gồm trong ấy. Trong Phật pháp thường nói là “y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới”, toàn bộ vũ trụ và nhân sinh như người thế gian chúng ta thường nói đều được bao gồm trong ấy. Ngay cả hết thảy các kinh pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói cũng chẳng phải ngoại lệ, cũng thuộc trong ấy. Ở đây, nói đại lược: “Sở vị Trùng Tụng như, Thọ Ký như” (nói Trùng Tụng là Như, Thọ Ký là Như); đây là hai loại trong mười hai phần giáo, nêu ra hai loại để làm đại diện. Nói cách khác, Trùng Tụng là Chân Như, Thọ Ký cũng là Chân Như, Trường Hàng cũng là Chân Như, Cô Khởi cũng là Chân Như, không có một pháp nào chẳng phải là Chân Như. Vì thế, quý vị mở quyển kinh Phật ra, chữ đầu tiên là “như thị ngã văn”. Phật pháp thật sự là một chữ Như, không có pháp nào chẳng Như. Nói cách khác, tất cả ngôn thuyết, tất cả kinh luận đều nhằm chú giải chữ Như, đều là cước chú của chữ Như mà thôi.

Chữ Như này là Chân Như, hết thảy các pháp, không có một pháp nào chẳng là Chân Như. Cổ nhân có tỷ dụ như sau: “Dùng vàng làm đồ vật, món nào cũng đều là vàng”. Dùng vàng ròng làm ra mấy ngàn thứ, mấy vạn thứ lộng lẫy, có thứ nào chẳng phải là vàng? Thứ nào cũng đều là vàng, điều này dễ hiểu. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do Chân Như bổn tánh biến hiện ra, có pháp nào chẳng phải là Chân Như? Pháp nào cũng đều là Chân Như. Nếu quý vị thấy cảnh giới này, nhà Thiền gọi là minh tâm kiến tánh, Tịnh Độ Tông gọi là Lý nhất tâm bất loạn, Hoa Nghiêm gọi là Pháp Thân đại sĩ, chẳng qua là như thế mà thôi! Vì thế, “thập nhị phần giáo, nhất thiết giai như” (mười hai phần giáo, hết thảy đều là Như), có nghĩa là “hết thảy các giáo pháp sai biệt”, vì sao có sai biệt? Sai biệt “tùng duyên vô tánh” ([sai biệt] là do duyên, không có tánh). Tuy trên mặt sự tướng thì có sai biệt, nhưng bất cứ pháp nào cũng đều là vô tự tánh, tự tánh là tự thể của nó, nó không có tự thể, nó từ duyên sanh ra. Tánh “vô tự tánh” là Chân Như bổn tánh, cho nên chẳng có một pháp nào chẳng do Chân Như bổn tánh biến hiện ra. Nói cách khác, nó là Chân Như.

Kinh luận cũng thường nói “hư tướng bổn tận, chân tánh bổn hiện” (tướng hư vọng vốn hết, chân tánh vốn hiện), hai câu này nói hết sức hay. “Bổn” nghĩa là “vốn sẵn như thế”, “hư” là hư vọng; tướng hư vọng vốn sẵn hư vọng, như kinh Kim Cang đã nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, vốn sẵn là như thế. Chân Như bổn tánh hiện tiền, chỉ cần quý vị thấy thấu suốt tướng hư vọng, Chân Như bổn tánh sẽ hiện tiền, chuyện là như vậy đó. Tánh và Tướng chẳng hai. Nay chúng ta chẳng thấy chân tánh, mê nơi tướng, vấn đề là do mê. Vì thế, phá mê sẽ khai ngộ, mấu chốt ở chỗ này!

Ở đây, đại sư bảo chúng ta: “Dĩ thượng triển chuyển thôi tầm chân thật chi lý” (lần lượt truy tìm lý chân thật như trên), đối với từng sự, từng vật nào, pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, không ngừng truy cứu, truy cứu đến cùng cực, chân lý bèn hiện tiền, tức là Chân Như bổn tánh hiện tiền. Tiếp đó, Ngài lại dùng một tỷ dụ để nói: “Thí chi vật bất ly mộng” (Ví như vật chẳng lìa mộng), lấy mộng làm tỷ dụ. Trong khi chúng ta nằm mộng, trong mộng có người, có vật, nhưng những người và vật ấy đều ở trong mộng, chẳng rời khỏi mộng. “Mộng bất ly nhân” (Mộng chẳng rời người), có người thì mới có thể nằm mộng, không có người, lấy ai nằm mộng? “Người” là gì vậy? Tâm người, [tức là] tâm quý vị hiện mộng cảnh. Trong mộng cảnh có hết thảy các vật; hết thảy những vật ấy có phải là tâm người hay không? Trong các buổi giảng, chúng tôi thường dùng điều này để làm tỷ dụ vì nó dễ hiểu. Bởi lẽ, “toàn mộng chính là tâm, toàn tâm chính là mộng”. Mộng là tướng; phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Cảnh giới trong mộng là hư vọng, nhưng cái tâm nằm mộng là thật, là Chân Như; nhưng quý vị phải hiểu: Mộng cảnh chẳng lìa tâm, tâm chẳng lìa mộng, lìa mộng chẳng có tâm, lìa tâm chẳng có mộng. Do vậy, tánh của tướng hư vọng ấy là Chân Như bổn tánh, thấy Tánh thì phải thấy từ tướng hư vọng. Chỉ cần quý vị chẳng chấp tướng, sẽ thấy tánh chân thật.

Tiếp đó, lão nhân gia dẫn một câu trong kinh Viên Giác: “Sanh pháp bổn vô, nhất thiết duy thức” (chúng sanh và các pháp vốn Không, hết thảy chỉ là thức). Đặc biệt là bên tông Duy Thức, họ chú trọng lý luận, cho nên nói “vạn pháp duy thức”; trừ thức ra, thứ gì cũng đều chẳng có. Thức do đâu mà có? Thức do Chân Như bổn tánh biến hiện. Vì thế, nói: “Thức như huyễn mộng, đản thị nhất tâm” (Thức như huyễn mộng, chỉ là nhất tâm), đó là một bước dò tìm sâu hơn nữa trong Duy Thức, thật sự tìm đến cội nguồn. Cội nguồn đích xác là Chân Như bổn tánh.

“Tắc dĩ tự tâm vi giáo thể” (chính là lấy tự tâm làm giáo thể). Đây là nói rõ hết thảy các kinh do đức Phật đã giảng, tư tưởng, ngôn ngữ, văn tự của Ngài đều từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, nói nhiều như thế, nhưng ý nghĩa thật sự là một câu. Đây là nói về hết thảy các kinh, hết thảy các pháp.

 

(Sớ) Kim thử kinh giả.

() 今此經者。

(Sớ: Nay kinh này).

 “Kim” là nói hiện tại, nay chúng ta đang đọc bộ kinh này.

 

(Sớ) Y chánh tín nguyện đẳng pháp.

() 依正信願等法。

(Sớ: Các pháp như y báo, chánh báo, tín, nguyện v.v…)

Kinh nói đến y báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tức hoàn cảnh sống của họ; chánh báo là A Di Đà Phật, chư đại Bồ Tát, và trời người trong thế giới Cực Lạc là chánh báo. Tín – Nguyện – Hạnh là những điều kiện Phật dạy chúng ta phải hội đủ để vãng sanh Tịnh Độ.

 

(Sớ) Nhược văn, nhược nghĩa.

() 若文若義。

(Sớ: Dù văn hay nghĩa).

“Văn” chỉ văn tự, “nghĩa” chỉ nghĩa lý được bao hàm trong văn tự.

 

(Sớ) Cứu cực giai quy nhất tâm Chân Như.

() 究極皆歸一心真如。

(Sớ: Xét đến tột cùng đều quy vào nhất tâm Chân Như).

Toàn là “nhất tâm Chân Như” hiển hiện, mà cũng là nói: Lìa khỏi nhất tâm Chân Như, chẳng có y báo và chánh báo, cũng chẳng có các pháp như Tín, Nguyện, Hạnh v.v…, cũng chẳng có văn, mà cũng chẳng có nghĩa. Không có một pháp nào chẳng do nhất tâm Chân Như biến hiện ra.

 

(Sớ) Cố cổ đức vân: “Chư Đại Thừa kinh, giai dĩ nhất Thật Tướng ấn, vi kinh giáo thể”.

() 故古德云 :諸大乘經 ,皆以一實相印 為經教體。

(Sớ: Vì thế, cổ đức nói: “Các kinh Đại Thừa đều lấy Thật Tướng ấn để làm giáo thể”).

Câu này là nói tổng quát. “Giáo thể”: Giáo là giáo học của Như Lai. Sách giáo khoa (kinh điển) và cách dạy học của Ngài được kiến lập dựa trên lý luận nào? Chữ Thể có ý nghĩa này. “Ấn” (印) là ấn tín, giống như ấn tín của quan viên. Ấn là biểu tượng đại diện cho người ấy, đóng ấn trên văn kiện, [chứng thực] văn kiện ấy do chính ông phát ra. Phật pháp cũng như thế, hết thảy các kinh nếu có pháp ấn của Phật ấn chứng thì kinh ấy là kinh Phật chân chánh. Pháp ấn của Phật có hai loại: Tiểu Thừa là Tam Pháp Ấn, Đại Thừa là “nhất Thật Tướng ấn”. Nói cách khác, hết thảy các kinh Đại Thừa, không kinh nào chẳng nói về Thật Tướng. Chỉ cần nói đến Thật Tướng, kinh ấy nhất định là kinh Đại Thừa. Kinh này của chúng ta có nói về Thật Tướng hay chăng? Có thể dùng điều này để biện định một bộ kinh là chân hay giả. Tam Pháp Ấn của Tiểu Thừa là “vô thường, vô ngã, Niết Bàn”. Kinh giảng nhiều đến đâu đi nữa, chẳng rời khỏi ba cương lãnh này. Nếu tách khỏi ba cương lãnh này, nếu bộ kinh ấy chẳng nói đến ba chuyện này, nó chẳng phải là kinh Phật. Hết thảy các kinh Tiểu Thừa đều có thể dùng ba Pháp Ấn này để ấn định, kinh chẳng nói tới vô thường sẽ nói vô ngã, hoặc nói Niết Bàn. Các kinh Đại Thừa nói chung chẳng ngoài Thật Tướng.

 

(Sớ) Thử kinh nhất tâm bất loạn, tức thị Thật Tướng, tức thị Chân Như.

() 此經一心不亂,即是實相,即是真如。

(Sớ: Trong kinh này, “nhất tâm bất loạn” chính là Thật Tướng, chính là Chân Như).

Có thể thấy bộ kinh này hết sức khế hợp Đại Thừa pháp ấn. Điều quan trọng nhất trong bộ kinh này là nói về nhất tâm bất loạn, nhất tâm là Chân Như, Thật Tướng.

 

(Sớ) Tắc hợp tiền nhị chủng, hội quy nhất tâm, nhi vi giáo thể.

() 則合前二種,會歸一心,而為教體。

(Sớ: Nên hợp hai loại trước, gom về nhất tâm, lấy đó làm giáo thể).

Do đây có thể biết bộ kinh này của chúng ta cũng lấy “nhất tâm” làm giáo thể. Đây là nói ở mức độ khá sâu, chúng ta đối với bộ kinh này mới thật sự sanh khởi lòng tin kiên định: Pháp môn này là pháp khó tin, quả thật khó tin. Chúng ta tốn hơi sức nhiều ngần ấy, tốn thời gian nhiều ngần ấy để tìm tòi tỉ mỉ, không gì chẳng nhằm kiến lập lòng tin mà thôi! Có Tín, có Nguyện, nhất định vãng sanh. Ngẫu Ích đại sư bảo chúng ta: “Phẩm vị cao hạ tại ư trì danh chi thâm thiển, năng bất năng vãng sanh quyết định tại tín nguyện” (Phẩm vị cao hay thấp là do trì danh sâu hay cạn. Được vãng sanh hay không là do tín nguyện quyết định). Tín nguyện chẳng dễ gì kiến lập!

 

Tứ, vô ngại.

(Huyền Nghĩa) Vô ngại giả, tâm, cảnh, Lý, Sự, bổn tự giao triệt. Cảnh cập Sự giả, thị danh Tùy Tướng. Tâm giả vi thức, Lý giả quy tánh, cụ giao triệt cố.

四、無礙。

(玄義)無礙者,心境理事,本自交徹,境及事者,是名隨相,心者為識,理者歸性,具交徹故。

(Bốn, vô ngại.

Huyền Nghĩa: Vô ngại là tâm, cảnh, Lý, Sự, vốn tự thấu triệt lẫn nhau. Cảnh và Sự gọi là Tùy Tướng. Tâm là Thức, Lý quy về Tánh, thấu triệt lẫn nhau trọn vẹn).

“Vô ngại”:  Trong phần trên đã nói tới Tùy  Tướng, Duy  Thức và

Quy Tánh, chúng là một mà ba, tuy ba mà một, viên dung vô ngại. Hễ chấp trước điều gì sẽ biến thành chuyện gì cũng bị trở ngại; hết thảy đều chẳng chấp trước sẽ không có chướng ngại. Từng tầng [ý nghĩa] đã được nói trong phần trên từ cạn đến sâu: Tùy Tướng cạn, Duy Thức sâu hơn một bậc, Quy Tánh lại sâu hơn một bậc nữa. Đó là thứ tự, chẳng thể viên dung. Chẳng thể viên dung, sẽ chẳng thể khế nhập; nói thông tục là quý vị chẳng thể chứng đắc! Nói thì quý vị cũng biết nói, nhưng chính mình chẳng thể thụ dụng, chẳng thể nhập cảnh giới ấy, đó chẳng thể là viên dung. Môn này chẳng thể thiếu, nếu đem những điều đã nói trong các phần trước từ cạn đến sâu gộp lại toàn bộ viên dung thì sẽ viên dung vô ngại.

“Tâm cảnh”: Tâm là Duy Thức và Quy Tánh đã nói trong phần trước, còn Cảnh là Tùy Tướng. Lý là Quy Tánh, Sự là Tùy Tướng. “Bổn tự giao triệt” (vốn tự thấu triệt lẫn nhau), nói cách khác, trong tâm có cảnh, trong cảnh có tâm, tâm và cảnh chẳng hai. Chúng tôi nêu lên một thí dụ để nói. Ví như giảng đường của chúng ta to chừng này, chẳng thể coi là rất lớn, chúng ta đều thấy mỗi góc rất rõ ràng; chúng ta có thể thấy là do tâm, [vậy thì thử hỏi] tâm chúng ta có đến góc ấy hay không? Nếu chẳng đến góc ấy, làm sao chúng ta có thể thấy góc ấy? Phải đến! Do vậy, trong cảnh có tâm, trong tâm có cảnh, vốn thấu triệt lẫn nhau. Tánh Thấy của chúng ta chẳng đến nơi ấy, làm sao có thể thấy? Tánh Nghe của chúng ta chẳng đến nơi ấy, làm sao có thể nghe? Phật đã dạy chúng ta: Thấy, nghe, hay, biết, căn tánh của sáu căn vốn tận hư không, trọn khắp pháp giới. Chúng ta vốn có năng lực to dường ấy, hiện thời đã đánh mất năng lực này. Vì sao đánh mất? Mê mất rồi! Chẳng phải là thật sự mất. Vì thế, hiện thời chẳng phải là căn tánh của sáu căn chúng ta không khởi tác dụng, mà là phạm vi khởi tác dụng của chúng nhỏ bé, chẳng thể tự tại thụ dụng tận hư không trọn pháp giới. Hết thảy sự giáo học của đức Phật không gì chẳng nhằm dạy chúng ta khôi phục tự tánh, mà cũng là khôi phục tác dụng bản năng của sáu căn, chỉ như thế mà thôi! Đây là mục tiêu giáo học của Phật pháp.

Do vì “ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh không tâm”, “ngoài Sự không Lý, ngoài Lý không Sự”, bất cứ chuyện nào cũng đều có đạo lý, bất cứ một lý luận nào cũng đều có sự tướng, quả thật là thấu triệt lẫn nhau, thấu triệt viên dung. Tiếp theo đó, [sách Sớ Sao] thuyết minh đạo lý này, chỉ bày từng điều một. Cảnh, Sự là Tùy Tướng, Tâm là Duy Thức, Lý là Quy Tánh, hoàn toàn thấu triệt lẫn nhau. Kinh Hoa Nghiêm đặc biệt hiển thị cảnh giới này, Lý Sự vô  ngại, Sự  Sự  vô  ngại, hiển  thị cảnh giới chân chánh này. Chúng ta đọc tiếp phần chú giải.

 

(Sớ) Giao triệt giả, dĩ nhất tâm nguyên hữu Chân Như, sanh diệt nhị môn, Chân Như tức thị sanh diệt, cố Lý bất ngại Sự, cảnh, tâm; sanh diệt tức thị Chân Như, cố Sự, cảnh, tâm bất ngại Lý.

()交徹者,以一心原有真如生滅二門。真如即是生滅,故理不礙事境心;生滅即是真如,故事境心不礙理。

(Sớ: “Thấu triệt lẫn nhau”: Do nhất tâm vốn có hai môn là Chân Như và sanh diệt. Chân Như chính là sanh diệt, nên Lý chẳng trở ngại Sự, cảnh, tâm. Sanh diệt chính là Chân Như, nên Sự, cảnh, tâm chẳng trở ngại Lý).

Đoạn này phát xuất từ Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh Bồ Tát. Nói thật ra, con người chỉ có hai loại là mê và ngộ. Mê thì pháp giới này là sanh diệt môn. Mê rồi, quý vị thấy bất luận pháp nào cũng đều có sanh và diệt. Con người có sanh, già, bệnh, chết; thực vật có sanh, trụ, dị, diệt; khoáng vật có thành, trụ, hoại, không. Đó đều là pháp sanh diệt. Pháp sanh diệt là gì? Mê mất cảnh giới này. Vì khi mê, tâm quý vị là tâm sanh diệt. Tâm sanh diệt thấy cảnh giới bên ngoài đều là pháp sanh diệt, chuyện là như vậy đó. Do đây, đức Phật dạy chúng ta: “Vô minh bất giác sanh tam tế”. Vô minh là mê; sau khi đã mê bèn có ba món tế tướng xuất hiện; ba tế tướng là vô minh nghiệp tướng, chuyển tướng, và cảnh giới tướng. Những tướng này đều được nói trong Duy Thức, chúng được gọi là “tam tế tướng”. Những người tầm thường chúng ta không có cách nào thấy được những tướng này trong A Lại Da Thức; A La Hán và những vị Bồ Tát tầm thường chẳng thấy được. Theo kinh Phật, Bát Địa Bồ Tát mới thấy ba tế tướng. Do thấy được tế tướng, nên chuyển A Lại Da Thức thành Đại Viên Kính Trí. Nếu quý vị chẳng thấy chúng, chuyển bằng cách nào? Hễ thấy được, bèn có thể chuyển được, đó là phá mê khai ngộ. Thấy mà còn chưa thấy được, đang mê làm sao mà chẳng biết mình mê, làm sao quý vị có thể phá mê cho được? Do vậy, đây là một công phu rất sâu.

Tam tế làm duyên tăng trưởng lục thô. Cảnh giới lục thô biến thành thế giới và vạn tượng sâm la trong vũ trụ, Phật pháp nói [lục thô] biến thành mười pháp giới. Đó gọi là Lưu Chuyển Môn. Nếu vừa giác ngộ, bèn từ Lục Thô quay trở về Tam Tế, từ Tam Tế trở về Nhất Chân pháp giới. Đó là “hoàn nguyên” (trở về nguồn); khi hoàn nguyên thì gọi là Hoàn Diệt môn.

Khi mê, vọng sanh, chân diệt. Nói thật ra, đối với chuyện “vọng sanh” thì chẳng khó hiểu gì! Nếu quý vị ngồi tại nơi đây một lát, hướng vào trong tâm để quán chiếu, quý vị sẽ nhận thấy chính mình có rất nhiều vọng tưởng, [cố gắng] ngăn dứt cũng chẳng ngăn dứt được. Đó là vọng sanh. Khi mê, vọng bèn sanh, sanh ra vọng tưởng, suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, cho nên chẳng thấy chân, chỉ thấy vọng tưởng, vọng niệm tơi bời. Đó là mê. Khi ngộ, hiện tượng ấy đảo ngược lại, chân sanh, vọng diệt, cảnh giới ấy rất vi tế. Có người vọng tưởng gì cũng chẳng có, chẳng có vọng tưởng thì như thế nào? Gật gù ngủ gật. Đấy có phải là giác ngộ hay chăng? Chẳng phải! Thưa quý vị, đó gọi là vô minh. Phàm phu phiền phức, chẳng đọa trong vọng tưởng thì cũng rớt trong vô minh; đó đều là bất giác, đều là sanh diệt.

Người thật sự giác ngộ chẳng có vọng tưởng, mà tỉnh táo, sáng suốt, tinh thần sung mãn, chẳng ngủ gật. Lại thưa cùng quý vị, người ấy chẳng cần ngủ nghê. Kinh nói “tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ” là Ngũ Cái (năm món che đậy chân tánh), tức là năm thứ phiền não, trong bổn tánh không có [những phiền não này]. Người thật sự giác ngộ chẳng cần ăn cơm, chẳng cần ngủ nghê, thân thể khỏe mạnh, tinh thần sung mãn, đó là người thật sự giác ngộ. Chúng ta nay vẫn còn phải ăn cơm, còn phải ngủ, tức là chưa giác ngộ. A La Hán bảy ngày ăn một bữa, đủ rồi! Bích Chi Phật nửa tháng ăn một bữa. Người công phu càng cao ăn càng ít. Mỗi ngày ăn nhiều bữa, mỗi bữa ăn thật nhiều, không được rồi, thiếu công phu! Thế nhưng quý vị phải nhớ, quý vị nghe những lời này bèn gắng hết sức ăn ít để tỏ ra mình có công phu. Chưa được nửa tháng hay một tháng, thân thể ngã bệnh, hỏng bét, lầm lẫn quá đỗi! Không có công phu, thể lực cần phải tiêu hao [năng lượng] nhiều ngần ấy, quý vị cần phải bổ sung nhiều chừng đó. Giống như hiện thời lái xe vậy, có xe ít tốn xăng, có xe hao xăng. Xe hao xăng mà quý vị đổ xăng không đủ, nó không chạy được. Người có công phu giống như xe đỡ tốn xăng, giác ngộ rồi; kẻ mê hoặc, điên đảo giống như xe hao xăng, nếu quý vị không đổ thêm xăng là không được, chuyện này chớ nên miễn cưỡng! Hai ngày trước, tôi đọc bản chú giải Tứ Thập Nhị Chương Kinh của cư sĩ Quý Thánh Nhất, ông đã nói về chuyện này rất nhiều, đúng là hợp tình, hợp lý! Trong đời hiện tại này, nhiều người tu hành chúng ta phạm phải những khuyết điểm nào, ông ta đều chỉ điểm ra. Bản chú giải ấy rất hay, hãy nên học cặn kẽ.

Nói chung, có mê, có ngộ thì chúng ta gọi nó là Sanh Diệt môn. Loại thứ hai là Chân Như môn, Chân Như môn là nói theo Thể. Sanh Diệt môn là nói theo Tướng, nói theo sự tướng. Chân Như môn là nói từ bản thể của hết thảy muôn pháp. Khi mê chẳng thấy vọng sanh, chân diệt; khi giác ngộ cũng chẳng thấy vọng diệt, chân sanh. Nói cách khác, Thể vốn bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh. Vì thế, tự thể của hết thảy vạn pháp là Chân Như. Chúng ta nói tới Chân Như là quán sát từ bản thể của hết thảy vạn pháp.

“Nhất tâm nguyên hữu nhị môn” (Nhất tâm vốn có hai môn). Khởi Tín Luận viết: “Y nhất tâm pháp, hữu nhị chủng môn, nhất giả tâm Chân Như môn, nhị giả tâm sanh diệt môn” (Nương theo pháp nhất tâm, có hai môn: Một là tâm Chân Như môn, hai là tâm sanh diệt môn). Hai môn này bao quát tất cả hết thảy các pháp: Pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều bao gồm trong ấy. Pháp sanh diệt bao gồm tất cả hiện tượng, tức là tâm, cảnh, Sự, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Chân Như môn bao gồm bản thể của hết thảy các pháp. Quý vị phải nhớ: Lý và Sự thấu triệt lẫn nhau, tức là trong Lý có Sự, trong Sự có Lý. Do vậy, cảnh giới thật sự là viên dung vô ngại, hoàn toàn được hiển thị trong kinh Hoa Nghiêm.

“Chân Như tức thị Sanh Diệt, cố Lý bất ngại Sự, cảnh, tâm” (Chân Như chính là Sanh Diệt, nên Lý chẳng trở ngại Sự, cảnh, tâm). Đây đều là những đạo lý trong Khởi Tín Luận. “Chân Như bất thủ tự tánh, ngũ đạo tùy duyên” (Chân Như chẳng giữ lấy tự tánh, năm đường tùy duyên), ngũ đạo chính là lục đạo, [tức là] chẳng nói đến A Tu La đạo. Vì sao chẳng nói đến A Tu La? A Tu La thuộc đường nào thì gộp vào đường đó. Tại thiên đạo thì gộp vào thiên đạo, tại nhân đạo thì gộp vào nhân đạo. Súc sanh, ngạ quỷ đều có A Tu La, chỉ trong địa ngục là không có A Tu La. A Tu La như chúng ta thường nói trong lục đạo là chỉ về A Tu La trong thiên đạo, nói ngũ đạo là đem A Tu La gộp hết vào trong thiên đạo. Nói cách khác, chúng ta thường nói là “lục đạo luân hồi”. Ai luân hồi? Chân Như luân hồi! Chân Như luân hồi ư? Chân Như chẳng luân hồi, bất sanh, bất diệt, nhưng kẻ mê là lũ phàm phu chúng ta thấy dường như có luân hồi; thật ra Chân Như há có luân hồi? Chân Như chẳng những không luân hồi, mà còn bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhơ, chẳng sạch. Những lời này vẫn còn rất khó hiểu, chúng tôi nêu tỷ dụ để nói: Hiện thời khoa học phát triển, dùng nó để giải thích Phật pháp, chúng ta sẽ cảm thấy chẳng khó hiểu. Chẳng hạn như màn bạc chiếu phim [trong rạp hát] rất lớn, màn bạc tỷ dụ Chân Như, hình ảnh [chiếu lên màn bạc] là Sự, Cảnh, Tâm. Màn bạc có động hay không? Màn bạc bất động. Chúng ta thấy người này từ bên này đi qua bên kia, người ấy xuất hiện tại chỗ này trên màn bạc, cái màn bạc ấy có di động theo người ấy hay không? Chẳng có! Màn bạc chẳng động. Quý vị nhìn vào màn bạc, đúng là bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, chẳng nhơ, chẳng sạch, chẳng nhiễm trước, Tướng có, Thể không. Cái Không ấy chẳng phải trống rỗng, không có gì, không vẫn là có. Vì thế, phải hiểu Tánh này [giống như] cái màn bạc to lớn trong hiện thời, tận hư không, trọn pháp giới là một tấm màn bạc lớn, chúng ta đều là những hình ảnh trên màn bạc ấy, trên mặt Sự thì có đến đi, trên mặt Sự bèn có sanh diệt, nhưng về Thể bèn không có, trên mặt Sự thì có nhiễm hay tịnh, nhưng trong Thể không có nhiễm hay tịnh, chẳng có đến đi. Nếu quý vị khéo suy nghĩ đạo lý này, quý vị sẽ có thể thông đạt nghĩa lý rất sâu trong kinh Phật.

Luân hồi trong lục đạo thì cái gì luân hồi? Sự, cảnh, tâm luân hồi. Lý là Chân Như bổn tánh, Chân Như bổn tánh chẳng luân hồi; nhưng chúng ta là kẻ bất giác, thấy Chân Như bổn tánh dường như cũng luân hồi, dường như vậy, thật ra chẳng phải! Khi mê, thấy toàn bộ Chân Như là sanh diệt. Trong Phật pháp cũng có một câu nói rất nổi tiếng là “bất biến, tùy duyên”. Lý Thể bất biến, nhưng nó có thể tùy duyên trong lục đạo. Giác ngộ rồi thì tuy ở trong lục đạo, vẫn tự tại, chẳng nhiễm, du hý thần thông mà! Tới nơi đâu cũng được, người ấy chẳng nhiễm. Nhiễm là gì? Hưởng thụ sướng khổ là ô nhiễm; người ấy ở trên thiên đường chẳng có Lạc Thọ, chẳng nhiễm niềm vui ấy. Đọa trong địa ngục, kẻ ấy chẳng nhiễm khổ, tâm thanh tịnh. Nói cách khác, các thứ cảm thọ khổ, lạc, ưu, hỷ, xả đều chẳng có, tâm người ấy thanh tịnh, bình đẳng, tự tại; đó là Phật, Bồ Tát, là người thật sự giác ngộ. Vì thế, Lý chẳng trở ngại Sự, tâm, cảnh.

Luân hồi trong lục đạo thì lục đạo là duyên khởi, thiện nghiệp bèn thọ báo trong ba thiện đạo, ác nghiệp bèn thọ khổ trong ba ác đạo. Nghiệp lực thiện, ác dẫn dắt quý vị luân hồi trong lục đạo. Quý vị phải vào trong đường nào là do thiện nghiệp và ác nghiệp làm chủ tể. Quý vị phải hiểu: Chẳng phải là Phật, Bồ Tát làm chủ tể, cũng chẳng phải là vua Diêm La làm chủ tể, càng chẳng liên quan gì tới Thượng Đế hay quỷ thần! Ai làm chủ tể cho quý vị? Chính mình làm chủ tể của chính mình! Vì thế, người học Phật phải học giác ngộ. Người ấy biết vận mạng do chính mình nắm trong tay, chẳng liên can đến một ai khác. Hàng quỷ thần, vua Diêm La có hay không? Có! Giống như trong một nước có hình cảnh (cảnh sát hình sự), quý vị chẳng phạm pháp, họ chẳng dám động đến quý vị. Nếu họ bắt quý vị, họ sẽ phạm tội! Quý vị phạm tội, họ mới đến bắt. Vua Diêm La, tiểu quỷ thần cũng giống như thế. Quý vị tạo lắm nỗi ác nghiệp, đến khi ấy, quỷ thần tới kiếm, phiền quá! Quý vị làm lành, chẳng làm ác, quỷ thần thấy quý vị cung kính còn chẳng kịp, họ chẳng dám chạm mặt, chẳng dám kiếm chuyện với quý vị. Đủ thấy chính mình làm chủ tể, chứ không do ai khác làm chủ tể, phải hiểu rõ và tin tưởng đạo lý này.

Tuy là lục đạo tùy duyên, nhưng duyên khởi vô tánh, chẳng có tự tánh, giống như hình ảnh xuất hiện trên màn hình máy TV, hình ảnh có hay không? Có, nhưng nó không có tự tánh. Tự tánh là tự thể, [những hình ảnh xuất hiện trên màn hình TV] không có tự thể. Tự thể của nó là gì? Tự thể là màn hình, màn hình chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đến, chẳng đi. Chúng bất quá là những luồng sáng di động trên màn hình mà thôi, màn hình có di động hay không? Chẳng động! Màn hình là bất biến tùy duyên, hình ảnh là tùy duyên bất biến. Trong ấy cũng thấu triệt lẫn nhau. Trong hình ảnh có màn hình, trong màn hình có hình ảnh. Hình ảnh chẳng lìa màn hình, màn hình chẳng lìa hình ảnh, là một, chẳng phải hai. Quý vị hãy lãnh hội ý nghĩa này. Quý vị thật sự tham thấu đạo lý này, sẽ tin sâu chẳng nghi hết thảy các pháp do đức Phật đã nói. Vì sao? Hiểu rõ Lý rồi! Vì toàn bộ Sự, cảnh, tâm sanh diệt là Chân Như, tùy duyên bất biến. Đạo lý này xuyên suốt tất cả các kinh Đại Thừa, có thể nói hết thảy các kinh Đại Thừa đều là cảnh giới này.

 

(Sớ) Kim thử kinh giả.

() 今此經者。

(Sớ: Nay kinh này).

Chúng ta lại coi kinh A Di Đà.

 

(Sớ) Tâm tức thị độ, tắc nhất niệm vô vi, nhi bất phương trì, lâu, điểu, thụ chiêu bố, sâm liệt.

() 心即是土 則一念無為 而不妨池樓鳥樹昭布森列。

(Sớ: Tâm chính là cõi nước nên nhất niệm vô vi chẳng trở ngại ao, lầu, chim, cây cối xếp đặt rạng ngời, dày đặc).

 Câu này là nói “dĩ Lý thành Sự môn, Lý tùy Sự biến, nhất đa duyên khởi chi vô biên dã” (là môn dùng Lý để thành Sự, Lý biến theo Sự, một và nhiều duyên khởi vô biên), vô lượng vô biên. Chúng ta thường nói Tây Phương Cực Lạc thế giới có bốn cõi: Cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cõi Phương Tiện Hữu Dư, cõi Thật Báo Trang Nghiêm và cõi Thường Tịch Quang. Cõi nước do đâu mà có? Do tâm biến hiện ra. Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến. Vì thế, “Lý tùy Sự biến”. “Nhất niệm vô vi” là Lý, nhất niệm vô vi là nhất tâm bất loạn, Lý nhất tâm bất loạn, đó là Lý. Từ đây khởi tác dụng, biến hiện ra hiện tượng. Vì thế, chẳng trở ngại. “Trì” là ao bảy báu. “Lâu” là cung, điện, lầu, gác. “Điểu” là như kinh nói: Bạch hạc, khổng tước, Ca-lăng-tần-già, các loài chim quý quá nhiều, nói chẳng hết. “Thụ” là hàng cây. “Chiêu bố sâm liệt”: Chiêu (昭) là sáng rõ, Bố (布) là giăng bày, trong cõi nước ấy, xếp đặt chỉnh tề, hết sức trang nghiêm đẹp mắt, chẳng trở ngại, Lý chẳng trở ngại Sự.

Thưa quý vị, nói thật ra, nếu thật sự đọc thông suốt kinh Phật, [sẽ thấy] thế giới này rất đẹp đẽ vì quý vị chẳng có phiền não. Bất luận cảnh giới nào, không cảnh giới nào chẳng là Như, chẳng có pháp nào không Như, không gì chẳng phải là Tánh. Đúng như cổ nhân đã nói: “Đầu đầu thị đạo, tả hữu phùng nguyên” (Pháp nào cũng là đạo, đâu đâu cũng gặp nguồn), pháp hỷ sung mãn! Cảnh giới là tu hành, tu thanh tịnh, bình đẳng, từ bi trong cảnh giới, pháp hỷ sung mãn! Tu hành trong cảnh giới, tu hành sống động. Năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, quý vị thấy năm mươi ba vị Bồ Tát tu hành, suốt ngày từ sáng đến tối tới các nơi vui chơi, vui chơi mà họ thành Phật, chẳng phải tu khổ sở giống như Tiểu Thừa! Tiểu Thừa chẳng hiểu Lý, chuyện gì cũng đều có chướng ngại; cho nên họ tu rất khổ, mà thành tựu rất hữu hạn. Đại Thừa giống như tâm địa cởi mở, thật sự đạt đến Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại; chỗ sáu căn tiếp xúc sáu trần, không gì chẳng là Như, không gì chẳng là tánh, minh tâm kiến tánh, vạn pháp đều Như. Vì thế, họ đạt được Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, viên mãn Giới – Định – Huệ trong cảnh giới, viên mãn Giác – Chánh – Tịnh, viên mãn Tín – Nguyện – Hạnh, Hạnh là lục độ vạn hạnh, thật sự phi phàm!

 

(Sớ) Chúng sanh tín nhạo, tùy nguyện vãng sanh.

() 眾生信樂,隨願往生。

(Sớ: Chúng sanh tin ưa, nguyện được vãng sanh).

Đây là nói chúng sanh trong mười phương thế giới, đã có lòng tin, điểm này rất quan trọng! Quý vị chẳng tin, sẽ không có cách nào cả! Quý vị phải tin, tin tưởng Tây Phương Cực Lạc thế giới như trong kinh điển đã dạy. Lòng tin ấy quả thật là khó. Vì thế, rất nhiều tổ sư đại đức các đời khuyên lơn, khích lệ chúng ta phải thâm nhập Đại Kinh. Đại Kinh là kinh Vô Lượng Thọ, vì sao? Đại Kinh giảng tường tận hơn kinh này. Nay chúng ta thấy bản chú giải này, quả thật còn tường tận hơn Đại Kinh. Hiện thời, chúng tôi đề xuất nghiên cứu, thảo luận kinh Vô Lượng Thọ, không gì chẳng nhằm giúp chúng ta kiến lập lòng tin. Kinh Vô Lượng Thọ được truyền sang Trung Quốc sớm nhất, cũng là kinh được phiên dịch sớm nhất, có duyên phận đặc biệt sâu với Trung Quốc. Những bản dịch trong thời kỳ đầu rất nhiều, hiện thời trong Đại Tạng có tất cả năm bản dịch. Vì để khích lệ, cổ vũ các đồng tu thâm nhập nghiên cứu, chúng tôi đem nguyên văn năm bản dịch in chung thành một cuốn; nhưng thưa quý vị, cuốn sách ấy chẳng phải là sách phổ cập. Vì sao? Dành cho những người thật sự thâm nhập nghiên cứu. Chẳng mong thâm nhập nghiên cứu thì hiện thời chúng ta dùng một bản, thầy Lý có chú giải, [dùng bản ấy] là được rồi.

Lòng tin quan trọng lắm! Đã tin rồi, chữ tiếp theo đó lại càng quan trọng hơn, “nhạo” (樂) là gì vậy? Ưa thích! Quý vị đã tin tưởng, nhưng chẳng ưa thích, không được rồi! Chẳng thể thành tựu! Giống như tôi cổ vũ, khích lệ các đồng tu phát tâm giảng kinh vậy. Quý vị tin giảng kinh có công đức rất lớn, phước huệ song tu, nhưng quý vị chẳng thích ra giảng kinh, không có cách nào hết! Nếu quý vị ưa thích thì mới được, ưa thích sẽ như thế nào? Hễ ưa thích, sẽ tinh tấn, chẳng lui sụt, sẽ đạt được pháp hỷ trong ấy, sẽ coi chuyện này giống như chúng ta mặc áo, ăn cơm, chẳng thể có một ngày không ăn, chẳng thể có hôm nào không giảng kinh; ngày nào không giảng kinh giống như hôm đó không ăn vậy! Nếu quý vị đắc pháp hỷ nơi ấy, tôi thưa cùng quý vị, ba năm có thành tựu, sẽ có thành tựu! “Nhạo” hết sức quan trọng, chữ Nhạo (樂) phải đọc giọng Khứ Thanh, [theo âm Quan Thoại là] Yào, Nhạo là ưa thích, hoan hỷ. Trong thiên Học Ký, Nho gia đã nói: “Thất niên tiểu thành, cửu niên đại thành” (bảy năm thành tựu nhỏ, chín năm thành tựu lớn). Học Phật cũng giống như thế, giảng kinh cũng thế, xướng niệm cũng thế, hằng ngày xướng, một ngày không xướng không được, phải như vậy thì mới nên, quý vị xướng niệm suốt ba năm, thành công! Cổ nhân nói: “Quyền bất ly thủ, khúc bất ly khẩu” (Tay chẳng rời nắm đấm, miệng chẳng rời khúc hát). Ca hát thì hằng ngày phải hát xướng, [võ nghệ thì] hằng ngày phải luyện tập!

Pháp sư trong nhà Phật, một là [chuyên về] Phạm Bái, hướng dẫn đại chúng cộng tu; hai là [chuyên về] giảng kinh, khơi gợi, phát khởi lòng chánh tín, khuyên người khác phát nguyện. Vì thế, giảng kinh chú trọng nơi tín nguyện, Phạm Bái chú trọng nơi tu hành, Tín – Nguyện – Hạnh ba tư lương chẳng thể thiếu khuyết. Nho gia lấy lễ nhạc làm phương tiện dạy học, Phật pháp cũng chẳng ngoại lệ. Giới trong Phật pháp giống như lễ của Nho gia, Phạm Bái trong Phật pháp giống như âm nhạc. Vì thế, hai chuyện này đều cần phải nghiêm túc nghiên cứu, nghiêm túc tập luyện. Quý vị chịu nghiêm túc [nghiên cứu, tập luyện] thì không riêng gì quý vị có phước, mà mọi người chúng ta đều có phước, vì sao? Chánh pháp tồn tại lâu dài!

Trong thế gian hiện thời, giống như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng!” Vì sao có hiện tượng này? Người hoằng dương chánh pháp quá ít. Chúng ta khuyên người khác đi hoằng dương, chẳng bằng khuyên chính mình. Khuyên người khác rất khó, hãy khuyên chính mình! Hoằng dương chánh pháp, thưa quý vị, chỉ cần một điều kiện. Nếu quý vị hội đủ điều kiện ấy, quý vị sẽ có tư cách. Điều kiện gì vậy? Chẳng cần tiếng tăm, lợi dưỡng là được. Nay chúng ta vì sao khuyên người khác, người khác chẳng chịu làm? Người khác không buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống được. Đó là chướng ngại lớn nhất trong hoằng pháp. Chúng ta có thể bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, sẽ hội đủ, trọn đủ điều kiện ấy. Quý vị nói: “Tôi hơi đần một chút”. Đần cũng không sao, sẽ có thần lực Tam Bảo gia trì chẳng thể nghĩ bàn! Tham cầu tiếng tăm lợi dưỡng, tuy oai thần của Tam Bảo chẳng thể nghĩ bàn, vẫn không thể gia trì được! Chính quý vị có chướng ngại, chướng ngại ấy rất lớn. Vì thế, chỉ cần chính mình chịu hy sinh, sẽ có thể mang lại vô tận phước báo rộng lớn cho chúng sanh, sự hy sinh ấy rất đáng giá! “Chúng sanh tín nhạo” hết sức trọng yếu, tín nguyện vãng sanh.

 

(Sớ) Độ tức thị tâm, tắc thất bảo trang nghiêm, nhi bất phương toàn thể không tịch, bất lập nhất trần, thật vô chúng sanh sanh bỉ quốc giả, tắc tâm, cảnh, Lý, Sự, hỗ tương dung nhiếp, nhi vi giáo thể dã.

() 土即是心 則七寶莊嚴 ,而不妨全體空寂 ,不立一塵。實無眾生生彼國者,則心境理事,互相融攝,而為教體也。

(Sớ: Cõi nước chính là tâm, nên bảy báu trang nghiêm chẳng trở ngại toàn thể không tịch, chẳng lập mảy trần. Thật sự chẳng có chúng sanh sanh về cõi ấy, cho nên tâm, cảnh, Lý, Sự, dung nhiếp lẫn nhau để làm giáo thể).

Câu này nói hết sức viên mãn. Mấy câu này “toàn Sự quy Lý” (toàn thể Sự quy vào Lý), tất cả Sự, tâm, cảnh thảy đều quy vào Chân Như bổn tánh. Sự quy vào Lý sẽ viên dung, ngàn vạn sai biệt nói chung đều chẳng chướng ngại. Đây chính là Sự Sự vô ngại như Thanh Lương đại sư đã nói về kinh Hoa Nghiêm. “Thất bảo trang nghiêm, nhi bất phương toàn thể không tịch” (Bảy báu trang nghiêm chẳng trở ngại toàn thể không tịch), giống như chúng ta xem phim: Vô biên sắc tướng lần lượt hiện trước mặt chúng ta, thật ra, trọn chẳng thể được, bản thể của chúng chính là Không. Bản thể của thế gian hiện tiền cũng là Không, trọn chẳng thể được! Rất nhiều người chưa giác ngộ, cho rằng những hình tượng hư giả hiện tiền là thật, họ mê nơi những tướng ấy, ngỡ những tướng ấy là chân thật, đấy là lầm lỗi lớn nhất.

Nếu quý vị giác ngộ chẳng mê, đời người sẽ vui sướng khôn ngằn, chỉ có sướng, chẳng có khổ. Quý vị mê nơi ấy thì chỉ có khổ, chẳng sung sướng. Đó là sự thật ngàn vạn phần đích xác. Vì thế, khổ, sướng ở chỗ nào? Khổ hay sướng là do mê hay ngộ! Nơi sự tướng chẳng có khổ, mà cũng chẳng có sướng, tìm khổ chẳng được. Khổ hay sướng do tự tâm mê hay ngộ. Hễ mê bèn khổ, hễ ngộ bèn sướng. Ngộ bèn hiểu “toàn thể không tịch, bất lập nhất trần” (toàn thể không tịch, chẳng lập mảy trần), Lục Tổ bảo: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”. Vì thế, vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ “sanh tắc quyết định sanh, khứ tắc thật bất khứ” (sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi). Lý này rất sâu, cổ đức đã nêu tỏ đạo lý này trong bộ Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận. Cư sĩ Quý Thánh Nhất là một vị cư sĩ lỗi lạc thời đầu Dân Quốc đã chú giải bộ Sanh Vô Sanh Luận rất cặn kẽ, chú giải rất hay. Khi có cơ hội, tôi sẽ giảng bộ sách này một lượt là tốt nhất, đối với sự vãng sanh Tịnh Độ của chúng ta rốt cuộc là đi về bên ấy như thế nào, rốt cuộc có thể vãng sanh hay không sẽ có quyết đoán khẳng định.

“Thật vô chúng sanh sanh bỉ quốc giả” (thật ra, chẳng có chúng sanh sanh về cõi ấy), nói thật ra, sanh thì quyết định sanh, “thật vô chúng sanh sanh bỉ quốc giả” là nói theo Lý, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là nói theo sự tướng. Vì thế, quý vị phải hiểu rõ câu nói này, đừng nghe nói “thật vô chúng sanh sanh bỉ quốc giả”, [bèn nghĩ] chẳng có hy vọng gì nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới hết, lầm lẫn quá đỗi rồi! Lời này được nói dựa trên góc độ nào? Nói theo Lý, Lý là vạn pháp đều Như, vạn pháp đều không; Sự là vạn pháp đều có, vạn pháp đều là! Quý vị phải hiểu đạo lý này.

Như thế thì “tắc tâm, cảnh, Lý, Sự, hỗ tương dung nhiếp” (tâm, cảnh, Lý, Sự, dung nhiếp lẫn nhau), đấy mới là Sự Sự vô ngại thật sự. Liên Trì đại sư phán định kinh này là Phần Viên, còn kinh Hoa Nghiêm là Toàn Viên, [nhận định ấy] có lý lắm! Bởi lẽ, kinh này cũng giảng Lý Sự vô ngại, tuy chưa giảng đến Sự Sự vô ngại, mà đã giảng Lý Sự vô ngại. Giảng đến Sự Sự vô ngại thì sẽ hoàn toàn giống hệt kinh Hoa Nghiêm, đấy thật sự là tự tại vô ngại viên dung. Chúng ta đã nói đến Lý Sự vô ngại, hết sức gần với Sự Sự vô ngại. Vì thế, kinh này đạt được sự viên dung về mặt giáo nghĩa như kinh Hoa Nghiêm, đó là giáo thể. Giáo thể nói đến đây mới được coi là viên mãn thật sự.

Trong chương này, như đã thưa cùng quý vị trong phần trước, chủ yếu là [khiến cho người đọc] khởi lòng tin, hiểu được căn cứ lý luận của kinh này. Đức Phật chẳng tùy tiện nói kinh Di Đà này. Nếu hiểu rõ lý luận, sẽ tự nhiên thông suốt nơi mặt Sự, có thể tin tưởng Sự. Có Lý, đương nhiên phải có Sự. Hễ có Sự, bèn có Lý, Lý – Sự chẳng hai, Lý – Sự viên dung. Vì thế, lão nhân gia chia một đoạn giáo thể thành bốn tầng, quả thật đã giảng vô cùng hay, giảng rất viên mãn.

Đoạn thứ sáu tiếp theo đây là giảng về “tông thú chỉ quy”. Tông (宗) là tông chỉ, tông chỉ là phương pháp tu hành. Thú (趣) là phương hướng. Phần tiếp theo đây nhằm thảo luận tổng cương lãnh tu hành, đại phương hướng tu hành. Vì thế, đoạn này cũng hết sức quan trọng. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng đến chỗ này.

 

— o0o —

Tập 84

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm ba mươi tám:

 

Lục, tông thú chỉ quy.

六、宗趣旨歸

(Sáu, tông thú chỉ quy).

Đoạn lớn này chia làm ba đoạn vừa.

 

Sơ, tổng trần; nhị, dị giải; tam, chánh ý.

(Huyền Nghĩa)  Dĩ tri thử kinh năng thuyên chi Thể, như thị cai

  1. Vị thẩm sở Tông, đương tại hà giả. Phù ngữ chi sở thượng viết Tông, Tông chi sở quy viết Thú, nhi hữu thông, biệt.

初、總陳。二、異解。三、正意。

(玄義)已知此經能詮之體,如是該羅。未審所宗,當在何者。夫語之所尚曰宗,宗之所歸曰趣。而有通別。

(Thứ nhất là nói chung, hai là giải thích những chỗ khác biệt, ba là trình bày ý chánh.

Huyền Nghĩa: Đã biết cái Thể để nói kinh này bao trùm như thế; chưa biết rõ điều được kinh này đề cao là ở chỗ nào. Điều được văn tự đề cao [trong một bộ kinh] gọi là Tông, chỗ Tông sẽ dẫn đến gọi là Thú, [Tông và Thú đều] có thông và biệt).

Vừa mở đầu, đại sư đã chỉ ra: Đã biết kinh thể của bộ kinh này, [kinh thể] tức là căn cứ lý luận. Thể là nói đến căn cứ lý luận, trong phần trên đã nói Tùy Tướng, Duy Thức, Quy Tánh, Vô Ngại, vì chúng ta phân tích từng tầng một. Chúng ta hiểu kinh thể của kinh này lấy trí huệ và đức năng sẵn có trong Chân Như bổn tánh làm căn cứ. Do vậy, không gì chẳng bao trùm, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều bao quát trọn hết. Hiểu rõ căn cứ lý luận, nên chúng ta có thể tin tưởng. “Vị thẩm sở Tông” (chưa hiểu rõ Tông), “thẩm” là thẩm sát (審察: suy xét cặn kẽ), chưa hiểu Tông Chỉ của bộ kinh này rốt ráo là như thế nào? Tông Chỉ là nói tới tu hành, mà cũng là cương lãnh tu học; vì thế, nó hết sức quan trọng. Căn cứ lý luận nhằm khởi tín tâm, khiến cho chúng ta chẳng hoài nghi, kiến lập tín tâm. Tông Chỉ là phương hướng chỉ đạo chúng ta tu hành; do vậy, đoạn này cũng hết sức trọng yếu. Hai câu tiếp theo đó nhằm giải thích từ ngữ Tông Thú. “Ngữ chi sở thượng viết Tông” (điều được văn tự đề cao thì là Tông), “thượng” là sùng thượng (崇尚: đề cao), “ngữ” (語) là ngôn ngữ; điều được văn tự trong bộ kinh này đề cao thì gọi là Tông. “Tông chi sở quy viết Thú” (điều được Tông dẫn đến thì gọi là Thú), “Thú” có nghĩa là “quy thú” (歸趣: hướng về, dẫn về), đây cũng là mục tiêu cuối cùng của Tông Chỉ, điều đó gọi là Thú. Trong Phật pháp, [nói đến Tông Thú] bèn có Thông và Biệt. Thông là chung cho hết thảy các pháp môn, chung cho hết thảy các kinh luận. Biệt là nói riêng về [Tông và Thú] của bộ kinh này. Đối với Thông và Biệt, chúng ta đều phải nên biết.

 

(Huyền Nghĩa) Thông luận Phật giáo, nhân duyên vi Tông.

(玄義) 通論佛教,因緣為宗

(Huyền Nghĩa: Luận định chung về Phật giáo thì nhân duyên là Tông).

Đây là nói chung, Phật pháp chẳng lìa khỏi nhân duyên. Trong phần trước, tôi cũng đã từng thưa với quý vị, trong kinh điển có nói: “Chư pháp tùng duyên sanh, chư pháp tùng duyên diệt” (các pháp do duyên sanh, các pháp do duyên diệt). Không riêng gì đức Phật thuyết pháp chẳng tách rời nguyên tắc này, mà hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều chẳng ra ngoài định luật này, tức là “duyên sanh, duyên diệt”. Thuở đức Phật tại thế, Ngài thường nói câu này, chúng ta cũng thường thấy câu này trong kinh điển. Kinh Pháp Hoa thuộc giai đoạn thuyết pháp cuối cùng của đức Phật, nói cách khác, căn tánh của chúng sanh đều đã chín muồi, khai Quyền, hiển Thật, hoàn toàn nói pháp chân thật. Trong pháp chân thật, lão nhân gia vẫn chẳng tách rời nguyên tắc này. Ngài đã từng nói: “Phật dĩ nhất đại sự nhân duyên, xuất hiện ư thế” (Do một đại sự nhân duyên mà Phật xuất hiện trong cõi đời), vẫn chẳng rời khỏi nhân duyên. Đây là lời luận định chung: Đức Phật xuất hiện trong thế gian, thuyết pháp cho chúng ta đều lấy “nhân duyên làm Tông”.

 

(Huyền Nghĩa) Biệt tắc y cổ thập môn, tự ngã pháp câu hữu, chí viên dung cụ đức, hậu hậu, tiền tiền, thứ đệ thâm thiển. Thị cố chư kinh, các hữu tông thú.

(玄義) 別則依古十門 自我法俱有 至圓融具德,後後前前,次第深淺,是故諸經,各有宗趣。

(Huyền Nghĩa: Về Biệt thì tuân theo mười môn của cổ nhân, từ “ngã và pháp đều có” cho đến “viên dung đầy đủ các đức”, mỗi môn sau so với môn trước, theo thứ tự, môn sau sâu hơn môn trước. Vì thế, các kinh, mỗi kinh đều có Tông Thú riêng biệt).

Trong tổng nhân duyên lại sanh ra sai biệt, nhưng sai biệt chẳng rời khỏi Tổng, Tổng chẳng rời khỏi Biệt: Biệt là Biệt do so với Tổng, Tổng là Tổng của Biệt. Nếu suy xét tỉ mỉ sâu xa hơn, lại có thể chia thành mười môn. Mười môn là điều thường được giáo lý nói đến, nhưng ở đây chẳng liệt kê trọn vẹn, chỉ nêu một trường hợp để nói, từ “ngã pháp câu hữu”, đấy là giáo nghĩa Tiểu Thừa cho đến “viên dung cụ đức” là giáo nghĩa viên mãn của Đại Thừa. Trong mười môn, nêu ra môn thứ nhất và môn cuối cùng, tỉnh lược những môn trong khoảng giữa. Mười thứ nhân duyên sai biệt này được giảng rất tường tận trong bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, càng về sau càng sâu hơn. Môn sau sâu hơn môn trước, chiếu theo thứ tự từ cạn đến sâu để nói. Hết thảy các kinh luận Đại Tiểu Thừa đều có mức độ sâu hay cạn sai khác; vì thế, mỗi bộ kinh đều có Tông Thú duy nhất, đặc biệt.

 

(Sớ) Thượng giả sùng dã.

() 尚者崇也。

(Sớ: Thượng là tôn sùng).

 Tông là điều được đề cao bởi ngôn ngữ, Thượng có nghĩa là tôn sùng.

 

(Sớ) Thánh nhân lập giáo, nhất bộ ngữ ngôn, hà sở sùng thượng. Sở sùng thượng giả, danh chi viết Tông.

() 聖人立教 ,一部語言 ,何所崇尚 。所崇尚者 名之曰宗。

(Sớ: Thánh nhân lập giáo, cả một khối ngôn ngữ nhằm đề cao điều gì thì điều được đề cao ấy sẽ gọi là Tông).

Đây là định nghĩa nhằm giải thích Tông Thú. Chữ “thánh nhân” chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, “lập” là kiến lập, “giáo” là giáo học. Ngài kiến lập loại giáo học này; trong thuở ấy hoàn toàn là ngôn giáo, hằng ngày [các đệ tử] nghe lão nhân gia giảng giải, thuyết minh. Đến cuối cùng, kết tập thành kinh điển, ghi chép lại thành sách, tức là kinh điển trong hiện tại. Những kinh điển ấy “hà sở sùng thượng”, tức là rốt cuộc, kinh điển tôn sùng điều gì vậy? Điều đó gọi là Tông.

 

(Sớ) Quy giả, chí dã. Lập thử vi Tông, vị cầu hà sự? Cứu sở quy chí, danh chi viết Thú.

() 歸者至也 ,立此為宗 ,為求何事 。究所歸至 名之曰趣。

(Sớ: Quy là đạt đến. Lập ra cái Tông ấy nhằm cầu chuyện gì? Rốt cuộc sẽ đạt đến, quay về điều gì, thì điều ấy gọi là Thú).

“Quy”  nói thật ra là hướng đến.  Nói đến chỗ rốt ráo, tông chỉ rốt

cục nhằm hướng đến điều gì? Vì điều gì? Điều đó chính là Thú. Đây là định nghĩa nhằm giải thích đơn giản hai chữ Tông và Thú. Trong tông Thiên Thai, dùng Ngũ Trùng Huyền Nghĩa để giải thích kinh, phương pháp đơn giản hơn. Trong Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, khoa mục này được gọi là Minh Tông, nói cạn hơn một chút! Tông là tông chỉ, tức là phương hướng tu hành, là cương yếu chỉ đạo sự tu hành của chúng ta. Tông Hoa Nghiêm dùng “thập môn khai khải” phức tạp hơn, đương nhiên giảng chi tiết hơn Ngũ Trùng Huyền Nghĩa; đấy là ưu điểm. Khuyết điểm là quá rườm rà, quá phức tạp. [Cách giải thích Tông Thú của tông] Thiên Thai đơn giản, dễ hiểu, đó là chỗ hay của họ.

 

(Sớ) Nhân duyên giả, giản dị vô nhân, tà nhân.

() 緣者,揀異無因邪因。

(Sớ: “Nhân duyên”: Nhằm phân biệt khác với không có nhân và tà nhân).

Đây là lý do vì sao đức Phật đặc biệt nhấn mạnh Nhân Duyên. Nói thật ra, nhân duyên sanh pháp (pháp sanh bởi nhân duyên), đó là sự thật, là chân tướng sự thật. Đức Phật thuyết pháp, chúng ta phải hiểu động cơ (motivation) và mục đích thuyết pháp của Ngài. Động cơ là vì chúng sanh đối với vũ trụ và nhân sinh có nhiều cách nghĩ, cách nhìn sai quấy, những cách nghĩ cách nhìn sai quấy ấy là tà tri tà kiến, cho nên họ chuốc lấy nhiều thứ khổ nạn. Đức Phật thấy vậy, chẳng đành lòng; vì thế, Ngài đại từ đại bi hiện thân thuyết pháp cho chúng sanh, nhằm mục đích phá trừ tà tri tà kiến, giúp chúng ta kiến lập chánh tri chánh kiến. Đấy là mục đích thuyết pháp của đức Phật.

Thuở đức Phật xuất hiện, xứ có mức độ văn hóa cao nhất trên cả thế giới là Ấn Độ, vượt trội Trung Quốc. Đức Phật xuất hiện nhằm nhà Châu của Trung Quốc, cũng là nhằm thời đại Xuân Thu, sớm hơn Khổng Tử một chút. Khi ấy, căn bản văn hóa Trung Quốc đã khá vững vàng, nhưng văn hóa Trung Quốc là văn hóa Nhân Thừa, vẫn chưa phải là Thiên Thừa. Nho gia và Đạo gia nói đến cõi người rất nhiều, nói đến cõi trời rất ít; nhưng tại Ấn Độ thuở ấy đúng là phi phàm, những nhà triết học và tư tưởng gia Ấn Độ đã có năng lực đến được Tứ Thiền Thiên, Tứ Không Thiên. Đây là một nơi có trình độ văn hóa cao nhất trên cả thế giới; vì thế, đức Phật chẳng xuất hiện tại Trung Quốc mà xuất hiện tại Ấn Độ, rất có lý! Đối với Ấn Độ mà giảng lục đạo sẽ thuận lợi, chứ người Trung Quốc chưa thể tiếp nhận, bản thân người Trung Quốc chưa đạt tới trình độ ấy, ngay cả Khổng lão phu tử cũng nói: “Kính trọng quỷ thần, nhưng lánh xa”. Khổng phu tử rất ít bàn về vấn đề này!

Những học giả Ấn Độ có cách nhìn sai lầm. Chẳng hạn như lục sư ngoại đạo[84] giảng về vũ trụ và nhân sinh, nói thật ra, bọn họ đã đạt tới cảnh giới Tứ Không Thiên nên kiến lập hai mươi lăm Đế, Đế thứ nhất gọi là Minh Đế (冥諦). Tư tưởng Minh Đế tại Trung Quốc cũng có, nhưng không nói tường tận, rõ ràng như vậy. Thiên thứ nhất trong sách Ấu Học Quỳnh Lâm[85] của Trung Quốc có câu “hỗn độn sơ khai, càn khôn thỉ định” (lúc hỗn độn sơ khai, trời đất vừa định). Hỗn độn chính là Minh Đế như lục sư ngoại đạo Ấn Độ đã nói, đó là cảnh giới ấy, nhưng không có ai trong chúng ta giảng rõ ràng như thế, mà chỉ nói hàm hồ, mông lung. Khi đạt đến cảnh giới ấy, họ cho rằng hết thảy các pháp là “tự nhiên sanh”, tức tự nhiên phát sanh, đó là quan niệm sai lầm! Vì thế, đức Phật nói Nhân Duyên nhằm uốn nắn cách nhìn sai lạc của họ. Nói thật ra, quan điểm của họ cũng chẳng phải là nói tùy tiện, mà do trong cảnh giới ấy, thấy hết thảy vạn pháp dường như từ Không mà Có, tự nhiên sanh ra, chẳng có nhân, chẳng có nguyên nhân, từ Minh Đế sanh ra. Đó là “vô nhân”, sai lầm!

Loại thứ hai là “tà nhân”. Tà nhân chính là họ cho rằng [vạn pháp] đều do Tự Tại Thiên[86] sanh ra, người Ấn Độ hiện nay vẫn nói tổ tiên của họ là Đại Phạm Thiên. Đức Phật dạy chúng ta: Người trên địa cầu này do đâu mà có? Từ Quang Âm Thiên (Abhassara-deva) sanh đến. Nói theo cách hiện thời, ngoài vũ trụ chẳng biết có bao nhiêu người từ các tinh cầu di dân đến địa cầu của chúng ta, sanh con đẻ cái ở nơi đây. Cách nói này, tức là nói [mọi thứ đều do] Đại Phạm Thiên sanh ra, chính là hiểu lầm cái nhân, nên gọi là “tà nhân”. “Giản dị vô nhân, tà nhân” (nhằm phân biệt khác với không có nhân và tà nhân), phân định các cách nói của họ là sai lầm!

 

(Sớ) Nhất đại thời giáo, bất xuất nhân duyên.

() 一代時教,不出因緣。

(Sớ: Giáo pháp suốt một đời đức Phật chẳng ra ngoài nhân duyên).

“Nhất đại” là cuộc đời do Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện trong thế gian này, Ngài sống đến tám mươi tuổi, năm ba mươi tuổi thị hiện chứng đạo, đi hoằng pháp lợi sanh, đến năm tám mươi tuổi nhập Niết Bàn, toàn bộ [thời gian hoằng pháp] là bốn mươi chín năm. Suốt bốn mươi chín năm, đức Phật bôn ba các nơi giáo hóa chúng sanh, dấu chân in khắp năm xứ Ấn Độ[87], tức là toàn bộ vùng Ấn Độ. Về phía Nam, Phật từng đến tận đảo Tích Lan (Sri Lanka), phương Bắc đến núi Hỷ Mã Lạp Nhã, đấy là khu vực giáo hóa trong thời đức Phật, khá rộng lớn. Nói chung, [những giáo pháp do đức Phật đã nói] “chẳng ngoài nhân duyên”.

 

(Sớ) Như sở vị “nhân duyên cố sanh diệt, nhân duyên cố tức Không, nhân duyên cố tức Giả, nhân duyên cố tức Trung”.

() 如所謂因緣故生滅 緣故即空 緣故即假,因緣故即中。

(Sớ: Như [trong kinh điển, đức Phật đã] nói: “Do nhân duyên nên sanh diệt, do nhân duyên nên chính là Không, do nhân duyên nên chính là Giả, do nhân duyên nên chính là Trung”).

 Mấy câu này hoàn toàn là nói theo cương lãnh, bao gồm Thiên Thai lẫn Hiền Thủ; nói đến Giáo, chúng ta có thể lấy hai tông phái này làm đại diện. “Nhân duyên cố sanh diệt” là gì? Tướng sanh diệt chẳng thật, là giả. Nhân duyên tụ hội bèn sanh, nhân duyên tán bèn diệt. Quý vị hãy nghiền ngẫm kỹ càng, chúng tôi dùng thí dụ để nói: Chẳng hạn như, đây là cuốn sách, sách sanh ra như thế nào? Do nhiều trang giấy đóng lại bèn gọi là sách; sách được sanh ra. Nếu nay chúng ta đem photocopy cuốn sách, toàn bộ đều tháo tung ra, tách ra thành từng trang một, sách bèn diệt, sách chẳng còn nữa, chỉ còn từng trang giấy một. Giấy nhiều ngần ấy gom lại, sách bèn sanh ra; tách rời ra, sách bèn diệt. Quý vị nghĩ xem trong ấy có sanh diệt hay không? Nói thật ra, chẳng có sanh diệt, chẳng qua là duyên tụ hay duyên tán mà thôi!

Người thế gian chấp trước tướng hư vọng này, cho là có sanh có diệt, thật ra là bất sanh bất diệt. Tướng sanh diệt như vừa nói đó, chẳng chân thật! Một pháp là như thế, mà pháp nào cũng đều giống như vậy, chẳng có một pháp nào có thể vượt khỏi định luật này. Chẳng hạn như cái nhà này, nhà do cốt sắt và xi-măng, rất nhiều vật liệu xây dựng lắp ghép thành, nhà bèn sanh ra. Cả đống vật liệu xây dựng chất tại nơi đó thì chẳng có nhà, nhà bị diệt rồi! Thật ra, những vật liệu ấy lắp ghép hay chất đống ở nơi kia đều nhiều như nhau, chẳng tăng, chẳng giảm. Cho đến thân thể của chúng ta cũng giống như thế. Đức Phật gọi thân thể này của chúng ta là Tứ Đại và Ngũ Uẩn. Tứ Đại và Ngũ Uẩn là những vật xây dựng nên cái thân này. Hễ chúng tụ hội, thân này bèn hiện tướng; chúng phân tán, thân này chẳng còn nữa, diệt mất!

Vì thế, hai chữ “sanh diệt” thật ra là chuyện như thế nào? Chúng ta nói “sanh tử” thì sanh tử là gì? Sanh là duyên tụ, tử là duyên tán; chỉ có tụ hay tán, đó là thực tại. Nói sanh tử hay nói sanh diệt đều là giả, là vọng tướng (tướng hư vọng), chẳng phải là chân tướng. Chân tướng duyên tụ hay duyên tán. Hiểu rõ triệt để tầng [ý nghĩa] này, trong nhà Phật gọi là “liễu sanh tử”, tức là đã thấu triệt sanh tử rồi! Thấu triệt điều gì? Hiểu rõ, triệt để hiểu rõ! Sau khi đã hiểu rõ, mới biết điều gì? Vốn chẳng có sanh tử, sanh tử do đâu mà có! Thật sự liễu giải thấu triệt, sanh chẳng có gì đáng sợ, mà tử cũng chẳng có gì đáng sợ, cũng chẳng có gì đáng buồn, hoàn toàn là hiện tượng đúng mực, bình thường! Đấy chính là “sanh tử tự tại” như trong nhà Phật thường nói. Vì quý vị hiểu rõ, quý vị bèn tự tại. Liễu sanh tử là nói theo kiểu này: Do thật sự hiểu rõ, bèn thật sự tự tại. Dẫu xả thân hay thọ thân trong lục đạo, người ấy cũng rất tự tại. Ta sắp phải đi đầu thai, đầu thai giống như gì? Thay một bộ quần áo, mặc một bộ quần áo mới. Ta xả thân, ta muốn ra đi, thay y phục là được rồi, y phục bẩn phải đem giặt, thay bộ mới. Xả thân và thọ thân trong lục đạo giống như chúng ta thay quần áo, rất tự tại, hết thảy ưu lự thảy đều chẳng có. Đó là nói “nhân duyên cố sanh diệt” (do nhân duyên, nên có sanh diệt).

“Nhân duyên cố tức Không”: Tam Chỉ Tam Quán được kiến lập theo một bài kệ trong Trung Quán Luận. Trong thuở ấy, thiền sư Huệ Tư phát hiện điều này rồi được Trí Giả đại sư hoàn thiện, thật sự kiến lập tông Thiên Thai, hoàn toàn sử dụng ý nghĩa này, tức là Tam Quán Tam Đế. Tam Quán là Không, Giả, Trung. Trung Quán Luận nói: “Nhân duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị Không, diệc danh vi giả danh, diệc danh Trung Đạo nghĩa” (Pháp do nhân duyên sanh, ta nói chính là Không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghĩa Trung Đạo). Ba câu này là nguồn gốc lý luận của tông Thiên Thai.

Do pháp được sanh bởi nhân duyên, nó chẳng có tự tánh, bản thể của nó chính là Không, nó chẳng có tự thể! Có tự thể, sẽ là thật sự có, chẳng có tự thể thì là Không. Chúng ta dùng ngay cuốn sách này để nói thì bản thể của cuốn sách này là Không, vì sao? Nếu quý vị nhìn thì thấy về căn bản, nó chẳng phải là sách, mà là một trăm mấy chục trang giấy, chẳng thấy sách, nó là Không. Nếu quan sát kỹ càng, giấy là gì? Rất nhiều sợi “tiêm duy” (cellulose) gộp thành, nếu dùng kính hiển vi để nhìn, chúng đều do các nguyên tử và điện tử [hợp thành], giấy cũng chẳng có! Quý vị bèn hiểu những vật này không có tự tánh; vì thế, đức Phật bảo “bản thể chính là Không”. Phàm là pháp được sanh bởi nhân duyên, đều có tánh chất này, đều là rỗng không, chẳng có tự tánh. Đó là nói chúng không có tự tánh, chẳng có tự thể. Nói “Không” là nói theo Tánh, hoặc nói theo Thể. Thể là Không, Phật pháp thường nói: “Vạn pháp đều Không”.

Quý vị liễu giải Thể Tướng [của vạn pháp] là Không thì có lợi gì? Chẳng chấp trước! Đoạn trừ tâm tham, đoạn trừ cái tâm được – mất, vì sao? Không mà! Quý vị đạt được gì? Đạt được cả đống rỗng không, mà mất đi thì cũng là rỗng không! Chẳng có vọng tưởng được – mất, rất tự tại! Con người chẳng biết có bao nhiêu phiền não đều do [ý niệm] được – mất sanh ra, chẳng biết được lẫn mất hoàn toàn là vọng tưởng, chẳng chân thật. Nếu quý vị thật sự có cái để đạt được, đức Phật sẽ bội phục quý vị. Quả thật là “không có gì để đạt được” (vô sở đắc), thứ gì cũng đều chẳng đạt được! Đêm ngủ, ngay cả thân thể này cũng chẳng biết là ai, quý vị đạt được cái gì? Quý vị hãy nghĩ xem: Quý vị đã ngủ thì quý vị có đạt được cái gì trong thế giới này hay chăng? Chẳng đạt được thứ gì, bản thể là Không; ngay cả thân thể của chính mình còn chẳng đạt được, phải biết điều này. Thân chẳng phải là chính mình!

Vì thế, các triết học gia Tây phương nghiên cứu, rốt cuộc Ngã là gì? Họ biết thân chẳng phải là Ngã, vì thế, mới hiểu “ta suy tưởng, nên ta tồn tại”. Ta có thể suy nghĩ thì cái “có thể suy nghĩ” đại khái là Ngã! Vẫn sai! Cái có thể suy nghĩ là gì? Thọ, Tưởng, Hành, Thức, trong Phật pháp bảo những thứ ấy vẫn chưa phải là Ngã, vẫn là hư vọng. Quý vị khởi vọng tưởng nơi Ngũ Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, vọng tưởng vẫn chẳng phải là quý vị, vẫn “bản thể chính là Không”. Triết học Tây phương gặp phải nỗi khó khăn này, tìm chẳng ra bản thể của vũ trụ. Trong Phật pháp, bản thể của vũ trụ được gọi là Chân Như pháp tánh. Hiểu Tam Chỉ Tam Quán, thật sự giúp chúng ta giải quyết khó khăn rất lớn, chẳng khởi tâm tham đối với hết thảy các pháp, chẳng khởi tâm phân biệt, chấp trước đối với hết thảy các pháp thì mới có thể đạt được thanh tịnh, tự tại, biết hết thảy các pháp đều là không tịch.

“Nhân duyên cố tức Giả” (do nhân duyên nên là Giả). Giả là gì? Nói theo Tướng! Pháp sanh bởi nhân duyên thì pháp ấy có hay là không? Có! Thân thể của chúng ta có hay không? Có! Thân thể là gì? Giả tướng. Thể là Không, Tướng là Giả. Vì có giả tướng, nên quý vị có thể tận tình hưởng thụ, đó đạt được Lạc. Hưởng thụ, nhưng biết Tướng là Giả; tuy hưởng thụ nhưng chẳng chấp trước, người ấy chẳng khổ. Phàm phu chấp trước nơi hưởng thụ, do chấp trước bèn có khổ, sanh ra phiền não, sanh ra mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn. Phật, Bồ Tát tận tình hưởng thụ, chẳng nẩy sanh thất tình ngũ dục. Vì sao các Ngài chẳng sanh phiền não? Vì các Ngài biết Tướng giả, Thể không, biết chân tướng sự thật. Do vậy, trong Phật pháp gọi sự hưởng thụ của các Ngài là Chánh Thọ, tức là sự hưởng thụ đúng mực, bình thường. Sự hưởng thụ của chúng ta chẳng đúng mực, chẳng bình thường. Chẳng đúng mực, chẳng bình thường, sẽ sanh phiền não, sanh tham, sân, si, sanh thất tình ngũ dục, sanh ra những thứ ấy. Phật, Bồ Tát hưởng thụ giống hệt, nhưng chẳng sanh phiền não, chẳng khởi thất tình, ngũ dục, cao minh ở chỗ này! Tông chỉ giáo học của Phật pháp là “phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui”. Nói “mê” tức là chẳng hiểu chân tướng sự thật này, chẳng biết Tướng là Giả, Thể là Không; vì thế, kẻ ấy sanh phân biệt, chấp trước, vọng tưởng đối với hết thảy vạn pháp.

“Nhân duyên cố tức Trung” (do nhân duyên nên Trung), Trung là nghĩa Trung Đạo. Trung là gì? Tánh và Tướng chẳng hai là Trung, Thể và Dụng giống hệt như nhau. Thể là Không, cái Không ấy là Chân Không, chẳng phải ngoan không (cái Không trơ trơ, chẳng có gì, rỗng tuếch), Tướng là giả, Tướng là có, gọi là Diệu Hữu. Nói “diệu hữu phi hữu, chân không bất không” (diệu hữu chẳng phải là có, chân không chẳng không), đó là nghĩa Trung Đạo. Thánh nhân thế gian và xuất thế gian đều dạy chúng ta phải dùng Trung. Thể, Tướng, Dụng, Thể là Không, Tướng là Giả, phải dùng Trung. Đạo Trung Dung chẳng lệch lạc, chẳng dựa dẫm, chẳng thiên về Không mà cũng chẳng thiên về Giả. Dùng Tâm Kinh để nói thì chẳng thiên về Không mà cũng chẳng thiên về Có, đối với hai bên đều chẳng thiên lệch, chẳng chấp trước Không, mà cũng chẳng chấp trước Có, hai bên đều chẳng chấp trước, đó là Trung Đạo.

“Dùng Trung”, đức Phật dạy chúng ta như thế, Khổng lão phu tử của Nho gia cũng dạy chúng ta dùng Trung. Trong Tứ Thư, sự giáo học của sách Trung Dung là dạy chúng ta dùng Trung. Sở dĩ Khổng Tử trở thành bậc đại thánh, là vì Ngài biết tùy thời giữ lấy Trung Đạo[88], đó là bậc phi phàm, bất luận trong thời đại nào, bất luận hình thái xã hội khác nhau như thế nào, Ngài đều dùng Trung Đạo, chẳng thiên vị, chẳng lệch lạc; vì thế, Ngài chẳng lạc hậu. Lệch vào một bên sẽ nẩy sanh khuyết điểm; vì thế, người học Phật phải biết dùng Trung. Nói theo kinh này, Trung chính là nhất tâm bất loạn. Nhất tâm là Trung, lệch về một bên sẽ chẳng phải là nhất tâm.

Bốn câu này đem phối hợp với Ngũ Giáo để nói, bởi lẽ, trong bộ Di Đà Kinh Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã dùng phương thức chú giải kinh Hoa Nghiêm [để chú giải kinh Di Đà]. Hoa Nghiêm là Ngũ Giáo, Ngũ Giáo tức là Tiểu, Thỉ, Chung, Đốn, Viên. Tiểu là Tiểu Thừa, Thỉ là Đại Thừa Thỉ Giáo, tức khởi đầu của Đại Thừa, Chung là Đại Thừa Chung Giáo. Trừ những giáo này ra, còn có Đốn Giáo, lại còn có Viên Giáo. Bài kệ trong Trung Quán Luận [được nhắc tới] trong phần trên không chỉ là căn cứ lý luận để thành lập tông Thiên Thai, đem bài kệ ấy áp dụng vào tông Hoa Nghiêm để nói cũng thông suốt. “Nhân duyên cố sanh diệt” (Do nhân duyên nên sanh diệt), đó là giáo nghĩa Tiểu Thừa, “tức Giả, tức Không” là giáo nghĩa Thỉ Giáo, “nhân duyên cố tức Trung” là giáo nghĩa của Chung Giáo, Đốn Giáo và Viên Giáo.

Đại Thừa Chung Giáo song chiếu hai bên và Trung Đạo, tức là hai bên Thể và Dụng đều hiểu rõ, đều có cả, chẳng lệch [về một bên nào]. Đốn Giáo là hai bên Có và Không đều tách lìa, đều bỏ hết, cao minh hơn Chung Giáo. Quý vị cả hai bên đều có, vẫn chưa bỏ sạch, Đốn Giáo là hai bên đều không có; hai bên đều thoát bỏ, đó là Đốn Giáo, đốn siêu! Nói thật ra, hai bên đều có thì chúng ta thường nói là “nhập thế”, thảy đều bỏ sạch thì là “xuất thế”, chẳng cần nữa, vượt thoát rồi! Nho gia Trung Quốc là Đại Thừa Chung Giáo, Đạo gia của Lão Trang là Đốn Giáo, hết thảy đều bỏ hết!

Viên Giáo viên mãn nhất, “giá, chiếu”[89] đồng thời, ở ngay trong thế gian mà xuất thế gian, điều hòa Đốn Giáo và Chung Giáo, hợp thành một Thể, đó là viên mãn rốt ráo nhất. Kinh Hoa Nghiêm dùng phương pháp này, năm mươi ba lần tham vấn ở cuối kinh, năm mươi ba vị thiện tri thức, đó là Viên Giáo, viên dung vô ngại! Vì thế, đạt đến Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, chẳng có chướng ngại, đấy mới thật sự là viên mãn. Nay chúng ta xử sự, động tâm đều có chướng ngại, chẳng thể viên! Vì sao chẳng thể viên? Chẳng hiểu rõ Lý, chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật. Nếu hiểu rõ lý luận, hiểu rõ chân tướng sự thật, có gì chẳng viên? Viên mới là hạnh phúc viên mãn rốt ráo.

Vì thế, Viên cũng thường được gọi là “bất tư nghị, bất khả tư nghị”. Phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm, tức Tứ Thập Hoa Nghiêm có đề mục là Nhập Bất Tư Nghị Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm. Cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn là cảnh giới hạnh phúc viên mãn rốt ráo. Nói theo cách hiện thời như vậy thì mọi người sẽ hiểu rất rõ, có kẻ nào chẳng mong cầu [điều ấy]? Có phải là ai nấy đều có thể truy cầu điều này ư? Chuyện này tùy thuộc từng cá nhân. Nếu người trong thế gian này chẳng thể truy cầu, Thích Ca Mâu Ni Phật tuyệt đối chẳng giảng bộ kinh này. Giảng bộ kinh này mà chúng ta làm không được, há chẳng phải là nhử cho người khác thèm thuồng đó ư? Làm sao Thích Ca Mâu Ni Phật làm chuyện ấy được? Làm chuyện ấy sẽ có lỗi với người trong cõi này. Phàm là những gì có thể nói ra được, đều là những chuyện người trong thế gian này đều có thể làm được, đó mới là đại từ đại bi. Vì thế, nhất định phải hiểu Lý.

Nếu đem phối hợp với Tứ Giáo của tông Thiên Thai để nói thì sanh diệt là Tạng Giáo, “tức Không” là Thông Giáo, “tức Giả” là Biệt Giáo, “tức Trung” là Viên Giáo, đấy chính là Tạng, Thông, Biệt, Viên như tông Thiên Thai đã nói. Đủ thấy rằng: Lý luận này thật sự viên mãn. Bất luận Hiền Thủ hay Thiên Thai đều chẳng thể rời khỏi nguyên tắc và nguyên lý này.

 

(Sớ) Phật giáo sở tông, nhân duyên nhiếp tận, cố vân Thông dã.

() 佛教所宗,因緣攝盡,故云通也。

(Sớ: Những điều được Phật giáo đề cao đều gồm trọn trong nhân duyên, cho nên nói [nhân duyên] là Tông chung [của Phật giáo]).

Nhân duyên bao gồm trọn hết.

 

(Sớ) Thập môn giả, đệ nhất, ngã pháp câu hữu tông, nội chấp hữu Ngã, ngoại chấp hữu Pháp, danh vi phụ Phật pháp ngoại đạo.

()十門者,第一、我法俱有宗,內執有我,外執有法,名為附佛法外道。

(Sớ: “Mười môn”: Thứ nhất là tông “Ngã và Pháp đều có”, trong chấp có Ngã, ngoài chấp có Pháp, gọi là ngoại đạo dựa hơi Phật pháp).

Ở đây, chúng ta phải đặc biệt lưu ý, Phật pháp nói “ngoại đạo” không chỉ là những tôn giáo ngoài Phật pháp, mà còn bao gồm cả chính Phật giáo! Ngoại đạo là gì? Ngoài tâm cầu pháp thì gọi là ngoại đạo. Nay chúng ta học Phật, chẳng hướng về tự tánh để cầu, mà hướng ra ngoài để cầu, tức là ngoại đạo! Nay chúng ta lạy Phật, chúng ta lạy A Di Đà Phật, cầu A Di Đà Phật bảo vệ, gia ân cho chúng ta, [tức là coi] A Di Đà Phật là vật ở ngoài tâm chúng ta, chúng ta là ngoại đạo, là thứ ngoại đạo ăn bám Phật giáo, kèm thêm Phật pháp. Trong loại ngoại đạo này có kèm thêm Phật và Phật pháp. Chúng ta lạy Phật phải theo cách nào? Phải trở về tự tánh. Chúng ta lạy A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là vô lượng giác trong tự tánh của chúng ta, phải biết trở về tự tánh. Từ hình tượng Phật ở bên ngoài khơi gợi, phát khởi tự tánh giác của chúng ta, đó là đúng, là chính xác, là nội học. Nội và ngoại chẳng hai, đó là tương ứng. Vì thế, chúng ta lạy Quán Âm Bồ Tát nhằm khơi mở lòng đại từ đại bi trong tự tánh của chúng ta, thấy Quán Âm Bồ Tát, nghe danh hiệu Quán Âm Bồ Tát, lòng từ bi trong tự tánh bèn tỏ lộ, đó là Quán Âm. Lục Tổ Đàn Kinh có đoạn: “Từ bi tức Quán Âm, bình đẳng, chánh trực tức Di Đà”, chúng ta phải ghi nhớ! Vì thế, đừng học Phật đến nỗi trở thành ngoại đạo dựa hơi Phật pháp, lầm mất rồi!

Tất cả hết thảy những thứ lập bày trong Phật pháp đều là công cụ để dạy học, đều nhằm khơi gợi, phát khởi tự tánh, thật bất phàm! Phật sự trong nhà Phật: Giảng kinh, thuyết pháp là Phật sự, chúng ta vẫn phải thắp nến, chẳng thắp đèn điện, vì sao? Nến biểu thị ý nghĩa có thể chiếu sáng. Ngọn nến biểu thị thiêu đốt chính mình để soi sáng cho người khác, bỏ mình vì người. Chúng ta thấy điều này, phải học theo ngọn nến. Kinh Hoa Nghiêm nói “thiện tri thức chân đèn, thiện tri thức nến, thiện tri thức lư hương”, không thứ gì chẳng phải là thiện tri thức! Thiện tri thức ghế dài, phải học điều gì từ ghế dài? Nhẫn nhục. Mọi người đều ngồi trên nó, nó chịu đựng. Trong giáo học Phật pháp, sâm la vạn tượng, hết thảy vạn pháp, không thứ gì chẳng dùng đến, vật dụng để giảng dạy và cách dạy học vô lượng vô biên, đúng là đẹp đẽ khôn xiết! Người học Phật chúng ta phải hiểu, hễ hiểu thì sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần lẽ nào chẳng minh tâm kiến tánh? Quý vị chẳng hiểu đạo lý này thì căn phòng này đã sáng như vậy, còn phải đốt hai ngọn nến để làm gì? Thậm chí còn nói là lãng phí! Nó có ý nghĩa giáo dục ở trong ấy, đó là giáo học!

Loại thứ nhất [trong mười môn] là bên trong chấp trước có Ngã, bên ngoài chấp trước có Pháp. Quý vị vừa thấy điều này liền hiểu ngay, Phật pháp từ đầu đến cuối chỉ có một mục tiêu: Phá chấp trước mà thôi! Chẳng chấp trước bèn là Phật, là Bồ Tát, chấp trước bèn là phàm phu. Phàm phu và Phật khác nhau ở chỗ này! Phá Ngã Chấp, quý vị được gọi là A La Hán, chẳng gọi là phàm phu. Phá Pháp Chấp, quý vị được gọi là Bồ Tát, chẳng gọi là A La Hán. Phá chấp trước mà thôi! Mười tông, nói thật ra là do đối với mức độ phá hai thứ chấp trước này sâu hay cạn khác nhau mà kiến lập.

 

(Sớ) Đệ nhị, Pháp hữu, Ngã vô tông, tắc dị ngoại đạo.

() 第二、法有我無宗,則異外道。

(Sớ: Thứ hai là tông “Pháp có, Ngã Không”, khác với ngoại đạo).

 Đây là chỗ chẳng giống với ngoại đạo. “Pháp hữu, Ngã vô” là Tiểu Thừa. Tiểu Thừa biết trong hết thảy các pháp chẳng có Ngã, nhưng [vẫn chấp trước] có Pháp. Ngã là gì? Tướng tụ hợp của Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn ly tán, Ngã bèn diệt; đó là nhân duyên sanh diệt, nhân duyên tụ tán. Họ biết không có Ngã, trong Tứ Đại và Ngũ Uẩn không có Ngã, nhưng chấp trước Tứ Đại và Ngũ Uẩn là thật. Ví như chúng ta nói “không có sách, nhưng có giấy”, [chấp trước] giấy có thật, vì có nhiều trang giấy như thế đóng thành sách, tách ra thì gọi là giấy. Giấy có, sách không có. “Giấy là có”, họ chấp trước điều này! Sự chấp trước này gọi là Pháp Chấp, họ có Pháp Chấp. Vì thế, Tiểu Thừa chẳng thể kiến tánh, nhưng cao minh hơn phàm phu rất nhiều. Phàm phu trong lục đạo đều chấp trước “Ngã lẫn Pháp đều có”, có Ngã, có Pháp, chẳng biết Ngã lẫn Pháp đều là do nhân duyên tụ hay tán, thật sự chẳng có! Thể là Không, Tướng là Giả. Họ chẳng biết chân tướng sự thật này, chẳng thể dùng Trung, mà dùng thiên, dùng tà, lầm lẫn quá lớn!

 

(Sớ) Diêu thị tùng tiền chí hậu, diêu thiển nhập thâm, nãi chí đệ thập, viên dung cụ đức.

() 繇是從前至後,繇淺入深,乃至第十圓融具德。

(Sớ: Do vậy từ trước đến sau, từ cạn mà lãnh hội sâu dần, cho đến môn thứ mười là “các đức trọn đủ viên dung”).

Ở đây đã nhắc đến [mười tông], chúng tôi cũng nói sơ lược nhằm giới thiệu danh từ.

Môn thứ ba là “pháp vô khứ lai tông”, tức là biết hết thảy các pháp chẳng đến, chẳng đi, cao minh hơn Nhị Thừa. Pháp có hay không? Đương nhiên Pháp vẫn là có, nhưng nó chẳng đến, chẳng đi. Hiện thời các nhà khoa học dần dần thấu hiểu đạo lý này: Năng lượng và vật chất có thể chuyển biến thành lẫn nhau, vật chất có thể biến thành năng lượng, năng lượng cô đặc sẽ trở thành vật chất. Vật chất và năng lượng là một, chẳng hai, đầy ắp trong vũ trụ, quả thật chẳng đến, chẳng đi.

Môn thứ tư là “hiện thông giả thật tông”[90]. “Pháp có, Ngã không”, “pháp không đến đi”, “hiện thông giả thật”, ba tông này đều có hai pháp Hữu và Không, “nhân duyên sanh diệt, ngã thuyết tức thị Không” (nhân duyên sanh diệt, ta nói chính là Không), đều bao gồm ý nghĩa này.

Môn thứ năm là “tục vọng chân thật tông”. Tục là pháp thế gian, pháp thế gian là hư vọng. Chân là đối với Tục mà nói, tức là pháp xuất thế gian, nó thật sự tồn tại, có điều này để kiến lập tông chỉ.

Môn thứ sáu là “chư pháp đản danh tông” (các pháp chỉ có cái tên). Chỉ có cái tên, chứ không có thực thể. Hai tông này (tông thứ năm và thứ sáu) đều thiên trọng Không.

Môn thứ bảy “tam tánh không hữu tông”, đây chính là chỗ kiến lập của tông Duy Thức Pháp Tướng. Tam tánh là Y Tha Khởi Tánh, Biến Kế Sở Chấp Tánh và Viên Thành Thật Tánh. [Những giáo nghĩa thuộc tông này] nói về ba tánh và ba vô tánh.

Môn thứ tám là “chân không tuyệt tướng tông”, đây cũng là thiên trọng nơi Không, từ nghĩa Không mà kiến lập.

Môn thứ chín là “không hữu vô ngại tông”, kiến lập trên pháp tánh.

Môn thứ mười là “viên dung cụ đức tông”, kiến lập trên viên dung vô ngại.

 

(Sớ) Tường cụ Hoa Nghiêm Huyền Đàm.

() 詳具華嚴玄談。

(Sớ: [Những môn này] được giảng chi tiết trong Hoa Nghiêm Huyền Đàm).

Nếu quý vị muốn nghiên cứu cặn kẽ mười tông, trong Tam Tạng Pháp Số và Phật Học Từ Điển đều có [giải thích chi tiết]. Giải thích cặn kẽ nhất là Hoa Nghiêm Kinh Huyền Đàm, tức là bộ phận Huyền Nghĩa của Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao.

 

(Sớ) Nhược ước chi vi ngũ.

() 若約之為五。

(Sớ: Nếu nói gọn thì có năm môn).

“Ước” là quy nạp, đem mười tông trên đây quy nạp lại, chẳng ngoài năm loại.

 

(Sớ) Bất xuất Hữu, Không, Pháp Tướng, Pháp Tánh, Viên Dung.

() 不出有、空、法相、法性、圓融。

(Sớ: Chẳng ngoài Có, Không, Pháp Tướng, Pháp Tánh, Viên Dung).

Năm điều này bao quát toàn bộ mười tông.

 

(Sớ) Kim thử kinh giả, tông hồ Pháp Tánh, dĩ Tịnh Độ y chánh tín nguyện đẳng, giai quy nhất tâm, nhất tâm bất loạn, tức Pháp Tánh cố.

() 今此經者 ,宗乎法性 ,以淨土依正信願等 歸一心,一心不亂,即法性故。

(Sớ: Nay kinh này đề cao Pháp Tánh, bởi lẽ, y báo, chánh báo trong cõi Tịnh Độ, tín nguyện v.v… đều quy vào nhất tâm, mà nhất tâm bất loạn chính là Pháp Tánh).

Ý nghĩa này được nói rất khéo, rất viên mãn. Trong sự luận định về biệt nghĩa (ý nghĩa riêng biệt) nơi Tông, [từ chỗ nhìn vào] bộ kinh này thuộc về tầng cấp nào, quý vị cũng thấy được độ sâu của pháp môn này. Pháp môn này thuộc về Pháp Tánh chỉ kém viên dung, viên dung là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Hoa Nghiêm nói Sự Sự vô ngại, kinh này nói Lý Sự vô ngại. Nếu [kinh này cũng] nói Sự Sự vô ngại thì kinh này sẽ là thuần viên như kinh Hoa Nghiêm. Nói như vậy, bộ kinh này còn kém kinh Hoa Nghiêm một bậc. Đã kém kinh Hoa Nghiêm một bậc, cớ sao lại là chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm? Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới làm chỗ quy túc, không sai! Nói thật ra, Tây Phương Cực Lạc thế giới xét theo Hoa Nghiêm là thật, chẳng giả; vì sao tổ sư phán giáo chẳng phán định pháp môn này là viên mãn nhất, mà lại phán định là giáo nghĩa viên mãn kém hơn Hoa Nghiêm? Đây là nói theo căn tánh của chúng ta. Nay đối với chúng ta, nếu nói Sự Sự vô ngại thì [chúng ta] chẳng thể vãng sanh, còn nay chúng ta học Lý Sự vô ngại thì ai nấy đều vãng sanh, đạo lý là như vậy đó. Thế nhưng trong hội Hoa Nghiêm, kinh A Di Đà là thuần viên, là Sự Sự vô ngại, vì sao? [Cảnh giới của] Pháp Thân đại sĩ mà! Pháp Thân đại sĩ đọc kinh Di Đà thì kinh Di Đà là thuần viên. Nay chúng ta là hạng phàm phu lè tè sát đất đọc kinh Di Đà, thấy kinh Di Đà là phần viên thì đã khá lắm rồi, rất khó có rồi! Vì thế, pháp này do [thuận theo căn tánh của] con người mà kiến lập, phải hiểu ý nghĩa này!

“Tịnh Độ y báo, chánh báo” là nói đến thế giới Tây Phương, “Tín – Nguyện – Hạnh” là chúng sanh vãng sanh, đều quy vào nhất tâm. Y báo và chánh báo do nhất tâm hiện, Tín – Nguyện – Hạnh do nhất tâm biến. Vì thế, nhất tâm bất loạn là Pháp Tánh. Pháp Tánh là Phật Tánh, cho nên đức Phật nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh”. Phật Tánh là nhất tâm, hết thảy chúng sanh đều có nhất tâm. Nay quý vị chẳng giữ được nhất tâm, cái tâm bị loạn, vậy là chẳng có cách nào hết. Đó là chuyện của quý vị, người nào cũng chẳng giúp quý vị được, quý vị phải biết điều này!

Do điều này, trong hết thảy các pháp môn, bản thân tôi trong mấy chục năm đã thể nghiệm sự nhiệm mầu của Tịnh Độ. Nhiệm mầu ở chỗ nào? Bất luận chúng ta ở trong hoàn cảnh nào, đãi người, tiếp vật, chúng ta tu nhất tâm chẳng bị chướng ngại. Trong thuận cảnh, mọi người ưa thích ta, ta tu nhất tâm, không bị chướng ngại. Trong nghịch cảnh, người này hận ta, kẻ kia chán ghét ta, người này chửi ta, kẻ nọ muốn đánh ta, ta vẫn tu nhất tâm bất loạn, vẫn chẳng bị trở ngại, tu trong tâm địa của chính mình, chẳng bị ngoại cảnh ảnh hưởng; nhưng tu các pháp môn khác sẽ bị ảnh hưởng. Chẳng hạn như mới học tham Thiền, quý vị nhất định phải có chỗ rất yên tĩnh để tịnh tọa. Người niệm Phật giữa chỗ náo nhiệt vẫn một mực niệm A Di Đà Phật, miệng chẳng niệm, tâm ta niệm, chẳng trở ngại! Đi, đứng, nằm, ngồi chẳng rời niệm này, cách này rất tuyệt! Vì thế, dụng công trong pháp môn này chẳng bị chướng ngại. Đi, đứng, nằm, ngồi đều có thể niệm, nằm trên giường cũng có thể niệm, thuận tiện lắm! Những pháp môn khác có rất nhiều chỗ chẳng thuận tiện như phương pháp này!

Có thể nói phương pháp này là một phương pháp tu hành chẳng bị ngoại cảnh quấy nhiễu mảy may, là phương pháp dễ thành tựu nhất, giống như trong kinh Hoa Nghiêm đã thị hiện “trải qua sự để luyện tâm”. Sự là gì vậy? Cảnh giới! Trong hết thảy cảnh giới, rèn luyện điều gì? Rèn luyện cái tâm thanh tịnh của chính mình. Đối với cảnh giới bên ngoài, khi ấy hãy xét mình có tâm tham hay không? Có tâm sân hay không? Có tâm ngu si hay không? Có thể thấy được! Đối diện hết thảy người và việc đều hiểu rõ ràng, hiểu Không, Giả, Trung, đó là chẳng ngu si. Trong thuận cảnh chẳng khởi tâm tham, trong nghịch cảnh chẳng khởi tâm sân, đó là nhất tâm bất loạn, đó là công phu chân chánh. Vì thế, quý vị tu hành mà tách rời hoàn cảnh bên ngoài thì đến nơi đâu để tu? Không có chỗ nào để tu cả! Tu hành chẳng thể lìa khỏi xã hội, chẳng thể lìa khỏi mối quan hệ giữa con người với nhau, chẳng thể tách rời được! Vì lẽ nào? Công phu thật sự phải rèn luyện từ ngay nơi này! Giống như đao muốn bén nhọn, chẳng thể rời khỏi đá mài. Rời khỏi hòn đá mài, đao làm sao sắc bén cho được? Nói thông tục là: “Chẳng thể chịu đựng sự khảo nghiệm của thời đại và quan hệ giữa con người với nhau thì khảo nghiệm ở chỗ nào?” Luyện nhất tâm bất loạn, luyện cái tâm thanh tịnh, công phu của quý vị mới có thể thành tựu. Cái tâm thanh tịnh là Chân Như Phật Tánh của chính mình, phải hiển lộ Chân Như Phật Tánh của chính mình trong hoàn cảnh. Nhất tâm bất loạn là Chân Như của chính mình, là Phật Tánh của chính mình. Hiểu rõ đạo lý này, nếu trong hoàn cảnh, tâm vừa loạn thì tham, sân, si, mạn dấy lên, dấy lên phân biệt, chấp trước, hãy ngay lập tức cảnh giác “Phật Tánh của chúng ta lại mê rồi!” Làm như thế nào để thường xuyên giữ gìn giác chứ không mê, đấy là tu hành thật sự, là công phu chân chánh. Đoạn này là nói chung. Đoạn thứ hai là dị giải (giải thích về những cách phán định Tông Thú khác biệt).

 

(Huyền Nghĩa) Kim minh thử kinh, cổ hữu đa giải.

(玄義) 今明此經,古有多解。

(Huyền Nghĩa: Nay nêu rõ, đối với kinh này từ xưa đã có nhiều người giải thích).

 Từ xưa đến nay, người giảng kinh Di Đà rất nhiều, giải thích rất nhiều.

 

(Huyền Nghĩa) Hữu vị tín nguyện vi Tông.

(玄義) 有謂信願為宗。

(Huyền Nghĩa: Có người nói kinh này lấy tín nguyện làm Tông).

 Có người chủ trương như vậy.

 

(Huyền Nghĩa) Hữu vị siêu quá tam giới nhị chủng thanh tịnh vi Tông, linh chư chúng sanh đắc Bất Thoái Chuyển vi Thú.

(玄義)有謂超過三界二種清淨為宗,令諸眾生得不退轉為趣。

(Huyền Nghĩa: Có người bảo “hai thứ thanh tịnh vượt trỗi tam giới là Tông, khiến cho các chúng sanh đắc Bất Thoái Chuyển là Thú”).

Đương nhiên cách nói này cũng không sai, cũng có lý!

 

(Sớ) Tín nguyện vi Tông giả, chư giải đa đồng.

() 信願為宗者,諸解多同。

(Sớ: Phần đông các nhà chú giải chấp nhận tín nguyện là Tông).

Rất nhiều người giảng kinh Di Đà chủ trương như vậy, đủ thấy đây chẳng phải là kiến giải của một cá nhân, mà là kiến giải của nhiều người.

 

(Sớ) Dĩ kinh trung lũ ngôn: “Nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ” cố.

() 以經中屢言 若有信者 ,應當發願 ,生彼國土故。

(Sớ: Do trong kinh nhiều lượt nói: “Nếu là người có lòng tin, hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước ấy”).

Họ có kinh văn để làm chứng cứ, chẳng phải là nói tùy tiện, xác thực là như thế. Trong phần sau, chúng ta sẽ lại bàn về vấn đề này. Cách nói của Liên Trì đại sư chính là nhằm mở rộng vấn đề này tinh vi hơn, nhưng cũng chẳng rời khỏi nguyên tắc này.

 

(Sớ) Nhị chủng thanh tịnh giả.

() 二種清淨者。

(Sớ: Hai thứ thanh tịnh là…)

“Hai thứ thanh tịnh” là nói về điều gì vậy? Chính là y báo và chánh báo.

 

(Sớ) Luận ngôn Cực Lạc thế giới, y chánh nhị báo, thanh tịnh trang nghiêm, phi tam giới sở cập, cố dĩ vi Tông.

() 論言極樂世界 ,依正二報 ,清淨莊嚴 非三界所及,故以為宗。

(Sớ: Vãng Sanh Luận nói y báo và chánh báo trong thế giới Cực Lạc thanh tịnh trang nghiêm, ba cõi chẳng thể bằng, nên lấy hai thứ ấy làm Tông).

Chữ “luận” chỉ Vãng Sanh Luận do Thiên Thân Bồ Tát soạn. Vãng Sanh Luận cũng khuyên người ta niệm Phật cầu sanh về thế giới Tây Phương, vì bản thân Thiên Thân Bồ Tát phát nguyện cầu sanh Tây Phương. Ngài nói y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh, trang nghiêm, thế giới Sa Bà chẳng thể sánh bằng, không có cách nào so sánh được! Có những người dựa theo cách nói của Vãng Sanh Luận, coi đó là tông chỉ [của kinh Di Đà].

 

(Sớ) Nhi yếu kỳ sở quy, vị linh chúng sanh, sanh bỉ thanh tịnh Cực Lạc quốc độ, sanh bỉ quốc dĩ, tức bất thoái chuyển, dĩ thử vi Thú.

() 而要其所歸 為令眾生 ,生彼清淨極樂國土 生彼國已,即不退轉,以此為趣。

(Sớ: Nhưng xét đến mục đích thì là làm cho chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc thanh tịnh, đã sanh về cõi ấy liền được bất thoái chuyển, lấy điều này làm Thú).

Lấy điều này làm chỗ quy hướng, cách nói này cũng hết sức có lý. Bởi lẽ, nếu Bồ Tát chẳng tu hành trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định bị thoái chuyển, chuyện này phiền phức lắm! Trong mười phương thế giới, Bồ Tát tu hành thì phải tu đến khi nào mới chẳng bị thoái chuyển? Phải tu đến Bát Địa, Bát Địa gọi là Bất Động Địa, chẳng còn thoái chuyển nữa. Từ Thất Địa trở về trước, thưa quý vị, đều bị mê

khi cách ấm, đều thoái chuyển. Vì thế, kinh Vô Lượng Thọ đã nói: Có vô lượng Bồ Tát phát Bồ Đề tâm, trụ Bồ Tát đạo. Nói “trụ Bồ Tát đạo” là trong tâm thường nghĩ đến Lục Độ, tức Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Bát Nhã, dùng cái tâm này, dùng sáu cái tâm này để tự hành, hóa độ người khác. Đó gọi là “trụ Bồ Tát đạo”. Cúng dường bốn trăm ức Phật, quý vị nghĩ xem phước báo của họ lớn chừng nào! Chẳng qua người Ấn Độ nói Ức thì chẳng phải là một vạn vạn là một Ức, mà là mười vạn là một Ức, [dẫu Ức của họ nhỏ như vậy] cũng đã bất phàm rồi! Cúng dường bốn trăm ức Phật, vẫn bị cách ấm, vẫn bị thoái chuyển!

Điều này khuyến khích, cổ vũ chúng ta nhất định phải phát tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh cũng chẳng bị thoái chuyển, đều viên chứng ba thứ Bất Thoái. Bởi lẽ, y báo và chánh báo bên ấy thanh tịnh trang nghiêm, “tam giới chẳng thể sánh bằng”. Tam giới nói theo nghĩa hẹp là thế giới Sa Bà của chúng ta, theo nghĩa rộng là thế giới của chư Phật trong mười phương! Các thế giới của chư Phật trong mười phương đều là tam giới, đều chẳng sánh bằng Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu sánh bằng thì vì sao mười phương chư Phật đều khuyên mọi người hãy vãng sanh [Cực Lạc]? Đạo lý này rất hiển nhiên! Các cõi nước Phật trong mười phương đều chẳng thanh tịnh trang nghiêm bằng thế giới Tây Phương! Vì thế, các vị đồng tu phải chân thật tu học pháp môn này, mong trong một đời này, chúng ta sẽ đạt mục đích. Vì sao phải giảng kinh giáo? Giảng kinh giáo nhằm mục đích nào? Nhằm kiên định lòng tin, trừ nghi hoặc cho quý vị, cổ vũ, khích lệ quý vị phát nguyện, mục đích giảng kinh là ở chỗ này! Nếu quý vị đầy đủ tín nguyện, nói cách khác, điều quan trọng nhất sau tín nguyện là niệm Phật. Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 85

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm bốn mươi mốt.

Trong phần Dị Giải, những quan điểm được nêu ra trong các bản chú sớ của cổ đức đương nhiên đều rất có lý, đều chẳng mâu thuẫn với chánh kinh.

Hôm nay, đoạn văn chúng ta sắp thảo luận chính là lời quyết đoán của Liên Trì đại sư: Tông Thú thật sự rốt ráo ở chỗ nào.

 

(Huyền Nghĩa) Thử kinh tông hồ Pháp Tánh, ư Pháp Tánh trung, phục phân tổng biệt, tổng nhi hợp chi, vị thị y chánh thanh tịnh, tín nguyện vãng sanh, dĩ vi Tông Thú.

(玄義) 此經宗乎法性 ,於法性中 ,復分總別 總而合之,謂是依正清淨,信願往生,以為宗趣。

(Huyền Nghĩa: Kinh này đề cao Pháp Tánh. Trong Pháp Tánh, lại chia thành Tổng và Biệt. Trong phần Tổng [Tông Thú], nói gộp lại [những ý kiến của chư cổ đức] thì lấy “y báo và chánh báo thanh tịnh, tín nguyện vãng sanh” làm Tông Thú).

Ý nghĩa này quả thật đã khái quát rất viên mãn những ý kiến về Tông Thú do cổ đức đề ra. Trước tiên nói “tông hồ Pháp Tánh” (đề cao Pháp Tánh), vì trong Ngũ Giáo, pháp môn Niệm Phật thuộc về Đại Thừa Chung Giáo, cũng là giai đoạn cuối cùng của Đại Thừa, đồng thời còn thuộc về Đốn Giáo, là pháp môn đốn siêu. Nó cũng có chút phần ý nghĩa Viên Giáo, Lý Sự vô ngại, thông với kinh Hoa Nghiêm. Đại Thừa Chung Giáo nói về Pháp Tánh, tuy cũng nói về Pháp Tướng, nhưng những Pháp Tướng được nói tới cuối cùng đều quy vào Pháp Tánh. Kinh này cũng mang ý nghĩa ấy, vì trong kinh này dạy “viên chứng ba thứ Bất Thoái”, hãy đặc biệt chú ý tới chữ Viên vì trong hết thảy các pháp môn không có chữ này! Ba thứ Bất Thoái Chuyển chính là Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái, trong thế gian chúng ta rất khó đạt được, quả thật chẳng dễ dàng! Vị Bất Thoái chắc chắn chẳng đọa trong ba ác đạo; nói cách khác, bảo đảm chẳng lui sụt, đạt được bảo đảm. Điều này không chỉ cần phải có Thiền Định, mà còn cần trí huệ quán chiếu, vì sao? Trong Kiến Tư phiền não, nhất định phải đoạn tất cả tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới.

Nếu chẳng đoạn Kiến Tư phiền não, dẫu công phu định lực tốt đẹp tới đâu đi nữa, có thể sanh vào trời Tứ Thiền, hay có thể sanh vào cõi trời Tứ Không, vẫn là lục đạo phàm phu! Sanh lên trời Tứ Thiền, khi thọ mạng trong cõi trời Tứ Thiền đã hết, vẫn phải đọa lạc! Tứ Không Thiên cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, vẫn phải đọa lạc, luân hồi! Phàm là địa vị càng cao, đọa lạc càng nặng. Khi thọ mạng của chư thiên Tứ Thiền, Tứ Không đã hết, nếu chẳng đọa địa ngục, sẽ đọa trong súc sanh đạo; hơn nữa, quá nửa là đọa địa ngục, đúng như câu nói: “Trèo cao, ngã đau”. Tiểu Thừa Sơ Quả công phu định lực chẳng bằng Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Thiên, nhưng họ có trí huệ, có huệ giải, có thể đoạn phiền não. Các đồng tu thật sự học Phật nhất định phải chú ý: Phiền não chẳng đoạn, chẳng thể liễu sanh tử! Nếu quý vị chẳng bị phiền não quấy nhiễu, đời này có thể thành Phật; quý vị bị phiền não nhiễu loạn, e rằng đời sau chẳng dễ gì sanh trong hai đường trời người. Vấn đề này hết sức nghiêm trọng, ai cũng chẳng giúp được!

Đoạn trừ tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc là địa vị Kiến Đạo trong Tiểu Thừa. Vị ấy đã thấy đạo, thấy đạo rồi sẽ tu đạo, đó mới là Vị Bất Thoái, chắc chắn chẳng đọa trong ba ác đạo. Vị ấy tu hành chứng quả cũng có kỳ hạn, bảy lần sanh trong cõi trời hay cõi người sẽ đoạn Tư Hoặc; Tư Hoặc đoạn rồi bèn chứng quả A La Hán. Sau khi đã chứng A La Hán, hồi Tiểu hướng Đại, mới có thể đạt đến Hạnh Bất Thoái. Hạnh Bất Thoái chẳng còn lui sụt xuống Nhị Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác); nói cách khác, vị ấy quyết định là Đại Thừa Bồ Tát, chẳng bị lùi xuống địa vị Tiểu Thừa. Niệm Bất Thoái là mong thành Phật, niệm niệm đều tinh tấn hướng về Vô Thượng Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển, đó là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo, hay Sơ Địa trong Biệt Giáo. Đó gọi là “niệm niệm lưu nhập biển Tát Bà Nhã”, biển Tát Bà Nhã (Sarvajña) chính là Vô Thượng Bồ Đề, chẳng bị thoái chuyển nữa. Tuy vị ấy đã chứng ba thứ Bất Thoái Chuyển, nhưng chưa viên, “viên” là viên mãn! Viên mãn ba thứ Bất Thoái chính là bậc Đẳng Giác Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc Bồ Tát đã viên chứng ba thứ Bất Thoái.

Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị chẳng vãng sanh thì thôi, hễ vãng sanh, dẫu chỉ là hạ hạ phẩm vãng sanh, đều viên chứng ba thứ Bất Thoái. Quý vị hãy suy nghĩ: Tiện nghi như thế tìm ở đâu ra! Ai nấy đều mong vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, có vãng sanh hay chăng? Nói thật ra, được vãng sanh hay không, chớ hỏi ai khác, hãy hỏi chính mình! Nếu người khác tán thán quý vị: “Quý vị nhất định [vãng sanh] chẳng có vấn đề gì!” Kẻ ấy hoàn toàn chẳng bảo đảm! Đến khi ấy, quý vị có thể vãng sanh hay không vẫn phải dựa vào chính mình. So với chuyện tu học các pháp môn khác, điều này vẫn tốt hơn nhiều lắm, vẫn dễ đạt hơn nhiều. Thế nhưng quý vị vẫn phải tự trừ bỏ chướng ngại, tự buông vọng tưởng xuống! Chướng ngại chẳng thể trừ bỏ, vọng tưởng chẳng thể buông xuống được, thì một câu Phật hiệu chưa niệm đắc lực. Đối với công phu như vậy, trong lúc bình thường, chúng ta phải kiểm nghiệm, kiểm thảo xem câu Phật hiệu của chính mình có niệm đắc lực hay chưa. Đắc lực là gì? Khi ta niệm câu Phật hiệu này, quả thật có niệm trừ được phiền não, vọng tưởng của mình. Khi chẳng niệm Phật, phiền não, vọng tưởng lại dấy lên. Khi niệm Phật, quả thật có thể bỏ được phiền não, vọng tưởng; công phu như thế gọi là “đắc lực”. Nếu niệm tới niệm lui mà vọng tưởng phiền não vẫn dấy lên như cũ thì niệm Phật hiệu chẳng đắc lực! Chính mình phải tự hiểu tình huống này, làm cách nào để giúp cho chính mình có công phu đắc lực mới nắm chắc vãng sanh.

Cổ đức cũng nói: “Người niệm Phật phải thường dán một chữ Chết trên trán”. Chúng ta phải hiểu dụng ý thật sự của câu nói này. Thứ nhất là nâng cao sự cảnh giác của chính mình; thứ hai là dạy chúng ta hãy buông xuống muôn duyên. Đó gọi là “sanh ra chẳng mang theo gì đến, chết chẳng mang theo gì đi”, “muôn thứ đem chẳng được, chỉ có nghiệp theo thân”, quý vị chẳng thể mang theo gì cả! Khuyến khích chúng ta hãy buông xuống! Thân tâm, thế giới, hết thảy đều buông xuống, công phu dễ đắc lực. Có ý niệm cảnh giác này, quý vị sẽ tinh tấn chẳng lười, chẳng dám khinh dễ, bỏ lỡ tháng ngày quý báu, dùng thời gian quý báu này để dấy vọng tưởng, vì sao chẳng dùng thời gian ấy để niệm Phật, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới? Hoàn toàn chẳng giống nhau!

Quý vị thành Phật thì mới thật sự có thể yêu thương, che chở người nhà. Nếu quý vị chẳng thành Phật, vô dụng! Sau khi đã thành Phật, bất luận người nhà quyến thuộc ở trong nẻo nào, quý vị đều nhận biết, đều có thể tìm được họ, đều có thể giúp đỡ họ. Nếu quý vị chẳng thành Phật, chính mình một mực hồ đồ, người nhà quyến thuộc có đầu thai vào nhà quý vị, quý vị cũng chẳng nhận biết, thật đấy! Có cha mẹ thân yêu nhất, con cái sau khi đã chết, bèn đầu thai làm chó, làm gà trong nhà mình, quý vị cũng chẳng biết, một mực giết chúng để ăn. Trong kinh Phật, chúng ta đã thấy [nói tới] điều này, do không biết mà!

“Nhất niệm bất sanh” là Phật, “nhất tâm bất loạn” chắc chắn thấy Phật; vì thế, nói là “tông hồ Pháp Tánh” (đề cao Pháp Tánh). Trong Pháp Tánh, lại chia thành Tổng và Biệt. Ý nghĩa Tổng là “y báo và chánh báo thanh tịnh, tín nguyện vãng sanh”. Đó là nghĩa chung, chúng ta hãy xem lời chú giải.

 

(Sớ) Thủ tiền nhị thuyết kiêm hợp ngôn chi, tổng vi Tông Thú, dĩ tiền thuyết bất cai y chánh, hậu thuyết vị tường tín nguyện, cố tu kiêm hợp, thỉ đắc vô di.

()取前二說兼合言之,總為宗趣,以前說不該依正,後說未詳信願,故須兼合,始得無遺。

(Sớ:  Lấy  hai  thuyết trên đây cùng gộp lại để nói, tổng hợp thành

Tông Thú. Bởi lẽ, thuyết trước chẳng bao gồm y báo và chánh báo, thuyết sau chẳng nói rõ tín nguyện, nên phải hợp lại thì mới chẳng thiếu sót gì).

Liên Trì đại sư nhận định cách nhìn của cổ đức. Trong phần trước, dựa theo lời cổ đức, có bản chú giải lấy tín nguyện làm Tông, có những bản chú giải lấy y báo và chánh báo thanh tịnh làm Tông, ý nghĩa đều chẳng viên mãn, đều lệch vào một bên. Liên Trì đại sư nói: Ý chỉ chính xác phải gồm cả hai điều này. Vì thế, hợp thuyết “y báo và chánh báo thanh tịnh” và “tín nguyện vãng sanh” của cổ đức làm Tông Chỉ sẽ chẳng bị thiếu khuyết ý nghĩa.

 

(Sớ) Lương diêu y chánh tín nguyện, kiêm bị giao tư, nhi đắc vãng sanh, giai bất xuất tự tâm cố.

()良繇依正信願,兼備交資而得往生,皆不出自心故。

(Sớ: Ấy là vì y báo, chánh báo, tín nguyện đều trọn đủ, phụ trợ lẫn nhau, bèn được vãng sanh, đều chẳng ra ngoài tự tâm).

Có tín, có nguyện, nếu không có y báo và chánh báo trang nghiêm nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới, tín và nguyện của chúng ta đều phí uổng; vì thế, nhất định phải nương vào “y báo và chánh báo thanh tịnh” để giúp đỡ “tín nguyện” của chúng ta. Chúng ta thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp như thế thì mới khởi tín tâm, mới phát nguyện vãng sanh. Xem chuyện này trong kinh Vô Lượng Thọ, quý vị xem bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, vừa đọc bốn mươi tám nguyện bèn chẳng thể không [phát nguyện] vãng sanh! Thấy có thế giới tốt đẹp dường ấy, hoàn cảnh tốt đẹp dường ấy, làm sao có thể không sanh về? Không nghe nói tới, chưa thấy, tín nguyện chẳng sanh khởi; chứ nghe rồi, thấy rồi, nhất định sẽ mong sanh về. “Tư” là tư trợ (資助: giúp đỡ), giúp đỡ quý vị, giúp quý vị sanh tín tâm, giúp quý vị phát nguyện, nẩy sanh nguyện vọng cầu vãng sanh. Có y báo và chánh báo thanh tịnh của Tây Phương, mà nếu chẳng có tín nguyện, cõi nước thanh tịnh ấy có liên quan gì với chúng ta đâu nhỉ? Chẳng có liên quan gì! Do vậy, nhất định phải có tín, có nguyện, như thế thì mới có thể giúp chúng ta đích thân chứng được hai thứ quả báo nơi y báo và chánh báo bên Tây Phương. Đủ thấy “y báo, chánh báo thanh tịnh” và “tín nguyện vãng sanh” là một, không hai!

“Giai  bất  xuất  tự  tâm giả” (đều chẳng ra ngoài tự tâm), chắc có kẻ hoài nghi, đã là “y báo, chánh báo, tín nguyện vãng sanh là Tông Thú”, cần gì phải nói “Pháp Tánh là Tông”? Do vậy, ở đây Liên Trì đại sư phải giảng giải rõ ràng. Cổ đức có vị nói kinh Hoa Nghiêm lấy “vô ngại thậm thâm pháp giới làm Tông”, cũng có người nói “lấy duyên khởi làm Tông, pháp giới duyên khởi chính là lẫn nhau, nhập vào lẫn nhau”, cũng có người nói “lấy nhân quả làm Tông”. Đủ thấy đại đức đối với Tông Thú có cách nhìn không nhất định, mỗi người có cách nhìn riêng, đều nói có lý, tùy thuộc người ấy nhìn từ góc độ nào. Có rất nhiều cách nói, chúng ta đều có thể dùng làm tham khảo.

Trước khi đức Phật nhập Niết Bàn, đã răn dạy đệ tử đời sau, hãy nương theo Tứ Y Pháp! Tuân thủ Tứ Y Pháp sẽ giống hệt, chẳng khác gì đức Phật tại thế. Điều thứ nhất trong Tứ Y Pháp là “y pháp, chẳng y nhân”. Pháp là kinh điển, chúng ta phải nương tựa vào đó. “Nhân” là gì? Chú giải do con người viết lời giải thích; vì thế, từ xưa đến nay nhiều bản chú giải của cổ đức chỉ để cho chúng ta tham khảo. Chúng ta nương vào kinh, như thế thì mới chẳng có thiên kiến, chẳng đi sai đường. Bất luận cổ nhân nói như thế nào, chúng ta nghe thử, nếu hợp lý thì chọn lấy một phần, tôi quyết định chẳng hoàn toàn đi theo Ngài. Chính mình làm như vậy thì mới có thể khai ngộ, mới có kiến giải của chính mình. Nếu không, bị người khác xỏ mũi lôi đi, không được rồi! Thế nhưng có không ít đồng tu mắc phải bệnh này, hễ nghe, học điều gì đầu tiên sẽ coi điều ấy là chánh yếu, chịu ảnh hưởng của vị tổ sư đại đức tiếp xúc lần đầu, chấp trước kiến giải của vị ấy là đúng, bài xích những ý kiến bất đồng của người khác. Đó là lầm lỗi, là “y nhân, chẳng y pháp”. Tuy tổ sư đại đức rất cao minh, họ chưa thành Phật, kiến giải của họ chưa phải là viên mãn rốt ráo, họ chỉ có thể thấy được một phần. Vì thế, chúng ta chỉ có thể dùng [kiến giải của họ] làm [tài liệu] tham khảo, chớ nên hoàn toàn vâng theo họ.

Kinh Hoa Nghiêm nói về hành vi của Bồ Tát vô cùng rõ ràng, lại còn nói đến tu hành chứng quả. Thanh Lương đại sư chia toàn bộ bản kinh thành bốn đoạn lớn là Tín, Giải, Hành, Chứng, thứ tự vô cùng tinh nghiêm, cuối cùng là mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Có người nói kinh Hoa Nghiêm “lấy Hải Ấn tam-muội lý thật làm Tông”, có người bảo “lấy nhân quả và lý thật hợp làm Tông”, nhân quả là hạnh vị, lý thật là pháp giới. Đấy là cách nhìn của cổ đức đối với kinh Hoa Nghiêm, rất tương tự cách nhìn của cổ đức đối với kinh này [như đã nói] trong phần trên. Hiền Thủ đại sư đã dung hợp rất nhiều cách nhìn của các đại đức từ xưa thành một; nay Liên Trì đại sư có cách nhìn này, chẳng phải là do Ngài sáng tạo, phát hiện, Ngài cũng có căn cứ: Ngài cũng tuân theo lời khải thị của Hiền Thủ đại sư.

 

(Sớ) Kỳ tổng vi Tông Thú giả, như Hoa Nghiêm lệ.

() 其總為宗趣者,如華嚴例。

(Sớ: Tổng Tông Thú của kinh này phỏng theo [cách phán định Tông Thú] của kinh Hoa Nghiêm).

Giống như chúng tôi vừa mới nói với quý vị [những điều này].

 

(Sớ) Bỉ kinh diệc kiêm chúng thuyết, tổng nhân quả duyên khởi Lý Thật pháp giới dĩ vi Tông Thú cố.

()彼經亦兼眾說,總因果緣起理實法界以為宗趣故。

(Sớ: Kinh ấy cũng bao gồm các thuyết, gộp chung nhân quả, duyên khởi, Lý Thật, pháp giới làm Tông Thú).

Cách nói này rất có lý, Ngài cũng có căn cứ.

 

(Sớ) Nhược dục phân chi.

() 若欲分之。

(Sớ: Nếu muốn tách ra).

Phân chia, vạch giới hạn rõ hơn một chút.

 

(Sớ) Thượng cú vi Tông, hạ cú vi Thú, nghĩa diệc tự minh.

() 上句為宗,下句為趣,義亦自明。

(Sớ: Câu trên là Tông, câu dưới là Thú, ý nghĩa cũng tự sáng tỏ).

“Thượng cú vi Tông, hạ cú vi Thú” (câu trên là Tông, câu dưới là Thú), lấy kinh Hoa Nghiêm làm thí dụ, [Tông của] kinh Hoa Nghiêm là “nhân quả, duyên khởi”, đây là câu trên, là tông chỉ của kinh, “Lý Thật, pháp giới” là Thú. Tuân theo thể lệ [phán định Tông Thú] của kinh Hoa Nghiêm, đối với kinh Di Đà, “y báo, chánh báo thanh tịnh” là Tông, “tín nguyện vãng sanh” là Thú.

 

(Sớ) Nhược dục gia chi, bỉ kinh gia bất  tư  nghị, kim  kinh  diệc nhĩ.

() 若欲加之,彼經加不思議,今經亦爾。

(Sớ: Nếu muốn thêm nữa thì kinh kia (kinh Hoa Nghiêm) còn thêm vào “chẳng nghĩ bàn”, kinh này (kinh Di Đà) cũng thế).

Kinh Di Đà cũng là chẳng nghĩ bàn, cũng là kinh chẳng thể nghĩ bàn. Thêm vào theo cách nào? Lấy kinh này làm mẫu thì “y báo và chánh báo thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn” là Tông, “tín nguyện vãng sanh chẳng thể nghĩ bàn” là Thú. Tín nguyện vãng sanh cũng chẳng thể nghĩ bàn, tuyệt diệu!

 

Nhị, biệt minh.

(Huyền Nghĩa) Hựu biệt minh chi, tắc thành ngũ đối: Nhất giáo nghĩa, nhị Sự Lý, tam cảnh hạnh, tứ hạnh tịch, ngũ tịch dụng, dĩ vi Tông Thú.

二、別明

(玄義) 又別明之 ,則成五對 :一教義 ,二事理 ,三境行,四行寂,五寂用,以為宗趣。

(Hai là nói riêng về Tông Thú của kinh này.

Huyền Nghĩa: Lại nói Tông Thú riêng của kinh này sẽ gồm năm cặp: Một là giáo nghĩa, hai là Sự Lý, ba là cảnh hạnh, bốn là hạnh tịch, năm là tịch dụng. Dùng [năm cặp ý nghĩa này] làm Tông Thú).

Trong đoạn này, Liên Trì đại sư giải thích Tông Thú cặn kẽ, mà cũng là đặc biệt đề cao công dụng của bộ kinh này, mục đích không gì chẳng nhằm mong chúng ta sẽ phát khởi tín nguyện chân chánh. Cách nói này quả thật cũng là bất đắc dĩ, vì thông thường, người thế gian xem nhẹ kinh này. Tuy người niệm tụng kinh Di Đà rất nhiều, trong giới Phật giáo chẳng coi trọng kinh này cho lắm. Phân lượng kinh này ngắn hơn những bộ kinh lớn như kinh Kim Cang, kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm quá nhiều. Thật ra, kinh Di Đà trọng yếu hơn tất cả các kinh, nhưng mọi người chẳng biết giá trị. Vì thế, Liên Trì đại sư bất đắc dĩ phải tốn ngần ấy tinh thần để phân tích cặn kẽ cho chúng ta!

[Sách Diễn Nghĩa nhận định]: “Thế nhân đa nghi thử kinh văn nghĩa thô thiển” (người đời phần nhiều ngờ kinh này là thô thiển), coi rẻ kinh này, coi thường kinh này, “giáo nghĩa nhất đối túc dĩ phá trừ giá cá kiến giải” (cặp ý nghĩa “giáo nghĩa” đủ để phá trừ kiến giải này), chuyển biến cách nhìn của chúng ta đối với kinh này. “Ngu giả đa chấp Sự nhi mê Lý, Sự Lý nhất đối năng phá trừ tha” (Kẻ ngu phần nhiều chấp Sự mê Lý, cặp ý nghĩa Sự Lý có thể phá trừ kiến chấp ấy). “Cuồng vọng đích nhân đa chấp Lý nhi phế Sự, cảnh hạnh nhất đối túc dĩ phá chi” (kẻ cuồng vọng phần nhiều chấp Lý phế Sự, cặp “cảnh hạnh” đủ để phá trừ). Có thể có kẻ ngờ pháp môn Niệm Phật là pháp hữu vi, chẳng phải là pháp vô vi. Pháp hữu vi nông cạn, không cao minh như pháp vô vi, chẳng bằng Thiền. “Hạnh tịch nhất đối túc dĩ phá chi” (một cặp hạnh tịch đủ để phá [kiến chấp này]). Cũng có người nghĩ “Niệm Phật là Tiểu Thừa giáo, [người tu Tịnh Độ] chỉ mong giải thoát cho riêng mình, chẳng phải là giáo pháp Đại Thừa viên mãn nhất, “tịch dụng nhất đối túc dĩ phá chi” (một cặp tịch dụng đủ để phá trừ). Đại sư dùng năm cặp [ý nghĩa] này để thuyết minh.

– Thứ nhất là “giáo nghĩa”: Giáo là ngôn giáo, Nghĩa là nghĩa lý. Người có trí huệ có thể từ một chữ hay một câu trong kinh văn mà hiểu vô lượng nghĩa, nhưng người ngu chỉ biết niệm tụng, chẳng hiểu ý nghĩa. Vì thế, chẳng thể không nêu tỏ [những ý nghĩa được bao hàm trong] cặp “giáo nghĩa”. Rốt cuộc, người trí ít ỏi, kẻ ngu đông đảo nên tất yếu phải thảo luận [“giáo nghĩa”].

– Thứ hai là Lý Sự, Sự là nói tới “y, chánh, tín, nguyện”, tức y báo, chánh báo, khởi lòng tin, phát nguyện, những điều này đều là Sự. Lý là tự tánh, là Pháp Tánh. Mỗi một điều trong Sự như “y, chánh, tín, nguyện” đều quy về, hòa nhập vào tự tánh, tức là: Lý và Sự là một, Sự là Sự của Lý, Lý là Lý của Sự, Lý và Sự chẳng hai. Đương nhiên đối với những kẻ chấp Sự mê Lý, họ chẳng hiểu chỉ thú chân thật của kinh này.

– Thứ ba là “cảnh hạnh”. Cảnh là cảnh pháp giới, mà cũng là A Di Đà Phật. Hạnh là tâm pháp giới, tức là nhất tâm chấp trì. A Di Đà Phật đã là cảnh pháp giới, nay chúng ta niệm một câu [Phật hiệu], dùng nhất tâm để xưng danh, há chẳng phải là dùng tâm pháp giới để nhập cảnh pháp giới ư? Có khác gì kinh Hoa Nghiêm hay chăng? Chẳng khác gì! Do vậy, niệm một câu Phật hiệu, phải đặc biệt ghi nhớ, Phật, Tổ đều dạy chúng ta giống hệt: Nhất tâm xưng danh, nhất tâm đấy nhé! Nhất tâm là gì? Chẳng có ý niệm thứ hai thì là nhất tâm. Do vậy, khi niệm Phật, đừng nghĩ “ta cầu nhất tâm”, vì “cầu nhất tâm bất loạn” là vọng niệm, là nhị tâm. Niệm A Di Đà Phật, trong tâm lại nghĩ đến nhất tâm bất loạn, vẫn mong thấy Phật, thấy tướng tốt lành, vận dụng cả đống cái tâm vào niệm Phật, không được rồi, đó chẳng phải là nhất tâm niệm. Nhất tâm là thật thà, tức là khi chúng ta niệm Phật, ý niệm gì cũng chẳng nghĩ đến, cũng chẳng nghĩ đến nhất tâm, cũng đừng nghĩ tới vãng sanh, cũng đừng mong thấy Phật, chuyện gì cũng chẳng nghĩ tới, thật thà niệm một câu Phật hiệu. Đó gọi là “nhất tâm xưng niệm”, điều này rất quan trọng!

Vì thế, có kẻ hoài nghi: Chẳng phải là trong kinh dạy chúng ta phải cầu nhất tâm bất loạn đó sao? Dạy chúng ta phải cầu sanh thế giới Cực Lạc đó sao? Vì sao lại chẳng nghĩ đến? Không sai, kinh dạy như thế, [nhưng quý vị phải hiểu]: Dạy quý vị phải có nguyện ấy, nhưng đừng nên có cái tâm ấy. Quý vị có cái tâm ấy, tâm quý vị sẽ biến thành khá nhiều tâm! Quý vị phải có cái nguyện ấy! Đã có cái nguyện ấy, quý vị biết vì sao chúng ta niệm câu A Di Đà Phật? Ta niệm câu A Di Đà Phật để cầu nhất tâm. Trong tâm chúng ta mong cầu nhất tâm, thì sẽ chẳng đạt được nhất tâm. Nay đức Phật dạy chúng ta một phương pháp: Niệm A Di Đà Phật có thể đắc nhất tâm, ta niệm A Di Đà Phật chẳng phải là để cầu nhất tâm bất loạn đó sao? Niệm A Di Đà Phật, trong tâm lại nghĩ đến nhất tâm bất loạn, tức là quý vị chẳng nhất tâm xưng danh, chẳng thật thà, vừa niệm A Di Đà Phật vừa khởi vọng tưởng!

Kinh dạy chúng ta: Niệm A Di Đà Phật có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta nguyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, cách nguyện như thế nào? Niệm A Di Đà Phật chính là phát nguyện. Quý vị chẳng niệm Phật sẽ chẳng thể vãng sanh; niệm Phật bèn có thể vãng sanh. Đủ thấy niệm một câu A Di Đà Phật, Tín – Nguyện – Hạnh đều trọn đủ. Quý vị chẳng biết ý vị này, cho rằng trong một câu Phật hiệu chẳng có gì hết, Tín cũng không có, Nguyện cũng chẳng có, nhất tâm bất loạn cũng chẳng có, thứ gì cũng đều không có. Quý vị niệm như vậy, mỗi ngày niệm mười vạn tiếng, quả thật là không có, vì sao? Vì trong tâm quý vị chẳng biết A Di Đà Phật có những gì. Niệm như vậy rất oan uổng! Cổ nhân nói: “Rách toạc cuống họng cũng uổng công”. Vì thế, quý vị phải hiểu rõ, bất cứ thứ gì cũng đều bao gồm trong một câu A Di Đà Phật; niệm một câu A Di Đà Phật có vô lượng vô biên công đức.

Nhất tâm xưng danh gọi là Nhất Hạnh tam-muội, cũng gọi là Nhất Tướng tam-muội. Quý vị đọc Lục Tổ Đàn Kinh đều biết: Muốn minh tâm kiến tánh thành Phật, làm Tổ, nhất định phải tu hai thứ tam-muội này. Trong Tịnh Độ, hai thứ tam-muội ấy là một câu A Di Đà Phật; chỉ cần quý vị nhất tâm xưng niệm thì hai thứ tam-muội ấy đều đầy đủ.

– Thứ tư là “hạnh tịch”. Hạnh là Nhất Hạnh tam-muội, là nhất tâm xưng niệm. Tịch là Tịch trong Tịch Quang. Nói cách khác, nhất tâm xưng niệm có thể chứng quả báo Thường Tịch Quang. Kinh Hoa Nghiêm gọi quả báo Thường Tịch Quang là Nhất Chân pháp giới, hay “cảnh giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn” (bất khả tư nghị giải thoát cảnh giới). Quý vị dùng phương pháp khác để tu sẽ rất phiền phức, rất khó tu thành công; nhất tâm xưng niệm A Di Đà Phật, dùng phương pháp này dễ dàng, có thể hoàn thành trong một đời. Mấu chốt là nhất tâm xưng niệm, khi niệm Phật đừng nên khởi vọng tưởng!

– Thứ năm là “tịch dụng”, Tịch là bản thể Thường Tịch, Dụng là hằng sa diệu dụng. Hai chữ Tịch Dụng hoàn toàn nói về cảnh giới nơi quả địa Như Lai. Đây là nói đến viên mãn rốt ráo nhất, là Phật quả trong Viên Giáo. Phật đích thân chứng bản thể Thường Tịch, Chân Như bổn tánh. “Thường” là vĩnh viễn chẳng biến đổi, “Tịch” là thanh tịnh tịch diệt, vĩnh viễn là tướng tịch diệt thanh tịnh. Khi khởi tác dụng, sẽ là vô lượng vô biên, rộng độ chúng sanh. Đấy mới là ý chỉ mầu nhiệm của Đại Thừa. Xin hãy xem chú giải:

 

(Sớ) Nhất, Giáo Nghĩa nhất đối giả, dĩ giáo vi Tông, linh đạt nghĩa vi Thú. Ngôn sùng thượng thử niệm Phật vãng sanh chi giáo.

() 一、 教義一對者, 以教為宗, 令達義為趣, 崇尚此念佛往生之教。

(Sớ: Cặp thứ nhất là “giáo nghĩa”: Dùng Giáo làm Tông, khiến cho thông đạt nghĩa lý là Thú, đề cao giáo pháp niệm Phật vãng sanh này).

 “Sùng” (崇) là đề cao, chúng ta đặc biệt đề cao bộ kinh này. Bộ kinh này là sách giáo khoa của Thích Ca Mâu Ni Phật ban cho chúng ta. Nay trong nhiều bộ sách giáo khoa, chúng ta đặc biệt đề cao bộ này là do ý nghĩa nào? Ý tưởng chánh yếu của bộ sách giáo khoa này là dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ; nhưng nếu chúng ta hỏi: Vì sao Phật muốn dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ?

 

(Sớ) Kỳ ý vân hà? Chánh dục hiểu hội kinh trung sở thuyết A Di Đà Phật chánh báo, y báo thanh tịnh trang nghiêm.

()其意云何?正欲曉會經中所說阿彌陀佛正報依報清淨莊嚴。

(Sớ: Có ý nghĩa như thế nào? Chính là vì muốn [cho người nghe] biết chánh báo và y báo thanh tịnh trang nghiêm của A Di Đà Phật như trong kinh đã nói).

Vì sao dạy quý vị niệm Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ? Nhằm nói với quý vị, chánh báo (thân thể) trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh trang nghiêm. Cái thân mà chúng ta có trong thế gian này chẳng kiên cố, sanh, lão, bệnh, tử, thọ mạng ngắn ngủi. Hễ ăn uống không cẩn thận một tí, ngay lập tức thân thể ngã bệnh; trúng phong hàn một chút bèn cảm mạo, thân thể hết sức yếu ớt! Thân thể bên Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là cái thân Kim Cang bất hoại mà lòng chúng ta thường hâm mộ, vĩnh viễn chẳng sanh bệnh. Vì thế, Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng mở tiệm thuốc, chẳng có thầy thuốc, thọ mạng vô cùng dài, vô lượng thọ mà! Đức Phật vô lượng thọ, phàm ai sanh về nơi đó đều là vô lượng thọ, thọ mạng dài. Ở nơi này, chúng ta nếu thọ mạng dài, sống lâu bèn già nua, già nua bèn kém sáng suốt, chịu nỗi khổ tuổi già! Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới trường thọ nhưng chẳng già. Quý vị nghĩ xem, quý vị có muốn về đó hay không? Đừng nói gì khác, chỉ nghe nói điều tốt đẹp này, bèn vội vàng sanh sang đó. Các thế giới của chư Phật trong mười phương đều chẳng có tình hình này, cho nên mới nói: “Các cõi Phật mười phương, A Di Đà đệ nhất”. Đây là nói đến y báo, chánh báo, y báo là hoàn cảnh. Hoàn cảnh nơi ấy quá tốt đẹp.

Theo dự ngôn của Đông phương và Tây phương từ năm nay trở đi, thế giới mỗi năm một hỗn loạn dữ dội hơn; do vậy, hoàn cảnh của chúng ta không tốt! Hoàn cảnh nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp dường ấy, vì sao chẳng sanh về? Giữ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta đều có thể [thoát nạn] kịp lúc, thời gian ba năm hay năm năm là đủ rồi. Sau khi chúng ta tu thành công pháp môn này, thích đi khi nào bèn đi khi ấy, đến ngày địa cầu bị hủy diệt cũng không sao cả, ta đi rồi! Quý vị tự tại lắm, chẳng gặp nạn. Quý vị chẳng có bản lãnh ấy, sẽ bị gặp nạn, chịu sự uy hiếp ấy.

Nay tôi nói thật thà: Học Phật mà tu các pháp môn khác, sẽ [trở tay] chẳng kịp. Chẳng phải là các pháp môn khác không hay, [chỉ vì] các pháp môn khác chẳng nhanh chóng như vậy. Giáo pháp này là Đại Thừa Chung Giáo, Đại Thừa Đốn Giáo. Đốn là nhanh chóng, nhanh hơn Thiền! Thiền kém xa Tịnh, vì Thiền mà chưa minh tâm kiến tánh, sẽ chẳng thể vượt thoát tam giới; dẫu sanh lên trời Tứ Thiền vẫn chẳng thể thoát khỏi luân hồi. Người ấy có thể tránh khỏi tai nạn trên địa cầu, nhưng chưa ra khỏi lục đạo luân hồi, cho nên vẫn kém xa [hành nhân] nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đây là nói về những đạo lý được bao hàm trong giáo nghĩa,  [tức là đạo lý] vì sao chúng ta phải niệm Phật cầu vãng sanh.

 

(Sớ) Tín chi nguyện chi.

() 信之願之。

(Sớ: Tín rồi nguyện).

Chúng ta hiểu rõ giáo nghĩa này sẽ tin tưởng. Chúng ta tin tưởng chuyện niệm Phật vãng sanh, cũng muốn ra đi, bèn phát ra cái nguyện ấy.

 

(Sớ) Tắc sanh bỉ quốc.

() 則生彼國。

(Sớ: Sẽ sanh về cõi ấy).

Đây là kết quả, nhất định có thể sanh về thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật.

 

(Sớ) Giáo trung hữu như thị nghĩa, thị kỳ Thú dã.

() 教中有如是義,是其趣也。

(Sớ: Trong Giáo có nghĩa như vậy, đấy chính là Thú của nó).

“Giáo” là Tông, ý nghĩa [của Giáo] là hướng về (Thú).

 

(Sớ) Bất đồ vi ngữ ngôn văn tự nhi dĩ.

() 不徒為語言文字而已。

(Sớ: Chẳng phải chỉ là ngôn ngữ, văn tự mà thôi).

Chẳng phải chỉ là ngôn ngữ, văn tự. Cổ đức nói: “Suốt ngày chuyển kinh, chẳng biết là suốt ngày bị kinh chuyển”. Trong Lục Tổ Đàn Kinh cũng có ý nghĩa này. Thiền sư Pháp Đạt tụng kinh Pháp Hoa ba ngàn biến, đến gặp Lục Tổ [với thái độ] rất ngạo mạn. Lục Tổ vừa thấy thái độ của ông ta liền biết ngay, Ngài nói: “Trong bụng ông nhất định có thứ gì đó khiến ông cảm thấy mình rất phi thường, nên rất ngạo mạn”. Pháp Đạt thưa là chính mình đã niệm ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa. Mỗi ngày niệm một biến, ba ngàn bộ mất mười năm! Kinh niệm nhuyễn nhừ, nhưng chẳng hiểu ý nghĩa, chỉ biết niệm kinh, chẳng hiểu ý nghĩa. Sư hằng ngày chẳng chuyển Pháp Hoa, mà bị Pháp Hoa chuyển. Chuyển như thế nào? Do niệm nhiều kinh như thế, cảm thấy chính mình có công đức rất lớn, người khác chẳng sánh bằng, ngạo nghễ, ngã mạn. Kẻ khác chẳng niệm kinh ấy, đối với người khác rất khiêm hư, cho rằng ta cái gì cũng không có, khách sáo đối với người khác, điều gì ta cũng thua người khác. Niệm kinh nhiều ngần ấy, cảm thấy chính mình ghê gớm lắm, bị kinh chuyển rồi, lầm mất rồi! Vì thế, Lục Tổ khai thị cho Sư, cảnh tỉnh Sư, dạy Sư phải liễu giải nghĩa thú và nghĩa lý trong kinh; đấy mới là “chuyển kinh”. Vì thế, đọc kinh nhất định phải hiểu Lý; nếu chẳng hiểu Lý, sẽ bị kinh xoay chuyển. Bị kinh xoay chuyển chính là như Thanh Lương đại sư đã nói: “Tăng trưởng tà kiến”. Quý vị chẳng hiểu nghĩa chân thật trong kinh. Quý vị niệm càng nhiều, tà kiến càng lắm, tăng trưởng tri kiến, tăng trưởng phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Nếu thật sự thông đạt nghĩa lý trong kinh, càng đọc kinh này, tâm địa càng thanh lương, phiền não càng ít, phân biệt, chấp trước càng ít. Quý vị chuyển được kinh đấy!

Vì thế, nhiều người trẻ tuổi hiện thời chẳng biết phương pháp nghiên cứu kinh Phật, họ đọc càng nhiều thì càng giống như thiền sư Pháp Đạt: Con mắt dần dần trợn ngược lên đỉnh đầu, coi thường kẻ khác, ngỡ mình học rộng, nghe nhiều, lầm lẫn quá đỗi! Ngay cả học vấn thế gian cũng có chỗ kỵ húy này! Pháp thế gian cũng thường nói: “Khi học vấn sâu, ý khí bình”. Người càng có học vấn, càng khiêm hư. Người càng có học vấn, có đạo đức, càng cảm thấy chẳng bằng ai, càng chẳng dám khinh mạn người khác. Đấy là thật sự có học vấn, có đạo đức, quyết chẳng phải là nói ta đọc càng nhiều sách, càng có học vấn, càng coi thường người khác! Càng có học vấn, càng tự kiêu, tự đại, chẳng có lẽ ấy!

“Bất đồ vi ngữ ngôn, văn tự nhi dĩ” (chẳng phải chỉ có ngữ ngôn, văn tự mà thôi). Ý nghĩa này hết sức sâu. Cổ đức đã từng nói: “Tụng kinh thiên quyển, bất như giải kinh nhất kệ” (Tụng một ngàn quyển kinh, chẳng bằng hiểu một bài kệ trong kinh). Một kệ là bốn câu. Quý vị đọc một ngàn cuốn kinh, chẳng bằng hiểu ý nghĩa của bốn câu kệ; vì quý vị hiểu ý nghĩa bốn câu kệ, sẽ dùng cả đời chẳng hết! Niệm một ngàn bộ kinh, nhưng chẳng hiểu ý nghĩa, khác nào niệm uổng công!

 

(Sớ) Nhị, Sự Lý nhất đối giả, dĩ Sự vi Tông, linh hiển Lý vi Thú.

() 二、事理一對者,以事為宗,令顯理為趣。

(Sớ: Cặp thứ hai là Sự Lý, lấy Sự làm Tông, khiến cho Lý hiển lộ là Thú).

Năm cặp này đều có ý nghĩa liên quan, tầng sau sâu hơn tầng trước. Cặp “giáo nghĩa” trong tầng trước cạn nhất, càng về sau [mỗi cặp ý nghĩa] càng sâu hơn.

 

(Sớ) Thừa thượng nhất kinh ngôn giáo.

() 承上一經言教。

(Sớ: Tiếp nối ngôn giáo của một kinh như [đã nói] trong phần trước).

Tiếp theo những điều đã nói ở trên.

 

(Sớ) Câu ước sở thuyên chi nghĩa, nhi nghĩa trung phục hữu Sự Lý.

() 俱約所詮之義,而義中復有事理。

(Sớ: Đều dựa theo những nghĩa lý được giảng [trong kinh mà lập ra cặp ý nghĩa thứ hai này], nhưng trong nghĩa lý lại có Sự và Lý).

Sự và Lý do đâu mà có? Phần nghĩa lý trong giáo nghĩa lại có Sự và Lý; lấy Sự làm Tông, lấy Lý làm Thú.

 

(Sớ) Ngôn sùng thượng thử y chánh tín nguyện đẳng sự, kỳ ý vân hà? Chánh dục hiển phát Sự trung sở cụ chí Lý, thị kỳ Thú dã.

()言崇尚此依正信願等事,其意云何,正欲顯發事中所具至理,是其趣也。

(Sớ: Đề cao những chuyện như y báo, chánh báo, tín, nguyện v.v… là vì ý gì? Chính là muốn nêu rõ trong Sự có trọn đủ Lý tột cùng, lấy đó làm Thú [của bộ kinh này]).

“Chí Lý” có hai ý nghĩa:

– Một là “tùy văn nhập quán”, đây cũng chính là như cổ nhân đã dạy chúng ta, nghe kinh phải “tiêu quy tự tánh” (dung hợp, quy về tự tánh), có ý nghĩa ấy! Quý vị nghe kinh giảng các Sự, bèn có thể quy hết các Sự ấy về tự tánh, đó là Lý, Lý chính là tự tánh của quý vị. Tu hành phải “chuyển Thức thành Trí”, hai câu này (tức “tiêu quy tự tánh”“chuyển Thức thành Trí”) chính là tổng cương lãnh tu hành trong Phật môn chúng ta. Nghe kinh phải tiêu quy tự tánh, mà đọc kinh cũng phải tiêu quy tự tánh, phải quy về chính mình. Có thể quy về chính mình, quý vị mới hiểu kinh giáo liên quan hết sức mật thiết với chính mình. Tuy chuyện ấy do chính miệng Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra, nhưng đấy chính là nói về những ý nghĩ trong tâm chúng ta. Những điều này có phải là ý nghĩ của Phật hay không? Chẳng phải! Chúng là những ý nghĩ trong tâm của chính chúng ta bị đức Phật nói ra, đó là “quy về tự tánh”. Chính mình chẳng nói ra, người khác nói ra những ý nghĩ trong tâm của chính mình, hãy quy về tự tánh!

– Thứ hai là “y Sự tu tạo” (nương theo Sự để tu tập, tạo tác): Chiếu theo Sự, Sự chính là “y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc thế giới, tín nguyện vãng sanh”, chúng ta chiếu theo những chuyện ấy để nghiêm túc tu học, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ sáng tỏ Lý tự tánh duy tâm, đích thân chứng “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quả thật sẽ chứng đắc cảnh giới ấy. Đây chính là nghĩa thú quan trọng trong cặp Sự Lý.

 

(Sớ) Bất đồ vi sự duyên chi tích nhi dĩ.

() 不徒為事緣之跡而已。

(Sớ: Chẳng phải chỉ là dấu vết nơi sự duyên mà thôi).

“Đồ vi sự duyên chi tích” (chỉ là dấu vết nơi sự duyên), ở đây có hai tình huống:

– Một là đọc sách chấp chết cứng, đọc đến mức ngây ngốc. Tuy hằng ngày đọc sách, chẳng hiểu đạo lý trong ấy. Kẻ ấy hằng ngày đọc, có thể nói suốt ngày dùi mài nơi từng trang giấy cũ, chết cứng trong từng hàng chữ. Loại người như vậy rất đáng tiếc.

– Tình huống thứ hai là hằng ngày niệm Phật, cầm xâu chuỗi “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, nhưng chẳng biết vì sao phải niệm Phật! Chẳng thể quy Phật hiệu về tự tánh. Vì thế, tôi thường nói: Chúng ta niệm một câu Phật hiệu sáu chữ “nam-mô A Di Đà Phật”, hoặc niệm bốn chữ A Di Đà Phật, bốn chữ hay sáu chữ đều là cùng một câu. Từng câu từng chữ đều bao hàm Tín – Nguyện – Hạnh, đều bao hàm y báo, chánh báo, thanh tịnh trang nghiêm, đều bao hàm Giác – Chánh – Tịnh, và cũng bao gồm Giới – Định – Huệ, lục độ, vạn hạnh, không có gì chẳng bao hàm!

Từng câu, từng chữ trong Phật hiệu là sống động, hoạt bát! Quý vị chẳng hiểu ý nghĩa này, suốt ngày từ sáng đến tối lần chuỗi, cổ nhân bảo “rách toạc cuống họng vẫn uổng công”. Thậm chí còn có những kẻ hiểu lầm, trong quá khứ tôi đã nghe đồng tu kể: Có những kẻ niệm Phật để làm gì? Họ nói niệm Phật một tiếng là được một đồng, mai sau chết đi vào trong cõi Âm, tôi niệm Phật càng nhiều càng nhiều tiền! Người còn chưa chết đã chuẩn bị làm quỷ, tích trữ tiền bạc trong cõi Âm để tương lai làm một con quỷ giàu có, chẳng thành quỷ đói, lầm lẫn quá đỗi!

Do đây có thể biết: Niệm Phật chẳng thể không hiểu lý! Cũng có những kẻ hoài nghi, cũng có người nghe rồi coi rẻ. Sách vở từ xưa cũng đã ghi chép có kẻ chưa từng nghe kinh, chẳng hiểu đạo lý, vì sao niệm Phật cũng được vãng sanh? Thật đấy, chẳng giả đâu! Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện đều có chuyện như vậy, thậm chí trong thời gần đây cũng có. Kẻ rất ngu si, chẳng biết chữ, chưa từng học hành, chuyện gì cũng chẳng hiểu, niệm một câu A Di Đà Phật bèn được vãng sanh. Quý vị phải hiểu, tuy người ấy cái gì cũng không biết, nhưng người ấy có tín nguyện. Quý vị hỏi: Niệm Phật để làm gì? [Người ấy đáp]: Tôi muốn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Người ấy biết! Tuy người ấy chẳng biết nhiều, biết một chút là đủ rồi! Người ấy có thể niệm Phật vãng sanh do người ấy đã nhất tâm xưng niệm. Chúng ta thường nói là “thật thà niệm Phật”, người ấy niệm Phật chẳng khởi vọng tưởng, niệm lâu ngày, người ấy bèn thành công.

Vì thế, đối với người niệm Phật, quan trọng nhất là phải buông xuống. Nói “buông xuống” chính là thật sự không có vọng tưởng, hết thảy đều tùy duyên, quyết định chẳng phan duyên, phan duyên là chưa buông xuống được! Phan duyên là gì? Trong tâm nhất định phải làm như thế này như thế nọ, đấy là phan duyên! Tùy duyên là tùy thuận hoàn cảnh, cảnh nghịch xảy đến bèn vâng chịu. Vì sao? Tâm tùy duyên bèn thanh tịnh, bình đẳng; tâm phan duyên chẳng thanh tịnh, chẳng bình đẳng. Điều này có mối quan hệ mang tánh chất quyết định đối với chuyện niệm Phật vãng sanh của chúng ta. Vì thế, thứ gì cũng đều phải buông xuống, điều gì trong cuộc sống trước mắt cũng đều là tốt đẹp, trong cảnh giới thật sự tu cái tâm thanh tịnh, tu tâm bình đẳng, từ bi. Ba tâm này nhất định giúp chúng ta vãng sanh. Chánh trợ song tu, chánh tu là một câu A Di Đà Phật, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng hoài nghi; trợ tu là dùng cái tâm thanh tịnh, bình đẳng, từ bi trong hết thảy hoàn cảnh nhân sự. Người như vậy không ai chẳng vãng sanh; đã thế, vãng sanh nhất định có tướng lành, biết trước lúc mất, không bệnh tật qua đời, lúc mất chẳng ngã bệnh, nói “đi” bèn “đi”. Cận đại, có người đứng mất hoặc ngồi qua đời.

Hôm qua tôi đi xem phim, mấy chục năm tôi chưa hề xem phim. Có thể chấm phim Lục Tổ Truyện được sáu mươi điểm, miễn cưỡng coi như cũng đạt! [Cuộc đời] Lục Tổ có rất nhiều chỗ quan trọng, rất khiến người ta cảm động, rất dễ khơi gợi người khác, nhưng phim chưa thể hiện được, rất đáng tiếc. Lục Tổ ra đi rất tự tại. Triệu tập đại chúng, bảo mọi người, khi nào ta sẽ ra đi, các ông có điều gì hãy hỏi mau! Trước khi Ngài tịch một năm đã hé lộ tin ấy. Quý vị đọc Đàn Kinh thấy Ngài biết trước lúc mất, phái hai người về quê hương Ngài, dựng tháp tại chùa Quốc Ân. Tuy trước khi mất một năm, Ngài chẳng nói rõ, nhưng chuyện này cũng giống như ngầm báo. Trước khi mất một tháng, Ngài mới tuyên bố rõ ràng Ngài sắp ra đi. Chuẩn bị tất cả hậu sự cả năm trước, chẳng ngã bệnh. Khi Ngài ra đi bèn khai thị, nói xong, bảo mọi người: “Ta đi đây”. Ngồi viên tịch, chẳng sanh bệnh. Cận đại, pháp sư Đàm Hư cũng không khác lắm! Quý vị đọc cuốn Ảnh Trần Hồi Ức Lục thấy Đàm Hư đại sư viên tịch tại Hương Cảng, cũng triệu tập các môn đệ của Ngài, dặn dò xong, rất an tường ngồi yên qua đời.

Quý vị nói chúng tôi là người xuất gia, kẻ tại gia sợ làm không được. Tôi lại thưa cùng quý vị: Ở San Francisco có một vị lão cư sĩ là bà Cam, bà ta có một người thân thích, cũng là một bà cụ suốt đời niệm A Di Đà Phật, thân thể rất mạnh khỏe. Khi cụ mất, cũng ngồi qua đời, ra đi trong đêm, người nhà còn đang ngủ, cụ ngồi trên giường, chẳng ngủ. Cụ xếp bằng tịnh tọa trên giường. Đến sáng hôm sau, không thấy cụ mở cửa phòng, người nhà cảm thấy rất lạ lùng: Sao hôm nay bà cụ trễ quá mà chưa dậy? Bà cụ vốn lo việc nhà, nấu cơm, chăm sóc cháu bé là chuyện của cụ. Rất lâu vẫn chưa thấy cụ dậy, gõ cửa phòng, gõ cửa chẳng thấy cụ ừ hử, bèn mở cửa phòng. Mở cửa ra, thấy bà cụ ngồi trên giường, gọi cụ, cụ chẳng trả lời. Xem kỹ, cụ đã mất rồi. Không chỉ đã mất, mà còn biết trước lúc mất, áo tang của mọi người lớn nhỏ trong nhà, chẳng biết cụ đã may sẵn từ lúc nào, từng bộ xếp ngay trước mặt cụ!

Bà cụ ấy rất thú vị, đã sớm biết trước, đã sớm chuẩn bị chu đáo, cụ ra đi! Cụ chẳng nói với người nhà, hễ nói, sẽ đi không được. Đại khái là người trong nhà vừa khóc vừa làm ồn, cụ bị não loạn, không có cách nào ra đi được! Quý vị thấy cụ ra đi thong dong ngần ấy, tự tại dường ấy. Đến khi người nhà phát hiện, cụ đã đến thế giới Cực Lạc rồi! Đó là một vị nữ cư sĩ tại gia, hằng ngày làm việc nhà, hằng ngày bận bịu chăm lo cuộc sống của mọi người, mà cụ tự tại ngần ấy, cụ chuẩn bị nhiều việc dường ấy. Quý vị bèn hiểu: Tối thiểu là [cụ biết trước lúc mất] một tháng trước đó. Nếu không, đồ tang nhiều như vậy, chẳng thể nào may xong trong một hai hôm được! Nhất định là cụ may mà người nhà vẫn không biết, không có ai trông thấy, chắc chắn cụ phải may trong đêm khi mọi người đã ngủ nên không ai biết! Tối thiểu là trước đó một tháng. Đấy là hàng tại gia cư sĩ. Vì thế, biết trước lúc mất, ra đi tự tại, chẳng phải chỉ lợi ích cho hàng xuất gia, mà hàng tại gia cũng làm được! Quý vị thấy bà cụ cao minh lắm, thật sự cao minh! Đây là người hiện thời, chẳng phải cổ nhân. Hôm nay chúng tôi giảng đến đoạn này!

 

— o0o —

Tập 86

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm bốn mươi bốn:

 

(Sớ) Tam, Cảnh Hạnh nhất đối giả, dĩ cảnh vi Tông, linh khởi hạnh vi Thú. Cảnh tức thị sở quán chi Lý, đối năng quán chi Trí, cố danh vi Cảnh. Ngôn sùng thượng thử Lý, kỳ ý vân hà? Ký tri Di Đà tự tánh, Tịnh Độ duy tâm, chánh dục tức thử dĩ vi chân cảnh, nhi khởi quán hạnh, chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, thị kỳ Thú dã, bất đồ vi hiểu đạt thử Lý nhi dĩ.

() 三、 境行一對者, 以境為宗, 令起行為趣。 即是所觀之理,對能觀之智,故名為境。言崇尚此理,其意云何?既知彌陀自性,淨土唯心。正欲即此以為真境,而起觀行,執持名號,一心不亂,是其趣也,不徒為曉達此理而已。

(Sớ: Cặp thứ ba là “cảnh – hạnh”. Lấy cảnh làm Tông, khiến cho khởi hạnh là Thú. Cảnh chính là cái Lý được quán đối ứng với cái Trí dùng để quán, nên gọi [Lý được quán] là Cảnh. Đề cao Lý này là vì ý gì? Nhằm biết Di Đà là tự tánh, Tịnh Độ duy tâm, nhằm muốn lấy ngay điều này làm cảnh thật để dấy lên quán hạnh, chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn. Đây là Thú, chứ không phải chỉ thông hiểu Lý mà thôi!)

 Đây là cặp thứ ba trong năm cặp Tông Thú của kinh này. Chữ “Cảnh” nếu chiếu theo lời giải thích trong phần sau thì chính là lấy danh hiệu Di Đà làm cảnh giới. Bốn chữ danh hiệu có bản thể là pháp giới. Nhất định phải hiểu ý nghĩa của danh hiệu bốn chữ này! A Di Đà Phật dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Lượng Giác, A dịch là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác. Bốn chữ này cũng là tự tâm của chúng ta, tông Thiên Thai nói “một niệm trong tự tâm trọn đủ ba ngàn tánh tướng”, nói thật ra, chúng ta thường nói y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, không gì chẳng giác; do vậy, gọi là Vô Lượng Giác. Vì thế, trong cặp Cảnh Hạnh, “lấy Cảnh làm Tông”, lấy “khởi Hạnh làm Thú”.

“Sở quán chi Lý”“năng quán chi Trí” cũng chính là đức Phật được ta niệm và cái tâm niệm Phật của ta. Cái tâm niệm Phật là Quán Trí, đức Phật được niệm là cảnh giới. Phật pháp và học thuật thế gian khác nhau ở chỗ này, tức là Năng và Sở chẳng hai, Cảnh và Hạnh như một, mầu nhiệm ở chỗ này. “Năng quán chi Trí” là cái tâm linh minh chẳng mê muội của ta. Linh giác là chẳng bị gián đoạn, nhưng nay sự linh giác của ta bị chướng ngại, chẳng thể tỏ lộ tác dụng. Quy nạp những thứ chướng ngại ấy lại thì một là Phiền Não Chướng, hai là Sở Tri Chướng. Đây là hai thứ chướng ngại. Kinh cũng nói đến Tam Chướng, Tam Chướng là Hoặc Chướng, Nghiệp Chướng, và Báo Chướng, nhưng Nhị Chướng bao gồm Tam Chướng. Do vậy, tâm linh minh giác liễu của chúng ta chẳng thể tỏ lộ. Nay đức Phật dạy chúng ta phương pháp này, tức là dùng phương pháp Niệm Phật để khôi phục bổn tánh, nhưng chúng ta chớ nên không liễu giải chân tướng sự thật này: Ngoài tâm không cảnh, ngoài cảnh không tâm; tâm và cảnh là một, chẳng hai. Phải hiểu rõ đạo lý này.

“Ngôn sùng thượng thử Lý, kỳ ý vân hà” (đề cao Lý này là vì ý gì), vì sao phải đề cao cặp Cảnh – Hạnh này? Nhằm nói cho chúng ta biết đại ý: Di Đà là tự tánh Di Đà, Tịnh Độ là duy tâm Tịnh Độ. Vì thế, Cảnh và Trí chẳng hai, ý nghĩa là như vậy đó.

“Chánh dục tức thử dĩ vi chân cảnh, nhi khởi quán hạnh” (Chính là vì muốn lấy điều này làm cảnh thật để khởi quán hạnh), câu này có nghĩa là: Chúng ta phải nên hiểu rõ những chữ ấy chính là “tự tánh duy tâm”“sở quán chi Lý”, những chữ nào vậy? Bốn chữ A Di Đà Phật! Lìa khỏi tâm tánh của chính mình, sẽ chẳng có danh hiệu; lìa khỏi danh hiệu cũng chẳng có tâm tánh. Câu này nên nói như thế nào? Chúng tôi vẫn dùng tỷ dụ để nói: Ví như khi chúng ta nằm mộng, cảnh trong mộng do tâm chúng ta biến hiện. Lìa khỏi tâm chẳng có mộng cảnh; lìa khỏi mộng cảnh chẳng có tâm! Khi nằm mộng, cái tâm này biến thành mộng cảnh. Vì thế tâm và mộng cảnh là một, chẳng hai. Chúng ta dùng tỷ dụ này để lãnh hội [ý nghĩa Cảnh và Hạnh]. Nay chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật giống như cảnh giới trong mộng, A Di Đà Phật là cảnh giới do cái tâm niệm Phật của chúng ta biến hiện. Cái tâm niệm Phật là Trí, danh hiệu được niệm là Cảnh. Từ ý nghĩa này, hãy quan sát những đạo lý được giảng trong kinh này, quý vị sẽ lý giải chẳng khó cho lắm!

Vì thế, phải lấy điều này “làm cảnh thật để khởi quán hạnh”. Quán hạnh là “chấp trì danh hiệu, nhất tâm bất loạn, lấy điều này làm Thú”. Mấu chốt tu hành Tịnh Độ nằm trong hai câu này. Một bộ kinh Di Đà cũng là để nói hai câu này. Vì thế, thật sự muốn thành tựu Tịnh nghiệp thì niệm Phật vô cùng quan trọng. Bình thường, ta nghiên cứu những kinh luận đều là để khi chúng ta niệm Phật trong Niệm Phật Đường sẽ chẳng khởi vọng tưởng, chẳng chấp trước, thật sự đạt được “chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, chẳng hoài nghi”, khiến cho chúng ta có thể thành tựu trong một thời gian ngắn. Đối với chuyện này, tôi luôn mong dành thời gian để nói rõ cặn kẽ cùng quý vị: Khi niệm Phật, chúng ta phải nên dùng tâm tư thái độ như thế nào thì mới có thể đạt được hiệu quả thật sự. Đối với chuyện này, nếu dùng sai cái tâm, sẽ rất khó đạt được hiệu quả. Tuy đã hiểu rõ Lý, vẫn phải biết nên dùng tâm thái nào để niệm.

Câu tiếp theo là “bất đồ vị hiểu đạt thử Lý nhi dĩ” (chẳng phải vì để thấu hiểu Lý này mà thôi), nếu đã hiểu rõ đạo lý này, nhưng chẳng chịu tu hành, chẳng chịu niệm thì cũng uổng phí, vẫn chẳng thể thành tựu.

 

(Sớ) Tứ, Hạnh Tịch nhất đối giả.

() 四、行寂一對者。

(Sớ: Cặp thứ tư là Hạnh Tịch).

 Trong năm cặp này, mỗi tầng một sâu hơn, cảnh giới càng thù thắng hơn. Hạnh [trong Hạnh Tịch] chính là Cảnh Hạnh đã nói trong phần trên.

 

(Sớ) Dĩ Hạnh vi Tông, linh chí Tịch vi Thú.

() 以行為宗,令至寂為趣。

(Sớ: Lấy Hạnh làm Tông, khiến đạt đến Tịch làm Thú).

Tịch là gì? Nói thật ra, đấy chính là nhất tâm.

 

(Sớ) Ngôn sùng thượng thử niệm Phật quán hạnh, kỳ ý vân hà? Lương diêu tâm tuy bổn tịch, đa sanh tập nhiễm, xúc cảnh sanh tâm. Nhược bất tu quán hạnh, túng linh cưỡng ức vọng tâm, chung phi Định Huệ bình đẳng.

()言崇尚此念佛觀行,其意云何?良繇心雖本寂,多生習染,觸境生心。若不修觀行,縱令強抑妄心,終非定慧平等。

(Sớ: Đề cao quán hạnh niệm Phật này là vì ý gì? Ấy là vì tâm tuy vốn tịch, nhưng do đắm nhiễm tập khí nhiều đời, hễ tiếp xúc cảnh bèn sanh tâm. Nếu chẳng tu quán hạnh, dẫu gượng khắc phục vọng tâm, rốt cuộc vẫn chẳng phải là Định và Huệ bình đẳng).

Trong quá trình tu hành gần như [ai cũng] đều đã gặp qua [tình trạng này, tức là tập khí đắm nhiễm nhiều đời khiến cho tâm loạn], không chỉ là Tông Môn, Giáo Hạ, ngay cả niệm Phật cũng chẳng tránh khỏi. Vì thế, chúng ta phải biết Quán Hạnh vô cùng quan trọng. Nói theo sự tu tập trong pháp môn Tịnh Độ, Quán Hạnh là tín nguyện trì danh. Đấy chính là Quán Hạnh [trong pháp môn Tịnh Độ], phải sốt sắng niệm Phật. Trong phần trước đã nói rõ mục đích niệm Phật là “cầu đắc nhất tâm bất loạn”; ở đây, [lời Sớ] giảng “lương diêu tâm tuy bổn tịch” (ấy là vì tuy tâm vốn tịch), cái tâm của chúng ta vốn là nhất tâm, vốn chẳng loạn [cho nên niệm Phật để khôi phục nhất tâm].

Hiện thời tâm chẳng tịch, hiện thời tâm loạn vì lẽ nào? Tiếp đó, [lời Sớ] nêu ra nguyên nhân: “Đa sanh tập nhiễm, xúc cảnh sanh tâm” (Do đắm nhiễm tập khí nhiều đời, hễ tiếp xúc cảnh bèn sanh tâm). Tám chữ này nói rõ ràng. “Đa sanh”: Chẳng phải là một đời, một kiếp, mà là đời đời kiếp kiếp. “Tập” (習) là tập khí, “nhiễm” (染) là nhiễm trước (chấp trước ô nhiễm). Đắm nhiễm tập khí nhiều đời, nhiều kiếp. Nhiễm là ô nhiễm, Trước là chấp trước. Vì thế, hễ sáu căn tiếp xúc sáu trần, tập khí bèn khởi tác dụng, lập tức bị cảnh giới bên ngoài ô nhiễm, lại dấy lên phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Do vậy, cái tâm tịch tĩnh vốn có của chúng ta bị mất diện mục và tác dụng. Vì thế, đức Phật mới bảo chúng ta: Nếu chẳng tu Quán, “bất tu Quán Hạnh” (chẳng tu Quán Hạnh) sẽ chẳng thể khôi phục, nhất định phải tu Quán Hạnh, tức là tín nguyện trì danh, chúng ta đi theo con đường này.

Mọi người phải thật sự hiểu rõ, phải giác ngộ lớn lao, phải thật sự giác ngộ, tập khí đáng sợ lắm! Thế nhưng các đồng tu học Phật hiện thời, có ai chẳng đang dốc hết tánh mạng hòng tăng trưởng tập nhiễm? Không chỉ chẳng thể giảm bớt tập nhiễm, mà hằng ngày còn mong cho nó tăng thêm! Đó là khuyết điểm to lớn. Tăng thêm như thế nào? Chẳng hạn như đặc biệt nói về các đồng tu mới học Phật, kinh gì cũng muốn xem, pháp môn gì cũng muốn học, muốn học rộng nghe nhiều; đó là tăng trưởng “tập nhiễm”! Nếu lấy học vấn thế gian để nói, người ấy nghiên cứu Phật học, làm theo cách ấy không sai, làm đúng rồi! Nếu [xét theo phương diện] học Phật, người ấy đã đi sai đường, học Phật chẳng phải là học theo kiểu đó! Học Phật là gì? Mong đạt được nhất tâm bất loạn, mong minh tâm kiến tánh, mục đích ở chỗ này, chứ không phải là học rộng nghe nhiều. Trong phần Huyền Nghĩa của kinh Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư đã nói học rộng nghe nhiều là “tăng trưởng tà kiến”, chẳng học mà cũng chẳng nghe là “tăng trưởng vô minh”. Hãy làm như thế nào? Thưa quý vị, học một thứ, chuyên tinh, chẳng cầu học rộng. Hiện thời học Phật chẳng có mấy người thành tựu, nguyên nhân là do đâu? Chẳng đúng cách, dùng sai phương pháp!

Quan niệm tu học Phật pháp và pháp thế gian khác nhau. Hồ Thích[91] đề xướng “học hỏi phải giống như Kim Tự Tháp”, trước hết phải học rộng, dần dần chuyên tinh. Đó là [cách học trong] thế gian. Phương pháp cầu học trong Phật pháp là Kim Tự Tháp lật ngược, trước chuyên sau rộng, cách học như vậy. Thoạt đầu là thâm nhập một môn, vì sao? Tâm quý vị mới có thể thanh tịnh. Khi học nhiều, người học nhất định khởi phân biệt, tâm chẳng đạt được thanh tịnh. Từ xưa đến nay, những tổ sư đại đức Trung Quốc, quý vị đọc Cao Tăng Truyện hay Cư Sĩ Truyện, sẽ biết: Tất cả những người có thành tựu đều là suốt đời học một thứ, thâm nhập một môn, sau khi đã tiến nhập mới có thể cầu học rộng.

Kinh Hoa Nghiêm là một thí dụ rất hay. Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần. Năm mươi ba lần tham học là học rộng nghe nhiều. Lúc Ngài mới học, có làm như vậy hay không? Không! Vừa mới bắt đầu học bèn theo một vị thầy là Văn Thù Bồ Tát. Ở chỗ Văn Thù Bồ Tát, Ngài chuyên dốc sức, chuyên tu, tu một thứ! Tu thành công một thứ, nhà Thiền gọi chuyện này là “khai ngộ”, minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, Giáo Hạ gọi là “đại khai viên giải”, người niệm Phật gọi là “nhất tâm bất loạn”, phải tu đạt đến cảnh giới này. Cảnh giới ấy chính là tốt nghiệp, đã hoàn thành một giai đoạn. Từ đấy trở đi bèn học rộng nghe nhiều. Tu học trong Phật pháp giống như một cái cây, trước hết đã có thân chính rồi sau đó mới dần dần có cành lá, hoa quả, giống như vậy, chứ chẳng giống Kim Tự Tháp.

Nhưng hiện thời nhiều đồng tu học Phật chúng ta làm ngược ngạo, dùng phương cách Kim Tự Tháp: Vừa bắt đầu liền học rộng nghe nhiều, đến khắp nơi nghe ngóng, đến khắp nơi nhìn ngó, khiến cho đầu óc rối loạn lung tung, chẳng nắm được đầu mối. Hỏi người ấy thì chuyện gì cũng biết, khá lắm, là một nhà Phật học cỡ bự! Có đoạn được phiền não hay chăng? Chẳng hề! Thị phi, nhân ngã, tham, sân, si, mạn chẳng thể đoạn tí nào! Chẳng thể đắc Định, chẳng thể khai Huệ. Kẻ học nhiều như thế gọi là Thế Trí Biện Thông, là cái học ký vấn[92], đọc cho nhiều, nghe cho lắm, nhớ cả đống, chứ chẳng phải từ tâm tánh của chính mình lưu lộ! Hy vọng các đồng tu phải chú ý điều này!

Trong nhiều năm, qua các buổi giảng, tôi thường đề nghị các đồng tu hãy học theo một thầy, quý vị sẽ có thành tích. Nay ta chẳng tìm được thầy, đúng là chẳng tìm được thầy! Nếu quý vị gặp một vị thầy, nói chung, thầy cũng chẳng khác quý vị cho mấy, luôn là một vị thầy học rộng nghe nhiều, cũng là một vị thầy có học thức ký vấn! Cái học thức ký vấn thì ngay cả Nho gia cũng chẳng cần đến! Trong thiên Học Ký [của sách Lễ Ký] có câu: “Ký học chi vấn, bất túc dĩ vi nhân sư dã” (Cái học do hỏi han, ghi nhớ, chẳng đáng để làm thầy người khác được). Chúng ta tìm không được thầy thì làm sao đây? Tìm cổ nhân. Nay chúng ta muốn học kinh Di Đà mà chẳng tìm được thầy thì tìm Liên Trì đại sư. Bản chú giải này là của Liên Trì đại sư, chúng ta nương theo bản chú giải này của Liên Trì đại sư là được rồi!

Chắc quý vị cũng nói: Chúng tôi đọc bản chú giải này của Liên Trì đại sư không hiểu! Nói thật ra, đây chẳng phải là chuyện khó. Nay tôi báo cáo với quý vị những điều tâm đắc của tôi khi đọc bản chú giải này, tôi chẳng giảng giải. Quý vị đọc bản chú giải này cũng giống như vậy, chỉ cần thành tâm thành ý đọc từ đầu đến cuối, đừng nóng ruột, chuyện này có gấp gáp cũng chẳng được! Câu tiếp theo là nói “Cưỡng ức vọng tâm” (gượng chế ngự vọng tâm), đó là gấp rút! Chuyện này gấp gáp chẳng được, cổ đức thường nói: “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (Đọc sách ngàn lần, tự thấy ý nghĩa). Quý vị đọc Sớ Sao từ đầu đến cuối một ngàn lần, sẽ khai ngộ. Vì sao khai ngộ? Nếu quý vị chẳng nóng ruột, cứ thong thả đọc. Đọc một ngàn biến sẽ đắc Định. Quý vị đã nhất tâm bất loạn bèn thành công, bất tri bất giác thành tựu nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là đại triệt đại ngộ, có đạo lý như vậy!

Vì thế, thiện tri thức chân chánh muốn tìm một học trò, học trò hướng về vị ấy xin dạy dỗ; trước hết, vị ấy nhất định sẽ hỏi: “Ông đã học Phật bao lâu? Đã đọc những kinh điển nào? Đã nghe những ai chỉ dạy?” Nếu quý vị nói: “Tôi đọc khá nhiều kinh luận, tôi nghe rất nhiều pháp sư đại đức giảng kinh”. Vị ấy bèn rất khách sáo: “Khá lắm! Rất hiếm có! Ông chẳng phải xoàng!” Chắp tay tán thán quý vị vài câu, ông hãy đi đi! Chẳng thể dạy ông được! Vì sao chẳng thể dạy? Quý vị phải biết: Tập khí của chúng sanh là “tiên nhập vi chủ” (cái gì được tiếp xúc trước, sẽ trở thành chánh yếu), đầu óc quý vị đã chứa đầy ắp Phật pháp, thầy giảng điều gì, quý vị sẽ tranh luận, chẳng phục, còn dạy gì nữa đây? Chẳng có cách nào dạy được! Bởi lẽ, quý vị vừa mới học Phật đã đi sai đường.

Nếu quý vị gặp một vị thiện tri thức, người ta hỏi quý vị: “Ông đã niệm kinh nào?” “Tôi mới học, vẫn là mới tiếp xúc”. “Có nghe ai giảng kinh hay chưa?” “Chưa nghe ai giảng kinh”. Người ấy sẽ coi quý vị như bảo bối, quyết định chẳng vứt bỏ, [dù chỉ có] một người thì người ấy cũng dạy quý vị, vì sao? Một trang giấy trắng, sạch tinh tươm, chưa từng bị ô nhiễm, người này dễ dạy, chẳng có thành kiến, dạy hắn ta điều gì cũng đều có thể tiếp nhận hoàn toàn. Vì thế, một vị thiện tri thức gặp được người như vậy, cả đời sẽ coi người ấy như bảo bối, có thể truyền pháp cho người ấy, đâu có đơn giản! Hiện thời, nói thật thà thì thiện tri thức cũng chẳng dễ gì gặp được. Có gặp, vị ấy cũng chẳng thể dạy quý vị. Vì vậy, bất đắc dĩ chỉ có cách kiếm cổ nhân, người hiện thời tìm không được thì kiếm cổ nhân. Học kinh Di Đà, tìm Liên Trì đại sư, tìm Ngẫu Ích đại sư; học kinh Hoa Nghiêm tìm Thanh Lương đại sư, Lý Trưởng Giả, họ là người đời Đường, chỉ có thể làm như vậy. Chúng ta thật sự muốn học đạo, muốn thành tựu, đó là con đường đúng đắn duy nhất, là con đường to lớn sáng sủa!

Khi nào mới có thể đi tham học, đến các nơi nghe kinh, đến các nơi nhìn ngó? Phải thật sự đạt được tâm đắc nơi một môn, chẳng hạn như khai ngộ, có ngộ xứ. Quý vị đọc bộ Di Đà Kinh Sớ Sao này mười năm; sau mười năm, quý vị lại đi nghe các vị thầy giảng kinh, thuyết pháp, xem những bản chú sớ khác nhau, quý vị sẽ khác hẳn, thật sự có tư cách tham học, vì sao? Tôi đã dụng công nơi bộ kinh này mười năm, đến khi ấy quý vị đã mở mang huệ nhãn, pháp nhãn cũng đã mở; bất luận đến nơi đâu xem xét, thăm dò, chắc chắn đạt được lợi ích, chẳng bị tổn hại. Nếu chẳng có cơ sở mười năm nơi một bộ kinh, nói thật ra, chẳng có tư cách tham học!

Vì sao hiện thời Phật Học Viện chẳng thể đào tạo nhân tài? Trong quá khứ, tôi cũng dạy tại Phật Học Viện mấy năm, nay tôi chẳng đến đó. Vì sao chẳng đến? Tôi đã hiểu rõ, đó là đại hội đua tài giảng diễn. Học trò là thính chúng, giờ này, vị pháp sư X… đến giảng một tiếng đồng hồ; giờ sau, thay thầy Y… lại giảng một môn khác nữa. Học sinh có thể tiếp thu hay chăng? Hoàn toàn chẳng thể hấp thu! Vừa mới giảng xong, ngay lập tức, thay thầy khác, thay bài học, quên sạch, quên béng mọi điều trong giờ học trước! Cái còn sót lại là “thầy X… giảng như thế nào? Thầy này giảng ra sao?” Phê bình họ Trương giỏi, họ Lý dở ở nơi đó. Chúng ta cần gì phải tham gia đại hội tranh tài giảng diễn ấy? Chẳng ganh đua với người ta, cho nên tôi cũng chẳng đến. Mất thời gian, tốn tinh lực, chẳng đạt được hiệu quả! Chẳng bằng chính mình ở nhà xem kinh, niệm Phật, thật sự có thụ dụng. Đây là tôi cống hiến kinh nghiệm tham học của chính mình cho quý vị đồng tu tham khảo.

“Nhược bất tu quán hạnh, túng linh cưỡng ức vọng tâm” (nếu chẳng tu quán hạnh, dẫu gắng gượng chèn ép vọng tâm), “ức” (抑) là đè nén, đây là tu tập quá gấp rút, rất phiền phức, sẽ thâu được hiệu quả trái ngược. Chẳng hạn như người tham Thiền, miễn cưỡng khống chế vọng tâm của chính mình, dẫu cho người ấy tu Thiền thì vẫn là có Định chứ không có Huệ. Thiền ấy như thế nào? Si Thiền. Dẫu hết thảy vọng tưởng đều buông xuống, đều chẳng nghĩ tới, đến cuối cùng, tu thành Vô Tưởng Định, biến thành ngoại đạo. Dẫu tu thành công, tương lai sanh làm ngoại đạo thiên trong Tứ Thiền Thiên, tức là Vô Tưởng Thiên, học Phật mà trở thành ngoại đạo! Học Giáo, nếu dụng tâm quá độ, tâm hiếu cường, hiếu thắng tha thiết, chúng tôi thấy rất nhiều người thổ huyết, thần kinh còn bị rối loạn. Trong quá khứ, chúng tôi cũng có một đồng học dụng công quá độ, nghiên cứu kinh chẳng ngủ nghỉ, làm như thế mười tháng sau chẳng thể xem kinh! Ông ta bảo tôi: “Chỉ cần nhìn vào kinh, liền thấy một vầng đen kịt, chẳng thấy một chữ nào”. Biến thành tình trạng như thế là vì dụng công chẳng thích đáng! Tham Thiền cũng giống như thế, mà niệm Phật cũng như vậy, quyết định chẳng thể dụng công quá gấp rút. Muốn thành tựu nhanh chóng, chắc chắn đi vào ngõ rẽ! Chớ nên quá lơi lỏng, mà cũng đừng quá gấp rút. Vì thế, Phật pháp dạy quý vị phải noi theo Trung Đạo thì mới có thể thành công. Niệm Phật đã mệt, bèn nghỉ ngơi, đừng nghĩ “chẳng thể nghỉ ngơi được, ta lại bị gián đoạn”, thể lực sẽ không chịu được, quý vị đâu phải là căn tánh ấy! Thể lực tốt đẹp, mỗi ngày chỉ cần ngủ hai tiếng đồng hồ thì quá tốt, quý vị có thể niệm bảy ngày bảy đêm không ngủ nghỉ, vẫn được! Thân thể không ổn, chắc chắn chớ nên miễn cưỡng! Hễ mệt bèn nghỉ ngơi, tinh thần khôi phục sẽ niệm tiếp, như vậy mới là tốt, như vậy mới là “chẳng gián đoạn”. Vì thế, mọi người phải hiểu ý nghĩa này, đừng nên miễn cưỡng đè nén bản thân, “chung phi Định – Huệ bình đẳng” (rốt cuộc chẳng phải là Định – Huệ bình đẳng). Định – Huệ bình đẳng mới là Thiền thật sự.

 

(Sớ) Kim y chánh quán, chấp trì danh hiệu, chí ư nhất tâm, tắc phục hoàn không tịch chi Thể, thị kỳ Thú dã.

() 今依正觀 ,執持名號,至於一心,則復還空寂之體,是其趣也。

(Sớ: Nay nương theo chánh quán, chấp trì danh hiệu, đến mức nhất tâm bèn khôi phục cái Thể không tịch, đó là Thú).

“Chánh quán”: Chấp trì danh hiệu có Sự Trì và Lý Trì, Sự Trì và Lý Trì đều gọi là Chánh Quán. “Chí ư nhất tâm” (đạt đến nhất tâm) là nhất tâm bất loạn. Ngẫu Ích đại sư nói rất hay, bất luận Sự Trì hay Lý Trì, có thể trì đến mức đoạn Kiến Tư phiền não thì đều gọi là Sự nhất tâm bất loạn. Sự Trì hay Lý Trì đều như nhau. Niệm đến mức phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, đều gọi là Lý nhất tâm bất loạn. Sự Trì chú trọng nơi sự tướng, chúng ta thường nói “thật thà niệm Phật”, những người này thường thành tựu nhiều hơn người thông đạt kinh giáo, lại còn cao minh hơn, vì sao? Người thông đạt kinh giáo suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, nghĩ kinh này là đạo lý gì, kinh kia là đạo lý gì, đều gọi là “suy nghĩ lung tung”.

Lục Tổ nói rất hay: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”, tâm thanh tịnh khẩn yếu lắm! Do vậy, sư Ấn Tông hỏi Lục Tổ: “Ngũ Tổ có thường giảng Thiền Định giải thoát hay không?” Ngài lập tức ngăn lại, nói: “Thiền Định và giải thoát là hai pháp, Phật pháp là pháp không hai, hai pháp chẳng phải là Phật pháp”. Ngăn chặn ngay! Nói cách khác, do Ấn Tông là pháp sư giảng kinh, đầu óc đầy ắp danh từ Pháp Tướng, cho nên chẳng thể kiến tánh. Tuy Sư có thể giảng kinh, nhưng chẳng thể minh tâm kiến tánh, Lục Tổ một đao cắt rời, đoạn dứt tất cả tri kiến của Sư, mong Sư có thể minh tâm kiến tánh.

Thông đạt giáo nghĩa, thông đạt lý luận, niệm A Di Đà Phật, đó gọi là Lý Trì. Sự Trì là hoàn toàn không hiểu, như đồ đệ của pháp sư Đế Nhàn, chẳng biết chữ, chưa từng học hành, chưa hề nghe kinh, xuất gia cũng chưa thọ giới. Pháp sư Đế Nhàn bảo ông ta niệm một câu “Nam-mô A Di Đà Phật”, dạy ông ta một câu như thế. Người này rất tuyệt vời, thật sự nghe lời, thật sự tiếp nhận, chịu làm, người này hoàn toàn là Sự Trì. Sở dĩ, lão pháp sư dạy ông ta [làm như thế] là do ông ta đã lớn tuổi mới xuất gia, ngoài bốn mươi mới xuất gia: “Ông niệm mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe rồi lại niệm tiếp. Một mực niệm như thế, nhất định có lợi ích”. Chính ông ta cũng không biết có lợi ích gì, nhưng niệm suốt ba năm, bèn biết trước lúc mất, đứng vãng sanh. Sự trì đấy! Khi ông ta vãng sanh, pháp sư Đế Nhàn lo liệu hậu sự cho ông ta, tán thán: “Đại pháp sư giảng kinh, thuyết pháp, phương trượng các ngôi chùa nổi tiếng trong thế gian hiện thời, không ai có thể sánh bằng ông! Thật sự chẳng sánh bằng!” Ông ta điều gì cũng chưa nghe đến, chuyện gì cũng chẳng biết, trong đầu ông ta chẳng có những thứ lộn xộn. Thầy dạy ông ta một câu A Di Đà Phật, từ đấy trở đi, trong đầu chỉ có A Di Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật ra, điều gì cũng không biết, do như vậy nên mới có thể thành công.

Nay chúng ta đã bị lừa, đã chất chứa không ít thứ [trong lòng]. Nếu đã hiểu rõ, thấu triệt Lý, thấu triệt rồi thì sao? Có thể buông xuống. Nếu chẳng thấu triệt Lý, không buông xuống được, vẫn nghĩ ngợi, như vậy là sẽ bị thiệt thòi nhiều lắm! Nói thật ra, các đồng tu chúng ta đang hiện diện nơi đây, có ai chẳng phải là đời đời kiếp kiếp đều tu hành? Có ai chẳng cúng dường vô lượng chư Phật? Giống như kinh Vô Lượng Thọ đã nói: “Cúng dường bốn trăm ức Phật”, nhưng quý vị mê khi cách ấm, vẫn bị thoái chuyển, là vì lẽ nào? Đời đời kiếp kiếp đều học, nhưng chẳng học thấu suốt, mà vẫn không đành lòng buông xuống, tạo thành đại chướng ngại cho chính mình.

Tôi thường khuyến khích các đồng tu, kinh giáo học một môn, thâm nhập một môn, trong tương lai sẽ thành một người có uy tín trong Phật học. Chẳng hạn như trong thời cận đại, lão pháp sư Viên Anh xuất gia, suốt đời chuyên dốc sức nơi kinh Lăng Nghiêm. Trong lời tựa bộ Lăng Nghiêm Kinh Giảng Nghĩa, Sư cho biết: Từ năm hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, Sư bắt đầu dốc sức nơi kinh Lăng Nghiêm, đến lúc ngoài bảy mươi tuổi mới viết xong bộ Giảng Nghĩa. Sư suốt đời dốc sức nơi kinh   Lăng   Nghiêm,  gần   như  chẳng  có  ngày  nào  không  đọc  Lăng Nghiêm. Thông đạt một bộ kinh, các kinh khác đều thông!

Trong giới cư sĩ tại gia, cư sĩ Giang Vị Nông suốt đời dụng công nơi kinh Kim Cang trọn bốn mươi năm. Bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của ông là bộ chú giải kinh Kim Cang có uy tín nhất, dụng công quá sâu! Cư sĩ Châu Chỉ Am cũng dốc sức suốt bốn mươi năm nơi Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ, viết ra cuốn Tâm Kinh Thuyên Chú, là bản chú giải Tâm Kinh có giá trị nhất. Chúng ta phải học theo điều này, chỉ cần dốc sức nơi một môn, nhất định sẽ có thành tựu, chẳng có thầy cũng chẳng sao!

Trong Ảnh Trần Hồi Ức Lục, pháp sư Đàm Hư có chép truyện cư sĩ Lưu Văn Hóa đọc kinh Lăng Nghiêm, không ai chỉ dạy, cư sĩ đọc suốt tám năm. Ông ta niệm kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm bèn có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn. Ông ta biết Đông Y đôi chút, mở tiệm thuốc Bắc. Có một buổi trưa, ông ta ở trong tiệm thuốc Bắc, không có ai mua bán, liền gục đầu lên quầy ngủ gà ngủ gật. Chính ông ta cảm giác hình như mình ngủ mà chẳng phải ngủ, trọn chẳng phải là đã ngủ say, thấy hai người bước vào. Hai người ấy đã chết, là oan gia đối đầu của ông ta, trong quá khứ đã từng có tranh chấp nợ nần, cùng lôi nhau ra tòa. Lưu Văn Hóa thắng kiện, hai người này thua kiện. Sau khi thua, hai người này bèn treo cổ tự tử.

Đối với chuyện này, ông ta từ trước đến giờ cảm thấy khó chịu lắm, vì lẽ nào mà do một chút tiền đến nỗi ép hai người mất mạng? Tự mình thường áy náy. Nay thấy hai người bọn họ đi đến, ông ta hoảng sợ, biết hai người này đã chết: “Hai con quỷ này đến đây, sợ là đến báo thù!” Rốt cuộc, ông ta thấy hai người này dường như không có ác ý, họ đi tới trước mặt ông ta quỳ xuống. Ông ta bèn hỏi: “Các ông quỳ trước mặt tôi để làm gì?” Bọn họ nói: “Cầu siêu độ”. Ông ta bèn vững tâm, chẳng phải là họ đến báo thù, mà là cầu siêu độ. Ông ta bảo: “Được! Cách siêu độ ra sao?” Họ thưa: “Chỉ cần ông nhận lời là được!” “Không sao! Tôi bằng lòng!” Ông nhìn thấy hai con quỷ ấy trèo lên đầu gối ông ta, trèo đến vai bèn thăng thiên.

Sau khi hai con quỷ ấy được siêu độ, kế đó, ông ta lại thấy một nữ nhân dẫn một đứa bé. Cô ta là người vợ đã mất của ông ta, đứa con cũng theo mẹ tới trước mặt ông ta, cũng muốn cầu siêu độ. Ông ta bèn đáp ứng giống như vậy: “Được rồi, ta bằng lòng, ta siêu độ các ngươi”. Cũng là thấy bà vợ dắt đứa bé trèo lên đầu gối ông ta, lên đến vai bèn thăng thiên. Nghi thức gì cũng chẳng có, cũng chẳng cần tụng kinh, cũng chẳng cần bái sám. Do sức mạnh nào vậy? Do công đức của tám năm đóng cửa đọc kinh Lăng Nghiêm. Do vậy, là người thật sự có đạo hạnh, ông ta gật đầu, [người đã mất] bèn được siêu độ.

Không ai giảng giải, không có thầy, chớ sợ! Chỉ cần quý vị cầm cuốn kinh sách này, mỗi ngày đọc một lần, đọc suốt mười năm hay tám năm sẽ hữu hiệu, sẽ thành công. Nói cách khác, quý vị có tâm nhẫn nại hay không? Tâm nhẫn nại là phước báo, quý vị có phước báo ấy hay không? Đó là quý vị có thiện căn, nhân duyên, nay kinh điển chẳng thiếu khuyết chính là nhân duyên trọn đủ, quý vị cũng hiểu rõ đạo lý này. Nói cách khác, quý vị có phước phận hay không? Phước phận chính là tâm nhẫn nại. Trong thực tế, thân cận thầy cũng giống như vậy! Chẳng thân cận một vị thầy mười năm, cũng chẳng thể thành tựu. Tại Đài Trung, tôi thân cận thầy Lý suốt mười năm. Năm Dân Quốc 47 (1958), tôi thân cận thầy, đến năm Dân Quốc 56 (1967) rời thầy, tròn mười năm, không kiên trì sẽ không được. Khuyết điểm lớn nhất của con người hiện thời là mong nhanh chóng, mong mau thành, mong muốn có ngay danh lẫn lợi, đâu có chuyện như vậy được! Nhất định không thể như thế được! Thưa quý vị, nếu danh lợi thật sự đưa tới thì nó tới cũng nhanh mà đi cũng chóng. Đấy là đạo lý tất nhiên! Mong nhanh chóng sẽ chẳng đạt được mà!

 

(Sớ) Bất đồ vi hữu tác vọng kế nhi dĩ.

() 不徒為有作妄計而已。

(Sớ: Chẳng phải là hữu vi, hư vọng biến kế sở chấp mà thôi)

 “Hữu tác” là hữu vi, “hữu tác” là đối với “vô tác” mà nói. “Vọng kế” hay “hư vọng biến kế” chính là nói tương phản với Viên Thành Thật trong Duy Thức. Câu này có nghĩa là: “Nhược bất quy không tịch, tắc thị hữu vi, hữu tác chi tu” (Nếu chẳng quy về không tịch, sẽ là tu hữu vi, hữu tác). Do tu hữu vi, hữu tác, chắc chắn không đạt được nhất tâm, chắc chắn chẳng thể kiến tánh. Nói cách khác, quý vị tu như thế nào đi nữa, công phu cũng chỉ đạt được phân nửa mà thôi, chẳng thể viên mãn. Do vậy, nhất định phải quy về không tịch, tức là thanh tịnh tịch diệt. Thiền lấy thanh tịnh tịch diệt làm chỗ quy túc, Tịnh Độ cũng lấy thanh tịnh tịch diệt làm chỗ quy túc, nhất tâm bất loạn mà! Nếu trong tâm có một niệm, sẽ thành hai, chẳng phải là một. Giáo Hạ cũng như vậy, Giáo Hạ phải từ ngôn thuyết trở về vô ngôn thuyết, thì mới có thể đại triệt đại ngộ nơi Giáo Hạ, mới có thể đại khai viên giải. Từ có ngôn thuyết trở về vô ngôn thuyết, “thuyết tức vô thuyết, vô thuyết tức thuyết” (nói là chẳng nói, chẳng nói là nói), đều phải lấy không tịch làm chỗ quy thú. Do vậy, quyết định chẳng phải là “hữu vi, vọng kế”.

 

(Sớ) Ngũ, Tịch Dụng nhất đối giả.

() 五、寂用一對者。

(Sớ: Cặp thứ năm là Tịch Dụng).

“Tịch” chính là tịch diệt trong đoạn trên. Nói cách khác, khi ấy đã đạt đến Lý nhất tâm bất loạn, công phu đã thành tựu. Sau khi thành tựu, đương nhiên có dụng xứ, tức là khởi tác dụng. Vì thế, Tịch là Thể, khởi dụng là tác dụng to lớn của nó.

 

(Sớ) Dĩ Tịch vi Tông, linh phát dụng vi Thú. Ngôn sùng thượng thử Tịch, kỳ ý vân hà? Lương diêu vọng tưởng chấp trước, vô diêu giải thoát, vọng tận, tâm nhất, tắc “tịnh cực, quang thông”. Dụ như trần tận, kính minh, vô tượng bất hiện.

()以寂為宗,令發用為趣。言崇尚此寂。其意云何?良繇妄想執著,無繇解脫,妄盡心一,則淨極光通。喻如塵盡鏡明,無像不現

(Sớ: Lấy Tịch làm Tông, khiến cho khởi tác dụng là Thú. Đề cao Tịch là vì ý gì? Ấy là vì vọng tưởng chấp trước, không do đâu mà giải thoát được. Hễ vọng hết, tâm bèn nhất, đấy chính là “tịnh đến cùng cực bèn sáng suốt”. Ví như hết bụi, gương bèn sáng, không hình ảnh nào chẳng hiện).

Đoạn này có cùng ý nghĩa với điều đức Phật đã giảng trong kinh Lăng Nghiêm. Tâm chúng ta vốn tịch tĩnh, vốn chẳng có một vật, nay trong tâm chẳng tịch tĩnh, vì sao chẳng tịch tĩnh? Trong phẩm Như Lai Xuất Hiện của kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói [rõ nguyên nhân]. Phẩm Như Lai Xuất Hiện do đức Phật tự nói sau khi Ngài vừa mới thành Phật, là cảnh giới của chính Ngài khi ấy. Khi chính Ngài đã thành Phật, tức là thị hiện thành Phật, thấy hết thảy chúng sanh trong đại địa đồng thời thành Phật, bèn rất cảm khái, nói một câu: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, hoàn toàn giống như Phật, chẳng có mảy may sai biệt nào! Đáng tiếc là chúng sanh do có “vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc”, chẳng thể chứng đắc và hưởng thụ cảnh giới ấy. Căn bệnh là do vọng tưởng, chấp trước; vì thế, ở đây nói “lương diêu vọng tưởng, chấp trước, vô diêu giải thoát” (ấy là do vọng tưởng, chấp trước, không thể do đâu mà giải thoát được), giải thoát là tự tại. Kinh Hoa Nghiêm nói Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại; chẳng thể đạt tới cảnh giới của Phật, Bồ Tát là vì vọng tưởng, chấp trước.

“Vọng tận” là vọng tưởng, chấp trước thảy đều bỏ sạch. Hết thảy đều bỏ sạch, chẳng còn nữa, tâm bèn nhất, đấy là nhất tâm bất loạn. Do vậy, có thể biết: Chỉ cần quý vị còn có một vọng tưởng, còn có một chấp trước, quý vị sẽ chẳng đắc nhất tâm. Bởi vậy, trong khi niệm Phật, tôi luôn khuyến khích, cổ vũ các đồng tu niệm Phật đừng nên cầu nhất tâm, niệm Phật đừng nên cầu vãng sanh, niệm Phật đừng nên cầu tướng lành, vì sao? Do quý vị có cầu là có vọng tưởng, chấp trước. Quý vị niệm Phật mà có vọng tưởng, chấp trước này, làm sao đắc nhất tâm? Chẳng thể được! Quý vị niệm gì cũng đều không có. Niệm một câu Phật này thuần thục, tự nhiên Phật hiện tiền, tự nhiên đắc nhất tâm, quyết định vãng sanh, những điều mong mỏi thảy đều đạt được; nhưng nếu quý vị khởi niệm trong khi niệm Phật, sẽ chẳng đạt được, vì sao? Trong sự niệm Phật của quý vị có xen tạp, tức là xen tạp vọng tưởng, chấp trước, cho nên quý vị chẳng thể thành công. Nhất định phải hiểu điều này!

Có người hỏi: “Tôi niệm Phật chẳng cầu nhất tâm, chẳng cầu vãng sanh, chẳng cầu thấy Phật, chẳng cầu gì cả thì tôi niệm Phật hiệu này để làm gì?” Kẻ ấy chẳng biết: Trong từng câu, từng chữ của Phật hiệu đã bao hàm “cầu nhất tâm, cầu vãng sanh, cầu thấy Phật”, đều được bao gồm trong ấy. Nếu lại khởi lên những ý niệm này thì hỏng rồi, hỏng bét! Chỉ cần một mực niệm bốn chữ này, điều gì cũng chẳng nghĩ tới, chẳng có pháp nào ở trong ấy, sở nguyện sở cầu của quý vị sẽ đều bao gồm trong ấy. Quý vị không nghĩ đến, nhưng chúng vẫn được bao gồm trong ấy, đúng là mầu nhiệm không thể diễn tả được! Cái tâm bèn nhất. Đây là chuyện trọng yếu nhất trong việc học Phật.

Chúng ta học Phật nhằm mục đích cầu “cái tâm chuyên nhất”. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, Hiển Giáo, Mật Giáo, đều có cùng một mục tiêu: Cầu nhất tâm. Quý vị phải nhớ: Phương pháp nào giúp cho cái tâm ta được chuyên nhất thì phương pháp ấy hữu hiệu đối với ta. Phương pháp nào khiến cho trong tâm ta khởi lên phân biệt, chấp trước, chúng ta phải bỏ phương pháp ấy. Chính mình nhất định phải hiểu rõ điều này, nhất định phải giác ngộ, khiến cho chúng ta tiến bộ rất nhanh, thật sự có tiến bộ trên Phật đạo.

“Tắc tịnh cực quang thông”: Câu này xuất phát từ ở câu “tịnh cực

quang thông đạt” trong kinh Lăng Nghiêm. “Tịnh” là Định, là nhất tâm bất loạn. Khi công phu nhất tâm bất loạn đã thành thục, tự nhiên phóng quang minh. Quang minh ấy là trí huệ. Trí huệ hiện tiền, vô lượng vô biên trí huệ. Trí huệ này chẳng phải do học được, cho nên gọi là Tự Nhiên Trí, hay Vô Sư Trí, điều gì cũng đều thông đạt. Mọi người đều biết Huệ Năng đại sư chưa từng đi học, không biết chữ, ở Hoàng Mai nghe Ngũ Tổ thuyết pháp vào canh ba lúc nửa đêm, nghe giảng đôi chút, chỉ một lần ấy! Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang, giảng được một phần ba, giảng đến câu: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Hãy nên không trụ vào đâu mà sanh tâm), Ngài bèn hoát nhiên đại ngộ, chẳng cần phải giảng tiếp, Ngài đã thông đạt hết thảy rồi! Không chỉ là thông đạt kinh Kim Cang, mà tất cả toàn bộ kinh điển Phật giáo đều thông đạt

Vì sao có thể thông đạt toàn bộ? Tâm tịnh. “Tịnh cực quang thông”. Ngũ Tổ giúp Ngài một chút; lúc bình thường tâm Lục Tổ đã thanh tịnh. Nếu tâm Ngài không thanh tịnh, sẽ chẳng thể nói: “Bồ Đề bổn vô thụ, minh kính diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (Bồ Đề chẳng phải cây, gương sáng chẳng phải đài, vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần). Tâm bất tịnh, sẽ chẳng đạt được cảnh giới này, sẽ chẳng thể nói lời này! Tâm Ngài đã tịnh, nên Ngũ Tổ vừa khai thị, tạo một chút Tăng Thượng Duyên, do một chút ấy, Ngài bèn thông suốt, quang minh của Ngài bèn lộ ra. Vì thế, trên đường lánh nạn, còn chưa đến chỗ bọn thợ săn, tại thôn Tào Hầu gặp tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. Tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng thường niệm kinh Đại Bát Niết Bàn, kinh này phân lượng cũng rất lớn, có bốn mươi quyển. Tuy niệm kinh này, có rất nhiều ý nghĩa bà ta chẳng hiểu, gặp Lục Tổ bèn thỉnh giáo Ngài, vì Ngài trụ tại thôn Tào Hầu tới tám tháng. Có thời gian dài như thế, Ngài bèn giảng cho tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng nghe kinh Niết Bàn một lượt từ đầu đến cuối. Chuyện này có ghi trong Đàn Kinh. Đây là lần đầu tiên Ngài giảng kinh, lúc ấy, Ngài hai mươi bốn tuổi. Trước lúc đến ẩn mình trong đoàn thợ săn, Ngài có một đoạn nhân duyên như thế. Người đuổi bắt Ngài nhằm đoạt lại y bát là Huệ Minh chính là người đắc độ thứ nhất, người đắc độ thứ hai là tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng.

Quý vị phải hiểu: Trí huệ thật sự do nhất tâm bất loạn mà có, chúng ta cầu điều khẩn yếu này. Hiện thời, có rất nhiều người đã phạm sai lầm: Ta phải đọc thật nhiều kinh, đọc thật nhiều luận, ta phải nghiên cứu những thứ ấy. Sai lầm rồi! Đó là [học tập] để trở thành một chuyên gia Phật học. Làm một nhà Phật học thì được, chứ chẳng ăn nhập gì đến Tam Học Giới – Định – Huệ của chính mình! Chúng ta lãng phí nhiều thời gian và tinh lực quý báu nơi đây, cái được không bù nổi cái mất. Cái được quá hữu hạn, cái mất không có cách gì bù đắp được! Thành tựu trong Phật pháp là đắc nhất tâm, do nhất tâm mà khai trí huệ, đấy là thành tựu trong Phật pháp, “tịnh cực quang thông” [có nghĩa là như vậy].

[Liên Trì đại sư dùng] tỷ dụ “trần tận, kính minh” (hết bụi, gương sáng). Thời cổ, gương soi mặt làm bằng đồng. Gương đồng phải mài, càng mài càng sáng, mỗi ngày đều phải mài. Chẳng mài sẽ đóng bụi, đóng bụi sẽ chẳng soi được! Gương soi vốn có thể chiếu, tỷ dụ trí huệ quang minh vốn sẵn đủ, chẳng cần phải cầu từ bên ngoài, cầu chẳng được đâu! Đòi hỏi điều gì? Đòi hỏi gương phải sạch, tâm địa phải thanh tịnh. Tâm đã nhất, trí huệ sẽ tự nhiên xuất hiện. Tâm chẳng nhất, muốn cầu trí huệ thì đến nơi đâu để cầu? Giống như gương dơ bẩn, đóng cả đống bụi bặm, làm sao có thể soi tỏ được? Chẳng trừ bỏ bụi bặm, mà muốn gương tỏa quang minh, sẽ là chuyện không thể thực hiện được! Trước hết, phải cầu nhất tâm, không cầu trí huệ. Từ trong nhất tâm, tự nhiên sanh ra trí huệ, điều này rất khẩn yếu. Bụi hết, gương tự nhiên tỏa quang minh, “vô tượng bất hiện” (không hình tượng nào chẳng hiện), sẽ soi rõ rệt cảnh giới bên ngoài. Nói cách khác, tất cả các pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều thông đạt, hiểu rõ, chẳng còn có chướng ngại. Tỷ dụ này có ý nghĩa như vậy!

 

(Sớ) Sở vị ký sanh bổn quốc, đắc Vô Sanh Nhẫn dĩ, hoàn nhập sanh tử, dĩ vô số phương tiện, đại tác Phật sự, độ thoát chúng sanh, diệu dụng hằng sa, thị kỳ Thú dã.

() 所謂既生本國 ,得無生忍已 ,還入生死 以無數方便,大作佛事,度脫眾生,妙用恆沙,是其趣也。

(Sớ: Đó gọi là: Đã sanh về nước ấy, đắc Vô Sanh Nhẫn, trở vào sanh tử, dùng vô số phương tiện để làm Phật sự to lớn, độ thoát chúng sanh, diệu dụng nhiều như cát sông Hằng. Đấy là Thú [của kinh này]).

Phối hợp với kinh này để nói, kinh này lấy vãng sanh làm tác dụng. Chúng ta tu học pháp môn này nhằm mục đích cầu vãng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một đời, nhất tâm bèn đạt được. Nay chúng ta niệm Phật, mong niệm đến mức nhất tâm, chẳng dễ đâu! Thật khó lắm! Vì thế, nay chúng ta vãng sanh chỉ cầu gì? Đới nghiệp vãng sanh. Trong một lá thư viết cho bạn, Ngẫu Ích đại sư từng để lộ cảnh giới của chính mình. Ngài nói Ngài suốt đời học Phật, nhưng cũng chẳng dám bàn tới thành tựu gì, hạ hạ phẩm vãng sanh chính là kết cục chắc chắn của chính Ngài. Nói cách khác, Ngài quyết định tin tưởng chính mình có thể vãng sanh. Phẩm vị nào? Hạ hạ phẩm mà thôi. Ngài có cầu thượng phẩm hay không? Ngài không cầu, Ngài chẳng có ý niệm ấy, chỉ cầu vãng sanh, hạ hạ phẩm cũng được, chính mình cũng rất thỏa ý rồi! Chúng ta nghĩ xem: Ngẫu Ích đại sư là hạng người nào? Quyết chẳng tham cầu phẩm vị cao. Chúng ta nên bắt chước các tổ sư đại đức, thật thà niệm Phật, cầu đới nghiệp vãng sanh.

Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị bèn chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn chứng đắc điều này. Vì sao biết? Trong kinh thường nói: Viên chứng ba thứ Bất Thoái. Nếu chẳng chứng Vô Sanh Nhẫn, làm sao có ba thứ Bất Thoái cho được? Đã nói đến ba thứ Bất Thoái, nhất định đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn, thưa quý vị, không chỉ là Sự nhất tâm, trên thực tế, nó là Lý nhất tâm bất loạn. Sau khi chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, quý vị bèn thành tựu. “Đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn dĩ” là quý vị đã đạt được, thật sự đạt được. Sau khi đạt được, bèn độ chúng sanh, “hoàn nhập sanh tử” (trở vào sanh tử), [sanh tử] là lục đạo luân hồi, quý vị bèn trở lại lục đạo luân hồi. Lúc ấy, trở vào lục đạo luân hồi chẳng phải là đầu thai, chẳng phải là đến thọ báo, mà là “thừa nguyện tái lai”, tự tại lắm! Quý vị tự do ra vào lục đạo, không như chúng ta hiện thời muốn thoát khỏi lục đạo chẳng được, chẳng có cách nào! Khi ấy, người đó ra vào tự do, chẳng có chướng ngại.

Người ấy vào trong lục đạo để làm gì? Vào lục đạo độ chúng sanh. Đối với kẻ có duyên với chính mình, thấy kẻ căn cơ đã chín muồi, căn cơ chín muồi còn phải hữu duyên, hữu duyên cũng phải là căn cơ chín muồi, người ấy bèn đến [chỗ kẻ hữu duyên, căn cơ chín muồi ấy]. Nói “căn cơ chín muồi” là người ấy có thể tin tưởng. Quý vị dạy người ấy làm như vậy, người ấy sẽ chết sạch so đo, khăng khăng tu tập, quyết định thành công trong đời này. Loại người ấy được gọi là “căn cơ chín muồi”. Nói cách khác, người căn cơ chín muồi nhất định vượt thoát luân hồi trong đời này, nhất định vãng sanh. Đối với kẻ chưa chín muồi, bèn gieo thiện căn, cũng giúp đỡ người ấy, khiến cho người ấy có thể nghe kinh nhiều, niệm Phật nhiều, nhưng người ấy chưa thể vãng sanh trong đời này. Đấy là tăng trưởng thiện căn cho kẻ ấy, [tuy] kẻ ấy chưa thể vãng sanh trong đời này. Sở dĩ kẻ ấy chẳng thể vãng sanh là do chính kẻ ấy chẳng nghiêm túc niệm Phật, tam tâm, nhị ý, đã niệm Phật mà vẫn mong học môn khác, như vậy là không được rồi!

Ngày hôm nay, tôi bảo Ngộ Đạo, phước báo của tôi chẳng lớn bằng thầy ấy, chính thầy ấy phải hiểu, phải giác ngộ điều này. Tôi chẳng thể an tâm niệm Phật mấy ngày, tôi chẳng có thời gian. Nếu không giảng kinh, bèn có người tới tìm tôi khiến tôi bị chia trí, họ đã đến, chẳng thể không gặp. Vì thế, tôi thiếu phước báo. Tôi bảo họ: “Tôi ra ngoại quốc giảng kinh ba tháng, các ông hãy khéo niệm Phật suốt ba tháng. Đấy là có phước báo”. Tôi nói: “Ngày nào tôi có phước báo, tôi sẽ mở Niệm Phật Đường niệm Phật, cũng chẳng giảng kinh. Người giảng kinh chẳng có phước, người niệm Phật có phước”. Thật đấy, chẳng giả đâu! Người giảng kinh là bỏ mình vì người, chính mình niệm chẳng thành, khuyên người khác niệm Phật. Điều đáng để an ủi là mỗi lần đến chỗ nào vẫn thật sự có mấy người chịu nghe lời, tối thiểu là có một hai người biết nghe lời, có thể thật thà niệm Phật, chúng tôi bèn cảm thấy hết sức an ủi, chẳng uổng công bôn ba!

Sau khi thành tựu, thả chiếc bè Từ, trở lại độ chúng sanh, “dĩ vô số phương tiện, đại tác Phật sự” (dùng vô số phương tiện, làm Phật sự lớn lao). Thưa quý vị, Phật sự ở đây không phải là niệm kinh siêu độ vong hồn, chẳng phải vậy! Giảng kinh, thuyết pháp là Phật sự, đại chúng nhóm lại niệm Phật hoặc tham Thiền cộng tu thì gọi là Phật sự. “Vô số phương tiện” chính là dùng các thứ pháp môn, đương nhiên tùy theo căn tánh của chúng sanh: Thích Thiền bèn dạy họ tham Thiền; ưa Giáo bèn dạy họ nghiên cứu kinh điển; ưa thích niệm Phật bèn dạy họ niệm Phật; chuộng trì chú bèn dạy họ trì chú. Nói chung, những điều này có mối nhân duyên liên quan với kiếp trước hoặc nhiều đời nhiều kiếp.

Chẳng hạn như trong đời quá khứ, quý vị là người niệm Phật, nay vừa nghe nói niệm Phật bèn vui thích; người ta dạy quý vị trì chú, dạy quý vị tham Thiền, quý vị chẳng có hứng thú, vì sao? Do quý vị có tập khí, nhiều đời nhiều kiếp đã huân tập pháp môn này. Nếu trong đời quá khứ toàn là tham Thiền, tọa hương trong Thiền Đường, nay bảo quý vị niệm Phật, quý vị cũng chẳng ham thích, chẳng cảm thấy hứng thú. Do vậy, từ nhiều pháp môn, bản thân chúng ta sẽ thể nghiệm, biết chúng ta đã tu pháp môn nào trong đời quá khứ. Nhiều pháp môn bày ra trước mặt, quý vị vừa tiếp xúc, sẽ có pháp môn đặc biệt ưa chuộng, sẽ có pháp môn đặc biệt ham thích, chứng tỏ quý vị trong đời quá khứ có tập khí rất sâu đối với pháp môn ấy, trong đời này lại tiếp tục tu, sẽ dễ thành tựu. Nếu tu một pháp môn mà chính mình chẳng có hứng thú, sẽ rất khó [thành tựu]!

Mục đích là “độ  thoát  chúng  sanh”, hai chữ “độ thoát” là tỷ dụ, “độ” là vượt sông. “Độ” (度) được dùng giống như “độ” (渡: vượt sông), từ biển khổ sanh tử này, vượt sang bờ Niết Bàn bên kia. Nếu nói theo kinh này, sẽ là từ thế giới Sa Bà này vượt sang Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Thoát” là thoát ly sanh tử luân hồi, mang ý nghĩa này. “Diệu dụng Hằng sa”: Tác dụng vô lượng vô biên, nhiều như cát sông Hằng. Do vậy, có thể biết sanh sang Tây Phương Tịnh Độ để làm gì? Nhằm khôi phục trí huệ bản năng của chính mình. Khôi phục trí huệ bản năng của chính mình, giúp đỡ vô lượng vô biên chúng sanh. Chúng ta trở vào lục đạo luân hồi để làm chuyện này.

 

(Sớ) Bất đồ vi trầm không trệ tịch nhi dĩ.

() 不徒為沈空滯寂而已。

(Sớ: Chẳng phải chỉ là vướng mắc trong không tịch mà thôi).

“Trầm không trệ tịch” là nói điều gì? Người Tiểu Thừa! Người Tiểu Thừa sau khi chứng đắc Thiên Chân Niết Bàn, sẽ không ra khỏi đó, nên được gọi là kẻ chỉ biết giải thoát cho riêng mình (tự liễu hán). Sau khi chính họ đã đạt đến sự an lạc, chẳng quan tâm đến người khác, chẳng độ chúng sanh, giống như đã vùi kín trong không tịch, chẳng thể phát đại dụng lợi ích chúng sanh. Những lời này đều nói về sở chứng của bậc Thanh Văn và Duyên Giác là Thiên Chân Niết Bàn, [loại Niết Bàn này] còn gọi là Hữu Dư Niết Bàn, khác với [Niết Bàn của] Bồ Tát. Bồ Tát niệm niệm mong giúp đỡ chúng sanh, niệm niệm mong độ thoát chúng sanh, quyết chẳng lấy tự độ làm mục tiêu cuối cùng.

Do vậy, người Tiểu Thừa chẳng mong vãng sanh, vì nguyện hạnh chẳng tương đồng, chẳng tương ứng với Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do lẽ này, người Tiểu Thừa tuy chứng đắc A La Hán, hoặc chứng đắc Bích Chi Phật, vẫn chẳng thể vãng sanh; trừ phi họ thay đổi cách nghĩ, hồi Tiểu hướng Đại, muốn phát tâm độ chúng sanh thì được. Họ cầu vãng sanh như vậy, nhất định có thể đạt tới. Nếu chẳng hồi Tiểu hướng Đại, chắc chắn chẳng thể vãng sanh. Vì thế, người hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới cao minh hơn A La Hán, Bích Chi Phật rất nhiều. A La Hán và Bích Chi Phật chẳng sánh bằng! Thế nhưng tu thành A La Hán hay Bích Chi Phật chẳng dễ dàng! Cầu đới nghiệp vãng sanh chẳng phải là chuyện khó, ai nấy đều có thể làm được. Do vậy, nhất định phải khéo niệm Phật.

Chúng tôi giảng kinh nhiều năm như thế, có được một khoảng thời gian để niệm Phật, công đức ấy vô lượng vô biên, vô cùng thù thắng.
Nói thật ra, bản thân tôi vô cùng hâm mộ [những người niệm Phật]. Các đồng tu hễ có thời gian thì tốt nhất là nên ở lại nơi đây. Ở nơi đây, quý vị có thể ngày đêm [niệm Phật] chẳng gián đoạn. Phương pháp niệm Phật là niệm mệt bèn nghỉ, nghỉ ngơi khỏe khoắn xong, bèn tới Niệm Phật Đường để tiếp tục niệm, Phật hiệu sẽ chẳng bị gián đoạn. Ngủ tới nửa đêm, tỉnh giấc bèn dậy niệm Phật. Niệm mệt bèn đi ngủ tiếp, hết thảy hình thức chẳng câu nệ. Làm như thế, trong tâm quý vị chẳng bị áp lực, hết sức thoải mái. Khi nào bước vào Phật Đường bèn niệm, niệm mệt bèn tự bước ra, cũng không cần phải chào hỏi bất cứ người nào, như vậy là tốt lắm, ngày đêm chẳng gián đoạn. Nói thật ra, một Niệm Phật Đường thật sự sẽ tuân theo phương thức này.

 

(Sớ) Như thị thập môn, triển chuyển sanh khởi, dĩ vi Tông Thú.

() 如是十門,展轉生起,以為宗趣。

(Sớ: Mười môn như thế lần lượt sanh khởi, dùng những môn này làm Tông Thú).

Trong mười môn nói trên đây, luận về phương diện Tông Thú của kinh này, phần trước là Tông, phần sau là Thú. Tông và Thú liên kết với nhau. Từ đoạn văn này, chúng ta thấy rõ rệt, minh bạch. Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 87

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang một trăm bốn mươi sáu, đoạn lớn thứ bảy của phần Huyền Nghĩa.

 

Thất, bộ loại sai biệt

七、部類差別

(Bảy, bộ loại sai khác).

Trong đoạn này lại chia thành ba tiểu đoạn:

 

Sơ minh bộ. Nhị minh loại. Tam phi bộ phi loại.

初明部。二明類。三非部非類。

(Thứ nhất là nói về bộ, thứ hai là giảng về loại, thứ ba là [nói về những kinh] chẳng thuộc về bộ hay loại).

Trước hết, chúng ta coi tiểu đoạn thứ nhất.

 

Sơ, minh bộ.

(Huyền Nghĩa) Dĩ tri thử kinh, Tông Thú xung thâm, vị thẩm đương bộ đẳng loại, vi hữu kỷ chủng. Sơ tiên minh bộ giả, bộ hữu nhị chủng: Nhất vi Đại Bổn, nhị vi thử kinh.

初明部。

(玄義)已知此經,宗趣沖深,未審當部等類,為有幾種。初先明部者,部有二種:一謂大本,二謂此經。

(Trước hết, nói về bộ.

Huyền Nghĩa: Đã biết kinh này có Tông và Thú sâu xa, chưa rõ nếu xét theo bộ loại thì sẽ có mấy loại. Trước hết, nói về bộ, bộ có hai loại: Một là Đại Bổn, hai là kinh này).

Khi nghiên cứu kinh Di Đà, cũng chẳng thể thiếu khuyết đoạn này. Trong một đời giáo học của đức Phật, nói tới pháp môn này, trừ bộ kinh này ra, những kinh hoàn toàn tương đồng với pháp môn này sẽ được gọi là “đồng bộ”. Những kinh điển nào hoàn toàn tương đồng? [Ngoài ra, còn có những kinh] chẳng hoàn toàn tương đồng, nhưng là cùng một loại, [tức là] đều cùng nói tới chuyện vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Đồng bộ thì đều dùng phương pháp trì danh. Dùng phương pháp bất đồng là như Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh dùng quán tưởng. Còn có [các kinh khác] dùng trì chú, hay dùng phương pháp khác, nhưng đều là cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, những kinh ấy gọi là “đồng loại”. Còn có những kinh chẳng phải là đồng loại mà cũng chẳng phải là đồng bộ, [tức là] giảng kèm thêm [Tịnh Độ], những kinh điển ấy càng nhiều. Giảng kèm thêm, khuyên chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đại khái có hơn một trăm loại. Do vậy, biết rằng: Trong bốn mươi chín năm giáo học, Thích Ca Mâu Ni Phật coi trọng pháp môn này, cho nên không ngừng tuyên dương. Chúng ta xem lời chú giải:

 

(Sớ) Bộ giả, dĩ thị tổng quy nhất bộ, nhi hữu tường lược.

() 部者,以是總歸一部,而有詳略。

(Sớ: “Bộ” là cùng gom chung vào một bộ, nhưng giảng giải chi tiết hay đại lược [khác nhau]).

 Cùng thuộc một bộ kinh, nhưng có kinh giảng tỉ mỉ hơn một chút, có kinh giảng đơn giản hơn một chút.

 

(Sớ) Tường vi Đại Bổn.

() 詳為大本。

(Sớ: Giảng tường tận là Đại Bổn).

Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ, giảng tỉ mỉ.

 

(Sớ) Lược vi thử kinh.

() 略為此經。

(Sớ: Giảng đại lược là kinh này).

 “Thử kinh” là kinh A Di Đà, tức Tiểu Bổn, văn tự ít, giảng tỉnh lược một chút.

 

(Sớ) Đại Bổn hữu lục.

() 大本有六。

(Sớ: Đại Bổn có sáu loại).

Tổng cộng có sáu thứ (sáu bản dịch khác nhau).

 

(Sớ) Nhất danh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, Hậu Hán Chi Lâu Ca Sấm dịch.

() 一名無量清淨平等覺經,後漢支婁迦讖譯。

(Sớ: Bản thứ nhất tên là Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh do ngài Chi Lâu Ca Sấm (Lokasema)[93] dịch vào thời Hậu Hán).

Các bản dịch thời cổ gồm mười hai loại, hiện thời chỉ còn giữ được năm loại.

 

(Sớ) Nhị danh Vô Lượng Thọ Kinh, Tào Ngụy Khang Tăng Khải dịch. Tam danh A Di Đà Kinh, dữ kim kinh đồng danh, Ngô Chi Khiêm dịch.

()二名無量壽經,曹魏康僧鎧譯。三名阿彌陀經,與今經同名,吳支謙譯。

(Sớ: Bản thứ hai có tên là Vô Lượng Thọ Kinh, do ngài Khang Tăng Khải dịch vào thời Tào Ngụy. Bản dịch thứ ba tên là A Di Đà Kinh, có cùng tên với kinh này, do ngài Chi Khiêm[94] dịch vào đời Ngô).

 Ngô là Đông Ngô, Tào Ngụy đều là thời đại Tam Quốc.

 

(Sớ) Tứ danh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, Tống Pháp Hiền dịch.

() 四名無量壽莊嚴經,宋法賢譯。

(Sớ: Bản thứ tư tên là Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh, do ngài Pháp Hiền[95] dịch vào đời Tống).

Đây là nhà Triệu Tống[96], sau nhà Đường là nhà Tống, Triệu Khuông Dận làm hoàng đế của triều đại này.

 

(Sớ) Ngũ xuất Bảo Tích đệ thập bát kinh, danh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, Nguyên Ngụy Bồ Đề Lưu Chí dịch.

()五出寶積第十八經,名無量壽如來會,元魏菩提流志譯。

(Sớ: Bản thứ năm trích từ quyển mười tám của kinh Bảo Tích, có tên là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch vào thời Nguyên Ngụy).

Quyển thứ mười tám của kinh Đại Bảo Tích là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội, có ý nghĩa hoàn toàn giống với kinh Vô Lượng Thọ. Vương triều Nguyên Ngụy[97] thuộc thời đại Nam Bắc triều, do Thác Bạt Khuể thành lập. Đây là năm loại bản dịch trực tiếp từ Phạn văn, là bản dịch từ nguyên văn.

 

(Sớ) Lục danh Phật Thuyết Đại A Di Đà Kinh, Tống Long Thư cư sĩ Vương Nhật Hưu giả.

() 六名佛說大阿彌陀經,宋龍舒居士王日休者。

(Sớ: Bản thứ sáu mang tên Phật Thuyết Đại A Di Đà Kinh, do cư sĩ Long Thư Vương Nhật Hưu đời Tống).

Thứ sáu là bản hội tập do cư sĩ Vương Long Thư (Vương Nhật Hưu) đời Tống hội tập. Long Thư là địa danh, hiện nay là Thư Thành thuộc tỉnh An Huy. [Vương Nhật Hưu được] gọi là Long Thư là do người đời sau tôn xưng ông ta. Vị cư sĩ này cả đời học Phật, hoàn cảnh gia đình khá giả, sau khi đậu Tiến Sĩ, không ra làm quan, có công danh, nhưng không làm quan. Gia cảnh khá giả, sống thoải mái, chuyên tu Tịnh Độ. Ông ta đã dùng mấy bản dịch thời cổ, nhưng chỉ đọc bốn bản dịch, chưa đọc kinh Bảo Tích, hội tập bốn thứ bản dịch, biên soạn thành một bản mới, nay chúng ta gọi là Đại A Di Đà Kinh, [bản ấy] do cư sĩ Long Thư biên soạn. Bản biên tập này vẫn chưa hoàn toàn lý tưởng, người đời sau phê bình ông ta cũng rất nhiều. Có người nói khi ông biên tập kinh này, đại khái thuộc độ tuổi trung niên, cũng tức là nói ông ta biên tập khi công phu tu hành của chính mình vẫn chưa thành tựu. Cuốn Long Thư Tịnh Độ Văn thật sự lỗi lạc, đó là tác phẩm [do ông Vương] viết vào lúc tuổi già. Chính ông ta đứng vãng sanh, biết trước lúc mất, không ngã bệnh. Có thể thấy ông ta vãng sanh phẩm vị chắc chắn chẳng thấp. Đây là một vị tại gia cư sĩ, suốt đời niệm A Di Đà Phật.

 

(Sớ) Tổng thủ tiền chi tứ dịch, tham nhi hội chi. Duy trừ Bảo Tích, bỉ sở vị cập.

() 總取前之四譯 ,參而會之 。唯除寶積 彼所未及。

(Sớ: Đã gộp chung bốn bản dịch đầu tiên để tham khảo, hội tập. Chỉ trừ bản dịch trong kinh Bảo Tích là chưa dùng đến).

Tham khảo rồi hội tập. Ông ta chỉ dùng bốn bản dịch gốc để soạn thành bản hội tập.

 

(Sớ) Nhiên thượng ngũ dịch, hỗ hữu dị đồng. Hán Ngô nhị dịch, tứ thập bát nguyện, chỉ tồn kỳ bán, vi nhị thập tứ, kỳ dư văn trung, đại đồng tiểu dị.

() 然上五譯 ,互有異同 。漢吳二譯 ,四十八願 止存其半,為二十四,其餘文中,大同小異。

(Sớ: Nhưng trong năm bản dịch ấy, có những chỗ giống nhau và khác biệt. Trong hai bản dịch thuộc đời Hán và Ngô, bốn mươi tám nguyện chỉ còn một nửa, tức là hai mươi bốn nguyện. Những phần kinh văn khác, chỉ khác biệt đôi chút).

Bản Hán dịch là Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh, bản Ngô dịch là A Di Đà Kinh. Đối với bốn mươi tám nguyện, bản Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh và bản A Di Đà Kinh do ngài Chi Khiêm dịch đều là hai mươi bốn nguyện. Các bản dịch của Khang Tăng Khải và Pháp Hiền đều là bốn mươi tám nguyện. Đối với bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư, quý vị mở xem phần kinh văn hai mươi bốn nguyện [sẽ thấy] vốn là bốn mươi tám nguyện. Trong một nguyện, [nhiều khi] cụ đã gộp hai hay ba nguyện lại. Trên thực tế, hai mươi bốn nguyện và bốn mươi tám nguyện nội dung hoàn toàn tương đồng, chỉ là những điều mục được gộp vào hay tách ra khác nhau mà thôi. Do vậy, bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư hay hơn bản do Vương Long Thư biên soạn, hay hơn cả mấy bản dịch gốc, đúng là đã biên tập những chỗ tinh hoa trong các bản dịch cổ, biên tập vô cùng khéo. Nay chúng ta đang dùng bản này.

 

(Sớ) Vương thị sở hội, giảo chi ngũ dịch, giản dị minh hiển, lưu thông kim thế, lợi ích thậm đại.

()王氏所會,較之五譯,簡易明顯,流通今世,利益甚大。

(Sớ: Bản hội tập của họ Vương, so với năm bản dịch gốc, đơn giản, dễ đọc, rõ ràng, được lưu thông trong hiện thời, có lợi ích rất lớn).

Đây là cái nhìn của Liên Trì đại sư trong đời Minh, có thể thấy thuở ấy, bản Đại A Di Đà Kinh do cư sĩ Long Thư biên tập rất được người khác hoan nghênh.

 

(Sớ) Đản kỳ bất diêu Phạn bổn, duy chước Hoa văn, vị thuận dịch pháp.

() 但其不繇梵本,唯酌華文,未順譯法。

(Sớ: Nhưng bản ấy chẳng phát xuất từ [chánh kinh bằng] tiếng Phạn, chỉ châm chước từ những bản tiếng Hán, chưa theo đúng cách dịch thuật).

Ông ta không phiên dịch từ nguyên bản tiếng Phạn, mà chỉ dùng bốn bản dịch tiếng Hán để biên tập thành một bản mới mà thôi!

 

(Sớ) Nhược dĩ Phạn bổn trùng phiên nhi thành lục dịch, tức vô nghị hỹ.

() 若以梵本重翻而成六譯,即無議矣。

(Sớ: Nếu dùng bản tiếng Phạn để dịch lại thành bản dịch thứ sáu, sẽ chẳng có ai dị nghị).

Mọi người sẽ chẳng tranh cãi với ông ta.

 

(Sớ) Cố bỉ bất ngôn dịch, nhi ngôn giảo chánh dã.

() 故彼不言譯而言校正也。

(Sớ: Vì thế, ông ta không nói là dịch, mà nói là giảo chánh).

Cư sĩ Vương Long Thư rất khiêm hư, không nói là phiên dịch, mà nói là “giảo chánh”, tức là gộp mấy phiên bản lại để chỉnh lý.

 

(Sớ) Hựu kỳ trung khứ thủ cựu văn, diệc hữu vị tận.

() 又其中去取舊文,亦有未盡。

(Sớ: Hơn nữa, trong bản hội tập, việc chọn lựa để bỏ đi, hay giữ lại những câu kinh văn từ các bản dịch cổ cũng chưa trọn vẹn).

Đây là những chỗ phê bình đối với [bản hội tập của] ông ta; nói cách khác, ông ta đã bỏ sót những chỗ trọng yếu, đáng tiếc quá!

 

(Sớ) Như tam bối vãng sanh.

() 如三輩往生。

(Sớ: Như trong phần ba bậc vãng sanh).

Đây là một đoạn kinh văn rất trọng yếu, giảng về ba bậc vãng sanh.

 

(Sớ) Ngụy dịch.

() 魏譯。

(Sớ: Bản dịch đời Ngụy).

 Tức là bản của ngài Khang Tăng Khải.

 

(Sớ) Giai viết phát Bồ Đề tâm.

() 皆曰發菩提心。

(Sớ: [Đối với cả ba bậc] đều nói là “phát Bồ Đề tâm”).

Đối với vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phát Bồ Đề tâm rất trọng yếu.

 

(Sớ) Nhi Vương thị duy trung bối phát Bồ Đề tâm, hạ viết bất phát, thượng cánh bất ngôn, tắc cao hạ thất thứ.

()而王氏唯中輩發菩提心,下曰不發,上竟不言,則高下失次。

(Sớ: Nhưng ông Vương chỉ nói bậc Trung phát Bồ Đề tâm, bậc Hạ chẳng phát, còn bậc Thượng hoàn toàn chẳng nhắc tới. Đấy chính là đã đánh mất thứ tự cao thấp).

Đây là chỗ thiếu hoàn mỹ của ông ta. Trong bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, các bậc đều phải phát Bồ Đề tâm, vì Tây Phương Cực Lạc thế giới là Đại Thừa Phật pháp; chẳng phát Bồ Đề tâm sẽ không tương ứng với Tây Phương Tịnh Độ. Vì thế, phát Bồ Đề tâm rất trọng yếu. [Trong bản hội tập của ông Vương], thượng phẩm không nhắc tới, văn tự bị thiếu sót, trung phẩm thì có, trong phần hạ phẩm, ông ta bảo “chẳng phát”. Đây là chỗ bị người khác phê bình, bảo là “cao hạ thất thứ” (đánh mất thứ tự cao thấp). Nếu coi “chẳng phát Bồ Đề tâm” là cao, mà do hạ phẩm chẳng phát, [vậy thì lẽ ra hạ phẩm] phải cao hơn trung phẩm, đây là thứ tự điên đảo. Nếu coi phát Bồ Đề tâm là cao, mà [trong phần kinh văn] thượng phẩm lại mơ hồ chẳng nói. Đây cũng là chỗ khiến cho người ta nghi hoặc.

 

(Sớ) Thả văn trung đa thiện căn, toàn tại phát Bồ Đề tâm, nhi tam bối bất đồng, đồng nhất phát tâm, chánh vãng sanh yếu chỉ, nãi phản lược chi, cố vân vị tận.

()且文中多善根,全在發菩提心,而三輩不同,同一發心,正往生要旨,乃反略之,故云未盡。

(Sớ: Hơn nữa, “nhiều thiện căn” [như đã được nói] trong kinh văn hoàn toàn do phát Bồ Đề tâm, tuy ba bậc khác nhau, nhưng đều giống nhau ở chỗ phát tâm, đấy chính là tông chỉ trọng yếu trong vãng sanh, mà ông ta lại ngược ngạo gạt bỏ, cho nên nói là “chưa trọn vẹn”).

 Điều này có nghĩa là như cổ nhân đã nói: “Tuy hay khéo lắm, nhưng chưa trọn vẹn!” Chưa thể đạt đến tận thiện tận mỹ, nên bản này có khuyết điểm, sai sót. Đây là một ví dụ rất rõ rệt. Ở đây nêu rõ: Cả ba bậc đều cùng phát tâm. Đây là điều kiện vãng sanh trọng yếu nhất, nhất định phải “phát Bồ Đề tâm”. Ông ta tỉnh lược đi, đó là chuyện rất đáng tiếc!

 

(Sớ) Nhiên kim Sớ Sao sở dẫn, nghĩa tắc kiêm thâu ngũ dịch, ngữ tắc đa tựu Vương văn.

() 然今疏鈔所引,義則兼收五譯,語則多就王文。

(Sớ: Nhưng nay những phần kinh Vô Lượng Thọ được trích dẫn trong bản Sớ Sao này, ý nghĩa bao gồm cả năm bản dịch gốc, nhưng kinh văn phần nhiều trích theo bản của ông Vương).

Trong bản Sớ Sao do Liên Trì đại sư biên soạn có những phần trích dẫn, Ngài giải thích: Những ý nghĩa ấy chủ yếu dựa theo năm thứ bản dịch gốc của kinh Đại Bổn, nhưng kinh văn trích dẫn, đa phần chọn lựa từ bản của ông Vương Long Thư. Ông Vương Long Thư giỏi văn chương, văn chương khéo léo [nên Tổ dùng bản ấy để trích dẫn kinh văn], nhưng [luận định] nghĩa lý thì luôn tuân thủ năm bản dịch gốc từ thời cổ. Vì thế, cái hay của Sớ Sao là ở chỗ này! Có thể nói: Đọc bộ Sớ Sao là đọc toàn bộ tất cả kinh luận của Tịnh Độ Tông, vì toàn bộ đều được trích dẫn. Không chỉ trích dẫn năm bản dịch ấy, mà Quán Kinh, Cổ Âm Vương Kinh, Bi Hoa Kinh thảy đều trích dẫn. [Ngay cả những kinh] không phải đồng bộ, mà cũng chẳng phải đồng loại như kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa, thảy đều được trích dẫn. Do vậy, Sớ Sao quả thật mênh mông, to lớn, tinh tường, sâu xa. Đấy là lời tán thán của Ngẫu Ích đại sư. Nói cách khác, học Phật không chỉ là học Tịnh Độ Tông, quý vị đọc Sớ Sao mà thật sự đọc thông suốt thì tất cả các tông phái khác cũng đều thông suốt, vì [kinh điển của các tông phái khác] Ngài đã đều trích dẫn rồi! Đối với chúng ta hiện thời mà nói, bộ sách này càng đúng là lợi ích chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sớ) Dĩ Vương bổn thế sở thông hành, nhân tập kiến cố.

() 以王本世所通行,人習見故。

(Sớ: Do bản của ông Vương phổ biến trong cõi đời, người ta đã quen thấy).

Chọn văn tự của Vương Long Thư có cái lợi là mọi người [cảm thấy] quen thuộc.

 

(Sớ) Dư ngũ gián thủ.

() 餘五間取。

(Sớ: Đôi khi chọn từ năm bản dịch gốc).

Đôi khi cũng phải chọn từ năm bản dịch cổ.

 

(Sớ) Nhi khái dĩ Đại Bổn tiêu chi, cố thượng lục chủng giai danh Đại Bổn.

() 槩以大本標之,故上六種皆名大本。

(Sớ: Nhưng đều gọi chung là Đại Bổn, bởi cả sáu bản trên đây đều được gọi là Đại Bổn).

Trong Sớ Sao, hễ nhắc đến Đại Bổn, [thì danh xưng Đại Bổn] bao gồm sáu thứ này. Sáu thứ này đều được gọi là Đại Bổn; nhưng rốt cuộc chọn lấy bản nào thì nhất định phải là bản mà chính quý vị cảm thấy thân thuộc nhất. Khi không quen, quý vị sẽ tìm không được, sẽ chẳng biết là bản nào!

 

(Sớ) Kim thử kinh giả, danh vi Tiểu Bổn.

() 今此經者,名為小本。

(Sớ: Nay kinh này được gọi là Tiểu Bổn).

Kinh A Di Đà do Cưu Ma La Thập đại sư phiên dịch được gọi là Tiểu Bổn.

 

(Sớ) Văn hữu phồn giản, nghĩa vô thắng liệt.

() 文有繁簡,義無勝劣。

(Sớ: Kinh văn chi tiết hay đơn giản, nhưng ý nghĩa chẳng hơn kém).

Hai câu này rất trọng yếu. “Văn hữu phồn giản”: Văn tự có dài hay ngắn, kinh Vô Lượng Thọ văn tự nhiều, kinh văn dài. Kinh văn của kinh Di Đà ngắn, nhưng “nghĩa vô thắng liệt” (ý nghĩa chẳng hơn kém), nội dung như nhau, ý nghĩa hoàn toàn như nhau. Do vậy, hai bộ kinh này thuộc loại đồng bộ, giống nhau, một kinh giảng tỉ mỉ, kinh kia giảng tỉnh lược một chút.

 

Nhị, minh loại

二、明類。

(Thứ hai là nói về loại).

Đoạn thứ hai giảng về “loại”. Loại là chẳng cùng bộ.

 

(Huyền nghĩa) Nhị, minh loại giả, tự hữu tam chủng: Nhất Quán Kinh, nhị Cổ Âm Vương Kinh, tam Hậu Xuất A Di Đà Kệ Kinh.

(玄義) 二、 明類者, 自有三種: 一觀經, 二鼓音王經,三後出阿彌陀偈經。

(Huyền Nghĩa: Hai, nói về loại thì có ba thứ: Một là Quán Kinh, hai là Cổ Âm Vương Kinh, ba là Hậu Xuất A Di Đà Kệ Kinh).

Đây là ba bản khác nhau.

 

(Sớ) Loại giả, bất đồng kỳ bộ, nhi đồng kỳ loại. Như tùng côn đệ, tuy bất đồng phụ, nhi đồng kỳ tổ, diệc danh tỷ kiên, tương vi đẳng di, cố viết đồng loại.

() 類者, 不同其部, 而同其類。 如從昆弟, 雖不同父,而同其祖,亦名比肩,相為等夷,故曰同類。

(Sớ: “Loại” là chẳng cùng bộ, mà cùng loại. Như anh em họ, tuy chẳng cùng một cha, nhưng có cùng một tổ, cũng gọi là “ngang vai vế”, cùng là ngang hàng, nên gọi là “đồng loại”).

“Đồng bộ” giống như cùng một người, hoàn toàn tương đồng. “Đồng loại”: Tuy không phải là cùng một người, nhưng giống như anh em họ, tuy không có cùng một cha, nhưng có cùng một ông nội. Quan hệ “đồng loại” cũng hết sức mật thiết.

 

(Sớ) Quán Kinh giả, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh.

() 觀經者,觀無量壽佛經。

(Sớ: Quán Kinh là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh).

Tuy mục tiêu cũng là vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng phương pháp tu hành khác nhau, kinh này dùng phương pháp quán tưởng.

 

(Sớ) Cụ đàm thập lục diệu môn.

() 具談十六妙門。

(Sớ: Giảng trọn vẹn mười sáu phép Quán mầu nhiệm).

Có mười sáu phép Quán.

 

(Sớ) Nhất Tâm Tam Quán, tường bổn Sớ Sao.

() 一心三觀,詳本疏鈔。

(Sớ: Nhất Tâm Tam Quán được giảng chi tiết trong cuốn Sớ Sao của kinh ấy).

Chữ “bổn Sớ Sao” chỉ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ Sao. Nói theo lý luận Tịnh Độ, bộ kinh ấy cũng rất trọng yếu.

 

(Sớ) Cổ Âm Vương Kinh giả, Phật tại Chiêm Ba đại thành, Già Già linh trì, dữ tỳ-kheo bách nhân thuyết. Trung vân: “Nhược hữu tứ chúng, thọ trì A Di Đà Phật danh hiệu, lâm mạng chung thời, Phật dữ thánh chúng, tiếp dẫn vãng sanh” đẳng.

() 鼓音王經者, 佛在瞻波大城, 伽伽靈池 與比丘百人說。中云:若有四眾,受持阿彌陀佛名號,臨命終時,佛與聖眾,接引往生等。

(Sớ: Cổ Âm Vương Kinh[98]: Đức Phật ngự tại đại thành Chiêm Ba (Campaka), nơi ao thiêng Già Già, giảng cho một trăm vị tỳ-kheo. Trong ấy có đoạn nói: “Nếu có tứ chúng thọ trì danh hiệu của A Di Đà Phật, khi lâm chung, Phật và thánh chúng sẽ tiếp dẫn vãng sanh” v.v…)

Cách nói này hoàn toàn chẳng khác gì Đại Bổn và kinh này. Vì thế, nó và kinh này cũng là đồng loại, đều nhằm khuyên con người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới .

 

(Sớ) Hậu Xuất Kệ Kinh giả, thỉ chung duy kệ, thị già đà bộ.

() 後出偈經者,始終唯偈,是伽陀部。

(Sớ: Hậu Xuất Kệ Kinh là từ đầu đến cuối đều là kệ, thuộc loại Già-đà).

Kệ Kinh từ đầu đến cuối là kệ tụng. “Già-đà” (Gāthā) là Cô Khởi Tụng, nhằm phân biệt không phải là Trùng Tụng (Geya).

 

(Sớ) Trung vân: “Phát nguyện dụ chư Phật, thệ nhị thập tứ chương”.

() 中云:發願喻諸佛,誓二十四章。

(Sớ: Trong ấy có đoạn: “Phát nguyện vượt chư Phật, lời thề hăm bốn chương”).

 Có cùng số chữ với Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh.

 

(Sớ) Nguyện chỉ tồn bán, dữ Hán Ngô nhị dịch đồng, nhi tứ thập bát nguyện, tự cổ cập kim, truyền dương dĩ cửu, nhị thập tứ giả, hoặc Phạn bổn khuyết lược, vị khả tri dã.

() 願止存半 ,與漢吳二譯同 ,而四十八願 自古及今,傳揚已久,二十四者,或梵本缺略,未可知也。

(Sớ: Nguyện chỉ còn một nửa, giống với hai bản dịch đời Hán và đời Ngô, nhưng bốn mươi tám nguyện từ xưa đến nay được lưu truyền, hoằng dương đã lâu. Hai mươi bốn nguyện có thể là do bản tiếng Phạn bị thiếu sót không chừng!)

Đối với chuyện này, Liên Trì đại sư chẳng khảo chứng cặn kẽ.

 

(Sớ) Hoặc vấn: Cổ Âm diệc thuyết trì danh, vân hà bất dữ kim kinh đồng bộ?

() 或問,鼓音亦說持名,云何不與今經同部。

(Sớ: Có kẻ hỏi: Kinh Cổ Âm Thanh Vương cũng nói đến trì danh, cớ sao chẳng phải là đồng bộ với kinh này?)

Câu hỏi này hay lắm! Trích dẫn từ Cổ Âm Vương Kinh trong đoạn kinh văn này, quả thật là dạy chúng ta trì danh niệm Phật, đáng lẽ phải là cùng bộ, vì lẽ gì phân định là đồng loại, chẳng phải là đồng bộ?

 

(Sớ) Đáp: Dĩ hữu chú cố. Bỉ kinh tuy thuyết trì danh, trọng trì chú cố.

() 答:以有咒故。彼經雖說持名,重持咒故。

(Sớ: Đáp: Do có thần chú. Kinh ấy tuy nói đến trì danh, nhưng coi trọng trì chú).

Trong kinh ấy có chú, đặc biệt nhấn mạnh trì chú. Có lẽ cũng có đồng tu hoài nghi, vì sao cùng khuyên cầu sanh Tịnh Độ, mà đức Phật nói nhiều phương pháp ngần ấy? Ở đây, phải hiểu: Đức Phật thuyết pháp ứng cơ, giống người Trung Quốc tuyệt đại đa số thích trì danh, thích niệm danh hiệu Phật; nhưng ở những nơi khác như Tây Tạng, Ni Bạc Nhĩ (Nepal), Tây Khang[99], còn có người ngoại quốc, có rất nhiều người thích trì chú. Thích trì chú bèn dạy quý vị trì chú; ưa trì danh bèn dạy quý vị trì danh; chuộng quán tưởng bèn dạy quý vị quán tưởng. Đức Phật ứng cơ thuyết pháp, chúng ta phải hiểu điều này! Phương pháp khác nhau, nhưng nhất định đạt tới mục đích tương đồng. Nhưng trong tất cả các phương pháp, nếu quý vị so sánh đôi chút thì trì danh thuận tiện và dễ dàng nhất, vẫn là đơn giản và dễ dàng hơn trì chú. Xét về hiệu quả, thưa quý vị, càng đơn giản càng đắc lực.

Theo Trúc Song Tùy Bút của Liên Trì đại sư, có người hỏi Ngài: “Ngài dạy người khác niệm Phật như thế nào?” Ngài đáp: “Dạy người khác niệm Phật sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật”. Người ta bèn hỏi Ngài: “Chính lão nhân gia thì niệm theo cách nào?” “Niệm bốn chữ A Di Đà Phật”. Khác nhau! Người ta hỏi: “Vì sao Ngài dạy người khác niệm sáu chữ, chính mình niệm bốn chữ?” Ngài nói: “Bản thân tôi trong một đời này tâm nguyện quyết định muốn cầu sanh Tịnh Độ. Vì thế, chấp trì danh hiệu bốn chữ, đơn giản mà! Dạy người khác, chưa chắc họ đã có tâm nguyện ấy, chưa chắc phát nguyện vãng sanh trong một đời này. Vì thế, thêm vào Nam-mô sẽ tốt hơn một chút”. Nam-mô có nghĩa là cung kính hay quy y. “Nam-mô A Di Đà Phật” dịch nghĩa sang tiếng Hán là “quy y A Di Đà Phật” hay “cung kính A Di Đà Phật”, thêm vào lời lẽ khách sáo! Nếu chính Ngài đã quyết định muốn cầu sanh Tịnh Độ trong một đời này, những chữ khách sáo đều khỏi nhắc tới, bỏ sạch, quyết định vãng sanh mà! Nếu chính mình tâm sanh tử chẳng thiết tha, thêm Nam-mô sẽ tốt hơn. Nếu trong một đời này, thật sự mong vãng sanh thế giới Cực Lạc, hãy học theo Liên Trì đại sư, càng đơn giản càng đắc lực. Do lúc lâm chung, một niệm cuối cùng càng đơn giản càng tốt, quá dài, quá rườm rà, e rằng cho đến lúc ấy sẽ chẳng đắc lực, phiền lắm!

Do đây biết rằng: Phương pháp trì danh này, tại Trung Quốc hơn một nghìn năm qua, lịch đại tổ sư cực lực đề xướng là rất có lý. Các Ngài không đề xướng trì chú, không đề xướng quán tưởng, chuyên môn đề xướng trì danh, trong ấy có đạo lý rất sâu. Nương theo pháp môn này tu hành, người thành tựu, người vãng sanh trong các đời vô số như trong Vãng Sanh Truyện đã ghi chép, đó chỉ là chép một, bỏ sót cả vạn, [những trường hợp vãng sanh] không được ghi chép rất nhiều, được ghi chép rất ít.

 

Tam, phi bộ phi loại.

(Huyền Nghĩa) Tam, minh phi bộ loại giả, đới thuyết Tịnh Độ.

三、非部非類。

(玄義) 三、明非部類者,帶說淨土。

(Ba là chẳng phải bộ mà cũng chẳng phải loại.

Huyền Nghĩa: Ba, nói về chẳng phải bộ mà chẳng phải loại là nói kèm thêm về Tịnh Độ).

Đây là giảng kèm thêm!

 

(Huyền Nghĩa) Như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, cập Khởi Tín đẳng.

(玄義) 如華嚴法華,及起信等。

(Huyền Nghĩa: Như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, và Khởi Tín v.v…)

Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Khởi Tín Luận v.v… những kinh luận như vậy rất nhiều, gần như có một, hai trăm loại!

 

(Huyền Nghĩa): Hựu phi bộ loại, nhi trung thuyết chuyên trì danh hiệu, như Văn Thù Bát Nhã.

(玄義) 又非部類,而中說專持名號,如文殊般若。

(Huyền Nghĩa: Lại nữa, trong các thứ chẳng phải bộ loại, có loại chuyên nói đến trì danh hiệu như kinh Văn Thù Bát Nhã).

Trong kinh Văn Thù Bát Nhã cũng có [nói tới phương pháp trì danh]. Đây là nói về “phi bộ phi loại”.

 

(Sớ) Đới thuyết giả, chư đồng bộ đồng loại chi ngoại, phục hữu chư kinh, tuy bất chuyên đàm Tịnh Độ, kỳ trung đới cập khuyến tán vãng sanh dã.

()說者,諸同部同類之外,復有諸經,雖不專談淨土,其中帶及勸讚往生也。

(Sớ: “Nói kèm”: Ngoài các kinh đồng bộ, đồng loại, còn có các kinh tuy chẳng chuyên giảng về Tịnh Độ, nhưng trong ấy có kèm thêm khuyên lơn, ca ngợi vãng sanh).

Đây là một loại.

 

(Sớ) Hoa Nghiêm, như Hạnh Nguyện Phẩm, ký minh thập đại nguyện vương, nhi mạt ngôn dĩ thử thập nguyện đạo quy Cực Lạc thị dã.

()華嚴,如行願品,既明十大願王,而末言以此十願導歸極樂是也。

(Sớ: Hoa Nghiêm thì như trong phẩm Hạnh Nguyện giảng về mười đại nguyện vương, cuối cùng nói: Dùng mười nguyện này dẫn về Cực Lạc. Đó là [nói kèm]).

 Đây là nói tới kinh Hoa Nghiêm. Nói tới kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa, ý nghĩa này rất sâu, vì cả một đời Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp, bộ kinh được giảng đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, cuối cùng giảng kinh Pháp Hoa, nói tới kinh giảng lần đầu, và nói tới kinh giảng cuối cùng, hết thảy các kinh đều được bao quát vào giữa. Các kinh luận đã được nói trong khoảng ấy, đã nói kèm về Tịnh Độ rất nhiều; cho nên Ngài đặc biệt nêu ra hai kinh này, một mở đầu, một kết thúc. Nhất là pháp môn Niệm Phật được đề xướng đầu tiên do hai vị Bồ Tát Văn Thù và Phổ Hiền trong hội Hoa Nghiêm. Kinh văn của kinh Hoa Nghiêm đã ghi chép rành mạch, hai vị Bồ Tát này đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Học trò của ngài Văn Thù là Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, đến cuối cùng tham phỏng Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát dạy cho Thiện Tài mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Không chỉ Thiện Tài đồng tử vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Tạng, tức Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, trong mỗi một địa vị chẳng biết có bao nhiêu Bồ Tát, đều cùng Văn Thù, Phổ Hiền vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Vì thế, đối với kinh Hoa Nghiêm, quý vị thấy xuyên suốt thì nó là kinh gì vậy? Là kinh vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói nhiều ngần ấy, đến cuối cùng bèn sang Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đây là khải thị tối cao vô thượng mà kẻ nghiên cứu Hoa Nghiêm chẳng thể không biết. Bất luận quý vị học tông nào, phái nào, học kinh gì hay luận gì, đến cuối cùng không gì chẳng quy về Tịnh Độ. Năm mươi ba lần tham học, năm mươi ba vị thiện tri thức, mỗi cá nhân học pháp môn khác nhau. Nói theo cách hiện thời, có Hiển, có Mật, các tông, các phái, cuối cùng toàn bộ đều là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta phải nên hiểu điều này!

Còn có một điểm phải đặc biệt chú ý, các tông, các phái, Hiển hay Mật, đều cùng tu mười đại nguyện vương, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là chỗ quy túc chung. Mười đại nguyện vương là cương lãnh tu hành chung của vô lượng vô biên pháp môn, có cùng một ý nghĩa với Tam Quy Y. Tam Quy Y là quy y “Giác, Chánh, Tịnh”, cho nên nó là tổng cương lãnh tu hành trong Phật môn, mười đại nguyện vương cũng là tổng cương lãnh tu hành. Nếu chúng ta coi Tam Quy Y như Cương, mười đại nguyện vương là Mục, nương theo thập nguyện để tu “Giác, Chánh, Tịnh”. Đây là tổng cương mục tu học của Phật pháp, chúng ta chớ nên không biết!

Mười đại nguyện vương, thứ nhất là “lễ kính chư Phật”: Bên trong phải chân thành, bên ngoài phải cung kính. Không chỉ học Phật phải tu từ chỗ này, mà đạo làm người trong pháp thế gian cũng thực hiện từ chỗ này. Chưa làm được điều này, những thứ khác chẳng cần phải bàn tới nữa! Giống như xây nhà, nó là nền móng. Nếu nền móng không có, quý vị dựng nhà sao được? Rất trọng yếu! Rất nhiều người niệm Phật, quá ư là nhiều, vãng sanh được mấy? Vì lẽ gì niệm Phật suốt đời vẫn chẳng thể vãng sanh? Chư vị phải nhớ: Người ấy thiếu cơ sở! Trong phần trên đã nói “lễ kính chư Phật” là phát Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm là cái tâm chân thành. Người ấy thiếu Bồ Đề tâm! Trong tâm siểm khúc, cong quẹo, cái tâm bất hảo, đó chẳng phải là tâm học Phật, chẳng phải là tâm thành đạo, đương nhiên cũng không phải là tâm vãng sanh. Vì mỗi cá nhân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tâm địa thanh tịnh, chánh trực; tâm quý vị khác với lòng người của đại chúng trong thế giới Cực Lạc, cho nên dù quý vị mỗi ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu, cổ đại đức bảo “rách toạc cổ họng cũng uổng công”, chẳng thể vãng sanh. Chúng ta nhất định phải chú ý điều này!

Chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật phải chân thành, phải cung kính, Nho gia cũng nói tới điều này [bằng thuật ngữ] “thành ý chánh tâm”, cũng nói thực hiện từ chỗ này! Vừa mở sách Lễ Ký ra, [ta thấy câu đầu tiên là] “Khúc Lễ viết: Vô bất kính” (Khúc Lễ nói: Không gì chẳng kính), có dụng ý hoàn toàn giống như nguyện thứ nhất trong mười đại nguyện vương. Chẳng đặt vững nền tảng lễ kính, làm người còn làm chưa tốt đẹp, quý vị còn thành Phật được ư? Đó là chuyện không thể nào xảy ra được! Do vậy, nhất định phải đặt vững nền móng này!

 

(Sớ) Pháp Hoa, như vân tụng tư kinh giả.

() 法華,如云誦斯經者。

(Sớ: Như kinh Pháp Hoa nói: “Người tụng kinh này”).

Đây là nói tới người niệm kinh Pháp Hoa.

 

(Sớ) Mạng chung đương sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới thị dã.

() 命終當生阿彌陀佛極樂世界是也。

(Sớ: Mạng chung sẽ sanh về thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật, đấy là [nói kèm về Tịnh Độ]).

Trong kinh Pháp Hoa, rành rành là có những đoạn kinh văn nói rõ: “Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”, nhưng đoạn kinh văn này khi phiên dịch đã bị bỏ sót, hình như là bài thứ năm hay bài thứ sáu trong phần kệ tụng. Nguyên văn tiếng Phạn của kinh Pháp Hoa nay vẫn còn, đầu thời Dân Quốc, nữ cư sĩ Lã Bích Thành[100] học Phật vô cùng kiền thành, bà ta là giáo sư đại học, rất giỏi tiếng Anh, tiếng Phạn cũng thông thạo, đã nhận thấy đoạn văn này trong nguyên bản kinh Pháp Hoa bằng tiếng Phạn đã bị bỏ sót, bèn dịch ra.

 

(Sớ) Khởi Tín, như tiền giáo khởi trung sở minh thị dã.

() 起信,如前教起中所明是也。

(Sớ: Luận Khởi Tín thì như trong phần Giáo Khởi Nhân Duyên ở phần trước đã nói rõ).

Khởi Tín là Khởi Tín Luận, người đọc tụng rất nhiều. Bản thân Mã Minh Bồ Tát (Aśvaghośa) cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, cho nên Ngài viết Khởi Tín Luận cũng nhằm đề xướng, khuyên người khác cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

 

(Sớ) Đẳng giả.

() 等者。

(Sớ: Những kinh luận giống như vậy).

 Những kinh luận như vậy quá nhiều!

 

(Sớ) Như Quán Phật Tam Muội.

() 如觀佛三昧。

(Sớ: Như Quán Phật Tam Muội Kinh).

Quán Phật Tam Muội Kinh.

 

(Sớ) Thập Trụ Đoạn Kết chư kinh.

() 十住斷結諸經。

(Sớ: Các kinh như Thập Trụ Đoạn Kết).

Chẳng thể kể xiết! Nếu mỗi thứ đều viết ra hết, sẽ có rất nhiều, đề mục các kinh luận này có hơn một trăm loại.

 

(Sớ) Đới thuyết Tịnh Độ, tằng điệp phi nhất, tường như hậu thích văn trung tạp dẫn.

() 說淨土,層疊非一,詳如後釋文中雜引。

(Sớ: Nói kèm về Tịnh Độ thì tầng lớp chẳng phải là một loại, sẽ được trích dẫn tường tận trong phần giải thích kinh văn ở phần sau).

Trong Sớ Sao đã dẫn rất nhiều kinh luận giảng về pháp môn Niệm Phật.

 

(Sớ) Văn Thù Bát Nhã, tường hậu chấp trì danh hiệu văn trung.

() 文殊般若,詳後執持名號文中。

(Sớ: Đối với kinh Văn Thù Bát Nhã, sẽ được giảng giải tường tận trong phần nói về chấp trì danh hiệu ở phía sau).

Trong đoạn văn giải thích về “chấp trì danh hiệu” của Sớ Sao đã trích dẫn kinh Văn Thù Bát Nhã. Đây là Phật khuyên chúng ta cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, đặc biệt là pháp môn trì danh.

 

Bát, dịch thích tụng trì.

八、譯釋誦持。

(Tám là phiên dịch, giải thích, trì tụng).

Đoạn này nói về sự cảm ứng. “Dịch” là khi phiên dịch, “thích” là khi chú giải hay giảng kinh, “tụng” là đọc thuộc lòng, “trì” là nương theo kinh điển này để tu hành. Nói “tín nguyện trì danh” là y theo phương pháp này để tu hành.

 

Sơ minh dịch, nhị minh thích, tam minh tụng, tứ minh trì, ngũ kết khuyến.

初明譯。二明釋。三明誦。四明持。五結勸。

(Trước hết là nói về dịch, thứ hai là nói về giải thích, thứ ba nói về tụng, thứ tư nói về trì, thứ năm là kết lại lời khuyên).

Chia thành năm đoạn.

 

Sơ, minh dịch

(Huyền Nghĩa) Dĩ tri thử kinh, vi bộ, vi loại, tường, lược, đồng, biệt. Vị ủy dịch tự hà thời?

初、明譯

(玄義)已知此經,為部為類,詳略同別。未委譯自何時。

(Thứ nhất, nói về dịch.

Huyền Nghĩa: Đã biết kinh bộ loại của kinh này có tường tận hay đại lược, giống nhau hay sai khác, nhưng chưa rõ kinh này được dịch từ khi nào?)

 “Ủy” là ủy khuất (委屈)[101].  Kinh này rốt cuộc được phiên dịch lúc

nào? Do nhân duyên gì truyền đến Trung Quốc? Vẫn chưa biết chuyện này, vẫn còn ủy khuất, xin hãy giảng giải rõ ràng, [đoạn văn trên đây] mang ý nghĩa này!

 

(Huyền Nghĩa) Phàm hữu kỷ dịch.

(玄義) 凡有幾譯。

(Huyền Nghĩa: Có mấy bản dịch).

Như Đại Bổn có tất cả mười hai bản dịch, nhưng nay trong Đại Tạng Kinh chỉ còn năm bản dịch, những bản dịch khác đều bị thất lạc. Tại Trung Quốc, kể từ đời Tống, Đại Tạng Kinh mới bắt đầu được biên tập, thu thập tất cả kinh điển đã phiên dịch và chú sớ của cổ đức, biên soạn thành một bộ tùng thư (collection). Do trước đây, kinh điển lưu giữ phân tán tại chùa chiền hay trong dân gian, nên rất nhiều thứ bị lạc mất.

 

(Huyền Nghĩa) Dĩ chí chú thích xiển dương, độc, tụng, thọ, trì, hữu hà linh nghiệm?

(玄義) 以至註釋闡揚,讀誦受持,有何靈驗。

(Huyền Nghĩa: Cho đến chú thích, xiển dương, đọc, tụng, thọ, trì, có những điều linh nghiệm nào?)

Các đồng tu học Phật cũng phải biết những điều này nhằm giúp cho chúng ta sanh khởi và tăng trưởng lòng tin.

 

(Huyền Nghĩa) Sơ minh dịch giả hữu nhị.

(玄義) 初明譯者有二。

(Huyền Nghĩa: Trước hết, nói rõ có hai bản dịch).

Bộ kinh này có hai bản dịch.

 

(Huyền Nghĩa) Nhất danh Phật Thuyết A Di Đà Kinh, tức kim kinh.

(玄義) 一名佛說阿彌陀經,即今經。

(Huyền Nghĩa: Một bản tên là Phật Thuyết A Di Đà Kinh, tức kinh này).

Hiện thời, chúng ta đang dùng bản này, kinh có tựa đề là Phật Thuyết A Di Đà Kinh.

 

(Huyền Nghĩa) Diêu Tần Tam Tạng pháp sư Cưu Ma La Thập dịch.

(玄義) 姚秦三藏法師鳩摩羅什譯。

(Huyền Nghĩa: Do Tam Tạng pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào thời Diêu Tần).

Do Cưu Ma La Thập đại sư phiên dịch.

 

(Sớ) Diêu Tần giả.

() 姚秦者。

(Sớ: Diêu Tần).

Tần là danh xưng của triều đại. Vì sao phải thêm vào phía trước chữ Diêu? Trong lịch sử Trung Quốc, có bốn vương quốc dùng “Tần” làm quốc hiệu[102], nên phải thêm dòng họ của quốc vương vào trước [quốc hiệu], ta mới biết triều đại Tần nào!

 

(Sớ) Châu hữu Doanh Tần.

() 周有嬴秦。

(Sớ: Đời Châu có nhà Doanh Tần).

Tần[103] là một tiểu quốc đời Châu, cũng là thời đại Xuân Thu Chiến Quốc. Sau này, Tần cường thịnh, mở rộng lãnh thổ, Tần Thủy Hoàng thôn tính lục quốc[104], thống nhất Trung Quốc. Do Tần Thủy Hoàng họ Doanh, nên trong lịch sử gọi là Doanh Tần.

 

(Sớ) Nam Bắc Triều hữu Phù Tần, Diêu Tần.

() 南北朝有苻秦、姚秦。

(Sớ: Thời Nam Bắc Triều có Phù Tần và Diêu Tần).

Thời Nam Bắc Triều, Phù Kiên ở Quan Trung, [địa phương này] nay thuộc một giải Cam Túc, Thiểm Tây và Hà Nam, thành lập một vương triều xưng là Tần, đây cũng là Phù Tần. Trong cuộc chiến tại Phì Thủy[105], tướng Tạ An và Tạ Huyền của nhà Tấn đã đánh bại Phù Kiên. Diêu Trành là một tướng quân dưới trướng Phù Kiên được vua sai ở lại trấn thủ hậu phương, thấy quốc vương thua trận, liền dấy binh đảo chánh, chiếm giữ Quan Trung, tự xưng vương, nhưng không thay đổi quốc hiệu, trong lịch sử gọi triều đại này là Diêu Tần.

 

(Sớ) Kim ngôn Diêu giả, giản phi dư Tần dã.

() 今言姚者,揀非餘秦也。

(Sớ: Nay nói là Diêu Tần nhằm phân biệt chẳng phải các nhà Tần khác).

Chúng ta vừa nhìn liền biết đây là triều đại nào? Đây là thời đại Diêu Tần, lại còn là đời vua thứ hai của nhà Diêu Tần. Diêu Trành đã chết, con ông ta là Diêu Hưng kế vị. [Kinh này dịch] dưới thời Diêu Hưng.

 

(Sớ) Tam Tạng giả, thông kinh, luật, luận, kiêm thiện Hoa Phạn cố.

() 三藏者,通經律論,兼善華梵故。

(Sớ: Tam Tạng là thông hiểu kinh, luật, luận, lại còn thông thạo tiếng Hán lẫn tiếng Phạn).

Người như thế gọi là “Tam Tạng pháp sư” (Tripitakācārya), vị pháp sư này vô cùng nổi tiếng, Ngài nói tiếng Hán rất khá, đương nhiên là hết sức thông đạt Phạn văn; cho nên dịch kinh vô cùng thích hợp khẩu vị của người Hoa.

 

(Sớ) Pháp sư giả, Phật pháp sở thuộc, diễn dương hối chúng, vi biểu phạm cố.

() 法師者,佛法所屬,演揚誨眾,為表範故。

(Sớ: Pháp sư là người diễn giải, hoằng dương Phật pháp, dạy bảo đại chúng, nêu gương mẫu).

 “Biểu” (表) là sư biểu (師表: Bậc thầy gương mẫu), “phạm” là mô phạm (模範: khuôn phép). Ngài thông đạt Phật pháp, có thể giảng giải, hướng dẫn chúng ta tu hành, nêu gương, làm khuôn phép cho chúng ta, nên chúng ta tôn xưng Ngài là “pháp sư”. Vì thế, danh xưng “pháp sư” này chẳng dễ đảm đương cho lắm! Nếu quý vị làm không được, người ta gọi quý vị là pháp sư, nói thật ra, đó là chửi người đấy! Chúng ta phải hiểu rõ điều này. Nếu bản thân chúng ta làm không được, người khác tôn kính gọi ta là pháp sư, hay hòa thượng, hãy nên sanh tâm hổ thẹn; nói thật ra là chẳng gánh vác nổi! Vì thế, các đồng tu xuất gia nhất định phải nỗ lực, phải thật sự phát phẫn, danh phù hợp thực, sẽ chẳng mắc tội lỗi! Nếu không, người ta gọi quý vị một tiếng, sẽ thành một tội nặng; gọi hai tiếng sẽ là hai tội nặng! Trong một đời này, ta chẳng làm tội nghiệp gì, đến sau này, khi vua Diêm La tống quý vị vào địa ngục, quý vị vẫn kêu oan uổng! Thật ra, cũng chẳng oan uổng tí nào! Mỗi một tiếng là tăng thêm tội này trên thân; thật đấy, chẳng giả tí nào! Giống như người thế gian, ta phát tâm làm thầy đi dạy học, kết quả là suốt đời cũng chẳng dạy một đứa học trò nào, chẳng lên lớp bữa nào, người ta vừa thấy mặt bèn nói: “Thầy ơi! Thầy ơi!” Người ấy có tội lỗi hay chăng? Có tội! Thật đấy, chẳng giả đâu!

 

(Sớ) Cưu Ma La Thập giả.

() 鳩摩羅什者。

(Sớ: Cưu Ma La Thập).

Đây là tên họ của một người.

 

(Sớ) Phạn ngữ cụ vân Cưu Ma La Kỳ Bà Thập.

() 梵語具云鳩摩羅耆婆什。

(Sớ: Tiếng Phạn nói đầy đủ là Cưu Ma La Kỳ Bà Thập).

Đây là dịch âm tiếng Phạn [Kumārajīva], người Hoa chuộng đơn giản, giảm bớt những chữ có âm nhẹ, nên gọi là Cưu Ma La Thập. Có khi còn tỉnh lược hơn nữa, gọi Ngài là La Thập.

 

(Sớ) Thượng ngũ tự, thử vân Đồng Thọ.

() 上五字,此云童壽。

(Sớ: Năm chữ trên đây được cõi này dịch là Đồng Thọ).

 “Đồng” (童) là đồng tử (童子), tuổi rất nhỏ, đứa bé con. “Thọ” (壽)  là cụ già.  Tuy giống như đứa con nít,  còn thuộc tuổi trẻ con, mà trí

huệ và hàm dưỡng, cử chỉ của Ngài đều giống như một người trưởng thành. Vì thế, mọi người gọi Ngài bằng danh xưng này. Quả thật, Ngài rất lỗi lạc, đây là bậc tái lai, là Bồ Tát tái lai.

 

(Sớ) Thập giả, thâm thiện thử phương văn tự chi thập.

() 什者,深善此方文字之什。

(Sớ: “Thập”: Mười phần thông hiểu sâu xa văn tự phương này).

Đối với ngữ văn Trung Hoa rất thông đạt.

 

(Sớ) Hoa Phạn hợp cử, xưng La Thập dã.

() 華梵合舉,稱羅什也。

(Sớ: Gộp chung cả tiếng Hán lẫn tiếng Phạn nên gọi là La Thập).

Thật ra, tên thật sự của Ngài là Cưu Ma La Kỳ Bà, Thập (什)[106] là danh hiệu do người Hoa tặng cho Ngài. Ngài hết sức thông đạt ngữ văn tiếng Hán.

 

(Sớ) Dịch giả, dịch dã, dịch Phạn thành Hoa dã.

() 譯者,易也,易梵成華也。

(Sớ: Dịch là thay đổi, tức là chuyển từ tiếng Phạn sang tiếng Hán).

 Đó là phiên dịch, đem Phạn văn chuyển thành tiếng Hán.

 

(Sớ) Châu Lễ, chưởng tứ phương chi ngữ, các hữu kỳ quan, Bắc phương viết Dịch, kim kinh tự Tây lai, nhi ngôn Dịch giả, Hán chi Bắc quan, kiêm thiện Tây ngữ, Ma Đằng thỉ chí, toại xưng vi Dịch, kim nhưng chi dã.

() 周禮, 掌四方之語, 各有其官, 北方曰譯, 經自西來,而言譯者,漢之北官,兼善西語,摩騰始至,遂稱為譯,今仍之也。

(Sớ: Theo Châu Lễ, chưởng quản ngôn ngữ bốn phương, mỗi phương đều có một chức quan. Viên quan trông nom việc giao tiếp bằng ngôn ngữ ở phương Bắc được gọi là Dịch. Nay kinh này từ phương Tây truyền sang mà gọi là Dịch vì chức quan ở phương Bắc vào đời Hán cũng thông thạo các ngôn ngữ ở phương Tây. Ngài Ma Đằng đến [Trung Hoa] đầu tiên [được vị quan ở phương Bắc tiếp đãi], nên nay vẫn gọi là Dịch).

Châu Lễ là tên một bộ sách. Lễ Kinh của Trung Quốc gồm có ba bộ: Châu Lễ, Nghi Lễ và Lễ Ký. Đây là ba bộ trong mười ba kinh (thập tam kinh) [của Nho gia]. Trong Châu Lễ, hiến pháp, chánh trị, điển chương, văn vật, chế độ đời Châu, đều được ghi chép trong ấy. Châu Lễ là trước tác của Châu Công, ý tưởng ấy (tức ý tưởng xây dựng một xã hội ổn định, bình trị) được thiết lập tận thiện tận mỹ. Tôi chưa đọc bộ sách này, tiên sinh Phương Đông Mỹ đã bảo tôi rất nhiều lần, sách này hay lắm! Ngài nói: “Rất nhiều bản hiến pháp của các quốc gia xưa nay, trong ngoài nước đều thua Châu Lễ. Nếu các đời vua cuối của nhà Châu tuân thủ làm theo giáo huấn trong bộ sách ấy, nhà Châu sẽ chẳng vong quốc”. Trong lịch sử Trung Quốc, triều đại tồn tại lâu nhất là nhà Châu, tám trăm năm, người đời sau không tuân thủ bộ hiến pháp này, nên mới vong quốc. Phương tiên sinh hết sức tán thán bộ sách này, tôi chỉ đọc mấy thiên trong sách Lễ Ký.

Theo chế độ ấy, vị quan trông nom sự phiên dịch [ngôn ngữ] ở bốn phương có danh xưng khác nhau. Phương Bắc gọi là Dịch (譯), phương Đông gọi là Ký (寄), phương Nam gọi là Tượng (象), phương Tây gọi là Địch Đê (狄鞮), danh xưng bất đồng, đều có ý nghĩa, nhưng công tác đều là phiên dịch. Kinh Phật đến từ phương Tây. Vào thời Hán, con đường Tơ Lụa[107] là tuyến đường chính để từ Trung Quốc sang Tây Vực, Phật giáo cũng theo đường này truyền đến Trung Quốc, theo tuyến đường Nam Bắc từ rặng Thiên Sơn ở Tân Cương, Cam Túc đến Trường An; khi đó, kinh đô của quốc gia ở Trường An, rất gần phương Bắc. Khởi đầu từ thời hai vị Ma Đằng và Trúc Pháp Lan dịch Tứ Thập Nhị Chương Kinh, vị quan trông nom phiên dịch của phương Bắc đến giúp sức. Vị quan cai quản công tác phiên dịch ở phương Bắc rất thông thạo Phạn văn, nên mời ông ta đến giúp sức, cho nên dùng chữ Dịch này. Về sau, một mực dùng chữ Dịch, chẳng thay đổi nữa, đã biến thành thói quen rồi!

Tứ Thập Nhị Chương Kinh là bộ kinh Phật được phiên dịch đầu tiên tại Trung Quốc. Bộ kinh này có nội dung vô cùng phong phú, có thể nói là Phật học khái luận của kinh Phật. Cuốn Tứ Thập Nhị Chương Kinh Tân Sớ của cư sĩ Quý Thánh Nhất đã chú giải rất tỉ mỉ, trong tất cả các bản chú giải xưa nay, tôi cảm thấy bản của ông ta hay nhất. Chỗ hay nhất trong bộ kinh này là gì? Con người hiện đại chúng ta học Phật chẳng thể thành tựu là vì thân mình đầy bệnh (khuyết điểm) mà chẳng biết. “Ta không phạm khuyết điểm gì! Ta hết sức tốt đẹp!” Thấy khuyết điểm của kẻ khác, chẳng biết chính mình sai quấy! Sau khi quý vị đọc kinh này, mới phát hiện chính mình có bao nhiêu là lầm lỗi, sửa đổi những khuyết điểm ấy, công phu niệm Phật của quý vị mới đắc lực. Bộ kinh này là một liều lương dược chữa bệnh cho chúng ta! Học Phật phải học từ đâu? Phải học từ bộ kinh này! Nhưng bộ kinh này lời lẽ đơn giản, ý nghĩa bao quát, văn tự rất đơn giản, rất ít, nghĩa lý quá phong phú, không được chú giải cặn kẽ, quý vị sẽ chẳng thấy được! Trong quá khứ, chúng ta vẫn chưa tìm được bản chú giải lý tưởng. Bản chú giải của pháp sư Quán Đảnh quá sâu, không thích hợp cho kẻ mới học. Do vậy, tại Hương Cảng, tôi thấy bản này của cư sĩ Quý Thánh Nhất, vô cùng hoan hỷ!

Các đồng tu học giảng kinh phải bắt đầu học từ chỗ nào? Bắt đầu học từ kinh này. Kinh này chia thành ba bộ phận, bộ phận thứ nhất là giải thích khoa đề, tức là mỗi chương trong bốn mươi hai chương có một đề mục, [giải thích khoa đề] là giải thích đề mục [của từng chương], sau đó là giải thích danh từ thuật ngữ, điển cố, cuối cùng là giảng nghĩa, hợp lại để giảng. Có từng tầng lớp rõ rệt! Đây là quy củ giảng kinh truyền thống, hoàn toàn dựa theo quy củ để giảng, có thứ tự, chẳng lộn xộn. Vì thế, các đồng tu giảng kinh phải dốc sức nơi bộ kinh này. Quý vị có thể học theo quy củ và phương pháp này, về sau, quý vị sẽ có chỗ để dốc sức nơi hết thảy các kinh. Do vậy, đây là bộ sách tham khảo vô cùng hay. Pháp sư Bân Tông chú giải kinh Di Đà và Tâm Kinh cũng dùng quy củ này, viết theo đúng quy củ. Đó là khuôn mẫu giảng kinh tốt đẹp, nhất định phải dựa theo phương thức này để giảng.

Vì thế, quý vị giảng kinh chớ nên học theo cách tôi giảng trong hiện thời. Học theo cách tôi giảng trong hiện nay sẽ gặp trắc trở. [Muốn] học giảng kinh với tôi thì [phải học] trong mười mấy năm trước đây, nghe tôi giảng kinh sẽ được lợi ích, được thụ dụng, vì sao? Khi tôi bắt đầu đến giảng kinh tại Đài Bắc, đại khái là mười lăm, mười sáu năm, tuân theo phương pháp giảng ấy, rất giữ quy củ. Từ năm Dân Quốc 60 (1971) bắt đầu giảng kinh Hoa Nghiêm, dần dần vượt ngoài đường lối, không tuân thủ quy củ nữa. Những người mới học nghe không nhận ra, nhưng các vị có kinh nghiệm nghe giảng biết ngay. Tôi giảng kinh tại Hương Cảng, có rất nhiều pháp sư nghe, còn có những pháp sư hết sức thích nghe tôi giảng kinh. Pháp sư Sướng Hoài bảo đại chúng: Tôi không phải là giảng kinh trên tòa, mà là nói gì? Trình bày báo cáo tâm đắc của chính mình. Tôi mở bản kinh ra, tôi nói những điều chính mình hiểu và lãnh hội. Quý vị bắt đầu học giảng kinh, có câu nói: “Bất học quy củ, bất thành phương viên” (Chẳng học theo quy củ[108], chẳng thành vuông tròn). Đạt đến cảnh giới của tôi, phải nâng cao hơn một tầng nữa, trên giảng đài, tôi đã tuân theo quy củ mười mấy năm!

Từ năm Dân Quốc 56 (1967), tôi lên Đài Bắc giảng kinh, tôi vừa xuất gia bèn bắt đầu giảng kinh, tôi xuất gia năm Dân Quốc 48 (1959), tháng Giêng năm Dân Quốc 49 (1960) bèn bắt đầu giảng kinh, tuân theo quy củ, đến năm sáu mươi tuổi mới dần dần thoát ra, giảng báo cáo tâm đắc của chính mình. Do vậy, những đồng học nghe kinh thuở đầu, giống như các vị đang giảng kinh ở các nơi như Hùng Uyển, Từ Huệ Linh, vào thuở ấy, có lúc họ gặp tôi, vẫn nói: “May là thuở ấy, đến nghe [thầy giảng] bèn được lợi ích, học được thứ này thứ nọ. Bây giờ đến nghe kinh, chẳng học được gì!” Nay tôi giảng đúng là “thiên mã hành không”[109], không có ngằn mé. Khi cao hứng, thì có mấy câu, ba bốn câu kinh văn mà giảng suốt hai giờ không xong, cũng có khi cả đoạn văn dài, loáng một cái đã xong, quý vị học được điều gì? Học không được! Nhưng đối với người tu hành, lời giảng ấy hữu ích, đối với những vị học giảng kinh thì hỏng bét, nhưng đối với những vị niệm Phật tu hành, chắc chắn hữu ích. Vì thế, chắc chắn không thể học theo cách tôi giảng trên giảng đài, hiện thời tốt nhất là tuân theo phương pháp này trong Tứ Thập Nhị Chương Kinh để học giảng kinh.

Đoạn kế tiếp nhằm giới thiệu đơn giản về Cưu Ma La Thập đại sư; đây là trích lục từ truyện ký của Ngài, nhằm khiến cho chúng ta hiểu biết đại lược về đại sư. Theo truyện ký, vị đại sư này là vị thầy dịch kinh của quá khứ thất Phật. Vì thế, những thứ do Ngài phiên dịch hết sức hay! Đến Trung Quốc, Ngài chịu không ít vùi dập, chịu đựng chẳng ít khổ nạn, chính mình bị thiệt thòi to lớn, nhưng Ngài có cống hiến rất lớn đối với Phật pháp Trung Quốc. Ngài bị Lữ Quang giam cầm gần ba mươi năm, không cách nào xoay sở, Ngài học văn tự Trung Quốc vào lúc ấy. Sau khi Lữ Quang chết, cháu là Lữ Long kế vị, đầu hàng Diêu Hưng; Cưu Ma La Thập đại sư mới được Diêu Hưng nghênh thỉnh về Trường An, tiến hành công tác dịch kinh bảy năm rồi viên tịch. Bảy năm ấy có ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Trung Quốc, đặt vững cơ sở cho Phật giáo Trung Quốc.

Do điều này biết rằng: Hoằng pháp lợi sanh không do thời gian dài hay ngắn, mà thật sự do công lực dầy hay mỏng. Như Ấn Quang đại sư, đối với Phật pháp cận đại, không chỉ là nói theo phía Tịnh Độ, mà đối với toàn bộ Phật pháp, Ngài có ảnh hưởng to lớn dường ấy. Ấn Quang đại sư hoằng pháp bao nhiêu năm? Mười năm. Bảy mươi tuổi mới ra hoằng pháp, trước năm bảy mươi tuổi không ai biết, tới bảy mươi tuổi mới bị người ta phát hiện. Khi đó nhằm thời đầu Dân Quốc, có những vị lão cư sĩ rất có học vấn lúc đến Phổ Đà Sơn du ngoạn, đã vô tình phát hiện, trò chuyện với Ngài, cảm thấy vị này kiến giải lỗi lạc. Sau đấy, trao đổi thư từ với Ngài, những bức thư trả lời của Ngài được đăng tải công khai trên báo hay tạp chí, mọi người mới biết có pháp sư Ấn Quang. Lão nhân gia viên tịch năm tám mươi tuổi, [hoằng pháp chỉ] mười năm. Đây là như cổ nhân Trung Quốc đã nói: “Hậu tích bạc phát” (chất chứa sâu dầy, phát hiện mỏng manh), vì Ngài đã tích chứa quá dầy, tuy thời gian phát ra chẳng dài, nhưng công lực đã đủ mức, nên mới có sức ảnh hưởng sâu dầy như vậy. La Thập đại sư là người như vậy. Chúng ta phải ghi nhớ chuyện này.

Đối với người hiện thời, tôi được coi là kẻ đã từng trải qua [kinh nghiệm này], chính mình bị thua thiệt rất nhiều, bị lừa gạt rất nhiều; đó là vì lúc tôi ra giảng kinh, tuổi còn trẻ quá, chẳng thể học theo cổ nhân, tích chứa chẳng dầy. Cho nên sức lực phát ra cũng chẳng đủ, phải tích chứa cho dầy, mới đủ sức! Tôi thấy người hiện thời vẫn chẳng được như tôi. Tôi còn có thể theo thầy học Phật mười ba năm, bọn họ hiện thời học được ba tháng đã muốn đi ra ngoài biểu diễn, vẫn chẳng bằng tôi. Có thể suy ra: Sức lực do quý vị phát ra sẽ chẳng bằng tôi. Chúng ta đọc những tác phẩm của cổ nhân phải ghi nhớ giáo huấn, phải có lòng nhẫn nại, phải có chí thường hằng, phải có nghị lực, có như vậy thì mới có thể thật sự thành tựu.

Học theo lời dạy của một người, điều này trọng yếu lắm! Không nên ra ngoài, hôm nay nghe vị này, ngày mai nghe vị khác, nghe nhiều quá, tư tưởng hỗn loạn, phức tạp. Do vậy, tuy người ta tôn kính Ấn Quang đại sư, có mấy ai thường nhắc đến tên Ngài? Không nhắc tới! Vì sao chẳng nhắc tới? Có chỗ kiêng kỵ. Ấn Quang đại sư phản đối kẻ học Phật thường tới chùa, phản đối người học Phật thân cận pháp sư, cực lực phản đối! Quý vị tới chùa thường xuyên quá, tinh thần phân tán, chẳng thể tập trung, chẳng thể học Phật pháp tốt đẹp lắm, nhiều nhất là tu được một chút “si phước” mà thôi! Quý vị tiếp cận vị pháp sư này, vị pháp sư này bèn giảng điều này, [thân cận] vị pháp sư nọ, [vị ấy bèn] giảng điều kia, đầu óc quý vị chứa đựng đủ thứ lộn xộn, niệm Phật sẽ chẳng đắc nhất tâm bất loạn.

Do vậy, mọi người hễ nhắc tới pháp sư Ấn Quang, bèn rất cung kính, nhưng chẳng nhắc tới một câu nào của Ngài! Vì sao? Đối với pháp sư Ấn Quang, thí dụ như quý vị quy y với Ngài, đến đó gặp Ngài, Ngài sẽ đùng đùng quở mắng quý vị một trận: “Ngươi đến đây làm chi?” “Con đến thăm sư phụ”. “Ngươi đã thấy mặt sư phụ rồi, có gì hay ho đâu? Không trở về nhà lo thật thà niệm Phật, gặp sư phụ để làm gì chớ?” Chửi cho một trận tơi bời, đó là một vị thiện tri thức chân chánh. Pháp sư hiện thời thì: “Các ông thường phải đến gặp ta”, thái độ khác hẳn pháp sư Ấn Quang! Cho nên mọi người kính nhi viễn chi Ngài! Nhưng nếu chúng ta suy ngẫm, sẽ thấy: Thật sự muốn thành tựu thì lời lão nhân gia dạy đúng quá. Ngài chủ trương một đạo tràng, một thầy, học theo lời dạy của một vị thầy, quý vị mới có thể đắc nhất tâm bất loạn, sẽ chẳng bỏ lỡ một đời này! Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này.