A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 9 – Tập 281-287

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 9 – Tập 281-287

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 281

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm chín mươi hai:

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh bất khả thấu bạc, thị nan tín pháp nghĩa.

(Sao) Đương tri tự tánh, bất khả dĩ hữu tâm cầu, bất khả dĩ vô tâm đắc, bất khả dĩ ngữ ngôn tạo, bất khả dĩ tịch mặc thông.

(Diễn) Bất khả dĩ hữu tâm cầu đẳng giả, tự tánh phi hữu, hữu tâm tắc đọa tăng ích chấp. Tự tánh phi vô, vô tâm tắc đọa tổn giảm chấp. Tự tánh ly ngôn thuyết tướng, ngữ ngôn tắc đọa vọng tưởng. Tự tánh ly tâm duyên tướng, tịch mặc tắc đọa vô ký.

()稱理,則自性不可湊泊,是難信法義。

()當知自性,不可以有心求,不可以無心得,不可以語言造,不可以寂默通。

()不可以有心求等者。自性非有。有心則墮增益執。自性非無。無心則墮損減執。自性離言說相。語言則墮妄想。自性離心緣相。寂默則墮無記。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh chẳng thể dò lường là ý nghĩa “pháp khó tin”.

Sao: Hãy nên biết: Tự tánh chẳng thể dùng hữu tâm để cầu, chẳng thể dùng vô tâm để đắc, chẳng thể dùng ngôn ngữ để tạo, chẳng thể dùng lặng lẽ để thông.

Diễn: “Chẳng thể dùng hữu tâm để cầu” v.v…: Tự tánh chẳng phải là có, hữu tâm bèn đọa vào chấp trước Tăng Ích. Vô tâm bèn đọa vào chấp trước Tổn Giảm. Tự tánh lìa tướng ngôn thuyết, nói năng bèn đọa vào vọng tưởng. Tự tánh lìa tướng tâm duyên, lặng thinh bèn đọa vào vô ký).

Bốn câu này nhằm giải thích ý nghĩa của chữ “thấu bạc” (湊泊). Đối với “tự tánh”, trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường dùng chữ “pháp nhĩ tự nhiên” (pháp vốn tự nhiên là như vậy) để hình dung nó. Trên thực tế, về căn bản, chẳng có cách nào hình dung được. Đối với chuyện chẳng có cách nào để hình dung được, đức Phật đã dùng pháp phương tiện khá gần với chân tướng sự thật để chỉ dẫn cho chúng ta. Đó là chỗ khó tin trong Phật pháp, đặc biệt là trong pháp Đại Thừa. Vì tự tánh không chỉ là chẳng thể biểu đạt bằng ngôn ngữ, bởi ngôn ngữ có phạm vi, có giới hạn; tư duy và tưởng tượng cũng là có phạm vi, có giới hạn. Giới hạn ấy, dựa theo cách nói của tông Duy Thức thì cũng sẽ biện định rất dễ dàng, rất rõ rệt: [Ngôn ngữ và tư tưởng] thuộc vào A Lại Da Thức. Đó chính là giới hạn của nó. Trong A Lại Da Thức, [tông Duy Thức] nói có ba tế tướng và sáu thô tướng. Nếu vượt ra ngoài giới hạn ấy, sẽ chẳng có cách nào [để diễn đạt, hình dung bằng ngôn ngữ, văn tự, hoặc tư duy, suy tưởng được], chuyện này được gọi là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”.

Hết thảy Đại Thừa liễu nghĩa đều nói về Chân Như bản tánh, đều vượt ngoài giới hạn của A Lại Da. Kinh Di Đà là kinh Đại Thừa của các kinh Đại Thừa, là liễu nghĩa của liễu nghĩa, đương nhiên là khó tin. Tuy kinh toàn nói về sự tướng, nhưng Sự nương theo Lý để nói, Lý quá sâu, khó lường; do vậy, những Sự ấy đều vượt ngoài tầm hiểu biết của kẻ bình phàm! Không chỉ là lục đạo phàm phu chẳng có phương pháp nào để dò lường, mà Nhị Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát cũng chẳng dễ gì tin tưởng được! Vì sao? Họ chẳng kiến tánh. Pháp môn này, Phổ Hiền Bồ Tát tuyên dương trong thế giới Hoa Tạng sẽ dễ dàng. Vì sao? Vì các vị Bồ Tát trong thế giới Hoa Tạng đều là bậc minh tâm kiến tánh, Ngài dùng mười đại nguyện vương dẫn họ về Cực Lạc chẳng khó! Chư Phật, Bồ Tát ở trong lục đạo của mười phương thế giới vì chúng sanh thuyết pháp này, thật sự là “pháp khó tin”.

Bốn câu giải thích này hết sức hay. “Bất khả dĩ hữu tâm cầu” (Chẳng thể dùng hữu tâm để cầu). Hữu tâm thì tâm ấy là vọng niệm, là vọng tưởng; mà cũng chẳng thể dùng “vô tâm”. Vô tâm chẳng đạt được, [bởi lẽ], vô tâm là vô minh. Quý vị khởi tâm động niệm là vọng tưởng, không khởi tâm động niệm là vô minh. Khi ấy, xin hỏi quý vị làm như thế nào? Xác thực là chúng ta chẳng có cách nào hết!

Phải biết: Phương pháp Niệm Phật của Tịnh Tông là pháp môn mầu nhiệm tuyệt vời. Chúng ta chí thành cung kính niệm câu A Di Đà Phật, quý vị nói là hữu tâm hay vô tâm? Hiện thời, người niệm Phật rất đông, các đồng tu đang hiện diện ai nấy đều niệm Phật, đại khái là niệm đã lâu; vì sao chẳng có ai đắc Niệm Phật tam-muội? Nếu nói nông cạn hơn một chút, vì sao chẳng được thọ dụng? Đó là vì quý vị niệm Phật chẳng đúng pháp, chẳng biết dụng tâm. Quý vị dùng hữu tâm để niệm, sẽ chẳng đắc Niệm Phật tam-muội. Quý vị dùng vô tâm để niệm, cũng chẳng đắc Niệm Phật tam-muội. Then chốt ở ngay chỗ này! Hữu tâm là vọng tưởng, vô tâm là vô minh. Dùng vọng tưởng, hoặc dùng vô minh để cầu Niệm Phật tam-muội, chắc chắn là chẳng cầu được! Cầu nhất tâm bất loạn cũng chẳng cầu được! Nhưng chư vị phải hiểu: Cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà dùng hữu tâm để cầu thì có thể cầu được; đấy là chỗ thuận tiện của pháp môn này.

Hữu tâm cầu sanh Tây  Phương  Cực  Lạc  thế  giới, sanh  vào  cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hoặc cõi Phương Tiện Hữu Dư của Tây Phương Cực Lạc thế giới, chứ cõi Thật Báo thì không được. Cõi Thật Báo thì phải phù hợp tiêu chuẩn này: “Chẳng thể là hữu tâm, mà cũng chẳng thể là vô tâm”. Đó là cõi Thật Báo. Chúng ta hữu tâm cầu, quyết định được vãng sanh. Vô tâm cầu, quyết định chẳng vãng sanh. Chư vị phải hiểu: Quý vị chẳng mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ chẳng có phần trong Tây Phương Cực Lạc thế giới! Tịnh Tông và các tông phái khác phân định sự khó dễ ở ngay chỗ này. Vì chúng ta dùng hữu tâm cầu, sẽ có thể vãng sanh; trong những tông phái khác, hễ dùng hữu tâm, sẽ chẳng thể chứng quả, mà dùng vô tâm, cũng chẳng thể chứng quả! Mới biết các pháp môn khác khó hơn pháp môn này quá nhiều!

Pháp môn này của chúng ta là “tin khó, hành dễ”. Thật sự tin tưởng, thật sự phát nguyện, phát nguyện là hữu tâm, mong muốn vãng sanh, đúng là “vạn người tu, vạn người đến”. Chúng ta niệm câu Phật hiệu, thành khẩn niệm, thật thà niệm, chớ nên xen tạp vọng tưởng. Có những kẻ niệm Phật, trong khi niệm Phật còn có ý niệm “ta cầu nhất tâm bất loạn”, đó là vọng tưởng, quý vị chẳng thể nào đắc nhất tâm bất loạn. Trong niệm Phật mà xen tạp vọng tưởng, làm sao có thể đắc nhất tâm bất loạn cho được? Nhất tâm bất loạn là nguyện vọng của ta, ta có nguyện ấy, chớ nên có tâm. Tâm và nguyện phải phân định rõ rệt. Ta có nguyện, ta mong cầu đắc nhất tâm, nhưng trong khi niệm Phật, chớ nên có vọng tâm ấy, chớ nên có ý niệm cầu đắc nhất tâm. Hễ xen tạp ý niệm ấy vào đó, Phật hiệu của chúng ta sẽ chẳng thuần, trong ấy có xen tạp. Niệm đến mức công phu thuần thục, tự nhiên nhất tâm hiện tiền. Công phu đã đạt, nó tự nhiên hiện tiền. Công phu chưa đạt mà dấy vọng tưởng, chỉ có hại, chẳng thể thành tựu. Vì vậy, hãy thật thà niệm, thành khẩn niệm, cung kính niệm, đó là đúng.

Trong tâm có câu Phật hiệu, hết thảy các tạp niệm, phân biệt, chấp trước khác đều chẳng có. Dùng một niệm để trừ hết thảy vọng niệm và tạp tưởng, phương pháp này rất mầu nhiệm, có thể làm cho vọng niệm chẳng sanh. Câu Phật hiệu rành mạch, rõ ràng, niệm bốn chữ cũng thế, mà niệm sáu chữ cũng thế, rành mạch, rõ ràng, chẳng đọa trong vô minh. Do vậy, nó cũng chẳng phải là vô tâm, mà cũng chẳng phải là hữu tâm. Trong ấy, hễ có tạp niệm, có vọng tưởng, thì là hữu tâm. Bốn chữ hoặc sáu chữ ấy rành mạch, rõ ràng, phân minh, nên chẳng phải là vô tâm. Điều ấy được gọi là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa của hàng Đại Thừa Bồ Tát. Niệm Phật phải biết niệm! Sử dụng công phu ấy thuần thục, dần dần [niệm Phật] sẽ hòa lẫn với cuộc sống, chúng ta mặc quần áo, ăn cơm, đãi người, tiếp vật, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, hết thảy cảnh giới, đều chẳng phải là hữu tâm, mà cũng chẳng phải là vô tâm, đều trụ trong Trung Đạo, đều là tương ứng, hoàn toàn là công phu, là cảnh giới. Hai câu này nói về sự dụng tâm.

Hai câu tiếp đó nói về sự dụng công:

1) “Bất khả dĩ ngữ ngôn tạo” (Chẳng thể dùng ngôn ngữ để tạo): Chẳng có cách nào dùng ngôn ngữ để diễn tả rõ ràng, hoặc nói minh bạch. Ngôn ngữ và văn tự đều có phạm vi, đều có giới hạn. Đại Thừa, [đặc biệt là] nghĩa thú viên mãn của Nhất Thừa vượt ngoài ngôn ngữ, văn tự. Chẳng thể vứt bỏ ngôn ngữ, văn tự, nhưng ý ở ngoài lời, có nghĩa là quý vị phải biết nghe. Nếu quý vị chỉ nghe ngôn ngữ, chỉ thấy văn tự, sai mất rồi, đã chết cứng nơi câu văn, chẳng thể khai ngộ. Người có thể khai ngộ phải hiểu âm thanh ở ngoài dây đàn, phải hiểu ý ở ngoài lời, như vậy thì quý vị mới có ngộ xứ. Vì thế, lìa khỏi ngôn ngữ, văn tự chẳng được, mà chấp trước ngôn ngữ, văn tự cũng chẳng được! Câu này nói về Giáo Hạ sử dụng ngôn ngữ, văn tự; văn tự là kinh điển, giảng kinh thuyết pháp là ngôn ngữ. “Tử tại cú hạ” (Chết ngắc trong câu văn) là [chấp trước] chết cứng nơi Giáo Hạ, chẳng thể minh tâm kiến tánh.

2) “Bất khả dĩ tịch mặc thông” (Chẳng thể dùng vắng lặng để thông) là chuyên nói về Thiền Tông. Thiền Tông hoàn toàn đổ công dốc sức nơi Thiền Định, chẳng cần đến ngôn ngữ, văn tự, có được hay không? Chẳng được! Dẫu công phu định lực đã đạt tới Tứ Thiền, Bát Định, vẫn chẳng thể kiến tánh. Dẫu lên cao hơn một bậc là Cửu Thứ Đệ Định, đã có năng lực vượt thoát lục đạo luân hồi, vẫn chẳng thể kiến tánh! Vì sao chẳng thể kiến tánh? Vì họ vẫn còn chấp trước có Thiền Định. Chỉ cần có mảy may vọng tưởng, chấp trước, tâm tánh đều bị chướng ngại! Do vậy, trong pháp môn Đại Thừa, sử dụng phương pháp, nói trắng ra, đều chỉ nhằm phá chấp trước mà thôi.

 

(Sao) Ly tứ cú, tuyệt bách phi.

()離四句,絕百非。

(Sao: Lìa bốn câu, tuyệt bách phi).

Đức Phật dạy “tứ cú, bách phi”. “Tứ cú, bách phi” bao gồm trọn khắp hết thảy vọng tưởng, chấp trước. Đức Phật nêu một thí dụ: Không là một câu, Có là một câu, “cũng Có cũng Không” là một câu, “chẳng phải là Có, chẳng phải là Không” là một câu. Đó gọi là Tứ Cú. Từ bốn câu ấy, lại suy diễn, biến hóa thành một trăm câu[98]. Đức Phật nêu ra thí dụ ấy, thí dụ ấy bao gồm hết thảy các vọng tưởng, chấp trước của chúng sanh, đều chẳng ra ngoài nguyên tắc ấy. Tứ Cú và Bách Phi thảy đều lìa khỏi, quý vị đã đoạn hết vọng tưởng, chấp trước, tâm tánh tự nhiên hiển hiện, há có mong cầu? Chẳng phải cầu! Tự nhiên hiển hiện. Nhưng chúng ta nghe đức Phật nói đạo lý này, [sẽ cảm thấy] dường như là quá đơn giản. Trên thực tế, chúng ta chẳng có cách nào làm được, nguyên nhân là vì đối với Tứ Cú, Bách Phi, từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta đã dưỡng thành thói quen cứng chắc, chẳng thể phá được, muốn lìa mà chẳng lìa được, muốn đoạn mà đoạn chẳng nổi! Khởi tâm động niệm luôn rớt vào Tứ Cú và Bách Phi. Để có thể hiểu rõ chân tướng sự thật này, khá khó khăn! Có thể thật sự lìa khỏi, đoạn hết, há dễ dàng ư? Trong giáo pháp Đại Thừa, người có thể thật sự lìa khỏi, đoạn hết, chính là từ Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo trở lên, cũng là như chúng ta thường nói: “Đã đoạn phiền não, phá vô minh, chứng một phần Pháp Thân” thì mới là “ly tứ cú, tuyệt bách phi”. Chỉ cần Tứ Cú, Bách Phi tồn tại, quý vị chẳng có cách nào phá vô minh, chẳng có cách nào chứng đắc chân tánh.

 

(Sao) Không lý tài hoa, ba tâm đạp nguyệt, vô nhữ thố thủ túc xứ.

()空裡栽華,波心踏月,無汝措手足處。

(Sao: Trồng hoa trên hư không, đạp trăng giữa sóng, chẳng có chỗ để cho ông đặt tay, cất chân).

Đây là tỷ dụ. “Không lý tài hoa” (Trồng hoa trong hư không), hoa phải trồng trên đất, hoặc trồng trong chậu hoa, ở giữa hư không làm sao trồng hoa cho được? “Ba tâm đạp nguyệt” (Đạp trăng giữa sóng): Ban đêm bóng trăng soi trên mặt nước, quý vị đạp trăng giữa sóng. Những điều này đều nhằm nói lên sự khó khăn, chẳng dễ gì làm được. “Vô nhữ thố thủ túc xứ” (Không có chỗ cho ông cất tay, đặt chân), tỷ dụ tâm tánh khó thể lý giải, khó thể chứng đắc.

 

(Sao) Thị cố Linh Sơn thượng đức, chung thành bại Bắc chi khiên. Hán địa Kim Cang, thỉ hữu diệt Nam chi tưởng.

()是故靈山上德,終成敗北之愆;漢地金剛,始有滅南之想。

(Sao: Vì thế, bậc thượng đức trong hội Linh Sơn, rốt cuộc mắc lỗi thảm bại, bậc Kim Cang đất Hán, thoạt đầu mong diệt trừ [Thiền phái] phương Nam).

Đây là nêu ra hai câu chuyện để chứng minh. “Linh Sơn thượng đức” là nói tới hội Pháp Hoa, đức Thế Tôn giảng kinh Pháp Hoa tại núi Linh Thứu.

 

(Diễn) Linh Sơn thượng đức, chung thành bại Bắc giả, Linh Sơn hội thượng, ngũ thiên thoái tịch.

()靈山上德,終成敗北者,靈山會上五千退席。

(Diễn: “Bậc thượng đức trong hội Linh Sơn rốt cuộc thảm bại”: Trong hội Linh Sơn, năm ngàn người rời khỏi pháp hội).

Đây là những người theo Thích Ca Mâu Ni Phật học Tiểu Thừa đã rất nhiều năm, nghe đức Phật giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, họ nghe xong, chẳng thể lý giải, cho là đức Phật thuyết pháp trái với lẽ thường. “Ngũ thiên thoái tịch” tức là năm ngàn người bỏ về, chẳng nghe nữa!

 

(Diễn) Cập Hoa Nghiêm hội thượng bất kiến Xá Na chi bối. Bại Bắc giả, quân chiến bại viết Bắc.

()及華嚴會上不見舍那之輩。敗北者。軍戰敗曰北。

(Diễn: Cùng những kẻ trong hội Hoa Nghiêm chẳng thấy Phật Lô Xá Na. “Bại Bắc”: Đánh nhau thua trận thì gọi là Bắc).

Tỷ dụ chuyện này là “bại Bắc”. Vì sao? Chẳng thể kiến tánh. Đức Phật giảng kinh Pháp Hoa, là do thấy một nhóm học trò căn tánh đã dần dần chín muồi, Ngài bèn vì họ mà nói. Kẻ căn tánh chẳng chín muồi, chẳng thể tiếp nhận, chẳng chịu tin tưởng, bèn rút lui, chẳng nghe nữa. Điều này ví như đánh giặc, những kẻ ấy đánh thua trận, bèn rút lui!

 

(Diễn) Hán địa Kim Cang, thỉ dục diệt Nam giả, Đức Sơn hiệu Châu Kim Cang, bất tín Nam Tông đơn truyền trực chỉ chi thuyết, tác Thanh Long Sao, kính vãng Nam phương, dục diệt Nam Tông. Lộ phùng bà tử mại điểm tâm, bà tử vấn vân: “Sở đảm giả hà vật?” Đáp viết: “Kim Cang Kinh Thanh Long Sao”. Viết: “Kim Cang kinh vân: Tam tâm bất khả đắc, tôn giả dục điểm hà tâm?” Sơn vô đối, chí Long Đàm vãng phục khấu kích, hoảng nhiên đại ngộ, nãi viết: “Cùng chư huyền biện, nhược nhất hào trí ư thái hư, kiệt thế xu cơ, tự nhất trích đầu ư cự hác”, nãi phần Thanh Long Sao vân.

()漢地金剛,始欲滅南者,德山號周金剛,不信南宗單傳直指之說,作青龍鈔,徑往南方,欲滅南宗。路逢婆子賣點心。婆子問云。所擔者何物。答曰。金剛經青龍鈔。曰。金剛經云。三心不可得。尊者欲點何心。山無對。至龍潭往復叩擊。恍然大俉。乃曰窮諸玄辯。若一毫置於太虛。竭世樞機。似一滴投於巨壑。乃焚青龍鈔云。

(Diễn: “Kim Cang đất Hán, thoạt đầu mong diệt [Thiền phái ở] phương Nam”. Ngài Đức Sơn[99] [Tuyên Giám] hiệu là Châu Kim Cang, chẳng tin thuyết “đơn truyền trực chỉ” của Nam Tông, soạn bộ Thanh Long Sao, đi về phương Nam, toan diệt trừ Nam Tông. Trên đường, gặp bà lão bán điểm tâm, bà lão hỏi: “Ngài gánh vật gì vậy?” Sư đáp: “Kim Cang Kinh Thanh Long Sao”. Bà cụ nói: “Kinh Kim Cang nói: Ba tâm chẳng thể được, tôn giả muốn điểm cái tâm nào?” Đức Sơn chẳng đáp được. Đến chỗ ngài Long Đàm [Sùng Tín], thưa hỏi qua lại, bỗng dưng đại ngộ, bèn nói: “Tột cùng các lẽ biện luận huyền diệu, ví như đặt một sợi lông trong vũ trụ. Cạn hết lẽ trọng yếu trong cõi đời, dường như gieo một giọt nước vào trong con suối lớn”. Sư bèn đốt bộ Thanh Long Sao).

Tổ Đạt Ma đến Trung Hoa truyền pháp Thiền, “đơn truyền trực chỉ”. Tông chỉ nhà Thiền là chẳng nương theo câu chữ trong kinh luận, chỉ truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, kiến tánh thành Phật. Lục Tổ Huệ Năng hoằng pháp tại Hoàng Mai (Giang Nam), gọi là Nam Tông. Thiền sư Đức Sơn, có hiệu là Châu Kim Cang, vì họ ngoài đời là Châu, Đức Sơn là pháp danh. Ngài Đức Sơn là chuyên gia về kinh Kim Cang, suốt đời chuyên đổ công dốc sức nơi kinh Kim Cang. Ngài rất bực tức đối với sự truyền thừa của Thiền Tông, bèn soạn chú giải cho kinh Kim Cang, đặt tên là Thanh Long Sao. Khi đó, kinh và chú giải đều là chép tay. Sư chú giải rất tỉ mỉ, phân lượng rất lớn. Vì thế, khi đi đường phải gánh cả một gánh, một đầu là hành lý, đầu kia là trước tác của Sư, chuẩn bị mang bộ chú giải ấy đến biện luận với những bậc đại đức trong Thiền Tông. Đi đường, đói bụng, khéo sao gặp một bà cụ bán điểm tâm, cách đạo tràng Thiền Tông chẳng xa. Sư liền mua điểm tâm của cụ. Bà cụ hỏi Sư: “Gánh vật gì đấy?” Sư bảo: “Chú giải kinh Kim Cang, Thanh Long Sớ Sao”. Bà cụ nghe xong, đáp: “Tôi có một nghi vấn trong kinh Kim Cang. Nếu thầy đáp được, tôi sẽ cúng dường thầy đồ điểm tâm. Thầy chẳng đáp được, dẫu có tiền, tôi cũng không bán”. Sư nói: “Được lắm! Ta là chuyên gia về kinh Kim Cang, bà cứ hỏi đi”. Bà cụ liền hỏi: “Kinh Kim Cang nói ‘ba tâm chẳng thể được’, xin hỏi pháp sư, thầy điểm cái tâm nào?” Sư cứng họng, đã bị bắt bí. Sư suy nghĩ, pháp sư của Nam Tông rất giỏi, ngay cả bà lão này mà ta còn chẳng đối phó được, ta còn dám đi nữa chăng? Bèn chẳng dám đi, đem đốt sạch bộ Thanh Long Sao, chỉ dùng thân phận học trò để đến tham học [với ngài Long Đàm]. [Dùng chữ] “Hán địa Kim Cang” vì Sư là người Trung Hoa, là người Hán. Châu Kim Cang có ý tưởng diệt trừ Nam Tông!

 

(Sao) Năng tín thị pháp, khởi bất nan tai?

()能信是法,豈不難哉。

(Sao: Có thể tin pháp này, há chẳng khó ư?)

 Có thể tin tưởng, quả thật chẳng dễ dàng! Đây là nói rõ “nan tín” nhìn từ quan điểm xứng tánh, xác thực là khó khăn. Sự khó khăn này đúng là có đạo lý của nó!

 

Tam, tổng kết nan sự.

(Kinh) Xá Lợi Phất! Đương tri ngã ư Ngũ Trược ác thế, hành thử nan sự, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

三、總結難事

()舍利弗。當知我於五濁惡世。行此難事。得阿耨多羅三藐三菩提。

(Ba, tổng kết sự khó.

Kinh: Này Xá Lợi Phất! Hãy nên biết ta ở trong đời ác Ngũ Trược, làm chuyện khó này, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).

Ngẫu Ích đại sư bảo chúng ta: Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật là do niệm Phật mà thành Phật. Ngài nói điều này trong bộ Di Đà Kinh Yếu Giải. Đối với cách nói ấy, từ xưa, các vị đại đức chưa hề nói Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật là do niệm Phật mà thành Phật. Ngẫu Ích đại sư là người đầu tiên nói lời ấy, Ngài dựa vào đâu để nói? Chính là dựa vào câu kinh văn này để nói. Lời ấy do chính Thích Ca Mâu Ni Phật bảo ngài Xá Lợi Phất, chính Ngài tự nói. “Hành thử nan sự” (Làm chuyện khó này) chính là niệm Phật, tín nguyện trì danh là chuyện khó khăn. “Đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” là thành Phật. Nếu Ngẫu Ích đại sư chẳng chỉ ra, chúng ta niệm kinh Di Đà hằng ngày, sẽ hàm hồ, lơ mơ, loáng thoáng lướt qua, chưa từng chú ý hai câu kinh văn trọng yếu như thế đó! Thích Ca Mâu Ni Phật do niệm Phật mà thành Phật, mười phương ba đời hết thảy chư Phật chẳng khác Thích Ca Mâu Ni Phật, các Ngài đến cuối cùng thành Phật đều là do pháp môn Niệm Phật này mà thành tựu. Hiểu đạo lý này, hiểu rõ sự thật này, chúng ta mới hiểu vì sao trong hội Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền cũng phải cầu nguyện vãng sanh Tịnh Độ, là do đạo lý này. Vì thế, hết thảy chư Phật Như Lai tới cuối cùng thành Phật đều là do niệm Phật thành Phật. Nếu Ngẫu Ích đại sư không nói, xác thực là chúng ta khó lòng phát hiện. Được người sáng suốt chỉ điểm, bèn xem lại kỹ càng, [sẽ nhận thấy tổ Ngẫu Ích] chẳng sai, có lý!

 

(Kinh) Vị nhất thiết thế gian thuyết thử nan tín chi pháp.

()為一切世間說此難信之法。

(Kinh: Vì hết thảy thế gian nói pháp khó tin này).

“Pháp khó tin này” chính là pháp “niệm Phật thành Phật”.

 

(Kinh) Thị vi thậm nan.

()是為甚難。

(Kinh: Đó là rất khó).

Câu này là tổng kết hai điều khó trước đó: Tự mình thành Phật là khó, vì chúng sanh nói pháp thành Phật là khó. Chúng ta xem chú giải:

 

(Sớ) Thuật chư Phật ngữ, trùng vi thân minh, kiến thử nhị nan, cổ Phật bất hư vị tán từ, kim Phật phi lạm ưng mỹ dự. Thật ngữ, thật hạnh, lưỡng tương phù hợp, vạn đại chúng sanh, đương đế tín nhi vật nghi, cảm ân nhi vô dĩ giả dã, khả vị phản phúc đinh ninh, bà tâm đại thiết hỹ.

()述諸佛語,重為申明。見此二難,古佛不虛為讚辭,今佛非濫膺美譽,實語實行,兩相符合,萬代眾生,當諦信而勿疑,感恩而無已者也,可謂反覆叮嚀,婆心大切矣。

(Sớ: Thuật lời chư Phật, nói rõ ràng lần nữa, hòng thấy hai sự khó khăn ấy. Cổ Phật chẳng thốt lời tán thán hư dối, vị Phật hiện thời chẳng lạm nhận tiếng khen. Lời thật, hạnh thật, hai đằng đều phù hợp, chúng sanh muôn đời, hãy nên tin chắc, đừng nghi, cảm ân đức khôn cùng, đáng bảo là “dặn đi, dặn lại, lòng từ bi đau đáu thiết tha tột bậc!”)

Liên Trì đại sư nói mấy câu này hết sức khẩn thiết. “Cổ Phật”: Trong bản kinh này, ta đã thấy trong phần trước, sáu phương chư Phật ca ngợi Thích Ca Mâu Ni Phật, đúng là chân thật, chẳng dối. “Kim Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật, tức đức Bổn Sư của chúng ta, Ngài có thể đảm đương lời ca ngợi của hết thảy chư Phật, nhận lãnh [những lời khen ngợi ấy] chẳng hổ thẹn. Lời tán thán của chư Phật Như Lai là chân thật ngữ, Thích Ca Mâu Ni Phật tự hành, hóa độ người khác là chân thật hạnh. “Thật ngữ, thật hạnh, lưỡng tương phù hợp” (Thật ngữ, thật hạnh, hai đằng phù hợp).

Tiếp theo đó, Liên Trì đại sư khuyên lơn, khích lệ chúng ta, “vạn đại chúng sanh” (chúng sanh muôn đời), không chỉ là khi ấy! Pháp môn này truyền đến đời sau, hy vọng các đồng tu đời sau có duyên gặp gỡ, ngàn muôn phần đừng hoài nghi, nhất định là phải thật sự tin tưởng, phải cảm kích ơn Phật. Cảm ơn chư Phật, đương nhiên chúng ta cũng cảm kích ân đức của Liên Trì đại sư. Vì đối với bộ kinh này, nói thật ra, nếu chúng ta chẳng được Liên Trì và Ngẫu Ích đại sư chỉ dẫn, dẫu chúng ta niệm như thế nào, cũng chẳng có cách nào liễu giải nghĩa lý sâu thẳm trong kinh. Chúng ta chẳng nhìn ra, những điều này do hai vị tổ sư đại đức chỉ dẫn chúng ta.

“Phản phúc đinh ninh, bà tâm đại thiết” (Dặn đi dặn lại, tâm đau đáu thiết tha tột bậc), “bà tâm” (婆心) là tâm từ bi. Người đã già, biết thời gian của chính mình chẳng còn được mấy, cho nên lòng yêu thương đối với thế hệ sau phát xuất từ chân tâm, chẳng giống như khi còn trẻ! Thuở trẻ thì hãy còn hư tình giả ý, lúc tuổi già, [nhận biết] đời này của ta sắp hết, sắp lìa khỏi thế gian này; vì thế, lòng yêu thương đối với những người trẻ tuổi thuộc thế hệ sau xuất phát từ lòng chân thành. Thông thường, để hình dung lòng từ bi chân thật, chúng ta đều gọi là “bà tâm”, tức là lòng từ bi chân thật của bà cụ già, dùng điều này để tỷ dụ [lòng đại từ bi của] chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức.

 

(Sao) Đắc đạo chi nan, kỳ nan hữu nhị.

()得道之難,其難有二。

(Sao: Đối với sự khó khăn trong việc đắc đạo, có hai nỗi khó khăn).

Hai điều khó, một là “đắc”, tức là thành Phật khó khăn, điều kia là thuyết pháp khó khăn. Thành Phật khó khăn lại có hai điều.

 

(Sao) Nhất vị thiện thế đắc đạo, vị túc vi nan, kim ư ác thế.

()一謂善世得道,未足為難,今於惡世。

(Sao: Một là đắc đạo trong cõi đời thiện lương, chưa đáng gọi là khó, nay trong đời ác [mà đắc đạo thì mới là khó]).

Điều này là khó. Nay chúng ta học Phật, có thể buông xuống vạn duyên, được sanh về Tịnh Độ. Thưa cùng chư vị, hiện thời, bày ra trước mặt chúng ta hai loại trạng huống: Một loại là vãng sanh, loại kia thì tuy niệm Phật mà chẳng thể vãng sanh. Đây là sự thật, giống như xưa kia, cụ Lý Bỉnh Nam đã nói: “Người niệm Phật trong hiện thời, một vạn người niệm Phật, có thể vãng sanh đại khái là dăm ba người mà thôi”. Tuyệt đại đa số chẳng thể vãng sanh, nguyên nhân ở chỗ nào? “Ác thế”. Quý vị ở trong đời ác, chính mình chẳng thể độc lập, làm chủ, bị cảnh giới xoay chuyển, niệm Phật kiểu đó sẽ chẳng thể vãng sanh. Có thể vãng sanh thì thưa cùng chư vị, công phu của quý vị bèn có thành tựu cao hơn những người đã vãng sanh trong quá khứ. Vì sao? Trong quá khứ, những người đó có hoàn cảnh tốt hơn nhiều, chẳng có lắm nỗi ác duyên dường ấy. Nếu những người ấy ở trong hoàn cảnh giống hệt như hiện thời, họ sẽ chẳng thể vãng sanh. Chuyện này chẳng giả tí nào! Trong hoàn cảnh này, chúng ta có thể vãng sanh, công phu bèn vượt trỗi cổ nhân, đây là sự thật. Như trong phần trước đã nói, làm thế nào để có thể tự lập tự cường trong đời ác Ngũ Trược, chẳng bị ngoại cảnh quấy nhiễu, nhất tâm hướng về đạo? Đạo ấy chính là đại đạo để vãng sanh thế giới Cực Lạc. Đó là công phu chân thật. Đây là chỗ khó khăn thứ nhất.

Người niệm Phật trong hiện thời chẳng thể vãng sanh, chúng ta chẳng thể trách họ được! Hoàn cảnh bên ngoài đích xác là chướng ngại quá lớn. Xác thực là chẳng phải hạng người tầm thường, lơ mơ mà có thể chống chọi nổi! Trong thì có phiền não tập khí, ngoài thì có ác duyên. Ác duyên ấy bao gồm hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất. Hoàn cảnh vật chất là ngũ dục, lục trần dụ dỗ, mê hoặc; đối với hoàn cảnh nhân sự thì thân thích bằng hữu kết giao của quý vị chẳng học Phật, họ tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, lôi quý vị đi theo. Quý vị mong học Phật, họ chẳng để cho quý vị thành tựu. Quý vị mong liễu sanh tử, thoát tam giới, thành Phật, làm tổ ngay trong một đời này, họ khăng khăng kéo quý vị vào trong ba ác đạo, khiến cho quý vị hưởng thụ thế giới phồn hoa này. Một phen hảo ý của họ, hậu quả chẳng kham tưởng tượng nổi! Hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất chẳng tốt đẹp, bất lợi cho sự tu hành, ở trong ấy mà thành tựu chẳng dễ dàng đâu nhé!

 

(Sao) Nhị vị ác thế đắc đạo, nhi đắc tiểu quả, do vị vi nan, kim đắc Vô Thượng Bồ Đề, thị dĩ nan dã.

()二謂惡世得道,而得小果,猶未為難;今得無上菩提,是以難也。

(Sao: Hai là đắc đạo trong đời ác, mà đắc tiểu quả thì vẫn chưa phải là khó. Nay đắc Vô Thượng Bồ Đề, chính là khó khăn vậy).

Tiểu quả, tiểu thiện là đời sau đắc thiện báo trong cõi nhân thiên, có chuyện này. Trong xã hội, chúng ta thấy những người tâm địa rất thiện lương, tận tâm tận lực thực hiện sự nghiệp từ thiện nhằm giúp đỡ xã hội, cứu vớt người nghèo khổ. Đó là tiểu quả nhân thiên, chúng ta thường có thể trông thấy. Nếu tiến cao hơn, cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng. Có thể nghiêm trì giới luật, thân tâm thanh tịnh, đoạn Kiến Tư phiền não, đoạn mấy phẩm mà thôi, chưa đoạn sạch sành sanh! Đã đoạn hết sạch, người ấy bèn chứng quả. Trong thời kỳ Mạt Pháp, đã chẳng còn thấy có người chứng quả nữa! Nói cách khác, có thể đoạn mấy phẩm phiền não, nhưng chưa đoạn hết sạch thì thọ mạng của người ấy đã chấm dứt, do chuyện này, hết sức khó thành tựu! Còn trong pháp môn này, vãng sanh bèn bất thoái, viên mãn thành Phật, xác thực là khó nhất trong các điều khó! Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thưa cùng chư vị, tuy hết thảy Phật pháp Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều chưa hề học, sẽ tự nhiên thông đạt. Nếu quý vị hỏi “vì sao thông đạt” ư? Chúng tôi xin thưa: Chúng ta vãng sanh cõi Phàm Thánh Đồng Cư, sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, xác thực là chẳng minh tâm kiến tánh, vì sao cũng thông đạt? Ở trong ấy:

1) Nguyên nhân thứ nhất là được bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Đọc phần bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đã biết [chuyện ấy].

2) Thứ hai, tuy trong đời này ta chưa từng học, đời trước ta đã học. Trước đời trước, còn có đời trước nữa. Những gì đã học trong vô lượng kiếp quá khứ, nay đều có thể nhớ lại, đều hiểu. Do Phật lực gia trì, những gì đã tu hành trong vô lượng kiếp thảy đều có thể hiện tiền, nay đều được thọ dụng. Nguyên nhân là như vậy đó!

 

(Sao) Thuyết pháp chi nan, kỳ nan diệc nhị.

()說法之難,其難亦二。

(Sao: Thuyết pháp khó khăn, sự khó khăn ấy cũng gồm có hai điều).

 Thuyết pháp khó khăn cũng có hai loại.

 

(Sao) Nhất vị thiện thế thuyết pháp, vị túc vi nan, kim ư ác thế.

()一謂善世說法,未足為難,今於惡世。

(Sao: Một là thuyết pháp trong đời tốt lành, chưa đủ coi là khó khăn, nay trong đời ác).

 Hiện thời, chúng ta thấu hiểu rất sâu điều này. Trong xã hội vào thời cổ, dẫu là người chẳng đi học, không biết chữ, cũng đã tiếp nhận sự giáo huấn về luân lý và đạo đức, do phong tục tập quán của xã hội đã dưỡng thành một quan niệm về luân thường đạo đức cho người từ thuở bé. Tuy chẳng học hành, không biết chữ, người ấy biết hiếu thuận với cha mẹ, biết nhường nhịn, yêu thương anh em, xử sự, đãi người, tiếp vật đều biết chừng mực. Hiện thời, nhìn từ bề ngoài, [sẽ thấy là] giáo dục phổ cập, gần như mỗi cá nhân đều được tiếp nhận sự giáo dục, nhưng chẳng có quan niệm luân thường, thiên hạ đại loạn, nguyên nhân ở chỗ nào? Trong nền giáo dục xưa kia, tông chỉ giáo dục là dạy chúng ta làm người như thế nào. Nền giáo dục hiện thời chẳng dạy quý vị làm người như thế nào, mà là dạy quý vị kỹ thuật, làm cách nào để kiếm tiền trong xã hội, là nền giáo dục chú trọng hiệu quả và lợi ích bất kể thủ đoạn. Giáo dục xưa kia được gọi là nền giáo dục thánh hiền, nhằm mục đích dạy quý vị làm thánh nhân, làm hiền nhân. Chẳng giống như hiện thời, mục tiêu của giáo dục hiện thời chẳng nhằm dạy quý vị làm thánh hiền, khác hẳn! Thánh hiền được kiến lập trên cơ sở làm người. Vì thế, người thuở trước biết hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy. Học trò hiện thời phê bình thầy, làm thầy khó lắm! Với tâm thái như thế, thầy còn có thể dạy học trò hay chăng? Có còn mong muốn dạy học trò hay không? Sư đạo chẳng có, nói cách khác, chẳng biết làm người như thế nào, chẳng có ai dạy! Mong cho xã hội chẳng loạn, chẳng thể nào được! Do đó, ở trong xã hội này mà nói pháp môn thành Phật, thành Bồ Tát, quá khó khăn! Ai chịu tin tưởng? Phàm nhân mong lợi ích ngay trước mắt; hễ hơi xa xôi một chút, chừng mấy tháng sau, hoặc một hai năm sau [mới thấy lợi ích], họ chẳng muốn! Họ mong đạt được lợi ích ngay lập tức. Vì thế, họ chẳng thể tiếp nhận, chẳng thể tin tưởng.

 

(Sao) Nhị vị ác thế thuyết pháp, nhi thuyết kỳ dị tín giả, do vị vi nan, kim thuyết nan tín chi pháp, thị dĩ nan dã.

()二謂惡世說法,而說其易信者,猶未為難;今說難信之法,是以難也。

(Sao: Hai là thuyết pháp trong đời ác, mà thuyết những pháp dễ tin thì vẫn chưa phải là khó. Nay nói pháp khó tin thì mới là khó khăn vậy).

“Dễ tin” là gì? [Chính là những pháp môn] mà người ta có thể tư duy, tưởng tượng được, vẫn có thể miễn cưỡng tiếp nhận, [người ta nghe những pháp ấy xong] suy nghĩ: [Pháp này] cũng khá, còn có lý. Còn như pháp môn này, “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, làm sao người ấy có thể tin tưởng cho được? Muốn cho người ấy tiếp nhận, quá khó!

Dưới đây, Liên Trì đại sư nêu ra bốn tỷ dụ. Ngài dùng những tỷ dụ nông cạn, dễ thấy, để chúng ta biết hai chỗ khó khăn trong việc tự hành và hóa độ người khác của Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

(Sao)Lược vi tứ dụ, đệ nhất dụ giả, thí như hữu nhân, thân nhập đại hải, phục thừa phá châu, phục ngộ nghịch phong, phục xung cự lãng, phục trị la sát, ngư vương, độc long, nguy tại khoảnh khắc.

()略為四喻,第一喻者,譬如有人,身入大海,復乘破舟,復遇逆風,復衝巨浪,復值羅剎魚王毒龍,危在頃刻。

(Sao: Nêu đại lược bốn tỷ dụ. Tỷ dụ thứ nhất, ví như có người vào trong biển cả, lại ngồi thuyền rách, lại gặp gió ngược, lại trúng sóng to, lại gặp la-sát, ngư vương, rồng độc, nguy ngập trong khoảnh khắc).

Có người ngồi chiếc thuyền rách nát trên biển, gặp phải gió to, sóng cả, gặp trúng la-sát[100], cá lớn, rồng độc, hết sức nguy hiểm.

 

(Sao) Nhi năng ư trung, an ổn đắc độ, thị chi vị nan.

()而能於中,安穩得渡,是之謂難。

(Sao: Mà có thể ở trong ấy, yên ổn đến tận bờ, đó gọi là khó).

Chiếc thuyền rách nát ấy có thể bình an vượt biển, khó lắm! Tỷ dụ này hình dung sự khó khăn của việc tự độ.

 

(Sao) Bất đản tự độ, tinh độ chư nhân, trí chi bỉ ngạn, thị nan trung nan.

()不但自渡,併渡諸人,置之彼岸,是難中難。

(Sao: Không chỉ là tự mình vượt thoát, mà còn giúp người khác vượt thoát đến nơi bờ kia, là sự khó nhất trong các sự khó).

Không chỉ là chính mình có thể vượt qua, mà còn thấy những người khác trên thuyền gặp nạn, người ấy còn có thể giúp đỡ người khác. Đây là tỷ dụ sự khó khăn trong thuyết pháp.

 

(Sao) Đại hải, phá châu, nghịch phong, cự lãng, cập la-sát đẳng, thử dụ Ngũ Trược.

()大海、破舟、逆風、巨浪,及羅剎等,此喻五濁。

(Sao: Biển cả, thuyền rách, gió ngược, sóng lớn, và la-sát v.v… ví như Ngũ Trược).

 Tỷ dụ Ngũ Trược.

 

(Sao) Tự độ, dụ đắc đạo.

()自渡,喻得道。

(Sao: Tự độ ví như đắc đạo).

Thành Phật.

 

(Sao) Độ nhân, dụ thuyết pháp dã.

()渡人,喻說法也。

(Sao: Độ người khác, ví như thuyết pháp).

Chúng ta suy nghĩ trạng huống này, [sẽ thấy] chuyện khó khăn dường ấy!

 

(Sao) Đệ nhị dụ giả, thí như hữu nhân, thân ly trọng bệnh, phục xử phong lộ, phục phạp ẩm thực, phục tao điệt phác, phục trị dung y, ngộ tấn dược nhĩ, nguy tại khoảnh khắc.

()第二喻者,譬如有人,身罹重病,復處風露,復乏飲食,復遭跌撲,復值庸醫,誤進藥餌,危在頃刻。

(Sao: Tỷ dụ thứ hai, ví như có người thân mắc bệnh nặng, lại ở chỗ gió sương, lại ăn uống thiếu thốn, lại bị vấp ngã, lại gặp thầy thuốc dở, uống lầm thuốc men, nguy ngập trong khoảnh khắc).

Đã bị bệnh nặng, lại nằm ở chỗ trống  trải, hứng  chịu  đủ  thứ  gió

máy, lạnh lẽo, lại chẳng có thức ăn đồ uống, chịu đói khát, lại bị vấp ngã, lại gặp thầy thuốc chẩn đoán sai lầm, lại uống lầm thuốc, bệnh tình nguy ngập, sắp chết đến nơi rất nhanh!

 

(Sao) Nhi năng ư trung, điều lý thuyên an, thị chi vị nan.

()而能於中,調理痊安,是之謂難。

(Sao: Mà có thể ở trong ấy, chữa trị thuyên giảm, lành bệnh, đó gọi là khó khăn).

Trong trạng huống ấy, người ấy có thể nghiễm nhiên chuyển biến tốt đẹp, có thể khôi phục, chuyện này chẳng dễ dàng, khó lắm!

 

(Sao) Bất đản tự liệu, tinh dư bệnh giả, giai sử bình phục, thị nan trung nan.

()不但自療,併餘病者,皆使平復,是難中難。

(Sao: Không chỉ tự chữa lành, mà còn khiến cho những bệnh nhân khác đều được bình phục, đó gọi là “chuyện khó nhất trong những chuyện khó”).

Bệnh nặng, ở nơi gió máy, thiếu ăn khát uống, té ngã, gặp thầy thuốc dốt, uống lầm thuốc thang, ví như đời ác Ngũ Trược. Chính mình chữa lành, tỷ dụ [người ấy] đã thành Phật, lại còn giúp đỡ người khác, tỷ dụ thuyết pháp quả thật chẳng dễ dàng!

 

(Sao) Đệ tam dụ giả, thí như hữu nhân, thân tại linh ngữ, phục ưng sở thát, phục hệ già nữu, phục nhiễm tật dịch, phục bị giam áp, tương lâm tru lục, nguy tại khoảnh khắc.

()第三喻者,譬如有人,身在囹圄,復膺楚撻,復繫枷杻,復染疾疫,復被監押,將臨誅戮,危在頃刻。

(Sao: Tỷ dụ thứ ba, ví như có người thân trong tù ngục, lại bị đánh đập, lại bị gông cùm trói buộc, lại mắc bệnh dịch, lại bị giam cầm, sắp bị chém giết, nguy ngập trong khoảnh khắc).

Có người bị nhốt trong lao ngục, chẳng được tự do, “sở thát” (楚撻) là đánh đập, “già nữu” (枷杻) là cùm chân, còng tay, thân thể còn nhiễm bệnh, lại bị phán tội tử hình, mạng nguy ngập trong sớm tối.

 

(Sao) Nhi năng ư trung, hốt nhiên giải thoát, thị chi vị nan.

()而能於中,忽然解脫,是之謂難。

(Sao: Mà có thể ở trong ấy, bỗng dưng giải thoát, đó gọi là khó khăn).

 Trong lúc tánh mạng hiểm nghèo, bỗng được đại xá, có thể thoát khỏi nhà tù, khó lắm! Rất khó khăn!

 

(Sao) Bất đản tự thoát, tinh chư tội nhân, tất đắc miễn ly, thị nan trung nan.

()不但自脫,併諸罪人,悉得免離,是難中難。

(Sao: Không chỉ là tự mình thoát khỏi, lại còn cùng các tội nhân đều được thoát lìa, đó là chuyện khó nhất trong các sự khó).

 Điều này tỷ dụ sự thuyết pháp.

 

(Sao) Đệ tứ dụ giả, thí như hữu nhân, thân đọa tỉnh trung, phục ngộ độc xà, phục khốn kinh cức, phục yêm hàn thủy, phục trị ác nhân phao trịch thổ thạch, nguy tại khoảnh khắc.

()第四喻者,譬如有人,身墮井中,復遇毒蛇,復困荊棘,復淹寒水,復值惡人拋擲土石,危在頃刻。

(Sao: Tỷ dụ thứ tư, ví như có người, thân rơi xuống giếng, lại gặp rắn độc, lại bị vướng mắc trong gai góc, lại bị ngập trong nước lạnh, lại gặp kẻ ác quăng ném đất, đá, nguy ngập trong khoảnh khắc).

Người ấy rơi xuống giếng, đáy giếng có rắn độc, lại có những loài thực vật gai góc, nước giếng lạnh buốt, lại gặp kẻ ác ném đá xuống giếng.

 

(Sao) Nhi năng ư trung, đằng dược nhi xuất, thị chi vị nan.

()而能於中,騰躍而出,是之謂難。

(Sao: Mà có thể ở trong ấy, nhảy vọt lên thoát ra, đó gọi là khó khăn).

Trong trạng huống đó, người ấy có thể thoát khỏi giếng, khó lắm. Những thứ như rắn độc v.v… nhằm sánh ví đời ác Ngũ Trược. “Đằng dược  nhi  xuất” (Nhảy vọt lên thoát ra), tỷ  dụ  sự  khó  khăn  khi  chính

mình thành Phật!

 

(Sao) Bất đản tự xuất, tinh dư đồng đọa, câu thời thượng thăng, thị nan trung nan.

()不但自出,併餘同墮,俱時上升,是難中難。

(Sao: Không chỉ là tự thoát ra, mà còn khiến cho những kẻ cùng té trong giếng cùng lúc được vọt lên trên, đó là chuyện khó nhất trong những sự khó).

Đây là tỷ dụ thuyết pháp khó khăn.

 

(Sao) Ngũ Trược đẳng dụ, nghĩa thuyết đồng thượng.

()五濁等喻,義說同上。

(Sao: Các tỷ dụ về Ngũ Trược, nói lên ý nghĩa giống như trong phần trước).

Trong ba đoạn sau, ý nghĩa về Ngũ Trược hoàn toàn giống như đã nói trong đoạn thứ nhất, chúng ta đọc xong, sẽ tự nhiên suy ra được, cho nên tỉnh lược.

 

(Sao) Thử chi tứ dụ.

()此之四喻。

(Sao: Bốn tỷ dụ này).

Bốn tỷ dụ được nói trên đây.

 

(Sao) Lược dụ Thích Ca nhị chủng nan sự, minh thiển dị hiểu.

()喻釋迦二種難事,明淺易曉。

(Sao: Nhằm sánh ví sơ lược rõ ràng, gần gũi, dễ hiểu hai chuyện khó khăn của Phật Thích Ca).

Từ tỷ dụ, chúng ta có thể tưởng tượng trạng huống khó khăn ấy. Trong đời ác Ngũ Trược, đức Thế Tôn thị hiện thành Phật, vì hết thảy chúng sanh nói pháp môn vãng sanh Tịnh Độ, khó khăn như trong các tỷ dụ trên đây [đã diễn tả]. Nói theo thực tế, chỉ có khó hơn, chẳng hề thua kém!

 

(Sao) Sử tri Như Lai bất đạn cù lao, bị lịch gian khổ, vị ngã đẳng cố, hành nan trung nan, nhất chí ư thử.

()使知如來不憚劬勞,備歷艱苦,為我等故,行難中難,一至於此。

(Sao: Khiến cho [người nghe] biết Như Lai chẳng sợ nhọc nhằn, trải đủ mọi nỗi gian khổ, vì bọn chúng ta hành chuyện khó nhất trong các chuyện khó đến mức như thế).

Chúng ta chỉ có thật sự liễu giải, thật sự hiểu rõ thì đối với Phật mới cảm ơn đội đức. Phật có ân đức sâu nặng đối với chúng ta, xác thực là vượt trỗi cha mẹ. Những nỗi gian nan, khốn khổ ấy, cha mẹ của chúng ta chẳng làm được, nhưng Phật, Bồ Tát có thể làm được!

 

(Sao) Văn tư nan giả, giai ưng hỷ bi giao tập.

()聞斯難者,皆應喜悲交集。

(Sao: Kẻ nghe những nỗi khó khăn ấy, hãy đều nên vui buồn xen lẫn).

Thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật này, nhất định sẽ xuất hiện thái độ ấy. “Hỷ” (喜) là hoan hỷ. Hoan hỷ vì đời này chúng ta hữu duyên đọc bộ kinh điển này, hữu duyên nghe pháp môn này. Phạm vi của Bi rộng lớn:

1) Một là cảm kích Phật, Tổ đã chịu đựng hết muôn vàn cay đắng, khổ sở, thành tựu Phật đạo, nói kinh điển. Đó là các Ngài vì độ chúng ta [mà làm như thế].

2) Lịch đại tổ sư đại đức đời đời truyền thừa, cũng là vì độ chúng ta.

3) Thứ ba là xót xa chính mình trong đời quá khứ chẳng có trí huệ. Đã từng nghe pháp môn này mà chẳng thể tín, chẳng thể phát nguyện, chẳng thể tu hành, đến nỗi luống uổng! Lại thương xót hết thảy chúng sanh đang ở trong tình hình giống hệt ta trong quá khứ. Hiện thời, pháp môn này đang được phổ biến, tuyên dương. Họ nghe xong chẳng tin, hoặc tin, nhưng chẳng phát nguyện, hoặc phát nguyện, nhưng không chịu niệm Phật!

 

(Sao) Cảm cực hô hào, thanh chấn tam thiên đại thiên thế giới, dũng mãnh tinh tấn, tư báo Phật ân.

()感極呼號,聲震三千大千世界,勇猛精進,思報佛恩。

(Sao: Cảm kích cùng cực, bèn hô hào, tiếng vang rền tam thiên đại thiên thế giới, dũng mãnh, tinh tấn, nghĩ báo ơn Phật).

Người thật sự đã hiểu, thật sự minh bạch, bèn có biểu hiện tự nhiên là như vậy. Nếu chẳng thể hiện cảm tình ấy, nói cách khác, đối với kinh điển này, kẻ ấy vẫn chưa hiểu rõ, chẳng thấu triệt. Vì sao? Vẫn chai lì y như cũ. Thật sự hiểu rõ, liễu giải, [sẽ là] “bi hỷ giao tập, dũng mãnh, tinh tấn” (buồn vui chen lẫn, dũng mãnh, tinh tấn). Nhất định là có thái độ ấy, chẳng cần kẻ khác khuyên lơn, khích lệ, dặn dò. Báo ân Phật như thế nào? Báo ân tổ sư như thế nào? Ở đây, đại sư đã bảo cho chúng ta biết. Câu này hết sức quan trọng. Khá nhiều đệ tử Phật, nay đã biết pháp môn này, chiếu theo pháp môn này để tu học, đạt được đôi chút lợi ích, đều mong báo ân Phật, mà chẳng biết cách báo đáp như thế nào.

 

(Sao) Dục báo Phật ân, bất việt nhị sự: Nhất giả tự lợi, nhị giả lợi nhân.

()欲報佛恩,不越二事:一者自利,二者利人。

(Sao: Muốn báo ân Phật, chẳng ngoài hai sự: Một là tự lợi, hai là lợi lạc người khác).

Quý vị ghi nhớ nguyên tắc này thì là đúng. Thật sự báo ân Phật, phải tự lợi, lợi tha. Nay chúng ta thật sự chẳng có trí huệ. Tự lợi là gì, lợi tha là gì, chẳng hiểu rõ ràng! Coi tự hại là tự lợi, coi hại người là lợi tha. Đó là ngu si!

 

(Sao) Tự lợi giả, ư thử ác thế, lực hành thử đạo, nhân đắc vãng sanh, diệc vân vi nan.

()自利者,於此惡世,力行此道,因得往生,亦云為難。

(Sao: Tự lợi là trong đời ác này, tận lực hành đạo này; do vậy, được vãng sanh, [chuyện này] cũng gọi là khó khăn).

Tự lợi là gì? “Lực hành thử đạo” (Tận lực hành đạo này), nỗ lực tu học pháp môn này. Đối với pháp môn này, trong kinh, đức Phật đã dạy ba điều kiện: Tín, Nguyện, Trì Danh. Chúng ta phải tin sâu, phải thật sự phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong mười hai thời (suốt ngày từ sáng đến tối), trong tâm chỉ chuyên chú câu Phật hiệu này, quý vị quyết định được vãng sanh. Khó lắm! Khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều buông xuống. Chẳng chịu buông xuống, khó lắm! Quý vị chẳng thể thành tựu.

Đối với buông xuống, chư vị chớ nên hiểu lầm ý nghĩa. Chẳng phải là nói “buông xuống nơi Sự”. Sự cố nhiên là có chướng ngại, nhưng chướng ngại chẳng lớn. Trong tâm phải buông xuống, điều này quan trọng! Rất nhiều người xuống tóc xuất gia, đã buông xuống nơi mặt Sự, nhưng sau khi xuất gia, càng lắm chuyện phiền toái hơn thuở tại gia. Buông xuống ở chỗ nào? Đức Phật dạy chúng ta hãy buông xuống từ trong tâm, quyết định chẳng dính mắc, đó là đúng. Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, hết thảy cảnh giới, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật ra, chuyện gì cũng đều chẳng ghim giữ trong tâm. Đó là tự lợi, là chuyên niệm. Vì thế, chuyên niệm chẳng phải là nơi đằng miệng. Miệng suốt ngày từ sáng đến tối niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, trong tâm còn có tiếng tăm, lợi dưỡng, còn có chuyện vướng mắc trong bụng dạ, niệm Phật kiểu đó chẳng thể vãng sanh. Cổ đức thường nói: “Gào toạc cổ họng vẫn uổng công”, chẳng thể vãng sanh. Trong tâm thật sự có [A Di Đà Phật], người ấy chẳng niệm mà vẫn có thể vãng sanh, vì niệm kiểu ấy là tâm niệm, chẳng phải là khẩu niệm, trong tâm người ấy thật sự có Phật.

Có một cư sĩ hỏi tôi: “Phải niệm Phật như thế nào thì mới có thể đắc lực?” Ông ta niệm vài năm, cảm thấy công phu chẳng đắc lực. Tôi bèn bảo ông ta: “Hãy buông xuống! Chẳng buông xuống thì làm sao công phu đắc lực cho được? Không buông xuống, niệm Phật còn có xen tạp”. Ông ta nói: “Thưa sư phụ! Điều gì con cũng có thể buông xuống, chứ không thể buông mấy đứa cháu xuống được!” Tôi nói: “Vậy là chẳng có cách nào hết!” Tôi bảo ông ta: “Ông hãy đổi cái tâm vương vấn con cháu thành [vương vấn] A Di Đà Phật, ông sẽ nhất định vãng sanh”. Chư vị ngẫm lại xem, ông ta chẳng thể lải nhải “cháu nội, cháu nội”, chẳng thể nói như vậy suốt ngày từ sáng đến tối. Ông ta chẳng niệm, nhưng trong tâm thật sự có. Miệng suốt ngày từ sáng đến tối niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật” mà trong tâm chẳng có, vô dụng! Trong tâm có, nơi miệng chẳng có, hữu dụng! Điều này hết sức trọng yếu.

Niệm Phật là trong tâm thật sự  có  A  Di  Đà  Phật. Niệm  kinh  là

trong tâm thật sự có kinh Vô Lượng Thọ, chẳng phải là có kinh Vô Lượng Thọ ngoài miệng, có kiểu đó vô dụng! Phải là có trong tâm thì mới hữu dụng. Đây là nói tự lợi như thế nào, vãng sanh như thế nào. Đối với chuyện trong thế gian, hãy tùy duyên. Trông thấy chuyện tốt, gật đầu, rất hoan hỷ; thấy chuyện xấu, cũng gật đầu hoan hỷ, tuyệt đối chẳng vướng mắc trong tâm. Đương nhiên là đệ tử Phật phải có trách nhiệm “quy quá, khuyến thiện” (uốn nắn điều sai lệch, khuyên hành thiện). Gặp kẻ làm chuyện xấu, khuyên kẻ ấy mấy câu. Kẻ ấy nghe lời, tốt lắm; chẳng nghe lời, coi như xong chuyện, chẳng cần phải so đo nữa, chớ nên ghim chuyện ấy trong lòng. Đó là đúng. Trong tâm nhất định phải vương vấn A Di Đà Phật. Kinh Vô Lượng Thọ dạy chúng ta “nhất hướng chuyên niệm” (một mực chuyên niệm), kinh Di Đà nói “nhất tâm bất loạn”, Quán Kinh nói “nhất tâm hệ niệm”, có thể thấy: Trong tâm có Phật thì chính là thật sự niệm Phật.

 

(Sao) Lợi nhân giả, ư thử ác thế, phục khuyến chư nhân, cộng hành thử đạo, đồng đắc vãng sanh, thị tắc diệc vân nan trung nan dã.

()利人者,於此惡世,復勸諸人,共行此道,同得往生,是則亦云難中難也。

(Sao: “Lợi người”: Trong đời ác này, lại khuyên mọi người cùng hành đạo này để cùng được vãng sanh, đấy cũng gọi là “khó nhất trong các sự khó”).

Lợi tha như thế nào? Lợi ích chúng sanh, chư vị phải biết: Những pháp môn khác lợi ích nhỏ nhoi, chỉ có thể gieo một chủng tử Phật pháp trong A Lại Da Thức mà thôi. Trong một đời này, nếu muốn vượt thoát tam giới lục đạo luân hồi, nếu mong bất thoái thành Phật, nói thật thà, chỉ có pháp môn Niệm Phật. [Pháp này] ở ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn, được gọi là “môn dư đại đạo” (đại đạo ở ngoài các pháp môn). Trừ pháp này ra, chẳng có pháp môn thứ hai, quý vị muốn tìm pháp môn thứ hai để có thể thành tựu, sai mất rồi!

Nay chúng ta nếu muốn giúp đỡ và lợi ích người khác, tôi nhất định phải giới thiệu pháp môn bậc nhất với quý vị, pháp môn này quyết định hữu hiệu. Nếu tôi nói với quý vị các pháp môn khác, [tu tập] những pháp môn ấy chắc chắn là chẳng thể thành tựu, làm sao tôi chẳng có lỗi với quý vị? Có thể nào chẳng có lỗi đối với Phật, Bồ Tát? Phật, Bồ Tát đối với chúng ta có ân đức như vậy, chúng ta đối với người khác bèn khấu trừ mấy phần, tức là chẳng tương ứng với tâm nguyện của Phật. Lại còn có kẻ cố ý đến làm phiền, đến gây khó dễ. Có kẻ nói: “Các vị chỉ đề xướng pháp môn Niệm Phật, chỉ đề xướng kinh A Di Đà, [chẳng phải là] Phật pháp thảy đều bị diệt sạch trong tay quý vị ư?” Họ nói [thoạt nghe] cũng rất có lý. Thật ra, đấy là thiên kiến. Pháp môn này, nhất định là người thiện căn, phước đức, nhân duyên đã chín muồi [thì mới có thể tiếp nhận, hành trì]. Nói cách khác, pháp môn này để độ người sẽ thành Phật. Quý vị chẳng thuộc dạng người thành Phật, đối với pháp môn này, quý vị chỉ gieo thiện căn, chẳng thể thành tựu! Trong một đời này, quý vị xác thực là có tư cách thành Phật, pháp môn này sẽ khởi tác dụng đối với quý vị.

Vì thế, chúng ta biết: Hết thảy các pháp môn đều nhằm vun bồi thiện căn, phước đức cho chúng sanh, còn pháp môn này dành cho người có hết thảy thiện căn, phước đức, nhân duyên đã chín muồi, quyết định đắc độ trong một đời này. Do vậy, pháp môn này là pháp môn vô thượng, là pháp môn bậc nhất. Chúng ta dùng pháp môn này để khuyên người khác, người ta thiện căn chín muồi, bèn tạo duyên cho người ấy, quá tốt đẹp! Người ấy bèn thành tựu. Dẫu người ấy chẳng thể tiếp nhận, cũng gọi là “một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo”, gieo duyên thù thắng của thế giới Tây Phương trong tám thức điền. Đó là vô lượng công đức. Đời sau, hoặc nhiều đời, nhiều kiếp sau nữa, chủng tử ấy nhất định sẽ chín muồi, người ấy nhất định sẽ do chủng tử ấy mà đắc độ. Thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Trong tỷ dụ này, đại sư đã vì chúng ta nói rõ nỗi khó khăn trong việc thành đạo và thuyết pháp của đức Thế Tôn. Chúng ta báo ân, chỉ có tự lợi và lợi tha; đấy mới là thật sự báo ân. Hôm nay, chúng tôi nói tới chỗ này!

 

Tập 282

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm chín mươi lăm:

 

(Sớ) Hựu Pháp Hoa cực tán thuyết kinh chi nan, diệc đồng thử ý.

(Sao) Pháp Hoa cực tán giả, vị tận thuyết dư kinh, thủ trịch Tu Di, túc động đại thiên, giai vị vi nan, năng ư ác thế, thuyết Pháp Hoa kinh, thị tắc vi nan. Kim kinh nan thuyết, diệc phục như thị.

(Diễn) Vị tận thuyết dư kinh, thủ trịch Tu Di, túc động đại thiên đẳng giả, thị Đa Bảo phẩm, Như Lai phổ cáo đại chúng chi từ. Tận thuyết dư kinh như Hằng hà sa, cố thị nan sự, nhiên giai xứng cơ chi đàm, nhân diệc dị tín, bất túc vi nan. Nhược dĩ thủ chưởng tiếp Tu Di, nhi trịch phương ngoại, hựu dĩ túc chỉ động đại thiên, nhi trịch tha quốc, tuy giai nan sự, nhiên hữu thần thông đạo lực giả, tức năng vi chi, do vị vi nan.

()又法華極讚說經之難,亦同此意。

()法華極讚者,謂盡說餘經,手擲須彌,足動大千,皆未為難,能於惡世說法華經是則為難,今經難說亦復如是。

()謂盡說餘經。手擲須彌。足動大千等者。是多寶品。如來普告大眾之辭。盡說餘經如恆河沙。固是難事。然皆稱機之談。人亦易信。不足為難。若以手掌接須彌而擲方外。又以足指動大千而擲他國。雖皆難事。然有神通道力者。即能為之。猶未為難。

(Sớ: Lại nữa, kinh Pháp Hoa tán thán tột bậc sự khó khăn do nói kinh là cũng có cùng ý nghĩa này.

Sao: “Kinh Pháp Hoa tột bậc tán thán”, nghĩa là: Nói trọn hết các kinh khác, tay quăng núi Tu Di, chân đạp rúng động đại thiên thế giới, đều chưa phải là khó. Có thể ở trong đời ác nói kinh Pháp Hoa mới là khó. Nay kinh này khó nói, cũng giống như thế.

Diễn: “Nghĩa là nói trọn hết các kinh khác, tay quăng Tu Di, chân động đại thiên v.v…” chính là lời đức Như Lai bảo khắp đại chúng trong phẩm Đa Bảo. Nói trọn hết các kinh khác số nhiều như cát sông Hằng, cố nhiên là chuyện khó khăn, nhưng đều là bàn luận xứng hợp căn cơ, người ta cũng dễ tin, chẳng đáng coi là khó! Nếu dùng bàn tay đỡ lấy núi Tu Di, quăng ra ngoài phương khác. Lại dùng ngón chân lay động đại thiên, đá văng nó sang cõi nước khác, tuy đều là chuyện khó khăn, nhưng kẻ có thần thông đạo lực bèn có thể làm được, vẫn chưa phải là khó).

Kinh Pháp Hoa có một đoạn nói như vậy. “Tận thuyết dư kinh” (Nói trọn hết các kinh khác), “dư kinh” (餘經) là những kinh điển khác, cũng là trừ kinh Pháp Hoa ra. Kinh Pháp Hoa đến tột cùng nói điều gì? Nói đến sự thành tựu Phật quả viên mãn, cũng có nghĩa là nói một bộ kinh thành Phật, khó lắm! Nếu là dạy kẻ khác làm Bồ Tát, làm A La Hán, hoặc đạt được phước báo trong cõi nhân thiên, kinh luận như vậy hết sức nhiều, chẳng khó! Chỉ riêng kinh nói về đạo [tu hành] thành Phật thì khó.

Hai câu kế đó là tỷ dụ, “thủ trịch Tu Di” (tay quăng núi Tu Di). Núi Tu Di là một quả núi lớn nhất trong thế gian này, chúng ta giống như ném bóng rổ, cầm quả núi ấy trên tay quăng qua, ném lại. Đây là nêu tỷ dụ, chuyện ấy chẳng đáng coi là khó khăn. Nói thật ra, đó là chuyện chẳng thể nào có được! “Túc động đại thiên” (Chân lay động đại thiên thế giới): Tam thiên đại thiên thế giới là khu vực giáo hóa của một vị Phật. Chân chúng ta đạp lên đại thiên thế giới, có thể khiến cho toàn thể đại thiên thế giới đều chấn động. Đấy cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng. Hình dung tột bậc chuyện ấy đều chẳng phải là chuyện khó khăn! Chỉ riêng trong đời ác nói kinh Pháp Hoa, hoặc những kinh thuộc cùng loại với kinh Pháp Hoa, “thị tắc vi nan” (thì là khó khăn). Kinh này và kinh Pháp Hoa thuộc cùng một loại, đều là kinh giảng giải về pháp viên thành Phật đạo.

 

(Diễn) Duy ư ác thế tuyên thuyết thử kinh, tối vi nan sự.

()唯於惡世宣說此經,最為難事。

(Diễn: Chỉ có trong đời ác, tuyên nói kinh này là chuyện khó nhất).

 Khó ở chỗ nào?

 

(Diễn) Nhân bất tín cố, sanh oán tật cố, chiêu mạ lỵ cố, gia trượng mộc cố, nhược vô đại nguyện, sanh thoái khuất cố.

()人不信故,生怨嫉故,招罵詈故,加杖木故,若無大願生退屈故。

(Diễn: Do người ta chẳng tin, bèn sanh lòng oán ghét, ganh tỵ, [người nói kinh] chuốc lấy tiếng chửi bới, bị đánh đập. Nếu chẳng có đại nguyện, sẽ sanh lòng thoái khuất).

Quý vị nói kinh này cho họ nghe, người ta không chỉ là chẳng tin tưởng, chẳng thể tiếp nhận, mà còn oán hận. Nghe xong, tâm họ bực bội, lại còn ganh tỵ, còn chửi bới quý vị. “Trượng mộc” (杖木) là họ còn đánh đập quý vị. Nếu chẳng có đại nguyện chân thật, nghe [nói những nỗi gian nan như vậy] xong, cũng rất dễ ngã lòng.

 

(Diễn) Kim kinh nan thuyết diệc phục như thị giả, chúng sanh ngã mạn tâm cao, vô minh kiên hậu, bất khẳng tín thọ, đa sanh oán tật, diệc do thị dã.

()今經難說亦復如是者,眾生我慢心高,無明堅厚,不肯信受,多生怨嫉,亦猶是也。

(Diễn: Kinh này khó nói cũng giống như vậy, chúng sanh tâm ngã mạn cao ngất, vô minh dầy chắc, chẳng chịu tin nhận, sanh lắm nỗi oán hận, ganh tỵ, cũng giống như vậy đấy).

“Chúng sanh ngạo mạn tâm cao, vô minh kiên hậu” (Chúng sanh tâm ngã mạn cao ngất, vô minh dầy chắc): Chúng ta thấy trong xã hội hiện tiền, đại sư nói hai câu ấy xác thực là đã miêu tả hết sức chánh xác. “Bất khẳng tín thọ, đa sanh oán tật” (Chẳng chịu tin nhận, sanh lắm nỗi oán ghét, ganh tỵ): Trạng huống hoàn toàn giống như kinh Pháp Hoa đã nói trong phần trước.

 

(Sớ) Phục hữu nhị nghĩa.

()復有二義。

(Sớ: Lại có hai ý nghĩa).

Còn có hai ý nghĩa.

 

(Sớ) Tiền nan phản hiển Cực Lạc đắc đạo vi dị, hậu nan phản hiển Cực Lạc thuyết pháp vi dị.

()前難反顯極樂得道為易,後難反顯極樂說法為易。

(Sớ: Chuyện khó thứ nhất nêu bật sự tương phản: Trong Cực Lạc, đắc đạo dễ dàng. Điều khó sau đó nêu bật sự tương phản: Trong Cực Lạc, thuyết pháp dễ dàng).

“Tiền nan”: Trong phần trước đã nói, đức Thế Tôn thành Phật và thuyết pháp trong thế gian này khó khăn. Ngược lại, ta thấy trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thành Phật dễ dàng. Văn Thù, Phổ Hiền, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Tạng đều bằng lòng cầu sanh Tịnh Độ. Đạo lý ở chỗ nào? Thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới dễ dàng, thuyết pháp dễ dàng.

 

(Sao) Đắc đạo dị giả, Bà Sa Luận vị niệm Phật vãng sanh, thừa Phật nguyện lực, vi dị hành đạo.

()得道易者,婆沙論謂念佛往生,乘佛願力,為易行道。

(Sao “Đắc đạo dễ dàng”: Tỳ Bà Sa Luận bảo niệm Phật vãng sanh, nương cậy nguyện lực của Phật là “đạo dễ hành”).

Thành tựu rất dễ dàng. Chúng ta đọc phần bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật trong kinh Vô Lượng Thọ, [sẽ thấy] nguyện nào cũng đều nhằm giúp đỡ hết thảy chúng sanh chứng đắc viên mãn Vô Thượng Bồ Đề ngay trong một đời. Đó là bổn nguyện công đức của A Di Đà Phật. Chúng ta niệm Phật vãng sanh chính là nương nhờ nguyện lực của Phật, mà cũng là do A Di Đà Phật gia trì, giúp đỡ, khiến cho chúng ta rất dễ chứng đắc Phật quả. Đó gọi là “dị hành đạo” (đạo dễ hành).

 

(Sao) Ngũ Trược ác thế, gian ư tu tấn, vi nan hành đạo cố.

()五濁惡世,艱於修進,為難行道故。

(Sao: Đời ác Ngũ Trược khó thể tấn tu, là “đạo khó hành”).

Thế giới hiện thời trược ác tột bậc. Chúng ta trong thì có phiền não, có tập khí, rất khó đoạn trừ; bên ngoài bèn có ngũ dục, lục trần dụ dỗ, mê hoặc, rất khó bài trừ. Trong có phiền não, ngoài có dụ hoặc, đạo nghiệp rất khó thành tựu. Một vạn người tu hành, khó có được đôi ba người thành tựu; nguyên nhân ở chỗ nào? Chẳng có cách nào bài trừ phiền não và sự dụ dỗ, mê hoặc. Chẳng thể chống nổi sự dẫn dụ, mê hoặc của phiền não. Vì thế, tu hành thường bị thất bại. Kế đó, nói về sự khó dễ trong thuyết pháp. Trong Tây Phương Cực Lạc, thuyết pháp dễ dàng.

 

(Sao) Thuyết pháp dị giả, bỉ quốc chư thượng thiện nhân.

()說法易者,彼國諸上善人。

(Sao: Thuyết pháp dễ dàng: Các vị thượng thiện nhân trong cõi ấy).

Nếu chẳng phải là bậc thượng thiện, sẽ chẳng thể vãng sanh. Kinh chẳng lập giới hạn đối với hai chữ “thượng thiện”, nhưng cổ đại đức bảo: Thượng thiện là bậc Đẳng Giác Bồ Tát, vì trên Pháp Vân Địa (Thập Địa) Bồ Tát còn có Đẳng Giác, chẳng thể coi [Thập Địa Bồ Tát] là tối thượng. Tối thượng trong hàng Bồ Tát là Đẳng Giác Bồ Tát, lên cao hơn nữa là thành Phật, chẳng tính. Vì thế, cách nói ấy cũng thông suốt.

Đối với “thượng thiện”, tôi có cách nhìn khác biệt. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, đức Phật đã nói “Tịnh nghiệp tam phước”, điều thứ nhất là nhân thiên thiện, điều thứ hai là Nhị Thừa thiện, điều thứ ba là Bồ Tát thiện. Nếu chúng ta chia ba điều ấy thành ba cấp thượng, trung, hạ, thì Bồ Tát thiện là thượng thiện. Tôi nói theo kiểu này, chúng ta đều có phần. Nếu giải thích là Đẳng Giác, chúng ta chẳng có phần! Tôi nói kiểu này có tương ứng hay không? Tôi nghĩ cũng có thể là tương ứng, vì kinh nói như vậy. Do vậy có thể biết: Chúng ta phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, ắt cần phải thực hiện từ Tam Phước trong Quán Kinh. Do vậy, chẳng phải là thượng thiện, chẳng thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Từ chương Hạ Phẩm Hạ Sanh của Quán Kinh, chúng ta thấy kẻ phạm Ngũ Nghịch Thập Ác trong thế gian, lâm chung một niệm quay đầu, đều có thể vãng sanh. Chư vị phải biết: Người ấy một niệm quay đầu, chính là chân thật sám hối, bèn trọn đủ thượng thiện. Thật đấy, chẳng giả đâu nhé! Tục ngữ trong thế gian có câu: “Lãng tử hồi đầu kim bất hoán” (Lãng tử quay đầu, vàng chẳng đổi). Người ấy quay đầu, sẽ là người tốt chánh cống, chẳng phải là người xấu. Thật sự quay đầu, hết sức đáng quý. Do vậy, người ấy có thể vãng sanh. Chúng ta cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định phải tu thượng thiện. “Thượng thiện” chính là đối với mười một câu thuộc phần Tịnh Nghiệp Tam Phước trong Quán Kinh, phải nghiêm túc nỗ lực thực hiện.

 

(Sao) Huệ thâm, chướng thiển.

()慧深障淺。

(Sao: Huệ sâu, chướng cạn).

Các vị thượng thiện nhân trong cõi ấy, trí huệ sâu xa, nghiệp chướng cạn mỏng.

 

(Sao) Chí ý điều nhu.

()志意調柔。

(Sao: Điều phục chí ý nhu hòa).

“Chí” (志) là chí nguyện, chí hướng, “ý” (意) là tâm ý, tình tự. Người ta chí hướng kiên định, tình tự cũng ổn định, biểu lộ sự ôn nhu. “Điều” (調) là điều lý (調理: sửa sang, điều phục, sắp xếp), tánh tình hòa thuận, ôn nhu.

 

(Sao) Phong thụ, điểu âm, tất tư giải ngộ.

()風樹鳥音,悉資解悟。

(Sao: Gió rung cây, tiếng chim hót, đều cậy vào đó mà giải ngộ).

[Âm thanh của] gió luồn qua cây, [tiếng] nước chảy trong thế giới Tây Phương đều là vô tình thuyết pháp; các loài chim là hữu tình thuyết pháp. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, những gì mắt chúng ta thấy, tai chúng ta nghe, đều là âm thanh thuyết pháp; những thứ ấy đều giúp chúng ta khai ngộ. “Giải ngộ” [ở đây] là khai ngộ. Tuy trong lục căn, chỉ nói hai thứ là Nhãn Căn và Nhĩ Căn; trên thực tế, sáu căn tiếp xúc sáu loại cảnh giới bên ngoài, toàn bộ đều là âm thanh thuyết pháp. Vì sao [nhân dân trong] thế giới Tây Phương bất thoái chuyển, đạo lý ở ngay chỗ này. Chẳng như chúng ta, chúng ta ở trong thế gian này, cơ hội sáu căn tiếp xúc Phật pháp ít ỏi, thời gian rất ngắn. Thời gian tiếp xúc dụ dỗ, mê hoặc từ ngoại giới lâu dài, chúng có sức mạnh rất lớn, đạo tâm chẳng chống cự nổi tình dục, thường bị đọa lạc, thất bại.

Trong thế giới Tây Phương, căn bản là chẳng tiếp xúc tình dục. Những gì sáu căn được tiếp xúc toàn là Phật pháp. Hơn nữa, kỹ xảo thuyết pháp của Phật, Bồ Tát hết sức cao minh. Nếu hằng ngày [chư Phật, Bồ Tát] ngồi giảng trên tòa, [thính chúng] nghe ở dưới, nghe lâu bèn chán mệt. Cách thuyết pháp trong thế giới Tây Phương đã thăng hoa đến cảnh giới nghệ thuật cao nhất, có ca, có múa, có động, có tĩnh, điều hòa khéo léo như vậy, chắc chắn là quý vị chẳng chán ngán, mệt mỏi. Quý vị sẽ thật sự cảm thấy cuộc sống hạnh phúc, sung sướng. Trong hạnh phúc, vui sướng, thành tựu viên mãn Phật pháp, đoạn phiền não, khai trí huệ, chứng Vô Thượng Bồ Đề. Vì thế, chẳng khó khăn!

 

(Sao) Phi tỷ thử độ.

()非比此土。

(Sao: Chẳng như cõi này).

Không giống như thế gian này của chúng ta.

 

(Sao) Cang cường, nan phục.

(Diễn) Cang cường nan phục giả, Pháp Hoa vân: “Thị Sa Bà quốc trung, nhân đa tệ ác, hoài tăng thượng mạn, công đức thiển bạc, sân trược siểm khúc, tâm bất thật cố”. Tịnh Danh vân: “Thử độ chúng sanh, cang cường nan hóa. Cố Phật vị thuyết cang cường chi ngữ, nhi điều phục chi. Ngôn thị địa ngục, thị ngạ quỷ, thị súc sanh. Nãi chí vân: Thí như tượng mã, lung lệ bất điều, gia chư sở độc, nhiên hậu điều phục. Như thị cang cường nan hóa chúng sanh, cố dĩ nhất thiết khổ thiết chi ngôn, nãi khả nhập luật.

()剛強難伏。

()剛強難伏者。法華云。是娑婆國中人多弊惡。懷增上慢。功德淺薄。嗔濁諂曲。心不實故。淨名云。此土眾生剛強難化。故佛為說剛強之語。而調伏之。言是地獄。是餓鬼。是畜生。乃至云。譬如象馬。儱悷不調。加諸楚毒。然後調伏。如是剛強難化眾生。故以一切苦切之言。乃可入律。

(Sao: Ương ngạnh, khó hàng phục.

Diễn: “Ương ngạnh, khó hàng phục”: Kinh Pháp Hoa nói: “Người trong cõi Sa Bà này, đa số là tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn, công đức nông cạn, mỏng manh, sân trược, dua vạy, tâm chẳng chân thật”. Kinh Tịnh Danh (kinh Duy Ma Cật) nói: “Chúng sanh trong cõi này ương ngạnh, khó giáo hóa. Vì thế, đức Phật nói lời cứng cỏi để điều phục họ”. Nói tới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cho đến nói: Ví như voi, ngựa, hung hăng chẳng thuần, bèn dùng roi vọt, sau đấy, chúng nó sẽ thuần phục. Chúng sanh ương ngạnh khó giáo hóa như thế; do vậy, bèn dùng những lời lẽ nặng nề, gắt gao [để điều phục] thì họ mới có thể tuân thủ luật nghi được).

Căn tánh của chúng sanh trong thế gian này ương ngạnh, khó giáo hóa.

 

(Sao) Cố cử nan, hiển dị.

()故舉難顯易。

(Sao: Do vậy, nêu ra điều khó, để tỏ lộ chuyện dễ).

Nói rõ: Trong thế gian này, chúng ta tu hành chứng quả, thuyết pháp khó khăn, tương phản rõ rệt với Tây Phương Cực Lạc thế giới, những chuyện ấy đều dễ dàng.

 

(Sao) Chánh thị Cực Lạc quyết nghi cầu dã.

()正示極樂決宜求也。

(Sao: Chỉ dạy thẳng thừng: Quyết định là phải nên cầu sanh Cực Lạc).

Dụng ý thật sự của những lời lẽ ấy là nhằm khiến cho chúng ta biết: Nhất định phải vãng sanh thế giới Cực Lạc, nhất định phải lập vững chí hướng ấy, chúng ta sẽ chẳng phí uổng một đời này. Cuộc sống trong đời này sẽ rất có ý nghĩa, rất có giá trị. Nếu chẳng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nói thật ra, nhất định sẽ phí uổng đời này! Điều này đáng để chúng ta cảnh giác cao độ.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh tâm cảnh song dung, thị hành thử nhị nan nghĩa.

(Diễn) Tâm cảnh song dung thị hành thử nhị nan nghĩa giả, đắc đạo nãi triệt ngộ nội tâm.

()稱理,則自性心境雙融,是行此二難義。

()心境雙融是行此二難義者,得道乃徹悟內心。

(Sớ: Xứng Lý thì tâm và cảnh trong tự tánh dung hội lẫn nhau. Đó chính là ý nghĩa “hành hai sự khó”.

Diễn: “Tâm cảnh dung hội lẫn nhau là ý nghĩa của hành hai sự khó”: Đắc đạo bèn ngộ thấu triệt nội tâm).

Đắc đạo là gì? Đắc đạo gì thế? Nói “đắc đạo” chính là triệt ngộ nội tâm. Nội tâm là tâm tánh, là chân tâm bản tánh của chính mình. Đã hiểu rõ tâm tánh, bèn gọi là “đắc đạo”. Người tu hành hiểu tâm tánh có thứ lớp cạn sâu khác nhau. Do vậy, đắc đạo có sai biệt, có danh xưng cạn hay sâu khác nhau, [chẳng hạn như] đắc A La Hán đạo, đắc Bích Chi Phật đạo, đắc Bồ Tát đạo, đắc Phật đạo, đều gọi là “đắc đạo”. Tiểu Thừa A La Hán còn có Tứ Quả, Tứ Hướng. Danh xưng trong Tiểu Thừa [gọi những quả vị này] là Tứ Song Bát Bối (四雙八輩: bốn cặp hợp thành tám bậc). Sơ Quả Hướng và Sơ Quả là một cặp, Nhị Quả Hướng và Nhị Quả lại là một cặp, cho đến Tứ Quả Hướng và Tứ Quả. Càng chia tỉ mỉ hơn, Bồ Tát chia thành năm mươi mốt đẳng cấp, Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, lại còn thêm Đẳng Giác, [cộng chung là] năm mươi mốt địa vị. Những quả vị ấy đều gọi là “đắc đạo”.

Trong pháp Đại Thừa, tức Viên Giáo Đại Thừa, đoạn Kiến Hoặc là địa vị Sơ Tín Bồ Tát. Đoạn Kiến Hoặc bèn chứng quả, chứng quả gì? Trong năm mươi mốt địa vị, địa vị đầu tiên là Sơ Tín vị Bồ Tát. Chúng ta đừng nên xem nhẹ Ngài. Vì sao? Chứng đắc địa vị Sơ Tín, đối với ba thứ Bất Thoái như kinh đã nói, Ngài đã chứng đắc Vị Bất Thoái. Tuy Ngài vẫn chưa thể thoát ly tam giới luân hồi, vẫn ở trong lục đạo, quyết định chẳng đọa trong ba ác đạo, sẽ chẳng thoái chuyển, chẳng thoái đọa trong ba ác đạo. Ngài ở trong hai đường trời, người tiếp tục nỗ lực tu hành, chẳng phải ở trong nhân đạo, bèn ở trong thiên đạo, chẳng đọa vào tam đồ, nên gọi là Vị Bất Thoái Bồ Tát. Vì thế, đối với “đắc đạo”, chúng ta phải hiểu rõ, hiểu rành mạch, đạo ấy ở trong Phật pháp.

Ngoài Phật pháp, có rất nhiều lũ ngoại đạo cũng nói đến “đắc đạo”. Thành thần, hoặc thành tiên, họ đều bảo là đắc đạo, hoàn toàn khác với định nghĩa được nói trong Phật pháp. Họ nói “đắc đạo” là đạt được một quả vị, đắc một địa vị. Còn trong Phật pháp, [đắc đạo] là nói tới mức độ thấu hiểu tâm tánh; sự đắc đạo ấy khó khăn. Đắc đạo là trừ khử chướng ngại. Nếu chẳng đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, đối với pháp Đại Thừa, chúng ta sẽ chẳng thể chứng đắc Sơ Tín vị Bồ Tát!

 

(Diễn) Thuyết pháp nãi hóa tha ngoại cảnh cố.

()說法乃化他外境故。

(Diễn: Thuyết pháp chính là hóa độ người khác, thuộc về ngoại cảnh).

“Đắc đạo” là tự tu, là chuyện của chính mình. “Thuyết pháp” là chuyện đối với người khác. Đương nhiên thuyết pháp và đắc đạo đều chẳng dễ dàng. Bản thân quý vị chẳng đắc đạo, quý vị lấy gì để dạy người khác? Trong thời đại hiện tại, dân chủ tự do, cởi mở, bất cứ ai cũng đều có thể lên giảng đài giảng kinh, thuyết pháp, ngôn luận tự do, xuất bản tự do. Trước kia, chẳng thể được! Trước đời Thanh, nếu quý vị chẳng thật sự khai ngộ, chẳng thật sự chứng quả, sẽ chẳng có tư cách thuyết pháp. Nói thật ra, chính mình cũng chẳng dám thuyết pháp. Tất cả các trước tác đều phải qua sự thẩm tra của quốc gia, xét thấy kiến giải của quý vị xác thực chẳng sai lầm, [quý vị] đúng là một người hữu tu, khai ngộ, thì mới có thể lưu thông. Nếu không, chẳng thể tùy tiện ra sách, chẳng thể tùy tiện thuyết pháp, có tiêu chuẩn trong ấy. Hiện thời, dân chủ tự do rộng mở, chẳng có tiêu chuẩn!

Thuyết pháp là lợi ích chúng sanh, nhất định là chính mình phải có thành tựu. Nếu đặt tiêu chuẩn là đắc đạo, chỉ sợ trên thế gian này, chẳng có ai thuyết pháp! Hiện thời, thuyết pháp khó lắm! Làm như thế nào? Bất đắc dĩ dùng cách thức kém hơn: Chính mình chẳng đắc đạo, cổ nhân đã đắc đạo. Liên Trì đại sư đắc đạo, pháp sư Cổ Đức cũng đắc đạo, ta chẳng đắc đạo, mà cũng chẳng khai ngộ, ta bèn giảng giải, giới thiệu những trước tác của những vị đã đắc đạo khai ngộ. Cũng có nghĩa là ở đây, tôi thưa trình cùng quý vị đồng tu những điều tâm đắc nông cạn, dễ hiểu do đọc những trước tác của các Ngài, để mọi người dùng làm tham khảo. Nay năng lực của chúng tôi chỉ có thể làm được đến đó. Có rất nhiều người hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Thầy đã giảng kinh nhiều năm như vậy, sao không viết mấy cuốn sách?” Quý vị hãy nghĩ xem, tôi có thể viết sách gì? Tu hành chẳng khai ngộ, chẳng chứng quả, làm sao có thể ra sách cho được? Chẳng thể nào! Khổng lão phu tử suốt một đời khiêm hư, “thuật nhi bất tác” (thuật lại, chẳng sáng tác), Ngài [tự khiêm, nói chính mình] chẳng có trước tác, toàn là thuật lại những điều của người khác. Nay chúng tôi chẳng phải là khiêm hư; hiện thời, chúng tôi xác thực là chẳng có năng lực sáng tác. Truyền thuật chú sớ của cổ nhân là đã hết sức khó có rồi!

 

(Diễn) Tâm giả đắc đạo nghĩa, cảnh giả thuyết pháp nghĩa.

()心者得道義,境者說法義。

(Diễn: Tâm nghĩa là đắc đạo, cảnh nghĩa là thuyết pháp).

 Minh tâm kiến tánh có nghĩa là “đắc đạo”. “Tâm” tức là chân tâm bản tánh, chính là ý nghĩa “đắc đạo”. “Cảnh”: Công phu của chính chúng ta đã đạt đến một cảnh giới nào đó, quý vị mới có thể nói ra, mới có thể thấu hiểu. Bản thân chúng ta chẳng có công phu thật chứng, nhưng đọc sách của cổ nhân, có thể lãnh hội mấy phần, đó cũng là cảnh giới tương tự. Sự lãnh ngộ cảnh giới hoàn toàn tỷ lệ thuận với sự hiểu rõ tâm địa. Quý vị nghe băng thâu âm của tôi trong quá khứ, sẽ thấy ý nghĩa hiện thời viên mãn hơn, sâu sắc hơn những gì đã nói trước kia. Cùng là một bộ kinh này, cùng là một bản [chú sớ], tôi giảng lần này là lần thứ ba, giảng lần này xác thực là viên dung hơn lần trước nhiều. Do nguyên nhân gì vậy? Xác thực là tôi chẳng giữ lại mảy may! Trong lần giảng trước, tuy [những ý nghĩa ấy tồn tại] trong văn bản này, nhưng tôi chẳng nhìn ra! Giảng lần này viên mãn hơn lần trước, do lần này phát hiện những ý nghĩa thâm diệu trong ấy. Phát hiện như thế nào? Năm nay tâm thanh tịnh hơn năm trước đôi chút. Tâm chẳng thanh tịnh, sách bày ngay trước mặt, giống như kẻ mù mở banh mắt mà chẳng thấy ý nghĩa! Tâm càng thanh tịnh, càng chân thành, quý vị xem thứ gì, đều thấy càng sâu, càng rộng hơn. Công phu của chúng ta mỗi năm một tiến bộ, cảnh giới mỗi năm cũng khác hẳn. Do vậy, “cảnh” có ý nghĩa là thuyết pháp.

 

(Diễn) Kim tánh trung tâm cảnh song dung, thị nhị nan tịnh vận nghĩa.

()今性中心境雙融是二難並運義。

(Diễn: Nay tâm và cảnh trong tánh cùng dung hội, chính là ý nghĩa “hai thứ khó khăn cùng được vận dụng”).

Tâm và cảnh trong bản tánh cùng dung hội, đó là hai ý nghĩa đắc đạo và thuyết pháp, vì kiến tánh khó khăn. Ngược lại, thuyết pháp cũng chẳng dễ dàng.

 

(Sao) Tâm trục cảnh sanh, tâm thể bổn tịch, tắc vô sở đắc giả, danh đắc Bồ Đề. Cảnh tùy tâm hiện, cảnh thể tự không, tắc vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp.

(Diễn) Tâm trục đẳng giả, tâm trục cảnh sanh, tắc tâm vô tự tánh, tâm thể bổn tịch dã. Đắc đạo nãi triệt ngộ nội tâm. Kim tâm thể bổn tịch, tắc vô sở đắc giả, danh đắc Bồ Đề. Cảnh tùy tâm hiện, tắc cảnh vô tự tánh, cảnh thể tự không dã. Thuyết pháp nãi hóa tha ngoại cảnh. Kim cảnh thể tự không, tắc vô pháp khả thuyết giả, thị danh thuyết pháp.

()心逐境生,心體本寂,則無所得者,名得菩提。境隨心現,境體自空,則無法可說,是名說法。

()心逐等者。心逐境生。則心無自性。心體本寂也。得道乃徹悟內心。今心體本寂。則無所得者。名得菩提。境隨心現。則境無自性。境體自空也。說法乃化他外境。今境體自空。則無法可說者。是名說法。

(Sao: Tâm thuận theo cảnh mà sanh, bản thể của tâm vốn vắng lặng, nên chẳng có gì để đắc thì gọi là “đắc Bồ Đề”. Cảnh thuận theo tâm mà hiện, bản thể của cảnh vốn là Không, nên chẳng có pháp gì để có thể nói, bèn gọi là “thuyết pháp”.

Diễn: “Tâm thuận theo cảnh v.v…”: Tâm thuận theo cảnh mà sanh, tức là tâm chẳng có tự tánh. Bản thể của tâm vốn là Tịch. Đắc đạo bèn triệt ngộ tự tâm. Nay bản thể của cái tâm vốn là Tịch, nên không có gì để đắc, bèn gọi là “đắc Bồ Đề”. Cảnh thuận theo tâm mà hiện, nên cảnh chẳng có tự tánh. Bản thể của cảnh vốn là Không. Thuyết pháp chính là hóa độ người khác, thuộc về ngoại cảnh. Nay bản thể của cảnh là Không, nên chẳng có pháp nào để có thể nói, bèn gọi là thuyết pháp).

Ý nghĩa này được nói rất sâu! Trong pháp Đại Thừa, nó được diễn tả là “nói mà chẳng nói, chẳng nói mà nói”. Quý vị hiểu rõ ràng ý nghĩa đoạn này, sẽ hiểu ý nghĩa của hai câu ấy. “Tâm trục cảnh sanh”: Tâm chính là tám tâm, tám thức như trong Duy Thức đã nói. Nếu chẳng có cảnh giới hiện tiền, nó sẽ chẳng khởi tâm động niệm. Do vậy, nó là “cảnh sanh” (do cảnh mà sanh khởi). Có lẽ sẽ có đồng tu nói: “Đêm ngủ, mắt nhắm tịt, chẳng có cảnh giới, vì sao vẫn nằm mộng?” Trong khi ngủ, vẫn có cảnh giới, chẳng có cảnh giới thuộc về năm trần bên ngoài [mà thôi]. Cảnh có sáu loại, [tức là] Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc bên ngoài chẳng có, quý vị chẳng khởi cái tâm ấy, chẳng động niệm ấy; nhưng đối với Pháp ở trong ý thức, quý vị chẳng có cách nào khống chế. Cảnh ấy lại sanh khởi, hễ nó sanh khởi bèn nằm mộng. Lục căn đối ứng sáu cảnh, chúng ta ngủ thì năm căn trước chẳng khởi tác dụng, năm cảnh trước cũng chẳng khởi tác dụng, nhưng Ý Căn đối ứng pháp cảnh bèn nằm mộng, ngày đêm đều chẳng ngưng ngớt. Do vậy, tâm theo cảnh mà sanh.

Nhưng “tâm thể bổn tịch” (bản thể của tâm vốn là Tịch), chân tâm bổn tánh là “tâm thể” (bản thể của tâm) thanh tịnh, tịch diệt, xác thực là chẳng nhiễm mảy trần, giống như Lục Tổ đã nói: “Vốn chẳng có một vật, nơi nào nhuốm bụi bặm”. Đó là nói về chân tâm, bản tánh, ở đây nói là “tâm thể bổn tịch”. Nói theo tâm thể, nó là “vô sở đắc” (không có gì để có thể đạt được). Bát Nhã Tâm Kinh đến cuối cùng, bèn nói “vô trí mà cũng vô đắc”, đó là nói về tâm thể. Nếu nói về tác dụng của tâm, sẽ là “hữu trí mà cũng hữu đắc”. Nói theo Thể, bèn là “vô trí mà cũng vô đắc”. “Vô sở đắc giả, danh đắc Bồ Đề” (Do chẳng có gì để đạt được, gọi là đắc Bồ Đề). Thích Ca Mâu Ni Phật tu hành chứng quả, đắc Vô Thượng Bồ Đề, đấy là do chúng ta nói, chứ trong cảnh giới của chính Ngài, sẽ là “vô trí mà cũng vô đắc”, Ngài nhập cảnh giới ấy. Chúng ta gọi [cảnh giới ấy] là Vô Thượng Bồ Đề, đắc Vô Thượng Phật quả. Đó gọi là “đắc Bồ Đề”.

“Cảnh tùy tâm hiện” (Cảnh theo tâm hiện), cảnh do đâu mà có? Cảnh do tâm biến hiện. Duy Thức Luận nói “vô minh bất giác sanh tam tế”: Ba tế tướng, thứ nhất là Nghiệp Tướng, thứ hai là Chuyển Tướng, thứ ba là Cảnh Giới Tướng. Nghiệp là động; hễ động, bèn khởi biến hóa. Chuyển Tướng còn gọi là Kiến Phần, hễ động bèn là “có biết, có cảm thấy”. Từ “có biết, có cảm thấy”, biến hiện ra Hiện Tướng. Hiện Tướng được gọi là Cảnh Giới Tướng. Đấy là ba tế tướng. Từ ba tế tướng, lại diễn biến, lại phát triển, trở thành y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Vì thế, cảnh do tâm hiện. Cảnh Giới Tướng trong ba tế tướng cũng do tâm biến hiện.

“Cảnh thể tự không” (Bản thể của cảnh vốn là Không): Bản thể của tâm vốn vắng lặng, bản thể của cảnh vốn là Không, hoàn toàn có cùng một ý nghĩa. Tâm và cảnh có cùng căn nguyên phát sanh, [căn nguyên ấy chính là] Chân Như bản tánh. Tâm và cảnh có cùng nguồn, Kiến Phần và Tướng Phần có cùng một Tự Chứng Phần[101]. Do đó, tinh thần có thể biến thành vật chất, vật chất có thể biến hóa thành tinh thần. Chúng có thể biến thành lẫn nhau, vì sao? Vì có cùng một nguồn! Khoa học hiện thời vẫn chưa thể đạt tới cảnh giới này. Khoa học hiện thời có thể chuyển biến năng lượng và vật chất, điều đó chỉ thuộc về Cảnh Giới Tướng, vẫn chưa có năng lực chuyển biến tinh thần thành vật chất. Nếu đạt tới cảnh giới ấy, đúng là “tùy tâm sở dục” (thuận lòng mong muốn).

Tây Phương Cực Lạc thế giới đã đạt tới cảnh giới ấy. Do đó, quý vị nghĩ tới y phục, y phục là vật chất, khi quý vị động một niệm ấy, y phục ưa thích đã khoác trên thân. Tây Phương Cực Lạc thế giới đã đạt tới tiêu chuẩn ấy, có thể vận dụng tâm năng (năng lực của cái tâm) để biến hóa thành vật chất. Chẳng ưa thích, nó lập tức chẳng còn nữa. Vật chất quy hoàn tâm năng, chẳng còn nữa! Khoa học kỹ thuật trong thế giới Tây Phương đã đạt tới mức viên mãn thật sự, viên mãn đến mức mỗi cá nhân đều có thể thọ dụng, hoàn toàn chẳng phải là một nhóm nhỏ các nhà khoa học [mới có thể hưởng thụ]. Ai nấy đều có thể [sử dụng], ai nấy đều sử dụng rất tự tại. Do vậy, trong cuộc sống của họ, chẳng có mảy may thiếu khuyết nào!

Bản thể của cảnh là Không, bản thể của cảnh là chân tâm, là bản tánh. “Tắc vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp” (Cho nên chẳng có pháp nào để có thể nói, bèn gọi là thuyết pháp). Há có pháp nào để có thể nói? Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên thế gian, thuyết pháp bốn mươi chín năm, đức Phật bảo Ngài chẳng nói một chữ. Nếu có ai nói đức Phật thuyết pháp, đó là báng Phật! Xác thực là đức Phật chẳng thuyết pháp, đấy là nói theo tâm và cảnh. Xác thực là đức Phật vô trí mà cũng vô đắc, càng không có gì để nói. Chúng ta nói đức Phật đắc đạo, hoặc nói đức Phật thuyết pháp, hoàn toàn là nói theo tướng, chẳng phải là nói theo tánh thể.

 

(Sao) Tâm ngoại vô cảnh, cảnh ngoại vô tâm.

(Diễn) Nội tâm ngoại cảnh, hỗ đoạt lưỡng vong, tự giác, giác tha, nhị giác câu mẫn hỹ.

()心外無境,境外無心。

()內心外境。互奪兩亡。自覺覺他。二覺俱泯矣。

(Sao: Ngoài tâm chẳng có cảnh, ngoài cảnh chẳng có tâm.

Diễn: Nội tâm, ngoại cảnh, đoạt lẫn nhau, nên cả hai cùng mất. Tự giác, giác tha, hai giác đều cùng mất).

 Tâm và cảnh là một, chẳng hai. Chướng ngại lớn nhất của chúng ta trong hiện thời là chẳng thể minh tâm, chẳng thể kiến tánh, chẳng thể đắc đạo, chẳng thể chứng quả, nguyên nhân ở chỗ nào? Chúng ta nhìn hết thảy các pháp đều thấy thành hai phần: Tâm chẳng phải là cảnh, cảnh chẳng phải là tâm, tánh chẳng phải là tướng, tướng chẳng phải là tánh. Đối với hết thảy các pháp, chấp trước kiên cố, đức Phật bảo đó là vọng tưởng, chấp trước. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh chỉ vì vọng tưởng, chấp trước, mà chẳng thể chứng đắc”. Chúng ta vọng tưởng kiên cố, chấp trước kiên cố, chẳng biết hết thảy các pháp sanh từ cùng một căn nguyên. Trong hết thảy các pháp, quyết định là chẳng có chướng ngại. Kinh Hoa Nghiêm hiển thị Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, nhưng chư vị nhất định phải hiểu: Vô chướng ngại thật sự chính là “ngoài tâm chẳng có cảnh, ngoài cảnh chẳng có tâm” thì mới là vô ngại. Nếu tâm và cảnh là hai phần, chắc chắn là có chướng ngại.

Pháp giới thật sự vô chướng ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Xác thực là từ bậc Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo trở lên bèn nhập cảnh giới ấy. Tại Trung Hoa, Lục Tổ Huệ Năng đã nhập cảnh giới ấy. Những kẻ chẳng cùng hàng với ngài Huệ Năng thì vẫn là chỗ nào cũng đều bị chướng ngại. Tuy trên sự thật, chúng ta chẳng làm được, nhưng chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này. Hiểu rõ đạo lý này thì có lợi ích gì? Bụng dạ của chúng ta có thể rộng mở, chẳng đến nỗi chấp trước như vậy, chẳng đến nỗi hẹp hòi dường ấy. Nói cách khác, có thể giúp chúng ta sớm khai ngộ, có lợi ích ấy!

 

(Sao) Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

()自覺覺他,覺行圓滿。

(Sao: Tự giác, giác ngộ người khác, giác hạnh viên mãn).

 Ắt cần phải đạt tới mức tâm và cảnh dung hội lẫn nhau thì mới là giác hạnh viên mãn. Nếu tâm và cảnh chẳng dung nhập, vẫn là hai chuyện, vẫn là đối lập, chúng ta chẳng thể đạt tới cảnh giới “tự giác, giác tha viên mãn”.

 

Tam, lưu thông phần.

(Kinh) Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất, cập chư tỳ-kheo, nhất thiết thế gian, thiên, nhân, A Tu La đẳng.

三、流通分

()說此經已。舍利弗。及諸比丘。一切世間天人阿修羅等。

(Ba là phần Lưu Thông.

Kinh: Đức Phật nói kinh này xong, ngài Xá Lợi Phất và các vị tỳ-kheo, hết thảy thế gian, trời, người, A Tu La v.v…)

 Trong phần Lưu Thông, chia thành hai đoạn, mấy câu kinh văn này là một đoạn. Đoạn này là “trùng cử thính chúng” (重舉聽眾: nhắc lại thành phần thính chúng). Thuở ấy, khi đức Phật tuyên giảng kinh A Di Đà, trong phần khai kinh, tức Tự Phần, đã giới thiệu cùng chư vị về đại chúng dự hội, có những vị nào tham gia. Sau khi giảng kinh xong, lại đề cập cùng chúng ta, trong phần đề cập, có bổ sung đôi chút. Tuy trong phần trước chẳng nói, nhưng đến chỗ này, hết thảy đều nói viên mãn thì phải là “nhất thiết thế gian, thiên, nhân, A Tu La đẳng”, bổ sung thiên long bát bộ [trong hàng thính chúng nghe pháp].

 

(Sớ) Pháp tất lưu thông, dĩ Phật thuyết pháp, vị phổ độ chúng sanh cố.

()法必流通,以佛說法,為普度眾生故。

(Sớ: Pháp ắt phải được lưu thông, do đức Phật thuyết pháp nhằm phổ độ chúng sanh).

Trong câu này, Liên Trì đại sư giảng rõ phần Lưu Thông, [nêu rõ] ý nghĩa của Lưu Thông. Mục đích của Phật pháp là quảng lợi chúng sanh, tức là lợi ích đại chúng rộng khắp. Chữ “chúng sanh” bao gồm chúng sanh trong chín pháp giới. Trong hội này, có Văn Thù Bồ Tát, có Di Lặc Bồ Tát, đương nhiên còn có nhiều vị đại Bồ Tát, nhưng chẳng nêu tên. Có Bồ Tát pháp giới, có A La Hán, tỉnh lược Duyên Giác. Trong pháp hội ấy, có chúng Bồ Tát, có chúng Duyên Giác, có chúng Thanh Văn, có lục đạo chúng sanh. “Nhất thiết thiên, nhân, A Tu La” là nói đến lục đạo chúng sanh.

Có thể thấy đức Phật thuyết pháp, chúng sanh trong chín pháp giới hữu duyên với pháp hội kinh điển ấy đều góp mặt, đều đến tham dự pháp hội ấy, đều đắc lợi ích. Do vậy, đức Phật thuyết pháp nhằm phổ độ chúng sanh. Nếu Phật pháp chẳng lưu thông, sẽ hoàn toàn mâu thuẫn với tông chỉ và nguyện vọng thuyết pháp của đức Phật. Chính mình đạt được lợi ích nơi Phật pháp, mà chướng ngại kẻ khác, chẳng để cho người khác cũng đạt được [lợi ích ấy], người ấy có thể thành Phật hay không, có thể thành Bồ Tát hay không? Quyết định là chẳng thể, vì sao? Vì tự tư tự lợi, chẳng chịu làm lợi cho kẻ khác, đó là đại chướng ngại, có thể thấy là chính người ấy tự chướng ngại chính mình. Không chỉ là chướng ngại đắc đạo, ngay cả khai ngộ cũng chẳng thể. Không chỉ là chẳng thể khai ngộ, mà xem chú giải của cổ nhân, kẻ ấy cũng chẳng hiểu. Vì sao? Tâm lượng quá nhỏ, tâm địa chẳng thanh tịnh. Xem chú giải không hiểu, kinh văn lại càng chẳng cần phải nói nữa! Người ấy có thể đạt được gì? Nói thật ra, ngay cả da lông (ý nói bề ngoài) của Phật pháp kẻ ấy đều chẳng đạt được. Những gì kẻ đó đạt được chỉ là tro bụi dính ngoài da lông! Đại khái là có thể đạt được những thứ ấy! Vì sao? Bụi đất ô nhiễm cái tâm thanh tịnh của kẻ ấy, đúng vậy đó! Đối với pháp, chỉ cần là lợi ích chúng sanh, chúng ta nhất định tận tâm tận lực lưu thông. Nói theo cách hiện thời, phải phổ biến giới thiệu, “lăng-xê” cùng đại chúng, tận tâm tận lực thực hiện. Đó gọi là Lưu Thông. Giúp đỡ chư Phật, giúp đỡ hết thảy tổ sư đại đức phổ độ chúng sanh. Chuyện này khẩn yếu!

 

(Sớ) Phục liệt chúng giả, kinh sơ minh chúng thính pháp, kinh chung minh chúng thọ pháp dã.

()復列眾者,經初明眾聽法,經終明眾受法也。

(Sớ: Lại liệt kê đại chúng: Đầu kinh là nói về đại chúng nghe pháp, cuối kinh là nói rõ đại chúng tiếp nhận pháp).

Khởi đầu kinh điển này, trong Tự Phần có nói tới đại chúng nghe kinh, bảo cho chúng ta biết: Người nghe kinh đông đảo ngần ấy. Sau khi đã nghe kinh xong, lại trần thuật đại chúng sau khi nghe đức Phật thuyết pháp đã đạt được lợi ích như thế nào. Liệt kê [những lợi ích ấy] nhằm tạo tác dụng khơi gợi, khích lệ. Họ nghe kinh xong đạt được lợi ích, chúng ta nghe xong có đạt được lợi ích hay không?

 

(Sớ) Độc cử Thân Tử giả, dĩ đương cơ cố.

()獨舉身子者,以當機故。

(Sớ: Chỉ nêu tên mình ngài Xá Lợi Phất, vì Ngài là bậc đương cơ).

 Phần cuối kinh được tổng kết khá đơn giản, chỉ nói “Xá Lợi Phất cập chư tỳ-kheo” (Xá Lợi Phất và các tỳ-kheo).

 

(Sớ) Bất ngôn Bồ Tát giả, nhiếp tỳ-kheo trung cố. A Tu La giả, thử vân Phi Thiên. Đẳng giả, đẳng bát bộ lục đạo dã.

()不言菩薩者 攝比丘中故 阿修羅者 此云非

天。等者,等八部六道也。

(Sớ: Chẳng nói tới Bồ Tát vì Bồ Tát được gộp trong tỳ-kheo. A Tu La, cõi này dịch là Phi Thiên, “đẳng” là nói tám bộ, lục đạo).

Chúng sanh thuộc chín pháp giới đều bao gồm trong ấy.

 

(Sao) Lưu Thông giả, Quang Minh Sớ vân.

()流通者,光明疏云

(Sao: Lưu Thông: Quang Minh Sớ nói).

Trong chú giải kinh Kim Quang Minh[102] có nói.

 

(Sao) Lưu giả, hạ chú, Thông giả, bất ủng.

()流者下澍,通者不壅。

(Sao: Lưu là rót xuống, Thông là chẳng bế tắc).

 “Lưu” (流): Giống như nước, nước chảy xuôi. “Thông” (通) là chẳng có trở ngại, chẳng có chướng ngại.

 

(Sao) Hựu Khuê Phong vân.

()又圭峰云。

(Sao: Ngài Khuê Phong lại nói).

Ngài Khuê Phong [Tông Mật] là tổ sư đời thứ năm của tông Hoa Nghiêm, là học trò của Thanh Lương đại sư.

 

(Sao) Đô vô nhân truyền tắc bất lưu.

()都無人傳則不流。

(Sao: Chẳng có người truyền thừa, sẽ chẳng lưu thông).

 Nếu Phật pháp chẳng có ai truyền, pháp ấy sẽ chẳng thể truyền bá, chẳng thể lưu lại cho thế hệ kế tiếp.

 

(Sao) Lưu giả bất trụ.

()流者不住。

(Sao: Lưu là chẳng trụ [một chỗ]).

“Lưu” (流) có nghĩa là chẳng ngừng. Pháp ấy phải được tuyên dương ra ngoài, chớ để nó ngưng dứt!

 

(Sao) Truyền chi ngộ chướng tắc bất thông.

()傳之遇障則不通。

(Sao: Truyền mà gặp phải chướng ngại, ắt chẳng thông suốt).

Chúng ta truyền pháp, tuyên truyền gặp phải chướng ngại, nên chẳng thông suốt!

 

(Sao) Thông giả, bất tắc.

()通者不塞。

(Sao: Thông là chẳng tắc nghẽn).

“Bất tắc” (不塞) là chẳng bị trở ngại, chính là thông đạt vô ngại, đã thông suốt. Vào thời cổ, có thể nói là cổ đức đã tận tâm tận lực lưu truyền Phật pháp. Cách Bắc Kinh hơn hai giờ lái xe là Phòng Sơn, trước kia chẳng lâu, đã phát hiện thạch kinh tại đó, tức là kinh Phật được khắc trên các phiến đá, khắc toàn bộ Đại Tạng Kinh. Thạch kinh được khắc kể từ đời Đường, khắc mãi cho đến thời đại Liêu – Kim sau triều đại Nam Tống, gần như là gần đến thời nhà Nguyên mới hoàn tất. Tổng cộng khắc suốt bốn trăm năm. Đương nhiên là sử dụng nhân công rất đông, tổng cộng có mấy chục vạn phiến đá được khắc. Mỗi phiến đá còn to rộng hơn cây cột này một chút, khắc chữ cả hai mặt. Cổ nhân dùng phương pháp ấy để lưu truyền kinh Phật cho hậu thế, chỉ sợ kinh điển bị thất truyền. Khổ sở dụng tâm, siêng năng ra sức, chúng ta trông thấy chẳng thể không cảm kích. Nay chúng ta có thể dùng computer để sắp chữ, in lại một bản Đại Tạng Kinh mới, có thể lưu thông trên toàn thế giới. Đấy chính là công tác ắt phải thực hiện của hàng đệ  tử  Phật  chúng ta trong hiện thời khi đọc đến chữ Lưu Thông.

 

(Sao) Phổ độ giả, lưu thông thập phương, dĩ cập tam thế, phi cẩn vị nhất xứ, nhất thời chi chúng sanh dã.

()普度者,流通十方,以及三世,非僅為一處一時之眾生也。

(Sao: Phổ độ là lưu thông mười phương cho đến ba đời, chẳng phải chỉ là vì chúng sanh trong một chỗ, một thời).

Câu này rất trọng yếu. Nếu vì một thời, vì một nơi, người ta cũng chẳng cần phải khắc Đại Tạng Kinh trên bia đá. Vì mười phương ba đời hết thảy chúng sanh mà suy nghĩ, đấy là nói đến lưu thông Phật pháp thật sự. Hôm nay, chúng tôi nói đến chỗ này.

 

Tập 283

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang năm trăm chín mươi bảy:

 

(Sao) Đương cơ giả, dĩ nan tín chi pháp, duy Trí năng tín, cố thỉ chung thủ cử Xá Lợi Phất dã.

()當機者,以難信之法,唯智能信,故始終首舉舍利弗也。

(Sao: “Đương cơ”: Do pháp khó tin, chỉ có trí thì mới có thể tin tưởng. Vì thế, từ đầu đến cuối nêu tên ngài Xá Lợi Phất trước hết).

 Câu này nhằm giải thích câu “độc cử Thân Tử giả, dĩ đương cơ cố” (nêu một mình ngài Xá Lợi Phất vì Ngài là bậc đương cơ) trong lời Sớ. Đức Phật thuyết pháp nhất định là có thính chúng căn cơ đã chín muồi. Cũng có nghĩa là trình độ và căn tánh của họ hết sức khế hợp pháp môn này. Họ nghe xong, sẽ có thể sanh tâm hoan hỷ, có thể lý giải, có thể nương theo phương pháp này để tu học. Hạng thính chúng ấy được gọi là “đương cơ giả” (bậc đương cơ). Pháp môn Tịnh Tông, nhất là kinh A Di Đà, trong hết thảy các kinh, chính là pháp môn trực tiếp chỉ dạy chúng ta thành Phật viên mãn ngay trong một đời. Vì thế, thính chúng khế hợp pháp môn này chẳng nhiều, hết sức hiếm có, cũng ứng với “pháp khó tin” như trong phần trước đã nói. Kinh Di Đà được gọi là Tiểu Bổn, kinh Vô Lượng Thọ được gọi là Đại Bổn, hai bộ kinh này thuộc cùng một bộ, có nội dung hoàn toàn như nhau. Đại Bổn nói cặn kẽ. Trong kinh Đại Bổn, đức Phật dạy: Đương cơ của pháp môn này chỉ có hai loại người:

1) Một loại là bậc thượng căn chân thật, tức là người có trí huệ nhất. Họ nghe xong, chẳng hoài nghi, sẽ nghe hiểu, sẽ nghe thông suốt. Hạng người này sẽ được lợi ích. Như tôn giả Xá Lợi Phất, ngài Xá Lợi Phất là vị trí huệ bậc nhất trong các đệ tử Tiểu Thừa. Vì vậy, kinh này từ đầu tới cuối, đức Thế Tôn đều gọi ngài Xá Lợi Phất, chẳng gọi người khác. Giáo học Phật pháp hết sức coi trọng sự biểu thị pháp. Ngài Xá Lợi Phất biểu thị người có trí huệ chân thật. Gọi ngài Xá Lợi Phất, tức là gọi hết thảy những người có trí huệ. Họ nghe giảng sẽ chẳng có vấn đề gì, họ sẽ nghe hiểu.

2) Loại người thứ hai là những người trọn đủ thiện căn, họ cũng thích hợp. Tuy trí huệ chưa chắc nhạy bén, nhưng họ có thiện căn; thiện căn chẳng phải là đạt được trong một đời. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật đã dạy: Đó là [thiện căn] do tích lũy đời đời kiếp kiếp từ vô lượng kiếp trong quá khứ, chín muồi trong một đời này. Tuy họ chẳng có trí huệ, mà cũng chẳng thông minh. Thậm chí chưa từng học hành, không biết chữ, nhưng họ nghe nói đến A Di Đà Phật, bèn có thể sanh tâm hoan hỷ, tin tưởng, chẳng hoài nghi. Họ cũng chẳng hỏi “có ý nghĩa là gì”, họ chịu tin, chịu niệm, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ. Tới khi mạng chung, thường là họ có thể đứng vãng sanh, hoặc ngồi vãng sanh, biết trước lúc mất. Đó là thiện căn thành tựu. Đúng như điều kiện vãng sanh đã nói trong kinh này: “Chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên [mà được sanh về cõi ấy]”; họ là thiện căn, phước đức, nhân duyên thảy đều trọn đủ. Hạng người này là bậc đương cơ.

Vừa mở đầu kinh, đức Phật kể ra mười sáu vị đệ tử Thanh Văn, ngài Xá Lợi Phất đứng đầu, ngài Mục Kiền Liên thứ hai. Mười lăm vị kể từ ngài Mục Kiền Liên trở đi đều là những người có thiện căn và phước đức chín muồi. Ngài Xá Lợi Phất biểu thị trí huệ thành tựu viên mãn. Trí huệ của chúng ta chẳng sánh bằng ngài Xá Lợi Phất. [Tuy chúng ta] chẳng phải là loại đương cơ thứ nhất, ngẫm ra, chúng ta có thể đảm đương làm loại đương cơ thứ hai. Vì sao? Chúng ta nghe kinh này xong, có thể sanh tâm hoan hỷ, cũng có thể nghe hiểu rõ ràng, thật sự phát nguyện cầu sanh, cho nên phải là loại đương cơ thứ hai. Hai loại ấy đều khó có, đáng quý, đều là vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi ngay trong một đời này. Chư vị hiểu luân hồi là khổ! Từ vô lượng kiếp đến nay, sanh tử, lưu chuyển trong ấy, chịu hết mọi nỗi khổ, chẳng có cách nào vượt thoát. Đời này gặp gỡ pháp môn này, thật sự có thể tin, có thể nguyện, chuyên tu, chắc chắn sẽ vượt thoát. Cơ hội này chẳng phải là “trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”, mà còn là khó khăn hơn nữa. Cư sĩ Bành Tế Thanh nói: “Một ngày hiếm có khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”. Câu nói ấy đã hình dung vận may của chúng ta, “hiếm có, khó gặp”, [thế mà] nay chúng ta đã gặp gỡ.

 

(Sao) Nhiếp tỳ-kheo trung giả.

()攝比丘中者。

(Sao: Bao gồm trong hàng tỳ-kheo).

Khi kết thúc kinh này, chẳng nói đến các vị Bồ Tát, Bồ Tát đã được gộp trong số các vị tỳ-kheo.

 

(Sao)Bồ Tát tuy bất thường tùy Như Lai, nhiên dữ chư tỳ-kheo đồng vi hiền thánh đẳng lữ cố.

()菩薩雖不常隨如來,然與諸比丘同為賢聖等侶故。

(Sao: Tuy Bồ Tát chẳng thường theo Như Lai, nhưng các Ngài cùng với các tỳ-kheo đều là bạn hiền thánh).

Bồ Tát là học trò Đại Thừa, còn Thanh Văn là học trò Tiểu Thừa của đức Phật. Hàng Tiểu Thừa khá bảo thủ, Đại Thừa Bồ Tát cởi mở hơn. Kẻ bảo thủ chẳng nỡ rời khỏi thầy, quanh năm đi theo thầy. Thầy đến nơi đâu, bèn theo đến đó, biến thành Thường Tùy Chúng của đức Phật. Những học trò cởi mở, thường là sau một giai đoạn theo học với đức Phật, bèn vui lòng giúp thầy đến nơi khác tiếp dẫn đại chúng, giúp thầy hoằng hóa. Đó là bậc Đại Thừa Bồ Tát. Tâm lợi tha của Bồ Tát thiết tha hơn hàng Tiểu Thừa, nhưng các Ngài đều là học trò của đức Phật. Nói đến chúng tỳ-kheo thì trong ấy cũng có thể bao gồm hàng Bồ Tát.

 

(Sao) Hựu Bồ Tát Chân Tục song dung, tùy loại ứng cơ, diệc khả thế gian trung nhiếp cố.

(Diễn)  Bồ Tát Chân Tục song dung,  tùy loại ứng cơ giả,  phàm

phu trước Tục bất thông Chân, Nhị Thừa đam Chân bất thiệp Tục, như từ lục đảm bản, các chấp nhất biên. Bồ Tát tắc Chân Tục song dung, bất trệ sanh tử, bất trụ Niết Bàn cố, hoặc hiện Nhị Thừa đồng Chân, hoặc hiện lục phàm đồng Tục, tùy loại ứng cơ, bất độc tỳ-kheo trung nhiếp dã.

()又菩薩真俗雙融,隨類應機,亦可世間中攝故。

()菩薩真俗雙融。隨類應機者。凡夫著俗不通真。二乘耽真不涉俗。如徐六擔板。各執一邊。菩薩則真俗雙融。不滯生死。不住涅槃故。或現二乘同真。或現六凡同俗。隨類應機。不獨比丘中攝也。

(Sao: Lại nữa, Bồ Tát Chân và Tục cùng dung hội, tùy theo từng loài mà ứng với căn cơ của họ, nên cũng có thể nhiếp trong thế gian.

Diễn: “Bồ Tát Chân và Tục cùng dung hội, tùy theo từng loài mà ứng với căn cơ của họ”: Phàm phu chấp Tục, chẳng thông hiểu Chân. Nhị Thừa đắm chấp nơi Chân, chẳng dính líu Tục, [cả hai loại người ấy đều] như kẻ vác tấm ván gỗ chỉ thấy một bề, mỗi loại đều chấp vào một bên. Bồ Tát thì Chân và Tục đều dung hội, chẳng vướng mắc sanh tử, chẳng trụ trong Niết Bàn, hoặc hiện cùng trụ vào Chân như Nhị Thừa, hoặc hiện cùng ở trong cõi Tục như phàm phu trong lục đạo, tùy thuận từng loài, ứng theo căn cơ của họ, chẳng phải chỉ là bao gồm trong hàng tỳ-kheo).

 Tỳ-kheo nhất định là người xuất gia, [bao gồm] tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, sa-di, sa-di-ni. Bồ Tát không nhất định là xuất gia. Thị hiện tại Trung Hoa, ở Đại Lục có tứ đại danh sơn là đạo tràng của bốn vị đại Bồ Tát. Trong bốn vị Bồ Tát ấy, chỉ có Địa Tạng Bồ Tát mang hình tướng xuất gia, ba vị Bồ Tát kia đều mang hình tướng tại gia. Do vậy, có thể biết: Trong các vị Bồ Tát, hàng tại gia Bồ Tát đông đảo, Bồ Tát mang hình tướng xuất gia ít ỏi. Nói cách khác, Bồ Tát cũng có thể gộp trong đại chúng trời, người, vì các Ngài thị hiện tướng tại gia. Kinh gọi hàng tại gia đệ tử là ưu-bà-tắc và ưu-bà-di. Do đó, Bồ Tát cũng có thể gộp trong hàng ưu-bà-tắc hoặc ưu-bà-di, thân phận chẳng nhất định, chẳng nhất định là thân phận xuất gia hay tại gia.

 

(Sao) Nhất thiết thế gian, sở cai giả chúng, nhi độc cử thiên, nhân, A Tu La giả, dĩ minh tu thử pháp môn, thiện đạo chúng sanh, tỷ chi dư đạo, vi cư đa cố.

()一切世間,所該者眾,而獨舉天人阿修羅者,以明修此法門,善道眾生,比之餘道,為居多故。

(Sao: “Hết thảy thế gian” bao gồm các loại chúng sanh rất đông, nhưng chỉ kể thiên, nhân, A Tu La, nhằm nói rõ chúng sanh tu pháp môn này thuộc về thiện đạo chiếm đa số so với những đường khác).

Kinh nói “nhất thiết thế gian thiên, nhân, A Tu La”, “nhất thiết thế gian” là nói tổng quát, “thiên, nhân, A Tu La” là nói riêng biệt. Nếu nói riêng biệt [từng loại chúng sanh], phạm vi của từng loài riêng biệt quá rộng, chẳng nói trọn hết được! Chỉ đành đối với “hết thảy thế gian” nêu ra mấy trường hợp tiêu biểu mà thôi! Những loài được nêu ra là “thiên, nhân, A Tu La”. “Nhất thiết thế gian” thật ra bao gồm mười pháp giới. Trong mười pháp giới có Phật, Phật mà cũng được coi là hữu tình chúng sanh ư? Có thể nói như thế! Nói theo tông Thiên Thai, có bốn loại Phật. Trừ Viên Giáo ra, tức là ngoài vị Phật rốt ráo viên mãn ấy ra, ba loại Phật thuộc Tạng Giáo, Thông Giáo, và Biệt Giáo trên thực tế đều là Bồ Tát. Trong Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, cư sĩ Giang Vị Nông bảo: “Chư Phật” được nói trong kinh Kim Cang là từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo, đều gọi là “chư Phật”. Thiền Tông nói: “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. “Kiến tánh thành Phật” là chân Phật, chẳng phải là giả Phật, nhưng vị ấy chưa phải là một vị Phật rốt ráo, mà là Tạng Giáo Phật, hoặc Thông Giáo Phật. Vị ấy vừa mới kiến tánh, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, là Sơ Trụ Bồ Tát minh tâm kiến tánh trong Viên Giáo. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, bốn mươi mốt tầng cấp [Bồ Tát] ấy đều là Phật, hễ kiến tánh đều là đã thành Phật. Do đó, những vị Phật ấy đều là Phật trong mười pháp giới, chẳng phải là đã đạt đến địa vị Phật viên mãn rốt ráo. Viên mãn rốt ráo Phật ở ngoài mười pháp giới, chúng ta gọi [cảnh giới ấy] là Nhất Chân pháp giới. Do đó, mười pháp giới chẳng thật, Nhất Chân là thật. Đó là nói về “nhất thiết thế gian”.

“Độc cử thiên, nhân, A Tu La” (Chỉ nêu ra trời, người, A Tu La), đấy là thuyết pháp “ứng cơ” (應機: tương ứng căn cơ). Nay chúng ta ở trong lục đạo, chưa thoát khỏi lục đạo, chẳng có năng lực đạt tới tứ thánh pháp giới. Đức Phật thuyết pháp trong nhân gian, đương nhiên đối tượng chủ yếu sẽ là chúng ta. Loài người, chư thiên, A Tu La là ba thiện đạo trong lục đạo. Ba thiện đạo dễ độ hơn ba ác đạo rất nhiều. Đức Phật độ chúng sanh trong ác đạo chẳng dễ dàng. Địa ngục quá khổ, ngạ quỷ nghiệp chướng quá nặng, súc sanh quá ngu si. Do đó, giảng kinh, thuyết pháp cho họ, muốn cho họ lãnh ngộ, xác thực là một chuyện rất khó. Người và trời thông minh hơn, dễ lãnh ngộ hơn. “Thiên, nhân, A Tu La” là ba thiện đạo. “Thiện đạo chúng sanh, tỷ chi dư đạo, vi cư đa cố” (Chúng sanh trong thiện đạo chiếm đa số so với những đường khác), chỉ rõ: Đức Phật dạy mọi người, dạy hết thảy thế gian pháp môn Tịnh Tông, nhưng thật sự có thể tiếp nhận, có thể tu học vãng sanh, thì chúng sanh trong ba thiện đạo chiếm đa số. Do vậy, có thể biết: Tịnh Tông không chỉ lưu thông rộng rãi trong nhân gian, mà ngay trên cõi trời, cũng lấy pháp này làm chủ yếu. Chư thiên có thể vượt thoát lục đạo, có thể thành tựu trong một đời, cũng cậy vào pháp môn Niệm Phật. Vì thế, [pháp môn này] được tuyên dương phổ biến trên cõi trời và trong nhân gian. Ở đây, “A Tu La” là nói tới A Tu La trong thiên đạo.

 

(Sao) Phi Thiên giả, Tu La phú lạc đồng thiên, vô thiên hạnh cố. Tường hữu tứ chủng, tư bất phồn cử. Tiền liệt chúng trung, vô kỳ danh giả, nhiếp ư thiên nhân, cập đại chúng cố.

()非天者,修羅富樂同天,無天行故。詳有四種,茲不繁舉。前列眾中無其名者,攝於天人及大眾故。

(Sao: “Phi Thiên (chẳng phải trời)”: Do Tu La giàu có, sung sướng giống hệt như chư thiên, nhưng chẳng có hạnh của chư thiên, [nên gọi là Phi Thiên]. Nói tường tận thì có bốn loại, ở đây, do ngại rườm rà, nên chẳng nêu ra. Trong phần liệt kê thính chúng ở đầu kinh, chẳng kể A Tu La, vì đã gộp họ vào thiên, nhân và đại chúng).

Đây là đặc biệt giới thiệu đơn giản về A Tu La (Asura). A Tu La phú quý và hưởng thụ hoàn toàn giống như chư thiên. “Vô thiên hạnh cố” [nghĩa là] họ chẳng có đức hạnh của chư thiên. Chư thiên tâm địa rất từ bi, rất nhu hòa, nhưng bụng dạ A Tu La hết sức hẹp hòi, ganh tỵ, ngạo mạn. Lại còn thường là rất tàn khốc, tâm sân hận rất nặng nề. Vì sao họ sanh lên cõi trời? Họ có phước cõi trời, có phước báo to ngần ấy, cho nên sanh lên cõi trời hưởng phước.

Đức Phật dạy chúng ta: Trong nhân hạnh của mười pháp giới, đức Phật bảo, nhân của chư thiên là tu thượng phẩm Thập Thiện và tu Tứ Vô Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm là từ, bi, hỷ, xả, Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỷ vô lượng, Xả vô lượng, thì khi sanh thiên, bèn có đức hạnh của chư thiên. A Tu La chỉ tu phước mà chẳng tu đức. Họ cũng tu thượng phẩm Thập Thiện, nhưng họ ganh tỵ, hiếu thắng, ngạo mạn. Họ có thể làm chuyện tốt, nhưng họ cầu danh. Ví như chúng ta thấy trong xã hội này, có những kẻ làm chuyện tốt, nhưng chẳng thể đoạn tập khí, nhất định phải cầm đầu. Ví như bỏ tiền để làm chuyện tốt, người ta bỏ ra một vạn, ta liền bỏ ra hai vạn, ta nhất định phải hơn kẻ khác. Đã hiếu thắng, lại còn ganh tỵ, [trông thấy] người khác làm chuyện tốt, kẻ ấy nhất định phải vượt trỗi người khác, chẳng thể phục người khác. Quả báo của hạng người ấy quá nửa là trong Tu La đạo.

A Tu La có bốn loại:

1) Một là sanh từ trứng, thuộc về quỷ đạo.

2) Hai là sanh bằng bào thai, thuộc về nhân đạo.

3) Ba là do biến hóa, thuộc về thiên đạo.

4) Bốn là do hơi ẩm ướt mà có, thuộc về súc sanh đạo.

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật có nói:

1) Bậc thượng sanh thiên, là Thiên A Tu La.

2) Bậc trung là trong nhân gian, tức A Tu La thuộc về loài người, giống như Hy Đặc Lặc (Hitler), Sử Đạt Lâm (Stalin), hoặc quân phiệt Nhật Bản, phước báo chẳng khác đế vương trong nhân gian, nhưng hết sức tàn khốc, tâm sân hận rất nặng!

3) [Bậc hạ thì như] rắn độc, thú dữ, tánh tình rất hung tợn, chính là A Tu La trong loài súc sanh. Trong quỷ đạo cũng có A Tu La, chúng ta thường nói là ngạ quỷ.

Cũng có quỷ thiện lương. Theo ghi chép trong Liêu Trai Chí Dị, Tử Bất Ngữ[103], hoặc Duyệt Vy Thảo Đường Bút Ký[104], có rất nhiều con quỷ rất tốt. Kinh thường nói đến lục đạo, chính là [đối với A Tu La trong các đường] nhân đạo, súc sanh đạo, ngạ quỷ đạo đều chẳng nói tới, [bởi lẽ] nhân A Tu La gộp trong loài người, súc sanh A Tu La gộp trong súc sanh đạo, chỉ riêng Thiên A Tu La là tách ra. Vì thế, Tu La được nói trong lục đạo chính là Thiên A Tu La, coi như là thiện đạo.

 

(Sao) Vấn: Tu La chí vi hung ngoan, hà năng chấp trì thánh hiệu?

()問:修羅至為凶頑,何能執持聖號。

(Sao: Hỏi: Tu La hết sức hung bạo, ương ngạnh, làm sao có thể chấp trì thánh hiệu cho được?)

Xác thực là Tu La ganh tỵ, ngạo mạn, có tâm sân hận rất nặng, tâm báo thù rất mạnh. Đó là đặc tánh của loài Tu La, hạng người như vậy lẽ nào chịu niệm Phật cho được? Lẽ nào họ sẽ chịu phát nguyện cầu vãng sanh?

 

(Sao) Đáp: Quỷ súc thượng giải quy y, Tu La khởi bất tín thọ? Bất văn Thế Chủ Diệu Nghiêm phẩm, chư Tu La đẳng, các đắc giải thoát môn hồ?

()答:鬼畜尚解歸依,修羅豈不信受?不聞世主妙嚴品,諸修羅等,各得解脫門乎。

(Sao: Đáp: Quỷ và súc sanh còn biết quy y, lẽ nào Tu La chẳng tin nhận? Chẳng nghe trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm [của kinh Hoa Nghiêm], các loài như Tu La v.v… ai nấy đều đắc các môn giải thoát ư?)

Ác nhân tuy nhiều, nhưng ác nhân có thể quay đầu [hướng thiện] cũng chẳng ít! Do vậy, thuở đức Phật giảng kinh, thuyết pháp trên cõi trời, hoặc trong nhân gian, có lúc A Tu La cũng đến nghe, bị cảm động sâu đậm, sửa lỗi, đổi mới rất nhiều! Trong tám bộ quỷ thần của Phật môn, trong các vị thần hộ pháp còn có A Tu La. Đó là những người đã quy y Phật pháp, bằng lòng làm hộ pháp cho đức Phật. Làm hộ pháp cho đức Phật, quý vị ngẫm xem: Họ có niệm Phật hay không? Nhất định là họ sẽ niệm Phật, nhất định là sẽ cầu sanh Tịnh Độ. Hết thảy ác quỷ, ác thần, cho đến loài súc sanh, đều biết quy y, quy y Tam Bảo, biết tu hành, thường là cũng có rất nhiều người đạt thành tựu.

Đối với những người như vậy, nếu chúng ta truy cứu nguyên nhân, sẽ chẳng khó lý giải. Trong đời trước, A Tu La chưa chắc là A Tu La. Trong đời quá khứ, họ đã đời đời kiếp kiếp ở trong cõi trời, người, huân tập thiện căn cũng rất sâu dầy, bất quá là do một niệm tâm sân khuể, bèn đọa vào A Tu La đạo. Chuyện là như vậy đó. Nói chung, những kẻ ở trong ngạ quỷ, địa ngục, súc sanh mà có thể đắc độ, đều là do trong đời quá khứ, đã tu học có cơ sở Phật pháp rất sâu trong cõi trời, người. Khi thiện căn phát hiện, do chẳng được làm thân người, đang làm thân súc sanh, hoặc làm thân ngạ quỷ, trong khi mang những thân ấy, thiện căn phát hiện. Phật, Bồ Tát từ bi, “trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai”. Bất luận quý vị đang đọa trong đường nào, chỉ cần quý vị có một niệm hướng thiện, tức là thiện căn hiện tiền, Phật, Bồ Tát nhất định đến độ quý vị, chẳng bỏ sót một ai! Một niệm thiện tâm dấy động bèn có thể cảm động chư Phật, Bồ Tát. Chư Phật, Bồ Tát lập tức ứng hiện. Chuyện là như thế đó!

 

(Sao) Kim xử nhân luân, mạo nhiên vô tín giả, lương khả quái dã.

()今處人倫,邈然無信者,良可怪也。

(Sao: Nay được làm thân người, lại coi rẻ, chẳng tin, thật là đáng trách).

Đây là lời cảm thán của Liên Trì đại sư. Nay chúng ta được làm thân người, được làm người đúng là chẳng dễ dàng! “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Chúng ta xem những điều được ghi chép trong bút ký hoặc tiểu thuyết của cổ nhân, có nhiều câu chuyện chân thật, chẳng phải là hư cấu. Trong bút ký hoặc tiểu thuyết, thường nhắc đến “hồ tiên”. Hồ ly (cáo) là súc sanh, rất thông minh, biết tu hành. Nếu nó muốn tu luyện cái thân súc sanh thành thân người, phải tu năm trăm năm. Hồ ly thấy loài người chúng ta vừa đầu thai bèn có thân người, chúng nó hết sức hâm mộ! Súc sanh đạo biết: Sau khi đã được thân người thì mới có thể tu hành chứng quả. Nay chúng ta đã được làm thân người, lại ngược ngạo chẳng biết tu hành, quá đáng tiếc! “Mạo nhiên bất tín” (Coi thường, chẳng tin), chúng ta hoàn toàn chẳng thể tiếp nhận, chẳng thể tin tưởng pháp môn này, rất kỳ quái, “lương khả trách dã” (đúng là đáng trách)! Thật ra, chuyện này cũng có nguyên nhân, [tức là] nghiệp chướng và nghiệp lực đã chướng ngại Tín Căn của chúng ta.

Nghiệp hết sức phức tạp, chủng loại quá nhiều! Đức Phật thuyết pháp đã quy nạp nghiệp lực quá nhiều và phức tạp thành hai loại lớn: Một loại là Phiền Não Chướng, loại kia là Sở Tri Chướng.

1) Sở Tri Chướng là gì? Nay chúng ta thường gọi nó là “thành kiến”, thành kiến quá sâu! Vừa nghe nói tới tôn giáo, [liền vơ đũa cả nắm], tôn giáo đều là mê tín. Căn bản là chẳng hề nghiên cứu, [dùng ngay] một câu “mê tín” để gạt phắt. Đấy là Sở Tri Chướng, tức là một thứ thành kiến rất sâu!

2) Loại kia là phiền não. Tâm kẻ ấy buồn phiền, lắm vọng tưởng, lắm tạp niệm, nghe [giảng pháp môn Tịnh Độ] chẳng thể lọt tai được!

Nói chung, chẳng ngoài hai loại chướng ngại lớn ấy, khiến cho tín tâm của chúng ta bị ngăn ngại. Có những người suốt đời chẳng tin, đến khi lâm chung bèn tin tưởng, chính là vì tới khi ấy, chướng ngại nhẹ bớt, người ấy có thể tiếp nhận. Đối với những kẻ có nghiệp chướng ấy, chúng ta phải có trí huệ quan sát, phải có lòng nhẫn nại chờ đợi. Chớ nên nóng ruột, hễ có duyên, kẻ ấy sẽ quay đầu. Chuyện này đòi hỏi chúng ta phải có trí huệ, phải có phương tiện thiện xảo để giúp đỡ những người ấy, khiến cho người ấy dần dần thông hiểu, lý giải, sẽ lại bắt đầu khẳng định Phật pháp, biết là trong quá khứ đã nhìn sai, đã hiểu lầm!

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh cứu cánh viên mãn, thị Phật thuyết kinh dĩ nghĩa.

(Diễn) Cứu cánh viên mãn, thị thuyết kinh dĩ giả, nhược ngôn Như Lai tương bãi pháp tọa, vi thuyết kinh dĩ, thử văn tự giáo kinh, phi tự tánh chân kinh dã. Tự tánh chân kinh, tắc thủ vĩ viên chiếu, vô khiếm, vô dư, vị triệu đương cơ, thuyết pháp dĩ cánh.

()稱理,則自性究竟圓滿,是佛說經已義。

()究竟圓滿。是說經已者。若言如來將罷法座。為說經已。此文字教經。非自性真經也。自性真經。則首尾圓照。無欠無餘。未召當機說法已竟。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh rốt ráo viên mãn chính là ý nghĩa “Phật đã nói kinh xong”.

Diễn: “Rốt ráo viên mãn chính là nói kinh đã xong”: Nếu nói đức Như Lai sắp giải tán pháp hội là “nói kinh đã xong”, đấy là dạy kinh theo phương diện văn tự, chẳng phải là chân kinh trong tự tánh. Chân kinh trong tự tánh thì đầu đuôi chiếu soi trọn vẹn lẫn nhau, chẳng thiếu, chẳng thừa, chưa vời kẻ đương cơ đến mà đã thuyết pháp xong xuôi).

 “Dĩ” (已) là đã nói viên mãn, nói xong xuôi. Tự tánh rốt ráo viên mãn chính là ý nghĩa “Phật thuyết kinh dĩ” (đức Phật nói kinh xong xuôi).

 

(Sớ) Tự tánh châu biến hàm dung, thị nhất thiết thế gian nghĩa.

(Diễn) Châu biến hàm dung nhất thiết thế gian nghĩa giả, nhược vân thiên long bát bộ vi nhất thiết thế gian, thử hữu tình thế gian, phi chánh giác thế gian dã. Chánh giác thế gian, phàm thánh cai la, thiên túc, vạn túc, vị kích kiền chùy, nhân thiên tất tập.

()自性周遍含容,是一切世間義。

()周遍含容一切世間義者。若云天龍八部。為一切世間。此有情世間。非正覺世間也。正覺世間。凡聖該羅千足萬足。未擊犍槌人天畢集。

(Sớ: Tự tánh bao hàm trọn khắp, chính là ý nghĩa của “hết thảy thế gian”.

Diễn: “Bao hàm trọn khắp là ý nghĩa hết thảy thế gian”: Nếu bảo trời, rồng, tám bộ là hết thảy thế gian, đấy chính là hữu tình thế gian, chẳng phải là chánh giác thế gian. Chánh giác thế gian thì phàm thánh bao trùm, ngàn phần, vạn phần trọn vẹn, chưa đánh kiền chùy mà trời, người đã nhóm họp đông đủ).

“Nhất thiết thế gian” cũng chính là y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới như trong Phật pháp thường nói. Mười pháp giới rốt cuộc ở chỗ nào? Có phải là thuộc trong thời gian và không gian như chúng ta hay nói trong hiện thời hay chăng? Nếu bảo là thời gian và không gian như hiện thời hay nói, [mười pháp giới sẽ] nhất định thuộc trong thế giới Sa Bà này (thế giới Sa Bà là một đại thiên thế giới. Trong một đại thiên thế giới có mười ức đơn vị thế giới, cũng chính là mười ức hệ Ngân Hà. Tây Phương Cực Lạc thế giới ở về phía Tây của thế giới Sa Bà, cách xa nhau mười vạn ức đại thiên thế giới). Đấy là cách nghĩ của chúng ta. Cách nghĩ ấy tuyệt đối chẳng chánh xác. Nói thật ra, nay chúng ta nói đến thời gian và không gian vô tận, đều là [những cảm nhận] xuất hiện trong không gian ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao). Tối đa là không gian bốn chiều như ông Ái Nhân Tư Thản (Einstein) đã nói, tức là kể thêm thời gian [thành chiều thứ tư], chúng ta sống trong ấy. Tây Phương Cực Lạc thế giới khác hẳn không gian chúng ta đang sống. Nó là một không gian khác, chúng ta nói là không gian năm chiều, không gian sáu chiều, không gian bảy chiều, không gian tám chiều, cho đến không gian vô hạn chiều. Rốt cuộc, Tây Phương Cực Lạc thế giới có bao nhiêu chiều? Chúng ta chẳng biết! Đấy là hoán chuyển không gian.

Nói thật ra, trong khi chúng ta tỉnh táo thì là một không gian, khi nằm mộng thì cảnh trong mộng lại là một không gian khác nữa. Thời gian và không gian trong cảnh mộng chắc chắn chẳng giống như thời gian và không gian trong khi chúng ta đang tỉnh táo. Đối với “nhất thiết thế gian”, dùng ngay chuyện này để giải thích, mọi người sẽ dễ hiểu, mới biết tự tánh đúng là bao dung trọn khắp. Tự tánh có thể biến hiện không gian vô hạn chiều. Đó chính là phạm vi hoạt động của chính chúng ta. Phạm vi ấy quá lớn, rộng lớn không có ngằn mé. Đó là ý nghĩa của “nhất thiết thế gian”. Dưới đây, Ngài lại giải thích hai ý nghĩa “cứu cánh”“châu biến”.

 

(Sao) Cứu cánh, tắc thủ vĩ viên chiếu, vô khiếm, vô dư.

()究竟,則首尾圓照,無欠無餘。

(Sao: “Rốt ráo” là đầu đuôi chiếu soi trọn vẹn lẫn nhau, chẳng thiếu, chẳng thừa).

Kinh Phật thường nói cảnh giới này là chẳng thể nghĩ bàn! Cảnh giới là chân thật, thực tại. “Chẳng thể nghĩ” là không có cách nào tưởng tượng. “Chẳng thể bàn”: “Bàn” là nghị luận. Chắc chắn là quý vị cũng không thể thốt lên lời nào! Quý vị nói thì chỉ có thể nói phần nào, chứ chẳng có cách nào nói toàn thể. Quý vị nghĩ thì cũng chỉ là vài phần của nó. Nói cách khác, ngôn ngữ và tư tưởng đều có phạm vi, đều có ngằn hạn, mà Thể và Dụng của tâm tánh chẳng có chừng hạn. Toan dùng sự tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ có ngằn hạn để liễu giải Thể và Dụng của tâm tánh chẳng có phạm vi thì sẽ chẳng thể được. Chuyện này chỉ có thể thật chứng. Quý vị đã chứng đắc, vẫn là chẳng nói nên lời y như cũ, nhưng xác thực là đã nhập cảnh giới này. Hàng Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đã chứng đắc một phần. Đó là ít phần, chưa thể chứng đắc viên mãn. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn thiếu một phần thì mới có thể viên mãn.

Từ hết thảy các kinh Đại Thừa, chúng ta đã thấy: Bồ Tát tu chứng gian nan, vất vả! Do đó, Văn Thù và Phổ Hiền còn phải phát nguyện cầu sanh thế giới Cực Lạc, còn mong thân cận A Di Đà Phật. Vì sao? Trong thế giới Cực Lạc, viên chứng dễ dàng. Trong thế giới Hoa Tạng, viên chứng khó khăn lắm! Vì Văn Thù và Phổ Hiền là đệ tử của Hoa Tạng thế giới Tỳ Lô Giá Na Phật, nếu viên thành Phật quả trong thế giới Hoa Tạng dễ dàng giống hệt như trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, các Ngài lại cần gì phải cầu sanh Tịnh Độ? Các Ngài mong mỏi cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta bèn hiểu: Nhất định là do Hoa Tạng khó khăn, Tịnh Độ dễ dàng, các Ngài mới chịu đi. Các Ngài vãng sanh, thầy các Ngài là Tỳ Lô Giá Na Phật còn rất tán thành, chẳng ngăn trở, chứng tỏ: Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thành một vị Phật viên mãn rốt ráo dễ dàng!

Nay chúng ta hy vọng trong lúc còn sống cũng giống như Văn Thù và Phổ Hiền sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, Văn Thù, Phổ Hiền sẽ cùng A Di Đà Phật mở đại hội hoan nghênh. Khi phát biểu, Văn Thù và Phổ Hiền nhất định sẽ bội phục quý vị năm vóc sát đất. Vì sao? Các Ngài tu vô lượng kiếp, đến được thế giới Hoa Tạng, cuối cùng mới đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đi vòng một quãng to như thế, chịu lắm nỗi khổ ngần ấy. Quý vị quá may mắn, làm sao mà ngay trong phút chốc bèn tới đó, lẽ đâu các Ngài chẳng bội phục cho được? Thật sự bội phục! Chư vị phải đọc thông thuộc kinh Đại Thừa. Đọc kinh Đại Thừa nhiều, quý vị mới biết sự thù thắng của Tây Phương. Tất cả hết thảy chư Phật, chẳng có vị Phật nào không tán thán, chẳng có vị Phật nào không khuyên kẻ khác niệm Phật vãng sanh. Chẳng có vị Bồ Tát nào cuối cùng không trở về Cực Lạc. Quý vị ắt phải đọc nhiều, quan sát tỉ mỉ thì mới hiểu rõ, mới chẳng hoài nghi.

 

(Sao) Châu biến, tắc phàm thánh cai la, thiên túc, vạn túc.

()周遍,則凡聖該羅,千足萬足。

(Sao: “Trọn khắp” là bao trùm phàm thánh, muôn ngàn trọn vẹn).

 “Phàm” là lục phàm, “thánh” là tứ thánh. “Cai la” (該羅: bao trùm): chẳng phải là tứ thánh lục phàm trong một tam thiên đại thiên thế giới, mà là hết thảy thế gian, hết thảy các cõi Phật trong tận hư không, khắp pháp giới. Đích xác là vô lượng vô biên, viên mãn trọn đủ, chẳng có mảy may khiếm khuyết nào! Từ hai câu này, chúng ta liền thấu hiểu Tánh Đức rốt ráo viên mãn. Tánh Đức là bản năng (năng lực sẵn có) của chính mình. Hư không pháp giới đều do tự tánh biến hiện. Người đã kiến tánh, đối với sự chuyển biến không gian bèn tự tại. Kẻ chưa kiến tánh, chẳng có cách nào vượt thoát không gian. Hễ kiến tánh, sẽ vượt thoát.

 

(Sao) Như thị kinh giả, vị hô Thân Tử, dĩ tất toàn văn.

()如是經者,未呼身子,已畢全文。

(Sao: “Kinh như thế”: Chưa gọi ngài Xá Lợi Phất, toàn bộ kinh văn đã nói xong).

Chúng ta phải hiểu đạo lý này, phải liễu giải chân tướng sự thật. Thích Ca Mâu Ni Phật tuy chẳng nói một câu nào, chẳng cần gọi ngài Xá Lợi Phất, đức Phật đã nói kinh viên mãn, cần gì phải có sự viên mãn nơi hình thức nữa? Vì sao? Viên mãn trong mỗi niệm, chẳng có niệm nào không viên mãn. Há cần phải chờ tới khi gọi ngài Xá Lợi Phất thì mới viên mãn ư? Ý nghĩa này hết sức sâu. Kế đó, Ngài lại nêu hai tỷ dụ. Từ tỷ dụ, chúng ta sẽ có ấn tượng càng sâu đậm hơn, nhưng phải chú tâm lãnh hội.

 

(Sao) Hựu hà đãi Diệu Thủ bạch chùy, Song Lâm phủ xích.

()又何待妙首白槌,雙林撫尺。

(Sao: Há lại còn đợi ngài Diệu Thủ thỉnh chuông, xướng bạch, ngài Song Lâm vỗ xích[105]).

Hai câu này là hai điển cố, tức chuyện cũ. “Chùy” (槌) là kiền chùy (楗槌)[106]. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp, người gõ chuông là ngài Diệu Thủ. Diệu Thủ là Văn Thù Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát làm duy-na.

 

(Diễn) Diệu Thủ bạch chùy giả, Thế Tôn nhất nhật thăng tòa, Văn Thù bạch chùy vân: “Đế quán Pháp Vương pháp, Pháp Vương pháp như thị”. Thế Tôn tiện hạ tòa.

()妙首白槌者,世尊一日升座,文殊白槌云:諦觀法王法,法王法如是。世尊便下座。

(Diễn: “Diệu Thủ bạch chùy”: Một ngày nọ, đức Thế Tôn thăng tòa. Ngài Văn Thù thỉnh chuông, xướng: “Hãy quán kỹ pháp của đấng Pháp Vương, pháp của đấng Pháp Vương như thế đó”. Đức Thế Tôn liền bước xuống khỏi tòa).

 Có một hôm, Văn Thù Bồ Tát cao hứng, biểu diễn một phen. Đức Phật bước lên giảng đài, sắp thuyết pháp cùng mọi người. Đức Phật lên tòa, ngồi xuống. Văn Thù Bồ Tát liền thỉnh một tiếng chuông, nói hai câu sau đây: “Hãy quán kỹ pháp của đấng Pháp Vương, pháp của đấng Pháp Vương là như thế”. Thích Ca Mâu Ni Phật liền bước xuống, đã thuyết pháp xong. Đức Phật chẳng nói, mọi người cũng chẳng nghe. Đức Phật chẳng nói, mà đã nói viên mãn, nói viên mãn rốt ráo. Mọi người chẳng nghe, mà đã nghe viên mãn.

Nói theo phía chúng ta, phương thức ấy khiến cho chúng ta ngơ ngác! Đối với người minh tâm kiến tánh, như trong phần trước đã nói Xứng Lý, xác thực là “chẳng nói mà nói”. Có nói thì chỉ có thể nói một vài phần, hạn cuộc! Chẳng nói bèn viên mãn. Có nghe thì quý vị cũng nghe cục bộ, nghe được chút ít. Không nghe chính là nghe viên mãn! Đấy mới là viên mãn rốt ráo! Đại Trí Văn Thù Bồ Tát thông hiểu, Ngài gõ chuông để nhắc nhở đại chúng. Đấy chính là “không nói mà là thật sự nói, không nghe mà là thật sự nghe”, nhưng đối với lũ phàm phu chúng ta, cách ấy vô dụng. Đức Phật dạy chúng ta học bằng cách ấy sẽ chẳng được! Trình độ của chúng ta quá kém cỏi, đấy là cách dạy học cao cấp nhất. Thời cổ, pháp sư thăng tòa giảng kinh. Sau khi đã giảng kinh xong, bèn vỗ xích một cái, vị duy-na ở phía dưới, sau khi gõ chuông một tiếng, bèn bạch hai câu ấy: “Đế quán Pháp Vương pháp, Pháp Vương pháp như thị”. Hiện thời, nghi thức giảng kinh như vậy chẳng còn nữa.

 

(Diễn) Song Lâm phủ xích, Lương Vũ Đế thỉnh Phó đại sĩ giảng Kim Cang kinh, đại sĩ thượng tòa, phủ xích nhất hạ. Đế ngạc nhiên, Chí Công vấn vân: “Bệ hạ hoàn hội phủ?” Đế viết: “Bất hội!” Chí Công vân: “Đại sĩ giảng kinh cánh”.

()雙林撫尺,梁武帝請傅大士講金剛經,大士上座撫尺一下,帝愕然,誌公問云:陛下還會否?帝曰不會。誌公云:大士講經竟。

(Diễn: “Song Lâm vỗ xích”: Lương Vũ Đế thỉnh Phó đại sĩ[107] giảng kinh Kim Cang, đại sĩ lên tòa, vỗ xích một cái. Vua ngạc nhiên, Chí Công hỏi: “Bệ hạ vẫn chưa hiểu ư?” Vua nói: “Không hiểu”. Chí Công bảo: “Đại sĩ đã giảng kinh xong”).

 Sau khi Phó đại sĩ thăng tòa, Ngài vỗ phủ xích lên bàn một cái rồi bước xuống tòa. Lương Vũ Đế chẳng hiểu, chẳng biết đầu cua, tai nheo ra sao: “Trẫm mời ông ta giảng kinh Kim Cang, cớ sao vừa lên đài, gõ bàn một cái rồi đi xuống vậy?” Ngài Bảo Chí Công ở bên cạnh thông hiểu, người khác chẳng hiểu! Bảo Chí Công bèn hỏi Lương Vũ Đế: “Bệ hạ có hiểu hay không?” Lương Vũ Đế đáp: “Chẳng hiểu”. Bảo Chí Công nói: “Phó đại sĩ đã giảng kinh Kim Cang xong rồi!”

 

(Sao) Nhiên hậu danh vi thuyết pháp cánh dã.

()然後名為說法竟也。

(Sao: Sau đấy mới gọi là thuyết pháp đã xong).

Ngài Văn Thù biểu diễn một phen, Phó đại sĩ biểu diễn một phen, Liên Trì đại sư thuyết: “Dư thừa quá! Chẳng cần biểu diễn, thuyết pháp đã xong, cần gì phải đợi đến lượt biểu diễn ấy?” Do vậy, hiểu điều gì? Tự tánh rốt ráo viên mãn, rốt ráo không chỉ là thuyết pháp đã xong, mà là hết thảy đều là đại viên mãn, chẳng có pháp nào không viên mãn. Nói viên mãn, nghe viên mãn, tín viên mãn, giải viên mãn, tu viên mãn, chứng viên mãn, chẳng có gì không viên mãn. Đó gọi là “đại viên mãn”. Cần gì nói năng? Cần gì biểu diễn? Đều chẳng cần, đã xứng tánh, đã đạt đến viên mãn rốt ráo!

 

(Sao) Thị cố thăng đường, nhập thất, đại chúng vô tăng, cổ tịch, chung trầm, nhân thiên bất giảm.

()是故升堂入室,大眾無增;鼓寂鐘沉,人天不減。

(Sao: Do vậy, thăng đường, nhập thất, đại chúng chẳng tăng, trống lặng, chuông im, trời người chẳng giảm).

Chúng ta thường đọc Tâm Kinh, đọc thấy câu “bất tăng, bất giảm”, bất tăng, bất giảm là nói về Tánh Đức viên mãn trong bản tánh. Có tăng, có giảm, sẽ chẳng viên mãn. Vì sao? “Có tăng, có giảm” là hai pháp. Lục Tổ nói: “Hai pháp chẳng phải là Phật pháp”. Phật pháp là pháp bất nhị. Có sanh, có diệt, sanh diệt là hai pháp; có thường, có đoạn, thường đoạn là hai pháp; có chân, có vọng, chân vọng là hai pháp. “Hai” là pháp thế gian, chẳng phải là Phật pháp; “một” mới là Phật pháp. Trong “một” bèn hoàn toàn bao quát viên dung, đó là Phật pháp, hiển thị tự tánh rốt ráo viên mãn. Nơi sự tướng, người thật sự biết dụng công “lịch sự luyện tâm” (trải qua sự việc để luyện tâm trong cuộc sống hằng ngày), “lịch” (歷) là trải qua, trải qua sự tướng để luyện tâm, luyện cái tâm gì? Luyện chẳng phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm, luyện chuyện này. Thật sự luyện thành, tự tánh hiển lộ viên mãn, hiểu rành mạch, rõ ràng cảnh giới bên ngoài, chiếu kiến! Trong thì chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, người ấy thật sự hạnh phúc, thật sự tự tại. Vì sao? Người ấy chẳng có phiền não, chẳng có ưu lự.

Tất cả hết thảy phiền não do đâu mà có? Từ phân biệt, chấp trước mà có. Vì sao bảo quý vị đừng phân biệt, đừng chấp trước? Kinh Kim Cang nói rất hay: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Phân biệt là sai, chấp trước cũng là trật, vọng tưởng cũng sai luôn. Chỉ cần khởi tâm động niệm thì đều sai lầm. Trong cảnh giới, chỉ cần quý vị chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, đó là đúng, hoàn toàn đúng! Chỗ khác biệt giữa chư Phật, Bồ Tát và phàm phu là ở ngay chỗ này. Trong hết thảy các thọ dụng, tâm các Ngài thanh tịnh, bình đẳng. Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ là “thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Tâm Ngài thanh tịnh, bình đẳng, giác là thứ gì cũng đều hiểu rõ. Chẳng có gì không hiểu rõ. Không chỉ là hiểu rõ hiện tiền, mà còn hiểu rõ quá khứ, hiểu rõ vị lai, hết thảy đều hiểu rõ. Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử là học gì? Là “lịch sự luyện tâm”. Bất luận cảnh giới nào, hoàn cảnh nhân sự lẫn hoàn cảnh vật chất đều trải nghiệm; luyện chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước trong ấy. Đó là thật sự dụng công.

 

(Kinh) Văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.

(Sao) Hoan hỷ giả, khánh sở văn cố.

()聞佛所說。歡喜信受。作禮而去。

()歡喜者,慶所聞故。

(Kinh: Nghe lời Phật dạy, hoan hỷ, tin nhận, làm lễ rời đi.

Sớ: Hoan hỷ là vui mừng với những điều được nghe).

Đây là đại pháp bậc nhất, rất sâu, vô thượng, cơ hội được nghe chẳng nhiều. Người ấy đã gặp nhân duyên hết sức hy hữu, mừng rỡ may mắn dường ấy. Do vậy, nghe nói bèn hoan hỷ, đúng là vô lượng hoan hỷ.

 

(Sớ) Tín thọ giả, lãnh sở văn cố.

()信受者,領所聞故。

(Sớ: “Tin nhận” là nhận lãnh những điều đã nghe).

“Tín” (信) là nghe xong tin tưởng, chẳng hoài nghi; “thọ” (受) là tiếp nhận. Những điều đức Phật đã nói, ta đều tin tưởng, ta đều có thể tiếp nhận.

 

(Sớ) Tác lễ giả, trọng sở văn cố.

()作禮者,重所聞故。

(Sớ: “Làm lễ”: Tôn trọng những điều đã nghe).

Tôn sư trọng đạo. Vì sao tôn kính thầy dường ấy? Vì trọng đạo, thầy truyền dạy đạo cho chúng ta. Chúng ta trọng đạo, biểu lộ lòng cảm ơn thầy.

 

(Sớ) Khứ giả, văn dĩ tắc thoái nhi tu trì dã, diệc tiền tam tư lương cập Tam Huệ dã.

()去者,聞已則退而修持也,亦前三資糧及三慧也。

(Sớ: “Rời đi”: Nghe xong bèn lui về tu trì, cũng là ba tư lương và Tam Huệ đã nói trong phần trước).

“Khứ” (去) chẳng phải là rời khỏi giảng đường là hết chuyện, là đã xong. Phải nghiêm túc tu hành. Tam Tư Lương là Tín, Nguyện, Hạnh. Tam Huệ là Văn Huệ, Tư Huệ, Tu Huệ, những thứ ấy thảy đều trọn đủ.

 

(Sao) Khánh sở văn giả, đa kiếp phiêu linh, chánh dĩ vị văn thử pháp, kim tri trì danh vãng sanh, khả vị trầm kha chẩm tịch, hốt ngộ thần phương, cửu khách tha hương, sạ văn gia tín, hân hạnh bất thắng, cố vân khánh dã.

()慶所聞者,多劫飄零,正以未聞此法,今知持名往生,可謂沈疴枕席,忽遇神方,久客他鄉,乍聞家信,欣幸不勝,故云慶也。

(Sao: “Mừng vui vì những điều đã được nghe”: Nhiều kiếp lênh đênh, chính vì chưa được nghe pháp này, nay biết trì danh vãng sanh, có thể nói là đang mắc bệnh trầm trọng, nằm bẹp trên giường, chợt gặp toa thuốc thần diệu, lưu lạc đất khách lâu ngày, chợt được nghe tin nhà, mừng rỡ khôn cùng. Vì thế nói là “vui mừng”).

Đối với mấy câu này, nếu có ai đã từng gặp gỡ [cảnh ngộ giống như] trong tỷ dụ, sẽ thấu hiểu phần nào ý vị ấy. Nếu không, vẫn là rất khó lãnh hội. Ba câu đầu [trong đoạn Sao trên đây] là lời chân thật ngữ. “Đa kiếp” là vô lượng kiếp, “phiêu linh” (飄零: lênh đênh, trôi giạt) là sanh tử luân hồi, lưu lạc trong lục đạo, chúng ta hiện thời đúng là như vậy. Chính mình lắng lòng suy nghĩ đôi chút, nay chúng ta ở trong thế gian này, xác thực là không nơi nương tựa, hễ một hơi thở ra, chẳng hít vào được, sẽ là sang đời sau. Đức Phật dạy: “Nhân mạng tại hô hấp chi gian” (Mạng người ở trong hơi thở). Bất cứ ai ở trong tam giới cũng đều chẳng có bảo đảm, đều không có nơi nương cậy, bị nghiệp lực dắt dẫn. Cái thân trong tam giới lục đạo là thân nghiệp báo. Tạo thiện nghiệp, đắc thiện quả, ba thiện đạo gọi là thiện quả. Tạo tác ác nghiệp, sẽ mắc ác báo. Ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, được gọi là “ác báo”.

Nghiệp có hai loại:

1) Ví như nay mọi người đều biết [cái nghiệp khiến cho] chúng ta được làm thân người, đến đầu thai trong nhân đạo, được gọi là Dẫn Nghiệp (引業). Nó dẫn dắt quý vị đến đầu thai trong nhân gian, nghiệp này của chúng ta giống nhau, cho nên [ai nấy] đều được làm thân người.

2) Tuy được làm thân người, chúng ta thọ dụng khác nhau, trạng huống thân thể khác nhau, điều kiện sống khác nhau, thọ mạng dài hay ngắn khác nhau; đó gọi là Mãn Nghiệp (滿業). Người thế gian truy cầu phú quý, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, sống lâu, những điều này đều thuộc về quả báo của Mãn Nghiệp.

Người biết cầu sẽ cầu được; người chẳng biết cầu, sẽ cầu chẳng được! Người biết cầu bèn cầu nơi nhân, ta gieo nhân, sau này sẽ có quả báo. Kẻ chẳng biết cầu, bèn cầu nơi quả, làm sao có thể thành tựu cho được?

Đức Phật dạy chúng ta: Người tu Tài Bố Thí được quả báo giàu có, tu Pháp Bố Thí được thông minh, trí huệ, tu Vô Úy Bố Thí được khỏe mạnh, sống lâu. Đức Phật đã vì chúng ta chỉ ra nhân duyên của ba loại quả báo ấy; nếu chúng ta thật sự hiểu rõ, có thể lý giải, tu từ nơi đó, sẽ đạt được quả báo. Trong ba đại cương lãnh do đức Phật đã giảng ấy, [nhân duyên] trong ấy còn hết sức phức tạp, quả báo đạt được cũng rất phức tạp. Những điều ấy đều đòi hỏi phải có trí huệ cao độ thì mới có thể phân biệt. Tối thiểu là phải giống như phương pháp do thiền sư Vân Cốc đã dạy ông Viên Liễu Phàm, [phương pháp ấy] có chép trong Liễu Phàm Tứ Huấn! Nếu chư vị muốn đạt được phước báo hiện tiền trong nhân gian, đọc Liễu Phàm Tứ Huấn là đủ rồi, nó có thể thỏa mãn nguyện vọng của quý vị. Nhưng quý vị nhất định phải đọc thông thuộc, thấu triệt sách ấy, thật sự lý giải, quý vị mới biết tu. Vì sao? Ví như tu bố thí, ta mong tu phước, tu phú quý, đến đâu để bố thí? Đối tượng để bố thí là gì? Nếu đối với kẻ ác làm ác, ta bố thí rất nhiều tiền của giúp đỡ kẻ đó làm ác, quý vị còn có thể mong đạt được quả báo tốt lành ư? Chẳng thể nào! Kẻ đó làm ma vương, quý vị sẽ làm ma con, ma cháu. Kẻ đó đọa trong địa ngục A Tỳ, quý vị đọa trong biên địa ngục[108], vì tội của quý vị nhẹ hơn kẻ ấy đôi chút. Đó gọi là “đui dẫn mù”, thảy đều phải rơi vào hố lửa.

Do vậy, có thể biết, chúng ta mong bố thí tu phước, nhất định phải phân biệt: Đó có phải là phước điền thật sự hay không? Chúng ta muốn làm chuyện tốt, đó có phải là chuyện tốt thật sự hay không? Nhìn bề ngoài là chuyện tốt, trên thực tế, chưa chắc! Tình hình như vậy rất nhiều. Nhất là trong xã hội hiện thời, kẻ giả mạo đông lắm, quý vị nhất định phải có năng lực phân biệt. Phước điền ấy rốt cuộc là thật hay giả? Nếu chẳng có năng lực phân biệt, nói thật ra, cứ ở nhà, thật thà niệm Phật, chắc chắn sẽ chẳng tạo tội nghiệp. Trí huệ chưa khai, hãy đọc kinh, tu cái tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh bèn khai trí huệ. Đọc kinh, niệm Phật nhằm tu cái tâm thanh tịnh. Huống hồ kinh dạy: “Tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh”, mục tiêu cuối cùng của chúng ta là cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định phải đạt được trong một đời này. Vì thế, nhiều kiếp trôi giạt, người thật sự học Phật, chẳng cầu phú quý trong nhân gian, vì chuyện ấy chẳng phải là thứ tốt đẹp, tuyệt đối chẳng phải là chuyện tốt đẹp. Do vậy, phú quý, thông minh, cho đến khỏe mạnh, sống lâu, thảy đều chẳng mong mỏi, ta chỉ cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Do nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ chẳng nghe pháp môn này, cho nên hứng chịu những thứ khổ báo ấy trong luân hồi. Nay nghe, biết “trì danh vãng sanh”, biết phương pháp ấy có thể giúp ta vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, quý vị nói xem: Hoan hỷ quá chừng! Còn có chuyện gì đáng hoan hỷ hơn chuyện này? Nay cho quý vị làm đại tổng thống của cả thế giới, cũng chẳng hoan hỷ bằng chuyện này! Vì có được điều đó (làm đại tổng thống) thì vẫn phải sanh tử, vẫn phải luân hồi, còn do chuyện này, sẽ thật sự vĩnh viễn thoát khỏi lục đạo luân hồi, xác thực là chẳng có chuyện gì trong thế gian có thể sánh bằng chuyện này (trì danh vãng sanh), quá ư may mắn! Tiếp đó là hai tỷ dụ:

 

1) Tỷ dụ thứ nhất, giống như kẻ mắc bệnh, bệnh rất nặng. Trong lúc nguy ngập, bỗng có được tiên đan, có thể lành bệnh, hồi phục như cũ. Bệnh nặng mà được cứu giúp là chuyện hoan hỷ.

2) Tỷ dụ thứ hai, “cửu khách tha hương” (lưu lạc nơi đất khách đã lâu), giống như chúng ta hiện thời có thể qua lại đôi bờ[109]. Trong quá khứ, tin tức giữa đôi bờ chẳng thông. Chúng tôi đến Đài Loan, tôi cùng người nhà đã ba mươi sáu năm chẳng có tin tức, bỗng nhiên nhận được một bức thư từ quê nhà, hoan hỷ lắm thay! “Hân hạnh bất thắng” (Mừng rỡ khôn cùng), vui sướng, mừng rỡ.

Đó chính là ý nghĩa “khánh sở văn” (mừng vui vì những điều được nghe). Chúng ta hãy suy nghĩ cặn kẽ đôi chút: Thật ra, hai tỷ dụ ấy chẳng có cách nào so sánh với tình hình nghe kinh này, chỉ có thể sánh ví phảng phất. Ở đất khách lâu ngày, vài chục năm không gặp gỡ, làm sao có thể sánh bằng nhiều kiếp luân hồi? Chẳng thể so sánh được! Vô lượng kiếp luân hồi, nay được cứu giúp, phải trân quý chuyện này. Vì thế, người thật sự liễu giải sự thật này, sẽ quý trọng nhân duyên này, sẽ hết sức nghiêm túc nỗ lực học tập, đạt được lợi ích thù thắng khôn sánh. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 284

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu trăm:

 

(Sao) Lãnh sở văn giả, tín chi bất nghi, thọ chi phất thất, như phụng vương sắc, như tuân phụ mạng, cố vân lãnh dã.

()領所聞者,信之不疑,受之弗失,如奉王敕,如遵父命,故云領也。

(Sao: “Nhận lãnh điều đã nghe”: Tin tưởng chẳng nghi, nhận lấy chẳng để mất, như tuân phụng sắc chỉ của vua, như tuân phụng mạng lệnh của cha, nên nói là “lãnh”).

“Lãnh” (領) là lãnh nạp (領納); nói theo cách hiện thời, sẽ là “tiếp nhận, nhận lãnh”. Tuy chúng ta hết sức mừng rỡ do được nghe pháp môn này trong đời này, nhưng nếu nghe pháp môn này xong mà chẳng thể tiếp nhận, đấy cũng là “nghe mà như không nghe”, chẳng khác gì không nghe. Do vậy, tiếp nhận hết sức quan trọng. Tu học pháp môn này, Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta, “tịnh niệm tiếp nối”, chẳng hoài nghi, không xen tạp, đó là “tịnh niệm”. [Tịnh niệm] tiếp nối chẳng ngừng, niệm niệm chẳng gián đoạn. Đó gọi là “tương kế” (相繼: tiếp nối), chính là bí quyết trọng yếu trong Niệm Phật. Ở đây, Liên Trì đại sư bảo chúng ta: “Tín chi bất nghi” (Tin mà chẳng nghi ngờ). Đối với lời dạy của đức Thế Tôn, cũng như lời dạy của hết thảy chư Phật, chúng ta tin tưởng sâu xa, chẳng nghi ngờ.

“Thọ chi phất thất” (Tiếp nhận, chẳng để mất), chúng ta đã tiếp nhận, hoàn toàn tiếp nhận, quyết định chẳng để mất đi. “Mất đi” là gì? Quên bẵng là mất đi. Tịnh niệm chẳng thể liên tục, đứt đoạn, đó là “mất đi”! Trong Phật pháp, chúng ta gọi chuyện này là “thất niệm” (失念), [nghĩa là] đánh mất ý niệm, quên bẵng. Thông thường, [chư tổ, chư đại đức] dạy chúng ta niệm Phật, mỗi ngày phải có số lượng nhất định, đều nhằm thuận tiện cho kẻ sơ học. Kẻ sơ học vọng tưởng, phiền não quá nhiều, bất tri, bất giác, chúng bèn dấy lên hiện hành. Do vậy, có thể biết, trong A Lại Da Thức chứa đựng chủng tử của vọng tưởng và phiền não hết sức nhiều. Sức lực của chúng cũng mạnh mẽ, vì chúng có thể hiện tiền bất cứ lúc nào. Chủng tử niệm Phật ít ỏi, sức mạnh yếu ớt, cho nên niệm niệm bèn quên tuốt! Còn có rất nhiều kẻ tay lần tràng hạt, niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, niệm chẳng được bao lâu, quên bẵng A Di Đà Phật, tay vẫn lần tràng hạt thoăn thoắt, nhưng Phật hiệu chẳng còn nữa, kẻ ấy lại dấy lên vọng tưởng. Lúc mới học, thường có [tình trạng ấy], đó là “thất niệm”, chứng tỏ sức mạnh của Phật hiệu rất yếu. Chủng tử Phật hiệu chẳng nhiều, sẽ chẳng thể chống lại phiền não, vọng tưởng. Chúng ta phải luyện tập chẳng gián đoạn; vì thế, mỗi ngày phải ấn định niệm bao nhiêu câu Phật hiệu, nhất định là chẳng thể gián đoạn. Đấy là vun bồi.

Cổ nhân nói: “Đổi chỗ sống sít thành chỗ chín nhừ, đổi chỗ chín nhừ thành chỗ sống sít”. “Sống sít” là xa lạ. Đối với chúng ta, Phật hiệu rất xa lạ, còn phiền não tập khí lại rất quen thuộc, rất dễ hiện tiền. Thay đổi hai điều ấy một phen, dần dần phiền não tập khí sẽ trở thành xa lạ, Phật hiệu dần dần niệm thuần thục, công phu bèn thành tựu. Chúng ta thường nói “công phu thành phiến”, thật sự đảo ngược giữa hai đằng chín và sống, công phu sẽ thành phiến.

Nhưng trong xã hội hiện thời,  có khá nhiều đồng tu công việc bận

rộn, gia đình cũng bận tít mù, mỗi ngày phải ấn định bao nhiêu câu Phật hiệu, có thể nói là hết sức khó khăn cho họ. Nói thật ra, đối với kẻ sơ học, để có thể chuyển biến giữa sống và chín, nếu mỗi ngày niệm ít hơn một vạn câu Phật hiệu, [sẽ chuyển biến] rất khó khăn. Nói chung phải là từ một vạn tiếng trở lên! Niệm dăm ba năm mới có thể dần dần chuyển biến được. Đối với kẻ sơ học, điều này khá khó khăn, nhất là đối với những người trẻ tuổi trong hiện thời. Tôi dạy đồng tu cách Thập Niệm, cách Thập Niệm đích xác là có thể giúp chúng ta chuyển sống thành chín. Pháp Thập Niệm tốn ít thời gian, mỗi lần niệm chỉ cần một phút, nhưng một ngày chẳng thể ít hơn chín lượt niệm. Cứ cách hai, ba tiếng đồng hồ, bèn niệm một lần. Niệm theo kiểu ấy trong dăm ba năm, sẽ biến thành thói quen, [sức mạnh của thói quen] hết sức mạnh mẽ. Do vậy, có thể biết: Đây là cách niệm Phật chẳng gián đoạn, mỗi ngày chín lần, mỗi lần chẳng gián đoạn, đó là “tiếp nối”, cũng phù hợp ý nghĩa “tịnh niệm tương kế”. Tuy chúng ta niệm Phật mười tiếng, mười câu Phật hiệu ấy thanh tịnh, xác thực chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân biệt, chẳng có phiền não, chẳng có tạp niệm. Mười câu, câu nọ tiếp nối câu kia, cứ hai ba tiếng đồng hồ lại niệm tiếp mười tiếng, dùng phương pháp này. Phương pháp này tương ứng với nguyên tắc do Đại Thế Chí Bồ Tát đã dạy. Đối với thế hệ hiện tại mà nói thì ai nấy đều có thể làm được. Có thể niệm từ chín lần trở lên, đương nhiên là càng tốt hơn, nhưng chẳng thể ít hơn chín lần được! Đương nhiên là niệm càng nhiều càng hay, mỗi lần là một phút. Chư vị thường xuyên dùng phương pháp này tức là đã “thọ” (tiếp nhận pháp môn Tịnh Độ). “Phất thất” (弗失) là không mất. Chúng ta phải tiếp nhận, phải nghiêm túc tu học.

Tiếp đó là hai tỷ dụ:

1)“Sắc” (敕) là mệnh lệnh của đế vương, chẳng có ai không tuân theo.

2) “Như tuân phụ mạng” (Như tuân mệnh lệnh của cha): Trong gia đình, cha lớn nhất, lời cha nói nhất định phải vâng theo, vâng theo có ý nghĩa “lãnh nhận”.

Dùng chuyện này để tỷ dụ: Chúng ta đối với giáo huấn của đức Phật phải vâng phục, phải hoàn toàn tiếp nhận.

 

(Sao) Trọng sở văn giả, trung tâm cảm kích, ngũ thể kiều cần, như mông chí cực chi ân, bái tạ vô dĩ, cố vân trọng dã.

()重所聞者 中心感激 五體翹勤 如蒙至極之

恩,拜謝無已,故云重也。

(Sao: “Tôn trọng điều được nghe”: Trong tâm cảm kích, năm vóc ân cần thiết tha ngưỡng vọng, như được đội ân tột bậc, lạy tạ không ngơi, nên nói là “trọng”).

“Trọng” (重) là tôn trọng. Tâm tôn trọng sanh từ nơi đâu? Sanh từ lòng cảm ơn. Nếu đức Thế Tôn chẳng nói ra pháp môn này, nói trạng huống trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng ta làm sao hiểu được? Đấy là ân đức vô tận của đức Phật đối với chúng ta. Chúng ta do được đức Phật giới thiệu, biết có Tây Phương Cực Lạc thế giới, do giáo huấn của đức Phật, bèn biết phải nên tu hành như thế nào thì mới có thể vãng sanh Tây Phương. Từ vô lượng kiếp tới nay, chúng ta ở trong lục đạo chịu đựng nỗi khổ sanh tử luân hồi, chẳng có lúc thoát ra, nay gặp gỡ kinh điển này, gặp gỡ pháp môn này, lẽ nào chẳng hoan hỷ? Lẽ đâu chẳng cảm kích? Coi như nay chúng ta đã tìm được một con đường để vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, vĩnh viễn đoạn dứt sanh tử, tìm ra đường lối ấy. Vì thế, cái tâm cảm ơn tự nhiên sanh khởi. Do cảm ơn, sẽ tôn trọng pháp môn này. Đó là “trọng sở văn”.

 

(Sao) Tu trì giả, cổ nhân tấn nhi văn đạo ư sư, thoái nhi tu đạo ư kỷ, phi như kim nhân nhập nhĩ xuất khẩu dã.

()修持者,古人進而聞道於師,退而修道於己,非如今人入耳出口也。

(Sao: “Tu trì”: Cổ nhân tiến [vào giảng tòa] để nghe đạo nơi thầy, [nghe xong] lui về bèn tự mình tu đạo, chẳng như người hiện thời, nghe lọt vào tai bèn thoát ra đằng miệng).

Nhằm giải thích chữ “nhi khứ” (而去) [trong chánh kinh, tức là câu] “tác lễ nhi khứ”. “Tác lễ” (作禮: làm lễ) [nhằm biểu thị] lòng tôn trọng đối với điều đã được nghe, “nhi khứ” là tu hành. Người thời cổ chân tu, thật hành. “Tấn nhi văn đạo ư sư” (Tiến vào, bèn nghe đạo nơi thầy): Họ đến tham học, cầu thiện tri thức dạy bảo. Nghe xong, trở về bèn làm theo, thật sự thực hiện, thật sự tu hành, chẳng giả! “Phi như kim nhân” (Chẳng như người hiện thời), chữ “kim nhân” (今人) chỉ người sống vào đời Minh. Người đời Minh mà còn có nỗi tệ hại ấy, nghe thiện tri thức thuyết pháp, nghe xong, họ chẳng hành, chỉ biết nói suông. Vì thế bảo là “nhập nhĩ xuất khẩu” (入耳出口: lọt vào tai, thoát ra đằng miệng). “Nhập nhĩ xuất khẩu” là nghe lỏm, nói mò, nghe nói như thế nào bèn nhắc lại như thế ấy, chẳng có công phu tu hành thật sự. Chẳng như cổ nhân, cổ nhân là chính mình tu hành, thật sự có tâm đắc thì mới nói. Chẳng trải qua sự tu trì thật sự, họ chẳng nói. Phải khảo nghiệm, chứng minh giáo huấn ấy là chân thật, chính mình thật sự được thọ dụng rồi mới vui vẻ giới thiệu cùng người khác. Chúng ta thấy câu này, nghĩ lại chúng ta trong hiện thời, toàn là lọt vào tai, thốt ra miệng!

 

(Sao) Tam tư lương giả, như thượng văn nhi tín, tức Tín Tư; tín nhi thọ tức Nguyện Tư; thọ nhi khứ tức Hành Tư dã.

()三資糧者,如上聞而信,即信資;信而受,即願資;受而去,即行資也。

(Sao: “Ba tư lương”: Như trong phần trên, nghe xong tin tưởng là tư lương Tín; tin rồi tiếp nhận chính là tư lương Nguyện; tiếp nhận rồi hành trì tức là tư lương Hạnh vậy).

“Tam tư lương” là ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh. “Văn nhi tín” (Nghe rồi tin) là Tín Tư. “Tín nhi thọ” (Tin rồi tiếp nhận), Thọ là Nguyện. Người chẳng có nguyện, làm sao có thể tiếp nhận cho được? “Thọ nhi khứ” (tiếp nhận rồi hành trì), “khứ” là thật sự làm, thật sự hành. Nói theo cách hiện thời, “tư lương” là ba điều kiện để vãng sanh Tịnh Độ. Ba điều kiện ấy thảy đều trọn đủ. “Tư lương” (資糧) là tỷ dụ, trước kia đi xa, rất nhiều chỗ hẻo lánh chẳng có lữ quán (nhà trọ, khách sạn), nhất định phải mang theo lương khô. Khoác theo một túi gạo, hoặc đem theo lương khô, mang theo những thứ để ăn thì gọi là Lương (糧); Tư (資) là giắt theo mình một ít tiền, làm chi phí đi lại. Hiện thời thuận tiện, nhiều khách sạn, không chỉ là chẳng cần mang theo lương khô, mà tiền cũng chẳng phải đem theo. Một cái thẻ tín dụng là có thể du hành khắp cả thế giới.

 

(Sao) Tam Huệ giả, văn tức Văn Huệ; hoan hỷ tín thọ giả, tức Tư Huệ; khứ nhi tu trì giả, tức Tu Huệ giả.

()三慧者,聞即聞慧;歡喜信受者,即思慧;去而修持者,即修慧也。

(Sao: Tam Huệ: Nghe là Văn Huệ; hoan hỷ tin nhận là Tư Huệ; rời đi tu trì là Tu Huệ).

“Tam Huệ”: Bồ Tát tu tập Tam Huệ Văn, Tư, Tu. Có thể thấy là qua mấy câu trong phần Lưu Thông này, ý nghĩa tam tư lương Tín, Nguyện, Hạnh và tam huệ Văn, Tư, Tu đều viên mãn, trọn đủ.

 

(Sớ) Hựu thử hoan hỷ, diệc cụ thanh tịnh tam nghĩa, như Quán Sớ trung thuyết.

(Sao) Tam nghĩa giả, Quán Kinh Sớ vị: “Nhất năng thuyết nhân thanh tịnh, nhị sở thuyết pháp thanh tịnh, tam y pháp đắc quả thanh tịnh. Cụ thử tam nghĩa, cố hoan hỷ”.

()又此歡喜,亦具清淨三義,如觀疏中說。

()三義者,觀經疏謂:一能說人清淨,二所說法清淨,三依法得果清淨。具此三義,故歡喜。

(Sớ: Sự hoan hỷ ấy lại có ba ý nghĩa thanh tịnh, như trong Quán Kinh Sớ đã nói.

Sao: “Ba nghĩa”: Quán Kinh Sớ viết: “Một là người thuyết pháp thanh tịnh, hai là pháp được thuyết thanh tịnh, ba là nương vào đó [tu tập] sẽ đắc quả thanh tịnh”. Do có ba nghĩa ấy nên hoan hỷ).

Cuối bộ Quán Kinh Sớ Sao, Thiện Đạo đại sư bảo “hoan hỷ” có ba ý nghĩa thanh tịnh. Do vậy, người ấy (người nghe pháp môn này) có thể sanh tâm hoan hỷ.

 

(Sao) Kim trì danh vãng sanh, nãi Phật sở thuyết, Phật thị Nhất Thiết Trí nhân, phi tứ nhân đẳng dã, tắc nhân thanh tịnh. Ngộ như thị nhân, ninh bất hoan hỷ?

()今持名往生,乃佛所說,佛是一切智人,非四人等也,則人清淨。遇如是人,寧不歡喜。

(Sao: Nay pháp trì danh vãng sanh do đức Phật nói. Đức Phật là bậc Nhất Thiết Trí, chẳng phải là bốn hạng người, cho nên Ngài là bậc thanh tịnh. Gặp được người như vậy, há chẳng hoan hỷ ư?)

Đây là lời giải thích cho sự thanh tịnh thứ nhất. Trong kinh, đức Phật đã dạy, kinh Phật có năm hạng người nói: Thứ nhất là đức Phật tự tuyên nói, thứ hai là đệ tử Phật nói, thứ ba là do tiên nhân thuyết, thứ tư là do chư thiên nói, thứ năm là do hóa nhân nói. Nhưng trừ đức Phật ra, những kinh do người khác nói đều phải được Phật ấn chứng, tức là đức Phật đồng ý thì kinh ấy mới được [coi là kinh Phật thật sự].

Đức Phật không hiện diện thì tìm ai để chứng minh? Kinh Đại Thừa và Tiểu Thừa đều nói đến Pháp Ấn. Kinh nào khế hợp Pháp Ấn, sẽ coi là được đức Phật thừa nhận, giống như do chính đức Phật nói. Kinh Tiểu Thừa là ba Pháp Ấn: “Vô thường, vô ngã, Niết Bàn”. Nghĩa lý trong những điều do họ nói nhất định phải khế hợp ba nguyên tắc ấy [thì mới được thừa nhận là kinh]. Kinh Đại Thừa chỉ có một Pháp Ấn là Thật Tướng. Những điều người ấy nói xác thực là “Thật Tướng của các pháp”, thì cũng như là do chính đức Phật đã nói.

Trong năm hạng người ấy, trừ đức Phật ra, bốn loại người thuyết pháp kia đều chẳng thanh tịnh. Đức Phật mới là bậc thanh tịnh cùng cực, tâm Phật thanh tịnh, thân Phật thanh tịnh, cảnh giới thanh tịnh, [đó chính là] “người nói thanh tịnh”! Kinh này do đức Phật đích thân tự nói, lẽ nào chúng ta chẳng hoan hỷ? Chẳng phải là do người khác nói thay Ngài!

 

(Sao) Trì danh vãng sanh, tức chứng tam-muội, thị Viên Đốn giáo, phi quyền pháp dã, tắc pháp thanh tịnh. Văn như thị pháp, ninh bất hoan hỷ?

()持名往生,即證三昧,是圓頓教,非權法也,則法清淨。聞如是法,寧不歡喜。

(Sao: “Trì danh vãng sanh bèn chứng tam-muội” chính là giáo pháp Viên Đốn, chẳng phải là quyền pháp, cho nên là pháp thanh tịnh. Nghe pháp như thế, há chẳng hoan hỷ ư?)

Pháp môn này chẳng giống những pháp môn Đại Thừa khác. Pháp môn này rất đơn giản, rất dễ dàng, rất ổn thỏa, thích đáng, lại rất nhanh chóng. Vì thế, nó thuộc về Viên Giáo, “viên” là viên mãn, chẳng có khiếm khuyết. Nếu chư vị đồng tu đọc lời khai thị về Niệm Phật của Liên Trì đại sư, sẽ biết pháp môn này đúng là viên mãn rốt ráo. “Đốn” (頓) là nhanh chóng, đốn siêu. Bồ Tát tu hành có năm mươi mốt giai cấp, pháp môn này chẳng có giai cấp, thuộc về Đốn Giáo. “Tức chứng tam-muội”: Thiền Tông gọi tam-muội là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, tông này gọi là Niệm Phật tam-muội. Trong kinh, đức Phật thường bảo: “Niệm Phật tam-muội, tam-muội trung vương” (Niệm Phật tam-muội là vua trong các tam-muội), là tam-muội rốt ráo viên mãn, cũng chính là Lý nhất tâm bất loạn trong các loại nhất tâm bất loạn như đã được nói trong bản kinh này. “Trì danh vãng sanh” bèn chứng, quý vị nói xem: Có mau chóng lắm hay không? Đấy là “pháp thanh tịnh”.

Tu học pháp môn khác phải trải qua nhiều năm, nhiều kiếp, chứng đắc rất khó khăn! Tiểu Thừa Sơ Quả Tu Đà Hoàn muốn chứng đắc A La Hán còn phải bảy lần qua lại trong cõi nhân gian hoặc cõi trời, thọ mạng trong nhân gian ngắn ngủi, thọ mạng trong cõi trời dài lâu, tính toán thời gian toàn là những con số thiên văn, há có pháp nào mau chóng như thế ư? Có pháp nào viên mãn như pháp này? Do vậy, so sánh hết thảy các pháp, pháp môn Niệm Phật vãng sanh bất thoái thành Phật là bậc nhất, thanh tịnh tột bậc, chẳng có gì thanh tịnh hơn được. Nghe pháp như thế, há lẽ nào chẳng hoan hỷ? Pháp môn này là pháp môn bậc nhất để hết thảy chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo, chúng ta gặp được, đương nhiên là hoan hỷ, hoan hỷ khôn sánh!

 

(Sao) Trì danh vãng sanh, tức bất thoái chuyển, trực chí thành Phật, phi tiểu quả dã, tắc quả thanh tịnh. Chứng như thị quả, ninh bất hoan hỷ?

()持名往生,即不退轉,直至成佛,非小果也,則果清淨。證如是果,寧不歡喜。

(Sao: Trì danh vãng sanh tức là bất thoái chuyển, mãi cho đến khi thành Phật, chẳng phải là tiểu quả, tức là quả thanh tịnh. Chứng quả như vậy, há chẳng hoan hỷ ư?)

“Tiểu quả” là A La Hán, Bích Chi Phật. Nay do pháp môn này, chúng ta quyết định vãng sanh trong một đời, sẽ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một đời, viên chứng ba món Bất Thoái, trong một đời bèn chứng đắc Phật Quả rốt ráo viên mãn. Quả báo thanh tịnh, trong các pháp môn khác cũng chẳng tìm thấy. Lấy kinh Hoa Nghiêm để nói, Nhất Chân pháp giới của Tỳ Lô Giá Na Phật trong kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng sánh bằng sự thanh tịnh của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì sao có thể nói như vậy? Nếu thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật còn thanh tịnh hơn thế giới Tây Phương, Văn Thù và Phổ Hiền lại cần gì phải phát nguyện vãng sanh? Văn Thù và Phổ Hiền là Hậu Bổ Phật của Tỳ Lô Giá Na Phật, các Ngài đều phải phát nguyện cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Điều này khiến cho chúng ta suy ra: Thế giới Tây Phương nhất định là phải thanh tịnh hơn thế giới Hoa Tạng. Quả báo thanh tịnh!

Những lời lẽ này là do Thiện Đạo đại sư khi chú giải đoạn kinh văn “hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ” trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói. Liên Trì đại sư áp dụng những lời ấy vào kinh Di Đà hết sức thích đáng. Quán Kinh cũng là một kinh trong ba kinh Tịnh Độ, đều nhằm chuyên môn giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới, chuyên môn khuyên chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.

 

(Sớ) Hựu thử hoan hỷ, diệc thông thâm thiển, các tùy sở đắc.

()又此歡喜,亦通深淺,各隨所得。

(Sớ: Lại nữa, hoan hỷ cũng bao gồm mức độ cạn và sâu, tùy theo mỗi người mà đạt được).

Căn tánh của mỗi chúng sanh khác nhau, [cho nên] họ nghe pháp, sẽ đạt được lợi ích cạn hay sâu khác nhau. Người thiện căn dầy, sau khi nghe, bèn thật sự tin tưởng, thật sự hành, chẳng bao lâu bèn chứng đắc Niệm Phật tam-muội. Đó là lợi ích bậc thượng. Người căn tánh bậc trung, nghe xong cũng hoan hỷ, cũng tu hành. Tuy tu hành, chẳng thể chuyên tâm, nên đạt được lợi ích nông cạn. Người hạ căn tuy nghe kinh cũng có thể sanh tâm hoan hỷ, miệng suốt ngày niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, trong tâm dấy vọng tưởng. Đối với tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn trong thế gian này, thứ gì cũng đều chẳng buông xuống, chỉ gieo thiện căn mà thôi, vãng sanh trong một đời này rất khó khăn! Chẳng phải là kinh có cạn hay sâu, mà là do người nghe căn tánh khác nhau, cho nên đạt được [lợi ích] cạn hay sâu sai khác!

 

(Sao) Thâm thiển giả, như Hoa Nghiêm Sơ Địa, danh Hoan Hỷ Địa, văn trung cụ nhị thập hoan hỷ, nhất, đương đắc thập cú, như sở vị niệm chư Phật cố sanh hoan hỷ, niệm chư pháp cố sanh hoan hỷ đẳng.

(Diễn) Niệm chư Phật, niệm chư pháp giả, chư Phật vị cứu cánh lý, tức sở vị bình đẳng Pháp Thân biến nhất thiết xứ dã. Chư pháp vị cứu cánh trí, tức sở vị viên mãn bí mật tạng. Vô lượng diệu pháp môn dã. Sơ Địa chứng biến mãn Pháp Thân, dữ diệu giác pháp lưu thủy tiếp. Cố năng niệm chư Phật pháp, sanh đại hoan hỷ dã.

()深淺者,如華嚴初地,名歡喜地,文中具二十歡喜,一、當得十句,如所謂念諸佛故生歡喜,念諸法故生歡喜等。

()念諸佛念諸法者 。諸佛謂究竟理 。即所謂平等法

身遍一切處也。諸法謂究竟智。即所謂圓滿祕密藏。無量妙法門也。初地證遍滿法身。與妙覺法流水接。故能念諸佛法。生大歡喜也。

(Sao: “Cạn hay sâu”: Như trong kinh Hoa Nghiêm, Sơ Địa được gọi là Hoan Hỷ Địa, trong phần kinh văn ấy có nói hai mươi điều hoan hỷ. Một là mười câu “sẽ được”, như là: Vì niệm chư Phật nên sanh hoan hỷ, vì niệm chư pháp nên sanh hoan hỷ.

Diễn: “Niệm chư Phật, niệm chư pháp”: “Chư Phật” là nói tới Lý rốt ráo, tức là như thường nói “Pháp Thân bình đẳng trọn khắp hết thảy mọi nơi”. “Chư pháp” là nói tới Trí rốt ráo, tức là như thường nói “viên mãn bí mật tạng”, tức vô lượng pháp môn mầu nhiệm. Sơ Địa chứng Pháp Thân trọn khắp, tiếp xúc dòng nước pháp diệu giác. Vì thế, có thể niệm chư Phật, bèn sanh ra niềm hoan hỷ to lớn).

Đoạn văn này ở trong Hoa Nghiêm Sớ Sao, quyển bốn mươi tư, trang ba mươi mốt.

 

(Sao) Kim văn thử kinh giả, tự khánh ngã diệc đương lai đắc như A Di Đà Phật, ngã diệc đương lai đắc A Di Đà Phật như thị diệu pháp dã.

()今聞此經者,自慶我亦當來得如阿彌陀佛,我亦當來得阿彌陀佛如是妙法也。

(Sao: Nay người nghe kinh này, cũng tự mừng rỡ trong tương lai ta cũng sẽ được như A Di Đà Phật, trong tương lai ta cũng đắc diệu pháp như A Di Đà Phật).

Chúng ta đọc kinh này, nghe xong kinh này, có cảm xúc ấy hay chăng? Có thể có cảm tưởng như vậy, tức là hơi có đôi chút tâm đắc, có mấy phần tương ứng, chính mình hết sức mừng rỡ, [cảm thấy] may mắn. Không chỉ là sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ giống như A Di Đà Phật, mà ngay trong hiện tại đã giống. “Tu hành”, nói thông tục, sẽ là biến đổi cái tâm, biến cái tâm phàm phu của chúng ta thành tâm Phật. Chiếu theo giáo huấn trong kinh điển để chuyển biến quan niệm của chúng ta. Quan niệm là tư tưởng, kiến giải, chúng ta nói là “cách nhìn, cách nghĩ”. “Quan” (觀) là cách nhìn, “niệm” (念) là cách nghĩ. Đối với những chỗ khác biệt giữa cách nhìn, cách nghĩ của chúng ta và Phật, nhất định phải vứt bỏ quan niệm của chính mình, tiếp nhận quan niệm của Phật, đó là “chuyển phàm thành thánh”; nhưng tiêu chuẩn sau đây chính là tiêu chuẩn bậc nhất, tức là A Di Đà Phật! Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán A Di Đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung chi vương” (quang minh tôn quý nhất, vua trong các Phật). Chúng ta dùng A Di Đà Phật làm tiêu chuẩn, làm khuôn mẫu để tu học, phải nhào nặn chúng ta sao cho giống A Di Đà Phật như đúc! Đấy chính là “tự khánh ngã diệc đương lai đắc như A Di Đà Phật” (tự mừng trong tương lai cũng như A Di Đà Phật), giống như A Di Đà Phật. “Ngã diệc đương lai đắc A Di Đà Phật như thị diệu pháp” (Trong tương lai, ta cũng đắc diệu pháp như A Di Đà Phật), “diệu pháp” là kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà chính là tư tưởng, kiến giải, và hành vi của chúng ta. Cùng Phật dung hợp thành một Thể, dung hợp với kinh thành một Thể, lẽ nào chẳng hoan hỷ?

 

(Sao) Nhị, hiện đắc thập cú, sở vị chuyển ly nhất thiết thế gian cảnh giới, cố sanh hoan hỷ, thân cận nhất thiết Phật, cố sanh hoan hỷ đẳng. Kim văn thử kinh giả, hiện đắc chuyển ly Sa Bà ngũ trược cảnh giới, hiện đắc vãng sanh Tịnh Độ, thân cận Di Đà cập chư Phật dã. Thử hoan hỷ thuộc địa vị trung.

(Diễn) Chuyển ly nhất thiết cảnh giới cố sanh hoan hỷ giả, Sơ Địa Bồ Tát chứng tam vô tánh, vĩnh ly nhân chấp, bất trước ngoại cảnh, pháp chấp phân biệt diệc bất hiện hành. Cố vân: Chuyển ly nhất thiết thế gian cảnh giới. Thân cận nhất thiết Phật cố sanh hoan hỷ giả, Sơ Địa đắc vô phân biệt tâm, dữ chư Phật trí dụng tương ứng, duy y pháp lực tự nhiên tu hành, huân tập Chân Như, diệt vô minh cố. Cố vân “cận nhất thiết Phật”. Hựu thử địa Bồ Tát, ư nhất niệm khoảnh, năng chí thập phương vô dư thế giới, cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân, cố vân “thân cận nhất thiết Phật”.

()二、現得十句,所謂轉離一切世間境界故生歡喜,親近一切佛故生歡喜等。今聞此經者,現得轉離娑婆五濁境界,現得往生淨土親近彌陀及諸佛也。此歡喜屬地位中。

()轉離一切境界故生歡喜者。初地菩薩證三無性。永離人執。不著外境,法執分別亦不現行。故云。轉離一切世間境界。親近一切佛故生歡喜者。初地得無分別心。與諸佛智用相應。唯依法力自然修行。熏習真如滅無明故。故云近一切佛。又此地菩薩。於一念頃。能至十方無餘世界。供養諸佛。請轉法輪。故云親近一切佛。

(Sao: Hai là mười câu “đắc trong hiện tại”, nghĩa là: Do chuyển biến, lìa khỏi hết thảy cảnh giới thế gian, nên sanh hoan hỷ, thân cận hết thảy Phật nên sanh hoan hỷ v.v… Nay người nghe kinh này, nay đã chuyển biến, lìa khỏi cảnh giới Ngũ Trược chốn Sa Bà, ngay trong hiện tại, được vãng sanh Tịnh Độ, thân cận Di Đà và chư Phật. Đấy là sự hoan hỷ thuộc trong địa vị [Sơ Địa].

Diễn: “Chuyển biến, lìa khỏi hết thảy cảnh giới nên sanh hoan hỷ”: Sơ Địa Bồ Tát chứng ba vô tánh[110], vĩnh viễn lìa khỏi nhân chấp (ngã chấp), chẳng chấp trước ngoại cảnh. Pháp Chấp phân biệt cũng chẳng hiện hành. Vì thế nói là “chuyển biến, lìa khỏi hết thảy cảnh giới thế gian”. “Thân cận hết thảy chư Phật nên sanh hoan hỷ”: Sơ Địa đắc tâm vô phân biệt, tương ứng với Trí và Dụng của chư Phật, chỉ nương theo pháp lực mà tự nhiên tu hành, huân tập Chân Như, diệt vô minh. Vì thế nói là “thân cận hết thảy Phật”. Lại nữa, Bồ Tát thuộc địa vị này, trong khoảng một niệm, có thể đến các thế giới trong mười phương chẳng sót cõi nào, cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân. Vì thế nói là “thân cận hết thảy chư Phật”).

 “Địa” [ở đây] là Hoan Hỷ Địa. Nói cách khác, nay chúng ta có được bộ kinh này, thật sự có thể tin tưởng, thật sự có thể tiếp nhận, thật sự có thể y giáo phụng hành, niềm hoan hỷ ấy gần giống như niềm hoan hỷ của Sơ Địa Bồ Tát, điều này rất chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sao) Nhi Sơ Hạnh diệc danh hoan hỷ, Sơ Trụ văn trung diệc vân hoạch vô biên hoan hỷ đẳng, cố vân thâm thiển.

(Diễn) Sơ Hạnh diệc danh Hoan Hỷ giả, thử vị Bồ Tát đa hành Thí Độ, nội ngoại nhất thiết tất giai huệ thí. Kiến cầu khất giả, tâm đại hoan hỷ: “Ngã đắc thiện lợi”. Bỉ thọ thí giả, diệc phục hoan hỷ cố. Sơ Trụ diệc vân hoạch vô biên hoan hỷ giả, dĩ Sơ Trụ Bồ Tát, tín tri nhất thiết pháp, tùng bổn dĩ lai tự Niết Bàn cố. Hựu thử vị năng bát tướng thành đạo, tự giác, giác tha, cố hoạch vô biên hoan hỷ.

()而初行亦名歡喜,初住文中亦云獲無邊歡喜等,故云深淺。

()初行亦名歡喜者。此位菩薩多行施度。內外一切悉皆惠施。見求乞者心大歡喜。我得善利。彼受施者。亦復歡喜故。初住亦云獲無邊歡喜者。以初住菩薩。信知一切法。從本以來自涅槃故。又此位能八相成道。自覺覺他。故獲無邊歡喜。

(Sao: Nhưng Sơ Hạnh cũng gọi là Hoan Hỷ. Trong phần kinh văn giảng về địa vị Sơ Trụ cũng nói “đạt được vô biên hoan hỷ” v.v… Vì thế nói là “cạn hay sâu”.

Diễn: Sơ Hạnh cũng gọi là hoan hỷ, Bồ Tát thuộc địa vị này phần nhiều hành Bố Thí Ba La Mật, hết thảy trong ngoài đều có thể bố thí. Thấy người đến cầu xin, tâm hết sức hoan hỷ: “Ta được điều lợi tốt lành”. Người được bố thí cũng hoan hỷ. “Sơ Trụ cũng nói là đạt được vô biên hoan hỷ”: Do Sơ Trụ Bồ Tát tin biết hết thảy các pháp vốn sẵn là Niết Bàn. Địa vị này lại có thể thị hiện tám tướng thành đạo, tự giác, giác tha, cho nên đạt được vô biên hoan hỷ).

 Sơ Địa Bồ Tát sâu hơn Sơ Hạnh Bồ Tát quá nhiều! Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, địa vị của các Ngài sai khác nhiều ngần ấy, nên sự hoan hỷ có [mức độ] cạn hay sâu khác biệt! Trong các đồng tu chúng ta, cũng có sự sai biệt rất rõ rệt, giữa người thật sự khế nhập và kẻ chẳng khế nhập có sự bất đồng rất lớn!

 

(Sao) Nhược thiển chi hựu thiển chi, tắc tùy kỳ phân lượng, diệc đắc pháp hỷ chi lạc nhi dĩ.

(Diễn) Tùy kỳ phân lượng, đắc pháp hỷ giả. Sơ tâm hạ phàm, bất năng nhập Lý trị Hoặc, cập  dữ  sanh  thiện. Văn  thế  giới  tất-đàn,

diệc đắc hoan hỷ ích dã.

()若淺之又淺之,則隨其分量,亦得法喜之樂而已。

()隨其分量得法喜者。初心下凡。不能入理治惑。及與生善。聞世界悉檀。亦得歡喜益也。

(Sao: Nếu xét theo mức độ đã nông cạn lại càng nông cạn hơn nữa, thì tùy theo trình độ mà cũng đắc niềm vui pháp hỷ đó thôi!

Diễn: “Tùy theo trình độ mà đắc pháp hỷ”: Sơ tâm, phàm phu hạ căn, chẳng thể nhập Lý để đối trị phiền não thì cũng được lợi ích sanh thiện, do nghe [pháp môn này] bèn đối với thế giới tất-đàn, cũng được lợi ích hoan hỷ).

“Thiển chi hựu thiển” là nói bọn phàm phu chúng ta. Trong Luận Ngữ, câu nói đầu tiên của Khổng lão phu tử là “học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học rồi luôn tập luyện, há cũng chẳng vui sao). “Duyệt” (悅) là hoan hỷ, sự hoan hỷ sanh khởi từ nội tâm. Hoan hỷ nhất định là do “học nhi thời tập chi”. “Học”: Nay chúng ta nghe kinh chính là học, sau khi đã nghe xong bèn làm theo; làm theo chính là “tập” (習). Nếu Văn, Tư, Tu chẳng ăn khớp, sẽ chẳng có tác dụng. Văn (聞) là tiếp nhận, Tư (思) là hiểu rõ, ta vừa tiếp nhận, bèn hiểu rõ. Đã hiểu rõ bèn lập tức phụng hành (tức là Tu), làm theo thì mới có thể đạt được “pháp hỷ”.

 

(Sớ) Hựu kết quy tín thọ giả, tùng thỉ chí chung, Tín vi căn bản cố.

()又結歸信受者,從始至終,信為根本故。

(Sớ: Lại nữa, quy kết vào Tín Thọ vì từ đầu đến cuối, Tín là căn bản).

 Câu đầu tiên mở đầu kinh văn là “như thị ngã văn”, đấy là Tín Thành Tựu. Vừa mở đầu bèn từ Tín nhập môn, đó gọi là “Tín là nguồn đạo, mẹ công đức”. Tín là cội nguồn để nhập đạo, phải có Tín thì mới có thể nhập môn. Có Tín thì mới có thể sanh ra chánh giải, mới có thể đắc chánh hạnh. Kinh văn đến khi kết thúc, lại quy kết vào “tín thọ”. Đấy là chỉ rõ: Tu học trong Phật pháp từ đầu tới cuối, Tín là căn bản.

 

(Sao) Thỉ chung giả,  thủ tiêu như thị,  nãi tín thuận chi từ,  kim

phục mạt ngôn tín thọ, tắc tri nhân tín sanh nguyện, nhân nguyện khởi hạnh.

()始終者,首標如是,乃信順之辭,今復末言信受,則知因信生願,因願起行。

(Sao: “Từ đầu tới cuối”: Khởi đầu đã nêu ra như thế, chính là lời lẽ tín thuận, nay đến phần cuối lại nói đến “tín thọ”, bèn biết là do Tín bèn sanh Nguyện, do Nguyện mà khởi Hạnh).

Quý vị không tin, lấy đâu ra Nguyện? Nguyện lực mạnh hay yếu, hoàn toàn tỷ lệ thuận với tín tâm của quý vị. Quý vị tin sâu, nguyện của quý vị bèn sâu. Quý vị tin nông cạn, nguyện của quý vị cũng cạn. Cổ đức dạy người khác “tin sâu, nguyện thiết”, nhất định được vãng sanh. Đối với thâm tín, chúng ta cũng hết sức mong thâm tín, nhưng niềm tin ấy chẳng thể sanh khởi, nguyên nhân là ở chỗ nào? Đối với hai thế giới (Sa Bà và Cực Lạc), nhận thức chẳng rõ ràng, chẳng thấu triệt. [Vậy thì phải] làm như thế nào? Đọc kinh, đọc nhiều, nghĩ nhiều, đọc thuần, nghĩ sâu, chúng ta sẽ dần dần hiểu rõ ràng, hiểu rành rẽ trạng huống của hai thế giới. Càng hiểu rõ, tín tâm của quý vị càng sâu. Càng hiểu rõ, nguyện tâm càng tha thiết.

Phàm là những kẻ tín nguyện hời hợt, nông nổi, đều là do chẳng quan sát, hiểu rõ Sa Bà và Cực Lạc. Vì thế, tin sâu và nguyện thiết của chúng ta phải được vun bồi bằng đọc nhuần, nghĩ sâu. Đọc những kinh nào? Dốc sức nơi Tịnh Độ Ngũ Kinh, kinh phải đọc thông thuộc. Phải đọc những bản chú giải các kinh ấy của các vị tổ sư đại đức thời cổ cho nhiều, vì đôi khi trong kinh có những ý nghĩa chúng ta vẫn chưa thể xem hiểu được! Chẳng hạn như kinh Di Đà rất đơn giản, chúng ta niệm một biến chừng mấy phút đã xong, Liên Trì đại sư giới thiệu, chúng ta mới biết trong ấy có lắm ý nghĩa ngần ấy! Nếu Ngài chẳng giới thiệu, chúng ta có thể nghĩ tới hay không? Chẳng nghĩ tới! Vì thế, nhất định phải đọc chú giải của cổ đại đức, giúp chúng ta nhận thức, hiểu rõ, tín nguyện mới có thể sanh khởi. Do nguyện bèn khởi hạnh, quý vị thật sự mong đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đương nhiên là quý vị sẽ niệm Phật, quý vị sẽ thật sự niệm. Thật sự niệm là trong tâm thật sự có A Di Đà Phật. Trừ A Di Đà Phật ra, những tạp niệm khác thảy đều buông xuống, “tịnh niệm tiếp nối” tự nhiên đạt được. Sau khi công phu đã thuần thục, sẽ gọi là “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”, đó là thật sự niệm. “Vô niệm” là miệng chẳng niệm Phật, mà “niệm” là trong tâm thật sự có [Phật].

Có một vị lão cư sĩ bảo tôi: “Niệm Phật đã vài năm, công phu chẳng đắc lực, vọng tưởng, tạp niệm vẫn còn rất nhiều, làm như thế nào?” Tôi liền khuyên cụ: “Phải buông xuống hết thảy”. Cụ đáp: “Sư phụ ơi! Chuyện gì tôi cũng đều có thể buông xuống, nhưng chỉ có đứa cháu nội là chẳng thể bỏ được!” Tôi nói: “Cụ đổi đứa cháu thành A Di Đà Phật thì sẽ thành công”. Chư vị ngẫm xem, cụ có niệm “cháu” hay không? Cụ chẳng thể suốt ngày từ sáng đến tối niệm “cháu nội, cháu nội”, chẳng niệm, nhưng trong lòng thật sự có. Bất luận lúc nào, bất luận ở nơi đâu, niệm thứ nhất của cụ là nghĩ tới đứa cháu, đó gọi là “vô niệm mà niệm, niệm mà vô niệm”.

Do vậy, niệm Phật, lúc mới học Phật thì phải là miệng niệm, miệng niệm khiến cho Phật hiệu khắc sâu trong tâm. Trong tâm đã thật sự có, thì miệng niệm hay không, chẳng sao cả! Quan trọng nhất là trong tâm thật sự có! Trong tâm chẳng có, có suông đằng miệng, miệng có, tâm không, mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, cổ nhân bảo: “Gào toác cổ họng vẫn uổng công”, chẳng thể vãng sanh! Trong tâm thật sự có, miệng chẳng niệm, tới lúc đó, Phật Như Lai tiếp dẫn y hệt. Vì sao? Người ấy thật sự niệm. Chư vị nhất định phải hiểu đạo lý này. Niệm Phật là “kim tâm”, [tức là] cái tâm hiện tại, tâm là Phật! Trong tâm thật sự có A Di Đà Phật, đó là thật sự niệm. Người mới học mỗi ngày phải niệm mấy vạn câu Phật hiệu, nhằm in Phật hiệu vào tâm, nhưng in khó lắm! Nguyên nhân của sự khó khăn là do chẳng hiểu rõ chân tướng của hai thế giới. Đã thật sự hiểu thì sẽ chẳng khó! Khó ở chỗ [làm thế nào để] thông hiểu, khó ở chỗ [làm thế nào để] hiểu rõ! Hành thật sự chẳng khó! Phật pháp là “biết khó, hành dễ”, hành chẳng khó, biết quá khó! Tuy hành dễ, nhưng hành chẳng nổi, là do chẳng biết đầy đủ, trở thành chướng ngại, trí huệ chẳng đạt được, cho nên mới có Phiền Não Chướng, có Sở Tri Chướng, chướng ngại nguyện và hạnh. Chuyện là như thế đó.

 

(Sao) Tùng sơ phát tâm, thứ đắc vãng sanh, cứu cánh thành Phật, giai tư tín lực, cố vân thỉ chung tín vi căn bản.

()從初發心,次得往生,究竟成佛,皆資信力,故云始終信為根本。

(Sao: Từ sơ phát tâm, kế đến là được vãng sanh, rốt ráo thành Phật, đều cậy vào tín lực. Vì thế nói “từ đầu đến cuối, Tín là căn bản”).

Sức mạnh của Tín quá lớn. Chúng ta cậy  vào  tín  tâm  thanh  tịnh

kiên cố mà được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đã tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn do tín tâm thanh tịnh kiên cố ấy mà viên chứng ba món Bất Thoái, mãi cho đến khi thành Phật. Sau khi đã thành Phật, vẫn do tín tâm thanh tịnh kiên cố ấy mà đến mười phương thế giới, chuyên môn khuyên hết thảy chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tự hành và hóa độ người khác đều do tín tâm thanh tịnh kiên cố ấy, tín tâm ấy chẳng thể nghĩ bàn! “Cố vân thỉ chung, Tín vi căn bản” (Vì thế nói từ đầu đến cuối, Tín là căn bản).

 

(Sớ) Đại Bổn kết kinh, bị trần chúng sanh hoạch ích, long thiên giáng tường, kim bất ngôn giả, văn tỉnh dã.

()大本結經,備陳眾生獲益,龍天降祥,今不言者,文省也。

(Sớ: Kinh Đại Bổn khi kết thúc, nói tỉ mỉ chúng sanh đạt được lợi ích [như thế nào], trời, rồng giáng hiện điềm lành, nay [kinh Di Đà] chẳng nói là do kinh văn tỉnh lược vậy).

Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Khi kết thúc kinh, có nói rõ chúng sanh nghe kinh đạt được lợi ích, các thứ điềm lành, nói rất tỉ mỉ. Kinh Di Đà tuy trong văn tự chẳng nói, tỉnh lược, nhưng ý nghĩa trọn đủ. Ở đây, Liên Trì đại sư nói bổ sung:

 

(Sao) Đại Bổn vân: “Phật thuyết thử kinh dĩ, vô lượng chúng sanh, phát Vô Thượng Chánh Giác tâm”.

()大本云:佛說此經已,無量眾生,發無上正覺心。

(Sao: Kinh Đại Bổn nói: “Đức Phật nói kinh này xong, vô lượng chúng sanh phát tâm Vô Thượng Chánh Giác”).

Đây là điều thứ nhất, là lợi ích nông cạn nhất do nghe kinh. Ở đây, xác thực là có mức độ cạn hay sâu khác biệt. Nông cạn thì phát tâm, giác ngộ. Mức độ thấp nhất là biết: Ngoài thế giới Sa Bà, còn có một thế giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc tốt đẹp hơn thế giới của chúng ta. Tâm mong mỏi cõi đó, phát cái tâm ấy, đấy chính là tâm thật sự giác ngộ.

 

(Sao) Vạn nhị thiên na-do-tha nhân, đắc pháp nhãn tịnh.

()萬二千那由他人,得法眼淨。

(Sao: Một vạn hai ngàn na-do-tha người đắc Pháp Nhãn Tịnh).

Được lợi ích sâu hơn hạng trước một tí. Phát tâm Chánh Giác là địa vị Sơ Tín trong Viên Giáo, “đắc Pháp Nhãn Tịnh” là địa vị Sơ Trụ trong Viên Giáo, là Đại Thừa.

 

(Sao) Nhị thập nhị ức chư thiên, nhân dân, đắc A Na Hàm quả.

()二十二億諸天人民,得阿那含果。

(Sao: Hai mươi hai ức chư thiên, nhân dân, đắc quả A Na Hàm).

Đây là Tam Quả trong Tiểu Thừa, là địa vị Đệ Lục Tín trong Viên Giáo.

 

(Sao) Bát thập vạn tỳ-kheo, lậu tận ý giải.

()八十萬比丘,漏盡意解。

(Sao: Tám mươi vạn tỳ-kheo, lậu tận ý giải).

“Lậu tận ý giải” là Tứ Quả A La Hán, là địa vị Thất Tín trong Viên Giáo.

 

(Sao) Tứ thập ức Bồ Tát, đắc bất thoái chuyển.

(Diễn) Đắc bất thoái chuyển giả, Bất Thoái hữu tam: Phá Kiến Tư danh Vị Bất Thoái, phá Trần Sa danh Hạnh Bất Thoái, phá vô minh danh Niệm Bất Thoái, kim tứ thập ức Bồ Tát sở đắc, diệc các tùy kỳ phân lượng dã.

()四十億菩薩,得不退轉。

()得不退轉者。不退有三。破見思名位不退。破塵沙名行不退。破無明名念不退。今四十億菩薩所得。亦各隨其分量也。

(Sao: Bốn mươi ức Bồ Tát đắc bất thoái chuyển.

Diễn: “Đắc Bất Thoái Chuyển”: Bất Thoái có ba loại: Phá Kiến Tư thì gọi là Vị Bất Thoái, phá Trần Sa thì gọi là Hạnh Bất Thoái, phá vô minh gọi là Niệm Bất Thoái. Nay bốn mươi ức Bồ Tát đắc Bất Thoái thì cũng là tùy theo trình độ của mỗi vị vậy).

Bất thoái chuyển là viên chứng ba món Bất Thoái.

 

(Sao) Tam thiên đại thiên thế giới lục chủng chấn động.

(Diễn) Lục chủng chấn động giả, động, khởi, dũng, chấn, hống, kích dã. Tam chủng thị hình, tam chủng thị thanh. Ư hình thanh trung, các cử kỳ nhất, cố ngôn chấn động dã. Dao bá bất an chi vị Động. Tự hạ thăng cao chi vị Khởi. Hốt nhiên đằng cử chi vị Dũng. Ẩn ẩn xuất thanh chi vị Chấn. Hùng thanh mãnh liệt chi vị Hống. Phanh khái phát hưởng chi vị Kích. Cộng hữu thập bát tướng, nhất phương động vị chi Động. Tứ phương tề động danh Biến Động. Bát phương tề động viết Phổ Biến Động, dư ngũ diệc nhiên. Hựu trực động vi Động, tứ thiên hạ động vi Biến Động, đại thiên giới động vi Đẳng Biến Động, hạ ngũ diệc nhiên.

()三千大千世界六種震動。

()六種震動者;動起涌震吼擊也。三種是形。三種是聲。於形聲中各舉其一。故言震動也。搖播不安之謂動。自下升高之謂起。忽然騰舉之謂涌。隱隱出聲之謂震。雄聲猛烈之謂吼。砰磕發響之謂擊。共有十八相。一方動謂之動。四方齊動名遍動。八方齊動曰普遍動。餘五亦然。又直動為動。四天下動為遍動。大千界動為等遍動。下五亦然。

(Sao: Tam thiên đại thiên thế giới sáu thứ chấn động.

Diễn: Sáu thứ chấn động là động, khởi, dũng, chấn, hống, kích. Ba loại nói về hình tướng, ba loại nói về âm thanh. Do trong hình tướng và âm thanh, mỗi thứ nêu ra một loại, nên nói là “chấn động”. Rung lắc chẳng yên là Động. Từ dưới dâng lên cao là Khởi. Đột nhiên vọt lên cao là Dũng. Vang ra âm thanh ngầm dưới đất là Chấn. Âm thanh vang dội, mãnh liệt là Hống. Phát ra tiếng vang nứt vỡ, răng rắc là Kích. Có tất cả mười tám tướng: Một phương động gọi là Động. Bốn phương cùng động gọi là Biến Động. Tám phương cùng động gọi là Phổ Biến Động. Năm thứ kia cũng như vậy. Lại động ở ngay một chỗ thì là Động, tứ thiên hạ đều động là Biến Động, đại thiên thế giới cùng động thì gọi là Đẳng Biến Động, năm loại sau cũng vậy).

Đây là thụy tướng  (瑞相: tướng tốt lành)  cảm ứng.  Nói theo Phật pháp, y báo chuyển theo chánh báo, nhiều người nghe kinh đắc quả báo thù thắng như vậy, tự nhiên cũng có thụy tướng biến hiện, cảm vời tam thiên đại thiên thế giới chấn động.

 

(Sao) Đại quang phổ chiếu thập phương quốc độ, bách thiên âm nhạc tự nhiên nhi tác.

()大光普照十方國土,百千音樂自然而作。

(Sao: Quang minh to lớn chiếu khắp mười phương cõi nước, trăm ngàn loại âm nhạc tự nhiên trỗi lên).

Nhạc trời vang rền không trung.

 

(Sao) Vô lượng diệu hoa, phân phân nhi giáng.

()無量妙華,芬芬而降。

(Sao: Vô lượng hoa mầu nhiệm, phấp phới rơi xuống).

Đây là không trung tuôn mưa hoa. Đại địa chấn động, thiên nhạc vang trời, trời tuôn hoa mầu nhiệm, có thụy tướng nhiều ngần ấy!

 

(Sao) Nãi chí A Ca Nị Trá Thiên, giai tác chủng chủng vi diệu cúng dường.

()乃至阿迦膩吒天,皆作種種微妙供養。

(Sao: Cho đến tận trời Sắc Cứu Cánh đều biến ra các thứ cúng dường vi diệu).

Đây là Sắc Cứu Cánh Thiên, tức cõi trời cao nhất trong thiên giới đến cúng dường. Đại địa chấn động, sự chấn động ấy chẳng phải là động đất, mà là tỷ dụ. “Địa” tỷ dụ tâm địa. Nhiều người tu hành chứng quả ngần ấy, chúng sanh trên đại địa sau khi nghe xong, trong tâm đều bị cảm động. Có ý nghĩa ấy, chẳng phải là nói đất thật sự chấn động.

 

(Sao) Hựu vân: Nhị thập ngũ ức chúng sanh, đắc Bất Thoái Nhẫn.

(Diễn) Bất Thoái Nhẫn, tức Nhu Thuận Nhẫn dã, vị tại Viên Thập Tín. Thử ước Tịnh Độ tam pháp nhẫn thuyết. Nhược ước giáo đạo thuyết, Thông Giáo tam pháp nhẫn, thử Bất Thoái Nhẫn, diệc tức thị Nhu Thuận Nhẫn. Dĩ thử nhẫn thuộc tánh địa. Tánh địa phương đắc bất thoái cố. Biệt Giáo ngũ nhẫn, tắc thử Bất Thoái Nhẫn, tức thị Tín Nhẫn. Dĩ Tín Nhẫn thuộc Thập Trụ. Thập Trụ dĩ đắc bất thoái cố. Viên Giáo tứ nhẫn, thử Bất Thoái Nhẫn diệc tức thị Thuận Nhẫn, nhi Viên Thất Tín chánh thuộc bất thoái cố.

()又云:二十五億眾生,得不退忍。

()不退忍。即柔順忍也。位在圓十信。此約淨土三法忍說。若約教道說。通教三法忍。此不退忍。亦即是柔順忍。以此忍屬性地。性地方得不退故。別教五忍。則此不退忍。即是信忍。以信忍屬十住。十住已得不退故。圓教四忍。此不退忍亦即是順忍。而圓七信正屬不退故。

(Sao: Lại nói: Hai mươi lăm ức chúng sanh đắc Bất Thoái Nhẫn.

Diễn: Bất Thoái Nhẫn tức là Nhu Thuận Nhẫn, thuộc địa vị Thập Tín trong Viên Giáo. Đây là nói theo ba pháp nhẫn trong Tịnh Độ. Nếu nói theo Giáo Hạ, xét theo ba pháp nhẫn của Thông Giáo, Bất Thoái Nhẫn ở đây cũng chính là Nhu Thuận Nhẫn, vì loại Nhẫn này thuộc về Tánh địa. Đạt đến Tánh địa thì mới đắc Bất Thoái. Xét theo năm pháp nhẫn của Biệt Giáo thì pháp Bất Thoái Nhẫn này chính là Tín Nhẫn, do Tín Nhẫn thuộc về Thập Trụ, Thập Trụ đã đắc Bất Thoái. Xét theo bốn pháp Nhẫn của Viên Giáo, pháp Bất Thoái Nhẫn này cũng chính là Thuận Nhẫn. Thất Tín của Viên Giáo đã thuộc về địa vị Bất Thoái).

Bất Thoái Nhẫn là Nhu Thuận Nhẫn, tức là Bồ Tát thuộc địa vị Đệ Thập Tín trong Viên Giáo.

 

(Sao) Tứ vạn ức na-do-tha chúng sanh, ư Vô Thượng Bồ Đề, vị tằng phát ý, kim thỉ sơ phát, chủng chư thiện căn, nguyện sanh Cực Lạc thế giới, giai đương vãng sanh, các ư dị phương, thứ đệ thành Phật, đồng danh Diệu Âm.

(Diễn) Vị tằng phát ý, kim thỉ sơ phát, diệc tức thị Viên Sơ Tín, hoặc thị Viên Sơ Trụ. Dĩ hạ văn hữu thứ đệ thành Phật, đồng danh Diệu Âm cố.

()四萬億那由他眾生,於無上菩提未曾發意,今始初發,種諸善根,願生極樂世界,皆當往生,各於異方,次第成佛,同名妙音。

()未曾發意。 今始初發。 亦即是圓初信。或是圓初

住。以下文有次第成佛。同名妙音故。

(Sao: Bốn vạn ức na-do-tha chúng sanh chưa từng phát ý nơi Vô Thượng Bồ Đề, nay mới bắt đầu phát, gieo các thiện căn, nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, sẽ đều vãng sanh. Mỗi người sẽ ở các phương khác, lần lượt thành Phật, cùng có tên là Diệu Âm.

Diễn: “Chưa từng phát ý, nay mới bắt đầu phát” cũng chính là Sơ Tín của Viên Giáo, hoặc là Sơ Trụ trong Viên Giáo. Bởi lẽ, phần kinh văn sau đó có nói họ sẽ lần lượt thành Phật, cùng có danh hiệu là Diệu Âm).

Hiện thời có nhiều người xin quy y, chúng tôi đều đặt pháp danh là Diệu Âm, chính là [dựa theo ý kinh văn] ở chỗ này, tức là phần cuối của kinh Vô Lượng Thọ. Trong thế giới này, có “bốn vạn ức na-do-tha chúng sanh, chưa từng phát ý nơi Vô Thượng Bồ Đề”, chẳng phát tâm, đã nghe kinh này rồi mới phát tâm. Sơ phát tâm bèn nương theo đạo lý và phương pháp trong kinh điển để tu hành, phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ở đây, Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký những người ấy “giai đương vãng sanh” (sẽ đều vãng sanh). Pháp môn này đúng là “vạn người tu, vạn người đến”, nhưng trong ấy có một câu hết sức quan trọng, mọi người ngàn muôn phần đừng nên sơ sót. [Nếu sơ sót], trong tương lai chẳng thể vãng sanh, chẳng thể trách Thích Ca Mâu Ni Phật nói sai. Đức Phật chẳng nói sai, mà là do bản thân quý vị hiểu sai ý Ngài. Quý vị tự chịu trách nhiệm, chẳng phải do Phật. Câu ấy ở chỗ nào? “Chủng chư thiện căn” (Gieo các thiện căn). Quý vị có làm được hay không? “Nguyện sanh Cực Lạc”, quý vị có thật sự phát nguyện hay không? Then chốt ở ngay nơi tám chữ ấy. Quả nhiên thật sự chịu “chủng chư thiện căn, nguyện sanh Cực Lạc”, chẳng có một ai không vãng sanh!

Thiện căn là gì? Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, mười đại nguyện vương, đấy là thiện căn. Thật sự hành, thật sự làm, chính là “chủng chư thiện căn”. Nhất tâm nhất ý cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng có một ai không vãng sanh! Đối với Tam Phước, Lục Hòa, chỉ cần quý vị làm được hai hạng mục ấy, bảo đảm vãng sanh! Có thể thực hiện Tam Học, Lục Độ, Thập Nguyện, phẩm vị bèn cao. Có thể tu mười đại nguyện vương, sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, quyết định là [sanh trong] cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Trọn đủ Tam Phước và Lục Hòa, quyết định được sanh về cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Đấy là bảo cho mọi người biết phương pháp gieo thiện  căn  cụ  thể. Đức Phật thọ ký chúng ta quyết định vãng sanh, Phật chẳng nói dối.

Sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong tương lai sẽ quyết định thành Phật tại thế giới Tây Phương ngay trong một đời. Sau khi đã thành Phật, mười phương thế giới, nơi nào hữu duyên cùng quý vị, quý vị có thể đến chỗ ấy, dùng thân Phật để hóa độ chúng sanh, giống như phẩm Phổ Môn đã nói: “Nên dùng thân Phật để đắc độ, bèn hiện thân Phật để thuyết pháp”. Đã thành Phật thì danh hiệu của đức Phật sẽ là Diệu Âm. Diệu Âm có ý nghĩa gì? Trong sáu phương Phật, vị Phật thứ năm ở phương Đông tên là Diệu Âm; Diệu Âm chính là một câu “Nam-mô A Di Đà Phật”, âm thanh ấy mầu nhiệm! Bản thân chúng ta sẽ thành vị Phật Diệu Âm ấy, trong tương lai, vẫn dùng phương pháp này để độ chúng sanh. Vì thế, gọi là Diệu Âm Như Lai. Trong tương lai, đều có danh hiệu là Diệu Âm Như Lai, nay dùng Diệu Âm để đặt tên cho cư sĩ, nhằm nêu tỏ: “Thảy đều dùng diệu âm”. Vì thế, pháp danh Diệu Âm trong điệp quy y do đây mà có.

 

(Sao) Bát vạn ức na-do-tha chúng sanh, đắc thọ ký Pháp Nhẫn.

(Diễn) Đắc thọ ký Pháp Nhẫn, thị Viên Sơ Trụ, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn quang minh cố, hoặc thị Bát Địa, thị danh chân Vô Sanh Pháp Nhẫn cố.

()八萬億那由他眾生,得授記法忍。

()得授記法忍。是圓初住。得無生法忍光明故。或是八地。是名真無生法忍故。

(Sao: Tám vạn ức na-do-tha chúng sanh, đắc thọ ký Pháp Nhẫn.

Diễn: “Đắc thọ ký Pháp Nhẫn” là Sơ Trụ trong Viên Giáo, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn quang minh, hoặc là Bát Địa bèn gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn thật sự).

 “Đắc thọ ký Pháp Nhẫn” có hai ý nghĩa: Một là Sơ Trụ trong Viên Giáo, hai là Bát Địa Bồ Tát, Bát Địa Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn chân thật. Kinh Nhân Vương bảo: Vô Sanh Pháp Nhẫn là sở chứng của Thất Địa, Bát Địa, và Cửu Địa Bồ Tát. Thất Địa Bồ Tát là hạ phẩm Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bát Địa là trung phẩm, Cửu Địa Bồ Tát là thượng phẩm. Có thể thấy “đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn” tiêu chuẩn rất cao.

 

(Sớ) Hựu Đại Bổn Chúc Lụy trì kinh công đức, kim trì thử kinh, diệc đương như thị.

(Diễn) Chúc lụy giả, vị tương thử pháp môn, chúc ư nhữ, lụy nhữ tuyên truyền dã. Cổ đức vân: Nhĩ nhược bất thị thử đẳng nhân, tự nhiên bất lai ương cập nhĩ chi ý. Hựu chúc giả, thị Như Lai kim khẩu phó chúc, linh bỉ lưu thông. Lụy giả, kim Bồ Tát huyền hệ ư tâm, vĩnh vô vong thất dã.

()又大本囑累持經功德,今持此經亦當如是。

()囑累者。謂將此法門。囑於汝。累汝宣傳也。古德云。你若不是此等人。自然不來央及你之意。又囑者。是如來金口付囑。令彼流通。累者。今菩薩懸係於心。永無忘失也。

(Sớ: Lại nữa, trong phần Chúc Lụy của kinh Đại Bổn có nói công đức trì kinh, nay trì kinh này cũng sẽ có [công đức giống hệt] như thế.

Diễn: Chúc Lụy nghĩa là đem pháp môn này dặn dò các ông, làm phiền các ông hãy tuyên truyền. Cổ đức nói: “Nếu ngươi chẳng phải là hạng người như vậy, tự nhiên chẳng có ý nghĩ làm phiền đến ngươi”. Lại nữa, Chúc là miệng vàng của đức Như Lai căn dặn, khiến cho pháp ấy được lưu thông. “Lụy” là nay Bồ Tát canh cánh bên lòng, vĩnh viễn chẳng để quên mất).

Mọi người thật sự niệm rất thuộc kinh Vô Lượng Thọ, sẽ biết công đức thọ trì chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Di Đà văn tự ít, nói đơn giản; thật ra, nội dung, cảnh giới, và công đức hoàn toàn giống hệt, chẳng khác gì cả! Do đó, đối với chuyện trì kinh, Đại Bổn hay Tiểu Bổn đều tốt đẹp như nhau. Vì sao tôi phải đề xướng Đại Bổn? Vì Đại Bổn nói cặn kẽ, Tiểu Bổn nói đơn giản. Từ Tiểu Bổn, quý vị chẳng xem thấy công đức lợi ích chân thật, nhưng xem Đại Bổn, sẽ thấy rõ ràng. Bảo quý vị đọc thuần thuộc Đại Bổn là do đạo lý này. Đọc thuần thuộc Đại Bổn sẽ khiến cho quý vị hiểu rõ trạng huống trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, khiến cho quý vị phát sanh tín tâm thanh tịnh kiên định.

Tới khi quý vị tín nguyện đã thành tựu, quý vị nói: “Đại Bổn dài quá. Ta thọ trì, thọ trì là tu hành; tu hành càng đơn giản, càng hay”, quý vị có thể chẳng cần đọc Đại Bổn, đọc Tiểu Bổn là được rồi. Vì thế, đối với sự tu trì, Tiểu Bổn là tốt nhất, đơn giản, dễ hiểu, dễ thọ trì. Đại Bổn giúp quý vị kiến lập tín tâm, kiến lập nguyện tâm. Tín nguyện đã thật sự thành tựu, chẳng có mảy may hoài nghi nào, chẳng có mảy may vọng tưởng nào, nhất tâm nhất ý chỉ cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, Tiểu Bổn cũng chẳng cần niệm, một câu A Di Đà Phật bèn thành công. Công phu thật sự là ở nơi Phật hiệu, chư vị nhất định phải hiểu rõ điều này. Chân tín, thiết nguyện, thật thà niệm Phật. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. “Nhiếp trọn sáu căn” là hết thảy đều buông xuống, hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều buông xuống, một câu A Di Đà Phật, niệm niệm chẳng bỏ. Đó là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”.

 

(Sao)Đại Bổn Phật cáo Di Lặc, kim thử pháp môn, phó chúc ư nhữ, ư đại chúng trung, vị tha khai thị, đương linh thư, tả, chấp trì, ư thử kinh trung, sanh đạo sư tưởng.

(Diễn) Vị tha khai thị, đương linh thư tả chấp trì giả, Pháp Hoa khai ngũ chủng pháp sư, nhất thọ trì, tín lực viết Thọ, niệm lực viết Trì, tức kim chấp trì thị dã. Nhị độc, tam tụng, đối văn viết Độc, bất vong viết Tụng. Thử nhị diệc nhiếp tại kim chấp trì trung. Tứ giải thuyết, tuyên truyền viết Giải Thuyết, tức kim vị tha khai thị, thị dã. Ngũ thư tả, tức kim thư tả thị dã.

()大本佛告彌勒,今此法門,付囑於汝,於大眾中,為他開示,當令書寫執持,於此經中,生導師想。

()為他開示當令書寫執持者。法華開五種法師。一受持。信力曰受。念力曰持。即今執持是也。二讀。三誦。對文曰讀。不忘曰誦。此二亦攝在今執持中。四解說。宣傳曰解說。即今為他開示是也。五書寫。即今書寫是也。

(Sao: Trong kinh Đại Bổn, đức Phật bảo Di Lặc: “Nay pháp môn này giao phó cho ông. Ông hãy ở trong đại chúng khai thị cho họ, khiến cho họ viết, chép, chấp trì, đối với kinh này coi như là đạo sư”.

Diễn: “Vì họ khai thị, khiến cho họ viết, chép, chấp trì”, kinh Pháp Hoa đề ra năm loại pháp sư. Một là Thọ Trì, Tín Lực là Thọ, Niệm Lực là Trì, chính là “chấp trì” trong đoạn kinh văn này. Hai là Độc. Ba là Tụng. Đối trước kinh văn [đọc ra tiếng] là Độc, [không cần kinh văn, mà có thể đọc làu làu] chẳng quên là Tụng. Hai loại này cũng thuộc về “chấp trì” nói trong phần kinh văn này. Bốn là Giải Thuyết, tuyên truyền là Giải Thuyết, tức là “khai thị” trong phần kinh văn trên đây. Năm là “biên chép”, tức là “biên chép” trong phần kinh văn này).

Từ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thấy đức Phật phó chúc pháp môn này cho Di Lặc Bồ Tát. Di Lặc Bồ Tát là đương lai hạ sanh Phật, là vị Phật thứ năm trong Hiền Kiếp, có thể thấy pháp môn này được Phật Phật tương truyền! Đem kinh này và pháp môn này truyền trao Di Lặc Bồ Tát, trong tương lai, Di Lặc Bồ Tát thị hiện thành Phật, quý vị ngẫm xem, Ngài có giảng kinh này hay không? Nhất định là sẽ nhiều lần tuyên giảng, phổ biến, khuyên người ta niệm Phật vãng sanh, giống hệt như Thích Ca Mâu Ni Phật, đó là đạo lý nhất định. Thích Ca Mâu Ni Phật dặn dò, giao phó Ngài: “Ư đại chúng trung, vị tha khai thị” (Ở trong đại chúng, khai thị cho họ), “đương linh thư tả” (hãy khiến cho họ biên chép), “thư tả” (書寫: biên chép) là lưu thông, “chấp trì” (執持) là y giáo phụng hành. “Ư thử kinh trung, sanh đạo sư tưởng” (Đối với kinh này, coi như là đạo sư). Đạo sư (導師: người hướng dẫn, người chỉ lối) là Phật, dẫn dắt chúng ta thoát lìa lục đạo luân hồi, hướng dẫn chúng ta vượt biển khổ tam giới, sẽ viên thành Phật đạo trong một đời, kinh này là đạo sư.

 

(Sao) Hựu vân: Vô lượng ức chư Bồ Tát giai tất cầu thử vi diệu pháp môn.

()又云:無量億諸菩薩皆悉求此微妙法門。

(Sao: Lại nói: “Vô lượng ức chư Bồ Tát thảy đều cầu pháp môn vi diệu này”).

“Nhi bất khả đắc” (而不可得: mà chẳng thể được), kinh văn đã tỉnh lược [câu này]. Chuyện này là thật, những vị Bồ Tát ấy có biết bộ kinh này hay không? Chẳng biết! Chẳng biết thì làm sao mà cầu cho được? Trong tâm các Bồ Tát mong cầu, có phương pháp nào khiến cho ta có thể thành Phật ngay trong một đời thì hay quá! Trọn chẳng biết tới bộ kinh này, chỉ vì các Ngài chẳng có duyên, chẳng được nghe, chẳng gặp gỡ! Duyên của chúng ta sâu hơn các Ngài, nên gặp gỡ, có thể thấy là phải nên trân quý.

 

(Sao) Vật vi Phật giáo, nhi khí xả chi.

()勿違佛教,而棄捨之。

(Sao: Chớ trái lời Phật dạy mà vứt bỏ).

Ở đây, đức Phật phó chúc  chúng  ta  ngàn  muôn  phần  đừng  trái nghịch giáo huấn của đức Phật, khinh thường, coi rẻ pháp môn này. [Nếu khinh dễ, bỏ lỡ pháp môn này] thì đúng là quá đáng tiếc!

 

(Sao) Đương linh nhữ đẳng, luân một trường dạ, bị chúng nguy khổ.

()當令汝等,淪沒長夜,備眾危苦。

(Sao: Sẽ khiến cho các ông chìm đắm trong đêm dài, chịu đủ mọi nỗi nguy hiểm, khổ sở).

Nếu quý vị chẳng nghe lời giáo huấn này, buông bỏ pháp môn này, trong tương lai, nhất định sẽ luân hồi nhiều kiếp dài lâu, chịu khổ vô tận.

 

(Sao) Thị cố, ngã kim vi đại chúc lụy.

()是故我今為大囑累。

(Sao: Do vậy, nay ta phó chúc tha thiết).

Đây là sự phó chúc to lớn nhất, giống như cha mẹ qua đời, để lại di chúc cho con cái, là sự phó chúc trọng yếu nhất, khẩn yếu nhất, lớn lao nhất. [Đức Phật] đem pháp môn này và kinh điển này truyền cho Di Lặc Bồ Tát, mong Di Lặc Bồ Tát sẽ hoằng dương phổ biến.

 

(Sao) Kim kinh bất ngôn, giai văn tỉnh cố.

()今經不言,皆文省故。

(Sao: Kinh này chẳng nói [những điều ấy] đều là do kinh văn tỉnh lược).

 Trong kinh này, chẳng có đoạn văn ấy, nhưng ý nghĩa viên mãn, kinh văn tỉnh lược. Hôm nay, chúng tôi giảng đến chỗ này.

 

Tập 285

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu trăm lẻ bốn:

 

(Sớ) Hựu Đại Bổn cập Pháp Diệt kinh, giai ngôn pháp diệt chi nhật, độc lưu thử kinh. Cố tri thử kinh, tổng trì Mạt Pháp, như Hoa Nghiêm Luận trung thuyết.

()又大本及法滅經,皆言法滅之日,獨留此經,故知此經,總持末法,如華嚴論中說。

(Sớ: Lại nữa, Đại Bổn và kinh Pháp Diệt đều nói khi pháp diệt, riêng lưu lại kinh này. Vì thế biết kinh này tổng trì Mạt Pháp, như trong Hoa Nghiêm Luận đã nói).

Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Pháp Diệt Kinh còn gọi là Pháp Diệt Tận Kinh, phân lượng chẳng dài, nói rõ hiện tượng suy diệt của Phật pháp. Trong Pháp Diệt Tận Kinh, nói theo cách hiện thời, chính là đức Phật đã tiên đoán. Những lời tiên đoán có khi là do suy luận Toán Học, chẳng hạn như bộ Hoàng Cực Kinh[111] xa xưa của Trung Hoa. Nói theo Phật pháp, điều này thuộc loại Tỷ Lượng (比量)[112], tánh chánh xác của nó chẳng thể đạt tới một trăm phần trăm. Đương nhiên là cũng có độ tin cậy kha khá, nhưng chẳng phải là tuyệt đối. Chỉ riêng lời tiên đoán của đức Phật chắc chắn là chánh xác, vì đức Phật dùng Hiện Lượng (現量) để quan sát. Đức Phật là ngũ nhãn viên minh, quá khứ, hiện tại, tương lai, Ngài đều đích thân trông thấy, chẳng phải là suy đoán. Trong Pháp Diệt Kinh, đức Phật nói kinh Lăng Nghiêm diệt đầu tiên, kinh diệt cuối cùng là kinh Vô Lượng Thọ. “Pháp diệt chi nhật, độc lưu thử kinh” (Khi pháp diệt hết, riêng lưu lại kinh này), “thử kinh” (kinh này) chính là kinh Vô Lượng Thọ. Vào lúc pháp diệt tận, kinh Vô Lượng Thọ vẫn còn ở trong thế gian này một trăm năm. Sau một trăm năm ấy, Phật pháp hoàn toàn diệt mất.

Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật tổng cộng là một vạn hai ngàn năm, Chánh Pháp một ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm. Thật ra, Phật pháp há có “vận” để nói ư? “Vận” hoàn toàn là do chúng sanh. Nếu chúng sanh ai nấy đều có thể tu đức, tích thiện, hảo vận bèn lâu dài. Mọi người đều chẳng biết tu thiện, tạo nhiều ác nghiệp, kiếp vận tốt đẹp bèn ngắn ngủi, [tức là] thời gian tốt đẹp bèn ngắn ngủi. Vì thế, [thời gian tồn tại của] Phật pháp là nói theo phía chúng sanh, chẳng phải là nói theo phía Phật hay nói theo pháp.

Câu kế tiếp mới là trung tâm của tiểu đoạn này. “Cố tri thử kinh, tổng trì Mạt Pháp” (Vì thế, biết kinh này tổng trì thời Mạt Pháp), câu này hết sức trọng yếu. Mạt Pháp [kéo dài] một vạn năm. Trong một vạn năm ấy, hết thảy chúng sanh nếu muốn “đương sanh thành tựu”, [nghĩa là thành tựu] ngay trong một đời này, nói “thành tựu” chính là quyết định vượt thoát lục đạo luân hồi. Đó là thành tựu nhỏ bé. Nếu chẳng thể vượt thoát lục đạo, sẽ không kể là thành tựu. Viên mãn thành Phật là đại thành tựu. Trong pháp môn này, có thể nói là hai thứ thành tựu ấy đều đạt tới rốt ráo viên mãn. Do vậy, thật sự là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn. Trong thời kỳ Mạt Pháp, chúng ta gặp gỡ kinh này mà có thể tin, nhận, phụng hành, sẽ là bậc đương cơ trong thời Mạt Pháp của đức Thế Tôn. Chuyện này đáng khiến cho chính mình vui mừng, hân hạnh!

 

(Sao) Đại Bổn vân: “Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dĩ từ bi, đặc lưu thử kinh bách tuế, chúng sanh đắc ngộ, vô bất đắc độ”.

()大本云:當來之世,經道滅盡,我以慈悲,特留此經百歲,眾生得遇,無不得度。

(Sao: Kinh Đại Bổn nói: “Trong đời tương lai, kinh đạo diệt hết, ta do từ bi, đặc biệt lưu lại kinh này một trăm năm, chúng sanh được gặp gỡ, không ai chẳng đắc độ”).

“Đương lai chi thế”: Kể từ sau khi đức Thế Tôn diệt độ đều gọi “đương lai chi thế”. “Kinh đạo diệt tận” là nói tới lúc pháp vận kết thúc sau khi đức Phật đã diệt độ, cũng có nghĩa là đúng một vạn hai ngàn năm sau ngày đức Phật diệt độ. [Kể từ khi] Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ cho đến hiện tại mới hơn ba ngàn năm. Do vậy, pháp vận của đức Phật hãy còn chín ngàn năm nữa.

“Kinh đạo diệt tận”, “kinh” (經) là kinh điển, trong thế gian này chẳng còn kinh điển nữa, “đạo” (道) là người tu hành, [khi ấy], chẳng có người tu đạo. Đó là “diệt tận”, và con người khổ sở chẳng thể diễn tả được!

Chư vị phải hiểu: Phật pháp là quang minh của hết thảy chúng sanh. Kinh Phật thường dùng đèn sáng để tỷ dụ. Một tia sáng trong chốn tối tăm là nói tới Phật pháp, nhất là Phật pháp trong Tịnh Độ Tông, thật sự hết sức đáng quý, hết sức khó có. Trong khi kinh đạo diệt tận, do bi nguyện của đức Phật, do Phật lực gia trì chúng sanh, khiến cho bộ kinh này vẫn có thể tồn tại thêm một trăm năm nữa. Trong khi ấy, nếu chúng sanh gặp kinh Vô Lượng Thọ, hoặc kinh A Di Đà, nghe Phật hiệu A Di Đà Phật, “vô bất đắc độ” (chẳng ai không đắc độ). Trong Đại Kinh có nói cặn kẽ, khi gặp gỡ nhân duyên này, nếu chúng ta nhất tâm nhất ý cầu nguyện vãng sanh, quyết định được Phật tiếp dẫn. Nếu nguyện cầu phước báo trong đường trời, người, đương nhiên là cũng có thể được như nguyện. Vì thế, không ai chẳng đắc độ.

 

(Sao) Nhược hữu chúng sanh, ư thử kinh điển, thư tả, cúng dường, thọ trì, độc tụng, vị nhân diễn thuyết, lâm mạng chung thời, Phật dữ thánh chúng, hiện kỳ nhân tiền, kinh tu du gian, tức sanh bỉ sát.

()若有眾生,於此經典,書寫供養,受持讀誦,為人演說,臨命終時,佛與聖眾,現其人前,經須臾間,即生彼剎。

(Sao: Nếu có chúng sanh, đối với kinh điển này, biên chép, cúng dường, thọ trì, đọc tụng, vì người khác diễn nói, khi lâm chung, Phật và thánh chúng hiện trước người ấy, trong khoảnh khắc, liền sanh sang cõi kia).

Đoạn này cũng là kinh văn [trong kinh Vô Lượng Thọ]. Đoạn kinh văn này rất trọng yếu. Khá nhiều đồng tu thường đến hỏi: “Chúng tôi phải tu học như thế nào thì trong tương lai mới nắm chắc vãng sanh?” Ở chỗ này, đức Phật đã nói rất rõ ràng: Chỉ cần chúng ta y giáo phụng hành, quyết định được vãng sanh. Mấy chuyện được nói ở đây chính là những gì [chúng ta cần phải] tu tập trong cuộc sống hằng ngày:

1) “Ư thử kinh điển” (Đối với kinh điển này): Câu này khẩn yếu, dạy chúng ta chuyên tu, [tức là] chuyên tu kinh Vô Lượng Thọ, chuyên tu kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ là cùng bộ. Vì thế, Liên Trì đại sư [gọi hai kinh ấy] là Đại Bổn và Tiểu Bổn. Kinh Vô Lượng Thọ nói tỉ mỉ, kinh Di Đà nói đơn giản, ngắn gọn. Chỉ là văn tự có dài hay ngắn, cách nói có chi tiết hay đại lược, chứ nội dung hoàn toàn như nhau. Đây là dạy chúng ta chuyên tu, dụng công chuyên nhất nơi một bộ kinh. Kinh Vô Lượng Thọ đương nhiên là thuận tiện; nói thật ra, kinh Di Đà quá giản lược. Kẻ sơ học thường chẳng thấy được nghĩa lý thâm diệu trong bộ kinh [Di Đà] này. Cho đến khi Liên Trì đại sư viết Sớ Sao, Ngẫu Ích đại sư viết Yếu Giải, chúng ta mới biết kinh Di Đà có nội dung hết sức phong phú. Đọc bộ Sớ Sao này, kèm thêm Diễn Nghĩa, nói thật ra, [mới biết nội dung của kinh này] trọn chẳng kém Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Thật sự là quá thù thắng! Chúng ta nhất tâm nhất ý suốt một đời này, học một bộ kinh điển, quyết định thành công. Học một bộ kinh điển, thưa cùng chư vị, tốt đẹp ở chỗ nào? Tam Học Giới, Định, Huệ quý vị thảy đều trọn đủ. Giới học: Trì giới là vâng giữ pháp tắc, giữ gìn quy củ. Đức Phật rát lòng buốt miệng khuyên bảo, chỉ dạy chúng ta, nói “ư thử kinh điển”, chúng ta thật sự tiếp nhận, hoàn toàn tiếp nhận, y giáo phụng hành. Đó là trì giới, là vâng giữ pháp tắc, tuân thủ lời dạy bảo của đức Phật. Chuyên học một bộ kinh, cái tâm đã định, bèn có Định học. Chúng ta học quá nhiều, quá tạp, rất khó đạt được tâm thanh tịnh. Pháp môn này và kinh điển này được hết thảy chư Phật tán thán, hết thảy chư Phật hoằng dương, hết thảy Bồ Tát lưu truyền. Chúng ta cũng có thể chọn lựa pháp môn này, đó là trí huệ cao độ, tuyệt đối chẳng phải là trí huệ nhỏ bé. Vì thế, quý vị quyết định chọn lựa kinh điển này và pháp môn này, đó chính là Tam Học Giới, Định, Huệ thảy đều trọn đủ.

2) Sau khi đã chọn lựa chắc chắn; ở đây, đức Thế Tôn dạy chúng ta mấy cương lãnh tu học. Điều thứ nhất là “thư tả, cúng dường” (biên chép, cúng dường). Chúng ta thấy bốn chữ ấy, liền biết pháp môn này là Đại Thừa, chứ Tiểu Thừa chẳng có khí thế to tát ấy. “Thư tả” (書寫) là lưu thông bộ kinh điển này. Thời kỳ Mạt Pháp lâu dài, từ nay trở về sau, hãy còn có thời gian chín ngàn năm nữa. Trong chín ngàn năm ấy, chúng sanh đều phải cậy vào pháp môn này để đắc độ. Nếu pháp môn này chẳng thể phổ biến, hoằng dương, thì nói cách khác, hết thảy chúng sanh thành tựu hoặc đắc độ trong một đời sẽ hết sức khó khăn! Có thể nói là chẳng có gì để hy vọng! Do vậy, “thư tả” hết sức trọng yếu. Thời cổ, để lưu thông kinh điển, phải cậy vào chép tay. Nay chúng ta ấn loát kinh điển để lưu thông, bèn có ý nghĩa “thư tả”. Lưu thông càng nhiều càng hay. Tu học Phật pháp, mọi người đều biết: Phải tu phước, tu huệ. Phước huệ song tu, chẳng thể lệch vào một bên. Tuy chúng ta niệm Phật rất tốt đẹp, mà nếu chẳng có phước báo, khi lâm chung còn bị đau bệnh, sẽ tạo thành chướng ngại cho sự vãng sanh. Tu phước thì loại phước báo nào là chân thật, đáng tin cậy? Ở đây, đức Phật dạy chúng ta biên chép, cúng dường. Tiếp đó, còn có câu nữa là “vị nhân diễn thuyết” (vì người khác diễn nói). Hai câu này đều dạy chúng ta tu phước báo chân thật. “Thọ trì, độc tụng” (Thọ trì, đọc, tụng) là tu Huệ. Phước huệ song tu! Do đó, chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực hoằng truyền bộ kinh điển này, tận tâm tận lực thực hiện, giới thiệu với hết thảy mọi người, đề cao, quảng bá pháp môn này cùng đại chúng. Đó là “thư tả, cúng dường”. Chúng ta giới thiệu, ban tặng kinh điển, pháp môn cho người khác, đấy là Tài Bố Thí, mà cũng thuộc về Pháp Bố Thí. Nếu đối phương tiếp nhận, sanh tâm hoan hỷ, y giáo phụng hành, chẳng sợ hãi sanh tử, sẽ là Vô Úy Bố Thí. Do vậy, “thư tả, cúng dường” thì ba thứ bố thí thảy đều trọn đủ.

3) Trong nguyện Quảng Tu Cúng Dường của Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm có nói: “Chư cúng dường trung, pháp cúng dường tối” (Trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là tối thắng). Vì ba loại cúng dường thí tài, thí pháp, thí vô úy, chẳng có cách nào đạt tới viên mãn, tùy thuộc phước đức và nhân duyên của chính mình, tùy thuộc cơ duyên của chúng sanh, chẳng thể đạt đến viên mãn. Pháp cúng dường của Phổ Hiền Bồ Tát là viên mãn. Kinh nêu lên bảy thí dụ. Thứ nhất là “như thuyết tu hành cúng dường” (dùng sự tu hành đúng theo lời dạy để cúng dường), tức là y giáo phụng hành. Đức Phật dạy chúng ta làm như thế nào, chúng ta bèn nghiêm túc nỗ lực thực hiện [đúng như thế ấy]. Những gì đức Phật dạy chúng ta chớ nên làm, chúng ta bèn quyết định chớ nên làm! Hết thảy đều có thể vâng theo giáo huấn của đức Phật, đấy là cúng dường chân chánh. Điều này hết sức quan trọng. Nói cách khác, nhất định phải biến giáo huấn của đức Phật thành hành vi trong cuộc sống của chính chúng ta thì mới đạt được thọ dụng chân thật nơi Phật pháp. Nhất là trong kinh Vô Lượng Thọ đã nói khá nhiều, nói cặn kẽ, chúng ta thọ dụng cả đời chẳng hết. Tuy kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ chẳng dài, vẫn trọn đủ Tam Học Giới, Định, Huệ. Trong bản hội tập của Hạ lão cư sĩ, từ phẩm ba mươi hai cho đến phẩm ba mươi bảy thuộc về Giới Học. Thật sự có thể làm được [những điều Phật dạy trong các phẩm ấy] thì chính là trì giới niệm Phật. Vì lẽ đó, chúng tôi dùng đoạn kinh ấy để làm khóa tụng hằng ngày. Buổi sáng niệm bốn mươi tám nguyện, buổi tối niệm đoạn giới luật này. Nghiêm túc kiểm điểm, phản tỉnh: Có phải là những gì đức Phật đã nói chúng ta đều làm được hay không? Đó là tu hành. Tu hành tuyệt đối chẳng phải là mỗi ngày niệm mấy bộ kinh. Niệm mấy bộ kinh vô dụng! Miệng có, tâm không! Đọc kinh phải hiểu ý nghĩa, phải vâng theo giáo huấn trong kinh điển để sửa đổi hành vi của chúng ta, như vậy thì sẽ đạt được lợi ích thật sự. Điều này hết sức trọng yếu. Chúng ta cúng dường Tam Bảo, cúng dường chúng sanh, cúng dường tự tánh. Đó là nói đến pháp cúng dường.

4) “Thọ trì độc tụng”, “thọ” (受) là hoàn toàn tiếp nhận. Những lý luận và phương pháp do đức Phật đã nói, đã dạy, chúng ta thảy đều tiếp nhận. “Trì” (持) là gìn giữ. Trọn hết thọ mạng y giáo phụng hành thì gọi là “bảo trì”. “Độc tụng” (Đọc tụng), nói thật ra là thân cận Phật, Bồ Tát. Ta đọc tụng hằng ngày, tức là hằng ngày ở cùng một chỗ với Phật, Bồ Tát. “Độc” (讀): Đối trước kinh bổn [để đọc] thì gọi là Độc, “tụng” (誦) là đọc thuộc lòng. Niệm rất thuộc, chẳng cần kinh bổn, vẫn có thể niệm chẳng sai một chữ nào [thì gọi là Tụng]. Đọc tụng là tu hành. Nếu quý vị biết dụng tâm, công đức [đọc tụng] sẽ là vô lượng vô biên. Kẻ mới học dùng phương pháp đọc tụng để tu Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là tâm thanh tịnh. Niệm kinh thì phải thật thà niệm. Niệm bộ kinh này từ đầu đến cuối, chớ nên niệm quá nhanh, chớ nên chạy đua với thời gian, mà cũng chớ nên niệm quá chậm. Niệm từng chữ phân minh, từng câu rõ ràng. Miệng niệm ra tiếng, nghe lọt vào tai. Dùng phương pháp này để đọc kinh. Đọc kinh nhằm nhiếp tâm. Đại Thế Chí Bồ Tát nói “nhiếp trọn sáu căn”, chúng ta dùng phương pháp đọc kinh để nhiếp trọn sáu căn. Khi đọc, chớ nên mong hiểu nghĩa, chớ nên suy tưởng ý nghĩa trong kinh, chớ nên nghiên cứu, chớ nên phân biệt kinh. Khi đọc kinh bèn chẳng có vọng tưởng, chẳng có tạp niệm; đọc kinh như vậy là tu Định. Đọc rành mạch, rõ ràng, chính là tu Huệ. Huệ ấy chính là Căn Bản Trí. Kinh Bát Nhã nói “Bát Nhã vô tri”, vô tri là Căn Bản Trí, tu thứ này. Vì thế, [đọc kinh] là hoàn thành Giới, Định, Huệ một lượt. Nếu chúng ta đọc một tiếng đồng hồ, cung kính niệm một tiếng đồng hồ, tức là tu Giới, Định, Huệ một tiếng đồng hồ. Đó là thật sự tu hành. Chớ nên coi [đọc kinh] như đọc sách thế gian, [nếu giống như đọc sách thế gian] thì sai mất rồi, quý vị chẳng có Tam Học. Đấy là cách đọc của kẻ sơ học. Đọc đến khi chính mình đã rất quen thuộc, có thể đọc thuộc lòng, cái tâm nhất định sẽ đạt đến mức độ thanh tịnh kha khá. Đọc nhiều, đọc hằng ngày, tu tâm thanh tịnh hằng ngày. Đừng nói là [phải tu] nhiều thời gian, mỗi ngày có thể tu một tiếng đồng hồ là đã hết sức khó có. Tu hằng ngày, tu dăm ba năm, tâm tình đều định. Tới khi ấy, sự đọc tụng của chúng ta bèn tiến nhập giai đoạn thứ hai. Khi đọc trong giai đoạn thứ hai sẽ chẳng giống như đọc tụng trong giai đoạn trước. Đọc trong giai đoạn trước nhằm tu Giới, Định, Huệ, tu Căn Bản Trí. Sau khi đã có Căn Bản Trí, ta vẫn đọc tụng, đọc tụng nhằm tu Hậu Đắc Trí. Hậu Đắc Trí là gì? Không gì chẳng biết. Cách tu như thế nào? Cổ đại đức dạy chúng ta, “tùy văn nhập quán”, [nghĩa là] khiến cho thân tâm của chính chúng ta hoàn toàn kết hợp với cảnh giới trong kinh văn, hoàn toàn hòa quyện thành cảnh giới trong kinh. Như thế là đã cao, biến thành gì? Kinh là chính mình, chính mình biến thành kinh Vô Lượng Thọ. Chư vị ngẫm xem, lẽ nào người ấy chẳng vãng sanh? Ví như chúng tôi nêu thí dụ: Đối với bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện biến thành bổn nguyện của chính mình, chẳng phải là bổn nguyện của A Di Đà Phật nữa! Nay chúng ta niệm là niệm bổn nguyện của A Di Đà Phật, chẳng phải là bổn nguyện của chúng ta! Sau khi niệm đã lâu, [nguyện ấy] cũng từ trong tự tâm phát xuất, hoàn toàn có cùng nguyện, cùng giải, cùng hạnh như đức Phật đã phát, khiến cho tâm nguyện giải hạnh của ta và A Di Đà Phật hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, khi ấy, chính mình thật sự là hóa thân của A Di Đà Phật, chẳng hai, chẳng khác A Di Đà Phật. Đó là phương pháp đọc tụng thứ hai; nhưng chư vị phải hiểu: [Đọc tụng] có thứ tự. Nhất định là cầu Căn Bản Trí trước đã; sau đấy, mới có thể đạt được Hậu Đắc Trí. Chẳng có cơ sở Căn Bản Trí, tâm địa chẳng thanh tịnh, chẳng chân thành, bất bình đẳng, chẳng từ bi, sẽ chẳng có cách nào tiến nhập giai đoạn thứ hai! Vì thế, đọc tụng hết sức trọng yếu. Đọc tụng là tu hành.

5) “Vị nhân diễn thuyết” (Vì người khác diễn nói): Chúng ta hồi hướng, thường niệm “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” (trên đền bốn ân trọng, dưới cứu khổ ba đường). Đối với chuyện này, cũng chớ nên hằng ngày nói suông. Nói suông quá nhiều mà chính mình cũng phải thẹn thùng! Như thế nào thì mới có thể thực hiện được? Phải vì người khác diễn nói. “Diễn nói” không nhất định là phải giảng một bộ kinh. Giảng một bộ kinh từ đầu đến cuối cho người khác nghe phải tùy thuộc duyên phận. Như trong kinh Kim Cang nói “vì người khác nói bốn câu kệ”, công đức ấy cũng là chẳng thể nghĩ bàn. Nói cách khác, chúng ta mỗi ngày từ sáng đến tối, gặp gỡ những ai, bất luận là gặp người nào, đều có thể khuyên họ niệm Phật, đều nói với họ mấy câu Phật pháp, những câu Phật pháp ấy tuyệt đối chẳng lìa khỏi kinh Vô Lượng Thọ hoặc kinh Di Đà thì là đúng, hoàn toàn tương ứng. Vì sao chỉ nói bộ kinh này, chẳng nói những kinh khác? Chư vị phải biết: Nếu chẳng nói kinh này, mà nói những kinh điển khác, quý vị có lỗi với chúng sanh. Nay chúng ta đã hiểu rõ: “Chỉ có bộ kinh này thì mới có thể đắc độ trong một đời này. [Tu học] những kinh khác, chẳng thể đắc độ ngay trong một đời!” Chỉ riêng bộ kinh này là có thể khiến cho hết thảy chúng sanh đắc độ ngay trong một đời. Chỗ thù thắng của kinh này là “đới nghiệp vãng sanh”, cho nên kinh này hữu ích nhất đối với chúng sanh trong thời kỳ Mạt Pháp. Chúng ta không giới thiệu kinh điển này, mà giới thiệu những kinh điển khác, há có thể nào chẳng có lỗi với người ta ư? Trừ phi bản thân chúng ta chẳng biết thì chẳng thể trách móc được; chứ chính mình đã biết thứ tốt đẹp nhất, mà chẳng giới thiệu với người khác, giới thiệu với họ thứ kém hơn, [tức là] hy vọng ta thành tựu, các ngươi chẳng cần thành tựu! Đó là keo tiếc pháp, ôm tấm lòng không tốt. Vì thế, nhất định phải vì người khác diễn nói pháp môn bậc nhất.

Kinh dạy năm loại cương lãnh tu hành cụ thể: “Thư tả, cúng dường, thọ trì, độc tụng, vị nhân diễn thuyết” (Biên chép, cúng dường, thọ trì, đọc tụng, vì người khác diễn nói). Các đồng tu Tịnh Độ chúng ta phải coi năm chuyện ấy là công việc trọng yếu nhất trong cả một đời, những công việc khác đều là kèm thêm! Thậm chí, sự nghiệp làm ăn kiếm sống cũng là chuyện kèm theo, năm thứ ấy mới là chuyện chánh yếu của chúng ta. Đó là đúng. “Lâm mạng chung thời, Phật dữ thánh chúng, hiện kỳ nhân tiền, kinh tu du gian, tức sanh bỉ quốc” (Khi lâm chung, Phật và thánh chúng hiện trước người ấy, trong khoảnh khắc, liền sanh về cõi ấy), mấy câu này chính là lời bảo đảm của đức Phật. Đó là giấy bảo đảm. Chỉ cần quý vị thực hiện năm chuyện trước đó, quý vị chẳng cần phải hoài nghi, cũng chẳng cần phải hỏi han, khi lâm chung, Phật nhất định đến tiếp dẫn. “Tu du” (須臾: khoảnh khắc) là hết sức nhanh chóng. Tuy thế giới Tây Phương cách chúng ta mười vạn ức cõi nước, chỉ trong một cái khảy ngón tay là đã đến nơi. Đại Kinh dạy như vậy đó!

 

(Sao) Pháp Diệt Kinh vân: “Nhĩ thời, Thủ Lăng Nghiêm kinh tiên diệt, dĩ thứ chư kinh, tất giai diệt tận, độc lưu Vô Lượng Thọ kinh, độ chư chúng sanh”.

()法滅經云:爾時首楞嚴經先滅,以次諸經,悉皆滅盡,獨留無量壽經,度諸眾生。

(Sao: Kinh Pháp Diệt Tận nói: “Khi ấy, kinh Thủ Lăng Nghiêm diệt trước hết, sau đó đến các kinh khác thảy đều diệt hết, riêng lưu lại kinh Vô Lượng Thọ để độ các chúng sanh”).

Đây là một đoạn kinh văn trong kinh Pháp Diệt Tận, có ý nghĩa gần giống như kinh Đại Bổn.

 

(Sao) Hoa Nghiêm Luận vân: “Chánh pháp diệt thời, dĩ tổng trì trì dư tôn pháp, vi giáo lý lưu chuyển chi nhân”.

(Diễn) Dĩ tổng trì trì dư tôn pháp, vi giáo lý lưu chuyển chi nhân giả, thử đồng Dịch quái chi Càn nguyên nghĩa dã. Cái thế gian xuất thế gian, sơ vô nhị lý. Thế gian pháp, tắc thỉ tự Càn nguyên tư thỉ, Trinh đức thâu tàng, vi tương lai phát dục chi cơ. Xuất thế gian pháp, tắc thỉ tự Hoa Nghiêm sơ đàm, chung chí Di Đà hậu diệt, vi hậu kiếp lưu truyền chi bổn. Phi Càn trinh, tắc thế gian chi sanh cơ tận diệt. Phi Di Đà, tắc xuất thế chi huệ mạng giai tàn. Tắc thử kinh, thử lý, vi chư Phật tương truyền huệ mạng, vi chúng sanh xuất thế chi bổn nguyên, kỳ quan hệ khởi tiểu nhân duyên da?  

()華嚴論云:正法滅時,以總持持餘尊法,為教理流轉之因。

()以總持持餘尊法。為教理流轉之因者。此同易卦之乾元義也。蓋世間出世間。初無二理。世間法。則始自乾元資始。貞德收藏。為將來發育之機。出世間法。則始自華嚴初談。終至彌陀後滅。為後劫流傳之本。非乾貞則世間之生機盡滅。非彌陀則出世之慧命皆殘。則此經此理。為諸佛相傳慧命。為眾生出世之本源。其關係豈小因緣耶。

(Sao: Hoa Nghiêm Luận nói: “Khi chánh pháp diệt, do nhờ sức tổng trì [của kinh này] mà duy trì các pháp tôn quý khác, tạo thành cái nhân khiến cho giáo lý lưu chuyển”.

Diễn: “Do nhờ sức tổng trì [của kinh này] mà duy trì các pháp tôn quý khác, tạo thành cái nhân khiến cho giáo lý lưu chuyển”: Điều này giống như ý nghĩa Nguyên của quẻ Càn trong kinh Dịch[113]. Ấy là vì pháp thế gian và xuất thế gian, thoạt đầu chẳng phải là hai lý. Pháp thế gian thì khởi đầu từ [đức tánh] Nguyên của Càn giúp sức phát khởi, đức Trinh [có tánh chất] thâu tàng, tạo thành động lực sanh trưởng trong tương lai. Pháp xuất thế gian thì bắt nguồn từ kinh Hoa Nghiêm được nói đầu tiên, đến cuối là kinh Di Đà diệt sau cùng, đó là cái gốc để lưu truyền cho đời sau. Chẳng do đức Trinh của quẻ Càn thì động lực sanh thành trong thế gian bị tận diệt. Chẳng do Phật Di Đà thì huệ mạng xuất thế đều mất. Vì thế, kinh này, lý này chính là huệ mạng được chư Phật truyền thừa, là cội nguồn để chúng sanh xuất thế. Mối quan hệ ấy há có phải là nhân duyên nhỏ nhặt ư?)

Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật trong thế gian này, bộ kinh được Ngài giảng đầu tiên là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Kinh Hoa Nghiêm là lúc đức Phật mới thành đạo, ngồi dưới cội Bồ Đề, nói trong Định. Tiểu Thừa chẳng thừa nhận Đại Thừa Phật pháp, đức Phật giảng trong Định, ai biết? Kẻ bình phàm thấy Thích Ca Mâu Ni Phật tĩnh tọa dưới cội cây, ngồi đó một mình, chẳng biết Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm trong Định, còn có vô lượng vô số Bồ Tát vây quanh nghe pháp, phàm phu cũng chẳng thấy một vị nào! [Do đó], người Tiểu Thừa chẳng thừa nhận, bảo: “Đại Thừa chẳng phải do đức Phật nói”. Hàng Tiểu Thừa hoàn toàn nói theo sự tướng.

Kinh Hoa Nghiêm là đức Phật đã đem cảnh giới do Ngài đích thân chứng đắc nói ra, thật sự là đại cương của toàn thể Phật pháp. Nói theo cách hiện thời, sẽ là “Phật học khái luận”. Hết thảy các kinh được nói trong bốn mươi chín năm sau đó đều chẳng thể vượt ra ngoài phạm vi của Hoa Nghiêm. Trong Đại Thừa Phật pháp, Hoa Nghiêm được tôn xưng là “căn bản pháp luân”, [nghĩa là] hết thảy các kinh đều là quyến thuộc của Hoa Nghiêm. Giống như một cái cây to: Hoa Nghiêm là cội rễ, thân chánh, hết thảy các kinh khác là cành, lá, hoa, quả, đều từ căn bản ấy sanh ra. Nhưng Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc” thì Hoa Nghiêm mới viên mãn. Vì thế, kết thúc chung cục của Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm được viên mãn nơi thế giới Tây Phương. Chúng ta dùng hình ảnh thu nhỏ này để nhìn toàn thể Phật pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, [sẽ thấy pháp vận] một vạn hai ngàn năm xác thực là khởi đầu từ Hoa Nghiêm cho đến cuối cùng khi pháp diệt hết. Trong một trăm năm cuối cùng là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ chính là hình ảnh thu gọn của Hoa Nghiêm. Do kinh Hoa Nghiêm tổng trì hết thảy Phật pháp, kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ cũng tổng trì hết thảy Phật pháp.

Vào đầu đời Thanh, cư sĩ Bành Tế Thanh đã nói: “Kinh Vô Lượng Thọ chính là Trung Bổn Hoa Nghiêm. Bát Thập Hoa Nghiêm chính là Đại Bổn. Kinh A Di Đà là Tiểu Bổn Hoa Nghiêm”. Hai bộ kinh này quán triệt tổng trì từ đầu đến cuối hết thảy các pháp môn. Nhất là trong thời kỳ Mạt Pháp, hoàn toàn do kinh Vô Lượng Thọ tổng trì. Ý nghĩa trong ấy hết sức sâu rộng, chúng ta phải chú tâm thấu hiểu, tham cứu; sau đấy, quý vị mới có thể tin tưởng, mới có thể khẳng định, sẽ đạt được công đức và lợi ích to lớn, mới có thể đạt được lợi ích chân thật.

 

(Sao) Kim vị chư kinh tất diệt, thử kinh độc tồn, niệm Phật nhất môn, quảng độ quần phẩm, tắc chư kinh dĩ diệt nhi bất diệt, tức thị dĩ nhất tồn dư, lưu chuyển vô tận, chánh Tổng Trì chi vị dã.

()今謂諸經悉滅,此經獨存,念佛一門,廣度群品,則諸經已滅而不滅,即是以一存餘,流轉無盡,正總持之謂也。

(Sao: Nay nói các kinh đều diệt, riêng kinh này hãy còn. Pháp môn Niệm Phật rộng độ các phẩm, cho nên các kinh đã diệt mà chẳng diệt, tức là do còn sót lại một kinh lưu chuyển vô tận, nên gọi đó là Tổng Trì vậy).

Ở đây, ý nghĩa “Tổng Trì” đã được hiển thị hết sức rõ ràng cho chúng ta thấy. Kinh Hoa Nghiêm thường nói: “Một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”, rốt cuộc “một” là nói đến điều gì? “Một” chẳng phải là chuyên nhất (một điều gì đó hoặc một pháp nào đó chuyên biệt). Nếu chuyên nhất thì chẳng viên dung, chẳng phải là pháp giới “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại” của Hoa Nghiêm. “Một” là bất cứ pháp nào, pháp nào cũng đều có thể tổng trì hết thảy các pháp. Đấy mới là nghĩa thú chân chánh của Hoa Nghiêm. Ở đây, dường như là tổ sư chuyên chỉ kinh Vô Lượng Thọ, chẳng phải là bất cứ một pháp nào, chuyện này lại nên nói như thế nào đây? Chính là vì khế cơ. Nói theo Lý, tám vạn bốn ngàn pháp môn, do bất cứ pháp môn nào cũng đều có thể thành đạo quả vô thượng. Bởi lẽ, pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp, “bất cứ một pháp nào” chính là nói theo Lý. “Chuyên nhất” là nói theo Sự. Xét theo Sự, căn tánh của chúng sanh khác nhau, đặc biệt là đại đa số chúng sanh đều là hạng phàm phu sát đất, nghiệp chướng sâu nặng. Đối với họ, khá nhiều pháp môn rất khó khăn, khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ bản thân họ có nghiệp chướng.

Hằng ngày, chúng ta niệm bài kệ hồi hướng: “Nguyện tiêu tam chướng chư phiền não” (Nguyện tiêu các phiền não thuộc về Tam Chướng). Chỉ là nguyện, có thể tiêu được hay không? Chẳng tiêu được chút nào! Không chỉ là chẳng tiêu, mà Tam Chướng hằng ngày còn tăng trưởng! Tam Chướng là mê hoặc, tạo nghiệp, thọ báo, [nói gọn lại sẽ là] Hoặc, Nghiệp, Khổ, sự thật ấy bày ra trước mặt chúng ta. Nay tuy gặp gỡ pháp môn vô thượng, pháp môn bậc nhất, tức là pháp môn Niệm Phật, nhưng vừa niệm A Di Đà Phật, vừa dấy vọng tưởng, quý vị mới biết khó khăn lắm thay! Khó hay dễ tuyệt đối chẳng phải là nói theo phía pháp môn, mà là nói theo căn tánh của chúng sanh. Vì chúng sanh nghiệp chướng tập khí hết sức sâu nặng, nhất định phải tìm một pháp môn vừa dễ dàng, vừa ổn thỏa, lại [thành tựu] rất nhanh chóng, thì mới có thể thích hợp với những kẻ nghiệp chướng tập khí sâu nặng trong hiện thời. Nếu chẳng phải là một pháp môn như vậy, hết thảy bọn chúng sanh chúng ta mong đắc độ trong một đời, khó lắm! Trong điều kiện ấy, đức Thế Tôn và chư Phật, Bồ Tát, lịch đại tổ sư đều chỉ điểm pháp môn này là thích hợp. Do đó, đức Phật chẳng lưu lại kinh điển nào khác, chỉ lưu lại kinh Vô Lượng Thọ. Xét theo thần lực của đức Phật, pháp của ta đã diệt hết, ta riêng lưu lại kinh Lăng Nghiêm một trăm năm có được hay không? Đương nhiên là có thể, đức Phật xác thực là có năng lực ấy, nhưng đối với chúng sanh, kinh ấy quá khó khăn, chẳng thích hợp. Chúng ta phải hiểu đạo lý này: Đức Phật riêng lưu lại kinh Vô Lượng Thọ, chẳng lưu lại những kinh khác là do “ứng cơ thuyết pháp”.

 

(Sao) Nhất thiết chúng sanh, ưng đương tôn trọng, cung kính, tín thọ, phụng hành, kinh sở tại xứ, như Phật kiến tại.

()一切眾生,應當尊重恭敬,信受奉行,經所在處,如佛見在。

(Sao: Hết thảy chúng sanh, hãy nên tôn trọng, cung kính, tin nhận, phụng hành. Kinh ở chỗ nào, [chỗ đó] như có Phật hiện diện).

Thời cổ, chữ Kiến (見) và Hiện (現) dùng lẫn cho nhau, [đều có nghĩa là] “hiện tại”. Nếu kinh điển được lưu thông nhiều, thì nói cách khác, Vô Lượng Thọ Phật sẽ nhiều, mọi người sẽ có nhiều cơ hội gặp gỡ. Ai nấy đều có thể đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, ai nấy đều có thể tuân theo giáo huấn trong kinh để tu hành, có thể chuyển biến kiếp nạn, xã hội có thể an định. Nay chúng ta biết xã hội loạn lạc, không chỉ là Đài Loan loạn lạc, mà toàn thể thế giới đều loạn. Để có thể tiêu trừ hiện tượng này, giảm thấp kiếp vận, chỉ có cách đề xướng pháp môn này. Đầu đời Thanh, pháp sư Từ Vân Quán Đảnh đã viết trong bộ Quán Kinh Trực Chỉ: “Kiếp nạn trong thế gian, tất cả các kinh pháp đều chẳng thể tiêu trừ, cuối cùng còn có một câu chân ngôn sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật này là có thể tiêu trừ hết thảy các kiếp nạn”. Ngài nói kiểu này khiến cho chúng tôi nghĩ đến trong Phật môn có kiểu nói: “Niệm kinh chẳng bằng niệm chú, niệm chú chẳng bằng niệm Phật”. Phật hiệu có công đức chẳng thể nghĩ bàn! Kinh chẳng tiêu nghiệp chướng được, chú cũng chẳng thể tiêu nghiệp chướng, Phật hiệu có thể tiêu! Vì thế, nhất định phải khuyên kẻ khác niệm Phật, nhất định phải nỗ lực làm cho hết thảy chúng sanh đều có cơ duyên tiếp xúc pháp môn Tịnh Tông, đều biết ưu điểm của pháp Niệm Phật, đều biết niệm Phật thì mới hòng tiêu tai miễn nạn.

Người hiện thời công việc bận rộn, thời đại càng về sau, do khoa học kỹ thuật phát triển lại càng bận bịu, há có thời gian niệm Phật? Chẳng niệm lại không được! Phải làm như thế nào để có thể đạt tới tiêu chuẩn “tịnh niệm tiếp nối”? Vì thế, hết sức khó khăn! Gần đây, tôi dạy mọi người pháp Thập Niệm, niệm chín lần mỗi ngày, hết sức thích hợp với thời đại này. Một ngày chín lượt công khóa, chẳng thể thiếu một khóa nào, mỗi lượt công khóa chỉ cần một phút, cho nên có thể làm được! Khi đi làm, nếu ngồi nơi bàn làm việc, còn chưa bắt đầu làm việc, trước hết, thân tâm hãy buông xuống hết thảy, chắp tay niệm mười câu A Di Đà Phật, một lần công khóa đã viên mãn. Niệm xong mười câu A Di Đà Phật rồi mới bắt đầu lo liệu công việc trong một ngày. Khi tan tầm, làm xong việc, dọn dẹp xong, lại chắp tay niệm mười câu A Di Đà Phật. Tôi dạy người ta sáng sớm thức dạy bèn niệm một lượt, khi ăn điểm tâm bèn niệm một lượt, buổi sáng vào làm việc và lúc nghỉ trưa bèn niệm một lượt. Khi ăn cơm buổi trưa niệm một lượt, buổi chiều vào làm tiếp và lúc tan tầm, mỗi lúc niệm một lượt, ăn cơm tối lại niệm một lượt nữa, buổi tối đi ngủ niệm một lượt nữa. Mỗi ngày chín lượt, mỗi lượt một phút, phương pháp này thực dụng, thích hợp cho người hiện thời tu hành. Lại còn hết sức có hiệu quả, vì trong một phút ấy, xác thực là “tịnh niệm tiếp nối”. Nếu thời gian niệm [trong mỗi lần công khóa khá] dài, chẳng tránh khỏi dấy vọng tưởng, tâm chẳng thanh tịnh. Do mười niệm ấy, nhiếp tâm dễ dàng, thời gian ngắn ngủi, “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Mười câu Phật hiệu nối tiếp nhau, xác thực là chẳng có tạp niệm, chẳng có vọng tưởng, đúng là “tịnh niệm tiếp nối”. Sau hai ba giờ, lại niệm một lượt nữa. Mỗi ngày thật sự niệm chín lượt chẳng thiếu, ba tháng sẽ khác hẳn, quý vị sẽ cảm nhận được. Đây là một phương pháp đề ra cho người hiện thời. Nhất định phải tôn trọng, phải cung kính kinh giáo, phải tin nhận, phụng hành. Biết kinh điển ở chỗ nào, chỗ ấy chính là nơi Phật ngự. Giống như tôi vừa mới nói với mọi người hai phương pháp đọc tụng, một là để tu Căn Bản Trí, hoàn thành Tam Học Giới, Định, Huệ một lượt. Phật, Bồ Tát âm thầm gia trì quý vị. Cách kia để tu Hậu Đắc Trí, tâm và cảnh giao hòa, sự cảm ứng của chư Phật bèn hết sức rõ rệt.

 

(Sao) Vấn: Độc lưu thử kinh, thử kinh cái chỉ Đại Bổn.

()問:獨留此經,此經蓋指大本。

(Sao: Hỏi: Riêng lưu lại kinh này, “kinh này” là nói tới Đại Bổn).

“Riêng lưu lại kinh này”, “kinh này” là kinh Vô Lượng Thọ, ăn nhằm gì tới kinh A Di Đà?

 

(Sao) Đáp: Tiền bất vân hồ, văn hữu phồn giản, nghĩa vô thắng liệt, tường ngôn chi tắc Đại Bổn, lược ngôn chi tắc kim kinh nhĩ, phi hữu nhị dã.

()答:前不云乎,文有繁簡,義無勝劣,詳言之則大本,略言之則今經耳,非有二也。

(Sao: Đáp: Chẳng phải là trong những phần trước đã nói rồi đó sao? Kinh văn có rườm rà hay đơn giản, nhưng ý nghĩa chẳng hơn kém. Nói tường tận thì là Đại Bổn, nói đại lược thì là kinh này, [ý nghĩa trong hai kinh] chẳng hề sai khác).

Kinh Vô Lượng Thọ và bộ kinh này là cùng một bộ.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh vô não, thị hoan hỷ tín thọ nghĩa. Tự tánh vô trụ, thị tác lễ nhi khứ nghĩa.

(Diễn) Tự tánh vô não, thị hoan hỷ tín thọ giả, nhược vân văn pháp nhi hỷ, lãnh pháp nhi thọ, thị vi ngoại tùy cảnh giới sở thiên, phi chân hoan hỷ tín thọ dã. Tự tánh cụ hữu quá Hằng sa đẳng phiền não chi nghĩa, thị chân hoan hỷ tín thọ dã. Tự tánh vô trụ, thị tác lễ nhi khứ nghĩa giả, nhược vân kiều cần nhi lễ, thoái tịch nhi khứ, thị vi vọng duyên phong lực nhi chuyển, phi chân tác lễ nhi khứ dã. Tự tánh vô trụ, liễu vô căn bản, thị chân tác lễ nhi khứ dã.

()稱理,則自性無惱,是歡喜信受義;自性無住,是作禮而去義。

()自性無惱。是歡喜信受者。若云聞法而喜。領法而受。是為外隨境界所遷。非真歡喜信受也。自性具有過恒沙等煩惱之義。是真歡喜信受也。自性無住。是作禮而去義者。若云翹勤而禮。退席而去。是為妄緣風力而轉。非真作禮而去也。自性無住了無根本。是真作禮而去也。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh chẳng có phiền não là ý nghĩa “hoan hỷ tin nhận”. Tự tánh chẳng trụ là ý nghĩa “làm lễ rời đi”.

Diễn: “Tự tánh chẳng có phiền não là ý nghĩa hoan hỷ, tin nhận”: Nếu bảo nghe pháp vui mừng [là Hỷ], lãnh nhận là Thọ, tức là bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, chẳng phải là hoan hỷ tín thọ thật sự. Tự tánh có ý nghĩa trọn đủ các phiền não nhiều hơn số cát trong sông Hằng, đó là hồi hướng tín thọ thật sự. “Tự tánh chẳng trụ là ý nghĩa làm lễ, rời đi”: Nếu bảo kính cẩn, trân trọng là Lễ, rời khỏi chỗ ngồi là Khứ, đó là bị xoay chuyển bởi sức gió vọng duyên, chẳng phải là “làm lễ, rời đi” thật sự. Tự tánh vô trụ, trọn chẳng có căn bản chính là “làm lễ, rời đi” thật sự).

Cuối mỗi đoạn kinh văn, đại sư đều có một đoạn bàn luận xứng tánh, thể lệ này rất ít thấy trong các bản chú giải của cổ đức. Cuối bản chú giải, Ngài kèm thêm chú Vãng Sanh. Đó là Hiển Mật viên dung. Có [phần luận định] xứng tánh, tức là “Tông Giáo viên dung, Tánh Tướng viên dung”.

 

(Sao) Phiền não bổn tịch, hoan hỷ diệc không, tắc khổ độ thùy phi lạc độ.

()煩惱本寂,歡喜亦空,則苦土誰非樂土。

(Sao: Phiền não vốn vắng lặng, hoan hỷ cũng rỗng không, có cõi khổ nào chẳng phải là cõi lạc).

Chân Như bản tánh, chẳng lập một pháp. Lục Tổ Huệ Năng đại sư nói rất hay: “Vốn chẳng có một vật”. Phiền não là một vật, hoan hỷ cũng là một vật, vốn chẳng có! Há có uế độ, há có lạc độ ư? Đây là nhìn từ chân tâm bản tánh.

 

(Sao) Lai thật vô lai, khứ diệc hà khứ, tắc vãng sanh tất cánh vô sanh.

()來實無來,去亦何去,則往生畢竟無生。

 (Sao: Đi thì thật sự chẳng đi, đến thì cũng chẳng đến nơi đâu, nên vãng sanh mà rốt cuộc vô sanh).

Cổ nhân có [Tịnh Độ] Sanh Vô Sanh Luận, trong ấy có nói “Sanh thì quyết định sanh, mà đi thì thật sự chẳng đi”. Kẻ học Phật nông cạn, nghe những lời ấy bèn nẩy sanh khá nhiều nỗi nghi hoặc, ta có còn nên tu học pháp môn này hay chăng? Rốt cuộc trong tương lai có thể vãng sanh hay không? Nhất định phải hiểu rõ ràng. Trong ấy có Lý, có Sự; sau khi Lý và Sự đã viên dung, mới biết tâm tánh của chúng ta trọn khắp mười phương pháp giới. Uế độ của Phật Thích Ca là do tâm tánh của chúng ta biến hiện, Di Đà Tịnh Độ vẫn do tâm tánh của chúng ta biến hiện. Lìa khỏi tâm tánh này, ở đâu có Thích Ca? Ở đâu có Di Đà? Thảy đều ở trong một tự tánh, há có đến, đi? Há có tịnh, uế? Đều chẳng có. Nói theo tánh thể, thì là thanh tịnh, là như nhau, vạn pháp đều như một, chẳng có một pháp nào không Như. Nói theo sự tướng, nói theo tác dụng, bèn có sai biệt.

Chúng ta quyết định phải vãng sanh, nhất định phải lìa uế độ, giữ lấy Tịnh Độ. Biết Thể, sẽ giúp cho quý vị khai ngộ, có thể giúp quý vị lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước. Tốt đẹp ở chỗ này, tốc độ thành tựu viên mãn Bồ Đề mau chóng! Nếu chấp trước “nhất định là có tịnh, uế”, chẳng biết tâm và cảnh như một, tự và tha bất nhị, hoàn toàn chấp trước nơi sự tướng, tu chứng sẽ rất khó khăn. Giống như năm mươi mốt tầng cấp Bồ Tát, hoặc Tứ Quả, Tứ Hướng của Tiểu Thừa là do chấp trước mà có, nếu lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, bèn thuộc vào Đốn Giáo, đốn siêu, chẳng vướng mắc nơi các tầng cấp.

 

(Sao) Dĩ thử vô sanh, sanh bỉ quốc độ, phi sanh bỉ độ, thật sanh hồ tự tâm dã. Nhiên hậu vô vấn tự thuyết, Thế Tôn miễn phó không đàm, độc nhiệm đương cơ, Thân Tử bất cô trọng thác, thị chân hoan hỷ, thị chân tín thọ, thị danh chân pháp tác lễ Như Lai.

(Diễn) Phiền não bổn tịch giả, thượng vân vô não thị hỷ nghĩa, thượng hữu hỷ tại. Hỷ phi lạc độ dã. Kim tắc phiền não bổn tịch, hoan hỷ diệc không, tắc khổ độ thùy phi lạc độ. Thượng vân vô trụ thị khứ nghĩa, thượng hữu khứ tại, khứ phi vãng sanh dã. Kim tắc lai thật vô lai, khứ diệc hà khứ, tắc vãng sanh tất cánh vô sanh. Dĩ hữu sanh, sanh bỉ độ giả, thị sanh bỉ độ, phi sanh tự tâm dã. Dĩ vô sanh, sanh bỉ độ giả, phi sanh bỉ độ, thật sanh tự tâm dã. Nhiên hậu vô vấn tự thuyết, Thế Tôn miễn phó không đàm. Thử thượng bất phụ hoằng pháp chi chủ. Độc nhiệm đương cơ, Thân Tử bất cô trọng thác. Thử hạ bất phụ thọ chúc chi nhân.

()以此無生,生彼國土,非生彼土,實生乎自心也。然後無問自說,世尊免付空談,獨任當機,身子不孤重託,是真歡喜,是真信受,是名真法作禮如來。

()煩惱本寂者。上云無惱是喜義。尚有喜在。喜非樂土也。今則煩惱本寂。歡喜亦空。則苦土誰非樂土。上云無住是去義。尚有去在。去非往生也。今則來實無來。去亦何去。則往生畢竟無生。以有生生彼土者。是生彼土。非生自心也。以無生生彼土者。非生彼土。實生自心也。然後無問自說。世尊免付空談。此上不負弘法之主。獨任當機身子不孤重託。此下不負受矚之人。

(Sao: “Dùng vô sanh để sanh vào cõi nước ấy”: Chẳng sanh vào cõi ấy, mà thật ra là sanh trong tự tâm. Sau đấy, chẳng hỏi mà tự nói, đức Thế Tôn chẳng đến nỗi [gặp cảnh] giao phó, bàn luận suông. Một mình gánh lấy trách nhiệm làm bậc đương cơ, ngài Xá Lợi Phất chẳng cô phụ trọng trách được giao phó. Đó là chân hoan hỷ, chân tín thọ, chân pháp lễ kính Như Lai.

Diễn: “Phiền não vốn vắng lặng”: Trong phần trên có nói “vô não” là ý nghĩa của Hỷ, [tức là] vẫn còn có Hỷ, Hỷ thì chẳng phải là cõi vui sướng. Nay phiền não vốn vắng lặng, hoan hỷ cũng là không, nên có cõi khổ nào chẳng phải là cõi lạc? Trong phần trước có nói “vô trụ là Khứ”, [tức là] vẫn có Khứ tồn tại, Khứ thì chẳng phải là vãng sanh. Nay thì thật sự chẳng đến, đi cũng chẳng về đâu, cho nên vãng sanh rốt ráo là vô sanh. Dùng “có sanh” để sanh vào cõi ấy, tức là sanh trong cõi ấy, chẳng sanh trong tự tâm! Dùng vô sanh để sanh vào cõi ấy thì chẳng phải là sanh trong cõi ấy, mà thật sự là sanh trong tự tâm. Sau đấy, chẳng hỏi mà tự nói, đức Thế Tôn chẳng đến nỗi gặp cảnh giao phó, bàn luận suông. Đó là trên thì chẳng cô phụ đấng hoằng pháp. Một mình gánh lấy trách nhiệm đương cơ, Thân Tử chẳng cô phụ trọng trách được giao phó. Đấy là dưới thì chẳng cô phụ bậc nhận lãnh lời phó chúc).

Sách Diễn Nghĩa có chú giải mấy câu này, tuy văn tự dùng để chú giải không nhiều, nhưng ý nghĩa rất rõ ràng. Kinh này kể từ lúc khai kinh cho tới nay, những lời lẽ bàn luận xứng tánh đã được nói rất nhiều. Đối với đạo lý “tự tánh duy tâm”, dẫu chẳng hiểu rõ mười phần, cũng chẳng đến nỗi xa lạ. Đoạn này chính là đoạn khai thị cuối cùng [cho phần chánh kinh], “sanh hồ tự tâm” (sanh trong tự tâm) là “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Đấy là nói theo Lý. “Nhiên hậu vô vấn tự thuyết” (Sau đấy, chẳng có ai hỏi mà tự nói), chính là lòng từ bi triệt để, là lòng đại từ bi viên mãn trong tâm tánh tự nhiên lưu lộ, còn cần phải có người đến thưa hỏi hay chăng? Tự nhiên lưu lộ. Chúng ta cũng phải học theo đức Phật, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, chẳng cần đợi người khác hỏi chúng ta, chúng ta sẽ chủ động giới thiệu A Di Đà Phật với họ. Người có trí huệ, có thiện căn, sẽ tự nhiên tiếp nhận.

“Đương cơ” là tôn giả Xá Lợi Phất. Chữ Xá Lợi Phất (Śāriputra) dịch sang nghĩa tiếng Hán là Thân Tử (身子). Ngài đại diện cho mọi người chúng ta. Trong kinh, đức Phật gọi ngài Xá Lợi Phất, chính là gọi bậc đương cơ. Đối với pháp môn này và kinh điển này, chúng ta có thể sanh tâm hoan hỷ, có thể tin tưởng, có thể tiếp nhận, có thể y giáo phụng hành, bản thân chúng ta là bậc đương cơ của bản kinh này. Chúng ta tôn ngài Xá Lợi Phất làm đại biểu, cho nên đức Phật gọi Ngài nhằm dạy chúng ta. Đó là “chân hoan hỷ, chân tín thọ”, đấy là “tác lễ Như Lai” chân chánh, là lễ kính đức Phật.

 

(Sao) Nhược kỳ ngoại Cực Lạc cửu liên chi độ, biệt thuyết duy tâm, xả Di Đà vạn đức chi danh, lánh cầu tự tánh, khả vị đương độ nhi vấn tân, đối đăng nhi mịch hỏa giả hỹ.

(Diễn) Tuy nhiên, Lý phi Sự ngoại, Tánh tức Tướng biên. Nhược kỳ ngoại Cực Lạc cửu liên chi độ, biệt thuyết duy tâm, xả Di Đà vạn đức chi danh, biệt cầu tự tánh, thị đương độ vấn tân, đối đăng mịch hỏa hỹ. Cố viết: “Bất thức bỉ quan tân, cách giang do vấn thiệp, tảo tri đăng thị hỏa, phạn thục dĩ đa thời”.

()若其外極樂九蓮之土 ,別說唯心 ,捨彌陀萬德之

名,另求自性,可謂當渡而問津,對燈而覓火者矣。

()雖然。理非事外。性即相邊。若其外極樂九蓮之土。別說唯心。捨彌陀萬德之名。別求自性。是當渡問津。對燈覓火矣。故曰不識彼關津。隔江猶問涉。早知燈是火。飯熟已多時。

(Sao: Nếu ở ngoài cõi Cực Lạc chín phẩm sen mà riêng nói duy tâm, bỏ danh hiệu Di Đà vạn đức để cầu tự tánh nào khác, có thể nói là đã vượt lên bờ mà còn hỏi bến, đối trước đèn mà tìm lửa vậy.

Diễn: Tuy nhiên, Lý chẳng ở ngoài Sự, Tánh ở ngay bên Tướng. Nếu ở ngoài cõi Cực Lạc chín phẩm sen mà nói tới một cái duy tâm nào khác, bỏ danh hiệu Di Đà vạn đức để cầu tự tánh khác, chính là đã vượt sông mà còn hỏi bến đò, đối trước đèn mà đi tìm lửa! Vì thế nói: “Do chẳng biết cửa ải, bến sông trọng yếu, cho nên đã qua khỏi sông mà vẫn hỏi chuyện lặn lội, đã sớm biết đèn chính là lửa, cơm đã chín từ lâu!”)

Câu này nói đến những kẻ mê chấp, chẳng hiểu Phật pháp, tưởng Tây Phương Cực Lạc thế giới ở ngoài tâm tánh, chẳng bằng lòng tiếp nhận pháp môn này. Ngỡ ngoài kinh Vô Lượng Thọ, ngoài A Di Đà Phật ra, còn có Chân Như tự tánh [khác biệt]. Thưa cùng chư vị, lời lẽ ấy dường như đúng, thật ra là sai, rất có thể sẽ khiến cho kẻ khác mê hoặc! Cớ sao nói là dường như đúng mà thật ra là sai? Ví như [ở trong] biển cả, chúng ta lấy một chén nước từ biển cả. Đấy là nước biển, chẳng sai! Chúng ta lìa khỏi chỗ này, tìm một chỗ khác [trong biển] để lấy, vẫn có thể lấy được nước biển. Đó là đa sự! Đều là như nhau, chẳng biết “có chỗ nào không phải là biển” [cần gì phải bỏ nơi này, tìm nơi kia]! Quý vị bảo nơi đây chẳng phải [là biển], đến bên kia để tìm cầu thì bên kia chắc chắn cũng chẳng phải. Một thứ đã là [Chân Như tự tánh], thì hết thảy đều là [Chân Như tự tánh]. Một thứ đã chẳng phải thì hết thảy đều chẳng phải. Chẳng thể nói cái này là đúng, cái kia là sai, chẳng có [chuyện đó]. Hiểu đạo lý này, tâm chúng ta bèn định, tín tâm sẽ chẳng bị mê hoặc, nguyện vọng cầu được vãng sanh chẳng bị dao động bởi các thứ ngôn thuyết của kẻ khác.

Kế đó là hai tỷ dụ: “Đương độ nhi vấn tân”, [nghĩa là] vượt sông, đã đến bến rồi mà còn hỏi: “Chúng ta sẽ từ chỗ nào ngồi thuyền để vượt qua?” [Thắc mắc] quá thừa! “Đối đăng nhi mịch hỏa”: Đèn thuở xưa giống như đèn cầy vậy. Đèn chính là lửa, đối trước đèn đi tìm lửa, có thể suy ra mà biết kẻ ấy ngốc nghếch dường nào! Dùng hai tỷ dụ ấy để chỉ rõ ý nghĩa được nói trong đại kinh, “một tức là nhiều, nhiều tức là một, Tánh và Tướng như nhau, Lý Sự bất nhị”. Chúng ta phải tìm một phương pháp tu hành khế cơ nhất, thích hợp nhất, thâm nhập một môn. Hễ đạt được một pháp ấy thì tất cả hết thảy các pháp đều đạt được.

Hôm nay, giảng đến chỗ này, [phần giảng giải về chánh] kinh đã viên mãn. Phần sau là chú. Chú vốn chẳng thuộc vào kinh, Liên Trì đại sư đặc biệt đem chú Vãng Sanh ghép vào sau kinh này, nhằm dạy chúng ta: Hiển Mật bất nhị, Hiển Mật viên dung. Một câu A Di Đà Phật, không chỉ là kinh A Di Đà, hoặc kinh Vô Lượng Thọ, mà còn là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni Chú. Một câu A Di Đà Phật là chú, chẳng cần phải hỏi là kinh hay là chú, cứ nắm chắc sáu chữ hồng danh, quý vị sẽ thành tựu. Dụng ý của lão nhân gia ở ngay chỗ này. Hôm nay, tôi giảng tới đây.

 

Tập 286

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu trăm lẻ bảy:

 

Tam, kết thích chú ý.

(Chú) Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni.

三結釋咒意。

()拔一切業障根本得生淨土陀羅尼。

(Ba, là kết luận bằng giải thích ý nghĩa của bài chú.

Chú: Đà La Ni để dẹp trừ căn bản của hết thảy các nghiệp chướng, được sanh về Tịnh Độ).

 Trong phần chú giải, Liên Trì đại sư đã bảo:

 

(Sớ) Thích chú ý giả.

()釋咒意者。

(Sớ: Giải thích ý nghĩa của bài chú).

Giải thích chú Vãng Sanh. Chú vốn chẳng thuộc vào kinh Di Đà, nhưng chú Vãng Sanh cũng là dùng Mật pháp để chuyên tu Tịnh Độ. Liên Trì đại sư ghép chú này vào kinh là có dụng ý đặc biệt. Trong Sớ Sao, sau mỗi đoạn, chúng ta đều thấy phần Xứng Lý. Lý chính là cách giảng giải tâm tánh theo Thiền Tông. Xứng Lý là bàn luận xứng tánh, thuộc về Thiền Tông. Do vậy, phương thức chú giải của Ngài là “Thiền Tịnh bất nhị”. Cuối bản chú giải lại thêm vào chú Vãng Sanh, mang ý nghĩa “Hiển Mật bất nhị”. Do vậy, mới thấy Tịnh Tông thật sự viên dung khôn sánh. Từ xưa đến nay, rất nhiều bản chú giải chẳng theo thể lệ này. Vì thế, đây là một phen khổ tâm của Liên Trì đại sư lão nhân gia, không gì chẳng nhằm mong mỏi chúng ta ai nấy đều có thể tin hiểu, ai nấy đều có thể niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đó là đại sự! Một lòng đau đáu, chân thật từ bi!

 

(Sớ) Dĩ chú phụ kinh, kinh đắc chú nhi di hiển, dĩ kinh tiên chú, chú đắc kinh nhi dũ linh, giao tương vi dụng, ưng kết thích dã.

()以咒附經,經得咒而彌顯,以經先咒,咒得經而愈靈,交相為用,應結釋也。

(Sớ: Dùng chú ghép vào kinh, kinh nhờ chú mà càng thêm rõ rệt. Do đặt kinh trước chú, chú nhờ kinh mà càng linh, sử dụng xen lẫn với nhau, cho nên phải giải thích thần chú để kết thúc [bản chú giải này]).

 “Dĩ chú phụ kinh” [nghĩa là] trước hết là giảng kinh, sau đấy, kèm thêm chú, chú ở phía sau kinh. “Kinh đắc chú nhi di hiển” (Kinh nhờ chú mà càng thêm rõ rệt), câu này nên nói như thế nào? Chúng ta ắt cần phải biết: Thuở đức Phật tại thế thuyết pháp là ứng theo căn cơ để nói. Nếu đức Phật nói với hàng sơ cơ (người mới học), đức Phật sẽ nói rất rõ ràng, rất đơn giản, hoàn toàn chẳng khó hiểu, khiến cho kẻ sơ cơ có thể tiếp nhận. Người căn khí to lớn, thông minh, trí huệ, có sức lãnh ngộ rất mạnh, đức Phật sẽ thuyết pháp khá thâm nhập. Nay chúng ta thấy đích xác là khá sâu, thường là chúng ta thấy rất khó lý giải, rất khó hiểu. Thông thường, khi nói đại kinh, trên thực tế, nhục nhãn của chúng ta chẳng thấy: Còn có những vị quỷ thần, thiên long bát bộ cũng tham dự pháp hội ấy. Đức Phật nói với chúng ta là hiển thuyết! Phải dùng ngôn ngữ của chúng ta để nói thì chúng ta mới nghe hiểu. Những vị quỷ thần đều có Ngũ Thông; do vậy, hàng quỷ thần đều có thể hiểu ngôn ngữ nhân gian. Họ cũng hết sức thích nghe đức Phật giảng kinh, thuyết pháp. Trong một bộ kinh, sau khi đã giảng viên mãn, đức Phật thường dùng chú. Chú ngữ hoàn toàn chẳng phải là tiếng Ấn Độ, mà cũng chẳng phải là tiếng Phạn. Trên thực tế, chú ngữ là ngôn ngữ của quỷ thần. Đức Phật nói mấy câu ấy, nhằm nói với những quỷ thần đến tham gia pháp hội, dùng ngôn ngữ của họ để nói mấy câu. Nói theo phía họ, [những câu ấy] hết sức thân thiết, có ý nghĩa này. Nội dung đã nói [trong mấy câu “chú” ấy] chính là cương lãnh trong kinh. Vì thế, chú chính là mật thuyết của kinh, kinh là hiển thuyết của chú, nội dung thật ra như nhau. Một đằng nói rất tỉ mỉ, một đằng là nêu ra cương lãnh, giống như giảng mấy đề mục, có ý nghĩa như thế đó. Mật chú trong kinh Phật bèn trở thành một loại thể lệ đặc biệt, trong văn học thông thường của Ấn Độ chẳng có.

Quỷ thần đối với những kẻ bình phàm như chúng ta mà nói thì có cảm ứng. Thiện thần có cảm ứng với con người, mà tà thần, ác quỷ cũng có cảm ứng với loài người. Trong ấy có cát, hung, họa, phước sai khác rất lớn. Sự cảm ứng ấy có phải là do niệm chú bèn có cảm ứng hay không? Niệm chú là một phương thức, nhưng chẳng phải là chủ yếu nhất. Điều chủ yếu, nói theo cách hiện thời, sẽ là “tâm điện cảm ứng”, còn ở Trung Hoa, vào thời cổ thì nói là “thành tắc linh”, [nghĩa là] chí thành sẽ linh. Trong cái lòng Thành ấy, rốt cuộc là thiện hay ác chẳng nhất định! Chỉ nói đến “thành” thì trong Thành chẳng có thiện hay ác, nhưng trên cơ sở lòng Thành, nguyện cầu của chúng sanh có thiện hay ác! Có người tâm địa rất từ bi, cầu thiện phước cho hết thảy chúng sanh. Cái tâm ấy là thiện lương. Có kẻ cầu quỷ thần chỉ nhằm cầu lợi ích cho chính mình, chẳng sợ tổn hại kẻ khác. Cái tâm ấy chẳng lành. Do vậy, lòng Thành có thể cảm chư Phật, Bồ Tát, mà cũng có thể cảm hết thảy thiện thần, cũng có thể cảm hết thảy ác thần. Sau khi đã cảm, trong sự nguyện cầu ấy bèn có thiện hay ác, có cát, hung, họa, phước. Chúng ta chớ nên chẳng biết điều này!

Kinh và chú hợp lại, cũng như là nói “Hiển Mật viên dung”. Vì thế, nghĩa thú của kinh phi thường “minh hiển”. “Hiển” là hiển lộ. Tuy nói như vậy cũng chẳng phải là nói sai, nhưng muốn thật sự nhằm hiển lộ ý nghĩa của kinh, mà nếu tâm chúng ta chẳng thành, sẽ chẳng thể hiển lộ được! Nếu quý vị hỏi vì sao ư? Câu “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” trong bài kệ khai kinh phải giải thích như thế nào? Chỉ là dùng suy nghĩ để hiểu, chẳng có cách nào đạt được. Chúng ta đọc nhiều, nghiên cứu nhiều, tư duy nhiều, có thể hiểu nổi hay chăng? Chẳng thể hiểu! Do nguyên nhân gì? Ngôn ngữ của Phật và hết thảy các kinh do đức Phật đã nói đều là từ trong chân tâm tự tánh tự nhiên lưu lộ, chẳng thêm vào mảy may phân biệt, tưởng tượng nào. Chúng ta dùng cái tâm phân biệt, dùng cái tâm suy xét, làm sao có thể thấu hiểu nghĩa chân thật cho được? Dụng tâm chẳng tương ứng! Giống như nguồn nước, nguồn nước của người ta là nước trong, nguồn nước của chúng ta là nguồn đục. Nước đục mong liễu giải nước trong, chảy vào nước trong, nước trong cũng biến thành đục. Nay chúng ta hiểu sai ý nghĩa chân thật của Như Lai, hiểu cong quẹo nghĩa chân thật của Như Lai, chẳng thể thật sự lý giải. Mong thật sự lý giải, dùng phương pháp gì? Tâm thanh tịnh. Phật tâm là thanh tịnh, tâm chúng ta cũng là thanh tịnh thì được, quý vị bèn lý giải, bèn thông hiểu ý nghĩa của Như Lai. Tâm giống như Phật tâm, giải giống như Phật giải, thì mới có thể tương ứng. Nói tóm gọn một câu, nhất định phải tu Định.

Trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ của Tịnh Tông, nửa trước dạy chúng ta ba đại cương lãnh của tu hành: “Thanh tịnh, bình đẳng, giác”. Đối với ba đại cương lãnh, chúng ta chỉ cần nắm được một điều là được rồi. Thí dụ như chúng ta tu tâm thanh tịnh, tâm đã thanh tịnh, đương nhiên là bình đẳng. Tâm chẳng bình đẳng, tuyệt đối chẳng thể thanh tịnh. Tâm chẳng thanh tịnh, chắc chắn chẳng thể nào giác. Ba điều ấy tuy một mà ba, tuy ba mà một. Dụng công từ bình đẳng cũng được, mà dụng công từ giác cũng được, nhưng đối với hàng phàm phu nghiệp chướng sâu nặng như chúng ta mà nói, dụng công từ cái tâm thanh tịnh sẽ thuận tiện hơn, dễ dàng hơn.

Tôi khuyên dạy mọi người: Nhập Phật môn, trước hết hãy đọc một bộ kinh suốt ba năm, hết thảy những thứ khác đều buông xuống. Vì sao phải làm như vậy? Nhằm tu cái tâm thanh tịnh. Niệm một bộ kinh, tâm dễ dàng thanh tịnh. Quý vị niệm nhiều, xem nhiều [bộ kinh khác nhau], tự nhiên sẽ suy nghĩ loạn xạ. Nói cách khác, lợi ích gì quý vị cũng đều chẳng đạt được! Phật môn nói tới công đức: “Công” (功) là công phu, “đức” (德) là đạt được cái tâm thanh tịnh, đạt được tâm bình đẳng, khai trí huệ. Giác là khai trí huệ. Trong tâm quý vị có lắm nỗi vọng tưởng, chấp trước, phân biệt ngần ấy, dẫu tu hành siêng khổ cách mấy, vẫn là phiền não một đống to đùng! Vọng tưởng một đống to kềnh! Hoàn toàn chẳng có trí huệ! Đó là “tu uổng công”, nói thật ra, sẽ là “tu hành chẳng đắc pháp”.

Đối với kẻ chẳng mong tu hành thật sự, chúng ta thấy họ bèn cười cho xong chuyện. Đối với kẻ thật sự muốn tu, họ đến gặp ta, ta sẽ dạy họ phương pháp. Hôm nay có mấy người bạn đến gặp tôi, trong đó, có một vị là Phật tử học Mật, cũng học chẳng ít năm, kể với tôi: “Vọng tưởng quá nhiều, phiền não quá nhiều, mong đè nén, nhưng chẳng đè nén được! Niệm chú cũng không được, niệm Phật cũng không được, xem kinh cũng không được. Nói huỵch toẹt là chẳng biết làm sao!” Tôi cười cho qua chuyện. Người ấy chẳng phải là chân tâm! Đến chỗ tôi, thấy cuốn sách này cũng thích, thấy tác phẩm kia cũng thích. Người ấy thích quá nhiều thứ! Thứ gì cũng đều chẳng buông xuống được. Đó chẳng phải là người chân tu. Người thật sự tu hành, không chỉ là hết thảy trong thế gian này đều buông xuống, [ngay cả] Phật pháp cũng phải buông xuống. Chọn một bộ kinh, thâm nhập một môn, từ một bộ kinh mà thành tựu Giới, Định, Huệ, thành tựu Căn Bản Trí. Đã đạt được Căn Bản Trí, sau đấy mới cầu giải. “Giải” ấy sẽ là chánh giải, chẳng trở thành hiểu cong quẹo, chẳng hiểu sai be bét! Quý vị chẳng có Căn Bản Trí, nói cách khác, tâm quý vị chẳng thanh tịnh. Đừng nói là quý vị xem kinh bèn hiểu cong vạy, mà quý vị đến nghe giảng cũng nghe hiểu sai bét ý nghĩa của tôi! Ngay cả ý nghĩa do tôi nói mà kẻ ấy còn hiểu sai, làm sao kẻ ấy chẳng hiểu sai be bét ý nghĩa của Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức cho được? Có thể thấy: Mấu chốt là ở chỗ dụng tâm.

Nếu muốn “kinh đắc chú nhi di hiển” (kinh nhờ có chú mà càng thêm rõ rệt), chúng ta nhất định phải tu học đúng pháp, phải tu cái tâm thanh tịnh chân thật. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ. Trong khá nhiều kinh luận, đức Phật đã giảng về tâm hạnh của mười pháp giới. Mười pháp giới dùng cái tâm gì? Tâm Phật là “thanh tịnh, bình đẳng”. Chúng ta mong học Phật, mong tu Tịnh Độ. Tịnh Độ là pháp môn để phàm phu trực tiếp thành Phật. Chúng ta đọc kinh, niệm Phật, nhằm mục tiêu niệm cho ra sự “thanh tịnh, bình đẳng, giác” nơi chính mình. Thanh tịnh, bình đẳng, giác vốn sẵn có, chẳng phải là do bên ngoài mà có, nó là chân tâm, là bản tánh. Tâm Bồ Tát là Lục Độ. Bồ Tát tuyệt đối chẳng có chính mình, sẽ không nghĩ tới “có chính mình”. Nếu nghĩ “có chính mình”, kẻ ấy chắc chắn chẳng phải là Bồ Tát. Kinh Kim Cang dạy: “Bồ Tát có ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức chẳng phải là Bồ Tát”, nói rất minh bạch. Bồ Tát quyết định chẳng có chính mình, khởi tâm động niệm đều nghĩ tới hết thảy chúng sanh.

Bồ Tát nhập thế, tiếp xúc đại chúng, nhất định là phù hợp nguyên tắc Lục Độ. “Bố thí, trì giới”, trì giới là vâng giữ pháp tắc. Bồ Tát nhất định sẽ tuân theo quy củ, nhất định sẽ nương theo phương pháp chánh xác để giáo hóa chúng sanh, chẳng bày ra những trò mới mẻ, lạ lùng! “Nhẫn nhục”: Quyết định có lòng kiên nhẫn. Nhẫn nhục độ sân khuể, nuôi dưỡng tâm từ bi, chẳng oán hận, chẳng báo thù. “Tinh tấn”, Tấn (進) là tiến bộ. Hằng ngày cầu tiến bộ. Tinh (精) là thuần, chẳng tạp, quyết định biểu hiện bằng thâm nhập một môn. Vì người ấy muốn dạy người khác, chính mình phải nêu gương, dạy kẻ khác tu một môn, mà chính mình tu rất nhiều môn, người khác nhìn vào sẽ dấy lòng ngờ vực. Thiền Định: Trong chẳng sanh phiền não, ngoài chẳng bị cảnh giới bên ngoài dụ dỗ, mê hoặc. “Bát Nhã” là lý trí, nay chúng ta nói là lý tánh. Người ấy chẳng dấy động cảm tình, hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, thấy hết thảy Sự Lý rõ ràng, rành rẽ. Bồ Tát quyết định phù hợp sáu nguyên tắc ấy.

Người thật sự tu hành, tâm biến đổi, tâm mỗi ngày một thanh tịnh hơn, ngày một từ bi hơn, ngày càng tăng trưởng trí huệ, phiền não nhẹ bớt. Trí huệ tăng trưởng, tướng mạo ngày càng viên mãn hơn, ngày càng tươi sáng hơn. Tướng chuyển theo tâm. Từ dung mạo và oai nghi của người ấy, có thể nhìn ra [những điều đó], chẳng phải là giả vờ, mà là tự nhiên. Nếu thấy người tu hành khoe là tu hành rất khá, mà thấy kẻ ấy mặt mũi tối om, oai nghi thiếu trang nhã, bèn biết: Dẫu người ấy hết sức dụng công, cũng là đã đi lạc đường, tu hành chẳng đúng pháp! Nếu thật sự khế nhập Phật pháp, xác thực là “phá mê, khai ngộ, lìa khổ, được vui”, sẽ ngày càng vui sướng hơn, mỗi năm một vui sướng hơn! Đó là người ấy thật sự đạt được pháp hỷ, công phu đắc lực. Nếu học Phật mà ngày càng khổ não hơn, hãy khéo kiểm điểm, phản tỉnh! Chẳng phải là Phật pháp sai lầm, mà là chính mình đã phạm sai lầm.

“Dĩ kinh tiên chú”: Trước là giảng kinh, sau lại nói chú. Đức Phật thuyết pháp trong nhân gian, đương nhiên là trước hết phải quan tâm đến loài người, sau đó mới chiếu cố quỷ thần. Trong nhân gian, [đức Phật thuyết pháp là] vì loài người mà thuyết pháp, quỷ thần tới nghe ké, là kẻ kèm theo. Nếu đức Phật thuyết pháp trên cõi trời, sẽ lấy chư thiên làm [đối tượng] chủ yếu.

“Chú đắc kinh nhi dũ linh” (Chú nhờ vào kinh mà càng linh). Chúng ta đọc kinh có hai cách đọc, [nhằm đạt tới] hai loại mục đích:

1) Loại thứ nhất là chúng ta cầu Căn Bản Trí. Đọc theo kiểu này là cung kính, mở quyển kinh ra, từ “như thị ngã văn” một mực niệm đến chữ cuối cùng là “tín thọ phụng hành”, chẳng đọc sai chữ nào, từng chữ rõ ràng, chẳng cần mong hiểu, cứ cung kính niệm, chẳng có vọng tưởng, chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng có hoài nghi. Đọc kinh kiểu đó là tu Định, tu Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là như kinh Bát Nhã đã nói: “Bát Nhã vô tri”. Chúng ta tu vô tri. Nếu khi đọc kinh, ngẫm nghĩ câu này nghĩa là gì, đoạn kia giải thích như thế nào, hỏng mất rồi. Mục đích đọc kinh đã bị phá hỏng, quý vị coi kinh điển như sách thế gian để đọc, chẳng đạt được hiệu quả. Vì chúng ta đọc kinh nhằm tu Định. Đọc một tiếng đồng hồ là tu Định một tiếng đồng hồ. Phương pháp để tu Định rất nhiều. Chẳng hạn như Thiền Tông là tĩnh tọa quán tâm, hoặc tham thoại đầu, Giáo Hạ dùng phương pháp đọc kinh. Tịnh Độ Tông có khi dùng đọc kinh, có khi dùng niệm Phật. Mật Tông trì chú, đều là những phương pháp để tu Căn Bản Trí. Phương pháp rất nhiều, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn. “Pháp” (法) là phương pháp, “môn”“môn kính” (門徑: đường nẻo, cửa ngõ), thảy đều là tu Định. Chúng ta chỉ cần chọn lấy một hoặc hai thứ, rất thích hợp với cách sống của chính mình trong hiện thời, chúng ta tu tập rất thuận tiện thì được rồi. Đọc kinh là tu Định, chẳng khác gì người ta tĩnh tọa trong Thiền đường, quyết định chớ nên có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, [hễ có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước] thì sai mất rồi! Chúng ta đọc trong hai tiếng đồng hồ tức là tu hai tiếng đồng hồ. Đó là phương pháp thứ nhất.

2) Phương pháp thứ hai, thâm nhập sâu hơn một tầng, chính là “tùy văn nhập quán”. Ắt cần phải là đã đắc Căn Bản Trí, đã đắc Định thì mới có năng lực này. Chẳng đắc Định, chẳng có năng lực này! Đã đắc Định, sẽ có năng lực dung hợp lý luận và cảnh giới do đức Phật đã giảng trong kinh với cái tâm của chính mình thành một Thể. Đọc kinh Di Đà, bèn đạt đến thế giới Cực Lạc, y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương cùng với thân tâm của chính mình dung hợp thành một khối. Cảnh giới ấy cao lắm, lợi ích hết sức to tát.

“Chú đắc kinh nhi dũ linh” (Chú nhờ có kinh mà càng linh): Chú là mật thuyết, kinh là hiển thuyết. Bất luận là kinh hay chú, thảy đều dung hợp với tâm và cảnh của chính mình thành một khối. Đấy là công phu chân thật. Tâm nguyện giải hạnh chẳng khác A Di Đà Phật, hoàn toàn dung hợp thành một khối. Đó là cách đọc thứ hai.

Hiện thời, chỉ sợ là đại đa số chúng ta cả hai cách đọc ấy đều chẳng có. Vì thế, quý vị học rất lâu, công phu chẳng đắc lực. Nguyên nhân ở chỗ nào? Chẳng biết dụng tâm, áp dụng sai phương pháp. Quý vị hãy nghe kinh, nghe một thời gian lâu dài. Mỗi lần nghe kinh đều nhằm nhắc nhở quý vị một lần, huân tập một lần. Có thể thấy là sức mạnh của phiền não tập khí quá lớn, một chút huân tập yếu ớt của chúng ta chẳng thể chống nổi! Cảnh giới vừa hiện tiền, ngay lập tức mê muội. Không chỉ là mê trong cảnh giới bình thường, đang trong khi đọc kinh cũng mê luôn, đang niệm Phật cũng mê, chuyện này khó lắm! Đại sư nói “giao tương vi dụng” tức là kinh và chú cùng phối hợp. Ý nghĩa này hết sức hay!

 

(Sớ) Thử chú tường kiến Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện.

()此咒詳見不思議神力傳。

(Sớ: Xem chi tiết về chú này trong Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện).

Đây là nêu ra xuất xứ của chú Vãng Sanh. Nó chẳng ở trong kinh Di Đà, mà cũng chẳng ở trong kinh Vô Lượng Thọ. Trong ba kinh Tịnh Độ đều chẳng có chú này. Nó xuất phát từ bộ sách Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện[114].

 

(Sớ) Trì thử chú giả, diệt tội vãng sanh, cố dĩ Bạt Nghiệp Chướng Sanh Tịnh Độ vi danh.

()持此咒者,滅罪往生,故以拔業障生淨土為名。

(Sớ: Người trì chú này sẽ được diệt tội, vãng sanh. Vì thế, lấy Bạt Nghiệp Chướng Sanh Tịnh Độ làm tên).

Đức Phật nói rất rõ ràng, rất minh bạch: Nếu chuyên tu pháp môn này, chuyên trì chú Vãng Sanh, xác thực là có thể diệt tội, xác thực là có thể được Phật tiếp dẫn, vãng sanh Tây Phương. Trong Ngũ Kinh Độc Bản của chúng ta có bao gồm cả chú này. Có lẽ chư vị đã xem thấy, kinh nói rất rõ ràng: Niệm chú Vãng Sanh ba mươi vạn lần, sẽ cảm được A Di Đà Phật hiện tiền. Trong quá khứ, tại đạo tràng của chúng ta, lão cư sĩ Trương Linh, bài hát Tổng Thống Kỷ Niệm Ca[115] do cụ viết lời. Hai vợ chồng cụ hằng ngày đều tới nghe tôi giảng kinh. Cụ thấy câu “niệm chú Vãng Sanh ba mươi vạn lần, sẽ cảm được Phật hiện tiền”, bèn nghiêm túc niệm mỗi ngày. Niệm đủ ba mươi vạn lần xong, cụ đến nói với tôi: “Pháp sư ơi! Chẳng linh! Đức Phật chẳng hiện tiền, cảm ứng gì cũng chẳng có”. Đấy là tạo tội rất nặng. Vì sao? Báng pháp! Chẳng phải là chú không linh, mà là do quý vị [trì niệm] chẳng đúng pháp.

Quý vị niệm chú này, trước hết phải hỏi có diệt tội hay không? Tội là gì? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, phiền não; đó là tội. Suốt ngày từ sáng đến tối miệng luôn niệm chú ngữ, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều chẳng sanh, tội bèn diệt. [Trì tụng] ba mươi vạn biến chú Vãng Sanh phải mất một thời gian khá dài. Trong thời gian dài ngần ấy, quý vị chẳng khởi một vọng niệm, kinh nói là “nhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo” thì mới hữu dụng, mới có cảm ứng. Vừa niệm chú Vãng Sanh, vừa dấy vọng tưởng, làm sao được? Đó là chẳng đúng pháp. Chư vị nhất định phải biết chỗ then chốt này. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Hai câu ấy nói rất hay, không chỉ là bí quyết tu hành của Tịnh Độ, mà bất luận tông phái nào, pháp môn nào, cũng đều chẳng thể lìa khỏi nguyên tắc này. Lìa khỏi nguyên tắc này, trái nghịch nguyên tắc này, tu học bất luận pháp môn nào cũng đều chẳng thể thành tựu!

Vô lượng pháp môn, đặc biệt là pháp môn Đại Thừa, mục đích là minh tâm kiến tánh. Lý nhất tâm bất loạn trong Tịnh Tông chính là minh tâm kiến tánh, sử dụng danh từ chẳng giống Thiền Tông, nhưng cảnh giới hoàn toàn giống nhau. Họ nói “đại triệt đại ngộ, kiến tánh thành Phật”, chúng ta nói “Lý nhất tâm bất loạn, vãng sanh cõi Thật Báo Trang Nghiêm”, đó chính là kiến tánh thành Phật. Có thể thấy nguyên lý giống nhau, nhất định phải làm được “tịnh niệm tiếp nối”, “tịnh” là tâm thanh tịnh. Lục Tổ của Thiền Tông có nói: “Vốn chẳng có một vật”. Trong tâm quý vị chẳng có một vật nào, cái tâm ấy chính là tâm thanh tịnh hiện tiền. Nếu quý vị hiểu lầm, trong tâm thứ gì cũng chẳng có, “thứ gì cũng chẳng có” chính là vô minh! Ngỡ vô minh là “vốn chẳng có một vật”, lại phạm sai lầm mất rồi! Chớ nên có mảy may hiểu lầm!

Tâm Phật thanh tịnh, xác thực là chẳng có ý niệm. Tuy Phật chẳng có ý niệm, nhưng Ngài chẳng có gì không hiểu rõ, đó gọi là “tịch tịch tinh tinh” (寂寂惺惺). “Tịch” là thanh tịnh, tịch diệt, “tinh” (惺) là chiếu soi rành mạch, chẳng có gì không hiểu rõ. Đấy mới là chân tâm. “Tịch” là chẳng rơi vào vọng tưởng, chẳng có vọng tưởng. “Tinh” là chẳng rơi vào vô minh. Chẳng rớt vào hai bên, đó là chân tâm. Bọn phàm phu chúng ta rất tệ, chẳng đọa vào bên vọng tưởng, bèn đọa vào bên vô minh. Đấy chính là nhân tố khiến cho công phu tu hành của chúng ta rất khó có thành tựu. Chúng ta đọc kinh chính là chiếu theo nguyên lý này để chọn lựa phương pháp tu hành. Ví như chúng ta niệm kinh Di Đà, kinh Di Đà chẳng dài. Chúng ta đọc kinh, đọc từng chữ phân minh, từng câu rành rẽ, chẳng rơi vào vô minh. Khi đọc kinh, chẳng có một tạp niệm, chẳng có một vọng tưởng, tâm địa thanh tịnh, tịch diệt, phương pháp ấy đã sử dụng đúng. Vì thế, đọc kinh chớ nên có phân biệt, chớ nên có vọng tưởng, chớ nên suy nghĩ ý nghĩa trong kinh. Điều này rất trọng yếu!

Đọc kinh là thật sự tu hành, là thật sự cúng dường. Còn có những kẻ mê hoặc, điên đảo, ngỡ ta đọc kinh là đọc cho Phật, Bồ Tát nghe; Phật, Bồ Tát thấy ta rất ngoan ngoãn, sẽ phù hộ ta. Ta hằng ngày niệm kinh cho Ngài nghe. Đấy là hồ đồ, sai lầm quá đỗi! Kinh do Phật, Bồ Tát nói, các Ngài còn phải nghe những thứ ấy hay sao? Các Ngài mới chẳng cần nghe! Vì thế, đây là một phương pháp tu hành hết sức hay, [thế mà] chúng ta chẳng biết dùng phương pháp này, hiểu sai phương pháp, cho nên hiệu quả đạt được thường là tương phản!

Vì thế, để diệt tội, phải hiểu tội là gì? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, phiền não là tội. Thật sự có hiệu quả là những thứ ấy bớt đi: Ít vọng tưởng, phiền não nhẹ bớt, đó là hiện tượng tội tiêu diệt. Sau khi niệm ba mươi vạn biến chú Vãng Sanh, tâm xác thực đạt tới mức độ khá thanh tịnh, chúng tôi thường nói: “Dẫu chẳng thể đạt đến nhất tâm bất loạn, tối thiểu cũng là công phu thành phiến”. Có công phu ấy, chắc chắn được vãng sanh. Kinh nói chẳng sai, nhưng chính mình chẳng biết dụng công. Hôm nay niệm một ngàn lần chú Vãng Sanh, ghi xuống, hôm nay ta niệm một ngàn lần, ngày mai ta phải niệm hai ngàn lần. Quý vị thấy: Niệm kiểu đó, trong tâm xen tạp vọng tưởng nhiều ngần ấy, xen tạp dục vọng nhiều ngần ấy, nhất là cái tâm cầu cảm ứng, tâm cầu thần thông tha thiết dường ấy. Kể ra người ấy còn may lắm, chưa gặp phải yêu ma, quỷ quái! Phàm những kẻ cầu thần thông, cầu cảm ứng, đều rất dễ bị ma nhiễu loạn, bị yêu ma quỷ quái tới lừa phỉnh! Diệt tội, vãng sanh, chú thật sự có công hiệu ấy, có công đức ấy!

 

(Sớ) Đà-la-ni giả, thử vân tổng trì dã.

()陀羅尼者,此云總持也。

(Sớ: Đà La Ni cõi này dịch là Tổng Trì).

“Đà La Ni” (Dhāraṇī) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Tổng Trì: “Tổng nhất thiết pháp, trì nhất thiết nghĩa” (Bao gồm hết các pháp, trì hết thảy các nghĩa), cũng chính là “cương lãnh” như chúng ta nói trong hiện thời. [Tổng trì] là cương lãnh của Phật pháp.

 

(Sao) Nghiệp chướng giả, phàm chướng hữu tam, nhất Phiền Não Chướng, nhị Nghiệp Chướng, tam Báo Chướng.

()業障者,凡障有三,一煩惱障,二業障,三報障。

(Sao: Nghiệp chướng: Phàm là chướng thì có ba: Một là Phiền Não Chướng, hai là Nghiệp Chướng, ba là Báo Chướng).

 Các đồng tu học Phật, nhất định phải hiểu rõ nghiệp chướng là gì? “Chướng” (障) là chướng ngại, chướng ngại gì vậy? Chướng ngại chân tâm, chướng ngại bản tánh. Chướng này cũng rất nghiêm trọng. Chướng là gì? Nghiệp là chướng. Nghiệp là gì? Nghiệp là sự nghiệp. Kẻ nào chẳng thích tạo sự nghiệp? Hy vọng sự nghiệp của chính mình càng to càng tốt. Sự nghiệp càng to, chướng cũng lớn, phiền não cũng lớn. Đời người ngày càng rất đáng thương! Hễ vào trường học hành thì nhà trường cho bài tập, phải làm xong bài tập[116]. Kể từ nhập học bèn bắt đầu làm bài tập, làm mãi cho đến chết vẫn làm không xong. Đó là tạo nghiệp. Con người vì sao chẳng thoát khỏi lục đạo luân hồi? Chính là vì họ đã tạo nghiệp chưa hề gián đoạn, dốc hết tánh mạng để tạo. Tạo thiện nghiệp, đầu thai trong ba thiện đạo; tạo ác nghiệp, thọ báo trong ba ác đạo, luân hồi trong lục đạo. Ngày nào chúng ta có thể chẳng tạo nghiệp, vậy là tốt.

Chiều nay còn có mấy đồng tu đến gặp tôi, họ đến đây lần đầu, [trong số ấy], có vị xuất gia lão tỳ-kheo-ni, rất phát tâm, chính mình ăn tiêu dè sẻn để đi khắp nơi, giúp người khác dựng chùa, bỏ tiền, ra sức. Bà ta cũng đã tám mươi bốn tuổi rồi. Tôi khuyên bà ta niệm Phật, chớ nên tạo nghiệp ấy nữa. Dựng chùa là tạo nghiệp ư? Quý vị hãy nghĩ xem có phải là tạo nghiệp hay không? Đài Loan có quá nhiều chùa, không cần dựng thêm nữa. Điều khẩn yếu là phải niệm Phật cầu vãng sanh! Không chỉ là chớ nên tạo ác nghiệp, mà thiện nghiệp cũng chớ nên tạo! Vì quý vị tạo tác, nói thật ra, dẫu tạo tác mà tâm địa vẫn thanh tịnh, thì chính là bậc Bồ Tát tái lai, chẳng phải là phàm phu. Vào thời cổ, tại Trung Hoa, các đạo tràng được kiến lập, thưa cùng chư vị, chẳng phải là do phàm phu tạo dựng, mà đều là do Phật, Bồ Tát, A La Hán hóa thân kiến tạo. Phàm phu là tạo nghiệp, làm sao có thể thoát khỏi tam giới cho được? Làm sao có thể liễu sanh tử cho được? Chư Phật, Bồ Tát “làm mà không làm, không làm mà làm”, các Ngài đến tạo lợi ích cho chúng sanh, đến giúp đỡ chúng sanh. Do vậy, [tạo dựng đạo tràng] đều do Phật, Bồ Tát ứng hóa mà đến. Nay bản thân chúng ta là phàm phu, chẳng phải là Phật, Bồ Tát tái lai! Học theo sự nghiệp của Phật, Bồ Tát, chúng ta sẽ hỏng bét!

Vị lão tỳ-kheo-ni ấy đã tám mươi bốn tuổi, tu hành hết sức nghiêm túc, buổi sáng vẫn thức dậy rất sớm. Chính mình còn làm duy-na, âm thanh xướng tụng vẫn còn sang sảng, đúng là khó có. Hôm nay, tôi gặp bà ta rất hoan hỷ, tám mươi mấy tuổi mà có thân thể khỏe mạnh dường ấy, rất khó có! Bà ta bảo tôi: Nhất tâm mong cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng cháu của bà chẳng ít, chẳng buông xuống được, vẫn bận lòng vì đứa này, lo lắng cho đứa nọ. Còn có đứa ở ngoại quốc, thường hỏi thăm tình hình hiện tại ra sao. Trong tâm vướng mắc những chuyện ấy. Hôm nay, tôi bảo bà ta: “Đó là nghiệp chướng, toàn là ma, là ma chướng, khiến cho bà chẳng thể vãng sanh!” Bà ta hỏi: “Làm như thế nào?” [Tôi đáp]: “Hãy buông xuống, chẳng cần lo cho chúng nó. Bà hãy nhất tâm, nhất ý niệm Phật cầu về Tây Phương Cực Lạc thế giới”. [Bà ta than]: “Chẳng bỏ con cháu được”. Tôi nói: “Bà tới thế giới Tây Phương thì bà là Bồ Tát. Con cháu của Bồ Tát sẽ được Bồ Tát chiếu cố, sẽ có thần hộ pháp che chở, chiếu cố chu đáo hơn bà nhiều lắm! Nếu bà chẳng thể vãng sanh, sẽ phải luân hồi trong lục đạo. Con cháu bà ai cũng chẳng chiếu cố được, mà chính bà cũng chẳng có cách nào cả!” Hôm nay, bà ta nghe hiểu rồi, rất hoan hỷ rời đi. Tôi nói toàn lời thật với bà ta! Vì thế, [nghiệp chướng chính là do] đã nghĩ sai, đã làm sai. Há có quyến thuộc của vị Phật, Bồ Tát nào mà chẳng có ai chiếu cố? Chẳng có lẽ ấy! Kẻ tạo tội nghiệp cực nặng, còn có thần hộ pháp chiếu cố. Nhà Phật thường nói: “Một đứa con thành Phật, tổ tiên chín đời sanh lên trời”, toàn là lời thật, chẳng phải là gạt người! Quý vị mong thật sự chiếu cố người nhà, quyến thuộc của chính mình, biện pháp tốt đẹp duy nhất là nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ, gặp A Di Đà Phật, chuyện gì cũng đều được giải quyết! Nếu quý vị chẳng thể sanh về Tịnh Độ, những vấn đề của quý vị sẽ tuyệt đối chẳng phải là tưởng tượng, quý vị phải hao tâm tổn trí giải quyết. Học Phật phải có trí huệ.

Nghiệp chướng có ba loại lớn. Nói thật ra, nghiệp chướng vô lượng vô biên. Ba loại lớn ấy chính là Hoặc, Nghiệp, Khổ như kinh thường nói. “Hoặc” (惑) là mê hoặc, “Nghiệp” (業) là tạo tác, “Khổ” (苦) là thọ báo. Tam Chướng là Phiền Não Chướng, Nghiệp Chướng và Báo Chướng. Đối với phiền não, chúng ta không nói những cái nhỏ nhiệm, mà nói những phiền não thô. Phiền não nhỏ nhiệm rất khó hiểu! Phiền não thô là hai mươi sáu loại phiền não được nói trong Bách Pháp Minh Môn Luận, [bao gồm] sáu Căn Bản Phiền Não và hai mươi Tùy Phiền Não. Hai mươi sáu phiền não ấy tạo thành lục đạo luân hồi. Nếu hai mươi sáu món phiền não ấy đều đoạn, chẳng còn nữa, lục đạo luân hồi sẽ chẳng có! Đừng nói quý vị phải thoát ra như thế nào, tới khi đó, lục đạo luân hồi cũng tìm chẳng thấy! Vì thế, cái có thể tạo ra lục đạo luân hồi chính là hai mươi sáu món phiền não ấy. Do đó, phiền não là chướng; trong có phiền não, bên ngoài bèn tạo tác. Đọc bài kệ sám hối trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, [ta thấy] tạo những gì? Thân, ngữ, ý. Động tác nơi thân thể là tạo tác; nơi miệng là ngôn ngữ, nơi ý là ý niệm. Khởi tâm động niệm là ý đang tạo nghiệp, nói năng là khẩu đang tạo nghiệp, động tác nơi thân thể là thân tạo nghiệp. Phiền não biểu hiện, tỏ lộ qua thân, ngữ, ý nghiệp, khởi tác dụng. Thân, ngữ, ý là công cụ để phiền não tạo nghiệp, chúng ta phải biết điều này. Chúng ta thời thời khắc khắc phải  cảnh  giác, nương  theo  những  điều  đức  Phật  răn  dạy, chẳng tạo ác nghiệp, đó là tốt.

Đã có tạo tác, sau đó, nhất định là có quả báo. Thiện nhân sẽ có thiện quả, tức ba thiện đạo. Ác nhân nhất định có ác báo, là tam đồ, tức địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Từ đời đời kiếp kiếp trong vô lượng kiếp đến nay, chúng ta đều chẳng có cách nào lìa thoát luân hồi, đều trôi lăn trong lục đạo. Lại còn mỗi đời sau thua kém đời trước. Ở trong lục đạo, giống như con ốc một mực xoáy xuống dưới, càng ngày càng thấp hơn, chẳng thể vặn lên trên. Do nguyên nhân nào? Chúng ta tạo ác nghiệp nhiều hơn thiện nghiệp, từ đời này sang đời kia tích lũy lại, càng chìm đắm sâu hơn, chẳng thể nổi lên trên! Đối với sự thật này, chỉ cần chúng ta lắng lòng suy nghĩ đôi chút, suy ngẫm, chẳng cần nghĩ ngợi xa xôi, chỉ nghĩ mỗi ngày từ sáng đến tối, ta khởi tâm động niệm, dấy lên bao nhiêu thiện niệm? Dấy lên bao nhiêu ác niệm? Quý vị biết ngay! Thiện niệm là gì? Ác niệm là gì? Vì hết thảy chúng sanh, vì đại chúng trong xã hội mà tạo lợi ích thì chính là thiện niệm. Vì chính mình, vì cá nhân, vì gia đình ta, đó là ác niệm. Quý vị khởi lên ý niệm, rốt cuộc ý niệm nào nhiều? Ý niệm vì chính mình nhiều, nói cách khác, quý vị ngày càng đọa xuống, chẳng phải là nổi lên trên! Điều này cho thấy lục đạo luân hồi đáng sợ, thật sự đáng sợ! Chúng ta ở trong lục đạo mỗi đời một kém hơn, mỗi đời một khổ hơn. Đó là chân tướng sự thật, chẳng thể nào không biết!

 

(Sao) Kim ngôn Nghiệp Chướng.

()今言業障。

(Sao: Nay nói đến Nghiệp Chướng).

Rõ ràng là Tam Chướng, Ngài chẳng nói “bạt trừ Tam Chướng, sanh Tịnh Độ”, chỉ nói “bạt trừ Nghiệp Chướng”.

 

(Sao) Tắc trung nhiếp tiền hậu.

()則中攝前後。

(Sao: Vì cái chướng chính giữa bao gồm chướng trước và sau nó).

Trong Tam Chướng, Nghiệp Chướng ở chính giữa. Chẳng có phiền não, sẽ không thể tạo nghiệp. Chẳng tạo nghiệp, sẽ chẳng có báo. Do vậy, Nghiệp Chướng ở chính giữa, liên quan đến [hai loại] chướng trước và sau nó. Nói theo nhân, duyên, quả, thì nghiệp là nhân, báo là quả, phiền não là duyên. Cái liên quan mật thiết với quả báo thì gọi là Nhân, cái liên quan gián tiếp bèn gọi là Duyên. Quan hệ giữa nghiệp và quả báo mật thiết nhất, chứ phiền não còn cách biệt một tầng. Giống như cha con, cha là nhân, ông nội là duyên, xa hơn một chút! Đối với Tam Chướng, nói đến Nghiệp Chướng là hợp lý nhất.

 

(Sao) Phiền não giả nghiệp chi nhân, báo giả nghiệp chi quả dã. Nghiệp tất hữu nhân, nghiệp tất chiêu quả, cố nhiếp nhị chướng.

()煩惱者業之因,報者業之果也,業必有因,業必招果,故攝二障。

(Sao: Phiền não là nhân của nghiệp, báo là quả của nghiệp. Nghiệp ắt có nhân, nghiệp ắt chuốc lấy quả. Vì thế, Nghiệp Chướng bao gồm hai thứ chướng kia).

Nói một mình Nghiệp Chướng là đã bao gồm phiền não trước đó và quả báo sau đó.

 

(Sao) Trừ chướng quý trừ kỳ bổn, như căn tuyệt bất sanh nha. Nha bất sanh, tắc chi, diệp, hoa, quả tất bất sanh cố.

()除障貴除其本,如根絕不生芽,芽不生,則枝葉華果悉不生故。

(Sao: Trừ chướng quý ở chỗ trừ tận gốc, như rễ đã đứt chẳng thể nẩy mầm. Mầm chẳng nẩy thì cành, lá, hoa, quả ắt chẳng sanh nữa).

“Trừ chướng”: Có kẻ trừ nơi cành lá, có người trừ nơi cội rễ, tùy thuộc căn tánh của mỗi người. Bậc thượng thượng căn, hàng lợi căn, biết tu từ căn bản, biết đổ công dốc sức từ căn bản. Kẻ căn cơ trung hạ chẳng hiểu rõ đạo lý này, cũng chẳng có cách nào tu từ căn bản. Đức Phật bèn dạy họ tu từ nơi cành lá. Ví như chúng ta thấy một cái cây, chúng ta chẳng muốn cái cây ấy. Người thông minh trừ tận gốc rễ, đào rễ lên, cây đã được bỏ đi rồi. Người ngốc nghếch bèn vặt từng chiếc lá, sau đó, xén từng cành, từng nhánh, cuối cùng mới dần dần trừ tận gốc rễ cây ấy. Quý vị nói xem: [Có phải là] tốn lắm công sức, tốn nhiều thời gian hay không? Trong Phật pháp gọi chuyện này là “tiệm tu”. Tiệm tu là dùng phương pháp này, đổ công dốc sức nơi cành, lá.

Phương pháp tu hành ở mức độ cao là đổ công dốc sức nơi căn bản. Thiền là từ căn bản. Thiền có hai hệ phái lớn: Thần Tú và Huệ Năng đại sư. Đối tượng tiếp dẫn của Thần Tú đại sư là người căn tánh Đại Thừa, vẫn là từ cành, nhánh. Lục Tổ Huệ Năng đại sư tu tập từ căn bản, Ngài tiếp dẫn bậc thượng thượng căn. Tịnh Độ Tông là tu từ căn bản, phải biết điều này. Mật Tông có kẻ tu từ căn bản, mà cũng có kẻ tu từ cành, lá, cho nên thành tựu khác nhau. Tịnh Tông thì bất luận thuộc loại căn tánh nào, thảy đều là tu từ căn bản. Vì sao? Một câu A Di Đà Phật là căn bản của căn bản; bậc thượng căn dùng phương pháp này, kẻ hạ căn cũng dùng phương pháp này. Văn Thù, Phổ Hiền dùng phương pháp này; chúng sanh trong địa ngục A Tỳ cũng dùng phương pháp này. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuy có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm, có thể nói là về Lý thì có, nơi Sự chẳng có! Quý vị xem kinh Vô Lượng Thọ bèn biết: Nơi Sự là bình đẳng. Thế giới Tây Phương là một thế giới bình đẳng, bình đẳng nơi Sự. Trong thế giới này, mỗi người cao hay thấp khác nhau, tướng mạo cũng không giống nhau. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vóc dáng như nhau, tướng mạo hoàn toàn như nhau, đều như A Di Đà Phật. Kinh Vô Lượng Thọ đã giảng chuyện này rành mạch, rõ ràng.

Thế giới ấy gọi là thế giới bình đẳng, bốn cõi, ba bậc, chín phẩm là sự bất bình đẳng nơi lý luận, trên sự thật là bình đẳng. Vì sao bình đẳng nơi Sự? Do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Nói thật thà, chúng ta đới nghiệp vãng sanh, chẳng đoạn phiền não, làm sao có thể bình đẳng cho được? Quyết định là chẳng thể bình đẳng, nhưng do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì [mà bình đẳng], chuyện này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, trong mười phương hết thảy các cõi Phật đều chẳng có chuyện này. Chúng ta gặp gỡ pháp môn này, nhất định phải trân quý. Nếu đời này bỏ lỡ, mong sau này lại được gặp gỡ, đó là chuyện hết sức khó có, đúng là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ! Do đó, trừ chướng phải trừ tận gốc.

 

(Sao) Kim thử chú trì chi, tắc phiền não bất khởi, thị bạt nghiệp chướng căn bản dã.

()今此咒持之,則煩惱不起,是拔業障根本也。

(Sao: Nay trì chú này, phiền não chẳng khởi, đó chính là dẹp trừ căn bản của nghiệp chướng vậy).

Trì chú, quý vị phải hiểu: Nếu chú này thật sự dằn ép vọng tưởng, tạp niệm của chính mình, thì gọi là “trì chú”. Đó là công phu đắc lực. Nếu vừa niệm chú Vãng Sanh, vừa dấy vọng tưởng, đừng nói là ba mươi vạn lần, dẫu ba trăm vạn lần, hoặc ba ngàn vạn lần cũng đều vô dụng. Cổ nhân bảo: “Gào toác cổ họng vẫn uổng công”. Vô dụng! Vì sao? Quý vị trì chẳng đúng pháp, chẳng biết dụng tâm! Tu học trong Phật pháp, bất luận pháp môn nào, bất luận tông phái nào, điều khẩn yếu nhất là biết dụng tâm, điều này rất trọng yếu! Chẳng biết dụng tâm, bắt chước hình thức, đó là chẳng sát thực tế, chẳng thể thành tựu. [Bởi lẽ], chỉ có bề ngoài, chẳng có nội dung thực tế! Phật pháp nhấn mạnh thực chất, nói thật ra, hoàn toàn chẳng coi trọng bề ngoài!

 

(Sao) Như truyện ngôn.

()如傳言。

(Sao: Như trong truyện có nói).

Bất Tư Nghị Thần Lực Truyện đã nói.

 

(Sao) Nhật dạ các trì tam thất biến.

()日夜各持三七遍。

(Sao: Ngày đêm đều trì hai mươi mốt lần).

“Tam thất” là hai mươi mốt lần.

 

(Sao) Diệt Ngũ Nghịch báng pháp đẳng tội, thị dã.

()滅五逆謗法等罪,是也。

(Sao: “Diệt các tội như Ngũ Nghịch, báng pháp” v.v… là như vậy đó).

 Thường có những đồng học thấy những câu này, trong tâm sanh ngờ vực. Chú Vãng Sanh chẳng dài, mỗi ngày buổi sáng niệm hai mươi mốt lần, buổi tối niệm hai mươi mốt lần, chẳng khó! Tội Ngũ Nghịch, báng pháp cực nặng, đọa trong địa ngục A Tỳ, làm như vậy mà có thể diệt tội ư? Có thật hay chăng? Quý vị nói thử xem: Thật hay giả? Quý vị có thể thử xem. Cư sĩ Trương Linh niệm ba mươi vạn lần, chẳng có hiệu quả! Đức Phật nói chẳng sai! Tôi vẫn nói một câu: “Chúng ta hiểu sai bét ý nghĩa chân thật của Như Lai”.

Đối với khóa tụng sáng tối, tôi cũng đã nói rất nhiều lượt. Dụng ý của khóa tụng sáng tối nhằm nhắc nhở chúng ta: Ngày hôm nay, chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác, phải tuân thủ giáo huấn của Phật, Bồ Tát. Sáng sớm là nhắc nhở, khóa tối là phản tỉnh. Ngày hôm nay, ta đã làm được chỗ nào, chỗ nào chẳng làm được. Làm được thì phải tiếp tục gìn giữ. Chẳng làm được, ngày mai phải sửa đổi. Đấy mới gọi là “tu tập công khóa sáng tối”. Chẳng phải là buổi sáng niệm kinh chú một lần cho Phật, Bồ Tát nghe, buổi tối lại niệm một lần nữa cho các Ngài nghe, căn bản là chẳng liên quan gì tới ngôn ngữ, tạo tác, tư tưởng và hành vi của bản thân chúng ta! Tụng niệm công khóa sáng tối kiểu đó, nói thật ra là có tội lỗi. Tội lỗi gì vậy? Buổi sáng lừa Phật, Bồ Tát một lần; buổi tối lừa lần nữa. Hằng ngày lừa gạt Phật, Bồ Tát, tội lỗi ấy nặng nề!

Nếu quý vị hiểu rõ ý nghĩa này, biết thực hiện công khóa sáng tối như vậy, buổi sáng niệm hai mươi mốt biến Vãng Sanh Chú đến mức thân tâm thanh tịnh, phải gìn giữ sự thanh tịnh ấy suốt cả ngày. Chẳng phải là niệm xong bèn hết chuyện. Đó mới gọi là “trì chú Vãng Sanh”. Quý vị đã học mà chẳng thể vận dụng trong cuộc sống hằng ngày, học kiểu đó vô dụng, phải học sao cho có thể áp dụng được. Khóa tối lại niệm hai mươi mốt lần, đêm nằm mộng chẳng điên đảo. Ngày đêm thân tâm thanh tịnh, ba mươi vạn lần như vậy, lẽ nào người ấy chẳng vãng sanh? Lẽ đâu người ấy chẳng tiêu tội nghiệp? Do vậy, chẳng phải là Ngài (đức Phật) [dạy] sai, mà là do chúng ta hiểu sai bét ý nghĩa. [Cứ tưởng bở] “buổi sáng niệm hai mươi mốt lần, buổi tối cứ niệm hai mươi mốt lần là đủ rồi, dẫu tạo tác tội Ngũ Nghịch báng pháp cũng chẳng sao cả! Do ta niệm hai mươi mốt lần chú Vãng Sanh, tội ấy sẽ tiêu tan!” Sai lầm quá đỗi! Đó là đại tà kiến.

Kinh chú và Phật hiệu xác thực là có công đức và oai thần chẳng thể nghĩ bàn. Nói thật ra, người tu hành chúng ta đều hiểu sai ý nghĩa, toàn làm theo hình thức, làm bề ngoài, chẳng nghiêm túc và đổ công dốc sức nơi tâm địa trên thực tế. Nếu thật sự dụng công nơi tâm địa, nói thật ra, sẽ thâu hoạch chẳng có cách nào hình dung được! Do vậy, lợi ích chân thật trong Phật pháp chẳng phải là đạt được trong tương lai, mà là đạt được ngay trong hiện tại! Quý vị hoàn toàn chuyển biến cảnh giới, tuyệt đối chẳng giống như trong quá khứ khi chưa học Phật, mà cũng chẳng giống hết thảy mọi người trong thế gian này; xác thực là đã khế nhập cảnh giới ứng hóa trên thế gian của Phật, Bồ Tát. Ở trong thế gian này, hòa quang đồng trần với mọi người, du hý thần thông, sung sướng khôn sánh! Tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, sung sướng lắm! Đó là sự hưởng thụ chân thật. Quý vị chẳng nhập cảnh giới, sẽ chẳng đạt được lợi ích ấy, mà cũng chẳng đạt được niềm hoan hỷ ấy. Do đó, đọc kinh, niệm chú Vãng Sanh, hay niệm danh hiệu A Di Đà Phật đều được, [nghĩa là] đều có thể đạt tới cảnh giới ấy, tức là quý vị phải biết dụng công, tu hành đúng lý, đúng pháp. Phải hiểu lý luận và đạo lý được nói trong kinh điển, phải tương ứng với Lý. Chúng ta phải hiểu rõ những phương pháp đã dạy trong kinh điển, phải thực hiện được, phải tương ứng với pháp, quý vị mới có thể đạt được lợi ích và công đức chân thật trong Phật pháp.

 

(Sao) Đắc sanh Tịnh Độ giả, luân hồi Sa Bà, giai diêu nghiệp chướng.

()得生淨土者,輪迴娑婆,皆繇業障。

(Sao: “Được sanh về Tịnh Độ”: Luân hồi Sa Bà, đều do nghiệp chướng).

Hiểu cái nhân sanh tử luân hồi ở chỗ nào? “Nhân” (因) là tạo nghiệp. Vì sao có thể tạo nghiệp? Vì có phiền não. Tạo nghiệp, sau đấy mới có quả báo luân hồi trong lục đạo. Nếu nghiệp chướng đã không còn, đương nhiên là phiền não cũng chẳng có. Phiền não vẫn còn, chắc chắn là nghiệp chướng chẳng rỗng không! Vì thế, để tiêu nghiệp chướng, nhất định là phải đoạn phiền não. Phiền não đã đoạn, nhất định là sẽ tiêu nghiệp chướng.

 

(Sao) Nghiệp chướng ký không, uế độ chủng diệt.

()業障既空,穢土種滅。

(Sao: Nghiệp chướng đã rỗng không, hạt giống của uế độ bèn diệt).

“Uế độ” là lục đạo luân hồi. Chủng tử lục đạo luân hồi chẳng có, cái nhân của lục đạo luân hồi chẳng có, đương nhiên là hiện tượng của quả báo lục đạo luân hồi chẳng có. Vĩnh Gia đại sư nói: “Giác hậu, không không vô đại thiên” (Giác rồi ba cõi rỗng toang hoang). “Đại thiên” là lục đạo.

 

(Sao) Tùy nguyện vãng sanh.

()隨願往生。

(Sao: Tùy nguyện vãng sanh).

Vãng sanh nhất định là thuận theo nguyện vọng của chính mình, mong nhất định đạt tới Tây Phương Cực Lạc thế giới.

 

(Sao) Cố đắc sanh A Di Đà Phật Cực Lạc quốc độ.

()故得生阿彌陀佛極樂國土。

(Sao: Vì thế, được sanh về cõi nước Cực Lạc của A Di Đà Phật).

 Đây là nói nghiệp chướng của quý vị tiêu trừ, nhất định được vãng sanh. Chư vị phải ghi nhớ, ở đây là nói theo Mật Chú, nhưng những điều được dạy trong phần kinh văn trước đó cũng tuân theo nguyên tắc này. Vì thế, chúng ta niệm Phật có thể vãng sanh hay không? Niệm Phật, nghiệp chướng đã tiêu trừ thì mới có thể vãng sanh. Đối với chuyện “đới nghiệp vãng sanh”, cổ đại đức đã giải thích rất rõ ràng. Trong Ấn Quang Đại Sư Văn Sao cũng giảng rất rõ ràng: Mang theo nghiệp quá khứ, chẳng thể mang theo nghiệp hiện tại. Trong quá khứ, do chẳng học Phật, nên không biết. Đã tạo nghiệp vẫn có thể tha thứ, quý vị có thể mang theo được. Đã học Phật, biết đó là chuyện xấu mà vẫn cứ làm, chẳng thể chấp nhận được, mà cũng chẳng thể mang theo nghiệp ấy được! Chỉ có thể mang theo nghiệp cũ, chẳng thể mang theo nghiệp mới. Chư vị nhất định phải biết điều này.

Đấy là chỗ thù thắng của pháp môn này so với hết thảy các pháp môn khác. Nói thật ra, trong những pháp môn khác, ngay cả nghiệp quá khứ cũng chẳng thể mang theo. Nhất định là phải tiêu trừ sạch sành sanh thì mới có thể thoát khỏi tam giới. A La Hán thoát khỏi tam giới, Tứ Quả A La Hán đoạn sạch Kiến Tư phiền não, cũng có nghĩa là hai mươi sáu loại phiền não được nói trong Bách Pháp Minh Môn thảy đều đoạn tận, Ngài mới có thể vượt thoát lục đạo luân hồi. Do Trần Sa phiền não và Vô Minh phiền não đều chưa phá, cho nên Ngài chưa thể kiến tánh. Đối với pháp môn này, chúng ta chẳng cần đoạn hết Kiến Tư phiền não, chỉ cần đoạn trừ hiện hành là được rồi. Hiện hành là gì? Nay chẳng phát khởi, thế là được rồi! Chứ nay vừa niệm Phật, vừa phát tác [những phiền não], vô dụng! Chư vị phải ghi nhớ điều này, quyết định chẳng để cho [các phiền não] dấy lên hiện tiền. Hiện thời, nhất định là phải tu thân tâm thanh tịnh. Chuyện này rất khẩn yếu, nó chính là mấu chốt khiến cho chúng ta trong một đời này niệm Phật có thể vãng sanh hay không?

 

(Sao) Tổng trì giả, tổng thống nhiếp trì, cánh vô di thất, tức chú chi biệt danh dã.

()總持者,總統攝持,更無遺失,即咒之別名也。

(Sao: “Tổng trì”: Bao gồm, duy trì hết thảy, trọn chẳng để sót mất. Đấy chính là tên gọi khác của Chú).

Chú còn gọi là Tổng Trì. Đấy chính là ý nghĩa của chữ Đà La Ni.

 

(Sao) Truyện danh Bất Tư Nghị Thần Lực giả, tức kinh danh Bất Tư Nghị Công Đức dã.

()傳名不思議神力者,即經名不思議功德也。

(Sao: Truyện có tên là Bất Tư Nghị Thần Lực, tức là nói đến trong danh hiệu của kinh có chữ “công đức chẳng thể nghĩ bàn”).

Kinh này (kinh Di Đà) là Bất Tư Nghị Công Đức Kinh, nên chú Vãng Sanh cũng là Bất Tư Nghị Thần Lực Chú.

 

(Sao) Trì chú, trì danh, tức đắc vãng sanh, cố đồng danh Bất Tư Nghị.

()持咒持名,即得往生,故同名不思議。

(Sao: Trì chú hay trì danh bèn được vãng sanh, nên cùng gọi là Bất Tư Nghị).

Chú, nói thật ra, là mật thuyết của kinh, có thể nói là tông chỉ và nghĩa thú hoàn toàn giống như kinh. Hôm nay chúng tôi nói đến chỗ này.

 

Tập 287

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu trăm lẻ tám:

 

Tống Nguyên Gia Thiên Trúc Tam Tạng Cầu Na Bạt Đà La dịch.

宋元嘉天竺三藏求那跋陀羅譯。

(Đời Tống, trong niên hiệu Nguyên Gia, Tam Tạng Cầu Na Bạt Đà La người xứ Thiên Trúc dịch).

Trong kinh Phật, điều này được gọi là “nhân đề” (人題). Vì kinh Phật do đức Thế Tôn giảng tại Ấn Độ trong thuở ấy; về sau, các đệ tử của Ngài dùng văn tự ghi chép lại, trở thành kinh điển. Những bản ghi chép nguyên thủy đều dùng tiếng Phạn (Sankrit) để viết. Tiếng Phạn là cổ văn Ấn Độ. Sau khi được truyền đến Trung Hoa, nhất định là phải dịch sang tiếng Hán thì mới có thể lưu thông tại Trung Hoa. Do vậy, mỗi bộ kinh đều có “phiên dịch nhân đề”, [tức là] do người nào phiên dịch. Ở chỗ này, chúng ta ắt cần phải hiểu: Phiên dịch kinh Phật là công sức trước tác tập thể, chẳng phải do một người nào đó phiên dịch. Phật pháp truyền đến Trung Hoa là do chính quyền Trung Hoa vời thỉnh. Vào thời cổ, đế vương sai đặc sứ sang Tây Vực thỉnh vời cao tăng đại đức đến Trung Hoa. Vì thế, sau khi các Ngài đã tới Trung Hoa, bèn được đãi ngộ cao nhất bằng phương cách lễ ngộ. Đế vương Trung Hoa dùng lễ quốc sư đối với các vị ấy, [tức là coi các Ngài là] “thầy của đế vương”. Dùng lễ nghi ấy để tiếp đãi, hết sức long trọng. Vì đế vương tôn trọng hàng xuất gia như vậy, tục ngữ thường nói là “thượng hành, hạ hiệu” (trên hành, dưới làm theo), thần dân thấy đế vương tôn trọng người xuất gia dường ấy, dân chúng và quan viên văn võ bèn đặc biệt tôn trọng [người xuất gia]. Do đó, tại Trung Hoa, Phật giáo có địa vị rất cao tột!

Phiên dịch kinh điển có tổ chức, giống như hội đồng phiên dịch do quốc gia thành lập trong hiện thời. Đã thế, tổ chức ấy khá to lớn, dùng tài lực của quốc gia và nhân lực toàn quốc để duy trì. Gần như các vị chuyên gia ngữ văn, những học giả thế gian và xuất thế gian thuở ấy đều tham gia công tác phiên dịch. Nhưng tựa đề kinh chỉ ghi tên một vị, vị ấy chính là “chủ tịch” của viện dịch kinh, giống như hiệu trưởng trong một trường học, dùng vị ấy làm đại biểu. Đừng nên nghĩ bộ kinh này chỉ do [một mình] Ngài phiên dịch, mà là do dịch trường của Ngài phiên dịch, [hiểu như vậy] là đúng. Sử truyện ghi chép khá cặn kẽ dịch trường của La Thập đại sư, kinh Di Đà do Cưu Ma La Thập đại sư phiên dịch. Dịch trường của La Thập đại sư có hơn bốn trăm người, có thể thấy là biên chế của cơ cấu ấy khá to lớn. Dịch trường của Huyền Trang đại sư đời Đường quy mô còn to hơn nữa, có hơn sáu trăm người!

Nhìn lại chúng ta trong hiện thời. Hiện thời vì giao thông phát triển, thông tin phát triển, gần như toàn thể địa cầu biến thành một khu vực. Chỗ nào phát sanh một tí sự việc, chúng ta lập tức biết ngay. Địa cầu thu nhỏ, mối quan hệ giữa con người với nhau, mối quan hệ giữa các quốc gia trở nên ngày càng mật thiết. Mối quan hệ giữa nước này với nước kia đúng là giống như xóm giềng. Nếu muốn thật sự đạt tới thế giới hòa bình, cùng tồn tại phát triển, chỉ có cách trao đổi văn hóa thì mới có thể kiến lập một nhận thức chung, mà cũng là [hình thành] một quan niệm cộng đồng. Dựa trên quan niệm ấy thì mới có thể đạt tới sự tồn tại phát triển chung, đối xử hòa thuận với nhau. Nếu không chú trọng phương diện này, thế giới loạn lạc, chúng sanh khổ sở là chuyện chắc chắn chẳng thể tránh khỏi! Xét theo nền văn hóa của toàn thể thế giới, Phật giáo là một mắt xích rất trọng yếu. Kinh điển trên thế giới hiện thời, có kinh điển bằng tiếng Hán hoàn chỉnh, kinh điển bằng tiếng Tây Tạng; đối với kinh điển Tiểu Thừa, trừ Hán văn ra, còn có [kinh điển chép bằng] tiếng Ba Lợi (Pāḷi, tiếng Nam Phạn). Kinh điển bằng tiếng Nhật là dịch từ tiếng Hán, chỉ dịch một phần.

Hiện thời, Phật giáo thuận theo thời đại to lớn này mà truyền sang phương Tây, truyền bá đến mỗi quốc gia, mỗi khu vực trên thế giới. Công tác dịch kinh là một vấn đề to lớn trọng yếu nhất trong hiện thời! Làm thế nào để dịch từ tiếng Hán, từ tiếng Tây Tạng, hoặc tiếng Ba Lợi sang văn tự của các nước khác trên thế giới? Trong nhiều năm qua, cũng có người thực hiện công tác này, nhưng hiệu quả của công tác phiên dịch ấy đều có vấn đề. Thí dụ như lão cư sĩ Trầm Gia Trinh[117] ở Nữu Ước, Hoa Kỳ, hết sức nhiệt tâm hoằng dương Phật pháp, đã thỉnh không ít người làm công tác dịch kinh điển từ tiếng Hán sang tiếng Anh, phiên dịch rất nhiều. Tôi ở Nữu Ước, lão nhân gia bảo tôi: “Những bản dịch ấy chẳng thể xuất bản, nguyên nhân ở chỗ nào?” Người phiên dịch tiếng Hán lẫn tiếng Anh đều thông thạo, nhưng thiếu sự tu dưỡng kha khá nơi Phật pháp, chỉ dựa theo mặt chữ để dịch, nên ý nghĩa chẳng đúng! Đây là một nan đề rất lớn! Do đó, tại dịch trường xưa kia, vì sao có khá nhiều người tham gia? Mọi người cùng nhau nghiên cứu, thảo luận; mỗi chữ, mỗi câu đều phải cân nhắc. Nếu dùng phương pháp phiên dịch tập thể như thời cổ, vấn đề này có thể giải quyết. Hiện thời, dịch kinh do cá nhân thực hiện, mỗi cá nhân có thành kiến của chính mình. Đó là điều then chốt khiến cho bản dịch chẳng thể lưu thông khắp nơi! [Bản dịch] đã được đại chúng nghiên cứu, thảo luận, sẽ là khách quan, sai lầm được giảm thiểu đến mức độ thấp nhất.

Đối với vấn đề này, tôi nêu ra một ý kiến nho nhỏ cùng Trầm lão cư sĩ: Nếu lại có cơ hội phiên dịch, thí dụ như quý vị dịch kinh Kim Cang, quý vị nhất định phải thăm dò, hiện tại trên thế giới, bất cứ nơi nào thuộc quốc gia nào, hễ có vị pháp sư đại đức nào thật sự nghiên cứu, tu học kinh Kim Cang, hãy mời vị ấy đến giảng. Tất cả các nhân viên tham dự dịch kinh đều đến nghe, nghe vị ấy giảng cặn kẽ. Người phiên dịch dụng tâm để nghe, hễ có câu hỏi nào, bèn thưa hỏi, cốt sao đối với ý nghĩa trong kinh thảy đều lý giải thông suốt, chẳng có mảy may chướng ngại nào. Sau đấy, chọn ra mấy người dịch nháp, viết lại bản dịch của họ. Sau đấy, lại dùng bản dịch nháp để các nhân viên tham gia dịch kinh nghiên cứu, thảo luận, cũng giống như xưa kia, từng chữ, từng câu [đều được cân nhắc kỹ lưỡng], khiến cho văn lẫn nghĩa đều có thể đạt tới mức độ rất chánh xác, chẳng đến nỗi hiểu lầm. Phiên dịch như vậy, tôi tin tưởng là lưu thông ở phương Tây sẽ chẳng thành vấn đề.

Dịch kinh tuyệt đối chẳng phải là một người có thể làm được, tuyệt đối chẳng phải là một hai người, hoặc dăm ba người mà có thể làm được, chẳng được! Vẫn phải là như trước kia, dịch trường gồm mấy trăm người. Đó là [cách thực hiện] cao minh nhất! Do vậy, người Hoa có phước báo lắm! Phương pháp dịch kinh hết sức nghiêm cẩn. Những người tham dự cũng đều là bậc có đạo đức, có học vấn, đối với văn tự của hai nước và Phật pháp đều có sự tu dưỡng kha khá. Kiến lập dịch trường như vậy, dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Hán, sẽ phiên dịch thật sự tốt đẹp.

Trước kia, tiên sinh Phương Đông Mỹ có lần thảo luận với tôi về chuyện phiên dịch kinh luận, chúng tôi có đề cập một hiện tượng rất kỳ quái. Kinh điển từ Ấn Độ bằng tiếng Phạn truyền sang Trung Hoa với một số lượng lớn, sau khi được dịch thành tiếng Hán, nguyên văn đã đi đâu cả rồi? Kinh điển tiếng Phạn nhiều dường ấy, nghiễm nhiên chẳng bảo lưu, gần như bị thất truyền tại Trung Hoa. Phương tiên sinh có một phỏng đoán, lời phỏng đoán của cụ cũng rất có lý. Cụ nói: “Người Hoa hết sức tự hào, cho rằng: Kinh Phật do chúng ta phiên dịch, không chỉ là bảo tồn viên mãn ý nghĩa, chẳng đánh mất ý nghĩa gốc. Xét theo văn tự, lại còn bóng bảy, đẹp đẽ hơn [bản gốc bằng] tiếng Phạn. Tiếng Hán có thể thay thế trực tiếp tiếng Phạn; chẳng cần đến kinh điển tiếng Phạn nữa”. Đó là kiến giải của Phương tiên sinh, chúng tôi nghe cụ nói cũng cảm thấy hết sức có lý. Xác thực là kinh điển tiếng Hán đã được phiên dịch tốt đẹp.

“Nhân đề” (人題) là [tên của] người chủ trì dịch trường. Dịch trường lần này là do tôn giả Cầu Na Bạt Đà La làm chủ tịch dịch trường. “Tống” (宋) là triều đại. Triều đại Tống này thuộc thời Nam Bắc Triều, tức các triều đại Tống, Tề, Lương, Trần. Lưu Dụ[118] kiến lập chánh quyền, xưng là Tống, thủ đô là Nam Kinh hiện thời, niên đại của vương triều này từ năm 420 cho đến 479 Công Nguyên. Nguyên Gia (元嘉) là niên hiệu. “Thiên Trúc” là Ấn Độ, là quê hương của pháp sư. “Tam Tạng” là học vị của Ngài, Ngài thông đạt Tam Tạng kinh, luật, luận. Vào thời cổ, nếu chẳng phải là Tam Tạng pháp sư, chẳng có tư cách chủ trì dịch trường. Cầu Na Bạt Đà La là tên Ngài.

 

(Sớ) Tống giả, Nam Bắc triều quốc danh. Nguyên Gia giả, niên hiệu. Thiên Trúc giả, Tây Vực quốc danh. Cầu Na Bạt Đà La, thử vân Công Đức Hiền.

()宋者,南北朝國名。元嘉者,年號。天竺者,西域國名。求那跋陀羅,此云功德賢。

(Sớ: Tống là tên nước thời Nam Bắc Triều. Nguyên Gia là niên hiệu. Thiên Trúc là tên một nước ở Tây Vực. Cầu Na Bạt Đà La cõi này dịch là Công Đức Hiền).

Cầu Na Bạt Đà La (Gunabhadra)[119] là dịch âm tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Công Đức Hiền, tên Ngài bao hàm ý nghĩa này.

 

(Sao) Tống ngôn Nam Bắc giả, thời phương Nam Bắc phân vương.

()宋言南北者,時方南北分王。

(Sao: Đối với nhà Tống mà nói là Nam Bắc, vì thời điểm và nơi chốn khi ấy nhằm đúng thời kỳ đất nước chia thành các vương triều Nam và Bắc khác nhau).

 Thời đó là chính là thời đại Nam Bắc Triều[120] nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa, nhằm thời đại Ngũ Hồ Loạn Hoa.

 

(Sao) Tống vương Giang Nam, vị Lưu Tống dã.

()宋王江南,謂劉宋也。

(Sao: Nhà Tống làm vua ở Giang Nam, gọi là Lưu Tống).

“Vương” có nghĩa là thống trị, nghĩa là triều đại ấy thống trị vùng Giang Nam[121]. Triều đại Tống do Lưu Dụ[122] sáng lập, truyền được tất cả tám đời, tổng cộng là năm mươi chín năm.

 

(Sao) Nguyên Gia giả, Văn Đế Nguyên Gia mạt niên dã.

()元嘉者,文帝元嘉末年也。

(Sao: Nguyên Gia: Nói tới những năm cuối trong niên hiệu Nguyên Gia thời Văn Đế).

Văn Đế[123] là vua đời thứ hai của nhà Lưu Tống. Trong vương triều ấy, Văn Đế là nhà cai trị sáng suốt nhất, xã hội cũng hết sức an định. Cả triều đại chỉ tồn tại năm mươi chín năm, Văn Đế làm hoàng đế tới ba mươi năm.

 

(Sao) Thiên Trúc, nhất vân Thân Độc.

()天竺,一云身毒。

(Sao: Thiên Trúc còn gọi là Thân Độc).

“Thân Độc”[124] nay nói là Ấn Độ, âm đọc cũng rất tương cận, đều là phiên âm.

 

(Sao) Hữu Ngũ Thiên Trúc, giai Tây Vực dã.

()有五天竺,皆西域也。

(Sao: Có năm xứ Thiên Trúc đều thuộc về Tây Vực).

Thời đó, [cổ nhân nói Ấn Độ] ở phía Tây Trung Hoa, nay chúng ta biết Ấn Độ nằm ở phía Tây Nam Trung Hoa. Vì sao nói là phương Tây? Vì giao thông thuở đó đều là theo phương Tây mà đi, sau khi đã đến Thông Lãnh[125] bèn đi theo phương Nam, sẽ đến được Ấn Độ. Tây Vực (西域) thuở ấy chính làm một giải Tân Cương[126] và A Phú Hãn (Afghanistan) hiện thời.

 

(Sao) Bạt Đà bác thông Tam Tạng, vưu chuyên Đại Thừa, hiệu Ma Ha Diễn.

 ()跋陀博通三藏,尤專大乘,號摩訶衍。

(Sao: Ngài Cầu Na Bạt Đà La thông hiểu rộng rãi Tam Tạng, nhất là chuyên tinh Đại Thừa, có hiệu là Ma Ha Diễn).

Đây là nói “đức học” (đức hạnh và học vấn) của vị pháp sư này. “Đức” (德) là sự tu trì của Ngài, “học” (學) là Ngài có một nền học thức hết sức uyên bác. Tam Tạng kinh điển đều thông đạt. Đối với Đại Thừa, Ngài có bản lãnh đặc biệt sâu xa. “Ma Ha Diễn” (Mahāyāna) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Đại Thừa.

 

(Sao) Thần dị phi nhất, bị tải truyện ký, khủng phồn bất tự.

 ()神異非一,備載傳記,恐繁不敘。

(Sao: Sự thần dị của Ngài chẳng phải chỉ có một, có chép đầy đủ trong truyện ký, do sợ rườm rà nên chẳng thuật).

 Trong Cao Tăng Truyện có truyện ký của Ngài. Ở đây, chẳng rườm lời! “Thần dị phi nhất”: Ngài có thần thông, người hiện thời gọi là “công năng đặc dị”. Trong Thần Tăng Truyện, cũng có truyện ký của Ngài. Tại Trung Hoa, từ bộ Cao Tăng Truyện, đối với những vị có biểu hiện thần thông rõ rệt, người đời sau bèn gom [truyện ký của] những vị ấy vào một chỗ, [soạn thành sách] gọi là Thần Tăng Truyện.

 

(Sao) Nhất bổn Đà hạ vô La tự.

()一本陀下無羅字。

(Sao: Có bản [chép tên người dịch chú Vãng Sanh] sau chữ Đà chẳng có chữ La).

 [Tức là] Cầu Na Bạt Đà. Chú Vãng Sanh có hai phiên bản, có bản ghi là do ngài Cầu Na Bạt Đà La phiên dịch, bản kia ghi là ngài Cầu Na Bạt Đà phiên dịch. Rốt cuộc là vị nào? Chẳng biết rõ. Vì sao? Hai vị ấy sống cùng một thời đại. Rốt cuộc là vị nào chủ trì dịch trường này, rất khó khảo cứu để đoán định.

 

(Sao) Hoặc nghi thị Cầu Na Bạt Ma, dĩ nhị sư đồng thời cố, vị thẩm hà sở dịch dã!

()或疑是求那跋摩,以二師同時故,未審何所譯也。

(Sao: Có người nghi là ngài Cầu Na Bạt Ma[127], do hai vị sống đồng thời, chưa thể thẩm định là do vị nào dịch).

“Thẩm” (審) là thẩm định, [“vị thẩm” là] chẳng có cách nào xác định là vị nào. Hai vị đều là cao tăng từ Ấn Độ đến Trung Hoa hoằng pháp trong thuở ấy. Đây là giới thiệu người phiên dịch.

Dưới đây là chánh văn của chú Vãng Sanh. Chú Vãng Sanh có tất cả mười bốn câu. Mỗi vị đồng tu đều niệm chú rất thuộc, nhưng niệm như thế nào để tương ứng, đó là một vấn đề! Chú chẳng thể dịch nghĩa, vì đó là mật ngữ của đức Phật, [cũng có những bài chú] có thể dịch nghĩa, chẳng phải là hoàn toàn không có ý nghĩa. Chẳng dịch, cứ dùng tâm cung kính để thọ trì, dễ dàng đạt được lợi ích. Vì những phương pháp được sử dụng để tu học trong Phật pháp, không gì chẳng nhằm xóa sạch vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, [hễ phân biệt, vọng tưởng, chấp trước xóa sạch thì] mục đích đã đạt được. Chẳng có ý nghĩa, vậy thì quý vị chẳng dấy vọng tưởng, cứ thật thà niệm! Dễ nhiếp tâm, dễ nhập Định. Nếu có ý nghĩa, người ấy (người niệm chú) vừa niệm vừa dấy vọng tưởng; đâm ra, chẳng dễ gì nhập Định!

Đối với sự tu hành, cổ nhân bảo: “Niệm kinh chẳng bằng niệm chú”, vì sao? Kinh có ý nghĩa, vừa niệm, vừa dấy vọng tưởng, chẳng bằng niệm chú! Chú chẳng có ý nghĩa. Chú chẳng có ý nghĩa thì niệm càng dài càng tốt! Như chú Vãng Sanh chẳng sánh bằng chú Đại Bi, chú Đại Bi chẳng sánh bằng chú Lăng Nghiêm. Chú dài, quý vị chẳng thể niệm sai; từng câu, từng chữ đều chẳng thể niệm sai. Khi niệm, chẳng có vọng tưởng, chẳng có tạp niệm; đấy là công đức. Lâu ngày chầy tháng, tâm quý vị sẽ dần dần định, dần dần đạt tới thanh tịnh. Dùng phương pháp này để đạt tới mục tiêu tâm địa thanh tịnh, có ý nghĩa như thế đó. Lại nói: “Niệm chú chẳng bằng niệm Phật”, đúng như vậy đấy! Công đức của Phật hiệu chẳng thể nghĩ bàn!

Rốt cuộc niệm loại nào mới là tốt? Những điều cổ nhân đã nói chính là nguyên tắc, chẳng thể bao gồm căn tánh của hết thảy chúng sanh. Có những người đọc kinh bèn dễ nhiếp tâm hơn. Có người niệm chú dễ nhiếp tâm hơn. Có những người niệm Phật hiệu bèn dễ nhiếp tâm. Căn tánh của mỗi người khác nhau! Bản thân chúng ta chọn lựa pháp môn nào, tự mình nhất định phải biết căn tánh của chính mình. Nếu không biết, có thể thí nghiệm đọc kinh, đọc chú, hay niệm Phật một giai đoạn, dùng thời gian đôi ba tháng để thí nghiệm sẽ biết ngay. Phương pháp nào dễ nhiếp tâm, cũng như dễ thâu hồi cái tâm, thì phương pháp ấy đối với chính mình có hiệu quả, có lợi ích, có thể kiên trì dùng phương pháp ấy. Một mực sử dụng cho đến khi chính mình thật sự đạt tới mức tâm địa thanh tịnh.

Tâm thanh tịnh hiện tiền chính là tam-muội hiện tiền. Tam-muội (Samādhi) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Chánh Thọ (正受), nghĩa là sự hưởng thụ chánh đáng. Sự hưởng thụ chánh đáng chính là sự hưởng thụ khỏe khoắn, thanh tịnh, tự tại. Đó là niềm vui thật sự! Đạt đến mức tâm địa thanh tịnh, tự tại, tự nhiên sanh khởi trí huệ. Đó gọi là “do Giới sanh Định, do Định khai Huệ”. Tâm thanh tịnh là Định. Tôi dựa theo lời giải thích của cổ đức để giới thiệu đại lược ý nghĩa của bài chú này cùng quý vị.

 

(Kinh) Nam-mô.

()南無。

(Kinh: Namo).

“Nam-mô” có nghĩa là cung kính, lễ kính, quy y, quy mạng. Âm đọc cổ của chữ Nam-mô là Nã-ma[128].

 

(Kinh) A di đa bà dạ.

()阿彌多婆夜。

(Kinh: Amitābhāya).

“A di đa bà dạ” là A Di Đà Phật.

 

(Kinh) Đá tha già đa dạ.

()哆他伽多夜。

(Kinh: Tathāgatāya).

Câu này dịch là Như Lai. Nói gộp lại sẽ là “quy y A Di Đà Như Lai”. “A di đa bà dạ” dịch sang tiếng Hán là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang. Trên thực tế, “vô lượng” bao gồm hết thảy các thứ vô lượng.

 

(Kinh) Đá địa dạ tha.

()哆地夜他。

(Kinh: Tadyathā).

Trong rất nhiều bài chú có câu “đát điệt tha” (怛絰他), hoàn toàn giống như câu này. Âm tiếng Phạn như nhau, phiên âm khác nhau. “Đá địa dạ tha” dịch sang tiếng Hán sẽ là “tức thuyết chú viết” (liền nói chú rằng). Vì thế, những câu trước đó là Phật hiệu, từ câu thứ tư cho đến câu mười bốn mới là chú ngữ.

 

(Kinh) A di rị đô bà tỳ.

()阿彌唎都婆毗。

(Kinh: Amṛtod-bhave).

“A di rị đô” (Amṛtod) là vô lượng, “bà tỳ” (bhave) là quang minh. Câu này là danh hiệu Vô Lượng Quang. Danh hiệu của A Di Đà Phật là Vô Lượng Quang.

 

(Kinh) A di rị đá.

()阿彌唎哆。

(Kinh: Amṛta).

Có nghĩa là vô lượng.

 

(Kinh) Tất đam bà tỳ.

()悉耽婆毗。

(Kinh: Siddhaṃ bhave).

 “Tất đam” (Siddhaṃ) dịch sang tiếng Hán là Nhất Thiết Nghĩa Thành (一切義成). “Nghĩa” (義) là nghĩa lý, “thành” (成) là thành tựu, [tức là] hết thảy nghĩa lý thành tựu viên mãn. “Bà tỳ” có nghĩa là quang minh. Có thể thấy những chú ngữ này đều nhằm tán thán vô lượng quang thọ của A Di Đà Phật, hết thảy đều vô lượng, đều có ý nghĩa này.

 

(Kinh) A di rị đá.

()阿彌唎哆。

(Kinh: Amṛta).

Có cùng ý nghĩa như trong câu trước, đều là ca ngợi Vô Lượng Thọ Phật.

 

(Kinh) Tỳ ca lan đế.

()毗迦蘭帝。

(Kinh: Vikrānte).

Câu này bao hàm nhiều nghĩa, nghĩa thứ nhất là “vô ngại hành”. Phật và các vị đại Bồ Tát độ hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới, giống như kinh Hoa Nghiêm đã nói “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”, chứa đựng ý nghĩa này. Nó có ý nghĩa “phương tiện”, phương tiện thiện xảo, phổ độ chúng sanh.

 

(Kinh) A di rị đá.

()阿彌唎哆。

(Kinh: Amṛta).

Vô lượng.

 

(Kinh) Tỳ ca lan đa.

()毗迦蘭多。

(Kinh: Vikrānta).

Có ý nghĩa “Chân Như bất thoái”. Hết thảy chúng sanh hễ sanh về thế giới Tây Phương bèn viên chứng ba món Bất Thoái, có ý nghĩa này.

 

(Kinh) Già di nị.

()迦彌膩。

(Kinh: Gāmine).

“Già di nị” (Gāmine) là thế giới Cực Lạc, là Di Đà Tịnh Độ, là cõi An Dưỡng.

 

(Kinh) Già già na.

()伽伽那。

(Kinh: Gagana).

“Già già na” là tỷ dụ, là tán thán, có ý nghĩa là hư không, hoặc như chúng ta nói là thiên giới, hoặc thiên đạo trong lục đạo, cao cao tại thượng, rộng lớn vô biên. Có ý nghĩa ấy.

 

(Kinh) Chỉ đa ca lệ.

()枳多迦隸。

(Kinh: Kīrta-kare).

Câu này cũng bao hàm nhiều nghĩa, có ý nghĩa “đế vãng” (諦往). “Đế” (諦) là chân thật, chỉ rõ hết thảy chúng sanh cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là chân thật nhất. “Đế” là đế thật (諦實), [tức là] chân thật, [“đế vãng” là] đi theo con đường ấy sẽ chân thật. Trong hội Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Còn có một ý nghĩa là “nguyện khứ” (nguyện đi [về cõi Cực Lạc]), hết sức hoan hỷ mong cầu vãng sanh.

 

(Kinh) Sa bà ha.

()娑婆訶。

(Kinh: Svāhā).

Cuối tất cả hết thảy các bài chú đều có câu này, dịch sang tiếng Hán là “viên mãn nhanh chóng”, mang ý nghĩa chúc nguyện, hy vọng nguyện của chúng ta sớm có ngày thành tựu, sớm có ngày viên mãn. Đối với mười bốn câu, cổ đại đức đã nói đại ý của chú ngữ. Ý nghĩa ấy, quý vị liễu giải thì rất tốt, chẳng liễu giải cũng không sao. Chẳng liễu giải thì cứ thật thà niệm. Nếu liễu giải, chúng ta niệm chú này có thể tùy văn nhập quán, niệm đến câu nào, cảnh giới ấy bèn có thể hiện tiền. Hai hàng kế đó thuộc về kinh, đây là kinh văn thuộc thể loại trường hàng, nói rõ năm loại lợi ích do trì chú.

 

(Kinh) Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân.

()若有善男子。善女人。

(Kinh: Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân).

Trong kinh điển Đại Thừa, hễ khai thị cho chúng ta, đức Phật đều nói “thiện nam tử, thiện nữ nhân”. Vì sao? Rốt cuộc, trì chú có thể đạt được năm thứ lợi ích hay không, then chốt ở ngay chữ Thiện này! Trì chú, có người thật sự chiếu theo điều được nói trong kinh điển này, niệm chú Vãng Sanh ba mươi vạn lần, chẳng có hiệu quả! Người ấy hãy suy nghĩ: Đức Phật nói “thiện nam tử, thiện nữ nhân” niệm ba mươi vạn lần mới hữu hiệu! Chúng ta có phải là thiện nam tử, thiện nữ nhân hay không? Then chốt ở chỗ này. Tiêu chuẩn thiện là ở chỗ nào? Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói “Tịnh nghiệp Tam Phước”. Cổ đại đức nói Tây Phương Cực Lạc thế giới là Đại Thừa của Đại Thừa, là Nhất Thừa của Nhất Thừa, là pháp môn chí cao vô thượng, tâm chẳng tốt lành thì làm sao có thể vãng sanh cho được? Đối với Tịnh nghiệp Tam Phước, tối thiểu là phải trọn đủ phước thứ nhất, sẽ đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu đối với Tam Phước, một phước cũng chẳng có, chúng ta suốt một đời này niệm Phật siêng tu, chỉ có thể nói là kết một thiện duyên với Tây Phương Cực Lạc thế giới, rất khó vãng sanh ngay trong một đời này. Vì sao? Chẳng phù hợp tiêu chuẩn do đức Phật đã dạy. Tiêu chuẩn ấy chính là “thiện nam tử, thiện nữ nhân”.

Điều thiện tối thiểu là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện nghiệp”. Nếu như cả bốn câu ấy đều chẳng làm được, quý vị niệm kinh, niệm chú, niệm Phật, sẽ đều là kết duyên với Phật, chứ mong vãng sanh trong một đời này rất khó. Làm được cả bốn câu trong điều thiện thứ nhất, sẽ có phần trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu lại có thể làm được điều thiện thứ hai, “thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, đại khái là cũng có thể có phần trong cõi Phương Tiện Hữu Dư, phẩm vị bèn cao. Nếu có thể ba điều thiện đều đầy đủ, “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”, thưa cùng chư vị, [sẽ là] thượng thượng phẩm vãng sanh. Có thể thấy chữ này (chữ Thiện) là then chốt, thường là chúng ta sơ sót, khinh thường xem lướt qua. Tới khi niệm mấy trăm lần, mấy chục vạn lần, chẳng có hiệu quả, vẫn trách móc kinh này chẳng linh, cứ trách móc đức Phật nói dối, chẳng đáng tin cậy. Đó là báng Phật, báng Pháp, làm thế nào được nữa! Kẻ đó chẳng tự trách mình, mà chê trách kinh điển, chê trách Phật, Bồ Tát. Nói thật ra, Phật, Bồ Tát đã bảo rõ ràng cùng chúng ta. Chính mình hãy tự ngẫm xem bản thân chúng ta có hội đủ tiêu chuẩn thiện ấy hay không? Các Ngài nói “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, ta có phần hay không? Điều này quan trọng lắm! Do vậy, chẳng thể không nhấn mạnh tỉ mỉ Tịnh nghiệp Tam Phước, quý vị mới thật sự hiểu rõ. Đối với “hiếu dưỡng phụ mẫu”, “hiếu” là gì? “Dưỡng” như thế nào? Trong ấy là một môn học vấn to tát. Đó là đại căn, đại bản của Phật pháp. Trọn đủ điều kiện như vậy, đó chính là tiêu chuẩn trong Phật môn, người ấy hoàn toàn phù hợp là thiện nam tử, thiện nữ nhân, chọn lựa pháp môn này, dùng phương pháp này để tu.

 

(Kinh) Năng tụng thử chú giả, A Di Đà Phật thường trụ kỳ đảnh.

()能誦此咒者。阿彌陀佛常住其頂。

(Kinh: Người có thể tụng chú này, A Di Đà Phật thường ở trên đỉnh đầu người ấy).

Đây là lợi ích thứ nhất, A Di Đà Phật thường ở trên đỉnh đầu của quý vị. Đó là được bổn nguyện và oai thần của Phật ngấm ngầm gia trì. Vì Phật ở trên đỉnh đầu, quý vị chẳng thấy, nhưng Ngài thật sự ở trên đỉnh đầu quý vị, thật sự gia hộ, gia trì quý vị. Chư vị phải hiểu: Chúng ta tu Tịnh nghiệp cầu vãng sanh, cơ hội này đúng là khó có, nhất định phải khiến cho chính mình trở thành pháp khí. “Pháp khí”, nói theo cách hiện thời, [sẽ là] nhất định phải đầy đủ những điều kiện mà đức Phật đã yêu cầu. Chúng ta thảy đều đầy đủ [những điều kiện ấy] thì mới có tư cách tiếp nhận pháp môn này.

Điều kiện gì vậy? Chính là Tịnh nghiệp Tam Phước. Trong Quán Kinh, đoạn kinh văn này trọng yếu lắm! Phu nhân Vi Đề Hy đích thân trông thấy y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới, bèn phát khởi tâm ngưỡng mộ, mong mỏi vô hạn, mong cầu sanh về thế giới Cực Lạc, hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật thỉnh giáo: “Tu phương pháp gì để có thể vãng sanh?” Trước khi đức Phật dạy bà ta phương pháp tu hành, bèn trước hết dạy bà Tịnh nghiệp Tam Phước. Nói xong, lại căn dặn bà ta: Ba điều kiện ấy “chính là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật”. Câu nói này quan trọng lắm! Quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả hết thảy chư Phật tu hành thành Phật, đều lấy những điều này làm cơ sở. Chẳng có cơ sở này, chắc chắn là chẳng thể thành tựu. Thật sự mong tu tập, thật sự mong thành tựu trong một đời này, chẳng thể không chú ý, chẳng thể không nghiêm túc tu tập. Lợi ích thứ hai…

 

(Kinh) Nhật dạ ủng hộ.

()日夜擁護。

(Kinh: Ngày đêm ủng hộ).

Ban ngày, buổi tối, A Di Đà Phật, chư Phật, Bồ Tát, và hộ pháp thiện thần đều ủng hộ, đều che chở quý vị. Vì sao? Vì quý vị là học trò thật sự của A Di Đà Phật. Câu đầu tiên, “nam-mô a di đa bà dạ”, chính là ta quy y A Di Đà Phật, là học trò thật sự của A Di Đà Phật. Nay chúng ta niệm câu này, A Di Đà Phật chẳng thừa nhận! Chẳng phải là học trò thật sự. Vì sao? Vì chúng ta không đủ tư cách, người ta có tư cách ấy vì họ là thiện nam tử, thiện nữ nhân, còn chúng ta đối với Tam Phước chẳng làm được điều nào! Hễ làm được, quý vị là quy y thật sự, mới là học trò thật sự của A Di Đà Phật. Là học trò của A Di Đà Phật, hết thảy chư Phật đều tôn trọng quý vị; há có lẽ nào Bồ Tát, thiện thần chẳng ủng hộ? Lợi ích thứ ba:

 

(Kinh) Vô linh oán gia nhi đắc kỳ tiện.

()無令怨家而得其便。

(Kinh: Chẳng để cho oán gia có dịp quấy nhiễu).

“Oán gia” là nói tới oán gia trái chủ trong đời quá khứ. Vì quý vị có Phật, Bồ Tát gia hộ, có hộ pháp thiện thần ủng hộ, oán gia trái chủ trong nhiều đời chẳng có cách nào tiếp cận quý vị. Chuyện này tốt đẹp ở chỗ nào? Trong quá trình tu hành, quý vị thuận buồm xuôi gió, chẳng có ma chướng. “Oán gia nhi đắc kỳ tiện” (Oán gia có dịp quấy nhiễu) chính là ma chướng. [Thông thường, trong khi tu hành], ma chướng nhiều lắm, chắc chắn là quý vị chẳng thể tránh khỏi ma chướng, nguyên nhân ở chỗ nào? Từ đời đời kiếp kiếp trong vô lượng kiếp đến nay, chúng ta đã kết oán với chẳng biết bao nhiêu chúng sanh! Nhất là ăn thịt của chúng sanh. Ăn thịt chúng sanh là kết thâm cừu đại hận với chúng nó! Trong kinh Phật đã dạy rất rõ ràng: Ăn nửa cân thịt của chúng, trong tương lai, phải đền tám lạng! Thiếu nợ phải trả tiền, thiếu mạng phải đền mạng. Đời này chẳng trả, đời sau nhất định phải đền. Nếu quý vị nghĩ đến những chuyện nhân quả báo ứng ấy, [sẽ cảm thấy] quá đáng sợ! Trước kia chẳng hiểu, làm những chuyện ác, nay đã hiểu rõ, quyết định chẳng tạo nữa! Chẳng kết oán cùng bất luận kẻ nào, chẳng có tơ hào tranh chấp nợ nần cùng bất cứ ai. Trả nợ sạch sành sanh, trên đường Bồ Đề chúng ta mới ít gặp chướng ngại! Đã biết điều này, còn những món nợ trong đời quá khứ, chẳng biết! Làm như thế nào đây? Chúng ta hãy đem hết thảy công đức tu học của chính mình hồi hướng cho họ hòng bù nợ! “Nguyện dĩ thử công đức, thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” (Nguyện đem công đức này, trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường), đó là bù nợ, trả nợ. Quý vị đừng nên quấy nhiễu tôi, để tôi tu hành thành tựu, lợi ích thảy đều của quý vị. Ý nghĩa trọng yếu nhất của hồi hướng là ở chỗ này. Bản thân quý vị có công đức ấy, Phật, Bồ Tát gia trì, che chở quý vị càng thuận tiện, càng dễ dàng! Đối với chuyện này, chư vị đọc kỹ càng kinh Địa Tạng sẽ hiểu. Loại lợi ích thứ tư:

 

(Kinh) Hiện thế thường đắc an ổn.

()現世常得安穩。

(Kinh: Trong đời hiện tại, thường được an ổn).

 Trong thế gian hiện thời, quý vị thường được “an ổn”, chúng ta nói thông thường] sẽ là “bình an”. Dẫu gặp đại tai, đại nạn, quý vị vẫn có thể yên ổn vượt qua, chẳng hứng chịu những nỗi khổ sở vì tai nạn. Điều này có nghĩa là cộng nghiệp và biệt nghiệp khác nhau. Người chẳng học Phật không hiểu điều này, chứ người có đôi chút tu trì, hơi biết đôi chút kinh luận Phật pháp, đại khái là ít nhiều gì cũng có thể lãnh hội đôi chút!

Do đó, tôi thường nhắc nhở các đồng tu: Tu trì, đọc kinh, niệm Phật, đoạn ác, tu thiện, hết sức trọng yếu. Vì sao? Nay chúng ta đang sống trong đời loạn; trong tương lai, rốt cuộc loạn đến nỗi nào, ai cũng đều chẳng dám tiên đoán! Lại còn chẳng phải là loạn ở một nơi nào, mà là toàn thể thế giới đều loạn. Điều gì là an toàn nhất? Có phước, có đức là an toàn nhất, thật đấy! Quý vị có của cải, “tài vi ngũ gia cộng hữu” (của cải do năm nhà cùng sở hữu). Dẫu giàu có đến mấy, có thể là một ngày nào đó, sẽ mất sạch sành sanh! Xưa nay, những trường hợp giống như vậy quá nhiều, [tài sản] chẳng phải là của quý vị! Quyền thế và địa vị đều là giả trất. Chẳng có gì thật sự bảo đảm, [chẳng có gì] là chỗ dựa thật sự vững chắc. Kho báu vững chắc để nương cậy là mọi người hãy tích đức, có phước, có đức. Tuy trên thân quý vị chẳng có [của cải gì], nhưng quý vị đến nơi nào, người ta vừa trông thấy quý vị bèn sanh tâm hoan hỷ, cung kính, chăm sóc quý vị. Đó là có phước. Người ấy có thể vượt qua tai nạn, “hiện thế thường đắc an ổn” (thường được an ổn trong đời này).

Trong câu này, [có ý nói] quý vị tụng chú bèn được Phật lực gia trì, nhưng quý vị có sự tu trì làm cơ sở, có đức hạnh ấy, tức là một chữ Thiện. Quý vị chính là “thiện nam tử, thiện nữ nhân”, là một người thật sự tu Tịnh nghiệp Tam Phước, thuộc hạng thiện nhân. Vì thế, sẽ được hết thảy chư thiên, thiện thần gia hộ. Đó là thật. Trong các buổi giảng, tôi thường nhắc nhở các đồng tu: Hiện thời, trong xã hội, quý vị có địa vị, có quyền thế, có của cải, những thứ ấy tạm thời hiện hữu trước mắt quý vị trong chốc lát, chứ quý vị chẳng [thật sự] đạt được! Nói cách khác, quý vị tạm thời có quyền phân xử, chẳng phải là vĩnh hằng, [nghĩa là] tạm thời có quyền để chi phối nó, ta dùng nó tốt đẹp, dùng làm việc thiện, tích lũy công đức. Nếu ta sử dụng chẳng ổn thỏa, thích đáng, thì sẽ tạo tác tội nghiệp, phải hiểu đạo lý này. Đời người hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, huống chi “trên đường tới suối vàng, không phân biệt già trẻ”, một hơi thở ra chẳng hít vào được, sẽ là đời sau. Vì thế, điều gì cũng phải xem nhẹ, đều phải buông xuống, tận tâm, tận lực vì xã hội, vì đại chúng tạo phước, đừng nghĩ tới chính mình, đừng nghĩ tới gia đình mình.

Quý vị thật sự tích đức, tu phước, gia đình của quý vị tự nhiên được Phật, Bồ Tát chiếu cố, có hộ pháp thiện thần chiếu cố, chu đáo hơn chính mình chiếu cố nhiều lắm, chính mình chẳng chiếu cố được! Thật sự là chỉ có cầu Phật, Bồ Tát, cầu thần hộ pháp tới chiếu cố, mới là đáng tin cậy. Phải nghĩ thông suốt đạo lý này! Sự thật bày ra trước mắt chúng ta, hãy chú tâm quan sát, khiến cho quý vị liễu giải chân tướng sự thật, sau đấy, mới hiểu bản thân chúng ta phải nên thực hiện như thế nào, cũng là phải nên biết tu như thế nào. Như vậy thì sẽ không phạm sai lầm. Đó là nói quý vị đạt được quả báo thù thắng trong hiện tiền. Thù thắng nhất là khi lâm chung:

 

(Kinh) Lâm mạng chung thời, nhậm vận vãng sanh.

()臨命終時。任運往生。

(Kinh: Khi lâm chung, tùy ý vãng sanh).

Trong ấy, có sự thù thắng khôn sánh là “nhậm vận”, “nhậm vận” (任運) là tự tại. Hễ ngã bệnh sẽ chẳng tự tại, chẳng biết sẽ ra đi lúc nào cũng là chẳng tự tại. Chính mình biết sẽ ra đi khi nào, chẳng ngã bệnh, đứng mất, hoặc ngồi mất, chúng ta đã thấy, đã nghe, xác thực là có [những trường hợp như vậy]! Điểm này chẳng giả tí nào, đó mới là chẳng luống uổng một đời này. Một đời này của chúng ta thật sự có ý nghĩa, thật sự có giá trị. Người ta có thể [vãng sanh tự tại], vì sao ta chẳng thể?

Năm xưa, lão cư sĩ Lý Tế Hoa thuộc Đài Bắc Niệm Phật Đoàn, là học trò của Ấn Quang đại sư. Lão nhân gia đã tám mươi mấy tuổi mới vãng sanh. Cụ biết trước lúc vãng sanh hai tháng; vì thế, vào ngày nghỉ cuối tuần, cụ đến thăm các bạn cũ để từ biệt, gặp mặt lần cuối. Hôm cụ vãng sanh, vì các con đều ở Mỹ, [chỉ có] hai vợ chồng già sống tại Đài Loan, [hai cụ] ngồi xe ba bánh đến Niệm Phật Đoàn tham gia cộng tu. Ngồi trên xe ba bánh, cụ bảo vợ: “Tôi sắp vãng sanh, bà trơ trọi một mình có cảm thấy tịch mịch hay không?” Thật ra, bà cụ cũng không biết chồng sẽ vãng sanh hôm đó. Bà cụ là một Phật tử kiền thành, [bèn đáp]: “Ông có thể vãng sanh, quá tốt đẹp! Chẳng cần phải bận tâm vì tôi”, tức là cũng như bà vợ đã đồng ý. Họ cộng tu giống như đả Phật Thất thông thường, bất quá là [thời gian niệm Phật chừng] một nén hương. Trong thời gian một nén hương ấy, có khai thị nửa tiếng đồng hồ. Giảng khai thị là do các vị lão cư sĩ luân phiên giảng. Hôm đó, đến phiên Ngụy lão cư sĩ, cụ đổi phiên với vị lão cư sĩ ấy. Lão nhân gia lên bục giảng, bèn giảng đến một tiếng rưỡi, giảng hết sức cao hứng, hết sức hoan hỷ, rát lòng buốt miệng khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Giảng xong, cụ hướng về mọi người cáo từ: “Tôi phải về nhà”. Người khác tưởng cụ đã ngoài tám mươi, giảng một tiếng rưỡi bèn mệt mỏi, muốn về nhà! Không ngờ, cụ bước xuống bục giảng, cạnh giảng đường có một phòng khách nhỏ, cụ ngồi xuống sofa bèn vãng sanh. Tiêu sái lắm, tự tại lắm! Trước lúc vãng sanh, giảng đến một tiếng rưỡi, tùy ý vãng sanh, sanh tử tự tại. Học Phật kiểu đó mới là học Phật chẳng uổng công!

Là quyến thuộc của Bồ Tát, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn là Bồ Tát, thật sự là Bồ Tát. Lại còn chẳng phải là Bồ Tát bình phàm, kinh Di Đà nói “đều là A Bệ Bạt Trí Bồ Tát”. A Bệ Bạt Trí tuyệt diệu thay! A Bệ Bạt Trí là Bồ Tát đã viên chứng ba món Bất Thoái, địa vị ấy cao lắm! Đó là do bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Kẻ bình phàm nếu muốn tự mình tu đến địa vị ấy, thấp nhất trong các địa vị thuộc A Bệ Bạt Trí là Thất Địa Bồ Tát. Nói theo Biệt Giáo, cũng phải tu trọn hai A-tăng-kỳ đại kiếp thì mới có thể đạt tới địa vị này. Quý vị thấy đó: Trong Tịnh Tông, tu hành một đời bèn thành tựu. Vì thế, pháp môn này đúng là chẳng thể nghĩ bàn. Đó là điều lợi ích thứ năm.

Chư vị hãy đặc biệt ghi nhớ, then chốt là chữ Thiện, tiêu chuẩn ở chỗ này. Thiện nam tử, thiện nữ nhân thì mới có thể đạt được năm thứ lợi ích ấy. Cùng một đạo lý như vậy, quý vị [thật sự là] thiện nam tử, thiện nữ nhân, thọ trì kinh A Di Đà, hoặc trì thánh hiệu Di Đà, đều có thể đạt được lợi ích y hệt! Hoàn toàn chẳng phải là chỉ có niệm chú Vãng Sanh thì mới có năm thứ lợi ích ấy! Chẳng phải vậy! Đọc kinh hay niệm Phật thảy đều đạt được! Điều kiện then chốt là chữ Thiện. Đối với Tịnh nghiệp Tam Phước, quý vị có thể thực hiện Tam Phước thảy đều viên mãn, sẽ là thượng thượng phẩm.

 

(Sớ) Chư bổn cú độc sảo dị, kim y cổ bổn, thần chú bất phiên, bất tất cưỡng thích.

()諸本句讀稍異,今依古本,神咒不翻,不必強釋。

(Sớ: Cách chấm câu trong các phiên bản hơi khác nhau. Nay tôi chiếu theo văn bản cổ [để chấm câu]. Thần chú chẳng phiên dịch, chẳng cần phải gượng ép giải thích).

Kinh Phật từ thời Nam Bắc Triều được phiên dịch và lưu truyền cho tới hiện thời đã là một ngàn sáu trăm năm. Trải qua các đời sao chép, lưu thông, chuyện chép sai, chép sót chẳng thể tránh khỏi! Trong các văn bản cổ, thường phát hiện có vấn đề này. Do vậy, có rất nhiều phiên bản khác nhau, mặt chữ trong ấy sai khác, câu văn hoặc nhiều, hoặc ít. Đối với chuyện “cú độc” (句讀: chấm câu) càng nhiều vấn đề, “cú độc” chính là thêm dấu chấm câu, vì cổ thư không chấm câu, toàn là do người đọc tự mình ngắt câu. Có người chấm câu sai, đem câu trên đọc liền một mạch với câu dưới. Tình hình điên đảo ấy cũng rất nhiều.

 

(Sao) Chư bổn bất đồng giả, như “Nam-mô a di đa bà dạ”, nhất bổn tác “Nam-mô a di đa bà dạ đa”, dĩ thứ cú Đa tự liên thuộc thượng cú, cố vân “sảo dị”.

()諸本不同者,如南無阿彌多婆夜,一本作南無阿彌多婆夜多,以次句多字連屬上句,故云稍異。

(Sao: “Các phiên bản bất đồng”: Như đối với câu “Nam-mô a di đa bà dạ”, một bản khác ghi là “Nam-mô a di đa bà dạ đa”, tức là đã ghép chữ Đa thuộc câu sau vào câu trước. Vì thế nói là “hơi khác”).

Như câu đầu tiên của chú Vãng Sanh, có bản khác chấm câu chẳng giống như bản này. Sau chữ “đa bà dạ”, họ ghép chữ Đa vốn thuộc câu dưới vào câu trên để chấm câu. Phiên bản khác nhau, làm như thế nào? Do đây là chú, chẳng có cách nào lý giải, phương pháp duy nhất là tìm nhiều văn bản, đối chiếu những văn bản bất đồng với nhau, văn bản nào được sử dụng nhiều hơn, chúng ta bèn chọn lấy bản ấy. Nếu là kinh văn, chúng ta có thể suy nghĩ ý nghĩa, [để xét xem] chấm câu kiểu nào thì ý nghĩa sẽ viên mãn hơn, dễ nói hơn, minh bạch hơn, chúng ta bèn chọn lấy bản ấy.

 

(Sao) Kim bất tất khổ cứu thị phi, đản y nhất bổn.

()今不必苦究是非,但依一本。

(Sao: Nay chẳng cần vất vả tìm tòi đúng sai, chỉ y theo một phiên bản).

 Đại sư đề nghị: Chẳng cần phải nhọc sức truy cứu, chỉ cần chọn lựa một bản tốt đẹp. Chúng ta thường gọi bản như vậy là “thiện bổn” (善本), có nghĩa là “phiên bản tốt lành”. Như đối với bản này, nhất định là Liên Trì đại sư lão nhân gia đã xem khá nhiều văn bản. Ở đây, Ngài ghép chú ngữ vào phía sau kinh, cách chấm câu này đã được chính Liên Trì đại sư thẩm tra. Chúng ta nương theo bản này của đại sư; đó cũng là một phương pháp tốt đẹp.

 

(Sao) Chí tâm tụng trì, tự thành lợi ích.

()至心誦持,自成利益。

(Sao: Chí tâm tụng trì, tự thành tựu lợi ích).

“Chí tâm” là thành tâm, thành tâm thành ý niệm, tự nhiên có thể đạt được lợi ích. Nhưng ở đây, quý vị ngàn muôn phần phải ghi nhớ, “thiện nam tử, thiện nữ nhân”. Đó là một tiêu chuẩn cơ bản, bất luận như thế nào, chúng ta phải nâng cao phẩm đức của chính mình lên tới tiêu chuẩn này. Chúng ta chẳng có cách nào thực hiện Tam Phước, mức độ thấp nhất chúng ta phải tăng [phẩm đức của chính mình] lên tới phước thứ nhất; bất luận như thế nào, phải làm được phước thứ nhất. Nhưng ở đây, nhất định phải nghiêm túc nhấn mạnh [Tam Phước] rất cặn kẽ. Nếu không, quý vị sẽ nẩy sanh hiểu lầm. Chẳng hạn như “hiếu dưỡng phụ mẫu”, hằng ngày cung kính cha mẹ, chăm sóc chuyện ăn uống và các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống của họ, đó có phải là hiếu dưỡng hay không? Chẳng phải! Không đủ! [Nếu] chấm điểm về sự hiếu dưỡng, [làm kiểu đó] tối đa được hai mươi điểm, chẳng đạt! Vậy thì phải dưỡng như thế nào? Dưỡng cái tâm, dưỡng cái chí của cha mẹ. Cha mẹ hằng ngày canh cánh lo cho con cái, thời thời khắc khắc nghĩ đến con. Kẻ chẳng làm cha mẹ, sẽ không hiểu được! Anh em bất hòa, cha mẹ bận lòng, đó là bất hiếu. Học hành chẳng dụng công, đi thi chẳng đỗ đạt, cha mẹ lại lo phiền, bất hiếu! Làm việc bên ngoài chẳng tận hết trách nhiệm, chẳng nghiêm túc, bị cấp trên xử phạt, cha mẹ lo lắng, bất hiếu! Quý vị mới biết hiếu dưỡng có phạm vi hết sức rộng lớn, chẳng phải chỉ là chăm lo cái ăn, cái uống, và nhu cầu cần thiết trong cuộc sống hằng ngày [là đủ]! Làm thế nào để cha mẹ đỡ nặng lòng, làm sao khiến cho cha mẹ tâm tình vui sướng, đấy mới là trọn hết một chút lòng hiếu. Những chuyện này nhất định phải được nhấn mạnh cặn kẽ.

Trong thế gian, thật sự làm một người có phẩm đức tốt đẹp, học hành, tu dưỡng tốt đẹp, đối đãi với người khác hòa thuận, đối với công việc bèn nghiêm túc, trọn hết trách nhiệm, được đại chúng trong xã hội khen ngợi, cha mẹ mới hoan hỷ. Đấy mới là trọn hết một chút lòng hiếu. Làm càn, làm quấy khiến cho người ta phê bình, khiến cho người ta khinh dễ, trong tâm cha mẹ lắm nỗi khổ sở, đấy chẳng phải là hiếu thuận. Mức độ thấp nhất là quý vị phải làm được bốn câu trong phước thứ nhất, phải đạt đến mức độ phù hợp tiêu chuẩn này, sau đấy mới là thiện nam tử, thiện nữ nhân thật sự. Vì đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, nơi ấy là chỗ các vị thượng thiện nhân nhóm họp, chúng ta một tí phước cũng chẳng có, sẽ cách biệt, chẳng hòa nhập với họ được! Họ là thượng thiện, chúng ta cũng chẳng khác bậc thượng thiện cho mấy thì mới được! Chẳng thể không có một tí thiện nào! “Thiện nam tử, thiện nữ nhân” ở chỗ này hết sức trọng yếu. Chí tâm tụng trì, tự thành tựu lợi ích. Hôm nay, tôi giảng tới chỗ này!