Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh
— o0o —
QUYỂN ĐỆ TAM
— o0o —
Nguyên Hán bản: Ngài HẠ LIÊN CƯ (hội tập)
Việt dịch: Thích Đức Niệm Cư sĩ Minh Chánh
— o0o —
Kinh văn
— o0o —
Đệ Thất: Tất Thành Chánh Giác
Phiên âm: Phật cáo A Nan: Nhĩ thời Pháp Tạng Tỳ-kheo thuyết thử nguyện dĩ, dĩ kệ tụng viết:
Việt dịch: Này A Nan: Bấy giờ Tỳ kheo Pháp Tạng phát nguyện rồi, liền đọc bài tụng:
Phiên âm:
Ngã kiến siêu thế chí
Tất chí Vô thượng đạo
Tư nguyện bất mãn túc
Thệ bất thành Đẳng Giác.
Phục vi đại thí chủ
Phổ tế chư cùng khổ
Linh bỉ chư quần sanh
Trường dạ vô ưu não
Xuất sanh chúng thiện căn
Thành tựu Bồ-đề quả.
Ngã nhược thành Chánh Giác
Lập danh Vô Lượng Thọ
Chúng sanh văn thử hiệu
Câu lai ngã sát trung
Như Phật kim sắc thân
Diệu tướng tất viên mãn.
Diệc dĩ đại bi tâm
Lợi ích chư quần phẩm
Ly dục thâm chánh niệm
Tịnh huệ tu phạm hạnh.
Nguyện ngã trí huệ quang
Phổ chiếu thập phương sát
Tiêu trừ tam cấu minh
Minh tế chúng ách nạn
Tất xả tam đồ khổ
Diệt chư phiền não ám
Khai bỉ trí huệ nhãn
Hoạch đắc quang minh thân
Bế tắc chư ác đạo
Thông đạt thiện thú môn
Vị chúng khai Pháp-tạng
Quảng thí công đức bảo.
Như Phật vô ngại trí
Sở hành từ mẫn hạnh
Thường tác thiên nhân sư
Đắc vi tam giới hùng
Thuyết pháp sư tử hống
Quảng độ chư hữu tình
Viên mãn tích sở nguyện
Nhất thiết giai thành Phật.
Tư nguyện nhược khắc quả
Đại thiên ưng cảm động
Hư không chư thiên thần
Đương vụ trân diệu hoa.
Việt dịch:
Con lập nguyện hơn đời,
Tất đến đạo Vô Thượng,
Nguyện này nếu không toại,
Thề không thành Chánh giác.
Lại làm đại thí chủ
Cứu khắp kẻ cùng khổ,
Khiến các quần sanh kia,
Đêm dài không ưu não
Phát sanh các căn lành,
Thành tựu quả Bồ đề.
Con nếu thành Chánh giác,
Lấy tên Vô Lượng Thọ.
Chúng sanh nghe danh này
Sanh về cõi nước con
Thân kim sắc như Phật,
Tướng tốt thảy viên mãn
Cũng đem tâm đại bi
Lợi ích các quần sanh
Ly dục sâu thiền định
Tịnh huệ tu phạm hạnh.
Nguyện đem trí huệ sáng
Chiếu khắp mười phương cõi
Tiêu trừ ba độc hại
Cứu khỏi các ách nạn,
Dứt sạch khổ tam đồ,
Diệt hết phiền não ám,
Khai sáng mắt trí huệ,
Chứng được thân quang minh
Đóng hết ba đường ác,
Mở rộng các cửa lành.
Vì chúng khai tạng pháp,
Rộng thí báu công đức,
Trí vô ngại như Phật,
Làm các hạnh từ mẫn.
Đạo Sư cả trời người,
Anh hùng khắp ba cõi,
Thuyết pháp sư tử hống,
Rộng độ các hữu tình
Viên mãn lời phát nguyện,
Tất cả đều thành Phật.
Nguyện này nếu thành tựu
Đại thiên thảy chấn động.
Các thiên thần trên không,
Mưa xuống trân diệu hoa.
Phiên âm: Phật cáo A Nan: “Pháp Tạng Tỳ-kheo thuyết thử tụng dĩ, ứng thời phổ địa lục chủng chấn động, thiên vụ diệu hoa, dĩ tán kỳ thượng. Tự nhiên âm nhạc không trung tán ngôn: ‘Quyết định tất thành Vô Thượng Chánh Giác’”.
Việt dịch: Này A Nan! Tỳ kheo Pháp Tạng nói bài tụng này rồi, mặt đất chấn động sáu cách. Hoa trời rưới khắp, âm nhạc tự trỗi, không trung vang lời khen: Quyết chắc thành Vô thượng Chánh giác.
— o0o —
Đệ Bát: Tích Công Lũy Đức
Phiên âm: A Nan! Pháp Tạng Tỳ-kheo ư Thế Tự Tại Vương Như Lai tiền, cập chư thiên nhân đại chúng chi trung, phát tư hoằng thệ nguyện dĩ. Trụ Chân-thật-huệ, dũng mãnh tinh tấn, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ. Sở tu Phật quốc, khai khuếch quảng đại, siêu thắng độc diệu, kiến lập thường nhiên, vô suy vô biến.
Việt dịch: Này A Nan! Pháp Tạng Tỳ kheo ở trước Như Lai Thế Tự Tại Vương và giữa đại chúng trời người phát hoằng thệ nguyện này rồi, an trụ trong huệ chân thật, dõng mãnh tinh tấn một hướng chuyên tâm trang nghiêm cõi nước, xây dựng Phật quốc rộng lớn, siêu việt thắng diệu, kiến lập vĩnh viễn, tuyệt không hư hoại, không biến đổi.
Phiên âm: Ư vô lượng kiếp, tích thực đức hạnh. Bất khởi tham sân si dục chư tưởng, bất trước sắc thanh hương vị xúc pháp. Đãn nhạo ức niệm, quá khứ chư Phật, sở tu thiện căn. Hành tịch tĩnh hạnh, viễn ly hư vọng. Y Chân-đế môn, thực chúng đức bổn. Bất kế chúng khổ, thiểu dục tri túc. Chuyên cầu bạch pháp, huệ lợi quần sanh. Chí nguyện vô quyện, nhẫn lực thành tựu.
Việt dịch: Trong vô lượng kiếp vun trồng đức hạnh, không khởi tưởng dục ba độc, chẳng đắm sáu trần, chỉ chuyên nhớ nghĩ chư Phật thuở quá khứ đã tu căn lành, hành hạnh tịch tịnh, xa lìa luống dối, y chơn đế môn, làm các công đức, không nề các khổ, ít muốn biết đủ, chuyên cầu pháp thanh tịnh, đem ân huệ lợi ích quần sanh, chí nguyện không mỏi, thành tựu các nhẫn.
Phiên âm: Ư chư hữu tình, thường hoài từ nhẫn. Hòa nhan ái ngữ, khuyến dụ sách tấn. Cung kính Tam Bảo, phụng sự sư trưởng, vô hữu hư ngụy siểm khúc chi tâm. Trang nghiêm chúng hạnh, quỹ phạm cụ túc. Quán pháp như hóa, tam-muội thường tịch. Thiện hộ khẩu nghiệp, bất cơ tha quá. Thiện hộ thân nghiệp, bất thất luật nghi. Thiện hộ ý nghiệp, thanh tịnh vô nhiễm.
Việt dịch: Đối với hữu tình nói lời từ ái vui vẻ hòa dịu khuyến dụ khích lệ. Cung kính Tam bảo, phụng sự sư trưởng. Không giả dối nịnh hót, nghiêm trang đứng đắn, khuôn phép nhứt mực. Quán pháp như huyễn, tam muội thường tịch. Giữ gìn khẩu nghiệp, không nói lỗi người, giữ gìn thân nghiệp, không mất oai nghi, giữ gìn ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm.
Phiên âm: Sở hữu quốc thành, tụ lạc, quyến thuộc, trân bảo, đô vô sở trước. Hằng dĩ bố-thí, trì-giới, nhẫn-nhục, tinh-tấn, thiền-định, trí-huệ, Lục-độ chi hạnh, giáo hóa an lập chúng sanh, trụ ư Vô thượng chân chánh chi đạo. Do thành như thị chư thiện căn cố. Sở sanh chi xứ, vô lượng bảo tạng, tự nhiên phát ứng. Hoặc vi Trưởng giả Cư sĩ, hào tánh tôn quý. Hoặc vi sát-lợi quốc vương, Chuyển-luân-thánh-đế. Hoặc vi Lục Dục thiên chủ, nãi chí Phạm vương. Ư chư Phật sở, tôn trọng cúng dường, vị tằng gián đoạn.
Việt dịch: Nếu có quốc thành xóm làng quyến thuộc trân bảo, không sanh tham trước, hằng hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ sáu Ba la mật. Giáo hóa chúng sanh an trụ đạo Vô thượng Chánh giác. Do thành thục các căn lành như vậy, nên sanh đến chỗ nào tự nhiên cảm ứng có vô lượng kho báu, hoặc làm trưởng giả cư sĩ, hào hiệp tôn quý, hoặc làm Sát lợi Quốc vương, Chuyển luân Thánh vương, hoặc làm vua trời cõi Lục dục cho đến Phạm vương, cung kính cúng dường chư Phật chưa từng gián đoạn.
Phiên âm: Như thị công đức, thuyết bất năng tận. Thân khẩu thường xuất vô lượng diệu hương. Do như Chiên Đàn, Ưu Bát La hoa. Kỳ hương phổ huân vô lượng thế giới. Tùy sở sanh xứ, sắc tướng đoan nghiêm. Tam thập nhị tướng, bát thập chủng hảo, tất giai cụ túc. Thủ trung thường xuất vô tận chi bảo, trang nghiêm chi cụ. Nhất thiết sở tu, tối thượng chi vật, lợi lạc hữu tình. Do thị nhân duyên, năng linh vô lượng chúng sanh, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.
Việt dịch: Những công đức như vậy chẳng thể kể hết. Miệng thường tỏa hương thơm như hương chiên đàn, hương thơm hoa sen, hương thơm ấy xông khắp vô lượng thế giới. Phàm sanh ra chỗ nào sắc tướng cũng đoan nghiêm, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi nét đẹp. Tay thường xuất sanh châu báu vô tận, tất cả đồ cần dùng đẹp đẽ tối thượng để lợi lạc hữu tình. Do nhân duyên ấy, khiến vô lượng chúng sanh phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
— o0o —
Đệ Cửu: Viên Mãn Thành Tựu
Phiên âm: Phật cáo A Nan: “Pháp Tạng Tỳ-kheo, tu Bồ-tát hạnh, tích công lũy đức, vô lượng vô biên. Ư nhất thiết pháp, nhi đắc tự tại. Phi thị ngữ ngôn phân biệt chi sở năng tri. Sở phát thệ nguyện, viên mãn thành tựu. Như thật an trụ, cụ túc trang nghiêm, uy đức quảng đại, thanh tịnh Phật độ”.
Việt dịch: Này A Nan! Pháp Tạng Tỳ kheo tu hạnh Bồ Tát, tích công lũy đức vô lượng vô biên trong tất cả pháp mà được tự tại, không thể dùng lời diễn tả hết chỗ phát thệ, thành tựu viên mãn như thật an trụ cụ túc trang nghiêm, oai đức rộng lớn thanh tịnh cõi Phật được.
Phiên âm: A Nan văn Phật sở thuyết, bạch Thế Tôn ngôn: “Pháp Tạng Bồ-tát thành Bồ-đề giả. Vi thị quá khứ Phật da? Vị lai Phật da? Vi kim hiện tại tha phương thế giới da?”
Việt dịch: Tôn giả A Nan nghe đức Phật nói lời ấy rồi, cung kính thưa rằng: Bạch đức Thế Tôn! Pháp Tạng Bồ Tát chứng Bồ đề là đã thành Phật và nhập diệt rồi hay chưa thành Phật, hay đã thành Phật hiện ở thế giới khác?
Phiên âm: Thế Tôn cáo ngôn: “Bỉ Phật Như Lai, lai vô sở lai, khứ vô sở khứ, vô sanh vô diệt, phi quá hiện vị lai. Đãn dĩ thù nguyện độ sanh, hiện tại tây phương, khứ Diêm Phù Đề bá thiên câu-chi na-do-tha Phật sát, hữu thế giới danh viết Cực Lạc. Pháp Tạng thành Phật, hiệu A Mi Đà, thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp. Kim hiện tại thuyết pháp. Hữu vô lượng vô số Bồ-tát Thanh-văn chi chúng, cung kính vi nhiễu”.
Việt dịch: Đức Thế Tôn nói: “Đức Phật Như Lai kia, đến không chỗ đến, đi không chỗ đi, không sanh không diệt, không có quá hiện vị lai, chỉ có một nguyện độ sanh. Hiện ở phương Tây cách Diêm phù đề này mười vạn ức cõi Phật, thế giới đó gọi là Cực Lạc, Pháp Tạng thành Phật hiệu là A Di Đà. Thành Phật đến nay đã mười kiếp, hiện đang thuyết pháp, có vô lượng vô số chúng Bồ Tát, Thanh văn cung kính vây quanh”.
— o0o —
Đệ Thập: Giai Nguyện Tác Phật
Phiên âm: Phật thuyết A Mi Đà Phật vi Bồ-tát cầu đắc thị nguyện thời, A Xà vương tử, dữ ngũ bá đại Trưởng giả, văn chi giai đại hoan hỷ. Các trì nhất kim hoa cái, câu đáo Phật tiền tác lễ, dĩ hoa cái thướng Phật dĩ, khước tọa nhất diện thính kinh, tâm trung nguyện ngôn: “Linh ngã đẳng tác Phật thời, giai như A Mi Đà Phật”.
Việt dịch: Lúc đức Phật nói A Di Đà Phật khi làm Bồ Tát viên mãn hạnh nguyện rồi, A Xà Vương tử cùng với năm trăm trưởng giả biết được đều rất vui mừng, mỗi mỗi cầm một bó hoa bằng vàng đến trước Phật đảnh lễ và dâng hoa xong ngồi về một phía. Họ đồng tâm nguyện rằng, khi chúng tôi thành Phật đều như đức Phật A Di Đà”.
Phiên âm: Phật tức tri chi, cáo chư Tỳ-kheo: “Thị vương tử đẳng, hậu đương tác Phật. Bỉ ư tiền thế trụ Bồ-tát đạo, vô số kiếp lai, cúng dường tứ bá ức Phật. Ca Diếp Phật thời, bỉ đẳng vi ngã đệ tử. Kim cúng dường ngã, phục tương trị dã”. Thời chư Tỳ-kheo văn Phật ngôn giả, mạc bất đại chi hoan hỷ.
Việt dịch: Đức Phật biết tâm nguyện của họ, bảo các Tỳ kheo rằng: “Các vương tử này sau sẽ thành Phật. Đời trước khi còn tu hạnh Bồ Tát, trải qua vô số kiếp đã cúng dường bốn trăm ức đức Phật. Thời Phật Ca Diếp họ là đệ tử ta, nay lại đến cúng dường ta”. Các Tỳ kheo nghe đức Phật nói đều rất vui mừng.
— o0o —
Đệ Thập Nhất: Quốc Giới Nghiêm Tịnh
Phiên âm: Phật ngữ A Nan: “Bỉ Cực Lạc giới, vô lượng công đức, cụ túc trang nghiêm. Vĩnh vô chúng khổ, chư nạn, ác thú, ma não chi danh. Diệc vô tứ thời, hàn thử, vũ minh chi dị. Phục vô đại tiểu giang hải, khâu lăng khanh khảm, kinh kỷ sa lịch, Thiết Vi, Tu Di, thổ thạch đẳng sơn. Duy dĩ tự nhiên thất bảo. Huỳnh kim vi địa, khoan quảng bình chánh, bất khả hạn cực, vi diệu kỳ lệ, thanh tịnh trang nghiêm, siêu du thập phương nhất thiết thế giới”.
Việt dịch: Này A Nan! Cõi Cực Lạc kia có vô lượng công đức đầy đủ trang nghiêm, tuyệt không có danh từ khổ nạn, ác thú ma não, cũng không có bốn mùa nóng lạnh sáng tối, không có sông biển lớn nhỏ, gò nổng hầm hố, gai gốc đá sỏi, núi Thiết vi, núi Tu di, đất đá núi non, chỉ là tự nhiên bằng bảy báu. Vàng ròng làm đất rộng rãi bằng phẳng không có hạn lượng, kỳ diệu tú lệ, thanh tịnh trang nghiêm, thù thắng hơn tất cả thế giới khắp mười phương.
Phiên âm: A Nan văn dĩ, bạch Thế Tôn ngôn: “Nhược bỉ quốc độ vô Tu Di sơn, kỳ Tứ Thiên Vương thiên cập Đao Lợi thiên, y hà nhi trụ?”.
Việt dịch: Tôn giả A Nan nghe rồi thưa Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu cõi đó không có núi Tu di thì Tứ Thiên Vương và Đao Lợi Thiên nương tựa vào đâu?”
Phiên âm: Phật cáo A Nan: “Dạ Ma, Đâu Suất, nãi chí Sắc, Vô-sắc giới, nhất thiết chư thiên, y hà nhi trụ?”
Việt dịch: Này A Nan! Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất cho đến chư Thiên cõi Sắc và Vô sắc nương vào đâu?
Phiên âm: A Nan bạch ngôn: “Bất khả tư nghì nghiệp lực sở trí”.
Việt dịch: Tôn giả A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Do nghiệp lực tạo nên không thể nghĩ bàn được”.
Phiên âm: Phật ngữ A Nan: “Bất tư nghì nghiệp, nhữ khả tri da?
Nhữ thân quả báo, bất khả tư nghì. Chúng sanh nghiệp báo, diệc bất khả tư nghì. Chúng sanh thiện căn, bất khả tư nghì. Chư Phật Thánh-lực, chư Phật thế giới, diệc bất khả tư nghì. Kỳ quốc chúng sanh, công đức thiện lực, trú hạnh nghiệp địa, cập Phật thần lực, cố năng nhĩ nhĩ”.
Việt dịch: Đức Phật hỏi A Nan: “Bất tư nghì nghiệp ông có thể biết chăng?”
Quả báo thân ông bất khả tư nghì, nghiệp báo chúng sanh cũng bất khả tư nghì, căn lành của chúng sanh bất khả tư nghì, Thánh lực chư Phật, thế giới chư Phật cũng bất khả tư nghì, đất nước chúng sanh, công đức thiện lực, trú hành nghiệp địa và thần lực chư Phật cũng đều như vậy cả”.
Phiên âm: A Nan bạch ngôn: “Nghiệp nhân quả báo, bất khả tư nghì. Ngã ư thử pháp, thật vô sở hoặc. Đãn vị tương lai chúng sanh, phá trừ nghi võng, cố phát tư vấn”.
Việt dịch: Tôn giả A Nan thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nghiệp nhân và quả báo không thể nghĩ bàn được. Đối với pháp này thật con không hoài nghi, nhưng vì muốn phá trừ sự nghi ngờ của chúng sanh đời sau nên thưa hỏi lời này”.
— o0o —
Đệ Thập Nhị: Quang Minh Biến Chiếu
Phiên âm: Phật cáo A Nan: “A Mi Đà Phật uy thần quang minh, tối tôn đệ nhất. Thập phương chư Phật, sở bất năng cập, biến chiếu đông phương Hằng sa Phật sát, nam tây bắc phương, tứ duy thượng hạ, diệc phục như thị.
Việt dịch: Này A Nan! Oai thần và quang minh của Phật A Di Đà tối tôn đệ nhất, quang minh của chư Phật khác chẳng sánh kịp. Quang minh ấy chiếu khắp hằng sa cõi Phật ở Phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên dưới và bốn phương phụ cũng lại như vậy.
Phiên âm: Nhược hóa đảnh thượng viên quang, hoặc nhất nhị tam tứ do-tuần, hoặc bá thiên vạn ức do-tuần. Chư Phật quang minh, hoặc chiếu nhất nhị Phật sát, hoặc chiếu bá thiên Phật sát. Duy A Mi Đà Phật, quang minh phổ chiếu vô lượng vô biên vô số Phật sát.
Việt dịch: Hào quang trên đảnh chiếu xa một hai ba bốn do tuần, hoặc trăm ngàn vạn ức do tuần. Hào quang các đức Phật khác hoặc chiếu đến một hai cõi Phật, hoặc trăm ngàn cõi Phật, chỉ có hào quang đức Phật A Di Đà chiếu khắp vô lượng vô số vô biên cõi Phật.
Phiên âm: Chư Phật quang minh sở chiếu viễn cận, bổn kỳ tiền thế cầu đạo, sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng. Chí tác Phật thời, các tự đắc chi, tự tại sở tác, bất vi dự kế. A Mi Đà Phật, quang minh thiện hảo, thắng ư nhật nguyệt chi minh, thiên ức vạn bội, quang trung cực tôn, Phật trung chi vương. Thị cố Vô Lượng Thọ Phật, diệc hiệu Vô Lượng Quang Phật, diệc hiệu Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Ðẳng Quang Phật, diệc hiệu Trí Huệ Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Giải Thoát Quang, An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghì Quang.
Việt dịch: Hào quang chư Phật chiếu ra có xa có gần vì bổn nguyện công đức đời trước cầu đạo có lớn nhỏ không đồng, nên khi thành Phật tự có hạn lượng. Quang minh đức Phật A Di Đà sáng chói gấp bội trăm ngàn vạn lần ánh sáng nhựt nguyệt, tôn quý trong các ánh sáng, nên Phật Vô Lượng Thọ cũng hiệu là Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Biên Quang, Phật Vô Ngại Quang, Phật Vô Đẳng Quang, Phật Trí Huệ Quang, Phật Thường Chiếu Quang, Phật Thanh Tịnh Quang, Phật Hoan Hỷ Quang, Phật Giải Thoát Quang, Phật An Ổn Quang, Phật Siêu Nhựt Nguyệt Quang, Phật Bất Tư Nghì Quang.
Phiên âm: Như thị quang minh, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới. Kỳ hữu chúng sanh, ngộ tư quang giả, cấu diệt thiện sanh, thân ý nhu nhuyễn. Nhược tại tam đồ cực khổ chi xứ, kiến thử quang minh, giai đắc hưu tức, mạng chung giai đắc giải thoát. Nhược hữu chúng sanh, văn kỳ quang minh, uy thần, công đức, nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn, tùy ý sở nguyện, đắc sanh kỳ quốc”.
Việt dịch: Quang minh ấy chiếu khắp mười phương thế giới, chúng sanh nào gặp được quang minh ấy thì cấu uế tiêu diệt, điều lành phát sanh, thân ý hòa dịu. Nếu ở tam đồ chịu khổ cùng cực thấy được quang minh này liền được dừng khổ, mạng chung được giải thoát. Chúng sanh nào nghe được oai thần công đức quang minh này ngày đêm khen nói chí tâm không nghỉ, tùy theo ý nguyện được sanh về Cực Lạc.
— o0o —
Đệ Thập Tam: Thọ Chúng Vô Lượng
Phiên âm: Phật ngữ A Nan: “Vô Lượng Thọ Phật, thọ mạng trường cửu, bất khả xưng kế. Hựu hữu vô số Thanh-văn chi chúng, thần trí đỗng đạt, uy lực tự tại, năng ư chưởng trung trì nhất thiết thế giới. Ngã đệ tử trung Đại Mục Kiền Liên: thần thông đệ nhất. Tam thiên Đại thiên thế giới, sở hữu nhất thiết tinh tú chúng sanh, ư nhất trú dạ, tất tri kỳ số.
Việt dịch: Này A Nan! Đức Phật Vô Lượng Thọ mạng sống trường cửu không thể tính được. Lại có vô số chúng Thanh văn thần trí thông đạt, năng lực tự tại có thể nắm tất cả thế giới trong bàn tay. Trong hàng đệ tử ta, đại Mục Kiền Liên có thần thông bậc nhất, trong một ngày đêm biết hết số lượng chúng sanh của tất cả tinh cầu trong đại thiên thế giới.
Phiên âm: Giả sử thập phương chúng sanh, tất thành Duyên-giác. Nhất nhất Duyên-giác, thọ vạn ức tuế, thần thông giai như Đại Mục Kiền Liên, tận kỳ thọ mạng, kiệt kỳ trí lực, tất cộng suy toán, bỉ Phật hội trung Thanh-văn chi số, thiên vạn phần trung bất cập nhất phần. Thí như đại hải, thâm quảng vô biên, thiết thủ nhất mao, tích vi bá phần, toái như vi trần. Dĩ nhất mao trần, triêm hải nhất trích, thử mao trần thủy, tỷ hải thục đa?
Việt dịch: Giả sử chúng sanh trong mười phương tất cả đều chứng quả Duyên giác, mỗi mỗi Duyên giác thọ vạn ức năm, có thần thông như Mục Kiền Liên, đem hết trí lực suốt đời cũng không tính đếm được, ngàn vạn phần cũng không bằng một số phần Thanh văn trong Phật hội kia. Ví như biển lớn sâu rộng vô biên, nếu lấy một sợi tóc chẻ làm trăm phần, tán ra thành bụi, rồi lấy một hột bụi ấy thấm một giọt nước biển, nước nơi bụi tóc ấy so với biển cả chẳng lấy gì nhiều.
Phiên âm: A Nan! Bỉ Mục Kiền Liên đẳng sở tri số giả, như mao trần thủy; Sở vị tri giả, như đại hải thủy. Bỉ Phật thọ lượng, cập chư Bồ-tát, Thanh-văn, thiên nhân thọ lượng diệc nhĩ, phi dĩ toán kế thí dụ chi sở năng tri.
Việt dịch: Này A Nan! Các vị Mục Kiền Liên thảy còn biết được số lượng, còn nước nơi bụi tóc so với biển cả không thể tính được. Thọ mạng của Phật và thọ lượng chúng Bồ Tát, Thanh văn, Thiên, Nhơn ở cõi ấy cũng như vậy, không thể lấy toán số thí dụ mà biết được.
— o0o —
Đệ Thập Tứ: Bảo Thụ Biến Quốc
Phiên âm: Bỉ Như Lai quốc, đa chư bảo thụ: Hoặc thuần kim thụ, thuần bạch ngân thụ, lưu ly thụ, thủy tinh thụ, hổ phách thụ, mỹ ngọc thụ, mã não thụ, duy nhất bảo thành, bất tạp dư bảo.
Việt dịch: Cõi nước Cực Lạc có nhiều cây báu, có cây thuần bằng vàng, hoặc thuần bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, mỹ ngọc, mã não
Phiên âm: Hoặc hữu nhị bảo tam bảo, nãi chí thất bảo, chuyển cộng hiệp thành. Căn hành chi cán, thử bảo sở thành; Hoa diệp quả thực, tha bảo hóa tác.
Việt dịch: Hoặc do một thứ báu mà thành, hoặc do hai ba cho đến bảy báu xen nhau hiệp thành. Gốc thân cành do báu này thành, hoa lá quả do báu khác thành.
Phiên âm: Hoặc hữu bảo thụ: huỳnh kim vi căn, bạch ngân vi thân, lưu ly vi chi, thủy tinh vi sao, hổ phách vi diệp, mỹ ngọc vi hoa, mã não vi quả. Kỳ dư chư thụ, phục hữu thất bảo: hỗ vi căn cán chi diệp hoa quả, chủng chủng cộng thành.
Việt dịch: Có cây gốc bằng vàng, thân bằng bạc, lưu ly làm cành, thủy tinh làm ngọn, hổ phách làm lá, mỹ ngọc làm hoa, mã não làm quả. Lại có các cây do bảy báu xen lẫn nhau làm gốc thân cành lá hoa quả.
Phiên âm: Các tự dị hàng, hàng hàng tương trị, hành hành tương vọng, chi diệp tương hướng, hoa thực tương đương, vinh sắc quang diệu, bất khả thăng thị. Thanh phong thời phát, xuất ngũ âm thanh, vi diệu cung thương, tự nhiên tương hòa. Thị chư bảo thụ, chu biến kỳ quốc.
Việt dịch: Mỗi báu có hàng hàng khác nhau, hàng hàng thẳng nhau, thân thân xây nhau, cành lá hướng nhau, hoa quả xứng nhau, màu sắc rực rỡ tươi đẹp không thể tả xiết. Khi gió lay động phát ra âm thanh vi diệu. Các hàng cây báu ấy cùng khắp trong cõi nước.
— o0o —
Đệ Thập Ngũ: Bồ Đề Đạo Tràng
Phiên âm: Hựu kỳ Đạo tràng, hữu Bồ Đề thụ, cao tứ bá vạn lý. Kỳ bổn chu vi ngũ thiên do-tuần, chi diệp tứ bố nhị thập vạn lý. Nhất thiết chúng bảo, tự nhiên hiệp thành. Hoa quả phu vinh, quang huy biến chiếu. Phục hữu hồng lục thanh bạch, chư ma-ni bảo, chúng bảo chi vương, dĩ vi anh lạc. Vân-tụ-bảo tỏa, sức chư bảo trụ. Kim châu linh đạc, chu táp điều gian. Trân diệu bảo võng, la phú kỳ thượng. Bá thiên vạn sắc, hỗ tương ánh sức. Vô lượng quang viêm, chiếu diệu vô cực. Nhất thiết trang nghiêm, tùy ứng nhi hiện.
Việt dịch: Cây Bồ đề nơi đạo tràng cao bốn mươi vạn dặm, chu vi rộng năm ngàn do tuần, cành lá bốn phía hai mươi vạn dặm, do các báu tự nhiên hiệp thành, hoa quả sum sê chói sáng cùng khắp, lại có các ngọc ma ni hồng lục xanh trắng, và các báu quý nhất kết thành chuỗi trang hoàng các cột báu. Vàng ngọc chuông khánh treo khắp nơi. Lưới võng trân diệu trăm ngàn vạn sắc giăng mắc trên không. Vô lượng tia sáng phản chiếu lẫn nhau rất vi diệu, tất cả trang nghiêm tùy ý hiện nên
Phiên âm: Vi phong từ động, xuy chư chi diệp, diễn xuất vô lượng diệu pháp âm thanh. Kỳ thanh lưu bố, biến chư Phật quốc. Thanh sướng ai lượng, vi diệu hòa nhã. Thập phương thế giới âm thanh chi trung, tối vi đệ nhất.
Việt dịch: Gió nhẹ thổi đến lay động cành lá phát ra vô lượng âm thanh diệu pháp, vang khắp các cõi Phật, âm thanh du dương hòa nhã, tối thắng bậc nhất hơn các âm thanh ở mười phương thế giới.
Phiên âm: Nhược hữu chúng sanh, đổ Bồ Đề thụ, văn thanh, khứu hương, thường kỳ quả vị, xúc kỳ quang ảnh, niệm thụ công đức, giai đắc lục căn thanh triệt, vô chư não hoạn, trụ bất thoái chuyển, chí thành Phật đạo. Phục do kiến bỉ thụ cố, hoạch tam chủng Nhẫn: nhất Âm-hưởng-nhẫn, nhị Nhu-thuận-nhẫn, tam giả Vô-sanh-pháp-nhẫn.
Việt dịch: Nếu chúng sanh nào thấy được cây Bồ đề, nghe tiếng, ngửi mùi, nếm trái, chạm được ánh sáng, nghĩ đến công đức của cây thì sáu căn thanh tịnh không có não loạn, trụ vào bất thối chuyển cho đến khi thành Phật. Nếu thấy được cây ấy thì được ba nhẫn: Một là âm hưởng nhẫn, hai là nhu thuận nhẫn, ba là vô sanh pháp nhẫn.
Phiên âm: Phật cáo A Nan: “Như thị Phật sát, hoa quả thụ mộc, dữ chư chúng sanh, nhi tác Phật sự. Thử giai Vô Lượng Thọ Phật: uy thần lực cố, bổn nguyện lực cố, mãn túc nguyện cố, minh liễu, kiên cố, cứu cánh nguyện cố”.
Việt dịch: Này A Nan ! Hoa quả cây cối và các chúng sanh cõi Phật ấy làm các Phật sự như vậy, là do sức oai thần, bản nguyện đầy đủ kiên cố cứu cánh của Phật Vô Lượng Thọ vậy.
— o0o —
Đệ Thập Lục: Đường Xá Lâu Quán
Phiên âm: Hựu Vô Lượng Thọ Phật giảng đường, tinh xá, lâu quán lan thuẫn, diệc giai thất bảo tự nhiên hóa thành. Phục hữu bạch-châu ma-ni dĩ vi giao lạc, minh diệu vô tỷ. Chư Bồ-tát chúng, sở cư cung điện, diệc phục như thị.
Việt dịch: Giảng đường, tịnh xá, lầu quán, lan can nơi cõi Phật Vô Lượng Thọ cũng do bảy báu tự nhiên hóa thành. Lại có bạch châu ma ni nghiêm sức, sáng chói không bì được. Cung điện của Bồ Tát ở cũng lại như vậy.
Phiên âm: Trung hữu tại địa giảng kinh, tụng kinh giả; Hữu tại địa thọ kinh, thính kinh giả; Hữu tại địa kinh hành giả; tư đạo, cập tọa thiền giả. Hữu tại hư không giảng tụng thọ thính giả; Kinh hành, tư đạo cập tọa Thiền giả. Hoặc đắc Tu-đà-hoàn, hoặc đắc Tư-đà-hàm, hoặc đắc A-na-hàm, A- la-hán. Vị đắc A-duy-việt-trí giả, tắc đắc A-duy-việt-trí. Các tự niệm đạo, thuyết đạo, hành đạo, mạc bất hoan hỷ.
Việt dịch: Nơi đó có chỗ giảng kinh, tụng kinh, thọ kinh, nghe kinh, đi kinh hành trên đất. Tư đạo và tọa thiền trên không trung, cũng có chỗ giảng tụng thọ thính kinh hành. Những vị tư đạo và tọa thiền là bậc đã chứng Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, hoặc A la hán. Vị chưa chứng A duy việt trí thì chứng A duy việt trí. Các vị ấy tự niệm đạo, thuyết đạo, hành đạo đầy đủ pháp hỷ.
— o0o —
Đệ Thập Thất: Tuyền Trì Công Đức
Phiên âm: Hựu kỳ giảng đường tả hữu, tuyền trì giao lưu. Tung quảng thâm thiển, giai các nhất đẳng, hoặc thập do-tuần, nhị thập do-tuần, nãi chí bá thiên do-tuần. Trạm nhiên hương khiết, cụ bát công đức.
Việt dịch: Hai bên giảng đường có ao suối chảy quanh, ngang dọc sâu cạn bằng nhau, hoặc mười hai mươi hoặc trăm ngàn do tuần, phẳng lặng thơm sạch, nước đủ tám công đức.
Phiên âm: Ngạn biên vô số Chiên Đàn Hương thụ, Kiết Tường Quả thụ, hoa quả hằng phương, quang minh chiếu diệu. Tu điều mật diệp, giao phú ư trì. Xuất chủng chủng hương, thế vô năng dụ. Tùy phong tán phức, duyên thủy lưu phần. Hựu phục trì sức thất bảo, địa bố kim sa. Ưu Bát La hoa, Bát Đàm Ma hoa, Câu Mâu Đầu hoa, Phần Đà Lợi hoa, tạp sắc quang mậu, di phú thủy thượng.
Việt dịch: Trên bờ có vô số cây chiên đàn hương, cây trái cát tường, hoa quả thơm tho, chiếu sáng rực rỡ. Lá dày che khắp trên ao, tỏa ra các mùi thơm, hương thơm thoảng trong gió theo nước bay xa, thế gian không ví được. Các ao bằng bảy báu, đáy bằng cát vàng, các hoa sen ưu bát la, bát đàm ma, câu vật đầu, phân đà lợi, nhiều màu rực rỡ khắp trên mặt nước.
Phiên âm: Nhược bỉ chúng sanh, quá dục thử thủy, dục chí túc giả, dục chí tất giả, dục chí yêu dịch, dục chí cảnh giả, hoặc dục quán thân. Hoặc dục lãnh giả, ôn giả, cấp lưu giả, hoãn lưu giả, kỳ thủy nhất nhất tùy chúng sanh ý. Khai thần duyệt thể, tịnh nhược vô hình. Bảo sa ánh triệt, vô thâm bất chiếu.
Việt dịch: Chúng sanh muốn tắm, nếu muốn nước đến chân, đến gối, đến lưng, đến cổ hoặc muốn rưới khắp thân, muốn lạnh, muốn ấm, chảy mạnh hay từ từ, nhất nhất theo ý muốn, giúp phát giác tánh, phá mê khai ngộ, sạch sẽ yên tịnh. Cát báu dưới đáy phản chiếu khắp nơi.
Phiên âm: Vi lan từ hồi, chuyển tương quán chú. Ba dương vô lượng vi diệu âm thanh: hoặc văn Phật Pháp Tăng thanh, Ba-la-mật thanh, chỉ-tức tịch-tĩnh thanh, vô-sanh vô-diệt thanh, thập-lực vô-úy thanh, hoặc văn vô-tánh vô-tác vô-ngã thanh, đại từ đại bi hỷ xả thanh, cam lồ quán đảnh thọ vị thanh.
Việt dịch: Sóng gợn lăn tăn phát ra vô lượng âm thanh vi diệu. Nào tiếng Tam Bảo, tiếng Ba la mật, tiếng chỉ tức tịch tịnh, tiếng vô sanh vô diệt, tiếng thập lực vô úy, tiếng vô tánh vô tác vô ngã, tiếng đại từ bi hỷ xả, tiếng cam lộ quán đảnh thọ vị.
Phiên âm: Đắc văn như thị chủng chủng thanh dĩ, kỳ tâm thanh tịnh, vô chư phân biệt, chánh trực bình đẳng, thành thục thiện căn. Tùy kỳ sở văn, dữ pháp tương ưng. Kỳ nguyện văn giả, triếp độc văn chi. Sở bất dục văn, liễu vô sở văn. Vĩnh bất thoái ư A-nậu-đa- la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.
Việt dịch: Khi nghe các âm thanh như vậy tâm liền thanh tịnh không còn phân biệt, chánh trực bình đẳng, thành thục căn lành. Ý muốn nghe pháp nào chỉ có pháp đó phát ra, nếu không muốn nghe nữa liền im lặng, vĩnh viễn không thối tâm Bồ Đề.
Phiên âm: Thập phương thế giới chư vãng sanh giả, giai ư thất bảo trì liên hoa trung, tự nhiên hóa sanh. Tất thọ thanh hư chi thân, vô cực chi thể. Bất văn tam đồ ác não khổ nạn chi danh, thượng vô giả thiết, hà huống thật khổ. Đãn hữu tự nhiên khoái lạc chi âm. Thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc.
Việt dịch: Những người trong mười phương thế giới được vãng sanh đều hóa sanh từ trong hoa sen ở ao thất bảo, được thân pháp tánh, thể chất bất sanh bất diệt, không còn nghe tên khổ não khổ nạn của tam đồ. Giả dụ còn không có, huống là có khổ. Chỉ có tiếng vui thích tự nhiên, do vậy nước đó gọi là Cực Lạc.